text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Amphiprion sebae là một loài cá hề thuộc chi "Amphiprion" trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853.
Từ nguyên.
Từ định danh của loài được đặt theo tên của Albertus Seba, dược sĩ, nhà động vật học và lịch sử tự nhiên người Hà Lan, người đã cho xuất bản một loạt các bức vẽ minh họa các sinh vật biển của Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, bao gồm cả loài này.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
"A. sebae" sinh sống ở Ấn Độ Dương, được ghi nhận dọc theo bờ biển bán đảo Ả Rập (bao gồm vịnh Oman và vịnh Aden), Ấn Độ, Sri Lanka, Maldives, quần đảo Andaman và Nicobar, hai đảo Sumatra và Java (Indonesia).
Loài cá hề này chỉ sống cộng sinh với duy nhất một loài hải quỳ là "Stichodactyla haddoni", được quan sát gần các rạn san hô ngoài khơi ở độ sâu đến ít nhất là 25 m.
Mô tả.
"A. sebae" có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 16 cm. Loài này có màu nâu sẫm, gần như đen với hai dải sọc trắng; mõm, ngực và bụng thường có màu vàng cam. Dải trắng thứ nhất ở sau đầu, còn dải sọc thứ hai giữa thân, lan rộng đến phần sau của vây lưng. Vây đuôi có màu vàng hoặc sẫm màu cam (cá con có thể có viền đen cận rìa ở đuôi).
Số gai ở vây lưng: 10–11; Số tia vây ở vây lưng: 14–17; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 13–14; Số tia vây ở vây ngực: 18–19.
Sinh thái học.
"A. sebae" là một loài lưỡng tính tiền nam (cá cái trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá đực) nên cá đực thường có kích thước nhỏ hơn cá cái. Một con cá cái sẽ sống thành nhóm cùng với một con đực lớn (đảm nhận chức năng sinh sản) và nhiều con non nhỏ hơn. Trứng được cá đực lớn bảo vệ và chăm sóc đến khi chúng nở.
Loài này đã được nhân giống nuôi nhốt thành công.
Vòng đời và sinh sản.
Cá đực bắt đầu thực hiện màn tán tỉnh cá cái một tuần trước khi chúng sinh sản. Cá đực sẽ bảo vệ lãnh thổ đã được chọn làm nơi đẻ trứng. Cá cái có thể đẻ khoảng từ 400 đến 2000 trứng, được cá đực canh giữ cho đến khi trứng nở sau 6–8 ngày. Vào ngày thứ 15 đến 18, cá bột bước vào giai đoạn biến thái. | 1 | null |
Amphiprion percula là một loài cá hề thuộc chi "Amphiprion" trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1802.
Từ nguyên.
Từ định danh được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh: "perca" ("cá rô") và "ula" (hậu tố mang ý nghĩa "bé nhỏ"), không rõ hàm ý mà tên gọi này đề cập đến.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
"A. percula" được ghi nhận ở vùng biển phía bắc và tây của đảo New Guinea (bao gồm New Britain), quần đảo Solomon và Vanuatu, trải dài dọc theo rạn san hô Great Barrier ở phía nam. Loài này sinh sống gần các rạn san hô ngoài khơi và trong đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 15 m. "A. percula k"hông được biết đến tại Nouvelle-Calédonie và Fiji, mặc dù Fowler (1959) đã ghi nhận loài này tại những khu vực đó.
"A. percula" sống cộng sinh với ba loài hải quỳ là "Heteractis magnifica", "Heteractis crispa" và "Stichodactyla gigantea". Các loài cá hề sống với cùng một loài hải quỳ thường có các kiểu phân bố vị trí khác nhau trong cùng một khu vực, như ở Papua New Guinea, "A. percula" và "Amphiprion perideraion" cùng sống cộng sinh với hải quỳ "H. magnifica", nhưng "A. percula" chiếm giữ các bụi "H. magnifica" gần bờ, còn "A. perideraion" sống trong các bụi "H. magnifica" ngoài khơi xa.
Mô tả.
"A. percula" có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 11 cm. "A. percula" có màu cam sáng với ba dải sọc trắng; dải giữa có phần lồi ra về phía đầu. Các dải trắng này thường được viền màu đen sẫm (kể cả các vây), trong khi viền đen quanh dải trắng của "Amphiprion ocellaris" không bao giờ đậm nét.
Những cá thể sống cộng sinh với hải quỳ "S. gigantea" có dải viền đen rất sẫm, và ở một số cá thể, dải đen này rất dày.
Số gai ở vây lưng: 9–10; Số tia vây ở vây lưng: 14–17; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 11–13. "A. ocellaris" có 11 gai vây lưng (ít khi 10) so với 10 gai (ít khi 9) ở "A. percula", và phần gai này của "A. ocellaris" cao hơn so với "A. percula".
Sinh thái học.
Như những loài cá hề khác, "A. percula" cũng là một loài lưỡng tính tiền nam (cá cái trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá đực) nên cá đực có kích thước nhỏ hơn cá cái. Một con cá cái sẽ sống thành nhóm cùng với một con đực lớn (đảm nhận chức năng sinh sản) và nhiều con đực nhỏ hơn. Trứng được cá đực lớn bảo vệ và chăm sóc cho đến khi chúng nở.
Thức ăn của "A. percula" là động vật phù du, một số loài thủy sinh không xương sống nhỏ và tảo.
Cá bột "A. percula" sử dụng khứu giác để phát hiện những kẻ săn mồi và để định vị nơi cư trú trên rạn san hô, nhưng quá trình acid hóa đại dương tăng lên được cho là có thể ảnh hưởng đến khả năng phân biệt bằng khứu giác của chúng, cũng như nhiều loài cá rạn san hô khác. Tuy nhiên, một nghiên cứu vào năm 2020 của Clark và các đồng nghiệp đã phản bác lại điều này. Họ cho rằng, quá trình acid hóa đại dương không làm suy yếu hành vi của cá rạn san hô. Điều này làm dấy lên sự tranh cãi giữa các bên.
Thương mại.
"A. percula" được đánh bắt bởi những người thu mua cá cảnh và đã được nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt. | 1 | null |
Dropbear hay Drop bear (tạm dịch: gấu nhảy hay gấu nhào) là một sinh vật giả tưởng trong truyện dân gian Úc đương đại. Nó được miêu tả như một phiên bản thú săn mồi hung dữ của gấu koala.
Loài thú này hay được dùng để doạ khách du lịch. Vì trong khi gấu koala là loài ăn cỏ chậm chạp, gấu nhào được miêu tả như một thú có túi hung bạo lẩn trốn giữa các tán cây, chực chờ nhào mình xuống đầu những con mồi ngây thơ đi ngang qua đó.
Nguồn gốc.
Nguồn gốc của huyền thoại gấu nhảy vẫn chưa được biết; chẳng hạn như nó không liên quan đến bất kỳ văn bản cụ thể nào. Tài liệu tham khảo bằng văn bản sớm nhất được Thư viện Quốc gia Úc tìm thấy là một đề cập lướt qua trong một quảng cáo đã phân loại trên tờ The Canberra Times vào năm 1982, nhưng thuật ngữ này đã được sử dụng phổ biến trước đó, đặc biệt là để dọa những người đi cắm trại hoặc khách du lịch thành phố đến thăm đất nước này.
Một tập 2016 của Nature's Weirdest Events đã đưa ra giả thuyết rằng "con gấu nhảy" có thể bắt đầu như một ký ức bản địa lâu dài của người Úc về các cuộc gặp gỡ với Thylacoleo carnifex, loài sư tử có túi hiện đã tuyệt chủng, bao gồm việc trưng bày một bức tranh đá bản địa cũ dường như đang mô tả Thylacoleo đứng trên cành cây.
Con sư tử có túi này là một loài động vật có vú ăn thịt ghê gớm, và là một thành viên của phân bộ Vombatiformes, có quan hệ họ hàng xa với gấu túi. Nó được cho là một kẻ săn mồi phục kích có khả năng trèo cây và là một thợ săn chuyên nghiệp có khả năng hạ gục các loài động vật hoang dã như diprotodon cỡ tê giác. | 1 | null |
Good Luck Charlie là một bộ phim hài kịch tình huống của Hoa Kỳ phát sóng trên kênh Disney Channel xuyên suốt bốn năm từ 2010 đến 2014. Hai nhà sáng lập Phil Baker và Drew Vaupen mong muốn tạo ra một chương trình thu hút mọi đối tượng người xem chứ không chỉ dành riêng cho trẻ em. Phim thuật lại hàng loạt tình huống hài hước mà gia đình Duncan sống ở thành phố Denver cùng năm người con phải trải qua, đặc biệt là đứa em út mới 9 tháng tuổi Charlotte "Charlie" (Mia Talerico). Trong mỗi tập, cô chị Teddy Duncan (Bridgit Mendler) thường tạo ra cuốn nhật ký video bao gồm lời khuyên dành cho Charlie về gia đình và đường đời của một thiếu niên sẽ như thế nào. Teddy cố gắng cho em mình thấy những gì cô đã trải qua khi trưởng thành để bé rút kinh nghiệm sau này. Cuối đoạn băng thường được Teddy (hoặc một thành viên khác trong nhà, kể cả Charlie) kết thúc bằng câu: "Good Luck Charlie".
Với hàng loạt những ý kiến trái chiều của đội ngũ làm phim, các nhà điều hành cuối cùng quyết định sử dụng bối cảnh lấy người lớn làm trung tâm, đồng thời sửa tiêu đề loạt phim từ "Oops" sang "Love, Teddy" và cuối cùng thay đổi thành "Good Luck Charlie" nhằm đảm bảo series sẽ thu hút tất cả mọi đối tượng theo dõi. Dự án công chiếu lần đầu trên Disney Channel Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 4 năm 2010. Phiên bản điện ảnh về chủ đề giáng sinh dựa trên loạt phim mang tên "Good Luck Charlie, It's Christmas!" ra mắt vào cuối năm 2011. Đến ngày 16 tháng 2 năm 2014, tác phẩm chính thức khép lại với tổng cộng 97 tập trình chiếu liên tục gần bốn năm. Ngoài ra, bản chuyển thể từ Ấn Độ có tựa đề "Best of Luck Nikki" cũng đã được trình làng lần đầu trên Disney Channel India.
Về phía chuyên môn, series nhận được phản hồi tính cực từ các nhà phê bình và đây cũng chính là sitcom đầu tiên của Disney mạnh dạn đưa hình ảnh một cặp đồng tính nữ đã kết hôn lên màn ảnh bất chấp những tranh cãi xung quanh chủ đề nhạy cảm này tại thời điểm đó. "Good Luck Charlie" góp mặt vào hàng loạt danh sách xuất sắc nhất của mùa giải truyền hình thiếu nhi, trong đó nổi bật nhất là ba đề cử Giải Emmy Giờ Vàng và chiến thắng liên tiếp hai lần hạng mục bình chọn .
Tiền đề.
Lấy bối cảnh ở Denver, Colorado, loạt phim kể về gia đình Duncan đang tất bật chuẩn bị cho sự ra đời của đứa con thứ tư, Charlotte "Charlie" Duncan (Mia Talerico). Khi bà mẹ Amy (Leigh-Allyn Baker), một y tá và ông bố Bob (Eric Allan Kramer), một kỹ thuật viên kiểm soát côn trùng trở lại làm việc, họ yêu cầu ba đứa con lớn trong nhà — PJ (Jason Dolley), Teddy (Bridgit Mendler) và Gabe (Bradley Steven Perry) phải trông coi em gái. Cực chẳng đã, cả ba nhân vật này còn phải tiếp tục đối phó với những thách thức ở trường học và ngoài xã hội trong cuộc sống của họ.
Các sự kiện mỗi tập trở thành nguồn tư liệu cho cuốn nhật ký tự quay mà cô chị cả làm cho Charlie. Teddy hy vọng video sẽ mang đến những lời khuyên hữu ích cho em gái sau khi cả hai đã trưởng thành và Teddy dọn ra ở riêng. Cuối mỗi video, cô (và/hoặc các diễn viên khác) đều kết thúc bằng câu: "Good luck, Charlie" hoặc thậm chí có thể đồng thanh gián tiếp hô "Wish them good luck, Charlie." Trong phim, Amy tiết lộ với Teddy rằng bà đang mang thai đứa con thứ năm, nhưng cốt truyện này không được đưa vào phim mãi cho đến phần ba, cuối cùng đại gia đình chính thức chào đón thêm một bé trai (Toby).
Tập phim.
Tổng quan.
<onlyinclude>
</onlyinclude>
Sản xuất.
Phát triển.
"Good Luck Charlie" được sáng tạo bởi Phil Baker và Drew Vaupen, họ đã viết kịch bản cùng nhau từ năm 1993 cho các chương trình từ "Suely Susan" đến "Sonny with a Chance". Cặp đôi mong muốn tạo ra một bộ phim thu hút cả gia đình chứ không chỉ đơn giản kể về trẻ em. Lấy cảm hứng từ sự thành công của những series phát lại như "Full House" và "George Lopez" với khán giả trẻ, Vaupen và Baker chuyển sang dự án sitcom. Trong một cuộc phỏng vấn, Vaupen cho biết: "Chúng tôi muốn thực hiện tác phẩm về mái ấm, mang lại loạt phim hài kịch tình huống ngôi nhà và nói về một gia đình thực sự, không phải phù thủy, không ai là ngôi sao nhạc pop, chẳng ai sở hữu chương trình truyền hình riêng", ông đang đề cập đến nội dung trong những series khác của Disney như "Wizards of Waverly Place", "Hannah Montana" và "Sonny with a Chance". Biên kịch kỳ cựu Dan Staley sau đó đã tham gia đội ngũ làm phim với tư cách là nhà sản xuất điều hành. Gary Marsh của Disney cho biết "bởi vì hầu hết các mạng truyền hình đều từ bỏ sitcom truyền thống, Disney đã có thể thu hút rất nhiều tài năng sở hữu kinh nghiệm đứng sau máy quay, bao gồm cả nhà sản xuất điều hành như Dan Staley..."
Bộ phim được công bố rộng rãi vào tháng 7 năm 2009 với một thông cáo báo chí đặt hàng mùa đầu tiên cũng như dàn diễn viên chính.
"Good Luck Charlie" lấy gia đình Duncan đến từ Denver, Colorado làm trung tâm, đội ngũ thực hiện phim đã khéo léo sáng tạo tình tiết nhằm thu hút rộng rãi mọi đối tượng. Mặc dù series vẫn tường thuật chủ yếu qua lăng kính của những đứa trẻ, thế nhưng cha mẹ chúng (Amy và Bob) cũng không bị cho ra rìa, các nhà biên kịch cố gắng thêm những tình tiết để người trưởng thành có thể liên tưởng đến. Chẳng hạn như trong một cảnh ở tập thử nghiệm, Amy thú nhận với Bob rằng cô bị choáng ngợp với việc lại phải trở thành bà mẹ mới đi làm. “Cô ấy không chắc mình có thể thực hiện được điều này hay không" Bonnet nói, "Và chỉ diễn cảnh đó theo cách chúng tôi đã làm, một phân đoạn rất thật giữa vợ và chồng, điều này khiến chương trình trở nên khác biệt". Bên cạnh đó, đoàn phim cũng cố gắng lồng ghép vào những câu chuyện cười dành cho người lớn trong khi vẫn đủ trong sáng cho khán giả nhỏ tuổi của họ. Không giống như hầu hết các loạt phim Disney Channel trước đây như "Sonny with a Chance", "Hannah Montana" hay "Cory in the House", cả hai bậc sinh thành đều xuất hiện trong gia đình Duncan. "Có cảm giác đây là thời điểm thích hợp để tổ chức một chương trình bao gồm cả những ông bố bà mẹ nhằm vạch trần chuyện hoang đường rằng Disney không bao giờ có mẹ trên màn ảnh". Adam Bonnett, phó chủ tịch cấp cao phụ trách kế hoạch gốc của kênh Disney Channel cho biết: "Bởi vì nó là một huyền thoại".
Do loạt phim về những kẻ giàu có và nổi tiếng có thể khiến người xem xa lánh trong nền kinh tế gặp khó khăn, vậy nên gia đình Duncan được xem là tầng lớp trung lưu, không sang cũng chẳng nghèo. Theo Gary Marsh, Chủ tịch Giải trí Disney Channel Toàn cầu nhận định: "Những gì chúng tôi muốn thực hiện là thừa nhận thực tế về thời đại chúng ta đang sống, đó là nơi mà cha mẹ đi làm, những đứa trẻ được kỳ vọng sẽ giúp đỡ việc nhà theo cách mang lại ý nghĩa. Các vấn đề trong đời sống thực luôn xảy ra. Mọi người không sống theo kiểu 'The Life of Riley' mọi lúc." Mở rộng sức hấp dẫn của Disney Channel là một mối quan tâm khi chọn tên các nhân vật và đề tựa chương trình. "Bạn muốn có một tiêu đề nói rằng, A. đây là một bộ phim sitcom và B. đây là thứ sẽ thu hút nhóm nhân khẩu học chính nhưng chúng tôi cũng đang cố gắng mở rộng thương hiệu Disney vượt ra ngoài phạm vi các cô gái", Vaupen nhận xét. Tên gọi bộ phim ban đầu là "Love, Teddy", đây chính cụm từ Teddy Duncan đã sử dụng để kết thúc mục nhật ký video của cô trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, "Love, Teddy ngay lập tức cảm thấy ủy mị và gần như loại trừ các cậu bé", Vaupen cho biết. "Chúng tôi cũng không muốn có từ 'Baby' trong tiêu đề vì điều đó sẽ bỏ sót một số cá nhân nhất định". Ngoài ra, "Daisy" là cái tên đầu tiên được đặt cho đứa bé nhà Duncan, thế nhưng các nhà sản xuất quyết định chuyển sang "Charlie" vì nó khá nam tính và sẽ thu hút nhiều bé trai đến với loạt phim.
Tuyển vai.
"Good Luck Charlie" tập trung vào phát triển nhân vật, "các diễn viên không chỉ gánh vác chương trình mà họ còn phải có phản ứng hóa học "hoàn hảo" với nhau để khiến cho gia đình năng nổ trở nên đáng tin cậy". Bonnet cho biết các giám đốc điều hành của Disney Channel "phải lòng" Bridgit Mendler, người vào vai Teddy Duncan thời niên thiếu, Bonnet phát biểu: "Cô ấy có tất cả tố chất của một ngôi sao Disney". Trước đó Mendler đã casting "Sonny with a Chance" và các nhà điều hành mạng lưới muốn tìm một vai cho cô. Lần đầu tiên nữ diễn viên nghe nói về "Good Luck Charlie" là vào cuối tháng 11 năm 2008. Sau hàng loạt các vòng thử vai, cuối cùng cô cũng được tuyển trong tháng 1 năm 2009. Mendler và Jason Dolley - diễn viên hóa thân thành PJ, anh trai của Teddy - đã tham gia vào dàn nhân vật chính trong phim điện ảnh và truyền hình của Disney Channel trước khi cả hai góp mặt chung trong dự án này. Mendler xuất hiện định kỳ ở "Wizards of Waverly Place" và Dolley thuộc tuyến vai trọng điểm của "Cory in the House". Brian Lowry đến từ tạp chí "Variety" nói rằng sự nghiệp của họ "[phản ánh] sở trường của Disney Channel trong việc xác định những diễn viên trẻ và đưa họ từ dự án này sang dự án khác, theo cách gợi nhớ đến hệ thống trường quay cũ". PJ ban đầu được gọi là Casey.
Cả Eric Allan Kramer (vai Bob Duncan) và Leigh-Allyn Baker (vai Amy Duncan) cũng từng là khách mời trong các chương trình Disney Channel trước đó và xuất hiện trong bộ phim "My Name Is Earl" của NBC, đây chính là nhà đài mà Erika Kaestle và Patrick McCarthy của dự án từng giữ chức vụ biên kịch kiêm giám sát sản xuất. Baker và Kramer đều tham gia cùng một tập trong series "Will & Grace" mang tên "Sour Balls". Trả lời cuộc phỏng vấn, Baker cho biết Disney đã "tán tỉnh [cô] một thời gian để nhập vai người mẹ", nhưng cô thấy mình vẫn còn quá trẻ. "Tôi cảm giác như kiểu, bạn biết không? Khi hoàn thành công việc này, tôi thực sự sẽ ở độ tuổi mà mọi người nghĩ rằng tôi có thể đóng vai được giao". Vào thời điểm casting, Baker đã làm mẹ, cô mang thai được 9 tháng.
Giống như hầu hết loạt phim có diễn viên nhí, các nhà sản xuất "Good Luck Charlie" ban đầu dự định để cặp song sinh giống hệt nhau đóng vai Charlie Duncan, nhân vật chính và đứa con mới chào đời của gia đình Duncan. Thuê hai em bé sẽ cho phép ngày làm việc dài hơn mà không vi phạm luật lao động trẻ em cũng như khả năng thay thế đứa này cho đứa kia nếu xảy ra sự cố. Tuy nhiên, đội ngũ lại không thành công trong việc tìm kiếm cặp sinh đôi thích hợp và cuối cùng quyết định chọn Mia Talerico. Marsh nói rằng việc Talerico mới mười tháng tuổi vào thời điểm bé được tuyển cho vai diễn là rủi ro cao nhất của họ khi tạo ra bộ phim: "Giống như làm việc mà không có kế hoạch dự phòng. Bé có thể gặp một ngày tồi tệ và đoàn phim không thể quay, để rồi tiêu tốn của chúng tôi hàng chục nghìn đô la. Nhưng cho đến nay mọi thứ vẫn tốt đẹp. Talerico là diễn viên ngoan ngoãn nhất mà tôi từng làm việc cùng". Vai Toby đã được chọn cho mùa thứ tư qua sự thể hiện của Logan Moreau.
Quay phim.
Tập thí điểm của "Good Luck Charlie" mang tên "Study Date" quay vào tháng 2 năm 2009 tại hãng phim Sunset Bronson (nơi ghi hình "Hannah Montana") và series ngay lập tức được chọn vào cuối năm đó. Quá trình sản xuất diễn ra tại Los Angeles mặc dù tác phẩm lấy bối cảnh ở Denver, Colorado. Ngôi nhà của gia đình Duncan xuất hiện trong bộ phim thuộc vùng Pasadena, California. Đến mùa thứ hai, dự án tiếp tục ghi hình tại Los Angeles Center Studios (cùng địa điểm với "Shake It Up" sau này). Chương trình diễn ra theo lịch trình hàng tuần. Kịch bản cho tập mới được đưa vào đầu tuần trước khi đọc qua, thứ Tư sẽ diễn tập, cốt truyện cuối hoàn thành trong ngày thứ Năm và bộ phim ghi hình trước khán giả trường quay vào tối thứ Sáu. Theo Mendler, đôi khi "các tập phim quá lớn để xử lý với khán giả trực tiếp [và] được quay mà không có người xem, nhưng hầu hết là trực tiếp".
Đội ngũ bộ phim đã làm mới phần hai vào tháng 7 năm 2010, ba tháng sau khi công chiếu. Nhà đài đặt hàng mùa ba vào tháng 8 năm 2011. Đến tháng 6 năm 2013, Disney Channel ra thông báo loạt phim sẽ chính thức kết thúc sau bốn mùa. Tập cuối phát sóng vào ngày 16 tháng 2 năm 2014 với thời lượng lên đến một giờ.
Đón nhận.
"Good Luck Charlie" nhận về nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình. Robert Lloyd của "The Los Angeles Times" đã mô tả đây là một "sitcom chuyên nghiệp từ các chuyên gia sitcom" với trò đùa hiệu quả và các nhân vật hài kịch điển hình cũng như những tình huống "được sắp xếp có chủ ý". Tuy nhiên, Lloyd ca ngợi loạt phim vì đã mang đến "bức tranh mới lạ theo ngữ cảnh về một cô gái tuổi teen chăm sóc em gái mình với nỗi thờ ơ đầy thuyết phục và sự thoải mái thiết thực vượt quá cả bộ phim hài căng thẳng bao quanh nó". Neal Justin của tờ "Star Tribune" cho biết "giọng cười được thu âm lại và trò hề nặng nề trong sitcom này" chẳng có đặc trưng nào khác để bù đắp ngoài việc "giúp đứa trẻ 11 tuổi của bạn điềm tĩnh trong nửa giờ". Rob Owen đến từ nhật báo "Pittsburgh Post-Gazette" nhận định "Good Luck Charlie" sẽ hấp dẫn trẻ em chứ không phải người lớn và viết: "Các bậc cha mẹ đã từng xem loại chương trình tương tự được thực hiện trước đây và hay hơn trong chuỗi TGIF từ kỷ nguyên 1980 của đài ABC". Ngược lại, cây bút Brian Lowry tác nghiệp tại tạp chí "Variety" cho rằng tác phẩm là "một sự trở lại mới mẻ đáng ngạc nhiên đối với các bộ phim sitcom kiểu "TGIF" của ABC". Anh nhận xét mặc dù loạt phim không "vượt quá ranh giới của sitcom", nhưng nó "sống động" và "được xử lý dễ chịu".
Vào ngày 20 tháng 6 năm 2013, Disney Channel thông báo tập 19 "Down a Tree" nằm trong phần cuối sẽ xuất hiện một cặp đồng tính nữ đã kết hôn, giúp "Good Luck Charlie" trở thành loạt phim đầu tiên của Disney chấp nhận đưa vấn đề nhạy cảm này lên màn ảnh tại thời điểm đó. Tổ chức nhân quyền LGBT GLAAD cũng như nữ diễn viên Miley Cyrus và Evan Rachel Wood đã bày tỏ sự ủng hộ, đồng thời ca ngợi Disney vì đã dũng cảm đưa hai nhân vật này vào. Ngược lại, bộ phận One Million Moms của Hiệp hội Gia đình Hoa Kỳ không vui trước tin trên, họ phản đối và yêu cầu Disney không được chiếu tập phim. Trong một cuộc phỏng vấn với "TV Guide", người phát ngôn của Disney Channel ra tuyên bố "Down a Tree... được phát triển để phù hợp với trẻ em và gia đình trên khắp thế giới, đồng thời phản ánh các chủ đề về sự đa dạng và hòa nhập." Bất chấp xung quanh những tranh cãi, Disney vẫn quyết định phát sóng tập phim theo kế hoạch vào ngày 26 tháng 1 năm 2014.
Lượt xem.
Buổi công chiếu đầu tiên của "Good Luck Charlie" sở hữu 4.7 triệu người xem, con số này giúp tác phẩm trở thành bộ phim có tỷ suất lượt theo dõi cao nhất trong series gốc của Disney Channel kể từ "The Suite Life on Deck" năm 2008 và là chương trình truyền hình cáp có tỷ suất lượt xem cao nhất trong tuần. Tạp chí tin tức Maclean's báo cáo về tổng thể, mùa đầu tiên ""đã và đang làm tốt như các chương trình thành công hơn của Disney – "The Suite Life", v.v.".
Đến ngày 24 tháng 6 năm 2012, "Special Delivery" trở thành tập được xem nhiều nhất từ trước đến nay của "Good Luck Charlie" khi thu hút 7.48 triệu, vượt qua "Snow Show" (Phần 1 - 7.24 triệu), "Good Luck Jessie: NYC Christmas" (5.8 triệu) và tập thử nghiệm "Study Date" (4.68 triệu). Tổng kết cuối phim, "Special Delivery" vẫn xếp đầu bảng với 7.5 triệu và "The Unusual Suspects" là tập kém khán giả nhất khi chỉ có 1.9 triệu lượt theo dõi . Tương tự, "Special Delivery" tiếp tục giữ vững vị trí ở Vương quốc Anh và Ireland với 602.000 người xem khi phát sóng vào ngày 12 tháng 10 năm 2012.
Giải trí khác.
Điện ảnh.
Sau khi nhà đài đặt hàng vào tháng 7 năm 2010, phiên bản điện ảnh về chủ đề giáng sinh của Disney Channel Original Movie mang tên "Good Luck Charlie, It's Christmas!" bắt đầu sản xuất trong tháng 3 năm 2011. Tác phẩm do Arlene Sanford đạo diễn và Geoff Rodkey viết kịch bản được công chiếu vào ngày 2 tháng 12 năm 2011 trên kênh Disney Channel. Phim theo chân gia đình Duncan trên đường đến nhà bố mẹ Amy Duncan vào dịp giáng sinh.
Chuyển thể.
Phiên bản chuyển thể từ Ấn Độ có tựa đề "Best of Luck Nikki" ra mắt lần đầu trên Disney Channel India vào ngày 3 tháng 4 năm 2011. Sheena Bajaj đóng vai Dolly Singh (tương tự Teddy Duncan), Ananya Kolvankar thể hiện vai Nikita "Nikki" Singh Nikita (tương tự Charlie) và Gurdeep Kohli hóa thân thành Himani Singh (tương tự Amy Duncan). Loạt phim kéo dài 4 mùa với 104 tập và kết thúc vào ngày 16 tháng 4 năm 2016. Ngoài ra, bản chuyển thể từ chương trình của Pakistan mang tên "Peek-A-Boo Shahwaiz" cũng được công chiếu lần đầu trên Play Entertainment từ ngày 15 tháng 7 năm 2018.
Âm nhạc.
Mặc dù nhạc nền của chương trình không được phát hành nhưng một số bài hát vẫn đưa vào sản xuất. Chẳng hạn như ca khúc "Hang in There Baby" do Bridgit Mendler thể hiện, được sáng tác bởi Aris Archontis, Jeannie Lurie và Chen Neeman đã ra mắt trên Radio Disney vào ngày 26 tháng 3 năm 2010. Trong tập giáng sinh phần 3 "A Duncan Christmas", series tiếp tục giới thiệu bản "My Song for You" do Mendler và Harper trình bày, bài hát đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng "Billboard" Kid Digital Songs và thứ ba trên Holiday Songs.
Hội ngộ.
Dù bộ phim đã kết thúc từ lâu nhưng dàn diễn viên vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ thân thiết. Họ cùng nhau ăn tối, đi bộ đường dài, du lịch và trò chuyện trong những buổi phỏng vấn riêng. Ngày 21 tháng 7 năm 2019, gần như toàn bộ gia đình Duncan đã đoàn tụ để giúp mừng lễ đính hôn của Bridgit Mendler với vị hôn phu. Đến tháng 5 năm 2020, nhân dịp kỷ niệm 10 năm ra mắt loạt phim, Disney đã mang các ngôi sao tái ngộ trực tuyến qua Zoom do trang tin "Entertainment Tonight" độc quyền thực hiện, nơi họ cùng trải qua chuyến đi ngược dòng ký ức hồi tưởng về khoảng thời gian tham gia series hài. | 1 | null |
Tiến hóa văn minh, phát triển văn hóa xã hội hay phát triển văn hóa là các thuật ngữ chung về những lý thuyết tiến hóa xã hội và văn hóa, mô tả cách các nền văn hóa và xã hội thay đổi theo thời gian. Trong khi tiến trình tiến hóa văn minh có xu hướng tăng độ phức tạp của một xã hội hoặc nền văn hóa, mặc khác nó cũng xem xét quá trình có thể dẫn đến giảm độ phức tạp (thoái hóa), hoặc có thể sản sinh đổi mới hay phát triển mà không cần bất kỳ sự thay đổi đáng kể một cách phức tạp (phân nhánh tiến hóa). Tiến hóa văn minh có thể được định nghĩa là "quá trình tổ chức lại cấu trúc bị ảnh hưởng theo thời gian, cuối cùng sản sinh một hình thức hay cấu trúc có chất lượng khác với hình thức tổ tiên."
Gần như suốt thế kỷ 19 và một vài giai đoạn của thế kỷ 20, người ta tiếp cận đến tiến hóa văn minh nhằm mục đích cung cấp hình mẫu cho sự tiến hoá nhân loại toàn thể, với lập luận rằng xã hội khác nhau ở các giai đoạn khác nhau của sự biến đổi xã hội. Các nỗ lực toàn diện nhất để phát triển một lý thuyết chung về tiến hóa văn minh tập trung vào phát triển hệ thống văn hóa-xã hội được thực hiện bởi Talcott Parsons trên thang điểm trong đó có một lý thuyết về lịch sử thế giới. Những phương pháp tiếp cận gần đây tập trung vào những thay đổi cụ thể cho từng xã hội và từ chối ý tưởng về sự tiến bộ xã hội. Hầu hết các nhà khảo cổ học và nhân học văn hóa làm việc trong khuôn khổ lý thuyết hiện đại của sự tiến hóa văn minh. Những phương pháp tiếp cận hiện đại đến tiến hóa văn minh bao gồm nhân học nhận thức, xã hội học, lý thuyết hiện đại hóa và lý thuyết xã hội hậu công nghiệp.
Đã có nhiều xã hội khác nhau trong suốt lịch sử loài người, với ước tính nhiều hơn một triệu xã hội; tuy nhiên ngày nay chỉ có khoảng hai trăm hoặc nhiều hơn các xã hội khác nhau còn tồn tại. | 1 | null |
Hoàng hậu (chữ Hán: 皇后, tiếng Anh: Empress) là một tước hiệu hoàng tộc thời phong kiến, được phong cho vợ chính (chính cung, chính thê, nguyên phối) của nhà vua xưng Hoàng đế, do Hoàng đế sắc phong. Vương hậu là tước hiệu được phong cho vợ chính (chính cung, chính thê, nguyên phối) của nhà vua xưng Vương (Đại vương, Quốc vương), đôi khi một số người được Hoàng đế phong Vương tước (thường là người trong Hoàng tộc hay anh em trai của Hoàng đế) thì vợ chính của họ được gọi là Vương phi.
Tuy nhiên, ngày nay nhiều người hay hiểu Hoàng hậu theo nghĩa là vợ chính của nhà vua nói chung, cả Quốc vương lẫn Hoàng đế, điều này có thể gây ra một số nhầm lẫn.
Giai đoạn Nam-Bắc triều là một giai đoạn đầy loạn lạc trong lịch sử Trung Quốc. Các triều đại thay đổi liên miên, binh đao hỗn loạn. Đi cùng với đó là sự biến loạn chốn cung đình. Dưới đây là danh sách các vị Hoàng hậu trong giai đoạn này, những bậc mẫu nghi thiên hạ đã song hành cùng với một giai đoạn đầy hỗn loạn của lịch sử. | 1 | null |
CROSS†CHANNEL là một visual novel người lớn phát triển và phát hành bởi FlyingShine dùng cho Windows và PlayStation 2 (PS2). Phiên bản Windows phát hành ngày 26 tháng 9 năm 2003, vàp phiên bản PS2 ("CROSS†CHANNEL ~To all people~") ra mắt ngày 18 tháng 3 năm 2004. Một bản tương thích với PlayStation Portable (PSP) chuyển đổi từ PS2 phát hành ngày 25 tháng 2 năm 2010 và một bản Xbox 360 với các nội dung bổ sung ("CROSS†CHANNEL ~In memory of all people~") ra mắt ngày 14 tháng 4 năm 2011. "CROSS†CHANNEL ~For all people~" cũng được phát hành trên PlayStation 3 (PS3) và PlayStation Vita (PS Vita) vào ngày 26 tháng 6 năm 2014. Tạp chí "Famitsu" đã chấm phiên bản PS3 được 30/40 điểm tiêu chí chuẩn, trong khi bản PS Vita được 28/40 điểm. | 1 | null |
Xương Văn quân (chữ Hán: 昌文君; trị vì: 223 TCN), có thể là Công tử Điên nước Sở, "tính" Mị "thị" Hùng (熊), tên Điên (颠), là vị vua thứ 44 và là vua cuối cùng nước Sở – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Sử sách đề cập danh hiệu khác nhau về vị vua cuối cùng của nước Sở. Sử ký xác định Xương Bình quân mới là người được Hạng Yên lập làm vua kế tục sau khi Sở vương Phụ Sô bị bắt. Tuy nhiên các sử gia hiện đại lại khẳng định Tư Mã Thiên nhầm lẫn: vị vua cuối cùng này là Xương Văn quân chứ không phải Xương Bình quân.
Xương Bình quân là công tử nước Sở. Khi Tần vương Chính mới lên ngôi, Xương Văn quân đang ở nước Tần.
Năm 238 TCN, ông cùng Xương Bình quân dẹp loạn Lao Ái. Nhờ có công, ông được phong tước Xương Văn quân.
Các sử gia hiện đại xác định năm 226 TCN, Xương Văn quân làm loạn ở nước Tần rồi trở về nước Sở. Sau khi Sở vương Phụ Sô bị quân Tần bắt, ông được Hạng Yên lập lên ngôi để tiếp tục chống Tần, duy trì nước Sở. Còn Xương Bình quân cũng trở về nước Sở và mất trong năm 226 TCN.
Tuy nhiên thế lực nước Sở khi Xương Văn quân lên ngôi đã rất nhỏ yếu, không còn khả năng kháng cự sự đánh chiếm của nước Tần. Tướng Tần là Vương Tiễn tiếp tục tiến về phía đông và phía nam, đánh bại quân Sở. Xương Văn quân bị tử trận. Hạng Yên tuyệt vọng bèn tự vẫn. Nước Sở hoàn toàn bị tiêu diệt.
Nước Sở từ thời Sở Hùng Dịch được Chu Thành vương phong đến Xương Văn quân gồm có 44 vua thuộc 33 thế hệ. | 1 | null |
Hoàng hậu (chữ Hán: 皇后, tiếng Anh: Empress) là vợ chính (chính cung, chính thê, nguyên phối) của nhà vua xưng Hoàng đế, do Hoàng đế sắc phong. Vương hậu là vợ chính (chính cung, chính thê, nguyên phối) của nhà vua xưng Vương (Đại vương, Quốc vương), đôi khi một số người được Hoàng đế phong Vương tước thường là người trong Hoàng tộc hay anh em trai của Hoàng đế thì vợ chính của họ được gọi là Vương phi.
Tuy nhiên, ngày nay nhiều người hay hiểu Hoàng hậu theo nghĩa là vợ chính của nhà vua nói chung, cả Quốc vương lẫn Hoàng đế, điều này có thể gây ra một số nhầm lẫn.
Tam Quốc là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc. Đây là thời kỳ lịch sử đầy hỗn loạn, chinh chiến liên miên và cũng là một trong những thời kỳ đẫm máu nhất trong lịch sử Trung Quốc, phần lớn dân số đã chết vì các cuộc chiến tranh liên miên trong thời kỳ này. Song hành cùng sự hỗn loạn của giai đoạn lịch sử, chốn cung đình mỗi nước cũng biến loạn theo. Dưới đây là danh sách các Hoàng hậu trong giai đoạn này, những bậc mẫu nghi thiên hạ đã đi cùng với một thời kỳ đẫm máu của lịch sử.
Danh sách dưới đây bao gồm các hoàng hậu là vợ chính của vua đương thời, hoàng thái hậu là mẹ của vua đương thời; ngoài ra có một số vị là vợ của các vị vua được truy tôn và chỉ có danh hiệu hoàng hậu được truy tôn, khi sống không có thân phận hoàng hậu. | 1 | null |
là một nhà xuất bản Nhật Bản tập trung vào các nội dung dành cho người trên 18 tuổi, chuyên ấn hành light novel, artbook, tạp chí người lớn, manga. Công ty được thành lập vào tháng 11 năm 1995.
Năm 2009, với 41 tác phẩm, Kill Time Communication đứng thứ năm trong các nhà xuất bản manga khiêu dâm lớn nhất Nhật Bản, sau Core Magazine (76), Akane Shinsha (65), TI Net (44) và Kubo Shoten (42), suýt bị Hit Publishing Company vượt qua với 40 tựa.
Tạp chí đã xuất bản.
"2D Dream Magazine".
, còn được biết đến với tựa "Nijigen Dream Magazine", tập trung vào đối tượng là nam giới đã trưởng thành, ra mắt từ năm 2001 như một phụ phẩm đặc biệt của tạp chí "PC-DIY". Nó tách ra độc lập từ năm 2004.
"Comic Unreal".
là một tạp chí manga khiêu dâm ra mắt hai tháng một lần, kể từ năm 2006.
"Comic Valkyrie".
là một tạp chí seinen manga khoa học viễn tưởng và kỳ ảo. Năm 2007, công ty ấn hành thêm "Comic Valkyrie Hard" như một số đặc biệt của "Comic Valkyrie". | 1 | null |
Trong bộ môn Cơ học ứng dụng, uốn (hay còn gọi là tạo độ cong) là đặc điểm tình trạng của kết cấu yếu tố được gây ra bởi tải trọng. Thông thường, nói đến độ cong thì thường liên quan đến độ cong của dầm.
Một thanh treo trong tủ quần áo bị võng dưới sức nặng của quần tác dụng lên thanh treo quần áo là một ví dụ về một thanh bị uốn. | 1 | null |
Nicolas Chauvin (phiên âm: Sô-Vanh), được cho là sinh ra tại Rochefort, Pháp, vào khoảng năm 1780, là một người lính phục vụ trong quân đội của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp và sau đó Grande Armée của Napoléon Bonaparte. Từ tên của ông ta mà sinh ra từ Chủ nghĩa Sô vanh. Hiện vẫn chưa rõ, Nicolas Chauvin có thật hay chỉ là một nhân vật hư cấu.
Chauvin đã tham gia quân đội vào lúc 18 tuổi, tổng cộng bị thương 17 lần, đến mức bị tàn tật. Nhờ sự trung thành và cống hiến của mình, ông được chính Napoleon tặng cho một cây kiếm danh dự và số tiền hưu trí là 200 Francs.
Sau thời hậu Napoleon ở Pháp, tinh thần cống hiến của ông ta không những không được cảm phục, mà còn bị chế giễu trong những vở hài kịch, chẳng hạn như trong vở kịch "La Cocarde tricolore" (1831). | 1 | null |
(sinh ngày 3 tháng 1 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp quốc tế.
Kakitani được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá U-17 châu Á 2006. Anh ghi được 4 bàn thắng góp công giúp đội tuyển U-17 Nhật Bản vô địch giải đấu. Anh tiếp tục ghi 2 bàn tại FIFA U-17 World Cup 2007 tổ chức tại Hàn Quốc. Trong trận đấu với U-17 Pháp, anh ghi được một bàn thắng ngoạn mục từ vạch giữa sân.
Kakitani ra mắt đội tuyển quốc gia Nhật Bản tại Cúp bóng đá Đông Á 2013. Anh chơi trận đấu quốc tế đầu tiên với Trung Quốc và có bàn thắng quốc tế đầu tiên ở phút 59. Sau đó, anh lập một cú đúp giúp đội nhà thắng Hàn Quốc 2–1. Với 3 bàn thắng có được, Kakitani góp công giúp Nhật Bản vô địch đồng thời anh cũng ẵm luôn danh hiệu vua phá lưới.
Kakitani có tên trong danh sách đội tuyển Nhật Bản tham dự World Cup 2014 tổ chức tại Brasil. Ở giải đấu này, anh được thi đấu 2 trận gặp Bờ Biển Ngà và Colombia, cả 2 trận đều là vào sân từ băng ghế dự bị.
Thống kê sự nghiệp.
Quốc tế.
!Tổng cộng||18||5
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
Basel
Cerezo Osaka
Quốc tế.
Đội tuyển U-17 Nhật Bản
Đội tuyển quốc gia Nhật Bản | 1 | null |
(sinh ngày 18 tháng 5 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Vissel Kobe và Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Kashima Antlers.
Osako đạt được thành tích ghi được 65 bàn thắng sau 191 trận cho Kashima Antlers.
1860 München.
Tháng 1 năm 2014, Osako chuyển đến Đức thi đấu cho TSV 1860 München tại giải 2. Bundesliga với bản hợp đồng có thời hạn ba năm rưỡi. Anh có được 6 bàn thắng chỉ sau 15 trận cho 1860 München.
FC Köln.
2014-15.
Tháng 6 năm 2014, Osako có cơ hội thi đấu tại Bundesliga khi anh gia nhập đội bóng mới lên hạng 1. FC Köln. Ngày 30 tháng 8 năm 2014, anh có bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga trong chiến thắng 2-0 trước VfB Stuttgart. Đến ngày 8 tháng 3 năm 2015 anh mới có bàn thắng thứ hai tại giải đấu này trong trận thắng 4-2 trước Eintracht Frankfurt.
2016-17.
Ngày 20 tháng 8 năm 2016, vào sân từ ghế dự bị trong trận đấu tại Cúp bóng đá Đức với BFC Preussen, Osako đã lập cú đúp trong chiến thắng 7-0 của Köln. Ngày 21 tháng 9, anh là người gỡ hòa 1-1 cho Köln để giúp đội bóng của mình lội ngược dòng đánh bại Schalke 04 3-1, bàn thắng đầu tiên của anh tại Bundesliga kể từ tháng 8 năm 2015. Bốn ngày sau đó, anh đem về 1 điểm cho Köln trong trận hòa 1-1 với RB Leipzig. Ngày 15 tháng 10, anh có một đường chuyền thành bàn và mang về một quả phạt đền giúp Köln đánh bại Ingolstadt 2-1 vươn lên vị trí nhì bảng Bundesliga.
Ngày 28 tháng 1 năm 2017, Osako có cú đúp đầu tiên tại Bundesliga trong trận đại thắng SV Darmstadt 98 6-1. Anh kết thúc mùa giải 2016-17 với 7 bàn thắng sau 30 trận tại Bundesliga.
2017-18.
Ngày 1 tháng 10 năm 2017, anh có bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2017-18 trong trận thua RB Leipzig 2-1. Ngày 2 tháng 11, anh ghi được hai bàn thắng và có một đường chuyền thành bàn trong trận thắng 5-2 của Köln trước BATE Borisov tại UEFA Europa League. Ngày 17 tháng 2 năm 2018, anh chấm dứt chuỗi 9 trận không có bàn thắng tại Bundesliga bằng bàn mở tỉ số trong trận hòa 1-1 với Hannover 96.
Trong thời gian thi đấu cho Köln, Osako có tổng cộng 15 bàn thắng và 15 pha kiến tạo trong 108 trận tại Bundesliga.
Werder Bremen.
Tháng 5 năm 2018, Osako chính thức chuyển đến Werder Bremen sau khi FC Köln rớt hạng Bundesliga. Anh ghi bàn ngay trong trận đấu đầu tiên cho Bremen gặp đội bóng hạng dưới Wormatia Worms tại Cúp bóng đá Đức ngày 18 tháng 8. Anh có bàn thắng đầu tiên cho Bremen tại Bundesliga với bàn mở tỉ số trong trận thắng 2-1 trước Eintracht Frankfurt.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia.
Tháng 7 năm 2013, Osako là thành viên đội tuyển Nhật Bản tham dự Cúp bóng đá Đông Á 2013, và anh đã lập được một cú đúp trong chiến thắng 3-2 trước Úc ngày 25 tháng 7. Ba ngày sau, đội tuyển Nhật Bản giành chức vô địch giải đấu sau khi đánh bại Hàn Quốc 2-1.
Tháng 5 năm 2014, Osako có tên trong danh sách 23 cầu thủ Nhật Bản tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 tại Brasil. Ngày 15 tháng 6 năm 2014, anh được ra sân ngay từ đầu trong trận mở màn của đội tuyển Nhật Bản tại bảng C với Côte d'Ivoire và bị thay ra ở phút 67 bởi Ōkubo Yoshito. Bốn ngày sau đó, anh tiếp tục ra sân trong trận hòa 0-0 với Hy Lạp và rời sân ở phút 57 nhường chỗ cho Kagawa Shinji. Anh không được ra sân trong trận đấu với Colombia, trận đấu mà Nhật Bản để thua 1-4 và vì vậy bị loại ngay sau vòng bảng.
Ngày 11 tháng 11 năm 2016, Osako trở lại đội tuyển Nhật Bản lần đầu tiên kể từ tháng 6 năm 2015 và đã lập cú đúp trong trận giao hữu thắng Oman 4-0. Tại vòng loại World Cup 2018, anh ghi được một bàn thắng trong trận hòa 1-1 với Iraq.
Ngày 31 tháng 5 năm 2018, Osako được chọn tham dự giải đấu World Cup lần thứ hai trong sự nghiệp tại Nga sau khi huấn luyện viên Nishino Akira chốt danh sách 23 cầu thủ chính thức. Trong trận đấu mở màn của đội tuyển Nhật Bản tại bảng H với Colombia, Osako là người hùng của đội tuyển Nhật Bản khi góp công vào cả hai bàn thắng. Ở bàn mở tỉ số, anh là người tạo ra tình huống nguy hiểm dẫn đến quả phạt đền và ở phút 73, anh có pha đánh đầu từ quả phạt góc của Honda Keisuke để ấn định chiến thắng 2-1. Nhật Bản trở thành đội bóng Châu Á đầu tiên đánh bại một đại diện Nam Mỹ tại đấu trường World Cup. Đội tuyển Nhật Bản sau đó lọt vào vòng 16 đội nhưng để thua chung cuộc 2-3 trước .
Tháng 12 năm 2018, Osako có lần đầu tiên tham dự giải đấu châu lục cấp độ đội tuyển khi được huấn luyện viên Moriyasu Hajime gọi tham dự Cúp bóng đá châu Á 2019. Trong trận đấu mở màn với Turkmenistan, Nhật Bản bị dẫn trước 1-0 sau khi hiệp 1 kết thúc nhưng Osako đã lập được cú đúp trong hiệp 2 để Nhật Bản lội ngược dòng thành công 3-2 chung cuộc. Trong trận gặp ở bán kết, anh tiếp tục tỏa sáng với một cú đúp, giúp Nhật Bản thắng chung cuộc với tỉ số 3-0 và lọt vào trận chung kết nhưng thất thủ trước với tỉ số 1-3 và giành ngôi á quân.
Tại lượt trận thứ 6 của vòng loại World Cup 2022, trong chiến thắng đậm đà 10-0 của Nhật Bản trước Myanmar anh đã lập repoker đầu tiên cho mình trong sự nghiệp.
Thống kê sự nghiệp.
Đội tuyển quốc gia.
!Tổng cộng||57||25 | 1 | null |
Trường Đại học Bách khoa Sankt-Peterburg Pyotr Đại Đế ("tiếng Nga": Санкт-Петербургский политехнический университет Петра Великого) là một trường đại học kỹ thuật đa ngành tại Sankt-Peterburg, Liên bang Nga. Tường đại học này được coi là một trong những cơ sở nghiên cứu hàng đầu tại Liên bang Nga và các nước thành viên SNG và là một cơ sở giáo dục hàng đầu trong lĩnh vực vật lý và toán học ứng dụng, kỹ thuật công nghiệp, kỹ thuật hóa học, kỹ thuật hàng không vũ trụ và nhiều lĩnh vực khoa học khác. Hiện nay (2012) SPSPU được xếp hạng trong top 400 trên thế giới. Nó chứa một trong các phòng thí nghiệm nghiên cứu thủy-khí động lực học tiên tiến nhất của Nga. Trường đại học này cung cấp các chương trình học lấy bằng Cử nhân, Thạc sĩ và các cấp bằng tiến sĩ. SPbSPU bao gồm các đơn vị cấu trúc gọi là Viện chia thành ba loại:
Lịch sử.
Năm thành lập: 1899
Địa chỉ.
Địa chỉ: Политехническая улица, д. 29, Saint Petersburg, Liên bang Nga
Tổ chức.
Các Khoa đào tạo chuyên gia và giáo dục bổ sung.
Переподготовка преподавателей начального и среднего профессионального образования
Повышение Квалификации по программе «Защита государственной тайны»
Курсы повышения квалификации и переподготовки по направлению «Строительство»
Центр менеджмента, инвестиций и производственного контроля (Центр МИПК) | 1 | null |
Mori Takaji (24 tháng 11 năm 1943 – 17 tháng 7 năm 2011) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Mori Takaji thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 1966 đến 1976.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||56||2 | 1 | null |
Rupert Neudeck (sinh ngày 14.5.1939 tại thành phố tự do Danzig (ngày nay là Gdańsk, Ba Lan, mất 31.5.2016) là nhà báo và người theo chủ nghĩa nhân đạo người Đức, nổi tiếng về việc làm nhân đạo, cứu vớt hàng chục ngàn thuyền nhân Việt Nam trên Biển Đông năm 1979 bằng tàu Cap Anamur. Ông là người sáng lập Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V. ("Ủy ban Cap Anamur/Bác sĩ cấp cứu Đức") và là chủ tịch tổ chức Grünhelme ("Mũ bảo hiểm xanh lá cây").
Cuộc đời và Sự nghiệp.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, gia đình ông bị trục xuất về Đức. Ông lớn lên và học tập ở Tây Đức. Năm 1958, sau khi tốt nghiệp bậc trung học, ông học ngôn ngữ và văn minh Đức, triết học, xã hội học và thần học Công giáo. Năm 1961 ông ngưng học để gia nhập Dòng Tên, nhưng vài năm sau ông bỏ dòng tu và trở lại con đường học vấn. Năm 1972, ông đậu bằng tiến sĩ triết học với bản luận án "Politische Ethik bei Jean-Paul Sartre und Albert Camus" (Đạo đức chính trị của Jean-Paul Sartre và Albert Camus).
Ông bắt đầu làm ký giả cho đài phát thanh Công giáo ở Köln, và đến năm 1976 làm nhà báo tự do. Năm 1977, ông làm biên tập viên chính trị cho đài phát thanh Deutschlandfunk.
Cứu trợ người Việt tỵ nạn.
Năm 1979 Rupert Neudeck cùng vợ và nhà văn Heinrich Böll, người đoạt giải Nobel Văn chương năm 1972, đã cùng một số thân hữu đứng ra lập Ủy ban "Ein Schiff für Vietnam" ("Một con tàu cho Việt Nam") và thuê tàu "Cap Anamur" ra khơi ngoài Biển Đông cứu vớt thuyền nhân Việt Nam đang trên đường vượt biển tỵ nạn. Cùng năm đó tổ chức Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e. V. ra đời để điều hành hoạt động cứu nạn của con tàu "Cap Anamur". Tổ chức này đã vớt tổng cộng 10.375 thuyền nhân Việt Nam trên 226 chiếc thuyền và đưa họ sang Đức định cư. Cho tới năm 1998, Neudeck là thành viên Ban điều hành tổ chức Cap Anamur, rồi làm phát ngôn viên của tổ chức này. Ông đã xuất hiện trong cuốn "Paris by Night 77" - đánh dấu 30 năm sau khi Sài Gòn thất thủ - để nói về vai trò cứu nạn của Cap Anamur và người tỵ nạn Việt Nam.
Quan điểm về Israel và Palestine.
Từ năm 2002 Neudeck đã nhiều lần tới Israel và lãnh thổ Palestine để tìm hiểu bức tường chia cắt do Israel đơn phương dựng lên hầu củng cố việc kiểm soát lãnh thổ chiếm đóng, cùng tình trạng cuộc sống của người Palestine ở Bờ Tây. Năm 2005 ông cho xuất bản cuốn "Ich will nicht mehr schweigen. Recht und Gerechtigkeit in Palästina" ("Tôi sẽ không im lặng nữa. Luật pháp và Công lý ở Palestine") nhằm bênh vực những người Palestine. Tác phẩm đó bị Hội hữu nghị Đức-Israel chỉ trích dữ dội.
Tháng 6 năm 2010 Neudeck chỉ trích chính sách cấp giấy phép xây cất của Israel, và lệnh phá hủy một số gia cư của người Palestine ở Bờ Tây vì chính quyền Israel cho là bất hợp pháp. Bất bình với Neudeck, Israel đe dọa phá bỏ trung tâm tập nghề của Tổ chức Grünhelme eV giữa Bethlehem và Hebron. Theo Neudeck thì dân Palestine trong khu vực này (vùng C, gồm khoảng 60% khu vực Bờ Tây) ít khi được giấy phép xây cất nhà ở, trong khi người Israel nhập cư thì nhà xây ngày càng nhiều.
Hoạt động nhân quyền.
Tháng 4 năm 2003 Rupert Neudeck là người đồng sáng lập tổ chức hòa bình quốc tế Grünhelme eV ("Mũ bảo hiểm xanh lá cây") nhằm giúp tái thiết trường học và nhà cửa đã bị hủy hoại vì chiến tranh ở Iraq, Afghanistan v.v..
Rupert Neudeck công khai ủng hộ việc tự do biểu tình phản kháng, thay vì sợ hãi.
Đời tư.
Năm 1970 ông kết hôn với Christel Neudeck. Họ có hai con gái và một con trai. | 1 | null |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản thi đấu cho câu lạc bộ Nhật Bản Roasso Kumamoto. Anh ra mắt quốc tế cho Nhật Bản vào ngày 20 tháng 8 năm 2008 trong trận giao hữu trước Uruguay tại Sapporo Dome.
Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ.
"Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2017". | 1 | null |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản hiện tại thi đấu cho câu lạc bộ Nhật Bản Tokyo Verdy.
Sự nghiệp quốc tế.
Anh tham dự Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 2003 ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia năm 2004. Anh ra mắt quốc tế vào ngày 2 tháng 9 năm 2010 trong trận giao hữu trước Guatemala. Anh cũng được lựa chọn vào đội hình tham gia vòng chung kết Cúp bóng đá châu Á 2011 khi thay thế cho cầu thủ chấn thương Tomoaki Makino.
Thống kê sự nghiệp.
Câu lạc bộ.
"Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2018".
1 | 1 | null |
Không gian bốn chiều hay không gian 4D là một phần mở rộng toán học của khái niệm không gian ba chiều. Không gian ba chiều là sự tổng quát đơn giản nhất có thể của quan sát rằng chỉ cần ba số, gọi là kích thước, để mô tả kích thước hoặc vị trí của các vật trong thế giới hàng ngày. Ví dụ, khối lượng của một hình hộp chữ nhật được tìm bằng cách đo và nhân chiều dài, chiều rộng và chiều cao của nó (, , và ).
Ý tưởng thêm một chiều thứ tư bắt đầu với Joseph Louis Lagrange vào giữa những năm 1700 và đạt được kết quả chính xác của khái niệm này vào năm 1854 bởi Bernhard Riemann. Năm 1880, Charles Howard Hinton phổ biến những hiểu biết sâu sắc này trong một bài luận có tiêu đề "Chiều không gian thứ tư là gì?" (""), nó giải thích khái niệm về một khối lập phương bốn chiều với sự tổng quát từng bước về tính chất của các đường nét, hình vuông và hình khối. Hình thức đơn giản nhất của phương pháp của Hinton là vẽ hai khối bình thường cách nhau bởi một khoảng cách "không nhìn thấy", và sau đó vẽ đường giữa các đỉnh tương đương của chúng. Điều này có thể được nhìn thấy trong hình ảnh đi kèm, bất cứ khi nào nó cho thấy một khối bên trong nhỏ hơn bên trong một khối lập phương lớn hơn. Tám đường kết nối các đỉnh của hai khối trong trường hợp đó đại diện cho một hướng duy nhất trong không gian "thứ tư" không nhìn thấy.
Không gian đa chiều đã trở thành một trong những cơ sở để thể hiện chính xác về toán học và vật lý. Phần lớn các chủ đề này không thể tồn tại trong các hình thức hiện tại mà không sử dụng các không gian như vậy. Khái niệm không–thời gian của Albert Einstein sử dụng không gian 4D như vậy, mặc dù nó có cấu trúc Minkowski hơi phức tạp hơn không gian Euclid 4D.
Lịch sử.
Lagrange đã viết trong cuốn "Mécanique analytique" của mình (xuất bản năm 1788, dựa trên công trình được thực hiện vào khoảng năm 1755) rằng cơ học có thể được xem như hoạt động trong không gian bốn chiều—ba chiều không gian và một chiều thời gian. Vào năm 1827, Möbius nhận ra rằng chiều thứ tư sẽ cho phép một hình thức ba chiều xoay trên hình ảnh phản chiếu của nó, và đến năm 1853, Ludwig Schläfli đã phát hiện ra nhiều polytope ở các chiều cao hơn, mặc dù công trình của Schlafli mãi mới được xuất bản sau cái chết của ông. Các không gian chiều cao hơn sớm được đặt chỗ vững chắc bởi luận án năm 1854 của Bernhard Riemann, "Über die Hypothesen Welche der Geometrie zu Grunde liegen", trong đó ông coi một "điểm" là bất kỳ chuỗi tọa độ nào (, ..., ). Do đó, khả năng của hình học với các chiều cao hơn, bao gồm cả bốn chiều, được hình thành.
Một hình thức số học của bốn chiều được gọi là quaternion được William Rowan Hamilton xác định vào năm 1843. Đại số kết hợp này là nguồn gốc của khoa học phân tích vectơ trong ba chiều như được kể lại trong "Lịch sử phân tích vectơ" ("A History of Vector Analysis"). Ngay sau khi tessarine và coquaternion được giới thiệu dưới dạng các đại số bốn chiều khác trên R.
Một trong những người đầu tiên khai thác chiều thứ tư là Charles Howard Hinton, bắt đầu từ năm 1880 với bài luận của ông "Chiều không gian thứ tư là gì?" ("What is the Fourth Dimension?"); được xuất bản trên tạp chí Đại học Dublin. Ông đã đặt ra các thuật ngữ "tesseract", "ana" và "kata" trong cuốn sách "A New Era of Thought", và giới thiệu một phương pháp để hình dung chiều thứ tư bằng cách sử dụng các hình khối trong cuốn sách "Fourth Dimension".
Ý tưởng của Hinton đã truyền cảm hứng cho một câu chuyện tưởng tượng về "nhà thờ có chiều không gian thứ tư" ("Church of the Fourth Dimension") được Martin Gardner giới thiệu trong chuyên mục "Trò chơi toán học" tháng 1 năm 1962 trên tạp chí "Scientific American". Năm 1886, Victor Schlegel đã mô tả phương pháp hình dung các vật thể bốn chiều của mình bằng sơ đồ Schlegel. | 1 | null |
Quận ("Gu") của Seoul gồm 25 "gu" ("quận"; 구; ) bao gồm Seoul, Hàn Quốc. "Gu" thay đổi rất nhiều về diện tích (từ 10 đến 47 km²) và dân số (từ ít hơn 140.000 đến 630.000). Tính đến cuối tháng 5 năm 2022, Seoul có 25 quận (gu) tự trị và 426 phường (dong) hành chính. Songpa đông dân nhất, trong khi Seocho có diện tích rộng nhất. Gu tương tự như quận của London hoặc New York hoặc 23 quận đặc biệt của Tokyo, và chính phủ của một gu xử lý nhiều vấn đề khác nhau bởi chính quyền thành phố. Mỗi gu có hội đồng pháp luật, thị trưởng và thành phố kết nghĩa. ↵Mỗi "gu" được chia thành "dong" hoặc khu phố. Một vài "gu" chỉ có một vài "dong" trong khi những vùng khác (như Jongno-gu) có một số lượng lớn các khu phố riêng biệt.
Đơn vị hành chính.
Chú thích đơn vị | 1 | null |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản hiện tại thi đấu cho F.C. Tokyo.
Sự nghiệp quốc tế.
Anh ra mắt quốc tế cho Nhật Bản ngày 6 tháng 1 năm 2010 trong trận đấu vòng loại ở Cúp bóng đá châu Á 2011 trước Yemen.
Ngày 7 tháng 5 năm 2015, huấn luyện viên Nhật Bản Vahid Halilhodžić triệu tập anh vào trại huấn luyện hai ngày. Ngày 23 tháng 7 năm 2015, he was called again for the upcoming Cúp bóng đá Đông Á 2015.
Thống kê sự nghiệp.
Câu lạc bộ.
"Cập nhật đến ngày 20 tháng 2 năm 2018". | 1 | null |
Giải sách thiếu nhi Bắc Âu (tiếng Đan Mạch: "Nordisk Børnebogspris") tên đầy đủ là Giải sách thiếu nhi của Hội nhân viên thư viện trường học Bắc Âu ("Nordisk Skolebibliotekarforenings Børnebogspris") là giải thưởng văn học dành cho sách thiếu nhi được bầu chọn là hay nhất.
Giải này được "Hiệp hội nhân viên thư viện trường học Bắc Âu" ("Nordisk Skolebibliotekarforening") thiết lập năm 1985. Những tác giả đoạt giải được trao tặng một bằng chứng nhận và một khoản tiền thưởng. | 1 | null |
là một cựu cầu thủ bóng đá Nhật Bản. Anh từng thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Hato sinh ở Minamiawaji. Sau khi tốt nghiệp trung học, anh gia nhập Yokohama Flügels năm 1995. Anh chủ yếu đá ở vị trí tiền vệ phải. Vào năm 1998, câu lạc bộ vô địch Cúp Hoàng đế 1998. Sau khi câu lạc bộ giải thể cuối mùa 1998 do áp lực tài chính, anh chuyển tới Yokohama F. Marinos và chơi ở vị trí hậu vệ phải hoặc trung vệ. Đội bóng vô địch J.League Cup 2001 và J.League Division 1 2003. Anh chuyển tới Kashiwa Reysol vào năm 2004. Tuy nhiện đội phải xuống chơi ở J2 League vào năm 2005 nên anh chuyển sang Omiya Ardija năm 2006. Anh trở lại Yokohama F. Marinos năm 2010. Anh giải nghệ cuối mùa 2011.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||15||0 | 1 | null |
Yuguchi Eizo (4 tháng 7 năm 1945 - 2 tháng 2 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Yuguchi Eizo thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 1969 đến 1970.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||5||1 | 1 | null |
là một cựu cầu thủ bóng đá người Nhật Bản, từng thi đấu cho đội tuyển Nhật Bản.
Sự nghiệp cầu thủ.
Câu lạc bộ.
Sau khi tốt nghiệp đại học Waseda, Nishino gia nhập Hitachi năm 1978. đội đã giành vị trí thứ 2 tại Cúp JSL 1980 và Japan Soccer League 1982. Nishino giải nghiệp cầu thủ năm 1990.
Đội tuyển quốc gia.
Tháng 3 năm 1977, khi còn là sinh viên, Nishino đã được lựa chọn vào tuyển Nhật Bản để tham dự vòng loại World Cup 1978. Ở vòng loại này vào ngày 6 tháng 3, Nishino có trận đấu đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia gặp Israel. Nishino thi đấu 12 trận và ghi 1 bàn cho Nhật Bản cho đến năm 1978.
Sự nghiệp huấn luyện viên.
Tại Nhật Bản.
Sau khi giải nghệ năm 1990, Nishino trở thành huấn luyện viên cho Hitachi (sau này là Kashiwa Reysol). Từ năm 1991, ông huấn luyện đội tuyển U-20 và U-23 Nhật Bản. Tại vòng loại Thế vận hội Mùa hè 1996, Nhật Bản vượt qua vòng loại lần đầu tiên sau 28 năm kể từ Thế vận hội Mùa hè 1968, nơi Nhật Bản giành được Huy chương Đồng. Tại Olympic 1996, dù thắng 2 trận nhưng Nhật Bản không qua vòng bảng. Tại thời điểm đó, Nhật Bản đánh bại Brazil trong trận đầu tiên, sau đó truyền thông Nhật Bản gọi đó là "Phép màu Miami" (マ イ ア ミ の 奇跡).
Năm 1997, Nishino trở lại Kashiwa Reysol, Năm 1998, ông trở thành quản lý. Năm 1999, ông dẫn dắt đội giành danh hiệu J.League. Năm 2000, đội giành được vị trí thứ 3 tại J.League 1 trong 2 năm liên tiếp và ông nhận được giải thưởng huấn luyện viên xuất sắc nhất. Tuy nhiên, ông đã bị sa thải vào tháng 7 năm 2001. Năm 2002, ông ký hợp đồng với Gamba Osaka. Năm 2005, đội vô địch J.League Division 1 lần đầu tiên trong lịch sử và ông nhận giải thưởng huấn luyện viên xuất sắc nhất. Năm 2008, đội vô địch AFC Champions League và vị trí thứ 3 tại FIFA Club World Cup. Ông cũng được bầu chọn là Huấn luyện viên xuất sắc năm của AFC, đội cũng đã giành được 2 danh hiệu J.League 2007, 2008 và Cúp Thiên Hoàng 2009. Ông từ chức vào năm 2011. Vào tháng 5 năm 2012, ông ký hợp đồng với Vissel Kobe với tư cách là người kế nhiệm Masahiro Wada. Tuy nhiên, ông đã bị sa thải vào tháng 11. Năm 2014, ông ký hợp đồng với Nagoya Grampus và huấn luyện đội cho đến năm 2015.
Vào tháng 3 năm 2016, Nishino trở lại Hiệp hội bóng đá Nhật Bản làm giám đốc kỹ thuật. Vào tháng 4 năm 2018, huấn luyện viên Vahid Halilhodžić bị sa thải và Nishino được chỉ định làm huấn luyện viên mới. Một thách thức lớn đối với Nishino là thiếu thời gian chuẩn bị, đồng thời bị nghi ngờ vì thiếu kinh nghiệm huấn luyện. Tuy nhiên, tại World Cup 2018, ông đã ghi vào lịch sử khi giúp Nhật Bản đánh bại Colombia với tỷ số 2-1, trận thua đầu tiên của một đội CONMEBOL trước một đội bóng châu Á. Chiến thuật xuất sắc của ông tiếp tục được thể hiện khi Nhật Bản cầm hòa Senegal với tỷ số 2-2, sau đó Nhật Bản thua Ba Lan 0-1 trong trận đấu cuối cùng vòng bảng, nhưng do nhận ít thẻ vàng hơn Senegal nên đi tiếp, trở thành đội châu Á duy nhất làm được điều này. Tuy nhiên, Nhật Bản dừng bước ở vòng 16 đội khi thua Bỉ 2-3 dù đã dẫn trước 2–0. Nishino từ chức khi hết nhiệm kỳ vào cuối tháng 7.
Đội tuyển quốc gia và U-23 Thái Lan.
Nishino đồng ý tiếp quản đội tuyển quốc gia và U-23 Thái Lan vào ngày 17 tháng 7 năm 2019, trở thành người châu Á đầu tiên huấn luyện Thái Lan. Tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019, đội U-22 Thái Lan trở thành cựu vương khi chỉ xếp thứ 3 vòng bảng bóng đá nam; tại U23 châu Á 2020, ông giúp U-23 Thái Lan lọt vào tứ kết, còn tại vòng loại thứ 2 World Cup 2022 khu vực châu Á, đội tuyển Thái Lan chỉ xếp thứ 4 bảng G với thành tích thắng 2, hòa 3 và thua 3.Hiện tại, hợp đồng của FAT với chiến lược gia người Nhật Bản chỉ còn thời hạn tới tháng 1/2022, tuy nhiên vào hôm 29/7/2021, Liên đoàn Bóng đá Thái Lan (FAT) quyết định sa thải Akira Nishino, lý do là nhà cầm quân người Nhật Bản không hoàn thành mục tiêu ở vòng loại thứ hai World Cup 2022 cùng chuỗi thành tích không tốt ở hàng loạt giải đấu khu vực, FAT sẽ phải chi tiền đền bù khi thanh lý sớm 6 tháng hợp đồng 16,5 triệu baht (khoảng 11,5 tỉ đồng).Sau một thời gian im lặng, cựu HLV trưởng Thái Lan Akira Nishino đã lên tiếng xin lỗi người hâm mộ Thái Lan cũng như giải thích lý do thất bại của đội bóng xứ Chùa vàng ở vòng loại World Cup 2022.
Danh hiệu.
Huấn luyện viên.
Kashiwa Reysol
Gamba Osaka
Cá nhân.
Cầu thủ
Huấn luyện viên | 1 | null |
, là một dòng dōjin soft sound novel giết người bí ẩn sản xuất bởi 07th Expansion. Trò chơi được xây dựng trên game engine NScripter và có thể chơi được trên hệ điều hành Windows. Tựa đầu tiên trong dòng game này, "Onikakushi-hen", phát hành ngày 10 tháng 8 năm 2002, còn tựa thứ tám và cũng là cuối cùng trong xê-ri gốc trên PC, "Matsuribayashi-hen", ra mắt ngày 13 tháng 8 năm 2006. Trong khi bốn trò chơi đầu tiên mang tựa đề chung là "Higurashi no Naku Koro ni", bốn trò chơi tiếp theo sản xuất dưới tên "Higurashi no Naku Koro ni Kai". Một fan disc phụ thêm gọi là "Higurashi no Naku Koro ni Rei" phát hành ngày 31 tháng 12 năm 2006. Ngoài kịch bản trong nguyên tác, những tiểu phần được sáng tác cho hình thức manga và video game ở hệ máy PlayStation 2 và Nintendo DS để mở rộng cốt truyện. Tám tựa game trong PC nguyên tác được bản địa hóa tiếng Anh bởi MangaGamer và phát hành từ năm 2009 đến năm 2010. Tác phẩm tập trung vào một nhóm bạn trẻ và những sự kiện kỳ lạ xảy ra ở ngôi làng Hinamizawa, nơi họ đang sống. Theo nhà văn của tác phẩm là Ryukishi07, màu đỏ máu của từ Na (な) là điểm nhấn chính trong tựa đề.
Hai bộ drama CD đã được sản xuất, một bởi hãng Wayuta và bộ kia bởi Frontier Works. Phiên bản tiểu thuyết hóa do Kodansha Box phát hành từ tháng 8 năm 2007 đến tháng 3 năm 2009. Một loạt manga chuyển thể từ trò chơi do tám họa sĩ khác nhau minh họa ở từng phần kịch bản được xuất bản bởi Square Enix và Kadokawa Shoten. Manga được mua bản quyền phát hành bản tiếng Anh ở Bắc Mỹ bởi Yen Press dưới nhan đề "Higurashi When They Cry" và tập đầu tiên phát hành vào tháng 11 năm 2008. Tiếp sau sự ra mắt của manga ở Nhật Bản, hai phần anime truyền hình do Studio Deen sản xuất đã lên sóng vào các năm 2006 và 2007; chuyển thể anime thứ ba phát hành dưới dạng xê-ri OVA vào năm 2009. Geneon Entertainment mua bản quyền phần anime đầu tiên và phân phối bằng tiếng Anh, nhưng giấy phép đã mãn hạn vào năm 2011. Một chuyển thể phim live-action (người thật thủ vai) của tác phẩm do Oikawa Ataru làm đạo diễn đã công chiếu tại các rạp ở Nhật Bản vào tháng 5 năm 2008, với phần tiếp theo ra mắt tháng 5 năm 2009.
Cách chơi.
"Higurashi no Naku Koro ni" là một "sound novel" giết người bí ẩn hàng loạt của 07th Expansion. Sound novelly cũng giống như visual novel nhưng không yêu cầu game thủ phải tương tác nhiều, họ chỉ cần đọc những dòng đối thoại của hai hay nhiều nhân vật trong những màn chơi khác nhau. Bản gốc ban đầu của "Higurashi" cũng không có lồng tiếng cho các nhân vật, sự thành công của nó là dựa vào bầu không khí của từng hoàn cảnh nhờ sự trợ giúp của âm nhạc, hiệu ứng âm thanh và cốt truyện.
Trò chơi có những đoạn dừng giữa các câu thoại và dẫn truyện giúp cung cấp cho người chơi một số thông tin về nhân vật, hoàn cảnh cũng như những chuyện có thể có ích cho việc giải đáp bí ẩn. Ví dụ có những câu dẫn truyện bình thường như "this is a small village; children who go to this school are combined into one classroom regardless of what grade or year they are in." và những câu gợi ý có giá trị chẳng hạn như các đoạn trích của một bài báo có liên quan tới những vụ giết người ở Hinamizawa. Mỗi tiểu phần được bắt đầu bằng một bài thơ khó hiểu của một người nào đó tên là Frederica Bernkastel, thường thì bài thơ này sẽ tiết lộ những gì xảy ra tiếp theo trong phần đó.
Điểm khác biệt lớn nhất của phiên bản cho máy PlayStation 2 là "Matsuri" so với bản gốc ở chỗ nhân vật được lồng tiếng và vẽ lại bằng CG. "Higurashi Matsuri" bao gồm các phần của bản gốc đầu tiên (bảy phần trừ " Matsuribayashi-hen ") và thêm ba phần là " Taraimawashi-hen", " Tsukiotoshi-hen " và " Miotsukushi-hen". Sau khi bảy phần đầu được hoàn thành, hai phần kết " Taraimawashi-hen " và " Tsukiotoshi-hen " sẽ xuất hiện. Nếu cả hai phần này cũng được hoàn thành thì hồi kết " Miotsukushi-hen" được mở khóa. Phiên bản cho máy Nintendo DS là " Kizuna " bao gồm hầu hết các CG từ Matsuri, cũng như bổ sung thêm những cái mới, cấu tạo các phần cũng tương tự như " Matsuri " và phần lồng tiếng được cải thiện.
Nhân vật.
Trong "Higurashi no Naku koro ni" có sáu nhân vật chính xuất hiện hầu hết trong các phần. Nhân vật chính đầu tiên là Maebara Keiichi, một chàng trai trẻ mới chuyển đến Hinamizawa cùng với gia đình và bắt đầu thích nghi với cuộc sống nơi đây, sự lanh lợi và tài năng đã làm cho cậu dễ dàng có bạn mới và trở nên nổi tiếng trong làng. Hinamizawa là một ngôi làng nhỏ với hai ngàn người và chỉ có một trường học duy nhất, không có bạn cùng tuổi buộc cậu phải kết bạn với những người khác tuổi với mình.
Một trong những người bạn tốt của cậu là cô gái Ryugu Rena, cũng là một người mới giống như Keichi, cô mới chuyển về từ Ibaraki khoản một năm trước khi câu chuyện bắt đầu. Cô có một sở thích kỳ lạ là sưu tầm những thứ mà cô cảm thấy dễ thương - thường thì những thứ này không được xem là dễ thương đối với người khác. Trước khi gặp Keiichi, Rena đã kết bạn với một cô gái lớn tuổi hơn là Sonozaki Mion. Mion được coi như là lớp trưởng cũng như chủ tịch câu lạc bộ sau giờ học của họ, cô có tính cách khá giống con trai và thường tự gọi mình là oji-san (ông già). Mion có một người em sinh đôi là Shion sống tại thị trấn Okinomiya gần đó. Họ có tính cách khá là khác nhau nhưng trong quá khứ họ đã hoán đổi vị trí cho nhau và sự hoán đổi này gần như không thể phân biệt được. Đây vẫn là một bí ẩn.
Trong câu lạc bộ của họ còn có hai cô gái khác nhỏ tuổi hơn là Hojo Satoko, một cô bé láu lỉnh thích dựng lên những cái bẫy để chọc phá bạn bè của cô ta, tuy vẻ ngoài là một cô bé năng động có tính cách tinh nghịch nhưng bên trong Satoko chứa đầy những vết thương về tâm lý từ quá khứ; người còn lại là bạn thân của Satoko, Furude Rika là người thừa kế của nhà Furude, tuy còn nhỏ tuổi nhưng được mọi người trong làng tôn kính vì là một miko của đền thờ cũng như trong lễ hội Watanagashi hàng năm, thỉnh thoảng cô có những biểu hiện già dặn vượt quá tuổi thật của mình - cô là nhân vật khá quan trọng quyết định Hinamizawa có thể có hoặc không có kết cục bi thảm.
Một số những nhân vật phụ còn lại cũng thường hay xuất hiện là Ooishi Kuraudo, một sĩ quan cảnh sát điều tra tại Okinomiya, người đã thề sẽ làm sáng tỏ toàn bộ bí ẩn những vụ án tại Hinamizawa trước khi nghỉ hưu để trả thù cho một trong những nạn nhân là bạn của ông. Tomitake Jirou là một nhiếp ảnh gia tự do thường ghé thăm Hinamizawa và dường như anh là bạn của Takano Miyo, một nữ y tá địa phương có hứng thú với văn hóa và lịch sử của làng Hinamizawa. Cô làm việc cùng với Irie Kyosuke, bác sĩ trưởng của bệnh viện địa phương cũng như "huấn luyện viên" cho bọn trẻ trong làng. Irie rất quan tâm tới Satoko. Trong "Tatarigoroshi-hen", Irie bày tỏ mong muốn chờ đợi Satoko đủ tuổi trưởng thành để kết hôn với anh ta.
Các chuyển thể.
Anime.
"Higurashi no Naku Koro ni" đã được chuyển thể thành nhiều phần anime khác nhau. Phần anime đầu tiên do Studio Deen, Frontier Works, Geneon Entertainment và Sotsu sản xuất, với Kon Chiaki làm đạo diễn, Kawase Toshifumi soạn kịch bản, Sakai Kyūta thiết kế nhân vật và Kawai Kenji soạn phần nhạc. Được phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 4 tháng 4 đến ngày 26 tháng 9 năm 2006 với 26 tập phim. Tất cả diễn viên lồng tiếng từ phiên bản drama CD trở lại lồng tiếng nhân vật tương ứng. Anime đã được phát hành dưới dạng đĩa DVD tại Nhật Bản, Pháp và Bắc Mĩ kể từ năm 2007. Tại Nhật Bản, những người mua chín tập DVD đầu tiên của anime có cơ hội nhận một tập DVD đặc biệt có tên là "Higurashi no Naku Koro ni Gaiden Nekogoroshi-hen".
Một phần anime nối tiếp được sản xuất bởi dàn nhân sự cũ mang tên , được phát sóng từ ngày 6 tháng 7 đến ngày 17 tháng 9 năm 2007 với 24 tập. Sentai Filmworks đã cấp phép công chiếu anime tại khu vực Bắc Mĩ. Do trùng thời điểm với một vụ án cô gái mười sáu tuổi sát hại cha bằng rìu xảy ra vào tháng 9 năm 2007 tại Nhật Bản, tập mới nhất của "Higurashi no Naku Koro ni Kai" đã phải dừng phát sóng do nghi vấn về những chủ đề bạo lực trong phim. Tuy nhiên, AT-X, TV Saitama và Sun TV thông báo anime vẫn tiếp tục được phát sóng trở lại, với phần mở đầu phim được chỉnh sửa lại cho phù hợp.
Một phần OVA của "Higurashi" có tên là đã được phát hành từ tháng 2 năm 2009. OVA do Kawase Toshifumi đạo diễn và biên kịch, với Kuroda Kazuya phụ trách thiết kế nhân vật. Để kỉ niệm mười năm phát hành visual novel gốc, Frontier Works đã sản xuất một phần OVA khác tên là vào tháng 3 năm 2011. OVA này do Tachibana Hideki đạo diễn và Kawase hỗ trợ phần kịch bản, với Abe Tomoyuki phụ trách thiết kế nhân vật và Kikuya Tomoki soạn phần nhạc. Một phần phim OVA dài tên được phát hành vào tháng 3 năm 2013.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 2019, 07th Expansion và Kadokawa thông báo một dự án anime mới tên do Passione sản xuất. Kawaguchi Keiichiro đảm nhiệm vai trò đạo diễn, Hayashi Naoki biên soạn kịch bản, Watanabe Akio thiết kế nhân vật và Kawai Kenji soạn phần nhạc. Dàn diễn viên lồng tiếng cũ từ các phần anime trước quay lại đảm nhiệm các nhân vật tương ứng. Anime được dự kiến phát sóng vào tháng 7 năm 2020 nhưng bị trì hoãn và dời đến ngày 1 tháng 10 năm 2020 do ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19. Anime kết thúc vào ngày 18 tháng 3 năm 2021 với 24 tập phim. Funimation cấp phép công chiếu anime trực tuyến tại khu vực Bắc Mĩ, còn AnimeLab có bản quyền công chiếu anime tại Úc và New Zealand. Tại Đông Nam và Đông Nam Á, Medialink cấp bản quyền phát sóng anime miễn phí trên kênh YouTube Ani-One.
Một phần anime hậu truyện nối tiếp tên là được phát sóng kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2021. Funimation cấp phép công chiếu anime tại Bắc Mĩ. Tại hai khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Medialink đã cấp bản quyền phát sóng trên kênh YouTube Ani-One. | 1 | null |
Nguyễn Đôn (1918 – 2016), tên thật là Nguyễn Khâm, là một tướng lĩnh, quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tư lệnh đầu tiên Quân khu 4, Bí thư Đảng ủy kiêm Chính ủy và Tư lệnh Quân khu 5, nguyên Chính trị viên đội du kích Ba Tơ.
Thân thế.
Nguyễn Đôn sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, thuộc xã Tịnh Bình, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Sự nghiệp.
Ông tham gia Cách mạng từ năm 18 tuổi, tháng 8/1938, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và hoạt động trong nhóm Đông Dương Cộng sản liên đoàn, rồi được bầu Bí thư chi bộ tại địa phương.
Cuối năm 1939 ông bị thực dân Pháp bắt giam và kết án 2 năm tù khổ sai, hết hạn tù ông bị đưa đi an trí ở Ba Tơ, tham gia tổ chức Ủy ban Cứu quốc Quảng Ngãi và thành lập Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Ngãi.
- Tháng 3/1945, ông tham gia lãnh đạo Khởi nghĩa Ba Tơ, thành lập chính quyền cách mạng và tổ chức chỉ huy, lãnh đạo Đội Du kích Ba Tơ với chức vụ Chính ủy. Đồng thời tham gia công tác in tài liệu cho Đảng bằng cách qua mắt địch, sắm chiếc thuyền con trên sông Liên, tự mày mò in hàng trăm trang tài liệu tuyên truyền cách mạng. Ông từng lặn lội lên núi Cao Muôn cắt máu ăn thề với già làng người dân tộc thiểu số, thuyết phục đồng bào nơi đây ủng hộ Việt Minh, xây dựng Ba Tơ thành khu căn cứ của đội du kích và là phên dậu vững vàng phía tây Quảng Ngãi.
- Tháng 8/1945: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, tham gia lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Quảng Ngãi;
- Tháng 9/1945: Ủy viên Thường vụ, Phó Chỉ huy Ban Quân chính Nam phần Trung bộ, lãnh đạo kháng chiến chống Pháp ở bảy tỉnh từ Phú Yên đến Bình Thuận;
- 1946 - 1948: Chính trị viên Chi đội 2 Quảng Ngãi; Chính trị viên Trung đoàn 94 và 68; Trưởng phòng Tổ chức và Kiểm tra Khu 5, kiêm Chính trị viên Ban Quân giới Khu 5; tham mưu trưởng Liên khu V (1949 - 1954).
- 1950: Chính ủy Trung đoàn 210 (sau là Trung đoàn 108), tham gia chỉ huy Mặt trận Quảng Nam; Chính ủy kiêm Chỉ huy trưởng Mặt trận Nam Tây Nguyên;
- 1951 - 1954: Tham mưu trưởng, Phó Tư lệnh Liên khu 5, tham gia chỉ huy chiến dịch An Khê (1953), chiến dịch chống cuộc hành quân Atlăng (1-3/1954);
- Năm 1954: Sư đoàn trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn 324 đến 1956.
- Năm 1955 - 1960: Tư lệnh Quân khu 4;
- Năm 1960 - 1976: Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III
- Năm 1961 - 1967: Bí thư Liên khu 5, Tư lệnh Quân khu 5;
- Năm 1968 - 1972: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Quân đội (1971);
- Năm 1971 - 1975: Đại biểu Quốc hội khóa IV
- 1973 - 1977: Trưởng ban công tác miền Tây (CP-38);
- 1978 - 1982: Phó Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra Chính phủ;
- Năm 1992 - 1997: Đại biểu Quốc hội khóa IX
Khi về hưu, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam (1992 - 1997).
Năm 2016 ông từ trần tại nhà riêng, thành phố Đà Nẵng, hưởng thọ 98 tuổi. | 1 | null |
Cúp UEFA Intertoto là một giải cúp cho các câu lạc bộ bóng đá ở châu Âu thành lập năm 1961 nhưng chỉ trở thành giải đấu chính thức của UEFA từ năm 1995. Đây là cúp nằm ở vị trí thứ 4 trên hệ thống cúp câu lạc bộ của UEFA và ở vị trí thứ 3 kể từ năm 2000. Giải đã giải thể năm 2009 do ít được chú ý và suất tham dự sẽ được đổi thành UEFA Europa League
Tuy là cúp hạng 3 (hay 4) nhưng các câu lạc bộ tham dự không nhất thiết phải nằm ngay sau các đội đã dự cúp châu Âu ở giải quốc nội. Ví dụ như đội A đứng hạng 5 và tham dự cúp châu Âu thì đội B đứng hạng 6 không nhất thiết tham dự nếu họ không muốn mà suất có thể dành cho đội ở vị trí rớt hạng nếu các đội khác cũng không muốn.
Giải sẽ được chia theo bảng và các đội sẽ thi đấu vòng tròn 1 lượt để chọn ra đội vô địch của bảng. Tùy theo năm mà các đội vô địch có thể đấu tiếp vòng trong hoặc không.
Lịch sử.
Giải được sáng lập bởi Eric Persson (chủ tịch CLB Malmö), phó chủ tịch FIFA Ernst B. Thommen và HLV tuyển Áo Karl Rappan. Giải được tổ chức bởi tờ Sport của Thụy Sĩ và lấy tên là inter (quốc ngoại) và toto (bảng). Giải được giao lại cho UEFA năm 1995. Từ đó các suất phân bổ theo bảng xếp hạng của UEFA
Các đội vô địch.
2006–2008.
Danh sách bao gồm 11 đội nhất bảng. Đội có thành tích tốt nhất được bôi đậm
1995–2005.
"Kết quả thể hiện 3 đội thắng trận chung kết (có 3 trận chung kết) và đội thua
1967–94.
Các đội nhất bảng được xem là đội vô địch. Đội được tô đậm là đội có thành tích tốt nhất.
1961-67.
"Kết quả trận chung kết."
Pháp là quốc gia vô địch nhiều nhất kể từ khi giải thuộc UEFA trong khi Tiệp Khắc vô địch giải nhiều nhất, theo sau là Đức (không bao gồm Đông Đức) | 1 | null |
Hồ Tekapo ở Quận Mackenzie, Canterbury, Đảo Nam là hồ lớn thứ hai trong ba hồ nước chạy song song từ Bắc tới Nam dọc theo rìa phía bắc của lưu vực sông Mackenzie ở đảo Nam của New Zealand (những hồ khác là Hồ Pukaki và Ohau). Hồ này nằm ở độ cao 700 mét (2.300 ft) so với mực nước biển và có diện tích 83 km2 (32 sq mi). Tekapo mang vẻ đẹp tạo thành bởi những rặng núi tuyệt đẹp, hồ nước xanh màu ngọc lam và một nhà thờ nhỏ đẹp quyến rũ bên bờ hồ.
Hồ được cung cấp nước từ sông Godley có thượng nguồn ở phía Bắc của dãy núi Alpes Nam. Hồ nước này là một điểm du lịch phổ biến, một số khách sạn và khu nghỉ mát có mặt tại thị trấn Hồ Tekapo ở cuối phía nam của hồ. Các khu vực xung quanh tạo thành Công viên Hồ Tekapo được quản lý bởi cơ quan Môi trường của vùng Canterbury. Vào những tháng cuối năm, khung cảnh tại đây càng rực rỡ và quyến rũ bởi những sắc màu rực rỡ của loài hoa "Lupinus polyphyllus" khiến nó trở thành địa điểm hấp dẫn các nhiếp ảnh gia từ khắp nơi trên thế giới.
Một đài quan sát thiên văn đặt tại núi John ở phía bắc của thị trấn, và phía nam của một hồ nước nhỏ hơn gần đó có tên là Alexandrina.
Thủy điện.
Dòng chảy ban đầu của nó nằm ở cuối phía nam, đổ vào sông Tekapo. Tuy nhiên, vào năm 1938, người ta tiến hành xây dựng một nhà máy điện, dự kiến sẽ được hoàn thành vào năm 1943. Nhưng dự án bị tạm dừng bởi cuộc chiến tranh năm 1942. Đến năm 1944, việc xây dựng mới được tiếp tục, hoàn thành vào năm 1951 và nhà máy điện đó hiện nay được gọi là "Tekapo A".
Nước từ hồ được chuyển qua 1,4 km (4.600 ft) đường hầm của nhà máy để tạo ra điện, sau đó đổ trở lại vào dòng sông. Với sự phát triển của các công trình thủy điện Thượng Waitaki vào những năm 1970, nước được đưa qua 26 km (16 dặm) kênh dẫn để tới Tekapo B trên bờ Hồ Pukaki.
Vào năm 1986, một Tua-bin Cáp-lăng mới đã được lắp đặt giúp hoạt động có hiệu quả hơn và sản lượng cao hơn (42 000 HP) so với Tua-bin cũ. Ngày nay, các nhà máy điện sản xuất trung bình 160 GWh mỗi năm.
Trong năm 2008, hai trạm thủy điện Tekapo A và B đã được tân trang sau khi nâng cấp hai đập Benmore và Waitaki. | 1 | null |
là một hãng visual novel Nhật Bản thành lập vào năm 2000 bởi tiểu thuyết gia Nasu Kinoko và họa sĩ Takeuchi Takashi. Công ty cũng được biết đến dưới tên cho việc xuất bản và các hoạt động doanh nghiệp. Sau khi phát triển nên visual novel nổi tiếng "Tsukihime" như một circle dojin soft, Type-Moon chính thức trở thành một công ty phát triển game và tạo nên visual novel kinh điển "Fate/stay night". Cả hai tác phẩm trên đều được chuyển thể thành nhiều anime và manga, đem lại cho hãng một lượng lớn người hâm mộ trên toàn cầu. | 1 | null |
ViewSonic Corporation là một công ty điện tử đa quốc gia do tư nhân nắm giữ có trụ sở chính tại Brea, California, Hoa Kỳ và một trung tâm nghiên cứu và phát triển tại thành phố Tân Bắc, Đài Loan.
ViewSonic chuyên về phần cứng hiển thị hình ảnh — bao gồm màn hình tinh thể lỏng, Máy chiếu và bảng tương tác — cũng như phần mềm bảng trắng kỹ thuật số. Công ty cung cấp các giải pháp công nghệ tại ba thị trường chính: giáo dục, doanh nghiệp và giải trí.
Công ty có khoảng 1 tỷ USD doanh thu trên toàn thế giới mỗi năm. | 1 | null |
là một nam nhà văn người Nhật, được biến đến nhiều nhất nhờ sáng tác light novel "Kara no Kyōkai" và hai visual novel "Tsukihime" và "Fate/stay night". Ông là nhà đồng sáng lập hãng visual novel Type-Moon.
Tiểu sử.
Cùng với người bạn thân từ thời sơ trung, Takeuchi Takashi, Nasu Kinoko thành lập Type-Moon vào năm 2000, ban đầu là một nhóm dōjin đã phát triển nên visual novel "Tsukihime", mà đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng sau đó, phần nhiều bởi phong cách kể chuyện độc đáo của Nasu. Những nhà văn mà Nasu chịu ảnh hưởng bao gồm Kikuchi Hideyuki, Ayatsuji Yukito, Shimada Soji, Kyogoku Natsuhiko, Takemoto Kenji Ken Ishikawa, và Nightow Yasuhiro.
Sau sự thành công của "Tsukihime", Type-Moon trở thành một tổ chức thương mại. Phần tiếp theo của "Tsukihime", "Kagetsu Tohya", phát hành vào tháng 8 năm 2001. Ngày 28 tháng 1 năm 2004, Type-Moon cho ra mắt "Fate/stay night", cũng do Nasu chấp bút, là một quả bom tấn, trở thành một trong những visual novel kinh điển nhất vào thời gian đó và vẫn có sức ảnh hưởng mạnh mẽ suốt thời gian dài. Phần tiếp theo "Fate/stay night", "Fate/hollow ataraxia", phát hành vào ngày 28 tháng 10 năm 2005. Cả hai tác phẩm của Nasu ("Tsukihime" và "Fate/stay night") đều được chuyển thể thành nhiều loạt manga và anime. Năm 2011, visual novel thứ ba của Type-Moon do Nasu trực tiếp chỉ đạo sản xuất là "Mahoutsukai no Yoru" ra đời.
Tác phẩm.
Buổi đầu sự nghiệp, Nasu Kinoko đã sáng tác light novel "Kara no Kyōkai", phát hành vào năm 1998 và được tái bản vào năm 2004. Những tiểu thuyết tên tuổi khác của ông bao gồm "Angel Notes", "Mahōtsukai no Yoru" (mà được lấy ý tưởng để phát triển visual novel cùng tên sau này) và "Kōri no Hana". | 1 | null |
Dưới đây là danh sách các thác nước đáng chú ý ở New Zealand. Nhiều trong số chúng là những thác nước cao nhất ở New Zealand, nằm tại Vườn quốc gia Fiordland, trong khu vực Southland của Đảo Nam. Có những thác nước đổ vào các vịnh hẹp thuộc biển Tasman. Chẳng hạn như Chamberlain, Helena, Lady Alice đổ vào vịnh hẹp Doubtful Sound hay Bowen, Stirling đổ vào vịnh hẹp Milford Sound. | 1 | null |
là một họa sĩ người Nhật, nhà đồng sáng lập hãng phát triển visual novel và anime Type-Moon, nổi tiếng nhờ minh họa các visual novel kinh điển của công ty như "Tsukihime" và "Fate/stay night", cả hai tác phẩm sau đó đều được chuyển thể thành nhiều loạt manga và anime. Ông thường xuyên làm việc cùng với người đồng nghiệp và bạn thân từ thời sơ trung, nhà văn Nasu Kinoko. Năm 2008, Takeuchi, cùng với Nasu, đóng góp một phần kịch bản đặc biệt cho visual novel hệ Wii "" của Sega/Chunsoft, và sau này được chuyển thể thành anime "CANAAN". Takeuchi chịu ảnh hưởng từ Nightow Yasuhiro, Akai Takami, Tajima Shou, Togashi Yoshihiro, Ishikawa Ken, Kawajiri Yoshiaki, và Sadamoto Yoshiyuki. | 1 | null |
Người Israel (tiếng Hebrew: , ", dịch nghĩa: "con cái của Israel") là một dân tộc và sắc tộc người Semit ("Xê-mít") nói tiếng Hebrew tại vùng Cận Đông cổ đại, định cư tại vùng đất thuộc Canaan trong thời kỳ bộ lạc và quân chủ (từ thế kỷ 15 tới thế kỷ 6 TCN). Thuật ngữ Kinh thánh "người Israel" (phát âm như là: "Y-xơ-ra-ên" hay "Ít-xa-ren"), còn được gọi là "mười hai chi tộc" hoặc "con cái Israel"", mang cả hai nghĩa là hậu duệ trực tiếp của tổ phụ Jacob (Israel) cũng như là cư dân của Vương quốc Israel và Judah thống nhất. Trong giai đoạn hậu lưu đày bắt đầu từ thế kỷ 5 TCN, hai nhóm còn sót lại được biết đến của các chi tộc Israel dần được gọi là người Do Thái và người Samari, sinh sống trên các lãnh thổ tương ứng là Judea & Galilea và Samaria. | 1 | null |
HobbyJAPAN CO. là một tạp chí và nhà xuất bản Nhật Bản chuyên về các ấn phẩm phục vụ thị hiếu và sở thích, chủ yếu là trò chơi nhập vai, trò chơi chiến tranh và tabletop game, cũng như các action figure, đồ chơi và artbook nhượng quyền thương mại từ các anime, manga, light novel và visual novel/eroge nổi tiếng. | 1 | null |
là một nhà phê bình văn hóa người Nhật. Ông là giáo sư của trường Đại học Quốc tế Nhật Bản và Viện Công nghệ Tokyo.
Tiểu sử.
Sinh ra và lớn lên ở Mitaka, Tokyo, Azuma Hiroki nhận học vị Tiến sĩ (bằng "Đại diện văn hóa") của Đại học Tokyo vào năm 1999 và trở thành giáo sư tại Đại học Quốc tế Nhật Bản (IUJ) vào năm 2003. Ông là một nghiên cứu viên điều hành và giáo sư tại Trung tâm Truyền thông Toàn cầu (GLOCOM) của IUJ, và là một nghiên cứu viên ở Trung tâm Nhật Bản của Đại học Stanford. Từ năm 2006, ông làm việc tại Trung tâm nghiên cứu thế giới văn minh của Viện Công nghệ Tokyo.
Công việc.
Azuma Hiroki là một trong những nhà phê bình văn học trẻ tuổi có ảnh hưởng lớn tại Nhật Bản, chuyên về văn chương và các ý tưởng tự do cá nhân trong thời đại thông tin toàn cầu.
Azuma bắt đầu sự nghiệp của mình như một nhà phê bình văn học vào năm 1993 với một phong cách hậu hiện đại, chịu ảnh hưởng từ các nhà phê bình hàng đầu Nhật Bản là Karatani Kojin và Asada Akira. Ông là một thành viên của phong trào Murakami Takashi và Superflat. Công trình đầu tiên của ông là "Luận văn Solzhenitsyn" vào năm 1993. Azuma đã gửi luận văn này đến tận tay Karatani trong tiết giảng văn của ông ở trường Đại học Hosei, nơi Azuma là một kiểm toán viên. Cuối thập niên 1990, Azuma bắt đầu nghiên cứu về nhiều hiện tượng đại chúng khác nhau, đặc biệt là các tiểu văn hóa otaku/Internet/video game đang nổi lên, và được biết đến nhiều nhất như một người ủng hộ suy nghĩ của thế hệ trẻ Nhật Bản. Ông quan tâm đến việc chuyển dịch viễn tưởng văn học Nhật Bản vào sự "otaku hóa" ngày nay.
Azuma đã xuất bản bảy cuốn sách, trong đó có "Sonzaironteki, Yubinteki" vào năm 1998, tập trung vào dao động giữa văn học và triết học của Jacques Derrida. Tác phẩm này đã đoạt giải Văn học Suntory vào năm 2000 và giúp Azuma trở thành nhà văn trẻ nhất từng nhận giải thưởng này vào thời điểm đó. Asada Akira đã tuyên bố rằng đó là một trong những cuốn sách được viết hay nhất thập niên 90; tuy nhiên, Yamagata Hiroo chỉ ra rằng tác phẩm đã được viết trong sự hiểu lầm về định lý bất toàn của Godel. Azuma cũng viết "Dobutsuka-suru Postmodern", trong đó phân tích văn hóa đại chúng Nhật Bản qua một góc nhìn hậu hiện đại. | 1 | null |
là một chi nhánh bán lẻ của MOVIC và là nhà bán lẻ anime, game và manga lớn nhất Nhật Bản. Cửa hàng đầu tiên và cũng là trụ sở chính của Animate mở cửa vào năm 1983 ở Ikebukuro, một quận của Tokyo, Nhật Bản.
Cửa hàng bán lẻ.
Hiện nay có 117 cửa hàng của Animate trên toàn Nhật Bản, và hai cửa hàng ở Đài Loan (Đài Bắc và Đài Trung), một cửa hàng ở Hồng Kông, một cửa hàng ở Thái Lan.
Tiếp thị.
là linh vật đại diện của Animate, được gọi một cách trìu mến là . Anh được mô tả là một nhân vật anime hoang dại với mái tóc tua tủa bù xù và cơ bắp cuồn cuộn, khoác đồng phục của Animate, sẽ dùng các biện pháp cực đoan để quảng cáo hàng hóa của công ty. Một OVA dựa trên nhân vật này đã được sản xuất và phát hành bởi Gainax vào năm 2002. Một OVA khác ra mắt năm 2010. Một dự án anime có sự kết hợp cả Meito lẫn các nhân vật của "Touhou Project" được ufotable sản xuất và công chiếu ngày 20 tháng 11 năm 2010 tại Animate Ichioshi Bishojo Anime Matsuri để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 10 của linh vật Animate này. Meito cũng xuất hiện ngẫu nhiên trong một số sản phẩm truyền thông khác, chẳng hạn như bộ anime "Lucky Star" và các video game như "Disgaea 4" và "Katamari Damacy No-Vita". Meito được lồng tiếng bởi Seki Tomokazu trong những lần xuất hiện trên màn ảnh anime của anh, còn trong phiên bản lồng tiếng Anh của "Lucky Star" anh được Lex Lang thủ vai. | 1 | null |
là một "seiyū" và diễn viên người Nhật. Hiện nay anh đang làm việc tại Aoni Production. Anh cũng là người dẫn một số chương trình phát thanh internet, như "Bleach B-Station" hay "Radio Rewrite". Morita được biến đến nhiều nhất qua vai diễn Kurosaki Ichigo ("Bleach"), Marco ("One Piece"), Tidus ("Final Fantasy X"), Auel Neider ("Mobile Suit Gundam Seed Destiny"), Pegasus Seiya ("Saint Seiya - Hades Chapter"), Troy Bolton (phiên bản tiếng Nhật của "High School Musical" và "High School Musical 2"), và Pod ("Pokémon").
Trong lần trao giải Seiyu Awards đầu tiên vào tháng 3 năm 2007, Morita Masakazu đã đoạt danh hiệu "Nam diễn viên tân bình xuất sắc nhất" nhờ vai diễn Kurosaki Ichigo của anh. | 1 | null |
là một "seiyū" người Nhật đang làm việc I'm Enterprise.
Saitō là thành viên của bộ đôi lồng tiếng "coopee", cùng với Kuwatani Natsuko. Trong phần "Divine Design" của drama CD "Getbackers", cô lồng tiếng cho nhân vật chiến đấu với nhân vật do Kuwatani thủ vai. Cô cũng là thành viên của nhóm lồng tiếng "MORE PEACH SUMMER SNOW", cùng với Ikezawa Haruna, Noto Mamiko và Hirohashi Ryo. Chiwa thông báo vào ngày 29 tháng 7 năm 2013 rằng cô đã kết hôn. | 1 | null |
Xứ Mường (tiếng Pháp: "Pays Muong"), hoặc Khu Tự trị Mường (tiếng Pháp: "Territoire autonome Muong", TAM) là một lãnh thổ tự trị tồn tại trên địa phận tỉnh Hòa Bình, Việt Nam từ năm 1947 đến năm 1952.
Lịch sử.
Người Mường có cùng nguồn gốc với người Kinh, họ cư trú chủ yếu ở vùng rìa núi quanh đồng bằng Bắc Bộ, nhưng tập trung nhất ở tỉnh Hòa Bình. Vào năm 1947, chính phủ Liên hiệp Pháp đã quyết định chuyển địa phương này thành một khu tự trị dành cho người Mường, đồng thời các lãnh chúa Mường gửi các quân đoàn của mình gia nhập liên quân Pháp - Việt để đối phó với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1950, trong Chiến dịch Lê Lợi của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Khu tự trị Mường gần như bị xóa sổ. Tháng 11 năm 1951, quân Pháp nỗ lực chiếm lại Hòa Bình, tái lập Khu tự trị. Sau Chiến dịch Hòa Bình (1950-1951), Khu Tự trị Mường bị cơ bản chỉ còn trên danh nghĩa và hoàn toàn xóa bỏ sau đó. | 1 | null |
, fanservice hay , là một thuật ngữ khởi nguồn từ cộng đồng người hâm mộ anime và manga về những cảnh hay nội dung được cố ý thêm vào một tác phẩm nhằm làm hài lòng khán giả hay độc giả. Nó có thể dịch thô là "phục vụ cho fan" - tặng fan "chính xác thứ họ muốn". Fan service thường ngụ ý đến các nội dung "kích thích cho không", nhưng cũng có thể đang nói về một ngữ cảnh liên văn bản nhắm đến các xê-ri khác.
Hình thức.
Các cảnh quay đủ dài và toàn diện về robot trong các chương trình mecha, yếu tố tình dục, cảnh chiến đấu kịch tích, và nội dung bạo lực đều có thể xem là fan service khi chúng được ưu tiên đặc biệt nhằm làm hài lòng người hâm mộ của bất kỳ chương trình nào. Bình luận viên Christian McCrea cảm nhận rằng hãng phim Gainax đặc biệt chú trọng đến sự hài lòng của otaku thông qua fan service bằng cách thêm nhiều "siêu-nguồn liệu" và cho chiếu các "hành vi bạo lực và phi thường".
Điển hình nhất, nhưng không chỉ như vậy, rất nhiều fan service trong anime hay manga cố ý gây thu hút qua các nội dung gợi lên tính dục, hay các nội dung khiêu dâm, chẳng hạn như cảnh khỏa thân hay các hình thức làm bỏng mắt (ví dụ: trang phục hầu gái khêu gợi). Fan service đặc biệt xuất hiện nhiều trong shonen manga (dành cho nam giới). Trong shonen manga, những hình ảnh nữ theo phong cách pin-up girl rất phổ biến "qua nhiều dạng cởi [thiếu] quần áo khác nhau", thường là tận dụng hệ quả từ "cú va chạm vô ý" để trưng ra hình ảnh nhân vật nữ, hay một sự "nhìn thoáng qua quần lót nhân vật" từ dưới lên. Càng nhắm vào đối tượng lớn tuổi thì fan service càng được thể hiện rõ ràng hơn, nhất là ở seinen manga. Bộ ngực nữ giới nảy qua lại mà không có sự tác động vật lý, thường được gọi bằng thuật ngữ "Gainax bounce", là một ví dụ cao hơn cho fan service, làm tăng tính ecchi của tác phẩm. "Bounce" cũng được nhiều hãng phim khác ngoài Gainax tận dụng, bao gồm việc tạo ra xê-ri hentai "Cream Lemon". Các cảnh tắm vòi hoa sen rất phổ biến trong phim ảnh và anime những năm 1980 và 1990, trong khi ngày càng nhiều chương trình gần đây sử dụng cơ hội đi tắm onsen (suối nước nóng Nhật Bản) hay các chuyến đi đến những nơi ẩm ướt (trong nhiều trường hợp là hồ bơi) để trình diện các nhân vật trong đồ bơi. Có một số hình thức fan service đặc biệt cao như cho thấy rõ núm vú hay đường nét của âm hộ bên dưới quần lót, hay thậm chí là bên dưới quần short hay vải jeans, dù chúng thường được phóng to hơn so với kích thước thật. Các tác phẩm nhằm vào nam giới cũng có thể bao gồm fan service dành cho nữ giới, như một nỗ lực để thu hút nhiều đối tượng hơn. Gần đây, thuật ngữ "fan service" được sử dụng một cách "mềm mại" hơn khi giới thiệu nhân vật trong một cảnh pin-up (cảnh gồm một hình minh họa bắt đầu một chương và/hoặc tập phim mới) mặc các trang phục khác nhau mỗi lần xuất hiện, được vẽ ở các tư thế và phong cách khác nhau, hoặc đơn giản là chớp mắt hay quyến rũ trực tiếp người xem.
Nhà phân tích Keith Russell chỉ ra định nghĩa của fan service là "hiển thị ngẫu nhiên và tình cờ của một tác phẩm với các cử chỉ thường có thể đoán biết được trong Manga và Anime. Các cử chỉ bao gồm những việc như là làm lộ đùi và quần lót, dang hai chân ra hay một cái nhìn thoáng qua bộ ngực trần". Russell coi fan service như là mỹ học của "cái nhìn" thoáng qua, mà trái ngược với nhìn chằm chằm, bởi vì nó như một sự vô thức và cho phép mở ra "bản năng tính dục" mà không cần rơi vào tình huống khó xử. Russell tin rằng đối tượng fan service có thể yên tâm về bản chất phi thực đó và được khẳng định là sự "tự do khao khát".
Shoujo manga, nhắm vào nữ giới, cũng bao gồm fan service, chẳng hạn như thể hiên nhân vật nam "bán khỏa thân và trong tư thế quyến rũ". Nhà phân tích Robin Brenner lưu ý rằng trong văn hóa truyện tranh Mỹ, fan service dành cho nữ là rất hiếm, và cũng chỉ có ở Nhật Bản, nhiều tác phẩm có thể nổi tiếng nhờ nội dung fan service của chúng. Nhà phê bình Chris Beveridge diễn giải điều này trong "Agent Aika": "Có tình tiết nào đó bên trong, nhưng đó không phải là lý do để bạn xem... chúng ta xem cái này vì lượng fanservice chiếm áp đảo." Ở thể loại đồng tính nam, chẳng hạn như nụ hôn do tai nạn, là một hình thức fan service phổ biến dành cho nữ giới, và nó được miêu tả là "dễ dàng hơn để có thể tồn tại" so với trường hợp kiểm duyệt với fan service dành cho nam giới. "Trong thể loại Boys Love (Yaoi), fan service là "hình hay cảnh" trong tác phẩm mà "đặc tả nhân vật một cách kinh điển trong nội dung đồng hội / gợi dục". Các xê-ri shoujo manga có thể bộc tộ tính dục dẫn đến sự tán dương, cũng như ở fan service nhắm đến đối tượng là nam giới.
Brenner lưu ý rằng fan service có thể gây khó chịu với các độc giả trẻ, như trong trường hợp nam đọc shoujo manga còn nữ đọc shounen manga, và fan service nói chung là bị chỉ trích khi nó chỉ gây ra cho một nhân vật nữ. Cô nói về "Tenjo Tenge" như một ví dụ cho tác phẩm dùng sai fan service.
Tham khảo liên văn bản được dự trù để có thể quan sát và hiểu được người hâm mộ, như một cách để những tác giả ghi nhận và hứa hẹn nhiều yếu tố fan service hơn cho các fan-base (fan ăn theo). Fan service liên văn bản hiện cũng được đưa vào các sản phẩm truyền thông nhắm vào trẻ em; nó có thể được thấy qua cảnh hôn ngược trong "Shrek", bắt nguồn từ cảnh hôn ngược trong "Người Nhện".
Lịch sử.
Keith Russell tin rằng ban đầu fan service diễn ra trong một ngữ cảnh giản đơn, khi "những đứa bé chỉ làm những trò trẻ con", mà ông tin rằng tác giả cho phép một số quyền hạn liên quan đến vấn đề của họ. Bắt đầu từ những năm 1970 với "Cutey Honey", và tiếp tục sau đó trong các chương trình mahō shōjo (ma pháp thiếu nữ), fan service trở nên "risqué" (khiếm nhã) hơn. Đến những năm 1980, khỏa thân hoàn toàn trực diện và các cảnh tắm vòi hoa sen đã trở thành nội dung tiêu chuẩn cho fan service. Sau này, Anno Hideaki, nhà sản xuất của "Neon Genesis Evangelion" từng hứa rằng "ở mỗi tập phim... sẽ có một cái gì đó cho người hâm mộ để ngọt vị hơn" bắt đầu loại bỏ các cảnh fan service trong những tập phim sau. Những tập phim sau đó "đã" chứa các thành phần fan service kèm theo phân cảnh mà các nhân vật đang chịu một số loại chấn thương cảm xúc. Kể từ đó, fan service hiếm khi có cảnh khoả thân hoàn toàn. Các nội dung nhiều quá mức ngày nay thường được coi là vô cớ dù cho có sự biện minh về tính liên quan của chúng đến câu chuyện hay không.
Trong bản dịch.
Khi anime và manga được dịch sang tiếng Anh bởi các công ty Hoa Kỳ, tác phẩm gốc thường được chỉnh sửa để loại bỏ một số fan service, làm cho nó phù hợp hơn với người xem Mỹ. Tatsugawa Mike giải thích sự thay đổi này là kết quả của sự khác biệt giữa các giá trị văn hóa của Nhật Bản và Mỹ. Trong thực tế, một số anime dường như có nhiều fan service hơn một chút so với doanh số bán của chúng. Một số người tin rằng sự phổ biến của fan service cho thấy sự thiếu đứng đắn của cộng đồng fan; một biên tập viên của Del Rey Manga nói đùa rằng manga "Negima!", có chứa fan service, nên được phân hạng là cho "độc gia 16+ chưa trưởng thành" hơn là cho "độc giả 16+ trưởng thành". | 1 | null |
Âm bản (tựa tiếng Anh: Negative Proof) là album phòng thu thứ tư của nữ ca sĩ Đoan Trang, được phát hành vào thời điểm tháng 12 năm 2007. Với mong muốn "tôn vinh những nhạc sĩ nữ trẻ đang trong giai đoạn khẳng định phong cách sáng tác riêng", cô cho ra mắt những sáng tác mới từ chính cô cùng các nhạc sĩ nữ tên tuổi, cùng nhiều bản phối khí và trình diễn lại những ca khúc mang chủ đề hướng về nét đẹp của người phụ nữ Á Đông. Đây là sản phẩm đánh dấu sự đột phá của cô trong thể loại âm nhạc, khác hẳn với màu sắc cổ điển mà cô đã đưa vào trong album trước đó mang tên "SocoDance" vào năm 2006, khi cô lần đầu thử sức với các thể loại nhạc như R&B, jazz vào sản phẩm âm nhạc của mình.
Ngay từ khi phát hành, "Âm bản" đã nhận được sự quan tâm và tán dương từ phía các nhà phê bình nghệ thuật và khán giả, khi đề cao về phần sản xuất âm nhạc, chủ đề và ở cả mặt đồ họa của album lần này. Album này sau đó được vinh danh với giải thưởng "Album Vàng" tại hạng mục Album nghệ thuật xuất sắc do Hội đồng nghệ thuật bình chọn vào tháng 3 năm 2008. Ca khúc "Quạt giấy" đã được bình chọn là ca khúc của tháng 11 năm 2007 của chương trình "Bài Hát Việt".
Bối cảnh sản xuất.
Sau khi phát hành album "Chocolate" vào năm 2005, Đoan Trang tiếp tục tạo được tiếng vang khi lần đầu tiên vinh dự nhận được giải Làn sóng xanh 2005, là một trong 10 ca sĩ được yêu thích nhất trong năm với 2 ca khúc "Tóc hát" và "Bâng Khuâng", nhiều tuần liền nằm trong top 5 của Làn sóng Xanh. Vào năm 2007, cô đại diện nước nhà để cùng 20 ca sĩ nổi tiếng của các nước trong khu vực châu Á khác tham dự ngày hội âm nhạc Hattori Memorial Music Festival tổ chức tại Nhật Bản. Phần trình diễn của Đoan Trang được đánh giá là khá thành công khi cô nhận được nhiều lời mời hợp tác âm nhạc sau buổi diễn. Sau đó, cô tiếp tục cho phát hành album phòng thu thứ ba của mình mang tên "SocoDance" vào năm 2006, mang hơi hướng cổ điển và khiêu vũ. Album là một thành công về mặt thương mại, khi tiêu thụ được 15.000 CD, là album bán chạy nhất từ trước đến nay của cô.
Nữ ca sĩ phải bỏ ra đến 3 năm ấp ủ dự án này cho đến khoảng giữa năm 2007, cô mới hé lộ thêm về "Âm bản" trước công chúng. Ban đầu, cô thông báo rằng album này được ra mắt vào cuối tháng 6 với dự tính gồm khoảng 8 ca khúc, nhưng phải tạm hoãn thời gian phát hành do phải thực hiện một chuyến du học ngắn hạn trong vòng 5 tuần tại Hoa Kỳ vào hồi tháng 7. Cô đăng ký vào trường Đại học Berklee, một trường nhạc danh tiếng tại thành phố Boston, bang Massachusetts. Với khóa học có tên gọi là "Summer Performance Program", cô được học về thanh nhạc, nhạc lý, kỹ năng biểu diễn sân khấu và dòng nhạc R&B, Latin pop nhằm phục vụ cho album sắp tới. Lúc đó, cô cũng khẳng định "album hầu như đã hoàn tất. Tôi chỉ còn chỉnh sửa một vài chỗ chưa thật ưng ý cho một vài bản thu và sẽ không thay đổi gì thêm nữa."
Cấu trúc.
Album được Đoan Trang nhắm đến với hình ảnh nét đẹp của người phụ nữ Á Đông, với mong muốn "tôn vinh những nhạc sĩ nữ trẻ đang trong giai đoạn khẳng định phong cách sáng tác riêng", cô thực hiện trình bày lại những ca khúc chọn lọc của các nữ nhạc sĩ như Giáng Son, Bảo Lan - kèm theo đó là những sáng tác mới của cô cùng với các tác giả khác, mà nổi bật là Lưu Thiên Hương. Album được hai nhạc sĩ Võ Thiện Thanh và Thanh Phương thực hiện phần phối âm. Đây là sản phẩm đánh dấu sự đột phá của cô trong thể loại âm nhạc, khác hẳn với màu sắc cổ điển mà cô đã đưa vào trong album trước đó mang tên "SocoDance" vào năm 2006, khi cô lần đầu thử sức với các thể loại nhạc như R&B, Jazz vào sản phẩm âm nhạc của mình. Cô viết ca khúc "Cổ Tích" dành riêng cho ông xã người Thụy Điển Johan. Ca khúc "Cỏ và Mưa" thật ra được Đoan Trang có từ ba năm trước, nhưng do phải bỏ thêm thời gian thực hiện nên cô đã phải chỉ là người "thể hiện lại".
Ảnh bìa của album do Cao Trung Hiếu tham gia đảm nhận, với hình ảnh Đoan Trang gai góc được che khuất một phần bởi chiếc lá đu đủ. Phần đồ họa của anh trong album được nhiều nhà phê bình đề cao. "VNExpress" khen ngợi phần thiết kế của album "khá nổi bật, giản dị mà sang trọng", miêu tả nó "bắt mắt và khơi gợi trí tò mò". "Mực Tím Online" miêu tả Đoan Trang ở đây "trưởng thành và chững chạc hơn rất nhiều". Đồng quan điểm, Vân Chi từ trang web "Design.vn" cho rằng bìa của album "rất hút mắt và ấn tượng" và liệt nó vào danh sách 10 bìa đĩa nhạc Việt ấn tượng nhất.
Đánh giá chuyên môn.
Ngay từ khi phát hành, album nhận được sự quan tâm và tán dương từ phía các nhà phê bình nghệ thuật và khán giả. Nhà báo Gia Khánh từ "VNExpress" cho những nhận xét rất tích cực, khi cho rằng album "đã tạo được cảm tình cho người thưởng thức" và đề cao phần phối khí của Sơn Hải và Thanh Phương trong album. Nhà báo Cẩm Lệ từ Hội đồng nghệ thuật chương trình "Album Vàng" miêu tả album này "tinh tế và mới lạ" cũng như khẳng định "đây là album sáng tạo đa dạng nhất của Đoan Trang từ trước đến nay".
Album này được vinh danh với giải thưởng "Album Vàng" tại hạng mục "Album nghệ thuật xuất sắc" do Hội đồng nghệ thuật bình chọn vào tháng 3 năm 2008 cùng với những cái tên khác như "Mai Khôi hay Hoa Hồng" của Mai Khôi, "Studio'68" của Ngô Thanh Vân, "Sau Cơn Mưa" của Khánh Linh và "Cơn Mưa Cuối Cùng" của Lê Hiếu trong danh sách top 5 album Vàng."Quạt Giấy" cũng được bình chọn là ca khúc của tháng 11 năm 2007 của chương trình "Bài Hát Việt". | 1 | null |
Rãnh Manila là một rãnh đại dương ở Thái Bình Dương, nằm ở phía tây đảo Luzon và Mindoro ở Philippines. Rãnh này đạt đến độ sâu khoảng 5.400 mét (17.700 ft), còn độ sâu bình quân Biển Đông là 1500 m. Nó được tạo ra bởi quá trình di chuyển, trong đó mảng Sunda (một phần của mảng Âu-Á) được hút chìm dưới vành đai di động Philippines, tạo ra rãnh gần như theo hướng bắc-nam. Ranh giới hội tụ được kết thúc ở phía bắc của khu vực va chạm Đài Loan, và ở phía nam của terrane Mindoro (khối Sulu-Palawan va chạm với SW Luzon). Đây là một khu vực tràn ngập bởi các dị thường động lực âm. | 1 | null |
Thực trạng nhà vệ sinh ở Ấn Độ là tình trạng thiếu hoặc không có nhà vệ sinh xảy ra tại Ấn Độ. Trung bình cứ 3 hộ gia đình ở Ấn Độ thì mới có một hộ có nhà vệ sinh. Đây là một tình cảnh gây ra những mối hiểm họa lớn đối với phụ nữ nước này, những người thường xuyên bị tấn công khi sử dụng nhà vệ sinh công cộng.
Nạn nhân.
Phụ nữ là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất khi phải sử dụng nhà vệ sinh không đủ chuẩn, vì chúng được thiết kế không có mái, cửa sổ thì thấp tè. Và thế là để khỏi bị tấn công, quấy rối tình dục, nhiều phụ nữ lựa chọn cách đi vệ sinh "lộ thiên". Mối hiểm nguy mà các phụ nữ đi vệ sinh ngoài trời ở vùng nông thôn Ấn Độ phải đối mặt được thể hiện rất rõ ràng vào tháng 5 năm 2014 khi hai cô gái bị cưỡng hiếp tập thể.
Hai thiếu nữ ở bang Uttar Pradesh đã bị cưỡng hiếp tập thể và treo lên cây khi đi vệ sinh ngoài trời. Vụ án đã làm dấy lên các cuộc biểu tình chống chính quyền bang và các tuyên bố cho rằng các cảnh sát từ chối truy tìm hung thủ. Một quan chức cảnh sát ở Bihar vào năm 2013 tuyên bố, hơn 400 vụ hiếp dâm ở bang này có thể tránh được nếu các nạn nhân có công trình vệ sinh ở trong nhà.
Giải pháp.
Trong khi chính phủ Ấn Độ thường lơ là việc cải thiện điều kiện vệ sinh, thì một số chính trị gia đã lên tiếng. Phát biểu tại một sự kiện cho giới trẻ, ông Narendra Modi, ứng cử viên của đảng BJP tranh cử chức Thủ tướng đã công khai tuyên bố về sự cần thiết phải cải thiện hệ thống vệ sinh khi nói rằng "nhà vệ sinh trước, đền đài sau".
Một số nhóm hoạt động cũng đang có những nỗ lực tương tự. Tổ chức Sulabh International đã cung cấp cho 1,2 triệu hộ gia đình ở Ấn Độ hệ thống nhà vệ sinh xả nước kể từ khi được thành lập năm 1970. | 1 | null |
Nhật ký Barbie là một bộ phim chủ đề 2006 của đạo diễn Eric Fogel (đạo diễn phim My Scene)
Bài hát.
01. Ke$ha - Invisible
02. Girl Most Likely To
03. Feels Like Love
04. Real Life
05. Elanya - Fate Finds a Way
06. Skye Sweetnam - This Is Me
07. Skye Sweetnam - Real Life
09. Skye Sweetnam - Note to Self
10. Huckapoo - Where You Belong
11. Deanna DellaCioppa - I Don't Wanna Sleep | 1 | null |
là một ca sĩ kiêm sáng tác bài hát người Nhật đến từ vùng Kinki của Nhật Bản và hiện đang làm việc theo hợp đồng với NBCUniversal (tên lúc trước là Geneon). Buổi đầu sự nghiệp, cô hát và sáng tác âm nhạc độc lập từ năm 2005. Từ năm 2009 đến 2011, Yanagi là ca sĩ khách mời trong nhóm nhạc supercell. Yanagi hợp tác với nhà soạn nhạc Maeda Jun của Key Sounds Label để sản xuất album chủ đề "Owari no Hoshi no Love Song", phát hành vào tháng 4 năm 2012. Yanagi ra mắt đĩa đơn đầu tay của cô, "Vidro Moyō", vào tháng 2 năm 2012, được sử dụng làm ca khúc kết thúc mỗi tập phim của anime truyền hình "Ano Natsu de Matteru"; và đến nay cô đã phát hành được tám đĩa đơn. Album đầu tay chính thức của Yanagi là "Euaru" ra mắt tháng 7 năm 2013.
Sự nghiệp.
Yanagi Nagi bắt đầu đăng những phiên bản hát lại (cover) của các ca khúc trực tuyến từ năm 2005, và bắt đầu sản xuất dự án nhạc dōjin đầu tiên vào năm 2006 dưới tên CorLeonis. Cô đã ra mắt bốn album phòng thu riêng lẻ: "EN" (2006), "Leonis" (2007), "Freirinite" (2008) và (2010). "Leonis" chỉ được phát hành trực tuyến qua website của Yanagi. Hai nhạc phẩm khác ra mắt tiếp sau đó vào năm 2011: đĩa đơn và các bài hát hay nhất trong album . Tháng 5 năm 2006, cô và nữ ca sĩ Annabel hợp thành bộ đôi âm nhạc Binaria. Từ năm 2007 đến 2011, Binaria phát hành hai mini-album ("Alhaja" (2007) và "Forma" (2007)), một album chọn lọc các bài hát hay nhất ("Sonido" (2010)), và bốn đĩa đơn ("Epoca" (2008), "Alba" (2009), "Delightful Doomsday" (2010) và "Nachtflug" (2011)). Binaria còn hợp tác với ca sĩ Cassini để ra mắt đĩa đơn "Rueda" (2007). Vào tháng 1 năm 2007, Yanagi thành lập đơn vị nhạc Inochi Kokonotsu cùng nhà soạn nhạc KTG (viết tắt của Ken The Garage), và nhóm chỉ phát hành một album duy nhất, , vào ngày 29 tháng 4 năm 2007 trước khi giải tán vào tháng 6 cùng năm.
Những tháng đầu năm 2007, Yanagi bắt đầu gửi các bản cover trực tuyến lên website chia sẻ video Nico Nico Douga dưới nghệ danh Gazelle. Khoảng một ngày sau khi nhạc sĩ Ryo của supercell tải lên bài hát đầu tiên của nhóm là "Melt" vào tháng 12 năm 2007, Yanagi đã tải lên phiên bản do cô trình bày lại từ ca khúc này. Yanagi, vốn tự nhận mình là người hâm mộ các nhạc phẩm của Ryo, đã liên lạc với anh và hai người trò chuyện về khả năng hợp tác vào một ngày nào đó. Ryo, người cũng hâm mộ giọng ca của Yanagi từ trước khi cô tải lên Nico Nico Douga bản cover cho bài hát của anh, đã mời cô làm ca sĩ cho đĩa đơn đầu tay của supercell là "Kimi no Shiranai Monogatari" (2009). Yanagi tiếp tục là ca sĩ chính của supercell cho đến năm 2011, và trong thời gian đó cô thể hiện hai đĩa đơn khác vào năm 2010—"Sayonara Memories" và "Utakata Hanabi / Hoshi ga Matataku Konna Yoru ni"—và album phòng thu thứ hai của supercell với nhan đề "Today Is A Beautiful Day" (2011).
Năm 2011, Yanagi thể hiện hai ca khúc Original SoundTrack cho visual novel "Rewrite" của hãng Key, phát hành dưới dạng album nhạc bởi Key Sounds Label. Yanagi đã hợp tác với Maeda Jun của Key và cho ra mắt album chủ đề nguyên bản vào ngày 25 tháng 4 năm 2012. Một đĩa đơn trích từ album, "Killer Song", được phát hành tại Comiket 81 vào ngày 29 tháng 12 năm 2011. Yanagi trở thành ca sĩ solo dưới thỏa thuận hợp đồng của Geneon, hiện nay đổi tên thành NBCUniversal, và ra mắt đĩa đơn đầu tay vào ngày 29 tháng 12 năm 2012. "Vidro Moyō" được sử dụng là bài hát chủ đề kết thúc mỗi tập của bộ anime truyền hình "Ano Natsu de Matteru" vào năm 2012. Đĩa đơn thứ hai của Yanagi, "Ambivalentidea", phát hành ngày 6 tháng 6 năm 2012; ca khúc tựa đề đĩa đã được dùng làm nhạc phẩm kết thúc mỗi tập phim của anime truyền hình "Jormungand" cũng phát sóng năm 2012. Đĩa đơn thứ ba của cô là đã phát hành vào ngày 7 tháng 11 năm 2012; và ca khúc tựa đĩa tiếp tục là bài hát kết thúc mỗi tập trong phần hai của "Jormungand" là "Jormungand: Perfect Order".
Yanagi ra mắt đĩa đơn thứ tư, "Zoetrope", vào ngày 30 tháng 1 năm 2013; ca khúc tựa đĩa được dùng làm bài hát mở đầu mỗi tập anime truyền hình "Amnesia" phát sóng cùng năm. Yanagi phát hành là đĩa đơn thứ năm vào ngày 17 tháng 4 năm 2013; bài hát được chọn là ca khúc mở đầu mỗi tập của anime "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru." phát sóng cùng năm. Album đầu tay của Yanagi với nhan đề đã phát hành vào ngày 3 tháng 7 năm 2013. Yanagi tiếp tục ra mắt đĩa đơn thứ sáu là vào ngày 20 tháng 11 năm 2013; bài hát được dùng làm nhạc phẩm kết thúc thứ nhất của bộ anime cùng năm, "Nagi no Asukara". Đĩa đơn thứ bảy của Yanagi, , phát hành ngày 19 tháng 2 năm 2014; bài hát tiếp tục là nhạc phẩm kết thúc thứ hai của "Nagi no Asukara". Đĩa đơn thứ tám của Yanagi, , phát hành ngày 4 tháng 6 năm 2014; bài hát được chọn làm ca khúc kết thúc mỗi tập bộ anime truyền hình "Black Bullet" phát sóng cùng năm. Ngày 2 tháng 7 năm 2014, Yanagi phát hành đĩa đơn giới hạn "Esse" dưới dạng kỹ thuật số, có thể tải về từ iTunes và các trang trực tuyến khác.
Album solo thứ hai của Yanagi được phát hành vào ngày 10 tháng 12 năm 2014. Đĩa đơn thứ 9 của cô "Sweer Track" phát hành ngày 24 tháng 12 năm 2014. Yanagi phát hành đĩa đơn thứ 10 "Foe" ngày 18 tháng 3 năm 2015. Đĩa đơn thứ 11 của cô được phát hành ngày 3 tháng 6 năm 2015; là ca khúc mở đầu của mỗi tập anime truyền hình "My Teen Romantic Comedy SNAFU: Zoku". Yanagi phát hành đĩa đơn thứ 12 của mình vào ngày 9 tháng 12 năm 2015; bài hát là ca khúc kết thúc của anime truyền hình "Seraph of The End: Battle in Nagoya". Đĩa đơn thứ 13 của Yanagi được phát hành ngay 24 tháng 2 năm 2016; Ca khúc được sử dụng làm nhạc mở đầu của anime truyền hình "Norn9".
Yanagi đã phát hành album solo thứ ba của mình "Follow My Tracks" vào ngày 20 tháng 4 năm 2016. Đĩa đơn thứ 14 của cô sẽ được phát hành vào ngày 31 tháng 8 năm 2016; ca khúc được lựa chọn làm nhạc phẩm kết thúc của anime truyền hình "Berserk".
Tài năng.
Yanangi Nagi được ca ngợi là sở hữu giọng ca trong sáng, trữ tình và mềm mại. Nhà thiết kế Usa Yoshiki của supercell chia sẻ: "Tôi có ấn tượng mạnh [với Yanangi] về một giọng hát ngọt ngào, nhưng cùng lúc tôi cũng cảm nhận được sự mong manh ẩn chứa." Nhạc sĩ Ryo nhận xét Yanagi có một âm vực rộng, một giọng ca falsetto mà mượt mà. Yanagi chịu ảnh hưởng mạnh của Arai Akino, bên cạnh đó cô cũng yêu thích nhóm nhạc múm của dòng nhạc electronica. Cô chia sẻ rằng mình thích nghe nhạc điện tử nhưng không có khả năng trình bày tốt, và như vậy cô muốn thể hiện hết mình trong vai trò là ca sĩ J-pop.
Vai lồng tiếng.
Video game.
Danh sách đĩa nhạc.
Album.
Album phòng thu.
Album tổng hợp.
Đĩa đơn.
Video ca nhạc.
Các album khác có sự tham gia.
Tham khảo.
| 1 | null |
Amphiprion bicinctus là một loài cá hề thuộc chi "Amphiprion" trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.
Từ nguyên.
Từ định danh của loài được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh: "bi" ("hai") và "cinctus" ("được bao quanh"), hàm ý đề cập đến hai dải sọc trắng ở ngay sau mắt và giữa thân.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
Từ Biển Đỏ, "A. bicinctus" được ghi nhận trải dài về phía nam đến vịnh Aden và Socotra, xa về phía đông là quần đảo Chagos.
"A. bicinctus" được quan sát gần các rạn san hô ngoài khơi và trong các đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 40 m. Chúng sống cộng sinh với 6 loài hải quỳ sau đây:
Một nghiên cứu tại bờ biển bán đảo Sinai (phía bắc Biển Đỏ) cho biết, "A. bicinctus" thích sống cộng sinh cùng với hải quỳ "E. quadricolor" hơn là hải quỳ "H. crispa". Quan sát cho thấy, chỉ có một số ít cá thể "A. bicinctus" chưa phát triển sống trong các bụi hải quỳ "H. crispa", trong khi hải quỳ "E. quadricolor" là nơi tập trung của những cá thể "A. bicinctus" trưởng thành (sống đơn độc hoặc theo cặp) cũng như nhiều cá thể con.
Hải quỳ "E. quadricolor" thường lớn hơn "H. crispa" nên chúng có đủ chỗ để "A. bicinctus" trưởng thành ẩn núp bên trong nhằm tránh sự săn mồi, còn "H. crispa" nhiều khả năng là nơi trú ẩn tạm thời của cá con trong khi chờ đợi khoảng trống ở "E. quadricolor". Từ đó có thể kết luận rằng, kích thước và hình thái cơ thể của vật chủ (tức hải quỳ) tác động đến sự chọn lựa nơi sinh sống của cá hề.
Mô tả.
"A. bicinctus" có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 14 cm. Loài cá hề này có màu cam sáng hay nâu sẫm ở hai bên thân với hai dải sọc màu trắng (hơi ánh màu xanh lam) trên cơ thể. Dải sọc sau mắt lan rộng ngay trên đỉnh đầu, là đặc điểm giúp phân biệt "A. bicinctus" với một số loài cá hề có kiểu hình hai dải sọc trắng tương tự (mặc dù dải này có thể thu hẹp ở "A. bicinctus", nhưng rất ít được nhìn thấy).
So với "A. bicinctus", "Amphiprion latifasciatus" có vây đuôi xẻ thùy và dải sọc giữa thân rất dày (không hẹp như "A. bicinctus"). Cả hai rất giống nhau về kiểu màu, nhưng "A. latifasciatus" chỉ được tìm thấy ở Madagascar và quần đảo Comoro.
Số gai ở vây lưng: 9–10; Số tia vây ở vây lưng: 15–17; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 13–14.
Sinh thái học.
"A. bicinctus" là một loài lưỡng tính tiền nam (cá cái trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá đực) nên cá đực có kích thước nhỏ hơn cá cái. Một con cá cái sẽ sống thành nhóm cùng với một con đực lớn (đảm nhận chức năng sinh sản) và nhiều con non nhỏ hơn. Trứng được cá đực lớn bảo vệ và chăm sóc đến khi chúng nở.
"A. bicinctus" và "Amphiprion omanensis" được ghi nhận là đã lai tạp với nhau ở ngoài khơi đảo Socotra, nơi mà cả hai loài này rất hiếm khi được nhìn thấy.
Cá đực hoàn thành việc chuyển đổi giới tính sang cá cái trong vòng 26 đến 145 ngày.
Thương mại.
"A. bicinctus" được đánh bắt bởi những người thu mua cá cảnh. Loài cá hề này cũng đã được nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt. | 1 | null |
Stichodactyla gigantea là một loài hải quỳ thuộc chi "Stichodactyla" trong họ Stichodactylidae. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1775.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
"S. gigantea" có phạm vi trải rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Từ Biển Đỏ trải dài về phía đông đến Nouvelle-Calédonie, giới hạn phía bắc đến Nhật Bản, phía nam đến Singapore và Úc.
Loài này ưa sống trên nền cát ở vùng nước nông, đặc biệt là những nơi ít bùn và có nhiều san hô.
Mô tả.
Đĩa miệng hiếm khi có đường kính vượt quá 50 cm, có màu hồng hoặc nâu. Xúc tu thường có màu nâu hoặc xanh lục, nhưng phần ngọn đôi khi lại có màu hồng, tím, xanh lam đậm hoặc xanh lục. Thân hải quỳ có nhiều màu: màu vàng nhạt, nâu tanin, xanh lục lam hoặc lục xám.
Sinh thái học.
Xúc tu của "S. gigantea" có độ dính, nếu bám chặt vào tay có thể kéo cả hải quỳ ra khỏi nơi ẩn nấp. Tuy nhiên, "S. gigantea" không gây cảm giác châm chích nếu chạm vào da.
"S. gigantea" được nhiều loài cá hề chọn làm vật chủ để sống cộng sinh, đó là những loài:
Cá thia con của loài "Dascyllus trimaculatus" cũng chọn hải quỳ "S. gigantea" làm nơi cư trú. Bên cạnh đó, nhiều loài sinh vật cũng sống cộng sinh cùng với loài hải quỳ này, như tôm "Thor amboinensis" và "Periclimenes brevicarpalis", hải sâm "Holothuria hilla" và "Stichopus vastus", cá sơn "Ostorhinchus novemfasciatus" cùng một số loài cua (có cả cua ẩn sĩ).
"S. gigantea" là một loài sinh sản vô tính theo hình thức phân mảnh. Ở nhiều nơi tại Indonesia, "S. gigantea" có thể được chế biến như một món hải sản.
Độc tố và tác dụng dược học.
Nghiên cứu cho thấy, protein thô thu được từ chiết xuất methanol ở hải quỳ "S. gigantea" và "Stichodactyla mertensii" có thể gây hiện tượng tán huyết trên hồng cầu của người (và một số loài vật), khả năng gây độc thần kinh và có thể gây chết người. Dịch chiết thô của hai loài hải quỳ này còn có tác dụng làm giảm đau (được thí nghiệm ở chuột), cũng như đặc tính kháng khuẩn và nấm. | 1 | null |
Mylonit là một loại đá biến chất động lực hạt mịn, với thành phần chủ yếu là các khoáng vật của đá có trước bị vỡ vụn ra và được nén chặt lại. Mylonit có thể có nhiều hợp phần khoáng vật học khác nhau; việc phân loại nó được dựa vào kiến trúc của đá.
Thành tạo.
Mylonit là các đá bị biến dạng dẻo chịu tác dụng của ứng suất cắt lớn, trong các đới đứt gãy. Có nhiều quan điểm khác nhau về sự thành tạo của mylonit, nhưng quan điểm được chấp nhận phổ biến nhất là phải có sự biến dạng dẻo của tinh thể, và sau đó là sự nứt nẻ và tạo một dải mảnh vụn là các quá trình thứ cấp. Sự mài mòn cơ học của các hạt không diễn ra, mặc dù người ta cho rằng ban đầu là quá trình tạo thành mylonit, cho nên nó có tên gọi trong tiếng Hy Lạp là μύλος "mylos", nghiền.
Mylonit phát triển chủ yếu trong các đới cắt dẻo nơi tập trung ứng suất căng. Chúng là những hợp phần của các đứt gãy cà nát tạo ra các dăm kết kiến tạo. | 1 | null |
An Dĩ Hiên (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1980) là nữ Ca sĩ, Diễn viên Đài Loan trực thuộc Hoa Nghị huynh đệ. Tốt nghiệp khoa quản lý khách sạn tại Đại học Du lịch và Khách sạn Đài Loan (Taiwan Hospitality & Tourism University). Vì cùng lấy họ "An" nên cô và người bạn thân thiết, nam Diễn viên An Quân Xán đã cùng nhận là chị em kết nghĩa.
Tiểu sử.
An Dĩ Hiên sinh trưởng trong gia đình với người bố đơn thân và không gặp mẹ ruột từ khi cô còn rất nhỏ. Cô nhận sự giáo dục nghiêm khắc từ cha ruột và mẹ kế. Cha cô thuộc thế hệ thứ hai trong gia đình quan chức (quan nhị đại). Ông nắm giữ khối sản nghiệp lớn đồng thời làm chủ tập đoàn bảo an và công ty dệt quân dụng làm ăn phát đạt, khởi đầu kinh doanh tại Đài Trung sau đó mở rộng đến Đài Bắc. Ông nội là cán bộ cao cấp của chính phủ, bà nội là đại địa chủ miền Đông sở hữu nhiều bất động sản có giá trị.
Đời tư.
Năm 2017, cô kết hôn cùng Trần Vinh Luyện (陈荣炼), Chủ tịch tập đoàn Đức Tấn (Takchun), chuyên kinh doanh bất động sản và sòng bài tại Macao.
Tháng 7 năm 2019, sau 2 năm kết hôn, An Dĩ Hiên sinh con trai đầu (tên tiếng anh: Ace, tên thường gọi: Lục Lục).
Năm 2020, cô tiếp tục hạ sanh 1 bé gái (tên Alice, tên biệt danh: Oa Bảo).
Sự nghiệp.
Năm 2000, An Dĩ Hiên chính thức bước chân vào làng giải trí với vai diễn đầu tay trong "Ma lạp Tiên Sư".
Năm 2003, cô được giao vai chính Bùi Ngữ Yến (Tiểu Yến Tử) trong phim truyền hình dài tập "Đấu Ngư (Những ngã rẽ cuộc đời)" chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết "Little Daisy" (Tiểu Sồ Cúc) của Lạc Tâm. "Đấu Ngư" tạo được tiếng vang ngay sau khi phát sóng và được khen ngợi như là phiên bản Đài Loan của "Người trong giang hồ". Drama này trình chiếu tại Đài Loan đã phá vỡ các kỉ lục về rating và đưa dàn diễn viên trẻ như Quách Phẩm Siêu, An Dĩ Hiên và Lam Chính Long trở thành các ngôi sao lớn, bấy giờ họ vẫn còn là các diễn viên vô danh. Bài hát kết thúc của bộ phim Lydia cũng là bản hit trên bảng xếp hạng, đưa ban nhạc F.I.R (Phi Nhi Nhạc Đoàn) trở nên nổi tiếng trước cả khi nhóm chính thức ra mắt. Bộ phim cùng với một số phim Đài Loan như "Cùng ngắm mưa sao băng" đã mở đầu cho làn sóng phim Thần tượng Đài Loan một thời làm mưa làm gió các quốc gia châu á.
Năm 2004, sau thành công của "Đấu Ngư", An Dĩ Hiên quyết định phát triển sự nghiệp diễn xuất tại Trung Quốc đại lục. Bộ phim đầu tiên cô tham gia tại Đại Lục là vai diễn Lâm Nguyệt Như trong "Tiên kiếm kỳ hiệp truyện" (cùng Hồ Ca, Lưu Diệc Phi, Bành Vu Yến). Bộ phim gặt hái nhiều thành công và mở đầu cho dòng phim tiên hiệp sau này.
Sau đó cô đã tham gia nhiều vai diễn trong các bộ phim truyền hình của Trung Quốc như "Đại Hán Thiên Tử (2005), Trung Hoa anh hùng (2005), Nằm gai nếm mật (2006), Tuyết sơn phi hồ (2006), Xa Thần (2006)."
Năm 2007, An Dĩ Hiên cho ra mắt album ca nhạc đầu tay "Tôi là sao Thiên Bình", gồm 7 ca khúc và quyết định nghỉ ngơi suốt 1 năm dài để điều trị bệnh tim mạch.
Năm 2008, An Dĩ Hiên tái xuất bất ngờ với vai diễn Vân Nhi trong bộ phim "Vân Nương" của nhà văn Quỳnh Dao. Bộ phim phủ sóng khắp Trung Quốc và chinh phục trái tim người xem đài lớn tuổi nhờ xây dựng thành công hình ảnh "nàng dâu quốc dân" Vân Nhi. Đến nay, sau nhiều năm nhưng "Vân Nương" vẫn giữ vị trí Top 3 trong danh sách 100 phim truyền hình có tỉ suất người xem cao nhất Trung Quốc (từ 2007 - nay).
Sau đó cô nhận vai Chức Nữ Ti Âm trong "Ngưu Lang Chức Nữ."
Năm 2009, An Dĩ Hiên vào vai Triệu Mẫn trong phim truyền hình "Ỷ Thiên Đồ Long ký" chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Kim Dung. Cùng năm đó, An Dĩ Hiên quay trở lại màn ảnh Đài Loan, đóng vai Lương Mộ Tranh cùng với Ngô Kiến Hào trong bộ phim truyền hình thần tượng "Trạm kế tiếp, hạnh phúc". Vai diễn được đánh giá là màn tái xuất ngoạn mục của An Dĩ Hiên sau nhiều năm không tham gia vào dòng phim thần tượng Đài Loan.
Bộ phim "Trạm kế tiếp, hạnh phúc" cùng với "Tỏa thanh thu (Phận hồng nhan)" cũng do An Dĩ Hiên chủ diễn trở thành 2 phim có tỷ suất người xem cao nhất tại Đài Loan và Thượng Hải, đưa An Dĩ Hiên trở thành "Linh dược rating" của các nhà đài.
Năm 2010, cô vào vai A Tây Miêu Miêu cùng Bồ Ba Giáp (vai Lưu Ngọc Đường), Lữ Lương Vĩ (vai Toàn Sơn Báo), và diễn viên Hàn Quốc Choo Ja-hyun (vai Tứ Nha Đầu) trong bộ phim truyền hình "Tân Ô Long Sơn Tiễu Phỉ ký". Bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết văn học nổi tiếng "Thủy Vận Hiến", nói về người anh hùng trong truyền thuyết dân gian Lưu Ngọc Đường trong vụ án Toàn Sơn Báo, phá được kế hoạch "phản Cộng cứu quốc" tái chiếm Đại Lục của Quốc Dân đảng ở Đài Loan. Phim có sự tham gia góp mặt của các diễn viễn tên tuổi từ Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc.
Năm 2011, An Dĩ Hiên đóng cặp với Đỗ Thuần trong "Đại chiến cổ kim Tần Dũng tình", một bộ phim truyền hình đặt ở ba thời kỳ khác nhau. Cô cũng vào vai Lý Sư Sư, một kỹ nữ và người tình của Tống Huy Tông trong phim "Tân Thủy hử".
Năm 2013, An Dĩ Hiên quay về Đài Loan đóng cặp với Hạ Quân Tường trong phim "Thượng Lưu tục nữ".
Năm 2015, An Dĩ Hiên vào vai Ngải Mễ Lạp (Emily) trong bộ phim "Ngự tỉ trở lại" cùng Chu Nhất Long.
Năm 2016, cô xuất hiện dưới vai trò cameo trong phim cách mạng "Giải Mật" và "Bán Yêu Khuynh Thành".
Năm 2018, Cô đặc biệt tham gia diễn xuất với vai diễn Độc Cô Bát Nhã (Bàn Nhược) trong phim truyền hình dài tập "Độc cô thiên hạ". Dù chỉ là khách mời đặc biệt diễn xuất nhưng Độc Cô Bàn Nhược của An Dĩ Hiên đã chinh phục người xem bằng thần thái cao quý, trí tuệ hơn người, đôi mắt sắc bén và diễn xuất nội tâm. Đây cũng là vai diễn phản diện hiếm hoi của cô trong suốt nhiều năm sự nghiệp.
Danh sách phim.
Phim truyền hình.
Album đĩa đơn và MV | 1 | null |
NGC 2467 là một vùng hình thành sao với bề ngoài nhìn bằng mắt thường trông giống như biểu tượng đầu lâu xương chéo nên còn được gọi là tinh vân đầu lâu xương chéo hoặc giống như một con khỉ mặt chó đầy màu sắc. Nằm trong chòm sao phía nam Thuyền Vĩ (Puppis), nó có chứa các cụm sao mở Haffner 18 (trung tâm) và Haffner 19 (giữa bên phải: nằm bên trong "mắt" màu hồng nhỏ hơn), cũng như các khu vực rộng lớn của khí ion hóa. Các ngôi sao sáng ở trung tâm của khu vực màu hồng lớn nhất là HD64315, một ngôi sao trẻ lớn có kiểu quang phổ O6 giúp định hình cấu trúc toàn bộ khu vực toàn bộ tinh vân. | 1 | null |
Hiraki Ryuzo (7 tháng 10 năm 1931 – 2 tháng 1 năm 2009) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Hiraki Ryuzo thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 1954 đến 1962.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||30||1 | 1 | null |
là một cựu cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Ông thi đấu cho đội tuyển quốc gia Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Ozaki sinh ngày 7 tháng 3 năm 1960 tại Tokyo. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông gia nhập Mitsubishi Motors năm 1978. Năm 1978, câu lạc bộ giành được cả ba danh hiệu lớn ở Nhật Bản; Japan Soccer League, Cúp JSL và Cúp Hoàng đế. Câu lạc bộ cũng đã giành được Cúp Hoàng đế 1980, Cúp JSL 1981 và Japan Soccer League 1982.
Tháng 7 năm 1983, Ozaki chuyển đến Đức và gia nhập Arminia Bielefeld. Ông là người Nhật Bản thứ hai thi đấu ở Bundesliga sau Okudera Yasuhiko. Năm 1985, Arminia Bielefeld bị xuống hạng 2. Bundesliga. Từ năm 1988, ông thi đấu tại St. Pauli (1988-89) và Düsseldorf (1989-90).
Năm 1990, Ozaki trở lại Nhật Bản và gia nhập Mitsubishi Motors (sau này là Urawa Reds). Ông chuyển đến Verdy Kawasaki năm 1993. Ông giải nghệ năm 1994.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia.
Tháng 8 năm 1979, Ozaki được chọn vào đội tuyển U-20 quốc gia Nhật Bản tham dự Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 1979. Ông thi đấu trong 3 trận với cương vị là đội trưởng. Ngày 8 tháng 2 năm 1981, ông có trận đấu đầu tiên trong màu áo đội tuyển quốc gia Nhật Bản gặp Malaysia. Ông thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 1982. Ông thi đấu 17 trận và ghi 3 bàn cho Nhật Bản cho đến năm 1983. Sau khi ông chuyển đến Đức năm 1983, ông không được chọn vào đội tuyển quốc gia Nhật Bản. | 1 | null |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Anh được biết đến với sức bền tốt. Anh ra mắt đội tuyển quốc gia ngày 9 tháng 8 năm 2006, trong trận giao hữu trước Trinidad và Tobago.
Thống kê sự nghiệp.
"Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2018". | 1 | null |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản currently plays ở vị trí tiền vệ cho JEF United Ichihara Chiba.
Sự nghiệp.
Anh ra mắt lần đầu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản ngày 16 tháng 8 năm 2006 trước Yemen.
Anh trai sinh đôi của anh, Hisato cũng là một cầu thủ bóng đá thi đấu cho Sanfrecce Hiroshima và Nhật Bản.
Thống kê câu lạc bộ.
"Cập nhật đến ngày 10 tháng 12 năm 2017". | 1 | null |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản thi đấu cho Vegalta Sendai.
Sự nghiệp.
Anh có màn ra mắt quốc tế cho Nhật Bản ngày 8 tháng 10 năm 2010 trong trận giao hữu trước Argentina.
Sau mùa giải 2017, anh có ý định giải nghệ. Mặc dù vậy, anh có thông báo bất ngờ và trở lại Vegalta Sendai vào tháng 4 năm 2018.
Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ.
"Cập nhật đến ngày 2 tháng 2 năm 2018".
1 | 1 | null |
là một cựu cầu thủ bóng đá người Nhật Bản gần đây thi đấu cho F.C. Tokyo.
Sự nghiệp.
Anh là thành viên của đội tuyển Olympic Nhật Bản 2004, vượt qua vòng một và đứng thứ tư bảng B, dưới đội đầu bảng Paraguay, Italy và Ghana.
Sau 1,5 thập kỷ dưới màu áo của FC Tokyo, anh giải nghệ năm 2017. Trận đấu cuối cùng của anh là J1 League vào ngày 2 tháng 12 năm 2017 trước Gamba Osaka, nhưng thực ra anh chính thức giải nghệ ngày sau đó, sau trận đấu ở J3 League cùng với đội dự bị trước U-23 Cerezo Osaka.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
"Cập nhật đến ngày 31 tháng 1 năm 2018". | 1 | null |
là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản hiện tại thi đấu cho JEF United Chiba.
Anh từng là thành viên của U-20 Nhật Bản thi đấu tại Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 2003 tổ chức ở UAE.
Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ.
"Cập nhật đến ngày 23 tháng 2 năm 2018".
1 | 1 | null |
Tokunaga Yūhei (, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1983 ở Kunimi, Nagasaki, Nhật Bản) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản hiện tại thi đấu cho V-Varen Nagasaki.
Sự nghiệp.
Anh là thành viên của đội tuyển Olympic Nhật Bản năm 2004, vượt qua vòng Một, về đích thứ tư dưới đội đầu bảng Paraguay, Ý và Ghana. Anh cũng là thành viên của đội tuyển Olympic Nhật Bản 2012, thành công hơn khi vào đến bán kết và thất bại trước đội bóng đoạt huy chương vàng, Mexico, sau đó đội còn thua trong trận play-off huy chương đồng trước Hàn Quốc.
Anh cũng có tên trong đội hình U-20 Nhật Bản tham dự Giải vô địch bóng đá trẻ thế giới 2003.
Thống kê sự nghiệp.
Cập nhật gần đây nhất: "5 tháng 1 năm 2018".
1 | 1 | null |
(sinh ngày 9 tháng 5 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản hiện đang thi đấu cho CLB Union Berlin tại giải vô địch quốc gia Bundesliga.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ năm 2011.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||74||11 | 1 | null |
(sinh ngày 31 tháng 8 năm 1974 ở Shizuoka) là một tiền vệ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp cầu lạc bộ.
Ito danh phần lớn sự nghiệp của anh ở Shimizu S-Pulse với 18 năm thi đấu từ năm 1993 tới năm 2010. Năm 2007 anh nhận giải fair play của J. League.
Đội tuyển quốc gia.
Năm 1996 Ito được triệu tập lên đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Nhật Bản tham dự Thế vận hội Mùa hè 1996. Anh chơi đủ toàn bộ cả ba trận đấu và có bàn thắng đáng nhớ vào lưới Brasil ở Atlanta giúp Nhật Bản thắng 1–0. Người Nhật gọi đây là "Ký tích Miami" ().
Ito có 27 lần khoác áo Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ 1997 tới 2001. Anh ngồi dự bị tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||27||0 | 1 | null |
Dominique Bona, sinh ngày 29.7.1953 tại Perpignan (Pyrénées-Orientales), là nhà văn người Pháp và là nữ viện sĩ của Viện hàn lâm Pháp từ ngày 18.4.2013 (ghế số 33).
Tiểu sử và Sự nghiệp.
Là con của nhà sử học và chính trị gia Arthur Conte (1920-2013), Dominique Bona học ở trường lycée Victor-Duruy, sau đó học ở đại học Sorbonne và đậu bằng thạc sĩ (agregé) văn chương hiện đại.
Bà đã làm nhà báo và nhà phê bình văn học ở đài phát thanh France Culture và France Inter từ năm 1976 tới năm 1980, sau đó làm nhà phê bình văn học cho nhật báo "Le Quotidien de Paris" từ năm 1980 tới năm 1985, rồi báo "Figaro littéraire" từ năm 1986.
Dominique Bona là thành viên Ban giám khảo Giải Renaudot từ năm 1999. Ngày 18.4.2013, bà được bầu vào Viện hàn lâm Pháp (ghế số 33). | 1 | null |
Ếch ương beo hay Ễnh ương Mỹ hay ếch bò Mỹ, ếch trâu Mỹ (tên khoa học: Lithobates catesbeianus) là một loài ếch trong họ Ranidae, là loài ếch lớn nhất ở Bắc Mỹ. Có nguồn gốc từ Đông Bắc Mỹ, những con ếch khổng lồ có thể nặng tới 0,6 kg đến 2 kg và dài tới 20 cm. Đây là một loài xâm lấn nguy hiểm. Loài ếch trâu này có nguồn gốc từ châu Mỹ. Chúng là món ăn của các loài chim, cá, các loài gặm nhấm và một số loài thú nhỏ.
Xâm lấn.
Loài này là một trong những loài xâm lấn dữ dội và đã được phát tán đến nhiều nước do hoạt động thương mại buôn bán thủy sản và cá cảnh. Ếch ương beo là đối tượng buôn bán và thường được nuôi lấy thịt ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, loài ễnh ương này là nguyên nhân tổn thất nặng nề số lượng các loài động vật hoang dã, bao gồm tôm, ếch, cá, kỳ nhông, thằn lằn, rắn và thậm chí cả các loài chim. Vấn đề chính là trong tự nhiên chúng có khả năng thích nghi cao, cạnh tranh mạnh và ăn cả các loài bò sát bản địa.
Chúg xuất hiện lần đầu tiên ở vùng Hanover, Đức, với số lượng lớn đến mức có thể được coi là một nạn dịch. Một người nuôi thú cảnh nào đó đã chán trò này và thả một vài con ra sông, vô tình mở đường cho chúng phát triển. Gặp môi trường đặc biệt thuận lợi, không hề có một kẻ thù tự nhiên nào cộng với điều kiện có sông ngòi, đầm lầy, ếch trâu đã sinh sản với tốc độ nhanh. Dân cư nhiều nơi trong vùng không dám đi ra khỏi nhà, mặc dù ếch trâu vô hại đối với con người. Tại một số vùng, những người đi xe mô tô than phiền rằng tấm thảm ếch trải trên đường đã khiến xe của họ bị trượt ngã và không thể đi được. Người ta không thể nhìn thấy nước vì ở đó chen chúc toàn ếch. | 1 | null |
là một cựu cầu thủ bóng đá Nhật Bản thi đấu chủ yếu ở vị trí hậu vệ cánh phải. Anh có 38 trận ra sân cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản từ 1994 tới 2003, trong đó có ba trận tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||38||0 | 1 | null |
Ếch Carribe (Danh pháp khoa học: "Eleutherodactylus coqui") là một loài ếch nhỏ, ồn ào, ăn thịt sâu bọ, có nguồn gốc từ Puerto Rico, nơi mà chúng sinh sản và có thể sống với mật độ đến 20000 cá thể trên một hecta. Chúng thích nghi và phát triển ở Hawaii và Đảo Virgin. ở Hawaii, chúng được coi vừa là loài gây hại ở thành thị vừa có khả năng đe doạ đến các loài chim rừng bản địa. | 1 | null |
là một cựu cầu thủ bóng đá Nhật Bản.
Yamada chủ yếu thi đấu trong vai trò hậu vệ hoặc tiền vệ. Anh dành trọn sự nghiệp tại câu lạc bộ Urawa Red Diamonds của J1 League với trên 500 trận đấu tại giải vô địch quốc gia. Anh có 15 lần khoác áo Đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||15||1 | 1 | null |
Quận Gwangsan (Gwangsan-gu) là một quận, giống như một phường, nằm ở thành phố Gwangju, Hàn Quốc. Tổng dân số của quận, tính đến tháng 9 năm 2004, là 295.294, và mật độ dân số là 1.085 trên 1 km. Nó là vùng chiếm 45% thành phố Gwangju.
Chim của quận là diệc trắng, hoa của quận là Chi Mộc lan, và cây của quận là Chi Thông. | 1 | null |
là một cựu cầu thủ bóng đá Nhật Bản. Anh từng thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Anh gia nhập Yokohama Flügels năm 1994. Anh thi đấu trong đội hình chính từ năm 1995 và chủ yếu đóng vai trò tiền vệ trái. Câu lạc bộ vô địch Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Á 1994–95. Vào năm 1998, câu lạc bộ vô địch Cúp Hoàng đế. Sau khi câu lạc bộ giải thế anh chuyển sang Yokohama F. Marinos. Anh chuyển sang Tokyo Verdy vào năm 2001 và tới Vissel Kobe năm 2005. Vào tháng 8 năm 2007, anh chuyển tới Yokohama FC và giải nghệ cuối mùa 2010.
Thống kê sự nghiệp.
!Tổng cộng||25||1 | 1 | null |
Scaphiopus couchii là một loài cóc. Đây là loài bản địa Đông Nam Hoa Kỳ, miền bắc Mexico, New Mexico, và bán đảo Baja. Chúng có thể được tìm thấy trên khắp sa mạc Sonoran, trong đó bao gồm các bộ phận của miền nam Arizona và California.Là một loại có có độc tố gây ảo giác, chất độc giống ma túy vậy | 1 | null |
Cóc chân xẻng Hurter (danh pháp khoa học: Scaphiopus hurteri) là một loài cóc chân xẻng tìm thấy ở phía nam trung bộ Hoa Kỳ (Texas, Louisiana, Arkansas, Oklahoma) và miền bắc Mexico. Loài cóc này đã từng được phân loại là phân loài của cóc chân xẻng phía đông (Scaphiopus holbrookii), nhưng nó đã được nâng thành loài riêng. Danh pháp chi tiết hurterii vinh danh nhà tự nhiên học người Mỹ gốc Thụy Sĩ và người phụ trách của Học viện Khoa học Louis, Julius Hurter. | 1 | null |
Trường Đại học Quốc phòng Séc (tiếng Séc: "Univerzita obrany", "UO"), (tiếng Anh: University of Defence (Czech Republic)) là một Trường Đại học thuộc Quân đội Cộng hoà Séc, tại Brno và Hradec Králové, đào tạo kỹ sư và chuyên gia quân sự cho các quân binh chủng thuộc Quân đội Cộng hoà Séc. | 1 | null |
Scaphiopus holbrookii, thường được gọi là cóc chân xẻng phía Đông, là một loài cóc chân xẻng loài đặc hữu của khu vực Bắc Mỹ. Loài cóc này được tìm thấy ở miền đông nam Hoa Kỳ, ngoại trừ khu vực miền núi, và cũng được tìm thấy dọc theo bờ biển phía bắc Đại Tây Dương, thông qua các tiểu bang Trung Đại Tây Dương, phía nam New England, bao gồm cả phía đông tiểu bang Massachusetts. Loài cóc này được tìm thấy ở các tiểu bang nội địa như Pennsylvania và New York, nhưng chỉ như xa về phía tây đến núi appalacia, và Thung lũng sông Hudson ở New York. | 1 | null |
Dịch vụ gia đình () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của diễn viên Kim Myung-min, Nam Sang-mi, Im Hyun-shik, Yeo Woon-kay, Kang Nam-gil, Geum Bo-ra, Kim Heechul và Lee Young-yoo. Phim được chiếu trên SBS từ ngày 22 tháng 3 đến 11 tháng 5 năm 2006 vào mỗi thứ 4&5 lúc 21:55 gồm 16 tập.
Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3.
Ratings.
Nguồn: TNSMK Korea | 1 | null |
Hormones: the Series (tên đầy đủ: Hormones วัยว้าวุ่น, ; tựa đề tiếng Việt: Tuổi nổi loạn) là sê-ri truyền hình tuổi teen Thái Lan được sản xuất bởi GTH và Nadao Bangkok, chiếu trên kênh GMM One với đánh giá phân loại PG-13. Bộ phim kể về cuộc sống và các mối quan hệ của một nhóm học sinh trung học khi trải qua cuộc sống gia đình và trường học và phải đối mặt với các vấn đề khác nhau. Phá vỡ khuôn mẫu của truyền hình Thái Lan, vốn nổi bật về phim truyện truyền hình và sitcom, "Hormones" đã được hình thành với một phong cách thường thấy ở Hoa Kỳ với các vấn đề gây tranh cãi như quan hệ tình dục thiếu niên và mang thai, đồng tính luyến ái và bạo lực học đường.
Mùa đầu tiên của bộ phim được đạo diễn bởi Songyos Sugmakanan, phát sóng trên kênh truyền hình vệ tinh GMM One và phát sóng trên mạng từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2013. Mặc dù không được phát sóng trên truyền hình mặt đất miễn phí và bị chỉ trích vì nội dung, bộ phim vẫn nhận được nhiều nhận xét tích cực và trở nên cực kì phổ biến, thúc đẩy việc tạo ra mùa thứ hai. Được đạo diễn bởi Kriangkrai Vachiratamporn, mùa thứ hai bắt đầu phát sóng vào tháng 7 năm 2014. Vào tháng 9 năm 2015, "Hormones" mùa thứ ba bắt đầu phát sóng với cái tên "Hormones 3: The Final Season" với dàn nhân vật chính là những diễn viên mới được chọn lựa từ "Hormones: The Next Gen".
Diễn viên.
Diễn viên chính.
Mùa 1 & 2:
Mùa 3: | 1 | null |
Vòng loại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2014 sẽ được tổ chức tại thủ đô Viêng Chăn, Lào từ ngày 12 đến ngày 20 tháng 10 năm 2014 với sự tham dự của 5 đội có thứ hạng thấp nhất tại khu vực Đông Nam Á. Các trận đấu được thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, lấy hai đội nhất và nhì bảng vòng loại tham dự vòng chung kết.
Vào tháng 8 năm 2013, Liên đoàn bóng đá Úc trở thành một thành viên đầy đủ của Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á, do đó làm cho họ đủ điều kiện để tham dự Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á. Tuy nhiên, họ đã không tham dự.
Lịch thi đấu.
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương () | 1 | null |
Hero xứ Alexandria (tiếng Anh: Hero of Alexandria, tiếng Pháp: Heron de Alexandrie, tiếng Hy Lạp: Ἥρων ὁ Ἀλεξανδρεύς, đọc là Heron ho Alexandreus) là nhà toán học và kỹ sư tại quê hương của ông là Alexandria, Ai Cập thuộc La Mã (ông có thể người Hy Lạp hoặc là người Ai Cập bị Hy Lạp hóa). Ông có rất nhiều đóng góp trong các lĩnh vực khác nhau kể từ khi Hy Lạp bước vào thế kỷ Công nguyên đầu tiên.
Toán học.
Ông viết rất nhiều các công trình liên quan đến toán học nên được người đương thời coi là bách khoa toàn thư về lĩnh vực này. Trong đó, tác phẩm quan trọng nhất là cuốn Metrica (tiếng Hy Lạp: Khoảng cách).
Số ảo.
Chính ông là người đầu tiên đến sự tồn tại của số ảo.
Phương trình.
Hero xứ Alexandria là người đưa ra những lời giải cho các phương trình, từ đó phát triển đại số trong những năm đầu Công nguyên.
Diện tích tam giác.
Hero cũng là người đưa ra công thức tính diện tích tam giác nổi tiếng.
Vật lý.
Ngoài toán học ra, Hero cũng viết nhiều sách về vật lý và cũng được mệnh danh là bách khoa toàn thư ở môn khoa học này.
Nhiệt kế.
Cùng với Philo, Hero cũng biết nguyên tắc sau: Một số chất, đặc biệt là không khí, sẽ co và dãn khi nhiệt độ thay đổi. Cả hai đã đặt ra cơ sở để phát minh ra nhiệt kế sau này.
Kỹ thuật.
Máy bán hàng.
Hero là nhà phát minh máy bán hàng đầu tiên của thế giới. Khi đồng tiền được bỏ vào khe, khối lượng của nó sẽ nâng một đòn bẩy làm cho một lượng nước được tính trước đổ ra. | 1 | null |
Áp-xe (bắt nguồn từ tiếng Pháp: "abcès") là một bọc mủ hình thành trong các mô của cơ thể. Các dấu hiệu và triệu chứng đối với những áp-xe ở gần da gồm: ửng đỏ, đau, nóng, và sưng, khi đè lên có cảm giác như một túi chất lỏng. Diện tích bị tấy đỏ thường lan rộng ngoài vùng sưng. Cụm nhọt (carbuncle) và nhọt (furuncle) là những loại áp-xe, thường do nhiễm trùng nang lông nhưng hậu bối lớn hơn.
Áp-xe thường gây ra do nhiễm khuẩn. Thường nhiều loại vi khuẩn cùng gây ra một ổ nhiễm trùng. Tại Hoa Kỳ và nhiều khu vực khác trên thế giới, vi khuẩn phổ biến nhất hiện nay là "Staphylococcus aureus kháng Methicillin". Ký sinh trùng hiếm khi gây ra áp-xe, thường chỉ phổ biến ở các nước đang phát triển. Chẩn đoán thường dựa trên quan sát bề ngoài và chứng thực bằng cách cắt mở. Siêu âm có thể hữu ích trong những trường hợp mà khó chẩn đoán. Đối với áp-xe quanh hậu môn, chụp cắt lớp vi tính (CT) rất quan trọng để tìm những ổ nhiễm trùng sâu hơn.
Điều trị chuẩn cho hầu hết các áp-xe da hoặc mô mềm là cắt mở và rút mủ. Đối với phần lớn người khỏe mạnh thì việc sử dụng thêm kháng sinh dường như không đem lại lợi ích gì cho loại áp-xe này. Một số ít bằng chứng cho thấy không cần băng vết thương bằng gạc sau khi đã rút mủ. Để hở vết mổ có thể làm cho nó mau lành và giảm nguy cơ bị áp-xe trở lại hơn là băng kín nó. Dùng kim hút mủ ra thường là không đủ.
Áp-xe da khá phổ biến và đang trở nên phổ biến hơn nữa trong những năm gần đây. Những yếu tố nguy cơ bao gồm tiêm thuốc tĩnh mạch với tỉ lệ được báo cáo lên đến 65% các trường hợp bị áp-xe. Năm 2005, tại Hoa Kỳ có 3,2 triệu người phải vào phòng cấp cứu vì áp-xe. Tương tự, ở Úc có khoảng 13.000 người nhập viện trong năm 2008.
Dấu hiệu và triệu chứng.
Áp-xe có thể xảy ra trong bất kì loại mô rắn nào nhưng nhiều nhất là ở trên bề mặt da (nơi chúng có thể ở dạng mụn mủ cạn hoặc áp-xe sâu), trong phổi, não, răng, thận và amiđan. Những biến chứng chính gây ra bởi áp-xe là lan rộng vùng áp-xe đến các mô lân cận hoặc xa và hủy hoại một vùng mô sâu rộng (hoại tử).
Những triệu chứng và dấu hiệu chính của áp-xe da là ửng đỏ, nóng, sưng, đau và mất chức năng. Nó cũng có thể gây sốt và ớn lạnh.
Một ổ áp-xe bên trong thì khó nhận diện hơn, nhưng những dấu hiệu bao gồm đau ở vùng bị thương tổn, sốt cao, và cảm giác toàn thân không khỏe. Áp-xe bên trong hiếm khi tự lành, do đó cần có 1 sự chăm sóc y tế kịp thời nếu nghi ngờ bị áp-xe.
Nếu ở bề mặt, những ổ áp-xe có thể dao động khi sờ vào. Đó là dao động dạng sóng do sự chuyển động của mủ bên trong.
Nguyên nhân.
Yếu tố nguy cơ gây ra sự hình thành áp-xe là sử dụng thuốc tiêm tĩnh mạch. Yếu tố khác cũng có khả năng gây áp-xe là tiền sử bị thoát vị đĩa đệm hoặc có sự bất thường ở cột sống, tuy nhiên điều này chưa được chứng minh.
Áp-xe gây ra bởi nhiễm trùng, nhiễm ký sinh trùng, hoặc các chất lạ. Nhiễm trùng là nguyên nhân phổ biến nhất. Thường có nhiều chủng vi khuẩn có liên quan đến cùng 1 ổ nhiễm trùng. Tại Hoa Kỳ và nhiều khu vực khác trên thế giới, vi khuẩn hiện diện phổ biến nhất là "Staphylococcus aureus kháng methicillin". Trong những ca áp-xe màng cứng cột sống, "Staphylococcus aureus" (tụ cầu khuẩn) nhạy cảm với methicillin là vi sinh vật phổ biến nhất gây bệnh.
Ký sinh trùng hiếm khi gây ra áp-xe và trường hợp này phổ biến hơn ở những nước đang phát triển. Những ký sinh trùng được xác định gây ra áp-xe bao gồm: giun chỉ và giòi (myiasis).
Áp-xe quanh hậu môn.
Phẫu thuật rò hậu môn để thoát dịch ổ áp-xe để trị lỗ rò và làm giảm khả năng tái phát và khả năng phải tái phẫu thuật lần nữa. Không có bằng chứng chứng minh són phân gây ảnh hưởng đến phẫu thuật thoát dịch áp-xe.
Áp-xe quanh hậu môn có thể xuất hiện ở các bệnh nhân bị bệnh viêm ruột (chẳng hạn như bệnh Crohn) hoặc tiểu đường. Áp-xe thường bắt đầu bằng một vết thương bên trong gây ra bởi ung nhọt, phân cứng hoặc bị những vật thể không đủ trơn xâm nhập. Vết thương này thường bị nhiễm trùng do tiếp xúc với phân trong vùng trực tràng, và sau đó phát triển thành áp-xe. Nó thường xuất hiện như một khối u ở mô gần hậu môn và ngày càng phình to và đau. Cũng giống như những loại áp-xe khác, áp-xe quanh hậu môn có thể cần phải được điều trị y khoa nhanh chóng, chẳng hạn như rạch mổ mở và thoát dịch ổ áp-xe.
Áp-xe vết mổ.
Áp-xe vết mổ là một trong những biến chứng thứ phát của vết thương phẫu thuật (hậu phẫu). Dấu hiệu là nóng đỏ tại đường rạch thoát mủ. Nếu chẩn đoán không chắc chắn, cần dùng kim hút mủ từ vết thương ra, nhuộm Gram và cấy khuẩn để xác định.
Chẩn đoán.
Áp-xe là một bọc mủ cục bộ (mô viêm mủ) hình thành từ một sự mưng mủ trong một mô hoặc cơ quan, được bao bọc bởi một màng sinh mủ.
Phân loại.
Áp-xe có thể được phân thành hai loại: "áp-xe da (dưới da)" hoặc "áp-xe nội". Áp-xe dưới da khá phổ biến; áp-xe nội khó chẩn đoán hơn và nghiêm trọng hơn.
Sử dụng thuốc tiêm tĩnh mạch.
Đối với những người có tiền sử tiêm thuốc tĩnh mạch, nên được chụp X quang trước khi điều trị để xác định chắc chắn không có mảnh kim gãy. Đối với những trường hợp này, nếu có kèm theo sốt, thì nên lưu ý đến thể viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.
Phân biệt.
Áp-xe khác với viêm tích mủ, viêm tích mủ là sự tích tụ mủ trong một khoang của cơ thể có sẵn, còn áp-xe là tích mủ trong khoang mới được tạo ra.
Ở các trường hợp khác cũng có thể gây nên những triệu chứng tương tự, chẳng hạn: viêm mô bào, nang bã nhờn và viêm cân mạc hoại tử (necrotising fasciitis). Viêm mô bào thường gây phản ứng ban đỏ đặc thù nhưng không chảy mủ.
Điều trị.
Điều trị tiêu chuẩn cho áp-xe nhẹ ở da hoặc mô mềm là mổ mở và dẫn lưu mủ. Ở phần lớn trường hợp không thấy bất kì lợi ích nào cho việc kèm thêm thuốc kháng sinh. Một số ít bằng chứng không tìm thấy lợi ích từ việc băng kín ổ áp-xe với gạc y tế.
Rạch và dẫn lưu mủ.
Phải nên kiểm tra để xác định xem nguyên nhân gây áp-xe có phải do vật thể lạ hay không, nếu có phải loại bỏ vật thể. Nếu nguyên nhân không phải do vật thể lạ gây nên, thì điều trị tiêu chuẩn là rạch và dẫn lưu mủ. | 1 | null |
Bệnh sử hay phần hỏi bệnh (viết tắt hx hay Hx) của một bệnh nhân là những dữ liệu thu thập được bởi một bác sĩ qua việc hỏi những câu hỏi cụ thể, hoặc hỏi trực tiếp bệnh nhân hoặc dán tiếp qua người quen bệnh nhân và có thể cung cấp các thông tin cần thiết về bệnh nhân, với mục đích là nắm được các thông tin có ích trong việc xây dựng một chẩn đoán y khoa và việc chăm sóc y khoa cho bệnh nhân. Các dấu hiệu có liên quan đến bệnh lý được bệnh nhân hay người thân của bệnh nhân tường trình được gọi là các triệu chứng chú quan, phân biệt với các triệu chứng khách quan là những biểu hiện được xác định bởi thăm khám trực tiếp do các nhân viên y tế thực hiện. Hấu như ở tất cả mọi trường hợp đều dẫn đến việc thu thập bệnh sử theo một hình thức nào đó. Các bệnh sử khác nhau về chiều sâu và trọng tâm. Ví dụ, một chuyên viên cấp cứu làm việc trên xe cứu thương thường giới hạn bệnh sử trong các thông tin quan trọng, như là tiền sử của dấu hiệu hiện thời, dị ứng, vân vân. Ngược lại, một bệnh án tâm thần thường dài dòng và sâu sắc, do nhiều chi tiết về cuộc sống bệnh nhân đáng giá trong việc xây dựng một phác đồ quản sóc một chứng tâm thần.
Các thông tin thu thập bằng cách này, cùng với thăm khám trực tiếp, cho phép bác sĩ và các chuyên viên y tế hình thành một chẩn đoán và phác đồ điều trị. Nếu không thể đưa ra chẩn đoán xác định, một chẩn đoán sơ bộ và các khả năng khác (chẩn đoán phân biệt) có thể được đưa ra, ghi theo thứ tự nguy cơ theo quy ước. Phác đồ điều trị sau đó có thể bổ sung các xét nghiệm sâu hơn để làm rõ chẩn đoán.
Quy trình hỏi bệnh.
Một bác sĩ thường đưa ra các câu hỏi để thu thập các thông tin sau đây về bệnh nhân:
Việc hỏi bệnh có thể là "hỏi bệnh tổng quát" (gồm một bộ câu hỏi cố định và mở rộng, thường chỉ được thực hiện bởi học sinh sinh viên y khoa) hay "iterative hypothesis testing" (các câu hỏi được giới hạn và thay đổi thích nghi để chọn loại trừ các chẩn đoán có khả năng dựa trên các thông tin đã có, như được thực hiện bởi các nhà lâm sàng bận rộn bị giới hạn về mặt thời gian). Hỏi bệnh vi tính hóa có thể là một phần không thể thiếu trong các hệ thống hỗ trợ quyết định lâm sàng.
Lược qua các cơ quan.
Dù một tình trạng nhất định có dường như giới hạn trong bất kì một hệ cơ quan nào thì tất cả các hệ cơ quan khác cũng sẽ được hỏi sơ lược trong một phần hỏi bệnh đầy đủ. Phần lược qua các cơ quan thường bao gồm toàn bộ các hệ cơ quan chính trong cơ thể nào có thể cung cấp cơ hội để người khai nhắc đến triệu chứng hay lo lắng mà họ đã không nhắc đến trong phần bệnh sử. Chuyên viên y tế có thể cấu trúc phần sơ lược các cơ quan như sau:
Các yếu tố bất lợi.
Các yếu tố cản trở một cuộc hỏi bệnh sử đúng nghĩa bao gồm bệnh nhân mất khả năng thực thể để giao tiếp với thầy thuốc, như là bất tỉnh hay các chứng về giao tiếp. Trong những trường hợp đó, có thể cần tới việc hỏi bệnh gián tiếp qua người quen biết bệnh nhân và có thể cung cấp các thông tin phù hợp tuy có nhiều giới hạn hơn hỏi bệnh trực tiếp.
Hỏi bệnh cũng có thể bất khả thi do hàng loạt các yếu tố ngăn cản mối quan hệ bác sĩ-bệnh nhân đúng mực, như khi chuyển bệnh cho các thầy thuốc xa lạ đối với bệnh nhân.
Việc hỏi bệnh các vấn đề liên quan đến sinh dục hay khả năng sinh sản có thể bị ức chế do sự nghi ngại không muốn tiết lộ những thông tin thân mật kín đáo về phía người bệnh. Hay ngay cả khi những vấn đề bệnh lý xuất hiện trong tư tưởng người bệnh, họ thường không tự nói ra nếu không có khơi gợi chủ đề bằng một câu hỏi cụ thể về sức khỏe sinh sản hay sinh dục. Sự quen thuộc với bác sĩ thường khiến mọi việc dễ dàng hơn cho bệnh nhân để nói về các vấn đề rịêng tư như chủ đề sinh dục,nhưng đối với một vài bệnh nhân, sự quen thuộc cao độ có thể khiến bệnh nhân không muốn tiết lộ các vấn đề riêng tư như vậy. Khi tìm đến nhân viên y tế vì những vấn đề sinh dục, sự có mặt của cả bệnh nhân và vợ/chồng/người yêu bệnh nhân thường cần thiết, và cũng thường có hiệu quả, nhưng cũng có thể ngăn bệnh nhân tiết lộ một vài vấn đề nhất định, và, theo 1 báo cáo thì điều này tăng mức độ stress của bệnh nhân.
Hỏi bệnh với sự trợ giúp của điện toán.
Các hệ thống hỏi bệnh với sự trợ giúp của điện toán đã có mặt từ những năm 60 của thế kỳ XX. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng hay không là tùy vào mỗi hệ thống y tế.
Một lợi thế của việc dùng các hệ thống vi tính hóa như một nguồn thông tin y khoa phụ hay thậm chí nguồn chính là bệnh nhân ít nhạy cảm hơn với xu hướng mong muốn cộng đồng. Ví dụ, khả năng bệnh nhân thuật lại việc họ tham gia vào các hành vi lối sống không lành mạnh là cao hơn. Một ưu điểm khác của việc sử dụng các hệ thống vi tính hóa là cách làm này đem lại sự thuận lợi cho việc chuyển thông tin vào bệnh án điện tử của bệnh nhân.
Một bất lợi các của các hệ thống hỏi bệnh hiện nay (2012) là chúng không thể nhận biết giao tiếp không lời, cử chỉ của bệnh nhân có thể giúp giải thích các chứng lo âu và có ích trong việc kế hoạch điều trị. Một nhược điểm khác là người ta có thể cảm thấy không thoải mái bằng khi giao tiếp người với người. Trong một bối cảnh hỏi bệnh tình dục dưới hình thức tự phỏng vấn được máy tính hỗ trợ ở Úc, có 51% số người tham gia cảm thấy rất thoải mái, 35% cảm thấy thoải mái, và 14% còn lại cảm thấy không thoải mái hoặc rất không thoải mái.
Bằng chứng ủng hộ hay chống lại các hệ thống khai thác bệnh sử được máy tính hỗ trợ còn ít ỏi. Ví dụ, như năm 2011, không có các thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng để so sánh hình thức dùng máy tính hỗ trợ với hình thức hỏi và ghi ghép truyền thống trong khai thác tiểu sử gia đình để xác định bệnh nhân có nguy cơ phát triển chứng đái tháo đường tuýp 2 cao. | 1 | null |
Cái chặn cửa hay còn gọi là chặn cửa, đồ chặn cửa (tiếng Anh: "Doorstop" hoặc "Door stop") là vật dụng dùng để giữ cánh cửa mở hoặc đóng, hay để điều chỉnh độ mở của cánh cửa. Có nhiều dạng chặn cửa khác nhau như miếng kim loại có nam châm hút giữ cánh cửa khi mở ra hoặc miếng gỗ, cao su cố định hoặc di động để chặn độ mở của cánh cửa. Mục đích sử dụng cái chặn cửa là dùng để tránh cánh cửa và khung cửa hoặc tường chỗ đóng mở bị dập làm mất thẩm mỹ hoặc gây tiếng ồn khó chịu khi bị đóng một cách bất ngờ bởi cơn gió. | 1 | null |
Dầu hào là một loại nước sốt được chế biến bằng cách chế biến hàu. Được dùng phổ biến nhất hiện nay là một thứ gia vị màu nâu sẫm nhớt làm từ đường,muối và nước với bột ngô,có mùi vị tinh chất hoặc chiết xuất từ loài hàu. Một số phiên bản có thể tối sẫm như màu caramel, mặc dù dầu hào chất lượng cao tối sẫm tự nhiên. Thường được dùng trong các món ăn Quảng Đông, Thái, Việt và Khmer. | 1 | null |
Kim sắc đường (Konjiki-dō) là khu lăng mộ và đền thờ thuộc Trung Tôn tự (Chūson-ji), một ngôi chùa Thiên Thai tông tại tỉnh Iwate miền Đông Bắc Nhật Bản, là một Phật đường được kiến tạo vào cuối thời kỳ Heian. Kim sắc đường được Fujiwara no Kiyohira (藤原清衡) kiến lập vào năm Tenji đầu tiên (Tây lịch 1124) và là công trình kiến trúc tiêu biểu cho Tịnh độ tông trong thời Heian, cùng với Phượng Hoàng đường (Hō-ō-dō) thuộc Bình Đẳng viện (Byōdō-in) ở kinh đô Kyōto. Kim sắc đường là kết tập kỹ thuật đương thời và được chỉ định là quốc bảo (báu vật quốc gia) của Nhật Bản. Kim sắc đường thuộc quyền sở hữu của pháp nhân tôn giáo Kim sắc viện (Konjiki-in).
Kiến trúc và trang trí bên trong.
Khái yếu.
Kim sắc đường được xây hơi hướng về phía Tây của khuôn viên Trung Tôn tự, mặt chính diện ở phía Đông và là một tiểu Phật đường mỗi bề 5.5m, mặt chính diện và mặt bên rộng 3 gian. Đường nằm bên trong phúc đường (ōi-dō, saya-dō. Phúc đường là một công trình kiến trúc đơn giản bao bọc bên ngoài để bảo vệ các di tích lịch sử, kiến trúc quan trọng) và ngăn cách với không khí bên ngoài bởi lồng thủy tinh.
Kim sắc đường được xây dựng dưới bàn tay của Fujiwara no Kiyohira, ông tổ của dòng họ Fujiwara ở miền Ōshū phía Bắc nước Nhật. Trên cây đòn dông còn có bút tích ghi lại quá trình xây dựng, đàn chủ xây dựng, tên người thợ mộc là Oribe Kiyokuni cùng với niên hiệu Tenji nguyên niên (1124) nên người ta cho rằng đường được kiến lập vào năm này. Năm 2006, khi tháo dở đường để trùng tu thì sở nghiên cứu tài sản văn hóa Nara đã lấy ra một phần vật liệu của Kim sắc đường và chụp ảnh bằng máy kỹ thuật số để điều tra niên đại theo phương pháp trắc định vân gỗ. Theo kết quả điều tra thì cây gỗ được dùng để kiến lập Kim sắc đường bị đốn hạ trong khoảng năm 1114~1116 nên thuyết cho rằng đường được kiến lập năm 1124 được củng cố về mặt khoa học. Năm Bunji thứ 5 (1189), ngay sau khi Fujiwara ở Ōshū diệt vong thì Shinren, một Bettō (Bettō là chức tăng quan) coi sóc kinh tạng của Trung Tôn tự có trình lên Minamoto no Yoritomo một bản báo cáo gọi là "tự tháp kỷ hạ chú văn" (Ji tō i ge no chū mon) ghi rõ các ngôi đường còn lại trong Trung Tôn tự đương thời, trong đó có đoạn ghi "Kim sắc đường 4 mặt trên dưới đều có màu vàng kim". Chi tiết này cho biết đương thời cũng gọi là "Kim sắc đường".
Hình thức kiến trúc.
Về mặt bằng thì mặt chính diện và các mặt bên của đường, mỗi mặt rộng 3 gian (1 gian khoảng 1.82m). Giữa các cột ở mặt chính diện, gian mép ngoài của mặt bên, gian chánh giữa của mặt sau đều có cửa cánh gỗ mở ra hai bên, các gian còn lại giữa các trụ là vách tường bằng gỗ xếp ngang. Các trụ gỗ có dạng ống, giữa các trụ với nhau được liên kết bằng thanh gỗ ngang theo 3 kiểu là liên kết bên dưới các trụ (Ji-nageshi), liên kết ngay bên trên rầm cửa lùa (Kamoi) giữa các trụ (Uchinori-nageshi) và liên kết phía trên đầu trụ (Kashira-nuki). Phần cơ cấu phía trên trụ, đỡ mái hiên gọi là Kumi-mono được cấu thành từ Santo (Tam đẩu, gồm Daito, Hijiki và Makito theo thứ tự từ dưới lên), Naka-zonae (Trung bị, cơ cấu nằm giữa các Kumi-mono để đỡ các thanh xà ngang nằm trên trụ, mang đậm tính trang trí) và Kaeru-mata (đùi ếch, bộ phận nằm giữa các thanh ngang, có chức năng nâng đỡ sức nặng phía trên và để trang trí, có hình chữ bát như con ếch bành 2 chân).
Mái hiên được cấu thành theo kiểu Futa-noki Shige-taruki, theo đó các thanh gỗ dài gọi là Taruki nối từ cây đòn dong ra đến mép hiên xếp thành 2 lớp, khoảng cách san sát nhau. Mái nhà theo kiểu Hōgyō-zukuri (bảo hình tạo/phương hình tạo), trong đó không tồn tại cây đòn dông ngang mà chỉ có các cây đòn bắt theo hướng chéo từ các góc, giao nhau tụ tại một điểm trên đỉnh, hình thành nên dạng kim tự tháp.
Phần mái được lợp từ những miếng gỗ có hình ngói. Xung quanh Kim sắc đường có phần rìa bao quanh nhưng không có lan can hay bậc tam cấp.
Bên trong đường có 4 trụ đứng, phía trong là "nội trận" (Naijin, phần sâu bên trong, nơi an trí tượng Phật bổn tôn) còn phía ngoài là "ngoại trận" (gejin, phía ngoài nơi khách thập phương lễ bái). Nếu biểu ký theo phương pháp thể hiện quy mô mặt bằng của công trình kiến trúc được dùng từ thời kỳ Heian là "gian diện ký pháp" (kenmen kihō) thì Kim sắc đường là "nhất gian tứ diện" (1 gian 4 mặt), là điển hình của kiến trúc A Di Đà đường. Bên trong nội trận có Tu Di đàn (Shumidan, phần bệ an trí tượng Phật) được trang sức bằng các thứ vàng kim và đồ sơn mài, nằm hơi lùi về phía sau so với 2 cây trụ đằng trước. Phía trong bên tả và bên hữu của ngoại trận (góc Tây Bắc và góc Tây Nam) từng bên đều có bố trí Tu Di đàn, nhưng là do đời sau đặt vào chứ nguyên thủy không có. Gian bên hông được nối nhau bằng Mume (thanh ngang không có rãnh để đưa cửa lùa vào), Nageshi (thanh gỗ ngang liên kết giữa các trụ) và Kashira-nuki (thanh gỗ ngang nối phía trên đầu trụ) và giữa các trụ có đặt các cơ cấu Santo (Tam đẩu) đỡ phần mái, giữa cơ cấu đỡ này lại đặt các đùi ếch (Kaeru-mata). Các trụ ở bên hông được nối nhau bằng những thanh gỗ ngang, cong hình cầu vòng gọi là Tsunagi-kōryō. Phần mái thì phía nội trận làm theo kiểu Oriage Kogumi gō tenjō, theo đó bên trong khung trần nhà được nâng cao hơn một bậc, còn phía ngoại trận thì theo kiểu Keshō Yane-ura không lót tấm trần, để lộ phía sau phần gỗ lợp mái và cây gỗ Taruki đỡ mái nhà. Trên 3 Tu Di đàn có an trí tượng A Di Đà tam tôn như thuật ở phần sau. Phía trong Tu Di đàn có an trí xác ướp của 4 đời dòng họ Fujiwawa. Tu Di đàn chính giữa chứa xác của Kiyohira, đàn bên hữu là xác con trai Motohira và thủ cấp của người chắt là Yasuhira, đàn bên tả là xác người cháu nội Hidehira. Di thể của họ không được chôn dưới đất mà được đặt trong cỗ quan hình hộp bằng gỗ dát vàng an trí bên trong đường. Như vậy thì Kim sắc đường là một tòa kiến trúc A Di Đà đường, còn mang tính cách mộ đường, miếu đường của dòng họ Fujiwara.
Trang sức.
Đúng như tên gọi, cả bên trong lẫn bên ngoài của Kim sắc đường đều được dát vàng. Từ cửa, tường, mái hiên cho đến mặt sàn đều được quét sơn mài, sau đó dát lên trên một lớp vàng. Tuy nhiên khi tháo dỡ để tu sửa thì không xác nhận được vết tích dát vàng ở phần ngói gỗ nên chỉ có bộ phận này được cho là không được dát vàng.
Trong đường có 4 trụ gọi là "trụ cuốn" (Maki-bashira), đẽo theo hình bát giác từ gỗ cây Hiba (một loại bách) và được dán thêm phần gỗ cây Sugi (liễu sam) để bo thành hình trụ tròn. Cách làm này nhằm tránh việc gỗ bị nứt do khô và cũng là để trang sức sơn mài lên bề mặt của trụ. Trên 4 trụ cuốn có vẽ các Bảo tướng hoa văn (Hōsōge-mon); một dạng họa tiết trang trí thịnh hành trong thời Nara, Heian, và hình tượng Phật bằng khảm vỏ ốc và thủ pháp gọi là Maki-e, theo đó hình tượng được vẽ bằng sơn mài, sau được phủ lên một lớp bột vàng, bạc cùng màu sắc. Đây là trường hợp hiếm hoi ở Nhật Bản thể hiện tượng Phật trong Phật đường không phải qua bích họa mà qua đồ thủ công mỹ nghệ sơn mài.
Phần tiếp giáp với sàn nhà của mỗi trụ được bao bọc bằng đế kim loại hình cánh sen. Phần thân trụ có thể hiện Bảo tướng hoa văn bằng khảm vỏ ốc Dạ quang và thủ pháp Ikakeji, một kiểu xử lý nền của tranh Maki-e, theo đó người ta rải bột vàng, bạc đã mài lên trên lớp sơn mài nền, sau đó quét sơn lên. Bảo tướng hoa văn ở thân trụ được thể hiện thành 5 dải hẹp, hình thành nên 4 họa khu trên thân trụ. Trong số này thì 3 họa khu phía trên thể hiện tượng Bồ Tát bằng thủ pháp Togidashi Maki-e (vẽ bằng sơn mài, sau rải bột vàng, bạc và màu sắc lên, để khô rồi lại quét sơn lên. Sau khi để khô lần nữa thì dùng than gỗ để mài phần bột ra), còn họa khu phía dưới cùng thể hiện Bảo tướng hoa văn với nét to bằng khảm vỏ ốc. Mỗi trụ thể hiện 4 pho tượng Bồ Tát ở 3 hàng như vậy, nên tổng thể tượng Bồ Tát trên mỗi trụ là 12 pho và cả thảy trong đường là 48 pho. Về danh hiệu và chủ đề các tượng Bồ Tát này thì có nhiều thuyết khác nhau, không thống nhất. Và trong số 4 trụ thì 2 trụ phía sau là hàng phục nguyên khi tháo dỡ để trùng tu, còn trụ gốc vì mục nát nên không được sử dụng sau khi trùng tu mà bảo quản ở nơi khác.
Các cơ cấu liên kết trong nội trận như Mume, Nageshi, Kashira-nuki, Santo, Kaeru-mata đều được trang trí Bảo tướng hoa văn với thủ pháp Ikakeji và khảm vỏ ốc. Phần Mume và Nageshi thì ngoài khảm vỏ ốc, còn được dán hình trang sức Bảo tướng hoa văn bằng miếng đồng gia công theo phương pháp khoét (Sukashi-bori) ở chính giữa của 2 mép. Trần nhà được dát vàng kín mặt, còn phần giao nhau giữa các vật liệu ngang dọc trên trần được dán trang sức bằng miếng đồng khoét hình Bảo tướng hoa văn. Chính giữa phyần giao nhau có trang sức miếng kính bằng đồng trắng. Phần trần nhà phía trên Tu Di đàn chính giữa, bên tả và bên hữu có treo lộng (Tengai) bằng gỗ đẽo khoét, nhưng đây cũng là bản phục nguyên khi tháo dở, còn lộng nguyên bản đã được bảo quản ở nơi khác.
Mặt bên của Tu Di đàn được trang sức bằng hình chim Khổng tước theo phương pháp phù điêu. Kỹ pháp của đồ trang sức mặt bên của Tu Di đàn chính giữa và hai bên tả hữu cũng khác nhau. Tu Di đàn chính giữa chủ yếu được trang sức bằng Bảo tướng hoa văn kim loại theo phương pháp khoét, phần ván ghép ở mặt bên cũng được trang sức bằng phù điêu đồng. Trái lại, Tu Di đàn hai bên tả hữu chủ yếu được trang sức bằng đồ khảm vỏ ốc. Trên Tu Di đàn có lan can, đàn chánh giữa có lõi bằng gỗ cây Hinoki (một loại bách), trên có dán đồ khảm vỏ ốc trên nền gỗ cây Chỉ đàn (Giáng hương mắt chim). Trái lại, ở hai bên đàn tả hữu thì dùng phương pháp khảm vỏ ốc với Ikakeji như các chỗ khác trong đường. Phần Lan can của đàn chánh giữa có đường biên làm bằng chất sừng, trên có dán ngà voi thành đường thẳng. Kết quả giám định cho thấy đây không phải ngà của voi Á châu mà là voi Phi châu và được cho là du nhập vào Nhật Bản qua đường mậu dịch phương Bắc. Điều này cho thấy tài lực và thế lực của dòng họ Fujiwara ở Ōshū đương thời lớn mạnh như thế nào.
Bảo tồn công trình.
Đương thời, Kim sắc đường được xây dựng ngoài trời, nhưng mấy mươi năm sau kể từ khi kiến lập thì đường có thêm công trình tạm để che chắn mưa gió. Cuối cùng, đến năm Shō-ō đầu tiên (Tây lịch 1288) thì Tướng quân Mạc phủ Kamakura bấy giờ là Thân vương Koreyasu ra lệnh cho xây dựng thêm Saya-dō bao bọc lấy Kim sắc đường từ bên ngoài. Saya-dō như hiện nay được xây dựng bằng bê tông cốt thép từ năm 1965. Kim sắc đường được bảo vệ trong lồng kính được điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm bên trong Saya-dō này. Còn Saya-dō cũ bằng gỗ được dựng từ thời Kamakura được chỉ định là tài sản văn hóa quan trọng và đã được chuyển đi, cách Kim sắc đường về phía Tây Bắc.
Trải qua thời gian dài, Kim sắc đường chịu nhiều hư hại do chuột nên được tháo dở để trùng tu từ năm 1962~1968 và được phục nguyên hình dáng như thuở ban đầu. Sau khi tháo dở để trùng tu thì những chỗ vật liệu chịu nhiều sức nặng và không thể tái sử dụng đã được bảo quản riêng, và một phần trong số chúng được trưng bày bên trong Saya-dō. Từ năm 1986~1990, Saya-dō cũng được trùng tu lại và thay mới lồng kính bảo vệ Kim sắc đường bên trong. Kim sắc đường được chỉ định là "tạo vật kiến trúc được bảo hộ đặc biệt" (tương ứng với tài sản văn hóa quan trọng theo luật pháp hiện hành) theo luật bảo tồn đền chùa cũ vào năm Meiji thứ 30 (1897). Đến năm 1951, Kim sắc đường được chỉ định là bảo vật quốc gia theo luật bảo hộ tài sản văn hóa.
Tượng Phật.
Tượng Phật bố trí trong đường gồm quần tượng 11 pho trên mỗi Tu Di đàn, ở chánh giữa và hai bên tả hữu. Chánh giữa mỗi đàn là tượng A Di Đà Tam Tôn (tượng A Di Đà Như Lai ngồi, tượng Quan Âm Bồ Tát đứng, tượng Thế Chí Bồ tát đứng, hai bên tả hữu lần lượt có 3 pho tượng Địa Tạng Bồ Tát đứng, cả thảy là 6 pho (lục Địa Tạng), phía trước có 2 tượng Thiên vương (Trì Quốc Thiên và Tăng Trưởng Thiên). Nhưng ở Tu Di đàn bên hữu đã mất pho tượng Tăng Trưởng Thiên bên hữu trong số 2 tượng Thiên vương, nên tổng số tượng an trí trong đường còn 32 pho. Và tượng A Di Đà Như Lai ở Tu Di đàn bên hữu được cho là hậu thế mang từ nơi khác đến, không phải là tượng bổn tôn ban đầu của Kim sắc đường, nên tượng gốc trong đường chỉ có 31 pho. Tượng A Di Đà Như Lai ở Tu Di đành chánh giữa và bên tả thì thì hai tay bắt Định ấn, trong khi tượng A Di Đà Như Lai ở Tu Di đàn bên hữu thì tay hữu giơ lên, tay tả hả xuống thành ấn Lai nghênh, và chiều cao cũng thấp hơn một bậc nên thấy rõ ràng là không phải tượng vốn có của Kim sắc đường.
Về chiều cao thì tượng A Di Đà ở Tu Di đàn chánh giữa cao 62.3 cm, tượng Di Đà ở Tu Di đàn bên tả cao 65.4 cm trong khi tượng Di Đà ở đàn bên hữu chỉ cao 48.9 cm, còn các tượng khác cao từ 60~70 cm kể cả đế. Kim sắc đường cũng từng được sửa chữa vào thời Edo. Theo văn thư của Sengaku-in (Tiên Nhạc viện) thì các tượng Phật được đưa ra khỏi Kim sắc đường vào năm Genroku thứ 17 (Tây lịch 1704), nên rất có thể đã phát sinh nhầm lẫn khi di chuyển tượng. Theo tạp ký Hira-izumi thì trong số các tượng A Di Đà thì có 1 pho bị trộm trong thời Edo.
Bên trong Tu Di đàn có an trí thi hài của dòng họ Fujiwara xứ Ōshū, trung ương đàn là Fujiwara no Kiyohira, hữu đàn là con trai Kiyohira là Motohira, tả đàn là cháu trai Hidehira. Kiyohira mất năm Daiji thứ 3 (1128), Motohide mất năm Hogen thứ 2 (1157) còn Hidehira mất năm Bunji thứ 3 (1187), tức 3 thế hệ dòng họ Fujiwara này mất cách nhau chừng 30 năm.
Các pho tượng Phật được suy đoán là bố trí trên 3 Tu Di đàn trong khoảng thời gian trước sau khi 3 nhân vật họ Fujiwara kể trên qua đời ít lâu, và cách bố trí cũng không phải là giữ nguyên từ thời Heian đến nay mà được hậu thế sắp đặt lại nhiều chỗ. Các pho tượng được tạc theo phương pháp ghép nhiều mảnh gỗ lại với nhau (Yosegi-zukuri) và phương pháp đẽo từ một khúc gỗ duy nhất (Ichiboku-zukuri). Quần tượng được làm từ ba loại gỗ Katsura, Hiba và Hinoki và đều được quét sơn. Từ dạng thức của tượng, loại gỗ và phương pháp lắp ghép đều có thể suy đoán được niên đại chế tác.
Trong các pho tượng A Di Đà tam tôn trong Kim sắc đường thì pho tượng A Di Đà ở Tu Di đàn chánh giữa mang dáng dấp tác phẩm của Phật sư Jōchō và Phật sư Empa vào cuối thời Heian, nên người ta suy đoán là được chế tác vào nửa cuối thế kỷ 12 và là tượng bổn tôn nguyên thủy của trung ương đàn. Hai tượng Quan Âm và Thế Chí bên cạnh A Di Đà Như Lai ở trung ương đàn được coi là một bộ. Mặt khác, tượng Thiên vương ở trung ương đàn có thân mảnh khảnh, vặn mạnh hông, giơ cao một chân và một tay, phất mạnh tay áo, thể hiện chuyển động dữ dội. Trong khi đó thì tượng Thiên vương ở tả đàn toàn thân to lớn, động tác cơ thể và vẻ mặt phẫn nộ có phần khiêm nhường. Tượng Thiên vương bên hữu đàn (chỉ còn lại 1 pho) lại có tác phong trung gian giữa tượng ở trung ương đàn và tượng ở tả đàn. Hai tượng Thiên vương ở Bạch Thủy A Di Đà đường (Shiramizu Amida-dō), tỉnh Fukushima (tạo tác khoảng năm 1160) được cho là giống với tượng ở trung ương đàn trong Kim sắc đường, và từ kiểu dáng thì có thể thấy hai tượng Thiên vương ở trung ương đàn hiện tại được tạo tác vào giữa thế kỷ thứ 12, nên suy đoán vốn ban đầu nằm ở hữu đàn (nơi chứa di hài của Motohira).
Còn tượng nhị Thiên vương bên tả đàn hiện tại (chứa thi hài Hidehira) mang tác phong ôn hòa, niên đại trở về trước nữa nên được suy đoán là ban đầu nằm ở trung ương đàn. Như vậy thì tượng Thiên vương bên hữu đàn (hiện chỉ còn 1) vốn ban đầu thuộc bên tả đàn và là tạo vật cuối thời Heian.
Tượng lục Địa Tạng trong Kim sắc đường thì không có sự khác biệt nhiều lắm về dạng thức như tượng nhị Thiên vương. Từ tác phong và kỹ pháp lắp từ nhiều mảnh gỗ, người ta suy đoán lục Địa Tạng ở tả đàn vốn thuộc về trung ương đàn.
Hai tượng Quan Âm, Thế Chí trong bộ A Di Đà tam tôn bên hữu đàn có đặc điểm là thân thon, hông cao và phần đầu nhỏ. Từ kiểu dáng mà nói thì hai tượng bên hữu đàn này vốn cùng một bộ với tượng A Di Đà Như Lai bên tả đàn. Còn tượng A Di Đà Như Lai ngồi bên tả đàn được cho là vốn cùng một bộ với tượng nhị Thiên vương và lục Địa Tạng ở trung ương đàn, và nguyên lai thuộc bên hữu đàn. Như vậy, hai tượng Quan Âm, Thế Chí bên tả đàn cùng tượng nhị Thiên vương, lục Địa Tạng bên hữu đàn vốn ban đầu thuộc bên tả đàn và là tác phẩm vào cuối thời Heian. Sau khi chỉnh lý như trên thì thấy bộ A Di Đà tam tôn ở trung ương đàn và hai tượng Quan Âm, Thế Chí bên tả đàn vốn ở vị trí ban đầu của mình, nhưng tượng A Di Đà bên hữu đàn sau đó được di chuyển sang tả đàn, tượng nhị Thiên vương và lục Địa Tạng ở trung ương đàn bị chuyển sang tả đàn, còn tượng ban đầu ở hữu đàn được chuyển sang trung ương đàn, còn tượng ban đầu ở tả đàn được chuyển sang hữu đàn.
Di hài của họ Fujiwara và các đồ mai táng.
Di hài.
Bên trong Tu Di đàn của Kim sắc đường lần lượt chứa di hài của 4 đời dòng họ Fujiwara theo thứ tự từ là Fujiwara no Kiyohira, Motohira, Hidehira và đầu lâu của Yasuhira. Từng di hài được an trí bên trong trung ương đàn, tả đàn và hữu đàn. Theo ghi chép của chùa thì trung ương đàn an trí di hài của Kiyohira, tả đàn, hữu đàn lần lượt an trí di thể của Motohira và Hidehira nhưng theo kết quả điều tra khoa học vào năm 1950 thì ngược lại, người được an tán bên tả đàn là Hidehira, bên hữu đàn là Motohira. Còn thủ cấp của người chắt, chủ nhân đời thứ 4 và cuối cùng của dòng họ này là Yasuhira (theo chùa là đầu của Tadahira, em trai Yasuhira) được bỏ trong thùng đựng thủ cấp bên hữu đàn. Tả đàn, hữu đàn ở đây là nhìn từ phía tượng bổn tôn, còn nhìn từ góc của người chiêm bái thì ngược lại. Để tránh nhần lẫm, tả đàn còn được gọi là "Tây Bắc đàn" và hữu đàn được gọi là "Tây Nam đàn".
Trong số 3 Tu Di đàn này thì các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng trung ương đàn được tạo ra sớm nhất, còn hữu đàn và tả đàn được tạo tác sau này. Nhưng thời kỳ tạo tác của tả đàn và hữu đàn thì có thuyết cho rằng hữu đàn có trước tả đàn, nhưng cũng có thuyết cho rằng tả đàn và hữu đàn được khai sinh đồng thời.
Fujiwara no Motohira chết năm Hōgen thứ 2 (1157), còn Hidehira chết năm Bunji thứ 3 (1187) nên nếu cho rằng hữu đàn và tả đàn lần lượt được thiết lập sau khi từng người chết thì hai đàn được tạo cách nhau 30 năm. Khi so sánh tả đàn và hữu đàn thì thấy các đồ trang trí, cách thi công trần nhà tuy có khác biệt nhưng hầu như không đáng kể nên không thể kết luận được sự khác biệt này là do chênh lệch thời đại hay do chênh lệhc tay nghề, cá tính của người thợ.
Năm 1950, tờ báo Asahi Shimbun có tổ chức một cuộc điều tra mang tính học thuật về di hài 4 đời của dòng họ Fujiwara và các đồ mai táng. Cuộc điều tra do tiến sĩ vật lý Asahina Tei-ichi làm đoàn trưởng, ngoài ra còn có các nhà chuyên môn khác tham gia, chẳng hạn như học giả nhân loại học, lịch sử mỹ thuật là Hasebe Kotondo, học giả vi sinh vật học Ōtsuki Torao, nhà thực vật học Ōga Ichirō nổi tiếng với đề tài nghiên cứu sen và Mori Kahei, học giả lịch sử kinh tế xã hội nổi tiếng trong việc nghiên cứu lịch sử tỉnh Iwate. Cuộc điều tra mang tính khoa học, các di thể được chụp tia X và kết quả điều tra được tổng hợp trong báo cáo thư "Trung Tôn tự và 4 đời họ Fujiwara". Theo ý kiến của Taruzawa San-no-suke, người phụ trách phân tích hình ảnh tia X thì xác ở trung ương đàn lúc chết đã quá 70 tuổi, nguyên nhân tử vong là xuất huyết não và nửa thân bên trái bị tê liệt. Xác cao tuổi thứ hai nằm ở hữu đàn, tuổi từ 60~70, được suy đoán là chết do viêm tủy sống. Còn xác ở tả đàn trẻ nhất trong 3 xác, tuổi trong khoảng 60 và không thấy vế tích của bệnh mãn tính, được xem là đột tử do tắc mạch máu não khi còn đang khỏe mạnh. Ngày nay người ta xem xác ở trung ương đàn là của Kiyohira, bên hữu đàn là Motohira, tả đàn là Hidehira nên nếu điều này là đúng thì xác ở tả đàn và hữu đàn ngược lại với ghi chép của chùa. Tuy nhiên, năm sinh chính xác của Motohira vẫn chưa được rõ ràng và được sử sách xem là chết quanh tuổi 50, không khớp với kết quả điều tra trên nên cũng có ý kiến cho rằng bên tả đàn là xác của Motohira, còn bên hữu đàn là Hidehira như dữ liệu của chùa.
Về việc các xác này được ướp nhân tạo hay tự nhiên mà trở thành xác ướp thì vẫn chưa được sáng tỏ. Theo Hasebe Kotondo, một thành viên của đoàn điều tra viết trong báo cáo thư thì trong di thể không có dấu vết của xử lý nhân tạo. Còn về quan tài chứa xác (bằng gỗ dát vàng) và đồ mai táng thì kết quả điều tra cho thấy nhiều khả năng bên hữu đàn là của Motohira, bên tả đàn là của Hidehira (ngược với dữ liệu của chùa). Theo ý kiến của một thành viên trong đoàn điều tra là Ishida Mosaku, học giả lịch sử mỹ thuật thì chỉ có quan tài bên tả đàn mới được quét lót bằng bột đất sét nung trước khi quét sơn lên. Đây là kỹ thuật tiên tiến nên quan tài này có niên đại trẻ nhất trong số 3 quan tài nên nhiều khả năng là của Hidehira. Nhưng đoàn điều tra học thuật năm 1950 không phải là những người đầu tiên chạm mắt đến các di thể và quan tài, mà từ thời Edo đã có ghi chép về việc kiểm tra các quan tài này. Theo cuốn "tạp ký Hira-izumi" vào niên hiệu An-ei của thầy thuốc Aihara Tomonao thì trong lần sửa chữa Kim sắc đường năm Genroku thứ 12 (1699), quan tài đã được di chuyển.
Trung Tôn tự liên hoa.
Trong cuộc điều tra năm 1950, người ta phát hiện ra hơn 100 hạt sen bên trong thùng đựng thủ cấp của Fujiwara no Yasuhira. Số hạt sen này được giao lại cho Ōga Ichirō, đệ nhất vương giả về sen bấy giờ có tham gia vào cuộc điều tra. Tuy nhiên ông này đã không làm hạt sen nảy mầm được. Nhưng người đệ tử của Ōga là Nagashima Tokiko đã thành công trong việc làm số hạt sen này nảy mầm. Yasuhira chết năm 811 và số hạt sen này nảy nở, khai hoa vào năm 2000. Hiện nay, loại sen này được gọi là "Trung Tôn tự liên hoa" và được trồng ở chính ngôi chùa này.
Các đồ mai táng khác.
Các đồ mai táng bên trong quan tài gồm các loại áo trắng, đao kiếm, tràng hạt niệm Phật, ngoài ra còn có nhiều thứ không thuộc chủng loại nào, tất cả đều được chỉ định là tài sản văn hóa trọng yếu, có giá trị trong việc nghiên cứu học thuật. Các món đồ này gồm những thứ phong nhã kinh đô cho tới những vật mang đậm tính địa phương như đồ trang sức kiếm bằng sừng nai. Quan tài thì được đóng từ gỗ cây Hiba, bên ngoài dát vàng. Vàng lá được dùng để dát quan tài cùng loại với vàng dát Kim sắc đường, và được cho là để bảo đảm tính thần thánh, thanh tịnh cho người chết. Trong quan tài ở trung ương đàn có thanh kiếm cán bằng gỗ đỏ, thân kiếm có khảm vàng bạc. Khảm lên thân kiếm là điều thường thấy ở thời thượng cổ, nhưng thời Heian thì rất hiếm gặp. Ngoài ra các loại gấm vóc tuy đã rách thành nhiều mảnh nhưng cũng là tư liệu quý trọng vì di vật dệt nhuộm thời Heian rất hiếm.
Bảo vật quốc gia.
Các đồ vật sau được chỉ định là quốc bảo của nước Nhật.
Trong số 6 tấm Hoa Mạn thì 2 tấm đã gửi cho viện bác vật Tōkyō, 1 tấm và 1 đầu phướn gửi cho viện bác vật Nara, bàn gỗ được gửi cho viện bác vật Sendai.
Ngoài ra, bản thân Kim sắc đường cùng nhiều đồ vật liên quan khác cũng được chỉ định là quốc bảo Nhật Bản. Bản thân Kim sắc đường cùng Trung Tôn tự là một thành phần trong quần thể di tích Hira-zumi thể hiện cho cõi Cực Lạc Tịnh Độ ở trần gian. Quần thể di tích Hira-izumi này được UNESCO công nhận là di sản Thế giới vào ngày 26 tháng 6 năm 2011.
Đặt tên.
Một nhà thiên văn nghiệp dư người Nhật đã phát hiện ra 2 tiểu hành tinh mới và đặt tên cho chúng là (Kim sắc đường) và Hakurojo (Bạch Lộ thành, tên gọi khác của thành Himeji). Tên này đã được đăng ký với trung tâm liên hợp tiểu hành tinh thiên văn học vào ngày 30 tháng 9 năm 2010. | 1 | null |
Miguel d’Escoto Brockmann sinh ngày 5 tháng 2 năm 1933 tại Los Angeles, Hoa Kỳ là một linh mục Công giáo thuộc dòng Maryknoll. Ông là Bộ trưởng Ngoại giao Nicaragua từ năm 1979 đến 1990 và là đại diện của Libya tại Liên Hợp Quốc, Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc từ tháng 5 năm 2008 đến tháng 9 năm 2009. Ông chủ trì Kỳ họp lần thứ 63 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Ông cũng là đại sứ cuối cùng của Libya tại Liên Hợp Quốc.
Sự nghiệp.
Năm 1953, D'Escoto cảm thấy ơn kêu gọi làm linh mục nên gia nhập chủng viện của Hội Truyền giáo Maryknoll. Ông được thụ phong linh mục của hội dòng này vào năm 1961, trước khi ông tham gia làm chính trị. Ông có bằng thạc sĩ Khoa học của trường Đại học Columbia với chuyên ngành Báo chí. Ông là một trong những thành viên quan trọng thành lập nhà xuất bản Maryknoll, Orbis Books vào năm 1970. Ông là một thành viên của Hội đồng Giáo hội Thế giới.
Tháng 1, năm 1973, D'Escoto đã thành lập một Quỹ Phát triển Cộng đồng (FUNDECI) và là Chủ tịch của tổ chức cho đến nay, quỹ hoạt động phần lớn tại Nicaragua<ref name = ONU /
Nội chiến tại Nicaragua.
Tháng 10 năm 1977, D'Escoto đầu tiên công khai bày tỏ sự hỗ trợ cho FSLN. Ông được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ ngoại giao trong chính phủ FSLN Daniel Ortega từ năm 1979 đến năm 1990., và từng là bộ trưởng ngoại giao trong chuyến thăm tới Trung Mỹ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II Giáo hoàng lúc này đã công khai cảnh cáo ông vì đã hoạt động chính trị..
Năm 1985, Giáo hoàng lên án ông cùng hai linh mục khác là anh em Ernesto Cardenal và Fernando, những người phục vụ trong chính phủ Nicaragua, vì họ đã không từ chức điều đó cũng có nghĩa là họ đã vi phạm giáo luật. Vatican đã đình chỉ thừa tác vụ linh mục của D'Escoto vào năm 1985, cùng với hai linh mục trên.
Trong cuộc chiến tranh Contra, chính quyền Reagan coi D'Escoto là người ôn hoà thân thiện. Ở cương vị Bộ trưởng Ngoại giao, ông đã nhận được giải thưởng Lênin Hòa bình cho 1986, và giải thưởng Thomas Merton cho năm 1987 và Năm 1999.
Tổng Giám mục của Managua và Hồng y Miguel Obando y Bravo đã chỉ trích những linh mục tham gia bộ máy cầm quyền Sandinista và từ bỏ sứ vụ linh mục của họ đối để làm chính trị vì theo họ các linh mục này đã không thể lên án những bất công xảy ra tại thời điểm đó..
Hoạt động tại Liên Hợp Quốc.
Miguel d’Escoto Brockmann được chọn làm ứng cử viên cho chức vụ Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Ngày 4 tháng 6 năm 2008, ông được ứng cử và chủ trì kỳ họp lần thứ 63 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và đảm nhiệm chức vụ này từ tháng 5 năm 2008 đến tháng 9 năm 2009.
Ngay sau khi đắc cử, D'Escoto đã tuyên bố trong một cuộc họp báo:
D'Escoto cũng nói rằng việc giải quyết vấn đề tăng giá năng lượng và lương thực trên toàn thế giới sẽ được ông được ưu tiên. Ông cũng sẽ ưu tiên cho việc chống nghèo đói, biến đổi khí hậu, khủng bố, nhân quyền, giải trừ quân bị, kiểm soát hạt nhân, đa dạng văn hóa, các quyền của phụ nữ và trẻ em và bảo vệ đa dạng sinh học.
Tháng 6 năm 2010, D'Escoto được bầu vào Ban Cố vấn Hội đồng của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.
D'Escoto đã thực hiện nhiều cải cách tại Liên Hợp Quốc. Ông đã chỉ trích quyền phủ quyết nắm giữ bởi năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an".
Trong mối quan hệ với Hoa Kỳ, theo bình luận của Reuters, D'Escoto được coi là "một nhà phê bình gay gắt"
Huyền chức linh mục.
Năm 1985 Miguel d’Escoto Brockmann đã bị huyền chức linh mục vì đã tham gia bộ máy cầm quyền của chính phủ Sandinista ở Nicaragua. Cho đến nay, ông đã chấp nhận hình phạt huyền chức này và không tham gia vào việc thi hành mục vụ, mặc dù ông vẫn là tu sĩ của Dòng Maryknoll.
Sau khi rời khỏi chính trường, Brockmann đã viết thư cho Giáo hoàng nhằm bày tỏ mong muốn được "cử hành Thánh lễ trước khi qua đời".
Ngày 04 tháng 08 năm 2014, Toà Thánh Vatican cho biết Giáo hoàng Phanxicô đã chấp thuận thỉnh cầu của ông bằng việc tha vạ huyền chức linh mục (a divinis, treo chén) cho Miguel d’Escoto Brockmann. Tòa thánh giao cho Bề trên Tổng quyền Dòng Maryknoll xúc tiến thủ tục tái đón nhận D'Escoto vào hàng linh mục lại. | 1 | null |
Họa sĩ gió hay Vườn hoa của gió (Hangul: 바람의 화원, Hanja: 바람의畫員, Romaja quốc ngữ: Baram-ui Hwawon) là một bộ phim truyền hình cổ trang Hàn Quốc 2008 với sự tham gia của diễn viên Moon Geun-young và Park Shin-yang. Dựa trên cuốn tiểu thuyết giả sử của Lee Jung-myung . Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3.
Kịch bản.
14 năm trước, năm Nhâm Ngọ, Tư Điệu thái tử bị vu khống có mưu đồ tạo phản. Lo lắng mình bị hại, Tư Điệu thái tử đã từng giết người hầu của mình, và tỏ ra có vấn đề về mặt tâm lý. Lợi dụng điểm này, phe phái Ngoại thích mà đứng đầu là Tả thừa tướng Wusang và Vương phi Trinh Thuần đã tìm cách sàm tấu với đức vua Anh Tổ xử tội con trai của mình. Nhà vua không trực tiếp tuyên chỉ nhưng thế lực Ngoại thích đã tìm mọi cách hại Tư Điệu thái tử điện hạ chịu hình phạt chết ngạt trong thùng gạo và bị phế vương hiệu.
4 năm sau, vì hối hận với những gì mình làm với con trai, vua Anh Tổ đã cho gọi hai họa viên của Đồ Họa Thư (Học viện mỹ thuật hoàng gia Triều Tiên thời đó) hạ mật chỉ vẽ lại Ngự chân dung cho con trai theo hình thức Dung họa (Vẽ theo miêu tả) để công nhận Đế hiệu cho con trai mình, như một người chính thức kế vị. Không may, phe Ngoại thích nắm được tin tức này. Họ đã triệu tập Đại hành thủ thương lái Kim Triệu Niên bí mật ám sát hai họa viên. Họa sư đại học sĩ Khang Thọ Hàn bị hạ độc vì màu vẽ còn cộng sự là họa viên Từ Tĩnh cùng vợ bị đâm chết. Con gái của họ mất tích. Chuyện này xảy ra năm Bính Thìn(1766).
Năm Đinh Dậu, 1776, con trai của Tư Điệu thái tử lên ngôi, lấy hiệu là Trang Tổ Ý. Nhà vua trẻ mong muốn cải cách nhưng trong nước có nhiều điều không thuận lợi về thời tiết cũng như chính trị. Vua quyết định đi cầu mưa mong thái bình thịnh trị. Nhân lúc đó, Vương phi Trinh Thuần giờ đã là Thái Hoàng thái hậu bí mật xuất cung gặp lại tình nhân năm xưa. Đó cũng nhằm ngày các họa học viên của Đồ Họa Thư đi vẽ xuân họa. Một học trò của Đồ Họa Thư là Shin Yun Bok (Thân Nhuận Phước) - con thứ của Ijie đại nhân (tương đương với hiệu phó) Shin Hangpyung đã tình cờ vẽ lại hình dáng của Thái Hoàng thái hậu. Phát hiện ra, bà ta vô cùng nổi giận và lo sợ bị bại lộ, bà ta đã cho tìm ngay học trò dám vẽ lại mình.
Đồ Họa Thư náo loạn vì không một thầy giáo nào có khả năng tìm được học trò đó, hơn nữa lại có lệnh của Thái Hoàng thái hậu sẽ trị tội người đứng đầu Đồ Họa Thư. Nhân lúc đó, nhà vua đã ra chiếu chỉ triệu tập một họa viên bị Đồ Họa Thư đày đi Mỹ Hằng Sơn từ 10 năm trước là Đàn Viên Kim Hoành Đạo trở về. Đàn Viên là một đại danh họa, cũng là bạn thân của Từ Tĩnh, một trong hai người bị sát hại 10 năm trước. Anh ta quyết tâm tìm ra kẻ sát hại bạn mình nên thế lực Ngoại thích rất lo sợ. Họ tìm mọi cách hãm hại Đàn Viên.
Về phần Đàn Viên, sự trở về lần này là cơ hội để tìm ra kẻ sát hại người bạn thân năm xưa và cũng là để làm nhiệm vụ do hoàng đế giao phó. Đàn Viên không khó khăn gì để nhận ra, Thân Nhuận Phước thực sự là một tài năng bẩm sinh với cách nhìn nhận cuộc sống táo bạo và sáng tạo hơn hẳn những gì bó buộc tư tưởng của họa sĩ ở Đồ Họa Thư. Đàn Viên tìm mọi cách bảo vệ học trò khỏi hình phạt bị phế tay, thậm chí không ngần ngại chịu lãnh kết quả xấu nhất. Kết cục cuối cùng của vụ lộn xộn này là: Shin Young Bok - đại huynh của Thân Nhuận Phước nhận tội thay cho tiểu đệ và bị đày đến xưởng chế tác màu và trang trí hoàng cung Đan Thanh Sở. Thân Nhuận Phước vì chuyện này mà chán nản, định từ bỏ niềm đam mê hội họa nhưng Đàn Viên đã tìm đủ mọi cách để lôi kéo Thân Nhuận Phước khỏi sự chán nản đó.
Thân Nhuận Phước đã định bỏ học nên bị cấm túc và có nguy cơ bị đuổi trong khi Đàn Viên cũng có nguy cơ phải trở lại Mỹ Hằng Sơn. Điều kiện đặt ra cho cả hai thầy trò nếu muốn ở lại Hanyang (Hán Dương) thì Thân Nhuận Phước phải đỗ để trở thành một họa viên thực sự chứ không còn là một học viên nữa. Điều này không phải dễ dàng vì thường thì chỉ lấy duy nhất một học viên đỗ đầu cho các kỳ thi. Hai thầy trò Kim Hoành Đạo - Thân Nhuận Phước đã vượt qua thử thách, bất chấp sự hãm hại đủ mọi cách của Biệt Đề đại nhân (tương đương với hiệu trưởng của Đồ Họa Thư). Thân Nhuận Phước chính thức trở thành họa viên ngay năm Đinh Dậu (1776) nhờ duy nhất một vị giám khảo chấm đỗ là hoàng đế.
Ngay sau đó, hai thầy trò Kim Hoành Đạo - Thân Nhuận Phước trở thành cánh tay phải đắc lực của vua Chính Tổ trong việc tìm hiểu xã hội và dân tình. Tai hại là những bức vẽ của Thân Nhuận Phước đã động chạm đến xã hội thượng lưu và một vài vị quan lại. Cả Đồ Họa Thư bị cải tạo lao động, phải làm việc rất nặng nhọc. Chính Tổ tức giận vô cùng, thêm mong muốn tập trung quyền lực tối cao nên đã ra lệnh thi tuyển Ngự chân họa sĩ vẽ Ngự chân dung. Tất cả thành viên của Đồ Họa Thư được trở về và chuẩn bị cho kỳ thi đó. Lại một lần nữa hai thầy trò Kim Hoành Đạo - Thân Nhuận Phước vượt qua thử thách và trở thành Ngự chân họa sĩ, mặc dù phe Ngoại thích lại giở trò hãm hại.
Trong quá trình vẽ Ngự chân dung, Kim Hoành Đạo nảy sinh thứ tình cảm đặc biệt với học trò không chỉ là tình thầy trò, bạn bè mà còn là tình yêu, mặc dù Đàn Viên Kim Hoành Đạo đã tìm mọi cách để phủ nhận. Không may, màu vẽ của họ bị huỷ vì những mưu toan của phe Ngoại thích. Anh trai của Thân Nhuận Phước tìm cách chế màu cho em nhưng vì tác dụng phụ của màu vẽ, anh bị nhiễm độc và gặp tai nạn trong lúc làm việc. Đau lòng vì cái chết của anh trai, Thân Nhuận Phước đã không thể kiềm chế được trong lúc các quần thần phản biện Ngự chân dung và đã xé bức tranh cao quý đó. Thân Nhuận Phước bị khép vào tội chết nhưng Kim Hoành Đạo đã tự mình phế tay để xin hoàng đế tha thứ. Thân Nhuận Phước thoát chết nhưng bị trục xuất khỏi Đồ Họa Thư.
Thời còn là học viên Đồ Hoạ Thư, Thân Nhuận Phước đã từng quen biết với một cầm kỹ nổi danh là Jeong Hyang. Nàng cầm kỹ vừa thông minh vừa xinh đẹp đó đã phải lòng tiểu họa công vì chàng là người hiểu tiếng đàn của nàng và tâm hồn nàng. Giữa họ đã nảy nở một tình cảm tri âm tri kỷ. Không ngờ ngày Thân Nhuận Phước đỗ đạt thành hoạ viên cũng là ngày Jeong Hyang bị chủ kỹ viện bán cho Đại hành thủ thương lái Kim Triệu Niên. Nàng đau khổ, ngậm đắng nuốt cay về phủ thương lái. Trong lúc chơi đàn cho bữa tiệc rượu của Đại hành thủ, nàng nghe tin Thân Nhuận Phước bị xử tội do xé Ngự chân dung, Jeong Hyang đã tìm mọi cách để cứu Thân Nhuận Phước, kể cả khôn khéo gợi ý cho Đại hành thủ - người yêu thích hội họa - để cứu người nàng yêu thương. Vì thế, ngay sau khi thoát chết, Thân Nhuận Phước bị cha bán cho Đại hành thủ thương lái là điều dễ hiểu. Ngay trước đó, Thân Nhuận Phước được Kim Hoành Đạo đề tặng họa danh Hyewon (Huệ Viên) đi cùng hoạ danh của Kim là Danwon (Đàn Viên)
Trong thời gian làm họa công tại xưởng họa tư thục của Đại hành thủ, Thân Nhuận Phước một lần nữa được hoàng đế triệu tập vào cung điện, tại đây Thân Nhuận Phước gặp lại Kim Hoành Đạo. Hai thầy trò nhận thánh chỉ của nhà vua đi tìm bức Ngự chân dung bị mất tích của Thái tử bị truất phế năm xưa. Trong quá trình tìm kiếm, Thân Nhuận Phước bất ngờ lộ ra thân phận là một cô nương, và bất ngờ hơn nữa, chính là con gái đã mất tích của Từ Tĩnh. Cho đến lúc đó, Kim Hoành Đạo mới khám phá ra, Ijie đại nhân Shin Hangpyong vì thấy cô bé Yun (tên thật của Thân Nhuận Phước) có tài năng về hội họa đã mồ côi nên đem về nuôi với ý định nhờ tài năng ấy làm rạng danh cho gia tộc. Đàn Viên, với tình cảm dành cho người bạn quá cố và tình yêu đối với Thân Nhuận Phước giờ là Yun, đã vô cùng giận dữ và đứng ra tuyên bố cắt đứt quan hệ giữa Thân Nhuận Phước và nhà họ Thân. Jeong Hyang cũng đã biết chuyện này và nàng đã rất đau khổ, chỉ mong tìm lại cái chết, nhưng khi bình tĩnh lại, nàng đã giữ mãi mối tình ấy trong trái tim mình vì thực sự Thân Nhuận Phước cũng yêu quý nàng và mãi mãi coi nàng như tri âm tri kỷ.
Sau đó không lâu, hai thầy trò Đàn Viên - Huệ Viên phát hiện ra Đại hành thủ Kim Triệu Niên là người đã sai sát thủ giết chết Họa sư đại học sĩ và Từ Tĩnh năm xưa. Huệ Viên đã vô cùng phẫn nộ vì bấy lâu cô đã phục vụ cho kẻ giết cha mình, cũng mong muốn trả thù. Vì những thái độ thách thức với Kim Triệu Niên, cộng thêm với những chi tiết mà Biệt đề cung cấp, Kim Triệu Niên nhanh chóng đoán ra Huệ Viên là một cô gái. Tên lái buôn cáo già định đẩy hai thầy trò Đàn Viên - Huệ Viên vào một cuộc đối họa tỉ thí nhằm huỷ hoại sự nghiệp và danh tiếng của cả hai. May mắn thay, Đàn Viên đã tìm được cách để phá hoại mưu kế này. Kim Triệu Niên trở nên khánh kiệt vì đã tổ chức cá cược cho cuộc tỉ thí.
Thua một cách đau đớn, hắn muốn trả thù Đàn Viên nhưng sau hắn còn kinh ngạc hơn khi biết Huệ Viên chính là con của nạn nhân hắn từng hại. Hắn gửi thư cho Thái hoàng thái hậu tiết lộ thân phận của Huệ Viên. Thái hoàng thái hậu lợi dụng điểm này định phủ nhận bức Ngự chân dung vẽ Tư Điệu thái tử và ngăn cản việc phong Đế hiệu. Tuy nhiên, đức vua Trang Tổ Ý vì quá mến tài họa công, lại thêm cần làm việc lớn nên đã tìm cách che mắt Thái Hoàng thái hậu, đồng thời tha tội khi quân cho Huệ Viên, có điều Huệ Viên không thể trở về Đồ Họa Thư được nữa mà phải mai danh ẩn tích suốt đời. Đàn Viên tình nguyện đi theo để bảo vệ học trò cũng là người mà Đàn Viên yêu thương nhất. Thật không may cho họ là Thái hoàng thái hậu đã một mực truy sát Đàn Viên đồng thời muốn minh chứng thân phận thật của Huệ Viên. Trong lúc hai thầy trò cùng đường bỗng nhận được thư khẩn của thương gia Kim Triệu Niên. Hắn ta đã bị tể tướng Wusang truy sát hòng bịt đầu mối trốn tội.
Huệ Viên rất lo sợ nên có ý nghĩ ra đi một mình để đảm bảo an toàn cho Đàn Viên. Đọc xong thư của Kim Triệu Niên giao cho, Đàn Viên nhận ra dây là bằng chứng chỉ ra những người trực tiếp trong phe Ngoại thích hãm hại Tư Điệu thái tử. Đàn Viên hẹn Huệ Viên tại căn nhà cũ của Từ Tĩnh, còn mình thì trực tiếp vào cung, dâng sớ cho Hoàng đế. Được sự bảo hộ của nhà vua, Đàn Viên cảm thấy yên tâm, nhưng đó cũng là lúc Đàn Viên nhớ lại những lời Huệ Viên nói như muốn từ biệt. Đàn Viên trở lại căn nhà trên đồi nhưng …. trống vắng, chỉ còn một bức Mỹ nhân họa được căng khung.
Huệ Viên ra đi trên một chiếc thuyền nhỏ, biến mất khỏi lịch sử.
Đánh giá.
Nguồn: TNS Media Korea | 1 | null |
Tracy Mosby (họ gốc là McConnell), còn được biết đến với bí danh "The Mother" (tạm dịch: "Người Mẹ"),là nhân vật chính trong loạt phim hài kịch tình huống truyền hình dài tập của đài CBS "How I Met Your Mother". Loạt phim, do Ted Tương lai thuật lại, kể về câu chuyện làm thế nào mà nhân vật Ted Mosby gặp The Mother. Tracy McConnell xuất hiện trong 8 tập phim từ tập "Lucky Penny" đến tập "The Time Travelers" dưới dạng nhân vật chưa được lộ mặt, trước khi xuất hiện trong 14 tập khác với sự diễn xuất của Cristin Milioti. Trong tập cuối của bộ phim, cô được tiết lộ đã mất vào năm 2024 bởi một căn bệnh không rõ nguyên nhân, nhận được những phản ứng trái chiều từ người hâm mộ.
Thân thế.
The Mother sinh ngày 19 tháng 9 năm 1984 The Mother, cùng với bạn cùng phòng Kelly (người đến nhầm quán MacLaren's) đang đợi Max, bạn trai của cô đến, cho đến khi cô nhận được cuộc gọi xác minh với cô rằng anh đã mất. Sau khi quay trở lại căn hộ của mình, cô mở món quà cuối của Max cho cô - một cây đàn bốn dây. The Mother trải qua vài năm mà vẫn chưa vượt qua chuyện cô vẫn tin anh là tình yêu đích thực duy nhất của cô.
Trong tập "Wait for It" có tiệt lộ một câu chuyện ngắn hơn của cách mà họ gặp nhau bằng một cây dù màu vàng. Trong tập "No Tomorrow", Ted tìm được cây dù tại hộp đêm và đem nó về nhà sau buổi tiệc ngày Thánh Patrick, nơi mà The Mother cũng tham dự nhưng họ không hề gặp nhau. Trong tập "How Your Mother Met Me" có tiết lộ ngày Thánh Patrick năm đó là hai năm sau khi Max, bạn trai của The Mother, qua đời. Cô vẫn còn bứt rứt nhưng cô bạn cùng phòng động viên nên đi ra ngoài và hẹn hò trở lại và dắt cô theo quán bar mà Ted và Barney đang tiệc tùng. Cả hai cô gái va phải Mitch, thầy dạy nhạc cũ của cô, cũng là người dạy nhạc tại trường Bronx sau này. Vì công việc hiện tại của anh, The Mother ngỏ ý đưa Mitch lại cây đàn vi-ô-lông của mình và họ đã trở về căn hộ của cô. Tuy nhiên, The Mother bị bất ngờ khi Mitch lại giở chiêu "The Naked Man". Cô phẫn nộ trước hành động của anh, nhưng anh lại khuyên cô nên theo đuổi ước mơ của mình. Cô nhớ lại cây dù vàng mình để lại ở quán bar và ra ngoài để lấy lại nó, để lại Kelly (người vừa va phải Barney tại quán bar) ở lại và đã lên giường với Mitch. Cô chỉ được biết rằng "một gã vô tâm" lấy mất cây dù của mình. The Mother theo đuổi ước muốn chấm dứt sự đói nghèo bằng việc tham gia học một lớp Kinh tế tại trường Đại học.
Trong ngày đầu giảng dạy với tư cách là Giáo sư, Ted đi nhầm lớp Kinh tế của The Mother, nơi cô lần đầu thấy anh và gặp Cindy, một cô bạn chung lớp mà sau này là bạn cùng phòng. Sau đó trong tập "Girls Versus Suits", Ted hẹn hò với Cindy, nhưng không biết gì về cô bạn cùng phòng chính là vợ tương lai của mình. Khi ở trong phòng của Cindy, anh nhặt những thứ mà cô sở hữu và chứng minh mình và cô ấy hợp nhau đến thế nào, anh mới biết những thứ đó không phải của cô ấy. Ted bước ra và thấy được gót chân của The Mother khi cô bước vào phòng tắm. Ted biết được lúc đó cô ấy đang chơi guitar bass cho một ban nhạc. Ted để quên cây dù vàng ở đó và Ted tương lai nói thêm, "đó là cách mà Mẹ các con lấy lại được cây dù vàng của mình". Trong tập "How Your Mother Met Me", Cindy nói với the Mother đã chia tay với gã "giáo sư khoa Kiến trúc" vì chỉ toàn lấy những món đồ của cô và thấy chúng thích hợp với anh ta. Cindy sau đó đã hôn The Mother.
Sau đó, cô tuyển Darren vào nhóm nhạc Superfreakonomics của mình. Dù vậy, sau đó Darren cướp đi nhóm nhạc của cô. Tập mở đầu của phần 6, "Big Days", có tiết lộ rằng Ted sẽ gặp người vợ tương lai của mình trong ngày diễn ra một đám cưới trọng đại ở tương lai mà anh là phù rể. Trong tập "False Positive", Robin nhờ Ted làm phù rể tương lai của mình, nếu nhỡ sau này cô có kết hôn. Trong tập "Challenge Accepted" có tiết lộ Ted sẽ gặp mẹ của bọn trẻ vào ngày diễn ra đám cưới của Barney. Trong tập cuối của phần 7, "The Magician's Code" có tiết lộ Barney sẽ lấy Robin và Ted sẽ gặp The Mother tại đám cưới của họ. Trong tập mở đầu phần 8, vợ của Ted lộ diện sau khi đám cưới của Barney và Robin diễn ra, tại trạm tàu "Farhampton" trong khi đang cầm một cây dù màu vàng và cây đàn guitar bass của cô, trong khi Ted đang ngồi ở hàng ghế và đọc sách.
Trong tập "Band or DJ?" của phần 8, Ted gặp Cindy tại tàu điện ngầm và kể cho cô về ban nhạc mà Barney và Robin định thuê trong đám cưới sắp tới đột ngột rút lui khi gần sát tới ngày cưới. Sau đó họ quyết định nhờ cô bạn cùng phòng lúc trước của Cindy chơi tại đám cưới của Barney và Robin vào ngày 25 tháng 5 năm 2013. The Mother sau đó gặp mặt Louis trong tập "How Your Mother Met Me" khi đang chuyển nhạc cụ của ban nhạc lên xe. Một lúc sau, trong quán rượu MacLaren's, cô thổ lộ mình vẫn chưa đủ sẵn sàng để hẹn hò. Louis ngỏ ý hãy gọi cho anh nếu đổi ý và cô đã rời đi trước khi Ted đến đó cùng Lily và Barney trong chiếc váy màu xanh lá. Hai người hẹn hò sau đó không lâu. Cô cũng là người khuyên Barney nên theo đuổi Robin, được tiết lộ trong tập "Platonish". Trong tập "Bass Player Wanted", cô cho Marshall và con trai của anh ta - Marvin đến Farhampton Inn. Marshall sau đó khuyên cô nên giành lại ban nhạc của mình trước khi bị Darren cướp mất, Mà sau đó, anh ta bỏ cuộc và bảo cô có thể lấy lại nhóm nhạc của mình.
Trong tập "How Your Mother Met Me", Louis cầu hôn cô trong căn nhà cách đó không xa, khiến cô vô cùng lưỡng lự. Sau đó cô trò chuyện với bạn trai quá cố Max để hỏi xin ý kiến với anh. Sau khi cô nhận một ngọn gió xem như câu trả lời của Max, cô từ biệt anh lần cuối và từ chối lời cầu hôn của Louis, sau đó tìm đến khách sạn Farhampton Inn để nghỉ chân. Ở ban công căn phòng, cô chơi bản "La Vie en Rose" với cây đàn bốn dây của mình, khiến Ted vô tình nghe được từ lan can phòng mình. Trong tập "The Lighthouse", Ted cầu hôn cô tại đỉnh ngọn hải đăng gần Farhampton Inn. Cô đồng ý ngay lập tức. Trong tập "Unpause", The Mother được tiết lộ đang lâm bồn đứa con thứ hai, Luke, vào năm 2017, khi họ đang đến thăm Farhampton lần nữa.
Tên thật.
Tên thật của The Mother chỉ được tiết lộ trong tập cuối của loạt phim, "Last Forever". Khi Ted gặp cô tại trạm tàu Farhampton, cô tiết lộ tên mình là Tracy McConnell. Trong tập phim "Belly Full of Turkey" ở phần 1, Ted gặp một vũ nữ tên là Tracy và nói đùa rằng "... vậy đó các con, đó là cách mà bố đã gặp mẹ các con", khiến nhiều khán giả hâm mộ đoán trước được tên của The Mother là Tracy.
Qua đời.
Trong tập cuối của loạt phim có tiết lộ ở thời điểm mà Ted đang kể chuyện đến con mình, Tracy đã mất cách đó đã 6 năm, vào năm 2024, do một căn bệnh không rõ nguyên nhân.
Nghi vấn The Mother mất được bàn đến trong nhiều năm, trước khi được tiết lộ là sự thật. Jason Segel (diễn viên thủ vai Marshall Eriksen) đề cập đến việc này trong một lần phỏng vấn cùng tạp chí "GQ" năm 2010. Khi phóng viên hỏi về ý tưởng nhân vật The Mother mất; Segel trả lời ngay "Tôi cũng từng nói đến chuyện đó". Dù vậy khi được hỏi "Vậy mọi người phản ứng ra sao?", Segel trả lời "Họ không quan tâm lắm đến lời tôi nói."
Ngày 25 tháng 3 năm 2013, khi tập phim "The Time Travelers" được công chiếu, Ted Tương lai mường tượng đến một đêm cô đơn, nơi anh vội vã đến gặp The Mother và nói rằng họ sẽ gặp nhau trong 45 ngày tới. Điều này được nhiều người hâm mộ đoán trước việc người Mẹ đã mất.
Một năm sau (3 tháng 3 năm 2014), tập phim "Vesuvius" được phát sóng. Khi Ted và The Mother đang ở khách sạn Farhampton Inn vào năm 2024 và Ted đang kể cho cô nghe câu chuyện lúc Robin và Barney cưới nhau. Ở cuối tập phim, khi mẹ của Robin đến lễ cưới, The Mother hỏi "Có người mẹ nào lại lỡ mất đám cưới của con gái mình chứ?" và Ted bật khóc khiến cô phải chuyển chủ đề; tập phim này cũng là một sự tiết lộ nhỏ cho cái chết của the Mother.
Phản ứng của khán giả.
Nhiều người hâm mộ tỏ ra bất mãn trước cái chết của The Mother. Họ gọi điện đến đài CBS để gửi một lá đơn kiến nghị đến cho các nhà sáng lập loạt phim để viết và ghi hình lại tập cuối. Đơn kiến nghị này nhận được hơn 20,000 chữ ký. Ngày 5 tháng 4 năm 2014, Carter Bays thông báo trên Twitter rằng một cái kết khác, được dựa trên những thước phim đã quay, được nằm trong DVD của phần chín này. | 1 | null |
Cóc đào hang Mexico (tên khoa học Rhinophrynus dorsalis) là loài duy nhất còn sinh tồn trong chi Rhinophrynus và họ Rhinophrynidae. Loài cóc này sinh sống ở miền nam Texas qua Mexico, Guatemala, Honduras và El Salvador đến Nicaragua và Costa Rica. Họ cóc này đã từng phổ biến rộng rãi hơn, bao gồm các loài khác nhau, phân bố xa về phía bắc Canada, nhưng đã biến mất trong thế Oligocen.
Tên khoa học của nó mang ý nghĩa là ‘cóc mũi’, từ "rhino-" (), dạng kết hợp của từ trong tiếng Hy Lạp cổ đại ' (, ‘mũi’) và ' (, ‘cóc’).
Mô tả.
Loài cóc đào hang Mexico phát triển đến chiều dài 8 cm, và thường có những đốm đỏ trên cơ thể béo tròn của nó với một sọc đỏ dọc theo giữa lưng. Chúng có đôi chân ngắn và nhỏ, đầu nhọn. Các ngón chân với các phần phụ giống như cái xẻng bằng chất sừng, cùng với những đôi chân ngắn và khỏe giúp chúng đào hang. Đôi mắt của chúng là tương đối nhỏ, và màng thính giác là không thấy được. Duy nhất trong số các loài cóc ếch nhái, lưỡi cóc đào hang phóng ra trực tiếp từ phía trước miệng, thay vì búng lưỡi như ở tất cả các loài cóc ếch nhái khác. | 1 | null |
G.729 là một thuật toán nén dữ liệu âm thanh cho giọng nói,thuật toán này nén thoại số trong các gói 10 mili giây. Nó được mô tả một cách chính thức là Mã hóa giọng nói 8 kbit/s, sử dụng CS-ACELP (tạm dịch là bảng mã đại số phương pháp dự đoán tuyến tính kích thích mã có cấu trúc liên kết)
Do yêu cầu băng thông thấp, G.729 chủ yếu được sử dụng trong ứng dụng VoIP khi mà băng thông phải được bảo tồn, ví dụ như các cuộc gọi hội nghị. Tiêu chuẩn G.729 hoạt động ở tốc độ bit 8 kbit/s, nhưng có phần mở rộng với tốc độ 6,4 kbit / s (Phụ lục D, F, H, I, C +) cho chất lượng thoại kém hơn và 11,8 kbit/s (Phụ lục E, G, H, I, C +) cho chất lượng cho chất lượng thoại tốt hơn.
G.729 đã được mở rộng với các tính
năng đa dạng, trong đó G.729A và G.729B là thường được dùng. Cần chú ý sự khác biệt giữa các phiên bản G.729 vì chúng có tính chất bổ sung khác nhau và do đó được sử dụng vào các trường hợp khác nhau:
G.729 Phụ lục A
G.729A là mở rộng tương thích của G.729, nhưng đòi hỏi ít tính toán hơn, do đó giảm chất lượng thoại.
G.729A được phát triển bởi một tập đoàn gồm các tổ chức: France Telecom, tập đoàn Mitsubishi Electric, Nippon Telegraph và Telephone Corporation.
Các tính năng của G.729A:
G.729 Phụ lục B
G.729B cung cấp phương pháp triệt khoảng lặng với một mô-đun phát hiện hoạt động nói (VAD- voice activity detection). Cơ chế của bộ VAD là so sánh năng lượng tín hiệu với 1 ngưỡng nhiễu trong mỗi khung thoại. Thoại được phát hiện nếu năng lượng tín hiệu lớn hơn ngưỡng nhiễu. Khi VAD phát hiện năng lượng tín hiệu giảm dưới ngưỡng nhiễu nó sẽ quy đó là khoảng lặng và cắt bỏ các xung thoại dưới khoảng đó và dừng việc chèn khung thoại vào gói, điều này giúp tiết kiệm băng thông một cách đáng kể.
Nguồn: | 1 | null |
Pelobates cultripes là một loài cóc chân xẻng. Loài cóc này được tìm thấy ở nhiều vùng của Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha.
Loài cóc này chủ yếu sinh hoạt về đêm, nhưng đôi khi người ta thấy số lượng lớn xuất hiện sau khi cơn mưa. Chúng ẩn trong hang sâu đến 20 cm và có thể chúng chui vào đất khá nhanh. | 1 | null |
"Đôi tai ngoại cảm" (; tiếng Anh:"I Can Hear Your Voice") là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc 2013 với sự tham gia của diễn viên Lee Bo-young, Lee Jong-suk và Yoon Sang-hyun. Phim được chiếu trên SBS từ 5 tháng 6 đến 1 tháng 8 năm 2013, vào mỗi thứ 4&5 lúc 21:55 gồm 18 tập
Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3.
Nội dung.
Park Soo Ha, một cậu bé có khả năng đọc được suy nghĩ của người khác khi nhìn vào mắt đối phương. Trong lúc Soo Ha đi cùng cha thì cả hai cha con gặp tai nạn, 2 cha con tuy bị thương nặng nhưng vẫn sống sót, khi thấy người gây tai nạn là Min Joon Gook lại gần chỗ 2 cha con, người cha đã nhờ Joon Gook giúp đỡ nhưng Soo Ha do đọc được suy nghĩ của người khác nên biết rằng Joon Gook muốn giết cha cậu chứ không phải là vô tình gây tai nạn. Khi biết cha của Soo Ha còn sống, Joon Gook đã giết chết cha của Soo Ha ngay trước mặt cậu. Sau khi được cứu chữa, Soo Ha tìm đủ mọi cách để chứng minh là cha mình bị giết chứ không phải do tai nạn nhưng vì Soo Ha chỉ là một đứa trẻ con cho nên bên phía cảnh sát không tin cậu. Tuy nhiên, khi xảy ra vụ tai nạn, Jang Hye Sung - một nữ sinh trung học đã chứng kiến tất cả, cô bé đã tới phiên tòa làm chứng nên Joon Gook đã bị bắt và anh ta đe dọa Hye Sung là sau này sẽ giết chết cô. Sau phiên tòa, vì cảm kích việc làm của Hye Sung nên Soo Ha đã hứa với Hye Sung là sau này nếu gặp lại sẽ bảo vệ cô.
Mười năm sau, Soo Ha đã là một học sinh cấp 3, còn Hye Sung là một luật sư, hai người đã gặp lại nhau và Soo Ha luôn bên cạnh giúp đỡ Hye Sung. Trong khi đó, Joon Gook đã ra tù và vẫn nung nấu ý định trả thù Hye Sung.
Truyền hình quốc tế.
Phim được chiếu ở Nhật Bản trên kênh cáp KNTV bắt đầu từ 15 tháng 3 năm 2014, và kênh cáp WOWOW bắt đầu từ 23 tháng 7 năm 2014 và được chiếu ở Philippines trên GMA Network bắt đầu từ 11 tháng 8 năm 2014 dưới tiêu đề "I Hear Your Voice". | 1 | null |
Giao hưởng số 9, cung Đô trưởng, D.944 hay còn được gọi là Giao hưởng Lớn là bản giao hưởng cuối cùng của nhà soạn nhạc bạc mệnh người Áo Franz Schubert. Ông viết tác phẩm này được Schubert viết vào 1828. Sau đó, vào năm 1838, mười năm sau khi Schubert qua đời, Robert Schumann đã phát hiện ra tổng phổ của tác phẩm khi thăm thành phố Viên và gửi nó cho Felix Mendelssohn. Bản giao hưởng đã tạo ra một nghịch lý khó hiểu ở Schubert: Đây là bản giao hưởng cuối cùng của ông mà nó vẫn hoàn thành, trong khi bản số 8 của ông lại dở dang! | 1 | null |
Huyền chức linh mục (thuật ngữ gốc: Tước bỏ năng quyền ("suspension of faculties"), gọi dân gian là Treo chén) là việc một linh mục bị tước tạm thời hay vĩnh viễn các quyền thực thi tác vụ chức linh mục như: cử hành thánh lễ, các bí tích, giảng đạo... trong giáo hội. Một linh mục bị huyền chức không có nghĩa là bị xóa bỏ chức Thánh vì chức này gắn liền vĩnh viễn.
Xác định.
Vấn đề linh mục bị "treo chén - suspension" được Bộ Giáo Luật mới (1983), ở khoản 1333, điều 1, xác định: | 1 | null |
Gia đình yêu thương () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc thuộc thể loại hài kịch tình huống ("sitcom"). Nội dung phim xoay quanh những câu chuyện trong cuộc sống của các thành viên của nhà họ Kim và Bang, hai gia đình Hàn Quốc sống ở Seoul. Phim bắt đầu chiếu vào ngày 8 tháng 11 năm 2010 trên MBC và tập cuối chiếu vào ngày 16 tháng 9 năm 2011 với độ dài 210 tập, mỗi tập gồm 2 đến 3 tình huống khác nhau được bố cục xen kẽ.
Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. | 1 | null |
Samson và Delilah, Op. 47 (tiếng Pháp: Samson et Dalila) là vở opera của nhà soạn nhạc người Pháp Camille Saint-Saëns. Người viết lời cho tác phẩm là Ferdinand Lemaire. Lemaire đã dựa vào Kinh thánh để viết lời cho tác phẩm. Vở opera được sáng tác vào các năm 1867-1868, trình diễn lần đầu tiên tại Weimar, Đức vào năm 1877. | 1 | null |
Giao hưởng số 1, cung Rê thứ là bản giao hưởng đầu tay của nhà soạn nhạc người Đức Richard Strauss. Ông viết bản giao hưởng này khi mới có 16 tuổi. Tác phẩm này cùng với bản tứ tấu đàn dây số 1 của ông đều được trình diễn lần đầu tiên tại Munich vào năm 1881. | 1 | null |
Kẻ trộm giấc mơ (tựa tiếng Anh: Inception) là một bộ phim điện ảnh AnhMỹ thuộc thể loại hành độngkhoa học viễn tưởng ra mắt năm 2010 do Christopher Nolan làm đạo diễn, viết kịch bản và đồng sản xuất. Bộ phim có sự góp mặt của dàn diễn viên chính bao gồm Leonardo DiCaprio, Elliot Page, Joseph Gordon-Levitt, Marion Cotillard, Ken Watanabe, Tom Hardy, Dileep Rao, Cillian Murphy, Tom Berenger, và Michael Caine. DiCaprio vào vai Dom Cobb, một kẻ cắp chuyên nghiệp chuyên thực hiện các hoạt động gián điệp kinh tế bằng cách xâm nhập vào tiềm thức mục tiêu của anh ta. Cobb được đề nghị thực hiện một nhiệm vụ để chuộc lại cuộc đời cho mình, một nhiệm vụ bất khả thi: "ý tưởng khởi nguồn"thông qua việc cấy ghép ý tưởng của một người vào trong tiềm thức của người khác.
Không lâu sau khi hoàn tất bộ phim "Insomnia" (2002), Nolan bắt tay vào viết kịch bản dài 80 trang cho một bộ phim về những "kẻ đánh cắp giấc mơ", lấy cảm hứng từ giấc mơ sáng suốt và trình bày ý tưởng này cho Warner Bros.. Cảm thấy cần có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc sản xuất phim với quy mô lớn, Nolan tạm gác lại dự án và thay vào đó phát triển các phim "Huyền thoại Người Dơi" (2005), "Ảo thuật gia đấu trí" (2006), và "Kỵ sĩ bóng đêm" (2008). Quay lại với dự án, ông bỏ ra sáu tháng để rà soát lại kịch bản rồi bán nó lại cho Warner Bros. vào tháng 2 năm 2009. Đoàn làm phim đã quay tại sáu quốc gia và bốn lục địa, bắt đầu vào ngày 19 tháng 6 năm 2009 ở Tokyo và kết thúc tại Canada vào ngày 22 tháng 11 cùng năm. Bộ phim có kinh phí 160 triệu USD; chia đôi giữa Warner Bros. và Legendary Pictures. Danh tiếng của Nolan cùng với thành công trước đó của "Kỵ sĩ bóng đêm" giúp tiết kiệm 100 triệu đô la chi phí quảng cáo, nhờ hình thức tiếp thị lan truyền.
Ngày 8 tháng 7 năm 2010, buổi công chiếu đầu tiên của "Kẻ trộm giấc mơ" được tổ chức tại Luân Đôn, sau đó bộ phim được chiếu tại các rạp chiếu phim ở Mỹ từ ngày 16 tháng 7 và ở Việt Nam từ ngày 6 tháng 8. Bộ phim là một thành công thương mại khi mang về hơn 800 triệu đô la doanh thu trên toàn thế giới, trở thành bộ phim có doanh thu cao thứ 65 trong lịch sử. Thị trường video gia đình cũng thu về 68 triệu đô la từ đĩa DVD và Blu-ray bán được. Sau khi ra mắt, tác phẩm nhận được các đánh giá khen ngợi về dàn diễn viên, âm nhạc, hiệu ứng hình ảnh và sự sáng tạo trong kịch bản. Bộ phim đoạt bốn Giải Oscar cho Quay phim xuất sắc nhất, Biên tập âm thanh xuất sắc nhất, Hòa âm hay nhất và Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất và được đề cử ở bốn hạng mục khác: Phim hay nhất, Nhạc phim hay nhất, Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất và Kịch bản gốc xuất sắc nhất.
Nội dung.
Dominick "Dom" Cobb (Leonardo DiCaprio) và cộng sự là Arthur (Joseph Gordon-Levitt) là những "người trích xuất", những người sử dụng một công nghệ thử nghiệm của quân đội cho phép xâm nhập vào tiềm thức của đối tượng để đánh cắp thông tin. Đối tượng gần đây nhất của họ là doanh nhân người Nhật, ông Saito (Ken Watanabe). Họ không trích xuất thông tin thành công khi ký ức về Mal (Marion Cotillard) – người vợ đã chết của Cobb, xuất hiện và phá vỡ giấc mơ. Saito cho biết rằng thực ra ông đang thử thách họ trước một nhiệm vụ khó khăn gọi là "ý tưởng khởi nguồn": gieo ý tưởng vào tiềm thức của một người.
Nhằm mục đích phá vỡ tập đoàn năng lượng của đối thủ Maurice Fischer (Pete Postlethwaite), Saito muốn Cobb gieo ý tưởng giải tán công ty vào tâm trí con trai Fischer là Robert Fischer (Cillian Murphy), người thừa kế tập đoàn. Nếu Cobb thành công, bằng ảnh hưởng của mình, Saito sẽ xóa bỏ các cáo buộc Cobb giết người, khi đó Cobb có thể quay trở về nhà với các con của anh. Cobb chấp nhận lời đề nghị của Saito. Cobb tập hợp một nhóm gồm Eames (Tom Hardy), người chuyên giả mạo danh tính và lấy cắp thông tin bằng cách lấy lòng tin đối tượng; Yusuf (Dileep Rao), người bào chế thuốc tạo ra loại thuốc an thần cực mạnh để ổn định "giấc mơ bên trong giấc mơ"; Ariadne (Ellen Page), sinh viên kiến trúc có nhiệm vụ thiết kế mê cung cảnh quan trong giấc mơ; và Arthur. Saito nhất quyết theo cùng để chắc chắn rằng họ thành công.
Khi ông Fischer bố qua đời tại Sydney, Robert Fischer hộ tống thi thể của ông về lại Los Angeles, và nhóm của Cobb nhân cơ hội này tiếp cận Fischer. Cobb gây mê Fischer, đưa anh ta vào giấc mơ chung với những người trích xuất. Sử dụng phương pháp "giấc mơ bên trong giấc mơ", tại một tầng giấc mơ, người mơ giấc mơ ở lại để tạo ra một "cú hích" đánh thức những người khác đang đi vào sâu hơn bên trong giấc mơ đó. Nếu trong trường hợp bình thường, chết trong giấc mơ sẽ khiến người mơ tỉnh giấc, thì loại thuốc an thần dùng để ổn định những giấc mơ này sẽ ngăn chặn điều đó; nghĩa là người nào chết trong khi đang trong nhiệm vụ này sẽ rơi vào limbo, khoảng không tiềm thức nguyên thủy vô hạn định rất khó thoát ra. Limbo không phải là một giấc mơ của riêng ai, mà là không gian chung trong đó một cá nhân có thể gây ra những thay đổi to lớn.
Ở tầng đầu tiên, giấc mơ về trung tâm thành phố trong mưa của Yusuf, cả nhóm bắt cóc được Fischer; tuy nhiên tiềm thức Fischer đã được huấn luyện để đáp trả các cuộc tấn công tiềm thức và khiến Saito bị thương nặng. Eames tạm thời giả dạng người bố đỡ đầu của Fischer, Peter Browning (Tom Berenger), để gợi ý Fischer cân nhắc về di chúc của bố anh. Yusuf ở lại tầng thứ nhất và lái chiếc xe tải, trong đó những người khác được gây mê để tiến vào tầng thứ hai, giấc mơ của Arthur về một khách sạn. Ở tầng này, những người trích xuất tiếp cận Fischer, làm anh ta tin rằng họ là những hình chiếu trong tiềm thức Fischer và chính Browning đã lên kế hoạch bắt cóc anh ta. Tại tầng ba, giấc mơ của Eames về một ngọn núi tuyết, cả nhóm nói với Fischer rằng họ đang ở trong tiềm thức của Browning, trong khi thực ra họ đang đi sâu hơn vào tiềm thức của Fischer. Ở tầng một, Yusuf bị truy đuổi và vô tình lái xe trượt khỏi cây cầu quá sớm, khởi động cú hích làm mất trọng lực trong giấc mơ của Arthur và gây lở tuyết trong giấc mơ của Eames, khiến cả nhóm đều bỏ lỡ cú hích. Arthur ứng biến tạo ra một cú hích mới bằng cách gây ra một vụ rơi thang máy có thể đồng bộ với cú tiếp nước của chiếc xe tải, trong khi cả nhóm trong giấc mơ của Eames khẩn trương hoàn tất công việc trước khi cú hích kế tiếp đến.
Saito không chịu nổi vết thương và ngã quỵ, và hình chiếu Mal của Cobb giết chết Fischer, phá hủy toàn bộ kế hoạch và khiến cả hai rơi vào limbo. Cobb và Ariadne đi vào limbo để tìm Fischer và Saito, trong khi Eames ở lại để tạo ra cú hích bằng cách đặt thuốc nổ xung quanh pháo đài. Cobb tiết lộ với Ariadne rằng anh và Mal đã ở trong limbo "50 năm" để tạo ra một thế giới bằng những ký ức chung của hai người. Tỉnh dậy trong thế giới thực, Cobb và Mal nhận ra rằng chưa đến ba giờ đồng hồ trôi qua. Tin rằng mình vẫn còn đang mơ, Mal tự sát và tuyệt vọng thuyết phục Cobb cũng làm như vậy, bằng cách buộc tội Cobb có liên quan đến cái chết của cô. Đối mặt với bản án giết người, Cobb trốn chạy khỏi nước Mỹ, để hai đứa con của anh lại trong sự chăm sóc của mẹ và bố vợ anh, giáo sư Stephen Miles (Michael Caine). Anh thú nhận rằng ngay từ đầu, chính anh đã gieo vào đầu Mal ý tưởng rằng thế giới thực là giả.
Cobb gạt bỏ mặc cảm tội lỗi về cái chết của Mal. Ariadne giết chết hình chiếu của Mal và đánh thức Robert bằng một cú hích. Bị đánh thức ở tầng thứ ba, Robert chấp nhận ý tưởng đã được cấy ghép: hình chiếu bố anh đang hấp hối trên giường bệnh mong muốn anh sẽ là chính mình. Cobb ở lại tiếp tục tìm kiếm Saito trong limbo còn những người khác theo những cú hích đồng bộ để quay về hiện thực. Cobb cuối cùng cũng tìm thấy Saito – lúc này đã già – và hai người nhớ lại thỏa thuận của mình. Cả nhóm cùng Robert Fischer thức giấc trên máy bay.
Khi về đến Los Angeles, Cobb thực hiện các thủ tục Hải quan thành công và gặp bố vợ đang đợi mình, và sau đó về nhà đoàn tụ với các con. Cobb xoay con quay nhằm xác định mình đang ở trong mơ hay đã thức tỉnh, nhưng bỏ qua nó để chào đón những đứa trẻ.
Sản xuất.
Phát triển.
Ban đầu, Nolan viết bản thảo dài 80 trang nói về những kẻ đánh cắp giấc mơ. Nolan hình dung "Inception" sẽ là một bộ phim kinh dị, tuy nhiên ông viết nó theo thể loại phim trộm cướp, mặc dù cho rằng các phim trộm cướp "thường hời hợt về mặt cảm xúc". Khi xem lại kịch bản, Nolan thấy đưa phim vào thể loại này là không phù hợp khi bộ phim "dựa rất nhiều vào ý tưởng về những thứ bên trong, ý tưởng về giấc mơ và ký ức. Tôi nhận thấy tôi phải đặt cược nhiều hơn vào cảm xúc". Nolan làm việc với kịch bản trong chín đến mười năm. Khi ông bắt đầu nghĩ đến việc làm phim, Nolan có được cảm hứng từ "thời đại điện ảnh mà bạn có "The Matrix" (1999), có "Dark City" (1998), có "The Thirteenth Floor" (1999) và thậm chí là "Memento" (2000) nữa. Chúng đều dựa trên mốc khởi điểm là thế giới xung quanh bạn có thể không thật".
Năm 2001, Nolan gửi bản thảo đầu tiên cho Warner Bros., nhưng sau đó ông cảm thấy cần nhiều kinh nghiệm trong việc sản xuất phim với quy mô lớn, và chuyển sang thực hiện các phim "Batman Begins" và "The Dark Knight". Ông sớm nhận ra rằng một bộ phim kiểu "Inception" cần rất nhiều ngân sách bởi vì "khi bạn nói về giấc mơ, tiềm năng của trí óc con người là vô tận. Và vì vậy bộ phim cũng phải có cảm giác vô tận. Bạn phải có cảm giác là bạn có thể đi bất cứ đâu khi bộ phim kết thúc. Và bộ phim phải được thực hiện với quy mô cực lớn". Sau khi hoàn tất "The Dark Knight", Nolan quyết định tiếp tục thực hiện "Inception" và bỏ ra sáu tháng để hoàn thành kịch bản. Nolan nói rằng chìa khóa để hoàn thiện kịch bản là tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi nhiều người cùng mơ chung một giấc mơ. "Khi bỏ qua yếu tố riêng tư, bạn đã tạo ra vô số những thế giới khác nhau mà mọi người đều có thể tương tác có hiệu lực, có trọng lượng, có ảnh hưởng mạnh mẽ".
Leonardo DiCaprio là nam diễn viên đầu tiên thử diễn cho phim. Nolan đã tìm cách làm việc với anh trong nhiều năm và gặp anh vài lần, nhưng chưa thể thuyết phục anh tham gia phim nào của mình trước "Inception". DiCaprio cuối cùng đồng ý vì anh cảm thấy "bị hấp dẫn bởi ý tưởng này—ý tưởng về việc đánh cắp giấc mơ và làm cách nào nhân vật này có thể mở khóa thế giới giấc mơ của anh ta và làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến thế giới thực như thế". DiCaprio đọc kịch bản, nói rằng nó "viết rất tốt và toàn diện, nhưng bạn phải gặp Chris ở ngoài mới có thể hiểu hết về những điều quanh quẩn trong đầu ông ấy tám năm trời". DiCaprio và Nolan thảo luận về kịch bản trong nhiều tháng. Nolan dành nhiều thời gian để viết lại kịch bản, "đảm bảo rằng hành trình cảm xúc của Cobb là động lực của cả bộ phim". Ngày 11 tháng 2 năm 2009, Warner Bros. mua lại kịch bản "Inception" của Nolan.
Địa điểm và cảnh quay.
Ngày 19 tháng 6 năm 2009, phim bắt đầu quay tại Tokyo, với cảnh Saito thuê Cobb lần đầu khi bay phía trên thành phố trong một chiếc trực thăng.
Sau đó đoàn làm phim đến Anh và thực hiện nhiều cảnh quay trong một nhà để khí cầu ở Cardington, Bedfordshire, phía Bắc London. Ở đó, đoàn phim dựng nên cảnh quầy bar khách sạn nghiêng 30 độ. Cũng tại đây, nhà thiết kế sản xuất Guy Hendrix Dyas, nhà giám sát hiệu ứng đặc biệt Chris Corbould và đạo diễn hình ảnh Wally Pfister đã xây dựng một hành lang khách sạn có thể xoay 360 độ để thể hiện hiệu ứng trọng lực từ nhiều hướng khác nhau cho các cảnh quay tại tầng thứ hai của giấc mơ. Ý tưởng này được lấy cảm hứng từ kỹ thuật trong "" (1968) của Stanley Kubrick. Nolan nói, "Tôi rất thích thú khi đưa những ý tưởng, kỹ thuật và lý thuyết vào trong cảnh quay hành động". Đoàn làm phim ban đầu chỉ định làm hành lang dài 12 m, nhưng càng hoàn thiện cảnh quay, hành lang càng được kéo dài ra đến 30 m. Hành lang này nằm trong tám vòng tròn đồng tâm, cách đều nhau và được cấp nguồn bởi hai động cơ điện. Joseph Gordon-Levitt, vai Arthur, luyện tập đánh nhau trong hành lang xoay vòng mà anh mô tả là "một cái bánh xe chuột khổng lồ". Nolan nói về thiết bị này, "Nó như một loại máy tra tấn vậy; chúng tôi đè bẹp Joseph trong mấy tuần lễ, nhưng cuối cùng khi nhìn lại cảnh quay, nó không giống như thứ gì chúng tôi từng nhìn thấy trước đây. Nhịp điệu của nó độc đáo, nên dù bạn biết chúng tôi thực hiện như thế nào, khi xem phim bạn vẫn bị bối rối". Gordon-Levitt nhớ lại, "hệt như là bạn về nhà khi bị đánh bầm dập vậy… Những cái bóng đèn trên trần nhà lại ở đâu đó dưới sàn, và bạn phải biết lúc nào bước qua chúng, nếu không, bạn té". Ngày 15 tháng 7 năm 2009, đoàn phim tiếp tục quay tại University College London cho những cảnh có bối cảnh tại trường đại học kiến trúc Paris, gồm có thư viện, Phòng trưng bày Flaxman và Nhà hát Gustav Tuck.
Cảnh quay tiếp theo diễn ra tại Pháp, gồm cảnh Cobb bước vào một trường đại học kiến trúc (cảnh cổng vào quay tại Musée Galliera) và đoạn nói chuyện giữa Ariadne và Cobb ở một bistro (được dựng lên giữa góc Rue César Franck với Rue Bouchut), sau đó tại cầu Bir-Hakeim. Giới chức địa phương không cho phép dùng thuốc nổ thật cho cảnh quay vụ nổ ở bistro, nên đoàn làm phim đã dùng nitơ áp suất cao để tạo ra hiệu ứng nổ dây chuyền. Pfister sử dụng sáu máy quay tốc độ lớn để quay lại cảnh quay từ nhiều góc khác nhau, đảm bảo họ có được cảnh quay. Sau đó, bộ phận hiệu ứng hình ảnh tiếp tục hoàn thiện đoạn phim, thêm vào nhiều mảnh vỡ bay và sự tàn phá cho khung cảnh. Đoàn làm phim dùng phông xanh và CGI cho cảnh "gấp Paris" và khi Ariadne "tạo ra" những cây cầu.
Đoàn làm phim thực hiện cảnh Cobb thuê Eames và Yusuf tại Tangier, Maroc, trong phim cảnh này diễn ra tại Mombasa. Cảnh chạy bộ rượt đuổi được quay trên những đường phố và hẻm nhỏ ở khu medina. Pfister dùng một máy quay cầm tay kết hợp với steadicam để quay cảnh này. Tangier cũng đồng thời là địa điểm quay vụ bạo loạn trong cảnh quay đầu tiên trong trí óc Saito.
Đoàn phim tiếp tục di chuyển đến khu vực Los Angeles. Ở đây, nhiều khung cảnh được dựng lên tại sân khấu âm thanh của Warner Brothers, gồm có nội thất trong lâu đài Nhật của Saito (ngoại cảnh quay tại bãi biển Malibu). Phòng ăn lấy cảm hứng từ Lâu đài Nijo xây dựng khoảng năm 1603. Các cảnh quay này mang phong cách kiến trúc Nhật Bản và cả phương Tây. Họ đồng thời tạo dựng cảnh rượt đuổi trên đường phố Los Angeles, gồm cảnh một đoàn tàu lửa chạy giữa đường. Để làm được điều này, đoàn phim cấu hình động cơ tàu trên khung gầm của một chiếc đầu máy xe kéo. Những bộ phận còn lại được chế tạo bằng mẫu sợi thủy tinh lấy từ các bộ phận thật của tàu lửa và được làm giống hệt về màu sắc và kiểu dáng. Thêm vào đó, cuộc rượt đuổi cũng phải quay giữa cơn mưa tầm tã, tuy nhiên thời tiết L.A. nắng thường xuyên khiến đoàn phim phải sử dụng các hiệu ứng phức tạp như vòi rồng từ mái nhà để khán giả có cảm giác rằng thời tiết vô cùng u ám. L.A. cũng là địa điểm đoàn phim quay cảnh cao trào trong đó chiếc xe tải Ford Econoline lao khỏi cầu Schuyler Heim. Cảnh này được quay đi quay lại hàng tháng trời với chiếc xe được đẩy ra khỏi một khẩu pháo, theo lời diễn viên Dileep Rao. Phần quay những diễn viên rơi trong chiếc xe mất cả ngày. Khi chiếc xe tải chạm mặt nước, các diễn viên phải thể hiện bình tĩnh và không được hoảng hốt. Cillian Murphy nói "Khi họ yêu cầu bạn diễn vậy thì họ yêu cầu hơi khó". Các diễn viên phải ở dưới nước từ bốn đến năm phút và thở bằng không khí từ bình dưỡng khí. Cảnh nhà của Cobb được quay tại Pasadena. Cảnh hành lang khách sạn quay tại tòa nhà CAA ở Century City. Limbo quay tại địa điểm ở Los Angeles và Maroc, trong đó cảnh bãi biển quay tại Palos Verdes với những tòa nhà dựng bằng CGI. Đoàn phim chủ yếu quay cảnh limbo tại đường N Hope ở Los Angeles, với sự kết hợp của phông xanh và CGI cho phong cảnh xung quanh.
Cảnh quay trong tầng thứ ba của giấc mơ được quay tại Alberta khi đoàn phim phát hiện một khu trượt tuyết đang tạm thời đóng cửa, Fortress Mountain, vào tháng 11 năm 2009. Mất ba tháng để đoàn làm phim dựng nên cảnh quay gần ga chairlift trên của khu trượt tuyết. Để quay cảnh này, họ phải chờ đợi một trận tuyết lở mà cuối cùng cũng đến. Cảnh rượt đuổi trên tuyết do Nolan lấy cảm hứng từ phim James Bond ưa thích của ông, "On Her Majesty's Secret Service" (1969): "Điều tôi thích ở phim đó mà chúng tôi cố tạo dựng lại trong phim này là sự cân bằng phi thường giữa hành động và quy mô và chủ nghĩa lãng mạn và bi kịch và cảm xúc".
Quay phim.
Bộ phim được quay chủ yếu bằng định dạng anamorphic trên phim 35 mm, với những cảnh quan trọng quay trên phim 65 mm, và những cảnh trên không quay trên VistaVision. Nolan không quay cảnh nào bằng máy quay IMAX như ông đã thực hiện với "The Dark Knight". "Chúng tôi cảm thấy không thể quay trên IMAX bởi vì kích thước của những chiếc máy quay bởi vì bộ phim này liên quan đến một lĩnh vực siêu thực, về thế giới giấc mơ, tôi muốn nó thực tế hết mức có thể. Không bị ràng buộc bởi kích thước của máy quay IMAX, mặc dù tôi rất thích định dạng đó". Nolan và Pfister cũng thử quay bằng Showscan và Super Dimension 70 là những công nghệ quay khổ lớn có tỉ lệ khung hình cao, tuy nhiên không sử dụng chúng khi quay chính thức. Những cảnh quay chậm được thực hiện bằng máy quay 35mm Photo-Sonics với tốc độ chụp lên đến 1000 khung hình mỗi giây. Wally Pfister đã thử quay những cảnh này bằng máy quay phim kỹ thuật số, tuy nhiên ông nhận thấy định dạng này không đáng tin cậy vì có nhiều trục trặc kỹ thuật. "Trong số sáu lần chúng tôi quay bằng máy kỹ thuật số, chỉ có một lần chúng tôi thu được kết quả sử dụng được và nó còn không xuất hiện trong phim. Trong số sáu lần chúng tôi quay bằng máy quay Photo-Sonics với phim 35mm, mọi cảnh quay đều xuất hiện trong phim." Nolan quyết định không quay trên định dạng 3D vì ông thích quay lên phim bằng ống kính tiêu cự cố định hơn, trong khi máy quay 3D không thể đáp ứng được điều này. Nolan cũng đồng thời chê kiểu hình ảnh mờ mờ khi chiếu ảnh 3D, và tranh luận rằng phim truyền thống không chấp nhận nhận thức chiều sâu thực tế, nói rằng "Tôi nghĩ gọi 3D so với 2D là gọi sai. Điểm mấu chốt của hình ảnh điện ảnh là nó phải mang tính chất ba chiều… 95% trong số các tín hiệu chiều sâu của chúng tôi có từ đổ bóng không gian, độ phân giải, màu sắc và những thứ khác, vì thế gọi một phim 2D là 'phim 2D' có thể hơi gây hiểu lầm". Trong quá trình hậu kỳ, Nolan thử chuyển "Inception" sang định dạng 3D và tuy có thể thực hiện được về mặt kỹ thuật, ông quyết định không tiếp tục vì thiếu thời gian hoàn thiện bản chuyển đổi sang một kiểu định dạng vừa ý. Tháng 2 năm 2011, Jonathan Liebesman cho biết Warner Bros. đang thử chuyển phim sang định dạng 3D để phát hành trên đĩa Blu-ray.
Wally Pfister cho mỗi tầng giấc mơ một sắc thái khác nhau: ngọn núi tuyết mang vẻ khô khốc và lạnh lẽo, hành lang khách sạn có màu sắc ấm áp, còn những cảnh trong chiếc xe tải lại có sắc thái trung tính. Việc này giúp khán giả nhận ra vị trí của câu chuyện khi bộ phim có nhiều đoạn liên tục chuyển cảnh.
Nolan nói rằng bộ phim "nói về các tầng của thực tế, và nhận thức về thực tế là thứ tôi rất thích thú. Nó là một bộ phim hành động bối cảnh thế giới hiện đại, nhưng có một chút khuynh hướng khoa học viễn tưởng", đồng thời mô tả nó là "một cuộc phiêu lưu hành động trải dài cả địa cầu".
Hiệu ứng hình ảnh.
Nolan chủ yếu sử dụng hiệu ứng thực tế cho những cảnh quay trong "Inception", chỉ dùng rất ít computer-generated imagery. Ông nói, "Tôi rất coi trọng việc làm được nhiều nhất có thể bằng máy quay, và sau đó, nếu cần, đồ họa vi tính sẽ giúp ích trong việc hoàn thiện những gì bạn đã đạt được". Để thực hiện điều này, nhà giám sát hiệu ứng hình ảnh Paul Franklin xây dựng một mô hình của pháo đài tuyết và cho nổ tung nó. Để thực hiện cảnh đánh nhau trong điều kiện không trọng lực, ông dùng các hiệu ứng mô phỏng hình ảnh trên máy tính để "bẻ cong vật lý, không gian và thời gian một cách tinh tế".
Hiệu ứng hình ảnh khó thực hiện nhất là thành phố "limbo" ở phần cuối bộ phim vì nó cũng được xây dựng và hoàn thiện trong suốt quá trình làm phim. Nolan đưa ra ý tưởng cho Franklin: "Cái gì đó lạnh lẽo ảm đạm, với kiến trúc hiện đại, nhưng bị vỡ thành từng khối và rơi xuống biển như những tảng băng trôi". Franklin và các họa sĩ đưa ra "một nơi giống như phiên bản tảng băng của Thành phố Gotham với nước chảy bên dưới nó". Họ dựng lên mô hình cơ bản của dòng sông băng và rồi các nhà thiết kế thêm vào đó đường phố, giao lộ và khe nước cho đến khi họ có một thành phố phức tạp nhưng trông gọn gàng. Để thực hiện cảnh gấp đôi thành phố Paris, Franklin yêu cầu các họa sĩ vẽ vài bản vẽ ý tưởng và họ tạo ra chuyển động máy tính thô để họ có ý niệm về việc cảnh quay sẽ như thế nào. Sau này, trong quá trình quay chính thức, Nolan chỉ dẫn Leonardo DiCaprio và Ellen Page diễn xuất dựa trên hoạt cảnh thô này. "Inception" có gần 500 ảnh có hiệu ứng, có thể coi là ít nếu so sánh với các phim hiệu ứng cùng thời – những phim có thể chứa đến 1.500 hay 2.000 ảnh có hiệu ứng đặc biệt.
Âm nhạc.
Hans Zimmer đảm nhận vai trò viết nhạc cho "Inception". Ông mô tả tác phẩm của mình là "nặng phong cách điện tử, và rất dày", chứa đầy "nỗi nhớ và nỗi buồn" để phù hợp với cảm xúc của Cobb xuyên suốt bộ phim. Zimmer viết nhạc đồng thời với quá trình làm phim, và có bao gồm một đoạn guitar gợi nhớ đến Ennio Morricone, chơi bởi Johnny Marr, cựu guitar của The Smiths.
Bài hát "Non, je ne regrette rien" ("Không, tôi không hối hận điều gì") của Édith Piaf xuất hiện nhiều lần trong phim, dùng để tính toán thời gian trong các giấc mơ, và Zimmer chuyển một số đoạn bài hát thành giai điệu trong nhạc phim.
được phát hành vào ngày 11 tháng 7 năm 2010 bởi hãng Reprise Records. Trên đĩa 2 của bộ hai đĩa phim Blu-ray cũng chứa phần lớn nhạc phim với độ phân giải cao, âm thanh vòng 5.1. Với tác phẩm này, Hans Zimmer nhận được đề cử tại Giải Oscar lần thứ 83 năm 2011 cho Nhạc phim hay nhất.
Chủ đề.
Giấc mơ và thực tại.
Trong "Inception", Nolan muốn khám phá "ý tưởng mọi người chia sẻ một không gian mơ với nhau… Nó cho bạn khả năng đi vào trong tiềm thức của người khác. Điều đó sẽ được dùng làm gì và sẽ bị lạm dụng như thế nào?" Phần lớn nội dung phim diễn ra trong thế giới giấc mơ liên kết với nhau. Kiểu kiến trúc này tạo ra một nơi mà mọi hoạt động trong mơ và trong đời thực đan xen vào nhau. Giấc mơ luôn luôn được xây dựng, và nó thay đổi khi những nhân vật di chuyển trong đó. Ngược lại, thế giới của "The Matrix" (1999) là một thế giới độc đoán được điều khiển bằng máy tính, ám chỉ đến lý thuyết kiểm soát xã hội được phát triển bởi Michel Foucault và Jean Baudrillard. Thế giới của Nolan có nhiều điểm chung hơn với tác phẩm của Gilles Deleuze và Félix Guattari.
David Denby của "The New Yorker" so sánh cách Nolan xử lý những giấc mơ với cách của Luis Buñuel trong "Belle de Jour" (1967) và "The Discreet Charm of the Bourgeoisie" (1972). Theo Denby, Nolan "có đầu óc trực nghĩa" ("a literal-minded man") không như Buñuel, người "âm thầm đẩy chúng ta vào trong mơ mộng ảo tưởng và để tự chúng ta tận hưởng trong kinh ngạc, nhưng Nolan lại đang biểu diễn nhiều mức độ trong cùng một lúc đến nỗi anh ta phải đưa vào hàng trang đối thoại chỉ để giải thích điều gì đang xảy ra". Buñuel bắt được "cường độ ác tính đặc thù của những giấc mơ thật."
Deirdre Barrett, nhà nghiên cứu giấc mơ của Đại học Harvard, nói rằng không phải mọi chi tiết về giấc mơ mà Nolan đưa vào phim đều chính xác, tuy nhiên tính chất vô lý, lan man và nội dung rời rạc của nó cũng không khiến nó là một bộ phim ly kì hấp dẫn. Tuy nhiên "ông ấy cũng đúng về nhiều mặt," bà nói, trích dẫn cảnh Cobb bị xô vào bồn tắm trong khi đang ngủ, và trong giấc mơ nước ập vào ngôi nhà thông qua lối cửa sổ, đánh thức anh ta dậy. "Đó chính xác là cách các kích thích hoạt động, và bạn thường là thức giấc ngay sau tác động đó".
Nolan nói, "Tôi cố gắng làm rõ rằng việc xâm nhập và điều khiển giấc mơ là một kỹ năng mà những người này có được. Thực sự là kịch bản được dựa trên những khái niệm chung và rất cơ bản, và chúng có thể đưa bạn tới đâu? Thực sự thì, ý tưởng lạ lùng duy nhất trong bộ phim này là sự tồn tại của một công nghệ cho phép bạn đi vào và chia sẻ giấc mơ với một người khác."
Giấc mơ và màn ảnh.
Nhiều người khác tranh luận rằng chính bộ phim là một phép ẩn ý ám chỉ việc làm phim, hay chính trải nghiệm xem phim, những hình ảnh nhấp nháy trước mắt một người bên trong một căn phòng tối, cũng giống như một giấc mơ. Viết trên "Wired", Jonah Lehrer ủng hộ cách giải thích này và đưa ra các bằng chứng rằng các hoạt động não trong quá trình xem phim và khi ngủ là rất giống nhau. Trong cả hai trường hợp, vỏ não thị giác hoạt động mạnh và vỏ não trước trán, vùng có chức năng luận lý, phân tích và tự ý thức, lại yên tĩnh. Paul tranh luận rằng chính việc đi đến rạp chiếu phim cũng là một hình thức luyện tập chia sẻ giấc mơ, đặc biệt là khi xem "Inception": những cảnh phim cắt nhanh khiến người xem phải nỗ lực hơn để ghép các mảnh câu chuyện lại với nhau. Quá trình tiêu thụ hình ảnh diễn ra song song với việc tạo ra chúng. Giống như trong phim, trong rạp chiếu, một người đi vào không gian giấc mơ của người khác, trường hợp này là của Nolan, và như với bao tác phẩm nghệ thuật khác, cách người xem đọc nó bị tác động bởi tiềm thức và mong muốn chủ quan của người khác. Ở cầu Bir-Hakeim tại Paris, Ariadne tạo ra ảo ảnh vô tận bằng cách đặt hai tấm gương song song nhau bên dưới gầm cầu, Stephanie Dreyfus trong "la Croix" hỏi rằng "Đây không phải là một phép ẩn dụ đẹp đẽ, mạnh mẽ của điện ảnh và sức mạnh ảo giác của nó hay sao?"
Kỹ thuật điện ảnh.
Thể loại.
Nolan đưa vào phim nhiều yếu tố của các thể loại phim khác nhau, chủ yếu là khoa học viễn tưởng, trộm cướp (tiếng Anh: heist film) và film noir.
Marion Cotillard vai "Mal" Cobb, hình chiếu của tội lỗi của Dom Cobb về cái chết của vợ anh. Là nhân vật phản diện chính của bộ phim, Mal thường xuyên ác ý xuất hiện trong những giấc mơ của anh. Dom không có khả năng điều khiển những hình chiếu này, và chúng gây khó khăn cho anh trong vai trò người trích xuất. Nolan mô tả Mal như "bản chất của femme fatale", yếu tố "noir" được ám chỉ trong phim. Như kiểu "femme fatale cổ điển", mối quan hệ giữa cô với Cobb diễn ra trong đầu anh, là biểu hiện của chứng loạn thần kinh và nỗi sợ rằng anh hiểu quá ít về người phụ nữ mà anh yêu. DiCaprio khen ngợi vai diễn của Cotillard: "Cô ấy có thể vừa mạnh mẽ, vừa dễ tổn thương, vừa đầy hứa hẹn, vừa đầy tuyệt vọng cùng một lúc, và điều này thật hoàn hảo cho những mâu thuẫn trong nhân vật của cô".
Nolan bắt đầu "Inception" với cấu trúc của một bộ phim trộm cướp, bởi vì phần mở đầu hay phần trình bày (tiếng Anh: exposition) – quá trình đưa ra các thông tin cơ bản về bối cảnh và sự kiện diễn ra trước nội dung chính – là quá trình đóng vai trò đặc biệt trong các phim thể loại này, sau đó điều chỉnh nó để có mức độ thể hiện cảm xúc phù hợp hơn cho thế giới giấc mơ và tiềm thức. Denby phỏng đoán, "lớp vỏ bên ngoài của câu chuyện cũng là một câu chuyện caper phức tạp". Kristin Thompson tranh luận rằng phần mở đầu là một phần rất quan trọng trong phim. Trong khi bộ phim trộm cướp truyền thống đưa ra hàng loạt những thông tin ban đầu trong phần mở đầu của phim và một đội nhóm được lập ra và người chỉ đạo đưa ra kế hoạch, thì trong "Inception" việc này diễn ra gần như liên tục khi nhóm người bước sang các tầng khác nhau của giấc mơ. Ba phần tư bộ phim, từ đầu phim đến khi chiếc xe tải bắt đầu rơi khỏi cây cầu, là dành cho việc giải thích câu chuyện. Theo cách này, quá trình trình bày được ưu tiên hơn quá trình xây dựng tính cách nhân vật. Các nhân vật liên hệ với nhau bằng vai trò và kỹ năng của họ. Ariadne tạo ra mê cung và hướng dẫn những người khác đi qua nó, và giúp Cobb điều chỉnh tiềm thức của chính anh, và với vai trò là người duy nhất đang tìm hiểu về việc chia sẻ giấc mơ, cô đồng thời giúp khán giả có được khái niệm về cốt truyện.
Nolan lấy cảm hứng từ các tác phẩm của Jorge Luis Borges, cảm hứng nhân vật "Ariadne" từ bộ phim anime "Paprika" (2006) của Satoshi Kon, và "Blade Runner" (1982) của Ridley Scott.
Kết thúc.
Bộ phim kết thúc với cảnh con quay bắt đầu loạng choạng (nhưng không ngã), gợi lên suy nghĩ về việc cảnh cuối cùng diễn ra trong thực tại hay là trong một giấc mơ khác. Nolan khẳng định rằng ông đã chủ ý để cho có sự mơ hồ này: "Người ta hỏi tôi câu này nhiều lần hơn về bất cứ bộ phim nào tôi từng làm… Điều khiến tôi thấy thú vị là họ thực sự mong đợi tôi trả lời". Kịch bản phim kết thúc với câu "Phía sau anh ta, trên bàn, con quay VẪN ĐANG QUAY. Còn chúng ta – MỜ DẦN". Tuy nhiên, Christopher Nolan cũng nói thêm, "Tôi cho cắt cảnh ở đoạn đó, áp đặt sự mơ hồ lên phim. Tôi luôn cảm thấy đó là cái kết đúng – tôi luôn cảm thấy nó là một 'cú hích' thích hợp… Điểm cốt yếu nằm ở chỗ—và đây là cái mà tôi trả lời mọi người—là Cobb không hề nhìn vào con quay. Anh ấy nhìn những đứa trẻ. Anh ấy bỏ nó lại phía sau. Đó chính là ý nghĩa cảm xúc của nó."
Một số chuyên gia chỉ ra rằng thực sự con quay không phải là tổ vật của Cobb, cho rằng cuộc tranh luận là không liên quan. Họ chỉ ra rằng con quay là tổ vật của Mal; còn của Cobb là chiếc nhẫn cưới của anh, bởi vì bất cứ lúc nào Cobb ở trong một giấc mơ thì anh đeo chiếc nhẫn đó, còn ngoài thực tại thì không. Khi anh đưa hộ chiếu cho viên sĩ quan, tay anh không đeo nhẫn; vì thế anh đã ở trong thực tại khi gặp con mình. Thêm nữa, những đứa trẻ được thể hiện bởi các diễn viên khác, cho biết chúng đã lớn hơn.
Tháng 9 năm 2010, Michael Caine giải thích phần kết theo ông, "Nếu tôi có mặt ở đó thì nó là thật, bởi vì tôi chưa bao giờ ở trong giấc mơ. Tôi là người phát minh ra giấc mơ". Nolan nói "bộ phim không nói rõ ràng rằng thế này hay thế kia". Ông nói thêm rằng con quay không phải là yếu tố quan trọng nhất của đoạn kết: "Tôi đọc được rất nhiều cách hiểu sai… Thứ quan trọng nhất liên quan đến con quay ở phần cuối phim là việc Cobb không hề nhìn nó. Anh không quan tâm."
Phát hành.
Tiếp thị.
Warner Bros. đã chi 100 triệu đô la để quảng bá cho bộ phim. Mặc dù "Inception" không phải là phần tiếp nối của phim nào trước đó, nhưng Sue Kroll, giám đốc quảng bá toàn cầu của Warner, nói rằng công ty tin bộ phim vẫn sẽ được biết đến vì sức mạnh của "thương hiệu Christopher Nolan". Kroll nói "Chúng tôi không có cái tên thương hiệu có thể mang đến một đợt mở màn mùa hè doanh thu cao, nhưng chúng tôi có dàn diễn viên rất tuyệt và ý tưởng tươi mới từ một nhà làm phim có lịch sử làm ra những bộ phim tuyệt vời. Nếu có những yếu tố này mà còn không thành công thì đúng thật là một ngày buồn". Studio cũng cố thực hiện một chiến dịch quảng cáo bí mật—theo báo cáo của phó giám đốc tiếp thị tương tác, Michael Tritter, "Bạn có một bộ phim mà lượng người hâm mộ tiềm năng là rất nhiều… nhưng bạn cũng có một bộ phim mà bạn muốn giữ nó hết sức bí mật. Chris [Nolan] rất thích việc mọi người đến xem phim của ông trong rạp chứ không phải xem ở đâu đó bên ngoài, nên mọi thứ bạn làm để quảng bá nó là để mồi sự hứng thú cho khán giả".
Một chiến dịch tiếp thị lan truyền được áp dụng cho bộ phim. Sau khi trailer đầu tiên được hé lộ, vào tháng 8 năm 2009, trên trang web chính thức của phim xuất hiện đoạn phim về con quay của Cobb. Tháng 12, con quay ngã đổ và trang web đưa ra một trò chơi trực tuyến tên là "Mind Crime", khi hoàn thành sẽ hé mở áp phích quảng cáo của "Inception". Chiến dịch quảng bá tiếp tục diễn ra tại WonderCon vào tháng 4 năm 2010, tại đây Warner tặng miễn phí nhiều áo phông quảng cáo có in hình chiếc cặp PASIV dùng để tạo ra không gian giấc mơ, và mã QR đến hướng dẫn trực tuyến của thiết bị này. Trò chơi "Mind Crime" tiếp tục có màn 2, cung cấp nhiều tài nguyên hơn, gồm cả một trailer ẩn của phim. Các hoạt động khác trong chiến dịch quảng bá tiếp tục diễn ra trước ngày phát hành "Inception", bao gồm quyển hướng dẫn chứa nhiều hình ảnh và thông điệp kì lạ được gửi đến tạp chí "Wired", và các trang xuất bản phần mềm ứng dụng, áp phích, quảng cáo trực tuyến có liên quan đến bộ phim. Warner đồng thời ra mắt truyện tranh trục tuyến "Inception: The Cobol Job", lấy bối cảnh trước khi bộ phim diễn ra.
Trailer chính thức được phát hành thông qua trò chơi "Mind Game" vào ngày 10 tháng 5 năm 2010 được đón nhận rất tốt. Trong trailer là đoạn nhạc phim "Mind Heist" sáng tác bởi nhạc sĩ Zack Hemsey, thay vì nhạc phim gốc. Bản trailer nhanh chóng được lan truyền với nhiều kiểu mashup sao chép phong cách của nó, không chỉ bởi những người nghiệp dư trên các trang mạng như YouTube mà cả bởi dân chuyên nghiệp từ các trang như CollegeHumor. Ngày 7 tháng 10 năm 2010, một video phía sau màn ảnh được phát hành với định dạng HD trên Yahoo! Movies.
Thị trường gia đình.
"Inception" được phát hành trên DVD và Blu-ray vào ngày 3 tháng 12 năm 2010 tại Pháp, và trong tuần sau đó tại Anh và Mỹ (7 tháng 12 năm 2010). Warner Bros. đồng thời phát hành tại Hoa Kỳ một phiên bản đĩa Blu-ray gói trong một chiếc cặp giống như cặp PASIV, và bao gồm những chi tiết bổ sung như con quay tổ vật. Với số lượng sản xuất dưới 2000, sản phẩm này nhanh chóng hết hàng trong vòng hai ngày cuối tuần.
Trò chơi điện tử dự kiến.
Nolan nói trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 11 năm 2010 rằng ông có ý định sản xuất một trò chơi điện tử lấy bối cảnh thế giới của "Inception", cùng một nhóm cộng tác. Ông mô tả nó là "một đề xuất dài hạn", nói về ý tưởng trò chơi điện tử là "điều mà tôi muốn khám phá".
Hậu bản.
Khi được hỏi rằng liệu bộ phim có thể có phần sau, Nolan trả lời "Tôi không muốn nói là không, nhưng tôi cũng sẽ không suy nghĩ nhiều về nó". Tom Hardy nói anh và các diễn viên khác đã ký thỏa thuận tham gia các phần sau nếu có, nhưng cũng không chắc là sẽ có phần sau hay không.
Đón nhận.
Doanh thu phòng vé.
Ngày 8 tháng 7 năm 2010, buổi công chiếu đầu tiên của "Inception" diễn ra tại Quảng trường Leicester ở London, Vương quốc Anh. Sau đó, bộ phim được khởi chiếu tại các rạp truyền thống và rạp IMAX từ ngày 16 tháng 7 năm 2010. Tại Hoa Kỳ và Canada, "Inception" được chiếu tại 3.792 rạp chiếu phim truyền thống và 195 rạp IMAX. Chỉ trong ngày đầu công chiếu, phim đã mang về 21,8 triệu đô la Mỹ, với các suất chiếu lúc nửa đêm tại hơn 1.500 địa điểm. Trong cuối tuần đầu ra mắt, bộ phim thu về 62,7 triệu đô la Mỹ và lập tức dẫn đầu các bảng xếp hạng. Với doanh thu này, "Inception" đạt danh hiệu là bộ phim có doanh thu cao thứ hai trong cuối tuần đầu công chiếu, chỉ sau "Avatar" ở tiêu chí phim độc lập, không phải là hậu bản, bản làm lại hay bản chuyển thể. Bộ phim vẫn giữ vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng trong cuối tuần thứ hai và ba sau ngày ra mắt, giảm 32% (42,7 triệu) và 36% (27,5 triệu đô la Mỹ) theo thứ tự, trước khi rơi xuống vị trí thứ hai vào cuối tuần thứ tư, sau "The Other Guys".
"Inception" mang về doanh thu 292 triệu đô la Mỹ tại Hoa Kỳ và Canada, 56 triệu đô la Mỹ tại Vương quốc Anh, Ireland và Malta và 475 triệu đô la Mỹ tại các nước khác; tổng doanh thu là 823 triệu đô la Mỹ. Năm thị trường có doanh thu phòng vé cao nhất sau Mỹ và Canada (292 triệu) là Trung Quốc (68 triệu), Vương quốc Anh, Ireland và Malta (56 triệu), Pháp và vùng Maghreb (43 triệu), Nhật Bản (40 triệu) và Hàn Quốc (38 triệu đô la Mỹ). Bộ phim xếp thứ sáu về doanh thu trong năm 2010 tại thị trường Bắc Mỹ, xếp thứ tư ở các thị trường khác, sau "Toy Story 3", "Alice in Wonderland" và "Harry Potter and the Deathly Hallows - Part 1". Hiện tại, phim đang xếp thứ 38 trong số các phim có doanh thu cao nhất trong lịch sử. "Inception" là bộ phim có lợi nhuận cao thứ ba trong sự nghiệp Christopher Nolan, sau "The Dark Knight" và "The Dark Knight Rises"— đồng thời là phim mang về lợi nhuận cao thứ nhì cho Leonardo DiCaprio— sau "Titanic".
Đánh giá chuyên môn.
Rotten Tomatoes cho "Inception" số điểm 87% dựa trên các đánh giá từ 351 nhà phê bình, với điểm trung bình là 8,11/10. Theo trang web, các đánh giá chủ yếu mô tả bộ phim "thông minh, sáng tạo và hấp dẫn, Inception là bộ phim bom tấn hiếm hoi trong mùa hè này đã thành công cả về bản năng lẫn trí tuệ". Metacritic, một trang tổng hợp đánh giá khác, cho bộ phim 74 trên 100 điểm dựa trên 42 đánh giá từ nhiều nhà phê bình, chủ yếu đều là các phản hồi tích cực. Trong cuộc bình chọn tổ chức bởi CinemaScore trong thời gian cuối tuần đầu công chiếu, khán giả cho bộ phim điểm trung bình là "B+".
Trong khi một số nhà bình luận cho rằng bộ phim hoàn toàn không có tính chất phức tạp, thậm chí phê bình chủ đề của phim là "chất liệu tầm thường vô vị", thì những cuộc thảo luận trực tuyến tỏ ra tích cực hơn. Các cuộc tranh luận chủ yếu tập trung vào tính mơ hồ của đoạn kết phim, với nhiều nhà phê bình trong đó có Devin Faraci đặt giả thuyết bộ phim là một sự tự tham chiếu chính nó, một bộ phim về việc sản xuất phim và một giấc mơ về giấc mơ. Một số nhà bình luận khác xem "Inception" như một cách nói bóng gió đến đạo Cơ đốc và tập trung vào việc bộ phim sử dụng các biểu tượng của nước và tôn giáo. Một vài người khác, như Kristin Thompson, không thấy nhiều giá trị trong đoạn kết mơ hồ của phim, mà tìm thấy giá trị trong cấu trúc và phương pháp kể chuyện hơn, làm nổi bật "Inception" với phong cách dẫn chuyện liên tục đưa ra tình tiết.
Nhìn chung, nhiều tạp chí dành cho "Inception" những nhận xét tích cực. Peter Travers của tạp chí "Rolling Stone" gọi "Inception" là một "ván cờ vua khéo léo đến cực kỳ" và kết luận rằng "kết quả là một cú hạ đo ván". Jim Vejvoda của IGN đánh giá bộ phim là hoàn hảo, nói rằng nó là một "thành tựu phi thường của một nhà làm phim đang thể hiện tốt hơn qua từng bộ phim". David Roark của "Relevant Magazine" gọi bộ phim là thành tựu lớn nhất của Nolan, nói rằng "Về cả mặt hình thức, trí tuệ và cảm xúc, "Inception" là một kiệt tác".
Tạp chí "Empire" cho bộ phim năm sao trong ấn bản tháng 8 năm 2010, viết: "Cảm giác giống như Stanley Kubrick chuyển thể tác phẩm của tác giả khoa học viễn tưởng vĩ đại William Gibson… Nolan mang đến một tác phẩm khởi nguồn: chào mừng đến một nơi chưa ai khám phá". "Entertainment Weekly" cho bộ phim điểm B+ và Lisa Schwarzbaum viết, "Nó là một chuỗi các hình ảnh bùng nổ đầy góc cạnh và mê hoặc như bất kỳ hình ảnh nào trong các bức tranh của M.C. Escher; thậm chí phép nối ngược trong "Memento" còn trông thô sơ nếu so sánh với nó". "New York Post" cho bộ phim 4 sao, và Lou Lumenick viết, "DiCaprio, vai nhân vật nam chính bị dày vò, lôi kéo bạn vào một câu chuyện tình mà thậm chí những người không hâm mộ thể các phim khoa học viễn tưởng cũng sẽ bị hấp dẫn". Roger Ebert của "Chicago Sun-Times" cho bộ phim 4 trên 4 sao và nhận nét rằng "điểm mấu chốt là ở sự tiến triển, ở việc đấu tranh vượt qua các lớp thực tại và giấc mơ, thực tại trong giấc mơ, giấc mơ mà không có thực tại. Nó là kiểu tung hứng đầy nghẹt thở". Richard Roeper, cũng của báo "Sun-Times", cho "Inception" điểm hoàn hảo "A+" và gọi bộ phim là "một trong những phim hay nhất của thế kỷ [21]".
Mark Kermode từ BBC Radio 5 Live gọi "Inception" là bộ phim hay nhất của năm 2010, nói rằng "Inception là bằng chứng cho thấy con người không ngốc nghếch, điện ảnh không phải là đồ bỏ, và một tác phẩm bom tấn và một tác phẩm nghệ thuật có thể là cùng một thứ".
Trong bài bình luận của mình trên "Chicago Tribune", Michael Phillips đánh giá bộ phim 3 trên 4 sao và viết, "Tôi ước giá như "Inception" lạ hơn nữa, xa xăm hơn nữa… bộ phim hoàn toàn là một mê cung của Nolan, và thật hài lòng khi được xem một bộ phim mùa hè có tham vọng lớn". Richard Corliss của tạp chí "Time" viết "ý tưởng tráng lệ về việc ghép tầm nhìn của một người vào trong tâm trí của rất nhiều khán giả… Ý tưởng đi xem phim và cùng mơ chung một giấc mơ đã có từ hàng thế kỷ. Với "Inception", người xem có cơ hội được thấy khái niệm đó đã biến chuyển hiện đại ra sao". Trên "Los Angeles Times", Kenneth Turan cảm thấy rằng Nolan có khả năng hòa quyện "yếu tố truyền thống và hiện đại trong làm phim. Nếu bạn đang tìm kiếm cách tiêu khiển thông minh và mạnh mẽ, nó sẽ trông giống thế này".
"USA Today" cho phim ba sao rưỡi trên thang bốn sao, và nhà báo Claudia Puig cảm thấy Nolan "coi khán giả của ông thông minh hơn bản thân họ–hay ít nhất là có khả năng với được đến tầm sáng tạo của ông. Một yêu cầu cao. Nhưng thật thoải mái khi tìm thấy một người đạo diễn làm chúng ta phải rướn người, đôi khi theo cách khó khăn, để bắt kịp".
Tuy nhiên, không phải mọi đánh giá về bộ phim đều là đánh giá tích cực. David Edelstein của tạp chí "New York" nói trong bài viết của ông rằng ông "không biết vì sao nhiều người say mê nó như thế. Cứ như là có ai đi vào trong đầu họ khi họ đang ngủ và gieo vào đó ý tưởng rằng "Inception" là một kiệt tác và—đợi đã... Ô! Tôi biết rồi. Bộ phim là cách nói ẩn ý về sức mạnh của quảng cáo thổi phồng ảo tưởng—một sự ẩn ý của chính nó". Rex Reed từ "The New York Observer" nói bộ phim "đúng là thứ chúng tôi mong đợi từ các phim mùa hè nói chung và phim của Christopher Nolan nói riêng… tôi không coi nó là một thành tựu". A. O. Scott của "The New York Times" bình luận "có nhiều thứ để xem trong "Inception", không có cái gì gọi là tầm nhìn nguyên bản. Ý tưởng của ông Nolan về tâm trí là quá trực nghĩa, quá phù hợp lý luận, và quá theo khuôn khổ để đo lường mức độ điên rồ".
Một vài nguồn cho rằng nhiều phần nội dung của phim có nét tương đồng với truyện tranh năm 2002 tên "The Dream of a Lifetime" của Uncle Scrooge.
Tháng 4 năm 2014, "The Daily Telegraph" đưa bộ phim vào danh sách 10 phim được đánh giá cao quá mức. Tim Robey của tờ "Telegraph" nói rằng "Bộ phim thất bại về mặt hình sự khi nó ngụ ý giấc mơ con người có thể bị xâm nhập, nhưng không mô tả đặc điểm nào để xác định cảm giác về giấc mơ, và không có cách nào để nhận ra ngay rằng mình đang ở trong một giấc mơ". "Inception" nhận được giải cao nhất trong một cuộc bình chọn không chính thức của Los Angeles Times cho bộ phim được đánh giá cao quá mức của năm 2010.
Tháng 3 năm 2011, thính giả của BBC Radio 1 và BBC Radio 1Xtra đã bình chọn bộ phim là phim ưa thích thứ chín của họ. Năm 2012, "Inception" xếp hạng thứ 35 cho Phim được biên tập hay nhất từ trước đến nay bởi Hiệp hội Biên tập viên Điện ảnh. Cùng năm đó, Total Film gọi bộ phim là phim có khả năng được xem lại nhiều nhất của mọi thời. Năm 2014, "Empire" xếp hạng "Inception" ở vị trí thứ 10 trong số các phim hay nhất trong lịch sử, theo kết quả bình chọn bởi độc giả.
Giải thưởng.
"Inception" xuất hiện trong 273 danh sách mười phim hay nhất của năm 2010, và đứng đầu trong 55 trong số các danh sách đó. Bộ phim cũng là một trong các phim được đánh giá cao nhất trong năm 2010, cùng với các phim "The King's Speech" và "Black Swan".
Trong lĩnh vực kỹ thuật, bộ phim giành được nhiều giải thưởng như Giải Oscar cho Quay phim xuất sắc nhất, Biên tập âm thanh xuất sắc nhất, Hòa âm hay nhất, và Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất, và Giải thưởng của Hiệp hội Điện ảnh Anh cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Hiệu ứng hình ảnh đặc biệt xuất sắc nhất và Hòa âm hay nhất. Trong số những đề cử trong lĩnh vực nghệ thuật như Phim, Đạo diễn và Kịch bản tại Giải Oscar, BAFTA và Giải Quả cầu vàng, bộ phim bị đánh bại bởi "The Social Network" và "The King's Speech". Tuy nhiên, bộ phim giành hai giải danh dự cho phim giả tưởng hay khoa học viễn tưởng: Giải Bradbury năm 2011 cho sản phẩm chính kịch hay nhất và Giải Hugo năm 2011 cho trình diễn chính kịch xuất sắc nhất, dạng dài. | 1 | null |
Chính phủ Việt Nam giai đoạn 1981-1987 hay được gọi Chính phủ Quốc hội khóa VII.Chính phủ được Quốc hội khóa VII phê chuẩn thông qua.
Chính phủ được gọi bằng Hội đồng Bộ trưởng với phương cách làm việc giống Hội đồng Bộ trưởng của Liên Xô.
Trong giai đoạn này,Hội đồng Bộ trưởng chuyển dịch từ bao cấp thành kinh tế thị trường,tích cực hợp tác thiết lập quan hệ với các nước.
Thành lập.
Ngày 25/6/1981, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VII đã họp phiên khai mạc tại Hà Nội.
ngày 4/7/1981, Quốc hội khoá VII đã tiến hành bầu các chức danh thuộc Hội đồng Bộ trưởng. | 1 | null |
Kế hoạch B () là một bộ phim hành động Hàn Quốc 2010 với sự tham gia của diễn viên Rain và Lee Na-young. Phim chiếu trên KBS2 từ 29 tháng 9 đến 8 tháng 12 vào mỗi thứ 4&5 lúc 21:55 gồm 20 tập.
Phim của đạo diễn Kwak Jung-hwan và được viết bởi Cheon Sung-il. Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3.
Ratings.
Nguồn: TNS Media Korea | 1 | null |
Excite (viết cách điệu là excite) là một tập hợp các trang web và dịch vụ, được đưa vào hoạt động từ tháng 12 năm 1995. Excite là một dịch vụ trực tuyến cung cấp nhiều nội dung, bao gồm một cổng thông tin Internet cập nhật tin tức và thời tiết, v.v. (chỉ bên ngoài Hoa Kỳ); là một công cụ tìm kiếm; là một email trên nền web, công cụ nhắn tin nhanh, trang báo giá tài chính và một trang chỉ mục người dùng tùy biến. Nội dung của nó được tổng hợp từ hơn 100 nguồn khác nhau.
Cổng thông tin và các dịch vụ của Excite được sở hữu bởi Excite Networks; nhưng tại Mỹ, Excite là một cổng thông tin cá nhân, gọi là My Excite, do Mindspark vận hành và sở hữu bởi IAC Search and Media.
Vào những năm 1990, Excite là một trong những thương hiệu Internet được biết đến rộng rãi nhất.
Toàn cầu.
Các website địa phương của Excite, không tính My Excite của Mỹ: | 1 | null |
Ngàn lần yêu em (; lit. "Anh yêu em 10 triệu lần") là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của diễn viên Lee Soo-kyung, Jung Gyu-woon, Go Eun-mi, Ryu Jin và Lee Si-young. Phim chiếu trên SBS từ 29 tháng 8 năm 2009 đến 7 tháng 3 năm 2010 vào mỗi thứ 7&chủ nhật lúc 20:50 gồm 55 tập.
Tại Việt Nam, phim từng được TVM Corp. mua bản quyền và phát sóng trên kênh HTV3. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.