text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Huy Tuấn (tên đầy đủ là Bùi Huy Tuấn, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1970 ở Hạ Long, Quảng Ninh), là nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc, giám đốc âm nhạc của Việt Nam. Ngoài ra, anh là nghệ sĩ đã được nhận 3 đề cử cho giải Cống hiến. Cùng với nhạc sĩ Anh Quân, anh đã lập nên ban nhạc Anh Em vào năm 1993 tại Đức, và sau đó trở thành ê-kíp cộng tác của ca sĩ Mỹ Linh kể từ năm 1998. Chính anh và nhạc sỹ Anh Quân đã tạo ra một cú đột phá cho thị trường âm nhạc Việt Nam vào cuối thập kỷ 90 bằng Album "Tóc ngắn" và cũng từ đó hàng loạt các album được đánh giá là những mốc son của âm nhạc Việt bắt đầu được sản xuất bởi cặp đôi này như "Made in Vietnam", "Để mãi được gần anh", "Tóc Ngắn Acoustic" và xây dựng vững chắc tên tuổi cho Mỹ Linh.
Từ năm 2003, song song với các hoạt động của ban nhạc Anh Em, Huy Tuấn bắt đầu thử nghiệm trong vai trò nhà sản xuất âm nhạc một cách độc lập. Với album 24 giờ 7 ngày (2004) anh chính là người phát hiện và đưa ra ánh sáng một Hồ Ngọc Hà từ một người mẫu đã trở thành một ca sỹ nổi tiếng nhất trên thị trường âm nhạc. Là một nhạc sĩ có nhiều sáng tác được công chúng mến mộ, Huy Tuấn cũng tham gia vào nhiều chương trình truyền hình, điển hình là làm giáo khảo ' hay giám đốc âm nhạc cho ' (kể từ năm 2010). Anh cũng từng là thành viên của Hội đồng nghệ thuật chương trình "Bài hát Việt", "Sao Mai điểm hẹn"... Anh là một nhà sản xuất âm nhạc dành nhiều thời gian hỗ trợ các ca sỹ trẻ, giúp họ có những bước đi vững chắc cho sự nghiệp ca hát như Văn Mai Hương, Vũ Cát Tường, Hòa Minzy...
Huy Tuấn được xem như một trong những nhân tố góp phần định hướng tư duy cảm thụ âm nhạc cho khán giả yêu nhạc Việt. Cùng với Anh Quân, anh được coi là một trong những người tạo nên thành công rực rỡ của "diva" Mỹ Linh.
Tuổi trẻ.
Huy Tuấn sinh năm 1970 tại Hạ Long, Quảng Ninh trong một gia đình không mấy khá giả có bố làm trong lĩnh vực thể thao và mẹ làm nghề buôn bán tự do. Dù không phải là “con nhà nòi” nhưng ngay từ những năm tháng trung học, anh đã sớm bộc lộ năng khiếu âm nhạc và niềm đam mê với nghệ thuật. Khi Nhà nước có chính sách tìm kiếm tài năng trẻ tại các địa phương để đào tạo ngành nghề, Huy Tuấn ngay lập tức nộp đơn đăng ký và sau đó được chọn vào khoa Flute tại Nhạc viện Hà Nội. Kết thúc 4 năm sơ cấp, vì học giỏi mà anh được các chuyên gia Liên Xô sang trường tuyển thẳng vào Nhạc viện Tchaikovsky, ngôi trường âm nhạc cổ điển hàng đầu châu Âu, để tiếp tục theo học nâng cao bộ môn sáo tây. Đây chính là một cơ hội lớn, là bước đệm giúp anh phát triển tài năng và theo đuổi sự nghiệp âm nhạc của mình sau này.
Năm 1990, Liên Xô tan rã. Theo bạn bè, từ Nga, Huy Tuấn đi sang Ba Lan, rồi sang Đức, kiếm sống bằng nhiều nghề để có tiền học sáng tác nhạc.
Sự nghiệp.
Ca sĩ.
1993: Ban nhạc Anh Em.
Huy Tuấn và Anh Quân gặp nhau từ Nhạc viện Hà Nội rồi cùng nhau sang Nga. Hai người bạn từ thuở nhỏ với cùng niềm đam mê đã lập nên ban nhạc Anh Em tại Đức vào năm 1993 chỉ gồm 2 thành viên. Thời gian còn là sinh viên tại Nga, ngoài giờ học ở trường, Huy Tuấn và Anh Quân còn tranh thủ chơi nhạc và hát ở các nhà hàng, quán bar. Họ từng thực hiện một album có tên là "Thiên đường". Huy Tuấn nói về tình bạn với Anh Quân: "Tôi nói với Quân: "Tao với mày đi đâu cũng có nhau, cái gì cũng nghĩ chung, làm chung, cùng nghe một thứ nhạc, cùng thích chơi một thứ nhạc. Tao đi đâu cũng thấy… mày bên cạnh. Tao qua Nga mày cũng qua Nga. Tao qua Ba Lan mày cũng qua Ba Lan. Qua Đức mày cũng qua Đức. Tao ngoái lại lúc nào cũng nhìn thấy mày. Như thế quá bằng "Anh Em" còn gì! Còn hơn cả anh em!". Anh Quân nói: "Anh Em" vì thế quả đúng là cái tên phản ánh rất đúng mối quan hệ giữa tôi và Tuấn vì có lẽ, ngay cả đến anh em trong nhà cũng không thể thân nhau đến thế.""
1998–nay: Mỹ Linh.
Năm 1997, ban nhạc Anh Em trở về Việt Nam và bắt đầu cộng tác với Mỹ Linh sau khi cô lập gia đình với Anh Quân. Năm 2000, họ thực hiện thành công album Tóc Ngắn 2 tạo tiếng vang lớn trong dư luận và góp phần đưa Mỹ Linh trở thành “diva” trong lòng công chúng. Đây là album không chỉ thay đổi quan điểm trong nhạc nhẹ Việt Nam mà còn tạo ra những chuyển biến về việc thực hiện sản phẩm âm nhạc phòng thu. Kể từ đó, Huy Tuấn và ban nhạc Anh Em trở thành ê-kíp chính của Mỹ Linh, đồng hành giúp cô tạo dựng phong cách của “tóc ngắn”.
Năm 2003, ban nhạc Anh Em sản xuất thành công album Made in Viet Nam, đánh dấu sự hợp tác lần đầu tiên giữa ekip người Việt và ekip người nước ngoài (Blue Tiger Records). Năm 2004, ban nhạc tiếp tục thành công cùng ca sĩ Mỹ Linh với album xuất sắc Chat với Mozart khi toàn bộ các ca khúc cổ điển nổi tiếng của thế giới được phổ lời Việt và hòa âm lại theo phong cách R&B hiện đại. Năm 2006, khi dư âm của “Chat với Mozart” chưa kịp lắng xuống, ban nhạc Anh Em và ca sĩ Mỹ Linh lại tiếp tục áp đảo thị trường âm nhạc Việt bằng album "Để tình yêu hát" nhân dịp lễ Valentine và thực hiện show diễn "Mỹ Linh '06" được dàn dựng công phu, giúp Mỹ Linh đoạt giải “Ca sĩ của năm” của Giải thưởng cống hiến do báo "Thể thao & Văn hóa" tổ chức. Tới năm 2011, ê-kíp của ban nhạc Anh Em cùng Mỹ Linh đã thử nghiệm phong cách nhạc pha Jazz với chất liệu Acoustic để thực hiện album Tóc ngắn acoustic - Một ngày được phát hành dưới dạng đĩa than cùng ấn bản CD. Mới đây, vào ngày 18/01/2018, sau 3 năm miệt mài sáng tạo của toàn ekip, album "Chat với Mozart II" đã chính thức ra mắt, với chất âm nhạc cổ điển được khoác màu áo blue jazz đương đại. Huy Tuấn cùng Anh Quân và nhạc sĩ trẻ tài năng Thanh Bình là những người phối khí cho sản phẩm âm nhạc này.
Ngoài Mỹ Linh, ban nhạc Anh Em vẫn luôn tiếp tục cộng tác với nhiều ca sĩ như Tuấn Ngọc, Thanh Lam, Hồng Nhung, Quang Dũng, Hà Anh Tuấn, Đức Tuấn, Tùng Dương, Đinh Mạnh Ninh, Mỹ Tâm... Các chương trình cộng tác của ban nhạc Anh Em luôn được công chúng và giới chuyên môn đánh giá cao.
2004-2006: Hồ Ngọc Hà.
Năm 2004, Hồ Ngọc Hà đến Hà Nội và tìm gặp Huy Tuấn để thử sức trong lĩnh vực ca hát. Sau đó, anh đã giúp cô thực hiện album đầu tay mang tên 24 giờ 7 ngày được phát hành bởi hãng Viết Tân Studio. Các bài hát nằm trong album đều do Huy Tuấn sản xuất và được anh cùng các nhạc sĩ như Đức Trí, Nguyễn Xinh Xô, Hồng Kiên, Dương Thụ và An Hiếu sáng tác. Với sự giúp đỡ của kỹ thuật phòng thu và “bàn tay phù thủy” của Huy Tuấn đã giúp nhào nặn phong cách cho Hà Hồ và tạo ra một album khá hoàn chỉnh cho một giọng ca vốn bị chê vừa khàn vừa mỏng. Năm 2005, nghe lời khuyên của Huy Tuấn, Hồ Ngọc Hà sau đó đã ký hợp đồng với hãng đĩa của nhạc sĩ Đức Trí là Music Faces và cho ra mắt album thứ hai "Và em đã yêu", giúp tên tuổi của Hà nở rộ trong thời đó. Năm 2006, Huy Tuấn và Đức Trí cùng nhau sáng tác trong album thứ ba của cô mang tên "Muốn nói với anh", được phát hành tại Việt Nam bởi hãng Music Faces và Galaxy Media & Entertainment, và tại Mỹ trên iTunes bởi hãng Music Faces.
2010: Uyên Linh.
Năm 2010, Huy Tuấn làm giám đốc âm nhạc chịu trách nhiệm toàn bộ về mặt chất lượng âm nhạc cho , phát sóng trên kênh VTV6 của Đài Truyền hình Việt Nam. Chương trình được đánh giá là đã có nhiều thay đổi mới trong định dạng theo hướng gần gũi với khán giả Việt hơn, đã tạo cho các ca sĩ sự khởi đầu rất thuận lợi để làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp của họ sau này. Ca sĩ Uyên Linh trong đêm chung kết đã vượt qua đối thủ Văn Mai Hương để giành danh hiệu Vietnam Idol và bước ra khỏi cuộc thi như một “diva mới”, được kỳ vọng sẽ tiếp nối các thế hệ “đàn chị” đi trước như Mỹ Linh, Hồng Nhung, Thanh Lam... 6 tháng sau khi chương trình kết thúc, Huy Tuấn đã bỏ công làm single "Cám ơn tình yêu" cho Uyên Linh như một lời cám ơn dành cho khán giả và giới làm nghề. Đây là bản thu âm đầu tiên của cô trong studio với tư cách là quán quân của “thần tượng”. Huy Tuấn sau đó đã tư vấn và cân nhắc thận trọng những bước đi tiếp theo cho Uyên Linh, giúp cô lựa chọn nhà sản xuất thích hợp. Năm 2011, nhạc sĩ Quốc Trung đã đồng ý sản xuất album đầu tay cho Uyên Linh mang tên "Giấc mơ tôi", trong khi Huy Tuấn nhận làm việc với Á quân Văn Mai Hương.
2010-nay: Văn Mai Hương.
Bước ra từ chương trình với danh hiệu Á Quân, ca sĩ trẻ Văn Mai Hương quyết định “Nam tiến” để chính thức tấn công vào thị trường âm nhạc Việt với sự “giúp đỡ nhiệt tình” của nhạc sĩ Huy Tuấn. Anh đã nhận đỡ đầu và định hướng âm nhạc cho cô. Khởi đầu là single Nếu như anh đến, là một ca khúc kết hợp giữa hai thể loại Dance-pop và R&B được sáng tác bởi nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường. Bài hát nhanh chóng được tiếp nhận như “làn gió mới” của V-pop và đã đứng đầu bảng xếp hạng "Zing Top Song" vào tháng 8 năm 2011. Cùng năm đó, để đánh dấu tuổi 17, Văn Mai Hương ra mắt album đầu tay "Hãy mỉm cười" là tập hợp những tác phẩm mới được nhà sản xuất Huy Tuấn tuyển lựa kỹ càng từ những sáng tác của nhiều nhạc sĩ tên tuổi như Nguyễn Đức Cường, Giáng Son, Đức Trí, Huy Tuấn, Minh Vương, Hà Quang Minh... Trong quá trình thực hiện album này, Huy Tuấn đã từng thẳng thừng la mắng và đuổi Văn Mai Hương khỏi studio của Music Faces vì thu âm không đạt yêu cầu ca khúc "Ngày chung đôi". Nhắc lại chuyện cũ, cô thấy rất xấu hổ nhưng vẫn thầm cám ơn Huy Tuấn vì nhờ có sự nghiêm khắc của anh mà cô đã có một bản thu chất lượng. Năm 2013, Huy Tuấn tiếp tục giúp cô biên tập album thứ 2 mang tên "Mười tám+" gồm các bài hát mang phong cách ballad, Dance-pop và R&B…
Á quân Vietnam Idol 2010 từng chia sẻ, "“…Tôi chắc chắn sẽ không có được ngày hôm nay nếu không có hai người thầy lớn nhất cuộc đời mình: NSƯT Hà Thủy - người mẹ thứ 2 và nhạc sĩ Huy Tuấn - người cha thứ 2. Một người dìu dắt và một người chắp cánh ước mơ tôi…”" Huy Tuấn khi được hỏi về cơ duyên kết hợp với Văn Mai Hương, "“Tôi muốn xây dựng một thần tượng mới cho đối tượng khán giả teen, với những ca khúc có nội dung lành mạnh phù hợp với lứa tuổi, có chiều sâu nghệ thuật. Với những tố chất của Văn Mai Hương và với sự nhiệt huyết của mình, tôi hy vọng sẽ làm một điều gì đó cho phân khúc thị trường này. Tôi nghĩ nếu mình làm việc tử tế nó sẽ đem lại những giá trị thiết thực”".
2012-2014: Sơn Tùng M-TP.
Sau khi tốt nghiệp khoa Thanh nhạc tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Sơn Tùng chuyển vào Sài Gòn học tập và phát triển sự nghiệp. Cuối năm 2012, Sơn Tùng M-TP kí hợp đồng và trở thành ca sĩ độc quyền của công ty Văn Production (cùng với Văn Mai Hương) dưới sự nâng đỡ và dẫn dắt của nhạc sĩ Huy Tuấn, vốn đang là cố vấn chuyên môn tại đây. Thời điểm đó, Huy Tuấn là giám đốc âm nhạc cuộc thi và là một trong các giám khảo Bài hát yêu thích, nên đã mời Sơn Tùng biểu diễn trong hai chương trình này. Sau hai đêm diễn, Sơn Tùng được khán giả trẻ yêu thích với ca khúc "Cơn mưa ngang qua". Giữa 2014, Sơn Tùng tiếp tục được Huy Tuấn mời tham gia hai chương trình và "gây sốt" với Em của ngày hôm qua.
Sau khi trở nên đình đám, Sơn Tùng vướng phải nghi án đạo nhạc. Giữa sự chỉ trích dữ dội của dư luận, giọng ca 20 tuổi vẫn được Huy Tuấn đứng ra bảo vệ. Song, nhạc sĩ không thể giúp Sơn Tùng giữ lại các giải thưởng âm nhạc mà ca sĩ trẻ này từng đạt được trước đó. Cuối năm 2014, nhạc sĩ Huy Tuấn chính thức tuyên bố dừng hợp tác với Sơn Tùng M-TP do bận rộn với nhiều hoạt động âm nhạc, không đủ thời gian quán xuyến hết công việc, nên chỉ nhận cố vấn chuyên môn cho ca sĩ Văn Mai Hương.
2014-2016: Vũ Cát Tường.
Sau khi “chia tay” với Sơn Tùng M-TP, Á quân Giọng hát Việt mùa 2 Vũ Cát Tường chính là cô học trò mới mà nhạc sĩ Huy Tuấn muốn hỗ trợ phát triển sự nghiệp. Cuối năm 2014, đóng vai trò là nhà sản xuất âm nhạc và hòa âm phối khí, Huy Tuấn đã cho ra mắt thành công album đầu tay của Vũ Cát Tường mang tên "Giải mã", gồm những ca khúc do chính cô tự sáng tác theo thể loại Ballad, Pop rock, R&B và Electronic. Single "Yêu xa" trích từ album này được phát hành trước đó cũng nhanh chóng nhận được sự đón nhận của khán giả và lọt vào Top của các bảng xếp hạng âm nhạc. Bản thân Vũ Cát Tường với phần biểu diễn thành công ca khúc “Yêu xa” đã nhận giải thưởng “Ca sĩ thể hiện hiệu quả nhất” trong liveshow tháng 8 của chương trình Bài hát Việt (2014).
Năm 2015, nhận thấy tiềm năng có thể trở thành “bản hit thành công” trong sáng tác mới của Vũ Cát Tường, nhạc sĩ Huy Tuấn đã đề cử “Mơ” vào Bài Hát Việt 2015 và ngay lập tức ca khúc được viết theo phong cách Soul mix R&B này đã đoạt giải “Bài hát ấn tượng” trong liveshow tháng 12 do khán giả bình chọn. Đây chính là động lực để Vũ Cát Tường đầu tư mạnh mẽ cho bài hát với một video ca nhạc hoàn chỉnh, và “người thầy” Huy Tuấn tiếp tục nhận lời làm nhà sản xuất cho MV này. Tháng 1 năm 2016, Vũ Cát Tường đã có buổi họp báo ra mắt single và MV Mơ. Sản phẩm thu hút sự quan tâm và yêu thích của khán giả lẫn giới chuyên môn khi được trau chuốt khá kỹ lưỡng về hình ảnh từ góc quay đến giai đoạn xử lý hậu kỳ. Tháng 2 năm 2016, MV Mơ đã vinh dự giành giải cao nhất “MV vàng” tại lễ trao giải "VTV Bài hát tôi yêu" 2015 diễn ra tại Nhà hát Bến Thành, Thành phố Hồ Chí Minh. Có được thành công này, Vũ Cát Tường không quên gửi lời cám ơn chân thành tới người thầy, “người bạn tri âm” Huy Tuấn vì đã tận tình hướng dẫn cô, đã kiên nhẫn để mặc cô tự do khám phá giai điệu của con người cô và tin tưởng vào tố chất người nghệ sĩ trong cô. Nói về sự hợp tác với nhạc sĩ Huy Tuấn, nữ ca sĩ "Vết mưa" chia sẻ, "“Tôi đặt niềm tin vào người đã có thành tựu, nhưng quan trọng nhất với tôi vẫn là cả hai tôn trọng sự khác biệt của nhau.”"
Nhạc phim.
Dù không được đào tạo để viết nhạc phim chuyên nghiệp, và chỉ bằng cảm quan riêng, bằng kiến thức về điện ảnh có được nhờ vào sự yêu thích phim ảnh từ sớm, nhạc sĩ Huy Tuấn vẫn được nhiều đạo diễn nổi tiếng như Nguyễn Quang Dũng (đạo diễn), Lê Hoàng, Đỗ Thanh Hải... gửi gắm làm nhạc cho các bộ phim điện ảnh lẫn truyền hình. Bộ phim đầu tiên anh viết nhạc cách đây gần 20 năm là phim truyền hình của đạo diễn Trần Hoài Sơn. Lúc đó cả hai đều còn rất trẻ và khá hưng phấn với tác phẩm đầu tay của mình. Sau khi tiếp tục viết khá nhiều nhạc phim cho các bộ phim truyền hình như "Những giấc mơ dài" (2004), "Dòng sông phẳng lặng" (2004) (đều do ca sĩ Mỹ Linh thể hiện)... đến năm 2005 Huy Tuấn bắt đầu viết nhạc cho phim truyện nhựa. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 15, có tới 4 bộ phim tham gia tranh cử do anh viết nhạc phim, đó là Chiến dịch trái tim bên phải và "Vũ điệu tử thần" của Hãng phim truyện Việt Nam, "Hai trong một" của hãng phim Thiên Ngân Galaxy (ca khúc Hip Hop có tên “Bó tay” do L.k và Ngô Thanh Vân thể hiện) và Sinh mệnh của Hãng phim truyện I.
Từ năm 2009, sau khi chuyển vào Sài Gòn, Huy Tuấn càng nhận được nhiều “đơn đặt hàng” hơn. Năm 2010, anh tham gia với tư cách là đồng sáng tác với nhạc sĩ Võ Thiện Thanh trong bộ phim "Những nụ hôn rực rỡ" của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng (Dũng “khùng”) và rất thích thú với phần âm nhạc của bộ phim này. Hai người đã may mắn đoạt giải Bông sen Vàng tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17.
Năm 2013, sau khi bộ phim Mỹ nhân kế của đạo diễn Quang Dũng “rời” khỏi rạp chiếu thì ca khúc nhạc phim "“Chờ người nơi ấy”" do ca sĩ Uyên Linh - Quán quân , thể hiện vẫn gây “sốt” trong giới trẻ, thậm chí nhóm nhạc Unlimited còn làm mới ca khúc này theo phong cách Rock rất ấn tượng. Đây là một sản phẩm của sự kết hợp thành công giữa âm nhạc của Huy Tuấn và ca từ của Hà Quang Minh. “Chờ người nơi ấy” hiện vẫn được xem là một trong những bài nhạc phim hay nhất từ trước đến nay.
Năm 2014, Huy Tuấn nhận lời viết nhạc nền và sáng tác ca khúc cho bộ phim Lạc giới của đạo diễn Phi Tiến Sơn. Anh đã mời Mỹ Linh tham gia viết lời và hát ca khúc "“Lạc Bờ”", đánh dấu sự kết hợp của tình bạn âm nhạc 20 năm của hai người. Khán giả được gặp lại sự nồng nàn, da diết của giọng hát Mỹ Linh trong những giai điệu lãng mạn của Huy Tuấn và không ngạc nhiên khi nhạc phẩm đã vượt ra khỏi ranh giới của bộ phim.
Năm 2015, trên sân khấu Vietnam Idol, lần đầu tiên diva Trần Thu Hà giới thiệu "“Giấc mơ đã qua”" đến công chúng – một ca khúc do nhạc sĩ Huy Tuấn sáng tác trong phim "Quyên" của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình. Dù chỉ có một khoảng thời gian ngắn ngủi để quyết định thu âm bài hát này, và chỉ thu âm 2 lần trong vòng 10 phút, nhưng nữ ca sĩ có một cảm giác rất gần gũi với ca khúc. Cô từng chia sẻ, "“Tác phẩm này của nhạc sĩ Huy Tuấn theo chủ ý của tôi cần một giọng hát nhiều nữ tính và một cảm xúc nhiều trải nghiệm. Trong sự bình thản vẫn có những sóng gió ngầm.”"
Trong hai năm tiếp theo, mỗi năm Huy Tuấn lại nhận viết nhạc cho một bộ phim điện ảnh, là Vệ sĩ, tiểu thư và thằng khờ (2016) và Sắc đẹp ngàn cân (2017). Hai ca khúc "“Nếu lúc ấy”" và "“Forever n Ever”" (F.N.E) đều được thể hiện thành công bởi ca sĩ Bằng Kiều và hai “học trò cưng” của anh là Văn Mai Hương và Rocker Nguyễn.
Tuy nhiên, nếu được chọn thì Huy Tuấn vẫn thích viết nhạc hơn là sáng tác ca khúc cho phim, vì đối với anh nhạc cho phim phải là phần nhạc nền, ca khúc hầu hết chỉ dành cho phim truyền hình, ngoại trừ những phim có yêu cầu đặc biệt như phim âm nhạc. Để thực hiện phần âm nhạc cho một bộ phim, anh thường đọc kịch bản trước rồi gặp gỡ trao đổi với đạo diễn, viết, đưa đạo diễn nghe thử để biết rằng cả hai đang đi đúng hướng, sau đó làm một mạch và mang đến cùng đạo diễn ghép nhạc... Điều kiện duy nhất Huy Tuấn đặt ra cho các nhà sản xuất là cung cấp bản dựng nháp trước một tháng nhưng hầu như chưa bao giờ anh có được điều đó. Theo Huy Tuấn, "“Viết nhạc cho phim chính là đạo diễn thứ hai bằng âm thanh”". Sáng tác ca khúc có thể chỉ mất vài buổi, còn viết phần nhạc nền cho một bộ phim có khi anh phải cần vài tháng để hoàn thành.
Truyền hình thực tế.
Không chỉ là người định hướng chuyên môn và đứng sau thành công của nhiều hiện tượng âm nhạc trẻ, nhạc sĩ Huy Tuấn từ khi Nam tiến còn tham gia nhiều hơn vào các show truyền hình thực tế trên nhiều cương vị khác nhau như giám đốc âm nhạc, thành viên hội đồng nghệ thuật, thành viên ban giám khảo và huấn luyện viên cho các cuộc thi âm nhạc lớn nhỏ.
Từ năm 2010 tới nay, Huy Tuấn là giám đốc âm nhạc kỳ cựu đầy tâm huyết của chương trình . Mùa 3 với nhiều thay đổi trong định dạng đã đem lại thành công đặc biệt khi tạo được “hiệu ứng Idol” và sự giao thoa thống nhất rất hiếm hoi trong bình chọn giữa khán giả và ban giám khảo. Từ cuộc thi này, thị trường nhạc Việt đón chào hai giọng ca trẻ xuất sắc mới là Uyên Linh và Văn Mai Hương, hai “học trò” mà anh vẫn luôn quan tâm và nhiệt tình chỉ dẫn. Những năm sau đó với kinh nghiệm dày dặn, khả năng chuyên môn cao cùng sự cầu toàn trong công việc, Huy Tuấn tiếp tục đảm nhận vai trò quan trọng này trong các cuộc thi âm nhạc lớn như Bài hát Việt (2012 - 2015), Bài hát yêu thích (2012 – 2016), "Tuyệt đỉnh tranh tài" (2014 – 2015), "Sao Việt toàn năng" (2015), "Khởi đầu ước mơ - Dream High" (2016), Trời sinh một cặp (2017 – nay), "Sao đại chiến" (2017)…
Năm 2014, anh là lựa chọn hoàn hảo cho vị trí Giám khảo kiêm Giám đốc âm nhạc của "“Học viện ngôi sao”" để đồng hành với quá trình tuyển lựa và luyện tập của 12 học viên cho Học viện đặc biệt này. Chương trình truyền hình thực tế này thu hút sự quan tâm của khán giả trẻ khi cho họ trải nghiệm một bức tranh toàn cảnh về thế giới giải trí và hiểu hơn về một môi trường không hoàn toàn màu hồng của showbiz.
Là một nhạc sĩ nhưng khi ngồi trên “ghế nóng” của các chương trình truyền hình thực tế như (2011 – 2016), "Biệt đội tài năng" (2016)… hay những sự kiện âm nhạc lớn như MAMA Awards (2016 - 2017) tại Việt Nam, anh lại được biết đến nhiều hơn với vai trò một vị giám khảo khó tính khi có những nhận xét khắt khe về chuyên môn và nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm ở những phần thi tài năng của các thí sinh. Ngoài ra, Huy Tuấn từng được mời làm cố vấn âm nhạc trong Giọng hát Việt nhí: The Voice Kids mùa 1 (2013) (đội của nhạc sĩ Thanh Bùi) và (2017) (đội của ca sĩ Mỹ Linh). Anh cũng luôn là một trong những nghệ sĩ tên tuổi được lựa chọn làm thành viên Hội đồng nghệ thuật (Hội đồng thẩm định) của các cuộc thi âm nhạc lớn như Sao Mai điểm hẹn (2006, 2014), Zing Music Awards (2017), có vai trò cố vấn chuyên môn cho toàn bộ chương trình và quyết định các hạng mục quan trọng nhất của giải thưởng.
Tuy nhiên, với việc xuất hiện ngày càng nhiều trên sóng truyền hình với chức danh rất “oai” là Giám đốc âm nhạc, khán giả đang cảm nhận được sự vắng bóng của một Huy Tuấn ca khúc, Huy Tuấn phòng thu. Khi được hỏi về chuyện này, anh từng chân thành chia sẻ, "“Danh xưng thì chỉ là danh xưng mà thôi, ý nghĩa những công việc tôi làm không nằm trong chữ “oai” đó. Tôi thậm chí còn gọi công việc hiện nay của mình là “nhặt rác”. Làm “giám đốc âm nhạc”, nói cho cùng, chính xác là công việc lọc rác: xem cái gì nên giữ lại, đưa vào chương trình; cái gì nên thải loại, để tránh làm phiền người nghe. Từng chút một, qua từng chương trình, tôi coi nó như những hạt cát nhằm góp phần lành mạnh hóa hơn đời sống nhạc Việt, bắt đầu từ việc giúp người xem được hưởng lợi.”"
Sự kiện âm nhạc.
Đối với nhạc sĩ Huy Tuấn, thị trường sôi động như Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp anh được làm và làm được những việc mà anh mong muốn, đóng góp được nhiều hơn vào đời sống âm nhạc. Trong đó, đáng kể nhất là các sự kiện, chương trình văn hóa nghệ thuật mà anh tham gia với vai trò đạo diễn, giám đốc âm nhạc. Từ năm 2010 tới nay, Huy Tuấn luôn bận rộn, làm không hết việc vì một núi đơn đặt hàng, từ thương mại tới nghệ thuật. Đối với anh, "“kiếm tiền luôn là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu, trước hết là để lo cho gia đình, sau nữa là để đi được dài lâu với nghề. Có bắt được nghề nuôi mình thì mới mong nuôi lại được nghề, nuôi những đam mê và tâm huyết của mình, thay vì cứ để nó dần bị thui chột vì trăm thứ lo toan vặt vãnh…”" Nhưng không phải vì thế mà anh làm việc hời hợt, ngược lại anh chăm chút và đổ công sức, tâm huyết cho từng “đứa con tinh thần” của mình.
Rất nhiều “đại tiệc âm nhạc” hoành tráng, sôi động đều có “bàn tay phù thủy” của Huy Tuấn đứng sau chỉ huy, từ những buỗi lễ đếm ngược chào năm mới Sabeco 2015, Yamaha Clearmen 2016 tới Habeco 2017 và TMS Quy Nhơn 2018; từ sự kiện thế giới Giờ Trái Đất (Earth Hour) 2017 và kỉ niệm 10 năm 2018 tới những đêm nhạc nằm trong chương trình quảng bá hình ảnh của các doanh nghiệp như Đêm nhạc tưởng nhớ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - “Gọi Nắng” 2017 của tập đoàn FLC, lễ mở bán biệt thự trên cao mang tên “Hành trình chạm vào cảm xúc” tại Flamingo Cát Bà Beach Resort (2018); từ lễ hội thời trang âm nhạc ngoài trời được tổ chức bởi Honda Vision Steps of Glory 2017 tới chương trình đặc biệt về các cầu thủ U23 Việt Nam “Từ những cậu bé chân trần đến người hùng sân cỏ” (2018) của Đài Truyền hình Việt Nam… Sự kiện nào cũng thu hút rất nhiều quan tâm yêu mến của khán giả và báo chí, cũng được đánh giá cao cả về chất lượng chuyên môn lẫn yếu tố giải trí khi có sự hợp tác với các đạo diễn sân khấu nổi tiếng như Việt Tú, Phạm Hoàng Nam, Tất Mỹ Loan, Hoàng Công Cường…, là những đêm nhạc đỉnh cao của âm thanh, ánh sáng và nghệ thuật của hầu hết các nghệ sĩ đình đám nhất showbiz Việt như Đàm Vĩnh Hưng, Tóc Tiên, Sơn Tùng M-TP, Đông Nhi, Noo Phước Thịnh…
Không chỉ ngồi đó chờ việc đến tay, Huy Tuấn còn là một người luôn “bùng nổ” rất nhiều ý tưởng sáng tạo. Anh từng trả lời trong một bài phỏng vấn, rằng "“khi không có tiền, tôi sẽ bán ý tưởng”". Năm 2011, Huy Tuấn chính thức khởi động dự án “Music on the roof” (Âm nhạc trên tầng cao) – một series âm nhạc tổ chức hàng tháng do anh đạo diễn âm nhạc và "The Rooftop", Hà Nội tổ chức. Ý tưởng này bắt nguồn trước hết từ việc Huy Tuấn mong mỏi có một nơi để anh và ban nhạc Anh Em có thể thể hiện hết khả năng của mình, một sân chơi thật xứng đáng ngay trong lòng thủ đô Hà Nội; kế đó là mong muốn đưa tới cho khán giả một địa chỉ văn hóa mới, một không gian thưởng thức âm nhạc thực sự. Mỗi số âm nhạc tại đây sẽ giới thiệu từng thể loại âm nhạc với những nghệ sỹ tiêu biểu của dòng nhạc đó. Số đầu tiên là nhạc tiền chiến với chương trình “Riêng một góc trời” do ca sĩ Tuấn Ngọc thể hiện, tiếp theo là thể loại nhạc trữ tình với sự cống hiến của Hồng Nhung và Quang Dũng, nhạc trẻ do Thanh Lam và Hà Anh Tuấn trình diễn, nhạc R&B, dance do Hồ Ngọc Hà và Thanh Bùi, đêm nhạc World Music do nghệ sĩ nhạc Jazz danh tiếng thế giới Nguyên Lê trình diễn, hay series “Tài năng trẻ” có sự góp mặt của các ca sĩ trẻ được khán giả mến mộ là Quán quân Giọng hát Việt 2012 Hương Tràm, Quán quân Sao Mai điểm hẹn 2012 Nguyễn Đình Thanh Tâm và Á quân Hoàng Quyên…
Cuối năm 2012, anh cùng các nhạc sĩ Anh Quân và Quốc Trung đứng lên khởi xướng cuộc vận động "Nghe có ý thức" nhằm ủng hộ chiến dịch thu phí tải nhạc trực tuyến từ các trang web nhạc ở Việt Nam. Cuộc vận động sau đó được báo "Thể thao & Văn hóa" bầu chọn là một trong 10 sự kiện văn hóa của năm 2012.
Năm 2015, "Học viện Âm nhạc Young Hit Young Beat Academy of Art (YHYB Academy)" ra mắt ở Hà Nội, là chuỗi dự án âm nhạc bao gồm các hoạt động sản xuất âm nhạc, tổ chức liveshow cho đến đào tạo và phát triển tài năng âm nhạc do ANH EM Records (nhạc sĩ Huy Tuấn, nhạc sĩ Anh Quân..) cùng ca sĩ Mỹ Linh khởi xướng và được hưởng ứng bởi nhiều nghệ sĩ khác với mục đích tạo lập một không gian dung dưỡng và phát triển các nhạc sĩ và ca sĩ trẻ tuổi tài năng. Young Hit Young Beat đã gây tiếng vang lớn kể từ khi ra mắt với hàng chục ca khúc mới, 3 album CD, 3 liveshow và nhiều video music (MV) cho các ca sĩ trẻ như Hoàng Tôn, Bùi Anh Tuấn, Vũ Cát Tường, Nhật Thủy, Đinh Mạnh Ninh, Bích Phượng, Trung Quân, Anna Trương, Min ST319, Hà Minh Tiến…
Bản thân là một người góp phần tạo nên tên tuổi của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng, nhạc sĩ Huy Tuấn hiểu tầm quan trọng của một nhà sản xuất âm nhạc đối với thành công của ca sĩ, bởi nếu chỉ dựa vào tài năng và giọng hát thôi thì chưa đủ. Không ít tài năng âm nhạc chiến thắng sau cuộc thi không thể tiến xa hơn bởi vì họ không có một “hậu phương” vững chắc. Năm 2016, Huy Tuấn khởi xướng và đồng thời làm giám đốc âm nhạc lẫn thành viên ban giám khảo của "“Khởi đầu ước mơ – Dream High”", chương trình phát triển tài năng âm nhạc và tôn vinh công việc thầm lặng của các nhà sản xuất âm nhạc (music producer). Quán quân mùa 1 là Phạm Anh Duy ngay sau khi giành chiến thắng đã trở thành ca sĩ độc quyền của công ty giải trí Stars Park Entertainment (Huy Tuấn là đồng sáng lập và quản lý) và ra mắt thành công single "“Đón bình minh”" và album đầu tay "“Nữ thần – Divas”".
Huy Tuấn cũng từng lên ý tưởng và đề xuất tổ chức Festival Âm nhạc Hạ Long như một chuỗi các sự kiện âm nhạc liền nhau, nhưng vì nhiều lý do chưa thực hiện được. Vì thế, chương trình nghệ thuật Carnaval Hạ Long (2018) nằm trong khuôn khổ lễ công bố "Năm du lịch Quốc gia 2018 Hạ Long – Quảng Ninh", giống như một cơ hội để vị đạo diễn âm nhạc này hiện thực hóa một phần ý tưởng nói trên. Bản thân anh cũng sáng tác một bài hát mang tên “Hạ Long rực rỡ” dành tặng riêng cho vùng đất Quảng Ninh quê hương của mình. Chương trình nghệ thuật bao gồm 3 phần chính: Truyền thuyết và tâm linh; Độc đáo và đa sắc; Hội nhập và lan tỏa. Chương trình có sự tham gia biểu diễn của nhiều ca sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng trong nước và những đoàn nghệ thuật đến từ các nước: Brasil, Hàn Quốc, Ukraina…
Quan điểm âm nhạc.
Tu nghiệp ở Châu Âu nên những dòng nhạc phương Tây đã ngấm vào máu Huy Tuấn. Mặc dù học chuyên ngành Flute, anh lại quyết định chuyển sang chơi bass sau khi cùng Anh Quân lập ra ban nhạc Anh Em.
Huy Tuấn vốn có thế mạnh với R&B và Funk, có thể thấy rõ điều này trong các sáng tác của anh. Theo anh, R&B rất tinh túy, là miền đất mà ca sĩ không bao giờ có thể khám phá ngay được trong một khoảng thời gian ngắn. Mỹ Linh là một trong số ít ca sĩ chinh phục được thể loại này, là người tiên phong thể hiện R&B ở Việt Nam. Nói về diva “Tóc ngắn” – người bạn đồng hành 20 năm, Huy Tuấn cho rằng cô có vị trí đặc biệt nhất trong sự nghiệp của anh, "“Bài hát hit nhất của tôi là do Mỹ Linh mang đến khán giả. Bài hát được yêu thích nhất của tôi cũng là do Mỹ Linh cất giọng đầu tiên. Vai trò ấy là rất quan trọng, và có thể nói, những mốc son hiển hách nhất trong đời sống âm nhạc của tôi đều có bóng dáng của Mỹ Linh.”" Tuy nhiên, là một người cởi mở và hướng ngoại, Huy Tuấn không tự bó hẹp mình mà vẫn tiếp xúc và làm việc được với những thể loại âm nhạc khác, cũng như có thể hợp tác với các nghệ sĩ khác nhau, dù trẻ hay già, dù mới mẻ hay thành đạt, và coi đó như một cơ hội mang lại cho anh cái nhin thực tế về thị trường.
Mặc dù là bạn bè thân thiết còn hơn anh em ruột thịt, Huy Tuấn và Anh Quân dường như lại rất khác nhau về những quan điểm âm nhạc. Hiển nhiên vì họ vốn dĩ là hai cá tính khác nhau, xuất phát từ hai bản năng khác nhau, môi trường sống khác nhau và đời sống cũng khác nhau. Điểm chung của họ là cùng mong muốn cho thị trường âm nhạc được lành mạnh nhất có thể. Chính Anh Quân cũng phải thừa nhận Huy Tuấn mạnh hơn mình về tư duy thị trường. Nếu Anh Quân từng nêu quan điểm trên Zing.vn về thực trạng quan hệ giữa nghệ sĩ (artist) và thần tượng (idol) trong nhạc Việt là thiếu sự đồng cảm, tương tác, thậm chí còn định kiến với nhau; thì Huy Tuấn lại tỏ ra không đồng tình và khẳng định âm nhạc giải trí và âm nhạc thưởng thức rất khó song hành với nhau. Theo anh, âm nhạc thưởng thức đòi hỏi sâu hơn, kỹ hơn, trong khi âm nhạc giải trí là sự phát triển đồng hành với sự phát triển của công nghệ và đặc biệt là bám vào xu hướng, mà xu hướng thì thay đổi hàng ngày. Dù cho rằng nên tách bạch hai điều đó nhưng Huy Tuấn lại chứng minh rằng mình có tư duy cởi mở và có thể thành công trên cả hai “mặt trận”, bởi với anh mỗi thể loại có sứ mệnh khác nhau và công việc của người làm nghề là cần quan sát nó với con mắt bình tĩnh, "“Anh không thể đòi hỏi tất cả phải thưởng thức âm nhạc của mình vì anh cho rằng mình cao siêu. Đôi khi, chúng ta còn phải làm quen với các thảm họa.”"
Đời sống cá nhân.
Huy Tuấn là một người kín đáo, ít khi chia sẻ chuyện riêng tư nên cuộc sống của anh vẫn luôn là một câu chuyện bỏ ngỏ của công chúng và báo chí. Nhất là từ sau sự đổ vỡ của cuộc hôn nhân đầu, anh chỉ chuyên tâm vào âm nhạc cùng các dự án liên quan, và rất kiệm lợi nói về những chuyện bên lề.
Năm 1999, Huy Tuấn kết hôn với người vợ đầu tiên rồi chia tay sau 10 năm chung sống, hai người có với nhau một cô con gái. Năm 2011, anh gặp gỡ và có tình cảm với một người phụ nữ gốc Bắc không hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Họ sau đó kết hôn và cùng chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Hiện tại, anh đang sống cùng vợ và hai con trai ở khu vực phía Nam Thành phố Hồ Chí Minh.
Đam mê.
Ngoài gia đình và âm nhạc luôn là ưu tiên số 1, Huy Tuấn còn có sở thích về phim ảnh, thể thao và công nghệ. Anh yêu đội tuyển bóng đá Đức và mê xem phim từ bé. Trong giới nghệ sĩ, anh còn nổi tiếng là người yêu thích công nghệ và đam mê ứng dụng công nghệ vào công việc và cuộc sống.
Đầu năm 2014, Huy Tuấn từng trang bị hệ thống nhà thông minh Bkav Smarthome. Tháng 8 năm 2014, Huy Tuấn chính thức trở thành “người dùng tiên phong” (KOL), chia sẻ trải nghiệm sử dụng điện thoại của hãng Mobiistar. Tháng 9 năm 2017, Huy Tuấn cùng một số nghệ sĩ Việt được mời tham dự lễ ra mắt và trải nghiệm sản phẩm Tivi LG OLED Signature W. | 1 | null |
Spitsbergen (trước đây gọi là Tây Spitsbergen; tiếng Na Uy: "Vest Spitsbergen" hay "Vestspitsbergen") là đảo lớn nhất và cũng là đảo duy nhất có người sinh sống thường xuyên của quần đảo Svalbard tại Na Uy. Tạo thành phần phía tây của quần đảo, đảo giáp với Bắc Băng Dương, biển Na Uy và biển Greenland. Spitsbergen có diện tích , khiến nó là đảo lớn nhất tại Na Uy và lớn thứ 36 trên thế giới. Trung tâm hành chính là Longyearbyen, và các điểm định cư khác cùng với các trạm nghiên cứu là cộng đồng khai mỏ người Nga Barentsburg, cộng đồng nghiên cứu Ny-Ålesund và trạm khai mỏ Sveagruva.
Hòn đảo ban đầu là một căn cứ của ngành săn bắt cá voi trong thế kỷ 17 và 18, sau đó thì bị bỏ rơi. Khai thác than bắt đầu vào đầu thế kỷ 20, và một số cộng đồng sinh sống thường xuyên đã được thiết lập. Hiệp ước Svalbard vào năm 1920 đã công nhận chủ quyền của Na Uy và Svalbard trở thành một khu kinh tế tự do và một khu phi quân sự. Store Norske của Na Uy và Arktikugol của Nga vẫn là các công ty khai mỏ duy nhất. Nghiên cứu và du lịch đã trở thành các hoạt động kinh tế quan trọng, đặc biệt là University Centre in Svalbard và Kho dự trữ hạt giống toàn cầu Svalbard. Không có đường bộ kết nối các điểm định cư; thay vào đó phải sử dụng xe trượt tuyết, máy bay và tàu thuyền. Sân bay Svalbard, Longyear là nơi xuất nhập cảnh chính của đảo.
Hòn đảo có khí hậu Bắc Cực, song có nhiệt độ cao hơn đáng kể so với những nơi cùng vĩ độ khác. Thực vật của đảo được hưởng một thời gian dài có mặt trời ban đêm, bù đắp cho những ban đêm vùng cực. Spisbergen là nơi sinh sản của nhiều loài chim biển, và cũng là nơi cư trú của gấu trắng Bắc Cực, tuần lộc và các loài động vật có vũ hải dương. Sáu vườn quốc gia phần lớn chưa bị con người tác động và có môi trường mỏng manh. Hòn đảo có nhiều sông băng, núi và vịnh hẹp. | 1 | null |
Bãi Vĩnh Tuy là một bãi ngầm thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa. Bãi này nằm cách bãi Rạch Vang khoảng 6 hải lý (11,1 km) về phía đông.
Bãi Vĩnh Tuy là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát bãi này. | 1 | null |
Bãi Hữu Độ (tiếng Anh: "Sandy Shoal"; tiếng Filipino: "Mabuhangin"; , Hán-Việt: "Thần Tiên ám sa") là một bãi ngầm nhỏ và dốc thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa. Bãi này nằm về phía đông của bãi Rạch Vang và bãi Vĩnh Tuy, cách bãi Vĩnh Tuy khoảng 9 hải lý (16,7 km).
Bãi Hữu Độ là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát bãi này. | 1 | null |
Vụ đình công thợ mỏ Marikana là một vụ đình công bất ngờ diễn ra ở Nam Phi ngày 16 tháng 8 năm 2012 tại mỏ bạch kim của hãng Lonmin ở Marikana, cách thành phố Johannesburg khoảng 100 km về phía tây bắc. Cảnh sát Nam Phi bắn chết 34 người và làm bị thương 78 người khác.
Cảnh sát đã được điều động tới mỏ để giải tán một cuộc biểu tình của 3.000 thợ mỏ, một số cầm dao và gậy gộc, khi họ tụ tập trên một quả đồi để kêu gọi tăng lương lên mức trên 1.000 USD/tháng so với mức thu thập thời điểm đình công là từ 484-605USD/tháng.
Các vụ bạo động vào ngày 16 tháng 8 năm 2012 là vụ sử dụng vũ lực gây chết người nhiều nhất bởi lực lượng an ninh Nam Phi chống lại thường dân kể từ khi kết thúc của thời kỳ phân biệt chủng tộc. Các vụ nổ súng đã được mô tả như là một vụ thảm sát trên các phương tiện truyền thông Nam Phi và đã được so sánh với sự kiện tại Sharpeville năm 1960.
Trong khi công nhân mỏ tuyên bố rằng họ đã bị cảnh sát tấn công, cảnh sát và các quan chức chính phủ lại cho rằng các vụ nổ súng là một hành động tự vệ chống lại một đám đông hung hăng và vũ trang.
Chưa rõ nguyên nhân khiến các cảnh sát nổ súng nhưng các nhân chứng cho biết vụ nổ súng xảy ra sau khi một nhóm người đình công tấn công cảnh sát. Các nhân chứng cho rằng cảnh sát được trang bị súng trường và súng ngắn, đã bắn hàng chục phát đạn. Có 259 người đã bị bắt về các cáo buộc khác nhau. Hiệp hội nghiệp đoàn xây dựng và thợ mỏ Nam Phi đã cáo buộc cảnh sát gây ra một vụ thảm sát. | 1 | null |
Bãi Thạch Sa là một rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa.
Bãi Thạch Sa là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát rạn vòng này. | 1 | null |
Ngôi sao tuổi Teen Việt Nam 2012 ("Miss Teen 2012") là sân chơi để các nữ sinh thể hiện nét đẹp và tài năng của mình. Đây là cuộc thi nhằm tìm kiếm tài năng và nét đẹp, giúp các nữ sinh từ một thiếu nữ tuổi teen thành một ngôi sao bằng chính "Trí tuệ - Vẻ đẹp – Tài năng" của họ. "Ngôi sao tuổi Teen Việt Nam 2012" với Slogan "Lọ Lem toả sáng" cuộc thi lấy hình tượng trong truyện cổ tích "Lọ lem" để kể về ước mơ tỏa sáng của những cô gái xinh đẹp và tài năng đã trở thành hiện thực, đó là một câu chuyện cổ tích giữa thế kỷ 21. Để tỏa sáng tài năng tiềm ẩn của mình các thí sinh "Miss Teen 2012" sẽ trải qua các vòng thi mang tính trải nghiệm thực tế cao. Chương trình do Jun Phạm (12 tập) và Thanh Tú (đêm gala) dẫn dắt.
Nguồn gốc.
Bắt nguồn từ cuộc thi sắc đẹp Miss Audition được tổ chức lần đầu năm 2006, đến năm 2008 chính thức đổi tên thành "Ngôi sao tuổi Teen Việt Nam" ("viết tắt là Miss Teen"), cuộc thi đã trở thành một sân chơi, sự kiện văn hóa lớn của cộng đồng giới trẻ, học sinh, sinh viên cả nước.
Cuộc thi nằm trong Chương trình phối hợp thực hiện các hoạt động giáo dục số 163/Ctr/BGDĐT-VTC với Bộ Giáo dục và Đào tạo ký ngày 09 tháng 04 năm 2010.
Thời gian diễn ra.
Cuộc thi "ngôi sao tuổi Teen Việt Nam 2012" do "Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC" thực hiện sẽ tiền hành nhận hồ sơ từ 14 tháng 6 - 18 tháng 8, năm 2012.
Để tham gia cuộc thi, các nữ sinh ở độ tuổi từ 16 đến 19 có đủ điều kiện dự thi có thể đăng ký trực tuyến trên website chính thức của chương trình và điền thông tin hồ sơ lần lượt từng bước theo hướng dẫn. Thời gian đăng ký tham dự cuộc thi kéo dài đến hết ngày 20 tháng 9 năm 2012.
Cơ cấu giải thưởng.
Giải thưởng.
"Các chuyến du lịch, học bổng, tiền mặt, các khóa đào tạo, gương mặt đại diện, tài trợ trang phục, tài trợ mỹ phẩm – trang điểm, gương mặt của tạp chí, báo, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, nghệ thuật...
Liên hệ.
Để tham dự cuộc thi "Ngôi sao tuổi Teen Việt Nam (Miss Teen)", bạn có thể gửi trực tiếp hồ sơ về địa chỉ: "Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC" – "65 Lạc Trung, Hai Bà Trưng, Hà Nội, điện thoại: 0444 501326"' | 1 | null |
Bãi Ôn Thủy là một bãi ngầm thuộc cụm Bình Nguyên của quần đảo Trường Sa. Vị trí của bãi này chưa được xác định rõ ràng, nhưng nó nằm giữa bãi Thạch Sa và bãi Na Khoai.
Bãi Ôn Thủy là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát bãi này. | 1 | null |
Viện Đại học Texas-Austin hay Đại học Texas-Austin (tiếng Anh: "The University of Texas at Austin", tên không chính thức gồm có "University of Texas", "UT Austin", hay đơn giản là "UT") là một viện đại học chuyên về nghiên cứu của tiểu bang Texas và cũng là viện đại học đầu tàu của Hệ thống Đại học Texas. Được thành lập năm 1883, khuôn viên của trường nằm cách Tòa Quốc hội Tiểu bang Texas trong thành phố thủ phủ Austin khoảng . Viện đại học này đứng thứ năm về tổng số sinh viên đăng ký nhập học tại một trường đại học chỉ có một địa điểm trên toàn quốc Hoa Kỳ tính theo thời điểm mùa thu năm 2010 (từng đứng hạng nhất toàn Hoa Kỳ từ năm 1997 đến 2003), với trên 50.000 sinh viên theo học bậc cử nhân và hậu đại học, 16.500 giáo sư và nhân sự. Hiện thời nó đứng đầu về tổng số sinh viên đăng ký theo học tại bất cứ trường đại học hay cao đẳng nào của tiểu bang Texas.
Đại học Texas tại Austin được nêu danh là một trong số tám viện đại học ban đầu của nhóm Public Ivy (Public có nghĩa là công lập, thuật ngữ Public Ivy ám chỉ đây là các trường công lập danh tiếng nhất Hoa Kỳ vì các viện đại học tư thục danh tiếng nhất Hoa Kỳ được gọi là Ivy League) và được giới thiệu vào Hiệp hội Đại học Mỹ từ năm 1929. Viện đại học này là một trung tâm nghiên cứu hàm lâm lớn với tổng chi tiêu nghiên cứu vượt $640 triệu đô la Mỹ trong năm học 2009–2010. Viện đại học có 7 bảo tàng và 17 thư viện trong đó có Thư viện và Bảo tàng Lyndon Baines Johnson và Bảo tàng Mỹ thuật Blanton, và điều hành vô số các cơ sở nghiên cứu phụ trợ, thí dụ như Cơ sở Nghiên cứu J. J. Pickle và Đài Quan sát Thiên văn McDonald. Trong số ban giám hiệu của đại học có những người nhận giải Nobel, giải Pulitzer, giải Wolf, và Huân chương Khoa học Quốc gia cũng như nhiều giải thưởng khác.
Các vận động viên sinh viên của Đại học Texas tại Austin tham gia tranh tài với danh xưng là Texas Longhorns và là thành viên của Big 12 Conference. Đại học này đã 4 lần đoạt chức vô địch bóng bầu dục quốc gia NCAA Division I, và giành được nhiều chức vô địch về thể thao nam và nữ so với bất cứ trường nào khác trong nhòm Big 12 kể từ khi hiệp hội thể thao này được thành lập vào năm 1996. Các vận động viên hiện tại và cựu vận động viên của viện đại học này đã giành được 117 huân chương thế vận hội, trong đó có 14 huân chương tại Bắc Kinh năm 2008. Viện đại học được tạp chí "Sports Illustrated" công nhận là "America's Best Sports College" (đại học thể thao hay nhất của Mỹ) năm 2002. | 1 | null |
Đá Gia Hội (tiếng Anh: chưa rõ; , Hán-Việt: "Nhị Giác tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm An Bang (cụm Thám Hiểm) của quần đảo Trường Sa. Đá này là một phần của bãi Thám Hiểm và nằm trên vành san hô phía bắc của rạn vòng này.
Đá Gia Hội là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Philippines và Trung Quốc. Do Malaysia kiểm soát bãi Thám Hiểm từ năm 1999 nên đá Gia Hội nằm trong tầm kiểm soát của nước này. | 1 | null |
Đá Gia Phú (tiếng Anh: chưa rõ; , Hán-Việt: "Tuyến Đầu tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm An Bang (cụm Thám Hiểm) của quần đảo Trường Sa. Đá này là một phần của bãi Thám Hiểm, nằm trên đầu phía đông của vành san hô của rạn vòng này và nằm về phía đông nam của đá Gia Hội.
Đá Gia Phú là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Philippines và Trung Quốc. Do Malaysia chiếm bãi Thám Hiểm từ năm 1999 nên đá Gia Phú nằm trong tầm kiểm soát của nước này. | 1 | null |
North American A-36 Apache (một số nguồn còn gọi là "Invader", nhưng hay gọi là Mustang) là một phiên bản cường kích/ném bom bổ nhào của loại North American Aviation P-51 Mustang. Tổng cộng có 500 chiếc ném bom bổ nhào A-36 hoạt động ở chiến trường Bắc Phi, Địa Trung Hải, Ý và Trung Quốc-Miến Điện-Ấn Độ trong Chiến tranh thế giới II trước khi bị thải loại vào năm 1944. | 1 | null |
Festival Dừa Bến Tre là một lễ hội về dừa được tổ chức tại tỉnh Bến Tre. Lễ hội đã được tổ chức qua 5 kỳ vào các năm (Quang Đại) 2009, 2010, 2012, 2015 và 2019. Hai kỳ đầu tiên được tổ chức với quy mô địa phương. Từ năm 2012 được tổ chức với quy mô quốc gia.
Bến Tre có diện tích dừa lớn nhất Việt Nam với trên 52.000 ha, sản lượng hàng năm chiếm 36% sản lượng dừa cả nước. Giá trị các sản phẩm từ dừa chiếm hơn 25% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh. Các sản phẩm từ dừa của Bến Tre được xuất khẩu đến trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, với kim ngạch xuất khẩu chiếm hơn 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Bến Tre. Tính đến đầu năm 2015, Bến Tre có 63.000 ha dừa trong tổng số hơn 150.000ha dừa của cả nước.
Lễ hội Dừa 2009.
Lễ hội Dừa Bến Tre lần thứ I diễn ra từ ngày 13 đến ngày 19 tháng 1 năm 2009 tại Trung tâm Văn hóa tỉnh Bến Tre.
Lễ hội Dừa 2010.
Lễ hội Dừa lần II năm 2010 bắt đầu từ ngày 15/1 đến 21/1/2010.
Lễ hội Dừa 2012.
Lễ hội Dừa Bến Tre lần lll diễn ra từ ngày 04 đến 09/04/2012, tại thành phố Bến Tre với chủ đề: "Bến Tre trên đường hội nhập và phát triển".
Lễ hội Dừa 2015.
Festival Dừa Bến Tre lần IV được tổ chức từ ngày 7 tháng 4 đến 13 tháng 4 năm 2015, với sự góp mặt của 10 tỉnh có thế mạnh về dừa của Việt Nam và các nước thành viên Hiệp hội Dừa thế giới.
Lễ hội dừa 2019.
Festival Dừa Bến Tre lần V được tổ chức từ ngày 16 tháng 11 đến 20 tháng 11 năm 2019 | 1 | null |
Aktobe (tiếng Kazakh: Ақтөбе / Aqtöbe / اقتٶبه), tên cũ là Aktyubinsk (tiếng Nga: Актюбинск, cho đến năm 1999) là một thành phố thủ phủ tỉnh Aktobe của Kazakhstan, nằm bên sông Ilek. Thành phố có dân số theo điều tra dân số năm 2009 là 345.687 người.
Dân cư Aktobe bao gồm cộng đồng các dân tộc người Kazakh, người Nga, người Ukraina, người Tatar, người Duy Ngô Nhĩ, người Chechnya, người Armenia, người Do Thái và người Hy Lạp. Trước cuộc cải tổ thành phố là nơi sinh sống của một cộng đồng lớn người Đức.
Tên gọi "Aktobe" xuất phát từ tiếng Kazakh ақ "(màu trắng) và" төбе "(ngọn đồi), đề cập đến những ngọn đồi trên đó có thành phố cổ trong thế kỷ thứ mười chín.
Khí hậu.
Aktobe có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen "Dfa") với biên độ nhiệt lớn giữa các mùa. | 1 | null |
Đá Sâu (tiếng Anh: chưa rõ; , Hán-Việt: "Lãng Khẩu tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm An Bang (cụm Thám Hiểm) của quần đảo Trường Sa. Đá này là một phần của bãi Thám Hiểm và nằm tại đầu phía tây của vành san hô thuộc rạn vòng này. So với một số thực thể khác gần đó thì đá Sâu nằm về phía đông của đá Én Ca và phía bắc của bãi Kiêu Ngựa.
Đá Sâu là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Philippines và Trung Quốc. Do Malaysia kiểm soát bãi Thám Hiểm từ năm 1999 nên đá Sâu nằm trong tầm kiểm soát của nước này. | 1 | null |
La Liga 1999–2000 là mùa giải thứ 68 của La Liga kể từ khi giải đấu được thành lập, bắt đầu từ ngày 21 tháng 8 năm 1999 và kết thúc vào ngày 20 tháng 5 năm 2000.
Thăng hạng và xuống hạng.
Đội thăng hạng từ Segunda División 1998–99
Đội xuống hạng tới Segunda División 1999–2000
Thông tin đội bóng.
Câu lạc bộ và vị trí.
Mùa giải 1999–2000 bao gồm các câu lạc bộ sau:
kết quả thi đấu.
Giải thưởng.
Giải phong cách.
Rayo Vallecano là câu lạc bộ giành giải phong cách với 102 điểm, Ngoài ra, trong 1 cuộc bỏ phiếu vào ngày 8 tháng 6 năm 2000 tại Brussels, câu lạc bộ còn là một trong hai đội giành giải UEFA Fair Play và được tham dự vòng loại UEFA Cup.
Giải thưởng Pedro Zaballa.
Cầu thủ Alfonso Pérez Muñoz | 1 | null |
Arkalyk (tiếng Kazakh: Арқалық / Arqalıq, tiếng Nga: Аркалык) là một thành phố ở tỉnh Kostanay ở miền bắc của Kazakhstan. Thành phố có dân số theo điều tra dân số năm 2009 là 23.169 người. Trước đó, nó là trung tâm của tỉnh Torgay đã bị giải thể vào năm 1997. Ngày nay, nó là trung tâm hành chính của khu vực Torgay thuộc tỉnh Kostanay. Được thành lập vào năm 1956, thị xã trở thành thành phố trong năm 1965. Khoảng cách từ thị trấn Arkalyk so với Kostanay là 480 km (298 dặm), Astana là 670 km (416 dặm). Trong lịch sử Arkalyk là một trung tâm cho chương trình không gian của Liên Xô. Phi hành gia hạ cánh trên các thảo nguyên Kazakh và trở lại Arkalyk trước khi đến Baikonur, thành phố không gian hàng đầu của Liên Xô. Arkalyk có sân bay Arkalyk. | 1 | null |
Longyearbyen là điểm định cư lớn nhất và là trung tâm hành chính của Svalbard, Na Uy. Năm 2008, đô thị có 2.040 cư dân. Longyearbyen nằm tại thung lũng Longyeardalen và ven bờ Adventfjorden, một vịnh thuộc vịnh hẹp Isfjorden nằm ở bờ biển phía tây của đảo Spitsbergen. Từ năm 2002, Hội đồng cộng đồng Longyearbyen đã có được nhiều trách nhiệm giống như một khu tự quản, bao gồm các tiện ích, cơ sở giáo dục, văn hóa, cứu hỏa, đường bộ và cảng. Đô thị cũng là trụ sở của Thống đốc Svalbard và là đô thị cực bắc nhất thế giới.
Được gọi là thành phố Longyear cho đến năm 1926, đô thị được thành lập và đặt tên theo John Munroe Longyear, người sở hữu Công ty Than Bắc Cực đã bắt đầu hoạt động khai thác than vào năm 1906. Các hoạt động khai thác được Store Norske Spitsbergen Kulkompani (SNSK) tiếp quản vào năm 1916. Đô thị hầu như đã bị Hải quân Đức Quốc xã phá hủy hoàn toàn vào ngày 8 tháng 8 năm 1943, song đã được tái xây dựng sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ trước, Longyearbyen đã là một đô thị công ty, song hầu hết các hoạt động khai mỏ đã chuyển đến Sveagruva từ thập niên 1990, trong khi thị trấn đã gia tăng đáng kể các hoạt động du lịch và nghiên cứu. Điều này được chứng minh với sự xuất hiện của các tổ chức như University Centre in Svalbard, hầm hạt giống Toàn cầu Svalbard và trạm vệ tinh Svalbard. Đô thị có Sân bay Svalbard, Longyear và Nhà thờ Svalbard. | 1 | null |
Bệnh nhược cơ hay còn gọi là nhược cơ (danh pháp khoa học: Myasthenia gravis, viết tắt MG; từ gốc Hy Lạp: "μύς ἀσθένεια" trong đó: "μύς" có nghĩa là cơ và "ἀσθένεια" có nghĩa là "yếu", tiếng Latin: gravis có nghĩa là "nghiêm trọng") là một bệnh lý thần kinh cơ tự miễn (autoimmune neuromuscular disease) dẫn đến yếu cơ hoặc suy nhược cơ từng đợt gây ra do xung động thần kinh từ dây thần kinh đến cơ vân không dẫn truyền được làm cho cơ không vận động được, biểu hiên yếu các hệ cơ xương nhiều mức đọ khác nhau. Rối loạn mạn tính này được đặc trưng bởi sự yếu và suy nhược nhanh chóng của các cơ tự chủ (điều khiển theo ý muốn) trong cơ thể. Đó là hậu quả của một tình trạng mất liên lạc giữa thần kinh và cơ.
Bệnh gây mệt mỏi yếu hay liệt các cơ: vận nhãn, cơ nhai, cơ mặt, cơ hầu họng, cơ hô hấp, cơ tứ chi và gây tử vong do biến chứng viêm phổi. Dấu hiệu đầu tiên là mí mắt xệ ở tuổi 30, trước tiên là xệ một mắt, sau đó đến mắt còn lại, sáng nhẹ, tối nặng, có tính ổn định rõ ràng trong một ngày ngoài ra biểu hiện điển hình là bệnh nhân thấy mỏi mệt cơ tăng dần theo thời gian sinh hoạt, lao động hằng ngày, lực căng (trương lực) ở một số cơ bị giảm hay nói cách khác có dấu hiệu giảm cơ lực sau khi vận động và phục hồi sau khi nghỉ ngơi là dấu hiệu quan trọng nhất của bệnh. Hiện tượng mỏi cơ xuất hiện sau một số vận động, có thể chỉ là một nơi hoặc nhiều nơi...
Tổng quan.
Đây là một rối loạn bệnh tự miễn, trong đó yếu cơ gây ra bởi các kháng thể lưu hành trong máu chặn các thụ thể acetylcholine tại vùng nối thần kinh cơ hậu synap, ức chế hiệu năng kích thích cơ của các chất dẫn truyền thần kinh cơ, cụ thể là acetylcholine. Biểu hiện là bệnh nhân bị sụp mí, nét mặt đờ đẫn, thậm chí khó nuốt, khó thở. Tình trạng nhược cơ hô hấp có thể làm tính mạng người bệnh bị đe dọa.
Nhược cơ là tình trạng sức cơ của người bệnh yếu dần, tiến triển, nặng dần vào cuối ngày và sau khi vận động. Mặc dù cấu trúc cơ bình thường, mặc dù sức khỏe các hệ cơ quan khác bình thường nhưng người bệnh lại không thể làm được việc gì dù nhỏ nhất. Trong những giai đoạn điển hình, người bệnh thậm chí còn không thể nhấc được tay lên mà chỉ có ngồi để thở.
Bệnh nhược cơ có thể có ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng thường xảy ra ở phụ nữ nhỏ hơn 40 tuổi hoặc lớn hơn 70 tuổi, ở nam giới lớn hơn 50 tuổi. Nhược cơ chỉ chiếm khoảng 0,5/100.000 dân số, nhưng bệnh nhân thường nhập viện trễ, dẫn đến khó thở,suy hô hấp và tử vong nhanh chóng.
Cơ chế.
Bình thường, cơ co được hay vận động được là nhờ xung động thần kinh được truyền qua nơi trao đổi thông tin giữa đầu mút sợi thần kinh và màng tế bào (gọi là synap) thông qua chất acetylcholin. Trong bệnh nhược cơ, cơ thể tự sinh ra một loại kháng thể phá hủy các thụ thể tiếp nhận acetylcholin, làm cho acetylcholin không vận chuyển được đến đầu sau của synap, xung động thần kinh không dẫn truyền được làm cho cơ không vận động được. Các cơ bị ảnh hưởng bởi bệnh này là loại cơ vân, chi phối sự vận động chủ động của cơ thể. Các nhóm cơ thường bị ảnh hưởng nhất là các cơ ở mặt, mắt, tay chân, các cơ điều khiển nhai, nuốt, nói. Các cơ hô hấp cũng có thể bị ảnh hưởng.
Tổn thương.
Tổn thương khi bị nhược cơ thường thấy ở:
Nhược cơ hô hấp là thể bệnh nặng nhất, biểu hiện là khó thở, nhịp thở nông, chậm, tím nhiều, có khi rối loạn tâm thần, trụy tim mạch, nếu không được cấp cứu nhanh, người bệnh có thể bị tử vong.
Nguyên nhân.
Cơ chế gây bệnh được giả thuyết theo 3 nguyên nhân chính sau đây:
Trong 75% số nạn nhân của bệnh, người ta tìm thấy có bằng chứng rõ ràng của sự phát triển bất thường của tuyến ức. Có khoảng 15% số nạn nhân có sự xuất hiện của u tuyến ức.
Triệu chứng.
Nói chung, bệnh nhân có biểu hiện sụp mi, nhìn song thị, khó nhai và khó nuốt, khó thở, yếu chi, hoặc phối hợp các triệu chứng này, bệnh nhân có thể bị yếu cơ một nhóm cơ, đặc biệt các cơ vận nhãn, hay yếu cơ toàn thân. Những triệu chứng yếu cơ thường thay đổi về cường độ trong ngày và sự biến đổi này có xu hướng tái phát nhưng sẽ thuyên giảm trong vài tuần. Các rối loạn của bệnh diễn biến chậm và có thể gây tử vong do biến chứng viêm phổi.
Hầu hết bệnh nhân có yếu cơ vận nhãn dẫn đến liệt mắt và sụp mi nhưng các triệu chứng này thường không đối xứng, phản xạ đồng tử bình thường. Các cơ chi phối bởi hành tủy và cơ tứ chi thường yếu với những kiểu rối loạn khác nhau. Hoạt động chống đỡ của các cơ bị tổn thương càng làm yếu cơ nặng hơn nhưng các triệu chứng lại thuyên giảm sau khi nghỉ ngơi. Bệnh nhân vẫn có cảm giác bình thường và các phản xạ không thay đổi.
Nhược cơ gồm 2 thể chính:
Bệnh nhược cơ tiến triển qua các giai đoạn:
Khoảng 10% bệnh nhân có phối hợp với một số bệnh tự miễn khác như cường giáp trạng, viêm đa cơ, viêm khớp dạng thấp, viêm loét đại tràng... Phần lớn người bệnh nhược cơ có tuyến ức bất thường như quá sản, loạn sản, u... nên để điều trị, người ta phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức.
Chẩn đoán.
Bệnh nhược cơ tiến triển kéo dài và thất thường, không theo một quy tắc nào. Để chẩn đoán xác định bệnh nhược cơ, bệnh nhân phải đến các bệnh viện để được làm các nghiệm pháp và xét nghiệm chẩn đoán như xét nghiệm miễn dịch, phản ứng điện - điện cơ, X-quang tuyến ức, sinh thiết cơ vân...
Có thể xác định bệnh nhược cơ bằng nghiệm pháp zoly dương tính với biện pháp đơn giản là cho bệnh nhân tự nhắm mở mắt 15 lần rồi mở mắt nhìn nếu bệnh nhân nhược cơ sẽ không mở được, mi mắt sa xuống hoặc dùng prostigmin dương tính bằng cách tiêm 1 ống prostigmin, sau 15 phút, người bệnh nhược cơ sẽ có thể mở to mắt trở lại và không mỏi mệt nữa.
Điều trị.
Trong điều trị bệnh nhược cơ, các bác sĩ thường kết hợp các phương pháp nội khoa và ngoại khoa, tùy theo tình trạng nặng của người bệnh như:
Hiện nay có ba phương pháp điều trị khả thi là: dùng thuốc, lọc máu và phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức.
Về điều trị, thường giảm triệu chứng bằng cách uống thuốc cho linesterase, kết hợp với ephedrin, acton... có thể cho dùng thuốc ức chế men cholinesterase, thuốc ức chế miễn dịch.
Lọc huyết tương, loại bỏ kháng thể phức hợp miễn dịch lưu hành trong máu ra ngoài. Phương pháp này được áp dụng cho các trường hợp nhược cơ nặng, có nhược cơ hô hấp.
Phương pháp phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức có tác dụng làm giảm triệu chứng và làm bệnh thuyên giảm. Vì vậy tất cả bệnh nhân dưới 60 tuổi cần được xem xét để phẫu thuật, trừ những bệnh nhân yếu cơ chỉ giới hạn ở các cơ ngoài nhãn cầu. | 1 | null |
Tàu ngầm Đề án 667B Murena (tiếng Nga: Проекта 667Б Мурена - Proyekta 667B Murena) là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo do Liên Xô chế tạo. Với hệ thống phóng tên lửa D-9 có thể mang 12 tên lửa đạn đạo R-29 Vysota. NATO gọi loại tàu ngầm này là lớp Delta I.
Lịch sử.
Từ những năm 1970 các tàu ngầm Đề án 667A Navaga bắt đầu gặp khó khăn trong việc tiếp cận và tuần tra dọc bờ biển Hoa Kỳ khi lực lượng hải quân Hoa Kỳ phát triển và lắp đặt các loại thiết bị dò sóng âm mạnh trong chương trình SOSUS để phát hiện các tàu ngầm lại gần. Để tránh bị phát hiện các tàu ngầm Liên Xô đã được thay đổi các nhiệm vụ và khu vực hoạt động. Cũng như để đảm bảo khả năng tấn công răn đe và trả đũa hạt nhân tiêu diệt mục tiêu khi xảy ra chiến tranh mà không cần phải vào các vùng biển của NATO một loại tên lửa mới đã được phát triển có tầm bắn xa hơn các tên lửa R-27 mà Đề án 667A từng mang. Tên lửa mới được gọi là R-29 Vysota có tầm bắn gấp ba lần, dài hơn khoảng 40% và rộng hơn khoảng 20% so với R-27. Vì thế một loại tàu ngầm mới cần được phát triển để có thể mang chúng.
Tàu ngầm mới được thiết kế dựa trên Đề án 667A nhưng dài hơn một chút cũng như chỉ mang 12 tên lửa thay vì 16 như Đề án 667A, khoang chứa phóng các tên lửa cũng cao hơn và nhô ra ngoài, hệ thống phóng D-9 cũng được phát triển để phóng các tên lửa này.
Có 18 chiếc trong lớp này đã được đóng từ năm 1970 đến năm 1977. Tất cả 18 chiếc đã được cho ra khỏi biên chế và ngừng hoạt động giữa những năm 1990. | 1 | null |
Cốc Khai Lai (谷开来) (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1958) là một nữ luật sư và nhà kinh doanh người Trung Quốc, là vợ thứ hai của chính trị gia Bạc Hy Lai. Tháng 8 năm 2012, bà đã bị tòa tuyên án tử hình nhưng được hoãn thi hành vì tội sát hại doanh nhân người Anh Neil Heywood. Bà Cốc Khai Lai cùng trợ lý của gia đình là Trương Hiểu Quân đã bị buộc tội đầu độc doanh nhân người Anh Neil Heywood bằng chất độc xyanua vào tháng 11 năm 2011 tại Trùng Khánh.
Bà là con gái út trong gia đình 5 chị em gái của nhà cách mạng Cốc Cảnh Sinh. Bà đã tốt nghiệp cử nhân luật và sau đó là thạc sĩ chính trị quốc tế tại Đại học Bắc Kinh. Năm 1984, bà có chuyến du khảo ở thành phố Đại Liên, nơi ông Bạc Hi Lai đang làm bí thư huyện Kim Châu và họ đã quen biết nhau. Họ kết hôn hai năm sau đó và năm 1987 bà sinh con trai Bạc Qua Qua.
Từ năm 1987, bà làm luật sư, thành lập công ty riêng và nổi tiếng nhờ là luật sư Trung Quốc đầu tiên thắng kiện ở một tòa án Mỹ, bà đã viết hai cuốn sách về vụ thắng kiện này sau này trở thành sách bán chạy ở Trung Quốc. | 1 | null |
Du Chính Thanh (tiếng Trung: 俞正声; bính âm: Yú Zhèngshēng; sinh tháng 4 năm 1945) là một chính khách cao cấp Trung Quốc. Ông từng là Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc và là nhân vật đứng thứ 4 trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XVIII nhiệm kỳ 2012 đến năm 2017, một trong 7 người nắm quyền lãnh đạo tối cao tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Sự nghiệp.
Du Chính Thanh tốt nghiệp kỹ sư quân sự khóa 11 (1963-1968) tại Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự Cáp Nhĩ Tân (nay là Trường Đại học Tổng hợp Công nghệ Quốc phòng Quốc gia Trung Quốc), chuyên ngành: kỹ thuật điều khiển tự động tên lửa đạn đạo. Ông công tác trong ngành kỹ thuật điện tử gần 20 năm, cho tới giữa thập kỷ 1980.
Từ năm 1968 đến năm 1971, ông làm kỹ sư tại Nhà máy Vô tuyến số 6 tại thành phố Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc.
Từ năm 1971 đến năm 1975, ông là kỹ sư chính tại nhà máy vô tuyến Tsyaosiysk, thành phố Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc.
Từ năm 1975 đến năm, là phó kỹ sư trưởng tại Viện Nghiên cứu số 4 (chuyên ngành công nghệ điện tử) thuộc Bộ Công nghiệp nặng Trung Quốc.
Du Chính Thanh từng giữ vị trí Tổng giám đốc, Phó Chủ tịch và thành viên của Tập đoàn Quỹ Xã hội Tàn tật Trung Quốc trước khi tham gia chính trị tại Tỉnh Sơn Đông.Du Chính Thanh được Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân đỡ đầu. Con trai Đặng Tiểu Bình là Đặng Phúc Phương, Chủ tịch Quỹ Xã hội Tàn tật nơi Du công tác vào những năm 80. Du Chính Thanh còn làm việc dưới quyền Giang Trạch Dân, khi ông còn làm Bộ trưởng Công nghiệp điện tử.
Du Chính Thanh từng là Thị trưởng Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông rồi làm Bộ trưởng Xây dựng vào năm 1997. Năm 2007, ông làm Bí thư Thành ủy Thượng Hải, thành phố lớn nhất về tài chính và kinh doanh tại Trung Quốc. Trước đó ông là Bí thư tỉnh ủy Hồ Bắc và là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 2002.
Du Chính Thanh cổ vũ cho khu vực tư nhân, phát triển đô thị, phát triển pháp luật và cải cách xã hội để tạo dựng niềm tin và tin cậy trong xã hội.
Ngày 11 tháng 3 năm 2013, Du Chính Thanh chính thức được bầu làm Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc (gọi tắt là Chính hiệp), thay cho ông Giả Khánh Lâm.
Gia đình.
Ông là con trai của Du Khải Uy, cựu Thị trưởng Thiên Tân và là chồng đầu tiên của Giang Thanh, vợ của Mao Trạch Đông. Mẹ ông là nhà báo Phạm Cấn. Vợ Du Chính Thanh là con gái một vị tướng trong Quân giải phóng Trung Quốc. | 1 | null |
Polikarpov Po-2 (còn gọi là U-2) là một loại máy bay hai tầng cánh đa dụng của Liên Xô, nó có biệt danh là "Kukuruznik" (-lõi ngô, từ "kukuruza" (кукуруза) nghĩa là ngô), tên định danh NATO "Mule". Đáng tin cậy, dễ sử dụng cũng như chi phí để chuyển sang máy bay cường kích, trinh sát, liên lạc trong chiến tranh rẻ, nên nó là kiểu máy bay chiến đấu hạng nhẹ đa năng nhất được chế tạo ở Liên Xô. Nó là máy bay được sản xuất nhiều thứ hai trong lịch sử hàng không. Hơn 40.000 chiếc Po-2 đã được chế tạo giai đoạn 1928-1953. Nó vẫn được sản xuất trong thời gian dài hơn bất kỳ loại máy bay nào thời Liên Xô.. Chiếc máy bay này còn nổi tiếng vì từng thực hiện 24.000 phi vụ ném bom tại Trung đoàn Cận vệ ném bom đêm Taman số 46, một trong 3 trung đoàn toàn phi công nữ do Marina Raskova sáng lập. | 1 | null |
Polikarpov R-5 là một loại máy bay ném bom/trinh sát hạng nhẹ của Liên Xô trong thập niên 1930. Nó là máy bay trinh sát và ném bom hạng nhẹ tiêu chuẩn của Không quân Xô viết trong những năm đầu của thập niên 1930, nó còn được dùng làm máy bay chở khách cỡ nhỏ, trên 7.000 chiếc đã được chế tạo. | 1 | null |
Polikarpov R-Z là một loại máy bay ném bom/trinh sát của Liên Xô trong thập niên 1930. Nó là phiên bản sửa đổi của Polikarpov R-5, R-5 được chế tạo số lượng lớn giai đoạn 1935-1937. R-Z tham chiến trong Nội chiến Tây Ban Nha cũng như Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan và Trận Khalkhin Gol. | 1 | null |
Potez 25 (còn viết là Potez XXV) là một loại máy bay hai tầng cánh đa dụng của Pháp, được thiết kế trong thập niên 1920. Nó thực hiện các nhiệm vụ như cường kích, tiêm kích, hộ tống, ném bom chiến thuật và trinh sát. Cuối thập niên 1920 và đầu thập niên 1930, Potez 25 là máy bay đa dụng tiêu chuẩn của hơn 20 không quân trên thế giới, gồm Pháp, Ba Lan và Hoa Kỳ.
Tham khảo.
Heinonen, Timo Heinonen: "Thulinista Hornetiin, Keski-Suomen ilmailumuseon julkaisuja 3", 1992. ISBN 951-95688-2-4. | 1 | null |
Reggiane Re.2002 Ariete là loại máy bay tiêm kích-bom của Italy trong Chiến tranh thế giới II. Đây là một phát triển hơn nữa của loại Re.2000, với một số sửa đổi đã được thực hiện trên loại Re.2001. Máy bay chủ yếu trang bị cho Regia Aeronautica (Không quân Italy), ngoài ra còn có trong biên chế của Luftwaffe (Không quân Đức). | 1 | null |
"Be on You" là đĩa đơn thứ tư trích từ album phòng thu thứ hai của Flo Rida, "R.O.O.T.S.". Ca khúc có sự góp giọng của Ne-Yo và được sản xuất bởi Stargate. Trước đó vào tháng 7 năm 2009, ca khúc đã được gửi lên airplay, nhưng phải đến tháng 10 năm đó nó mới được chính thức chọn làm đĩa đơn, cùng lúc với việc quáng bá đĩa đơn "Jump".
Xếp hạng.
"Be on You" lọt vào bảng xếp hạng "Billboard" 100 ở vị trí thứ 75 vào tháng 4 năm 2009, dù chưa được phát hành dưới dạng đĩa đơn. Sau đó vào 30 tháng 7 năm 2009, "Be on You" cùng với "Jump" đã một lần nữa lọt vào bảng xếp hạng này ở lần lượt tại các vị trí 90 và 76. Ngoài ra "Be on You" còn xếp thứ 19 tại Mỹ, khiến nó trở thành đĩa đơn thứ sáu lọt vào Top 20 trong sự nghiệp của Flo Rida. | 1 | null |
Đá Nhỏ (tiếng Anh: " Discovery Small Reef"; tiếng Filipino: "Gomez"; , Hán-Việt: "Tiểu Hiện tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm Nam Yết của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm về phía đông của đá Lớn khoảng 11 hải lý (20 km) và về phía tây nam của đá Ga Ven khoảng 16 hải lý.
Đá Nhỏ là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này.
Đặc điểm.
Đây là một rạn san hô hình tròn có đường kính khoảng 800 mét, một phần lộ ra khi thủy triều xuống. Mực nước nông tại đây làm nổi bật một khu vực rộng 1 km². | 1 | null |
Tế bào mạch rây là một trong các loại tế bào thuộc về mô mạch rây của thực vật. Các tế bào mạch rây có hình dạng thuôn dài như một cái ống với phần vách tế bào ở hai đầu "ống" có nhiều lỗ như một cái rây, giúp cho phần tế bào chất của một tế bào mạch rây sẽ nối liền với một tế bào mạch rây khác nằm kế cận. Nói cách khác, trong cơ thể thực vật, các tế bào mạch rây hình ống nằm sát nhau và tiếp xúc với nhau tại các "rây" ở hai đầu "ống" của tế bào, tạo thành một "đường ống rây" kéo dài. Trái với các tế bào đạo quản hay tế bào ống trong mạch gỗ, các tế bào mạch rây khi trưởng thành vẫn còn sống, tuy nhiên các thành phần như nhân tế bào, ti thể, không bào, ribosome và khung xương tế bào thì hoàn toàn tiêu biến. Sau khi trưởng thành, thông thường tuổi thọ của loại tế bào này không kéo dài quá một năm, nhưng giới khoa học đã nhận diện một số cá thể tế bào mạch rây trên một số loài cọ vẫn còn sống sót sau 100 năm tồn tại.
Chức năng của các tế bào mạch rây không gì khác chính là hình thành nên hệ thống đường ống chuyển vận các chất dinh dưỡng hòa tan, ví dụ như đường đến cung ứng cho các bộ phận trong cây. Nói cách khác, các chất dinh dưỡng này sẽ được vận chuyển trong tế bào chất của các tế bào mạch rây để đi đến những khu vực cần thiết. Việc tiêu giảm các bào quan và hệ khung xương trong tế bào mạch rây có tác dụng làm giảm sự cản trở trong quá trình chuyển vận này.
Việc chuyển vận của các tế bào mạch rây nhận được sự hỗ trợ từ các tế bào đồng hành nằm ngay sát bên. Giữa các tế bào mạch rây và các tế bào đồng hành có các cầu sinh chất nối liền tế bào chất của chúng với nhau. Trái với tế bào mạch rây, các tế bào đồng hành sở hữu một hệ thống nhân, ribosome và bào quan đầy đủ và nhờ đó chúng có thể điều khiển hoạt động của bản thân lẫn của các tế bào mạch rây. Các tế bào đồng hành đóng cũng vai trò cầu nối trong việc trung chuyển các chất dinh dưỡng từ tế bào mạch rây sang các bộ phận khác của thực vật.
Tế bào mạch rây được nhà thực vật học Theodor Hartig phát hiện lần đầu tiên vào năm 1837. Ông đặt tên chúng là "Siebfasern" (sợi rây) và "Siebröhren" (ống rây). | 1 | null |
Trong Thần thoại Hy Lạp, Pandora (tiếng Hy Lạp cổ, , bắt nguồn từ là "tất cả" và "món quà") được cho là người phụ nữ đầu tiên, được làm ra từ đất sét. Pandora xuất hiện trong một số phiên bản thần thoại được ghi chép với những chi tiết không giống nhau. Trong phiên bản được biết đến rộng rãi nhất, thần thoại của Hesiod, Zeus ra lệnh cho con trai là thần Thợ Rèn tài hoa Hephaestus nặn ra cô, một người đàn bà vô cùng xinh đẹp, thanh tú và kiều diễm. Cô có tiếng nói thánh thót như chim, sức sống bừng bừng, rạo rực như hơi thở hừng hực của lửa nóng ở lò rèn. Thân hình cô mềm mại như một làn sóng biển, uyển chuyển như một giống cây leo, sáng ngời như ánh trăng rằm, long lanh như những hạt sương chưa tan buổi sớm. Pandora xinh đẹp tuyệt vời, trí tuệ và quyến rũ đã ra đời như một sự trừng phạt loài người vì sự đánh cắp lửa của Prometheus. Cô được gửi xuống chung sống cùng Epimetheus, em trai Prometheus dưới trần gian, cùng với một chiếc bình đậy kín. Thuần túy do tính tò mò, một ngày Pandora đã mở chiếc bình và từ trong bình tất cả các tai họa và những điều xấu xa bay ra và lan tràn mặt đất. Pandora vội đậy bình lại và chỉ còn lại Hy Vọng nằm lại ở đáy bình với con người. Theo Hesiod, đây là nguồn gốc của mọi tai ương trên đời. Đây là câu chuyện thuộc mô típ mạt thế luận phổ biến trong các truyền thống văn hóa khác, chẳng hạn câu chuyện quả táo của Eva.
Các phiên bản khác cho rằng chiếc bình của Pandora mang những điều tốt đẹp mà Pandora làm biến mất thay vì tai ương như trong "Biến hình" của Ovid hoặc chứa cả hai như trong Illiad của Homer , và một số truyện cho rằng Pandora là vợ của Prometheus. Ý nghĩa của câu chuyện cũng còn gây tranh cãi trong các học giả hiện đại.
Vào thế kỉ 16, học giả Erasmus khi dịch sự tích sang tiếng Latin đã dịch sai từ chiếc bình (tiếng Hy Lạp: pithos) thành "pyxis" (chiếc hộp), dẫn đến cách nói "Chiếc hộp Pandora" như ngày nay. | 1 | null |
Phêrô Nguyễn Kim Long (sinh năm 1941) là một linh mục Công giáo người Việt. Ông được biết đến nhiều với vai trò là một nhạc sĩ, nhạc sư có bút danh Kim Long. Ông nguyên là phó chủ tịch Ủy ban Thánh Nhạc, nguyên tổng thư ký Ủy ban Phụng Tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Năm 2018, Kim Long mừng 50 năm hồng ân thánh chức Linh mục.
Tiểu sử - Sự nghiệp.
Linh mục-nhạc sư-nhạc sĩ Nguyễn Kim Long sinh ngày 09 tháng 1 năm 1941 tại Nam Định, (thuộc giáo xứ Bách Tính, giáo phận Bùi Chu) trong một gia đình Công giáo toàn tòng. Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam và học tại Tiểu chủng viện Thánh Phanxicô. Năm 1957, ở tuổi 17, Kim Long đã viết tác phẩm thánh ca đầu tay mang tên "Con hân hoan". Ba năm sau, ông phổ nhạc lời Việt cho bản "Kinh Hòa Bình" của thánh Phanxicô thành Assisi. Đến nay, tác phẩm này được cho là nổi bật nhất của ông.
Năm 1968, ông được thụ phong linh mục và sau đó đi du học tại Giáo hoàng Học viện về Thánh nhạc tại Rôma, chuyên ngành bình ca. Năm 1972, linh mục Kim Long tốt nghiệp "Magistero" ngành bình ca và cử nhân Thánh nhạc tại Giáo hoàng Học viện về Thánh Nhạc.
Năm 1973, Linh mục Kim Long trở về Việt Nam nhận chức quản xứ Giáo xứ Đức Hòa, thuộc Giáo phận Mỹ Tho và dạy thánh nhạc tại Đại học Đà Lạt, Đại học Thành Nhân, Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.
Sau năm 1975, ông tiếp tục viết thánh ca và giảng dạy thánh nhạc tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Sài Gòn, các đại chủng viện như: Hà Nội, Huế, Sài Gòn; các hội dòng Công giáo và các giáo phận Việt Nam. Ngoài ra, ông còn soạn thảo những giáo trình và những tập sách nghiên cứu về âm nhạc như: Nhạc lý căn bản, Hòa âm, Đối âm, Hướng dẫn đánh nhịp, Một vài kinh nghiệm để viết thánh ca, Thánh nhạc trong Phụng Vụ…
Ông đảm nhận các chức vụ Phó chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc Việt Nam và Tổng thư ký Ủy ban Phụng Tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Tháng 4 năm 2012, ông thôi giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc Việt Nam, nghỉ hưu và làm cố vấn cho ủy ban này..
Tác phẩm.
Linh mục nhạc sĩ Kim Long được xem là có những đóng góp lớn trong Lịch sử Thánh nhạc Công giáo Việt Nam. Với hơn nửa thế kỉ viết thánh ca, ông đã sáng tác hơn 3.500 bài hát. Ông được đánh giá là một trong bốn nhạc sĩ sáng tác nhạc Công giáo thể loại bình ca hay và đúng theo "Hiến chế phụng vụ" (những người khác gồm: Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Tiến Dũng, Gioakim Lương Hoàng Kim). Các bài hát thánh ca được thống kê trong các tuyển tập:
Bài thánh ca "Kinh Hòa Bình".
Một trong những tác phẩm nổi bật của linh mục nhạc sĩ Kim Long là ca khúc "Kinh Hòa Bình", phổ nhạc từ bản dịch tiếng Việt của Giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền dựa theo ý Kinh Hòa Bình của Thánh Phanxicô thành Assisi. Trong bài phỏng vấn với đài RFA, Linh mục Kim Long đã khiêm tốn nói về bài hát này: "Năm 20 tuổi, cách đây 51 năm, tôi viết bài Kinh Hoà Bình, lúc đó vốn kiến thức nhạc của tôi chẳng là bao nhiêu, bài hát sống được 51 năm thì chính yếu là vì lời.". Theo đánh giá của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống, chủ tịch Ủy ban Văn hóa đức tin của HĐGM VN thì Kinh Hòa Bình là một bài hát phổ cập nhất trong cộng đoàn công giáo, ngoài yếu tố nội dung, còn do đây là một ca khúc có những giai điệu bình dị dễ nhớ, nên chính vì thế dễ đi vào lòng người.
Bởi sức ảnh hưởng của "Kinh Hòa Bình" và chính tác giả Kim Long, ngày 27 tháng 5 năm 2012, Ủy ban Thánh Nhạc thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã công bố thành lập "Giải thưởng thánh ca Kinh Hòa Bình". Đây là giải thưởng nhằm tôn vinh những đóng góp lớn cho nền Thánh nhạc Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ của Linh mục nhạc sĩ Kim Long và nhằm khuyến khích các nhạc sĩ thế hệ kế thừa tiếp tục làm giàu kho tàng thánh nhạc Việt Nam như ông. Các phần thưởng của giải này cũng được trích từ quỹ tài chính khá lớn được tài trợ hằng năm của ông..
Nhận xét.
Linh mục Nguyễn Duy, tổng thư ký ủy ban thánh nhạc nhận định: "Trong những tuyển tập sáng tác của linh mục Kim Long, người ta thấy một dòng nhạc mới xuất hiện, lời ca được dệt mang nhiều chất thơ hơn và nhiều trăn trở hơn. Một trong những bài thánh ca nổi tiếng của những sáng tác đó là bài: "Chúa không lầm"".
Đài Phát thanh Chân Lý Á Châu có bài nhận định: Linh mục Kim Long là "một cây đại thụ trong nền thánh nhạc Việt Nam". Còn Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa, nguyên Chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam thì nói: "Các tác phẩm của Linh mục Kim Long không chỉ làm phong phú nền thánh nhạc Việt Nam mà còn giúp phát triển đời sống đức tin và đời sống phụng vụ của người công giáo địa phương."
Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt trong phần giới thiệu mở đầu đêm Nhạc "Ca Lên Đi Mừng Chúa Giáng Sinh" tại Hà Nội, Kỷ niệm 50 năm viết thánh ca của Linh mục nhạc sư Kim Long đã nói về ông: "Tổ chức đêm nhạc này không đủ sức tôn vinh người nhạc sĩ có nhiều công lao như linh mục Kim Long, chỉ có nguyện ước như một kỷ niệm đánh dấu quãng đường 50 năm phục vụ của một tâm hồn nhạc sĩ"..
Trong bài phỏng vấn của Vietcatholic với Nhạc sĩ Ngọc Linh, ông nói ông đã học được rất nhiều từ người thầy Kim Long "nhiều nhất về cả cái tài lẫn cái đức.".
Vinh danh.
Với đóng góp hơn 50 năm sáng tác thánh ca cho giáo hội Việt Nam, giáng sinh năm 2007 đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội đã tổ chức đêm thánh ca "Ca lên đi - mừng Chúa Giáng sinh" nhằm giới thiệu những sáng tác thánh ca tiêu biểu của nhạc sĩ Kim Long. Đêm nhạc có sự góp mặt của Đại chủng viện thánh Giuse dòng Phaolô, Dòng Mến Thánh Giá, Nhà thờ Lớn, giáo xứ Hàm Long, Giáo xứ Thái Hà (Hà Nội) và ca đoàn Vượt Qua (Sài Gòn) cùng các ca sĩ Hoàng Hiệp, Lưu Hương Giang, Diệu Hiền, Tấn Đạt, Thanh Sử và Trần Ngọc. | 1 | null |
Euripides () (khoảng 480 – 406 tr CN) là một trong ba nhà kịch vĩ đại của Athena thời Hy Lạp cổ điển, cùng với Aeschylus và Sophocles. Một số học giả cổ đại quy 95 vở kịch cho ông nhưng theo "Suda" (cuốn bách khoa toàn thư Byzantine thế kỉ 10) cho là nhiều nhất chỉ có 92 vở. Trong số chúng, 18 hoặc 19 vở còn tồn tại nguyên vẹn (có những tranh cãi xung quanh tác giả vở "Rhesus", chủ yếu do văn phong) và cũng còn lại các đoạn, một số là đoạn chính, của hầu hết các vở còn lại. Việc nhiều vở kịch của ông còn tồn tại hơn của cả hai tác gia kia gộp lại, một phần do may mắn thuần túy và một phần bởi vì sự phổ biến của ông gia tăng còn của hai người kia giảm đi - ông đã trở thành, trong thời kỳ Hy Lạp hóa, một hòn đá tảng của nền giáo dục văn học cổ đại, cùng với Homer, Demosthenes và Menander.
Euripides gắn với những cách tân trong sân khấu thứ đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngành kịch cho tới thời hiện đại, đặc biệt là trong cách thể hiện các anh hùng thần thoại, truyền thống như những người bình thường trong các hoàn cảnh phi thường. Cách tiếp cận này dẫn ông tới những tiến bộ tiên phong mà các nhà văn về sau tiếp nhận trong tân hài kịch ("nea") ở thời đại Macedonia, một vài trong số đó đặc trưng cho văn học lãng mạn thời Trung Cổ. Tuy nhiên ông cũng trở thành "người bi đát nhất trong các nhà thơ", tập trung vào đời sống và những động lực nội tập của nhân vật của ông theo cách chưa từng được biết tới. Ông là người sáng tạo của "khuôn khổ mà là sân khấu của Othello của Shakespeare, Phèdre của Racine, của Ibsen vàStrindberg", trong đó "...những người đàn ông và đàn bà bị giam hãm hủy diệt lẫn nhau bởi cường độ tình yêu và thù hận của họ", và thêm nữa ông là ông tổ văn chương của các nhà hài kịch từ Menander tới George Bernard Shaw.
Ông cũng là độc nhất trong số các nhà văn cổ Athena vì mối quan tâm ông bày tỏ hướng tới mọi nạn nhân của xã hội, gồm cả phụ nữ. Các khán giả nam bảo thụ thường bị sốc bởi những yếu tố "dị giáo" ông đưa vào miệng các nhân vật, chẳng hạn nữ anh hùng Medea của ông:
Những người đương thời liên hệ ông với Socrates như người lãnh đạo của phong trào trí thức suy đồi, cả hai người họ thường bị đả kích bởi các nhà thơ trào phúng như Aristophanes. Trong khi Socrates cuối cùng bị đem ra xử và bị tử hình vì tội làm bại hoại văn hóa, Euripides chọn một sự lưu đày tự nguyện vào tuổi già, và chết ở Macedonia. Một số nghiên cứu gần đây nghi ngờ các tiểu sử thời cổ về Euripides. Chẳng hạn, có thể là ông chưa bao giờ thăm Macedonia, hoặc, nếu ông từng thăm, ông có thể đã được mời gọi bởi Vua Archelaus giống như cách đối đãi ông vua này dành cho những nghệ sĩ khác.
Cuộc đời.
Các phương pháp truyền thống về đời sống của tác giả được tìm thấy trong nhiều bài bình luận và bao gồm các chi tiết như sau: Ông sinh ra trên Đảo Salamis vào khoảng năm 480 trước Công nguyên, với cha mẹ là Cleito (mẹ) và Mnesarchus (cha), một người bán lẻ sống trong một ngôi làng gần Athens. Khi nhận được lời tiên tri rằng con trai của ông có số phận để tập hợp được "vương miện nên chiến thắng", Mnesarchus nhấn mạnh cậu bé luyện theo nghiệp điền kinh. But cậu bé đã được định sẵn cho một sự nghiệp trên sân khấu (cậu bé chỉ được định đoạt năm chiến thắng, một trong những chiến thắng sau đó). Mr. server in a short time with a way to as the vũ công vừa là người cầm nắm trong các buổi lễ của Apollo Zosterius. Việc học của ông không giới hạn trong điền kinh, ông học cả hội họa và triết học dưới sự chỉ huy của các bậc thầy Prodicus và Anaxagoras . Ông có hai cuộc hôn nhân thảm khốc và cả hai vợ chồng ông - Melite and Choerine (người sau sinh cho ông ba người con trai) - đều không chung thủy. Anh trở thành một người sống ẩn dật, kiếm sống cho mình trong một hang động ở Salamis (Cave of Euripides , seek that a phái viết kịch phát triển sau khi anh qua đời). "Ở đó, anh ấy đã xây dựng một ấn tượng thư viện và theo đuổi giao cảm hàng ngày với biển và bầu trời". Cuối cùng, ông lui tới "triều đình mộc mạc" của Vua Archelaus ở Macedonia, nơi ông qua đời, vào năm 406 trước Công nguyên. Tuy nhiên, như cập nhật đề trong giới thiệu, những tiểu tiết sử dụng như vậy nên được xem xét với sự nghi ngờ, hầu như hoàn toàn xuất phát từ ba nguồn không đáng tin cậy.
°văn học dân gian, được mọi người sử dụng để tô màu cho cuộc sống của các tác giả nổi tiếng;
°nhại lại, được các nhà thơ truyện sử dụng để chế biến các nhà thơ bi thảm;
°manh mối 'tự truyện' thu thập được từ vở kịch còn tồn tại của anh ấy (một phần nhỏ trong tổng sản lượng của anh ấy).Wikipedia site:vi.wikiarabi.org
Sự nghiệp.
Một cuộc đời huyền thoại
Euripides là người trẻ nhất trong nhóm ba nhà bi kịch lớn, những người gần như là cùng một thời điểm: vở kịch đầu tiên được dựng lên ba năm sau khi Sophocles ra mắt, và ba năm sau vở kịch Oresteia của Aeschylus. Danh sách bộ ba được nhấn mạnh một cách rõ ràng qua lời yêu cầu về vai trò của họ trong chiến thắng vĩ đại của Hy Lạp trước Ba Tư tại Trận Salamis —Aeschylus đã chiến đấu ở đó, Sophocles vừa đủ tuổi để ăn mừng chiến thắng trong dàn đồng ca của một chàng trai, và Euripides được sinh ra vào chính ngày diễn ra trận chiến. Tường thuật tạo nên sự sáng tạo của các tác giả của mình trong một hang động trên đảo Salamis, là một hệ thống truyền thông, có tính năng biểu tượng cho sự thiết lập của một định thức đi trước thời đại. Đời sống lớn và toàn bộ sự nghiệp của ông diễn ra trong cuộc đấu tranh giữa Athens và Sparta để phân quyền cho chủ nhân ở Hy Lạp, nhưng ông không hề sống để chứng nhận thất bại cuối cùng của thành phố mình. Người ta nói rằng anh ta đã chết ở Macedonia sau khi bị tấn công bởi những con chó săn Molossian của Vua Archelaus, và rằng cenotaph của anh ta gần Piraeus đã bị đánh - dấu hiệu cho sức mạnh độc nhất của ta, cho dù tốt hay toàn bộ (theo một học giả, cái chết của anh ta có thể làm mùa đông yêu nghiệt của người Macedonian). Trong một thuật toán tường của Plutarch , thất bại thảm khốc của người Athen khiến người Athen phải đánh đổi các bản nhạc của Euripides cho kẻ thù của họ để đổi lấy đồ ăn và thức uống (Life of Nicias 29 ). Plutarch cũng cung cấp câu chuyện mà các tướng Spartan chiến thắng, đã lên kế hoạch phá hủy Athens và nô dịch của dân chúng, đã trở nên thương xót khi được tiếp tục trong bữa tiệc bằng lời bài hát trong vở kịch Electra của Euripides: "Họ cảm thấy rằng đó sẽ là một người hành động rợ tiêu diệt một thành phố đã sản sinh ra những con người như vậy" (Life of Lysander).
Một cuộc đời tranh
Những nhà thơ bi kịch thường là các nhà thơ tranh chế độ giễu trong các lễ hội kịch tính Dionysia và Lenaia and Euripides được chuyển đi nhiều hơn hầu hết. Aristophanes đã viết kịch bản cho anh ta như một nhân vật trong ít nhất ba vở kịch: The Acharnians , Thesmophoriazusae và The Frogs . Nhưng Aristophanes cũng vay mượn, thay vì châm biếm, một số phương pháp của nhà bi kịch; chính anh ấy đã được chế tạo giễu bởi một đồng nghiệp, Cratinus , là:
ὑπολεπτολόγος, γνωμιδιώτης,
εὐριπιδαριστοφανίζων.
một người hay sử dụng từ ngữ, một người tạo ra châm ngôn, một Euripidaristophaniser.
Theo cho một nhà thơ truyện tranh khác, Teleclides , các vở kịch của Euripides được đồng tác giả bởi nhà triết học Socrates:
Μνησίλοχός ἐστ᾿ ἐκεῖνος, <ὃς>φρύγει τι δρᾶμα καινόν
Εὐριπίδῃ, καὶ Σωκράτης τὰ φρύγαν ᾿ ὑποτίθησιν.
[...] Εὐριπίδης σωκρατογόμφους.
Mnesilochus là đàn ông đang chuẩn bị cho vở kịch mới cho Euripides, và Socrates đang hạ bệ trò chơi này.
[...] Euripides bắt tay với Socrates.
Theo Aristophanes, đồng tác giả bị cáo buộc là một diễn viên nổi tiếng, Cephisophon, người cũng ở chung nhà bi kịch và vợ anh ta, khi Socrates dạy toàn bộ một trường phái biện pháp như Euripides:
χαρίεν οὖν μὴ Σωκράτει
παρακαθήμενον λαλεῖν,
ἀποβαλόντα μουσικὴν
τά τε μέγιστα παραλιπόντα
τῆς τραγῳδικῆς τέχνης.
τὸ δ᾿ ἐπὶ σεμνοῖσιν λόγοισι
κραὶ σκατρὴναὶ σκασκρ16αὶ σκ1ραρ16αὶ [1490-99].
Vì vậy, phong cách không phải là ngồi
bên cạnh Socrates và huyên thuyên,
gạt nghệ thuật sang một bên
và bỏ qua
tốt nhất trong nghề nghiệp bi kịch.
Để lờ thời gian
trong cuộc trò chuyện tạo ra
và cắt tóc hai dây
là dấu hiệu của một người đàn ông bị mất trí.
Trong The Frogs, được viết khi Euri pides và Aeschylus đã chết, Aristophanes có thần Dionysus mạo hiểm đến Hades để tìm kiếm một ngôi nhà thơ hay để mang về Athens. Sau một cuộc tranh luận giữa hai con cá đã chết, vị thần đưa Aeschylus trở lại cuộc sống, vì sự khôn ngoan của mình, Aeschylus chủ hữu ích, từ Euripides chỉ là thông minh. Những câu chuyện 'bằng chứng thực' như vậy cho người Athen ngắm mộ Euripides ngay cả khi họ không tin tưởng vào trí tuệ của anh ta, ít nhất là trong cuộc chiến kéo dài với Sparta. Aeschylus đã viết văn bia của riêng mình để kỷ niệm cuộc đời của ông như một chiến binh chiến đấu cho Athens chống lại Ba Tư, mà không đề cập đến thành công của ông với tư cách là một nhà viết kịch; and Sophocles are the people to the same as the những món quà xã hội, và những người đóng góp cho cuộc sống công cộng với tư cách là một quan chức nhà nước; but do not have any profile about the life of the Euripides khai trừ với tư cách là một nhà viết kịch - ông ta có thể là "một kẻ nghiền ngẫm và sống ẩn dật trong vở sách". Anh ta được giới thiệu như vậy trong The Acharnians, nơi Aristophanes cho thấy anh ta đang sống một cách tồi tệ trong một ngôi nhà bấp bênh, xung quanh là những bộ trang phục xé nát những nhân vật đáng chê trách của anh ta ( and Agathon , một nhà thơ bi kịch khác, được phát trong trò chơi sau, Thesmophoriazusae , sống trong cảnh gần như kỳ quái). Mẹ của Euripides là một người bán rau tự do, theo truyện tranh hệ thống, nhưng các vở kịch của anh ấy chỉ ra rằng anh ấy có một nền giáo dục tự do và do đó có đặc biệt là xuất thân.
Cuộc đời của một bi kịch
Euripides thi đấu lần đầu ở City Dionysia , lễ hội kịch nổi tiếng Athen, vào năm 455 trước Công nguyên, một năm sau cái chết của Aeschylus ; and not be decary to the year 441 before the Resource. Cuối cùng của cuộc thi của ông ở Athens là vào năm 408 trước Công nguyên. Bacchae và Iphigenia in Aulis được thực hiện vào năm 405 trước Công nguyên, và giải nhất đã được trao sau khi hoàn thành. Anh ấy chỉ giải nhất năm lần.
Những vở kịch của anh ấy, và những vở kịch của Aeschylus và Sophocles, cho thấy sự khác biệt về cách nhìn giữa ba người - khoảng cách thế hệ có thể là do Sự khai sáng tinh vi into the Thập kỷ giữa thế kỷ thứ 5: Aeschylus vẫn quay lại thời kỳ cổ đại , Sophocles chuyển giao giữa các thời kỳ, và Euripides hoàn toàn thấm đẫm tinh thần mới của thời đại cổ điển . Khi các vở kịch của Euripides được sắp xếp theo thời gian tự động, chúng tôi cũng tiết lộ rằng sự phát triển của anh ta có thể được thay đổi, cung cấp một "tiểu sử dụng tâm linh", cùng những dòng sau:
một thời kỳ đầu của bi kịch cao độ (Medea , Hippolytus )
một thời kỳ yêu nước khi bắt đầu Chiến tranh Peloponnesian (Children of Heracles , The Suppliants )
một thời kỳ trung gian của sự vỡ mộng trước sự vô nghĩa của chiến tranh (Hecuba , Những người phụ nữ thành Troy )
Thời kỳ chạy tập trung vào âm thanh lãng mạn (Ion , Iphigenia in Tauris , Helen )
Thời kỳ cuối của nỗi tuyệt vọng bi ai (Orestes , Phenicia Women , The Bacchae )
Tuy nhiên, khoảng 80% vở kịch của anh ấy đã bị thất lạc, và ngay cả những tập kịch còn tồn tại cũng không có bức tranh hoàn toàn về sự việc phát triển 'tâm linh' của anh ấy (ví dụ, Iphigenia at Aulis được xác định cùng với Bacchae 'tuyệt vọng', nhưng nó lại chứa đựng các tiền tố đã trở thành hình điển của New Comedy). Trong Bacchae, anh ấy phục hồi khúc nhạc và bài phát biểu của người đưa tin cho tôi đóng vai trò xuyên suốt trong cốt truyện bi kịch, và mã code như đỉnh điểm của xu hướng hòa bình hoặc thay đổi trong các tác phẩm this after của ông (xem Niên đại bên dưới). Được cho là được sáng tác ở vùng hoang dã của Macedonia, Bacchae cũng kịch tính hóa mặt nguyên thủy của tôn giáo Hy Lạp, và một số học giả được giải thích trên bảng đặc biệt theo phương pháp tiểu sử, như :
một loại cải tử hoàn sinh hoặc từ bỏ vô thần chủ;
sự nỗ lực của nhà thơ để tránh cáo buộc gian dối mà sau này vượt qua người bạn Socrates;
with the certificate of a new trust, tôn giáo không thể được phân tích một cách hợp lý.
Một trong những vở kịch sớm nhất còn tồn tại, Medea, bao gồm một bài phát biểu mà như ông viết để bảo vệ mình là một định thức đi trước đại thời gian (do Medea nói):
σκασκ μὲν γὰρ καινὰ προσφέρων σοφὰ
δόξεις ἀχρεῖος κοὐ σοφὸς πεφυκέναι ·
τῶν δ᾿ αὖ δοκούντων εἰδέναι τι ποικίλον
κρείσσων νομισθεὶς ἐν πόλει λυπρὸς φανῇ.
ἐγὼ δὲ καὐτὴ τῆσδε κοινωνῶ τύχης [298-302].
If you mang lại sự khôn ngoan mới lạ cho những kẻ ngu ngốc coi như vô dụng, không khôn ngoan; và nếu thành phố coi bạn là vĩ đại hơn những người nổi tiếng về sự khôn ngoan, bạn sẽ là phật ý. Bản thân tôi là một người chia sẻ trong rất nhiều điều kiện.Wikipedia site:vi.wikiarabi.org
Sự Đón Nhận.
Euripides đã khởi động và tiếp tục khơi dậy những ý kiến mạnh mẽ ủng hộ và chống lại công việc của ông:
Ông là một vấn đề with the same people and he still as an; Trong nhiều thế kỷ kể từ khi vở kịch của ông được sản xuất lần đầu tiên, ông được ca ngợi hoặc bị truy tố dưới nhiều nhãn hiệu gây hoang mang. Ông đã được mô tả là 'nhà thơ của sự khai sáng Hy Lạp' và cũng là 'Euripides nhà phi lý trí'; với tư cách là một người hoài nghi tôn giáo nếu không phải là một người vô thần, nhưng ngược lại, là một người tin vào phòng của Chúa và sự kết thúc của sự phân chia thần thánh. Ông được coi là một nhà thám hiểm sâu sắc về tâm lý con người và cũng là một nhà thơ hùng biện, người đặt quán tính đặc biệt vào hiệu quả lời nói; với tư cách là một người theo chủ nghĩa sai sót và một nhà nữ quyền; như một người thực thi theo chủ nghĩa, người đưa thảm bi động xuống cấp độ cuộc sống hàng ngày và như một nhà thơ lãng mạn, người chọn những huyền thoại khác thường và kỳ lạ cảnh giới. Ông viết kịch bản được nhiều người hiểu là những tác phẩm yêu nước ủng hộ cuộc chiến của Athens chống lại Sparta và những tập kịch bản khác được nhiều người coi là tác phẩm xuất sắc của nhà viết kịch phản chiến, thậm chí là những tấn công vào chủ nghĩa Athen quốc gia. Ông đã được nhận là tiền thân của Hài kịch mới và cũng là cái mà Aristotle gọi ông là: 'bi kịch nhất trong các nhà thơ' (Poetics 1453a30). And not a in this description is invalid. - Bernard Knox
Aeschylus đã được tổng hợp ba chiến thắng với tư cách là một nhà viết kịch; Sophocles ít nhất là hai mươi; Euripides chỉ có bốn trong cuộc sống của mình; and this is used to be the mark for this after. Nhưng đầu tiên vị trí có thể không phải là tiêu chí chính để thành công (bảo mật hệ thống chọn lọc như bị lỗi loại bỏ), và đơn chỉ được chọn để cạnh tranh là một phân biệt dấu hiệu. Hơn nữa, công việc được Aristophanes lựa chọn để thu hút rất nhiều sự chú ý về truyện tranh là bằng chứng về quan tâm phổ biến đối với tác phẩm của ông. Sophocles đã đủ đánh giá cao nhà trẻ tuổi bị ảnh hưởng bởi anh ấy, như thể hiện rõ ràng trong các vở kịch sau của anh ấy Philoctetes và Oedipus at Colonus . Theo Plutarch, Euripides đã được đón nhận nồng nhiệt ở Sicily, đến mức sau cuộc chiến thất bại, rất nhiều tù nhân Athen đã được thả, chỉ đơn giản là vì có thể dạy cho những người bắt giữ bất kỳ mảnh ghép nào. B.Rất nào họ có thể nhớ về công việc của anh ta. Full year after, Aristotle đã phát triển một lý thuyết gần như "sinh học" về sự phát triển của bi kịch ở Athens: loại hình nghệ thuật phát triển dưới ảnh hưởng của Aeschylus, trưởng thành trong tay của Sophocles, sau that start the end that nhanh chóng với Euripides. Tuy nhiên, "các vở kịch của anh ấy tiếp tục được tán thưởng ngay cả sau khi các vở kịch của Aeschylus và Sophocles có vẻ xa vời và không liên quan"; chúng đã trở thành tác phẩm của trường kinh điển trong thời kỳ Hy Lạp hóa (như đề cập trong giới thiệu phần) và làm sự chuyển đổi từ của Seneca tác phẩm của anh ấy cho người giả La Code, "that is Euripides, is not Aeschylus or Sophocles, that you that be bi kịch chủ trì sự tái sinh của bi kịch ở Châu Âu thời Phục hưng."
Thế kỷ XVII, Racine bày ở ngưỡng mộ, nhưng bị ảnh hưởng bởi Euripides nhiều hơn (Iphigenia at Aulis và Hippolytus là hình mẫu cho các vở kịch Iphigénie và Phèdre của ông ). Danh tiếng của Euripides đã bị đánh bại vào thế kỷ 19, khi Friedrich Schlegel và của anh ấy anh ấy August Wilhelm Schlegel đã vô địch mô hình lịch sử sân khấu 'sinh học' của Aristotle, xác định Euripides với sự suy thoái về đạo đức, chính trị và nghệ thuật của Athens. Các bài giảng tại Vienna của August Wilhelm về nghệ thuật và văn học kịch đã trải qua bốn lần xuất bản từ năm 1809 đến năm 1846; và, trong đó, ông cho rằng Euripides "không chỉ phá hủy trật tự bên ngoài của bi kịch mà còn bỏ qua toàn bộ ý nghĩa của nó". Quan điểm này ảnh hưởng đến Friedrich Nietzsche , tuy nhiên, người có vẻ không biết Euripidean chơi hay. Nhưng các nhân vật văn học, chẳng hạn như nhà thơ Robert Browning và vợ ông Elizabeth Barrett Browning , có thể nghiên cứu và ngưỡng mộ Schlegels, trong khi vẫn đánh giá cao Euripides là "Euripides của chúng ta là con người" (Wine of Síp khổ thơ 12). Những người theo chủ nghĩa cổ điển như Arthur Verrall và Ulrich von Wilamowitz-Moellendorff đã phản ứng chống lại quan điểm của Schlegels và Nietzsche, xây dựng các lập luận đồng tình với Euripides, liên quan đến Wilamowitz trong việc tái diễn lại bi kịch Hy Lạp như một thể loại: "Một bi kịch [tiếng Hy Lạp] không nhất thiết phải kết thúc 'bi thảm' hay 'bi thảm'. Yêu cầu duy nhất là một sự đối xử nghiêm túc." Trong thế giới nói tiếng Anh, chủ nghĩa hòa bình Gilbert Murray đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phổ biến Euripides, có lẽ bị ảnh hưởng bởi những vở kịch phản chiến của ông. Ngày nay, cũng như thời Euripide, các giả định truyền thống liên tục bị thử thách, và khán giả do đó có mối quan hệ tự nhiên với triển vọng của người Euripide, có vẻ gần với chúng ta hơn, chẳng hạn như thời Elizabeth. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, các ý kiến vẫn tiếp tục khác nhau, do đó độc giả hiện đại có thể thực sự "cảm thấy có mối quan hệ đặc biệt với Sophocles"; một nhà phê bình gần đây có thể bác bỏ các cuộc tranh luận trong các vở kịch của Euripides là "sự lạc đề của bản thân vì mục đích khoa trương"; và một mùa xuân để bảo vệ: "Những vở kịch của anh ấy rất đáng chú ý vì nhiều âm sắc và sự sáng tạo vui vẻ, điều mà các nhà phê bình gọi là sự giả tạo hoài nghi, về cách xây dựng của chúng."
Các tác phẩm.
Việc truyền tải các vở kịch, từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, khi chúng được viết lần đầu tiên, cho đến kỷ nguyên của máy trong, là một quá trình chủ yếu là lộn xộn. Công việc lớn của Euripides đã bị mất và bị hỏng; but the period of this alsobao gồm các chiến trường của các tác giả và người sao chép, nhờ đó mà phần lớn được phục hồi và bảo tồn. Tóm tắt về truyền tải thông thường được tìm thấy trong các phiên bản hiện đại của vở kịch, ba trong số đó được sử dụng làm nguồn cho bản tóm tắt.
Các vở kịch của Euripides, giống như của Aeschylus và Sophocles, được lưu hành dưới văn bản định dạng. Nhưng các môn học ước lệ mà chúng ta coi là tự nhiên ngày nay không được phát minh - không có khoảng cách giữa các từ; không có quán nhất về câu, cũng như cách sử dụng; has no mark for a hơi thở và âm thanh trọng lượng (âm thanh hướng dẫn và nhận dạng từ); no quy ước để biểu thị sự thay đổi của người nói; không có hướng giai đoạn; and the question is write thẳng on page giấy, giống như văn bản. Có thể, những người mua văn bản cung cấp diễn đàn giải thích riêng của họ. Hạn chế, khám phá của Papyri chỉ ra rằng sự thay đổi trong người nói được biểu thị bằng nhiều dấu hiệu khác nhau, chẳng hạn như dấu chấm ngang, dấu hai chấm và dấu chấm. The away of the current of the current size of learning (hỗ trợ hiểu biết), is a bad source rút ra sớm và dai, ảnh hưởng đến việc truyền tải. Các lỗi cũng được đưa ra khi Athens thay thế chữ cái cũ trên gác mái của mình bằng chữ cái Ionian, một sự thay đổi được luật pháp xử lý vào năm 403–402 trước Công nguyên, thêm một tạp chí mới cho nhiệm vụ copy. Nhiều lỗi thoát khác từ xu hướng của các diễn viên trong các từ và câu xen kẽ, tạo ra nhiều lỗi và biến thể thành một luật được đề xuất bởi Lycurgus of Athens vào năm 330 trước Công nguyên "mà các vở kịch của Aeschylus, Sophocles và Euripides phải được viết ra và quản lý tại một văn phòng công cộng; và ký hiệu thị trấn phải đọc lại văn bản với các diễn viên; và tất cả các buổi biểu diễn đều không Tuân thủ quy định này đều là bất hợp pháp. "Luật nhanh chóng được coi là thường và các diễn viên tiếp tục thay đổi cho đến khoảng năm 200 trước Công nguyên, sau đó quen thuộc. In the time period Aristophanes of Byzantium đã biên soạn một bản in của tất cả các tập kịch còn tồn tại của Euripides, đối chiếu từ Alexandria tiền văn bản, kèm theo lời giới thiệu và kèm theo comment is a private "output". This has been going to "ấn tiêu chuẩn" cho tương lai, và nó nêu bật một số quy ước văn học mà độc giả hiện đại mong đợi: vẫn không có khoảng cách giữa các từ; ít hoặc không có câu chấm; and does not have the direction of the; nhưng viết tắt tên biểu thị sự thay đổi của người nói; lời bài hát được chia thành "cola" và "strophai", hoặc các dòng và khổ thơ; and a sound important system was used to.
Sau khi tạo ra một tiêu chuẩn phiên bản, văn bản hoàn toàn không có lỗi, bên cạnh hư hỏng nhẹ và dần dần Được giới thiệu dần dần với việc sao chép nhạt nhạt. Rất nhiều lỗi nhỏ trong số này đã xảy ra trong thời kỳ Byzantine, sau sự thay đổi trong tập lệnh (from unsial to mincule ) và nhiều lỗi là lỗi "homophonic" - tương đương , in English, to Replace "right" for "write"; ngoại trừ những người chép Byzantine có nhiều cơ hội mắc những lỗi này hơn, bởi vì η, ι, οι và ει, được phát âm tự trong Byzantine kỳ.
SCN khoảng năm 200, vở kịch mã của Euripides bắt đầu được lưu hành trong một bộ lọc ấn bản, có thể sử dụng trong trường học, với một số bài bình luận hoặc scholia được ghi ở lề. Tương tự phiên bản đã xuất hiện cho Aeschylus và Sophocles - vở kịch duy nhất của họ vẫn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Euripides, tuy nhiên, may mắn hơn những bi kịch khác, với ấn bản thứ hai của tác phẩm của ông vẫn tồn tại, được biên soạn theo thứ tự bảng chữ cái như thể từ một tập hợp các tác phẩm sưu tầm của ông; but not by scholia. This "cái bảng" ấn bản được kết hợp với ấn bản "Select" của một học giả Byzantine vô danh, tập hợp tất cả chín đĩa kịch tồn tại cho đến ngày hôm nay. Các vở kịch "Select" được tìm thấy trong nhiều bản thảo thời Trung cổ, nhưng chỉ có hai bản thảo lưu trữ các vở kịch "Theo chữ cái bảng thứ tự" - thường được ký hiệu là L và P, sau Laurentian Library tại Florence, và Bibliotheca Palatina ở Vatican, chúng được lưu trữ. Người ta tin rằng P bắt nguồn từ các bảng mã của nó và một số vở kịch Chọn từ bản sao của tổ hợp đầu tiên của L, nhưng phần còn lại có nguồn gốc từ nơi khác. P chứa tất cả các vở kịch còn tồn tại của Euripides, L thì mất tích The Trojan Women và các phần sau của The Bacchae.
Ngoài L, P và nhiều bản viết tay thời Trung cổ khác, còn có các mảnh tập lệnh trên giấy cói. This mảnh giấy cói thường chỉ được phục hồi bằng công nghệ hiện đại. Ví dụ, vào tháng 6 năm 2005, các nhà kinh điển học tại Đại học Oxford đã làm việc trong một dự án hợp tác với Đại học Brigham Young , sử dụng công nghệ đa phổ ảnh để lấy lại các chữ viết không đọc được trước đó (xem tài liệu tham khảo). Một số công trình đã được sử dụng công nghệ hồng ngoại - before here are sử dụng để chụp ảnh vệ tinh — để phát hiện vật liệu chưa được biết đến trước đây của Euripides, trong các mảnh vỡ của Oxyrhynchus papyri , một bộ sưu tập Các bản thảo cổ do trường đại học nắm giữ.
Chính từ những tư liệu đó mà các học giả hiện đại cố gắng ghép các bản sao của vở kịch gốc lại với nhau. Đôi khi bức tranh gần như bị mất. Vì vậy, ví dụ, hai vở kịch còn tồn tại, Những người phụ nữ Phoenicia và Iphigenia in Aulis, bị nội suy làm hỏng đáng kể (vở kịch sau có thể được hoàn thành khám nghiệm tử thi bởi con trai nhà thơ); và quyền tác giả của Rhesus là một vấn đề tranh chấp. Trên thực tế, sự tồn tại của vở kịch Alphabet, hay đúng hơn là không có ấn bản tương đương cho Sophocles và Aeschylus, có thể làm sai lệch quan niệm của chúng ta về những phẩm chất đặc biệt của người Euripidean — hầu hết các vở kịch ít "bi thảm" nhất của ông đều nằm trong ấn bản Alphabet; và, có thể, hai bi kịch khác sẽ xuất hiện theo thể loại giống như "người thử nghiệm không ngừng nghỉ" này, nếu chúng ta sở hữu nhiều hơn các phiên bản "chọn lọc" của họ.
Xem Các vở kịch bổ sung bên dưới để biết danh sách các vở kịch "Chọn" và "Theo bảng chữ cái".
Niên đại
Ngày sản xuất ban đầu của một số vở kịch của Euripides được biết đến từ các ghi chép cổ, chẳng hạn như danh sách những người đoạt giải tại Dionysia ; và các giá trị gần đúng thu được cho phần còn lại bằng nhiều phương tiện khác nhau. Cả nhà viết kịch và tác phẩm của ông đều được các nhà thơ truyện tranh như Aristophanes truyền tải, những ngày đã biết về những vở kịch của chính họ có thể đóng vai trò là quảng cáo ga cuối cho những người ở Euripides (mặc dù khoảng cách có thể đáng kể: hai mươi bảy năm riêng biệt Telephus, được biết là đã được sản xuất vào năm 438 trước Công nguyên, từ bản nhại của nó trong Thesmophoriazusae năm 411 trước Công nguyên.). Các tham chiếu trong vở kịch của Euripides cho các sự kiện đương đại cung cấp một ga cuối một quo , mặc dù đôi khi các tham chiếu thậm chí có thể đứng trước một sự kiện có thể ghi dữ liệu (ví dụ: dòng 1074–89 trong Ion mô tả một đám rước đến Eleusis , có lẽ được viết trước khi người Sparta chiếm đóng nó trong Chiến tranh Peloponnesian ). Các dấu hiệu xác định niên đại khác có được nhờ stylometry .
bi kịch Hy Lạp bao gồm lời và đối thoại, phần sau chủ yếu ở iambic trimeter (ba cặp iambic feet trên mỗi dòng). Euripides đôi khi 'phân giải' hai âm tiết của iamb (˘¯) thành ba âm tiết (˘˘˘), và xu hướng này tăng đều theo thời gian đến mức số lượng chân được phân giải trong một vở kịch có thể cho biết ngày sáng tác gần đúng (xem Extant phát dưới đây cho danh sách độ phân giải trên một trăm trimeters của một học giả). Cùng với sự gia tăng độ phân giải này là vốn từ vựng ngày càng tăng, thường liên quan đến các tiền tố để tinh chỉnh nghĩa, cho phép ngôn ngữ giả định một nhịp điệu tự nhiên hơn, đồng thời trở nên tinh tế hơn bao giờ hết về mặt tâm lý và triết học.
The trochaic tetrameter catalectic —4 cặp trochees trên mỗi dòng, với âm cuối bị lược bỏ — được Aristotle xác định là thước đo ban đầu của cuộc đối thoại bi kịch (Poetics 1449a21). Euripides sử dụng nó ở chỗ này và chỗ khác trong các vở kịch sau này của mình, nhưng dường như không sử dụng nó trong các vở kịch ban đầu của mình, với Những người phụ nữ thành Troy là sự xuất hiện sớm nhất của nó trong một vở kịch còn tồn tại — đó là triệu chứng của một xu hướng thay đổi sau này của ông các tác phẩm.
Các vở kịch sau này cũng sử dụng rộng rãi Browsehomythia (tức là một loạt các vở kịch một lớp). Cảnh dài nhất như vậy bao gồm một trăm lẻ năm dòng trong Ion (dòng 264–369). Ngược lại, Aeschylus không bao giờ vượt quá hai mươi đường may mặc; Cảnh dài nhất như vậy của Sophocles là năm mươi dòng và bị ngắt nhiều lần bởi α timesλαβή (Electra , dòng 1176–1226).
Việc sử dụng lời bài hát của Euripides trong các phần hát cho thấy ảnh hưởng của Timotheus of Miletus trong các vở kịch sau đó — ca sĩ cá nhân đã trở nên nổi bật, và được trao thêm phạm vi để thể hiện kỹ thuật điêu luyện của mình trong các bản song ca trữ tình, cũng như thay thế một số chức năng của hợp xướng bằng monodies. Đồng thời, hợp xướng bắt đầu mang hình thức của dithyrambs gợi nhớ đến thơ ca của Bacchylides , có cách xử lý công phu về thần thoại. Đôi khi những bản hợp xướng sau này dường như chỉ có mối liên hệ mỏng manh với cốt truyện, chỉ liên quan đến hành động trong tâm trạng của họ. Tuy nhiên, Bacchae cho thấy sự đảo ngược với các hình thức cũ, có thể là một hiệu ứng cổ xưa có chủ ý, hoặc vì không có nghệ sĩ hợp xướng điêu luyện nào ở Macedonia (nơi nó được cho là đã được viết). | 1 | null |
Koropokkuru (tiếng Nhật: "コロポックル"), hay Koro-pok-kuru, korobokkuru, koropokkur, là một tộc người tí hon trong truyền thuyết dân gian của tộc Ainu ở phía bắc Nhật Bản. Tên gọi ấy được phân tích theo truyền thống là sự kết hợp giữa ba từ: kor hoặc koro ("cây butterbur"), pok ("bên dưới"), và kur hay kuru ("con người") và được giải thích như là "những người sống dưới tán lá butterbur" theo ngôn ngữ Ainu.
Tộc Ainu tin rằng koro-pok-guru là những người đã sống tại vùng đất của họ trước đây. Đó là những người vóc nhỏ, nhanh nhẹn, và câu cá rất tài. Koro-pok-kuru sống trong những cái hố có mái làm bằng lá butterbur.
Trước đây, koro-pok-guru và Ainu có quan hệ khá tốt. Họ cho người Ainu nai, cá, những trò chơi khác và trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên rất khó để thấy được những con người nhỏ bé ấy, vì vậy mà người koro-pok-guru chỉ mang hàng hoá đến trong đêm.
Đến một ngày, một người Ainu trẻ tuổi quyết phải thấy được một koro-pok-guru tận mắt, thế nên anh ta đã chờ đợi bên cửa sổ để bắt giữ koro-pok-guru. Và đó là một phụ nữ koro-pok-guru xinh đẹp, người đã rất tức giận với hành động lỗ mãng của chàng thanh niên. Sau sự việc đó, người koro-pok-guru biến mất. Dù vậy, tộc Ainu tin rằng người koro-pok-guru vẫn còn tồn tại rải rác đâu đó trên vùng đất cũ. | 1 | null |
Medea (, "Mēdeia", , "Medea") là một phụ nữ Colchis trong thần thoại Hy Lạp. Bà là con gái của Vua Aeëtes của Colchis, cháu gái của Circe, cháu nội của thần mặt trời Helios, và sau đó là vợ của người anh hùng Jason, người đã có với bà hai đứa, Mermeros và Pheres. Trong vở kịch của Euripides, Jason bỏ mặc Medea khi Creon, vua của Corinth, ban tặng ông con gái, Glauce. Vở kịch kể về cách Medea báo thù sự phản bội của người chồng.
Medea miêu tả trong thần thoại về Jason và những người Argonaut, một thần thoại được biết nhiều nhất về từ một phiên bản văn học muộn thực hiện bởi Apollonius của Rhodes ở thế kỉ 3 tr.CN và được gọi là "Argonautica." Medea được biết đến trong các truyện như một người làm bùa mê và thường được miêu tả như một nữ tư tế của nữ thần Hecate hay một phù thủy. | 1 | null |
Rogozarski R-100 (tiếng Serbia: Рогожарски Р-100) là một loại máy bay huấn luyện nâng cao và huấn luyện tiêm kích của Nam Tư trước Chiến tranh thế giới II. Có khoảng 26 chiếc được chế tạo, phục vụ trong Không quân Hoàng gia Nam Tư cho đến khi Nam Tư sụp đổ vào năm 1941. Sau đó, 11 chiếc R-100 được Không quân Croatia mới thành lập sử dụng làm máy bay cường kích và 1 chiếc R-100 được Regia Aeronautica (không quân Italy) sử dụng. | 1 | null |
Titus Lucretius Carus (khoảng 99 - khoảng 55 tr.CN) là một nhà thơ và triết gia La Mã. Công trình duy nhất của ông được biết đến là bài trường ca triết học "De rerum natura" (Về bản chất của Tự nhiên) với các niềm tin chủ nghĩa Epicurea.
Hầu như không có gì rõ ràng về cuộc đời Lucretius. Jerome kể việc ông bị phát điên bởi một mê dược (love potion) và làm thơ giữa các cơn mất trí, cuối cùng tự sát ở tuổi trung niên; nhưng giới học giả hiện đại đề xuất rằng ghi chép này có vẻ là một sự hư cấu Tác phẩm "De rerum natura" có ảnh hưởng đáng kể lên các nhà thơ thời Augustus, đặc biệt là Virgil (trong "Aeneid" và "Georgics", và ở một mức độ thấp hơn trong "Eclogues") và Horace. Nó hầu như biến mất trong thời Trung Cổ, nhưng được tái khám phá trong một tu viện ở Đức năm 1417, bởi Poggio Bracciolini, và đã đóng một vai trò quan trọng trong thuyết nguyên tử (Lucretius có một ảnh hưởng quan trọng đối với Pierre Gassendi) và những nỗ lực của nhiều nhân vật trong kỉ nguyên Khai sáng để xây dựng một chủ nghĩa nhân văn Cơ đốc mới. | 1 | null |
Vickers Vildebeest và loại tương tự Vickers Vincent là hai mẫu máy bay hai tầng cánh cỡ lớn của Anh, do hãng Vickers thiết kế và chế tạo, nhiệm vụ của nó là máy bay ném bom hạng nhẹ và ném bom ngư lôi, ngoài ra nó còn được phối thuộc hoạt động với lục quân. Dù bay lần đầu năm 1928 nhưng nó vẫn hoạt động cho đến khi Chiến tranh thế giới II nổ ra. Những chiếc Vildebeest cuối cùng tham chiến tại Singapore và Java chống lại Nhật năm 1942. | 1 | null |
Claude Lévi-Strauss (; : Lêvi-Xtơrôt; 28 tháng 11 năm 1908 – 30 tháng 10 năm 2009) là một nhà nhân chủng học và dân tộc học, triết gia người Pháp, và thường được gọi, cùng vớiJames George Frazer, là "cha đẻ nhân chủng học hiện đại".
Ông lập luận rằng tinh thần "dã man" có cùng cấu trúc như tinh thần "văn minh" và rằng các đặc điểm con người là như nhau ở mọi nơi. Những quan sát như vậy đạt đến tột độ trong cuốn sách "Nhiệt đới buồn", thứ định vị ông như một trong những nhân vật trung tâm của trường phái tư tưởng cấu trúc luận, trong đó những ý tưởng của ông đi đến các lĩnh vực bao gồm khoa học nhân văn, xã hội học và triết học.
Ông được vinh danh bởi các trường đại học trên khắp thế giới và từng giữ ghế giáo sư về Nhân chủng học xã hội ở Collège de France (1959–1982); ông được bầu là một thành viên của Viện Hàn Lâm Pháp năm 1973. | 1 | null |
Vickers Wellesley là một loại máy bay ném bom hạng nhẹ của Anh trong thập niên 1930, do hãng Vickers-Armstrongs tại Brooklands gần Weybridge, Surrey chế tạo cho Không quân Hoàng gia. Khi Chiến tranh thế giới II bùng nổ thì nó đã trở nên lỗi lời, tại chiến trường trên không châu Âu nó không phù hợp, nhưng Wellesley lại thành công khi sử dụng tại chiến trường sa mạc của Đông Phi, Ai Cập và Trung Đông. | 1 | null |
Vultee A-31 Vengeance là một loại máy bay ném bom bổ nhào của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới II, do hãng Vultee Aircraft chế tạo. Vengeance không được các đơn vị của Hoa Kỳ sử dụng trong chiến đấu, tuy nhiên nó lại được trang bị cho không quân Hoàng gia Anh, Không quân Hoàng gia Australia và Không quân Ấn Độ ở Chiến trường Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương. Nó tiếp tục được sử dụng làm máy bay kéo bia bay cho đến năm 1945.. | 1 | null |
Vultee V-11 và V-12 là loại máy bay cường kích của Hoa Kỳ trong thập niên 1930. Được phát triển từ mẫu máy bay chở khách một động cơ Vultee V-1, V-11 và V-12 được quân đội vài quốc gia đặt mua, Trung Quốc dùng loại máy bay này để chống lại quân Nhật trong Chiến tranh Trung-Nhật. Quân đoàn Không quân Lục quân Hoa Kỳ mua 11 chiếc V-11 với tên gọi Vultee YA-19 ngay trước Chiến tranh thế giới II, để thử nghiệm đánh giá so sánh với các máy bay cường kích hạng nhẹ hai động cơ. | 1 | null |
WPA (viết tắt của "Wi-Fi protected access") là một giao thức an ninh trên những mạng không dây. Nó được tạo ra để thay thế WEP ("Wired Equivalent Privacy") vì WEP đã trở nên lỗi thời vì dễ bị phá để tìm ra khóa. WPA được trình làng vào năm 2003 và sau đó đến WPA2 (an toàn hơn WPA) ra mắt vào năm 2004.
WPA dùng giao thức TKIP để tạo ra một khóa dài 128 bit cho mỗi cụm/gói ("packet" hay "frame") gởi qua sóng vô tuyến khác với WEP là dùng duy nhất một khóa cho mọi cụm/gói. Ngoài ra WPA còn dùng giao thức "Michael" để kiểm tra sự toàn vẹn của các cụm/gói, để chắc chắn là chúng không bị ai bắt được và thay đổi. WPA2 có tên chuẩn chính thức là IEEE 802.11i.
WPA cũng bao gồm kiểm tra tính toàn vẹn của thông điệp. WPA được thiết kế để ngăn chặn kẻ tấn công từ chụp, thay đổi hoặc gửi lại các gói dữ liệu | 1 | null |
Đông Nam Á hải đảo là một vùng địa lý hải đảo thuộc Đông Nam Á, đối lập với khái niệm Đông Nam Á lục địa. Có sáu quốc gia nằm trong vùng Đông Nam Á hải đảo gồm Malaysia, Philippines, Brunei, Đông Timor, Singapore và Indonesia. Một khái niệm khác tương tự được dùng từ thế kỷ XIX là "quần đảo Mã Lai".
Tính đồng nhất về văn hóa.
Tính đồng nhất về văn hóa khiến Đông Nam Á hải đảo được xem là 'Viễn Ấn' hay Đại Ấn Độ, được Coedes gọi là 'những quốc gia Ấn Độ hóa ở Đông Nam Á'; trong khi nhiều học giả khác coi đây là khu vực chịu ảnh hưởng Trung Hoa một phần (hoặc ở mức độ cao hơn như Singapore), thậm chí một số học giả đồng nhất khu vực này với Nam Đảo hoặc châu Đại Dương.
Địa lý dân cư.
Khu vực Đông Nam Á hải đảo có trên 350 triệu người sinh sống, tập trung nhất tại Java. Dân cư ở khu vực này chủ yếu là người Nam Đảo sử dụng ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo. Khu vực này có mối quan hệ xã hội và văn hóa gần gũi với những người Nam Đảo ở Thái Bình Dương hơn là với dân cư Đông Nam Á lục địa. Các tôn giáo chính trong vùng là đạo Hồi, đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Hindu và tín ngưỡng vật linh truyền thống.
Thông thường, phần thuộc lục địa của Malaysia cũng được gộp vào như một thành phần của "Đông Nam Á hải đảo" để đảm bảo cho việc tất cả các nhóm sắc tộc Austronesia nhưng phi-Đại Dương có thể được gộp cùng nhau trong một khu vực văn hóa. | 1 | null |
Helloween là ban nhạc Power metal đến từ Đức, thành lập năm 1984 bởi các thành viên của Iron Fist và Powerfool. Họ là ban nhạc tiên phong trong thể loại Power metal ở châu Âu, và album phòng thu thứ hai và thứ ba của họ: Keeper of the Seven Keys, Pt. 1 và Pt.2, được coi là kiệt tác của dòng nhạc này.
Kể từ khi thành lập, ban nhạc đã phát hành tổng cộng 14 album phòng thu, nhiều lần thay đổi về mặt nhân sự. Những cựu thành viên đó sau khi rời ban đã sáng lập khá nhiều ban nhạc khác, nổi bật như Gamma Ray, Iron Savior, Masterplan và Unisonic.
Lịch sử hoạt động.
"Walls of Jericho" (1984-1986).
Helloween thành lập năm 1984 ở Hamburg, Đức. Ban đầu, đội hình của ban nhạc gồm:
Cũng vào thời gian này, ban nhạc ký hợp đồng với hãng Noise Records, thu hai ca khúc và được hãng Noise biên tập, gọi là "Death Metal". 2 ca khúc đó là "Oernst of Life" của Weikath và "Metal Invaders" của Hansen, ca khúc sau này xuất hiện trong album phòng thu đầu tiên của ban nhạc.
Helloween thu và phát hành Helloween, EP cùng tên đầu tiên vào năm 1985, gồm 5 ca khúc. Cũng vào năm này, ban nhạc phát hành album phòng thu đầu tiên, "Walls of Jericho". Trong chuyến lưu diễn sau đó, Kai cảm thấy khó khăn trong việc đảm nhận một lúc hai vai trò hát chính và guitar. EP "Judas", EP cuối cùng mà Kai đứng trong đội hình của Helloween với vai trò hát chính được phát hành vào năm 1986. EP bao gồm ca khúc "Judas" và hai ca khúc hát live khác. Sau đó, Helloween bắt đầu tìm kiếm một vocal mới.
"Keeper of the Seven Keys, Parts I & II" (1986-1989).
Michael Kiske, một vocal còn khá trẻ (18 tuổi) đã gia nhập Helloween, từ một ban nhạc cũng đến từ Hamburg, Ill Prophecy. Với vocal mới trong đội hình, Helloween đề nghị hãng Noise phát hành một album đôi, tuy nhiên đề nghị này của ban nhạc đã không được hãng chấp thuận. Thay vào đó, họ phát hành từng album đơn: "Keeper of the Seven Keys Part I", vào năm 1987 và album "Keeper of the Seven Keys Part II" một năm sau đó. Single "I Want Out" được phát liên tục trên MTV và show "Headbanger's Ball". Helloween cũng xuất hiện trong buổi khai mạc Headbanger's Ball Tour ở Khu vực vịnh San Francisco, cùng với Exodus và Anthrax.
Ban nhạc gặt hái được nhiều thành công trên toàn thế giới.
Trong khi tour diễn "Keeper of the Seven Keys Part II" chưa kết thúc, guitarist Kai Hansen rời ban nhạc, chủ yếu do sự xung đột trong nội bộ ban nhạc, một số vấn đề với hãng Noise và sự bất mãn trên tour diễn. Không lâu sau, guitarist của nhóm Rampage, Roland Grapow thay thế vị trí để ngỏ của Hansen. Grapow đã hoàn tất phần còn lại của tour diễn với ban nhạc.
"Pink Bubbles Go Ape" và "Chameleon" (1989-1993).
Năm 1989, Helloween phát hành album live "Live in the U.K."("Keepers Live" Ở Nhật Bản và "I Want Out Live" ở Hoa Kỳ), được trích từ chuyến lưu diễn ở châu Âu. Những thành viên còn lại lại gặp phải vấn đề với hãng Noise, sau đó đã phá vỡ hợp đồng với hãng này. Thời gian này đã xuất hiện một số tin đồn về việc ban nhạc tan rã. Cho đến năm 1991, ban nhạc mới phát hành album mới, "Pink Bubbles Go Ape" cùng với hãng thu âm mới, EMI. So với các album trước, album này ít mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, một số ca khúc như "Heavy Metal Hamsters", "I'm Doing Fine, Crazy Man", và "Shit and Lobster", cho thấy một sự chuyển hướng của ban nhạc: nhấn mạnh vào sự hài hước hơn là những bản anh hùng ca như những album trước. Kết quả, album thất bại về mặt thương mại, và bị phê bình về mặt chuyên môn. Xung đột dần hình thành giữa các thành viên.
Hai năm sau, album phòng thu thứ năm của Helloween, "Chameleon". Thay vì chọn thể loại nhạc mạnh mẽ hơn, ban nhạc sử dụng một số chất liệu còn lạ lẫm với người nghe như tù và, acoustic guitars, nhạc đồng quê... Cũng như album trước, "Chameleon" thất bại cả về mặt doanh thu lẫn phê bình. Căng thẳng trong nội bộ càng ngày càng bị đẩy lên cao. Ban nhạc chia làm hai phe, với Michael Kiske và Ingo Schwichtenberg một phe, bên kia là Michael Weikath và Roland Grapow. Markus Grosskopf trung lập, cố gắng giữ hòa khí giữa các thành viên.
"Kiske rời ban nhạc".
Không lâu sau, ban nhạc bắt đầu tan rã. Có thể thấy rõ sự chia rẽ của ban nhạc khi các thành viên đứng tách biệt nhau trên sân khấu trong tour diễn "Chameleon". Ingo bắt đầu ngã bệnh do phụ thuộc vào ma túy, và cuối cùng đã bị sa thải và vị trí của anh được thay thế bởi Ritchie Abdel-Nabi. Trong khi đó, xung đột giữa các thành viên còn lại ngày càng nghiêm trọng. Weikath từ chối chơi nhạc với Kiske. Không lâu sau, Kiske bị sa thải. Vào tháng 5 năm 2008, Kiske đã phát hành album "Past In Different Ways", album thu lại các bài hát cũ của anh với Helloween.
Bên cạnh việc sa thải Kiske, Abdel-Nabi, tay trống thay thế cho vị trí của Ingo, không có khả năng chơi phong cách nhanh và mạnh như anh. Chính điều này đã cản trở ban nhạc chơi live những ca khúc như "Eagle Fly Free" và "How Many Tears", sau đó, anh đã rời khỏi ban nhạc. Năm 1993 có thể coi là một năm "im hơi lặng tiếng" với một Helloween không vocal, không có ai đảm nhận dàn trống, và không có bất cứ một hợp đồng thu âm nào (Hãng EMI đã "đem con bỏ chợ" vì doanh thu từ hai album
"Pink Bubbles Go Ape" và "Chameleon" quá thấp).
"Master of the Rings", "The Time of the Oath" và "Better Than Raw" (1994-1999).
Vào năm 1994, Helloween đón nhận một làn gió mới với vocal mới Andi Deris từ ban nhạc Pink Cream 69 và Uli Kusch, tay trống của Gamma Ray. Thực ra, từ năm 1991, Weikath đã tiếp xúc và mời Deris tham gia vào Helloween nhưng Deris đã từ chối, mặc dù anh bị hấp dẫn bởi lời mời của Weikath và bản thân Deris cũng phải đối mặt với xung đột trong nội bộ Pink Cream 69. Sau đó, khi Kiske rời Helloween, mặt khác, mâu thuẫn của Pink Cream 69 ngày càng lớn, Deris đối mặt với khả năng bị sa thải khỏi Pink Cream 69, anh đã chấp nhận lời mời của Weikath. Mặc dù không sở hữu được một giọng hát với bốn quãng tám đáng tự hào như của Kiske, giọng hát của anh có phần giống với Kai Hansen. Bên cạnh đó, Deris có sự nhiệt tình, khả năng soạn nhạc đáng ngưỡng mộ. Một Helloween "như xưa" trở lại, với một đội hình mới và hợp đồng mới với hãng Castle Communications, với album "Master of the Rings" rất thành công.
Năm 1996, Helloween cho ra mắt album phòng thu thứ 7 mang tên "The Time of the Oath". Một lần nữa Helloween lại trở lại như một trong những ban nhạc metal thành công nhất thời điểm đó. Sau đó ban nhạc đã phát hành bộ đôi album live "High Live".
Năm 1998, Helloween phát hành album "Better Than Raw", album được đánh giá là "nặng" nhất trong các album của ban nhạc. Ngày 20 tháng 12 năm đó, ban nhạc đã có buổi biểu diễn ở đảo Coney, Manhattan. Đây là buổi biểu diễn đầu tiên của Helloween ở Mỹ trong gần 1 thập kỷ. Năm 1999, Helloween đã phát hành một cover-album mang tên "Metal Jukebox", bao gồm các ca khúc mà Helloween cover lại từ các ban nhạc như Scorpions, Jethro Tull, Faith No More, The Beatles, ABBA, và Deep Purple.
"Ingo Schwichtenberg tự sát" (1995).
Năm 1995, cộng đồng fan Helloween đã đón nhận một tin buồn khi cựu thành viên của ban nhạc, Ingo Schwichtenberg, đã tự kết liễu đời mình bằng cách nhảy vào đoàn tàu hỏa ở quê hương Hamburg. Kể từ khi rời Helloween, Schwichtenberg càng ngày càng phụ thuộc vào ma túy và mắc chứng trầm cảm.
"The Dark Ride" và "Rabbit Don't Come Easy" (2000-2004).
Năm 2000, Helloween phát hành album "The Dark Ride". Album đặc trưng bởi giọng hát có phần cộc cằn của Deris và tiếng guitar trầm. Trong tour diễn của Helloween sau đó, ban nhạc gặp một số vấn đề về nội bộ. Có thông tin cho răng Weikath, Deris và Grosskopf cảm thấy Kusch và Grapow đang dành nhiều thời gian cho những dự án của riêng họ (Trong thời gian này, Grapow sáng tác khá ít cho Helloween, trung bình một ca khúc/album). Họ cho rằng Kusch và Grapow đã không dành toàn bộ sức lực của mình cho Helloween. Lại có tin đồn cho rằng Kusch và Grapow bị ép phải theo phong cách mà Helloween đã chọn khi thu "The Dark Ride". Weikath không muốn lặp lại tình huống như của Kiske, đã cùng Deris và Grosskopf bàn bạc, và đi đến quyết ưHojl. Kusch và Grapow "bị" sa thải thông qua e-mail (Vợ của Grapow đã biết tin này trước khi anh đọc được đoạn e-mail đó). Vị trí của Grapow được thay thế bởi Sascha Gerstner (guitarist của Freedom Call, Neumond), và Kusch được thay thế bởi Mark Cross (ex-Metalium, Kingdom Come, At Vance, Firewind). Ban nhạc bắt tay vào thu âm album mới, "Rabbit Don't Come Easy" vào năm 2003. Tuy nhiên, Cross chỉ hoàn thành 2 ca khúc trong album cùng ban nhạc do mắc chứng infectious mononucleosis - đây là 1 bệnh nhiễm trùng do một loại virus gây nên, thường đến ở tuổi thanh niên, thường gây triệu chứng mỏi mệt, nóng sốt nhẹ, đau cổ, có khi nổi hạch ở cổ, nổi ban. Drum tracks được hoàn thành bởi Mikkey Dee của Motörhead. Việc thực hiện các tracks này được Stefan Schwarzmann đảm nhận. Mặc dù có những phản ứng có phần tiêu cực từ phía người nghe, song Helloween đã có một tour diễn rất thành công, với những bài hát "cũ" của nhóm như "Starlight", "Murderer", "Keeper of the Seven Keys" và "How Many Tears". Ban nhạc đã có một tour diễn đầu tiên ở Mỹ kể từ 1989, và luôn trong tình trạng "cháy vé" tại hầu hết các điểm biểu diễn.
"Keeper of the Seven Keys: The Legacy" và "Gambling with the Devil" (2005-2008).
Năm 2005, Helloween lại có sự thay đổi về mặt nhân sự. Tay trống Stefan Schwarzmann, gặp trở ngại với việc chơi một số đoạn trông nhanh. Vị trí của Schwarzmann được thay thế bởi Dani Löble, thành viên cũ của Rawhead Rexx. Cũng thời gian này, Helloween ký hợp đồng với hãng SPV. Có một số người lo ngại về việc thay đổi thành viên và hãng thu âm sẽ ảnh hưởng đến những album sau này của họ (như Chameleon và Pink Bubbles Go Ape). Tuy nhiên Helloween đã không đề người hâm mộ phải thất vọng khi album phòng thu thứ 11 của họ đã chứng tỏ những nghi ngờ của họ là vô căn cứ. Album "Keeper of the Seven Keys - The Legacy", phát hành vào ngày 28 tháng 10 năm 2005 ở Đức, vào ngày 8 tháng 11 ở Mỹ. Single "Light the Universe" phát hành ngày 22 tháng 11, với sự tham gia của Candice Night của Blackmore's Night với vai trò khách mời. Cô cũng xuất hiện trong video clip của ca khúc.
Cuối năm 2006, Helloween phát hành album live "Keeper of the Seven Keys – The Legacy World Tour 2005/2006", được thu hình tại 3 địa điểm: São Paulo (Brazil), Sofia (Bulgaria) và Tokyo (Nhật Bản). Đây là album live thứ hai của Helloween với Deris trong vai trò là vocal chính, và là album live thứ 3 trong lịch sử của ban nhạc. Album có mặt tại một số bảng xếp hạng âm nhạc của một số nước: Đức: 9 (DVD) & 58 (CD), Thụy Điển: 9 (DVD), Pháp: 10 (DVD)
Ngày 23 tháng 10 năm 2007, Helloween phát hành album phòng thu thứ 12, "Gambling with the Devil". Album nhận được nhiều lời phê bình tích cực. Nhiều fan cho rằng đây là một trong những album thành công nhất của Helloween từ năm 1994. Album này cũng đánh dấu sự xuất hiện của keyboards trong single đầu tiên "As Long as I Fall".
Sau đó, Helloween hợp tác với Gamma Ray, cùng thực hiện tour lưu diễn "Hellish Rock", bắt đầu vào tháng 11 năm 2007. Tour diễn đi qua châu Âu, châu Á, Nam Mỹ và một vài ngày ở Mỹ. Tour diễn đáng chú nhất với việc Kai Hansen cùng 2 thành viên đầu tiên của Helloween là Weikath và Grosskopf chơi ca khúc "I Want Out" và "Future World" lần cuối cùng.
Unarmed - Best of 25th Anniversary (2009).
Vào ngày 26 tháng 12 năm 2009, Helloween phát hành album "Unarmed – Best of 25th Anniversary" ở Nhật Bản và phát hành ngày 1 tháng 2 năm 2010 ở châu Âu. Album là tuyển tập 10 bài hát hay nhất của ban nhạc, được thu âm lại với những phong cách khác với bản gốc. Vào ngày 14 tháng 5 năm 2010, ban nhạc tuyên bố trên website của họ rằng họ đang tiến hành thu âm album phòng thu thứ 13.
"7 Sinners" (2010-2011).
Helloween phát hành album phòng thu thứ 13, "7 Sinners", vào ngày 31 tháng 10 năm 2010 ở châu Âu và ngày 3 tháng 11 ở Mỹ. Trước khi phát hành đĩa nhạc, người hâm mộ đã có thể thưởng thức album này trên trang Myspace của nhóm. Cái tên "7 sinners" ám chỉ 7 tội lỗi chết người, mà theo Andi Deris "chúng ta cần một cái gì đó để mọi người biết đây là một album metal". Chuyến lưu diễn quảng bá album của Helloween cùng với khách mời Stratovarius và Pink Cream 69 . Vào tháng 5 năm 2011, thông qua website của ban nhạc, Helloween thông báo rằng "7 Sinners" 'Giải Vàng' ở Cộng hòa Séc
"Straight out of hell" (2012-2013).
Tháng 6 năm 2012, Helloween bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ 14 của họ. Andi Deris đã post một video về việc ra album mới "chúng tôi hy vọng đây sẽ tiếp tục là một kiệt tác nữa, chúng tôi thích nó". Người hâm mộ có thể xem video trên ở trang Youtube - Helloween at the studio 2012
Vào ngày 13 tháng 9 năm 2012, trên trang chủ của Helloween , ban nhạc đã xác nhận album mới của họ, 'Straight out of hell', sẽ phát hành vào 18 tháng 1 năm 2013. Một số thông tin về những show diễn đầu tiên trong năm 2013 cũng được thông báo ở đây..
Ngày 21 tháng 1 năm 2013, album phòng thu thứ 14 của Helloween: Straight Out Of Hell chính thức được phát hành trên toàn thế giới. Trước đó, vào ngày 16 tháng 12, ban nhạc đã đăng lên trang mạng Youtube MV chính thức của bài hát Nabataea, track 01 trong album của họ. Tuy nhiên video này đã bị leak khoảng 1 tuần trước khi MV chính thức được đăng tải với chất lượng kém hơn rất nhiều.
Đúng với sự mong đợi của người hâm mộ, đây là một album mà theo như lời Weikath: " These songs will kick even the laziest listener’s ass ". Theo thông tin được đăng tải trên trang chủ của ban nhạc , Straight Out Of Hell đã đạt được những vị trí "chưa từng có" trên các bảng xếp hạng . Theo đó, album đạt #4 ở Đức, #2 ở BXH album quốc tế ở Nhật Bản, #6 ở Thụy Điển, #4 ở Phần Lan và Séc, #10 ở Hungary và lọt vào BXH Billboard ở vị trí #97. | 1 | null |
là tên gọi của một công ty điện tử Nhật Bản chuyên về thiết bị âm thanh cao cấp đã có hơn 100 năm tuổi. DENON đã tham gia vào giai đoạn đầu của sự phát triển của công nghệ âm thanh kỹ thuật số, đặc biệt chuyên sản xuất các thiết bị âm thanh có độ trung thực cao cho chuyên nghiệp và người dùng nghiệp dư, như các máy nghe đĩa CD và các thiết bị chuyển đổi, máy thu âm băng AM/FM, bộ cân bằng đồ họa, bộ khuếch đại, và loa. Trong nhiều thập kỷ, Denon là một tên thương hiệu của Nippon Columbia, bao gồm cả hãng thu âm Nippon Columbia. Năm 2001, Denon được tách ra như là một công ty riêng biệt với tổ chức gồm 98% của Ripplewood Holdings và 2% của Hitachi. Năm 2002 Denon sáp nhập với Marantz để trở thành D&M Holdings. Tên thương hiệu Denon là sự kết hợp của DENki ONkyo, được sử dụng từ năm 1939.
Lịch sử.
Thương hiệu này đã trải qua hơn 100 năm lịch sử. Được thành lập vào năm 1910 bởi Frederick Whitney Horn với cái tên ban đầu Nippon Columbia Co (tiền thân là tập đoàn thu âm Nhật Bản mang tên Nippon Chikuonki Shokai). Hai năm sau, Nippon Columbia Co chính thức sáp nhập với Japan –U.S Recorders Manufacturig để cùng sản xuất và bán hàng
Năm 1930 thương hiệu Denon chính thức ra đời cùng với sự hợp nhất của Japan Denki Onkyo. Bắt đầu từ đây thương hiệu Denon mới chính thức gắn liền với các thiết bị âm thanh, và được biết đến là nhà sản xuất đầu đĩa than, cartridge và băng ghi âm cho một số đài truyền hình.
Năm 1947 công ty chính thức mua lại toàn bộ tập đoàn Japan Denki Onkyo và bắt đầu xây dựng tên tuổi của một nhà sản xuất Hi-End lừng lẫy sau này.
Những năm 60-70 của thế kỷ XX là thời kỳ phát triển nhất của Denon. Sự nở rộ của các dòng sản phẩm máy ghi âm, đầu đọc băng cassette, máy ghi âm chuyên nghiệp, dàn nghe nhạc stereo, radio, nhạc cụ và máy tính chạy điện… đã giúp cho tên tuổi của Denon trở nên phổ biến hơn.
Những năm thập niên 70, Denon tiếp tục đưa vào sản xuất hàng loạt các dòng thiết bị âm thanh chất lượng cao như bộ khếch đại âm thanh, bộ chỉnh âm, loa, mâm đĩa than… Đây cũng là thời mốc đánh dấu Denon là nhà sản xuất đi đầu trong việc cung cấp các thiết bị ghi âm cho các phòng thu và là thương hiệu đầu tiên bán các bản ghi LP được thu theo công nghệ kỹ thuật số.
Mặc dù không phải là một trong những thương hiệu Hi-End thuộc "hàng khủng", nhưng các kỹ sư cũng như thiết kế của Denon đã rất cố gắng để có thể duy trì và phát triển thương hiệu này trở thành một thương hiệu Hi-End của số đông. Triết lý này đã được duy trì qua nhiều thập kỷ và nhờ đó Denon hiện được biết đến là nhà sản xuất thiết bị audo và home theater có chủng loại sản phẩm đa dạng nhất trên thế giới cùng mạng lưới phân phối rộng khắp toàn cầu. | 1 | null |
Edgeøya, là một hòn đảo không có người ở của Na Uy, nằm ở đông nam quần đảo Svalbard; đây là đảo lớn thứ ba của quần đảo này. Edgeøya là một hòn đảo thuộc vùng Bắc Cực, là một phần của khu bảo tồn thiên nhiên Søraust-Svalbard, là nơi sinh sống của gấu trắng Bắc Cực và tuần lộc. Mặc phía đông của đảo bị bao phủ bởi băng nguyên. Hòn đảo có diện tích . Hòn đảo được đặt tên theo Thomas Edge (mất năm 1624), một thương nhân và nhà săn bắt cá voi người Anh. Ngày nay, hòn đảo hiếm khi được ghé thăm. | 1 | null |
Barentsøya, đôi khi được gọi là đảo Barents, là một đảo thuộc quần đảo Svalbard, Na Uy, nằm giữa Edgeøya (Edgeøya) và Spitsbergen. Đảo Barents không có người cư trú thường xuyên. Đảo được đặt theo tên của nhà thám hiểm người Hà Lan Willem Barents (song ông chưa từng nhìn thấy hòn đảo), đảo là một phần của khu bảo tồn tự nhiên Søraust-Svalbard.
Barentsøya là một hòn đảo vùng Bắc Cực, khoảng 43 diện tích bị phủ băng. Ở phía bắc, trong eo biển giưa Barentsøya và Spitsbergen, có hòn đảo Kükenthaløya. Ở phía nam, eo biển Freemansundet chia tách đảo Barents khỏi Edgeøya. | 1 | null |
Hoài Cố Hương (hay còn gọi là Nostalgie) là một bức tranh nổi tiếng của họa sĩ Lê Phổ (một họa sĩ theo trường phái hậu ấn tượng) được sáng tác năm 1938 được bình phẩm là tác phẩm đầy chất thơ cả về hình thức lẫn màu sắc.
Mô tả.
Bức tranh thể hiện cảnh một người phụ nữ mặc áo dài thắt ngang lưng đang ngắm nghía những bông hoa nhài trắng muốt với vẻ uyển chuyển duyên dáng. Kèm theo đó, người xem còn cảm nhận được sự chia xa và những điều cầu nguyện cho tình yêu. Các đường cọ trơn và tinh tế được họa sĩ sử dụng đã tôn lên vẻ bình yên về mặt không gian.
Màu sắc trong tranh là sự kết hợp khác kiểu giữa màu xanh lá cây jadeite, màu trắng và màu đen kèm theo phương pháp làm mờ các lớp vẽ của bột màu cũng như điều kiện bảo quản nguyên sơ đã làm bức tranh trở nên vô cùng quý giá.
Chi tiết kỹ thuật.
Bức tranh được ký bằng tiếng Trung Quốc với con dấu bổ sung của họa sĩ Lê Phổ ở góc dưới bên phải. Chất liệu vẽ tranh là mực và bột màu trên lụa. Tranh có kích thước 60.5 cm x 46 cm (tương đương 23 3/4 x 18 inch).
Giá trị.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 2006, nhà đấu giá Sotheby's xác định giá bức tranh khoảng từ 181.820 đến 303.030 USD (tương đương 3.78 đến 6.3 tỷ đồng Việt Nam). Kết thúc phiên đấu giá tại Singapore , bức tranh đã bán với giá cao là 360,000 Đô la Singapore (gần 6 tỉ đồng Việt Nam, tỷ giá tháng 8 năm 2012). Một số người cho rằng bức tranh là một trong các tác phẩm có giá trị nhất của Việt Nam trong một phiên đấu giá nghệ thuật mang tính chuyên nghiệp. | 1 | null |
Đảo Gấu (, ) là đảo cực nam của quần đảo Svalbard tại Na Uy. Hòn đảo nằm ở phần phía tây của biển Barents, xấp xỉ nửa đường giữa Spitsbergen và mũi Bắc.
Đảo Gấu do các nhà thám hiểm người Hà Lan Willem Barents và Jacob van Heemskerk phát hiện ra vào ngày 10 tháng 6 năm 1596. Đảo được đặt tên như hiện nay sau khi họ trông thấy một con gấu trắng Bắc Cực bơi ở gần đó. Hòn đảo được coi là lãnh thổ vô chủ cho đến Hiệp ước Spitsbergen vào năm 1920, khi đảo được trao cho Na Uy.
Mặc dù có vị trí biệt lập và cằn cỗi, hòn đảo đã là nơi diễn ra các hoạt động thương mại trong các thế kỷ gần đây, như khai thác than, đánh cá và săn bắt cá voi. Tuy nhiên, đã không có khu định cư nào tồn tại hơn một vài năm trên đảo, và đảo Gấu nay không có người cư trú ngoại trừ các cá nhân làm việc tại trạm khí tượng "Herwighamna". Cùng với vùng biển xung quanh, đảo được tuyên bố là một khu bảo tồn thiên nhiên vào năm 2002. | 1 | null |
Hopen là một hòn đảo nằm ở đông nam của quần đảo Svalbard tại Na Uy. Hopen được khám phá ra vào năm 1613, có thể là bởi Thomas Marmaduke của Hull, ông đã đặt tên cho đảo theo tên người chỉ huy cũ của mình là "Hopewell".
Viện Khí tượng Na Uy (Norges Meteorologiske Institutt) có một trạm thời tiết với bốn nhân viên trên đảo. Có ba cabin trên đảo để các nhân viên sử dụng. | 1 | null |
Prins Karls Forland hay Forlandet, là một hòn đảo ở ngoài khơi phía tây của Đất Oscar II trên đảo Spitsbergen của quần đảo Svalbard, Na Uy. Hòn đảo và vùng nước xung quanh tạo thành Vườn quốc gia Forlandet.
Người đầu tiên trông thấy hòn đảo là nhà thám hiểm người Hà Lan Willem Barentsz vào năm 1596. Năm 1610, nhà thám hiểm người Anh Jonas Poole đã đặt tên cho đảo là "Black Point Isle". Năm 1612, những ngư dân săn bắt cá voi người Anh đã gọi hòn đảo là "Prince Charles' Foreland" (Dải đất của Hoàng tử Charles), theo con trai của Vua James, Charles (sau trở thành Vua của Anh và Scotland). Người Hà Lan gọi đảo với cái tên "Kijn", theo tên một thương nhân đã leo lên một ngọn đồi cao vào năm 1612, song đã bị ngã và gãy cỏ. Người Anh đã xây dựng một trạm săn bắt cá voi tạm thời ở mũi phía bắc của đảo, được gọi với cái tên "Fair Foreland" (nay là Fuglehuken). | 1 | null |
Vịnh Martaban () là một nhánh của biển Andaman ở phần phía nam của Myanmar. Vịnh được đặt theo tên của thành phố cảng Mottama (tên cũ là Martaban). Salween Sittaung và Yangon đổ vào vịnh này.
Một đặc điểm của vịnh Martaban là nó có đường bờ biển bị ảnh hưởng mạnh bởi thủy triều. Thủy triều dao động từ 4–7 m với điểm thủy triều cao nhất nằm tại điểm Con Voi ở phía tây vịnh Martaban.
Trong lúc triều cường, khi thủy triều lên đến khoảng 6,6 m, vùng nước đục có diện tích trên 45.000 km² khiến nó trở thành một trong những vùng nước đục kéo dài lớn nhất của các đại dương trên thế giới. Khi triều cường xuống, với mức thủy triều 2,98 m, khu vực nước đục nhiều giảm xuống còn 15.000 km². Mép của vùng nước đục ở mức cao di chuyển vào và ra đồng bộ với mỗi chu kỳ thủy triều gần 150 km. | 1 | null |
Sông Yangon (cũng gọi là sông Rangoon hay sông Hlaing) được tạo thành bởi sự hợp lưu của hai sông Pegu và Myitmaka và là một cửa sông sát biển kéo dài từ Yangon (cũng gọi là Rangoon) đổ vào vịnh Martaban của biển Andaman. Lòng sông có thể cho phép các tàu biển lưu thông và do đó đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế Myanmar.
Kênh đào Twante nối sông Yangon với đồng bằng Irrawaddy hay đồng bằng Ayeyarwady, từng được gọi là 'vựa lúa của châu Á'. Nó có đồn điền gỗ tếch tươi tốt và đầm lấy ngập mặn, nhiều nơi nay đã được cải tạo để trồng lúa. | 1 | null |
Graphosoma semipunctatum là một loài côn trùng thuộc Bộ Cánh nửa chỉ sống trong những vùng bao quanh biển Địa trung hải.
Nó có quan hệ rất gần với loài "Graphosoma italicum". Nó khác nhau ở chỗ nó có chấm ở vùng protonomum thay vì là những đường và chân nó toàn màu đỏ (thay vì đen như loài "G. italicum").
Loài này sống rất đông trên những cây thuộc họ hoa tán. Màu đỏ của chúng dùng để cảnh báo những giống ăn thịt rằng mùi vị của chúng rất khó ăn. | 1 | null |
Jezkazgan hoặc Zhezkazgan (tiếng Kazakhstan: Жезқазған / Jezqazğan), trước đây được biết đến như Dzhezkazgan (tiếng Nga: Джезказган, cho đến năm 1992)là một thành phố ở tỉnh Karagandy của Kazakhstan. Thành phố nằm bên một hồ chứa của sông Kara-Kengir. Thành phố có dân số theo điều tra dân số năm 1999 là 90.000 người. Khu vực đô thị của nó bao gồm các thị trấn khai thác mỏ lân cận của Satpayev, có tổng dân số 148.700 người.
55% dân số là người Kazakh, 30% người Nga, với dân tộc thiểu số nhỏ hơn như người Ukraina, người Đức, người Chechnya và người Triều Tiên. | 1 | null |
Khoikhoi ("người người" hay "người thực sự") hoặc Khoi, viết là Khoekhoe trong văn phong tiếng Khoekhoe/Nama chuẩn, là một nhóm người bản địa miền tây nam châu Phi. Không như những người San chuyên săn bắt-hái lượm lân cận, người Khoikhoi có truyền thống mục súc.
Khi người châu Âu đến thực dân hóa nơi người Khoikhoi sống từ sau năm 1652, người Khoikhoi đã chăn giữ được những đàn bò Nguni lớn tại vùng Cape. Người Hà Lan gọi họ là Hottentotten, một từ tượng thanh mô phỏng tiếng click trong tiếng Khoekhoe, nhưng nay tên gọi này bị xem là có ý miệt thị. | 1 | null |
Nhị Kiều của Giang Đông (chữ Hán: 江東二喬), là hai chị em sống tại huyện Hoàn, quận Lư Giang (廬江; nay là huyện Tiềm Sơn, tỉnh An Huy), xứ Đông Ngô, đầu thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Danh tính thật của hai chị em chưa được biết đến, vì vậy để đơn giản đời hậu thế gọi người chị là Đại Kiều (大喬; Kiều lớn) và người em là Tiểu Kiều (小喬; Kiều nhỏ).
Đại Kiều lấy Tôn Sách, người lập nên nhà Đông Ngô của thời Tam Quốc, trong khi Tiểu Kiểu kết hôn với Chu Du, danh tướng, nhà quân sự tài ba của Tôn Sách và Tôn Quyền.
Tam quốc diễn nghĩa và giai thoại.
Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, tương truyền Kiều Huyền (喬玄) hay "Kiều Công" (橋公), chủ nhân của Kiều gia trang, gần vùng núi của quận Cối Kê xứ Giang Đông, khu vực bờ nam sông Dương Tử, có hai người con gái được mô tả là những tuyệt thế giai nhân thời Tam Quốc.
Đại Kiều được mô tả là cô gái nhu mì, đẹp trầm lặng, đôi mắt diễm lệ nhưng đa sầu, tính cách hiền hậu, nhút nhát, sống nội tâm và tình cảm, nàng thích công việc nữ công gia chánh, thêu thùa, nấu ăn, chăm sóc hoa lá. Tiểu Kiều dung mạo xinh đẹp, thông minh, thích đọc sách, đánh đàn, ngắm hoa và làm thơ. Cả hai đều là tài nữ đương thời.
Sau khi chiếm được Uyển Thành (hay Hoãn Thành), Lư Giang, Tiểu bá vương Tôn Sách cùng bạn Chu Du đến thăm Kiều gia trang và trước vẻ đẹp danh bất hư truyền, hai chàng tướng trẻ tuổi đã cầu hôn hai nàng họ Kiều. Đại Kiều kết hôn với Tôn Sách và Tiểu Kiều kết hôn với Chu Du.
Hai chị em được xem một trong những nguyên nhân gây ra Trận Xích Bích, bởi Tào Tháo ngưỡng mộ nhan sắc hai nàng Kiều đã lâu, muốn tấn công xứ Giang Đông để bắt hai nàng Kiều về cho riêng mình. Trong chương 44, trong một cuộc đối thoại giữa Gia Cát Lượng và Chu Du, Lượng bảo rằng ông có một kế hoạch để buộc quân Tào Tháo rút lui, đó là cống nộp hai nàng Kiều cho Tào, và Lượng bày tỏ rằng ông không biết ai là người mà hai nàng sẽ lấy. Khi Du hỏi Lượng có bằng cớ gì không, Lượng bảo có nghe Tào Tháo ra lệnh con trai Tào Thực làm thơ với tựa đề là "Đồng Tước đài phú" (銅雀臺賦), và Lượng đọc lại bài thơ và chỉ rõ ý đồ của Tào. Mưu khích tướng của Lượng đã thành công, Chu Du tỏ ra vô cùng phẫn nộ và tức giận, quyết tâm liên minh với Lưu Bị để chống Tào.
Biết rằng Tiểu Kiều xinh đẹp như tiên nữ, nhưng mấy người biết rằng, nàng có một cuộc gặp gỡ kì lạ như thế. Cô gái nhỏ từng yên tâm vì có lời hứa của người ta, đồng thời nói rõ với cha nàng. Nhưng tiếc là cha nàng qua đời quá sớm, làm hỏng chuyện tốt của con gái, về tình và lý đều không được như ý, phải gả cho Chu Lang.
Mặc dù Tiểu Kiều có tâm nhưng tâm không sâu, mặc dù có tình nhưng tình không nặng. Đây là kiểu phụ nữ thiếu mưu lược, cho dù diện mạo như tiên, cũng không được hạnh phúc. Còn Đại Kiều, đối với việc kết hôn của Tiểu Kiều, dường như có chút tính toán, nhưng lại giúp cha hại em gái, chỉ có thể nói là dùng trí tuệ vào lầm chỗ. Như vậy, hai nàng nhị Kiều đều không có kết thúc tốt đẹp.
Hồng nhan bạc mệnh, số phận nghiệt ngã ập đến hai mỹ nhân khi cả hai phu quân đều yểu mệnh, Tôn Sách bị ám sát khi chưa đầy 25 tuổi, Chu Du bị trọng thương và mất tại Nam Quận. Sau đó, những thông tin về hai nàng Kiều vẫn chưa rõ, tương truyền hai nàng trở lại Kiều gia trang để ẩn cư và sống thầm lặng quãng đời còn lại.
Mâu thuẫn lịch sử.
Theo chính sử Tam quốc chí, Kiều Huyền mất vào năm 183 trong khi hai chị em họ Kiều lấy Tôn Sách và Chu Du vào năm 200, vì thế Kiều Huyền không thể có mặt tại thời điểm kết hôn giữa họ. Vì thế, rất khó để cho rằng hai chị em họ Kiều là con gái của Kiều Huyền. Bên cạnh đó, chữ Hán cho từ "Kiều" trong tên của họ nên là 橋 thay vì 喬, nhưng kể từ khi 喬 là một phần biệt hiệu của họ (tên do hậu thế gọi, không phải tên thật), giả thuyết họ là con gái của Kiều Công là điều có thể.
Đồng Tước đài (銅雀臺) được xây dựng vào mùa đông năm 210 gần 3 năm sau khi kết thúc Trận Xích Bích. Bài "Đồng Tước đài phú" của Tào Thực được viết vào năm 212, hai năm sau khi công trình hoàn thành. Bên cạnh đó, bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩa có chứa đựng thêm 7 dòng không có trong bản gốc của Tào Thực được ghi lại trong Tam quốc chí. Vì vậy, câu chuyện Gia Cát Lượng sử dụng bài phú để kích động sự phẫn nộ của Chu Du đối với Tào Tháo trong Tam quốc diễn nghĩa hoàn toàn là hư cấu, và, tất nhiên, hai chị em họ Kiều không phải là nguyên nhân dẫn đến trận thủy chiến Xích Bích.
Thơ văn.
Về sắc đẹp tuyệt thế của hai nàng Kiều, thời Tam quốc có câu:
Hai chị em gắn liền với điển tích đài Đồng Tước, nguyên nhân gây ra đại chiến Xích Bích, mở đầu qua bài thơ "qua tay" Gia Cát Lượng của Tào Thực
Dịch nghĩa:
Đỗ Mục cũng nhắc đến điển tích này trong bài thơ "Xích bích hoài cổ": Đông phong bất dữ Chu lang tiện
Đồng Tước xuân thâm toả nhị Kiều Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, câu thứ 156: "Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều" cũng mượn điển tích này. | 1 | null |
Đá Thanh Kỳ (tiếng Anh: "Ardasier Breakers"; , Hán-Việt: "Tức Ba tiêu") là một rạn san hô thuộc cụm An Bang (cụm Thám Hiểm) của quần đảo Trường Sa. Đá này nằm về phía đông của đá Kỳ Vân và phía bắc của bãi Kiêu Ngựa.
Đá Thanh Kỳ là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Trung Quốc. Hiện chưa rõ nước nào thực sự kiểm soát đá này.
Lịch sử.
Ngày 15 tháng 4 năm 1987, Trung Quốc cáo buộc quân đội Việt Nam chiếm đóng đá Ba Tiêu (đá Thanh Kỳ) thuộc quần đảo Trường Sa, nhằm "chiếm hữu thềm lục địa gần đó và mở đường cho việc khai thác dầu trong tương lai". Bắc Kinh đòi Việt Nam phải rút khỏi Ba Tiêu và 9 hòn đảo khác và tuyên bố "bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào một thời điểm thích hợp". | 1 | null |
Đây là danh sách các số dương lớn theo bậc từ thấp đến cao theo đại lượng không thứ nguyên, và ý nghĩa của chúng trong toán học và các ngành khác. Mỗi số ở đây sẽ được ghi theo dạng lũy thừa của 10. Các số trên được viết theo dạng quy mô dài và ngắn, và sử dụng tên của số theo nghĩa tiếng Việt (nếu có).
Từ tới.
ISO: quecto- (q)
ISO: ronto- (r)
ISO: yocto- (y)
ISO: zepto- (z)
ISO: atto- (a)
ISO: femto- (f)
ISO: pico- (p)
ISO: nano- (n)
ISO: micro- (μ)
ISO: milli- (m)
ISO: centi- (c)
ISO: deci- (d)
ISO: deca- (da)
ISO: hecto- (h)
ISO: kilo- (k)
(100 000; cách đọc: một trăm nghìn), một lakh theo đơn vị Ấn Độ.
ISO: mega- (M)
ISO: giga- (G)
ISO: tera- (T)
ISO: peta- (P)
ISO: exa- (E)
ISO: zetta- (Z)
ISO: yotta- (Y)
ISO: ronna- (R)
ISO: quetta- (Q) | 1 | null |
Hoàng Ngọc Uẩn (黃玉蘊 hay 黃玉韞, ? - 1817), tự Hối Sơn; là một văn nhân trong nhóm "Bình Dương thi xã" ở đất Gia Định xưa, và là văn thần của triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử.
Không rõ năm sinh của Hoàng Ngọc Uẩn, chỉ biết ông là người huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh), và là người sống cùng thời với "Gia Định tam gia" (Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định).
Buổi đầu, ông đầu quân chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Ánh), được bổ làm Thư ký dinh Tả quân Lê Văn Duyệt.
Năm Tân Dậu (1801), ông trúng tuyển khoa thi, được bổ làm Tham mưu rồi làm Hàn lâm viện thị độc. Sau đó, ông được cử đi sứ sang Xiêm La (Thái Lan ngày nay).
Trở về nước, ông được thăng chức Cai bộ Bình Hòa, rồi lần lượt trải các chức: Tả tham tri bộ Hình, Ất Phó sứ sang nhà Thanh, Tham lý Hình tào ở Bắc Thành, Hiệp trấn Nghệ An, và lãnh Hình tào ở Bắc Thành.
Ông là người giỏi việc chính trị, ngoại giao, nên thường được cử đi sứ nhiều nước .
Năm Đinh Sửu (1817), Hoàng Ngọc Uẩn mất (không rõ lý do). Hiện chưa tìm thấy tác phẩm nào của ông.
Thơ liên quan.
Khi Hoàng Ngọc Uẩn nhận mệnh đi sứ Chân Lạp (Campuchia ngày nay), khoảng năm Bính Ngọ (1786), Trịnh Hoài Đức có gửi tặng bài thơ như sau: | 1 | null |
Viedma () là thành phố lớn thứ tư và là tỉnh lỵ tỉnh Río Negro Nam Trung Bộ Argentina. Thành phố có 47.246 cư dân (năm 2001), và nằm trên rìa phía nam của sông Negro, cách bờ biển Đại Tây Dương khoảng 30 km, và cự ly 960 km so với thành phố Buenos Aires trên quốc lộ 3. Cùng với thành phố Carmen de Patagones thành phố bên kia sông trong tỉnh Buenos Aires, thành phố này là khu định cư lâu đời nhất ở Patagonia, được thành lập bởi Francisco de Biedma y Narvaez dưới tên Nuestra Señora del Carmen vào ngày 22 tháng 4 năm 1779. Trước đây hai thành phố là một, cả hai đều được gọi là Carmen de Patagones. Pháo đài ban đầu được xây dựng ở phía nam của sông Viedma hiện đại, nhưng nó đã bị phá hủy trong vòng vài năm. Một pháo đài mới được xây dựng ở phía bắc, ở vị trí nay là Carmen de Patagones. Pháo đài này tồn tại lâu hơn nhiều, và đến nay ngọn tháp vẫn còn. Thị xã phát triển từ đây, và cuối cùng mở rộng trở lại bên kia sông vào Viedma hiện đại ngày nay. | 1 | null |
Phi đội Hổ Bay (tiếng Tamil: வான்புலிகள், tên gọi quốc tế: Air Tigers) là một đơn vị không quân của lực lượng Những con hổ giải phóng Tamil (LTTE) đây là một cánh quân quan trọng bên cạnh các lực lượng Hổ Đen (lực lượng chuyên đánh bom tự sát), lực lượng Hổ Biển (gồm những thương thuyền) là vũ khí quan trọng của Hổ Tamil trong cuộc chiến đấu với Chính quyền Sri Lanka trong suốt cuộc chiến tranh Ealam lần thứ IV. Đây là một lực lượng không quân riêng của Hổ Tamil với những chiến đấu cơ hạng nhẹ có phần lạc hậu nhưng có thể hoạt động trong đêm. Phi đội này từng tham gia nhiều chiến dịch quan trọng, đặc biệt là vụ Không kích cảm tử vào Colombo vào năm 2009.
Tổ chức.
Phi đội Hổ Bay bao gồm những chiến đấu cơ hạng nhẹ có phần lạc hậu nhưng có thể hoạt động trong đêm phi công Hổ Tamil không có dụng cụ để bay đêm mà chỉ có một đèn bấm và một máy định vị trí đồng thời những máy bay này có thể cất cánh từ những đường băng trong rừng rậm để tác chiến.
Những loại máy bay hạng nhẹ của Hổ Tamil không rõ chủng loại, Chúng được vận chuyển lậu bằng cách tháo rời từng bộ phận vào Sri Lanka, sau đó lắp ráp lại và cải tiến để có thể mang bom đi tấn công. Theo nguồn tin từ Colombo thì hổ Tamil hữu một số máy bay Zlin-143 do Cộng hòa Czech sản xuất, có hai ghế ngồi và động cơ cánh quạt.
Những chiếc máy bay này được gắn bom một cách hoàn toàn thủ công, mỗi chiếc máy bay loại này có thể mang 4 quả bom. Mỗi quả bom treo dưới máy bay có chiều dài khoảng 1,2 mét và đường kính 30 cm. Chúng được gắn bộ phận đuôi có 6 cánh để giữ sự ổn định khi ném xuống mục tiêu. Ngoài những quả bom, các kỹ thuật viên của lực lượng này còn tăng cường khả năng chiến đấu cho máy bay bằng cách gắn thêm một khẩu súng máy để phi công sử dụng.
Tham gia chiến đấu.
Trận đầu ra quân.
Vào đêm 25 tháng 3 năm 2007 phe nổi dậy Hổ Tamil lần đầu tiên sử dụng không lực tấn công vào một căn cứ gần thủ đô Colombo của Sri Lanka. Hổ Tamil sử dụng 02 chiếc phi cơ loại nhẹ thả hai quả bom bay vào khu vực đỗ máy bay và trực thăng vũ trang tại sân bay Colombo trong đó một chiếc phi cơ hạng nhẹ đã thả các chất nổ xuống khu vực quân sự của sân bay. Nhiều nhân chứng cho biết nghe thấy những tiếng nổ và tiếng súng từ phía sân bay.
Kết quả phi vụ không kích: Hai chiếc phi cơ tham gia trong vụ ném bom này đã bay khỏi khu vực đó an toàn, phía Chính phủ Sri Lanka cho biết ba người thiệt mạng và ít nhất 16 người bị thương Sân bay quốc tế Colombo vốn không bị hư hại đã phải đóng cửa một lúc, đường sá dẫn tới sân bay bị chặn và hành khách lên máy bay đều bị cảnh sát chặn lại trên đường ra sân bay.
Không kích Thủ đô.
Khi chiến sự giữa quân Chính phủ Sri Lanka và quân Hổ Tamil đang diễn ra ác liệt và Hổ Tamil có phần núng thế, quân chính phủ Sri Lanka đã đẩy lực lượng Hổ Tamil vào co cụm trong các cánh rừng ở miền bắc thì Bộ chỉ huy quân Hổ Tamil quyết định sử dụng lực lượng phi đội Hổ Bay để tấn công gây tiếng vang nhằm góp phần xoay chuyển tình thế.
Khi Chính phủ Sri Lanka từng tuyên bố đã phá hủy toàn bộ các đường băng bí mật của phiến quân và tiêu diệt lực lượng không quân nhỏ bé của nhóm này thì vào nữa đêm ngày 20 tháng 2 năm 2009, lực lượng Hổ Tamil huy động hai chiếc máy bay tấn công thành phố Colombo. Mỗi phi cơ có chở theo 215 ký lô chất nổ C-4, loại chất nổ có sức công phá lớn và tấn công theo kiểu cảm tử.
Cuộc tấn công diễn ra bất ngờ làm hai người thiệt mạng và 45 người bị thương sau đó hai chiếc máy bay này cùng đâm xuống đất và nổ tung. Một trong hai chiếc máy bay đã đâm xuống Văn phòng cơ quan thuế quốc gia gây ra thương vong tại đây và khiến tòa nhà này bốc cháy. Chiếc còn lại bị quân đội quốc gia bắn rơi gần sân bay quốc tế Colombo. Thành phố Colombo được đặt trong tình trạng báo động từ lúc 21h30' tối và điện bị cắt hoàn toàn. Trong khi đó những loạt đạn của súng phòng không lao vun vút trên bầu trời đêm thủ đô Sri Lanka. Tòa nhà cao tầng của cơ quan thuế quốc gia bị vỡ hầu hết các cửa kính và một số tầng bốc cháy sau khi một chiếc máy bay đâm trúng
Phía Hổ Tamil nói rằng cuộc tấn công, vốn làm bốn người thiệt mạng, kể cả hai phi công Hổ Tamil, và 58 người khác bị thương, đã rất thành công. Theo phía Chính phủ thì các phi cơ phiến quân bay về Colombo. Lực lượng phòng vệ chính phủ ở nơi này đã ra lệnh báo động, bắn hạ một chiếc ở gần phi trường chính và buộc chiếc thứ nhì ra khỏi hướng bay, rơi vào văn phòng sở thuế nhà nước. Theo phát ngôn viên không quân, Janaka Nanayakkara các đơn vị phòng không bảo vệ thủ đô đã ngăn chặn được một thiệt hại lớn lao. Tại quốc gia láng giềng Ấn Độ, hệ thống phòng không cũng được lệnh báo động để đề phòng trường hợp phi cơ địch tấn công.
Tan rã.
Mãi cho đến năm 2008, thì không quân quân đội Sri Lanka mới lần đầu tiên bắn hạ một chiếc máy bay của lực lượng phiến quân Hổ Tamil. Sau đó, khi chiến tranh với Hổ Tamil, quân Chính phủ dần chiếm ưu thế và thắng lợi toàn cục trong cuộc chiến tranh này, lực lượng Hổ bay theo đó cũng bị giải tán. | 1 | null |
Tàu điện ngầm Istanbul (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: İstanbul metrosu) là một hệ thống đường rày điện tốc độ cao phục vụ Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Phần cũ nhất là tuyến M1, được hình thành năm 1989, hệ thống hiện có 65 nhà ga đang hoạt động với 30 nhà ga nữa đang được xây dựng, với 4 tuyến M1-M4. Ba tuyến khác đang được hoạch địch hay đang xây là M5 (Üsküdar - Çekmeköy) ở bên phần Á Châu; trong khi M7 (Mecidiyeköy - Mahmutbey), và M6 (Levent - Boğaziçi Üniversitesi) bên phần Âu Châu.
Lịch sử.
Tuyến đường rày ngầm đô thị cổ nhất ở Istanbul là Tünel, đi vào hoạt động từ ngày 17 tháng 1 năm 1875. Đây là tuyến đường rày ngầm đô thị cổ thứ nhì thế giới sau London Underground (1863), và là tuyến đường sắt ngầm đô thị đầu tiên ở lục địa châu Âu, tuy nhiên chỉ dài có 573m, nối 2 nhà ga ở khu phố Beyoğlu, ngày nay không thuộc hệ thống tàu điện ngầm Istanbul. Đường tàu điện ngầm đầu tiên với nhiều nhà ga ngầm ở lục địa châu Âu là tuyến 1 của tàu điện ngầm Budapest.
M1.
M1 & M1
M1:
M1:
M2.
Sanayi Mahallesi:
M3.
İkitelli Sanayi: | 1 | null |
Tàu ngầm Đề án 667BD Murena-M (tiếng Nga: Проекта 667БД Мурена-М - Proyekta 667BD Murena-M) là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo do Liên Xô chế tạo. Với hệ thống phóng tên lửa D-9 có thể mang 16 tên lửa đạn đạo R-29D. NATO gọi loại tàu ngầm này là lớp Delta II.
Thiết kế.
Đây là loại tàu ngầm nâng cấp từ tàu ngầm Đề án 667B Murena có thể mang 16 tên lửa thay vì 12 như Đề án 667B. Tàu ngầm được thiết kế dài thêm 16 m phần còn lại không thay đổi nhiều trong cấu trúc. Ngoài ra động cơ tàu cũng đã được nâng cấp giảm rung cho tua bin để giảm tiếng ồn cũng như tăng công suất lên 55.000 shp. Phần mũi tàu và bánh lái cũng được thiết kế lại để có thể hoạt động hiệu quả hơn trong các vùng nước đóng băng dày.
Ngoài ra tàu ngầm cũng trang bị thêm hệ thống tái tạo không khí để tăng thời gian lặn. Cũng như loại tên lửa R-29D phát triển cho loại tàu ngầm này được kéo dài tầm bắn ra đến 9100 km, cũng như độ chính xác của đầu đạn hạt nhân được tăng lên giảm phạm vi sai lệch xuống còn 900 m.
Sử dụng.
Có 4 tàu thuộc lớp này được đưa vào biên chế và sử dụng năm 1975 và đến năm 1999 thì cả bốn chiếc được cho ra khỏi biên chế và ngừng hoạt động. | 1 | null |
Tàu điện ngầm Budapest (tiếng Hungary: "Budapesti metró") là hệ thống tàu điện tốc độ cao ở thủ đô Budapest của Hungary. Tuyến biểu tượng của nó, "Tàu điện ngầm Thiên niên kỷ" (Millenniumi Földalatti Vasút, tuyến M1), lâu đời thứ hai thế giới sau Tàu điện ngầm London, đã được đưa vào hoạt động tại lễ kỷ niệm thiên niên kỷ chinh phục đất Hungary 1896, được đưa vào danh mục di sản thế giới năm 2002.
Nhiều thập kỷ sau đó, với sự giúp đỡ của Liên Xô 2 tuyến đường (M2 và M3) được hình thành, mà đã được mở rộng đáng kể sau khi xây dựng, so với M1. Ngày 28 Tháng 3 năm 2014, đường tàu điện ngầm thứ tư (M4) được đưa vào hoạt động. Tuyến thứ năm (M5) đang được hoạch định. Toàn mạng lưới của Budapest Metro hiện tại dài 38,3 km và có 52 trạm.
Các tuyến.
Hệ thống tàu điện ngầm bao gồm bốn tuyến đường ray, mỗi tuyến được chỉ định bởi con số và màu sắc.
Tuyến chạy theo hướng đông bắc từ trung tâm thành phố đến Công viên thành phố dọc theo đại lộ Andrássy.
Tuyến nhìn chung chạy theo hướng đông sang tây từ trung tâm trung chuyển Örs vezér Square ở phía đông thành phố, và kết nối giữa ga Keleti và ga đường sắt Déli qua trung tâm thành phố.
Tuyến chạy theo hướng tây bắc từ trung tâm trung chuyển Kőbánya-Kispest ở đông nam thành phố, dọc theo Üllői Avenue đến trung tâm thành phố, sau đó theo hướng bắc đến quận Újpest.
Ngoại trừ trong một đoạn ngắn gần các depot của mỗi tuyến, hệ thống chủ yếu là đi ngầm.
Tất cả các tuyến đường ray hội tụ tại quảng trường Deák Ferenc ở trung tâm thành phố, tạo thành trạm trung chuyển duy nhất của hệ thống. Nút cổ chai này sẽ được khắc phục bằng cách mở tuyến 4, tuyến vượt qua tuyến 2 và tuyến 3 tại các nhà ga khác nhau.
Tuyến sẽ chạy theo hướng tây nam đến đông bắc từ trung tâm trung chuyển của ga đường sắt Budapest Kelenföld ở quận đông dân nhất thành phố Újbuda qua quận nội ô Józsefváros đến trạm cuối Keleti.
Hệ thống tàu điện ngầm hình thành một hệ thống riêng biệt khỏi tuyến đường sắt "Budapest HÉV" mặc dù tuyến 2 của hệ thống tàu điện ngầm có phục vụ vận chuyển đến trạm cuối của hai trong số bốn tuyến HÉV. Tích hợp các hệ thống không tương thích HÉV vào hệ thống tàu điện ngầm là một mục tiêu dài hạn, và hình thành cơ sở của tuyến 5 được đề xuất. | 1 | null |
Keeper of the Seven Keys Part I là album phòng thu thứ hai của ban nhạc power metal/heavy metal đến từ Đức Helloween, phát hành năm 1987. Đây là album đánh dấu sự xuất hiện của vocal mới Michael Kiske. Album được đánh giá là đem Helloween đến với thành công. Ca khúc "Future World" được phát hành dưới dạng single. Video clip cho "Halloween" được phát hành với 8 phút bị cắt bớt so với bản gốc. Trước khi phát hành album này, ban nhạc đề nghị với hãng đĩa của họ phát hành Keeper of the Seven Keys Part I và Part II như một album đôi. Tuy nhiên yêu cầu của ban nhạc không được chấp thuận, họ phát hành "Pt.1" năm 1987 và "Pt.2" một năm sau đó. Hơn 2 thập kỷ sau đó, năm 2010, cả hai album đã được phát hành lại như dự định ban đầu của ban nhạc, với một số track bonus.
Xếp hạng.
Album - Billboard (Bắc Mỹ) | 1 | null |
Tranh chấp quần đảo Senkaku là vấn đề tranh chấp giữa 3 quốc gia và vùng lãnh thổ trên một nhóm đảo không có người ở, do Nhật Bản quản lý, mà người Nhật gọi là quần đảo Senkaku, trong khi đó CHND Trung Hoa gọi là Diàoyúdǎo (Hán-Việt: Điếu Ngư) và Trung Hoa Dân Quốc gọi là Diàoyútái (Hán-Việt: Điếu Ngư Đài).
Quần đảo Senkaku bị Mỹ chiếm đóng từ năm 1945 đến 1972, Nhật Bản và Trung Quốc thể hiện quan điểm của mình về chủ quyền của quần đảo lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ngày 20 tháng 5 năm 1972 nhằm tìm kiếm sự tiếp quản quần đảo từ Hoa Kỳ. Sở hữu những hòn đảo trên sẽ mang đến cho quốc gia của họ những quyền lợi về khai thác dầu khí, khoáng sản và đánh bắt cá ở các vùng biển xung quanh. Các hòn đảo thuộc quần đảo đều có ý nghĩa trong Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật và quân đội Hoa Kỳ thể theo hiệp ước sẽ bảo vệ những hòn đảo trên nếu có sự xâm lược.
Quần đảo.
Quần đảo Senkaku nằm trong biển Hoa Đông giữa Nhật Bản - CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan). Quần đảo gồm có 5 đảo không có người ở và 3 bãi đá trơ giữa biển, kích thước từ 800 m² đến 4,32 km².
Lãnh thổ tranh chấp.
Dưới thời Minh Trị Duy tân, chính phủ Nhật Bản chính thức sáp nhập những gì thuộc Vương quốc Lưu Cầu vào tỉnh Okinawa vào năm 1879. Quần đảo Senkaku, nằm giữa Vương quốc Lưu Cầu và đế chế nhà Thanh, đã trở thành ranh giới giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở thời điểm đó.
Năm 1885, thống đốc tỉnh Okinawa, Nhật Bản – Nishimura Sutezo đã đưa kiến nghị lên chính phủ Minh Trị, yêu cầu chính thức kiểm soát quần đảo. Tuy nhiên, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản lúc bấy giờ là Inoue Kaoru nhận xét rằng những hòn đảo nằm gần khu vực biên giới với đế chế nhà Thanh và cho biết rằng quần đảo đã được đặt tên Trung Quốc. Ông cũng trích dẫn một bài báo trên một tờ báo Trung Quốc trước đó đã tuyên bố rằng Nhật Bản đang chiếm đóng hòn đảo ngoài khơi bờ biển của Trung Quốc. Inoue lo ngại rằng nếu Nhật Bản tiến hành dựng lên cột mốc chủ quyền trên quần đảo nó sẽ làm cho đế chế nhà Thanh nổi giận và chiến tranh có thể xảy ra.
Ngày 14 tháng 1 năm 1895, trong cuộc chiến tranh Thanh-Nhật, Đế quốc Nhật Bản đã tiến hành sáp nhập quần đảo Senkaku vào lãnh thổ tỉnh Okinawa, và tuyên bố rằng họ đã tiến hành điều tra 1884, quần đảo thuộc dạng "đất vô chủ" và không có bằng chứng là quần đảo được kiểm soát bởi nhà Thanh.
Sau khi nhà Thanh thất bại trong cuộc chiến tranh Trung - Nhật lần thứ nhất, triều đình của Từ Hi Thái hậu buộc phải ký kết với Nhật Bản hiệp ước Shimonoseki trong tháng 4 năm 1895. Trong đó có điều ước rằng, nhà Thanh phải nhượng lại cho Nhật Bản đảo Đài Loan và các đảo, quần đảo lân cận và có liên quan.
Tuy nhiên hiệp ước đã bị vô hiệu hóa sau khi Đế quốc Nhật Bản thất bại trong chiến tranh thế giới thứ hai vào 1945, và Nhật buộc phải ký với các nước Đồng Minh hiệp ước San Francisco năm 1951. Văn kiện này đã vô hiệu hóa các điều ước quốc tế của Nhật Bản được ký kết trước kia. Từ sau khi Nhật thất bại trong chiến tranh thế giới lần thứ hai việc tranh chấp quần đảo Senkaku bắt đầu được đưa lên bàn hội nghị và những cuộc khẩu chiến qua kênh ngoại giao diễn ra kịch liệt sau khi Hoa Kỳ chấm dứt việc chiếm đóng quần đảo Okinawa và Senkaku ngày 15 tháng 5 năm 1972.
Lập luận chủ quyền của CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc.
Hai chính phủ này cho rằng việc tranh chấp quần đảo Điếu Ngư là một hệ quả tiếp sau của việc Nhật Bản xâm lược Trung Quốc trong quá khứ.
Lập luận chủ quyền của Nhật Bản.
Lập trường của phía Nhật Bản là quần đảo Senkaku là một lãnh thổ của mình và bác bỏ mọi lập luận từ phía Trung Quốc. | 1 | null |
Trần Đình Nhã (sinh ngày: 18/01/1955) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa XIII.
Tiểu sử.
Năm sinh: 18/01/1955
Quê quán: xã Thạch Hải, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1972-1978, Ông học tiếng Nga tại Trường Đại học Tổng hợp Kiep, Ucơraina, thuộc Liên Xô (cũ).
Sau đó học Đại học luật tại Trường Đại học Tổng hợp Bacu, Adecbaizan, Liên Xô (cũ).
Về nước, Ông công tác tại Vụ Pháp chế, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - chuyên viên nghiên cứu pháp luật.
Năm 1983 – 1987,Ông là nghiên cứu sinh tại Khoa Tội phạm học, Học viện Bộ Nội vụ, Liên Xô (cũ).
Năm 1987 ông công tác tại Vụ Pháp chế, Bộ Công an.
Năm 1991, Ông được bổ nhiệm Trưởng phòng,Vụ Pháp chế, Bộ Công an.
Năm 1994, Ông được bổ nhiệm Phó Vụ trưởng,Vụ Pháp chế, Bộ Công an.
Năm 1998, Ông được bổ nhiệm Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an.
Năm 2002, Ông được phong Phó Giáo sư.
Từ năm 2003 - 2007, Ông là Bí thư Đảng ủy Vụ Pháp chế, Bộ Công an.
Từ năm 2001 - 2009 là Ủy viên thường vụ Trung ương Hội Luật gia Việt Nam.
Từ tháng 5/2007, Ông là đại biểu Quốc hội khóa XII. Tháng 7/2007, ông được Quốc hội bầu làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa XII.
Năm 2011, Ông tiếp tục được bầu là đại biểu Quốc hội khóa XIII và giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội khóa XIII. Ông là Phó trưởng Ban biên tập Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi).
Năm 2013, Ông được phong cấp hàm Trung tướng Công an nhân dân.
Tháng 4- 2016. Ông nghỉ hưu.
Ông là đại biểu Quốc hội Khóa XII (ứng cử tại Bà Rịa-Vũng Tàu) và Khóa XIII (ứng cử tại tỉnh Thừa Thiên Huế). | 1 | null |
Kiểm duyệt ở Miến Điện (Myanma) đề cập đến chính sách của chính phủ Myanmar trong việc kiểm soát và điều chỉnh một số thông tin nhất định, đặc biệt là cơ sở tôn giáo, dân tộc, chính trị và đạo đức.
Tự do ngôn luận và báo chí không được đảm bảo theo quy định của pháp luật. Nhiều luật quy định báo chí và thông tin dưới thời thuộc địa tiếp tục được sử dụng. Đến tháng 8 năm 2012 mỗi ấn phẩm (bao gồm cả các bài báo, phim hoạt hình, quảng cáo, và hình minh họa) được chấp thuận trước sự giám sát Báo chí và Phòng Đăng ký (PSRB) của Bộ Thông tin. Tuy nhiên, 2011-2012 dưới sự cải cách của Miến Điện báo hiệu sự thông thoán hơn chính sách kiểm duyệt của nước này, trong tháng 8 năm 2012 Bộ Thông tin yêu cầu các phương tiện in tổ chức nộp tài liệu cho chính phủ trước khi công bố.
Burma được xếp hạng 169 trong 179 quốc gia 2011-2012 trên toàn thế giới về chỉ số tự do báo chí từ tổ chức Phóng viên Không Biên giới.
Triều đại Konbaun.
Dưới triều vua Mindon Min, triều đại cuối cùng của vương quốc Konbaun, Myanmar được biết đến như là một nhà nước thiếu dân chủ nhất Châu Á.
Thời kỳ thuộc địa.
Năm 1878, sau khi Hạ Miếng Điện được sáp nhập vào Vương quốc Anh. Luật Báo chí về tiếng bản xứ tại đây đã được thông qua, luật này được tạo dựng nhằm cố gắng đàn áp tuyên truyền chống chính phủ thuộc địa Anh trong báo chí địa phương dùng tiếng Miếng Điện. Năm 1898, Bộ luật tố tụng hình sự cho phép chính phủ buộc tội phản quốc, khi một người xúi giục nổi loạn trên cơ sở phổ biến thông tin sai lệch chống lại nhà nước. Ngay sau đó, vào năm 1908, Đạo luật Hiệp hội bất hợp pháp, đã được ban hành để tiếp tục bóp nghẹt tự do ngôn luận. | 1 | null |
604 Records là một công ty sản xuất của ca sĩ nhóm Nickelback, Chad Kroeger và luật sư Jonathan Simkin, được thành lập vào năm 2002. Hãng đĩa của họ được phân phối ở Canada bởi Universal Music Group. Con số 604 chính là một trong các mã vùng của vùng Lower Mainland và thành phố Vancouver, British Columbia, trụ sở của công ty. | 1 | null |
Dozor-600 hay Dozor-3 là loại máy bay không người lái do thám tầm trung thử nghiệm của Nga được phát triển bởi công ty Transas. Loại máy bay này được giới thiệu lần đầu trong triển lãm hàng không MAKS năm 2009. Nó được chế tạo để có thể đảm nhiệm được nhiều chức năng khác nhau cho cả mục đích dân sự lẫn quân sự như tìm kiếm, định vị và xác định các mục tiêu trên đường đi tuần tra trong điều kiện ngày hay đêm và thời tiết khác nhau. Vì thế Dozor-600 có thể dùng cho việc tuần tra biên giới và trên biển với tầm hoạt động thích hợp cho việc này. Nhưng nó cũng có thể được dùng để chuyên chở hàng hóa đến các khu vực khó tiếp cận. Còn về mặt quân sự thì máy bay có thể dùng cho các vụ do thám và tấn công với các loại vũ khí khác nhau cũng như chỉ điểm cho các loại vũ khí dẫn đường khác.
Thiết kế.
Máy bay được thiết kế với hình dáng khí động học sau một loạt các thử nghiệm về hình dáng. Đuôi máy bay được làm theo hình chữ V và thân máy bay được chia ra làm ba phần chính. Phần đầu là các thiết bị cảm biến và điều khiển cùng một hệ thống dù, phần thân chứa nhiên liệu và phần đuôi gắn động cơ. Để tiện cho việc chuyên chở cánh và đuôi có thể tháo ra.
Hệ thống quan sát của máy bay gồm ba hệ thống là ra đa, hệ thống nhìn hồng ngoại và một máy quay có độ phân giải cao. Tất cả các thông tin mà hệ thống quan sát thu được sẽ được truyền về trung tâm điều khiển. Nó có thể được gắn thiết bị thu phát sóng vô tuyến liên lạc để trở thành trạm tiếp sóng hỗ trợ liên lạc đến những khu vực mà ngay cả sóng vệ tinh cũng thường gặp trục trặc cũng như có thể kết nối vào vệ tinh. Máy bay cũng có thể mang các thiết bị phân tích không khí, các loại máy quét đặc biệt và các loại cảm biến khác dùng cho các nhiệm vụ thu thập thông tin đặc biệt.
Máy bay thể bay bằng việc điều khiển bằng tay hoặc có thể bay ở chế độ tự động có định hướng trước với 250 điểm có thể thiết lập sẵn để máy bay tự động bay đến với độ sai lệch từ 15 đến 30 m, máy bay cũng có thể vừa bay tự động vừa được điều khiển. Để làm được việc đó máy bay có thể kết nối vào hệ thống định vị toàn cầu GLONASS. Hầu hết các thiết bị trên máy bay đều do công ty Transas tự phát triển chỉ có hệ thống nhìn hồng ngoại là phải đi mua.
Tuy nhà phát triển Dozor-600 nói rằng chưa thật sự tính tới việc phát triển để biến loại máy bay này thành một loại vũ khí, nhưng nói rằng về lý thuyết nếu bộ quốc phòng cần nó có thể được sử dụng để mang 4 quả bom FAB-100 loại 50 kg, hoặc có thể phát triển thêm một số chương trình để có thể gắn và sử dụng hai tên lửa R-73 dùng cho việc đánh chặn trên không hay các loại tên lửa vác vai chống tăng tùy trọng lượng. Cũng như có thể giảm lượng nhiên liệu mà máy mang theo hi sinh thời gian bay để có thể mang nhiều vũ khí hơn nếu xác định được chính xác vị trí mục tiêu ở đâu đó gần hơn tầm hoạt động của máy bay. | 1 | null |
Consolidated TBY Sea Wolf là một loại máy bay ném bom ngư lôi của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới II. Đối thủ cạnh tranh và có hình dạng rất giống nó là Grumman TBF Avenger, quá trình đưa Sea Wolf vào biên chế bị kéo dài nên nó không tham chiến, chỉ có 180 chiếc được chế tạo trước khi chương trình bị hủy bo sau ngày Nhật Bản đầu hàng hoàn toàn. | 1 | null |
Trận Łódź là trận đánh giữa tập đoàn quân số 9 Đức do thượng tướng kỵ binh August von Mackensen chỉ huy với phương diện quân Tây Bắc của Nga do tướng Nikolai V. Ruzsky chỉ huy trên chiến trường Đông Âu thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 11 tháng 11 cho đến ngày 16 tháng 12 năm 1914 gần thành phố Łódź, Ba Lan thuộc Nga. Đây là một trong những trận đánh hay đảo chiều nhất của cuộc chiến, trong đó các lực lượng lớn của cả hai bên đều suýt bị bao vây tiêu diệt ở vài thời điểm nhất định. Mặc dù không bên nào đạt được thắng lợi quyết định, trận đánh kết thúc với lợi thế nghiêng về Đức.
Bối cảnh.
Sau khi Đức đánh bại Nga trong chiến dịch Đông Phổ và Nga thắng Áo-Hung trong trận Lemberg, hai phe lên kế hoạch mở các cuộc tấn công mới vào trung tâm mặt trận Đông Âu, tức vùng đất nay là Ba Lan. Tổng tư lệnh quân đội Nga - đại công tước Nikolay Nikolayevich Nga hội 4 tập đoàn quân số 2, 5, 4 và 9 từ bắc xuống nam để chuẩn bị đánh thốc vào Schlesien, trung tâm khoáng sản của miền trung Đức. Lực lượng khổng lồ này được phân chia thành phương diện quân Tây Bắc do tướng Nikolai V. Rusky chỉ huy và phương diện quân Tây Nam do tướng Nikolai I. Ivanov chỉ huy. Mặc dù quân Nga tập trung lực lượng khá nhanh, việc phân chia này đã làm cho kế hoạch tiến công của Nga trì hoãn đáng kể.
Bộ đôi chỉ huy của Đức trên mặt trận phía Đông là thống chế Paul von Hindenburg và thiếu tướng Erich Ludendorff cũng dự định tấn công vào lãnh thổ Nga. Họ thỉnh cầu đại tướng tổng tham mưu trưởng Erich von Falkenhayn điều quân từ chiến trường Tây Âu sang chi viện, song những thất bại của Đức tại Ypres đã trì hoãn việc chuyển quân của họ. Dù gì thì Hindenburg và Ludendorff cũng quyết định tấn công, và hai ông lên kế hoạch thành lập tập đoàn quân số 9 do thượng tướng kỵ binh August von Mackensen chỉ huy để tiêu diệt tập đoàn quân số 9 Nga dưới quyền tướng Philipp Scheidemann (đóng gần thành phố Lodz - Ba Lan thuộc Nga) bằng một đòn bọc hậu từ mạn bắc.
Trận đánh.
Nga chưa bố trí xong lực lượng thì Đức đã tấn công vào ngày 11 tháng 11. Quân cánh trái của Mackensen nhanh chóng đánh tan cánh phải tập đoàn quân số 2 Nga dưới quyền tướng Philipp Scheidemann, buộc Scheidemann phải rút quân. Từ ngày 14 cho đến ngày 16 tháng 11, quân Đức lại phá được quân Nga tại Kutno, buộc đối phương phải rút lui thêm lần nữa. Các lãnh đạo quân sự của quân Nga, đặc biệt là Rusky, cũng có phần trách nhiệm với thất bại này do chú trọng vào cuộc tấn công của họ về phía tây và phớt lờ mối huy hiếp đến sườn phía bắc của tập đoàn quân số 2. Đến ngày 18 tháng 11, quân Đức đã tới sát Łódź và tập đoàn quân số 2 Nga có nguy cơ lặp lại số phận của mình tại Tannenberg.
Nhưng quân Nga phản ứng linh hoạt đến mức đáng ngờ. Mặc dù tướng Pavel K. Rennenkampf chỉ huy tập đoàn quân số 1 Nga trên sườn bắc tập đoàn quân số 2 tỏ ra lưỡng lự, tướng Pavel A. Plehve tức tốc đem tập đoàn quân số 5 đến yểm trợ hai bên sườn của tập đoàn quân số vào các ngày 18 – 19 tháng 11. Ngày 20 tháng 11, 2 tập đoàn quân Nga đã đẩy lui mọi đợt tấn công của tập đoàn quân số 9 Đức, ngoại trừ khối quân của thượng tướng bộ binh Reinhard von Scheffer-Boyadel gồm quân đoàn Dự bị XXV cùng một số sư đoàn kỵ binh và vệ binh. Scheffer đã khoét một lỗ thủng vào sườn đông quân Nga và đánh thọc đến Rzgow. Đòn đánh của Scheffer xem chừng đã uy hiếp sườn và hậu quân Nga, nhưng trên thực tế, chính quân Đức mới đang ở tình thế bất lợi. Nga tiếp tục đổ quân vào trận chiến (ngay cả Rennenkampf cũng gộp một số sư đoàn của mình thành binh đoàn Łowics để tham gia trận đánh), vào ngày 22 tháng 11, toàn bộ cụm quân của Scheffer đã bị 20 vạn quân Nga vây chặt cách chiến tuyến của Nga 24 km về phía sau.
Thay vì phá vây về phía tây, Scheffer quyết định tấn công mở đường máu lên mạn đông bắc. Từ ngày 22 cho đến ngày 25 tháng 11, quân ông không ngừng chiến đấu với quân Nga truy kích từ 3 hướng, đồng thời cố gắng khoét một lỗ thủng vào các lực lượng địch khác đang cản bước của ông. Tin chắc sẽ thắng, tướng Nikolai N. Yanushkevich - tham mưu trưởng của đại công tước Nikolai - ra lệnh cho các xe vận tải trống rỗng từ Warszawa đến chuẩn bị chở hàng đoàn tù binh. Nhưng sự lạc quân của người Nga đã đặt không đúng chỗ. Vào ngày 24 tháng 11, Scheffer giành thắng lợi lớn trên sông Brzeziny, tiêu diệt sư đoàn 6 Siberia của Nga. Sau đó, các đội hình vuông vức của Scheffer di chuyển lên mạn bắc rồi quay về phía tây và trở về chiến tuyến của tập đoàn quân số 9 vào ngày 26 tháng 11. Thương vong của cụm quân Scheffer lên đến 4.300 người, nhưng họ đã đưa được 2.000 thương binh của mình về trận tuyến cùng với 16.000 tù binh và 64 khẩu đại bác Nga.
Đầu tháng 12 năm 1914, Hindenburg nhận được một lượng lớn viện binh từ mặt trận Tây Âu, vào ngày 6 tháng 12, Mackensen mở một cuộc tấn công mới vào Łódź. Lần này quân Đức giành được Łódź và quân Nga phải rút về tuyến sông Bzura-Rawa.
Kết cuộc.
Mặc dù quân Nga đã không bị bao vây tiêu diệt như ở trận Tannenberg, chiến dịch Łódź kết thúc với lợi thế thuộc về Đức. Không chỉ đoạt được một phần đất tốt của Ba Lan thuộc Nga, người Đức đã buộc Nga phải từ bỏ hoàn toàn kế hoạch tấn công Schlesien của mình. Thêm vào đó, trong khi phía Đức chỉ chịu thiệt hại 35.000 người, tổn thất của Nga lên đến 70.000 người chết và bị thương, cộng thêm 25.000 bị bắt làm tù binh. Quân Đức cũng thu giữ được 79 cỗ đại bác của Nga. Chênh lệch thương vong giữa hai bên trong trận Łódź đã làm nhiều người Nga tin rằng quân đội nước họ không phải là đối thủ của quân đội Đức, đồng thời làm dấy lên tranh luận ở Petrograd về một hòa ước riêng lẻ với Đức. Ngoài ra, thành công của chiến dịch Łódź đã khiến cho Mackensen được lên quân hàm đại tướng và đưa ông trở thành một trong những bậc đại anh hùng của đế quốc Đức trong cuộc chiến. | 1 | null |
Curtiss SBC "Helldiver" là một loại máy bay ném bom trinh sát hai chỗ do tập đoàn Curtiss-Wright chế tạo. Nó là máy bay hai tầng cánh quân sự cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ mua. Hải quân Hoa Kỳ tiếp nhận năm 1937, đến khi Chiến tranh thế giới II nổ ra nó đã trở nên lỗi thời và không còn tham chiến với các máy bay của phe trục nữa. | 1 | null |
Keeper of the Seven Keys Part 2 là album phòng thu thứ ba của ban nhạc power metal đến từ Đức Helloween, phát hành năm 1988. Album phát hành sau sự thành công của album trước, "Keeper of the Seven Keys Part 1". Thành công đến với ban nhạc trên toàn châu Âu, châu Á và cả Mỹ. Album đạt giải Vàng ở Đức và đạt vị trí #108 ở Mỹ.
Hai ca khúc trong album được phát hành dưới dạng single, "Dr. Stein" và "I Want Out". "I Want Out" là một trong những ca khúc thành công nhất của Helloween, đã được nhiều ban nhạc khác cover lại như Gamma Ray, Unisonic, HammerFall, LORD và Sonata Arctica. Ca khúc được viết bởi Kai Hansen, có tin đồn cho rằng ca khúc này nói về cảm nghĩ của Hansen lúc đó về Helloween (Hansen sau này đã rời Helloween trong tour diễn Keeper). . Ca khúc chủ đề, Keeper of the Seven Keys là bài hát dài nhất album. Một ca khúc rất nổi tiếng khác, "Eagle Fly Free", do Michael Weikath viết, cũng như "I Want Out" của Hansen, được một số ban nhạc khác như Vision Divine và Bassinvaders cover lại.
Xếp hạng.
Album - Billboard (Bắc Mỹ) | 1 | null |
Phong trào 1 tháng 3 hay Phong trào Sam-il là cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên sau khi bán đảo này bị Đế quốc Nhật Bản đô hộ. Nguyên nhân dẫn đến phong trào là do sự chiếm đóng thực dân của Nhật đã dấy lên lòng căm phẫn của nhân dân Triều Tiên và từ đó nhanh chóng phát triển thành một cuộc cách mạng lớn, sau phong trào này, tại Thượng Hải, Trung Hoa Dân Quốc; đã có những nhà cách mạng yêu nước lần đầu tiên hợp sức lại với nhau, họ thành lập nên Đại Hàn Quốc Dân Đảng (tiền thân của Triều Tiên Quang Phục hội) sau thành công của Cách mạng Tân Hợi (1911). Nhiều tổ chức yêu nước kháng Nhật khác cũng dần được thành lập về sau này như Cao Ly Cộng sản đảng, Đảng Cộng sản Triều Tiên... | 1 | null |
Douglas DT là một loại máy bay ném bom do công ty Douglas Aircraft Company chế tạo. Đây cũng là hợp đồng quân sự đầu tiên của Douglas Aircraft Company, tạo tiền đề cho sự hợp tác giữa công ty và Hải quân Hoa Kỳ. Đây là một loại máy bay hai tầng cánh, một động cơ, hai chỗ ngồi. | 1 | null |
Ngày không mưa là album phòng thu thứ sáu của nữ ca sĩ Hồng Nhung. Album được phát hành ngày 20 tháng 11 năm 2001 bởi Viết Tân. Đây được coi là album bước ngoặt của Hồng Nhung, "một album đỉnh cao", đưa Hồng Nhung theo những thể loại âm nhạc hoàn toàn mới mẻ, trẻ trung và bước đầu khẳng định con đường trở thành "diva" của cô. Nhạc sĩ Quốc Trung là người biên tập và chịu trách nhiệm chính về chuyên môn cho album. Được phát hành vào cuối năm 2001 bởi Viết Tân, album cũng có được sự cộng tác từ nhạc sĩ Dương Thụ và ban nhạc Phương Đông. Album bao gồm một số sáng tác nổi tiếng như "Ngày không mưa", "Tình yêu ở lại", "Họa mi hót trong mưa" hay "Sao chẳng về với em".
Với sự tham gia của Quốc Trung và ban nhạc Phương Đông, world music và âm nhạc điện tử pha trộn với pop trở thành phong cách chủ đạo cho "Ngày không mưa". Với Hồng Nhung, đây là lần đầu tiên cô được cộng tác với Quốc Trung, người sau này cũng tham gia sản xuất rất nhiều sản phẩm của cô. "Ngày không mưa" ban đầu là một dự án âm nhạc được dành cho Thanh Lam, nhưng vì một số khúc mắc, Quốc Trung và Dương Thụ đành phải dời cho Hồng Nhung, và đó là một lựa chọn đúng đắn. Cũng từ album này, tên tuổi của Quốc Trung mới trở nên nổi tiếng hơn, thoát khỏi hình ảnh trong ban nhạc Phương Đông cũng như trong hình ảnh của ca sĩ Thanh Lam – người vợ vô cùng nổi tiếng của anh vào lúc đó.
"Ngày không mưa" là tiền đề cho những album sau này cô cùng thực hiện với Quốc Trung như "Một ngày mới" (2003), "Vòng tròn" (2011), nhưng nổi bật nhất phải kể đến là album chủ đề "Khu vườn yên tĩnh" (2004). Theo thời gian, album đã trở thành đĩa nhạc hay nhất của cô cùng với các ca khúc trong đó đều trở thành các tác phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật và gắn liền với sự nghiệp của Hồng Nhung.
Sản xuất.
"Tình yêu ở lại" là ca khúc được nhạc sĩ Dương Thụ viết lời để tặng riêng Quốc Trung sau khi gia đình của anh với ca sĩ Thanh Lam tan vỡ. "Sao chẳng về với em" là một trong số ít những ca khúc được nhạc sĩ Quốc Trung viết dựa trên chính cảm xúc thật của anh.
"Bài hát ru mùa đông" là một trong những bài hát đầu tiên mà nhạc sĩ Dương Thụ sáng tác khi ông chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh. ""Tôi viết ca khúc này vào khoảng đầu những năm thập niên 80, thời kỳ đó ở miền Bắc trong bối cảnh rất nghèo. Mùa đông là mùa bộc lộ ra tất cả cái nghèo, mùa hè thì cởi trần được không cần áo nhưng mùa Đông lại phải có áo, có ấm cho nên cái thiếu nó mới bộc lộ ra. Chính vì vậy người ta dễ tủi thân, dễ buồn, dễ can đảm... ai đã vượt qua được cái rét đó thì những cái khác nó trở nên bình thường. "Bài hát ru mùa đông" rất là buồn, mà ru là một sự đồng cảm với cái khổ. Đề tài mùa đông tại sao nó ám ảnh tôi? Bởi vì dù tôi sống gần 40 năm ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng tôi không thể biến thành người trong này được, nghe giọng nói, cách sinh hoạt nó vẫn là người ngoài Nội cái tính bảo thủ nó nặng. Vì sao? Vì cái mùa đông ở trong mình quá lâu, chắc là đến chết tôi vẫn không giải thoát khỏi mùa đông ra khỏi mình được"". Nhạc sĩ chia sẻ về ca khúc trong Chương trình Giai điệu tự hào tháng 11 năm 2016.
"Phố mùa đông", "Bài hát ru mùa đông" và "Sao chẳng về với em" sau này đều được Thanh Lam hát lại. "Sao chẳng về với em" ngoài ra còn được được Uyên Linh thể hiện trong album đầu tay "Giấc mơ tôi" (2012) do nhạc sĩ Quốc Trung sản xuất. "Phố mùa đông" được Bằng Kiều, Mỹ Linh trình bày lại trong các sản phẩm cá nhân. Ca khúc "Họa mi hót trong mưa" là một sáng tác từ đầu những năm 1990 của nhạc sĩ Dương Thụ, từng được những nghệ sĩ lớn thể hiện như Lê Dung, Cẩm Vân, Trần Thu Hà trong album đầu tay "Em về tinh khôi" (1999) nhưng không gây được tiếng vang lớn, sau này bài hát cũng được ca sĩ Mỹ Linh, Ngọc Hạ, Phương Linh, Nguyên Thảo... trình bày và là tên album phòng thu đầu tay (2004) của ca sĩ Khánh Linh. "Ngày không mưa" được nhạc sĩ Huy Tuấn phối lại trong album "Phá" (2015) của ca sĩ Phạm Anh Khoa và ca khúc cũng được chính Quốc Trung phối khí lại cho Khánh Linh trong "Ban mai xanh" (2006). "Tình yêu ở lại" cũng được Khánh Linh thể hiện lại rất thành công trong "Giấc mơ mang tên mình" (2013).
"Ngày không mưa" được bán với mức giá 60.000 đồng, giá thị trường sau này được định giá khoảng 700.000 - 1.000.000 VNĐ tùy vào tình trạng CD.
Thành phần tham gia sản xuất.
Theo phần bìa sau của album.
Đánh giá.
Khi mới ra mắt, "Ngày không mưa" nhận được nhiều đánh giá trái chiều. Báo "Gia đình & Xã hội" khá bi quan về con đường của Hồng Nhung đã chọn, khi cho rằng ngoài hai ca khúc "Ngày không mưa" và "Hoạ mi hót trong mưa", ""các ca khúc còn lại bị vênh giữa người hát và người phối khí" và chưa hợp với "không gian đa chiều của world music.""
Tuy nhiên, nhạc sĩ Dương Thụ lại ủng hộ lựa chọn này của "cô Bống" và hài lòng khi cô đã phát huy "thế mạnh [của mình] là chất giọng trời phú kết hợp với nội tâm của một con người hiện đại và một mặt bằng văn hoá vào loại tốt nhất so với các ca sĩ cùng lứa"".
Năm 2012, báo Thể thao & Văn hóa viết: "Trong Ngày không mưa, có thể nói Hồng Nhung hát nghe dễ chịu nhất bởi sự hòa trộn rất vừa vặn giữa cái hay của giọng hát, kỹ thuật và của cảm xúc đến ngưỡng, tất cả được đặt trong một tổng thể chỉn chu với sự dày công thực hiện từ việc biên tập đến hòa âm. Với giới làm nghề, album này còn được chú ý bởi nó ra đời vào năm 2002, thời điểm mà các nhạc sĩ hòa âm phối khí Việt Nam bắt đầu chớm vào vòng quay của công nghệ với việc làm nhạc bằng máy tính, họ bắt đầu biết đến khái niệm sample (âm mẫu)" Có thể nói rằng, giá trị thực sự của album đã được nhìn nhận rõ theo giời gian.
Nhìn chung, "Ngày không mưa" là một sản phẩm thành công của Hồng Nhung, đánh dấu bước ngoặt chuyển biến cần thiết trong sự nghiệp của cô để tiếp cận với những dòng nhạc phương Tây. Kể từ "Ngày không mưa", ê-kíp của nhạc sĩ Quốc Trung trở thành những người sản xuất các album sau đó của cô. "Họa mi hót trong mưa" và "Ngày không mưa" đều có tên trong danh sách bình chọn "10 Ca khúc yêu thích" của chương trình "VTV Bài hát tôi yêu" lần thứ nhất (2002). | 1 | null |
Fairey Albacore (Cá ngừ) là một loại máy bay ném bom ngư lôi hai tầng cánh, trang bị trên tàu sân bay của Anh. Do hãng Fairey Aviation chế tạo giai đoạn 1939-1943 cho Không quân Hải quân Hoàng gia Anh và được sử dụng trong Chiến tranh thế giới II. Nó có kíp lái 3 người và thiết kế cho nhiệm vụ trinh sát, tham sát, ném bom, ném bom bổ nhào và ném bom thả ngư lôi. Albacore còn được biết đến với tên gọi "Applecore", bắt nguồn do nó thay thế loại Fairey Swordfish cũ hơn được biên chế từ năm 1936. Tuy nhiên, Albacore cũng nhanh chóng bị thải loại bằng loại máy bay ném bom ngư lôi hiện đại hơn là Fairey Barracuda và Grumman Avenger, thậm chí còn sớm hơn so với chiếc Swordfish mà nó dự định thay thế. | 1 | null |
Fairey Barracuda là một loại máy bay ném bom bổ nhào/ngư lôi trên tàu sân bay của Anh trong Chiến tranh thế giới II. Nó là kiểu máy bay đầu tiên của Không quân Hải quân Hoàng gia Anh được làm hoàn toàn bằng kim loại. Barracuda thay thế cho các kiểu máy bay hai tầng cánh Fairey Swordfish và Fairey Albacore đã lỗi thời. | 1 | null |
Master of the Rings là album phòng thu thứ sáu của ban nhạc power metal đến từ Đức Helloween, phát hành năm 1994, với sự tham gia của 2 thành viên mới là Andi Deris và Uli Kusch.
Album được coi là một bước ngoặt trong lịch sử của Helloween. Nó đánh dấu sự trở lại chất liệu nhạc power metal đã đem lại thành công cho Helloween trước đây, sau sự thất bại của 'Chameleon" (album tồi tệ nhất trong lịch sử của Helloween) với dòng nhạc progressive rock và pop.
Album có 4 single, "Where The Rain Grows", "Mr. Ego (Take Me Down)", "Perfect Gentleman", và "Sole Survivor". Trong 4 single này chỉ có single "Sole Survivor" là không có MV. Single "Mr. Ego" được dành cho vocal cũ của ban nhạc, Michael Kiske, được phát hành như một EP ở châu Âu.
Vocal của Helloween Michael Kiske đã rời ban nhạc sau tour diễn năm 1993 "Chameleon". Sự ra đi của anh là cú sốc lớn với cộng đồng fan của Helloween nói riêng và cộng đồng heavy metal nói chung. Vị trí của Kiske được thay thế bởi Andi Deris, cựu thành viên của Pink Cream 69.
Sau sự cố liên quan đến rượu và ma túy ở Nhật Bản, tay trống và cũng là thành viên sáng lập ban nhạc, Ingo Schwichtenberg, đã bị thay thế bởi Richie Abdel-Nabi, và khi Abdel-Nabi không thể đảm nhận dàn trống để ngỏ của Schwichtenberg, anh đã bị thay thế bởi tay trống đến từ Gamma Ray Uli Kusch. Được mọi thành viên trong ban nhạc gọi là Mr. Smile với nụ cười luôn thường trực, luôn hòa đồng và vui vẻ, tuy nhiên, Schwichtenberg sa ngã vào rượu và ma túy, và mắc chứng tâm thần phân liệt. Biểu hiện của chứng này rõ ràng nhất khi anh ú ớ, thổn thức vô cớ. Tay trống cảm thấy thất vọng với dòng nhạc của ban ("Anh ấy xem ca khúc "Windmill" của "Chameleon" là "Shitmill" ", theo lời kể của Weikath). Ngày 8 tháng 3 nắm 1995, Shwichtenberg đã tự kết liễu đời mình bằng cách nhảy vào đoàn tàu hỏa.
Sau hai album phòng thu thất bại và gây nhiều tranh cãi, Helloween ký hợp đồng với hãng Castle Communications. Với vocal mới và tay trống mới, Helloween, với album "Master Of The Rings", trở thành một trong những album thành công nhất trong lịch sử của Helloween. Album đã bán được 120.000 bản trong 2 tuần tại Nhật Bản. | 1 | null |
Fairey Swordfish là một loại máy bay ném bom ngư lôi do hãng Fairey Aviation Company chế tạo, nó được trang bị cho Không quân Hải quân Hoàng gia Anh trong Chiến tranh thế giới II.Dù Fairey Aviation Company đã thiết kế nó nhưng đa phần những chiếc Swordfish lại được sản xuất tại hãng Blackburn. Tên thân mật của nó là "Stringbag", đến năm 1939 nó đã trở nên lỗi thời, nhưng vẫn đạt được một số thành công ngoạn mục trong chiến tranh, nổi bật nhất là vụ đánh chìm một tàu và làm ngư hại hai tàu chiến khác của "Regia Marina" (Hải quân Italy) trong Trận Taranto; vụ thứ hai là vụ làm tê liệt tàu "Bismarck". Nó hoạt động chủ nhiệm làm nhiệm vụ chống hạm; tuy nhiên đến cuối chiến tranh nó còn thực hiện các nhiệm vụ chống tàu ngầm và làm máy bay huấn luyện. Thiết kế trong thập niên 1930, Swordfish được giữ lại trong biên chế lâu hơn so với chính các loại máy bay dự định thay thế nó, nó vẫn tiếp tục được sử dụng ở tiền tuyến cho đến ngày chiến thắng ở châu Âu. | 1 | null |
Lancelot (, , dịch nghĩa: Lancelot Vùng Hồ), là một nhân vật trong truyền thuyết Arthur.
Lịch sử.
Lancelot là kị sĩ tài hoa và thân tín nhất trong triều đình vua Arthur . Nhưng ông đem lòng yêu mến hoàng hậu xinh đẹp Guinevere. Có thuyết cho rằng hai người yêu nhau khi ông phò Guinevere về triều để thành hôn với vua Arthur. Có thuyết khác cho rằng hai người gặp nhau lần đầu khi Guinevere đã là hoàng hậu.. Mối quan hệ tình cảm giữa Lancelot và Guinevere bị Arthur khám phá và nhà vua tuyên án xử Guinevere trên giàn hỏa về tội ngoại tình
. Lancelot phá ngục cứu Guinevere và do đó trở nên xung khắc với vua. Tuy vậy khi nhà vua đi dẹp loạn phản thần Mordred thì Lancelot quay lại giúp, nhưng quá muộn vì vua đã bị Mordred sát hại. Nàng Guinevere trở thành một nữ tu và Lancelot từ bỏ tước vị hiệp sĩ, trở thành một giáo mục. Khi Guinevere chết, Lancelot cũng chết theo sáu tuần sau đó. Xác hai người được chôn cạnh mộ vua Athur. | 1 | null |
Trương Đình Anh (sinh năm 1970) là một doanh nhân tại Việt Nam. Anh nguyên là Tổng Giám đốc của Tập đoàn FPT (từ 2011-2012), cựu chủ tịch hội đồng quản trị FPT Telecom. Anh là cháu của ông Trương Gia Bình, chủ tịch Hội đồng quản trị của FPT.
Tiểu sử.
Trương Đình Anh sinh năm 1970, nguyên quán tại Đà Nẵng. Anh tốt nghiệp cử nhân Kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân.
Từ năm 1991 đến năm 1993: Chuyên gia máy tính, Ngân hàng Công thương Việt Nam
Từ năm 1993 đến năm 1996: Chuyên gia Máy tính, Công ty FPT
Từ năm 1997 đến năm 2003: Giám đốc Trung tâm Internet FPT. Năm 1997, Trương Đình Anh trở thành người nổi tiếng nhất FPT và cũng là người nổi tiếng nhất trong số 10 gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu năm đó (Trương Đình Anh là một gương mặt) với tuyên bố: "Ước mơ của tôi là trở thành tỷ phú năm 35 tuổi và trở thành Thủ tướng năm 40 tuổi". Anh và Nguyễn Thành Nam là những người thành lập TTVNOL.
Từ năm 2003 đến năm 2005: Tổng Giám đốc Công ty Truyền thông FPT
Từ năm 2005 đến 2011: Phó Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Viễn thông FPT, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Viễn thông FPT.
Từ 2011 đến 9/2012: Tổng Giám đốc FPT.
Gia đình.
Anh lấy vợ năm 1998. Vợ anh cũng là một thành viên của TTVNOL, biết anh qua mạng này. Vợ anh trước khi lấy chồng là thư ký Giám đốc của Mitsubishi Construction tại Việt Nam. Sau khi lấy chồng, bỏ công việc và ở nhà nuôi con. Hiện tại anh có bốn con trai. Tuy là ở nhà nhưng vợ anh cũng kiếm được nhiều tiền từ kinh doanh và môi giới bất động sản Phú Mỹ Hưng.
Định cư ở Mỹ.
Giữa tháng 7 năm 2016, Trương Đình Anh tiết lộ việc đưa cả gia đình sang Mỹ định cư. Thông tin này làm ngạc nhiên nhiều người Việt trong nước vì trước đó Trương Đình Anh tuyên bố ước mơ trở thành thủ tướng cũng như dự định dùng 90% tài sản của mình cho các hoạt động xã hôi. | 1 | null |
Frankfurt U-Bahn, cùng với Frankfurt S-Bahn và Frankfurt Straßenbahn, là xương sống của hệ thống giao thông công cộng của Frankfurt, Đức. Tên gọi hệ thống tàu điện ngầm này lấy từ tiếng Đức nghĩa là ngầm Untergrundbahn. Hệ thống tàu điện ngầm U-Bahn được khai trương năm 1968 và nay gồm có 87 nhà ga trên 9 tuyến đường ray, tổng chiều dài 65 km. Khoảng 59% chiều dài tuyến là đi ngầm. Có khoảng 300.000 lượt khách sử dụng hệ thống này mỗi ngày.
Tuyến hiện tại.
Hiện có 9 tuyến:
Tham khảo.
Tiếng Đức | 1 | null |
Hệ thống tàu điện ngầm vùng đô thị Seoul (Tiếng Hàn: 수도권 전철, Tiếng Anh: Seoul Metropolitan Subway System, Hanja: 首都圈 電鐵) là một hệ thống giao thông tốc độ cao ở vùng thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Seoul có một hệ thống tàu điện ngầm nối mỗi quận của thành phố và các khu vực xung quanh. Với lượng khách hơn 8 triệu mỗi ngày, hệ thống tàu điện ngầm của Seoul được xếp vào một trong những hệ thống tàu điện ngầm bận rộn nhất trên thế giới. Tàu điện ngầm vùng đô thị Seoul có 23 tuyến phục vụ Seoul, Incheon, Gyeonggi-do, Chungcheongnam-do, Gangwon-do.
Giá vé và xuất vé.
Hệ thống tàu điện ngầm thủ đô Seoul hoạt động trên một hệ thống giá vé giao thông thống nhất, có nghĩa là tàu điện ngầm và xe buýt ở Seoul, Incheon và Gyeonggi-do được coi là một hệ thống khi xét về giá vé. Ví dụ, một người đi tàu điện ngầm có thể chuyển sang bất kỳ tuyến nào khác miễn phí (ngoại trừ Tuyến Shinbundang, EverLine và Tuyến U, sẽ tính thêm phí cố định, lên tới 900, 200 và 300 won tương ứng). Người ta cũng có thể chuyển sang bất kỳ xe buýt thành phố nào miễn phí, bất kể đó là từ Seoul, Incheon, Gyeonggi-do hay Chungcheongnam-do.
Trong trường hợp của Tuyến Shinbundang, phí khác nhau tùy thuộc vào đoạn được sử dụng. Đoạn Sinsa ~ Gangnam luôn tính phí 500 won, trong khi đoạn Gangnam ~ Jeongja hoặc Jeongja ~ Gwanggyo tính phí 1000 won khi sử dụng một mình và 1400 tổng cộng khi sử dụng kết hợp với khu vực khác. Tổng cộng, phí bổ sung tối đa mà một người có thể phải trả là 1900 won, có thể đạt được bằng cách sử dụng cả ba phần.
Thanh toán tiền vé ở Seoul chủ yếu được xử lý bởi T-money và Cash Bee, cũng có thể được sử dụng trên xe buýt, cửa hàng tiện lợi và nhiều địa điểm bán lẻ phổ biến khác. Người đi phải chạm vào điện thoại, thẻ hoặc thẻ tàu điện ngầm khác và thiết bị được kích hoạt tại cửa vào. Các phương thức thanh toán phổ biến là sử dụng điện thoại thông minh Android có hỗ trợ NFC (nạp tiền hoặc thanh toán vào thẻ tín dụng / thẻ ghi nợ của chủ sở hữu thông qua ứng dụng T-money) hoặc thẻ tín dụng hoặc séc (ghi nợ) có tích hợp công nghệ RFID do ngân hàng hoặc thẻ phát hành Công ty.
Loại vé sử dụng một lần hiện nay là loại thẻ nhựa có kích thước bằng thẻ tín dụng với công nghệ RFID, có thể lấy từ các máy tự động ở mọi ga tàu điện ngầm. Phí đặt cọc 500 won đã được bao gồm trong giá và được hoàn lại khi vé được trả lại ở bất kỳ nhà ga nào. Thẻ sử dụng nhiều lần được bán trong các cửa hàng tiện lợi và chức năng được bao gồm trong nhiều thẻ tín dụng / thẻ ghi nợ.
Giá vé (ngoại trừ vé sử dụng một lần) hiện là 1.250 won cho một chuyến đi lên đến 10 km, với 100 won được cộng thêm cho mỗi 5 km tiếp theo. Sau khi đã vượt qua 50 km, 100 won sẽ được cộng sau mỗi 8 km. Người dùng vé sử dụng một lần phải trả tiền đặt cọc RFID 500 won cộng với phụ phí 100 won cho giá vé.
Vé trẻ em nửa giá có sẵn. Chính quyền thành phố cũng sử dụng Seoul Citypass làm thẻ giao thông. Người cao tuổi và người khuyết tật đủ điều kiện để được quá cảnh miễn phí và có thể nhận vé miễn phí hoặc ra vào bằng cổng phụ chứ không phải cửa quay.
Du khách quốc tế cũng có thể sử dụng thẻ Metropolitan Pass (MPASS), thẻ này cung cấp tối đa 20 chuyến đi mỗi ngày trong thời gian trả trước từ 1 ngày đến 7 ngày. Tùy thuộc vào nơi bạn mua thẻ, dịch vụ được giới hạn trong khu vực đô thị Seoul hoặc Đảo Jeju và không hoạt động trong taxi hoặc cửa hàng tiện lợi.
Kế hoạch xây dựng.
Có một số công trình chính, một trong hai vẫn còn trong giai đoạn lập kế hoạch hoặc đang chờ đợi để bắt đầu xây dựng. | 1 | null |
Hồ Đình Phương (1 tháng 3 năm 1927 1979) là một nhà thơ Việt Nam. Ông là người đã viết lời cho nhiều bản nhạc tại miền Nam Việt nam trước 1975.
Cuộc đời.
Hồ Đình Phương sinh tại Huế, chánh quán tại Phước Tích, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Cha ông là Hồ Văn Huân, một vị quan triều Nguyễn. Mẹ ông là Võ Thị Túy, con gái của quan Thượng Thư Võ Liêm. Mẹ ông mất lúc ông còn nhỏ. Sau khi đất nước bị chia cắt bởi Hiệp định Genève 1954, gia đình phân tán, ông ở lại Huế với vài người họ hàng.
Thời niên thiếu, ông học tại các trường Pellerin, Hồng Đức... Sau khi đỗ Tú tài Pháp, ông làm Trưởng Văn phòng Bệnh viện Huế. Trong thời gian này ông viết nhiều thơ, sách và nhiều bài đăng báo. Có lẽ vì xúc động trước cảnh đất nước tang thương cùng nỗi đau thương của gia đình, ông đã viết rất nhiều thơ nhạc bộc lộ tình yêu, sự đau khổ của quê hương và mơ ngày thanh bình.
Trước năm 1975, Hồ Đình Phương với tên thật hoặc bút hiệu như Nhật Hồ hay Phương Nhật Hồ đã cộng tác với nhiều báo chí, tập san. Tại Huế là "Mùa Gặt Mới", "Công Lý", "Dân Đen", "Gió Lên"; tại Sài Gòn là "Tin Mới", "Người Mới", "Tiểu Thuyết Thứ Bảy", "Phụ Nữ", "Hòa Bình", "Tiếng Chuông", "Ánh Sáng", "Quần Chúng", "Đời Mới", "Tân Học", "Thẩm mỹ", "Tin Điển", "Dân Thanh", "Thế giới", "Dân Mới", "Nghệ thuật", "Văn Nghệ Tiền Phong".
Hồ Đình Phương cộng tác trong văn đoàn với Thanh Thanh Lê Xuân Nhuận và Nhà xuất bản Xây dựng. Ông là một gương mặt văn nghệ nổi bật tại Huế, thường tiếp đón các văn nghệ sĩ từ Nam ra cũng như từ Bắc vào (trong đó có cả Phạm Duy).
Năm 1955, ông đem cả vợ con vào Nam để học tiếp và đậu thủ khoa tại Học viện Quốc gia Hành chánh vào năm 1958. Sau khi tốt nghiệp, ông được bổ nhiệm làm Trưởng Ty Thuế Vụ (Thuế Trực thâu và Gián thâu) tại tỉnh Long An. Khoảng năm 1960, ông giữ chức Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận.
Sau vụ đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963, ông dạy trường Đại Học Thương mại Đà Lạt một thời gian, sau đó làm Giám đốc Công ty Kỹ Nghệ Giấy Đồng Nai ở tỉnh Biên Hòa.
Sau tháng 4 năm 1975, ông phải đi học tập cải tạo khoảng hơn hai năm. Sau khi được về, tháng 11 năm 1979, ông cùng vợ là Trần Thị Ngọc Oanh và bốn người con Thu Thanh, Đình Cường, Bích Y, Đình Dũng vượt biển bằng tàu rồi mất tích. Hiện còn hai người con gái của Hồ Đình Phương vẫn còn sống.
Tác phẩm.
Hồ Đình Phương đã viết nhiều tập thơ có giá trị như:
Một số tác phẩm đang viết hoặc chưa kịp xuất bản, như:
Viết lời nhạc.
Hồ Đình Phương đã viết lời cho nhiều bài hát nổi tiếng trước 1975, cũng như có nhiều nhạc sĩ phổ nhạc các bài thơ của ông. Ông đã sáng tác với tất cả tâm hồn của một người nghệ sĩ để ca tụng quê hương, cái đẹp thuần tuý của tình người mà lời nhạc sâu sắc, đầy xúc cảm còn lưu lại đến hôm nay. Sau đây là danh sách các bản nhạc Hồ Đình Phương viết lời hoặc được phổ thơ. | 1 | null |
Meles Zenawi Asres (chữ cái Ge'ez: መለስ ዜናዊ አስረስ Mäläs Zenawi Äsräs; 8 tháng 5 năm 1955 – 20 tháng 8 năm 2012) là thủ tướng Ethiopia từ năm 1995 đến khi qua đời năm 2012. Từ năm 1985, ông là chủ tịch Mặt trận Giải phóng Nhân dân Tigrayan, và là người đứng đầu của Mặt trận Dân chủ Cách mạng Nhân dân Ethiopia cầm quyền. Ông là một cựu chiến binh quân nổi dậy, người lên nắm quyền vào năm 1991 sau khi lật đổ chế độ độc tài đẫm máu của Mengistu Haile Mariam. Ông giữ chức tổng thống Ethiopia trong giai đoạn 1991–1995 và trở thành thủ tướng Ethiopia năm 1995 sau một cuộc tổng tuyển cử diễn ra cùng năm. Dù chính phủ ông có công thực hiện một số đổi mới như chế độ chính trị đa đảng ở Ethiopia, tự do báo chí ở Ethiopia và giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh nhưng chính quyền của ông cũng bị cáo buộc đàn áp chính trị và các lạm dụng nhân quyền. Được biết đến là một trong những người mạnh mẽ của châu Phi, ông là một đồng minh của Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố. | 1 | null |
Hoa Kỳ xâm lược Grenada hay còn gọi là Chiến dịch Urgent Fury là đổ bộ của Mỹ vào Grenada năm 1983. Grenada là một quốc đảo Caribbean với 91.000 dân, nằm cách Venezuela 160km (100 dặm) về phía bắc. Kết quả của cuộc đổ bộ này là chiến thắng dành cho Mỹ sau vài tuần. Được châm ngòi từ một cuộc đảo chính quân sự đẫm máu để lật đổ chính quyền Cách mạng đã tồn tại bốn năm. Chiến dịch có sự tham gia của quân đội Mỹ trong việc can thiệp Grenada, đã lập nên một chính phủ mới thân Mỹ cho Grenada. Đây vẫn luôn là đề tài gây tranh cãi do trong cuộc chiến này diễn ra trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, có sự tham dự của Hoa Kỳ, cũng như sự dính líu của Cuba, thêm vào đó là tình trạng bất ổn của chính quyền Grenada và vị thế của Grenada trong Vương quốc Khối thịnh vượng chung.
Grenada đã giành độc lập từ Anh Quốc năm 1974. Phong trào New Jewel cánh tả đã lên nắm quyền sau cuộc đảo chính năm 1979. | 1 | null |
Ngày 19 tháng 8 năm 2012, một máy bay chở một phái đoàn chính phủ Sudan đã bị rơi gần thị trấn của Talodi, Sudan, làm tất cả 32 người trên khoang thiệt mạng. Nạn nhân bao gồm các thành viên của chính phủ Sudan, một số sĩ quan của lực lượng vũ trang Sudan và các quan chức khác, và đoàn làm phim truyền hình. Máy bay rơi khi đang chở những phái đoàn này từ thủ đô Khartoum đi dự lễ hội đánh dấu ngày kết thúc tháng ăn chay Ramadan. Bộ trưởng Văn hóa và thông tin Sudan Ahmed Bilal Osmann cho biết nguyên nhân tai nạn là do thời tiết xấu.
Dù một số phương tiện truyền thông ban đầu loan tin nhầm chiếc máy bay tử nạn là một chiếc máy bay trực thăng, chiếc máy bay tử nạn lại là một chiếc máy bay dân sự Antonov An-26-100 bay thuê chuyến cho chính phủ Sudan và vận hành bởi hãng hàng không tư nhân Alfa Airlines (mã ICAO AAJ), số đuôi ST-ARL. | 1 | null |
Chuyến bay 612 của Pulkovo Aviation Enterprise là một chuyến máy bay bị rơi gần biên giới Nga hơn phía đông Ukraina vào ngày 22 tháng 8 năm 2006, trong khi trên đường từ sân bay Vityazevo (Anapa) đến sân bay Pulkovo (Saint Petersburg).
Ngày 22/08/2006, chiếc Tupolev TU-154M của hãng hàng không Pulkovo Aviation Enterprise mang số hiệu RA-85185 rơi tại Donetsk, Ukraine làm 171/171 hành khách thiệt mạng. Đây là tai nạn máy bay loại Tu-154 có số người tử vong cao thứ ba sau các tai nạn của chuyến bay 3352 của Aeroflot và chuyến bay 7425 của Aeroflot.
Chuyến bay 612 là một chiếc Tupolev-154M chế tạo tại Nga (số đăng ký: RA-85.185), số chuyến bay 612, được điều hành bởi hãng hàng không Pulkovo Aviation Enterprise.
Chiếc máy bay đã không tiếp nhiên liệu ở Anapa và đã khởi hành đúng giờ. "chuyến bay của Pulkovo Airlines đã khởi hành từ Anapa như dự kiến. Tất cả các công tác bảo dưỡng máy bay cần thiết được thực hiện như yêu cầu trước khi máy bay khởi hành", ông Oleg Tolstyh, Tổng Giám đốc của sân bay Vityazevo cho biết. Hồ sơ hãng hàng không cho thấy chiếc máy bay được sản xuất vào năm 1992, đã trải qua khoảng 24.215 giờ bay. Máy bay đã nằm trong đội tàu bay của Sichuan Airlines cho đến khi Pulkovo Aviation Enterprise mua lại nó vào năm 2001. Phi công của máy bay đã có hơn 12.000 giờ bay, trong đó có 6.000 giờ lái Tu-154. | 1 | null |
Vũ Cao Đàm (Chữ Hán: 武高談, sinh năm 1908 tại Việt Nam và mất năm 2000 tại Pháp) là họa sĩ, nhà điêu khắc với nhiều tác phẩm tranh, tượng nổi tiếng được triển lãm ở nơi trên thế giới. Vũ Cao Đàm là một trong nhóm tứ kiệt trời Âu của nền hội họa Việt Nam (Phổ - Thứ - Lựu - Đàm).
Thân thế.
Vũ Cao Đàm là con thứ năm trong một gia đình Công giáo có 14 người con, quê quán ở thôn Trình Xuyên, huyện Vụ Bản, Nam Định; cha là Vũ Đình Thi và mẹ là Phạm Thị Cúc. Anh ruột là bác sĩ Vũ Đình Tụng, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương binh. Em ruột là dược sĩ Vũ Công Thuyết, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự nghiệp.
Vũ Cao Đàm là sinh viên khóa II của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nhưng là khóa đầu tiên của Khoa Điêu khắc (1926-1931). Thoạt đầu, Vũ Cao Đàm tham gia cả hội họa và điêu khắc, nhưng tới năm thứ nhì thì ông chuyển hẳn sang điêu khắc. Ông từng kể: "Thầy Tardieu (Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương) thấy tôi có khả năng về điêu khắc và tôi đã nặn tượng bán thân cho cha tôi, ông khen đẹp. Cho nên năm thứ nhì, tôi học thẳng sang ngành điêu khắc và tôi rất thích, sau đó tôi chuyên về chân dung".
Năm 1931, Vũ Cao Đàm tốt nghiệp khóa học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương với kết quả xuất sắc. Ông được nhận học bổng sang Pháp nghiên cứu và nâng cao kiến thức về tạo hình tại Bảo tàng Louvre. Năm 1938, Vũ Cao Đàm kết hôn với nghệ sĩ dương cầm người Pháp Renee. Trong thời gian diễn ra cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), việc làm tượng trở nên hết sức khó khăn. Lý do là ở thời kỳ ấy, nhất là khi quân đội Đức chiếm đóng nước Pháp, họ sẵn sàng tịch thu những vật dụng bằng đồng để phục vụ việc đúc vũ khí. Việc đổ khuôn đồng bị cấm. Vũ Cao Đàm phải nặn tượng bằng đất nung rồi đánh bóng (như các bức ông dựng chân dung vợ chồng thi sĩ Jean Tardieu, con trai thầy dạy cũ của mình). Tình thế khiến Vũ Cao Đàm quyết định chuyển từ làm tượng sang vẽ tranh. Ông vẽ, thoạt tiên là tranh lụa, rồi sơn dầu. Lý do chuyển sang sơn dầu, ngoài sự đam mê khám phá còn xuất phát từ sự bất tiện trong việc thực hiện cũng như bảo quản tác phẩm. Ông cho biết: "Tôi thấy tranh lụa bị giới hạn bởi kích thước của bức tranh, vì có miếng kính che gìn giữ cho lụa cho nên không thể vẽ to được". Năm 1946, khi Hồ Chủ tịch sang thăm Pháp, Vũ Cao Đàm đã tới chụp hình để nặn tượng ông. Bức tượng bằng đất nung (nay không còn), sau được đúc lại bằng đồng.
Vì chứng hen suyễn, ông chuyển từ Paris tới sống ở Béziers miền Nam nước Pháp năm 1949. Ông chuyển tới sống ở Saint-Paul-de-Vence cho tới khi qua đời năm 2000.
Tác phẩm.
Nhiều tác phẩm điêu khắc của ông được coi là mẫu mực của điêu khắc Việt Nam hiện đại trong đó có hai bức tượng hiện được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam là "Chân dung" và "Thiếu nữ cài lược". Hai bức tượng này được nhiều thế hệ họa sĩ, kiến trúc sư vẽ lại, tạo phiên bản thạch cao. Ta có thể bắt gặp phiên bản thạch cao của hai bức tượng này ở bất kì lớp học vẽ kiến trúc, mĩ thuật nào. | 1 | null |
Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam (tên giao dịch: Eximbank) là ngân hàng được thành lập ngày 24 tháng 5 năm 1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với tên gọi ban đầu là Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam.
Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17 tháng 1 năm 1990. Đến ngày 6 tháng 4 năm 1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép ngân hàng hoạt động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng Việt Nam tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là "Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam" (Vietnam Export Import Commercial Joint - Stock Bank), gọi tắt là "Vietnam Eximbank".
Đến nay vốn điều lệ của Eximbank đạt 14.814 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu đạt 20.479 tỷ đồng.
Ngân hàng TMCP Xuất Nhập khẩu Việt Nam có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với Trụ Sở Chính đặt tại TP. Hồ Chí Minh và 207 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc và đã thiết lập quan hệ đại lý với 869 ngân hàng tại 84 quốc gia trên thế giới.
Năm 2022, Eximbank nhận giải thưởng chất lượng thanh toán quốc tế xuất sắc từ Wells Fargo
Các dịch vụ của Eximbank.
Eximbank cung cấp đầy đủ các dịch vụ, cụ thể như sau:
Bê bối.
Ngày 22-02-2018, Ngân hàng Eximbank thông báo, ông Lê Nguyễn Hưng - nguyên giám đốc Eximbank Chi nhánh TP.HCM - bị tố làm giả hồ sơ, giấy ủy quyền để chiếm đoạt hơn 245 tỉ đồng của khách hàng Chu Thị Bình rồi bỏ trốn ra nước ngoài. Theo luật sư của bà Bình, chữ ký người được ủy quyền là chữ ký giả và bà Bình chưa bao giờ tới ngân hàng để làm giấy ủy quyền.
Sáng 26-03-2018, hai nhân viên phòng khách hàng là Hồ Ngọc Thủy và Nguyễn Thị Thi bị bắt vì cho rằng có vai trò là đồng phạm, giúp sức cho ông Lê Nguyễn Hưng chiếm đoạt 245 tỉ đồng tiết kiệm. Ngoài ra 3 nhân viên khác cũng bị khởi tố và cấm đi khỏi nơi cư trú.
Ngoài ra tại chi nhánh Đô Lương, Nghệ An, ông Nguyễn Tiến Nam một khách hàng làm đơn đòi trả lại số tiền thất thoát trong số 28 tỷ đồng ông gửi tiết kiệm tại ngân hàng Eximbank, hiện chỉ còn có 195 triệu đồng. Ông Nam là 1 trong 6 nạn nhân mất tổng cộng 50 tỷ khi gửi tiết kiệm tại Eximbank chi nhánh Đô Lương.
Ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Eximbank) vừa thông báo nhận được đơn từ nhiệm của 2 thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) là ông Nguyễn Hiếu và ông Nguyễn Thanh Hùng vào ngày 5/4. | 1 | null |
Alain Marie Juppé (phát âm tiếng Pháp: [alɛ̃ ʒype]; sinh 15 tháng 8 năm 1945) là một chính trị gia người Pháp, Ông đã là chủ tịch chính đảng đảng liên minh vì phong trào nhân dân từ năm 2002 đến 2004. Ông đã đảm nhiệm chức vụ bộ trưởng ngoại giao Pháp từ năm 2011 đến 2012. Ông cũng từng là thủ tướng Pháp từ năm 1995 đến năm 1997 dưới thời tổng thống Jacques Chirac và giữ chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Cựu chiến binh từ năm 2010 đến 2011. Ông đã giữ chức bộ trưởng Bộ ngoại giao từ năm 1993 đến năm 1995, và Bộ trưởng Bộ Ngân sách và Phát ngôn viên của Chính phủ từ năm 1986 đến năm 1988.
Trong tháng 12 năm 2004, Juppé đã bị kết án về xử lý sai công quỹ. Sự nghiệp chính trị của ông sau đó đã được bị đình chỉ cho đến khi ông được bầu làm thị trưởng thành phố Bordeaux vào tháng 10 năm 2006. Ông đã có thời gian ngắn làm quốc vụ khanh về sinh thái và phát triển bền vững trong năm 2007, nhưng từ chức vào tháng 6 năm 2007 sau khi thất bại trong nỗ lực tranh cử trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2007. Ông vẫn là thị trưởng thành phố Bordeaux. Ngày 10 tháng 5 năm 2012, Juppé cùng với những thành viên khác của nội các, trong đó có Thủ tướng François Fillon thôi chức sau thất bại của tổng thống Nicolas Sarkozy trong cuộc bầu cử tổng thống. Kết quả là một nội các mới được bổ nhiệm bởi François Hollande sau khi ông tuyên thệ nhậm chức tổng thống Pháp, và Laurent Fabius kế nhiệm Alain Juppé nắm giữ chức vụ bộ trưởng ngoại giao Pháp. | 1 | null |
Naval Aircraft Factory SBN là một loại máy bay ném bom tuần thám/ném bom ngư lôi của Hoa Kỳ, do hãng Brewster Aeronautical Corporation thiết kế và hãng Naval Aircraft Factory chế tạo theo giấy phép ở Philadelphia, Pennsylvania. Càng đáp của SBN giống với càng đáp của máy bay tiêm kích Brewster F2A Buffalo. | 1 | null |
Liên minh vì Phong trào Nhân dân (tiếng Pháp: "Union pour un Mouvement Populaire") là một chính đảng trung hữu ở Pháp. Đây là một trong hai chính đảng lớn ở Pháp cùng với đảng trung tả là Đảng xã hội (PS). UMP được thành lập vào năm 2002 thông qua sự hợp nhất của một số đảng trung hữu dưới thời tổng thống Jacques Chirac.
Cựu lãnh đạo đảng UMP, Nicolas Sarkozy, đã được bầu làm tổng thống Pháp trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2007, nhưng đã bị đánh bại bởi ứng cử viên Đảng xã hội François Hollande trong cuộc bầu cử năm năm sau đó. Đảng này đã nắm giữ đa số tuyệt đối trong Quốc hội Pháp từ 2002 đến năm 2012. Jean-Francois Cope tổng bí thư đảng. UMP là một thành viên của đảng nhân dân châu Âu (EPP), đảng dân chủ ôn hòa quốc tế (CDI) và Liên minh quốc tế của các đảng dân chủ (IDU).
Sau Đại hội Đảng trong tháng 11 năm 2012, UMP trải qua quá trình phân tán nội bộ và bị tai tiếng bởi những vụ xì căng đan tiền tệ khiến chủ tịch Jean-François Copé phải từ chức. Sau khi tái đắc cử chức vụ chủ tịch UMP vào tháng 11 năm 2014, ông Sarkozy đưa ra một sửa đổi để thay đổi tên của đảng thành Những người Cộng hòa (Les Républicains), được thông qua và có hiệu lực từ ngày 30 tháng 5 năm 2015. | 1 | null |
Vought SB2U Vindicator là một loại máy bay ném bom bổ nhào trên tàu sân bay của Hoa Kỳ, nó được phát triển cho Hải quân Hoa Kỳ vào thập niên 1930, đây là mẫu máy bay một tầng cánh đầu tiên của loại máy bay ném bom bổ nhào. Vindicator vẫn tiếp tục phục vụ khi chiến tranh thế giới II nổ ra, đặc biệt là trong thời gian diễn ra Trận Midway, đến năm 1943 nó bắt đầu chuyển sang các đơn vị huấn luyện. Hải quân Hoàng gia gọi Vindicator bằng cái tên Chesapeake. | 1 | null |
Trận Kompong Speu là một trận đánh trong Chiến tranh Việt Nam tại Campuchia, diễn ra vào ngày 12 tháng 6 năm 1970 khi lực lượng phối hợp Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân lực Quốc gia Khmer đã chiến đấu để tái chiếm thủ phủ tỉnh Kompong Speu. Thị trấn đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm ngày 13 tháng 6 nhưng được liên quân Việt-Miên chiếm lại vào ngày 16 tháng 6 năm 1970. | 1 | null |
Trận Prey Veng là một phần chiến dịch quân sự của lực lượng phối hợp Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân lực Quốc gia Khmer trong Chiến tranh Việt Nam tại Campuchia, diễn ra ở Prey Veng vào ngày 15 tháng 6 năm 1970, nơi liên quân Việt-Miên chiến đấu với Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam. Trận đánh kết thúc với chiến thắng của Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa Khmer.
Tham khảo.
Bowman S. John (1989) The Vietnam War: Day by Day. Bison Group, London. ISBN 0-7924-5087-6 | 1 | null |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.