text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Khướu mỏ dẹt đầu đen (danh pháp khoa học: Psittiparus margaritae) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc xếp trong phân họ Paradoxornithinae của họ Sylviidae.
Loài chim này được tìm thấy ở miền đông Campuchia và miền nam Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm thấp miền núi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Khướu mỏ dẹt ba ngón (danh pháp khoa học: Cholornis paradoxa) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc trong phân họ Paradoxornithinae của họ Sylviidae.
Tên gọi khoa học "paradoxa"/"paradoxus" có nghĩa là kỳ dị, do chân nó chỉ có 3 chứ không phải 4 ngón. Nó là loài đặc hữu miền trung Trung Quốc. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng ôn đới. | 1 | null |
Khướu mỏ dẹt ngực đen (danh pháp khoa học: Paradoxornis flavirostris) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc xếp trong phân họ Paradoxornithinae của họ Sylviidae.
"Paradoxornis flavirostris" là loài đặc hữu của tiểu lục địa Ấn Độ mà trong thời hiện đại có thể là đất nước Ấn Độ, nơi nó được biết đến từ vùng đồng bằng và chân đồi của thung lũng Brahmaputra ở Arunachal Pradesh và Assam. Trong quá khứ, nó cũng từng được ghi nhận ở Bangladesh và có thể là cả ở miền đông Nepal. Nó từng là một loài phổ biến rộng rãi và thường thấy ở địa phương. Tuy nhiên, các ghi nhận gần đây chỉ có từ 5 khu bảo tồn ở đông bắc Ấn Độ, bao gồm 1 ở Arunachal Pradesh (Khu bảo tồn sinh vật hoang dã D'Ering), 1 ở Manipur (Vườn quốc gia Keibul Lamjao) và 3 ở Assam (một ở Vườn quốc gia Kaziranga, một ở Vườn quốc gia Manas và một ở Vườn quốc gia Dibru-Saikhowa). | 1 | null |
Khướu mỏ dẹt cằm đen hay khướu mỏ dẹt ngực đốm (danh pháp khoa học: Paradoxornis guttaticollis) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc xếp trong phân họ Paradoxornithinae của họ Sylviidae.
Loài này được tìm thấy ở Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Khu vực phân bố cụ thể như sau: Ấn Độ (cực đông Arunachal Pradesh, nam Assam, Meghalaya, Nagaland, Manipur, Mizoram); đông Bangladesh; tây, bắc, đông và đông nam Myanmar; tây bắc Thái Lan, bắc Lào; Việt Nam (tây và đông Bắc Bộ); Trung Quốc (nam Cam Túc và nam Thiểm Tây về phía nam tới trung tây Tứ Xuyên và Vân Nam, và về phía đông qua Quý Châu, bắc Quảng Tây và bắc Quảng Đông tới bắc Phúc Kiến). | 1 | null |
Khướu mỏ dẹt mắt kính (danh pháp khoa học: Sinosuthora conspicillata) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc phân họ Paradoxornithinae trong họ Sylviidae.
Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Khướu mỏ dẹt bé (danh pháp khoa học: Sinosuthora webbiana) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc xếp trong phân họ Paradoxornithinae của họ Sylviidae.
Nó được tìm thấy tại Trung Quốc, Bán đảo Triều Tiên, Mông Cổ, Nga, Đài Loan, và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng ẩm ướt miền núi nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới.
Mô tả.
Khướu mỏ dẹt bé là loài khướu mỏ dẹt tương đối nhỏ và có đuôi dài. Chiều dài của nó khoảng . Trọng lượng cơ thể có sự khác biệt nhẹ giữa hai giới, với chim trống cân nặng và chim mái cân nặng . Đuôi thuôn đều và giống như các loài khướu mỏ dẹt khác thì mỏ của nó ngắn và lỗ mũi được che khuất bởi các lông ria cứng. Bộ lông là tương tự ở cả hai giới, ở phân loài danh định thì phần phía lưng có màu nâu ấm áp, nâu sẫm ở cánh (nhuốm màu nâu hạt dẻ trên các lông bay). Ngực trên và họng có màu kem ánh hồng với các vệt nâu trên phần họng. Hai bên hông có màu tương tự như phần lưng nhưng hơi có ánh vàng nâu da bò, còn phần bụng có màu kem-vàng nâu da bò hòa dần vào màu phía ngực. Chỏm đầu và trán có màu nâu đỏ hồng, với mống mắt màu xám nhạt và mỏ hoặc là màu xám đá phiến hoặc màu nâu với chóp mỏ nhạt màu hơn hoặc có màu vàng.
Tập tính.
Giống như các loài khướu mỏ dẹt khác và các loài khướu trong họ Khướu, khướu mỏ dẹt nhỏ là loài có tính xã hội cao, thường bắt gặp trong các nhóm. Các đàn chim này dao động về quy mô trong suốt cả năm, với số lượng xuống thấp nhất trong mùa sinh sản và tăng lên nhiều tới 140 con trong mùa đông. Các thành viên của các đàn khướu mỏ dẹt mùa đông tại Đài Loan được một nghiên cứu mô tả là bao gồm bốn loại thành viên là: các thành viên cốt lõi không bao giờ rời bỏ đàn; các thành viên thường xuyên thì nói chung sinh sống trong đàn nhưng đôi khi lại gia nhập hay di chuyển sang đàn khác; các thành viên trôi nổi thì di chuyển giữa các đàn khác nhau; và các thành viên ngoại biên thường sống trong đàn không quá 2 tháng và được cho là những kẻ viếng thăm đến từ khu vực khác. Phạm vi của các đàn khướu mỏ dẹt mùa đông lớn có thể chồng lấn lên phạm vi của các đàn khướu mỏ dẹt khác và các đàn khi di chuyển gần nhau thì cùng duy trì sự cố kết trong đàn của mình.
Phân loại và hệ thống học.
Khướu mỏ dẹt bé được John Gould mô tả năm 1852 và đặt trong chi "Suthora", nơi nó được xếp cùng các loài khướu mỏ dẹt bé khác có màu nâu hơn. Sau này khi các loài khướu mỏ dẹt được sáp nhập vào 2 chi là "Conostoma" và "Paradoxornis" thì loài này được xếp trong chi "Paradoxornis". Các nghiên cứu DNA gần đây cho thấy chi "Paradoxornis" nghĩa rộng là cận ngành, và điều đó có nghĩa là nó nên được chia tách ra. Từng có đề xuất cho rằng khướu mỏ dẹt bé nên được đặt trong chi "Sinoparadoxornis". Khướu mỏ dẹt bé có quan hệ họ hàng rất gần với khướu mỏ dẹt họng xám, và các trường hợp lai ghép giữa hai loài này đã được ghi nhận tại Việt Nam và Trung Quốc, cũng như tại Italia, nơi mà chúng đã được du nhập vào
Tính từ định danh "webbiana" là để vinh danh nhà thực vật học người Anh là Philip Barker Webb. Vì thế, đôi khi trong tiếng Anh người ta gọi nó là Webb's parrotbill (khướu mỏ dẹt Webb).
Môi trường sống và dịch chuyển.
Khướu mỏ dẹt bé có khu vực sinh sống trải rộng từ miền bắc Việt Nam tới miền nam Mãn Châu, và chiếm lĩnh một khoảng rộng các môi trường sống trong khu vực này. Nói chung nó thường được tìm thấy trong các môi trường sống đồng rừng hơi thưa, bao gồm các vùng cây bụi, đồng rừng thuộc các giai đoạn thứ cấp từ kế tục sớm tới trưởng thành muộn, bìa rừng, các bụi rậm và các lùm tre trúc. Nó cũng chiếm lĩnh các bờ giậu, các đám lau sậy và đầm lầy. Chúng cũng thích nghi với các môi trường sống bị con người biến đổi như các đồn điền, trang trại trồng chè hay các vườn ươm cây. Tại Trung Quốc nó được tìm thấy trong các khu vực núi thấp, tại Tứ Xuyên nó bị thay thế từ độ cao trên mực nước biển trở lên bởi khướu mỏ dẹt họng xám, trong khi tại Đài Loan, nơi nó là loài khướu mỏ dẹt duy nhất, thì nó chiếm các cao độ từ sát mực nước biển cho tới độ cao và như thế nó là loài chim chiếm hốc sinh thái rộng nhất trong số các loài chim có trên hòn đảo này. | 1 | null |
Khướu mỏ dẹt họng xám hoặc khướu mỏ dẹt Vân Nam (danh pháp khoa học: Sinosuthora alphonsiana) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc phân họ Paradoxornithinae trong họ Sylviidae.
Tên gọi khướu mỏ dẹt Vân Nam sẽ tranh chấp với loài có danh pháp "Sinosuthora ricketti" (hiện đang xem xét tách ra từ "Sinosuthora brunnea"), vì thế tại đây dùng tên gọi khướu mỏ dẹt họng xám làm tên gọi chính.
Loài này có phân bố tại trung nam Trung Quốc và miền bắc Việt Nam. Nó cũng có thể đã tự nhiên hóa trong một khu vực ở Italia. | 1 | null |
Khướu mỏ dẹt vàng (danh pháp khoa học: Suthora verreauxi) là một loài chim trong họ Paradoxornithidae hoặc xếp trong phân họ Paradoxornithinae của họ Sylviidae.
Môi trường sống tự nhiên của nó là những cánh rừng miền núi ẩm thấp nhiệt đới hay cận nhiệt đới.
Tên khoa học của nó là nhằm vinh danh nhà điểu học người Pháp là Jules Verreaux. | 1 | null |
Paradoxornis heudei là một loài chim trong họ Sylviidae.
Mỏ dẹt cằm đen được tìm thấy ở Mãn Châu và phía đông Trung Quốc. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống.
Phân loài Bắc P. h. Polivanovi đôi khi được coi là một loài riêng biệt, mỏ dẹt phương bắc. | 1 | null |
Staphida castaniceps là một loài chim trong họ Zosteropidae.
Loài chim này được tìm thấy từ dãy Himalaya đến tây bắc Thái Lan. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Khướu mào gáy trắng (danh pháp hai phần: "Yuhina bakeri") là một loài chim trong họ Zosteropidae.
Khướu mào gáy trắng phân bố ở Himalayas đến bắc Myanmar. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ôn đới và rừng nhiệt đới ẩm vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Yuhina occipitalis là một loài chim trong họ Zosteropidae.
Loài chim này được tìm thấy dọc theo các phần phía bắc của tiểu lục địa Ấn Độ, chủ yếu ở dãy Himalaya phía đông và nằm ngang qua Bhutan, Ấn Độ, Tây Tạng, Myanmar và Nepal. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Yuhina nigrimenta là một loài chim trong họ Zosteropidae.
Loài này được tìm thấy ở tiểu lục địa Ấn Độ từ dãy Himalaya về phía đông tới các vùng đồi núi tiếp giáp của Đông Nam Á. Loài này phân bố khắp Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Tây Tạng và Thái Lan. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng đất cao. | 1 | null |
Apalopteron familiare hay là một loài chim có kích thước nhỏ đặc hữu quần đảo Ogasawara (còn gọi là quần đảo Bonin) của Nhật Bản. Trước đây nó được xem là một phần của họ Meliphagidae.
Một đặc điểm nổi bật của loài chim này là một vòng trắng vây quanh mắt, với vá lông đen xung quanh.
Hiện nay phạm vi phân bố của nó bị giới hạn ở đảo Haha-jima. Trước đây nó còn được tìm thấy trên đảo Chichi-jima. Vi phạm vi phân bố nhỏ, đây được xem là một loài sắp bị đe dọa.
Một phân loài, "Apalopteron familiare familiare", đã tuyệt chủng. | 1 | null |
A. ruficollis, đồng nghĩa: "Madanga ruficollis" là một loài chim trước đây xếp trong họ Zosteropidae.
Nó là loài đặc hữu các khu rừng nhiệt đới ẩm ướt miền núi thuộc đảo Buru ở Indonesia.
Một bài báo gần đây cho rằng nó có quan hệ họ hàng gần với các loài chim manh ("Anthus" spp.) thuộc họ Motacillidae, cụ thể là gần với "Anthus gutturalis". HIện tại IOC đã chuyển nó sang họ Motacillidae. | 1 | null |
Vành khuyên vàng châu Phi, tên khoa học Zosterops senegalensis, là một loài chim trong họ Zosteropidae.
Phân bố.
Nó được tìm thấy trong Angola, Bénin, Botswana, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Comoros, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ivory Coast, Guinea Xích Đạo, Eritrea, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Guinée, Guinea-Bissau, Kenya, Liberia, Malawi, Mali , Mauritanie, Mozambique, Namibia, Niger, Nigeria, Rwanda, Sénégal, Sierra Leone, Nam Phi, Sudan, Tanzania, Togo, Uganda, Zambia và Zimbabwe. Môi trường sống của loài này là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, xavan ẩm, và rừng cây bụi cận nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới khô. | 1 | null |
Zosterops abyssinicus là một loài chim trong họ Zosteropidae.
Đây là loài bản địa đông bắc châu Phi và nam Ả Rập.
Thân dài 10–12 cm. Phân lông trên lưng có màu xanh lá cây; tối màu hơn và xám hơn ở giống phía bắc. Có một vòng trắng hẹp quanh mắt và một đường đen mảnh giữa mỏm và mắt. Phần lông dưới thay đổi từ màu vàng nhạt đến màu trắng xám tùy thuộc giống. Tại châu Phi, loài này phân bố từ đông bắc nam Sudan qua Eritrea, Ethiopia, Somaliland và Kenya đến đông bắc Tanzania. Loài này cũng được tìm thấy trên đảo Socotra. Ở Ả Rập, loài này hiện diện ở tây nam Ả Rập Xê Út, Yemen và nam Oman. Chúng xuất hiện trong rừng thưa, cây bụi, wadis và vườn. Chúng được tìm thấy ở độ cao 1.800 mét so với mực nước biển ở châu Phi và 3.100 mét ở Ả Rập. Chúng thường kiếm ăn giữa các cành cây nhưng đôi khi đi xuống mặt đất. Chúng ăn côn trùng chủ yếu và cũng ăn mật hoa. | 1 | null |
Vành khuyên Nhật Bản (danh pháp hai phần: Zosterops japonicus) là một loài chim trong họ Zosteropidae.
Phạm vi bản địa của loài này bao gồm phần lớn châu Á, gồm Nhật Bản, Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, Đài Loan và Philippines. Loài này đã được du nhập vào nhiều nơi khác trên thế giới để làm chim cảnh và kiểm soát loài gây hại.
Loài này là loài ăn tạp, có chế độ ăn trái cây từ một số loài thực vật có hoa, các loại côn trùng, và mật hoa ở tất cả các cấp độ của tán lá. Chúng ăn côn trùng bằng cách tìm kiếm chúng ở dưới lá, hoa và vỏ cây.
Chim có màu xanh ô liu trên lưng, từ phía trước đến phía sau, và có màu xanh lục nhạt ở mặt dưới. Bàn chân, chân và mỏ của nó có màu từ đen đến nâu. Chim có đôi cánh tròn và chiếc mỏ dài, mảnh - cả hai đều cho thấy loài chim này có khả năng nhào lộn rất tốt. Cánh của nó có màu nâu sẫm, nhưng viền ngoài có màu xanh lục. Con trưởng thành có chiều dài từ 4 đến 4,5 inch, và nặng từ 9,75 đến 12,75 gam.
Loài chim này còn được gọi với tên "mejiro" ("mejiro" cũng có nghĩa là "mắt trắng" trong tiếng Nhật).
Phân loại.
Có 15 phân loài được công nhận, nhiều trong số đó là loài đặc hữu: | 1 | null |
Chim cỏ Ấn Độ (tên khoa học: Graminicola bengalensis) là một loài chim trong họ Pellorneidae, nhưng trước đây từng xếp trong họ Sylviidae.
Trước đây chi "Graminicola" được coi là chỉ chứa 1 loài duy nhất là loài này. Do đó khu vực phân bố của nó được coi là trải dài từ bắc Ấn Độ qua bắc Việt Nam tới đảo Hải Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khi chia tách phức hợp loài này thành hai loài riêng rẽ là "Graminicola bengalensis" và "Graminicola striatus" thì phạm vi phân bố của nó chỉ còn miền bắc Ấn Độ, nam Nepal, nam Bhutan và bắc Bangladesh.
Loài "Graminicola striatus" có phạm vi phân bố từ đông nam Trung Quốc ("G. striatus sinicus") và từ đông nam Myanma, nam-trung Thái Lan, đông bắc Việt Nam tới đảo Hải Nam ("G. striatus striatus"). Tên gọi chích đuôi dài trong tiếng Việt là tên chính thức của loài này khi cho rằng chi "Graminicola" chỉ có 1 loài, nhưng theo nguyên tắc phải là của loài có ở Việt Nam, vì thế nó được chuyển cho "Graminicola striatus". | 1 | null |
Khướu đuôi dài (danh pháp hai phần: Gampsorhynchus rufulus) là một loài chim trong họ Pellorneidae.
Nó được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Myanma, Nepal, Thái Lan, Việt Nam.
Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới cận nhiệt đới và rừng núi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
"Lách tách họng hung"', tên khoa học Schoeniparus rufogularis, là một loài chim trong họ Leiothrichidae. Loài này được tìm thấy ở Tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á, phân bố qua Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Thái Lan, và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Lách tách họng vàng, tên khoa học Schoeniparus cinereus, là một loài chim trong họ Leiothrichidae. Loài này phân bố ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng trên núi ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Lách tách đầu hung hay Lách tách chóp bạc màu (danh pháp hai phần: Schoeniparus dubia) là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Nó được tìm thấy ở Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Malacopteron magnum là một loài chim trong họ Pellorneidae.
Loài chim này được tìm thấy ở Brunei, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, và Thái Lan. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Loài này bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Garrulax monileger là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Khướu khoang cổ được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Garrulax strepitans là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này được tìm thấy ở Vân Nam, Lào, Myanmar và Thái Lan. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
Mô tả.
Chim trưởng thành dài khoảng 32 cm và có túm lông đỉnh đầu màu hạt dẻ, mặt và cổ họng màu nâu đen và lông cổ trắng khá rộng ngăn cách chúng với cơ thể. Bộ lông chung có màu xám nâu nhạt. Mống mắt sẫm màu, mỏm và chân màu xám. Chúng có tiếng kêu như tiếng cười. | 1 | null |
Garrulax ferrarius là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này từng được coi là đặc trưng của loài khướu cổ trắng, "G. strepitans". Chúng được tìm thấy ở Tây Nam Campuchia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Garrulax maesi là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này được tìm thấy ở miền nam Trung Quốc, viễn bắc Lào và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Garrulax castanotis là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này trước đây được coi là có ý nghĩa "G. maesi". Loài này được tìm thấy ở Trung Quốc, Lào và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Ianthocincla sukatschewi là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Đây là loài đặc hữu của miền bắc Trung Quốc, nơi sinh sống tự nhiên của nó là rừng ôn đới. Loài chim này bị đe dọa do mất môi trường sống.
Loài chim này đã có lúc được đặt vào chi "Garrulax" nhưng sau khi công bố một nghiên cứu phát sinh phân tử toàn diện vào năm 2018, nó đã được chuyển sang chi tái lập "Ianthocincla". Tên cụ thể tôn vinh thương gia, nhà từ thiện và nhà sưu tập người Nga Vladimir Platonovich Sukachev (1849-1919). | 1 | null |
Ianthocincla maximus là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này được tìm thấy ở miền trung Trung Quốc và xa phía bắc Ấn Độ và Myanmar. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ôn đới.
Loài chim này đã có lúc được đặt vào chi "Garrulax" nhưng sau khi công bố một nghiên cứu phát sinh phân tử toàn diện vào năm 2018, nó đã được chuyển đến chi tái lập "Ianthocincla". | 1 | null |
Pterorhinus caerulatus là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài này được tìm thấy ở Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar, Nepal, Đài Loan và quần đảo Hawaii (nơi mà chúng được du nhập). Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Pterorhinus poecilorhynchus là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này được tìm thấy ở Đài Loan. Loài này trước đây bao gồm các trò cười trâu bò của Trung Quốc đại lục như là một phân loài. So với tiếng cười rỉ sét, tiếng cười của con trâu có phần dưới màu xám nhạt hơn, đôi cánh dại tương phản hơn, đầu trắng rộng hơn ở đuôi và lores đen khác biệt.
Loài này trước đây được đặt trong chi Garrulax nhưng sau khi công bố một nghiên cứu phát sinh phân tử toàn diện vào năm 2018, nó đã được chuyển đến chi tái lập Pterorhinus. | 1 | null |
Pterorhinus mitratus là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này được tìm thấy ở Sumatra (Indonesia) và Bán đảo Thái-Mã Lai.
Môi trường sống tự nhiên của loài này là vùng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Trước đây loài này được coi là một phân loài.
"Pterorhinus mitratus" trước đây được xếp vào chi "Garrulax"nhưng sau khi công bố một nghiên cứu phát sinh loài phân tử toàn diện vào năm 2018, nó đã được chuyển sang chi hồi sinh "Pterorhinus". | 1 | null |
Pterorhinus treacheri là danh pháp khoa học của một loài chim thuộc họ Kim oanh (Leiothrichidae). Đây là loài đặc hữu của đảo Borneo. Loài này được nhà điểu học người Anh Richard Bowdler Sharpe mô tả như một loài riêng biệt vào năm 1879, sau đó chúng được coi là một phân loài của "Pterorhinus mitratus" cho đến khi được các nhà điểu học Nigel Collar và Craig Robson phân loại lại thành một loài độc lập vào năm 2007. Chim dài , với đầu và cằm màu nâu hạt dẻ và có phần lông màu xám trên đỉnh đầu. Phần trên và hai bên có màu xám đen với một mảng cánh dài màu trắng. Cổ họng, ngực và phần bụng trên có màu nâu vàng xỉn. Hai bên sườn có màu xám thuần và đầu lỗ huyệt, bụng dưới và đùi màu nâu đỏ. Chim có viền mắt nửa vòng màu vàng ở phía sau và bên dưới mắt, trong khi đuôi có chóp màu đen. Cả hai giới đều trông giống nhau, trong khi con non có màu xỉn hơn con trưởng thành.
"Pterorhinus treacheri" sinh sống ở rừng trên núi và đồi, thảm thực vật bị xáo trộn và các khu vực canh tác trên núi ở trung và đông nam Borneo. Chúng chủ yếu được tìm thấy ở độ cao , nhưng cũng có thể được tìm thấy từ thấp tới đến cao tới . Đây là loài ăn tạp, với khẩu phần gồm động vật chân khớp, trái cây và hoa. Loài này sinh sản từ tháng 2 đến tháng 4 và trong tháng 10, khi chúng xây tổ hình cốc và đẻ hai quả trứng màu xanh lam sáng đến xanh lục. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phân loại "Pterorhinus treacheri" là loài ít quan tâm do có phạm vi phân bố rất rộng, tổng số cá thể khá lớn và không có suy giảm quần thể đáng kể. Tuy nhiên, số lượng cá thể được cho là đang giảm và phá hủy và phân mảnh sinh cảnh là các yếu tố đe dọa sự tồn vong của loài.
Phân loại và hệ thống.
"Pterorhinus treacheri" được nhà điểu học người Anh Richard Bowdler Sharpe mô tả lần đầu tiên vào năm 1879, đặt danh pháp của loài là "Ianthocincla treacheri", dựa trên mẫu vật từ núi Kinabalu ở Borneo. Sharpe sau đó chuyển loài này sang chi "Rhinocichla" vào 1883. Sau đó, "P. treacheri" được coi là một phân loài của "Pterorhinus mitratus" và đồng thời được chuyển sang chi "Garrulax" như một phần của "P. mitratus". Năm 2007, các nhà điểu học Nigel Collar và Craig Robson khôi phục lại "Pterorhinus treacheri" với tình trạng loài đầy đủ. Theo một nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử toàn diện công bố năm 2018, "P. treacheri" được chuyển sang chi tái lập "Pterorhinus".
Tên của chi, "Pterorhinus", bắt nguồn từ từ Hy Lạp cổ đại "pteron" (lông vũ) và "rhinos" (lỗ mũi). Tên loài "treacheri" được đặt theo tên của William Hood Treacher, một nhà quản lý thuộc địa Anh, Thống đốc thuộc địa Bắc Borneo thuộc Anh. "Chestnut-hooded laughingthrush" là tên thông thường chính thức do Liên minh Điểu học Quốc tế (IOU) chỉ định.
"Pterorhinus treacheri" là một trong 133 loài được IOU công nhận thuộc họ Kim oanh (Leiothrichidae), một họ chim đa dạng được tìm thấy trên khắp châu Phi, Tây Á, Nam Á, Đông Nam Á và Trung Quốc. Trong họ này, nó là một trong 23 loài hiện được phân loại thuộc chi "Pterorhinus". Một nghiên cứu phát sinh loài năm 2019 của Tianlong Cai và các đồng nghiệp đã phát hiện rằng "Pterorhinus treacheri" có quan hệ họ hàng gần gũi nhất với "Pterorhinus mitratus". Hai loài này là nhóm chị em với một nhánh gồm các loài "Pterorhinus ruficollis", "Pterorhinus nuchalis" và khướu bạc má.
Phân loài.
Hiện có ba phân loài của "Pterorhinus treacheri" được công nhận. Phân loài sinh sống ở phía tây và đông nam Borneo không được mô tả.
Miêu tả.
"Pterorhinus treacheri" dài , với cả hai giới đều có hình thái giống nhau. Ở phân loài đại diện, cằm, vùng giữa mắt và mỏ, dải lông trên mắt, lông quanh lỗ mũi và vùng xung quanh gốc mỏ có màu nâu hạt dẻ. Trán, phần trước đỉnh đầu và vùng từ mắt xuống cằm có màu sẫm hơn, với một số lông màu trắng xám trên đỉnh đầu. Cổ họng, ngực và phần bụng trên có màu nâu vàng xỉn pha chút xám và có vệt màu nâu vàng xỉn. Hai bên sườn có màu xám thuần hơn. Bụng dưới, đùi và lông quanh lỗ huyệt có màu nâu đỏ. Vùng cổ bên và phần trên có màu xám đen pha chút nâu vàng với một mảng dài màu trắng trên lông sau cánh. Đuôi có màu xám đậm hơn và có chóp màu đen. Mống mắt có màu đỏ đến nâu đỏ, với nửa vòng màu vàng quanh phía sau và bên dưới mắt. Mỏ có màu cam xỉn đến nâu vàng. Chân có màu hơi vàng.
Con non xỉn màu hơn con trưởng thành. "P. t. damnatus" có bộ ngực xỉn màu hơn và ít sọc hơn, trong khi "P. t. griswoldi" có lông quanh lỗ huyệt đậm màu hạt dẻ hơn. Loài này khác với "Pterorhinus mitratus" ở chỗ lông quanh lỗ mũi, vành mắt màu vàng (thay vì màu trắng) chỉ xuất hiện phía sau và bên dưới mắt, cằm màu nâu hạt dẻ, phần trên xám hơn, phần dưới nhạt màu hơn và lông trên đỉnh đầu xám hơn. Các phân loài chưa được mô tả ở phía tây và đông nam Borneo khác với ba phân loài trên ở chỗ phần dưới có màu đào (thay vì màu xám bò), xuất hiện các mảng màu trắng bên dưới mắt và không có vệt lông trên ngực.
Tiếng kêu.
Tiếng kêu của "Pterorhinus treacheri" là giai điệu "chu-wu, chwi-wi-wi-wi-wiee-wiu-wu" với những nốt bắt đầu khá chói tai, hoặc giai điệu lên xuống "wiu-wu-wu-wi-wi-wee-wu". Chim cũng tạo ra một chuỗi âm vực đều lên tới 12 nốt "wi", "wu-tuwu-tuwu" hoặc "ri'-ri'-ri", và tất cả đều được ngắt quãng bằng "to-we-oh to-we-oh". Tiếng kêu của loài là một âm thanh khàn đặc, gay gắt, trong khi tiếng kêu liên lục là âm thanh "ah-ah-ah-ah" nhẹ nhàng, giảm dần. Các nốt liên lạc cũng có thể được phát ra đơn lẻ.
Phân bố và môi trường sống.
"Pterorhinus treacheri" là loài đặc hữu của Borneo. Chúng được tìm thấy ở các dãy núi trung tâm phía bắc từ núi Kinabalu đến Barito Ulu, cùng với dãy núi Meratus ở phía đông nam hòn đảo. Loài này sinh sống ở rừng thường xanh trên núi và rừng trên đồi, bìa rừng, rừng thứ sinh, thảm thực vật bị xáo trộn và các khu vực canh tác ngắn ngày trên các cánh đồng lúa cũ. Chúng thường được tìm thấy ở độ cao , nhưng đôi khi cũng có thể xuất hiện ở độ cao thấp tới và cao tới .
Hành vi và sinh thái học.
"Pterorhinus treacheri" kiếm ăn theo nhóm nhỏ gồm 4–5 cá thể, thường tham gia vào các cùng với "Coracina larvata", "Garrulax palliatus", "Calyptomena whiteheadi" và "Harpactes whiteheadi". Những đàn này cũng có thể bao gồm các loài trên mặt đất thuộc chi "Tupaia" (Bộ Nhiều răng) và chi "Dremomys" (họ Sóc), và các loài trên tán cây thuộc chi "Sundasciurus" (họ Sóc).
Kiếm ăn.
"Pterorhinus treacheri" là loài ăn tạp. Chúng ăn các loài động vật chân đốt như châu chấu, kiến, dế, sâu tai, bướm đêm, sâu bướm, rầy xanh, ấu trùng bọ, ruồi, bọ cánh cứng nhỏ màu đen và cuốn chiếu nhỏ. Chúng cũng ăn các loại trái cây "Glochidion", "Macaranga", "Trema cannabina", "Embelia ribes", "Sambucus" và cây họ Mua như "Medinilla," cùng với hoa của loài "Passiflora edulis" xâm lấn và cả trái và hoa của "Rhodamnia".
Loài này kiếm ăn bằng cách nhảy lên các cành xiên theo cách giống gõ kiến mà không dùng đuôi để hỗ trợ, và chúng bắt côn trùng trên bề mặt. Đôi khi chim bám vào các bề mặt thẳng đứng như thân dương xỉ. Loài cũng kiếm ăn trên nền rừng và bãi cỏ giống như các loài chim hoét thuộc chi "Turdus", với cái đuôi giơ lên. Chúng đã được ghi nhận ăn kiến bay không thể bay và côn trùng bị xe đâm. Chúng kiếm ăn chủ yếu trong phạm vi vài mét tính từ mặt đất, nhưng đôi khi cũng kiếm ăn trong tán cây.
Sinh sản.
Mùa sinh sản của loài được quan sát từ tháng 2 đến tháng 4 và tháng 10. Tổ hình chén là một tổ hợp rời rạc được làm từ thân cỏ, tua, lá chết và rễ, với bên ngoài là khung lá, lá dương xỉ và lông vũ và không có lớp lót bên trong. Nó được xây ở độ cao khoảng trong một đám dây leo hoặc dương xỉ treo trên một cây nhỏ. Mỗi lứa có hai quả trứng bóng, màu xanh lam sáng đến xanh lục.
Tình trạng.
"Pterorhinus treacheri" được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế phân loại là loài ít quan tâm do có phạm vi phân bố rất rộng, số lượng cá thể khá lớn và quần thể không bị suy giảm đáng kể. Chúng phổ biến ở các vùng núi của Borneo và xuất hiện ở một số khu vực bảo tồn, như Vườn quốc gia Kayan Mentarang và Công viên Kinabalu. Tuy nhiên, quần thể loài hiện được cho là đang suy giảm do sự phá hủy và phân mảnh sinh cảnh. | 1 | null |
Garrulax canorus là một loài chim trong họ Leiothrichidae. Tên gọi "họa mi" nghĩa là "được vẽ lên mi mắt" để chỉ quầng lông sáng màu quanh mắt đặc trưng của loài.
Phân bố và môi trường sống.
Phân loài đề cử "G. c. canorus" phân bố trên khắp đông nam và miền trung Trung Quốc, Lào, miền bắc và miền trung Việt Nam. Phân loài "L. c. owstoni" được tìm thấy trên đảo Hải Nam.
"G. c. canorus" đã được du nhập đến Đài Loan, Singapore, Nhật Bản và Hawaii. Tại quần đảo Hawaii nó đã được giới thiệu vào đầu thế kỷ XX và bây giờ xảy ra ở cả rừng tự nhiên và môi trường sống nhân tạo. Loài này phổ biến trên đảo Kauai, Maui và đảo Hawaii nhưng kém hơn về Oahu và Molokai.
Chúng sinh sống ở vùng cây bụi, rừng mở, rừng thứ sinh, vườn và công viên lên đến độ cao 1800 mét so với mực nước biển. Họa mi phổ biến ở nhiều phạm vi của nó và không được coi là một loài bị đe dọa. | 1 | null |
Turdoides striata là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài này được tìm thấy ở Tiểu lục địa Ấn Độ. Loài này là loài chim thường trú phổ biến ở hầu hết các vùng của tiểu lục địa Ấn Độ và thường được nhìn thấy trong khu vườn trong thành phố lớn cũng như ở các khu vực có rừng. | 1 | null |
Turdoides atripennis là một loài chim thuộc họ Leiothrichidae.
Nó có mặt ở Benin, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Gambia, Ghana, Guinée, Guiné-Bissau, Liberia, Mali, Nigeria, Senegal, Sierra Leone, Togo, Uganda. Môi trường sống tự nhiên của nó là vùng rừng mưa hạ du ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Loài này được chuyển từ chi đơn loài "Phyllanthus" sang "Turdoides" dựa trên kết quả một nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử công bố năm 2018. | 1 | null |
Mi lưng nâu (danh pháp hai phần: Heterophasia annectens) là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài chim này được tìm thấy ở Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Heterophasia picaoides là một loài chim trong họ Leiothrichidae.
Loài này phân bố từ trung bộ Nepal và phía đông bắc Ấn Độ thông qua Bhutan, miền nam Trung Quốc, Lào, Malaysia, Myanmar, Nepal, Thái Lan và Việt Nam, cũng như Sumatra. Chúng được tìm thấy trong rừng thường xanh, gỗ sồi và thông rừng thứ sinh, trảng cây lớn và môi trường sống cạnh rừng. | 1 | null |
Liocichla bugunorum là một loài chim trong họ Leiothrichidae Nó được phát hiện năm 1995 ở Arunachal Pradesh, Ấn Độ, và được mô tả như một loài mới năm 2006 bởi Ramana Athreya. Việc mô tả diễn ra mà không có mẫu vật điển hình vì chúng quá hiếm để liều bắt một con. Nó là một loài cực kỳ nguy cấp, với quần thể duy nhất ước tính gồm 14 cá thể, tác động của phát triển kinh tế đe dọa quần thể này.
Mô tả.
"Liocichla bugunorum" là một loài chim nhỏ () có bộ lông màu ô liu-xám và một cái mào đen. Vùng trước và sau mắt có các mảng màu cam-vàng, các mảnh vá trên cánh màu vàng, đỏ, và trắng. Đuôi màu đen với lớp lông dưới đuôi màu đỏ thẫm và mút đuôi màu đỏ. Chân màu hồng và mỏ màu đen. Giọng hót được mô tả là thánh thót và đặc biệt.
Phân bố và môi trường sống.
Chúng sống ở độ cao trên sườn đồi có cây bụi và cây gỗ nhỏ, một cá thể được quan sát thấy ở bìa rừng nguyên sinh. Vào tháng một có thể quan sát chúng bay thành nhóm nhỏ, bay thành cặp vào tháng 5, ước tính có tổ cộng 14 cá thể. Hiện chỉ có một khu vực có "Liocichla bugunorum". Các quần thể khác được hy vọng sẽ tìm thấy ở Arunachal Pradesh hay vùng lân cận thuộc Bhutan. | 1 | null |
Khướu đuôi vằn Vân Nam (danh pháp khoa học: "Actinodura ramsayi") là một loài chim trong họ Leiothrichidae. Nó được tìm thấy ở Trung Quốc, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Khướu lùn đuôi hạt dẻ (tên khoa học Minla strigula), là một loài chim trong họ Leiothrichidae. Nó thường được đặt trong chi "Minla".
Nó được tìm thấy tại Tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á, phạm vi Bhutan, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Myanmar, Nepal, Thái Lan, Tây Tạng và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của loài chim là rừng núi ẩm cân nhiệt đới hay nhiệt đới. | 1 | null |
Khướu bụi vàng, tên khoa học Stachyridopsis chrysaea, là một loài chim trong họ Timaliidae.
Loài này được tìm thấy ở Đông Nam Á từ dãy Himalaya đến Sumatra. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Micromacronus leytensis là một loài chim trong họ Timaliidae.
Trong một thời gian dài, thành viên duy nhất của chi "Micromacronus", nhưng một loài ở Mindanao, trước đây được đưa vào M. leytensis như một phân loài, hiện thường được coi là một loài khác biệt, "M. sordidus".
"M. leytensis" là loài đặc hữu của Philippines. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Tình trạng của loài là không được biết đầy đủ. | 1 | null |
Micromacronus sordidus là một loài chim trong họ Timaliidae.
M. sordidus là loài đặc hữu của Philippines. Môi trường sống tự nhiên của loài này là rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Tình trạng của nó là không được biết đầy đủ. | 1 | null |
Khướu đất vằn chấm hay khướu đất hung (danh pháp khoa học: Elachura formosa) là một loài chim trước đây xếp trong chi "Spelaeornis" như là "S. formosus" thuộc họ Timaliidae, nhưng từ 2014 đã được tách ra để xếp trong họ riêng của chính nó là Elachuridae.
Sinh thái và phân bố.
Loài chim này được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Arcanator orostruthus là một loài chim trong họ Modulatricidae, đặc hữu Mozambique và Tanzania. Nó cũng là loài duy nhất của chi Arcanator.
Loài này có sự phân bố đứt đoạn, trong một vài dãy núi, bao gồm núi Mabu cùng các dãy núi Usambara và Udzungwa. Nó sinh sống trong các môi trường rừng miền núi ẩm ướt và rậm rạp. Cũng có thể tìm thấy nó trong các ổ lá gần suối, nơi nó tìm kiếm thức ăn là sâu bọ. | 1 | null |
Bradornis pallidus là một loài chim trong họ Muscicapidae. sinh sống ở châu Phi.
Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới khô, xavan khô, và vùng cây bụi khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
Phân bố.
Loài này được tìm thấy ở Angola, Bénin, Botswana, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ivory Coast, Eritrea, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Kenya, Malawi, Mali, Mauritanie, Mozambique, Namibia, Niger, Nigeria, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Somalia, Nam Phi, Sudan, Swaziland, Tanzania, Togo, Uganda, Zambia, và Zimbabwe. | 1 | null |
Bradornis infuscatus là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này được tìm thấy ở Nam Phi, Botswana và Angola. Chúng thường đậu trên những bụi cây thấp và các đường dây điện thoại. Môi trường sống tự nhiên của chúng là xavan khô. Tuy nhiên, chúng cũng được tìm thấy trong cây bụi và rừng phân bố của nó.
Chúng ăn côn trùng như mối, kiến và bọ cánh cứng và cũng ăn cả loài bò sát nhỏ như rắn mù trong chi typhlops. | 1 | null |
Melaenornis pammelaina là một loài chim trong chi Melaenornis, họ Muscicapidae, thuộc bộ Sẻ. Đây là loài bản địa ở các khu vực rừng mở và thưa tại đông và nam châu Phi.
Loài này có khu vực sinh sống rộng lớn, ước tính khoảng . Kích thước dân số loài chưa được ước tính nhưng được liệt kê bởi liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế là loài ít được quan tâm.
Mô tả.
Loài chim này hoàn toàn có màu đen với mỏ đen và chân đen. Tròng đen mắt màu nâu và điều này, cùng với đuôi cụt hình vuông, giúp phân biệt nó với các loài tương tự là "dicrurus adsimilis", có tròng đen mắt màu đỏ và đuôi dài chia hai. Chúng có kích thước khoảng 22 cm, nặng từ 21 đến 33g.
Hành vi.
Loài này là loài chủ yếu ăn côn trùng. Khẩu phần ăn của nó là bọ cánh cứng, mối, locust, giun, nhện và rết. Kỹ thuật tìm kiếm thức ăn chính của nó là đậu ở vị trí thấp như nhánh cây hay hàng rào và nhảy xổ vào con mồi ở trên không hoặc dưới đất. Nó cũng tìm mồi từ lá cây và cành cây, thỉnh thoảng nó kiếm ăn theo bầy, đặc biệt là cùng với Dicrurus adsimilis.
Nó cũng biết hút mật hoa từ các bông hoa loài "Aloe marlothii" và ăn trái dâu của loài "Solanum nigrum".
Mùa sinh sản của loài từ giữa tháng 05 đến tháng 01 năm sau, đỉnh điểm là tháng 09 và tháng 10. Tổ loài này thường xây trong hốc cây hoặc khe nứt ở vỏ cây, đôi khi là trong các bụi dây leo, bụi chuối. Tổ có hình chén, được làm từ cỏ khô, cành cây khô, lót bằng các rễ nhỏ. Khoảng từ 2 đến 4 trứng được đẻ trong tổ và quá trình ấp ứng khoảng 2 tuần (từ 13 đến 16 ngày), sau đó con non rời tổ khoảng 15 đến 20 ngày.
Phân bố và thói quen.
Loài này là loài bản địa ở đông và nam châu Phi. Chúng ghi nhận được nhìn thấy ở Somalia, Kenya, Tanzania, Rwanda, Burundi, Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Angola, Namibia, Swaziland, Botswana, Malawi, Mozambique, Zambia, Zimbabwe, Lesotho và Nam Phi. Nó sinh sống chủ yếu ở khu vực rừng gỗ mở và thưa, dọc theo sông suối hay các rìa đồn điền và ở cả trong vườn tược. Các loài cây mà loài chim này thường trú bao gồm Brachystegia ("Brachystegia" spp.), Chi Keo ("Acacia" spp.) và "Colophospermum mopane".
Tình trạng bảo tồn.
Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế liệt kê loài này là "loài ít được quan tâm", bởi vì nó có khu vực sinh sống quá rộng lớn, khoảng xấp xỉ . Hơn nữa, dân số loài dường như ổn định và loài được cho là phổ biến hơn ít nhất một phần phạm vi sinh sống. Kẻ thù tự nhiên của loài này là loài cắt lớn. | 1 | null |
Fraseria ocreata là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài này được tìm thấy ở Angola, Bénin, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Guinea, Liberia, Nigeria, Sierra Leone, và Uganda. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Đớp ruồi đuôi hung (danh pháp khoa học: "Muscicapa ferruginea") là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Đớp ruồi đuôi hung được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Lào, Malaysia, Myanmar, Nepal, Philippines, Ấn Độ, Singapore, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là ẩm ướt nhiệt đới hoặc nhiệt đới rừng montane. | 1 | null |
Cercotrichas quadrivirgata là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này được tìm thấy ở miền đông và miền nam châu Phi.
Phân loại.
Loài này được miêu tả là "Thamnobia quadrivirgata" bởi Reichenow vào năm 1879. Trước đây được đặt trong chi Erythropygia. Nó tạo thành một siêu loài với "Cercotrichas leucosticta", "Cercotrichas barbata" và "Cercotrichas signata". Bốn loài đôi khi được đặt trong chi Tychaedon. Hai phân loài của C. quadrivirgata được công nhận: C. q. greenwayi ở Zanzibar và Quần đảo Mafia, và C. q. quadrivirgata trong phần còn lại của dãy núi này. Danh pháp cụ thể quadrivirgata dung từ cụ thể có nghĩa là "bốn sọc" trong tiếng Latin. Loài này được đặt tên như vậy bởi vì bốn sọc trên khuôn mặt.
Phân bố và môi trường sống.
Loài chim này được tìm thấy ở Botswana, Kenya, Malawi, Mozambique, Namibia, Somalia, Nam Phi, Swaziland, Tanzania, Zambia, và Zimbabwe, với kích thước phân phối ước tính khoảng 5.390.000 km2 (2.080.000 dặm vuông). Loài này chủ yếu tìm thấy ở độ cao dưới 1.000 m (3.300 ft). Khu vực sinh sống của chúng ở trong rừng cát, rừng ven sông, cọ, rừng thường xanh, và đôi khi các khu vườn và reedbeds, nhưng thường không ở nơi ẩm ướt. Trong những năm 1950, nạn phá rừng gần Hluhluwe và vịnh False phá hủy một số môi trường sống của chúng, nhưng trong một số khu vực, phạm vi của chúng có thể được mở rộng. Trong những năm 1940, người ta đã rải thuốc ngăn chặn ruồi xê xê tại khu bảo tồn giải trí Hluhluwe-Umfolozi, và cả họa mi chà râu biến mất, nhưng chúng đã quay lại khu vực bằng năm 1975. Loài này cũng đã mở rộng vào Vườn quốc gia Matobo và vịnh Richards.
Mô tả.
Chiều dài của nó là 15–17 cm (5,9-6,7 in), và trọng lượng của nó là khoảng 20-31 g (0,71-1,09 oz). Chim trống và chim mái có bộ lông như nhau, con mái là hơi nhỏ. Chỏm đầu và trên lưng là màu nâu ôliu sậm. Đuôi có màu nâu sẫm, có lông bên ngoài có lời khuyên màu trắng. Các lông cánh có màu xám-nâu với viền màu nâu ôliu. | 1 | null |
Chích chòe lửa đuôi hung (tên khoa học: "Copsychus pyrropygus") là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Chích chòe lửa đuôi hung được tìm thấy ở cực nam Thái Lan, Malaysia, Sumatra và Borneo, trong đó môi trường sống tự nhiên là vùng đất thấp nhiệt đới hoặc nhiệt đới rừng và cận nhiệt đới hoặc đầm lầy nhiệt đới. Chích chòe lửa đuôi hung bị đe dọa do mất môi trường sống.
Loài này trước đây được đặt trong chi đơn hình "Trichixos" nhưng đã được chuyển vào "Copsychus" dựa trên kết quả của một nghiên cứu phát sinh phân tử được công bố năm 2010. | 1 | null |
Chích chòe đuôi trắng, tên khoa học Copsychus malabaricus, là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Đây là loài bản địa các khu vực sinh sống có cây cói rậm ở tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á, là loài chim được người ta nuôi làm chim cảnh và được du nhập vào một số khu vực khác.
Miêu tả.
Chúng có cân nặng thường từ 28-34 g và thân dài từ 23–28 cm. Chim trống có màu đen bóng với bụng màu hạt dẻ và lông trắng trên đít và đuôi dài. Chim mái có màu nâu hơi xám và thường có thân ngắn hơn chim trống. Cả chim trống và chim mái đều có mỏ đen và chân hồng. Chim non có lông nâu hơi xám giống chim mái với ức có đốm.
Loài chim này nhút nhát, hoạt động lúc hoàng hôn hoặc bình minh và có ý thức chiếm lãnh thổ rất cao. Lãnh thổ chúng chiếm đóng bao gồm có một chim trống và một chim mái và chim trống bảo vệ lãnh thổ rộng trung bình 0,09 ha nhưng mỗi giới có thể có các lãnh thổ khác nhau khi chúng không sinh sản.
Tại Nam Á, chúng sinh sản từ tháng 1 đến tháng 9 nhưng chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 6 với mỗi tổ từ 4-5 quả trứng đẻ trong hốc cây. Khi chim trống tán tỉnh chim mái, chim trống bay phía trên chim mái, có tiếng kêu chói tai sau đó vụt nhẹ và xòe lông đuôi. Sau đó cặp chim bay lên và xuống. Nếu con chim mái không thích, chim mái sẽ đe dọa chim trống với mỏ mở ra. Chim mái xây tổ một mình con chim trống đứng bảo vệ. Tổ thường làm bằng rễ cây, lá cây, dương xỉ và thân cây. Chúng ấp 12-15 ngày và nuôi chim non trong tổ 12 -14 ngày. Cả chim bố và chim mẹ nuôi chim con nhưng chỉ chim mẹ ấp trứng và con.
Loài chim này ăn côn trùng trong tự nhiên nhưng chim nuôi nhốt có thể ăn trứng luộc, thịt, rau khô và thịt tươi. | 1 | null |
Đớp ruồi lam Timor (Cyornis hyacinthinus) là một loài chim trong họ Muscicapidae. Loài chim này được tìm thấy ở Indonesia và Đông Timor. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Cyornis unicolor là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài này được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Brunei, Campuchia, Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia , Lào, Malaysia, Myanmar, Nepal, Thái Lan và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của loài này là rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Đớp ruồi cằm xanh (danh pháp khoa học: "Cyornis rubeculoides") là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Đớp ruồi cằm xanh giống với "Cyornis tickelliae" nhưng dễ dàng phân biệt bởi cổ họng màu xanh. Môi trường sống của loài này là một khu rừng dày hơn các loài ruồi khác. Chim ruồi họng xanh được tìm thấy ở phần lớn Tiểu lục địa Ấn Độ, tất cả thông qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, đồng bằng và Tây Ghats của Ấn Độ trong những tháng lạnh, và cũng kéo dài về phía đông vào Bangladesh, và đến Arakan và đồi Tenasserim ở Myanmar. | 1 | null |
Cossyphicula roberti là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Đây là loài duy nhất trong chi Cossyphicula. Loài này được tìm thấy ở phía tây Cameroon, Bioko và khu rừng trên núi Albertine Rift. Môi trường sống tự nhiên của nó là rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Chamaetylas poliocephala là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này được tìm thấy trong Angola, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Guinea, Bờ Biển Ngà, Kenya, Liberia, Nigeria, Rwanda, Sierra Leone, Nam Sudan, Tanzania và Uganda.
Môi trường sống tự nhiên của loài chim này là rừng nhiệt đới ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới rừng montane. | 1 | null |
Chamaetylas fuelleborni là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài này được tìm thấy trong Malawi, Mozambique, Tanzania và Zambia.
Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng đất thấp nhiệt đới hoặc rừng cận nhiệt đới.
Tên cụ thể của loài chim này được đặt để tưởng nhớ bác sĩ người Đức Friedrich Fülleborn. | 1 | null |
Vauriella gularis là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Đây là loài đặc hữu của đảo Borneo. Môi trường sống tự nhiên của chúng là những khu rừng ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó xây dựng một tổ yến mở, rêu phong, thường là trong biểu mô hoặc lòng bàn tay có gai.
Loài này trước đây được đặt trong chi Rhinomyias nhưng đã được chuyển đến Vauriella khi một nghiên cứu phát sinh gen phân tử được công bố vào năm 2010 cho thấy rằng Rhinomyias là đa hình. | 1 | null |
Vauriella insignis (tên tiếng Anh: white-browed jungle flycatcher, nghĩa là đớp ruồi rừng rậm mày trắng) là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Nó là loài đặc hữu đảo Luzon ở Philippines. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng nhiệt đới ẩm ướt miền núi. Nó bị đe dọa mất môi trường sống.
Loài này trước đây được đặt trong chi "Rhinomyias", nhưng hiện nay đã được chuyển sang chi "Vauriella" do nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử công bố năm 2010 nhận ra rằng "Rhinomyias" là đa ngành. | 1 | null |
Larvivora sibilans là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Phạm vi sinh sản của loài này kéo dài từ miền nam Siberia và biển Okhotsk tới miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á.
Loài chim này ăn côn trùng và di cư sinh sản trong rừng tại rừng taiga ở Đông Bắc Á và phía nam Mông Cổ, và trú đông ở Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc. | 1 | null |
Oanh lưng xanh (tên khoa học: Larvivora cyane) là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này là một loài di cư, ăn côn trùng và sinh sản ở Đông Á trên toàn Nhật Bản. Chúng trú đông ở Đông Nam Á và Indonesia.
Môi trường sống và sinh sản của loài oang này là rừng lá kim với bụi dày đặc, thường xuyên bên cạnh sông, ven rừng. Chúng kiếm ăn trên mặt đất nhưng rất nhút nhát. Vào mùa đông, loài chim này cũng có xu hướng ở lại các khu vực cây rậm. | 1 | null |
Luscinia luscinia là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Luscinia luscinia trước đây được coi là một thành viên của họ chim Turdidae, nhưng bây giờ được coi thuộc họ Muscicapidae.
Nó là một loài ăn côn trùng di cư ở châu Âu và châu Á và đang bị đông quá mức ở châu Phi. Sự phân bố nằm ở phía bắc nhiều hơn so với dạ oanh phổ biến có liên quan rất chặt chẽ, Luscinia megarhynchos, nó gần giống như xuất hiện. Nó làm tổ gần mặt đất ở tầng dưới dày đặc.
Loài này có kích thước tương đương với oanh châu Âu. Nó có màu nâu lục nhạt ở trên và màu trắng và màu xám nâu. | 1 | null |
Dạ oanh (tên khoa học: Luscinia megarhynchos) là một loài chim trong Họ Đớp ruồi (Muscicapidae) thuộc Bộ Sẻ (Passeriformes). Trước đây dạ oanh được xếp vào họ Hoét (Turdidae), sau được phân vào họ Đớp ruồi, và thuộc phân họ Chích chòe (Saxicolinae).
Dạ oanh là một trong những biểu tượng quốc gia của Iran.
Mô tả.
Dạ oanh có kích thước lớn hơn oanh châu Âu một chút, với chiều dài vào cỡ . Nó có màu nâu ở phần lưng và mặt trên, ngoại trừ cái đuôi có màu hơi đỏ. Phần bụng có màu vàng nâu sẫm hay trắng. Con trống và con mái có ngoại hình giống nhau. Các phân loài "L. m. hafizi" và "L. m. africana" sống ở phía Đông có phần lưng nhạt hơn và chi tiết màu sắc mạnh hơn ở mặt, bao gồm phần lông trên mắt nhạt màu hơn. Màu của một vùng lông hẹp xung quanh mắt nhạt hơn so với lông của đầu và lưng, tạo thành một cái "vòng" nhỏ màu trắng bao xung quanh con mắt màu đen. Trứng dạ oanh có màu xanh xám như trái ôliu với những đốm đỏ. Tiếng hót của dạ oanh được đánh giá là một trong những âm thanh hay nhất trong tự nhiên và là nguồn cảm hứng cho bài hát cùng tên, chuyện cổ tích, cùng tên của Andersen, vở nhạc kịch cùng tên, quyển sách cùng tên, nhiều bài thơ ca, và nhiều tác phẩm nghệ thuật khác.
Phân bố và môi trường sống.
Dạ oanh là một loài chim di trú, sinh sống tại các rừng mưa và bụi rậm ở châu Âu và Tây Nam châu Á, tuy nhiên không được tìm thấy trong môi trường tự nhiên ở châu Mỹ. Chúng thường được coi là một loài chim của nước Anh vì sự hiện diện với số lượng lớn tại quốc gia này, nhưng dạ oanh vẫn có thể được tìm thấy ở Tây-Trung Âu, Nam Âu, châu Phi và Trung Cận Đông. Nhìn chung loài chim này khá "kín kẽ" và khó tìm thấy, vì chúng thường trú ẩn sâu trong các bụi rậm, chúng cũng sống ở gần các nguồn nước, và săn bắt sâu bọ trên mặt đất. So với loài oanh phương Đông ("Luscinia luscinia") có quan hệ gần gũi với nó, thì phân bố của dạ oanh nằm xích về phía Nam hơn. Chúng làm tổ có hình chén bằng lá khô và rễ cây nằm trên hoặc nền đất, trong hoặc gần các bụi cây dày đặc. Chúng trú đông ở châu Phi - một số cá thể đã vượt từ Anh sang tận Sénégal và Gambia - và trở lại miền Bắc vào khoảng tháng Tư. Ít nhất ở vùng Rheinland (Đức), nơi sống của dạ oanh gần trùng với một số thông số địa lý, tỉ như:
Trong thời gian gần đây, phân bố và quần thể dạ oanh đang có xu hướng suy giảm nghiêm trọng, như ở Anh số lượng loài chim này đã sụt 57 phần trăm trong giai đoạn 1995-2009, và theo một phát ngôn viên của Hội Ủy thác điểu cầm học Anh quốc ("British Trust for Ornithology") thì trên nước Anh chỉ còn khoảng 6.000 con chim trống. Nguyên nhân chính là do môi trường sống của chúng càng ngày càng bị thu hẹp, ví dụ như các loài mang và hoẵng đã ăn mất nhiều cây bụi nơi chúng sống, hoặc do diện tích rừng thu hẹp bởi chính sách quản lý rừng, hoặc do mùa xuân trở nên lạnh và ẩm hơn.
Tập tính và sinh thái.
Dạ oanh là loài động vật ăn tạp, chúng ăn côn trùng, hoa quả, hạt cây. Đến lượt mình, chim dạ oanh là món ăn khoái khẩu của chuột cống, cáo, mèo, bò sát như thằn lằn cỡ lớn và rắn, cùng các loài chim săn mồi cỡ lớn. Chúng đẻ 5-6 trứng mỗi lứa.
Tiếng hót.
Tên gọi "dạ oanh" bắt nguồn từ việc loài chim này có tập tính hót vào cả ban đêm lẫn ban ngày. Việc hót vào ban đêm là một đặc điểm nổi tiếng của dạ oanh, vì phần lớn các loài chim chỉ hót vào ban ngày và ngừng hót khi trời chuyển tối. Các quan sát cho thấy dạ oanh thật ra không phải là động vật ăn đêm vì phần lớn các hoạt động - kể cả hót - đều diễn ra vào ban ngày, tuy nhiên việc hót vào ban ngày có chức năng đánh dấu lãnh thổ của các con chim trống, trong khi việc hót vào ban đêm có chức năng thu hút các chim mái lúc này đang đi loanh quanh lựa chọn bạn tình - dĩ nhiên là theo tiêu chuẩn ai hót hay hơn. Giọng hót của dạ oanh được cho là có âm lượng lớn, đa dạng, buồn, ngọt ngào, có thể kéo dài đến vài giờ, và đặc biệt chúng có những giai điệu mạnh dần tới đỉnh cao với âm lượng rất lớn mà loài oanh phương Đông "Luscinia luscinia" không hề có. Những cá thể dạ oanh sống trong môi trường thành thị có giọng hót to hơn vì chúng cần phải lấn át tiếng ồn của thành phố.
Những con chim trống lớn tuổi thường có nhiều cơ hội có được bạn tình hơn, vì kinh nghiệm giúp cho chúng có thể "sáng tác" ra nhiều "bài hát" hơn so với các con còn non kinh nghiệm, và số lượng phiên bản tiếng hót có thể lên đến 260 "bài". Ngoài ra, những con chim trống lớn tuổi còn có thể hót với một giọng rung cực nhanh, đến 100 âm rung trong một giây, hơn rất nhiều so với những con chim còn non, và được Tạp chí Avian Biology đánh giá là những chú chim hót nhanh nhất thế giới. Và chính những con chim mái cũng có thể nhận biết được tuổi của chim trống thông qua số lượng âm rung mà chim trống hót được, và chúng thường chọn những bạn tình lớn tuổi vì chim trống lớn tuổi sẽ có nhiều kinh nghiệm chăm con và bảo vệ lãnh thổ hơn. Hót dường như là một việc làm tốn nhiều công sức vì sau mỗi đêm "ca hát" cật lực, những chú chim dạ oanh đực đều bị sụt cân.
Sau khi lập gia đình, chuyện hát hò chấm dứt để tránh gây chú ý không cần thiết đến tổ, trứng và chim non; thay vào đó là những tiếng kêu chíp chíp báo hiệu an toàn hoặc biến cố. Khi gặp nguy hiểm, dạ oanh cất tiếng kêu báo động nghe gần giống như tiếng ếch.
Dạ oanh trong văn hóa và xã hội con người.
Dạ oanh là biểu tượng quan trọng của thi ca trong nhiều thời kỳ khác nhau và mang nhiều ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Trong tác phẩm Odýsseia, nhà thơ Homēros có nói đến chuyện thần thoại về Philomela bị biến thành chim dạ oanh). Chuyện thần thoại này chính là chủ đề của vở bi kịch "Tereus" của Sophokles, nay chỉ còn sót lại vài phần. Nhà thơ Ovidius cũng có nhắc đến câu chuyện này trong tập thơ "Biến hình" ("Metamorphoses"). Câu chuyện này về sau được cải biên bởi các nhà thơ như Chrétien de Troyes, Geoffrey Chaucer, John Gower và George Gascoigne. Tác phẩm "The Waste Land" của T.S. Eliot cũng viết về chủ đề tương tự. Vì tính chất bi kịch liên quan đến câu chuyện thần thoại này, tiếng hót của dạ oanh thường được xem là biểu tượng của sự ai oán.
Dạ oanh còn là biểu tượng của thi ca vì sự sáng tạo và thanh thoát, tự nhiên của tiếng hót. Aristophanes và Callimachus đều xem dạ oanh là biểu hiện của thi ca. Vergilius so sánh lời ai oán của nhà thơ Orpheus với tiếng hót của chim dạ oanh.
Trong bài Sonnet số 102, Shakespeare so sánh tình yêu thi ca của mình với tiếng hót của dạ oanh như sau:
Trong thời kỳ của chủ nghĩa lãng mạn, ý nghĩa của dạ oanh được thay đổi thêm một lần nữa, không chỉ là biểu tượng của thi ca đơn thuần, mà là hình ảnh của một nhà thơ "bậc thầy của một nghệ thuật thượng đẳng có khả năng tạo cảm hứng cho những nhà thơ phàm tục". Đới với các bài thơ lãng mạn, dạ oanh thậm chí còn được so sánh với các nàng thơ. Coleridge và Wordsworth xem dạ oanh không chỉ là một ví dụ cho sự sáng tạo thi ca, mà còn là tiếng gọi của tự nhiên. Tác phẩm "Ode to a Nightingale" của John Keats minh họa một chú chim dạ oanh như là một nhà thơ lý tưởng đã sáng tác ra những tác phẩm mà Keats hằng mong muốn mình có thể viết được. Với cảm hứng tương tự, Percy Bysshe Shelley đã viết trong tác phẩm "Biện hộ cho thi ca" ("A Defense of Poetry") như sau:
Ngoài ra, tình yêu của chim dạ oanh dành cho hoa hồng được dùng rất rộng rãi, thường là mang nghĩa ẩn dụ, trong văn học Ba Tư. Iran hiện nay được mệnh danh là "đất nước của hoa hồng và chim dạ oanh".
Dạ oanh đã xuất hiện trong ít nhất các tác phẩm văn học, nghệ thuật sau:
Nightingale là tên của một nữ y tá nổi tiếng Florence Nightingale. | 1 | null |
Myophonus insularis là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Phân loại.
Loài chim này đã được thu thập bởi Robert Swinhoe và mô tả với danh pháp "Myiophoneus insularis" bởi John Gould năm 1862. Swinhoe gọi loài này là "Chim hang động Đài Loan" bởi vì chúng sinh sống trong, khe núi rừng tối trong núi. Trước đây được coi là một phân loài của sáo Malabar (Myophonus horsfieldii). Đây là loài là đơn loài.
Phân bố và môi trường sống.
Đây là loài đặc hữu của Đài Loan. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng được tìm thấy ở độ cao lên tới 2.700 m (8.900 ft).
Mô tả.
chiều dài của loài chim này là 28–30 cm (11–12 in). Cánh dài 15–16 cm (5,9-6,3 in). Nó chủ yếu là đen-xanh. Một số lông vũ là màu xanh biển hoặc màu xanh kim loại. Một số lông dưới cánh có cuống dánh có màu trắng. Các phần dưới màu đen. Cổ của nó, vú và hai bên sườn được thu nhỏ. có đôi mắt to màu đỏ đậm, và Lores của nó, mỏ và chân màu đen. Chim trống và chim mái có bộ lông như nhau. Chim chưa trưởng thành có màu đen xỉn, với một chút màu xanh nhạt. Khoanh miệng của chim chưa trưởng thành có màu vàng. | 1 | null |
Chích chòe nước trán trắng hay chích chòe nước lưng xám (danh pháp khoa học: Enicurus schistaceus) là loài chim chích chòe nước thuộc họ Đớp ruồi (Muscicapidae). Chích chòe nước trán trắng là loài mảnh mai, có kích thước trung bình và được phân biệt với các loài cùng chi bởi trán, đỉnh đầu và bộ lông màu xám đá phiến. Loài này có một cái đuôi dài, chẻ sâu với các dải màu đen và trắng, mông màu trắng và một vạch trắng trên các lông chính. Phần còn lại của bộ lông chủ yếu là màu trắng. Cá thể đực và cái có hình thái giống nhau. Loài chim này thường lui tới rìa các dòng sông và suối chảy xiết để săn các động vật không xương sống nhỏ bằng cách nhảy giữa các tảng đá hoặc bay trên mặt nước. Chim sinh sản từ tháng 2 đến tháng 7, đẻ 3–4 quả trứng hơi hồng, hơi xanh hoặc trắng. Chim bố và mẹ đều cùng ấp trứng.
Chích chòe nước trán trắng thường sống gần các con suối và sông ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đôi khi thì xa hơn khỏi dòng nước đến mép đường và đường mòn. Chúng chủ yếu sống đơn độc, đôi khi sống theo cặp và nuôi con vào mùa sinh sản. Tiếng kêu của chúng giống với bồng chanh rừng, hai loài dễ bị nhầm lẫn với nhau. Loài này phân bố chủ yếu ở trung và đông dãy Himalaya, tiểu lục địa Ấn Độ, miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á lục địa. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế phân loại chích chòe nước trán trắng là loài ít quan tâm do số lượng ổn định và phạm vi phân bố rộng của loài.
Phân loại.
Chích chòe nước trán trắng được nhà tự nhiên học người Anh Brian H. Hodgson mô tả khoa học vào năm 1836. Ban đầu loài được đặt trong phân chi "Enicurus" thuộc chi "Motacilla", gồm các loài chìa vôi. Mẫu vật được sử dụng để mô tả loài có nguồn gốc từ Nepal. Tên khoa học của loài bắt nguồn từ tính từ "schistaceus" ("xám đen") trong tiếng Latinh. Chích chòe nước trán trắng hiện được đặt trong họ Muscicapidae, bao gồm các loài đớp ruồi Cựu thế giới và phân họ Sẻ bụi. Một nghiên cứu di truyền học cho thấy chích chòe nước trán trắng và chích chòe nước nhỏ có sự khác biệt về mặt di truyền với chích chòe nước đầu trắng nhiều hơn so với các loài chích chòe nước khác.
Miêu tả.
Chích chòe nước trán trắng là một loài chim mảnh mai, kích thước trung bình, dài từ và nặng từ . Chim có màu xám đen, đen và trắng. Mỏ màu đen, chân có màu hơi hồng nhạt hoặc hơi xám. Mống mắt được mô tả là có màu nâu sẫm, nhưng cũng có màu đen ở một số cá thể. Chim có cổ họng màu đen và một sọc trắng hẹp trên mặt dài đến ngay sau mắt, đôi khi được miêu tả như một chiếc mặt nạ trắng. Sọc trắng này đôi khi bao gồm một vành màu trắng bao quanh hoàn toàn hoặc một phần mắt. Vành tai, cằm và mặt cũng có màu đen. Trán, đỉnh đầu, hai bên cổ và vai có màu xám đá phiến. Chim có lông mình màu đen, một mảng trắng ở gốc lông bay, vài vạch rộng màu trắng, và một mảng trắng lớn trên mông và lưng dưới. Phần gốc của các lông bay có màu trắng, đôi khi thấy được dưới dạng vạch nhỏ trên cánh. Lông đuôi chim dài và đều nhau, có khía sâu. Đuôi phần lớn màu đen, ngoại trừ chót đuôi màu trắng. Các lông đuôi ngắn hơn có đỉnh màu trắng, tạo nên ba dải trắng dọc theo thân.
Con non của loài này không có trán màu trắng, thân trên màu nâu và có vạch sẫm màu trên ngực. Đuôi của con non ngắn hơn của con trưởng thành. Con non cũng có phần giữa mắt và mỏ màu xám hoặc hơi vàng, cằm và cổ họng màu xám hoặc trắng. Hai bên sườn có màu nâu xám xỉn. Chích chòe nước trán trắng không phải là loài có dị hình giới tính. Một số mẫu vật có đỉnh lông bay màu trắng; đặc điểm này xuất hiện ở mọi quần thể của loài. Có giả thuyết cho rằng đây là một hệ quả của quá trình lão hoá hoặc hư tổn tự nhiên. Tuy nhiên, đặc điểm này không liên quan đến giới tính. Chích chòe nước trán trắng rất giống với chích chòe nước lưng đen ("Enicurus immaculatus"), nhưng có lớp lông và đỉnh đầu màu xám đá phiến đặc trưng, cũng như cỡ mỏ lớn hơn một chút và vùng trán ít trắng hơn.
Tiếng kêu.
Tiếng kêu của chích chòe nước trán trắng được mô tả là "cao, mảnh, sắc, giống tiếng kim loại", tương tự như tiếng kêu của một loài bói cá nhỏ. Đặc biệt, tiếng kêu của loài dễ bị nhầm lẫn với tiếng kêu của bồng chanh rừng ("Alcedo hercules"). Một mô tả khác nhận xét loài có tiếng kêu khá êm dịu. Khi bị kích động, chim phát ra tiếng chói tai, lặp đi lặp lại.
Phân bố và môi trường sống.
Chích chòe nước trán trắng được tìm thấy gần các vùng nước có dòng chảy xiết trong các khu rừng lá rộng vùng núi nhiệt đới và cận nhiệt đới, cũng như gần các khu vực canh tác. Các nơi này bao gồm các suối và sông có đá, kể cả các sông và thung lũng rộng ở các khu vực đồng bằng. Một bài báo năm 2000 nghiên cứu về các loài chim ở tây bắc Ấn Độ và Nepal đã phát hiện ra rằng số lượng cá thể chích chòe nước trán trắng giảm dần theo độ cao. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng loài chim này ưa thích những dòng suối được bao quanh bởi thảm thực vật dày đặc và phức tạp, đồng thời có bờ đất chắc chắn và ổn định. Chim cũng ưa thích những dòng suối có cát hạt mịn hơn ở đáy và có "trình tự hồ - bờ" ("pool–riffle sequences"). Loài chim này hiếm khi hiện diện ở những khu vực hẻo lánh trong rừng và ở hai bên đường hoặc lối mòn gần mặt nước. Trong những tháng mùa đông, người ta quan sát thấy loài này di chuyển từ vùng núi vào vùng chân đồi và đồng bằng.
Loài này được tìm thấy ở trung và đông dãy Himalaya, từ bang Uttarakhand của Ấn Độ ở phía tây đến Myanmar ở phía đông, bao gồm cả Nepal và Bhutan. Có một số cá thể lang thang ở Bangladesh. Chích chòe nước cũng được tìm thấy ở miền nam Trung Quốc, bao gồm ở đông nam Tây Tạng, các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Phúc Kiến, Chiết Giang và có thể ở Hải Nam. Ở Đông Nam Á, loài có mặt tại Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia, bán đảo Mã Lai và Hồng Kông. Ở Hồng Kông, loài chích chòe nước này rất hiếm gặp và chỉ thỉnh thoảng được nhìn thấy vào mùa đông. Chim phân bố không đồng đều ở Đông Nam Á. Phạm vi phổ biến theo độ cao của loài phụ thuộc vào vị trí địa lý. Độ cao được ước tính là 300-1600m so với mực nước biển ở miền bắc Ấn Độ, 900-1675 ở Nepal, 400-1800 ở miền nam Trung Quốc và các khu vực lân cận của Thái Lan, trên 500m ở Campuchia, trên 800m ở Malaysia và 800-2200m ở Bhutan. Vào mùa đông, mức độ cao được ghi nhận là thấp tới 200m so với mực nước biển.
Phạm vi của loài chưa được xác định chính xác, nhưng được biết là rất lớn. Quần thể được cho là ổn định và mặc dù kích thước không được biết chính xác, chúng được cho là lớn hơn 10.000 cá thể. Chích chòe nước trán trắng được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế phân loại là loài ít quan tâm. Loài này phổ biến ở các khu vực thuộc phạm vi phân bố của chúng ở Trung Quốc, Nepal và Đông Nam Á.
Hành vi và sinh thái học.
Chích chòe nước trán trắng sinh sản từ tháng 2 đến tháng 7, thời gian sinh sản dường như không thay đổi trong phạm vi của loài. Chim xây tổ bằng rêu, lá và cỏ. Hình dạng của tổ có thể là một cái cốc hoặc một phần của mái vòm, tùy thuộc vào nơi tổ được xây dựng. Nó thường có một lớp bùn bên ngoài. Tổ có thể được xây dựng trong các lỗ trên mặt đất hoặc trong các thân cây, giữa các rễ cây, trong các hốc cây chết và đôi khi trong các kẽ hở trên đá. Chim đẻ từ ba đến bốn quả trứng có màu từ trắng tinh đến trắng hồng đến trắng xanh, với những đốm màu hoa oải hương hoặc nâu đỏ. Các đốm tập trung ở đầu lớn hơn của quả trứng. Cả chim bố và mẹ đều ấp trứng. Các cặp chim được cho là có hai hoặc ba lứa trong một năm.
Loài này ăn động vật không xương sống nhỏ được tìm thấy trong hoặc xung quanh nước, bao gồm cả ấu trùng và động vật giáp xác. Chim kiếm ăn ở mép nước, và được mô tả là "di chuyển không ngừng nghỉ". Chúng kiếm ăn trên và giữa các tảng đá ở mép nước cũng như giữa dòng và đôi khi cũng sẽ lao vào nước. Mặc dù chúng thường kiếm ăn bằng cách nhảy nhanh giữa các tảng đá, chim cũng thực hiện những cú nhảy ngắn trên mặt nước để chộp lấy thức ăn trên mặt nước. Cách bay của loài được mô tả tương tự như cách bay của một loài chìa vôi lớn: nhanh chóng, trực tiếp và hơi nhấp nhô. Chim được nhìn thấy chủ yếu ở gần mặt nước. Chúng thường sống đơn độc, đôi khi là theo cặp và được mô tả là một loài chim nhút nhát. Chim liên tục lắc đuôi và khi bị quấy rầy, cá thể có thể nhấc đuôi lên và mở ra bằng một chuyển động nhanh giống như cái kéo. Vào mùa sinh sản, chúng đôi khi sống thành các nhóm gia đình nhỏ, trong khi vào mùa đông, chúng thường sống đơn độc. Tuy nhiên, nhiều cá thể có thể cùng kiếm ăn ở một đoạn sông ưa thích, như 15 cá thể đã được quan sát thấy dọc theo một đoạn sông ở Bhutan.
Ở phạm vi của loài ở khu vực Đông Nam Á, chúng ít vận động, trong khi ở dãy Hymalaya, chim được quan sát thấy di chuyển trên độ dốc cao. Một nghiên cứu năm 1998 cho thấy loài này di chuyển cục bộ để đối phó với mực nước dâng cao trong mùa gió mùa. | 1 | null |
Oanh cổ đỏ (tên khoa học: Calliope calliope) là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Đây là loài ăn côn trùng và di cư, sinh sống ở rừng cây lá kim hỗn hợp ở tầng dưới ở Xibia. Chúng làm tổ gần mặt đất. Chúng trú đông ở Thái Lan, Ấn Độ và Indonesia. Loài này hiếm khi lang thang ở Tây Âu, chỉ vài trường hợp hiện diện xa tận đảo Anh. Chúng cũng rất hiếm khi đến quần đảo Aleutia, đáng chú ý nhất là đảo Attu. | 1 | null |
Oanh đuôi nhọn Himalaya (Tarsiger rufilatus) là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Nó là một loài chim di trú theo độ cao một khoảng cách ngắn, sinh sản trong rừng thông hỗn hợp với tầng cây thấp tại độ cao 3.000-4.400 m trong Himalaya và Đông Nam Tây Tạng và trú đông đông tại độ cao 1.500-2.500 m. Đây là loài ăn côn trùng. Loài này có mối liên quan chặt chẽ với oanh đuôi nhọn hông đỏ và thường đã được xem là một phân loài trong quá khứ, nhưng ngoài việc khác nhau về hành vi di trú (oanh đuôi nhọn hông đỏ là loài di cư đường dài), nó cũng khác về màu xanh da trời đậm của chim trống lớn và màu xám hơn ở chim mái và chim chưa trưởng thành. | 1 | null |
Phoenicurus fuliginosus là một loài chim trong họ Muscicapidae. Loài này phân bố ở Đông Nam Á, và Trung Quốc. Con trống có màu xanh nhạt, con mái có màu xám. Chúng sống gần các sông và suối chảy nhanh.
Miêu tả.
Loài này có chiều dài , trọng lượng trung bình 22g đối với con trống và 18,8g đối với con mái. Cont trống có màu xanh dương nhạt phần đuôi có màu gỉ đỏ. Con mái có màu xám nhạt và đặc trưng bởi mông trắng.
Phân loại học.
Loài này có 2 phân loài được công nhận – "Rhyacornis fuliginosa fuliginosa" và "Rhyacornis fuliginosa affinis". Phân loài "Rhyacornis fuliginosa fuliginosa" được Nicholas Aylward Vigors miêu tả năm 1831, phân loài còn lại được William Robert Ogilvie-Grant miêu tả năm 1906 và được tìm thấy ở Đài Loan.
Môi trường sống.
Loài này được tìm thấy ở Afghanistan, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Pakistan, Đài Loan, Thái Lan, và Việt Nam. Môi trường sống của chúng là các suối, nullah và sông với các tảng đá ven bờ, cũng như thảm cỏ gần bờ sông. Các suối có nhiều côn trùng như mayflies cũng có mặt chúng.
Chúng đặc biệt được tìm thấy ở những nơi có độ cao lớn, như Himalaya ở độ cao đến . Tuy nhiên, chúng có khuynh hướng sống ở độ cao thấp hơn trong mùa đông.
Loài này được xếp vào nhóm ít quan tâm theo sách đỏ IUCN, vì quần thể vẫn ổn định trong vòng 10 năm qua. Kích thước dải phân bố của chúng hơn .
Hành vi.
Loài này bảo vệ lãnh thổ của chúng rất dữ và sẽ đối đầu cực mạnh đối với bất kỳ loài nào xâm phạm lãnh thổ của chúng. Để bắt ruồi ở sông, nó bay thẳng đứng co đến khi ở độ cao ít nhất trên mặt nước, trước khi thả xuống theo đường xoắn ốc tại cùng vị trí. | 1 | null |
Phoenicurus phoenicurus là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài này thân dài 13-14,5 mm, nặng 11-23g.
Loài chim này thường thích sinh sống ở rừng bạch dương trưởng thành và gỗ sồi mở với một tầm nhìn ngang cao và một lượng thấp cây bụi và tầng dưới, nhất là khi cây đủ tuổi để có lỗ thích hợp cho chúng làm tổ. Chúng thích làm tổ trên các rìa phát quang rừng. Ở Anh, loài này chủ yếu hiện diện ở các khu vực vùng cao ít bị ảnh hưởng bởi thâm canh nông nghiệp, nhưng về phía đông ở châu Âu cũng thường ở các vùng đất thấp, bao gồm công viên và khu vườn cũ trong khu vực đô thị. Chúng làm tổ trong lỗ cây tự nhiên, vì vậy các cây chết hoặc những cây có cành chết có lợi cho loài chim này; đôi khi chúng sử dụng các hộp tổ. Chúng cũng ưa thích các nơi có lớp rêu và địa y dày. Chúng cũng sử dụng rừng gỗ cây hạt trần mở trưởng thành, đặc biệt là ở phía bắc của phạm vi sinh sản. | 1 | null |
Phoenicurus ochruros là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này có phạm vi sinh sống sinh sản rộng khắp ở miền Nam và miền Trung Châu Âu và châu Á và tây bắc châu Phi, từ Vương quốc Anh và Ireland về phía nam tới Morocco , phía đông đến trung bộ Trung Quốc. Loài chim này cư trú trong những khu vực ôn hòa hơn của phạm vi của chúng, nhưng các cá thể chim ở đông bắc di cư để trú đông ở miền nam và miền tây châu Âu và châu Á, và Bắc Phi. Nó làm tổ ở các khe hoặc lỗ trong các tòa nhà.
Loài này có thân dài 13-14,5 cm và trọng lượng 12-20 g, tương tự như chim đuôi đỏ thông thường. Chim trống trưởng thành có màu xám sẫm tổng thể màu đen trên phần lưng và ngực màu đen; dưới đít và đuôi có màu đỏ da cam, với hai lông đuôi giữa đuôi có màu nâu đen. | 1 | null |
Monticola saxatilis là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này sinh sản ở miền nam châu Âu qua Trung Á tới miền bắc Trung Quốc. Đây là loài di cư mạnh mẽ, tất cả các quần thể trú đông ở châu Phi phía nam sa mạc Sahara. Nó là một loài hiếm khi vãng lai đến Bắc Âu. Phạm vi của loài chim này đã thu hẹp lại trong ngoại vi trong những thập kỷ gần đây do mất môi trường sống. Ví dụ, trong những năm đầu thế kỷ XX chúng sinh sản trong Jura Krakowsko-Częstochowska (Ba Lan), nơi ngày nay chúng không còn hiện diện, nhưng loài này không được coi là nguy cơ tuyệt chủng trên toàn cầu. | 1 | null |
Monticola solitarius là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này sinh sản ở miền nam châu Âu và tây bắc châu Phi, và từ Trung Á tới miền bắc Trung Quốc và Malaysia. Quần thể ở châu Âu, chim Bắc Phi và Đông Nam Á chủ yếu là những cá thể cư trú, ngoài việc di chuyển theo độ cao. Các quần thể tại các nước châu Á khác đang di cư nhiều hơn, trú đông ở tiểu vùng Sahara châu Phi, Ấn Độ và Đông Nam Á. Loài chim này là một loài vãnh lai rất không phổ biến đến phía Bắc và Tây Âu. | 1 | null |
Sẻ bụi xám (tên khoa học: Saxicola ferreus) là một loài chim trong họ Muscicapidae
Loài chim này được tìm thấy ở Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Đài Loan, Lào, Myanmar, Nepal, Nhật Bản, Pakistan, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam.
Môi trường sống tự nhiên của loài này là các rừng đất thấp hoặc núi cao ẩm ướt nhiệt đới và cận nhiệt đới. | 1 | null |
Oenanthe familiaris là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Nó từng được gộp trong chi "Cercomela". Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử công bố năm 2010 và 2012 cho thấy chi "Cercomela" là đa ngành với 5 loài, trong đó có "C. familiaris", về mặt phát sinh chủng loài là lồng sâu trong chi "Oenanthe". Tuy nhiên, nhiều nhà phân loại học vẫn tiếp tục đặt loài này trong chi "Cercomela". Như một phần của việc sắp xếp lại các loài để tạo ra các chi đơn ngành, "C. familiaris" được gán vào chi "Oenanthe". | 1 | null |
Cercomela scotocerca là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Nó từng được gộp trong chi "Cercomela". Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử công bố năm 2010 và 2012 cho thấy chi "Cercomela" là đa ngành với 5 loài, trong đó có "C. scotocerca", về mặt phát sinh chủng loài là lồng sâu trong chi "Oenanthe". Tuy nhiên, nhiều nhà phân loại học vẫn tiếp tục đặt loài này trong chi "Cercomela". Như một phần của việc sắp xếp lại các loài để tạo ra các chi đơn ngành, "C. scotocerca" được gán vào chi "Oenanthe". | 1 | null |
Oenanthe fusca là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Nó từng được gộp trong chi "Cercomela". Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử công bố năm 2010 và 2012 cho thấy chi "Cercomela" là đa ngành với 5 loài, trong đó có "C. fusca", về mặt phát sinh chủng loài là lồng sâu trong chi "Oenanthe". Tuy nhiên, nhiều nhà phân loại học vẫn tiếp tục đặt loài này trong chi "Cercomela". Như một phần của việc sắp xếp lại các loài để tạo ra các chi đơn ngành, "C. fusca" được gán vào chi "Oenanthe". | 1 | null |
Oenanthe dubia là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này sinh sống tại Ethiopia và Somalia. Môi trường sống tự nhiên của nó là các vùng đất khô cằn với cây bụi trong khu vực cận nhiệt đới hay nhiệt đới.
Nó từng được gộp trong chi "Cercomela". Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử công bố năm 2010 và 2012 cho thấy chi "Cercomela" là đa ngành với 5 loài, trong đó có "C. dubia", về mặt phát sinh chủng loài là lồng sâu trong chi "Oenanthe". Tuy nhiên, nhiều nhà phân loại học vẫn tiếp tục đặt loài này trong chi "Cercomela". Như một phần của việc sắp xếp lại các loài để tạo ra các chi đơn ngành, "C. dubia" được gán vào chi "Oenanthe". | 1 | null |
Oenanthe melanura là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Nó từng được gộp trong chi "Cercomela". Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử công bố năm 2010 và 2012 cho thấy chi "Cercomela" là đa ngành với 5 loài, trong đó có "C. melanura", về mặt phát sinh chủng loài là lồng sâu trong chi "Oenanthe". Tuy nhiên, nhiều nhà phân loại học vẫn tiếp tục đặt loài này trong chi "Cercomela". Như một phần của việc sắp xếp lại các loài để tạo ra các chi đơn ngành, "C. melanura" được gán vào chi "Oenanthe". | 1 | null |
Pinarochroa sordida là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Nó từng được gộp trong chi "Cercomela". Các nghiên cứu phát sinh chủng loài phân tử công bố năm 2010 và 2012 cho thấy chi "Cercomela" là đa ngành với 5 loài về mặt phát sinh chủng loài là lồng sâu trong chi "Oenanthe", nhưng "C. sordida" thì lại có quan hệ gần với nhánh chứa "Thamnolaea" và "Myrmecocichla" hơn là với "Oenanthe". Tuy nhiên, nhiều nhà phân loại học vẫn tiếp tục đặt loài này trong chi "Cercomela". Như một phần của việc sắp xếp lại các loài để tạo ra các chi đơn ngành, "C. sordida" được tách ra để xép vào chi đơn loài "Pinarochroa". | 1 | null |
Oenanthe lugens là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Loài chim này sinh sống ở các nước sau: Algeria, Bahrain, Cyprus, Ai Cập, Eritrea, Ethiopia, Iran, Iraq, Israel, Jordan, Kenya, Kuwait, Lebanon, Libya, Mauritania, Morocco, Niger, Oman, Pakistan, Qatar, Ả Rập Saudi, Somalia, Sudan, Syria, Tanzania, Tunisia, Turkey, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Yemen. | 1 | null |
Oenanthe xanthoprymna là một loài chim trong họ Muscicapidae.
Phạm vi sinh sản của loài chim ăn lúa mì Kurdistan bao gồm Trung Đông, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, phía bắc Iraq, miền tây Iran, các khu vực của Liên Xô cũ và Đông Nam Á. Chúng di chuyển về phía nam trong mùa đông tới miền nam Iran, bán đảo Ả Rập, Ai Cập, Sudan, Eritrea và đông bắc Somalia và thỉnh thoảng tới phía tây bắc Ấn Độ. Người ta chưa rõ liệu tất cả các quần cư hoặc một số quần thể loài chim ăn lúa mì này di chuyển xuống đến độ cao thấp cho mùa đông. Môi trường sống ưa thích của nó là heathland, sườn đồi và khu vực có nhiều bụi rậm mở, bán sa mạc. | 1 | null |
Turdus eremitus là một loài chim trong họ Turdidae.
Loài này trước đây có danh pháp khoa học "Nesocichla eremita", loài duy nhất trong chi "Nesocichla", là một phần của nhóm hoét Nam Mỹ. Do tính cận ngành của chúng với chi "Turdus", nên sau được đổi lại danh pháp như hiện nay. | 1 | null |
Turdus abyssinicus là một loài chim trong họ Turdidae.
Gần đây loài này đã được tách từ "Turdus olivaceus" dựa trên khác biệt di truyền học. Phạm vi phân bố của chúng không chồng lấn. Các nhóm phía nam và phía bắc có thể là các loài riêng. Loài này được tìm thấy ở Eritrea và các khu vực khác của Sừng châu Phi, cũng như các khu vực phía nam kéo dài từ vùng Các hồ lớn châu Phi đến Mozambique. | 1 | null |
Turdus olivaceus là một loài chim trong họ Turdidae.
Loài này hiện diện ở vùng cao nguyên phía đông châu Phi từ Eritrea và Ethiopia ở phía bắc đến Mũi Hảo Vọng ở phía nam. Nó là một loài chim sinh sống ở rừng và vùng cây gỗ, nhưng đã ở địa phương thích nghi với công viên và các khu vườn lớn ở các khu vực ngoại thành.
Loài này có thể đạt chiều dài 24 cm và khối lượng ít nhất 101 gram. Đuôi và phần lưng có màu nâu ô-liu mờ. Bụng có màu trắng và phần còn lại của các phần dưới có màu cam. Cổ họng có những đốm trắng. Loài chim này có thể được tìm thấy trong các khu rừng thường xanh, công viên, và các khu vườn. Chế độ ăn bao gồm giun đất, côn trùng, ốc sên, hoa quả, và nhện. | 1 | null |
Turdus philomelos là một loài chim trong họ Turdidae.
Loài này sinh sản ở lục địa Á-Âu, ở trong rừng, vườn và công viên. Chúng di cư một phần với nhiều con trú đông ở Nam Âu, bắc châu Phi và Trung Đông. Nó cũng được nhập nội vào New Zealand và Úc. Dù không bị đe dọa trên toàn cầu nhưng đã có sự sụt giảm đáng kể số lượng ở một số nơi tại châu Âu. Chúng bị các loài ký sinh bám vào mình, chúng bị săn bắt bởi các loài mèo, chim săn mồi. | 1 | null |
Turdus maranonicus là một loài chim trong họ Turdidae.
Đặc điểm.
Loài hoét lớn, được đánh dấu đậm chỉ sinh sống ở Thung lũng Marañon phía tây bắc Peru và miền nam Ecuador. Có phần trên màu nâu và phần dưới màu trắng, được bao phủ bởi lớp vảy dày màu nâu.
Con non của các loài chim hét khác có thể có đốm ở phần dưới, nhưng các vết này nhỏ hơn và ít tương phản hơn, và các loài khác khó có thể được tìm thấy cùng với loài này.
Thường sinh sống ở những khu vực ít cây cối rậm rạp và ven rừng, thường gần nước.
Màu nâu ở trên với viền lông sẫm màu hơn tạo nên vẻ ngoài có vảy, màu trắng ở dưới với các đầu lông màu nâu sẫm, với mỏ màu ô liu xỉn. Loài này có vẻ bề ngoài khác đặc biệt (mặc dù các loài chim hét khác có đốm ở phần dưới khi còn nhỏ). | 1 | null |
Turdus albicollis là một loài chim trong họ Turdidae.
Phân bố và môi trường sống.
Nhóm chỉ định (bao gồm cả phân loài "paraguayensis" và "crotopezus") hiện diện ở phía đông Brazil, phía bắc Uruhuay, phía đông Paraguay và phía đông bắc Argentina. Nhóm "phaeopygos" (bao gồm cả phân loài "phaopygoides", "spodiolaemus" và "contemptus") chủ yếu được tìm thấy ở lưu vực sông Amazon, nhưng với các quần thể trải dài dọc theo dốc phía đông của dãy Andes ở phía nam như đông bắc Argentina, và phía bắc là tây Venezuela, với các phần mở rộng Dọc dải ven biển, khu vực tập trung quanh Serranía del Perijá và Sierra Nevada de Santa Marta, và các đảo của Trinidad và Tobago.
Cả hai nhóm chủ yếu gắn với rừng ẩm và rừng. Đối với nhóm đề cử, chủ yếu là rừng Đại Tây Dương, và đối với nhóm "phaeopygos", chủ yếu là rừng nhiệt đới Amazon hay các khu rừng ẩm ướt và rừng gần núi. Loài này hiếm khi mạo hiểm vượt khỏi phạm vi. | 1 | null |
Chim cổ đỏ (Danh pháp khoa khọc: "Turdus migratorius") là một loài chim trong họ họ Hoét.
Loài này phân bố rộng rãi trên khắp Bắc Mỹ, đông từ miền nam Canada đến miền trung Mexico và dọc theo bờ biển Thái Bình Dương. Nó là loài chim tiểu bang Connecticut, Michigan và Wisconsin. Theo một số nguồn tin, loài chim này chỉ xếp sau loài "Agelaius phoeniceus" (và chỉ về phía trước của chim sáo đá châu Âu giới thiệu và ít khi trong tự nhiên của chim sẻ nhà) với tư cách là loài chim đất còn tồn tại nhiều nhất ở Bắc Mỹ. Loài này có bảy phân loài, nhưng chỉ có "T. m. confinis" của Baja California Sur là đặc biệt đặc biệt, với phần dưới màu xám-nâu nhạt.
Loài này hoạt động chủ yếu vào ban ngày và tập hợp theo đàn lớn vào ban đêm. chế độ ăn uống của nó là động vật không có xương sống (như ấu trùng bọ cánh cứng, giun đất, và sâu bướm), trái cây và quả mọng. Nó là một trong những loài chim đẻ trứng sớm nhất, bắt đầu nuôi một thời gian ngắn sau khi trở về phạm vi của nó vào mùa hè từ nhiều mùa đông của mình. tổ của nó bao gồm cỏ dài thô, cành cây, giấy, và lông vũ, và dính đầy bùn và thường đệm cỏ hoặc vật liệu mềm khác. Nó là một trong những con chim đầu tiên hót vào lúc bình minh, và tiếng hót của chúng bao gồm nhiều đơn vị rời rạc được lặp đi lặp lại. | 1 | null |
Cochoa purpurea là một loài chim trong họ Turdidae. Chúng có màu sắc rực rỡ sống trong các khu rừng ôn đới ở châu Á. Đây là một loài chim im lặng và khó quan sát, được cho là có liên quan đến họ Muscicapidae. Loài này thích những nơi tối dưới tán cây và thường đậu im bất động.
Phân bố và môi trường sống.
Loài này tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, và Việt Nam. Ở Ấn Độ, loài được thấy ở dọc theo Himalaya với giới hạn biên giới phía Tây khoảng 100 km thuộc Musoorie.
Môi trường sống tự nhiên của loài này là rừng cận nhiệt hoặc nhiệt đới thấp ẩm ướt và các khu rừng núi (montane forest) ẩm ướt nhiệt đới, cận nhiệt.
Hành vi và hệ sinh thái.
Loài này rất không tích cực hoạt động và thường trú trong tán cây. Mùa sinh sản từ tháng 05 đến tháng 07, chúng xây tổ hình cái cốc ở chạc ba nhánh cây. Tổ được bao quanh gồm rêu, địa y và dạng nấm trắng đặc biệt. Tổ chứa 3 quả trứng có màu xanh nhạt đến xanh đậm với các vết loang lổ được ấp bởi con đực lẫn con mái. Chúng rất nhút nhát ở tổ và bay đi ngay cả khi có tiếng động ở xa. Loài chim này nuôi các con non bằng dâu rừng, côn trùng và động vật thân mềm. | 1 | null |
Dumetella carolinensis là một loài chim trong họ Mimidae.
Loài này đã được mô tả lần đầu tiên bởi Carl Linne trong tác phẩm năm 1766 của ông Systema naturae. Danh pháp ban đầu do ông đặt "Muscipaca carolinensis" tên phản ánh niềm tin, phổ biến rộng rãi tại thời điểm đó rằng loài này là loài Đớp ruồi Cựu thế giới nào đó có lẽ là do màu sắc khá đơn giản của chúng, không giống với các mimidae khác.
Chim trưởng thành cân nặng 23,2-56,5 g, với cân nặng trung bình 35-40 g. Chúng có chiều dài 20,5–24 cm (8,1-9,4 in) và khoảng 22 đến 30 cm (8,7-11,8 in) trên cánh. Trong số đo tiêu chuẩn, cánh dài 8,4-9,8 cm (3,3-3,9 in), đuôi là 7,2-10,3 cm (2,8-4,1 in), culmen dài 1,5-1,8 cm | 1 | null |
Melanoptila glabrirostris là một loài chim trong họ Mimidae.
Với chiều dài 19-20,5 cm (7,5–8 in) chiều và cân nặng 31,6-42 g (1,1-1,5 oz), nó là nhỏ nhất trong các loài thuộc họ Mimidae. Chim trống và chim mái có bề ngoài tương tự, với bộ lông màu đen bóng, chân và mỏ màu đen, và đôi mắt đỏ tối. Chúng là loài đặc hữu của bán đảo Yucatán, và được tìm thấy phía nam cũng như Campeche, phía bắc Guatemala và miền bắc Belize. Mặc dù có những ghi chép lịch sử từ Honduras và bang Texas Hoa Kỳ, ngày nay người ta không biết đến sự hiện diện loài chim này ở một trong hai địa điểm này. Chúng được tìm thấy ở độ cao thấp trong môi trường sống từ bán khô hạn đến ẩm, từ vùng cây bụi và bị bỏ rơi đất nông nghiệp để trồng cây dày dưới tán, và chủ yếu là ít di chuyển. | 1 | null |
Mimus polyglottos là một loài chim trong họ Mimidae.
Loài chim này được tìm thấy phổ biến ở Bắc Mỹ. Chúng phân bố trên một khu vực từ phía bắc nước Mỹ tới Brasil. Tại Hoa Kỳ, loài chim nhại này chủ yếu sinh sống ở các khu vực đô thị. Chiều dài trung bình của chúng là 27 cm. Chúng hót suốt ngày đêm và sẵn sàng liều chết để bảo vệ tổ.
Loài chim nhại Bắc Mỹ này có khả năng bắt chước tiếng hót của hơn 20 loài chim khác. Với mỗi kiểu giọng mới, chúng chỉ cần 10 phút để nhại lại.
Các nhà khoa học thuộc Đại học Florida phát hiện ra rằng chim nhại ở đô thị có thể phân biệt mặt người và sẵn sàng tấn công những cá nhân mà chúng cho là nguy hiểm.
Loài chim nhại này là một loài ăn tạp. Chúng ăn cả côn trùng và trái cây. Chúng thường được tìm thấy trong các khu vực mở và cạnh bìa rừng nhưng kiếm thức ăn thô trong vùng đất đồng cỏ. Chúng sinh sản ở đông nam Canada, Hoa Kỳ, phía bắc México, Bahamas, quần đảo Cayman và Greater Antilles. Loài này được thay thế xa hơn về phía nam bởi loài bà con đang tồn tại gần nhất của nó, chim nhại nhiệt đới. Chim nhại Socorro, loài nguy cấp, cũng liên quan chặt chẽ, trái với quan điểm trước. Chim nhại Bắc Mỹ được liệt kê vào nhóm loài ít quan tâm theo Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN). | 1 | null |
Chim nhại nhiệt đới (Mimus gilvus) là một loài chim trong họ Mimidae.
Loài chim này sinh sản từ nam México về phía nam đến bắc Brasil, và Đại Antilles và các đảo Vùng Caribe khác. Những con chim ở Panama và Trinidad có thể đã được người ta nhập nội. Chim nhại Bắc Mỹ ("M. polyglottos") là loài bà con gần nhất với loài này nhưng loài nguy cấp chim nhại Socorro ("M. graysoni") cũng có quan hệ gần hơn nhiều đối với hai loài này so với những gì người ta tin trước đây . | 1 | null |
Mimus thenca là một loài chim trong họ Mimidae.
Loài này chủ yếu sinh sống ở nửa phía bắc của Chile, mặc dù có những người nhìn thấy ở Argentina.
Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng cây bụi khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trước đây bị suy thoái nặng. Một ví dụ về sinh cảnh là rừng cây bụi khô của Vườn quốc gia La Campana. | 1 | null |
Toxostoma lecontei là một loài chim trong họ Mimidae.
Loài chim này được tìm thấy ở Tây Nam Hoa Kỳ và tây bắc Mexico. Chúng ưa thích sống ở sa mạc với thảm thực vật rất nhỏ, nơi chúng có màu sắc hòa lẫn với đất cát. Đây là chim không di cư và cư trú trong một lãnh thổ hàng năm. Mặc dù loài chim này đã sụt giảm ở một số khu vực trong phạm vi phân bố, đặc biệt là California, số lượng vẫn còn dồi dào, đủ để không bị coi là tình trạng loài dễ bị tổn thương. | 1 | null |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.