text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Rồng rộc hay Rồng rộc ngực vàng (danh pháp khoa học: Ploceus philippinus) là một loài chim trong họ Ploceidae. Loài này được tìm thấy trên khắp Tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á. Loài chim này tập trung thành đàn ở các đồng cỏ, khu vực trồng trọt, bụi cây và khu vực cây mọc thứ cấp và chúng được biết đến nhiều nhất với tổ có hình dạng vặn lại được đan từ lá. Tổ thường được tìm thấy trên những cây có gai hoặc lá cọ và tổ thường được xây dựng gần nước hoặc treo trên mặt nước nơi những kẻ săn mồi không thể tiếp cận dễ dàng. Chúng phổ biến và phổ biến trong phạm vi của chúng nhưng thiên về di chuyển cục bộ, theo mùa chủ yếu là để đối phó với mưa và thức ăn sẵn có.
Trong số các biến thể dân số, năm phân loài được công nhận. Phân loài chỉ định "philippinus" được tìm thấy qua phần lớn lục địa Ấn Độ trong khi burmanicus được tìm thấy ở phía đông vào Đông Nam Á. Dân số ở phía tây nam Ấn Độ tối hơn ở trên và được gọi là phân loài "travancoreensis".
Linh tinh.
Khi định danh loài này, Carl Linnaeus đã nhầm khi cho rằng mẫu vật thu được từ Philippines. Trên thực tế, mẫu vật thu được từ Sri Lanka và loài này không sinh sống ở Phillipines. | 1 | null |
Rồng rộc vàng (danh pháp khoa học: Ploceus hypoxanthus) là một loài chim trong họ Ploceidae.
Loài này được tìm thấy ở Campuchia, Indonesia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. môi trường sống tự nhiên của chúng là đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới ẩm ướt theo mùa hoặc ngập đất thấp, đầm lầy và đất canh tác. Loài này bị đe dọa do mất môi trường sống. | 1 | null |
Ploceus megarhynchus là một loài chim trong họ Ploceidae.
Loài chim này được tìm thấy ở thung lũng sông Hằng và Brahmaputra ở Ấn Độ và Nepal. Hai giống được biết đến; giống chỉ định phân bố từ khu vực Kumaon và "salimalii" từ phía đông Terai.
Loài này được Hume đặt tên dựa trên một mẫu vật thu được tại Kaladhungi gần Nainital. Loài này đã được Frank Finn tái phát hiện ở Terai gần Calcutta. Oates gọi nó là "The East Baya" vào năm 1889 và Stuart Baker gọi nó là "Finn's baya" trong phiên bản thứ hai (1925) của Fauna của Anh Ấn Độ. | 1 | null |
Ploceus benghalensis là một loài chim trong họ Ploceidae.
Loài này sinh sống ở vùng đồng bằng sông phía bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Giống như những loài rồng rộc, chim trống xây một tổ kín từ lau sậy và bùn, và những con cái đến thăm chọn một người bạn đời ít nhất một phần dựa trên chất lượng của tổ.
Chúng là loại định cư hoặc di cư cục bộ, là loài đặc hữu của Nam Á. | 1 | null |
Ploceus superciliosus là một loài chim trong họ Ploceidae. Chúng thường xuất hiện ở Angola, Benin, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Ethiopia, Gabon, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Kenya, Liberia, Nigeria, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Sudan, Tanzania, Togo, Uganda, và Zambia. | 1 | null |
Quelea erythrops là một loài chim trong họ Ploceidae.
Loài chim này phân bố ở Angola, Benin, Botswana, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Tchad, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Eswatini, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Guinée, Guiné-Bissau, Kenya, Liberia, Malawi, Mali, Mozambique, Niger, Nigeria, Rwanda, São Tomé và Príncipe, Sénégal, Sierra Leone, Nam Phi, Nam Sudan, Tanzania, Togo, Uganda, Zambia, và Zimbabwe. | 1 | null |
Quelea quelea là một loài chim trong họ Ploceidae.
Loài chim di cư này dài khoảng 12 cm và nặng 15–26 g, là loài bản địa của châu Phi cận Sahara. Loài này được đặt danh pháp khoa học bởi Linnaeus vào năm 1758, người coi nó là một loài sẻ đồng, nhưng năm 1850, Ludwig Reichenbach đã gán loài này sang chi mới là Quelea. Ba phân loài được công nhận, với "Quelea quelea quelea" hiện diện gần như từ Senegal đến Tchad, "Q. q. aethiopica" từ Sudan đến Somalia và Tanzania, và "Q. q. lathamii" từ Gabon đến Mozambique và Nam Phi. Những con chim ngoài mùa sinh sản có phần dưới sáng, phần trên sọc nâu, lông bay viền vàng và mỏ màu đỏ. Những con chim mái trong mùa sinh sản có mỏ màu vàng nhạt. Những con chim trống trong mùa sinh sản có lông mặt màu đen (hoặc hiếm khi có màu trắng), được bao quanh bởi lớp màu màu màu tía, hơi hồng, gỉ sắt hoặc hơi vàng trên đầu và ức. Loài này tránh các khu rừng, sa mạc và các khu vực lạnh hơn như ở độ cao lớn và ở miền nam Nam Phi. Chúng xây những chiếc tổ có mái che hình bầu dục được dệt từ những dải cỏ treo trên cành gai, mía hoặc lau sậy. Chúng sinh sản trong các quần thể rất lớn. | 1 | null |
Euplectes hordeaceus là một loài chim trong họ Ploceidae.
Đây là loài sinh sống định cư ở xứ nhiệt đới châu Phi từ Senegal đến Sudan và phía nam đến Angola, Tanzania, Zimbabwe và Mozambique.
Chúng thường xuất hiện ở xứ mở, đặc biệt ở khu vực cỏ cao và thường gần nước. Chúng xây tổ hình cầu trên cây cỏ cao, mỗi tổ 2-4 trứng. | 1 | null |
Sẻ đen trán nhạt, tên khoa học Nigrita luteifrons, là một loài chim trong họ Estrildidae.
Nó được tìm thấy ở Angola, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Liberia, Nigeria, Sierra Leone, Togo và Uganda. IUCN đã phân loại loài này thuộc loài ít quan tâm. | 1 | null |
Sẻ đen ngực trắng, tên khoa học Nigrita fusconotus, là một loài chim trong họ Estrildidae. Loài này sống trong rừng, được tìm thấy phổ biến ở Angola, Bénin, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Côte d'Ivoire, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Guinée, Kenya, Liberia, Mali, Nigeria, Rwanda, Sierra Leone, Tanzania & Uganda. | 1 | null |
Stagonopleura guttata là một loài chim trong họ Estrildidae.
Đây là loài đặc hữu của Úc. Loài này có phạm vi phân bố loang lổ và thường chiếm giữ các khu rừng khô hơn và rừng cỏ ở phía tây của [Great Dividing Range từ đông nam Queensland đến Bán đảo Eyre ở Nam Úc. Mặc dù là một loài chim nhỏ chắc nịch nhưng nó là một trong những loài chim di lớn nhất ở Úc. Những con chim này rất đặc biệt với một dải lông ức màu đen trên bộ ngực màu trắng. Lông hai bên sườn có màu đen với những đốm trắng và nó có một nốt đỏ và một lông đuôi màu đen. | 1 | null |
Di họng đỏ (danh pháp hai phần: "Erythrura psittacea") là một loài chim trong họ Chim di.
Di họng đỏ được tìm thấy ở New Caledonia. Nó có một phạm vi phân bố từ 20.000 đồng đến 50.000 km ².
Loài chim này được tìm thấy trong cả hai khu rừng thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và môi trường sống của các loài cây bụi. Tình trạng của loài này được đánh giá là loài ít quan tâm. | 1 | null |
Erythrura regia là một loài chim trong họ Estrildidae.
Di hoàng gia là loài đặc hữu của Vanuatu. Nó được tìm thấy phổ biến ở các khu vực có độ cao trung bình trên các hòn đảo lớn hơn như Espiritu Santo, trên 300 m. Nhưng nó cũng có thể được tìm thấy tại khu vực có hòn đảo nhỏ ở mực nước biển có quả sung trong bìa rừng tại Emae và Tongoa. Loài này thường được tìm thấy ở đơn lẻ, theo cặp hoặc nhóm nhỏ ăn sung trong tán rừng. | 1 | null |
Di cam, tên khoa học Lonchura striata, là một loài chim trong họ Estrildidae.
Di cam là loài bản địa của châu Á nhiệt đới trên lục địa và một số đảo lân cận, và đã được du nhập vào một số khu vực của Nhật Bản. Loài chim lai được thuần hóa Society Finch hoặc Bengalese Finch, được nuôi trên khắp thế giới và là một sinh vật mô hình trong sinh học. | 1 | null |
Anomalospiza imberbis là một loài chim trong họ Viduidae. Nó có mặt ở những đồng cỏ châu Phi miền nam Sahara. Con trống có chủ yếu là vàng và lục trong kho con mái màu da bò với các vạch sẫm. Trứng của chúng đẻ trong tổ của những con chim khác. | 1 | null |
Huỳnh Minh (tên thật: Huỳnh Khắc Vịnh, 1913-?) là một nhà biên khảo chuyên viết sách về thể loại lịch sử và văn hóa của vùng đất Nam Bộ Việt Nam, đồng thời còn là một thầy thuốc Đông y.
Sự nghiệp.
Huỳnh Minh sinh tại một làng thuộc tổng Hòa Quới ở cù lao An Hóa, đương thời thuộc tỉnh Mỹ Tho, nay là xã Giao Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Ông vốn là chủ cơ sở xuất bản "Cánh Bằng" ở số 585/88 đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu), Sài Gòn. Huỳnh Minh là người đam mê sưu tập các nguồn tư liệu xưa và nay về lịch sử, văn hóa, xã hội ở Nam Bộ. Ngoài ra, ông còn nghiên cứu Đông y.
Từ năm 1963 đến năm 1973, Huỳnh Minh đã cho ra đời 10 tập sách thuộc dạng viết về lịch sử và văn hóa của những vùng đất Nam Bộ. Cuốn "Địa linh nhân kiệt - Kiến Hòa xưa và nay" viết về Bến Tre, quê hương ông là cuốn đầu tiên ông viết được xuất bản. Kế tiếp là những cuốn nổi tiếng được nhiều người biết đến như: "Bạc Liêu xưa và nay, Cần Thơ xưa và nay, Định Tường xưa và nay, Sa Đéc xưa và nay, Gia Định xưa và nay, Tây Ninh xưa và nay, Vũng Tàu xưa và nay, Vĩnh Long xưa và nay,"...
Các quyển sách thuộc dạng "sưu khảo" này - chữ dùng của tác giả - ngoài phần văn chương (chiếm tỷ lệ không cao) còn có những tư liệu bổ ích về lịch sử, văn hóa, xã hội và kinh tế...
Theo giới nghiên cứu và sưu tầm sách, thì những đóng góp của nhà biên khảo Huỳnh Minh đã giới thiệu về đất nước và con người của mỗi địa phương mà ông đã đi qua nhất là những giá trị nhân văn mà ông gửi gắm qua từng trang viết (trong điều kiện chiến tranh) rất quan trọng. Tuy nhiên, trong một số các công trình biên khảo của ông vẫn có nhiều sai sót cơ bản cần phải đính chính..
Tác phẩm.
Loại sách sưu khảo các tỉnh thành năm xưa.
- Địa linh nhơn kiệt (Kiến Hòa [Bến Tre] xưa và nay).
- Bạc Liêu xưa và nay
- Cần Thơ xưa và nay - Cánh Bằng XB năm 1966
- Vũng Tàu xưa và nay - Tác giả xuất bản năm 1970
- Định Tường xưa và nay
- Tây Ninh xưa và nay - Tác giả xuất bản 1972
- Gia Định xưa và nay
- Vĩnh Long xưa và nay - Cánh Bằng năm 1967
- Sa Đéc xưa và nay
- Gò Công xưa và nay
Các thể loại khác.
- Ánh sáng chơn lý
- Ăn chay có lợi gì
- Bá bệnh thần phương
- Danh nhân tư tưởng
- Đời khổ hạnh ông Đạo Dừa
- Đời người qua nét bút I, II, III
- Huyền bí học
- Lược sử tu sĩ Nguyễn Thành Nam
- Luyện chí
- Sống tranh đấu
- Sống vui hay sống khổ
- Thần phương khảo luận
- Thế giới vô hình người và ma | 1 | null |
Bầu cử tổng thống Hàn Quốc 2012 diễn ra vào 19 tháng 12 năm 2012 với sự tham gia của số lượng cử tri đông nhất từ trước đến nay. Có 30,3 triệu cử tri trong tổng số 40,5 triệu cử tri Hàn Quốc đã đi bỏ phiếu, đạt 75,8%.
Đây là cuộc tranh đua vào chức vụ Tổng thống Hàn Quốc giữa hai ứng cử viên sáng giá nhất là bà Park Geun-hye của Đảng Thế giới mới cầm quyền và ông Moon Jae-in của Đảng Dân chủ Thống nhất. Theo kết quả sơ bộ, bà Park Geun-hye được 50,6% số phiếu bầu, trong khi ứng cử viên Moon Jae In được 48,0%.
Park Geun-hye trở thành phụ nữ đầu tiên thắng cử Tổng thống Hàn Quốc.
Cương lĩnh tranh cử của bà Park Geun-hye tập trung vào những vấn đề cơ bản gồm thành lập một chính phủ năng động và khôi phục lòng tin của người dân thông qua cải cách chính trị, xây dựng một xã hội không có sự phân biệt đối xử, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện kinh tế công bằng, đảm bảo động lực tăng trưởng thông qua mô hình kinh tế sáng tạo và tạo ra nhiều việc làm, hướng tới một nền giáo dục hạnh phúc, hệ thống phúc lợi đảm bảo các quyền của người dân, bảo đảm hòa bình trên bán đảo Triều Tiên trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. | 1 | null |
Tinamidae là một họ chim duy nhất trong bộ Tinamiformes, họ này gồm 47 loài, phân bố ở Trung và Nam Mỹ. Là một trong những nhóm chim cổ nhất còn sinh tồn, chúng có quan hệ gần với đà điểu. Nhìn chung, chúng sống trên mặt đất, các loài này được tìm thấy trong nhiều môi trường sống khác nhau.
Phân loại.
Họ này có 47 loài trong các phân họ và chi như sau: | 1 | null |
Ne-20 (ネ-20) là loại động cơ máy bay tuốc bin phản lực được phát triển bởi xưởng công binh Không lực Hải quân cho máy bay phản lực đầu tiên của Nhật Bản là chiếc Nakajima Kikka trong chiến tranh thế giới thứ hai. Nó được phát triển dựa theo bản vẽ động cơ BMW 003 của Đức quốc xã được giao cho Nhật trong chiến tranh, động cơ đã qua được các giai đoạn thử nghiệm, kết hợp các nâng cấp và đưa vào sản xuất hàng loạt nhưng chưa được nhiều trước khi chiến tranh kết thúc.
Phát triển.
Việc phát triển loại động cơ này được thực hiện khi yêu cầu về một loại máy bay có tốc độ cao để có thể tránh được cácđòn tấn công của các tiêm kích cơ đối phương và tiếp cận mục tiêu trong thời gian ngắn, chỉ có các máy bay phản lực mới đạt được yêu cầu đó. Vì thế xưởng công binh Không lực Hải quân đã hợp tác với tập đoàn công nghiệp nặng Ishikawajima để phát triển loại động cơ này. Vấn đề chính khi phát triển động cơ là vật liệu chịu lực và nhiệt mà tại thời điểm đó việc sử dụng các kim loại hiếm như coban hay niken vốn sử dụng trong thiết kế của Đức rất hạn chế, vì thế Nhật đã phát triển một loại hợp kim thép không gỉ đặc biệt là Cr-W để sử dụng cho động cơ.
Động cơ đã hoàn tất được các cuộc thử nghiệm và khoảng 50 động cơ đã được chế tạo khi tiến hành sản xuất hàng loạt nhưng việc chế tạo bị hủy bỏ do chiến tranh kết thúc và một số động cơ hoàn thiện đã bị mang sang Hoa Kỳ để quân đội nghiên cứu số khác bị phá hủy để ngăn công nghệ lọt vào tay Liên Xô còn những động cơ dở dang bị bỏ không cho hoàn thiện. Nhưng vẫn còn một số động cơ vẫn tồn tại cho đến hiện tại và những kinh nghiệm khi phát triển loại động cơ này được sử dụng để phát triển loại động cơ kế tiếp là J3. | 1 | null |
Truyền hình thực tế là thể loại chương trình truyền hình chú trọng vào việc phô bày các tình huống xảy ra không theo kịch bản diễn xuất với nội dung mang chất liệu thực tế mà không hư cấu, các nhân vật trung tâm là những người bình thường thay vì diễn viên chuyên nghiệp nhằm để thu hút xúc cảm hoặc tiếng cười. Ngày nay, hai mảng chính của truyền hình thực tế là các cuộc thi có giải thưởng lớn và các chương trình/phim ghi hình tình huống hài hước theo dạng sêri. Theo định dạng thông dụng, khán giả có thể can thiệp vào việc đánh giá thí sinh (đối với cuộc thi) và nội dung (đối với chương trình/phim tình huống). Được ra đời vào năm 1948, truyền hình thực tế thực sự bùng nổ từ đầu thập niên 2000. Tuy nhiên, phim tài liệu và thời sự thường không được xếp vào loại truyền hình thực tế.
Truyền hình thực với tính chất chú trọng vào những tình huống thực tiễn nên có thể giúp trẻ em hiểu hơn về cuộc sống. Nhưng với tính chất hư cấu sẽ làm cho truyền hình thực tế khó xem với các bạn trẻ. | 1 | null |
Bò xạ hương hay bò xạ (danh pháp hai phần: "Ovibos moschatus") là loài động vật có vú duy nhất trong chi "Ovibos" thuộc họ Trâu bò sống ở Bắc Cực từ thời kỳ bằng hà cách đây gần 200.000 năm, nổi tiếng với bộ lông dày và mùi mạnh mẽ phát ra từ con đực. Mùi của chúng được sử dụng để hấp dẫn con cái trong mùa giao phối. Bò xạ hương sống chủ yếu sống ở Bắc Cực bao gồm phía Bắc Canada và Greenland, và một số các quần thể nhỏ ở Thụy Điển, Xibia, Na Uy và Alaska.
Lịch sử.
Chúng được cho là loài động vật kỷ băng hà sống ở vùng Bắc Mỹ cách đây 200.000 - 90.000 năm. Cuối thời kỳ băng hà, giai đoạn Holocen chúng dần di chuyển khắp lục địa Bắc Mỹ, sang cả Greenland, tại các khu vực lạnh giá đầy tuyết.
Phân bố.
Bò xạ hương có nguồn gốc ở khu vực vùng Bắc Cực thuộc Canada, Greenland, và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ở Alaska cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 gần như chúng đã không còn tồn tại. Sự suy giảm nguyên nhân là do tình trạng săn bắn quá mức, nhưng một nguyên nhân khác được cho là do việc biến đổi khí hậu ở đây. Tuy nhiên, chúng đã được tìm thấy với một số ít ở Đảo Nunivak (phía Tây Alaska) vào năm 1935. Chúng cũng được tìm thấy ở các khu vực đảo thuộc Bắc Âu, bao gồm Thụy Điển, dãy núi Dovrefjell (Na Uy), các đảo phía Bắc Nga, khu vực bán đảo Taymyr của Siberia và từ Đảo Ellesmere kéo dài qua miền Đông Canada. Tại tỉnh Quebec, bò xạ hương gần như là tuyệt chủng, nhưng đã dần phục hồi sau khi chúng được bảo vệ nghiêm ngặt. Uớc tính hiện nay có khoảng 80.000 tới 125.000 con, riêng tại đảo Banks ở Canada đã có 68.788 con..
Trong suốt mùa hè, bò xạ hương sống ở các khu vực ẩm ướt, như các thung lũng sông và di chuyển lên các vùng núi cao hơn vào mùa đông. Thức ăn của chúng bao gồm cỏ liễu Bắc cực, địa y và rêu dưới lớp tuyết. Khi thức ăn dồi dào, chúng ăn các loại cỏ mọng nước và dinh dưỡng hơn. Bò xạ hương có thể dự trữ một lượng chất béo rất lớn trước khi mang thai nhằm cung cấp sữa cho các con của chúng và để thích nghi với tình trạng khan hiếm thức ăn. Các mối đe dọa tới chúng, ngoài khí hậu thì còn có các loài động vật ăn thịt khác bao gồm sói Bắc Cực, gấu xám Bắc Mỹ và gấu Bắc Cực hay gấu mặt ngắn khổng lồ (một loài đã tuyệt chủng).
Hành vi.
Bò xạ hương sống thành từng đàn khoảng từ 12-24 vào mùa đông và 8-20 vào mùa hè. Con đực có vai trò thống trị trong đàn, khẳng định sự thống trị của mình bằng cách khác nhau. Có thể là việc gầm thét, dậm chân xuống đất, hoặc dùng cặp sừng của nó để đuổi theo tấn công dọa một con trong đàn.
Mùa giao phối của bò xạ hương vào tháng 6 đến tháng 7. Một con bò đực có thể giao phối với nhiều con cái. Các con đực trong đàn có thể tranh chấp về quyền giao phối. Một số con đực cũng có thể chọn cách rời đàn để tìm kiếm đàn mới hoặc chọn cách sống đơn độc, nhưng khi có nguy hiểm, nó có thể quay lại đàn để cùng nhau chống lại kẻ thù. Các con đực quyết định hướng di chuyển của đàn, nhưng khi con cái trong đàn có thai, thì con cái sẽ được quyết định hướng đi, khoảng cách và kể cả là nơi nghỉ chân của đàn. Thời gian thai của bò cái là từ 8 - 9 tháng, bê con được đẻ từ tháng 4 - 6 và có thể đi được sau khoảng một tiếng. Trong hai tháng đầu tiên, chúng phụ thuộc vào nguồn sữa mẹ, sau đó chúng sẽ được tập ăn các loài thực vật. Những năm thời tiết quá khắc nghiệt, nguồn thức ăn khan hiếm thì bò xạ hương sẽ không giao phối nữa.
Một hành vi đặc biệt của bò xạ hương là việc phòng thủ trước những kẻ săn mồi. Khi gặp kẻ săn mồi, đàn bò xạ hương sẽ nhanh chóng di chuyển lên những khu vực cao hơn. Các con bò đực khỏe mạnh sẽ hướng ra ngoài, tạo thành một vòng cung hình bán nguyệt để bảo vệ cho các con bò yếu và bê con ở bên trong.
Mô tả.
Đây là loài động vật liên quan chặt chẽ tới cừu và dê hơn so với bò nên đã được xếp riêng trong chi riêng. Bò xạ hương có chiều cao từ 1,1 - 1,5 m (4 – 5 ft), dài 1,35 - 2,0 m (4,4 - 6,6 ft) đối với con cái và 2,0 đến 2,5 m (6,6 - 8,2 ft) đối với con đực. Chúng có cái đuôi ngắn (chỉ khoảng 10 cm) ẩn dưới lớp lông dày. Trọng lượng của một con bò xạ hương trưởng thành khoảng từ 180 – 410 kg (400 - 900 lb) với tuổi thọ từ 12 - 20 năm. Chúng có một cái đầu lớn cùng bộ lông dày, thường được so sánh với bò rừng bizon nhưng chỉ bằng một nửa về kích thước. Tuy nhiên, có một số con bò xạ hương ở vườn thú có thể nặng thới 650 kg (1.400 lb). Bò xạ hương có một bộ lông dày hai lớp với lớp lông dày màu đen xám, nâu bên ngoài dài gần chạm đất và một lớp lông lót bên trong. Nhờ lớp lông dày, chúng có thể chịu được nhiệt độ lạnh giá lên tới âm 40 độ C. Một số ít những con bò xạ hương có bộ lông màu trắng cũng được tìm thấy ở Khu bảo tồn chim di trú vịnh Queen Maud (Bắc Canada)
Tình trạng.
Trong lịch sử, tình trạng săn bắn đã khiến số lượng bò xạ hương giảm nhưng đã dần phục hồi nhờ các biện pháp nghiêm cấm chặt chẽ. Hầu như chúng không có mối đe dọa nào lớn ngoài những biến động từ khí hậu, cùng với vài động vật ăn thịt. Một số khu vực tập trung nhằm bảo vệ số lượng loài bò xạ hương trong tự nhiên như Công viên quốc gia Đông Bắc Greenland, Khu bảo tồn thiên nhiên Arnangarnup Qoorua, Khu dự trữ sinh quyển Maniitsoq Caribou và khu bảo tồn thiên nhiên ở Kangerlussuaq.
Bò xạ hương được nuôi ở một số vùng lạnh giá, cung cấp lượng thịt, sữa và lông để sản xuất sợi. Sản phẩm len được sản xuất từ lông bò xạ hương mềm mại, giữ nhiệt tốt và mang giá trị kinh tế cao. | 1 | null |
Lý Cương (, 1083 - 1140), tên tự là Bá Kỷ, người Thiệu Vũ quân, tể tướng nhà Tống, lãnh tụ phái kháng Kim, anh hùng dân tộc Trung Quốc.
Cùng với Nhạc Phi, Triệu Đỉnh, Hàn Thế Trung, Văn Thiên Tường, ông là 1 trong 5 vị quan trong thời Nam Tống được thờ tại Đế vương miếu (历代帝王庙) được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại.
Thiếu thời.
Tổ tiên của Lý Cương không thể khảo cứu được, ông tự xưng mình là hậu nhân còn sống của hoàng đế cuối cùng triều Đường Lý Chúc, theo chi của một người con tên Lý Hy Chiếu(李熙照). Cha là Lý Quỳ, làm đến Long Đồ các đãi chế. Năm 1112, Lý Cương đỗ tiến sĩ.
Năm 1115, Lý Cương nhiệm chức Giám sát ngự sử kiêm quyền Điện trung thị ngự sử, không lâu sau vì nghị luận triều chính không hợp ý bề trên, bị đổi làm Bỉ bộ viên ngoại lang, rồi được thăng làm Khởi cư lang.
Năm 1119, Biện Kinh có lụt lớn, ông dâng sớ yêu cầu triều đình chú ý các vấn đề nội ưu ngoại hoạn, triều đình ghét lời ấy, biếm làm Giám thuế vụ ở huyện Sa thuộc Nam Kiếm Châu.
Phòng ngự Khai Phong.
Tháng 7 năm 1125, Lý Cương được về triều, nhiệm chức Thái thường Thiếu khanh.
Mùa đông năm ấy, 2 lộ quân Kim đánh Tống, Hoàn Nhan Tông Vọng soái Đông lộ quân nhằm thẳng vào đô thành Khai Phong. Triều đình nhà Tống trải qua một phen hoảng loạn, thông qua Ngô Mẫn, Lý Cương đề xuất với Tống Huy Tông truyền vị cho thái tử Triệu Hoàn, để hiệu triệu quân dân kháng Kim. Sau khi Triệu Hoàn lên ngôi, là Tống Khâm Tông, Ngô Mẫn nhiệm chức Môn hạ thị lang (dân gian gọi là Phó tướng), Lý Cương nhiệm chức Binh bộ thị lang.
Tháng giêng năm 1126, triều đình lấy Ngô Mẫn làm Hành doanh phó sứ, Lý Cương làm Tham mưu quan. Quân Kim áp sát Khai Phong, bọn Bạch Thì Trung, Lý Bang Ngạn muốn đưa Tống Khâm Tông chạy về nam, ông kiên quyết phản đối, cho rằng "kế của ngày nay, không bằng chỉnh đốn binh mã, lớn tiếng đòi đánh, cố kết lòng dân, cùng nhau kiên thủ, để đợi quân cần vương", Khâm Tông quyết định ở lại, thăng Lý Cương làm Thượng thư Hữu thừa.
Nhưng Khâm Tông lại theo lời bọn đại thần, thay đổi chủ ý, chuẩn bị xa giá để cùng hậu cung, triều đình dời về nam, ông rơi nước mắt can ngăn, Khâm Tông không theo. Lý Cương chạy ra ngoài kêu gọi Cấm vệ quân tỏ lòng trung thành, mọi người hô lớn: "Nguyện tử thủ!" Ông trở vào, nhận xét gia quyến của Cấm vệ quân đều ở kinh thành, một khi rời khỏi thì lòng người ly tán, giữa đường chẳng may có biến thì khó thoát khỏi kỵ binh của Kim. Khâm Tông mới quyết định ở lại.
Lý Cương được nhiệm chức Thân chinh hành doanh sứ, phụ trách phòng ngự Khai Phong. Ông soái quân dân Khai Phong trong vài ngày kịp thời hoàn thành tổ chức phòng ngự, tự lên thành đốc chiến, đẩy lui quân Kim. Kim soái Hoàn Nhan Tông Vọng thấy khó lòng đánh hạ Khai Phong, chuyển sang thi hành kế dụ hàng, triều đình nhà Tống tỏ ý chịu khuất phục. Lý Cương vì kiên quyết phản đối cắt đất cầu hòa, lại thêm Diêu Bình Trọng tập kích doanh trại Kim thất bại, bọn Lý Bang Ngạn đẩy hết trách nhiệm cho ông, nên bị bãi quan. Hơn 10 vạn quân dân Khai Phong phẫn nộ, tập trung trước cửa cung hò hét, Tống Khâm Tông đành thu hồi mệnh lệnh, Lý Cương mới được dùng trở lại.
Tháng 2, quân Kim rút lui, Lý Cương đổi nhiệm chức Tri Khu mật viện sự.
Biến cố Tĩnh Khang.
Tháng 6, triều đình mượn lý do giải vây Thái Nguyên, đẩy Lý Cương ra ngoài làm Hà Bắc, Hà Đông lộ Tuyên phủ sứ. Các quan chức Tuyên phủ phó sứ, Chế trí phó sứ, Sát phóng sứ đều nghe lệnh trực tiếp từ triều đình, ông chưa từng nắm được chút binh quyền nào, nhiều lần dâng sớ trình bày nhưng không có kết quả, vì vậy cuộc chiến giải vây chẳng có chút tiến triển gì!.
Tháng 8, triều đình nghị hòa, một loạt thành viên phái chủ chiến là Từ Xử Nhân, Ngô Mẫn, Hứa Hàn, Trần Quá Đình, Lý Hồi,… bị đày ra ngoài. Lý Cương nghe tin, than rằng: "Việc lớn không thể làm được rồi!" rồi dâng sớ xin bãi chức. Triều đình lấy Chủng Sư Đạo làm Tuyên phủ sứ thay cho Lý Cương, triệu ông về kinh.
Tháng 9, Lý Cương bị bãi Tri Xu Mật viện sự, nhận hàm Quan Văn điện học sĩ, ra nhiệm chức Tri Dương Châu, ông dâng sớ xin miễn chức. Không lâu sau, bị gán cho tội danh "chuyên bàn việc đánh, thiệt quân phí của" mà chịu bãi chức, đổi nhận hư hàm Đề cử Bạc Châu Minh Đạo cung.
Tháng 10, lại bị biếm thụ chức Bảo Tĩnh quân Tiết độ phó sứ, an trí ở Kiến Xương quân , rồi lại bị đày đến Ninh Giang .
Tháng 11, quân Kim lần nữa chia 2 đường nam hạ, bao vây Khai Phong. Tống Khâm Tông lại muốn khởi dụng Lý Cương. Ông đang từ Kiến Xương đi Ninh Giang, ở Trường Sa nhận chiếu, lập tức soái quân "Cần vương" Hồ Nam cứu viện, được nửa đường thì đô thành bị hãm, Bắc Tống diệt vong.
Chống đỡ Nam Tống.
Tháng 5 năm 1127, Khang vương Triệu Cấu tại Ứng Thiên phủ thuộc Nam Kinh lên ngôi, là Tống Cao Tông, đổi niên hiệu là Kiếm Viêm, sử gọi là nhà Nam Tống. Vì muốn mượn danh vọng của Lý Cương, khởi dụng ông làm Thượng thư Tả bộc xạ (Tả tướng) kiêm Trung thư thị lang. Phái chủ hòa cực lực chỉ trích Lý Cương.
Tháng 6, ông cho rằng những việc cấp bách lúc này là nghị Quốc thị (bàn về Phương châm chính trị), nghị Tuần hạnh (bàn về việc Hoàng đế tuần du), nghị Xá hạnh (bàn về việc Hoàng đế tha tội), nghị Tiếm nghịch (bàn về việc Bề tôi cướp ngôi), nghị Ngụy mệnh (bàn về Mệnh lệnh của chính quyền ngụy), nghị Chiến (bàn về việc Đánh), nghị Thủ (bàn về việc Thủ), nghị Bản chính (bàn về Chính lệnh của triều đình), nghị Trách thành (bàn về Trách nhiệm), nghị Tu đức (bàn về việc Sửa đức). Lý Cương phản đối nghị hòa, yêu cầu biểu dương những người tử tiết vì kháng Kim, dời đô về Khai Phong, chấn chỉnh quân vụ. Ông mạnh mẽ yêu cầu nghiêm khắc trừng trị những quan lại hàng Kim, trong biểu có viết: "Bề tôi không thể phụng sự hai nước, nên dùng hốt mà đánh chúng."
Lý Cương tích cực tổ chức quân dân Lưỡng Hà kháng Kim, bổ nhiệm Trương Sở làm Hà Bắc chiêu phủ sứ, Phó Lượng làm Hà Đông kinh chế phó sứ, Tông Trạch làm Tri Khai Phong phủ. Ông cho rằng chỉ có trên dưới đồng lòng kháng Kim, ""trong thời gian 3 năm, quân đội – chính trị được tăng cường – sửa sang, binh giáp – chiến xa được chuẩn bị đầy đủ, về sau có thể cất đại quân chinh thảo, báo mối thù không đội chung trời, rửa cái nhục xưa chưa từng có". Nhờ vào nỗ lực xoay xở của Lý Cương, cục diện Nam Tống dần dần ổn định.
Cuối đời.
Tuy nhiên, Tống Cao Tông cùng bọn Uông Bá Ngạn, Hoàng Tiềm Thiện của phái chủ hòa đã khiến cho hành động kháng Kim của ông gặp nhiều trở ngại. Đầu tiên, điều Lý Cương nhiệm chức Thượng thư tả bộc xạ kiêm Môn hạ thị lang (Tả tướng), lấy Hoàng Tiềm Thiện thay làm Hữu tướng, nhằm kiềm chế ông. Sau đó bãi chức của Trương Sở, Phó Lượng, phế bỏ Hà Bắc chiêu phủ tư và Hà Đông kinh chế tư. Lý Cương hết sức biện hộ cho Trương Sở, Phó Lượng, lại phản đối Cao Tông tiếp tục chạy về nam. Tháng 8, ông bị gán cho tội danh "lấp liếm ngôn luận, chuyên quyền triều chính", đổi làm Quan Văn điện đại học sĩ, Đề cử Động Tiêu cung.
Tháng 10 cùng năm đến năm 1129, Tống Cao Tông tiếp tục chạy về nam, quận huyện Lưỡng Hà nối nhau thất thủ. Trong thời gian này, Lý Cương chịu thêm một phen chỉ trích, đầu tiên bị bãi chức Quan Văn điện Đại học sĩ, đày đi Ngạc Châu , rồi bị biếm làm Đan Châu đoàn luyện phó sứ, đày đi Vạn An quân , đến mùa đông mới được phép tự do cư trú.
Tháng 2 năm 1132, Lý Cương được khởi dụng làm Hồ Quảng tuyên phủ sứ kiêm Tri Đàm Châu, kiến nghị triều đình tại một dải Kinh Hồ đồn trú trọng binh để mưu tính đoạt lại Trung Nguyên. Tấu nghị còn chưa lên đường, ông lại tiếp tục chịu đàn hặc, bị bãi chức, nhận hàm Đề cử Tây Kinh Sùng Phúc cung, tức là bị đày đi Phúc Châu.
Năm 1134, được trở về Thiệu Vũ cư trú. Liên quân Kim, Lưu Tề tiến đánh Nam Tống, ông lại trình lên kế sách phòng ngự, đề xuất tập kích Dĩnh Xương ở sau lưng quân địch.
Năm 1135), Lý Cương lại dâng lên một bản tấu dài trần thuật đại kế Trung hưng, chỉ ra sự yếu đuối của triều đình Nam Tống là do trên dưới cầu an, không phải là kế lâu dài; sách lược lui tránh "chỉ tạm mà không lâu dài, chỉ một mà không lặp lại, lui 1 bước thì mất 1 bước, lui 1 thước thì mất 1 thước", răn đe Cao Tông "chớ lấy địch lui mà làm vui, phải lấy mối thù chưa báo được mà căm giận. Chớ lấy đông nam mà an tâm, phải lấy Trung Nguyên chưa giành lại, Xích Huyện Thần Châu" "mất cho nước địch mà hổ thẹn; chớ lấy chư tướng nhiều lần báo tiệp mà lơi tay, phải lấy quân – chánh chưa sửa sang, sĩ khí chưa chấn hưng trong khi cường địch vẫn còn đấy mà lo lắng"". Ông kiến nghị triều đình trước tiên liệu lý Hoài Nam, Kinh Tương làm bình phong của đông nam, ở đông tây Lưỡng Hoài cùng Kinh Tương đặt 3 viên đại soái, đều lãnh trọng binh để mưu tính khôi phục. Triều đình có chiếu an ủi.
Tháng 10 cùng năm, Lý Cương đổi nhiệm chức Chế trí đại sứ kiêm Tri Hồng Châu.
Năm 1138, Vương Luân đi sứ nước Kim trở về, ông dâng tấu can ngăn không nên chấp thuận những yêu cầu của người Kim. Bản tấu lại chịu nhiều chỉ trích, Cao Tông nói: "Đại thần nên như thế này!"
Tháng 2 năm 1139, Lý Cương được khởi dụng làm Hồ Nam lộ an phủ đại sứ kiêm Tri châu Đàm Châu, dâng sớ từ chối.
Tháng giêng năm sau (1140), ông mất ở Phúc Châu, hưởng thọ 58 tuổi. Triều đình sai sứ phúng tặng, thăm hỏi gia quyến, cấp chi phí tang lễ. Được tặng hàm Thiếu sư, họ hàng gần có đến 10 người làm quan.
Ông được táng ở chân phía nam núi Đại Gia, thôn Quang Minh, trấn Kinh Khê, huyện Mân Hầu, thành phố Phúc Châu.
Năm 1189, Lý Cương được ban thụy là Trung Định.
Đánh giá.
Lý Cương đáp ứng sự kỳ vọng của cả nước, xả thân vì xã tắc và nhân dân. Tuy không được dùng, hoặc dùng không được lâu, nhưng nghĩa khí trung thành của ông vẫn lẫm liệt khiến cho người ta cảm động. Mỗi lần sứ giả Nam Tống đến Yên Sơn (tức Yên Kinh, đô thành cũ của nước Liêu), đều nhận được những lời thăm hỏi tình hình của Lý Cương, cho thấy uy vọng của ông là như thế nào!
Văn Thiên Tường, "Trung Định công tán": "Đạo của ông thì tốt, vận của ông thì xấu. Ôi, không hay ở chỗ nào, mà trời xanh mấy lần không chọn!"
Chu Hi bình giá: "Cương biết đến vua cha mà không biết đến mình, biết an nguy của thiên hạ mà không biết bệnh tật của mình, tuy bị gian thần chỉ trích, mấy lần suýt chết, mà cái chí yêu nước lo vua rốt cục vẫn không mất, có thể xem là vĩ nhân một thời vậy!"
Giai thoại: Biển nhục Tây Thi.
Năm 1119, Lý Cương bị đày đến huyện Sa. Ông ngụ ở nhà khách mé tây chùa Hưng Quốc tại cửa Đông. Chỉ là một viên quan bị biếm chức, công việc chẳng có gì nhiều, phần lớn thời gian là rảnh rỗi, Lý Cương cùng bọn danh sĩ Đặng Túc vui chơi tiệc tùng, làm thơ hát xướng.
Hằng ngày ông đến một quán thức ăn nhẹ (chữ Hán: 小吃, tiểu cật) ở mé đông chùa Hưng Quốc để dùng bữa sáng. Chủ quán là La Phát Thổ, lớn tuổi, tính thật thà không khéo ăn nói. Vợ La là Nhạc Tú Cơ, dung mạo xinh xắn, da dẻ trắng đều, tính thông minh giỏi giang, lại giỏi làm các thức ăn nhẹ là Biển nhục , Thiêu mại (xíu mại), Ngư hoàn (cá viên), Bàn cao (bánh bò)… Hai vợ chồng tuy nhiều khác biệt nhưng rất hòa hợp; còn với người ngoài, thức ăn nhẹ của họ là ngon nhất vùng. Có người nhân đó gọi Nhạc Tú Cơ là Biển nhục Tây Thi, dù món ăn ngon nhất của quán lại là Thiêu mại. Thiêu mại của Biển nhục Tây Thi có một lớp vỏ mỏng, hấp chín xong thì trong suốt như ngọc, chấm với nước tương rồi cho vào miệng, cảm thấy ngọt ngào giòn tan, răng ngập trong mùi vị tươi ngon. Biển nhục Tây Thi tuy không học hành, nhưng rất biết đại thể, đối với Lý Cương vô cùng kính trọng, mỗi khi ông đến, không chỉ các món ăn được làm một cách đặc biệt, mà còn phục vụ chén lớn hơn hẳn của người khác.
Một ngày nọ, Lý Cương có hẹn với bọn Đặng Túc đi chơi núi Thất Đóa. Sau khi ăn sáng, ông dặn dò La Phát Thổ vào giữa trưa đưa thức ăn đến gác Ngưng Thúy. Không ngờ trong lúc Phát Thổ đưa thức ăn, Biển nhục Tây Thi ở nhà bị một đám lưu manh vũ nhục. Buổi chiều, Lý Cương về nhà khách, Phát Thổ đến trình bày tình cảnh của vợ mình. Ông nổi giận, lập tức lên ngựa đưa Phát Thổ đến gặp Tri huyện báo án. Tri huyện không dám chậm trễ, trong đêm phái đi 4 tổ Lệ bộ, mỗi tổ 8 người, lùng bắt đám lưu manh. Giữa trưa ngày thứ 2 thì bắt được bọn chúng đưa về huyện phủ. Đám lưu manh này thường ngày làm nhiều việc xấu xa, dân chúng rất căm phẫn, vì thế khi Tri huyện hỏi cách xử trí, Lý Cương đề nghị nghiêm trừng làm gương. Sau đó, huyện Sa trở nên thái bình vô sự, mọi người yên ổn làm ăn, vợ chồng La Phát Thổ sinh được 1 trai 1 gái, rất đỗi cảm kích ông. | 1 | null |
Stercorarius hay Chim cướp biển là một chi duy nhất trong họ Stercorariidae gồm khoảng 7 loài chim biển..
Các loài này làm tổ trên mặt đất ở những vùng ôn đới và bắc Cực, và là những loài chim dư cư với khoảng cách lớn. Chúng thậm chí được nhìn thấy ở Nam Cực. | 1 | null |
Trịnh Hoàn công (chữ Hán: 鄭桓公; trị vì: 806 TCN–771 TCN), tên thật là Cơ Hữu (姬友), là vị vua đầu tiên của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Trịnh Hoàn công là con nhỏ của Chu Lệ Vương – vua thứ 10 nhà Chu và em cùng mẹ của Chu Tuyên Vương. Năm 827 TCN, anh ông là Cơ Tĩnh lên ngôi, tức là Chu Tuyên vương. Năm 806 TCN, Chu Tuyên Vương phong ông làm vua chư hầu nước Trịnh Yển, kinh đô đóng tại Hoa huyện.
Vừa làm vua nước Trịnh, Trịnh Hoàn công còn được vua anh Tuyên vương phong làm khanh sĩ nhà Chu, đảm nhận công việc trong triều đình.
Di dời lãnh thổ.
Do sự bất ổn trong thời kỳ trị vì của Chu U Vương, Trịnh Hoàn Công tới bày tỏ nguyện vọng của mình với Thái Sử Bá (太史伯) rằng ông muốn di dời lãnh thổ của mình về phía tây hoặc lưu vực sông Trường Giang. Thái Sử Bá nói rằng khó mà giữ vững được lãnh thổ nếu lập quốc ở phía Tây vì những người ở phía Tây vốn là những kẻ tham lam và thủ đoạn, và việc lập quốc ở lưu vực sông Trường Giang thì không có lợi lắm vì nước Sở ở phương Nam đang dần mở rộng lãnh thổ. Cuối cùng, Trịnh Hoàn Công nghe theo lời khuyên của Thái Sử Bá và dời đô đến phía đông của Lạc Dương, phía nam sông Hoàng Hà và Tế Thủy (濟水) và đặt tên cho nó là Tân Trịnh (新鄭).
Sau khi dời đô, những nước lân cận như nước Cối (鄶) và Đông Quắc tặng 10 thành cho Trịnh Hoàn Công và chúng đều được sát nhập vào lãnh thổ của nước Trịnh.
Bảo vệ Chu U Vương.
Đến thời Chu U Vương, vua nhà Chu mê mỹ nhân Bao Tự, phế bỏ Thân hậu và thái tử Nghi Cữu, lập Bao Tự làm hậu và con Bao Tự là Bá Phục làm thái tử. Cha Thân hậu gọi quân Khuyển, Nhung vào đánh Cảo Kinh, giết chết Chu U vương. Trịnh Hoàn công theo bên cạnh U vương, dù chiến đấu rất anh dũng nhưng ông cũng bị quân Khuyển Nhung sát hại.
Trịnh Hoàn công ở ngôi được 36 năm. Người nước Trịnh lập con ông là Cơ Quật Đột lên nối ngôi, tức là Trịnh Vũ công. | 1 | null |
Trịnh Vũ công (chữ Hán: 鄭武公; trị vì: 771 TCN–744 TCN), tên thật là Cơ Quật Đột (姬掘突), là vị vua thứ hai của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Quật Đột con trai của Trịnh Hoàn công – vị vua đầu tiên của nước Trịnh. Năm 771 TCN, Chu U Vương bị quân Khuyển Nhung đánh, Trịnh Hoàn công đem quân giúp U Vương, bị Khuyển Nhung giết chết. Quật Đột khi ấy là thế tử, liền đem quân trợ giúp nhà Chu diệt Khuyển Nhung báo thù cho cha. Quân Trịnh phối hợp với quân các nước Tấn, Tần, Vệ đánh tan Khuyển Nhung, đưa Chu Bình Vương lên ngôi. Để tưởng thưởng, Bình Vương thăng cho ông từ tước "bá" lên tước "công" và cho kế nhiệm cha làm Khanh sĩ nhà Chu.
Cơ Quật Đột kế vị cha, trở thành "Trịnh Vũ công", sau đó dời đô sang đất Tân Trịnh.
Năm 760 TCN, Trịnh Vũ công lập Vũ Khương, con gái Thân hầu làm Phu nhân. Vũ Khương sinh 2 con trai là Cơ Ngộ Sinh và Cơ Đoàn. Vì sinh Ngộ Sinh bị ngược và suýt chết, Vũ Khương tỏ ra lạnh nhạt với Ngộ Sinh, và có ý thiên vị Cơ Đoàn. Vũ công lập con trưởng Ngộ Sinh làm thế tử, điều này khiến bà bất mãn.
Năm 744 TCN, Vũ công lâm bệnh, Vũ Khương xin ông phế Ngộ Sinh lập Cơ Đoàn nhưng Vũ công không nghe, vì Ngộ Sinh là Đích trưởng tử. Vũ công qua đời, Ngộ Sinh nối ngôi, tức Trịnh Trang công. | 1 | null |
Trịnh Linh công (chữ Hán: 鄭靈公/郑灵公; trị vì: 606 TCN–605 TCN), hay Trịnh U công, tên thật là Cơ Tử Di (姬子夷), là vị vua thứ 10 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Tử Di là con trai của Trịnh Mục công – vị vua thứ 9 của nước Trịnh. Năm 607 TCN, Trịnh Mục công qua đời, Tử Di lên nối ngôi, tức là Trịnh Linh công.
Bị giết.
Từ cuối thời Mục công, nước Trịnh đã bỏ Tấn theo Sở. Cùng năm 606 TCN, Tấn Thành công lên ngôi, sai Triệu Thuẫn đem quân hỏi tội nước Trịnh.
Năm 605 TCN, nước Sở biếu Trịnh Linh công một con rùa lớn. Trịnh Linh công đãi thịt rùa cho các đại phu, công tử Quy Sinh và công tử Tống đến dự. Công tử Tống thấy tay chỉ động, nói với Quy Sinh rằng lần này sẽ được ăn vật lạ. Trịnh Linh công nghe thế bèn bỏ bớt phần của công tử Tống. Công tử Tống xấu hổ, cố nhúng tay vào nồi nấu rùa mút để tỏ ra là mình đã ăn được thịt rùa. Trịnh Linh công tức giận muốn giết công tử Tống.
Công tử Tống thấy vậy bèn bàn với công tử Quy Sinh giết Trịnh Linh công. Ban đầu Quy Sinh không chịu, nhưng sau đó đồng tình.
Mùa hè năm đó, công tử Tống và công tử Quy Sinh làm loạn giết Trịnh Linh công. Trịnh Linh công không có con. Người nước Trịnh muốn lập công tử Khứ Tật lên ngôi nhưng Khứ Tật từ chối và đề nghị lập công tử Kiên. Người nước Trịnh bèn lập công tử Kiên lên làm vua, tức Trịnh Tương công.
Được cải thụy hiệu.
Ban đầu, quyền thần là công tử Quy Sinh đặt thụy hiện cho ông là U công (nghĩa là u tối). Năm 599 TCN, Quy Sinh chết, vua mới Trịnh Tương công trị tội những người cùng cánh với Quy Sinh, cải táng cho ông và đặt thụy hiệu mới là Linh công. | 1 | null |
Trong Trận chiến nước Pháp năm 1940 trên Mặt trận phía Tây vào thời Chiến tranh thế giới thứ hai, sông Ailette và cao nguyên Chemin des Dames là nơi diễn ra trận đánh quyết định đến con đường tới Paris của quân đội Đức Quốc xã, đã diễn ra từ ngày 18 tháng 5 cho đến ngày 7 tháng 6 năm 1940, trên tuyến phòng ngự Weygand của quân đội Pháp. Trận sông Ailette đã diễn ra sau cuộc đột phá của quân đội Đức tại Sedan ở khu vực sông Meuse. Cho tới ngày 6 tháng 6, lực lượng bộ binh của Tập đoàn quân số 9 của Đệ tam Đế chế Đức đã chọc thủng được chiến tuyến của Tập đoàn quân số 6 của Pháp. Mặc dù bị đánh bật ở phía trước Chemin des Dames, họ đã buộc Tập đoàn quân số 6 của Pháp về bờ nam sông Aisne. Sự thất bại của Tập đoàn quân số 6 của Pháp đã khiến cho Tập đoàn quân số 7 của Pháp bị hở sườn phải của mình, và họ bắt đầu triệt thoái. Vào ngày 7 tháng 6 năm 1940, quân Đức chiếm được Noyon, và vào ngày 9 tháng 6, họ đã tới Rouen và tình hình cho thấy sự thất thủ của Paris chỉ còn là vấn đề thời gian. | 1 | null |
Trịnh Tương công (chữ Hán: 鄭襄公; trị vì: 604 TCN–587 TCN), tên thật là Cơ Tử Kiên (姬子堅), là vị vua thứ 11 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Tử Kiên con trai của Trịnh Mục công – vị vua thứ 9 của nước Trịnh, em của Trịnh Linh công – vua thứ 10 của nước Trịnh.
Lên ngôi.
Năm 605 TCN, công tử Tống và công tử Quy Sinh giết vua anh Trịnh Linh công, người nước Trịnh muốn lập công tử Khứ Tật lên ngôi nhưng Khứ Tật từ chối và đề nghị lập công tử Kiên. Người nước Trịnh bèn lập công tử Kiên lên làm vua, tức Trịnh Tương công.
Công tử Khứ Tật xin Trịnh Tương công trị tội công tử Tống giết vua. Trịnh Tương công nghe theo, giết công tử Tống và phong Khứ Tật làm đại phu.
Năm 599 TCN, công tử Quy Sinh mất, Trịnh Tương công lấy cớ Quy Sinh đồng mưu giết Trịnh Linh công, đuổi gia tộc của Quy Sinh ra nước khác và cải thụy hiệu cho vua anh bị giết từ U công (nghĩa là u tối) thành Linh công.
Giữa Tấn và Sở.
Năm 604 TCN, Sở Trang vương giận nước Trịnh bắt tướng Tống là Hoa Nguyên rồi lại ăn hối lộ của Tống, thả Hoa Nguyên về, bèn mang quân đánh Trịnh. Tấn Thành công điều quân đi cứu Trịnh. Tướng Tấn là Tuân Lâm Phủ mang quân cứu Trịnh. Quân Sở rút lui, từ đó Trịnh lại theo Tấn.
Năm 600 TCN, Tấn Thành công hội chư hầu ở đất Hỗ. Trịnh Tương công đến hội, cùng quân nước Tấn và quân chư hầu Tống, Vệ, Tào đánh Trần vì Trần Linh công không tới hội. Trần Linh công lại xin theo Tấn. Cuối năm đó, Sở Trang vương lại đánh Trịnh. Trịnh Tương công cầu cứu nước Tấn. Tướng Tấn là Tuân Lâm Phủ và Khước Khuyết mang quân cứu Trịnh. Quân Tấn-Trịnh đánh bại quân Sở ở Liễu Phần.
Năm 599 TCN, Sở Trang vương lại mang quân đánh Trịnh. Tướng Tấn là Sĩ Hội cầm quân đi cứu nước Trịnh, đánh đuổi quân Sở ở Dĩnh Bắc. Quân các nước chư hầu đóng giữ ở biên giới nước Trịnh.
Sang năm 598 TCN, Sở Trang vương lại đánh Trịnh. Quân Tấn không cứu, Trịnh Tương công bèn xin quy phục nước Sở, cùng nước Trần thề với vua Sở tại Thần Lăng.
Sau đó Trịnh lại theo Tấn, dự thề ở Yên Lăng. Năm 597 TCN, Sở Trang vương thấy Trịnh theo Tấn, bèn đánh Trịnh, vây nước Trịnh ba tháng. Trịnh Tương công cầu cứu nước Tấn. Mùa hè năm đó, Tấn Cảnh công sai Tuân Lâm Phủ, Sĩ Hội, Khước Khắc, Loan Thư, Tiên Hộc, Hàn Quyết đi cứu Trịnh nhưng quân Tấn chưa đến thì Trịnh Tương công đã phải giảng hoà với quân Sở. Tấn và Sở giao chiến ở đất Bật thuộc nước Trịnh. Trịnh Tương công mang quân phối hợp với Sở cùng đánh Tấn. Hai bên đánh nhau to, quân Sở giành chiến thắng, giết nhiều quân Tấn, bắt tướng Trí Anh. Từ đó Trịnh lại theo Sở. Trịnh Tương công và vua Hứa sang nước Sở triều kiến.
Năm 595 TCN, Tấn Cảnh công đem quân đánh Trịnh để trả thù nhưng không thắng phải rút quân.
Năm 594 TCN, Trịnh Tương công hợp quân với nước Sở đánh nước Tống.
Năm 588 TCN, Tấn Cảnh công sau khi đánh thắng nước Tề lại hội quân các nước Tống, Tào, Vệ cùng đánh Trịnh. Tướng nước Trịnh là công tử Yển mang quân ra chống, đặt phục binh ở đất Mạn phía đông nước Trịnh, đánh tan liên quân 4 nước ở Khưu Dư. Sau đó Trịnh Tương công cho rằng nước Hứa chỉ thờ nước Sở, không theo mình, bèn sai em là công tử Khứ Tật mang quân đánh nước Hứa rồi mới rút lui.
Năm 587 TCN, Trịnh Tương công qua đời. Ông ở ngôi 18 năm. Con ông là Cơ Phí lên nối ngôi, tức là Trịnh Điệu công. | 1 | null |
Trịnh Điệu công (chữ Hán: 鄭悼公; trị vì: 586 TCN–585 TCN), tên thật là Cơ Phí (姬沸), là vị vua thứ 12 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Phí con trai của Trịnh Tương công – vị vua thứ 11 của nước Trịnh. Năm 587 TCN, Trịnh Tương công qua đời, Cơ Phí lên nối ngôi, tức là Trịnh Điệu công.
Vì việc Trịnh Tương công đánh Hứa khi sắp mất, Hứa Linh công kiện nước Trịnh với Sở Cung vương. Sở Cung vương triệu kiến nước Trịnh. Năm 586 TCN Trịnh Điệu công phải sang nước Sở và bị đuối lý, vua Sở bắt 2 đại phu nước Trịnh là Hoàng Thú và Tử Quốc.
Trở về nước, Trịnh Điệu công tính quay sang theo nước Tấn, bèn sai công tử Yển tới nước Tấn xin giảng hòa. Tháng 8 năm 586 TCN, ông cùng đại phu Triệu Đồng nước Tấn ký minh ước tại Thùy Cức. Cuối năm đó, Trịnh Điệu công lại hội họp chư hầu với nước Tấn và các nước Tề, Tống, Vệ, Tào, Kỷ, Châu.
Năm 585 TCN, Cơ Hỗn ở nước Sở xin đại phu Tử Phản giúp mình về nước. Tử Phản đồng ý, đưa Cơ Hỗn về Trịnh. Cùng năm đó, Sở Cung vương đem quân đánh Trịnh, Tấn Cảnh công đem quân cứu Trịnh.
Cùng năm đó, Trịnh Điệu công qua đời. Ông ở ngôi chỉ được 2 năm. Em ông là Cơ Hỗn lên kế vị, tức Trịnh Thành công. | 1 | null |
Bãi cạn, bãi nông, bãi cát hoặc đê cát (tiếng Anh: "shoal", "sandbank", "sandbar") là loại địa hình tích tụ trầm tích có mặt ở thềm lục địa/biển, sông, hồ và thường được tạo thành bởi cát, đất bùn hoặc cuội nhỏ. Tại thềm lục địa, theo quy ước thông thường thì bãi cạn có độ sâu dưới 10 mét (33 ft) khi thủy triều thấp.
Khái niệm này được sử dụng để chỉ rất nhiều loại đối tượng địa lý với các kích thước rất khác nhau, từ vài mét cho đến hàng trăm kilômét. "Mũi nhô", "doi cát", "đảo chắn" cũng có thể được gọi là bãi cạn. Trong ngành hàng hải, khái niệm "bãi cạn" có thể dùng để gọi một bãi cát nổi/ngầm hay một rạn đá ngầm có thể gây nguy hiểm cho tàu thuyền; có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ về cách dùng khái niệm "bãi cạn" khi xem xét các thực thể địa lý trong Biển Đông: bãi cạn Truro (rạn đá ngầm), bãi cạn Scarborough (rạn san hô vòng), cụm bãi cạn Luconia (các rạn đá ngầm hình thành từ san hô)... | 1 | null |
Trịnh Thành công (chữ Hán: 鄭成公; trị vì: 584 TCN–571 TCN), tên thật là Cơ Hỗn (姬睔), là vị vua thứ 13 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Lên ngôi.
Cơ Hỗn là con trai của Trịnh Tương công- vị vua thứ 11 của nước Trịnh, em Trịnh Điệu công- vị vua thứ 12 của nước Trịnh.
Năm 586 TCN, Hứa công gièm pha với Sở Cung vương rằng nước Trịnh muốn phản Sở. Vua anh Trịnh Điệu công sai Cơ Hỗn đi sứ nước Sở. Sở Cung vương bèn bắt giữ Cơ Hỗn. Trịnh Điệu công thấy vậy, lại hội ước với nước Tấn.
Năm 585 TCN, Cơ Hỗn ở nước Sở xin đại phu Tử Phản giúp mình về nước. Tử Phản đồng ý, đưa Cơ Hỗn về Trịnh.
Cùng năm đó, Trịnh Điệu công qua đời. Cơ Hỗn lên kế vị, tức Trịnh Thành công.
Theo Tấn.
Vì nước Trịnh thời Điệu công lại theo Tấn, Sở Cung vương mang quân đánh Trịnh. Tấn Cảnh công sai Loan Thư mang quân cứu Trịnh, đánh lui quân Sở tại Nhiễu Giác.
Năm 584 TCN, quân Sở lại sang đánh Trịnh. Nước Tấn lại cầm đầu chư hầu đi cứu. Hai tướng Trịnh là Cung Trọng và Hầu Vũ mang quân ra địch, bắt được tướng Sở là Chung Nghi mang nộp cho Loan Thư nước Tấn. Sau đó nước Trịnh và các chư hầu lại cùng thề ở Mã Lăng.
Bị bắt giam ở Tấn.
Sang năm 583 TCN, Sở Cung vương lại dùng nhiều của cải biếu nước Trịnh để lôi kéo. Trịnh lại theo Sở, cùng Sở hội họp. Năm đó, Trịnh Thành công sang triều kiến nước Tấn để giữ quan hệ cả với nước Tấn. Tấn Cảnh công biết chuyện Trịnh Thành công hội với nước Sở bèn bắt giữ Trịnh Thành công. Nước Trịnh sai đại phu Bá Quyên đến xin giảng hòa, Tấn Cảnh công giết Bá Quyên, lại cử Loan Thư đi đánh Trịnh. Đầu năm 582 TCN, quân Tấn sang đánh nước Trịnh.
Nước Trịnh không đầu hàng. Công tử Ban lập một người anh của Trịnh Thành công là Cơ Nhu làm vua mới; lại theo kế của Công Tôn Thân, mang quân vây nước Hứa là một chư hầu cùng phe của nước Tấn. Đến tháng 5, nước Tấn tập hợp thêm các chư hầu Tề, Tống, Tào đi đánh Trịnh.
Nước Trịnh bèn giết vua mới là Nhu, lập con của Trịnh Thành công là Cơ Khôn Ngoan làm vua mới. Tướng Loan Thư nước Tấn thấy Trịnh đã chính thức lập vua mới liền bàn với chư hầu nên trả lại vua Trịnh. Gặp lúc đó vua cũ nước Tấn là Cảnh công ốm nặng sắp mất, vua mới Lệ công mới lập cũng muốn hòa. Công tử Hãn nước Trịnh mang đồ quý là chuông Tương Chung đi hối lộ cho nước Tấn, còn công tử Nhiên đi ngoại giao, thề với nước Tấn ở đất Vu Trạch, còn công tử Tứ đi làm con tin. Sau đó Tấn Lệ công thả Trịnh Thành công về nước. Thành công trở lại ngôi vua.
Bỏ Tấn theo Sở.
Từ khi trở lại theo Tấn, Trịnh Thành công lại đi hội chư hầu với nước Tấn.
Năm 578 TCN, vì Tần Hoàn công vừa thề hòa hiếu với nước Tấn rồi ngay lập tức xâm phạm bờ cõi Tấn, Tấn Lệ công họp chư hầu mang quân đánh Tần. Trịnh Thành công cùng các nước Tề, Lỗ, Vệ, Tào, Tống, Châu, Đằng theo Tấn đánh Tần. Liên quân do Tấn đứng đầu đánh bại quân Tần ở đất Mã Toại, bắt được tướng Tần là Thành Sai và Bất Canh Nhữ Phủ.
Năm 576 TCN, Trịnh Thành công lại đánh nước Hứa. Trận đầu quân Trịnh bị thua, sau đó thắng trận thứ 2, buộc nước Hứa phải giảng hòa và cắt đất.
Tháng giêng năm 575 TCN, Trịnh Thành công sai công tử Hỉ mang quân đánh nước Tống, bị tướng Tống là Tương Sừ đánh bại ở Phù Cừ. Sau đó vì tướng Tống chủ quan, bị công tử Hỉ đánh bại tại Chước Lăng, bắt sống được Tương Sừ.
Tháng sau, Sở Cung vương sai công tử Thành lấy ruộng ở Nhữ Âm biếu nước Trịnh để lôi kéo. Vì vậy Trịnh Thành công lại bỏ Tấn theo Sở, cùng thề với nước Sở. Tấn Lệ công giận dữ, lại họp quân chư hầu đánh Trịnh. Trịnh Thành công cầu cứu Sở. Sở Cung vương mang quân tới giao chiến.
Hai bên gặp nhau ở Yển Lăng. Đại chiến nổ ra, quân Tấn đánh bại quân Sở, Sở Cung vương bị bắn chột một mắt. Trịnh Thành công rút chạy, bị các tướng Tấn đuổi theo. Tướng giong xe cho ông là Thạch Phủ hạ lá cờ hiệu của ông xuống khiến quân Tấn không biết dấu để tìm, nên cuối cùng Trịnh Thành công thoát nạn.
Sau đó quân Tấn cùng quân Tề, Lỗ và Châu sang đánh Trịnh. Nhưng không lâu sau thì các cánh quân chư hầu giải tán về nước.
Năm 574 TCN, Tấn lại họp quân nhà Chu cùng các chư hầu Tống, Lỗ, Tào, Vệ, Tề và Châu đánh Trịnh. Công tử Thân nước Sở mang quân cứu Trịnh, quân chư hầu lại rút lui.
Năm 573 TCN, Trịnh Thành công hợp binh với nước Sở đánh nước Tống – đồng minh của Tấn. Hai bên đánh nhau ở Bành Thành. Nước Tống cầu cứu nước Tấn. Tấn Điệu công mang quân đến Thai Cốc cứu Tống. Quân Sở và Trịnh rút lui.
Năm 572 TCN, Tấn Điệu công đem quân đánh Trịnh, đóng ở đất Thượng. Nước Trịnh phòng thủ chặt chẽ, quân Tấn không đánh được phải lui về.
Qua đời.
Năm 571 TCN, Trịnh Thành công ốm nặng. Công tử Tư xin nên giảng hòa với nước Tấn, bỏ nước Sở để bớt việc binh với nước Tấn. Nhưng Trịnh Thành công không tán thành, ông dặn các quan rằng vua Sở đã vì mình mà mất một mắt, không thể đối xử bạc với nước Sở.
Sau đó Trịnh Thành công qua đời. Ông làm vua được 14 năm. Công tử Khôn Ngoan lên ngôi lần thứ hai, tức Trịnh Hi công. | 1 | null |
Trung đoàn Trần Cao Vân (hay còn gọi là chi đội Trần Cao Vân) là một trung đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập từ thời chống Pháp và đóng ở Thừa Thiên -Huế hiện đổi tên thành Trung đoàn 101, thuộc Sư đoàn 325, Quân đoàn 2
Thành lập ngày 5/9/1945 từ những tổ đội vũ trang của các huyện Phong Điền, A Lưới, Hương Thủy... tỉnh Thừa Thiên. Thời gian đầu là 1 chi đội du kích vũ trang, từ cấp tiểu đoàn phát triển lên cấp trung đoàn với tên gọi "trung đoàn Trần Cao Vân" hoạt động ở đồng bằng Thừa Thiên. Sau đó thành lập đại đoàn Bình Trị Thiên với 3 trung đoàn 18, 95, 101. Trung đoàn 101 chiến đấu chống lại quân Pháp và cả Quốc gia Việt Nam, rồi ra phía Bắc Trung Bộ bổ sung quân số và về lại chiến trường cũ. Năm 1954, đơn vị này tập kết ra bắc để chính quy hóa.
Trong chiến tranh kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quân đội nhân dân Việt Nam thành lập mới nhiều E101 bổ sung cho các chiến trường khác nhau. Cuối cuộc chiến, E101 thuộc sư đoàn 325 được điều ra miền Bắc. Trung đoàn hiện đóng quân tại xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
Nếu bạn đã đọc cuốn Tuổi thơ dữ dội của tác giả Phùng Quán, bạn sẽ rõ hơn về Trung đoàn Trần Cao Vân. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ lần thứ 40 được diễn ra vào ngày 18 tháng 11 năm 2012 tại nhà hát Nokia Theatre ở Los Angeles. Lễ trao giải này tôn vinh những nghệ sĩ và album xuất sắc nhất trong năm 2012 và được truyền hình trực tiếp trên kênh ABC. Các đề cử được công bố vào ngày 9 tháng 10 năm 2012 bởi Christina Aguilera. Đề cử lần này có thêm một hạng mục mới là Nhạc Dance Điện tử. Justin Bieber đã giành chiến thắng cả ba hạng mục mà anh được đề cử. Còn trong tổng số bốn đề cử của mình, Nicki Minaj thắng hai, còn Rihanna, Adele và Taylor Swift thắng một. | 1 | null |
Xã dân sự (tiếng Anh: "civil township") là đơn vị chính quyền địa phương nằm bên dưới một quận tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên chỉ có khoảng 20 tiểu bang trong số 50 tiểu bang có đơn vị hành chính xã. Các tiểu bang thuộc vùng Tân Anh, tiểu bang New York và Wisconsin dùng từ thị trấn (town) để chỉ đơn vị tương đương xã dân sự. Các trách nhiệm và mức độ tự trị riêng của các xã dân sự khác nhau theo từng tiểu bang. Xã dân sự khác biệt xã khảo sát, nhưng tại các tiểu bang có cả hai loại xã thì địa giới của chúng thường trùng hợp, và có thể hoàn toàn phân chia nhỏ địa giới của quận. Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ xếp loại các xã dân sự là tiểu khu hành chính dân sự ("minor civil division").
Chức năng của xã thường được một ban lãnh đạo trông coi cùng với một nhân viên lục sự. Các viên chức xã thường gồm có quan tòa cấp thấp ("justice of the peace"), ủy viên đặc trách xa lộ, thẩm định thuế, thi hành pháp luật ("constable"), và khảo sát. Trong thế kỷ 20, nhiều xã cũng có một người quản lý hay giám sát các viên chức xã trong tư cách hành chính trưởng của ban lãnh đạo xã. Trong một số trường hợp, xã điều hành hoạt động của các thư viện, các dịch vụ đặc trách người già, thanh niên, người tàn tật, trợ giúp tình trạng khẩn cấp, và thậm chí dịch vụ mai táng.
Các tiểu bang trung và tây của vùng Trung Tây.
Tùy theo tiểu bang, chính quyền xã có mức độ tự trị khác nhau.
Tại tiểu bang Kansas, một số xã dân sự cung cấp các dịch vụ như tu sửa đường sá và cứu hỏa mà quận không cung cấp.
Tại các tiểu bang Thượng Trung Tây gần Ngũ Đại Hồ, các xã dân sự (tên tiếng Anh tại Michigan gọi là "general law township") thường thường nhưng không hẳn nằm chồng trên các xã khảo sát. Mức độ mà các xã này hoạt động như các thực thể chính quyền thì khác nhau từ tiểu bang này đến tiểu bang khác, thậm chí có trường hợp khác nhau trong cùng một tiểu bang. Ví dụ các xã tại phần phía bắc của tiểu bang Illinois hoạt động cung cấp các dịch vụ công cộng như tư sửa đường sá, trông giữ trẻ em sau giờ học, và dịch vụ dành cho người già trong khi đó các xã tại phần phía nam không cung ứng các dịch vụ như mà để cho chính quyền quận đảm nhiệm. Ngược lại, các xã dân sự tại tiểu bang Indiana hoạt động tương đối giống nhau trên khắp tiểu bang và có chiều hướng được tổ chức tốt. Đa số các xã tại tiểu bang Illinois cũng cung cấp các dịch vụ như dọn dẹp tuyết, các dịch giao thông và khẩn cấp dành cho người già trong các phần đất chưa hợp nhất của quận.
Các xã dân sự tại các tiểu bang này thông thường không được xem là hợp nhất, và các thành phố lân cận có thể sáp nhập đất nằm trong các xã kề bên một cách khá dễ dàng. Tại Michigan, xã dân sự, gọi trong tiếng Anh là "general law township", có thể hợp nhất thành xã tự trị, một địa vị nhằm bảo vệ đất đai không bị các khu tự quản lân cận sáp nhập. Hơn nữa các xã này được phép có một số quyền tự trị tương tự như các thành phố. Tại tiểu bang Wisconsin, các khu vực được gọi theo tiếng Anh là "town" thay vì "township" thực ra cũng như nhau. Tại tiểu bang Minnesota, luật tiểu bang ám chỉ các thực thể như thế là "thị trấn" tuy nhiên bắt buộc chúng phải có tên gọi theo hình thức ""Tên tiếng Anh" + Township". Trong cả văn bản và lời nói, "thị trấn" và "xã" được dùng thay thể cho nhau. Các xã của tiểu bang Minnesota có thể là đô thị hay không đô thị (chính quyền xã đô thị có quyền lực lớn hơn), nhưng trong tên xã thì không có gì khác biệt. Tại tiểu bang Ohio, một khu tự quản (thành phố hay làng) được phủ trên xã trừ khi nó ly khai bằng cách thành lập một xã ảo (""). Trong những trường hợp mà xã trên giấy không trùng với khu tự quản hoàn toàn, một số miếng đất sẽ nằm trong một khu tự quản và một xã thật (giáp với xã trên giấy) cùng lúc, nên các chủ đất phải trả thuế cho cả khu tự quản và xã. Mười tiểu bang khác cũng cho phép xã dân sự và khu tự quản chồng lấn lên nhau.
Pennsylvania và New Jersey.
Xã trong tiểu bang Pennsylvania là một đơn vị chính quyền địa phương có trách nhiệm cung cấp các dịch vụ như cảnh sát, tu sửa và bảo trì đường sá địa phương. Các xã hoạt động tương tự như thành phố. Các xã được lập ra theo ranh giới địa lý cho tiện lơi và có diện tích lớn nhỏ khác nhau từ 6 đến 52 dặm vuông Anh(10–135 km²). Xã trong tiểu bang New Jersey là một hình thức của chính quyền khu tự quản có địa vị ngang bằng với một làng, thị trấn hay thành phố.
Các tiểu bang đông bắc.
Tại vùng Tân Anh và tiểu bang New York, quận được chia thành các thị trấn và thành phố, đây là hình thức chủ yếu của chính quyền địa phương. Các tiểu bang này sử dụng thuật từ thị trấn (town) thay vì xã (township). Tổng quát thì các thị trấn này có hình thức giống như các xã dân sự hơn là "thị trấn" mà người ta thường hiểu ở đa số các nơi tại Hoa Kỳ. Các thị trấn Tân Anh là các khu tự quản hợp nhất nhưng các thị trấn của tiểu bang New York thì không. Một số cư dân của hai tiểu bang này thường không công nhận từ "xã" khi ám chỉ chính quyền địa phương của họ cho dù Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ xem cả hai là như nhau. Tại những vùng đất rất ít người sinh sống của tiểu bang New Hampshire, Vermont và đặc biệt là Maine, các đơn vị hành chính bên dưới quận mà chưa hợp nhất thì đôi khi được gọi là xã, hay các từ tiếng Anh khác như 'gore,' 'grant,' 'location,' 'plantation', hay 'purchase.'
Các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ.
Tại miền nam, bên ngoài thành phố và thị trấn thường thường không có chính quyền địa phương ngoài chính quyền quận.
Bắc Carolina không ngoại lệ nhưng nó có các xã đóng vai trò như tiểu khu địa lý của các quận, bao gồm cả lãnh thổ chưa hợp nhất và cả vùng đất nằm trong địa giới của các thị trấn và thành phố hợp nhất. Mỗi quận bắt buộc phải được chia thành các xã từ thời Hiến pháp Bắc Carolina năm 1868. Một số quận đô thị hóa như Quận Mecklenburg (Charlotte) hiện nay đặt số cho xã của mình (Ví dụ "Xã 12") hơn là đặt tên xã. Các xã trên khắp tiểu bang từng có một số cơ quan và trách nhiệm chính thức nhưng hiện nay chỉ được xem là các phân khu lễ nghi của mỗi quận. Tên xã vẫn còn được dùng khá rộng rải ở cấp bậc chính quyền quận tại Bắc Carolina như một cách để định đoạt và phân chia các khu vực cho những mục đích hành chính. Chính yếu là cho mục đích thu thuế quận, quyết định các khu cứu hỏa, cho mục đích địa ốc như phân loại khế ước đất, khảo sát công thổ và các tài liệu địa ốc, và cho mục đích đăng ký cử tri. Tại phần lớn khu vực tại tiểu bang Bắc Carolina nằm bên ngoài địa giới của bất cứ khu tự quản nào (bên ngoài thành phố hay thị trấn), các xã được dùng để chọn ra nơi bỏ phiếu, và trong đa số trường hợp, hội đồng bầu cử quận chia các khu vực bầu cử theo xã. Tuy nhiên, không có chính quyền cấp bậc xã tại Bắc Carolina cũng như không có cơ quan nào được bổ nhiệm hay được dân chúng bầu lên có liên quan với xã.
Xã khảo sát tồn tại tại các tiểu bang Alabama, Arkansas, Florida, Louisiana và Mississippi. | 1 | null |
Nguyễn Quốc Quân là một tiến sĩ Toán học và nhà bất đồng chính kiến người Mỹ gốc Việt.
Tiểu sử.
Nguyễn Quốc Quân sinh ngày 20 tháng 11 năm 1953 tại Hà Nội và là trưởng nam của ngâm sĩ Hồ Điệp, gia đình ông di cư vào Miền Nam Việt Nam năm 1954. Ông nguyên là giáo viên tại thị trấn Rạch Sỏi, nay là một phường của thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Quân đã vượt biển trốn khỏi Việt Nam trên một tàu đánh cá vào năm 1981. Ông đến Raleigh, bang Bắc Carolina và lấy bằng tiến sĩ Toán tại Đại học Bắc Carolina. Ông đã kết hôn với bà Ngô Mai Hương, và có hai con. Ông tham gia Mặt Trận Quốc gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam năm 1986, và tiếp tục sinh hoạt khi tổ chức chuyển danh thành Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng. Ông cũng là một trong những người sáng lập Hội Chuyên Gia Việt Nam (VPS).
Hoạt động.
Theo nguồn tin từ các cơ quan truyền thông ở Việt Nam, Nguyễn Quốc Quân - một thành viên trung ương của Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng, tức đảng Việt Tân - đã bị bắt tại phi trường Tân Sơn Nhất ngay sau khi nhập cảnh vào ngày 17 tháng 04 năm 2012. Sau 11 ngày tạm giam, cơ quan an ninh Việt Nam đã chính thức công bố lệnh tạm giam bốn tháng để điều tra, cáo buộc Nguyễn Quốc Quân vi phạm Điều 84 Bộ Luật Hình Sự (tức Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân), "nhằm thực hiện ý đồ của tổ chức "Việt Tân", thực hiện kế hoạch kích động biểu tình, khủng bố nhằm phá hoại lễ kỷ niệm 30 tháng 4 và 1 tháng 5 năm 2012 tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố.". Trong buổi tiếp xúc với đại diện Lãnh Sự Quán Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 4 năm 2012 tại trại giam Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Quốc Quân đã khẳng định không vi phạm bất kỳ luật lệ nào. Hành lý của ông chỉ bao gồm các đồ dùng cá nhân và không hề chứa đựng bất kỳ vật liệu phi pháp gì. Tất cả số hành lý này đã đi qua hệ thống kiểm duyệt an ninh khi rời Hoa Kỳ.
Cuối tháng 8 năm 2012 bà Ngô Mai Hương, vợ ông Quân, đã xác nhận với BBC rằng chính quyền đã gỡ cáo buộc khủng bố theo điều 84 Bộ Luật hình sự đối với ông mà thay vào đó là tội ‘Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ theo điều 79. "Sau bốn tháng, họ (chính quyền Việt Nam) không tìm ra chứng cứ về tội khủng bố nên họ loay hoay tìm cách kết tội anh (ông Quân) và gán cho anh theo điều 79 là âm mưu lật đổ chính quyền," bà Hương nói.
Giáo sư Linda Malone, Giám đốc sáng lập của Trung tâm Luật về An toàn Con người tại Trường Luật William & Mary, đã nhận làm luật sư biện hộ tự nguyện cho Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân.
Bà Malone, thành viên Hội đồng Quản trị của Hiệp Hội Quốc tế về Cải Cách Luật Hình Sự, tác giả của nhiều tài liệu nghiên cứu về luật quốc tế và nhân quyền, đồng luật sư cố vấn cho Bosnia-Herzegovina trong vụ án diệt chủng xử Serbia và Montenegro trước Tòa án Quốc tế, cho biết lý do:
"Thoạt đầu, Trung tâm Nhân quyền thuộc Hiệp Hội Luật sư Hoa Kỳ liên lạc với tôi về trường hợp của Tiến sĩ Quân. Nghiên cứu các khía cạnh của vụ án, tôi thấy rõ ràng có sự vi phạm nhân quyền trong cách thức và lý do ông bị bắt, cách thức ông bị giam cầm và bị khước từ quyền được có người đại diện pháp lý. Cho nên, tôi quyết định làm những gì mình có thể để mang lại sự tự do cho ông và các cáo trạng nhắm vào ông phải bị hủy bỏ."
Đây là lần thứ hai ông bị bắt. Vào tháng 11 năm 2007, Nguyễn Quốc Quân trong chuyến về Việt Nam để quảng bá phương thức đấu tranh bất bạo động, đã bị bắt cùng với một số thành viên khác. Ngày 13 tháng 5 năm 2008, ông bị Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt sáu tháng tù về tội khủng bố và bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Kêu gọi phóng thích.
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và đích thân Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton cũng như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta đã lên tiếng kêu gọi Việt Nam trả tự do vô điều kiện cho Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân.
Được trả tự do.
Ngày 30 tháng 1 năm 2013 Việt Nam đã phóng thích và trục xuất ông Nguyễn Quốc Quân sau khi phiên xử ông dự định diễn ra vào ngày 22 tháng giêng đã bị hoãn vào phút chót vì lý do các nhân chứng không thể tham dự.". Báo chí nhà nước Việt Nam nói ông Quân được trả tự do sau khi "nhận tội và xin khoan hồng".
Phản ứng dư luận.
Dân Biểu Liên Bang Loretta Sanchez, đồng chủ tịch nhóm Congressional Caucus on Vietnam, trình bày cảm tưởng:
"Là người đã và đang bênh vực cho Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân và cho nhân quyền tại Việt Nam, tôi vui mừng được biết là sau 9 tháng giam cầm tùy tiện, Quân đang được trở về với gia đình vào đúng dịp Tết - Năm Mới Âm Lịch của người Việt Nam. Tết là lúc để quây quần đón mừng cùng gia đình và người thân, nhưng rất nhiều người đã không có được cái may mắn như Quân trong thời điểm này. Việc ông được thả như một chiến thắng, một thứ ánh sáng rọi vào những sắc luật mơ hồ mà cộng sản Việt Nam dùng để đàn áp những tiếng nói lương tâm khác như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Paulus Lê Sơn và Trần Thị Thúy. Chúng ta phải tiếp tục đấu tranh cho công lý và chúng ta đang đứng ở phía chính nghĩa của lịch sử."
Ngày 18 tháng 2 năm 2013 Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân được nhận một bằng khen của Quốc hội Mỹ về lòng can đảm. | 1 | null |
Trịnh Li công hay Trịnh Hi công (chữ Hán: 鄭釐公 hay 鄭僖公; trị vì: 570 TCN–566 TCN), tên thật là Cơ Uẩn (姬恽), hay còn gọi là Cơ Khôn Ngoan (姬髡顽), là vị vua thứ 15 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Uẩn là con trai của Trịnh Thành công – vị vua thứ 11 của nước Trịnh.
Làm vua lần thứ nhất.
Theo Tả truyện, năm 582 TCN, vua cha Trịnh Thành công đã theo Sở nhưng vẫn muốn giữ quan hệ với nước Tấn bèn sang triều kiến Tấn Cảnh công, bị vua Tấn bắt giữ. Đại phu Bá Quyên đến xin giảng hòa, cũng bị giết, Tấn Cảnh công lại cử Loan Thư đi đánh Trịnh. Đầu năm 582 TCN, quân Tấn tiến đến nước Trịnh. Trước tình hình đó, công tử Ban lập chú ông là công tử Nhu làm vua, tức Trịnh quân Nhu để nước Tấn thả Trịnh Thành công. Tuy nhiên tháng sau, người nước Trịnh giết công tử Nhu, lập Khôn Ngoan làm vua, tức Trịnh Hi công. Công tử Ban trốn sang nước Hứa.
Theo kế hoạch của Công Tôn Thân, Trịnh bèn mang quân vây nước Hứa. Tháng 5 năm 582 TCN, nước Tấn tập hợp liên minh Tề, Tống, Tào đi đánh Trịnh. Loan Thư thấy Trịnh đã tân quân bèn bàn nên trả lại Trịnh Thành công. Nước Trịnh sai công tử Hãn mang đồ quý là chuông Tương Chung đi hối lộ cho nước Tấn, công tử Nhiên đi hội thề với nước Tấn ở đất Vu Trạch, công tử Tứ đi làm con tin, Tấn Lệ công bèn thả Trịnh Thành công về nước, Khôn Ngoan phải nhường lại ngôi vua.
Tuy nhiên theo ghi chép trong Sử kí-Trịnh thế gia thì sau khi nghe tin nước Trịnh lập Trịnh quân Nhu, Tấn Cảnh công thả Trịnh Thành công. Sau người nước Trịnh giết Trịnh Nhu để đón Thành công, không nhắc tới lần lên ngôi này của Trịnh Hi công.
Làm vua lần thứ 2.
Năm 571 TCN, Trịnh Thành công qua đời. Người nước Trịnh lại lập Khôn Ngoan lên ngôi lần thứ hai. Tháng 7 năm đó, nước Tấn hội minh tại đất Thích của nước Vệ bàn kế phạt Trịnh. Khanh sĩ nước Lỗ là Trọng Tôn Miệt muốn đắp thành Hổ Lao để khống chế nước Trịnh, Trịnh Hi công phải xin hòa, thần phục nước Tấn.
Năm sau, 570 TCN, Trịnh Hi công đến dự hội chư hầu với các nước Tấn, Tống, Vệ, Lỗ, Cử, Chu ở Tiêu Ngư, tha hết tù binh của nước Trịnh, rút hết quân đội khỏi nước Trịnh. Nước Trịnh lại theo Tấn.
Năm 568 TCN, Tấn Điệu công lại hội chư hầu, Trịnh cùng các nước Tấn, Tống, Trần, Vệ, Lỗ, Tào, Cử, Chu, Đằng, Tiết và Ngô hội thề ở đất Vệ.
Trịnh Li công không coi trọng lễ. Khi còn là thế tử nước Trịnh đi dự hội chư hầu ông đã nhiều lần vô lễ, vì vậy các công tử trong nước không bằng lòng. Có người can ngăn bị ông giết chết.
Năm 566 TCN, tể tướng nước Trịnh là Tử Tứ đến triều kiến Trịnh Hi công, Trịnh Hi công cũng không giữ lễ.
Tử Tứ tức giận bèn bí mật đầu độc giết chết ông, rồi tuyên cáo với chư hầu rằng Hi công bị bệnh mất. Tử Tứ lập con ông là công tử Gia mới 5 tuổi lên nối ngôi, tức Trịnh Giản công. | 1 | null |
Linh mục (còn được gọi là thầy cả trong tiếng Việt cổ) là một chức phẩm của Giáo hội Công giáo Rôma, là giáo sĩ có quyền thực hiện các lễ nghi tôn giáo trực tiếp cho giáo dân. Chức linh mục là chức phẩm cơ bản để được tấn phong lên chức cao hơn là Giám mục. Chức linh mục gồm hai loại: linh mục triều là các linh mục có giáo tịch tại một giáo phận nào đó dưới quyền một Giám mục (hoặc giám chức), linh mục dòng là các linh mục thành viên của một dòng tu Công giáo, dưới quyền một vị bề trên. Tùy theo sự bổ nhiệm của Giám mục hoặc bề trên mà các linh mục có thể đảm nhận các nhiệm vụ như: quản trị một giáo xứ, làm việc cho các cơ quan của giáo hội hoặc đi truyền giáo. Giáo Luật Giáo hội Công giáo La Mã quy định linh mục phải sống độc thân và không truyền chức linh mục cho nữ giới. | 1 | null |
Trịnh Chiêu công (chữ Hán: 鄭昭公; trị vì: 701 TCN và 697 TCN–695 TCN), tên thật là Cơ Hốt (姬忽), là vị vua thứ tư của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Hốt là con trai trưởng của Trịnh Trang công – vị vua thứ ba của nước Trịnh với phu nhân Đặng Mạn.
Thế tử nước Trịnh.
Vua cha Trịnh Trang công tuy làm khanh sĩ ở nhà Chu, nhưng sau một thời gian quan hệ với thiên tử có rạn nứt nên hai bên thỏa ước đổi con tin. Việc thiên tử đổi con tin với chư hầu rất trái ngược với phép tắc, nhưng vì khi đó Bình vương thế yếu nên phải chấp thuận. Bình vương sai con là Duệ Phụ sang làm con tin ở nước Trịnh còn Trịnh Trang công sai Cơ Hốt sang Lạc Ấp ở nhà Chu.
Năm 720 TCN, Chu Bình vương mất. Trang công cho người đón Cơ Hốt về, rồi hộ tống thái tử về triều nối ngôi. Nhưng giữa đường Duệ Phụ bệnh chết, con là Lâm kế vị, tức Chu Hoàn Vương.
Năm 717 TCN, vua cha Trịnh Trang công mang quân đánh nước Trần. Trần Hoàn công phải xin giảng hòa và xin kết thông gia. Trịnh Trang công bằng lòng, lấy con gái Trần Hoàn công cho Cơ Hốt. Tháng 4 năm 715 TCN, ông sang nước Trần cưới vợ là Quy thị.
Năm 706 TCN, nước Tề bị Bắc Nhung xâm lấn. Tề Hy công cầu cứu nước Trịnh. Trịnh Trang công sai Cơ Hốt cứu Tề, đánh đuổi được quân Nhung. Tề Hy công mến phục, định gả con gái là Văn Khương cho Cơ Hốt, đại phu Tế Trọng khuyên Cơ Hốt chấp nhận nhưng ông không nghe. Sau đó vua Tề gả Văn Khương cho Lỗ Hoàn công.
Làm vua lần thứ nhất.
Năm 701 TCN, Trịnh Trang công qua đời, Cơ Hốt lên kế vị, tức Trịnh Chiêu công.
Em ông là công tử Đột làm con tin ở nước Tống. Năm 700 TCN Trịnh Chiêu công sai Tế Trọng đi giao hảo với nước Tống. Do mẹ của công tử Đột là Ung thị, có thế lực lớn ở nước Tống nên Tống Trang công ủng hộ công tử Đột, uy hiếp buộc Tế Trọng phế Chiêu công để lập công tử Đột đang làm con tin ở nước mình, nếu không sẽ giết chết. Tế Trọng nghe theo, mật ước với nước Tống.
Sau khi về nước, Tế Trọng khuyên Trịnh Chiêu công nhường ngôi cho công tử Đột. Trịnh Chiêu công thế không làm gì được đành chạy sang nước Vệ. Công tử Đột lên ngôi, tức là Trịnh Lệ công.
Làm vua lần thứ hai.
Trịnh Lệ công lên ngôi, oán giận Tế Trọng chuyên quyền. Năm 697 TCN, Lệ công cùng con rể Tế Trọng là Ung Củ mưu giết Tế Trọng nhưng mưu bại lộ, tháng 5 năm 697 TCN Sái Trọng làm binh biến. Trịnh Lệ công phải bỏ trốn. Tế Trọng lại đón Trịnh Chiêu công về phục ngôi. Tháng 6 năm đó, Trịnh Chiêu công trở lại nước Trịnh lên làm vua lần thứ 2.
Trịnh Lệ công trốn sang đất Lịch, giết đại phu Đan Bá trấn giữ ở đó rồi chiếm đất Lịch. Tống Trang công không ủng hộ Chiêu công nên cùng hội binh cùng các nước Lỗ, Vệ, Trần, Sái đánh Trịnh để giúp Lệ công, nhưng cuối cùng không thắng phải rút quân.
Đại phu nước Trịnh là Cao Cừ Di, theo Tả truyện, khi Trịnh Trang công còn tại vị, phong Cao Cừ Di làm khanh, Cơ Hốt đã khuyên Trang công không nên nhưng Trịnh Trang công không nghe, nên Cừ Di thù Chiêu công. Tháng 10 năm 695 TCN, nhân lúc Trịnh Chiêu công ra ngoài, Cao Cừ Di bèn mang quân bản bộ đánh úp giết chết ông.
Sau khi Chiêu công bị giết, người nước Trịnh muốn đón Trịnh Lệ công về phục ngôi nhưng Tế Trọng và Cao Cừ Di không chịu, lập công tử Vĩ lên ngôi. Ít lâu sau, Tử Vĩ và Cao Cừ Di bị Tề Tương công lừa bắt giết.
Trịnh Chiêu công ở ngôi 2 lần, lần đầu được vài tháng, lần thứ 2 được 2 năm. | 1 | null |
Procavia capensis là một trong bốn loài chuột còn sống của bộ Hyracoidea, và loài duy nhất còn sống của chi "Procavia". Nó có trọng lượng khoảng gần 4 kg, bên ngoài giống chuột lang nhà với tai và đuôi ngắn. Loài này được tìm thấy khắp châu Phi và Trung Đông trong môi trường sống với các khe đá để thoát khỏi các kẻ thù. Chúng thường sống trong các nhóm của 10-80 cá thể, và đi kiếm ăn theo nhóm. Hành vi của họ nổi bật nhất là việc sử dụng lính gác: một hoặc nhiều cá thể đứng ở trên một điểm thuận lợi và báo động bằng tiếng kêu khi thấy loài săn mồi.
Chúng hoạt động nhiều nhất vào buổi sáng và buổi tối, mặc dù mô hình hoạt động của chúng thay đổi đáng kể với mùa và khí hậu.
Loài này có thân dài đến và cân nặng khoảng , và một chút dị hình giới tính; con đực nặng hơn khoảng 10% so với con cái. Bộ lông dày và màu nâu xám dù màu lông khác nhau nhiều theo môi trường sinh sống.
Loài này hiện diện ở châu Phi hạ Sahara, ngoài trừ lưu vực Congo và Madagascar. Một phân loài lớn hơn với lông dài hơn có nhiều ở trong các trầm tích băng ở vùng núi cao của núi Kenya . Phân bố tiếp tục vào miền Bắc Algeria, Libya và Ai Cập, Trung Đông, với quần thể ở Israel, Jordan, Syria, bán đảo Ả Rập và đông Thổ Nhĩ Kỳ.
Kẻ săn mồi của loài này là báo, rắn hổ mang Ai Cập, Bitis arietans, linh miêu tai đen, chó hoang, và đại bàng. Đại bàng đen châu Phi đặc biệt là loài chuyên săn loài này. | 1 | null |
Trịnh Giản công (chữ Hán: 鄭簡公; sinh 570 TCN, trị vì: 565 TCN–530 TCN), tên thật là Cơ Gia (姬嘉), là vị vua thứ 16 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Gia là con trai của Trịnh Li công – vua thứ 15 của nước Trịnh. Ông ra đời năm 570 TCN.
Xung đột nội bộ.
Năm 566 TCN, đại phu Tử Tứ giết chết Trịnh Li công, lập Cơ Gia làm vua, tức Trịnh Giản công. Khi đó Trịnh Giản công mới năm tuổi nên Tử Tứ nắm giữ quyền chính trong nước.
Cùng năm đó, các công tử nước Trịnh bàn nhau diệt trừ Tử Tứ, Tử Tứ nghe tin, giết hết các công tử chống đối mình giữ chức đại phu là công tử Hồ, Hư, Định và Hầu.
Vua mới còn nhỏ, các công tử tranh nhau làm phụ chính, xung đột với nhau. Tử Tứ cùng Tử Quốc, Tử Không cầm quyền, trong đó Tử Tứ tỏ ra chuyên quyền, chèn ép và lấy đất đai, của cải của các nhà khác. Vì vậy các đại phu Úy Chỉ, Tư Thần, Hầu Tấn, Đỗ Nhữ Phủ, Tử Sư Bộc liên minh đánh Tử Tứ.
Tháng 10 năm 563 TCN, năm nhà mang quân đánh vào cung. Lúc đó Tử Tứ cùng Tử Quốc và Tử Nhĩ đang bàn việc, bị quân Úy Chỉ giết chết. Tử Khổng biết trước ý đồ của năm nhà nên trốn thoát. Úy Chỉ mang Trịnh Giản công ra phía bắc cung.
Nghe tin cha bị giết, con Tử Tứ là Tử Tây cùng con Tử Quốc là Tử Sản mang quân bản bộ cùng Tử Kiều đánh vào cung, giết Úy Chỉ và Tử Sư Bộc, còn Tư Thần, Hầu Tấn, Đỗ Nhữ Phủ bỏ chạy sang nước Tấn và nước Tống.
Tử Khổng được đưa lên cầm quyền thay Tử Tứ, cùng Tử Sản coi việc triều chính.
Năm 554 TCN, Trịnh Giản công đã trưởng thành, giận Tử Khổng chuyên quyền, bèn giết chết Tử Khổng, phong cho Tử Sản làm Chính khanh, nắm quyền ở nước Trịnh. Ông định phong cho Tử Sản sáu ấp nhưng Tử Sản không nhận, chỉ lấy ba ấp.
Năm 543 TCN, Lương Tiêu cầm quyền chính, được Trịnh Giản công sai đi sứ nước Sở, nhưng Lương Tiêu không chịu đi, chỉ uống rượu ở nhà, và sai Tử Tích đi thay. Trịnh Giản công tức giận cùng các đại phu mang quân đánh. Lương Tiêu đang say, người nhà vội khiêng mang chạy trốn sang nước Hứa. Sau đó Lương Tiêu định trở về khôi phục quyền lực nhưng thất bại, bị Tử Đái giết chết. Chính sự nước Trịnh từ đó do Tử Sản đảm đương.
Tử Sản tiến hành cải cách hành chính và nông nghiệp, thi hành pháp luật rất nghiêm. Dưới sự cầm quyền của Tử Sản, nước Trịnh dần dần trở nên giàu mạnh. Năm 543 TCN, Trịnh ban hành bộ Hình thư, trở thành chư hầu đầu tiên ban hành luật pháp ở Trung Quốc.
Năm 542 TCN, các công tử nước Trịnh muốn giết Tử Sản, công tử Vực không đồng ý, cho rằng Tử Sản là người nhân nghĩa không thể giết. Trịnh Giản công nghe theo.
Năm 540 TCN, đại phu Công Tôn Hắc muốn nổi dậy giành quyền bính, nhưng bị Tử Sản và các đại phu dẹp và giết chết.
Quan hệ với chư hầu.
Năm 565 TCN, các đại phu nước Trịnh là Tử Quốc và Tử Nhĩ mang quân đánh nước Sái, bắt được tướng Sái là Công tử Tiếp. Trong khi mọi người thấy mừng thì con Tử Quốc là Tử Sản lấy làm lo lắng vì đã gây xung đột với chư hầu. Sau đó Trịnh Giản công được đưa đi dự hội chư hầu với nước Tấn cùng Tề, Tống, Vệ, Châu.
Tháng 9 năm đó, vua Sở cử công tử Trinh mang quân đánh Trịnh vì tội theo Tấn đánh Sái. Nước Trịnh lại xin giảng hòa và theo nước Sở.
564 TCN, Tấn Điệu công tập hợp chư hầu Tề, Tống, Vệ, Tào, Cử, Châu, Đằng, Tiết, Kỷ, Tiểu Châu mang quân đánh Trịnh. Nước Trịnh xin quy phục và đến hội minh, nước Tấn bèn rút về.
Sau đó quân Sở tiến sang, nước Trịnh lại theo Sở. Các chư hầu theo Tấn lại vây đánh nước Trịnh ở ngoài ải Hổ Lao, quân Tấn củng cố thêm đồn lũy. Công tử Trinh nước Sở mang quân cứu Trịnh. Hai bên dàn trận giữ nhau không giao chiến. Quân Tấn ngại quân Sở mạnh không dám giao tranh, cuối cùng giải vây nước Trịnh, cùng chư hầu lui về. Nước Sở cũng bãi binh.
Sang năm 562 TCN, các đại phu nước Trịnh bàn nhau đánh nước Tống, bèn cử Công Tôn Xá Chi mang quân đánh Tống. Nước Tấn lại hội các chư hầu Tề, Tào, Vệ, Cử, Châu, Tiết, Kỷ, Tiểu Châu cùng đánh Trịnh. Quân chư hầu chiếm được đất nước Hứa cũ (mà Trịnh đã chiếm). Trịnh Giản công bèn xin giảng hòa. Hai bên thề ở phía bắc Bạc Thành.
Sở Cung vương bèn sai sứ mượn quân nước Tần. Tần Cảnh công sai đại phu Chiêm mang quân giúp Sở. Nước Trịnh thấy Sở đến lại xin theo Sở, cùng quân Sở và Tần đánh Tống. Nước Tấn bèn kéo chư hầu tới cứu Tống và đánh Trịnh.
Trịnh Giản công muốn theo Tấn, bèn sai sứ là Lương Tiêu và Thạch Xước đến gặp Sở Cung vương báo việc đã theo nước Tấn. Vua Sở tức giận bèn bắt giữ các sứ giả nước Trịnh.
Năm 560 TCN, Sở Cung vương mất, nước Sở mới cho Lương Tiêu và Thạch Xước về nước.
Năm 559 TCN, nước Trịnh cử Công Tôn Mại mang quân hợp với nước Tấn, Tề, Tống, Tào, Cử, Đằng và Tiết cùng đánh Tần, nhưng chưa thắng đã lui quân.
Năm 558 TCN, Trịnh Giản công lại hội binh với chư hầu cùng đánh nước Hứa và nước Sở, nhưng cũng không thắng.
Năm 556 TCN, Tề Linh công lấn chiếm nước Lỗ. Năm 555 TCN, Trịnh lại họp binh với chư hầu do Tấn đứng đầu đánh Tề, đánh bại được Tề Linh công. Tề Linh công bỏ chạy về cố thủ Lâm Tri. Quân các nước vây thành Lâm Tri, đốt phá nhà cửa ở ngoại thành rồi rút đi.
Trong lúc đó thì nội bộ nước Trịnh có tranh chấp. Công tử Gia muốn bãi chức các đại phu để nắm quyền và rời khỏi ảnh hưởng của nước Tấn, bèn mượn nước Sở. Sở Khang vương sai công tử Ngọ mang quân đánh Trịnh, trong lúc cánh quân theo nước Tấn đi đánh Tề chưa về. Các đại phu nước Trịnh ráo riết phòng thủ, quân Sở tiến đến Ngư Lăng, cuối cùng không hạ được thành phải rút lui. Các đại phu nước Trịnh phẫn nộ vì công tử Gia dẫn quân Sở vào nước, Tử Triển và Tử Tây bèn giết chết Gia. Hai người được Trịnh Giản công phong làm khanh.
Năm 549 TCN, Trịnh Giản công đi hội với Tấn Bình công và các chư hầu. Tấn Bình công định đánh Tề vì Tề Trang công liên minh với Sở, nhưng không đủ sức nên không phát lệnh ra quân. Sở Khang vương họp quân các nước Trần, Sái, Hứa đi đánh Trịnh để cứu Tề. Các chư hầu bèn quay về cứu Trịnh. Quân Sở rút lui.
Sang năm 548 TCN, Trịnh Giản công lại theo Tấn đánh Tề. Cùng lúc, tướng quốc Tử Sản giận quân nước Trần khi theo Sở sang đánh Trịnh lần trước đã chặt nhiều cây và lấp giếng nước Trịnh, nên mang 700 cỗ xe sang đánh nước Trần. Quân Trần không chống nổi, Trần Ai công phải chạy vào khu nghĩa địa trốn. Quân Trịnh tiến vào thành, Trần Ai công và thế tử phải ra hàng, xin quy phục và dâng đồ quý trong nước, Tử Sản mới rút quân.
Tử Sản mang đồ quý của nước Trần đến nộp cho tướng nước Tấn đang đánh Tề. Sau đó tướng Trịnh là Công Tôn Hạ lại mang quân đánh Trần lần thứ 2. Trần Ai công phải xin giảng hòa, quân Trịnh mới rút.
Năm 548 TCN, Sở Khang vương lại họp quân Sái, Trần đánh Trịnh. Liên quân tiến đánh phá thành Nam Lý nước Trịnh.
Vệ Hiến công bị đuổi lưu lạc đã mười ba năm, Trịnh Giản công sai sứ đến Tấn xin vua Tấn giúp Vệ Hiến công về nước.
Năm 541 TCN, Trịnh Giản công họp với chư hầu do Tấn đứng đầu tại đất Quắc (thuộc nước Trịnh). Cùng năm, công tử Vi nước Sở đi hội chư hầu ngang qua nước Trịnh, muốn hỏi lấy một người con gái nước Trịnh để được vào thành, tiện thể chiếm luôn nước Trịnh, nhưng Trịnh Giản công đã phòng bị, nên mời công tử Vi làm lễ ngoài thành, vì thế kế hoạch của công tử Vi không thành.
Năm 539 TCN, Trịnh Giản công sang nước Tấn, triều kiến Tấn Bình công. Năm 538 TCN, Sở Linh vương (Tức công tử Vi) bắt được Khánh Phong là kẻ đồng mưu giết Tề Trang công, bèn hội chư hầu ở đất Thân để trị tội. Trịnh Giản công bị bệnh, sai Tử Sản thay mình đến hội.
Tháng 3 năm 530 TCN, Trịnh Giản công qua đời. Ông làm vua được 36 năm, thọ 41 tuổi. Thế tử Cơ Ninh lên nối ngôi, tức là Trịnh Định công. Trong khi đoàn người hộ tống thi hài của Trịnh bá đến chỗ chôn cất có đi ngang qua miếu nhà họ Du, cần phải phá miếu. Tộc trưởng họ Du bảo bọn phu dịch cầm cuốc xẻng và đứng yên chờ đến khi tướng quốc Tử Sản đi qua thì nói với ông ta rằng không nỡ phá miếu, chờ hỏi ý quan tướng quốc. Khi Tử Sản đến nghe được việc ấy, bèn hạ lệnh tránh miếu làm đường đi sang một bên.
Cao Kháng đánh giá về Trịnh Giản công | 1 | null |
Loài sắp bị đe dọa (viết tắt trong phân loại tình trạng bảo tồn là NT) là một tình trạng bảo tồn dùng để chỉ những loài hoặc cấp phân loại thấp hơn có thể được xem là bị đe dọa tuyệt chủng trong tương lai gần, mặc dù nó hiện không hội đủ điều kiện cho tình trạng bị đe dọa. IUCN ghi nhận tầm quan trọng của việc đánh giá lại phân loại bị đe dọa ở những giai đoạn thích hợp. Hiện tại IUCN áp dụng phiên bản phân loại 3.1.
Lý do được sử dụng cho các đơn vị phân loại "sắp bị đe dọa" thường bao gồm các tiêu chí của đơn vị phân loại dễ bị tổn thương ở mức độ được thừa nhận gần như đáp ứng, chẳng hạn như giảm số lượng cá thể hoặc thu hẹp phạm vi sinh sống. Loài sắp bị đe dọa được đánh giá từ năm 2001 trở đi cũng có thể là phụ thuộc vào những nỗ lực bảo tồn để ngăn ngừa chúng trở thành nhóm bị đe dọa, trong khi trước nhóm này, loài phụ thuộc bảo tồn được xếp vào một danh mục riêng biệt.
Ngoài ra, có 402 đơn vị loài phụ thuộc bảo tồn cũng có thể được xem là sắp bị đe dọa.
Tiêu chí và xếp loại của IUCN phiên bản 2.3.
Trước năm 2001, IUCN sử dụng tiêu chí và phân loại phiên bản 2.3, theo đó nhóm phụ thuộc bảo tồn nằm tách biệt (LR/cd) với nhóm sắp bị đe dọa nhưng đều nằm cùng một nhóm lớn là "có nguy cơ thấp". | 1 | null |
Patuxai (tiếng Lào: ປະ ຕູ ໄຊ, nghĩa đen là Cổng chiến thắng hoặc Cổng khải hoàn, trước đây là Anousavary hoặc tượng đài Anosavari, được người Pháp gọi là Monument Aux Morts) là một tượng đài chiến tranh ở trung tâm Viêng Chăn, Lào, được xây dựng từ năm 1957 đến năm 1968. Patuxai được dành tưởng nhớ chiến sĩ trong cuộc đấu tranh giành độc lập từ Pháp. Tên gọi tiếng Lào khi viết bằng chữ Latinh, được phiên âm khác nhau thành Patuxai, Patuxay, Patousai và Patusai. Công trình còn được gọi là Khung vòm Patuxai hoặc Khải hoàn môn của Viêng Chăn vì nó giống với Khải hoàn môn ở Paris. Tuy nhiên, công trình thường mang phong cách Lào trong thiết kế, được trang trí bằng các sinh vật thần thoại như kinnari (nửa nữ, nửa chim).
Lịch sử.
Patuxai là một từ ghép, 'Patuu' hoặc 'patu' có nghĩa là "cánh cửa" hoặc "cửa ngõ" và 'Xai', phái sinh từ tiếng Phạn 'Jaya', có nghĩa là "chiến thắng". Vì vậy, nó có nghĩa là "Cổng Chiến thắng". Patuxai được xây dựng trong một thời kỳ đầy biến động của lịch sử Lào. Nó được xây dựng khi Lào còn là một quốc gia quân chủ lập hiến và ban đầu được gọi đơn giản là "Anousavali" ("Đài tưởng niệm"), để tưởng nhớ những chiến sĩ Lào đã hy sinh trong Thế chiến II và cuộc chiến giành độc lập từ Pháp năm 1949.
Tượng đài được xây dựng bằng nguồn tiền và xi măng của Mỹ, ban đầu có mục đích dùng xây dựng một sân bay mới. Thay vào đó, Chính phủ Hoàng gia Lào đã xây dựng tượng đài, khiến nó có biệt danh là "đường băng thẳng đứng".
Tượng đài được Tham Sayasthsena, “một người lính, cựu nhà báo và nhà điêu khắc tự học” người Lào, thiết kế. Năm 1957, kế hoạch của ông đã được lựa chọn trong số kế hoạch do Cục Công chính, Cục Kỹ thuật Quân sự và nhiều kiến trúc sư tư nhân đệ trình. Tham nhận thù lao 30.000 kip. Chi phí xây dựng ước tính là 63 triệu Kip.
Tháng 5 năm 1975, cộng sản Pathet Lào lật đổ chính phủ liên hiệp và lên nắm chính quyền, chấm dứt chế độ quân chủ và một thủ tướng lai Việt nhậm chức. Họ đổi tên tượng đài là Patuxai để vinh danh chiến thắng nhờ Quân đội Bắc Việt.
Địa lý.
Patuxai nằm ở cuối Thông lộ Lane Xang tại trung tâm thành phố Viêng Chăn. Công viên Patuxay bao quanh tượng đài.
Kiến trúc.
Tượng đài có năm ngọn tháp đại diện cho năm nguyên tắc chung sống giữa các quốc gia trên thế giới. Chúng cũng đại diện cho năm nguyên tắc của Phật giáo là “hòa nhã chu đáo, linh hoạt, trung thực, danh dự và thịnh vượng”.
Tượng đài, khi được xây dựng, có các cổng ở bốn phía hướng về bốn hướng chính. Các cổng đông-tây mở ra Thông lộ Lane Xang, được sử dụng trong các cuộc diễu hành nghi lễ quốc gia. Trước mỗi cổng đều có ao. Bốn ao tượng trưng cho phần lộ thiên của một bông hoa sen (tượng trưng cho sự tôn kính của người Lào đối với những chiến binh dũng cảm của dân tộc). Bốn góc của cổng được trang trí bằng tượng vua Nāga (biểu tượng thần thoại của Lào), với mô tả tượng trưng khi phun nước (gợi ý thiên nhiên, màu mỡ, phúc lợi và hạnh phúc) xuống các ao trên mặt đất. Hai cầu thang bê tông uốn lượn từ bên trong cấu trúc chính, đi qua từng tầng, hướng lên đỉnh đài tưởng niệm. Phòng ngắm cảnh bố trí ở các tầng trên. Tầng 1 chủ yếu có các phòng làm việc của Ban quản lý di tích; Các ki-ốt kinh doanh đồ dùng du lịch (đồ tạo tác, đồ lưu niệm và đồ giải khát) cũng được đặt trên tầng này. Tầng 2 là khu vực quan trọng, nơi đặt bảo tàng, trưng bày các bức tượng, hình ảnh về các nam nữ anh hùng mang tính biểu tượng của đất nước.
Cấp tầng tiếp theo là một không gian mở, nơi bốn tòa tháp được xây dựng ở bốn góc. Những ngọn tháp này đã được trang trí bằng bích họa hoa lá. Các tháp cũng được lắp đèn điện, được bật trong ngày quốc khánh và các lễ hội quan trọng khác. Các tháp nhỏ, trang trí như đền chùa, được thiết kế theo phong cách Lào và có các chóp nhọn. Mỗi tháp có một cầu thang. Ngoài bốn tháp ở góc, có một tháp lớn hơn ở trung tâm phía trên tầng này, cũng có cầu thang dẫn lên tầng trên cùng có đài quan sát từ đó có thể ngắm nhìn toàn cảnh Viêng Chăn. Một kính viễn vọng cũng được trang bị ở tầng đó để có thể quan sát thành phố. Các kế hoạch đã được vạch ra để gắn thang máy từ hai góc chéo của tượng đài, dự kiến sẵn sàng vào năm 2010 khi lễ kỷ niệm 450 năm Viêng Chăn là thủ đô của Lào được tổ chức. Trong dịp này, toàn bộ tượng đài được đề xuất trang trí bằng hoa và chiếu sáng. Tượng đài hoành tráng vẫn chưa hoàn thành cho đến ngày nay, mặc dù chính phủ Lào đã nhiều lần cho phép cấp vốn mới.
Hệ thống đài phun nước được trang bị trong khu vườn trang nhã mới phát triển là do người Trung Quốc quyên góp. Đó là một điểm phổ biến đối với du khách và người dân địa phương đến thăm di tích vào các buổi chiều. | 1 | null |
Chùa Phra Keo hay Haw Phra Kaew là ngôi chùa Phật ngọc của Thủ đô Viêng Chăn (Lào).
Trước đây ngôi chùa là nơi mà Hoàng tộc thường đến để cầu nguyện. Do vậy, chùa còn có tên là chùa Hoàng gia và có rất nhiều đồ vật quý hiếm đã được đặt ở đây. Trong đó, phải kể đến là một bức tượng Phật bằng ngọc. Ngày nay, chùa không còn được sử dụng làm nơi thờ cúng nữa mà được chuyển thành một nhà bảo tàng.
Chùa được vua Setthathirat cho xây dựng năm 1565 để làm nơi lưu giữ bức tượng phật ngọc (cái tên Phra Kaew có nghĩa là hình ảnh của Phật Ngọc). Sau cái chết của cha là vua Phothisarat, ông buộc phải rời Lanna – nơi ông đang cai trị để trở về Vientiane và mang theo bức tượng này từ Chiang Mai về theo. Bức tượng ngày nay không còn ở trong chùa nữa.
Khi người Thái Lan dưới sự chỉ huy của vị tướng Chakri (sau nay sẽ là vua Rama đệ nhất) cướp phá Vientiane vào năm 1779, họ đã mang theo bức tượng phật ngọc về Thái Lan và đặt tại chùa Wat Phra Kaew (Chùa Phật ngọc) ở Bangkok. Sau cuộc tấn công đó, Chùa Haw Phra Kaew đã bị phá hủy. Người Lào đã phục dựng lại nhưng rồi ngôi đền này lại bị phá hủy một lần nữa khi người Thái lại tấn công nơi đây vào năm 1828. Sau khi tiến đánh Lào và chiếm pho tượng phật quý, vị vua Thái Lan khi đó vốn là một Phật tử đã làm lại một bức tượng y hệt và trả lại cho đất nước Lào. Bức tượng này được đặt thay thế vào vị trí bức tượng đã bị lấy đi.
Vào năm 1936 và 1942, Haw Phra Kaew được xây dựng lại dưới sự giám sát của hoàng tử Souvanna Phouma - được đào tạo chuyên ngành kiến trúc tại Pháp và sau này là thủ tướng đầu tiên của Lào.
Haw Phra Kaew cũng là một công trình kiến trúc độc đáo: được xây trên nền đá, chạy dọc cầu thang là 2 rồng Lào chạm khắc từ đá.
Ngày nay, có thể thưởng lãm một số tượng phật bằng nhiều chất liệu khác nhau tại Haw Phra Kaew như đồng, đá, đất nung... được tạc theo phong cách Lào - sắc sảo và thanh tú. Đặc biệt, các bức tượng Phật bao quanh chùa mang các sắc thái biểu cảm khác nhau tạo nên một sự đa dạng và độc đáo ở nơi đây. Không bức tượng nào giống bức tượng nào. Và điều quan trọng nhất là cái hồn của bức tượng được thể hiện rất thành công. Các bức tượng ở đây cũng được dát vàng tại những điểm quan trọng như đầu, ngực, bụng...Những bức tượng này như che chở cho người dân Lào có một cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Trên các mảng cửa sổ, cửa lớn còn trang trí tượng thần vũ nữ Apsara...
Haw Phra Kaew hiện đang lưu giữ nhiều hiện vật quý: một chiếc ngai vàng, tượng phật Kh’mer, một số tác phẩm điêu khắc gỗ hay các văn tự được khắc trên đá liên quan đến Phật giáo. Đây là những tư liệu rất quý hiếm mà đất nước Lào coi như báu vật quốc gia. | 1 | null |
Chùa Sisaket (ວັດສີສະເກດ - Wat Sisaket) là một trong những ngôi chùa quan trọng nhất tại Vientiane, toạ lạc ngay trên con phố dẫn đến Phủ Thủ tướng Lào.
Tổng quan.
Ngôi chùa này được xây dựng bởi vua Chao Anuvong, vị vua cuối cùng của vương quốc Lan Xang, vào năm 1818. Chùa nằm gần ngôi chùa nổi tiếng khác là chùa Phra Keo, nơi có bức tượng Phật ngọc nổi tiếng. Vào thời điểm này, Lào vừa trở thành nước chư hầu của Xiêm, điều này lý giải tại sao ngôi chùa này có kiến trúc Bangkok (với mái 5 tầng và hồi lang bao quanh chùa chính). Có lẽ chính vì vậy mà Wat Sisaket đã không bị phá hủy khi quân Xiêm tấn công Vientiane năm 1828,chỉ bị cướp bức tượng Phật ngọc. Vì lý do đó mà Wat Sisaket được biết đến là ngôi chùa cổ nhất tại Vientiane. Nhưng cũng có truyền thuyết cho rằng, khi quân Xiêm định tấn công chùa, một đám mây đen phủ kín bầu trời, tất thảy quan quân thất kinh hồn vía, cho là cơn giận dữ của trời đất nên đã tự động rút lui. Nhờ thế mà duy nhất chùa Sisaket còn tồn tại, tiếp tục đóng vai trò là chốn tu hành thiêng liêng trong suốt thế kỷ XIX và cho đến tận ngày nay.
Một chi tiết thu hút du khách là dãy hành lang bao quanh " sim " (chùa chính). Những tường phía trong hành lang là nơi trưng bày hơn 2000 tượng phật lớn nhỏ được làm trong TK 16 – 19. Xung quanh hành lang có đặt hơn 300 tượng phật mang phong cách điêu khắc Lào bằng chất liệu gỗ, đá hoặc thiếc được làm tại Vientiane vào thế kỉ 16 và 19. Giá phía dưới cũng trưng bày hơn 300 tượng phật theo phong cách Lào. Dãy hành lang phía Tây có trưng bày một loạt những bức tượng bị vỡ - kết quả của cuộc tấn công của quân Xiêm năm 1828.
Nơi đây cũng là một bảo tàng - nơi lưu giữ hơn 8000 cuốn sách có giá trị và 6840 tượng phật được làm bằng nhiều chất liệu như đồng, đá, gỗ, bạc hay thạch cao... Mặt trong của chính điện có hàng ngàn hốc nhỏ, mỗi hốc đặt một bức tượng Phật, tạo cảm giác che chở cho người cầu nguyện. Hệ thống trường lang bên ngoài cũng đặt hàng trăm bức tượng Phật lớn nhỏ. Tại đây còn có một thư viện gần 400 năm tuổi với nhiều kinh sách Phật cổ viết bằng tay trên lá cọ... | 1 | null |
Wat Si Muang hay chùa Sỉ Muông (Sí Muông) được xây dựng năm 1566 là nơi đặt cột trụ chính của thành phố và là ngôi chùa linh thiêng nhất tại Thủ đô Viêng Chăn. Ngôi chùa là linh hồn của thành phố, nơi người dân Lào thường đến để cầu an, cầu phúc, cầu bình yên.
Truyền thuyết địa phương kể rằng, khi xây dựng Viêng Chăn, Đức Vua đã lựa chọn địa điểm tại huyện Sỉ Xắc Ta Nạt để cắm cột trụ thiêng khẳng định chủ quyền của đất nước. Đức Vua đã cho truyền lời kêu gọi thần dân tình nguyện hiến dâng sinh thể của mình làm " cột mốc" thiêng cho Tổ quốc. Vào một buổi sáng ngày lành tháng tốt, sau khi lập đàn cúng bái trời đất, khi người ta đào hố để chôn cột trụ thì trúng mạch nước ngầm, nước phun lên không dứt. Và Nàng Sỉ, một phụ nữ trẻ đang mang thai đã tình nguyện hiến sinh, nhảy xuống để lấp cột nước. Phải 100 ngày sau, hố sâu tự liền lại và nhô lên một cột trụ thiêng. Người ta lấy gạch (xỉ) bao xung quanh thành một ngọn đồi nhỏ (ước chừng cao 5m, dài 15m và rộng 11m) và từ đó gọi tên là Chau Me Sỉ Mương (Chau: chủ; Mương: mường, huyện; Me: mẹ; Sỉ: tên riêng; Chau Me Sỉ Mương: Mẹ Sỉ làm chủ mường, làm chủ đất nước). Cũng từ đó, Nàng Sỉ được coi như vị thần bảo vệ thành phố.
Ngoài sự tích nêu trên chùa Mẹ Sỉ Muông còn có thêm 1 sự kiện nổi bật mang đậm nét tâm linh huyền bí về đôi chim hạc cự ngụ ngay trên hòn giả sơn sau hậu điện. Chẳng biết chúng đến tự bao giờ nhưng nghe nói là đã có rất lâu rồi. Từ khi chim hạc xuất hiện, dân chúng thêu dệt thêm nhiều huyền thoại. Có người cho rằng Đức Phật phái chim hạc bay về canh giữ cho Mẹ Sỉ; lại có người cho rằng linh hồn của Mẹ Sỉ nhập vào chim hạc mà về. Phải đất nước an lành, tươi đẹp, lòng người hài hòa chim hạc mới bay về đậu.
Chùa Sỉ Muông có diện tích khoảng hơn 2 ha. Cấu trúc của chùa gồm một nhà chính thờ Phật và khu vực thờ Mẹ Sỉ Muông. Khuôn viên chùa có đặt nhiều tượng phật, đáng chú ý nhất là bức tượng phật Thích Ca được đặt dưới tán cây bồ đề. Bên cạnh đó, còn có 6 bức tượng đứng và một bức tương nằm tượng trưng cho sự bao bọc thiêng liêng của Thánh Mẹ.
Chùa chính có 2 gian. Gian trước khá sơ sài, thường có một nhà sư ngồi buộc chỉ vào tay để ban phước.Gian sau là gian thờ - chiếm hầu hết diện tích. Điều đặc biệt là bên trong hậu điện của chùa, chính giữa không phải tượng Phật mà lại là một khối đá cao to. Khối đá đó không phải đặt lên trên bàn thờ, mà là một cột đá xuyên thẳng xuống sâu trong lòng đất. Bàn thờ chỉ xây quanh cột đá thôi. Cột đá đó là một trong 2 cột thần trấn giữ cho thành phố Vientiane. Đây là cột mẹ, còn một cột nữa là cột cha nằm trong That Luông, bảo vệ cho xá lị của Phật. Ngôi chùa được trang trí hết sức cầu kỳ và tinh xảo. Ngay ở cổng chính điện, bạn có thể nhìn thấy những bức tranh, bức phù điêu kể về huyền thoại Mẹ và Đức Phật.
Ngôi chùa này được xây dựng trên phế tích của một ngôi đền Khmer. Đằng sau chùa chính hiện vẫn còn phế tích của ngôi đền này với cửa ra vào và tháp mang đậm phong cách Khmer. | 1 | null |
"Dancing Queen" () là một bài hát của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation, được phát hành vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 với vai trò là đĩa đơn mở đường cho album tiếng Hàn thứ tư của nhóm, "I Got a Boy". Bài hát được thu âm vào năm 2008 theo kế hoạch ban đầu là để làm ca khúc chủ đề cho mini-album tiếng Hàn đầu tay của nhóm, tuy nhiên đã bị giữ lại. Sau đó "Gee" đã được chọn để thay thế "Dancing Queen".
"Dancing Queen", được làm lại từ bài "Mercy" của ca sĩ người Anh Duffy, là bài hát đầu tiên mà Girls' Generation phát hành tại Hàn sau 14 tháng tạm ngừng hoạt động để ra mắt một số đĩa đơn tại Nhật Bản cũng như album tiếng Nhật thứ hai của nhóm, "Girls & Peace".
Thực hiện và phát hành.
Ngày 20 tháng 12 năm 2012, SM Entertainment đăng lên Twitter một bức ảnh với dòng chữ "2012. 12. 21 10 A.M." bên dưới một biểu trưng chứa tên của nhóm được bao quanh bởi quốc hoa của Hàn Quốc. Bài hát được cho là một bản cover.
Một ngày sau, cả đĩa đơn và video âm nhạc của bài hát được phát hành, cùng với sự ra mắt của các hình ảnh giới thiệu cho album "I Got a Boy" của từng thành viên, bắt đầu với Hyoyeon.
Quảng bá.
Girls' Generation biểu diễn "Dancing Queen" lần đầu tiên trên chương trình đặc biệt "Girls’ Generation’s Romantic Fantasy" của đài MBC vào ngày 1 tháng 1 năm 2013. Sau đó, cùng với "I Got a Boy", nhóm cũng biểu diễn bài hát này trên "M! Countdown" của Mnet, "Music Bank" của KBS, "Music Core" của MBC và "Inkigayo" của SBS lần lượt vào các ngày 3, 4, 5 và 6 tháng 1 năm 2013.
Doanh số.
Sau khi được phát hành, "Dancing Queen" nhanh chóng đứng đầu tất cả các bảng xếp hạng âm nhạc trực tuyến của Hàn Quốc. Chỉ trong vòng một ngày, bài hát đã bán được 138,344 bản, sau đó lọt vào vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng "Gaon" Download Chart, và thứ 11 trên bảng xếp hạng "Gaon" Singles Chart trong tuần đầu tiên. Bài hát cũng đạt vị trí thứ 65 trên bảng xếp hạng "Gaon" Streaming Chart. "Dancing Queen" xuất hiện lần đầu tiên trên bảng xếp hạng K-Pop Hot 100 ở vị trí thứ 2. Một tuần sau, bài hát chiếm vị trí đầu bảng trên cả hai bảng xếp hạng "Gaon" Singles và Download. | 1 | null |
Đại bàng Mã Lai (tên khoa học Ictinaetus malaiensis), là một loài chim săn mồi duy nhất thuộc chi Ictinaetus. Chúng sống ở vùng núi rừng nhiệt đới của châu Á, được nhận biết rất dễ khi chúng bay với hình ảnh cánh dài, xòe giống như những "ngón tay" dài, chân màu vàng, tương phản với màu lông đen đặc trưng.
Phân bố.
Chúng sống ở vùng rừng có độ che phủ lớn tại các khu vực núi cao của châu Á từ phía Tây dãy Himalaya qua Nepal tới Đông bắc Murree, Tây Ghats sang Aravalli ở bán đảo Ấn Độ, Sri Lanka. Ngoài ra là khu vực Miến Điện, Nam Trung Quốc (Vân Nam, Phúc Kiến, Đài Loan) và bán đảo Mã Lai cũng thấy sự xuất hiện của loài này.
Mô tả.
Đây là loài chim ăn thịt dài khoảng 70 – 80 cm, có bộ lông màu đen đặc trưng cùng bàn chân màu vàng. Cánh rộng dài qua cả chóp đuôi, lông đuôi nhạt hơn, móng vuốt dài và ít cong hơn so với các loài đại bàng khác. Khi bay, chúng bay với tốc độ chậm.
Thức ăn của chúng là động vật có vú, chim và trứng. Chúng làm tổ từ giữa tháng giêng tới tháng tư, trên cây cao và đẻ từ 1 - 2 trứng.
Phát sinh chủng loài.
Ba loài đại bàng đốm trong chi "Clanga" (trước đây từng gộp trong "Aquila") tạo thành một nhánh có quan hệ chị em với "Lophaetus occipitalis" và "Ictinaetus malaiensis". "Lophaetus occipitalis" đôi khi cũng từng được gộp trong "Ictinaetus" như là "Ictinaetus occipitalis". | 1 | null |
Virginia Elizabeth "Geena" Davis (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1956) là một nữ diễn viên và nhà sản xuất phim người Mỹ. Cô là chủ nhân của nhiều giải thưởng, bao gồm một giải Oscar và một giải Quả cầu vàng.
Sau khi học kịch nghệ tại Đại học Boston, Davis có vai diễn đầu tay trong bộ phim "Tootsie" (1982) và sau đấy đóng vai chính trong phim giật gân "The Fly" (1986), tác phẩm trở thành một trong những phim ăn khách phòng vé đầu tiên của cô. Trong khi bộ phim hài kỳ ảo "Beetlejuice" (1988) làm cô trở nên nổi tiếng thì phim chính kịch "The Accidental Tourist" (1988) lại mang về cho cô giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Cô tự chứng minh bản thân là một nữ diễn viên hàng đầu với "Thelma & Louise" (1991), bộ phim mà cô nhận được đề cử giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, còn bộ phim thể thao "A League of their Own" (1992) mang về cho cô một đề cử Quả cầu vàng. Tuy nhiên, vai diễn của Davis trong tác phẩm thất bại ở phòng vé như "Cutthroat Island" (1995) và "The Long Kiss Goodnight" (1996) (cả hai đều do chồng cô lúc ấy là Renny Harlin làm đạo diễn) dẫn đến theo một thời gian dài bước lùi và gián đoạn trong sự nghiệp của cô.
Davis đóng vai mẹ nuôi của nhân vật chính trong loạt phim "Stuart Little" (1999–2005) và vào vai nữ tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ trong loạt phim truyền hình "Commander in Chief" (2005–2006), vai tổng thống giúp cô thắng giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim truyền hình chính kịch xuất sắc nhất. Những bộ phim sau này của cô gồm có "Accidents Happen" (2009) và "Marjorie Prime" (2017). Cô đã thể hiện vai phụ Bác sĩ Nicole Herman trong "Grey's Anatomy" (2014–2015, 2018) và Regan MacNeil–Angela Rance trong mùa đầu tiên của bộ phim truyền hình kinh dị "The Exorcist" (2017).
Năm 2004, Davis thành lập tổ chức Geena Davis Institute on Gender in Media hợp tác với ngành giải trí để làm tăng đáng kể sự hiện diện của các nhân vật nữ trên các phương tiện truyền thông. Thông qua tổ chức, cô phát động Liên hoan phim Bentonville thường niên vào năm 2015 và làm giám đốc sản xuất bộ phim tài liệu "This Changes Everything" vào năm 2018. Nhờ tổ chức này, cô đã được trao giải thưởng Nhân đạo Jean Hersholt do giải Oscar trao tặng vào năm 2019 và giải Governors do giải Primetime Emmy trao tặng vào năm 2022.
Thân thế.
Davis sinh ngày 21 tháng 1 năm 1956 tại Wareham, Massachusetts. Mẹ cô tên Lucille () là trợ lý giáo viên, còn cha cô tên William F. Davis là kỹ sư xây dựng và phó tế nhà thờ. Cả hai đều xuất thân từ các thị trấn nhỏ ở Vermont. Davis có một người anh trai tên Danforth ("Dan").
Cô quan tâm đến âm nhạc từ khi còn nhỏ. Cô theo học dương cầm, sáo và chơi organ đủ tốt lúc thiếu niên để trở thành nghệ sĩ chơi organ tại nhà thờ thuộc Giáo hội Cộng đồng (Congregational) của mình ở Wareham. Davis cũng là một hoạt náo viên và là đội trưởng cổ vũ vào năm cuối trung học. Cô theo học trường trung học Wareham và là học sinh trao đổi ở Sandviken, Thụy Điển, nơi cô học thông thạo tiếng Thụy Điển. Cô muốn học diễn xuất tại Đại học Boston nhưng bỏ lỡ buổi diễn thử bắt buộc trong năm ở Thụy Điển, vì thế cô bắt đầu học đại học tại Đại học New England trước khi chuyển đến Đại học Boston; cô đã không kiếm đủ tín chỉ để tốt nghiệp, bị nhận điểm "không hoàn thành" ở ít nhất một lớp và điểm F trong lớp thao tác múa. Công việc đầu tiên của cô sau đại học là làm người mẫu cho ma-nơ-canh cửa sổ tại chuỗi cửa hàng Ann Taylor; sau đó cô ký hợp đồng với công ty người mẫu Zoli của New York.
Trong cuốn hồi ký của mình ra mắt năm 2022, cô chia sẻ rằng anh trai mình đã đặt biệt danh Geena ngay sau khi cô chào đời để phân biệt cô với dì Virginia (có biệt danh Ginny).
Sự nghiệp.
Trở nên nổi tiếng (1982–1987).
Davis đang làm người mẫu khi cô được đạo diễn Sydney Pollack tuyển mộ trong bộ phim "Tootsie" (1982) với vai một diễn viên kịch xà phòng, cô mô tả nhân vật mình đóng là "người sẽ mặc nội y rất nhiều lần". Đây là bộ phim có lợi nhận cao thứ hai trong năm 1982, nhận được 10 đề cử giải Oscar và được xem là tác phẩm tín đồ. Tiếp theo, cô giành được vai chính Wendy Killian trong bộ phim truyền hình "Buffalo Bill" (phát sóng từ tháng 6 năm 1983 đến tháng 3 năm 1984) và được đề tên viết kịch bản trong một tập phim. Bất chấp nhận được 11 đề cử giải Emmy, tỷ suất không tốt đã làm bộ phim bị hủy chiếu sau hai mùa. Đồng thời Davis thủ vai vai khách mời trong "Knight Rider", "Riptide", "Family Ties", "Remington Steele" và kế tiếp là bộ phim "Sara" kéo dài 13 tập của riêng cô. Trong thời gian này, cô còn đi thử vai cho bộ phim hành động/khoa học viễn tưởng "The Terminator" (1984) và đọc kịch bản cho vai chính Sarah Connor (chung cuộc vai diễn thuộc về Linda Hamilton). Trong phim hài hành động "Fletch" (1985), cô diễn cùng với Chevy Chase trong vai đồng nghiệp một phóng viên chìm của báo "Los Angeles Times" đang cố gắng vạch trần nạn buôn bán ma túy trên các bãi biển của Los Angeles. Cô còn đóng vai chính trong phim hài kinh dị "Transylvania 6-5000" với vai một ma cà rồng cuồng dâm cùng với chồng tương lai Jeff Goldblum. Họ cũng đóng vai chính trong phim kinh dị khoa học viễn tưởng "The Fly" (1986) dựa trên truyện ngắn cùng tên năm 1957 của George Langelaan, trong đó Davis thủ vai một nhà báo khoa học và người yêu một nhà khoa học lập dị. Tác phẩm gặt hái thành công về mặt thương mại và giúp cô thành danh trong vai trò diễn viên. Năm 1987, cô lại xuất hiện cùng Goldblum trong phim hài kỳ quặc "Earth Girls Are Easy".
Sự công nhận và tán dương của giới phê bình (1988–1992).
Đạo diễn Tim Burton đã chọn Davis đóng trong phim "Beetlejuice" (1988); cô vào vai một trong cặp vợ chồng trẻ vừa qua đời trở thành bóng ma ám ảnh ngôi nhà cũ của họ; phim còn có sự tham gia của Alec Baldwin, Michael Keaton và Winona Ryder. Phim kiếm được 73,7 triệu đô la Mỹ từ kinh phí 15 triệu đô la Mỹ, còn diễn xuất của Davis cũng như tổng thể bộ phim nhận được đa số các đánh giá tích cực.
Davis nhận vai một nhân viên bệnh viện thú y và người huấn luyện chó với cậu con trai ốm yếu trong phim chính kịch "The Accidental Tourist" (1988), diễn cùng William Hurt và Kathleen Turner. Nhà phê bình Roger Ebert chấm bộ phim 4 sao trên 4 sao và bình luận: "Davis (trong vai Muriel) mang đến sự gàn dở không gượng ép cho vai diễn của cô ở những cảnh như cảnh cô ngân nga một bài hát khi đang rửa bát đĩa. Nhưng cô ấy không hề đơn giản như cô đôi khi thể hiện[...]". Bộ phim gặt hài thành công về mặt thương mại lẫn phê bình, và vai diễn trong phim đem về cho cô giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất.
Davis xuất hiện với vai bạn gái của một người đàn ông đội lốt hề cướp nhà băng ở trung tâm Manhattan, trong bộ phim hài "Quick Change" (1990). Dựa trên cuốn sách cùng tên của Jay Cronley, đây là bản làm lại bộ phim "Hold-Up" (1985) của Pháp có Jean-Paul Belmondo đóng vai chính. Mặc dù doanh thu phòng vé khiêm tốn, "Chicago Tribune" nhận xét các diễn viên chính "hài hước và sáng tạo, đồng thời vẫn giữ cho nhân vật của họ có vóc dáng như thật". Kế đến Davis đóng vai chính cùng Susan Sarandon trong bộ phim "Thelma & Louise" (1991) của Ridley Scott, họ vào vai những người bạn bắt tay vào một chuyến đi với những hậu quả khôn lường. Nhờ thành công về mặt thương mại và phê bình, dây được xem là một tác phẩm kinh điển vì đã tác động đến các bộ phim và tác phẩm nghệ thuật khác và trở thành một bộ phim nữ quyền bước ngoặt. Davis nhận được đề cử giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn của cô. Phim còn có sự góp mặt của Brad Pitt trong vai diễn đột phá của anh; trong phim anh thủ diễn một kẻ đi lang thang; trong bài phát biểu nhận giải Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 2020, Pitt cảm ơn đạo diễn Ridley Scott và Geena Davis vì đã "trao cho tôi thử thách đầu tiên."
Năm 1992, Davis diễn cùng với Madonna và Tom Hanks trong phim "A League of their Own" với vai một cầu thủ bóng chày trong đội toàn nữ. Phim đạt vị trí số một tại phòng vé, trở thành bộ phim có doanh thu cao thứ 10 trong năm ở Bắc Mỹ, và mang về cho Davis đề cử giải Quả cầu vàng cho cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Cô thủ vai một phóng viên truyền hình trong bộ phim hài "Hero" (cùng năm 1992) bên cạnh Dustin Hoffman và Andy Garcia. Mặc dù phim thất bại ở phòng vé, Roger Ebert nhận thấy Davis "sáng sủa và thuyết phục với vai một phóng viên (câu thoại hay nhất của cô ấy, sau khi sống sót sau vụ tai nạn máy bay, là khi cô hét lên qua cửa xe cứu thương:"Đây là câu chuyện của tôi! Tôi là người nghiên cứu!")".
Bước lùi, tạm ngừng diễn xuất và các vai diễn truyền hình (1993–2009).
Trong phim "Angie" (1994), Davis đóng vai một nhân viên văn phòng sống ở khu Bensonhurst của Brooklyn và mơ ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình, bất chấp nhiều lời khen dành cho Davis và thất bại về mặt thương mại. Trong bản phát hành phim "Speechless" (1994), Davis tái hợp với Michael Keaton để thể hiện những nhà văn mất ngủ yêu nhau cho đến khi họ nhận ra rằng cả hai đang viết bài phát biểu cho các ứng viên đối thủ trong cuộc bầu cử ở New Mexico. Bất chấp những đánh giá tiêu cực và doanh thu phòng vé khiêm tốn, cô đã nhận được đề cử giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất cho màn thể hiện của mình.
Davis hợp tác với chồng cô lúc bấy giờ là đạo diễn Renny Harlin cho các bộ phim "Cutthroat Island" (1995) và "The Long Kiss Goodnight" (1996), Harlin hy vọng rằng chúng sẽ biến cô thành một ngôi sao phim hành động. Trong khi "The Long Kiss Goodnight" đạt được thành công khiêm tốn, "Cutthroat Island" lại thất bại về mặt phê bình lẫn thương mại và từng bị "Sách kỷ lục Guinness" liệt vào hãng ngũ "những bom xịt phòng vé lớn nhất". Bộ phim được xem là yếu tố góp phần vào sự sụp đổ hình tượng một ngôi sao bảo chứng của Davis. Cô ly hôn với Harlin vào năm 1998 và nghỉ hai năm "dài bất thường" để suy nghĩ về sự nghiệp của mình, theo "The New York Times". Cô ấy xuất hiện với vai Eleanor Little trong bộ phim hài gia đình được đón nhận nồng nhiệt "Stuart Little" (1999), cô tái thể hiện vai này các phần phim tiếp theo là "Stuart Little 2" (2002) và "" (2005).
Vào giữa và cuối thập niên 1990, sự nghiệp điện ảnh của Davis ít được chú ý hơn và sự tán dương của giới phê bình cũng giảm dần. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2016 với "Vulture", cô kể lại: "Các vai diễn phim thực sự bắt đầu cạn kiệt khi tôi bước vào độ tuổi 40. Nếu bạn nhìn vào IMDb, cho đến tuổi ấy, tôi đã diễn khoảng một phim mỗi năm. Trong suốt những năm 40 của mình, tôi diễn một phim là "Stuart Little". Tôi có nhận được những lời mời, nhưng không có gì hấp dẫn hay thú vị như ở độ tuổi 30 của tôi. Tôi hoàn toàn bị hủy hoại và hư hỏng. Ý tôi là, tôi được đóng vai cả một thuyền trưởng cướp biển! Tôi được đóng mọi loại vai, ngay cả khi bộ phim thất bại."
Davis đóng chính trong bộ sitcom "The Geena Davis Show", được phát sóng một mùa trên ABC trong mùa truyền hình Hoa Kỳ 2000–01. Cô tiếp tục thủ vai chính trong bộ phim truyền hình "Commander in Chief" của ABC với vai nữ tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Trong khi vai diễn này đã đem về cho cô giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên chính phim truyền hình chính kịch xuất sắc nhất vào năm 2006, thì bộ phim lại bị hủy chiếu sau mùa đầu tiên; Davis thừa nhận cô ấy đã bị "rất sốc" bởi việc hủy chiếu phim trong một cuộc phỏng vấn năm 2016. "Tôi vẫn chưa vượt qua được chuyện đó. Tôi thực sự muốn phim được chiếu tiếp. Đó là vào tối thứ Ba đối diện với "House", không hề lý tưởng chút nào. Nhưng chúng tôi là chương trình mới hay nhất vào mùa thu năm đó. Sau đó vào tháng 1, chúng tôi đối đầu với "American Idol". Họ nói, 'Tỷ suất sẽ bị ảnh hưởng, vì vậy chúng ta nên dời lịch phát sóng toàn bộ chương trình của bạn tránh "Idol" và đưa nó trở lại vào tháng Năm. Tôi còn dành rất nhiều thời gian và công sức để đưa phim lên một đài khác, song không làm được". Cô còn được đề cử một giải Emmy và giải SAG cho nữ diễn viên chính phim truyền hình chính kịch xuất sắc. Cô được trao giải Lucy cho phụ nữ trong điện ảnh năm 2006.
Davis là diễn viên người Mỹ duy nhất được chọn tham gia phim "Accidents Happen" (2009) do Úc sản xuất, cô hóa thân thành một người mẹ nghiêm khắc và lắm lời. Cô kể rằng đó là niềm vui lớn nhất mà cô ấy từng có trên phim trường, đồng thời cảm nhận được tình bạn và kết nối sâu sắc với những diễn viên nhí đóng vai con trai cô. Do Brian Carbee viết kịch bản và dựa trên thời thơ ấu và niên thiếu của chính ông, bộ phim nhận được số suất chiếu hạn chế tại rạp và các ý kiến trái chiều từ giới phê bình. "Variety" nhận thấy phim được "dẫn dắt bởi một Geena Davis dũng cảm", mặc dù có một "kịch bản nhầm lẫn lạm dụng với khôn ngoan".
Mở rộng chuyên môn (2010nay).
Sau một thời gian dài làm việc ngắt quãng, Davis thường mạo hiểm dấn thân diễn xuất trên truyền hình và thông qua tổ chức Geena Davis Institute on Gender in Media, sự nghiệp của cô đã được mở rộng ở thập niên 2010. Năm 2012, cô đóng vai bác sĩ tâm lý trong phim truyền hình ngắn tập "Coma", dựa trên tiểu thuyết "Coma" năm 1977 của Robin Cook và bộ phim chuyển thể năm 1978. Cô đóng vai một nữ giám đốc sản xuất điện ảnh quyền lực trong phim hài "In a World..." (2013) được giới phê bình đánh giá cao (đây là tác phẩm đạo diễn đầu tay của Lake Bell). Bell nhận thấy yêu thích nhất đoạn hội thoại duy nhất của Davis trong phim và gọi đó là "khoảnh khắc trình bày nổi bật" của mình.
Năm 2014, Davis lồng tiếng cho bản tiếng Anh bộ phim hoạt hình "Omoide no Marnie" của Studio Ghibli, khi cô bị thu hút bởi những câu chuyện phong phú và sử dụng nhiều nhân vật nữ của bộ phim. Cô đóng vai phụ Bác sĩ Nicole Herman, một bác sĩ phẫu thuật bào thai đang công tác với khối u não đe dọa tính mạng, trong mùa thứ 11 của "Grey's Anatomy" (2014–15). Năm 2015, Davis phát động một liên hoan phim thường niên được tổ chức tại Bentonville, Arkansas, để làm nổi bật tính đa dạng trong điện ảnh, chấp nhận những bộ phim có điểm nhấn là phụ nữ và người thiểu số trong dàn diễn viên và đoàn phim. Liên hoan phim Bentonville đầu tiên diễn ra từ ngày 5–9 tháng 5 năm 2015. Davis xuất hiện với vai mẹ một ngôi sao truyền hình bán nổi tiếng trong phim hài "Me Him Her" (2016).
Trong bộ phim truyền hình "The Exorcist" (2016), dựa trên phim điện ảnh cùng tên năm 1973, Davis đảm nhận vai Regan MacNeil trưởng thành, cô đổi tên mình thành Angela Rance để tìm kiếm sự bình yên và ẩn danh sau thử thách khi còn nhỏ. "The Exorcist" là một tác phẩm thành công với giới phê bình và khán giả. Năm 2017, Davis đóng vai chính trong phim chuyển thể "Marjorie Prime" cùng với Jon Hamm, cô thủ vai con gái của một ông lão 85 tuổi trải qua những triệu chứng đầu tiên của bệnh Alzheimer, và xuất hiện trong vai vị thần tưởng tượng của một đứa trẻ 13 tuổi thừa cân trong phim hài "Don't Talk to Irene". "Vanity Fair" viết rằng nữ diễn viên đã đánh cắp "mọi cảnh" trong "Marjorie Prime", trong khi "Variety" nhận xét với vai diễn trong "Don't Talk to Irene": "Không có gì phải bàn cãi về độ ngầu phi thường của Geena Davis—sự thật được tôn vinh trong chính thời trang nhận thức của "Don't Talk to Irene", một thể loại phim tuổi mới lớn quen thuộc có đặc điểm nổi bật nhất là sự hiện diện của nữ diễn viên".
Năm 2018, Davis trở lại "Grey's Anatomy" với vai Bác sĩ Nicole Herman trong mùa thứ 14 của chương trình, và làm giám đốc sản xuất bộ phim tài liệu "This Changes Everything", trong đó cô cũng được phỏng vấn về kinh nghiệm của mình trong ngành. Phim được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto, nơi phim được vinh danh ở ngôi á quân đầu tiên cho Giải lựa chọn của khán giả: Phim tài liệu. Năm 2019, cô tham gia lồng tiếng cho vai Huntara trong phim "She-Ra and the Princesses of Power", và làm giám đốc sản xuất chương trình giáo dục "Mission Unstoppable" của CBS thông qua tổ chức của cô. Cùng năm đó, cô tham gia dàn diễn viên của "GLOW" trong vai Sandy Devereaux St. Clair, một cựu vũ công trung sắc trở thành giám đốc giải trí của Khách sạn và Sòng bạc Fan-Tan. Năm 2022, hình ảnh của Davis được sử dụng cho nhân vật Poison Ivy trong loạt truyện tranh "Batman '89" của DC Entertainment, lấy bối cảnh giữa các sự kiện của "Batman Returns" (1992) và "The Flash" (2023).
Tháng 10 năm 2022, HarperOne xuất bản cuốn sách "Dying of Politeness: A Memoir" của Davis về hành trình của cô từ thời thơ ấu với nữ tính và tổn thương truyền thống của New England cho đến "táo bạo" của nữ quyền, mỗi lần một vai, trên màn ảnh và trong thế giới thực.
Đời tư.
Hôn nhân và gia đình.
Davis bắt đầu hẹn hò với chủ nhà hàng Richard Emmolo vào tháng 12 năm 1977 và chuyển đến sống cùng anh sau đó một tháng. Hai người kết hôn vào ngày 25 tháng 3 năm 1981, nhưng ly thân vào tháng 2 năm 1983 rồi ly dị vào ngày 27 tháng 6 năm 1984. Sau đó, cô ấy hẹn hò với Christopher McDonald (bạn diễn tương lai của "Thelma & Louise"); hai người đã đính hôn trong một thời gian ngắn.
Năm 1985, cô gặp chồng thứ hai là nam diễn viên Jeff Goldblum trên phim trường "Transylvania 6-5000". Cặp đôi kết hôn vào ngày 1 tháng 11 năm 1987 và đóng chung trong hai bộ phim nữa: "The Fly" và "Earth Girls Are Easy". Davis đệ đơn ly hôn vào tháng 10 năm 1990, và vụ ly hôn được hoàn tất một năm sau. Năm 2022, Davis kể với "People" rằng mối quan hệ của hai người "là một chương kỳ diệu trong đời tôi."
Vệ sĩ Gavin de Becker là bạn trai của Davis vào đầu thập niên 1990. Sau 5 tháng tán tỉnh, cô kết hôn với nhà làm phim Renny Harlin vào ngày 18 tháng 9 năm 1993. Anh làm đạo diễn cô trong các phim "Cutthroat Island" và "The Long Kiss Goodnight". Davis đệ đơn ly hôn vào ngày 26 tháng 8 năm 1997, một ngày sau khi trợ lý riêng của cô là Tiffany Browne hạ sinh một đứa trẻ mà Harlin làm cha. Cuộc ly hôn được hoàn tất vào tháng 6 năm 1998.
Năm 1998, Davis bắt đầu hẹn hò với bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ sọ mặt người Mỹ gốc Iran Reza Jarrahy, và được cho là đã kết hôn với anh vào ngày 1 tháng 9 năm 2001. Họ có ba người con: một cô con gái tên Alizeh (sinh vào tháng 4 năm 2002) và hai cậu con trai song sinh tên Kaiis và Kian (sinh vào tháng 5 năm 2004). Tháng 5 năm 2018, Jarrahy đệ đơn ly hôn với Davis, ghi ngày ly thân của họ là ngày 15 tháng 11 năm 2017. Davis đáp lại bằng cách nộp đơn thỉnh cầu, trong đó tuyên bố rằng cô và Jarrahy chưa bao giờ kết hôn hợp pháp. Vụ ly hôn của họ được hoàn tất vào tháng 12 năm 2021. Họ đồng ý đổi họ của hai con trai từ "Davis-Jarrahy" thành "Jarrahy".
Hoạt động.
Davis là một người ủng hộ Tổ chức Thể thao Phụ nữ và là người ủng hộ Title IX, một Đạo luật Quốc hội chú trọng vào bình đẳng trong các cơ hội thể thao, hiện được mở rộng để cấm phân biệt giới tính ở các cơ sở giáo dục của Hoa Kỳ.
Năm 2004, trong lúc theo dõi các video và chương trình thiếu nhi cùng con gái, Davis nhận thấy mất cân đối trong tỷ lệ nhân vật nam và nữ. Cô tiếp tục tài trợ cho dự án nghiên cứu lớn nhất từ trước đến nay về giới tính trong lĩnh vực giải trí thiếu nhi (dẫn đến bốn nghiên cứu riêng biệt, gồm một nghiên cứu về truyền hình thiếu nhi) tại Trường Truyền thông Annenberg thuộc Đại học Nam California. Nghiên cứu do Stacy Smith chỉ đạo đã chỉ ra rằng có gần ba nhân vật nam trên mỗi một nhân vật nữ trong gần 400 phim xếp loại G, PG, PG-13 và R được phân tích. Năm 2005, Davis hợp tác với nhóm phi lợi nhuận "Dads and Daughters" để khởi động một liên doanh nhằm cân bằng số lượng nhân vật nam và nữ trong chương trình truyền hình và phim điện ảnh thiếu nhi.
Davis đã thành lập Geena Davis Institute on Gender in Media vào năm 2007, hợp tác với ngành giải trí để tăng cường sự hiện diện của các nhân vật nữ trên các phương tiện truyền thông hướng đến thiếu nhi, đồng thời giảm bớt bất bình đẳng ở Hollywood và định kiến về phụ nữ đối với ngành công nghiệp bị nam giới thống trị. Nhờ công việc của mình trong lĩnh vực này, cô đã nhận được bằng Tiến sĩ Mỹ thuật danh dự của Đại học Bates vào tháng 5 năm 2009; và giải Oscar danh dự, giải thưởng nhân đạo Jean Hersholt của Viện hàn lâm năm 2019.
Năm 2011, Davis trở thành một trong số ít người nổi tiếng tham gia chiến dịch FWD của USAID và Ad Council, một sáng kiến nâng cao nhận thức gắn liền với hạn hán ở Đông Phi năm đó. Cô đã tham gia cùng với Uma Thurman, Chanel Iman và Josh Hartnett trong các quảng cáo trên truyền hình và internet để "quảng bá sự thật" về cuộc khủng hoảng.
Thế vận hội.
Tháng 7 năm 1999, Davis là một trong số 300 vận động viên nữ tranh vé vào bán kết trong đội tuyển bắn cung Olympic Hoa Kỳ để tham gia Thế vận hội Mùa hè Sydney 2000. Cô đứng thứ 24 và không lọt được vào đội, nhưng đã tham dự với một suất đặc cách trong cuộc thi Mũi tên vàng quốc tế Sydney. Tháng 8 năm 1999, cô chia sẻ rằng khi lớn lên cô không phải là một vận động viên và cô nhập môn bắn cung vào năm 1997, hai năm trước khi cô ấy thử sức. | 1 | null |
M-701 là loại động cơ máy bay tuốc bin phản lực do công ty Motorlet tại Tiệp Khắc thiết kế để trang bị trên các máy bay huấn luyện Aero L-29 của hầu hết các nước thuộc khối Warszawa. Đây là động cơ phản lực đầu tiên được phát triển tại Tiệp Khắc. Có khoảng 9020 động cơ đã được chế tạo.
M-701 đã được chứng minh là rất đáng tin cậy trong các vùng khí hậu khác nhau và chi phí bảo dưỡng thấp. Trong suốt lịch sử của ngành công nghiệp hàng không Tiệp Khắc, M-701 là động cơ thành công nhất.
Phát triển.
Việc ra đời của các máy bay phản lực vào đầu những năm 1950 dẫn tới yêu cầu về các loại máy bay huấn luyện cũng phải có động cơ phản lực. Vì thế Bộ Quốc phòng Tiệp Khắc đã đưa ra yêu cầu về một loại động cơ phản lực đáp ứng được các yêu cầu vào nửa cuối những năm 1950. Ban đầu nhà thiết kế dự tính động cơ sẽ chỉ có sáu giai đoạn tuy nhiên thiết kế đã được thay đổi một chút vào năm 1956 do một hội nghị của kỹ sư hàng không của Liên Xô khi đến thăm Tiệp Khắc đã nói rằng nên thêm giai đoạn nén ly tâm vì nó giúp động cơ ít bị ảnh hưởng bởi bụi đất và kinh nghiệm này có được do nhiều sân bay của Liên Xô khi đó là một bãi đất trống không có đường băng.
Năm 1956, sau khi tham khảo ý kiến những người đại diện của không quân Liên Xô về thiết kế máy bay huấn luyện thì máy bay C-29 (sau này được gọi là L-29) sẽ không những là máy bay huấn luyện mà nó còn có thể đáp xuống các bãi đất. Việc này yêu cầu một số thay đổi trong thiết kế nhưng không ảnh hưởng nhiều đến các yêu cầu của bộ quốc phòng và thiết kế mới đã được phê duyệt vào tháng 3 năm 1957. Một máy nén xuyên tâm được thêm vào để nó ít chịu ảnh hưởng bởi môi trường.
Nguyên mẫu đầu tiên được hoàn tất vào tháng 9 năm 1958 và được gắn vào máy bay ném bom Il-28 để bay thử nghiệm. Chiếc L-29 được gắn động cơ M-701 bay thử lần đầu vào tháng 7 năm 1960. Và bộ quốc phòng hoàn tất việc kiểm tra vào tháng 3 năm 1961 sau đó phê duyệt để trang bị cho các máy bay trong lực lượng không quân Tiệp Khắc. Các thử nghiệm chuyên sâu hơn được thực hiện tại Liên Xô. Động cơ đã giành được chiến thắng quan trọng một cuộc so sánh tại Liên Xô giữa các máy bay L-29, TS-11 và Yak-32 để được chế tạo hàng loạt và giúp L-29 trở thành máy bay huấn luyện tiêu chuẩn của khối Warszawa. | 1 | null |
Công thức Bellard là công thức được chỉnh sửa từ công thức Bailey-Borwein-Plouffe. Công thức này được dùng để tính ra chữ số thứ "n" trong số Pi theo hệ nhị phân. Nó nhanh hơn 43% so với công thức Bailey-Borwein-Plouffe.
Công thức này được sử dụng trong dự án tính toán phân tán PiHex.
Công thức được khám phá bởi Fabrice Bellard vào năm 1997. | 1 | null |
Hành tinh khỉ là một bộ phim khoa học viễn tưởng của Mỹ, được sản xuất năm 2001, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Pierre Boulle và là phần làm lại của bộ phim năm 1968 Hành Tinh Khỉ. Tim Burton là đã diễn của phim, cùng với các ngôi sao Mark Wahlberg, Tim Roth, Helena Bonham Carter, Michael Clarke Duncan, Paul Giamatti, and Estella Warren. Đây là câu chuyện về một phi hành gia tên Leo Davidson bị sự cố phải hạ cánh bất ngờ xuống một hành tinh kì lạ, nơi có loài Khỉ thông minh. Các con khỉ đối xử với con người như nô lệ, nhưng nhờ sự giúp đỡ của một cô khỉ cái tên Ari, Leo bắt đầu làm thay đổi mọi chuyện. | 1 | null |
Wat Xieng Thong hay chùa Xiêng Thoong là một trong những ngôi chùa cổ nhất và là ngôi chùa quan trọng nhất của thành phố Luang Prabang tại Lào. Ngôi chùa nằm ở ngã ba sông Mê Kông và sông Nậm Khăn (hoặc Nậm Khan). Ngôi chùa được tạo dựng dưới triều vua Setthathirat năm 1559-1560. Tên gọi Wat Xieng Thong có nghĩa là chùa của thành phố vàng.
Từ cổng ra vào, bên trái là một đền nhỏ, bên trong là cỗ xe của hoàng gia. Chiếc xe đồ sộ, nổi bật với sắc vàng và được trang trí bằng 5 rắn thần Naga. Cỗ xe này đã được vua Sisavong sử dụng vào năm 1960.
Là ngôi chùa đẹp và quan trọng nhất của Luang Prabang với lối kiến trúc đặc thù Lào, mái cong cong buông xuống gần mặt đất. Wat Xieng Thong là ngôi chùa chính bao quanh là những miếu đường nhỏ có cùng một lối kiến trúc, hợp thành một cảnh quan đẹp đẽ.
Từ ngoài vào trong, trên các tường ta thấy cơ man phù điêu, điêu khắc, chạm trỗ công phu, sắc sảo nội dung dựa theo Phật tích. Nội thất của Wat Xiêng Thoong phải kể là tuyệt tác. Mỗi miếu đường cũng vậy. Mặt sau Wat, trên tường có họa một cây nhân sinh, màu đỏ cam.
Mỗi năm, vào dịp Bunpimay (Tết Lào) mọi chức sắc trong giáo hội Phật giáo Lào cũng như quan chức trong chính quyền tại Luang Prabang đều hội tụ về chùa Xiêng Thoong hành lễ chào mừng năm mới, rước tượng Prabang từ Bảo Tàng Viện về an vị trong sân Wat Xieng Thong, mọi người cùng tắm tượng Phật Prabang bằng nước hoa đại suốt một ngày, biểu hiện lòng sùng tín đối với Phật giáo. | 1 | null |
Công tử Vỉ (chữ Hán: 公子亹; trị vì: 695 TCN – 694 TCN), tên Vỉ (亹) hoặc Vỉ (斖), là vị vua thứ sáu của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Dã xưng Tử Vỉ (子亹), Trịnh tử Vỉ (郑子亹).
Công tử Vỉ là con trai của Trịnh Trang công – vị vua thứ ba của nước Trịnh, em của Trịnh Chiêu công và Trịnh Lệ công – vua thứ 4 và thứ năm của nước Trịnh.
Lên ngôi và bị hại.
Tháng 10 năm 695 TCN, đại phu nước Trịnh là Cao Cừ Di vốn có hiềm khích với vua anh Trịnh Chiêu công, bèn nhân lúc Trịnh Chiêu công đi tế lễ sai người ám sát giết chết Trịnh Chiêu công. Người nước Trịnh muốn đón Trịnh Lệ công (cũng là anh của Trịnh Vỉ) về phục ngôi, nhưng Cao Cừ Di và Tế Trọng không nghe, lập công tử Vỉ lên làm vua.
Tháng 7 năm 694 TCN, Trịnh Vỉ lên ngôi được 7 tháng, Tề Tương công hội chư hầu ở đất Thủ Chỉ, triệu Trịnh Vỉ đến hội. Trịnh Vỉ định cùng Cao Cừ Di và Tế Trọng chuẩn bị đi sứ. Tế Trọng sợ Trịnh Lệ công từ đất Lịch đem quân về đánh, khuyên không nên đi nhưng ông không nghe, vì sợ nước Tề mạnh, sẽ thống suất chư hầu đến đánh mình. Tế Trọng sợ bị vạ lây, xưng bệnh không đi.
Trịnh Vỉ và Cao Cừ Di đến đất Thủ Chi, nhưng không chịu tạ vua Tề. Tề Tương công tức giận lén đặt phục binh, sai quân xông vào bắt Trịnh Vỉ và Cao Cừ Di. Để trị tội sát hại Trịnh Chiêu công, Tề Tương công giết chết ông và phanh thây Cao Cừ Di. Tế Trọng ở nước Trịnh nghe tin, lập em ông là công tử Anh đang ở nước Trần về nối ngôi.
Trịnh Vỉ chỉ ở ngôi được 7 tháng. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho hạng mục Album Pop được yêu thích nhất bắt đầu được trao tặng kể từ năm 1974.
Hạng mục này tôn vinh những album Pop xuất sắc của năm trước đó (từ 2003 trở đi khi các giải thưởng đã được trao vào tháng 11 cùng năm).
Nghệ sĩ giành chiến thắng nhiều nhất trong hạng mục này là Michael Jackson, với ba lần đoạt giải.
Winners and nominees.
2010s.
! width="10%"| Năm
! width="35%"| Nghệ Sĩ
! width="50%"| Album
! width="5%"| Ghi Chú
! rowspan="4" align="center"| 2010<br>
! rowspan="4" align="center"| 2011<br>
! rowspan="5" align="center"| 2012<br>
! rowspan="4" align="center"| 2013<br>
! rowspan="4" align="center"| 2014<br>
! rowspan="4" align="center"| 2015<br>
! rowspan="4" align="center"| 2016<br>
! rowspan="4" align="center"| 2017<br>
! rowspan="4" align="center"| 2018<br>
! rowspan="4" align="center"| 2019<br>
2020s.
! width="10%"| Năm
! width="35%"| Nghệ Sĩ
! width="50%"| Album
! width="5%"| Ghi Chú
! rowspan="4" align="center"| 2020<br>
! rowspan="6" align="center"| 2021<br>
! rowspan="6" align="center" |2022<br> | 1 | null |
Trịnh tử Anh (chữ Hán: 鄭子嬰; trị vì: 694 TCN – 681 TCN), tên Anh (嬰), tên chữ Tử Nghi (子儀), là vị vua thứ bảy của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Thường gọi là Tử Nghi (子儀), Trịnh tử (鄭子) hoặc Trịnh tử Anh (鄭子嬰).
Công tử Anh là con trai của Ung thị nước Tống và Trịnh Trang công – vị vua thứ ba của nước Trịnh, em của Trịnh Chiêu công – vị vua thứ tư của nước Trịnh, Trịnh Lệ công – vị vua thứ năm của nước Trịnh và Trịnh Vỉ – vị vua thứ sáu của nước Trịnh. Phu nhân là Trần Qui, nữ công tộc họ Qui nước Trần.
Sự nghiệp.
Năm 694 TCN, vua anh Trịnh Vỉ và đại phu Cao Cừ Di bị Tề Tương công lừa đến hội ở Thủ Chỉ rồi giết chết, đại phu Tế Trọng đón công tử Anh đang làm con tin ở nước Trần về lập làm vua.
Năm 691 TCN, Tề Tương công đánh nước Kỷ (紀), Lỗ Trang công mời công tử Anh đến hội bàn nên cứu Kỉ, nhưng công tử Anh từ chối, cuối cùng Tề Tương công tiêu diệt nước Kỉ, Trịnh tử Anh sợ bị Tề đánh, lại giảng hoà với Tề.
Năm 682 TCN, Tế Trọng qua đời, anh ông là Trịnh Lệ công đang ở đất Lịch muốn phục ngôi bèn tập hợp quân chuẩn bị chiếm lại nước Trịnh. Năm 681 TCN, Trịnh Lệ công phát binh đánh Tử Anh, tướng Phó Hà bị bắt đã xin Lệ công thả mình và hứa sẽ đi giết công tử Anh, Lệ công nghe theo. Phó Hà trở về kinh giết chết công tử Anh cùng 2 người con ông và đón Lệ công phục ngôi. Trịnh Lệ công cho rằng Phó Hà là người bất trung bèn giết chết.
Trịnh Tử Anh ở ngôi được 15 năm. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho hạng mục Nam Nghệ sĩ Pop/Rock được Yêu thích Nhất bắt đầu được trao tặng kể từ năm 1974.
Hạng mục này tôn vinh những nam nghệ sĩ nhạc Pop/Rock xuất sắc của năm trước đó (từ 2003 trở đi khi các giải thưởng đã được trao vào tháng 11 cùng năm).
Có bốn nghệ sĩ giành được nhiều chiến thắng nhất trong hạng mục này, đó là Eric Clapton, Michael Bolton, Michael Jackson và Barry Manilow, với mỗi người ba lần giành được chiến thắng. Thêm vào đó, Michael Jackson là ca sĩ duy nhất giành được chiến thắng ở hạng mục này trong ba thập niên riêng biệt (1984, 1996, và 2009). Trong khi, Justin Bieber lại là nghệ sĩ trẻ nhất giành được danh hiệu này, khi ở tuổi 16. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho hạng mục Nam nghệ sĩ Đồng quê được Yêu thích Nhất bắt đầu được trao tặng kể từ năm 1974.
Hạng mục này tôn vinh những nam nghệ sĩ nhạc Đồng quê xuất sắc của năm trước đó (từ 2003 trở đi khi các giải thưởng đã được trao vào tháng 11 cùng năm).
Nghệ sĩ giành chiến thắng nhiều nhất trong hạng mục này là Garth Brooks với 8 lần thắng cuộc. | 1 | null |
Trịnh Định công (chữ Hán: 鄭定公; trị vì: 529 TCN–514 TCN), tên thật là Cơ Ninh (姬寧), là vị vua thứ 17 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Ninh là con trai của Trịnh Giản công – vị vua thứ 16 của nước Trịnh. Năm 530 TCN, Trịnh Giản công mất, Cơ Ninh lên làm vua, tức Trịnh Định công.
Mùa thu năm 529 TCN, Trịnh Định công sang nước Tấn, yết kiến Tấn Chiêu công và dự hội chư hầu do nước Tấn tổ chức tại Bình Khưu.
Cùng năm đó, Sở Linh vương bị em là Khí Tật giết để giành ngôi tức Sở Bình vương. Sở Bình vương đem những đất Sở Linh vương đã lấn chiếm trước đây trả lại cho nước Trịnh.
Năm 522 TCN, Sở Bình vương muốn giết thế tử Kiến (để lập con nhỏ là Trân làm thái tử), thế tử Kiến bỏ trốn sang nước Trịnh. Trịnh Định công cho ở nhờ.
Năm 520 TCN, thái tử Kiến nước Sở mưu cùng nước Tấn tập kích đánh úp chiếm nước Trịnh. Trịnh Định công phát hiện ý định, bèn giết chết Kiến. Con Kiến là công tôn Thắng cùng thủ hạ Ngũ Viên chạy trốn sang nước Ngô.
Năm 519 TCN, Trịnh Định công sang nước Tấn. Nước Tấn và nước Trịnh cùng hợp binh dẹp loạn nhà Chu, dẹp vương tử Triều, đưa Chu Kính Vương lên ngôi.
Năm 514 TCN, Trịnh Định công qua đời. Ông ở ngôi 16 năm. Con ông là Cơ Mãi lên kế vị, tức Trịnh Hiến công. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho hạng mục Nữ nghệ sĩ Pop được Yêu thích Nhất bắt đầu được trao tặng kể từ năm 1974.
Hạng mục này tôn vinh những nữ nghệ sĩ nhạc Pop xuất sắc của năm trước đó (từ 2003 trở đi khi các giải thưởng đã được trao vào tháng 11 cùng năm).
Nghệ sĩ giành chiến thắng nhiều nhất trong hạng mục này là Taylor Swift, với sáu lần thắng. | 1 | null |
Trịnh Hiến công (chữ Hán: 鄭獻公; trị vì: 513 TCN–501 TCN), tên thật là Cơ Mãi (姬躉) hay Cơ Độn, là vị vua thứ 18 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Mãi là con trai của Trịnh Định công – vị vua thứ 17 của nước Trịnh. Năm 514 TCN, Trịnh Định công qua đời, Cơ Mãi lên làm vua, tức Trịnh Hiến công.
Tháng 3 năm 506 TCN, Trịnh Hiến công đi hội chư hầu cùng các nước Tấn, Tống, Lỗ, Sái, Vệ, Trần, Tào, Hứa, Cử, Tiết, Kỷ, Tiểu Châu, Đằng tại Thiệu Lăng bàn đánh nước Sở vì Sở ức hiếp bắt giam Sái Chiêu hầu. Nhưng hai tướng Tấn cũng muốn đòi tiền hối lộ của nước Sái, Sái Chiêu hầu từ chối. Vì vậy quân Tấn đóng một thời gian rồi từ tạ Sái Chiêu hầu về nước. Từ đó nước Tấn mất tín nhiệm bá chủ với chư hầu.
Năm 504 TCN, Lỗ Định công mang quân đánh Trịnh, chiếm đất Khuông, rồi lấy của cải cướp được ở Trịnh nộp cho nước Tấn bá chủ.
Năm 502 TCN, đại phu nước Tấn là Phạm Ưởng lại cầm quân sang đánh nước Trịnh rồi sang đánh nước Vệ. Trịnh Hiến công bèn cùng Vệ Linh công họp ở Khúc Bộc thề cùng liên minh.
Năm 501 TCN, Trịnh Hiến công qua đời. Ông ở ngôi 13 năm. Con ông là Cơ Thắng lên kế vị, tức Trịnh Thanh công. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho hạng mục Nữ nghệ sĩ Đồng quê được Yêu thích Nhất bắt đầu được trao tặng kể từ năm 1974.
Hạng mục này tôn vinh những nữ nghệ sĩ nhạc Đồng quê xuất sắc của năm trước đó (từ 2003 trở đi khi các giải thưởng đã được trao vào tháng 11 cùng năm).
Nghệ sĩ giành chiến thắng nhiều nhất trong hạng mục này là Reba McEntire với 10 lần thắng, theo sau là Barbara Mandrell với 6 lần. | 1 | null |
Trận sông Aisne là một trận đánh trong Chiến dịch nước Pháp năm 1940 trên Mặt trận phía Tây trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào đầu tháng 6 năm 1940, quân đội Đức Quốc xã đã chọc thủng phòng tuyến của quân đội Pháp tại sông Aisne.
Quân đội Đức Quốc xã đã thâm nhập Khu hành chính Aisne của Pháp vào ngày 15 tháng 5 năm 1940.
Sư đoàn tăng ("Panzer") số 6 của Đức – đội quân đã tiến chiếm Monthermé (Ardennes) tại mặt trận Meuse của Tập đoàn quân số 6 của Pháp vào buổi sáng ngày 15 tháng 5, đánh chiếm được Rozoy nằm về hướng đông bắc khu hành chính Aisne và Montcornet vào buổi tối.
Sau đó, 3 trận đánh liên tiếp đã diễn ra giữa quân đội Đức và Pháp:
Giao chiến tại sông Aisne.
Tập đoàn quân số 6 của Pháp dưới quyền chỉ huy của tướng Robert-Auguste Touchon đã thiết lập vị trí phòng ngự tại sông Aisne sau khi mặt trận của quân Pháp tại Meuse bị quân Đức chọc thủng.
Quân đội Đức Quốc xã đã tiến công mặt trận Aisne vào ngày 9 tháng 6. Cho đến đêm ngày 10 tháng 6 năm 1940, tình hình đã cho thấy là sự thất bại trong trận chiến sông Aisne thuộc về quân đội Pháp.
Về phía nam sông Aisne.
Sau đó, giao tranh đã tiếp diễn dọc theo hướng nam sông Aisne. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho Ban nhạc/Cặp đôi/Nhóm nhạc Pop/Rock được yêu thích nhất, đã được trao tặng kể từ năm 1974. Số năm phản ánh năm mà các giải thưởng được trao cho các sản phẩm được phát hành vào năm trước (cho đến năm 2003 trở đi, khi giải thưởng được trao vào tháng 11 cùng năm). Người chiến thắng nhiều nhất mọi thời đại trong hạng mục này là Aerosmith, Hall & Oates, One Direction, The Black Eyed Peas và BTS với 3 giải mỗi nghệ sĩ. | 1 | null |
Trịnh Thanh công (chữ Hán: 鄭聲公; trị vì: 500 TCN–463 TCN), tên thật là Cơ Thắng (姬勝), là vị vua thứ 19 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Thắng là con trai của Trịnh Hiến công – vị vua thứ 18 của nước Trịnh. Năm 501 TCN, Trịnh Hiến công qua đời, Cơ Thắng lên nối ngôi, tức Trịnh Thanh công.
Chiến tranh với Tống và Tấn.
Sau nhiều năm xung đột vì Lỗ theo Tấn mà xâm lấn Trịnh, năm 499 TCN, Lỗ Định công nghị hòa với nước Trịnh, sai Thúc Hoàn sang nước Trịnh cùng Trịnh Thanh công thề hòa hiếu. Sử ký xác nhận từ thời Trịnh Thanh công, nước Trịnh bắt đầu suy yếu.
Em Tống Cảnh công là công tử Địa vì có mâu thuẫn nên chạy sang nước Trần. Một người em khác là công tử Thìn cùng các đại phu Trọng Đà, Thạch Khu cũng chạy sang Trần, rồi mang quân về đánh Tống nhưng thất bại, phải chạy sang Lỗ rồi lại sang Trịnh.
Năm 496 TCN, Chính khanh nước Trịnh là Tử Sản mất, dân chúng thương khóc như mất cha mẹ.
Năm 495 TCN, Trịnh Thanh công giúp công tử Địa, cho nương nhờ rồi sai Hãn Đạt mang quân giúp, đánh bại quân Tống ở đất Lão Khưu.
Nước Trịnh giúp họ Phạm và họ Trung Hàng chống lại họ Triệu, Ngụy, Hàn và Trí. Năm 494 TCN, Triệu Ưởng mang Tấn Định công đi đánh Trịnh. Hai bên gặp nhau ở đất Thiết, giao tranh lớn. Quân Trịnh đánh Triệu Ưởng bị thương ở vai nhưng cuối cùng quân Trịnh thua to. Sau khi đánh bại quân Trịnh, Triệu Ưởng đánh diệt họ Phạm và họ Trung Hàng.
Năm 488 TCN, quân Tống sang đánh nước Trịnh trả thù, nhưng không phân thắng bại, bèn tiến sang đánh nước Tào. Trịnh Thanh công bèn điều quân cứu Tào, tấn công vào địa giới nước Tống.
Nhưng quân Tống vẫn tiếp tục đánh Tào không lui về. Sang năm sau, quân Tống vây đánh Tào không được, mới rút quân về nước nhưng tướng Tống là Chữ Sư Tử Phì bị dân nước Tào chửi rủa thậm tệ, bèn dừng quân lại báo với Tống Cảnh công. Vua Tống tức giận truyền quân quay trở lại tấn công, quân Trịnh không làm gì được phải rút về. Tống Cảnh công diệt nước Tào.
Trong những năm 484 TCN đến 481 TCN, Tống và Trịnh tiếp tục xảy ra xung đột nhưng không phân thắng bại.
Năm 465 TCN, Tuân Dao nước Tấn đem quân đánh Trịnh, chiếm 9 ấp.
Năm 463 TCN, Trịnh Thanh công qua đời. Ông ở ngôi 38 năm. Con ông là Cơ Dịch lên nối ngôi, tức Trịnh Ai công. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho hạng mục Ban nhạc/Cặp đôi/Nhóm nhạc Đồng quê được Yêu thích Nhất bắt đầu được trao tặng kể từ năm 1974.
Hạng mục này tôn vinh những ban nhạc/cặp đôi/nhóm nhạc Đồng quê xuất sắc của năm trước đó (từ 2003 trở đi khi các giải thưởng đã được trao vào tháng 11 cùng năm).
Ban nhạc giành được chiến thắng nhiều nhất trong hạng mục này là Alabama với tổng cộng 17 lần thắng. | 1 | null |
Trịnh Ai công (chữ Hán: 鄭哀公; trị vì: 462 TCN–455 TCN), tên thật là Cơ Dịch (姬易), là vị vua thứ 20 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Dịch là con trai của Trịnh Thanh công – vị vua thứ 19 của nước Trịnh. Năm 463 TCN, Trịnh Thanh công mất, Cơ Dịch lên làm vua, tức Trịnh Ai công.
Năm 455 TCN, ông mất.
Trịnh Ai công làm vua 8 năm. | 1 | null |
Thổ Châu là một xã thuộc thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Xã Thổ Châu có địa giới hành chính bao gồm toàn bộ quần đảo Thổ Chu. Xã có diện tích 13,98 km², dân số năm 2020 là 1.869 người, mật độ dân số đạt 134 người/km².
Trung tâm hành chính của xã đặt tại ấp Bãi Ngự trên đảo Thổ Chu.
Thổ Châu có một ấp với bảy tổ tự quản. Toàn xã có 500 hộ gia đình với gần 2.000 người, trong đó phần lớn là lực lượng hải quân và biên phòng lập gia đình và định cư tại đây, còn lại là dân nhập cư. Dân địa phương chủ yếu sống dựa vào sản xuất tiểu thủ công nhỏ lẻ, trồng trọt, chăn nuôi và đánh bắt hải sản ven bờ. Dân số biến động theo từng mùa, gây nhiều khó khăn cho việc quản lý an ninh trật tự.
Hành chính.
Xã Thổ Châu bao gồm 1 ấp là Bãi Ngự.
Lịch sử.
Tháng 5 năm 1973, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập xã Thổ Châu thuộc quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang trên cơ sở đảo Thổ Châu (Thổ Chu) và các đảo lân cận. Trước đó, Thổ Châu chỉ là một ấp thuộc xã Lại Sơn. Năm 1974, xã Thổ Châu sáp nhập vào quận Phú Quốc.
Sau ngày miền Nam giải phóng, xã Thổ Châu bị giải thể và sáp nhập vào xã An Thới thuộc huyện Phú Quốc.
Ngày 24 tháng 4 năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 19-CP về việc thành lập xã Thổ Châu thuộc huyện Phú Quốc trên cơ sở 2.634 ha diện tích tự nhiên và 94 nhân khẩu.
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thành phố Phú Quốc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Phú Quốc, xã Thổ Châu thuộc thành phố Phú Quốc như hiện nay. | 1 | null |
Cuộc giao tranh tại Pont-de-l'Arche (gần Rouen) đã diễn ra vào ngày 9 tháng 6 năm 1940, trong Trận chiến nước Pháp trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là một hoạt động trì hoãn quyết liệt của lực lượng "Groupe Franc motorisé de cavalerie" của Pháp trước bước tiến của Sư đoàn tăng ("Panzer") số 7 của quân đội Đức Quốc xã dưới quyền chỉ huy của tướng Erwin Rommel, nhằm tạo điều kiện cho quân đội Pháp tiến hành triệt thoái. Ít người biết đến trận đánh này.
Đội hình của Groupe Franc de Cavalerie số 4 trong ngày 8 tháng 9 năm 1940.
"Groupe Franc" số 4 được dự kiến là sẽ có "cả chục chiếc Somua nặng 37 tấn" (Broche, sách đã dẫn), nhưng điều này không phải là sự thật. | 1 | null |
"Stairway to Heaven" là một bài hát của ban nhạc rock người Anh Led Zeppelin, phát hành vào cuối năm 1971. Ca khúc được sáng tác bởi tay guitar của ban nhạc Jimmy Page và giọng ca Robert Plant, nằm trong album phòng thu thứ tư không có tiêu đề của họ (thường được gọi là "Led Zeppelin IV"). "Stairway to Heaven" được coi là một trong những giai điệu hay nhất lịch sử nhạc rock.
"Stairway to Heaven" kéo dài tới tận hơn 8 phút, với nhiều đoạn chuyển phức tạp của hòa âm, tông, nhịp cũng như cường độ âm thanh khác nhau. Ca khúc bắt đầu với một đoạn guitar acoustic mềm mại của nhạc folk để rồi sau đó dẫn tới đoạn vào của các nhạc cụ điện. Đoạn cuối trong cấu trúc là một trong những trích dẫn kinh điển của hard rock với đoạn solo guitar bởi Page, giọng gằn kèm với nhiều tiếng thét của Plant, để rồi kết thúc bài hát là một câu nói thầm "And she's buying a Stairway to Heaven".
"Stairway to Heaven" được bình chọn ở vị trí số 3 trong danh sách "100 ca khúc rock xuất sắc nhất" của VH1 vào năm 2000, và vị trí số 31 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất" của tạp chí "Rolling Stone". Đây là ca khúc được yêu cầu nhiều nhất trên sóng FM tại Mỹ trong suốt thập kỷ 70, cho dù nó chưa bao giờ là đĩa đơn của ban nhạc. Tháng 11 năm 2007, khi Led Zeppelin cho phát hành album "Mothership", "Stairway to Heaven" cũng có được vị trí số 37 tại UK Singles Chart thông qua số lượt tải qua internet.
Thu âm và sản xuất.
Quá trình thu âm của "Stairway to Heaven" bắt đầu từ tháng 10 năm 1970 ở phòng thu mới Basing Street Studios của hãng Island Records ở London. Plant là người hoàn thiện phần lời của ca khúc trong quá trình thực hiện "Led Zeppelin IV" tại Headley Grange, Hampshire vào năm 1971. Sau đó Page quay lại Island Studios để thu âm riêng phần guitar solo.
Jimmy Page và Robert Plant cùng nhau có ý tưởng với ca khúc này khi cư ngụ ở cottage Bron-Yr-Aur, nằm ở một vùng đồng quê thuộc xứ Wales, sau tour diễn vòng quanh nước Mỹ lần thứ năm của Led Zeppelin. Theo Page, anh viết ca khúc "trong suốt một thời gian dài, và đoạn đầu xuất hiện vào một đêm ở Bron-Yr-Aur". Page luôn luôn mang theo máy thâu cát-sét bên người, và ý tưởng "Stairway" lóe lên trong đầu anh chỉ với một đoạn băng nhỏ xíu: "Tôi hình dung được đoạn nhỏ đó, đoạn guitar đó, và tôi muốn gộp tất cả chúng lại. Tôi có toàn bộ ý tưởng cho đoạn nhạc đó, và tôi thực sự muốn thử và mang chúng tới cho mọi người nghe và cảm nhận nó. Có chút khó khăn, đó là nó được bắt đầu bởi tiếng acoustic, mà trước sau nó cũng sẽ kết thúc bằng tiếng nhạc cụ điện. Chúng tôi đã nghĩ mọi cách [ở Headley Grange] khi tôi tìm cách chơi guitar acoustic rồi lại thử chuyển qua guitar điện. Robert ngồi ở một góc, như kiểu dính vào tường vậy, và khi tôi bắt đầu giải thích cho các thành viên khác về ý tưởng này, thì anh ấy bắt đầu viết. Đột nhiên anh ấy đứng bật dậy và hát, với một giai điệu hoàn toàn khác, thậm chí với 80% ca từ cần thiết... Tôi chợt nắm lấy nó, và tôi biết cái cách mà chúng tôi cần thực hiện, và điều quan trọng là cần làm cho mọi người cảm thấy thoải mái nhất với mọi đoạn chuyển sắp sửa diễn ra."
Tay bass John Paul Jones nhớ lại việc được nghe những ý tưởng đầu tiên của ca khúc ở Bron-Yr-Aur: "Page và Plant đi từ trên núi về và có trong tay đoạn mở đầu và đoạn vào. Thực sự mà nói tôi nghe nó lần đầu khi trước mặt là ngọn lửa và ở bên là một căn nhà ở vùng đồng quê! Tôi vớ lấy chiếc máy thu bass và thử chơi một đoạn luyến cho đoạn mở đầu. Thế rồi tôi đi ra chỗ chiếc piano để chơi cho đoạn tiếp theo, thu cùng với những chiếc guitar."
Trong một bài phỏng vấn năm 1977, Page bộc bạch: ""Tôi còn giữ một đoạn băng mà chúng tôi chơi "Stairway to Heaven" với tất cả các thành viên của nhóm. Tôi đã nghiên cứu nó rất kỹ càng suốt cả đêm cùng JPJ, trước khi tôi bắt đầu viết đoạn chuyển. Vào lúc đó chúng tôi vẫn sống cùng nhau và vẫn cùng nhau có một lịch sinh hoạt đều đặn, nhưng chúng tôi quyết định không thể tuân theo nó vào ngày hôm sau. Đó có lẽ là nơi duy nhất có được cảm giác yên bình. Có một lý do khó hiểu gì đó mà Bonzo lại bị lỗi nhịp khi tới đoạn đàn 12-dây trước đoạn solo. Mọi đoạn khác đều được thực hiện rất nhanh gọn.""
Phần ca từ được viết bởi ca sĩ chính Plant trước ngọn lửa đêm ở Headley Grange theo một cách gần như ngay tức khắc, và Page thừa nhận rằng "hầu hết phần ca từ được viết ngay ở đó và vào lúc ấy". Jimmy Page đã tự bè phần nhạc còn Robert Plant đã ngồi với cây bút chì và giấy. Plant sau này nói rằng ""Đột nhiên, ngón tay tôi tự viết ra từng chữ. "There's a lady is sure [sic], all that glitters is gold, and she's buying a stairway to heaven". Tôi đang ngồi ở đó, nhìn tất cả mọi người rồi đột nhiên như thấy nhảy ra khỏi chỗ vậy."" Plant cũng giải thích phần ca từ là "những lời lẽ khá thô lỗ về một người đàn bà có được tất cả mọi điều mình muốn mà chưa từng thắc mắc hay quan tâm. Những câu đầu tiên như một tiếng phẩy tay rất mạnh vậy... rồi mọi thứ cứ êm dần sau đó."
Phần ca từ bị ảnh hưởng lớn từ những gì mà Plant đang đọc vào thời điểm đó. Ca sĩ đã mang vào đó phong cách viết của nhà nghiên cứu thám hiểm Lewis Spence, và sau đó kể tên cuốn "Magic Arts in Celtic Britain" của Spence như một trong những nguồn cảm hứng của mình.
Tháng 11 năm 1970, Page đã gợi ý với báo chí ở London về ca khúc mới của nhóm: ""Đó là một ca khúc dài. Các anh đều biết "Dazed and Confused" và những ca khúc như vậy được hát thế nào phải không? Chúng tôi muốn thử sức với organ và guitar, từng đoạn từng đoạn một, và sau đó là phần của nhạc cụ điện... Có thể là một ca khúc dài tới 15 phút.""
Page cũng cho rằng ca khúc "bùng nổ như từng dòng adrenaline vậy". Anh giải thích: "Tôi quay trở lại phòng thu cùng John Paul Jones, điều duy nhất mà anh sẽ không cố làm đó là đẩy nhanh tiến độ, vì anh biết là nếu thúc ép quá, anh có thể sẽ không được chấp nhận nữa. Mọi thứ cần phải ở đúng khuôn khổ của nó. Và thực tế thì tôi lại rất muốn viết một thứ gì đó gấp gáp hơn và đầy adrenaline trong đó, và nó hướng tôi tới việc viết những nốt bổng. Và đó chính là một ý tưởng hay. Chính vì thế mà chúng tôi phải cùng nhau tập với nó."
Bản thâu tại phòng thu hoàn chỉnh nhất được phát hành trong album "Led Zeppelin IV" vào tháng 11 năm 1971. Hãng đĩa của nhóm, Atlantic Records, đề nghị đưa ca khúc trở thành đĩa đơn, song quản lý Peter Grant từ chối điều đó tới 2 lần vào năm 1972 và 1973. Lý do của quyết định này là vì ông muốn người nghe buộc phải mua cả album thay vì chỉ mua mỗi đĩa đơn. Tuy nhiên, ở Mỹ, Atlantic vẫn phát hành đĩa đơn "Stairway to Heaven" ở định dạng 7" đĩa than vào năm 1972.
Sáng tác.
Ca khúc được cấu trúc bởi rất nhiều đoạn nhỏ, bắt đầu với một đoạn dạo rất êm bằng tiếng chạy ngón guitar acoustic 6 dây với tiếng của 4 chiếc sáo theo phong cách âm nhạc Phục hưng (cho tới 2:15), tiếp sau bởi một đoạn guitar điện chậm rãi (2:16-5:33), rồi một đoạn dài guitar solo (5:34-6:44) trước khi tới một đoạn hard rock dữ dội hơn (6:45-7:45) và kết thúc bởi một đoạn ngắn có âm hưởng giống như đoạn dạo đầu.
Được viết ở giọng La (A) thứ, ca khúc được bắt đầu với một đoạn chạy ngón guitar theo thứ tự hợp âm giảm dần A-G#-G-F#-F-E. John Paul Jones đóng góp một phần bass mộc quan trọng cùng với sáo (anh thử dùng ban đầu với mellotron, sau đó là Yamaha CP70B Grand Piano và Yamaha GX1 trong các buổi trình diễn trực tiếp) và sau đó là chiếc piano điện Hohner Electra-Piano ở đoạn tiếp.
Đoạn nhạc tiếp tục với nhiều bè guitar, từng chiếc một hòa âm với đoạn mở đầu cho tới khi trống xuất hiện ở 4'18". Đoạn Jimmy Page chơi guitar solo được thực hiện với chiếc 1959 Fender Telecaster mà anh được Jeff Beck tặng trước kia (cây đàn mà Beck hay chơi khi còn ở The Yardbirds cùng Page), được cắm vào dàn ampli của Supro. Tuy nhiên, trong một bài phỏng vấn tại tạp chí "Guitar World", Page lại nói: "Có thể nó là một chiếc Marshall, tôi cũng không nhớ chính xác." Có tới tận 3 đoạn solo khác nhau được thu thử, và Page phải nghe lại nhiều lần để quyết định lựa chọn. Anh nói: "Tôi thấy rằng lần đầu tiên nghe không ổn, vậy nên có tận ba bản khác nhau. Tôi có nghe kỹ lại chúng trước mỗi lần băng thâu được bật lại." Phần guitar còn lại được chơi bằng chiếc acoustic Harmony Sovereign H1260 và chiếc guitar điện Fender XII (chiếc 12-dây được cắm trực tiếp vào máy chỉnh âm), và chúng lần lượt được nghe bằng 2 bên tai trái rồi phải. Trong các buổi trình diễn trực tiếp, Page chuyển sang sử dụng cây đàn 2 cần huyền thoại Heritage Cherry Gibson EDS-1275 6/12. Đoạn kết ca khúc chạy theo tiết tấu i-VII-VI (bè thứ tự nhiên) với các hợp âm Am-G-F.
Một trong những điều vô cùng đáng chú ý của ca khúc là đoạn đổi nhịp của chính đoạn guitar solo bất tử trên. Khi đang chơi ở nhịp 4/4 ở đoạn trước, một đoạn nhấn nhanh và mạnh đã chuyển tất cả ngay sang nhịp 8. Đây vốn là một thử thách lớn với mọi nghệ sĩ, nhưng nó lại giúp cho đoạn vào guitar solo trở nên tự nhiên hơn.
Kỹ thuật viên âm thanh Andy Johns nhớ lại quá trình thực hiện đoạn solo guitar huyền thoại của Jimmy Page: ""Tôi nhớ Page đã gặp chút khó khăn với đoạn solo của "Stairway to Heaven"... Thực ra anh ấy chưa xác định thể hiện nó như thế nào. Bây giờ thì bạn có thể mất cả ngày chỉ để làm một điều duy nhất. Tuy nhiên, chúng tôi chưa từng làm thế bao giờ. Chúng tôi chưa bao giờ lại phải tốn thời gian cho việc thu âm. Tôi vẫn nhớ lúc ngồi trong phòng thu với Jimmy, cậu ta đứng bên, viết một vài dòng rồi tự thấy không ra đâu vào đâu. Tôi thấy rằng cậu ấy đang bất lực và điều đó khiến tôi cảm thấy bất lực. Tôi quay lại và gắt: "Cậu làm tôi thấy bực rồi đó!" và cậu ấy nói: "Chính ông làm tôi bực thì có!" Đó đúng là một vòng bực tức luẩn quẩn. Và đùng một cái, chỉ ngay trong bản thu sau, hoặc sau đó, cậu ấy đã thành công!""
Theo chính Page, "Stairway to Heaven" là ca khúc ""... đã kết tinh những điểm nổi bật nhất của ban nhạc. Ở đó có mọi thứ và đã chứng minh với mọi người rằng ban nhạc là những người xuất sắc nhất... trong vai trò của một ban nhạc, một tập thể. Không nói về đoạn solo hay bất kể thứ gì cụ thể, mọi điều tinh túy của các thành viên đều ở đó. Chúng tôi luôn dè dặt khi phát hành nó dưới dạng đĩa đơn. Đó quả là một sự kiện quan trọng với tất cả chúng tôi. Mỗi người đều muốn thể hiện nó ở chất lượng tốt nhất, một thứ có thể tồn tại lâu dài và tôi nghĩ chúng tôi đã thành công với "Stairway". Townshend đã từng nghĩ rằng mình đã đạt tới điều đó với "Tommy". Tôi thì nghĩ rằng tôi không có đủ khả năng để làm lại điều đó một lần nữa. Tôi đã phải lao động vô cùng vất vả trước khi đạt tới một thứ trường tồn như vậy, thực sự xuất sắc.""
Taurus.
Qua nhiều năm, nhiều người đã phát hiện ra đoạn mở đầu bằng tiếng chạy ngón guitar acoustic có nhiều nét tương đồng với một bản nhạc không lời có tên là "Taurus" của nhóm Spirit vào năm 1968. Led Zeppelin từng gặp gỡ Spirit vào trước tour diễn vòng quanh nước Mỹ, vậy nên có nhiều nghi ngờ rằng ban nhạc đã nghe ca khúc này để viết nên "Stairway to Heaven". Trong lời phụ chú cho bản tái bản năm 1996, Randy California, người sáng tác ca khúc "Taurus", bày tỏ: ""Nhiều người luôn thắc mắc tại sao "Stairway to Heaven" lại giống "Taurus" – một ca khúc được phát hành trước đó hơn 2 năm. Tôi biết Led Zeppelin cũng từng trình diễn trực tiếp "Fresh Garbage" của Spirit. Đó chính là bài hát mở màn cho tour diễn vòng quanh nước Mỹ đầu tiên của họ.""
Ngày 20 tháng 5 năm 2014, luật sư đại diện cho nhạc sĩ guitar quá cố Randy California đã chính thức đưa đơn kiện về việc này vì cho đó là vi phạm bản quyền và đề nghị cấm phát hành bản tái bản của "Led Zeppelin IV" vào năm 2014. Đơn kiện bị từ chối bởi thẩm phán vào ngày 30 tháng 5, còn đích thân Page đã trả lời trên tờ "Libération" của Pháp rằng "Điều này thật buồn cười. Tôi không muốn bình luận thêm về chủ đề này nữa."
Trình diễn trực tiếp.
Buổi trình diễn chính thức đầu tiên của ca khúc này diễn ra ở nhà hát Ulster Hall ở Belfast vào ngày 5 tháng 3 năm 1971. Tay bass John Paul Jones nhớ lại khoảnh khắc mọi người bị ấn tượng mạnh bởi ca khúc mới: "Họ đều phát khóc khi nghe được một thứ mà họ đều biết nó sẽ như thế nào". Tuy nhiên, Page lại đánh giá cao buổi diễn ở Hội chợ Los Angeles, trước khi bản thu chính thức được phát hành: ""Tôi không hề yêu cầu khán giả đứng lên vỗ tay, nhưng thật sự là tất cả đám đông lớn đó đều làm vậy. Tôi liền nghĩ: "Thật không thể tin được, có lẽ vì chưa ai từng nghe ca khúc này. Đó là lần đầu tiên họ được nghe nó." Nó thực sự làm họ xúc động, bạn biết đấy. Đó chính là lần diễn ở Hội chợ Los Angeles, và chúng tôi hiểu rằng chúng tôi sẽ có được một điều gì đó với thứ này.""
Bản thâu phát thanh đầu tiên của ca khúc này được thu tại Paris Cinema vào ngày 1 tháng 4 năm 1971, ở phía trước phòng thu trực tiếp, và được phát 3 ngày sau trên BBC. Ca khúc gần như luôn được thể hiện vào mỗi buổi diễn của Led Zeppelin, đôi lúc được dành để chơi lót cho một buổi diễn quá ngắn hoặc bị gián đoạn kỹ thuật. Buổi trình diễn cuối cùng của ca khúc này là vào ngày 8 tháng 7 năm 1980 tại Berlin, cũng là buổi diễn cuối cùng của ban nhạc trước lần tái hợp tại O2 London vào ngày 10 tháng 12 năm 2007. Bản diễn ở Berlin cũng là bản diễn dài nhất với gần 15 phút trên sân khấu cùng với 7 phút rưỡi guitar solo.
Với ca khúc này, ban nhạc thường trình diễn trực tiếp tới hơn 10 phút: Page sẽ chơi guitar solo lâu hơn, còn Plant sẽ thêm một vài câu nói, kiểu như "Does anybody remember laughter?", "Does anybody remember forests?" (có thể dễ thấy trong buổi diễn ở Seattle năm 1977), "Wait a minute!" và "I hope so". Page thường sử dụng chiếc guitar điện 2 cần Heritage Cherry Gibson EDS-1275 để anh không phải mất thời gian khi chuyển từ đàn 6 sang 12-dây.
Kể từ năm 1975, "Stairway to Heaven" thường được chọn làm ca khúc kết thúc các buổi diễn của Led Zeppelin. Song trong buổi trình diễn tại Mỹ vào năm 1977, Plant lại mở đầu với bài hát này: "Chỉ có duy nhất một ca khúc mà qua rất nhiều lần bạn vẫn có thể hát và hiểu nó... Nó như kiểu một đức tin vậy."
Ca khúc này cũng được những thành viên còn sống của Led Zeppelin hát trong buổi hòa nhạc Live Aid năm 1985; tại lễ kỷ niệm 40 thành lập Atlantic Records với Jason Bonham chơi trống; và sau đó Jimmy Page cũng từng chơi bản không lời của ca khúc này trong tour diễn solo của mình.
Cuối những năm 80, Plant bỗng tỏ thái độ tiêu cực về ca khúc này trong vài bài phỏng vấn. Anh nói: ""Tôi sẽ thấy phát bực mỗi khi phải hát ["Stairway in Heaven"] vào mỗi buổi diễn. Tôi đã viết lời cho nó vào năm 1971 và biết rằng ca khúc sẽ trở nên vô cùng đặc biệt với nhiều lời tán dương, song tận 17 năm sau thì tôi không chắc. Điều đó không chỉ đúng với mỗi riêng tôi. Tôi hát nó trong lễ kỷ niệm của Atlantic bởi vì tôi là một gã già ẻo lả và đó chỉ là lời cảm ơn từ cá nhân tôi tới Atlantic vì những gì tôi có được sau suốt 20 năm ca hát. Vậy nên đừng có "Stairway to Heaven" với tôi nữa.""
Tới giữa những năm 90, quan điểm của Plant trở nên bớt gay gắt hơn. Trong tour diễn của Page and Plant, họ đã cùng nhau hát lại nó sau khi kết thúc ca khúc "Babe I'm Gonna Leave You". Tháng 11 năm 1994, Page và Plant cùng nhau hát bản acoustic ca khúc này ở Tokyo qua sóng truyền hình Nhật Bản. "Stairway to Heaven" cũng được chơi trong tour diễn tái hợp Led Zeppelin ở O2 London vào ngày 27 tháng 12 năm 2007.
Page cho rằng lần trình diễn bất thường nhất của ca khúc này là ở chương trình Live Aid: "Có tận 2 tay trống trong khi Duran Duran vẫn còn đang gào thét ở một góc khác của sân khấu – có lẽ đó là một khoảnh khắc siêu thực."
Những thước phim trình diễn trực tiếp của ca khúc này được ghi lại trong "The Song Remains the Same" với buổi diễn tại Madison Square Garden năm 1973, và sau đó trong "Led Zeppelin DVD" năm 1975 tại Earls Court. Bản audio chính thức của nó cũng được phát hành kèm với "The Song Remains the Same" trong ấn bản "Led Zeppelin BBC Sessions" (buổi diễn tại Paris Theatre ở London năm 1971), và sau đó trong "How the West Was Won" (buổi diễn tại Long Beach Arena năm 1972). Có vô vàn những dị bản audio khác nhau qua các ấn bản đã được phát hành của Led Zeppelin.
Phát hành và đón nhận của công chúng.
"Stairway to Heaven" thường được đánh giá như một trong những ca khúc hay nhất lịch sử nhạc rock. Theo nhà báo Stephen Davis, cho dù được phát hành từ năm 1971, song phải tới tận năm 1973, sự nổi tiếng của nó mới trở thành một kiểu "thánh ca". Cũng theo chính Page: "Tôi biết nó sẽ trở thành một thứ gì đó tốt, song tôi chưa từng hình dung rằng nó sẽ trở thành một thánh ca... Nhưng tôi biết nó sẽ là viên ngọc của cả album, hẳn vậy."
"Stairway to Heaven" luôn có được vị trí trang trọng tại các bảng xếp hạng của các đài phát thanh, điển hình là vị trí số một trong danh sách "Các đoạn guitar solo xuất sắc nhất" của tạp chí "Guitar World" vào năm 2006. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm phát hành album, đài phát thanh Mỹ ước tính ca khúc này đã được phát tới 2.874.000 lượt – nếu được chơi liên tục sẽ tương đương với 44 năm ròng. Năm 2000, số lượt phát của ca khúc đã đạt ngưỡng 3 triệu. Năm 1990, đài phát thanh ở St. Petersburg, Florida thậm chí đã dành hẳn 24 tiếng liên tục để phát mọi dị bản của ca khúc này do chính Led Zeppelin thể hiện. Đây cũng chính là bản nhạc được bán chạy nhất lịch sử với khoảng 15.000 bản được bán mỗi năm: tổng cộng tới nay, nó đã bán được trên 1 triệu bản.
Chính độ dài quá lớn của ca khúc đã cản trở nó trở thành một đĩa đơn của ban nhạc. Trái với những áp lực từ Atlantic Records, ban nhạc không bao giờ cho phép "Stairway to Heaven" được cắt gọn để trở thành đĩa đơn, và điều đó khiến đây trở thành ca-khúc-không-phải-đĩa-đơn nổi tiếng nhất lịch sử nhạc rock. Tuy nhiên, ở Mỹ, nó cũng từng được xuất hiện trong 2 ấn bản đính kèm, một trong số đó có độ dài 7'55" và ấn bản còn lại là định dạng đĩa than 7" 33 cho máy phát ("Black Dog" và "Rock and Roll" là 2 ca khúc nằm ở mặt còn lại). Một "đĩa đơn" khác cũng được phát hành trong một ấn bản EP ở Úc, và sau đó vào năm 1991 theo kèm một ấn bản sách kỷ niệm 20 phát hành.
Bản thu của ca khúc này cũng xuất hiện trong bản LP-kép "We've Got Your Music" vào năm 1977 của Atlantic, điều đó giúp "Stairway To Heaven" trở thành ca khúc đầu tiên của Led Zeppelin nằm trong một tuyển tập ca khúc tại Mỹ cùng nhiều nghệ sĩ khác.
Cũng nhân dịp 20 năm phát hành album, tạp chí "Esquire" cũng viết một bài báo về những ảnh hưởng và thành công của ca khúc này. Cây bút Karen Karbo viết: ""Có một điều không thể nghi ngờ rằng ai cũng từng nghe nó, và đây chắc chắn là ca khúc rock nổi tiếng nhất mọi thời đại. Vậy mà ca khúc dài 8 phút này chưa từng là một đĩa đơn. "Hey Jude" dù ngắn hơn tận 45" nhưng lại có những dòng dễ hiểu cùng một đoạn điệp khúc dài. Và "Hey Jude" cũng chưa bao giờ trở thành ca khúc được yêu cầu nhiều nhất trên các sóng FM nhạc rock. Chẳng một ai lại hát "Hey Jude" vào những buổi dạ hội, đám cưới hay thậm chí cả đám tang như "Stairway". "Stairway" không còn có thành công như vậy cho tới ngày nay. Trở lại năm 1971, các DJ ở đài FM đều đã tự huyễn hoặc mình với mọi album cùng với những thứ kỳ quặc, những điều theo phong trào. Với một độ dài tới ngột ngạt, đoạn chuyển đột ngột, và ca từ huyền bí, một ca khúc mang âm hưởng Trung cổ thực sự là một lựa chọn lý tưởng. Và nó tiếp tục là ca khúc được yêu cầu nhiều nhất bởi những người trẻ tuổi hơn cả chính ca khúc này – những người trong vài hoàn cảnh sẵn sàng nghe nó dù âm thanh đã bị hủy hoại bởi những chiếc loa trên xe hơi.""
Năm 2004, tạp chí "Rolling Stone" xếp ca khúc ở vị trí số 33 trong danh sách "500 bài hát vĩ đại nhất". Bài báo ngày 29 tháng 1 năm 2009 của tờ "Guitar Wolrd" cũng xếp đoạn guitar solo của Page ở vị trí số một trong danh sách "100 đoạn guitar solo xuất sắc nhất lịch sử nhạc Rock and Roll". Năm 2010, đài Q104.3 chuyên về rock của thành phố New York cũng xếp ca khúc ở vị trí số một trong danh sách "1043 bài hát của mọi thời đại".
Erik Davis, nhà xã hội học và phê bình văn hóa, nói về những thành công, những ảnh hưởng sau đó và cả biểu tượng huyền thoại của ca khúc: """Stairway to Heaven" không phải là ca khúc hay nhất của những năm 70; nó phải là phép màu tuyệt vời nhất của những năm 70. Hãy thử nghĩ thế này: chúng ta đều phát bệnh vì nó, song bằng cách nào đó nó vẫn luôn ở vị trí số 1. Ai ai cũng biết tới nó... thậm chí kể cả khi những chỉ trích và chế nhạo của chúng ta về nó có trở nên quá cố hữu đi nữa. Vài trò chê bai ngớ ngẩn, một tập của "Wayne's World" cố nói về việc một cửa hàng bán guitar cấm chơi ca khúc này, và thậm chí cả khi Plant cũng không muốn nói về nó trước công chúng – tất cả đều chứng minh một chân lý. "Stairway to Heaven" không đơn giản chỉ có vị trí số 1, mà nó phải là "Thứ duy nhất", điều tinh túy, một sản phẩm phát thanh xuất sắc nhất giúp bạn có thể tiệm cận tới sự nguyên chất.""
Chính Jimmy Page cũng nói về những thành công với ca khúc: ""Điều quý giá nhất với "Stairway" là ở chỗ mỗi người đều có những cảm nhận riêng về nó, ý tôi rằng mỗi người đều đánh giá nói theo cách riêng của mình. Điều đó thật tuyệt. Hàng năm có rất nhiều người tới nói với tôi về những câu chuyện khác nhau mà ca khúc có ý nghĩa với họ trong từng khoảnh khắc của cuộc đời, về việc nó giúp họ vượt qua được những hoàn cảnh khó khăn như thế nào... Bởi vì đây là một ca khúc rất xuất sắc, nó là một thứ năng lượng tuyệt vời, và bạn biết đấy, người ta có lẽ phải kết hôn với nó.""
Robert Plant thì ngược lại đã từng yêu cầu một đài phát thanh không bao giờ phát ca khúc này nữa qua sóng radio.
Ẩn nghĩa.
Tháng 1 năm 1982, chương trình truyền hình Trinity Broadcasting Network của Paul Crouch đã tuyên bố phát hiện ra lớp nghĩa ẩn sau phần ca từ của những bài hát nổi tiếng nhất lịch sử nhạc rock bằng kỹ thuật "phát băng ngược". Một trong số đó là "Stairway to Heaven". Phần ẩn nghĩa này bắt đầu từ đoạn giữa của ca khúc (từ "If there's a bustle in your hedgerow, don't be alarmed now...") khi được "phát băng ngược", sẽ nghe rõ thành những dòng viết về Satan, chẳng hạn như "Here's to my sweet Satan" và "I sing because I live with Satan".
Sau những tuyên bố của chương trình trên, đại biểu bang California, Phil Wyman, đề nghị các bang tại Mỹ nên có những chế tài đặc biệt để xử lý và hạn chế những ca khúc có nội dung ẩn qua kỹ thuật "phát băng ngược" này. Tháng 4 năm 1982, Ủy ban Bảo vệ người tiêu dùng và Ủy ban chống Sản phẩm độc hại của Hạ viện bang California vẫn cho phép sự tồn tại của các đoạn "băng ngược", và dĩ nhiên "Starway" không bị cấm tại đây. Trong phiên điều trần, William Yarroll, người tự gọi mình là một "nhà nghiên cứu thần kinh học", đã cho rằng những đoạn ẩn nghĩa này có ảnh hưởng xấu tới não bộ con người.
Có rất nhiều những dòng ẩn nghĩa có trong "Stairway", và đây là một trong những đoạn nổi tiếng nhất:
Ban nhạc hiển nhiên đã bác bỏ mọi cáo buộc trên. Trong một bài trả lời về những ý kiến trên, Swan Song Records nhấn mạnh: "Những đoạn băng của chúng tôi chỉ được thu theo một chiều duy nhất: xuôi." Kỹ thuật viên của Led Zeppelin, Eddie Kramer, cũng khẳng định những cáo buộc trên là "hoàn toàn lố bịch. Tại sao họ phải mất thêm nhiều thời gian cho phòng thu chỉ vì mấy thứ ngớ ngẩn như vậy?". Robert Plant tỏ rõ sự thất vọng vì những lời quy chụp qua một bài phỏng vấn vào năm 1983 trên tạp chí "Musician": ""Với cá nhân tôi, điều đó rất buồn. Vì "Stairway to Heaven" được viết với những hình tượng cao cả nhất, và cái trò tua ngược băng để cố nhồi nhét vào đó một vài thông điệp không phải là cách mà tôi chơi nhạc.""
Ấn bản phát hành.
1972 đĩa đơn 7"
1972 7" promo
1972 7" promo
1972 7" promo
1978 12" single
1990 7" promo
1991 20th Anniversary promo
Các bản hát lại.
Ca khúc này từng được hát lại bởi vô số nghệ sĩ. Bản thu với didgeridoo-và-wobble board của Rolf Harris từng đạt tới vị trí số 7 ở Anh vào năm 1993. Đây cũng là một trong số 26 bản thu trực tiếp được thực hiện trong chương trình "The Money or the Gun" của Úc vào năm 1996, và mỗi dị bản đều mang những nét khác nhau của từng khách mời chương trình. Bản video và album CD được phát hành với lần lượt các dị bản số 25 và 22.
Dolly Parton cũng từng phát hành một ấn bản "stripped down" acoustic của ca khúc này vào năm 2002. Plant thực sự ấn tượng với bản thu này khi nói rằng ông không ngờ bản thu của Parton có thể tốt như vậy.
Năm 1977, Little Roger and the Goosebumps thu một ấn bản với phần lời hài hước của ca khúc này cho chương trình "Gilligan's Island". Chưa đến 5 tuần sau, luật sư của Led Zeppelin đã tiến hành khởi kiện họ và yêu cầu tất cả những bản thu còn sót lại bị buộc phải tiêu hủy. Led Zeppelin thắng kiện và Little Roger and the Goosebumps phải trả số tiền phạt lên tới hàng ngàn $. Tuy nhiên, tới năm 2005, Plant lại nói rằng đây là bản hát lại của "Stairway to Heaven" mà ông thích thú nhất.
Serie phim hài "Second City Television" đã tạo ra một cú lừa tới khán giả với một album "rởm" có tên "Stairways to Heaven". Trong album này, được thiết kế theo phong cách của K-tel, rất nhiều mảnh ghép của phần bìa được dán lại, với rất nhiều nghệ sĩ tham gia từ Slim Whitman cho tới một ban nhạc "rởm" từ những năm 50 "The Five Neat Guys", cùng với đó là bản thu gốc (cho dù đã bị nói trước là giọng của Rich Little). Ấn bản này không được phát hành kèm DVD với chương trình.
Một bản hát lại bởi Far Corporation được phát hành vào năm 1985 cũng được đạt vị trí số 8 ở UK Singles Chart.
Frank Zappa cũng từng phối lại ca khúc này như trọng tâm trong tour diễn của mình vào năm 1988. Bản phối này có thể được nghe trong album "The Best Band You Never Heard in Your Life" với phần kèn cor được chơi bởi ban nhạc của Zappa và Page chơi guitar solo.
Nhạc sĩ và nhà tâm lý học người Úc, Joe Wolfe, đã sáng tác rất nhiều dị bản của "Stairway to Heaven". Chuỗi công việc này được đặt tên thành "The Stairway Suite" với nhiều bản phối có dàn nhạc, big band, hợp ca và cả SATB. Mỗi dị bản mang phong cách của một nhạc sĩ nổi tiếng: Franz Schubert, Gustav Holst, Glenn Miller, Gustav Mahler, Georges Bizet và Ludwig van Beethoven. Chẳng hạn, cảm hứng từ Schubert được lấy từ bản Giao hưởng Dang dở, còn cảm hứng của Beethoven được thể hiện qua phần hát và hợp ca giống với bản Giao hưởng số 9. Wolfe cũng đăng toàn bộ phần bản nhạc của các dị bản trên internet.
Trong bộ phim "Wayne's World", nhân vật Wayne (được diễn bởi Mike Myers) chơi trên guitar vài nốt của ca khúc này. Trong phim, Wayne bị chặn lại khi một nhân viên cửa hàng chỉ vào biểu tượng "Không có cầu thang" ("No Stairway"). Đây là câu chuyện được lấy từ thực tế, rằng rất nhiều khách hàng đã ngồi chơi ca khúc này tại các cửa hàng bán nhạc cụ ở Anh, tới nỗi nhiều nhân viên phát ngán và đề nghị quản lý hạn chế chơi "Stairway" ở đây. Trong bản video phát hành và cả chương trình truyền hình, các nốt nhạc đã được thay đổi ở các đoạn luyến vì lo ngại vấn đề bản quyền từ chính ban nhạc.
Album "In a Metal Mood" của Pat Boone năm 1997 cũng có ca khúc này được chơi theo phong cách jazz waltz.
Ban nhạc Heart đã từng trình diễn ít nhất 1 lần ca khúc này vào năm 1976. Album năm 2004 của họ, "Little Queen", cũng có bonus track là ca khúc này. Heart cũng từng hát lại "Stairway" để tôn vinh Led Zeppelin ở Kennedy Center Honors vào cuối năm 2012.
Năm 2010, Mary J. Blige từng phát hành một dị bản của ca khúc trong album "Stronger with Each Tear". Blige cũng từng hát ca khúc này trong chương trình "American Idol" với Barker, Vai, Orianthi, và Jackson. Phần tiền thu được qua các bản tải từ internet được họ hiến cho từ thiện. | 1 | null |
Xã-thành phố thống nhất (tiếng Anh: "Consolidated city-township") là thuật ngữ để chỉ bất cứ thành phố hay khu tự quản nào được kết hợp với một xã dân sự.
Tiểu bang New York.
Năm xã cùng tồn tại với một làng đơn lẻ của chúng: Green Island trong Quận Albany; East Rochester trong Quận Monroe; và Scarsdale, Harrison và Mount Kisco trong Quận Westchester. Khi một thực thể như thế được hình thành, các viên chức của cả hai đơn vị chính quyền có thể phục vụ cùng lúc cho chính quyền làng hay chính quyền xã. Một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức để quyết định xem cư dân muốn chọn hình thức chính quyền kiểu làng hay kiểu thị trấn. | 1 | null |
Vũ Trọng Cảnh (2 tháng 4 năm 1929 – 21 tháng 11 năm 2016) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Phó Tư lệnh về Chính trị kiêm Bí thư Đảng ủy Quân chủng Phòng không, Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Phòng không-Không quân.
Tiểu sử.
Trung tướng Vũ Trọng Cảnh tên thật là Vũ Đình Cảng sinh ngày 2 tháng 4 năm 1929 tại thôn An Mỹ, xã Trung Đông, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, mất 21/11/2016 tại TP.Hồ Chí Minh. | 1 | null |
France AEROTECH là một cơ sở giáo dục đào tạo công bậc đại học và trên đại học của Pháp có trụ sở tại Toulouse.
France AEROTECH' tập hợp năm trường lớn (grande école) chuyên đào tạo kỹ sư (ingénieur) tại Paris với mục đích tạo ra một trung tâm đào tạo đại học và nghiên cứu khoa học có tầm cỡ thế giới.
Những trường chuyên trong ngành hàng không và hàng không vũ trụ.
Cơ cấu.
Năm trường đại học thành viên của France AEROTECH bao gồm: | 1 | null |
"Just a Fool" (tạm dịch: "Chỉ là một kẻ ngốc") là bài hát của Christina Aguilera hợp tác với Blake Shelton trích từ album phòng thu thứ bảy của Aguilera mang tên "Lotus". Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ hai từ album này. "Just a Fool" được Christina Aguilera hợp tác với đồng nghiệp của mình trong chương trình truyền hình thực tế "The Voice" của Mỹ là Blake Shelton. Về mặt ca từ, bài hát nói về nỗi đau sau khi chia tay. Đây là bài hát dòng nhạc đồng quê đầu tiên của Aguilera.
"Just a Fool" được hãng đĩa RCA Records gửi tới đài mainstream vào ngày 4 tháng 12 năm 2012. Sau khi "Lotus" được phát hành, bài hát lọt vào tốp 15 bảng xếp hạng iTunes tại Mỹ nên hãng RCA quyết định phát hành "Just a Fool" làm đĩa đơn. Bài hát đạt được nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình. Họ khen ngợi sự hợp tác giữa Aguilera và Shelton. Cả hai đã biểu diễn bài hát trực tiếp trên chương trình "The Voice" ngày 19 tháng 12 năm 2012.
Thực hiện.
Christina Aguilera và Blake Shelton đều là giám khảo trên chương trình truyền hình thực tế "The Voice" của Mỹ của đài NBC và trở thành hai người bạn thân trong suốt quá trình làm giám khảo. Trong một cuộc phỏng vấn, Aguilera đã nói, "Anh ấy như anh trai của tôi vậy, và tôi là người gần gũi với anh ấy nhất trong cả thảy các giám khảo khác. Blake thật sự là một ngôi sao, anh ấy thật tuyệt. Anh ta hòa đồng, vui vẻ và trên cả tuyệt vời. Anh ấy thật nhân hậu." Ý tưởng cho việc song ca bài hát bắt đầu khi Christina bắt đầu hát xướng âm bài hát "Hillbilly Bone" của Blake. Blake nói trên twitter rằng anh ta đã không nói nên lời, và Christina đáp lại, "Giờ thì chúng ta cần song ca một bản đồng quê ngay, Blake ạ! Tôi đã sẵn sàng!" Vào ngày 16 tháng 10 năm 2012, "Just a Fool" được thông báo là sẽ có mặt trong album "Lotus" sắp tới của Christina Aguilera. Đây là bài hát mang âm hưởng đồng quê đầu tiên của Christina Aguilera. Ngày 4 tháng 12, bài hát được gửi tới đài mainstream của Mỹ bởi hãng đĩa RCA Records.
"Just a Fool" được sáng tác bởi Steve Robson, Claude Kelly, Wayne Hector và được sản xuất bởi Steve. Bài hát là một bản đồng quê xen kẽ ballad. Về mặt ca từ, bài hát nói về nỗi đau sau khi chia tay của một cặp đôi. Bài hát bắt đầu với phần xướng ghi-ta mang đậm chất đồng quê, sau đó là nhịp trống và Aguilera cất giọng hát phần lời thứ nhất. Phần lời thứ hai do Blake hát với chất giọng đồng quê dân giã của anh ấy. | 1 | null |
Gấu mặt ngắn khổng lồ hay gấu Arctodus (tiếng Hy Lạp, "gấu răng") là loài gấu đặc hữu đã tuyệt chủng trong khoảng thời gian Thế Pleistocen, kỷ băng hà có niên đại cách đây 3.000.000 - 11.000 năm trước đây. Đây là loài động vật có vú trên cạn ăn thịt lớn nhất trên Trái Đất từng được biết đến. Chúng sống ở đại lục Bắc Mỹ (nhất là ở khu vực bờ Tây Hoa Kỳ ngày nay) đầu giống với gấu xám Bắc Mỹ ngày nay nhưng to lớn hơn bất kỳ loài gấu nào khác.
Phân loại tiến hóa.
Gấu mặt ngắn khổng lồ thuộc phân họ Tremarctinae, những loài gấu được tìm thấy ở khắp châu Âu và châu Mỹ. Những thành viên đầu tiên của phân họ này là loài gấu thuộc chi Plionarctos ("Plionarctos edensis") sống tại các bang Indiana và Tennessee ngày nay trong Thế Miocen (Thế Trung Tân) kỷ Neogen (cách đây khoảng 10.000.000 năm). Chi này được coi là tổ tiên của gấu mặt ngắn khổng lồ và gấu mặt ngắn Andes ("Tremarctos ornatus"), Gấu hang Florida ("Tremarctos floridanus") ngày nay. Cho đến nay, người ta vẫn chưa biết chính xác lịch sử ban đầu của gấu mặt ngắn khổng lồ nhưng chúng đã phổ biến trên lục địa Bắc Mỹ cách đây 800.000 năm, giai đoạn đóng băng Kansan, Thế Pleistocen. Chi gấu Nam Mỹ đã tuyệt chủng Arctotherium được coi là họ hàng gần nhất với gấu mặt ngắn khổng lồ bởi kích thước tương tự cùng một khuôn mặt tương đối ngắn
Các loài.
Gấu mặt ngắn khổng lồ gồm 2 loài: "Arctodus simus" và "Arctodus pristinus".
Loài gấu mặt ngắn khổng lồ "Arctodus simus" xuất hiện lần đầu trong thế Pleistocen tại vùng Trung tâm Bắc Mỹ, khoảng 800.000 năm trước đây, kéo dài từ Alaska đến Mississippi ngày nay, và nó đã bị tuyệt chủng khoảng 11.600 năm trước đây. Hóa thạch của chúng lần đầu tiên được phát hiện tại hang Creek Potter, Quận Shasta, tiểu bang California. Đây là loài động vật có vú ăn thịt lớn nhất từng sống tại Bắc Mỹ. Trong một nghiên cứu gần đây, khối lượng của 6 mẫu vật tìm được đã được ước tính một phần ba trong số chúng có trọng lượng khoảng 900 kg, lớn nhất lên tới 957 kg, chiều cao có thể đạt đến 4,6 m (15 ft). Trên các bức tường trong hang động Riverbluff là những dấu hiệu chứng minh kích thước khổng lồ của chúng.
"Arctodus pristinus" (cách đây 3 - 2.2 triệu năm), với hai mẫu vật tìm được cho thấy là của hai con gấu có trọng lượng khoảng 500,7 kg (1.100 lb) và 63,6 kg (140 lb). Loài này sống nhiều ở khu vực phía Nam Bắc Mỹ từ phía bắc bang Texas đến phía Đông bang New Jersey, và Aguascalientes (México) ngày nay., nhất là ở Tây Nam bang Florida, ở sông Santa Fe 1 thuộc Quận Gilchrist.
Đặc điểm.
Những phân tích cho thấy, xương của gấu mặt ngắn khổng lồ có nồng độ Nitơ-15 cao, một đồng vị bền của Nitơ, tích lũy do việc tiêu hóa thịt, chứng tỏ chúng là loài động vật hoàn toàn ăn thịt, không có dấu hiệu nào của việc ăn các loài thực vật. Và người ta ước tính, để tồn tại, mỗi ngày "A. simus" phải ăn tới 16 kg thịt (35,3 lb)
Nhờ cơ thể to lớn, chúng là loài ăn thịt đáng sợ đối với các loài động vật có vú khác trong thế Pleistocene. Các chi của chúng khá mảnh dẻ, dài khiến chúng có thể di chuyển với tốc độ 50–70 km mỗi giờ, săn được những loài động vật nhanh nhẹn khác như ngựa thảo nguyên, linh dương Saiga giống như một con báo châu Phi, tuy nhiên cấu tạo xương cùng với việc cơ thể khổng lồ khiến cho chúng không thể giết chết con mồi một cách nhanh chóng, một điều cần thiết của những loài động vật ăn thịt. Tiến sĩ Paul Matheus, nhà cổ sinh vật học tại Đại học Alaska Fairbanks, xác định gấu mặt ngắn khổng lồ di chuyển với nhịp chuyển động giống như là lạc đà, ngựa, và gấu ngày nay, làm cho nó di chuyển dựa trên độ bền hơn so với việc di chuyển với tốc độ nhanh.. Một số ý kiến khác cho rằng chúng ăn tạp giống như gấu hang, ăn bất cứ thứ gì ăn được chúng tìm thấy, kể cả thực vật.
Gấu mặt ngắn khổng lồ đã tuyệt chủng khoảng 12.000 năm trước đây, có lẽ một phần vì một số con mồi lớn của nó đã tuyệt chủng trước đó, và một phần cũng vì cạnh tranh với những loài săn mồi nhỏ hơn, ăn tạp và thích nghi hơn như gấu nâu đã di cư tới Bắc Mỹ từ đại lục Á-Âu. Một yếu tố nữa là việc chúng bị săn bắn bởi những người dân bản địa thuộc nền Văn hóa Clovis dẫn tới việc gấu mặt ngắn khổng lồ bị tuyệt diệt. | 1 | null |
Trận sông Ailette là một trận đánh trong cuộc Tổng tấn công Một trăm ngày trên Mặt trận phía Tây thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã diễn ra từ tháng 9 cho đến tháng 10 năm 1918, ở các bờ của sông Ailette giữa Laon và Soissons (Aisne).
Diễn biến trận đánh.
Mặc dù đây là một trận chiến phần lớn không được biết đến, giao tranh giữa quân đội Pháp và Đức đã diễn ra quyết liệt từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1918, để giành quyền kiểm soát sông Ailette, trước khi quân Pháp làm chủ được sông này vào tháng 10.
Hệ quả.
Vào tháng 10 năm 1918, quân đội Đế quốc Đức bị buộc phải triệt thoái khỏi mọi lãnh thổ mà họ chinh phạt vào năm 1914. Phe Hiệp ước đã đẩy lùi quân Đức trên suốt tuyến đường sắt liên kết giữa Metz và Bruges – vốn đã cung cấp tiếp tế cho mặt trận của họ trong phần lớn cuộc chiến tranh. Khi quân đội phe Hiệp ước tiến đến tuyến này, người Đức bị buộc phải bỏ một số lượng ngày càng lớn trang bị nặng và tiếp tế ngày càng lớn, khiến cho tinh thần và khả năng kháng cự của họ càng suy nhược. | 1 | null |
Trần Viết Kết (陳曰結), không rõ năm sinh năm mất, là một tướng lĩnh cao cấp của triều đình Tây Sơn.
Hành trạng trong lịch sử.
Không rõ Trần Viết Kết tham gia phong trào Tây Sơn từ khi nào, nhưng dưới thời Cảnh Thịnh, ông giữ chức Kiểm điểm. Trong quân đội Tây Sơn, những chức vụ như Kiểm điểm, Đại Tuần kiểm, Tuần kiểm là những chức vụ quan trọng, giữ nhiệm vụ thanh tra, thanh soát (sát) trong quân đội. Ông tham gia nhiều chiến dịch quan trọng của Tây Sơn chống lại quân chúa Nguyễn Phúc Ánh, được chi chép nhiều lần trong chính sử.
Khi quân chúa Nguyễn tiến ra đánh thành Quy Nhơn, ông cùng các tướng Thái úy Phạm Công Hưng, Đại Tổng quản Trần Quang Diệu, Đại Thống lĩnh thủy quân Đặng Văn Chân, Hộ giá Thượng tướng quân Nguyễn Văn Huấn, Đổng lý Nguyễn Văn Thận chống giữ thành Quy Nhơn. Kết quả quân chúa Nguyễn triều sau nhiều trận giao chiến thất lợi phải rút lui về Gia Định.
Tại Vân Canh, Trần Viết Kết cùng Hộ giá Nguyễn Văn Huấn phục binh đánh bại tướng Nam triều Nguyễn Văn Thành.
Để giành lại thế chủ động, các tướng Tây Sơn quyết định nam tiến, triệt hạ thành Diên Khánh đang do tướng Nam triều Võ Tánh thủ. Chúa Nguyễn Phúc Ánh phải đưa quân ra cứu viện, nhưng các tướng Tây Sơn mặc do đường thủy bất lợi, vẫn vây thành trên bộ.
Khi thành Quy Nhơn bị quân chúa Nguyễn vây, quân cứu viện của Đại Tổng quản Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng bị chặn ở Quảng Ngãi, ông đem thêm quân từ Phú Xuân vào tiếp ứng. Tuy nhiên quân Tây Sơn vẫn không tiến được, kết quả thành Quy Nhơn bị hạ và đổi tên thành Bình Định.
Cảnh Thịnh đem thêm quân vào chiếm lại Quy Nhơn, Trần Viết Kết xuất thủy binh để đánh nhưng liên tiếp thất bại, gặp mùa nước lũ, cuối cùng đành phải lui quân về giữ Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Trần Viết Kết đóng vai trò quan trọng trong nội biến Tây Sơn dưới triều Cảnh Thịnh.
Tuy nhiên, cả hai người Kết và Diêu về sau đều không bị Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng gia hại.
Kết cục.
Khi Phú Xuân thất thủ, không thấy nhắc đến tên của Kiểm điểm Trần Viết Kết. Cả trong Đại Nam Thực lục và Hoàng Việt Long Hưng chí mặc dù đề cập đến rất nhiều văn thần, võ tướng Tây Sơn ra hàng nhưng đều không nhắc đến tên ông. Kết cục về sau của ông cũng không rõ, không được lưu lại trong các sử sách đương thời. | 1 | null |
Âm Dương Đạo (chữ Hán: 陰陽道, Nhật văn: おんみょうどう, phiên âm Latin: "Onmyōdō" hoặc "Inyōdō") là môn thần bí vũ trụ học của người Nhật. Nguyên bản là dựa trên các học thuyết triết học tự nhiên của triết học Trung Hoa cổ đại như Âm Dương Ngũ Hành truyền đến Nhật Bản vào đầu thế kỷ thứ 6, sau đó được chấp nhận và xem như một công cụ dùng để chiêm bốc. Những tri thức này sau đó chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, Khổng giáo, Thần đạo và phát triển thành một môn học gọi là "Âm Dương đạo" vào cuối thể kỷ thứ 7. Người học về bộ môn này gọi là "Âm Dương Sư".
Khởi nguyên.
Nhật Bản đích Âm Dương Đạo được nguyên bản là từ một hành thuyết có nguồn gốc từ Trung Quốc: tại Trung Quốc vào thời Chiến Quốc trong "chư tử bách gia" có một học thuyết về Âm Dương, Ngũ Hành, thế nhân gọi là Âm Dương gia do một người nước Tề là Trâu Diên xây dựng. "Âm Dương thuyết" là giữ cho "Âm" hòa với "Dương" nhằm làm cho nội bộ sự vật được hỗ tương (bổ trợ lẫn nhau), tiêu (làm mất), trưởng (kéo dài) nhằm mục đích là phối hợp một cách hài hòa lực, lượng của vật nhằm mục đích nuôi dưỡng thiên địa vạn vật "sanh thành pháp tắc". "Ngũ Hành thuyết" do 5 nguyên tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ mà thành. Những nguyên tố này là gốc của vật chất, tính chất của chúng là "bất đoạn tuần hoàn biến hóa" (không đứt, tuần hoàn và biến hóa). | 1 | null |
Đây là danh sách các phi công của cả Không quân Nhân dân Việt Nam và Không quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam đạt được cấp ách (ace)—danh hiệu cho các phi công quân sự bắn hạ được từ 5 máy bay của đối phương trở lên từ Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đa số các phi công ách đều là người thuộc Không quân Nhân dân Việt Nam, ngoài ra có 2 phi công là của Hoa Kỳ.
Danh sách gồm 19 phi công Việt Nam, 2 phi công Mỹ (cùng với 3 sĩ quan kiểm soát hệ thống vũ khí hoặc thuộc WSO).
Về phía Liên Xô, một số nguồn từ Mỹ cho rằng Vadim Petrovich Shcherbakov là 1 phi công ace. Theo một báo cáo ngoại giao Hoa Kỳ ngày 23 tháng 4 năm 1993 về vấn đề tìm kiếm quân nhân mất tích và tù nhân chiến tranh trong thời kỳ chiến tranh lạnh (POW/MIA) của phái đoàn liên hiệp Nga–Mỹ làm việc tại Cộng hòa Liên bang Nga, có một dòng nói về Shcherbakov. Theo tài liệu này, Thượng úy Vadim Petrovich Shchbakov là cố vấn quân sự cho Không quân Việt Nam từ năm 1966. Ông tham chiến 10 trận, bắn hạ 6 máy bay đối phương. Trong hồ sơ có 1 bức ảnh của ông đề tháng 5/1991 (bản báo cáo không chụp lại ảnh). Ngoài thông tin ít ỏi duy nhất do phía Mỹ đưa ra, không còn thông tin gì khác về phi công này. Cũng không có tài liệu nào của cả Việt Nam và Liên Xô về phi công này và hoạt động của ông tại Việt Nam. Về sau, người ra khám phá ra rằng do nhầm lẫn dịch thuật nên tài liệu phía Mỹ đã tưởng rằng Shcherbakov là phi công, trong khi thực ra ông là sĩ quan điều khiển tên lửa phòng không SA-2. | 1 | null |
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, tức ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt mới tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia.
Những nỗ lực.
Khoảng tháng 6 năm 1975, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp không chính thức: ""Lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ". Tiếp theo đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: "Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa".
Ngày 7 tháng 5 năm 1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8 tháng 5 năm 1976, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Henry Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề bình thường hóa quan hệ hai nước.
Ngày 6 tháng 1 năm 1977, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra lộ trình ba bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Và phía Hoa Kỳ cũng đưa ra điều kiện để nối lại bang giao là: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trao trả hài cốt lính Mỹ. Đổi lại, phía Việt Nam cũng yêu cầu Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh, khoản bồi thường là 3,25 tỷ USD (ngoài ra, Mỹ sẽ viện trợ không hoàn lại mỗi năm 650 triệu đô-la) như Ngoại trưởng Henry Kissinger đã hứa tại Hiệp định Paris. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định nên họ sẽ không trả khoản tiền bồi thường. Ngược lại, phía Việt Nam vẫn phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ 85 triệu USD (gốc) của Việt Nam Cộng hòa. Ngày 7 tháng 4 năm 1997, Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ Robert Rubin và Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng ký thỏa thuận tại Hà Nội về việc Việt Nam trả khoản nợ 145 triệu USD của chính quyền miền Nam Việt Nam cũ.
Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã nỗ lực đẩy mạnh việc bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam. Tháng 3 năm 1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà Nội để bàn về việc nối lại bang giao. Ngày 17 tháng 3 năm 1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Leonard Woodcock, Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ. Ngày 4 tháng 5 năm 1977, chính quyền Carter đồng ý để Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc.
Ngày 3 tháng 5 năm 1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt Nam - Hoa Kỳ đã diễn ra tại Paris. Phía Việt Nam vẫn yêu cầu Mỹ phải chi 3,25 tỷ USD bồi thường chiến tranh. Phía Hoa Kỳ đề nghị bình thường hóa trước, viện trợ sau. Trưởng đoàn đàm phán Phan Hiền báo cáo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được. Đàm phán lâm vào bế tắc.
Khi biên giới Tây Nam được đặt trong tình trạng chiến tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là kẻ thù, Việt Nam nhận thấy vai trò quan trọng của việc bình thường hóa với Hoa Kỳ, một siêu cường trên thế giới.
Đầu năm 1978, tại Tōkyō, ông Phan Hiền, thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Hoa Kỳ" (tức là Việt Nam sẽ không yêu cầu Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh nữa). Tuy nhiên lúc này Hoa Kỳ quan tâm tới việc đàm phán bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn, mà Trung Quốc và Việt Nam với khi đó lại đang là đối thủ, nên Hoa Kỳ đã bỏ qua vấn đề bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Trong một nỗ lực cuối cùng, tháng 10 năm 1978, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối khéo: "Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam"". Tuy nhiên theo ông Trần Quang Cơ viết trong hồi ký "Hồi ức và suy nghĩ" thì: ""Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hóa quan hệ với Việt Nam từ khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký hiệp ước với Liên Xô". Sau đó thì việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ bị gián đoạn bởi các cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới Việt - Trung
Trong thập niên tám mươi, chính quyền của Tổng thống Ronald Reagan đã phản đối việc bình thường hóa cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam đã rút hết quân ở Campuchia và có sự hợp tác đầy đủ của Việt Nam trong việc tìm kiếm những người Mỹ mất tích.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn cho tạp chí Time (tuần lễ từ ngày 7 đến ngày 13 tháng 1 năm 1992), Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói rằng:
Tạp chí Time hỏi:
Ông Kiệt:
Cuối năm 1992, khi tới Hà Nội lần thứ hai, Thượng nghị sĩ John Kerry đã đề nghị Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho phép một cộng sự của ông, Thượng nghị sĩ Bob Smith xuống đường hầm ở khu vực lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh để tận mắt thấy không có lính Mỹ bị giam dưới lăng như phim ảnh Hollywood miêu tả.
Tháng 11 năm 1992, lệnh hạn chế liên lạc điện thoại được bãi bỏ, dịch vụ gọi điện trực tiếp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được thiết lập.
Sau bình thường hóa.
Sau khi bình thường hóa hai nước đã thiết lập và duy trì mối quan hệ chính trị-ngoại giao tích cực. Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Hoa Kỳ đã thực hiện 7 chuyến thăm chính thức tới thủ đô của hai nước: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, George W. Bush, Barack Obama, Donald Trump và Joe Biden thăm Việt Nam vào các năm 2000, 2006, 2016, 2017 và 2023; Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Xuân Phúc và Phạm Minh Chính đã thăm chính thức Hoa Kỳ vào 2005, 2007, 2008, 2017 và 2022.
Cho đến năm 2009, thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ đã đạt tới 15,6 tỷ USD, tăng hơn 30 lần so với năm 1995. Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, là nhà đầu tư lớn thứ nhì vào Việt Nam với số vốn lên tới 9,8 tỷ USD, chiếm 25% tổng số FDI vào Việt Nam.
Tới năm 2013, Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ đã tạo ra khuôn khổ mới cho quan hệ hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực như chính trị-ngoại giao, kinh tế-thương mại, khoa học-công nghệ, giáo dục-đào tạo, môi trường và y tế, hợp tác nhân đạo - giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng-an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, và văn hóa-thể thao-du lịch...
Cùng với việc bình thường hóa quan hệ giữa hai quốc gia, Việt Nam bắt đầu cử đại diện tranh tài tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ từ năm 2004 - cuộc thi do Hoa Kỳ khởi xướng và điều hành. Đồng thời, cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008 đã được đăng cai tổ chức tại Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam. | 1 | null |
Trận Haspres là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã diễn ra vào ngày 25 tháng 8 năm 1914 trong giai đoạn giao thời giữa Trận Biên giới Bắc Pháp và cuộc Đại rút lui. Quân đội Đế quốc Đức đã đánh chiếm được "commune" Haspres từ tay Pháp.
Bối cảnh lịch sử.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 1914, Đức tuyên chiến với Pháp. Ngày hôm sau, người Đức đã thực thi Kế hoạch Schlieffen, vi phạm sự trung lập của Bỉ và Luxembourg và tiến đánh vùng núi Ardennes của Bỉ.
Vào ngày 12 tháng 8, quân đội Đức đã đến Huy. Vào ngày 16 tháng 8, họ tiến hành vượt sông Meuse giữa Namur và Liège, vào ngày 21 tháng 8 họ chiếm được Charleroi và Mons. Đến ngày 22 tháng 8, họ tiến vào Valenciennois và kéo thẳng đến Cambrai. | 1 | null |
Army Men Advance là trò chơi điện tử thuộc thể loại hành động bắn súng của loạt game "Army Men" do hãng DC Studios phát triển và 3DO phát hành trên hệ máy Game Boy Advance vào năm 2001.
Nội dung cốt truyện cũng tương tự bản "" kể về viên Tướng Plastro và đội quân phe Tan của hắn đã tiến hành hành chinh phục thế giới nhựa và thế là Sarge và cô bạn gái phóng viên Vikki lên đường quyết ngăn chặn âm mưu này. Xuyên suốt game, người chơi sẽ phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau như giải cứu đồng đội, thâm nhập vào căn cứ địch, trốn khỏi nhà tù, điều tra tình hình địch và lấy cắp thiết bị thông tin liên lạc. Người chơi có thể chọn một trong hai nhân vật chính tham gia cuộc hành trình này là Sarge hoặc Vikki, nhưng nhiệm vụ cho từng người đều giống hệt nhau và một khi đã chọn nhân vật nào thì không thể đổi lại được trừ khi người chơi muốn chơi lại từ đầu game. | 1 | null |
Luz Clarita là một bộ phim truyền hình của México thuộc thể loại telenovela được sản xuất bởi Televisa phát sóng trên đài Canal de las Estrellas vào năm 1996. Bộ phim được làm lại dựa trên cốt truyện của "Andrea Celeste" and "Chispita", với các diễn viên Verónica Merchant và César Évora, và diễn viên nhí Daniela Luján, Ximena Sariñana. Bộ phim với hay tuyến nhân vật phát triển song song nhau, phù hợp cho cả thiếu nhi và người lớn.
Tóm tắt.
Luz Clarita (Daniela Luján) là một cô bé hết sức dễ thương luôn muốn đi tìm được người mẹ ruột của mình, trên hành trình đi tìm mẹ, cô cũng gặp nhiều nỗi buồn và niềm vui. Nhưng may thay, Gia đình của ông Mariano de la Fuente (César Évora) quyết định mở rộng tấm lòng nhận nuôi cô. Mặc dù, khi mọi chuyện mới bắt đầu, cô luôn là tâm điểm của mọi sự hỗn độn làm khuấy động cuộc sống bình thường của họ. Tuy nhiên, từng chút một, họ nhận ra rằng sự xuất hiện của cô bé đã làm họ ngộ ra nhiều điều, không những trẻ em mà người lớn cũng rút ra được cho mình một bài học: Rằng tình yêu là cốt lõi để đạt được hạnh phúc". | 1 | null |
Lý Thuần Phong (Giản thể: 李淳风; Phồn thể: 李淳風, 602-670) là người thời Sơ Đường (Thế kỷ VII). Ông là nhà thiên văn học, khí tượng học, chiêm tinh học, cũng đồng thời là thầy phong thủy nổi tiếng nhất thời Đường.
Cuộc đời.
Tương truyền, Lý Thuần Phong mồ côi cha mẹ, nên tìm thầy để học thuật. Thời Tùy Dạng Đế, triều Tùy đại suy, thiên hạ đại loạn, quần hùng tranh đấu, Lý Thuần Phong nghe theo thầy đi tìm minh chủ đích thực của thiên hạ. Ông đến góp sức cho quân Ngõa Cương. Sau khi Ngụy vương Lý Mật của Ngõa Cương bị tiêu diệt, Lý Thuần Phong lại đến Trường An phò tá Lý Uyên. Năm 618, Lý Uyên xưng đế, kiến lập triều Đường, tức Đường Cao Tổ. Còn Lý Thuần Phong trở thành một trong số các khai quốc đại thần nhà Đường.
Sau khi Đường Thái Tông Lý Thế Dân lên ngôi, Lý Thuần Phong được triều đình giao cho việc quan sát thiên tượng và biên soạn sách vở. Năm Trinh Quán thứ 2, Lý Thuần Phong cải tiến Hỗn Thiên Nghi.
Theo truyền thuyết, Lý Thuần Phong từng cùng với soạn ra "", giảng giải về Dịch học trên cơ sở khoa học, đáng tiếc cuốn sách tới hiện nay không còn bản gốc nguyên vẹn mà chỉ còn các phụ bản có phần sai lệch lưu truyền. Tương truyền rằng, “Thôi Bối Đồ” là Đường Thái Tông Lý Thế Dân vì để đoán vận mệnh của Đường triều nên đã mời hai vị đại sư Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương đến suy tính. Không ngờ, Lý Thuần Phong suy tính ra đến vận mệnh của Trung Quốc 2000 năm sau. Cho đến lúc Viên Thiên Cang đẩy lưng của Lý Thuần Phong và nói: "“Thiên cơ không thể tiết lộ, hay là đi về nghỉ ngơi đi!”" mới dừng lại. Cho nên cuốn sách này được đặt tên là “Thôi Bối Đồ” (ý là đẩy lưng).
Vì cuốn sách này tiên đoán quá chuẩn xác nên trong ba triều Tống, Nguyên, Minh nó là sách cấm không cho mọi người được phép xem. Những lời tiên đoán trong cuốn sách này chuẩn xác đến mức khiến mọi người hoài nghi rằng, những sự kiện liên quan đến vận mệnh của Trung Quốc đều là dựa theo cuốn sách này mà lần lượt “trình diễn” ra.
Một vài người vẫn lầm tưởng Lý Thuần Phong có cảm tình với Phất Vân quận chúa, nhưng đáng tiếc nhân vật quận chúa này không tồn tại trong đời thực, chỉ là nhân vật được thêm vào trong phim, truyện xây hình tượng nhân vật chính dựa theo hình tượng Lý Thuần Phong, về sau thì được sửa thành thân phận một công chúa khác có thật trong lịch sử để hợp lí hóa mạch truyện tưởng tượng.
Mộ của Võ Tắc Thiên tương truyền được Lý Thuần Phong và Viên Thiên Cương chung tay xem phong thủy. Mỗi lần lăng mộ của Võ Tắc Thiên bị đào trộm thì đều xuất hiện những hiện tượng kỳ lạ. Sau này, dân gian truyền nhau rằng đó là khu lăng mộ bất khả xâm phạm vì đã được Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong tự tay sắp đặt. Danh tiếng của hai người này bởi thế lại càng thêm hiển hách, vang xa.
Đáng tiếc khu mộ của Lý Thuần Phong về sau lại không còn toàn vẹn, cho dù chọn được khu đất quý cùng Viên Thiên Cương nhưng cuối cùng mộ của ông vẫn bị đào trộm và hủy hoại. Trong các câu chuyện dã sử đời Đường tiết lộ rằng khi lâm bệnh nặng Lý Thuần Phong cũng đã dự đoán được số phận phần mộ của mình. Ông cho rằng mình làm Thái sử lệnh, gây thù chuốc oán với nhiều người nên phần mộ tất là không thể bảo tồn nguyên vẹn. | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ cho hạng mục Nghệ sĩ Alternative được Yêu thích Nhất bắt đầu được trao tặng kể từ năm 1995.
Hạng mục này tôn vinh những nghệ sĩ nhạc Alternative xuất sắc của năm trước đó (từ 2003 trở đi khi các giải thưởng đã được trao vào tháng 11 cùng năm). Linkin Park giành được nhiều chiến thắng nhất với năm lần thắng. | 1 | null |
Trịnh Cung công (chữ Hán: 鄭共公; trị vì: 454 TCN–424 TCN), tên thật là Cơ Xú (姬醜), là vị vua thứ 21 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Cơ Sửu là con trai của Trịnh Hiến công
Năm 455 TCN, người nước Trịnh nổi dậy giết Trịnh Ai công, lập Cơ Sửu lên nối ngôi, tức Trịnh Cung công.
Sử ký không ghi rõ những hành trạng của ông và các sự kiện liên quan đến nước Trịnh trong thời gian ông ở ngôi.
Năm 424 TCN, Trịnh Cung công qua đời. Ông làm vua được 31 năm. Con ông là Cơ Dĩ lên nối ngôi tức Trịnh U công. | 1 | null |
Lục súc () là một cách diễn đạt tại Trung Quốc, hàm ý chỉ sáu loại gia súc nuôi trong hoặc gần nhà là: ngựa (mã), trâu (ngưu), dê (dương), chó (cẩu), lợn (trư) và gà (kê). Trước khi kết thúc thời đại đồ đá mới, người Trung Quốc đã thuần hóa thành công sáu loại gia súc này.
Cụm từ "lục súc" thường thấy trong Tả truyện, Chu lễ (周礼) và các điển tịch từ thời Tiên Tần. Thư tịch cổ nhất giải thích nội hàm của cụm từ "lục súc" là Nhĩ Nhã trong thiên "Thích Súc", trong đó xếp thứ tự "lục súc" là: mã (馬), ngưu (牛), dương (羊), trư (豬), cẩu (狗), kê (雞). | 1 | null |
Giải thưởng Âm nhạc Mỹ lần thứ 39 được diễn ra vào ngày 20 tháng 11 năm 2011 tại nhà hát Nokia Theatre ở Los Angeles và được truyền hình trực tiếp trên kênh ABC. Lễ trao giải này tôn vinh những nghệ sĩ và album xuất sắc nhất trong năm 2011. Các đề cử được công bố vào ngày 11 tháng 10 năm 2011. Taylor Swift và Adele là hai nghệ sĩ đanh được phần thắng lớn nhất với tổng số ba giải thưởng mỗi người.
Giới thiệu.
Những người dưới đây tham gia giới thiệu một hạng mục hoặc một buổi biểu diễn:
được Yêu thích Nhất
được Yêu thích Nhất
Biểu diễn.
Mở đầu
Chính | 1 | null |
Bạch Băng (tiếng Trung: 白冰, bính âm: "Bái Bīng", tiếng Anh: Michelle, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1986) là một nữ diễn viên, ca sĩ người Trung Quốc. Cô nổi tiếng với các vai diễn công chúa Ngọc Thấu trong bộ phim truyền hình "Thần Thoại (2010)," Tiết Bảo Thoa trong bộ phim truyền hình "Tân Hồng Lâu Mộng (2010)."
Tiểu sử.
Bạch Băng tên thật là Trần Đông, sinh tại thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Cô tốt nghiệp trường Đại học Khoa học Chính trị và Luật Tây Bắc với chuyên ngành Luật Quốc tế năm 2004.
Năm 2006, cô chính thức bước vào giới giải trí khi tham gia chương trình "Dream China" của CCTV và ký hợp đồng với công ty giải trí Anh Hoàng Ngu Nhạc (Emperor Entertainment), trong buổi đầu ra mắt cô đươc truyền thông gọi là Tiểu Kim Hae Sun vì cô có gương mặt rất giống với nữ diễn viên người Hàn Quốc Kim Hae Sun.
Sự nghiệp.
Vào tháng 2 năm 2007, tham gia bộ phim điện ảnh đầu tiên "Chuyển tiếp cuộc gọi tình yêu" đã cho thấy gương mặt thật của cô với công chúng. Tháng 6, tham gia bộ phim truyền hình đầu tiên "Ước mơ về phía mặt trời".
Vào tháng 2 năm 2008, Bạch Băng đóng vai chính trong bộ phim truyền hình ""Kết thúc hoàn mỹ"." Vào tháng 5, đóng chung với Tưởng Mộng Tiệp và Dương Dương trong bộ phim truyền hình "Tân Hồng Lâu Mộng". Vào tháng 9, anh tham gia vào bộ phim điện ảnh "Chuyển tiếp cuộc gọi tình yêu 2: Ái Tình Tả Hữu". Cùng tháng, phát hành đĩa đơn solo đầu tiên "Bài hát viết cho anh", đây cũng là kiệt tác cá nhân đầu tiên của Bạch Băng trong lĩnh vực âm nhạc và đây cũng là bài hát kết thúc cho bộ phim truyền hình "Kết thúc hoàn mỹ", được thực hiện cùng với La Gia Lương.
Ngày 2 tháng 1 năm 2010, bộ phim truyền hình cổ trang "Thần Thoại" cùng với Hồ Ca đóng vai chính đã được công chiếu trên CCTV, đồng thời cùng Hồ Ca thực hiện ca khúc "Thần thoại tuyệt đẹp" cho bộ phim. Tháng 5, đóng vai chính trong bộ phim truyền hình "Huy hiệu lạc đà". Sau đó, cô tham gia bộ phim điện ảnh hành động "Tân Thiếu Lâm Tự" của đạo diễn Trần Mộc Thắng. Vào tháng 7, tham gia quay bộ phim truyền hình chiến tranh "Đội du kích Thủy Thượng". Ngày 3 tháng 8, bộ phim truyền hình tình cảm đô thị "Cà phê đắng" với sự tham gia Bạch băng và Hồ Ca được công chiếu trên Hà Bắc TV, đồng thời cô cũng hát ca khúc chủ đề "Đứa con của những vì sao" cho bộ phim. Ngày 13 tháng 11, tại Lễ trao giải Hoa Đỉnh lần thứ 4, bộ phim "Thần Thoại" đã giành được giải thưởng "Phim truyền hình hay nhất (huyền thoại)" và Bạch Băng đã giành được Giải thưởng "Nữ diễn viên được yêu thích nhất" cho bộ phim này.
Vào tháng 4 năm 2011, bộ phim điện ảnh tình cảm đô thị "Ẩn hôn nam nữ" với sự tham gia của Bạch Băng và Lưu Nhược Anh đã được phát hành trên toàn quốc. Vào tháng 5, Bạch Băng được chọn đóng vai chính trong bộ phim điện ảnh ""Nghịch chiến"," cô đóng vai Interpol ICE. Ngày 17 tháng 12, bộ phim truyền hình cổ trang "Hoàng Đồ Đằng" do cô đóng vai chính được phát sóng trên Hồ Nam TV.
Ngày 20 tháng 1 năm 2012, cô tham gia bộ phim truyền hình cổ trang "Cung Tỏa Châu Liêm" của đạo diễn Lý Huệ Châu được phát sóng trên Hồ Nam TV. Vào tháng 2, Bạch Băng đóng vai chính trong bộ phim truyền hình ""Tôi muốn làm tiếp viên hàng không"." Tháng 9, cô đóng vai chính trong bộ phim truyền hình đô thị ""Thỏa thuận trước hôn nhân"." Cùng năm đó, tham gia phim điện ảnh hành động "Mười hai con giáp" của đạo diễn Thành Long.
Ngày 14 tháng 1 năm 2013, bộ phim truyền hình cổ trang "Tùy Đường Diễn Nghĩa" mà Bạch Băng tham gia đã được phát sóng trên Dragon TV. Sau đó, cô đóng vai chính trong bộ phim truyền hình tình cảm đô thị "Bản tình ca thầm lặng". Vào tháng 6, Bạch Băng tham gia đảm nhận vai diễn trong bộ phim điện ảnh ""Kế hoạch bí ẩn"." Vào tháng 7, đóng vai chính trong bộ phim truyền hình cổ trang "Họa Bì 2: Yêu Bất Hối" và hát bài hát chủ đề "Lạc Diệp" và "Táng Tâm" cho bộ phim. Vào tháng 10, cô đóng vai chính trong bộ phim điện ảnh lãng mạn "37 lần anh nhớ em". Tháng 11, cô tham gia bộ phim điện ảnh hành động "Biệt đội cứu hỏa".
Vào tháng 8 năm 2014, Bạch Băng tiếp tục công việc sau khi sinh con và đóng vai chính trong bộ phim truyền hình tình cảm đô thị ""Bạn là chị em của tôi"." Vào tháng 11, cô tham gia bộ phim truyền hình cổ trang ""Thông Thiên Địch Nhân Kiệt"."
Ngày 17 tháng 3 năm 2015, Bạch Băng tham gia phim võ thuật cổ trang "Thiếu Niên Tứ Đại Danh Bổ" với vai trò khách mời, bộ phim được công chiếu trên Hồ Nam TV. Tháng 11, cô đóng vai chính trong bộ phim truyền hình về chiến tranh ""Mỹ nhân như ngọc kiếm như hồng"."
Vào tháng 1 năm 2016, Bạch Băng đóng vai chính trong bộ phim truyền hình võ thuật cổ trang "Truyền thuyết phi đao". Vào ngày 13 tháng 5, bộ phim điện ảnh hài hước "Hoang Ngôn Đại Bạo Tạc" cô tham gia đã được công chiếu. Vào tháng 6, Bạch Băng và Vương Lệ Khôn cùng đóng vai chính trong bộ phim truyền hình cổ trang giả tưởng ""Thiên Lệ Truyền Kỳ: Phượng Hoàng Vô Song"." Tháng 3, tham gia bộ truyền hình cổ trang giả tưởng "Huyễn Thành", bộ phim được phát sóng trên Hồ Nam TV.
Vào tháng 2 năm 2017, Bạch Băng cùng với Đường Yên đóng chung trong bộ phim điện ảnh hài hước "Quyết chiến Thực Thần". Ngày 17 tháng 4, bộ phim truyền hình võ thuật "Thái cực Tông sư: Thái cực môn" mà Bạch Băng tham gia chính thức được phát sóng. Cùng năm, cô tham gia bộ phim truyền hình tình cảm đô thị "Nam Phương Hữu Kiều Mộc" cùng với Trần Vỹ Đình và Bạch Bách Hà"."
Vào tháng 2 năm 2018, cô đóng vai chính trong phim chiếu mạng về hình sự "Nguồn gốc tội lỗi" của đạo diễn Diệp Vỹ Dân. Vào tháng 8, cô đóng vai chính trong bộ phim truyền hình tình cảm đô thị "Thuyết tiến hóa tình yêu" cùng với Trương Nhược Quân và Trương Thiên Ái. Cùng năm, tham gia bộ phim truyền hình cổ trang "Lưu Công Án: Lưu Dung Hạ Sơn Đông".
Vào năm 2020, Bạch Băng tham gia chương trình tuyển chọn đội nữ "Tỷ Tỷ Đạp Gió Rẽ Sóng mùa 1" với tư cách là một thí sinh. Ngày 20 tháng 3, bộ phim truyền hình "Bên tóc mai không phải hải đường hồng" mà cô tham gia với vai trò khách mời được phát sóng trên IQIYI.
Vào tháng 1 năm 2021, cô tham gia chương trình tạp kỹ dành cho phụ nữ trưởng thành "Bình Tĩnh Mà Yêu" của Hồ Nam TV. Tháng 2, tham gia chương trình truyền hình thực tế "Mỹ Vị Dạ Hành Hiệp" của Chiết Giang TV. Tháng 3 năm 2021, cô đóng cùng Hồ Nhất Thiên, Trần Cận Kỳ và Vương Thiên Thần trong bộ phim tình cảm đô thị "Siêu Thời Không Lãng Mạng". Vào ngày 4 tháng 9 năm 2021, bộ phim truyền hình cổ trang "Lưu Công Án: Lưu Dung Hạ Sơn Đông" do cô đóng vai chính đã được phát sóng trên Bắc Kinh TV.
Đời tư.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 2013, Bạch Băng và Đinh Nhất tổ chức lễ cưới tại khách sạn Huachi Yuehai ở thành phố Thương Khâu, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
Vào ngày 22 tháng 4 năm 2014, Bạch Băng sinh một cô con gái đầu lòng và đặt biệt danh là "Nhất Nhất".
Vào ngày 12 tháng 6 năm 2020, Bạch Băng tiết lộ mình đã ly hôn với Đinh Nhất tại chương trình "Tỷ Tỷ Đạp Gió Rẽ Sóng" | 1 | null |
Trịnh U công (chữ Hán: 鄭幽公; trị vì: 424 TCN), tên thật là Cơ Dĩ (姬已), là vị vua thứ 22 của nước Trịnh – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông, con trai của Trịnh Cung công – vị vua thứ 21 của nước Trịnh. Năm 424 TCN, Trịnh Cung công qua đời, Cơ Dĩ lên nối ngôi tức Trịnh U công.
Cùng năm 424 TCN, tướng nước Tấn là Hàn Vũ tử đem quân đánh Trịnh, giết chết U công. Người nước Trịnh lập em ông là công tử Đãi lên ngôi, tức Trịnh Nhu công.
Trịnh U công làm vua chưa đầy một năm. | 1 | null |
Mại dâm ở Nhật Bản đã tồn tại xuyên suốt lịch sử Nhật Bản. Mặc dù Luật Phòng chống Mại dâm tuyên bố "Không cá nhân nào có thể làm mại dâm hoặc trở thành khách hàng của mại dâm", tuy nhiên có những kẽ hở luật, cách diễn giải tự do và việc thực thi luật pháp lỏng lẻo đã tạo cơ hội giúp ngành công nghiệp tình dục Nhật Bản phát triển thịnh vượng và ước tính kiếm được khoảng 2,3 nghìn tỷ Yên (24 tỉ USD) mỗi năm. Tại Nhật Bản, dù có văn hóa phẩm khiêu dâm phát triển nhưng mại dâm vẫn là bất hợp pháp.
Lịch sử.
Mại dâm tại Nhật Bản đã có từ lâu đời tại Nhật, ít nhất từ thế kỷ 15, khi các thành thị bắt đầu phát triển mạnh.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật là một nước quân chủ. Mại dâm tồn tại công khai để phục vụ tầng lớp trên như quý tộc và sĩ quan quân đội. Quân Nhật đóng ở nước ngoài còn tổ chức những nhà thổ gồm các phụ nữ tại các quốc gia bị chiếm đóng (Triều Tiên, Trung Quốc...), họ gọi đó là các Phụ nữ giải khuây. Rất nhiều phụ nữ trong số này bị bắt cóc, ép buộc phải phục vụ lính Nhật như là nô lệ tình dục. Chính phủ Triều Tiên, Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc hiện nay luôn yêu cầu Nhật Bản phải chính thức xin lỗi và bồi thường cho những nạn nhân này.
Sau thế chiến, Đế quốc Nhật Bản sụp đổ, tầng lớp quý tộc và sĩ quan bị tước các đặc quyền, thế chỗ vào đó là quân đồn trú Mỹ. Bộ Nội vụ Nhật đã ban hành những văn bản cụ thể kèm theo vào ngày 18/8/1945, một ngày trước khi phái đoàn Nhật Bản đáp máy bay đến Manila (Philippines) để đàm phán về các điều khoản thỏa thuận khi nước này đầu hàng và chịu sự tiếp quản của quân Đồng Minh. Cảnh sát địa phương được huy động để mở mạng lưới tìm kiếm các cô gái. Địa điểm thích hợp cho việc mở nơi "mua vui" là một khu ký túc xá dành cho các sĩ quan Mỹ độc thân. Nhiều lính Mỹ siêng năng đến nhà thổ như vậy khi giá cho mỗi lần mua vui chỉ có 15 yen (khoảng 1 USD), tức bằng nửa giá tiền một gói thuốc lá.
Sau đó dưới sự bật đèn xanh của chính phủ quan chức cảnh sát và giới thương gia đã thiết lập một hệ thống nhiều nhà thổ dưới sự đỡ đầu của Hiệp hội Tiêu khiển và giải trí (RAA), do chính phủ rót tiền hoạt động. Nhà thổ đầu tiên của RAA là Komachien có 38 phụ nữ, nhưng con số này tăng lên đến 100 do nhu cầu quá cao. Mỗi phụ nữ đã phải tiếp đến 15 - 60 khách mỗi ngày. Nhu cầu tăng quá cao đã khiến giới quản lý tìm kiếm cả những phụ nữ bình thường. Đến cuối năm 1945, quân số của lính Mỹ tại Nhật đã tăng lên 350.000 và tổng cộng RAA đã tuyển hơn 70.000 gái điếm để phục vụ họ. Số lượng nhà thổ không thuộc hệ thống RAA còn cao hơn nhiều. Lãnh đạo Mỹ tại Nhật đã xây hẳn các trạm phòng bệnh kế bên các nhà thổ RAA để kịp thời cung cấp thuốc penicillin cho gái điếm. Giới chức Mỹ biết rõ rằng hầu hết các phụ nữ làm việc trong những nhà chứa do RAA lập nên đều bị ép buộc vào con đường nhơ nhuốc.
Bằng những chiêu bài tuyển dụng công chức cho các dự án bí mật, chính phủ Nhật đã đẩy không ít các cô gái vào con đường thành gái bán dâm chuyên nghiệp. Xung quanh vụ việc này cũng có khá nhiều cái chết thương tâm do mắc phải sự lừa phỉnh. Natsue Takita, 19 tuổi, đã trở thành gái điếm tại Komachien sau khi đọc quảng cáo tìm nhân viên. Khi đến nơi, người ta nói với cô rằng chỉ còn vị trí "nhân viên mua vui" và cô đã bị thuyết phục chấp nhận công việc này. Chỉ vài ngày sau khi nhà thổ hoạt động, Takita đã nhảy vào xe lửa tự tử.
Sau những hệ lụy gây ra cũng như việc Chính phủ mới của nước Nhật thực hiện chính sách bình đẳng giới, do vậy đến năm 1956 mại dâm đã bị cấm. Đạo luật phòng chống mại dâm năm 1956 đã nghiêm cấm các hành vi mua bán dâm.
Tuy vậy, người Nhật quan niệm khá đặc biệt: khiêu dâm và mại dâm là 2 vấn đề riêng. Phim ảnh, sách báo khiêu dâm... là hợp pháp, nhưng mại dâm thì bị cấm. Luật nước này định nghĩa mại dâm là "giao hợp để được trả tiền", nên việc khiêu dâm nhưng không tiến hành giao hợp thì được coi là hợp pháp. Vì quy định này tạo ra nhiều kẽ hở nên năm 1985 và năm 1999, Nhật Bản đã bổ sung Luật Quản lý doanh nghiệp ảnh hưởng đạo đức công cộng, siết chặt quản lý việc cung cấp các dịch vụ khiêu dâm phi giao hợp.
Sự tham gia của mafia Nhật.
Thống kê cho thấy, một số nhóm Yakuza (xã hội đen Nhật) có thể thu về hơn 1 triệu USD mỗi tháng từ các quán bar tình dục, nhà thổ hay các "câu lạc bộ hẹn hò" dành cho nam giới.
Yakuza thường xuyên vận chuyển các bộ phim và tạp chí khiêu dâm từ Mỹ và châu Âu vào Nhật Bản, cũng như tổ chức các đường dây "gái gọi". Yakuza mua các bé gái từ Trung Quốc, đem sang Nhật để phục vụ trong các quán bar, nhà hàng và hộp đêm. Ngoài Trung Quốc, nguồn gái mại dâm của Yakuza còn đến từ Philippines. Yakuza dùng những lời mời gọi hấp dẫn về một công việc với mức lương cao để lừa các cô gái nghèo và nhẹ dạ. Sau khi đến Nhật Bản, những cô gái này sẽ phải làm những việc như gái điếm hoặc vũ nữ thoát y. Có thể nói, bạo hành và tình dục là một trong những đặc trưng của thế giới ngầm này.
Pháp luật.
Nước Nhật vẫn được coi là tấm gương cho sự phát triển của châu Á. Nhưng cái giá mà văn hóa Nhật phải trả cho sự "Tây hóa" quá đà nhằm dọn đường cho kinh tế phát triển cũng không nhỏ. Hiện nước này đang bị đẩy vào "cơn bão sex" với đầy rẫy những nguy cơ.
Điều 3 của Đạo luật phòng chống mại dâm năm 1956 quy định: "Không ai được phép bán dâm hoặc trở thành khách mua dâm", nhưng không xác định hình phạt cụ thể với các vi phạm. Thay vào đó, luật quy định các hành vi bị cấm và hình phạt liên quan như: lôi kéo vì mục đích mại dâm, chăn dắt một người để người này bán dâm, ép buộc bán dâm, nhận bồi thường từ việc bán dâm, xui khiến người khác trở thành gái điếm bằng cách trả tiền trước, cung cấp tiền bạc, nơi chốn, trang bị đồ đạc phục vụ mại dâm…
Tuy nhiên do yếu tố văn hóa gia trưởng truyền thống, mại dâm ít bị cấm kỵ đối với nam giới. Trong khi phụ nữ Nhật truyền thống nổi tiếng về sự chung thủy với chồng, thì nhiều đàn ông Nhật lại không coi trọng sự chung thủy với vợ. Những đàn ông này coi việc "trăng hoa" ở ngoài là một "đặc quyền" của nam giới: phụ nữ ngoại tình hiếm khi được họ tha thứ, nhưng nam giới ngoại tình thì họ lại coi là "lẽ tự nhiên", thậm chí là "chiến tích". Do vậy, nhiều hình thức mại dâm trá hình như gái bao, viện trợ giao tế (Enjo kosai)... xuất hiện, khiến pháp luật rất khó khăn để xử lý. Các nỗ lực chống mại dâm của chính phủ chỉ đem lại những kết quả hạn chế.
Về mặt nam giới, họ thường dẫn đối tác vào các club "đúng chỗ" do doanh nghiệp chi trả; về mặt phụ nữ thì bán dâm được xem là biện pháp thực dụng để có tiền nhanh hơn so với việc làm bình thường. Chủ đề thường xuyên của tranh châm biếm ở Nhật minh họa điều này, khi người cha hay bạn trai gặp chính con gái hay người yêu của mình tại một club có phụ nữ "phục vụ".
Sau khi đến thăm Nhật Bản và chứng kiến sự phát triển của ngành công nghiệp tình dục nước này, Joan Sinclair, tác giả của cuốn sách Pink Box, mỉa mai rằng ngành công nghiệp sex của Nhật Bản "cung cấp mọi thứ có thể tưởng tượng ra trừ việc giao hợp".
Vấn đề trinh tiết đã bị loại bỏ khỏi văn hóa Nhật. Phụ nữ Nhật giờ đây mặc sức chạy theo những đam mê và dục vọng của mình. Một hiện tượng đang nổi lên trong xã hội Nhật mấy năm nay là chuyện các nữ sinh phổ thông sẵn sàng bán dâm để lấy tiền mua quần áo, giày dép. Đây đang là 1 thực trạng có thể xem là khá nhức nhối của xã hội Nhật.
Theo ông Yumi Yamashita, chuyên nhiên cứu về mại dâm ở Nhật Bản, thì trong một xã hội tiêu thụ, con người luôn chạy theo vật chất hào nhoáng bề ngoài. Không ít thiếu nữ coi thân xác tuổi trẻ của họ là một món hàng, cần phải tận dụng trước khi nó trở nên "mất giá" (tức là trước khi họ già đi). Viện trợ giao tế - Enjo kosai, hay còn gọi là "quan hệ xã hội được trợ cấp", "hẹn hò được trả phí", là tiếng lóng được dùng để nói về những vụ mua bán dâm nữ sinh tuổi vị thành niên. Gần đây, số lượng nữ sinh phổ thông ở Nhật Bản bán dâm cho người lớn hoặc "tình một đêm" với bạn bè để lấy tiền tiêu ngày càng tăng. Điều đó khiến nhiều người lo lắng về giá trị đạo đức đang ngày càng đi xuống. Để tránh phạm pháp, nữ sinh thường bán dâm qua deai-kei (nghĩa là "điểm gặp gỡ"). Có trường hợp một nam sinh trung học đã dắt mối một cô bé 13 tuổi với giá 712 USD thông qua bảng tin như vậy..
Những nữ sinh bán dâm qua dịch vụ này thường được gọi với tên lóng là JC. Một nam sinh trung học đăng thông tin quảng cáo như sau: "Tuyển một JC ở Kanagawa. Bạn có thể kiếm được rất nhiều tiền, nên bất kỳ ai muốn hẹn hò thì hãy đến với tôi". Nam sinh này từng dắt mối một nữ sinh 16 tuổi với giá 475 USD. Nhiều trạm điện thoại gần nhà ga xe lửa dán đầy số điện thoại và ảnh nữ sinh phổ thông. Trong số họ, không ít đến từ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Một khảo sát của Hiệp hội Giáo viên và Phụ huynh học sinh Nhật Bản đối với 3.600 thiếu niên 14-15 tuổi cho thấy, 1/4 em gái thừa nhận thường xuyên gọi điện tới các câu lạc bộ môi giới Enjo kosai..
Cảnh sát Nhật Bản vẫn giám sát những địa điểm hẹn hò như vậy. Tuy nhiên, cũng giống mại dâm ở nhiều nước khác, những địa điểm này vẫn hoạt động với nhiều chiêu lách luật. Một điều may mắn là nữ sinh Nhật Bản rất thành thạo việc sử dụng bao cao su từ khi còn rất trẻ. Dù vậy, bao cao su chỉ hạn chế chứ không thể ngăn ngừa hết các nguy cơ lây bệnh, nên các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở Nhật Bản đang dần tăng lên.
Ngược lại, các geisha truyền thống Nhật là những phụ nữ được đào tạo chuyên nghiệp để giúp tiêu khiển cho đàn ông nhưng là bằng nghệ thuật và thi ca, họ không bán dâm như nhiều người lầm tưởng ("xem bài Geisha").
Năm 2012, để nâng cao hiệu quả của công tác phòng chống mại dâm, chính phủ Nhật Bản đã ra luật thưởng 900 USD tiền mặt cho những ai cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng về các đường dây mại dâm. Theo hồ sơ của Cục Cảnh sát Quốc gia của Nhật Bản, trong số 85 người mang quốc tịch nước ngoài bị bắt vì các tội liên quan mại dâm năm 2007, có tới 43,5% là người Trung Quốc đại lục, 15,3% là người Thái Lan, hơn 7,2% là người Đài Loan, 7,2% là người Hàn Quốc. | 1 | null |
Người Thracia ( "Thrāikes", , tiếng Anh: "Thracians") là một nhóm các bộ lạc Ấn-Âu từng sinh sống ở một vùng rộng lớn ở Trung và Đông Nam Âu. Họ nói thứ ngôn ngữ riêng là tiếng Thracia - một nhánh phi chính thức của ngữ hệ Ấn-Âu. Ngành nghiên cứu người Thracia và văn hóa Thracia gọi là "Thracia học" (Thracology).
Lịch sử.
Tư liệu sớm nhất nhắc tới người Thracia là trong Illiad, trong đó họ về phe với người Troy trong cuộc chiến thành Troy. Họ sống thành các bộ lạc, cư ngụ trên các định đồi ở miền Thracia và không ưa lối sống đô thị. Người Hy Lạp đã đến miền này lập thuộc địa từ thế kỉ 8 trước CN. Dân số họ gia tăng nhanh, sử gia Herodotus ở thế kỉ 5 tr.CN đã xem họ là dân tộc đông đúc thứ nhì trên toàn thế giới (thế giới mà ông biết đến). Nổi tiếng là có nhiều chiến binh mạnh mẽ, tuy nhiên sự thiếu đoàn kết đã cản trở họ lập nên một nhà nước thống nhất mà nếu hiện thực sẽ là một đế quốc hùng mạnh nhất; ngoại trừ một vài vương quốc nhỏ từng có thời hùng mạnh như vương quốc Odrysia ở Thracia và vương quốc Dacia ở Burebista. Người Thracia lần lượt bị Macedonia và La Mã chinh phục. Sau khi vua Rhometalces III của vương quốc Sapes của người Thracia bị ám sát vào năm 46, miền đất này chính thức trở thành một tỉnh La Mã. Dân tộc Thracia dần dần bị Hy Lạp hóa và La Mã toàn bộ. | 1 | null |
Trận Kohima là bước ngoặt của Nhật Bản tấn công vào Ấn Độ vào năm 1944 trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trận chiến đã được diễn ra từ ngày 4 tháng 4 đến ngày 22 tháng 6 năm 1944 xung quanh thị trấn Kohima ở phía đông bắc Ấn Độ. Nó thường được gọi là "Stalingrad của phương Đông".
Các trận chiến diễn ra trong ba giai đoạn. Giai đoạn 1 bắt đầu từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 4, người Nhật đã cố gắng để nắm bắt sườn núi Kohima, một tính năng mà thống trị đường mà bị bao vây quân của Quân đoàn IV tại Imphal Anh và Ấn Độ đã được cung cấp. Đến giữa tháng Tư, lực lượng nhỏ của Anh ở Kohima thấy nhẹ nhõm, và từ ngày 18 tháng 4, quân tiếp viện của Anh và Ấn Độ tấn công xe của Nhật Bản đã rời khỏi các vị trí họ đã chiếm được. Người Nhật từ bỏ sườn núi vào thời điểm này nhưng vẫn tiếp tục chặn đường Kohima-Imphal. Từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 22 tháng Sáu, quân đội Anh và Ấn Độ đuổi theo quân đội Nhật Bản đang rút lui và mở cửa trở lại con đường. Trận đánh kết thúc vào ngày 22 tháng 6 khi quân đội Anh và Ấn Độ từ Kohima và Imphal gặp nhau tại mốc 109, kết thúc cuộc vây hãm Imphal. | 1 | null |
Trường Đại học Bard Berlin (tiếng Anh: "Bard College Berlin"; tên cũ "European College of Liberal Arts" - Trường Đại học Khai phóng châu Âu) là một trường đại học giáo dục khai phóng, tại thành phố Berlin, Cộng hòa Liên bang Đức. Trường được thành lập năm 1999 với hình thức ban đầu là một tổ chức phi lợi nhuận. Theo giáo sư Martha Nussbaum, ECLA of Bard là một trong những trường đại học tại châu Âu đã đưa mô hình giáo dục khai phóng vào hiện thực ở châu Âu. Sinh viên, giảng viên và nhân viên của trường đến từ nhiều nơi trên thế giới. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong giảng dạy ở nhà trường.
Lịch sử.
ECLA được sáng lập vào năm 1999 dưới sự lãnh đạo của Stephan Gutzeit. Chủ nhiệm khoa đầu tiên là Erika Anita Kiss. Chương trình học đầu tiên mà ECLA giới thiệu là Khóa học mùa hè Quốc tế kéo dài 6 tuần. Hai năm sau, chương trình học: Academy Year (chương trình nền tảng) và Project Year (chương trình dự án) được ra đời. Tháng 10 năm 2010, ECLA giới thiệu chương trình học mới là Bachelor in of Arts in Value Studies (Bằng cử nhân Nghiên cứu về Khoa học xã hội). Tháng 11 năm 2011, ECLA sáp nhập vào Đại học Bard có trụ sở tại New York, Hoa Kỳ và trở thành một cơ sở của Đại học Bard tại châu Âu.
Chương trình đào tạo.
Đại học Khai phóng châu Âu có ba chương trình học sau: | 1 | null |
Danh sách này dựa trên website của OFC.
Bảng A.
Vanuatu.
Huấn luyện viên: Percy Avock
New Caledonia.
Huấn luyện viên: Alain Moizan
Samoa.
Huấn luyện viên: Malo Vaga
Tahiti.
Huấn luyện viên: Eddy Etaeta
Bảng B.
Fiji.
Huấn luyện viên: Juan Carlos Buzzetti
New Zealand.
Huấn luyện viên: Ricki Herbert
Solomon Islands.
Huấn luyện viên: Jacob Moli
Papua New Guinea.
Huấn luyện viên: Frank Farina | 1 | null |
Viện bảo tàng Đức (, viết tắt Das Deutsche Museum) ở München là viện bảo tàng khoa học thiên nhiên và kỹ thuật lớn nhất thế giới. Có 28 ngàn vật thể từ 50 ngành của khoa học thiên nhiên và kỹ thuật được trưng bày tại đây. Mỗi năm có khoảng 1,5 triệu người viếng thăm bảo tàng viện này.
Viện này thuộc nhà nước và cũng là nơi nghiên cứu; thành viên của liên hội Leibniz.
Viện bảo tàng được sáng lập vào ngày 28 tháng 6 năm 1903 tại một buổi họp của Verein Deutscher Ingenieure (VDI) theo sáng kiến của Oskar von Miller.
Mục đích.
Mục đích của Viện bảo tàng Đức là mang lại cho người dân bình thường những kiến thức về khoa học thiên nhiên và kỹ thuật một cách dễ hiểu và sống động. Quan khách được thấy lịch sử phát triển của khoa học thiên nhiên và kỹ thuật, cũng như là tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của kỹ thuật và xã hội qua những ví dụ được lựa chọn kỹ lưỡng. Ngoài ra còn có một kho tàng nghiên cứu với 94 ngàn vật thể, một thư viện đặc biệt về lịch sử của khoa học thiên nhiên và kỹ thuật với 850 ngàn cuốn và những phòng dự trữ với những tài liệu nguyên bản đặc biệt. Viện nghiên cứu về lịch sử kỹ thuật và khoa học của Viện bảo tàng Đức làm việc chung với đại học Ludwig-Maximilians và đại học kỹ thuật München. Cơ quan Kerschensteiner-Kolleg tổ chức những khóa học bổ túc cho giáo viên và học sinh về lịch sử của khoa học thiên nhiên và kỹ thuật.
Vị trí.
Tòa nhà chính.
Viện bảo tàng Đức nằm ở đảo Viện bảo tàng (Museumsinsel), một bờ sỏi cũ trên sông Isar. Từ thời trung cổ hòn đảo này đã là chỗ cho bè đậu và chỗ chứa vật liệu. Vì nguy cơ bị lụt nên chỗ này không được xây cất. Cho tới năm 1772 một trại lính mới được xây. Sau nạn lụt vào năm 1899 thì đảo được nâng cấp để khỏi bị nạn lụt. Năm 1903 hội đồng thành phố đồng ý cho thuê đất để xây bảo tàng viện. Cho tới năm 1909 mới thực sự bắt đầu xây. Bị ngưng trệ vì thế chiến thứ Hai bảo tàng viện mất gần 20 năm mới được xây xong theo như họa đồ của kiến trúc sư Gabriel von Seidl. Ngay cả khi khai mạc vào 7 tháng 5 năm 1925, cuộc xây cất vẫn chưa hoàn tất.
Chi nhánh.
Ngoài trung tâm chính ở đảo Viện bảo tàng còn có 3 chi nhánh:
Làm việc chung với thành phố Freilassing viện bảo tàng điều hành thế giới đầu tàu hỏa (Lokwelt Freilassing).
Viện bảo tàng Đức tại Bonn.
Viện bảo tàng Đức tại Bonn trưng bày nhiều vật thể và các thí nghiệm của những khoa học gia, kỹ thuật gia và nhà sáng tạo nổi tiếng. Những đề tài chủ yếu là các nghiên cứu và kỹ thuật tại Đức sau 1945.
Trung tâm giao thông.
Trung tâm giao thông (Verkehrszentrum) là chi nhánh của Deutsches Museum ở München. Nó bao gồm 3 tòa nhà mà trước đây là hội chợ ở Theresienhöhe, và triểm lãm những vật thể trong đề tài giao thông và di chuyển. Khai mạc vào tháng năm 2003 với nhà III "Di chuyển và kỹ thuật", tiếp theo vào tháng 10 năm là nhà I "Giao thông thành phố" và nhà II "Văn hóa du lịch".
Flugwerft Schleißheim.
Bảo tàng viện máy bay (Flugwerft Schleißheim) là chi nhánh của Deutsches Museums nằm ở một làng sát bên München tên là Oberschleißheim. Bảo tàng viện máy bay được khai mạc vào ngày 18 tháng 9 năm 1992. Trên chỗ đáp của Schleißheim ("Sonderlandeplatzes Schleißheim") nhiều kiểu mẫu từ ngành hàng không và du hành không gian được trưng bày. Trong đó có nhiều chiếc máy bay, trực thăng, động cơ máy bay. Ngoài ra còn có một khu sửa chữa máy bay, nơi mà quan khách có thể xem các máy bay được tu bổ. Nó nằm một phần ở nơi những tòa nhà đã được tu bổ có từ thời nhóm phi công hoàng gia (1912–1919) và một tòa nhà được xây dựng vào năm 1992 để triển lãm.
Lịch sử.
Lịch sử của viện bảo tàng Đức có thể chia làm 3 giai đoạn: | 1 | null |
Trận Louvain là một trận đánh trong Trận nước Bỉ trên Mặt trận phía Tây trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, đã diễn ra vào ngày 14 tháng 5 năm 1940 ở bên trong và xung quanh thành phố Louvain của Bỉ, như một phần của "Kế hoạch Vàng" của Đệ tam Đế chế Đức ("Fall Gelb" – theo đó quân đội Đức sẽ phát động một cuộc tấn công nhử mồi, nhằm thu hút các lực lượng cơ động của Anh và Pháp về "Vùng đất thấp", trong khi một đội hình thiết giáp hùng mạnh của Đức sẽ đánh thọc vào vùng núi Ardennes ở miền Nam Bỉ và Luxembourg, sau đó chạy đua ra eo biển Anh để tiêu diệt các đơn vị Đồng Minh đã kéo đến tiếp viện cho Vùng đất thấp).
Đối mặt với cuộc tấn công ào ạt của quân đội Đức vào nước Bỉ và sự thất thủ của pháo đài Eben-Emael, phần lớn quân đội Bỉ đã triệt thoái về tuyến phòng thủ Dijle, giữa Antwerp và Namur ở miền Trung Bỉ vào ngày 13 tháng 5 năm 1940, trong khi "Lực lượng Viễn chinh Anh" đã án ngữ tại tuyến Dijle kể từ đêm ngày 10 tháng 5. Ở cánh trái của mình, hệ thống phòng ngự của quân viễn chinh Anh chấm dứt tại thị trấn đại học Louvain – một thị trấn đã bị tàn phá nặng nề vào năm 1914. Vào ngày 14 tháng 5, binh lính của Bỉ và Anh đã nhìn thấy người Đức ở phía trước tuyến phòng thủ Dijle. Tướng Walter von Reichenau – người chỉ huy của Tập đoàn quân số 6 của Đức – hoạt động ở cánh phải Cụm tập đoàn quân B do tướng Feodor von Bock điều khiển – đã được lệnh tiến công khu vực Louvain - Namur và đây là mũi tiến công chính của Đức tại tuyến phòng ngự Dijle. Quân Bỉ cùng với Sư đoàn số 3 của Anh dưới sự chỉ huy của tướng Bernard Montgomery đã cầm cự được tại Louvain trong vòng vài ngày trước mũi tấn công của quân Đức vào Louvain: Vào ngày 15 tháng 5, Quân đoàn XI của Đức do Kortzfeisch chỉ huy tấn công mãnh liệt vào Louvain và thọc sâu đến trạm xe lửa; tuy nhiên, Montgomery đã phát động một đợt phản công thắng lợi, chặn được mọi nỗ lực của Bock nhằm đánh chiếm Louvain. Trái ngược với chiến sự tại Louvain, ở Wavre quân đội Anh bị buộc phải rút lui do cánh trái của Tập đoàn quân số 1 của Pháp đã bị quân đội Đức đẩy lùi đến sông Lasne.
Cuộc phòng ngự Louvain đã góp phần cho thấy khả năng chỉ huy của Montgomery. Tuy nhiên, đến cuối ngày 15 tháng 5 năm 1940, các sự kiện về phía Nam Namur đã cho thấy là quân đội Đồng Minh không thể giữ nổi tuyến Dijle (Xem thêm bài Trận Sedan (1940) để biết về cuộc đột phá của quân Đức tại Pháp). Vào ngày 16 tháng 5, toàn bộ quân Đồng Minh tại tuyến phòng ngự Dijle đã được lệnh triệt thoái. Trong trận chiến tại Louvain, thư viện của trường Đại học Louvain đã từng trúng đạn pháo của Đức và bị cháy rụi (ngoại trừ vài ngàn tập sách). Quân đội Đức đã tiến vào thị trấn này trong ngày 17 tháng 5. | 1 | null |
Quang Thọ (tên đầy đủ là Nguyễn Quang Thọ, sinh ngày 3 tháng 12 năm 1948, quê ở Quảng Ninh), là một ca sĩ giọng baritone và giảng viên thanh nhạc người Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.
Thân thế.
Quang Thọ chào đời vào ngày 3 tháng 12 năm 1948. Ông sinh ra ở Hạ Long, Quảng Ninh trong một gia đình đông con. Ông nội Quang Thọ đến từ Kim Động, Hưng Yên ra Hòn Gai lập nghiệp. Bố Quang Thọ là thợ điện của nhà máy cơ khí Cẩm Phả.
Năm lên 4 tuổi, gia đình ông chuyển đến sống tại Cẩm Phả. Sau khi vừa học hết lớp 8 (hệ 10 năm), gia đình khuyên ông nên nghỉ học để đi làm, gánh vác bố mẹ nuôi các em. Thời đi học, vì điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên không thể đưa đi khám để chẩn đoán bệnh nên Quang Thọ cố chịu đựng và vẫn đến trường học bình thường cùng các bạn, đến khi sức đề kháng của cơ thể trở nên yếu, ông bị ngất xỉu. Gia đình đưa đến bệnh viện thì bác sĩ kết luận ông bị xuất huyết dạ dày. Là anh cả trong nhà, Quang Thọ buộc phải tạm gác lại việc học, xin việc tại phòng Cơ điện của Mỏ than Cọc Sáu. Ông phải khai trước 2 tuổi để đủ điều kiện làm công nhân mỏ than. 17 tuổi ông bắt đầu là ca sĩ bán chuyên nghiệp.
Sự nghiệp.
Vùng mỏ thời chiến tranh Việt Nam gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trải nghiệm làm việc tại đây giúp ông thể hiện thành công nhiều ca khúc về đề tài người thợ mỏ, Quang Thọ cho biết năm 1964, khi ông đang biểu diễn, hai chiếc máy bay của Đế quốc Mỹ bị bắn hạ. Khi đó ông biểu diễn cùng một số nghệ sĩ ở một đồi pháo thì bất ngờ có tiếng còi báo động vang lên. Đó là lần đầu tiên, Không Quân Mỹ xuất hiện ở miền Bắc Việt Nam. Mọi người nhanh chóng nhảy xuống giao thông hào. Quang Thọ ngoái đầu nhìn phía trong rừng thì thấy một chiếc máy bay sà xuống ngay trên đầu, rồi lao xuống vịnh Bái Tử Long. Với công việc là thợ mỏ, ông thừa nhận không chính thức là người thợ lò nhưng đã từng chui vào những cái lò chỉ đủ chỗ 2 đến 3 người chui lọt vào để hát.
Đầu năm 1971, khi đang là công nhân bậc bốn, ông bỏ nghề và rời Quảng Ninh, để đi dọc dãy Trường Sơn. Ông gia nhập đoàn văn nghệ xung kích vùng mỏ. Quang Thọ mang theo đàn guitar biểu diễn phục vụ chiến sĩ Việt Cộng đóng quân ở miền Nam, thậm chí là sang cả Lào và Campuchia. Sau 2 năm hoạt động văn nghệ tích cực, ông được cử đi đào tạo tại Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Người thầy thanh nhạc đầu tiên của là Lô Thanh, lúc đó là một giảng viên vừa đi học ở Trung Quốc về.
Sau khi tốt nghiệp, Quang Thọ trở thành nghệ sĩ đơn ca của Nhà hát Ca múa Nhạc Việt Nam. Tại đoàn Ca múa nhạc Việt Nam, nghệ sĩ này đã lưu diễn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ông cũng đã biểu diễn ở hầu hết các nước cộng hòa thuộc Liên Xô với khả năng hát tiếng Nga tốt. Tuy vậy ông đều không có cơ hội đến Ý dù đã có dự định sang đó 3 lần. Năm 1983, Quang Thọ tham gia đoàn Ca nhạc nhẹ biểu diễn ở Thái Bình. Ông suýt chết khi mảng nóc sân khấu tôn xi măng đổ sụp.
Năm 2002, Quang Thọ cho biết sẽ tham gia đóng vai chính trong vở nhạc kịch nổi tiếng của Mozart "Don Giovanni". Quang Thọ còn có niềm say mê viết. Ông đã viết kịch bản phim "Âm vang lá đỏ." Năm 2008, nghệ sĩ đánh dấu sự nghiệp 40 năm ca hát của mình bằng album "Quang Thọ - 40 năm ca hát".
Năm 2012, Quang Thọ gặp tai nạn trong khi biểu diễn ở Côn Đảo. Ông cho biết sau khi biểu diễn xong tiết mục của mình tại sân khấu ngoài trời thì bị bước hụt, ngã xuống sàn xi măng nhưng lấy tay đỡ khiến cổ tay gãy, mặt bị xước. Ngay sau đó, ông phải chụp X quang rồi bó bột. Ông còn phải nẹp 3 đinh vít vì gãy xương quai. Sự cố đã khiến ông phải dừng chuyến biểu diễn ở Lào và nhờ Trọng Tấn biểu diễn hộ. Ngày 14 tháng 10 năm 2013, Quang Thọ đã tổ chức một đêm nhạc đặc biệt trên chính quê hương của mình đánh dấu những năm tháng hoạt động nghệ thuật của ông, đồng thời cũng chính là sự tri ân mà ông dành tặng Quảng Ninh nhân dịp Kỷ niệm 50 năm thành lập tỉnh. Năm 2018, Quang Thọ làm live show âm nhạc đầu tiên ở tuổi 70 tại Cung Văn hóa Hữu nghị cùng với các học trò mang tên "Hãy về với anh". Năm 2019, trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh Triều Tiên – Hoa Kỳ tại Hà Nội, Quang Thọ hát "Bài ca trung thành", là ca khúc mà ông đã đoạt cúp Vàng tại Liên hoan nghệ thuật quốc tế Mùa xuân Bình Nhưỡng năm 1989.
Ở tuổi 70, ông vẫn liên tục tham gia biểu diễn ở khắp các tỉnh từ Quảng Ninh, Hà Nội đến Hưng Yên. Sau cơn tai biến năm 2020 ông tiếp tục tỏ ra bận rộn với sự nghiệp ca hát và dạy hát của mình.
Bạn diễn.
Ông cho biết bạn diễn tâm đắc nhất của ông là Nghệ sĩ nhân dân Lê Dung. Năm 1994, ông và Lê Dung thực hiện chương trình "Một thời và mãi mãi", là một trong những live show đầu tiên tại Việt Nam và mùa đông năm đó được biểu diễn tại Paris. Đêm diễn cuối cùng mà họ biểu diễn chung là năm 1999. Khi Lê Dung bị tai biến, vợ Quang Thọ đã đưa bà vào viện. Ông bày tỏ sự tiếc nuối và xót thương khi Lê Dung qua đời năm 2001.
Nhân kỷ niệm 50 năm Hội Nhạc sĩ Việt Nam thành lập, tổ chức này đã giới thiệu một đĩa nhạc gồm hai giọng hát của họ qua một chương trình được thu trực tiếp, đã được gửi tới các thành viên trong hội. Đây là đêm diễn chung cuối cùng của hai người. Báo "Công an nhân dân" nhận xét "Hai nghệ sĩ vùng mỏ này đã đồng hành suốt nhiều thập kỷ, tạo nên những dấu ấn mãi mãi với thời gian..."
Sự nghiệp giảng dạy.
Năm 1987, Quang Thọ trở thành giảng viên khoa Thanh nhạc của Nhạc viện Hà Nội, đồng thời đảm nhiệm chức trưởng khoa từ năm 2000 đến năm 2008. Quang Thọ là thầy của một số nghệ sĩ đáng chú ý như Đăng Dương, Việt Hoàn, Tùng Dương, Khánh Linh... Năm 2007, ông mở trung tâm đào tạo âm nhạc Quang Thọ và dạy hát cho những người từ 5 tuổi, thậm chí ngoài 60 tuổi. Một nữ ca sĩ đã bày tỏ Quang Thọ là người thầy đầu tiên của cô và giúp cho cô có được sự nghiệp theo con đường âm nhạc chuyên nghiệp.
Giải thưởng.
Lần đầu, Quang Thọ giành được tấm huy chương Vàng trong cuộc đời ca hát tại Hội diễn Ca, Múa, Nhạc chuyên nghiệp toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức năm 1980 tại Hà Nội. Sau đó, ông giành được huy chương Vàng trong các hội diễn toàn quốc nhiều năm, giải thưởng lớn trong các cuộc thi quốc tế như giải Nhất cuộc thi Tiếng hát Sinh viên Thế giới tại Đức, giải thưởng Liên hoan Ca nhạc tại Mông Cổ. Năm 1993, ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú. Ở tuổi 53, ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.
Nhận định.
Theo báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quang Thọ là một trong số ít ca sĩ thế hệ đầu của thanh nhạc Việt Nam trưởng thành từ phong trào âm nhạc quần chúng. Theo đó, tiếng hát của được nhận xét là "ghi dấu trong lòng đông đảo công chúng" nhờ vào "sự đổi thay cung bậc cảm xúc trong tiếng hát của ông" mà khán giả "phần nào cảm nhận được". Ông cũng được coi là một trong những "giọng ca hàng đầu" của dòng nhạc cổ điển, là nguồn gốc của thính phòng cổ điển tại quốc gia này.
Theo một tờ báo ghi nhận, Quang Thọ sở hữu giọng baritone có tính chất "dày, ấm". Tên tuổi của Quang Thọ gắn liền với hàng loạt tác phẩm nổi tiếng với công chúng Việt Nam như "Trường ca Sông Lô" (Văn Cao), "Hướng về Hà Nội" (Hoàng Dương), "Tôi là người thợ lò" (Hoàng Vân), "Tình ca" (Hoàng Việt)...
Quan điểm nghệ thuật.
Đứng trước thực trạng loạn danh xưng giữa những người hoạt động nghệ thuật tại showbiz Việt Nam, Quang Thọ bày tỏ ca sĩ dù được đào tạo bài bản đâu hay tự học thì "cũng phải nghiêm túc", đồng thời nhấn mạnh những ca sĩ "nổi lên nhờ công nghệ lăng xê, nếu là ảo thì chỉ được một thời nhất định, là thật thì sẽ sống mãi".
Trước quan điểm là một nhà giáo, ông bày tỏ trách nhiệm của những thế hệ đi trước như ông là hướng cho các học sinh hiểu và biết những gì mà dân tộc Việt, đất nước Việt Nam ta đã trải qua, để giúp học sinh "cảm nhận và thể hiện các tác phẩm được sâu lắng hơn."
Đời tư.
Quang Thọ kết hôn với Ngọc Thanh, một diễn viên múa của Câu lạc bộ Thành đoàn vào năm 1985. Hiện nay Quang Thọ và vợ đang sống ở Hà Nội.
Cuộc hôn nhân của Quang Thọ và vợ có hai người con trai tên là Nguyễn Quang Tú và Nguyễn Quang Tùng đều làm trong ngành nghệ thuật, hiện cả hai người con trai đều đã lập gia đình. Họ đều tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, trong đó Quang Tú, con trai đầu lòng (sinh năm 1985), đã hoàn thành bậc học thạc sĩ năm 2017. Từ năm 2010 đến nay anh còn được biết đến với vai trò thành viên nhóm Dòng Thời Gian. Quang Tùng, con trai thứ hai (sinh năm 1987), đã tốt nghiệp chuyên ngành guitar hệ đại học năm 2012. Ngày 7 tháng 5 năm 2015, nhân kỷ niệm 30 năm ngày cưới của mình, Quang Thọ và vợ quyết định tổ chức đám cưới đôi cho 2 con trai và trở thành một chương trình biểu diễn nghệ thuật với nhiều ca sĩ nổi tiếng tham gia.
Sức khoẻ.
Quang Thọ từng được chẩn đoán phát hiện bạch cầu lên cao khi thử máu theo định kỳ. Tại bệnh viện Việt Đức, đã có chỉ định mổ để nạo u tiền liệt tuyến. Tuy vậy sau khi nghiên cứu kỹ hồ sơ bệnh án, các bác sĩ quyết định điều trị nội khoa bằng thuốc đặc trị của Pháp. Sau một tháng rưỡi uống thuốc, khối u chỉ còn 1/3 trọng lượng so với trước và các chỉ số khác đã về vị trí an toàn.
Hơn 1 tháng trước ngày sinh nhật tuổi 72, Quang Thọ bất ngờ gặp tai biến nhưng đã may mắn khỏi bệnh sau 33 ngày nằm trên giường bệnh. Ông chia sẻ, cơn tai biến này không chạm vào trí nhớ và dây thanh đới nên không ảnh hưởng đến giọng hát. | 1 | null |
Bạo chúa (tiếng Hy Lạp: , "tyrannos") ban đầu là một người sử dụng sức mạnh của dân chúng một cách trái với thông lệ để chiếm đoạt và kiểm soát quyền lực của chính phủ trong một thành bang. Bạo chúa là một nhóm các cá nhân xuất hiện trên nhiều thành bang Hy Lạp trong cuộc nổi dậy lật đổ chính phủ quý tộc của tầng lớp trung lưu vào thế kỷ VI và VII TCN. Plato và Aristotle định nghĩa một bạo chúa là một trong những người cai trị không có luật pháp,mà chỉ dựa vào lợi thế của riêng mình và sử dụng những biện pháp cực kỳ tàn bạo để đàn áp và chống lại dân chúng cũng như những kẻ khác".
Theo Plutarchus thì chính sự phẫn uất của người nghèo chống lại sự kiêu ngạo của người giàu sẽ trao quyền lực vào tay một kẻ độc tài để tiến hành những cải cách xã hội. Được những kẻ ăn bám và những kẻ tội phạm ủng hộ, bè phái của tên bạo chúa sẽ giết chết bất cứ ai dám đe dọa quyền lực của hắn bất chấp công lý. Dưới quyền lực của tên bạo chúa, không có cuộc sống và tài sản nào được an toàn. Không ai dám nổi dậy vì đội quân của tên bạo chúa sẽ đè bẹp bất cứ ai đứng ngoài đám đông. Lòng nhiệt tình và sự đổi mới bị tê liệt vì nỗi sợ hãi, xã hội phát triển chậm chạp về kỹ thuật, tư tưởng bị tù túng và nghệ thuật khô cứng.
Từ nguyên học.
Thời Hy Lạp cổ đại, bạo chúa là những kẻ cơ hội đã lợi dụng ảnh hưởng để chiếm đoạt quyền lực bằng cách được đảm bảo sự hỗ trợ từ các phe phái khác của một deme (tương tự như một quận của thành bang). Từ "tyrannos" có thể bắt nguồn từ trước thời đại Hy Lạp, Pelasgia hoặc xuất xứ từ phương Đông. Danh từ "bạo chúa" (tyrant) trong tiếng Anh mượn từ tiếng Pháp xuất hiện ở nước Anh thời kỳ Trung Cổ vào khoảng thập niên 1290. Từ này có nguồn gốc từ tyrannus trong tiếng Latinh, có nghĩa là "người cai trị bất hợp pháp", trong tiếng Hy Lạp τύραννος nghĩa là "vua, người cai trị một thành bang". Chữ -t cuối cùng lấy từ tiếng Pháp cổ xưa bằng cách kết hợp với các phân từ hiện tại trong vần -ant. Tự thân tiếng Hy Lạp cũng vay mượn từ này cùng một nguồn, có vẻ như là mượn từ một phạm vi ngữ nghĩa. Suy đoán về nguồn gốc vùng Tyrrhenia có mối liên hệ tên thần Turan đến Venus của người Etrusca (có lẽ từ một tính ngữ "*Quý Bà" kết hợp với Atunis "*Lãnh chúa") và từ thiểu số của chính Tyrrhenia. | 1 | null |
Trước thời kỳ của nền dân chủ, bạo chúa và những chấp chính quan Athena, thành bang Athena được cai trị bởi những vị vua. Hầu hết trong số này có thể là huyền thoại hoặc chỉ đúng một nửa lịch sử. Danh sách dưới đây dựa trên nguồn tài liệu của sử gia kiêm Giám mục Thiên Chúa giáo sống vào thế kỷ IV là Eusebius xứ Caesarea đưa ra.
Vua Athena.
Sơ khai.
Ba vị vua được cho là đã cai trị thành bang trước trận lũ lụt trong huyền thoại về Deucalion.
Truyền thuyết.
Cecrops được coi là vị vua thật sự đầu tiên của Athena, dù theo truyền thuyết ông là nửa người nửa rắn. Niên đại các đời vua sau đây được các nhà sử học của thời kỳ Hy Lạp hóa phỏng đoán mấy thế kỷ sau bằng cách tham khảo các nguồn tài liệu cổ xưa như cuốn Biên niên sử xứ Parian. Không những vậy mà hiện nay ngành niên đại học đã có thể xác minh về mặt khoa học. Truyền thống nói rằng vua Menestheus đã tham gia vào cuộc chiến thành Troy, và Codrus, vị vua cuối cùng, là một trong những người đã đẩy lùi cuộc xâm lược Attica của người Dorian.
Cuối cùng.
Melanthus đã bị đuổi khỏi vương quốc của mình ở Pylos sang Athena sống lưu vong, tại đây chính Thymoestes đã tự mình nhường ngôi cho ông.
Sau khi Codrus mất, hai người con của ông là Medon và Acastus đều nối ngôi vua, hoặc trở thành những chấp chính quan cha truyền con nối. Vào năm 753 TCN, tước vị chấp chính quan cha truyền con nối đã được thay thế bằng một hệ thống không thừa tự (xem thêm Quan chấp chính Athena) | 1 | null |
Siracusa (Gr. Συρακοῦσαι) là một thành bang Hy Lạp cổ đại, nằm trên bờ biển phía đông đảo Sicilia. Thành phố được thành lập bởi những người định cư từ Corinth vào năm 734 TCN hoặc 733 TCN và bị người La Mã chinh phục vào năm 212 TCN, về sau trở thành trung tâm thiết lập quyền cai trị của người La Mã ở Sicilia. Trong suốt lịch sử thành bang này đã từng là một thành phố độc lập bị thống trị bởi một loạt bạo chúa, chỉ với một khoảng thời gian ngắn ngủi của nền dân chủ và chính thể đầu sỏ. Thi sĩ Pindar trong các bài thơ ca ngợi của ông đã gọi những bạo chúa Sicilia (người chiến thắng cuộc đua chiến xa) trong các trò chơi Olympic và Pythian là vua, vào năm 304 TCN, Agathocles đã tự mình chấp nhận tước hiệu tuyệt đối của một vị vua (basileus).
Bạo chúa Siracusa.
Sau khi bị người La Mã đánh bại tại trận Cannae, Hieronymus đã gia nhập vào một liên minh với Hannibal, mà cuối cùng sẽ quyết định số phận của thành phố về mặt chính trị. Kết quả là Carthage nhận được sự hỗ trợ từ Syracuse, khiến cho người La Mã dưới quyền Marcus Claudius Marcellus đã bắt đầu bao vây thành phố này vào năm 214 TCN. Thành phố đã cầm cự cho đến tận năm 212 TCN, khi có tin đồn rằng những người La Mã đã bí mật dàn xếp cho phép một đảng phái thuộc phe chủ hòa ở Syracuse lên tiếp quản thành phố và kể từ đó chính thức đặt dưới quyền thống trị của người La Mã. | 1 | null |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.