text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Chuột bóng (danh pháp hai phần: Rattus nitidus) là một loài động vật có vú trong họ Chuột, bộ Gặm nhấm. Loài này được Hodgson mô tả năm 1845.
Loài chuột này sinh sống tại khu vực từ đông bắc Namn Á tới Đông Nam Á, bao gồm Bhutan, miền trung, đông và nam Trung Quốc (bao gồm cả đảo Hải Nam), Ấn Độ, Lào, Myanma, Nepal, Thái Lan, Việt Nam và có lẽ có ở Bangladesh. Tại các khu vực như Indonesia, Palau, Philippines thì nó là loài nhập nội. Tại Nam Á, nó sinh sống ở độ cao từ 686 tới 2.740 m trên mực nước biển. | 1 | null |
Chuột nhà hay chuột nhà châu Á, chuột nhà phương Đông, chuột Tanezumi (danh pháp hai phần: Rattus tanezumi) là một loài động vật có vú trong họ Chuột, bộ Gặm nhấm. Loài này được Temminck mô tả năm 1844.
Cả phạm vi phân bố địa lý bản địa và nhập nội của loài phổ biến rộng này vẫn chưa thật sự rõ ràng.Tuy nhiên, một vài học giả như Musser và Carleton (2005) cho rằng phạm vi phân bố bản địa của loài là từ đông Afghanistan (Niethammer và Martens 1975) qua trung và nam Nepal (ở độ cao dưới 2.000 m trên mực nước biển), Bhutan, bắc Ấn Độ, bắc Bangladesh và đông bắc Ấn Độ (quan hệ phân bố của "R. rattus" và "R. tanezumi" dọc theo phần phía bắc tiểu lục địa Ấn Độ vẫn chưa rõ ràng) tới nam và trung Trung Quốc (bao gồm cả đảo Hải Nam), bán đảo Triều Tiên, và Đông Nam Á đại lục (bao gồm cả các đảo ven bờ) về phía nam tới eo đất Kra, và có lẽ cũng là bản địa của quần đảo Mergui. Musser và Carleton (2005) cũng cho rằng hiện tại chưa rõ nó là loài bản địa hay nhập nội tại Đài Loan và Nhật Bản, nhưng khá chắc chắn là loài nhập nội tại bán đảo Mã Lai và các đảo trên thềm lục địa Sunda cùng các quần đảo cận kề, bao gồm cả quần đảo Mentawai (Musser và Califia 1982; Musser và Newcomb 1983). Nó được du nhập vào quần đảo Andaman và Nicobar. Nó cũng du nhập vào Philippines (Heaney và ctv. 1998; Musser và Carleton 2005; Larry Heaney - trao đổi cá nhân). Nó dường như đã được du nhập rộng khắp vào các đảo ở miền nam và đông nam Đông Nam Á, bao gồm các quần đảo Sunda Lớn và Nhỏ, quần đảo Molucca, tới Tây New Guinea (Flannery 1995), và từ đây tới Micronesia và các đảo Eniwetok cùng Fiji (Musser và Carleton 2005).
Loài thích ứng cao này được tìm thấy khá phổ biến trong và xung quanh các làng mạc và các khu đất nông nghiệp. Tại Philippines nó cũng phổ biến trong các khu rừng bị tác động từ hoạt động của con người tại vùng đất thấp và miền núi có độ cao tới 1.800 m (Danielsen và ctv. 1994; Heaney và ctv. 1989). | 1 | null |
Stenocephalemys albipes là một loài động vật có vú trong họ Chuột, bộ Gặm nhấm. Loài này được Rüppell mô tả năm 1842.
Loài này sinh sống ở Ethiopia và Eritrea. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm ướt nhiệt đới và vùng cây bụi nhiệt đới cao.
Đây là một loài có kích thước trung bình nặng khoảng 60 g (2 oz), với chiều dài đầu và thân trung bình là 132 mm (5,2 in) và đuôi là 162 mm (6,4 in). Đôi tai to, tròn và có nhiều lông. | 1 | null |
Stenocephalemys albocaudata là một loài động vật có vú trong họ Chuột, bộ Gặm nhấm. Loài này được Frick mô tả năm 1914.
Nó chỉ được tìm thấy ở Ethiopia. Môi trường sống tự nhiên của nó là vùng cây bụi nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Anomalurus beecrofti là một loài động vật có vú trong họ Anomaluridae, bộ Gặm nhấm. Loài này được Fraser mô tả năm 1852.
Loài này được tìm thấy ở Angola, Cameroon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Liberia, Nigeria, Senegal, Sierra Leone, Togo, Uganda và Zambia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới khô, rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và rừng trồng. Loài này bị đe dọa do mất môi trường sống, nhưng là một loài phổ biến với một phạm vi rộng và Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên đã đánh giá tình trạng bảo tồn là "loài ít quan tâm". | 1 | null |
Springhare Nam Phi "(Pedetes capensis)", hay springhaas trong tiếng Nam Phi là một loài động vật có vú trong Họ Pedetidae, Bộ Gặm nhấm. Loài này được Forster mô tả năm 1778. Đây là một trong hai loài còn tồn tại trong Chi Pedetes, và có nguồn gốc từ miền nam Châu Phi. Trước đây, chi này được coi là một đơn chi, và loài Springhare Đông Phi (Pedetes surdaster) được đưa vào P. capensis. Mặc dù hai loài này trông giống nhau khi nhìn bằng mắt thường, nghiên cứu khoa học có thể dễ dàng nhận biết loài nào là loài nào. | 1 | null |
Springhare Đông Phi ("Pedetes surdaster"), không có họ hàng với thỏ đồng (hare) trong Bộ Thỏ (mặc dù tên chúng có chữ "hare", nghĩa là thỏ đồng). Chúng thực ra là một thành viên của Họ Pedetidae, thuộc Bộ Gặm nhấm.
Phân loại.
"Pedetes surdaster" được Matthee và Robinson ghi nhận là một loài riêng biệt với "P. capensis" vào năm 1997 dựa trên các sự khác biệt di truyền, hình thái và tập tính. "P. capensis" có ít nhiễm sắc thể (2n= 38) hơn "P. surdaster" (2n = 40), và cũng có vài khác biệt khác. Sự khác biệt này được Dieterlen công nhận năm 2005.
Phân bố.
Loài này sống ở miền trung và nam Kenya và hầu khắp Tanzania. Một cá thể duy nhất đã được ghi nhận tại Uganda, ở Moroto, gần biên giới với Kenya. Nó có mặt tại nơi có độ cao ngang mặt nước biển tới hơn 2.000 m.
Mô tả.
"Pedetes surdaster" bề ngoài hơi giống kangaroo nhỏ và kích thước bằng khoảng con thỏ. Nó có màu xám, đôi tai dựng đứng, chi trước rất ngắn và chi sau khỏe. Chúng có thể nhảy xa 2m và có cái đuôi dài giúp giữ thăng bằng.
Tập tính.
Đây là động vật sống về đêm và dành buổi ban ngày trốn trong hệ thống hang của nó. Môi trường sống là đồng cỏ bán hoang mạc. Chế độ ăn gồm phần cây còn xanh, rễ cây và đôi khi cả côn trùng. | 1 | null |
Hystrix africaeaustralis là một loài động vật có vú trong họ Nhím lông Cựu Thế giới, bộ Gặm nhấm. Loài này được Peter mô tả năm 1852.
Đây là loài bản địa trung và nam châu Phi. Nó là loài gặm nhấm lớn nhất ở phía nam châu phi. Loài này dài đến từ đầu đến chân đuôi với đuôi dài . Chúng có cân nặng từ , với trọng lượng cá biệt của mẫu lớn lên đến ; con đực và con cái không khác nhau đáng kể về kích thước. | 1 | null |
Hystrix indica là một loài nhím thuộc họ Nhím lông Cựu Thế giới (Hystricidae). Đây là loài bản địa Nam Á và Trung Đông.
Mô tả.
"H. indica" là một loài nhím lớn, nặng 11–18 kg. Thân mình chúng (từ chóp mũi đến gốc đuôi) dài 70–90 cm, đuôi dài 8–10 cm. Không rõ tuổi thọ của "H. indica" ngoài tự nhiên, nhưng cá thể nuôi nhốt sống lâu nhất là một con cái 27,1 tuổi.
Trên người chúng có nhiều lớp gai; những gai dài, mảnh che trên một lớp gai ngắn và dày. Gai có màu đen với nhiều mảng trắng, làm từ keratin và khá uốn ẻo. Mỗi gai đều nối với bắp thịt, giúp "H. indica" dựng gai lên khi nó thấy mình bị đe doạ. Gai nhím có khi đạt tới 51 cm (20 in), nhưng thường thì dài chừng 15–30 cm. Gai ngắn và cứng mọc tua tủa trên lưng và mông. Những gai ngắn này được dùng để đâm kẻ thù. Trái với quan niệm thông thường, nhím không bắn gai của chúng ra.
Chúng có bàn chân rộng với móng dài để đào hang. Như mọi loài nhím, "H. indica" có khứu giác tốt và một cặp răng cửa sắc bén. | 1 | null |
Cavia intermedia là một loài động vật có vú hiếm trong họ Caviidae, bộ Gặm nhấm. Loài này được Cherem, Olimpio, & Ximenez miêu tả năm 1999.
Hiện tại, loài này thuộc loài cực kỳ nguy cấp, chỉ còn sống ở một số đảo của Brasil ven biển nam Đại Tây Dương ở Nam Mỹ. | 1 | null |
Chuột lang nước nhỏ (danh pháp hai phần: "Hydrochoerus isthmius") là một loài động vật có vú trong họ Caviidae, bộ Gặm nhấm. Loài này được Goldman mô tả năm 1912.
Loài này được tìm thấy ở miền đông Panama, tây bắc Colombia và miền tây Venezuela. Nó đã được công nhận là một phân loài riêng biệt của capybara vào năm 1912, và đã được nâng lên thành trạng thái loài vào năm 1991. Nó sinh sản quanh năm, với một kích cỡ trung bình là 3.5. Cá thể có thể là ban ngày hoặc đêm và đơn độc hoặc xã hội tùy thuộc vào mùa, môi trường sống và áp lực săn bắn. [1] Loài này được báo cáo là phổ biến ở Panama nhưng hiếm ở Venezuela. Nó đang bị đe doạ bởi săn bắn tự cung tự cấp, sự tàn phá của các khu rừng trong hồ và thoát nước đầm lầy, đặc biệt là việc thoát nước đầm lầy của sông Magdalena. Karyotype của nó có 2n = 64 và FN = 104. | 1 | null |
Kerodon rupestris là một loài động vật gặm nhấm đặc hữu miền đông Brazil, từ Piauí đến Minas Gerais. Đây là một loài du nhập trên quần đảo Fernando de Noronha.
Mô tả.
"K. rupestris" khá nặng đối với một loài gặm nhấm, đạt đến , và như những loài cùng họ Caviidae, đuôi chúng chỉ còn là vết tích. Mặt lưng của chúng màu xám, còn mặt bụng thì nâu nhạt. Chúng thuộc phân bộ Hystricomorpha, tức chúng có cơ hàm kiểu nhím lông. | 1 | null |
Abrocoma boliviensis là một loài động vật có vú trong họ Abrocomidae, bộ Gặm nhấm. Loài này được Glanz & Anderson mô tả năm 1990.
Phân bố.
Loài này chỉ được tìm thấy ở Manuel María Caballero, Bolivia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi đá của các khu rừng mây trong lãnh thổ Bolivia. Chúng ăn thực vật và sống trong hang. | 1 | null |
Abrocoma budini là một loài động vật có vú trong họ Abrocomidae, bộ Gặm nhấm. Loài này được Thomas mô tả năm 1920.
Phân bố và phân loại.
Loài này chỉ được tìm thấy ở Argentina, việc phân loại loài này từng dựa vào một tiêu bản duy nhất. Năm 2002, Braun và Mares ở Đại học Oklahoma đã xem xét tiêu bản và xác nhận nó là một loài riêng biệt. Tên loài được đặt theo tên Emilio Budin, một nhà thu thập tiêu bản làm việc cùng với Oldfield Thomas. | 1 | null |
Dactylomys peruanus là một loài động vật có vú trong họ Echimyidae, bộ Gặm nhấm. Loài này được J. A. Allen mô tả năm 1900.
Loài này được tìm thấy ở Bolivia và Peru. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Myocastor coypus là một loài động vật có vú trong họ Myocastoridae, bộ Gặm nhấm. Loài này được Molina mô tả năm 1782.
Phân loại học.
Loài này được Juan Ignacio Molina với tên "Mus coypus", trong chi mouse mô tả khoa học đầu tiên năm 1782. Chi "Myocastor" được Robert Kerr xác lập năm 1792 tên gọi có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "mys" và "kastor", hay "mouse-beaver". Geoffroy, một cách độc lập với Kerr, đặt tên cho loài là "Myopotamus coypus",
Có 4 phân loài được công nhận gồm:
"M. c. bonariensis", phân bố ở tận cùng phía bắc của dải phân bố các loài coypu trong vùng cận nhiệt đới, được cho là loài được du nhập phổ biến từ các lục địa khác. | 1 | null |
Thỏ cộc núi Alpes ("Ochotona alpina") (tiếng Anh: Alpine Pika) là một loài động vật có vú nhỏ thuộc Họ Ochotonidae. Phân loài của loài này rất đa dạng, nhưng nói chung, chúng có lông màu nâu sẫm hoặc màu quế, và chuyển thành màu xám vàng nhạt vào mùa đông.
Loài này phân bố ở phía tây Mông Cổ, miền đông Kazakhstan và Nga (Tuva, Irkutsk, Altai và Krasnoyarsk), cũng như ở Trung Quốc (phía bắc Tân Cương và Hắc Long Giang), và ở những vùng núi lạnh lẽo.
Đây là loài hầu như ăn cỏ, chúng chủ yếu ăn rêu, cành cây, hạt thông và thân cây mềm. Chúng có thể phát ra ba loạt âm thanh khác nhau: tiếng kêu dài, tiếng kêu ngắn và tiếng kêu báo động. Chúng được đánh giá là "loài ít quan tâm" trong sách đỏ IUCN. | 1 | null |
Thỏ cộc Helan Shan hay thỏ cộc bạc ("Ochotona argentata") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc được tìm thấy ở một khu vực nhỏ thuộc dãy núi Helan. Nó được liệt kê là "có nguy cơ tuyệt chủng" trong sách đỏ IUCN vào năm 2016. Loài này được Howell mô tả năm 1928. | 1 | null |
Thỏ cộc có cổ ("Ochotona" "collaris") (tiếng Anh: Collared Pika) là một loài động vật có vú trong Họ Ochotonidae của Bộ Thỏ. Chúng là một loài thỏ cộc nhỏ (khoảng 160 g) sống ở các mỏm đá của miền trung và miền nam Alaska (Hoa Kỳ), và ở các vùng của Canada, bao gồm phía bắc Columbia, Yukon và các phần phía tây của lãnh thổ Tây Bắc. Chúng có họ hàng gần với loài Thỏ cộc Mỹ ("O. princeps"), nhưng chúng là một loài chưa có phân loài nào được công nhận. Chúng tránh tương tác với nhau, không ngủ đông, và dành phần lớn thời gian vào mùa hè thu thập thảm thực vật được lưu trữ dưới đá làm thực phẩm cho mùa đông. Một số cá thể đã được quan sát thu thập và ăn chim chết để làm nguồn chất béo và protein. Hàng ngàn chuyến đi được thực hiện trong tháng 7 và tháng 8 để thu thập thảm thực vật cho mùa đông. Loài này được Nelson mô tả năm 1893. | 1 | null |
Thỏ cộc cao nguyên ("Ochotona curzoniae"), còn được gọi là thỏ cộc môi đen, là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ.
Chúng là một loài thú có vú nhỏ không ngủ đông và sống về ban ngày, nặng khoảng 140g khi trưởng thành. Lông chúng có màu nâu đỏ ở phía trên cùng với màu vàng trắng ở dưới bụng.
Chúng ưa sống ở độ cao từ 3.100 đến 5.000 m, chủ yếu ở Cao nguyên Tây Tạng, nơi mà loài này được đạt tên theo. Loài này được tìm thấy ở Trung Quốc, Pakistan, Ấn Độ và Nepal ở các sa mạc núi cao, thảo nguyên và đồng cỏ, cũng như các khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Loài này được Hodgson mô tả năm 1857. | 1 | null |
Thỏ cộc Daurian ("Ochotona dauurica") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Chúng được biết đến với tiếng gọi báo động như "tiếng sủa" của chúng, và với thói quen làm những đống cỏ khô để giúp chúng sống sót qua mùa đông. Có 4 phân loài được công nhận: Ochotona dauurica annectens; O.d. bedfordi; O.d. dauurica và O.d. mursavi. Thỏ cộc Daurian, giống như các loài trong Bộ Thỏ khác, được đặc trưng bởi một bộ răng cửa thứ hai. Chúng là loài đơn hình tình dục, với bộ lông dày màu đỏ. Chúng không có đuôi bên ngoài, và tai chúng to và tròn. Thính giác, một đặc trưng của hộp sọ của loài này nhỏ hơn so với nhiều loài thỏ cộc khác. Điều này được cho là có liên quan đến sở thích môi trường sống ở độ cao khá thấp của chúng. Chúng được coi là loài chủ chốt trong môi trường sống của chúng. Loài này được Pallas mô tả năm 1776. | 1 | null |
Thỏ cộc đỏ Trung Quốc ("Ochotona erythrotis"), (tiếng Anh: Chinese Red Pika) là một loài động vật có vú nhỏ trong Họ Ochotonidae trong Bộ Thỏ. Chúng có chi ngắn, đuôi nhỏ và tai tròn điển hỉnh như các loài thỏ cộc khác. Điều làm loài này nổi bật là màu đỏ đặc sắc trong tấm da của chúng. Thỏ cộc Trung Quốc thường sống ở địa hình đá ở độ cao từ 600 đến 1200 mét, và là loài đặc hữu của các tỉnh Đông Thanh Hải, Tây Cam Túc và Bắc Tứ Xuyên của Trung Quốc, và Đông Tây Tạng. Loài này được Büchner mô tả vào năm 1890. | 1 | null |
Thỏ cộc Forrest ("Ochotona forresti") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Chúng được tìm thấy ở Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ và Myanmar. Lông lưng mùa hè và lông bụng có màu sẫm hoặc nâu đen, và lông lưng mùa đông có màu nâu xám, hơi nhạt hơn so với lông bụng. Chúng là loài hầu như ăn cỏ. Chúng được đánh giá bởi sách đỏ IUCN là "chưa được biết đến nhiều" vào năm 1994, khi "gần bị đe dọa" vào năm 1996, và được đánh giá lại vào năm 2008 là một "loài ít quan tâm". Loài này được Thomas mô tả năm 1923. | 1 | null |
Thỏ cộc Glover ("Ochotona gloveri") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Lông lưng mùa hè của chúng có màu xám ảm đạm, nâu xám, hoặc màu nâu trà. Lông lưng mùa đông tương tự như lông lưng mùa hè, nhưng có tông màu nhẹ hơn. Loài này đặc hữu của Trung Quốc, chúng được tìm thấy ở những khu vực rất cao của vùng đông bắc Tây Tạng, tây nam Thanh Hải, tây Tứ Xuyên và tây bắc Vân Nam. Chúng là loài hầu như ăn cỏ, và được biết là hay làm những đống cỏ khô trong hang để sống xót qua mùa đông. Chúng được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đánh giá là một loài "ít quan tâm". Chúng cũng được đánh giá là "ít quan tâm" trong danh sách đỏ của Trung Quốc. Chúng được mô tả lần đầu tiên vào năm 1922, bởi Michael Rogers Oldfield Thomas. | 1 | null |
Thỏ cộc Himalaya ("Ochotona himalayana") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Chúng được tìm thấy ở các vùng xa xôi rất cao của Tây Tạng và có thể cả ở Nepal. Sách đỏ IUCN đã đánh giá loài này là "ít quan tâm". Loài này được Feng mô tả năm 1973. | 1 | null |
Thỏ cộc Tần Lĩnh (tên khoa học: Ochotona huangensis) là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Chúng rất ít được biết đến.
Chúng hiếm khi được tìm thấy, và là một trong 6 loài thỏ cộc đặc hữu ở miền trung Trung Quốc. Vẫn chưa có nghiên cứu thực sư nào về số lượng quần thể của chúng. Loài này được Matschie mô tả năm 1908.
Phân bố.
Là loài đặc hữu của vùng núi ở miền trung Trung Quốc. Chúng sinh sống trong những khu vực rừng và cây bụi miền núi ở Tần Lĩnh, trong phạm vi các tỉnh Thiểm Tây và Thanh Hải. | 1 | null |
Thỏ cộc phương Bắc ("Ochotona hyperborea") là một loài thỏ cộc được tìm thấy trên khắp các vùng núi phía bắc Châu Á, từ dãy núi Ural đến miền bắc Nhật Bản và phía nam Mông Cổ, Mãn Châu và miền bắc Hàn Quốc. Con trưởng thành có chiều dài cơ thể từ 12.5 đến 18.5 cm (4.9 đến 7.3 in), và đuôi dài 0.5 đến 1.2 cm (0.20–0.47 in). Chúng rụng lông hai lần mỗi năm, mang một lớp lông màu nâu đỏ vào mùa hè và màu nâu xám vào mùa đông. Chúng ăn các loài thực vật khác nhau, và làm những "đống cỏ khô" trong hang để sử dụng vào mùa đông. Loài này được Pallas mô tả năm 1811. | 1 | null |
Thỏ cộc Ili ("Ochotona iliensis") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ, đặc hữu của vùng tây bắc Trung Quốc. Sau khi được phát hiện vào năm 1983, chúng đã không được ghi nhận lại cho đến năm 2014. Số lượng của chúng đang giảm dần, có thể là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Thỏ cộc Ili hiện được coi là loài có "nguy cơ bị tuyệt chủng", chỉ còn khoảng dưới 1.000 cá thể. Loài này được Li & Ma mô tả năm 1986. | 1 | null |
Thỏ cộc Koslov hay thỏ cộc Kozlov ("Ochotona koslowi") (tiếng Anh: Koslov's Pika) là một loài động vật có vú nhỏ trong Họ Ochotonidae của Bộ Thỏ. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Môi trường sống tự nhiên của chúng là lãnh nguyên. Chúng bị đe dọa bởi sự mất môi trường sống. Loài này được Büchner mô tả năm 1894. | 1 | null |
Thỏ cộc Ladak ("Ochotona ladacensis") (tiếng Anh: Ladak Pika) là một loài động vật có vú nhỏ trong Họ Ochotonidae của Bộ Thỏ phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ và Pakistan. Trước khi được công nhận là một loài riêng biệt, loài này được xem là 1 loài thỏ cộc cao nguyên. Được đặt tên theo khu vực Ladakh, chúng thường được tìm thấy trong các thung lũng của các dãy núi trải dài từ Pakistan qua Ấn Độ đến Trung Quốc ở độ cao từ 4.300 đến 5.450 m (14.110 đến 17.880 ft) và là động vật ăn cỏ. Loài này được Günther mô tả năm 1875. | 1 | null |
Thỏ cộc tai to ("Ochotona macrotis") (tiếng Anh: Large-Eared Pika) là một loài động vật có vú nhỏ trong Họ Ochotonidae của Bộ Thỏ. Chúng được tìm thấy ở các khu vực miền núi của Afghanistan, Trung Quốc, Ấn Độ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nepal, Pakistan và Tajikistan. Chúng làm tổ giữa các tảng đá. Loài này được Günther mô tả vào năm 1875. | 1 | null |
Thỏ cộc Muli ("Ochotona muliensis") (tiếng Anh: Muli Pika) là một loài động vật có vú trong Họ Ochotonidae của Bộ Thỏ. Đây là loài đặc hữu của Trung Quốc. Môi trường sống tự nhiên của chúng là đồng cỏ ôn đới. Chúng bị đe dọa bởi sự mất môi trường sống. Loài này được Pen & Feng mô tả năm 1962. | 1 | null |
Thỏ cộc đen hay thỏ cộc bạc ("Ochotona nigritia") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Chúng phổ biến ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, nơi chúng được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2000, chúng chỉ được biết đến từ bốn mẫu cá thể. Tính hợp lệ của loài này đã được đạt câu hỏi, với một vài nghiên cứu cho thấy các mẫu cá thể trên đại diện cho các cá thể bị hắc tạng của loài thỏ cộc Forrest. Loài này được Gong et al. mô tả năm 2000. | 1 | null |
Thỏ cộc Pallas ("Ochotona pallasi"), (tiếng Anh: Pallas's Pika), còn được gọi là thỏ cộc Mông Cổ, là một loài động vật có vú nhỏ trong Họ Ochotonidae của Bộ Thỏ. Chúng chủ yếu được tìm thấy ở các vùng núi phía tây Mông Cổ. Loài này được Gray mô tả năm 1867. | 1 | null |
Thỏ cộc đỏ Turkestan ("Ochotona rutila") (tiếng Anh: Turkestan Red Pika) là một loài động vật có vú nhỏ trong Họ Ochotonidae trong Bộ Thỏ. Bộ lông mùa hè trên lưng của chúng có màu sáng, lông bụng có màu trắng hoặc màu nâu. Lông lưng mùa đông thì có màu nâu nhạt, lông bụng thì màu trắng hoặc màu nhạt. Chúng phân bố ở các vùng núi phía tây Tân Cương ở Trung Quốc, và cũng lẻ tẻ ở các vùng núi trung tâm Châu Á ở Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan. Con cái có tỷ lệ sinh thấp, và sinh con trong mùa sinh sản từ mùa xuân đến mùa hạ. Chúng thường sinh hai lứa mỗi năm, từ hai đến sáu con con. Loài này được đánh giá là "loài ít quan tâm" trong của sách đỏ IUCN của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, nhưng chúng được xem là gần như bị đe dọa trong phạm vi của Trung Quốc. Loài này được Severtzov mô tả vào năm 1873. | 1 | null |
Thỏ cộc Moupin ("Ochotona thibetana"), còn được gọi là thỏ cộc Ribetischer, thỏ cộc Tây Tạng và thỏ cộc Manipuri, là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Chúng có nhiều phân loài, một số trong đó có thể là các loài thỏ cộc tách biệt. Bộ lông mùa hè của chúng có màu nâu đỏ sẫm với một số đốm sáng ở mặt lưng và lớp đệm màu nâu nhạt trên bụng. Vào mùa đông, màu lông sáng hơn, với lớp vỏ màu nâu đến xỉn màu.
Chúng hầu như là loài động vật ăn cỏ, được tìm thấy ở các vùng núi phía đông Cao Nguyên Tây Tạng ở Trung Quốc (Cam Túc, miền nam Thanh Hải, Vân Nam và Tứ Xuyên), Bhutan, Ấn Độ (Sikkim) và miền bắc Myanmar.
Cả Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, danh sách đỏ IUCN, và danh sách đỏ của Trung Quốc đều đáng giá chúng là "loài ít quan tâm"; mặc dù một phân loài của chúng có thể là đang bị đe dọa. Loài này được Milne-Edwards mô tả vào năm 1871. | 1 | null |
Thỏ cộc Thomas ("Ochotona thomasi") là một loài động vật có vú thuộc Họ Ochotona của Bộ Thỏ. Bộ lông ở phần thân trên của nó có màu nâu đỏ vào mùa hè, và màu xám vào mùa đông. Chúng là loài hầu như ăn cỏ bị đe dọa bởi sự mất môi trường sống, và được tìm thấy trên các đỉnh núi bị cô lập ở phía đông dãy núi Qilian ở Thanh Hải, Cam Túc và tây bắc Tứ Xuyên ở Trung Quốc. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đánh giá loài này là "chưa được biết đến nhiều" vào năm 1994, "gần như bị đe dọa" vào năm 1996, và "ít quan tâm" năm 2008. Loài này được Argyropulo mô tả năm 1948. | 1 | null |
Thỏ cộc Turuchan ("Ochotona turuchanensis") là một loài thỏ cộc được tìm thấy ở các khu vực bị cô lập ở Cao Nguyên Trung tâm Siberia. Đây là một loài thỏ cộc nhỏ (16–19 cm) sống trong đá ưa hoạt động vào ban ngày do nhiệt độ quá thấp vào ban đêm. Loài này trước đây được xem là một phân loài của loài thỏ cộc phương Bắc. Rất ít về loài này được biết đến, nhưng số lượng của chúng ở địa phương rất nhiều. Loài này được Naumov mô tả vào năm 1934. | 1 | null |
Thỏ giày tuyết (Lepus americanus) là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Erxleben mô tả năm 1777.
Để ngụy trang, bộ lông của chúng chuyển sang màu trắng trong mùa đông và màu nâu gỉ trong mùa hè. Hông của chúng có màu trắng quanh năm. Thỏ tuyết cũng được phân biệt bằng những búi lông màu đen ở rìa tai. Tai ngắn hơn so với hầu hết thỏ rừng khác.
Vào mùa hè, chúng ăn các loại cây như cỏ, dương xỉ và lá; vào mùa đông, nó ăn cành cây, vỏ cây và chồi từ hoa và thực vật, và tương tự như thỏ rừng Bắc Cực, đã được biết là ăn cắp thịt từ thú bị mắc bẫy. Chúng là loài ăn thịt dưới sự sẵn có của động vật chết và được ghi nhận ăn động vật gặm nhấm chết như chuột do lượng protein có sẵn trong chế độ ăn cỏ thấp. Chúng đôi khi có thể được nhìn thấy cho ăn trong các nhóm nhỏ. Loài vật này chủ yếu hoạt động vào ban đêm và không ngủ đông.
Loài thỏ này có thể sinh tới bốn lứa trong một năm, trung bình ba đến tám con. Con đực cạnh tranh con cái và con cái có thể sinh sản với một vài con đực. | 1 | null |
Lepus arcticus (tên tiếng Anh: "Thỏ Bắc Cực") là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Ross mô tả năm 1819.
Loài thỏ này chỉ dự trữ mỡ vào mùa hè. Thỏ Bắc cực chịu rét được nhờ một bộ lông dày và thường đào lỗ dưới mặt đất hoặc tuyết để giữ ấm và ngủ. Thỏ Bắc Cực trông giống như thỏ nhưng có tai ngắn hơn và có thể đứng lên cao hơn, và có thể sống / duy trì ở những nơi lạnh không giống như thỏ. Chúng có thể di chuyển cùng với nhiều loài thỏ rừng khác, đôi khi thành nhóm với hàng chục con hoặc nhiều hơn, nhưng thường được tìm thấy một mình, trong một số trường hợp có nhiều hơn một đối tác. Thỏ Bắc cực có thể chạy với tốc độ tới per hour. Những loài động vật săn thỏ Bắc Cực gồm có sói Bắc Cực, cáo Bắc Cực và chồn Ermine..
Phạm vi.
Thỏ Bắc Cực phân bố khắp khu vực lãnh nguyên của Greenland và các khu vực cực bắc Canada. Về phía nam phạm vi phân bố của nó, thỏ Bắc Cực thay đổi màu lông, thay lông và mọc lông mới, màu lông từ nâu hoặc xám trong mùa hè thành màu trắng vào mùa đông, giống như một số loài động vật Bắc cực khác bao gồm chồn ermine và ptarmigan, giúp nó ngụy trang theo thay đổi môi trường xung quanh. Tuy nhiên, thỏ rừng Bắc cực ở xa về viễn bắc của Canada, nơi mà mùa hè là rất ngắn, vẫn có màu trắng quanh năm.
Kích cỡ.
Thỏ Bắc cực là một trong những loài động vật gặm nhấm còn sống lớn nhất. Tính trung bình, nó dài . Trọng lượng cơ thể thường khoảng giữa , dù các mẫu vật lớn có thể nặng tới . | 1 | null |
Thỏ tai to đuôi đen ("Lepus californicus"), còn được gọi là thỏ sa mạc châu Mỹ, lá 1 loài thỏ thông thường tại tây Hoa Kỳ và México, phân bố nơi có độ cao từ mực nước biển lên đến . Phạm vi chiều dài khoảng , và cân nặng từ , thỏ tai to đuôi đen là loài thỏ lớn thứ 3 tại Bắc Mỹ, sau thỏ linh dương tai to và thỏ tai to đuôi trắng. Thỏ tai to đuôi đen cư ngụ tại địa hình xen lẫn giữa cây bụi - đồng cỏ. Mùa sinh sản phụ thuộc vào vị trí; đỉnh điểm thường trong mùa xuân, nhưng có thể tiếp diễn quanh năm tại vùng khí hậu ấm áp. Thỏ non sinh ra có đầy đủ lông dày với đôi mắt mở; chúng được ngụy trang tốt và di động trong vòng vài phút sau khi sinh, do đó thỏ cái không bảo vệ hoặc thậm chí ở lại với thỏ con trừ khi cho bú sữa. Quy mô lứa trung bình khoảng 4, nhưng có thể thấp khoảng 2 và cao khoảng 7 tại khu vực ấm ám.
Thỏ tai to đuôi đen không di cư hoặc ngủ đông trong suốt mùa đông và sống tại môi trường sống tương tự nhau khoảng 0.4 to 1.2 dặm vuông (1–3 km²) quanh năm. Chế độ ăn đa dạng bao gồm cây bụi, cây nhỏ, cỏ và thảo mộc. Cây bụi thường chiếm phần lớn chế độ ăn trong mùa thu và mùa đông, trong khi cỏ và thảo mộc được ăn trong mùa xuân và đầu mùa hè, nhưng các loài khuôn mẫu và thực vật biến đổi theo khí hậu. Thỏ tai to đuôi đen là con mồi chủ yếu của chim ăn thịt và thú săn mồi, như đại bàng, diều hâu, cú, sói đồng cỏ, cáo, và mèo hoang. Thỏ lưu chứa nhiều ký sinh trùng bao gồm bọ chét, bọ ve, chấy rận, và ve bét; vì lý do này, thợ săn thường tránh săn chúng. | 1 | null |
Lepus comus (tên tiếng Anh: "Yunnan hare") là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Allen mô tả năm 1927.
Loài này được coi là loài đặc hữu của Trung Quốc (chủ yếu ở Vân Nam), nhưng sự hiện diện của nó đã được ghi nhận ở miền bắc Myanmar vào năm 2000. Đây là một loài động vật ăn cỏ và tìm kiếm thức ăn trên cây bụi và cành cây. Loài này được đánh giá là một loài ít được quan tâm nhất trong Liên minh quốc tế về bảo tồn danh sách đỏ các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Sách đỏ các loài động vật có xương sống của Trung Quốc đã liệt kê thỏ Vân Nam gần như bị đe dọa, gần như đáp ứng các tiêu chí để được liệt kê là dễ bị tổn thương.
Phân loại.
Thỏ Vân Nam lần đầu tiên được mô tả bởi nhà động vật học người Mỹ Glover Morrill Allen vào năm 1927. Theo Hoffmann và Smith, không có phân loài được công nhận, nhưng theo Mammals of China, có ba phân loài được công nhận: | 1 | null |
Lepus coreanus (tên tiếng Anh: "Korean hare") là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Thomas mô tả năm 1892.
Loài thỏ này sinh sống ở Triều Tiên và đông bắc Trung Quốc. Con trưởng thành nặng 2,1-2,6 kilogram, thân dài 45–54 cm. Đuôi thường dài 2–5 cm in và tai dài 7,6-8,3 cm. Chúng sinh sống trong rừng núi đến đất canh tác. | 1 | null |
Lepus tolai là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Pallas mô tả năm 1778.
Chúng được tìm thấy ở Trung Á, Mông Cổ, và Bắc và Trung Trung Quốc. Chúng sinh sống ở bán sa mạc, thảo nguyên, môi trường sống đá, và đồng cỏ rừng. Chúng tương đối phổ biến, ngay cả ở những vùng có nhiều người sinh sống, do tốc độ sinh sản nhanh chóng. | 1 | null |
Thỏ vằn Sumatra (danh pháp hai phần: "Nesolagus netscheri") là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Schlegel mô tả năm 1880.
Mô tả.
Thỏ vằn Sumatra thường dài khoảng 40 cm (1 ft, 4 in), có đuôi dài 17mm. Nó là màu đen với các sọc màu nâu, với một cái đuôi và mông màu đỏ, và mặt dưới màu trắng. Lông của chúng mềm và dày, được bao phủ bởi lông ngoài dài và thô hơn.
Mối đe dọa.
Các khu rừng mà loài này đang sống đang bị phát quang để lấy gỗ, chè, trồng cà phê, và chỗ ở con người. Sự gia tăng bất thường của những người nhập cư đến từ các hòn đảo của Indonesia của Java cũng đã tăng tỷ lệ biến mất của môi trường sống của loài này. | 1 | null |
Thỏ vằn Trường Sơn (danh pháp hai phần: "Nesolagus timminsi") là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Chúng là loài đặc hữu, chỉ có ở vùng dãy Trường Sơn, khu vực biên giới Việt - Lào. Loài này được Averianov, Abramov & Tikhonov mô tả năm 2000.
Thỏ vằn Trường Sơn được cho là một trong những loài thú cổ còn sót lại và một trong hai loài thỏ có sọc (loài còn lại là Thỏ vằn Sumatra). Chúng được ước lượng chỉ còn có khoảng 100 - 200 cá thể và đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Chúng sống ở độ cao từ 50 mét đến 1.300 mét. Một thế hệ kéo dài 3 năm. Do tiếp tục suy giảm về diện tích, mức độ và chất lượng môi trường sống nên loài này có nguyên cơ tuyệt chủng trong tương lai gần. Giữa năm 2021, loài này được tìm thấy tại Đà Lạt, tức cách khoảng 400 km so với khu vực sinh sống lâu nay của chúng. | 1 | null |
Thỏ Amami ("Pentalagus furnessi"; ), hay , còn gọi là thỏ Ryukyu, là một loài thỏ lông tối màu sống trên Amami Ōshima và Toku-no-Shima, hai đảo nằm giữa Kyūshū và Okinawa, thuộc địa phận tỉnh Kagoshima (dù gần Okinawa hơn). Mang danh hóa thạch sống, thỏ Amami là phần sót lại của thứ thỏ từng sống trên đất liền châu Á, nay sinh sống trên hai đảo nhỏ Nhật Bản.
Tham khảo.
Về thỏ Amami được suy đoán rằng hàng ngàn con đang sinh sống có nguy cơ bị tuyệt chủng, Bộ Tài nguyên Môi trường vào thời điểm năm 2015 đã thu thập kết quả ước tính phục hồi khoảng 5000 đến 39000 con chỉ riêng đảo Amami (huyện Kagoshima). Bộ này đang hướng đến mục tiêu đánh giá lại xếp hạng nguy cơ tuyệt chủng năm 2011 sẽ thấp hơn so với thời điểm hiện tại.
Theo tư liệu mà Bộ Tài nguyên Môi trường tiết lộ đáp ứng yêu cầu công khai thông tin của báo Asahi, sau khi tính toán lượng phân thỏ mà họ phát hiện trên đảo Amami, thì số thỏ ước tính sống tại thời điểm năm 2003 là khoảng 15221 đến 19202 con. Cuộc điều tra lượng phân trên đảo Amami được tổ chức từ năm 1994 tổng cộng đã thực hiện được 24 tuyến trong năm 2003.
Hơn nữa, sau khi ước tính bổ sung dữ liệu chụp ảnh 9 năm cho những chiếc camera mà họ lắp đặt trong khu rừng trên đảo, họ đã tính được 16580 con thỏ đến 39780 con thỏ. | 1 | null |
Pronolagus randensis là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Jameson mô tả năm 1907.
Loài thỏ này chỉ được tìm thấy trên lục địa Châu Phi, chủ yếu ở phần phía nam của lục địa. Zimbabwe và Namibia được cho là có quần thể thỏ rừng đá đỏ lớn nhất và nó được cho là có ở khắp cả hai quốc gia. Nam Phi có một quần thể thỏ rừng đá đỏ này nhưng nó chỉ được tìm thấy ở phần tây bắc của đất nước. Botswana cũng có dân số ở Đồi Tswapong. | 1 | null |
Thỏ đầm lầy (danh pháp hai phần: "Sylvilagus aquaticus") là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Bachman mô tả năm 1837.
Thỏ đầm lầy được tìm thấy ở phần lớn miền nam miền trung Hoa Kỳ và dọc theo bờ biển Vịnh. Chúng có nhiều nhất ở Alabama, Mississippi và Louisiana, nhưng cũng sinh sống ở Nam Carolina, Tennessee, Texas, Oklahoma, Arkansas, Missouri, Kansas, Kentucky, Illinois, Indiana và Georgia.
Thỏ đầm lầy chủ yếu sống gần vùng nước thấp, thường ở đầm lầy cây bách, đầm lầy, đồng bằng ngập nước và các nhánh sông. Thỏ đầm lầy dành phần lớn thời gian của chúng trong những hố trũng mà chúng đào trên cỏ hoặc lá cao, che chở trong khi chúng chờ đến đêm để tìm thức ăn. | 1 | null |
Sylvilagus brasiliensis là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758.
Loài thỏ này có kích thước nhỏ đến trung bình với đuôi nhỏ và sẫm màu, bàn chân sau ngắn và tai ngắn. Phạm vi phân bố kéo dài từ miền nam Mexico đến miền bắc Argentina, nhưng phạm vi này còn bao gồm một số quần thể đặc biệt đã được chia thành các loài riêng biệt. | 1 | null |
Sylvilagus cunicularius là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Waterhouse mô tả năm 1848.
Đây là loài đặc hữu của Mexico, nơi sinh sống tự nhiên của chúng là rừng ôn đới, rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và đồng cỏ.
Phân loại.
Ngôi nhà tranh Mexico được nhà tự nhiên học người Anh George Robert Waterhouse mô tả lần đầu tiên vào năm 1848 như là một phần của công việc phân loại mẫu vật trong bộ sưu tập của bảo tàng Hiệp hội Động vật học London. Ba phân loài được công nhận: "Sylvilagus cunicularius cunicularius", "S. c. insolitus", và "S. c. pacificus". | 1 | null |
Thỏ đảo Tres Marias (danh pháp khoa học: "Sylvilagus graysoni") là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được J. A. Allen mô tả năm 1877.
Distribution and habitat.
Thỏ đảo Tres Marias là loài đặc hữu quần đảo Tres Marias, thuộc bang Nayarit của Mexico. Loài thỏ này được tìm thấy nhiều ở cả đảo Madre và Magdalena nhưng chỉ có một số lần xuất hiện ở đảo Cleofa. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | 1 | null |
Thỏ đuôi bông núi hay Thỏ đuôi bông Nuttall (tên khoa học Sylvilagus nuttallii) là một loài động vật có vú trong họ Leporidae. Nó được tìm thấy ở Canada và Mỹ. Loài này được Bachman mô tả năm 1837.
Phạm vi.
Loài này bị giới hạn trong các khu vực núi của Bắc Mỹ. Nó dao động từ trên phía nam biên giới Canada tới Arizona và New Mexico, và từ chân triền núi phía đông của dãy núi Rocky và phía tây đến sườn phía đông của Cascade-Sierra Nevada Range.
Hành vi.
Hầu hết các hoạt động của những chúng là buổi sáng sớm và chiều tối. Chúng không phải là loài xã hội và dùng hầu hết thời gian thực hiện hành vi phi xã hội. Các hành vi xã hội phổ biến nhất là nhìn thấy trong hành động sinh sản hay tán tỉnh. Hơn 50% thời gian của thỏ đuôi bông núi được dùng cho việc ăn. | 1 | null |
Sylvilagus obscurus là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ. Loài này được Chapman et al. miêu tả năm 1992.
Đây là một loài quý hiếm được tìm thấy ở vùng cao của miền đông Hoa Kỳ. Loài này chỉ được công nhận là tách biệt với thỏ long búi New England ("Sylvilagus transitableis") vào năm 1992. Người ta biết rất ít về thói quen sinh sản của loài thỏ này, nhưng phần lớn có thể dựa trên kiến thức về chi Sylvilagus và thói quen sinh sản của hầu hết các loài thỏ. Thông thường, chúng không hoạt động trong thời gian giữa mùa Đông, nhưng khi đêm rút ngắn và ngày kéo dài, hoạt động tình dục phát triển mạnh mẽ giữa các loài trong chi "Sylvilagus"; Lý do cho điều này là chiều dài ngày có tương quan trực tiếp với sự kích thích của FSH trong máu con cái, sau đó kích thích các nang trứng phát triển trứng. | 1 | null |
Erinaceus amurensis là một loài động vật có vú trong họ Erinaceidae, bộ Erinaceomorpha. Loài này được Schrenk mô tả năm 1859.
Một cá thể trung bình cân nặng 600-1000 gram. Loài này là loài bản địa Amur Krai và Primorye ở Nga, Mãn Châu ở Trung Quốc, và bán đảo Triều Tiên. | 1 | null |
Erinaceus europaeus là một loài động vật có vú trong họ Erinaceidae, bộ Erinaceomorpha. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758.
Loài này được tìm thấy ở Tây Âu, từ Tây Ban Nha và Ý về phía bắc đến Scandinavia. Nó là một loài nói chung phổ biến và phân phối rộng rãi có thể tồn tại trong nhiều loại môi trường sống. Nó cũng là một loài được nhiều người biết đến, và là một loài được người ta yêu thích trong các khu vườn châu Âu, do cả sự bề ngoài đáng yêu của chúng và thói quen ăn côn trùng. Trong khi số lượng hiện nay là ổn định ở nhiều quốc gia trong dải phân bố, số lượng loài nhím này ở nước Anh lại đang giảm sút nhanh chóng.
Nhím gai châu Âu là loài ăn tạp, thức ăn chủ yếu là động vật có xương sống. Chế độ ăn của chúng bao gồm sên, giun đất, bọ cánh cứng, sâu bướm và côn trùng khác. Các động vật chân đốt ưa thích là những động vật nhiều chân "Glomeris marginata" và "Tachypodoiulus niger" cũng như bọ đất "Carabus nemoralis". Một số loại trái cây và nấm có thể là thực phẩm bổ sung của chúng. | 1 | null |
Paraechinus aethiopicus là một loài động vật có vú trong họ Erinaceidae, bộ Erinaceomorpha. Loài này được Ehrenberg mô tả năm 1832.
Loài này được tìm thấy ở sa mạc Sahara, Algeria, Chad, Djibouti, Ai Cập, Eritrea, Iran, Iraq, Israel, Jordan, Kuwait, Libya, Mali, Mauritania, Morocco, Niger, Oman, Saudi Arabia, Somalia, Sudan, Syria, Tunisia, United Arab Emirates, Yemen, và có thể là Ethiopia. | 1 | null |
Echinosorex gymnura là một loài động vật có vú trong họ Erinaceidae, bộ Erinaceomorpha. Loài này được Raffles mô tả năm 1822.
Phân bố.
Loài này sinh sống trên phần lớn địa hình rừng già nhất ở miền nam Myanmar, bán đảo Thái Lan, bán đảo Malaysia, Borneo và Sumatra. Mặc dù chúng có liên quan chặt chẽ đến chuột voi đồi ("Hylomys suillus") và các loài nhím gai, mẫu vật đầy đủ lại giống đến loài có liên quan chặt chẽ hơn với những loài chuột lớn hơn, mà chúng chia sẻ những thói quen tương tự và hệ sinh thái. Tại Borneo, chúng hiện diện tại nhiều địa điểm khắp các vùng đất thấp và lên đến 900 m ở Tây Nguyên Kelabit. Chúng có vẻ là không có hoặc hiếm ở một số địa phương, có thể là do thiếu thức ăn phù hợp. | 1 | null |
Hylomys megalotis là một loài động vật có vú trong họ Erinaceidae, bộ Erinaceomorpha. Loài này được Jenkins & M. F. Robinson mô tả năm 2002.
Hylomys megalotis chủ yếu được tìm thấy ở tỉnh Khammouan, Lào, đặc biệt trong khu vực bảo tồn đa dạng sinh học đá vôi Khammouan ở huyện Thakheck. Loài này cũng có thể được tìm thấy trong môi trường xung quanh của Ban Muang và Ban Doy. Chúng thường được tìm thấy trong khu vực nơi có núi đá vôi khổng lồ đó được bao phủ trong những tảng đá lớn, với hỗn hợp suy thoái nghiêm trọng của rừng rụng lá, cây bụi, và cây tre. | 1 | null |
Nesophontes edithae là một loài động vật có vú trong họ Nesophontidae, bộ Soricomorpha. Loài này được Anthony mô tả năm 1916.
Loài chuột chù này đã tuyệt chủng và đã là loài bản địa Puerto Rico.
Người ta tin người châu Âu chưa bao giờ nhìn thấy loài chuột chù này. Hóa thạch đương đại với các hiện vật bản địa và hóa thạch chuột được giới thiệu cho thấy sự tồn tại trong thời kỳ thuộc địa, có thể cho đến thế kỷ 16. Chuột chù sống trong rừng trên đảo / loài đặc hữu ở phía tây Puerto Rico và là một loài ăn côn trùng. Có những mẫu hóa thạch nằm ở London. Nó biến mất sau khi giới thiệu chuột và do sự phá hủy môi trường sống trong rừng của nó. | 1 | null |
Solenodon paradoxus là một loài động vật có vú thuộc chi "Solenodon" chỉ sinh sống trên đảo Hispaniola, một hòn đảo được chia ra bởi Haiti và Cộng hòa Dominica. Nó được mô tả bởi Brandt năm 1833. Một loài tương tự nhưng nhỏ hơn "S. marcanoi", từng sống trên đảo, nhưng đã tuyệt chủng vào thời kỳ thuộc địa.
Mô tả.
"S. paradoxus" bề ngoài giống chuột chù to quá khổ; con đực và con cái kích thước tương tự nhau. Con trưởng thành dài từ , trong đó đuôi dài , và nặng trung bình khoảng . Dù chúng có sự đa dạng nhất định về màu sắc, chúng thường có tông màu bụi bặm khắp cơ thể, với phần bụng dưới nhạt màu hơn. Đuôi, chân, mõm, và phần quanh mắt trụi lông. | 1 | null |
Chuột chù chân dài, tên khoa học Crocidura crenata, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Brosset, Dubost, & Heim de Balsac mô tả năm 1965. Chúng được tìm thấy ở Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích Đạo, và Gabon. | 1 | null |
Chuột chù Fox, tên khoa học Crocidura foxi, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Dollman mô tả năm 1915. Chúng được tìm thấy ở Bénin, Bờ Biển Ngà, Burkina Faso, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Tchad, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Mali, Nigeria, Senegal, Sudan, và Togo. | 1 | null |
Chuột chù Đông Nam Á (tên khoa học Crocidura fuliginosa) là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Blyth mô tả năm 1855. Loài được tìm thấy ở Campuchia, Lào, Malaysia, Myanma, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và có thể có ở Ấn Độ. | 1 | null |
Chuột chù đồng cỏ savanna, tên khoa học Crocidura fulvastra, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Sundevall mô tả năm 1842. Chúng được tìm thấy ở Bénin, Burkina Faso, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Tchad, Cộng hòa Dân chủ Congo, Djibouti, Eritrea, Ethiopia, Kenya, Mali, Mauritanie, Niger, Nigeria, Sudan, và Uganda. | 1 | null |
Chuột chù Grasse, tên khoa học Crocidura grassei, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Brosset, Dubost, & Heim de Balsac mô tả năm 1965. Chúng được tìm thấy ở Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Gabon và Guinea Xích Đạo. | 1 | null |
Chuột chù Hildegarde, tên khoa học Crocidura hildegardeae, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Thomas mô tả năm 1904. Chúng được tìm thấy ở Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia, Kenya, Rwanda và Tanzania. | 1 | null |
Chuột xạ đỏ tí hon, tên khoa học Crocidura hirta, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Peters mô tả năm 1852. Chúng được tìm thấy ở Angola, Botswana, Cộng hòa Dân chủ Congo, Malawi, Mozambique, Namibia, Nam Phi, Swaziland, Tanzania, Zambia, và Zimbabwe. | 1 | null |
Chuột chù Horsfield, tên khoa học Crocidura horsfieldii, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Tomes mô tả năm 1856. Chúng được tìm thấy ở Ấn Độ, Campuchia, Đài Loan,Lào, Nepal, Nhật Bản, Sri Lanka, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. | 1 | null |
Chuột chù Lamotte, tên khoa học Crocidura lamottei, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Heim de Balsac mô tả năm 1968. Chúng được tìm thấy ở Bénin, Bờ Biển Ngà, Burkina Faso, Cameroon, Gambia, Ghana, Guinea, Guinea-Bissau, Liberia, Mali, Nigeria, Senegal, Sierra Leone, và Togo. | 1 | null |
Crocidura mutesae là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Heller mô tả năm 1910.
Loài này được tìm thấy ở Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo và Cộng hòa Trung Phi. Phạm vi, quy mô dân số và thói quen của nó là ít được biết đến.
Mô tả.
Đây là một loài chuột lớn phát triển đến chiều dài đầu và thân khoảng 115 mm (4,5 in) với đuôi 64 mm. Xương chậu dài, cả lông lưng và lông bụng đều có màu xám, trong khi chân có màu xám đậm hơn. Đuôi dày và có lông dày, màu xám đen, có lông dài từ 10 đến 12 mm và độ lõm từ 70 đến 80%. Bàn chân sau vừa dài vừa rộng. Loài này giống với loài chuột chù khổng lồ châu Phi ("Crocidura olivieri"), nhưng nhỏ hơn một chút, với hộp sọ nhỏ hơn, kém mạnh mẽ hơn. | 1 | null |
Crocidura olivieri là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Lesson mô tả năm 1827.
Là loài bản địa châu Phi, nơi nó có sự phân bố rộng rãi và hiện diện ở nhiều loại môi trường sống. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, thảo nguyên khô, thảo nguyên ẩm, đất trồng trọt, vườn nông thôn, khu đô thị và rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Trong tThung lũng sông Nile, loài này được tìm thấy gần nơi cư trú của con người, nơi loài này được coi là một loài gây hại. Đây là một loài phổ biến và được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế liệt vào danh sách "loài ít quan tâm". | 1 | null |
Crocidura russula là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Hermann mô tả năm 1780 , chúng được tìm thấy tại Châu Âu và Bắc Phi. Nó là loài phổ biến nhất của chuột chù răng trắng. Loài này được tìm thấy dọc theo Địa Trung Hải, Hà Lan, Bỉ, Đức và Bồ Đào Nha, ngoài ra, chuột chù Osorio đảo Canary, ban đầu được mô tả như là một loài riêng biệt (Crocidura Osorio), sau đó được phát hiện là một dân số thêm vào Crocidura russula. Môi trường sống ưa thích của nó là đồng cỏ và rừng. | 1 | null |
Diplomesodon pulchellum là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Lichtenstein mô tả năm 1823. Đây là loài duy nhất còn sinh tồn trong chi Diplomesodon. Năm 2011, A. Cheke đã mô tả và có thể là một loài đã tuyệt chủng theo bản thảo thế kỷ 19 là "Diplomesodon sonnerati" (Sonnerat's Shrew). | 1 | null |
Suncus etruscus là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Savi mô tả năm 1822. Đây là loài động vật có vú có trọng lượng nhỏ nhất, cân nặng trung bình chỉ 1,8 gram. (loài dơi "craseonycteris thonglongyai" được coi là động vật có vú nhỏ nhất theo kích thước hộp sọ và chiều dài cơ thể.)
Loài chuột chù này có chiều dài cơ thể khoảng 4 cm không bao gồm đuôi. Nó có đặc điểm là di chuyển rất nhanh và trao đổi chất nhanh, ăn khoảng 1,5–2 lần trọng lượng cơ thể của chính nó mỗi ngày. Nó ăn các động vật có xương sống và không xương sống nhỏ khác nhau, chủ yếu là côn trùng, và có thể săn các cá thể có cùng kích thước với chính nó. Loài chuột chù này thích khí hậu ấm áp và ẩm ướt và phân bố rộng rãi trong vành đai từ vĩ độ 10 ° đến 30 ° B kéo dài từ châu Âu và Bắc Phi lên đến Malaysia. Chúng cũng được tìm thấy ở các đảo Maltese, nằm ở giữa biển Địa Trung Hải. Mặc dù phổ biến rộng rãi và không bị đe dọa về tổng thể, chúng thường không phổ biến và có nguy cơ tuyệt chủng ở một số quốc gia.
Phân phối.
Loài chuột chù này sinh sống trên một vành đai kéo dài giữa 10 ° và 40 ° N trên Eurasia. Ở Nam Âu, nó đã được tìm thấy ở Albania, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Croatia, Cyprus, Pháp, Bắc Macedonia, Malta, Montenegro, Hy Lạp, Ý, Bồ Đào Nha, Slovenia, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, với các báo cáo chưa được xác nhận ở Andorra, Gibraltar và Monaco; nó đã được du nhập bởi con người đến một số hòn đảo ở Châu Âu, chẳng hạn như quần đảo Canary.
Loài chuột chù này cũng xuất hiện ở Bắc Phi (Algeria, Ai Cập, Libya, Morocco, Tunisia) và xung quanh Bán đảo Ả Rập (Bahrain, Israel, Jordan, Lebanon, Oman, Syria, và Yemen bao gồm Socotra). Ở Châu Á, nó được quan sát thấy ở Afghanistan, Azerbaijan, Bhutan, Trung Quốc (chỉ huyện Cảnh Mã), Myanmar, Gruzia, Ấn Độ, Iran, Iraq, Kazakhstan, Lào, Malaysia (Malaysia một phần của Borneo đảo), Nepal, Pakistan, Philippines, Sri Lanka, Tajikistan, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan và Việt Nam. Có những báo cáo chưa được xác nhận về loài chuột chù Etruscan ở Tây và Đông Phi (Guinea, Nigeria, Ethiopia) và ở Armenia, Brunei, Indonesia, Kuwait và Uzbekistan.
Nhìn chung, loài này phổ biến rộng rãi và không bị đe dọa, nhưng mật độ của chúng nói chung thấp hơn so với các loài chuột chù khác sống trong khu vực. Ở một số vùng, nó rất hiếm, đặc biệt là ở Azerbaijan, Gruzia (được đưa vào Sách đỏ), Jordan và Kazakhstan (Sách đỏ).
Hành vi.
Loài này có tầm nhìn kém nên chúng chủ yếu định vị con mồi thông qua bộ râu rất nhạy cảm của nó. Chúng có tốc độ săn mồi rất nhanh, chỉ mất vài trăm mili giây để có thể giết chết con mồi sau khi đưa chúng vào tầm ngắm.
Do kích thước nhỏ và hậu quả là tỷ lệ diện tích bề mặt trên thể tích cao, loài chuột chù này có nguy cơ bị hạ thân nhiệt liên tục và sẽ nhanh chóng chết cóng nếu không có quá trình trao đổi chất cực nhanh. Cơ xương của nó co lại với tốc độ khoảng 13 lần cơn co/giây trong quá trình hô hấp. Vào mùa lạnh và khi thiếu thức ăn, chuột chù hạ nhiệt độ cơ thể xuống khoảng 12 °C và đi vào trạng thái ngủ đông tạm thời để giảm tiêu thụ năng lượng. Sự phục hồi từ trạng thái này đi kèm với hiện tượng rùng mình với tần số 58 cơn co cơ/giây. Điều này tạo ra sự sưởi ấm với tốc độ lên đến 0,83 °C / phút, là một trong những giá trị cao nhất được ghi nhận ở động vật có vú; nhịp tim tăng theo cấp số nhân với thời gian từ 100 đến 800–1200 nhịp/phút, và nhịp hô hấp tăng tuyến tính từ 50 đến 600–800 nhịp/phút.
Loài này ngủ đông vào mùa Đông, lúc đó độ dày vỏ não của chúng thấp hơn khoảng 10% so với mùa hè, gọi là hiện tượng Dehnel. Tế bào thần kinh trong vỏ não somatosensory ở loài này có nhu cầu chuyển hóa năng lượng cao nhất, và sẽ giảm 28% độ dày vào mùa đông, trong khi độ dày của các lớp con khác có sự thay đổi không đáng kể. | 1 | null |
Chuột chù nhà, tên khoa học Suncus murinus, là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1766.. Đây là một loài chuột chù phổ biến. Loài này chủ yếu được tìm thấy tại Nam Á và Đông Nam Á nhưng đã được tìm thấy rộng rãi trên toàn châu Á và phía đông châu Phi.
Đây là loài con chuột chù lớn với mùi xạ hương mạnh mẽ. Nó có liên quan đến "Suncus etruscus".
Loài này được gọi là chuchunder ở Ấn Độ và được đề cập trong Jungle Book của Rudyard Kipling, như một cư dân sống về đêm của ngôi nhà ở Ấn Độ, có tên là chuchundra. Tuy nhiên, Kipling sử dụng sai lầm của tên 'xạ hương con chuột đã dẫn đến sự nhầm lẫn với không liên quan đến "Ondatra zibethicus", và các loài sau, không tìm thấy ở Ấn Độ, đã được minh họa (sai lầm) trong Jungle Book. | 1 | null |
Blarina brevicauda là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Say mô tả năm 1823. Loài chuột chù này sinh sống ở khu vực đông bắc Bắc Mỹ.
Mô tả.
Tổng chiều dài , trong đó đuôi dài ; và cân nặng . Loài này hơi lưỡng hình giới tính về kích thước, với con đực lớn hơn con cái một chút. Lông lưng dày và mượt, và có thể có màu đen, đen nâu hoặc xám bạc, với lông bụng và nhạt hơn và xám hơn. Chuột chù thay lông từ một bộ lông mùa hè ngắn và nhạt hơn so với bộ lông mùa đông vào tháng 10 và tháng 11, và trở lại vào khoảng tháng 2 đến tháng 7. Đuôi khá ngắn, chiếm chưa đến 25% tổng chiều d. Cấu hình răng là I 3-3/1-1, C 1-1/1-1, P 3-3/1-1, M 3-3/3-3 = 16/16 = 32. Ba tuyến hương được phát triển tốt một bên của động vật và một bên đặt ở giữa; mùi hương có thể được sử dụng để đánh dấu các vùng lãnh thổ, mặc dù khứu giác của chuột chù được cho là kém.
Phân bố.
Ghi nhận hóa thạch.
Hầu hết các ghi nhận "B. brevicauda" là từ Pleistocene, tmột kỷ lục từ cuối Pliocene (Blancan tuổi động vật có vú) được quy cho các loài này. Một nguồn khác cho thấy ghi nhận sớm nhất của chi "Blarina" là mẫu vật của " B. b. Talpoides ", từ Blancan (đầu Pleistocene) ở Kansas. Loài này được cho là đã phát sinh ở giữa hoặc cuối Pliocene. The "B. b. brevicauda" subspecies appeared later.
Phạm vi.
Loài chuột chù này được tìm thấy ở khắp miền trung và miền đông Bắc Mỹ, từ miền nam Saskatchewan đến Atlantic Canada và từ nam đến bắc Arkansas và Georgia. Nó có lẽ là loài chuột chù phổ biến nhất trong khu vực Ngũ Đại hồ.
Mật độ dân số thường dao động từ năm đến 30 con chuột trên một ha (hai đến 12 con một mẫu), nhưng hiếm khi vượt quá v Phạm vi nhà thông thường của một con chuột chù là 2,5 ha và có thể trùng lặp một chút với phạm vi của các loại chuột khác.
Môi trường sống.
Cả hai môi trường sống bị xáo trộn và không bị xáo trộn đều được sử dụng bởi loài chuột chù đuôi ngắn phía bắc, bao gồm đồng cỏ, cánh đồng cũ, khu vực đầm lầy, khu vực đầm lầy, rụng lá và cây lá kim rừng và vườn hộ gia đình, mặc dù môi trường sống ưa thích là những nơi ẩm ướt với rác lá hoặc vỏ cây dày. Rừng bị đốt cháy không nhanh chóng bị tái chiếm bởi "B. brevicauda", và chuột rút nhanh chóng các khu vực phát quang.
Chế độ ăn.
Loài chuột chù này tiêu thụ tới ba lần trọng lượng của nó trong thực phẩm mỗi ngày. Nó ăn một lượng nhỏ dưới mặt đất nấm và hạt, mặc dù nó chủ yếu là ăn thịt. Nó thích côn trùng, giun đất, chuột đồng, ốc sên và chuột chù khác cho phần lớn chế độ ăn uống của nó, mặc dù các loài thuộc bộ có đuôi và chuột nhắt cũng bị chúng ăn. Loài chuột chù này tiêu thụ động vật có xương sống thường xuyên hơn những con chuột khác làm. Con chuột chù chủ yếu tìm thức ăn trong vòng vài giờ sau khi mặt trời lặn, mặc dù nó cũng hoạt động trong những ngày nhiều mây. Mất nước bốc hơi cao đòi hỏi con chuột phải tiếp cận với nguồn nước, mặc dù nó có được Nước từ thức ăn của nó cũng vậy. Chuột chù thường tích trữ thức ăn, đặc biệt là vào mùa thu và mùa đông, hoặc trong thời gian con mồi dồi dào; một nghiên cứu được tìm thấy nó nơi tích trữ thức ăn 87% con mồi nó bắt được, trong khi 9% bị ăn ngay lập tức và 4% bị bỏ lại ở đâu nó đã bị giết.
Độc tố.
Nước bọt của chuột chù đuôi ngắn phía bắc có chứa kallikrein - giống như protease, được sử dụng để làm tê liệt và khuất phục con mồi. Độc tố này đủ mạnh để giết chết động vật nhỏ, kích thước lớn hơn một chút so với chuột chù và gây ra vết cắn đau đớn cho những người cố gắng xử lý chuột chù. Nước bọt nọc độc được tiết ra từ tuyến dưới da, thông qua một ống dẫn mở ra ở đáy của răng cưa, nơi nước bọt chảy dọc theo rãnh được hình thành bởi hai răng cửa và vào con mồi. Độc tố này có cấu trúc rất giống với chất độc được tạo ra bởi thằn lằn đính cườm Mexico ("Heloderma horridum") mà phát triển độc lập độc tố của nó từ cùng một protein tiền chất. | 1 | null |
Blarina hylophaga là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Elliot mô tả năm 1899.
Chuột chù đuôi ngắn Elliot được tìm thấy trong môi trường vùng thấp với thảm thực vật nặng từ miền nam Iowa và Nebraska ở phía bắc đến các vùng của Texas và miền bắc Louisiana ở phía nam, bao gồm phần lớn các bang Missouri, Kansas, Oklahoma và Arkansas, và phía đông bắc góc Colorado. Hai phân loài hiện được công nhận: | 1 | null |
Notiosorex villa là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Carraway & Timm mô tả năm 2000.
Phân loại.
Loài này trước đây được coi như là một phần của loài "Notiosorex crawfordi", nhưng hiện nay chúng đã được coi là loài riêng biệt. | 1 | null |
Sorex arizonae là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Diersing & Hoffmeister mô tả năm 1977.
Phân bố và môi trường sống.
Chuột chù Arizona được tìm thấy ở Chihuahua ở Mexico, và ở miền nam Arizona và New Mexico ở Hoa Kỳ. Loài này sinh sống ở địa hình đồi núi giữa bị chi phối bởi cây lá kim hoặc cây thông hoặc sồi hỗn hợp. Không có phân loài đã biết. | 1 | null |
Sorex dispar là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Batchelder mô tả năm 1911.
Loài chuột chù nhỏ Bắc Mỹ này được tìm thấy ở Atlantic Canada và Đông Bắc Hoa Kỳ.
Bộ lông có màu xám đá với mõm nhọn, đuôi dài và phần dưới nhạt hơn. Chúng được tìm thấy trên các sườn đá ở các khu vực miền núi dọc theo bờ biển Đại Tây Dương từ Bán đảo Gaspé, Quebec, và Đảo Cape Breton, Nova Scotia, ở phía bắc Georgia. Chúng ăn côn trùng và nhện. Động vật ăn thịt bao gồm các loài chim ưng, cú và rắn.
Đặc điểm vật lý.
Chuột chù đuôi dài có màu nhỏ, mảnh, màu đen đến màu xám, và có đuôi dài. Chiều dài trung bình của nó, bao gồm cả chiều dài đuôi, là 119,5 mm. Chiều dài đầu và thân có thể là 48 đến 79 mm. Chiều dài đuôi, trung bình từ 80 đến 90% chiều dài thân, dao động từ 46 đến 67 mm. Chuột chù đuôi dài có chiều dài chân sau 12–1 mm và có thể có tổng trọng lượng cơ thể từ 3,1 đến 8,3 g. Đuôi có lông với mái tóc mờ nhạt. Ở những con chuột đuôi dài lớn hơn, một sợi tóc từ đuôi có thể được trưng bày. Chuột chù đuôi dài có mõm dài và thon với bộ râu dài từ 22 đến 23 mm. Bộ lông về mùa hè là màu xám đá với phần bên của cơ thể nhẹ hơn so với phần lưng. | 1 | null |
Sorex trowbridgii là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha. Loài này được Baird mô tả năm 1857.
Loài chuột này được tìm thấy ở miền nam British Columbia ở Canada và ở Washington, Oregon và California ở Hoa Kỳ.
Chuột chù Trowbridge là một loài chuột chù có kích cỡ trung bình với đuôi dài. Cá thể chuột chù không sinh sản cân nặng khoảng 3,8 g (0,13 oz) trong khi cá thể chuột chù mùa sinh sản nặng trung bình khoảng 5 g (0,18 oz).
Màu lông của chuột chù Trowbridge thay đổi từ nâu đến xám trong thời gian nhất định trong năm. | 1 | null |
Chuột chũi mũi sao (tên khoa học Condylura cristata) là một loài chuột chũi nhỏ được tìm thấy trong các khu vực thấp ẩm của miền đông Canada và đông bắc Hoa Kỳ, với ghi chép dọc theo bờ biển Đại Tây Dương như xa về cực đông nam Georgia. Nó là thành viên duy nhất trong tông Condylurini và chi Condylura.
Chuột chũi mũi sao có chiếc mũi với hai mươi hai phần phụ thịt màu hồng, được sử dụng như một cơ quan cảm ứng với các thụ thể cảm giác hơn 25.000 nút nhỏ gọi là các cơ quan Eimer. Với sự giúp đỡ của các cơ quan Eimer, nó có thể hoàn toàn sẵn sàng để phát hiện các rung động sóng địa chấn. Chúng chủ yếu ăn các động vật không xương sống nhỏ, ấu trùng côn trùng và giun đất.
Loài này cũng có thể ngửi thấy mùi dưới nước, được thực hiện bằng cách thở ra bọt khí vào các vật thể hoặc đường mòn mùi hương và sau đó hít vào các bong bóng để mang mùi hương trở lại qua mũi. | 1 | null |
Yên Chiêu công (chữ Hán: 燕昭公; trị vì: 586 TCN-574 TCN), là vị vua thứ 22 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Ông là con của Yên Tuyên công- vị vua thứ 21 nước Yên, không rõ tên thật của ông là gì. Năm 587 TCN, Tuyên công mất, Chiêu công lên nối ngôi.
Dưới thời Yên Chiêu công, nước Yên đã mở nhiều chiến dịch quân sự nhằm mở rộng lãnh thổ sang các nước xung quanh, phía đông đánh Đông Hồ, chinh phạt Liêu Đông, tây đánh Tạo Dương, làm cho nước Yên từ một tiểu quốc nhỏ yếu trở nên một đất nước hùng mạnh.
Năm 574 TCN, Yên Chiêu công mất. Ông ở ngôi 13 năm. Yên Vũ công lên nối ngôi. | 1 | null |
Mogera imaizumii hay Chuột chũi Nhật Bản nhỏ, là một loài động vật có vú trong họ Talpidae, bộ Soricomorpha. Loài này được Kuroda mô tả năm 1957.
Phân bố.
Đây là loài đặc hữu của Nhật Bản chúng sống ở vùng đồng bằng Echigo trừ một số tỉnh Shizuoka, Nagano, Ishikawa và sống ở trung tâm của vùng Đông Bắc Nhật Bản. Ngoài ra, chúng còn phân bố ở một vài nơi như tỉnh Kyoto, Hiroshima, Shikoku và núi Ishizuchisan.
mô tả.
Chúng dài 120 đến 160 mm, có chiều dài đuôi từ khoảng 14mm đến 22mm, trọng lượng cơ thể sẽ từ khoảng 50g đến 130g. | 1 | null |
Mogera uchidai là một loài động vật có vú trong họ Talpidae, bộ Soricomorpha. Loài này được Abe, Shiraishi & Arai mô tả năm 1991.
Đây là loài đặc hữu Uotsuri-jima thuộc quần đảo Senkaku.
Đe dọa về sinh thái.
Sự tồn tại của loài này đang bị đe dọa do mất nơi sống, do sự du nhập của dê thuần hóa năm 1978; số dê trên hòn đảo nhỏ này hiên hơn 300 con. Hiện trạng bảo tồn của loài chuột chũi này đã được nâng lên cấp CR năm 2010 theo Trung tâm Đa dạng sinh học Nhật Bản. | 1 | null |
Chuột chũi châu Âu (danh pháp hai phần:"Talpa europaea") là một loài động vật có vú trong họ Talpidae, bộ Soricomorpha. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758.
Loài này sinh sống ở trong một hệ thống hang ngầm dưới đất mà nó thường xuyên mở rộng. Nó dùng các hang này để săn con mồi. Trong các điều kiện bình thường chúng đùn đất đào lên trên mặt đất tạo nên các mô đất. Chúng ăn tạp, ăn bất cứ thứ gì gặp trên đường từ con trùng,bò sát, động vật nhỏ khác (giun, dế đến rắn rết thậm chí chim chuột..). Nước bọt của nó có chứa chất độc làm tê liệt con giun đất.
Nó có hình xi lanh và dài khoảng 12 cm. Con cái thường nhỏ hơn con đực. Mắt nhỏ và giấu sau lông còn tai chỉ là một lằn nhỏ trên da. Lông thường có màu xám sẫm nhưng lông có thể có một dải màu rộng hơn.
Phân loài.
"Talpa europaea" gồm có 3 phân loài:
Thói quen ăn uống.
Một cách nghĩ thông thường về loài chuột chũi rằng chúng tiêu thụ một lượng thức ăn trong vòng 24 giờ bằng với trọng lượng cơ thể của chúng nhưng đó có yếu tố phóng đại. Thực chất từ các nghiên cứu cho thấy rằng mỗi ngày chúng chỉ tiêu thụ lượng thức ăn bằng 1/2 trọng lương cơ thể. Trong điều kiện nuôi nhốt chúng ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau như gan, chuột con, giun và giòi. Tuy nhiên chúng luôn có khuynh hướng ăn giun đất.
Sinh sản.
Từ tháng 6 đến tháng 1, "Talpa europaea" không có hoạt động giao phối và việc này chỉ diễn ra trong thời gian tương đối ngắn của mùa sinh sản vào xuân. Thời gian kết bạn kéo dài vài tuần trong tháng 3 và tháng 4, sau đó là thời kỳ mang thai từ 4-5 tuần. Hầu hết con non sẽ được sinh ra vào cuối tháng 4 hoặc đầu tháng 5. Mỗi ổ có từ 2–7 con. Sau đó là thời gian cho con bú, con mẹ chăm sóc trong non trong tổ khoảng 4-5 tuần, nhưng chuột con phải rời tổ vào cuối tháng 6. | 1 | null |
Acerodon jubatus là một loài dơi quạ hiếm và là một trong những loài dơi lớn nhất. Đây là một loài bị đe dọa và phải đối mặt với khả năng tuyệt chủng do săn bắn trái phép và nạn phá rừng. Đây là loài đặc hữu của Philippines. Loài này có thể đạt cân nặng và sải cánh . Nhưng những loài dơi lớn khác, "A. jubatus" vô hại với con người và chỉ ăn trái cây. Dù không hung dữ, chúng có thể mang những bệnh tật chết người. | 1 | null |
Dơi chó ấn (danh pháp hai phần: Cynopterus sphinx) là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Vahl mô tả năm 1797.
Loài dơi này được tìm thấy từ Pakistan đến Việt Nam. Chúng phổ biến trong các khu rừng nhiệt đới và các khu vực nơi trồng cây ăn quả. Chúng cũng có thể được tìm thấy ở đồng cỏ và rừng ngập mặn. Chúng thường làm tổ cao trong cây cọ. | 1 | null |
Dơi quạ Molucca (danh pháp hai phần: "Pteropus chrysoproctus") là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Temminck mô tả năm 1837. Loài dơi quạ này được tìm thấy trong các khu rừng vùng thấp (dưới 250 m trên mực nước biển) của đảo Seram (bao gồm cả vườn quốc gia Manusela), Buru, Ambon và Maluku đảo lân cận của miền đông Indonesia. Một loài Pteropus khác, "pteropus argentatus", cho đến gần đây được coi là cùng một loài như "P. chrysoproctus". Môi trường sống có diện tích ít hơn 20.000 km ² và đang giảm dần do nạn phá rừng. Vì lý do này, và bởi vì săn bắn của người dân địa phương, loài dơi quạ này được liệt kê vào nhóm loài sắp bị đe dọa trong danh mục của IUCN từ năm 1996. | 1 | null |
Dơi quạ đeo kính (danh pháp hai phần: "Pteropus conspicillatus") là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Gould mô tả năm 1849.
Loài dơi này sống ở khu vực phía đông bắc của Úc Queensland. Nó cũng được tìm thấy trong New Guinea và hải đảo bao gồm đảo Woodlark, đảo Alcester, Kiriwina, Halmahera.
Dơi quạ đeo kính đã được liệt kê như là một loài bị đe dọa theo Đạo luật Bảo vệ Môi trường và Bảo tồn đa dạng sinh học năm 1999. Chúng được coi là dễ bị tổn thương do một sự suy giảm đáng kể về số lượng do kết quả của việc mất nơi sống và các điểm cắm trại tách biệt. Người ta cũng ghi nhận rằng loài dơi đeo kính bay lướt qua bề mặt nước để uống và bị cá sấu bắt
Chiều dài đầu và thân 22–24 cm, tay trước dài 157–181 mm, trọng lượng 400–1000 g. | 1 | null |
Dơi quạ Ryukyu hay Cáo bay Ryukyu ("Pteropus dasymallus") là một loài dơi quạ thuộc họ Pteropodidae. Loài được tìm thấy tại Nhật Bản, Đài Bắc, và quần đảo Babuyan thuộc Philippines. Môi trường sống tự nhiên của chúng là những rừng khô, đầm lầy cận nhiệt đới hoặc nhiệt đới. Loài bị đe dọa bởi việc mất môi trường sống cũng như săn bắn và được IUCN xếp vào hạng mục "Loài sắp nguy cấp". Loài này được Coenraad Jacob Temminck mô tả năm 1825.
Phân loài và từ nguyên học.
Loài được mô tả sinh học vào năm 1825 bởi nhà động vật học người Hà Lan Coenraad Jacob Temminck. Temminck đã nhận mẫu vật mà ông dùng để miêu tả từ doanh nhân Jan Cock Blomhoff.
Tên loài "dasymallus" có khả năng có nguồn gốc ; Temminck mô tả lông của chúng dài và có cảm giác như len.
Loài có 5 phân loài, bao gồm:
Các phân loài được đưa ra dựa trên những quần thể phân bố ở những vùng đảo khác nhau.
Sinh học và sinh thái học.
Dơi quạ Ryukyu gần như là loài ăn trái cây với lượng tiêu thụ quả của ít nhất là 53 loài; hoa của 20 loài; lá của 18 loài và cành của 1 loài thực vật.
Chúng được quan sát rằng cũng ăn 8 loài côn trùng khác nhau.
Cây gừa là nguồn thức ăn quan trọng quanh năm của loài này.
Dơi quạ Ryukyu là loài thụ phấn quan trọng của một phân loài cây "Schima wallichii", ngoài ra cũng giúp thụ phấn một loài thuộc chi Đậu mèo là "Mucuna macrocarpa".
Chúng là loài ăn đêm, thường ngủ một mình trên cây vào ban ngày và kiếm ăn vào buổi tối.
Chúng có vai trò phát tán hạt và có thể đưa hạt từ trái cây đã tiêu hóa đi xa cây mẹ đến .
Mô tả.
Dơi quạ Ryukyu có kích thước nhỏ hơn đôi chút so với dơi quạ Ấn Độ với sải cánh dài .
Chúng nặng
và cánh tay có chiều dài khoảng .
Toàn thân được bao phủ dưới lớp lông dài, tạo cảm giác giống như len. Loài có màu nâu đỏ cùng gáy màu trắng vàng.
Tai của chúng nhỏ, nhọn và khó thấy dưới lớp lông dày cùng màng da có màu nâu đậm.
Phân bố và môi trường sống.
Cáo bay Ryukyu là loài đặc hữu của Đài Loan, Nhật Bản và Philippines. Tại Nhật, loài được tìm thấy tại quần đảo Ōsumi, quần đảo Tokara, quần đảo Okinawa, quần đảo Miyako, quần đảo Yaeyama và quần đảo Daito. Ở Philippines chúng xuất hiện ở Batan, Dalupiri và Fuga. Môi trường sống của chúng là những khu rừng rậm.
Tình trạng.
Số lượng lớn nhất của loài có lẽ sống tại Philippines và được cho sẽ duy trì ổn định. Nhật Bản được ước tính có hơn 5000 cá thể còn ở Đài Loan thì số lượng đã sụt giảm khá nhiều. Loài này phải đối mặt với rất nhiều mối đe dọa. Vài quần thể tại Philippines bị săn bắt làm thức ăn và được xem là mỹ vị ở Babuyan Claro. Còn ở Nhật Bản, mất môi trường sống là mối đe dọa hàng đầu nhưng một vài cá thể cũng bị mắc kẹt vào những lưới bảo vệ hoa quả hoặc bị giật bởi dây điện. Nhìn chung, số lượng loài này đã suy giảm đáng kể mặc dù tình hình có vẻ đã khả quan hơn vào năm 2008 khi IUCN xóa tên loài khỏi hạng mục "Loài nguy cấp" và thay bằng "Loài sắp nguy cấp".
Đối với con người.
Trong bản mô tả đầu tiên của Temminck, ông viết rằng loài cáo bay này "phá hoại" vườn hoa quả.
Sự phá hoại của chúng lên vườn cây đã buộc tỉnh Okinawa phải tiến hành điều tra vào năm 2012.
Ở 2 ngôi làng được khảo sát năm 2013, loài cáo bay đã gây ra tổn thất ước tính 19 triệu yên (175 ngàn USD) đối với mùa vụ hàng năm.
Nhiều nông dân Nhật Bản cho rằng dơi quạ Ryukyu là loài gây hại và nên được kiểm soát bằng phương pháp loại thải. | 1 | null |
Pteropus giganteus (tên tiếng Anh: "Dơi quạ Ấn Độ") là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Brünnich mô tả năm 1782.
Nó được tìm thấy ở Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Maldives, Nepal, Pakistan, Sri Lanka. Còn được gọi là Dơi quạ lớn Ấn Độ, loài dơi quạ này sinh sống ở chủ yếu trong rừng. Nó là một loài dơi rất lớn với sải cánh từ . Đó hoạt động về đêm và ăn chủ yếu các loại trái cây chín như xoài và chuối và mật hoa. Loài dơi này sống thành đàn lên tới con số vài trăm con.
Dơi quạ Ấn Độ cáo sống trong các khu rừng nhiệt đới và đầm lầy, nơi có một khu vực chứa nước gần đó. | 1 | null |
Pteropus keyensis là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Peters mô tả năm 1867.
Loài dơi này được tìm thấy trên quần đảo Kai của Indonesia. Trước đây loài này đã được xem là một phân loài của dơi quạ râu đen. | 1 | null |
Yên Vũ công (chữ Hán: 燕武公; trị vì: 573 TCN-555 TCN), là vị vua thứ 23 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Không rõ tên thật và thân thế của Vũ công. Năm 574 TCN, vua thứ 22 của nước Yên là Yên Chiêu công qua đời, ông lên nối ngôi.
Sử sách không ghi rõ những hành trạng của ông trong thời gian ở ngôi cũng như những sự việc xảy ra ở nước Yên dưới thời Yên Vũ công.
Năm 555 TCN, Yên Vũ công mất. Ông ở ngôi 19 năm. Yên Tiền Văn công lên nối ngôi. | 1 | null |
Dơi quạ Livingstone (danh pháp hai phần: "Pteropus livingstonii") là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Gray mô tả năm 1866.
Đây là một con dơi ăn quả ở Cựu Thế giới chỉ được tìm thấy ở quần đảo Anjouan và Mohéli trong Liên minh Comoros ở phía tây Ấn Độ Dương.
Đây là loài dơi lớn nhất và hiếm nhất trong tất cả các loài Comoros. Môi trường sống ưa thích của chúng là rừng trên 200 mét trên Mohéli và trên 500 mét trên Anjouan, sự tàn phá là mối đe dọa lớn đối với quần thể dơi. Tính đến năm 2003, tổng dân số ước tính khoảng 1.200 cá thể. Các mối đe dọa khác đối với sự sống sót của loài dơi bao gồm bão, săn bắn và cuộc đấu tranh của chúng để tìm lại môi trường sống mới.
Dơi quạ râu quai nón đen được cho là một trong những họ hàng gần nhất của dơi ăn quạ Livingstone, nhưng các chuyên gia khác nhau về việc liệu những loài này có thuộc cùng một nhóm hay không. Không có phân loài đã được công nhận. | 1 | null |
Dơi quạ Okinawa (danh pháp khoa học: "Pteropus loochoensis") là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Gray mô tả năm 1870.
Nó có thể là loài đặc hữu Nhật Bản. Trước đây nó đã được liệt kê như là tuyệt chủng bởi IUCN, nhưng vì hai mẫu vật được biết đến là phân loại học không chắc chắn và xuất xứ không rõ, tình trạng của nó đã được thay đổi thành 'thiếu dữ liệu'. Một số người đặt loài này là loài đồng nghĩa của "dơi quạ Mariana". Một số người khác xem dơi quạ Okinawa là một phân loài của dơi quạ Mariana, trong khi một số xem nó là loài đầy đủ. Có hai mẫu vật tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Anh, mẫu thứ ba không biết ở đâu. Hai trong số các mẫu vật được cho là có nguồn gốc từ khu vực Đông Nam Á, do đó, phạm vi phân bố thực sự của dơi quạ Okinawa là chưa rõ. | 1 | null |
Dơi ngựa Thái Lan (danh pháp khoa học: Pteropus lylei) là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được K. Andersen mô tả năm 1908.
Là loài dơi lớn thứ hai vè kích thước chỉ xếp sau loài Dơi ngựa lớn. Chiều dài đầu và thân: 198 – 125 mm; cẳng tay dài: 144 – 162 mm; chiều dài tai 35,5 – 40 mm; chiều dài toàn bàn chân sau: 39,5 – 48 mm; cân nặng cơ thể 389 - 483 g . Lông ở phần đầu màu nâu sẫm hay nâu nhạt, gáy màu hung vàng đến vai thì vàng nhạt hơn. Lông màu sáng ánh bạc ở giữa lưng và thẫm dần về hai bên. Quanh cổ đến ngực và đầu màu vãng sẫm, phần bụng màu sẫm. Không có đuôi. Sọ của Dơi ngựa Thái Lan có hình thái tương tự như Dơi ngựa lớn (chiều dài đái sọ: 59,5 – 65 mm; chiều dài rộng gò má: 33 – 35 mm). Chiều dài hàm răng: 17,5 - 22,5 mm. Nha thức: i2/2; c1/1; p3/3; m2/3 (34 cái răng)
Phân bố.
Loài dơi này sinh sống ở Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Ở Việt Nam chúng phân bố chủ yếu ở miền Nam, đặc biệt là ở Sóc Trăng (chùa Dơi - TP Sóc Trăng) và Cà Mau (Vồ Dơi). Theo các khảo sát gần đây, số lượng các đàn dơi ngựa ngày càng giảm sút do môi trường sống bị thu hẹp, môi trường ô nhiễm. Công tác bảo tồn loài dơi ngựa nói chung và dơi ngựa Thái Lan nói riêng nên được chú trọng
Thức ăn.
Các loại quả chín như nhãn, xoài, chuối... thường nghỉ ngơi vào lúc khoảng 18 giờ và bay đi kiếm ăn rất xa, tới vài chục km và trở về nghỉ ngơi vào sáng hôm sau. Thức ăn của chúng chủ yếu là quả chín tuy nhiên chúng cũng ăn phấn hoa, mật hoa, hạt phấn, cánh hoa để có đủ năng lượng. Loài này có tuyến nước bọt phát triển, thích nghi với khả năng tiêu hóa thức ăn nghèo protein và natri nhằm cung cấp đủ các chất dinh dưỡng cần thiết. Sóng siêu âm không nhạy bén nên chúng dùng thị giác để tìm thức ăn khác với các loài dơi ăn côn trùng. Chúng có hệ thống răng pháy triển để cắn xuyên qua lớp vỏ để ăn phần thịt quả. Chúng ăn nhiều loại hạt, góp phần quan trọng trong việc phát tán thực vật.
Tập tính.
Dơi ngựa Thái Lan có các đặc tính như: đập cánh, ngủ, sải cánh, di chuyển và chải lông. Hoạt động ngủ và chải lông diễn ra vào buổi sáng và cuối buổi chiểu. Hoạt động đập cánh hầu như diễn ra vào buổi sáng và đầu buổi chiều. Không những thay đổi trong ngày mà các tập tính kể trên cũng thay đổi theo mùa. Các hoạt động sải cánh như để tắm nắng
Sinh sản.
Dơi ngựa Thái Lan thường đẻ mỗi năm một lứa vào khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 5; mỗi lứa chỉ đẻ một con; dơi non được mẹ mang theo ở mặt bụng, mỗi khi dơi mẹ bay đi kiếm ăn sẽ để dơi con lại nơi ở. Dơi mẹ thường ôm con, cho con bú và chải lông con. Khi trời nắng nhẹ, từ khoảng 8h đến 10h sáng và 3h -4h chiều, dơi mẹ thường tập bay cho con. (Ghi nhận không chính thức vào thời gian mang thai của loài vào tháng 12 | 1 | null |
Pteropus poliocephalus (tên tiếng Anh: "grey-headed flying fox", "cáo bay đầu xám") là một loài dơi quạ bản địa Úc. Đây là một trong bốn loài "Pteropus" có mặt ở Úc (ba loài kia là "P. scapulatus", "P. conspicillatus", "P. alecto"). "P. poliocephalus" là loài đặc hữu ở những cánh rừng đông nam Úc. Phạm vi phân bố xấp xỉ kéo dài từ Bundaberg (Queensland) đến Geelong (Victoria), với quần thể tách biệt ở cả Ingham và Finch Hatton (về phương bắc), và Adelaide (về phương nam). | 1 | null |
Dơi quạ đỏ nhỏ (danh pháp hai phần: "Pteropus scapulatus") là một loài động vật có vú trong họ Dơi quạ, bộ Dơi. Loài này được Peters mô tả năm 1862.
Đây là loài bản bản địa miền bắc và miền đông Australia. Loài này nặng khoảng nửa kg, và là loài "Pteropus" nhỏ nhất ở lục địa Australia. "P. scapulatus" xuất hiện ở bờ biển và xa hơn trong đất liền, tập trung và bay đến các vùng nhiệt đới đến ôn đới cung cấp cho chúng nguồn mật hoa hàng năm. Chúng lấy nước uống khác thường trong thời gian khô hạn, bay lướt qua bề mặt của một con suối để cho nước dính vào bộ lông của chúng khi chúng đang bay. | 1 | null |
Subsets and Splits
No saved queries yet
Save your SQL queries to embed, download, and access them later. Queries will appear here once saved.