id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
184
322k
19812045
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%B2%20%C3%A1o%20thun%20%C6%B0%E1%BB%9Bt
Trò áo thun ướt
Trò thi áo thun ướt (Wet T-shirt contest) là một trò thi liên quan đến chủ nghĩa phơi bày mà thường có các thí sinh là phụ nữ trẻ tại các hộp đêm, quán bar hoặc khu nghỉ dưỡng. Các thí sinh mặc áo thun ướt thường mặc áo phông mỏng màu trắng hoặc sáng màu và không mặc áo lót, áo bikini hoặc các loại quần áo khác bên trong và bên dưới. Sau đó, những người khác sẽ phun, té nước (thường là nước đá) lên hoặc đổ nước lên ngực của những người tham gia, khiến chiếc áo thun của họ chuyển sang màu trong mờ và bám dính vào ngực của họ, phơi bày ra các đường cong cơ thể nhạy cảm, những chỗ vùng kín. Trò thi tương đương dành cho nam tương đối hiếm hơn đôi khi được tổ chức tại các quán bar dành cho người đồng tính. Các thí sinh có thể thay phiên nhau khiêu vũ, nhảy nhót hoặc tạo dáng trước khán giả, trong cuộc thi này thì kết quả được quyết định từ phản ứng và biểu cảm của đám đông hoặc bình chọn của ban giám khảo. Cũng trong các cuộc thi này, người tham gia có thể xé hoặc cắt áo phông của họ để lộ phần giữa, khe ngực hoặc phần mặt dưới của bộ ngực. Tùy thuộc vào luật pháp địa phương, người tham gia có thể được phép cởi áo thun hoặc khỏa thân hoàn toàn trong khi biểu diễn. Tại Hoa Kỳ, nhà làm phim trượt tuyết Dick Barrymore tuyên bố trong cuốn hồi ký Breaking Even của mình rằng ông ta đã tổ chức cuộc thi áo thun ướt đầu tiên tại Sun Valley, Idaho ở quán Boiler Room Bar vào tháng 1 năm 1971 như một phần của chương trình khuyến mãi cho ván trượt K2. Cuộc thi được quảng cáo chỉ là một "cuộc thi áo thun" (T-shirt contest), trong đó các nữ tiếp viên hàng không sẽ nhảy theo nhạc mặc áo phông quảng cáo K2. Tuy nhiên, thí sinh đầu tiên xuất hiện là một vũ công thoát y chuyên nghiệp đã để ngực trần khi khiêu vũ và các thí sinh nghiệp dư đã đáp trả bằng cách làm ướt áo thun của họ trước khi thi đấu làm họ hấp dẫn hơn. Barrymore đã tổ chức "Cuộc thi áo phông ướt K2" lần thứ hai tại Rusty Nail ở Stowe Mountain Resort, Vermont để quay phim, mặc dù thực tế là Hội đồng thành phố Stowe đã thông qua nghị quyết cấm khỏa thân tại sự kiện. Ông ta đã tổ chức một cuộc thi quảng cáo khác cho K2 vào ngày 10 tháng 3 năm 1971 tại nhà hàng và quán bar The Red Onion của Aspen, Colorado và các cuộc thi đã được giới thiệu trong một bức hình bìa trên số tháng 3 năm 1972 của tạp chí Playboy. Lần đầu tiên được biết đến thuật ngữ trò thi áo thun ướt trên báo chí diễn ra vào năm 1975 khi The Palm Beach Post mô tả sự xuất hiện của cuộc thi tại các vũ trường ở New Orleans. Cuộc thi sau đó đã được tổ chức tại các sự kiện kỳ nghỉ xuân ở Fort Lauderdale, Florida, với một số chủ quán bar bị phạt theo luật khiếm nhã nơi công cộng vì tổ chức một cuộc thi kiểu này. Mặc dù không rõ ràng về tình trạng pháp lý về vấn đề này, các cuộc thi bắt đầu diễn ra ở những nơi khác ở Hoa Kỳ. Một cuộc thi tại một quán rượu ở Milwaukee vào năm 1976 đã bị cảnh sát đột kích, mặc dù các thí sinh đã đeo Scotch Tape bên dưới áo phông của họ theo yêu cầu của cảnh sát. Jacqueline Bisset xuất hiện trong bộ phim năm 1977 có tên The Deep, trong phim có cảnh cô ấy bơi dưới nước mà chỉ mặc một chiếc áo phông đã góp phần mang lại sự phổ biến Cuộc thi áo phông để nâng cao nhận thức cộng đồng. Trong một album xuất bản năm 1979 của Frank Zappa là Joe's Garage, ca khúc "Fembot in a Wet T-Shirt" kể về Mary cô gái đến từ Canoga Park, Los Angeles đã tham gia cuộc thi áo phông ướt để quyên góp tiền trở về nhà sau khi bị một nhóm nhạc rock ở Miami bỏ rơi. Một bộ phim thực tế The Real Cancun năm 2003 của Mỹ có chiếu cảnh về một cuộc thi áo thun ướt. Chú thích Trò chơi
19812047
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20tai%20n%E1%BA%A1n%20Chosonminhang%20Ilyushin%20Il-62%201983
Vụ tai nạn Chosonminhang Ilyushin Il-62 1983
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1983, một tai nạn máy bay xảy ra với chiếc Ilyushin Il-62M thuộc hãng hàng không Chosonminhang của CHDCND Triều Tiên. Tai nạn xảy ra khi máy bay đâm vào một khu vực núi đồi ở quốc gia Guinea, tại Tây Phi. Tất cả 23 người trên máy bay đều thiệt mạng trong vụ tai nạn đau lòng này. Chiếc máy bay đang thực hiện chuyến bay từ Bình Nhưỡng với nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa xây dựng và một số công nhân, chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh của Tổ chức Thống nhất Châu Phi vào năm 1984. Máy bay và chuyến bay Chiếc Ilyushin Il-62M có số hiệu P-889 được chế tạo bởi Liên Xô và sản xuất tại Nhà máy Hàng không Kazan vào đầu năm 1981. Sau đó, nó được bán cho hãng hàng không quốc gia của Bắc Triều Tiên, Chosonminhang (hiện nay được gọi là Air Koryo), cũng trong năm 1981. Trong quá trình sử dụng, chiếc máy bay này không ghi nhận bất kỳ sự cố nào trước đó, trừ việc một chuyến bay cất cánh đã bị hủy bỏ vào năm 1982 do một cửa hầm hàng hóa vô tình bị mở. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1983, P-889 đang vận chuyển vật liệu xây dựng cùng với một số công nhân và kỹ thuật viên từ Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên đến Guinea để hoàn thành công trình trước hội nghị Thống nhất Châu Phi lần thứ hai mươi dự kiến diễn ra ở Conakry, Guinea vào tháng 5 năm 1984. P-889 đã thực hiện hai điểm dừng trung gian để nạp nhiên liệu, lần lượt tại Kabul và Cairo, trước khi tiếp tục hành trình đến Guinea. Tai nạn và hậu quả Vào ngày 1 tháng 7 năm 1983, chiếc P-889 đã gặp tai nạn và rơi trong khu vực núi cao Fouta Djallon ở Guinea, gần thị trấn Labé, cách sân bay quốc tế Conakry khoảng 160 dặm về phía tây bắc. Tất cả 23 người trên máy bay đã thiệt mạng. Đây là vụ tai nạn đầu tiên gây tử vong cho hãng hàng không này. Thông tin về vụ tai nạn lan truyền chậm do khó khăn trong việc tiếp cận hiện trường tai nạn ở vùng xa xôi. Mặc dù nguyên nhân vụ tai nạn chưa được công bố công khai, nhưng nghi ngờ rằng lỗi của phi công kết hợp với sự mệt mỏi đã gây ra vụ tai nạn. Ngay sau vụ tai nạn, đoàn đại biểu cấp cao của chính phủ Guinea đã đi công du đến Bắc Triều Tiên để gửi lời chia buồn chính thức tới Kim Nhật Thành. Xem thêm Chuyến bay 980 của Hãng Hàng không Miền Đông Chuyến bay 498 của Aeroflot Chuyến bay 5463 của Aeroflot Chuyến bay quốc tế Thai Airways 311 Tham khảo
19812051
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Ogasawara%202015
Động đất Ogasawara 2015
là trận động đất xảy ra vào lúc 20:23 (theo giờ địa phương), Trận động đất có cường độ địa chấn 8.1 richter. Tâm chấn độ sâu khoảng 682 km, nằm ngoài khơi quần đảo Ogasawara. Rung lắc của trận động đất cảm nhận được nhiều khu vực ở Nhật Bản, trong đó có cả Tokyo. Đây là một trong những trận động đất có tâm chấn sâu lớn nhất thế giới. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Hậu quả trận động đất chỉ làm 13 người bị thương. Tham khảo Ogasawara
19812053
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20Wimbledon%202023
Giải quần vợt Wimbledon 2023
Giải quần vợt Wimbledon 2023 là một giải quần vợt Grand Slam diễn ra tại All England Lawn Tennis and Croquet Club ở Wimbledon, Luân Đôn, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Giải đấu Giải đấu được thi đấu trên mặt sân cỏ, với tất cả các trận đấu vòng đấu chính diễn ra tại All England Lawn Tennis and Croquet Club, Wimbledon, từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 7 năm 2023. Các trận đấu vòng loại diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 6 năm 2023 tại Bank of England Sports Ground ở Roehampton. Giải quần vợt Wimbledon 2023 là lần thứ 136 giải đấu được tổ chức, lần thứ 129 của nội dung đơn nữ, lần thứ 55 trong Kỷ nguyên Mở và là giải Grand Slam thứ ba trong năm. Giải đấu được điều hành bởi Liên đoàn Quần vợt Quốc tế (ITF) và là một phần của lịch thi đấu ATP Tour 2023 và WTA Tour 2023 dưới thể loại Grand Slam, cũng như ITF tour 2023 của giải trẻ và xe lăn. Giải đấu bao gồm các nội dung nam (đơn và đôi), nữ (đơn và đôi), đôi nam nữ, nam trẻ (dưới 18 tuổi – đơn và đôi, dưới 14 tuổi – đơn), nữ trẻ (dưới 18 tuổi – đơn và đôi, dưới 14 tuổi – đơn), cũng là một phần ở thể loại Hạng A của giải đấu cho các vận động viên dưới 18 tuổi, và nội dung đơn & đôi cho các vận động viên nam và nữ quần vợt xe lăn. Giải đấu cũng bao gồm nội dung đôi nam và nữ khách mời, cùng với nội dung đôi khách mời hỗn hợp. Nội dung đôi nam được thay đổi từ đánh năm thắng ba sang đánh ba thắng hai ở tất cả các trận đấu. Đây là lần thứ hai giải đấu có lịch thi đấu trong ngày Chủ Nhật tuần đầu tiên, được gọi là "Middle Sunday". Trước giải đấu năm 2022, giải đấu chỉ có 4 năm ngoại lệ với truyền thống không có trận đấu nào diễn ra vào Chủ Nhật để tổ chức các trận đấu bị hoãn trong giải đấu vì trời mưa. Giải đấu bao gồm có sự tham dự của các vận động viên Nga và Belarus, sau khi bị cấm tham dự ở giải đấu năm 2022 do cuộc tấn công của Nga vào Ukraina. Sự kiện đặc biệt Bên cạnh giải đấu diễn ra, cựu tay vợt người Thụy Sĩ Roger Federer được vinh danh kể từ lần đầu tiên anh vô địch giải đấu vào năm 2003. Tóm tắt kết quả Đơn nam Đơn nữ Tóm tắt từng ngày Ngày 1 (3 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam:  Félix Auger-Aliassime [11], Yoshihito Nishioka [24] Đơn nữ:  Coco Gauff [7], Liudmila Samsonova [15], Zheng Qinwen [24],  Mayar Sherif [31] Lịch thi đấu Ngày 2 (4 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Dan Evans [27] Lịch thi đấu Ngày 3 (5 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Borna Ćorić [13], Roberto Bautista Agut [20], Sebastian Korda [22], Tallon Griekspoor [28] Đơn nữ: Maria Sakkari [8], Karolína Plíšková [18], Bernarda Pera [27] Lịch thi đấu Ngày 4 (6 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Casper Ruud [4], Taylor Fritz [9], Francisco Cerúndolo [18], Tomás Martín Etcheverry [29], Ben Shelton [32] Đơn nữ: Barbora Krejčíková [10], Veronika Kudermetova [12], Karolína Muchová [16], Jeļena Ostapenko [17], Elise Mertens [28] Đôi nữ: Nicole Melichar-Martinez / Ellen Perez [4], Shuko Aoyama / Ena Shibahara [8], Xu Yifan / Anna Danilina [11] Lịch thi đấu Ngày 5 (7 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Cameron Norrie [12], Lorenzo Musetti [14], Alex de Minaur [15] Đơn nữ: Caroline Garcia [5], Daria Kasatkina [11], Donna Vekić [20], Magda Linette [23], Anhelina Kalinina [26], Irina-Camelia Begu [29], Petra Martić [30] Đôi nam: Rajeev Ram / Joe Salisbury [3] Đôi nữ: Lyudmyla Kichenok / Jeļena Ostapenko [7], Asia Muhammad / Giuliana Olmos [10] Đôi nam nữ: Neal Skupski / Desirae Krawczyk [2] Lịch thi đấu Ngày 6 (8 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Tommy Paul [16], Alexander Zverev [19], Nicolás Jarry [25], Alejandro Davidovich Fokina [31] Đôi nữ: Desirae Krawczyk / Demi Schuurs [5] Lịch thi đấu Ngày 7 (9 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Frances Tiafoe [10], Alexander Bublik [23], Denis Shapovalov [26] Đơn nữ: Belinda Bencic [14], Victoria Azarenka [19], Anastasia Potapova [22], Marie Bouzková [32] Đôi nam: Marcelo Arévalo / Jean-Julien Rojer [7], Lloyd Glasspool / Nicolas Mahut [11], Máximo González / Andrés Molteni [14] Đôi nữ: Leylah Fernandez / Taylor Townsend [6] Đôi nam nữ: Jan Zieliński / Nicole Melichar-Martinez [3], Rohan Bopanna / Gabriela Dabrowski [6] Lịch thi đấu Ngày 8 (10 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Stefanos Tsitsipas [5], Hubert Hurkacz [17], Grigor Dimitrov [21] Đơn nữ: Petra Kvitová [9], Beatriz Haddad Maia [13], Ekaterina Alexandrova [21] Đôi nam: Ivan Dodig / Austin Krajicek [2], Fabrice Martin / Andreas Mies [8] Đôi nữ: Chan Hao-ching / Latisha Chan [12], Miyu Kato / Aldila Sutjiadi [13], Victoria Azarenka / Beatriz Haddad Maia [14], Marta Kostyuk / Elena-Gabriela Ruse [15] Đôi nam nữ: Wesley Koolhof / Leylah Fernandez [4], Jean-Julien Rojer / Ena Shibahara [8] Lịch thi đấu Ngày 9 (11 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Andrey Rublev [7] Đơn nữ: Iga Świątek [1], Jessica Pegula [4] Đôi nam: Hugo Nys / Jan Zieliński [4], Nikola Mektić / Mate Pavić [9], Sander Gillé / Joran Vliegen [12], Marcelo Melo / John Peers [16] Đôi nữ: Coco Gauff / Jessica Pegula [2] Đôi nam nữ: Matthew Ebden / Ellen Perez [5] Lịch thi đấu {| class="wikitable collapsible uncollapsed" style="margin:auto;" ! colspan="4" style="white-space:nowrap;" | Trận đấu trên Sân chính |- ! colspan="4" |Trận đấu trên Sân Trung tâm |- ! width="250" |Sự kiện ! width="220" |Người thắng trận ! width="220" |Người thua cuộc ! width="250" |Tỷ số |- |Tứ kết đơn nữ | Elina Svitolina [WC] | Iga Świątek [1] |7–5, 6–7(5–7), 6–2 |- |Tứ kết đơn nam | Novak Djokovic [2] | Andrey Rublev [7] |4–6, 6–1, 6–4, 6–3 |- ! colspan="4" |Trận đấu trên Sân Số 1 |- ! width="220" |Sự kiện ! width="220" |Người thắng trận ! width="220" |Người thua cuộc ! width="250" |Tỷ số |- |Tứ kết đơn nữ | Markéta Vondroušová | Jessica Pegula [4] |6–4, 2–6, 6–4 |- |Tứ kết đơn nam | Jannik Sinner [8] | Roman Safiullin |6–4, 3–6, 6–2, 6–2 |- |Đôi nữ khách mời | Kim Clijsters Martina Hingis | Francesca Schiavone Roberta Vinci |6–4, 6–3 |- ! colspan="4" |Trận đấu trên Sân Số 2 |- ! width="250" |Sự kiện ! width="220" |Người thắng trận ! width="220" |Người thua cuộc ! width="220" |Tỷ số |- |Vòng 3 đôi nam | Marcel Granollers [15] Horacio Zeballos [15] | Robert Galloway [PR] Lloyd Harris [PR] |7–6(7–5), 7–6(8–6) |- |Đôi nam khách mời | Bob Bryan Mike Bryan| Sébastien Grosjean Radek Štěpánek |7–5, 6–3 |- |Vòng 3 đôi nam | Jamie Murray [13] Michael Venus [13]| Hugo Nys [4] Jan Zieliński [4] |6–4, 6–3 |- |Tứ kết đôi nữ | Hsieh Su-wei [PR] Barbora Strýcová [PR]| Caroline Garcia Luisa Stefani |7–6(7–5), 6–4 |- ! colspan="4" |Trận đấu trên Sân Số 3 |- ! width="250" |Sự kiện ! width="220" |Người thắng trận ! width="220" |Người thua cuộc ! width="220" |Tỷ số |- |Tứ kết đôi nữ | Caroline Dolehide [16] Zhang Shuai [16] | Oksana Kalashnikova Iryna Shymanovich |6–4, 6–1 |- |Vòng 3 đôi nam | Wesley Koolhof [1] Neal Skupski [1]| Max Purcell Jordan Thompson |6–3, 7–6(7–3) |- |Đôi nữ khách mời | Johanna Konta Sania Mirza| Andrea Petkovic Magdaléna Rybáriková |6–3, 7–6(8–6) |- |Vòng 3 đôi nữ | Laura Siegemund Vera Zvonareva| Coco Gauff [2] Jessica Pegula [2] |6–3, 6–3 |- !colspan=4| Các trận đấu bắt đầu vào 11 giờ sáng (1:30 chiều trên Sân Trung tâm và 1:00 giờ chiều trên Sân Số 1) BST |} Ngày 10 (12 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Holger Rune [6] Đơn nữ: Elena Rybakina [3], Madison Keys [25] Đôi nam: Jamie Murray / Michael Venus [13] Lịch thi đấu Ngày 11 (13 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nữ: Aryna Sabalenka [2] Đôi nam: Rohan Bopanna / Matthew Ebden [6], Kevin Krawietz / Tim Pütz [10] Lịch thi đấu Ngày 12 (14 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Daniil Medvedev [3], Jannik Sinner [8] Đôi nữ: Caroline Dolehide / Zhang Shuai [16] Lịch thi đấu Ngày 13 (15 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nữ: Ons Jabeur [6] Đôi nam: Marcel Granollers / Horacio Zeballos [15] Lịch thi đấu Ngày 14 (16 tháng 7) Hạt giống bị loại: Đơn nam: Novak Djokovic [2] Đôi nữ: Storm Hunter / Elise Mertens [3] Lịch thi đấu Hạt giống đơn Đơn nam Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Xếp hạng và điểm vào ngày 3 tháng 7 năm 2023. † Tay vợt có điểm bảo vệ từ Båstad, Newport, hoặc một hoặc nhiều giải đấu ATP Challenger Tour (Porto, Rome, Lüdenscheid hoặc Amersfoort). Tay vợt rút lui khỏi giải đấu Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu. † Tay vợt có điểm bảo vệ từ Båstad hoặc Braunschweig. Đơn nữ Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Xếp hạng và điểm vào ngày 3 tháng 7 năm 2023. † Tay vợt có điểm bảo vệ từ Lausanne hoặc Budapest. Hạt giống đôi Đôi nam Bảng xếp hạng vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Đôi nữ Bảng xếp hạng vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Đôi nam nữ Bảng xếp hạng vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Nhà vô địch Đơn nam Carlos Alcaraz đánh bại Novak Djokovic 1–6, 7–6(8–6), 6–1, 3–6, 6–4 Đơn nữ Markéta Vondroušová đánh bại Ons Jabeur, 6–4, 6–4 Đôi nam Wesley Koolhof / Neal Skupski đánh bại Marcel Granollers / Horacio Zeballos, 6–4, 6–4 Đôi nữ Hsieh Su-wei / Barbora Strýcová đánh bại Storm Hunter / Elise Mertens, 7–5, 6–4 Đôi nam nữ Mate Pavić / Lyudmyla Kichenok đánh bại Joran Vliegen / Xu Yifan, 6–4, 6–7(9–11), 6–3 Đơn nam xe lăn Tokito Oda đánh bại Alfie Hewett, 6–4, 6–2 Đơn nữ xe lăn Diede de Groot đánh bại Jiske Griffioen, 6–2, 6–1 Đơn xe lăn quad Niels Vink đánh bại Heath Davidson, 6–1, 6–2 Đôi nam xe lăn Alfie Hewett / Gordon Reid đánh bại Takuya Miki / Tokito Oda, 3–6, 6–0, 6–3 Đôi nữ xe lăn Diede de Groot / Jiske Griffioen đánh bại Yui Kamiji / Kgothatso Montjane, 6–1, 6–4 Đôi xe lăn quad Sam Schröder / Niels Vink đánh bại Heath Davidson / Robert Shaw, 7–6(7–5), 6–0 Đơn nam trẻ Henry Searle đánh bại Yaroslav Demin, 6–4, 6–4 Đơn nữ trẻ Clervie Ngounoue đánh bại Nikola Bartůňková, 6–2, 6–2 Đôi nam trẻ Jakub Filip / Gabriele Vulpitta đánh bại Branko Đurić / Arthur Gea, 6–3, 6–3 Đôi nữ trẻ Alena Kovačková / Laura Samsonová đánh bại Hannah Klugman / Isabelle Lacy, 6–4, 7–5 Đôi nam khách mời Bob Bryan / Mike Bryan đánh bại James Blake / Lleyton Hewitt, 6–4, 3–6, [10–6] Đôi nữ khách mời Kim Clijsters / Martina Hingis đánh bại Cara Black / Caroline Wozniacki, 6–1, 7–5 Đôi nam nữ khách mời Nenad Zimonjić / Rennae Stubbs''' đánh bại Greg Rusedski / Conchita Martínez, 6–2, 6–2 Điểm và tiền thưởng Phân phối điểm Dưới đây là bảng phân bố điểm cho từng giai đoạn của giải đấu. Vận động viên chuyên nghiệp Vận động viên xe lăn Vận động viên trẻ Tiền thưởng Tổng số tiền của Giải quần vợt Wimbledon 2023 là £44,700,000, tăng 10.78% so với năm 2022. *mỗi đội Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Giải quần vợt Wimbledon Giải quần vợt Wimbledon Giải quần vợt Wimbledon Giải quần vợt Wimbledon Giải quần vợt Wimbledon
19812057
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%20%C4%90%C3%B4ng%20D%E1%BB%8Bch
Vi Đông Dịch
Vi Đông Dịch (; sinh năm 1991) là một nhà toán học người Trung Quốc, sinh ra ở Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Hiện tại, anh là trợ lý giáo sư và trợ lý nghiên cứu tại Trường Khoa học Toán học, Đại học Bắc Kinh. Anh tốt nghiệp trường Trung học trực thuộc Đại học Sư phạm Sơn Đông, và theo học tại Đại học Bắc Kinh từ năm 2010. Anh có được bằng cử nhân năm 2014 và bằng tiến sĩ năm 2018 dưới sự hướng dẫn của nhà toán học Điền Cương. Lĩnh vực nghiên cứu của anh bao gồm phương trình vi phân riêng phần và hình học vi phân. Anh trở thành trợ lý giáo sư vào tháng 12 năm 2019. Phong cách sống đơn giản của anh đã thu hút sự chú ý lớn từ Internet Trung Quốc. Anh thường được gọi là giáo viên xấu xí nhất Đại học Bắc Kinh do ngoại hình nhếch nhác. Giáo dục Vi Đông Dịch tốt nghiệp bằng cử nhân tại Đại học Bắc Kinh vào năm 2014. Năm 2019, anh hoàn thành chương trình học sau tiến sĩ và trở thành trợ lý giáo sư tại Khoa Toán của Đại học Bắc Kinh. Tác phẩm học thuật Vi Đông Dịch. "Regularity criterion to the axially symmetric Navier-Stokes equations". Journal of Mathematical Analysis and Applications. 435 (2016), số 1, 402-413. Wendong Wang, Dongyi Wei, Zhifei Zhang. "Energy identity for approximate harmonic maps from surfaces to general targets", Journal of Functional Analysis. 272 (2017), 776-803. Vi Đông Dịch, Zhang Zhifei. "Global well-posedness of the MHD equations in a homogeneous magnetic field". Analysis & PDE . 10 (2017), số 6, 1361-1406. Vi Đông Dịch, Zhang Zhifei, Zhao Weiren. "Linear inviscid damping for a class of monotone shear flow in Sobolev spaces". Communications on Pure and Applied Mathematics. 71 (2018), số 4, 617-687. Vi Đông Dịch, Zhang Zhifei, Zhao Weiren. "Linear inviscid damping and vorticity depletion for shear flows". Annals of PDE. 5 (2019), no. 1, Art. 3, 101 tr. Tham khảo Người Tế Nam Giảng viên Đại học Bắc Kinh Nhà toán học Trung Quốc thế kỷ 21 Cựu sinh viên Đại học Bắc Kinh Huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế Sinh năm 1991 Nhân vật còn sống
19812061
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ban%20Tuy%C3%AAn%20hu%E1%BA%A5n%20Trung%20%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%E1%BA%A3ng%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20C%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng%20L%C3%A0o
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào () là tổ chức tại Lào được thành lập vào năm 1951 với tư cách là một cơ quan ban ngành của Đảng Cộng sản Đông Dương, và hình thành theo hình thức hiện tại vào năm 1964. Ban này chịu trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương () là ủy viên theo đúng thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Người đứng đầu hiện nay, Khamphanh Pheuyavong, là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI. Cơ cấu tổ chức Văn phòng Ban Vụ Tổ chức Cán bộ Vụ Tuyên truyền Vụ Đào tạo Vụ Tổng hợp Vụ Báo chí Tạp chí lý luận Alun Mai. Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Khởi đầu năm 1951 ở Lào
19812062
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mercedes-Benz%20CLS
Mercedes-Benz CLS
Mercedes-Benz CLS (tên ban đầu là CLS-Class) là một dòng xe ô tô hạng sang được sản xuất bởi Mercedes-Benz từ năm 2004 đến tháng 8 năm 2023. Doanh số Tham khảo Thư mục Liên kết ngoài Official site Xe Mercedes-Benz Ô tô giới thiệu năm 2004 Ô tô thập niên 2010 Ô tô thập niên 2020 Ô tô hạng sang Sedan Xe dẫn động cầu sau Xe dẫn động bốn bánh Ô tô Đức
19812067
https://vi.wikipedia.org/wiki/Enigma%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29
Enigma (phim truyền hình)
Enigma (; ; tạm dịch: Người đàn ông ma thuật) là một bộ phim truyền hình Thái Lan với sự tham gia của Metawin Opas-iamkajorn (Win) và Chanikarn Tangkabodee (Prim). Bộ phim được đạo diễn bởi Patha Thongpan, người đã cầm trịch hai dự án rất thành công trước đó là The Gifted (2018) và F4 Thailand (2021), sản xuất bởi GMMTV cùng với Parbdee Taweesuk. Bộ phim được phát sóng vào thứ Bảy hàng tuần lúc 20:30 (ICT), đồng thời trên GMM 25 và nền tảng trực tuyến Prime Video, bắt đầu từ ngày 15 tháng 7 năm 2023. Bộ phim kết thúc vào ngày 5 tháng 8 năm 2023. Nội dụng Fa (Chanikarn Tangkabodee) là học sinh lớp 12 của trường Satrikurat, một trong những cơ sở giáo dục hàng đầu với các tiêu chuẩn khắt khe về thành tích học tập. Một ngày nọ, một học sinh bỗng phát điên vì áp lực và đâm giáo viên trọng thương. Trong khi nhà trường cho rằng điều này là do căng thẳng đến từ việc học tập, Fa lại nghi ngờ mọi chuyện không chỉ đơn giản như vậy, và thế giới của cô dần lộ ra những vết nứt vẫn luôn được ẩn giấu. Khi loạt sự kiện kỳ ​​​​lạ khác tiếp tục xuất hiện, chúng dường như có liên quan đến giáo viên mới tên Arjin (Metawin Opas-iamkajorn). Thoạt nhìn, anh ta có vẻ là một người bối rối và vụng về, nhưng có điều gì đó ở anh ta khiến Fa không thể làm ngơ. Khi cô dấn thân ngày càng sâu vào bóng tối, những bí ẩn dẫn cô đến một thế giới nguy hiểm hơn cả những gì cô từng nghĩ. Một thế giới mà Fa luôn cho rằng chỉ là sự tưởng tượng đơn thuần, lại bắt đầu khiến cô nhận ra với đủ niềm tin, nó hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Diễn viên Diễn viên chính Metawin Opas-iamkajorn (Win) vai Ajin Nakharittha Chanikarn Tangkabodee (Prim) vai "Fa" Farinda Panya-angkul Diễn viên phụ Kanyarat Ruangrung (Piploy) vai Namsai Sureeyares Yakares (Prigkhing) vai Yiwa Preeyaphat Lawsuwansiri (Earn) vai Kaohom Đón nhận Rating truyền hình và trực tuyến Sản xuất Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Sau một thời gian chuẩn bị, Enigma chính thức khởi quay vào ngày 20 tháng 2 năm 2023. Bộ phim đóng máy vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, sau khoảng bốn tháng ghi hình. Tham khảo Liên kết ngoài GMMTV Phim truyền hình Thái Lan Chương trình truyền hình của GMMTV Phim truyền hình Thái Lan ra mắt năm 2023 Chương trình gốc GMM 25
19812070
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20d%C6%B0%20to%C3%A0n%20bi%C3%AAn
Đại Việt địa dư toàn biên
Đại Việt địa dư toàn biên (大越地輿全編) là cuốn sách cổ về địa lý học lịch sử Việt Nam. Sách gồm 5 quyển, do Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ biên tập, Nguyễn Trọng Hợp viết tựa, khắc in lần đầu năm 1900. Tác giả Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) hiệu là Phương Đình, đỗ Phó bảng năm 1838. Ông làm quan ở Hàn Lâm viện và một số nơi khác, tới năm 1854 thì về hưu. Ông dạy học và soạn sách ở quê nhà Thanh Trì, Hà Nội. Bùi Quỹ (1796-1861) tự là Hữu Trúc, quê Hưng Yên. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1829 và được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu. Sau đó ông còn trải nhiều chức quan khác nhau. Nguyễn Trọng Hợp (1834-1902) cùng quê với Nguyễn Văn Siêu và viết tựa cho sách. Ông là quan Phụ chính đại thần, trải bảy đời vua từ Tự Đức đến Thành Thái. Nội dung Sách gồm 5 quyển, trong đó quyển 1, 2, 4 do Nguyễn Văn Siêu soạn; còn quyển 3, 5 do Bùi Quỹ soạn. Quyển 1 - Ngã Việt phương dư tiền biên, có thể chia làm 3 phần chính: Địa chí tiền biên: các ghi chép về nước ta qua các thư tịch cổ Trung Quốc gồm: Tiền Hán thư địa lý chí, Hậu Hán thư quận quốc chí, Tấn thư địa lý chí, Lưu Tống châu quận chí, Nam Tề châu quận chí, Tùy thư địa lý chí, Đường thư địa lý chí và sơ lược thời thuộc Minh. Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư - An Nam cương vực bị lục: các ghi chép cụ thể hơn về thời thuộc Minh, soạn cuối thời Minh đầu thời Thanh. Độc sử phương dư kỷ yếu - An Nam bị lục: các ghi chép cụ thể hơn về châu huyện, thành trì, sông núi, nước láng giềng... soạn thời Thanh. Quyển 2 - Tiền Lê chánh biên (từ nhà Lê Sơ trở về trước), gồm 2 phần chính: Hành chính từ thời Đinh đến thời Lê Sơ, dựa theo Đại Việt sử ký toàn thư Địa chí loại tạp khảo: bàn về các địa danh Giao Chỉ, nước Việt, núi Ngũ Lĩnh... và cương vực nước ta với phương Bắc. Quyển 3 - Đại Nam phương dư chính biên phần 1 Các tỉnh miền trung và nam của nhà Nguyễn: Kinh Sư và Thừa Thiên phủ, Bình Định tỉnh, Nghệ An tỉnh, Quảng Bình tỉnh, Thanh Hóa tỉnh, Quảng Nam tỉnh, Quảng Nghĩa tỉnh, Bình Thuận tỉnh, Khánh Hòa tỉnh, Gia Định tỉnh, Biên Hòa tỉnh, Vĩnh Long tỉnh, An Giang tỉnh, Hà Tiên tỉnh. Quyển 4 - gồm 2 phần chính: Ngoại quốc chư truyện: Thuận Thành di sự (Chiêm Thành), truyện nước Cao Man (Chân Lạp), Côn Lôn dương (các nước nam đảo ngoài biển), truyện hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (Tây Nguyên), truyện nước Vạn Tượng (Ai Lao), truyện nước Nam Trưởng (Lão Qua) Chư thủy khảo: Khảo cứu về ngọn nguồn các dòng sông Nhị Hà, sông Tam Đức và các sông thuộc tỉnh Cao Bằng - Thái Nguyên - Lạng Sơn. Quyển 5 - Đại Nam phương dư chính biên phần 2 Các tỉnh miền bắc của nhà Nguyễn: Hà Nội tỉnh, Nam Định tỉnh, Ninh Bình tỉnh, Nam Định tỉnh, Hưng Yên tỉnh, Hải Dương tỉnh, Quảng Yên tỉnh, Sơn Tây tỉnh, Hưng Hóa tỉnh, Tuyên Quang tỉnh, Bắc Ninh tỉnh, Thái Nguyên tỉnh, Lạng Sơn tỉnh, Cao Bằng tỉnh. Xuất bản Theo lời tựa của Nguyễn Trọng Hợp thì Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quỹ cùng soạn chung sách bằng chữ Hán (viết tay). Mãi tới năm 1882, khi cả hai ông đều đã mất, các học trò của Nguyễn Văn Siêu mới đem khắc ván in. Nhưng khi đó Pháp bắt đầu gây hấn Bắc Kỳ nên công việc dang dở, tới năm 1900 mới hoàn thành. Bản dịch chữ quốc ngữ đầu tiên có tên là Phương Đình dư địa chí do Ngô Mạnh Nghinh dịch, Nhà xuất bản Tự do ấn hành năm 1959 tại Sài Gòn. Bản này viết sai tên là Nguyễn Siêu (một trong 12 sứ quân). Bản dịch phổ biến hiện nay có tên Đại Việt địa dư toàn biên do Viện Sử học dịch, Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1997 đề tên Nguyễn Văn Siêu. Tham khảo Phương Đình dư địa chí Dư địa chí Kiến văn tiểu lục Lịch triều hiến chương loại chí Đất nước Việt Nam qua các đời Địa chí Sách địa lý Việt Nam Sách lịch sử Việt Nam
19812071
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20Ho%C3%A0ng%20h%E1%BA%ADu%20La%20M%C3%A3%20v%C3%A0%20%C4%90%C3%B4ng-T%C3%A2y%20La%20M%C3%A3
Danh sách Hoàng hậu La Mã và Đông-Tây La Mã
Dưới đây là danh sách hoàng hậu của đế quốc La Mã cũng như hai nửa đế quốc kế thừa sau này là đế quốc Tây La Mã và đế quốc Đông Lã Mã. Không có một tên gọi chính thức nào cho chức vụ hoàng hậu của các nhà nước La Mã cả. Các tên gọi sử dụng bao gồm augusta (Tiếng Hy Lạp: αὐγούστα, augoústa), từ dạng nữ của danh xưng hoàng gia augustus, hay caesaraea, từ dạng nữ của danh xưng hoàng gia caesar. Trong vương triều Đông La Mã sau này, từ được sử dụng đối với danh hiệu hoàng hậu là βᾰσῐ́λῐσσᾰ (basílissa), từ dạng nữ của danh xưng hoàng gia basileus hay αὐτοκράτειρα (autokráteira), Hi Lạp hoá từ Latin autocratix, từ dạng nữ của danh xưng hoàng gia autokrator (danh xưng biểu thị cho hoàng đế đơn nhất). Trong thế kỷ thứ 3, hoàng hậu La Mã còn được nhận các danh xưng tôn kính khác như māter castrōrum (người mẹ quân nhân) hay māter patriae (người mẹ tổ quốc). Vấn đề với những người mang danh xưng augusta là không phải là vị hoàng hậu nào cũng mang danh xưng này, với lại không chỉ hoàng hậu mà còn những người phụ nữ hoàng gia khác cũng mang danh xưng, ví dụ như mẹ, chị em cũng như tình nhân của hoàng đế cũng mang danh xưng trên. Các hoàng hậu La Mã có thể tồn tại đồng thời cùng với nhau, tức có thể có 2 hay nhiều hơn là vợ của các hoàng đế La Mã ở trong cùng một thời điểm. Từ năm 230 đến năm 395, dù là một chính thể thống nhất, tuy nhiên về mặt hành chính thì đế quốc đã chia thành hai nửa là Đông và Tây La Mã (sau năm 395 thì chia tách hoàn toàn). Các hoàng hậu theo đó cũng đi theo các nhánh kế vị triều đại riêng cho mình theo các nhánh triều đại hoàng đế khác nhau. Hoàng hậu cuối cùng ở phía Tây là của Julios Nepos, còn ở phía đông là vợ thứ hai của Ioannes VIII Palaiologos. Các hoàng hậu Đông La Mã sau này còn có danh xưng δέσποινα (déspoina), từ dạng nữ của danh xưng despotes (chuyên chúa quốc). Mặc dù quyền lực chính trị của các hoàng hậu chưa bao giờ được xác định, nhưng người ta thường chấp nhận rằng lễ đăng quang của họ, được thực hiện sau lễ đăng quang của chồng họ cho phép họ có được một số quyền về chính trị nhất định. Thông thường, nhiệm vụ chính của họ là giám sát việc tổ chức các nghi lễ tại triều đình cũng như tham gia vào các công việc của triều đình và tôn giáo. Mặc dù quyền lực chính trị thường chỉ được trao cho hoàng đế, nhưng các hoàng hậu có thể có được quyền lực đáng kể với tư cách là nhiếp chính hoàng đế nếu họ còn nhỏ hoặc khi chồng của họ vắng mặt. Mặc dù họ bị ràng buộc bởi mong muốn và tính khí của chồng mình, nhưng các hoàng hậu đôi khi cũng có thể trở thành những người đồng nhiếp chính có ảnh hưởng. Trong một số trường hợp, các hoàng đế củng cố tính hợp pháp của họ thông qua việc kết hôn với con gái của một vị hoàng đế trước đó. Trong những trường hợp như vậy, các vị hoàng hậu đôi khi nhấn mạnh tính hợp pháp của triều đại của họ lớn hơn tính hợp pháp của chồng họ nhằm xây dựng được ảnh hưởng lớn đối với đế quốc. Một số hoàng hậu hay hoàng tế có ảnh hưởng, chẳng hạn như Theodora, vợ của Justinian I và Euphrosyne, vợ của Alexios III, đã tổ chức các tòa án của riêng họ. Các nữ hoàng tự mình cai trị một cách độc lập, chẳng hạn như Irene và Zoë Porphyrogenita, đôi khi sử dụng các danh hiệu nam giới như basileus và autokrator để thể hiện quyền lực của họ. Danh sách Hoàng hậu La Mã Thời kỳ Nguyên thủ (27 TCN – 284) Triều Julio-Claudian (27 TCN – 68) Năm Tứ đế và triều Flavian (69 – 96) Triều Nervan-Antonian (98 – 192) Tất cả các hoàng hậu thời kỳ này đều nhận được tước hiệu augusta. Năm ngũ đế (193) Tất cả các hoàng hậu thời kỳ này đều nhận được tước hiệu augusta. Triều Severan (193 – 227) Tất cả các hoàng hậu thời kỳ này đều nhận được tước hiệu augusta trong hoặc sau khi kết hôn một khoảng thời gian. Khủng hoảng thế kỷ thứ ba (235 – 285) Tất cả các hoàng hậu thời kỳ này đều nhận được tước hiệu augusta. Thời kỳ quân chủ (284 – 395) Tứ đầu chế (284 – 324) Triều Constantine (306 – 363) Triều Valentinianic (364 – 383) Triều Theodosian (364 – 383) Tất cả các hoàng hậu thời kỳ này đều nhận được tước hiệu augusta, ngoại trừ Galla, Elen, và Thermantia. Danh sách Hoàng hậu Tây La Mã sau năm 455 Danh sách Hoàng hậu Đông La Mã sau năm 455 Trong các triều đại Đông La Mã sau này, hầu như tất cả các nữ hoàng (trừ khi được ghi chú) đều nhận được tước hiệu augusta; không rõ liệu nó có còn được coi là một tước hiệu chính thức hay chỉ là một tước hiệu lịch sự đồng nghĩa với "nữ hoàng". Hoàng triều Leonid (457 – 517) Hoàng triều Justinian (518 – 602) Hoàng triều Heraclian (610 – 695) Hai mươi năm vô chính phủ (695 – 717) Hoàng triều Isauria (717 – 802) Hoàng triều Nikephoros (802–813) Hoàng triều Amorium (820–867) Hoàng triều Makedonia (867–1056) Hoàng triều Komnenos (lần thứ nhất) và Doukas (1056 – 1081) Hoàng triều Komnenos (lần thứ hai, 1081 – 1115) Hoàng triều Angelos (1185 – 1204) Hoàng triều Laskaris (1205 – 1258) Hoàng triều Palaiologos (1259 – 1439) Ghi chú Tham khảo Trích dẫn Tài liệu sơ cấp Tài liệu thứ cấp . Salve Regina University.
19812075
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tonkotsu%20ramen
Tonkotsu ramen
là một loại mì ramen có nguồn gốc từ tỉnh Fukuoka, đảo Kyūshū, Nhật Bản. Nó là món ăn đặc sản ở Fukuoka và Kyūshū. Nước dùng của mì được làm từ xương lợn và các nguyên liệu khác, thường được đun trong vài giờ. Tonkotsu ramen thường được ăn kèm với thịt lợn ba chỉ thái lát và sợi mì cứng. Ở Fukuoka, tonkotsu ramen còn được gọi là Hakata ramen. Nước dùng cho tonkotsu ramen được làm từ xương lợn, và trong tiếng Nhật có nghĩa là "xương lợn". Nước dùng của mì được nấu bằng cách đun sôi xương lợn trong nước trong thời gian lên đến 18 giờ, thường mang một màu đục. Các thành phần trong nước dùng bao gồm hành, tỏi, hành lá, gừng, mỡ lưng lợn, giò lợn, dầu và thịt gà. Mì ramen đã nấu chín thường được ăn cùng với thịt ba chỉ om hoặc nướng, và các gia vị thêm vào có thể bao gồm kombu, kikurage, shōyu, tương ớt, vừng hạt, vv.... Phương pháp trình bày được sử dụng trong tonkotsu ramen là để mì cứng ở giữa. Một số cửa hàng ramen cho phép khách hàng chọn mức độ cứng của mì, bao gồm futsu cho loại thông thường hoặc tiêu chuẩn, harigane cho loại rất cứng, barikata cho loại al dente và yawamen cho loại mềm. Lịch sử Mì tonkotsu ramen có nguồn gốc từ Kurume, tỉnh Fukuoka, nằm ở bờ biển phía bắc đảo Kyūshū của Nhật Bản, là món ăn đặc sản ở Fukuoka và Kyūshū. Ở Fukuoka, loại mì này thường được gọi là vì Hakata là tên lịch sử của Fukuoka, hoặc cũng có thể được gọi là "tonkotsu ramen". Món ăn được chế biến tại các cửa hàng ramen ở tất cả các vùng khác của Nhật Bản. Tonkotsu ramen ban đầu được chế biến như một món ăn nhanh với giá cả phải chăng và dễ chế biến cho những người lao động ở chợ cá. Ngày nay, tonkotsu ramen nổi tiếng vì mất nhiều thời gian, để có thể nấu được một cách chuẩn xác nhất. Xem thêm Ẩm thực địa phương Nhật Bản Danh sách món mì ramen Tham khảo Đọc thêm 200 trang. Liên kết ngoài Ramen Món ăn Nhật Bản Ẩm thực Nhật Bản
19812080
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Hamilton
Công tước xứ Hamilton
Công tước xứ Hamilton (tiếng Anh: Duke of Hamilton) là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland, được tạo ra vào tháng 4 năm 1643. Đây là công tước cao cấp nhất trong các tước hiệu tương đương (ngoại trừ Công tước xứ Rothesay do con trai cả của quân chủ Anh nắm giữ), và do đó, người nắm giữ nó là người ngang hàng hàng đầu của Scotland, đồng thời là người đứng đầu của cả Nhà Hamilton và Nhà Douglas. Tước hiệu được lấy theo thị trấn Hamilton ở Lanarkshire, Scotland, và nhiều nơi trên thế giới được đặt theo tên các thành viên của gia đình Hamilton. Họ của gia đình công tước, ban đầu là "Hamilton", bây giờ là "Douglas-Hamilton". Kể từ năm 1711, tước vị Công tước xứ Hamilton đã được hợp nhất cùng với Công tước xứ Brandon trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh, và các công tước kể từ thời điểm đó được phong là Công tước xứ Hamilton và Brandon, cùng với một số tước hiệu phụ khác. Người đầu tiên được phong Công tước xứ Hamilton chính là James, Hầu tước thứ 3 xứ Hamilton, một nhà quý tộc Scotland có ảnh hưởng chính trị rộng rãi trong suốt Chiến tranh Ba Mươi Năm và Chiến tranh Ba Vương quốc. Tước vị được truyền đến tận ngày nay đã là đời Công tước thứ 16. Tham khảo Công trình trích dẫn Liên kết ngoài Hamilton family portraits Lennoxlove House Palace of Holyroodhouse Công tước xứ Hamilton Công tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland Nhà Hamilton Danh sách người Scotland Bắc Lanarkshire
19812082
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brandon%20Wilson%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
Brandon Wilson (cầu thủ bóng đá)
Brandon James Wilson (sinh ngày 28 tháng 1 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Úc gốc Botswana đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ SHB Đà Nẵng tại V.League 1. Tiểu sử Sinh ra ở Botswana, Wilson chuyển đến Úc khi còn trẻ. Sau đó, anh chuyển đến Anh để chơi cho đội trẻ Burnley trước khi ra mắt đội một Stockport County. Năm 2016, anh trở lại Úc để chơi cho Perth Glory. Liên kết ngoài
19812093
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lewis%20Ferguson
Lewis Ferguson
Lewis Ferguson (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Scotland hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A và Đội tuyển bóng đá quốc gia Scotland. Sau khi chơi bóng cho đội trẻ Rangers và Hamilton Academical, Ferguson đã có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Hamilton Academical F.C. trong mùa giải 2017–18. Sau bốn mùa giải với Aberdeen, anh chuyển đến câu lạc bộ Bologna vào năm 2022. Là cầu thủ trẻ đại diện cho Scotland, anh ra mắt quốc tế vào năm 2021. Sự nghiệp thi đấu Hamilton Sinh ra ở Hamilton, Nam Lanarkshire, Ferguson tốt nghiệp hệ thống đội trẻ của Hamilton Academical sau khi trước đó là một phần của thiết lập tại Rangers. Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Hamilton vào ngày 20 tháng 1 năm 2018, và trở thành cầu thủ thường xuyên của đội trong phần sau của mùa giải 2017–18, thay thế Greg Docherty, người đã chuyển đến Rangers. Với hợp đồng của anh sẽ hết hạn vào cuối mùa giải đó, Ferguson đã ký một thỏa thuận trước hợp đồng với Aberdeen vào tháng 5 năm 2018. Anh là một trong 7 cầu thủ của đội một rời Hamilton vào cuối mùa giải 2017–18. Aberdeen Ferguson có trận ra mắt cho Aberdeen vào ngày 26 tháng 7 năm 2018, trong trận lượt đi hòa 1-1 của Europa League trước Burnley trên Sân vận động Pittodrie. Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên trong trận lượt về tại Turf Moor – một "cú ngả bàn đèn tuyệt đẹp" - mặc dù Burnley cuối cùng đã giành chiến thắng với tổng tỷ số 4-2 sau hai hiệp phụ. Vào ngày 28 tháng 10, anh đã giúp Aberdeen lọt vào trận Chung kết Cúp Liên đoàn Scotland 2018 khi ghi bàn thắng duy nhất trong trận bán kết với Rangers tại Hampden Park. Vào cuối năm dương lịch, anh cũng đã ghi được ba bàn thắng ở giải đấu, tất cả đều ở những phút cuối của mỗi trận đấu, với hai trong số đó (một quả đá phạt vào lưới Kilmarnock và một pha ngả người móc bóng khác vào lưới Livingston) mang về chiến thắng cho đội nhà. Vào tháng 2 năm 2019, Ferguson gia hạn hợp đồng với Aberdeen, giữ anh ở lại câu lạc bộ đến năm 2024. Vào tháng 4, anh lại chơi ở Hampden Park, nhưng lần này bị đuổi khỏi sân vì một pha phạm lỗi nguy hiểm khi Aberdeen thua 3-0 trước Celtic trong trận bán kết của Cúp Scotland 2018–19. Vào tháng 5 năm 2019, anh được đề cử cho giải thường Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của PFA Scotland của mùa giải; nhưng nó đã giành được bởi Ryan Kent. Ferguson là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho câu lạc bộ trong mùa giải 2020–21, với 10 bàn thắng sau 41 lần ra sân. Aberdeen đã từ chối lời đề nghị từ câu lạc bộ Watford cho Ferguson vào tháng 5 năm 2021, sau đó anh đã gửi yêu cầu chuyển nhượng bằng văn bản. Bologna Vào ngày 12 tháng 7 năm 2022, câu lạc bộ Bologna thông báo về việc ký hợp đồng với Ferguson với mức phí chuyển nhượng không được tiết lộ. Anh có trận ra mắt khi vào sân thay người trong trận thua 2-0 trước Milan vào ngày 27 tháng 8 năm 2022, và vào sân thay người thêm 2 lần trước lần xuất phát đầu tiên trong trận gặp Napoli vào ngày 16 tháng 10. Bàn thắng đầu tiên của anh đến một tuần sau đó, bàn thứ 2 trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Lecce, và anh lại ghi bàn vào tuần sau - bàn gỡ hòa trong chiến thắng 2-1 trước Monza. Vào ngày 12 tháng 11 năm 2022, anh ghi bàn thắng thứ ba cho Bologna trong chiến thắng 3–0 trước Sassuolo, một pha cứa lòng từ rìa vòng cấm sau khi phối hợp một hai với Nicolás Domínguez. Sau này, bàn thắng được coi là bàn thắng đẹp nhất Serie A của tháng 11 năm 2022. Sự nghiệp quốc tế Ferguson được gọi triệu tập lên đội U-19 Scotland vào tháng 8 năm 2017, xuất hiện một số lần cho họ. Ferguson lần đầu tiên được triệu tập lên đội tuyển Scotland vào tháng 8 năm 2021 để chuẩn bị các trận đấu gặp Đan Mạch, Moldova và Áo. Anh có trận ra mắt vào ngày 1 tháng 9 năm 2021 trong trận thua 2–0 trên sân khách trước Đan Mạch, khi vào sân thay cho Billy Gilmour trong thời gian bù giờ. Đời tư Lewis là con trai của Derek Ferguson và cháu trai của Barry Ferguson, cả hai đều là cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp của các câu lạc bộ bao gồm Rangers và đội tuyển Scotland. Anh họ của anh, Kyle Ferguson cũng là một cầu thủ bóng đá (họ là đồng đội của nhau khi còn nhỏ trong học viện Rangers). Con gái Lake của anh chào đời vào tháng 11 năm 2022. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Danh hiệu Cá nhân Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của SFWA: 2019–20 Serie A - Bàn thắng của tháng: Tháng 11 năm 2022 Tham khảo Sinh năm 1999 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Scotland Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Scotland Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Scotland Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Scotland Cầu thủ bóng đá Scotland ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý Tiền vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá Rangers F.C. Cầu thủ bóng đá Hamilton Academical F.C. Cầu thủ bóng đá Aberdeen F.C. Cầu thủ bóng đá Bologna F.C. 1909 Cầu thủ bóng đá Scottish Football League Cầu thủ bóng đá Serie A
19812094
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%E1%BA%BFn%20T%C3%ADm%20%28Bangkok%29
Tuyến Tím (Bangkok)
Tuyến MRT Tím () hoặc Tuyến MRT Chalong Ratchatham () là tuyến tàu điện ngầm thứ năm của Băng Cốc trước đó là Tuyến Sukhumvit, Tuyến Silom, Tuyến MRT Xanh Dương, và Tuyến đường sắt sân bay. Tuyến dài , phục vụ khu vực Tây-Bắc Băng Cốc từ Tao Poon đến Klong Bang Phai tại tỉnh Nonthaburi. Tuyến mở cửa vào ngày 6 tháng 8 năm 2016. Nó là tuyến thứ hai thuộc hệ thống MRT và được quản lý bởi BEM. Lượt khách mỗi ngày là 70.000. Đoạn dài 23,63 km bao gồm 17 mở rộng về phía Nam của tuyến bao gồm 14,3 km đi ngầm dưới đất và 9,3 km trên cao khởi công vào tháng 8 năm 2022. Tổng kinh phí cho đoạn mở rộng là $82 tỉ baht và dự kiến mở cửa vào cuối năm 2027. Đến cuối tháng 5 năm 2023, tổng khối lượng công việc hoàn thành là 11,50%. Nhà ga Xem thêm Tàu điện ngầm Bangkok Tham khảo Liên kết ngoài "BEM Purple Line website" "MRTA Purple Line South Extension website" Airport Rail Link, BTS, MRT & BRT network map Khởi đầu năm 2016 ở Thái Lan Tím Tỉnh Nonthaburi
19812106
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m%20Thu%E1%BA%ADn
Lâm Thuận
Lâm Thuận (sinh ngày 20 tháng 11 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam. Tham khảo Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Việt Nam Tiền vệ bóng đá Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Than Quảng Ninh Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Đồng Tháp Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Bình Phước Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá PVF-CAND Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Sài Gòn Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Thành phố Hồ Chí Minh Cầu thủ giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
19812110
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20Tu%E1%BA%A5n%20Minh
Lê Tuấn Minh
Lê Tuấn Minh (sinh ngày 21 tháng Mười năm 1996) là một đại kiện tướng cờ vua người VIệt Nam. Lê Minh Tuấn đã đoạt chức vô địch cờ vua Việt Nam năm 2020. Lê Tuấn Minh sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, bắt đầu chơi cờ từ năm lên 8 tuổi. Bên cạnh việc thi đấu cờ vua thì Lê Tuấn Minh còn theo học Đại học luật Hà Nội. Vào tháng Bảy năm 2022, Lê Tuấn Minh được Liên đoàn cờ vua thế giới phong danh hiệu đại kiện tướng, và là kỳ thủ Việt Nam thứ 13 được phong danh hiệu này. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1996 Đại kiện tướng cờ vua Nhân vật còn sống Vận động viên cờ vua Việt Nam Đại kiện tướng cờ vua Việt Nam Vận động viên người Hà Nội
19812112
https://vi.wikipedia.org/wiki/James%20Hamilton%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t%20x%E1%BB%A9%20Hamilton
James Hamilton, Công tước thứ nhất xứ Hamilton
James Hamilton, Công tước thứ nhất xứ Hamilton, KG, PC (19 tháng 6 năm 1606 – 9 tháng 3 năm 1649), là Hầu tước thứ 3 xứ Hamilton từ tháng 3 năm 1625 đến tháng 4 năm 1643 và sau đó được nâng lên Công tước xứ Hamilton, là một nhà quý tộc người Scotland và là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng trong suốt Chiến tranh Ba Mươi Năm và Chiến tranh Ba Vương quốc. Được thừa kế Bá tước xứ Arran James sinh năm 1606 tại Cung điện Hamilton ở Lanarkshire, Scotland, là con trai của James Hamilton, Hầu tước thứ 2 xứ Hamilton, và Quý bà Ann Cunningham, con gái của James Cunningham, Bá tước thứ 7 xứ Glencairn. Sau cái chết của người chú mất trí là James Hamilton, Bá tước thứ 3 xứ Arran, vào năm 1609, đứa trẻ sơ sinh được phong là Bá tước xứ Arran. Người thừa kế ngai vàng của Scotland Tổ tiên thân cận của James, Bá tước Arran trẻ tuổi là Công chúa Mary, con gái của James II của Scotland và Mary xứ Guelders. Sau cái chết vào năm 1612 của Henry Frederick, Thân vương xứ Wales, James trở thành người xếp thứ ba trong danh sách thừa kế ngai vàng của Scotland, sau Charles, Công tước xứ Rothesay, và em gái là Công chúa Elizabeth. Chú thích Tham khảo Historical Manuscripts Commission, 11th Report, Part IV, p. 75. Marquis Hamilton to Johan Banér, n.d. 1631. Edward Furgol, A Regimental History of the Covenanting Armies, 1639-1651 (John Donald, Edinburgh, 1990). Alexia Grosjean, An Unofficial Alliance: Scotland and Sweden, 1569-1654 (Brill, Leiden, 2003). Steve Murdoch and Alexia Grosjean, Alexander Leslie and the Scottish Generals of the Thirty Years' War, 1618-1648 (Pickering & Chatto, London, 2014). Attribution Endnotes and — account of his supposed treachery — speech on the scaffold. Xem thêm Sinh năm 1606 Mất năm 1649 Công tước xứ Hamilton Hầu tước xứ Hamilton Bá tước xứ Cambridge Nhà Hamilton Bá tước xứ Arran
19812114
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20%C4%90%E1%BB%A9c%20H%C3%B2a
Nguyễn Đức Hòa
Nguyễn Đức Hòa (sinh ngày 13 tháng Bảy năm 1989) là một đại kiện tướng cờ vua người Việt Nam. Từ năm 2012 đến 2014 Nguyễn Đức Hòa đã 3 năm liên tiếp đoạt chức vô địch quốc gia. Ở đấu trường quốc tế, anh được gọi vào đội tuyển cờ vua Việt Nam đoạt huy chương đồng nội dung đồng đội giải vô địch châu Á các năm 2012 và 2014. Sự nghiệp Nguyễn Đức Hòa đoạt chức vô địch quốc gia 3 năm liên tiếp từ 2012 đến 2014. Anh cũng giành được những thành tích cao ở các giải cờ quốc tế, đã từng vô địch các giải Penang (2012, 2015), Bhubaneswar (2017), Bhopal (2017), Mumbai (2017). Nguyễn Đức Hòa từng được gọi vào đội tuyển cờ vua Việt Nam thi đấu giải Olympiad cờ vua các năm 2010, 2012 và 2014 và giải vô địch cờ vua châu Á các năm 2012 và 2014. Năm 2011, Nguyễn Đức Hòa được phong danh hiệu Kiện tướng quốc tế (IM), ba năm sau anh được phong danh hiệu Đại kiện tướng (GM). Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1989 Nhân vật còn sống Người Việt Nam thế kỷ 20 Người Việt Nam thế kỷ 21 Đại kiện tướng cờ vua Việt Nam Vận động viên cờ vua Việt Nam Vận động viên người Cần Thơ
19812121
https://vi.wikipedia.org/wiki/Victor%20Auguste%2C%20Nam%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Duperr%C3%A9
Victor Auguste, Nam tước xứ Duperré
Victor Auguste Duperré (ngày 4 tháng 8 năm 1825 – ngày 26 tháng 3 năm 1900) là sĩ quan hải quân và phó đô đốc người Pháp. Tiểu sử Victor Duperré quê quán tại Paris, con trai của Guy-Victor Duperré và Claire Adelaïde Le Camus. Ông gia nhập Hải quân Pháp năm 1840, sau ra khơi phục vụ dưới quyền chỉ huy của Edmond Jurien de La Gravière trên tàu La Bayonnaise ở Viễn Đông vào năm 1846, trước khi trở thành trung úy hải quân vào ngày 14 tháng 2 năm 1851 trong cuộc tấn công vào Bomarsund, Crimea. Bốn năm sau, ông chỉ huy tàu Le Pélican trong cuộc phong tỏa Sweaborg, sau đó là tàu La Salamandre tại Levant, trước khi trở thành thuyền trưởng khinh hạm vào ngày 11 tháng 4 năm 1859. Trong chiến dịch nước Ý, ông chỉ huy tàu La Foudre rồi Le Roland tại Levant. Năm 1862, ông là phụ tá cho Bộ trưởng Bộ Hải quân Pháp, sau đó là tham mưu trưởng và thuyền trưởng vào năm 1865. Năm 1868, ông chỉ huy các tiền đồn ở Iceland và sau là Phân đội Hải quân Bờ biển Tây Phi, đồng thời là người đứng đầu thực sự thuộc địa Gabon ("Thuộc địa Gorée và các Vùng phụ thuộc") từ năm 1869 đến năm 1870. Ông trở thành Tham mưu trưởng của Đô đốc Rigault de Genouilly và chỉ huy quân cảng Cherbourg vào năm 1873. Ông được thăng cấp chuẩn đô đốc vào năm 1873 rồi giữ chức chánh văn phòng Bộ trưởng Bộ Hải quân, về sau sang Đông Dương nhậm chức Thống đốc Nam Kỳ từ năm 1874 đến năm 1877. Ông được tấn phong phó đô đốc vào ngày 1 tháng 10 năm 1879. Năm 1881, ông là phó đô đốc dưới quyền Chủ tịch Nam tước Albert Roussin, và vào ngày 27 tháng 1 năm 1881, ông trở thành thành viên chính thức của Hội đồng Bộ Hải quân. Năm 1884, ông chỉ huy tàu Colbert trước khi được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ban Xây dựng Hải quân vào năm 1886. Ông cũng là một trong những thành viên sáng lập Câu lạc bộ Du thuyền Pháp. Ông chủ trì ủy ban tổ chức các môn thể thao dưới nước cho Thế vận hội Mùa hè năm 1900. Tham khảo Victor Auguste DUPERRÉ tại trang web "Espace Tradition de l'École Marine". Sinh năm 1825 Mất năm 1900 Thống đốc Nam Kỳ Sĩ quan Hải quân Pháp
19812123
https://vi.wikipedia.org/wiki/Porsche%20Tennis%20Grand%20Prix%202023
Porsche Tennis Grand Prix 2023
Porsche Tennis Grand Prix 2023 là một giải quần vợt nữ chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân đất nện trong nhà tại Porsche Arena ở Stuttgart, Đức, từ ngày 17 đến ngày 23 tháng 4 năm 2023. Đây là lần thứ 45 giải Porsche Tennis Grand Prix được tổ chức và là một phần của WTA 500 trong WTA Tour 2023. Điểm và tiền thưởng Phân phối điểm Nội dung đơn Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 10 tháng 4 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Paula Badosa Tatjana Maria Jule Niemeier Emma Raducanu Vượt qua vòng loại: Cristina Bucșa Ylena In-Albon Tamara Korpatsch Petra Martić Thua cuộc may mắn: Alycia Parks Rút lui Belinda Bencic → thay thế bởi Anastasia Potapova Petra Kvitová → thay thế bởi Alycia Parks Nội dung đôi Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 10 tháng 4 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Mona Barthel / Anna-Lena Friedsam Thay thế: Vivian Heisen / Ingrid Neel Rút lui Linda Fruhvirtová / Ingrid Gamarra Martins → thay thế bởi Vivian Heisen / Ingrid Neel Nhà vô địch Đơn Iga Świątek đánh bại Aryna Sabalenka 6–3, 6–4 Đôi Desirae Krawczyk / Demi Schuurs đánh bại Nicole Melichar-Martinez / Giuliana Olmos 6–4, 6–1 Tham khảo Liên kết ngoài Porsche Tennis Grand Prix Porsche Tennis Grand Prix Porsche Tennis Grand Prix Baden-Württemberg thập niên 2020 Porsche Tennis Grand Prix
19812126
https://vi.wikipedia.org/wiki/Porsche%20Tennis%20Grand%20Prix%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
Porsche Tennis Grand Prix 2023 - Đơn
Iga Świątek là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Aryna Sabalenka trong trận chung kết, 6–3, 6–4. Đây là lần đầu tiên cả hai tay vợt có thứ hạng hàng đầu thế giới vào trận chung kết một giải WTA Tour sau Giải quần vợt Úc Mở rộng 2018, và là trận đấu đầu tiên như vậy sau WTA Finals 2019. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ năm 2005 cả hai tay vợt vào trận chung kết hai năm liên tiếp ở Stuttgart. Hạt giống 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại WTA Tour 2023
19812127
https://vi.wikipedia.org/wiki/Porsche%20Tennis%20Grand%20Prix%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i
Porsche Tennis Grand Prix 2023 - Đôi
Desirae Krawczyk và Demi Schuurs là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Nicole Melichar-Martinez và Giuliana Olmos trong trận chung kết, 6–4, 6–1. Hạt giống Kết quả Kết quả Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Porsche Tennis Grand Prix - Đôi Đôi 2023
19812135
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samsung%20Galaxy%20A52
Samsung Galaxy A52
Samsung Galaxy A52 là điện thoại thông minh chạy hệ điều hành Android tầm trung do Samsung Electronics phát triển và sản xuất như một phần của dòng Galaxy A. Điện thoại được công bố vào ngày 17 tháng 3 năm 2021 tại sự kiện Awesome Unpacked ảo của Samsung cùng với Galaxy A72. Nó đóng vai trò là mẫu máy kế nhiệm của Galaxy A51. Nó tương tự như người tiền nhiệm của nó, nhưng có camera chính 64 MP được nâng cấp, dung lượng pin được tăng lên 4500 mAh và khả năng chống nước và bụi IP67. Một thiết bị được nâng cấp, Galaxy A52s, được phát hành lần đầu tiên vào Tháng 8 năm 2021 với một chipset khác (Qualcomm Snapdragon 778G), Hỗ trợ Wi-Fi 6 và màu mới (Xanh Sành Điệu). Thông số kỹ thuật Thiết kế Galaxy A52 có thiết kế tương tự người tiền nhiệm Galaxy A51. Nó có màn hình Infinity-O với phần cắt cho camera selfie và viền mỏng giống như A51. Không giống như A51, A52 có các tùy chọn màu máy mờ thay vì lớp màu hoàn thiện bóng bẩy. Màn hình được bảo vệ bởi kính cường lực Corning Gorilla Glass 5 trong khi khung và mặt sau được làm bằng nhựa. Cả hai biến thể 4G và 5G đều có chung thiết kế. Nó có sẵn với các tùy chọn Đen Cá Tính, Trắng Năng Động, Tím Thời Thượng, Xanh Sáng Tạo. Cả hai biến thể đều có khả năng chống nước và bụi IP67. Màu sắc Ghi chú Phần cứng Galaxy A52 được cung cấp sức mạnh bởi Qualcomm Snapdragon 720G SoC với quy trình 8 nm, CPU lõi tám và GPU Adreno 618. Mặt khác, Galaxy A52 5G được cung cấp sức mạnh bởi Qualcomm Snapdragon 750G SoC với quy trình 8 nm, CPU lõi tám và GPU Adreno 619. Galaxy A52s được trang bị Qualcomm SM7325 Snapdragon 778G 5G với quy trình 6 nm, CPU Octa-core (4x2,4 GHz Kryo 670 & 4x1,9 GHz Kryo 670) và GPU Adreno 642L. Màn hình Cả A52 và A52 5G đều có màn hình Super AMOLED 6,5 inch với độ sáng tối đa 800 nits, tỷ lệ khung hình 20:9, độ phân giải 1080×2400 px, mật độ điểm ảnh 411 ppi và tỷ lệ màn hình so với thân máy là ~84,1%; tuy nhiên, màn hình trên A52 có tốc độ làm tuơi 90 Hz và màn hình trên A52 5G có tốc độ làm tuơi 120 Hz. Camera Cả hai biến thể 4G và 5G đều có bốn camera phía sau với camera chính 64 MP với tính năng chống rung quang học (OIS), camera góc siêu rộng 12 MP, camera độ sâu 5 MP và cảm biến độ sâu 5 MP. Máy ảnh có thể quay video lên tới 4K@30fps và 1080p@60fps. Pin Cả hai biến thể 4G và 5G đều có pin 4500 mAh hỗ trợ sạc nhanh 25W; tuy nhiên, có một củ sạc 15W trong hộp và người dùng cần mua riêng củ sạc 25W. Bộ nhớ A52 có các tùy chọn lưu trữ gồm bộ nhớ 128Gb / RAM 4Gb, 128/6, 128/8, 256/6 và 256/8. A52 5G có các tùy chọn 128/6, 128/8 và 256/8. A52s 5G có các tùy chọn 128/4, 128/6, 128/8, 256/6, và 256/8. Tính năng Máy được trang bị giắc Audio 3,5 mm và tai nghe phía trên, với loa phía dưới, mang đến tính năng âm thanh nổi. Nó cũng có tính năng dưới màn hình, máy quét dấu vân tay quang học. Phần mềm Cả hai biến thể 4G và 5G đều được xuất xưởng với Android 11 và giao diện người dùng One UI 3.1 độc quyền của Samsung. Samsung tuyên bố rằng cả hai biến thể 4G và 5G sẽ nhận được 3 bản cập nhật phiên bản hệ điều hành, 3 năm cập nhật hàng tháng và 4 năm cập nhật bảo mật. Kể từ đầu năm 2023, dòng A52 đã nhận được bản cập nhật cho Android 13 và One UI 5.0. Tham khảo
19812141
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chanikarn%20Tangkabodee
Chanikarn Tangkabodee
Chanikarn Tangkabodee (tiếng Thái: ชนิกานต์ ตังคบดี, sinh ngày 20 tháng 2 năm 2004) còn được biết đến với nghệ danh Prim (พริม), là một nữ diễn viên người Thái Lan gốc Hoa. Cô được biết đến nhiều nhất qua các tác phẩm như Năng lực trời ban 2, F4 Thái Lan: Vườn sao băng (2021–2022), và Enigma (2023). Tiểu sử và học vấn Prim sinh ra ở Băng Cốc, Thái Lan và là người gốc Hoa. Cô đã gia nhập làng giải trí từ khi còn nhỏ, xuất hiện trong một số quảng cáo. Năm 2022, Prim tốt nghiệp Chulalongkorn University Demonstration School. Cô hiện đang theo học khoa Thương mại và Kế toán tại Đại học Chulalongkorn. Sự nghiệp Cơ hội diễn xuất đầu tiên của Prim là trong bộ phim Chiang Khan Story, thủ vai nữ chính thuở nhỏ. Từ năm 2014 đến 2019, cô tiếp tục đảm nhận vai khách mời trong một số dự án như Luerd Ruk Toranong (2016), U-Prince: Chàng cao bồi đẹp trai (2016) và Ngược dòng thời gian để yêu anh (2018). Prim chính thức ký hợp đồng cùng GMMTV vào năm 2019, và góp mặt với một vai phụ trong Phi vụ học đường. Năm 2020, cô đảm nhận vai chính đầu tiên trong Năng lực trời ban 2, và sau đó là F4 Thái Lan: Vườn sao băng (2021–2022), bộ phim giúp tên tuổi cô đến gần hơn với khán giả quốc tế. Năm 2022, cô đóng chính phần Somewhere Only We Belong thuộc phim hợp tuyển Good Old Days, cùng với Perawat Sangpotirat. Tháng 7 năm 2023, Prim quay trở lại màn ảnh nhỏ với vai nữ chính trong bộ phim Enigma. Cũng trong năm nay, cô còn một tác phẩm khác là Because You're My First Love. Ngoài ra, Prim cũng hợp tác với nhiều hãng thời trang xa xỉ, một vài nhà mốt bao gồm Dior, Louis Vuitton, Gucci, Versace, Bulgari. Cô cũng trở thành người đại diện cho các thương hiệu như Shein và Doctorlogy. Prim còn thường xuyên xuất hiện trên các tạp chí thời trang nổi tiếng như L'Officiel, Elle, Harper's Bazaar và Vogue. Danh sách phim Phim điện ảnh Phim truyền hình Video âm nhạc Giải thưởng và đề cử Chú thích Nữ diễn viên Thái Lan Sinh năm 2004 Nhân vật còn sống
19812143
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAt%20giao%20th%C3%B4ng%20Tokyo
Nút giao thông Tokyo
Nút giao thông Tokyo (Tiếng Nhật: インターチェンジ) còn được gọi là Tokyo IC (Tiếng Nhật: IC) là điểm giao cắt số 1 của Đường cao tốc Tomei (AH1), nối liền Setagaya-ku, Tokyo, Nhật Bản. Đây là điểm cuối của và điểm đầu của Đường cao tốc Tomei. Lối vào/ra Đường cao tốc Shuto tuyến 3 Tuyến Shibuya được gọi là Lối ra Yōga (Tiếng Nhật: ). Lịch sử : Đường cao tốc Tomei Tokyo IC - khai trương. : Với việc mở và , tất cả các đoạn từ Tokyo IC đến đều được mở. : Đường cao tốc Shuto tuyến 3 Tuyến Shibuya - Tokyo IC khai trương. Xung quanh nút giao thông (Kanpachi, ) Nitori Tham khảo Liên kết ngoài Lối ra Yōga (Đường cao tốc Shuto) Ảnh liên quan tới Nút giao thông Tokyo - Tokyo Tokyo
19812145
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xung%20%C4%91%E1%BB%99t%20Papua
Xung đột Papua
Xung đột Papua là một cuộc xung đột đang diễn ra ở Tây New Guinea, giữa Indonesia và Phong trào Tự do Papua (, OPM). Sau khi chính quyền Hà Lan rút khỏi New Guinea thuộc Hà Lan vào năm 1962 và chính quyền Indonesia tiếp quản vào năm 1963, Phong trào Tự do Papua đã tiến hành một cuộc chiến tranh du kích cường độ thấp chống lại Indonesia thông qua việc tấn công vào quân đội, cảnh sát và dân thường. Những người ly khai Papua đã tiến hành các cuộc biểu tình và nghi lễ, giương cao lá cờ đòi độc lập hoặc kêu gọi thành lập liên bang với Papua New Guinea, và cáo buộc chính phủ Indonesia gây bạo lực bừa bãi và đàn áp quyền tự do ngôn luận của họ. Indonesia đã bị buộc tội tiến hành một chiến dịch diệt chủng cư dân bản địa. Trong một cuốn sách xuất bản năm 2007, tác giả De R.G. Crocombe đã viết rằng ước tính có khoảng 100.000 đến 300.000 người Papua đã bị lực lượng an ninh Indonesia giết hại, và nhiều phụ nữ bị hãm hiếp hoặc bạo hành tình dục. Nghiên cứu về bạo lực đối với phụ nữ Papua của Nhóm Công tác Phụ nữ Papua và Tổ chức Quyền Tư pháp Châu Á (AJAR) cho thấy 64 trong số 170 (hoặc 4 trong số 10) phụ nữ Papua được khảo sát vào năm 2013, 2017, và nghiên cứu gần đây nhất từ ​​năm 2019, cho thấy 65 trong số 249 phụ nữ Papua đã trải qua một số hình thức bạo lực của nhà nước. Theo nghiên cứu trước đây và cựu tù nhân chính trị Ambrosius Mulait, hầu hết bạo lực đối với phụ nữ Papua xảy ra do bạo lực gia đình của người chồng và quan điểm văn hóa của người Papua đối với người vợ cho rằng họ đã được 'trả công'. Cách quản trị của Indonesia đã được so sánh với một nhà nước cảnh sát, đàn áp quyền tự do của hiệp hội chính trị và biểu đạt chính trị, mặc dù những người khác đã lưu ý rằng xung đột ở Papua thì lại do tình trạng tương tự vô chính phủ ở một số khu vực. Các nhà hoạt động vì quyền phụ nữ, chẳng hạn như Fien Jarangga, ủng hộ phong trào đòi độc lập. Chính quyền Indonesia tiếp tục hạn chế người nước ngoài tiếp cận khu vực mà họ chính thức tuyên bố là một "mối quan ngại về an toàn và an ninh". Một số tổ chức đã kêu gọi thực hiện một nhiệm vụ gìn giữ hòa bình trong khu vực. Tổng quan bối cảnh Tháng 12 năm 1949, sau khi Cách mạng Dân tộc Indonesia kết thúc, Hà Lan đã đồng ý công nhận chủ quyền của Indonesia đối với các lãnh thổ Đông Ấn Hà Lan trước đây, ngoại trừ Tây New Guinea mà Hà Lan tiếp tục quản lý với tên gọi New Guinea thuộc Hà Lan. Chính phủ Indonesia theo chủ nghĩa dân tộc đã lập luận rằng họ là nước thừa kế toàn bộ Đông Ấn Hà Lan và muốn chấm dứt sự hiện diện của thực dân Hà Lan tại quần đảo này. Hà Lan thì lập luận rằng người Papua khác biệt về sắc tộc và Hà Lan sẽ tiếp tục quản lý lãnh thổ cho đến khi có khả năng tự quyết. Từ năm 1950 trở đi, Hà Lan và các cường quốc phương Tây đồng ý rằng người Papua nên thành lập một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, do những biến động toàn cầu, chủ yếu là mối quan tâm của chính quyền Kennedy muốn giữ Indonesia đứng về phía họ trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ gây áp lực buộc Hà Lan phải hủy bỏ nền độc lập của Papua và chuyển giao lãnh thổ cho Indonesia. Năm 1962, Hà Lan đồng ý giao lãnh thổ này cho Liên Hợp Quốc quản lý tạm thời và ký kết Thỏa thuận New York, trong đó có điều khoản rằng một cuộc trưng cầu dân ý sẽ được tổ chức trước năm 1969. Quân đội Indonesia đã tổ chức cuộc bỏ phiếu này, được gọi là Đạo luật Tự do Lựa chọn năm 1969, để xác định quan điểm của người dân về tương lai của lãnh thổ. Kết quả là có lợi cho việc sáp nhập vào Indonesia. Tuy vậy, cuộc bỏ phiếu lại vi phạm Thỏa thuận giữa Indonesia và Hà Lan rằng quân đội Indonesia đã có mặt trong cuộc trưng cầu, và chỉ có 1.025 người được chọn bằng tay, là những người bị "buộc trước họng súng" bỏ phiếu ủng hộ sáp nhập, ít hơn nhiều so với 1% trong số những người lẽ ra đã đủ điều kiện để bỏ phiếu. Do đó, tính hợp pháp của cuộc bỏ phiếu bị các nhà hoạt động độc lập tranh cãi, những người phản đối việc Indonesia chiếm đóng quân sự ở Papua. Indonesia thường xuyên bị cáo buộc vi phạm nhân quyền. Chúng bao gồm các cuộc tấn công vào những thường dân ủng hội OPM và bỏ tù những người giương cao lá cờ quốc gia Moring Star của Tây Papua vì tội phản quốc. Thông qua chương trình di cư, kể từ năm 1969, bao gồm cả di cư đến Papua, khoảng một nửa cư dân của Papua Indonesia là người di cư. Hôn nhân giữa các chủng tộc ngày càng gia tăng và con cái của những người kết hôn liên dân tộc đã coi mình là "Papua" hơn là nhóm dân tộc của cha mẹ họ. Tính đến năm 2010, 13.500 người tị nạn Papua sống lưu vong ở nước láng giềng Papua New Guinea (PNG), và thỉnh thoảng, giao tranh tràn qua biên giới. Do đó, Lực lượng Phòng vệ Papua New Guinea (PNGDF) đã thiết lập các cuộc tuần tra dọc theo biên giới phía tây của PNG để ngăn chặn sự xâm nhập của OPM. Ngoài ra, chính phủ PNG đã trục xuất những cư dân "vượt biên" và đưa ra điều kiện để những người di cư ở lại PNG là cam kết không có hoạt động chống Indonesia. Kể từ cuối những năm 1970, OPM đã đưa ra "các mối đe dọa đối với các dự án kinh doanh và chính trị gia của PNG để trả đũa vì các hoạt động của PNGDF chống lại OPM". PNGDF đã thực hiện các cuộc tuần tra biên giới chung với Indonesia từ những năm 1980, mặc dù các hoạt động của PNGDF chống lại OPM là "song song". Các bên ủng hộ quyền tự quyết Quốc gia Các quốc gia sau đã tố cáo Đạo luật Tự do Lựa chọn và/hoặc ủng hộ quyền tự quyết của người Papua: – Saint Vincent và Grenadines bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền tự quyết của người Papua vào năm 2017 tại UNGA, theo lời phát biểu của Phó Thủ tướng Louis Straker. – Vanuatu đã thông qua Dự luật Wantok Blong Yumi vào năm 2010 và bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền tự quyết của người Papua vào năm 2017 tại UNGA. – Quần đảo Solomon bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền tự quyết của người Papua vào năm 2017 tại UNGA. – Thủ tướng Tonga ʻAkilisi Pōhiva kêu gọi thế giới hành động về tình hình nhân quyền ở khu vực Tây Papua của Indonesia. – Cựu Thủ tướng Enele Sopoaga ủng hộ quyền tự quyết của người Papua tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2017, và ký tuyên bố chung với các đảo quốc Thái Bình Dương khác vào tháng 5 năm 2017. – Năm 2017, Nauru đã ký một tuyên bố chung ủng hộ quyền tự quyết của người Papua. – Năm 2017, Palau đã ký một tuyên bố chung ủng hộ quyền tự quyết của người Papua. – Năm 2017, Quần đảo Marshall đã ký một tuyên bố chung ủng hộ quyền tự quyết của người Papua. Chính trị gia Đảng chính trị Các tổ chức khác Nghị viện Quốc tế về Tây Papua là một tổ chức chính trị quốc tế ủng hộ nền độc lập của Tây Papua. Xem thêm Trưng cầu dân ý độc lập Bougainville 2019 Chủ nghĩa ly khai Chú thích Tham khảo Đọc thêm Kerry Boyd Collison, "Rockefeller and the Demise of Ibu Pertiwi" Bobby Anderson, "Papua's Insecurity: State Failure in the Indonesian Periphery", East-West Center, Policy Studies 73, 978-0-86638-264-9 (print); 978-0-86638-265-6 (electronic) Richard Chauvel, Ikrar Nusa Bhakti, The Papua conflict: Jakarta's perceptions and policies, 2004, , Esther Heidbüchel, The West Papua conflict in Indonesia: actors, issues and approaches, 2007, , J. Budi Hernawan, Papua land of peace: addressing conflict building peace in West Papua, 2005 Chính trị Indonesia Tây New Guinea Xung đột thế kỷ 20 Xung đột thế kỷ 21 Ly khai ở Indonesia Chiến tranh ủy nhiệm Bạo lực chống các dân tộc bản địa Diệt chủng ở châu Á
19812146
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dilano%20van%20%27t%20Hoff
Dilano van 't Hoff
Dilano van 't Hoff (26 tháng 7 năm 2004 – 1 tháng 7 năm 2023) là một tay đua người Hà Lan, anh là nhà vô địch Giải vô địch Tây Ban Nha F4 năm 2021. Anh qua đời trong một vụ tai nạn trong cuộc đua Giải vô địch công thức khu vực châu Âu tại Circuit de Spa-Francorchamps ở Bỉ. Cuộc đời và Sự nghiệp Đua xe kart Anh bắt đầu sự nghiệp đua xe kart quốc tế của mình khi mới 11 tuổi, thi đấu tại SKUSA SuperNationals. Tay vợt người Hà Lan về thứ ba trong cả IAME Euro Series và IAME International Final năm 2018, cùng năm mà anh ấy đứng thứ sáu trong mùa giải đầu tiên của Giải vô địch châu Âu. Anh ấy đã kết thúc năm sau ở vị trí thứ năm trong cùng một chuỗi, lần này là ở hạng OK, và giành được Trofeo delle Industrie với Forza Racing. Công thức thấp Vào năm 2021, Anh ra mắt xe một chỗ với Xcel Motorsport trong Giải vô địch Công thức 4 UAE. Mùa giải của anh ấy đã bắt đầu thành công, vì mặc dù bị đình trệ khi bắt đầu cuộc đua đầu tiên, nhưng tay đua người Hà Lan vẫn có thể về đích trở lại vị trí thứ hai trong cuộc đua đó và sẽ giành chiến thắng trong hai cuộc đua tiếp theo, sau khi xuất phát ở cả hai cuộc đua ở vị trí quán quân. Van 't Hoff sau đó đã có thể nới rộng khoảng cách với đối thủ gần nhất Enzo Trulli bằng cách thắng thêm hai cuộc đua nữa ở vòng tiếp theo tại Yas Marina. Tiếp theo giành chiến thắng ở vòng ba trong Dubai Van 't Hoff sẽ để thua Trulli do bị truất quyền thi đấu trong cuộc đua cuối cùng của sự kiện áp chót, tước đi của anh ta khỏi một bục khác và nhiều điểm quan trọng hơn cho chức vô địch. Anh ấy cuối cùng sẽ thua Trulli chỉ một điểm trong vòng cuối cùng. Đối với chiến dịch chính của mình, Van 't Hoff đã tham gia MP Motorsport trong Giải vô địch F4 Tây Ban Nha. Hai lần chiến thắng đầu tiên của anh ấy đến ở vòng đầu tiên của loạt trận tại Circuit de Spa-Francorchamps, và Van 't Hoff sau đó đã lên sáu lần liên tiếp, trong đó có ba chiến thắng và ba lần lên bục tại Algarve. Anh đã ghi được chiến thắng tiếp theo trong cuộc đua nước rút tại Circuit Ricardo Tormo sau khi người chiến thắng ban đầu Daniel Macia bị phạt vì mở rộng giới hạn đường đua, và tiếp theo là một bục khác trong cuộc đua thứ ba. Ở vòng áp chót của mùa giải, van 't Hoff đã hoàn thành một cú hat-trick vô địch và giành chiến thắng trong cuộc đua, qua đó giành chức vô địch. Qua đời Anh tử nạn vào ngày 1 tháng 7 năm 2023 trong cuộc đua Công thức Khu vực Giải vô địch Châu Âu (FRECA) tại Spa-Francorchamps dưới trời mưa lớn. Vụ va chạm nhiều ô tô xảy ra ở lối ra Raidillon, ngay trước đoạn thẳng Kemmel, và còn có sự tham gia của Joshua Dufek, Adam Fitzgerald, Enzo Scionti và Tim Tramnitz. Anh mất kiểm soát đi thẳng vào Kemmel. Xe của anh sau đó bị xe của Fitzgerald đâm vào hông. Một phút mặc niệm đã được tổ chức tại cuộc đua 24 Giờ Spa vào cuối tuần đó, cũng như Giải Grand Prix Áo diễn ra đồng thời, và tất cả các hoạt động lễ hội xung quanh 24 Giờ Spa đều bị hủy bỏ. Nhiều người trong cộng đồng đua xe thể thao bày tỏ sự kính trọng với Dilano, bao gồm cả tay đua Công thức 1 Lance Stroll, người cho rằng vụ tai nạn là không cần thiết và kêu gọi thay đổi vòng đua Spa-Francorchamps do các sự cố trong quá khứ, bao gồm cả vụ tai nạn chết người ở Công thức 2 người lái xe Anthoine Hubert ở cùng một góc vào năm 2019. Kỷ lục cuộc đua Tóm tắt sự nghiệp đua xe † Vì Van 't Hoff là tài xế khách nên anh ấy không đủ điều kiện để ghi điểm. * Phần vẫn đang diễn ra. Toàn bộ kết quả Giải vô địch F4 UAE (key) (Các cuộc đua trong đậm biểu thị vị trí cột) (Các cuộc đua trong in nghiêng biểu thị vòng đua nhanh nhất) Hoàn thành kết quả Giải vô địch Tây Ban Nha F4 (key) (Các cuộc đua trong đậm biểu thị vị trí cột) (Các cuộc đua trong in nghiêng biểu thị vòng đua nhanh nhất) Hoàn thành kết quả giải vô địch châu Âu khu vực công thức (key) (Các cuộc đua trong đậm biểu thị vị trí cột) (Các cuộc đua trong in nghiêng biểu thị vòng đua nhanh nhất) † Vì Van 't Hoff là tài xế khách nên anh ấy không đủ điều kiện để ghi điểm. ‡ Chưa hoàn thành, nhưng đã được phân loại. * Phần vẫn đang diễn ra. Toàn bộ kết quả Giải vô địch Châu Á Công thức Khu vực (key) (Các cuộc đua trong in đậm biểu thị vị trí cột) (Các cuộc đua trong in nghiêng biểu thị vòng đua nhanh nhất trong số mười người về đích hàng đầu) † Chưa hoàn thành, nhưng đã được phân loại. Tham khảo
19812150
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9Fi%20tr%E1%BA%A7n%20%E1%BB%9F%20Canada
Cởi trần ở Canada
Cởi trần ở Canada (Female Toplessness in Canada) là một nỗ lực chống lại việc giải thích các luật về sự khiếm nhã (Indecency laws) coi việc phơi bày bộ ngực của phụ nữ là không đứng đắn, và do đó việc để lộ chúng ở nơi công cộng là một hành vi phạm tội ở Canada. Ở British Columbia, đây là một vấn đề lịch sử có từ những năm 1930 và các cuộc biểu tình của công chúng chống lại lối sống vật chất của giáo phái tôn giáo cực đoan Freedomites vốn là những người có niềm tin theo chủ nghĩa hòa bình đã dẫn đến cuộc di cư của họ từ Nga đến Canada vào cuối thế kỷ XIX. Phong trào Svobodniki trở nên nổi tiếng vì ảnh khoả thân nơi công cộng chủ yếu là từ các cuộc tuần hành khỏa thân ở nơi công cộng và các hành vi đốt phá nơi công cộng cũng được các đối tượng thực hiện trong tình trạng khỏa thân. Một cuộc khảo sát chi tiết đã được thực hiện vào năm 1998 và một phân tích chi tiết đã được Fischtein và cộng sự xuất bản năm 2005 (Fischtein et al. 2005) cho thấy bối cảnh là quan trọng, chẳng hạn như có 72% phản đối việc cho phép để ngực trần trên đường phố và tỷ lệ đến 62% phản đối trong trường hợp cởi trần ở công viên và chỉ 48% trường hợp cởi trần khi ở bãi biển. Trong mọi trường hợp, phụ nữ phản đối việc để ngực trần nhiều hơn nam giới. Ngày nay, Liên đoàn những người theo chủ nghĩa khỏa thân Canada (Federation of Canadian Naturists viết tắt FCN) là một tổ chức phi lợi nhuận được hỗ trợ từ các thành viên nhằm thúc đẩy sự hiểu biết, chấp nhận và đánh giá cao hơn về chủ nghĩa khỏa thân như một lối sống trên khắp Canada. Tổ chức này liên kết với các câu lạc bộ và hiệp hội theo chủ nghĩa khỏa thân/người theo chủ nghĩa khỏa thân của Canada. Sự tranh đấu Ở Canada, luật về lễ phép nơi công cộng được ghi nhận trong các phần 173 và 174 của Bộ luật Hình sự. Năm 1991, hành vi cởi trần là một hành động khiếm nhã đã bị thách thức ở Guelph, Ontario, từ một phụ nữ là Gwen Jacob khi cô đã cởi áo nơi công cộng và bị buộc tội khiếm nhã. Một phần biện hộ của cô ấy là tiêu chuẩn kép giữa nam và nữ. Mặc dù cô ấy đã bị kết án, nhưng điều này đã bị lật lại (phúc thẩm) theo Tòa án cấp phúc thẩm. Trường hợp này xác định việc để ngực trần không phải là hành vi khiếm nhã theo nghĩa của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, nó đã không thiết lập bất kỳ quyền bình đẳng hiến định. Vụ án này sau đó đã dẫn đến việc những phụ nữ British Columbia và Saskatchewan phải đối mặt với cáo buộc tương tự được trắng án. Mặc dù mỗi tỉnh và vùng lãnh thổ bảo lưu quyền giải thích luật theo ý mình, nhưng trường hợp của Ontario đã chứng tỏ có ảnh hưởng. Vì vấn đề chưa được Tòa án tối cao Canada xác định nên vẫn có khả năng một phụ nữ có thể bị kết án ở những nơi khác ở Canada. Tuy nhiên, việc giải thích luật đạo đức ở Canada ngày càng được tự do hóa. Để ngực trần kiểu Topfreedom được cho phép ở Ontario, theo tiền lệ trong trường hợp của Gwen Jacob. Quyền giám đốc điều hành của Cơ quan Cấp phép và Tiêu chuẩn Thành phố nói rằng mặc dù "không có luật nào quy định việc để ngực trần", "việc phụ nữ để ngực trần trên đường phố Toronto là hợp pháp" theo tờ báo National Post. Ông ấy nói thêm rằng các công viên yêu cầu phải có quần áo, ngoại trừ, ví dụ, quần áo tùy chọn Bãi biển Hanlan's Point. Gwen Jacob nói rằng cô ấy làm điều đó bởi vì đàn ông đang làm điều đó và cô ấy muốn thu hút sự chú ý đến tiêu chuẩn kép. Cô bị kết tội và bị phạt 75 đô la. Để bảo vệ mình, cô lập luận rằng bầu ngực chỉ là mô mỡ. Khi kết tội cô ấy, thẩm phán tuyên bố rằng bộ ngực của phái nữ là bộ phận của cơ thể phụ nữ kích dục đối với đàn ông cả bằng thị giác và xúc giác, và do đó không nên để lộ ra ngoài Cô ấy đã kháng cáo nhưng đơn kháng cáo của cô ấy đã bị Tòa án Ontario bác bỏ, và cô ấy tiếp tục kháng cáo lên Tòa phúc thẩm Ontario. Trong khi đó, các cuộc biểu tình chống lại việc bắt giữ và kết án Jacob đã dẫn đến những cáo buộc khác đối với những người khác, đặc biệt là R. v. Arnold nhưng trong trường hợp này McGowan P.C.J. đã áp dụng thử nghiệm về tiêu chuẩn chịu đựng của cộng đồng theo Butler nói rằng hành động để ngực trần không gây hại gì và do đó không vượt quá tiêu chuẩn khoan dung của cộng đồng. Cô ấy nhận xét: Chắc chắn là hầu hết phụ nữ sẽ không tham gia vào hành vi này vì có nhiều người tin rằng bản chất việc này là vô vị và không nâng cao chính danh của phụ nữ. Không nghi ngờ gì nữa, có những người đàn ông ngày nay không thể nhận thức được bộ ngực của phụ nữ trong bất kỳ bối cảnh nào khác ngoài những liên tưởng về tình dục. Điều quan trọng là phải khẳng định lại rằng các tiêu chuẩn kiểm tra khả năng chịu đựng của Canada không dựa trên những thái độ này để xác định công thức. Jacob được Tòa phúc thẩm Ontario tuyên trắng án vào ngày 9 tháng 12 năm 1996 trên cơ sở rằng bản thân hành động để ngực trần không phải là một hành vi tình dục hay không đứng đắn, trụy lạc. Tòa án cho rằng không có gì hạ thấp nhân phẩm hoặc mất nhân tính trong những gì người kháng cáo đã làm. Phạm vi hoạt động của cô ấy bị hạn chế và hoàn toàn phi thương mại. Không ai bị xúc phạm buộc phải tiếp tục nhìn cô ấy và tiêu chuẩn cộng đồng dung sai khi tất cả các trường hợp liên quan được tính đến và đã không bị vượt quá. Mặc dù Jacob tuyên bố cô ấy có quyền theo hiến pháp, nhưng tòa án đã không giải quyết vấn đề này. Chính phủ Ontario đã quyết định không kháng cáo vụ việc lên Tòa án Tối cao Canada, và do đó đây vẫn là cách giải thích phổ biến của Bộ luật Hình sự ở Ontario. Kể từ đó, phán quyết của tòa án đã được thử nghiệm và giữ nguyên nhiều lần. R. v. Jacob đã được trích dẫn trong các quyết định tương tự ở các tỉnh khác và bởi Tòa án Tối cao Canada trong R. v. Labaye, và được giảng dạy trong các khóa học Luật Hình sự. Chú thích Tham khảo Guelph's Hot Days of Summer. LexView Sept 29 1997 Uniform Law Conference of Canada Review of the Law of Indecency and Nudity March 1999 Mariana Valverde The Harms of Sex and the Risks of Breasts: Obscenity and Indecency in Canadian Law.Social Legal Studies 1999; 8; 181 Arneil B. The Politics of the Breast. 12 Can. J. Women & L. 345 (2000) CBC Jul 20, 2011 Women's topless court victory 20 years later CBC Dec. 12, 2005 Taking it all off Protesters inspire activist to new cause. Toronto Star November 12 2011 Khỏa thân
19812153
https://vi.wikipedia.org/wiki/Milan%20Jevtovi%C4%87
Milan Jevtović
Milan Jevtović (Tiếng Serbia: Милан Јевтовић; sinh ngày 13 tháng 1 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Serbia thi đấu cho câu lạc bộ Hà Nội tại V.League 1, ở vị trí tiền đạo chạy cánh. Sự nghiệp Borac Čačak Milan Jevtović bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình tại Borac Čačak, nơi anh và phần còn lại của đội không được trả lương trong tối đa sáu tháng một lần. Jevtović đã tham gia vào cuộc đình công của các cầu thủ để phản đối các khoản phí chưa thanh toán vào năm 2015. Cuộc đình công đã bị gián đoạn khi Nenad Lalatović được thuê làm huấn luyện viên mới của Borac Čačak, sau đó một loạt kết quả tích cực theo sau. Trong một trận đấu lịch sử vào ngày 2 tháng 12 năm 2015, Jevtović đã ghi bàn vào lưới Sao Đỏ Beograd trong chiến thắng 5–3 trên sân khách cho Borac. Antalyaspor Vào mùa hè năm 2016, Jevtović gia nhập đội bóng Thổ Nhĩ Kỳ Antalyaspor trong một vụ chuyển nhượng trị giá 2,5 triệu euro. Trong sáu tháng đầu tiên ở Antalya, Jevtović chỉ có 64 phút thi đấu. Kết quả là, anh được cho mượn đến câu lạc bộ Na Uy Rosenborg BK, nơi Jevtović có nhiều thời gian thi đấu hơn. Trong khi Jevtović được cho mượn, Rosenborg đã giành được Eliteserien 2017. Jevtović ghi bàn mở tỷ số cho Rosenborg ở Mesterfinalen 2017. Crvena Zvezda Beograd Ngày 22 tháng 6 năm 2018, Jevtović ký hợp đồng với Crvena Zvezda Beograd. AGF Aarhus Vào ngày 13 tháng 7 năm 2020, anh ấy đã ký hợp đồng bốn năm với AGF Aarhus, chơi ở Superliga. Anh đã có 22 lần ra sân và ghi một bàn thắng cho câu lạc bộ, cho đến khi anh rời đi vào cuối tháng 8 năm 2021. Odd Vào ngày cuối cùng của thị trường chuyển nhượng mùa hè 2021–22, ngày 31 tháng 8 năm 2021, Jevtović chuyển đến câu lạc bộ Na Uy Odds BK. Hà Nội Ngày 1 tháng 7 năm 2023, Jevtović ký hợp đồng với câu lạc bộ Hà Nội tại V.League 1. Tham khảo Sinh năm 1993 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Serbia Cầu thủ bóng đá Serbia ở nước ngoài Tiền đạo bóng đá Cầu thủ bóng đá Serbian SuperLiga Cầu thủ bóng đá Eliteserien Cầu thủ bóng đá Süper Lig Cầu thủ bóng đá Danish Superliga Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ bóng đá FK Borac Čačak Cầu thủ bóng đá FK Bodø/Glimt Cầu thủ bóng đá Antalyaspor Cầu thủ bóng đá Rosenborg BK Cầu thủ bóng đá Aarhus Gymnastikforening Cầu thủ bóng đá Odds BK Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Hà Nội (2016) Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Síp Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Na Uy Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đan Mạch Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Việt Nam
19812156
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9Fi%20tr%E1%BA%A7n%20%E1%BB%9F%20M%E1%BB%B9
Cởi trần ở Mỹ
Cởi trần ở Mỹ (Female Toplessness in the United States) là việc phụ nữ có quyền để ngực trần ở nơi công cộng tại Hoa Kỳ vốn là xứ tự do và cởi mở. Tại xứ cờ hoa, các bang có quyền tài phán chính trong các vấn đề về đạo đức công cộng. Phong trào để ngực trần Topfreedom đã tuyên bố thành công trong một số trường hợp trong việc thuyết phục một số tòa án tiểu bang và tòa án liên bang hủy bỏ một số đạo luật của tiểu bang trên cơ sở phân biệt giới tính hoặc bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ, lập luận rằng phụ nữ nên được tự do để lộ ngực (tức là để ngực trần) trong bất kỳ bối cảnh nào mà một người đàn ông có thể phơi bày bộ ngực của anh ta. Các trường hợp thành công khác dựa trên cơ sở tự do ngôn luận để phản đối, hoặc đơn giản là việc để lộ ngực không phải là hành vi khiếm nhã (hoặc tên gọi tương tự như khiêu dâm, gợi dục, đồi trụy, trụy lạc...). Các luật và pháp lệnh cấm phụ nữ để ngực trần đang bị thách thức tại các tòa án liên bang trên toàn quốc. Mỗi vụ kiện, nếu thắng kiện ở cấp phúc thẩm thì đó sẽ là sự hợp pháp hóa quyền tự do hàng đầu trong các vòng kháng cáo sau của Hoa Kỳ (từ tây sang đông) cụ thể đã có 9 vụ ở California, 8 vụ ở Missouri và 4 vụ ở Maryland. Một vụ kiện liên bang tại Vòng thứ 7 thuộc bang Illinois đã bị xử thua ở cấp phúc thẩm và đơn yêu cầu Tòa án Tối cao Hoa Kỳ xem xét lại đã bị từ chối. Một lệnh sơ bộ trong một vụ kiện liên bang ở Đường đua số 10 (Colorado) đã thắng ở cấp phúc thẩm. Vào tháng 9 năm 2019, sau khi chi hơn 300.000 đô la, Fort Collins quyết định ngừng bảo lưu sắc lệnh và bãi bỏ sắc lệnh đó. Điều đó thực sự mang lại cho phụ nữ ở mọi lứa tuổi quyền để ngực trần ở bất cứ nơi nào nam giới có thể trong khu vực tài phán của Vòng 10 (các bang Wyoming, Utah, Colorado, New Mexico, Kansas và Oklahoma cũng như tất cả các quận và thành phố trong đó). Go Topless Day là một sự kiện thường niên được tổ chức tại Hoa Kỳ nhằm ủng hộ quyền của phụ nữ được để ngực trần nơi công cộng trên cơ sở bình đẳng giới. Ở những bang mà phụ nữ có quyền đó tự do hàng đầu luật được tôn vinh và các cuộc biểu tình được tổ chức ở những bang cấm phụ nữ để ngực trần. Sự kiện thường niên được bắt đầu vào năm 2007 do Go Topless vốn là một nhóm ở Nevada được thành lập dưới sự sáng lập của Claude Vorilhon vốn là lãnh đạo của Phong trào Raelian là một tôn giáo UFO. GoTopless đã hỗ trợ các sự kiện và chương ở các quốc gia khác. Go Topless Day được thành lập để đáp lại vụ bắt giữ Phoenix Feeley (Jill Coccaro) là một nhà hoạt động để ngực trần đã bị bắt vì để ngực trần nơi công cộng ở New York vào năm 2005. Thành phố New York đã dàn xếp với Feeley với giá chót 29.000 đôla vì để ngực trần là hợp pháp ở đó. Go Topless Day được lên kế hoạch vào Chủ nhật gần nhất ngày 26 tháng 8, Ngày bình đẳng của phụ nữ kể từ ngày đó năm 1920 quyền bầu cử của phụ nữ đã được thông qua (vào năm 1971 khi Quốc hội Hoa Kỳ tuyên bố ngày này là Ngày Bình đẳng của Phụ nữ). Sự kiện này khuyến khích phụ nữ để ngực trần ở nơi công cộng và nam giới che ngực bằng cách mặc áo lót hoặc bikini. Hình ảnh Chú thích Khỏa thân
19812158
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20d%E1%BB%A5c%20%E1%BB%9F%20B%E1%BA%AFc%20Tri%E1%BB%81u%20Ti%C3%AAn
Giáo dục ở Bắc Triều Tiên
Giáo dục ở Bắc Triều Tiên là hệ thống giáo dục phổ thông phổ biến và được tài trợ bởi chính phủ. Theo thông tin của Viện Thống kê UNESCO cho năm 2021, không có dữ liệu về tỷ lệ biết chữ ở Bắc Triều Tiên. Một số trẻ em đi học một năm mẫu giáo, bốn năm giáo dục tiểu học, sáu năm giáo dục trung học và sau đó tiếp tục học đại học. Chính phủ Bắc Triều Tiên tuyên bố tỷ lệ biết chữ quốc gia cho công dân từ 15 tuổi trở lên là 100%. Năm 1988, Tổ Chức Giáo dục, Khoa học Và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) báo cáo rằng Bắc Triều Tiên có 35.000 giáo viên mẫu giáo, 60.000 giáo viên tiểu học, 111.000 giáo viên trung học, 23.000 giáo viên đại học và cao đẳng, và 4.000 giáo viên khác trong các trường sau đại học. Lịch sử Giáo dục chính quy đã đóng vai trò then chốt trong sự phát triển xã hội và văn hóa của cả Hàn Quốc truyền thống và Bắc Triều Tiên hiện đại. Trong thời kỳ triều đại Joseon, triều đình đã thành lập một hệ thống các trường học để giảng dạy các môn học Nho giáo ở các tỉnh và tại bốn trường trung học trung tâm ở thủ đô. Tuy nhiên, không có hệ thống giáo dục tiểu học được chính phủ hỗ trợ. Trong thế kỷ 15, các trường học được chính phủ hỗ trợ giảm chất lượng và không còn quan trọng như trước, thay vào đó là sự nổi lên của các học viện tư, seowon, trở thành trung tâm của phong trào Nho giáo vào thế kỷ 16. Giáo dục đại học được tổ chức bởi Seonggyungwan, đại học quốc gia theo triết học Nho giáo, tọa lạc tại Seoul. Số lượng sinh viên được giới hạn chỉ cho 200 học sinh đã vượt qua kỳ thi công vụ hạng thấp và đang chuẩn bị cho các kỳ thi cao cấp nhất. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đã xảy ra những thay đổi đáng kể trong lĩnh vực giáo dục. Seewan, hệ thống các học viện truyền thống, đã bị chính quyền trung ương bãi bỏ. Các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo đã thành lập các trường học hiện đại dạy chương trình phương Tây. Trong số này, Đại học Nữ sinh Ehwa đã trở thành trường đầu tiên dành riêng cho phụ nữ. Nó được thành lập bởi các nhà truyền giáo Giám lý Hoa Kỳ như một trường tiểu học ở Seoul vào năm 1886. Trong những năm cuối của triều đại, đã có khoảng 3.000 trường tư thục dạy các môn học hiện đại cho cả nam và nữ được thành lập bởi các nhà truyền giáo và những người khác. Sau khi Nhật Bản sáp nhập Hàn Quốc vào năm 1910, chế độ thuộc địa đã thành lập một hệ thống giáo dục với hai mục tiêu chính. Đầu tiên, mục tiêu là cung cấp cho người dân Hàn Quốc một nền giáo dục tối thiểu, nhằm đào tạo họ để có thể tham gia vào nền kinh tế hiện đại và trở thành công dân trung thành với hoàng đế Nhật Bản. Thứ hai, mục tiêu là cung cấp một nền giáo dục chất lượng cao hơn cho cộng đồng người Nhật đã định cư đông đảo trên Bán đảo Triều Tiên.. Người Nhật đã đầu tư nhiều nguồn lực hơn cho các trường đại học của mình và đã áp đặt hạn chế nghiêm ngặt đối với cơ hội học tập của người Hàn Quốc. Một trường đại học công lập, được mô hình hóa theo Đại học Hoàng gia Tokyo, đã được thành lập ở Seoul vào năm 1923, nhưng số lượng sinh viên Hàn Quốc được phép nhập học không bao giờ vượt quá 40% tổng số đăng ký; phần còn lại là người Nhật. Các trường đại học tư nhân, bao gồm cả những trường được thành lập bởi các nhà truyền giáo như Cao đẳng Sungsil ở Bình Nhưỡng và Cao đẳng Cơ đốc giáo Chosun ở Seoul, đã cung cấp những cơ hội khác cho người Hàn Quốc mong muốn tiếp tục học cao hơn. Sau khi thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, một hệ thống giáo dục được mô phỏng chủ yếu theo mô hình của Liên Xô đã được thiết lập. Theo thông tin từ Triều Tiên, khi nước này mới thành lập, có khoảng 2/3 trẻ em trong độ tuổi đi học không được tiếp cận giáo dục tiểu học và hầu hết người trưởng thành, khoảng 2,3 triệu người, không biết đọc viết. Vào năm 1950, giáo dục tiểu học trở thành bắt buộc đối với trẻ em. Tuy nhiên, do sự bùng nổ của Chiến tranh Triều Tiên, việc đạt được mục tiêu này đã bị trì hoãn; việc đạt tỷ lệ phổ cập giáo dục tiểu học không được thực hiện cho đến năm 1956. Đến năm 1958, theo thông tin từ Triều Tiên, giáo dục tiểu học và trung học bắt buộc kéo dài 7 năm đã được triển khai. Vào năm 1959, Triều Tiên áp dụng hệ thống "giáo dục phổ thông do nhà nước tài trợ" tại tất cả các trường học. Hệ thống này không chỉ cung cấp miễn phí các phương tiện giảng dạy và trang thiết bị giáo dục, mà còn bao gồm sách giáo khoa, đồng phục, phòng học và bảng. Đến năm 1967, giáo dục chín năm trở thành bắt buộc. Sau đó, vào năm 1975, hệ thống giáo dục mười một năm bắt buộc được áp dụng, bao gồm một năm giáo dục mầm non và mười năm giáo dục tiểu học và trung học. Hệ thống này vẫn duy trì hiệu lực cho đến năm 1993. Trong một bài phát biểu năm 1983, Kim Nhật Thành, trước các bộ trưởng giáo dục của các nước thuộc Phong trào Không liên kết tại Bình Nhưỡng, đề xuất rằng giáo dục đại học sẽ trở thành bắt buộc và sẽ được phổ cập trong "tương lai gần". Vào thời điểm đó, sinh viên không phải trả bất kỳ chi phí học tập nào, và nhà nước đã chi trả cho việc giáo dục của gần một nửa dân số 18,9 triệu người Triều Tiên. Vào năm 2012, nhà lãnh đạo Kim Jong Un đã đề xuất mở rộng giáo dục bắt buộc từ 11 tuổi lên 12 tuổi tại Triều Tiên. Theo thông tin từ Thông tấn xã Trung ương Triều Tiên, dự luật mở rộng giáo dục bắt buộc đã được thông qua vào tháng 9 cùng năm. Trước đó, hệ thống giáo dục miễn phí ở Triều Tiên kéo dài 11 năm, bao gồm một năm mẫu giáo, bốn năm tiểu học và sáu năm trung học trước khi học đại học. Tuy nhiên, với sự cải cách này, hệ thống giáo dục ở Triều Tiên hiện tại tương đồng với hệ thống giáo dục ở Hàn Quốc, bao gồm sáu năm tiểu học, ba năm trung học cơ sở và ba năm trung học phổ thông. Giáo dục tiểu học và trung học Vào đầu những năm 1990, hệ thống giáo dục tiểu học và trung học cơ sở ở Triều Tiên đã trải qua một sự thay đổi cấu trúc. Giáo dục tiểu học bắt buộc được chia thành một năm mẫu giáo và bốn năm tiểu học (trường dân lập), phù hợp với lứa tuổi từ sáu đến chín. Còn giáo dục trung học cơ sở, được gọi là cấp hai, kéo dài sáu năm và dành cho lứa tuổi từ mười đến mười lăm. Trong hệ thống này, có hai năm mẫu giáo, nhưng chỉ năm thứ hai (mẫu giáo cấp trên) là bắt buộc cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ bốn đến sáu. Vào giữa những năm 1980, số lượng trường tiểu học và trung học ở Triều Tiên đạt 9.530 cơ sở. Sau khi tốt nghiệp từ trường tiểu học công lập, học sinh có thể tiếp tục học tại trường trung học bình thường hoặc chọn nhập học vào các trường trung học đặc biệt tập trung vào lĩnh vực âm nhạc, nghệ thuật hoặc ngoại ngữ. Những trường này cung cấp cả khóa học chuyên môn và các môn học chung. Trong số các trường đặc biệt quan trọng, Học viện Cách mạng Mangyongdae có vai trò đặc biệt, nơi con cái của tầng lớp thượng lưu Triều Tiên được chuẩn bị để phục vụ trong Quân đội Nhân dân Triều Tiên với tư cách sĩ quan. Học viện này đào tạo chuyên sâu về kinh tế và máy tính, cùng với Trường Cách mạng Kang Pan-sok, nơi tập trung vào các môn học liên quan đến cách mạng. Trong khung chương trình giảng dạy ở các trường trung học phổ thông, có các môn học định hướng chính trị như "vĩ đại Kim Nhật Thành" và "Đạo đức cộng sản", cùng với "Chính sách của Đảng Cộng sản". Những môn học này chiếm tỷ lệ khoảng 5,8% trong nội dung giảng dạy, nhằm giáo dục và tạo cơ sở lý thuyết về các giá trị, tư tưởng và chính sách của Đảng Cộng sản.. Sinh viên quốc tế Trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát, ước tính rằng có khoảng 100 sinh viên quốc tế đang theo học tại Đại học Kim Nhật Thành và Đại học Sư phạm Kim Hyong Jik. Trong số đó, phần lớn là sinh viên đến từ Trung Quốc. So với du khách nước ngoài, sinh viên quốc tế ở Triều Tiên, mặc dù vẫn bị kiểm soát bởi chính quyền, nhưng được cung cấp cơ hội trải nghiệm đất nước một cách toàn diện hơn. Ví dụ, họ có quyền tự do di chuyển trong thành phố mà không cần sự hướng dẫn của người giám hộ và có cơ hội sống chung với cư dân địa phương. Sinh viên quốc tế được phép sử dụng các phương tiện công cộng như tàu điện ngầm và taxi mà không cần có hướng dẫn viên hoặc phiên dịch viên đi kèm và cũng có thể truy cập internet, miễn là có quyền truy cập vào các trang web quốc tế. Sinh viên quốc tế tại Đại học Kim Il Sung có cơ hội sống cùng với sinh viên địa phương, nhưng có một nhóm đặc biệt được gọi là "tongsuksaeng" chịu trách nhiệm đào tạo và giám sát. Dù có vẻ như tongsuksaeng đóng vai trò như người hướng dẫn và giảng dạy về ngôn ngữ và văn hóa Triều Tiên, thực tế họ cũng phục vụ để giám sát các hoạt động và di chuyển của sinh viên quốc tế thông qua việc sử dụng các thiết bị và theo dõi hành trình của họ. Để tiếp tục học sau đại học tại Đại học Kim Nhật Thành, sinh viên nước ngoài cần cung cấp một số tài liệu bao gồm giấy khai sinh, thư nguyện vọng, bằng tốt nghiệp đại học, giấy chứng nhận từ cơ quan cảnh sát để xác nhận rằng ứng viên không có tiền án tại quốc gia của mình. Hồ sơ y tế cũng cần được nộp để xác nhận rằng người nộp đơn đã được kiểm tra sức khỏe gần đây. Ngoài ra, chi tiết về tài chính cá nhân cũng cần được cung cấp để chứng minh khả năng tài trợ cho việc học tại Bắc Triều Tiên. Cuối cùng, một thư xác nhận về khả năng sử dụng tiếng Hàn cũng cần được đính kèm. Giáo dục người lớn Chính việc đặc biệt nhấn mạnh vào việc tiếp tục giáo dục cho tất cả các thành viên trong xã hội, Bắc Triều Tiên đã tạo ra một môi trường tích cực để hỗ trợ giáo dục người lớn hoặc giáo dục kết hợp với công việc. Thực tế là, tất cả mọi người trong quốc gia đều tham gia vào một số hoạt động giáo dục, thường dưới hình thức "nhóm học tập nhỏ". Vào đầu những năm 1990, trong các khu vực nông thôn của Bắc Triều Tiên, người dân được tổ chức thành "tổ năm gia đình". Những đội này có chức năng chính là giáo dục và giám sát, và mỗi đội được giao trách nhiệm cho một số gia đình cụ thể. Một giáo viên hoặc người trí thức khác đảm nhận vai trò người chỉ đạo cho những đội này. Công nhân văn phòng và nhân viên trong nhà máy cũng được cung cấp hai giờ "học tập" sau giờ làm việc hàng ngày, tập trung vào hai môn học chính là chính trị và kỹ thuật. Qua việc tham gia vào các hoạt động học tập này, họ có cơ hội cải thiện kiến thức và kỹ năng của mình trong cả lĩnh vực chính trị và kỹ thuật. Vào đầu những năm 1990, trong lĩnh vực giáo dục người lớn, Bắc Triều Tiên đã thiết lập các cơ sở giáo dục đặc biệt như "trường cao đẳng nhà máy" nhằm cung cấp cho người lao động các kỹ năng và kỹ thuật mới mà không yêu cầu họ phải nghỉ việc. Các trường này cho phép sinh viên làm việc bán thời gian, học vào buổi tối hoặc tham gia các khóa học chuyên sâu ngắn hạn, trong đó thời gian rời khỏi nơi làm việc chỉ kéo dài khoảng một tháng. Ngoài ra, còn có các "trường cao đẳng nông nghiệp" nhằm đào tạo người lao động nông thôn trở thành kỹ sư và trợ lý kỹ sư trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng như hệ thống các khóa học hàm thụ. Đối với công nhân và nông dân không thể tham gia giáo dục thường xuyên, đã tồn tại các "trường dành cho người lao động" và "trường trung học cơ sở dành cho người lao động". Tuy nhiên, vào đầu những năm 1990, với sự áp dụng của hệ thống giáo dục bắt buộc 11 năm, những trường này đã trở nên ít quan trọng hơn.. Xem thêm Trường dành cho người nước ngoài ở Bình Nhưỡng Đào tạo thành viên tại Hàn Quốc Y học cơ bản Tham Khảo Liên kết ngoài Trang web của Đại học Khoa học và Công nghệ Bình Nhưỡng Trang web Sàn giao dịch Choson Trường học ở Bắc Triều Tiên - Flickr bộ Video nữ sinh trung học Bắc Triều Tiên Quỹ giáo dục Hàn Quốc Giáo dục Bắc Triều Tiên
19812161
https://vi.wikipedia.org/wiki/Enock%20Agyei
Enock Agyei
Enock Atta Agyei (sinh ngày 13 tháng 1 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ K.V. Mechelen tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ, cho mượn từ Burnley. Sự nghiệp thi đấu RSC Verviers và Anderlecht Agyei bắt đầu sự nghiệp thi đấu của mình với RSC Verviers trước khi gia nhập Anderlecht vào năm 2015. Vào ngày 14 tháng 8 năm 2022, anh ra mắt chuyên nghiệp tại Challenger Pro League cho đội dự bị của Anderlecht, RSCA Futures. Burnley và cho mượn tại Mechelen Vào ngày 31 tháng 1 năm 2023, anh gia nhập câu lạc bộ Burnley tại EFL Championship theo bản hợp đồng kéo dài 4 năm rưỡi và sau đó được cho mượn tại Mechelen. Sự nghiệp quốc tế Agyei đã từng đại diện cho Bỉ trên đấu trường quốc tế cho đến cấp độ cao nhất là U-18. Đời tư Agyei được sinh ra ở Bỉ với cha mẹ là người Ghana. Thống kê sự nghiệp Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2005 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Bỉ Cầu thủ bóng đá Bỉ ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá RSCA Futures Cầu thủ bóng đá R.S.C. Anderlecht Cầu thủ bóng đá Burnley F.C. Cầu thủ bóng đá K.V. Mechelen Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bỉ Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A Cầu thủ bóng đá Belgian First Division B Cầu thủ bóng đá English Football League Tiền vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
19812164
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20h%E1%BB%8Dc%20Ninja
Trường học Ninja
Trường học Ninja (tiếng Anh: Shuriken School) là loạt phim hoạt hình được phát sóng lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 8 năm 2006. Phim được sản xuất bởi Xilam Animation và Zinkia Entertainment cùng với France 3 và Jetix Europe. Các nhân vật Eizan Kaburagi: là cậu bé 10 tuổi, lớn lên trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động ở Tokirohama. Eizan rất thông minh, chăm chỉ và ham học hỏi. Mục tiêu duy nhất của cậu từ khi còn nhỏ là trở thành một Ninja và tránh bán cơm nắm. Vũ khí đặc trưng của cậu là một cây thước nhựa màu xanh lá cây. Cậu đôi khi cũng vụng về khi thể hiện trong tập "Phantom of the Kabuki". Jimmy B.: xuất thân trong một gia đình tự do ở New York, nhưng lại giả vờ ngoan hơn nhiều so với nguồn gốc thực sự của mình. Cậu đã dành toàn bộ thời gian cho nhóm nhạc rap của mình, phát triển tài năng nhảy breakdance thực sự. Cha mẹ cậu rất bối rối và chán ngấy với những lời bình luận của những người hàng xóm, nên đã gửi cậu đến Tokirohama để ở với dì và chú của mình. Trước khi đến với Trường Shuriken, cậu đã đến trường Katana, trường đối thủ của Shuriken, nhưng bị đuổi học sau một tuần. Vũ khí của cậu là một chiếc ván trượt. Okuni Dohan: là thành viên nữ duy nhất của nhóm chính và là người được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất trong số họ. Cô thường xuyên trích dẫn các ví dụ từ các bài học quan trọng, đồng thời sở hữu kỹ năng suy luận tuyệt vời và tài năng gấp giấy (origami). Cô cũng có sự cạnh tranh ám chỉ giữa Okuni và Ami. Vũ khí chính mà cô lựa chọn là một chiếc dây nhảy. Diễn viên Phiên bản tiếng Pháp Hélène Bizot - Eizan Kaburagi Sophie Arthuys - Jimmy B. Emilie Rault - Okuni Dohan Pierre Baton - Hiệu trưởng Sensei, Zumichito Isabelle Volpe - Jacques Morimura Stéphanie Lafforge - Choki Sauvane Delanoë - Marcos Gonsales, Daisuke Togakame Ariane Aggiage - Kita Shunai, Nobunaga Bruno Magne - Vladimir "Vlad" Keitawa Denis Laustriat - Kubo Utamaro Philippe Valmont - Tetsuo Matsura Brigitte Lecordier - Kimura Twins Jean-Claude Donda - Naginata, Yota Suguimura, Cleaning Lady (Cô lao công) Benjamin Pascal - Bruce Chang Pascal Massix - Hiệu trưởng trường Katana Phiên bản tiếng Anh Nathan Kress - Eizan, Jacques, Choki, Marcos Charlie Adler - Vladimir, Hiệu trưởng trường Shuriken, Tetsuo, Principal of Katana, Cleaning Lady (Cô lao công) Jessica DiCicco - Okuni, Ami, Kita, Kimura Twins, Yota Maurice LaMarche - Daisuke, Naginata, Kubo, Zumichito Kimberly Brooks - Jimmy, Nobunaga, Bruce Chang Ảnh hưởng Tại Việt Nam, loạt phim ra mắt trọn bộ 26 tập đã có lồng tiếng được phát sóng chiếu trên kênh truyền hình HTV3, loạt phim 26 tập được phát sóng trên 3 kênh, đó là: ANT - BPTV3, SAM - BTV11, An Viên - BTV9. Bộ phim Một bộ phim hoạt hình mang tên Trường học Ninja: Bí mật Ninja (tiếng Anh: Shuriken School: The Ninja's Secret) (còn được gọi là Bí mật Ninja: Cuộc phiêu lưu trong trường học Ninja Shuriken (tiếng Anh: The Ninja's Secret: A Shuriken School Adventure)) được sản xuất bởi Xilam. Bộ phim này được phát sóng vào ngày 21 tháng 12 năm 2007 trên kênh Disney Channel Asia. Tại Hoa Kỳ, bộ phim này được phát hành trên DVD vào ngày 15 tháng 4 năm 2014 từ Cinedigm. Cốt truyện "Bộ phim theo chân các nhân vật Eizan, Jimmy và Okuni trong kỳ nghỉ hè. Họ sớm tham gia vào một cuộc đấu tranh thú vị mặc dù nguy hiểm vì danh tiếng, gia đình và nhiều thứ khác khi cha của Eizan bị bắt cóc bởi các Ninja chuyên nghiệp. Khi lên đường tìm và giải cứu cha của Eizan, họ phải sử dụng các kỹ năng và kỹ thuật mà họ đã học rất chăm chỉ trong năm đầu tiên của khóa đào tạo Ninja - đã đe dọa giấc mơ và tiềm năng trở thành một Ninja thực thụ của Eizan. Một loạt các sự kiện làm sáng tỏ khi Eizan cố gắng làm sáng tỏ tên tuổi của mình, thực hiện ước mơ và đảm bảo vị trí của mình tại Trường học Ninja." Diễn viên (lồng tiếng) Nathan Kress - Eizan Charlie Adler - Vladimir, Hiệu trưởng của Shuriken, Tetsuo, Hiệu trưởng trường Katana, cha của Eizan Jessica DiCicco - Okuni, Ami Kimberly Brooks - Jimmy, Nobunaga, Bruce Chang, mẹ của Eizan Maurice LaMarche - Daisuke, Naginata, Kubo, Zumichito Billy West (chưa được công nhận) Chú thích http://www.animationinsider.net/article.php?articleID=1334 Tham khảo Liên kết ngoài Trường học Ninja trên trang web chính thức của Xilam Trường học Ninja trên trang web chính thức của Zinka Trường Học Ninja trên IMDb Phim hoạt hình Xilam Pháp Phim hoạt hình năm 2006 Chương trình truyền hình tiếng Anh Siêu nhân nhí
19812165
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Tao%20Poon%20MRT
Ga Tao Poon MRT
Ga Tao Poon (, , ) là một ga MRT ở Băng Cốc, nằm tại nút giao Tao Pun, Bang Sue, Băng Cốc. Nó là ga chuyển đổi giữa Tuyến Xanh Dương và Tuyến Tím. Nó hiện tại là ga cuối của tuyến Tím. Lịch sử Nhà ga mở cửa vào ngày 6 tháng 8 năm 2016, ban đầu chỉ hoạt động trên tuyến Tím và không kết nối với các tuyến khác của hệ thống tàu điện Băng Cốc do đình trệ thi công và tranh chấp hợp đồng. Dẫn đến việc Thủ tướng Prayut Chan-o-cha dẫn ra điều 44 của Hiến pháp của Vương quốc Thái Lan 2014 vào ngày 27 tháng 12 năm 2016 cho phép tiếp tục thi công, và BEM được quản lý dịch vụ Tuyến Xanh Dương trên ga này. Trong suốt thời gian đó, dịch vụ xe buýt miễn phí được cung cấp, kết nối ga Tao đến Ga Bang Sue MRT. Một ga mở rộng trên tuyến Xanh Dương từ Bang Sue đến Tao Poon mở cửa vào ngày 11 tháng 8 năm 2017, thêm dịch vụ Tuyến Xanh Dương vào nhà ga này tạo nên sự chuyển đổi trực tiếp trên hai tuyến. Nhà ga đóng vai trò là ga cuối của Tuyến Xanh Dương cho đến ngày 4 tháng 12 năm 2019, khi Tuyến Xanh Dương kéo dài từ Tao Poon đến ga Sirindhorn. Tương lai Tuyến Tím lên kế hoạch kéo dài đến phía Nam, từ Tao Poon đến Rat Burana. Phần mở rộng này đã được chấp thuận bởi chính phủ vào năm 2017, nhưng phần đấu thầu diễn ra vào tháng 11 năm 2021, dự kiến hoàn thành vào tháng 3 năm 2022. Dự án bắt đầu khởi công vào quý III năm 2022 và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2027. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Tao Poon Tao Poon Tao Poon
19812166
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20Wimbledon%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n%20nam
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nam
Novak Djokovic là đương kim vô địch, nhưng thua trong trận chung kết trước Carlos Alcaraz, 6–1, 6–7(6–8), 1–6, 6–3, 4–6. Đây là danh hiệu Wimbledon đầu tiên và danh hiệu đơn Grand Slam thứ 2 của Alcaraz. Alcaraz, Djokovic, và Daniil Medvedev cạnh tranh vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn nam. Alcaraz giữ nguyên thứ hạng sau khi giành chức vô địch, và trở thành tay vợt đầu tiên giành quyền tham dự ATP Finals. Đây là lần đầu tiên sau Lleyton Hewitt vào năm 2002, không có một tay vợt của Big Four là hạt giống số 1 và vô địch giải đấu. Stan Wawrinka có cơ hội hoàn thành Grand Slam sự nghiệp, nhưng thua ở vòng 3 trước Djokovic. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nhánh 3 Nhánh 4 Nửa dưới Nhánh 5 Nhánh 6 Nhánh 7 Nhánh 8 Vận động viên khác Đặc cách Những tay vợt sau đây được đặc cách vào vòng đấu chính. Bảo toàn thứ hạng Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Rút lui Danh sách tham dự được công bố dựa trên bảng xếp hạng ATP trong tuần của ngày 22 tháng 5 năm 2023. Tham khảo Liên kết ngoài Danh sách tham dự Kết quả Đơn nam Giải quần vợt Wimbledon - Đơn nam 2023
19812168
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Tu%E1%BA%A5n%20Minh
Trần Tuấn Minh
Trần Tuấn Minh (sinh ngày 21 tháng Mười năm 1997) là một đại kiện tướng cờ vua người Việt Nam. Trần Tuấn Minh đã 5 lần vô địch cờ vua quốc gia các năm 2017, 2018, 2021, 2022, và 2023. Sự nghiệp Năm 2014, Trần Tuấn Minh được Liên đoàn cờ vua thế giới FIDE phong danh hiệu Kiện tướng quốc tế (IM), đến năm 2017, anh tiếp tục được phong danh hiệu Đại kiện tướng (GM). Trần Tuấn Minh đã 5 lần vô địch giải cờ vua quốc gia vào các năm 2017, 2018, 2021 2022 và 2023. Ở đấu trường quốc tế, Trần Tuấn Minh đã giành được 2 tấm huy chương vàng ở Giải vô địch cờ vua trẻ châu Á 2017 được tổ chức ở Iran. Trần Tuấn Minh từng được gọi vào đội tuyển cờ vua Việt Nam tham gia Olympiad cờ vua 2018. Ở giải này thì anh ngồi ở bàn 3 (kết quả: +4, =4, -3). Ở SEA Games 2021 Trần Tuấn Minh cùng với Lê Quang Liêm đã giành tấm huy chương vàng cờ vua nội dung đồng đội cho đoàn thể thao Việt Nam. Một số thành tích quốc tế đáng chú ý khác của Trần Tuấn Minh bao gồm: chiến thắng giải IGB Dato Arthur Tan International Open Chess Championship 2017., chiến thắng giải Bhopal GM Open 2018. và chiến thắng giải Pattaya Open 2018. Tham khảo Liên kết ngoài Đại kiện tướng cờ vua Nhân vật còn sống Vận động viên cờ vua Việt Nam Đại kiện tướng cờ vua Việt Nam Vận động viên người Hà Nội
19812169
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20Wimbledon%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n%20n%E1%BB%AF
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nữ
Markéta Vondroušová là nhà vô địch, đánh bại Ons Jabeur trong trận chung kết, 6–4, 6–4. Đây là danh hiệu đơn Grand Slam đầu tiên của Vondroušová. Vondroušová trở thành tay vợt nữ không xếp loại hạt giống đầu tiên trong lịch sử vô địch Wimbledon, là tay vợt nữ đầu tiên không xếp loại hạt giống vào trận chung kết sau Billie Jean King vào năm 1963, và ở vị trí số 42 thế giới cô trở thành tay vợt có thứ hạng thấp thứ hai vào trận chung kết kể từ khi bảng xếp hạng WTA ra đời vào năm 1975. Với chức vô địch, Vondroušová có lần đầu tiên vào top 10 trên bảng xếp hạng WTA. Elena Rybakina là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Jabeur. Trận thua của cô đảm bảo có một tay vợt lần đầu tiên vô địch Wimbledon. Elina Svitolina là tay vợt đặc cách đầu tiên vào vòng bán kết Wimbledon sau Sabine Lisicki vào năm 2011. Trận đấu giữa Vondroušová và Svitolina là trận bán kết đầu tiên giữa hai tay không xếp loại hạt giống tại Wimbledon trong Kỷ nguyên Mở. Đây là giải Wimbledon đầu tiên kể từ năm 2009 và là giải Grand Slam đầu tiên sau Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2013, bốn hạt giống hàng đầu (Iga Świątek, Aryna Sabalenka, Rybakina, và Jessica Pegula) vào vòng tứ kết. Świątek và Sabalenka cạnh tranh vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn nữ khi giải đấu bắt đầu. Świątek giữ nguyên thứ hạng sau khi Sabalenka thua ở vòng bán kết. Trận đấu vòng 2 giữa Ekaterina Alexandrova và Madison Brengle là trận đấu đơn nữ Wimbledon đầu tiên trong Kỷ nguyên Mở (và thứ 4 trong lịch sử Grand Slam) có ba set vào loạt tiebreak. Trận đấu vòng 3 giữa Lesia Tsurenko và Ana Bogdan kết thúc bằng một loạt tiebreak ở set ba với tổng cộng 38 điểm, loạt tiebreak đơn nữ dài nhất trong lịch sử. Đây là giải đấu cuối cùng của cựu tay vợt số 2 thế giới Anett Kontaveit. Cô thua ở vòng 2 trước Marie Bouzková. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nhánh 3 Nhánh 4 Nửa dưới Nhánh 5 Nhánh 6 Nhánh 7 Nhánh 8 Vận động viên khác Đặc cách Bảo toàn thứ hạng Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Rút lui Danh sách tham dự được công bố dựa trên bảng xếp hạng WTA trong tuần của ngày 22 tháng 5 năm 2023. Tham khảo Liên kết ngoài Danh sách tham dự Kết quả Đơn nữ Giải quần vợt Wimbledon - Đơn nữ 2023
19812170
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20Vinh
Bùi Vinh
Bùi Vinh (sinh ngày 25 tháng Mười hai năm 1976) là một đại kiện tướng cờ vua người Việt Nam. Bùi Vinh từng 2 lần vô địch quốc gia các năm 2003 và 2009, hiện anh đang là huấn luyện viên trưởng đội tuyển cờ vua Việt Nam. Bùi Vinh được liên đoàn cờ vua thế giới phong danh hiệu Đại kiện tướng vào năm 2008. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1976 Đại kiện tướng cờ vua Nhân vật còn sống Vận động viên cờ vua Việt Nam Đại kiện tướng cờ vua Việt Nam
19812172
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20Wimbledon%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i%20nam
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đôi nam
Wesley Koolhof và Neal Skupski là nhà vô địch, đánh bại Marcel Granollers và Horacio Zeballos trong trận chung kết, 6–4, 6–4. Đây là danh hiệu đôi nam Grand Slam đầu tiên của Koolhof và Skupski. Matthew Ebden và Max Purcell là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu cùng nhau. Ebden đánh cặp với Rohan Bopanna và Purcell đánh cặp với Jordan Thompson, nhưng lần lượt thua ở vòng bán kết và vòng 3 trước Koolhof và Skupski. Đây là lần đầu tiên nội dung đôi nam thay đổi từ đánh năm thắng ba sang đánh ba thắng hai. Koolhof và Skupski giành vị trí số 1 bảng xếp hạng đôi nam khi giải đấu kết thúc, sau khi Austin Krajicek thua ở vòng 2 và Rajeev Ram thua ở vòng 1. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nửa dưới Nhánh 3 Nhánh 4 Vận động viên khác Đặc cách Bảo toàn thứ hạng Thay thế Rút lui Nicolás Barrientos / Nuno Borges → thay thế bởi David Pel / Reese Stalder Victor Vlad Cornea / Dušan Lajović → thay thế bởi Grégoire Barrère / Quentin Halys Hendrik Jebens / Jan-Lennard Struff → thay thế bởi Sriram Balaji / Jeevan Nedunchezhiyan Thanasi Kokkinakis / Nick Kyrgios → thay thế bởi Tallon Griekspoor / Bart Stevens Tommy Paul / Frances Tiafoe → thay thế bởi Marco Cecchinato / Thiago Monteiro Albert Ramos Viñolas / Bernabé Zapata Miralles → thay thế bởi Constant Lestienne / Corentin Moutet Wu Yibing / Zhang Zhizhen → thay thế bởi Yuki Bhambri / Saketh Myneni Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả đôi nam Đôi nam Giải quần vợt Wimbledon theo năm - Đôi nam
19812177
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20qu%E1%BA%A7n%20v%E1%BB%A3t%20Wimbledon%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i%20n%E1%BB%AF
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đôi nữ
Hsieh Su-wei và Barbora Strýcová là nhà vô địch, đánh bại Storm Hunter và Elise Mertens trong trận chung kết, 7–5, 6–4. Đây là danh hiệu đôi nữ Wimbledon thứ 4 của Hsieh và thứ 2 của Strýcová. Barbora Krejčíková và Kateřina Siniaková là đương kim vô địch, nhưng rút lui do chấn thương chân trái của Krejčiková ở nội dung đơn. Siniaková và Jessica Pegula cạnh tranh vị trí số 1 bảng xếp hạng đôi nữ. Siniaková giữ nguyên thứ hạng sau khi Pegula thua ở vòng 3. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nhánh 1 Nhánh 2 Nửa dưới Nhánh 3 Nhánh 4 Vận động viên khác Đặc cách Bảo toàn thứ hạng Thay thế Rút lui Elisabetta Cocciaretto / Clara Tauson → thay thế bởi Rebecca Peterson / Anna Karolína Schmiedlová Alizé Cornet / Panna Udvardy → thay thế bởi Anastasia Dețiuc / Andrea Gámiz Anna Kalinskaya / Caty McNally → thay thế bởi Ashlyn Krueger / Caty McNally Barbora Krejčíková / Kateřina Siniaková → thay thế bởi Ysaline Bonaventure / Maryna Zanevska Veronika Kudermetova / Liudmila Samsonova → thay thế bởi Ingrid Gamarra Martins / Lidziya Marozava Shelby Rogers / Yanina Wickmayer → thay thế bởi Tatjana Maria / Katarzyna Piter Arantxa Rus / Mayar Sherif → thay thế bởi Anna-Lena Friedsam / Mayar Sherif Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả đôi nữ Đôi nữ Giải quần vợt Wimbledon theo năm - Đôi nữ
19812179
https://vi.wikipedia.org/wiki/Riccardo%20Stivanello
Riccardo Stivanello
Riccardo Stivanello (sinh ngày 24 tháng 4 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Bologna tại Serie A. Sự nghiệp thi đấu Bologna Stivanello bắt đầu chơi bóng tại Cittadella, trước khi gia nhập Bologna vào năm 2018. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2021, anh bản ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ. Sau khi thăng tiến ở đội trẻ, anh ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 21 tháng 5 năm 2022, vào sân từ băng ghế dự bị ở đầu hiệp hai, trong chiến thắng 1–0 tại Serie A trước Genoa. Vào ngày 16 tháng 6 năm 2022, Stivanello gia hạn hợp đồng với Bologna cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2025. Sự nghiệp quốc tế Stivanello đã đại diện cho Ý ở một số cấp độ trẻ quốc tế, từng chơi cho đội U-18 và U-19. U-19 Vào tháng 6 năm 2022, anh có tên trong danh sách đội tuyển Ý tham dự Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu 2022 tại Slovakia, nơi Azzurrini vào tới bán kết và thất bại trước nhà vô địch của giải đấu, U-19 Anh. Tham khảo Liên kết ngoài FIGC U18 profile FIGC U19 profile Sinh năm 2004 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Ý Hậu vệ bóng đá Trung vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá Bologna F.C. 1909 Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ý Người Ý thế kỷ 21
19812180
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A9ng%20ph%C3%B4%20d%C3%A2m
Chứng phô dâm
Chứng phô dâm (Exhibitionism) là hành động phơi bày bộ phận kín đáo (vùng kín) của một người ở nơi công cộng hoặc bán công khai ví dụ như phô ngực, phô mông, bộ phận sinh dục, đây là ý thích đưa bộ phận sinh dục ra để người khác, đặc biệt là người khác giới nhìn thấy. Việc phơi bày này có thể phát sinh từ mong muốn hoặc sự thôi thúc phơi bày bản thân theo cách như vậy trước các nhóm bạn bè hoặc người quen, hoặc với người lạ để giải trí hoặc thỏa mãn tình dục của người phơi bày, hoặc để gây sốc cho người ngoài cuộc. Nếu việc khoe thân tiếp xúc với một đối tác thân mật thường không được coi là chứng phô dâm. Theo luật, hành vi phơi bày khoe thân có thể được gọi là hành vi phơi bày khiếm nhã lộ liễu, "lộ hàng" hoặc các cách diễn đạt khác. Chứng phô dâm của phụ nữ đã được ghi lại từ thời cổ đại, thường là trong bối cảnh phụ nữ khiến các nhóm nam giới xấu hổ khi thực hiện hoặc xúi giục họ thực hiện một số hành động công khai. Đại cương Những người bị chứng phô dâm thường có có khuynh hướng chủ động để lộ bộ phận sinh dục tại những nơi công cộng hoặc bán công cộng, đồng thời cảm thấy hứng thú khi thực hiện kiểu hành động này. Một trường hợp có vẻ là chủ nghĩa phô trương theo nghĩa lâm sàng đã được ghi lại trong một báo cáo của Ủy ban chống báng bổ ở Venice năm 1550 Bác sĩ tâm thần người Pháp Charles Lasègue là người đầu tiên sáng tạo và sử dụng thuật ngữ exhibitionism vào năm 1877. Thuật ngữ này nhanh chóng được sử dụng rộng rãi và không có thay đổi đáng kể nào về mô tả cho đến nay. Ngoài ra, chẩn đoán DSM-5 cũng liệt kê triệu chứng của người mắc chứng rối loạn phô dâm như thích thú trong việc phô bày bản thân họ với người trưởng thành không đồng thuận với hành vi này, với trẻ em chưa dậy thì hoặc với cả hai. Theo Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần, Phiên bản Thứ năm (DSM-5), nếu một người có sở thích tình dục phô bày thực hiện các hành vi tương tự với người mà không đồng ý với loại hình quan hệ này, thì họ được chẩn đoán mắc rối loạn phô dâm (exhibitionistic disorder). Quyển Cẩm nang cũng tuyên bố rằng tỷ lệ mắc chứng rối loạn này ở nam giới là từ 2-4%, trong khi đó tình trạng này ở phụ nữ là ít hơn đáng kể. Ngoài ra, trong một cuộc khảo sát ở Thụy Điển cũng cho ra kết quả rằng: 2,1% phụ nữ và 4,1% nam giới thừa nhận rằng họ bị kích thích tình dục khi thấy hoặc có tiếp xúc với bộ phận sinh dục của người lạ. Hai thuật ngữ này đều ám chỉ hai kiểu người có thể song hành cùng nhau trong các hoạt động tình dục. Lasègue tin rằng phái mạnh là giới tính có xu hướng gặp phải hội chứng phô bày vùng kín phổ biến hơn nữ giới. Voyeurism (thị dâm) là từ để ám chỉ những người bị kích thích tình dục, có hứng thú tình dục khi nhìn thấy một ai đấy khỏa thân hoặc thực hiện các hoạt động tình dục, người bị phô dâm sẽ thích thú với sự có mặt của người thị dâm, cũng giống như người bạo dâm với người khổ dâm trong BDSM. Biểu hiện Những biểu hiện cụ thể của chứng phô dâm là: Anasyrma (vén váy): Việc vén khi không mặc đồ lót nhằm để lộ bộ phận sinh dục. Candaulism (khoe bạn tình): Hành động một người khoe khoang bạn tình của họ một cách khiêu khích, gợi dục. Flashing (phanh ngực/vén áo ngực): việc vén hoặc kéo áo nhằm khoe ngực của phụ nữ, hoặc tiếp xúc giữa bộ phận sinh dục của nam và nữ giới theo cách tương tự. Mooning (phô mông): Hành động khoe mông trần bằng việc vén áo hoặc tụt đồ lót xuống. Hành động này cũng thường được dùng trong những trường hợp hài hước, móc mỉa (trẩy mông) hoặc để bày tỏ sự không đồng ý. Martymachlia: Một chứng lệch lạc tình dục (paraphilia), liên quan đến sự hấp dẫn tình dục khi được người khác chứng kiến hoạt động quan hệ tình dục. Reflectoporn: Sử dụng gương hoặc hình ảnh phản chiếu, đồng thời chụp hoặc quay lại bản thân cởi trần và đăng lên trên các diễn đàn, mạng xã hội. Streaking (khỏa thân lông nhông): chỉ về hành vi chạy long nhong tại nơi công cộng mà không mặc đồ, với mục đích để đùa cợt, thách thức hoặc bày tỏ sự phản đối. Sexting (tin nhắm gạ gẫm): sử dụng các hình thức nhắn tin để gửi các tin nhắn, hình ảnh hoặc video liên quan đến tình dục. Telephone scatologia (cuộc gọi tục tĩu hay làm tình quan điện thoại): thực hiện những cuộc gọi mang tính gạ gẫm, kích thích tình dục tới những người lạ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hành động này chỉ là một biến tính của chứng phô dâm, dù cho không sự hiện diện vật chất của người thực hiện hành vi này. Chú thích Bệnh Khỏa thân
19812181
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ostrobothnia%20%28v%C3%B9ng%29
Ostrobothnia (vùng)
Ostrobothnia (; ) là một vùng ở phía tây Phần Lan. Vùng này giáp các vùng Trung Ostrobothnia, Nam Ostrobothnia và Satakunta. Đây là một trong bốn vùng được coi là Ostrobothnia ngày nay, do đó nó còn được gọi là Ostrobothnia Ven biển để tránh nhầm lẫn. Ostrobothnia là một trong hai vùng của Phần Lan có dân số người nói tiếng Thụy Điển chiếm đa số (còn lại là ở tỉnh Åland đơn ngữ theo hiến pháp); người nói tiếng Thụy Điển chiếm 51,2% tổng dân số. Vùng này có 13 thành phố song ngữ và một thành phố chỉ nói tiếng Phần Lan. Thủ phủ của Vaasa chủ yếu là nơi sinh sống của những người nói tiếng Phần Lan, trong khi các thị trấn nhỏ hơn và khu vực nông thôn xung quanh nói tiếng Thụy Điển. Ba đô thị có số lượng người nói tiếng Thụy Điển nhiều nhất là Korsholm, Jakobstad và Pedersöre. Về mặt địa lý, Ostrobothnia có ít địa hình phù hợp, bởi vì nó chủ yếu là đáy biển trước đây được đưa lên bề mặt do sự phục hồi sau băng hà và sự tích tụ của trầm tích phù sa. Ostrobothnia có cả những cánh đồng canh tác rộng lớn (lakeus) như ở Nam Ostrobothnia, và quần đảo Kvarken (tiếng Phần Lan: Merenkurkku). Sự vận động của băng hà đã lắng đọng một lượng lớn đá trong khu vực. Giống như những nơi khác ở Pohjanmaa, sông là một phần nổi bật của cảnh quan nơi đây. Các con sông lớn đổ vào Vịnh Bothnia ở Ostrobothnia là Kyrönjoki, Lapuanjoki và Ähtävänjoki. Kaskinen, một thị trấn ven biển nằm ở phía nam của vùng, là thị trấn nhỏ nhất ở Phần Lan cả về diện tích và dân số. Tên và biểu tượng Trước khi chính thức hóa tên các vùng của Phần Lan, Ostrobothnia còn được gọi là Vasa kustregionen trong tiếng Thụy Điển và Vaasan rannikkoseutu trong tiếng Phần Lan, cả hai đều được dịch thành "vùng ven biển Vaasa". Viện Ngôn ngữ Phần Lan khuyến nghị khu vực này nên được đặt tên là Kustösterbotten trong tiếng Thụy Điển và Rannikko-Pohjanmaa trong tiếng Phần Lan, có nghĩa là "Ostrobothnia ven biển". Tuy nhiên, sau khi xác nhận tên của các khu vực Phần Lan vào ngày 26 tháng 2 năm 1998, tên hiện tại của khu vực đã được chính thức thay thế, theo mong muốn của chính quyền khu vực. Chính quyền trung ương đã cho rằng sự phổ biến của tiếng Thụy Điển trong khu vực, cũng như việc thiếu sự đồng thuận chung về một tên thay thế là lý do cho quyết định của họ. Trong các nhóm cộng đồng địa phương, Ostrobothnia thường được gọi là "Pampas". Từ này bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh quan bằng phẳng với khu vực Pampas ở Nam Mỹ. Loại cây của vùng là Alnus glutinosa, loài động vật có vú trong vùng là nai sừng tấm (Alces alces), loại đá của vùng là đá granit Vaasa, bài hát của vùng là "Cuộc hành quân của Vaasa" (Tiếng Thụy Điển: Vasamarschen, tiếng Phần Lan: Vaasan marssi). Thành phố và ngôn ngữ Vùng Ostrobothnia được tạo nên từ 14 đô thị. Vaasa có khoảng 40% là người Thụy Điển và đa số còn lại là người Phần Lan, trong khi ở Jakobstad có khoảng 70% và vùng phía nam có khoảng 57% người nói tiếng Thụy Điển. Phần nông thôn của Vaasa đa số nói tiếng Thụy Điển, với phần lớn người nói tiếng Phần Lan ở Ostrobothnia sống ở thị trấn Vaasa. Isokyrö là một đô thị ở Phần Lan trước đây nói một ngôn ngữ của khu vực, nhưng đã được chuyển về Nam Ostrobothnia vào năm 2021. Ostrobothnia có thể giống với Nam Tirol nói tiếng Đức ở Ý, trong đó ngôn ngữ chính được nói ở thủ phủ ở đó là ngôn ngữ chính thức hoặc đa số của đất nước đó, nhưng ngôn ngữ chính được nói trong toàn bộ khu vực lại là ngôn ngữ thiểu số. Các đô thị cũ: Vörå hiện tại là kết quả của việc hợp nhất Maxmo và Oravais. Nykarleby đã được sáp nhập với Jeppo, Munsala và Nykarleby landskommun. Korsholm đã được hợp nhất từ năm đô thị Korsholm, , Replot, Björköby và Kvevlax. Vaasa đã được hợp nhất với một phần của Solf và Korsholm. Pedersöre đã được sáp nhập với Esse và Purmo. Malax là kết quả của việc hợp nhất các đô thị Malax, Petalax, Bergö và phần phía bắc của Pörtom. Närpes đã được hợp nhất với Övermark và Pörtom. Kristinestad là kết quả của việc hợp nhất Kristinestad, Tjöck, Lappfjärd và Sideby. Kronoby là kết quả của việc hợp nhất Kronoby, Nedervetil và Terjärv. Isokyrö được nối với vùng Nam Ostrobothnia. Khí hậu Ostrobothnia nằm ở vùng ranh giới giữa khí hậu lục địa ẩm và cận Bắc Cực (Köppen Dfb/Dfc). Mùa đông của nó được điều hòa bởi gió tây từ dòng hải lưu ôn hòa Bắc Đại Tây Dương đi qua Na Uy, Thụy Điển và Vịnh Bothnia. Mặc dù biển có xu hướng dễ bị đóng băng vào mùa đông trong những đợt thời tiết lạnh kéo dài do biển có độ mặn thấp, nhưng mùa đông hiếm khi bị quá lạnh. Nhìn chung trong những thập niên sau, bờ biển phía nam Vịnh Bothnia của trung Norrland ở Thụy Điển qua eo biển và Ostrobothnia hầu hết dao động từ mức cao trung bình trên 20°C (68 °F) một chút vào mùa hè đến mức cao nhất khoảng −3°C (27°F) và mức thấp nhất là −10°C (14°F) vào mùa đông. Do sự rộng lớn của khu vực từ bắc xuống nam, điều này sẽ thay đổi một chút từ nơi này sang nơi khác tùy thuộc vào vĩ độ. Lượng mưa khá thay đổi nhưng đủ để tạo thành một lớp băng tuyết trên khắp khu vực trong những tháng mùa đông. Vào mùa hè, Ostrobothnia trải qua hoàng hôn do vĩ độ cao với góc mặt trời không bao giờ giảm xuống dưới -3° vào ngày hạ chí ở Vaasa và -2° ở Jakobstad. Vào thời điểm đó trong năm, ánh sáng ban ngày vẫn đủ sáng để cho phép thực hiện các hoạt động ngoài trời vào ban ngày mà không cần ánh sáng nhân tạo, đặc biệt là dưới bầu trời quang đãng. Kết quả là, ngày rất ngắn trong mùa đông mặc dù tất cả các khu vực của Ostrobothnia đều ở xa về phía nam của Vòng Bắc Cực. Chính trị Kết quả bầu cử Nghị viện Phần Lan 2019 tại Ostrobothnia: Đảng Nhân dân Thụy Điển Phần Lan 47,23% Đảng Dân chủ Xã hội Phần Lan 15,09% Đảng Phần Lan 11,19% Đảng Liên minh Quốc gia 7,38% Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo 6,74% Đảng Trung tâm 4,16% Liên minh Bên trái 3,54% Liên đoàn Xanh 3,51% Phong trào Bảy Sao 0,24% Phong trào Cải cách Phần Lan 0,20% Các đảng khác 0,72% Xem thêm Quốc lộ 8 Phần Lan (E8) Phương ngữ Thụy Điển ở Ostrobothnia Tham khảo Liên kết ngoài Hội đồng khu vực của Ostrobothnia Ostrobothnia (vùng) Vùng của Phần Lan
19812188
https://vi.wikipedia.org/wiki/Henry%20Frederick%2C%20Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20x%E1%BB%A9%20Wales
Henry Frederick, Thân vương xứ Wales
Henry Frederick, Thân vương xứ Wales KG (19 tháng 2 năm 1594 – 6 tháng 11 năm 1612), là con trai cả và là người thừa kế rõ ràng của James VI và I, Vua của Anh và Scotland; và vợ Anne của Đan Mạch. Tên của ông được đặt theo tên những người ông của mình: Henry Stuart, Lãnh chúa Darnley; và Frederick II của Đan Mạch. Thân vương Henry được nhiều người coi là người thừa kế sáng giá và đầy triển vọng cho ngai vàng của cha mình. Tuy nhiên, năm 18 tuổi, ông qua đời vì bệnh thương hàn. Em trai của ông là Vương tử Charles đã kế vị ông với tư cách là người thừa kế rõ ràng các ngai vàng của Anh, Ireland và Scotland. Cuộc sống đầu đời London Âm nhạc, trò chơi và thể thao Giáo dục và nhân cách Tham khảo Nguồn Liên kết ngoài Henry Frederick, Prince of Wales at the official website of the Royal Collection Trust A poem by Andrew Melville on the birth of Prince Henry, 'Principis Scoto-Britannorum natalia' (1594), Bridging the Continental Divide, University of Glasgow Thân vương xứ Wales Công tước xứ Cornwall Vương tử Scotland Vương tử Anh Vương tộc Stuart Hiệp sĩ Garter Sinh năm 1594 Mất năm 1612 Chôn cất tại tu viện Westminster Người Scotland thế kỷ 16 Người Scotland thế kỷ 17 Công tước xứ Rothesay Người thừa kế chưa bao giờ lên ngôi Tử vong bệnh truyền nhiễm ở Anh Vương tử
19812193
https://vi.wikipedia.org/wiki/Honda%20Marin
Honda Marin
Honda Marin (tiếng Nhật: 本田真凜; Hepburn: Honda Marin; Hán-Việt: Bản Điền Chân Lãm; sinh ngày 21 tháng 8 năm 2001) là một vận động viên trượt băng nghệ thuật người Nhật Bản. Cô là đương kim quán quân Giải Vô địch Trượt băng Thiếu niên Quốc tế năm 2016, cũng giành huy chương bạc thuộc giải này vào năm 2017. Bên cạnh đó, cô nắm giữ huy chương đồng của Chung kết Grand Prix thiếu nhi năm 2015–2016 và huy chương đồng Giải Thiếu niên Toàn quốc của Nhật Bản năm 2016–2017. Honda là cựu kỷ lục gia của thế giới thuộc lứa tuổi thiếu niên về bộ môn thể thao này. Tiểu sử Honda Marin sinh ngày 21 tháng 8 năm 2001, tại tỉnh Kyoto, Nhật Bản. Cô là con thứ ba trong năm người con của gia đình. Cô có một anh trai, Taichi, một chị gái, Maho, và hai em gái, Miyu và Sara.. Ngoại trừ Maho, tất cả các anh chị em của cô đều là vận động viên trượt băng nghệ thuật và Miyu cũng là một nữ diễn viên nhí nổi tiếng ở Nhật Bản. Honda trước đây đã theo học và được đào tạo tại trường sơ trung thuộc đại học Kansai, nơi cũng có sân trượt băng. Năm 2018, Honda chuyển đến California cùng với anh trai của cô để tập luyện cùng huấn luyện viên Rafael Arutyunyan. Honda là thành viên của đội RF và luôn ngưỡng mộ nhà vô địch Olympic năm 2006 Arakawa Shizuka. Cô đăng ký vào học Khoa Chính trị và Kinh tế của Đại học Meiji vào mùa xuân năm 2020. Sự nghiệp Honda bắt đầu làm quen với bộ môn này từ năm hai tuổi, sau khi theo anh trai cô tham gia một buổi trượt băng nghệ thuật. Trong mùa giải 2011–2012, Honda đã liên tiếp 4 lần đứng trên bục danh dự tại Giải vô địch tập sự Nhật Bản, với huy chương vàng mùa giải 2012–2013. Cô được mời trượt băng trong buổi dạ tiệc tại World Team Trophy trong cùng một mùa giải. Cô đứng thứ 5 tại Giải Thiếu nhi Nhật Bản năm 2013–2014 và đứng thứ 4 vào mùa giải tiếp theo, thời gian này, Honda tập luyện tại sân trượt băng của Trường Đại học Kansai. Với tư cách là người giành huy chương bạc của giải quốc gia Nhật Bản năm 2014, cô được mời biểu diễn trượt băng trong buổi dạ tiệc NHK Trophy. Nhưng các động tác của cô bị cản trở bởi chứng biến dạng ngón chân cái. 2015–2016: Giải Vô địch Thiếu niên Quốc tế Honda đã ra mắt trên sàn trượt ISU Junior Grand Prix (JGP) trong mùa giải 2015–2016. Xếp thứ nhất trong chương trình ngắn và thứ tư trong môn trượt băng tự do, cô giành huy chương bạc tại JGP ở Colorado Springs, Colorado, xếp sau Shiraiwa Yuna với cách biệt 8,06 điểm. Cô đã giành được huy chương vàng tại sự kiện JGP thứ hai của mình, ở Zagreb, Croatia, sau khi xếp thứ ba ở nội dung ngắn và hạng nhất ở nội dung tự do - hơn Higuchi Wakaba 6,16 điểm. Những kết quả này giúp cô đủ điều kiện tham dự Chung kết JGP 2015–2016 tại Barcelona. Vào tháng 11, Honda đứng thứ sáu tại Giải vô địch trẻ em Nhật Bản 2015-2016. Tại trận chung kết JGP mùa giải 2015–2016 ở Barcelona, Honda đã giành huy chương đồng sau Polina Tsurskaya và Maria Sotskova của nước Nga. Ra mắt lần đầu tại Giải vô địch Nhật Bản ở cấp độ cao cấp, Honda đứng thứ chín và có tên trong đội Nhật Bản tham dự Giải vô địch trẻ thế giới 2016 ở Debrecen. Xếp thứ hai trong chương trình ngắn và hạng nhất ở môn trượt băng tự do, cô đã được trao huy chương vàng ở Hungary, trước Maria Sotskova của Nga và đồng đội Higuchi Wakaba. Mùa giải 2016–2017 Honda bắt đầu mùa giải của mình với huy chương vàng tại Cúp châu Á 2016. Cô được chỉ định tham gia các sự kiện JGP ở Nhật Bản và Slovenia. Trong sự kiện đầu tiên của cô ấy tại JGP Yokohama, cô ấy đã đứng thứ năm trong chương trình ngắn và giành chiến thắng ở ván trượt tự do với kỷ lục thế giới dành cho lứa tuổi thiếu niên là 128,64 điểm để xếp thứ hai chung cuộc. Trong sự kiện tiếp theo của cô ấy tại JGP Ljubljana, cô ấy đã giành được một huy chương bạc khác, giúp cô ấy đủ điều kiện tham dự trận Chung kết JGP thứ hai. Tuy nhiên, cô ấy đã rút lui khỏi trận Chung kết với lý do bị ốm. Vào tháng 11, cô đã giành được huy chương đồng tại Giải vô địch quốc gia dành cho lứa tuổi thiếu niên Nhật Bản. Cô ấy đã đứng thứ tư chung cuộc tại Giải vô địch quốc gia Nhật Bản lứa tuổi thứ hai và được chỉ định thi đấu tại Giải vô địch trẻ em thế giới 2017 ở Đài Bắc. Cô đứng thứ hai trong cả hai phân khúc, thiết lập thành tích cá nhân mới và được trao huy chương bạc, xếp sau người giành huy chương vàng Alina Zagitova và đứng trước huy chương đồng của Sakamoto Kaori. Cô được mời trượt băng trong buổi dạ tiệc tại World Team Trophy năm 2017. Mùa giải 2017–2018: Ra mắt ở hạng mục thiếu niên Honda bắt đầu trận ra mắt cấp cao của mình với huy chương vàng tại 2017 US Classic ở Thành phố Salt Lake. Cô ấy đã thi đấu trong sự kiện đồng đội đầu tiên của mình tại Japan Open và giành được huy chương bạc cùng với các đồng đội của mình. Honda đã ra mắt giải Grand Prix cấp cao của mình tại 2017 Skate Canada. Cô ấy đứng thứ mười trong chương trình ngắn sau khi ngã trong sự kết hợp ba ngón Lutz-ba ngón của mình và đưa Axel đôi đã lên kế hoạch của cô ấy thành một đĩa đơn nhưng đã giành được vị trí thứ ba trong ván trượt tự do để xếp thứ năm chung cuộc. Trong sự kiện tiếp theo của cô ấy tại 2017 Cup of China , cô ấy đứng thứ sáu trong chương trình ngắn và thứ năm trong ván trượt tự do để xếp thứ năm chung cuộc. Tại Giải quốc gia Nhật Bản 2017-18, cô ấy đứng thứ sáu trong chương trình ngắn hạn và thứ chín trong nội dung trượt băng tự do, xếp thứ bảy chung cuộc. Sau đó, cô ấy đã thi đấu tại Challenge Cup 2018, nơi cô ấy đứng thứ 11 sau chương trình ngắn hạn. Cô đứng thứ hai ở nội dung trượt băng tự do, giành huy chương đồng. Vào ngày 30 tháng 3, Honda thông báo sẽ luyện tập dưới sự hướng dẫn của Rafael Arutyunyan, sau đó cô chuyển đến Mỹ để sinh sống và huấn luyện toàn thời gian. Mùa giải 2018–2019 Honda bắt đầu mùa giải của mình vào tháng 9 tại 2018 CS Nebelhorn Trophy, nơi cô ấy đứng thứ sáu. Vào tháng 10, cô ấy đã thi đấu tại sự kiện Grand Prix đầu tiên của mùa giải, 2018 Skate America, nơi cô ấy đứng thứ tư trong chương trình ngắn và xếp thứ tám chung cuộc. Sau đó, cô ấy thi đấu tại sự kiện Grand Prix thứ hai của mình vào tháng 11 năm 2018, Internationaux de France, nơi cô ấy đứng thứ tư trong chương trình ngắn và đứng thứ sáu chung cuộc. Tại Giải vô địch quốc gia Nhật Bản 2018 vào tháng 12, cô đứng thứ mười tám sau chương trình ngắn và xếp thứ mười lăm chung cuộc. Mùa giải 2019–2020 Honda bắt đầu mùa giải tại 2019 CS Nebelhorn Trophy , nơi cô ấy xếp thứ năm. Ban đầu chỉ được chỉ định tham gia một giải Grand Prix, Honda sau đó đã được thêm vào danh sách 2019 Skate Canada International sau khi Mai Mihara rút lui. Trong khi di chuyển từ nhà thi đấu ở Kelowna, cô và vận động viên trượt băng Nhật Bản Keiji Tanaka đã dính vào một vụ tai nạn ô tô. Honda đã được phép thi đấu mặc dù bị thương ở ống chân và trán phải và đeo một chiếc nẹp hỗ trợ, nói rằng: "Tôi đã quyết định thi đấu và tôi sẽ hành động đến cùng." Honda đứng thứ mười trong chương trình ngắn sau khi thực hiện gấp đôi cú lật ba lần theo kế hoạch và vượt qua phần thứ hai của bài nhảy kết hợp của cô ấy nhưng đã vươn lên vị trí thứ sáu sau khi trượt một ván trượt tự do mạnh hơn với nội dung thu nhỏ. Cô đứng thứ bảy tại Cúp Trung Quốc năm 2019. Honda kết thúc mùa giải với vị trí thứ tám tại Giải vô địch Nhật Bản. Mùa 2020–2021 Honda rút lui khỏi Giải Nhật Bản Mở rộng sau khi bị trật khớp vai. Cô đã thi đấu tại Eastern Sectionals, xếp thứ mười. Cô được chỉ định tham gia Grand Prix 2020 NHK Trophy và xếp thứ chín. Honda đứng thứ mười tại Eastern Sectionals để đủ điều kiện tham dự Giải vô địch Nhật Bản. Tuy nhiên, cô đã rút lui sau khi ngã quỵ vì chóng mặt trước buổi tập luyện buổi sáng tại sự kiện. Mùa 2021–2022 Honda đứng thứ 21 tại Giải vô địch Nhật Bản mùa 2021–2022. Mùa 2022–2023 Honda đứng thứ 26 tại Giải vô địch Nhật Bản mùa giải 2022–23. Trong thời gian tạm nghỉ, Honda và em gái cô, Miyu, được chọn đóng vai chính trong chương trình mùa hè, One Piece on Ice, với Honda được chọn đóng vai Nefeltari Vivi và Miyu được chọn đóng vai Nami. Hồ sơ và thành tựu Honda lập kỷ lục nữ cấp cơ sở cho chương trình tự do lên 128,64 điểm tại JGP Nhật Bản 2016 vào ngày 11 tháng 9 năm 2016. Kỷ lục của cô đã bị phá tại JGP Đức 2016 bởi Anastasiia Gubanova (Nga) vào ngày 8 tháng 10 năm 2016. Các chương trình Thứ hạng nổi bật GP: Grand Prix; CS: Challenger Series; JGP: Junior Grand Prix Thông tin thành tích Cấp trưởng thành Tại các sự kiện đồng đội, huy chương chỉ được trao cho kết quả đồng đội. T – kết quả của đội. P – kết quả cá nhân/cá nhân. Cấp thiếu nhi Small medals for short and free programs awarded only at ISU Championships. Previous ISU world best highlighted in bold. ISU Personal best highlighted in bold. Nguồn tham khảo Liên kết ngoài ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #78FF78;" |Historical World Junior Record Holders (before season 2018–19) Sinh năm 2001 Nhân vật còn sống Vận động viên Nhật Bản Nữ vận động viên Nhật Bản Nhân vật thể thao đến từ Kyoto Vận động viên trượt băng nghệ thuật Nhật Bản Nhật Bản Người Nhật
19812201
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20T%C3%A2n%20%28nh%C3%A0%20s%E1%BB%AD%20h%E1%BB%8Dc%29
Văn Tân (nhà sử học)
Văn Tân (1913-1988) là một Giáo sư, thuộc lớp những nhà sử học đầu tiên ở Việt Nam. Ông cũng có nhiều công trình nghiên cứu giá trị về văn học và từ điển học. Tiểu sử GS. Văn Tân sinh ngày 1 tháng 9 năm 1913 tại làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Tên khai sinh là Trần Đức Sắc và có các bút danh: Văn Tân, Văn Giang, Cựu Kim Sơn, Dương Minh, S.T, Duy Minh, D.M. Năm 1937, ông tham gia làm báo Tin tức sau đó bị địch bắt đày đi nhà tù Sơn La 10 năm. Tại đây năm 1941, ông tiếp tục làm báo Suối reo. Giai đoạn 1952-1955, ông giảng dạy ở khu học xá trung ương tại Trung Quốc, rồi về công tác tại Ban nghiên cứu Văn học, Lịch sử, Địa lý; sau đổi tên là Viện sử học. Từ năm 1961-1976, ông là Thư ký tòa soạn tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Đánh giá GS. Văn Tân được đánh giá là người uyên bác. Ông giỏi Hán Nôm và biên soạn các cuốn từ điển giá trị, đồng thời là chủ Tổ phiên dịch cho các nhà cổ sử của Viện sử học. Ông cũng đề xuất những nhìn nhận tích cực về cải cách của Hồ Quý Ly, và đặc biệt dành nhiều tâm huyết cho các nghiên cứu về nhà Tây Sơn. Cụm công trình Cách mạng Tây Sơn và Nguyễn Huệ - Con người và sự nghiệp của ông được tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2000. Tác phẩm Sách sử Cách mạng Tây Sơn (NXB Văn Sử Địa 1958) Lịch sử Việt Nam sơ giản (NXB Sử học 1963) Thời đại Hùng Vương (NXB Khoa học Xã hội 1973) Lịch sử ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc từ khởi thủy đến cuối thế kỷ XVIII (NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tái bản 2018). Sách văn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (NXB Văn Sử Địa 1957-1960) Tiếng cười Việt Nam (NXB Văn Sử Địa 1957) Văn học trào phúng Việt Nam (NXB Văn Sử Địa 1958) Nguyễn Khuyến (NXB Văn Sử Địa 1959) Lịch sử văn học Việt Nam sơ giản (NXB Khoa học 1963) Từ điển Từ điển Trung - Việt (NXB Sự thật, 1956) Từ điển tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội 1967) Tham khảo Nhà sử học Việt Nam
19812202
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kho%20l%C6%B0u%20tr%E1%BB%AF%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Li%C3%AAn%20bang%20Nga
Kho lưu trữ Quốc gia Liên bang Nga
Kho lưu trữ Quốc gia Liên bang Nga (; viết tắt: GARF) là một kho lưu trữ quốc gia lớn, được điều hành bởi Cơ quan Lưu trữ Liên bang Nga. Kho lưu trữ này chứa nhiều tài liệu lịch sử của các cơ quan chính phủ cao nhất của Nga, bao gồm: một số tư liệu chính thức về Đế quốc Nga (thường là hoạt động của cảnh sát) hồ sơ của một số nhân vật lịch sử (bao gồm các tư liệu về Hoàng gia Romanov) tư liệu chính thức về các thiết chế tư pháp và lập pháp tối cao của Chính phủ Lâm thời Nga (1917) hồ sơ về Nga Xô viết như một chính thể độc lập (1917-1922) và như một phần của Liên Xô (1923-1991) tư liệu về Liên Xô (1922-1991) tư liệu về Liên bang Nga (từ năm 1992) tư liệu từ nhiều nguồn khác Cơ quan Lưu trữ Quốc gia, được thành lập ở Moskva vào năm 1992, sưu tập một số tư liệu thuộc: Kho lưu trữ Quốc gia Trung tâm về Cách mạng Nga () (thành lập năm 1920) Kho lưu trữ Quốc gia Trung tâm Nga Xô viết () (thành lập năm 1957). Chú thích Tham khảo Мироненко С. В. (отв. ред.), История Государственного архива Российской Федерации (документы, статьи, воспоминания), М.: РОССПЭН, 2010. (Mironenko S. V. (ed.), History of the State archive of Russian Federarion (documents, articles, reminiscences)'', Moscow, ROSSPEN. 2010. )
19812208
https://vi.wikipedia.org/wiki/James%20Ward-Prowse
James Ward-Prowse
James Michael Edward Ward-Prowse (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm cho câu lạc bộ bóng đá West Ham tại Premier League và đội tuyển bóng đá quốc gia Anh. Đầu đời James Ward-Prowse sinh ra ở Portsmouth, là con trai của John Ward-Prowse, một luật sư. Mặc dù gia đình anh là cổ động viên Portsmouth, Ward-Prowse đã tham gia trận derby của Portsmouth gặp đối thủ Southampton khi mới 8 tuổi. Sự nghiệp câu lạc bộ Đầu đời Ward-Prowse gia nhập Học viện Southampton khi mới 8 tuổi, sau đó góp mặt trong mọi trận đấu cho đội bóng U-18 ở mùa giải 2010–11. Khi ở học viện Southampton, anh đã bí mật tập luyện với đội bóng không thuộc giải đấu Havant & Waterlooville để "rèn luyện" bản thân. 2011–2014 Ward-Prowse được đôn lên đội một Southampton vào tháng 10 năm 2011, khi anh ra mắt trong trận đấu gặp Crystal Palace tại League Cup, khi mới 16 tuổi. Trong lần ra sân thứ hai cho đội bóng, Ward-Prowse ghi bàn thắng đầu tiên khi họ đánh Coventry City với tỷ số 2–1, giúp đội bóng anh lọt vào vòng 4 FA Cup. Sau khi Southampton lên hạng giải đấu hàng đầu Premier League vào tháng 5 năm 2012, Ward-Prowse là một trong bốn cầu thủ trẻ được đề nghị ký hợp đồng chuyên nghiệp khi họ đến Premier League, cùng với Jack Stephens, Luke Shaw và Calum Chambers. Ward-Prowse đã có trận ra mắt tại Premier League vào ngày khai mạc mùa giải 2012–13, thi đấu 65 phút trong trận thua 2–3 trước nhà đương kim vô địch Manchester City. Sau trận đấu, màn trình diễn của anh được huấn luyện viên Nigel Adkins mô tả là "xuất sắc". Sau khi vào sân thay người trong trận gặp Wigan Athletic, anh trở lại đội hình xuất phát trong trận đấu thứ ba của Southampton, gặp Manchester United, tiếp tục nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà bình luận. Tháng 11, ngay sau sinh nhật lần thứ 18, Ward-Prowse ký hợp đồng 5 năm với Southampton, giữa những đồn đoán rằng anh có thể rời câu lạc bộ trong tương lai gần. Trong trận đấu gặp Queens Park Rangers vào tháng 3 năm 2013, Ward-Prowse thực hiện một pha tấn công muộn khi tạt bóng để trung vệ Maya Yoshida ghi bàn ấn định chiến thắng cho Southampton. Sau đó, anh kiến tạo cho Jason Puncheon ghi bàn gỡ hòa trong trận đấu áp chót của mùa giải, gặp Sunderland vào ngày 12 tháng 5, đón đường chuyền của các tiền đạo Jay Rodriguez và Rickie Lambert để chuyền cho Puncheon mang về một điểm quan trọng cho đội bóng anh ở phút thứ 75. Vào đầu mùa giải 2013–14, Ward-Prowse được huấn luyện viên Mauricio Pochettino ưu ái trao suất đá chính trong trận mở màn mùa giải, gặp West Bromwich Albion, suýt chút nữa ghi bàn trong số ít pha tấn công của một cuộc chạm trán không mấy suôn sẻ khi Southampton giành chiến thắng 1–0, nhờ quả phạt đền của Lambert ở phút thứ cuối cùng của trận đấu. Trong trận đấu tiếp gặp Sunderland, anh thi đấu trọn vẹn 90 phút và ghi một pha kiến tạo từ quả đá phạt trực tiếp ở phút thứ 88, giúp trung vệ José Fonte đánh đầu ghi bàn gỡ hòa muộn. Ward-Prowse luôn xuất hiện ngay từ đầu mùa giải 2014–15. Tuy nhiên, ngày 20 tháng 9, anh bị chấn thương gãy xương bàn chân trong trận thắng Swansea City, điều đó khiến anh phải nghỉ thi đấu 10 tuần. 2015–nay Ward-Prowse đã ký bản hợp đồng mới có thời hạn 5 năm rưỡi vào tháng 1 năm 2015. Ngày 11 tháng 4, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2014–15, ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trước Hull City bằng một quả phạt đền. Ngày 2 tháng 5, anh phải nhận thẻ đỏ trực tiếp vì pha phạm lỗi với cầu thủ Sunderland Jermain Defoe, để thủng lưới một quả phạt đền mà từ đó Jordi Gómez đã ghi bàn thắng. Ngày 3 tháng 10 năm 2015, Ward-Prowse vào sân thay cho Oriol Romeu ở hiệp một trong chiến thắng 3–1 trước đương kim vô địch Chelsea. Đây là lần ra sân thứ 100 của anh ở Southampton, khiến anh trở thành cầu thủ trẻ thứ tư đạt được con số đó. Ngày 16 tháng 1 năm 2016, Ward-Prowse được huấn luyện viên Ronald Koeman ca ngợi sau khi ghi hai bàn trong chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước West Bromwich Albion, thực hiện quả đá phạt trực tiếp và một quả phạt đền. Anh có tổng cộng 39 lần ra sân và ghi hai bàn trong mùa giải 2015–16. Ngày 13 tháng 5 năm 2016, anh gia hạn bản hợp đồng mới có thời hạn 6 năm, giữ anh ở lại đội bóng cho đến năm 2022. Ngày 25 tháng 9, Ward-Prowse ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2016–17 bằng một pha lập công ở phút bù giờ để ấn định chiến thắng 3–0 trước West Ham United. Anh đã nhân đôi thành tích của mình vào ngày 22 tháng 1 năm 2017, ghi bàn tỷ số ở phút thứ 26 trong chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước nhà đương kim vô địch Premier League Leicester City, giúp Southampton khép lại chuỗi 4 trận thua liên tiếp. Ngày 7 tháng 4 năm 2018, Ward-Prowse đạt cột mốc 200 lần ra sân cho Southampton trên mọi đấu trường. Tháng 6 năm 2020, Ward-Prowse được đeo băng đội trưởng của Southampton thay cho Pierre-Emile Højbjerg, người đã công khai bày tỏ mong muốn rời câu lạc bộ. Ngày 17 tháng 8 năm 2020, Ward-Prowse ký bản hợp đồng mới có thời hạn đến tháng 6 năm 2025. Ngày 26 tháng 1 năm 2021, Ward-Prowse đạt cột mốc ra sân lần thứ 300 cho Southampton là trong trận đấu gặp Arsenal, thực hiện pha kiến tạo cho Stuart Armstrong ghi bàn, nhưng đội bóng anh để thua với tỷ số 3–1 trên sân nhà. Sau khi Southampton từ chối lời đề nghị của Aston Villa cho Ward-Prowse với giá 25 triệu bảng, anh gia hạn đồng mới có thời hạn 5 năm vào ngày 19 tháng 8. Ngày 2 tháng 10, Ward-Prowse ghi một quả phạt đền cho Southampton trong trận thua 1–3 trên sân Stamford Bridge trước Chelsea, nhưng anh bị trọng tài Martin Atkinson rút ra nhận một thẻ đỏ sau khi trọng đến màn hình VAR để xem lại một pha vào bóng của anh đối với Jorginho. Ngày 15 tháng 1 năm 2022, Ward-Prowse ghi một bàn thắng từ quả phạt trực tiếp cho Southampton khi họ để thua 1–3 trước Wolves tại Sân vận động Molineux. Bàn thắng đó giúp cầu thủ này đứng thứ hai trong danh sách ghi nhiều bàn thắng từ đá phạt nhất trong lịch sử Premier League (12), chỉ sau David Beckham (18). Sau đó, anh được huấn luyện viên Manchester City, Pep Guardiola mô tả là cầu thủ sút phạt vĩ đại nhất thế giới. Anh đã chạm cột mốc 400 lần ra sân cho Southampton vào ngày 2 tháng 4 năm 2023, trong trận thua 0–1 trước West Ham. Sau khi Southampton bị xuống hạng khỏi Premier League vào ngày 13 tháng 5 năm 2023, Ward-Prowse nói rằng các tiêu chuẩn của câu lạc bộ đã sa sút. Sự nghiệp quốc tế Đội tuyển trẻ Ward-Prowse bắt đầu sự nghiệp quốc tế với đội tuyển U-17 Anh, có 7 lần khoác áo đội tuyển trong hai giải đấu từ năm 2010 đến 2011. Năm 2012, anh gọi lên đội tuyển U-19, đội mà anh đã ra sân 4 lần, và vào năm 2013, anh được triệu tập đội tuyển U-20 tham dự U-20 World Cup 2013; cầu này đã có 4 lần góp mặt, không trận nào U-19 Anh thắng. Tháng 8 năm 2013, ở tuổi 18, Ward-Prowse được gọi lên đội tuyển U-21 Anh cho các trận đấu vòng loại Giải vô địch U21 châu Âu 2015 gặp Moldova và Phần Lan. Anh đã thi đấu 64 phút trong trận đầu tiên, rồi sau đó chơi trọn 90 phút trong trận gặp Phần Lan, trận đấu đó mà anh đã có cơ hội ghi bàn rõ ràng của đội tuyển Anh. Ngày 15 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho U-21 Anh bằng cú sút phạt trực tiếp từ cự ly 20 mét trong chiến thắng 5–0 trước Litva. Trong Giải đấu Toulon 2014, Ward-Prowse đã ghi một cú sút phạt "tuyệt đẹp" vào lưới Brazil ở vòng bảng. Bàn thắng này sau đó đã được bình chọn là "Bàn thắng của giải đấu"; anh cũng được bầu chọn là một trong ba cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Ngày 29 tháng 5 năm 2016, Ward-Prowse dẫn dắt U-21 Anh giànhh chiến thắng đầu tiên tại Giải đấu Toulon kể từ năm 1994, bằng cách đánh bại đội chủ nhà Pháp với tỷ số 2–1. Anh được đề cử cho giải Cầu thủ U-21 Anh xuất sắc nhất, nhưng cuối cùng thua đồng đội của Southampton, Nathan Redmond. Tháng 6 năm 2017, anh được đeo băng đội trưởng U21 Anh tại Giải vô địch U21 châu Âu, nơi họ đã lọt vào bán kết, nhưng thất bại trước Đức trong loạt sút luân lưu. Đội tuyển quốc gia Ngày 16 tháng 3 năm 2017, Ward-Prowse lần đầu tiên được gọi lên đội tuyển quốc gia Anh để tham dự trận giao hữu gặp Đức và một trận vòng loại World Cup gặp Litva. Sáu ngày sau, anh có trận ra mắt đội tuyển quốc gia cùng đồng đội Nathan Redmond khi họ để thua 0–1 trước Đức, vào sân thay thế cho cầu thủ West Bromwich Albion Jake Livermore ở phút thứ 83 Ward-Prowse được trở lại đội tuyển Anh trong hai trận đầu ở vòng loại UEFA Euro 2020 vào tháng 3 năm 2019. Ngày 25 tháng 3, anh được tung vào sân ở phút thứ 82 trong chiến thắng 5–1 trên sân khách của đội tuyển Anh trước Montenegro. Đó là trận đấu đầu tiên của Ward-Prowse cho đội tuyển Anh. Ngày 5 tháng 9 năm 2020, anh đá chính trong chiến thắng 1–0 trên sân khách trước Iceland., Anh đã ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên vào ngày 25 tháng 3 năm 2021, trong chiến thắng 5–0 trước San Marino. Ngày 25 tháng 5 năm 2021, anh có tên trong danh sách sơ bộ gồm 33 cầu thủ tuyển Anh tham dự UEFA Euro 2020, nhưng anh không lọt vào danh sách cuối cùng. Ngày 5 tháng 10, anh lại được triệu tập cho các trận đấu vòng loại World Cup 2022, gặp Andorra và Hungary lần lượt vào ngày 9 và 12 tháng 10 năm 2021 để thay thế Kalvin Phillips, người đã rút lui vì chấn thương. Ward-Prowse đã không lọt vào đội hình tuyển Anh cho World Cup 2022. Phong cách chơi Ward-Prowse chủ yếu chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm, anh cũng chơi ở vị trí tiền vệ tấn công và tiền vệ cánh phải, và cũng có thể được bố trí ở vị trí hậu vệ phải. Anh được còn được biết đến với kỹ năng và độ chính xác khi thực hiện quả đá phạt, và vào tháng 2 năm 2023, anh được mô tả là "một trong những cầu thủ đá phạt đền hay nhất từ trước đến nay". Anh đang nắm giữ kỷ lục của Southampton về số bàn thắng từ đá phạt ở Premier League, có tỷ lệ chuyển hóa thành quả đá phạt hay nhất giải đấu kể từ năm 2003, và sở hữu khả năng thực hiện tình huống cố định. Huấn luyện viên Manchester City, Pep Guardiola nhận xét Ward-Prowse là "chân sút phạt giỏi nhất mà tôi từng thấy". Ward-Prowse cũng được đánh giá cao về mức độ thể lực và chịu đựng vượt trội; vào năm 2021, anh đã trở thành cầu thủ Premier League đầu tiên thi đấu trọn vẹn từng phút trong hai mùa giải Premier League liên tiếp. Ngoài ra, anh còn được biết đến với việc ăn mừng bàn thắng theo kiểu đánh gôn. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Đội tuyển quốc gia Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của Anh, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Ward-Prowse. Danh hiệu Southampton Cúp EFL: á quân 2016–17 England U21 Giải đấu Toulon: 2016 Tham khảo Liên kết ngoài Profile at the Southampton F.C. website Profile at the Football Association website Sinh năm 1994 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá Southampton F.C. Cầu thủ bóng đá Premier League Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
19812210
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20Li%C3%AAn%20hi%E1%BB%87p%20Ph%E1%BB%A5%20n%E1%BB%AF%20L%C3%A0o
Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào
Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào (LWU; ) là tổ chức quyền phụ nữ được lập ra tại Lào vào ngày 20 tháng 7 năm 1955. Ban đầu gọi là Hội Phụ nữ Yêu nước Lào về sau đổi tên thành Hội Phụ nữ Lào vào năm 1965 và có tên gọi như hiện nay tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I năm 1984. Tổ chức này đóng vai trò là nhà lãnh đạo chính thức của phong trào phụ nữ ở Lào kể từ khi thành lập. Nó chịu trách nhiệm thúc đẩy các chính sách của chính phủ đối với phụ nữ và bảo vệ quyền của phụ nữ trong chính phủ, đồng thời giải phóng họ khỏi các chuẩn mực truyền thống trong xã hội và lôi kéo họ tham gia vào cuộc cách mạng xã hội nhằm mục đích nâng cao địa vị và phúc lợi chung của họ trong xã hội Lào. Khampheng Boupha từng là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào đầu tiên. Chủ tịch hiện nay Inlavanh Keobounphanh là con gái của nguyên lãnh đạo Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và nguyên Thủ tướng Lào Sisavath Keobounphanh. Chức Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào là cấp bộ trưởng cho nên người giữ chức này có quyền tham dự các cuộc họp của Chính phủ Lào. Chủ tịch Khampheng Boupha (1955–1988) Onchanh Thammavong (1988–2004) Sisay Leudetmounsone (2004–2020) Inlavanh Keobounphanh (2020 đến nay) Đại hội Đại biểu toàn quốc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I (1984) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II (1988) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III (1993) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (2001) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (2006) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (2011) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (2015) Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (2020) Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào Cánh phụ nữ của đảng cộng sản Tổ chức thành lập năm 1955 Khởi đầu năm 1955 ở Lào
19812212
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%A3%20ph%C3%A1o%20v%C3%A0o%20B%E1%BB%99%20T%C6%B0%20l%E1%BB%87nh
Nã pháo vào Bộ Tư lệnh
Nã pháo vào Bộ Tư lệnh – Bài đại tự báo của tôi () là một bài viết dài do Chủ tịch Mao Trạch Đông chấp bút vào ngày 5 tháng 8 năm 1966, trong Phiên họp toàn thể lần thứ 11 của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa VIII, về sau được đăng toàn văn trên tờ Nhân Dân nhật báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 5 tháng 8 năm 1967. Bối cảnh Người ta thường tin rằng Nã pháo vào Bộ Tư lệnh nhắm trực tiếp vào Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình lúc đó đang phụ trách các công việc hàng ngày của chính phủ Trung Quốc và đã cố gắng làm dịu phong trào quần chúng đang hình thành ở một số trường đại học ở Bắc Kinh kể từ khi ban hành Thông báo 16 tháng 5, qua đó Mao chính thức phát động Cách mạng Văn hóa. Nhiều cuộc đàn áp hàng loạt quy mô lớn hơn đã xảy ra sau khi bài viết này được xuất bản, dẫn đến tình trạng hỗn loạn khắp cả nước và cái chết của hàng nghìn "kẻ thù giai cấp", trong đó có Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Nội dung Nã pháo vào Bộ Tư lệnh hoàn toàn không phải là một bài đại tự báo mà chỉ là một đoạn lời phê nhưng cách dùng từ hết sức gay gắt. Nguyên văn của bài viết này như sau: Bản dịch tiếng Việt: Tham khảo Liên kết ngoài Nã pháo vào Bộ Tư lệnh – Bài đại tự báo của tôi tại Marxists Internet Archive. Cách mạng Văn hóa Nhân Dân nhật báo Tác phẩm của Mao Trạch Đông Trung Quốc thời đại Mao Trạch Đông Lịch sử Chiến tranh Lạnh ở Trung Quốc Hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc
19812214
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%8Fa%20th%C3%A2n%20trong%20t%C3%B4n%20gi%C3%A1o
Khỏa thân trong tôn giáo
Khoả thân trong tôn giáo (Nudity in religion) liên quan đến niềm tin tôn giáo làm cơ sở cho thái độ và hành vi ngày nay của con người liên quan đến khoả thân. Từ rất sớm, vấn đề khỏa thân đã được nhắc đến trong Kinh Thánh ở các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham trong Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo đều kể lại câu chuyện sáng tạo của sách Sáng thế ký trong đó Adam và Eva hoàn toàn không biết gì về sự trần truồng cho đến khi họ ăn trái cấm từ cây biết điều thiện ác ở vườn Địa Đàng. Sau đó, họ cảm thấy xấu hổ và cố che thân bằng lá vả. Do Thái giáo không chia sẻ mối liên hệ khỏa thân của Cơ đốc giáo với tội tổ tông, một khía cạnh không thể thiếu trong học thuyết về sự cứu chuộc và cứu rỗi. Những câu chuyện trong Kinh thánh kể về Bathsheba và Susanna cho thấy sự khơi dậy ham muốn tình dục ở nam giới khi họ nhìn thấy những phụ nữ đang tắm, điều này trái ngược với câu chuyện về Judith cố tình tắm lộ để quyến rũ và sau đó chém đầu tướng địch Holofernes. Tuy nhiên, cả ba câu chuyện đều dựa trên niềm tin rằng đàn ông không thể kiềm chế bản năng tình dục của mình khi nhìn thấy phụ nữ khỏa thân. Do Thái giáo Trong Do Thái giáo thì khoả thân là một khía cạnh của thân thể đoan trang được coi là rất quan trọng trong hầu hết các tình huống xã hội và gia đình. Thái độ đối với sự khiêm tốn khác nhau giữa các phong trào khác nhau trong đạo Do Thái cũng như giữa các cộng đồng trong mỗi phong trào. Trong các cộng đồng (chính thống) nghiêm ngặt hơn, sự khiêm tốn là một khía cạnh của Tzniut thường có các quy tắc chi tiết về hành xử phù hợp với phép tắc. Do Thái giáo Bảo thủ và Do Thái giáo Cải cách thường đề cao các giá trị khiêm tốn nhưng không coi các quy tắc nghiêm ngặt của Tzniut là sự ràng buộc mà được đặt ra các tiêu chuẩn của riêng họ. Ngoại trừ cộng đồng Do Thái giáo Haredi, các cộng đồng Do Thái thường có xu hướng ăn mặc theo phép tắc lề luật xã hội. Luật Do Thái Chính thống (Halakha) quy định rõ ràng phụ nữ phải có trách nhiệm duy trì đức tính khiêm tốn (Tzniut) bằng cách che phủ cơ thể, kể cả mái tóc. Đối với nam giới, việc khỏa thân chỉ giới hạn ở việc không để lộ dương vật, nhưng không chỉ giới hạn ở việc lộ ra nơi công cộng mà cả ở nơi riêng tư. Vào cuối thời cổ đại, người Do Thái ghê tởm tục lệ khỏa thân của người Hy Lạp và La Mã và những hình ảnh điêu khắc về các nam thần khỏa thân. Trong bất kỳ bối cảnh tôn giáo nào, hình ảnh khoả thân của nam giới được quan tâm đánh giá nhiều hơn ảnh khoả thân của nữ giới vì đó là hành vi xúc phạm đến Chúa. Trong hoạt động hàng ngày, nam giới khỏa thân có thể là cần thiết nhưng nên tránh. Việc khỏa thân của phụ nữ không phải là hành vi xúc phạm đến Chúa mà chỉ nhằm khơi dậy đam mê tình dục của đàn ông, do đó ảnh khỏa thân riêng tư hoặc chỉ dành cho phụ nữ không phải là hành động khiếm nhã. Một người bước vào bồn tắm nghi lễ (mikveh) làm như vậy mà không mặc quần áo, không trang sức hay thậm chí băng bó. Cần phải cẩn thận khi đọc Kinh thánh trong đó một số đề cập đến sự trần trụi được dùng như một uyển ngữ cho hành vi ân ái. Ví dụ, trong câu chuyện về Nô-ê, có thể thấy sự do dự của hai người con trai Noah khi họ phải che thân thể trần truồng của cha mình, ngoảnh mặt đi, sau khi người con trai út của Nô-ê nhìn thấy cha mình khỏa thân và nói với hai người anh em bên ngoài những gì anh ta đã làm với cha mình (). Khỏa thân cũng có thể là một phép ẩn dụ cho sự trắng tay, đặc biệt là trong những tình huống cần phải hiến sinh hoặc dâng lễ vật cho Chúa. Cơ Đốc giáo Trong các giáo phái Kitô giáo chính thống đều có những câu trong Kinh thánh Kitô giáo thảo luận về yếu tố khỏa thân. Trước khi xảy ra sự sa ngã của con người thì "Việc khỏa thân là rất tốt ngay từ đầu, nhưng sự vô tội đã bị hủy hoại bởi sự sa ngã" là một khái niệm được răn dạy trong Sáng thế ký (Genesis) 1:31 và Genesis 2:25. Genesis 3:8–10,, Khải thị (Revelation) 3:18 và Khải thị 16:15 đã nghị luận rằng đằng sau sự sa ngã của con người thì "sự trần truồng phơi bày nơi công cộng [đã trở nên] minh chứng của sự xấu hổ về tội lỗi". Tại sách Sáng thế ký-Genesis 3:7, kể việc Adam và Eve đã cố gắng che đậy sự trần truồng của họ, mặc dù nỗ lực của họ không phù hợp với Đức Chúa Trời và vì vậy Đức Chúa Trời đã chỉ dạy cách ăn mặc quần áo cho con người. Theo Sáng thế ký 3:21, Sách Xuất hành-Exodus 20:26 and 28:42–43 giải thích rằng Đức Chúa Trời chỉ dạy cho con người phải che thân và che cái đùi của họ. Giáo hội sơ khai đã phản ánh thái độ đương thời của Do Thái giáo đối với yếu tố khoả thân. Kinh Cựu Ước tỏ ra không mấy tích cực đối với việc khoả thân. Trong Isaiah 20, cho biết Isaiah khỏa thân là như một dấu hiệu của sự xấu hổ. Hồi giáo Tập tục được gọi là mạng che mặt của phụ nữ ở nơi công cộng có trước Hồi giáo ở Ba Tư, Syria và Anatolia. Trang phục Hồi giáo dành cho nam giới bao phủ khu vực từ thắt lưng đến đầu gối. Trong thời trung cổ, các chuẩn mực Hồi giáo trở nên gia trưởng hơn, và rất quan tâm đến sự trong trắng của phụ nữ trước hôn nhân và sự chung thủy sau khi kết hôn. Phụ nữ Hồi giáo không chỉ che mặt mà còn bị tách biệt khỏi xã hội, không được tiếp xúc với đàn ông không có quan hệ họ hàng gần, sự hiện diện của họ xác định sự khác biệt giữa không gian công cộng và riêng tư. Các quốc gia Hồi giáo được định hướng từ các quy tắc cấm khỏa thân với sự khác biệt giữa năm trường phái luật Hồi giáo. Bảo thủ nhất là trường phái Hanbali ở Ả Rập Saudi và Qatar, ở Afghanistan, nơi thịnh hành việc phụ nữ mặc niqab, trang phục che toàn bộ cơ thể và khuôn mặt với một khe hở nhỏ cho mắt. Tay của họ cũng được giấu trong tay áo càng nhiều càng tốt và Burqa cũng có một màn lưới che lỗ mở mắt. Ấn Độ giáo Trong các nền văn hóa Ấn Độ cổ đại, có một truyền thống khổ hạnh cực độ bao gồm cả việc khỏa thân trần như nhộng. Truyền thống này tiếp tục từ các triết gia thời cổ đại (gymnosophists) cho đến một số thánh nhân, ẩn sĩ, tuy nhiên, những người này khi họ khỏa thân thì có thể phủ tro lên người. Đây là truyền thống khỏa thân trong sự sùng kính Ấn Độ giáo ngày nay và trong Kỳ Na giáo. Vào thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, Alexander Đại đế đã bắt gặp ở Ấn Độ những nhóm lang thang thánh thiện trần truồng mà ông gọi là nhà triết học khỏa thân. Nhà triết học Onesicritus còn điều tra niềm tin và lối sống của họ. Pyrrho Sceptic đã rất ấn tượng và kết hợp yếu tố khoả thân vào triết lý của mình. Những người theo đạo Hindu, đạo Jain và Ajivika thì các tu sĩ thực hành khỏa thân như một lời tuyên bố rằng họ đã từ bỏ mọi của cải thế gian. Trong khía cạnh tâm linh của Ấn Độ giáo, việc khoả thân tượng trưng cho sự từ bỏ (tiếng Hindi: Tyaga) thuộc cảnh giới cao nhất. Một người hoặc vị thần khỏa thân (ví dụ Kali là một vị thần khỏa thân) biểu thị một người không có Maya hoặc sự gắn bó với cơ thể và là hiện thân của sự vô tận. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Christian Nudist Convocation : Supporting and Gathering Christian Nudists gotopless.org Raëlism: Publicity as a Recruitment Technique Khỏa thân Tôn giáo và xã hội Trải nghiệm và hành vi tôn giáo
19812220
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tham%20nh%C5%A9ng%20t%E1%BA%A1i%20Ukraina
Tham nhũng tại Ukraina
Tham nhũng tại Ukraina là một vấn đề nhức nhối trong xã hội Ukraina. Kể từ khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, Ukraina liên tục đối mặt với hàng loạt chính trị gia lợi dụng sự tham nhũng của cảnh sát, các đảng phái chính trị để tranh giành quyền lực của mình. Hậu quả dẫn đến công chúng phản đối quyết liệt và sự nỗi dậy của phong trào Euromaidan. Lịch sử Kể từ giành được độc lập sau Liên Xô tan rã, Ukraina phải đối mặt với tình trạng tham nhũng lớn nhất và bạo lực nhất ở các khu vực có nguyên vật liệu, công nghiệp, du lịch và hải cảng của Donbass. Nguồn gốc của tham nhũng Ukraina bắt nguồn từ các nhà lãnh đạo chính trị Ukraina dưới thời cộng sản. Năm 2005, những ngôi mộ tập thể từ những năm 1990 tìm được ở Donetsk. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã mô tả Ukraina dưới thời Tổng thống Kuchma và Yushchenko là một chế độ đạo tặc, theo Rò rỉ điện tín mật ngoại giao của Hoa Kỳ. Cựu Thống đốc Donetsk và Tổng thống Viktor Yanukovych bị luận tội vì có liên quan đến tội phạm có tổ chức như một phần cơ sở chính trị là Đảng Khu vực. Tham khảo Tham nhũng theo quốc gia
19812223
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di%20k%E1%BB%B3%20Kh%C3%A1nh%20%E1%BB%A8ng
Thời kỳ Khánh Ứng
là một Niên hiệu Nhật Bản sau Thời kỳ Nguyên Trị và trước Thời kỳ Minh Trị. Thời kỳ kéo dài 4 năm, từ tháng 5 năm 1865 đến tháng 10 năm 1868. Các vị Thiên hoàng trị vì là Thiên hoàng Hiếu Minh và Thiên hoàng Minh Trị. Tướng quân của Mạc phủ Edo là Tokugawa Iemochi và Tokugawa Yoshinobu. Đây là niên hiệu cuối cùng trong thời kỳ Edo. Thay đổi niên hiệu Ngày 1 tháng 5 năm 1865 (ngày 7 tháng 4 âm lịch): Niên hiệu mới được tạo ra để đánh dấu Sự biến Cấm môn. Ngày 23 tháng 10 năm 1868 (ngày 8 tháng 9 âm lịch): Đổi niên hiệu thành Minh Trị. Sự kiện thời kỳ Khánh Ứng Tháng 11 năm 1865 (năm Khánh Ứng, ngày 1 tháng 9 năm 1865 âm lịch): Sự kiện yêu cầu mở cảng Hyogo. 1866 (năm Khánh Ứng thứ 2): Goryōkaku hoàn thành. Ngày 29 tháng 8 năm 1866 (năm Khánh Ứng thứ 2, ngày 20 tháng 7 năm 1866 âm lịch): Tướng quân Tokugawa Iemochi qua đời tại Osaka và Mạc phủ kiến ​​nghị rằng Tokugawa Yoshinobu nên được bổ nhiệm làm người kế vị. Ngày 10 tháng 1 năm 1867 (năm Khánh Ứng thứ 2, ngày 5 tháng 12 năm 1867 âm lịch): Tokugawa Yoshinobu được bổ nhiệm làm shōgun. Ngày 30 tháng 1 năm 1867 (năm Khánh Ứng thứ 2, ngày 25 tháng 12 năm 1867 âm lịch): Thiên hoàng Hiếu Minh băng hà. Ngày 13 tháng 2 năm 1867 (năm Khánh Ứng thứ 3, ngày 9 tháng 1 1867 âm lịch): Mutsuhito lên ngôi lấy hiệu là Minh Trị. Năm Khánh Ứng thứ 3: Ee ja nai ka xảy ra. Ngày 14 tháng 10 (năm Khánh Ứng thứ 3): Lễ trình tấu ý định khôi phục quyền cai trị của Hoàng gia Ngày 9 tháng 12 (năm Khánh Ứng thứ 3): Sắc lệnh khôi phục quyền lực của Thiên hoàng, bãi bỏ quyền lực của samurai Ngày 27 tháng 1 năm 1868 (năm Khánh Ứng thứ 4): Chiến tranh Mậu Thìn bắt đầu với Trận Toba-Fushimi. Ngày 3 tháng 9 năm 1868 (năm Khánh Ứng thứ 4, ngày 17 tháng 7 năm 1868 âm lịch): được đổi tên thành . Ngày 8 tháng 10 năm 1868 (năm Khánh Ứng thứ 4, ngày 23 tháng 8 năm 1868 âm lịch): Trận Aizu bắt đầu. Ngày 12 tháng 10 năm 1868 (năm Khánh Ứng thứ 4, ngày 27 tháng 8 năm 1868 âm lịch): Thiên hoàng Minh Trị lên ngôi tại Hoàng cung Kyoto. Đại học Keio , được thành lập lần đầu vào năm 1858 (năm An Chính thứ 5), bảy năm trước khi bắt đầu thời kỳ Khánh Ứng, năm 1868 (năm Khánh Ứng thứ 4) Đại học Keio chuyển đến Shiba Shinsenza và được đặt tên theo thời kỳ này. Đây là tổ chức giáo dục đại học lâu đời nhất ở Nhật Bản. Xem thêm Cải cách Keiō Chú thích Niên hiệu Nhật Bản Giới thiệu năm 1865 Khởi đầu thập niên 1860 ở Nhật Bản
19812226
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%8Fa%20th%C3%A2n%20v%C3%A0%20t%C3%ACnh%20d%E1%BB%A5c
Khỏa thân và tình dục
Khỏa thân và tình dục (Nudity and sexuality) chỉ về mối liên hệ giữa yếu tố khỏa thân (trần truồng, lõa lồ) và yếu tố tình dục. Khoả thân là một trong những đặc điểm sinh lý của con người vốn là loài duy nhất trong số các loài linh trưởng đã tiến hóa để trở nên không có lông. Tình dục của con người bao gồm các khía cạnh tâm sinh lý và xã hội của cảm xúc và hành vi tình dục. Trong nhiều xã hội, mối liên hệ chặt chẽ giữa yếu tố khoả thân và tình dục được coi là điều hiển nhiên. Các xã hội khác duy trì các tập tục truyền thống là để khỏa thân hoàn toàn hoặc có che một phần trong các mối quan hệ xã hội cũng như sự tiếp xúc riêng tư chẳng hạn như đi đến những bãi biển hoặc tắm xông hơi tại các spa. Ý nghĩa của yếu tố khỏa thân và tình dục vẫn còn mâu thuẫn, thường dẫn đến những hiểu lầm về văn hóa và các vấn đề tâm lý. Đại cương Mối liên hệ giữa cơ thể khỏa thân và phản ứng tình dục được phản ánh trong luật cấm tiếp xúc không đứng đắn (và Phơi bày khiếm nhã) trong phần lớn các xã hội. Trên toàn thế giới, có một số xã hội công nhận một số địa điểm và hoạt động, mặc dù ở nơi công cộng, vẫn thích hợp để khỏa thân một phần hoặc toàn bộ. Chúng bao gồm các xã hội duy trì các chuẩn mực truyền thống về khoả thân phản ánh nguồn gốc của loài người và các xã hội hiện đại có nhiều người chấp nhận chủ nghĩa khỏa thân trong các hoạt động giải trí. Những người theo chủ nghĩa khỏa thân thường áp dụng một số hành vi, chẳng hạn như hạn chế tiếp xúc, động chạm vào cơ thể để tránh kích thích tình dục khi tham gia các hoạt động khỏa thân chung chẳng hạn như ở bãi biển khỏa thân. Sự rụng lông của con người đến sự khỏa thân được cho là kết quả của lựa chọn tình dục, lần đầu tiên được Darwin đề xuất trong Hậu duệ của con người và Lựa chọn liên quan đến tình dục. Bằng cách chọn bạn tình có ít lông, con người đã tăng tốc những thay đổi được bắt đầu bởi chọn lọc tự nhiên. Lựa chọn tình dục cũng có thể giải thích việc số lông còn lại của con người tập trung ở vùng lông mu và nách, là nơi chứa pheromone, trong khi tóc trên đầu tiếp tục được giữ lại để bảo vệ con người khỏi ánh sáng Mặt Trời. Sự trần trụi cũng sẽ làm cho việc không có ký sinh trùng trên người trở nên rõ ràng hơn với bạn tình tương lai.. Sự kết hợp giữa không có lông và tư thế thẳng đứng cũng có thể giải thích sự nở rộng của bộ ngực phụ nữ như một tín hiệu hấp dẫn tình dục. Đối với nhiều lý do xã hội, văn hóa và lịch sử của các công dân, các phương tiện truyền thông, và nhiều người khoả thân đương đại và các hội nhóm của họ thường đơn giản hóa các mối quan hệ giữa chủ nghĩa khỏa thân và tình dục. Nghiên cứu hiện nay đã bắt đầu khám phá mối quan hệ phức tạp này. Tại một số nước, khỏa thân chủ nghĩa bị coi là yếu tố gây gia tăng lượng tội phạm tình dục. Vấn đề khỏa thân trong tôn giáo cũng chỉ về một niềm tin tôn giáo rằng đàn ông không thể kiềm chế bản năng tình dục của mình khi nhìn thấy phụ nữ khỏa thân mà điển hình là những câu chuyện trong Kinh thánh kể về Bathsheba và Susanna cho thấy sự khơi dậy ham muốn tình dục ở nam giới khi họ nhìn thấy những phụ nữ đang tắm. Một số quan điểm khắt khe ở một số xã hội coi khỏa thân gắn với sự đồi trụy, trụy lạc, dâm ô, thiếu đứng đắn và đoan chính. Các khái niệm như ảnh khỏa thân, phim khiêu dâm (phim heo), vũ công thoát y với những người nam nữ trần như nhộng đều gắn với sự khiêu gợi tình dục hay khiêu dâm. Một số người theo chủ nghĩa khỏa thân không duy trì bầu không khí phi tình dục này. Trong một bài báo năm 1991 trên tờ Off Our Backs, Nina Silver trình bày về sự xâm nhập của văn hóa tình dục chính thống vào một số nhóm theo chủ nghĩa khỏa thân ở Mỹ. Các khu nghỉ dưỡng khỏa thân có thể thu hút những người theo chủ nghĩa ghét phụ nữ hoặc Pedophilia những người không phải lúc nào cũng được xử lý thích đáng và một số khu nghỉ dưỡng có thể phục vụ cho trò "đổi vợ làm tình" hoặc có hành vi khiêu khích tình dục các sự kiện để tạo doanh thu hoặc thu hút thành viên. Trong nhiều xã hội, bầu vú gắn liền với việc nuôi dưỡng trẻ sơ sinh cũng như tình dục. Phong trào "topfreedom" thúc đẩy quyền bình đẳng cho phụ nữ được khỏa thân trên thắt lưng ở nơi công cộng trên cùng một cơ sở sẽ áp dụng cho nam giới trong cùng hoàn cảnh. Cho con bú nơi công cộng bị cấm ở một số khu vực pháp lý, không được quy định ở những nơi khác và được bảo vệ như một quyền hợp pháp ở những nơi khác. Khi cho con bú nơi công cộng là quyền hợp pháp, một số bà mẹ có thể miễn cưỡng cho con bú và một số khác lại phản đối việc này. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Khỏa thân Tính dục
19812234
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u%20t%C3%ACnh%20kh%E1%BB%8Fa%20th%C3%A2n
Biểu tình khỏa thân
Biểu tình khỏa thân (Nudity and protest) là hoạt động biểu tình mà người đi biểu tình cố ý cởi bỏ quần áo để gây sự chú ý cho đám đông và các phương tiện truyền thông. Khỏa thân đôi khi được sử dụng như một chiến thuật trong một cuộc biểu tình để thu hút sự chú ý của giới truyền thông và công chúng vào một mục đích nào đó, và đôi khi bản thân việc quảng bá ảnh khoả thân nơi công cộng lại là mục tiêu của một cuộc biểu tình khỏa thân. Việc sử dụng chiến thuật này bắt nguồn từ những bức ảnh chụp các cuộc biểu tình khỏa thân của Svobodniki ở Canada được xuất bản vào năm 1903. Chiến thuật này đã được các nhóm khác sử dụng vào cuối thế kỷ này, đặc biệt là sau những năm 1960. Tổng quan Giống như khỏa thân nơi công cộng nói chung, sự chấp nhận về văn hóa và pháp lý đối với việc khỏa thân như một chiến thuật phản đối cũng khác nhau trên khắp thế giới tùy theo từng nơi cụ thể. Một số người phản đối bất kỳ hình ảnh khỏa thân công khai nào cho rằng điều đó là không đứng đắn, đặc biệt là khi trẻ em có thể chứng kiến và tạo tâm lý không tốt, trong khi những người khác cho rằng đó là một hình thức biểu đạt hợp pháp được bảo vệ nhân danh quyền tự do ngôn luận. Một số quốc gia thì biểu tình khỏa thân thì không được xem là phơi bày khiếm nhã. Một số hoạt động khỏa thân không phải để thúc đẩy một nguyên nhân cụ thể, mà là để thúc đẩy chính việc khỏa thân nơi công cộng, hoặc để thay đổi nhận thức của cộng đồng về cơ thể người khỏa thân, hoặc như một biểu hiện của mong muốn cá nhân và cái tôi được khỏa thân nơi công cộng. Ngay cả ở những nơi mà hình ảnh khỏa thân nơi công cộng được chấp nhận, người ta vẫn không ngờ rằng việc các nhà hoạt động sử dụng nó như một chiến thuật có chủ ý lại thường thành công trong việc thu hút sự chú ý của giới truyền thông để mang lại hiệu quả đáng kể. Ví dụ như trong một sự kiện diễn ra vào ngày 19 tháng 7 năm 2020, một phụ nữ trẻ chỉ đeo khẩu trang và đội mũ lưỡi trai sau này được cánh phóng viên mệnh danh là "Nữ thần Athena khỏa thân" đã đối đầu với cảnh sát ở Portland bang Oregon trong cuộc biểu tình của George Floyd. Bất chấp việc cảnh sát triển khai ném bóng hơi cay và xịt hơi cay, cô ấy đã tạo dáng cho cảnh sát trong vài phút trước khi họ rút lui. Những bức ảnh về hành động của cô ấy đã lan truyền khắp nơi tạo ra sự dậy sóng tiếp sức cho cuộc biểu tình rầm rộ. Chiến thuật Những tổ chức được biết đến là thường xuyên sử dụng chiến thuật biểu tình khỏa thân gồm có PETA (People for the Ethical Treatment of Animals/Những người tranh đấu cho sự đối xử vô đạo đức với động vật) đã sử dụng khoả thân để thu hút sự chú ý đến chiến dịch chống sử dụng lông thú và chịu những lời chỉ trích từ các nhà nữ quyền về việc sử dụng các phụ nữ ăn mặc hở hang, lõa thể trong các chiến dịch chống lông thú và những việc khác. Người sáng lập Newkirk chủ trương rằng hấp dẫn tình dục là một thực tế của cuộc sống, và nếu nó có thể mang lại lợi ích cho các con vật, bà không cần phải xin lỗi cho việc sử dụng nó. Quan điểm của Newkirk là PETA có bổn phận phải làm "việc bẩn", đó là nghĩa vụ của họ và sẽ vô giá trị nếu chúng tôi chỉ lịch sự và không gây sóng gió gì hết<ref>For the feminist criticism, see Adams, Carole J. Neither Man nor Beast: Feminism and the Defense of Animals. Continuum International Publishing Group, 1995, pp. 135, 228. Also see Garner, Robert. The political theory of animal rights. Manchester University Press, 2005, p. 144. For the argument that PETA trivializes animal rights and the way Phelps responds to it, see Phelps, Norm. [https://books.google.com/books?id=zrncZO5bmAgC&dq=people+for+the+ethical+treatment+of+animals&source=gbs_navlinks_s The longest struggle: animal advocacy from Pythagoras to PETA"]. Lantern Books, 2007, p. 242. For Newkirk's response, see Specter, Michael. "The Extremist: The woman behind the most successful radical group in America" , The New Yorker, ngày 4 tháng 4 năm 2003.</ref> Tổ chức Femen (tiếng Ukraina: Фемен, được cách điệu thành FEMEN) Tổ chức này đã trở nên nổi tiếng thế giới vì đã tổ chức các cuộc biểu tình ngực trần gây tranh cãi chống du lịch tình dục, các tổ chức tôn giáo, chủ nghĩa phân biệt giới tính, đồng tính và các chủ đề về xã hội, quốc gia và quốc tế khác. Điểm đặc biệt của nhóm Femen là cởi trần tại những nơi công cộng, và vẽ lên thân mình những khẩu hiệu và đeo vòng hoa trên đầu. Loại hoạt động như vậy được nhóm Femen gọi là Sextremismus.Cigdem Akyol: „Du brauchst mich nicht zu befreien“ In: die tageszeitung, 28 tháng 4 năm 2013. Femen tự cho mình là phong trào phụ nữ toàn cầu mới. Femen giải thích phương pháp khiêu khích của họ cho đó là lối duy nhất để được nghe đến vì nếu họ chỉ phản đối bằng cách giăng biểu ngữ thôi thì không ai đếm xỉa đến những đòi hỏi của họ". Chú thích Tham khảo Carr-Gomm, Philip (2010). A brief history of nakedness. London: Reaktion. . Lunceford, Brett (2012). Naked politics : nudity, political action, and the rhetoric of the body. Lanham, Md.: Lexington Books. . Nude & Natural Takin' It to the Streets: The Cutting Edge of Naturism by Mark Storey, 23.4: 73, Summer 2004. Mark claims "The future of naturism is on public lands. To gain naturist freedoms on public lands will require getting naked in public". Nude & Natural The Offense of Public Nudity by Mark Storey Nude & Natural Naturism and Civil Disobedience by Mark Storey Nude & Natural The Bethell Approach: A Protest Colloquy/The Bethell Approach: Is the Time for Mass Nude Protests Upon Us? 21.2 Winter 2002. Includes statements by Vincent Bethell, Mark Nisbet, Cec Cinder, Paul Rapoport, Les Rootsey, Morley Schloss, T.A. Wyner, and Mark Storey. Nude & Natural (N), Guerilla Nudity/Wave Makers: Introducing the Body Freedom Collaborative by Mark Storey. Issue 23.1, Autumn 2003. Nude & Natural (N), Terri Sue Webb: An American Bethell/Beyond Safe Havens: Oregon's Terri Sue Webb by Daniel Lorenz Johnson. San Francisco's Nude Skate Dude: How a naked roller put body freedom on wheels. Issue 21.3: pp. 24–28, Spring 2002. Seattle Post-Intelligencer, Exposed and stark naked – on purpose: But not all nudists support 'guerrilla' plans for prominent public exposure, by P-I reporter Kathy George, April 7, 2003. Seattle Post-Intelligencer, Trio behind the arts: Three activists put on an eye-opening display yesterday by taking most of their clothes off at the Fremont Fresh Art Festival, by P-I reporter Kathy George, 16 June 2003 Front page of local section, with color picture Being Human A film by Lisa Seidenberg, 31 minutes, 2003 Metro VideoTaboo – 40 Years of Censorship. Part 1 of 4: Shock of the Nude''; BBC2 Television series ran at 9:50 pm (40 mins). Aired Wednesday, 21 November 2001. Liên kết ngoài 30 minute documentary by Johnny Zapatos (High Altitude Films) of the first World Naked Bike Ride to take place on the streets of London (4 parts) Pictures of the World Naked Bike Ride on Flickr You Never Bike Alone – Feature documentary includes section on WNBR history Skin-Freedom activism – Stop Racist Human Skin Phobia. Naked Protest blog World Naked Bike Ride official site – general information and other resources World Naked Bike Ride wiki site – lists upcoming and past events, provides information for joining existing and creating new rides BBC article about Steve Gough following his first successful walk. BBC article about Steve Gough following his second successful walk. University of Edinburgh, School of Law, Scots Law News has many references to Gough. Khỏa thân Khỏa thân
19812235
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Nogai
Tiếng Nogai
Tiếng Nogai (; Ногай тили, Nogay tili, Ногайша, Nogayşa) còn được gọi là Noğay, Noghay, Nogay hoặc Nogai Tatar, là một ngôn ngữ Turk được nói ở phía Đông Nam của phần lãnh thổ của Nga thuộc châu Âu, Kazakhstan, Uzbekistan, Ukraina, Bulgaria, România và Thổ Nhĩ Kỳ. Đó là ngôn ngữ tổ tiên của người Nogai. Là một phần của nhánh Kipchak, nó có quan hệ gần gũi với tiếng Kazakh, tiếng Karakalpak và tiếng Tatar Krym. Năm 2014, cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Nogai đầu tiên (Akşa Nenem) được xuất bản, viết bằng chữ Latinh. Phân loại Tiếng Nogai thường được xếp vào nhánh Kipchak–Nogai của Kipchak Turk. Sau này cũng bao gồm tiếng Tatar Siberia ở Nga, tiếng Kazakh ở Kazakhstan và tiếng Karakalpak ở Uzbekistan. Ba phương ngữ riêng biệt được công nhận: Karanogay hay Qara-Nogai (Nogai đen hoặc Nogai Bắc), được nói ở Dagestan và Chechnya. Nogai Trung hay Nogai riêng, ở Stavropol. Aqnogai (Nogai trắng hay Nogai Tây), bên sông Kuban, các nhánh của nó ở Karachay-Cherkessia và ở quận Mineralnye Vody. Qara-Nogai và Nogai Phải rất gần gũi về mặt ngôn ngữ, trong khi Aqnogai thì khác hơn. Tuy nhiên, cả ba đều dễ hiểu lẫn nhau. Bên ngoài miền nam Kavkaz, tồn tại các biến thể khác được coi là phương ngữ hoặc ngôn ngữ riêng biệt: Tiếng Nogai ở Bulgaria, România và Thổ Nhĩ Kỳ chịu ảnh hưởng của Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman. Tiếng Nogai Astrakhan, với ba loại sau: Karagash (hay còn gọi là Kundrov Tatar). Yurt Tatar hay Yurt Nogai. Alabugat Tatar hay Alabugat Nogai (hay còn gọi là Utar). Lịch sử Người Nogai, hậu duệ của các dân tộc hãn quốc Kim Trướng, lấy tên và ngôn ngữ của họ từ cháu trai của Thành Cát Tư Hãn, Nogai Khan, người cai trị những người dân du mục phía tây sông Danube vào cuối thế kỷ 13. Sau đó, họ định cư dọc theo bờ Biển Đen của Ukraina ngày nay. Ban đầu, bảng chữ cái Nogai dựa trên chữ Ả Rập. Năm 1928, một phiện bản chữ Latinh đã được giới thiệu. Nó được học giả người Nogai (Djanibek), nghĩ ra, tuân theo các nguyên tắc được áp dụng cho tất cả các ngôn ngữ Turk. Năm 1938, quá trình chuyển đổi sang chữ Kirin bắt đầu. Chính tả dựa trên chữ Latinh được cho là một trở ngại cho việc học tiếng Nga. Việc trục xuất người Nogai khỏi Ukraina vào thế kỷ 19 đã chia những người nói tiếng Nogai thành nhiều nhóm biệt lập về mặt địa lý. Một số đến Thổ Nhĩ Kỳ và România, trong khi những người khác ở lại Đế quốc Nga, định cư ở phía bắc Dagestan và các khu vực lân cận Chechnya và Stavropol Krai. Ngôn ngữ Nogai đã biến mất rất nhanh ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay, nó chủ yếu được nói bởi thế hệ cũ; tuy nhiên, vẫn có những người nói trẻ tuổi hơn, vì có một số ngôi làng ở Thổ Nhĩ Kỳ nơi đây là phương thức giao tiếp phổ biến. Ở Liên Xô, ngôn ngữ giảng dạy trong trường học là tiếng Nga, và số lượng người nói ở đó cũng giảm. Các ước tính gần đây cho thấy tổng số người nói tiếng Nogai vào khoảng 80.000 người. Năm 1973, hai tờ báo nhỏ bằng tiếng Nogai đã được xuất bản, một ở Karachay–Cherkessia và một ở Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa Tự trị Dagestan (Ленин йолы), nhưng hầu hết những người nói tiếng Nogai chưa bao giờ nghe nói về những ấn phẩm này, và các bài báo đã không đến được các làng Nogai. Tiếng Nogai hiện là một phần trong chương trình giảng dạy của trường từ năm thứ 1 đến năm thứ 10 tại huyện Nogaysky của Dagestan. Nó cũng được giảng dạy tại Trường Sư phạm Karachayevo-Cherkess và chi nhánh quốc gia của Học viện Sư phạm. Âm vị học Âm vị trong ngoặc đơn cho biết âm thanh từ vựng được sao chép. Bảng chữ cái Có 3 giai đoạn trong lịch sử chữ viết tiếng Nogai: Trước năm 1928 - viết dựa trên chữ Ả Rập. 1928 - 1938 - viết dựa trên bảng chữ cái Latinh. Từ 1938 - viết dựa trên bảng chữ cái Kirin. Bảng chữ cái Nogai dựa trên chữ Kirin được tạo ra vào năm 1938. Nó bao gồm tất cả các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Nga ngoại trừ Ё ё, và cả các chữ ghép Гъ гъ, Къ къ, Нъ нъ. Các chữ ghép Оь оь, Уь уь được thêm vào cùng năm. Năm 1944, các chữ ghép Гъ гъ, Къ къ bị loại khỏi bảng chữ cái. Lần cải cách cuối cùng của chữ viết Nogai diễn ra vào năm 1960, khi kết quả của các cuộc thảo luận tại Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn học Karachay-Cherkessia, các chữ cái Аь аь và Ё ё đã được thêm vào nó. Sau đó, bảng chữ cái Nogai có dạng như hiện nay. Bảng chữ cái Nogai hiện đại: Ở Dobruja Tại Dobruja, Liên minh Dân chủ Thổ Nhĩ Kỳ Tatar Hồi giáo România (UDTTMR) có bảng chữ cái Latinh chính thức được sử dụng bởi người Tatar của România (Nogai và Tatar Krym). Thành phần người Nogai của dân số Tatar không được liệt kê riêng trong các cuộc điều tra dân số ở România. Ngoài ra còn có những cuốn sách được in bằng bảng chữ cái đó, một số cuốn là „ALFABE“ và „Tatarşa oqıma kitabı“. Bảng chữ cái bao gồm các chữ cái này: Tham khảo Liên kết ngoài Sách đỏ của các dân tộc của Đế quốc Nga Ngôn ngữ chắp dính Nhóm ngôn ngữ Kipchak Ngôn ngữ tại Kazakhstan Ngôn ngữ tại Nga Ngôn ngữ tại Uzbekistan Dagestan Karachay-Cherkessia Ngữ hệ Turk Ngôn ngữ tại Kavkaz
19812240
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20Th%C3%BAy
Văn Thúy
Văn Thúy có thể là: Phan Văn Thúy, danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Đề Kiều tên thật là Hoàng Văn Thúy, trong những tướng lĩnh sớm hưởng ứng phong trào Cần Vương. (陳亞蘭) tên thật là Trần Văn Thúy (陳文翠), diễn viên Ca tử hí Đài Loan.
19812243
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jobe%20Bellingham
Jobe Bellingham
Jobe Samuel Patrick Bellingham (sinh ngày 23 tháng 9 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ hoặc tiền đạo cho câu lạc bộ Sunderland tại giải đấu hạng hai tại Anh . Bellingham bắt đầu sự nghiệp của mình ở học viện của Birmingham City, ra mắt đội một khi mới 16 tuổi và có 24 lần ra sân ở giải đấu trước khi gia nhập câu lạc bộ đồng hương Sunderland vào năm 2023. Anh ấy đã đại diện cho đội tuyển Anh thi đấu tại cấp độ trẻ U-18 Thời thơ ấu và đời sống cá nhân Jobe Bellingham sinh ra ở Stourbridge, West Midlands, là con trai út của bà Denise và ông Mark Belllingham.  Bố anh làm việc với tư cách là một trung sĩ trong Cảnh sát West Midlands và là Cầu thủ bóng đá nghiệp dư tại West Midlands.  Bellingham là em trai của cầu thủ bóng đá người Anh , Jude Bellingham hiện đang thi đấu tại Real Madrid,. Bellingham và Jude Bellingham là người đã từng cùng nhau thi đấu và rèn luyện tại Birmingham City , nơi cả hai đã trải qua những năm tháng trưởng thành. Sự nghiệp tại câu lạc bộ Birmingham City Ở tuổi 15 , Bellingham được điền tên vào băng ghế dự bị trong trận đấu vòng một Cúp EFL 2021–22 của Birmingham trên sân nhà trước Colchester United.của EFL League One. Nếu anh ấy ra mắt trong cả hai trận đấu, vẫn còn vài tuần nữa là đến sinh nhật lần thứ 16 của mình, anh ấy sẽ trở thành cầu thủ trẻ nhất từng khoác áo đội một của câu lạc bộ, phá kỷ lục do anh trai anh ấy lập ở vòng đầu tiên hai năm trước đó. Đến cuối năm 2021, anh ấy đã có 4 bàn thắng sau 9 lần ra sân cho đội U-18 của Birmingham ở giải Ngoại Hạng Anhdành cho U-18 của họ. Bellingham đã chơi 4 lần cho đội U23 của Birmingham ở giải đấu Ngoại hạng Anh dành cho lứa tuổi U-23 Bellingham đã có trận ra mắt đội chính với tư cách là cầu thủ dự bị ở hiệp hai trong trận đấu thuộc vòng ba FA Cup 2021–22 của Birmingham trên sân nhà trước câu lạc bộ Plymouth Argyle, thay cho cầu thủ 17 tuổi Jordan James sau 70 phút với tỷ số hòa không bàn thắng và Birmingham phải chơi với mười người. Ở tuổi 16, anh trở thành cầu thủ ra mắt trẻ thứ hai của Birmingham. Sau trận đấu mà Birmingham thua 1–0, Bowyer nói rằng anh ấy đã có trận ra mắt nhờ sự cải thiện trong lối chơi của mình trong vài tuần trước đó khi tập luyện với đội một. Vào tháng 7 năm 2022, Birmingham xác nhận rằng Bellingham sẽ nhận học bổng của câu lạc bộ và đã đồng ý các điều khoản trong hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên , có hiệu lực vào sinh nhật thứ 17 của anh ấy.  Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên trưởng John Estace, quá trình thi đấu bóng đá ở Giải vô địch của anh ấy diễn ra dần dần ổn định. Anh ấy thỉnh thoảng ra sân thay người trong vài tháng đầu tiên của mùa giải, thường xuyên được sử dụng từ băng ghế dự bị nhưng dần dần anh đã được dành nhiều xuất chơi chính cho câu lạc bộ. Một cơn căng cơ bụng vào tháng 1 năm 2023 đã khiến Bellingham phải nghỉ thi đấu trong ba tháng.  Trong thời gian vắng mặt, anh ấy đã tập luyện bổ sung cơ bắp, duy trì thể lực và chiều cao của mình Trên sân nhà trước Stoke City ,vào ngày 10 tháng 4, anh đã trở lại sân sau chấn thương căng cơ bụng. Sunderland A.F.C Tin đồn về khả năng chuyển đến Sunderland càng được củng cố sau khi Bellingham tham dự trận bán kết play-off với Luton Town . Giám đốc thể thao của câu lạc bộ Kristjaan Speakman, huấn luyện viên đội một Mike Dodds và trưởng ban huấn luyện Stuart English đều đã từng ở Birmingham khi anh em nhà Bellingham đến học viện và được ghi nhận là người đóng vai trò chính trong sự phát triển của cả hai  Vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, Bellingham gia nhập Sunderlandvới mức phí không được tiết lộ. Sự nghiệp quốc tế Bellingham sinh ra ở Anh và được cho là cũng đủ điều kiện để đại diện cho Ireland thông qua ông bà nội.  Anh ra mắt đội tuyển U-16 Anh vào ngày 3 tháng 6 năm 2021, bắt đầu trận giao hữu thắng 6–0 trước Bắc Ireland .  Anh ấy xuất hiện lần đầu tiên ở cấp độ U-17 ba tháng sau trong giải đấu Syrenka Cup gặp Romania; Bellingham đã đánh dấu cơ hội bằng cách bỏ lỡ một quả phạt đền , nhưng U-16 Anh vẫn thắng 2–0. Bellingham cũng chơi trong trận đấu khác của bảng và trong trận chung kết, mà U-17 Anh thua 3–2 trước U-17 Hà Lan. Vào tháng 10, anh ấy đã chơi trong cả ba trận đấu ở vòng loại Giải vô địch U-17 Châu Âu năm 2022 của U-17 Anh và kiến ​​tạo cho bàn thắng của Kobbie Mainoo trong chiến thắng 7–0 trước Armenia, khi Anh đứng đầu bảng và tiến vào vòng loại. . Sau tám lần ra sân cho lứa tuổi dưới 17,  Bellingham được đưa vào đội tuyển U-18 Anh tham dự một giải đấu nhỏ bốn đội tại Pinatar Arena ở Tây Ban Nha vào tháng 9 năm 2022.  Anh đá chính trong trận đấu với Hà Lan và Bỉ Thống kê sự nghiệp References Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ bóng đá Birmingham City F.C. Tiền vệ bóng đá Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ đội tuyển Anh Cầu thủ bóng đá Anh Nhân vật còn sống Sinh năm 2003 Cầu thủ Giải vô địch U-17 Châu Âu Jude Bellingham
19812244
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%B1u%20ph%C3%A1o%20M1931
Lựu pháo M1931
Lựu pháo M1931 (B-4) (, định danh GRAU: 52-G-625) là một loại lựu pháo hạng nặng cỡ nòng 203 mm (8 inch) của Liên Xô. Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới lần thứ 2, nó nằm trong thành phần lực lượng dự bị chiến lược của Stavka. Pháo M1931 được lính Đức đặt cho biệt danh là "búa tạ của Stalin". Lựu pháo M1931 đã được Hồng quân sử dụng thành công trong việc phá huỷ các hoả điểm kiên cố của Phần Lan trong Phòng tuyến Mannerheim, các cứ điểm hoả lực trong các trận giao tranh đường phố với quân Đức nhờ khả năng phá huỷ các toà nhà và bunker. Chúng được sử dụng cho đến tận Trận Berlin, trong trận chiến này, Hồng quân đã sử dụng lựu pháo M1931 để nghiền nát các công sự phòng ngự của Đức bằng các phát đạn pháo 203 mm bắn t�hẳng. Mùa thu năm 1944, lựu pháo được kết hợp với khung gầm xe tăng hạng nặng KV-1S nhằm tạo ra pháo tự hành S-51. Tuy nhiên do độ giật quá lớn của pháo khiến cho tổ lái bị đẩy bật ra khỏi ghế và gây hỏng bộ truyền động nên cuối cùng khẩu pháo tự hành này không được phát triển thêm. Với góc ngẩng 60 độ và 12 liều phóng khác nhau, khẩu lựu pháo B-4 hoàn tất mọi nhiệm vụ mà nó được giao phó, và có khả năng phá huỷ mục tiêu thông qua đường đạn bắn thẳng. Bối cảnh ra đời Hội đồng uỷ ban pháo binh (tên viết tắt Artkom), đứng đầu là R.A. Durlyakhov đã đưa ra yêu cầu chế tạo khẩu lựu pháo mới cho viện thiết kế pháo binh từ tháng Mười một năm 1920, với Tổng công trình sư là Frantz Lender. Viện thiết kế pháo binh này được giao nhiệm vụ chế tạo lựu pháo tầm xa cỡ nòng 203 mm từ tháng Một năm 1926, với thời gian phát triển trong vòng 46 tháng. Nhà máy Bolshevik (nay là Nhà máy cơ khí Obukhov, St. Peterburg) tiếp quản công việc sau khi Lender qua đời năm 1927, với thiết kế pháo 122mm và pháo 203/152 mm. Pháo 203 mm có hai phiên bản, với một phiên bản có bù giật đầu nòng và một phiên bản không có bù giật. Ngoài ra hai phiên bản giống hệt nhau. Hồng quân ưa thích sử dụng phiên bản không có chóp bù giật với bản vẽ thiết kế của Viện thiết kế Artkom, cùng với xe bánh xích thiết kế bởi nhà máy Bolshevik đầu năm 1931. Các thử nghiệm được tiến hành từ tháng Bảy đến tháng Tám năm 1931. Pháo model 1931 cỡ nòng 203 mm được đưa vào sử dụng sau khi được thử nghiệm trên chiến trường năm 1933. Sản xuất Pháo B-4 được sản xuất tại nhà máy cơ khí Bolshevik và nhà máy cơ khí Barrikady (nay là nhà máy cơ khí Titan-Barrikady). Hai nhà máy chỉ có khả năng xuất một khẩu pháo duy nhất vào năm 1933 (nhưng khẩu pháo chưa được hoàn thiện). Hai khẩu pháo đầu tiên được chuyển giao cho quân đội vào nửa đầu năm 1934, cùng với 13 khẩu pháo khác được sản xuất tính đến cuối năm, sau đó việc sản xuất pháo B-4 tại nhà máy bị ngừng lại cho đến năm 1938, nguyên nhân là do nhà máy chuyển sang sản xuất pháo A-19 cỡ nòng 122 mm. Nhà máy cơ khí Bolshevik sản xuất được 104 khẩu lựu pháo từ năm 1932 đến năm 1936 và 42 khẩu vào năm 1937. Việc sản xuất sau đó được chuyển về lại Stalingrad. 75 khẩu đã xuất xưởng tại đây vào năm 1938 và 181 khẩu được chế tạo vào năm tiếp theo. Nhà máy Barrikady sản xuất 165 khẩu vào năm 1940, và thêm 300 khẩu vào năm 1941. Nhà máy chế tạo Novokramatorsky cũng bắt đầu sản xuất pháo B-4 vào năm 1938/1939 sản xuất được 49 khẩu (1938), 48 khẩu (1939), 3 khẩu (1940) và 26 khẩu (1941). Trong số 326 khẩu lựu pháo B-4 được sản xuất năm 1941, 221 khẩu đã được chuyển giao nửa đầu năm 1941, với serie cuối cùng được sản xuất vào tháng 10 năm 1941 khi chín khẩu pháo cuối cùng được bàn giao. Tổng cộng có 1011 khẩu pháo B-4 được sản xuất từ năm 1932 đến năm 1942. Các bản vẽ thiết kế pháo B-4 tại các nhà máy cơ khí là khác nhau, với việc các nhà máy tự tiến hành sửa đổi khẩu pháo để việc sản xuất trở nên thuận tiện hơn. Kết quả là đã có hai kiểu pháo khác nhau ra đời. Bản vẽ thiết kế M-4 không được thống nhất cho đến năm 1937, khi thiết kế được thống nhất, và được đưa vào thử nghiệm, sản xuất loạt. Cải tiến chính là xe bánh xích chở pháo, cho phép pháo có thể tác xạ trực tiếp mà không cần tới bất kỳ một nền tảng đặc biệt nào, không giống như các thiết kế pháo khác. Xe kéo �ánh xích cũng được sử dụng vì Liên Xô sở hữu nhiều nhà máy sản xuất máy kéo trong những năm 1920s và 1930s, khiến cho việc sản xuất xe bánh xích có chi phí hợp lý hơn. 36 khẩu pháo B-4 được dự kiến sẽ trang bị cho 17 trung đoàn pháo theo kế hoạch đến năm 1939, mỗi trung đoàn sẽ có 1374 binh sĩ. Trong đó có 13 trung đoàn sẽ có 2 khẩu lựu pháo thay vì 1 khẩu. Số lượng lựu pháo mà Hồng quân cần là 612 đơn vị, không thể được cung cấp kịp thời khi chiến tranh vệ quốc nổ ra, chỉ đến tháng Sáu năm 1941, Hồng quân mới được trang bị tổng cộng 849 khẩu pháo B-4. Để bù đắp số lượng pháo đã mất trong cuộc chiến, 571 khẩu pháo khác đã được chế tạo bổ sung. Quá trình chiến đấu Pháo B-4 được triển khai lần đầu trong cuộc Chiến tranh mùa Đông, với 142 khẩu được triển khai trên tiền tuyến ngày 1 tháng Ba năm 1940, có bốn khẩu pháo bị loại khỏi vòng chiến đấu. 23 khẩu B-4 đã bị quân Phát xít Đức chiếm tại thị trấn Dubno đêm ngày 25/6/1941. Tổng cộng Hồng quân mất 75 khẩu pháo B-4 tính từ 22/6 đến ngày 1/12/1941, nhà máy chế tạo thêm 105 khẩu pháo để bù đắp lại thiệt hại. Sau khi cuộc chiến tranh vệ quốc nổ ra, các Trung đoàn lựu pháo được sơ tán ra xa khỏi cuộc chiến để bảo toàn, và chúng chỉ được tung trở lại chiến trường ngày 19/11/1942 khi lợi thế chiến lược rơi vào tay Liên Xô. Lựu pháo B-4 được trang bị cho các lực lượng dự bị cho đến khi kết thúc chiến tranh. Các khẩu pháo B-4 bị quân Đức bắt giữ được Đức định danh lại là 20,3 cm H.503(r), bắn đạn phá bê tông G-620 và đạn pháo của Đức. Không có tài liệu nào hướng dẫn bắn pháo B-4 trực xạ, tuy nhiên Chỉ huy Ivan Vedmedenko đã thực hiện các phát bắn trực diện vào quân Đức từ khẩu lựu pháo này và đã được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Liên Xô nhờ phát kiến trên. Pháo tự hành SU-14 cũng lắp đặt tháp pháo B-4. Đạn pháo Lựu pháo B-4 có cơ chế nạp đạn và liều phóng rời, với 11 loại liều phóng khác nhau. Khối lượng liều phóng từ 3,24 kg đến 15-15,5 kg. Pháo B-4 có thể bắn đạn pháo F-265 (nặng 100 kg) hoặc đạn nổ mạnh F-625D hoặc đạn G-620/G-620T chuyên dùng phá bunker nặng 100–146 kg. Pháo B-4 cũng có khả năng bắn đạn hạt nhân nặng 150 kg với tầm bắn 18 km, và hiện vẫn còn được quân đội Nga sử dụng. Sơ tốc đầu nòng đạt từ 288 �đến 607 m/s đối với đạn nổ mạnh, tuỳ thuộc vào liều phóng sử dụng, trong khi đạn phá boong ke có sơ tốc đầu nòng đạt 607 m/s. Các nước trang bị Xem thêm 152 mm gun M1935 (Br-2) sử dụng chung nền tảng bánh xích 280 mm mortar M1939 (Br-5) sử dụng chung nền tảng bánh xích 8 inch Howitzer M1 pháo tương đương của Hoa Kỳ BL 7.2-inch howitzer pháo tương đương của quân đội Anh 2S7 Pion/Malka một loại pháo tự hành hiện đại của Liên Xô có cùng cỡ nòng 203 mm Ghi chú Tham khảo Shunkov V. N. - The Weapons of the Red Army, Mn. Harvest, 1999 (Шунков В. Н. - Оружие Красной Армии. — Мн.: Харвест, 1999.)
19812245
https://vi.wikipedia.org/wiki/WWE%20Elimination%20Chamber
WWE Elimination Chamber
WWE Elimination Chamber là một sự kiện đấu vật chuyên nghiệp được sản xuất bởi WWE. Sự kiện chỉ khả dụng thông qua việc trả tiền cho mỗi lần xem (PPV) và các dịch vụ phát trực tiếp trên Peacock và WWE Network. Sự kiện được thành lập vào năm 2010, thay thế No Way Out tổ chức vào tháng Hai hàng năm. Ý tưởng của sự kiện là một hoặc hai trận đấu của sự kiện chính được tranh tài bên trong Elimination Chamber, với trạnddaaud tranh chức vô địch hoặc cơ hội giành chức vô địch trong tương lai tại sự kiện lớn. Bản thân trận đấu loại Elimination Chamber đã được tổ chức vào năm 2002 và được tổ chức ở nhiều lượt xem trả tiền cho mỗi lượt xem WWE khác trước khi thành lập sự kiện vào năm 2010. Sự kiện năm 2014 rất đáng chú ý vì đây là sự kiện cuối cùng của WWE được phát sóng độc quyền qua các PPV truyền thống do sự ra mắt của WWE Network vào ngày hôm sau, vì tất cả các sự kiện PPV kể từ đó đã được phát sóng trên cả PPV và WWE Network. Năm sau, vị trí tháng Hai của sự kiện được thay thế bằng Fastlane, với sự kiện năm 2015 thay vào đó được tổ chức vào tháng 5. Sự kiện năm đó cũng chứng kiến ​​trận đấu đồng đội Elimination Chamber đầu tiên. Mặc dù sự kiện này không diễn ra vào năm 2016, nhưng nó đã trở lại vào năm 2017 với thiết kế lồng sắt được tân trang lại. Sự kiện này cũng quay trở lại vị trí PPV tháng Hai. Mặc dù trận đấu cùng tên ban đầu chỉ dành cho các đô vật nam, nhưng sự kiện năm 2018 có phiên bản đầu tiên dành cho nữ, cũng như trận đấu 7 người Elimination Chamber đầu tiên. Sự kiện năm 2019 đã xác định những người đầu tiên nắm giữ chức vô địch WWE Women's Tag Team Championship. Sự kiện năm 2020 rất đáng chú ý vì đây là sự kiện PPV cuối cùng của WWE được tổ chức trước khi Đại dịch COVID-19 bùng phát, khiến tất cả các buổi biểu diễn của WWE phải đóng kín cho đến giữa năm 2021. Sự kiện năm 2020 cũng được chuyển sang tháng 3 vì Super ShowDown được tổ chức vào tháng Hai, nhưng sự kiện này đã quay trở lại thời điểm tháng Hai cho sự kiện năm 2021, đây là PPV cuối cùng của WWE được tổ chức trước khi phiên bản Mỹ của WWE Network hợp nhất dưới tên Peacock vào tháng Ba năm đó. Sự kiện năm 2022 được tổ chức tại Jeddah, Ả Rập Xê Út, do đó đây là sự kiện Elimination Chamber đầu tiên diễn ra bên ngoài Hoa Kỳ và vào Thứ Bảy. Sự kiện năm 2023 là Elimination Chamber đầu tiên được tổ chức tại Canada và là sự kiện lớn đầu tiên của WWE được tổ chức tại Montreal sau 14 năm. Trùng hợp với việc mở rộng thương hiệu, các sự kiện trong năm 2010 và 2011 có sự góp mặt của các đô vật từ các thương hiệu Raw và SmackDown trước khi lần chia tách thương hiệu đầu tiên kết thúc vào tháng 8 năm 2011. Sau khi giới thiệu lại việc chia tách thương hiệu vào giữa năm 2016, sự kiện năm 2017 được tổ chức dành riêng cho đô vật SmackDown. Sự kiện năm 2018 sau đó là dành riêng cho Raw và là PPV cuối cùng mang thương hiệu Raw của lần chia tách thương hiệu thứ hai, vì sau WrestleMania 34 của năm đó, WWE đã ngừng trả tiền cho mỗi lượt xem dành riêng cho thương hiệu. Sự kiện năm 2019 lần lượt có sự góp mặt của các đô vật từ cả hai thương hiệu Raw và SmackDown, cũng như 205 Live, trong khi các sự kiện diễn ra các năm sau đó chỉ có Raw và SmackDown. ​ Ở Đức, Elimination Chamber được gọi bằng một tên khác để tránh ý nghĩa của các phòng hơi ngạt được sử dụng trong Holocaust trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 2010, nó vẫn giữ tên No Way Out (Tiếng Đức: Kein Ausweg), cũng được sử dụng cho sự kiện năm 2012, nhưng vào năm 2011, nó được gọi là No Escape (Tiếng Đức: Kein Entkommen). Ý tưởng trận đấu Elimination Chamber Từ năm 2010 đến năm 2012, sự kiện có hai trận đấu Elimination Chamber, thường là một trận cho mỗi thương hiệu cho đến tháng 8 năm 2011 khi phần mở rộng thương hiệu kết thúc. Vào năm 2010, trận đấu Elimination Chamber của Raw tranh đai WWE Championship trong khi trận đấu trong Phòng của SmackDown là để tranh đai World Heavyweight Championship. Vào năm 2011, trận đấu Elimination Chamber đã xác định ứng cử viên số một cho trận đấu tranh đai WWE Championship tại WrestleMania XXVII, trong khi trận đấu của SmackDown một lần nữa là tranh đai World Heavyweight Championship. Vào năm 2013, chỉ có một trận đấu Elimination Chamber diễn ra với người chiến thắng nhận được cơ hội cho trận tranh đai World Heavyweight Championship tại WrestleMania 29. Sau khi thống nhất đai WWE Championship và World Heavyweight Championship thành WWE World Heavyweight Championship vào tháng 12 năm 2013, sự kiện năm 2014 chỉ có một trận Elimination Chamber tranh đai vô địch. Trong năm 2015, có hai trận đấu Elimination Chamber. Trận đầu tiên có trận đấu đồng đội Elimination Chamber, tranh đai WWE Team Championship (nay là WWE Raw Tag Team Championship), trong khi trận đấu Elimination Chamber thứ hai tranh đai WWE Intercontinental Championship. Sau khi phần mở rộng thương hiệu được khôi phục vào giữa năm 2016, đai WWE World Heavyweight Championship sau đó chuyển thành đai WWE Championship và trở thành độc quyền của SmackDown. Sự kiện năm 2017 chỉ dành riêng cho SmackDown và sự kiện chính là trận đấu Elimination Chamber tranh đai WWE Championship. Sự kiện năm 2018 sau đó là độc quyền của Raw và có hai trận đấu Elimination Chamber. Một là trận đấu Elimination Chamber đầu tiên dành cho nữ tranh đai Raw Women's Championship. Trận còn lại là trận đấu Elimination Chamber nam 7 người lần đầu tiên để xác định ứng cử viên số một cho trận đấu tranh đai Intercontinental Championship tại WrestleMania 34. Sau khi các PPV dành riêng cho thương hiệu ngừng hoạt động sau WrestleMania 34, sự kiện năm 2019 có sự góp mặt của cả hai thương hiệu. Có hai trận đấu Elimination Chamber. Một là trận đấu Elimination Chamber đồng đội nữ để xác định những người đầu tiên nắm giữ đai WWE Women's Tag Team Championship, trong khi trận còn lại là trận đấu Elimination Chamber dành riêng cho SmackDown tranh đai WWE Championship. Cuối năm đó, đai Universal Championship và WWE Championship chuyển đổi thương hiệu. Sự kiện năm 2020 có một trận đấu Elimination Chamber cho mỗi thương hiệu. SmackDown là trận đấu Elimination Chamber đồng đội tranh đai SmackDown Tag Team Championship, trong khi của Raw là trận Elimination Chamber nữ tranh đai Raw Women's Championship tại WrestleMania 36. Tại sự kiện năm 2021, trận Elimination Chamber tranh đai WWE Championship, trong khi trận Elimination Chamber của SmackDown tranh đai Universal Championship diễn ra trong cùng đêm đó. Sự kiện năm 2022 có hai trận đấu Elimination Chamber, nhưng cả hai đều là độc quyền của Raw, một là trận đấu Elimination Chamber nam tranh đai WWE Championship trong khi trận còn lại là trận Elimination Chamber nữ tranh đai Raw Women's Championship tại WrestleMania 38. Sự kiện năm 2023 có hai trận đấu Elimination Chamber, mỗi trận dành cho nam và nữ. Trận đấu nam chỉ dành riêng cho Raw tranh đai United States Championship, đây là lần đầu tiên tranh đai trong trận đấu. Trận đấu Elimination Chamber nữ là trận đấu tranh đai Raw Women's Championship tại WrestleMania 39 với sự góp mặt của ba đô vật từ mỗi thương hiệu. Tổ chức Tham khảo Liên kết ngoài
19812246
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bietigheim-Bissingen
Bietigheim-Bissingen
Bietigheim-Bissingen (tiếng địa phương: Biedge-Bissenge) là thị trấn lớn thứ hai của huyện Ludwigsburg, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Với dân số khoảng 42,515 người, nơi đây nằm bên bờ sông Enz và sông Metter, cách Stuttgart 19 km về phía bắc và cách Heilbronn 20 km về phía nam. Tham khảo Liên kết ngoài Official website Württemberg
19812247
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rom%C3%A2nia%20TV
România TV
România TV là kênh truyền hình tư nhân Romania. Lên sóng chính thức vào ngày 23 tháng 10 năm 2011. România TV được thành lập bởi cựu doanh nhân và chính trị gia Sebastian Ghiță. Có thể nhận kênh truyền hình România TV thông qua các hệ thống phát sóng Orange Romania Communications, Digi TV, Orange TV, Focus Sat, Vodafone TV hoặc FTA trên vệ tinh Amos 7, 4°W, 12354 MHz/SR 3333/H. Lịch sử Vào ngày 23 tháng 10 năm 2011, dưới sự lãnh đạo của Elan Schwartzenberg, Realitatea TV đã chuyển các trường quay của mình đến tòa nhà Willbrook Platinum tại Ploiești, Bucharest. Một phần nhân viên của đài truyền hình này đã quyết định ở lại trường quay của Casa Presei Libere cùng với người quản lý cũ là Sebastian Ghiță để thành lập đài truyền hình mới România TV (ban đầu được gọi là "RTV"). România TV đã phát sóng bất hợp pháp mà không có giấy phép, vi phạm Luật phát sóng. Ngày 1 tháng 12 năm 2011, RTV đổi tên thành România TV. Ngày 24 tháng 8 năm 2013, logo của România TV được thay đổi sau khi Bộ Thông tin vàTruyền thông Quốc gia România cảnh báo ngừng sử dụng từ viết tắt RTV. Chương trình truyền hình Dưới đây là chương trình truyền hình trên kênh România TV: Știrile România TV Punctul culminant România de poveste România la raport România TeVede România au noroc Newsline Cheia zilei Ediția de seară Ediție specială România exclusiv Breaking news Tranh cãi và án phạt Thông tin sai lệch và kích động chính trị România TV theo hướng chủ nghĩa bảo thủ, thiên vị các đảng tự do ủng hộ toàn cầu hóa và các tổ chức phi chính phủ dưới góc độ rất tiêu cực. Trong suốt quá trình tồn tại, România TV bị chỉ trích nhiều lần và phạt tiền vì thông tin sai lệch, thao túng và bè phái liên quan đến chính trị România. Trong một bài báo tháng 1 năm 2017, nhà chính trị Alina Mungiu-Pippidi cho rằng România TV được sử dụng như một công cụ tuyên truyền. Những người tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc, cho các đảng dân túy cực hữu như Liên minh những người România và kích động chủ nghĩa tiến bộ Chính thống giáo được mời tham dự các buổi biểu diễn. Bị dừng phát sóng tại Moldova România TV cùng với sáu kênh truyền hình Primul in Moldova, RTR Moldova, Accent TV, NTV Moldova, TV6, Orhei TV đã bị xóa khỏi truyền hình cáp MoldTelecom vì lý do đưa thông tin sai lệch về các sự kiện quốc gia và chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraina. Hành động trên khiến nhà báo Victor Ciutacu đã chỉ trích gay gắt tổng thống Maia Sandu và khẳng định rằng tổng thống Moldova chỉ quan tâm đến mối quan hệ song phương với România từ quan điểm lợi ích kinh tế. Án phạt Vì România TV đã vi phạm rất nhiều lần khiến Bộ Thông tin và Truyền thông Quốc gia România xử phạt. Dưới đây là những án phạt đã được thông qua. Tham khảo Liên kết ngoài Trang chủ chính thức của România TV România TV trên Facebook România TV trên Tik Tok România TV trên YouTube România TV trên Instagram
19812248
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ludwigsburg
Ludwigsburg
Ludwigsburg (; Swabia: Ludisburg) là đô thị lớn nhất và là thủ phủ của huyện Ludwigsburg, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Có dân số khoảng 88,000 người, nơi đây nằm trong vùng Stuttgart, cách trung tâm thành phố Stuttgart khoảng về phía bắc. Tham khảo Thư mục Andrea Hahn: Ludwigsburg, Stationen einer Stadt, Andreas Hackenberg Verlag, Ludwigsburg 2004, Gernot von Hahn, Friedhelm Horn: Ludwigsburg, Stadt der Schlösser und Gärten, Medien-Verlag Schubert, Stuttgart 1998, Bruno Hahnemann: Ludwigsburg. Stadt – Schlösser – Blühendes Barock, Verlag Ungeheuer + Ulmer, Ludwigsburg 1979 on the sidelines, Frederick Forsyth: The Odessa File () Annette Weinke, Eine Gesellschaft ermittelt gegen sich selbst. Die Geschichte der Zentralen Stelle Ludwigsburg 1958–2008 (Darmstadt: Wissenschaftliche Buchgesellschaft, 2008). Hans H. Pöschko (Hg.), Die Ermittler von Ludwigsburg. Deutschland und die Aufklärung nationalsozialistischer Verbrechen (Berlin: Metropol 2008). Tobias Herrmann / Gisela Müller, Mitteilungen aus dem Bundesarchiv. Themenheft 2008: Die Außenstelle Ludwigsburg (Koblenz: Bundesarchiv 2008). Liên kết ngoài Official website of the City of Ludwigsburg Tourism Information about Ludwigsburg Carl-Schaefer-Schule Elly-Heuss-Knapp Realschule Eugen-Bolz Hauptschule Friedrich-Schiller-Gymnasium Goethe-Gymnasium Gottlieb-Daimler Realschule Moerike-Gymnasium Oststadt Hauptschule Otto-Hahn-Gymnasium Uhlandschule Hauptschule Oscar-Walcker-Schule Khu dân cư thành lập năm 1704 Ludwigsburg Khởi đầu năm 1704 ở Đế quốc La Mã Thần thánh Khu dân cư trên lưu vực sông Neckar Khu dân cư ven sông ở Đức Württemberg
19812251
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vaihingen%20an%20der%20Enz
Vaihingen an der Enz
Vaihingen an der Enz là một thị trấn thuộc ngoại vi phía tây của vùng Stuttgart, miền nam nước Đức. Với dân số khoảng 30,000 người, nơi đây nằm bên bờ sông Enz, cách Stuttgart 25 km về phía tây bắc và cách Ludwigsburg 15 km về phía tây. Tham khảo Thư mục Aker, Gudrun and others: Die Stadtkirche in Vaihingen an der Enz. Kirchliches Leben unter dem Kaltenstein in acht Jahrhunderten. Mit Beiträgen von Gudrun Aker, Lothar Behr, Stefan Benning, Anne-Christine Brehm, Hartmut Leins, Manfred Scheck, Marc Wartner. Hrsg. von der Evangelischen Kirchengemeinde Vaihingen an der Enz anlässlich der Grundsteinlegung der Stadtkirchen-Erweiterung vor 500 Jahren. Vaihingen 2013. Behr, Lothar and others (Hrsg.): Geschichte der Stadt Vaihingen an der Enz. Vaihingen 2001. Keyser, Erich (Hrsg.): Württembergisches Städtebuch; Band IV Teilband Baden-Württemberg Band 2 aus "Deutsches Städtebuch. Handbuch städtischer Geschichte – Im Auftrage der Arbeitsgemeinschaft der historischen Kommissionen und mit Unterstützung des Deutschen Städtetages, des Deutschen Städtebundes und des Deutschen Gemeindetages. Stuttgart 1961. Paulus, Karl Eduard: Beschreibung des Oberamts Vaihingen. Hrsg. vom Königlichen topographischen Bureau. Stuttgart 1856. Liên kết ngoài Pictures of the concentration camp cemetery at Vaihingen/Enz at the Sites of Memory webpage Pictures of the military and refugee memorials in the municipal cemetery at Vaihingen/Enz at the Sites of Memory webpage official internetpresence of Vaihingen Enz town council internetpresence of district Aurich Presentation of district Kleinglattbach
19812253
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bad%20Mergentheim
Bad Mergentheim
Bad Mergentheim (; Mergentheim đến năm 1926; Đông Franconia: Märchedol) là một thị trấn nằm ở huyện Main-Tauber-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Với dân số khoảng 23,000 người, nơi đây được công nhận là một thị trấn spa từ năm 1926. Ngoài ra Bad Mergentheim còn được biết đến là nơi đặt trụ sở của hiệp sĩ dòng Teuton từ năm 1526 đến 1809. Nhân khẩu học Tham khảo Lâu đài của Hiệp sĩ Teuton Thị trấn spa ở Đức Cộng đồng Do Thái lịch sử Vùng đế chế Franken Württemberg
19812255
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khempheng%20Pholsena
Khempheng Pholsena
Khempheng Pholsena (sinh năm 1948) là chính khách Lào và là Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên Nước và Môi trường. Thân thế Khempheng Pholsena sinh ngày 6 tháng 6 năm 1948 tại Pakse, tỉnh Champasak. Để được học cao hơn, bà bèn chuyển sang Việt Nam rồi về sau theo học Viện Năng lượng Moskva ở Liên Xô cũ. Sự nghiệp Pholsena khởi đầu sự nghiệp tại Bộ Thương mại và Công nghiệp Lào. Trong một thời gian ngắn, bà làm thư ký cho Đại sứ quán Lào tại Moskva trước khi được bổ nhiệm làm nữ Thứ trưởng đầu tiên phụ trách hợp tác kinh tế quốc tế. Sau đó, bà giữ chức phó chủ tịch Ủy ban Kế hoạch và Hợp tác rồi được chuyển đến Văn phòng Thủ tướng vào năm 1996. Pholsena được chọn là nữ phó chủ tịch đầu tiên của Ngân hàng Phát triển Châu Á vào năm 2004. Bà cũng là Chủ tịch Ủy ban Mekong Quốc gia Lào bên cạnh chức vụ Bộ trưởng phụ trách Tài nguyên nước. Năm 2014, bà được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Công Thương và Phó chủ tịch Tổ chức Phụ nữ Quốc gia. Tham khảo Sinh năm 1942 Nhân vật còn sống Người Champasak Bộ trưởng Lào Nữ bộ trưởng Lào Chính khách Lào thế kỷ 21 Nữ chính khách Lào thế kỷ 20 Nữ chính khách Lào thế kỷ 21 Chính khách Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
19812256
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khampheng%20Boupha
Khampheng Boupha
Khampheng Boupha (; ngày 15 tháng 1 năm 1923 – 2011) là chính khách Lào, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào. Thân thế Khampheng Boupha chào đời tại cố đô Luang Prabang và hoàn thành việc học ở đó. Sự nghiệp Khampheng khởi đầu sự nghiệp làm giáo viên và về sau chuyển sang công việc dịch thuật. Từ năm 1946 đến năm 49, bà ở lại Thái Lan với chồng vốn là một thành viên của chính phủ Lào Issara. Một năm sau, cả hai người cùng tham gia Mặt trận Lào Tự do. Bà đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử bổ sung vào tháng 5 năm 1958 đại diện cho Luang Prabang và trở thành đại biểu Quốc hội Lào. Chính trong thời gian này, vợ chồng Boupha đã tích cực tham gia phong trào cộng sản Pathet Lào tại Việt Nam. Năm 1979, Khampheng trở thành thành viên của Ủy ban Thường vụ Mặt trận Lào Xây dựng Đất nước mới thành lập và ba năm sau được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Do vấn đề sức khỏe mà bà quyết định không tái tranh cử. Bà cũng từng là chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Lào và Quốc vụ khanh vấn đề Nông thôn. Đời tư Năm 1943, Khampheng kết hôn với Khamphay Boupha. Bà qua đời vào năm 2011. Tham khảo Sinh năm 1923 Mất năm 2011 Người Luang Prabang Đại biểu Quốc hội Lào Chính khách Lào thế kỷ 20 Nữ chính khách Lào thế kỷ 20 Chính khách Đảng Nhân dân Cách mạng Lào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa II Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khóa III
19812258
https://vi.wikipedia.org/wiki/Superboy-Prime
Superboy-Prime
Superboy-Prime (Clark Kent, sinh ra với tên Kal-El), còn được biết đến với tên Superman-Prime hoặc đơn giản là Prime, là một siêu anh hùng DC Comics đã trở thành một siêu ác nhân và là một phiên bản khác của Superman. Nhân vật này lần đầu xuất hiện trong DC Comics Presents #87 (Tháng 11 năm 1985) và được tạo ra bởi Elliot S. Maggin và Curt Swan (dựa trên nhân vật Superboy gốc của Jerry Siegel và Joe Shuster). Superboy-Prime đến từ một Trái đất song song được gọi là Trái đất Prime, không có siêu anh hùng hoặc người siêu năng. Trên đó, Superman và các siêu anh hùng khác chỉ là những nhân vật hư cấu, như trong đời thực. Vũ trụ Trái đất Prime đã bị xoá sổ trong sự kiện Crisis on Infinite Earths (Tháng 4 năm 1985 - Tháng 3 năm 1986), và Superboy-Prime đã lạc vào một "thiên đường" chiều không gian, trong thời gian đó, anh không thể từ bỏ cuộc sống và định mệnh trước đây của mình như siêu anh hùng vĩ đại nhất của Trái đất. Theo thời gian, niềm tin và đạo đức của anh trở nên vặn vẹo và bị biến tướng, anh tin rằng Trái đất Prime là Trái đất duy nhất thích hợp và Superboy-Prime là người duy nhất xứng đáng với danh hiệu Superboy. Prime kiên quyết tin rằng trở thành Superman là sứ mệnh của mình, mặc dù thực tế là anh đã trở thành một ác nhân tâm thần, tàn bạo và đôi khi thậm chí là độc ác. Sức mạnh vô địch, tốc độ, tính bất đoán và tàn nhẫn của anh làm cho anh trở thành một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất trong Vũ trụ DC. Tên "Superman-Prime" lần đầu được Grant Morrison sử dụng trong DC One Million (1998) cho Superman chính trong thế kỷ thứ 853 (nó về cơ bản là Superman cùng câu chuyện All-Star Superman). Superboy của Trái đất Prime tự nhận mình là "Superboy-Prime" trong Infinite Crisis #2 (Tháng 1 năm 2006). Xem thêm Superman: Secret Identity Danh sách kẻ thù của Superman Ultraa Các phiên bản khác của Superman Đa vũ trụ (DC Comics) Brightburn, một bộ phim siêu anh hùng kinh dị năm 2019 có chủ đề tương tự Tham khảo Liên kết ngoài . . Nhân vật hư cấu Nhân vật DC Comics Nhân vật hư cấu có năng lực phóng hỏa Kẻ giết người hàng loạt hư cấu
19812265
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20tr%E1%BB%A5%20DC
Vũ trụ DC
Vũ trụ DC (DCU) là vũ trụ chung nơi phần lớn các câu chuyện trong các tựa sách truyện tranh Mỹ được xuất bản bởi DC Comics diễn ra. Trong ngữ cảnh, thuật ngữ "Vũ trụ DC" thường chỉ đến liên tục chính của DC. Nó bao gồm những siêu anh hùng nổi tiếng như Superman, Batman, Wonder Woman, Flash, Aquaman, Green Lantern, Green Arrow, Shazam, Martian Manhunter, và Cyborg; cũng như những đội như Justice League, Justice Society of America, Suicide Squad, Doom Patrol, và Teen Titans. Nó cũng chứa những siêu ác nhân nổi tiếng, bao gồm Lex Luthor, Joker, Cheetah, Reverse-Flash, Black Manta, Sinestro, Deathstroke, Black Adam, Brainiac, và Darkseid. Thuật ngữ "Đa vũ trụ DC" chỉ đến bộ sưu tập của tất cả các liên tục trong các ấn phẩm của DC Comics. Trong Đa vũ trụ, vũ trụ DC chính đã được gọi bằng nhiều tên, nhưng trong những năm gần đây, nó thường được gọi là "Trái Đất Chính" (không nên nhầm với "Trái Đất Sơ khai") hoặc "Trái Đất 0". Vũ trụ DC chính, cũng như những thực tại song song liên quan đến nó, nhanh chóng được chuyển thể sang các phương tiện truyền thông khác như phim hàng loạt hoặc drama radio. Trong những thập kỷ tiếp theo, liên tục giữa tất cả những phương tiện truyền thông này trở nên ngày càng phức tạp với những cốt truyện và sự kiện nhất định được thiết kế để đơn giản hóa hoặc tinh gọn những khía cạnh mơ hồ hơn trong lịch sử của các nhân vật." Truyện tranh DC Universe DC Universe: Di sản DC Universe Online: Legends Truyền thông khác DC Universe Roleplaying Game Phim Phim dựa trên DC Comics: Superman trong phim Batman trong phim Các bộ phim DC Flash trong phim Wonder Woman trong phim DC Extended Universe DC Universe (thương hiệu) The Lego Movie, The Lego Batman Movie và The Lego Movie 2: The Second Part (diễn ra trong một đa vũ trụ mà Lego DC Universe là một phần) Truyền hình Danh sách các series truyền hình dựa trên DC Comics Arrow, The Flash, Legends of Tomorrow, Supergirl, Vixen, Black Lightning, Lucifer và Batwoman (diễn ra trong cùng vũ trụ, được biết đến với tên gọi Arrowverse). Stargirl DC Universe Hoạt hình DC animated universe DC Universe Animated Original Movies Teen Titans Teen Titans Go! Young Justice Đồ chơi DC Universe (toyline) DC Universe Classics Trò chơi điện tử Trò chơi điện tử dựa trên DC Comics: Danh sách trò chơi điện tử Superman Danh sách trò chơi điện tử Batman Mortal Kombat vs. DC Universe DC Universe Online Lego Batman 2: DC Super Heroes Injustice: Gods Among Us Injustice 2 Scribblenauts Unmasked: A DC Comics Adventure Infinite Crisis Suicide Squad: Kill the Justice League The Lego Movie Videogame, The Lego Batman Movie Game, Lego Dimensions và The Lego Movie 2 Videogame (diễn ra trong cùng vũ trụ đa thể như các bộ phim đã đề cập) Xem thêm Lịch sử Vũ trụ DC Danh sách các sự kiện trong Vũ trụ DC Danh sách địa điểm trong Vũ trụ DC Danh sách vũ trụ hư cấu trong hoạt hình và truyện tranh Tham khảo Liên kết ngoài The Unauthorized Chronology of the DC Universe The Continuity Pages: DC Universe Chronology Mike's Amazing World of Comics DC Database a DC universe Wiki Hệ thống (hư cấu) Vũ trụ hư cấu Huyền thoại tưởng tượng Truyện tranh khoa học viễn tưởng Franchise khoa học viễn tưởng Truyện tranh siêu anh hùng Franchise siêu anh hùng Vũ trụ giả tưởng
19812272
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jerry%20Siegel
Jerry Siegel
Jerome Siegel (IPA: [ˈsiːgəl]; 17 tháng 10 năm 1914 - 28 tháng 1 năm 1996) là một nhà văn truyện tranh người Mỹ. Ông là người đồng sáng tạo của Superman, phối hợp với người bạn Joe Shuster, được xuất bản bởi DC Comics. Họ cũng tạo ra nhân vật Doctor Occult, sau đó được đưa vào The Books of Magic. Siegel và Shuster đã được công nhận vào Will Eisner Comic Book Hall of Fame của ngành truyện tranh vào năm 1992 và Jack Kirby Hall of Fame vào năm 1993. Cùng với Bernard Baily, Siegel cũng đồng sáng tạo nhân vật lâu đời của DC The Spectre. Siegel đã tạo ra mười thành viên sớm nhất của Legion of Super-Heroes, một trong những bộ truyện đội hình phổ biến nhất của DC, được đặt trong thế kỷ 30. Siegel cũng đã sử dụng các bút danh bao gồm Joe Carter và Jerry S. Chú thích Nguồn Liên kết ngoài Mike's Amazing World of DC Comics: The DC Database – Jerry Siegel Jerry Siegel Attacks! Translation of Nazi SS article attacking Siegel and Superman Sinh 1914 Mất 1996
19812279
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFt%20l%E1%BB%99%20gi%C3%A1m%20s%C3%A1t%20to%C3%A0n%20c%E1%BA%A7u%20%281970%E2%80%932013%29
Tiết lộ giám sát toàn cầu (1970–2013)
Giám sát toàn cầu đề cập đến việc toàn cầu hóa hoạt động giám sát hàng loạt đối với toàn bộ dân cư liên quốc gia. Sự tồn tại của nó lần đầu tiên được tiết lộ vào những năm 1970 đã khiến các nhà lập pháp cố gắng hạn chế hoạt động gián điệp trong nước của Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA). Tuy nhiên, nó đã không nhận được sự chú ý lâu dài của công chúng cho đến khi sự tồn tại của ECHELON được tiết lộ vào những năm 1980 và được xác nhận trong những năm 1990. Vào năm 2013, nó đã thu hút được sự chú ý đáng kể của giới truyền thông trên toàn thế giới do vụ tiết lộ giám sát toàn cầu của Edward Snowden. Lịch sử Thập niên 1970 Năm 1972, nhà phân tích Perry Fellwock của NSA (dưới bút danh "Winslow Peck") đã giới thiệu với độc giả của tạp chí Ramparts về NSA và Hiệp định UKUSA. Năm 1976, một bài báo trên tạp chí Time Out đã tiết lộ sự tồn tại của GCHQ. Thập niên 1980–1990 Năm 1982, cuốn sách của James Bamford về NSA, The Puzzle Palace, được xuất bản lần đầu tiên. Cuốn sách thứ hai của Bamford, Body of Secrets: Anatomy of the Ultra-Secret National Security Agency, được xuất bản hai thập kỷ sau đó. Năm 1988, Margaret Newsham, một nhân viên của Lockheed, tiết lộ mạng lưới ECHELON. Newsham nói với một thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ rằng các cuộc điện thoại của Strom Thurmond, một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thuộc đảng Cộng hòa, đã bị NSA thu thập. Các nhà điều tra của Quốc hội xác định rằng "việc nhắm mục tiêu vào các nhân vật chính trị của Hoa Kỳ sẽ không xảy ra một cách tình cờ. Mà nó đã được thiết kế theo hệ thống ngay từ đầu." Vào cuối những năm 1990, ECHELON được cho là có khả năng giám sát tới 90% lưu lượng truy cập internet. Tuy nhiên, theo BBC, vào tháng 5 năm 2001, "Chính phủ Hoa Kỳ vẫn không thừa nhận rằng ECHELON có tồn tại." Thập niên 2010 Sau Sự kiện 11 tháng 9, William Binney, cùng với các đồng nghiệp J. Kirke Wiebe và Edward Loomis và hợp tác với nhân viên Hạ viện Diane Roark, đã yêu cầu Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ điều tra NSA vì cáo buộc lãng phí "hàng triệu triệu đô la" vào Trailblazer, một hệ thống phân tích dữ liệu được truyền trên các mạng truyền thông như Internet. Binney cũng công khai chỉ trích NSA vì đã theo dõi công dân Hoa Kỳ sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001. Binney tuyên bố rằng NSA đã thất bại trong việc phát hiện ra âm mưu 11/9, mặc dù nó đã chặn được một lượng lớn dữ liệu. Năm 2001, sau Sự kiện 11 tháng 9, MI5 bắt đầu thu thập hàng loạt dữ liệu liên lạc qua điện thoại ở Vương quốc Anh (tức là các số điện thoại nào gọi cho nhau và vào khi nào) và ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ sử dụng Đạo luật Viễn thông 1984 thay vì Đạo luật Quyền hạn Điều tra năm 2000, mà điều này sẽ mang lại sự giám sát và quy định độc lập. Điều này được giữ bí mật cho đến khi được Bộ trưởng Nội vụ công bố vào năm 2015. Ngày 16 tháng 12 năm 2005, The New York Times đã đăng một báo cáo với tiêu đề "Bush Lets U.S. Spy on Callers Without Courts" (tạm dịch: Bush cho phép Hoa Kỳ theo dõi Người gọi mà không cần thông qua Tòa án), được đồng viết bởi Eric Lichtblau và nhà báo từng đoạt giải Pulitzer, James Risen. Theo The Times, ngày xuất bản của bài báo đã bị trì hoãn một năm (quá chu kỳ bầu cử tổng thống tiếp theo) vì những lo ngại về an ninh quốc gia. Russ Tice sau đó được tiết lộ là một nguồn công bố chính. Năm 2006, USA Today cung cấp thêm thông tin chi tiết về hoạt động giám sát nội địa của NSA đối với công dân Hoa Kỳ. Tờ báo đã đưa ra một báo cáo vào ngày 11 tháng 5 năm 2006 nêu chi tiết "cơ sở dữ liệu khổng lồ" của NSA về các bản ghi điện thoại được thu thập từ "hàng chục triệu" công dân Hoa Kỳ. Theo USA Today,những bản ghi điện thoại này được cung cấp bởi một số công ty viễn thông như AT&T, Verizon và BellSouth. Kỹ thuật viên của Mark Klein của AT&T sau đó được tiết lộ là nguồn công bố chính, cụ thể là các phòng tại các trung tâm điều khiển mạng trên đường trục Internet đã chặn và ghi lại tất cả lưu lượng truy cập đi qua. Năm 2008, nhà phân tích chứng khoán Babak Pasdar tiết lộ sự tồn tại của cái gọi là "Quantico circuit" mà ông và nhóm của mình đã thiết lập vào năm 2003. Thứ này đã cung cấp cho chính phủ liên bang Hoa Kỳ một cửa hậu vào mạng của một nhà cung cấp dịch vụ không dây giấu tên, sau này được xác định độc lập là Verizon. Năm 2007, cựu CEO của Qwest Joseph Nacchio đã cáo buộc trước tòa và cung cấp tài liệu hỗ trợ rằng vào tháng 2 năm 2001 (gần 7 tháng trước sự kiện 11 tháng 9), trong một cuộc họp, NSA đã đề xuất tiến hành theo dõi điện thoại bao trùm. Anh ta coi hoạt động gián điệp là bất hợp pháp và từ chối hợp tác, đồng thời tuyên bố rằng công ty đã bị trừng phạt khi bị từ chối các hợp đồng béo bở. Những năm 2011–2013 Năm 2011, WikiLeaks công bố chi tiết về ngành công nghiệp giám sát hàng loạt. Theo Julian Assange, "Chúng ta đang ở trong một thế giới mà về mặt lý thuyết không chỉ có thể ghi lại gần như tất cả lưu lượng viễn thông ra khỏi một quốc gia, tất cả các cuộc gọi điện thoại, mà còn có một ngành công nghiệp quốc tế bán thiết bị để làm việc đó." Tiết lộ từ năm 2013 Xem thêm Người tố giác giám sát toàn cầu Ngũ Nhãn Tham khảo Giám sát toàn cầu
19812284
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lutjanus%20timoriensis
Lutjanus timoriensis
Lutjanus timoriensis là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1824. Từ nguyên Từ định danh timoriensis được đặt theo tên của đảo Timor, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis trong tiếng Latinh là hậu tố biểu thị nơi chốn). Loài này thường bị nhầm danh pháp là timorensis. Phân bố và môi trường sống L. timoriensis có phân bố tương đối rộng rãi trong vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Maldives và Sri Lanka trải dài về phía đông đến Palau, quần đảo Samoa và Fiji, xa về phía bắc đến đảo Iriomote, gới hạn phía nam đến bờ tây bắc Úc và Vanuatu. L. timoriensis sống gần rạn san hô và mỏm đá, độ sâu trong khoảng 15–100 m; cá con thường thấy ở khu vực nền đáy bùn. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. timoriensis là gần 74 cm, thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 30 cm. Lưng và thân trên màu đỏ, thân dưới và bụng có thể đỏ, phớt hồng hoặc trắng bạc. Có một đốm đen ở thân sau, bị đường bên cắt ngang ở giữa. Các vây đỏ nhạt; gốc vây ngực đen. Cá con có một dải nâu đen dày, từ hàm trên xiên chéo lên phần trước vây lưng, và một đốm đen ở gốc vây đuôi với viền trắng phía trước, cũng có thể có các sọc đỏ nâu mảnh ở hai bên thân. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14–15; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 17. Sinh thái Thức ăn của L. timoriensis có thể là cá nhỏ và một số loài thủy sinh không xương sống khác. Giá trị L. timoriensis không mấy phổ biến ở các chợ cá, nếu có thì thường được bán ở dạng tươi sống. Tham khảo T Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Maldives Cá Sri Lanka Cá Myanmar Cá Thái Lan Cá Malaysia Cá Philippines Cá Papua New Guinea Cá Vanuatu Cá Fiji Động vật quần đảo Solomon Động vật được mô tả năm 1824
19812290
https://vi.wikipedia.org/wiki/Benjamin%20Van%20Meurs
Benjamin Van Meurs
Benjamin Van Meurs (sinh ngày 31 tháng 1 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Úc hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Hải Phòng tại giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam. Tham Khảo Liên kết ngoài Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Hồng Kông Cầu thủ bóng đá Sydney FC Cầu thủ bóng đá Úc Nhân vật còn sống Sinh năm 1998 Cầu thủ bóng đá National Premier Leagues Cầu thủ bóng đá Tai Po FC Hậu vệ bóng đá Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng
19812321
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chavarat%20Charnvirakul
Chavarat Charnvirakul
Chavarat Charnvirakul (tiếng Thái: ชวรัตน์ ชาญวีรกูล, phiên âm: Cha-va-lát Chan-vi-la-cun, sinh ngày 7 tháng 6 năm 1936) là một chính khách người Thái Lan. Ông từng là Thủ tướng Thái Lan tạm quyền trong cuộc khủng hoảng chính trị Thái Lan vào năm 2008. Chavarat tốt nghiệp Đại học Thammasat năm 1966 với bằng kinh tế. Ông gia nhập chính phủ vào năm 1994 với tư cách là Thứ trưởng Bộ Tài chính, nhiệm kỳ của ông kéo dài đến năm 1997. Năm 2008 ông tái gia nhập chính phủ với tư cách Bộ trưởng Bộ Y tế công cộng và sau đó được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Thái Lan. Ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Nội vụ Thái Lan trong nội các Abhisit, một vị trí mà ông giữ cho đến khi thất bại bầu cử của chính phủ vào năm 2011. Kể từ ngày 14 tháng 2 năm 2009, Chavarat là người lãnh đạo của Đảng Bhumjaithai. Chú thích Thủ tướng Thái Lan Bộ trưởng Thái Lan
19812325
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20M%C3%ACnh%20L%E1%BA%A1%20L%E1%BA%AFm%21
Nhà Mình Lạ Lắm!
Nhà Mình Lạ Lắm! (tên tiếng Anh: Odd Family) là một bộ phim truyền hình do K+ sản xuất, đạo diễn bởi Đinh Tuấn Vũ. Đây là dự án phim dài tập thứ 4 được Truyền Hình K+ đầu tư sản xuất dưới thương hiệu K+ ORIGINAL Nội dung Nhà Mình Lạ Lắm! xoay quanh một gia đình đặc biệt. Những “người thân xa lạ” sẽ chung sống “hoà thuận” bên nhau, cùng chăm sóc cô bé Thanh Mỹ (Nhã Uyên đóng), người vừa mất đi toàn bộ trí nhớ và đang đối mặt với những sang chấn tâm lý nặng nề sau vụ tai nạn thảm khốc. 8 con người, 8 màu sắc, 8 tính cách trái dấu, nhiều điều dở khóc dở cười xảy ra liên tục thử thách nỗ lực sống hoà bình hạnh phúc của họ. Những sự cố oái oăm liên tục đẩy họ ra xa rồi lại gần nhau, để rồi sau đó, mỗi người lại có những bài học cho riêng mình về việc dung hoà, nhường nhịn và chia sẻ với những người khác trong tổ ấm. Diễn viên Nhan Phúc Vinh trong vai Huân NSND Trung Anh trong vai ông Hùng NSND Kim Xuân trong vai bà Lệ Tuấn Tú trong vai Quang Hải Lưu Huyền Trang trong vai Diễm Hương Lê Bống trong vai Hà Giang Nhã Uyên trong vai Thanh Mỹ Tuấn Đạt trong vai Minh Khang Samuel An trong vai Thành Hương Giang trong vai Kim Phương Nam trong vai Báo Sản xuất Bộ phim do Truyền hình vệ tinh K+ - Công ty TNHH Truyền hình số vệ tinh Việt Nam (VSTV) đầu tư sản xuất dưới thương hiệu K+ ORIGINAL. Phim mang màu sắc tươi sáng với cốt truyện hài hước, bắt đầu bấm máy từ giữa tháng 2/2023 và lên sóng Truyền hình K+ vào tháng 7/2023. Là phim dài tập đầu tiên của đạo diễn Đinh Tuấn Vũ, Nhà Mình Lạ Lắm! không chỉ thể hiện sở trường của anh về thể loại hài hước tình cảm gia đình, mà còn lồng ghép thêm những yếu tố hấp dẫn, mới lạ, hiếm thấy ở phim truyền hình Việt Nam. Nhà Mình Lạ Lắm! có sự góp mặt của dàn diễn viên hai miền Bắc – Nam với sự kết hợp của những cái tên đình đám bên cạnh nhiều gương mặt mới. NSND Trung Anh sẽ “thoát” khỏi hình ảnh ông bố khắc khổ quen thuộc và có màn lột xác đầy bất ngờ với một hình tượng nhân vật chưa từng thấy trước đó. Đồng hành cùng NSND Trung Anh là “người bà quốc dân” Kim Xuân. Chuyến “Bắc tiến” lần này đánh dấu sự trở lại với màn ảnh nhỏ của nghệ sĩ Kim Xuân sau thời gian dài tập trung cho điện ảnh. Gương mặt quen thuộc với khán giả cả nước, diễn viên Nhan Phúc Vinh cũng sẽ có màn hoá thân đặc sắc khi tạm rời xa hình ảnh “soái ca”, “Chủ tịch” vốn đã tạo nên thương hiệu. Tạo hình đầy mới lạ bên cạnh tính cách nhân vật được xây dựng độc đáo chính là những điểm thu hút Nhan Phúc Vinh đến với Nhà Mình Lạ Lắm!. Các diễn viên khác của phim cũng là những cái tên được khán giả yêu mến như diễn viên/ MC Tuấn Tú, Lưu Huyền Trang, Hương Giang, Samuel An. Những gương mặt mới cũng hứa hẹn mang đến một làn sóng trẻ trung, năng động cho bộ phim. Nhà Mình Lạ Lắm! đánh dấu vai diễn dài hơi đầu tiên của bé Rồng Nhã Uyên, một gương mặt quảng cáo đắt show và là người mẫu nhí chuyên nghiệp. Chàng mẫu đầy phong cách Tuấn Đạt cũng hứa hẹn trở thành một “chàng thơ” mới của làng phim Việt Nam. Bên cạnh đó, nữ Influencer Lê Bống cũng đánh dấu chặng đường mới, hướng phát triển mới khi lần đầu tham gia vào làng phim và góp mặt trong Nhà Mình Lạ Lắm!. Tham khảo Phim truyền hình Series __KHÔNG_NÚT_SỬA_MỤC__
19812330
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di%20k%E1%BB%B3%20Nguy%C3%AAn%20Tr%E1%BB%8B
Thời kỳ Nguyên Trị
là một Niên hiệu Nhật Bản sau Thời kỳ Văn Cửu và trước Thời kỳ Minh Trị. Thời kỳ này chỉ kéo dài hơn hai năm từ tháng 3 năm 1864 đến tháng 4 năm 1865. Thiên hoàng của thời đại này là Thiên hoàng Hiếu Minh. Tướng quân của Mạc phủ Edo là Tokugawa Iemochi. Thay đổi niên hiệu Ngày 27 tháng 3 năm 1864 (ngày 20 tháng 2 năm 1864 âm lịch): Niên hiệu mới được tạo ra để đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới dựa trên chu kỳ 60 năm của Chiêm tinh Trung Quốc. Ngày 1 tháng 5 năm 1865 (ngày 7 tháng 4 năm 1865 âm lịch): Đổi niên hiệu thành Khánh Ứng. Sự kiện thời kỳ Nguyên Trị Tháng 3 (năm Nguyên Trị): Khởi nghĩa Kantō xảy ra trong khu vực phiên Mito Ngày 8 tháng 7 năm 1864 (năm Nguyên Trị, ngày 5 tháng 6 âm lịch): Sự kiện Ikedaya xảy ra tại quán trọ Ikedaya ở Kyoto. Ngày 12 tháng 8 năm 1864 (năm Nguyên Trị, ngày 11 tháng 7 âm lịch): Sakuma Shōzan bị ám sát ở tuổi 53. Ông đã đi từ Edo đến Kyoto theo lệnh của Mạc phủ để giải thích ý tưởng của mình và xin phép việc mở cửa đất nước, nhưng đã bị ám sát dưới bàn tay của một người theo tư tưởng Tôn hoàng nhương di. Ngày 5–6 tháng 9 năm 1864 (năm Nguyên Trị, ngày 5-6 tháng 8 âm lịch): Pháo kích Shimonoseki. Xem thêm Gia tộc Minamoto Seiwa Genji Truyện kể Genji Chú thích Liên kết ngoài Thư viện Quốc hội, "Lịch Nhật Bản" - tổng quan lịch sử và hình ảnh minh họa từ bộ sưu tập của thư viện. Niên hiệu Nhật Bản Thời kỳ Edo Bakumatsu
19812337
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20ngo%C3%A0i%20kh%C6%A1i%20Tokachi%202003
Động đất ngoài khơi Tokachi 2003
, xảy ra vào lúc 4:50 (theo giờ địa phương) ngày 26 tháng 9. Trận động đất có cường độ 8.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 27 km. Ngay sau khi động đất xảy ra, Cơ quan khí tượng Nhật Bản đã phát cảnh báo sóng thần lớn, ước tính chiều cao tối đa sóng thần trên 3 m. Hậu quả trận động đất đã làm 1 người chết (do sóng thần), 849 người bị thương. Các sự cố mất điện và sạt lở đất xảy ra trên diện rộng. Trận động đất có thể cảm nhận được trên khắp Nhật Bản, kéo dài đến tận vùng Kantō. Động đất ngoài khơi Tokachi 2003 là trận động đất mạnh nhất Nhật Bản ở thế kỷ XXI. Tuy nhiên, kỷ lục đã bị phá vỡ vào năm 2011 do trận động đất và sóng thần Tōhoku 2011. Tham khảo Động đất năm 2003 Nhật Bản năm 2003
19812343
https://vi.wikipedia.org/wiki/Caion%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
Caion (cầu thủ bóng đá)
Herlison Caion de Sousa Ferreira (sinh ngày 5 tháng 10 năm 1990), còn được gọi là Caion, là một cầu thủ bóng đá người Brasil thi đấu ở vị trí tiền đạo cho Hà Nội FC tại V.League 1. Tham khảo Liên kết ngoài Profile trên Paysandu Sinh năm 1990 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Brasil Cầu thủ bóng đá Brasil ở nước ngoài Tiền đạo bóng đá Cầu thủ bóng đá Iraty Sport Club Cầu thủ bóng đá Ferroviário Atlético Clube (CE) Cầu thủ bóng đá Sociedade Esportiva e Recreativa Caxias do Sul Cầu thủ bóng đá Gangwon FC Cầu thủ bóng đá Daegu FC Cầu thủ bóng đá Mirassol Futebol Clube Cầu thủ bóng đá Clube Náutico Capibaribe Cầu thủ bóng đá Associação Chapecoense de Futebol Cầu thủ bóng đá Grêmio Osasco Audax Esporte Clube Cầu thủ bóng đá Associação Portuguesa de Desportos Cầu thủ bóng đá Selangor F.C. Cầu thủ bóng đá Malaysia Super League Cầu thủ bóng đá K League 1 Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série B Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hàn Quốc Vận động viên thể thao Brasil ở Hàn Quốc Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Iraq Vận động viên thể thao Brasil ởIraq Cầu thủ bóng đá Al-Shorta SC Cầu thủ bóng đá Paysandu Sport Club Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thái Lan Vận động viên thể thao Brasil ở Thái Lan Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Việt Nam Vận động viên thể thao Brasil ở Việt Nam Cầu thủ bóng đá Thai League 1 Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ bóng đá Navy F.C. Cầu thủ bóng đá PT Prachuap F.C. Cầu thủ bóng đá Chonburi F.C. Cầu thủ bóng đá Suphanburi F.C. Cầu thủ bóng đá Police Tero F.C. Cầu thủ bóng đá Muangkan United F.C. Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Hà Nội (2016)
19812344
https://vi.wikipedia.org/wiki/Reiss%20Nelson
Reiss Nelson
Reiss Luke Nelson ( ; sinh ngày 10 tháng 12 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Arsenal tại Premier League và đội tuyển quốc gia Anh. Tham khảo Liên kết ngoài Profile trên Arsenal F.C. website Profile trên Football Association website Sinh năm 1999 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá Anh ở nước ngoài Tiền vệ bóng đá Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C. Cầu thủ bóng đá TSG 1899 Hoffenheim Cầu thủ bóng đá Feyenoord Rotterdam Cầu thủ bóng đá Premier League Cầu thủ bóng đá Bundesliga Cầu thủ bóng đá Eredivisie Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hà Lan
19812345
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arthur%20Okonkwo
Arthur Okonkwo
Arthur Chukwuezugo Okonkwo (sinh ngày 9 tháng 9 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Arsenal tại Premier League. Danh hiệu Sturm Graz Cúp bóng đá Áo: 2022-23 Tham khảo Sinh năm 1999 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá Anh ở nước ngoài Thủ môn bóng đá Cầu thủ bóng đá Đại Luân Đôn Vận động viên người Anh da đen Vận động viên người Anh gốc Nigeria Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C. Cầu thủ bóng đá Crewe Alexandra F.C. Cầu thủ bóng đá SK Sturm Graz Cầu thủ bóng đá English Football League Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Áo Vận động viên thể thao Anh ở Áo
19812346
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20Trung%20Vinh
Lê Trung Vinh
Lê Trung Vinh (sinh ngày 27 tháng 1 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Mỹ gốc Việt hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh trái cho câu lạc bộ Bà Rịa – Vũng Tàu tại Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia Việt Nam theo dạng cho mượn từ câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh. Sự nghiệp thi đấu Thành phố Hồ Chí Minh Ngày 1 tháng 3 năm 2023, Lê Trung Vinh ký hợp đồng với câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam nhưng chỉ được đăng kí thi đấu ở Cúp Quốc gia. Cho mượn tại Bà Rịa - Vũng Tàu Vào ngày 13 tháng 6 năm 2023, anh gia nhập câu lạc bộ Bà Rịa – Vũng Tàu và thi đấu tại Giải Hạng Nhất Quốc gia do Thành phố Hồ Chí Minh mượn thủ môn Patrik Lê Giang từ câu lạc bộ Công an Hà Nội. Vì mỗi đội bóng tại V.League chỉ được đăng kí duy nhất một cầu thủ Việt kiều chưa có quốc tịch Việt Nam nên Lê Trung Vinh phải tạm chia tay đội bóng và chuyển sang khoác áo Bà Rịa – Vũng Tàu dưới dạng cho mượn. Tham khảo Sinh năm 2003 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Việt Nam Cầu thủ bóng đá Mỹ Tiền vệ bóng đá Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Thành phố Hồ Chí Minh Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Bà Rịa Vũng Tàu Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam Cầu thủ giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Việt Nam Người Mỹ gốc Việt
19812351
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20tham%20quan
Thuyền tham quan
Thuyền tham quan (Tour boat) là một con thuyền được sử dụng, và thường được thiết kế hoặc điều chỉnh kết cấu phục vụ cho mục đích chuyên chở khách tham quan trên những chuyến tham quan bằng thuyền/ghe (boat tour) là một loại hình du lịch thường được có ở các thị trấn và phố cổ được nhiều người ghé thăm mà nơi đây có những kênh đào hoặc một dòng sông chảy qua đô thị này, hoặc đô thị đó nằm trên bờ biển hoặc có hồ bao quanh. Kết cấu Để tối đa hóa tầm nhìn ra khung cảnh bên ngoài cho tất cả hành khách (đã trả tiền), chiếc thuyền tham quan du lịch thường được thiết kế với số lượng và kích thước cửa sổ tối đa, có thể bao gồm cả mái nhà bằng kính, đôi khi tạo ra dạng nhà kính giống như cấu trúc thượng tầng. Để có thể đi qua những chiếc cầu nhỏ, thấp, đôi khi có tuổi đời hàng thế kỷ bắc qua những con kênh ở trung tâm thành phố có tính lịch sử, những chiếc thuyền để du lịch như vậy có thể có thiết kế rất đặc biệt, nằm sát mặt nước, với hành khách đôi khi ngồi cao đến thắt lưng, bên dưới dòng nước, cũng như ngắn và hẹp, để cho phép thực hiện các vòng cua rất gấp quanh các con kênh. Để giảm thiểu gánh nặng đối với cư dân địa phương và/hoặc môi trường tự nhiên, thuyền du lịch có thể chạy bằng động cơ hoặc chèo để chạy êm, không khí thải thông qua cơ chế ổ điện. Năm 2004, Trung tâm nghiên cứu năng lượng Hà Lan (ECN) và Canal Cruises Delft đã nghiên cứu tùy chọn chạy các chuyến tham quan bằng cách sử dụng pin nhiên liệu hydro. Tại Amsterdam, một chiếc thuyền du lịch chạy bằng năng lượng hydro có sức chứa 100 hành khách đã được đưa vào hoạt động vào năm 2006. Tại Hà Lan, công ty Amfibus đã chế tạo nhiều loại xe buýt du lịch lội nước được chế tạo theo mục đích, được đẩy đi bằng máy bơm phản lực khi ở dưới nước. Amfibus ở Rotterdam đã hoạt động từ năm 2011 để phục vụ khách du lịch, thực hiện được khoản 1.200 chuyến mỗi năm, chuyên chở khoảng 40.000 hành khách. Vào năm 2010, các chuyến tham quan bằng thuyền qua Kênh Amsterdam Grachtengordel đã đón một kỷ lục 3.072.000 du khách, khiến chúng trở thành điểm thu hút khách du lịch bận rộn nhất ở quốc gia này Chú thích Du lịch
19812358
https://vi.wikipedia.org/wiki/WTA%20German%20Open%202023
WTA German Open 2023
WTA German Open 2023 (còn được biết đến với bett1open vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cỏ ngoài trời tại Rot-Weiss Tennis Club ở Berlin, Đức từ ngày 19 đến ngày 25 tháng 6 năm 2023. Đây là lần thứ 96 giải đấu được tổ chức, và là một phần của WTA 500 trong WTA Tour 2023. Điểm và tiền thưởng Phân phối điểm Nội dung đơn Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 12 tháng 6 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Veronika Kudermetova Sabine Lisicki Markéta Vondroušová Bảo toàn thứ hạng: Nadia Podoroska Vượt qua vòng loại: Jaimee Fourlis Polina Kudermetova Jule Niemeier Laura Siegemund Wang Xinyu Vera Zvonareva Thua cuộc may mắn: Elina Avanesyan Rút lui Paula Badosa → thay thế bởi Kateřina Siniaková Belinda Bencic → thay thế bởi Bianca Andreescu Petra Martić → thay thế bởi Elina Avanesyan Jessica Pegula → thay thế bởi Nadia Podoroska Shelby Rogers → thay thế bởi Aliaksandra Sasnovich Sloane Stephens → thay thế bởi Varvara Gracheva Martina Trevisan → thay thế bởi Anna Blinkova Nội dung đôi Hạt giống Bảng xếp hạng vào ngày 12 tháng 6 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Daria Kasatkina / Sabine Lisicki Jule Niemeier / Noma Noha Akugue Rút lui Nhà vô địch Đơn Petra Kvitová đánh bại Donna Vekić, 6–2, 7–6(8–6) Đôi Caroline Garcia / Luisa Stefani đánh bại Kateřina Siniaková / Markéta Vondroušová 4–6, 7–6(10–8), [10–4] Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức Trang web trên WTA German Open 2023 WTA Tour 2023 Quần vợt Đức năm 2023
19812364
https://vi.wikipedia.org/wiki/Monaco-Ville
Monaco-Ville
Monaco-Ville hay Thành phố Monaco (tiếng Pháp: Monaco-Ville; tiếng Liguri: Mu̍negu Autu) là một phường của Công quốc Monaco. Nằm trên một mũi đất kéo dài ra biển Địa Trung Hải, Monaco-Ville còn có một biệt danh tên là "Tảng Đá" (tiếng Pháp: Le Rocher; tiếng Liguria: A Roca). Cái tên "Monaco-Ville" hoặc "Monaco City" thường dễ gây hiểu lầm cho một số người: bản thân nó không phải là một thành phố, Monaco-Ville là một quận lịch sử và quận thống kê. Nó nắm giữ hầu hết các cơ quan chính trị và tư pháp của công quốc: Hoàng cung, toà thị chính, chính phủ, quốc hội, v.v Địa lý Monaco-Ville là một trong bốn quận truyền thống (tiếng Pháp: quartiers) của Monaco; những người khác là La Condamine, Monte Carlo và Fontvieille. Monaco-Ville này tọa lạc tại 43°43′51″B 7°25′26″E và có dân số ước tính là 975 người. Phường này có diện tích 19,64 ha và nằm giữa các quận Fontvieille và La Condamine. Lịch sử Monaco Ville ban đầu được gọi theo tiếng Hy Lạp là Monoikos, theo tên ngôi đền Hercules Monoikos, nằm trong một thuộc địa của Phocaean vào thế kỷ thứ 6 TCN. Trong lịch sử của nó, Monoikos đã đổi chủ nhiều lần. Nó đã trở thành Monaco trong thời Trung cổ. Một số bức tường thành phố và cấu trúc ban đầu vẫn còn. Chính tại đây, những người Phocaean của Massalia (nay là Marseille) đã thành lập thuộc địa Monoïkos vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Monoikos được liên kết với Hercules, người được tôn thờ là Hercules Monoecus. Theo các tác phẩm của Hercules, cũng như theo Diodorus của Sicily và Strabo, người Hy Lạp và người Liguria báo cáo rằng Hercules đã đi qua khu vực này. Vào ngày 10 tháng 6 năm 1215, một đội Ghibellines do Fulco del Cassello chỉ huy bắt đầu xây dựng một pháo đài trên đá Monaco nhằm biến nó thành một vị trí quân sự chiến lược và là phương tiện kiểm soát khu vực. Họ cũng thành lập những ngôi nhà ở chân tảng đá để hỗ trợ các đơn vị đồn trú. Để thu hút cư dân của Genova và các thị trấn xung quanh, họ đã cung cấp đất đai và miễn thuế cho những người mới đến. Ngày 8 tháng 1 năm 1297, François Grimaldi, hậu duệ của Otto Canella, lãnh sự của Genoa năm 1133, chiếm pháo đài. Mặc dù có một đội quân nhỏ, nhưng anh ta đã cải trang thành một tu sĩ dòng Franciscans để vào, trước khi mở cổng cho binh lính của mình. Tình tiết này đã làm nảy sinh biệt danh của anh ấy, Malizia ("ác ý"). Đây là lý do tại sao ngày nay các cánh tay của Monaco có hình hai tu sĩ dòng Franciscans được trang bị một thanh kiếm.
19812366
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20%C4%90%C3%A0%20L%E1%BA%A1t%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Đại học Đà Lạt (định hướng)
Đại học Đà Lạt có thể chỉ đến: Viện Đại học Đà Lạt: một viện đại học tư thục ở thành phố Đà Lạt, thành lập vào năm 1957 dưới chính thể Việt Nam Cộng hoà. Trường Đại học Đà Lạt: một trường đại học công lập ở thành phố Đà Lạt, thành lập vào năm 1976 trên cơ sở Viện Đại học Đà Lạt.
19812368
https://vi.wikipedia.org/wiki/Douglas%20Tardin
Douglas Tardin
Douglas Rosa Tardin (sinh ngày 8 tháng 1 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Brasil hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Khánh Hòa tại V.League 1. Tham khảo Cầu thủ bóng đá Brasil ở nước ngoài Nhân vật còn sống Sinh năm 1992
19812369
https://vi.wikipedia.org/wiki/Memrise%20Inc.
Memrise Inc.
Memrise là một nền tảng học ngôn ngữ sử dụng Kỹ thuật lặp lại ngắt quãng để tăng khả năng ghi nhớ ,kết hợp với "Đối tác ngôn ngữ AI" do GPT3 cung cấp, cho phép người học thực hành các cuộc hội thoại gần giống con người, Memrise tin rằng có thể giúp người học vượt qua“lỗ hổng tự tin” trong việc học ngôn ngữ Hiện nay ứng dụng này đang có 16 ngôn ngữ khác nhau . Tính đến năm 2018, ứng dụng đã có 35 triệu người dùng đăng ký và đến năm 2016 ứng dụng đã có doanh thu và kiếm được 4 triệu USD hàng tháng . Lịch sử ứng dụng Memrise được thành vào tháng 9 nắm 2010 bởi Ed Cooked cùng với đồng sáng lập Ben Whately và Greg Detre , Vào ngày 1 tháng 10 năm 2012, 100 người dùng đã được phép đăng ký để thử nghiệm phiên bản Memrise 1.0 .Kể từ tháng 5 năm 2013, ứng dụng Memrise đã đưa lên Google Play và App Store (iOS/iPadOS) Tính đến tháng 1 năm 2020, ứng dụng đã được đầu tư 21,8 triệu đô la đầu tư trong tổng số bảy vòng hạt giống Phương pháp học Memrise có nhiều nội dung và chủ đề khác nhau do người dùng tạo ra và giống như Duolingo Memrise giúp người sử dụng "vừa học vừa chơi" Hiện nay ứng dụng này đang có 16 ngôn ngữ khác nhaukết hợp với bài học do GTP3 cung cấp, cho phép người học thực hành các cuộc hội thoại giống như con người Lặp lại ngắt quãng Memrise giúp người sử dụng "vừa học vừa chơi" giống như Duolingo ,sử dụng phương pháp lặp lại ngắt quãng nghĩa là là kỹ thuật gia tăng thời gian giữa những lần ôn tập, tức lặp đi lặp lại những kiến thức đã học theo chu kỳ giúp tăng khả năng ghi nhớ kiến thức đã học Ưu điểm và nhược điểm Ưu điểm Kho từ vựng đồ sộ. Bài học linh hoạt, dễ hiểu. Các khóa học kết hợp với nhiều phương pháp học thông minh, hiệu quả. Vừa học vừa chơi thông qua các mini game vui nhộn, tạo cảm giác hứng thú cho người học. Phù hợp với từng người dùng từ cơ bản đến nâng cao. Nhược điểm Tài khoản miễn phí hạn chế một số tính năng như cho phép người dùng học về phát âm, luyện kĩ năng nghe, nắm vững ngữ pháp… Bài tập đơn giản, nên dễ gây nhàm cho người đã biết trước . Giải thưởng Vào tháng 7 năm 2010, Memrise được vinh danh trong giải London Mini-Seedcamp.Vào tháng 11 năm 2010,Memrise được vinh danh là một trong những ứng cử viên cuối cùng cho Công ty khởi nghiệp của năm tại TechCrunch EuropasVào tháng 3 năm 2011, Memrise tiếp tục được bầu chọn là một trong những công ty khởi nghiệp của Techstars Boston. Vào tháng 5 năm 2017, Memrise được vinh danh là "Ứng dụng tốt nhất" tại giải thưởng Google Play lần thứ hai. Tham khảo
19812370
https://vi.wikipedia.org/wiki/WTA%20German%20Open%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
WTA German Open 2023 - Đơn
Petra Kvitová là nhà vô địch, đánh bại Donna Vekić trong trận chung kết, 6–2, 7–6(8–6). Đây là danh hiệu WTA Tour thứ 31 của Kvitová. Ons Jabeur là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 1 trước Jule Niemeier. Hạt giống Kết quả Chung kết {{4TeamBracket-Tennis3 |RD1=Bán kết |RD2=Chung kết |team-width=175 |RD1-seed1=  |RD1-team1= Ekaterina Alexandrova |RD1-score1-1=3 |RD1-score1-2=4 |RD1-score1-3= |RD1-seed2=7 |RD1-team2= Petra Kvitová |RD1-score2-1=6|RD1-score2-2=6|RD1-score2-3= |RD1-seed3=6 |RD1-team3= Maria Sakkari |RD1-score3-1=4 |RD1-score3-2=68 |RD1-score3-3= |RD1-seed4=  |RD1-team4= Donna Vekić|RD1-score4-1=6|RD1-score4-2=710|RD1-score4-3= |RD2-seed1=7 |RD2-team1= Petra Kvitová|RD2-score1-1=6|RD2-score1-2=78|RD2-score1-3= |RD2-seed2=  |RD2-team2= Donna Vekić |RD2-score2-1=2 |RD2-score2-2=66 |RD2-score2-3= }} Nửa trên Nửa dưới Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Elina Avanesyan''' Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Vòng loại thứ 5 Vòng loại thứ 6 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại WTA Tour 2023 Đơn 2023
19812371
https://vi.wikipedia.org/wiki/WTA%20German%20Open%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i
WTA German Open 2023 - Đôi
Storm Hunter và Kateřina Siniaková là đương kim vô địch, nhưng Hunter chọn tham dự ở Birmingham. Siniaková đánh cặp với Markéta Vondroušová, nhưng thua trong trận chung kết trước Caroline Garcia và Luisa Stefani, 6–4, 6–7(8–10), [4–10]. Hạt giống Kết quả Kết quả Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính WTA Tour 2023 WTA German Open 2023 - Đôi
19812381
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Nh%C6%B0%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Anh
Nguyễn Như Đức Anh
Nguyễn Như Đức Anh (sinh ngày 2 tháng 1 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá người Đức gốc Việt thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Hải Phòng tại V.League 1. Sự nghiệp Trước mùa giải 2023, Đức Anh gia nhập Hải Phòng. Anh ra mắt vào ngày 18 tháng 2 trong trận thua 2–3 trước Hồng Lĩnh Hà Tĩnh. Ở trận đấu này, Đức Anh được thử nghiệm đá tiền đạo trong 3 phút cuối. Tham khảo Sinh năm 2000 Người Đức gốc Việt Cầu thủ câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng Nhân vật còn sống Vận động viên gốc Việt Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
19812392
https://vi.wikipedia.org/wiki/Birmingham%20Classic%202023
Birmingham Classic 2023
Birmingham Classic 2023 (còn được biết đến với Rothesay Classic Birmingham vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nữ thi đấu trên mặt sân cỏ ngoài trời. Đây là lần thứ 41 giải đấu được tổ chức, và là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Edgbaston Priory Club ở Birmingham, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, từ ngày 19–25 tháng 6 năm 2023. Điểm và tiền thưởng Phân phối điểm Nội dung đơn Hạt giống 1 Bảng xếp hạng vào ngày 12 tháng 6 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Jodie Burrage Harriet Dart Elina Svitolina Venus Williams Bảo toàn thứ hạng: Barbora Strýcová Miễn đặc biệt: Katie Boulter Vượt qua vòng loại: Emina Bektas Ana Bogdan Cristina Bucșa Magdalena Fręch Tereza Martincová Wang Xiyu Thua cuộc may mắn: Rebecca Marino Viktoriya Tomova Rút lui Beatriz Haddad Maia → thay thế bởi Viktoriya Tomova Elisabetta Cocciaretto → thay thế bởi Rebecca Marino Madison Keys → thay thế bởi Linda Fruhvirtová Elise Mertens → thay thế bởi Lauren Davis Ajla Tomljanović → thay thế bởi Caty McNally Nội dung đôi Hạt giống 1 Bảng xếp hạng vào ngày 12 tháng 6 năm 2023. Vận động viên khác Đặc cách: Alicia Barnett / Olivia Nicholls Freya Christie / Ali Collins Nhà vô địch Đơn Jeļena Ostapenko đánh bại Barbora Krejčíková, 7–6(10–8), 6–4 Đôi Marta Kostyuk / Barbora Krejčíková đánh bại Storm Hunter / Alycia Parks, 6–2, 7–6(9–7) Tham khảo Liên kết ngoài WTA Tour 2023 2023 Quần vợt Anh năm 2023
19812393
https://vi.wikipedia.org/wiki/Birmingham%20Classic%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
Birmingham Classic 2023 - Đơn
Jeļena Ostapenko là nhà vô địch, đánh bại Barbora Krejčíková trong trận chung kết, 7–6(10–8), 6–4. Beatriz Haddad Maia là đương kim vô địch, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên Nửa dưới Vòng loại Hạt giống Vượt qua vòng loại Thua cuộc may mắn Kết quả vòng loại Vòng loại thứ 1 Vòng loại thứ 2 Vòng loại thứ 3 Vòng loại thứ 4 Vòng loại thứ 5 Vòng loại thứ 6 Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Kết quả vòng loại Birmingham Classic 2023 - Đơn WTA Tour 2023
19812394
https://vi.wikipedia.org/wiki/Birmingham%20Classic%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i
Birmingham Classic 2023 - Đôi
Marta Kostyuk và Barbora Krejčíková là nhà vô địch, đánh bại Storm Hunter và Alycia Parks trong trận chung kết, 6–2, 7–6(9–7). Lyudmyla Kichenok và Jeļena Ostapenko là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng bán kết trước Hunter và Parks. Hạt giống Kết quả Kết quả Tham khảo Liên kết ngoài Kết quả vòng đấu chính Trang web trên WTA Birmingham Classic - Đôi Đôi 2023 Quần vợt Anh năm 2023
19812403
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tom%20King%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
Tom King (cầu thủ bóng đá)
Thomas Lloyd King (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers. King từng thi đấu cho U17 Anh nhưng cuối cùng chọn thi đấu cho đội tuyển Wales ở cấp độ chuyên nghiệp, đủ điều kiện vì có mẹ là người nước này. King được gọi lên tuyển Wales lần đầu vào tháng 11 năm 2019. Tham khảo Sinh năm 1995 Cầu thủ bóng đá Cầu thủ bóng đá Wales Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá Wolverhampton Wanderers F.C.
19812406
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nuno%20Tavares
Nuno Tavares
Nuno Albertino Varela Tavares (sinh ngày 26 tháng 1 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Arsenal tại Premier League. Danh hiệu Benfica Supertaça Cândido de Oliveira: 2019 Tham khảo Liên kết ngoài Arsenal official profile Premier League official profile Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha Nhân vật còn sống Vận động viên Bồ Đào Nha gốc Cabo Verde Vận động viên người Bồ Đào Nha da đen Cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha Cầu thủ bóng đá người Lisbon Hậu vệ bóng đá Cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá Liga Portugal 2 Cầu thủ bóng đá Casa Pia A.C. Cầu thủ bóng đá Sporting CP Cầu thủ bóng đá S.L. Benfica B Cầu thủ bóng đá Premier League Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C. Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ bóng đá Olympique de Marseille Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Bồ Đào Nha Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Bồ Đào Nha Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp Vận động viên thể thao Bồ Đào Nha ở Anh Vận động viên thể thao Bồ Đào Nha ở Pháp
19812407
https://vi.wikipedia.org/wiki/IPadOS%2017
IPadOS 17
iPadOS 17 là bản phát hành chính thứ năm của hệ điều hành iPadOS do Apple phát triển cho dòng máy tính bảng iPad. Phiên bản kế nhiệm của iPadOS 16, nó đã được công bố tại Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu (WWDC) của công ty vào ngày 5 tháng 6 năm 2023 và dự kiến được phát hành vào cuối năm 2023 cùng với iOS 17. iPadOS 17 ngừng hỗ trợ cho iPad Pro thế hệ đầu tiên và iPad thế hệ thứ năm, khiến nó trở thành phiên bản iPadOS đầu tiên dành riêng cho iPad có hỗ trợ Apple Pencil, cũng như phiên bản iPadOS đầu tiên ngừng hỗ trợ cho iPad Pro. Hiện tại, hệ điều hành này đang ở giai đoạn thử nghiệm và được mở cho những người đã đăng ký Chương trình Nhà phát triển của Apple. Phiên bản beta công khai dự kiến sẽ phát hành vào tháng 7 năm 2023. Phiên bản cuối cùng sẽ phát hành vào tháng 9 năm 2023. Tính năng Màn hình khóa Màn hình khóa đã được thiết kế lại để phù hợp với giao diện của iOS 16 trở lên. Xử lý tài liệu PDF iPadOS hiện có thể xác định các trường biểu mẫu PDF để nhập văn bản nhanh hơn. Siri Giờ đây, người dùng có thể chỉ cần nói "Siri" thay vì "Hey Siri" để kích hoạt Siri bằng giọng nói. Sức khỏe Ứng dụng Apple Health hiện khả dụng trên iPad. Ghi chú Ứng dụng Ghi chú hiện hỗ trợ cộng tác theo thời gian thực giữa những người dùng trong tài liệu PDF. Mail Khi bạn nhận được mã xác minh qua email, ứng dụng Mail sẽ tự động nhập mã vào hộp có ghi mã đã gửi. Tương thích (Thiết bị được hỗ trợ) iPadOS 17 yêu cầu chip A10 trở lên, có nghĩa là nó không hỗ trợ các mẫu iPad có chip A9 và A9X, chẳng hạn như iPad Pro (thế hệ 1) và iPad (thế hệ thứ 5). Các thiết bị có SoC A10 hoặc A10X (iPad Pro thế hệ thứ 2, iPad thế hệ thứ 6 và iPad thế hệ thứ 7) có hỗ trợ hạn chế. Các thiết bị có chip A12, A12X, A12Z hoặc A13 nhận được các tính năng bổ sung khác không có trên các mẫu cũ hơn; các thiết bị có chip A14 hoặc A15 được hỗ trợ gần như đầy đủ, trong khi các thiết bị có chip M1 trở lên nhận được hỗ trợ đầy đủ. iPad (thế hệ thứ 6) iPad (thế hệ thứ 7) iPad (thế hệ thứ 8) iPad (thế hệ thứ 9) iPad (thế hệ thứ 10) iPad Air (thế hệ thứ 3) iPad Air (thế hệ thứ 4) iPad Air (thế hệ thứ 5) iPad Mini (thế hệ thứ 5) iPad Mini (thế hệ thứ 6) iPad Pro 10.5-inch iPad Pro 12.9-inch (thế hệ thứ 2) iPad Pro 11-inch (thế hệ thứ 1) iPad Pro 12.9-inch (thế hệ thứ 3) iPad Pro 11-inch (thế hệ thứ 2) iPad Pro 12.9-inch (thế hệ thứ 4) iPad Pro 11-inch (thế hệ thứ 3) iPad Pro 12.9-inch (thế hệ thứ 5) iPad Pro 11-inch (thế hệ thứ 4) iPad Pro 12.9-inch (thế hệ thứ 6) Lịch sử phát hành Xem thêm iOS 17 macOS Sonoma tvOS 17 watchOS 10 Tham khảo Hệ điều hành di động IPad Phần mềm năm 2023 Sản phẩm được giới thiệu năm 2023
19812410
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marquinhos%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%2C%20sinh%202003%29
Marquinhos (cầu thủ bóng đá, sinh 2003)
Marcus Vinicius Oliveira Alencar (sinh ngày 7 tháng 4 năm 2003), thường được biết đến với cái tên Marquinhos, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Brasil thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Arsenal tại Premier League. Danh hiệu São Paulo Campeonato Paulista: 2021 Tham khảo Liên kết ngoài Marquinhos trên Arsenal F.C. website Marquinhos trên Premier League website Sinh năm 2003 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Brasil Cầu thủ bóng đá Brasil ở nước ngoài Tiền đạo bóng đá Cầu thủ bóng đá người São Paulo Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Brasil Cầu thủ bóng đá Campeonato Brasileiro Série A Cầu thủ bóng đá Premier League Cầu thủ bóng đá São Paulo FC Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C. Vận động viên thể thao Brasil ở Anh Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
19812413
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20v%E1%BB%8B%20c%E1%BB%A7a%20thori
Đồng vị của thori
Thori (90Th) có bảy đồng vị xuất hiện tự nhiên nhưng không có đồng vị nào ổn định. Đồng vị 232Th tương đối ổn định, với chu kỳ bán rã khoảng , dài hơn đáng kể so với tuổi của Trái Đất và thậm chí dài hơn một chút so với tuổi của vũ trụ. Đồng vị này chiếm gần như toàn bộ lượng thori tự nhiên, vì vậy nó được coi là đơn nhân. Tuy nhiên, vào năm 2013, IUPAC đã phân loại lại thori là nguyên tố hai nhân, do có một lượng lớn 230Th trong nước biển sâu. 31 đồng vị phóng xạ đã được xác định đặc điểm, trong đó ổn định nhất là 232Th với chu kỳ bán rã khoảng , 230Th với chu kỳ khoảng 75.380 năm, 229Th với chu kỳ khoảng 7.917 năm, và 228Th với chu kỳ khoảng 1,92 năm. Tất cả các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn ba mươi ngày, phần lớn trong số này có chu kỳ bán rã nhỏ hơn mười phút. Đồng vị 229Th có đồng phân hạt nhân với excitation energy thấp đáng kể, được đo gần đây là 8,28 ± 0,17 eV. Các đồng vị đã biết của thori có số khối từ 207 đến 238. Danh sách các đồng vị |- | 207Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 117 | | 9.7(+46.6−4.4) ms | α | 203Ra | | | |- | 208Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 118 | 208.01791(4) | 1.7(+1.7-0.6) ms | α | 204Ra | 0+ | | |- | 209Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 119 | 209.01772(11) | 7(5) ms[3.8(+69−15)] | α | 205Ra | 5/2−# | | |- | rowspan=2|210Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 120 | rowspan=2|210.015075(27) | rowspan=2|17(11) ms[9(+17−4) ms] | α | 206Ra | rowspan=2|0+ | rowspan=2| | rowspan=2| |- | β+ (hiếm) | 210Ac |- | rowspan=2|211Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 121 | rowspan=2|211.01493(8) | rowspan=2|48(20) ms[0.04(+3−1) s] | α | 207Ra | rowspan=2|5/2−# | rowspan=2| | rowspan=2| |- | β+ (rare) | 211Ac |- | rowspan=2|212Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 122 | rowspan=2|212.01298(2) | rowspan=2|36(15) ms[30(+20-10) ms] | α (99.7%) | 208Ra | rowspan=2|0+ | rowspan=2| | rowspan=2| |- | β+ (.3%) | 212Ac |- | rowspan=2|213Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 123 | rowspan=2|213.01301(8) | rowspan=2|140(25) ms | α | 209Ra | rowspan=2|5/2−# | rowspan=2| | rowspan=2| |- | β+ (rare) | 213Ac |- | 214Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 124 | 214.011500(18) | 100(25) ms | α | 210Ra | 0+ | | |- | 215Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 125 | 215.011730(29) | 1.2(2) s | α | 211Ra | (1/2−) | | |- | rowspan=2|216Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 126 | rowspan=2|216.011062(14) | rowspan=2|26.8(3) ms | α (99.99%) | 212Ra | rowspan=2|0+ | rowspan=2| | rowspan=2| |- | β+ (.006%) | 216Ac |- | style="text-indent:1em" | 216m1Th | | colspan="3" style="text-indent:2em" | 2042(13) keV | 137(4) μs | | | (8+) | | |- | style="text-indent:1em" | 216m2Th | | colspan="3" style="text-indent:2em" | 2637(20) keV | 615(55) ns | | | (11−) | | |- | 217Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 127 | 217.013114(22) | 240(5) μs | α | 213Ra | (9/2+) | | |- | 218Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 128 | 218.013284(14) | 109(13) ns | α | 214Ra | 0+ | | |- | rowspan=2|219Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 129 | rowspan=2|219.01554(5) | rowspan=2|1.05(3) μs | α | 215Ra | rowspan=2|9/2+# | rowspan=2| | rowspan=2| |- | β+ (10−7%) | 219Ac |- | rowspan=2|220Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 130 | rowspan=2|220.015748(24) | rowspan=2|9.7(6) μs | α | 216Ra | rowspan=2|0+ | rowspan=2| | rowspan=2| |- | EC (2×10−7%) | 220Ac |- | 221Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 131 | 221.018184(10) | 1.73(3) ms | α | 217Ra | (7/2+) | | |- | rowspan=2|222Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 132 | rowspan=2|222.018468(13) | rowspan=2|2.237(13) ms | α | 218Ra | rowspan=2|0+ | rowspan=2| | rowspan=2| |- | EC (1.3×10−8%) | 222Ac |- | 223Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 133 | 223.020811(10) | 0.60(2) s | α | 219Ra | (5/2)+ | | |- | rowspan=2|224Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 134 | rowspan=2|224.021467(12) | rowspan=2|1.05(2) s | α | 220Ra | rowspan=2|0+ | rowspan=2| | rowspan=2| |- | CD (rare) | 208Pb16O |- | rowspan=2|225Th | rowspan=2| | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 135 | rowspan=2|225.023951(5) | rowspan=2|8.72(4) min | α (90%) | 221Ra | rowspan=2|(3/2)+ | rowspan=2| | rowspan=2| |- | EC (10%) | 225Ac |- | 226Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 136 | 226.024903(5) | 30.57(10) min | α | 222Ra | 0+ | | |- | 227Th | Radioactinium | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 137 | 227.0277041(27) | 18.68(9) d | α | 223Ra | 1/2+ | Trace | |- | rowspan=2|228Th | rowspan=2|Radiothorium | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 138 | rowspan=2|228.0287411(24) | rowspan=2|1.9116(16) y | α | 224Ra | rowspan=2|0+ | rowspan=2|Trace | rowspan=2| |- | CD (1.3×10−11%) | 208Pb20O |- | 229Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 139 | | 7.916(17)×103 y | α | 225Ra | 5/2+ | Trace | |- | style="text-indent:1em" | 229mTh | | colspan="3" style="text-indent:2em" | 8.3(2) eV | 7(1) μs | IT | 229Th | 3/2+ | | |- | rowspan=3|230Th | rowspan=3|Ioni | rowspan=3 style="text-align:right" | 90 | rowspan=3 style="text-align:right" | 140 | rowspan=3|230.0331338(19) | rowspan=3|7.538(30)×104 y | α | 226Ra | rowspan=3|0+ | rowspan=3|0.0002(2) | rowspan=3| |- | CD (5.6×10−11%) | 206Hg24Ne |- | SF (5×10−11%) | (Various) |- | rowspan=2|231Th | rowspan=2|Urani Y | rowspan=2 style="text-align:right" | 90 | rowspan=2 style="text-align:right" | 141 | rowspan=2|231.0363043(19) | rowspan=2|25.52(1) h | β− | 231Pa | rowspan=2|5/2+ | rowspan=2|Trace | rowspan=2| |- | α (10−8%) | 227Ra |- | rowspan=3|232Th | rowspan=3|Thori | rowspan=3 style="text-align:right" | 90 | rowspan=3 style="text-align:right" | 142 | rowspan=3|232.0380553(21) | rowspan=3|1.405(6)×1010 y | α | 228Ra | rowspan=3|0+ | rowspan=3|0.9998(2) | rowspan=3| |- | SF (1.1×10−9%) | (various) |- | CD (2.78×10−10%) | 182Yb26Ne24Ne |- | 233Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 143 | 233.0415818(21) | 21.83(4) min | β− | 233Pa | 1/2+ | | |- | 234Th | Urani X1 | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 144 | 234.043601(4) | 24.10(3) d | β− | 234mPa | 0+ | Trace | |- | 235Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 145 | 235.04751(5) | 7.2(1) min | β− | 235Pa | (1/2+)# | | |- | 236Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 146 | 236.04987(21)# | 37.5(2) min | β− | 236Pa | 0+ | | |- | 237Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 147 | 237.05389(39)# | 4.8(5) min | β− | 237Pa | 5/2+# | | |- | 238Th | | style="text-align:right" | 90 | style="text-align:right" | 148 | 238.0565(3)# | 9.4(20) min | β− | 238Pa | 0+ | | Tham khảo Đồng vị của thori Danh sách đồng vị theo nguyên tố Thori
19812417
https://vi.wikipedia.org/wiki/Livecasino
Livecasino
Công nghệ tài chính Livecasino.io là một nền tảng hoàn chỉnh để phân tích và nghiên cứu lại các sòng bạc trực tuyến, mà tỷ lệ sở hữu thông tin chi tiết và quan điểm của chúng tôi là một phần mở rộng của trò chơi sòng bạc với kẻ lừa đảo trong cuộc sống. Trang web này được tài trợ vào năm 2021 bởi một trang bị cho những người đam mê trò chơi điện tử và các chuyên gia trong lĩnh vực này. Este Equipo tenía como objetivo tạo ra một điều đáng tin cậy và bí mật cho những người yêu thích xe buýt có thể là một trải nghiệm sòng bạc trong cuộc sống của calidad. Nhiệm vụ của Livecasino là các dự án quan trọng theo tỷ lệ, hiện thực hóa và consejos có giá trị để người sử dụng có thể đưa ra quyết định cuối cùng thông báo về sự thanh lịch của nền tảng sòng bạc trong cuộc sống. La Plataforma tiene una sección de noticias que se realiza regularmente y que cubre los últimos avances de la Industry, lanzamientos de juegos and cambios Normativos. Además, Livecasino publica artículos informativos sobre đa dạng chủ đề liên quan đến trò chơi, giống như trò chơi có trách nhiệm, quy tắc của sòng bạc và sự phát triển của công nghệ trong lĩnh vực này Tham khảo