id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 184
322k
|
---|---|---|---|
19818058 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%E3%81%AE | の | の trong hiragana và ノ trong katakana là kana trong tiếng Nhật, cả hai đều đại diện cho một mora. Trong hệ thống thứ tự gojūon của các âm tiết tiếng Nhật, nó đứng ở vị trí thứ 25, giữa ね (ne) và は (ha). Nó đứng ở vị trí thứ 26 trong bài thơ Iroha. Cả hai đều đại diện cho âm [no]. Dạng katakana được viết tương tự như bộ thủ Khang Hi , bộ Phiệt.
Lịch sử
Giống như mọi ký tự hiragana khác, の được phát triển từ man'yōgana, kanji được sử dụng cho mục đích ngữ âm, được viết theo kiểu thảo thư.
Cũng có thể tìm thấy các dạng biến thể của kana の theo dạng hentaigana và gyaru-moji.
Thứ tự các nét
Để viết の, hãy bắt đầu ở phía trên phần trung tâm một chút, vuốt xuống theo đường chéo, sau đó làm một đường cong lên trên và tiếp tục uốn cong xung quanh, để lại một khoảng trống nhỏ ở phía dưới. Để viết ノ, chỉ cần thực hiện một đường cong cong từ trên cùng bên phải xuống dưới cùng bên trái.
Các cách thể hiện khác
Sử dụng
の là một phụ âm mũi-răng, được phát âm trên răng hàm trên, kết hợp với một nguyên âm tròn ở giữa để tạo thành một mora.
Trong tiếng Nhật, cũng như trong hình thành từ ngữ, の có thể là trợ từ thể hiện sự sở hữu. Ví dụ, cụm từ: "わたしのでんわ/watashi no denwa" nghĩa là "điện thoại của tôi".
Ở Trung Quốc
の cũng đã phổ biến trên các bảng hiệu và nhãn hiệu có chứa tiếng Trung Quốc trên thế giới. Nó được sử dụng thay cho dấu sở hữu trong chữ Hán giản thể 的 (de) hay dấu sở hữu trong chữ Hán phồn thể 之 (zhī), và の được phát âm giống như k tự tiếng Trung Quốc mà nó thay thế. Điều này thường được thực hiện để "nổi bật" hoặc để mang lại "cảm giác kỳ lạ/Nhật Bản", ví dụ: trong các nhãn hiệu thương mại, chẳng hạn như nhãn hiệu nước ép trái cây 鲜の每日C, trong đó の có thể được đọc theo cả hai kiểu: 之 (zhī), dấu sở hữu, và cả 汁 (zhī), nghĩa là "nước ép". Tại Hồng Kông, Cơ quan Đăng ký công ty đã mở rộng sự công nhận chính thức đối với thông lệ này và cho phép の được sử dụng trong tên tiếng Trung Quốc của các doanh nghiệp đã đăng ký; do đó, nó là biểu tượng không phải của tiếng Trung Quốc duy nhất theo thông lệ này (ngoài các dấu chấm câu không có giá trị phát âm).
Mã máy tính
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin về kana-no từ Nuthatch Graphics
Kana |
19818062 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1t%20b%C3%B3ng%20%28b%C3%B3ng%20ch%C3%A0y%29 | Phát bóng (bóng chày) | Trong bóng chày, phát bóng là hành động cố gắng đánh trúng quả bóng được ném bởi cầu thủ giao bóng bên đội đối phương để cố gắng chiếm chốt và ghi điểm. Cầu thủ phát bóng là người sẽ cố gắng phát bóng. Là một hành động hầu như chỉ có ở trong môn bóng chày và các môn thể thao bat-and ball khác, phát bóng liên quan đến việc quay trong mặt phẳng nằm ngang, không giống như hầu hết các chuyển động trong thể thao khác xảy ra trong mặt phẳng thẳng đứng.
Tham khảo
Bóng chày |
19818069 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Marinka%20%282022-nay%29 | Trận Marinka (2022-nay) | Trận Marinka là trận chiến diễn ra ở thị trấn Marinka giữa Lực lượng vũ trang Nga với quân ly khai Cộng hòa nhân dân Donetsk chống lại Lực lượng vũ trang Ukraina nằm trong chiến dịch Nga xâm lược Ukraina. Trận chiến bắt đầu khi pháo kích vào thị trấn Marinka với cường độ ngày càng tăng từ ngày 17 tháng 2 năm 2022 đến ngày 22 tháng 2 năm 2022, khi Nga công nhận độc lập cho DPR và giao tranh bắt đầu tại thị trấn vào ngày 17 tháng 3 năm 2022. Đến tháng 11 năm 2022, phần lớn thị trấn Marinka đã bị phá hủy, không còn dân thường và một số tòa nhà đổ nát còn sót lại sau cuộc giao tranh khốc liệt. Vào tháng 6 năm 2015, thị trấn Marinka là nơi diễn ra trận chiến gần Marinka một ngày, cuộc xung đột nghiêm trọng đầu tiên sau khi ký kết hiệp ước Minsk II vào tháng 2 năm 2014, trong đó các lực lượng Ukraine tái chiếm giữ thị trấn này trở lại sau một cuộc tấn công DPR.
Diễn biến
Đợt pháo kích đầu tiên vào Marinka bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 năm 2022, phương Tây cho rằng lực lượng DPR đã làm bị thương một nhân viên cứu trợ. Các cuộc pháo kích bắt đầu vào khoảng 9:30 sáng và kết thúc lúc 2:30 chiều, với tổng số khoảng 20 vụ nổ được ghi nhận. Pháo kích tăng cường trong những ngày trước khi Nga xâm lược Ukraine, giết chết hai binh sĩ Ukraina và làm bị thương bốn người khác. Cuộc chiến giành thành phố bắt đầu vào khoảng ngày 17 tháng 3 năm 2022, khi Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố sai sự thật rằng lực lượng DPR đã chiếm được Marinka. Theo phía Ukraina thì vào ngày 30-31 tháng 3 năm 2022, các dịch vụ khẩn cấp của Ukraine đã dập tắt "hàng chục đám cháy" bùng phát trong thị trấn do đạn phốt pho trắng tung ra từ lực lượng Nga. Giao tranh tiếp diễn trong suốt năm 2022. Thậm chí giao tranh gia tăng từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8, bắt đầu với một cuộc tấn công thất bại của Nga vào Marinka vào ngày 11 tháng 7 năm 2022.
Vào tháng 1 năm 2023, những người lính Ukraine được phỏng vấn đã nói rằng giao tranh trên chiến trường ở Marinka là "địa ngục", và phần lớn các cuộc giao tranh diễn ra cách từ 10 đến 20 mét. Do phần lớn thị trấn bị phá hủy nên giao tranh diễn ra sau đống đổ nát, vật dụng đồ đạc ngổn ngang trong những căn nhà và tầng hầm. Đại tá Yaroslav Chepurnyi tuyên bố Lữ đoàn tấn công đường không số 79 đã chịu "tổn thất nặng nề nhất" trong số các đơn vị Ukraina trú đóng tại Marinka. Vào ngày 1 tháng 2, phía Ukraina tuyên bố đã gây ra "tổn thất đáng kể" trong cuộc tấn công của Nga nhằm vào Marinka. Vào ngày 8 tháng 2 năm 2023, cựu Thứ trưởng Nội vụ Vitaly Kiselev đã làm rõ rằng các thành viên của Sư đoàn súng trường cơ giới số 150 đang củng cố lại các vị trí phòng thủ ở các khu vực phía tây Marinka.
Theo Bộ Tổng tham mưu Ukraina, các cuộc đụng độ đã gia tăng vào ngày 2 tháng 2 năm 2023 với 13 trận đánh kéo dài hai giờ liền ở Marinka. Vào ngày 21 tháng 2 năm 2023, các cuộc tấn công kế tiếp của Nga vào Marinka đã bị đẩy lùi. Truyền thông Nga hồi tháng 4 năm 2023 thông báo lực lượng Ukraine đã bị Quân đội Nga đẩy lùi về vùng ngoại ô phía tây Marinka nơi các cuộc đụng độ đang diễn ra. Vào ngày 24 tháng 5 năm 2023, Bộ Tổng tham mưu Ukraina cho biết Marinka vẫn là một trong những tâm điểm của các cuộc đụng độ đang diễn ra trong chiến tranh. Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, Ramzan Kadyrov lãnh đạo của lực lượng Chechen đang chiến đấu ở Ukraina, tuyên bố rằng lực lượng của ông đã được điều chuyển đến mặt trận Marinka, bao gồm Lực lượng đặc nhiệm "Akhmat". Các binh sĩ Ukraina ở mặt trận Marinka vào tháng 6 năm 2023 cho rằng binh lính Nga đông hơn quân Ukraina với tỷ lệ tương quan 4-1 về nhân lực và tỷ lệ tượng quan 6-1 về pháo binh. Hầu hết các trận chiến diễn ra ở cự ly gần và trong tầng hầm.
Chú thích
Nga xâm lược Ukraina 2022
Tác chiến đô thị |
19818073 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1%20Vologda | Bơ Vologda | Bơ Vologda hay Vologodskoye Maslo (tiếng Nga: Волого́дское ма́сло), trước đây được biết đến với tên gọi Bơ Paris, là một loại bơ được làm tại vùng Vologda của Nga, được biết đến rộng rãi bởi hương vị ngọt ngào, mịn màng và hấp dẫn của nó. Nó có hương vị như vậy là từ quy trình sản xuất của nó, bao gồm một bộ nhiệt độ và hàm lượng chất béo chính xác; cũng như do thảm thực vật và giống bò được tìm thấy ở Vologda.
Lịch sử
Quá trình được sử dụng để tạo ra bơ Vologda được phát minh bởi Nikolai Vasilievich Vereshchagin, anh trai của một họa sĩ trong chiến tranh, Vasily Vereshchagin. Ông đã được truyền cảm hứng khi nếm thử món "bơ Norman" từ vùng Normandy của Pháp, tại Triển lãm Quốc tế năm 1867.
Sau vài năm sản xuất bơ, Vereshchagin đã đưa sản phẩm của mình đến Hội chợ Thế giới Paris lần thứ ba diễn ra năm 1878, nơi nó đã giành được huy chương vàng. Sau đó, ông dán nhãn bơ của mình là "bơ Paris", và nó được biết đến như một món ngon ở cả Nga và châu Âu.
Một nhà máy sản xuất bơ đã được xây dựng vào năm 1916. Năm 1917, trong cuộc Cách mạng Nga, nhà máy đã được tiếp quản bởi nhà nước, và việc sản xuất trở nên giảm dần. Sau đó, xuất khẩu của nó đã bị cấm. Năm 1939, chính quyền đã đổi tên nó thành bơ Vologda. Năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, các nhà máy tư nhân ở Vologda bắt đầu sản xuất lại bơ Vologda để xuất khẩu.
Năm 2010, sau nhiều năm tràn lan hàng giả trên thị trường, chính phủ Nga tuyên bố rằng chỉ có bơ được tạo ra ở vùng Vologda mới được phép dán nhãn là bơ Vologda, tạo ra loại chỉ định xuất xứ được bảo hộ đầu tiên của Nga.
Xem thêm
Ẩm thực Nga
Bơ
Tham khảo
Đọc thêm
Bơ
Ẩm thực Xô Viết
Ẩm thực Liên bang Nga
Chế phẩm sữa
Vologda |
19818078 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91ng%20bi%E1%BB%87t%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%29 | Tống biệt (bài hát) | "Tống biệt" (Hán tự: 送别, "Bài hát tống biệt") là một bài hát được sáng tác bởi nhạc sĩ Lý Thúc Đồng (1880 — 1942). Ông đã sắp xếp lời bài hát theo giai điệu của bài hát giữa thế kỷ 19 "Dreaming of Home and Mother" (Mơ về Ngôi nhà tổ ấm và Mẹ) của nhà soạn nhạc người Mỹ John P. Ordway. Lý Thúc Đồng được biết đến bài hát này trong thời gian ông học tập tại Nhật Bản, thông qua một phiên bản tiếng Nhật "Lữ sầu" (tiếng Nhật: 旅愁; Hiragana:りょしゅう) khác của bài hát.
Lời bài hát
Ca từ của bài hát "Tống biệt" có nét tương đồng như những câu ngắn câu dài trong thi phú Trung Hoa, lại mang sự tinh tế của thơ ca cổ điển. Tương phản với điều đó là ý nghĩa bài hát đơn giản, dùng chữ mộc mạc dễ hiểu của tác giả. Đồng thời, lời bài hát tiếng Hoa lại có thể hoà đồng với giai điệu gốc của bài hát rất tốt. Đằng sau lời ca ấy là câu chuyện về kỷ niệm tình bạn khi tác giả Lý Thúc Đồng từ biệt Hứa Ảo Viên (許幻園, 1878 — 1929). Bài hát không phải nghiễm nhiên mà trở thành một bài ly ca (驪歌) nổi tiếng, điển hình của người Trung Hoa.
Phiên bản được lưu truyền rộng rãi nhất là từ bản chép tay của Phong Tử Khải (豐子愷, 1898 — 1975), một người học trò của Lý Thúc Đồng, và được trích dẫn trong tuyển tập "Năm mươi bài hát Trung Hoa nổi tiếng" (中文名歌五十曲):
Trưởng đình ngoại, cổ đạo biên, phương thảo bích liên thiên
Vãn phong phất liễu địch thanh tàn, tịch dương san ngoại san
Thiên chi nhai, địa chi giác, tri giao bán linh lạc
Nhất biều trọc tửu tận dư hoan, kim tiêu biệt mộng hàn
Tuy nhiên, phiên bản do EMI Hồng Kông phát hành năm 1935 và được hát bởi Long Tuần (龍珣), một học sinh của Trường Tiểu học Trực thuộc Đại học Sư phạm Bắc Bình (nay là Trường Tiểu học Trực thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh), đính kèm đoạn trích dẫn sau đây, nguồn chưa được xác minh:
Tình thiên lũ, tửu nhất bôi, thanh thanh ly địch thôi
Vấn quân thử khứ kỷ thì lai, lai thì mạc bồi hồi
Thảo bích sắc, thuỷ lục ba, nam phố thương như hà
Nhân sinh nan đắc thị hoan tụ, duy hữu biệt ly đa
Có một số phiên bản khác cũng sử dụng những lời ca sau và tuyên bố rằng tất cả chúng đều từng được viết ra bởi Lý Thúc Đồng, nhưng tựu chung là điều này chưa thể được kiểm chứng:
Thiều quang thệ, lưu vô kế, kim nhật khước phân duệ
Ly ca nhất khúc tống biệt ly, tương cố khước y y
Tụ tuy hảo, biệt tuy bi, thế sự kham ngoạn vị
Lai nhật hậu hội tương dư kỳ, khứ khứ mạc trì nghi
Tiểu thuyết "Thành nam cựu sự" (城南舊事) của Lâm Hải Âm (林海音, 1918 — 2001) viết năm 1960, tại chương cuối, "Những đoá hoa của cha đã rơi tàn" (爸爸的花兒落了), có nhắc tới tình tiết theo đó nhân vật chính hát khúc ca tại buổi lễ tốt nghiệp của mình; Lời ca trong cuốn sách và bộ phim chuyển thể bao gồm dòng thứ nhất của đoạn thứ nhất và tất cả còn lại là của đoạn thứ hai, như được mô tả.
Trưởng đình ngoại, cổ đạo biên, phương thảo bích liên thiên.
Vấn quân thử khứ kỷ thì lai, lai thì mạc bồi hồi.
Thiên chi nhai, địa chi giác, tri giao bán linh lạc.
Nhân sinh nan đắc thị hoan tụ, duy hữu biệt ly đa.
Bạn của Lý Thúc Đồng, Trần Triết Phủ (陳哲甫) từng có lần viết một bản lời ca cho bài hát này
Trưởng đình ngoại, cổ đạo biên, phương thảo bích liên thiên.
Cô vân nhất phiến nhạn thanh toan, nhật mộ tắc yên hàn.
Bá lao đông, phi yến tây, dữ quân trưởng biệt ly.
Bả duệ khiên y lệ như vũ, thử tình thuỳ dữ ngữ.
Giai điệu bài hát
Do sử dụng tiếng Trung Hoa nên một phần nhỏ nhịp điệu khác với bài hát gốc.
Lịch sử, nguồn gốc của bài hát
Về ngày sáng tác thực sự của bài hát "Dreaming of Home and Mother" còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có người nói rằng nó được sáng tác vào năm 1851 để thể hiện niềm khao khát quê hương và mẹ trong cuộc Nội chiến Mỹ, cũng như nỗi buồn chiến tranh. Tuy nhiên, Nội chiến bắt đầu vào năm 1861, và nếu như bài hát thực sự được lấy cảm hứng từ chiến tranh thì nó đã không bao giờ được viết trước chiến tranh. Vì vậy, lý do cho năm sáng tác trở nên không đáng tin cậy.
Trong thư viện của Đại học Johns Hopkins ở Hoa Kỳ, có một bản in nhạc "Dream Back Home" với năm xuất bản là 1868, trùng khớp với năm được ghi chép trên WorldCat, và được công nhận là một chứng cứ năm tháng thời gian đáng tin cậy hơn cả. Bài hát này từng được lưu hành rộng rãi ở Hoa Kỳ, sau đó lan toả sang Nhật Bản. Năm 1907, Inudou Kyuukei (tiếng Nhật: 犬童 球渓; Hiragana: いんどう きゅうけい), đang giảng dạy tại trường trung học nữ sinh Niigata, đã đặt lời Nhật cho bài hát và cải tên nó thành "Lữ sầu" (Ryoshuu; Hán tự: 旅愁; Hiragana:りょしゅう). Bài hát "Lữ sầu" được phát hành vào năm 1904. Từ năm 1905 đến năm 1910, Lý Thúc Đồng du học tại Nhật Bản. Trong thời gian ấy, ông đã ngẫu nhiên nghe được bài hát "Lữ sầu" và bị giai điệu của bài hát lay động và dịch lời bài hát đầu tiên của Inudou Kyuukei sang tiếng Trung:
西風起,秋漸深,秋容動客心
獨身惆悵嘆飄零,寒光照孤影
憶故土,思故人,高堂會雙親
鄉路迢迢何處尋,覺來夢斷心
Sau khi trở về Trung Quốc, một người bạn tốt của ông, Hứa Ảo Viên (許幻園, 1878 — 1929), đã đến từ biệt. Ông rất cảm động và nhờ người vợ Nhật Bản của Hứa Ảo Viên chơi bài "Lữ sầu". Lý Thúc Đồng sau đó đã chỉnh lý lại bài hát cho phiên bản tiếng Trung và đặt tên nó là "Tống biệt" để bày tỏ sự trân quý kỷ niệm của ông với Hứa Ảo Viên. Bài hát "Tống biệt" được phát hành vào năm 1915。.
Trong một thời gian dài ở Trung Quốc, người ta đã tin rằng bài "Tống biệt" hoàn toàn được sáng tác bởi Lý Thúc Đồng cả nhạc lẫn lời. Thế nhưng điều này có thể là do bản ghi âm sớm nhất lại là của Victor Talking Machine Company tại Camden, New Jersey, Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 3 năm 1916, ghi âm trên đĩa vinyl bởi Ivan Williams, một ca sĩ giọng tenor người Mỹ tại thời điểm đó. Điều này dẫn đến sự hiểu lầm rằng phiên bản tiếng Anh ra đời muộn hơn phiên bản tiếng Trung.
Lời ca tiếng Anh của bài "Dreaming of Home and Mother" (phiên bản của Evan Williams):
Dreaming of home, dear old home. Home of childhood and mother- Oft when I wake 'tis sweet to find I've been dreaming of home and mother. Home, dear home, childhood's happy home! When I played with sister and with brother 'Twas the sweetest joy when we did roam Over hill and through dale with mother.
Chorus. Dreaming of home, dear old home, Home of my childhood and mother- Oft When I wake 'tis sweet to find I've been dreaming of home and mother.
Sleep, balmy sleep, close mine eyes, Keep me still thinking of mother- Hark! It's her voice I seem to hear- Yes, I'm dreaming of home and mother. Angels come soothing me to rest, I can feel their presence as none other, For they sweetly say I shall be blest With bright visions of home and mother.
Trong văn hoá đại chúng
Từ những năm 1920 đến những năm 1940, "Tống biệt" đã được phổ biến rộng rãi như một bài hát học đường được giảng dạy trong các trường học kiểu mới.
Trong những năm 1970 và 1980, "Tống biệt" lần lượt xuất hiện dưới hình thức một tình tiết hoặc bài hát chủ đề trong các bộ phim "Đầu xuân và tháng hai" và "Chuyện cũ ở Thành Nam".
Năm 1997, ban nhạc rock Trung Quốc "Đường Triều nhạc đội" (唐朝樂隊) đã chuyển thể và hát "Tống biệt" trong album thứ hai "Diễn nghĩa".
"Tống biệt" được sử dụng làm một tập trong bộ phim truyền hình thập niên 1990 "Thiên vương chi vương trùng xuất giang hồ" (千王之王重出江湖).
"Tống biệt" được sử dụng làm nhạc phim nhiều lần trong bộ phim truyền hình "Lãnh đạo của tôi, tổ đội của tôi" (我的團長我的團) năm 2009.
Ngày 6 tháng 7 năm 2009, "Tống biệt" đã được sử dụng làm tập phim và chuyển thể trong Nhà hát Đại Ái TV của Đại Ái TV "Phương thảo bích liên thiên".
Bộ phim "Cứ để những viên đạn bay" (讓子彈飛) năm 2010 đã sử dụng bài hát "Tống biệt" trong phần mở đầu để giải thích rằng câu chuyện trong phim diễn ra vào những năm đầu của Trung Hoa Dân Quốc.
Trong bộ phim "Đầu bếp, diễn viên, côn đồ" (廚子戲子痞子) năm 2013, tập phim là một phiên bản của "Tống biệt" do ca sĩ Phác Thụ (朴樹) hát, sử dụng phiên bản đầy đủ của lời bài hát.
Năm 2013, nhạc sĩ Đài Loan Chu Hâm Tuyền (周鑫泉) ở Hoa Kỳ đã hoàn thành tác phẩm hợp xướng "Những chuyện cũ ở Thành Nam" (城南舊事) với lời bài hát đầu tiên và phiên bản lời bài hát được Lâm Hải Âm (林海音) sử dụng trong "Những chuyện cũ ở Thành Nam". Một phần của giai điệu cũng sử dụng giai điệu gốc của John Ordway.
Vào năm 2014, (Hàn Lỗi) (韓磊) đã chuyển thể và hát "Tống biệt" trong tập thứ tám của mùa thứ hai của "Tôi là ca sĩ" (我是歌手), một phần sử dụng lời bài hát của nửa sau.
Vào năm 2017, Lý Ngọc Cương (李玉剛) đã đưa bản cover "Tống biệt" của anh vào ca khúc thứ bảy trong album "Vừa gặp em - phiên bản kỷ niệm" (剛好遇見你 紀念版).
Vào tháng bảy năm 2018, nhóm nhạc SNH48 đã phát hành một bản cover của "Tống biệt", dưới tên gọi "Nghị lực vươn lên" (砥砺前行). Lời ca từ được viết lại bởi thành viên cũ của nhóm SNH48 là Wu Yanwen, mặc dù có tuyên bố rời ra của cô vào tháng một năm 2018. Vào ngày 9 tháng 9 năm 2018, SNH48 đã biểu diễn phiên bản chuyển thể của "Tống biệt" - "Nghị lực vươn lên" (砥礪前行) tại sân khấu bế mạc của "Màn trình diễn cảm ơn người hâm mộ kỷ niệm 5 năm".
Vào ngày 27 tháng 11 năm 2020, Jackson Yee (易烊千璽) đã hát "Tống biệt" trong ca khúc thứ sáu trong album "Ghế hậu nhà hát" (後座劇場) của mình.
Vào năm 2021, bộ phim truyền hình Trung Quốc đại lục "Bạn nghịch giả" (叛逆者) sẽ sử dụng "Tống biệt" làm nhạc phim cuối cùng của cả bộ phim.
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2022, lễ bế mạc Thế vận hội Olympic mùa đông 2022 sử dụng "Tống biệt" làm nhạc nền cho phân đoạn "Chiết liễu ký tình" (折柳寄情).
Vào ngày 27 tháng 3 năm 2022, trong vụ tai nạn "đầu thất" ( 頭七 ) của Chuyến bay 5735 của China Eastern Airlines, Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Quốc gia đã phát hành phần điệp khúc của bài hát này trên Bilibili để bày tỏ sự tiếc thương.
Chú thích
Bài hát Trung Quốc
Bài hát thế kỷ 19
Bài hát tiếng Trung Quốc
Bài hát không rõ năm |
19818129 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20h%E1%BB%93i%20m%C3%A1y%20r%E1%BB%ADa%20b%C3%A1t | Cá hồi máy rửa bát | Cá hồi máy rửa bát () là một món cá Hoa Kỳ được nấu bằng nhiệt lượng của máy rửa bát, cụ thể hơn là vào quá trình sấy khô mà thường dùng cho bát đĩa, trong khoảng nhiệt độ từ 50 đến 60 độ C. Cách chế biến này thường không được khuyến khích và có thể dẫn đến các vấn đề như cá sống, ngộ độc thực phẩm, buồn nôn và nôn mửa.
Chuẩn bị
Các miếng cá hồi được tẩm ướp và bọc chặt trong ít nhất hai lớp giấy bạc và bỏ vào máy rửa bát. Tiếp theo, chỉnh máy rửa bát sang chế độ rửa và sấy khô rồi khởi động. Sau khi khởi động, miếng cá hồi được hun nóng, hấp hơi và nướng chín. Một ưu điểm của cách nấu này là không có mùi khi nấu. Một khi lớp giấy bạc đã được bọc chặt quanh cá, ta có thể bỏ bát đĩa vào rửa cùng lúc với khi nấu cá hồi.
Nguy cơ
Máy rửa bát không tỏa nhiệt đều như bếp thông thường nên cá sẽ có thể không chín hoàn toàn. Các công ty sản xuất máy rửa chén và Báo cáo Người tiêu dùng đã khuyến cáo không nên nấu cá bằng máy rửa chén vì máy rửa chén không được thiết kế hoặc thử nghiệm để nấu ăn, máy rửa chén không có nhiệt độ ổn định như bếp và không chắc liệu máy rửa chén có làm nóng cá đủ để tiêu diệt mầm bệnh hay không. Kết quả có thể là ngộ độc thực phẩm.
Lịch sử
Bắt nguồn từ Hoa Kỳ, cách nấu này đã được Vincent Price giới thiệu năm 1975 trong chương trình The Tonight Show của Johnny Carson. Vincent miêu tả món ăn này là "một món ăn người ngu xuẩn nào cũng làm được (a dish any fool can prepare)".
Vào năm 2002, món ăn này đã được nấu trong chương trình Canada The Surreal Gourmet do Bob Blumer dẫn chương trình. Món ăn này cũng đã xuất hiện trên các bài báo của The Wall Street Journal, NBC, BBC, Vogue và CHOICE. Ngoài ra, CBS News đã phỏng vấn tác giả Kym Douglas về cuốn sách cô viết The Black Book of Hollywood Diet Secrets trong đó có công thức cá hồi máy rửa bát.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công thức cá hồi máy rửa bát với xốt thì là đậm vị
Kym Douglas giới thiệu món ăn trong chương trình buổi sáng của CBS News vào tháng 3/2008 (phần gần cuối video)
Món ăn với cá |
19818143 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nedim%20Bajrami | Nedim Bajrami | Nedim Bajrami (sinh ngày 28 tháng 2 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ bóng đá Sassuolo. Sinh ra và lớn lên ở Thụy Sĩ với cha mẹ là người Albania gốc Tetovo, Bajrami đại diện cho các cấp độ trẻ của Thụy Sĩ rồi đến đội tuyển quốc gia Albania.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ U15 tại football.ch
Hồ sơ U16 tại football.ch
Hồ sơ U17 tại football.ch
Hồ sơ U18 tại football.ch
Hồ sơ U19 tại football.ch
Cầu thủ bóng đá Serie B
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Albania
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Albania
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999 |
19818146 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20T%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Hu%C3%A2n | Bùi Tường Huân | Bùi Tường Huân (ngày 14 tháng 8 năm 1924 – Tháng 5 năm 1988) là giáo sư, chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng một thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử
Bùi Tường Huân chào đời tại Hà Nội, miền bắc Việt Nam vào ngày 14 tháng 8 năm 1924.
Từ năm 1945 đến năm 1946, ông tham gia nhóm dân tộc chủ nghĩa Đại Việt Quốc dân Đảng.
Năm 1951, ông tốt nghiệp nghề luật sư tại Trường Luật Paris. Năm 1952, tốt nghiệp Viện Nghiên cứu Chính trị Paris. Năm 1958, ông thi đậu lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại Trường Luật Paris. Trong thời gian du học tại Pháp, ông còn làm chủ tịch Tổng hội Sinh viên, Học sinh Việt Nam tại Pháp vào năm 1951.
Sau khi trở về nước, ông làm giáo sư tại Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn và Huế.
Tổng thống Dương Văn Minh dự định chọn ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong nội các cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa nhưng chưa kịp thực hiện thì đã phải đầu hàng vào buổi trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trước khi Sài Gòn thất thủ, gia đình Bùi Tường Huân đã kịp rời khỏi Việt Nam sang Mỹ tị nạn, khiến ông đành phải ở lại Việt Nam một mình.
Bùi Tường Huân qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào đầu tháng 5 năm 1988.
Đời tư
Bùi Tường Huân tin theo tín ngưỡng Phật giáo và có hai con với vợ là Trần Thị Phương Thảo (tính đến năm 1974).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Education Minister, Social Welfare Secretary Resign
Sinh năm 1924
Mất năm 1988
Người Hà Nội
Phật tử Việt Nam
Giáo sư Việt Nam
Người chống cộng Việt Nam
Nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam
Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa
Chính khách Việt Nam Cộng hòa
Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa |
19818147 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20V%C4%83n%20Thinh | Bùi Văn Thinh | Bùi Văn Thinh (ngày 10 tháng 12 năm 1915 – ngày 2 tháng 1 năm 2000) là thẩm phán, quan chức và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng là Tổng trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng trưởng Bộ Tư pháp và Tổng trưởng Bộ Nội vụ Quốc gia Việt Nam. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Nhật Bản.
Tiểu sử
Bùi Văn Thinh chào đời tại tỉnh Sa Đéc, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương vào ngày 10 tháng 12 năm 1915.
Ông tốt nghiệp Khoa Luật Đại học Đông Dương trong những năm đầu đời, từng là thẩm phán năm 1941, và phục vụ tại nhiều tòa án khác nhau từ năm 1941 đến năm 1947, rồi lên làm Chánh văn phòng Bộ Tư pháp năm 1947.
Năm 1950, ông giữ chức Chưởng lý Tòa Phúc thẩm Quốc gia Sài Gòn, về sau kiêm luôn chức Giám đốc Hành chính Tư pháp của Bộ Tư pháp Quốc gia Việt Nam năm 1952, ít lâu sau ông nhậm chức Chánh án Tòa Phúc thẩm Hỗn hợp Sài Gòn vào tháng 7 năm 1953, từ năm 1954 đến năm 1955 ông giữ chức Tổng trưởng Bộ Tư pháp và Tổng trưởng Bộ Nội vụ Quốc gia Việt Nam.
Tháng 10 năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, chức vụ "Tổng trưởng" đổi thành "Bộ trưởng". Từ năm 1955 đến năm 1956, ông giữ chức Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1956 đến năm 1962, ông chuyển sang làm Đại sứ tại Nhật Bản.
Bùi Văn Thinh qua đời tại Rueil-Malmaison, Hauts-de-Seine, Pháp vào ngày 2 tháng 1 năm 2000.
Tham khảo
Sinh năm 1915
Mất năm 2000
Người Đồng Tháp
Đại sứ tại Nhật Bản
Thẩm phán Việt Nam
Nhà ngoại giao Việt Nam
Đại sứ Việt Nam Cộng hòa
Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản
Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa
Chính khách Quốc gia Việt Nam
Chính khách Việt Nam Cộng hòa
Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa
Bộ Tư pháp Việt Nam Cộng hòa
Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
Nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa |
19818148 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20V%C4%83n%20Anh | Bùi Văn Anh | Bùi Văn Anh (ngày 12 tháng 10 năm 1930 – ngày 30 tháng 5 năm 2001) là nhà ngoại giao và luật sư Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Tham tán Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thụy Sĩ và các chức vụ khác.
Tiểu sử
Bùi Văn Anh chào đời tại Rạch Giá, Liên bang Đông Dương ngày 12 tháng 10 (có thuyết nói là ngày 20 tháng 10) năm 1930.
Năm 1953, ông được cấp phép hành nghề luật sư tại Đại học Hà Nội. Năm 1957, ông tốt nghiệp kỳ thi luật sư ở Sài Gòn. Từ năm 1945 đến năm 1957, ông là luật sư tại Tòa Phúc thẩm Sài Gòn, và từ năm 1958 đến năm 1964 là luật sư tại Tòa Phúc thẩm Cần Thơ.
Năm 1965, ông giữ chức Tham tán Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, và Tham tán Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Trung Hoa Dân Quốc năm 1966–1969. Tháng 1 năm 1970, ông làm Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Hy Lạp.
Từ năm 1970 đến năm 1971, ông làm Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Thụy Sĩ, và từ năm 1972 đến năm 1975, ông là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thụy Sĩ.
Bùi Văn Anh qua đời tại Hoa Kỳ ngày 30 tháng 5 năm 2001.
Đời tư
Bùi Văn Anh tin theo tín ngưỡng Phật giáo. Ông đã kết hôn và có với vợ ít nhất bảy người con.
Tham khảo
Sinh năm 1930
Mất năm 2001
Người Kiên Giang
Phật tử Việt Nam
Luật sư Việt Nam
Nhà ngoại giao Việt Nam
Đại sứ Việt Nam Cộng hòa
Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
Nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa |
19818151 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C6%A1m%20Volga | Cơm Volga | Cơm Volga (đôi lúc gọi là cơm Boruga) là món cơm chiên phổ biến ở Echizen, tỉnh Fukui, Nhật Bản. Đôi khi được phân loại là một trong Ba món ngon xứ Echizen cùng với oroshi soba và ekimae chuka soba, đây là một biến thể của omurice làm từ cơm chiên, sau đó phủ lên trên là trứng ốp lết và thịt lợn cốt lết vụn ; toàn bộ sau đó được phủ một lớp nước sốt đậm đà. Không có lời giải thích nào đủ chứng minh cho cái tên "cơm Volga", dù cho có nhiều giả thuyết khác nhau.
Tham khảo
Echizen, Fukui
Cơm chiên
Món lợn
Món trứng |
19818161 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0%E1%BB%9Fng%20Ti%E1%BB%87p | Tưởng Tiệp | Tưởng Tiệp (Hán tự: 蔣捷; 1245 — 1301), tự Thắng Dục (勝欲), hiệu Trúc Sơn (竹山), là một nhà thơ vào cuối thời nhà Tống và đầu thời nhà Nguyên, cùng với Chu Mật (周密), Vương Nghi Tôn (王沂孫), Trương Viêm (張炎) được xếp vào hàng ngũ "Tống mạt tứ đại gia" 「宋末四大家」(các tứ đại danh sư đời hậu Tống).
Tiểu sử
Tưởng Tiệp sinh ra tại Dương Tiện (陽羨) (nay là Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô). Ông làm Tiến Sĩ năm Hàm Thuần thứ mười (năm 1274) đời Tống Cung Đế, trong bài thơ "Nhất tiễn mai" của ông có câu "Hồng liễu anh đào, lục liễu ba tiêu." 「紅了櫻桃,綠了芭蕉」, nên khi được lưu danh, người đời thường gọi ông là "Anh Đào Tiến Sĩ" 「櫻桃進士」.
Tưởng Tiệp sống trong thời kỳ nhà Tống đang sụp đổ và nạn quân Mông Cổ xâm chiếm Giang Nam. Đặc biệt là sau khi nhà Nam Tống sụp đổ, ông đã nhiều lần bị buộc phải di cư, do đó cuộc sống của ông rất bấp bênh nhưng rồi được triều Nguyên tha thứ, cho tha triệu lại về làm quan nhưng ông lại "Tang Lục bối giao tiến kỳ tài, tốt bất khẳng khởi" 「臧陸輩交薦其才,卒不肯起」(Được Tang Lục tiến cử, nhưng quân tiểu tốt không chịu động đậy), không làm nữa. Trong những năm cuối đời, ông định cư tại Thái Hồ, Trúc Sơn và viết nên bài "Trúc Sơn từ" (竹山詞).
Hầu hết các thi từ của Tưởng Tiệp đều kế thừa từ Tô Thức (蘇軾; 1037 — 1101), Tân Khí Tật (辛棄疾; 1140 — 1207). Nội dung hầu như là về hoài tưởng đến cố hương, nỗi buồn của sông của núi, theo phong cách đa dạng. Bài nổi tiếng nhất của ông là "Ngu mỹ nhân" (虞美人), thể hiện bước chuyển mình trong phong thái, tâm tưởng trữ tình trong cuộc đời ông.
Một số bài thơ
Nhất tiễn mai - Chu quá Ngô giang
Nhất phiến xuân sầu đãi tửu kiêu.Giang thượng chu dao,Lâu thượng liêm chiêu.Thu Nương độ dữ Tần Nương kiều,Phong hựu phiêu phiêu,Vũ hựu tiêu tiêu.
Hà nhật quy gia tẩy khách bào.Ngân tự sinh điều,Tâm tự hương thiêu.Lưu quang dung dị bả nhân phao,Hồng liễu anh đào,Lục liễu ba tiêu.
Ngu mỹ nhân kỳ 1 - Thính vũ
Thiếu niên thính vũ ca lâu thượng,Hồng chúc hôn la trướng.Tráng niên thính vũ khách chu trung,Giang khoát vân đê,Đoạn nhạn khiếu tây phong.
Nhi kim thính vũ tăng lô hạ,Mấn dĩ tinh tinh dã.Bi hoan ly hợp tổng vô tình,Nhất nhâm giai tiền,Điểm chích đáo thiên minh.
Ngu mỹ nhân kỳ 2
Ty ty dương liễu ty ty vũ,Xuân tại minh mông xứ.Lâu nhi thắc tiểu bất tàng sầu,Kỷ độ hoà vân,Phi khứ mịch quy chu.
Thiên liên khách tử hương quan viễn,Tá dữ hoa tiêu khiển.Hải đường hồng cận lục lan can,Tài quyển châu liêm,Khước hựu vãn phong hàn.
Tài liệu tham khảo
Tưởng tiệp từ hiệu chú『蔣捷詞校注』, Tưởng Tiệp 蔣捷, Trung Hoa thư cục (中華書局), ISBN 978-7-101-07399-7
Chú thích
Nhà thơ Trung Quốc
Nhà văn Trung Quốc |
19818166 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Victor%20Lavrenko | Victor Lavrenko | Victor Sergeevich Lavrenko (sinh ngày 10 tháng 8 năm 1976, Istra, Moskva (tỉnh)) - thành viên Runet và Internet tại Việt Nam, cựu giám đốc kỹ thuật công ty Mail.ru, giám đốc và người sáng lập công cụ tìm kiếm thông minh Nigma, công cụ tìm kiếm và trình duyệt Cốc Cốc, công ty bảo hiểm "Mango", hiện là đối tác và là người sáng lập công ty đầu tư "Tryvesting VC".
Tuổi trẻ và học vấn
Sinh ra ở Liên Xô trong một gia đình kỹ sư người gốc Do Thái và Ukraine, anh tốt nghiệp trường phổ thông trung học số 1 mang tên A.P. Chekhov tỉnh Istra, năm lớp 11 trở thành quán quân cuộc thi Olympic Tin học cấp tỉnh dành cho học sinh phổ thông trung học. Năm 1998 Victor Lavrenko tốt nghiệp bằng đỏ (xuất sắc) khoa Toán học và Điều khiển học trường Đại học Tổng hợp Lomonosov Moscow. Anh có tiếp tục học nghiên cứu sinh nhưng bỏ không bảo vệ luận án tiến sĩ. Bắt đầu từ năm 2003, một số thời gian anh đã có hỗ trợ từ thiện cho giảng viên và sinh viên của khoa.
Sự nghiệp
Năm 1997-1999, anh làm lập trình viên tại công ty MCST chuyên phát triển bộ vi xử lý và hệ thống máy tính, năm 1999 anh là lập trình viên chính tại Netscape.
Mail.ru
Victor Lavrenko là một trong những người đồng sáng lập công ty Mail.ru, nơi anh trở thành CTO đầu tiên. Từ năm 1999 đến năm 2005, ở nhiều vị trí chủ chốt khác nhau, anh quản lý công nghệ, chiến lược và tài chính của công ty. Victor Lavrenko chủ trì quá trình sát nhập giữa Mail.ru và Netbridge. Sau sự sụp đổ của Bong bóng Dotcom anh điều hành bán quảng cáo trực tuyến.
Nigma
Năm 2005 Lavrenko đồng sáng lập Nigma, một công cụ tìm kiếm được biết đến với những thuật toán Phân tích cụm được dùng để phân tích ngữ cảnh tìm kiếm của người dùng và nhóm các kết quả tìm kiếm theo chủ đề. Ban đầu Nigma là một dự án khoa học tự tài trợ, sau đó dự án này đã nhận được một khoản đầu tư 3 triệu đô la từ Digital Sky Technologies (tiền thân của DST Global) được phân bổ bới ông Yuri Milner, người sáng lập ra DST. Kể từ tháng 11 năm 2010, Viktor Lavrenko giữ chức chủ tịch giám đốc điều hành của công ty.
Cốc Cốc
Sau khi rời Nigma vào năm 2012, Victor Lavrenko và nhóm của anh đã chuyển đến Việt Nam để ra mắt Cốc Cốc - một công cụ tìm kiếm mới. Tại công ty mới, Lavrenko giữ vị trí giám đốc điều hành, tập trung vào phát triển các tính năng của công cụ tìm kiếm bằng trí tuệ nhân tạo, và sau đó đưa vào ứng dụng trong Trình duyệt web với giao diện sử dụng cho người bản địa. Tới năm 2018, Cốc Cốc đã có hơn 24 triệu người dùng hoạt động hàng tháng. Tổng số vốn đầu tư vào Cốc Cốc là hơn 30 triệu đô la, bao gồm vòng đầu từ 14 triệu đô la do Hubert Burda Media Holding đứng đầu. Dưới sự lãnh đạo của Lavrenko, lãi suất của Cốc Cốc đã tăng từ không có gì đến hơn 10 triệu đô la vào thời điểm Lavrenko rời công ty.
Công ty bảo hiểm Mango
Năm 2018, Lavrenko thành lập công ty bảo hiểm Mango. Ông giữ chức giám đốc cho đến năm 2021, sau đó ông bán cổ phần của mình cho các nhà đầu tư lúc ban đầu từ công ty "Bảo hiểm Alfa". Tổng số tiền đầu tư vào dự trữ bảo hiểm, công nghệ và tiếp thị của Mango lên tới hơn 20 triệu đô la.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Telegram-channel
Физиономии Русского Интернета
Personal page at Habr
Interviews
«Nigma.ru — исследовательский проект»
Руководитель Nigma.ru Виктор Лавренко // Аналитическая программа «Рунетология»
С чего начиналась Нигма
Entrepreneur of Vietnam
Russian programmers |
19818172 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sargocentron%20macrosquamis | Sargocentron macrosquamis | Sargocentron macrosquamis là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1984.
Từ nguyên
Từ định danh macrosquamis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: macro (“rộng lớn”) và squamis (“vảy”), hàm ý đề cập đến những vảy lớn ở phía sau nắp mang của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
S. macrosquamis có phân bố ở Tây Ấn Độ Dương, từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, băng qua các đảo quốc Seychelles, Madagascar và Mauritius (gồm cả Rodrigues), trải dài về phía đông đến Maldives và quần đảo Chagos.
S. macrosquamis được quan sát ở độ sâu khoảng 4–22 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. macrosquamis là 9 cm. Loài này có màu đỏ, trắng bạc dưới đầu, ngực và bụng; vảy cá ánh bạc. Thùy đuôi tròn rộng.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10.
Sinh thái
Qua giải mã trình tự gen 12S rRNA, S. macrosquamis được xếp vào nhóm chị em với Sargocentron punctatissimum.
Tham khảo
Xem thêm
M
Cá Ấn Độ Dương
Cá biển Đỏ
Cá Kenya
Cá Tanzania
Cá Mozambique
Cá Seychelles
Cá Madagascar
Cá Mauritius
Cá Maldives
Động vật được mô tả năm 1984 |
19818175 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Karine%20Jean-Pierre | Karine Jean-Pierre | Karine Jean-Pierre (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1974) là một cố vấn chính trị người Mỹ, hiện là Thư ký Báo chí Nhà Trắng từ ngày 13 tháng 5 năm 2022. Bà là người da đen đầu tiên và là người LGBT công khai đầu tiên giữ chức vị này. Trước đó, bà từng là phó thư ký báo chí dưới thời Jen Psaki từ năm 2021 đến năm 2022 và là chánh văn phòng cho ứng cử viên Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020.
Trước khi hoạt động cùng Kamala Harris trong cuộc bầu cử năm 2020 và chính quyền Biden–Harris, Jean-Pierre là cố vấn cấp cao và người phát ngôn quốc gia của nhóm ủng hộ cấp tiến MoveOn.org. Bà còn là nhà phân tích chính trị cho NBC News và MSNBC, đồng thời là giảng viên về các vấn đề quốc tế và công cộng tại Đại học Columbia.
Đầu đời và học vấn
Jean-Pierre sinh ra ở Fort-de-France, Martinique, Pháp, cha mẹ là người Haiti. Bà có hai người em, đến 5 tuổi gia đình chuyển đến Queens Village, một vùng ở Queens, Thành phố New York. Mẹ bà làm phụ tá chăm sóc sức khỏe tại tại nhà bệnh nhân và hoạt động trong nhà thờ Ngũ tuần, cha làm tài xế taxi, ông được đào tạo thành kỹ sư. Jean-Pierre có trách nhiệm chăm sóc các em (nhỏ hơn mình tám và mười tuổi) vì cha mẹ đều làm việc sáu hoặc bảy ngày mỗi tuần.
Trong cuốn hồi ký, Jean-Pierre cho biết việc xem cựu nghị sĩ có bài phát biểu quan trọng tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ 1992 đã thay đổi hướng đi trong cuộc đời và sự nghiệp của mình: "Bà ấy là người phụ nữ da đen đầu tiên tham gia chính trị mà tôi chứng kiến. Trong thế giới những người xinh đẹp, đeo ngọc trai quyến rũ, Jordan chân thật và đáng tin."
Jean-Pierre tốt nghiệp Trường trung học Kellenberg Memorial, một trường dự bị đại học ở Long Island vào năm 1993. Cha mẹ muốn bà theo học ngành y, nên bà theo học ngành khoa học sự sống tại Học viện Công nghệ New York nhưng không sống gần trường, nhưng có số điểm thấp trong bài kiểm tra tuyển sinh đại học y khoa. Thay đổi con đường sự nghiệp, bà đạt bằng cử nhân tại Học viện Công nghệ New York năm 1997. Bà đạt bằng Thạc sĩ Quan hệ Công chúng tại Khoa Quan hệ Công chúng và Quốc tế (SIPA), Đại học Columbia vào năm 2003, bà hoạt động trong các tổ chức sinh viên quản lý trường và quyết định theo chính trị. Tại Đại học Columbia, một trong những người hướng dẫn bà là Ester Fuchs, Jean-Pierre tham gia lớp học của Ester Fuchs trong học kỳ mùa thu năm 2001.
Jean-Pierre thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và Creole Haiti.
Sự nghiệp
Sự nghiệp ban đầu
Sau khi tốt nghiệp đại học, Jean-Pierre làm giám đốc về các vấn đề lập pháp và ngân sách cho ủy viên hội đồng thành phố New York James F. Gennaro. Năm 2006, bà được tuyển làm điều phối viên tiếp cận cộng đồng cho Walmart Watch ở Washington, D.C. Bà là giám đốc chính trị khu vực đông nam cho chiến dịch tranh cử tổng thống của John Edwards năm 2004. Bà gia nhập vào khoa Đại học Columbia vào năm 2014, bà là giảng viên về các vấn đề công cộng và quốc tế.
Chính quyền Barack Obama
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của Barack Obama, Jean-Pierre là giám đốc chính trị khu vực đông nam của chiến dịch và là giám đốc chính trị khu vực Văn phòng Chính trị Nhà Trắng trong nhiệm kỳ đầu chính quyền Obama.
Năm 2011, Jean-Pierre giữ chức Phó
Giám đốc Bang Chiến trường cho chiến dịch tái tranh cử năm 2012 của Tổng thống Obama. Bà lãnh đạo việc chọn người đại diện và quá trình tiếp cận lá phiếu, đồng thời quản lý giao chiến chính trị ở các bang then chốt, cung cấp tài nguyên để giúp các bang xác định "hướng đi tốt nhất để họ ủng hộ chiến dịch."
Jean-Pierre là người đại diện điều hành chiến dịch trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2016 của Martin O'Malley.
MoveOn và bình luận chính trị
Vào tháng 4 năm 2016, MoveOn bổ nhiệm Jean-Pierre làm cố vấn cấp cao và người phát ngôn quốc gia trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016. MoveOn cho biết bà sẽ là "cố vấn và người phát ngôn trong hoạt động bầu cử của MoveOn, bao gồm nỗ lực lớn phản đối Donald Trump."
Tháng 1 năm 2019, Jean-Pierre trở thành nhà phân tích chính trị cho NBC News và MSNBC.
Jean-Pierre làm việc tại Trung tâm Đạo đức Cộng đồng và Đoàn thể. Vào tháng 12 năm 2018, Jean-Pierre được tờ The Haitian Times vinh danh là một trong sáu "Người tạo tin tức Haiti của năm".
Chính quyền Joe Biden
Jean-Pierre là cố vấn cấp cao trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020 của Joe Biden. Bà gia nhập đội Biden vào tháng 5 năm 2020 và giải thích với tờ The Haiti Times rằng mong muốn định hình tương lai là thúc đẩy đặc biệt; bà cho biết khi tiếp cận chiến dịch, bà nhìn con gái mình rồi ngẫm nghĩ: "Không thể vắng mặt trong cuộc bầu cử này". Vào tháng 8, có thông báo Jean-Pierre sẽ giữ chức Chánh văn phòng cho ứng cử viên phó tổng thống của Biden, vẫn chưa được thông báo.
Ngày 29 tháng 11 năm 2020, đội chuyển tiếp Biden-Harris thông báo Jean-Pierre được bổ nhiệm làm Phó Thư ký Báo chí. Vào ngày 26 tháng 5 năm 2021, bà có buổi họp báo đầu tiên tại Nhà Trắng, trở thành người LGBTQ công khai đầu tiên thực hiện việc này và là phụ nữ người da đen đầu tiên kể từ năm 1991.
Ngày 5 tháng 5 năm 2022, Jean-Pierre được chỉ định kế nhiệm Jen Psaki giữ chức Thư ký Báo chí Nhà Trắng vào ngày 13 tháng 5. Jean-Pierre là người da đen đầu tiên và là người LGBTQ công khai đầu tiên giữ chức vị này.
Đời tư
Từ năm 2020, Jean-Pierre sinh sống ở vùng đô thị Washington cùng bạn đời , cựu phóng viên CNN và con gái họ.
Năm 2019, Jean-Pierre xuất bản cuốn sách với tựa đề Moving Forward: A Story of Hope, Hard Work, and the Promise of America. Bà nhìn lại cuộc đời mình và khích lệ mọi người tham gia vào chính trị. Cuốn sách được WJLA-TV mô tả là "phần hồi ký, một phần kêu gọi vũ trang".
Sách
Chú thích
Ghi chú
Liên kết ngoài
Sinh năm 1974
Nữ nhà văn Mỹ thế kỷ 21
Nữ chính khách Hoa Kỳ
Nhân vật còn sống |
19818188 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1%20Yak | Bơ Yak | Bơ Yak (hay còn được gọi là Bơ dri hoặc su oil; , ) là một loại bơ được làm từ sữa của bò Tây Tạng (Bos grunniens). Nhiều cộng đồng chăn nuôi gia súc ở Trung Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ, Nepal, Gilgit-Baltistan Pakistan và Tây Tạng sản xuất và tiêu thụ các chế phẩm sữa được làm từ sữa bò Tây Tạng, trong đó có cả bơ.
Sữa yak nguyên chất có khoảng gấp đôi hàm lượng chất béo so với sữa bò nguyên chất, tạo ra một loại bơ có kết cấu gần giống với phô mai hơn. Nó là một thực phẩm thiết yếu và là thương phẩm cho cộng đồng chăn nuôi gia súc ở Trung Á và Cao nguyên Thanh Tạng.
Sản phẩm
Bò Yak cung cấp cho những người chăn nuôi gia súc của chúng nhiều lợi ích khác nhau, bao gồm phân làm nhiên liệu, sức kéo, thịt, chất xơ và sữa. Không phải tất cả các cộng đồng chăn gia súc đều có truyền thống sử dụng sữa yak hoặc làm bơ, mặc dù ở các vùng đồng cỏ trên núi, việc làm này là phổ biến. Mỗi cá thể bò yak sản xuất ít sữa, vì vậy chỉ khi có đàn lớn, người chăn nuôi mới có thể thu được nhiều sữa. Mùa hè có nhiều sữa hơn mùa đông; biến sữa tươi thành bơ hoặc phô mai là cách dự trữ calo để sử dụng sau.
Ở phía tây của Tây Tạng, sữa bò yak lần đầu tiên được lên men qua đêm. Vào mùa hè, chất giống như sữa chua thu được sẽ khuấy trong khoảng một giờ bằng cách nhúng một cái muôi gỗ liên tục vào một cái thùng gỗ cao. Vào mùa đông, sữa chua được tích lũy trong vài ngày, sau đó đổ vào dạ dày cừu đã bơm căng và lắc cho đến khi bơ hình thành.
Bơ yak tươi được bảo quản theo một số cách và có thể để được đến một năm khi không tiếp xúc với không khí và được bảo quản trong điều kiện khô mát. Nó được khâu vào túi dạ dày cừu, bọc trong da bò Tây Tạng, hoặc bọc trong lá đỗ quyên lớn. Khi hộp được mở ra, bơ yak sẽ bắt đầu phân hủy; tạo ra các đường vân nấm mốc màu xanh tương tự như pho mát xanh.
Từ tiếng Anh "yak" là từ mượn tiếng Tạng: གཡག་, tiếng Wylie: g.yak. Trong tiếng Tây Tạng, nó chỉ đề cập đến con đực của loài, không cần phải nói là không sản xuất sữa (một bản dịch theo nghĩa đen sang tiếng Tây Tạng sẽ giống như nói "bơ bò đực"); con cái được gọi là tiếng Tây Tạng: འབྲི་, Wylie: 'bri, hoặc nak. Trong tiếng Anh, cũng như hầu hết các ngôn ngữ vay mượn từ này, "yak" thường được dùng cho cả hai giới tính.
Sử dụng
Trà bơ là món ăn chủ yếu hàng ngày trên khắp vùng Himalaya và thường được làm bằng bơ yak, trà, muối và nước được khuấy thành bọt. Đây là thức uống quốc gia của người Tây Tạng, họ uống tới 60 cốc nhỏ mỗi ngày để cung cấp nước và những dinh dưỡng cần thiết ở vùng núi cao, lạnh giá. Đôi khi, bơ ôi được sử dụng để tạo hương vị khác cho trà.
Bơ yak tan chảy có thể được trộn với tỷ lệ gần bằng nhau với bột lúa mạch rang (tsampa). Bột thu được sẽ trộn với chà là hoặc hạt vừng, được dùng để tiếp khách. Nó cũng có thể được lưu trữ để sử dụng sau và sau đó được nấu chảy trong nước nóng, có thêm muối hoặc đường.
Bơ Yak được sử dụng trong quá trình thuộc da truyền thống. Bơ cũ, ôi thiu được ưa chuộng hơn bơ tươi.
Các mục đích sử dụng phi thực phẩm khác bao gồm làm nhiên liệu cho đèn bơ yak, dưỡng ẩm cho da, và nghệ thuật điêu khắc bơ truyền thống cho dịp lễ Losar. Những tác phẩm điêu khắc bơ yak như vậy có thể đạt chiều cao gần 10 mét.
Ở Nepal, đặc biệt là ở Kathmandu, pho mát yak và bơ yak được sản xuất tại các nhà máy và được bán thương mại. Trong những năm 1997–1998, 26 tấn bơ đã được sản xuất và bán theo cách này ở Nepal.
Xem thêm
Bơ
Ẩm thực Tây Tạng
Tham khảo
Bơ
Ẩm thực Trung Quốc
Ẩm thực Tây Tạng
Ẩm thực Mông Cổ
Ẩm thực Nepal
Ẩm thực Bhutan
Ẩm thực Buryat
Ẩm thực Tuvan
Ẩm thực Kalmyk
Ẩm thực Altai
Ẩm thực Ấn Độ
Ẩm thực Trung Á
Ẩm thực Pakistan
Chế phẩm sữa |
19818190 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Aleksandar%20Trajkovski | Aleksandar Trajkovski | Aleksandar Trajkovski (; sinh ngày 5 tháng 9 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Macedonia, thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bắc Macedonia. Chủ yếu là một tiền đạo, anh cũng có thể chơi ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền vệ tấn công.
Sự nghiệp quốc tế
Vào ngày 22 tháng 5 năm 2012, U-21 Macedonia đánh bại U-21 Hà Lan 1–0 trong một trận giao hữu, với bàn thắng duy nhất được ghi bởi trajkovski.
Anh ra mắt cấp cao cho Macedonia vào ngày 10 tháng 8 năm 2011 trong chiến thắng 1–0 giao hữu trước Azerbaijan, và ghi bàn thắng đầu tiên hai năm bốn ngày sau đó để kết thúc chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước những người hàng xóm Bulgaria trong một cuộc triển lãm khác. Anh đã ghi một hat-trick vào ngày 12 tháng 11 năm 2015 trong chiến thắng 4–1 trước Montenegro tại Sân vận động Philip II ở Skopje.
Trajkovski đã được chọn cho UEFA Euro 2020, giải đấu lớn đầu tiên của Bắc Macedonia. Vào ngày 24 tháng 3 năm 2022, anh đã ghi một bàn thắng từ xa vào phút cuối trong trận đấu bán kết play-off vòng loại FIFA World Cup 2022 đánh bại Ý 1–0 tại sân câu lạc bộ cũ của anh ở Palermo, loại Ý khỏi FIFA World Cup lần thứ hai liên tiếp.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Bắc Macedonia được tính trước, cột tỉ số cho biết tỉ số sau mỗi bàn thắng của Trajkovski.
Danh hiệu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at Macedonian Football
LaLiga Profile
Sinh 1992
Người còn sống
Cầu thủ bóng đá từ Skopje
Cầu thủ bóng đá nam Macedonia |
19818196 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A1t%20%C4%90%E1%BA%A1i%20di%E1%BB%87n%20T%C3%B4ng%20t%C3%B2a%20Savannakhet | Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet | Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa của Giáo hội Công giáo Rôma tại trung tâm nước Lào.
Là một Hạt Đại diện Tông tòa, Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet được giao cho một Giám mục hiệu tòa quản lí, đồng thời không thuộc một Giáo tỉnh nào, thay vào đó là chịu sự quản lí trực tiếp của Tòa Thánh thông qua Bộ Truyền giáo.
Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet là Hạt Đại diện Tông tòa lớn nhất tại Lào, bao phủ diện tích 48.100 km² bao gồm các tỉnh Savannakhet, Khammuane và một phần diện tích tỉnh Borikhamxay. Có khoảng 12.500 giáo dân trên dân số 2.7 triệu người của Hạt Đại diện Tông tòa. Trên toàn Hạt Đại diện Tông tòa có 54 giáo xứ và 6 linh mục.
Lịch sử
Hạt Phủ doãn Tông tòa Thakhek được thành lập vào ngày 21/12/1950, khi Hạt Đại diện Tông tòa Lào được tách ra làm hai. Phần phía tây ở Thái Lan được đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Thare, trong khi phần thuộc Lào trở thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Thakhek. Ngày 24/2/1958, Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa. Vào năm 1963, Hạt Đại diện Tông tòa Thakhek được đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Savannakhet, mặc dù tòa giám mục vẫn được đặt tại Thakhek ở tỉnh Khammuane. Năm 1967, phần phía nam Hạt Đại diện Tông tòa được tách ra để thành lập Hạt Đại diện Tông tòa Pakse.
Lãnh đạo
Phủ doãn Tông tòa Savannakhet
Jean-Rosière-Eugène Arnaud, M.E.P. (1950-1958)
Đại diện Tông tòa Savannakhet
Jean-Rosière-Eugène Arnaud, M.E.P. (1958-1969)
Pierre-Antonio-Jean Bach, M.E.P. (1971-1975)
Gioan Baotixita Outhay Thepmany (1975-1997)
Gioan Sommeng Vorachak (1997-2009)
Gioan Maria Viannê Prida Inthirath (2010-hiện tại)
Tham khảo
Liện kết ngoài
Catholic hierarchy
Savannakhet
Savannakhet |
19818211 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Visakhapatnam | Tổng giáo phận Visakhapatnam | Tổng giáo phận Visakhapatnam (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Ấn Độ.
Lịch sử
16/3/1845: Hạt Đại diện Tông tòa phó Visakhapatnam được thành lập, tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Madras.
3/4/1850: Nâng cấp thành Hạt Đại diện Tông tòa Vizagapatam
1/9/1886: Nâng cấp thành Giáo phận Vizagapatam
21/10/1950: Đổi tên thành Giáo phận Visakhapatnam
16/10/2001: Nâng cấp thành Tổng giáo phận đô thành Visakhapatnam
Dòng tu
Dòng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria (CMF) bắt đầu hoạt động trong giáo phận vào năm 1888.
Vào năm 1845, Tòa Thánh ủy quyền cho Dòng Thánh Phanxicô thành Sales (MSFS) hoạt động trên một khu vực lớn trên miền Đông và miền Trung Ấn Độ với trụ sở đặt tại Visakhapatnam. Nhóm tu sĩ MSFS đầu tiên đã đến vùng duyên hải miền Đông Ấn Độ vào ngày 8/9/1845.
Dòng Anh Em Hèn Mọn Capuchin đã mở một văn phòng ở Ấn Độ vào năm 1922, bắt đầu hoạt động tại đây.(Chinna Waltair)
Dòng Tên (K.D. Peta)
Dòng Thánh Vinh Sơn (C.M) (Ukkunagaram)
Lãnh đạo
Tổng giám mục Visakhapatnam
Prakash Mallavarapu; trước là Giám mục Giáo phận Vijayawada, Ấn Độ
Kagithapu Mariadas, M.S.F.S. (16/10/2001 – 3/7/2012); đã từ nhiệm
Giám mục Visakhapatnam
Kagithapu Mariadas, M.S.F.S. (sau là Tổng giám mục) (10/9/1982 – 16/10/2001)
Ignatius Gopu, M.S.F.S. (4/10/1966 – 2/8/1981)
Joseph-Alphonse Baud, M.S.F.S. (21/10/1950 – 4/10/1966)
Giám mục Vizagapatam
Joseph-Alphonse Baud, M.S.F.S. (23/3/1947 – 21/10/1950)
Pierre Rossillon, M.S.F.S. (18/6/1926 – 22/3/1947)
Jean-Marie Clerc, M.S.F.S. (19/2/1891 – 18/6/1926)
Jean Marie Tissot, M.S.F.S. (1/9/1886 – 1890)
Đại diện Tông tòa
Jean Marie Tissot, M.S.F.S. (1862 – 1/9/1886)
Theophile Sebastian Neyret, M.S.F.S. (3/4/1850–5/11/1862)
Phó Đại diện Tông tòa
Đ.c. Theophile Sebastian Neyret, M.S.F.S. (1847 – 3/4/1850)
Đ.c. Jacques Henri Gailhot, (16 March 1845 – 1847)
Giáo phận trực thuộc
Giáo phận Eluru
Giáo phận Guntur
Giáo phận Nellore
Giáo phận Srikakulam
Giáo phận Vijayawada
Tham khảo
GCatholic.org
Catholic Hierarchy
Trang mạng của Tổng giáo phận Visakhapatnam
Visakhapatnam
Khởi đầu năm 1850 ở Ấn Độ |
19818217 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Delhi | Tổng giáo phận Delhi | Tổng giáo phận Delhi (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở phía bắc Ấn Độ.
Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận là Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm ở thủ đô New Delhi của Ấn Độ.
Lịch sử
13/9/1910: Tổng giáo phận đô thành Simla được thành lập trên lãnh thổ tách ra từ Tổng giáo phận Agra và Giáo phận Lahore.
13/4/1937: Đổi tên thành Tổng giáo phận đô thành Delhi và Simla.
4/6/1959: Đổi tên thành Tổng giáo phận đô thành Delhi, đồng thời tách ra một phần lãnh thổ để thành lập Giáo phận Simla.
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đến thăm tổng giáo phận 2 lần, vào tháng 2/1986 và tháng 11/1999.
Thống kê
, trên toàn tổng giáo phận có 115.300 giáo dân (0,4% trên dân số 26.810.000) trên diện tích , chia ra thành 60 giáo xứ và 4 giáo hội. Trên địa bàn có tổng cộng 301 linh mục (130 linh mục triều, 171 linh mục dòng), 1.006 tu sĩ (391 nam tu sĩ, 615 nữ tu sĩ) và 25 chủng sinh.
Lãnh đạo
Tổng giám mục Simla
Anselm Edward John Kenealy, Dòng Anh Em Hèn Mọn Capuchin (O.F.M. Cap.) (21/12/1910 – 13/1/1936)
Giám quản Tông tòa Anselm Edward John Kenealy, O.F.M. Cap. (13/1/1936 – 13/4/1937), sau trở thành Tổng giám mục hiệu tòa Ratiaria (13/1/1936 – 8/12/1943 qua đời)
Tổng giám mục Delhi và Simla
Silvestro Patrizio Mulligan, O.F.M. Cap. (13/4/1937 – 16/8/1950), sau trở thành Tổng giám mục hiệu tòa Cyrrhus (16/8/1950 – 23/10/1950)
Đức cha Giám quản Tông tòa John Burke (1950 – 12/4/1951) (sau trở thành Giám mục)
Joseph Alexander Fernandes (12/4/1951 – 4/6/1959)
Tổng giám mục Delhi
Joseph Alexander Fernandes (4/6/1959 – 16/9/1967)
Angelo Innocent Fernandes (16/9/1967 – 19/11/1990)
Alan Basil de Lastic (19/11/1990 – 20/6/2000)
Vincent Michael Conçessao (7/9/2000 – 30/11/2012)
Giám mục phụ tá: Franco Mulakkal (17/1/2009 – 13/6/2013)
Anil José Tomas Couto (30/11/2012 – ...)
Giáo phận trực thuộc
Giáo phận Jammu–Srinagar
Giáo phận Jalandhar
Giáo phận Simla và Chandigarh
Tham khảo/Liên kết ngoài
GCatholic.org
Catholic Hierarchy
Trang mạng của Tổng giáo phận
Xem thêm
Giáo phận Công giáo tại Ấn Độ
Delhi
Khởi đầu năm 1910 ở Ấn Độ |
19818251 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Th%C3%A1i%20Nguy%C3%AAn | Tổng giáo phận Thái Nguyên | Tổng giáo phận Thái Nguyên (; ) là một Tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc, có tòa giám mục tại Thái Nguyên, Sơn Tây.
Lịch sử
17/6/1890: Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Sơn Tây được tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Sơn Tây.
3/12/1924: Đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Thái Nguyên Phủ.
11/4/1946: Nâng cấp thành Tổng giáo phận Thái Nguyên.
28/6/2022: của tổng giáo phận ở Thái Nguyên đã bị chính quyền địa phương phá hủy.
Lãnh đạo
Tổng giám mục Thái Nguyên
Tổng giám mục Phaolô Mạnh Ninh Hữu (2013–hiện tại)
Tổng giám mục Sylvestrô Lý Kiến Đường (1994–2013)
Tổng giám mục Biển Đức Trương Tín (1981–1994)
Tổng giám mục Domenico Luca Capozi, O.F.M. (11/4/1946 – 1983)
Đại diện Tông tòa Thái Nguyên Phủ
Giám mục Domenico Luca Capozi, O.F.M. (sau trở thành Tổng giám mục) (12/1/1940 – 11/4/1946)
Giám mục Agapito Augusto Fiorentini, O.F.M. (3/12/1924 – 1938)
Đại diện Tông tòa Bắc Sơn Tây
Giám mục Agapito Augusto Fiorentini, O.F.M. (7/7/1916 – 3/12/1924)
Giám mục Eugenio Massi, O.F.M. (15/2/1910 – 7/7/1916)
Giám mục Agapito Augusto Fiorentini, O.F.M. (16/3/1902 – 18/11/1909)
Thánh Giám mục Gregorio Maria Grassi, O.F.M. (17/6/1890 – 19/7/1900)
Giáo phận trực thuộc
Giáo phận Đại Đồng
Giáo phận Phần Dương
Giáo phận Hồng Động
Giáo phận Lộ An
Giáo phận Sóc Châu
Giáo phận Du Thứ
Tham khảo
Liên kết ngoài
GCatholic.org
Catholic Hierarchy
Thái Nguyên
Thái Nguyên, Sơn Tây |
19818252 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Roland%20Sallai | Roland Sallai | Roland Sallai (sinh ngày 22 tháng 5 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hungary thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ SC Freiburg tại Bundesliga và đội tuyển quốc gia Hungary.
Tham khảo
Liên kết ngoài
MLSZ
Roland Sallai profile tại magyarfutball.hu
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Nemzeti Bajnokság I
Cầu thủ bóng đá APOEL FC
Cầu thủ bóng đá U.S. Città di Palermo
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Hungary
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Hungary
Cầu thủ bóng đá nam Hungary
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1997 |
19818253 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Elon%20Musk%20mua%20l%E1%BA%A1i%20Twitter | Elon Musk mua lại Twitter | Elon Musk mua lại Twitter là sự kiện tỉ phú Elon Musk đã bắt đầu thương vụ mua lại công ty mạng xã hội Twitter, Inc. vào ngày 14 tháng 4 năm 2022 và hoàn tất thương vụ vào ngày 27 tháng 10 năm 2022. Elon Musk đã mua cổ phần của công ty này vào tháng 1 năm 2022, trở thành cổ đông lớn nhất của công ty vào tháng 4 với 9,1% cổ phần sở hữu.
Twitter đã mời Elon Musk tham gia hội đồng quản trị của mình, ban đầu lời đề nghị ban đầu ông chấp nhận, sau đó từ chối. Vào ngày 14 tháng 4 năm 2022, Elon Musk đã tự nguyện đưa ra lời đề nghị mua lại công ty, lúc đầu hội đồng quản trị của Twitter đã đáp lại bằng một chiến lược viên thuốc độc. Nhưng ngay sau đó, hội đồng quản trị nhất trí đã chấp nhận lời đề nghị mua lại trị giá 44 tỉ USD của Elon Musk vào ngày 25 tháng 4 năm 2022. Elon Musk tuyên bố rằng ông dự định cho ra mắt các tính năng mới cho Twitter bao gồm biến các thuật toán của nó thành nguồn mở, diệt các tài khoản spambot và thúc đẩy quyền tự do ngôn luận.
Có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh sự kiện này. Một số đã khen ngợi kế hoạch cải cách, tầm nhìn và sự ủng hộ gia tăng tự do ngôn luận của Musk. Tuy nhiên, cũng có những lời chỉ trích về các hệ lụy như khả năng gia tăng thông tin sai lệch, quấy rối hay phát ngôn thù hận trên nền tảng. Tại Hoa Kỳ, phe bảo thủ phần lớn ủng hộ việc mua lại, trong khi phe tự do và cựu nhân viên Twitter lo ngại về ý định của Musk. Sau khi làm chủ, Musk đã bị chỉ trích dữ dội vì cách quản lý công ty của ông và việc đình chỉ tài khoản.
Bối cảnh
Tỉ phú Elon Musk đã xuất bản dòng tweet đầu tiên lên tài khoản Twitter cá nhân của mình vào tháng 6 năm 2010. Thời điểm đó, tài khoản của ông có hơn 80 triệu người theo dõi vào tháng 4 năm 2022. Vào năm 2017, để đáp lại một dòng tweet gợi ý rằng ông nên mua Twitter, Inc. , Elon Musk trả lời: Nó là bao nhiêu?
Vào ngày 24 tháng 3 năm 2022, Elon Musk bắt đầu đăng những dòng tweet chỉ trích Twitter, thăm dò ý kiến những người theo dõi của mình về việc liệu công ty có tuân thủ nguyên tắc tự do ngôn luận là điều cần thiết cho một nền dân chủ đang hoạt động hay không. Vài ngày sau, ông thảo luận về tương lai của truyền thông xã hội với người đồng sáng lập Twitter Jack Dorsey và khám phá khả năng tham gia hội đồng quản trị của Twitter với đồng giám đốc điều hành của công ty cổ phần tư nhân Silver Lake, Egon Durban. Ông ấy đã chuyển ý tưởng này tới chủ tịch hội đồng quản trị Twitter Bret Taylor và Giám đốc điều hành Parag Agrawal, đề xuất chuyển công ty thành tư nhân hoặc bắt đầu một nền tảng truyền thông xã hội đối thủ. Jack Dorsey đã trả lời Elon Musk bằng một tin nhắn văn bản, nói rằng ông ấy hy vọng Twitter có thể trở thành mã nguồn mở và đã thất bại trong việc thúc đẩy việc đưa Elon Musk vào hội đồng quản trị của Twitter một năm trước đó, một động thái khiến ông ấy rời bỏ vai trò Giám đốc điều hành của mình.
Tham khảo
Kinh tế năm 2022
Mua bán và sáp nhập năm 2022
Hoa Kỳ năm 2022
Elon Musk |
19818259 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Tegucigalpa | Tổng giáo phận Tegucigalpa | Tổng giáo phận Tegucigalpa (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Honduras. Hiện tại tổng giáo phận là tổng giáo phận đô thành duy nhất ở Honduras, quản lí Giáo tỉnh Tegucigalpa, giáo tỉnh duy nhất tại nước này.
Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận là Nhà thờ chính tòa Tổng lãnh thiên thần Micae (Catedral Metropolitana de San Miguel de Arcángel), nằm tại thủ đô Tegucigalpa. Tổng giáo phận cũng có một Tiểu vương cung thành đường: Basílica de Nuestra Señora de Suyapa, cũng nằm tại Tegucigalpa.
Lịch sử
Tổng giáo phận đô thành Tegucigalpa được thành lập vào ngày 2/2/1916 trên lãnh thổ tách ra từ Giáo phận Comayagua, trong đó phần còn lại của giáo phận này được chia thành Hạt Đại diện Tông tòa San Pedro Sula và Giáo phận Santa Rosa de Copán.
Tổng giáo phận bị chia tách nhiều lần: vào ngày 6/3/1949 khi Giáo đoàn Tòng thổ Inmaculada Concepción de la B.V.M. en Olancho (sau trở thành giáo phận Juticalpa) được thành lập, vào ngày 13/3/196 khi Giáo phận Comayagua được tái thành lập, vào ngày 8/9/1964 khi Giáo đoàn Tòng thổ Choluteca được thành lập, vào ngày 19/9/2005 khi Giáo phận Yoro được thành lập, và vào ngày 2/1/2017 khi Giáo phận Danlí được thành lập.
Thống kê
Đến năm 2014, trên toàn tổng giáo phận có 1.684.000 giáo dân (86,1% trên dân số 1,955,000), chia thành 58 giáo xứ và 3 giáo hội với 156 linh mục (79 linh mục triều, 77 linh mục dòng), 1 phó tế, 417 tu sĩ (97 nam tu sĩ, 320 nữ tu sĩ) và 37 chủng sinh.
Giáo phận trực thuộc
Giáo phận Choluteca
Giáo phận Comayagua
Giáo phận Danlí
Giáo phận Juticalpa
Lãnh đạo
Giám mục Comayagua
Alfonso de Talavera, OSH (1531–1540)
Cristóbal de Pedraza (1539–1553)
Jerónimo de Corella, OSH (1556–1575)
Alfonso de la Cerda, OP (1578–1587), sau trở thành Giám mục La Plata o Charcas
Gaspar de Andrada, OFM (1587–1612)
Alfonso del Galdo, OP (1612–1628)
Luis de Cañizares, OFM (1628–1645)
Juan Merlo de la Fuente (1650–1656)
Martín de Espinosa y Monzón (1672–1676)
Ildefonso Vargas y Abarca, OSA (1678–1699)
Pedro Reyes de los Ríos de Lamadrid, OSB (1699–1700), sau trở thành Giám mục Yucatán (Mérida)
Juan Pérez Carpintero, OPraem (1701–1724)
Antonio López Portillo de Guadalupe, OFM (1725–1742)
Francisco de Molina, OSBas (1743–1749)
Diego Rodríguez de Rivas y Velasco (1751–1762), sau trở thành Giám mục Guadalajara, Jalisco, Mexico
Isidro Rodríguez Lorenzo, OSBas (1764–1767), sau trở thành Tổng giám mục Santo Domingo
Antonio Macarulla Minguilla de Aguilain (1767–1772), sau trở thành Giám mục Durango
Francisco José de Palencia (1773–1775)
Francisco Antonio Iglesia Cajiga, OSH (1777–1783), sau trở thành Giám mục Michoacán
José Antonio de Isabela (1785–1785)
Fernando Cardiñanos, OFM (1788–1794)
Vicente Navas, OP (1795–1809)
Manuel Julián Rodríguez del Barranco (1817–1819)
Francisco de Paula Campo y Pérez (1844–1853)
Hipólito Casiano Flórez (1854–1857)
Juan Félix de Jesús Zepeda (1861–1885)
Manuel Francisco Vélez (1887–1901)
José María Martínez y Cabañas (1902 – 2/2/1916)
Tổng giám mục Tegucigalpa
José María Martínez y Cabañas (2/2/1916 – 11/8/1921)
Agustín Hombach, CM (3/2/1923 – 17/10/1933)
Đức ông Emilio Morales Roque (Giám quản Tông tòa 1934–1943)
Đấng Đáng Kính Angelo María Navarro (1943–1947)
José de la Cruz Turcios y Barahona, SDB (8/12/1947 – 18/5/1962)
Héctor Enrique Santos Hernández, SBD (18/5/1962 – 8/1/1993 từ nhiệm)
Óscar Rodríguez Maradiaga, SDB (8/1/1993 – 26/1/2023); thăng Hồng y năm 2001
José Vicente Náchter Tatay, CM (26/1/2023 - )
Giám mục phó
Luis de Cañizares, O.M. (1628-1629)
Antonio del Carmen Monestel y Zamora (1915-1921), không kế thừa chức Giám mục Tegucigalpa; được chỉ định làm Giám mục Alajuela, Costa Rica
Giám mục phụ tá
Evelio Domínguez Recinos (1957-1988)
Robert Camilleri Azzopardi, OFM (26 July 2001 – 21 May 2004),sau trở thành Giám mục Comayagua
Juan José Pineda Fasquelle, CMF (21 May 2005 – 20 July 2018)
Darwin Rudy Andino Ramírez, C.R.S. (2006-2011), sau trở thành Giám mục Santa Rosa de Copán
Teodoro Gómez Rivera (2021–2023), sau trở thành Giám mục Choluteca
Tham khảo
Liên kết ngoài
GCatholic - data for all sections
Tổng giáo phận Tegucigalpa
Tegucigalpa
Tegucigalpa |
19818272 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Jakob%20Johansson | Jakob Johansson | Jakob Valdemar Olsson Johansson (sinh ngày 21 tháng 6 năm 1990) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Điển từng thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự. Trở thành cầu thủ đầu tiên sinh vào những năm 1990 chơi tại Allsvenskan khi ở IFK Göteborg, anh tiếp tục đại diện cho AEK Athens và Rennes trước khi giải nghệ tại IFK Göteborg vào năm 2021. Khi thi đấu quốc tế đầy đủ từ năm 2013 đến năm 2019, anh đã có 18 trận cho Đội tuyển quốc gia Thụy Điển và được nhớ đến nhiều nhất khi ghi bàn vào lưới bàn thắng ấn định chiến thắng ở Vòng loại FIFA World Cup 2018 trước Ý khi Thụy Điển vượt qua vòng loại World Cup lần đầu tiên của họ sau 12 năm.
Sự nghiệp quốc tế
Johansson ra mắt quốc tế trong trận giao hữu với Triều Tiên vào ngày 23 tháng 1 năm 2013. Anh đã ra mắt thi đấu trong một trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2018 đấu với Pháp vào ngày 11 tháng 11 năm 2016. Vào ngày 10 tháng 11 năm 2017, Thụy Điển thắng Ý 1–0 trong trận lươt đi vòng ha vòng loại FIFA World Cup 2018 tại Friends Arena, và bàn thắng duy nhất đến khi Jakob Johansson khoan thủng lưới nhà từ khoảng cách 20 mét, qua một pha chệch hướng của Daniele De Rossi. Vào ngày 13 tháng 11 năm 2017, trong trận đấu mà Thụy Điển đã cầm hòa không bàn thắng ở trận lượt về tại San Siro để đánh bại người Ý với tỷ số chung cuộc 1–0 tại vòng play-off FIFA World Cup 2018, Johansson phải đối mặt với chấn thương dây chằng chéo trước khiến anh phải nghỉ thi đấu 11 tháng. Do đó, anh cũng đã bỏ lỡ FIFA World Cup 2018.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Bàn thắng quốc tế
Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Thụy Điển.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh 1990
Người còn sống |
19818275 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20%C4%90%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BB%93ng | Giáo phận Đại Đồng | Giáo phận Đại Đồng (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc, nằm trong Giáo tỉnh Thái Nguyên.
Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Khiết Tâm Đức Bà Maria ở địa cấp thị Đại Đồng (Sơn Tây) tuy nhiên hiện tại giáo phận đang trống tòa.
Lịch sử
Ngày 14/3/1922, Hạt Phủ doãn Tông tòa Đại Đồng Phủ được thành lập trên diện tích tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Sơn Tây.
Nâng cấp ngày 17/6/1932 thành Hạt Đại diện Tông tòa Đại Đồng Phủ.
Nâng cấp ngày 11/4/1946 thành Giáo phận Đại Đồng, bắt đầu trở thành một giáo phận trực thuộc.
Lãnh đạo giáo phận
(toàn bộ đều theo Nghi lễ Rôma và đều là tu sĩ truyền giáo của Dòng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, C.I.C.M.)
Phủ doãn Tông tòa Đại Đồng Phủ
Đức cha Joseph Hoogers, C.I.C.M. (March 3, 1923–1932), trước là Trưởng giáo tỉnh Giáo hội sui iuris I-li (8/6/1918 – 1922)
Đại diện Tông tòa Đại Đồng Phủ
Franciscus Joosten, C.I.C.M. (21/6/1932 – 11/4/1946), Giám mục hiệu tòa Germanicopolis (ở Isauria) (14/6/1932 – 11/4/1946)
Giám mục Giáo phận Đại Đồng
Franciscus Joosten, C.I.C.M. (11/4/1946 – 1947)
Giám quản Tông tòa Alphonse Van Buggenhout, C.I.C.M. (31/3/1950 – 1951), sau trở thành Thư ký Hội đồng Giám mục Trung Quốc (1967 – 1970)
Tađêô Quách Ấn Cung (1990 – 2000?)
(trống tòa)
Tham khảo
GCatholic.org
Catholic Hierarchy
Tham khảo/Liên kết ngoài
GigaCatholic
Đại Đồng
Đại Đồng |
19818282 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Ph%E1%BA%A7n%20D%C6%B0%C6%A1ng | Giáo phận Phần Dương | Giáo phận Phần Dương (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc nằm trong Giáo tỉnh Thái Nguyên, có tòa giám mục đặt tại Phần Dương (Sơn Tây).
Lịch sử
12/5/1926: Hạt Đại diện Tông tòa Phần Dương được thành lập trên diện tích tách ra từ Hạt Phủ doãn Tông tòa Thái Nguyên Phủ.
11/4/1946: Nâng cấp thành Giáo phận Phần Dương
Lãnh đạo giáo phận
Đại diện Tông tòa Phần Dương
Giám mục Aloisiô Trần Quốc Chỉ (Tchen Chao-t’ien), O.F.M. (10/5/1926 – 9/3/1930)
Giám mục Phanxicô Lưu Cẩm Văn (23/7/1930 – 11/4/1946)
Giám mục Phần Dương
Giám mục Phanxicô Lưu Cẩm Văn (11/4/1946 – 15/1/1948)
Giám mục Simôn Lôi Chấn Hà (9/6/1949 – 1963)
Giám mục Gioan Quắc Thành (1991 – 2/1/2023)
Tham khảo
GCatholic.org
Catholic Hierarchy
Phần Dương
Phần Dương |
19818284 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lutjanus%20inermis | Lutjanus inermis | Lutjanus inermis là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1869.
Từ nguyên
Tính từ định danh inermis trong tiếng Latinh có nghĩa là “không vũ trang”, hàm ý đề cập đến các gai vây lưng mỏng manh ở loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
L. inermis có phân bố rộng rãi ở Đông Thái Bình Dương, từ mũi nam bán đảo Baja California và cửa vịnh California trải dài về phía nam đến Ecuador, bao gồm quần đảo Galápagos, đảo Malpelo và đảo Cocos xa bờ.
L. inermis sống trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu độ sâu ít nhất là 70 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. inermis là 39 cm. Chiều dài thuần thục sinh dục là 23,9 cm đối với cá cái và 23,6 cm đối với cá đực.
Cá trưởng thành có màu xám, với các sọc xám sẫm dọc hai bên lườn (~10 đường bên dưới đường bên và ~20 đường xiên trên đó). Chúng thường có vây đuôi và vây lưng màu vàng đặc trưng, kèm một sọc vàng từ giữa thân kéo dài ra sau cuống đuôi cũng màu vàng. Tuy nhiên, đôi khi chúng không có màu vàng hoặc màu vàng chỉ giới hạn trên vây đuôi. Khi chụp dưới nước sâu và khi mới được đánh bắt, chúng thường ửng đỏ trên cơ thể.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11.
Sinh thái
Thức ăn của L. inermis bao gồm cá và một số loài thủy sinh không xương sống như giáp xác, cũng có thể ăn sinh vật phù du.
Vào ban ngày, chúng hợp thành đàn từ 30 cá thể trở lên, đôi khi đứng im. Cá con bắt chước cá thia Azurina atrilobata và thường bơi cùng nhau.
Hai thời kỳ sinh sản chính trong năm được ghi nhận ở L. inermis là vào khoảng tháng 2–tháng 4 và tháng 9–tháng 11.
Tham khảo
Xem thêm
I
Cá Thái Bình Dương
Cá vịnh California
Cá México
Cá El Salvador
Cá Costa Rica
Cá Panama
Cá Colombia
Cá Ecuador
Động vật được mô tả năm 1869 |
19818287 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20H%E1%BB%93ng%20%C4%90%E1%BB%99ng | Giáo phận Hồng Động | Giáo phận Hồng Động (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc), nằm trong Giáo tỉnh Thái Nguyên.
Lịch sử
17/6/1932: Hạt Phủ doãn Tông tòa Hồng Động () được thành lập trên diện tích tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Lộ An Phủ ().
18/4/1950: Nâng cấp thành Giáo phận Hồng Động
Lãnh đạo giáo phận
Giám mục Hồng Động
Giám mục Phêrô Lưu Căn Trụ (22/12/2020 - hiện tại)
Giám mục Giuse Tôn Viễn Mô (7/11/1920–23/2/2006)
Giám mục Phanxicô Hàn Đình Bật () (18/4/1950–21/12/1991)
Phủ doãn Tông tòa Hồng Động
Giám mục Phanxicô Hàn Đình Bật () (1949–18/4/1950)
Đ.c. Giuse Cao Tông Hán () (1942–14/11/1944)
Đ.c. Phêrô Thành Ngọc Đường () (24/5/1932–1942)
Tham khảo
GCatholic.org
Catholic Hierarchy
Hồng Động
Hồng Động |
19818299 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ji%C5%99%C3%AD%20x%E1%BB%A9%20Pod%C4%9Bbrad | Jiří xứ Poděbrad | Jiří của Kunštátu và Poděbrad (23 tháng 4 năm 1420 – 22 tháng 3 năm 1471) (tiếng Séc: Jiří z Poděbrad; tiếng Anh: George of Poděbrady) là vị vua thứ mười sáu của Vương quốc Séc, trị vì từ năm 1458–1471. Ông là một nhà lãnh đạo của Hussite, nhưng ôn hòa và khoan dung đối với đức tin Công giáo. Triều đại cai trị của ông được đánh dấu bằng những nỗ lực thành công duy trì hòa bình giữa người Hussite và người Công giáo ở Vương quốc Séc vốn bị chia rẽ về mặt tôn giáo. Chính vì điều này, Jiří cũng được gọi là "Vị vua của hai dân tộc" (tiếng Séc: král dvojího lidu) và "Người bạn của hòa bình" (tiếng Séc: přítel míru).
Vào thế kỷ 19, giai đoạn được gọi là thời Phục hưng đất nước Séc, Jiří bắt đầu được ca ngợi với tư cách là quốc vương Séc cuối cùng xét về nhận thức dân tộc. Có thể nói Jiří là một nhà ngoại giao vĩ đại trong thời đại ông và là một chiến binh dũng cảm chống lại sự thống trị của Giáo hội Công giáo. Trong thời hiện đại, người ta nhớ đến ông chủ yếu nhờ vào ý tưởng và những nỗ lực thiết lập các thể chế Cơ đốc giáo chung của châu Âu, ngày nay được coi là tầm nhìn lịch sử ban đầu về sự thống nhất chung của châu Âu.
Thân thế
Jiří là con trai của Viktorín xứ Kunštátu và Poděbrad, một nhà quý tộc Bohemia có tổ tiên là người gốc Morava. Cha Jiří là một trong những thủ lĩnh dẫn đầu phe ôn hòa của người Hussite (được gọi là Utrakvismus) trong Chiến tranh Hussite. Mẹ của Jiří không được nhắc đến và có khả năng sự chào đời của ông là ngoài giá thú. Chính vì điều này, trong suốt cuộc đời mình, Jiří đã nhiều lần bị quấy rầy bằng những lời chế giễu về nguồn gốc xuất thân từ những kẻ thù của ông.
Khi mười bốn tuổi, Jiří đã tự mình tham gia Trận chiến Lipan (1434), đánh dấu sự sụp đổ của các phe phái Hussite cấp tiến hơn (Taborites và Orebites) và sự kết thúc giai đoạn cách mạng của phong trào Hussite. Vào thời điểm này, Jiří là mồ côi, vì cha ông qua đời vào năm 1427.
Hồi trẻ, với tư cách là một trong những nhà lãnh đạo của Hussite, Jiří đã đánh bại quân đội Áo của Vua Albert II. Albert là công tước của Áo, sau này ông đã kế vị Sigismund của Thánh chế La Mã làm Vua của Bohemia, Đức và Hungary. Jiří nhanh chóng trở thành một thành viên nổi bật của đảng Hussite sau cái chết của thủ lĩnh của đảng, Hynce Ptáček của Pirkstein vào năm 1444.
Albert II được kế vị bởi con trai là Ladislav Pohrobek, trong thời gian trị vì của ông, Bohemia bị chia rẽ mạnh mẽ thành hai đảng: đảng trung thành với La Mã, do Oldřich II của Rosenberg lãnh đạo, và đảng Hussite, do Jiří lãnh đạo. Về sau, Jiří đã thành công gây dựng một lực lượng quân sự ở đông bắc Bohemia, nơi có người Hussite đông đảo và là nơi cố hữu của Lâu đài Litice. Năm 1448, Jiří dẫn quân khoảng 9000 người lính từ Kutná Hora đến Praha và sau đó chiếm được thủ đô mà hầu như không gặp phải khó khăn nào.
Tham khảo
Vua Bohemia
Người Bohemia
Người bị Giáo hội Công giáo Rôma phạt vạ tuyệt thông
Sinh năm 1420
Mất năm 1471 |
19818310 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sargocentron%20ittodai | Sargocentron ittodai | Sargocentron ittodai là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1902.
Từ nguyên
Từ định danh ittodai cũng là tên thông thường của loài cá này tại đảo Nhật Bản, cũng là nơi thu thập mẫu định danh, được ghép bởi hai âm tiết: itto (“đứng hàng đầu”), có lẽ đề cập đến sự bắt mắt của nó, và tai, một tên gọi chung đôi khi được áp dụng cho các thành viên của chi này.
Phân bố và môi trường sống
S. ittodai có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ và tỉnh KwaZulu-Natal (Nam Phi), cũng như các đảo quốc ngoài khơi Đông Phi, trải dài về phía đông đến quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc đến Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), xa về phía nam đến bờ đông Úc (gồm cả đảo Giáng Sinh). S. ittodai cũng được ghi nhận tại Việt Nam cùng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
S. ittodai sống trên các rạn san hô viền bờ, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 190 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. ittodai là 20 cm. Loài này có màu đỏ với các dải sọc đỏ và trắng dọc theo các hàng vảy cá (sọc đỏ hơi hẹp hơn so với sọc trắng). Tuy nhiên, sọc đỏ thường rộng hơn đối với các mẫu vật thu thập ở đảo Đài Loan và Nhật Bản.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số vảy đường bên: 43–49.
Sinh thái
S. ittodai là loài ăn đêm, thức ăn là động vật giáp xác (chủ yếu cua và tôm).
Giá trị
S. ittodai là một thành phần của nghề đánh bắt thủ công và đánh bắt quy mô nhỏ.
Tham khảo
T
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Ai Cập
Cá Nam Phi
Cá Seychelles
Cá Réunion
Cá Mauritius
Cá Việt Nam
Cá Đài Loan
Cá Philippines
Cá Papua New Guinea
Cá Palau
Động vật đảo Giáng Sinh
Động vật Polynésie thuộc Pháp
Động vật được mô tả năm 1902 |
19818311 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mori%20Hinako | Mori Hinako | là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti NAX Promotion.
Sự nghiệp
Tháng 6/2020, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách nữ diễn viên độc quyền của nhãn phim "KMHR (Kimihore)" của hãng SOD Create (sau khi xuất hiện trong ba phim, cô đã bắt đầu làm việc với tư cách là nữ diễn viên tự lập kế hoạch). Tháng 6/2020. cô đã tham gia cuộc thi MissiD 2021 của Kōdansha, và đã tiến vào vòng bán kết.
Trong bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần ngày 5/12/2022, phim của cô 2022年12月5日週FANZA動画フロアランキングにおいて、出演した"Không còn là Kamibukuro nữa! Tôi đã tuyển chọn cách phim nổi tiếng của Kaguyahime Pt, nên nếu bạn mua nó bây giờ, bạn chắc chắn sẽ có một bộ sưu tập 32 giờ!" (Kaguyahime Pt/Mōsozoku) đã xếp thứ nhất.
11/5/2023, cô cùng Hinata Himari tạo thành bộ đôi "Hinata Uta", và họ đã tổ chức một buổi diễn trực tiếp được tổ chức tại Sangenjaya Grapefruit Moon ở Tokyo.
3/7/2023, phim tổng hợp của cô "【Túi may mắn】S-Cute chỉ có những cô gái xinh đẹp 15 phim không cắt 38 tiếng bản ghi!"(【福袋】S-Cute 可愛い子だけ15作品をノーカット収録38時間!) phát hành tháng 12/2022 đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần.
Đời tư
Cô sinh ra tại Mie. Trên trang tự giới thiệu của MissiD 2021, có thông tin rằng cô đã tham gia một trường dạy làm đẹp, và tại thời điểm cô có hợp đồng độc quyền với KMHR, hồ sơ của cô cũng ghi rằng cô đã tham gia một trường dạy làm đẹp Trong một cuộc phỏng vấn, cô đã nói rằng cô đã quan hệ tình dục lần đầu năm 18 tuổi.
Lí do cô trở thành nữ diễn viên khiêu dâm là cô thích phụ nữ đáng yêu và là người hâm mộ lớn của Ogura Yuna, và vì có những người phụ nữ đáng yêu đang làm nữ diễn viên khiêu dâm, cô bắt đầu quan tâm đến phim khiêu dâm và xem nó, rồi từ đó cô có mong muốn trở thành nữ diễn viên khiêu dâm. Mục tiêu của cô trong tương lai là trở thành nữ diễn viên khiêu dâm không chỉ được yêu thích bởi đàn ông, mà cả phụ nữ vì chính cô đã chọn vào ngành nhờ những người phụ nữ khác. Cô hiện tại đang đăng thông tin liên tục lên các mạng xã hội như Twitter.
Sở thích của cô là trang điểm và hỗ trợ các thần tượng.。Món ăn yêu thích của cô là dâu tây, thịt nướng và mì ramen. Cô đã tham gia câu lạc bộ kèn đồng khi học trung học cơ sở và đảm nhận vị trí chơi saxophone. Phim yêu thích của cô là Onna no ko kirai, và cuốn sách cô yêu thích là Thế giới song song - Câu chuyện tình yêu.
Vì tính cách vui vẻ của mình, cô được gọi là "cô gái tequila người không bao giờ bị ốm" trong loạt phim "Nếu bạn có thể chịu được các kĩ năng tuyệt vời, bạn sẽ nhận được★SEX xuất tinh mạnh!".
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản |
19818317 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Digimon%20Adventure%2002%3A%20The%20Beginning | Digimon Adventure 02: The Beginning | là một phim điện ảnh anime thể loại phiêu lưu được sản xuất bởi Toei Animation và Yumeta Company. Bộ phim được dựa trên hai xê-ri anime truyền hình của Digimon là Digimon Adventure và Digimon Adventure 02, đồng thời tiếp nối loạt phim điện ảnh nhiều phần Digimon Adventure tri. và phim điện ảnh Digimon Adventure: Last Evolution Kizuna.
Phim dự kiến công chiếu ngày 27 tháng 10 năm 2023 tại Nhật Bản, phân phối bởi Toei Animation.
Nội dung
Sản xuất
Lồng tiếng
Âm nhạc
Truyền thông
Phát hành
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim Nhật Bản
Phim năm 2023
Phim anime năm 2023
Yumeta Company
Anime và manga phiêu lưu
Phim hoạt hình phiêu lưu
Anime và manga kỳ ảo
Phim lấy bối cảnh năm 2012
Phim tiếng Nhật
Phim tiếp nối Nhật Bản
Anime và manga khoa học viễn tưởng |
19818318 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Fujii%20Shelly | Fujii Shelly | là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại Tokyo.
Sự nghiệp
Cô là một hāfu có bố là người Philippines và mẹ là người Nhật. Tên diễn của cô là ghép giữa Fujii Lena và SHELLY. Cô thuộc về công ti chủ quản Selection.
Lần đầu cô quan hệ tình dục là với bạn trai vào mùa hè năm 16 tuổi. Khi cô học đại học năm đầu, cô đã xem phim người lớn và cảm thấy ấn tượng bởi sự quyến rũ của một nữ diễn viên khiêu dâm, vì thế nên cô đã đặt mục tiêu vào ngành phim khiêu dâm.
Tháng 9/2008, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm. Trước đó cô đã mở một trang blog chính thức "Itoshi no Sherry" (いとしのシェリー). Cô đã kí một hợp đồng độc quyền với Million, một hãng phim đang không có nữ diễn viên độc quyền nào lúc đó sau khi Asao Rika nghỉ việc. Ngày 17/11 cùng năm, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng "Mishin" với khẩu hiệu "Đẹp hơn người nổi tiếng".
24/3/2010, cô đã nhận giải Nữ diễn viên mới tại Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV! 2010 của Sky PerfecTV!. Tháng 7 cùng năm, cô cùng Asakura Yū và Ōishi Nozomi thành lập nhóm thần tượng "Million Girls 2010".
Năm 2011, cô cùng với Kasumi Kaho, Otsuka Saki, Saeki Nana, Mizuno Tsukasa và Hoshizuki Mayura đã xuất hiện trong cuốn sách "Trái tim trần" (裸心) (Tóm tắt câu chuyện của một nữ diễn viên khiêu dâm đến khi cô bắt đầu làm việc theo văn tiểu thuyết).
Cô đã dừng đăng bài cập nhật lên blog chính thức vào ngày 14/10/2012 và Twitter vào ngày 4/12/2012. Ngày 31/12/2012, đại diện của KMP vào thời điểm đó Kita Akio đã thông báo rằng "Cô có một hợp đồng để diễn, tuy nhiên vì một lí do nào đó việc ghi hình không thể diễn ra". Cô đã gần như dừng hoạt động.
2/9/2014, một trang blog và Twitter mới của cô đã được lập, và bài đăng trên blog nói rằng tên diễn của cô đã đổi thành "Shelly". Ngoài ra, cô cũng đã chuyển văn phòng chủ quản sang Roseo. Ngày 19/10, phim đầu tiên sau khi cô trở lại ngành được phát hành, và cô tiếp tục hoạt động với tư cách nữ diễn viên độc quyền của Idea Pocket.
Từ tháng 7/2015, cô trở thành nữ diễn viên độc quyền của Wanz Factory. Trong một số phim, tên diễn của cô được viết bằng các chữ katakana "シェリー" thay vì chữ Latinh.
28/2/2016, cô đã thông báo nghỉ việc nữ diễn viên khiêu dâm tại một sự kiện.
Đời tư
Món cô yêu thích: xoài, chuối, sô-cô-la, ramen, bia
Món cô không thích: hành lá, ếch
Vật nuôi: Alice (Chó cái giống Cavalier, là con của chú chó Cavalier của một người bạn, sinh ngày 2/6)
Sở thích: xem phim, đan len
Hình mẫu cô yêu thích là một người có cơ thể mạnh mẽ và có cá tính.
Cô bị dị ứng với tôm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chính thức của Shelly (Idea Pocket)
Shelly オフィシャルブログ 〜気分屋Shelly開店しました〜 - Blog chính thức (2/9/2014 - )
(2/9/2014 - ) ※ngừng hoạt động
いとしのシェリー (Itoshi no Sherry/Sherry thân yêu) - Blog chính thức (25/9/2008 - 14/10/2012)
(4/2011 - 4/12/2012)
Sinh năm 1990
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên Idea Pocket |
19818341 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BB%81u%20%C4%91%E1%BA%A1i%20Alaouite | Triều đại Alaouite | Vương triều 'Alawi (tiếng Ả Rập: سلالة العلويين الفيلاليين, chuyển tự La tinh: sulālat al-ʿalawiyyīn al-fīlāliyyīn) – cũng được dịch sang tiếng Anh là Alaouite, 'Alawid, Alawite – là hoàng tộc trị vì Vương quốc Ma Rốc hiện tại. Họ là một triều đại Sharif Ả Rập và tuyên bố có nguồn gốc từ nhà tiên tri Hồi giáo Muhammad thông qua cháu trai của ông, Hasan ibn Ali. Tổ tiên của họ ban đầu di cư đến vùng Tafilalt, thuộc Ma Rốc ngày nay, từ Yanbu trên bờ biển Hejaz vào thế kỷ XII hoặc XIII.
Triều đại lên nắm quyền vào thế kỷ XVII, bắt đầu với Mawlay al-Sharif, người được tuyên bố là sultan của Tafilalt vào năm 1631. Con trai của ông là Al-Rashid, cai trị từ năm 1664 đến 1672, đã có thể thống nhất và bình định đất nước sau một thời gian dài của sự chia rẽ khu vực do sự suy yếu của Vương triều Saadi. Anh trai của ông, Isma'il, đã có một thời kỳ cai trị trung ương tập quyền mạnh mẽ từ năm 1672 đến năm 1727, một trong những vị quốc vương tại vị lâu nhất so với bất kỳ quốc vương Ma Rốc nào. Sau cái chết của Isma'il, đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn khi các con trai của ông tranh giành quyền kế vị, nhưng trật tự đã được thiết lập lại dưới triều đại lâu dài của Muhammad ibn Abdallah vào nửa sau của thế kỷ XVIII. Thế kỷ XIX được đánh dấu bằng ảnh hưởng ngày càng tăng của các cường quốc châu Âu.
Vương tộc 'Alawis cai trị với tư cách là các quốc vương có chủ quyền cho đến năm 1912, khi chế độ bảo hộ của Pháp và chế độ bảo hộ của Tây Ban Nha được áp đặt lên Ma Rốc. Các quân chủ của Nhà 'Alawis được giữ lại như những vị vua tượng trưng dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Khi đất nước giành lại độc lập vào năm 1956, Mohammed V, người đã ủng hộ chính nghĩa dân tộc chủ nghĩa, đã tiếp tục 'vai trò của người Nhà 'Alawi với tư cách là nguyên thủ quốc gia độc lập. Ngay sau đó, vào năm 1957, ông lấy danh hiệu "Vua" thay vì "Sultan". Những người kế vị của ông, Hassan II và Mohammed VI (vị vua đang trị vì hiện tại), đã tiếp tục cai trị vương triều dưới cùng một danh hiệu. Ngày nay, chính phủ Ma Rốc chính thức là một chế độ quân chủ lập hiến, nhưng nhà vua vẫn giữ quyền lực độc đoán mạnh mẽ đối với nhà nước và các vấn đề công cộng, bất chấp một số cải cách chính trị trong những thập kỷ gần đây.
Tên gọi
Lịch sử
Danh sách quân chủ của Nhà 'Alawi
Tham khảo
Đọc thêm
Waterbury, John. Commander of the Faithful
Liên kết ngoài
Morocco Alaoui dynasty
Triều đại Alaouite
Hoàng gia Maroc
Nhà Hashim
Khởi đầu năm 1666 ở châu Phi
Triều đại Ả Rập
Ả Rập thế kỷ 16
Ả Rập thế kỷ 17
Ả Rập thế kỷ 18
Ả Rập thế kỷ 19
Ả Rập thế kỷ 20
Ả Rập thế kỷ 21 |
19818349 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Electric%20Touch | Electric Touch | "Electric Touch" (tạm dịch: Cú chạm mãnh liệt) là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift hợp tác với ban nhạc rock người Mỹ Fall Out Boy. Được trích từ album tái thu âm thứ ba của cô mang tên Speak Now (Taylor's Version), bài hát được sáng tác bởi Swift kiêm vai trò đồng sản xuất với Aaron Dessner.
Ca khúc được viết vào khoảng đầu năm 2010 nhưng đã bị loại khỏi vòng kiểm duyệt để cho vào danh sách ca khúc từ album gốc. Vào năm 2022, Swift đã bắt tay thực hiện tái thu âm lại bài hát và sản xuất cùng với Dessner. Với giai điệu kết hợp giữa hai thể loại pop punk và pop rock, "Electric Touch" được đặc trưng bởi những nhịp trống đầy sôi nổi cùng với những đoạn riff từ chiếc guitar điện và những quãng giọng cao vút của Swift và Patrick Stump. Bài hát kể về những mối lo ngại trong buổi hẹn hò đầu tiên.
Từ những bài viết nhận xét về album Speak Now (Taylor's Version), nhiều nhà phê bình đã đánh giá cao cho ca khúc vì độ nổi bật đặc biệt cùng với nhịp điệu nặng nề, giai điệu chặt chẽ và màn hòa âm đầy ấn tượng giữa Swift và Stump. Electric Touch ra mắt ở vị trí thứ 37 trên bảng xếp hạng Billboard Global 200 và được xếp hạng tại Canada, Hoa Kỳ, New Zealand, Philippines và Úc.
Bối cảnh
Taylor Swift đã phát hành album Speak Now vào năm 2010 và sau đó là ba album phòng thu tiếp theo dưới hãng thu âm Big Machine đến tháng 11 năm 2018 khi hợp đồng với hãng đã chính thức hết hạn. Cô đã rời khỏi Big Machine và đã ký hợp đồng với hãng thu âm mới Republic Records. Vào năm 2019, một doanh nhân người Mỹ tên là Scooter Braun đã mua lại hãng thu âm Big Machine. Vào tháng 8 năm 2019, Swift đã tố cáo việc Braun mua lại cả sáu album trên đồng thời cũng thông báo rằng cô sẽ thu âm lại cả sáu album phòng thu đầu tiên để tự mình sở hữu các bản gốc của chúng.
Vào ngày 5 tháng 5 năm 2023, tại buổi biểu diễn Nashville đầu tiên trong chuyến lưu diễn The Eras Tour, Swift đã chính thức thông báo về album tái thu âm tiếp theo là Speak Now (Taylor's Version), đồng thời cô cũng thông báo về ngày phát hành của album, Vào ngày hôm sau, cô đã đăng một bài đăng nói về album này trên mọi nền tảng mạng xã hội. Swift nhấn mạnh những khó khăn mà cô đã từng phải đối mặt trong cuộc sống của mình trong thời gian mà cô viết bản ghi. Vào ngày 5 tháng 6, danh sách bài hát trong album đã chính thức được công bố, trong sáu bài hát còn lại của album có thêm nhan đề "from the Vault", ca khúc Electric Touch được tuyên bố sẽ hợp tác với ban nhạc Fall Out Boy.
Âm nhạc và ca từ
"Electric Touch" là một bài hát thuộc hai thể loại nhạc pop là pop punk và pop rock được đặc trưng bởi những đoạn riff đầy mơ hồ từ chiếc guitar điện và những nhịp trống được đánh theo kĩ thuật crescendo.
Nhiều nhà phê bình đã để lại nhiều lời nhận xét tích cực cho phần xây dựng của bài hát, họ cảm thấy có những yếu tố nổi bật mang tính "giao hưởng" xen lẫn với một chút sự "bay bổng" chính là điểm đặc biệt của ca khúc. Đặc biệt nhất, họ cũng đánh giá cao cho màn phối hợp của Swift và Stump khi giọng ca "mềm mại" của Swift hài hòa với chất giọng sắc bén của Patrick Stump. Ca khúc theo chân góc nhìn thứ nhất kể về những mối lo lắng, bi quan khi ở trong buổi hẹn hò đầu tiên.
Phát hành và đón nhận
"Electric Touch" được đặt ở vị trí thứ 17 trong album và cùng được phát hành vào ngày 7 tháng 7 năm 2023 bởi hãng thu âm Republic Records. Trong tuần đầu tiên ra mắt tại Hoa Kỳ, ca khúc đứng thứ vị trí 35 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng Hot Country Songs, đánh dấu bài hát đầu tiên của Fall Out Boy lọt vào bảng này. Ngoài ra, bài hát cũng đứng ở vị trí thứ 37 trên bảng xếp hạng Billboard Global 200 và được xếp hạng ở nhiều quốc gia như Canada, New Zealand, Philippines và Úc.
Rachel R. Carroll từ trang PopMatters đánh giá cao tài năng của Swift khi mà có thể biến tấu toàn bộ ca khúc thành một tác phẩm đậm vị giao hưởng dù chỉ là nhỏ nhất. Mark Sutherland từ tạp chí Rolling Stone UK cho rằng Fall Out Boy đã đưa bài hát lên một "trạng thái bay bổng" nhờ tính pop punk vốn có của bài hát. Bobby Olivier từ tạp chí Spin đã ví bài hát với ca khúc "Castles Crumbling" và cho rằng, "Electric Touch" có nhịp độ mạnh hơn và là một "nhịp điệu được ép theo bốn lớp (four-on-the-floor) guitar đầy vui nhộn" với những nhịp pop rock banger không rõ ràng giữa những tiếng đập kỹ thuật số của Midnights. Laura Shapes từ tờ The Guardian đã gọi "Electric Touch" là một "tiếng nổ đường đua" và đánh giá "cao một chút cho lịch sử xét lại để thực sự tôn vinh Speak Now là một canon theo phong cách emo".
Danielle Chelosky từ trang Uproxx đánh giá cao cho màn kết hợp âm nhạc đầy ăn ý giữa Swift và Stump và phải thừa nhận cho giọng ca đầy "ấn tượng và mê hoặc" của họ. Nhà báo Maura Johnston từ tạp chí Rolling Stone đã ví nhạc phẩm như một "viên ngọc pop lung linh dài 4 phút" và cho rằng, Swift và Stump có màn phối hợp "rất thú vị" với nhau. Trong một bài đánh giá trái chiều khác, Jem Aswad từ tạp chí Variety đã gọi bài hát là ca khúc "From the Vault" kém hấp dẫn nhất về mặt sáng tác và cho lời hát của ca khúc là vô vị, Aswad còn không tin đây thực sự là một bài hát do chính Swift sáng tác.
Đội ngũ thực hiện
Đội ngũ tham gia sản xuất cho ca khúc được điều chỉnh trong ghi chú trên bìa đĩa của album.
Địa điểm thu âm
Thu âm tại các phòng thu Black Bird Studios ở Nashville, Tennessee
Hoàn thiện âm thanh tại phòng thu Electric Lady ở Thành phố New York
Đội ngũ thực hiện
Taylor Swift – hát chính, sáng tác, sản xuất
Patrick Stump – hát chính, chơi guitar điện, trợ lý lập trình âm thanh
Aaron Dessner – sản xuất, lập trình âm thanh, chơi guitar, chơi bass, chơi guitar điện, đánh synthesizer, đánh bộ gõ
Benjamin Lanz – đánh synthesizer, trợ lý lập trình âm thanh
James McAlister – đánh synthesizer, trợ lý lập trình âm thanh
Joe Russo – chơi trống, đánh bộ gõ
Josh Kaufman – chơi guitar, chơi guitar điện, đánh piano, chơi organ
Thomas Bartlett – chơi keyboard, đánh piano, đánh synthesizer
Christopher Rowe – lập trình thanh nhạc
Bella Blasko – trợ lý lập trình âm thanh
Jonathan Low – phối khí, lập trình âm thanh
Randy Merrill – hoàn chỉnh âm thanh
Bảng xếp hạng
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Liên kết ngoài
Bài hát năm 2023
Bài hát của Taylor Swift
Bài hát của Fall Out Boy
Bài hát viết bởi Taylor Swift
Bài hát sản xuất bởi Taylor Swift
Bài hát sản xuất bởi Aaron Dessner
Bài hát pop punk Mỹ
Bài hát pop rock Mỹ |
19818352 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Daniel%20Gygax | Daniel Gygax | Daniel Gygax (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1981) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ chơi ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền đạo hộ công. Gygax đã từng có 35 lần ra sân quốc tế cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ, và có trong danh sách tham dự 2 Giải vô địch bóng đá châu Âu và Giải vô địch bóng đá thế giới 2006.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu đời
Gygax được sinh ra vào ngày 28 tháng 8 năm 1981 ở Zürich, Thụy Sĩ.
Nürnberg
Vào ngày 7 tháng 7 năm 2008, Gygax chuyển tới câu lạc bộ 1. FC Nürnberg tại Bundesliga 2.
Luzern
Anh rời đội bóng vào ngày 30 tháng 6 năm 2010 để gia nhập FC Luzern. Gygax, cùng với tân binh Hakan Yakin đã giúp đội bóng bất ngờ dẫn đầu trong nửa đầu Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ mùa giải 2010–11. Anh đã ghi 7 bàn thắng cho đội bóng trong mùa giải đó.
Giải nghệ
Gygax giải nghệ ở tuổi 35, vào cuối mùa giải 2016–17.
Sự nghiệp quốc tế
Gygax ra mắt quốc tế cho Thụy Sĩ vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, khi vào sân thay cho Hakan Yakin trong trận thua 1–0 trước Hy Lạp. Anh ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên vào ngày 6 tháng 6, trong chiến thắng 1-0 trước Liechtenstein. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004, anh đã chơi trong hai trận vòng bảng cuối cùng của Thụy Sĩ, và hai trận đầu tiên tại vòng bảng của Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Trận đấu quốc tế cuối cùng của anh diễn ra vào ngày 11 tháng 6 năm 2008, khi vào sân thay người trong trận thua 1-2 trước Thổ Nhĩ Kỳ tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008.
Bàn thắng quốc tế
Nguồn:
|-
| 1. || 6 tháng 6 năm 2004 || Hardturm, Zürich, Thụy Sĩ || || 1–0 || 1–0 || Giao hữu
|-
| 2. || 9 tháng 2 năm 2005 || Sân vận động Maktoum bin Rashid Al Maktoum, Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất || || 1–0 || 2–1 || Giao hữu
|-
| 3. || 7 tháng 9 năm 2005 || Sân vận động GSP, Strovolos, Síp || || 3–1 || 3–1 || Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006
|-
| 4. || 1 tháng 3 năm 2006 || Hampden Park, Glasgow, Scotland || || 2–0 || 3–1 || Giao hữu
|-
| 5. || 31 tháng 5 năm 2006 || Sân vận động Genève, Lancy, Thụy Sĩ || || 1–1 || 1–1 || Giao hữu
|}
Danh hiệu
FC Zürich
Cúp bóng đá Thụy Sĩ: 2004–05
Tham khảo
Liên kết ngoài
Daniel Gygax tại FC Luzern
Daniel Gygax tại Eurosport
Sinh năm 1981
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ bóng đá FC Baden
Cầu thủ bóng đá FC Zürich
Cầu thủ bóng đá FC Winterthur
Cầu thủ bóng đá FC Aarau
Cầu thủ bóng đá Lille OSC
Cầu thủ bóng đá FC Metz
Cầu thủ bóng đá 1. FC Nürnberg
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ bóng đá Swiss Challenge League
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008
Cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Vận động viên Thụy Sĩ ở Đức
Vận động viên Thụy Sĩ ở Pháp |
19818354 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Menno%20Bergsen | Menno Bergsen | Menno Bergsen (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Hà Lan hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ NK Maribor tại Slovenian PrvaLiga. Ngoài Hà Lan ra, anh đã thi đấu tại Slovakia và Slovenia.
Sự nghiệp thi đấu
Dordrecht và Eindhoven
Bergsen ra mắt chuyên nghiệp cho FC Dordrecht vào năm 2017. Anh chỉ chơi 2 trận cho Dordrecht trước khi chuyển sang FC Eindhoven vào năm 2018.
NK Maribor
Tháng 6 năm 2021, Bergsen gia nhập câu lạc bộ NK Maribor tại Slovenian PrvaLiga bằng bản hợp đồng kéo dài 2 năm. Anh có trận ra mắt giải quốc nội cho Maribor vào ngày 23 tháng 4 năm 2022, khi anh thay thế cho Ažbe Jug gặp chấn thương sau 15 phút.
Tham khảo
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan
Cầu thủ bóng đá nam Hà Lan ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Slovakia
Cầu thủ bóng đá nam nước ngoài ở Slovenia
Cầu thủ bóng đá FC Dordrecht
Cầu thủ bóng đá FC Eindhoven
Cầu thủ bóng đá AS Trenčín
Cầu thủ bóng đá NK Maribor
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ Giải vô địch quốc gia Slovakia
Cầu thủ bóng đá Slovenian PrvaLiga |
19818364 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20%E1%BB%9F%20Abkhazia%20%281998%29 | Chiến tranh ở Abkhazia (1998) | Tránh nhầm lẫn với Chiến tranh ở Abkhazia (1992-1993)
Chiến tranh ở Abkhazia (1998) là 1 cuộc nổi dậy của sắc tộc người Gruzia nhằm chống lại chính quyền ly khai thân Nga là Abkhazia, diễn ra ở quận Gali thuộc nhà nước tự xưng này. Cuộc xung đột đôi lúc được gọi là Chiến tranh 6 ngày của Abkhazia tuy nhiên cái tên này lại là dành cho chiền dịch chống lại phe du kích của Abhazia từ 20 đến 26 tháng 5, trong khi xung đột đã bắt đầu từ trước đó.
Diễn biến xung đột
18 tháng trước khi xung đột bắt đầu, các nhóm bán vũ trang Gruzia đã tấn công lực lượng quân đội Abkhazia và lính gìn giữ hòa bình Nga tại khu vực này.
Vào đầu tháng 5, 300 chiến binh từ lực lượng bán quân sự Gruzia là Binh đoàn Trắng đã vượt biên sang Abkhazia, ngay sau đó chính phủ Abkhazia đã đặt quân đội của mình trong thế chuẩn bị chiến đấu. Binh đoàn Trắng đã nói rằng họ nhận lệnh từ Tamaz Nadareishvili, lãnh đạo của Chính phủ Cộng hòa Tự trị Abkhazia và thành viên của Hội đồng An ninh Gruzia. Ngoài ra, lãnh đạo của Mkhedrioni là Tornike Berishvili đã tuyên bố rằng 100 thành viên của họ cũng đang chiến đâu ở Abkhazia. Theo các nguồn Gruzia, kể từ ngày 2 và ngày 3 thàng 5 thì các lực lượng Gruzia đã giành quyền kiểm soát những ngôi làng ở Saberio, gần Inguri Dam, Khumushkuri, và đã giết 6 lính Abkhazia khi bọn họ đang cố tài chiếm 2 ngôi làng. Vào ngày 12 tháng 5, Germane Patsatsia đã nói rằng đã từ chức để tham chiến với lực lượng du kích Gruzia ở Abkhazia khi mà anh ta nói rằng họ đang kiểm soát quận Gali.
Liên kết
Abkhazia năm 1998
Xung đột Gruzia-Abkhazia
Xung đột năm 1998 |
19818377 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Cossack%20Zaporozhia | Người Cossack Zaporozhia | Người Cossack Zaporozhia, Quân Cossack Zaporozhia, Quân đoàn Zaporozhia, (, hoặc ) hoặc chỉ là người Zaporozhia () là những người Cossack sống bên kia (về phía hạ nguồn) các ghềnh sông Dnepr (Dnipro).
Sich Zaporozhia phát triển nhanh chóng vào thế kỷ 15 từ các nông nô chạy trốn khỏi những nơi được kiểm soát chặt chẽ hơn trong Thịnh vượng chung Ba Lan–Litva. Sich được thành lập với tư cách một thực thể chính trị được tôn trọng, có một hệ thống chính phủ nghị viện. Trong suốt thế kỷ 16, 17 và cả thế kỷ 18, người Cossack Zaporozhia là một lực lượng chính trị và quân sự hùng mạnh từng thách thức quyền lực của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, nước Nga Sa hoàng và Hãn quốc Krym.
Quân đoàn trải qua một loạt xung đột và liên minh với ba thế lực kể trên, bao gồm cả việc hỗ trợ một cuộc khởi nghĩa vào thế kỷ 18. Thủ lĩnh của họ đã ký một hiệp định với người Nga. Nhóm này bị Đế quốc Nga buộc phải giải tán vào cuối thế kỷ 18, và phần lớn dân cư di dời đến vùng Kuban tại rìa phía nam của Đế quốc Nga, trong khi những người khác thành lập các thành phố tại miền nam Ukraina và cuối cùng trở thành nông dân của nhà nước. Người Cossack đóng một vai trò quan trọng trong việc chinh phục các bộ lạc vùng Kavkaz và đổi lại được hưởng quyền tự do đáng kể do Sa hoàng ban cho.
Tên gọi bắt nguồn từ vị trí công sự của họ, tức là Sich, tại "vùng đất bên kia các ghềnh", từ tiếng Ukraina "bên kia" và "các ghềnh".
Nguồn gốc
Không rõ thời điểm các cộng đồng Cossack đầu tiên tại hạ du sông Dnepr được hình thành. Có những dấu hiệu và câu chuyện về những người tương tự sống trên thảo nguyên Á-Âu ngay từ thế kỷ 12. Vào thời điểm đó, họ không được gọi là người Cossack, vì cossack là một từ cũng có trong ngôn ngữ Turk với nghĩa là một "người tự do", có chung từ nguyên với tên dân tộc "Kazakh". Sau này nó trở thành một từ tiếng Ukraina và tiếng Nga có nghĩa là "giặc cướp". Các thảo nguyên ở phía bắc của Biển Đen là nơi sinh sống của các bộ lạc du mục như người Cuman, Pecheneg và Khazar. Vai trò của các bộ lạc này trong quá trình hình thành dân tộc của người Cossack có tranh cãi, mặc dù các nguồn tin Cossack sau này tuyên bố về một tổ tiên Khazar bị Slavic hóa.
Cũng có những nhóm người chạy trốn vào những thảo nguyên hoang dã này từ những vùng đất canh tác của Kiev Rus' để thoát khỏi sự áp bức hoặc truy đuổi tội phạm. Lối sống của họ phần lớn giống với lối sống của những người bây giờ được gọi là Cossack. Họ sống sót chủ yếu nhờ săn bắn, đánh cá, và cướp phá các bộ lạc gốc châu Á để lấy ngựa và thức ăn, nhưng họ cũng hòa trộn với những người du mục này cũng như chấp nhận nhiều đặc điểm văn hóa của họ. Vào thế kỷ 16, một nhà tổ chức là Dmytro Vyshnevetsky, một quý tộc Ukraina, đã hợp nhất các nhóm khác nhau này thành một tổ chức quân sự hùng mạnh.
Người Cossack Zaporozhia có nhiều nguồn gốc xã hội và dân tộc khác nhau nhưng chủ yếu được tạo thành từ những nông nô bỏ trốn, những người thích sự tự do nguy hiểm trên thảo nguyên hoang dã hơn là cuộc sống dưới quyền thống trị của giới quý tộc Ba Lan. Tuy nhiên, thị dân, quý tộc nhỏ và thậm chí cả người Tatar Krym cũng trở thành một phần của Quân đoàn Cossack. Họ phải chấp nhận Chính thống giáo Đông phương là tôn giáo của họ và áp dụng các nghi lễ và lời cầu nguyện của giáo phái này.
Giả thuyết du mục cho rằng người Cossack đến từ một hoặc nhiều dân tộc du mục sống ở những thời điểm khác nhau trên lãnh thổ phía bắc của Biển Đen. Theo giả thuyết này, tổ tiên của người Cossack là người Scythia, Sarmatia, Khazar, Cuman, Circassia (Adyghe), Tatar, và các dân tộc khác. Giả thuyết du mục về nguồn gốc của người Cossack được hình thành dưới ảnh hưởng của trường phái lịch sử Ba Lan thế kỷ 16-17 và được kết nối với lý thuyết về nguồn gốc Sarmatia của quý tộc nhỏ. Theo truyền thống lấy nguồn gốc của nhà nước hoặc dân tộc từ một dân tộc cổ xưa nhất định, các nhà biên niên sử Cossack của thế kỷ 18 đã ủng hộ giả thuyết nguồn gốc Khazar của người Cossack. Với sự mở rộng của cơ sở nguồn và sự hình thành của khoa học lịch sử, các giả thuyết du mục đã bị bác bỏ bởi sử học chính thức. Lần đầu tiên, Alexander Rigelman chỉ ra sự không hoàn hảo của giả thuyết. Vào thế kỷ 20, nhà khoa học người Nga Gumilyov là người biện hộ cho nguồn gốc Polovtsia của người Cossack.
Trong Ba Lan–Litva
Vào thế kỷ 16, khi quyền thống trị của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva mở rộng về phía nam, người Cossack Zaporozhia hầu như, nếu tạm thời, được Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva coi là thần dân của họ. Người Cossack đăng ký là một phần của quân đội Thịnh vượng chung cho đến năm 1699.
Vào khoảng cuối thế kỷ 16, mối quan hệ giữa Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva và Đế quốc Ottoman, vốn không thân thiện ngay từ đầu, đã trở nên căng thẳng hơn do người Cossack ngày càng xâm lấn. Từ phần thứ hai của thế kỷ 16, người Cossack bắt đầu đánh phá các lãnh thổ của Ottoman. Chính phủ Ba Lan-Litva không thể kiểm soát những người người Cossack có tính độc lập, nhưng vì họ trên danh nghĩa là thần dân của Thịnh vượng chung nên chính phủ phải chịu trách nhiệm với nạn nhân về các cuộc tấn công. Đối ứng lại, người Tatar dưới quyền cai trị của Ottoman đã phát động các cuộc tấn công vào Thịnh vượng chung, chủ yếu ở các vùng lãnh thổ đông nam thưa dân của Ukraina. Tuy nhiên, quân Cossack đánh phá các thành phố thương cảng giàu có ở vùng trung tâm của Đế quốc Ottoman, vốn chỉ cách cửa sông Dnepr hai ngày đi thuyền.
Đến năm 1615 và 1625, người Cossack đã san bằng được các thị trấn ở ngoại ô Constantinople, buộc Sultan Ottoman Murad IV phải chạy trốn khỏi cung điện của mình. Cháu trai của ông là Sultan Mehmed IV có kết quả tốt hơn một chút khi là người nhận được Lời hồi đáp của người Cossack Zaporozhia truyền thuyết, một phản ứng tục tĩu trước sự khăng khăng của Mehmed rằng người Cossack phải phục tùng quyền uy của ông. Các hiệp ước liên tiếp giữa Đế quốc Ottoman và Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva kêu gọi cả hai bên kiểm soát người Cossack và người Tatar, nhưng việc thực thi hầu như không tồn tại ở cả hai bên. Trong các thỏa thuận nội bộ, do người Ba Lan ép buộc, người Cossack đồng ý đốt thuyền của họ và ngừng đánh phá. Tuy nhiên, thuyền có thể được đóng lại nhanh chóng và lối sống của người Cossack tôn vinh các cuộc đột kích và cướp bóc.
Trong thời gian này, chế độ quân chủ Habsburg đôi khi bí mật sử dụng những kẻ đột kích Cossack để giảm bớt áp lực của Ottoman đối với biên giới của chính họ. Nhiều người Cossack và Tatar có ác cảm với nhau do thiệt hại từ các cuộc đột kích của cả hai bên gây ra. Theo sau các cuộc đột kích của người Cossack là sự trả đũa của người Tatar, hoặc người Tatar tấn công và sau đó là sự trả đũa của người Cossack, gần như là chuyện thường xuyên xảy ra. Sự hỗn loạn và chuỗi xung đột sau đó thường biến toàn bộ biên giới phía đông nam Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva thành một khu vực chiến tranh cường độ thấp và dẫn đến leo thang chiến tranh giữa Ba Lan-Litva và Ottoman, từ các cuộc chiến tranh quý nhân Moldavia đến Trận Cecora (1620) và các cuộc chiến tranh năm 1633–34.
Số lượng người Cossack tăng lên, khi nông dân Ukraina chạy trốn khỏi chế độ nông nô trong Tlhịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Những nỗ lực của szlachta (quý tộc) nhằm biến người Cossack Zaporozhia thành nông nô đã làm xói mòn lòng trung thành từng khá mạnh mẽ của người Cossack đối với Thịnh vượng chung. Tham vọng của người Cossack về việc được công nhận ngang hàng với szlachta liên tục bị từ chối, và các kế hoạch chuyển đổi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva thành Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva-Ruthenia (với người Cossack Ukraina) đạt được rất ít tiến triển, do người Cossack không ưa chuộng. Lòng trung thành mạnh mẽ trong lịch sử của người Cossack đối với Giáo hội Chính thống giáo Đông phương khiến họ mâu thuẫn với Thịnh vượng chung do Công giáo chi phối. Căng thẳng gia tăng khi các chính sách của Thịnh vượng chung chuyển từ tương đối khoan dung sang đàn áp giáo hội Chính thống giáo, khiến người Cossack chống Công giáo mạnh mẽ, vào thời điểm đó đồng nghĩa với chống Ba Lan.
Lòng trung thành ngày càng suy yếu của người Cossack và sự kiêu ngạo của szlachta đối với họ đã dẫn đến một số cuộc nổi dậy của người Cossack chống lại Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva vào đầu thế kỷ 17. Cuối cùng, việc Quốc vương kiên quyết từ chối nhượng bộ trước yêu cầu mở rộng việc đăng ký Cossack là giọt nước tràn ly cuối cùng đã thúc đẩy cuộc khởi nghĩa lớn nhất và thành công nhất trong số này: Khởi nghĩa Khmelnytsky bắt đầu vào năm 1648. Cuộc khởi nghĩa là một trong loạt các sự kiện thảm khốc được gọi là Đại hồng thủy, làm suy yếu đáng kể Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva và tạo tiền đề cho sự tan rã của liên bang một trăm năm sau. Mặc dù Ba Lan có lẽ có kỵ binh tốt nhất ở châu Âu, nhưng bộ binh của họ lại kém hơn. Tuy nhiên, người Cossack Ukraina sở hữu bộ binh tốt nhất vào giữa thế kỷ 17. Vì Ba Lan tuyển dụng hầu hết bộ binh của họ từ Ukraina, nên khi vùng này thoát khỏi quyền cai trị của Ba Lan, quân đội của Thịnh vượng chung đã phải chịu tổn thất rất nhiều.
Tổ chức
Quân đoàn Zaporozhia với tư cách là một cơ sở chính trị-quân sự được phát triển dựa trên các truyền thống và tục lệ độc đáo được gọi là Bộ luật Cossack, được hình thành chủ yếu giữa những người Cossack của Quân đoàn Zaporozhia trong nhiều thập kỷ. Quân đoàn có đơn vị hành chính lãnh thổ và quân sự riêng: 38 kurin (sotnia) và 5 đến 8 palanka (các khu lãnh thổ) cũng như một hệ thống hành chính ban đầu với ba cấp: thủ lĩnh quân sự, sĩ quan quân sự, thủ lĩnh viễn chinh và palanka. Tất cả các sĩ quan (starshyna quân sự) được bầu bởi Hội đồng quân sự toàn thể trong một năm vào ngày 1 tháng 1. Dựa trên các phong tục và truyền thống giống nhau, các quyền và nghĩa vụ của các sĩ quan đã được hệ thống hóa rõ ràng. Quân đoàn Zaporozhia phát triển một hệ thống tư pháp sơ khai, trên cơ sở dựa vào Bộ luật Cossack theo tục lệ. Các quy tắc của bộ luật đã được khẳng định từ những mối quan hệ xã hội phát triển trong những người Cossack. Một số nguồn gọi Sich Zaporozhia là một "nước cộng hòa cossack", vì quyền lực cao nhất trong đó thuộc về hội đồng của tất cả các thành viên và do các nhà lãnh đạo của họ (starshina) được bầu ra.
Về mặt chính thức, thủ lĩnh của Quân đoàn Zaporozhia không bao giờ mang tước hiệu hetman, trong khi tất cả các thủ lĩnh của tổ chức cossack đều được gọi một cách không chính thức như vậy. Cơ quan quản lý cao nhất trong Quân đoàn Zaporozhia là Rada Sich (hội đồng). Hội đồng là cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cao nhất của Quân đoàn Zaporozhia. Các quyết định của hội đồng được cho là ý kiến của toàn bộ quân đoàn và bắt buộc mỗi thành viên đồng chí cossack phải chấp hành. Rada Sich được xem xét các vấn đề về chính sách đối nội và đối ngoại, tiến hành bầu cử starshina quân sự, phân chia ruộng đất được giao, hay trừng phạt những người phạm tội nặng nhất.
Quân đoàn Zaporozhia có liên kết chặt chẽ với Quốc gia hetman Cossack, nhưng có chính quyền và trật tự của riêng mình. Đối với các hoạt động quân sự, người cossack của quân đoàn được tổ chức thành Kish. Kish là một thuật ngữ cũ chỉ các trại được củng cố phòng thủ, được sử dụng trong thế kỷ 11-16 và sau đó được người Cossack áp dụng. Kish là cơ quan trung ương của chính phủ tại Sich có thẩm quyền quản lý hành chính, quân sự, tài chính, pháp lý và các vấn đề khác. Kish được bầu hàng năm tại Rada Sich (Rada đen). Cuộc bầu cử Kish diễn ra vào ngày 1 tháng 1, ngày 1 tháng 10 (Lễ Cầu thay Theotokos - Pokrova), hoặc vào ngày thứ 2-3 của Lễ Phục sinh.
Có một tòa án quân sự Cossack trừng phạt nghiêm khắc hành vi bạo lực và trộm cắp của đồng bào, đem phụ nữ đến Sich, hoặc uống rượu trong thời kỳ xung đột. Ngoài ra còn có nhà thờ và trường học, cung cấp các phục vụ tôn giáo và giáo dục cơ bản. Về cơ bản, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương được ưa thích hơn và là một phần của bản sắc dân tộc.
Trong thời bình, người Cossack bận rộn với công việc của họ, sống cùng gia đình, nghiên cứu chiến lược, ngôn ngữ và giáo dục tân binh. Trái ngược với các đội quân khác, người Cossack được tự do lựa chọn vũ khí ưa thích của mình. Những người Cossack giàu có thích mặc áo giáp hạng nặng, trong khi lính bộ binh thích mặc quần áo đơn giản, mặc dù đôi khi họ cũng mặc áo giáp.
Vào thời điểm đó, người Cossack là một trong những tổ chức quân sự tốt nhất tại châu Âu và được các đế quốc Nga, Ba Lan và Pháp sử dụng.
Kurin của Quân đoàn Zaporozhia
Levushkovsky
Plastunovsky
Dyadkovsky
Bryukhovetsky
Vedmedovsky
Platmyrovsky
Pashkovsky
Kushchevsky
Kyslyakovsky
Ivanovsky
Konelovsky
Serhiyevsky
Donsky
Krylovsky
Kanivsky
Baturynsky
Popovychevsky
Vasyurynsky
Nezamaikovsky
Irkliyevsky
Shcherbynovsky
Tytarovsky
Shkurynsky
Kurenevsky
Rohovsky
Korsunsky
Kalnybolotsky
Humansky
Derevyantsovsky
Stebliyivsky-Higher
Stebliyivsky-Lower
Zherelovsky
Pereyaslavsky
Poltavsky
Myshastovsky
Minsky
Tymoshevsky
Velychkovsky
Bên cạnh những kurin kể trên, còn có một số lượng lớn những kurin khác bên ngoài Quân đoàn.
Biểu chương Cossack (Kleinody)
Các vật phẩm quan trọng nhất của Quân đoàn là Kleinody Cossack (luôn là số nhiều; liên quan đến biểu chương đế quốc) bao gồm các dấu hiệu đặc trưng, biểu chương, vật tượng trưng quân sự quý giá của người Cossack Ukraina và được sử dụng cho đến thế kỷ 19. Kleinody được Quốc vương Ba Lan Stephen Báthory trao tặng cho người Cossack Zaporozhia vào ngày 20 tháng 8 năm 1576 cho Bohdan Ruzhynsky, trong số đó có khoruhva, biểu ngữ buncuk, "chùy" bulawa và một con dấu có huy hiệu trên đó mô tả một người Cossack với một "súng trường" samopal. Kleinody được giao cho các trợ lý của hetman để bảo quản an toàn, do đó đã xuất hiện các cấp bậc như chorąży ( "người thủ kỳ"), bunchuzhny ("người giữ quyền trượng"). Thời kỳ sau của người Cossack, kleinody trở thành các chùy pernach, trống định âm (lytavry), cờ kurin (phù hiệu), dùi cui, và những thứ khác.
Biểu tượng quyền lực cao nhất là chuỳ bulawa được mang bởi các hetman và kish-otaman. Ví dụ, Bohdan Khmelnytsky từ năm 1648 đã mang theo một chiếc bulawa bạc bọc vàng được trang trí với ngọc trai và các loại đá quý có giá trị khác. Các thượng tá Cossack có pernach - những chiếc bulawa nhỏ hơn được mang sau thắt lưng.
Con dấu của Quân đoàn Zaporozhia được sản xuất ở dạng tròn bằng bạc với hình mô tả người Cossack đội mũ có đầu hồi trên đầu, mặc áo choàng kaftan có cúc trên ngực, với một thanh kiếm lưỡi cong (shablya), hộp thuốc súng ở một bên và một khẩu súng trường tự tạo (samopal) trên vai trái. Xung quanh con dấu có dòng chữ «Печать славного Війська Запорізького Низового» ("Con dấu của Quân đoàn Zaporozhia vinh quang"). Con dấu của palanka và kurin có hình tròn hoặc hình chữ nhật với hình ảnh sư tử, nai, ngựa, mặt trăng, ngôi sao, vương miện, thương, kiếm và cung tên.
Khoruhva chủ yếu có màu đỏ thẫm được thêu hình huy hiệu, thánh, thánh giá và các họa tiết khác. Nó luôn được mang phía trước đội quân bên cạnh hetman hoặc otaman. Phù hiệu (znachok) là tên gọi cờ (sotnia) của kurin hoặc đại đội. Có một truyền thống khi vị thượng tá mới được bầu sẽ được yêu cầu chuẩn bị biểu ngữ của palanka bằng chi phí của ông. Một trong những biểu ngữ được bảo tồn cho đến năm 1845 tại Kuban và được làm bằng vải có hai màu: vàng và xanh lam. Trống định âm (lytavry) là những nồi hơi lớn bằng đồng được bọc da dùng để truyền các tín hiệu khác nhau (gọi người Cossack đến hội đồng, hoặc báo động).
Mỗi vật phẩm của kleinody được cấp cho một thành viên được chỉ định rõ ràng của starshina Cossack (chức vụ sĩ quan). Ví dụ, trong Quân đoàn Zaporozhia, bulawa được trao cho otaman; khoruhva - cho toàn quân đoàn mặc dù được mang theo bởi một khorunzhy; bunchuk cũng được trao cho otaman, nhưng được mang bởi một đồng chí bunchuzhny hoặc bunchuk; con dấu được bảo quản bởi một thẩm phán quân sự, trong khi con dấu của kurin - dành cho otaman kurin, và con dấu của palanka - dành cho thượng tá của một palanka nào đó; những chiếc trống định âm thuộc sở hữu của một dovbysh (tay trống); các gậy quyền - cho một osavul quân sự; các phù hiệu được trao cho tất cả 38 kurin, thuộc khống chế của các đồng chí được chỉ định phù hiệu. Tất cả các vật phẩm của kleinody (ngoại trừ gậy đánh trống định âm) đều được cất giữ trong ngân khố nhà thờ Pokrova của Sich và chỉ được lấy ra theo lệnh đặc biệt của kish otaman. Các gậy đánh trống được giữ trong kurin với dovbysh được chỉ định. Đôi khi, kleidony được cho là cũng gồm một lọ mực lớn bằng bạc (kalamar), một vật tượng trưng của người ghi chép quân sự (pysar) của Quân đoàn Zaporozhia. Các kleinody tương tự có trong cấp chỉ huy của Quốc gia hetman Cossack, người Cossack Kuban, Danube và các xã hội Cossack khác.
Sau khi phá hủy Sich và thanh lý tổ chức người Cossack Ukraina, kleinody được thu thập và đưa đi cất giữ tại Bảo tàng Ermitazh và Nhà thờ chính tòa Biến hình tại Saint Petersburg, Bảo tàng vũ khí Kremlin tại Moskva cũng như những nơi cất giữ khác. Vào cuối thế kỷ 19, Ermitazh cất giữ 17 biểu ngữ kurin và một khoruhva, Nhà thờ chính tòa Biến hình chứa 20 biểu ngữ kurin, ba bunchuk, một bulawa bạc và một dùi cui bạc bọc vàng. Ngày nay không rõ số phận của những bảo vật quốc gia đó của người Ukraina. Sau Cách mạng tháng Hai năm 1917, Chính phủ lâm thời Nga thông qua các quyết định trao trả chúng cho Ukraina, tuy nhiên do các sự kiện của Cách mạng Tháng Mười cùng năm, quyết định này đã không được thực hiện. Với việc tuyên bố độc lập, chính phủ Ukraina đặt vấn đề trao trả các giá trị văn hóa quốc gia trước lãnh đạo Nga; Tuy nhiên, không có thỏa thuận cụ thể nào đạt được.
Liên minh với Nga
Sau Hiệp định Pereyaslav năm 1654, Quân đoàn Zaporozhia trở thành thế lực nằm dưới quyền bảo hộ của Sa hoàng Nga, mặc dù họ được hưởng quyền tự trị gần như hoàn toàn trong một khoảng thời gian đáng kể. Sau khi Bohdan Khmelnytsky mất vào năm 1657, người kế vị của ông là Ivan Vyhovsky bắt đầu hướng về Ba Lan, do lo ngại trước việc Nga ngày càng can thiệp vào các công việc của Quốc gia hetman. Một nỗ lực đã được thực hiện để quay về Thịnh vượng chung gồm ba thành phần cấu thành, với việc người Cossack Zaporozhia gia nhập Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva bằng cách ký Hiệp định Hadiach (1658). Hiệp định đã được Sejm phê chuẩn nhưng đã bị các chiến sĩ Cossack từ chối tại Hermanivka Rada bởi vì họ không chấp nhận liên minh với Ba Lan Công giáo, thế lực mà họ cho là kẻ áp bức Cơ đốc giáo Chính thống. Những người Cossack tức giận đã hành quyết các polkovnik Prokip Vereshchaka và Stepan Sulyma, là cộng sự của Vyhovsky tại Sejm, và bản thân Vyhovsky thoát chết trong gang tấc.
Người Zaporozhia duy trì một chính phủ phần lớn tách biệt với Quốc gia hetman. Người Zaporozhia bầu ra các nhà lãnh đạo của riêng họ, được gọi là Kish otaman, có nhiệm kỳ một năm. Trong thời kỳ này, xích mích giữa người Cossack của Quốc gia hetman và người Zaporozhia ngày càng leo thang.
Người Cossack trong quá khứ từng chiến đấu để giành độc lập khỏi Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, và sau đó họ tham gia vào một số cuộc nổi dậy chống lại Sa hoàng, vì sợ mất các đặc quyền và quyền tự trị của mình. Ví dụ vào năm 1709, Quân đội Zaporozhia do Kost Hordiienko lãnh đạo đã tham gia cùng Hetman Ivan Mazepa chống lại Nga. Mazepa trước đây là cố vấn đáng tin cậy và là bạn thân của Sa hoàng Pyotr Đại đế, nhưng lại liên minh với Karl XII của Thụy Điển để chống lại Pyotr. Sau thất bại trong Trận Poltava, Pyotr đã ra lệnh tiêu diệt Sich Zaporozhia để trả đũa.
Với cái chết của Mazepa tại Bessarabia vào năm 1709, hội đồng của ông đã bầu Pylyp Orlyk làm người kế vị. Orlyk ban hành dự án Hiến pháp, trong đó ông hứa sẽ hạn chế quyền lực của Hetman, bảo vệ vị trí đặc quyền của người Zaporozhia, thực hiện các biện pháp nhằm đạt được bình đẳng xã hội giữa họ, và các bước tiến tới việc tách Quân đoàn Zaporizhia khỏi Nhà nước Nga— nếu anh ta có được quyền lực trong Quốc gia hetman Cossack. Với sự hỗ trợ của Karl XII, Orlyk đã liên minh với người Tatar Krym và Ottoman để chống lại Nga, nhưng sau những thành công ban đầu của cuộc tấn công vào Nga năm 1711, chiến dịch của họ đã bị đánh bại và Orlyk phải sống lưu vong. Người Zaporozhia đã xây dựng một Sich mới dưới quyền bảo hộ của Ottoman, là Sich Oleshky trên hạ lưu sông Dnepr.
Mặc dù một số người Zaporozhia đã quay trở lại quyền bảo hộ của Nga, nhưng nhà lãnh đạo nổi tiếng của họ Kost Hordiienko kiên quyết có thái độ chống Nga và không thể nối lại tình hữu nghị cho đến khi ông qua đời vào năm 1733.
Trong Đế quốc Nga
Theo năm tháng, xích mích giữa người Cossack và chính phủ Sa hoàng Nga đã giảm bớt, và các đặc quyền đã được trao đổi để giảm bớt quyền tự trị của người Cossack. Những người Cossack Ukraina không đứng về phía Mazepa đã bầu ra Hetman Ivan Skoropadsky, một trong những polkovnik "chống Mazepa". Trong khi ủng hộ việc bảo vệ quyền tự trị của Quốc gia hetman và các đặc quyền của starshina, Skoropadsky cẩn thận tránh đối đầu công khai và vẫn trung thành trong liên minh với Nga. Để đáp ứng nhu cầu quân sự của Nga, Skoropadsky cho phép mười trung đoàn của Nga đóng quân trên lãnh thổ của Quốc gia hetman. Đồng thời, người Cossack tham gia vào các dự án xây dựng, củng cố và phát triển kênh tại Saint Petersburg, là một phần trong nỗ lực của Pyotr Đại đế nhằm thành lập thủ đô mới của Nga. Nhiều người đã không quay trở lại, và người ta thường nói rằng St. Peterburg "được xây dựng trên xương".
Năm 1734, khi Nga đang chuẩn bị cho một cuộc chiến mới chống lại Đế quốc Ottoman, một thỏa thuận đã được thực hiện giữa Nga và người Cossack Zaporozhia là Hiệp định Lubny. Người Cossack Zaporozhia giành lại tất cả các vùng đất, đặc quyền, luật pháp và tục lệ trước đây của họ để đổi lấy việc phục vụ dưới quyền chỉ huy của Quân đội Nga đóng tại Kiev. Một sich mới (Nova Sich) được xây dựng để thay thế cái đã bị Pyotr Đại đế phá hủy. Lo ngại về khả năng Nga can thiệp vào công việc nội bộ của Zaporozhia, người Cossack bắt đầu cho những người nông dân Ukraina chạy trốn khỏi chế độ nông nô tại Ba Lan và Nga định cư trên vùng đất của mình. Đến năm 1762, 33.700 người Cossack và hơn 150.000 nông dân cư trú tại Zaporozhia.
Vào cuối thế kỷ 18, phần lớn tầng lớp sĩ quan Cossack tại Ukraina được sáp nhập vào giới quý tộc Nga, nhưng người Cossack bình thường, bao gồm một phần đáng kể người Zaporozhia cũ, đã bị hạ xuống địa vị nông dân. Họ có thể duy trì quyền tự do của mình và tiếp tục cung cấp nơi ẩn náu cho những người chạy trốn khỏi chế độ nông nô tại Nga và Ba Lan, bao gồm cả những người theo thủ lĩnh nổi dậy Cossack Nga Yemelyan Pugachev, điều này làm dấy lên sự tức giận của Nữ hoàng Nga Yekaterina II. Kết quả là đến năm 1775, số lượng nông nô bỏ trốn từ Quốc gia hetman và phần Ukraina do Ba Lan cai trị đến Zaporozhia đã tăng lên 100.000 người.
Hiệp định Küçük Kaynarca (1774) sáp nhập Hãn quốc Krym vào Nga, vì vậy nhu cầu phòng thủ biên giới xa về phía nam (mà người Zaporozhia đã thực hiện) không còn nữa. Quá trình thuộc địa hóa Novorossiya bắt đầu; một trong những thuộc địa nằm ngay cạnh vùng đất của Sich Zaporozhian là Tân Serbia. Điều này làm leo thang xung đột về quyền sở hữu đất đai với người Cossack, thường biến thành bạo lực.
Kết thúc Quân đoàn Zaporozhia (1775)
Quyết định giải tán Sich được thông qua tại hội đồng triều đình của Yekaterina Đại đế vào ngày 7 tháng 5 năm 1775. Tướng quân Peter Tekeli nhận lệnh chiếm đóng và thanh lý pháo đài chính của người Zaporozhia là Sich. Kế hoạch được giữ bí mật và các trung đoàn trở về từ cuộc chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ mà người Cossack cũng tham gia, đã được huy động cho chiến dịch. Họ bao gồm 31 trung đoàn (tổng cộng 65.000 quân). Cuộc tấn công diễn ra vào ngày 15 tháng 5 và kéo dài đến ngày 8 tháng 6. Lệnh được Grigory Potemkin đưa ra, người này từng chính thức trở thành một người Cossack Zaporozhia danh dự dưới cái tên Hrytsko Nechesa vài năm trước đó. Potemkin nhận được mệnh lệnh trực tiếp từ Nữ hoàng Yekaterina II, điều này được bà giải thích trong Sắc lệnh ngày 8 tháng 8 năm 1775:
Vào ngày 5 tháng 6 năm 1775, quân của Tướng quân Tekeli chia thành 5 phân đội và bao vây Sich bằng pháo binh và bộ binh. Việc thiếu biên giới phía nam và kẻ thù trong những năm trước đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng chiến đấu của quân Cossack, họ nhận ra rằng bộ binh Nga sẽ tiêu diệt họ sau khi họ bị bao vây. Để đánh lừa người Cossack, một tin đồn đã được lan truyền rằng quân đội đang băng qua vùng đất của người Cossack trên đường bảo vệ biên giới. Cuộc bao vây bất ngờ là một đòn giáng mạnh vào tinh thần của người Cossack.
Petro Kalnyshevsky có hai giờ để quyết định về tối hậu thư của Nữ hoàng. Dưới sự hướng dẫn của starhyna Lyakh, sau lưng Kalnyshevky, một âm mưu đã được hình thành khi một nhóm gồm 50 người Cossack đi đánh cá ở sông Inhul bên cạnh sông Nam Bug thuộc các tỉnh của Ottoman. Cái cớ là đủ để người Nga thả cho nhóm người Cossack này ra khỏi vòng vây, những người này tham gia cùng với năm nghìn người khác. Những người Cossack chạy trốn đã đến Đồng bằng sông Danube, tại nơi đó họ thành lập Sich Danube mới, dưới quyền bảo hộ của Đế quốc Ottoman.
Khi Tekeli biết về việc trốn thoát, 12.000 người Cossack còn lại không còn nhiều việc để làm, Sich đã bị san bằng. Quân Cossack bị tước vũ khí trong một chiến dịch gần như không đổ máu, trong khi ngân khố và tài liệu lưu trữ của họ bị tịch thu. Kalnyshevsky bị bắt và đày đến Solovki, nơi ông sống trong cảnh giam cầm đến 112 tuổi. Hầu hết các thành viên Hội đồng Cossack cấp cao, chẳng hạn như Pavlo Holovaty và Ivan Hloba, cũng bị đàn áp và lưu đày, mặc dù các chỉ huy cấp thấp hơn và người Cossack bình thường được phép tham gia các trung đoàn kỵ binh hussar và dragoon của Nga.
Hậu quả
Sự kiện tiêu diệt Sich đã tạo ra khó khăn cho Đế quốc Nga. Việc Nga ủng hộ gia tăng các đặc quyền mà giới lãnh đạo Cossack cấp cao có được đã gây căng thẳng cho ngân sách, trong khi các quy định chặt chẽ hơn của Quân đội chính quy Nga đã ngăn cản nhiều người Cossack khác hợp nhất. Sự tồn tại của Sich Danube, vốn sẽ hỗ trợ Đế quốc Ottoman trong cuộc chiến tiếp theo, cũng gây rắc rối cho người Nga. Năm 1784, Potemkin thành lập "Quân đoàn những người Zaporozhia trung thành" (Войско верных Запорожцев) và định cư họ giữa sông Nam Bug và Dniester. Vì sự phục vụ của họ trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1787–92)]], họ đã được thưởng vùng đất Kuban và di cư đến đó vào năm 1792.
Năm 1828, Sich Danube không còn tồn tại sau khi được Hoàng đế Nikolai I ân xá, và theo đó các thành viên của họ định cư trên bờ biển phía Bắc Azov giữa Berdyansk và Mariupol, thành lập Quân đoàn Cossack Azov. Cuối cùng vào năm 1862, họ cũng di cư đến Kuban và sáp nhập với người Cossack Kuban. Người Cossack Kuban đã phục vụ lợi ích của Nga cho đến Cách mạng Tháng Mười, và con cháu của họ hiện đang trải qua quá trình tái tạo tích cực cả về văn hóa và quân sự. 30.000 hậu duệ của những người Cossack đã từ chối trở về Nga vào năm 1828 vẫn sống tại khu vực đồng bằng sông Danube của Ukraina và Romania, tại đây họ theo đuổi lối sống săn bắn và câu cá truyền thống của người Cossack và được gọi là người Rusnak.
Di sản
Mặc dù vào năm 1775, Quân đoàn Zaporozhia chính thức không còn tồn tại, nhưng họ đã để lại một di sản văn hóa, chính trị và quân sự sâu sắc đối với Ukraina, Nga, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia khác có liên hệ với họ. Các liên minh hay thay đổi của người Cossack gây ra nhiều tranh luận, đặc biệt là trong thế kỷ 20. Đối với người Nga, Hiệp định Pereyaslav đã khiến cho nước Nga Sa hoàng và sau này là Đế quốc Nga thôi thúc chiếm lấy các vùng đất của người Ruthenia, yêu sách quyền lợi với tư cách là thể chế kế thừa duy nhất của Kiev Rus', và để Sa hoàng Nga được tuyên bố là người bảo hộ tất cả người Nga, đỉnh cao là phong trào chủ nghĩa liên Slav trong thế kỷ 19.
Ngày nay, hầu hết người Cossack Kuban, hậu duệ hiện đại của người Zaporozhia, vẫn trung thành với Nga. Nhiều người đã chiến đấu trong các cuộc xung đột địa phương sau khi Liên Xô tan rã, và ngày nay họ giống như trước cuộc cách mạng khi tạo thành lực lượng bảo vệ riêng của Hoàng đế, khi phần lớn Trung đoàn Tổng thống Kremlin được tạo thành từ người Cossack Kuban.
Đối với Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, Khởi nghĩa Khmelnytsky và việc người Cossack Zaporozhia thất thủ đánh dấu sự khởi đầu của quá trình liên bang kết thúc, cuối cùng là phân chia Ba Lan vào cuối thế kỷ 18. Một số phận tương tự đang chờ đợi cả Hãn quốc Krym và Đế quốc Ottoman; Sau khi hứng chịu nhiều cuộc đột kích và tấn công từ cả hai bên, người Cossack Zaporozhia đã hỗ trợ Quân đội Nga chấm dứt tham vọng mở rộng lên phía bắc và Trung Âu của Ottoman, và giống như Ba Lan, sau khi mất Krym thì Đế quốc Ottoman bắt đầu suy tàn.
]]
Di sản lịch sử của người Cossack Zaporozhia đã định hình và ảnh hưởng đến ý tưởng về chủ nghĩa dân tộc Ukraina vào nửa sau của thế kỷ 19. Các nhà sử học Ukraina, chẳng hạn như Adrian Kashchenko (1858–1921), Olena Apanovich và những người khác cho rằng việc bãi bỏ Sich Zaporozhia chung cuộc vào năm 1775 là sự kiện sụp đổ một thành trì lịch sử của Ukraina. Phong trào này tuyên bố một dân tộc Ukraina riêng biệt và cố gắng tuyên bố người Cossack Zaporozhia là tổ tiên. Trong thời kỳ Liên Xô, khía cạnh chủ nghĩa dân tộc đã (chính thức) không được nhấn mạnh nhằm dập tắt sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc chủ nghĩa; lễ kỷ niệm vai trò lịch sử của người Cossack Zaporozhia trong việc bảo vệ Nga khỏi người Thổ Nhĩ Kỳ đã được nhấn mạnh. Sự kiện này đôi khi được người thân Ukraina mô tả là thân Nga. Năm 1990, chính phủ Liên Xô và phong trào độc lập Ukraina hợp tác tổ chức lễ kỷ niệm 500 năm Sich Zaporozhia.
Trang phục, bài hát và âm nhạc của người Zaporozhia đã được đưa vào các buổi đồng diễn âm nhạc và vũ đạo chính thức của nhà nước, đồng thời ảnh hưởng đến hình ảnh của Ukraina trong những năm sau. Kể từ khi Ukraina giành được độc lập vào năm 1991, những nỗ lực khôi phục lối sống của người Cossack đã tập trung vào các cố gắng về chính trị, cưỡi ngựa và văn hóa. Vào tháng 11 năm 2016, các bài hát của người Cossack về tỉnh Dnipropetrovsk được ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của UNESCO.
Hiện tại, thành trì của người Cossack Zaporozhia là đảo Khortytsia được coi là một biểu tượng lập quốc Ukraina.
Xem thêm
Quân đoàn Cossack
Hãn quốc Krym
Dmytro Yavornytsky
Hetman của người Cossack Ukraina
Khởi nghĩa Khmelnytsky
Người Cossack Kuban
Tu viện Mezhyhirya
Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ
Sloboda Ukraina
Taras Bulba
Sich Zaporozhia
Tham khảo
Liên kết ngoài
Zaporizhia at the Encyclopedia of Ukraine
Zaporozhian Cossacks at the Encyclopedia of Ukraine
Zaporozhian Sich at the Encyclopedia of Ukraine
Lịch sử cận đại Ukraina
Nhóm sắc tộc ở Ukraina
Lịch sử quân sự Ukraina
Người Cossack
Phân cấp hành chính Đế quốc Nga |
19818381 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Lahr | Lahr | Lahr (tên chính thức là Lahr/Schwarzwald) ( ); ) là một thị trấn thuộc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Freiburg im Breisgau khoảng 50km về phía bắc, Strasbourg 40 km về phía đông nam và Karlsruhe 95 km về phía tây nam. Đây là đô thị lớn thứ hai ở huyện Ortenau xếp sau Offenburg.
Tham khảo
Badisches Städtebuch; Tập IV, Phần 2. của "Deutsches Städtebuch. Handbuch städtischer Geschichte" – Được ủy quyền bởi Arbeitsgemeinschaft der historischen Kommissionen, được Deutsche Städtetag, Deutsche Städtebund và Deutsche Gemeindetag chấp thuận, xuất bản bởi Erich Keyser, Stuttgart, 1959
Stadt Lahr (Nhà xuất bản), Lịch sử thành phố Lahr
Tập 1: Von den Anfängen bis zum Ausgang des Mittelalters, Lahr 1989
Tập 2: Vom Dreißigjährigen Krieg bis zum Ersten Weltkrieg, Lahr 1991
Tập 3: Em 20. Jahrhundert, Lahr 1993
Liên kết ngoài
Landeskunde trực tuyến: Lahr (Hình ảnh, lịch sử, v.v. )
Chrysanthema, Lahr
Lịch sử và hình ảnh Lahr
Baden
Ortenau (huyện) |
19818403 | https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C5%8Dri%20Kazuko | Kōri Kazuko | là chính trị gia người Nhật Bản. Bà từng là thành viên của Chúng nghị viện Nhật Bản. Kể từ năm 2017, bà đang giữ chức vụ làm thị trưởng thành phố Sendai, tỉnh Miyagi.
Tham khảo
Sinh năm 1957
Người còn sống
Người Sendai
Hạ nghị sĩ Nhật Bản
Chính khách từ Miyagi |
19818438 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sargocentron%20tiereoides | Sargocentron tiereoides | Sargocentron tiereoides là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1853.
Từ nguyên
Từ định danh tiereoides được ghép bởi hai âm tiết: tiere (trong danh pháp của Sargocentron tiere) và hậu tố oides trong tiếng Latinh (“tương đồng”), đề cập đến sự tương đồng (về kiểu hình) của loài cá này với loài S. tiere.
Phân bố và môi trường sống
S. tiereoides có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Seychelles, Comoros và Réunion trải dài về phía đông đến quần đảo Line và quần đảo Tuamotu, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu và đảo Wake, xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier, Vanuatu và Tonga. S. tiereoides cũng được ghi nhận tại quần đảo Trường Sa (Việt Nam).
S. tiereoides lần đầu được ghi nhận tại Địa Trung Hải, khi một cá thể được bắt tại bờ biển thành phố Damietta (Ai Cập) cùng với một cá thể Sargocentron spinosissimum. Cả hai cá thể được xác định bằng cách kiểm tra hình thái và giải trình tự mã vạch DNA.
Môi trường sống của S. tiereoides là rạn san hô ở các đới viền bờ và trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 45 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. tiereoides là 19,5 cm. Loài này có màu đỏ cam ánh bạc (cả trên má và mang) với các đường sọc đỏ sẫm dọc hai bên lườn. Gai vây lưng có dải đỏ tươi cận rìa, màng gai màu trắng mờ. Các vây có màu đỏ đến đỏ phớt vàng, rìa trên và dưới của vây đuôi màu đỏ sẫm, rìa trước của vây hậu môn và vây bụng màu trắng (có một dải cận rìa màu đỏ sẫm). Gốc vây ngực màu đỏ tươi.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10; Số tia vây ở vây ngực: 14.
Sinh thái
Thức ăn của S. tiereoides chủ yếu là cua và tôm, và chúng kiếm ăn về đêm.
Qua việc phân tích mã vạch DNA, S. tiereoides hợp thành nhóm đơn ngành với nhóm chị em Sargocentron caudimaculatum và Sargocentron spiniferum.
Giá trị
Có lẽ như những loài khác trong chi, S. tiereoides có khả năng là một thành phần của nghề đánh bắt thủ công.
Tham khảo
T
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Nhật Bản
Cá Vanuatu
Động vật Comoros
Động vật đảo Giáng Sinh
Động vật quần đảo Solomon
Động vật Kiribati
Động vật được mô tả năm 1853 |
19818448 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hosaka%20Nobuto | Hosaka Nobuto | (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1955) là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện ông đang giữ chức vụ làm quận trưởng Setagaya kể từ ngày 27 tháng 4 năm 2011.
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1955
Người Sendai
Chính khách Nhật Bản
Chính khách từ Miyagi |
19818450 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Selex%20motors | Selex motors |
Giới thiệu
Selex Motors là một startup xe điện Việt Nam, phát triển một hệ sinh thái xe máy điện tối ưu cho giao vân đầu tiên tại Đông Nam Á. Hệ sinh thái này bao gồm: xe máy điện thông minh, pin có tính tương thích cao, trạm đổi pin tự động và nền tảng quản lý sử dụng công nghệ IoT. Công ty hiện có chi nhánh tại 3 thành phố lớn ở Việt Nam là Hà Nội, Hồ Chí Minh và Huế.
Selex Motors đã và đang tiếp sức cho công cuộc chuyển đổi xe xăng sang xe điện khi liên tiếp hợp tác với các công ty giao vận lớn trong nước như GrabExpress, Lazada Logistics, BAEMIN, Viettel Post… Sự hợp tác này đã chứng tỏ mục tiêu của Selex Motors trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi sang mô hình giao vận xanh và tạo nên một kỷ nguyên mới về các giải pháp giao hàng hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường trong việc di chuyển bằng xe điện.
Lịch sử hình thành
Công ty được thành lập từ ý tưởng của Ts. Nguyễn Hữu Phước Nguyên, người luôn ấp ủ giấc mơ xây dựng một Hyundai cho Việt Nam, và 2 cộng sự khác là Ts. Nguyễn Trọng Hải – một bạn học cũ của anh Nguyên khi cả hai cùng lấy bằng Tiến sĩ ngành Cơ khí ở Đại học Michigan – Ann Arbor (Mỹ) và anh Nguyễn Đình Quảng – một chuyên gia về hệ thống IoT.
Năm 2019, Selex Motors ra mắt mẫu xe máy điện tiêu dùng đầu tiên.
Năm 2020, Selex Motors ra mắt trạm đổi pin và pin Selex.
Năm 2021, Selex Motors ra mắt mẫu xe máy điện Selex Camel.
Năm 2022, Selex Motors tổ chức lễ ra mắt Hệ sinh thái xe máy điện tối ưu cho giao vận đầu tiên tại Đông Nam Á tại nhà máy công ty ở Gia Lâm (Hà Nội).
Năm 2023, Selex Motors đón tiếp bà Janet Yellen - Bộ trưởng Tài chính Mỹ sang thăm nhà máy.
Hệ sinh thái xe máy điện cho giao vận
Thay vì chỉ sản xuất xe máy và pin, Selex Motors đã nghiên cứu và xây dựng một mạng lưới đổi pin thông qua các trạm đổi pin tự động và app Selex trên điện thoại. Ngay từ những ngày đầu, công ty đã tập trung vào xây dựng một hệ sinh thái toàn diện cho xe máy điện thông minh để thúc đẩy sự phát triển của loại phương tiện này ở Việt Nam và Đông Nam Á. Thông qua hệ sinh thái, công ty muốn giải quyết triệt để các vấn đề của xe điện hiện nay. Đó là sự bất tiện trong nạp năng lượng và chi phí cao. Đồng thời, mang lại cho người dùng những trải nghiệm và giá trị mới mẻ thông qua việc khai thác dữ liệu từ hệ sinh thái và ứng dụng các công nghệ mới nhất như IoT, AI, dữ liệu lớn. Công ty hướng tới tầm nhìn, mỗi người dân đều có thể dễ dàng sở hữu một chiếc xe máy điện và tận hưởng những giá trị tích cực từ một nền giao thông thông minh và bền vững. Hệ sinh thái xe máy điện Selex Motors bao gồm: Xe máy điện Selex Camel, Pin Selex, Trạm đổi pin và Nền tảng quản lý sử dụng công nghệ IoT.
Cơ sở hạ tầng năng lượng
Hiện tại, Selex Motors đã triển khai hơn 50 trạm đổi pin trong các thành phố lớn trên khắp Việt Nam tại 3 thành phố là Hà Nội, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh. Selex Motors đặt mục tiêu cuối năm 2023 sẽ lắp đặt hơn 100 điểm đổi pin.
Giải thưởng
Selex Motors đã được vinh danh giải thưởng Sao Khuê vào năm 2023. |
19818481 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B3a%20h%E1%BB%8Dc%20m%C3%B4i%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng | Hóa học môi trường | Hóa học môi trường (tiếng Anh: environmental chemistry) là lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các hiện tượng hóa học và sinh hóa xảy ra ở những khu vực tự nhiên. Không nên nhầm lẫn với hóa học xanh, vốn tìm cách giảm ô nhiễm tiềm ẩn tại nguồn. Nó có thể được định nghĩa là nghiên cứu về nguồn gốc, phản ứng, vận chuyển, tác động và số phận của các loại hóa chất trong các môi trường không khí, đất và nước; và tác động từ hoạt động con người và hoạt động sinh học lên chúng. Hóa học môi trường là một ngành khoa học liên ngành bao gồm hóa học khí quyển, hóa học nước và hóa học đất, cũng như phụ thuộc nhiều vào hóa phân tích, các ngành liên quan đến môi trường và các ngành khoa học khác.
Hóa học môi trường trước hết liên quan đến việc hiểu môi trường không bị ô nhiễm hoạt động như thế nào, hóa chất nào ở nồng độ nào hiện diện tự nhiên và có tác dụng gì. Nếu không có điều này thì sẽ không thể nghiên cứu chính xác tác động của con người đối với môi trường thông qua việc giải phóng các hóa chất.
Các nhà hóa học môi trường dựa trên một loạt các thông tin từ hóa học và các ngành khoa học môi trường khác nhau để hỗ trợ nghiên cứu của họ về những gì đang xảy ra với một loại hóa chất trong môi trường. Các nội dung chung quan trọng từ hóa học bao gồm hiểu các phản ứng và phương trình hóa học, dung dịch, đơn vị đo, lấy mẫu và kỹ thuật phân tích.
Tạp chất contaminant
Contaminant là một loại hình tạp chất tồn tại trong tự nhiên khi có nồng độ ở mức cao hơn mức cố định. Điều này có thể là do hoạt động của con người và hoạt tính sinh học. Thuật ngữ contaminant thường được sử dụng thay thế cho chất gây ô nhiễm (pollutant), vốn là chất có tác động bất lợi đến môi trường xung quanh. Trong khi contaminant đôi khi được định nghĩa là một chất có trong môi trường do hoạt động của con người gây ra, nhưng không gây tác hại, đôi khi có trường hợp các tác động độc hại hoặc có hại do chúng chỉ trở nên rõ ràng vào một ngày sau đó.
Môi trường như đất hoặc sinh vật như cá bị ảnh hưởng bởi contaminant hoặc chất gây ô nhiễm được gọi là receptor, trong khi sink là môi trường hóa học hoặc loài giữ lại và tương tác với chất ô nhiễm như bồn carbon (carbon sink) và tác động từ vi khuẩn.
Chỉ số môi trường
Các phép đo hóa học về chất lượng nước bao gồm oxy hòa tan (DO), nhu cầu oxy hóa học (COD), nhu cầu oxy sinh hóa (BOD), tổng chất rắn hòa tan (TDS), độ pH, dinh dưỡng (nitrat và phosphor), kim loại nặng, hóa chất đất (bao gồm đồng, kẽm, cadmi, chì và thủy ngân) và thuốc bảo vệ thực vật.
Ứng dụng
Hóa học môi trường được sử dụng bởi Cơ quan Môi trường ở Anh, Tài nguyên Thiên nhiên Wales, Cục Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ, Hiệp hội Nhà phân tích công cộng, và các cơ quan môi trường và cơ quan nghiên cứu khác trên khắp thế giới để phát hiện và xác định bản chất và nguồn gốc của các chất ô nhiễm. Chúng có thể bao gồm:
Ô nhiễm kim loại nặng trong đất do công nghiệp. Những thứ này sau đó có thể được vận chuyển vào các vùng nước và được các sinh vật sống hấp thụ.
Hydrocarbon thơm đa vòng (PAH) trong các vùng nước lớn bị ô nhiễm do tràn dầu hoặc rò rỉ. Nhiều loại PAH là chất gây ung thư và cực kỳ độc hại. Nồng độ của chúng (ppb) được điều chỉnh bằng cách sử dụng hóa học môi trường và thử nghiệm sắc ký trong phòng thí nghiệm.
Chất dinh dưỡng ngấm từ đất nông nghiệp vào nguồn nước, có thể dẫn đến hiện tượng nước nở hoa và hiện tượng phú dưỡng.
Dòng chảy đô thị của các chất ô nhiễm rửa trôi các bề mặt không thấm nước (đường giao thông, bãi đỗ xe và mái nhà) trong các cơn mưa bão. Các chất gây ô nhiễm điển hình bao gồm xăng, dầu nhớt và các loại hợp chất hydrocarbon, kim loại, dinh dưỡng và trầm tích (đất) khác.
Hợp chất hữu cơ kim loại.
Phương pháp
Phân tích hóa học định lượng là một phần quan trọng của hóa học môi trường, vì nó cung cấp dữ liệu nền cho hầu hết các nghiên cứu về môi trường.
Các kỹ thuật phân tích phổ biến được sử dụng để xác định định lượng trong hóa học môi trường bao gồm hóa ướt cổ điển, chẳng hạn như phương pháp trọng lượng, chuẩn độ (titration) và điện hóa. Các phương pháp phức tạp hơn được sử dụng để xác định vết kim loại và các hợp chất hữu cơ. Các kim loại thường được đo bằng phương pháp quang phổ nguyên tử và phương pháp khối phổ: Phương pháp phổ hấp thu nguyên tử (AAS) và Phát xạ nguyên tử plasma kết hợp cảm ứng (ICP-AES), hoặc kỹ thuật Đo phổ khối plasma kết hợp tự cảm (ICP-MS). Các hợp chất hữu cơ, bao gồm cả PAH, cũng thường được đo bằng các phương pháp khối phổ, chẳng hạn như sắc ký khí khối phổ (GC/MS) và sắc ký lỏng khối phổ (LC/MS). Phép đo khối phổ song song (MS/MS) và phép đo khối phổ độ phân giải cao/chính xác (HR/AM) cung cấp phần phụ trên mỗi nghìn tỷ lần phát hiện. Các phương pháp phi MS sử dụng GC và LC có đầu dò phổ quát hoặc cụ thể vẫn là mặt hàng chủ lực trong kho công cụ phân tích hiện có.
Các thông số khác thường được đo trong hóa học môi trường là hóa chất phóng xạ. Đây là những chất gây ô nhiễm phát ra các chất phóng xạ, chẳng hạn như các hạt alpha và beta, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người và môi trường. Máy đếm hạt và máy đếm nhấp nháy được sử dụng phổ biến nhất cho các phép đo này. Xét nghiệm sinh học và xét nghiệm miễn dịch được sử dụng để đánh giá độc tính của các tác động hóa học đối với các sinh vật khác nhau. Phản ứng chuỗi polymerase (PCR) có thể xác định các loài vi khuẩn và các sinh vật khác thông qua quá trình phân lập và khuếch đại gen DNA và RNA cụ thể và đây hứa hẹn là một kỹ thuật có giá trị để xác định ô nhiễm vi sinh vật trong môi trường.
Các phương pháp phân tích đã công bố
Các phương pháp thử nghiệm bình duyệt đã được các cơ quan chính phủ và các tổ chức nghiên cứu tư nhân công bố. Các phương pháp đã công bố mà đã được phê duyệt thì phải được sử dụng khi thử nghiệm để chứng minh việc tuân thủ các yêu cầu quy định.
Xem thêm
Giám sát môi trường
Thông số chất lượng môi trường nước ngọt
Hóa học xanh
Tham khảo
Đọc thêm
Stanley E Manahan. Environmental Chemistry. CRC Press. 2004. .
Rene P Schwarzenbach, Philip M Gschwend, Dieter M Imboden. Environmental Organic Chemistry, Second edition. Wiley-Interscience, Hoboken, New Jersey, 2003. .
NCERT XI textbook.[ unit 14]
Liên kết ngoài
List of links for Environmental Chemistry - from the WWW Virtual Library
International Journal of Environmental Analytical Chemistry
Hóa sinh
Hóa học
Ô nhiễm nước |
19818494 | https://vi.wikipedia.org/wiki/HIT%20Entertainment | HIT Entertainment | HIT Entertainment Limited (thường được viết là HiT ) là một công ty giải trí của Anh-Mỹ được thành lập vào năm 1982 với tên Henson International Television , HIT sở hữu và phân phối các bộ phim truyền hình dành cho trẻ em như Thomas và những người bạn , Lính cứu hỏa Sam , Bob the Builder ,Chim cánh cụt ,Barney và những người bạn , và Angelina Ballerina .
HIT Entertainment cùng 1 số công ty đối tác như NBCUniversal , PBS và Sesame Workshop thành lập ra PBS Kids Sprout.
HIT Entertainment đã được Mattel năm 2012 ,vào ngày 31 tháng 3 năm 2016 HIT Entertainment được sáp nhập với Mattel đổi tên thành Mattel Creations .
Lịch sử
Chú Thích |
19818495 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Rabat | Tổng giáo phận Rabat | Tổng giáo phận Rabat (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Maroc. Tổng giáo phận được thành lập bởi Giáo hoàng Piô XI ngày 2/7/1923 dưới tên Hạt Đại diện Tông tòa Rabat, và được nâng cấp thành một tổng giáo phận bởi Giáo hoàng Piô XII vào ngày 14/9/1955.
Nhà thờ mẹ và ngai tòa tổng giám mục được đặt tại Nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô, Raba, Rabat. Tổng giám mục đương nhiệm là Cristóbal López Romero, được bổ nhiệm vào ngày 29/12/2017.
Lãnh đạo
Đại diện Tông tòa Rabat
Victor Colomban Dreyer, O.F.M Cap. (1923–1927), sau trở thành Đại diện Tông tòa Canale di Suez {Kênh đào Suez}, Ai Cập
Henri Vielle, O.F.M. (1927–1946)
Louis Lefèbvre, O.F.M. (1947–1955)
Tổng giám mục Rabat
Louis Lefèbvre, O.F.M. (1955–1968)
Jean Chabbert, O.F.M. (1968–1982), sau trở thành Tổng giám mục Perpignan-Elne, Pháp (danh hiệu cá nhân)
Hubert Michon (1983–2001)
Vincent Landel, S.C.J. (2001–2017)
Cristóbal López Romero, S.D.B. (2017–hiện tại) (Thăng hồng y năm 2019)
Giám mục phó
Jean-Berchmans-Marcel-Yves-Marie-Bernard Chabbert, O.F.M. (1967-1968)
Vincent Louis Marie Landel, S.C.I. di Béth. (1999-2001)
Giám mục phụ tá
Pierre-Jean-Marie-Louis Peurois, O.F.M. (1936-1946), từ nhiệm; (1957?-1959)
Xem thêm
Công giáo tại Maroc
Tổng giáo phận Tangier
Liên kết ngoài
Trang mạng chính thức
Catholic-Hierarchy
GCatholic.org
Rabat |
19818498 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%A1n%20canh | Đơn canh | Trong lĩnh vực nông nghiệp, Đơn canh là phương pháp trồng một loại cây trồng duy nhất trong một cánh đồng cụ thể. Đơn canh được sử dụng rộng rãi trong thâm canh và trong nông nghiệp hữu cơ: cả một cánh đồng lúa mì 1.000 ha và một cánh đồng bắp cải hữu cơ 10 ha đều là loại đơn canh. Việc trồng đơn canh cho phép nông dân tăng cường hiệu quả trong việc gieo trồng, quản lý và thu hoạch, chủ yếu thông qua việc thuận lợi sử dụng máy móc trong các hoạt động này, nhưng đơn canh cũng có thể tăng nguy cơ bùng phát bệnh tật hoặc dịch sâu bọ. Đa dạng có thể được bổ sung cả về thời gian, như việc sử dụng luân canh hoặc tuần hoàn cây trồng, hoặc về không gian, thông qua việc trồng xen kẽ nhiều loại cây trên cùng một cánh đồng (xem bảng dưới đây).
Đơn canh liên tục, hay còn được gọi là độc canh, trong đó nông dân trồng cùng một loại cây trồng liên tục hàng năm, có thể dẫn đến sự phát triển và lây lan nhanh chóng hơn của sâu bệnh và dịch bệnh trên một loại cây trồng dễ bị nhiễm bệnh.
Thuật ngữ "nông nghiệp độc canh" đã được sử dụng để miêu tả việc luân phiên trồng chỉ một số ít loại cây trồng, như được thực hiện ở một số khu vực trên thế giới.
Khái niệm đơn canh cũng có thể mở rộng đến (ví dụ) cuộc thảo luận về sự đa dạng trong cảnh quan đô thị.
Nông nghiệp
Trong bối cảnh nông nghiệp, thuật ngữ này miêu tả phương pháp trồng một loài cây duy nhất trong một cánh đồng. Ví dụ về đơn canh bao gồm các cánh đồng cỏ, cánh đồng lúa mì hoặc bắp, hoặc vườn táo.
Lợi ích
Trong đơn canh cây trồng, mỗi cây trồng trong cánh đồng đều có cùng yêu cầu về gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch, dẫn đến hiệu suất cao hơn và chi phí thấp hơn. Khi một loại cây trồng phù hợp với môi trường được quản lý tốt, đơn canh có thể sản xuất mức thu hoạch cao hơn so với đa canh. Các phương pháp hiện đại như trồng đơn canh và sử dụng phân bón tổng hợp đã giảm thiểu lượng đất cần thiết để sản xuất thực phẩm, gọi là đất dự trữ (land sparing).
Rủi ro
Đơn canh của cây lâu năm, chẳng hạn như dầu cọ châu Phi, mía đường, trà và pines, có thể dẫn đến vấn đề về đất và môi trường như axit hóa đất, suy thoái đất, và bệnh trên đất, ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất và bền vững trong nông nghiệp. Các phương pháp đa dạng hóa luân canh các loại cây trồng đơn canh có thể giảm thiểu rủi ro về bệnh tật và sự bùng phát sâu bọ. Tuy nhiên, càng ngắn hạn luân canh (ít loại cây trồng hơn) thì rủi ro càng cao. Có những ví dụ về luân canh ngắn hạn, chỉ hai năm, đã chọn lọc sâu bọ thích ứng với luân canh đó.
Tóm lại, tác động tiêu cực của đơn canh dựa vào hai yếu tố; mất mát đa dạng sinh học và việc sử dụng thuốc trừ sâu. Các hệ sinh thái và môi trường sống khỏe mạnh là nơi cư trú của hàng trăm loài thực vật, côn trùng và động vật. Khi các diện tích lớn đất được sử dụng cho chỉ một loại cây trồng, cả môi trường cân bằng hoàn toàn bị xáo trộn. Các dịch vụ môi trường quan trọng mà bình thường được cung cấp bởi nhiều loài khác nhau bây giờ không được thực hiện. Mức độ đa dạng sinh học thấp trên đất nông nghiệp cũng có nghĩa là một số côn trùng không còn có kẻ thù tự nhiên, dẫn đến sự gia tăng không kiểm soát của số lượng chúng. Để kiểm soát sâu bệnh trên cây trồng, nông dân sử dụng thuốc trừ sâu nặng. Những chất này cũng có thể giảm thiểu mức độ đa dạng sinh học nhưng cũng là mối đe dọa cho các hồ nước do nước thải hóa chất.
Lâm nghiệp
Trong lâm nghiệp, đơn canh ám chỉ việc trồng một loài cây duy nhất. Việc trồng đơn canh cung cấp năng suất cao hơn và thu hoạch hiệu quả hơn so với cây trồng trong các khu rừng tự nhiên. Các khu rừng chỉ chứa một loài cây thường là cách tự nhiên cây mọc, nhưng các khu rừng này có đa dạng về kích thước cây, với cây chết lẫn lộn với cây trưởng thành và cây trẻ. Trong lâm nghiệp, các khu rừng đơn canh được trồng và thu hoạch như một đơn vị cung cấp nguồn tài nguyên hạn chế cho các sinh vật hoang dã phụ thuộc vào cây chết và các vùng trống vì tất cả các cây đều có cùng kích thước; chúng thường được thu hoạch bằng cách chặt cây, điều này thay đổi hoàn toàn môi trường sống. Thu hoạch cơ khí cây có thể làm nén đất, ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển dưới tán cây. Việc trồng đơn canh cũng khiến cây trở nên dễ bị tổn thương khi bị nhiễm một mầm bệnh, bị tấn công bởi côn trùng, hoặc bị ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường bất lợi.
Đơn canh trên khu đất cư trú
Đơn canh cỏ trước đây tại Hoa Kỳ đã được ảnh hưởng bởi các khu vườn Anh và cảnh quan tòa lâu đài, nhưng việc thêm vào cảnh quan trang trí của Hoa Kỳ khá mới mẻ. Tính thẩm mỹ đã thúc đẩy sự tiến hóa của các khu vực xanh cư trú, với cỏ nhân tạo trở thành một bổ sung phổ biến cho nhiều ngôi nhà Hoa Kỳ. Cỏ nhân tạo là một loài không bản địa và yêu cầu mức độ bảo dưỡng cao. Tuy nhiên, nguyên nhân chính khiến nó được sử dụng rộng rãi chủ yếu đến từ áp lực xã hội. Tại cấp địa phương, chính quyền và tổ chức đã bắt tay vào việc thực hiện các thực tiễn đơn canh (hãy tưởng tượng các Hội viên chủ nhà). Các vấn đề khác nhau liên quan đến việc duy trì tài sản riêng tư đã xảy ra, chẳng hạn như duy trì thẩm mỹ và giá trị bất động sản. Sự không đồng ý trong việc duy trì cỏ dại, cỏ, v.v., đã dẫn đến các vụ kiện dân sự hoặc thậm chí xâm phạm trực tiếp nhà hàng xóm.
Giống như nông nghiệp, mức độ bảo dưỡng cao cần thiết cho cỏ nhân tạo đã tạo ra nhu cầu ngày càng cao về quản lý hóa chất, tức là thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt côn trùng. Một nghiên cứu năm 1999 cho thấy trong một mẫu các dòng sông đô thị, ít nhất một loại thuốc trừ sâu được tìm thấy trong 99% các dòng sông. Một rủi ro chính liên quan đến thuốc trừ sâu trên cỏ là sự tiếp xúc của hóa chất vào nhà qua không khí, quần áo và đồ nội thất có thể gây hại nhiều hơn đối với trẻ em so với người trưởng thành bình thường.
Đơn canh di truyền học
Mặc dù thường ám chỉ việc sản xuất cùng một loài cây trồng trong một khu vực (không gian), đơn canh cũng có thể ám chỉ việc trồng một giống cây trồng duy nhất trên một khu vực lớn hơn, sao cho có nhiều cây trồng trong khu vực có cùng bộ gen giống nhau. Khi tất cả các cây trong một khu vực có cùng độ tương tự về di truyền, một bệnh trên các cây trồng mà chúng không có kháng cự có thể tiêu diệt toàn bộ dân số cây trồng. nấm gỉ lá lúa đã gây nhiều lo âu trên toàn cầu, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến vụ mùa lúa ở Uganda và Kenya và đã bắt đầu lan rộng ở châu Á. Với các chủng cây lúa trên thế giới có bộ gen tương tự nhau sau Cuộc cách mạng xanh, tác động của các bệnh này đe dọa sản xuất nông nghiệp trên toàn cầu.
Những ví dụ lịch sử về đơn canh di truyền học
Nạn đói lớn ở Ireland
Ở Ireland, việc sử dụng độc quyền một loại khoai tây, "lumper", đã dẫn đến Nạn đói lớn năm 1845-1849. Khoai tây lumpers cung cấp thực phẩm giá rẻ để nuôi dưỡng dân chúng Ireland. Khoai tây được truyền mang vô tính với ít hoặc không có biến thể di truyền. Khi Phytophthora infestans xuất hiện ở Ireland từ Châu Mỹ vào năm 1845, lumper không có kháng cự với bệnh tật, dẫn đến sự thất bại gần như hoàn toàn của mùa màng khoai tây trên toàn bộ Ireland.
Chuối
Cho đến những năm 1950, giống chuối "Gros Michel" đại diện cho hầu hết các loại chuối tiêu thụ ở Hoa Kỳ vì hương vị, hạt nhỏ và hiệu suất sản xuất của chúng. Hạt nhỏ của chuối này, dù hấp dẫn hơn so với loại hạt lớn ở các giống chuối khác ở châu Á, không phù hợp để trồng. Điều này có nghĩa là tất cả các cây chuối mới phải được trồng từ cục cành cắt từ cây khác. Kết quả của việc trồng suckers theo cách vô tính, tất cả các cây chuối được trồng đều có cùng bộ gen giống nhau, không có đặc điểm chống lại bệnh Fusarium wilt, một bệnh nấm nhanh chóng lây lan trong vùng Caribe nơi chúng được trồng. Đầu những năm 1960, người trồng phải chuyển sang trồng giống chuối Cavendish, một giống được trồng theo cách tương tự. Giống chuối này đang chịu sự căng thẳng bệnh tật tương tự vì tất cả các chuối đều là bản sao của nhau và có thể nhanh chóng bị bại hoại như Gros Michel.
Trâu bò
Thuật ngữ này cũng được sử dụng khi một giống động vật nông nghiệp duy nhất được nuôi dưỡng trong các hoạt động nuôi trồng động vật tập trung lớn (CAFOs).
Nhiều hệ thống sản xuất động vật nông nghiệp ngày nay dựa vào một số lượng nhỏ các giống được đặc biệt hóa cao. Tập trung mạnh vào một đặc điểm cụ thể (đầu ra) có thể đồng nghĩa với việc thiếu mất những đặc điểm khác mong muốnnhư sự sinh sản, khả năng kháng bệnh, sức khỏe, và bản năng làm mẹ. Vào đầu những năm 1990, đã quan sát thấy một số lượng ít của những chú trâu Holstein lớn lên không tốt và chết trong 6 tháng đầu đời. Tất cả đều được xác định là homozygous cho một đột biến trong gen gây chứng suy giảm gắn kết tiểu cầu bò. Đột biến này được tìm thấy với tần suất cao trong các quần thể Holstein trên toàn thế giới (15% ở bò đực tại Mỹ, 10% ở Đức và 16% ở Nhật.) Các nhà nghiên cứu nghiên cứu về huyết thống của động vật bị ảnh hưởng và động vật mang gen chủ, đã theo dõi nguồn gốc của đột biến đến một con bò duy nhất đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất động vật nông nghiệp. Năm 1990, có khoảng 4 triệu con bò Holstein ở Mỹ, làm cho tổng dân số bị ảnh hưởng xấp xỉ 600.000 con.
Lợi ích của đa dạng di truyền
Mặc dù hệ thống nông nghiệp có ít hoặc không có sự đa dạng di truyền có thể gặp những nhược điểm, nhưng việc tăng cường đa dạng di truyền bằng cách giới thiệu các loài có di truyền biến đổi có thể đưa hệ thống trở nên bền vững hơn. Ví dụ, bằng cách có các cây trồng với những đặc điểm di truyền đa dạng về kháng bệnh và kháng côn trùng, có khả năng thấp hơn trong việc lây lan bệnh hoặc côn trùng gây hại trong khu vực. Điều này xảy ra vì nếu một loại cây trở nên nhiễm bệnh bởi một loại bệnh hoặc côn trùng cụ thể, có khả năng những cây khác xung quanh nó sẽ có gene bảo vệ chúng khỏi loại bệnh hoặc côn trùng đó. Điều này có thể giúp tăng năng suất mùa màng đồng thời giảm sử dụng thuốc trừ sâu và rủi ro tiếp xúc.
Đơn chức năng
Đơn chức năng là một khái niệm tương tự; tuy nhiên, hoàn toàn có thể một khu vực đất đơn chức năng có chức năng của nó được thực hiện bởi nhiều loài và do đó không gặp tất cả những bất lợi như đơn canh. Khi công nghiệp hóa đầu tiên đến nông nghiệp và trồng rừng, đơn chức năng đã được đề xuất là lý tưởng do sự ưu việt ban đầu về hiệu suất kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm sau đó, ý kiến đã thay đổi. Trong những năm gần đây, đã rõ ràng rằng đơn chức năng gặp một số nhược điểm giống như đơn canh, đặc biệt là sự thiếu hụt tác dụng tăng cường và không thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của con người.
Tham khảo
Thuật ngữ nông nghiệp
Nông nghiệp |
19818500 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Tanger | Tổng giáo phận Tanger | Tổng giáo phận Tanger (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Maroc. Tổng giáo phận chịu sự quản lí trực tiếp của Tòa Thánh, với tòa giám mục đặt tại Tangier.
Lịch sử
1469: Giáo phận Maroc được thành lập, tách ra từ Giáo phận Ceuta ở Bồ Đào Nha.
1570: Sáp nhập lại vào Giáo phận Ceuta
28/11/1630: Tái thành lập dưới tên Hạt Phủ doãn Tông tòa Maroc. Hạt Phủ doãn Tông tòa có thể đã tan rã năm 1649.
14/4/1908: Nâng cấp thành Hạt Đại diện Tông tòa Maroc
14/11/1956: Nâng cấp thành Tổng giáo phận Tanger
Lãnh đạo
Thời kì trước Hạt Đại diện Tông tòa
Nuno Álvares de Aguiar, O.S.B. ( 1469 – 15/7/1491 )
Diogo Ortiz de Villegas (1491 – 3/5/1500)
João Lobo (4/5/1500 – 1508)
Nicolau Pedro Mendes (4/3/1523 – 1542)
Gonçalo Pinheiro (23/11/1542 – 27/6/1552)
Francisco Quaresma, O.F.M. (15/12/1557 – 1585)
Diogo Correia de Sousa (15/7/1585 – 16/2/1598)
Heitor de Valadares (11/3/1598 – 1600)
Gerónimo de Gouveia, O.F.M. (24/1/1601 – 1602 )
Agostinho Ribeiro (27/8/1603 – 29/7/1613)
António de Aguiar (21/10/1613 – 1632)
Gonçalo da Silva (6/9/1632 – 16/2/1649)
Đại diện Tông tòa Maroc
Francisco María Cervera y Cervera, O.F.M. (8/4/1908 – 26/3/1926)
José María Betanzos y Hormaechevarría, O.F.M. (17/7/1926 – 27/12/1948)
Francisco Aldegunde Dorrego, O.F.M. (27/12/1948 – 14/11/1956)
Tổng giám mục Tanger
Francisco Aldegunde Dorrego, O.F.M. (14/11/1956 – 17/12/1973 )
Carlos Amigo Vallejo, O.F.M. (17/12/1973 – 22/51982 ), sau trở thành Tổng giám mục Sevilla {Seville}, Tây Ban Nha (Thăng Hồng y năm 2003)
José Antonio Peteiro Freire, O.F.M. (2/7/1983 – 23/3/2005)
Santiago Agrelo Martínez, O.F.M. (11/4/2007 – 24/5/2019)
Emilio Rocha Grande, O.F.M. (7/2/2023 – nay)
Xem thêm
Danh sách Giáo phận Công giáo tại Maroc
Tổng giáo phận Rabat
Liên kết ngoài
Catholic-Hierarchy
Tanger |
19818505 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Amphibia%20%28phim%29 | Amphibia (phim) | Amphibia (tạm dịch: Thế giới lưỡng cư) là một bộ phim hoạt hình của Mỹ được sản xuất bởi Matt Braly. Bộ phim được công chiếu vào ngày 14 tháng 6 năm 2019 trên DisneyNOW và YouTube và vào ngày 17 tháng 6 năm 2019 trên Disney Channel.
Nội dung
Câu chuyện kể về cô bé Anne Boonchuy, 13 tuổi, cùng 2 người bạn là Sasha Waybright và Marcy Wu đã bị đưa đến thế giới Amphibia qua một chiếc hộp nhạc. Đây là một hòn đảo lớn đầy ếch, cóc và thằn lằn. Những loài lưỡng cư ở đây đều giống với các loài lưỡng cư bình thường, nhưng chúng lại có thể nói và tư duy như con người. Anne rơi vào Wartwood, một thị trấn nhỏ nơi mà loài ếch sống, và tại đây, cô đã kết bạn với Sprig Plantar, một chú ếch trẻ màu hồng, Polly Plantar, em gái của Sprig và người ông Hopadiah Plantar. Sasha bị đưa đến Tháp Cóc, khu vực của đội quân cóc, và bị chúng bắt làm tù binh, tuy nhiên cô đã trở thành một chỉ huy trong hàng ngũ của chúng sau khi lập công. Còn Marcy thì bị đưa đến thủ đô của vùng đất Amphibia là Newtopia.
Ở cuối mùa 1, Anne đã gặp lại Sasha, tuy nhiên Anne lại vô tình biết trước kế hoạch tiêu diệt đàn ếch của lũ cóc. Anne đã xảy ra mâu thuẫn với Sasha, và cô đã phải đánh nhau với Sasha để cứu đàn ếch. Tháp Cóc sụp đổ, Sasha cùng lũ cóc phải rút lui, còn Anne và đàn ếch thì về lại Wartwood.
Ở mùa 2, Anne và nhà Plantar đặt chân đến thủ đô Newtopia. Anne gặp lại Marcy, và được gặp Vua Andrias, vua của các loài lưỡng cư. Ông đã đồng ý cho Anne và Marcy tìm 3 viên ngọc để kích hoạt lại chiếc hộp nhạc. Trong khi đó, Sasha và đội quân cóc âm mưu lật đổ Andrias, tuy nhiên khi đến Newtopia, họ đã đồng ý hợp tác cũng Anne và Marcy. Tuy nhiên, Vua Andrias đã lật mặt, ngăn chặn việc kích hoạt hộp nhạc. Anne cùng nhà Plantar đã bị đưa trở về Trái Đất, nhưng Marcy đã bị đâm và được vua Andrias dùng làm thân thể cho một thực thể gọi là The Core, còn Sasha phải rút lui.
Anne được gặp lại gia đình tại mùa 3. Tại đây, cô đã phải nguỵ trang cho nhà Plantar để tránh bị Chính phủ dòm ngó, và để tránh robot của Andrias. Tuy nhiên, Chính phủ đã bắt đầu để ý tới, và họ đã cố gắng để bắt nhà Plantar. Trong khi đó, ở Amphibia, Sasha đã lập được đội kháng chiến tại Wartwood. Anne và nhà Plantar đã trở về Wartwood để cố giải cứu Marcy nhưng không được. Ngay sau đó, vua Andrias xâm lược Trái Đất. Tuy nhiên, Anne và mọi người đã đánh bại được Vua Andrias và giải cứu Marcy. Ở cuối phim, Amphibia đã có chính phủ mới, và Anne đã được tôn vinh và được dựng tượng tại Wartwood.
Đánh giá
Phê bình
Nhà phê bình Emily Ashby của Common Sense Media đánh giá phim 4 trên 5 sao, nói rằng "Cuộc phiêu lưu của Anne và Sprig rất đáng xem, chủ yếu nhờ tính cách của hai nhân vật khá hợp nhau." và "bộ phim nói lên những vấn đề như bắt nạt, thao túng cảm xúc và có thể thu hút trẻ em và thanh thiếu niên bàn luận về chủ đề này." Bekah Burbank của LaughingPlace.com đánh giá tốt khả năng cân bằng sự hài hước và yếu tố kinh dị của phim, cũng như nhịp độ, nhân vật và hoạt ảnh "Amphibia có nhiều trò đùa và nội dung đáng sợ vừa đủ để thu hút sự chú ý của chúng. Bộ phim có cốt truyện nhanh và được chia thành hai tập dài 11 phút, tạo thành một tập phim hoàn chỉnh. Ngoài ra, đồ hoạ và các nhân vật cũng được thiết kế đẹp mắt."
Giải thưởng
Phim đã giành được Giải Annie cho "Thiết kế nhân vật xuất sắc nhất" vào năm 2021 cho tập phim "The Shut-In!". Cùng năm đó, bộ phim được đề cử giải Emmy cho "Chương trình hoạt hình dành cho trẻ em xuất sắc", nhưng đã thua Hilda.
Phim hoạt hình
Phim hoạt hình Mỹ |
19818515 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20T%C6%B0%20l%E1%BB%87nh%20Qu%C3%A2n%20%C4%91%E1%BB%99i%20Ho%C3%A0ng%20gia%20Campuchia | Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia | Tổng Tư lệnh Quân đội Hoàng gia Campuchia () là sĩ quan cấp cao nhất của Quân đội Hoàng gia Campuchia chịu trách nhiệm duy trì chỉ huy tác chiến của quân đội và các binh chủng chủ yếu của quân đội nước này.
Danh sách Tổng Tư lệnh qua các thời kỳ
Quân đội Quốc gia Khmer (1970–1975)
Quân Giải phóng Campuchia (1977–1979)
Quân đội Cách mạng Nhân dân Campuchia (1979–1989)
Quân đội Nhân dân Campuchia (1989–1993)
Quân đội Hoàng gia Campuchia (1993 đến nay)
Tham khảo
Quân sự Campuchia
Lịch sử quân sự Campuchia |
19818523 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BA%ADn%20t%E1%BA%A7n | Thuận tần | Thuận Tần Na Lạp Thị
(chữ Hán:順嬪那拉氏; 6 tháng 2 năm 1811 - 19 tháng 3 năm 1868), là một phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang đế.
Tiểu sử
Thuận Tần Na Lạp Thị sinh ngày 6 tháng 2 năm Gia Khánh thứ 14 (1809) không rõ gia thế.
Năm Đạo Quang thứ 8 (1828) tháng 3, Na Lạp Thị nhập cung cùng một đợt với Thành Quý nhân Nữu Hỗ Lộc Thị, được sơ phong Thuận Quý nhân (順貴人). Năm Đạo Quang thứ 9 (1829), bà bị giáng làm Na Thường Tại (那常在).
Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), Hàm Phong Đế lên ngôi tôn bà làm Hoàng khảo Thuận Quý nhân (皇考順貴人). Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), Đồng Trị Đế lên ngôi tôn bà làm Hoàng tổ Thuận Tần (皇祖順嬪).
Năm Đồng Trị thứ 7 (1868) ngày 19 tháng 3, bà qua đời hưởng thọ 57 tuổi. Quan tài của bà được táng vào Mộ Đông lăng (慕东陵) thuộc Thanh Tây lăng.
Tham khảo
•Thanh sử cảo |
19818524 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sakurada%20Hiroshi | Sakurada Hiroshi | (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1959) là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện ông đang giữ chức vụ làm thị trưởng thành phố Hirosaki, tỉnh Aomori kể từ ngày 16 tháng 4 năm 2018. Năm 2022, ông tái đắc cử chức vụ làm thị trưởng thành phố Hirosaki.
Tham khảo
Người Aomori
Sinh năm 1959
Chính khách Nhật Bản |
19818525 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20c%C3%A1c%20c%C3%A2u%20l%E1%BA%A1c%20b%E1%BB%99%202023 | Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 | Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 là phiên bản thứ 20 của FIFA Club World Cup, một giải đấu quốc tế câu lạc bộ bóng đá do FIFA tổ chức giữa những người chiến thắng của sáu liên đoàn châu lục, cũng như các nhà vô địch giải đấu của nước chủ nhà. Giải đấu sẽ được tổ chức tại Ả Rập Xê Út từ ngày 12 đến ngày 22 tháng 12 năm 2023. Đây sẽ là Giải vô địch thế giới các câu lạc bộ bảy đội cuối cùng trước khi giải đấu được mở rộng lên 32 đội trong 2025.
Real Madrid là đương kim vô địch, nhưng họ sẽ không thể bảo vệ danh hiệu của mình sau khi bị loại ở bán kết của UEFA Champions League 2022–23.
Chủ nhà
Mặc dù Giải vô địch thế giới các câu lạc bộ mở rộng, bốn năm một lần được lên kế hoạch cho 2025, FIFA đã xác nhận vào ngày 13 tháng 2 năm 2023 rằng giải đấu năm 2023 sẽ được tổ chức theo thể thức bảy đội trước đây. Đầu tháng đó, UOL Esporte báo cáo rằng Ả Rập Xê Út quan tâm đến việc tổ chức các giải đấu Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ năm 2023 và 2024. Bật Ngày 14 tháng 2, Hội đồng FIFA đã xác nhận Ả Rập Xê Út là chủ nhà của giải đấu năm 2023.
Các đội tham dự
Ghi chú
Địa điểm
Jeddah đã được xác nhận là thành phố đăng cai vào ngày 26 tháng 6 năm 2023. Giải đấu sẽ được tổ chức tại hai địa điểm trong một thành phố.
Đấu loại trực tiếp
Nếu trận đấu hòa sau thời gian thi đấu bình thường:
Đối với các trận đấu loại trực tiếp, hiệp phụ sẽ vẫn được diễn ra. Nếu vẫn hòa sau hiệp phụ, loạt sút luân lưu sẽ được tổ chức để phân định thắng thua.
Đối với trận tranh hạng ba, không thi đấu hiệp phụ và tiến hành đá luân lưu để phân định thắng thua.
Tất cả được diễn ra theo giờ địa phương, CET (UTC+1).
Vòng đầu tiên
Vòng thứ hai
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bóng đá năm 2023
Giải đấu FIFA Club World Cup |
19818536 | https://vi.wikipedia.org/wiki/A%20Close%20Shave | A Close Shave | Wallace and Gromit: A Close Shave (Dịch tiếng việt:Wallece và Gromit :một lần Suýt chết) là một bộ phim Hoạt hình tĩnh vật của Anh sản xuất bởi Aardman Animations cùng với Wallace and Gromit Ltd , BBC Bristol và BBC Children's International .Đây là bộ thứ ba có nhân vật chính là Wallace và Gromit,sau A Grand Day Out (1989) và The Wrong Trousers (1993).Bộ phim này đã giành được giải Giải Oscar cho phim hoạt hình xuất sắc nhất lần thứ 69 vào năm 1996 A Close Shave cũng chứng kiến sự xuất hiện đầu tiên của Shaun,sau này Shaun được được làm nhân vật chính trong bộ phim hoạt hình Chú cừu Shaun.
Cốt truyện
62 Phố Tây Wallaby. Một đêm nọ, một chiếc xe tải chở đầy cừu dừng lại ở một ngọn đèn bên ngoài nhà của Wallace và Gromit , những người đã trở thành người lau cửa sổ và cửa sổ. Một trong số họ trốn thoát và quay trở lại nhà. Chiếc xe tải khởi động lại và rời đi.
Ngày hôm sau, Wallace phải đối phó với ý tưởng bất chợt về khẩu súng thần công nấu cháo do anh sáng chế, thứ đang gặp trục trặc. Gromit nhận thấy rằng dây của máy đã bị gặm một phần. Nghĩ đến những con chuột, Wallace cũng thấy rằng kho cháo và pho mát của mình không được tha. Sau đó, anh ta nhận được một cuộc gọi từ một khách hàng, một người bán len.
Đến ngay tại chỗ, trong khi Gromit lau cửa sổ, Wallace gặp Gwendoline Culdebelier , người đã nhận cơ sở từ cha cô, người phát minh ra bang của cô. Cô đi cùng với Preston , một con chó trông hung dữ, rời khỏi cửa hàng ngay sau đó. Con chó đến gặp Wallace và Gromit và lần theo dấu vết của những con cừu bỏ trốn. Tuy nhiên, anh ta bị gián đoạn bởi sự trở lại của hai đồng phạm, và phải trốn trong hầm.
Trở về nhà, Wallace và Gromit phát hiện ra ngôi nhà lộn xộn, cũng như đàn cừu bẩn thỉu và đói khát. Wallace quyết định cho anh ta tắm bằng chiếc máy do anh ta sáng chế. Hệ thống gặp trục trặc và đưa con cừu vào một chiếc máy cạo râu tự động, chiếc máy này ngay lập tức đan một chiếc áo len nhỏ bằng len của con vật. Bất chấp sự cố bất cẩn này, Wallace tuyên bố kết luận về việc giặt giũ, và mang theo con cừu mà anh ta gọi là Shaun và người mà anh ta bắt anh ta mặc chiếc áo len dệt kim. Ngay sau đó, Preston ra khỏi nơi ẩn náu của mình và phát hiện ra kế hoạch của cỗ máy mà anh ta mang theo bên mình.
Ngày hôm sau, Wallace và Gromit đảm nhiệm việc lau chùi đồng hồ của thị trấn, với sự trợ giúp của khẩu pháo cháo đã được chuyển đổi. Trong khi Wallace đến chào Gwendoline, Gromit đi theo Shaun, người đi cùng họ. Sau khi rơi vào một cái bẫy do Preston giăng ra, anh ta thả khoảng mười lăm con cừu từ xe tải của người sau, và bị nhốt ở đó trong khi cố gắng cởi trói cho Shaun. Đàn cừu tràn vào cửa hàng, mang Wallace ra khỏi Gwendoline, người mà anh ấy sẽ thổ lộ tình cảm của mình. Bị Preston bắt cóc, Gromit bị đưa ra trước công lý, bị buộc tội với bằng chứng giả là kẻ trộm cừu bị truy nã, và cuối cùng bị kết án tù chung thân.
Trong tù, Gromit nhận được một câu đố, sau khi giải được, yêu cầu anh ta sẵn sàng vào một thời điểm cụ thể. Lúc tám giờ, Shaun xuất hiện ở cửa sổ nhà tù và dùng cưa điện cưa xuyên qua song sắt. Wallace xoay sở với sự giúp đỡ của bầy cừu để giúp bạn mình trốn thoát. Ngay sau đó, khi trốn cảnh sát trong một đồng cỏ cùng với bầy cừu, họ bất ngờ đưa Gwendoline và Preston, những kẻ trộm cừu thực sự, bắt cừu đi trong xe tải của họ. Trong khi Preston định đe dọa Shaun, người vẫn ở lại, Gwendoline đã ngăn anh ta lại và nói với anh ta về sự bực tức của cô ấy đối với những vụ trộm này. Cô ấy bị nhốt cùng với Shaun và những con cừu khác trong xe tải.
Wallace và Gromit bắt đầu đuổi theo chiếc xe bằng chiếc mô tô sidecar của họ. Trên đường đi, sự gắn bó giữa hai phần của chiếc xe của họ nhường đường. Gromit sống sót sau một cú ngã chết người xuống khe núi bằng cách biến chiếc xe phụ của mình thành một chiếc máy bay và nạp cháo cho khẩu pháo của chiếc sau. Trong khi đó, Wallace đưa đàn cừu ra khỏi xe tải, chúng leo lên chiếc mô tô do Shaun lái. Nhưng bất chấp sự can thiệp của Gromit, một cú phanh đột ngột của Preston đã khiến Wallace và đàn cừu quay trở lại thùng xe tải, sau đó chiếc xe này đi vào một nhà kho bí mật. Gromit, người cùng chiếc máy bay của mình phải tránh đồng hồ thành phố, đã mất dấu anh ta.
Trong nhà kho, Preston đưa Wallace, Gwendoline và đàn cừu đến một bản sao cỗ máy của Wallace, được chế tạo từ các kế hoạch bị đánh cắp. Nhưng Shaun, người đã trốn thoát, cố gắng báo cáo vị trí của họ cho Gromit, người lao vào nhà chứa máy bay bằng máy bay của mình, ném cháo vào Preston. Tuy nhiên, con chó đã vô hiệu hóa được máy bay và Gromit bị đẩy ra ngoài.
Nhưng Shaun quản lý để đưa Preston vào máy cắt cỏ, nơi Gromit chọn tùy chọn "cạo sạch". Máy chạy và đan áo len từ lông chó trước khi bị phá hủy từ bên trong. Gwendoline sau đó nói với Wallace rằng Preston là một người máy do cha cô phát minh ra. Sau đó, cyber-bulldog thoát ra, nhưng bị phân tâm bởi một chiếc máy đang luồn chiếc áo len dệt kim vào người anh ta. Bị mù, anh ta kích hoạt một cỗ máy khác, một chiếc máy băm thịt cừu, và Gromit đẩy anh ta lên băng chuyền của chiếc máy này. Cuối cùng, Shaun là người xoay sở để đưa rô-bốt vào hàm của máy, biến nó thành bột nhão cơ học ngay lập tức.
Vài ngày sau, Gwendoline đến thăm Wallace, cùng với Preston, người mà nhà phát minh đã xây dựng lại theo một phiên bản ngoan ngoãn hơn. Wallace đề nghị cô ấy đến để chia sẻ một miếng pho mát, nhưng Gwendoline bị dị ứng với nó. Sau đó cô ấy rời khỏi Wallace. Bực mình khi biết chúng tôi không chịu nổi pho mát, Wallace đổi ý và nhấc chiếc chuông của chiếc này lên để nếm thử. Ở đó, anh phát hiện ra Shaun, người đã ăn tất cả mọi thứ.
Diễn viên lồng tiếng
Peter Sallis trong vai Wallace
Anne Reid trong vai Wendolene Ramsbottom
Thành tích
A Close Shave nhân được Giải Oscar lần thứ 69 vào năm 1996
Theo trang Rotten Tomatoes , A Close Shave đạt số điểm tuyệt đối 100% dựa trên 19 bài phê bình, với điểm đánh giá trung bình là 8,6/10.
Còn đối với IDM thì A Close Shave đạt được 8.1/10 điểm
Nguồn bên ngoài
Chú thích
Phim giành giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất
Phim Vương quốc Liên hiệp Anh |
19818537 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nagi%20Hikaru | Nagi Hikaru | là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Eightman. Các tên cũ của cô là và .
Sự nghiệp
Ảnh áo tắm của cô được đăng tải lần đầu tiên trong tạp chí ảnh hàng tuần "FRIDAY" (số ngày 14/8/2020, Kōdansha) phát hành ngày 31/7/2020, và kể từ đó ảnh áo tắm của cô đã được đăng liên tục trong các tạp chí hàng tuần. Cô đã ra mắt ngành giải trí với sách ảnh "Big Baby" phát hành vào tháng 9 cùng năm.
Tháng 10/2020, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng S1 với khẩu hiệu "Dù sao thì mặt cũng đẹp--, Dù sao thì ngực cũng đẹp--".
14/12/2021, cô thông báo trên Twitter rằng cô đã đổi tên diễn từ Asuka Aka thành Shiose, mặc dù công ti chủ quản vẫn là T-Powers.
7/11/2022, cô thông báo trên Twitter rằng cô đã đổi tên diễn từ Shiose thành Nagi Hikaru, và cô đã chuyển công ti chủ quản từ T-Powers sang Eightman.
Đời tư
Sở thích: xem anime, chơi trò chơi, chơi cùng chó mèo. Kĩ năng đặc biệt: Có thể ngủ ngay lập tức.
Lí do cô vào ngành là cô đã có hứng thú với phim khiêu dâm trong một thời gian dài và muốn thử sức. Tại thời điểm ra mắt ngành, cô rất ngại ngùng, nhưng cô đã dần dần trở nên hưng phấn hơn. Trong phim thứ 3 của cô, có một cảnh mà cô phải tự dày vò bản thân, và mặc dù cô không giỏi diễn cảnh này, cô đã cảm thấy rất vui khi quay.
Ngực nổi bật của cô vốn chỉ to cỡ Cup A khi cô học năm hai trung học cơ sở và cô đã không mặc áo ngực, tuy nhiên từ khoảng năm ba trung học cơ sở ngực cô đã to ra từ cỡ Cup D lên Cup E. Khi cô bắt đầu học trung học, ngực cô đã to thành cỡ Cup H. Lần đầu cô quan hệ tình dục là vào năm đầu trung học với một đàn anh, và cô lần đầu kích dục bằng ngực vào năm hai trung học. Ngoài ra, chuyên gia trong ngành phim khiêu dâm Shibue Jōji đã chỉ trích cỡ ngực của cô, nói rằng "Sự chuyển động mang tính hành hạ khi thực hiện các tư thế đã không còn mang tính giải trí".
Trong một chuộc phỏng vấn, khi được hỏi tại sao lại đổi tên diễn từ Asuka Aka sang Shiose, cô đã trả lời rằng thay đổi đó đã "lấy cảm hứng từ các nữ diễn viên phim khiêu dâm", "Tôi muốn sống cuộc sống của một nữ diễn viên khiêu dâm", và "Tôi rất muốn được dùng tên thật".
Tham khảo
Chú thích
Liên kết ngoài
凪ひかる プロフィール (Hồ sơ Nagi Hikaru) - Công ti đào tạo người mẫu Eightman
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên S1 |
19818539 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sengoku%20Yoshito | Sengoku Yoshito | (15 tháng 1, 1946 - 11 tháng 10, 2018) là chính trị gia người Nhật Bản. Ông từng làm nhiều chức vụ trong chính phủ Nhật Bản. Ông cũng là cựu thành viên của Đảng Dân chủ Nhật Bản.
Tham khảo
Sinh năm 1946
Mất năm 2018
Bộ trưởng Nhật Bản
Hạ nghị sĩ Nhật Bản
Người Tokushima
Cựu sinh viên Đại học Tokyo
Chính trị gia Nhật thế kỷ 20
Chính khách từ Tokushima |
19818540 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20m%C3%B3n%20h%E1%BA%A5p | Danh sách món hấp | Đây là danh sách các món hấp và món ăn thường được chế biến theo phương pháp hấp.
Món hấp
Ada – một món ăn từ Kerala, thường được làm bằng bột gạo với nhân ngọt bên trong.
Bánh – đề cập đến nhiều loại thực phẩm chế biến sẵn. Một số loại được làm chín bằng cách hấp như:
Bánh bò – một loại bánh bông lan hấp
Bánh bột lọc
Bánh chuối hấp
Bánh cuốn
Bánh da lợn – một lớp bánh hấp
Bánh khoai mì
Bánh tẻ
Trứng hấp kiểu Trung Quốc – trứng được đánh bông tương tự như ốp lết và sau đó hấp chín
Corunda
Couscous
Dhokla
Jjim – một thuật ngữ trong ẩm thực Hàn Quốc chỉ các món ăn được chế biến bằng cách hấp hoặc luộc thịt, gà, cá hoặc động vật có vỏ đã được ướp trong xốt hoặc xúp
Agujjim
Andong jjimdak
Galbijjim – nhiều loại jjim hoặc món hấp Hàn Quốc được làm từ kalbi (갈비, sườn ngắn)
Gyeran jjim – món thịt hầm trứng hấp của Hàn Quốc, là món ăn phổ biến ở Hàn Quốc và thường được ăn như một món ăn kèm (banchan)
Kue lapis – món kue của Indonesia, hoặc một món ăn nhẹ truyền thống gồm bánh pudding bột gạo mềm nhiều lớp hoặc bánh hấp nhiều lớp
Idli - một món ăn được chế biến từ gạo và đậu mười của ẩm thực Udupi.
Kwacoco – dừa xay nhuyễn bọc và hấp trong lá chuối
Lemper
Nasi campur
Nasi lemak – một món cơm thơm nấu trong nước cốt dừa và lá dứa thường được tìm thấy ở Malaysia, nơi nó được coi là món ăn quốc gia và ở tỉnh Riau của Indonesia.
Pitha – một số loại được hấp
Enduri Pitha
Manda Pitha
Tekeli pitha
Idiyappam/Putu mayam
Puttu
Bún cuốn – một món ăn Quảng Đông từ miền nam Trung Quốc bao gồm cả Hồng Kông, thường được phục vụ như một món ăn nhẹ, bữa ăn nhỏ hoặc một loạt các món điểm tâm.
Seon – đề cập đến các món ăn truyền thống của Hàn Quốc được làm bằng cách hấp các loại rau như bí ngòi, dưa chuột, cà tím hoặc cải bắp Napa được nhồi nhân
Cơm trắng
Tamales – một món ăn México và Trung Mỹ có nguồn gốc từ thời kỳ tiền Colombo được làm từ bột bắp và nhiều loại nhân khác nhau, thường được gói trong lá chuối hoặc vỏ ngô
Đậu phụ cuộn – Phiên bản hấp tre thường được gọi là sin zuk gyun (Nem Tre Tươi)
Urap
Bánh mì
Dombolo – món bánh mì hấp truyền thống của Nam Phi
Màn thầu – một loại bánh mì hoặc bánh bao hấp với hình dáng giống như đám mây phổ biến ở miền Bắc Trung Quốc.
Bánh mì hấp – được sản xuất và tiêu thụ trên toàn thế giới:
Tingmo – một loại bánh mì hấp trong ẩm thực Tây Tạng.
Wotou – một loại bánh hấp làm từ bột bắp ở miền Bắc Trung Quốc
Blackpool cuộn sữa – Bánh mì hấp có nguồn gốc từ Blackpool, Lancashire, Anh
Bánh bao và bánh cuốn
Bánh bao
Bakpau
Bánh bao xá xíu
Cẩu Bất Lý
Sinh tiên màn thầu
Thiêu bao
Thang bao – loại bánh bao lớn, đầy súp trong ẩm thực Trung Quốc
Tiểu long bao
Đại bao
Dampfnudel
Hoppang
Jjinppang
Bún hạt sen
Đào trường thọ
Bánh bao Hoa – một loại bánh hấp có nguồn gốc từ Trung Quốc
Nikuman
Bánh
Bánh bèo
Idli – một loại bánh được làm bằng cách hấp một loại bột bao gồm đậu lăng lên men (đã tách vỏ) và gạo. Idli là món ăn sáng truyền thống của các gia đình Ấn Độ, đồng thời cũng phổ biến khắp các nước lân cận của Ấn Độ như Sri Lanka
Rava idli
Khanom sai bua
Kue putu – một loại bánh hấp truyền thống có hình trụ và màu xanh lá cây. Nó được tiêu thụ ở Indonesia, Malaysia và Philippines
Nagasari – một loại bánh hấp truyền thống được làm từ bột gạo, nước cốt dừa và đường, bên trong là những lát chuối.
Bánh tổ
Ang ku kueh
Bánh khoai môn – thường hấp hoặc chiên
Bánh bông lan pudding Treacle – một món tráng miệng truyền thống của Anh bao gồm một chiếc bánh bông lan hấp với siro vàng được nấu chín bên trên, thường ăn kèm với sữa trứng nóng đổ lên trên
Bánh củ cải
Uirō
Bánh bông lan đường trắng
Bánh kẹo và đồ ngọt
Mont-phat-htoke
Karukan
Kue và Kuih
Clorot
Kue mangkok
Kue putu mangkok
Seri Muka
Tattie may mắn
Put chai ko
Sữa trứng
Chawanmushi – (, nghĩa đen là "hấp trong tách trà" hoặc "hấp trong bát trà"), một món sữa trứng được tìm thấy ở Nhật Bản.
Bánh xếp
Burasa – bánh xếp gạo nấu với nước cốt dừa đựng trong túi lá chuối, là món ngon của người Bugis và Makassar ở Nam Sulawesi, Indonesia
Buuz
Germknödel
Sủi cảo
Lepet
Mandu
Eo-mandu
Momo (món ăn) – một loại bánh hấp trong ẩm thực Tây Tạng có hoặc không có nhân
Patrode
Siomay – một loại bánh xếp cá hấp của Indonesia với rau ăn kèm với nước sốt lạc. Nó có nguồn gốc từ xíu mại.
Món dựa trên thịt
Nasi tim – món cơm gà hấp kiểu Hoa-Indonesia
Hamburger phô mai hấp – một loại bánh mì hamburger phủ phô mai được hấp trong tủ được chế tạo đặc biệt và chủ yếu có ở bang Connecticut của Hoa Kỳ
Ngao hấp – ngao được hấp theo nhiều công thức khác nhau ở các vùng miền khác nhau
Thịt viên hấp – món điểm tâm Quảng Đông
Bánh pudding
Bánh pudding Newcastle
Bánh pudding sô-cô-la – hiên bản hấp/nướng, có kết cấu giống bánh bông lan, phổ biến ở Anh, Ireland, Úc và New Zealand
Sữa trứng – một số loại sữa trứng được chuẩn bị bằng cách hấp
Bánh pudding mận – đôi khi được nấu chín bằng cách hấp
Moin moin
Bánh pudding hồng
Bánh pudding bít tết và thận
Bánh pudding kẹo bơ cứng
Bánh pudding mỡ
Bánh pudding Giáng sinh
Mũ trái cây (bánh pudding)
Mứt Roly-Poly
Spotted dick – một loại bánh pudding hình trụ phổ biến ở Anh, được làm bằng mỡ và trái cây sấy khô (thường là quả lý chua và/hoặc nho khô) và thường ăn kèm với sữa trứng
Bánh pudding giếng
Bánh gạo
Một số loại bánh gạo được hấp:
Bánh chưng
Chwee kueh – một loại bánh gạo hấp, một phần của ẩm thực Singapore và Johor
Mont-sein-paung – một loại bánh gạo hấp, đôi khi có thêm đường thốt nốt, ăn kèm với dừa bào sợi và vừng giã nhỏ. Tìm thấy trên khắp Myanmar.
Puto – một loại bánh gạo hấp trong ẩm thực Philippines có nguồn gốc từ món puttu [Malayalam] của Ấn Độ.
Kutsinta – một loại puto được tìm thấy trên khắp Philippines
Sanna
Suman
Tteok – xem thêm danh sách các loại tteok
Injeolmi
Jeungpyeon
Mujigae tteok
Sirutteok
Songpyeon
Bhapa/ Tekeli pitha – Bánh gạo hấp nhân dừa nạo, đường thốt nốt và hạt vừng được tìm thấy khắp vùng Bengal và Assam.
Thư viện ảnh
Xem thêm
Hấp đôi
Nồi hấp thực phẩm
Danh sách món chiên rán
Danh sách món nướng hai lần
Bát bánh pudding – một cái bát hoặc nồi được sử dụng đặc biệt để hấp bánh pudding
Tham khảo
Danh sách
Danh sách thực phẩm |
19818547 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gewehr%2041 | Gewehr 41 | Gewehr 41 thường được gọi là G41(W) hoặc G41(M) , để phân biẹt hai nhà sản xuất ra chúng( Walther và Mauser ), là hai loại súng trường chiến đấu riêng biệt và khác nhau do Đức Quốc xã sản xuất và sử dụng trong Thế chiến II . Về sau , chúng phần lớn được thay thế bởi Gewehr 43.
Lịch Sử
Đến những năm 1940, rõ ràng là một số dạng súng trường bán tự động có tốc độ bắn cao hơn các mẫu súng trường hiện có của Đức là cần thiết để cải thiện hiệu quả chiến đấu của bộ binh . Wehrmacht đã ban hành một thông số kỹ thuật cho các nhà sản xuất khác nhau, và Mauser và Walther đã gửi các nguyên mẫu rất giống nhau. Tuy nhiên, một số hạn chế đã được đặt trên thiết kế và Gewehr 41 được sản xuất, tuy nhiên tính chính xác của nó rất thấp. Đã thế, cơ chế trích khí đầu nòng của khẩu Gewehr 41 lại quá nhanh bị bụi bẩn và làm cho súng bị kẹt và loại băng đạn 10 viên của súng không thể tháo rời (Xạ thủ phải nạp 2 kẹp đạn 5 viên của Karabiner 98k vào băng đạn). Gewehr 43 ( sao chép từ súng trường SVT-40 và sử dụng hộp tiếp đạn thông thường có thể tháo rời)được chế tạo để thay thế cho Gewehr 41 .
Các Quốc Gia Sử Dụng
Đức Quốc xã
Tham Khảo
https://web.archive.org/web/20220823213447/http://www.lonesentry.com/articles/ttt07/german-semiautomatic-rifle.html |
19818564 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Samari%28III%29%20nitrat | Samari(III) nitrat | Samari(III) nitrat là một hợp chất vô cơ với công thức hóa học Sm(NO3)3. Nó tạo thành hexahydrat màu vàng nhạt, không mùi, phân hủy ở 50 °C thành dạng khan. Khi được làm nóng đến 420 °C, nó trở thành oxynitrat và ở 680 °C, nó bị phân hủy để tạo thành samari(III) oxide.
Điều chế
Samari(III) nitrat được tạo ra bằng phản ứng của samari(III) hydroxide và acid nitric:
Ứng dụng
Samari(III) nitrat là chất xúc tác acid Lewis có thể tạo ra dung dịch tiền chất nitrat để tạo chất xúc tác nano trong pin nhiên liệu tái tạo oxide rắn. Chất xúc tác nano được tạo ra bằng cách trộn samari(III) nitrat hexahydrat, stronti nitrat và cobalt(II) nitrat hexahydrat.
Samari(III) nitrat cũng được sử dụng để điều chế ceria pha tạp samari, dùng cho việc tạo chất điện phân cho pin nhiên liệu. Ceria pha tạp samari được sản xuất bằng cách trộn hỗn hợp ceri(III) nitrat và samari(III) nitrat với triethylen glycol làm dung môi trong 5 giờ ở 200 °C. Sau đó, nó được sấy khô trong 4 giờ ở 110 °C, thu được chất rắn màu nâu. Sau đó, chất rắn được làm nóng đến 500 °C trong hai giờ để tạo ra ceria pha tạp samari.
Hợp chất khác
Sm(NO3)3 có thể tạo phức với N2H4. Phức Sm(NO3)3·3N2H4·4H2O là tinh thể màu vàng nhạt, tan trong nước, methanol, ethanol và không tan trong benzen, D20 °C = 2,79 g/cm³.
Tham khảo
Hợp chất samari
Muối nitrat
Articles containing unverified chemical infoboxes
Articles with short description
Short description matches Wikidata |
19818572 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Alja%C5%BE%20Antolin | Aljaž Antolin | Aljaž Antolin (sinh ngày 2 tháng 8 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá người Slovenia hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Maribor tại Slovenian PrvaLiga.
Sự nghiệp thi đấu
Trẻ
Antolin bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ quê hương Ižakovci, và sau đó chơi cho Beltinci. Năm 2010, anh chuyển đến Mura 05 và gia nhập đội U-10 của câu lạc bộ. Sau khi Mura 05 phá sản vào năm 2013, anh chuyển sang câu lạc bộ mới thành lập, NŠ Mura.
Chuyên nghiệp
Mura
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2021, Antolin ra mắt chuyên nghiệp cho Mura ở Slovenian PrvaLiga trong trận hòa không bàn thắng với Tabor Sežana. Anh ra sân tổng cộng 3 trận cho đội bóng tại giải quốc nội mùa giải 2020–21, đồng thời giành chức vô địch với đội bóng.
Maribor và cho mượn tại Beltinci
Vào ngày 16 tháng 7 năm 2021, Antolin gia nhập Maribor theo bản hợp đồng kéo dài 4 năm. Vào tháng 8, anh được cho mượn ở câu lạc bộ Beltinci tại Giải bóng đá hạng nhì Slovenia. Sau khi ra sân 13 lần và ghi 4 bàn cho Beltinci trong nửa đầu mùa giải, anh quay trở lại Maribor trong nửa sau của mùa giải và ra mắt vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, trong chiến thắng 4–1 trước Radomlje.
Danh hiệu
Mura
Slovenian PrvaLiga: 2020–21
Maribor
Slovenian PrvaLiga: 2021–22
Tham khảo
Sinh năm 2002
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Slovenia
Cầu thủ bóng đá nam Slovenia
Cầu thủ bóng đá NŠ Mura
Cầu thủ bóng đá NK Maribor
Cầu thủ bóng đá Slovenian PrvaLiga
Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhì Slovenia |
19818579 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Khwarezm | Tiếng Khwarezm | Tiếng Khwārezm (Tiếng Khwarezm: , zβ'k 'y xw'rzm; còn được gọi là tiếng Khwarazm, tiếng Chorasmia, tiếng Khorezm) là một ngôn ngữ Đông Iran có quan hệ gần gũi với tiếng Sogdia. Ngôn ngữ này được nói ở khu vực Khwarezm (Chorasmia), tập trung ở hạ lưu sông Amu Darya phía nam biển Aral (phần phía Bắc của cộng hòa Uzbekistan hiện nay và các khu vực lân cận của Kazakhstan và Turkmenistan).
Sự hiểu biết của tiếng Khwarezm bị Knowledge of Khwarezmian giới hạn ở giai đoạn Trung Iran của nó và, như với tiếng Sogdia, người ta biết rất ít về dạng cổ xưa của nó. Dựa trên chữ viết của các học giả Khwarezm Al-Biruni và Zamakhshari, ngôn ngữ này được sử dụng ít nhất cho đến thế kỉ 13, khi phần lớn của nó dần bị thay thế bởi tiếng Ba Tư, cũng như một số phương ngữ của các ngôn ngữ Turk.
Các nguồn của Khwarezmian bao gồm các thuật ngữ thiên văn được sử dụng bởi từ điển Ả Rập–Ba Tư–Khwarezm của al-Biruni, Zamakhshari và một số văn bản pháp lý sử dụng các thuật ngữ và trích dẫn tiếng Khwarezm để giải thích các khái niệm pháp lý nhất định, nổi bật nhất là Qunyat al-Munya của Mukhtār al-Zāhidī al-Ghazmīnī (ch. 1259/60).
Xem thêm
Al-Biruni
al-Khwārizmī
Các dân tộc Iran
Hỏa giáo
Khwarezm
Ngữ chi Iran
Người Afrighid
Người Iran cổ đại
Trung Á
Zamakhshari
Chú thích
Tham khảo
The Khwarezmian Glossary
.
.
.
.
.
Đọc thêm
.
.
Liên kết ngoài
Encyclopedia Iranica, "The Chorasmian language" by D.N. Mackenzie
https://web.archive.org/web/20040201160726/http://iranianlanguages.com/
https://web.archive.org/web/20041009124244/http://www.iranologie.com/history/ilf.html
Ngôn ngữ trung đại
Nhóm ngôn ngữ Đông Iran
Ngôn ngữ tuyệt chủng tại châu Á
Ngôn ngữ được chứng thực từ thế kỷ 2 TCN
Ngôn ngữ được chứng thực từ thiên niên kỷ 1
Ngôn ngữ tuyệt chủng vào thế kỷ 11 |
19818588 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tinh%20v%C3%A2n%20l%C6%B0%E1%BB%A1ng%20c%E1%BB%B1c | Tinh vân lưỡng cực | Tinh vân lưỡng cực là một loại tinh vân được đặc trưng bởi hai thùy ở hai bên của một ngôi sao trung tâm. Khoảng 10-20% tinh vân hành tinh là lưỡng cực.
Hình thành
Mặc dù nguyên nhân chính xác của cấu trúc tinh vân này vẫn chưa được biết đến, nhưng người ta thường cho rằng nó ám chỉ sự hiện diện của một hệ sao đôi trung tâm với chu kỳ từ vài ngày đến vài năm. Khi một trong hai ngôi sao trục xuất các lớp bên ngoài của nó, ngôi sao còn lại làm gián đoạn dòng chảy vật chất để tạo thành hình dạng lưỡng cực.
Ví dụ điển hình
Tinh vân Homunculus xung quanh Eta Carinae.
Hubble 5.
Tinh vân M2-9 hay còn gọi là tinh vân Đôi cánh.
Tinh vân Trứng Thối ký hiệu OH231.8+4.2.
Tinh vân con kiến ký hiệu Menzel 3 hoặc Mz3.
Tinh vân Westbrook (CRL 618).
Tinh vân Quả trứng (CRL 2688).
Tinh vân Hinh chữ nhật Đỏ.
Tinh vân Đồng hồ cát (MyCn 18).
Tinh vân Con Cua phương Nam.
Tinh vân Boomerang.
NGC 2346.
Tinh vân Cánh bướm.
Tinh Vân KjPn 8- Tinh vân lưỡng cực lớn nhất (theo kích thước góc).
Xem thêm
Tiến hóa sao.
Dòng chảy lưỡng cực.
Tham khảo |
19818594 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7y%20cung%20T%C3%A2y%20%C3%9Ac | Thủy cung Tây Úc | Thủy cung Tây Úc ( AQWA ) là một thủy cung thuộc sở hữu tư nhân ở Hillarys, Tây Úc. Nằm cách thành phố Perth khoảng về phía tây bắc, đây là một địa điểm tham quan phổ biến đối với khách du lịch cũng như người dân địa phương.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Khởi đầu năm 1988 ở Úc
Công trình xây dựng ở Perth, Tây Úc
Thủy cung công cộng của Coral World International
Điểm tham quan ở Perth, Tây Úc
Thủy cung ở Úc |
19818604 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%B0u%20%C4%91i%E1%BB%87n%20Trung%20t%C3%A2m%20Phn%C3%B4m%20P%C3%AAnh | Bưu điện Trung tâm Phnôm Pênh | Bưu điện Trung tâm ở Phnôm Pênh, Campuchia là một tòa nhà được xây dựng từ thời Pháp thuộc và là trụ sở chính trực thuộc hệ thống bưu chính Campuchia.
Tổng quan
Tòa nhà này khai trương vào năm 1895, do kiến trúc sư và nhà quy hoạch thị trấn người Pháp Daniel Fabre thiết kế. Đây là một trong số những công trình trong khu hành chính của Pháp, tất cả đều được xây dựng theo phong cách giống nhau xung quanh một quảng trường trung tâm. Tòa nhà hành chính bưu điện được đặt tên theo quảng trường gọi là "Place de la Poste".
Bưu điện Trung tâm có cửa sổ vòm kiểu La Mã, các cột có in hoa kiểu Corinth, ban công có lan can và cột, các bức tường và đồ trang trí điêu khắc; tòa nhà được thiết kế theo trường phái kiến trúc tân cổ điển trong bối cảnh Đông Nam Á. Một khu vườn lớn nằm phía trước tòa nhà đã được thay thế vào thập niên 1930 bằng một quảng trường công cộng. Mấy chái nhà ở phía bắc và phía nam được mở rộng trong cùng thời kỳ này. Trong thập niên 1940, một tòa tháp dạng xổm ở trung tâm có mái vòm đã bị dỡ bỏ và thay thế bằng "một dãy loa phóng thanh kỳ dị". Những sửa đổi tiếp theo đối với toàn bộ công trình đã diễn ra xuyên suốt thập niên 1950 và 1960. Cuối cùng vào năm 1991, một tầng được thêm vào mỗi chái nhà và xây cất theo phong cách tương tự như phong cách của công trình nguyên thủy. Kể từ đó, tòa nhà này có hai tầng, với kho lưu trữ ở tầng trệt và văn phòng hành chính dành cho dịch vụ bưu chính Campuchia ở tầng trên. Công trình đạt được hình thức cuối cùng khi việc trùng tu hoàn thành vào năm 2004. Năm 2011, đài BBC đã ca tụng tòa Bưu điện này là "vẻ đẹp sơn màu vàng được vây quanh từ bộ sưu tập đẹp nhất gồm các tòa nhà thời thuộc địa ở Phnôm Pênh."
Công năng
Tính đến năm 2020, tòa nhà này vẫn được sử dụng làm bưu điện và là văn phòng cho hệ thống bưu chính Campuchia. Tòa nhà đã được sử dụng liên tục từ năm 1895, ngoại trừ một thời gian ngắn dưới thời Khmer Đỏ cầm quyền khi ngân hàng trung ương bị phá hủy, tiền bị cấm và đô thị không có người ở.
Ảnh hưởng
Có thể thấy Bưu điện Trung tâm trong bộ phim City of Ghosts công chiếu năm 2002.
Tham khảo
Phnôm Pênh
Bộ chính phủ Campuchia |
19818607 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mikl%C3%B3s%20Horthy | Miklós Horthy | Miklós Horthy de Nagybánya (tiếng Hungary: Vitéz Nagybányai Horthy Miklós; ; tiếng Anh: Nicholas Horthy; Tiếng Đức: Nikolaus Horthy Ritter von Nagybánya; 18 tháng 6 năm 1868 – 9 tháng 2 năm 1957) là một đô đốc và chính khách người Hungary, từng là nhiếp chính của Vương quốc Hungary giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới và hầu hết Thế chiến II - từ ngày 1 tháng 3 năm 1920 đến ngày 15 tháng 10 năm 1944.
Horthy bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một trung úy trong Hải quân Áo-Hung vào năm 1896, và đạt cấp bậc chuẩn đô đốc vào năm 1918. Ông đã tham gia Trận chiến eo biển Otranto và trở thành tổng tư lệnh của Hải quân trong năm cuối cùng của Thế chiến thứ nhất; ông được thăng chức phó đô đốc và chỉ huy Hạm đội khi Hoàng đế-Vua Karl cách chức vị đô đốc trước đó khỏi chức vụ của ông ta sau những cuộc binh biến. Trong các cuộc cách mạng và can thiệp vào Hungary từ Tiệp Khắc, Romania và Nam Tư, Horthy trở về Budapest cùng với Quân đội hoàng gia Hungary; Nghị viện sau đó đã mời ông trở thành nhiếp chính của vương quốc. Trong suốt thời kỳ giữa hai cuộc chiến, Horthy đã lãnh đạo một chính quyền mang tính quốc gia bảo thủ và bài Do Thái. Hungary dưới thời Horthy đã cấm Đảng Cộng sản Hungary cũng như Đảng Arrow Cross, và theo đuổi chính sách đối ngoại phục hồi lãnh thỗ khi đối mặt với Hiệp ước Trianon năm 1920. Hoàng đế Karl I của Áo-Hung, cựu vương, đã hai lần cố gắng quay trở lại Hungary trước khi chính phủ Hungary nhượng bộ trước những lời đe dọa của Đồng minh về việc gia hạn chiến sự vào năm 1921. Karl sau đó bị áp giải ra khỏi Hungary để sống lưu vong.
Về mặt tư tưởng là một người bảo thủ quốc gia, Horthy đôi khi bị coi là phát xít. Vào cuối những năm 1930, chính sách đối ngoại của Horthy đã khiến ông liên minh với Đức Quốc xã để chống lại Liên Xô. Với sự hỗ trợ của Adolf Hitler, Hungary đã thành công trong việc mua lại một số khu vực đã nhượng lại cho các nước láng giềng theo Hiệp ước Trianon. Dưới sự lãnh đạo của Horthy, Hungary đã hỗ trợ những người tị nạn Ba Lan vào năm 1939 và tham gia vào cuộc xâm lược của phe Trục vào Liên Xô vào tháng 6 năm 1941. Một số nhà sử học coi Horthy là người không nhiệt tình đóng góp cho nỗ lực chiến tranh của Đức và Holocaust ở Hungary (vì sợ rằng nó có thể phá hoại các thỏa thuận hòa bình với các lực lượng Đồng minh), ngoài ra còn có một số nỗ lực thực hiện một thỏa thuận bí mật với Đồng minh trong Thế chiến II sau khi rõ ràng rằng phe Trục sẽ thua cuộc chiến, do đó cuối cùng dẫn đến việc quân Đức xâm lược và nắm quyền kiểm soát Hungary vào tháng 3 năm 1944 trong Chiến dịch Margarethe. Tuy nhiên, trước khi Đức quốc xã chiếm đóng Hungary, 63.000 người Do Thái đã bị giết. Cuối năm 1944, 437.000 người Do Thái bị trục xuất đến Auschwitz-Birkenau, nơi phần lớn bị ngạt khí khi đến nơi. Nhà sử học người Serbia Zvonimir Golubović đã tuyên bố rằng Horthy không chỉ biết về những vụ thảm sát diệt chủng này mà còn tán thành chúng, chẳng hạn như những vụ trong Đột kích Novi Sad.
Vào tháng 10 năm 1944, Horthy thông báo rằng Hungary đã tuyên bố đình chiến với Đồng minh và rút khỏi phe Trục. Ông buộc phải từ chức, bị quân Đức quản thúc và đưa đến Bayern. Khi chiến tranh kết thúc, ông bị quân đội Mỹ quản thúc. Sau khi cung cấp bằng chứng cho Phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh của Phiên toà cấp Bộ năm 1948, Horthy định cư và sống những năm lưu vong còn lại ở Bồ Đào Nha. Hồi ký của ông, Ein Leben für Ungarn (Một cuộc sống cho Hungary), được xuất bản lần đầu năm 1953. Ông nổi tiếng là một nhân vật lịch sử gây tranh cãi ở Hungary đương đại.
Cuộc sống đầu đời và Sự nghiệp hải quân
Miklós Horthy de Nagybánya sinh ra tại Kenderes trong một gia đình quý tộc nhỏ không có tước hiệu, hậu duệ của István Horti, được Hoàng đế Ferdinand II phong tước vào năm 1635. Cha của ông, István Horthy de Nagybánya, là thành viên của Viện Magnates, thượng viện của Quốc hội Hungary, và là lãnh chúa của một điền trang rộng 610 ha (1.500 mẫu Anh). Ông kết hôn với nữ quý tộc người Hungary là Paula Halassy de Dévaványa năm 1857. Miklós là con thứ tư trong số tám người con của họ, được nuôi dạy theo đạo Tin lành.
Horthy vào Học viện Hải quân Hoàng gia và Hoàng gia Áo-Hung (k.u.k. Marine-Akademie) tại Fiume (nay là Rijeka, Croatia) ở tuổi 14. Bởi vì ngôn ngữ chính thức của học viện hải quân là tiếng Đức, Horthy nói tiếng Hungary với giọng Áo-Đức nhẹ, nhưng đáng chú ý, trong suốt quãng đời còn lại của mình. Ông cũng nói được tiếng Ý, tiếng Croatia, tiếng Anh và tiếng Pháp.
Khi còn trẻ, Horthy đã đi du lịch khắp thế giới và phục vụ với tư cách là nhà ngoại giao cho Áo-Hungary ở Đế quốc Ottoman và các quốc gia khác. Horthy kết hôn với Magdolna Purgly de Jószáshely ở Arad năm 1901. Họ có 4 người con: Magdolna (1902), Paula (1903), István (1904) và Miklós (1907). Từ năm 1911 đến năm 1914, ông là phụ tá hải quân cho Hoàng đế Franz Joseph I của Áo, người mà ông rất kính trọng.
Vào đầu Thế chiến thứ nhất, Horthy là chỉ huy của thiết giáp hạm pre-dreadnought SMS Habsburg. Năm 1915, ông nổi tiếng về sự táo bạo khi chỉ huy tàu tuần dương hạng nhẹ mới SMS Novara. Ông đã lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào Otranto Barrage năm 1917, dẫn đến Trận chiến eo biển Otranto, cuộc giao chiến hải quân lớn nhất trong cuộc chiến ở Biển Adriatic. Một hạm đội hợp nhất của Anh, Pháp và Ý đã gặp lực lượng Áo-Hung. Bất chấp ưu thế về quân số của hạm đội Đồng minh, lực lượng Áo đã giành chiến thắng sau trận chiến. Hạm đội Áo vẫn tương đối bình yên, tuy nhiên, Horthy bị thương. Sau cuộc binh biến Cattaro vào tháng 2 năm 1918, Hoàng đế Karl I của Áo đã chọn Horthy thay vì nhiều chỉ huy cấp cao khác làm Tổng tư lệnh mới của Hạm đội Đế quốc vào tháng 3 năm 1918. Vào tháng 6, Horthy lên kế hoạch cho một cuộc tấn công khác vào Otranto, và trong một cuộc khởi hành từ chiến lược thận trọng của những người tiền nhiệm, ông đã giao nhiệm vụ cho các thiết giáp hạm của đế chế. Khi đang chèo thuyền trong đêm, chiếc dreadnought 'SMS Szent István đã gặp các tàu phóng lôi MAS của Ý và bị đánh chìm, khiến Horthy phải hủy bỏ nhiệm vụ. Ông đã cố gắng bảo toàn phần còn lại của hạm đội đế chế cho đến khi được Hoàng đế Karl ra lệnh giao nộp nó cho Nhà nước mới Nhà nước Slovene, Croat và Serb (tiền thân của Nam Tư) vào ngày 31 tháng 10.
Chiến tranh kết thúc khiến Hungary trở thành một quốc gia không giáp biển, và cùng với đó, chính phủ mới không cần đến chuyên môn hải quân của Horthy. Ông ấy đã cùng gia đình nghỉ hưu tại khu đất riêng của mình tại Kenderes.
Ngày thăng cấp bậc và nhiệm vụ
1896 Fregattenleutnant (Trung úy tàu khu trục) (fregatthadnagy – Trung úy)
1900 Linienschiffleutnant (Trung úy chỉ huy tàu) (sorhajóhadnagy – Trung úy)
Tháng 1 năm 1901 SMS Sperber (chỉ huy tàu)
1902 SMS Kranich (chỉ huy tàu)
Tháng 6 năm 1908 SMS Taurus (chỉ huy tàu)
Tháng 8 năm 1908 (GDO-Gesamtdetailoffizier-Sĩ quan thứ nhất, tạm thời)
1 tháng 1 năm 1909 Korvettenkapitän (Thuyền trưởng tàu hộ tống) (korvettkapitány – Trung úy)
1 tháng 11 năm 1909 phụ tá cho Hoàng đế Franz Josef
1 tháng 11 năm 1911 Fregattenkapitän (Thuyền trưởng tàu khu trục) (fregattkapitány – Chỉ huy)
Tháng 12 năm 1912 Tháng 3 năm 1913 (chỉ huy tàu)
20 tháng 1 năm 1914 Linienschiffskapitän (Thuyền trưởng tàu) (sorhajókapitány – Thuyền trưởng)
Tháng 8 năm 1914 (chỉ huy tàu)
Tháng 12 năm 1914 (chỉ huy tàu)
1 tháng 2 năm 1918 (chỉ huy tàu)
27 tháng 2 năm 1918 Konteradmiral (ellentengernagy – Rear Đô đốc)
27 tháng 2 năm 1918 được bổ nhiệm (cuối cùng) Tổng tư lệnh hạm đội (hơn 11 đô đốc và 24 cấp cao Linienschiffskapitän) bởi Hoàng đế Karl I
30 tháng 10 năm 1918 Vizeadmiral (altengernagy – Phó đô đốc)
Thời kỳ giữa chiến tranh, 1919–1939
Các nhà sử học đồng ý về chủ nghĩa bảo thủ của Hungary giữa hai cuộc chiến, Nhà sử học István Deák nói:"Giữa năm 1919 và 1944, Hungary là một quốc gia cánh hữu. Được rèn giũa từ một di sản phản cách mạng, các chính phủ của nó ủng hộ chính sách "Cơ đốc giáo theo chủ nghĩa dân tộc"; họ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, niềm tin và sự đoàn kết; họ coi thường Cách mạng Pháp, và họ từ chối các hệ tư tưởng tự do và xã hội chủ nghĩa của thế kỷ XIX. Các chính phủ coi Hungary như một bức tường thành chống lại Chủ nghĩa Bolshevik và các công cụ của Chủ nghĩa Bolshevik: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc tế và Hội Tam điểm. Họ duy trì sự cai trị của một nhóm nhỏ quý tộc, công chức và sĩ quan quân đội, và được người đứng đầu nhà nước, Đô đốc phản cách mạng, Đô đốc Horthy, bao vây với sự tán dương."Tư lệnh quân đội quốc gia
Hai chấn thương sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã định hình sâu sắc nên tinh thần và tương lai của quốc gia Hungary. Đầu tiên là sự mất mát, theo quy định của quân Đồng minh trong Thế chiến thứ nhất, phần lớn lãnh thổ Hungary giáp với các quốc gia khác. Đây là những vùng đất từng thuộc về Hungary (sau đó là một phần của Đế quốc Áo-Hung) nhưng hiện được nhượng chủ yếu cho Tiệp Khắc, Vương quốc România, Đệ Nhất Cộng hòa Áo và Vương quốc Nam Tư. Việc cắt bỏ, cuối cùng được phê chuẩn trong Hiệp ước Trianon năm 1920, khiến Hungary mất 2/3 lãnh thổ và 1/3 số người nói tiếng Hungary bản địa; điều này đã giáng cho dân chúng một đòn tâm lý khủng khiếp. Chấn thương thứ hai bắt đầu vào tháng 3 năm 1919, khi nhà lãnh đạo Cộng sản Béla Kun lên nắm quyền ở thủ đô Budapest, sau khi chính phủ dân chủ đầu tiên ở Hungary thất bại.
Kun và những người trung thành của ông tuyên bố thành lập Cộng hòa Xô viết Hungary và hứa khôi phục lại sự vĩ đại trước đây của Hungary. Thay vào đó, những nỗ lực tái chinh phục của ông đã thất bại, và người Hungary bị đối xử với sự đàn áp kiểu Xô Viết dưới hình thức các băng nhóm vũ trang đe dọa hoặc sát hại kẻ thù của chế độ. Giai đoạn bạo lực này được gọi là Khủng bố Đỏ.
Trong vòng vài tuần sau cuộc đảo chính, sự nổi tiếng của Kun giảm mạnh. Vào ngày 30 tháng 5 năm 1919, các chính trị gia chống cộng đã thành lập một chính phủ phản cách mạng ở thành phố Szeged phía Nam, lúc đó đang bị quân Pháp chiếm đóng. Ở đó, Gyula Károlyi, thủ tướng của chính phủ phản cách mạng, đã đề nghị cựu Đô đốc Horthy, vẫn được coi là một anh hùng chiến tranh, làm Bộ trưởng Bộ Chiến tranh trong chính phủ mới và nắm quyền chỉ huy một lực lượng phản cách mạng sẽ được đặt tên là Quân đội Quốc gia (tiếng Hungary: Nemzeti Hadsereg). Horthy đồng ý và ông ấy đến Szeged vào ngày 6 tháng 6. Ngay sau đó, theo lệnh của các cường quốc Đồng minh, một nội các đã được cải tổ và Horthy không được ngồi vào đó. Không nản lòng, Horthy đã cố gắng giữ quyền kiểm soát Quân đội Quốc gia bằng cách tách bộ chỉ huy quân đội khỏi Bộ Chiến tranh.
Thế chiến II và Holocaust
Lưu vong
Di sản
Chú thích
Đọc thêm và Tài liệu tham khảo
Bodó, Béla, Paramilitary Violence in Hungary After the First World War. East European Quarterly, No. 2, Vol. 38, 22 June 2004
Deák, István, Europe on Trial: The Story of Collaboration, Resistance, and Retribution During World War II (2015), 9, 88—102.
Deák, István. "Admiral and Regent Miklós Horthy: Some Thoughts on a Controversial Statesman" Hungarian Quarterly (Fall 1996) 37#143 pp 78–89.
Dreisziger, N. F. "Introduction. Miklos Horthy and the Second World War: Some Historiographical Perspectives." Hungarian Studies Review 23.1 (1996): 5–16.
Dreisziger, Nandor F. "Bridges to the West: The Horthy Regime's 'Reinsurance Policies' in 1941." War & Society 7.1 (1989): 1–23.
Fenyo, Mario D. Hitler, Horthy, and Hungary: German-Hungarian Relations, 1941–1944 (Yale UP, 1972).
Kállay, Nicholas. Hungarian Premier: A Personal Account of a Nation's Struggle in the Second World War (1954) online review
Rutter, Owen, Regent of Hungary: The Authorized Life of Admiral Nicholas Horthy London, Rich and Cowan, 1938
Sakmyster, Thomas. Hungary's Admiral on Horseback. (East European Monographs, Boulder, CO 1994).
Sakmyster, Thomas. "From Habsburg Admiral to Hungarian Regent: The Political Metamorphosis of Miklós Horthy, 1918–1921." East European Quarterly'' 17.2 (1983): 129–148.
Liên kết ngoài
Trianon Hungary. U.S. Library of Congress Country Study
Horthy, Miklós: The Annotated Memoirs (pdf)
John Flournoy Montgomery, The Unwilling Satellite e-book version on historicaltextarchive.com
Miklós Horthy Association
Biography of Admiral Miklós Horthy
Montgomery,John,Flournoy: Hungary-The unwilling satellite
Sinh năm 1868
Mất năm 1957
Người Hungary thế kỷ 20
Nhiếp chính thế kỷ 20
Chống Hội Tam Điểm
Chủ nghĩa bài Do Thái Hungary
Đô đốc Hungary
Phản cách mạng
Holocaust ở Hungary
Gia tộc Horthy
Người chống cộng Hungary
Người Hungary lưu vong
Quý tộc Hungary
Người Hungary trong Thế chiến II
Vương quốc Hungary (1920–1946)
Người nhận Huân chương Đại bàng trắng (Ba Lan)
Lãnh đạo chính trị trong Thế chiến thứ hai |
19818612 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20c%C3%A1c%20nh%C3%A0%20th%C6%A1%20v%C3%A0%20t%C3%A1c%20gi%E1%BA%A3%20ng%C3%B4n%20ng%E1%BB%AF%20Ba%20T%C6%B0 | Danh sách các nhà thơ và tác giả ngôn ngữ Ba Tư | Danh sách này không đầy đủ, nhưng liên tục được mở rộng và bao gồm Các nhà thơ Ba Tư cũng như các nhà thơ viết bằng tiếng Ba Tư tới từ Iran, Azerbaijan, I Rắc, Georgia, Dagestan, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Afghanistan, Turkmenistan, Tajikistan, Uzbekistan, Li-băng, Trung Quốc, Pakistan, Ấn Độ và nơi nào đó khác.
Từ thế kỷ thứ 7 tới thế kỷ thứ 8
Abu'l-Abbas Marwazi
Thế kỷ thứ 9
Thế kỷ thứ 10
Ferdowsi فردوسی
Abusaeid Abolkheir ابوسعید ابوالخیر
Rudaki رودکی
Abu Mansur Daqiqi ابومنصور دقیقی
Mansur Al-Hallaj منصور حلاج
Unsuri عنصری
Rabi'a Balkhi رابعه بلخی
Asjadi عسجدی
Farrukhi Sistani فرخی سیستانی
Isma'il Muntasir اسماعیل منتصیر
Kisai Marvazi کسائی مروزی
Abu Shakur Balkhi ابوشکور بلخی
Abu Tahir Khosrovani(ابو طاهر خسروانی)
Qabus, Qabus ibn Wushmagir, nhà thơ (mất năm 1012) ابوالحسن قابوس بن وشمگیر بن زیار, شمس المعالی
Ayyuqi عیوقی
Khwaja Abdullah Ansari خواجه عبدالله انصاری
Shahid Balkhi شهید بلخی
Daqiqi دقیقی
Ma'ruf Balkhi معروف بلخی
Munjik Tirmidhi
Abu Taieb Mosabi
Aghaji Bukhari
Abbas Rabenjani
Abul'Ala Shushtari
Abul'Muid Balkhi
Abdullah Junaidi
Istighnayi Nishaburi
Badi' Balkhi
Bashar Marghazi
Bondar Razi
Bolmasal Bukhari
Hakak Marghazi
Khabazi Nishaburi
Khusravi Sarkhasi
Runaqi Bukhari
Sepehri Bukhari
Shakir Jalab
Tahir Chagani
Tayan Zhazkhay
Amareh Marvazi
Qamari Jurjani
Lokeri
Abu Ahmad Kateb
Masoudi Marvazi
Manteqi Razi
Thế kỷ thứ 11
al-Biruni (973–khoảng 1050)
Fakhruddin As'ad Gurgani
Abu'l Hasan Mihyar al-Daylami (mất năm 1037)
Asad Gorgani
Omar Khayyám, nhà thơ (1048–1131)
Sanai, nhà thơ (1080–1131/1141)حکیم ابوالمجد مجدود بن آدم سنایی غزنوی
Hujviri d1073
Abdul Qadir Gilani
Manuchihri
Abolfazl Beyhaghi, nhà sử học
Abu'l-Hasan Bayhaqi
Nasir Khusraw, lữ hành gia, nhà văn và nhà thơ
Baba Tahir Oryan
Rabi'ah Quzdari
Abu-al-faraj Runi
Keykavus Eskandar
Nizam al-Mulk, tác giả của Siyasatnama
Azraqi
Masud Sa'd Salman
Uthman Mukhtari
Qatran Tabrizi
Mughatil ibn Bakri
Asadi Tusi اسدی طوسی
Nizami نظامی گنجوی، نظامی
Imam Muhammad Ghazali
Abhari
Athir al-Din Akhsikati
Kafarak Ghaznavi
Labibi
Thế kỷ thứ 12
Suzani Samarqandi, شمس الدین محمد بن علی nhà thơ (mất năm 1166)
Adib Sabir ادیب صابر
Am'aq عمعق بخارائی
Anvari انوری ابیوردی
Farid al-Din Attar, nhà thơ (khoảng 1130-khoảng 1220) فریدالدین عطار نیشاپوری
Nizami, nhà thơ (khoảng 1140-khoảng 1203) نظامی
Sheikh Ruzbehan شیخ روزبهان
Abdul Qadir Gilani عبدالقادر گیلانی
Khaqani Shirvani خاقانی شروانی
Sanaayi سنایی
Sheikh Ahmad Jami
Muhammad Aufi
Falaki Shirvani
Hassan Ghaznavi, nhà thơ
Sanai Ghaznavi, nhà thơ
Mu'izzi
Ibn Balkhi
Uthman Mukhtari
Mahsati, nhà thơ مهستی گنجوی
Rashid al-Din Muhammad al-Umari Vatvat خولجه رشید الدین وطواط
Nizami Arudhi Samarqandi نظامی عروضی سمرقندی
Thế kỷ thứ 13
Jalal al-Din Muhammad Rumi, nhà thơ (1207–1273)
Sultan Walad
Saadi, nhà thơ (1184–1283/1291?)
Rashid-al-Din Hamadani, (1247–1318)
Shams Tabrizi
Sheikh Ruzbehan
Zahed Gilani
Khwaju Kermani
Mahmoud Shabestari
Najmeddin Razi
Zartosht Bahram-e Pazhdo
Muhammad Aufi
Qazi Beiza'i
Nizari Quhistani
Awhadi Maraghai
Humam-i Tabrizi
Auhaduddin Kermani
Ghiyas al-Din ibn Rashid al-Din
Ata-Malik Juvayni
Nasreddin
Abu Tawwama (mất năm 1300)
Kamal al-Din Isfahani
Afdal al-Din Kashani
Badr Jajarmi
Basati Samarqandi
Keykavus Razi
Thế kỷ thứ 14
Hafez, nhà thơ (sinh vào khoảng 1310–1325) حافظ
Amir Khusrow, امیر خسرو دهلوی
Shah Shoja Mozaffari شاه شجاع مظفری
Ubayd Zakani عبید زاکانی
Jahan Malek Khatun جهان ملک خاتون
Pur-Baha Jami پور بهار جامی
Assar Tabrizi عصار تبریزی
Mir Sayyid Ali Hamadani, میر سید علی ابن شہاب الدین ہمدانی - nhà truyền đạo Hồi giáo, lữ hành gia và nhà thơ (1314–1384)
Padishah Khatun پادشاه خاتون
Kamal Khujandi, nhà thơ, người theo chủ nghĩa thần bí Sufism (1321–1401)
Shahin Shirazi
Junayd Shirazi
Qasem-e Anvar
Imadaddin Nasimi
Ghiyasuddin Azam Shah, Quốc vương Sultan của Bengal, người đã cùng với Hafez chung bút một bài thơ Ba Tư
Ghiyas al-Din ibn Rashid al-Din
Shah Nimatullah Wali
Maghrebi Tabrizi
Nur Qutb Alam, học giả tôn giáo Bengali
Salman Savaji
Sharaf al-Din Ram
Heydar Shirazi
Muin al-Din Jovaini
Junayd Shirazi
Shahab al-Din Bidavoni
Naser Bejehie
Imad al-Din Fazlavi
Shams al-Din Kashani
Imad Kermani
Nizam al-Din Qari
Jalal al-Din Atighi Tabrizi
Jalal Tabib Shirazi
Jalal Azod
Hassan Mutekalim
Rukn Davi-Dar
Jalal Ukkashe
Thế kỷ thứ 15
Jami, nhà thơ (1414–1492)
Ahli Shirazi
Mir Ali Shir Nava'i, nhà thơ (1441–1501)
Azari Tusi(1380-1462)
Badriddin Hilali, nhà thơ (1470–1529)
Imrani, nhà thơ (1454–1536)
Fuzûlî, nhà thơ (1494–1556) فضولی
Amir Shahi Sabzevari
Esmat Bukhari
Sharaf al-Din Sabzevari
Hamedi Isfahani
Qbuli Heravi
Katebi Tarshizi
Asefi Heravi
Vahid Tabrizi
Fahmi Astarabadi
Thế kỷ thứ 16
Sheikh Bahaii, Khoa học gia, kiến trúc sư, nhà triết học và nhà thơ (1546–1620)
Vahshi Bafghi
Hatefi, cháu của nhà thơ Jami
Taleb Amoli (1586-1627)
Baba Fighani Shirazi
Naw'i Khabushani
'Orfi Shirazi
Faizi
Mohtasham Kashani
Muhammad Arshad, tác giả người Bengali
Syed Pir Badshah, tác giả người Bengali
Ali Sher Bengali, tác giả tôn giáo
Syed Shah Israil, nhà thơ người Bengali
Nahapet Kuchak
Teimuraz I of Kakheti (Tahmuras Khan)
Syed Rayhan ad-Din, Bengali nhà thơ
Qazi Nurullah Shustari
Sanai Mashhadi
Hazegh Gilani
Sahabi Astarabadi
Sharaf Jahan Qazvini
Shahidi Qumi
Ghazali Mashhadi
Fekri Jameh-Baf
Ghasemi Gonabadi
Lesani Shirazi
Meili Mashhadi
Naziri Nishaburi
Vali Dashtbayazi
Darvishi Dahaki
Nizam Astarabadi
Heyrati Tuni
Khari Tabrizi
Khajeghi Enayat
Sabri Isfahani
Tarhi Shirazi
Shuja Kor
Kami Qazvini
Hejri Qumi
Heydar Kuliche-Paz
Abdi Shirazi
Kahi Kabuli
Malek Qomi
Qeidi Shirazi
Makhdom Sharifi
Nizam al-Din Hashimi
Gharari Gilani
Hisabi Natanzi
Mirak Salehi
Serfi Savaji
Hozuri Qumi
Gheirati Shirazi
Voghui Nishaburi
Vahshi Jushghani
Voghui Tabrizi
Shuaib Jushghani
Heydar Muamayi
Fosuni Yazdi
Ali Komrehyi
Thế kỷ thứ 17
Saib Tabrizi, nhà thơ (1601/02-1677)
Mohammad Taher Vahid Qazvini(1621-1700)
Kalim Kashani(1581/1585-1651)
Mohammad Qoli Salim Tehrani (mất năm 1647)
Shah Abdur Rahim, học giả tôn giáo Ấn Độ
Jamila Isfahani, nữ nhà thơ
Shah Waliullah Dehlawi, lãnh đạo tôn giáo Ấn Độ
Teimuraz I of Kakheti (Tahmuras Khan)
Abul Ma'āni Abdul Qader Bedil (1642–1720)
Guru Gobind Singh (1666–1708) - Đã sáng tác bức thư Zafarnamah trứ danh
Zeb-un-Nissa Makhfi (1637–1702)
Razi Danesh Mashadi(mất năm 1665)
Bhai Nand Lal (1633–1713)
Gani Kashmiri (khoảng 1630 – khoảng 1669)
Mir Razi Artimani
Kamali
Munir Lahori
Zolali Khansari
Najib Kashani
Naziri Nishaburi
Saber Kermani
Tasir Tabrizi
Qasem Mashhadi
Masih Kashani
Vaez Qazvini
Rafi Mashhadi
Qudsi Mashhadi
Zafarkhan Hasan
Mir Nejat Isfhani
Thế kỷ thứ 18
Shah Abdul Aziz Dehlavi, học giả tôn giáo Ấn Độ (شاه عبد العزیز دهلوی)
Azar Bigdeli(آذر بیگدلی)
Ram Mohan Roy, nhà cải cách Hindu người Bengali (رام موهن رای)
Hazin Lahiji (حزین لاهیجی)
Izzatullah Bengali (عزّتالله بنگالی), tác giả
Hatef Esfehani, nhà thơ (هاتف اصفهانی)
Effat Nasabeh, nữ nhà thơ ( عفت نصابه)
Lutfullah Tabrizi (لطفالله تبریزی)
Mirza Asadullah Khan Ghalib, (مرزا اسد اللہ خان غالب)
Zayn al-Abidin Shirvani, (زینالعابدین شیروانی)
I'tisam-ud-Din, nhà ngoại giao người Bengali (اعتصام الدین)
Ghulam Mustafa Burdwani, học giả tôn giáo người Bengali và nhà thơ (غلام مصطفی بردوانی)
Vahdat Kermanshahi
Vesal Shirazi
Forughi Bastami
Yaghma Jandaghi
Neshat Esfahani
Sadat Kazeruni
Kosar Hamedani
Sabahi Bigdeli
Nategh Makrani
Thế kỷ thứ 19
Agha Ahmad Ali, nhà thơ người Bengali (آغا احمد علي)
Mohammad-Taghi Bahar, Malek o-Sho'arā Bahār محمد تقی بهار(ملک الشعرا)
Ali Akbar Dehkhoda, nhà ngôn ngữ học và nhà báo علی اکبر دهخدا
Mirza Asadullah Khan Ghalib مرزا اسد اللہ خان غالب
Hamza Hakimzade Niyazi, nhà thơ, tác gỉa, học giả (1889–1929)
Mirzadeh Eshghi میرزاده عشقی
Reza-Qoli Khan Hedayat, nhà thơ và nhà sử học رضا قلی خان هدایت
Iraj Mirza ایرج میرزا
Nassakh, nhà thơ người Bengali (نساخ)
Mohammad Taqi Sepehr (محمدتقی سپهر)
Ebrahim Poordavood, các ngôn ngữ cổ, Avesta ابراهیم پور داوود
Aref Qazvini عارف قزوینی
Hassan Roshdieh حسن رشدیه
Siyyid 'Ali Muhammad Shirazi, sáng lập viên Babism, سيد علی محمد شیرازی
Táhirih Qorrat al-'Ayn, nhà thơ Babi và nhà thần học
Mirza Husayn 'Ali Nuri, sáng lập viên của Đức tin Baha'i, میرزا حسینعلی نوری
Farrokhi Yazdi فرخی یزدی
Khwaja Ahsanullah, nhà thơ Kashmiri-Dhakaiya (خواجه احسنالله)
Khwaja Muhammad Afzal, nhà thơ Kashmiri-Dhakaiya (خواجه محمد افضل)
Sheyda Gerashi, nhà thơ và nhà Panegy học شیدای گراشی
Qaani قاآنی
Abd al-Hosayn Ayati, nhà thơ, nhà hùng biện, tác giả và nhà sử học عبدالحسین آیتی
Ubaidullah Al Ubaidi Suhrawardy, nhà thơ người Bengali (عبید الله العبیدی سهروردی)
Thế kỷ thứ 20
Ali Abdolrezaei (علی عبدالرضایی)
Abdolali Dastgheib, tác giả (عبدالعلی دست غیب)
Abdumalik Bahori, nhà thơ Tajik-Persian
Abdolkarim Soroush, nhà triết học
Abolghasem Lahouti, nhà thơ communist (ابوالقاسم لاهوتی)
Adib Boroumand, nhà thơ, chính trị gia và luật sư (ادیب برومند)
Ahmad Kamyabi Mask, nhà văn và dịch giả (احمد کامیابی مسک)
Ahmad Kasravi (احمد کسروی)
Ahmad NikTalab (احمد نیک طلب), nhà thơ và nhà ngôn ngữ học
Ahmad Raza Khan (احمد رضا خان)
Ahmad Shamlou (احمد شاملو), nhà thơ
Ali Akbar Dehkhoda, nhà ngôn ngữ học (علی اکبر دهخدا)
Ali Mohammad Afghani, nhà văn (علی محمد افغانی)
Ali Shariati, nhà xã hội học và thần học (علی شریعتی)
Aref Qazvini, (عارف قزوینی)
Asad Gulzoda, nhà thơ
Aziz Motazedi, tiểu thuyết gia (عزیز معتضدی)
Bahman Sholevar, nhà văn và nhà thơ (بهمن شعله ور)
Bahram Bayzai, nhà viết kịch bản (بهرام بیضایی)
Bijan Elahi, nhà thơ và dịch giả
Bilal Yousaf, nhà văn, nhà bình luận
Bozor Sobir, nhà thơ (بازارصابر)
Bozorg Alavi, (بزرگ علوی) nhà văn
Dariush Shayegan (داریوش شایگان)
Ebrahim Nabavi, nhà châm biếm (ابراهیم نبوی)
Ehsan Naraghi, học giả, nhà xã hội học và nhà văn
Esmail Khoi, nhà thơ
Ezzat Goushegir
Farzona, nhà thơ (Фарзона/فرزانه)
Farzaneh Aghaeipour (فرزانه آقاییپور)
Fereidoon Tavallali, nhà thơ (فریدون توللی)
Fereshteh Ahmadi, nhà văn (فرشته احمدی)
Fereydoun Moshiri, nhà thơ (فريدون مشيری)
Forough Farrokhzad, nhà thơ (فروغ فرخزاد)
Ghazaleh Alizadeh, tiểu thuyết gia (غزاله علیزاده)
Gholam Hossein Saedi, nhà văn
Gholamhossein Mosahab, người viết bách khoa toàn thư (غلامحسین مصاحب)
Gholamreza Rouhani, nhà thơ (غلامرضا روحاني)
Gulnazar Keldi, nhà thơ Tajik
Hamid Mosadegh(حمید مصدق)
Hassan Roshdieh (حسن رشدیه)
Heydar Yaghma (حیدر یغما)
Homaira Nakhat Dastgirzada (حمیرا نکهت دستگیرزاده)
Houshang Golshiri (هوشنگ گلشیری)
Houshang Moradi Kermani (هوشنگ مرادی کرمانی)
Hushang Ebtehaj (H. A. Sayeh) (هوشنگ ابتهاج)
Ibrahim Ali Tashna, nhà thơ người Bengali (تشنه)
Ismail Alam, nhà thơ người Bengali (اسماعیل عالم)
Iraj Mirza, nhà thơ (ایرج میرزا)
Iraj Pezeshkzad, tiểu thuyết gia (ایرج پزشکزاد)
Jalal Al-e-Ahmad (جلال آل احمد)
Zhaleh Amouzegar (ژاله آموزگار)
Khalilullah Khalili (خلیل الله خلیلی) nhà thơ và nhà văn
Kioumars Saberi Foumani (کیومرث صابری فومنی)
Loiq Sher-Ali (لائق شیرعلی), nhà thơ từ Tajikistan
Leila Kasra, nhà thơ và nhà viết lời nhạc
Mahbod Seraji, nhà văn (مهبد سراجی)
Mahmoud Dowlatabadi (محمود دولت آبادی)
Mahmoud Melmasi - Azarm, nhà thơ (محمود ملماسي، آزرم)
Majid Adibzadeh, nhà văn và học giả (مجید ادیبزاده)
Majid M. Naini nhà văn, nhà thơ, dịch giả, người nói chuyện (مجید نایینی)
Mana Aghaee, nhà thơ, tác giả và dịch giả (مانا آقایی)
Manouchehr Atashi (منوچهر آتشی)
Marjane Satrapi, graphic tiểu thuyết gia
Maryam Jafari Azarmani (مریم جعفری آذرمانی), nhà thơ, nhà bình phẩm
Massoud Behnoud (مسعود بهنود), nhà báo
Mehdi Akhavan-Sales, nhà thơ (مهدی اخوان ثالث)
Mina Assadi, nhà thơ, nhà báo, tác gỉa và nhà viết nhạc (مینا اسدی)
Mina Dastgheib, nhà thơ (مینا دست غیب)
Mirzadeh Eshghi (میرزاده عشقی)
Mirzo Tursunzoda, nhà thơ Tajik
Mohammad Ali Jamalzadeh, nhà văn (محمد علی جمالزاده)
Mohammad Hejazi, tiểu thuyết gia và nhà viết kịch
Mohammad Hossein Shahriar, nhà thơ (محمد حسين شهريار)
Mohammad Jafar Pouyandeh (محمد جعفر پوینده)
Mohammad Mokhtari(محمد مختاری)
Mohammad Reza Ali Payam (Haloo), nhà thơ (محمدرضا عالیپیام)
Mohammad Reza Shafiei-Kadkani, nhà thơ (محمدرضا شفیعی کدکنی)
Mohammad-Amin Riahi, học giả và nhà văn (محمدامین ریاحی)
Mohammad-Reza Shafiei-Kadkani, nhà thơ
Mohammad-Taghi Bahar, nhà thơ(محمد تقی بهار)
Monica Malek-Yonan, nhà viết kịch
Morteza Motahhari, nhà thần học (مرتضی مطهری)
Muhammad Faizullah, nhà thơ người Bengali (محمد فيض الله)
Muhammad Iqbal, nhà thơ Pakistan (محمد اقبال)
Nader Naderpour, nhà thơ (نادر نادرپور)
Nima Yushij, nhà thơ (نیما یوشیج)
Nosrat Rahmani, nhà thơ (نصرت رحمانی)
Parvin E'tesami, nhà thơ (پروین اعتصامی)
Rahi Mo'ayeri, nhà thơ (رهی معیری)
Reza Baraheni, nhà thơ và nhà bình phẩm (رضا براهنی)
Reza Khoshnazar, tiểu thuyết gia (رضا خوشبين خوشنظر)
Reza Gholi Khan Hedayat, nhà thơ và nhà sử học (رضا قلیخان هدایت)
Reza Shirmarz, nhà viết kịch, tác giả, dịch giả, nhà thơ và nhà luận văn (رضا شیرمرز)
Roya Hakakian, nhà thơ, nhà văn, nhà báo (رویا حکاکیان)
Saboktakin Saloor, tiểu thuyết gia
Sadegh Choubak, nhà văn (صادق چوبک)
Sadegh Hedayat (صادق هدایت)
Sadriddin Ayni (صدرالدين عيني), nhà thơ quốc gia của Tajikistan và là một trong những nhà văn quan trọng nhất trong lịch sử của đất nước.
Saeed Nafisi, học giả, nhà thơ và nhà văn
Sahar Delijani, tiểu thuyết gia (سحر دلیجانی)
Samad Behrangi, nhà văn (صمد بهرنگی)
Seyed Ali Salehi, nhà thơ
Sems Kesmai, nhà thơ (شمس کسمایی)
Shahrnush Parsipur, tiểu thuyết gia (شهرنوش پارسیپور)
Shams Langeroodi, nhà thơ (شمس لنگرودی)
Shamim Hashimi, nhà thơ và nhà văn (شمیم ہاشمی)
Shapour Bonyad, nhà thơ (شاپور بنیاد)
Sheema Kalbasi, nhà thơ và dịch giả (شیما کلباسی)
Siavash Kasraie nhà thơ (سیاوش کسرایی)
Simin Behbahani, nhà thơ (سیمین بهبهانی)
Simin Daneshvar, nhà văn (سیمین دانشور)
Sipandi Samarkandi, nhà thơ song ngữ Tajik
Sohrab Sepehri, nhà thơ và hoạ sĩ (سهراب سپهری)
Syed Waheed Ashraf, nhà thơ, nhà thần bí Sufi, học giả, nhà bình phẩm
Syed Abid Ali Abid nhà thơ và tác giả
Temur Zulfiqorov, nhà thơ Tajik (Темур Зулфиқоров)
Varand, nhà thơ (واراند)
Yadollah Royaee, nhà thơ (یدالله رویایی)
Hossein Rajabian, nhà viết kịch (حسین رجبیان)
Yasmina Reza, nhà thơ (یاسمینا رضا)
Zana Pirzad tiểu thuyết gia (زانا پیرزاد)
Niloufar Talebi (نیلوفر طالبی)
Sholeh Wolpé nhà thơ, nhà viết kịch (شعله ولپی)
Iraj Zebardast, nhà thơ (ايرج زبردست)
Xem thêm
Danh sách các nhà văn Iran
Chú thích tham khảo
Morteza Motahhari, Khadamāt-i mutaqābil-i Islām va Īrān, c 1350s Vol 14, p583-590
E.G. Browne. Literary History of Persia. (Four volumes, 2,256 pages, and twenty-five years in the writing). 1998.
Mohammad Mokhtary Mashhad 1944 – Tehran 2002. Writer of Siavash nameh published by Bonyad-e-Shahnameh. writer of Tarikhe ostorehhay-e-Iran. one of the Persian researchers. Murdered by Islamic regime. He was one of the 72 Persians murdered by Emami terror team (Ghatlhaye zangirehi). kidnapped on his way home and choked to dead.
Jan Rypka, History of Iranian Literature. Reidel Publishing Company.
�Các nhà thơ
Các danh sách những nhà thơ theo ngôn ngữ |
19818613 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Boeing%E2%80%93Saab%20T-7%20Red%20Hawk | Boeing–Saab T-7 Red Hawk | Boeing–Saab T-7 Red Hawk, ban đầu được gọi là Boeing T-X (sau này là Boeing–Saab T-X), là một loại máy bay huấn luyện phản lực siêu thanh tiên tiến nâng cao do Boeing của Hoa Kỳ và Saab AB của Thụy Điển hợp tác sản xuất. Ngày 27 tháng 9 năm 2018, Không quân Hoa Kỳ (USAF) chọn mẫu máy bay này cho chương trình T-X để thay thế máy bay huấn luyện Northrop T-38 Talon đang hoạt động trong biên chế.
Phát triển
Bộ tư lệnh Huấn luyện và Đào tạo Trên không (AETC) của Không quân Mỹ bắt đầu phát triển mẫu máy bay huấn luyện mới để thay thế Northrop T-38 Talon vào đầu năm 2003. Ban đầu, mẫu máy bay mới được dự định sẽ đưa vào sử dụng trong năm 2020. Nhưng sau khi một chiếc T-38C gặp sự cố khiến kíp lái hai người thiệt mạng vào năm 2008, USAF đã thay đổi mốc thời gian đạt hiệu suất hoạt động ban đầu (IOC) của máy bay mới là năm 2017. Trong đề xuất ngân sách tài khóa năm 2013, USAF đề nghị trì hoãn thời gian máy bay mới đạt hiệu suất hoạt động ban đầu sang năm 2020 bằng việc ký hợp đồng ngoài mong muốn trước năm 2016. Ngân sách bị thu hẹp và các dự án hiện đại hóa có mức độ ưu tiên cao hơn đã đẩy IOC của chương trình T-X đến "năm tài chính 2023 hoặc 2024". Mặc dù chương trình này hoàn toàn nằm ngoài ngân sách năm 2014, nhưng nó vẫn được xem là dự án ưu tiên hàng đầu.
Boeing đã hợp tác với công ty hàng không vũ trụ Saab để tham gia cuộc thi đấu thầu cho chương trình T-7 của Không quân Mỹ. Ngày 13 tháng 9 năm 2016, nguyên mẫu Boeing T-X được công bố, đây là một loại máy bay huấn luyện phản lực tiên tiến nâng cao một động cơ với đuôi kép, hai chỗ ngồi trước và sau, thiết bị hạ cánh ba bánh có thể thu vào trong, sử dụng động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đốt sau General Electric F404. Chiếc T-X đầu tiên cất cánh vào ngày 20 tháng 12 năm 2016. Boeing-Saab chính thức đăng ký sản phẩm dự thi của họ sau khi USAF mở thầu chương trình T-7 vào ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Ngày 27 tháng 9 năm 2018, các quan chức USAF thông báo rằng thiết kế của Boeing sẽ được chọn là máy bay huấn luyện phản lực tiên tiến mới của họ theo hợp đồng trị giá lên tới 9,2 tỷ USD, trong đó sẽ mua 351 máy bay, 46 thiết bị mô phỏng, đào tạo và hỗ trợ bảo trì. Hợp đồng này có các lựa chọn cho tổng số 475 máy bay. Quý 3 năm 2018, Boeing ghi nhận khoản phí trước thuế trị giá 691 triệu USD, một phần là do đến từ chương trình T-X.
Tháng 5 năm 2019, Saab thông báo họ sẽ mở một nhà máy sản xuất máy bay T-X ở tiểu bang Indiana cùng với Đại học Purdue.
Ngày 16 tháng 9 năm 2019, Không quân Mỹ đặt tên cho mẫu máy bay này là "T-7A Red Hawk" để vinh danh Tuskegee Airmen - những người đã sơn đuôi máy bay của họ màu đỏ (chữ "Red"), và Curtiss P-40 Warhawk - một chiếc máy bay do Phi đội Huấn luyện Bay 99 vận hành, đây là phi đội máy bay tiêm kích da đen đầu tiên của Không quân Mỹ.
Thiết kế chính thức được đưa vào sản xuất hàng loạt vào tháng 2 năm 2021. Tháng 4 năm 2021, Saab giao một phần thân sau của T-7A cho nhà máy Boeing St. Louis, sau đó đến ngày 24 tháng 7 trong cùng năm thì tiếp tục giao phần thân sau thứ hai. Boeing sẽ tiến hành nối ghép phần thân sau của Saab với phần thân trước, vây, cánh và cụm đuôi để tạo thành một chiếc máy bay thử nghiệm hoàn chỉnh sử dụng trong chương trình bay thử nghiệm của Phát triển Kỹ thuật và Sản xuất (EMD). Sau khi hoàn thành giai đoạn EMD, nhà máy mới của Saab ở West Lafayette, Indiana sẽ đóng vai trò là trung tâm sản xuất cho phần thân sau của T-7A và các hệ thống phụ như thủy lực, hệ thống nhiên liệu, nguồn điện phụ. Saab đã phát triển phần mềm mới cho T-7 để giúp việc phát triển nhanh hơn cũng như chi phí rẻ hơn. T-7A được áp dụng sử dụng kỹ thuật số từ giai đoạn phát triển đến chuyến bay thử nghiệm đầu tiên trong vòng 36 tháng. Mẫu máy bay này có dây chuyền sản xuất tiên tiến và số hóa, do đó chỉ mất 30 phút để ghép phần thân sau với phần cánh. Quy trình chế tạo kỹ thuật số cho phép các kỹ thuật viên chế tạo máy bay với việc gia công và khoan lỗ tối thiểu trong quá trình lắp ráp.
Chiếc T-7 phiên bản sản xuất đầu tiên được tung ra thị trường vào ngày 28 tháng 4 năm 2022.
Boeing dự định chào hàng một phiên bản vũ trang của T-7 để thay thế các phi đội Northrop F-5 và Dassault/Dornier Alpha Jet đã lỗi thời trên khắp thế giới.
Ngày 18 tháng 5 năm 2023, Văn phòng Trách nhiệm Chính phủ (GAO) công bố một báo cáo về chương trình T-7, trong đó nêu chi tiết các vấn đề về phần mềm và hệ thống an toàn cũng như các sự chậm trễ khác khiến Không quân Mỹ trì hoãn quyết định sản xuất đến tháng 2 năm 2025. Báo cáo cho biết lịch trình do Boeing cung cấp vào tháng 1 năm 2023 là lạc quan và phụ thuộc vào các giả định thuận lợi. Bất chấp việc sản xuất bị trì hoãn, báo cáo cũng lưu ý rằng Boeing vẫn lên kế hoạch sản xuất những chiếc T-7 đầu tiên vào đầu năm 2024.
Ngày 28 tháng 6 năm 2023, chuyến bay đầu tiên của T-7A được tiến hành tại Sân bay Quốc tế Lambert St. Louis, bởi Thiếu tá Bryce Turner - một phi công thử nghiệm thuộc Phi đội Thử nghiệm Chuyến bay 416 đóng quân tại Căn cứ Không quân Edwards ở California, và Steve Schmidt - phi công trưởng thử nghiệm T-7 của Boeing.
Thiết kế
Thiết kế của T-7 cho phép nó có thể bổ sung thêm nhiều nhiệm vụ trong tương lai, chẳng hạn như tấn công phủ đầu và tiêm kích/cường kích hạng nhẹ. Trong môi trường huấn luyện, nó được thiết kế đặc biệt cho các cuộc diễn tập ban đêm, có giới hạn G cao và khả năng cơ động tấn công góc độ cao, với ưu điểm là dễ bảo trì sửa chữa. Máy bay trang bị một động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đốt sau General Electric F404, nhưng nó tạo ra lực đẩy gấp ba lần tổng lực đẩy của hai động cơ phản lực trên chiếc T-38 Talon.
Lịch sử hoạt động
Khách hàng tiềm năng
Boeing đặt mục tiêu bán hơn 2.700 chiếc T-7 trên toàn cầu. Ngoài việc bán cho Không quân Mỹ, công ty cũng đang nhắm đến Serbia và Úc như những khách hàng quốc tế tiềm năng.
Không quân Hoàng gia Úc (RAAF) đang tìm cách thay thế 33 máy bay huấn luyện phản lực mô phỏng máy bay tiêm kích (LIF) BAE Systems Hawk Mk 127 được đặt hàng vào năm 1997. Boeing dự định sẽ tham gia đấu thầu chương trình LIFT của RAAF.
Serbia đang xem T-7A là một sự lựa chọn thay thế khả thi cho Soko G-4 Super Galeb và Soko J-22 Orao của họ.
Biến thể T-7B là một trong những ứng cử viên cho chương trình Máy bay Thay thế Chiến thuật của Hải quân Hoa Kỳ, với khả năng bán được 64 chiếc.
Ngoài ra, biến thể F/T-7X là một trong những ứng cử viên cho chương trình Huấn luyện Chiến thuật Nâng cao của USAF, với khả năng bán được từ 100 đến 400 chiếc.
Boeing cũng đã giới thiệu T-7 cho Không quân Brazil.
Biến thể
BTX-1
Hai nguyên mẫu đã được chế tạo để đánh giá:
Nguyên mẫu N381TX: là nguyên mẫu đầu tiên được chế tạo và là chiếc T-7 bay đầu tiên.
Nguyên mẫu N382TX: là nguyên mẫu thứ hai được sử dụng trong thử nghiệm.
T-7A Red Hawk
Phiên bản sản xuất cho Không quân Hoa Kỳ sau khi thắng thầu trong chương trình T-X để thay thế Northrop T-38 Talon. Tên định danh trước khi giao hàng là eT-7A, nó được xác định là máy bay thiết kế bằng kỹ thuật số.
T-7B
Biến thể được đề xuất cho chương trình Máy bay Thay thế Chiến thuật của Hải quân Hoa Kỳ, với khả năng bán được 64 chiếc.
F/T-7X
Biến thể được đề xuất cho chương trình Huấn luyện Chiến thuật Nâng cao của Không quân Mỹ, với khả năng bán được từ 100 đến 400 chiếc.
Quốc gia sử dụng
Không quân Hoa Kỳ
Thông số kỹ thuật (T-7A)
Dữ liệu lấy từ Flight Global, General Electric Aerospace Blog, Air & Space Forces Magazine, và Military Factory
Đặc điểm tổng quát
Kíp lái: 2 người (phi công và người hướng dẫn)
Chiều dài: 14,3 m (46 ft 11 in)
Sải cánh: 9,32 m (30 ft 7 in)
Chiều cao: 4,11 m (13 ft 6 in)
Trọng lượng cất cánh tối đa: 5.500 kg (12.125 lb)
Động cơ: 1 × Động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt đốt sau General Electric F404-GE-103; lực đẩy khô 49 kN (11.000 lbf); lực đẩy khi đốt nhiên liệu phụ trội tăng áp (đốt sau) là 77 kN (17.200 lbf)
Hiệu suất bay
Vận tốc tối đa: 1.300 km/h (808 dặm/giờ; 702 hải lý/giờ) / Mach 1,05
Vận tốc hành trình: 974 km/h (605 dặm/giờ; 526 hải lý/giờ)
Tầm bay: 1.830 km (1.140 dặm, 990 hải lý)
Trần bay: 15.240 m (50.000 ft)
Vận tốc tăng độ cao: 170,2 m/giây (33.500 ft/phút)
Xem thêm
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
AIDC T-5 Brave Eagle
Alenia Aermacchi M-346 Master
Hongdu JL-10
KAI T-50 Golden Eagle
TAI Hürjet
Yakovlev Yak-130
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web Saab T-7A
Máy bay cánh giữa
Máy bay một động cơ phản lực
Máy bay quân sự Boeing |
19818617 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20ph%E1%BB%A5 | Thượng phụ | Thượng phụ có thể là:
Thượng phụ (hay Trưởng phụ, Mục thủ), là các giám mục bậc cao nhất trong Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương, và Cảnh giáo.
Thượng Phụ (尚父), danh xưng kính trọng của các Hoàng đế Trung Hoa dành cho các nhân vật có vai trò rất quan trọng trong triều đình.
Khương Tử Nha (thời Tây Chu), người đầu tiên được nhắc tới với danh xưng này.
Đổng Trác (thời Đông Hán)
Quách Tử Nghi (thời Nhà Đường)
Lý Phụ Quốc (thời Nhà Đường)
Vương Hành Du (thời Nhà Đường)
Lưu Thủ Quang (thời Ngũ đại Thập quốc)
Tiền Lưu (thời Ngũ đại Thập quốc)
Vương Tông Khản (thời Ngũ đại Thập quốc)
Lý Biện (thời Ngũ đại Thập quốc)
Tương tự với Thượng Phụ, các Hoàng đế Trung Hoa còn dùng danh xưng Á Phụ (亞父) hay Trọng Phụ (仲父).
Á Phụ Phạm Tăng (thời Tây Hán)
Á Phụ Liêu Thái Tông (thời Nhà Liêu)
Trọng Phụ Quản Trọng (thời Xuân Thu Chiến Quốc)
Trọng Phụ Lã Bất Vi (thời Nhà Tần)
Trọng Phụ Trương Chiêu (thời Tam Quốc)
Trọng Phụ Vương Đạo (thời Đông Tấn)
zh:尚父 |
19818618 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20Y%E1%BB%83u%20%C4%90i%E1%BB%87u | Trương Yểu Điệu | Trương Yểu Điệu () là một nữ thi nhân thế kỷ thứ 9 của Trung Hoa đời nhà Đường.
Nơi sinh và ngày tháng năm sinh của bà không được biết. Bà được nhắc đến với danh xưng Thiếu nữ Trương Yểu Điệu trong một số nguồn tư liệu. Bà bị buộc phải chạy lánh nạn tới Thành Đô, nơi mà ngày nay là tỉnh Tứ Xuyên. Tại đó bà từng làm một ca kỹ (藝妓,歌妓). Có thời điểm trong cuộc đời, vì túng quẫn, bà bị buộc phải cầm cố chính áo quần của bà để tự trang trải bản thân. Một số bài thơ của bà được bao gồm trong tuyển tập "Toàn Đường Thi" (全唐詩). Thang Hiển Tổ (湯顯祖) có trích dẫn các câu từ thơ ca của bà trong vở kịch "Mẫu đan đình" (Bính âm: Mǔdān tíng; 牡丹亭) của mình.
Một số bài thơ
Ký cố nhân
Đạm đạm xuân phong hoa lạc thì,
Bất kham sầu vọng cánh tương tư.
Vô kim khả mãi Trường Môn phú,
Hữu hận không ngâm Đoàn phiến thi.
Xuân tứ kỳ nhất
Môn tiền mai liễu lạn xuân huy,
Bế thiếp thâm khuê tú vũ y.
Song yến bất tri trường dục đoạn,
Hàm nê cố cố bạng nhân phi.
Xuân tứ kỳ nhị
Tỉnh thượng ngô đồng thị thiếp di,
Dạ lai hoa phát tối cao chi.
Nhược giao bất hướng thâm khuê chủng,
Xuân quá môn tiền tranh đắc tri.
Tham khảo
Nhà thơ Trung Quốc
Nhà văn Trung Quốc
Nhà thơ đời Đường
Nữ nhà thơ |
19818627 | https://vi.wikipedia.org/wiki/To%C3%A0n%20%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20thi | Toàn Đường thi | (Toàn tập thi ca đời Đường) (Hán tự: 全唐詩) là bộ sưu tập lớn nhất của thơ Đường, có chứa khoảng 48,900 bài thơ trữ tình bởi hơn 2,200 các nhà thơ, thi sĩ. Với tổng cộng 900 quyển, bao gồm bộ mục lục 12 quyển, bộ bổ di 6 quyển, bộ từ 12 quyển. Vào ngày 19 tháng 3 năm Khang Hy thứ 44 (năm 1705), công trình được uỷ nhiệm theo chỉ dẫn của Hoàng Đế Khang Hy đời nhà Thanh hạ lệnh xuất bản dưới tên của ngài. Tuyển tập hoàn thành việc biên soạn vào ngày mồng một năm Khang Hy thứ 45. Hoàng đế Khang Hy đặt lời đề ngày 16 tháng 4, năm Khang Hy thứ 46. Bộ "Toàn Đường thi" là nguồn tư liệu chính của các bài thơ đời Đường được lưu giữ, để từ đó một tuyển tập ngắn gọn hơn nhưng cũng không kém phần nổi tiếng, "Ba trăm bài thơ Đường", được biên soạn.
Về tuyển tập
Năm 1705, Hoàng Đế Khang Hy ban chiếu chỉ cho Tào Tuyết Cần (曹雪芹), một cận thần tín nhiệm của triều đình, quan chức và là một nhân vật văn học đúng nghĩa. Ông ra lệnh cho Tào Tuyết Cần biên soạn và xuất bản tất cả các bài thơ (thơ trữ tình) còn sót lại của nhà Đường, mở đầu cho những dự án văn học vĩ đại đầu tiên mà triều đại Mãn Thanh trở nên nổi tiếng thơm lây. Vị Hoàng Đế cũng bổ nhiệm các học giả của Hàn lâm viện (翰林院) nhằm giám sát việc đối chiếu các văn bản. Có mười người gồm Bành Định Cầu (彭定求; 1645—1719), Trầm Tam Tằng (沈三曾; ?—?), Dương Trung Nột (楊中訥; 1649—1719), Uông Sĩ Hoành (汪士鋐; 1658—1723), Uông Dịch (汪繹; 1671—1706), Du Mai (俞梅,?—?), Từ Thụ Bản (徐樹本; ?—1710), Xa Đỉnh Tấn (車鼎晉; 1668—1733), Phan Thung Luật (潘從律; ?—?), Tra Tự Lật (查嗣瑮; 1652—1733) được ông nội của Tào Tuyết Cần là Tào Dần (曹寅; 1658—1712) tập hợp phụng chỉ biên tập lẫn khắc bản in. Đội ngũ đã so sánh các văn bản từ các thư viện khác nhau cũng như rà soát các bộ sưu tập tư nhân. Tào Tuyết Cần đã đào tạo các nhà thư pháp theo lối viết thông thường trước khi khắc các bản khắc gỗ cho việc in ấn. Công việc được hoàn thành trong thời gian ngắn đáng kể, mặc dù Tào Tuyết Cần cảm thấy phải tạ lỗi với Hoàng Đế vì sự chậm trễ. Hơn một trăm thợ thủ công đã làm công việc in ấn, theo đó loại giấy được mua cũng là loại đặc biệt. Mặc dù Hoàng Đế đã quyết định rằng, Tào Tuyết Cần sẽ là người đầu tiên được ghi danh liệt kê trong chính cuốn sách, nhưng trong danh mục Tứ khố toàn thư (四庫全書), bộ Toàn tập thơ Đường được liệt kê như một "Tuyển tập Biên soạn Hoàng gia" (), nghĩa là của Hoàng Đế.
Ý nghĩa và nội dung
Cấu trúc của toàn bộ cuốn sách được dựa theo bộ "Đường âm thống thiêm" (唐音統籤) của Hồ Chấn Hanh (胡震亨; 1569—1645) vào thời nhà Minh và bài "Đường thi" (唐詩) của Quý Chấn Nghi (季振宜; 1630—?) vào thời nhà Thanh. Trong đó bao gồm bảy trăm năm mươi bốn phần, số lượng các phần nhiều nhất, được sắp xếp theo tác giả (kèm theo tiểu sử tóm tắt), theo hình thức và chủ đề. Trong toàn thư, các tác phẩm của Hoàng đế và Quý phi được liệt kê đầu tiên, tiếp theo là "Nhạc chương" (樂章) và các bài "Nhạc phủ" (樂府), các nhà thơ thời Đường được liệt kê theo tuổi, kèm theo tiểu sử tóm tắt tác giả đính kèm. Sau đó là liên cú (聯句), dật cú (逸句), danh viện (名媛), tăng (僧), đạo sĩ (道士), tiên (仙), thần (神), quỷ (鬼), quái (怪), mộng (夢), hài hước (諧謔), phán (判), ca (歌), sấm ký (讖記), ngữ (語), ngạn mê (諺謎), dao (謠), tửu linh (酒令), chiêm từ (占辭), mông cầu (蒙求) ,cuối cùng là bổ di (補遺), từ chuế (詞綴).
Mặc dù bộ Toàn Đường thi là tuyển tập lớn nhất của thơ Đường, nó không thật sự là toàn vẹn hoặc đáng tin cậy. Thậm chí có bài còn bị sưu tập sai, thiếu sót. Công việc được thực hiện với tiến độ hối hả, và các biên soạn viên đã không đưa ra luận cứ hay ít nhất là chỉ ra cách chọn chữ hoặc văn bản hay các bài biến thể (có lẽ là ngoài việc lựa chọn ban đầu và danh sách các biến thể: chắc chắn là không đạt các tiêu chuẩn học thuật hiện đại). Nhiều bài thơ bổ sung và các bài biến thể được khám phá ra vào đầu thế kỷ thứ 20 trong một thư viện hang động tại Đôn Hoàng, và những người biên soạn đã bỏ qua hoặc không thể tìm thấy những bài khác. Rốt cục có tới gần 7.000 bài thơ đã bị thu thập nhầm trong "Toàn Đường thi" theo như Đồng Bồi Cơ, một nhà nghiên cứu thời nay, với sự tham gia của hơn 900 học giả. Trong trường hợp của một số các nhà thơ lớn, có những văn bản hay hơn trong các quyển tập được biên tập riêng lẻ. Có nhiều bài được liệt kê trong danh mục triều đại nhà Đường nhưng không còn tồn tại sau khi các thư viện hoàng gia bị phá hủy.
Xem Thêm
Toàn văn "Toàn Đường thi" trên Wikisource Trung Hoa
Thơ ca Trung Hoa
Thơ cổ điển Trung Hoa
Thơ Trung Hoa đời nhà Thanh
Ghi chú
Các bài viết trích dẫn
Phiên bản có chấm câu sắp chữ gồm 25 tập, nhưng không bao gồm các bài bình luận.
Đọc thêm
Schafer, Edward H. (1963) The Golden Peaches of Samarkand. Berkeley: University of California Press. .
Liên kết ngoài
Toàn văn bản của bộ "Toàn Đường thi" - Chinese Text Project (phiên bản lưu trữ dự phòng Internet Archive)
Ulrich Theobald, Chinaknowledge.de, "Chinese Literature - Quantangshi (全唐詩) The Complete Collection of Tang Period shi Poems and the excerpt of 300 poems Tangshi sanbai shou (唐詩三百首)"
Danh mục tổng hợp "Toàn Đường thi" - Vườn thơ Trung Quốc (tiếng Trung) (phiên bản lưu trữ dự phòng Internet Archive)
Guoxue.com "Toàn Đường thi" Phiên bản Cục Thơ Dương Châu (phiên bản lưu trữ dự phòng Internet Archive)
"Toàn Đường thi" guji.artx.cn (phiên bản lưu trữ dự phòng Internet Archive)
Thơ Trung Quốc
Thơ ca Trung Quốc
Sách Trung Quốc
Tác phẩm văn học Trung Quốc
Văn học thời nhà Thanh
Văn học Trung Quốc |
19818638 | https://vi.wikipedia.org/wiki/John%20Zubek | John Zubek | John Peter Zubek (20 tháng 3 năm 1925 - 24 tháng 8 năm 1974) là một nhà tâm lý học người Canada gốc Tiệp Khắc, nổi tiếng với nghiên cứu về tâm sinh lý học và sự mất cảm giác. Trong lời cáo phó đăng lên tạp chí Canadian Psychology, Donald O. Hebb gọi ông là "một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng nhất của Canada".
Tham khảo
Đọc thêm
Sinh năm 1925
Mất năm 1974
Người Tiệp Khắc di cư tới Canada
Người Skalica
Cựu sinh viên Đại học British Columbia
Cựu sinh viên Đại học Toronto
Cựu sinh viên Đại học Johns Hopkins
Giảng viên Đại học McGill
Giảng viên Đại học Manitoba
Nhà tâm lý học Canada thế kỷ 20 |
19818642 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sargocentron%20spinosissimum | Sargocentron spinosissimum | Sargocentron spinosissimum là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1843.
Từ nguyên
Từ định danh spinosissimum được ghép bởi hai âm tiết được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: spinus (“gai, ngạnh”) và hậu tố issimus (biểu thị so sánh bậc nhất), hàm ý đề cập đến vô số gai nhỏ trên đầu của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
S. spinosissimum có phân bố thưa thớt ở khu vực Bắc Thái Bình Dương, được ghi nhận tại Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ryukyu và quần đảo Ogasawara), đảo Đài Loan, Hàn Quốc và quần đảo Hawaii. Do chỉ được tìm thấy ở vùng nước sâu, khoảng 120–230 m, nên loài này có thể có phân bố rộng hơn so với hiện tại.
S. spinosissimum lần đầu được ghi nhận tại Địa Trung Hải, khi một cá thể được bắt tại bờ biển thành phố Damietta (Ai Cập) cùng với một cá thể Sargocentron tiereoides. Cả hai cá thể được xác định bằng cách kiểm tra hình thái và giải trình tự mã vạch DNA. Tuy nhiên, trang Catalog of Fishes cho rằng đó là một sự nhầm lẫn.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. spinosissimum là 18 cm. Loài này có màu đỏ cam với 9 sọc đỏ sẫm xen kẽ với 9 sọc trắng mảnh hơn dọc theo các hàng vảy. Đầu có một vạch trắng dọc theo rìa sau của xương trước nắp mang. Thùy đuôi bo tròn.
Số gai ở vây lưng: 11 (gai thứ 3 hoặc 4 dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 12–13; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 14.
Giá trị
Có lẽ như những loài khác trong chi, S. spinosissimum có khả năng là một thành phần của nghề đánh bắt thủ công.
Tham khảo
S
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Hàn Quốc
Cá Đài Loan
Cá Hawaii
Động vật được mô tả năm 1843 |
19818646 | https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20M%E1%BB%8F%20r%E1%BB%99ng%20l%E1%BB%A5c | Họ Mỏ rộng lục | Họ Mỏ rộng lục (danh pháp khoa học: Calyptomenidae) là một họ chim thuộc bộ Sẻ (Passeriformes) được tìm thấy ở châu Phi, bán đảo Mã Lai và Borneo. Họ này có sáu loài trong hai chi.
Các loài trong họ này trước đây được phân loại thuộc họ Mỏ rộng (Eurylaimidae). Một nghiên cứu phát sinh loài phân tử công bố năm 2006 cho thấy các loài trong hai chi này không có quan hệ họ hàng gần với các loài mỏ rộng khác. Hai chi này hiện được đặt trong một họ riêng.
Các chi
Họ Mỏ rộng lục bao gồm sáu loài trong hai chi:
Tham khảo
Danh sách các họ chim |
19818647 | https://vi.wikipedia.org/wiki/J%C3%B3zef%20Zubek | Józef Zubek | Józef Zubek (4 tháng 3 năm 1914 – 6 tháng 11 năm 1988) là một quân nhân và vận động viên trượt tuyết Ba Lan.
Zubek sinh ra ở Koscielisko trong một gia đình có bố mẹ là vận động viên trượt tuyết. Ông là vận động viên trượt tuyết đổ đèo và trượt tuyết nhảy xa của đội SN PTT-1907 Klub Sportowy Kemping Zakopane. Tại Thế vận hội Mùa đông 1960 và Giải vô địch trượt tuyết thế giới FIS Bắc Âu 1939, ông là huấn luyện của đội tuyển trượt tuyết băng đồng. Ông cũng làm hướng dẫn viên leo núi cho Club Wysokogórskiego, và sau này là huấn luyện viên trượt tuyết và trượt tuyết băng đồng cho SN và KS Kolejarz PTT.
Năm 1969, ông được trao giải Master of Sport, và trở thành thành viên danh dự của SN PTT Zakopane năm 1980. Ông qua đời ở Zakopane.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hình ảnh
Sinh năm 1914
Mất năm 1988
Vận động viên điền kinh Thế vận hội của Ba Lan
Nam vận động viên trượt tuyết băng đồng Ba Lan
Nam vận động viên trượt tuyết nhảy xa Ba Lan
Người Tatra
Vận động viên Małopolskie
Vận động viên Ba Lan thế kỷ 20 |
19818649 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hossein%20Behzad | Hossein Behzad | Hossein Behzad (1894 – 13 tháng mười 1968) (حسین بهزاد) là một họa sĩ trứ danh người Iran. Tác phẩm đầu tay của ông là theo phong cách của các bậc thầy hội họa Ba Tư cổ của thế kỷ 16 và 17, với niềm hy vọng cứu vãn hội hoạ tiểu cảnh của Ba Tư khỏi bị lãng quên.
Tiểu sử
Sinh ra tại Shiraz, Iran năm 1894 bởi Mirza Lotfollah Esfahani. Cha của ông là một nhà thiết kế hộp đựng bút.
Ông cưới Azizeh Khanam vào 1921, người đã sinh hạ đứa con duy nhất cho cả hai, Parviz.
Đầu những năm 1930, Behzah tổ chức lại Madrasa-I Sanayi-I Mustazrafa của Tehran. Vào năm 1934, ông rời Tehran để tới Paris và lưu trú lại đó 13 tháng. Trong thời gian này ông đã học tập các phong cách vẽ Đông Tây khác nhau tại Louvre, Bảo tàng Guimet and Cung điện Versailles. Chính là trong chuyến đi này, ông đã phát triển một phong cách hoàn toàn mới mẻ cho hội hoạ tiểu cảnh, kết hợp các yếu tố của hội hoạ Ba Tư truyền thống và hội hoạ cận đại từ phương Tây.
Tên tuổi của ông được biết đến trên trường quốc tế và ông đã đạt nhiều giải thưởng bao gồm cả 'Huy chương hạng nhất của bộ văn hoá' từ Iran năm 1949 và 'Huy chương hạng nhất của hội hoạ quốc tế' từ Minneapolis, Hoa Kỳ năm 1958. Năm 1968, Behzad được trao Tặng học hàm giáo sư danh dự bởi Đại học Cao đẳng Nghệ thuật Trang trí, các tác phẩm của Behzad được trưng bày trên khắp thế giới. Để tưởng niệm Thiên Niên Kỷ cho Avicenna, năm 1953 ông đã cho thực hiện một buổi triển lãm tại Bảo tàng Bastan Iran. Điều này đã gây một sự chấn động và được nhiều du khách quốc tế tới chứng kiến. Những bức tranh được trưng bày, mất tới mười năm để hoàn thành, bao gồm những bức như của Ferdowsi và Cổng vòm Maedan. Buổi triển lãm trở nên đặc biệt quan trọng cho các học giả về các ngành phương đông học. Trong một bài viết cho tờ báo Vatan của Istanbul, Giáo sư Soheil Anwar viết, " Behzad, người hoạ sĩ tuyệt vời này không chỉ thuộc về mỗi Iran mà thôi. Giờ đây ông thuộc về cả thế giới."
Ngay sau đó, và bởi nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình, Behzad đã tổ chức một cuộc triển lãm do chính phủ Pháp tài trợ tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở Paris. Triển lãm được khai mạc bởi bộ trưởng văn hóa Pháp vào ngày 18 tháng 5 năm 1955.
Đầu tiên, ông thực hành một hình thức bảo thủ của Chủ nghĩa Safavid Mới, và sau đó đã phát triển một thành ngữ mới kết hợp chủ nghĩa phục hưng và chủ nghĩa hiện đại. Năm 1956, 50 tiểu cảnh Behzad được trưng bày tại Thư viện Quốc hội, Washington DC. Khi Behzad trở thành một bậc thầy còn sống, ông đã tổ chức các cuộc triển lãm trên khắp thế giới bao gồm London, Prague, New York, Boston và Brussels, cũng như ở Ấn Độ và Nhật Bản.
Qua đời và di sản
Năm 1968 ông trở nên ốm bệnh và được đưa sang châu Âu tới hai lần bởi Bộ Văn hoá. Mặc dầu vậy, Behzad trút hơi thở cuối cùng vào 20:48 tối ngày 13 tháng mười, năm 1968 ở tuổi 74. Ông được chôn cất mai táng tại nghĩa trang gần Imamzadeh Abdollah tại Shahr-i Ray.
Để tôn vinh người hoạ sĩ, Bảo tàng Behzad Museum được khánh thành vào năm 1994, đặt tại khu tổ hợp Sa'dabad Complex của Tehran và giữ một lượng lớn bộ sưu tập các hoạ phẩm của ông.
Giải thưởng
1968 – Danh hiệu Nghệ thuật danh dự của Hội đồng Giảng viên Nghệ thuật của Trường Cao đẳng Nghệ thuật Trang trí, Tehran
1953 – Huy chương Avicenna từ Bảo tàng Bastan-Iran
1952 – Olympic diploma cho bức tranh đẹp nhất tại Triển lãm tranh Olympic ở Helsinki, Phần Lan
Xem Thêm
Trường phái Baghdad
Hội hoạ Hồi giáo
Hội hoạ Iran
Thư pháp Hồi giáo
Danh sách các hoạ sĩ Iran
Tham khảo
Omar Khayyam: Vierzeiler (Rubāʿīyāt) übersetzt von Friedrich Rosen mit Miniaturen von Hossein Behzad. Details
Liên kết ngoài
Tiểu sử của Behzad
Hoạ sĩ Iran
Hoạ sĩ thế kỷ 20
Người Shiraz
Hội hoạ Iran
Hoạ sĩ Iran thế kỷ 20 |
19818654 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Marek%20Z%C3%BAbek | Marek Zúbek | Marek Zúbek (sinh ngày 5 tháng 8 năm 1975, Tiệp Khắc) là một cầu thủ bóng đá thi đấu cho Cộng hòa Séc.
Zúbek dành phần lớn sự nghiệp của mình tại Gambrinus liga cho 1. FC Brno. Năm 1996, ông giành giải Tài năng của Năm tại giải Cầu thủ bóng đá Séc của năm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1975
Cầu thủ bóng đá Séc
Cầu thủ bóng đá Žilina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Cộng hòa Séc
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Cộng hòa Séc
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Séc
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá FC Zbrojovka Brno
Cầu thủ bóng đá FC Baník Ostrava
Cầu thủ bóng đá FC Vysočina Jihlava
Cầu thủ bóng đá FC Zlín
Nhân vật còn sống
Cầu thủ K.F.C. Lommel S.K.
Tiền vệ bóng đá |
19818661 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong%20t%E1%BB%8Fa | Phong tỏa | Phong tỏa là hành động chủ động ngăn chặn một quốc gia hoặc khu vực nhận hoặc gửi thực phẩm, vật tư, vũ khí hoặc truyền thông, và đôi khi là cả người dân, bằng lực lượng quân sự. Phong tỏa khác với cấm vận hoặc trừng phạt, khi chúng là những rào cản pháp lý đối với thương mại chứ không phải là rào cản vật lý. Nó cũng khác với vây hãm ở chỗ một cuộc phong tỏa thường nhắm vào toàn bộ quốc gia hoặc khu vực, thay vì một pháo đài hoặc thành phố, và mục tiêu có thể không phải lúc nào cũng là chinh phục khu vực đó.
Trong khi hầu hết các cuộc phong tỏa trong lịch sử diễn ra trên biển, phong tỏa cũng có thể được sử dụng trên đất liền để chặn lối vào của một khu vực. Ví dụ, Armenia là quốc gia nội lục bị Thổ Nhĩ Kỳ và Azerbaijan phong tỏa. Vì vậy, Armenia không thể tiến hành thương mại quốc tế thông qua các quốc gia đó mà chủ yếu là qua Gruzia. Điều này hạn chế sự phát triển kinh tế của đất nước.
Một cường quốc phong tỏa có thể tìm cách cắt đứt mọi hoạt động vận tải hàng hải đến và đi từ quốc gia bị phong tỏa, mặc dù việc dừng tất cả các phương tiện giao thông đường bộ đến và đi từ một khu vực cũng có thể được coi là phong tỏa. Các biện pháp phong tỏa hạn chế quyền kinh doanh của những người trung lập, những người phải đệ trình để kiểm tra hàng lậu, mà lực lượng phong tỏa có thể xác định theo nghĩa hẹp hoặc rộng, đôi khi bao gồm cả thực phẩm và thuốc men. Trong thế kỷ 20, sức mạnh không quân cũng đã được sử dụng để tăng cường hiệu quả của việc phong tỏa bằng cách tạm dừng giao thông hàng không trong không phận bị phong tỏa.
Việc tuần tra chặt chẽ các cảng thù địch để ngăn chặn lực lượng hải quân ra khơi, cũng được gọi là phong tỏa. Khi các thành phố hoặc pháo đài ven biển bị bao vây từ phía đất liền, quân bao vây cũng thường phong tỏa cả phía biển. Gần đây nhất, các cuộc phong tỏa đôi khi bao gồm cả việc cắt đứt liên lạc điện tử bằng cách gây nhiễu tín hiệu vô tuyến và cắt đứt cáp ngầm dưới biển.
Lịch sử
Mặc dù các cuộc phong tỏa biển nguyên thủy đã được tiến hành trong nhiều thiên niên kỷ, những nỗ lực thành công đầu tiên trong việc thiết lập một cuộc phong tỏa hải quân toàn diện đã được Hải quân Hoàng gia Anh thực hiện trong Chiến tranh Bảy Năm (1754–1763) chống lại Pháp. Sau khi hải quân Anh giành chiến thắng tại Vịnh Quiberon và chấm dứt bất kỳ mối đe dọa trực tiếp nào về một cuộc xâm lược lớn vào Anh, Anh thiết lập một hệ thống phong tỏa chặt chẽ trên bờ biển Pháp. Điều này khiến các cảng thương mại của Pháp bị thiếu hàng, làm suy yếu nền kinh tế của Pháp. Đô đốc Edward Hawke nắm quyền chỉ huy hạm đội phong tỏa ngoài khơi Brest và mở rộng phong tỏa để bao trùm toàn bộ bờ biển Đại Tây Dương của Pháp từ Dunkirk đến Bordeaux, và cả Marseilles trên bờ biển Địa Trung Hải của Pháp.
Tầm quan trọng chiến lược của phong tỏa đã được thể hiện trong Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoléon, khi Hải quân Hoàng gia phong tỏa thành công nước Pháp, gây ra gián đoạn kinh tế lớn. Việc Liên minh phong tỏa các cảng phía nam là một nguyên nhân chính trong Nội chiến Hoa Kỳ. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quân Đồng minh đã phong tỏa Liên minh Trung tâm, tước đoạt lương thực và các trang thiết bị chiến lược khác của họ. Nỗ lực phong tỏa U-boat của Đức đã gây ra một số thiếu hụt ở Anh, nhưng cuối cùng đã thất bại. Kết quả này đã được lặp lại trong Thế chiến II.
Các nhà tư tưởng chiến lược hải quân, như Ngài Julian Corbett và Alfred Thayer Mahan, đã viết rằng các cuộc xung đột hải quân giành thắng lợi chủ yếu bằng các trận đánh quyết định, và ngoài ra còn bằng phong tỏa.
Phân loại
Phong tỏa gần, phong tỏa từ xa và phong tỏa lỏng
Phong tỏa gần (close blockade) đòi hỏi phải đặt các tàu chiến trong tầm quan sát được bờ biển hoặc cảng bị phong tỏa, để đảm bảo ngăn chặn ngay lập tức bất kỳ tàu nào ra vào. Đây là hình thức phong tỏa hiệu quả nhất và khó thực hiện nhất. Khó khăn nảy sinh do các tàu phong tỏa phải liên tục ở trên biển, đối mặt với bão tố và khó khăn, thường ở xa sự hỗ trợ và dễ bị tấn công bất ngờ từ phía bị phong tỏa, khi những tàu của bên bị phong tỏa có thể ở lại an toàn trong cảng cho đến khi họ quyết định rời cảng.
Trong một cuộc phong tỏa từ xa (distant blockade), bên phong tỏa tránh xa bờ biển bị phong tỏa và cố gắng chặn bất kỳ con tàu nào ra vào. Điều này có thể yêu cầu nhiều tàu đóng quân hơn, nhưng chúng thường có thể hoạt động gần căn cứ hơn và ít gặp rủi ro hơn trước các cuộc tấn công của kẻ thù. Điều này gần như không thể xảy ra trước thế kỷ 16 do tính chất của những con tàu được sử dụng.
Phong tỏa lỏng (loose blockade) là một hình thức phong tỏa gần, trong đó các tàu phong tỏa được rút ra khỏi bờ biển (phía sau đường chân trời) nhưng không xa hơn. Đối tượng của phong tỏa lỏng là dụ kẻ thù mạo hiểm ra ngoài nhưng ở đủ gần để tấn công.
Đô đốc người Anh Horatio Nelson đã áp dụng phong tỏa lỏng tại Cádiz vào năm 1805. Hạm đội Pháp-Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của Pierre-Charles Villeneuve sau đó xuất kích, tiến hành Trận Trafalgar.
Phong tỏa phi chiến tranh
Trước năm 1827, các cuộc phong tỏa, như một phần của chiến tranh kinh tế, luôn là một phần của chiến tranh. Điều này đã thay đổi khi Pháp, Nga và Anh hỗ trợ quân nổi dậy Hy Lạp chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Họ phong tỏa bờ biển do Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng, gây ra trận Navarino. Tuy nhiên, lệnh chiến tranh chưa bao giờ được công bố, vì vậy nó được coi là cuộc phong tỏa phi chiến tranh đầu tiên. Cuộc phong tỏa phi chiến tranh thực sự đầu tiên, vốn hoàn toàn không có tiếng súng, là cuộc phong tỏa của Anh đối với Cộng hòa Tân Granada vào năm 1837 nhằm buộc Tân Granada phải trả tự do cho một lãnh sự Anh đang bị cầm tù.
Tình trạng pháp lý
Kể từ năm 1945, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc xác định tình trạng pháp lý của các cuộc phong tỏa và theo điều 42 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, hội đồng cũng có thể áp dụng các biện pháp phong tỏa. Hiến chương Liên Hợp Quốc cho phép quyền tự vệ nhưng yêu cầu quyền này phải được báo cáo ngay cho Hội đồng Bảo an để đảm bảo duy trì hòa bình thế giới.
Theo tài liệu chưa được phê chuẩn Cẩm nang San Remo về Luật Quốc tế Áp dụng cho các Xung đột Vũ trang trên Biển ngày 12 tháng 6 năm 1994, phong tỏa là một phương pháp chiến tranh hợp pháp trên biển nhưng phải tuân theo các quy tắc. Cẩm nang mô tả những gì không bao giờ có thể là hàng lậu. Quốc gia phong tỏa được tự do lựa chọn bất kỳ thứ gì khác là hàng lậu trong danh sách mà họ phải công bố.
Quốc gia phong tỏa thường thiết lập một vùng nước bị phong tỏa, nhưng bất kỳ con tàu nào cũng có thể bị kiểm tra ngay khi xác định được rằng nó đang cố gắng phá vỡ sự phong tỏa. Hoạt động kiểm tra này có thể diễn ra bên trong khu vực bị phong tỏa hoặc trong vùng biển quốc tế, nhưng không bao giờ được thực hiện bên trong lãnh hải của một quốc gia trung lập. Tàu trung lập phải tuân theo yêu cầu dừng lại để kiểm tra của quốc gia phong tỏa. Nếu tình hình yêu cầu, quốc gia phong tỏa có thể yêu cầu tàu chuyển hướng đến một địa điểm hoặc bến cảng đã biết để kiểm tra. Nếu tàu không dừng lại thì có thể bị bắt. Nếu những người trên tàu chống lại việc bắt giữ, họ có thể bị tấn công một cách hợp pháp.
Hành động chiến tranh
Việc phong tỏa có được coi là hợp pháp hay không tùy thuộc vào luật pháp của các quốc gia có thương mại bị ảnh hưởng bởi phong tỏa. Ví dụ, việc Brazil phong tỏa sông La Plata vào năm 1826 trong Chiến tranh Cisplatine được coi là hợp pháp theo luật của Anh nhưng là bất hợp pháp theo luật của Pháp và Mỹ. Hai quốc gia sau đó tuyên bố họ sẽ tích cực bảo vệ tàu của mình trước bên phong tỏa Brazil, trong khi Anh buộc phải hướng tới một giải pháp hòa bình giữa Brazil và Argentina.
Bất tuân dân sự
Có một số động thái phản đối với mục đích cụ thể là cắt đứt vật chất, con người hoặc thông tin liên lạc khỏi một phần hoặc toàn bộ một khu vực cụ thể. Hiệu quả của các cuộc phong tỏa như vậy phụ thuộc vào sự tham gia của mọi người và các kỹ thuật chống đàn áp biểu tình.
Đình công giữ việc (sitdown strike) là một hình thức bất tuân dân sự, trong đó một nhóm công nhân có tổ chức, thường làm việc tại một nhà máy hoặc địa điểm tập trung khác, giành quyền sở hữu nơi làm việc bằng cách "đóng quân" tại nơi làm việc của họ, ngăn chặn hiệu quả việc chủ thay thế họ với những kẻ tấn công. Một ví dụ khác là biểu tình bất bạo động; nó cũng minh họa tính đặc hiệu của phong tỏa. Biểu tình kiểu này có thể yêu cầu chặn một số tuyến giao thông trong khi các tuyến khác vẫn lưu thông. Ví dụ như công nhân chứ không phải khách hàng, hoặc khách hàng chứ không phải công nhân.
Phong trào Mau là một phong trào bất bạo động đòi độc lập cho người Samoa thoát khỏi ách thống trị của thực dân vào đầu những năm 1900. Cùng với các hành động khác, những người tham gia đã thành lập "lực lượng cảnh sát" của riêng họ, chặn các cửa hàng ở Apia để ngăn chặn việc nộp thuế hải quan cho chính quyền. Một số ví dụ khác là phong tỏa chu vi bằng dây xích người tại Trại hòa bình dành cho phụ nữ chung Greenham, phong tỏa khu vực đập sông Franklin và Đường ống Keystone.
Các yếu tố của phong tỏa
Phong tỏa phụ thuộc vào bốn yếu tố chính:
Giá trị của mặt hàng bị phong tỏa phải đảm bảo yêu cầu phong tỏa. Ví dụ, trong cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, các mặt hàng bị phong tỏa (hoặc "cách ly" để sử dụng thuật ngữ trung lập hơn do Tổng thống John F. Kennedy lựa chọn) là tên lửa đạn đạo tầm trung, có khả năng mang vũ khí hạt nhân, hướng tới Cuba. Giá trị của chúng rất cao, là một mối đe dọa quân sự chống lại Hoa Kỳ.
Sức mạnh của bên phong tỏa phải bằng hoặc lớn hơn sức mạnh của bên đối lập. Việc phong tỏa chỉ thành công nếu 'thứ' được đề cập bị ngăn không cho bên đối lập đạt được mục tiêu. Ví dụ, sức mạnh áp đảo của Hải quân Hoàng gia Anh đã giúp phong tỏa thành công nước Đức.
Địa lý: Biết được đường đi của kẻ thù sẽ giúp bên phong tỏa chọn nơi phong tỏa: ví dụ, đèo cao hoặc eo biển là vị trí án ngữ tự nhiên và là lựa chọn tốt để đặt công sự.
Phong tỏa có xu hướng là một chiến dịch kéo dài, đòi hỏi cam kết lâu dài của cường quốc phong tỏa. Chiến dịch U-boat Đại Tây Dương trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và Trận chiến Đại Tây Dương về cơ bản là về các cuộc phong tỏa của Đức và kéo dài gần bằng các cuộc chiến tương ứng. Tuy nhiên, Hải quân Đế quốc Nhật Bản chỉ thực hiện những nỗ lực phong tỏa lẻ tẻ trong Chiến tranh Thái Bình Dương, muốn tìm kiếm chiến thắng bằng hành động của hạm đội.
Xem thêm
Phong tỏa Dải Gaza
Kiểm soát biển
Vùng cấm bay quân sự
Tham khảo
Luật biển
Chiến lược quân sự
Hoạt động quân sự theo loại
Chiến thuật chiến tranh kinh tế |
19818671 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sargocentron%20coruscum | Sargocentron coruscum | Sargocentron coruscum là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1860.
Từ nguyên
Tính từ định danh coruscum trong tiếng Latinh có nghĩa là “lấp lánh; nhấp nháy”, hàm ý đề cập đến màu xanh óng trên rìa vảy ở loài cá này.
Phân loại
Dornburg và cộng sự (2012) đã đề xuất chuyển S. coruscum sang chi Neoniphon dựa vào phát sinh chủng loại phân tử của họ, tuy nhiên điều này vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. Trang Catalog of Fishes thì đã xem S. coruscum là đồng nghĩa của Neoniphon coruscum.
Phân bố và môi trường sống
S. coruscum có phân bố rộng rãi dọc Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang Florida (Hoa Kỳ) băng qua một phần vịnh México (Florida Keys ngược lên St. Petersburg, Florida, vịnh Terrebonne ngoài khơi Louisiana đến Corpus Christi, Texas, và từ bang Campeche dọc theo bán đảo Yucatán) và khắp vùng biển Caribe đến Venezuela ở phía nam.
Môi trường sống của S. coruscum là trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 100 m. Chúng thường được quan sát trên nền cát hoặc nền đáy có san hô chết vào ban đêm, tập trung ở rạn san hô vào ban ngày.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. coruscum là 15 cm. Loài này màu đỏ, trừ vùng bụng trắng. Hai bên thân có các hàng sọc trắng. Vây lưng mềm, vây hậu môn và đuôi màu đỏ, trong mờ. Gai vây lưng màu đỏ, chóp gai trắng, dọc gốc các màng gai có một đốm trắng tạo thành hàng. Có một đốm đen lớn trên màng của 3 gai đầu tiên.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 11–13; Số gai ở vây hậu môn: 4 (gai thứ 3 dài nhất); Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 12–13; Số vảy đường bên: 41–45.
Sinh thái
Thức ăn của S. coruscum chủ yếu là tôm, nhưng cũng ăn cả cua.
Tham khảo
C
Cá Đại Tây Dương
Cá Bermuda
Cá Mỹ
Cá vịnh Mexico
Cá México
Cá Belize
Cá Caribe
Cá Cuba
Cá Panama
Cá Venezuela
Động vật được mô tả năm 1860 |
19818674 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Abid%20Ali%20Abid | Abid Ali Abid | Abid Ali Abid (Urdu/Persian: سید عابد علی عابد) là một nhà thơ Pakistan, Urdu và Ba Tư và một nhà giáo dục được sinh ra vào ngày 17 tháng chín năm 1906 tại Dera Ismail Khan, Raj thuộc Anh và mất tại Lahore, Pakistan vào ngày 10 tháng một năm 1971.
Cuộc đời
Ông viết sách phê bình văn học bằng tiếng Urdu và tiếng Ba Tư. Ông cũng khởi xướng và biên tập một số tạp chí văn học, một trong số đó là Sahifa-Lahore. Ông cũng là một trong những người viết kịch và viết truyện đầu tiên tại Đài phát thanh Pakistan Lahore mới thành lập vào cuối những năm 1940 và 1950. Ông sống sót qua ba cơn đau tim nhưng qua đời vào lần thứ tư vào năm 1971.
Tác phẩm chọn lọc
Viết truyện phim như bộ đàm đầu tiên, Heer Ranjha (1931)
Sách và thơ
Để biết danh sách chi tiết, xem
Talismaat (Pháp thuật), giả tưởng bằng tiếng Urdu, Hashmi Book Depot Lahore, Pakistan
Shahbaz Khan, giả tưởng bằng tiếng Urdu, , Sang-e-Meel Publications, Pakistan
Main Kabhi Ghazal na Kahta, thơ Urdu, , Sang-e-Meel Publications, Pakistan
Usool-E-Intequade-Adabiyat (Quy tắc phê bình văn học)
Shar-i-Iqbal, (Bình luận thơ của Iqbal), / 969351436X, Sang-e-Meel Publications, Pakistan
Political Theory of the Shi'ties, Một phần của lịch sử triết học Hồi giáo.
Asloob, một cuốn sách Urdu về phê bình văn học
Albayan, một cuốn sách tiếng Urdu về phê bình văn học
Al Badeeh (Mohsinaat e Shairi Ka Intaqadi Jaiza): (Phê bình về đặc điểm của thơ Urdu)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Một liên kết đến thơ của Abid
Tuyển chọn thơ tiếng Urdu
Người Pakistan
Nhà thơ Pakistan
Mất 1971
Sinh 1906
Nhà thơ Pakistan thế kỷ 20
Nhà thơ Ba Tư
Sinh năm 1906
Mất năm 1971
Người Ấn Độ thuộc Anh |
19818693 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Charles%20F.%20Gumm%20Jr. | Charles F. Gumm Jr. | Charles Francis Gumm Jr. (29 tháng 10 năm 1920 – 1 tháng 3 năm 1944) là một phi công người Mỹ trong 354th Fighter Group và là phi công đầu tiên lập chiến công trên không bằng chiếc máy bay North American P-51 Mustang.
Đầu đời
Gumm sinh năm 1920 tại Spokane, Washington. Anh có họ hàng với nữ diễn viên Judy Garland. Sau khi tốt nghiệp trường trung học John R. Rogers năm 1939, anh vào Đại học Gonzaga để học cao hơn.
Binh nghiệp
Sau khi Hoa Kỳ tham gia Thế chiến II sau Trận Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Gumm bỏ học tại Gonzaga và tuyển quân vào Chương trình Học viên Hàng không của Không lực Lục quân Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 1942. Gumm nhận phù hiệu phi công và bằng sắc phong hàm thiếu úy vào tháng 9 năm 1942. Cùng năm, anh kết hôn với Muriel Wiley và có một con gái.
Thế chiến II
Gumm được chỉ định vào 355th Fighter Squadron thuộc 354th Fighter Group. Vào tháng 11 năm 1943, 354th FG đến Vương quốc Liên hiệp Anh và được ấn định đến , tại đây nhóm nhận chiếc P-51 Mustang, trở thành nhóm chiến binh đầu tiên lái chiếc P-51 trong trận không chiến vào ngày 11 tháng 12, khi họ điều khiển với nhiệm vụ hộ tống máy bay ném bom tầm xa trên khắp Bremen, Đức. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1943, 354th FG tiếp tục nhiệm vụ hộ tống máy bay ném bom qua Bremen. Trong khi thực hiện nhiệm vụ, Gumm và phi đội đã chạm trán với 4 chiếc Messerschmitt Bf 110 đang cố gắng tấn công máy bay ném bom. Gumm tiếp cận chiếc Bf 110 và bắn hạ một trong số chúng, trở thành phi công đầu tiên lập chiến công trên không với chiếc P-51. Gumm làm thiệt hại một chiếc Junkers Ju 88 trong cùng nhiệm vụ.
Ngày 29 tháng 1 năm 1944, Gumm bắn hạ chiếc Messerschmitt Bf 109 ở Frankfurt, Đức, chiến công thứ hai của anh. Vào ngày 11 tháng 2, anh bắn hạ chiếc Messerschmitt Me 410 và Ju 88 tại Frankfurt, nâng tổng số chiến công lên 4. Vào ngày 21 tháng 2, trong một cuộc hộ tống máy bay ném bom qua Brunswick, Đức, Gumm bắn hạ chiếc Bf 110, chiến công thứ năm và trở thành phi công ách đầu tiên của 354th FG và P-51. Vào ngày 25 tháng 2, Gumm bắn hạ chiếc Bf 109 ở Munich, chiến công trên không thứ sáu và cũng là chiến công cuối cùng.
Gumm được công nhận là đã phá hủy 6 máy bay quân địch trong trận không chiến cộng với 2 chiếc có thể xảy ra và 8 chiếc bị hư hại trong trận không chiến. Khi phục vụ cùng 354th FG, chiếc P-51 của Gumm được đặt theo tên của vợ và con gái, mang tên "My Toni".
Cái chết
Vào ngày 1 tháng 3 năm 1944, Gumm cất cánh từ RAF Boxted để thực hiện chuyến bay huấn luyện trên chiếc P-51. Một lúc sau máy bay gặp trục trặc động cơ. Gumm có thể bỏ thoát nhưng khi đang bay qua thị trấn Nayland của Anh, anh không muốn xảy ra bất kỳ thương vong nào nếu chiếc P-51 rơi xuống. Anh vẫn ở trong chiếc máy bay gặp sự cố và điều khiển nó xuống một cánh đồng trống, do bay quá thấp nên va vào một cái cây. Chiếc P-51 quay vòng, Gumm rơi khỏi buồng lái khiến anh thiệt mạng. Anh được an táng tại Greenwood Memorial Terrace ở Spokane, Washington. Để vinh danh lòng dũng cảm của Gumm, cư dân Nayland đã đặt một băng ghế vinh danh Gumm. Băng ghế gồm hai biển đồng cùng bài thơ "The Life That I Have" của Leo Marks tại sân trong Nhà thờ St. James ở Nayland-with-Wissington. Năm 2001, nhân dịp 57 năm ngày mất của Gumm, một băng ghế mới được dựng lên gần đài tưởng niệm chiến tranh ở trung tâm Nayland.
Huy chương
Thành tích
Chú thích
Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai |
19818701 | https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20Mandalay | Tổng giáo phận Mandalay | Tổng giáo phận Mandalay (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Myanmar. Tổng giáo phận là nơi có tòa tổng giám mục quản lí Giáo tỉnh Mandalay. Tổng giám mục đuơng nhiệm là Máccô Tin Win, được bổ nhiệm vào ngày 25/4/2019.
Lịch sử
Tiền thân của tổng giáo phận là Hạt Đại diện Tông tòa Trung Miến Điện được thành lập vào ngày 27/11/1866 theo một chiếu chỉ Summum ecclesiae của Giáo hoàng Piô IX, tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Miến Điện (hiện là Tổng giáo phận Yangon). Hoạt động truyền giáo trên Hạt Đại diện được giao cho các tu sĩ người Pháp của Hội Thừa sai Paris quản lí.
Ngày 19/7/1870, Giáo hoàng Piô IX đã ra một chiếu chỉ Quod Catholici nominis, đổi tên Hạt Đại diện Tông tòa thành Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Miến Điện.
Ngày 5/1/1939, một phần lãnh thổ của Hạt Đại diện Tông tòa được tách ra để thành lập Hạt Phủ doãn Tông tòa Bhamo (hiện là Giáo phận Myitkyina), đồng thời đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Mandalay theo tông sắc Birmaniae Septemtrionalis của Giáo hoàng Piô XI.
Ngày 1/1/1955, Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một tổng giáo phận đô thành theo tông sắc Dum alterna của Giáo hoàng Piô XII.
Ngày 21/11/1992, một phần lãnh thổ của tổng giáo phận được tách ra để thành lập Giáo phận Hakha.
Thống kê
Số liệu được lấy từ Anuario Pontificio 2020.
|- align="right"
| 1950 || 14 000 || 5 000 000 || 0,3 || 44 || 38 || 6 || 318 || || 20 || 97 || 22
|- align="right"
| 1970 || 35 377 || 5 700 000 || 0,6 || 35 || 30 || 5 || 1010 || || 9 || 86 || 35
|- align="right"
| 1980 || 57 000 || 6 130 000 || 0,9 || 29 || 24 || 5 || 1965 || || 8 || 89 || 5
|- align="right"
| 1990 || 70 226 || 11 260 000 || 0,6 || 53 || 50 || 3 || 1325 || || 12 || 116 || 15
|- align="right"
| 1999 || 22 000 || 17 000 000 || 0,1 || 35 || 29 || 6 || 628 || || 23 || 143 || 19
|- align="right"
| 2000 || 23 807 || 17 000 000 || 0,1 || 37 || 31 || 6 || 643 || || 36 || 91 || 19
|- align="right"
| 2001 || 21 681 || 15 000 000 || 0,1 || 31 || 25 || 6 || 699 || || 29 || 99 || 20
|- align="right"
| 2002 || 22 809 || 15 000 000 || 0,2 || 31 || 25 || 6 || 735 || || 84 || 90 || 20
|- align="right"
| 2003 || 23 119 || 15 000 000 || 0,2 || 37 || 31 || 6 || 624 || || 25 || 84 || 23
|- align="right"
| 2004 || 22 511 || 15 000 000 || 0,2 || 48 || 40 || 8 || 468 || || 25 || 126 || 30
|- align="right"
| 2013 || 20 143 || 9 436 000 || 0,2 || 64 || 42 || 22 || 314 || || 56 || 118 || 32
|- align="right"
| 2016 || 21 485 || 9 678 773 || 0,2 || 73 || 47 || 26 || 294 || 1 || 60 || 98 || 35
|- align="right"
| 2019 || 22 321 || 9 666 650 || 0,2 || 92 || 57 || 35 || 242 || || 68 || 12 || 35
|- align="right"
|colspan=12 |<small>Nguồn: Catholic-Hierarchy, lấy từ Anuario Pontificio.
|}
Lãnh đạo
Charles Arsène Bourdon, M.E.P. † (1/10/1872-1/5/1887 từ nhiệm)
Pierre-Ferdinand-Adrien Simon, M.E.P. † (24/2/1888-20/7/1893 qua đời)
Antoine-Marie-Joseph Usse, M.E.P. † (22/12/1893-31/3/1900 từ nhiệm)
Trống tòa (1900-1906)
Marie-Eugène-Auguste-Charles Foulquier, M.E.P. † (18/8/1906-27/6/1929 từ nhiệm)
Albert-Pierre Falière, M.E.P. † (25/6/1930-19/12/1959 từ nhiệm)
Gioan Giuse U Win † (19/12/1959-29/5/1965 qua đời)
Aloisiô Moses U Ba Khim † (9/8/1965-10/10/1978 qua đời)
Anphongsô U Than Aung † (25/9/1978-1/3/2002 từ nhiệm)
Charles Maung Bo, S.D.B. (1/3/2002-24/5/2003) (Giám quản Tông tòa)
Phaolô Zingtung Grawng † (24/5/2003-3/4/2014 nghỉ hưu)
Nicholas Mang Thang (3/4/2014 theo quyền thừa kế-25/4/2019 nghỉ hưu)
Máccô Tin Win, từ 25/4/2019
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cộng đồng Giới trẻ Công giáo Mandalay
Tổng giáo phận Mandalay
Mandalay |
19818703 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20kh%C3%A1ch%20m%E1%BB%9Di%20c%E1%BB%A7a%20H%C3%A0nh%20tr%C3%ACnh%20r%E1%BB%B1c%20r%E1%BB%A1 | Danh sách khách mời của Hành trình rực rỡ | Hành trình rực rỡ là chương trình truyền hình thực tế về văn hóa được phát sóng trên kênh VTV3 từ ngày 28 tháng 5 năm 2023. Đây là chương trình thuần Việt, và với tiêu chí "Ôm lấy sắc hương Việt Nam", các nghệ sĩ sẽ được trải nghiệm sâu hơn về những nét văn hóa đặc trưng ở những địa phương mà họ đi qua, đồng thời sẽ được thử thách cùng những người dân địa phương nơi họ trải nghiệm. Những thành viên hiện tại là Trường Giang, Lê Dương Bảo Lâm, Thúy Ngân, Isaac, Bích Phương và Negav. Dưới đây là danh sách khách mời của chương trình Hành trình rực rỡ.
Mùa 1
Ghi chú:
: Khách mời giành được huy hiệu Rực rỡ với số điểm Rực rỡ nằm trong 3 người cao nhất của hành trình (Một số hành trình sẽ có nhiều hơn 3 huy hiệu Rực rỡ)
chữ vàng đậm: Khách mời nhận được huy hiệu Rực rỡ từ các thành viên chính của chương trình.
Xem thêm
Danh sách khách mời của Running Man (Việt Nam)
Tham khảo
Hành trình rực rỡ |
19818712 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%22h%E1%BB%93%20thi%20ca%22 | "hồ thi ca" | Nhà thơ Hồ Thi Ca tên thật là Hồ Bửu Trân, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1958.
Quê quán: Phường Gia Lộc, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Cử nhân Ngữ văn Đại học Sư Phạm TPHCM khoá 1976-1980.
Sáng tác văn học từ 1976.
Hội viên sáng lập Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.
Cơ quan chính thức đã công tác:
Đài Tiếng nói Nhân dân TPHCM
Báo điện tử VietNamNet
Báo Công An TPHCM
Ban TGTU TPHCM
Giải thưởng:
- Hai giải thưởng Văn học Thành đoàn TPHCM 1980 (thơ và truyện ngắn).
- Giải thưởng Đặc biệt của UBND TPHCM 1985 (đồng tác giả với PMT - hợp xướng "Dấu chân phía trước").
- Hội Nhà văn TPHCM Biểu dương gương mặt văn học 20 năm TPHCM (1995).
- Giải thưởng ca khúc 20 năm TPHCM (Hội Âm Nhạc TPHCM, đồng tác giả với NS KT – Ca khúc “Mắt hạ””).
Huy chương
Huy chương "Vì sự nghiệp báo chí Việt Nam" (2001).
Huy chương "Vì sự nghiệp phát thanh Việt Nam" (2001)
Tác phẩm đã xuất bản:
* Tập thơ "Đám mây cầu vồng" ( NXB Măng Non - 1983)
* Truyện dài "Bay đi thoáng mây buồn" ( NXB Trẻ - 1992)
* Truyện dài "Thiên thần mi-nhon và cát bụi" (đăng trọn bộ trên báo Mực Tím - 1992)
* Truyện dài "Vụ án Hoàng tử bé" (báo Mực Tím - 1995, NXB Trẻ - 1997)
* Tập thơ "Thơ dưới vòm lá” (NXB Trẻ - 1999)
* Tập truyện “Những kẻ yêu hoa” (NXB Trẻ - 2002)
* Truyện dài "Xin lỗi người dưng" (NXB Kim Đồng - 2003)
* Tập thơ "Tình thơ một thuở" (NXB Tổng Hợp TPHCM 2013) in chung 5 tác giả Hồ Thi Ca, Lương Minh Cừ, Lê Thị Kim, Lê Minh Quốc, Trương Nam Hương.
* In chung trong nhiều tuyển tập văn, thơ...
* Đăng tải tác phẩm trên hầu hết báo, tạp chí trong nước.
* Nhiều bài thơ được các nhạc sĩ phổ thành ca khúc, hợp xướng.
Xem thêm: |
19818716 | https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%97i%20t%E1%BB%B7%20kinh | Lỗi tỷ kinh | Lỗi tỷ kinh (Hán tự: 耒耜經) là một cuốn sách cổ điển Trung Quốc được viết bởi Lục Quy Mông (陸龜蒙; ?—881) vào năm 880 sau Công Nguyên thời nhà Đường. Chỉ có 633 chữ trong cuốn sách, đây là một cuốn sách nông học nói về nông cụ. Trong đó có mô tả một loại cày sắt, dụng cụ Khúc viên lê (曲轅犁), từng được phát minh vào thời nhà Đường.
Mô tả của tác giả được sử dụng làm chỉ dẫn trong các bách khoa toàn thư nông nghiệp trong nhiều thế kỷ liền. Ông mô tả từng bộ phận của cái cày và chỉ định các kích thước của nó, đủ thông tin để có thể làm nên bản sao chiếc cày. Có rất nhiều phiên bản của cuốn sách được lưu truyền trên thế giới.
Chú thích
Công nghệ cổ đại
Nông nghiệp Trung Quốc
Văn bản cổ điển Trung Quốc
Sách Trung Quốc
Sách cổ Trung Quốc
Lịch sử nông nghiệp
Lịch sử công nghệ |
19818720 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20L%E1%BB%99%20An | Giáo phận Lộ An | Giáo phận Lộ An/Trưởng Trị (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc nằm trong Giáo tỉnh Thái Nguyên, có tòa giám mục đặt tại Trưởng Trị (Sơn Tây).
Hiện tại, cách đọc tên "Lộ An" trong tiếng Hoa phổ thông là "Luan". Trong phương ngữ địa phương, nó được phát âm là "Lu-ngan", đó là lí do các tài liệu cũ được ghi bởi các nhà truyền giáo gọi nó theo cách này. Tài liệu của Hoa Kỳ "The Chinese recorder and missionary journal, Volume 3" gọi nó là "Lu-ngan-fu" (Lộ An Phủ?).
Lịch sử
15/10/1696: Hạt Đại diện Tông tòa Sơn Tây được thành lập, tách ra từ Giáo phận Nam Kinh.
1712: Sáp nhập vào Hạt Đại diện Tông tòa Xiểm Tây và Sơn Tây.
2/3/1844: Tái thành lập với tên Hạt Đại diện Tông tòa Sơn Tây, tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Xiểm Tây và Sơn Tây.
17/6/1890: Đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Nam Sơn Tây.
3/12/1924: Đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Lộ An Phủ.
11/4/1946: Nâng cấp thành Giáo phận Lộ An.
Lãnh đạo giáo phận
Giám mục Lộ An
Giám mục Phêrô Đinh Linh Bân, O.F.M. (2016–hiện tại)
Giám mục Hermengild Lý Nghị, O.F.M. (1998 - 2012)
Giám mục Francis Gerard Kramer, O.F.M. (11/4/1946 – 1982)
Đại diện Tông tòa Lộ An Phủ
Giám mục Fortunato Antonio Spruit, O.F.M. (22/11/1927 – 12/7/1943)
Giám mục Alberto Odorico Timmer, O.F.M. (20/7/1901 – 1927)
Đại diện Tông tòa Nam Sơn Tây
Giám mục Giovanni Antonio Hofman, O.F.M. (24/4/1891 – 20/7/1901)
Giám mục Martin Poell, O.F.M. (20/6/1890 – 2/1/1891)
Giám mục Luigi Moccagatta, O.F.M. (27/9/1870 – 6/9/1891)
Đại diện Tông tòa Sơn Tây
Giám mục Joachin Salvetti, O.F.M. (21/2/1815 – 21/9/1843)
Giám mục Antonio Luigi Landi, O.F.M. (7/11/1804 – 26/10/1811)
Tham khảo
GCatholic.org
Catholic Hierarchy
Lộ An
Lộ An |
19818727 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Joule%20tr%C3%AAn%20mol | Joule trên mol | Joule trên mol (ký hiệu: J·mol-1 hoặc J/mol) là một đơn vị năng lượng trên một lượng chất trong Hệ đo lường quốc tế (SI), trong đó năng lượng được đo bằng joule và lượng chất đó được đo bằng mol.
Nó cũng là một đơn vị dẫn xuất SI của năng lượng nhiệt động mol được định nghĩa là năng lượng bằng một joule trong một mol chất. Ví dụ, năng lượng Gibbs của một hợp chất trong lĩnh vực nhiệt hóa học thường được định lượng bằng đơn vị kilojoule trên mol (ký hiệu: kJ·mol-1 hoặc kJ/mol), với 1 kilojoule = 1000 joule.
Các đại lượng vật lý được đo bằng J·mol-1 thường mô tả lượng năng lượng được truyền trong quá trình chuyển pha hoặc phản ứng hóa học. Phân chia theo số mol tạo điều kiện so sánh giữa các quy trình liên quan đến số lượng vật liệu khác nhau và giữa các quy trình tương tự liên quan đến các loại vật liệu khác nhau. Ý nghĩa chính xác của một đại lượng như vậy phụ thuộc vào ngữ cảnh (những chất có liên quan, hoàn cảnh,...), nhưng đơn vị đo lường được sử dụng cụ thể để mô tả một số hiện tượng hiện có, chẳng hạn như trong nhiệt động lực học, đơn vị đo lường mô tả năng lượng mol.
Vì 1 mol = 6,02214076 × 1023 hạt (nguyên tử, phân tử, ion,...), 1 joule trên mol bằng 1 joule chia cho 6,02214076×1023 hạt, gần bằng 1,660539 × 10-24 joule mỗi hạt. Lượng năng lượng rất nhỏ này thường được biểu thị dưới dạng một đơn vị, thậm chí còn nhỏ hơn, chẳng hạn như kJ·mol-1, do thứ tự độ lớn điển hình cho sự thay đổi năng lượng trong các quá trình hóa học. Ví dụ, nhiệt nóng chảy và nhiệt bay hơi thường ở mức 10 kJ·mol-1, năng lượng liên kết ở mức 100 kJ·mol-1 và năng lượng ion hóa ở mức 1000 kJ·mol-1. Vì lý do này, trong lĩnh vực hóa học, người ta thường định lượng enthalpy tiêu chuẩn của phản ứng theo đơn vị kJ·mol-1.
Các đơn vị khác đôi khi được sử dụng để mô tả năng lượng phản ứng là kilocalorie trên mol (kcal·mol-1), electronvolt trên mỗi hạt (eV) và số sóng tính bằng centimet nghịch đảo (cm-1). 1 kJ·mol−1 xấp xỉ bằng 1,04x eV mỗi hạt, 0,239 kcal·mol-1 , hay 83,6 cm-1. Ở nhiệt độ phòng (25 °C, hay 298,15 K), 1 kJ·mol−1 xấp xỉ bằng 0,4034 .
Tham khảo
Đơn vị dẫn xuất trong SI |
19818734 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20t%C3%A0ng%20Ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20Ninomaru | Bảo tàng Nghệ thuật Ninomaru | Bảo tàng Nghệ thuật Ninomaru (かけがわしにのまるびじゅつかん, ) là một bảo tàng nghệ thuật công cộng tọa lạc tại 1142-1 Kakegawa, Kakegawa, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản. Cơ quan điều hành bảo tàng là Quỹ Văn hóa Thành phố Kakegawa.
Lịch sử
Bảo tàng được thành lập vào tháng 4 năm 1998 (Bình Thành thứ 10).
Bộ sưu tập và triển lãm
Hầu hết các bộ sưu tập và triển lãm của bảo tàng chủ yếu trưng bày khoảng 2.000 tác phẩm từ "Bộ sưu tập Kinoshita" được tặng cho thành phố Kakegawa vào năm 1997 bởi Kinoshita Mitsuo (1932-1996), và "Bộ sưu tập Suzuki" gồm các bức tranh Nhật Bản hiện đại được hiến tặng bởi Suzuki Hajikazu (1902-1985), một doanh nhân từ thành phố Kakegawa vào năm 1979.
Ngoài ra, bảo tàng còn tập trung trưng bày các di vật văn hóa có nguồn gốc từ thị trấn thành Kakegawa, lịch sử địa phương và tác phẩm của các nghệ sĩ đương đại, đồng thời triển lãm và sưu tầm các tác phẩm thuộc mọi thể loại, không giới hạn ở các đối tượng lịch sử và cổ điển.
Xem thêm
Thành Kakegawa
Liên kết ngoài
Bảo tàng nghệ thuật Shizuoka
Giáo dục Kakegawa
Công trình xây dựng Kakegawa
Bảo tàng thành lập năm 1997
Bảo tàng Nhật Bản |
19818738 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20ngo%C3%A0i%20kh%C6%A1i%20bi%E1%BB%83n%20Okhotsk%202013 | Động đất ngoài khơi biển Okhotsk 2013 | là trận động đất xảy ra vào lúc 15:44 (UTC+9), ngày 24 tháng 5 năm 2013. Trận động đất có cường độ 8.3 richter. Tâm chấn độ sâu khoảng 609 km. USGS đã phát cảnh báo sóng thần cho bờ biển Okhotsk, nhưng đã gỡ bỏ ngay sau đó. Trận động đất không gây thiệt hại về người.
Tham khảo |
19818754 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Love%20Me%20Again%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20John%20Newman%29 | Love Me Again (bài hát của John Newman) | Love Me Again là một bài hát do ca sĩ người Anh, John Newman thể hiện. Bài hát được phát hành dưới dạng tải xuống kỹ thuật số ở châu Âu vào ngày 17 tháng 5 năm 2013, ngoại trừ Vương quốc Anh, nơi nó được phát hành vào ngày 30 tháng 6 năm 2013 với tư cách là đĩa đơn chủ đạo trong album phòng thu đầu tay của anh, Tribute (2013). Bài hát được viết bởi Newman và Steve Booker và được sản xuất bởi Booker và Mike Spencer. Bài hát sau đó đã được chọn làm nhạc nền cho trò chơi điện tử FIFA 14 và FIFA 23 cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2022. Nó lại tiếp tục được xuất hiện trong trò chơi điện tử EA Sports FC 24 (FIFA 24).
Nó đã được đề cử cho Giải Brit ở hạng mục Đĩa đơn Anh của năm tại Giải Brit 2014 và được đề cử cho Giải Ivor Novello 2014 ở hạng mục Bài hát có nhạc và lời hay nhất.
Bối cảnh
Trong một cuộc phỏng vấn với Digital Spy, Newman được hỏi liệu anh có cảm thấy rằng bài hát có điều gì đó đặc biệt trong phòng thu hay không. Anh nói, "Ừ. Người mà đã cùng tôi viết nó (Steve Booker), chúng tôi quay lại và nở nụ cười toe toét trên khuôn mặt khi nghĩ, 'Có thứ gì đó hay ho ở đây'. Nhưng bạn không bao giờ biết nó tốt như thế nào, bạn biết không?".
Newman cũng được hỏi liệu có khó để viết lời bài hát về tình yêu và sự chia tay hay không, anh nói: "Không, đó là nơi duy nhất mà tôi thực sự mở lòng với ai đó, thông qua âm nhạc của mình. Tôi đang sản xuất [album] và viết nó, thật tốt. Tôi thích nắm giữ mọi thứ".
Với chuỗi hợp âm Gm—Bb—Dm—C, bài hát được viết ở cung G, âm giai Dōrieus. Dấu hóa ở trong cung Rê thứ. Cả hai đều là chế độ của cung Fa trưởng, trong đó một trong hai có thể được sử dụng làm nốt chủ / hợp âm, bởi vì, tuy nhiên, hợp âm F trưởng không có trong bài hát.
Video âm nhạc
Hai video âm nhạc, cả hai đều có các yếu tố của nhạc Soul Miền Bắc, đã được phát hành cho "Love Me Again". Một phiên bản do Vaughan Arnell đạo diễn dựa trên câu chuyện tình yêu cổ điển Romeo và Juliet. Người phụ nữ trong video, Juliet, là nữ diễn viên người Pháp, Margaux Billard, được anh trai cô, Tybalt, do Joseph Steyne thủ vai, trông coi cẩn thận. Romeo, là người mẫu Anh, Tommy-Lee Winkworth. Video này kết thúc trong một tình tiết khó khăn khi họ bị một chiếc xe tải cán qua và số phận của họ vẫn chưa được biết cho đến đĩa đơn tiếp theo của Newman "Cheating", bắt đầu bằng một bài báo chỉ ra rằng họ thực sự đã sống sót sau vụ tai nạn, đó là một vụ tai nạn rồi bỏ chạy.
Một phiên bản khác có Newman, được hỗ trợ bởi các nhạc sĩ, hát trong căn phòng thiếu ánh sáng.
Giải thưởng
Trong văn hóa đại chúng
"Love Me Again" đã từng là nhạc nền của trò chơi điện tử FIFA 14, mang lại cho nó vị thế sùng bái trong số những người hâm mộ FIFA, cũng như chuỗi #WorldCupAtHome của Liên đoàn, đã mở kho lưu trữ của FIFA trong đại dịch COVID-19. Nó cũng xuất hiện trong phần cuối của bộ phim khoa học viễn tưởng năm 2014, Cuộc chiến luân hồi, có Tom Cruise và Emily Blunt đảm nhận những vai diễn chính. Bài hát cũng được giới thiệu trên phim truyền hình Mỹ, Suits trong tập phim "Bí mật bị chôn vùi", phát sóng vào ngày 6 tháng 3 năm 2014 và trong những phân cảnh mở đầu của tập đầu tiên của phần 4, "One-Two-Three Go", phát sóng ngày 11 tháng 6 năm 2014. "Love Me Again" là cũng là một bài hát có thể chơi được trong Just Dance 2015 và sẽ được thêm vào nhượng quyền thương mại của dịch vụ phát trực tuyến. Bài hát cũng được sử dụng làm nhạc nền cho chương trình truyền hình Whiskey Cavalier ra mắt vào tháng 2 năm 2019 và kết thúc vào tháng 5 sau một mùa. Vào tháng 8 năm 2020 và tháng 5 năm 2021, nó đã được sử dụng trong các quảng cáo trên truyền hình và phát thanh của National Rail.
Kênh truyền hình Pháp, TF6 cũng đã sử dụng bài hát này khi ngừng phát sóng kênh.
Phiên bản remix và cover
Bài hát được phối lại bởi DJ điện tử Kove.
Danh sách track
Những người thực hiện
Giọng ca chính – John Newman
Sản xuất nhạc – Steve Booker và Mike Spencer
Lời – John Newman và Steve Booker
Hãng thu âm: Universal, Island
Thu âm – Apple Logic Pro
Xếp hạng
Xếp hạng tuần
Xếp hạng cuối năm
Chứng nhận
Lịch sử phát hành
Tham khảo
Bài hát năm 2013
Bài hát của John Newman (ca sĩ)
Bài hát tiếng Anh
Đĩa đơn quán quân ở Hy Lạp
Đĩa đơn quán quân ở Scotland
Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart
Đĩa đơn của Island Records
Bài hát nhạc dance-pop
Đĩa đơn năm 2013 |
19818761 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Smithson%20Tennant | Smithson Tennant | Smithson Tennant FRS (30 tháng 11 năm 1761 – 22 tháng 2 năm 1815) là một nhà hóa học người Anh. Ông được biết đến nhiều nhất nhờ phát hiện ra các nguyên tố iridi và osmi, được ông tìm thấy trong cặn từ dung dịch quặng bạch kim vào năm 1803. Ông cũng góp phần chứng minh sự đồng nhất của kim cương và than củi. Tennantit là khoáng vật được đặt theo tên của ông.
Tiểu sử
Tennant sinh ra ở Selby, Yorkshire. Cha của ông là Calvert Tennant (được đặt theo tên của bà ngoại của ông là Phyllis Calvert, cháu gái của Cecilius Calvert, Nam tước xứ Baltimore thứ 2). Tên của ông có nguồn gốc từ tên của bà ngoại ông, Rebecca Smithson, góa phụ của Joshua Hitchling. Ông theo học Trường Ngữ pháp Beverley và hiện có một tấm bảng được đặt ở một trong các lối vào của ngôi trường nhằm tôn vinh khám phá về hai nguyên tố osmi và iridi của ông. Ông bắt đầu học ngành y tại Edinburgh vào năm 1781, nhưng sau vài tháng chuyển đến Cambridge, ông chuyển sang học về thực vật học và hóa học. Ông tốt nghiệp bằng Tiến sĩ y khoa tại Cambridge vào năm 1796, và đồng thời mua một điền trang gần Cheddar, phục vụ cho các thí nghiệm của ông liên quan đến nông nghiệp. Ông được bổ nhiệm làm giáo sư hóa học tại Cambridge vào năm 1813, nhưng chỉ giảng dạy một khóa giảng, trước khi qua đời gần Boulogne-sur-Mer do cây cầu mà ông đi qua bị sập.
Di sản
Năm 2006, American Elements đã phát hiện ra công nghệ mới cho phép đúc các vòng iridi liền mạch để sử dụng trong tàu vũ trụ và vệ tinh. Năm 2016, công ty đã sử dụng công nghệ tương tự để cho ra mắt dòng nhẫn cưới làm bằng iridi được bán trên thị trường với thương hiệu Smithson Tennant.
Tham khảo
Mary D. Archer, Christopher D. Haley. The 1702 Chair of Chemistry at Cambridge. Cambridge, 2005, .
Liên kết ngoài
Osmium and Iridium Events Surrounding Their Discoveries
Passages from the life of a philosopher by Charles Babbage
The Early Life of Smithson Tennant FRS (1761–1815)
Sinh năm 1761
Mất năm 1815
Người Selby
Thành viên Hội Hoàng gia Luân Đôn
Cựu sinh viên Đại học Edinburgh
Cựu sinh viên Christ's College, Cambridge
Người phát hiện ra nguyên tố hóa học
Giáo sư hóa học (Cambridge, 1702)
Người nhận Huy chương Copley
Tử vong do tai nạn ở Pháp
Nhà hóa học Anh thế kỷ 18
Nhà hóa học Anh thế kỷ 19
Iridi
Osmi
Hội viên Hội Hoàng gia |
19818774 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Curveball | Curveball | Trong bóng chày và bóng mềm, curveball là một kiểu ném bóng với cách cầm đặc trưng và chuyển động của tay tạo ra lực xoáy về phía trước cho quả bóng, khiến nó lao xuống khi đến gần cầu thủ phát bóng. Các loại curveball bao gồm 12–6 curveball, power curveball và knuckle curve. "Đường cong" của quả bóng thay đổi tùy theo từng cầu thủ giao bóng.
Tham khảo
Bóng chày
Các kiểu ném bóng (bóng chày) |
19818783 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sargocentron%20bullisi | Sargocentron bullisi | Sargocentron bullisi là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1955.
Từ nguyên
Từ định danh bullisi được đặt theo tên của nhà sinh vật biển Harvey R. Bullis (1924–1992), làm việc tại Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống
S. bullisi có phân bố rộng rãi dọc Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang North Carolina (Hoa Kỳ) băng qua phần lớn vịnh México và vùng biển Caribe (từ phía đông đảo Hispaniola vòng theo Tiểu Antilles xuống đến đảo Tobago), dọc theo bờ biển từ México đến bang São Paulo (Brasil) ở phía nam, bao gồm đảo Trindade xa bờ.
Môi trường sống của S. bullisi là trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu khoảng 36–120 m. Loài này cũng có thể được tìm thấy vùng gian triều.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. bullisi là 16 cm. Đầu và thân màu đỏ cam với các sọc mảnh, màu trắng xanh viền đen dọc hai bên lườn. Chỉ cá con có một đốm đen nhỏ trên màng gai lưng đầu tiên. Gai vây lưng màu cam. Vây lưng mềm, vây hậu môn và đuôi màu đỏ, trong mờ.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 11–12; Số gai ở vây hậu môn: 4 (gai thứ 3 dài nhất); Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 13–15.
Tham khảo
B
Cá Đại Tây Dương
Cá Bermuda
Cá Mỹ
Cá vịnh Mexico
Cá México
Cá Caribe
Cá Puerto Rico
Cá Tiểu Antilles
Cá Trinidad và Tobago
Cá Suriname
Cá Brasil
Động vật Bahamas
Động vật Cộng hòa Dominica
Động vật được mô tả năm 1955 |
19818801 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Samari%28III%29%20oxide | Samari(III) oxide | Samari(III) oxide (công thức hóa học: Sm2O3) là một hợp chất vô cơ. Samari(III) oxide dễ dàng hình thành trên bề mặt của samari kim loại trong điều kiện ẩm ướt hoặc nhiệt độ vượt quá 150 °C trong không khí khô. Tương tự như rỉ sét trên sắt kim loại, lớp oxide này bong ra khỏi bề mặt kim loại, làm lộ ra nhiều kim loại hơn để tiếp tục phản ứng. Oxide thường có màu từ trắng đến vàng nhạt và thường gặp ở dạng bụi rất mịn như bột.
Ứng dụng
Samari(III) oxide được sử dụng trong thủy tinh hấp thụ quang học và hồng ngoại để hấp thụ bức xạ hồng ngoại. Ngoài ra, nó cũng được sử dụng làm chất hấp thụ neutron trong các thanh điều khiển cho các lò phản ứng năng lượng hạt nhân. Oxide xúc tác quá trình khử nước và khử hydro của alcohol bậc một và bậc hai. Hợp chất cũng được sử dụng để điều chế các muối samari khác.
Điều chế
Samari(III) oxide có thể được điều chế bằng hai cách:
Nhiệt phân samari(III) carbonat, hydroxide, nitrat, oxalat hoặc sulfat:
Sm2(CO3)3 → Sm2O3 + 3 CO2
Hoặc bằng cách đốt kim loại trong không khí hoặc oxy ở nhiệt độ trên 150 °C:
4 Sm + 3 O2 → 2 Sm2O3
Phản ứng
Samari(III) oxide hòa tan trong acid vô cơ, tạo thành muối khi bay hơi và kết tinh:
Sm2O3 + 6 HCl → 2 SmCl3 + 3 H2O
Oxide có thể bị khử thành samari bằng cách đun nóng với chất khử, chẳng hạn như hydro hoặc carbon monoxide, ở nhiệt độ cao.
Tham khảo
Hợp chất samari
Oxide
Oxide base
Articles containing unverified chemical infoboxes
Articles with short description
Short description matches Wikidata |
19818803 | https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%B7t%20Tr%C4%83ng%20m%E1%BB%8Dc%20v%C3%A0%20M%E1%BA%B7t%20Tr%C4%83ng%20l%E1%BA%B7n | Mặt Trăng mọc và Mặt Trăng lặn | Mặt Trăng mọc và Mặt Trăng lặn là thời điểm mà limb (vùng nhìn thấy được của Mặt Trăng) trên của Mặt Trăng lần lượt xuất hiện phía trên và biến mất phía dưới đường chân trời. Thời gian chính xác phụ thuộc vào pha và xích vĩ của Mặt Trăng, cũng như vị trí của người quan sát. Khi nhìn từ bên ngoài các vòng cực, Mặt Trăng, giống như tất cả các thiên thể khác nằm ngoài đường tròn quanh cực, mọc từ nửa phía đông của đường chân trời và lặn ở nửa phía tây do hiện tượng tự quay của Trái Đất.
Hướng và thời gian
Hướng
Vì Trái Đất quay từ tây sang đông nên tất cả các thiên thể nằm ngoài đường tròn quanh cực (bao gồm Mặt Trời, Mặt Trăng, các ngôi sao và các hành tinh) mọc ở phía đông và lặn ở phía tây đối với những người quan sát bên ngoài vòng cực. Sự thay đổi theo mùa có nghĩa là chúng đôi khi mọc ở hướng đông-đông bắc hoặc đông-đông nam, và đôi khi lặn ở hướng tây-tây nam hoặc tây-tây bắc.
Thời gian
Vị trí của Mặt Trăng so với Trái Đất và Mặt Trời quyết định thời gian Mặt Trăng mọc và lặn. Ví dụ: trăng hạ huyền mọc vào lúc nửa đêm và lặn vào buổi trưa. Trăng trương huyền khuyết dần (trăng khuyết cuối tháng) được nhìn thấy rõ nhất trong phần lớn buổi đêm và đầu buổi sáng. Mỗi ngày / đêm, Mặt Trăng mọc muộn hơn 30 đến 70 phút so với ngày / đêm trước đó, do Mặt Trăng di chuyển 13 độ mỗi ngày.
Quan sát
Mặt Trăng dường như lớn hơn khi Mặt Trăng mọc hoặc Mặt Trăng lặn. Điều này được gây ra bởi ảo giác. Ảo giác này, được gọi là ảo giác Mặt Trăng, là do tác động của não gây ra. Hiện vẫn chưa có lời giải thích chính xác cho ảo giác Mặt Trăng. Tuy nhiên, rất có thể là do cách não nhận thức các vật thể ở các khoảng cách khác nhau và / hoặc cách mà con người suy luận về khoảng cách của các vật thể khi chúng ở gần đường chân trời.
Mặt Trăng dường như có màu vàng hơn khi ở gần đường chân trời. Đây cũng là lý do khiến Mặt Trời và / hoặc bầu trời dường như có màu đỏ cam lúc Mặt Trời mọc / lặn. Khi Mặt Trăng xuất hiện gần đường chân trời, ánh sáng phát ra từ nó phải xuyên qua nhiều lớp khí quyển hơn. Điều này làm tán xạ các màu sắc khác và để lại màu vàng, cam và đỏ.
Ghi chú
Tham khảo
Sự kiện định kỳ
Mặt Trăng |
19818820 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sargocentron%20vexillarium | Sargocentron vexillarium | Sargocentron vexillarium là một loài cá biển thuộc chi Sargocentron trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1860.
Từ nguyên
Tính từ định danh vexillarium trong tiếng Latinh có nghĩa là “mang cờ hiệu, quân hàm”, hàm ý có lẽ đề cập đến gai vây lưng của loài cá có một vạch đen sau mỗi gai.
Phân loại
Dornburg và cộng sự (2012) đã đề xuất chuyển S. vexillarium sang chi Neoniphon dựa vào phát sinh chủng loại phân tử của họ, tuy nhiên điều này vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. Trang Catalog of Fishes và FishBase thì đã xem S. vexillarium là đồng nghĩa của Neoniphon vexillarium.
Phân bố và môi trường sống
S. vexillarium có phân bố ở Tây Đại Tây Dương, từ Bermuda và bang Florida (Hoa Kỳ) băng qua một phần vịnh México (Florida Keys ngược lên phía bắc đến vịnh Tampa, cụm bãi ngầm Flower Garden, và từ bang Veracruz dọc theo bán đảo Yucatán) và khắp biển Caribe. Đây là loài cá hồng phổ biến nhất ở vùng Tây Ấn.
Môi trường sống của S. vexillarium là trên các rạn san hô gần bờ và vũng thủy triều, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 20 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. vexillarium là 18 cm. Loài này có màu đỏ nâu với các sọc dày ánh bạc dọc hai bên lườn. Gai vây lưng màu đỏ. Vây lưng mềm, vây hậu môn và đuôi màu vàng hoặc đỏ, trong mờ; gai trước của vây hậu môn và vây bụng trắng; vây đuôi có viền trên và dưới màu đỏ. Gốc vây ngực đen ở cá thể nhỏ.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 4 (gai thứ 3 dài nhất); Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số tia vây ở vây ngực: 14–16; Số vảy đường bên: 41–45.
Sinh thái
Thức ăn của S. vexillarium chủ yếu là cua, nhưng cũng ăn cả tôm và chân bụng.
Giá trị
S. vexillarium có tầm quan trọng thương mại nhỏ trong ngành buôn bán cá cảnh.
Tham khảo
V
Cá Đại Tây Dương
Cá Bermuda
Cá Mỹ
Cá vịnh Mexico
Cá México
Cá Caribe
Cá Belize
Cá Cuba
Cá Tiểu Antilles
Động vật Bahamas
Động vật được mô tả năm 1860 |
19818821 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%20vi%E1%BB%87n%20Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20Kakegawa | Thư viện Thành phố Kakegawa | là một thư viện thành phố được thành lập và điều hành bởi thành phố Kakegawa, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản. Có ba thư viện, Thư viện Trung tâm, Thư viện Daito và Thư viện Oosuga, và một thư viện di động di chuyển quanh thành phố cho những cư dân sống xa thư viện.
Sử dụng
Ngoài ba thư viện (Thư viện Trung tâm, Thư viện Daito và Thư viện Osuga), một thư viện di động di chuyển liên tục quanh thành phố phục vụ cho cư dân sống xa thư viện. Bất cứ ai sống, đi làm hoặc đi học ở Thành phố Kakegawa và những người sống ở các thành phố và thị trấn lân cận (Thành phố Fukuroi, Thành phố Kikugawa, Thành phố Shimada, Thị trấn Mori và Thành phố Omaezaki) đều có thể mượn sách tại bất kỳ thư viện nào.
Thẻ thành viên bắt buộc được cấp cho độc giả khi sử dụng thư viện lần đầu tiên và giống nhau cho tất cả các thư viện, kể cả thư viện di động.
Tòa nhà
Thư viện Trung tâm
Thư viện Daito
Thư viện Oosuga
Thư viện Houtoku tưởng niệm Danzan Oo
Tham khảo
Xem thêm
Danh sách thư viện ở Shizuoka
Liên kết ngoài
掛川市立図書館
Thư viện thành phố ở Shizuoka
Giáo dục Kakegawa
Công trình xây dựng Kakegawa |
19818824 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Gonjiam | Ga Gonjiam | Ga Gonjiam (Tiếng Hàn: 곤지암역, Hanja: 昆池岩驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Gyeonggang nằm ở Gonjiam-ri, Gonjiam-eup, Gwangju-si, Gyeonggi-do.
Lịch sử
29 tháng 4 năm 2016: Thông báo bảng cự ly đường sắt
13 tháng 9 ~ 18 tháng 9 năm 2016: Tạm thời miễn phí vận hành tàu tuyến Gyeonggang trong dịp lễ Chuseok
24 tháng 9 năm 2016: Bắt đầu kinh doanh với việc khai trương Tuyến Gyeonggang
26 tháng 9 năm 2016: Điểm xuất phát Pangyo thay đổi từ 23,2km thành 23,7km
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Bến xe buýt liên tỉnh Gonjiam
Trung tâm phúc lợi hành chính Gonjiam-eup
Trường tiểu học Gonjiam
Trường THCS Gonjiam
Trường trung học Gonjiam
Gonjiam LG APT
Gonjiam Samju Noblige APT
Gonjiam Ssangyong 1 Danji
Gonjiam Ssangyong 2 Danji
Hình ảnh
Ga kế cận
Tham khảo
Liên kết
Gonjiam
Gonjiam
Gonjiam
Gonjiam
Gonjiam |
19818831 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha%20l%C6%B0u%20vong | Chính phủ Cộng hòa Tây Ban Nha lưu vong | Chính phủ Cộng hòa Tây Ban Nha lưu vong (Tiếng Tây Ban Nha: Gobierno de la República Española en el exilio) là chính phủ kế tục và lưu vong của Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha, được thành lập sau thất bại trước các lực lượng do Francisco Franco lãnh đạo trong Nội chiến Tây Ban Nha. Chính phủ này tiếp tục tồn tại cho đến khi Tây Ban Nha khôi phục nền dân chủ nghị viện vào năm 1977.
Lịch sử
Sau sự thất bại của phe Cộng hòa vào tháng 4 năm 1939, Tổng thống Tây Ban Nha Manuel Azaña và Thủ tướng Juan Negrín đã lưu vong sang Pháp. Tổng thống Azaña sau đó đã từ chức và qua đời vào tháng 11 năm 1940. Chức vụ Tổng thống của ông được kế nhiệm bởi Diego Martínez Barrio, người đã từng giữ chức Thủ tướng vào năm 1936. Sau khi nước Pháp rơi vào tay người Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ lưu vong đã được thành lập lại tại Mexico , được chính phủ Mexico dưới thời kì của Tổng thống cánh tả Lázaro Cárdenas tiếp tục công nhận (mặc dù Negrín dành phần lớn năm tháng chiến tranh tại London). Negrín sau đó từ chức Thủ tướng vào năm 1945 và được kế nhiệm bởi José Giral.
Cho tới năm 1945, những người Cộng hòa trong chính phủ lưu vong vẫn tin tưởng rằng sau chiến tranh, chế độ Franco sẽ bị loại bỏ bởi lực lượng Đồng Minh và họ có thể quay trở lại nắm quyền tại Tây Ban Nha. Tuy nhiên những hy vọng này sớm bị dập tắt, và chính phủ lưu vong chỉ còn giữ vai trò mang tính biểu tượng thuần túy. Chính phủ này sau đó đã chuyển lại về Paris năm 1946. Bên cạnh đó cũng tồn tại các chính phủ lưu vong của xứ Basque và Catalan.
Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, chính phủ lưu vong Tây Ban Nha đã có quan hệ ngoại giao với México, Panama, Guatemala, Venezuela, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Romania, Nam Tư và Albania. Tuy nhiên các cường quốc là Vương quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ và Liên Xô không công nhận chính phủ này.
Sau cái chết của Franco vào năm 1975, vua Juan Carlos I đã khởi động quá trình chuyển đổi dân chủ ở Tây Ban Nha. Đến năm 1977, những người Cộng hòa lưu vong đã chấp nhận sự tái thiết lập nền quân chủ và công nhận chính phủ của vua Juan Carlos I là chính phủ hợp pháp của Tây Ban Nha. Thời khắc đặc biệt xảy đến khi các lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa là Felipe González và Javier Solana đã gặp mặt vua Juan Carlos I tại lâu đài Zarzuela tại Madrid - như là một sự ngầm chấp thuận của chế độ quân chủ đối với những người xã hội chủ nghĩa đã từng trung thành với nền Cộng hòa trước đây. |