title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Xe (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815370
Xe trong tiếng Việt có nhiều nghĩa:
Tượng (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815375
Tượng trong tiếng Việt có nhiều nghĩa:
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815380
Mã (Hán tự: 馬) có nghĩa là ngựa. Ngoài ra mã cũng có thể hiểu là:
Phụ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815382
Phụ trong tiếng Việt có thể mang một trong các nghĩa sau:
Genmaicha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815388
là loại trà gạo lứt của Nhật Bản có chứa trà xanh được trộn cùng với gạo lứt rang. Đôi khi nó cũng được gọi một cách thông tục là "trà bắp rang" vì trong quá trình rang, một vài hạt gạo bị rang quá lửa và biến thành dạng giống như bỏng ngô, hay còn được gọi là "món trà quốc dân", vì trong trà có sử dụng gạo làm chất độn nhằm giảm giá thành của trà xuống, biến nó trở thành loại thức uống dành cho những người nghèo. Ngày nay, genmaicha được phổ biến cho tất cả các tầng lớp trong xã hội. Nó cũng được dùng cho những người ăn kiêng với mục đích tôn giáo hoặc được uống giữa các bữa ăn trong một thời gian dài. Đường và tinh bột từ gạo làm cho trà có hương vị ấm áp giống hạt dẻ. Chính vì vậy, thứ trà này được đánh giá là dễ uống và giúp dạ dày dễ chịu hơn. Trà được ngâm từ genmaicha có màu vàng nhạt. Trà có hương vị dịu nhẹ, kết hợp cùng hương vị cỏ tươi của trà xanh cùng với mùi thơm của gạo rang. Genmaicha cũng được bán kèm với matcha (bột trà xanh) như một sản phẩm phụ được thêm vào. Sản phẩm này được gọi là (nghĩa đen là "genmaicha có thêm bột trà"). "Matcha-iri genmaicha" có hương vị tương tự như genmaicha thông thường, nhưng có mùi vị mạnh hơn và có màu xanh hơn là màu vàng nhạt. Ở Hàn Quốc, có một loại trà tương đồng được gọi là "hyeonminokcha" ( ; "trà xanh gạo lức"), trong khi từ "hyeonmicha" ( ), có nguồn gốc từ "genmaicha", đề cập đến phương pháp ngâm gạo lứt rang trong nước sôi để làm trà.
Telediario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815394
Telediario là chương trình thời sự do đài truyền hình Televisión Española (TVE) sản xuất. Phát sóng lần đầu vào ngày 15 tháng 9 năm 1957. Đây là chương trình truyền hình lâu đời nhất trong lịch sử truyền hình ở Tây Ban Nha.
Đồng(II) cyanide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815397
Đồng(II) cyanide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Cu(CN)2. Hợp chất tồn tại dưới dạng bột vô định hình màu xanh lá cây, không tan trong nước và là chất độc. Điều chế. Đồng(II) cyanide có thể thu được bằng phản ứng của muối cyanide hòa tan trong dung dịch đồng(II): Kết tủa màu vàng của đồng(II) cyanide không ổn định, dễ bị phân hủy giải phóng cyanogen và đồng(I) cyanide: Tính chất vật lý. Đồng(II) cyanide tồn tại dưới dạng chất bột vô định hình màu xanh lá cây, không tan trong nước, dễ bị phân hủy. Ứng dụng. Nó được sử dụng để mạ đồng lên sắt và dùng trong tổng hợp hữu cơ. An toàn. Đồng(II) cyanide, giống như nhiều muối vô cơ khác của cyanide, là một chất độc. Nó được coi là một trong những chất độc vô cơ mạnh nhất. Hợp chất khác. Cu(CN)2 còn tạo một số hợp chất với NH3, như Cu(CN)2·4NH3 là tinh thể màu xanh dương.
Ollie Tipton
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815399
Oliver Tipton hoặc Ollie Tipton (sinh ngày 22 tháng 9 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang chơi ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers. Sự nghiệp. Gia nhập lò đào tạo của Wolves từ khi mới 11 tuổi, Tipton có lần đầu kí vào bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Wolves vào năm 2020. Tháng 3 năm 2023, Tipton gia hạn hợp đồng với Wolves đến năm 2025.
Chùa Đàn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815400
Chùa Đàn là một truyện dài, thể loại kỳ ảo của Nguyễn Tuân được phát hành đầy đủ lần đầu vào năm 1946 do Quốc Văn xuất bản. Tác phẩm đã được dựng thành các vở cải lương, kịch nói và đặc biệt là phim điện ảnh "Mê Thảo — thời vang bóng" từng giành được một số giải thưởng trong nước và quốc tế. Chùa đàn gồm 3 phần lần lượt là: "Dựng" viết năm 1946, "Tâm sự của nước độc" viết năm 1945 và "Mưỡu cuối" viết năm 1946. Phần "Dựng" và "Mười cuối" được Nguyễn Tuân viết thêm, do sự ảnh hưởng từ cuộc biến động thời cuộc, khi quân đội Việt Minh dành được chiến thắng. Nội dung. Dựng (Mười đầu). Người tù Cách Mạng tên Lịnh mang số 2910 trao cho bạn tù mang số 790 - nhân vật xưng "tôi" - một hồi ký có tựa đề "Tâm sự của nước độc". Theo đó Lịnh là nhân vật Lãnh Út trong hồi ký. Tâm sự của nước độc. Câu chuyện xảy ra tại ấp Mê Thảo, chủ ấp là Lãnh Út giàu có, nhân từ; Lãnh Út sa sút tinh thần kể từ khi vợ mất, ông gần như buông bỏ, vứt bỏ tất mà đắm chìm trong rượu chè. Ông Lãnh có người quản gia trung thành là Bá Nhỡ, người đang trốn tránh án tử hình. Một lần nhớ vợ, ông Lãnh sai Bá Nhỡ mời cô đào Tơ về hát, Bá Nhỡ lặn lội cuối cùng cũng tìm được nhưng bị cô Tơ từ chối vì thợ đàn Chánh Thú, chồng cô mới mất, không có người thay thế và cô thề sẽ không đàn hát nữa. Bá Nhỡ bỏ nhiều tâm sức luyện tập đàn đáy đến độ điêu luyện, nể phục Bá nên cô Tơ nhận lời về ấp Mê Thảo đàn cho ông Lãnh Út. Cô Tơ kể cho Bá Nhỡ về điềm báo Chánh Thú muốn đòi mạng người nào dùng đàn của ông, để đáp lại ơn nghĩa ông Lãnh, Bá quyết định đàn sử dụng câu đần đấy cùng hòa tấu với cô Tơ và ông Lãnh. Ba người cùng nhập tâm cao độ, cuộc đàn hát trở thành một buổi hầu đồng, cơn cao hứng khiến các đầu ngón tay Bá Nhỡ sưng vù rồi không ngừng chảy máu khiến Bá mất mạng. Sau cái chết của Bá Nhỡ, Lãnh Út tiêu hủy toàn bộ rượu và thề không bao giờ rượu chè, chơi bời, đàn hát nữa.
Chùa Đàn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815400
Trước kỳ giỗ đầu của Bá Nhỡ ngôi chùa tên chùa Đàn được dựng lên, cô Tơ là người lo việc kinh kệ cho chùa. Mười cuối. Sau khi tiếp nhận câu chuyện trong hồi ký, nhân vật Tôi (người tù 790) đã thay đổi tính cách. Nhân vật Tôi rủ cô Tơ - lúc này không còn ở chùa Đàn nữa mà tu hành nơi khác và lấy pháp danh là Tuệ Không - cùng theo cách mạng. Phát hành. "Tâm sự của nước độc" được Nguyễn Tuân viết trong hai ngày. Truyện này vốn thuộc loạt tác phẩm "Yêu ngôn" của Nguyễn Tuân. Năm 1946 nhà thơ Huy Yên làm việc cho nhà xuất bản Quốc Văn của Lê Ngọc Vu, ông Yên được chọn chỉnh sửa bản in cho "Chùa Đàn". Sau khi đọc bản in, nhà văn Nguyễn Tuân rất hứng thú khi ông ông Yên đã sửa chữa đúng với ý mình. Sau này nhà văn Nguyễn Tuân rất coi trọng nhà thơ Huy Yên. "Chùa Đàn" được tái bản tại Sài Gòn tạm chiếm năm 1947 bởi nhà xuất bản Tân Việt. Đánh giá. Nhà văn Khái Hưng cho rằng việc mở rộng "Tâm sự của nước độc" đã khiến câu chuyện mất đi cái hay, hai phần thêm vào được cho là "không thể vô vị hơn". Nguyễn Tuân đã hy sinh cái đẹp của nghệ thuật để phục vụ mục đích của xã hội. Năm 1953-1954 trong cuộc chính huấn, Nguyễn Tuân có bài viết "Nhìn rõ sai lầm" thừa nhận sai sót khi phát hành Chùa Đàn, năm 1946. Ông tự nhận hành động của mình là thừa cơ, đi ngược với tư tưởng Cách Mạng, khi Chùa Đàn mang tính siêu nhiên, phản tiến bộ, phản khoa học. Trên báo Tiên Phong số 20, ra ngày 1 tháng 10 năm 1946, cây viết Thời Nhân đã nhận định việc Nguyễn Tuân viết thêm đoạn đầu và cuối cho "Tâm sự của nước độc" là sự chân thành, cho thấy sự thay đổi trong tư tưởng của Nguyễn Tuân. Chuyển thể. Năm 2002, truyện ngắn "Chùa Đàn" được dựng thành bộ phim "Mê Thảo – thời vang bóng" do Việt Linh đạo diễn. Bộ phim dành được một số giải thưởng tại Ý, Pháp và Giải khuyến khích của Giải Cánh diều 2002. Năm 2013, "Chùa Đàn" được PGS Tất Thắng của Nhà hát Kịch Hà Nội chuyển thể thành vở kịch "Tiếng đàn vùng Mê Thảo" do đạo diễn NSND Doãn Hoàng Giang dàn dựng.
Chùa Đàn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815400
Cuối những năm 1990, Nhà hát Cải lương Việt Nam chuyển thể thành vở "Tiếng đàn huyền thoại".
Nguyễn Thị Mỹ Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815401
Nguyễn Thị Mỹ Anh (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá nữ người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho Thái Nguyên T&T và đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam.
Phân cấp hành chính Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815403
Phân cấp hành chính Phần Lan hiện nay bao gồm hai cấp chính là: Từ năm 2019, Phần Lan được chia làm 311 khu tự quản thuộc 19 vùng, trong đó có 1 vùng tự trị là Åland. Để phục vụ cho công tác hành chính và thống kê, các vùng của Phần Lan được phân vào địa bàn hoạt động của bảy cơ quan hành chính khu vực và mười lăm trung tâm phát triển kinh tế, giao thông và môi trường. Ngoài ra, các vùng còn được nhóm lại thành mười ba khu vực bầu cử.
Tiếng Càn-đà-la
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815404
Tiếng Càn-đà-la (còn được gọi là Tiếng Gandhara) là một ngôn ngữ Prakrit được tìm thấy chủ yếu trong các văn bản vào giữa thế kỉ 3 TCN và thế kỉ 4 CN ở vùng Gandhāra, nằm ở phía Tây Bắc của tiểu lục địa Ấn Độ. Ngôn ngữ này được sử dụng rất nhiều bởi các văn hóa Phật giáo ở Trung Á và đã được tìm thấy càng xa như phía Đông Trung Quốc, trong những bản khắc ở Lạc Dương và An Dương. Nó xuất hiện trên đồng xu, bản khắc và văn bản, đáng kể là các văn bản Phật giáo Gandhāra. Nó đặc biệt trong số các ngôn ngữ Prakrit vì có một số âm vị học cổ xưa, vì sự tách biệt và độc lập tương đối của nó, vì nằm trong ảnh hưởng một phần của vùng Cận Đông và Địa Trung Hải cổ đại và vì việc sử dụng hệ thống chữ viết Kharoṣṭhī, so sánh với chữ Brahmic được dùng bởi các ngôn ngữ Prakrit khác. Mô tả. Tiếng Càn-đà-la là một ngôn ngữ Ấn-Arya trung đại sớm – một ngôn ngữ Prakrit – với những đặc điểm độc đáo phân biệt nó với tất cả các ngôn ngữ Prakrit được biết đến khác. Về mặt ngữ âm, nó duy trì cả ba âm xuýt Ấn-Arya cổ. – s, ś và ṣ – như các âm riêng biệt chúng rơi vào nhau như [s] trong các ngôn ngữ Prakrit khác, một sự thay đổi được coi là một trong những sự thay đổi âm Ấn-Arya trung đại. Tiếng Càn-đà-la còn giữ một số cụm phụ âm Ấn-Arya cổ, chủ yếu là những cụm phụ âm liên quan đến v và r. Ngoài ra, phụ âm th and dh trong các ngôn ngữ Ấn-Arya cổ giữa hai nguyên âm được viết được viết sớm với một chữ cái đặc biệt (được ghi chú bởi các học giả như một chữ gạch chân s, [s]), sau này được sử dụng thay thế cho nhau với âm s, đề xuất một thay đổi sớm tới một âm, có thể là âm xát răng hữu thanh ð, và một thay đổi âm tới âm z và sau đó một âm s thẳng.
Keytar
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815406
Đàn keytar là một loại nhạc cụ kết hợp giữa bàn phím của đàn piano và thiết kế dạng guitar. Từ "keytar" được tạo ra bằng cách kết hợp từ "keyboard" (bàn phím) và "guitar". Đàn keytar cho phép người chơi di chuyển tự do trên sân khấu và thể hiện kỹ năng âm nhạc cũng như tạo hiệu ứng trực tiếp trong buổi biểu diễn. Đàn keytar thường có bàn phím như đàn piano, các nút bấm, và nhiều lần còn tích hợp các bộ điều khiển MIDI để tạo ra âm thanh đa dạng. Người chơi có thể chơi những giai điệu, điệu nhảy và đệm nhạc bằng cách nhấn các phím trên bàn phím và sử dụng các nút bấm khác để điều chỉnh âm lượng, hiệu ứng âm thanh, và các thông số khác. Đàn keytar thường được sử dụng trong âm nhạc pop, rock và điện tử, và nó đã trở thành một biểu tượng trong những buổi trình diễn sân khấu năng động.
Sakurayu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815408
Sakurayu (, anh sương), Sakura-cha (桜茶), nghĩa đen là " "trà hoa anh đào"", là một thức uống truyền thống của Nhật Bản được tạo ra bằng cách ngâm hoa anh đào muối chua với nước đun sôi. Sự kết hợp đặc biệt này trở thành một loại trà thảo dược và được thưởng thức trong văn hóa Đông Á qua nhiều thế hệ. Sơ chế. Thành phần chính của trà là cánh hoa anh đào được thu hoạch trong mùa nở hoa từ giữa đến cuối mùa xuân. Sau khi loại bỏ phần đài, các cánh hoa sau đó sẽ được ngâm trong giấm mận cùng với muối, sau đó đem đi sấy khô. Hoa anh đào khô sau đó được bảo quản hoặc gói kín trong gói trà và được đem bán. Để pha trà Sakurayu, trước hết, ta phải rắc một vài bông hoa ngâm muối sấy khô vào một cốc nước nóng. Sau khi được ngâm nước nóng, những cánh hoa bị xẹp sẽ bung ra và nổi lên mặt nước. Sau đó, trà thảo dược sẽ được ngâm cho đến khi hương vị đạt được cường độ mong muốn. Đồ uống thu được có vị hơi mặn. Do đó, thứ trà này còn được xem là một loại bia hơi ngọt nhẹ. Thưởng thức. Trong tiếng Nhật có một thành ngữ gọi là "ocha wo nigosu." Trong đó "ocha" là trà, và "nigosu" có nghĩa là làm mờ đi. Vì vậy, bản thân thuật ngữ này sẽ được dịch theo nghĩa đen "là làm cho trà bị vẩn đục". Tuy nhiên, cả cụm từ này lại mang ý nghĩa là "lảng tránh", "mơ hồ" hoặc "không cam kết". Câu thành ngữ này cũng là lý do tại sao trà xanh không được phục vụ trong đám cưới, nhưng "Sakura-yu" lại được phục vụ vì món trà này tượng trưng cho "sự khởi đầu", điều thích hợp nhất để biểu thị trong đám cưới.
Hoàng Trung Dũng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815413
Hoàng Trung Dũng (sinh ngày 21 tháng 5 năm 1971) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Bí thư Đảng ủy Quân sự, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Hà Tĩnh. Ông từng giữ các chức vụ lãnh đạo Tỉnh ủy Hà Tĩnh như Phó Bí thư thường trực; Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; Bí thư Thành ủy Hà Tĩnh; bên cạnh đó là các vị trí như Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Thư ký Bí thư Tỉnh ủy; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Bí thư Tỉnh đoàn Hà Tĩnh. Hoàng Trung Dũng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Ngữ văn, Tiến sĩ Chính trị học, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có hơn 30 năm công tác ở quê nhà Hà Tĩnh, là công nhân rồi hoạt động thanh niên, trải qua nhiều vị trí rồi trở thành Bí thư Tỉnh ủy, tham gia Trung ương Đảng. Xuất thân và giáo dục. Hoàng Trung Dũng sinh ngày 21 tháng 5 năm 1971, quê quán ở xã Hương Long, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Hương Khê, thi đỗ Trường Đại học Vinh vào tháng 9 năm 1990, tới thành phố Vinh để theo học Khoa Sư phạm Ngữ văn và tốt nghiệp Cử nhân Ngữ văn vào tháng 8 năm 1994. Tháng 1 năm 2012, ông bắt đầu học cao học tại Đại học Quốc gia Hà Nội tháng, nhận bằng Thạc sĩ Chính trị học vào tháng 6 năm 2014, là nghiên cứu sinh Chính trị học tại đại học này từ tháng 1 năm 2015. Tháng 1 năm 2019, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Thực hành dân chủ của nhân dân ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay" và trở thành Tiến sĩ Chính trị học. Hoàng Trung Dũng được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 22 tháng 10 năm 1994, trở thành Đảng viên chính thức sau đó 1 năm.
Hoàng Trung Dũng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815413
Ông theo học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 9 năm 2007 và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Sự nghiệp. Các giai đoạn. Tháng 9 năm 1988, sau khi tốt nghiệp chương trình phổ thông, Hoàng Trung Dũng bắt đầu sự nghiệp khi được nhận vào làm công nhân xưởng trung đại tu ô tô huyện Hoành Bồ (nay là phường thuộc Hạ Long), tỉnh Quảng Ninh ở vùng Đông Bắc. Ông làm việc ở đây 2 năm thì trở lại miền Trung, thi đại học và học Trường Đại học Vinh, Nghệ An. Tháng 9 năm 1994, sau khi tốt nghiệp trường Vinh, ông trở lại Hà Tĩnh, được phân công làm cán bộ cơ quan Tỉnh đoàn, sau đó phân về Thị đoàn Hà Tĩnh làm cán bộ, rồi dần là Phó Bí thư Thị đoàn. Tháng 4 năm 1998, ông được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã, nhậm chức Bí thư Thị đoàn, kiêm nhiệm làm Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tĩnh, và là Phó Bí thư Đảng bộ cơ quan Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân thị xã Hà Tĩnh. Đầu năm 2003, ông được điều chuyển làm Phó Bí thư Tỉnh đoàn, và là Bí thư Đảng bộ Tỉnh đoàn Hà Tĩnh. Sau đó 2 năm, ông nhậm chức Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Thư ký Bí thư Tỉnh ủy Đặng Duy Báu trong nửa năm. Sang tháng 7 năm 2005, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Ủy viên Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, sau đó là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVI, nhậm chức Bí thư Tỉnh Đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh. Tháng 4 năm 2008, ông được điều trở lại thành phố Hà Tĩnh, nhậm chức Phó Bí thư thường trực Thành ủy Hà Tĩnh. Năm 2010, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVII, ông tái đắc cử Tỉnh ủy viên, giữ chức Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, sau đó là Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Bí thư Đảng bộ cơ quan Văn phòng Tỉnh ủy. Lãnh đạo Hà Tĩnh.
Hoàng Trung Dũng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815413
Lãnh đạo Hà Tĩnh. Vào tháng 7 năm 2014, Hoàng Trung Dũng được bầu bổ sung làm Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, được phân công làm Bí thư Thành ủy Hà Tĩnh, tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII vào tháng 10 năm 2015. Tháng 4 năm 2016, ông được luân chuyển công tác làm Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh, cho đến tháng 3 năm 2019 thì được phê chuẩn làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Hà Tĩnh. Tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XIX, ông tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy, được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh Hà Tĩnh, kế nhiệm Ủy viên Trung ương Đảng Lê Đình Sơn. Vào tháng 12 năm này, ông được bầu thêm vị trí Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 1 năm 2021, Hoàng Trung Dũng là đại biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 13 và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, nhiệm kỳ 2021–2026 vào ngày 30 tháng 1. Trong năm này, với sự giới thiệu của Trung ương, ông tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội từ Hà Tĩnh, thuộc đơn vị bầu cử số 4 ở thành phố Hà Tĩnh, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 97,11%. Ông được phê chuẩn làm Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh, Tổ trưởng Tổ Đảng.
Chim Phí bay về cội nguồn (phim)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815415
Chim Phí bay về cội nguồn là bộ phim video do hãng phim Giải Phóng sản xuất năm 2004 theo đơn đặt hàng của Cục Điện ảnh Việt Nam. Bộ phim được đạo diễn bởi Đặng Lưu Việt Bảo, kịch bản của nhà thơ Thảo Phương. Nội dung. Anh chàng Y'Prao trở về làng với cương vị bác sĩ, anh được gặp lại bạn gái thuở nhỏ là H'Linh, tình cảm của hai người cũng như việc chữa bệnh giúp dân làng của Y'Prao vấp phải sự cản trở của H'Len và các hủ tục. Sản xuất. Bộ phim nằm trong chương trình "Sản xuất phim phục vụ đồng bào các dân tộc và miền núi" của Cục điện ảnh Việt Nam và do Hãng phim Giải Phóng nhận trách nhiệm sản xuất. Ý tưởng, kịch bản. Năm 1993, nhà thơ - nhà biên kịch Thảo Phương đọc được một bài báo về hủ tục của người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, bà soạn đề cương kịch bản nộp lên lãnh đạo Hãng phim Giải Phóng. Phải đến năm 2003, kịch bản mới được hãng thông qua, "Chim Phí bay về cội nguồn" được thay đổi từ kịch bản cho dòng phim điện ảnh sang phim video. Bối cảnh. Từ ngày 10 tháng 6 năm 2004, đoàn làm phim của Hãng phim Giải Phóng đến một số địa phương thuộc tỉnh Đắk Lắk để tìm cảnh quay và tuyển diễn viên. Bộ phim được bấm máy từ ngày 16 tháng 5 năm 2004. Các diễn viên trong phim đều là người dân bản địa, không có kinh nghiệm diễn xuất. Diễn viên Y Kim đóng vai bác sĩ Y'Prao và cũng là người thể hiện ca khúc "Chim Phí bay về cội nguồn" trong phim. Phát hành. Bộ phim được Cục điện ảnh Việt Nam phát hành dưới hình thức chiếu lưu động, đồng thời phát sóng trên chương trình Điện ảnh chiều thứ bảy của trên kênh VTV3.
Giải bóng đá Vô địch U-15 Quốc gia 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815417
Giải bóng đá vô địch U-15 quốc gia 2023 là mùa giải thứ 24 của giải bóng đá U-15 quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Đây là giải đấu dành cho các cầu thủ từ 14 đến 15 tuổi (Sinh từ ngày 1/1/2008 tới ngày 31/12/2009). Vòng loại. Vòng loại giải bóng đá vô địch U-15 quốc gia 2023 gồm 22 đội chia thành 5 bảng (3 bảng 5 đội và 2 bảng 6 đội) thi đấu vòng tròn 2 lượt. 12 đội bao gồm đội chủ nhà, 10 đội nhất nhì của 5 bảng và đội xếp thứ 3 có thành tích tốt nhất sẽ giành quyền tham dự vòng chung kết.
Vòng loại giải bóng đá vô địch U-15 quốc gia 2023
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815424
Giải bóng đá Vô địch U-15 Quốc gia 2023 là mùa giải thứ 24 của giải bóng đá U-15 quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Đây là giải đấu dành cho các cầu thủ từ 14 đến 15 tuổi (Sinh từ ngày 1/1/2008 tới ngày 31/12/2009). Vòng loại giải bóng đá vô địch U-15 quốc gia 2023 được diễn từ ngày 11 tháng 7 tới ngày 3 tháng 8 tại 5 địa điểm.
Sofia Wilhelmina của Thụy Điển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815426
Sofia Wilhelmina của Thụy Điển ("Sofia Vilhelmina Katarina Maria Lovisa Charlotta Anna"; 21 tháng 5 năm 1801 – 6 tháng 7 năm 1865), là một vương nữ Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, con gái của Vua Gustav IV Adolf và cháu gái của Gustav III. Năm 1815, Sofia Wilhelmina đính hôn với người chú cùng ông ngoại khác bà ngoại của mình là Leopold xứ Baden, người con quý tiện kết hôn của ông ngoại Karl Friedrich xứ Baden với một thường dân tên là Luise Karoline. Tuy nhiên, ngay lúc kết hôn thì Leopold đã trở thành người thừa kế ngai vàng của Đại công quốc Baden, cuộc hôn nhân với một vương nữ sẽ giúp nâng bị thế của Leopold lên. Hậu huệ của Leopold và Sofia đã cai trị Baden cho đến khi Đức bãi bỏ chế độ quân chủ vào năm 1918.
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815435
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh hoặc AI tạo sinh là một loại hệ thống AI có khả năng tạo ra văn bản, hình ảnh hoặc các phương tiện truyền thông khác dựa trên các gợi ý (prompt). Các mô hình "AI tạo sinh" học các mô hình và cấu trúc của dữ liệu đầu vào của chúng bằng cách áp dụng các kỹ thuật học máy mạng nơ-ron, sau đó tạo ra dữ liệu mới có các đặc điểm tương tự. Các hệ thống AI tạo sinh đáng chú ý bao gồm ChatGPT (và biến thể của nó là Bing Chat), một chatbot được xây dựng bởi OpenAI sử dụng các mô hình ngôn ngữ lớn nền tảng GPT-3 và GPT-4 của họ, và Bard (chatbot), một chatbot được xây dựng bởi Google sử dụng mô hình nền tảng LaMDA. Các mô hình AI tạo sinh khác bao gồm các hệ thống nghệ thuật AI như Stable Diffusion, Midjourney và DALL-E. AI tạo sinh có tiềm năng ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp, bao gồm nghệ thuật, viết lách, phát triển phần mềm, thiết kế sản phẩm, chăm sóc sức khỏe, tài chính, trò chơi, tiếp thị và thời trang. Đầu tư vào AI tạo sinh đã tăng vọt trong những năm đầu của thập kỷ 2020, với các công ty lớn như Microsoft, Google và Baidu cũng như nhiều công ty nhỏ hơn đang phát triển các mô hình trí tuệ nhân tạo tạo sinh. Tuy nhiên, cũng có những lo ngại về việc sử dụng sai mục đích của AI tạo sinh, chẳng hạn như tạo tin giả hoặc deepfake, có thể được sử dụng để lừa dối hoặc thao túng con người. Lịch sử. Kể từ khi thành lập, lĩnh vực học máy (machine learning) đã sử dụng các mô hình thống kê, bao gồm cả mô hình tạo sinh, để mô hình hóa và dự đoán dữ liệu. Bắt đầu từ cuối những năm 2000, sự xuất hiện của học sâu (deep learning) đã thúc đẩy tiến bộ và nghiên cứu trong xử lý ảnh và video, phân tích văn bản, nhận dạng giọng nói và các tác vụ khác. Tuy nhiên, hầu hết các mạng thần kinh sâu được đào tạo như các mô hình phân biệt thực hiện các tác vụ phân loại như phân loại hình ảnh dựa trên mạng thần kinh tích chập. Năm 2014, những tiến bộ như autoencoder biến đổi (VAE) và mạng đối nghịch tạo sinh đã tạo ra các mạng thần kinh sâu thực tế đầu tiên có khả năng học các mô hình tạo sinh, thay vì phân biệt, của dữ liệu phức tạp như hình ảnh.
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815435
Các mô hình tạo sinh sâu này là những mô hình đầu tiên có thể xuất ra không chỉ tạo nhãn (label) cho hình ảnh, mà còn có thể xuất ra toàn bộ hình ảnh. Năm 2017, mạng Transformer đã cho phép phát triển các mô hình tạo sinh, dẫn đến Generative pre-trained transformer (GPT) đầu tiên vào năm 2018. Tiếp theo là GPT-2 vào năm 2019, đã chứng minh khả năng tạo sinh không giám sát cho nhiều tác vụ khác nhau như một mô hình nền tảng (Foundation model). Năm 2021, sự ra mắt của DALL-E, một mô hình tạo sinh pixel dựa trên transformer, tiếp theo là Midjourney và Stable Diffusion đã đánh dấu sự xuất hiện của nghệ thuật trí tuệ nhân tạo chất lượng cao thực tế từ các lời nhắc hoặc gợi ý (prompt). Vào tháng 1 năm 2023, Futurism.com đã đưa tin rằng CNET đã sử dụng một công cụ AI nội bộ không được tiết lộ để viết ít nhất 77 câu chuyện của mình; sau khi tin tức được công bố, CNET đã đăng các bản sửa lỗi cho 41 câu chuyện. Vào tháng 3 năm 2023, GPT-4 đã được phát hành. Một nhóm từ Microsoft Research lập luận rằng "nó có thể được xem một cách hợp lý như một phiên bản ban đầu (nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh) của hệ thống trí tuệ tổng quát nhân tạo (AGI)". Thể thức. Hệ thống AI tạo sinh được xây dựng bằng cách áp dụng học máy không giám sát hoặc tự giám sát cho một tập dữ liệu. Khả năng của hệ thống AI tạo sinh phụ thuộc vào mô-đun hoặc loại của tập dữ liệu được sử dụng. AI tạo sinh có thể là đơn mô-đun hoặc đa mô-đun; hệ thống đơn mô-đun chỉ nhận một loại đầu vào, trong khi hệ thống đa mô-đun có thể nhận nhiều hơn một loại đầu vào. Ví dụ, GPT-4 của OpenAI chấp nhận cả đầu vào văn bản và hình ảnh.
Zuzubalândia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815441
Zuzubalândia là loạt phim hoạt hình trên truyền hình dành cho lứa tuổi của Brasil được sáng lập bởi đạo diễn Brasil Mariana Caltabiano cho Boomerang vào ngày 25 tháng 5 năm 2018. Dựa trên sách năm 1997 "Jujubalândia" và chương trình thiếu nhi cùng tên. Loạt phim kể lại những cuộc phiêu lưu của Zuzu và những người bạn của mình tại vương quốc hư cấu Zuzubalândia. Chương trình cũng được phát sóng bởi kênh SBT vào ngày 8 tháng 12 năm 2018.
Vladimir Yuryevich Zubarev
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815445
Vladimir Yuryevich Zubarev (; sinh ngày 5 tháng 1 năm 1993) là một cựu cầu thủ bóng đá người Nga thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự. Sự nghiệp câu lạc bộ. Anh có trận ra mắt tại Giải bóng đá chuyên nghiệp Nga cho FC Spartak-2 Moscow vào ngày 16 tháng 7 năm 2013 trong trận đấu với FC Dynamo Bryansk. Vào ngày 1 tháng 12 năm 2018, anh kết thúc hợp đồng với FC Ufa theo sự đồng ý của cả hai bên.
Công quốc Mantua
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815446
Công quốc Mantua (tiếng Ý: "Ducato di Mantova"; tiếng Lombard: "Ducaa de Mantua") là một công quốc ở Lombardia, miền Bắc nước Ý ngày nay. Công tước đầu tiên của nó là Federico II Gonzaga, thành viên của Nhà Gonzaga cai trị Mantua từ năm 1328. Năm sau, Công quốc cũng có được Hầu quốc Montferrat, nhờ vào cuộc hôn nhân giữa Gonzaga và Margherita Paleologa, Nữ Hầu tước Montferrat. Quyền lực và ảnh hưởng lịch sử của Công quốc dưới thời gia đình Gonzaga đã khiến nó trở thành một trong những trung tâm nghệ thuật, văn hóa và đặc biệt là âm nhạc chính của miền Bắc nước Ý và cả nước nói chung. Mantua cũng có một trong những triều đình lộng lẫy nhất của Ý và châu Âu vào thế kỷ XV, XVI và đầu thế kỷ XVII. Năm 1708, sau cái chết của Ferdinando Carlo Gonzaga, người thừa kế cuối cùng của gia đình Gonzaga, Công quốc không còn tồn tại. Lãnh thổ của họ được phân chia giữa Nhà Savoy, nơi chiếm được nửa Montferrat còn lại, và Nhà Habsburg, nơi chiếm được chính thành phố Mantua.
Yevgeni Viktorovich Zubarev
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815450
Yevgeni Viktorovich Zubarev (; sinh ngày 2 tháng 2 năm 1967) là một cựu cầu thủ bóng đá Nga.
Chính trị Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815452
Chính trị Phần Lan đi theo nguyên mẫu nhà nước dân chủ đại nghị, đa đảng. Phần Lan là một nước cộng hòa với nguyên thủ là Tổng thống Sauli Niinistö, người thống lĩnh các lực lượng phòng vệ Phần Lan và điều hành các chính sách đối ngoại của nhà nước cùng với Chính phủ. Theo học thuyết tam quyền phân lập, quyền lập pháp do Quốc hội thực hiện, quyền hành pháp của Quốc hội do Chính phủ – đứng đầu bởi Thủ tướng – thực hiện và quyền tư pháp độc lập với hai nhánh quyền lực còn lại. Hiến pháp Phần Lan trao quyền cho cả tổng thống và Chính phủ, theo đó tổng thống có quyền phủ quyết đối với các nghị quyết của Quốc hội, tuy nhiên Quốc hội có khả năng vô hiệu hóa quyền này với một cuộc biểu quyết đa số thuận.
Olha Zubaryeva
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815453
Olha Valentinivna Zubaryeva (, sinh ngày 27 tháng 1 năm 1958) là một cựu vận động viên bóng ném người Liên Xô/Ukraina đã tham dự Thế vận hội Mùa hè 1980. Năm 1980, bà giành huy chương vàng cùng với đội Liên Xô. Bà đã chơi tất cả 5 trận đấu và ghi được 21 bàn thắng.
Haori
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815491
là loại áo khoác dài truyền thống của Nhật Bản được mặc bên ngoài bộ kimono và có chiều dài từ hông tới đùi. Giống như phiên bản tối giản của một bộ kimono khi không có các tấm phía trước chồng lên nhau (), thường có cổ áo mỏng hơn so với cổ áo của kimono và được may thêm hai tấm hình tam giác mỏng ở hai bên đường may. thường được dùng hai sợi dây ngắn buộc ở phía trước, được gọi là , gắn vào các vòng nhỏ khâu bên trong quần áo. Vào thời kỳ Edo, tầng lớp thương nhân tuy giàu lên trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhưng lại có địa vị thấp dẫn đến tình trạng thu nhập khả dụng vượt mức, phần lớn trong số đó được chi cho quần áo. Chính vì vậy, trong thời kỳ này, các tầng lớp thống trị đã ban hành các sắc lệnh bắt buộc về trang phục, do đó, những người đàn ông Nhật Bản thuộc tầng lớp thương gia đã bắt đầu mặc với thiết kế bên ngoài đơn giản cùng lớp lót được trang trí lộng lẫy, một xu hướng vẫn còn thấy ở của nam giới ngày nay. Vào đầu thập niên 1800, các geisha ở của Fukagawa, Tokyo bắt đầu mặc bên ngoài bộ kimono của họ. Cho đến thời điểm đó, chỉ là trang phục mặc định của đàn ông; các geisha của Fukagawa, vốn nổi tiếng với những lựa chọn thời trang phong cách và khác thường, đã tạo ra xu hướng mặc cho phụ nữ, về sau đã trở nên phổ biến vào những năm 1930. Trong thời hiện đại, được mặc bởi cả nam và nữ.
Hertzoggie
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815492
Hertzoggie , (tiếng Afrikaans: Hertzogkoekie, tạm dịch tiếng Việt: Bánh quy Hertzog, là một loại bánh tart hoặc bánh quy chứa nhân mứt mơ với lớp phủ dừa thường được phục vụ trên đế bánh ngọt giống như cốc. Món bánh quy này là món tráng miệng phổ biến ở Nam Phi, nơi nó thường được ăn kèm với một cốc trà Anh Quốc. Ở khu vực cộng đồng Cape Malay, món tráng miệng này thường được ăn trong lễ Eid. Nó thường được nướng ở nhà như một phần của nghề thủ công trong nước và được bán cùng với các món tráng miệng phổ biến khác của Nam Phi như koeksister. Lịch sử. Chiếc bánh được đặt theo tên của chính trị gia Nam Phi đầu thế kỷ 20, thủ tướng (1924–1939) và người toàn quyền chiến tranh Boer thứ hai, J. B. M. Hertzog. Hertzogkoekie được cho là sở thích của ông. Những người ủng hộ Hertzog được biết là đã nướng, phục vụ và bán chúng để thể hiện sự ủng hộ với chính trị gia của họ. Một câu chuyện về nguồn gốc của món tráng miệng nói rằng nó được phát minh bởi cộng đồng Cape-Malay để thể hiện sự ủng hộ của họ đối với Hertzog sau khi anh ta hứa sẽ cho phụ nữ quyền bỏ phiếu và quyền bình đẳng đối với cộng đồng người da màu vào những năm 1920. Sau khi thực hiện lời hứa đầu tiên là trao quyền bầu cử cho phụ nữ vào năm 1930, nhưng không phải lần thứ hai, cộng đồng bắt đầu nướng bánh quy với lớp kem màu nâu và hồng có tên "twee gevreetjie" (tiếng Afrikaans có nghĩa là "kẻ đạo đức giả"), thể hiện sự không hài lòng của họ đối với ông. Một nguồn gốc khả dĩ khác của món tráng miệng là tập tục của người Afrikaan sau Chiến tranh Boer thứ hai để đặt tên bánh kẹo theo tên các anh hùng dân tộc. Bố cục. Hertzogkoekie được chuẩn bị từ đế bánh ngọt có nắp mở chứa nhân mứt mơ. Nó được phủ lên trên với dừa nạo hoặc bánh trứng đường dừa nạo làm topping và nướng. Bánh quy Jan Smuts. Hertzogkoekie đã truyền cảm hứng cho những người ủng hộ đối thủ chính trị của Hertzog và Jan Smuts đương thời để tạo ra một phiên bản của riêng họ được gọi là "Bánh quy Jan Smuts". Loại bánh kẹo này cũng trở nên phổ biến vào những năm 1920 và 1930.
Hertzoggie
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815492
Bánh quy Jan Smuts có lớp phủ kem bơ và đường thay vì lớp phủ bánh trứng đường nhạt hơn của Hertzogkoekie. Xem thêm. Koeksister
Ga Hwaseo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815493
Ga Hwaseo (Tiếng Hàn: 화서역, Hanja: 華西驛) là ga tàu điện ngầm trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 nằm ở Hwaseo-dong, Paldal-gu, Suwon-si, Gyeonggi-do. Khi phần mở rộng của Tuyến Shinbundang mở ra trong tương lai, nó sẽ trở thành một ga trung chuyển.
Michiyuki (thuật ngữ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815504
là một thuật ngữ mô tả các cảnh hành trình trong kịch truyền thống của Nhật Bản, nơi các nhân vật trong vở kịch đó nhảy múa hoặc trò chuyện khi đang trên một chuyến đi. Thuật ngữ , được diễn giải nghĩa chung là "michi wo yuku" nghĩa là "đi trên một con đường", được sử dụng trong các chi tiết miêu tả trữ tình về những cuộc hành trình vào thế kỷ VII. Nó cũng là một thuật ngữ chỉ âm nhạc trong các điệu nhảy bugaku của thời Heian, cụ thể, vũ công sẽ nhảy múa khi đang di chuyển lên sân khấu. Là một thuật ngữ chuyên ngành kịch Noh và Kabuki, "michiyuki" đã được sử dụng từ thế kỷ 16. Trong kịch Noh, Michiyuki thường đảm nhận chức năng mở đầu, các nhân vật giới thiệu vở kịch trong khi di chuyển đến địa điểm diễn ra hành động chính. Ngược lại, trong kịch Kabuki, michiyuki thường diễn ra ở màn cuối cùng. Michiyuki được thực hiện bởi các nhân vật du hành di chuyển với tốc độ ổn định trên sân khấu chính hoặc trên hanamichi (lối đi hoặc "hành lang" gắn liền với sân khấu chính).
Tuyến Byeollae
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815507
Tuyến Byeollae (Tiếng Hàn: 별내선, Hanja: 別內線) là tuyến đường sắt diện rộng kết nối Ga Amsa ở Gangdong-gu, Seoul và Ga Byeollae ở Namyangju-si, Gyeonggi-do. Seoul và Gyeonggi-do đang cùng nhau thúc đẩy dự án này như một phần của việc giải quyết tình trạng tắc nghẽn giao thông kinh niên do phát triển khu nhà ở ở phía đông bắc của vùng thủ đô. Kế hoạch mở rộng. Vào ngày 29 tháng 12 năm 2020, như một phần trong kế hoạch cải thiện giao thông trên diện rộng cho thị trấn mới lần thứ 3 của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải ga cuối của Tàu điện ngầm Seoul tuyến 8 dự kiến ​​sẽ được kéo dài đến Ga Byeollae Byeolgaram trên Tuyến Jinjeop thuộc Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 4. Chi phí xây dựng được cho là khoảng 90 tỷ won. Nếu nghiên cứu khả thi được thông qua, kế hoạch được hoàn thành. Do những nỗ lực của Thành phố Namyangju, vào tháng 11 năm 2021, nó đã được chuyển sang nghiên cứu khả thi sơ bộ cho các tuyến đường bao gồm Ga Byeolnae Jungang, một ga trung gian. Ngoài ra, một phần mở rộng từ Uijeongbu-si đến Ga Tapseok hoặc Ga trên Tuyến Gyeongwon đang được theo đuổi, điều này được phản ánh trong tuyến đường xem xét bổ sung của Kế hoạch Thiết lập Mạng lưới Đường sắt Quốc gia lần thứ 4.
Bướm phượng Vương hậu Alexandra
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815514
Bướm phượng Vương hậu Alexandra (danh pháp khoa học: Ornithoptera alexandrae) là một loài bướm trong họ Bướm phượng thuộc chi "Ornithoptera". Đây được xem là loài bướm lớn nhất trên thế giới, với những cá thể cái đạt sải cánh từ 25 cm đến 28 cm (9,8 in đến 11 in). Loài bướm này chỉ được tìm thấy trong các khu rừng xung quanh đồng bằng Popondetta của tỉnh Oro ở phía đông Papua New Guinea. Loài này đang bị đe dọa và là một trong ba loài bướm được liệt kê trong Phụ lục I của CITES, khiến việc buôn bán loài này trở nên bất hợp pháp. Lịch sử. Loài này được phát hiện vào năm 1906 bởi nhà sưu tầm học Albert Stewart Meek. Ông được Walter Rothschild thuê để thu thập các mẫu vật lịch sử tự nhiên từ New Guinea. Vào năm 1907, Rothschild đã đặt tên cho loài bướm này để vinh danh vương hậu Alexandra của Đan Mạch.. Mặc dù mẫu vật đầu tiên được thu thập bằng một khẩu súng ngắn nhỏ, nhưng Meek đã sớm phát hiện và nhân giống hầu hết các mẫu vật đầu tiên. Vào thời Victoria và Edward, hộp đạn chứa đầy hạt mù tạc hoặc các loại đạn tấm, được thiết kế chủ yếu để bắn các loài chim nhỏ ở cự ly ngắn và không làm tổn hại đến bộ lông của chúng, đôi khi được các nhà sưu tập sử dụng để bắn hạ những con bướm bay cao và các loài bọ cánh cứng lớn trong các chuyến thám hiểm đến các nước nhiệt đới. Đến cuối năm 1907, Meek đã có thể thu thập tổng cộng 99 mẫu vật của loài này, bao gồm 35 cá thể bị bắt và 25 cá thể khác được nhân giống trong chuyến thám hiểm thứ hai. Mặc dù hầu hết các nhà khoa học hiện nay phân loại loài này trong chi "Ornithoptera", trước đây loài này đã được đặt trong chi "Troides" hoặc chi "Aethoptera" hiện không còn tồn tại. Năm 2001, nhà bướm học Gilles Deslisle đề xuất đặt nó trong phân chi của chính chi "Ornithoptera" (mà một số người đã coi nó là một chi); ban đầu ông đề xuất cái tên "Zeunera", nhưng đây là một danh pháp đồng nghĩa của "Ornithoptera" được Piton đặt ra vào năm 1936, và tên thay thế sau này là "Straatmana". Mô tả. Con cái có kích thước lớn hơn con đực với đôi cánh rộng hơn, tròn hơn rõ rệt. Con cái có sải cánh từ 25 cm đến 28 cm (9,8 in đến 11 in), chiều dài cơ thể là và khối lượng cơ thể lên tới .
Bướm phượng Vương hậu Alexandra
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815514
Mặt trên màu nâu với các mảng màu trắng xếp thành hai hàng dạng hình chữ V. Mặt dưới có màu nâu với một đường viền dưới hình tam giác màu vàng ở giữa. Cơ thể có màu kem và có một phần lông nhỏ màu đỏ trên ngực màu nâu. Con đực có sự dị hình giới tính nổi bật. Đôi cánh dài với các góc cạnh. Mặt trên màu xanh lục ánh kim với dải trung tâm màu đen. Mặt dưới màu xanh lá cây hoặc xanh lục lam với các đường gân đen. Con đực nhỏ hơn con cái. Bụng có màu vàng tươi. Sải cánh của con đực có thể dài khoảng , nhưng thường là khoảng . Con đực thuộc phân loài "atavis" có màu sắc rất sặc sỡ với những đốm vàng trên cánh sau. và con đực của phân loài "diva" thì có các các ô cánh màu xanh đậm, khác biệt so với màu xanh tiêu chuẩn. Cả hai giới đực và cái thường bị nhầm lẫn với "O. priamus." Sinh vật học. Vòng đời của loài này lần đầu tiên được nghiên cứu vào năm 1967–1970 và được mô tả bởi nhà côn trùng học Birdwing Ray Stratman (1917–1987) vào năm 1971. Trứng. Trứng khá lớn và có màu vàng nhạt và dẹt ở gốc, được cố định vào bề mặt mà chúng được đẻ bằng một chất dịch màu cam sáng. Trong điều kiện thích hợp, bướm phượng Vương hậu Alexandra cái có khả năng đẻ hơn 240 quả trứng trong suốt cuộc đời của nó, mỗi lần để khoảng từ 15-30 quả trứng. Trứng bị tấn công bởi các loài kiến và các loài trong bộ Cánh nửa (mặc dù một số bài báo gộp chung bộ này với Heteroptera). Trong một số trường hợp, con cái có thể đẻ trứng không phải trên cây chủ mà ở khoảng cách vài cm tính từ thân cây. Đẻ trứng cách cây chủ một khoảng cách ngắn có thể giúp bảo vệ chống lại ký sinh trùng. Khi vừa mới sinh, chúng thường ăn lá cây trước rồi mới đến vỏ trứng. Ấu trùng. Ấu trùng mới nở ăn vỏ trứng của chính nó trước khi ăn lá tươi. Ấu trùng có màu đen với các nốt sần sùi màu đỏ và có một dải màu kem ở giữa cơ thể. Sau khi ăn vỏ trứng, chúng bắt đầu hút chất dinh dưỡng từ các loài cây thuộc chi "Aristolochia" (họ Aristolochiacea), bao gồm "A. dielsiana," "A. schlecteri" và "A. tagala".
Bướm phượng Vương hậu Alexandra
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815514
Ban đầu, chúng ăn lá tươi của cây chủ, cuối cùng gây ra bệnh vỏ cây cho các loài cây này trước khi hóa nhộng. Các loài cây thuộc họ Aristolochiaceae chứa acid aristolochic trong lá và thân của chúng. Đây được cho là một chất độc mạnh đối với động vật có xương sống và được ấu trùng tích lũy trong quá trình phát triển của chúng. Nhộng. Nhộng có màu vàng của vàng hoặc nâu vàng với các mảng màu đen. Nhộng của con đực có thể được phân biệt bằng một mảng đen mờ trên vỏ cánh; nó trở thành dải vảy cánh sau khi chúng trưởng thành và được gọi là hình thái giới tính. Thời gian để loài này phát triển từ trứng thành nhộng là khoảng sáu tuần, với giai đoạn nhộng mất một tháng hoặc hơn. Con trưởng thành chui ra khỏi kén vào sáng sớm khi độ ẩm vẫn còn cao, vì đôi cánh lớn của chúng có thể bị khô trước khi chúng nở ra hoàn toàn nếu độ ẩm giảm xuống. Trưởng thành. Con trưởng thành có thể sống từ ba tháng trở lên, với con đực có thể sống thêm ba tháng nữa trong tự nhiên và con cái lên đến sáu tháng. Loài này có ít kẻ thù tự nhiên vì trong cơ thể chúng có các chất độc được tích trữ trong thức ăn khi chúng là ấu trùng, ngoại trừ nhện dệt quả cầu lớn ("Nephila") và một số loài chim nhỏ. Con trưởng thành ăn mật hoa tạo ra một bục rộng cho con trưởng thành đáp xuống, bao gồm cả các loài thuộc chi Dâm bụt"." Những con trưởng thành bay rất mạnh vào sáng sớm và hoàng hôn khi chúng tích cực kiếm ăn ở những bông hoa. Những con đực cũng bay xung quanh các khu vực của cây chủ để tìm những con cái mới xuất hiện vào sáng sớm. Con cái có thể được nhìn thấy đang tìm kiếm cây chủ trong hầu hết thời gian trong ngày. Những con đực tán tỉnh ngắn nhưng ngoạn mục; chúng lơ lửng phía trên một người bạn đời tiềm năng và tiết ra pheromone để kích thích giao phối. Những con cái dễ tiếp thu sẽ cho phép con đực hạ cánh và kết đôi, trong khi những con cái không dễ tiếp thu sẽ bay đi hoặc nói cách khác là không muốn giao phối. Con đực có tính bảo vệ lãnh thổ mạnh mẽ và sẽ không cho những con bướm hoặc/và các loài khác xâm nhập và thậm chí đôi khi đuổi theo chúng.
Bướm phượng Vương hậu Alexandra
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815514
Loài này thường bay cao trong tán rừng nhiệt đới, nhưng cả hai giới đều hạ xuống cách mặt đất trong vòng vài mét khi kiếm ăn hoặc đẻ trứng. Các mối đe dọa và bảo tồn. Loài bướm phượng Vương hậu Alexandra được IUCN liệt kê vào danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng, bị giới hạn ở khoảng của rừng nhiệt đới ven biển gần Popondetta, tỉnh Oro, Papua New Guinea, mặc dù các báo cáo cho thấy mẫu vật đầu tiên mà Meek thu thập được ghi nhận vào tháng 1 năm 1906 từ một nơi điển hình gần Biagi ở đầu nguồn sông Mambare. Tuy nhiên, nó rất phong phú tại địa phương và cần có rừng nhiệt đới phát triển lâu đời để tồn tại lâu dài. Mối đe dọa chính đối với loài này là sự phá hủy môi trường sống của các đồn điền cọ dầu, mở rộng đất nông nghiệp và khai thác gỗ. Tuy nhiên, vụ phun trào của núi Lamington gần đó vào những năm 1950 đã phá hủy một khu vực rộng 250 km2 trong môi trường sống trước đây của loài này và là lý do chính dẫn đến tình trạng hiếm gặp hiện nay. Loài này được các nhà sưu tập đánh giá cao và vì sự quý hiếm của nó, loài bướm này được bán với giá rất cao trên thị trường chợ đen, theo báo cáo là 8.500-10.000 đô la Mỹ tại Hoa Kỳ vào năm 2007. Năm 2001, nhà nghiên cứu nổi tiếng người Canada, Gilles Deslisle, đã bị phạt 50.000 đô la Canada vì nhập khẩu trái phép sáu mẫu vật của loài này. Năm 2007, "kẻ buôn lậu bướm toàn cầu" Hisayoshi Kojima đã nhận 17 tội danh sau khi bán một số loài bướm có nguy cơ tuyệt chủng, bao gồm một cặp bướm phượng Vương hậu Alexandra với giá 8.500 đô la Mỹ, cho một đặc vụ của Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ. Những người sưu tập ban đầu thất vọng vì độ cao mà con trưởng thành bay vào ban ngày khiến việc sưu tập trở nên khó khăn và thường sử dụng súng ngắn để hạ mẫu vật, nhưng vì những người sưu tập yêu cầu mẫu vật chất lượng cao cho bộ sưu tập của họ nên hầu hết các mẫu vật đều được nuôi từ ấu trùng hoặc nhộng. Mặc dù những người sưu tập thường liên quan đến sự suy giảm của loài này, nhưng sự phá hủy môi trường sống là mối đe dọa chính.
Bướm phượng Vương hậu Alexandra
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815514
Loài này được liệt kê trong Phụ lục II của CITES vào năm 1986, và sau đó là Phụ lục I vào năm 1987. điều đó nghĩa là buôn bán thương mại quốc tế là bất hợp pháp. Tại cuộc họp năm 2006 của Ủy ban Động vật CITES, một số ý kiến đề xuất nên chuyển nó về Phụ lục II (cho phép hạn chế buôn bán loài này), vì lợi ích bảo tồn của quản lý bền vững có lẽ cao hơn so với lợi ích của lệnh cấm buôn bán. Đồng thời, loài này cũng được bảo vệ bởi luật pháp ở Papua New Guinea từ năm 1966.
Luật 34
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815515
Luật 34 là một meme trên Internet cho rằng nội dung khiêu dâm trên Internet có thể liên quan đến mọi chủ đề trong cuộc sống. Khái niệm này thường được miêu tả trong các tác phẩm nghệ thuật của người hâm mộ về các đối tượng bình thường và thường không liên quan đến sự khiêu dâm hay tham gia vào hành vi hoặc hoạt động tình dục. Nó cũng có thể bao gồm các bài viết, phim hoạt hình, hình ảnh, ảnh GIF và bất kỳ hình thức truyền thông nào khác mà internet cung cấp cơ hội để giúp chúng phổ biến và phân phối lại. Lịch sử. Cụm từ "Luật 34" được đặt ra từ một truyện tranh trực tuyến ngày 13 tháng 8 năm 2003 có câu chú thích: "Luật #34 Có nội dung khiêu dâm về nó. Không có ngoại lệ." Truyện tranh được vẽ bởi TangoStari (Peter Morley-Souter) mô tả cú sốc của anh ấy khi xem phim hài khiêu dâm của "Calvin và Hobbes". Mặc dù truyện tranh đã trở nên mờ nhạt, nhưng câu chú thích này ngay lập tức trở nên phổ biến trên Internet. Kể từ đó, cụm từ đã được điều chỉnh thành nhiều phiên bản khác nhau và thậm chí còn được sử dụng như một động từ. Một danh sách "các luật của Internet" được tạo trên trang web 4chan, bao gồm Luật 34 trong một danh sách các luật đầu môi tương tự, chẳng hạn như Luật 63. Năm 2008, người dùng trên 4chan đã đăng nhiều phim hoạt hình và hài khiêu dâm minh họa Luật 34; trong tiếng lóng của 4chan, nội dung khiêu dâm có thể được gọi là "quy tắc 34" hoặc "pr0nz". "Từ điển Châm ngôn Hiện đại" tuyên bố rằng Luật 34 bắt đầu xuất hiện trên các bài đăng trên Internet vào năm 2008." Khi Luật 34 tiếp tục lan truyền trên Internet, một số phương tiện truyền thông truyền thống bắt đầu đưa tin về nó. Một bài báo trên "The Daily Telegraph" năm 2009 đã liệt kê Luật 34 là luật thứ ba trong số "10 quy tắc và luật" hàng đầu về Internet. Một câu chuyện của CNN năm 2013 cho biết Luật 34 "có thể là quy tắc Internet nổi tiếng nhất" đã trở thành một phần của văn hóa chính thống. Vào ngày 14 tháng 11 năm 2018, một người dùng phát trực tiếp trên Twitch có biệt danh là "Drypiss" đã tổ chức sinh nhật lần thứ 18 của mình bằng cách đăng một video lên Twitter trong đó anh ấy tra cứu các bức ảnh theo Luật 34; sau đó, video và phản hồi của nó đã được "The Daily Dot" đưa tin.
Luật 34
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815515
Fan fiction đã khiêu dâm hóa nhiều nhân vật chính trị từ cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2016 và sự cố tắc nghẽn kênh đào Suez năm 2021 bởi tàu chở côngtenơ "Ever Given". Những cuốn sách ngắn giá rẻ có tên "Tinglers" đã mô tả những con khủng long và máy bay được nhân hóa với các hành vi tình dục. Một tác giả có bút danh, Chuck Tingle, đã xuất bản tác phẩm khiêu dâm đen tối về Brexit, kể về việc quan hệ tình dục với một đồng xu một bảng Anh khổng lồ từ tương lai, vài giờ sau khi cuộc trưng cầu dân ý được thông qua. Phân tích. Theo các nhà nghiên cứu Ogi Ogas và Sai Gaddam, lý do khiến câu cách ngôn này được nhiều người đồng ý vì đó là một sự thật hiển nhiên đối với bất kỳ ai lướt Web. Ogas nói rằng sau nghiên cứu năm 2009–2010, việc hợp nhất ngành công nghiệp khiêu dâm vào các công cụ tổng hợp video có thị phần lớn đã làm giảm khả năng hiển thị của các video trên thị trường. Các trang web trực tiếp ủng hộ nội dung chính thống bằng cách hướng người dùng đến nội dung đó và gián tiếp bằng cách gây bất lợi cho các nhà sản xuất nhỏ không đủ khả năng thực hiện các biện pháp chống lại sự vi phạm bản quyền một cách gay gắt, khiến người ta nghi ngờ về khả năng theo kịp thị trường của quy tắc này. Cory Doctorow kết luận, "Luật 34 có thể được coi là một kiểu cáo buộc Web, là nơi dừng chân của những kẻ lập dị, nhưng được nhìn qua lăng kính của chủ nghĩa quốc tế, cho thấy một sự tinh tế nhất định - một cách tiếp cận cuộc sống sành điệu." John Paul Stadler kết luận rằng Luật 34 phản ánh việc hệ thống hóa sự lệch lạc tình dục thành cấu trúc bản sắc xã hội. Các biến thể. Luật ban đầu đã được viết lại và nhắc đi nhắc lại khi nó lan truyền trên Web. Một số biến thể phổ biến bỏ qua sự "Không có ngoại lệ" ban đầu.
VinFast VF 3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815519
VinFast VF 3 là mẫu xe ô tô thông minh chạy động cơ điện được phát triển, giới thiệu năm 2023, phân phối ra thị trường năm 2024 bởi VinFast, thành viên của Tập đoàn Vingroup. Tên gọi. Tên gọi VinFast đã được Vingroup đăng ký bản quyền tại Cục Sở hữu trí tuệ (Việt Nam) với các ý nghĩa được giải thích như sau:
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815520
Sĩ có thể có nghĩa là:
Cộng đồng Phát triển Nam Phi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815526
Cộng đồng Phát triển Nam Phi (tiếng Anh: Southern African Development Community, viết tắt: SADC) là một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Gaborone, Botswana. Mục tiêu của tổ chức là tăng cường hợp tác và hội nhập kinh tế-xã hội trong khu vực, cũng như hợp tác chính trị và an ninh giữa 16 quốc gia ở khu vực Nam Phi. Quốc gia thành viên. Tính đến năm 2022, SADC có tổng cộng 16 quốc gia thành viên: Burundi đã yêu cầu tham gia. Cấu trúc tổ chức và thủ tục ra quyết định. Tổ chức có sáu cơ quan chính: Ngoại trừ Toà án (có trụ sở tại Windhoek, Namibia), SNC và Ban Thư ký, việc ra một quyết định là theo sự đồng thuận chung.
Trương Tiến Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815527
Trương Tiến Anh (sinh ngày 25 tháng 4 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam chơi ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Viettel và đội tuyển quốc gia Việt Nam. Tiến Anh bắt đầu sự nghiệp bóng đá tại câu lạc bộ Viettel, có trận đấu chuyên nghiệp đầu tiên vào năm 2019 và giành chức vô địch quốc gia mùa 2020. Anh được truyền thông Việt Nam ví như truyền nhân của cựu cầu thủ Trương Việt Hoàng. Sự nghiệp quốc tế. THáng 6 năm 2023, Trương Tiến Anh có lần đầu tiên được gọi lên đội tuyển quốc gia Việt Nam, chuẩn bị cho 2 trận giao hữu với Hồng Kông và Syria. Ngày 15 tháng 6, anh ra mắt đội tuyển khi vào sân thay cho Hồ Tấn Tài trong trận đấu gặp Hồng Kông. Cuộc sống cá nhân. Năm 2017, nhờ thành tích xuất sắc trong màu áo U-20 Việt Nam, Trương Tiến Anh đã được đặc cách tuyển thẳng vào trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh. Danh hiệu. Viettel U-19 Việt Nam
Giáo phận Suwon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815528
Tọa lạc trên diện tích 5,565 km2, lãnh thổ giáo phận Suwon bao gồm nhiều thành phố gồm: một phần thành phố Ansan, Anseong, Anyang, Gunpo, Gwacheon, Gwangju, Gwangmyeong, Hanam, Hwaseong, Icheon, Osan, Pyeongtaek, Seongnam, một phần thành phố Siheung, Suwon, Uiwang, Yongin, một số khu vực ngoại thành như Yangpyeong, và Yeoju. Tất cả đều năm ở khu vưc phía nam của tỉnh Gyeonggi-do. Giáo phận Suwon được tách ra từ tổng giáo phận Seoul vào ngày 07 tháng 10 năm 1963 như là một phần lân cận của giáo phận thủ đô Seoul. Tại thời điểm đó, giáo phận chỉ có 24 giáo xứ, với vỏn vẹn 28 linh mục cùng 42,500 tín hữu. Cho đến cuối năm 2004 số giáo xứ đã tăng lên 163 và có 662,614 tín hữu, giáo phận Suwon đã trở thành giáo phận lớn thứ 2 Hàn Quốc về số lượng tín hữu. Giáo phận có nhiều đền thờ, bao gồm Chonjinam, nơi khởi nguồn của giáo hội Công giáo Hàn Quốc và đền thờ Mirinae có phần mộ của các linh mục Hàn Quốc đầu tiên thánh Kim Tae-gon. Tất cả đều là những nơi khời nguồn cho niềm tự hào và cũng là cái nôi của người tín hữu Hàn Quốc. Thành phố Suwon là thủ phủ của tỉnh Gyeonggi với các địa ranh nổi tiếng thành cổ Hwaseong (pháo đài Hwaseong), nơi đã được chứng nhận là di sản của nhân loại bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO). Giáo phận Suwon bao gồm nhiều khu vực thành thị xung quanh thủ đô Seoul. Các thành phố mới và làng mạc được xây dựng với tốc độ gia tăng dân số nhanh. Dân số. Vào cuối năm 2017 dân số của giáo phận Suwon cỡ khoảng 8,133,304 người, chiếm khoảng 13,5% dân số của các nước, đa số người dân là người dân tộc Hàn Quốc. Ngôn ngữ. Ngôn ngữ chuẩn Hàn Quốc được sử dụng rộng rãi, tiếng anh một môn học bắt buộc ở các cấp học có thể nói và hiểu ở các doanh nghiệm và khu vục đông khách du lich. Tất các các biển báo giao thông đều sử dụng chủ yếu hai ngôn ngữ này. Đấng bản quyền của giáo phận. Đức Cha: Mathia Long-Hoon Ri hiện là giám mục chính tòa của giáo phận, ngài sinh ngày 13 tháng 9 năm 1951 tại Hwaseong. Chịu chức linh mục ngày 6 tháng 3 năm 1979 và được chọn làm giám mục phụ tá của giáo phận vào ngày 7 tháng 3 năm 2003.
Giáo phận Suwon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815528
Thánh lễ tấn phong được cử hành vào ngày 14 tháng 5 năm 2003. Ngài được chọn làm giám mục phó vào ngày 10 tháng 10 năm 2008 và trở thành giám mục của giáo phận từ ngày 30 tháng 3 năm 2009 cho đến nay. Giám mục Ri là chủ tịch của ủy ban giáo dục, và là thành viên của ủy ban các vấn đề xã hội trực thuộc hội đồng giám mục Hàn Quốc.
Đặng Trần Vỹ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815529
Đặng Trần Vỹ (1864-?) là một quan lại nhà Nguyễn dưới thời Pháp thuộc. Sự nghiệp. Đặng Trần Vỹ được cho là học trò giỏi nhất của hai tỉnh Hà Nội và Nam Định. Ông đậu giải Nguyên (Thủ Khoa) khoa thi Hương năm Tân Mão (1891) triều Thành Thái. Khoa ấy có 9.000 sĩ tử của hai tỉnh ứng thí. Sau này Đặng Trần Vỹ làm quan tới chức Tuần phủ Phú Thọ rồi Tổng đốc Bắc Ninh. Gia đình. Ông có vợ tên Lê Thị Bình. Con trai thứ tư là Đặng Trần Phất, bút danh Như Hiền; là nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc. Tác phẩm. Một trong những di cảo đáng kể nhất của Đặng Trần Vỹ là bài thơ chữ Hán đề đền Trấn Võ, hiện còn ghi ở bái đường ngôi đền:
Ōmagari, Akita
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815530
là một thành phố cũ nằm ở tỉnh Akita, Nhật Bản. Thành phố được thành lập vào ngày 3 tháng 5 năm 1954. Vào ngày 22 tháng 3 năm 2005, Ōmagari, cùng với các thị trấn Kamioka, Kyōwa, Nakasen, Nishisenboku, Ōta, Semboku và làng Nangai được hợp nhất để thành lập thành phố Daisen.
Thọ Tang Hòa Thạc Công chúa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815534
Hòa Thạc Thọ Tang Công chúa (chữ Hán: 和硕寿臧公主; 19 tháng 10, 1829 - 9 tháng 7, 1856), còn được gọi là Thọ Tang Hòa Thạc Công chúa (寿臧和硕公主), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 5 của Đạo Quang Đế, mẹ là Tường phi Nữu Hỗ Lộc thị. Cuộc đời. Cố Luân Thọ Tang Công chúa sinh vào ngày 6 tháng 4 Âm lịch năm Đạo Quang thứ 6 (1826), là Hoàng nữ thứ 5 của Đạo Quang Đế, mẹ là Tường phi Nữu Hỗ Lộc thị. Lúc Ngũ công chúa hạ sinh, Đạo Quang Đế cùng Cung Từ Hoàng thái hậu còn đang ở Thịnh Kinh yết tế Tổ lăng, đến ngày 24 tháng 10 mới hồi cung nên ngày 17 tháng 11, Đạo Quang Đế cùng Hoàng thái hậu mới tới Dực Khôn cung thăm hỏi Tường phi cùng Ngũ công chúa. Năm Đạo Quang thứ 15 (1835) Vào lễ Vạn thọ tiết, các Hoàng tử cùng Công chúa đều hành lễ với Đạo Quang Đế, duy chỉ không có Ngũ công chúa. Đạo quang đế đối Ngũ công chúa lạnh nhạt như vậy có lẽ là xuất phát từ sự chán ghét của ông dành cho mẹ của bà là Tường phi. Lúc này Tường phi mặc dù còn có vị phân, nhưng vốn đã thất sủng, vì vậy cũng liên lụy đến con cái của bà. Ngay cả con trai bà là Dịch Thông về sau cũng được đem đi làm con thừa tự cho Đôn Khác Thân vương Miên Khải. Năm Đạo Quang thứ 21 (1841), Ngũ Công chúa được ban tặng phong hiệu là Thọ Tang, vị hiệu là ["Hòa Thạc Công chúa"] - vị hiệu dành cho các Hoàng nữ do hậu phi sinh ra. Năm Đạo Quang thứ 22 (1842), Thọ Tang Công chúa hạ giá lấy Na Mộc Đô Lỗ Ân Sùng. Năm Đạo Quang thứ 24 (1844), quy định rằng về sau khi xưng hô Công chúa, phong hiệu viết ở đằng trước, mà "Cố Luân" cùng "Hòa Thạc" đều viết ở sau và chỉ ngay trước hai chữ Công chúa, tức [Mỗ mỗ Cố Luân Công chúa; 某某固伦公主] và [Mỗ mỗ Hòa Thạc Công chúa; 某某和硕公主]. Do đó, Cố Luân Thọ An Công chúa được cải sửa hiệu thành [Thọ Tang Hòa Thạc Công chúa], cùng năm Thọ Tang công chúa sinh hạ con gái đầu lòng. Năm Đạo Quang thứ 26 (1746), Thọ Tang Công chúa sinh hạ con gái thứ 2.
Thọ Tang Hòa Thạc Công chúa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815534
Năm Hàm Phong thứ 6 (1856), ngày 9 tháng 7, giờ Tỵ, Thọ Tang Công chúa qua đời khi 28 tuổi, được táng tại khu vực ngoại ô Bắc Kinh.
Động đất Nagano 2014
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815537
là trận động đất xảy ra vào lúc 22:08 (JST), ngày 22 tháng 11 năm 2014. Trận động đất có cường độ 6.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 5 km. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Hậu quả trận động đất đã làm 46 người bị thương.
Thái Đại Ngọc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815538
Thái Đại Ngọc (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1966) là tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là Trung tướng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, hiện là Tư lệnh Quân khu 5, Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên Quân ủy Trung ương. Ông từng giữ các chức vụ như Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu; Phó Tư lệnh Quân khu 5; Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đắk Nông; Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ Binh 2, Quân khu 5. Thái Đại Ngọc là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Quân sự, Cao cấp lý luận chính trị. Ông bắt đầu sự nghiệp với việc tham chiến mặt trận Campuchia, sau đó phục vụ hơn 30 năm cho Quân khu 5 cho đến khi trở thành Tư lệnh Quân khu, Ủy viên Trung ương Đảng. Xuất thân và giáo dục. Thái Đại Ngọc sinh ngày 1 tháng 1 năm 1966, quê quán ở phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Đà Nẵng, vào tháng 7 năm 1985 thì nhập ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam, nhập học Trường Sỹ quan lục quân 2 – nay là Trường Đại học Nguyễn Huệ, tốt nghiệp năm 1988. Ông từng học các khóa học quân sự và tốt nghiệp Cử nhân Quân sự, được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam trong lúc tại ngũ, từng tham gia khóa chính trị tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Sự nghiệp. Năm 1987, trong thời gian học Trường Sỹ quan Lục quân 2, Thái Đại Ngọc được cử đi thực tế chiến đấu ở chiến trường Campuchia, thuộc đội hình Sư đoàn 330, Quân khu 9. Sau khi tốt nghiệp trường sỹ quan cũng như hoàn thành chương trình chiến đấu thực tế, ông được điều về Quân khu 5, phục vụ Sư đoàn Bộ binh 2. Ông công tác thời gian dài ở đơn vị này, lần lượt là đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn Bộ Binh 2, Quân khu 5.
Thái Đại Ngọc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815538
Vào năm 2012, sau 20 năm công tác, ông được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn Bộ Binh 2, Quân khu 5, kế nhiệm Trương Đức Nghĩa. Năm 2014, ông được điều về tỉnh Đắk Nông, nhậm chức Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Nông, Quân khu 5, sau đó được phê chuẩn làm Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Nông. Tháng 6 năm 2016, Thái Đại Ngọc được bổ nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 5, được thăng quân hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng. Sau đó hơn 2 năm, vào tháng 11 năm 2018, ông được điều lên trung ương, nhậm chức Cục trưởng Cục Tác chiến thuộc Bộ Tổng Tham mưu, Quân đội nhân dân Việt Nam. Thàng 6 năm 2020, ông được thăng quân hàm Trung tướng, sang tháng 10 cùng năm thì được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân khu 5. Tháng 1 năm 2021, ông là đại biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 13 và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, nhiệm kỳ 2021–2026 vào ngày 30 tháng 1. Ông cũng được chỉ định làm Ủy viên Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2020–2025.
Cấu hình của cánh máy bay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815571
Cấu hình cánh của máy bay cánh cố định (bao gồm cả tàu lượn và máy bay có động cơ) là sự sắp xếp cấu trúc cánh nâng và các bề mặt cánh có liên quan khác của nó. Thiết kế của một chiếc máy bay được phân biệt nhờ cấu hình của cánh máy bay. Ví dụ như chiếc tiêm kích Supermarine Spitfire là một chiếc máy bay có cấu trúc một tầng cánh đặt thấp truyền thống, cánh có dạng elip với tỉ lệ chiều dài/chiều rộng ở mức vừa phải. Các nhà thiết kế máy bay đã từng thiết kế thử nghiệm nhiều loại cánh khác nhau. Đôi khi sự khác nhau giữa các cấu hình là rất nhỏ. Cánh cũng có thể thay đổi dạng hình học và kết hợp nhiều cấu hình cánh. Phần lớn các loại cánh mô tả dưới đây đều đã được sử dụng trên thực tế, ngoài ra cũng có một số thiết kế dựa trên lý thuyết. Một số kiểu cánh máy bay. Các máy bay cánh cố định có thể có một hoặc nhiều cặp cánh: Máy bay cánh cố định cũng có thể có nhiều cánh: Máy bay nhiều tầng cánh kiểu "so le (stagger)" có thiết kế tầng cánh trên dịch về phía trước một chút so với tầng cánh bên dưới. Mục đích nhằm làm giảm sự nhiễu động gây ra do áp suất thấp của không khí ở bên trên tầng cánh dưới hòa trộn với không khí áp suất cao ở bên dưới cánh phía trên; tuy nhiên sự cải thiện này khá nhỏ. Kiểu này hay gặp trên nhiều loại máy bay hai/ba tầng cánh nổi tiếng. Có thể xem thêm Beechcraft Staggerwing. Đỡ cánh. Để có đủ độ bền, cánh phải có độ cứng vững và do đó cánh sẽ rất nặng. Bằng cách bổ sung các thanh giằng cứng, khối lượng của cánh sẽ được giảm xuống nhiều. Tuy nhiên giằng cánh cũng làm cho tăng lực cản ở các tốc độ bay lớn và không được sử dụng trên các loại máy bay thiết kế để bay nhanh hơn kể từ đầu 1930s. Các loại đỡ cánh bao gồm: Cánh cũng có thể chia làm hai loại cứng và mềm Wing planform. Wing planform là hình dạng của cánh khi nhìn từ trên xuống hoặc từ dưới lên. Aspect ratio.
Cấu hình của cánh máy bay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815571
Aspect ratio. Tỉ lệ khung hình hay aspect ratio bằng Số bình quân hay trung bình chiều dài đường nối đầu mút cánh và gốc cánh (thuật ngữ tiếng Anh là chord) chia cho sải cánh. Nó cho biết độ mảnh và độ dài của cánh nếu nhìn từ phía trên hoặc bên dưới cánh. Phần lớn máy bay có cánh có khả năng thay đổi dạng hình học cũng thay đổi được tỉ lệ cánh aspect ratio theo các cách khác nhau. Độ rộng của cánh và độ dài của cánh. Độ rộng của cánh thay đổi tùy thuộc vào yêu cầu của độ bền và đặc tính khí động học Kiểu cánh quét (wing sweep). Cánh sẽ được quét về phía sau, hoặc đôi khi là quét về phía trước, vì nhiều lí do. Một góc quét nhỏ của cánh máy bay đôi khi sẽ điều chỉnh tâm lực nâng của máy bay. Điều này có ích do đôi khi các nhà thiết kế không thể đặt vị trí cánh ở nơi phù hợp nhất, do cản trở tầm nhìn của phi công. Một số kiểu thay đổi hình dạng cánh: Cánh đuôi và cánh mũi. Cấu hình cơ bản của mặt cắt cánh máy bay là không ổn định trong chuyển động chúc và ngẩng, do đó cần có thêm các cánh nằm ngang gọi là bề mặt ổn định gắn cố định cho máy bay (stabilizing surface). Ngoài ra nó không được gây ra tác động đáng kể nào đến khả năng kiểm soát sự chúc và ngẩng của máy bay, do đó cần có các bề mặt kiểm soát điều khiển được gọi là cánh tà (elevator) thông thường được gắn vào cánh đuôi ngang. Cánh nhị diện và cánh nhị diện ngược. Một số loại máy bay như Sopwith Camel có các cánh với góc nhị diện khác nhau, với cánh bên trên là cánh bằng và cánh bên dưới là cánh nhị diện thuận, trong khi Hanriot HD-1 có cánh trên là nhị diện thuận nhưng cánh dưới lại là cánh bằng. Cánh liền thân. Một số thiết kế, cánh và thân máy bay không có điểm nối rõ ràng, do chúng được hợp nhất với nhau: Cánh có khả năng thay đổi hình dạng. Cánh thay đổi hình dạng là máy bay có khả năng thay đổi hình dạng cánh trong quá trình bay. Ngoài ra một số kiểu máy bay có khả năng quay cánh xung quanh thân. Cánh Đa hình. Các máy bay sử dụng thiết kế này có khả năng thay đổi số lượng cánh trong khi bay. Điển hình là loại cánh trượt lên xuống như máy bay thử nghiệm Hillson Bi-mono. Các bề mặt nhỏ độc lập.
Cấu hình của cánh máy bay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815571
Các bề mặt nhỏ độc lập. Một máy bay hoàn chỉnh còn bao gồm nhiều bề mặt cánh nhỏ hoạt động độc lập: Một số bề mặt cánh nhỏ khác. High lift. High-lift devices có tác dụng duy trì lực nâng ở vận tốc thấp đồng thời chống lại hiện tượng tròng trành giúp giảm tốc độ cất/hạ cánh Kiểm soát dòng chảy không khí dọc theo sải cánh-Spanwise flow control. Ở kiểu cánh quét, không khí có xu hướng chảy theo đường chéo sang bên cạnh cánh máy bay và việc ngăn cản việc di chuyển của dòng khí này sẽ làm cải thiện hiệu suất của cánh: Tạo xoáy-Vortex creation. Vortex devices giúp duy trì dòng chảy trên cánh ở tốc độ thấp và cản trở sự hình thành tròng trành, bằng cách tạo ra các xoáy cấp năng lượng cho lớp biên gần bề mặt cánh. Gồm có Vortex generator, Vortilon và LERX.
Tạp chí nhiếp ảnh và đời sống
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815591
Tạp chí Nhiếp ảnh và Đời sống là cơ quan ngôn luận của Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam. Tạp chí thực hiện chức năng hoạt động báo chí, chức năng thông tin lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực nhiếp ảnh và đời sống theo Giấy phép hoạt động báo chí Số 80/GP - BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp. Tạp chí Nhiếp ảnh và Đời sống được xuất bản số đầu tiên vào năm 1978 với tên gọi “Tạp chí Nhiếp ảnh”, được Phủ Thủ tướng cấp phép ngày 02/01/1978. Đến năm 2017, sau khi thay đổi cơ chế từ bao cấp sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, dưới sự dẫn dắt của nhà báo - nghệ sĩ nhiếp ảnh Hồ Sỹ Minh, Tạp chí đổi mới chất lượng nội dung, hình thức bằng nguồn kinh phí xã hội hoá, tự chủ, theo đó Tạp chí cũng đã làm tờ trình xin phép Bộ TT&TT và được chấp nhận thay đổi tên gọi mới “Tạp chí Nhiếp ảnh và Đời sống”. Mục đích chính của Tạp chí là hướng dẫn sáng tác, định hướng thẩm mỹ nhiếp ảnh. Tạp chí nghiên cứu những vấn đề chuyên sâu của ảnh về lý luận và thực tiễn, giới thiệu lịch sử nhiếp ảnh trong nước và thế giới, đồng thời thông tin về các công trình sáng tác, lý luận nhiếp ảnh trong nước và nước ngoài, tập hợp các lực lượng nhiếp ảnh Việt Nam và cung cấp kiến thức cho những người yêu thích và đang làm quen với chiếc máy ảnh. Thành viên. Tổng Biên tập: Hồ Sỹ Minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, Trưởng Ban Lý luận Phê bình, Tước hiệu: E.VAPA/G.
Hamad Medjedovic
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815597
Hamad Medjedovic (; sinh ngày 18 tháng 7 năm 2003) là một vận động viên quần vợt người Serbia. Vào ngày 19 tháng 6 năm 2023, Medjedovic đạt thứ hạng đánh đơn ATP cao nhất là vị trí số 156 thế giới. Vào ngày 24 tháng 5 năm 2021, anh lên vị trí số 1267 ở bảng xếp hạng đôi. Medjedovic có thứ hạng ITF trẻ cao nhất là vị trí số 9 thế giới vào ngày 4 tháng 1 năm 2021. Sự nghiệp. 2021: Ra mắt ATP. Medjedovic lần đầu tham dự vòng đấu chính ATP tại giải Belgrade Open 2021 sau khi được đặc cách vào vòng đấu chính ở nội dung đơn và đôi. 2022: Danh hiệu Challenger đầu tiên. Medjedovic vào trận chung kết tại giải Platzmann-Sauerland Open 2022, loại cả hạt giống số 4 Marco Cecchinato và hạt giống số 1 Nicolás Jarry. Sau đó, anh đánh bại Zhang Zhizhen trong trận chung kết để giành danh hiệu Challenger đầu tiên. 2023: Trận thắng ATP đầu tiên, ra mắt Grand Slam, Davis Cup và top 200. Năm 2023, Medjedovic có trận thắng đầu tiên ở ATP Tour, khi anh lần đầu tham dự Davis Cup đánh bại Viktor Durasovic trong trận đấu với Na Uy mà Serbia thắng 4:0. Vào tháng 3 năm 2023, Medjedovic giành danh hiệu Challenger thứ 2 tại giải Kiskút Open sau khi đánh bại Nino Serdarušić trong trận chung kết sau hai set. Với chức vô địch, anh trở thành tay vợt thanh thiếu niên Serbia thứ 4 giành nhiều danh hiệu Challenger, cùng với Novak Djokovic và Janko Tipsarević (với 3), và Miomir Kecmanović (với 2). Sau giải đấu, anh lọt vào top 200 (đứng thứ 192 thế giới) vào ngày 20 tháng 3 năm 2023. Vào tháng 5, xếp hạng 214, anh tăng gần 50 bậc trên bảng xếp hạng để lọt vào top 170 sau khi giành danh hiệu Challenger thứ 3 tại giải Upper Austria Open 2023 nơi anh đánh bại ba tay vợt Áo, trong đó có cựu số 3 thế giới và hạt giống số 1 Dominic Thiem ở vòng bán kết và hạt giống số 5 Filip Misolic trong trận chung kết. Ở 19 tuổi 9 tháng, anh trở thành tay vợt thanh thiếu niên Serbian thứ ba giành 3 danh hiệu trong lịch sử Challenger, cùng với Djokovic và Tipsarevic. Xếp hạng 168, Medjedovic tham dự vòng loại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2023 trong lần đầu tham dự Grand Slam. Với các chiến thắng trước Ivan Gakhov, Juan Manuel Cerúndolo, và Jesper de Jong, Medjedovic đã vượt qua vòng loại của một giải Grand Slam trong lần đầu tham dự. Anh thua ở vòng 1 trước Marcos Giron sau bốn set.
Hamad Medjedovic
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815597
Anh cũng vượt qua vòng loại Giải quần vợt Wimbledon 2023. Thống kê sự nghiệp. Đơn. "Tính đến Giải quần vợt Wimbledon 2023." Thành tích đối đầu với tay vợt top 10. Dưới đây là thành tích đối đầu với các tay vợt đã xếp hạng trong top 10 của Medjedovic, với những tay vợt còn thi đấu được in đậm. Chỉ các trận đấu ở vòng đấu chính ATP Tour và Davis Cup được tính:
Hanten
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815598
(cũng được viết là , hay ) là một loại áo khoác mùa đông ngắn và là một loại trang phục truyền thống của Nhật Bản. bắt đầu được mặc bởi thường dân vào thế kỷ 18 trong thời kỳ Edo của Nhật Bản (1603-1867). Hình dạng của gần giống như , một loại áo vá truyền thống và , được mặc bởi cả nam và nữ. Bề mặt và lớp lót của áo được đệm bằng lớp bông dày để giữ ấm. Cổ áo thường được làm bằng vải satin đen. Trên thường có hình gia huy hoặc các hình dạng được thiết kế kiểu khác.
Giáp xác học
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815606
Giáp xác học () là một nhánh nghiên cứu của động vật học, chuyên nghiên cứu về động vật giáp xác, tức nhóm động vật chân đốt bao gồm tôm hùm, tôm càng, tép, nhuyễn thể, giáp xác chân chèo, hà và cua. Thuật ngữ tiếng Anh "carcinology" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ("karkínos", nghĩa là "con cua") và (-logia")". Phân ngành. Giáp xác học là phân ngành của chân đốt học (nghiên cứu về động vật chân đốt bao gồm lớp nhện, côn trùng và động vật nhiều chân. Giáp xác học còn được phân nhánh thành nhiều chuyên ngành con với các định hướng nghiên cứu như sau: Tạp chí chuyên ngành. Các tạp chí chuyên ngành về giáp xác học bao gồm:
Bí ẩn Eleusinian
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815607
Bí ẩn Eleusinian (còn được gọi là Lễ hội Eleusis) là một trong những nghi lễ tôn thờ các thần nữ Demeter và Persephone trong tôn giáo Hy Lạp cổ đại. Nghi lễ này được tổ chức tại thành phố Eleusis, nằm cách Athens khoảng 20 km về phía tây. Bí ẩn Eleusinian được coi là một trong những bí ẩn lớn nhất và tốt nhất giữ bí mật trong cả cuộc sống tôn giáo của Hy Lạp cổ đại. Nó dành riêng cho các thành viên của Hiệp hội Eleusinian, gồm các thần tử, vị vua và các công dân được chọn lựa. Các nghi lễ được tổ chức hàng năm vào mùa thu và kéo dài trong 9 ngày. Nội dung chính của Bí ẩn Eleusinian không được ghi chép hoặc tiết lộ công khai, và chỉ những người tham gia nghi lễ mới biết được những điều bí mật này. Tuy nhiên, có một số giả thuyết về nội dung của nghi lễ dựa trên các nguồn tài liệu và bằng chứng còn sót lại. Một trong những giả thuyết phổ biến nhất là nghi lễ này liên quan đến việc tái hiện câu chuyện về việc Persephone bị bắt cóc bởi Hades và cách Demeter tìm kiếm và đòi con gái trở lại từ vương quốc chết. Sự tái hiện này có thể bao gồm các màn biểu diễn nghệ thuật, kịch và múa để tôn vinh câu chuyện này và tưởng nhớ Demeter và Persephone như những thần thánh góp phần vào mùa màng và sự sống trên đất đai. Tuy nhiên, điều chắc chắn là Bí ẩn Eleusinian đã góp phần đáng kể vào tôn giáo và văn hóa của Hy Lạp cổ đại và có ảnh hưởng sâu sắc trong suốt hàng nghìn năm. Nó đã trở thành một trong những nghi lễ tôn thờ quan trọng nhất và được các triết gia, nhà văn và nghệ sĩ kể về trong các tác phẩm văn học và nghệ thuật khác nhau.
Nexus (tạp chí)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815619
Nexus là một tạp chí tin tức thay thế hai tháng một lần có trụ sở tại Úc. Nó bao gồm địa chính trị và thuyết âm mưu; các vấn đề sức khỏe, bao gồm cả y học thay thế; tương lai học; những điều không giải thích được, bao gồm cả UFO; Big Brother; và chủ nghĩa xét lại lịch sử. Tạp chí cũng xuất bản các bài viết về tự do ngôn luận và tư tưởng, và các vấn đề liên quan. Tạp chí này đã hoặc đang được xuất bản bằng hơn 12 thứ tiếng và được bày bán ở hơn 20 quốc gia. Khi gồm luôn cả các ấn bản kỹ thuật số, "Nexus" có khoảng 100.000 độc giả Úc và 1,1 triệu độc giả trên toàn cầu. "Nexus" do Duncan Roads nắm quyền sở hữu và phụ trách khâu biên tập. Tuyên bố. Trong cột đề tự của tạp chí có đưa ra lời tuyên bố về mục đích được in: "NEXUS" nhận ra rằng nhân loại đang trải qua một sự biến chuyển lớn lao. Với suy nghĩ này, "NEXUS" tìm cách cung cấp thông tin 'khó lấy' để hỗ trợ mọi người vượt qua những thay đổi này. "NEXUS" không liên kết với bất kỳ hệ tư tưởng hoặc tổ chức tôn giáo, triết học hay chính trị nào. Lịch sử. Tạp chí do Ramses H. Ayana lập ra đầu tiên vào năm 1986 đóng vai trò như một ấn phẩm hàng quý về nhân quyền, môi trường, y học thay thế, quyền phụ nữ, New Age, Free Energy, khoa học thay thế và hiện tượng siêu linh. Người đồng sáng lập tạp chí này là Jenni Elf và cả hai người sáng lập trước đây đã từng làm việc cho tạp chí độc lập của Úc mang tên "Maggie's Farm". "Nexus" được Duncan Roads mua lại vào năm 1990, tiếp tục truyền thống lâu đời là giữ cho các ấn phẩm thay thế tồn tại ở Úc. Sau khi bàn giao, các chủ đề của "Nexus" đã được thay đổi và nó được chuyển sang lịch xuất bản hai tháng một lần. Chỉ trích. Tạp chí quảng bá các thuyết âm mưu và tuyên truyền cực hữu, đặc biệt phù hợp với dân quân Mỹ và thế giới quan của họ. Ấn phẩm. Trụ sở chính của tạp chí này được đặt tại Maleny, Queensland, Úc. "Nexus" được xuất bản ở Úc, New Zealand, Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Đức, Ba Lan, Hy Lạp, Serbia, Croatia, România và Nga. "Nexus" còn được dịch sang tiếng Thụy Điển, tiếng Hàn và tiếng Nhật.
Nexus (tạp chí)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815619
Ở Mỹ và ở Ý, tạp chí được xuất bản với tên gọi "Nexus New Times". Tại Hy Lạp, tạp chí lần đầu tiên được xuất bản với tên "Nexus" và sau một thời gian ngừng hoạt động thì lấy tên "New Times Nexus". Ấn bản tiếng Ba Lan được xuất bản với tên gọi "Nexus. Nowe Czasy" (.), Một ấn bản tiếng Thụy Điển được xuất bản từ năm 1998 đến 2000 với tựa đề "NEXUS Nya Tider".
Ultra (tạp chí)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815620
Ultra là tạp chí của Phần Lan chuyên về thông tin biên giới và UFO. Người sáng lập và tổng biên tập tờ tạp chí hàng tháng từ năm 1972 đến năm 2009 là nhà nghiên cứu UFO nổi tiếng Tapani Kuningas. Nhà xuất bản là Kustannus Oy Rajatieto chuyên giao nhận tạp chí tại cơ sở riêng của mình ở làng Kylämä, Kuhmoinen. Ấn phẩm này ra mắt vào năm 1972 với cái tên "Ufoaika" và tên gọi hiện tại được thông qua vào năm 1974. "Ultra" đề cập đến kiến ​​thức biên giới và hiện tượng huyền bí, đồng thời cũng tham gia vào các sự kiện và hội chợ thương mại trong ngành. Tạp chí này có tới 50 cộng tác viên ở các quốc gia khác nhau. Tiền thân tờ "Ufoaika". Ở Phần Lan, vào đầu thập niên 1960 và 1970, người ta rất quan tâm đến hiện tượng UFO. Vào thời điểm này, làn sóng UFO Pudasjärvi–Kuusamo cũng đang ở mức mạnh nhất. Đồng thời, sự quan tâm rất lớn của công chúng đến các hiện tượng khác nhau liên quan đến thông tin biên giới và cận tâm lý học. Tổng biên tập Tapani Kuningas từng đưa ra lời tuyên bố trong bài xã luận đăng trên tạp chí số đầu tiên rằng đó là hệ quả bắt nguồn từ những chuyện như vậy. Tạp chí này được Kustannus Oy Jaanes xuất bản lần đầu, rồi về sau do Williams ấn hành. Ngoài hiện tượng UFO và sinh vật ngoài hành tinh hình người, nội dung của tạp chí thường bao gồm thông tin về biên giới và cận tâm lý học. Kustannus Oy Rajatieto. Năm 1974, độc giả của tạp chí "Ufoaika" và những người quan tâm đến thông tin biên giới đã sáng lập ra công ty mang tên Kustannus Oy Rajatieto, công ty này mới bắt đầu phụ trách việc xuất bản tạp chí, rồi sau bèn đổi tên thành "Ultra". Đồng thời, tạp chí được định nghĩa lại theo nghĩa rộng hơn như một công cụ tổng quát hơn để thảo luận và công bố thông tin về biên giới. Giám đốc điều hành của công ty trong giai đoạn 1974–2009 là tổng biên tập tạp chí Tapani Kuningas.
Động đất Iwate–Miyagi Nairiku 2008
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815621
là trận động đất xảy ra vào lúc 8:43 (JST), ngày 14 tháng 6 năm 2008. Trận động đất có cường độ 7.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 8 km. Hậu quả trận động đất đã làm 17 người chết, 436 người bị thương.
Bánh gừng hình người
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815622
Bánh gừng hình người (tiếng Anh: gingerbread man) là một loại bánh bích quy hoặc bánh quy ngọt làm từ bánh mì gừng theo khuôn hình người. Trong các dịp lễ Phục sinh, Giáng sinh, Halloween, các kiểu hình thù khác như cây thông, bông tuyết, động vật cũng rất phổ biến Lịch sử. Bánh gừng được biết tới từ thế kỷ 15 và phong cách làm bánh theo hình xuất hiện từ thế kỷ 16. Ghi nhận đầu tiên về bánh quy gừng theo hình là tại cung điện của nữ vuơng Elizabeth I (Anh Quốc) khi những chiếc bánh được làm theo hình dáng những vị khách của bà. Chế biến. Hầu hết bánh gừng kiểu này có hình dạng giống người, tứ chi nặn tròn và không có ngón. Phần mặt, quần áo, khuy áo được trang trí bằng sô-cô-la, kem lạnh, kẹo gôm. Theo Sách Kỷ lục Guinness, bánh gừng hình người lớn nhất thế giới được một nhân viên của IKEA ở Oslo, Na Uy chế biến vào ngày 9 tháng 11 năm 2009. Chiếc bánh nặng khoảng 651 kg.
Dinar (tiền tệ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815626
Dinar () là đơn vị tiền tệ chính ở một số quốc gia vùng Địa Trung Hải và việc sử dụng nó trong lịch sử thậm chí còn phổ biến hơn. Từ tiếng Anh "dinar" là phiên âm của từ tiếng Ả Rập ""دينار"("dīnār"), vốn là từ được vay mượn qua tiếng Syriac "dīnarā", bản thân từ tiếng Latinh "dēnārius"". Đồng dinar vàng hiện đại là một đồng xu vàng và tính đến năm 2019 đã không được bất kỳ nước nào phát hành dưới dạng tiền tệ chính thức. Lịch sử. Tiền thân lịch sử của đồng dinar hiện đại là đồng dinar vàng và dirham bạc, đồng tiền chính của các đế chế Hồi giáo thời trung cổ, được phát hành lần đầu vào năm 77 theo lịch Hồi giáo (696–697 CN) bởi Khalip Abd al-Malik ibn Marwan. Từ "dinar" bắt nguồn từ từ tiếng Latinh "dēnārius", một đồng xu bạc thời La Mã cổ đại, lần đầu tiên được đúc vào khoảng năm 211 TCN. Đế quốc Quý Sương đã giới thiệu một đồng tiền vàng được gọi là "dīnāra" ở Ấn Độ vào thế kỷ 1 sau Công nguyên; Đế quốc Gupta và những người kế vị của triều đại cho đến thế kỷ 6 đã sử dụng những đồng xu này. Vua Anh thế kỷ 8 Offa của Mercia đã đúc các bản sao của đồng dinar Abbasid do Khalip al-Mansur tạo ra vào năm 774 với chữ "Offa Rex" ở giữa ở mặt sau. Người kiếm tiền có thể không hiểu tiếng Ả Rập vì văn bản tiếng Ả Rập có nhiều lỗi. Những đồng xu như vậy có thể đã được sản xuất để giao dịch với Al-Andalus. Những đồng xu này được gọi là Mancus, cũng bắt nguồn từ tiếng Ả Rập. Các quốc gia sử dụng đồng dinar. Các quốc gia đang sử dụng hiện tại. Các quốc gia hiện đang sử dụng đơn vị tiền tệ gọi là "dinar" hoặc tương tự: Các quốc gia đã từng sử dụng trước đây. Các quốc gia và khu vực trước đây đã sử dụng đơn vị tiền tệ gọi là "dinar" trong thế kỷ 20:
Đại Minh phong hoa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815629
Đại Minh phong hoa (tiếng trung: 大明風華, tiếng Anh: Ming Dynasty), là một bộ phim truyền hình dài tập được phát sóng năm 2019 lấy bối cảnh Minh triều được cải biên tiểu thuyết 《 Lục triều kỷ sự 》của Liên Trúc Tĩnh Y với sự tham gia của Thang Duy, Chu Á Văn, Đặng Giai Giai, Kiều Chấn Vũ, Ngô Việt, Trương Nghệ Hưng. Phim phát sóng trên đài truyền hình Hồ Nam TV cho đến năm 2020. Ở Việt Nam, bộ phim còn được biết với tên "Quyền lực vương triều" Giới thiệu. Phim bắt đầu vào cuối những năm Kiến Văn, Yến vương Chu Đệ làm phản dẫn quân tấn công vào Hoàng cung đồ sát, Kiến Văn Đế vì vậy mà phải cạo đầu đi tu. Trong bạo loạn, ngự sử đại phu Cảnh Thanh cùng gia quyến phải chạy trốn nhưng không thành, kết cục ông cùng vợ mình chết dưới lưỡi gươm của bạo quân nhưng may mắn thay là 2 cô con gái của ông đã chạy trốn khỏi cuộc bạo loạn. Con gái lớn Nhược Vi được phó tướng Tôn Trung cứu thoát và đưa ra khỏi cung, con gái nhỏ Thiện Tường được Thái tử Chu Cao Sí cứu ở lại trong cung làm cung nữ. Từ đó một người trong cung một người ngoài cung ly biệt nhiều năm. Mười năm sau, Nhược Vi cùng huynh đệ được giao cho nhiệm vụ ám sát Chu Đệ và cũng vì vậy mà cô gặp Chu Chiêm Cơ khi đó là Hoàng thái tôn. Cả hai ban đầu như nước với lửa nhưng dần già đã bị tình cảm của đối phương làm cho cảm động. Không ngờ ở trong cung, Nhược Vi đã tìm lại được em gái thất lạc nhiều năm - Thiện Tường nhưng lúc này cô đã trở thành Hoàng hậu của Chu Chiêm Cơ, còn bản thân cũng trở thành Hoàng phi. Trải qua bao nhiêu trắc trở, cuối cùng, Nhược Vi quyết định phò trợ chồng con, bảo vệ an nguy xã tắc Đại Minh
Furisode
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815631
, (Hán-Việt: Chân Tụ) (nghĩa đen là: tay áo phấp phới) là kiểu kimono dài tay, với chiều dài tay áo từ 85 cm (33 in) cho loại , đến cho loại . là kiểu kimono trang trọng nhất được mặc bởi những phụ nữ trẻ chưa lập gia đình ở Nhật Bản . Giống như tất cả các bộ kimono dành cho phụ nữ, tay áo chỉ được gắn vào phần thân liền vai, với mép trong để hở qua vai. Điều này vừa cho phép áo lót bên trong ( ) được lộ ra khi mặc, vừa cho phép thắt quanh người phía trên hông. Tương tự như những bộ kimono trang trọng khác, chủ yếu được may từ lụa và được trang trí bằng màu sắc tươi sáng để thể hiện sự trẻ trung. thường được các bậc cha mẹ thuê hoặc mua cho con gái vào ngày Lễ Thành niên vào năm bước sang tuổi 20. Trong những thập kỷ trước, đặc biệt là trước Thế chiến thứ hai, chỉ những phụ nữ trẻ chưa lập gia đình mới mặc , vì quan niệm tuổi trẻ độc thân của một người phụ nữ sẽ kết thúc khi họ bước vào cuộc sống hôn nhân; tuy nhiên, do tỷ lệ kết hôn ở độ tuổi thanh niên thời bấy giờ cao nên rất ít phụ nữ chưa kết hôn ngoài 20 tuổi mặc , có nghĩa là những phụ nữ lớn tuổi chưa lập gia đình vào thời đó sẽ không bao giờ mặc loại trang phục này. Mặc dù được mặc cho các sự kiện trang trọng, nhưng cũng có loại được sử dụng cho những dịp kém trang trọng hơn - trang phục sẽ có tay áo ngắn và trang trí nhẹ nhàng hơn và được mặc cho các sự kiện ít trang trọng hơn hoặc được mặc như một loại trang phục hàng ngày. Ngày nay, sẽ mặc định được coi là trang phục trang trọng, mặc dù có một số (kimono mùa hè) với thiết kế tay áo theo kiểu . Furisode thường được dùng cho các hoạt động xã hội trang trọng như tiệc trà và đám cưới. Các quy tắc về hình thức đối với kimono cũng đã được nới lỏng, đến mức sự khác biệt giữa việc mặc và các loại kimono trang trọng khác hiện nay cũng gần như được xóa mờ. Thay vì phụ thuộc vào độ tuổi và tình trạng hôn nhân, việc mặc Furisode trở nên thoải mái hơn; bằng chứng là ngày nay, những phụ nữ trẻ ngoài hai mươi tuổi thường mặc kimono ngắn tay hơn.
Furisode
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815631
Cả phụ nữ trẻ đã kết hôn và chưa kết hôn cũng có thể chọn mặc các loại kimono trang trọng khác có tay áo ngắn hơn cho những sự kiện trang trọng, chẳng hạn như - một loại Furisode tay ngắn, cũng như mặc trang phục phương Tây trang trọng nhiều hơn là Kimono. Trong văn hóa đại chúng. Tại Nhật Bản, phụ nữ trẻ thường mặc trong "Lễ Thành niên". Lịch sử. ra đời từ giữa những năm 1500, vốn được dùng làm quần áo dành cho trẻ em thuộc tầng lớp trung lưu và thượng lưu và được mặc bởi cả bé trai và bé gái; ban đầu nó không phải trang phục dành cho người lớn. Vào thời kỳ sơ khai, có tay áo tương đối ngắn và được sử dụng như một loại trang phục hàng ngày của những người có điều kiện tài chính. Theo thời gian, khi tay áo được may dài ra và có kích thước lớn hơn, đã trở thành kiểu Kimono chủ yếu được mặc vào những dịp đặc biệt. Theo một văn bản từ thế kỷ 17, vào thời đó, những bé trai có thể được mặc cho đến năm 18 tuổi hoặc cho đến khi trải qua Lễ Thành niên, thường được tổ chức khi chúng bước vào độ tuổi cuối vị thành niên. Các bé gái được cho là sẽ ngừng mặc sau khi kết hôn hoặc khi bước sang tuổi 20. Ban đầu, không có sự khác biệt rõ rệt giữa hai giới, nhưng các thiết kế vải đã bắt đầu có sự khác biệt về mặt giới tính hơn vào thế kỷ 19. Vào thế kỷ 20, đã trở thành loại trang phục hạn chế chỉ dành cho phụ nữ và trẻ em gái, như một phần của tính đặc trưng giới tính ngày càng được biểu hiện mạnh mẽ của quần áo trẻ em được phát triển sau ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Khi ngày càng trở thành bộ trang phục gắn liền với phụ nữ trẻ trưởng thành, thuật ngữ này đã bị tách rời khỏi các thuật ngữ chỉ quần áo trẻ em với tay áo ngắn hơn, loại quần áo này có thuật ngữ chung chung hơn là (nghĩa đen là "hở mặt").
Nickel(I) sulfide
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815633
Nickel(I) sulfide là một hợp chất vô cơ nhị phân của kim loại nickel và lưu huỳnh có công thức hóa học Ni2S – tinh thể màu vàng, không tan trong nước. Điều chế. Khử nickel(II) sulfide bằng hydro ở nhiệt độ cao sẽ thu được nickel(I) sulfide. Tính chất vật lý. Nickel(I) sulfide tạo thành tinh thể màu vàng, không tan trong nước.
Ōmura Hideaki
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815638
(sinh ngày 3 tháng 9 năm 1960) là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Aichi kể từ năm 2011.
Ragù
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815644
Trong ẩm thực Ý, ragù ( từ ) là một loại nước xốt được làm từ thịt thường được phục vụ với pasta. Một xã hội của ẩm thực Ý, , ghi lại một số công thức nấu ăn của ragù. Đặc điểm chung của các công thức nấu ăn là có chứa thịt và thực tế là tất cả đều là nước sốt cho mì ống. Điển hình nhất là (Xốt Bolognese, được làm từ thịt bò bằm). Các loại khác là (Neapolitan ragù, được làm bằng nhiều loại thịt lợn và thịt bò, có thể bao gồm xúc xích Ý), (ragù Bari, đôi khi được làm từ thịt ngựa), (ragù ở vùng Veneto, ragù thịt vịt truyền thống không có cà chua). Lịch sử. Về mặt từ nguyên, thuật ngữ này xuất phát từ tiếng Pháp () và đạt đến khu vực Emilia-Romagna vào cuối thế kỷ 18, có lẽ sau xâm lược và chiếm đóng các vùng phía bắc đó của Napoléon Bonaparte vào năm 1796. Ragù đầu tiên làm nước sốt, , được ghi lại bởi Alberto Alvisi, đầu bếp của Giáo hoàng Piô VII (vào thời điểm là một thuật ngữ chung cho pasta, cả khô và tươi). Công thức đã được sao chép và xuất bản thành ('The Cardinal's Ragù'). Alvisi được truyền cảm hứng bởi sự nổi tiếng của từ tiếng Pháp , trở nên phổ biến ở Ý khi những người lính của Napoléon mang nó đến trong cuộc xâm lược của họ vào năm 1796. Những người Ý giàu có và quý tộc bị mê hoặc bởi văn hóa và ẩm thực Pháp, vì vậy họ vui vẻ nắm lấy cơ hội đưa các món ăn cổ điển của đất nước này như ragoût vào truyền thống ẩm thực của họ. Sau đầu những năm 1830, công thức nấu món ragù thường xuyên xuất hiện trong sách dạy nấu ăn của vùng Emilia-Romagna. Vào cuối thế kỷ 19, giá thịt chứng kiến ​​việc sử dụng nước sốt thịt trên mì ống dành riêng cho lễ thánh quan thầy cùng các ngày Chủ Nhật, và chỉ trong số các tầng lớp giàu có hơn của nước Ý mới thống nhất. Nghiên cứu độc lập của Kasper và De Vita chỉ ra rằng, trong khi ragù với mì ống đã trở nên phổ biến trong suốt thế kỷ 19, thì phần lớn nó chỉ được những người giàu có ăn. Tuy nhiên, những sự tiến bộ của công nghệ đi kèm với cuộc cách mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ 19 đã khiến bột mì trở nên hợp túi tiền hơn đối với những người ít giàu có hơn.
Ragù
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815644
Việc các tầng lớp bình dân chấp nhận mì ống được mở rộng hơn nữa trong thời kỳ thịnh vượng kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Theo De Vita, trước Thế chiến II, 80% dân số nông thôn Ý ăn chế độ dựa trên thực vật; mì ống được dành riêng cho những ngày lễ đặc biệt và sau đó thường được phục vụ trong súp đậu. Biến thể. Ở miền Bắc Ý, ragù thường sử dụng thịt băm nhỏ hoặc xay, nấu với rau củ xào trong một hỗn hợp lỏng, theo truyền thống bao gồm cà chua thanh lý, nhưng cũng tồn tại trong các phiên bản không có cà chua được gọi là (ragù trắng). Các loại thịt có thể bao gồm một hoặc nhiều loại thịt bò, thịt gà, thịt lợn, vịt, ngỗng, thịt cừu, thịt cừu, thịt bê hoặc thú săn, kể cả thịt nội tạng của chúng. Các chất lỏng có thể được nấu thành nước cốt hoặc nước dùng, nước, rượu, sữa, kem hoặc cà chua, thường kết hợp với nhau. Nếu bao gồm cả cà chua, chúng thường bị hạn chế so với thịt, khiến nó trở thành món thịt hầm hơn là nước sốt cà chua có thêm thịt. Còn ở miền Nam Ý, ragù thường được chuẩn bị từ số lượng đáng kể lớn, toàn bộ phần thịt bò và thịt lợn được loại bỏ và có thể được phục vụ như một món ăn riêng biệt không có mì ống. Ví dụ về những món ăn này là (Neapolitan ragù) và .
Ԑ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815645
Ze đảo ngược (Ԑ ԑ, chữ nghiêng: "Ԑ" "ԑ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Hình dạng của nó giống với chữ cái Kirin Ze (З з "З" "з") bị đảo ngược. Nó giống với chữ Latinh epsilon (Ɛ ɛ) và chữ Hy Lạp Epsilon (Ε ε), cũng là một dạng viết tay của chữ Latinh E và chữ Kirin Ye, nhưng nó có nguồn gốc khác với chúng. Ze đảo ngược đã được thêm vào Unicode 5.0, nhưng vẫn không phổ biến trong hầu hết các phông chữ Kirin. Ze đảo ngược được sử dụng trong tiếng Enets. Trong tiếng Enets, nó đại diện cho âm . Nó cũng được sử dụng trong tiếng Khanty.
Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815647
Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 được tổ chức nhằm chọn ra 24 đội tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới (World Cup nữ) 2019, trong đó nước chủ nhà Pháp được vào thẳng World Cup nữ 2019. Đây là lần thứ tám Giải vô địch bóng đá nữ thế giới (diễn ra 4 năm/lần) được tổ chức. World Cup nữ 2019 là lần thứ ba giải đấu diễn ở châu Âu (sau năm 1995 ở Thụy Điển và năm 2011 ở Đức). Phân bổ suất tham dự World Cup. Các suất phân bổ được Hội đồng FIFA công bố từ ngày 13 đến ngày 14 tháng 10 năm 2016. Các suất tham dự vẫn được giữ nguyên so với giải đấu trước, ngoại trừ suất chủ nhà được chuyển từ CONCACAF (Canada) sang UEFA (Pháp). Tóm tắt. Các trận đấu bắt đầu vào ngày 03/04/2017 và kết thúc vào ngày 01/12/2018. Trừ chủ nhà Pháp, 207/210 hiệp hội thành viên còn lại của FIFA có thể đủ điều kiện tham dự vòng loại nếu họ chọn tham gia. Các trường hợp không đủ điều kiện là: , (do bị FIFA cấm hoạt động) và (bị cấm tham dự World Cup nữ 2019). , , và tuy đã được bốc thăm chia đội nhưng sau đó đã rút lui. Hơn 30 quốc gia (hầu hết ở châu Á và châu Phi) không tham dự vòng loại, bao gồm , và (những quốc gia đã vượt qua Vòng loại Giải vô địch bóng đá nam thế giới 2018). Vòng loại các liên đoàn châu lục. AFC. Như các lần trước, Cúp bóng đá nữ châu Á cũng đồng thời là vòng loại World Cup cho các thành viên của AFC. Quá trình Vòng loại World Cup như sau:
Haramaki
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815649
là một loại vải quấn bụng truyền thống của Nhật. Chúng được đeo vì những lợi ích về sức khỏe và thời trang. Ảnh hưởng. Sử dụng trong thời chiến. Vào thời kỳ Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, một người lính ra trận thường được gia đình tặng cho một (nghĩa đen là "thắt lưng có 1.000 mũi khâu"). Để làm ra sản phẩm, mẹ, chị gái hoặc vợ của người lính đó sẽ đứng trên đường và yêu cầu những người phụ nữ đi ngang qua đóng góp một mũi khâu cho đến khi thu thập đủ 1.000 mũi. Chiếc Haramaki này vừa mang lại sự ấm áp vừa như một lá bùa hộ mệnh để xua đuổi những điều nguy hại. Phổ biến trong giới thời trang. Trong thời hiện đại, không có nhiều điểm chung với những phiên bản cổ xưa trong lịch sử phát triển của chúng; ban đầu vốn được dùng để chế tạo áo giáp . Ngày nay, tất cả chúng là một ống vải hình tròn đơn giản, giống như một chiếc áo ống và được quấn quanh bụng thay vì ngực. phiên bản mới đã trở nên phổ biến trong ngành thời trang Nhật Bản như một loại phụ kiện và được làm từ nhiều loại vải và hoa văn cho các mục đích khác nhau, cả về thực tế lẫn thẩm mỹ. Nhà thiết kế game người Nhật Shigesato Itoi và công ty Hobonichi của ông thường được ghi nhận vì đã có công giúp Haramaki được hồi sinh. Itoi đã mặc trong nhiều năm bất chấp việc nó bị coi là lỗi thời và là loại đồ lót lỗi mốt, cuối cùng ông đã giới thiệu lại chúng như một phụ kiện để bán tại Nhật Bản.
Jurong
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815651
Jurong (, , Lang Đông) là một khu vực địa lý lớn nằm ở điểm cực tây nam của Vùng phía Tây của Singapore.
Nguyễn Văn Thảo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815652
Nguyễn Văn Thảo là nhà ngoại giao, từ năm 2021 là Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Vương quốc Bỉ và tại Đại công quốc Luxembourg, Đại diện thường trực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Liên minh châu Âu​. Tiểu sử. Nguyễn Văn Thảo sinh ngày 28 tháng 9 năm 1964 tại Vĩnh Phúc, Việt Nam. Sự nghiệp. Nguyễn Văn Thảo tốt nghiệp Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội, Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội và có học vị Thạc sĩ ngành Quản trị Kinh doanh tại Đại học Sourthern California. Từ năm 1988 đến 1999 ông công tác tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với vai trò Chuyên viên Tài chính, chức vụ Phó Trưởng Ban kiêm Trưởng Ban Tài chính. Ông Thảo từng là Giám đốc điều hành Hội nghị thượng đỉnh APEC CEO Summit năm 2006. Từ 2005 đến 2007 ông là Phó Tổng Thư ký kiêm Viện trưởng, Trưởng ban Chỉ đạo Đề án hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Từ năm 2007 ông chuyển sang công tác tại Bộ Ngoại giao Việt Nam, bắt đầu với chức Vụ trưởng Vụ Quản trị Tài vụ đến 2011. Từ 2011 đến 2014 ông làm Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Cục trưởng Cục Quản trị Tài vụ. Từ năm 2014 đến 2017 ông là Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Từ 2018 đến tháng 05 năm 2021 ông là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế; Thành viên Tổ biên tập Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030; Trưởng SOM Mekong; Trưởng Ban tổ chức WEF-ASEAN 2018; trực tiếp phụ trách công tác ngoại giao kinh tế. Từ tháng 06 năm 2021 ông là Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Vương quốc Bỉ, kiêm nhiệm Đại công quốc Luxembourg. Đại diện thường trực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Liên minh Châu Âu​. Khen thưởng. - Huân chương lao động hạng Nhất, Nhì và hạng Ba - Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao.
Yamamoto Ichita
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815657
(sinh ngày 24 tháng 1 năm 1958) là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Gunma kể từ năm 2019.
Chandrayaan-3
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815660
Chandrayaan-3 (, ) là chuyến thăm dò Mặt Trăng thứ ba của Ấn Độ trong khuôn khổ chương trình Chandrayaan của Tổ chức Nghiên cứu Vũ trụ Ấn Độ (ISRO). Nó bao gồm một tàu đổ bộ có tên "Vikram" và một xe tự hành có tên "Pragyan," tương tự như chuyến bay vào vũ trụ Chandrayaan-2. Mô-đun động cơ đẩy cấu hình tàu đổ bộ và tàu thăm dò lên quỹ đạo mặt trăng để chuẩn bị cho tàu đổ bộ được cấp điện. Chandrayaan-3 được phóng đi vào ngày 14 tháng 7 năm 2023. Tàu đổ bộ và xe tự hành đã hạ cánh gần khu vực cực Nam Mặt trăng vào ngày 23 tháng 8 năm 2023 lúc 18:02 IST, khiến Ấn Độ trở thành quốc gia đầu tiên hạ cánh thành công tàu vũ trụ gần cực Nam Mặt Trăng và nước thứ tư đến hạ cánh mềm lên Mặt Trăng.
Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815661
Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen (tiếng Anh: Black Sea Grain Initiative), hay đầy đủ là Sáng kiến ​​Vận chuyển an toàn Ngũ cốc và Thực phẩm từ các cảng của Ukraina (tiếng Anh: Initiative on the Safe Transportation of Grain and Foodstuffs from Ukrainian ports), là một thỏa thuận giữa Nga, Ukraina, Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Hợp Quốc (LHQ) trong thời gian Nga xâm lược Ukraina. Cuộc tấn công của Nga vào Ukraina vào tháng 2 năm 2022 đã dẫn đến việc ngừng hoàn toàn các chuyến hàng ngũ cốc bằng đường biển từ Ukraina, vốn trước đây là một nhà xuất khẩu lớn qua Biển Đen. Ngoài ra, việc Nga tạm thời ngừng xuất khẩu ngũ cốc càng làm trầm trọng thêm tình hình. Điều này dẫn đến sự gia tăng giá lương thực trên toàn thế giới và nguy cơ xảy ra nạn đói ở các nước có thu nhập thấp hơn, đồng thời cáo buộc rằng Nga đang vũ khí hóa nguồn cung cấp lương thực. Để giải quyết vấn đề, các cuộc thảo luận đã bắt đầu vào tháng 4, do Thổ Nhĩ Kỳ (nước kiểm soát các tuyến hàng hải từ Biển Đen) chủ trì và được Liên Hợp Quốc hỗ trợ. Thỏa thuận đã đạt được và ký kết tại Istanbul vào ngày 22 tháng 7, có giá trị trong khoảng thời gian 120 ngày. Thỏa thuận vào tháng 7 đã tạo ra các thủ tục xuất khẩu ngũ cốc an toàn từ một số cảng nhất định nhằm cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng lương thực năm 2022. Một trung tâm điều phối và kiểm tra chung đã được thành lập ở Thổ Nhĩ Kỳ, với Liên Hợp Quốc đóng vai trò là ban thư ký. Thỏa thuận ban đầu dự kiến ​​sẽ hết hạn vào ngày 19 tháng 11 năm 2022. Nga đã tạm ngừng tham gia thỏa thuận trong vài ngày do một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào các tàu hải quân Nga ở những nơi khác trên Biển Đen, nhưng đã tham gia lại sau khi hòa giải. Ngày 17 tháng 11 năm 2022, Liên Hợp Quốc và Ukraina thông báo rằng thỏa thuận đã được gia hạn thêm 120 ngày. Tháng 3 năm 2023, Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Hợp Quốc thông báo rằng họ đảm bảo gia hạn lần thứ hai thêm ít nhất 60 ngày nữa. Tháng 5 năm 2023, thỏa thuận một lần nữa được gia hạn thêm 60 ngày, hết hạn vào ngày 18 tháng 7.
Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815661
Tính đến giữa tháng 7 năm 2023, hơn 1000 chuyến hải trình đã rời các cảng Ukraine thành công, chở gần 33 triệu tấn ngũ cốc và các sản phẩm thực phẩm khác đến 45 quốc gia. Vào mùa hè năm 2023, Nga đã nhiều lần tuyên bố sẽ rút khỏi thỏa thuận vào tháng 7 năm 2023 trừ khi các yêu cầu của họ được đáp ứng. Ngày 17 tháng 7 năm 2023, không có thỏa thuận mới nào để gia hạn thỏa thuận, khiến thỏa thuận hết hiệu lực.
Trần Hạo Cơ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815666
Trần Hạo Cơ (sinh năm 1975) là một nhà văn trinh thám, tội phạm nổi tiếng sinh ra ở Hồng Kông, hiện đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan. Các sáng tác của anh được viết bằng tiếng Trung và một số tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới Tiểu sử. Trần Hạo Cơ sinh ra và lớn lên tại Hồng Kông. Anh theo học ngành khoa học máy tính tại Đại học Trung văn Hồng Kông. Vì vậy mà bên cạnh việc viết lách, Trần Hạo Cơ còn là một kĩ sư phần mềm và tham gia thiết kế trò chơi điện tử. Ngoài ra, anh cũng là chủ bút của một vài tạp chí truyện tranh. Năm 2008, Trần Hạo Cơ ra mắt truyện ngắn đầu tay "Jack và hạt đậu thần". Tác phẩm lọt vào danh sách đề cử cho Giải thưởng truyện kỳ bý Đài Loan. Năm 2009, anh giành Giải thưởng truyện kỳ bý Đài Loan cho truyện ngắn "Căn phòng bí mật của Lão Râu Xanh". Năm 2011, tại lễ trao giải thưởng Truyện kỳ bí Soji Shimada (giải thưởng do Soji Shimada sáng lập nhằm tôn vinh những tác giả trinh thám cổ điển Trung Quốc), Trần Hạo Cơ đã chiến thắng với tiểu thuyết "Hình cảnh mất trí". Tác phẩm này sau đó đã được Riccardo Moratto chuyển ngữ sang tiếng Ý và được phát hành tại một số quốc gia khác ngoài Trung Quốc đại lục và Đài Loan như Thái Lan và Nhật Bản. Năm 2014, Trần Hạo Cơ xuất bản tiểu thuyết 13·67, lấy bối cảnh 6 vụ án xảy ra tại Hồng Kông trong giai đoạn từ năm 1967 đến năm 2013, xoay quanh nhân vật chính là điều tra viên Quan Chấn Đạc. Tiểu thuyết đã đoạt giải tại Triển lãm Sách Quốc tế Đài Bắc 2015 và một số giải thưởng khác, trước khi được tác giả người Singapore Jeremy Tiang dịch sang tiếng Anh năm 2017. Tác phẩm cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Tại Nhật Bản, tác phẩm đoạt giải Booklog cho tiểu thuyết nước ngoài xuất sắc và giải Honyaku cho tác phẩm chuyển ngữ xuất sắc. Nó cũng được đề cử cho giải Tác phẩm trinh thám chuyển ngữ xuất sắc nhất thập niên 2010-2019. Các đánh giá về tác phẩm cho rằng bên cạnh nội dung trinh thám kỳ bí, nó còn mang đến cho người đọc một cái nhìn sâu sắc hiếm hoi về xã hội Hồng Kông.
Trần Hạo Cơ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815666
Năm 2017, Trần Hạo Cơ ra mắt tiểu thuyết thứ hai mang tên "Người trong lưới", xoay quanh vấn đề tin tặc và quấy rối tình dục. Jeremy Tiang tiếp tục là người dịch tác phẩm sang tiếng Anh. Tác phẩm cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng, bao gồm tiếng Việt. Các nhà phê bình đánh giá cao sự phức tạp trong cốt truyện cùng các chi tiết về cuộc sống ở Hồng Kông. Sách đã xuất bản. "Sách đã xuất bản sang tiếng Việt"
GA Bunko
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815669
là nhãn hiệu xuất bản liên kết với công ty xuất bản Nhật Bản SB Creative, một công ty con của SoftBank. Nhãn hiệu này thành lập vào tháng 1 năm 2006 và là một nhãn hiệu light novel. Đối tượng mà nhãn xuất bản này nhắm tới là nam giới ở độ tuổi thiếu niên và khoảng 20 tuổi.
Vũ Quang Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815673
Vũ Quang Minh là một nhà ngoại giao, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa liên bang Đức từ năm 2022. Ông từng hai lần giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tiểu sử và đời tư. Vũ Quang Minh sinh năm 1964 tại Hà Nội, ông lập gia đình với nhà ngoại giao Nguyễn Minh Hạnh và có 2 con trai. Sự nghiệp. Vũ Quang Minh học chuyên ngành Quan hệ Kinh tế Quốc tế tại Học viện Quan hệ Quốc tế Moskva (MGIMO), Liên Xô, từ 1983 đến 1988. Năm 1990, Vũ Quang Minh bắt đầu công tác tại Bộ Ngoại giao, giữ vai trò chuyên viên Vụ Liên Xô, Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam (Vụ Ngoại giao Văn hóa và UNESCO), rồi Ban Thư ký ASEAN Quốc gia (Vụ ASEAN). Từ năm 1993 đến 1995, ông Quang Minh theo học và đạt được học vị Thạc sỹ về các vấn đề công cộng (MPA) theo học bổng Fulbright tại Đại học Princeton, Hoa Kỳ. Ông còn học thêm các chương trình Quản lí kinh tế nhà nước của Đại học Harvard và Học viện Ngoại giao Philippines. Từ năm 1997 đến 2002, ông là Thư ký Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, biệt phái tại Văn phòng Chính phủ; Phó Vụ trưởng, Văn phòng Bộ Ngoại giao. Từ năm 2002 đến 2006 làm Tham tán, Trưởng phòng kinh tế, Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ. Từ năm 2006 đến 2011 là Phó Vụ trưởng, rồi Vụ trưởng Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Vụ Tổng hợp Kinh tế, Bộ Ngoại giao. Từ tháng 10 năm 2011, ông Vũ Quang Minh làm Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, trong cùng năm ông trở thành Đại sứ Việt Nam tại Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len. Khác với hai vị đại sứ tiền nhiệm, Vũ Quang Minh là người trẻ tuổi hơn và có trình độ tiếng Anh tốt. Từ năm 2014 đến 2017, ông là Trợ lý Bộ trưởng kiêm Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế, Bộ Ngoại giao. Từ tháng 11 năm 2017, Vũ Quang Minh giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và tham dự Hội nghị nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới (G20) tại Đức. Năm 2018, ông trở thành Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Campuchia.
Vũ Quang Minh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815673
Từ tháng 9 năm 2021, trở lại giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Từ tháng 3 năm 2022, Vũ Quang Minh là Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức. Ông Vũ Quang Minh có khả năng sử dụng thông thạo tiếng Nga, tiếng Anh, sơ cấp tiếng Pháp, giao tiếp có hạn chế bằng tiếng Khmer và tiếng Đức.
Nguyễn Trường Thắng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815676
Nguyễn Trường Thắng (sinh ngày 8 tháng 5 năm 1970) là tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là Trung tướng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, hiện là Tư lệnh Quân khu 7, Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên Quân ủy Trung ương. Ông từng giữ các chức vụ như Phó Tư lệnh Quân khu 7; Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh; Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5, Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyễn Trường Thắng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Quân sự, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp xuất phát điểm từ Quân khu 7, trở thành Tư lệnh Quân khu này sau hơn 30 năm phục vụ, đồng thời là Ủy viên Trung ương Đảng. Xuất thân và giáo dục. Nguyễn Trường Thắng sinh ngày 8 tháng 5 năm 1970, quê quán ở phường Định Hòa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Bình Dương, nhập ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1988. Ông từng học các khóa học quân sự và tốt nghiệp Cử nhân Quân sự, được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam trong lúc tại ngũ, từng tham gia khóa chính trị tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Bên cạnh đó, ông được cử tham gia Chương trình Bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII của Đảng Cộng sản tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh từ tháng 11 năm 2019 đến ngày 3 tháng 2 năm 2020. Sự nghiệp. Năm 1992, sau khi hoàn thành khóa học sĩ quan, Nguyễn Trường Thắng bắt đầu sự nghiệp khi được điều về công tác cho Sư đoàn 5, Quân khu 7. Ông công tác thời gian dài ở đơn vị này, lần lượt là đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi Phó Sư đoàn trưởng. Ngày 29 tháng 3 năm 2017, ông được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5, Quân khu 7, thay cho Đại tá Phạm Văn Thuận.
Nguyễn Trường Thắng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815676
Sang tháng 10 năm 2018, ông được điều tới Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh của Quân khu 7, nhậm chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh này, bàn giao từ ngày 31 cùng tháng, thay Thiếu tướng Trương Văn Hai. Ngày 30 tháng 3 năm 2019, Hội nghị Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 26, khóa X đã công bố quyết định của Ban Bí thư, chỉ định ông tham gia làm Thành ủy viên, Ủy viên Ban thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2015–2020. Sang ngày 2 tháng 7 năm 2019, ông được giao thêm vị trí Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự thành phố Hồ Chí Minh, được Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thăng quân hàm Thiếu tướng vào cuối năm. Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bổ nhiệm ông làm Phó Tư lệnh Quân khu 7, Bộ Quốc phòng, bàn giao nhiệm vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Nam. Vào ngày 3 tháng 11 năm 2020, Nguyễn Trường Thắng được giao nhiệm vụ phụ trách Tư lệnh Quân khu 7 thay Trung tướng Võ Minh Lương. Tháng 1 năm 2021, ông là đại biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 13 và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, nhiệm kỳ 2021–2026 vào ngày 30 tháng 1. Ông cũng được chỉ định làm Ủy viên Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2020–2025. Năm 2023, ông được thăng quân hàm Trung tướng.
Canberra (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815678
Canberra là thành phố thủ đô của Úc.
Khortytsia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815681
Khortytsia (, ) là đảo lớn nhất trên sông Dnepr (Dnipro), dài 12,5 km và rộng 2,5 km. Đảo này là một phần của Vườn quốc gia Khortytsia. Di tích lịch sử này nằm trong địa giới thành phố Zaporizhzhia, Ukraina. Đảo này đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Ukraina, đặc biệt là trong lịch sử của người Cossack Zaporozhia. Đảo có hệ động thực vật độc đáo, bao gồm rừng sồi, rừng vân sam, đồng cỏ và thảo nguyên . Phần phía bắc của đảo có nhiều đá và cao (cao 30 m so với lòng sông), còn phần phía nam thấp và thường bị ngập bởi nước sông Dnepr. Địa lý. Zaporizhzhia (nghĩa đen là "bên kia các ghềnh") lấy tên từ một khu vực địa lý ở hạ lưu sông Dnepr qua ghềnh sông thứ chín. Vào thập niên 1930 khi Nhà máy thủy điện Dnepr được xây dựng, những ghềnh này đã bị ngập lụt. Chỉ có những vách đá granit cao tới 50 m là minh chứng cho địa hình đá nguyên thủy của khu vực. Trên đảo Khortytsia tại đỉnh Savutyn, gần một khe núi cùng tên, có ba tháp truyền tải điện cao 74,5 m, được gọi là Bộ ba cột tháp Zaporizhzhia, là một phần của đường dây điện 150 kV bắc qua sông Dnepr. Lịch sử. Khortytsia liên tục có người sinh sống trong năm thiên niên kỷ qua. Các đảo khác trong vùng lân cận cũng có dấu hiệu của sự cư trú tập trung trong thời kỳ Ấn-Âu nguyên thủy và Scythia. Đảo Khortytsia Nhỏ được biết đến với di cốt của người Scythia và một công sự Cossack vô chủ. Đảo nhỏ Sredeny Stih (ở phía đông bắc của Khortytsia), được khai quật trong quá trình xây dựng nhà máy thủy điện vào năm 1927, và được đặt tên cho nền văn hóa Sredny Stog. Trong sơ kỳ Trung cổ, Khortytsia là một trung tâm chủ chốt của tuyến mậu dịch từ người Varangia đến người Hy Lạp. Trong chuyên luận "De Administrando Imperio" của mình, Hoàng đế Constantine VII đề cập đến đảo Thánh Georgiy ngay phía hạ lưu của các ghềnh sông. Ông tường thuật rằng khi đi qua ghềnh sông, người Rus' sẽ trở thành con mồi dễ dàng cho những người Pecheneg du mục. Thân vương Svyatoslav I của Kiev Rus' đã bị tấn công và giết chết trong nỗ lực vượt qua ghềnh sông vào năm 972.
Khortytsia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815681
Ghi chép sớm nhất về một thành trì được gọi là "sich" đề cập đến thành trì nằm trên đảo Khortytsia Nhỏ (Đảo Mala Khortytsia) và được thành lập bởi Thân vương Volyn Dmytro Vyshnevetsky. Đảo Khortytsia Nhỏ nhỏ hơn đảo Khortytsia 20 lần. Sich Khortytsia đầu tiên tồn tại sáu năm (1552–1558). Có một số địa điểm khác ở hạ lưu dưới ghềnh (khu vực Zaporozhia) là nơi đặt Sich Zaporizhia. Trong đó có tám địa điểm: Bazavluk (1593–1630), Mykytyn (1628–1652), Chortomlyk (1652–1709), Kamin (1709–1711), Oleshkiv (1711–1734), Pidpilna (1734–1775). Tất cả những nơi này đều ở ngã ba sông. Cuộc nổi dậy do Bohdan Khmelnytsky lãnh đạo bắt đầu tại Sich Mykytyn vào năm 1648. Truyền thuyết kể rằng người Cossack đã viết Lời hồi đáp của người Cossack Zaporozhia cho Sultan Mehmed IV của Đế quốc Ottoman trên đảo Khortytsia. Năm 1775, Sich bị tướng quân Nga Tekhely phá hủy theo lệnh của Yekaterina II, dẫn đến việc người Cossack Zaporozhia phải di dời, nhiều người trong số họ cuối cùng đã định cư trên sông Kuban ở khu vực Kavkaz. Những người Cossack này được gọi là Cossack Kuban. Một bộ phận người Cossack Zaporozhia trốn thoát sang bên kia sông Danube để trở thành chư hầu của Ottoman, họ sống ở cửa sông Danube. Vào năm 1830, nhiều người trong số những người Cossack này đã chuyển đến và thành lập một sich mới trên bờ biển Azov (giữa Mariupol và Berdiansk). Koshevoy Ataman (lãnh đạo) cuối cùng của Sich Zaporozhia là Petro Kalnyshevsky bị giam cầm tại [Tu viện Solovetsky]] ở tuổi 85. Năm 1789, những tín đồ Mennonite từ thành phố cảng Baltic Gdańsk (Danzig) được sa hoàng mời đến thành lập các khu định cư trên thảo nguyên rộng lớn của Đế quốc Nga. Một trong những khu định cư này nằm trên đảo Khortytsia. Họ canh tác trên đất đảo màu mỡ. Một số hoạt động kinh doanh sinh lợi của họ là buôn bán gỗ từ các khu rừng Khortytsia. Năm 1916, người định cư Mennonite đã bán đảo Khortytsia cho hội đồng thành phố Alexandrovsk. Năm 1965, đảo Khortytsia được "tuyên bố là khu bảo tồn lịch sử và văn hóa".
Khortytsia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815681
Khu bảo tồn văn hóa và lịch sử nhà nước các ghềnh Dnepr được thành lập năm 1974; nó bao gồm cả đảo Khortytsia, các đảo và bãi đá liền kề, và một phần hữu ngạn sông Dnepr. Tổng diện tích của khu bảo tồn là 2.359 ha. Khu bảo tồn được công nhận là cấp quốc gia vào năm 1993. Khu bảo tồn quốc gia. Phần chính của khu bảo tồn (công viên lịch sử) bao gồm Bảo tàng Cossack Zaporizhia có buổi triển lãm ngựa Cossack. Tòa nhà bảo tàng hiện đại, nép mình thấp trong cảnh quan với tầm nhìn ấn tượng ra Nhà máy thủy điện Dnepr ở phía bắc. Bảo tàng được khai trương vào tháng 10 năm 1983 với tên gọi Bảo tàng Lịch sử Zaporizhzhia. Dự án bảo tàng đã được Bộ Văn hóa và Derzhbud của Ukraina phê duyệt vào tháng 12 năm 1970. Diện tích triển lãm của bảo tàng là 1.600 m² và mô tả các chủ đề sau: Khortytsia thời cổ đại, lịch sử của người Cossack Zaporizhia, và lịch sử của Zaporizhzhia trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có bốn hoạt cảnh tầm sâu: "Trận chiến Sviatoslav tại ghềnh sông" (tác giả M. Oviechkin), "Cuộc nổi dậy của những người Cossack nghèo khó tại Sich Zaporizhia năm 1768" (M. Oviechkin), "Việc xây dựng nhà máy thủy điện Dnepr" (V. Trotsenko), " Cơn bão đêm thành phố Zaporizhzhia tháng 10 năm 1943” (M. Oviechkin). Một phần của bảo tàng đã trở thành rừng rồi Zaporizhzhia nằm ở Thượng Khortytsia. Năm 1992, phần trưng bày của bảo tàng được thiết kế lại. Bảo tàng trưng bày các hiện vật có từ thời kỳ đồ đá cho đến thời kỳ Scythia (khoảng 750–khoảng 250 TCN) cho đến thế kỷ 20.
FedNow
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815688
FedNow là một được phát triển bởi Cục Dự trữ Liên bang cho các tại Hoa Kỳ. Nó sẽ cho phép cá nhân và doanh nghiệp gửi và nhận tiền. Dịch vụ ra mắt vào ngày 20 tháng 7 năm 2023. Các ngân hàng sẽ có thể xây dựng các sản phẩm trên nền tảng FedNow. Hoạt động. Kế hoạch của FedNow là bắt đầu chứng nhận chính thức các thành viên tham gia chương trình vào tháng 4 năm 2023, với kế hoạch ra mắt chính thức vào tháng 7 năm 2023. Hệ thống sẽ hoạt động 24 trên 7 và 365 ngày trong năm, không giống như hệ thống hiện tại của chính phủ Mỹ, đóng cửa vào cuối tuần và các , Dự kiến chi phí giao dịch của FedNow sẽ chỉ khoảng 20% giá của các giải pháp thanh toán hiện nay, chi phí trung bình mỗi giao dịch của các nhà bán hàng hiện tại là 0,23 đô la. Thanh toán tức thì với FedNow có thể thực hiện nhiều cải tiến mà tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC) đã được đề xuất. Tuy nhiên, FedNow không phải là CBDC, vì nó không phải là trách nhiệm pháp lý của chính quyền Liên bang. Lịch sử. Năm 2017, Công ty thanh toán The Clearing House, một tổ chức tư nhân do một liên minh các ngân hàng lớn tại Mỹ sở hữu, đã giới thiệu Hệ thống Thanh toán Trực tiếp (RTP), một hệ thống thanh toán tức thì tương tự cũng có sẵn cho tất cả các cơ sở tài chính tại Mỹ. Vào cuối những năm 2010, liên minh các ngân hàng lớn đã không thành công trong việc thuyết phục chính phủ ngăn Ngân hàng Dự trữ Liên bang phát triển dịch vụ cạnh tranh FedNow, trong khi các ngân hàng nhỏ hơn và các công ty công nghệ tài chính khuyến khích Fed tiếp tục phát triển FedNow. Thanh toán tức thì giải quyết hầu hết các vấn đề mà đồng tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Dự trữ Liên bang sẽ giải quyết. Tuy nhiên, FedNow không phải là một CBDC, bởi vì nó không phải là một trách nhiệm của chính phủ Liên bang. Trước khi ra mắt vào tháng 7 năm 2023, Moody's Investor Service đã phát hành một báo cáo nêu ra các vấn đề tiềm tàng với dịch vụ này.