title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
FedNow
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815688
Họ đã lưu ý rằng các công ty hiện có trong lĩnh vực thanh toán có thể gặp suy giảm doanh thu, các cơ sở tham gia có thể bị buộc phải nâng cấp công nghệ và nhân sự, và có khả năng ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng gián đoạn dòng tiền, ngay cả khi có những lợi ích tiềm năng như giảm chi phí và nâng cao hiệu quả trong hệ sinh thái thanh toán.
Đặng Văn Hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815690
Đặng Văn Hòa (1791 - 1856) là một quan đại thần dưới triều đại nhà Nguyễn. Làm quan gần 40 năm, nằm giữ những chức vụ quan trọng từ tổng đốc đến thượng thư, ông là một “Nguyên lão tứ triều”, có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực chính trị, nông nghiệp và văn hóa cho nhà nước Đại Nam. Xuất thân. Đặng Văn Hòa hiệu "Lễ Trai", sinh ngày 25 tháng 6 năm Tân Hợi (1791) thuộc dòng họ Đặng làng Hà Trung, tổ tiên nhập tịch làng Bác Vọng Đông, huyện Quảng Điền, cư trú ở quê ngoại là làng Thanh Lương (nay thuộc Hương Xuân, Hương Trà, Thừa Thiên Huế). Trong các văn bia và tư liệu cổ, ông được ghi dưới tên Đặng Văn Thiêm: là con trưởng của Trung phụng Đại phu Đặng Quang Tuấn và Phan Thị Hãn, khi nhỏ có tên là Đặng Văn Hòa, sau này con trai thứ của ông là Đặng Huy Cát (1832 - 1899) lấy Công chúa Tĩnh Hòa, con gái thứ 34 của vua Minh Mệnh, nên đã xin đổi từ Văn Hòa sang Văn Thiêm. Sinh trưởng trong một nếp nhà thi thư, ngay khi còn nhỏ, Đặng Văn Hòa (Đặng Văn Thiêm) đã được phụ thân Trung phụng Đại phu vốn là một thầy giáo làng, chú tâm bồi dưỡng kiến thức Nho học toàn diện. Sự nghiệp. Năm Gia Long thứ 12 (1813), triều đình mở khoa thi Hương đầu tiên ở Thừa Thiên, Đặng Văn Hòa dự thi và đỗ Hương cống. Hai năm sau, ông được tuyển vào học ở Cống sĩ Viện (tức là Quốc tử giám) để chuẩn bị thi tiến sĩ, rồi đến năm 1819 được bổ nhiệm làm Tri huyện Hà Đông, rồi Quảng Nam. Từ đó ông dần thăng tiến nhiều chức vụ quan trọng: Lang trung Bộ Binh, Tham hiệp rồi Hiệp trấn Thanh Hóa (1822-1827), Tham tri Binh tào lãnh Hộ tào Bắc Thành, được cử làm chủ khảo khoa thi hương Mậu Tý trường Bắc Thành (1828). Năm 1830, ông giữ việc Hộ (coi sổ sách quân dân) ở Bắc Thành, trước tình thế trong ngoài bất ổn, ông tự mình đặt kế sách đối phó với nhà Thanh, ngăn chặn đem tiền giả mang sang để mua hàng, định lại thuế cho lái buôn nhà Thanh và cấm họ mang thuốc phiện sang bán.
Đặng Văn Hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815690
Năm 1831 làm quyền Tổng trấn Bắc Thành, cầm quân lên Lai Châu đánh quân Thanh xâm phạm biên giới và lấy lại đồn Phong Thổ. Cùng năm Vua Minh Mạng phân khu vực hành chính cấp tỉnh, Bắc Thành Thăng Long đổi thành tỉnh Hà Nội, bãi bỏ chức Tổng trấn, bổ nhiệm Đặng Văn Hòa làm Tổng đốc Hà Nội (1831), sau khi nhậm chức ông đã cho vẽ ngay bản đồ Hà Nội, mở rộng đường thiên lý từ Hà Nội đến Phú Xuyên, và dựng trường thi Hà Nội (khu vực Thư viện Quốc gia ngày nay), sau làm Tổng đốc Định Yên (1832-1835). Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) gia thưởng hàm "Thái tử Thiếu bảo", hàm Thượng thư bộ Binh, giữ chức tổng đốc Hà - Ninh kiêm Hữu đô ngự sử Viện đô sát. Ông đã có công trong việc tổ chức binh bị, dựng trường thi (1838), đắp đường quai và mỏ kè ở Hà Nội, mở rộng sông Hoàng Giang, đào sông Cửu An ở Hưng Yên, đắp thành Nam Định, Hưng Yên, đắp để ngăn mặn ở Ninh Bình. Năm 1837, ông cho sửa Khuê văn các ở Văn miếu. Trước cảnh chùa Diên Hựu đổ nát, ông quyên góp tiền thập phương và giao cho con trai là Ngự y Đặng Tá trông nom việc sửa chữa tiền đường, hành lang tả hữu, gác chuông và tam quan. Ngày ấy, nhà cửa ở Hà Nội thường làm bằng tre gỗ, ông đã cho sắp xếp lại đường phố. Mỗi khi nhà dân bị cháy, ông cưỡi voi đốc thúc binh lính và cùng dân chữa cháy, lại tổ chức cứu trợ ngay cho các gia đình bị nạn, nghiêm cấm nha lại không được tơ hào đồng tiền bát gạo của dân. Năm 1838, ông xin lập miếu Hỏa thần ba gian ở thôn Yên Nội, huyện Thọ Xương (nay ở 30 phố Hàng Điếu). Tháng 3 năm Minh Mạng thứ 20 (1839), làm Thượng thư Bộ Công, kiêm quản Hàn Lâm viện, sung chức Cơ Mật viện đại thần, ông có công trong việc chế tạo đạn lan can và liên châu, lập xưởng thủy sư ở Thanh Phước (Hương Phong - Hương Trà), xây dựng lũy đá Chiên Đàn và pháo đài ở Quảng Nam. Năm 1840, ông giữ chức Thự Tổng đốc rồi thăng Tổng đốc Bình - Phú (Bình Định - Phú Yên). Tại đây ông có công tổ chức lại việc quan điền để trừ nạn hào lý chiếm ruộng đất tốt.
Đặng Văn Hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815690
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) chuyển ra làm Tổng đốc Định - Yên (Nam Định - Hưng Yên). Tháng 5 năm 1843, ông được điều về kinh giữ chức Thượng thư Bộ Hình, kiêm Quản ấn triện Đại Lý tự, gia hàm Hiệp biện Đại học sĩ, sung đại thần Cơ Mật viện (1843-1845). Sau đổi Thượng thư Bộ Lễ (1846). Mùa thu năm 1846, ông tiếp tục được điều ra Bắc, làm Tổng đốc Hà Ninh (1846-1847), Định Yên (1847-1848). Năm 1847, ông cho khơi sâu lòng hào quanh bãi chiến trường xưa, lấy 15 mẫu đất ở hai trại Nam Đồng và Thịnh Quang làm nghĩa địa, cho thu nhặt hài cốt lập thành 13 gò đống, lại sai dựng chùa đúc chuông cúng các cô hồn. Sau ông được triệu về triều giữ lại Thượng thư Bộ Hình sung Cơ Mật Viện đại thần (1850-1855), rồi làm Khâm sai đại thần đi kinh lý Bình Phú (1851), về kiêm thêm Bộ Công, cuối cùng làm Tổng tài Quốc Sử Quán cho đến khi mất tại chức ngày 20 tháng 6 năm Bính Thìn (22/6/1856). Từ việc xét xử công minh, ông được vua Tự Đức phong "Văn minh điện Đại học sĩ" và tặng thưởng Kim khánh khắc bốn chữ "“Cựu đức thuần thành”." Bài vị ông được đưa vào đền Hiền Lương năm 1858, nơi thờ các công thần triều Nguyễn. Dân làng Thanh Lương đã tạc tượng Đặng Văn Hòa thờ tại ngôi chùa làng.. Nhận định. Đặng Văn Hòa được vua yêu, dân mến. Vua Minh Mạng từng khen:"“Tài cao đức trọng, giỏi chính sự, khéo khuyến khích hướng dẫn nhân dân, khiến nhân dân yên vui làm ăn”."Năm 1851, khi làm Thượng thư bộ Hình, ông được vua Tự Đức ban Kim khánh có khắc bốn chữ "Cựu đức thuần thành" (""Đức xưa thành thực luyện đạt”)". Nhân dân Thừa Thiên có câu truyền tụng:"Bác ngạn thanh liêm" "Đường xuyên trung ái."Hoàng giáp Lê Đình Diên, Đốc học Hà Nội, trong bài tựa cuốn Nhĩ, Hoàng di ái của Đặng Huy Trứ đã viết:"“Diên tôi hồi còn trẻ ở Nam Định từng được nghe vang danh Tổng đốc họ Đặng. Ngài thực là một bậc danh gia cự phách, ở ngôi tứ trụ của triều đình làm rạng rỡ cho gia tộc và có thể làm khuôn mẫu cho các bậc mũ áo…”.
Đặng Văn Hòa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815690
"Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tạo ở Đông Ngạc, huyện Từ Liêm viết:"“Tướng công Lễ Trai dáng mạo khôi ngô, cao lớn, lại giữ yên đất nước, lo cho dân chẳng khác gì thần Chân Vũ. Thần che chở cho dân nơi cõi âm. Tướng công giúp dân nơi dương thế. Dân tộc kính người như thần, nên ca ngợi và suy tôn là Thánh Đồng Đen”."Năm 1996, tại lễ kỷ niệm 205 năm ngày sinh và 140 năm ngày mất của Đặng Văn Hòa, nhà thơ Chu Hà đã có thơ tưởng niệm:"“Vị dân chí kế”, “Thánh Đồng Đen”," "“Cựu đức” sao Khuê, tượng tạc truyền." "“Dân hữu cơ hàn” lòng lửa đốt," "Nước lâm tai họa, giấc sao yên." "Nhĩ, Hoàng sóng dậy ân, tình, nghĩa," "Bồ, Đỉnh dòng tuôn trí, đức, liêm." "Một Cột, Khuê Văn còn mãi mãi" "Nghìn năm công đức rạng tiên hiền!"
Nay Luett
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815691
Nay Luett (ngày 3 tháng 5 năm 1935 – 1983), là quan chức, chính khách và nhà lãnh đạo người Thượng dân tộc Gia Rai, từng một thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Nay Luett bị chính quyền mới bắt giữ, giam cầm trong điều kiện khắc nghiệt trong 9 năm rồi được thả, và qua đời tại tư gia ngay sau đó. Tiểu sử. Thân thế và học vấn. Nay Luett chào đời trong một gia đình nghèo khó tại buôn Bon Ma Hing, tỉnh Pleiku, Liên bang Đông Dương ngày 3 tháng 5 năm 1935. Hồi còn nhỏ, ông đã thể hiện trí thông minh đáng kinh ngạc và thu hút sự chú ý của Nay Moul, thủ lĩnh bộ tộc Gia Rai. Nay Moul bèn tới nhà thuyết phục cha mẹ Nay Luett đưa ông sang ở tại ngôi nhà dài trong biệt điện của mình để tiện cho việc ăn học lâu dài. Nhờ vậy mà Nay Luett mới được theo học trường dạy tiếng Pháp-Bana ở Kon Tum và Trường Trung học Sabati ở Buôn Ma Thuột. Nay Moul cũng sắp xếp cho con gái mình kết hôn với Nay Luett. Năm 1958, ông tốt nghiệp Trường Trung học Yersin Đà Lạt. Sự nghiệp chính trị. Nay Luett là một trong những thủ lĩnh của tổ chức người Thượng BAJARAKA. Từ ngày 15 tháng 9 năm 1958 đến tháng 9 năm 1962, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam giữ vì biểu tình đấu tranh đòi quyền lợi thay mặt người dân của mình. Năm 1962, Nay Luett vừa ra tù thì đi làm phiên dịch viên cho lực lượng đặc nhiệm thuộc Trung tâm Huấn luyện Hòa Cầm. Năm 1963, ông là người phụ trách một doanh trại gần Khâm Đức, tỉnh Quảng Tín, còn nắm quyền chỉ huy 430 lính Biệt động quân tấn công mật khu Thạch Bích của Cộng sản, thu giữ một số lượng lớn vũ khí. Từ ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông quay trở lại sống đời nông dân bình thường. Từ năm 1964 đến năm 1966, Nay Luett chuyển sang làm chuyên gia Vụ Sắc tộc Tây Nguyên. Từ năm 1966 đến năm 1967, ông là chuyên viên Bộ Phát triển Sắc tộc. Từ năm 1967 đến năm 1969, ông giữ chức Vụ trưởng Vụ Tái thiết Nông thôn Sắc tộc Tây Nguyên Bộ Phát triển Sắc tộc.
Nay Luett
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815691
Từ năm 1970 đến năm 1971, ông được đào tạo làm thư ký cấp cao. Từ năm 1969 đến năm 1970, ông lên làm Trưởng ban Phát triển Sắc tộc tỉnh Phú Bổn. Từ ngày 16 tháng 6 năm 1971, Nay Luett được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa. Ngày 4 tháng 4 năm 1975, sau khi các thành phố Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn và Nha Trang rơi vào tay quân đội Bắc Việt, Nay Luett cùng với giới lãnh đạo người Thượng khác đã gặp gỡ các quan chức của Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Ông đưa ra lời đề nghị người Mỹ nên đưa các nhà lãnh đạo người Thượng và gia đình của họ vào kế hoạch sơ tán khẩn cấp. Đêm hôm trước lúc Sài Gòn thất thủ ngày 28 tháng 4, giới lãnh đạo người Thượng đều đến tập trung tại nhà Nay Luett để chờ di tản nhưng chẳng có chiếc xe di tản nào đến đón họ cả. Tháng 6 cùng năm, Bộ Phát triển Sắc tộc bị bãi bỏ. Nay Luett, giống như những nhà lãnh đạo người Thượng khác, đã bị chế độ mới bắt giữ sau khi trở về quê hương và bị giam cầm trong những điều kiện khắc nghiệt. Năm 1983, sau thời gian ở tù suốt 9 năm, ông được phóng thích ra khỏi trại giam rồi chưa đầy 2 tháng sau chết tại nhà. Đời tư. Nay Luett theo đạo Công giáo, đã kết hôn và có 7 người con (trong đó có 2 người con nuôi).
Paul Nưr
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815692
Paul Nưr (ngày 7 tháng 7 năm 1925 – ?), là giáo viên, công chức, lãnh đạo người Thượng dân tộc Ba Na, từng một thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa. Tiểu sử. Paul Nưr sinh ngày 7 tháng 7 năm 1925 tại làng Kon Rơ Bang, tỉnh Kon Tum, Liên bang Đông Dương. Từ năm 1943 đến năm 1948, ông đi dạy học. Từ năm 1963 đến năm 1965, ông lên làm Phó Tỉnh trưởng tỉnh Kon Tum. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Paul Nưr bị chế độ mới bắt đưa đi cải tạo tập trung và chết trong tù không rõ vào lúc nào. Đời tư. Paul Nưr lập gia đình có tổng cộng 8 người con (tính đến năm 1968).
Rooftop Koreans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815696
Rooftop Koreans là một từ lóng để chỉ một số bộ phận người Mĩ gốc Hàn trong cuộc Bạo loạn Los Angeles năm 1992. Những người này đa phần là chủ các doanh nghiệp, cửa hàng, cũng như bạn bè, gia đình trong khu vực bất ổn. Họ trang bị vũ khí cá nhân (phần lớn là súng lục và shotgun) và thủ trên mái nhà nơi họ làm việc với mục đích bảo vệ cơ sở vật chất của họ trước làn sóng biểu tình, đập phá, cướp bóc. Nguồn gốc của cuộc bạo loại bắt nguồn từ việc bốn sĩ quan Sở Cảnh sát Los Angeles được tha bổng trong vụ đánh đập Rodney King và dẫn đến sự phản đối kịch liệt liên quan tới vấn đề phân biệt chủng tộc. Bối cảnh chung. Trong nhiều năm, vấn nạn nhập cư ồ ạt ở Hoa Kì đã là một vấn đề nhức nhối trong xã hội. Hệ lụy rõ ràng nhất có thể thấy được là tình trạng phân biệt chủng tộc. Vấn nạn này không chỉ diễn ra giữa người dân và dân nhập cư, mà nó còn diễn ra giữa những cộng đồng dân nhập cư với nhau. Trong nhiều năm, những căng thẳng giữa cộng đồng người Hàn Quốc ở Los Angeles và cộng đồng người Mỹ gốc Phi như quả bom có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Sự việc ngày càng trở nên căng thẳng sau vụ án Latasha Harlins, một thiếu nữ 15 tuổi người Mỹ gốc Phi bị một chủ cửa hàng tiện lợi người Mỹ gốc Hàn bắn chết một cách gây tranh cãi mà không phải ngồi tù. Diễn biến. Sau phán quyết của Rodney King, cảnh sát Los Angeles thông báo rằng họ không thể bảo vệ nhiều khu vực bị ảnh hưởng do phạm vi ảnh hưởng quá lớn của các cuộc bạo loạn. Trong khi đó, họ cho thiết lập một vành đai phòng thủ xung quanh Beverly Hills và Tây Hollywood vốn giàu có và là khu của người da trắng, bỏ mặt khu Koreatown cho họ tự lo liệu. Đáp lại động thái đầy thiên vị trên, nhiều chủ doanh nghiệp và cư dân Hàn Quốc quyết định tự giải quyết vấn đề theo cách của nọ. Các đài phát thanh tiếng Hàn trong khu vực Los Angeles đã đưa ra lời kêu gọi giúp đỡ các chủ doanh nghiệp Hàn Quốc, dẫn đến việc các tình nguyện viên đã nhiệt tình hưởng ứng bằng cách mang súng của họ đến. Giao lộ của Phố 5 và Đại lộ phía Tây là một trong những điểm nóng nhất trong khu vực.
Rooftop Koreans
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815696
Nơi này được gọi là Chợ Hàn Quốc ở California (còn gọi là Gaju hoặc Kaju) vì có nhiều cửa hàng tiện lợi của người Hàn. Các địa điểm khác cũng được người dân bảo vệ bằng súng bao gồm 8th và Oxford, cũng như Western và Third Street. Los Angeles Times cho biết có nhiều tay súng trên nóc các cửa hàng tạp hóa được trang bị "shotgun và vũ khí tự động" trong khi Tạp chí Ebony lại ghi nhận họ sử dụng "súng trường và súng lục". Vì Hàn Quốc có quy định hai năm nghĩa vụ quân sự bắt buộc đối với nam giới nên nhiều người nhập cư đã có kinh nghiệm sử dụng súng một cách thành thạo trước đó. Hành động của những "Rooftop Koreans" đã làm dấy lên những cuộc tranh luận về quy định kiểm soát súng cũng như tinh thần cảnh giác đồng thời họ cũng được ca ngợi vì sự "dũng cảm và tháo vát". Theo ghi nhận, không có kẻ bạo loạn nào bị bắn chết bởi bất kỳ tay súng người Hàn nào. Tuy nhiên đã có ghi nhận một số tay súng thương vong sau các cuộc đọ súng. Hệ quả. Các "Rooftop Koreans" đã được những người ủng hộ quyền sử dụng súng trích dẫn về giá trị của quyền sở hữu súng của công dân và coi là "phản xạ tự nhiên". Trong những năm gần đây, nó cũng là chủ đề của các meme trên mạng xã hội, góp phần gây căng thẳng với các cộng đồng người Mỹ gốc Phi, đặc biệt là trong tình trạng bất ổn ở Ferguson năm 2014. Sự xuất hiện của phong trào Black Lives Matter và Stop Asian Hate cũng làm gia tăng thêm căng thẳng giữa 2 chủng tộc này.
Vương quốc Đông Hungary
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815703
Vương quốc Đông Hungary (tiếng Hungary: "keleti Magyar Királyság") là một thuật ngữ hiện đại do một số nhà sử học đặt ra để chỉ vương quốc của John Zápolya và con trai ông là John Sigismund Zápolya, người đã tranh chấp yêu sách của Nhà Habsburg để cai trị Vương quốc Hungary từ năm 1526 đến 1570. Nhà Zápolyas cai trị một phần phía Đông của Hungary, và các vị vua Habsburg (Ferdinand và Maximilian) cai trị phía Tây. Habsburg đã nhiều lần cố gắng thống nhất toàn bộ Hungary dưới sự cai trị của họ, nhưng Đế quốc Ottoman đã ngăn cản điều đó bằng cách ủng hộ Vương quốc Đông Hungary. Phạm vi chính xác của vương quốc Zápolya chưa bao giờ được giải quyết vì cả Habsburgs và Zápolyas đều tuyên bố toàn bộ vương quốc. Một sự phân chia lãnh thổ tạm thời được thực hiện trong Hiệp ước Nagyvárad năm 1538. Vương quốc Đông Hungary được một số nhà sử học coi là tiền thân của Thân vương quốc Transylvania (1570–1711), được thành lập theo Hiệp ước Speyer (1570).
Emilijus Zubas
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815709
Emilijus Zubas (sinh ngày 10 tháng 7 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá người Litva thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Israel Hapoel Tel Aviv. Daugava Rīga. Trước khi mùa giải 2013 Latvian Higher League, Zubas đã ký hợp đồng dài hạn với Daugava Rīga, chuyển đến từ câu lạc bộ FK Ekranas đang chơi tại A Lyga. Vì Artūrs Vaičulis là lựa chọn tốt nhất ở Daugava Rīga, Zubas được cho mượn đến câu lạc bộ đang chơi tại Ekstraklasa GKS Bełchatów. Mặc dù có màn trình diễn cá nhân đáng chú ý, GKS Bełchatów đã xuống hạng và Zubas đã trở lại Daugava Rīga. Trong nửa sau của mùa giải 2013, anh được cho mượn đến câu lạc bộ ở Giải hạng nhất Síp AEK Larnaca. Trước khi mùa giải 2014 bắt đầu, Zubas được cho mượn đến câu lạc bộ đang chơi tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Đan Mạch Viborg FF. Vào tháng 7 năm 2014, Zubas được gọi trở lại câu lạc bộ cũ và nằm trong danh sách ra sân của Daugava cho trận đấu UEFA Europa League với Aberdeen. Sau trận đấu, anh lại được cho mượn, trở lại câu lạc bộ GKS Bełchatów. GKS Bełchatów. Sau khi chuyển đến Ba Lan theo dạng cho mượn vào tháng 1 năm 2013, anh nhanh chóng trở thành một trong những thủ môn xuất sắc nhất giải đấu. Mặc dù GKS Bełchatów giành chiến thắng ở vòng mùa xuân với 25 điểm, nhưng họ đã xuống hạng. Zubas liên tục cứu thua cho đội và được gọi vào đội tuyển quốc gia Litva. Anh cũng được chọn là thủ môn xuất sắc nhất mùa giải Ekstraklasa 2012-13.
Moules-frites
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815712
Moules-frites hoặc moules et frites (]; ) là một món ăn được làm từ trai và khoai tây chiên có nguồn gốc xuất xứ từ Bỉ. Món ăn được đặt tên theo một từ trong tiếng Pháp, trong đó, "moules" có nghĩa là con trai và "frites" mang nghĩa là khoai tây chiên, với tên tiếng Hà Lan cho món ăn có nghĩa giống nhau. Nó được coi là món ăn quốc gia của Bỉ. Bối cảnh. Mặc dù "moules-frites" phổ biến ở nhiều quốc gia, người ta cho rằng món ăn có nguồn gốc từ Bỉ. Có khả năng ban đầu nó được tạo ra bằng cách kết hợp trai, một loại thực phẩm phổ biến và rẻ tiền, được ăn xung quanh vùng bờ biển Vlaanderen, và khoai tây chiên, thường được ăn trên khắp đất nước vào mùa đông khi không có cá hoặc thức ăn có sẵn khác. Ở cả Bỉ và Pháp, "moules-frites" có sẵn ở hầu hết các nhà hàng, tùy theo mùa. Theo một cuộc khảo sát được thực hiện bởi TNS, "moules-frites" được xác định là món ăn yêu thích thứ hai ở Pháp, nhận được 20% bình chọn, thua "", món ăn với 21% bình chọn. Trung bình, từ 25 đến 30 tấn trai được tiêu thụ ở Bỉ cho món "moules-frites". Phần lớn trai tiêu thụ ở Bỉ đến từ các trang trại nuôi trai ở gần tỉnh Zeeland của Hà Lan. Biến thể và chuẩn bị. "Moules". Cách nấu trai trong món ăn có thể khác nhau đáng kể. Một số biến thể phổ biến bao gồm: Ít phổ biến hơn, các biến thể kết hợp được thấy, trong đó nước dùng có thể được thêm hương vị bằng các thành phần không phải của địa phương như ớt Espelette hoặc rượu chưng cất Pernod. Chúng cũng có thể được phục vụ với "Mosselsaus", một loại nước xốt được làm từ xốt mayonnaise, mù tạt và giấm. "Frites". Dưới nhiều hình thức khác nhau, "frites" hoặc "friet" đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa và ẩm thực Bỉ. Trong đất nước Bỉ, khoai tây bintje thường được ưa chuộng làm cơ sở cho khoai tây chiên vì hàm lượng tinh bột cao. Chúng thường được chiên hai lần (chiên, để nguội rồi chiên lại) để làm cho chúng vừa ẩm bên trong lại vừa giòn bên ngoài. Chuẩn bị. Là một món ăn, phần "moules" và "frites" thường được phục vụ riêng, để tránh việc khoai tây chiên bị sũng nước sốt.
Moules-frites
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815712
Thông thường, moules được phục vụ trong chảo dùng để nấu chúng. Một món ăn thứ hai thường được cung cấp cho vỏ trai bị loại bỏ. Tiêu thụ. Trai và khoai tây chiên được bán ở khắp mọi nơi trên đất nước Bỉ, từ bờ biển Bỉ đến đáy Ardennes. Ở Pháp, món ăn này phổ biến ở Nord-Pas-de-Calais. Đây là món ăn đặc trưng của quán rượu Lille. Năm 2009, 500 tấn trai và 30 tấn khoai tây chiên đã được tiêu thụ trong sự kiện này. Trong những ngày cuối tuần này, các chủ nhà hàng chất đống trai đã ăn trước cửa hàng của họ; hầu hết thời gian, nhà hàng Aux moules (rue de Béthune) và La Chicorée (Rihour) có số lượng lớn nhất. Năm 2008, TNS Sofres đã thực hiện một cuộc khảo sát đối với người dân miền Bắc. Trai và khoai tây chiên đứng ở vị trí thứ hai với tỷ lệ 25%. Món ăn này bị bít tết và khoai tây chiên bỏ xa với 33%. Tại Pháp, theo cuộc thăm dò tương tự của TNS-Sofres, moules-frites đứng ở vị trí thứ hai trong số các món ăn được người Pháp yêu thích với 20%. Nó chỉ kém ức vịt đúng 1 điểm. Món ăn có thể dùng kèm với abbey lager hoặc rượu vang trắng khô; rượu vang đỏ nên tránh vì tanin của nó. Về nước xốt, ngoài xốt marinière ăn kèm trai, có thể thêm xốt mayonnaise ăn kèm với khoai tây chiên. Trai và khoai tây chiên cũng là đặc sản của chuỗi nhà hàng Bỉ, Chez Léon.
Volodymyr Zubashivskyi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815713
Volodymyr Zubashivskyi (; sinh ngày 28 tháng 2 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina thi đấu ở vị trí tiền vệ cho FC Chernihiv tại Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Ukraina. Sự nghiệp. Sự nghiệp ban đầu. Anh bắt đầu sự nghiệp tại RVUFK Kyiv và trong hệ thống thanh thiếu niên của Olimpik Donetsk. Năm 2018, anh chuyển đến Dukla Prague. FC Chernihiv. Vào ngày 23 tháng 8 năm 2022, anh ký hợp đồng với FC Chernihiv tại Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Ukraina. Vào ngày 27 tháng 8, anh có trận ra mắt giải đấu trong trận gặp Skoruk Tomakivka tại Sân vận động Yunist ở Chernihiv. Danh hiệu. Kudrivka
Ana Zubashvili
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815719
Ana Zubashvili () là một nữ hoàng sắc đẹp Gruzia từng đăng quang Hoa hậu Gruzia 2014. Cô đã tham dự Hoa hậu Thế giới 2014 và Hoa hậu Hoàn vũ 2014. Đầu đời. Ana từng theo học tại Đại học Quốc gia Tbilisi. Cuộc thi sắc đẹp. Hoa hậu Gruzia 2014. Ana đăng quang Hoa hậu Gruzia 2014 vào ngày 9 tháng 2 năm 2014, tại Pavilion ở thủ đô Tbilisi. Hoa hậu Thế giới 2014. Ana đại diện cho Gruzia tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2014 ở Luân Đôn nhưng không đạt được thứ hạng. Hoa hậu Hoàn vũ 2014. Ana đại diện cho Gruzia tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2014 nhưng không đạt được thứ hạng.
Vygantas Zubavičius
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815720
Vygantas Zubavičius (sinh ngày 14 tháng 11 năm 1984) là một cựu cầu thủ bóng đá người Litva. Sự nghiệp. Anh đã có một thời gian thử việc với câu lạc bộ Heart of Midlothian F.C. ở Scotland, nhưng không giành được hợp đồng.
Ohmori Shigeru
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815721
là một đạo diễn, nhà thiết kế và nhà phát triển trò chơi điện tử người Nhật Bản nổi tiếng trong việc nhượng quyền thương mại "Pokémon". Anh làm việc tại Game Freak từ năm 2001, và là đạo diễn chính của các dòng trò chơi điện tử "Pokémon" kể từ "Pokémon Omega Ruby và Alpha Sapphire" phát hành năm 2014. Sự nghiệp. Ohmori Shigeru sinh ngày 29 tháng 2 năm 1980 tại thành phố Matsudo, tỉnh Chiba. Cha mẹ của Ohmori qua đời từ khi anh còn nhỏ. Anh vào một trường dạy nghề và học lập trình, trước khi tốt nghiệp anh làm quảng cáo cho trò chơi điện tử "Yakiniku Bugyou". Ban đầu anh đến Game Freak với vai trò là một lập trình viên, nhưng Ohmori nhận ra mình thích thiết kế trò chơi điện tử hơn là lập trình, rồi đăng ký trở thành một nhà thiết kế. Tác phẩm đầu tiên của Ohmori trong Game Freak là "Pokémon Ruby" và "Sapphire", ngay sau khi tham gia và là nhà thiết kế chính trong các phần kế tiếp "Pokémon Diamond" và "Pearl". Theo Masuda Junichi, giám đốc trò chơi "Pokémon" trước năm 2014, ông chỉ định Ohmori thay mình trong việc điều hành các trò chơi Pokémon trong tương lai trong quá trình phát triển "Pokémon X" và "Y". Thời điểm này, Ohmori là giám đốc thiết kế trò chơi. Vì yêu cầu của người hâm mộ về việc làm lại "Ruby" và "Sapphire", Masuda đã chọn Ohmori do mối liên hệ chặt chẽ của Ohmori với các trò chơi cũ và anh được thông báo về quyết định của Masuda vào dịp kỷ niệm 10 năm ra mắt trò chơi. Bản làm lại "Pokémon Omega Ruby" và "Alpha Sapphire" phát hành vào năm 2014 và sau khi quá trình phát triển kết thúc Ohmori trở lại vai trò đạo diễn cho trò chơi "Pokémon Sun" và "Moon" năm 2016. "Sun" và "Moon" là trò chơi thế hệ mới đầu tiên của Ohmori với vai trò đạo diễn. Trò chơi mang đề tài thiên nhiên và trong thiết kế Ohmori đã tăng cường sự nhấn mạnh mà các trò chơi hướng tới các sinh vật "Pokémon". Trong một cuộc phỏng vấn với "USGamer", Ohmori cho biết muốn thiết kế trò chơi mới "từ đầu", và do đó cơ chế trò chơi mới được giới thiệu. Trong các trò chơi thế hệ sau, "Pokémon Sword" và "Shield", Ohmori tiếp tục là đạo diễn. Theo Ohmori, do độ phân giải cao của Nintendo Switch, có thể bao gồm các mục trực quan nhỏ hơn cùng các mục lớn hơn, cho phép thêm các tính năng như tương tác nhiều người chơi trong trận đấu.
Ohmori Shigeru
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815721
Một khâu thiết kế thu hút sự chú ý của Ohmori chính là cỏ trong trò chơi – khi người chơi nhận thấy các mảng cỏ là nơi tiềm năng cho "Pokémon", được coi là một yếu tố thiết kế cốt lõi và Ohmori đã cùng đội ngũ của mình mất nửa năm để hoàn thành. Ohmori là đạo diễn của trò chơi "Pokémon Scarlet" và "Violet" phát hành năm 2022. Trò chơi vẫn sẽ không lồng tiếng như các trò chơi trước, Ohmori cho biết nếu không có giọng nói của nhân vật "người chơi có thể tạo ra giọng nói của riêng mình giống với nhân vật đó khi họ đang chơi".
Satake Norihisa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815723
(sinh ngày 15 tháng 11 năm 1947) là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Akita kể từ năm 2009.
Ӕ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815724
Ae (Ӕ ӕ, chữ nghiêng: "Ӕ" "ӕ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin, được sử dụng riêng trong tiếng Ossetia để biểu thị cho âm . Phiên âm ISO 9 của nó là ⟨æ⟩ nhưng một số trình chuyển ngữ có thể chuyển nó thành ⟨ä⟩. Nó trông giống hệt chữ Æ (Æ æ "Æ" "æ") trong bảng chữ cái Latinh. Lịch sử. Chữ cái này lần đầu tiên được sử dụng trong bảng chữ cái Kirin của Anders Johan Sjögren vào năm 1844 và xuất hiện đầu tiên trong tiểu thuyết và sách thơ xuất bản vào đầu thế kỷ 20. Nó được giữ nguyên trong quá trình chuyển sang bảng chữ cái Latinh và chuyển đổi sang bảng chữ cái Kirin. Đây là một trong những chữ cái phổ biến nhất trong tiếng Ossetia. Chữ cái này cũng được tìm thấy trong bảng chữ cái tiếng Lezgi năm 1871 và 1911, bảng chữ cái tiếng Dargin năm 1892 và bảng chữ cái tiếng Tabasaran năm 1875.
Văn Mởn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815725
Văn Mởn (sinh 1943) là một nghệ sĩ chèo người Việt Nam, được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân năm 2015. Tiểu sử. Ông quê ở xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Hifu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815728
<ruby lang="ja">被風, 被布, 披風<rp>(</rp><rt>ひふ, ひふ, ひふ</rt><rp>)</rp></ruby>) là loại áo khoác truyền thống mặc ngoài kimono. Vào khoảng cuối thời kỳ Edo (1603–1867), nó được dùng làm trang phục cho nam giới thuộc các ngành nghề văn hóa như (giáo viên trà đạo) và (nhà thơ haiku). Về sau nó mới được dùng làm trang phục cho phụ nữ. là một loại áo không tay và là trang phục cho trẻ em, trong khi loại dài tay thường được mặc bởi người trưởng thành. Loại cộc tay này được sử dụng như một loại áo khoác, tránh cho lớp áo bên trong khỏi bị bẩn, trong khi loại dài tay thường được mặc để giữ ấm. không có tay áo thường được xem như một phần trong bộ quần áo truyền thống của trẻ em vào dịp . Hifu cũng là nguồn gốc của chiếc áo khoác kimono hiện nay. Kết cấu. Hình dáng và cách sử dụng của có nét tương đồng với (áo khoác dài mặc ngoài kimono). Tuy nhiên, không giống như , là áo khoác có thêm hai hàng khuy; các lớp vải phía trước đủ rộng để che toàn bộ ngực và chúng sẽ được buộc (hoặc cài nút) ở vai. Hifu có cổ áo phẳng và đường viền cổ áo hình vuông ( còn gọi là ), thay vì cổ áo tròn (gọi là ). Người mặc có thể đệm cho một lớp vải đệm để tăng thêm độ ấm. được ưa chuộng là loại thường được làm từ (lụa sa tanh có hình của Nhật Bản) và được buộc bằng dây lụa bện thành nút có hình hoa cúc . Chúng được trẻ nhỏ mặc vào dịp lễ , như một phần của trang phục chính thức nhằm cầu mong điều tốt lành.
Động đất ven biển phía Bắc Iwate 2008
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815729
là trận động đất xảy ra vào lúc 00:26 (JST), ngày 24 tháng 7 năm 2008. Trận động đất có cường độ 6.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 115 km. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này. Hậu quả trận động đất đã làm 1 người chết, 211 người bị thương.
Carbonade flamande
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815730
Carbonade flamande (tiếng Hà Lan: stoofvlees hoặc stoverij, tiếng Pháp: carbon(n)ade) "à la flamande" là một món hầm được làm từ thịt bò (hoặc thịt lợn) và hành tây, phổ biến ở Bỉ, Hà Lan và vùng Flanders thuộc Pháp, làm với bia và mù tạt phết lên bánh mì, có thể thêm gia vị lá nguyệt quế, xạ hương, đinh hương và quả bách xù. Từ nguyên. Trong tiếng Pháp, "carbon(n)ade" cũng có thể là món thịt lưng ngựa nướng và một số thịt bò hầm nấu với rượu vang đỏ chẳng hạn như beef bourguignon ở miền Đông nước Pháp. Tuy vậy, trong tiếng Anh, "carbonnade" nói chung là một món ăn của Bỉ. Thuật ngữ món hầm Flemish, là một thuật ngữ chung, đôi khi được dùng để chỉ các món ăn Flemish khác như "waterzooi" hoặc "hochepot". Biến thể. Là một món ăn chính của ẩm thực Bỉ, các công thức nấu ăn khác nhau giữa các vùng và hộ gia đình. Các biến thể bao gồm thay thế bánh mì bằng bánh mì gừng hoặc speculaas, sử dụng thêm gia vị, như Sirop de Liège, và sử dụng các loại bia khác nhau. Các loại bia phổ biến cho món ăn này bao gồm Oud bruin (Old Brown Beer), Brune Bia Tu Viện và Flanders red. Ngay trước khi phục vụ, một lượng nhỏ rượu táo hoặc giấm rượu vang và hoặc đường nâu hoặc thạch lý chua đỏ đôi khi được thêm vào. Tiêu dùng. Carbonade thường đi kèm với khoai tây chiên, khoai tây luộc hoặc stoemp. Nó có sẵn rộng rãi trong các nhà hàng và friterie ở Bỉ và Hà Lan.
Trịnh Tuyền
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815736
Trịnh Tuyền (tiếng Trung giản thể: 郑璇, bính âm Hán ngữ: "Zhèng Xuán", sinh tháng 11 năm 1964, người Hán) là tướng lĩnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông là Thượng tướng Quân Giải phóng, Chính ủy Chiến khu Bắc Bộ. Ông từng giữ các chức vụ như Phó Chính ủy Chiến khu kiêm Chính ủy Lục quân Chiến khu Bắc Bộ; Phó Chính ủy Chiến khu kiêm Chủ nhiệm Bộ Công tác chính trị Chiến khu Trung Bộ; Chính ủy Tập đoàn quân 13, Quân khu Thành Đô. Trịnh Tuyền là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Thạc sĩ Quân sự. Ông có hơn 40 năm tại ngũ, đều công tác về chính trị của quân đội ở các đơn vị như Quân khu Thành Đô, Chiến khu Trung Bộ, Chiến khu Bắc Bộ. Xuất thân và giáo dục. Trịnh Tuyền sinh tháng 11 năm 1964 tại huyện Mân Hầu, nay thuộc thủ phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông lớn lên ở Mân Hầu, từ cuối năm 1976 thì bắt đầu tham gia phong trào thanh niên tiến về nông thôn của Đại Cách mạng văn hóa vô sản giai đoạn cuối. Về sau khi trong quân ngũ, ông được cử đi học ở Đại học Quốc phòng trong các giai đoạn bồi dưỡng cán bộ trung thanh niên chính quy, nhận bằng Thạc sĩ Quân sự. Sự nghiệp. Trịnh Tuyền nhập ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, phục vụ cho Quân khu Thành Đô, lần lượt là chính trị viên của tiểu đoàn, trung đoàn rồi Chính ủy Lữ đoàn pháo phòng không của Tập đoàn quân 14. Năm 2008, ông được bổ nhiệm làm Chính ủy sư đoàn của Tập đoàn quân 14. Sau đó 4 năm, ông được điều tới Tập đoàn quân 13 của Quân khu Thành Đô – nay là Tập đoàn quân 77, nhậm chức Phó Chính ủy, đồng thời được thăng quân hàm Thiếu tướng Lục quân. Sang năm 2013, ông được thăng chức Chính ủy Tập đoàn quân 13, thăng hàm chính quân, kế nhiệm Thiếu tướng Điêu Quốc Tân được điều chuyển làm Chính ủy Quân khu Tây Tạng.
Trịnh Tuyền
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815736
Tháng 1 năm 2017, sau khi hệ thống quân sự được cải tổ, Trịnh Tuyền được điều tới Chiến khu Trung Bộ, bổ nhiệm làm Phó Chính ủy Chiến khu Trung Bộ kiêm Chủ nhiệm Bộ Công tác chính trị Chiến khu này, rồi được thăng quân hàm Trung tướng vào tháng 6 năm 2019. Tháng 12 năm 2020, ông được điều chuyển làm Phó Chính ủy Chiến khu kiêm Chính ủy Lục quân Chiến khu Bắc Bộ, thay thế Trung tướng Thạch Hiểu nghỉ hưu tuổi 63. Tháng 6 năm 2023, ông được bổ nhiệm làm Chính ủy Chiến khu Bắc Bộ, thăng quân hàm Thượng tướng. Trong sự nghiệp của mình, Trịnh Tuyền đã thực hiện nhiều nhiệm vụ về cứu trợ, cứu nạn động đất và cứu trợ thiên tai. Ngày 20 tháng 5 năm 2008, Động đất Tứ Xuyên xảy ra ở Vấn Xuyên, Ngawa, tỉnh Tứ Xuyên, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy Lữ đoàn pháo phòng không Quân khu Thành Đô tới khu vực miền núi phía Bắc thành phố Giang Du để cứu trợ động đất, đồng thời báo cáo tình hình với Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lương Quang Liệt, người đã đến thành phố Giang Du để thị sát tình hình thiên tai. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2011, Động đất Vân Nam xảy ra ở huyện Doanh Giang, Trịnh Tuyền tiếp tục chỉ huy một sư đoàn đến thôn Lạp Mẫn, trấn Bình Nguyên để cứu trợ, cứu nạn. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2013, Động đất Lô Sơn xảy ra tại huyện Lô Sơn, địa cấp thị Nhã An, tỉnh Tứ Xuyên, Trịnh Tuyền chỉ huy Tập đoàn quân 13 đến khu vực xảy ra thảm họa để cứu trợ, cứu nạn.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815742
Iota Kirin (Ꙇ ꙇ, chữ nghiêng: "Ꙇ" "ꙇ") là một chữ cái Kirin dựa trên chữ cái Hy Lạp Iota, và được sử dụng trong văn học học thuật từ thế kỷ 19 để phiên âm ký tự Glagolitic Izhe "Ⰹ". Ký tự này được đưa vào Unicode 5.1 vào tháng 4 năm 2008, dưới dãy Unicode Kirin-B.
Suzu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815747
là một loại chuông tròn, rỗng của Nhật Bản thường được thấy trong các đền thờ Shinto. Trong chuông có chứa các hạt nhỏ có thể phát ra âm thanh khi bị tác động. Loại chuông này khá giống với loại chuông phát ra tiếng leng keng được dùng để thông báo, mặc dù được chế tạo bằng các nguyên liệu thô. có nhiều kích thước khác nhau, từ những chiếc chuông nhỏ gắn bùa may mắn (được gọi là ) tới những chiếc chuông lớn treo trên lối vào ở các đền thờ. Tuy nhiên, từ thường được dùng để chỉ các loại chuông nhỏ, còn những chiếc chuông lớn sẽ được gọi là . Từ này trước đây được dùng để chỉ vật dụng có trong đền thờ và các nghi lễ Thần đạo và sau này được dùng cho các nghi lễ Phật giáo. Tại các đền thờ Thần đạo, những chiếc chuông lớn được treo trên các lối vào, vì người ta nói rằng việc rung chuông như một lời gọi , triệu hồi vị thần có được sức mạnh và uy quyền tích cực và xua đuổi quỷ dữ. Chuông cầm tay có điểm tương đồng với chuông leng keng, được sử dụng như một nhạc cụ trong các nghi lễ Thần đạo. Ví dụ, có những nghi lễ trong đó các vũ công sẽ nhảy múa với những chiếc chuông như những chiếc chuông có một số loại kiếm ngắn ở giữa. Tiếng leng keng mát lạnh của chuông cũng được coi như một biện pháp giúp điều hòa tâm lý trong mùa hè vì tiếng chuông trong trẻo của chúng đem lại cho mọi người cảm giác mát mẻ và sảng khoái. Tại Thành Edo, có những hành lang lớn dẫn đến nơi mà chỉ có mới được phép vào, khu vực này được gọi là , bắt nguồn từ việc những chiếc chuông sẽ vang lên khi Tướng quân ngự giá. thường được làm theo phương thức truyền thống bởi những nghệ nhân kim hoàn. Trong thời kỳ bắt đầu công nghiệp hóa, chúng đã được làm bởi máy móc. Tuy nhiên, những chiếc chuông được làm bằng tay vẫn được xem là loại chuông có chất lượng tốt hơn vì âm thanh của nó nghe du dương và êm tai hơn. Liên quan đến thuật ngữ. cũng là một cái tên dành cho nữ ở Nhật Bản,với ý nghĩa là "chiếc chuông nhỏ". Hán tự của từ thường được sử dụng như tiền tố của tên ghép, chẳng hạn như họ Suzuki mà nhiều người biết đến, mang ý nghĩa là "cây chuông" – chiếc chuông được thắt dây thừng và thả xuống trông giống như một thân cây.
Biến cách
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815751
Trong ngôn ngữ học, biến cách là sự biến đổi dạng của một từ, nói chung là để thể hiện đặc điểm cú pháp của nó trong câu, bằng cách của một số biến tố. Biến cách có thể áp dụng cho danh từ, đại từ, tính từ, trạng từ và mạo từ để thể hiện số (v.d. số ít, số kép, số nhiều), cách (v.d. chủ cách, nghiệp cách, thuộc cách, vị cách), giống (v.d. giống đực, giống trung, giống cái), và một số phạm trù ngữ pháp khác. Trong khi đó, sự thay đổi biến tố của động từ được gọi là "chia động từ". Biến cách xảy ra trong nhiều ngôn ngữ thế giới. Nó là một khía cạnh quan trọng của các nhóm ngôn ngữ như Quechua (tức là các ngôn ngữ có nguông gốc từ Andes), Ấn-Âu (v.d. tiếng Đức, tiếng Litva, tiếng Latvia, ngữ tộc Slav, tiếng Phạn, tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp cổ đại, tiếng Hy Lạp hiện đại, tiếng Albania, tiếng Armenia cổ điển và tiếng Armenia hiện đại và tiếng Kurd), Bantu (v.d. tiếng Zulu, tiếng Kikuyu), ngữ tộc Semit (v.d. tiếng Ả Rập hiện đại tiêu chuẩn), nhóm ngôn ngữ Phần Lan-Ugria (v.d. tiếng Hungary, tiếng Phần Lan, tiếng Estonia), và ngữ hệ Turk (v.d. tiếng Thổ Nhĩ Kỳ) Tiếng Anh cổ trước đây là một ngôn ngữ có biến tố, nhưng phần lớn thay đổi biến tố bị bỏ khi nó phát triển thành tiếng Anh hiện đại. Mặc dù theo truyền thống được phân loại là ngôn ngữ cú pháp, tiếng Anh hiện đại đã chuyển thành một ngôn ngữ phân tích. Lịch sử. Người ta đồng ý rằng người Hy Lạp cổ đại có ý tưởng "mơ hồ" về các dạng danh từ trong ngôn ngữ của họ. Một mảnh của Anacreon dường như chấp nhận ý tưởng này. Tuy nhiên, nó không thể được kết luận rằng người Hy Lạp cổ đại thực sự biết những cách ngữ pháp này là gì. Các nhà khắc kỷ phát triển một số khái niệm cơ bản mà ngày nay là cơ sở của ngôn ngữ học. Ý tưởng của cách ngữ pháp cũng được truy trở lại về nhà khắc kỷ, nhưng nó vẫn còn không rõ hoàn toàn ý nghĩa chính xác của các nhà khắc kỷ với khái niệm về các cách của họ. Tiếng Anh hiện đại. Trong tiếng Anh hiện đại, hệ biến cách quá đơn giản so với một số ngôn ngữ khác mà mục "biến cách" là hiếm khi dùng. Danh từ.
Biến cách
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815751
Danh từ. Nhiều danh từ trong tiếng Anh có dạng "số ít" và "số nhiều" riêng biệt. Danh từ và nhiều cụm danh từ có thể hình thành một cấu tạo "sở hữu". Số nhiều được thể hiện phổ biến nhất bởi đuôi "-s" (hoặc "-es"), trong khi sở hữu cách luôn thể hiện bới đuôi "-'s" ghép sau, đối với dạng số nhiều kết thúc bằng "s", chỉ bằng một dấu nháy đơn. Hãy xem xét, ví dụ, các dạng của danh từ "girl". Nhiều người nói phát âm tất cả cấc dạng khác với hình thức đơn giản số ít ("girl") giống hệt nhau. Ngược lại, một vài danh từ bất quy tắc (như man/men) phức tạp hơn một chút trong các dạng của chúng. Trong ví dụ này, tất cả bốn dạng được phát âm rõ ràng. Đối với danh từ, nói chung, giống không được biến cách trong tiếng Anh hiện đại. Có các tình huống đơn lập trong đó danh từ nhất định có thể được sửa đổi để phản ánh giống, mặc dù không ở trong một thời trang có hệ thống. Từ mượn từ các ngôn ngữ khác, cụ thể là tiếng Latinh và các ngôn ngữ Roman, thường giữ dạng giống cụ thể của chúng trong tiếng Anh, v.d. "alumnus" (giống đực số ít), "alumna" (giống cái số ít). Tương tự, tên được vay mượn từ các ngôn ngữ khác chỉ ra sự khác biệt có thể so sánh được: "Andrew" và "Andrea", "Paul" và "Paula", v.v.. Ngoài ra, cách hậu tố như "-ess", "-ette", và "-er" đôi khi được áp dụng để tạo ra các bản giống công khai của danh từ, với việc đánh dấu cho giống cái phổ biến hơn nhiều so với đánh dấu cho giống đực. Nhiều danh từ có thể thực sự hoạt động như thành viên của hai giống hoặc thậm chí cả ba, và loại giống trong danh từ tiếng Anh thường được xác định theo thỏa thuận của chúng với đại từ, thay vì đánh dấu trên danh từ mình. Có thể có các dẫn xuất khác từ các danh từ không được coi là biến cách. Ví dụ, danh từ riêng "Britain" có tính từ mô tả liên quan "British" và tên gọi dân cư "Briton". Mặc dù những từ này có liên hệ rõ ràng, và nói chung được coi là những từ cùng gốc, chúng không được coi là các dạng của cùng "một từ", và do đó không phải lầ các biến cách.
Lai (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815752
Lai có thể là:
Dãy Unicode Kirin-B
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815755
Dãy Unicode Kirin-B là một dãy Unicode chứa các ký tự Kirin cho các ký tự Kirin cổ và Abkhaz cổ, và kết hợp các ký tự số. Lịch sử. Các tài liệu liên quan đến Unicode sau đây ghi lại mục đích và quy trình xác định các ký tự cụ thể trong dãy Unicode Kirin-B:
Kamen Rider Gotchard
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815759
là bộ phim truyền hình Nhật Bản ra mắt năm 2023 thuộc thể loại tokusatsu, đây là phần phim thứ 34 thuộc loạt phim Kamen Rider do Công ty Toei sản xuất và đồng thời cũng là tác phẩm thứ 5 trong thời kỳ Reiwa-Lệnh Hòa của chuỗi phim. Bộ phim được lên sóng vào ngày 3 tháng 9 năm 2023, chiếu trong khung giờ Super Hero Time từ 9 giờ đến 9 giờ 30 theo giờ Nhật Bản song song với Ohsama Sentai King-Ohger và sau khi phần phim Kamen Rider Geats kết thúc. Nội dung. “Giả kim thuật” là một kỹ thuật tạo ra “vàng” thông qua việc kết hợp nhiều nguyên tố khác nhau. Một trong những nghiên cứu bí ẩn của “giả kim thuật” chính là tạo ra những “sinh vật sống” nhân tạo. Câu chuyện của tác phẩm này sẽ bắt đầu ở thời điểm hiện tại, khi những thí nghiệm này đã thành công mà không một ai hay biết. Trọng tâm câu chuyện về Kamen Rider Gotchard sẽ xoay quanh hành trình thu thập các “Quái vật nhân tạo Chemmy” được tạo ra từ những kỹ thuật tiên tiến nhất của “giả kim thuật”. Chúng có thể sỡ hữu ngoại hình giống với bất cứ thứ gì hiện hữu trên thế giới này, chẳng hạn như châu chấu và tàu hoả. Tổng cộng có 101 sinh vật như vậy và chúng được lưu trữ trên những tấm thẻ bài gọi là “Ride Chemmy Card” Dù đã được lưu trữ cẩn thận nhưng vẫn có một sự cố đã giải phóng toàn bộ chúng ra bên ngoài. Ichinose Hotaro, nhân vật chính của câu chuyện là một học sinh trung học vô tình vướng vào sự cố này cậu được giao phó cho “Gotchard Driver” với nhiệm vụ thu thập các Chemmy đã được giải thoát. Chemmy là những sinh vật có thể cộng hưởng với con người, nếu gặp những trái tim tốt nó sẽ trở thành bạn đồng hành của con người và để minh chính cho điều này Hotaro đã sử dụng các Ride Chemmy Card với Gotchard Driver, hợp nhất bản thân mình với Chemmy để trở thành Kamen Rider Gotchard. Mặt khác, khi các Chemmy cộng hưởng với ác ý của con người chúng sẽ trở thành những “Phantom Malgam” với những phẩm chất thiện và ác như hai mặt của một đồng tiền. Câu cửa miệng của Hotaro là “Gatcha!”, một câu nói lóng trong tiếng Anh với hàm ý là “Tôi đã làm được” hay “Tôi đã bắt được”. Nhân vật. Kamen Rider Gotchard : Hotarou Ichinose Valvarad : Spanner Kurogane Nhân vật Kamen Rider Gotchard xuất hiện lần đầu trong bộ phim "." Sản xuất.
Kamen Rider Gotchard
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815759
Sản xuất. Thương hiệu Kamen Rider Gotchard được Công ty Toei đăng ký vào ngày 22 tháng 5, 2023. Họp báo giới thiệu sẽ được tổ chức vào ngày 09 tháng 8 cùng năm trên các nền tảng truyền thông chính thức của Toei. Diễn viên. • Ichinose Hotarou : Motojima Junsei (本島純政 Motojima Junsei) • Spanner Kurogane : Fujibayasi Yasunari (藤林泰也 Fujibayasi Yasunari) • Rinne Kudo : Matsumoto Reiyo (松本 麗世 Matsumoto Reiyo) • Renge Icho : Abe Oto • Sabimaru Tsuruhara : Rikiya Tomizono (富園 力也 Tomizono Rikiya) • Minato : Rikuto Kumaki (熊木陸斗 Kumaki Rikuto) • Atropos : Itono Okita • Clotho : Kanon Miyahara • Lachesis : Arisa Sakamaki • Kajiki Ryo : Amon Kabe (加部亜門 Kabe Amon) • Ichinose Tamami : Yoko Minamino • Fuga Kudo : Kanji Ishimaru • Hopper1 : Misato Fukuen (福圓 美里 Fukuen Misato) • Steamliner : Nobuyuki Hiyama (檜山 修之 Hiyama Nobuyuki)
Hồng Nghiêu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815769
Hồng Nghiêu (chữ Hán: 洪尧, tiếng Anh: Hong Yao, 19 tháng 3 năm 1989) là một nam diễn viên Trung Quốc đại lục. Anh nổi tiếng qua vai diễn Hòa Cung Thân vương Hoằng Trú trong phim truyền hình Diên Hi Công Lược. Tiểu sử. Hồng Nghiêu sinh ngày 19 tháng 3 năm 1989 ở Trịnh Châu, Hà Nam, Trung Quốc. Anh là người rất giỏi vũ đạo. Trước khi trở thành diễn viên, anh đã là một dancer giành được nhiều giải thưởng cao và là nhân vật quen mặt trong show "Phi Thường Hoàn Mỹ". Hồng Nghiêu từng chiến thắng cuộc thi khiêu vũ của đài truyền hình CCTV. Trong cuộc thi "Double Star Cup" toàn quốc, Hồng Nghiêu giành giải quán quân, còn trong trận BATTLE khu vực Trung Quốc đã giành giải á quân. Ngoài khiêu vũ, Hồng Nghiêu còn đam mê trượt ván và yêu thích bóng rổ.
Dymy nad Birkenau
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815773
Dymy nad Birkenau (tạm dịch: "Khói trên Birkenau") là một cuốn sách tự truyện của nhà văn Ba Lan Seweryna Szmaglewska, dựa trên trải nghiệm của bà khi là một tù nhân của trại tập trung Auschwitz-Birkenau trong Thế chiến II. Cuốn sách xuất bản vào tháng 12 năm năm 1945. Đây là một trong những tác phẩm đầu tiên về chủ đề này, ảnh hưởng lớn trong việc truyền bá kiến ​​thức cho công chúng về chủ đề này. Do giá trị văn học và thực tế của tác phẩm, đây được coi là một thành tựu nổi bật của . Bản dịch. "Dymy nad Birkenau" có nhiều ấn bản bằng tiếng Ba Lan.  Cuốn sách đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Anh vào năm 1945. Nó cũng được dịch sang một số ngôn ngữ khác, bao gồm tiếng Séc (1947), tiếng Ukraina (1990), tiếng Tây Ban Nha (2006) và tiếng Đức (2020). Tính đến năm 2009, cuốn sách đã có ít nhất 18 lần xuất bản bằng tiếng Ba Lan và được dịch ra ít nhất 10 ngôn ngữ. Bối cảnh. Seweryna Szmaglewska là một tù nhân của trại tập trung Auschwitz-Birkenau trong Thế chiến II vào những năm 1942–1945. Bà bắt đầu viết cuốn sách ngay sau khi được trả tự do, cho biết lý do viết nên cuốn sách này là nghĩa vụ đối với các bạn tù, nhiều người trong số họ đã chết trong trại. Szmaglewska cũng cho rằng cần phải giáo dục thế giới về tội ác của Đức Quốc xã, điều mà bà cảm thấy người Đức sẽ cố gắng che giấu, do kinh nghiệm về sự tuyên truyền mạnh mẽ của Đức Quốc xã trước và trong chiến tranh. "Dymy nad Birkenau" được hoàn thành vào mùa hè năm 1945 và được Nhà xuất bản Czytelnik xuất bản tháng 12 năm đó tại Ba Lan. Tại Hoa Kỳ, Henry Holt and Company đã xuất bản cuốn sách. Tiếp nhận. Đây là cuốn sách đầu tiên của Szaglewska, và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất của bà trên bình diện quốc tế.  Nó là một trong những tài liệu văn học đầu tiên về trại tập trung Auschwitz-Birkenau, được coi là một đóng góp bước đầu quan trọng cho văn học và lịch sử liên quan.  Nó "nhanh chóng trở thành một trong những tài liệu về cuộc sống và cái chết ở Auschwitz được đọc nhiều nhất"  và được biện luận là tác phẩm văn học có ảnh hưởng nhất về trại, định hình đáng kể nhận thức của công chúng về chủ đề này.
Dymy nad Birkenau
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815773
Đây cũng là một bằng chứng quan trọng để xét xử tội phạm Quốc xã tại Tòa án Nürnberg.  Đến năm 1947, đã có hơn 30 bài phê bình và phân tích về cuốn sách trên báo chí Ba Lan và quốc tế cũng như các tác phẩm học thuật. Các nhà phê bình và sử gia như , Piotr Kuncewicz và Alvin Hirsch Rosenfeld đã khen ngợi tác phẩm này. Arkadiusz Morawiec gọi cuốn sách là "một trong những thành tựu quan trọng nhất (với tư cách là một tác phẩm thu thập thông tin, trí tuệ và nghệ thuật) trong lĩnh vực tập trung của Đức Quốc xã". gọi "Dymy nad Birkenau" là cuốn "kinh điển" của thể loại này. Do các giá trị văn học và thực tế của quyển sách, đây được coi là một thành tựu nổi bật của .  Nó được mô tả là "một trong những hồi ký gợi nhiều cảm xúc nhất về công việc cực kỳ mệt nhọc, gian khổ do các nữ tù nhân thực hiện... cũng như cuộc sống khác nhau của những người Do Thái và không phải Do Thái trong trại". Nó đã được so sánh với "Auschwitz et après" và "La mémoire et les jours" của Charlotte Delbo. "Dymy nad Birkenau" đã trở thành ở các trường học Ba Lan (trong những năm 1946-1949 và một lần nữa kể từ năm 1994).
Danh sách trường trung học phổ thông tại Phú Thọ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815778
Dưới đây là danh sách các trường Trung học Phổ thông tại Phú Thọ, danh sách này bao gồm 36 trường công lập và 13 trường tư thục.
Lăng Hoán Tân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815781
Lăng Hoán Tân (tiếng Trung giản thể: 凌焕新, bính âm Hán ngữ: "Líng Huànxīn", sinh tháng 3 năm 1962, người Hán) là tướng lĩnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX, hiện là Chính ủy Viện Khoa học Quân sự Trung Quốc. Ông từng giữ các chức vụ trong quân đội như Phó Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Quân ủy Trung ương; Chủ nhiệm Bộ Công tác chính trị Chiến khu Bắc Bộ. Lăng Hoán Tân là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông có sự nghiệp hơn 40 năm tại ngũ, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực chính trị của quân đội trước khi tham gia lãnh đạo ngành khoa học quân sự Trung Quốc. Sự nghiệp. Lăng Hoán Tân sinh tháng 3 năm 1962 tại huyện Tĩnh Giang, nay là thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Thái Châu, tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Tĩnh Giang, sau đó nhập ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, được điều chuyển công tác ở trung ương, phục vụ hoạt động chính trị trong quân đội. Ông từng là Phó Cục trưởng Cục Tổ chức của Tổng bộ Chính trị Quân ủy Trung ương những năm 2010. Tháng 1 năm 2016, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Bộ Công tác chính trị Lục quân Chiến khu Bắc Bộ vào thời điểm hệ thống quân đội được cải tổ, 5 chiến khu được thành lập. Sau đó 1 năm, vào tháng 3 năm 2017, ông được điều về Trung ương, phân công làm Ủy viên chuyên chức Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Quân ủy Trung ương. Ngày 24 tháng 2 năm 2018, ông trúng tuyển Đại biểu của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa XIII, nhiệm kỳ 2018–2023. Tháng 12 năm 2018, Lăng Hoán Tân được phê chuẩn làm Phó Bí thư Ủy ban Kiểm Kỷ Quân ủy Trung ương, sau đó 1 năm thì được thăng quân hàm Trung tướng. Cuối năm 2022, ông được bầu là đại biểu dự Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XX, từ đoàn Quân Giải phóng và Vũ cảnh.
Lăng Hoán Tân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815781
Trong quá trình bầu cử tại đại hội, ông tiếp tục được bầu là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX. Ngày 28 tháng 6 năm 2023, ông được thăng quân hàm Thượng tướng, bậc chính quân khu, bổ nhiệm làm Chính ủy Viện Khoa học Quân sự Quân ủy Trung ương.
А̃
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815796
A với dấu ngã (А̃ а̃, chữ nghiêng: "А̃" "а̃") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Ở tất cả các dạng chữ, nó trông giống hệt chữ cái Latinh A với dấu ngã (àã "Ã" "ã"). A với dấu ngã chỉ được sử dụng trong bảng chữ cái của tiếng Khinalug. Nó đại diện cho âm /ɑ̃/.
Tuyến Janghang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815802
Tuyến Janghang (Tiếng Hàn: 장항선, Hanja: 長項線) là tuyến đường sắt do Tổng công ty Đường sắt Hàn Quốc điều hành, bắt đầu tại Ga Cheonan ở Cheonan-si, Chungcheongnam-do, đi qua bờ biển phía tây và kết thúc tại Ga Iksan ở Iksan-si, Jeollabuk-do. Từ ga Cheonan đến ga Sinchang, Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 chạy song song Lịch sử. Nó được xây dựng như một tuyến đường sắt tư nhân bởi Chosun Gyeongnam Railway Co., Ltd. Tên ban đầu là Tuyến Chungnam và đoạn đầu tiên được mở vào thời điểm đó là từ Ga Cheonan đến Ga Onyang Oncheon. Năm 1931, đoạn từ Ga Nampo đến Ga Pangyo được khai trương và tất cả các đoạn đều hoạt động bình thường. Tuy nhiên, ngay cả sau khi được quốc hữu hóa vào năm 1946, đường đua vẫn không được cải thiện. Vào ngày 25 tháng 11 năm 1991, tàu Saemaeul bắt đầu hoạt động từ Ga Seoul đến Ga Janghang. Cho đến cuối năm 2008, Tuyến Janghang, là tuyến không có đường ray đơn trong tất cả các đoạn, có hướng tuyến rất kém, thường xuyên bị chậm trễ và thời gian thực hiện kéo dài đã được coi là một vấn đề. Trong điều kiện đó, nó đã không thể đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng tăng và gây ra những khó khăn đáng kể cho việc chạy tàu. Vào ngày 15 tháng 5 năm 2000, một tuyến đường sắt đôi từ Ga Cheonan đến Ga Sinchang và một tuyến đường không có đường ray đơn từ Ga Sinchang đến Ga Daeya đã được nâng cấp. Phần Cheonan-Onyangocheon được hoàn thành vào ngày 30 tháng 3 năm 2007, phần Onyangocheon-Sinchang vào ngày 15 tháng 12 năm 2008, phần Sinchang-Sinryewon và Jupo-Nampo vào ngày 21 tháng 12 năm 2007, phần Sinryewon-Hwayang và Ganchi-Sinjanghang vào ngày 28 tháng 11 năm 2008 và phần Hwayang-Sinseong vào năm 2008 .Vào ngày 1 tháng 12 năm 2007, đoạn Cảng Sinjang - Daeya đã được đi thẳng và khai trương vào ngày 28 tháng 12 năm 2007, và hầu hết các vấn đề về dịch vụ đã được cải thiện. Kết quả của việc xây dựng này là Tuyến Janghang và Tuyến Gunsan, vốn bị ngắt kết nối bởi sông Geumgang, đã được kết nối và vận hành trực tiếp. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2008, một số chuyến tàu Mugunghwa trên Tuyến Janghang khởi hành từ Ga Yongsan và đi qua Janghang sẽ chạy đến Ga Seodaejeon.
Tuyến Janghang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815802
Hệ thống này hoạt động vào ngày 9 tháng 12 năm 2016. Kể từ đó, nhà ga đầu cuối được đổi thành Ga Iksan. Đoạn mở rộng 19,5 km của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1, kết nối Ga Cheonan với Ga Sinchang qua Ga Onyangoncheon, cũng được khai trương cùng với việc hoàn thành dự án điện khí hóa đường đôi cho đoạn này. Do đi thẳng, 12 ga đã bị đóng cửa, đây là ga nhiều thứ hai sau Tuyến Gyeongbuk (17 bao gồm cả Tuyến Gyeongbuk trước đây) với 14 ga đã đóng cửa . Hiện tại, công việc nắn thẳng đang được tiến hành ở những đoạn còn lại chưa được cải thiện nhằm mục đích cải thiện tốc độ biểu đạt của tất cả các đoạn của Tuyến Janghang và kết nối thông suốt với Tuyến Seohae. Việc xây dựng đoạn Sinseong - Jupo và đoạn Nampo - Ganchi bắt đầu vào tháng 4 năm 2015 và khi các đoạn này hoàn thành, Ga Gwangcheon và Ga Ungcheon sẽ được chuyển đến vùng ngoại ô của thị trấn. Ngoài ra, vào năm 2020, có thông báo rằng đoạn Iksan - Daeya sẽ được xây dựng theo đường đôi và một tuyến đường sắt dẫn đến Khu liên hợp Công nghiệp Quốc gia Gunjang bắt đầu từ Ga Daeya. Khi dự án này hoàn thành, Tuyến Samgak nối Ga Dongiksan trên Tuyến Janghang và Tuyến Jeolla sẽ được thành lập mới và Ga Daeya sẽ được di chuyển. Mặt khác, Thành phố Asan cũng đang xem xét việc thành lập Ga Tangjeong (P173) và Ga Punggi (P175) trên Tuyến Janghang và năm 2018 Ga Tangjeong bắt đầu xây dựng. Kể từ năm 2020, đã có thông báo rằng dự án điện khí hóa đường đôi cho các đoạn Sinchang - Jupo và Ganchi - Daya của Tuyến Janghang đã bắt đầu và đang được xây dựng, và việc điện khí hóa đường đôi của đoạn tương ứng sẽ được hoàn thành vào thời điểm Tuyến Seohae mở cửa. Dịch vụ. Vận hành. Từ năm 2008 đến năm 2016, một chuyến tàu Mugunghwa khứ hồi đã mở rộng tuyến giữa Ga Yongsan và Ga Seodaejeon, nhưng hiện tại tất cả các chuyến tàu đều chạy giữa Ga Yongsan và Ga Iksan. Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2008, việc điện khí hóa tuyến đường đôi Tuyến Janghang giữa Ga Cheonan và Ga Sinchang đã hoàn thành và khai trương.
Đôi chân trần
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815825
Đôi chân trần là ca khúc làm nên tên tuổi cho nhạc sĩ Y Phôn Ksor, được sáng tác năm 1995 theo phong cách âm nhạc của dân tộc Ê Đê. "Đôi chân trần" cũng là ca khúc duy nhất của Y Phôn được viết bằng tiếng Việt rồi mới chuyển lời sang tiếng Ê Đê, ca khúc được biết đến nhiều với giọng hát của Nghệ sĩ nhân dân Y Moan. Sáng tác. Tháng 4 năm 1995, Y Phôn Ksor cùng Y Moan và Y Jack Arul có chuyến công tác trong tỉnh Đắk Lắk. Trên đường đi, Y Phôn thấy một cụ già người đồng bào đi chân đất, đầu trần giữa trời nắng oi ả. Trò chuyện với cụ một lúc khiến Y Phôn nhớ đến người bố, trên đường về, giai điệu bài hát đã hiển hiện trong đầu người nhạc sĩ, tối hôn đấy ông đã hoàn tất ca khúc với tựa đề Đôi chân trần. Y Phôn đã hát thử cho bà Mỹ Thanh, nguyên trưởng đoàn ca múa nhạc dân tộc Đắc Nông, và nhạc sĩ Nguyễn Cường, nhạc sĩ Vũ Lân. Sau này, nhờ sức hấp dẫn của ca khúc mà khi Y Phôn học đại học tại Hà Nội, đã có thêm thu nhập cho đình. Y Moan là ca sĩ đầu tiên được thử ca khúc, ông cũng tự chỉnh lại một số từ ngữ, ngữ pháp trong lời ca khúc. Lời gốc: "Tôi muốn quên đi, tháng với ngày. Cha đi lượm quả ngọt rừng, cho con ngủ qua đêm. Tôi muốn quên đi, đôi chân trần, cha đi lượm từng hạt thóc, cho con một bữa cơm chiều…" Sửa thành: "Tôi muốn quên đi, tháng với ngày. Cha đi lượm quả ngọt rừng, cho con đỡ đói qua đêm. Tôi muốn quên đi, đôi chân trần. Cha đi lượm, từng hạt thóc. Cho con một bữa cơm chiều." Hay lời gốc: "Ôi ngày tháng, đôi tay gầy, run run tựa vào hàng cây. Ôi thời gian, hãy quên đi, đôi chân cồng kềnh. Đi giữa rừng hoang vu… Lưng cha gội nắng gầy. Ôi tóc bạc tựa trăng soi…" Sửa thành "Ôi ngày tháng, đôi vai gầy, run run tựa vào hàng cây. Ôi thời gian, hãy quên đi. Đôi chân cồng kềnh. Cha đi giữa rừng hoang vu. Lưng cha thì đội nắng ghềnh. Ôi tóc bạc, tựa trăng soi..." Phát hành.
Đôi chân trần
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815825
Vào những năm 2000, ca sĩ Y Moan biểu diễn ca khúc tại các phòng trà và các buổi diễn văn nghệ tạo được ấn tượng đến khán giả khu vực Tây Nguyên. Chương trình Sao mai điểm hẹn năm 2001 giúp ca khúc đến được với khán giả cả nước. Ca khúc "Đôi chân trần" cùng ca sĩ Ya Suy đã giành chiến thắng trong liveshow Bài hát yêu thích tháng 9 năm 2013 của VTV3. "Đôi chân trần" là tựa đề và cũng là ca khúc chủ đề Album đầu tay, phát hành năm 2019 của ca sĩ Ygaria.
Quyền tự quyết
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815826
Quyền tự quyết của nhân dân là một nguyên tắc cơ bản trong luật pháp quốc tế hiện đại, ràng buộc (thường được coi là quy tắc "jus cogens"), với Liên Hợp Quốc là cơ quan giải thích có thẩm quyền các quy tắc của Hiến chương. Nó tuyên bố rằng các dân tộc, dựa trên sự tôn trọng nguyên tắc về quyền bình đẳng trước pháp luật và cơ hội bình đẳng, có quyền tự do lựa chọn chủ quyền và địa vị chính trị quốc tế mà không bị can thiệp. Khái niệm này lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1860 và nhanh chóng lan truyền sau đó. Trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nguyên tắc này đã được cả Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Vladimir Lenin và Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson khuyến khích. Sau khi công bố giải pháp Mười bốn Điểm của mình vào ngày 8 tháng 1 năm 1918, ngày 11 tháng 2 năm 1918, Wilson tuyên bố: "Khát vọng quốc gia phải được tôn trọng; người dân giờ đây chỉ có thể bị quản lý và cai trị bởi sự đồng ý của chính họ. 'Quyết định' không chỉ là một cụm từ; nó là một nguyên tắc bắt buộc của hành động." Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nguyên tắc này đã được đưa vào Hiến chương Đại Tây Dương, được tuyên bố vào ngày 14 tháng 8 năm 1941 bởi Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Vương quốc Anh Winston Churchill, những người đã cam kết Tám điểm chính của Hiến chương. Nó được công nhận là một quyền quốc tế hợp pháp sau khi được liệt kê rõ ràng là một quyền trong Hiến chương Liên Hợp Quốc. Nguyên tắc không nêu rõ quyết định sẽ được đưa ra như thế nào, cũng như kết quả sẽ ra sao, cho dù đó là độc lập, liên bang, bảo hộ, một số hình thức tự chủ hay đồng hóa hoàn toàn. Nó cũng không nêu rõ ranh giới giữa các dân tộc nên là gì, cũng như điều gì tạo nên một dân tộc. Có nhiều định nghĩa và tiêu chí pháp lý mâu thuẫn nhau để xác định nhóm nào có thể yêu cầu quyền tự quyết một cách hợp pháp. Tổng quát hơn, thuật ngữ "quyền tự quyết" cũng đề cập đến quyền tự do lựa chọn các hành vi của chính mình mà không có sự ép buộc từ bên ngoài.
Kristina Háfoss
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815828
Kristina Háfoss (sinh ngày 26 tháng 6 năm 1975) là nhà kinh tế học, luật sư, chính trị gia người Faroe. Năm 2015, bà làm Bộ trưởng Bộ Tài chính của Quần đảo Faroe nhiệm kỳ 2015-2019. Hiện tại, bà đang giữ chức vụ làm kể từ năm 2021.
Horo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815831
là một loại áo choàng được gắn vào mặt sau áo giáp của các samurai Nhật Bản khi ra trận vào thời phong kiến. Mô tả. "Horo" có chiều dài khoảng 1,8 m (6 ft) và được may từ nhiều dải vải khâu lại với nhau bằng một đường diềm ở mép trên và mép dưới. Khi được khâu lại với nhau, các dải vải sẽ được kết hợp và tạo thành một loại túi chứa đầy không khí giống như một quả bóng bay khi chuyển động. Khi may áo, người ta sẽ sử dụng một loại khung nhẹ làm bằng liễu gai, tre hoặc xương cá voi được gọi là "Oikago" tương tự như khung làm cái vái phùng, được cho là do Hatakeyama Masanaga phát minh ra trong thời kỳ Chiến tranh Ōnin (1467–1477), đôi khi được sử dụng để mở rộng kích thước của "Horo". "Horo" thường được gắn bởi những sợi dây buộc gắn kết vào nhau và có thể được nối liền bởi một cây gậy. Các dây trên cùng được gắn vào lớp áo giáp của người mặc trong khi các dây dưới cùng được gắn vào thắt lưng. Bên cạnh đó, gia huy ( "mon" ) của người đeo sẽ được may trên mặt Horo. Sử dụng. "Horo" đã được sử dụng từ thời Kamakura (1185–1333). Một chiếc "horo k"hi được bơm không khí được cho là có thể bảo vệ người đeo khỏi những mũi tên bắn từ phía sau và từ hướng song song với người mặc. Điều này đã được thử nghiệm trong tập Khám phá cổ đại "Lực lượng đặc biệt cổ đại" (Tập 6 của Phần 8) và theo đó, Horo được phát hiện là có hiệu quả đáng ngạc nhiên trong việc ngăn chặn các mũi tên (được bắn từ một cây cung Nhật Bản tương ứng với thời kỳ đó) trước khi chúng tiếp cận mục tiêu hoặc làm chậm chúng đáng kể để nếu chúng đến được mục tiêu, chúng sẽ không xuyên được gần như xa như cách khác. Đặc biệt, những cây cung như vậy khi bắn tên từ phía sau và trúng phải một chiếc horo đang căng phồng có lẽ sẽ không thể xuyên qua lớp áo giáp bằng da hoặc sắt sơn mài của một chiến binh samurai đang cưỡi trên lưng ngựa. Nhưng tuyên bố này chỉ dành cho trường hợp horo được làm từ vải lụa có đường kính từ 4 đến 6 feet và có độ phồng lớn (khiến ta có cảm giác người mặc đang phi nước đại), chứ không phải vải lụa bình thường và không có bề mặt phẳng.
Horo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815831
Việc đeo một chiếc "horo" cũng biểu thị cho địa vị sứ giả ("tsukai-ban") của người đeo, hoặc cũng có thể chỉ người đó là người có tầm quan trọng. Theo Hosokawa Yusai Oboegaki, nhật ký của Hosokawa (1534–1610) đã ghi rằng việc lấy đầu một sứ giả "tsukai-ban" ưu tú là một niềm vinh hạnh: "Khi lấy đầu của một chiến binh "Horo", hãy bọc nó trong lụa "Horo". Khi lấy đầu của một chiến binh bình thường, hãy bọc nó trong lụa Sashimono ".
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập vào ngày 8 tháng 6 năm 1969 khi Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ở miền Nam cùng các lực lượng yêu nước khác đã thông qua nghị quyết thành lập Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời và Hội đồng Cố vấn Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ được hẫu thuận bởi Đảng Lao động Việt Nam, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam lập ra trên cơ sở từ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 1969, sau khi Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam diễn ra thành công và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được chính thức thành lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố hoan nghênh và công nhận. Trong tháng 6 năm 1969, 23 nước đã công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời, trong đó 21 nước kiến lập quan hệ ngoại giao. Lịch sử. 1954-1960. Ngay sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, Mỹ tích cực âm mưu chia cắt Việt Nam nhằm mục tiêu biến miền Nam Việt Nam trở thành tiền đồn chống cộng sản tại Đông Nam Á. Mỹ đã ủng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm trong việc củng cố quyền lực lâu dài nhằm thực hiện mục tiêu đề ra. Tháng 9 năm 1954, Mỹ thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) ""biến miền Nam Việt Nam thành một căn cứ quân sự quan trọng nằm dưới sự kiểm soát của Mỹ". Việc thực thi Hiệp định Geneve đã bị Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ngăn cản, không thi hành các điều khoản, sử dụng mọi thủ đoạn, biện pháp chống lại việc bầu cử thống nhất Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện các chiến dịch Tố Cộng diệt Cộng, đàn áp những người được coi là cộng sản, thân cộng sản. Trong khi đó cuối năm 1956, Nikita Khrushchev, lãnh đạo tối cao Liên Xô, tuyên bố “"chung sống hòa bình"” với Mỹ, do đó các nước lớn trong phe Xã hội chủ nghĩa không muốn Đảng Lao động Việt Nam phát động chiến đấu vũ trang ở miền Nam Việt Nam.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Tháng 1 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam triệu tập Hội nghị lần 15 (mở rộng), Hội nghị hoạch định hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng phải đồng thời tiến hành ở hai miền Nam, Bắc, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Đảng Lao động Việt Nam đề ra giải pháp đưa cách mạng miền Nam có lợi nhất là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tiến theo con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để "đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà"". Sau khi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15/1959 được ban hành, phong trào “Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V nhất tề đứng lên. Tiêu biểu như các cuộc khởi nghĩa ở Bác Ái (2/1959), Trà Bồng (8/1959), Tua Hai (1/1960), đặc biệt là phong trào nổi dậy ở tỉnh Bến Tre. Phong trào "Đồng khởi" đã đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng, hàng nghìn chi bộ được thành lập, số lượng đảng viên được tăng lên thành lập nhiều đội vũ trang. Ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, góp phần quy tụ, các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập thống nhất. 1960-1969. Thất bại trong việc bình định miền Nam Việt Nam, chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Mâu thuẫn trong giới lãnh đạo cầm quyền với nhau và mâu thuẫn với chính giới Mỹ đã làm trầm trọng khủng hoảng tại Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa. Mỹ đề ra Kế hoạch Staley–Taylor (Chiến tranh đặc biệt) nhắm mục tiêu tăng cường sức mạnh cho Việt Nam Cộng hòa, dập tắt các phong trao kháng chiến "bình định" và lập ấp chiến lược, cô lập và tiêu diệt lực lượng cộng sản còn sót lại ở miền Nam Việt Nam.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Kế hoạch Staley-Taylor cuối cùng thất bại vào năm 1963, sau các trận đụng độ với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, các ấp chiến lược bị phá không thực hiện đúng theo kế hoạch, đồng thời năm 1963 cuộc đảo chính đã lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm do Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện đã gây rung động cho Việt Nam và thế giới. Việc lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm do phe quân sự là ngoài dự tính của Mật trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vì không thể còn tuyên truyền việc Ngô Đình Diệm không được lòng dân. Mặt khác, những lãnh đạo quân sự kế nhiệm thường được thành lập một thời gian sau đó lại tiếp tục bị lật đổ, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở miền Nam phát triển. Báo Nhân Dân, cho rằng "Bằng cách lật đổ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, đế quốc Mỹ đã tự mình phá hủy các cơ sở chính trị mà chúng đã xây dựng trong nhiều năm". Cuối năm 1963, Mỹ đề ra chiến lược "Chiến tranh cục bộ" bắt đầu giai đoạn leo thang chiến tranh dần dần và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến. Sau vụ ám sát cả Ngô Đình Diệm và John Kennedy vào gần cuối năm 1963 và sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964 và trong bối cảnh chính trị Việt Nam Cộng hòa tiếp tục bất ổn, chính quyền Lyndon Johnson đưa ra cam kết chính sách trực tiếp bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng quân sự Mỹ và các nước SEATO chống cộng tăng cường hỗ trợ, đưa lực lượng tác chiến quy mô lớn vào miền Nam Việt Nam; vào thời kỳ đỉnh cao vào năm 1969, hơn 400,000 lính Mỹ đã được triển khai. Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ đạo đánh vào bộ chỉ huy chiến tranh của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom không điều kiện, chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu sự thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Trong giai đoạn này Trung ương Cục miền Nam cũng đã vận động chính trị trong nhân dân để thành lập chính quyền cách mạng các cấp.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Đến giữa năm 1969, đại bộ phận số xã, tỉnh và nhiều đô thị đều đã có chính quyền cách mạng, nhiều nơi các Ủy ban Nhân dân Cách mạng bước đầu thực hiện nhiệm vụ củng cố và phát huy vai trò chính quyền, làm tốt công tác lãnh đạo mọi mặt. Yêu cầu việc thành lập một chính quyền cách mạng ở miền Nam Việt Nam như một chính phủ được Trung ương cục đặt ra nhằm đấu tranh trên mọi mặt trận từ chính trị, ngoại giao đến quân sự. Đặt biệt tại Hội nghị Paris đòi hỏi cần có một chính phủ đại diện cho nhân dân miền Nam ""nhằm nâng cao hơn nữa vị trí, địa vị pháp lý của chính quyền cách mạng tại Hội nghị và trên trường quốc tế". Thành lập. Việc Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thống nhất thành lập Chính phủ Lâm thời ở miền Nam cũng được báo chí nước ngoài dự báo trước: "Ngay từ năm 1966, Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tính đến việc thành lập một Chính phủ lâm thời làm đại diện thương thuyết với Hoa Kỳ. Ý định này chưa được chính thức công bố, nhưng tháng 3 năm 1966, chính quyền Sài Gòn đã “thâu lượm” được tin này. Tin tức này lần đầu tiên được chính quyền Sài Gòn đề cập đến trong một công văn của Bộ Ngoại giao gửi Phủ Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương: “theo nguồn tin mà Tòa Tổng Lãnh sự Việt Nam (Cộng hòa) tại New Delhi thâu lượm được thì Mặt trận Giải phóng miền Nam dự định lập một Chính phủ lâm thời để buộc Mỹ phải thương thuyết với họ chứ không điều đình thẳng với Bắc Việt. Đây chỉ là nguồn tin chưa được xác nhận, xong theo sự nhận xét của thiểm Bộ, có lẽ cho tới nay Mặt trận Giải phóng miền Nam chưa thực hiện được ý định lập một Chính phủ là vì họ chưa chiếm hẳn được một vùng đất nào"".
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Tờ Sài Gòn - Tokyo ngày 6 tháng 9 năm 1968 viết: Ngày 24 tháng 1 năm 1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Điện số 32 kèm theo Bản dự thảo lời kêu gọi của Ban vận động hiệp thương tới Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, chủ trương mở hội nghị Hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam với Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam nhằm “"thống nhất nhận định, chủ trương và phương hướng đấu tranh cho việc lập một nội các hòa bình ở Sài Gòn"”. Trù bị. Ngày 25 tháng 5 năm 1969, trước những yêu cầu cấp thiết của cách mạng, Hội nghị Hiệp thương giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam để bàn về việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời mới được triệu tập. Đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam dự Hội nghị Hiệp thương gồm có: Đoàn đại biểu Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam có: Tại hội nghị, hai đoàn đại biểu đã nhất trí đánh giá sự phát triển tình hình và thắng lợi của cách mạnh nhân dân ở miền Nam Việt Nam. Hai đoàn đại biểu đã nhất trí về thời cơ thuận lợi và sự cần thiết thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời thể theo nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân dân miền Nam Việt Nam và để đáp ứng nhu cầu cách mạng của nhân dân miền Nam đến thắng lợi. Hội nghị Hiệp thương đã quyết định triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân bao gồm đại biểu hết sức rộng rãi của các chính đảng cách mạng, các đoàn thể yêu nước, các tôn giáo, các dân tộc và các tầng lớp nhân dân, các địa phương, các nhân sĩ, trí thức... để tổng kết tình hình đấu tranh thắng lợi nhân dân về mọi mặt, quyết định đường lối, nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam để giành thắng lợi hoàn toàn và cử ra Chính phủ Cách mạng lâm thời. Hội nghị đã quyết định lập một Ban trù bị đại hội để chuẩn bị Đại hội. Đại hội Đại biểu Quốc dân.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Đại hội Đại biểu Quốc dân. Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 6 năm 1969, Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ở miền Nam cùng các lực lượng yêu nước khác đã họp tại một địa điểm thuộc tỉnh Tây Ninh. Đại hội nhận định tình hình "cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước" của nhân dân miền Nam và cử ra Chính phủ Cách mạng lâm thời và Hội đồng Cố vấn Chính phủ. Thành phần tham dự gồm có: Khai mạc Đại hội Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam thay mặt Ban trù bị Đại hội đọc diễn văn khai mạc. Luật sư Trịnh Đình Thảo nêu lên nhiệm vụ hàng đầu của Đại hội và nhìn lại một cách khái quát và biểu dương sự nghiệp kháng chiến của quân và dân miền Nam trong 15 năm qua, nhất là từ Tết Mậu Thân; đề ra phương hướng và nhiệm vụ cách mạng trước mắt của quân, dân miền Nam. Luật sư nhấn mạnh: "“Trên cơ sở ấy, Đại hội đại biểu quốc dân của chúng ta sẽ xếp việc thành lập “Chính phủ Cách mạng lâm thời”, một cơ quan quyền lực tập trung có đầy đủ tín nhiệm bao gồm những người tiêu biểu nhất của các tầng lớp nhân dân, tôn giáo, dân tộc, có đầy đủ đức, tài để động viên những nỗ lực lớn nhất của quân và dân miền Nam ta, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân của mọi lực lượng, mọi cá nhân yêu nước, yêu hòa bình và dân chủ ở các thành thị, nông thôn, đồng bằng và rừng núi, tăng cường hơn nữa khí thế mãnh liệt của cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước trong thời mới"." Sau báo cáo khai mạc đại hội của Trịnh Định Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Đại hội, Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đọc bản "báo cáo chính trị".
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Trong đó có đoạn viết "để đáp ứng yêu cầu lớn lao của cuộc chiến đấu, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, để có cơ quan điều hành toàn bộ công việc nội bộ và ngoại giao của chúng ta trong giai đoạn lịch sử vinh quang này, sau khi có hiệp thương và hoàn toàn nhất trí giữa “Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” và “Ủy ban Trung ương Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam”, chúng tôi đề nghị Đại hội đại biểu quốc dân xét và quyết định việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời để đoàn kết toàn dân, động viên toàn dân, toàn quân ta tiến lên đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai, giành lấy thắng lợi hoàn toàn, thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc..." Sau ba ngày làm việc, Đại hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết cơ bản của Đại hội do Phùng Văn Cung thay mặt Chủ tịch đoàn trình bày về việc thành lập chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng Cố vấn bên cạnh chính phủ. Nguyễn Hữu Thọ thay mặt Ban trù bị Đại hội giới thiệu danh sách đại biểu được đề cử vào Ban Chấp hành Chính phủ Cách mạng lâm thời. Tổ chức. Cơ cấu tổ chức Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam gồm có: 1 Chủ tịch, Phó chủ tịch, 8 Bộ và Văn phòng Chủ tịch Chính phủ. 8 Bộ gồn: Vai trò. Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam được thành lập xác nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam không phải là một nước mà là một chính thể... Đồng thời xóa bỏ sự "hợp hiến và hợp pháp" duy nhất của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính phủ lâm thời tạo điều kiện tranh thủ tầng lớp trung gian ở miền Nam, thúc đẩy phong trào đô thị. Chính phủ Cách mạng là một phe đối trọng với chính quyền Việt Nam Cộng hòa tại Hội nghị Pari, bác bỏ “đại diện hợp pháp duy nhất” cho miền Nam do Việt Nam Cộng hòa tuyên bố.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Trong bài phát biểu bế mạc Đại hội, Chủ tịch Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Huỳnh Tấn Phát có đoạn:"Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh và chính thức ghi nhận lời tuyên bố trịnh trọng của “Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” chuyển giao cho Chính phủ Cách mạng lâm thời chức năng nhà nước đối nội cũng như đối ngoại, kể cả tư cách đại diện chân chính của nhân dân miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris về Việt Nam mà từ trước đến nay Mặt trận đã đảm đương một cách vẻ vang". Ngày 10 tháng 6 năm 1969, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát ký Quyết định số 07/QĐ/CT thành lập phái đoàn tham dự Hội nghị Paris về Việt Nam. Quốc tế công nhận. Trong tháng 6 năm 1969, 23 nước đã công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời, trong đó 21 nước kiến lập quan hệ ngoại giao: Từ sau phiên họp thứ 21 (12/6/1969), Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức tham dự Hội nghị Paris với tư cách là Chính phủ độc lập, đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam Việt Nam. Tháng 8 năm 1972, Hội nghị ngoại trưởng các nước không liên kết họp tại Guyanna đã công nhận địa vị hợp pháp của Chính phủ cách mạng lâm thời trong khối 59 nước Không liên kết. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, là một trong bốn bên ký kết vào Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Từ tháng 6 năm 1969 đến cuối năm 1975, có hơn 50 nước trên thế giới (trong đó có nhiều nước tư bản chủ nghĩa) công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Giải thể. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, lãnh thổ toàn miền Nam thuộc kiểm soát của Chính phủ Cách mạng lâm thời do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo. Sau khi giành được quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam, tháng 9 năm 1975, Hội nghị Trung ương lần thứ 24 Đảng Lao động Việt Nam xác định mục tiêu thống nhất đất nước về mọi mặt.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815840
Từ ngày 15 đến 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị hiệp thương chính trị được tổ chức tại Sài Gòn, giữa đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Trường Chinh đứng đầu, và đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, do Phạm Hùng đứng đầu. Hội nghị đã nêu cao quyết tâm thực hiện lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi"”, đã đi đến tán thành tổ chức bầu cử Quốc hội thống nhất. Ngày 25 tháng 4 năm 1976 tổng tuyển cử toàn Việt Nam được tổ chức, bầu ra 492 đại biểu của Quốc hội Việt Nam thống nhất. Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976, Quốc hội họp phiên đầu tiên, thông qua các nội dung: Với sự kiện này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã hoàn thành vai trò trong cuộc chiến tranh Việt Nam và chính thức chấm dứt mọi hoạt động.
Mai Hoa (ca sĩ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815843
Trần Mai Phương nghệ danh Mai Hoa (1975 - ) là nữ ca sĩ dòng nhạc tiền chiến Việt Nam, bà được biết đến khi thể hiện các ca khúc nhạc phim do chồng mình là nhạc sĩ Trọng Đài sáng tác trong các bộ phim truyền hình. Tiểu sử. Mai Hoa tên đầy đủ là Trần Mai Phương sinh năm 1975 tại Hà Nam, gia đình bà sau này chuyển vào Thanh Hóa sinh sống trong 10 năm. Thi đậu vào hai môn Kịch nói và Cải lương, học kịch nói được khoảng nửa năm, Mai Hoa được đưa về Đoàn kịch, sau đó giành được huy chương vàng một cuộc thi hát bà chuyển sang học thanh nhạc tại Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Năm 1994, Mai Hoa gia nhập Ðoàn nghệ thuật Phòng không không quân đến quân hàm Thiếu tá, sau đó bà chuyển sang công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam. Sự nghiệp. Mai Hoa bắt đầu sự nghiệp với Giải nhất cuộc thi Tiếng hát truyền hình Hà Nội năm 1996. Sau khi giành giải, Mai Hoa được Hội âm nhạc Hà Nội mời tham gia giao lưu với các nghệ sĩ Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây bà và nhạc sĩ Trọng Đài lần đầu được gặp nhau. Lần đầu Mai Hoa thể hiện một ca khúc nhạc phim là năm 2000 với bộ phim "Làm mẹ" với ca khúc cùng tên. Lúc này Trọng Đài đang tìm kiếm giọng ca thay thế cho một ca sĩ đã được chọn trước đó. Năm 2002, sự thành công của bộ phim truyền hình "Đất và người" giúp Mai Hoa được khán giả biết đến với ca khúc cùng tên với bộ phim, do nhạc sĩ Trọng Đài sáng tác. Năm 2005, Mai Hoa bất ngờ được chọn đóng vai nữ chính (Tám) trong phim truyền hình "Hương Đất". Khi đạo diễn Trần Quốc Trọng tìm kiếm người thay thế diễn viên Thu Hà - lựa chọn đầu tiên của ông cho nhân vật Tám - ông tình cờ xem được chương trình "Giới thiệu giọng hát Mai Hoa, Ánh Tuyết” trên truyền hình và nảy lửa ý tưởng chọn Mai Hoa. Tháng 12 cùng năm, Mai Hoa phát hành album đầu tay cũng có tựa đề Hương Đất; album gồm 8 ca khúc được nhạc sĩ Trọng Đài viết cho các bộ phim truyền hình khá thành công như: "Đất và người, Đường đời, Chuyện phố phường, Mùa lá rụng, Ca sĩ, Hương đất, Giá một lần"…. Năm 2007, Mai Hoa được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.
Mai Hoa (ca sĩ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815843
Năm 2010, Mai Hoa tham gia bộ phim Bí thư Tỉnh ủy với cả vai trò diễn viên, người sáng tác và thể hiện ca khúc chủ đề. Năm 2011, bà ra album phòng thu thứ ba với tựa đề "Dương cầm", album với các ca khúc tiền chiến được phối khí bởi nhạc sĩ Doãn Nguyên và nhạc sĩ Đức Minh. Năm 2018, Mai Hoa ra mắt MV "Đất và người", đồng thời được VTC tổ chức liveshow riêng với tên gọi "Mai Hoa - Thanh âm những nốt trầm”. Sau đó, bá phát hành hai album CD "Mùa thu vàng" và "Những ngày ta bên nhau". Gia đình. Mai Hoa kết hôn với nhạc sĩ Trọng Đài năm 1998, chuyện tình cảm của họ gặp nhiều cản trở từ gia đình và bàn luận của xã hội khi Trọng Đài từng là thầy của Mai Hoa và họ chênh lệch nhau 17 tuổi. Mai Hoa và Trọng Đài sinh được hai người con gái. Tác phẩm. Ca khúc thể hiện thành công. "Bến xuân", "Gửi người em gái", "Ngày về", "Bướm hoa", "Con thuyền không bến", "Hà Nội 49", "Lá đổ muôn chiều"... Ca khúc chủ đề của các phim "Đất và người", "Chuyện phố phường", "Hương đất", "Mùa lá rụng"…
Tôn Thất Lương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815847
Tôn Thất Lương (1793 - 1846) là một quan đại thần dưới triều đại nhà Nguyễn. Cuộc đời. Tôn Thất Lương thuộc dòng thứ bảy tôn thất nhà Nguyễn. Lúc nhỏ có học hạnh, từng học ở Quốc Tử Giám vào đầu thời Minh Mạng (1820 - 1841). Năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824), được bổ làm Hàn lâm viện Kiểm thảo, rồi thăng Lang trung Bộ Hộ, Thự Thiêm sự. Năm Mậu Tý (1828), thăng Tham hiệp trấn Thanh Hoa. Tháng Giêng năm Kỷ Sửu (1829), Tôn Thất Lương khi đó là Tham hiệp cùng các quan đầu trấn là Trấn thủ Lê Văn Hiếu, Hiệp trấn Đoàn Viết Nguyên, cho đấu thầu thuế cửa quan và bến đò. Có người muốn được trúng thầu đã hối lộ cho người thiếp của Lê Văn Hiếu 20 lạng bạc, cho người con của Đoàn Viết Nguyên 40 lạng cùng quà sau khi xong việc. Lê Văn Hiếu và Đoàn Viết Nguyên đều nhận, còn Tôn Thất Lương từ chối. Sau đó, việc nhận hối lộ của các vị quan đầu trấn Thanh Hoa bị phát giác. Các quan triều đình ra tra xét và lập án, trình lên bộ Hình, đề nghị xử Lê Văn Hiếu phải cách chức, Đoàn Viêt Nguyên tội đồ. Song vì trước đó hai vị quan này có nhiều công lao nên vua Minh Mạng gia ân cho họ: Lê Văn Hiếu bị giáng xuống làm Chánh Thất phẩm Thiên hộ, phái đi hiệu lực, Đoàn Viết Nguyên bị cách chức, cũng phải đi hiệu lực ở Nghệ An. Lê Văn Hiếu về sau chỉ được cấp bằng ở bộ, không được sắc phong. Vua Minh Mạng nhân đó dụ rằng, từ đây phàm những vị quan nào, cả quan văn và quan võ, có tội bị giáng bổ đi hiệu lực thì cứ chiếu theo lệ ấy. Còn Tham hiệp Tôn Thất Lương, vì giữ liêm khiết nên được vua khen ngợi, thưởng cho sa và đoạn mỗi thứ ba cuốn, lụa 10 tấm để khuyến khích người làm quan thanh bạch. Đầu năm Minh Mạng thứ 12 (Tân Mão, 1831), cũng tại trấn Thanh Hoa, các quan đầu trấn là Trấn thủ Hồ Văn Trương, Tham hiệp Nguyễn Văn Thắng được lệnh đi mua gỗ lim cho triều đình, đã dung túng cho người nhà và thuộc lại thông đồng với nhau, thao túng mua tất cả, làm lạm chi công quỹ triều đình tới hơn 50.000 quan. Sau đó, các quan này đều bị xử tội.
Tôn Thất Lương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815847
Còn Tôn Thất Lương sau khi bị tra xét, các thanh tra thấy ông không dính dáng, nhưng vì là đồng sự của bọn Trương, Thắng nên bị cách chức và phát vãng tới đài Trấn Hải (Quảng Nam) để “hiệu lực”, gắng sức chuộc tội. Hết thời hạn đi “hiệu lực”, Tôn Thất Lương trở về được bổ làm Tư vụ ở Mộc thương. Sau đó, ông đã trải qua nhiều chức trách khác nhau. Trong một lần Tôn Thất Lương được về triều yết kiến, vua Minh Mạng đã dụ ông rằng: "“Tội của ngươi đáng phải truất bãi, nhưng vì trước ở Thanh Hoa, tự giữ được liêm khiết, đáng khen, nên trẫm không bỏ ngươi mà thôi. Phải nên rất tự xấu hổ mà hăng hái tiến lên, để cho sau này nên người tốt, người phải nghĩ đấy”". Khi được bổ chức Bố chính sứ Gia Định, đúng lúc tỉnh làm sổ sách về đinh, điền, ông vâng mệnh thi hành, mọi việc đâu vào đấy, được vua khen, thưởng gia một cấp. Năm Mậu Tuất (1838), được bổ làm Tuần phủ tỉnh Thuận Khánh, khi địa phương này đang bị giặc biển từ Trung Quốc sang cướp bóc. Tôn Thất Lương đích thân ngồi thuyền bắt, đuổi giặc cướp, làm yên tình hình. Ông còn thực hiện nhiều giải pháp để giúp dân vượt qua nạn đói, đề xuất khuyến học, lựa chọn người tài ra làm việc, được vua khen ngợi. Đầu năm sau (Kỷ Hợi, 1839), được thăng Thự Tổng đốc Bình - Phú, ông xin khai cừ, khai nước, huy động sức dân khai phá được hơn 1.000 mẫu ruộng, được vua khen là “vì dân làm việc lợi” và thưởng cho một cấp. Năm đầu thời Thiệu Trị (Tân Sửu 1841) trong kỳ đại kế, Tôn Thất Lương được vua biểu dương là "“người giữ mình trong sạch, cẩn thận, siêng năng, giao bộ ghi công để thăng chức”". Năm Quý Mão (1843) ở chức Tổng đốc Thanh Hóa, ông đã dẹp tan quân phiến loạn, được vua thưởng cho quân công một cấp, một đồng kim tiền. Sau đó, ông được gia hàm Thiếu bảo, Thự Hiệp biện đại học sĩ, Tổng đốc Hà Ninh. Đến tháng 9 năm 1846, ông qua đời, được tặng thực thụ Hiệp biện đại học sĩ, cấp tiền tuất, ban thêm gấm màu, vải lụa rất hậu.
Tôn Thất Lương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815847
Năm đầu thời Tự Đức (Mậu Thân, 1848), được đưa vào đền Hiền Lương - nơi thờ những người có công của triều đình. Nhận định. Sách Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn chép:"“Lương là người có chí khí, giữ gìn, tình thanh liêm, tiết nghĩa. Khi ở Thanh Hóa, bạn đồng liêu tham tang nhận của đút riêng mà bản thân không dính dáng đến chút nào, được Thánh tổ Nhân hoàng đế [tức vua Minh Mạng] khen ngợi, nên bị cách bãi mà lại được khởi phục. Tới khi mấy lần nhận giữ nơi trọng khổn mà vẫn trong sạch, siêng năng, giữ tiết tháo, vỗ yên, có công lao rõ thực, không hổ là người ở Khánh phả”."
Thân vương quốc Piombino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815848
Lãnh địa Piombino ("Signoria di Piombino"), và sau năm 1594 là Thân vương quốc Piombino ("Principato di Piombino"), là một nhà nước nhỏ trên Bán đảo Ý có trung tâm là thị trấn Piombino và bao gồm một phần của đảo Elba. Một chư hầu của Vương quốc Napoli liên kết với Nhà nước Presidios và là lãnh thổ của Đế chế La Mã thần thánh được hình thành từ tàn tích của Cộng hòa Pisa, nó tồn tại từ năm 1399 đến 1805, khi nó được sáp nhập vào Thân vương quốc Lucca và Piombino. Năm 1815, nó được sáp nhập vào Đại công quốc Toscana.
Cherson (thema)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815853
Thema Cherson (, "thema Chersōnos"), ban đầu và chính thức gọi là Klimata (tiếng Hy Lạp: ), là một thema của Đế quốc Byzantine (tỉnh quân sự-dân sự) nằm tại miền nam Krym, trụ sở tại Cherson. Thema được chính thức thành lập vào đầu thập niên 830 và là một trung tâm thương mại quan trọng của Biển Đen. Bất chấp sự tàn phá của thành phố Cherson vào thập niên năm 980, thema này đã phục hồi và thịnh vượng, tồn tại cho đến khi nó trở thành một phần của Đế quốc Trebizond sau khi Đế quốc Byzantine tan rã vào năm 1204. Lịch sử. Khu vực này nằm dưới quyền kiểm soát của Đế quốc La Mã và sau đó là Byzantine cho đến đầu thế kỷ thứ 8, nhưng sau đó được chuyển sang dưới quyền kiểm soát của người Khazar. Quyền lực của Byzantine được tái lập bởi Hoàng đế Theophilos (trị vì 829–842), ông thể hiện sự quan tâm đến vùng duyên hải phía bắc của Biển Đen và đặc biệt là mối quan hệ của ông với người Khazar. Ngày hàn lâm truyền thống thành lập Cherson với vị thế trụ sở của một thema là khoảng 833/4, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đã liên kết nó với phái đoàn của Byzantine đến xây dựng thủ đô mới của người Khazar tại Sarkel vào năm 839, và xác định Petronas Kamateros, kiến ​​trúc sư của Sarkel, là thống đốc đầu tiên của thema ("strategos") vào năm 840/1. Tỉnh mới này ban đầu được gọi là "ta Klimata", "các vùng/khu", nhưng do sự nổi bật của thủ phủ Cherson, đến khoảng 860 nó thậm chí còn được ghi trong các tài liệu chính thức bằng tên gọi "thema Cherson". Tỉnh đóng một vai trò quan trọng trong quan hệ của Byzantine với người Khazar, và sau khi Hãn quốc Khazar sụp đổ thì là với người Pecheneg và Rus'. Đây là một trung tâm của ngoại giao Byzantine hơn là hoạt động quân sự, vì cơ sở quân sự trong thema này dường như còn nhỏ và chủ yếu bao gồm một lực lượng dân quân được gây dựng tại địa phương. Điểm yếu của nó được nhấn mạnh theo quy định trong các hiệp ước Byzantine với Rus' năm 945 và 971, khi người Rus' cam kết bảo vệ thema trước người người Bulgar Volga. Cherson rất thịnh vượng trong thế kỷ 9–11 với tư cách là trung tâm thương mại Biển Đen, bất chấp việc thành phố bị Vladimir của Kiev phá hủy vào năm 988/9 do tranh chấp về con gái của Hoàng đế Romanos II là Anna.
Cherson (thema)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815853
Thành phố phục hồi nhanh chóng: các công sự của thành phố được khôi phục và mở rộng đến bến cảng vào đầu thế kỷ 11. Đồng thời, có thể sau thất bại của lãnh chúa Khazar Georgius Tzul vào năm 1016, thema này cũng được mở rộng sang miền đông Krym, bằng chứng là tước hiệu của một số người nhất định là ""strategos" của Cherson và Sougdaia" vào năm 1059. Tuy nhiên, khu vực này lại bị mất vào cuối thế kỷ 11 về tay người Cuman. Hầu như không biết được gì về Cherson trong thế kỷ 12, chỉ ra một thời kỳ khá yên bình. Cherson và tỉnh của nó vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Byzantine cho đến khi Đế quôc bị giải thể do Thập tự chinh thứ tư vào năm 1204, khi chủ quyền khu vực về tay Đế quốc Trebizond ly khai (xem Perateia). Hành chính. Thema Cherson dường như đã được tổ chức theo kiểu điển hình, với đầy đủ các quan chức cấp thema, trong đó có một "tourmarches" của Gothia được biết đến vào đầu thế kỷ 11, cũng như các quan chức tài chính và hải quan phổ thông được gọi là "kommerkiarioi". Tuy nhiên, các thành phố của thema này dường như vẫn giữ được quyền tự trị đáng kể cho chính quyền của họ, như chính Cherson được quản lý bởi các quý nhân địa phương ("archontes") dưới quyền một "proteuon" ("người đầu tiên"). Cherson cũng giữ quyền phát hành tiền xu của riêng mình, đã khôi phục việc đúc tiền dưới thời Hoàng đế Mikhael III (trị vì 842–867), và trong một thời gian dài là xưởng đúc tiền cấp tỉnh duy nhất bên ngoài Constantinople. Quyền tự chủ của tỉnh cũng được chứng minh bằng thực tế là chính phủ đế quốc đã trả trợ cấp hàng năm ("pakta") cho các nhà lãnh đạo thành phố theo kiểu của những người thống trị đồng minh, và theo lời khuyên của Hoàng đế Constantine Porphyrogennetos (trị vì 913–959) trong "De Administrando Imperio" của mình cho "strategos" địa phương liên quan đến khả năng xảy ra một cuộc nổi dậy trong thành phố: ông ấy phải ngừng thanh toán trợ cấp và chuyển đến một số thành phố khác trong thema. Vào cuối thế kỷ 11, thema được một "katepano" quản lý.
Danh sách sự kiện truyền thông của Apple Inc.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815857
Apple Inc. đã công bố các sản phẩm mới, các sản phẩm được thiết kế lại cũng như các bản nâng cấp của các phần mềm thông qua các cuộc họp báo, trong khi các bản cập nhật nhỏ thường diễn ra thông qua các thông cáo báo chí trên Apple Newsroom. Các cuộc họp báo trong lịch sử đã thu hút được một lượng lớn người theo dõi trên các phương tiện truyền thông truyền thống và trực tuyến. Các chi tiết của sự kiện thường được giữ bí mật để tạo tiếng vang và chỉ được tiết lộ trong sự kiện, mặc dù các dòng giới thiệu sự kiện đôi khi đưa ra gợi ý. Những sự kiện này thường được phát trực tiếp trên trang web của Apple và trong những năm gần đây là kênh YouTube của hãng. Video phát lại hầu hết các sự kiện của Apple kể từ năm 2007 đều có trên podcast "Apple Events" của Apple. Apple thường công bố các sản phẩm mới tại Hội nghị các nhà phát triển toàn cầu của Apple (WWDC) hàng năm, mặc dù nó chủ yếu tập trung vào phần mềm. 1999. Macworld NY 1999. Macworld New York 1999 diễn ra vào tháng Bảy. Apple ra mắt với tùy chọn mạng không dây. 2000. Có nhiều sự kiện Macworld vào năm 2000. Macworld 2000 San Francisco. Macworld 2000 được tổ chức vào ngày 5 tháng 1 năm 2000 tại San Francisco. Macworld 2000 tại San Francisco có sự ra mắt của giao diện người dùng " mới và công cụ đồ họa " của Mac OS X, và thông báo của Jobs rằng của nó sẽ được phát hành vào tháng 1 năm 2001 sau . Jobs cũng thông báo rằng ông đã được thăng chức thành Giám đốc điều hành toàn thời gian của Apple. 2004. Macworld 2004. Macworld 2004 được tổ chức tại San Francisco. WWDC 2004. WWDC 2004 được Apple công bố vào ngày 4 tháng 5 năm 2004, sẽ được tổ chức vào ngày 28 tháng 6 năm 2004 lúc 10:00 sáng tại San Francisco. Tại sự kiện này, các Màn hình Rạp chiếu phim mới với đầu nối DVI đã được công bố. Mac OS X Tiger đã được công bố cùng với các tính năng mới. 2005. MacWorld 2005 (Tháng 1/2005, San Francisco). iPod Shuffle đã được công bố, cùng với các sản phẩm khác. Mac Mini, iLife '05 và iWork đã được công bố. Tại sự kiện này, Steve Jobs gọi năm 2005 là "năm chỉnh sửa video HD". WWDC 2005 (Ngày 6–10 tháng 6 năm 2005). Sau khi cập nhật thị trường cơ bản, Jobs thông báo rằng Apple sẽ chuyển đổi nền tảng Macintosh sang bộ vi xử lý Intel x86 sau khi sử dụng PowerPC trong hơn một thập kỷ.
Danh sách sự kiện truyền thông của Apple Inc.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815857
Bài phát biểu có sự góp mặt của các nhà phát triển từ , những người đã thảo luận về trải nghiệm của họ khi chuyển Mathicala sang Mac OS X trên nền tảng Intel. Hội nghị bao gồm 110 phiên trong phòng thí nghiệm và 95 phiên trình bày, trong khi hơn 500 kỹ sư của Apple đã có mặt cùng với 3.800 người tham dự từ 45 quốc gia. Ban nhạc biểu diễn tại khuôn viên Apple. 2006. MacWorld 2006 (Tháng 1/2006). Tại sự kiện này, Apple đã giới thiệu những chiếc máy tính chạy Intel đầu tiên của mình là iMac và . Apple Special Event (28 tháng 2 năm 2006). Tại Sự kiện đặc biệt của Apple vào ngày 28 tháng 2 năm 2006, Steve Jobs đã công bố hệ thống loa tại trung tâm hội nghị Town Hall ở Cupertino. WWDC 2006 (7–11 tháng 8 năm 2006). Năm 2006, Steve Jobs một lần nữa có bài thuyết trình quan trọng tại WWDC, được tổ chức từ ngày 7 tháng 8 đến ngày 11 tháng 8 tại Moscone Center West, San Francisco. Mac Pro được công bố là sản phẩm thay thế cho , là máy tính để bàn chuyên nghiệp trước đây của Apple và là máy Mac dựa trên PowerPC cuối cùng còn lại. Mac Pro tiêu chuẩn có hai bộ xử lý Xeon (Woodcrest) lõi kép 2,66 GHz, RAM 1 GB, ổ cứng 250 GB và card đồ họa 256 MB. Bản nâng cấp Xserve, dựa trên Xeons lõi kép, cũng đã được công bố. Nguồn dự phòng và Lights Out Management là những cải tiến sản phẩm tiếp theo cho dòng máy chủ của Apple. Trong khi một số cải tiến chính của Mac OS X không được tiết lộ, có 10 cải tiến trong phiên bản tiếp theo, (10.5), bao gồm: hỗ trợ ứng dụng 64-bit đầy đủ, , , , , Spaces (Máy ảo), cải tiến , Core Animation, cải tiến Universal Access, cải tiến và cải tiến (bao gồm ) và cải tiến . Cùng với các tính năng của Leopard đã được công bố, một bản sửa đổi lớn cho sản phẩm Mac OS X Server đã được công bố. Các tính năng mới của Máy chủ bao gồm: quy trình thiết lập đơn giản hóa, Máy chủ (dựa trên tiêu chuẩn ), (một bộ dịch vụ cộng tác dựa trên web), Spotlight Server và Podcast Producer. WWDC 2006 đã thu hút 4.200 nhà phát triển từ 48 quốc gia, trong khi có 140 phiên và 100 phòng thí nghiệm thực hành dành cho nhà phát triển. Hơn 1.000 kỹ sư của Apple đã có mặt tại sự kiện này và DJ đã biểu diễn tại Apple Campus ở Cupertino. Apple Special Event (12 tháng 9 năm 2006).
Danh sách sự kiện truyền thông của Apple Inc.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815857
Apple Special Event (12 tháng 9 năm 2006). Apple đã công bố Apple TV (tên mã iTV vào thời điểm đó) tại sự kiện này, cùng với những cải tiến cho dòng sản phẩm iPod của họ. 2007. Macworld Conference & Expo San Francisco 2007 (9 tháng 1 năm 2007). Địa điểm: Moscone West, San Francisco, California Dẫn chương trình: Steve Jobs, CEO của Apple Diễn giả: Mô tả tập podcast: "Hãy xem Giám đốc điều hành của Apple, Steve Jobs khai mạc Hội nghị & Triển lãm Macworld 2007 với bài phát biểu quan trọng từ Moscone West, San Francisco. Hãy xem những phát triển mới thú vị tại Apple, bao gồm việc bổ sung các bộ phim Paramount vào iTunes, Apple TV, cho phép bạn phát tất cả nội dung iTunes từ máy Mac hoặc PC của mình trên TV không dây và iPhone là tiên phong. Sản phẩm mang tính cách mạng này là một chiếc iPod màn hình rộng có điều khiển cảm ứng, một điện thoại di động và một thiết bị liên lạc Internet tất cả trong một." Thông tin đáng chú ý: Ngày hôm sau, cổ phiếu của Apple đạt 97,80 đô la, mức cao nhất mọi thời đại vào thời điểm đó. Vào tháng 5, giá cổ phiếu của Apple đã vượt mốc 100 USD. WWDC 2007 (11–15 tháng 6 năm 2007). WWDC 2007 được tổ chức từ ngày 11 tháng 6 đến ngày 15 tháng 6. Trong sự kiện này, Apple đã công bố việc phát hành iPhone OS 1, cũng như iPhone (thế hệ 1). Special Event 2007 (7 tháng 8 năm 2007). Apple giới thiệu iMac dựa trên Aluminum mới của Intel. Apple Music Event 2007 (5 tháng 9 năm 2007). Sự kiện được gọi là "The Beat Goes On". Apple đã công bố iPod touch thế hệ đầu tiên. 2008. Macworld Conference & Expo San Francisco 2008 (16 tháng 1 năm 2008). Địa điểm: Moscone West, San Francisco, California Dẫn chương trình: Steve Jobs, CEO của Apple Diễn giả: Mô tả tập podcast: "Hãy xem Giám đốc điều hành Apple, Steve Jobs khai mạc Macworld Conference & Expo 2008 với bài phát biểu quan trọng đề cập đến những phát triển thú vị tại Apple, bao gồm cả MacBook Air và việc bổ sung dịch vụ cho thuê phim vào iTunes và trên Apple TV." Thông tin đáng chú ý: iPhone Software Roadmap Event (6 tháng 3 năm 2008). Apple đã công bố công nghệ push trong iPhone OS, iPhone SDK và iPhoneOS 2.0. WWDC 2008 (9–13 tháng 6 năm 2008). Các thông báo bài phát biểu quan trọng bao gồm App Store cho iPhone và iPod Touch, phiên bản ổn định của , phiên bản 3G được hỗ trợ của iPhone dành cho thị trường Toàn cầu, của iPhone OS, (10.6) và việc thay thế/đổi thương hiệu của .Mac thành .
Danh sách sự kiện truyền thông của Apple Inc.
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815857
Apple Special Event (9 tháng 9 năm 2008). Các bản cập nhật trên iTunes và các bài nhạc mới từ thông báo của Jobs, loại bỏ iPod Classic có hệ số hình thức lớn hơn với dung lượng ổ cứng tăng lên trên iPod Classic còn lại và iPod Nano mới. Tại sự kiện này, Jobs cũng nói đùa rằng "các báo cáo về cái chết của tôi đã bị phóng đại quá mức". 2009. WWDC (8–12 tháng 6 năm 2009). Các thông báo tại bài phát biểu quan trọng bao gồm việc phát hành phần mềm được công bố cho các nhà phát triển vào tháng 3, trình diễn (10.6), MacBook Pro 13" mới, các bản cập nhật cho MacBook Pro 15" và 17" và iPhone 3GS mới. Apple Special Event (9 tháng 9 năm 2009). Các thông báo tại bài phát biểu quan trọng bao gồm việc phát hành iTunes 9, khả năng mua Nhạc chuông cho iPhone, , iPod nano thế hệ thứ 5, và 160GB thế hệ thứ 6 mỏng hơn. 2010. Apple Special Event (27 tháng 1 năm 2010). iPad được Steve Jobs công bố vào ngày 27 tháng 1 năm 2010 tại một cuộc họp báo của Apple tại ở San Francisco. Jobs sau đó nói rằng Apple đã bắt đầu phát triển iPad trước iPhone, nhưng tạm thời gác lại những nỗ lực khi nhận ra rằng ý tưởng của họ cũng sẽ hoạt động tốt trên điện thoại di động. Tên mã nội bộ của iPad là K48, được tiết lộ trong vụ kiện xung quanh việc rò rỉ thông tin iPad trước khi ra mắt. 2023. Apple Event (12 tháng 9 năm 2023). Apple đã chính thức công bố sự kiện thường niên tháng 9 của họ vào ngày 29 tháng 8 năm 2023 với khẩu hiệu "Wonderlust". Nó sẽ diễn ra trực tuyến cùng với trải nghiệm trực tiếp tại Apple Park. Apple dự kiến ​​sẽ công bố Apple Watch X, iPhone 15, iPhone 15 Plus, iPhone 15 Pro, iPhone 15 Pro Max hoặc iPhone 15 Ultra, v.v. tại sự kiện. Toàn bộ dòng iPhone 15 sẽ chuyển sang USB-C, thay thế cho cổng Lightning đã 11 năm tuổi khi bắt đầu được sử dụng từ iPhone 5 và sẽ kết thúc với dòng iPhone 14, khiến chúng trở thành những chiếc iPhone cuối cùng sử dụng cổng Lightning, được biết sự thay đổi trên do tuân thủ các quy định mới của EU.
Ken Zubay
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815867
Kenneth Peter Zubay (22 tháng 6 năm 1924 - 14 tháng 3 năm 2010) là một doanh nhân và chính khách người Mỹ. Zubay sinh ra ở Endicott, New York. Ông tốt nghiệp Trường Trung học Union-Endicott năm 1942. Zubay phục vụ cho Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tại cơ sở sửa chữa tàu ở Norfolk, Virginia. Ông cũng đi học nghề và tham gia các khóa đào tạo về nghiệp vụ quản lý. Zubay từng làm việc cho IBM. Ông cùng vợ và gia đình chuyển đến Rochester, Minnesota vào năm 1956 và tiếp tục làm việc cho IBM. Zubac là nghị sĩ của Hạ viện Minnesota từ năm 1975 đến năm 1982 và là đảng viên Đảng Cộng hòa. Zubay qua đời tại Bệnh viện Methodist ở Rochester, Minnesota.
Okobo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815870
, còn được gọi là hay (là tất cả những từ tượng thanh miêu tả tiếng do phát ra khi bước đi), là loại dép gỗ truyền thống của Nhật Bản được các bé gái và phụ nữ độc thân đeo trong lễ và Lễ Thành niên. Nó cũng được đeo bởi các Maiko (Geisha tập sự) tại một số vùng của Nhật Bản. thường được làm từ khối gỗ rắn lấy từ cây paulownia, loại gỗ phong mềm bản địa của vùng Đông Á và thường được canh tác ở đó. cao từ , và có thể thêm họa tiết trang trí, được sơn mài đen hoặc được mài cho phẳng hơn; Okobo được mài phẳng sẽ không cần phải cho thêm sáp. được giữ trên bàn chân của người sử dụng bằng một loại dây đeo được gọi là , được làm bằng cách thắt nút sợi dây rồi vòng qua lỗ đã được khoan từ trước – một sợi ở phía trước đôi dép, xỏ xuyên qua mặt gỗ phía dưới, và hai sợi sau được luồn vào điểm giữa của khối gỗ đó. Phần giữa của dép sẽ được khoan ra, để rỗng và những sợi sẽ được luồn vào phần rỗng. Nút dây thắt phía trước có thể được gắn thêm một chiếc chuông nhỏ, và phần lỗ thường được bịt kín bằng một nút kim loại gọi là (, nghĩa đen: (tiền), "phía trước" + (kim), "kim loại"). Ở những loại nhỏ hơn, chiếc chuông sẽ được giữ bởi hai nút dây được buộc phía sau. Các dành cho Maiko thường cao hơn loại thông thường, với chiều cao từ , và thường không có lớp sơn bên ngoài; vào mùa hè, Okobo của họ sẽ được sơn mài đen trơn. Loại dành cho các cô gái trẻ và phụ nữ thường thấp hơn và được sơn mài với nhiều màu sắc ở hai bên giày. Còn loại được dùng cho buổi lễ có thể có vải gấm trang trí bên ngoài, với phần mặt đế được đan bằng tre (được gọi là ). Dây đai có thể làm từ mọi nguyên liệu phù hợp với phụ nữ và các bé gái, mặc dù chúng thường được làm từ vải thổ cẩm, nhung, lụa và lụa Polyester. Đối với các geisha tập sự, luôn được làm từ vải trơn, với màu sắc tượng trưng cho giai đoạn học nghề của họ: Dây đai đỏ dành cho những người mới học việc, trong khi dây đai vàng được đeo bởi những người học việc lâu năm và sắp hoàn thành giai đoạn tập sự.
Nabila al-Zubayr
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815872
Nabila Muhsin Ali al-Zubayr (sinh năm 1964) là một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Yemen. Bà sinh ra tại làng al-Hagara thuộc vùng Haraz và theo học tại Đại học Sanaa, tốt nghiệp bằng cử nhân tâm lý học. Bà từng là cộng tác viên thường xuyên cho các tạp chí ở Yemen, bao gồm al-Thawra, al-'Uruba, al-Mithaq và al-Mar'a. Tập thơ đầu tiên của bà có tựa đề "Mutawaliyat al-kidhba al-ra'i'a" đã được xuất bản ở Damascus vào năm 1990. Bà đã xuất bản thêm nhiều tập thơ kể từ đó. Thơ của al-Zubayr đã được dịch sang tiếng Anh trong tạp chí "Banipal" và được đưa vào hợp tuyển năm 2008 với tựa đề "".
Steak frites
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815889
Steak frites, có nghĩa là "bò bít tết [và] khoai tây chiên" trong tiếng Pháp, là một món ăn bao gồm một lát thịt bò bít tết ăn kèm với khoai tây chiên. Nó thường được phục vụ tại cá brasserie ở châu Âu, và được một số người coi là món ăn quốc gia của Bỉ, nơi tuyên bố là nơi phát minh ra nó. Chuẩn bị. Trong lịch sử, phần đùi thăn thường được sử dụng cho món ăn này. Điển hình hơn ở thời điểm hiện tại, bít tết là một entrecôte, hay còn được gọi là thăn lưng, hoặc scotch fillet ở Úc, rán đến độ tái ("saignant"—nghĩa đen là "đẫm máu"), trong nước sốt giảm chảo, đôi khi với hollandaise hoặc béarnaise, ăn kèm với khoai tây chiên giòn. Từ nguyên. Francophilia dẫn đến sự khái quát hóa của nó đối với thế giới nói tiếng Bồ Đào Nha, nơi nó được gọi là hoặc , đặc biệt là ở Brasil, trong đó nước xốt thường chỉ là những khoanh hành tây được nấu chín và chiên trong nước và dầu chiên của bò bít tết, là món ăn phổ biến nhất bỏ qua cơm và đậu. Steak frites cũng phổ biến ở các quốc gia khác, chẳng hạn như các nước nói tiếng Anh và các nước nói tiếng Tây Ban Nha ở châu Mỹ Latinh. Ký hiệu học. Steak frites là chủ đề của một bài phân tích ký hiệu học của nhà lý luận văn hóa Pháp, Roland Barthes trong tác phẩm năm 1957 của ông, "Mythologies".
Bầu cử ở Phần Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815892
Việc bầu cử ở Phần Lan – dành cho công dân trên mười tám tuổi và có quyền bầu cử, gồm bầu cử Tổng thống, bầu cử Quốc hội, bầu cử Nghị viện châu Âu, bầu cử Hội đồng điều hành và bầu cử Hội đồng điều hành khu tự quản (ở địa phương). Bầu cử tổng thống mỗi sáu năm tiến hành một lần, sử dụng hệ thống bầu cử hai vòng với phuơng thức đầu phiếu phổ thông trực tiếp. Bầu cử Quốc hội mỗi bốn năm tiến hành một lần, sử dụng hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện với phương thức đầu phiếu D’Hondt trên cơ sở mỗi khu vực bầu cử được bầu ít nhất một nghị sĩ. Vì Phần Lan sử dụng hệ thống đa đảng nên rất khó để một đảng phái có thể dành được số ghế đa số trong Quốc hội và thường phải thành lập liên minh cầm quyền với các đảng khác. Bầu cử Nghị viện châu Âu mỗi năm năm tiến hành một lần. Nước Cộng hòa Phần Lan có 14 đại biểu trong Nghị viện châu Âu. Bầu cử Hội đồng điều hành khu tự quản ở địa phương mỗi bốn năm tiến hành một lần. Riêng tại vùng tự trị Åland thì bầu cử hội đồng khu tự quản và bầu cử Nghị viện Åland được tiến hành đồng thời. Cùng lúc với bầu cử Hội đồng điều hành khu tự quản còn tổ chức bầu cử Hội đồng điều hành hạt phúc lợi, do nội các thủ tướng Sanna Marin lập ra và tổ chức lần đầu vào năm 2022, nhằm bầu ra ủy viên cho hai mươi mốt Hội đồng điều hành hạt phúc lợi của Phần Lan.
Đảo Zubchaty
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815893
Zubchaty () là một hòn đảo không có người ở trong vịnh Shelikhov thuộc phía đông bắc biển Okhotsk. Hòn đảo nằm ở phía đông của vịnh Penzhina. Hòn đảo có đỉnh hình răng cưa. Đảo Zubchaty thuộc huyện Tigilsky của vùng Kamchatka, ở vùng Viễn Đông Nga. Lịch sử. Các tàu đánh cá voi Mỹ đã thăm dò tìm cá voi đầu cong ngoài khơi đảo từ năm 1863 đến năm 1889. Những người đánh bắt cá voi đã gọi hòn đảo là Đảo Crag.
Neapolitan ragù
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815896
Neapolitan ragù (tiếng Napoli: và tiếng Ý: hoặc ragù napoletano) là một trong hai loại nước sốt thịt nổi tiếng nhất được gọi là ragù. Nó là đặc sản của Napoli, như tên gọi của nó. Một biến thể khác có nguồn gốc từ Bologna và được gọi trong tiếng Ý là "ragù bolognese" hoặc "ragù alla bolognese". Lịch sử. Neapolitan ragù cũng được khen ngợi bởi Eduardo De Filippo trong một bài thơ của ông có nhan đề: "'O rraù". Tiếng Ý: Theo truyền thuyết, ở Napoli vào cuối thế kỷ 14, có Công ty Công lý của Người da trắng đi bộ quanh thành phố để cầu xin "lòng thương xót và hòa bình". Công ty đã đến "Cung điện Hoàng đế" vẫn còn tồn tại qua Tribunali, nơi ở của Carlo, Hoàng đế Constantinople và Maria di Valois con gái của Vua Charles của Anjou. Vào thời điểm đó, cung điện là nơi sinh sống của một quý ông, người luôn thù địch với mọi người, vừa thô lỗ vừa độc ác, và là người mà mọi người đều cố gắng tránh xa. Lời rao giảng của công ty đã thuyết phục người dân làm hòa với kẻ thù của họ, nhưng chỉ có nhà quý tộc cư trú trong "Hoàng cung" quyết định không nhận lời mời của người da trắng, luôn nuôi mối hận thù lâu đời và ngoan cường. Anh ấy đã không bỏ cuộc ngay cả khi đứa con trai ba tháng tuổi, trong vòng tay của y tá, trượt đôi bàn tay nhỏ bé của nó ra khỏi băng và bắt chéo chúng, anh ấy đã khóc ba lần: "Xin thương xót và bình an". Nhà quý tộc bị mù quáng bởi sự tức giận, anh ta ôm mối hận thù và báo thù, và một ngày nọ, vợ anh ta, để làm anh ta mềm lòng, đã chuẩn bị một đĩa mì ống cho anh ta. Providence đổ đầy đĩa với một loại nước sốt đầy máu. Cuối cùng, cảm động trước thần đồng, người đàn ông bướng bỉnh đã làm hòa với kẻ thù của mình và khoác lên mình chiếc áo dài trắng của Công ty. Vợ anh, sau một quyết định bất ngờ, lại chuẩn bị món mì ống, một lần nữa, như có phép màu, lại chuyển sang màu đỏ. Nhưng thứ nước sốt bí ẩn đó có mùi thơm lạ mời gọi, rất ngon, và quý ông nếm thử thấy thật ngon. Vì vậy, cô gọi anh là "raù" cùng tên với con mình.
Neapolitan ragù
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815896
Trên thực tế, thuật ngữ ragù bắt nguồn từ tiếng Pháp "ragoût", chỉ một kiểu nấu thịt và rau, tương tự như món hầm. Chúng ta cũng phải nhớ rằng cà chua đã không đến châu Âu trước cuối thế kỷ 16. Chuẩn bị. Phiên bản Neapolitan được làm từ 2 phần: thịt và xốt cà cùng một vài loại gia vị được thêm vào. Tuy vậy, một điểm khác biệt chính là cách sử dụng thịt cũng như lượng cà chua trong nước sốt. Các phiên bản Bolognese sử dụng thịt thái nhỏ, trong khi các phiên bản Neapolitan sử dụng thịt nguyên miếng, lấy từ casserole khi được nấu chín và phục vụ như món thứ hai hoặc với pasta. Sở thích cho các thành phần cũng khác nhau. Ở Napoli, rượu vang trắng được thay thế bằng rượu vang đỏ, bơ thay thế bằng mỡ lợn hoặc dầu ô liu, và khá nhiều lá húng tây được thêm vào, nhưng Bolognese ragù không có húng tây. Ở phiên bản Neapolitan, nó cũng có thể được làm phong phú bằng cách thêm nho khô, hạt thông và involtini với các chất trám khác nhau. Sữa và kem không được sử dụng, và một lượng tương đối nhiều nước xốt cà chua được ưu tiên hơn, trái ngược với việc Bolognese sử dụng một lượng tối thiểu. Mùa cà chua ở miền nam Napoli dài hơn nhiều so với ở miền bắc Bologna. Giống như Bolognese, Neapolitan ragù cũng có khá nhiều biến thể, trong đó nổi tiếng nhất là "ragù guardaporta" (doorman's ragù). Biến thể. Neapolitan ragù có nhiều điểm tương đồng và là tổ tiên của "Sunday gravy" trong ẩm thực Ý-Hoa Kỳ, sự khác biệt chính là việc bổ sung nhiều loại thịt hơn trong phiên bản của Hoa Kỳ, nổi tiếng nhất là thịt viên (từ món Spaghetti thịt viên), braciole, xúc xích và sườn cốt lết.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815903
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nam là một loạt các trận đấu quần vợt diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 6 năm 2023 để xác định 16 tay vợt vượt qua vòng loại và các tay vợt thua cuộc may mắn (nếu cần) vào vòng đấu chính Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nam. Hạt giống. Danh sách tham dự vòng loại được công bố dựa trên bảng xếp hạng ATP trong tuần của ngày 29 tháng 5 năm 2023. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 19 tháng 6 năm 2023.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nữ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815909
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nữ là một loạt các trận đấu quần vợt diễn ra từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 6 năm 2023 để xác định 16 tay vợt vượt qua vòng loại và các tay vợt thua cuộc may mắn (nếu cần) vào vòng đấu chính Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nữ. Hạt giống. Danh sách tham dự vòng loại được công bố dựa trên bảng xếp hạng WTA trong tuần của ngày 29 tháng 5 năm 2023. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 19 tháng 6 năm 2023.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nam trẻ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815911
Dưới đây là kết quả vòng loại đơn nam trẻ Giải quần vợt Wimbledon 2023.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Vòng loại đơn nữ trẻ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815913
Dưới đây là kết quả vòng loại đơn nữ trẻ Giải quần vợt Wimbledon 2023.
Lê Thị Diễm My
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815916
Lê Thị Diễm My (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Than Khoáng Sản và đội tuyển nữ quốc gia Việt Nam.
Đại Đường vinh diệu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815917
Đại Đường vinh diệu (tiếng trung: 大唐荣耀, tiếng Anh: The Glory of Tang Dynasty), là một bộ phim truyền hình dài tập được phát sóng năm 2017 lấy bối cảnh Nhà Đường được cải biên tiểu thuyết《 Đại Đường hậu phi truyện chi Trân Châu truyện kỳ 》của Thương Minh Thủy với sự tham gia của Cảnh Điềm, Nhậm Gia Luân, Thư Sướng, Tần Tuấn Kiệt, Vạn Thiến. Phim phát sóng trên đài truyền hình An Huy. Nội dung. Phần 1. Thẩm Trân Châu là một nữ tử Giang Nam xuất thân danh môn có nội tâm lương thiện, luôn thiện chí giúp đỡ mọi người. Do hồi nhỏ cô từng suýt chết đuối nhưng may mắn thay được một người lạ mặt cứu giúp nên khi lớn cô đã thề rằng "Nếu người cô cưới không phải ân nhân từng cứu cô thì nhất quyết không chịu gả". Nào ngờ đâu vì Thẩm gia bị vu oan mà dẫn tới diệt môn nên Trân Châu đành phải gả vào Quảng Bình vương phủ. Mặc dù sau này cô đã nhận ra Lý Thục chính là ân nhân đã cứu mạng mình khi xưa nhưng lại bị kẻ xấu lừa gạt, khiến cô cho rằng Lý Thục chính là hung thủ đã hãm hại Thẩm gia. Cuối cùng sau bao trắc trở, hiểu lầm của cả hai đã được hóa giải. Những tưởng đâu hai người sẽ có thể sống yên bình mãi mãi nhưng không ngờ Loạn An Sử bộc phát đã chia lại rẽ cả hai. Trân Châu bị kẹt lại trong thành Trường An không thể thoát ra, không thể ở bên Lý Thục. Trong thời gian xa cách, cạnh cô luôn có thanh mai trúc mã An Khánh Tự kề bên bảo vệ. Sau khi Đường quân thu phục thành Trường An sau, Trân Châu quyết định rời khỏi hoàng cung đầy rẫy hiểm nguy nhưng Lý Thục vẫn một lòng muốn đón Trân Châu trở về nhưng nàng nhất quyết cự tuyệt. Ngay lúc này Tam hoàng tử Lý Đàm bị Trương Hoàng hậu hãm hại mà chết. Lý Thục thân là hoàng huynh nên đau buồn không thôi, vì vậy mà nản lòng đối với triều chính, tinh thần sa sút sống qua ngày. Phần 2. Trên triều đình, Trương Hoàng hậu cùng Sử Tư Minh thừa cơ hãm hại Lý Thục, khiến cho Lý Thục bị đoạt mất binh quyền. Vì muốn Lý Thục lấy lại tinh thần, tiếp tục được Túc Tông trọng dụng, Độc Cô Tĩnh Dao quyết định gả vào vương phủ trợ giúp Lý Thục.
Đại Đường vinh diệu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815917
Vì Lý Thục cùng tương lai của Đại Đường nên Trân Châu Châu nhận chủ động để Lý Thục cưới Độc Cô Tĩnh Dao làm thê tử. Về sau Lý Thục được lập làm Thái tử, vì Túc Tông bệnh nặng nên Lý Thục được thay phụ hoàng giám quốc.Ngay lúc này Trương Hoàng hậu lại có mưu đồ hãm hại Lý Thục để phế lập Thái tử khác nhưng quỷ kế bị trung thần Lý Tất nhìn thấu nên vị trí Thái tử của Lý Thục được đảm bảo. Đại cục đã mất Trương Hoàng hậu đành liều chết giãy dụa, ý đồ bắt cóc Trân Châu để áp chế Lý Thục. Hoạn quan Lý phụ quốc biết Trương Hoàng hậu đã hết đường lui bèn chuyển qua trợ giúp Lý Thục, trước mặt Túc Tông vạch mặt Trương Hoàng hậu, cuối cùng Trương Hoàng hậu không may bị ngã đập đầu vào tủ gỗ mà chết. Lý thục thành công bình định loạn tặc, giang sơn Đại Đường rung chuyển hồi lâu quay về vững chắc như ban đầu. Nhiều lần khó khăn trắc trở cuối cùng Lý Thục và Trân Châu lại đoàn tụ nhưng lại lần phải nữa đứng trước sinh ly tử biệt. Lý Thục trải qua biết bao nhiên gian khó leo lên Hoàng vị nhưng cuối cùng chỉ có thể một thân một mình trông coi thiên hạ vạm dặm, kéo dài vinh quang của Đại Đường.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nam xe lăn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815921
Tokito Oda là nhà vô địch, đánh bại Alfie Hewett trong trận chung kết, 6–4, 6–2. Đây là danh hiệu đơn Grand Slam thứ 2 của Oda. Shingo Kunieda là đương kim vô địch, nhưng anh giải nghệ quần vợt vào tháng 1 năm 2023.
Tổng giáo phận Malta
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815927
Tổng giáo phận Malta () là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Malta. Lịch sử. Câu chuyện truyền lại cho rằng thánh Sứ đồ Phaolô đã thành lập giáo phận Malta vào năm 60 khi ông tấn phong thủ lĩnh người Rôma, thánh Publiô, là thánh giám mục đầu tiên của Malta. Giáo phận Malta đã trở thành giáo phận trực thuộc của Tổng giáo phận Palermo theo một tông sắc từ Giáo hoàng Ađrianô IV vào ngày 10/7/1156 và tông sắc này đã được phê chuẩn bởi Giáo hoàng Alexanđê III vào ngày 26/4/1160. Giáo phận Malta, một trong những giáo phận lâu đời nhất thế giới, đã được nâng cấp thành một tổng giáo phận vào ngày 1/1/1944. Giáo phận Malta cũ có địa giới gồm các đảo Malta, Gozo và Comino. Vào ngày 22/9/1864, một phần địa giới bao gồm các đảo Gozo và Comino được tách ra bởi Giáo hoàng Piô IX để thành lập Giáo phận Gozo mà sau này trở thành giáo phận trực thuộc tổng giáo phận Malta. Nhà thờ chính tòa. Có hai nhà thờ chính tòa nằm trong tổng giáo phận: Nhà thờ chính tòa thánh Phaolô ở Mdina, và Nhà thờ chính tòa đôi thánh Gioan tẩy giả nằm tại Valletta.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nữ xe lăn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815928
Diede de Groot là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Jiske Griffioen trong trận chung kết, 6–2, 6–1. Đây là danh hiệu đơn Grand Slam thứ 11 liên tiếp của de Groot.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn xe lăn quad
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815931
Niels Vink là nhà vô địch, đánh bại Heath Davidson trong trận chung kết, 6–1, 6–2. Sam Schröder là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng bán kết trước Davidson.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đôi nam xe lăn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815932
Alfie Hewett và Gordon Reid là nhà vô địch, đánh bại Takuya Miki và Tokito Oda trong trận chung kết, 3–6, 6–0, 6–3. Gustavo Fernández và Shingo Kunieda là đương kim vô địch, nhưng Kunieda giải nghệ quần vợt vào tháng 1 năm 2023. Fernández đánh cặp với Martín de la Puente, nhưng thua ở vòng bán kết trước Hewett và Reid.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đôi nữ xe lăn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815935
Yui Kamiji và Dana Mathewson là đương kim vô địch, nhưng Mathewson không tham dự giải đấu. Kamiji đánh cặp với Kgothatso Montjane, nhưng thua trong trận chung kết trước Diede de Groot và Jiske Griffioen, 1–6, 4–6.
Thềm băng Zubchatyy
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815937
Thềm băng Zubchatyy () là một thềm băng nhỏ giáp với phía nam của bán đảo Sakellari thuộc Vùng đất Enderby. Hình dạng của thềm băng được vẽ bởi các nhà vẽ bản đồ Nga dựa trên các bức ảnh chụp từ trên không được chụp bởi Đoàn thám hiểm châu Nam Cực của Liên Xô, 1961–62. Tên tiếng Nga của thềm băng có nghĩa là "có răng cưa", đề cập đến hình thái có răng cưa của mặt ngoài băng khi xem trong trên bản đồ.
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đôi xe lăn quad
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815944
Sam Schröder và Niels Vink là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Heath Davidson và Robert Shaw trong trận chung kết, 7–6(7–5), 6–0.
Mikhail Petrovich Zubchuk
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815965
Mikhail Petrovich Zubchuk (;22 tháng 11 năm 1967 – 9 tháng 11 năm 2015) là một cầu thủ bóng đá người Nga.
Hạt Đại diện Tông tòa Istanbul
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815967
Hạt Đại diện Tông tòa Istanbul (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa của Giáo hội Công giáo Rôma có tòa giám mục đặt tại thành phố Istanbul ở Thổ Nhĩ Kỳ. Địa giới của hạt Đại diện Tông tòa bao gồm vùng tây bắc nước này. Đại diện Tông tòa hiện tại là Đức ông Massimiliano Palinuro.
Katija Zubčić
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815971
Katija Zubčić (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1952) là một nữ diễn viên người Croatia.
Tasso Takuya
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815976
là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Iwate kể từ năm 2007.
Inro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815978
là chiếc hộp truyền thống của Nhật Bản dùng để đựng các vật nhỏ, được treo trên thắt quanh eo khi mặc kimono . Chúng thường được trang trí bằng nhiều chất liệu khác nhau như sơn mài cùng các kỹ thuật trang trí khác như , do đó, Inro được xem là món đồ có tính trang trí cao hơn những đồ dùng sơn mài khác của Nhật Bản . Vì trang phục truyền thống của Nhật Bản không có túi, nên khi muốn mang theo đồ vật nào đó bên mình, người mặc thường đựng chúng trong hộp đựng được gọi là (một vật treo gắn vào khăn thắt lưng) và treo lên . Hầu hết được tạo ra để đựng các vật chuyên dụng như thuốc lá, tẩu, bút và mực, nhưng vào thời kỳ Chiến Quốc (1467–1615) người ta đã phát minh ra loại thích hợp để mang theo những vật nhỏ với mục đích nhận dạng và dùng làm hộp đựng thuốc khi đi đường dài. Đến giữa thời kỳ Edo (1603–1868), trở nên phổ biến như một phụ kiện dành cho nam giới, và các thương nhân giàu có thuộc tầng lớp và samurai đã sưu tầm các được trang trí đẹp mắt bằng sơn mài. Từ cuối thời Edo cho đến thời kỳ Minh Trị (1868–1912), kỹ thuật trang trí trở nên phát triển, giá trị nghệ thuật của theo đó cũng tăng lên và không còn được sử dụng như một phụ kiện như trước. Thay vào đó, chúng được coi như là một đối tượng nghệ thuật dành cho giới sưu tầm. Thuật ngữ là sự kết hợp của chữ kanji: , mang nghĩa là con dấu hoặc tem, và , có nghĩa là cái giỏ. Mô tả. Cấu tạo của Inro bao gồm các hộp nhỏ lồng vào nhau, công dụng phổ biến nhất của nó là dùng để đựng thuốc. Các chồng hộp được liên kết với nhau bằng một sợi dây được đan theo chiều chạy dọc xuống một bên, dưới đáy và lên phía đối diện. Các đầu của dây được cố định vào một , một loại dây buộc được luồn qua giữa thắt lưng và quần, sau đó sẽ được móc vào phần trên của thắt lưng để treo . Một hạt được thêm vào sợi dây nối giữa và để liên kết các hộp lại với nhau. Hạt này được trượt xuống hai dây treo lên trên cùng của để giữ các ngăn xếp lại với nhau khi bị mòn, và trượt lên khi các hộp cần được tháo dỡ để lấy các thứ bên trong ra ngoài . Hầu hết các đều được làm từ giấy, gỗ, kim loại và ngà voi, với chất liệu phổ biến nhất là giấy.
Inro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815978
Giấy dùng để làm là loại giấy nhiều lớp được cuộn lại và làm cứng bằng phương pháp sơn mài; giấy là nguyên liệu Inro được dùng nhiều nhất, vì những Inro sẽ không bị hỏng hay bị nứt theo thời gian như loại Inro làm từ gỗ. Ngày nay, có rất nhiều được sưu tầm và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan, Bảo tàng Anh và Bảo tàng Victoria và Albert. Vì rất phổ biến trong giới sưu tầm ở nước ngoài, nên có rất ít có chất lượng cao được chế tác từ cuối thời kỳ Edo đến thời kỳ Minh Trị còn tồn tại ở Nhật Bản, nhưng Masayuki Murata đã tích cực sưu tầm nó trong thế kỉ 21, và hiện tại, chúng đã được trưng bày tại do chính Murata quản lý; đây cũng là ngôi nhà chung của rất nhiều được chế tác kỳ công. Hiện nay, có rất ít thợ thủ công có thể làm . Kỹ thuật sơn mài tuyệt kĩ được phát triển từ cuối thời kỳ Edo đến thời kỳ Minh Trị, đặc biệt là kỹ thuật làm , hầu hết đã bị thất truyền trong thời kỳ Tây hóa của Nhật Bản. Tuy nhiên, vào năm 1985, một thợ thủ công sơn mài tên là đã thành lập studio riêng tên là và đã thành công trong việc hồi sinh kỹ thuật sơn mài từ xa xưa. Các tác phẩm sơn mài của ông đã được trưng bày tại Bảo tàng Victoria và Albert, và Bảo tàng Nghệ thuật đương đại Thế kỉ 21 tại Kanazawa, sau này đã trở thành món đồ sưu tập của giới nhà giàu trên khắp thế giới. Ngày nay, rất hiếm khi được dùng làm vật trang trí cho Kimono. nhưng có rất nhiều người sưu tầm nó trên khắp thế giới.