title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Kinchaku
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815989
là loại túi có dây rút truyền thống của Nhật Bản, được sử dụng như một loại túi cầm tay dùng để đựng tài sản cá nhân; loại nhỏ hơn dùng để đựng tiền xu (giống như ), mỹ phẩm, bùa may mắn, lô ấm tay cùng những vật dụng nhỏ khác. Những chiếc túi có kích thước lớn hơn được dùng để đựng và đồ dùng có kích cỡ lớn. Những chiếc túi truyền thống thường được mang bởi và geisha là một biến thể của , và chúng được gọi là (nghĩa đen là 'túi xách').
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Eino Leino (tên khai sinh Armas Einar Leopold Lönnbohm; 6 tháng 7 năm 1878 – 10 tháng 1 năm 1926) là nhà thơ, nhà báo Phần Lan, được coi là một trong những tác giả tiên phong trong thi ca Phần Lan và là thi nhân dân tộc Phần Lan. Thơ ông kết hợp yếu tố hiện đại với dân gian Phần Lan. Phần lớn tác phẩm của Leino mang phong cách "Kalevala" và dân ca nói chung. Những chủ đề thường xuyên trong thơ Leino là thiên nhiên, tình yêu và sự tuyệt vọng. Ngày nay, người dân Phần Lan vẫn yêu mến và đọc thơ Leino. Ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino () cũng như ngày thơ ca Phần Lan và mừng mùa hạ. Từ năm 1992, ngày này trở thành ngày treo quốc kỳ Phần Lan. Cuộc đời và phong cách. Gia đình và thời trẻ. Eino Leino chịu báp têm với tên gọi Armas Einar Leopold Lönnbohm tại thị trấn Paltamo, là con út và con trai thứ bảy trong gia đình có mười người con. Gia đình Leino sống tại làng Paltaniemi. Cha Leino đã đổi tên từ "Antti Mustonen" thành "Anders Lönnbohm" để tăng khả năng có thể cưới được người vợ tương lai thuộc giới thượng lưu là Anna Emilia Kyrenius. Ông Lönnbohm làm công chức đạc điền, đồng thời quản lý trang trại Hövelö của riêng gia đình. Trang trại nằm trong vùng hồ Oulujärvi mà Elias Lönnrot từng sống trước đó 40 năm. Dòng họ Leino có nguồn gốc từ Liperi và Sortavala tại Karelia, còn bên ngoại truy ngược về Tây Nam Phần Lan. Nhà Lönnbohm dường như là nơi nuôi dưỡng và phát triển tinh thần phong trào Fennoman của Johan Vilhelm Snellman. Eino Leino sớm được tiếp thu tri thức và khả năng văn học từ các anh trai Oskar, Kaarlo, Viktor và đặc biệt là Kasimir. Kasimir Leino cũng là nhân vật văn hóa quan trọng tại Phần Lan trong vai trò nhà thơ, nhà phê bình và đạo diễn sân khấu; chính ông đã truyền lại ảnh hưởng văn hóa châu Âu đương thời cho anh chị em mình. Năm 1898, Kasimir và Eino lập ra một tạp chí văn học. Tuổi thơ Eino ở Hövelö thấm đẫm những câu chuyện, dân ca và lời chú Kainuu cổ, cũng như chuyện kể hấp dẫn về thời Đại nộ hay Lâu đài Kajaani ở Bắc Ostrobothnia. Những người chèo thuyền từ các vùng chết đói đến Oulu ghé qua bờ Hövelö cũng nhắc Eino về thực tế khắc nghiệt của cuộc sống.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Cha mẹ qua đời khi Leino còn tuổi đi học. Leino bắt đầu đi học ở Kajaani rồi tiếp tục đến sống tại nhà họ hàng để học tại Oulu và Hämeenlinna. Sau khi tốt nghiệp trung học Hämeenlinna, Leino vào học Đại học Helsinki. Leino học trường tiểu học Kajaani rồi lên trung học Oulu (1889–1890). Năm 1890, cha qua đời khiến kinh tế gia đình khó khăn, ông cùng với anh trai là nhà báo Oskar Lönnbohm chuyển đến Hämeenlinna. Năm 1895, ông tốt nghiệp trung học Hämeenlinna ở tuổi 16. Leino cũng nhập học Đại học Helsinki nhưng sớm bỏ để theo đuổi niềm đam mêm văn học. Khi còn là học sinh, Leino đã bắt đầu tập tành làm thơ. Mùa thu năm 1890, khi 12 tuổi, ông có bài thơ "Kajaani linna" ("Lâu đài Kajaani") đăng trên tờ "Häme Sanomat" do tổng biên tập Oskar Lönnbohm hỗ trợ. Những bài thơ của Leino viết về tình cảm học trò dưới mái trường Hämeenlinna trên báo chép tay "Vasama" về sau được đưa vào tập thơ đầu tay "Maaliskuun lauluja" ("Khúc hát tháng Ba") xuất bản năm 1896. Khi còn học trung học, Leino đã tìm tòi về văn học thế giới. Ông biết về các tác gia văn học cổ đại qua những giờ tiếng Latinh. Ông cũng học đọc tác phẩm gốc bằng tiếng Đức và tiếng Pháp của Heinrich Heine, Friedrich Nietzsche, Émile Zola, Guy de Maupassant. Năm 1894, Leino bắt đầu sự nghiệp dịch thuật văn học thế giới với tác phẩm đầu tay "Kung Fjalar" ("Vua Fjalar") của nhà thơ Thụy Điển Johan Ludvig Runeberg, được Hội văn học Phần Lan ( - SKS) ấn hành. Nhà phê bình trên "Päivälehti" và thi sĩ với "Helkavirsiä". Đến Helsinki, Eino Leino tìm ra nơi phát huy khả năng tư tưởng mình tại tờ báo tân thời "Päivälehti". Ra đời năm 1889 theo sáng kiến của Eero Erkko, Juhani Aho và Arvid Järnefelt, tờ báo đã thúc đẩy cải cách quyền bầu cử và mở rộng các quyền chính trị, đồng thời phản đối chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tư tưởng giáo hội bảo thủ của thế hệ cựu Fennoman. Tờ báo cũng chủ trương lập hiến trong quan hệ chính trị Đại công quốc Phần Lan trong Đế quốc Nga. Năm 1898, Leino là nhà phê bình văn học và sân khấu thường xuyên của "Päivälehti".
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Vài năm sau, ông bắt đầu lấn sân sang các vấn đề văn hóa với bút danh "Mikko Vilkastus". Khi nhà chức trách Nga đóng cửa "Päivälehti" vì mang những quan điểm cấp tiến, tờ "Helsingin Sanomat" ra đời thế chỗ và Leino tiếp tục với bút danh "Teemu". Vào Cách mạng Nga (1905), ông viết khoảng một trăm tiểu luận đả kích "giới chức thân Nga, những kẻ bóp nghẹt tự do tôn giáo, hệ thống cảnh sát và hiến binh nhà nước" như được mô tả trong tiểu sử Leino của L. Onerva. Vì giọng điệu châm biếm cay độc, Leino trở nên nổi tiếng nhưng cũng bị nhiều kẻ ghét bỏ. Eino Leino học nghề báo với anh trai Kasimir trên tạp chí văn hóa "Nykyajassa" (xuất bản 1897–1899). Hai anh em thành lập tạp chí này để có thể giới thiệu và bình luận về các xu hướng nghệ thuật mới nhất của châu Âu. Leino bày tỏ mong muốn ủng hộ giáo dục thẩm mỹ, yêu cầu bản dịch chất lượng cao cho các tác phẩm kinh điển và thúc đẩy lý tưởng về một "tổ quốc chung, không bị chia cắt" vì rào cản ngôn ngữ. Leino coi báo chí là kênh để mình nói chuyện trực tiếp với nhân dân Phần Lan. Viết báo khỏe cũng không ngăn nổi Eino Leino say sưa đắm mình vào thơ ca. Các tập thơ "Sata ja yki laulua" ("Một trăm lẻ một bài hát") (1898) và "Ajan aalloilla" ("Ta cưỡi sóng") (1899) có đặc trưng về sự chiêm nghiệm và thức tỉnh lòng yêu nước. Bài thơ "Hymyilevä Apollo" ("Nụ cười Apollo") ca ngợi lòng khoan dung, tình yêu với người chung quanh. Ước mơ cho dân tộc "Päivän poika" ("Chàng trai thời đại") thể hiện niềm tin lạc quan vào con người của chàng trai trẻ Leino. Ngược lại, tập thơ "Hiihätäjn virsiä" ("Thánh ca người trượt tuyết") (1900) nhuốm màu hoài niệm u sầu về ngôi nhà thời thơ ấu. Đánh bạn với những đại diện thế hệ nhạc sĩ và nghệ sĩ Phần Lan đang nổi lên là Akseli Gallen-Kallela, Jean Sibelius, Robert Kajanus, Pekka Halonen và Emil Wikstrom đã kích thích loại hình nghệ thuật mới trong Leino. Cùng với chủ nghĩa Karelia đang là chủ đạo cho Chủ nghĩa tân lãng mạn tại Phần Lan khi ấy, Leino bắt đầu đi sâu Kalevala.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Vở kịch thơ "Tuonela joutsen" ("Con thiên nga của Tuonela") (1898) và "Sota valosta" ("Chiến đấu vì ánh sáng") (1900) được coi là khởi đầu cho chủ nghĩa tượng trưng trong văn học Phần Lan. Chạy theo xu hướng nghệ thuật toàn châu Âu chống lại chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, thay vào đó tập trung coi thần thoại và cổ tích phổ quát là phản ánh cảm xúc và tư tưởng con người, Leino cũng tìm tư liệu để diễn giải thời đại mình thông qua Phần Lan cổ trong Kalevala. Nỗ lực này đạt đến đỉnh cao với tập thơ "Helkavirsiä" ("Khúc ca địa ngục") xuất bản năm 1903, được coi là một trong những tác phẩm mang tính bước ngoặt của nền thơ ca Phần Lan. Áp dụng và biến đổi ngữ liệu Kalevala, Leino đã tạo ra những khúc ballad và truyền thuyết theo phong cách cổ xưa, chủ đề và nhân vật thuộc thời Trung cổ Hämälä của Công giáo La Mã cũng như thế giới Đông La Mã-Karelia và Chính thống giáo-Kalevala. Nhưng sâu xa nhất, các bài thơ đó nhắm đến những câu hỏi cơ bản của con người hiện đại: mối quan hệ mỗi cá nhân với cái chưa biết và cái chết, tự do cá nhân và giới hạn của tri thức. "Helkavirsiä " được nhận xét là phản ánh "tính chất không khoan nhượng" dấu ấn của Ibsen và khả năng con người thách thức số phận chính mình dựa trên triết lý Nietzsche. "Vòng xoáy dân gian và ngụ ngôn thô ráp" cũng kết nối với truyện thơ "Simo Hurtta" xuất bản năm 1904, được Leino dùng để mô tả những sự kiện trong Isoviha tại Bắc Karelia. Thời kỳ sáng tạo của Leino trong những năm đầu thế kỷ 20 được khơi nguồn từ tình yêu dành cho dịch giả Freya Schoultz, hai người kết hôn năm 1905. Hai người có con gái là Eya Helka. Trong tập thơ "Talviyö" ("Đêm đông") (1905) có bài "Nocturne" ("Bóng đêm") tỏa ra vẻ thần bí của một đêm hè mà ông dành tặng cho người mình yêu. Sau chuyến đi dài ngày tới Paris và Berlin, quan hệ vợ chồng bắt đầu nguội lạnh. Năm 1908, Leino dọn khỏi nhà chung ở Länsi Ranta (nay là Eteläranta 12). Cũng trong khoảng thời gian đó, ông dần có tình cảm với người bạn là nữ văn sĩ L. Onerva. Tiểu thuyết "Routavuosi", kịch lịch sử, nhà phê bình trên "Päivä".
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Sau cách mạng Nga 1905, Leino đã đưa những trải nghiệm sâu sắc về thời cuộc vào tác phẩm vẫn thường gọi là bộ tiểu thuyết năm băng giá: "Tuomas Vitikka" (1906), "Jaana Rönty" (1907) và "Olli Suurpää" (1908). Trong đó, như sự tiếp nối luận chiến trên báo, ông đã nhổ tận gốc những điểm yếu dân tộc, phân định ra các hạng người trong thời đại mình, như kẻ phản bội lý tưởng và kẻ nổi loạn không đâu, cuối cùng trở nên những kẻ vô chính phủ. Trong tiểu thuyết "Tuomas Vitikka", Leino chế nhạo chủ nghĩa dân tộc tự mãn và tạo ra tuyến nhân vật châm biếm từ đại diện các thế hệ khác nhau thuộc phong trào dân tộc Phần Lan, độc giả đương thời có thể dễ dàng nhận ra những con người tiêu biểu này. Niềm đam mê cháy bỏng của Leino đối với sân khấu tiếp tục cả trong cả những bài phê bình lẫn các vở kịch do chính mình sáng tác. Lấy hình mẫu August Strindberg mà bản thân ngưỡng mộ, Leino tập trung vào lịch sử Trung Cổ và thử nghiệm phát triển tinh thần dân gian Phần Lan trong các vở "Lalli" (1907) và "Maunu Tavast" (1908). Vở "Simo Hurtta" (1908) tiếp tục chủ đề bài thơ cùng tên xuất bản trước đó. Cuộc Đại đình công 1905, Cải cách hiến pháp 1906 và Bầu cử quốc hội đầu tiên 1907 đã làm trầm trọng thêm các xung đột chính trị xã hội và đẩy Đảng Người Phần Lan, những người thân Thụy Điển, những người theo chủ nghĩa xã hội và Đảng Người Phần Lan Trẻ vào cuộc đấu tranh dữ dội tranh giành ảnh hưởng. Quan hệ với Nga bước vào "thời kỳ băng giá". Đảng Người Phần Lan Trẻ cũng bị chia rẽ nội bộ giữa giai cấp tư sản bảo thủ và những người theo chủ nghĩa cải cách xã hội tự do cùng người ủng hộ phong trào lao động tư sản. Giữa những rối ren này, Eino Leino từ bỏ vai trò nhà hoạt động chính trị cho Đảng Người Phần Lan Trẻ trên tờ "Helsingin Sanomat". Ông thất vọng lo sợ rằng tờ báo sẽ không còn tự do độc lập giữa các âm mưu chính trị và mong muốn có trao đổi thảo luận văn hóa-tư tưởng về tương lai đất nước.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Các bài báo nổi tiếng của Leino "Aleksis Kivi ja Päivä" ("Aleksis Kivi và Päivä") (10 tháng 10 năm 1907), "Runebergin päivän vietosta sananen" ("Đôi lời về kỷ niệm Ngày Runeberg") (13 tháng 2 năm 1908) và "Hedelmättömyyen henki" ("Tinh thần khô héo") (1 tháng 12 năm 1908) xuất hiện trên tuần báo mới "Päivä" ("Ngày"). Tờ báo này kết hợp mạng lưới các nhà hoạt động nói tiếng Phần Lan và Thụy Điển và những người tự do cánh tả. Trong đó, ông tìm kiếm nguyên nhân mất đoàn kết dân tộc và đưa ra tuyên bố riêng mình về "người Phần Lan có văn hóa". Thay cho tinh thần Phần Lan được xây dựng trên Runeberg và Snellman, ông đã đào sâu dựa vào Aleksis Kivi và Elias Lönnrot. Leino dùng những bài báo này chỉ trích "nền giáo dục địa phương" tại trường học và "nỗi bi quan mòn mỏi" của đô thành văn minh. Ông nhìn coi kỷ niệm Ngày Runeberg là "cường điệu đánh trống bỏ dùi" và "trò vui thượng lưu". Chuyến đi Ý – Mùa Bohemia – "Sunnuntai". Tháng 8 năm 1908, Eino Leino rời Phần Lan đến Ý. Một phần kinh phí do quỹ quảng bá văn học Phần Lan tài trợ cho việc dịch thuật "Thần khúc" của Dante. Sau vài tháng ở Đức rồi đến Roma, Leino bắt đầu nghiên cứu chuyên sâu tiếng Ý và viết về Dante. Mùa đông năm 1908–1909, Leino tham gia cùng các tác gia Phần Lan khác đang ở lại Roma như L. Onerva, Aarni Kouta, Santeri Ivalo, Onni Okkonen, Liisi Karttunen và Henry Biaudet. Ngoài việc dịch Dante ra tiếng Phần Lan, Leino cũng phác thảo các vở kịch ở Roma và viết du khảo cho tờ "Turku Sanomat". MÙa xuân 1909, ông cùng Onerva rời Phần Lan, tạm dừng lại trên đường tới Berlin. Dù hai người không tiến tới hôn nhân nhưng họ tiếp tục giữ tình bạn và hợp tác với nhau cho đến khi Leino qua đời. Thập niên 1910, hình ảnh Leino định hình như thế giới về sau biết đến: một người Bohemia mặc áo choàng đeo trang sức với những lọn tóc dài, một "flâneur" lang thang trong các nhà hàng cùng có mạng lưới xã hội rộng rãi . Năm 1914, Leino kết hôn với nghệ sĩ đàn hạc Aino Kajanus là con gái của Robert Kajanus, nhưng ngay năm sau đó, ông bỏ lại lối sống vạch sẵn như vậy.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Trong thời kỳ này, Leino sáng tác rất năng suất, dường như chỉ luôn gia tăng. Bản dịch "Thần khúc" tiếng Phần Lan được xuất bản từ năm 1912 đến 1914, các tập thơ mới nối tiếp nhau. Sau chuyến đi Roma, Leino bắt đầu viết các tiểu luận lịch sử văn học, trong đó vạch ra hướng phát triển của văn học trong và ngoài nước, đồng thời giới thiệu đại diện các xu hướng văn học khác nhau. Ban đầu, Leino điều chỉnh chân dung các nhà văn Phần Lan làm "câu chuyện nền" "Helsingin Sanomat" cho tác phẩm "Suomalaisias kirjailijaita" ("Nhà văn Phần Lan") (1909). Những phác thảo khéo léo về tinh thần và môi trường văn hóa các thời đại khác nhau, cũng như tóm lược phù hợp với đặc điểm từng nhà văn giúp cho tác phẩm trở thành một tiểu luận kinh điển của văn học Phần Lan. Leino tạo ra một lát cắt văn hóa và xã hội thời đại mình trong loạt tiểu thuyết "Orja" (1911–1913). Nhật vật chính trong đó kiếm ý nghĩa cuộc đời, trải từ Berlin đến Paris và qua Copenhagen đến Roma. Tiểu thuyết "Pankkiherroja" (1914) mô tả Helsinki của bọn cướp ngân hàng và lũ đầu cơ. Nội tâm và suy ngẫm số phận thi nhân được ẩn dụ trong chuyện về động vật "Mesikämmen" (1914), "Musti" (1916) và trong tác phẩm tự thú theo thông thiên học-thuyết phiếm thần "Alla kasvon Kaikkivallan" ("Dưới nhan Đấng Toàn Năng") (1917). Đầu thập niên 1910, Leino bận rộn với các công việc sân khấu và biểu diễn. Hè năm 1912, cùng với giám đốc nhà hát Kaarle Halme, ông thành lập sân khấu ngoài trời "Helkanäyttamö" ở Seurasaari dành cho các vở kịch Kalevala của mình. Tuy nhiên, hàng nghìn khán giả không nghe rõ lời thoại và chán chường vì thiếu vắng đạo cụ sân khấu hỗ trợ. Nỗ lực kết thúc trong thất bại. Leino cũng thương mại hóa thơ mình để kiếm thêm thu nhập khi đi đọc thơ trên khắp đất nước. Ông liên tục sáng tác kịch bản mới: "Tuomas biispa" (1909) cũng bối cảnh trung cổ như nhiều vở trước đó, cibf "Alcibiades" (1909) là bi kịch với bối cảnh Hy La cổ đại. "Kirkon vihollinen" ("Kẻ thù giáo hội") và "Maan parhaat" ("Điều hay nhất của đất nước") (1911) chế nhạo thói đạo đức giả của lớp cựu trào Phần Lan lấy bối cảnh đương thời.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Kịch nghị luận "Karjalan kuningas" ("Vua Karelia") (1917) theo lăng kính Kalevala là hồi chuông cảnh tỉnh về lòng nhân hậu thuần khiết. Leino xuất bản gần như tất cả kịch bản trong loạt sáu phần "Naamioita" (1905–1911). Trong tập năm "Naamioiden" (1909), "Shakkipeli" ("Ván cờ") đã thu gọn lịch sử xen giữa vào dòng kịch, có thể là do sở thích cá nhân của tác giả. Cả đời Eino Leino thích chơi cờ vua, thậm chí đứng đầu giải Câu lạc bộ cờ vua Helsinki tháng 2 năm 1906. Leino với Kaarle Halme sau đó tiếp tục hợp tác với nhau trong điện ảnh. Bộ phim truyện đầu tiên của Phần Lan "Kesä" ("Mùa hè") do Leino viết kịch bản còn Halmee đạo diễn. Phim chiếu ra mắt tháng 1 năm 1915 tại nhà hát Lyyra, Helsinki. Năm 1915, Leino tham gia thành lập tuần báo văn học "Sunnuntai" ("Chúa Nhật"). Leino đứng vai trò biên tập, bên cạnh nhóm trí thức, những người theo chủ nghĩa hòa bình và những người theo thuyết thông thiên học tại Helsinki. Nhờ vào mối quan hệ rộng rãi, Leino được nhiều nhà văn và nhà nghiên cứu nổi tiếng trợ giúp. Ông dùng bút danh "Kanttori Sepeteus" để than phiền về thời cuộc thế giới và viết xã luận sâu rộng về tình hình chính trị đương thời. Trong đó, ông cố gắng duy trì niềm tin vào con người giữa sự hỗn loạn của chiến tranh thế giới. Cuối năm 1916, sau những đêm bận rộn biên tập "Sunnuntai", loạt "Helkavirsiä" thứ hai lên báo. Theo Viljo Tarkiainen, cái nhìn thơ ca về vũ trụ-thần thoại giờ đây bước sang "đôi khi dọc theo ngoại giáo - shaman giáo, đôi khi theo thuyết phiếm thần Cơ Đốc giáo, đôi khi là dòng mơ mộng thần học". Loạt thơ này được diễn giải theo hướng lột tả vẻ gợi cảm và khêu gợi. Cùng năm 1916, ông bắt đầu ngưỡng mộ và say mê Aino Kallas. Tình cảm dành cho nữ văn sĩ Estonia gốc Phần Lan đã cho ra đời"Juhana Herttuan ja Catharina Jagellonican lauluja" ("Khúc ca của Juhana Herttua và Catharina Jagellonica") (1919) sáng tác theo phong cách Phục Hưng. Lời đối thoại bằng thơ này lần đầu tiên ra mắt tại Turku rồi đến Gripsholm, được chính Leino gọi là món quà "lãng mạn cuối cùng" dành tặng người thương.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Eino Leino cũng đề cập số phận thi sĩ của chính mình trong bài thơ "Bellerophon" (1919) thông qua chuyện thần thoại Hy Lạp về Bellerophon và ngựa thần Pegasus để tổng hợp quan điểm bi thảm-lạc quan về cuộc sống. Năm 1918. Ngay từ tháng 11 năm 1917, Eino Leino đã căng thẳng cảnh báo trên tạp chí "Sunnuntai" rằng đất nước đang "bên bờ nội chiến " và chỉ trích gay gắt những người theo chủ nghĩa xã hội khi họ bắt đầu "theo đuổi sự nghiệp bằng máu nhân dân và nọc độc của lũ xâm lược ngoại bang" (Số 40-41/1917). Tình hình chính trị leo thang thành Nội chiến Phần Lan là trải nghiệm cay đắng đối với Leino, người vốn luôn viết về lòng khoan dung cũng như đánh giá cao phong trào lao động có nhiều bạn bè mình trong đó. Mùa xuân năm 1918, Leino chứng kiến Hồng vệ binh chiếm giữ Helsinki và mô tả cảm nhận của mình trong tiểu thuyết phóng sự "Xâm chiếm Helsinki" () năm 1918. Ông đã chào đón Sư đoàn biển Baltic của Đức mang danh nghĩa giải phóng để xâm lược miền nam Phần Lan và chiếm đóng Helsinki. Mặt khác, Leino về sau thúc đẩy lệnh ân xá chung cho các tù nhân Đỏ và yêu cầu bãi bỏ án tử hình. Tháng 4 năm 1918, loạt bài báo 6 kỳ của Leino "Vì công nhân Phần Lan" được đăng trên tạp chí Dân chủ Xã hội "Työn valta" ("Quyền lực Lao động"), với tư cách nhà văn vô tư thuộc tầng lớp "dân nghèo văn minh", ông kêu gọi mạnh mẽ cho hòa bình và hiểu biết lẫn nhau. Ông viết: "Nền dân chủ xã hội sẽ không có tương lai ở Phần Lan trừ khi có thể tiếp thu "những lý tưởng vĩnh cửu" về tính hợp pháp, dân chủ và tự do dân sự". Theo chủ nghĩa Karelia, Leino cũng từng phục vụ trong chiến tranh với tư cách là cố vấn không chính thức cho Sulo Wuolijoki, thư ký ủy ban đàm phán hiệp ước nhà nước giữa Phần Lan và nước Nga Xô viết. Sau chiến tranh, Leino không bị kết tội vì phục vụ cho chính quyền Phái đoàn Nhân dân Phần Lan (). Leino cũng thuật lại nội chiến trong tiểu thuyết "Punainen sankari" ("Anh hùng đỏ") (1919) và sử thi "Vanha pappi" ("Giáo sĩ già") (1921).
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Nhân vật chính của "Punainen sankari" là một thẩm phán cộng sản, tự bỏ đi danh dự để bao che cho tên trùm nhưng cuối cùng phải trả giá bằng chính mạng sống bởi luật pháp cộng sản. "Vanha pappi" vẽ nên bức tranh rộng lớn khắc họa Tavastia có những giáo sĩ hoạt động ngầm, bị "lũ bất lương trên phố" "bọn thú vật ngoại ô" phe đỏ bắt bớ. Ông mô tả "sự hy sinh quên mình" của những người phe trắng theo phong cách Runeberg với những lý tưởng mạnh mẽ. Tập thơ "Vapaude kirja" (1918) tập hợp các bài theo chủ đề chính trị và đất nước do Leino sáng tác trong hai thập kỷ, trong đó phản ánh những cảm xúc mâu thuẫn do cuộc nội chiến tạo ra. Đối với nhà phê bình đương đại Huugo Jalkanen, tập thơ giống như "chiếc trống ma thuật" để các thế hệ tương lai có thể hình dung ngay lập tức về số phận và trải nghiệm kinh hoàng của tiền nhân. Tháng 7 năm 1918, bạn bè tổ chức bữa tối sinh nhật lần thứ 40 linh đình cho Leino. Cùng năm, ông được Nhà nước tặng trợ cấp dành cho văn sĩ. Những năm cuối. Đầu thập niên 1920, sức khỏe và tinh thần Leino đều suy giảm, ông phải nằm viện dài ngày. Tâm trí chán nản dao động ảnh hưởng đến thái độ và quan điểm ông. Từ một người ủng hộ ứng cử viên tổng thống Carl Gustaf Emil Mannerheim, Leino quay sang ngưỡng mộ Kaarlo Juho Ståhlberg. Hè 1921, Leino dự chuyến du bút tới Estonia do thân hữu Phần Lan-Estonia là Aino và Gustav Suits tổ chức. Với những đêm thơ, đọc thơ và chào mừng tại Tartu và Tallinn, chuyến đi thành công tốt đẹp và Eino Leino được mọi nơi đón nhận như một thi sĩ nổi bật. Sau chuyến đi, Leino ký giấy kết hôn lần thứ ba với nhân viên ngân hàng Hanna Laitinen, cuộc hôn nhân thực tế chỉ kéo dài vài ngày. Năm 1921, Leino nộp đơn xin từ bỏ quốc tịch Phần Lan. Ông đã viết thư cho Tổng thống Phần Lan Kaarlo Juho Ståhlberg và người đứng đầu Estonia là Konstantin Päts để xin được làm công dân Estonia. Leino cảm thấy mệt mỏi vì thiếu tiền đồng thời bị chỉ trích. Năm 1925, Leino viết thư cho người bạn Bertel Gripenberg "Cuộc sống luôn là cuộc đấu tranh với những thế lực muôn đời". Năm ấy, ông biên soạn cuốn hồi ký "Elämäni kuvakirja".
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Ngôi nhà cuối cùng Leino thuê ở là Nuppulinna Hyvinkää (nay là Tuusula). Qua đời. Năm 1926, ông qua đời ở tuổi 47 và rồi được an táng tại Nghĩa trang Hietaniemi ở Helsinki. Là người nổi tiếng đương thời, nhà nước đã chi trả phí an táng đồng thời tổng thống Lauri Kristian Relander và các quan chức khác đến dự tang lễ. Hiện không chắc chắn về nguyên nhân cái chết của Eino Leino. Trong tác phẩm "Mestari," nhà văn Hannu Mäkelä mô tả Leino qua đời vì bệnh tủy sống tiến triển và vôi hóa mạch máu khiến xuất huyết não, trước đó bệnh đã làm rối loạn chức năng vùng bụng. Theo Mäkelä, cả hai bác sĩ Wasastjerna và Lindén đều đã xác định nguyên nhân tử vong của Leino. Nhưng bác sĩ tâm thần của Leino là Väinö Lindén lại dùng bút chì ghi chú bên lề cuốn tiểu sử của L. Onerva rằng ông qua đời vì bệnh giang mai. Phong cách văn chương và tầm quan trọng. Phong cách biến đổi. Leino được coi là người đầu tiên và người định hình quan trọng nhất cho chủ nghĩa lãng mạn dân tộc trong văn học Phần Lan. Trên thực tế, Leino đã tự đặt ra thuật ngữ "chủ nghĩa tân lãng mạn dân tộc" để mô tả tác phẩm của những tài năng trẻ Phần Lan như nhà soạn nhạc Jean Sibelius, họa sĩ Akseli Gallen-Kallela và kiến trúc sư Eliel Saarinen. Phong cách của Leino đã phát triển trong suốt 35 năm sự nghiệp. Các tác phẩm đầu tiên kể cả tập thơ nổi tiếng Helkavirsiä (1903) đều có thể thấy ảnh hưởng của sử thi dân tộc Kalevala. Những năm cuối đời, ông trở lại với chủ nghĩa lãng mạn dân tộc. Ở giai đoạn giữa sự nghiệp, Leino dịch các tác phẩm kinh điển của văn học thế giới sang tiếng Phần Lan. Đồng thời, ông sáng tác trong nhiều thể loại: thơ, kịch, tiểu luận, phê bình và các tác phẩm báo chí khác. Các tác phẩm của ông trải rộng trên khung cảm xúc, từ tình yêu nồng nàn đến ghét đời và chỉ trích gay gắt. Sau những biến cố năm 1908, sự u ám, cô đơn và thất vọng trong cuộc sống trở nên nổi bật trong tác phẩm. Động lực sáng tác bên trong của Leino bắt nguồn từ sự bất dung giữa chủ nghĩa anh hùng cá nhân tự cho mình là trung tâm và việc đón nhận tinh thần thời đại. Thành ngữ phổ biến.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Thành ngữ phổ biến. Nhiều câu thơ của Leino đã được sử dụng như những thành ngữ Phần Lan phổ biến, ví dụ: Đặc điểm và đánh giá. Tác phẩm của Leino luôn được đón nhận trái chiều cả trong giới học thuật và lẫn giới văn nghệ sĩ. Tài năng nhưng nhân cách đa đạng đã khơi dậy nhiều cảm xúc trong lòng độc giả đương thời. Đặc biệt là thế hệ nhà văn thập niên 1920 xa lánh tác phẩm của Leino dù vẫn ngưỡng mộ thời trẻ của ông. Ngay cả những người theo chủ nghĩa hiện đại khởi đầu sự nghiệp sau Thế chiến thứ hai cũng coi Leino đối lập với tác phẩm của họ. Sự coi thường của các tác giả đồng nghiệp dành cho Leino đã ảnh hưởng đến nhiều nhà nghiên cứu, và thực tế là Leino được nghiên cứu tương đối ít cho dù được nhiều giải thưởng, được nhà nước công nhận và trao tặng lương hưu. Tiểu sử chi tiết nhất về Leino được viết vào thập niên 1930 dưới ngòi bút người yêu và đồng nghiệp của ông là L. Onerva. Qua những trang giấy đầy kịch tính, Onerva cũng viết về đời mình. Cuối năm 1953, Onerva viết trên tạp chí "Kaltio": Trong những tác phẩm vượt trội của Leino, chẳng hạn như vở kịch "Maan parhaat" (1911), có thể dễ dàng nhận ra những người từng là bạn nhưng hiện thời lại là kẻ thù văn chương, như các tác giả Maila Talvio và V. A. Koskenniemi. Họ cũng đáp trả lại, ví dụ như Koskenniemi viết cho biên tập viên tờ Iltalehti: Trong lời tựa tuyển tập "Lyriskt Urval" dịch sang tiếng Thụy Điển năm 1931, nhà thơ Elmer Diktonius đã thử mô tả hai địa vị song hành đó của Leino trong văn hóa Phần Lan: Trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino tại Paltaniemi, nhà văn Erno Paasilinna phát biểu khẳng định tính bền vững của các tác phẩm phê bình văn hóa của Leino: Nhà phê bình văn hóa của tờ "Helsingin Sanomat" Seppo Heikinheimo thậm chí còn liệt khả năng ngôn ngữ của Leino vào hàng tốt nhất thế giới: Tuy vậy, trong vòng những thập niên sau đó, Leino vẫn không được đa số yêu thích, như Matti Klinge đã hạ thấp trong nhật ký của mình: Mặt khác, những người làm sân khấu tân thời vẫn tìm ra những góc nhìn mới và kịch tính trong các tác phẩm của Leino. Chỉ đạo sân khấu Juha Hurme viết: Thơ phổ nhạc.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Thông tin đương thời cho rằng Leino không có khiếu thẩm mỹ âm nhạc, nhưng ông đã thể hiện nhịp điệu và tính nhạc một cách hoàn hảo qua ngôn ngữ thơ. Ông cũng rất giỏi phân tích các buổi hòa nhạc đã nghe. Những người phổ nhạc cho thơ Leino đầu tiên xuất sắc nhất chính là bạn bè ông: nhà soạn nhạc Toivo Kuula, Leevi Madetoja và Oskar Merikanto. Kuula phổ nhạc tổng cộng 22 bài thơ, trong đó nổi tiếng nhất là "Virta venhettä vie" (1906), tác phẩm đột phá "Tuijoti tulehen kauan" (xuất bản năm 1907), cantata "Koolemattumuuen tovosa" cho giọng nam trung, hợp xướng và dàn nhạc (1910), rồi "Merenkylpijäneidot", "Orja poika" và "Impi ja Pajarin poika" (1911) đều dựa trên "Helkavirsiä". Trong thơ Leino, Kuula tìm thấy âm thanh của những mảng màu tối lãng mạn đầy suy tư. Leevi Madetoja cũng bắt đầu sự nghiệp bằng thơ Leino; tác phẩm đầu tiên là "Shakkipeliin" (1910) viết cho dàn nhạc đã thu hút được sự chú ý. Các bài hát hợp xướng năm phần đầy thách thức, như "Iltatunnelma" (1916) và "Soita somer, helä sikta" đã khẳng định vị trí trong làng hợp xướng Phần Lan. Đến thập niên 1940, ngay trước khi qua đời, Madetoja còn tiếp tục hoàn thành các tác phẩm dựa vào thơ Leino như "Hän kulevi ö kikkien". So với Kuula và Madetoja, những khúc hát solo của Oskar Merikanno có giai điệu hay, mang âm hưởng dân gian hơn. Một số bài hát phổ thơ Leino được yêu thích nhất vẫn là dựa trên "Hymyilevän Apollon": bản song ca "Oi kiitos sa Luojani armollinen" (1906) và bản hợp xướng "O Misumatket stilln sen virren" (1905). Erkki Melartin là nhà soạn nhạc thời kỳ đầu cho Leino. Năm 1906, ông viết nhạc cho vở "Hiide miekka" của Leino. Ngoài ra, ông còn phổ nhạc cho 12 bản solo, trong số đó có Trong số mười hai bản độc tấu Leino của anh ấy có "Mirjamin laulut", "Minä metsän polkua kuljen" và "Päivän pojan" (1903) dựa trên một vài khổ thơ "Päivän laulu". Vở opera ngắn "Väinämöinen kosinta" (1914) của nhà soạn nhạc Sune Carlsson cũng dựa trên thơ Leino. Trong số ít tác phẩm phổ thơ của Jean Sibelius thì được biết đến nhiều nhất là "Maan virsi", cantata dành cho dàn hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng ra đời năm 1920.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Trong những thập kỷ đầu tiên của Phần Lan độc lập, đã có thêm thơ Leino được phổ theo phong cách hiện đại, như "Ukri" (1938–1943) được Aarre Merikkanno soạn cho hợp xướng nam ban và vở opera "Simo Hurtta" (1948) của Tauno Pylkkänen (1948). Trong số các bản tình ca nổi bật có "Tumma" (1941) của Lauri Parviainen soạn cho đơn ca với nhạc đệm dương cầm. Thập niên 1960, Kaj Chydenius đã khiến cho nhiều bài thơ nổi tiếng của Leino lại trở nên sống động theo một cách hoàn toàn mới. Những giai điệu tinh tế đầy cảm xúc của "Nocturne", "Lappi kesä" và "Lemminkäisen äidin kehtolaulun" lôi cuốn thế hệ thanh niên thời ấy. Bài hát "Lemminkäisen äidin kehtolaulun" cũng được sân khấu sinh viên Ylioppilasteatteri đưa vào nhạc kịch theo kịch thơ "Tuonela joutsen" (1966) của Leino. Từ đó, Chydenius cũng sáng tác và phổ biến thêm nhiều tác phẩm dựa trên thơ Leino. Năm 1978, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino, các bài hát phổ thơ được phát hành dưới dạng bản ghi âm. Jukka Ruohomäki sáng tác nhạc điện tử dựa trên "Helkavirsiä" cho phim hoạt họa máy tính ba phần (1979–1982) do Antti Kari đạo diễn. Nhà soạn nhạc gốc Áo Johann Strohofer cũng dựa vào "Helkavirsiä" để cho ra đời oratorio "Herramme Vapahtajamme" ra mắt lần đầu năm 1975. Năm 1980, vở opera của Ilkka Kuusisto dựa trên kịch "Sota valosta" của Leino được công diễn lần đầu. Sang thế kỷ 21, "Helkavirsiä" tiếp tục duy trì là nguồn cảm hứng âm nhạc. Tháng 2 năm 2012, dàn nhạc giao hưởng Tampere trình diễn lần đầu bản giao hưởng số 1 "Tuuri" của Olli Mustonen viết cho giọng nam trung và dàn nhạc, dựa trên bài thơ "Tuuri" nằm trong loạt "Helkavirsiä" đầu tiên. Năm 2007, Kaija Saariaho phổ nhạc bốn bài thơ thời kỳ đầu của Leino để đưa vào "Leino Songs for voice and Orchestra". Trước đó vào năm 2006, công ty Hà Lan Munich Records phát hành CD "Aina Leino", do ban nhạc Hà Lan Aina cùng với nghệ sĩ độc tấu Phần Lan Pauliina May trình diễn. Album có 14 bài lấy từ thơ Leino, do nhạc sĩ Hà Lan Izak Boom biên soạn. Kỷ niệm. Đài tưởng niệm.
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Kỷ niệm. Đài tưởng niệm. Năm 1992, sinh nhật Leino vào ngày 6 tháng 7 được gọi là Ngày Eino Leino, thi ca và chào hạ; đồng thời trở thành ngày treo quốc kỳ của Phần Lan. Công viên Esplanadi ở Helsinki có tượng Eino Leino do Lauri Leppänen điêu khắc. Bức tượng ra mắt ngày 26 tháng 9 năm 1953, đúng 63 năm khi Leino xuất bản bài thơ đầu tiên trên tờ "Hämeen Sanomi". Trên đế tượng có khắc câu thơ trích trong bài "Väinämöisen laulu" của Leino: "Yksi on laulu ylitse muiden: ihmisen aattehen hengen ankara laulu" (tạm dịch: "Một là khúc ca trên phần còn lại: bài ca khó nghe của tâm hồn con người"). Một điều thú vị là trong bàn tay bức tượng có đồng xu 5 Mác được đặt vào khi đúc. Năm 1978, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Leino, Jouko Toiviainen thiết kế đài tưởng niệm trừu tượng "Ukonlintu ja virvaliekki" tại nơi sinh của ông tại Paltamo. Dưới bệ là câu thơ trích từ "Väinämöisen laulusta": "Kansat katoo / ei katoa mahti / jonka on laulanut / mahtaja heimonsa hengen" (tạm dịch: "Các nước tiêu vong / sức mạnh còn lại / được cất tiếng ca / từ người mang linh hồn bộ tộc"). Năm 1980, tại Kajaani đã dựng tượng Leino nằm gần Koivukoski ở Rantapuisto, tác phẩm điêu khắc do Nina Sailo thực hiện dựa trên phác thảo của người chồng là Alpo Sailo. Năm 1978, ngôi nhà cũ vốn bị phá hủy của Leino tại Hövelö ở Paltaniemi đã được phục dựng. Mộ Leino có mã số U21-15-22 nằm trong khu vực mới tại nghĩa trang Hietaniemi, Helsinki. Bia mộ có khắc huy chương do Ville Vallgren thực hiện. Hội nhà văn Phần Lan dựng đài tưởng niệm mộ phần và chịu trách nhiệm giữ mộ. Trên bia mộ cũng khắc khổ thơ cuối bài "Hymni tulelle" của Leino. Trên điện ảnh và truyền hình. Năm 1978, đạo diễn Jaakko Pakkasvirta hoàn thành bộ phim "Runoilija ja musa" (tạm dịch: "Nhà thơ và nàng thơ") kể về cuộc đời Leino nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Đoạn mở đầu cho biết "tất cả cảnh phim đều là hư cấu, mặc dù được lấy cảm hứng từ các sự kiện có thật". Esko Salminen vào vai Eino Leino. Phim tập trung miêu tả mối quan hệ của Leino với người vợ đầu Freya Schoultz (do Katja Salminen đóng) và người tình L. Onerva (do Elina Salo đóng).
Eino Leino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19815993
Đồng thời, bộ phim mô tả phong trào dân tộc chủ nghĩa của giới văn hóa Phần Lan trước khi độc lập, với những nghệ sĩ như Akseli Gallen-Kallela và Jean Sibelius. Ngoài Esko Salminen, vai Eino còn được thể hiện bởi các diễn viên như Leo Riuttu trong phim "Rousu ja kulkuri" (tạm dịch: "Bông hồng và kẻ lang thang") của Ilmari Unho năm 1948, Kari Hietalahti trong phim "Sibelius" của Timo Koivusalo năm 2003 và Vesa-Matti Loiri trong phim truyền hình "Tähtikeinu" của Veli-Matti Saikkonen năm 2003 khắc họa cuộc tình tay ba Eino, L. Onerva và Leevi Madetoja. Năm 1993, Sulevi Peltola đạo diễn và cùng Helena Ihala viết kịch bản phim truyền hình "Pankkiherroja" dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Eino. Matti Pellonpää thủ vai chính Antti Puuhaara. Tác phẩm. Bản dịch các tác phẩm Leino. Ngôn ngữ khác. Tác phẩm của Leino cũng đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Latvia, tiếng Na Uy, tiếng Ba Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Đức, tiếng Hungary, tiếng Nga và tiếng Estonia. Một số bài thơ lẻ của Leino được dịch sang tiếng Việt và đăng trên tạp chí "Văn học nước ngoài":
Sự phun trào nhật hoa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816002
Sự phun trào nhật hoa (tiếng Anh: coronal mass ejection, CME) là sự phóng ra đáng kể của từ trường và khối lượng plasma đi kèm từ vành nhật hoa của Mặt Trời vào nhật quyển. CME thường liên quan đến các vết lóa Mặt Trời và các dạng hoạt động khác của Mặt Trời, nhưng vẫn chưa có nhiều lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về sự liên quan này. Nếu một CME đi vào môi trường liên hành tinh, thì nó được gọi là sự phun trào nhật hoa liên hành tinh (interplanetary coronal mass ejection, ICME). ICME có khả năng tiếp cận và va chạm với từ quyển của Trái Đất, nơi chúng có thể gây ra bão từ, cực quang và trong một số trường hợp hiếm hoi là làm hỏng lưới điện. Sự nhiễu loạn địa từ lớn nhất được ghi lại, có lẽ là do CME, là sự kiện Carrington. Mô tả vật lý. CME giải phóng một lượng lớn vật chất và từ trường từ bầu khí quyển của Mặt Trời vào gió Mặt Trời và môi trường liên hành tinh. Vật chất bị đẩy ra là plasma bao gồm chủ yếu là các electron và proton nằm trong từ trường bị đẩy ra. Khối lượng trung bình được đẩy ra là . Tuy nhiên, các giá trị khối lượng ước tính cho CME chỉ là các giới hạn thấp hơn, bởi vì các phép đo từ coronagraph chỉ cung cấp dữ liệu hai chiều.
Jinbei
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816003
(còn gọi là hoặc ) là bộ quần áo mặc trong nhà truyền thống của Nhật Bản dành cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em được mặc trong mùa hè. Với cấu tạo gồm một chiếc áo kiểu kimono đi kèm với quần, ban đầu chỉ dành cho nam giới, tuy nhiên, trong những năm gần đây, dành cho phụ nữ đã trở nên phổ biến. Mô tả. Một bộ tiêu chuẩn thường là một bộ hoàn chỉnh bao gồm áo và quần. Quần của Jinbei có thể ngắn hoặc dài tùy theo ý thích . Mặc dù quần được may theo kiểu phương Tây, song phần áo của nó lại được may theo kiểu kimono truyền thống, với phần cổ áo dài được vắt phía trước tạo thành đường chéo. Tuy nhiên, khác với kimono, một bộ tiêu chuẩn sẽ không được may phần mép phía trước (được gọi là ), thay vào đó nó sẽ có hai dây buộc, một dây nằm ngoài và một dây nằm ở mặt trong, giúp thắt kín áo lại. Phần áo phía trên có chiều dài gần đến hông và được quấn từ bên trái qua bên phải, và phần dây bên trong sẽ được buộc chặt trước khi thắt các dây buộc bên ngoài. Theo phong cách truyền thống, được may từ vải dệt bông hoặc cây gai dầu, và thường được nhuộm màu đơn sắc như chàm, xanh dương hoặc màu lục. Trong khi đó, kiểu hiện đại thường được may từ vải in và có nhiều kết cấu khác nhau cùng với những hoa văn đầy màu sắc. dành cho những phụ nữ quý tộc thường có màu sắc tươi sáng hơn, và thường có in hình của các nhân vật và các hình mẫu trong văn hóa đại chúng. có đường may rất lỏng lẻo giúp cho người mặc có cảm giác thông thoáng trong thời tiết nóng bức, cũng như giúp bộ đồ trông có vẻ đồng nhất hơn khi nhìn từ xa. Sử dụng. thường được sử dụng như đồ ngủ hay đồ mặc ở nhà, và được coi như loại quần áo không được dùng cho những dịp trang trọng. Thông thường, chỉ được mặc bên ngoài trong những chuyến du lịch ngắn như đi làm một việc vặt ở địa phương, thu thập thư hay đi mua sắm. Việc mặc Jinbei một cách "trang trọng", tức là mặc nó khi đi ra ngoài trong một thời gian dài bị coi là một điều thô lỗ. cũng có thể được dùng để thay thế trong mùa hè, đặc biệt là trong các lễ hội. Tại Nhật Bản loài cá nhám voi được gọi là hay , do loài động vật này có màu da trông giống như màu của .
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Beatrice của Liên hiệp Anh và Ireland, hay Beatrice của Liên hiệp Anh (tiếng Anh: "Princess Beatrice of the United Kingdom"; tên đầy đủ:Beatrice Mary Victoria Feodore; 14 tháng 4 năm 1857 – 26 tháng 10 năm 1944), sau này là Thân vương tử phi Heinrich xứ Battenberg, là con gái thứ năm và là người con út của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Beatrice cũng là người con qua đời cuối cùng của Nữ vương Victoria, gần 66 năm sau khi người con đầu tiên của Victoria qua đời là Vương nữ Alice. Tuổi thơ của Beatrice trùng với thời điểm Nữ vương Victoria đau buồn vì cái chết của chồng vào ngày 14 tháng 12 năm 1861. Khi các chị gái của Beatrice đã kết hôn và không còn gần bên mẹ, Nữ vương Victoria dựa dẫm vào người con gái út, và gọi Beatrice là "Đứa con bé nhỏ" trong phần lớn thời thơ ấu của vương nữ. Beatrice luôn được nuôi dưỡng bên nữ vương Victoria và vương nữ chấp thuận điều này. Nữ vương Victoria phản đối việc kết hôn của Beatrice đến nỗi từ chối thảo luận về hôn sự của con gái. Dù vậy, có nhiều người đã ngỏ lời cầu hôn Beatrice, trong đó có Louis-Napoléon, Hoàng thái tử Pháp, con trai của Hoàng đế lưu vong Napoléon III của Pháp, và Ludwig IV xứ Hessen, góa vợ của Vương nữ Alice, chị gái của Beatrice. Vương nữ bị thu hút bởi Louis-Napoléon và đã có những thảo luận về hôn nhân của hai người, nhưng Louis-Napoléon đã bị giết trong Chiến tranh Anh-Zulu năm 1879. Beatrice sau đó đem lòng yêu Thân vương tử Heinrich xứ Battenberg, con trai của Đại Công tử Alexander xứ Hessen và Rhine và Julia Hauke, đồng thời là em chồng của Đại Công nữ Viktoria xứ Hessen và Rhine, cháu gọi dì của Vương nữ Beatrice. Sau một năm thuyết phục, Nữ vương Victoria, người có thẩm quyền cho phép Beatrice và Heinrich kết hôn chiếu theo Đạo luật Hôn nhân Vương thất, cuối cùng đã đồng ý cho cuộc hôn nhân diễn ra tại Whippingham trên Đảo Wight vào ngày 23 tháng 7 năm 1885. Nữ vương Victoria đã đồng ý mối hôn sự với điều kiện Beatrice và Heinrich phải ở gần Nữ vương và Beatrice tiếp tục nhiệm vụ thư ký không chính thức của Victoria. Heinrich và Beatrice có với nhau bốn người con, nhưng 10 năm sau cuộc hôn nhân của hai vợ chồng, vào ngày 20 tháng 1 năm 1896, Thân vương tử Heinrich qua đời vì bệnh sốt rét khi chiến đấu trong Chiến tranh Anh-Ashanti. Beatrice vẫn ở bên mẹ cho đến khi Nữ vương Victoria qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 1901.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Beatrice đã dành 30 năm tiếp theo để biên tập nhật ký của Nữ vương Victoria với tư cách là người phụ trách được chỉ định của Victoria và tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trước công chúng. Vương nữ Beatrice qua đời ở tuổi 87 vào năm 1944. Những năm đầu đời. Beatrice sinh ngày 14 tháng 4 năm 1857 tại Cung điện Buckingham, Luân Đôn, là con gái thứ năm và là người con út trong số chín người con của Victoria của Liên hiệp Anh và Albrecht của Sachsen-Coburg và Gotha. Ca sinh nở này của Victoria đã gây ra tranh cãi khi có thông báo rằng Nữ vương sẽ sử dụng chloroform được cung cấp bởi Tiến sĩ John Snow nhằm giảm bớt cơn đau đớn do sinh nở. Chloroform được coi là nguy hiểm đối với người mẹ và đứa trẻ và bị Giáo hội Anh và các cơ quan y tế phản đối. Tuy nhiên, Victoria vẫn quyết định sử dụng "chất chloroform diệu kỳ" cho lần mang thai cuối cùng của mình. Hai tuần sau, Nữ vương Victoria đã ghi lại trong nhật ký rằng "Ta đã được đền đáp xứng đáng và quên đi tất cả những gì mình phải trải qua khi nghe tiếng Albert thân yêu nói rằng 'Đó là một đứa bé khỏe mạnh, và là một bé gái!'" Albert và Victoria quyết định đặt tên cho đứa trẻ là "Beatrice Mary Victoria Feodore": Mary theo tên của Vương nữ Mary của Liên hiệp Anh, người con cuối cùng còn sống của George III của Liên hiệp Anh ; Victoria theo tên của Nữ vương và Feodore theo Feodora xứ Leiningen, Thân vương phi xứ Hohenlohe-Langenburg, chị gái cùng mẹ khác cha của Victoria. Vương nữ Beatrice được rửa tội trong nhà nguyện riêng ở Cung điện Buckingham vào ngày 16 tháng 6 năm 1857. Cha mẹ đỡ đầu của Beatrice là Thái Công tước phu nhân xứ Kent (bà ngoại); Victoria Adelaide, Vương nữ Vương thất (chị cả); và Vương tôn Friedrich của Phổ (anh rể tương lai của Beatrice). Ngay từ khi sinh ra, Beatrice đã trở thành đứa trẻ được yêu thích trong gia đình. Người con gái lớn được yêu thích nhất của Albert là Victoria, Vương nữ Vương thất sắp chuyển đến sống ở Đức với chồng là Friedrich ("Fritz") của Phổ. Cùng lúc đó, đứa trẻ Beatrice mới sinh nhận được sự yêu mến. Albert đã viết cho Augusta, mẹ của Fritz rằng "Con bé luyện giọng giống như một "prima donna" tài năng trước khi biểu diễn và có một giọng hát hay!" Mặc dù Nữ vương Victoria được biết là không thích trẻ sơ sinh, nhưng Victoria lại thể hiện sự yêu thích đối với Beatrice và cho rằng cô con gái út rất cuốn hút.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Điều này mang lại lợi thế cho Beatrice so với các anh chị của mình. Nữ vương Victoria từng nhận xét Beatrice là "một đứa trẻ xinh xắn, mũm mĩm và khỏe mạnh... với đôi mắt xanh to tròn, cái miệng nhỏ xinh và làn da rất mịn màng". Mái tóc dài và vàng óng của Beatrice là tâm điểm trong các bức tranh do Nữ vương ủy quyền, người rất cho Beatrice tắm, trái ngược hoàn toàn so với những người con còn lại của nữ vương. Beatrice thể hiện bản thân là đứa trẻ thông minh, điều này càng khiến cho Vương nữ được cha quý mến và thích thú với sự trưởng thành sớm của con gái. Albert đã viết cho Nam tước Stockmar rằng Beatrice là "đứa trẻ thú vị nhất mà chúng ta có." Mặc dù cũng tiếp nhận chương trình giáo dục nghiêm khắc đến từ Vương phu Albert và cố vấn thân cận là Nam tước Stockmar, Beatrice có một thời thơ ấu thoải mái hơn so với các anh chị của mình vì mối quan hệ giữa vương nữ với cha mẹ. Khi mới 4 tuổi, vì là người con út và là đứa trẻ vương thất nhỏ tuổi nhất, Beatrice không bị buộc phải chịu sự kiểm soát của cha mẹ như các anh chị của mình, và tính cách hài hước của Beatrice đã mang lại niềm an ủi cho người cha đau ốm của mình. Người bạn tâm tình của Nữ vương Victoria. Vào tháng 3 năm 1861, mẹ của Nữ vương Victoria là Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saafeld, Công tước phu nhân xứ Kent qua đời tại Frogmore. Nữ vương Victoria đã suy sụp trong đau buồn và tội lỗi vì sự xa cách giữa hai người trong khoảng thời gian đầu triều đại của Victoria. Beatrice đã cố gắng an ủi mẹ mình bằng cách nhắc nữ vương rằng Bà Công tước xứ Kent đang "ở trên thiên đường, nhưng Beatrice hy vọng bà ấy sẽ trở lại". Sự an ủi này rất có ý nghĩa với Victoria vì nữ vương đã tự cô lập mình với các con ngoại trừ cô con gái lớn nhất chưa lập gia đình là Alice và Beatrice. Victoria một lần nữa nương tựa vào Beatrice và Alice sau cái chết của chồng vì bệnh thương hàn vào ngày 14 tháng 12. Nỗi đau buồn sâu sắc của Nữ vương Victoria trước cái chết của chồng đã khiến cả gia đình, các triều thần, chính trị gia và dân chúng nói chung kinh ngạc. Như khi bà mẹ nữ vương qua đời, Victoria tự tách biệt mình ra khỏi gia đình— đặc biệt nhất là Thân vương xứ Wales (người mà Victoria đổ lỗi cho cái chết của chồng mình), ngoại trừ Alice và Beatrice.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Nữ vương Victoria thường bế Beatrice khỏi giường, vội vã mang đến giường của mình và "nằm đó không ngủ, ôm chặt lấy đứa con nhỏ của mình, quấn trong bộ đồ ngủ của một người đàn ông sẽ không bao giờ mặc chúng nữa." Sau năm 1871, khi người chị gái cuối cùng của Beatrice kết hôn, Nữ vương Victoria dựa dẫm vào cô con gái út, người đã tuyên bố từ khi còn nhỏ rằng: "Con không thích đám cưới chút nào. Con sẽ không bao giờ kết hôn. Con sẽ ở mãi với mẹ." Với tư cách là thư ký của mẹ, Beatrice thực hiện các nhiệm vụ như viết thư thay mặt Nữ vương và giúp xử lý thư từ chính trị. Những nhiệm vụ thường trực này phản ánh những công việc đã được thực hiện liên tiếp bởi các chị gái của Beatrice là Alice, Helena và Louise. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria đã bổ sung thêm nhiều nhiệm vụ cá nhân hơn. Trong một trận ốm nặng vào năm 1871, Victoria đã đọc cho con gái nghe về các hoạt động trong ngày để Beatrice ghi nhận lại, và vào năm 1876, Victoria cho phép Beatrice sắp xếp lại các bản nhạc mà nữ vương và vương phu đã chơi, vốn không được chơi kể từ khi Albert qua đời mười lăm năm trước đó. Sự tận tâm mà Beatrice dành cho mẹ đã được ghi nhận trong các bức thư và nhật ký của Nữ vương, nhưng nhu cầu liên tục của Victoria đối với con gái ngày càng lớn hơn. Victoria tiếp tục chịu đả kích khi biết tin về sự qua đời của một người cận thần là John Brown vào năm 1883 tại Balmoral. Một lần nữa, Victoria đắm chìm trong sự thương tiếc và phải nhờ cậy đến Beatrice để tìm đến sự an ủi. Không giống như các anh chị của mình, Beatrice không hề tỏ ra ghét Brown, và cả hai thường xuyên đi với nhau và họ đã làm việc cùng nhau để thực hiện những mong muốn của Victoria. Hôn nhân. Những ứng cử viên tiềm năng. Mặc dù nữ vương Victoria phản đối việc Beatrice kết hôn với bất kỳ ai vì nữ vương mong muốn rằng con gái sẽ luôn ở bên mình, nhưng đã có một số ứng cử viên đã ngỏ lời cầu hôn Beatrice, trước khi Beatrice kết hôn với Heinrich xứ Battenberg. Một trong số đó là Napoléon Eugéne, Hoàng thái tử nước Pháp, con trai và là người thừa kế của Hoàng đế lưu vong Napoléon III của Pháp và vợ là Hoàng hậu Eugenia. Sau khi Phổ đánh bại Pháp trong Chiến tranh Pháp-Phổ, Napoléon III bị phế truất và cùng gia đình sang Anh năm 1870.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Sau cái chết của Hoàng đế vào năm 1873, Nữ vương Victoria và Hoàng hậu Eugenia đã hình thành một mối quan hệ gắn bó thân thiết, và các tờ báo đã đưa tin về việc Beatrice sắp đính hôn với Hoàng thái tử. Tuy nhiên, hững tin đồn này kết thúc với cái chết của Napoléon Eugéne trong Chiến tranh Anh-Zulu vào ngày 1 tháng 6 năm 1879. Victoria ghi lại trong nhật ký rằng: "Beatrice yêu quý, cũng đã khóc rất nhiều như ta, đã gửi cho ta bức điện tín... lúc ấy trời đã sáng và ta chẳng ngủ được là bao... Beatrice đã rất đau khổ; mọi người thì khá sốc." Sau cái chết của Hoàng thái tử Pháp, Vương tử Albert Edward, Thân vương xứ Wales đã đề nghị Beatrice kết hôn với người chồng của chị gái Alice quá cố là Đại Công tước Ludwig IV xứ Hessen. Alice đã qua đời vào năm 1878, và Thân vương lập luận rằng Beatrice có thể đóng vai trò là người mẹ thay thế cho những đứa con nhỏ của Ludwig và Alice và dành phần lớn thời gian ở Anh để chăm sóc cho nữ vương Victoria. Albert Edward cũng gợi ý rằng Nữ vương cũng có thể giám sát việc nuôi dạy những người cháu nhà Hessen của mình một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, luật pháp cấm Beatrice kết hôn với người chồng góa vợ của chị gái mình. Điều này đã bị phản đối bởi Thân vương xứ Wales, người đã kịch liệt ủng hộ việc thông qua Dự luật Chị em gái của Người vợ đã khuất tại Nhà Quốc hội, theo đó sẽ loại bỏ trở ngại ngăn cản Beatrice kết hôn với Ludwig IV. Bất chấp sự ủng hộ cho dự luật này và mặc dù đã được thông qua tại Hạ viện, dự luật đã bị Thượng viện bác bỏ vì sự phản đối của các Giám mục tại Thượng viện. Mặc dù Nữ vương Victoria thất vọng vì dự luật không được thông qua, nữ vương rất vui khi được giữ con gái ở bên mình. Một số ứng cử viên khác, bao gồm hai anh trai của Thân vương tử Hdeinrich là Thân vương tử Alexander ("Sandro") và Thân vương tử Ludwig xứ Battenberg, được đề cử trở thành chồng của Beatrice nhưng không thành công. Mặc dù Alexander chưa bao giờ chính thức theo đuổi Beatrice, mà chỉ tuyên bố rằng "có thể đã đính hôn với người bạn thời thơ ấu của mình trong một khoảng thời gian, là Beatrice của Anh" trong khi đó Ludwig tỏ ra quan tâm hơn vơi môn hôn sự này.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Nữ vương Victoria đã mời Ludwig ăn tối nhưng lại ngồi giữa Ludwig và Beatrice, và căn dặn Beatrice phớt lờ Ludwig để ngăn cản mối hôn sự này. Ludwig, không nhận ra nguồn cơn của sự im lặng này trong nhiều này, kết hôn với cháu gái gọi dì của Beatrice là Đại Công nữ Viktoria xứ Hessen. Mặc dù hy vọng của Beatrice về một cuộc hôn nhân đã một lần nữa không thành, khi tham dự đám cưới của Ludwig tại Darmstadt, Beatrice đã đem lòng yêu Thân vương tử Heinrich, người cũng đã đáp lại tình cảm của vương nữ. Đính hôn và đám cưới. Sau khi trở về từ Darmstadt, Beatrice đã thông báo với nữ vương Victoria về dự định kết hôn của mình. Trước thông tin này, Nữ vương đã phản ứng bằng sự im lặng đáng sợ. Mặc dù hai mẹ con vẫn ở bên cạnh nhau, nhưng Victoria đã không nói chuyện với con gái trong suốt bảy tháng mà chỉ giao tiếp thông qua những tờ giấy ghi chú. Hành vi của Nữ vương là điều cả gia đình cũng không ngờ tới, có thể à vì nỗi sợ rời xa con gái của Victoria. Nữ vương coi Beatrice như một "Đứa bé" (Baby) - đứa con ngây thơ của mình - và nhận định rằng việc quan hệ tình dục vốn đi kèm với hôn nhân chính là dấu chấm hết cho sự trong trắng của con gái út. Nhờ những lời thuyết phục tinh tế từ Thân vương phi xứ Wales và Vương thái tử phi nước Phổ, người đã nhắc nhở nữ vương nhớ về niềm hạnh phúc mà Beatrice đã mang lại cho Vương phi Albert, đã khiến cho nữ vương Victoria nói chuyện lại với Beatrice. Victoria cũng đồng ý cho phép Beatrice kết hôn với điều kiện Heinrich sẽ phải từ bỏ những ràng buộc từ dòng máu Đức và sống lâu dài với Beatrice và Nữ vương. Beatrice và Heinrich kết hôn tại Nhà thờ Thánh Mildred ở Whippingham, gần Điện Osborne vào ngày 23 tháng 7 năm 1885. Trong ngày cưới, Beatrice đã trùm tấm màn cưới bằng đăng ten Honiton của nữ vương Victoria và được hộ tống bởi mẹ và anh cả là Thân vương xứ Wales. Vương nữ Beatrice còn được hộ tống bởi mười phù dâu, tất cả đều là cháu gái của vương nữ: Vương tôn nữ Louise (18), Victoria và Maud xứ Wales; Đại Công nữ Irene và Alix xứ Hessen và Rhine; Vương tôn nữ Marie, Victoria Melita và Alexandra xứ Edinburgh; Vương tôn nữ Helena Victoria và Marie Louise của Schleswig-Holstein . Bên chú rể gồm có các anh em trai là Thân vương Alexander của Bulgaria và Thân vương tử Franz Joseph xứ Battenberg.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Buổi lễ không có sự tham dự của chị cả và anh rể của Beatrice là Thái tử và Thái tử phi nước Phổ vì họ không thể rời khỏi Đức; William Ewart Gladstone; hay cô họ của Beatrice là Vương tôn nữ Mary Adelaide, Công tước phu nhân xứ Teck, người đang chịu tang cha chồng – kết thúc bằng việc cặp đôi lên đường đi hưởng tuần trăng mật tại Nhà Tu viện Quarr, cách Osborne vài dặm. Nữ vương từ giã hai vợ chồng và "dũng cảm chịu đựng cho đến điểm khởi hành và sau đó lùi bước cho hai vợ chồng" , theo như nữ vương chia sẻ với con gái cả Vicky . Những năm cuối đời của Nữ vương Victoria của Liên hiệp Anh. Sau khoảng thời gian trăng mật ngắn ngủi, Beatrice và chồng đã thực hiện lời hứa của mình và trở về bên Nữ vương. Nữ hoàng nói rõ rằng bà không thể tự mình xử lý mọi việc và cặp đôi không thể đi đâu mà không có nữ vương. Mặc dù Victoria đã nới lỏng hạn chế này sau một khoảng thời gian từ khi hai người kết hôn, Beatrice và Heinrichy chỉ đi thăm gia đình ông trong thời gian ngắn. Tình yêu của Beatrice dành cho Heinrich, giống như tình yêu của Nữ vương Victoria dành cho Vương phu Albert, dường như sâu đậm qua thời gian. Khi Heinrich đi xa mà không có Beatrice, vương nữ trở nên vui vẻ hơn khi chồng trở về. Việc Heinrich trở thành một thành viên của vương thất đã khiến Vương nữ Beatrice và Nữ vương Victoria trở nên tích cực hơn, và triều đình trở nên tươi sáng hơn so với kể từ khi cố Vương phu Albert qua đời. Mặc dù vậy, Heinrich với sự ủng hộ của Beatrice, vẫn quyết tâm tham gia vào các chiến dịch quân sự, điều khiến Victoria khó chịu và phản đối việc Heinrich tham gia vào những cuộc chiến đe dọa đến tính mạng. Xung đột cũng nảy sinh khi Heinrich tham dự lễ hội hóa trang Ajaccio và Beatrice đã cử một sĩ quan Hải quân Vương thất đến để phòng ngừa bất kỳ sự sa đọa nào có thể xảy ra. Trong một lần, Heinrich trốn đến Corsica với anh trai Ludwig; Nữ vương đã gửi một tàu chiến để đưa con rể trở về. Heinrich cảm thấy bị khó chịu bởi việc Nữ vương thường xuyên cần đến sự bầu bạn của hai vợ chồng. Mặc dù đã kết hôn, Beatrice vẫn thực hiện lời hứa của mình với Nữ vương bằng cách tiếp tục là người bầu bạn cũng như là thư ký toàn thời gian của Victoria.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Nữ vương Victoria cũng có thái độ ấm áp với Heinrich. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria đã chỉ trích hành vi của Beatrice trong lần mang thai đầu tiên. Cụ thể là khi vương nữ ngừng đến tham dự các bữa tối của Nữ vương khoảng một tuần trước khi sinh và ăn một mình trong phòng, Victoria đã tức giận viết thư cho bác sĩ của mình làJames Reid rằng, "Ta (mong muốn Vương nữ tiếp tục) đến ăn tối, chứ không ủ rũ trong phòng riêng, điều rất có hại cho con bé. Nếu là ta, ta sẽ thường xuyên đến ăn tối, trừ khi thực sự không khỏe (ngay cả khi phải chịu đựng rất nhiều) cho đến tận ngày cuối ngày." Tuần sau đó, với sự hỗ trợ chloroform, Beatrice đã hạ sinh con trai đầu lòng Alexander vào tuần sau. Mặc dù bị sẩy thai trong những tháng đầu của cuộc hôn nhân, Beatrice sinh được bốn người con: Alexander, gọi là "Drino", sinh năm 1886; Victoria Eugenie, gọi là "Ena", năm 1887; Leopold năm 1889; và Maurice vào năm 1891. Sau này, Beatrice quan tâm nhiệt thành đến các vấn đề xã hội, chẳng hạn như điều kiện làm việc ở các mỏ than. Tuy nhiên, mối quan tâm của Beatrice không mở rộng đến việc thay đổi tình trạng nghèo đói như anh trai là Thân vương xứ Wales. Mặc dù có rất ít các hoạt động giải trí trong cung đình từ khi Albert qua đời, Beatrice và Nữ vương Victoria rất thích chụp ảnh hoạt cảnh, thường được thực hiện tại các dinh thự vương thất. Trong khi đó Heinrich, ngày càng chán nản vì lượng hoạt động ít ỏi tại triều đình, khao khát được thực hiện nhiệm vụ và Nữ vương đã phong Heinrich làm Thống đốc của Đảo Wight vào năm 1889. Tuy nhiên, Heinrich khao khát được ở trong quân đội và cầu xin mẹ vợ cho mình tham gia cuộc chinh phạt Ashanti trong Chiến tranh Anglo-Asante. Bất chấp những lo ngại, Victoria đã đồng ý, Heinrich và Beatrice tạm biệt nhau vào ngày 6 tháng 12 năm 1895 mà không biếtranngg282 cả hai sẽ không còn gặp lại nhau. Heinrich sau đó mắc bệnh sốt rét và được gửi về nhà. Vào ngày 22 tháng 1 năm 1896, Beatrice, trong lúc đang đợi chồng trở về ở Madeira, nhận được một bức điện thông báo về cái chết của Heinrich vào hai ngày trước đó. Đau khổ vì mất chồng, Beatrice rời khỏi triều đình trong một tháng nhằm để tang chồng trước khi trở lại bên mẹ.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Nữ vương Victoria đã ghi lại trong nhật kỳ của mình rằng ngài đã "đến phòng của Beatrice và ngồi bên con bé một lúc. Con bé thật đáng thương với nỗi khốn khổ mà nó phải chịu đựng." Bất chấp sự đau, Beatrice vẫn tiếp tục kề bên nữ vương, và khi Victoria già đi, nữ vương phụ thuộc nhiều hơn vào Beatrice trong việc giải quyết thư từ. Tuy nhiên, nhận ra rằng Beatrice cần một vị trí cho riêng mình, Victoria đã cho con gái các dãy phòng của Cung điện Kensington vốn từng là nơi ở của Nữ vương và cố Công tước phu nhân xứ Kent. Victoria cũng bổ nhiệm Beatrice vị trí thống đốc của Đảo Wight đã bị bỏ trống từ khi Heinrich qua đời. Đối với sở thích chụp ảnh của Beatrice, Victoria đã cho lắp đặt một căn phòng tối tại Điện Osborne. Những thay đổi trong gia đình, bao gồm cả sự ưu tiên hàng đầu của Beatrice dành cho mẹ, có thể đã ảnh hưởng đến những đứa con của vương nữ, khiến chúng trở nên nổi loạn ở trường học. Beatrice đã viết rằng Ena là đứa trẻ "rắc rối và nổi loạn", và Alexander thì nói "những điều sai sự thật không chấp nhận". Cuộc sống sau này. Cuộc sống của Beatrice bị đảo lộn Nữ vương Victoria qua đời vào ngày 22 tháng 1 năm 1901. Vương nữ đã viết thư cho Hiệu trưởng của Đại học Glasgow vào tháng 3, "...ông có thể tưởng tượng nỗi đau tệ như thế nào. Ta, người chưa bao giờ xa cách người mẹ thân yêu của mình, ta khó mà hình dung được cuộc sống sẽ ra sao nếu không có mẹ, người đã từng là trung tâm của mọi thứ." Beatrice vẫn tiếp tục xuất hiện trước công chúng, nhưng vị trí của vương nữ tại triều đình đã bị suy giảm. Khác với chị gái là Vương nữ Louise, Beatrice không thân thiết với tân vương Edward VII, người cũng là anh trai vương nữ, và không được đưa vào vòng tròn giao thiệp của Nhà vua. Mặc dù mối quan hệ của hai anh em không hoàn toàn tồi tệ, nhưng đôi khi cũng trở nên căng thẳng, chẳng hạn như khi Beatrice vô tình (một cách ồn ào) đánh rơi cuốn sách kinh của mình từ phòng trưng bày vương thất xuống một chiếc bàn bằng vàng trong lễ đăng quang của Edward VII.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Sau khi thừa kế Điện Osborne, Edward VII đã cho dỡ bỏ những bức ảnh và vật dụng cá nhân của mẹ mình và thậm chí là một số trong số chúng đã bị cho tiêu hủy, đặc biệt là tài liệu liên quan đến John Brown, người mà Quốc vương căm ghét. Nữ vương Victoria đã dự định cho điện Osborne trở thành nơi ở riêng tư cho con cháu của nữ vương, tránh xa sự hào hoa và nghi lễ của cuộc sống cung đình. Tuy nhiên, vị tân vương không có nhu cầu tương tự đối với điện Osborne và đã hỏi ý kiến các luật sư của mình về việc xử lý điện Osborne, biến cánh chính trở thành nhà điều dưỡng, mở cửa các dãy phòng cho công chúng và xây dựng Trường Cao đẳng Hải quân trong khuôn viên. Tuy nhiên, kế hoạch của Edward VII vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ Beatrice và Louise. Nữ vương Victoria đã để lại cho hai chị em những ngôi nhà trong vùng lãnh thổ của Vương thất, và sự riêng tư mà nữ vương đã hứa với hai chị em bị đe dọa. Khi Edward VII thảo luận về số phận của ngôi nhà với hai chị em, Beatrice phản đối việc để ngôi nhà tách rời khỏi vương thất, với lý do rằng đây là nơi quan trọng đối với cha mẹ họ. Tuy nhiên, Quốc vương không muốn điện Osborne cho bản thân và đã tặng nó cho người thừa kế của mình, cháu trai gọi cô của Beatrice là Vương tử George nhưng Vương tử đã từ chối vì chi phí bảo trì cao. Edward VII sau đó đã mở rộng khuôn viên nơi ở của Beatrice là Osborne Cottage, để đền bù cho việc sự riêng tư Vương nữ sắp bị ảnh hưởng. Ngay sau đó, Nhà vua tuyên bố với thủ tướng là Arthur Balfour, rằng phần nhà chính sẽ được trao cho quốc gia như một món quà. Tuy nhiên với các dãy phòng cá nhân thì chỉ mở cửa cho các thành viên vương thấtviì khu vực này đã được dựng thành điện thờ để tưởng nhớ cố nữ vương. Vương nữ Beatrice tiếp tục vai trò Thống đốc của Đảo Wight từ năm 1896 cho đến khi qua đời vào năm 1944, đồng thời là Chủ tịch của Bệnh viện Tưởng niệm Frank James tại Đông Cowes từ năm 1903 cho đến khi qua đời. Beatrice tiếp tục xuất hiện trước công chúng sau khi nữ vương Victoria qua đời. Các nhiệm vụ công khai mà vương nữ thực hiện thường liên quan đến Nữ vương Victoria, vì công chúng luôn liên tưởng hình ảnh Beatrice kề bên nữ vương. Nhật ký của Nữ vương Victoria.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Nhật ký của Nữ vương Victoria. Sau cái chết của Nữ vương Victoria, Beatrice bắt đầu nhiệm vụ quan trọng là ghi lại và biên tập nhật ký của Nữ vương Victoria. Hàng trăm tập nhật ký từ năm 1831 trở đi chứa đựng những quan điểm cá nhân của Nữ vương về công việc hàng ngày trong cuộc đời Victoria, đồng thời bao gồm các vấn đề cá nhân, gia đình cũng như các vấn đề của quốc gia. Nữ vương Victoria đã giao cho Beatrice nhiệm vụ biên tập các cuốn nhật ký để xuất bản, điều đó có nghĩa là loại bỏ các tài liệu riêng tư cũng như những đoạn văn mà nếu được xuất bản thì có thể gây tổn hại cho những người còn sống. Beatrice đã xóa nhiều tài liệu đến nỗi các cuốn nhật ký đã qua chỉnh sửa chỉ có độ dài bằng một phần ba so với bản gốc. Việc phá hủy những đoạn nhật ký lớn như vậy của Nữ vương Victoria khiến cháu trai của Beatrice là Quốc vương George V, và vợ là Vương hậu Mary, đau buồn nhưng không thể can thiệp. Beatrice đã sao chép một bản nháp từ bản gốc và sau đó sao lại bản nháp của vương nữ vào một tập sách màu xanh. Cả bản gốc và bản nháp đầu tiên của Beatrice đều bị phá hủy trong quá trình biên tập. Nhiệm vụ này kéo dài ba mươi năm và hoàn thành vào năm 1931. 111 cuốn sổ ghi chú còn sót lại được lưu giữ trong Văn khố Vương thất tại Lâu đài Windsor. Vương hậu Victoria Eugenie "Ena" của Tây Ban Nha. Nhan sắc của con gái Beatrice là Ena, được biết đến khắp châu Âu, và mặc dù có địa vị không cao nhưng Ena là một nàng dâu đáng mơ ước. Alfonso XIII của Tây Ban Nha đã ngỏ lời cầu hôn Victoria Eugenie và được Vương tôn nữ chấp nhận . Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đã gây ra tranh cãi ở Anh, vì kết hôn với Quốc vương Tây Ban Nha đồng nghĩa là Ena phải cải đạo sang Công giáo. Chuyện này đã bị phản đối bởi anh trai của Beatrice là Edward VII, và những người Tây Ban Nha cực kỳ bảo thủ đã phản đối cuộc hôn nhân của Alffonso XIII với một tín hữu Kháng Cách có xuất thân thấp kém, vì cha của Victoria Eugenie, Thân vương tử Heinrich, là con trai của một cuộc hôn nhân bất đăng đối. Vì vậy, họ coi Ena chỉ là một phần huyết mạch Vương thất và do đó không thích hợp để trở thành Vương hậu Tây Ban Nha. Tuy nhiên, cặp đôi đã kết hôn vào ngày 31 tháng 5 năm 1906.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Cuộc hôn nhân bắt đầu không suôn sẻ khi một kẻ vô chính phủ cố gắng đánh bom họ vào ngày cưới. Ban đầu, cặp đôi rất gần gũi với nhau nhưng sau này lại ngày càng xa cách. Ena không được yêu thích ở Tây Ban Nha và tình hình trở nên nghiêm trọng hơn khi người con trai cả Alfonso Pio, trữ quân của ngai vàng Tây Ban Nha, mắc bệnh máu khó đông . Alfonso XIII quy trách nhiệm cho Beatrice vì đã mang căn bệnh này đến vương thất Tây Ban Nha và quay lưng lại với Ena một cách cay nghiệt. Trong thời gian đảm nhiệm vai trò là Vương hậu Tây Ban Nha, Ena đã nhiều lần trở lại thăm mẹ ở Anh, nhưng luôn không có mặt Alfonso và ít khi có mặt các con của mình. Trong khi đó, Beatrice sống tại Osborne Cottage ở Đông Cowes cho đến khi bán nơi này vào năm 1913, khi Lâu đài Carisbrooke, dinh thự của Thống đốc Đảo Wight, bị bỏ trống. Beatrice chuyển đến Lâu đài trong khi vẫn giữ một dãy phòng tại Cung điện Kensington ở Luân Đôn. Vương nữ đã tham gia tích cực vào việc thu thập tài liệu cho bảo tàng của Lâu đài Carisbrooke, mà đức nữ cho mở cửa vào năm 1898. Chiến tranh thế giới thứ nhất và rời xa khỏi công chúng. Sự hiện diện của Beatrice tại triêu đình ngày càng giảm khi vương nữ già đi. Đau buồn bởi cái chết của người con trai yêu dấu Maurice trong Thế chiến thứ nhất năm 1914, vương nữ bắt đầu rút lui khỏi công chúng. Trước tình hình của Thế chiến thứ nhất, Quốc vương George V đã đổi tên vương tộc từ Saxe-Coburg và Gotha thành Windsor, đồng thời lấy tên đó làm họ của vương thất, để làm lu mờ dòng máu Đức của vương thất. Sau đó, Beatrice và gia đình vương nữ từ bỏ các tước hiệu thuộc Đức của họ; do đó Beatrice đã ngừng sử dụng danh xưng "Thân vương tử phi Henry xứ Battenberg", thay vào đó sử dụng danh xưng thời con gái là "HRH Vương nữ Beatrice". Các con trai của Beatrice đã từ bỏ tước hiệu Thân vương tôn xứ "Battenberg" . Alexander, người con trai cả, trở thành Ngài Alexander Mountbatten và sau đó được phong tước hiệu Hầu tước xứ Carisbrooke trong Đẳng cấp quý tộc của Vương quốc Liên hiệp Anh . Người con trai thứ, Leopold, trở thành Ngài Leopold Mountbatten và được hưởng địa vị của con trai thứ của một hầu tước.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Leopold cũng mắc bệnh máu khó đông, "căn bệnh vương thất" thừa hưởng từ mẹ và qua đời trong một ca phẫu thuật đầu gối vào năm 1922, chỉ một tháng trước sinh nhật lần thứ 33. Sau chiến tranh, Beatrice là một trong số các thành viên của vương thất trở thành người bảo trợ của Liên đoàn Ypres, được thành lập dành cho các cựu chiến binh của Khu vực Ypres và thân thích của những chiến sĩ thiệt mạng trong trận chiến ở Khu vực Ypres. Bản thân Beatrice cũng là một người mẹ mất con tại chiến trường, vì con trai út Maurice của Battenberg, đã tử trận trong Trận chiến Ypres lần thứ nhất. Những lần xuất hiện hiếm hoi trước công chúng của Beatrice sau khi Maurice qua đời bao gồm các lễ kỷ niệm, đặt vòng hoa tại mộ gió Cenotaph vào năm 1930 và 1935 để đánh dấu ngày kỷ niệm 10 và 15 ngày thành lập Liên đoàn. Những năm cuối đời. Ngay cả khi ở tuổi 70, Beatrice vẫn tiếp tục trao đổi thư từ với bạn bè, người thân của mình và hiếm khi xuất hiện trước công chúng, chẳng hạn như lần xuất hiện trên xe lăn để chứng kiến vòng hoa được đặt lên sau cái chết của George V vào năm 1936. Vương nữ đã xuất bản tác phẩm dịch thuật cuối cùng của mình vào năm 1941. Với tiêu đề "Trong những tháng ngày của Napoléon", đó là cuốn nhật ký cá nhân của bà ngoại của Nữ vương Victoria là Augusta, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Beatrice đã trao đổi thư từ với nhà xuất bản là John Murray, người đã rất tán thành tác phẩm. Beatrice sau này sống tại Brantridge Park ở Tây Sussex, thuộc sở hữu của em trai Vương hậu Mary là Alexander Cambridge, Bá tước thứ nhất của Athlone (sinh ra là Alexander xứ Teck), và vợ là Vương tôn nữ Alice, cháu gái gọi cô của Beatrice; nhà Athlone bấy giờ đang sống ở Canada, nơi ngài Bá tước đảm nhận vai trò Toàn quyền Canda. Tại nơi này, Beatrice qua đời trong giấc ngủ vào ngày 26 tháng 10 năm 1944, hưởng thọ 87 tuổi (một ngày trước kỷ niệm 30 năm ngày mất của con trai út Maurice). Sau khi tổ chức tang lễ cho Vương nữ tại Nhà nguyện St George, Lâu đài Windsor, quan tài của Beatrice được đặt trong Hầm mộ Hương thất vào ngày 3 tháng 11. Ngày 27 tháng 8 năm 1945, thi thể của Beatrice được di dời và đặt bên trong một ngôi mộ chung để an táng cùng với chồng tại Nhà thờ Thánh Mildred, Whippingham.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Ước nguyện cuối cùng của Beatrice là được chôn cất cùng chồng trên hòn đảo quen thuộc nhất với Vương nữ, đã được thành toàn trong một buổi lễ riêng tư tại Whippingham, chỉ được tham dự bởi con trai Alexander, Hầu tước Carisbrooke và vợ. Di sản. Beatrice là người nhút nhát nhất trong số các con của Nữ vương Victoria. Tuy nhiên, vì hầu như luôn tháp tùng Nữ vương Victoria tại mọi nơi có sự xuất hiện của mình, Beatrice trở thành một trong những thành viên vương thất được biết đến nhiều nhất. Mặc dù có tính nhút nhát, vương nữ là một diễn viên và vũ công có năng lực cũng như một nghệ sĩ và nhiếp ảnh gia sắc sảo. Vương nữ là người mẹ hết lòng vì con cái và lo lắng khi họ cư xử không đúng mực ở trường học. Đối với bạn bè, Beatrice là người trung thành và có khiếu hài hước, và với tư cách là người của công chúng, đức nữ có tinh thần trách nhiệm cao. Vương nữ là Người bảo trợ của Chi nhánh Đảo Wight của Viện Thuyền cứu sinh Quốc gia Vương thất từ năm 1920 cho đến khi qua đời. Giống với Nữ vương Victoria và Vương phu Albert, âm nhạc là niềm đam mê của Beatrice và bản thân vương nữ cũng rất xuất sắc trong lĩnh vực này. Beatrice chơi đàn piano theo tiêu chuẩn chuyên nghiệp và đôi khi cũng cũng là một nhà soạn nhạc. Giống như mẹ mình, Beatrice là một Cơ đốc nhân sùng đạo, có sự đam mê với thần học cho đến khi qua đời. Với tính cách điềm tĩnh và ấm áp, vương nữ được nhều người yêu mến. Những yêu cầu đặt ra đối với Beatrice trong thời kỳ trị vì của nữ vương Victoria rất cao. Mặc dù mắc bệnh phong thấp, Beatrice buộc phải chịu đựng thời tiết lạnh giá mà nữ vương yêu thích. Việc chơi piano của Beatrice bị ảnh hưởng khi bệnh phong thấp dần trở nên tồi tệ hơn, làm cho vương nữ không thích thú chơi đàn như trước; tuy nhiên vương nữ vẫn sẵn sàng thực hiện nếu như nữ vương muốn. Sự nỗ lực của vương nữ quả thật không bị công chúng Anh phớt lờ.
Beatrice của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816006
Năm 1886, khi Beatrice đồng ý mở Buổi biểu diễn của Hiệp hội Làm vườn Vương thất ở Southampton, ban tổ chức đã gửi cho vương nữ một lời cảm ơn, bày tỏ "sự ngưỡng mộ đối với thái độ yêu thương mà từ đó vương nữ đã an ủi và giúp đỡ cho người mẹ góa bụa của mình, Nữ vương đáng kính của chúng tôi". Như một món quà cưới, Quý ông Moses Montefiore, một chủ ngân hàng và nhà từ thiện, đã tặng Beatrice và Heinrich một bộ trà bằng bạc có ghi: "Nhiều người con gái có lối sống đạo đức, nhưng ngài là người đức hạnh hơn cả." Thời báo "Times", ngay trước lễ cưới của Vương nữ Beatrice, đã viết rằng: "Sự hy sinh của Vương thân Điện hạ đối với vị Quân chủ yêu dấu của chúng tôi đã có được sự ngưỡng mộ nồng nhiệt và lòng biết ơn sâu sắc nhất của chúng tôi. Cầu mong những phước lành mà từ trước đến nay mà ngài đã trao cho người khác giờ đây sẽ được trở lại với chính ngài." Cau nói này, có khả năng là, chỉ trích việc Nữ vương quá kiểm soát con gái. Vương nữ Beatrice qua đời tại Brantridge Park, ngôi nhà của cháu gái là Vương tôn nữ Alice và chồng là Bá tước xứ Athlone, lúc đó đang đảm nhiệm chức vụ Toàn quyền Canada. Điện Osborne, nơi ở yêu thích của nữ vương Victoria, được mở cửa cho công chúng tiếp cận. Các dinh thự thuộc Điện Osborne của Beatrice, bao gồm Osborne và Albert Cottages, vẫn thuộc sở hữu tư nhân sau khi được bán vào năm 1912. Tước hiệu, kính xưng, huân chương và vương huy. Vương huy. Năm 1858, Beatrice và ba người chị gái được trao quyền sử dụng vương huy, ở giữa là một biểu tượng chiếc khiên của Công quốc Sachsen và được phân biệt bằng dải bạc có ba vạch kẻ. Trong đó, hai vạch kẻ ở hai bên có biểu tượng hoa hồng đỏ và vạch kẻ ở giữa có biểu tượng hình trái tim màu đỏ. Năm 1917, biểu tượng chiếc khiên đã bị xóa bỏ bởi sắc lệnh vương thất từ George V của Liên hiệp Anh.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Helena của Liên hiệp Anh và Ireland, hay Helena của Liên hiệp Anh (tiếng Anh: "Princess Helena of the United Kingdom"; tên đầy đủ: Helena Augusta Victoria; 25 tháng 5 năm 1846 – 9 tháng 6 năm 1923), sau này là Công tử phu nhân Christian xứ Schleswig-Holstein, là con gái thứ ba và là người con thứ năm của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha (tên Anh hóa là Albert). Helena được giáo dục bởi các gia sư được lựa chọn bởi Vương phu Albert và người bạn thân cũng như là cố vấn cố vấn của Albert là Nam tước Stockmar. Helena trải qua tuổi thơ bên cạnh cha mẹ và thường qua lại nhiều dinh thự vương thất khác nhau ở Anh. Bầu không khí thân mật của triều đình Anh kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 1861, khi cha của Helena qua đời và mẹ của vương nữ thì ở trong thời kỳ thương tiếc mãnh liệt vì cái chết của chồng. Vào đầu những năm của thập niên 1860, Helena bắt đầu tán tỉnh một thủ thư người Đức của Vương phu Albert là Carl Ruland. Mặc dù mối quan hệ hầu như không được biết đến, nhưng những bức thư lãng mạn của Helena gửi cho Ruland vẫn còn tồn tại. Sau khi Nữ vương Victoria phát hiện ra mối quan hệ giữa con gái và Carl Ruland vào năm 1863, Victoria đã cho sa thải Ruland, Ruland do đó đã trở về quê hương Đức. Ba năm sau, vào ngày 5 tháng 7 năm 1866, Helena kết hôn với Công tử Christian xứ Schleswig-Holstein nghèo khó. Cặp đôi vẫn ở Anh, vì nữ vương muốn các các con gái ở gần mình. Helena, cùng với em gái út là Vương nữ Beatrice, trở thành thư ký không chính thức của mẹ mình. Tuy nhiên, sau cái chết của Nữ vương Victoria vào ngày 22 tháng 1 năm 1901, Helena ít gặp gỡ những người anh chị em còn sống của mình. Helena là thành viên hoạt động tích cực nhất của vương thất, thực hiện một lượng lớn phong phú về các cuộc chương trình thuộc nhiệm vụ vương thất. Vương nữ cũng là người bảo trợ tích cực cho các tổ chức từ thiện và là một trong những thành viên sáng lập của Hội Chữ thập đỏ Anh. Helena còn là chủ tịch sáng lập của Trường May vá Vương thất, đồng thời là chủ tịch của Hiệp hội Điều dưỡng Bệnh xá Cứu tế và Hiệp hội Y tá Vương thất Anh. Với tư cách là chủ tịch sau này, Vương nữ Helena là người ủng hộ mạnh mẽ việc thống kê y tá theo lời khuyên của Florence Nightingale.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Năm 1916, Helena trở thành thành viên đầu tiên trong gia đình kỷ niệm 50 năm ngày cưới, nhưng chồng của Vương nữ đã qua đời chỉ một năm sau đó. Helena sống lâu hơn chồng sáu năm và qua đời ở tuổi 77 vào năm 1923. Những năm đầu đời. Helena được sinh ra tại Cung điện Buckingham, nơi ở chính thức của vương thất ở Luân Đôn, là con gái thứ ba và là người con thứ năm của Victoria của Liên hiệp Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Helena ra đời vào ngày 25 tháng 5 năm 1846, một ngày sau sinh nhật lần thứ 27 của Victoria. Albrecht/Albert đã chia sẻ với anh trai của mình là Ernst II, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha rằng Helena "khá xanh xao khi mới sinh, nhưng hiện tại con bé đã ổn hơn nhiều". Vương phu còn chia sẻ rằng nữ vương Victoria "đã phải chịu đau đớn lâu hơn so với những lần khác và nàng sẽ phải nghỉ ngơi rất nhiều để hồi phục." Albert và Victoria quyết định đặt tên cho con gái là "Helena Augusta Victoria". Biệt danh tiếng Đức của Helena là "Helenchen", sau này được rút ngắn thành "Lenchen" và là cái tên mà các thành viên vương thất thường gọi Helena. Là con gái của một quân chủ Anh, Helena được gọi là Vương nữ Helena Điện hạ ("Her Royal Highness The Princess Helena") từ khi sinh ra. Helena được rửa tội vào ngày 25 tháng 7 năm 1846 tại nhà nguyện riêng ở Cung điện Buckingham. Cha mẹ đỡ đầu của vương nữ là Đại Công tước Mecklenburg-Strelitz (chồng của Augusta xứ Cambridge, em họ của Nữ vương Victoria); Công tước phu nhân xứ Orléans, đại diện bởi Thái Công tước phu nhân xứ Kent (mẹ của Nữ vương Victoria); và Công tước phu nhân xứ Cambridge (thím của Victoria). Helena là một đứa trẻ hoạt bát và bộc trực, vương nữ đã đáp trả lại sự trêu chọc của anh trai bằng hành động đấm vào mũi. Vương nữ còn có tài năng về hội họa. Phu nhân Augusta Stanley, một thị tùng của nữ vương Victoria đã đưa ra lời nhận xét có cánh về tác phẩm nghệ thuật của vương nữ Helena ba tuổi. Giống như các chị gái của mình, Helena có thể chơi piano với tiêu chuẩn cao ngay từ khi còn nhỏ. Các sở thích khác của vương nữ gồm có khoa học và công nghệ giống với cha của Helena là Vương phu Albert và cưỡi ngựa và chèo thuyền, hai trong số những hoạt động vương nữ ưa thích khi còn nhỏ.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Tuy nhiên, Helena trở thành con gái thứ sau khi em gái là Vương nữ Louise chào đời vào năm 1848, và khả năng của Helena đã bị lu mờ bởi những người chị em gái khác. Cái chết của Vương phu Albert. Cha của Helena, Vương phu Albert đã qua đời vào ngày 14 tháng 12 năm 1861. Nữ vương Victoria vô cùng đau buồn và ra lệnh cho các thành viên trong hộ gia cùng với các con gái của mình chuyển từ Windsor đến Điện Osborne thuộc Đảo Wight. Helena cũng vô cùng đau buôn trước việc cha mình qua đời, và một tháng sau, vương nữ đã viết cho một người bạn kể rằng: Nữ vương Victoria giao cho cô con gái lớn thứ hai là Vương nữ Alice vai trò thư ký không chính thức, nhưng Alice cũng cần một trợ lý của riêng mình. Mặc dù Helena là người chị lớn chỉ sau Victoria (Vương nữ Vương thất) và Alice, nhưng Helena bị Victoria coi là không đáng tin cậy vì không thể đảm nhận trong thời gian dài mà không bật khóc. Vì vậy, Louise đã được chọn để đảm nhận vai trò này thay cho Helena. Năm 1862, Vương nữ Alice kết hôn với Đại Công tử Ludwig xứ Hessen, do đó Helena đảm nhận vai trò của chị gái. Helena được một người viết tiểu sử mô tả là "cái nạng" cho tuổi già của nữ vương - và luôn bên cạnh mẹ mình. Với vai trò mới, Helena thực hiện các nhiệm vụ như viết thư cho nữ vương, giúp mẹ mình xử lý thư từ chính trị và bầu bạn cùng mẹ. Hôn nhân. Những tranh cãi. Vương nữ Helena bắt đầu tán tỉnh người thủ thư cũ của cha là Carl Ruland, sau khi Carl được bổ nhiệm vào Hộ gia Vương thất theo lời giới thiệu của Nam tước Stockmar vào năm 1859. Carl Ruland được tín nhiệm để dạy tiếng Đức cho anh trai của Helena là Thân vương xứ Wales trẻ tuổi, và được Nữ vương Victoria mô tả là "hữu ích và có năng lực". Khi Nữ vương phát hiện ra rằng Helena có quan hệ tình cảm với một cận thần của vương thất, Carl đã nhanh chóng bị cho nghỉ việc và phải trở về quê hương Đức và anh ta không bao giờ cải thiện được sự thù địch mà Nữ vương Victoria dành cho mình. Sau khi Ruland trở về Đức vào năm 1863, Nữ vương Victoria tiến hành tìm kiếm một người chồng cho Helena. Tuy nhiên, vì là người con giữa, triển vọng về một liên minh hùng mạnh với một vương thất châu Âu là rất thấp.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Ngoại hình của Helena cũng là một mối quan tâm, vì ở độ tuổi mười lăm, người viết tiểu sử của Helena đã mô tả Vương nữ có dáng người mập mạp, xuề xòa và có hai cằm. Hơn nữa, Victoria nhấn mạnh rằng người chồng tương lai của Helena phải sống gần Nữ vương, do đó Victoria sẽ được ở gần con gái. Sau cùng, Helena đã chọn kết hôn với Công tử Christian xứ Schleswig-Holstein; tuy nhiên, việc kết giao này đã gây ra sự khó xử về mặt chính trị và gây ra sự rạn nứt nghiêm trọng trong vương thất. Schleswig và Holstein là hai lãnh thổ bị tranh chấp giữa Phổ và Đan Mạch trong Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất và lần thứ hai. Phổ và Áo đánh bại Đan Mạch, nhưng Áo đã tuyên bố các công quốc này thuộc về gia tộc Công tử Christian. Tuy nhiên,do hệ quả từ Chiến tranh Áo-Phổ, trong đó Phổ xâm lược và chiếm đóng các công quốc, do đó hai công quốc Schleswig và Holstein thuộc về Phổ, nhưng tước hiệu Công tước xứ Schleswig-Holstein vẫn được gia tộc Công tử Christian tuyên bố thuộc về họ. Do đó, cuộc hôn nhân đã khiến con gái của Quốc vương Christian IX của Đan Mạch là Alexandra, Vương phi xứ Wales kinh hoàng, người đã thốt lên rằng: "Các Công quốc ấy thuộc về cha." Alexandra nhận được sự ủng hộ từ chồng, em chồng là Vương tử Alfred và người chị gái thứ hai của chồng là Vương nữ Alice, người đã công khai buộc tội nữ vương Victoria đã hy sinh hạnh phúc của Helena vì lợi ích của mình. Alice cũng lập luận rằng điều đó sẽ làm giảm mức độ yêu thích vốn đã thấp của người chị cả là Vương nữ Victoria Adelaide hiện là Vương thái tử phi nước Phổ tại triều đình ở Berlin. Tuy nhiên, bất ngờ thay là Vương nữ Victoria, người là bạn thân của gia đình Christian trong nhiều năm, lại nhiệt tình ủng hộ liên minh hôn nhân này. Bất chấp những tranh cãi về chính trị và sự chênh lệch tuổi tác giữa hai người - Christian lớn hơn Helena mười lăm tuổi - Helena vẫn hạnh phúc với Christian và quyết tâm gả cho Công tử. Là con trai thứ của một công tước không trị vì, việc không có bất kỳ cam kết ngoại quốc nào cho phép Christian ở lại Anh vĩnh viễn - đáp ứng được mối quan tâm hàng đầu của Nữ vương Victoria - và nữ vương tuyên bố cuộc hôn nhân sẽ được tiến hành. Helena và Christian cũng là họ hàng năm đời thông qua Frederick, Thân vương xứ Wales.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Mối quan hệ giữa Helena và Alexandra vẫn căng thẳng, và Alexandra không sẵn sàng chấp nhận Christian (người cũng là anh năm đời của Alexandra thông qua Quốc vương Frederik V của Đan Mạch) với tư cách là anh họ hay là em rể. Nữ vương Victoria không bao giờ dung thứ cho Alexandra vì những cáo buộc về tính chiếm hữu, và đã viết về nhà Wales ngay sau đó: "Bertie là người tình cảm và tốt bụng nhất nhưng Alix (tên thân mật của Alexandra) hoàn toàn hành xử không phù hợp. Sẽ rất lâu, nếu có, trước khi con bé lấy lại được lòng tin của ta." Đính hôn và đám cưới. Lễ đính hôn được thông báo vào ngày 5 tháng 12 năm 1865, và bất chấp việc Thân vương xứ Wales ban đầu từ chối tham dự, Vương nữ Alice đã can thiệp và đám cưới đã rở thành một sự kiện vui vẻ. Nữ vương Victoria cho phép buổi lễ diễn ra tại Lâu đài Windsor, mặc dù l2 trong Nhà nguyện riêng chứ không phải tại Nhà nguyện Thánh George vốn rộng lớn hơn vào ngày 5 tháng 7 năm 1866. Nữ vương đội lên mình chiếc mũ tang màu trắng phủ qua lưng để giảm sự u ám từ trang phục tang màu đen của mình. Những người tham gia chính tiến vào nhà nguyện theo âm thanh của Bản nhạc khải hoàn của Beethoven, tuy nhiên buổi lễ bị gián đoạn bởi sự biến mất đột ngột của Vương tôn George, Công tước xứ Cambridge, người bị một cơn gút đột ngột. Christian tiến vào nhà nguyện cùng với Edward xứ Sachsen-Weimar-Eisenach và Frederic xứ Schleswig-Holstein, còn Helena được nữ vương trao cho Christian, người đã hộ tống vương nữ vào lễ đường cùng với Thân vương xứ Wales và tám phù dâu. Christian trông già hơn thường ngày, và một vị khách nhận xét rằng Helena trông như thể đang kết hôn với một ông chú lớn tuổi. Thật tế, khi lần đầu tiên được triệu tập đến Anh, Christian cho rằng vị Nữ vương góa chồng đang xem xét cưới Christian như một người chồng mới hơn là một ứng cử viên cho một trong những cô con gái của nữ vương. Cặp đôi trải qua đêm đầu tiên trong cuộc sống hôn nhân tại Điện Osborne, trước khi hưởng tuần trăng mật ở Paris, Interlaken và Genoa. Đời sống hôn nhân. Vương nữ Helena và chồng là Christian sống hết lòng vì nhau và có một cuộc sống bình lặng so với những người chị em của Helena. Sau khi đã kết hôn, Helena và Christian cư trú tại Cumberland Lodge ở Đại Công viên Windsor, nơi ở truyền thống của Kiểm soát viên Đại Công viên Windsor, chức vị danh dự được Nữ vương ban tặng cho Christian.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Khi ở Luân Đôn, họ sống tại Dãy phòng Bỉ trong Cung điện Buckingham. Cặp đôi có với nhau sáu người con: Christian Victor vào năm 1867, Albert vào năm 1869, và Helena Victoria và Marie Louise lần lượt vào năm 1870 và 1872. Hai người con trai cuối cùng của hai vợ chồng qua đời từ khi còn rất nhỏ; trong đó Harald qua đời tám ngày sau khi ra đời vào năm 1876, và một đứa con trai chưa được đặt tên đã qua đời sau khi sinh vào năm 1877. Vương nữ Louise, em gái của Helena, đã ủy quyền cho nhà điêu khắc người Pháp Jules Dalou điêu khắc một đài tưởng niệm những đứa bé sơ sinh đã chết của chị gái. Hai vợ chồng được cấp một khoản tiền từ quốc hội là 6.000 bảng Anh hằng năm, được đích thân nữ vương Victoria yêu cầu. Ngoài ra còn có thêm khoản hồi môn trị giá 30.000 bảng Anh và Nữ vương cũng trao tặng cho cặp đôi 100.000 bảng Anh, kèm theo đó là thu nhập hằng năm khoảng 4.000 bảng Anh. Bên cạnh chức vị Kiểm soát viên của Công viên Windsor, Christian đã được trao vị trí danh dự là Đại Cận thần Cấp cao của Phố chợ Windsor, và được bổ nhiệm làm thành viên của Ủy ban Triển lãm Vương thất năm 1851. Tuy nhiên, Christian thường vắng mặt tại các cuộc họp, thay vào đó là dành thời gian chơi với chú chó Corrie, cho đàn chim bồ câu ăn và bắt tay vào các chuyến đi săn bắn. Helena, như đã hứa, tiếp tục sống gần Nữ vương Victoria và cùng với Beatrice thực hiện nghĩa vụ của mình đối với mẹ. Beatrice, người được Victoria chuẩn bị để đảm nhận vai trò bên cạnh nữ vương, thực hiện những nhiệm vụ quan trọng hơn, còn Helena đảm nhận những công việc đơn giản hơn mà Beatrice không có thời gian để thực hiện. Trong những năm sau đó, Helena được hỗ trỡ bởi cô con gái chưa lập gia đình là Helena Victoria, người thực hiện việc ghi nhận thông tin từ Victoria vào nhật ký của nữ vương.  Sức khỏe của Helena không được tốt và vương nữ bị nghiện thuốc phiện và laudanum. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria không tin rằng Helena thực sự bị bệnh và buộc tội con gái mắc chứng hoang tưởng thái quá về sức khỏe và bị thúc đẩy từ người chồng nuông chiều của vương nữ.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Nữ vương Victoria đã viết thư cho con gái cả Vicky, phàn nàn rằng Helena có xu hướng "bảo vệ bản thân quá mức (và cả Christian nữa) và dễ suy sụp với mọi thứ và mục tiêu lớn nhất của các bác sĩ và y tá là khích lệ con bé và khiến nó bớt nghĩ về bản thân và bớt tự cô lập chính mình". Tuy nhiên không phải mọi nỗi sợ hãi về sức khỏe của Helena chỉ đơn giản là hệ quả của chứng hoang tưởng về sức khỏe; năm 1869, vương nữ phải hủy chuyến đi đến Lâu đài Balmoral khi bị bệnh ở nhà ga. Năm 1870, vương nữ bị bệnh thấp khớp nặng và các khớp xương của bà gặp vấn đề. Vào tháng 7 năm 1871, Helena bị tắc nghẽn phổi, nghiêm trọng đến mức bên Thông tư Triều đình thông báo rằng căn bệnh của vương nữ đem lại "nhiều lo lắng cho các thành viên vương thất". Năm 1873, vương nữ buộc phải dưỡng bệnh ở Pháp và vào những năm 1880, Helena đến Đức để gặp bác sĩ nhãn khoa. Các hoạt động xã hội. Điều dưỡng. Helena rất quan tâm đến công việc điều dưỡng và là chủ tịch sáng lập của Ủy ban Phụ nữ của Hội Chữ thập đỏ Anh vào năm 1870, đóng vai trò tích cực trong việc tuyển dụng y tá và các tổ chức tiếp tế trong Chiến tranh Pháp-Phổ. Sau đó, vương nữ trở thành Chủ tịch của Hiệp hội Y tá Anh (RBNA) được thành lập vào năm 1887. Năm 1891, hiệp hội nhận được từ "Vương thất" vào tên và nhận được hiến chương vương thất vào năm sau. Helena là người ủng hộ mạnh mẽ việc đăng ký y tá, một vấn đề bị cả Florence Nightingale và những nhân vật hàng đầu phản đối. Trong một bài phát biểu của vào năm 1893, vương nữ đã phát biểu rằng RBNA đang hướng tới việc "cải thiện giáo dục và "địa vị" của những người phụ nữ tận tụy và hy sinh, cả đời cống hiến cho việc chăm sóc người bệnh, người đau khổ và người đang hấp hối". Cũng trong bài phát biểu, Helena cảnh báo về sự phản đối và xuyên tạc mà họ đã gặp phải. Mặc dù RBNA ủng hộ việc đăng ký như một phương tiện để nâng cao và đảm bảo tình trạng chuyên nghiệp của các y tá đã qua đào tạo, nhưng việc kết hợp với Hội đồng Cơ mật đã cho hiệp hội duy trì một danh sách các y tá hơn là một sổ đăng ký y tá chính thức.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Sau cái chết của Nữ vương Victoria vào năm 1901, tân vương hậu Alexandra nhất quyết thay thế Helena trở thành Chủ tịch của Dịch vụ Điều dưỡng Quân đội. Điều này đã làm gia tăng thêm sự rạn nứt giữa các thành viên nữ trong vương thất, và Edward VII bị mắc kẹt giữa em gái và vợ của mình. Quý bà Roberts, một cận thần, đã viết cho một người bạn: "Các vấn đề đôi khi "rất" khó khăn và không phải lúc nào cũng dễ chịu." Tuy nhiên, xét theo cấp bậc, Helena đồng ý từ chức để thành toàn cho Alexandra, và vương nữ tiếp tục giữ chức vụ chủ tịch của Khu bảo tồn Điều dưỡng Quân đội. Mặc dù được cho là chỉ đơn thuần là một thực hành được tạo ra bởi các quý cô thượng lưu, Helena đã tạo nên một thể chế chuyên quyền và hiệu quả—"nếu có ai dám không đồng ý với Vương thân Điện hạ, vương nữ chỉ cần nói, 'Đó là ý muốn của ta, thế là đủ.'" Hiệp hội RBNA dần đi vào suy thoái sau Đạo luật Đăng ký Y tá năm 1919; sau sáu lần thất bại từ năm 1904 đến năm 1918, Quốc hội Liên hiệp Anh đã thông qua dự luật cho phép đăng ký y tá chính thức. Kết quả là Trường Đại học Điều dưỡng Vương thất (RCN) và RBNA mất tư cách thành viên và quyền thống trị. Helena ủng hộ đề xuất hợp nhất RBNA với RCN, nhưng không thành công khi RBNA rút lui khỏi các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, vương nữ vẫn hoạt động tích cực trong các tổ chức điều dưỡng khác, và là chủ tịch của các chi nhánh Đường sắt Đảo Wight, Windsor và Great Western của Huân chương Thánh John. Ở vị trí này, Helena đã đích thân ký và xuất trình hàng ngàn chứng chỉ thành thạo về điều dưỡng. Công việc may vá. Helena cũng tích cực trong việc quảng bá nghề may vá, và trở thành chủ tịch đầu tiên của "Trường Nghệ thuật May vá" thành lập vào năm 1872; vào năm 1876, trương được nhận thêm có tiền tố "vương thất" vào tên gọi, do đó trở thành Trường May vá Vương thất. Theo như Helena, mục tiêu của trường học là: "thứ nhất, hồi sinh một môn nghệ thuật đẹp đẽ đã gần như bị mai một; và thứ hai, thông qua sự hồi sinh của nó, cung cấp việc làm cho những quý cô không có phương tiện kiếm sống phù hợp." Cũng như các tổ chức khác của mình, Helena là một chủ tịch tích cực và cố gắng để giữ cho trường được ngang hàng với các trường học khác.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Vương nữ đã viết thư cho Ủy viên Vương thất yêu cầu tiền; chẳng hạn, vào năm 1895, Helena đã viết thư yêu cầu và nhận được 30.000 bảng Anh để xây dựng một tòa nhà cho trường học ở Nam Kensington. Thân phận vương thất của Helena cũng hỗ trợ cho việc quảng bá, và vương nữ đã tổ chức các bữa tiệc trà chiều thứ Năm tại trường học dành cho các quý cô thượng lưu, những người muốn được xuất hiện trước các thành viên vương thất như Vương nữ Helena. Khi Hội chợ Giáng sinh được tổ chức, Helena đóng vai trò là người bán hàng chính, khiến nhiều người xếp thành các hàng dài với mong muốn được phục vụ tận tay bởi vương nữ. Helena rất nhiệt thành trong việc giúp đỡ trẻ em và những người thất nghiệp, và bắt đầu tổ chức các bữa tối miễn phí vì lợi ích của nhóm người này tại Tòa thị chính Windsor. Vương nữ đã chủ trì hai trong số những bữa tối này vào tháng 2 và tháng 3 năm 1886, và hơn 3.000 bữa ăn đã được phục vụ cho trẻ em và những người đàn ông thất nghiệp trong mùa đông khắc nghiệt năm đó. Thông qua các hoạt động từ thiện, vương nữ được mọi người yêu mến; một cây viết đương thời là C. W. Cooper đã viết rằng "những người nghèo khổ ở Windsor tôn thờ đức ngài". Sự nghiệp viết lách. Một những sở thích khác của Helena chính là viết lách, đặc biệt là dịch thuật . Năm 1867, khi cuốn tiểu sử đầu tiên về cha của ngài là Vương phu Albert được chắp bút, tác giả của cuốn sách là Quý ông Charles Grey đã ghi nhận rằng những bức thư của Vương phu được Helena dịch từ tiếng Đức sang tiếng Anh "với độ chính xác đáng ngạc nhiên". Năm 1887, helena xuất bản bản dịch "Hồi ký của Wilhelmine của Phổ, Phong địa Bá tước phu nhân xứ Bayreuth". Tờ "Saturday Review" đã ghi nhận rằng Helena đã dịch nên một phiên bản tiếng Anh hoàn toàn sống động, với khả năng dịch thuật từ rất sát nghĩa và có tinh thần chính xác cao. Bản dịch cuối cùng của vương nữ được thực hiện vào năm 1882, dựa trên một cuốn sách nhỏ bằng tiếng Đức có tựa đề "Sơ cứu cho người bị thương" ("First Aid to the Injured"), ban đầu được xuất bản bởi anh rể của Christian. Bả dịch được tái bản nhiều lần cho đến năm 1906. Sự việc Bergsträsser.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Sự việc Bergsträsser. Một vấn đề về bản quyền đã nảy sinh sau khi xuất bản bộ sưu tập những bức thư được viết bởi chị gái của Helena, Vương nữ Alice. Ở Đức, một ấn bản những bức thư của Alice đã được xuất bản vào năm 1883, bởi một giáo sĩ người Darmstadt có tên là Carl Sell. Carl Sell đã chọn một số bức thư của Alice đã được Nữ vương gửi cho mình để xuất bản. Khi bộ sưu tập được xuất bản, Helena đã viết thư cho Sell với mong muốn được phép xuất bản bản dịch tiếng Anh. Việc dịch thuật đã được chấp thuận, nhưng nhà xuất bản là Tiến sĩ Bergsträsser thì không hề hay biết về chuyện này. Vào tháng 12 năm 1883, Helena đã viết thư cho Ngài Theodore Martin, một nhà viết tiểu sử được vương thất ưu ái, thông báo với Theodore rằng Bergsträsser đang khiếu nại về bản quyền các bức thư của Alice, và trên cơ sở đó yêu cầu trì hoãn xuất bản ấn bản tiếng Anh. Martin đảm nhiệm vai trò trung gian giữa Helena và Bergsträsser, người tuyên bố rằng đã nhận được nhiều lời đề nghị từ các nhà xuất bản Anh, và người được chọn sẽ nhận được một khoản thù lao cao. Bergsträsser đã được thuyết phục từ bỏ yêu cầu trì hoãn việc xuất bản và sửa đổi các khiếu nại về bản quyền để đổi lấy một khoản tiền. Tuy nhiên, Nữ vương Victoria và Vương nữ Helena đã từ chối và cho rằng bản quyền vốn thuộc về Nữ vương và chỉ có lời tựa mở đầu của Sell mới có thể được thương lượng. Các quý bà của vương thất coi những tuyên bố của Bergsträsser là "không thể chấp nhận được nếu không muốn nói là láo xược", và sẽ không giao tiếp trực tiếp với Bergsträsser. Cuối cùng, Bergsträsser đến Anh vào tháng 1 năm 1884, sẵn sàng chấp nhận 100 bảng Anh cho 3.000 ấn bản đầu tiên và thêm 40 bảng cho mỗi 1.000 ấn bản tiếp theo được tiêu thụ. Martin đã chọn nhà xuất bản John Murray, người sau khi đàm phán thêm với Bergsträsser, đã in những ấn bản đầu tiên vào giữa năm 1884. Bản dịch đã bán hết gần như ngay lập tức; và đối với lần xuất bản thứ hai, Murray đã thay thế bản phác thảo tiểu sử của Carl Sell về Vương nữ Alice bằng phần hồi ký dài 53 trang do Vương nữ Helena viết. Do đó, vấn đề về bản quyền đã được giải quyết, và việc Helena đặt tên của mình cho cuốn hồi ký về chị gái đã thu hút sự quan tâm nhiều hơn cho cuốn sách.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Cuộc sống sau triều đại của Nữ vương Victoria của Liên hiệp Anh. Thời đại Edward. Người con trai cưng của Helena, Vương tôn Christian Victor qua đời năm 1900, ba tháng sau đó thì mẹ của Helena là Nữ vương Victoria cũng qua đời tại Điện Osborne vào ngày 22 tháng 1 năm 1901. Tân vương Edward VII không có quan hệ thân thiết với những người chị em gái còn sống của mình, ngoại trừ Vương nữ Louise. Người cháu trai gọi bác của Helena là Vương tôn Alexander của Battenberg (sau này là Hầu tước xứ Carisbrooke) đã ghi nhận rằng Vương hậu Alexandra ghen tị với các hành viên vương thất và sẽ không mời các chị em chồng của mình đến Sandringham. Hơn nữa, Alexandra chưa bao giờ hòa giải hoàn toàn với Helena và Christian sau những tranh cãi về hôn nhân của hai vợ chồng vào những năm 1860. Helena tương đối ít gặp những người anh chị em còn sống của mình nhưng vẫn tiếp tục vai trò hỗ trợ cho chế độ quân chủ và là người vận động cho nhiều tổ chức từ thiện mà vương nữ đại diện. Helena và Christian có một cuộc sống bình lặng, nhưng hai người đều thực hiện một số nhiệm vụ vương thất. Trong một lần, cặp đôi đã đại diện cho Quốc vương tại lễ kỷ niệm đám cưới bạc vào năm 1906 của Hoàng đế Wilhelm II của Đức (cháu trai gọi dì của Helena) và vợ ông là Auguste Viktoria (cháu gái gọi chú của Christian). Trong thời đại Edward, Helena đã đến thăm mộ của con trai, Vương tôn Christian Victor, người đã qua đời vào năm 1900 sau một cơn sốt rét khi phục vụ trong Chiến tranh Boer lần thứ hai.Vương nữ đã được gặp Thủ tướng Nam Phi là Louis Botha, nhưng Jan Smuts từ chối gặp Helena, một phần vì không quên được Nam Phi đã thua trong cuộc chiến và một phần vì con trai ông đã chết trong trại tập trung của Anh. Năm 1902, Công tử Christian và Vương nữ Helena chuyển đến Điện Schomberg, số 77–78 Đường Pall Mall, Luân Đôn, một nửa con đường hiện là một phần của Câu lạc bộ Oxford và Cambridge. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, Helena là một trong số ít họ hàng bên ngoại mà cháu trai Wilhelm II thân thiết. Khi đứa con đầu lòng ra đời, Wilhelm II đã đi ngược lại truyền thống của Phổ khi yêu cầu Helena, chứ không phải mẹ mình, chỉ định một nhũ mẫu cho con trai, gây ra một vụ bê bối trong gia đình. Những năm cuối đời. Sau khi Quốc vương Edward VII qua đời năm 1910, Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra vào năm 1914.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Helena tiếp tục cống hiến cho việc điều dưỡng, và con gái của vương nữ, Vương tôn nữ Marie Louise, đã ghi lại trong hồi ký của mình rằng những yêu cầu về tin tức của những người thân tín đã đến tai Helena và các chị em gái của vương nữ. Các bức thư sau đó được quyết định rằng nên được chuyển tiếp tới Vương tôn nữ Margaret, Thái tử phi Thụy Điển, cháu gái gọi bác của Vương nữ Helena, vì Thụy Điển trung lập trong chiến tranh. Cũng trong khoảng thời gian này, Helena và Christian tổ chức lễ kỷ niệm đám cưới vàng của hai vợ chồng vào năm 1916, và bất chấp thực tế là Anh và Đức đang có chiến tranh, Kaiser Wilhelm II đã gửi một bức điện tín chúc mừng tới dì và dượng của mình thông qua Thái tử phi Thụy Điển. Quốc vương George V và Vương hậu Mary đã có mặt khi nhận được bức điện tín, và George V đã nhận xét với con gái của Helena là Marie Louise rằng chồng cũ của vương tôn nữ, Công tử Aribert xứ Anhalt, đã làm phước cho Marie Louise khi rời bỏ Vương tôn nữ. Khi Marie Louise nói rằng vương tôn nữ sẽ bỏ trốn đến Anh nếu vẫn còn kết hôn, George V đã đáp trả lại, "với một cái nháy mắt", rằng quốc vương sẽ phải giam Marie Louise lại. Năm 1917, trước làn sóng bài Đức bao trùm cuộc chiến, Quốc vương George V đã đổi tên vương tộc từ Saxe-Coburg và Gotha thành Windsor. George V cũng tước bỏ các danh hiệu và kính xưng Đức của gia đình, vì vậy Helena và các con gái chỉ được gọi đơn giản là "Công tử phu nhân Christian, Vương tôn nữ Helena Victoria và Vương tôn nữ Marie Louise" mà không có hậu tố chỉ định lãnh thổ. Người con trai còn sống của Helena là Albert chiến đấu theo phe Phổ nhưng tuyên bố rằng bản thân sẽ không chiến đấu chống lại đất nước của mẹ mình. Cùng năm đó, vào ngày 28 tháng 10, Công tử Christian qua đời tại Điện Schomberg. Trong những năm cuối đời của Helena phải nhiều lần tranh cãi với các Ủy viên vì họ muốn đuổi vương nữ ra khỏi Điện Schomberg và Cumberland Lodge vì chi phí duy trì các hộ gia của Helena. Tuy nhiên, phía Ủy viên đã thất bại vì có các bằng chứng rõ ràng rằng Helena có quyền được sống tại những nơi này suốt đời. Qua đời. Vương nữ Helena qua đời tại Điện Schomberg vào ngày 9 tháng 6 năm 1923 ở tuổi 77.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Đám tang của vương nữ được nhà viết tiểu sử Seweryn Chomet mô tả là một "khung cảnh hoàng tráng", do Quốc vương George V dẫn đầu. Trung đoàn của người con trai Christian Victor xếp hàng dọc theo các bậc thang của Nhà nguyện St. George tại Lâu đài Windsor. Helena ban đầu được chôn cất trong Hầm mộ Vương thất tại Nhà nguyện Thánh George vào ngày 15 tháng 6 năm 1923, sau đó thi thể của vương nữ đã được cải táng tại Khu Chôn cất Vương thất tại Frogmore, cách Windsor vài dặm, sau khi được thánh hiến vào ngày 23 tháng 10 năm 1928. Di sản. Helena tận tâm với công việc điều dưỡng và dẫn đầu các tổ chức từ thiện mà vương nữ đại diện. Vương nữ cũng là một nhà vận động tích cực, và đã viết thư cho các tờ báo và tạp chí để thúc đẩy lợi ích của việc đăng ký y tá. Thân phận vương thất của Helena đã giúp thúc đẩy sự quan tâm của công chúng và xã hội bao quanh các tổ chức như Hiệp hội Y tá Vương thất Anh. Hiệp hội vẫn tồn tại cho đến ngày nay với Aubrey Rose là chủ tịch. Emily Williamson, người thành lập Hiệp hội Việc làm cho Phụ nữ ở Manchester; một trong những dự án của nhóm này là Trường Cao đẳng Đào tạo Y tá của Helena ở Fallowfield, Manchester. Về ngoại hình, John Van der Kiste miêu tả Helena có dáng người bụ bẫm và xuề xòa; và về tính cách, thì là người điềm tĩnh và thích kinh doanh, với tinh thần độc đoán. Vào một dịp nọ, trong một cuộc Đình công Bến tàu Quốc gia, Tổng Giám mục Canterbury đã soạn một bài cầu nguyện với hy vọng sự việc này sẽ nhanh chóng kết thúc. Helena đã đến nhà thờ, xem xét giấy tờ và bằng giọng nói được mô tả là "tiếng thì thầm xuyên thấu của vương thất, vang xa hơn bất kỳ chiếc loa phóng thanh nào" của con gái, nhận xét rằng: "Lời cầu nguyện đó sẽ không giải quyết được bất kỳ cuộc đình công nào." Ngoại hình và tính cách của Helena đã bị Nữ vương Victoria chỉ trích trong các bức thư và nhật ký của mình, và các nhà viết tiểu sử cũng cùng quan điểm với nữ vương.
Helena của Liên hiệp Anh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816007
Tuy nhiên, con gái của Helena, Vương tôn nữ Marie Louise, mô tả mẹ của mình như sau Âm nhạc là một trong những niềm đam mê của Helena; khi còn trẻ, vương nữ đã chơi piano với Charles Hallé, Jenny Lind và Clara Butt, những người bạn thân của đức nữ, và Helena là một trong những thành viên đầu tiên của Dàn hợp xướng Bach ở Luân Đôn, được thành lập bởi chồng của Lind (và là giáo viên dạy piano cũ của Helena) là Otto Goldschmidt. Quyết tâm thực hiện nhiều nghĩa vụ vương thất của Helena đã khiến đức ngài nhận được sự yêu mến của công chúng. Vương nữ đã hai lần đại diện cho mẹ tại Phòng Vẽ ("Drawing Rooms"), việc tham dự sự kiện được coi như là được diện kiến chính nữ vương. Helena thân thiết nhất với anh trai Alfred, người coi Helena là em gái cưng của mình. Mặc dù được những người đương thời mô tả là hết lòng vì Nữ vương Victoria, đến mức không có lập trường của riêng mình, nhưng Helena đã tích cực vận động cho quyền của phụ nữ, một lĩnh vực mà nữ vương ghê tởm. Tuy nhiên, cả cô và Beatrice vẫn là những người gần gũi với mẹ nhất, và Helena vẫn ở bên nữ vương cho đến khi Victoria qua đời. Helena là người cuối cùng được đề cập đến trong nhật ký bảy mươi tuổi của nữ vương Victoria. Tước hiệu, kính xưng, huân chương và vương huy. Vương huy. Năm 1858, Helena và ba người chị em gái được trao quyền sử dụng vương huy, ở giữa làvới một dấu khắc trên một biểu tượng chiếc khiên của Công quốc Sachsen, và được phân biệt bằng một dải bạc gồm 3 vạch kẻ. Trong đó, hai vạch kẻ ở hai bên có biểu tượng hoa hồng đỏ và vạch kẻ ở giữa có biểu tượng chữ thập đỏ. Năm 1917, biểu tượng chiếc khiên đã bị xóa bỏ sắc lệnh vương thất từ George V của Liên hiệp Anh. Hậu duệ. Christian và Helena có với nhau sáu người con, bốn người trong đó đã sống đến tuổi trưởng thành. Hai vợ chồng có một người cháu là Valerie Marie zu Schleswig-Holstein, mất năm 1953 với tư cách là hậu duệ cuối cùng của Christian và Helena.
Juan Carlos Zubczuk
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816012
Juan Carlos Zubczuk Miszuk (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1965 ở Oberá, Misiones) là một thủ môn bóng đá chuyên nghiệp người Argentina-Peru. Ông là người gốc Ukraina. Sự nghiệp câu lạc bộ. Ông chơi cho Racing Club de Avellaneda ở Argentina, và Universitario de Deportes cũng như Alianza Atlético ở Peru.
Adel al-Zubeidi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816016
Adel al-Zubeidi là một luật sư bào chữa trong các phiên toà xét xử Hussein thuộc nhóm pháp lý đại diện cho Taha Yassin Ramadan. Ông bị giết vào ngày 8 tháng 11 năm 2005, bởi ba tay súng lái một chiếc Opel hoặc một "chiếc xe của chính phủ" bên ngoài Adil, một khu lân cận có đông người theo Hồi giáo Sunni của Baghdad. Ông đi cùng với Thamer Hamoud al-Khuzaie, một luật sư khác cũng liên quan đến các phiên tòa, người đã bị thương trong vụ tấn công. Ông đã dự đoán được mình sẽ bị giết vào ngày hôm trước. Ông là luật sư thứ hai của Saddam bị sát hại bởi các thế lực không rõ danh tính, cái chết của ông xảy ra chưa đầy ba tuần trước cái chết của Saadoun Sughaiyer al-Janabi.
Danh sách tiền chấn và dư chấn Động đất và sóng thần Tōhoku 2011
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816019
Theo Cục Khí tượng Nhật Bản, Nhật Bản đã trải qua hơn 900 cơn dư chấn sau trận động đất và sóng thần Tōhoku với khoảng 63 dư chấn mạnh có cường độ trên 6.0 richter. Dưới đây là Danh sách các tiền chấn và dư chấn Động đất và sóng thần Tōhoku 2011.
Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816022
Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek (Tiếng Hàn: 수서평택고속선, Hanja: 水西平澤高速線)là tuyến đường sắt cao tốc bắt đầu tại Ga Suseo ở Gangnam-gu, Seoul đi qua Ga Dongtan và Ga PyeongtaekJije, và kết nối với Đường sắt cao tốc Gyeongbu tại Tuyến kết nối Pyeongtaek. Hướng di chuyển là giao thông bên trái ở mọi nơi. Đặc trưng. Tương lai. Trong tương lai, Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek được lên kế hoạch sử dụng cho tuyến đường sắt cao tốc khu vực đô thị tuyến A. Danh sách ga. Tên ga và khoảng cách kinh doanh đã được công bố trong Thông báo số 2016-219 của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải và được sửa đổi trong Thông báo số 2016-732 của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải. Tuyến nhánh. Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek có tổng cộng 1 nhánh đường sắt. Tuyến cao tốc kết nối Pyeongtaek. Tuyến cao tốc kết nối Pyeongtaek kết nối Đường sắt cao tốc Suseo–Pyeongtaek và Tuyến Gyeongbu. Số tuyến trên Bảng khoảng cách kinh doanh đường sắt Hàn Quốc của Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải là 10301. Nó đang được xây dựng như một phần của dự án KTX từ Suwon.
Chiến tranh Pool
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816024
Chiến tranh Pool là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Congo và Ninja ở khu vực hành chính Pool, 1 khu vực hành chính của Congo. Căng thắng gia tăng giữa Frédéric Bintsamou (được biết đến là Pastor Ntumi) và tổng thống Congo là Denis Sassou-Nguesso, sau khi Bintsamou đặt vấn đề về việc sự thay đổi trong việc xây dựng. Bintsamou trước đó đã hợp tác với Sassou-Nguesso. Giữa tháng 4 năm 2017 đến tháng 4 năm 2017, tổng cộng đã có 115 người chết trong cuộc xung đột. 1 ước tính cho rằng có 13,000 người đã mất chỗ ở do xung đột.
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816034
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á được tổ chức nhằm chọn ra những đội tuyển quốc gia ưu tú là thành viên của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 diễn ra tại Đức. 44 đội tuyển là thành viên của AFC và FIFA đều đủ điều kiện tham dự Vòng loại. , , và Brunei không tham gia vòng loại; bị cấm tham dự vòng loại. Do đó, có tổng cộng 39 đội tham gia để tranh 4,5 suất dự World Cup 2006. Thể thức. Vòng loại được tổ chức với 4 vòng như sau: - Vòng 1: 14 đội xếp cuối cùng theo Bảng xếp hạng FIFA được bốc thăm chia cặp với nhau, mỗi cặp thi đấu 2 trận theo thể thức sân nhà – sân khách. 7 đội chiến thắng và 25 đội còn lại (tổng cộng 32 đội) giành quyền vào vòng 2. - Vòng 2: 32 đội được chia thành 8 bảng với mỗi bảng 4 đội. Các đội trong mỗi bảng sẽ thi đấu với nhau 2 trận sân nhà – sân khách. 8 đội đứng đầu mỗi bảng giành quyền vào vòng 3. - Vòng 3: 8 đội được chia thành hai bảng với mỗi bảng 4 đội thi đấu theo thể thức sân nhà – sân khách. Hai đội đứng đầu mỗi bảng (tổng cộng 4 đội) giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. Hai đội đứng thứ ba ở mỗi bảng sẽ giành quyền vào vòng 4 (play-off AFC). - Vòng 4: Hai đội đá với nhau hai lượt trận trên sân nhà và sân khách để chọn ra một đội đá play-off với khu vực CONCACAF ở loạt trận play-off liên lục địa. Đội chiến thắng ở loạt trận play-off liên lục địa sẽ giành vé dự FIFA World Cup 2006. Vòng 1. Trận đấu giữa và đã được lên lịch thi đấu, sau đó Nepal đã rút lui nên Guam được vào vòng 2 nhưng sau đó Guam cũng rút lui. Do đó, FIFA quyết định bầu ra một "đội thua cuộc may mắn" để chọn ra đội xuất sắc nhất trong số các đội thua cuộc đi tiếp vào vòng 2. Những đội thua cuộc được xếp hạng dựa trên: a) điểm số; b) hiệu số bàn thắng bại; c) số bàn thắng ghi được. là đội bước tiếp vào vòng 2. Vòng 2. Ở vòng này, 25 đội được vào thẳng cùng với 7 đội thắng vòng 1 được bốc thăm vào 8 bảng với mỗi bảng 4 đội.
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816034
Các đội chơi các trận sân nhà và sân khách với các đội còn lại trong bảng của họ. 8 đội đứng đầu ở 8 bảng đấu giành quyền vào vòng 3. Vòng 3. Ở vòng này, 8 đội được chia thành hai bảng với mỗi bảng 4 đội. Mỗi đội thi đấu với các đội còn lại trong bảng của mình hai lượt trận sân nhà – sân khách để chọn ra 4 đội đứng đầu ở hai bảng (2 đội/bảng) giành quyền dự FIFA World Cup 2006. Trong khi đó, hai đội xếp thứ ba (ở hai bảng) tham gia trận play-off (AFC) để xác định một đội sẽ tranh suất play-off AFC – CONCACAF. Vòng 4 (play-off AFC). Hai đội đứng thứ ba ở vòng loại 3 sẽ thi đấu với nhau để xác định một suất tham dự vòng play-off liên lục địa. Trận lượt đi ban đầu được diễn ra vào ngày 3 tháng 9 năm 2005 nhưng trận đấu đã được FIFA yêu cầu đá lại sau một sai lầm của trọng tài. Khi Uzbekistan dẫn trước 1–0, họ được hưởng một quả phạt đền nhưng trọng tài không công nhận bàn thắng và cho Bahrain một quả phạt gián tiếp vì phạm lỗi. Bahrain giành quyền tham dự vòng play-off liên lục địa nhờ luật bàn thắng sân khách. Vòng play-off liên lục địa. Đội chiến thắng vòng play-off AFC (Bahrain) sẽ tham dự vòng này và gặp đại diện đến từ CONCACAF (). Hai đội sẽ đấu hai trận (sân nhà – sân khách). Đội chiến thắng chung cuộc sẽ giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. Danh sách. Có tổng cộng 401 bàn thắng/136 trận đấu (kể cả 1 bàn thắng ở hai lượt trận play-off liên lục địa), trung bình có 2,95 bàn thắng/trận đấu.
Huỳnh Minh Kiên
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816039
Huỳnh Minh Kiên (sinh ngày 21 tháng 01 năm 2004) là một Á hậu người Việt Nam. Với nhan sắc của độ tuổi 19 cô xuất sắc đạt thành tích Á hậu 2 cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023. Tiểu sử. Huỳnh Minh Kiên sinh năm 2004 tại Ninh Thuận cô là người Kinh lai dân tộc Chăm. Cha mẹ Minh Kiên ly hôn từ khi cô chưa chào đời. Từ nhỏ đã sống thiếu cha, lại thường xuyên chứng kiến việc cha bạo lực gia đình với mẹ khiến tâm lý Minh Kiên bị ảnh hưởng không nhỏ. Vì thương mẹ, cô đã luôn tỏ ra mạnh mẽ như cái tên của mình. Cô hiện tại là sinh viên ngành Quản trị Kinh doanh tại Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Sự nghiệp. Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023. Cô lần đầu ghi danh tham dự đấu trường nhan sắc với cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023. Trong các phần thi, cô đã lọt vào Top 16 Người đẹp Nhân ái, Top 5 Người đẹp Thời trang, Top 5 Người đẹp Thể thao và Top 10 Người đẹp Bản lĩnh. Vào đêm chung kết của cuộc thi, cô đã đăng quang ngôi vị Á hậu 2, bên cạnh Hoa hậu Huỳnh Trần Ý Nhi và Á hậu 1 Đào Thị Hiền.
Huỳnh Trần Ý Nhi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816042
Huỳnh Trần Ý Nhi (sinh ngày 18 tháng 6 năm 2002) là một hoa hậu người Việt Nam. Cô là người đăng quang Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023 và sẽ đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Thế giới 2024. Trước đó cô từng đạt danh hiệu Á khôi 2 Duyên dáng Sinh viên Bình Định 2023. Tiểu sử và học vấn. Huỳnh Trần Ý Nhi sinh năm 2002 tại Bình Định. Cô từng theo học tại Trường Trung học cơ sở Tăng Bạt Hổ và Trường Trung học phổ thông Hoài Ân. Hiện tại, cô là sinh viên ngành Quản trị Kinh doanh tại Trường Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Cô từng đăng quang ngôi vị Á khôi 2 tại cuộc thi Duyên dáng Sinh viên Bình Định 2023 cùng giải phụ Người đẹp Truyền thông. Sự nghiệp. Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023. Năm 2023, Ý Nhi đã ghi danh vào cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam. Trước đêm chung kết, cô đã đạt được các giải phụ Người đẹp Thời trang, Top 16 Người đẹp Nhân ái, Top 5 Người đẹp Biển và Top 10 Người đẹp Bản lĩnh. Tại đêm chung kết của cuộc thi diễn ra vào ngày 22 tháng 7 tại Bình Định, Ý Nhi chính thức đăng quang ngôi vị cao nhất của cuộc thi và được trao vương miện bởi hoa hậu tiền nhiệm Huỳnh Nguyễn Mai Phuơng, Á hậu 1 là Đào Thị Hiền và Á hậu 2 là Huỳnh Minh Kiên. Hoa hậu Thế giới 2024. Với tư cách là người chiến thắng tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023, cô đã chính thức trở thành đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Thế giới 2024. Đời tư. Ngay sau khi đăng quang Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023, Ý Nhi đã công khai mối tình kéo dài 6 năm của mình là bạn trai Nguyễn Anh Kiệt, sinh năm 2002, hiện đang là sinh viên Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai quen nhau từ lúc còn học trung học ở Bình Định. Khi được hỏi về việc liệu bạn trai có cần thay đổi gì sau khi cô đăng quang, Ý Nhi trả lời: "Tôi hiện tại đã ở một cương vị mới [...] Chắc chắn bạn trai của tôi cũng phải có những sự thay đổi nhanh chóng, tiến bộ nhiều hơn để có thể theo kịp tôi". Phát ngôn này đã trở thành một chủ đề tranh cãi lớn trên truyền thông Việt Nam cũng như mạng xã hội nước này.
Huỳnh Trần Ý Nhi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816042
Anh Kiệt sau đó cũng lên mạng xã hội giải thích rằng bản thân không bị ảnh hưởng bởi những câu trả lời của bạn gái, đồng thời khuyên cộng đồng mạng "có cái nhìn khách quan" hơn đối với cô. Trong một cuộc phỏng vấn không lâu sau khi đăng quang, Ý Nhi tiếp tục gây tranh cãi với phát ngôn về bạn bè đồng trang lứa. Theo Ý Nhi, trong khi giới trẻ Việt Nam cùng độ tuổi với cô dành thời gian cho việc ngủ, chơi, uống trà sữa, thì cô đã tham gia cuộc thi Hoa hậu; vì vậy bây giờ cô đã trưởng thành hơn, trở thành Hoa hậu và có công việc trong khi các bạn trẻ khác vẫn chỉ là sinh viên hoặc vừa học vừa làm. Phát ngôn này tiếp tục trở thành chủ đề gây tranh cãi trên các trang mạng xã hội. Ngày 1 tháng 8 năm 2023, cô cùng hai Á hậu của cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023 ghé thăm bệnh nhân tại một bệnh viện cao cấp. Hình ảnh tân hoa hậu và á hậu với trang phục cầu kỳ đi kèm với vương miện tiếp tục trở thành đề tài tranh cãi trên các trang mạng xã hội trước khi ban tổ chức xác nhận đây không hoạt động từ thiện mà là hoạt động của các thi sinh nằm trong top 3 cuộc thi theo lịch trình với nhà tài trợ. Sau 10 ngày đăng quang Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023, số lượng các nhóm tẩy chay (antifan) tăng lên nhanh chóng, thậm chí có nhóm hơn 600.000 thành viên. Một số nhận xét. Sau phát ngôn của Ý Nhi về câu trả lời liên quan đến Hàn Mặc Tử, Quang Trung, tiến sĩ khoa học Đoàn Hương nhận xét rằng cô bị thiếu thốn về kiến thức chứ không thể đơn thuần là vạ miệng. Còn Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều cho rằng cho rằng Hoa hậu Ý Nhi không có ý ngạo mạn gì trong câu trả lời này, chỉ là do chưa được dạy dỗ kỹ lưỡng; "Rất nhiều người ở tuổi cô đã có những ứng xử rất văn hoá và hiểu biết. Sự thiếu hụt văn hoá làm cô trở nên kệch cỡm... Ngày nay, hầu hết những đứa trẻ 4 tuổi cũng đã biết phải chào ai trước khi đi nhà trẻ về".
Huỳnh Trần Ý Nhi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816042
Trưởng ban tổ chức cuộc thi nêu trên, bà Phạm Kim Dung, đã có văn bản gửi đến các cơ quan chức năng "đề xuất chia sẻ, hỗ trợ Hoa hậu Huỳnh Trần Ý Nhi trước việc bị bạo lực mạng xã hội khi phát ngôn vụng về".
Phú Quý (nghệ sĩ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816043
NSƯT Phú Quý (sinh 1946) là nghệ sĩ hài kịch và cải lương gạo cội ở Việt Nam. Tiểu sử. NSƯT Phú Quý tên thật là Huỳnh Phú Quý, sinh năm 1946 tại quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Đức Hòa, tỉnh Long An). Ông là con út trong một gia đình nghèo có 10 người con, ba ông làm nghề chài lưới, mẹ ông bán cháo ở các gánh hát. Thuở nhỏ, ông phụ mẹ bán cháo ở trước gánh hát nên khi các nghệ sĩ biểu diễn thì ông nghe và học lỏm theo. Sau này, ông thường được dẫn đi hát ở chùa, đình, miếu,… do còn nhỏ nên ông thường hát vai đào và được mọi người gọi là "thần đồng Phú Quý" vì có thể hát giọng nữ . Năm ông 16 tuổi, có đoàn cải lương Thanh Tao về biểu diễn ở quê ông, vì quá mê hát nên ông đã xin ba mẹ cho theo đoàn hát và được đồng thuận. Sau 1 năm theo đoàn Thanh Tao, vì nhớ nhà nên NSƯT Phú Quý đã trốn về quê và học nghề thợ bạc rồi vào Sài Gòn lập nghiệp. Sự nghiệp. Cải lương. Năm 1976, NSƯT Phú Quý làm công nhân ở Bến xe Miền Tây và tham gia vào đoàn văn công do Giám đốc Bến xe tổ chức, trong đoàn lúc đó còn có Khắc Triệu (chồng của danh ca Cẩm Vân). Với giọng ca thiên phú, ông đã được nhận Huy chương Vàng ở Liên hoan Văn nghệ Thành phố. Năm 1978, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó đang là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đến Bến xe Miền Tây để ăn Tết, NSƯT Phú Quý đã tự sáng tác và hát bài ca cổ "Vợ chồng anh lái xe" cho Võ Văn Kiệt nghe, sau khi nghe xong NSƯT Phú Quý được ông Võ Văn Kiệt khen và khích lệ: "Đây là hạt nhân phong trào, phải ráng có chế độ nuôi dưỡng đàng hoàng." Trong những năm sau đó, ông miệt mài tham gia các cuộc thi văn nghệ quần chúng và đạt được nhiều huy chương nhưng vẫn chỉ là nghệ sĩ nghiệp dư khi ông vừa làm ở Bến xe vừa đi hát kiếm thêm tiền.
Phú Quý (nghệ sĩ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816043
Năm 1980, NSƯT Phú Quý xuất hiện trên truyền hình, ông được NSND Kim Cương chú ý đến và mời về Đoàn kịch nói Kim Cương diễn vở "Dưới hai màu áo", vở diễn thành công rực rỡ và NSƯT Phú Quý chính thức bước vào con đường nghệ thuật chuyên nghiệp vào năm 1981. Sau đoàn Kim Cương, NSƯT Phú Quý đầu quân về Đoàn Cải lương Sài Gòn 2 và để lại dấu ấn trong lòng khán giả qua các vở diễn "Tìm lại cuộc đời", "Khách sạn hào hoa", "Ánh lửa rừng khuya",…. Rời Đoàn Cải lương Sài Gòn 2, NSƯT Phú Quý về diễn tại Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và trở nên nổi tiếng sau vai diễn "Tên Trộm" trong vở "Nàng Xê Đa" do cố NSƯT Đoàn Bá (khi đó là Giám đốc Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang) làm đạo diễn, vở cải lương gây tiếng vang lớn và trở thành vở diễn kinh điển trong nghệ thuật Cải lương, ngoài ra NSƯT Phú Quý còn góp mặt trong các vở "Hòn đảo Thần Vệ nữ", "Tình yêu và lời đáp",…. Trong thời kì hoàng kim của sân khấu Cải lương, tên tuổi NSƯT Phú Quý vang danh lẫy lừng cùng các nghệ sĩ khác như NSND Minh Vương, NSND Lệ Thủy, cố NSND Diệp Lang, cố NSƯT Thanh Sang, cố NSƯT Út Bạch Lan, cố NS Thanh Tú, NS Phượng Liên,…. Hài kịch. Sau khi Cải lương dần đi xuống, NSƯT Phú Quý chuyển sang sân khấu hài kịch, tên tuổi ông gắn liền với chương trình hài kịch "Trong nhà ngoài phố" của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cùng với các nghệ sĩ như NSƯT Bảo Quốc, NSND Hồng Vân, cố NS Lê Vũ Cầu, cố NS Hoàng Lan, NS Duy Phương,…. Nhờ có "Trong nhà ngoài phố" nên NSƯT Phú Quý rất đắt show hài, ông được xem như là Bảo chứng phòng vé của các sân khấu hài kịch thời bấy giờ, ông cùng với cố NS Văn Chung, NSƯT Bảo Quốc và NS Duy Phương được mệnh danh là tứ đại danh hài một thời.Các bạn diễn ăn ý với NSƯT Phú Quý trên sàn diễn hài kịch là cố NSƯT Kim Ngọc, NSƯT Bảo Quốc, NS Kiều Mai Lý, NS Duy Phương. Hiện tại.
Phú Quý (nghệ sĩ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816043
Hiện tại. Hiện tại, dù hài kịch và cải lương đã qua đi thời hoàng kim nhưng NSƯT Phú Quý vẫn miệt mài tham gia nghệ thuật, ông thường đi hát ở các hội chợ, đám cưới hoặc tham gia các gameshow truyền hình.Ngoài ra, NSƯT Phú Quý còn làm MC cho chương trình truyền hình "Nhịp cầu vàng" và thường tổ chức các buổi từ thiện. Năm 2019, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Đời tư. NSƯT Phú Quý có đường tình duyên khá lận đận, ông từng trải qua nhiều mối tình và có 3 đời vợ. Sau 2 cuộc hôn nhân đầu tiên không thành, ông có 5 người con, 3 trai 2 gái và tất cả đều đã trưởng thành. Hiện tại, ông sống một cuộc sống viên mãn bên bà xã kém ông 22 tuổi Hoàng Diệu - người vừa là fan vừa là trợ lý của ông.
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (Vòng 3)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816054
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (vòng 3) bắt đầu vào ngày 9 tháng 2 năm 2005 và kết thúc vào ngày 17 tháng 8 năm 2005. Hai đội đứng đầu ở mỗi bảng (tổng cộng 4 đội) sẽ giành quyền tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) 2006, còn hai đội thứ ba ở mỗi bảng sẽ đá play-off để chọn ra một đội đá play-off tranh vé dự FIFA World Cup với một đội đến từ CONCACAF. Thể thức. 8 đội đứng đầu ở 8 bảng đấu tại vòng 2 được chia vào hai bảng đấu, mỗi bảng 4 đội. Mỗi đội sẽ đá hai trận sân nhà − sân khách với các đội còn lại trong bảng của mình để chọn ra hai đội đứng đầu ở mỗi bảng giành quyền tham dự FIFA World Cup 2006. Bảng 2. "Chú thích: Trận đấu này được dùng làm bối cảnh cho bộ phim "Offside" của Iran." "Chú thích: Vì có sự cố về khán giả trong hai trận đấu sân nhà trước đó của Triều Tiên, FIFA đã quyết định rằng trận đấu tiếp theo của Triều Tiên sẽ được chuyển đến một địa điểm trung lập (Thái Lan) và thi đấu trên sân không khán giả."
Đào Thị Hiền
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816056
Đào Thị Hiền (sinh ngày 18 tháng 05 năm 2001) là một Hoa hậu, người dẫn chương trình. Cô là Á Hậu của cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023 và đạt giải thưởng phụ Người đẹp Nhân ái. Trước đó, cô từng lọt vào Top 5 cuộc thi Hoa hậu Du lịch Việt Nam 2022 với giải phụ Người đẹp Biển. Tiểu sử. Đào Thị Hiền sinh năm 2001 tại Đô Lương, Nghệ An. Cô hiện tại là sinh viên của trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội. Cô còn có chị gái là Đào Thị Hà cũng từng thi các cuộc thi sắc đẹp như: Đăng quang Người đẹp Phố biển Cửa Lò 2016, lọt vào Top 5 hai cuộc thi lớn Hoa hậu Việt Nam 2016 và Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019. Sự nghiệp. Hoa hậu Du lịch Việt Nam 2022. Năm 2022, Đào Thị Hiền đã ghi danh tại cuộc thi Hoa hậu Du lịch Việt Nam. Tại đêm chung kết của cuộc thi cô đã lọt vào Top 5 chung cuộc của cuộc thi và đạt được giải phụ "Người đẹp Biển". Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023. Năm 2023, Đào Thị Hiền trở lại đường đua nhan sắc với cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam. Qua các vòng thi, cô đã lọt vào Top 5 Người đẹp Biển, Top 5 Người đẹp Du lịch và Top 4 Người đẹp Bản lĩnh. Vào đêm chung kết tổ chức vào ngày 22 tháng 7, cô đã đăng quang ngôi vị Á hậu 1 của cuộc thi .
Pablo Sanz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816063
Pablo Sanz Iniesta (sinh ngày 30 tháng 8 năm 1973) là một cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha từng thi đấu ở vị trí tiền vệ, và hiện tại là trợ lý huấn luyện viên tại câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers.
Hầm Guryong
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816064
Hầm Guryong (Tiếng Hàn: 구룡터널, Hanja: 九龍터널) là một đường hầm ở Seoul nối Naegok-dong, Seocho-gu và Gaepo-dong, Gangnam-gu dài 1.180m, rộng 17m cả hai chiều, cao 6.8m, hoàn thành ngày 30 tháng 4 năm 1998. Đường hầm này được đào xuyên qua núi Guryongsan, và được đặt tên là đường hầm Guryong theo tên núi Guryongsan.
Hầm World Cup
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816065
Hầm World Cup (Tiếng Hàn: 월드컵터널) là một đường hầm ở Seongsan-dong, Mapo-gu, Seoul và đi qua núi Maebongsan để nối phía tây của Sân vận động World Cup Sangam và Giao lộ Sangam. Nó là một phần của Jeungsan-ro .
Tiếng Armenia cổ điển
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816311
Tiếng Armenia cổ điển (, trong cách phát âm tiếng Armenia Đông: Grabar, tiếng Armenia Tây: Krapar; nghĩa là "[ngôn ngữ] văn học"; còn được gọi là tiếng Armenia cổ hoặc tiếng Armenia thiêng liêng) là một dạng được chứng thực cổ nhất của tiếng Armenia. Nó được viết lần đầu tiên và đầu thế kỉ 5, và tất cả văn học Armenia từ đó đến thế kỉ 18 được viết bằng tiếng Armenia cổ điển. Nhiều bản thảo cổ đại ban đầu được viết bằng tiếng Hy Lạp cổ đại, tiếng Ba Tư, tiếng Hebrew, tiếng Syriac và tiếng Latinh chỉ tồn tại trong bản dịch tiếng Armenia. Tiếng Armenia cổ điển tiếp tục là một ngôn ngữ thiêng liêng của Giáo hội Tông truyền Armenia và Giáo hội công giáo Armenia và thường được học tập bởi các học giả Kinh Thánh, Liên Ước, và Giáo Phụ dành riêng cho nghiên cứu văn bản. Tiếng Armenia cổ điển cũng quan trọng cho việc phục đựng tiếng Ấn-Âu nguyên thủy. Ngữ âm. Nguyên âm. Có bảy nguyên âm đơn: Ngoài ra còn có sáu nguyên âm đôi theo truyền thống: Phụ âm. Dưới đây là bảng hệ phụ âm trong tiếng Armenia cổ điển. Các phụ âm tắc và tắc xát, ngoài chuỗi hữu thanh và vô thanh phổ biến hơn, cũng là một chuỗi âm bật hơi riêng biệt, phiên âm với ký hiệu được sử dụng cho âm thở thô tiếng Hy Lạp cổ đại sau chữ: "p῾", "t῾", "c῾", "č῾", "k῾". Mỗi ngữ âm có hai ký hiệu trong bảng. Bên trái biểu thị cách phát âm trong Bảng mẫu tự ngữ âm quốc tế (IPA); bên phải là ký hiệu tương ứng trong bảng chữ cái Armenia.
Văn phòng Nội các (Nhật Bản)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816316
(tiếng Anh: Cabinet Office, viết tắt: CAO) là một cơ quan trong Nội các Nhật Bản. Cơ quan này chịu trách nhiệm xử lý các công việc hàng ngày của Nội các. Văn phòng Nội các chính thức do Thủ tướng đứng đầu.
Matsumoto Takeaki
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816320
là một một chính trị gia người Nhật Bản. Ông từng là Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản trong năm 2011 và hiện là Bộ trưởng Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản trong Nội các của Thủ tướng Kishida Fumio.
Plutoni(IV) sulfat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816323
Plutoni(IV) sulfat là một hợp chất vô cơ của plutoni và acid sulfuric có công thức hóa học Pu(SO4)2 – tinh thể màu đỏ, tan trong nước, tạo thành tinh thể ngậm nước. Điều chế. Plutoni(IV) sulfat được điều chế bằng cách hòa tan plutoni(IV) oxide trong acid sulfuric đậm đặc có thêm acid fluorhydric, sau đó làm bay hơi trong cốc platin để thu được muối: Sau đó, cho dung dịch plutoni(IV) sulfat kết tủa bằng hỗn hợp methanol và acid sulfuric loãng, thu lấy tinh thể. Tính chất vật lý. Plutoni(IV) sulfat tạo thành tinh thể màu đỏ. Nó hòa tan tốt trong nước. Nó tạo thành Pu(SO4)2·4H2O, tồn tại dưới hai dạng. Cả hai dạng đều là tinh thể màu đỏ thuộc hệ tinh thể trực thoi. Với dạng α-, nhóm không gian Pnma, các hằng số mạng tinh thể "a" = 1,4544 nm, "b" = 1,098 nm, "c" = 0,5667 nm, Z = 4. Với dạng β-, nhóm không gian Fddd, các hằng số mạng tinh thể "a" = 0,56011 nm, "b" = 1,20323 nm, "c" = 2,6525 nm, Z = 8. Tính chất hóa học. Với sulfat kim loại kiềm, nó tạo thành muối kép M4[Pu(SO4)4]·"n"H2O có màu xanh lá cây.
Nhật Bản Tân Đảng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816332
là một đảng phái chính trị ở Nhật Bản tồn tại từ năm 1992 đến năm 1994. Đảng này được coi là theo khuynh hướng tự do, được thành lập bởi Hosokawa Morihiro, cựu nghị sĩ Quốc hội và là Thống đốc tỉnh Kumamoto, người đã rời Đảng Dân chủ Tự do để phản đối các vụ bê bối tham nhũng trong đảng này. Năm 1992, đảng đã bầu bốn thành viên vào Tham Nghị viện, bao gồm cả Hosokawa. Mặc dù đây là một kết quả đáng thất vọng đối với họ, nhưng vào năm 1993, họ đã có thể tận dụng sự bất mãn của cử tri đối với Đảng Dân chủ Tự do, bầu tổng cộng 35 thành viên (bao gồm 3 người tham gia sau cuộc bầu cử). Hosokawa trở thành Thủ tướng lãnh đạo một liên minh rộng rãi, nhưng nhanh chóng bị buộc phải từ chức do nội bộ liên minh này liên tục gặp lục đục. Đảng bảo vệ chủ nghĩa chính trị cải lương, quyền của người tiêu dùng và hỗ trợ phân quyền. Đến năm 1994, Nhật Bản Tân Đảng giải thể, các thành viên của đảng này chuyển sang Đảng Tân tiến (新進党).
Sân vận động Perth Rectangular
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816343
Sân vận động Perth Rectangular (; còn được gọi là HBF Park vì lý do tài trợ) là một sân vận động thể thao ở Perth, thủ phủ của bang Tây Úc của Úc. Sân nằm gần quận kinh doanh trung tâm của Perth. Sân vận động hiện có sức chứa tối đa là 20.500 người cho các sự kiện thể thao và 25.000 người cho các buổi hòa nhạc, với số lượng khán giả kỷ lục của sân là 32.000 người được thiết lập trong buổi hòa nhạc của Ed Sheeran vào năm 2015. Sân vận động được xây dựng trên khu đất có tên gọi là Loton Park, một khu bảo tồn công cộng được thành lập vào năm 1904, với sân vận động chính được xây dựng vài năm sau đó. Từ năm 1910 đến năm 2002, sân được gọi là Perth Oval và là sân nhà của East Perth Football Club thuộc West Australian Football League (WAFL). Sân đã tổ chức một số trận chung kết của giải đấu trong thời gian đó. Vào năm 2004, sân vận động đã được tái phát triển, chuyển đổi từ mặt sân hình bầu dục thành mặt sân hình chữ nhật. Hiện tại, đây là sân nhà của hai câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp lớn: Perth Glory FC, một câu lạc bộ bóng đá thi đấu tại A-League và Western Force, một câu lạc bộ rugby union thi đấu tại Super Rugby Pacific. Sân cũng được sử dụng bởi West Coast Pirates, một câu lạc bộ rugby league bán chuyên nghiệp thi đấu tại S. G. Ball Cup, cũng như cho các buổi hòa nhạc.
Truyện Gối đầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816344
là một tập truyện nói về những quan sát và suy ngẫm của nữ văn sĩ Sei Shōnagon trong khoảng thời gian bà làm nữ quan cho Hoàng hậu Teishi từ những năm 990 đến đầu những năm 1000 vào thời kỳ Heian của Nhật Bản. Tác phẩm được hoàn thành vào năm 1002. Tác phẩm "Truyện Gối Đầu" là tổng hợp tất cả những văn kiện, truyền thuyết, thơ ca, và cả những đoạn mô tả ít có mối liên hệ với nhau, chỉ trừ điểm chung duy nhất là chúng đều là những ý tưởng nảy ra bất chợt mà Shōnagon đã nghĩ ra dựa trên những khoảnh khắc trong cuộc sống thường nhật của bà, trong đó chứa đựng rất nhiều những thể loại, hình thức diễn đạt khác nhau như những sự kiện cung đình quan trọng, những bài thơ, cách nhìn nhận của tác giả đối với những nhân vật quan trọng thời đó cũng như những suy nghĩ của chính bà. Dù chỉ là tác phẩm mang dấu ấn cá nhân, song kỹ năng viết lách và sáng tác thơ tuyệt vời của nữ quan Shōnagon đã giúp cho "Truyện gối đầu" được nâng tầm và trở thành một tác phẩm văn học thực sự, và được coi là một tư liệu lịch sử có giá trị. Mặc dù Shōnagon chỉ dùng góc nhìn và quan điểm cá nhân để viết nên "Truyện gối đầu", nhưng một phần của tác phẩm ấy đã phản ánh gần như toàn bộ cuộc sống chốn cung đình, nơi mà nữ tác giả đã sống trong gần hết cuộc đời : "Bà đã vô tình đặt nó [tác phẩm] lên chiếc đệm được chuẩn bị cho khách, và vị khách đó đã mang nó đi bất chấp lời cầu xin của bà." Shōnagon viết "Truyện gối đầu" như một thú vui riêng tư trong cuộc sống hằng ngày; có lẽ đó là cách để bà có thể giãi bày tâm sự và bộc lộ những xúc cảm thầm kín - thứ mà những người có địa vị thấp kém trong cung không thể bộc lộ một cách trực tiếp. Mặc dù Shōnagon chưa bao giờ chia sẻ tác phẩm cho ai khác ngoài chính mình, song qua nhiều thế kỉ, nó đã trở thành một tác phẩm văn học nổi tiếng. Sáu đoạn văn thuộc tác phẩm đã được dịch sang tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1889 bởi T. A. Purcell và W. G. Aston.
Truyện Gối đầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816344
Một bản dịch tiếng Anh đáng chú ý khác là bản dịch của Arthur Waley; một phần của tác phẩm đã được dịch vào năm 1928, Ivan Morris đã dịch trọn vẹn tác phẩm này vào năm 1967, và bản dịch hoàn thiện của Meredith McKinney vào năm 2006. Sơ lược về tác phẩm. Được bắt đầu bởi "tính toàn diện" với việc "thu thập lại những điều giản đơn" và cách diễn đạt với những cụm từ như "giống như những chú sâu", "tựa như hoa của cây", "những điều ta không thích" và "những điều tươi đẹp" – chúng là những cụm từ mô tả theo lối viết cổ xưa, được ví như "danh sách kiểu Borgesian". Ta có thể thấy rằng, "những lời tản mạn" của tác giả Sei Shōnagon là thành quả của việc quan sát quang cảnh thiên nhiên và sắc thái bốn mùa trong năm, và dùng những câu từ để miêu tả chúng dưới dạng "hồi ức" (còn gọi là "nhật ký"), qua đó thể hiện sự hồi tưởng của tác giả đối với cuộc sống cung đình xoay quanh chủ nhân của bà là Hoàng hậu Teishi, nằm trong những điều khác mà tác phẩm đã khắc họa. Theo lời Meredith McKinney trong tờ báo Kyoto Journal, (người đã đóng góp bản dịch tiếng Anh cho tác phẩm),"Truyện gối đầu" là một tác phẩm đặc biệt, nó là tổ hợp những tác phẩm có dung lượng ngắn hơn và nội dung của chúng không hề liên quan đến nhau . Thành quả văn chương của nữ sĩ Shōnagon có thể được chia làm 3 phần; phần đầu là những mẩu chuyện tường thuật, nội dung của nó tập trung vào những sự kiện mà tác giả từng được chứng kiến và nếm trải trong suốt thời gian phục vụ trong cung đình, phần hai bao gồm những suy nghĩ và quan điểm của bà về những sự việc khác nhau trong cuộc sống, và phần cuối là danh sách các văn kiện có tiêu đề, ví dụ như văn kiện với tiêu đề "Những thứ khiến trái tim trở nên yếu mềm." Tác phẩm "Truyện gối đầu" chứa tổng cộng tất cả 164 văn kiện mang tiêu đề, nơi chứa đựng những chi tiết có giá trị về mặt mỹ học và ít cởi mở hơn so với những câu chuyện truyền thuyết của Shōnagon. Ý tưởng phân chia tác phẩm làm ba phần đã được đề xuất bởi Kikan Ikeda.
Truyện Gối đầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816344
Tuy nhiên, cũng có những phần khá mơ hồ và rất khó để phân loại (ví dụ như đoạn đầu trong phần tản văn của tác phẩm, "Tựa như mùa xuân, (đó là) cảnh bình minh [tuyệt đẹp]", đã có những tranh cãi về việc phân loại đoạn văn trên). Tác phẩm chủ yếu được biết bằng chữ hiragana của Nhật; đó là những kí tự bản địa bắt nguồn từ Trung Quốc, và có rất mẩu chuyện trong tác phẩm được viết theo phong cách hóm hỉnh và dí dỏm. Vào thời đó, những người phụ nữ như Shōnagon thường sử dụng chữ Hiragana làm ngôn ngữ viết. Theo Matthew Penney trong bài bình về "Truyện Gối đầu", những địa danh, chức tước là những trường hợp duy nhất cho phép các kí tự Hán ngữ xuất hiện trong tác phẩm, những phần còn lại đều được viết bằng Hiragana. Những lời thú nhận cảm xúc của tác giả đã được khéo léo lồng ghép vào trong những câu văn diễn tả sự suy sụp của Nhiếp chính quan Fujiwara no Michitaka cũng như việc cha ruột bà qua đời, và cả tình cảnh bất hạnh của Thiên hoàng và Hoàng hậu Teishi. Tác phẩm là cả một thể hòa hợp đồng nhất giữa giác quan nhạy cảm và góc nhìn tinh tế của tác giả; vì nếu ta so sánh với cảm xúc của (Mầm mống của sự vật) được tìm thấy trong "Truyện kể Genji", ta cũng sẽ thấy vẻ đẹp của thế giới này đã được diễn tả qua cách sử dụng từ ('đáng yêu') một cách đầy thông minh. Nhìn chung, "Truyện gối đầu" được viết dưới dạng những câu văn ngắn gọn, với những đoạn văn không quá dài với nội dung dễ đọc và dễ hiểu đối với những người nói tiếng Nhật trong thời hiện đại. Những câu chuyện được sưu tầm ngẫu hứng đã từng được tạm chia thành 3 loại, về sau chúng đã được tổng hợp lại và phân loại theo nhiều cách khác nhau và được biên soạn lại bởi những người không phải là Sei Shōnagon. Dựa trên niềm tin của một số học giả, ta có thể cho rằng hầu hết các tác phẩm văn học của Shōnagon đều được viết trong khoảng thời gian bà ở trong cung ; tuy vậy, bà vẫn có một số tác phẩm khác được viết trong những năm tháng cuối đời và nội dung của chúng chỉ đề cập đến những kí ức về khoảng thời gian trước đây khi còn làm Nữ quan trong Triều đình.
Truyện Gối đầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816344
Điểm khác biệt giữa tác phẩm "Truyện gối đầu" của Shōnagon với những tác phẩm khác cùng thể loại vào thời đó và thậm chí cả vào thời nay, đó là bản thân tác giả của nó không hề bỏ ra thời gian để cố tìm kiếm linh hồn cho tác phẩm, cũng như không tìm kiếm thái độ hay quan điểm của độc giả về tác phẩm, đơn giản là vì chính tác giả cũng không kỳ vọng đây sẽ là tác phẩm viết cho mọi người, chỉ là tác phẩm cho riêng mình mà thôi. "Truyện gối đầu của" Shōnagon được viết dựa trên cơ sở của những điều đáng yêu và đáng ghét trên trần thế dựa trên cảm xúc chủ quan của tác giả; tác phẩm thể hiện những thứ được quan tâm về mặt cá nhân và những điều tốt đẹp hiện hữu xung quanh thế giới riêng của người viết ra nó. Trong bài báo mang tên Kyoto Journal, McKinney giải thích rằng Shōnagon "có thể thu hút bạn [độc giả] qua nhiều thế kỉ, cho rằng bạn đã quen thuộc với bà ấy cũng như thế giới riêng của bà, sau đó khiến bạn phải gật đầu và mỉm cười." Thông thường, các phần được chọn lựa từ tuyển tập này đều hướng người đọc đến những suy nghĩ và giai thoại của Shonagon. Như vậy, ta có thể thấy rằng, Truyện gối đầu là cả một tuyển tập bao gồm những câu chuyện truyền thuyết, những điều hữu ích được liệt kê, tất cả đều hòa chung thành một tác phẩm văn học kiệt xuất và là nguồn thông tin tuyệt vời để tìm hiểu về đời sống cung đình vào hơn 1000 năm trước, và đã trở thành một dấu mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự phát triển của nền văn học Nhật Bản . "Truyện gối đầu" được viết hoàn toàn bằng tiếng Nhật. Trong suốt khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 10 đến đầu thế kỉ 11, trong khi hầu hết đàn ông Nhật Bản đều lấy Hán tự làm ngôn ngữ viết thì những người phụ nữ đã viết bằng ngôn ngữ bản địa của họ với việc sử dụng các ký tự hiragana, một loại chữ tượng hình bản địa có nguồn gốc từ Trung Quốc. Do đó, ta có thể thấy rằng, "Truyện gối đầu" là một phần của truyền thống văn chương rộng lớn dành cho nữ giới. Phong cách văn học quyến rũ và tối giản của Shonagon đã được dùng làm hình mẫu chuẩn mực cho văn xuôi Nhật Bản cho đến tận ngày nay.
Truyện Gối đầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816344
Theo Penney và Matthew thì Shōnagon đã từng bị các độc giả đánh giá là một người kiêu căng và thích đối đầu; mặc dù vậy, ta cũng không thể phủ nhận lối diễn đạt cảm xúc theo cách tự do, phóng khoáng pha chút dí dỏm đã được thể hiện rất rõ trong tác phẩm. "Truyện Gối đầu" có sức ảnh hưởng rất lớn tới một thể loại văn xuôi của Nhật Bản được gọi là . Bối cảnh ra đời. "Truyện Gối đầu" ra đời vào thời kỳ Heian - nơi được xem là thời kỳ huy hoàng của giới quý tộc Nhật Bản. Thơ ca và nghệ thuật là một trong những phần quan trọng trong triều đình, tác giả Sei Shōnagon cũng là một phần trong đó. Vào thời đó, tất cả mọi người trong triều đình và Hoàng cung đều phải có kiến thức văn chương xuất sắc. Văn học thời kỳ này được xem như là một phương tiện giao tiếp quan trọng đến mức kỹ năng viết của một người được cho là có thể tạo nên hoặc phá vỡ danh tiếng của họ. Chẳng hạn như trong tác phẩm Truyện Gối đầu, Shōnagon đã đề cập đến việc một cận thần tới xin lời khuyên của bà để viết một bài thơ và rồi cuối cùng ông ta đã bị từ chối vì kỹ năng viết văn kém. Phụ nữ thời kỳ Heian cũng đóng vai trò quan trọng trong xã hội, đặc biệt là những người phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu. Các tác giả nữ ở Nhật Bản trong thời kỳ này được biết đến rộng rãi hơn vì hầu hết các tác phẩm của họ đều được viết bằng Nhật ngữ, được gọi là "ngôn ngữ của nhân dân", trong khi các tác giả nam sử dụng Hán ngữ để sáng tác vì thứ ngôn ngữ này vẫn được coi là có vị thế cao hơn. Vì các tác phẩm của những tác giả nữ thời đó phổ biến hơn với tầng lớp bình dân, nên chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng có sức ảnh hưởng lớn đến xã hội lúc bấy giờ.
Truyện Gối đầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816344
Mặc dù phụ nữ trong thời kỳ Heian nắm giữ ít trọng trách hơn về mặt xã hội so với nam giới, song ngày nay, đã có nhiều nhà văn nghiên cứu về khả năng sáng tạo và cách chơi chữ hiragana của họ, vì nam giới thời Heian thường có xu hướng chỉ dùng Hán tự để thể hiện khả năng sử dụng hệ thống chữ viết vay mượn từ nước láng giềng Trung Hoa, trong khi Hiragana là loại chữ viết mới mẻ hơn và được những người phụ nữ độc quyền sử dụng. Hiragana (Bình giá danh) là hệ thống ngôn ngữ viết bao gồm các ký tự và các âm tiết cho phép thể hiện suy nghĩ bên trong theo cách tự do phóng khoáng hơn so với chữ Hán biểu trưng. Vì phụ nữ trong thời kỳ Heian thường không có những hoạt động xã hội, nên những người thuộc tầng lớp thượng lưu và có học thức cao thường có rất nhiều thời gian viết lách và sáng tác văn thơ. Bên cạnh đó, việc loại bỏ phụ nữ khỏi những nơi quan trọng như triều chính cũng góp phần bảo vệ họ khỏi những bất ổn chính trị. Chữ mềm Hiragana cho phép phụ nữ có thể truyền đạt suy nghĩ và cảm xúc của họ về cuộc sống bằng ngôn ngữ của riêng mình. Họ không cần thiết phải đi học chữ nhiều để có thể diễn tả mọi cảm giác trên giấy; vì các âm tiết của hiragana không giống như chữ kanji, nó có thể ghi nhận các biến tố nghe được trong lời nói. Tuy nhiên, những phụ nữ có học thức như Shōnagon thỉnh thoảng cũng sử dụng chữ Hán. Do Hán tự (hay Kanji) được xem là chữ viết của nam giới nên việc một người phụ nữ sử dụng và hiểu nó đúng cách chứng tỏ người đó đã dày công nghiên cứu Hán tự trong nhiều năm. Đó cũng là cách để Shōnagon thể hiện trí thông minh của mình thông qua việc sáng tác. Lịch sử biên soạn và dịch thuật. "Truyện Gối đầu" đã được phổ biến rộng rãi trong cung đình và nó đã tồn tại trong suốt hàng trăm năm qua dưới dạng các bản viết tay. Được in lần đầu vào thế kỷ 17, tác phẩm đã tồn tại với nhiều phiên bản khác nhau: thứ tự các mục có thể đã được thay đổi bởi người biên soạn, cùng với đó là những lời bình về tác phẩm và các đoạn văn đã được thêm vào, chỉnh sửa hoặc xóa đi. Bốn biến thể chính của tác phẩm đã được các học giả hiện đại biết đến.
Truyện Gối đầu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816344
Hai bản văn kiện được coi là đầy đủ và chính xác nhất là phiên bản của Sankanbon và Nōinbon. Các biên tập viên sau này đã giới thiệu số phần và các bộ phận của một trong hai phiên bản trên; phiên bản Sankanbon được chia thành 297 phần, với 29 phần "bổ sung" - có thể đại diện cho những phần bổ sung sau này của tác giả hoặc người chép lại tác phẩm này. Các bản dịch tham khảo (bằng tiếng Anh). Machiko Midorikawa miêu tả bản dịch của McKinney là "sát nghĩa hơn nhiều so với bản dịch của Morris". Những điều ngoài lề xoay quanh "Truyện Gối đầu". Nói một cách tổng quát hơn, Truyện gối đầu là tập hợp tất cả các ghi chép đã được đối chiếu để thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời của một người hay để thể hiện một điều gì đó. Ở Nhật Bản, thể loại văn chương "nhàn rỗi" như vậy thường được gọi là . Các tác phẩm lớn khác trong cùng thời kỳ bao gồm của Kamo no Chōmei và của Yoshida Kenkō. đã trở nên phổ biến rộng rãi vào thời Edo khi nó đã thu hút một lượng lớn khán giả trong các tầng lớp thương nhân mới phát triển. Hơn thế nữa, thể loại văn học này đã đạt được một chỗ đứng nhất định trong giới học thuật, khi các học giả cổ điển Nhật Bản bắt đầu sáng tác văn học theo phong cách . Các tác giả có uy tín trong thể loại này bao gồm Motoori Norinaga, Yokoi Yayu và Matsudaira Sadanobu . Tác phẩm "Truyện Gối đầu" đã được Peter Greenaway chuyển thể thành phim (xem thêm: "Truyện Gối đầu (phim))" vào năm 1996. Với sự tham gia của Vivian Wu và Ewan McGregor, phim kể một câu chuyện hiện đại có liên quan đến tác phẩm của Sei Shōnagon. Ngoài ra", Truyện Gối đầu" cũng là tên của một loạt phim kinh dị trên đài phát thanh được viết bởi Robert Forrest và được phát trên BBC Radio 4 thuộc chương trình "Woman's Hour Drama" . Đây là những câu chuyện trinh thám với Sei Shōnagon là nhân vật chính và cũng với những danh sách xuất hiện trong tác phẩm của bà.
Tổng giáo phận Lyon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816346
Tổng giáo phận Lyon (; ), trước đây là Tổng giáo phận Lyon–Vienne–Embrun là một tổng giáo phận đô thành của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Pháp. Các tổng giám mục của Lyon phục vụ dưới danh nghĩa là người kế vị của các thánh Irênê và Pothinô, lần lượt là giám mục tiên khởi và thứ hai của Lyon, đồng thời là Giáo trưởng xứ Gaul. Các tổng giám mục của tổng giáo phận thường được thăng hồng y. Giám mục Olivier de Germay đã được chỉ định làm tổng giám mục vào ngày 22/10/2020.
Tuyên thệ nhậm chức (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816348
Tuyên thệ nhậm chức tại Việt Nam là điều bắt buộc với cá nhân được bầu đảm nhiệm vai trò của chức Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Lịch sử. Trước năm 2013 các cá nhân được bầu giữ chức Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao không có quy định và không cần tuyên thệ nhậm chức, khác với Việt Nam Cộng hòa người được bầu phải tuyên thệ nhậm chức. Sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hoá trong nội quy kỳ họp Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2015, Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước và 3 chức danh là Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao đại diện cho các khối cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp ngay sau khi được Quốc hội bầu phải thực hiện việc tuyên thệ. Trần Đại Quang là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch nước vào ngày 2 tháng 4 năm 2016, Nguyễn Xuân Phúc là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Chính phủ vào ngày 7 tháng 4 năm 2016, Nguyễn Thị Kim Ngân là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch Quốc hội vào ngày 31 tháng 3 năm 2016, Nguyễn Hòa Bình là người đầu tiên tuyên thệ nhậm chức Chánh án Tòa án nhân dân tối cao vào ngày 8 tháng 4 năm 2016. Tuyên thệ. Theo quy định: 1. Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp. 2. Ngoài nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, người tuyên thệ quyết định nội dung tuyên thệ phù hợp với trách nhiệm được giao. 3. Vị trí tuyên thệ là vị trí trang trọng của lễ đài. Đại biểu Quốc hội, người được mời tham dự, dự thính tại phiên họp đứng trang nghiêm chứng kiến Lễ tuyên thệ. 4. Lễ tuyên thệ được tiến hành theo trình tự sau đây: a) Quân nhạc cử nhạc nghi lễ và đội tiêu binh vào vị trí.
Tuyên thệ nhậm chức (Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816348
b) Người tuyên thệ chào Quốc kỳ, tiến vào vị trí tuyên thệ và tiến hành tuyên thệ. c) Sau khi tuyên thệ, người tuyên thệ phát biểu nhậm chức. Trước đây, thời gian tuyên thệ được quy định giới hạn không quá 3 phút nhưng hiện tại thời gian tuyên thệ không còn quy định giới hạn. Hiện tại, Việt Nam không có quy định cụ thể về lời tuyên thệ, người tuyên thệ được phép quyết định nội dung tuyên thệ phù hợp với trách nhiệm được giao và yêu cầu người tuyên thệ phải trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp do đó lời tuyên thệ mỗi người đều khác nhau. Tuy nhiên dựa vào các bài báo và video quay lại được thì lời tuyên thệ dưới đây là lời tuyên thệ không chính thức đang được các cá nhân dùng để tuyên thệ sau khi được Quốc hội Việt Nam bầu giữ chức: "Dưới cờ đỏ sao vàng thiêng liêng của Tổ quốc, trước Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước, tôi, "tên chức vụ cá nhân được bầu" nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin tuyên thệ: Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó."
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (Vòng 2)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816350
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 khu vực châu Á (vòng 2) bắt đầu vào ngày 18 tháng 2 năm 2004 và kết thúc vào ngày 17 tháng 11 năm 2004. Thể thức. Ở vòng này, 32 đội (gồm 25 đội được vào thẳng cùng với 7 đội thắng vòng 1) được bốc thăm vào 8 bảng với mỗi bảng 4 đội. Các đội chơi các trận sân nhà và sân khách với các đội còn lại trong bảng của họ. 8 đội đứng đầu ở 8 bảng đấu giành quyền vào vòng 3. Bảng 1. Ghi chú: "FIFA quyết định trận Iran vs Qatar đá trên sân không khán giả do hành vi bạo lực trong trận gặp CHDCND Triều Tiên trong khuôn khổ Vòng loại Cúp bóng đá châu Á vào ngày 12 tháng 11 năm 2003".
Hình ảnh lâm sàng, chẩn đoán và điều trị trong chuyên ngành da liễu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816351
Hình ảnh lâm sàng, chẩn đoán và điều trị trong chuyên ngành da liễu là bộ sách y học chuyên ngành da liễu của PGS.TS Nguyễn Văn Thường. Bộ sách bao gồm 2 cuốn đã đoạt giải A, giải cao nhất của Giải thưởng sách quốc gia năm 2020. Hoàn cảnh sáng tác. PGS.TS Nguyễn Văn Thường công tác tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Từ năm 2017 ông có ý tưởng biên soạn một cuốn sách da liễu để giúp cho người dạy, người học và các độc giả muốn tìm hiểu bệnh học da liễu dễ dàng nghiên cứu, tham khảo. Ý tưởng là kết hợp hình ảnh chi tiết với phần giải thích triệu chứng lâm sàng và chẩn đoán điều trị. Đầu năm 2018, PGS.TS Nguyễn Văn Thường bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình. Ông phối hợp với nhiều chuyên gia hàng đầu trong ngành da liễu đã lưu giữ và chọn lọc gần 10.000 bức ảnh đặc trưng nhất về bệnh da liễu, để từ đó biên soạn thành 2 cuốn sách gồm 35 chương và 272 bài. Bộ sách được phát hành vào năm 2019. Năm 2020, bộ sách được trao giải A giải thưởng sách quốc gia. Đây là bộ sách y học đầu tiên được trao giải thưởng này.
Hervé Renard
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816353
Hervé Jean-Marie Roger Renard (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1968) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp, hiện là huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Pháp. Renard trước đây đã từng là huấn luyện viên của Đội tuyển quốc gia Zambia, đội mà ông đã giành được Cúp bóng đá châu Phi 2012; ông cũng đã vô địch giải đấu năm 2015 với Bờ Biển Ngà, trở thành huấn luyện viên đầu tiên giành được hai Cúp bóng đá châu Phi với các đội bóng khác nhau. Ngoài ra, ông đã huấn luyện Maroc tại FIFA World Cup 2018. Năm 2019, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Ả Rập Xê Út. Đầu đời. Hervé Jean-Marie Roger Renard sinh ngày 30 tháng 9 năm 1968 tại Aix-les-Bains, Auvergne-Rhône-Alpes. Sự nghiệp cầu thủ. Sinh ra ở Aix-les-Bains, Renard thi đấu ở vị trí hậu vệ cho các đội bóng Pháp AS Cannes, Stade de Vallauris và SC Draguignan trong sự nghiệp thi đấu kéo dài từ 1983 đến 1998. Sau khi giải nghệ với tư cách là một cầu thủ chuyên nghiệp, ông làm công việc dọn dẹp, làm việc ở đó vào buổi sáng và tập luyện với Draguignan vào buổi tối, cuối cùng ông thành lập công ty dọn dẹp của riêng mình. Sự nghiệp huấn luyện. Lille. Renard trở thành huấn luyện viên của câu lạc bộ Pháp Lille vào tháng 5 năm 2015. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2015, ông bị sa thải sau khi chỉ giành được 13 điểm sau 13 trận tại giải VĐQG. Đội tuyển nữ Pháp. Vào tháng 3 năm 2023, Renard được mời làm huấn luyện viên của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Pháp sau khi Corinne Diacre bị sa thải. Vào ngày 29 tháng 3, Liên đoàn bóng đá Ả Rập Xê Út đã chấp nhận đơn từ chức của Renard để bắt đầu nhiệm kỳ huấn luyện viên đội tuyển nữ Pháp. Vào ngày 30 tháng 3, Renard chính thức trở thành huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia nữ Pháp, kế nhiệm Diacre với hợp đồng kéo dài đến tháng 8 năm 2024. Ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị đội cho 2023 FIFA Women's World Cup giữa những thay đổi và xung đột của người chơi, đặc biệt là với việc quản lý. Renard trở thành huấn luyện viên đầu tiên huấn các đội ở hai kỳ World Cup cấp cao khác nhau trong cùng một năm.
Hervé Renard
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816353
Vào ngày 29 tháng 7, ông trở thành huấn luyện viên đầu tiên giành chiến thắng trong một trận đấu ở cả hai kỳ World Cup nam và nữ sau khi Pháp đánh bại Brasil ở vòng bảng. Đời tư. Renard đang có mối quan hệ với Viviane Dièye, góa phụ của huấn luyện viên Bruno Metsu. Ông bà ngoại của ông đến từ Ba Lan.
They Knew Too Much About Flying Saucers
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816374
They Knew Too Much About Flying Saucers là cuốn sách phi hư cấu xuất bản năm 1956 của tác giả huyền bí Gray Barker. Đây là cuốn sách đầu tiên cho rằng "Men in Black" đang che đậy sự tồn tại của đĩa bay. Bối cảnh. Vào mùa hè năm 1947, phi công Kenneth Arnold báo cáo đã nhìn thấy những vật thể được gọi là đĩa bay; Báo cáo của Arnold đã gây ra một làn sóng bắt chước. Đến năm 1949, các tác giả như Frank Scully và Donald Keyhoe cho rằng bên Không quân biết nhiều về những cái đĩa hơn là họ tiết lộ công khai. Năm 1952, nhà nghiên cứu UFO nghiệp dư Albert K. Bender thành lập Cục Đĩa bay Quốc tế, câu lạc bộ UFO dân sự lớn đầu tiên. Grey Barker là một thành viên. Tháng 10 năm 1953, nhóm xuất bản số cuối cùng của bản tin, thông báo về việc giải tán tổ chức này. Số báo cuối cùng đưa tin rằng "Bí ẩn về đĩa bay không còn là bí ẩn nữa. Theo như nguồn tin cho biết thì bất kỳ thông tin nào về vụ việc đang được giữ kín theo lệnh từ một nguồn cấp cao hơn". Tháng 4 năm 1956, University Books of New York City đã ấn hành "They Knew Too Much About Flying Saucers", lời kể đầy kịch tính của Barker về sự tham gia của ông với IFSB. Tóm tắt. Cuốn sách tuyên bố nổi tiếng rằng Bender và các nhà điều tra UFO khác đã bị những kẻ lạ mặt vận bộ vest đen "bịt miệng". Tác phẩm này bắt đầu từ mối quan tâm ban đầu của Barker đối với những chiếc đĩa bay trong cuộc điều tra "Quái vật Flatwoods" năm 1952 và những cuộc điều tra về chiếc đĩa bay sau đó của ông ở Brush Creek, California. Barker mô tả sự quan tâm của mình đối với Bí ẩn Shaver và mấy cuốn tạp chí của Raymond Palmer, sau cùng đã khiến ông ấy trao đổi thư từ với Albert K. Bender và gia nhập "Cục Đĩa bay Quốc tế" của Bender. Theo lời kể, Bender nhận được mẫu kim loại được cho là từ một UFO, sau đó có ba kẻ lạ mặt bất chợt đến thăm ông, mỗi tên đều mặc đồ đen, đám người này đã tịch thu lại các bản tin của nhóm. Bender nhớ lại có một gã trong bọn họ đã nói với Barker rằng nghiên cứu của ông ấy là vô nghĩa, tuyên bố rằng "Trong chính phủ của chúng tôi, chúng tôi có những kẻ thông minh nhất đất nước. Họ khó mà biện minh về chuyện này. Làm sao ngài có thể làm được gì đây?"
They Knew Too Much About Flying Saucers
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816374
Làm sao ngài có thể làm được gì đây?" Trước khi họ khởi hành, một tên trong bọn họ bèn cảnh báo Bender: "Tôi cho rằng ngài biết là ngài rất vinh dự với tư cách là một người Mỹ. Nếu tôi nghe thấy lời nói nào khác thốt ra từ văn phòng của ngài thì ngài hãy liệu hồn đấy". Barker kể lại câu chuyện năm 1947 về sự kiện đảo Maury, nơi có sự hiện diện của đĩa bay mà nhân chứng tuyên bố mình được một gã mặc đồ vest đen cảnh báo không được thảo luận về vụ việc. Barker suy đoán những chiếc đĩa bay này có thể có mối liên kết với Nam Cực hoặc hiện tượng yêu tinh quấy phá. Barker liệt kê những người khác mà ông ấy tin rằng đã phải "giữ mồm giữ miệng", một số ở các quốc gia khác. Ảnh hưởng. "They Knew Too Much About Flying Saucers" đã nhanh chóng lọt vào danh sách bán chạy nhất năm 1956. Học giả theo thuyết âm mưu Michael Barkun viết rằng 'người áo đen' ("Men in Black") trong sách này "nhanh chóng trở thành một yếu tố chính trong văn hóa dân gian về UFO". Nhà sử học Aaron Gulyas, mô tả cuốn sách là "một trong số ít cuốn sách về đĩa bay mà tôi có thể đọc đi đọc lại", lưu ý rằng "trong thập niên 1970, 1980 và 1990, những người theo thuyết âm mưu UFO kết hợp MIB vào quan điểm ngày càng phức tạp và hoang tưởng của họ". Nhà sử học văn hóa dân gian Curtis Peebles gợi ý rằng câu chuyện về người áo đen của Barker có thể được lấy cảm hứng từ câu chuyện của "người tiếp xúc UFO" George Adamski về cuộc chạm trán với đám đặc vụ FBI. Theo bài viết "Gray Barker: My Friend, the Myth-Maker" đăng trên tờ "Skeptical Inquirer", có thể có "một phần sự thật" đối với các bài viết của Barker về Men in Black, trong đó các cơ quan chính phủ đã cố gắng ngăn cản sự quan tâm của công chúng đối với UFO trong thập niên 1950. Tuy vậy, Barker được cho là đã tô điểm rất nhiều cho sự thật trong tình huống này. Trong cùng một bài viết của "Skeptical Inquirer", Sherwood tiết lộ rằng, vào cuối những năm 1960, ông và Barker đã hợp tác trong một thông báo hư cấu ngắn ám chỉ đến Men in Black, được xuất bản lần đầu trên tạp chí "Flying Saucers" của Raymond A. Palmer và một số ấn phẩm riêng của Barker.
They Knew Too Much About Flying Saucers
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816374
Trong câu chuyện này, Sherwood (viết là "Tiến sĩ Richard H. Pratt") kể lại rằng ông ấy đã bị "người áo đen" ra lệnh im lặng sau khi biết rõ UFO là cỗ máy du hành thời gian. Barker sau đó có viết cho Sherwood rằng "rõ ràng là người hâm mộ đã nuốt chửng chuyện này chỉ trong một ngụm". Năm 1962, chính Bender là tác giả của một tài liệu viết về các sự kiện, "Flying Saucers and the Three Men" có mô tả "Men in Black" là thực thể siêu nhiên, lơ lửng trên sàn và phát ra luồng ánh sáng màu xanh lam. "The Knew Too Much About Flying Saucer" đã ảnh hưởng đến nền văn hóa đại chúng thập niên 1990, đáng chú ý nhất là phim "The X-Files" và "dòng phim Men in Black". Một tác giả đã ví "The X-Files" như một "phần phụ của thuyết phúc âm theo lời Barker".
The Report on Unidentified Flying Objects
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816375
The Report on Unidentified Flying Objects là cuốn sách phi hư cấu xuất bản năm 1956 của nhà điều tra UFO của Không quân Mỹ lúc bấy giờ đã về hưu Edward J. Ruppelt, trình bày chi tiết kinh nghiệm của ông khi điều hành Dự án Blue Book. Cuốn sách này gây được sự chú ý từ dư luận vì gợi ý rằng một vài trường hợp nhìn thấy UFO có thể liên quan đến các đợt phóng xạ nguyên tử. Giới truyền thông đương đại tóm tắt bốn chủ đề được thảo luận trong cuốn sách này: Năm 1960, Ruppelt là tác giả của ấn bản thứ hai qua đó ông tường thuật mang tính "tích cực" rằng UFO không tồn tại. Nội dung. Ruppelt là đại úy trong Không quân Mỹ, từng là giám đốc điều tra chính thức về UFO: Dự án Grudge và Dự án Blue Book. Trong thời gian làm giám đốc, Ruppelt đã đặt ra thuật ngữ UFO. Trong phần đề tựa, Ruppelt đưa ra lập luận: "Ai cũng biết rằng kể từ khi chiếc đĩa bay đầu tiên được báo cáo vào tháng 6 năm 1947, Không quân đã chính thức tuyên bố rằng không có bằng chứng nào cho thấy một thứ như tàu vũ trụ liên hành tinh tồn tại. Nhưng điều gì không ổn được biết là kết luận này còn lâu mới được sự nhất trí giữa quân đội và các cố vấn khoa học của họ". Bản 1960. Bốn năm sau lần xuất bản đầu tiên, Ruppelt đã phát hành một ấn bản mới với ba chương bổ sung. Trong đó, Ruppelt "dường như đã thay đổi hướng đi", tuyên bố UFO là một "Thần thoại về Thời đại Không gian". Trong chương đầu tiên mang tên "And They're Still Flying", Ruppelt đã kể về những lần nhìn thấy UFO vào cuối thập niên 1950 ở Ohio, Colorado và Kansas. Ruppelt thảo luận về việc thành lập Ủy ban Điều tra Hiện tượng Không trung Quốc gia (NICAP), một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập để điều tra các báo cáo về UFO, và lời khai sau đó của ông trước Ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ về Hoạt động của Chính phủ. Trong chương mới thứ hai nhan đề "Off They Go into the Wild Blue Yonder", Ruppelt kể chi tiết những câu chuyện hoang đường của George Adamski về việc liên tục du hành tới Sao Kim trên một chiếc đĩa bay, ví Adamski với P.T. Barnum. Trong chương cuối cùng "Do They or Don't They?", Ruppelt đáp lại câu hỏi "Các vật thể bay không xác định có tồn tại không?" với câu trả lời: "Tôi khẳng định là không". Nhận định.
The Report on Unidentified Flying Objects
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816375
Nhận định. Cuốn sách này được coi là "quan trọng nhất" trong thời đại của nó. Tờ Buffalo News đã đưa tin về cuốn sách với hàng tít trên trang nhất "You Saw a Spacehip? Air Force Won't Deny It", viết rằng "Ruppelt báo cáo kết luận của họ là một trong những sự bác bỏ giả thuyết cho rằng vật thể nêu trên là tàu vũ trụ, trên thực tế không có bằng chứng rõ ràng. Tuy nhiên, họ không bác bỏ khả năng này và ra sức thúc giục Không quân tiếp tục điều tra thêm nữa". Một bài đánh giá năm 1956 đã mô tả sách này là "bản báo cáo tỉnh táo của một người đàn ông phụ trách một trong những cuộc điều tra chính thức", lập luận rằng "Ruppelt chẳng bao giờ đưa ra lời giải thích về những gì không thể giải thích được". Vào thập niên 1970, nhà nghiên cứu UFO J. Allen Hynek gợi ý rằng "cuốn sách của Ruppelt nên được đọc đối với bất kỳ ai quan tâm nghiêm túc đến lịch sử của chủ đề này". Nhà sử học Curtis Peebles kết luận rằng cuốn sách "lẽ ra phải chấm dứt suy đoán về sự che đậy của Không quân. Trên thực tế, những tuyên bố của Ruppelt đã được chuyển thành sự ủng hộ cho ý tưởng che đậy".
Tổng giáo phận Đài Bắc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816399
Tổng giáo phận Đài Bắc (; ) là một Tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Đài Loan. Ban đầu, Giáo hoàng Piô XII đã thành lập Hạt Phủ doãn Tông tòa Đài Bắc vào ngày 30/12/1949. Vào ngày 7/8/1952, hạt được nâng cấp thành một tổng giáo phận, quản lí các giáo phận trực thuộc là Giáo phận Gia Nghĩa, Giáo phận Tân Trúc, Giáo phận Hoa Liên, Giáo phận Cao Hùng, Giáo phận Đài Trung, và Giáo phận Đài Nam. Nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận là Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Vì đây là tổng giáo phận duy nhất ở Đài Loan, tổng giáo phận Đài Bắc là nơi có tòa giám mục chính của quốc gia này. Ngày 23/5/2020, Giáo hoàng Phanxicô đã chấp thuận cho Tổng giám mục Gioan Hồng Sơn Xuyên từ nhiệm khi đến tuổi về hưu theo Giáo luật và chỉ định Tôma Chung An Trụ làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Đài Bắc. Trong nhiều năm, các cá nhân giữ vị trí Tổng giám mục Đài Bắc cũng đã được chỉ định là Giám quản Tông tòa của đảo Kim Môn and quần đảo Mã Tổ mà trên lí thuyết do Giáo phận Hạ Môn quản lí.
Wayfair
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816404
Wayfair Inc. là một công ty thương mại điện tử của Mỹ có trụ sở chính tại Boston, Massachusetts. Công ty này kinh doanh bán đồ nội thất và hàng gia dụng trực tuyến. Trước đây được biết đến với tên CSN Stores, công ty được thành lập vào năm 2002 và hiện nay cung cấp hơn 14 triệu sản phẩm từ hơn 11.000 nhà cung cấp trên toàn cầu. Wayfair có các văn phòng và nhà kho trải rộng khắp Hoa Kỳ và tại Canada, Đức, Ireland và Vương quốc Anh. Wayfair điều hành năm trang web bán lẻ mang thương hiệu riêng bao gồm: trang chủ chính thức Wayfair, Joss & Main, AllModern, Birch Lane, và Perigold.
Tòa nhà TV Asahi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816406
là tòa nhà 8 tầng nằm ở Roppongi, Minato, Tokyo, Nhật Bản. Tòa nhà trên là trụ sở của đài truyền hình TV Asahi. Tòa nhà được thiết kế bởi kiến trúc sư Fumihiko Maki. Năm 2000, tòa nhà đã khởi công xây dựng và hoàn thành vào năm 2003. Tòa nhà TV Asahi là một phần của khu thương mại Roppongi Hills. Lối vào chính dành cho du khách là giếng trời. Vườn Mōri, dinh thự cũ của gia tộc Mōri nằm ngay tại tòa nhà này.
Kyahan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816407
là loại quần vải truyền thống của Nhật được mặc bởi các samurai và thuộc hạ của Nhật trong thời kỳ phong kiến. Trong tiếng Nhật, từ này còn được dùng để ám chỉ dáng đi của các chiến binh cổ của phương Tây. Mô tả. đã từng được mặc như một lớp đệm phía dưới trang phục của các samurai (). Một số loại có thể được bao phủ bởi một lớp áo giáp ( được gọi là hay ); chúng từng được mặc bởi những người lính đường bộ () hay các samurai với mục đích bảo vệ. cũng thường được mặc bởi khách lữ hành nhằm bảo vệ họ khỏi nhiệt độ lạnh, côn trùng và bụi rậm. thường được làm từ vải linen, hưng cũng có thể làm từ những chất liệu khác như cotton. Chất liệu dùng để may tùy thuộc vào từng mùa. Khi buộc , dải dây bên trong luôn ngắn hơn dải dây bên ngoài; dây thường được buộc ở mặt trong của chân thay vi mặt bên hay mặt ngoài, nhằm tránh cảm giác khó chịu bởi chất vải thô cứng của .
Ԭ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816408
Dche (Ԭ ԭ, chữ nghiêng: "Ԭ" "ԭ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin. Hình dạng của Dche là chữ ghép của hai chữ cái De (Д д "Д" "д") và Che (Ч ч "Ч" "ч"). Dche từng được sử dụng trong bảng chữ cái Kirin cũ của tiếng Komi. Sử dụng. Chữ cái này đại diện cho âm . Dche có thể được Latinh hóa thành ⟨đ⟩. Dche từng được dùng cho tiếng Komi, một ngôn ngữ được nói bởi người Komi, là dân tộc sống chủ yếu ở vùng đông bắc lãnh thổ nước Nga thuộc châu Âu.
Charles Antoine François Thomson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816415
Charles Antoine François Thomson (ngày 25 tháng 9 năm 1845 – ngày 8 tháng 7 năm 1898) là một công chức người Pháp từng là phó tỉnh trưởng rồi sau lên làm tỉnh trưởng của nhiều tỉnh thuộc vùng thủ đô nước Pháp. Từ năm 1882 đến năm 1885, ông là Thống đốc Nam Kỳ ở miền nam Việt Nam ngày nay. Khi còn tại vị, ông đã buộc Quốc vương Norodom xứ Campuchia chấp nhận tăng cường quyền kiểm soát của thực dân Pháp đối với chế độ bảo hộ tại Campuchia. Tiểu sử. Thân thế. Charles Antoine Françis Thomson sinh ngày 25 tháng 9 năm 1845 tại Si-Mustapha, Algeria. Cha tên là Peter John Sydney Arnold Thomson (1815–1865) và mẹ là Gabrielle Félicie Bourguet (1825–1880). Ông là tùy viên của Bộ trưởng Bộ Tài chính từ năm 1864 đến năm 1870, sau đó được bổ nhiệm làm Phó Tỉnh trưởng Vervins vào ngày 26 tháng 11 năm 1870. Ông lần lượt là Phó Tỉnh trưởng Briançon, Brignoles và Vendôme. Về sau ông lên làm Tỉnh trưởng Drôme rồi Doubs và sau tới tỉnh Loire. Ngày 11 tháng 4 năm 1874, Thomson kết hôn với Louise Valentine Virginie Carilian (1855–1917) ở Briançon, Hautes-Alpes. Các con của họ bao gồm Charlotte (1875–1876), Madeleine Virginie (1876–1951), Jeanne-Louise (1878–1896) và Andrée (1886–1967). Thống đốc Nam Kỳ. Thomson được Đô đốc Jean Bernard Jauréguiberry bổ nhiệm làm Thống đốc Nam Kỳ năm 1882. Thomson là Thống đốc Nam Kỳ thuộc Pháp từ ngày 7 tháng 11 năm 1882 đến ngày 27 tháng 7 năm 1885. Ông lên thay thế cho vị Thống đốc tiền nhiệm là Charles Le Myre de Vilers. Trên cương vị là Thống đốc Nam Kỳ, Thomson chịu trách nhiệm bảo hộ Campuchia. Ông muốn đạt được một thỏa thuận với Quốc vương Norodom của Campuchia mà nhà vua cam kết tôn trọng thỏa thuận này. Norodom chống lại yêu cầu của người Pháp rằng ông phải trang trải chi phí cho chế độ bảo hộ của thực dân Pháp. Các cuộc thảo luận vào tháng 7 năm 1883 đã dẫn đến một thỏa thuận vào tháng 9 năm 1883 rằng bắt đầu từ năm 1884, chính quyền Pháp sẽ thu thuế bán thuốc phiện và rượu để trang trải chi phí. Người Pháp cũng kỳ vọng rằng Norodom cho phép thành lập các đồn cảnh sát trên khắp Campuchia và trao cho Thomson một bản dự thảo hiến pháp nhằm củng cố các cải cách đã được thống nhất.
Charles Antoine François Thomson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816415
Tháng 4 năm 1884, Thomson đề xuất thêm rằng người Pháp nên tiếp quản ngành hải quan của Campuchia. Đồng thời Thomson đang đàm phán riêng với Sisowath, vị hoàng đệ cùng cha khác mẹ của Norodom, mà ông từng ca tụng "ông hoàng này, người tuyệt đối trung thành với chính sách của chúng ta, [người] từ lâu đã chấp nhận quan điểm chung của chúng ta dẫn đến sự thay đổi chế độ bảo hộ". Norodom cuối cùng buộc phải ký Công ước Phnôm Pênh vào ngày 17 tháng 6 năm 1884 để tránh việc người Pháp tôn phò Sisowath lấp vào ngôi vị của ông như một con rối của họ. Thomson dẫn theo một đội quân đến cung điện nơi ký kết bản công ước này, cùng các pháo hạm đóng gần đó được phô trương. Hiệp ước thiết lập chính quyền trực tiếp hơn của Pháp đối với xứ bảo hộ Campuchia, đứng đầu là một viên Thống sứ Pháp báo cáo trực tiếp lên Thống đốc Nam Kỳ. Thomson hăng hái bắt tay vào thực hiện những thay đổi đã được thống nhất trong công ước. Thế nhưng, vào đầu tháng 1 năm 1885, phần lớn đất nước Campuchia đã nổi dậy chống lại người Pháp. Ngày 21 tháng 7 năm 1885 Thompson được lệnh quay trở lại Pháp bằng thuyền tiếp theo để báo cáo tình hình, giao cho Tướng Charles Auguste Frédéric Bégin làm Quyền Thống đốc. Bégin là viên tư lệnh quân sự cao cấp của xứ Nam Kỳ từ ngày 20 tháng 3 năm 1885. Bégin không thích các chính sách của Thomson, và điều động lực lượng để đảm bảo rằng Thomson không trở lại. Ngày 28 tháng 10 năm 1885, ông viết, Cuối đời. Thomson về mặt chuyên môn là Thống đốc Nam Kỳ cho đến tháng 3 năm 1886, nhưng không trở lại thuộc địa sau tháng 7 năm 1885. Ông là Công sứ Pháp quốc tại Copenhagen năm 1891, Giám đốc Ngân khố Hérault và sau đó là Bouches-du-Rhône. Thomson qua đời vào ngày 8 tháng 7 năm 1898 tại Marseille, Bouches-du-Rhône.
Charles Auguste Frédéric Bégin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19816416
Charles Auguste Frédéric Bégin (ngày 2 tháng 7 năm 1835 – ngày 27 tháng 7 năm 1901) là một vị tướng lĩnh người Pháp từng giữ chức Quyền Thống đốc Nam Kỳ năm 1885–1886, và là Tổng Tư lệnh Quân đội Pháp ở Đông Dương từ năm 1887 đến năm 1889. Tiểu sử. Những năm đầu đời (1835–1863). Charles Auguste Frédéric Bégin sinh ngày 2 tháng 7 năm 1835 tại Marie-Galante, Guadeloupe. Cha tên là Joseph Charles Pierre Bégin (1800–1859), Phó ủy viên hải quân, và mẹ là Elisabeth Giraud. Ông theo học trường École spéciale militaire de Saint-Cyr, và vào ngày 1 tháng 10 năm 1856, ông được bổ nhiệm làm Thiếu úy trong Bộ binh Hải quân. Bégin được điều động đến công tác tại Guadeloupe suốt 5 năm, rồi sau thăng cấp Trung úy vào ngày 19 tháng 9 năm 1859. Ông trở lại Pháp vào năm 1861 và được chỉ định vào tiểu đoàn huấn luyện lính thủy đánh bộ fusilier tại đồn Lorient. Đại úy và Tiểu đoàn trưởng (1863–1873). Bégin được thăng Đại úy ngày 13 tháng 5 năm 1863, và đến Sài Gòn, Nam Kỳ vào tháng 1 năm 1864. Ông tham gia một đội quân viễn chinh nhỏ dẹp loạn ở tỉnh Tây Ninh, và được tuyên dương vào tháng 9 năm 1866. Tháng 3 năm 1867, ông được thưởng Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh. Năm 1868, ông trở lại Pháp và gia nhập lại tiểu đoàn huấn luyện lính fusilier. Ngày 1 tháng 1 năm 1869, ông là sĩ quan phụ tá của Trung đoàn Bộ binh Thủy quân lục chiến số 2 ở Brest. Ông được bổ nhiệm làm Thiếu tá hay Tiểu đoàn trưởng vào ngày 16 tháng 3 năm 1870. Ông bèn trở lại Nam Kỳ đảm nhận chức chỉ huy trưởng quân Pháp ở các tỉnh miền Tây. Năm 1872, ông đem quân đánh dẹp quân nổi dậy bản xứ các tỉnh Mỏ Cày, Trà Vinh, Vĩnh Long. Ông lại được tuyên dương, và vào ngày 25 tháng 7 năm 1872 được thăng cấp Sĩ quan Quân đoàn Danh dự. Trung tá và Đại tá (1873–1882). Bégin được thăng cấp Trung tá vào ngày 10 tháng 3 năm 1873. Ông quay về Pháp và phục vụ trong Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa số 3 ở Rochefort trong vài tháng. Năm 1874, ông đến Saint-Louis, Sénégal nắm quyền chỉ huy quân đội thuộc địa suốt hai năm liền.