title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Hoshimi Rika
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819674
là một tarento và ca sĩ người Nhật Bản. Cô cũng là một cựu nữ diễn viên khiêu dâm và thần tượng áo tắm. Cô là một thành viên của nhóm Million Girls Z. Cô sinh ra tại Numazu, Shizuoka. Sự nghiệp. Năm 2005, cô được đề cử cho bộ sưu tập thần tượng áo tắm mặc đồng phục của Tōryūmon Young Jump. Trong chương trình "SHAKE!FREE TV" của TV Aichi, cô đã được chọn làm MC khi còn là sinh viên năm hai. 22/7/2011, ảnh khỏa thân hoàn toàn đầu tiên của cô được đăng lên tạp chí ảnh hàng tuần "FRIDAY" số ngày 5/8/2011. Tháng 9 cùng năm, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với hãng MUTEKI. Sau đó cô đã trở thành nữ diễn viên độc quyền của Idea Pocket, và các phim phát hành vào tháng 1 và 2 đã trở thành một trong những phim bán chạy nhất của hãng. Công ti chủ quản hiện tại của cô là Diva Promotion. Năm 2013, cô đã đảm nhận vị trí quản lí phòng kinh doanh của Idea Pocket. Cô thông báo cô sẽ chuyển hãng phim độc quyền sang Million từ ngày 1/5/2014, và cô cũng đã được chọn để tham gia nhóm Million Girls Z cùng với Sakazaki Miho, Christine và Sakura Kizuna, với cô là trưởng nhóm. 1/6/2016, bên lề sự kiện trang web chính thức của AV OPEN2016 được lập, cô cùng với Ichikawa Masami và Mikami Yua đã thông báo được chọn làm hình ảnh đại diện của sự kiện. Tháng 12 cùng năm, cô đã thông báo nghỉ việc trên blog của cô. Tháng 5/2019, cô tham gia công ti T-Powers với tư cách là một tarento và quay lại hoạt động nghệ thuật. Ngày 4/12/2020, cô ra mắt ngành ca hát dưới nghệ danh HOSHIMI RIKA. Dựa trên kinh nghiệm làm thần tượng áo tắm, cô đã thể hiện sự mong muốn được giúp đỡ những cô gái đang hoạt động trong ngành vướng vào cuộc phản đối hủy bỏ buổi chụp ảnh áo tắm, và đã tham gia với tư cách là MC tại buổi tiệc sau sự kiện với chủ đề "Thể hiện sự quyến rũ để bảo vệ những nơi bạn có thể thể hiện bản thân, ví dụ như các buổi chụp ảnh áo tắm và áo lót".
Cá mù làn chấm hoa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819677
Cá mù làn chấm hoa (danh pháp: Dendrochirus zebra) là một loài cá biển thuộc chi "Dendrochirus" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829. Từ nguyên. Không rõ ý nghĩa của từ định danh "zebra", có thể là đề cập đến các vệt sọc dọc màu nâu cam và trắng xám giống như ngựa vằn ở loài cá này. Phân bố và môi trường sống. Cá mù làn chấm hoa có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, được ghi nhận từ biển Đỏ và Đông Phi trải dài đến về phía đông đến quần đảo Marshall, quần đảo Samoa và Tonga, ngược lên phía bắc đến bờ nam Nhật Bản (gồm quần đảo Ogasawara), giới hạn phía nam đến Nam Phi, Úc (gồm cả đảo Lord Howe và đảo Norfolk) và quần đảo Kermadec. Cá mù làn chấm hoa cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam, như tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), hòn Cau (Bình Thuận), bờ biển Ninh Thuận, vịnh Vân Phong và vịnh Nha Trang (Khánh Hòa), cũng bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Ở vịnh Nha Trang thì chúng là loài cá mù làn phổ biến nhất. Cá mù làn chấm hoa sống trên nền đá sỏi và san hô của rạn san hô, đầm phá và trong các hang hốc, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 115 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá mù làn chấm hoa là 25 cm. Loài này có các dải sọc màu nâu cam hoặc đỏ nâu, xen kẽ với các vạch màu sáng, trên mỗi dải sáng có các sọc nâu cam/đỏ nâu mảnh hơn. Vây lưng, vây đuôi và vây hậu môn có các đốm đen nhỏ. Vệt nâu đen trên má băng qua mắt và trên nắp mang. Vệt hình chữ T nằm ngang rõ rệt trên cuống đuôi. Tia vây ngực có tối đa là hai nhánh. Gốc vây ngực có mảng đen với nhiều chấm trắng. Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 9–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5–7; Số tia vây ngực thường là 17 (ít khi là 15, 16 hoặc 18). Sinh học. Trong một nghiên cứu sinh học tại vịnh Nha Trang, cá đực thuần thục sinh dục khi đạt chiều dài trên 10,6 cm, ước tính 50% cá cái trưởng thành ở chiều dài khoảng 11,3 cm.
Cá mù làn chấm hoa
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819677
Trứng được thụ tinh có đặc điểm là hình cầu không đều, vùng quanh noãn (perivitelline) hẹp, vỏ trứng nhẵn và trong suốt, noãn hoàng đồng nhất, trong suốt và không màu, đường kính ~0,79 (0,74−0,81) mm. Một giọt lipid duy nhất có đường kính ~0,15 (0,146−0,153) mm nằm trong noãn, giọt không màu hoặc có màu hồng vàng. Trứng nở sau khoảng 25,5 giờ. Khi mới nở, chiều dài cơ thể cá bột là 1,6–1,7 mm. Cá mù làn chấm hoa ăn động vật giáp xác nhỏ và cá, là loài phối hợp săn mồi (2–3 cá thể). Để kêu gọi sự hợp tác, chúng xòe vây để báo hiệu các cá thể đồng loài và dị loài như "Pterois antennata" về sự hiện diện của con mồi. Những cá thể trợ giúp sẽ dồn con mồi vào góc bằng cách căng rộng vây ngực. Những cá thể khởi xướng thường ra đòn đầu tiên vào con mồi, nhưng sau đó cả nhóm sẽ luân phiên tấn công. Kết quả cho thấy, tín hiệu mời hợp tác có thể là đặc trưng của họ Cá mù làn, vì những cá thể khác loài cũng phối hợp săn mồi thành công như những cá thể cùng loài. Không những vậy, chúng còn chia sẻ chiến lợi phẩm bắt được với các thành viên trợ giúp trong cuộc săn mồi. Giá trị. Cá mù làn chấm hoa được đánh bắt chủ yếu để phục vụ cho ngành buôn bán cá cảnh, ít có giá trị thương mại.
Bản đồ theo quốc kỳ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819678
Bản đồ theo quốc kỳ là một dạng bản đồ và các quốc kỳ trên các quốc gia như là: Vanuatu, Serbia, Trung Quốc, Yemen, Kenya, Pháp, Nicaragua, ... thậm chí là các châu lục hoặc vùng như là bán đảo Balkans, Đông Nam Á, Carribe, Trung Đông và bản đồ lịch sử đó là: Cộng hòa Weimar, Đế quốc Anh, Liên Xô, Liên bang Đông Dương, Ấn Độ thuộc Anh., Liên minh Nam Phi, Đế quốc Đại Hàn... Có hai bản đồ ngôn ngữ đó là tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha. Có bản đồ quốc gia phụ thuộc và quốc gia không được công nhận như: Niue, Somaliland, Polynesie, Reunion, Cộng hòa Artsakh, Saint Helena. Bản đồ thủ đô là: Tokyo, Moscow, Berlin. Bản đồ thế giới gồm theo từng năm là thế kỷ, có hai thế kỷ là: thế kỷ 20 và thế kỷ 21. Các bản đồ thường khi có hồ, hồ nước mặn như là: Biển Aral.. và thỉ thoảng không có hồ (trừ biển Caspi) chỉ có sông và các nước có cộng hòa tự trị như: Cộng hòa tự trị Krym, Nakhchivan, Adjara, Karakalpakstan và Nước cộng hòa thuộc Nga như: Sakhalin, Tatar ... tỉnh và tiểu bang của Hoa Kỳ và Canada như: Columbia thuộc Anh, Oregon, Nunavut, California... Về mặt địa lí, Nam Cực không phải là một quốc gia, mà là một châu lục nằm ở bán cầu Nam. Thường thường khi có bản đồ tỉnh của Tây Ban Nha. Tổ chức. Bản đồ quốc kỳ còn có quốc kỳ của tổ chức là: ASEAN, NATO, Liên minh Châu Âu, CSTO, Liên minh Châu Phi, Liên đoàn Ả Rập, Comecon, Khối Warszawa, Khối Thịnh vượng chung Anh, Liên Hợp Quốc và không có như là Hội Quốc Liên. Lịch sử. Alighiero Boetti, họa sĩ người Ý đã vẽ một chiếc bản đồ thế giới của thế kỷ 20 được làm bằng quốc kỳ mà ông làm từ năm 1969 và đến 1971 mới hoàn thành. Boetti đã phải làm đi làm lại tới 200 lần, bởi biên giới bị thay đổi, thậm chí phải thay quốc kỳ cũ bằng quốc kỳ mới. Những nhà làm nghệ thuật lẫn người yêu nghệ thuật ngày nay nhìn lại tác phẩm của ông ấy và nhận thấy chính ý tưởng sáng tạo của ông đang mở ra một hướng mới cho các nghệ sĩ. Tên tác phẩm của ông là Mappa. Bản đồ các quốc gia phụ thuộc. Có rất nhiều bản đồ các quốc gia phụ thuộc là: Bản đồ các quốc gia không được công nhận hoặc hạn chế công nhận.
Bản đồ theo quốc kỳ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819678
Và có một số bản đồ các quốc gia không được công nhận hoặc các quốc gia được hạn chế công nhận đó là: Bản đồ các quốc gia lịch sử. Có rất nhiều các bản đồ quốc gia lịch sử Các bản đồ dạng phép chiếu. Chỉ có hai dạng phép chiếu của bản đồ theo quốc kỳ duy nhất đó chính là phép chiếu Mercator và phép chiếu Karavrayski VII. Phép chiếu Mercator là một hình chiếu bản đồ hình trụ đại diện cho toàn bộ bề mặt trên mặt đất. Nó được phát triển bởi Gerardus Mercator vào thế kỷ 16, vào năm 1569. Tuy nhiên, dạng bản đồ này không được chính xác vì nó đã bị chỉ trích rộng rãi vì thực tế là nó làm biến dạng các hình thức khi nó tiếp cận các cực làm cho khối đất trông lớn hơn so với thực tế. Ngày nay, phép chiếu Mercator tiếp tục là một trong những thứ được sử dụng nhiều nhất. Trên thực tế, các dịch vụ định vị toàn cầu của Google, Bing, OpenStreetMaps và Yahoo dựa trên loại hình chiếu bản đồ này. Bản đồ thế giới. Một dạng bản đồ không có hoặc có hình ovan màu đen, là bản đồ phép chiếu Kavrayskiy VII từ thế kỷ 18, hết thế kỷ 19, thế kỷ 20 và 21 . Loại bản đồ. Có loại bản đồ trong Wikimedia Commons, loại bản đồ này là một phép chiếu mà chúng ta đã nói. Nhưng mà là một bản đồ khác, so với hồi nãy chúng ta đang dùng. Liên kết ngoài. Không có liên kết ngoài, đây là một bài viết mới đăng từ hôm kia, vào ngày chưa xác định được. Bài viết liên quan đến Bản đồ vẫn còn sơ khai
Bộ Hải ngoại (Pháp)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819681
Bộ Hải ngoại Pháp (chữ Pháp: "Ministère des Outre-mer"), là một trong các bộ ban ngành của chính phủ Pháp, phụ trách công việc liên quan đến tỉnh hải ngoại và lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp. Bộ trưởng đương nhiệm là Jean-François Carenco, nhậm chức vào ngày 04 tháng 07 năm 2022. Lịch sử. Bộ Hải ngoại Pháp nguyên lúc đầu là ban thư kí của Bộ Hải quân, căn cứ vào đạo luật thiết lập Bộ Thuộc địa do tổng thống Pháp Jean Casimir-Perier thông qua, chính thức thành lập Bộ Thuộc địa ("Ministère des Colonies") vào ngày 20 tháng 3 năm 1894. Ngày 26 tháng 1 năm 1946, đổi tên thành Bộ Hải ngoại, sử dụng tên đó cho đến hiện nay.
Kirin hóa tiếng Ba Lan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819690
Sự Kirin hóa tiếng Ba Lan đã được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau và bắt đầu được thực hiện vào giữa thế kỷ 19 tại Đế quốc Nga. Từ năm 1772 đến năm 1815, Đế quốc Nga đã chiếm khoảng diện tích của Ba Lan-Litva, nơi mà tiếng Ba Lan là ngôn ngữ chính thức. Tiếng Ba Lan vẫn là ngôn ngữ chính thức của các lãnh thổ Ba Lan-Litva hợp nhất cho đến cuối những năm 1830. Sau đó, nó dần dần được thay thế bằng tiếng Nga cho đến giữa những năm 1860. Giai đoạn giữa của quá trình Kirin hóa là việc sử dụng chữ Kirin kiểu Nga để viết tiếng Ba Lan. Kirin hóa tiếng Ba Lan kiểu Nga. Hệ thống Kirin hóa tiếng Ba Lan, như được sử dụng ở Nga ngày nay, đã xuất hiện trong những năm 1970 ở Liên Xô sau chiến tranh. Nó là một dạng phiên âm. Chữ Kirin Ba Lan kiểu mới. Kể từ đầu những năm 1990, các sách tôn giáo bằng tiếng Ba Lan được sản xuất cho người theo đạo Công giáo ở miền tây Belarus (tức Giáo phận Grodno) đã được xuất bản bằng chữ Kirin Ba Lan mới được tạo ra, phần lớn dựa trên dạng tiếng Nga của bảng chữ cái này. Kinh Lạy Cha. Chữ Kirin Ba Lan: Chữ Latinh Ba Lan:
BleachBit
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819692
BleachBit là một trình dọn dẹp không gian ổ đĩa tự do nguồn mở, trình quản lí riêng tư và trình tối ưu hóa hệ thống máy tính. Mã nguồn BleachBit được cấp phép theo Giấy phép Công cộng GNU phiên bản 3. Lịch sử. BleachBit được phát hành công khai lần đầu vào ngày 24 tháng 12 năm 2008 cho hệ thống Linux. Bản phát hành 0.2.1 đã tạo ra một số tranh cãi bằng cách đề xuất Linux cần trình dọn dẹp đăng ký. Phiên bản 0.4.0 giới thiệu CleanerML, ngôn ngữ đánh dấu dựa trên tiêu chuẩn để viết trình dọn dẹp mới. Vào ngày 29 tháng 5 năm 2009, BleachBit phiên bản 0.5.0 đã thêm hỗ trợ cho Windows XP, Windows Vista và Windows 7. Vào ngày 16 tháng 9 năm 2009, phiên bản 0.6.4 đã giới thiệu hỗ trợ giao diện dòng lệnh. BleachBit có sẵn để tải về thông qua trang web của nó và kho lưu trữ của rất nhiều bản phân phối Linux. Công nghệ. BleachBit được viết bằng ngôn ngữ lập trình Python và sử dụng PyGTK. Hầu hết các trình dọn dẹp của BleachBit đều được viết bằng CleanerML, một ngôn ngữ đánh dấu dựa trên tiêu chuẩn mở XML để viết trình dọn dẹp. CleanerML không chỉ xử lý việc xóa tập tin mà còn thực hiện các hành động chuyên biệt hơn, chẳng hạn như hút cơ sở dữ liệu SQLite (được sử dụng, ví dụ, để làm sạch Yum). Trình hủy tập tin của BleachBit chỉ sử dụng một thẻ 'an toàn' duy nhất bởi vì nhà phát triển tin rằng thiếu bằng chứng cho thấy nhiều lần vượt qua, chẳng hạn như 35 lần phương pháp Gutmann, có hiệu quả hơn. Họ cũng khẳng định rằng nhiều lần vượt qua chậm hơn đáng kể và có thể mang lại cho người dùng cảm giác an toàn sai lầm bằng cách làm lu mờ các cách khác mà quyền riêng tư có thể bị xâm phạm. Tranh cãi. Vào tháng 8 năm 2016, Nghị sĩ Hoa Kỳ thuộc Đảng Cộng hòa Trey Gowdy thông báo rằng ông đã xem các ghi chú từ Cục Điều tra Liên bang (FBI), thực hiện trong quá trình điều tra Email của Hillary Clinton, nói rằng nhân viên của bà đã sử dụng BleachBit để xóa hàng chục nghìn email trên máy chủ riêng của mình. Sau đó, ứng cử viên tổng thống khi đó là Donald Trump tuyên bố Clinton đã "rửa axit" và "tẩy trắng" email của bà, và ông gọi đó là "một quy trình tốn kém".
BleachBit
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819692
Sau thông báo, trang web của công ty BleachBit đã nhận được lưu lượng truy cập tăng lên. Vào tháng 10 năm 2016, FBI đã công bố các tài liệu đã chỉnh sửa từ cuộc điều tra email của bà Clinton.
Colin Hendry
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819695
Edward Colin James Hendry (sinh ngày 7 tháng 12 năm 1965) là một huấn luyện viên người Scotland và cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Hendry, người từng chơi ở vị trí hậu vệ, đáng chú ý đã chơi ở Premier League cho Blackburn Rovers, nơi ông là một phần của đội giành danh hiệu năm 1995. Ông cũng chơi bóng đá ở hạng đấu cao nhất của cả Anh và Scotland cho Dundee, Manchester City, Rangers, Coventry City và Bolton Wanderers cũng như thời gian thi đấu tại Football League cho Preston North End và Blackpool. Ông đã có 51 lần khoác áo đội tuyển Scotland, ghi ba bàn và là một phần của đội bóng thi đấu tại Euro 1996 và World Cup 1998. Sau khi nghỉ hưu, Hendry tiếp quản vị trí huấn luyện viên của câu lạc bộ Blackpool và sau đó có thời gian huấn luyện câu lạc bộ Clyde. Sau đó, anh trở lại Blackburn với tư cách là thành viên ban huấn luyện của họ và trước đó ông đã có thời gian làm trợ lý huấn luyện viên của đội Boston United. Sự nghiệp câu lạc bộ. Hendry chơi bóng lần đầu cho câu lạc bộ bán chuyên nghiệp địa phương của ông ở giải Highland League có tên là Keith và Islavale-một câu lạc bộ thuộc Hiệp hội bóng đá trẻ Scotland (SJFA). Ông bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình vào năm 1983 với Dundee. Trong thời gian đầu sự nghiệp của mình, Hendry chủ yếu chơi ở vị trí tiền đạo. Năm 1987, ông chuyển đến chơi cho Blackburn Rovers, nơi ông chuyển sang làm hậu vệ. Một trong những lần ra sân đầu tiên của ông là trong trận chung kết Full Members Cup, nơi ông ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 ở sân Wembley cũ trước Charlton Athletic. Ông đã chơi hơn 100 trận cho Blackburn trước khi gia nhập Manchester City vào năm 1989, nơi ông được vinh danh là Cầu thủ của năm trong mùa giải 1989–90. Tuy nhiên, số ngày của ông ở City chỉ được đếm bằng những con số, sau khi ông không nằm trong kế hoạch của huấn luyện viên Peter Reid khi Reid tiếp quản ghế huấn luyện vào tháng 11 năm 1990 sau khi Howard Kendall đến Everton. Ông được Kenny Dalglish tái ký hợp đồng với Blackburn vào tháng 11 năm 1991 với mức phí 700.000 bảng và giúp họ đạt được thành công rực rỡ bao gồm việc thăng hạng từ Giải hạng hai và vô địch Premier League. Năm 1998, ông quay trở lại Scotland để thi đấu cho Rangers, nơi ông được huấn luyện viên Dick Advocaat ký hợp đồng với giá 4 triệu bảng Anh.
Colin Hendry
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819695
Tuy nhiên, mặc dù đã giành được cú ăn ba trong nước trong mùa giải đầu tiên chơi cho đội bóng, thời gian ông ở đội bóng tương đối không hạnh phúc với việc Advocaat cho rằng Hendry "không phải là mẫu cầu thủ của ông". Sau thời gian ở Rangers, Hendry cũng chơi cho Coventry City và Bolton Wanderers, cũng như Preston North End và Blackpool dưới dạng cho mượn, trước khi giã từ sự nghiệp bóng đá. Tổng cộng, Hendry đã chơi hơn 500 trận tại giải VĐQG và ghi hơn 40 bàn thắng trong sự nghiệp thi đấu kéo dài 20 năm. Vào tháng 11 năm 2018, Hendry chơi một trận ở giải Blackburn Sunday League cho đội bóng có tên là Moorgate F.C. Sự nghiệp quốc tế. Hendry đã thi đấu 51 trận quốc tế cho đội tuyển Scotland mặc dù thực tế là ông chỉ là người xuất hiện muộn ở đấu trường quốc tế, không ra mắt cho đến khi ông 27 tuổi. Ông là đội trưởng của Scotland tại World Cup 1998. Lần xuất hiện cuối cùng cho đội tuyển Scotland của ông, vào ngày 28 tháng 3 năm 2001, chứng kiến ​​Hendry ghi hai bàn trong chiến thắng 4–0 trước San Marino. Sự nghiệp quốc tế của ông đã kết thúc khi ông sau đó bị cấm thi đấu sáu trận vì thúc cùi chỏ vào cầu thủ dự bị của San Marino Nicola Albani xuất hiện trong trận đấu đó. Sự nghiệp huấn luyện. Hendry nhận công việc huấn luyện viên đầu tiên của mình vào tháng 6 năm 2004 khi ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của câu lạc bộ cũ Blackpool, nhưng đã bị câu lạc bộ sa thải vào tháng 11 năm 2005 sau một kết quả tồi tệ. Vào tháng 9 năm 2006, Hendry gia nhập Boston United với tư cách là trợ lý huấn luyện viên, và vào tháng 6 năm 2007 ông trở thành huấn luyện viên của đội bóng Scotland Clyde.. Hendry đã thua ba trận đầu tiên khi cầm quân. Ông đã giành được chiến thắng đầu tiên trong khi thi đấu với đội bóng ở giải Scotland First Division Queen of the South vào tháng 8 năm 2007. Thành tích tốt nhất của ông là sáu -trận đấu bất bại từ tháng 11 năm 2007 đến tháng 12 năm 2007. Trận đấu cuối cùng của ông khi huấn luyện cho đội Clyde là trận đấu ở vòng 4 Cúp quốc gia Scotland, trận đấu mà Clyde thua 0-1 trước Dundee United. Hendry từ chức huấn luyện viên của câu lạc bộ Clyde vào ngày 18 tháng 1 năm 2008.
Colin Hendry
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819695
Vào tháng 6 năm 2012, Hendry tái gia nhập Blackburn Rovers, ban đầu là huấn luyện viên đội một. Sau đó, ông trở thành trợ lý huấn luyện viên Cho đội U21 của câu lạc bộ. Vào ngày 12 tháng 6 năm 2014, Hendry rời Blackburn. Đời tư. Vợ của Hendry, Denise, qua đời vào ngày 10 tháng 7 năm 2009, ở tuổi 43. Cái chết của bà là do biến chứng trong một ca phẫu thuật cần thiết sau ca phẫu thuật thẩm mỹ được thực hiện vào tháng 4 năm 2002. Hendry có bốn người con với vợ: Rheagan, Kyle, Callum và Niamh.. Con trai ông Callum cũng là một cầu thủ bóng đá. Vào ngày 23 tháng 6 năm 2010, Hendry chính thức bị tuyên bố phá sản tại Tòa án Hạt Blackpool. Có thông tin cho rằng ông phải đối mặt với hóa đơn thuế hơn 1 triệu bảng Anh và nợ các chủ nợ khác hàng nghìn bảng Anh. Một trong những chủ nợ là SpreadEx, một công ty cá cược. Hendry bị buộc tội quấy rối và hành hung bạn gái cũ vào tháng 5 năm 2015. Sau đó, ông đã nhận tội quấy rối, trong khi cáo buộc hành hung được bãi bỏ. Danh hiệu. Blackburn Rovers Rangers Bolton Wanderers
Mitsumi An
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819709
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản.
Máy bay tác chiến điện tử
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819714
Máy bay tác chiến điện tử là máy bay quân sự được thiết kế hoặc sửa đổi/hoán cải để thực hiện tác chiến điện tử (electronic warfare - EW), có nghĩa là loại máy bay này sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống radar và vô tuyến của đối phương bằng cách sử dụng các phương pháp gây nhiễu và đánh lừa radar. Năm 1943, máy bay Avro Lancaster của Anh trang bị các mảnh nhỏ gây nhiễu rải xuống từ trên không để làm mù radar phòng không của đối phương. Chúng được bổ sung thêm bởi các máy bay trang bị đặc biệt do Nhóm RAF 100 vận hành gồm Handley Page Halifax, Consolidated B-24 Liberator và Boeing B-17 Flying Fortress đã được sửa đổi kỹ thuật mang theo nhiều thiết bị gây nhiễu khác nhau như "Carpet", "Airborne Cigar", "Mandrel", "Jostle" và "Piperack". Danh sách máy bay tác chiến điện tử. Các ví dụ về máy bay hiện đại được thiết kế hoặc sửa đổi dành cho tác chiến điện tử được liệt kê dưới đây:
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819717
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới (FIFA World Cup) 2002 là một chuỗi các trận đấu được tổ chức bởi 6 liên đoàn châu lục thuộc FIFA: Châu Á (AFC), châu Phi (CAF), Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF), Nam Mỹ (CONMEBOL), châu Đại Dương (OFC) và châu Âu (UEFA). Các liên đoàn châu lực thành viên tổ chức vòng loại với thể thức riêng của mỗi liên đoàn để chọn ra tổng cộng 32 đội (cùng với 2 đội chủ nhà, một đội đương kim vô địch và 29 đội vượt qua vòng loại) tham dự FIFA World Cup 2002. Các đội vượt qua vòng loại. 1 Bao gồm 10 lần tham dự FIFA World Cup trước kia của Tây Đức từ năm 1954 đến năm 1990 và không tính một lần của Đông Đức trong giai đoạn trên.2 Đây là lần thứ hai Nga góp mặt tại FIFA World Cup. Tuy nhiên, FIFA coi Nga là đội kế thừa của Liên Xô (cũ). Phân bổ suất tham dự FIFA World Cup 2002. Tổng cộng 32 suất tham dự FIFA World Cup 2002 được phân bổ theo khu vực như sau: Tóm tắt. Tổng cộng có 193 đội đã thi đấu ít nhất một trận tại vòng loại. Vòng loại các liên đoàn châu lục. Châu Á (AFC). Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) được phân bổ 4,5 suất dự FIFA World Cup 2002 nhưng Hàn Quốc và Nhật Bản là hai nước chủ nhà World Cup nên AFC chỉ còn 2,5 suất tham dự FIFA World Cup 2002. bỏ cuộc sau khi đã bốc thăm. , và không tham dự vòng loại. Hai suất vào thẳng FIFA World Cup 2002 của châu Á đã thuộc về và . đã đánh bại để tham dự vòng play-off liên lục địa nhưng đã thất bại sau khi thua . Vòng loại bao gồm 3 vòng như sau: Châu Phi (CAF). Tại châu Phi, 51 đội tham dự vòng loại để chọn ra 5 đội tham dự FIFA World Cup 2002. rút lui trước khi bốc thăm, và quyết định không tham dự vòng loại. đã bị loại khỏi vòng loại do chính phủ can thiệp vào hiệp hội quốc gia của họ, dẫn đến kết quả của Guinea đạt được trong vòng loại bị hủy bỏ. 5 đội châu Phi giành quyền tham dự FIFA World Cup 2002 là: , , , và . Vòng loại bao gồm 2 vòng như sau: Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF). Có tổng cộng 35 đội tranh tài. , , và (4 đội có thứ hạng cao nhất theo Bảng xếp hạng FIFA) vào thẳng vòng bán kết, còn vào vòng play-off liên khu vực.
Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819717
Các đội còn lại được chia thành các khu vực, dựa trên vị trí địa lý như sau: Vòng 1: Vòng 2 (bán kết): 12 đội được chia thành 3 bảng, mỗi bảng có 4 đội. Các đội thi đấu với nhau hai lượt trận (sân nhà và sân khách). Đội nhất và nhì bảng sẽ vào vòng chung kết. Vòng 3 (chung kết): 6 đội thi đấu với nhau theo thể thức sân nhà và sân khách. Ba đội đứng đầu sẽ đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup 2002. Nam Mỹ (CONMEBOL). 10 đội đấu vòng tròn hai lượt (sân nhà và sân khách) để chọn ra 4 đội đứng đầu vào thẳng FIFA World Cup 2002. Đội đứng năm sẽ đá play-off liên lục địa với đại diện đến từ OFC. Tóm tắt bảng đấu Châu Đại Dương (OFC). Có 10 đội tham dự để giành 0,5 suất tham dự FIFA World Cup 2002. không tham dự vòng loại. Vòng loại bao gồm 2 vòng như sau: Tại vòng loại này, trận đấu giữa và American Samoa đã lập nên kỷ lục về trận thắng lớn nhất trong một trận đấu chính thức quốc tế. Khi đó, đã giành chiến thắng với tỉ số 31–0 trước American Samoa. Sau chiến thắng trên, Liên đoàn bóng đá Australia càng quyết tâm hơn nữa trong việc xin chuyển từ Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương sang Liên đoàn bóng đá châu Á. Châu Âu (UEFA). Ngoại trừ không cần tham dự vòng loại do là đương kim vô địch, các đội còn lại phải tham dự vòng loại để chọn ra 13,5 suất tham dự FIFA World Cup 2002. Thể thức vòng loại như sau: Lần đầu tiên và không vượt qua vòng loại, kể từ năm 1986. Trong khi Hà Lan đứng thứ ba bảng đấu (sau và ), còn Romania thua sốc ở loạt trận play-off UEFA. Vòng play-off liên lục địa. Có hai trận đấu loại trực tiếp giữa các liên đoàn theo lịch trình để xác định hai suất cuối cùng vào vòng chung kết. Các trận lượt đi diễn ra vào ngày 10 và 20 tháng 11 năm 2001, còn các trận lượt về diễn ra vào ngày 15 và 25 tháng 11 năm 2001.
Khách sạn vương giả
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819718
Khách sạn vương giả (Hangul: 킹더랜드, tiếng Anh: King the Land) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của Lee Jun-ho và Im Yoon-ah. Phim được phát sóng trên JTBC từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 6 tháng 8 năm 2023, lúc 22:30 (KST) thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần với 16 tập. Nó cũng có sẵn để phát trực tuyến trên TVING ở Hàn Quốc và trên Netflix ở các khu vực được chọn (trong đó có Việt Nam). Tóm tắt. "Khách sạn vương giả" kể một câu chuyện về Goo Won (Lee Jun-ho), người thừa kế của The King Group, một tập đoàn khách sạn sang trọng, người bị rơi vào một cuộc chiến thừa kế, và Cheon Sa-rang (Im Yoon-ah), một nữ nhân viên khách sạn luôn nở nụ cười trên môi cho đến khi gặp Goo Won.
Điển tịch cổ điển Trung Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819730
Điển tịch cổ điển Trung Quốc () hoặc đơn giản là Điển tịch (典籍) là thuật ngữ đề cập đến các văn bản Trung Quốc có nguồn gốc từ trước sự kiện thống nhất đế quốc Trung Hoa bởi triều đại nhà Tần năm 221 trước Công Nguyên, cụ thể là "Tứ Thư Ngũ Kinh" theo truyền thống Lý học mà bản thân chúng là một bản tóm tắt thông thường của "Thập tam kinh". Tất cả các văn bản trước đời Tần này đều được viết bằng văn ngôn (Hán văn cổ điển). Cả ba bộ kinh gọi chung là điển tịch (, , "jīng",  "kinh"). Thuật ngữ "điển tịch cổ điển Trung Quốc" có khả năng được sử dụng rộng rãi để chỉ các văn bản được viết bằng bạch thoại hoặc có thể được sử dụng theo nghĩa hẹp để chỉ các văn bản được viết bằng chữ Trung Quốc cổ điển thịnh hành thời đó, cho tới tận lúc triều đại cuối cùng của nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912. Những văn bản này có thể bao gồm "Sử" (史, tác phẩm lịch sử), "Tử" (子, tác phẩm triết học thuộc các trường phái tư tưởng khác ngoài Nho giáo nhưng cũng bao gồm các tác phẩm về nông nghiệp, y học, toán học, thiên văn học, bói toán, phê bình nghệ thuật, các tác phẩm lẫn lộn khác) và "Tập" (集, tác phẩm văn học) cũng như việc trau dồi "Tinh (精, Y học Trung Quốc)". Vào thời nhà Minh và nhà Thanh, bộ "Tứ Thư Ngũ Kinh" là chủ đề của chương trình học bắt buộc của các học giả Nho giáo, những người có nguyện vọng đỗ đạt trong các kỳ thi "Khoa Cử" để ra làm quan. Bất kỳ cuộc thảo luận chính trị nào cũng đều lấy dẫn chứng từ các nguồn tài liệu này làm căn bản, và không ai có thể trở thành một sĩ đại phu (hoặc trong một số thời kỳ, kể cả là tướng lĩnh quân đội) mà không thuộc nằm lòng các văn thư này. Thông thường, trẻ em khi bắt đầu đi học phải học thuộc lòng các ký tự chữ Hán trong cuốn "Tam tự kinh" (三字經) và "Bách gia tính" (百家姓). Sau đó mới học đến các cuốn khác. Giới sĩ phu ưu tú do đó cùng chia sẻ một nền tảng văn hoá và tập hợp các giá trị chung. Thời nhà Tần. Mất mát các tư liệu vào cuối đời nhà Tần.
Điển tịch cổ điển Trung Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819730
Mất mát các tư liệu vào cuối đời nhà Tần. Theo như "Sử ký" của Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thuỷ Hoàng, Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Trung Hoa, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên, thừa tướng của ông là Lý Tư đề nghị dẹp bỏ nghị luận trí thức để thống nhất tư tưởng và quan điểm chính trị. Điều này được cho là đã tàn phá các chuyên luận triết học của nhiều trường phái thời kỳ Bách Gia Chư Tử, với mục tiêu nhằm củng cố triết lý cai trị chính thức của nhà Tần là Pháp gia. Có ba loại sách bị Lý Tư xem là nguy hiểm nhất về mặt chính trị. Đó là thơ ca, lịch sử (đặc biệt là ghi chép lịch sử của các quốc gia khác ngoài Tần), và triết học. Các tuyển tập thơ và ghi chép lịch sử cổ đại có nhiều câu chuyện liên quan đến các nhà cai trị tài đức thời xưa. Lý Tư cho rằng nếu mọi người đọc những văn bản này, khả năng là họ sẽ vọng tưởng về quá khứ và trở nên không hài lòng với hiện tại. Lý do cho việc đối chọi đàn áp các trường phái triết học khác nhau là do chúng ủng hộ các tư tưởng chính trị thường không tương thích với chế độ toàn trị. Những sử gia hiện đại lại nghi ngờ các chi tiết của câu chuyện, khởi nguyên lần đầu tiên hơn một thế kỷ sau trong cuốn Sử ký Tư Mã Thiên chính thức vào thời nhà Hán. Michael Nylan nhận định rằng, dẫu cho thuộc tính thần thoại của nó, truyền thuyết "Đốt sách chôn nho" không được xem xét là chặt chẽ. Nylon gợi ý rằng nguyên do các học giả nhà Hán cáo buộc nhà Tần đốt bỏ Ngũ Kinh đạo Khổng một phần là để "phỉ báng" thể chế mà họ đã đánh bại và một phần là do các học giả nhà Hán hiểu sai bản chất của văn tự, vì chỉ sau khi thành lập nhà Hán, Tư Mã Thiên mới gọi "Ngũ Kinh" là "Nho học". Nylan cũng chỉ ra, nhà Tần đã bổ nhiệm các học giả cổ điển, những chuyên gia về "Kinh Thi" và "Kinh Thư", điều này có nghĩa là các văn thư ấy có thể đã được miễn trừ khỏi bị diệt bỏ, và cuốn "Lễ Ký" và "Tả Truyện" đã không chứa đựng lời lẽ tôn vinh các chế độ phong kiến chiến bại mà Hoàng đế đầu tiên đã lấy làm lý do tiễu bỏ chúng.
Điển tịch cổ điển Trung Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819730
Nylon gợi ý thêm rằng, câu chuyện có thể dựa trên sự thật là cung điện của nhà Tần đã bị san phẳng vào năm 207 trước Công Nguyên kèm theo việc nhiều văn thư chắc chắn là đã bị thất lạc ở thời điểm đó. Martin Kern bổ sung, văn tự nhà Tần và văn tự đầu nhà Hán thường xuyên trích dẫn các cuốn Kinh, đặc biệt là Kinh Thi và Kinh Thư, mà điều này là hoàn toàn không khả thi nếu như chúng đã bị đốt bỏ như được ghi chép lại. Thời Tây Hán. Ngũ Kinh. Ngũ Kinh () là bộ năm cuốn sách Trung Hoa thời tiền Tần đã trở thành một phần của chương trình giáo huấn được triều đình phù trợ dưới triều đại Tây Hán, triều đại đã lấy Nho học đạo Khổng làm hệ tư tưởng chính quy. Chính trong thời kỳ này mà lần đầu tiên bộ kinh thư được gọi chung thành một tuyển tập là "Ngũ Kinh" (Năm cuốn sách Kinh điển). Một số văn bản đã từng nổi bật trước đó vào thời Chiến Quốc. Mạnh Tử, một trong những học giả Nho giáo hàng đầu, xem bộ kinh Xuân Thu cũng không kém phần quan trọng so với các biên niên sử bán huyền thoại của các thời đại trước đó. Cho tới tận thời Tây Hán, các tác giả thường sẽ liệt kê các sách Kinh theo thứ tự Kinh Thi - Kinh Thư - Lễ Ký - Kinh Dịch - Xuân Thu. Tuy nhiên, kể từ thời Đông Hán, thứ tự mặc định lại chuyển thành Kinh Dịch - Kinh Thư - Kinh Thi - Lễ Ký - Xuân Thu. Thư viện triều đình nhà Hán. Năm 26 trước Công Nguyên, theo chiếu chỉ của Hoàng đế, Lưu Hướng (77–6 trước Công Nguyên) đã biên soạn thư mục đầu tiên của thư viện triều đình, "Biệt Lục" "Bielu"), và là người biên soạn đầu tiên của cuốn "Sơn hải kinh" (山海經), bộ này sau đó được hoàn thành bởi con trai của ông. Họ Lưu cũng đồng thời hiệu đính nhiều tuyển tập các câu chuyện và tiểu sử, ví dụ như bộ "Liệt nữ truyện" (列女傳). Một thời gian dài, ông còn bị hiểu nhầm là đã đồng biên soạn bộ "Liệt tiên truyện" (列仙傳), một tuyển tập các bài thánh tích và văn tế Nho giáo. Lưu Hướng cũng là một nhà thơ - ông được cho là đã viết "Cửu Thán" (九歎), văn bản có trong tuyển tập "Sở Từ" (楚辭).
Điển tịch cổ điển Trung Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819730
Các tác phẩm do Lưu Hướng hiệu đính và biên soạn bao gồm: Công việc được tiếp tục bởi người con trai của ông, Lưu Hâm (học giả), người đã hoàn thành nhiệm vụ sau khi cha đã tạ thế. Thời nhà Tống. Tứ Thư. Tứ Thư () là những văn bản cổ điển của Trung Quốc minh họa hệ thống các giá trị và niềm tin cốt lõi trong Nho giáo. Chúng đã được Chu Hy (朱熹; 1130 – 1200) chọn lựa dưới triều đại nhà Tống nhằm giới thiệu chung về tư tưởng Nho giáo. Thời nhà Minh và nhà Thanh, chúng trở thành tri thức cốt lõi của chương trình giảng dạy chính thức cho các kỳ thi Khoa Cử. Bộ "Tứ Thư" gồm có: Thời nhà Minh. Thập Tam Kinh (十三經). Chương trình giảng dạy chính thức của hệ thống Khoa Cử từ thời nhà Tống trở đi là Thập Tam Kinh. Tổng cộng, những tác phẩm này chứa tổng cộng hơn 600.000 ký tự phải học nằm lòng để vượt qua kỳ thi. Hơn nữa, những tác phẩm này đi kèm với bình luận và chú thích mở rộng, chứa khoảng 300 triệu ký tự theo một số ước tính. Danh sách các Văn tự Cổ điển. Trước năm 221 trước Công Nguyên. Thông thường, rất khó hoặc gần như là không thể định niên chính xác các tác phẩm, văn tự thời tiền Tần hơn niên đại "Tiền Tần" của chúng, một giai đoạn trải dài suốt 1000 năm. Thông tin thời Trung Quốc cổ đại thường được truyền miệng và được truyền lại từ nhiều thế hệ trước nên hiếm khi được viết ra. Do đó, bố cục của các văn bản càng cổ đại thì càng khó mà theo trình tự thời gian như được sắp xếp và trình bày bởi các "tác giả" được cho là của chúng. Vì thế, danh sách dưới đây được sắp xếp theo thứ tự tìm thấy trong "Tứ khố toàn thư," thư viện cung đình của triều đại nhà Thanh. Bộ toàn thư này phân loại tất cả các tác phẩm thành 4 nhánh cấp cao nhất: Kinh điển Nho học và văn thư thứ cấp của chúng; Lịch sử; Triết học; Thơ ca. Ngoài ra còn có các danh mục phụ trong mỗi nhánh, nhưng do số lượng tác phẩm tiền Tần trong các nhánh Kinh điển, Lịch sử và Thơ ca ít nên các danh mục phụ chỉ được sao chép lại cho nhánh Triết học.
Văn Tâm Điêu Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819736
Văn Tâm Điêu Long (), dịch nghĩa "Cái tâm của Văn chương và Điêu khắc của Rồng", là một tác phẩm thế kỷ thứ 5 về cái đẹp của văn học Trung Hoa, được viết bởi Lưu Hiệp (劉勰), sáng tác ra 50 thiên (篇) theo các quy tắc của số học và bói toán tìm thấy trong sách Kinh Dịch. Tác phẩm cũng hướng sự chú ý và tranh luận đến bài luận "Văn Phú" (文賦) của tác giả Lục Cơ (陸機). Lưu Hiệp mong muốn đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh và nhất quán đối với văn học. Một trong những ý tưởng của ông là tình cảm là phương tiện của văn học và ngôn ngữ chỉ là sản phẩm mà thôi.
Danh sách vũ công Ý
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819737
Đây là danh sách các vũ công Ý theo thứ tự bảng chữ cái Latinh:
Liliana Merlo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819738
Liliana Maria Antonieta Dolores Merlo (16 tháng chín, năm 1925 - 17 tháng mười, năm 2002) là một vũ công người Argentina, biên đạo múa, giáo viên khiêu vũ và nhà quảng bá văn hóa. Bà sinh tại Buenos Aires, Argentina, và đã trở thành một người tiên phong trong nghệ thuật ba-lê cổ điển tại Abruzzo. Bà tạ thế tại Teramo, Ý, hưởng thọ 77 tuổi.
Kimotsuki, Kagoshima
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819739
là một thị trấn thuộc quận Kimotsuki, bán đảo Ōsumi, tỉnh Kagoshima. Tính đến ngày 1 tháng 7 năm 2023, dân số thị trấn ước tính là 13.371 người và mật độ dân số là 474 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 308,12 km². Địa lý. Khí hậu. Thị trấn Kimotsuki có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (phân loại khí hậu Köppen: Cfa) với mùa hè nóng và mùa đông ôn hòa. Lượng mưa đáng kể trong suốt cả năm và nhiều nhất vào mùa hè, đặc biệt là các tháng 6 và 7. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Kimotsuki là 17,5°C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.747,6 mm (với tháng 6 là tháng ẩm ướt nhất). Nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 8 (27,2°C) và thấp nhất vào tháng 1 (7,6°C). Nhiệt độ cao kỷ lục là 38,5°C (ngày 18 tháng 8 năm 2020) và nhiệt độ thấp kỷ lục là −6,4°C (ngày 25 tháng 1 năm 2016). Dân số. Theo dữ liệu điều tra dân số của Nhật Bản, dân số của thị trấn Kimotsuki vào năm 2023 là 13.371 người. Các cuộc điều tra dân số được tiến hành kể từ năm 1920. Dân số của thị trấn đạt đỉnh vào những năm 1950, sau đó dân số giảm dần và đến nay dân số thị trấn này không có dấu hiệu phục hồi.
Danh sách loài họ Hươu nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819741
Họ Hươu nai (Cervidae) là một họ thú nhai lại có móng guốc thuộc Bộ Guốc chẵn (Artiodactyla). Trong tiếng Anh, mỗi loài trong họ này được gọi là "deer" hay "cervid". Chúng phân bố khắp Bắc và Nam Mỹ, châu Âu và châu Á, đồng thời được tìm thấy trong nhiều khu sinh học khác nhau. Các loài họ Hươu nai có kích thước khác nhau, từ hươu nhỏ Pudú dài và cao đến nai sừng tấm Á-Âu dài và cao . Quy mô quần thể của các loài phần lớn chưa rõ, mặc dù hoẵng châu Âu có quy mô dân số khoảng 15 triệu cá thể, trong khi một số loài được phân loại là nguy cấp hoặc cực kỳ nguy cấp với số lượng chỉ còn 200 cá thể. Ngoài ra có 2 loài là hươu Père David tuyệt chủng trong tự nhiên, và hươu Schomburgk tuyệt chủng năm 1938. Họ Hươu nai có 19 chi và 55 loài, chia thành 2 phân họ: Capreolinae (hươu Tân Thế giới) và Cervinae (hươu Cựu Thế giới). Các loài tuyệt chủng cũng được xếp vào Capreolinae và Cervinae. Hơn 100 loài tuyệt chủng đã được tìm thấy, mặc dù do các nghiên cứu và khám phá vẫn đang tiếp diễn, số lượng và phân loại chưa chắc chính xác. Quy ước. Mã tình trạng bảo tồn được liệt kê tuân theo Sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản đồ phân bố được đính kèm nếu có thông tin. Khi không có thông tin về bản đồ phân bố, sẽ được thay thế bằng mô tả về phạm vi môi trường hoạt động của loài. Vùng phân bố dựa trên danh sách đỏ IUCN cho loài đó trừ khi có ghi chú khác. Tất cả các loài hoặc phân loài đã tuyệt chủng được liệt kê cùng với các loài còn tồn tại đã tuyệt chủng sau năm 1500 và được biểu thị bằng biểu tượng thập tự "". Phân loại. Họ Hươu nai gồm 55 loài còn tồn tại thuộc 19 chi trong 2 phân họ và được chia tiếp thành hàng trăm phân loài còn tồn tại. Danh sách này không bao gồm các loài lai hoặc các loài tuyệt chủng từ thời tiền sử. Ngoài ra, có loài hươu Schomburgk tuyệt chủng năm 1938. TViệc phân loại dựa trên phát sinh chủng loài phân tử. Danh sách loài họ Hươu nai.
Danh sách loài họ Hươu nai
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819741
Danh sách loài họ Hươu nai. Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử. Điều này bao gồm việc hợp nhất hai loài nai sừng tấm Á-Âu trong chi "Alces" thành một, tách chi đơn loài "Panolia" ra khỏi "Rucervus", gộp phân họ đơn ngành Hydropotinae với Capreolinae. Có một số đề xuất bổ sung đang bị tranh cãi, chẳng hạn như thêm hươu sừng ngắn Fair vào chi "Mazama", thì không được bao gồm ở đây.
Thế Thuyết Tân Ngữ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819747
Thế Thuyết Tân Ngữ (), được tổng hợp và hiệu đính bởi Lưu Nghĩa Khánh (劉義慶; 403 – 444) dưới triều đại Lưu Tống (420–479) của Nam Bắc triều (420–589). Nó là một bản tổng hợp lịch sử của nhiều học giả, nhạc sĩ và nghệ sĩ Trung Quốc trong thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 4. Nội dung. Cuốn sách chứa khoảng 1.130 giai thoại lịch sử và phác họa nhân vật của khoảng 600 văn nhân, nhạc sĩ và họa sĩ sống vào thời Hán và Ngụy–Tấn (thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 4). Chẳng hạn, chương 19 có 32 câu chuyện về những người phụ nữ kiệt xuất. Do đó, nó vừa là một nguồn tư liệu tiểu sử, vừa là một bản ghi chép những ngôn ngữ thông tục của thời ấy. Văn bản gốc của cuốn sách được chia thành tám "Quyển" (卷 "cuộn"), mặc dù các ấn bản hiện tại thường bao gồm mười tập. Tính chính xác lịch sử. Mặc dù hầu hết các giai thoại và nhân vật đều được chứng thực trong các nguồn tư liệu khác, nhưng các nhà thư tịch truyền thống Trung Quốc đã không phân loại "Thế Thuyết Tân Ngữ" là một sử thi mà là một tiểu thuyết (小說), một thuật ngữ sau này được dùng để chỉ văn giả tưởng. Một số cho rằng điều này là do việc sử dụng ngôn ngữ thông tục cũng như cách nó không tuân theo các quy ước lịch sử của "Nhị thập tứ sử". Sự pha trộn giữa phong cách văn học và ngôn ngữ bản địa đã tạo tiền đề cho truyền thống văn học quần chúng của Trung Quốc sau này. Tiểu thuyết gia Trung Quốc thế kỷ 20 Lỗ Tấn cũng đánh giá cao giá trị thẩm mỹ của cuốn sách. Dịch thuật. Thế Thuyết Tân Ngữ đã được dịch toàn văn sang tiếng Anh, với lời bình của Lưu Hiếu Tiêu (劉孝標) thời nhà Lương (502–557) trong "Shih-shuo Hsin-yü: A New Account of Tales of the World" của Richard B. Mather. Các ngoại bản. Bản thảo: Các bản in mộc bản:
Darkside (bài hát của Alan Walker)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819748
Darkside là một bài hát do nam DJ và nhà sản xuất thu âm người Anh gốc Na Uy, Alan Walker thể hiện, hợp tác với ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Đức gốc Antigua, Au/Ra và ca sĩ người Na Uy, Tomine Harket. Bài hát được phát hành vào ngày 27 tháng 7 năm 2018 thông qua Mer Musikk và Ultra Records. Hai bản remix cũng đã được phát hành, một của DJ kiêm nhà sản xuất người Áo LUM!X và một của Afrojack với sự cộng tác của Chasner. Tuy nhiên, cả hai đều không được xuất bản chính thức bởi kênh YouTube của Walker. Bối cảnh. Đĩa đơn này là phần thứ hai trong bộ ba phim World of Walker, với thế giới khoa học viễn tưởng tương lai, hậu tận thế được thấy trong video âm nhạc trước đó của anh "All Falls Down" được xem lại ở đây với những góc nhìn đầy hy vọng về tương lai với những cảnh quan hùng vĩ. Video trước "All Falls Down", "Tired" đóng vai trò là phần tiền truyện của bộ ba phim này, trong đó một cơn bão mặt trời đã phá hủy toàn bộ công nghệ trên trái đất, thay đổi tiến trình của loài người mãi mãi. Lời bài hát trong phần điệp khúc, "I see it, let's feel it, while we're still young and fearless" lấy một phần từ giai điệu của ca khúc "Heart of Courage" của Two Steps from Hell. Video âm nhạc. Những video này do đạo diễn Kristian Berg của MER chỉ đạo. Cùng với video âm nhạc đi kèm, "Darkside" là bài hát thứ hai trong bộ ba "World of Walker" và tiếp nối đĩa đơn trước đó, "All Falls Down".
Windows Media Player (2022)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819756
Windows Media Player là một trình phát video và âm thanh được phát triển bởi Microsoft cho Windows 11 và sau đó được chuyển trở lại Windows 10. Nó là sự kế thừa của Groove Music (trước đây là Xbox Music), Microsoft Movies & TV và Windows Media Player bản gốc. Vô tình bị tiết lộ trong một webcast Windows Insider vào tháng 9 năm 2021, trình phát ban đầu được phân phối cho các kênh Người dùng nội bộ Windows 11 vào tháng 11 trước khi triển khai cho tất cả người dùng Windows 11 bắt đầu từ tháng 1 năm 2022; Người dùng Windows 10 đã được sử dụng vào tháng 1 năm 2023. Media Player mới cũng có thể phát video, là một phần trong quá trình đổi thương hiệu của Groove từ dịch vụ truyền phát nhạc thành trình phát đa phương tiện. Các thay đổi khác bao gồm chế độ xem bìa album ở chế độ toàn màn hình và làm mới trình phát mini. Sự tiếp cận cũng đã được tối ưu hóa, với một số hỗ trợ cải tiến phím tắt và phím nóng cho người dùng bàn phím và với các công nghệ hỗ trợ khác. Định dạng được hỗ trợ. Đây là danh sách các định dạng được hỗ trợ đã biết trong Media Player trên Windows 10 và Windows 11.
Thái Bình quảng ký
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819764
Thái Bình quảng ký (), đôi khi được dịch là "Những ghi chép sâu rộng về Thời đại Thái Bình", hoặc "Những ghi chép sâu rộng về thời kỳ Thái Bình Hưng Quốc", là một tập hợp những câu chuyện được biên tập vào đầu thời nhà Tống. Tác phẩm được hoàn thành vào năm 978, và mộc bản đã được khắc, nhưng bị ngăn cản không cho xuất bản với lý do nó chỉ chứa "tiểu thuyết" (小說; nghĩa ngày xưa là chuyện nhỏ, chuyện vặt vãnh) và do đó "không ích gì cho các tiểu sinh nhỏ tuổi". Tuy vậy, bản thảo của nó vẫn còn nguyên vẹn và được lưu giữ cho tới khi xuất bản dưới thời nhà Minh. "Thái Bình Quảng Ký" được xem là một trong "Tứ Đại Tống Thư" (宋四大書). Tiêu đề của nó đề cập đến một thời kỳ gọi là "Thái Bình Hưng Quốc" (太平興國; 976 – 984), những năm đầu của triều đại Tống Thái Tông đời nhà Tống. Tuyển tập được chia thành 500 "Quyển" (卷) và chứa đựng 3 triệu Hán tự. Nó bao gồm 7.021 câu chuyện được tuyển chọn từ hơn 300 đầu sách và tiểu thuyết có từ thời nhà Hán cho tới đầu thời nhà Tống, phần lớn trong số đó đã bị thất lạc. Trong số đó có các giai thoại lịch sử hoặc tự nhiên, mỗi câu chuyện đều chứa đựng những yếu tố lịch sử phong phú và không được tác giả của chúng xem là hư cấu. Tuy nhiên chủ đề của hầu hết lại là những việc phi thường, siêu nhiên như về các tu sĩ Phật giáo và Đạo giáo, sự bất tử, ma quỷ và thần linh. Tuyển tập cũng bao gồm một số những câu chuyện thời nhà Đường, đặc biệt là "Truyện Kỳ" (傳奇), "truyện cổ tích", là những tác phẩm văn chương nổi tiếng theo đúng nghĩa của chúng, đồng thời cũng là nguồn cảm hứng cho các tác phẩm sau này. Vào thế kỷ thứ 17, tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn bản địa Phùng Mộng Long (馮夢龍; 1574–1646) đã cho ra một ấn bản rút gọn, có tên là "Thái Bình Quảng Ký Sao" (太平廣記鈔), giảm số lượng các truyện xuống còn 2.500 trong bộ 80 tập.
Thái Bình quảng ký
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819764
Bồ Tùng Linh (蒲松齡; 1640 – 1715) được cho là đã lấy nguồn cảm hứng từ "Thái Bình Quảng Ký" ; truyện ngắn "Tục Hoàng Lương" (續黃粱) tương đồng với một trong những câu chuyện của tuyển tập "Thái Bình". Chi tiết. "Thái Bình Quảng Ký" được tổng hợp và biên tập bởi Vương Khắc Trinh (王克贞), Tống Bạch (宋白), Hỗ Mông (扈蒙), Từ Huyễn (徐铉), Triệu Lân Kỷ (赵邻几), Lã Văn Trọng (吕文仲), Lý Phưởng (李昉), Lý Mục (李穆), và những người khác.
Danh sách nhà thiết kế Ý
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819773
Đây là danh sách các nhà thiết kế từ Ý:
Danh sách đạo diễn điện ảnh Ý
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819774
Sau đây là danh sách các đạo diễn phim từ Ý:
Danh sách nhà triết học Ý
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819781
Danh sách này liệt kê các triết gia từ Ý, phân loại theo thời kỳ lịch sử:
Danh sách đạo diễn Pháp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819786
Đây là danh sách các đạo diễn phim từ Pháp:
Danh sách nhà triết học Pháp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819789
Đây là danh sách các triết gia từ Pháp:
Rhea Perlman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819802
Rhea Jo Perlman (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1948) là nữ diễn viên người Mỹ. Cô từng thủ vai bồi bàn Carla Tortelli trong sitcom "Cheers" (1982–1993). Trong suốt 11 mùa phim, bà đã mười lần được đề cử giải Emmy ở hạng mục "Nữ phụ nổi bật", thắng bốn lần; và kỷ lục sáu đề cử Quả cầu vàng cho "Nữ phụ phim truyền hình xuất sắc nhất". Bà cũng từng tham gia trong một số phim khác như "Canadian Bacon" (1995), "Matilda" (1996), "The Sessions" (2012), "Poms" (2019) và "Barbie" (2023). Tiểu sử. Perlman sinh ngày 31 tháng 3 năm 1948 tại Coney Island, Brooklyn, thành phố New York. Cha là Philip, nhập cư từ Ba Lan, giám đốc một xưởng sản xuất búp bê, mẹ là Adele, làm kế toán. Em gái bà là biên kịch, nhà sản xuất phim Heide Perlman. Bà học diễn xuất tại Đại học Hunter, New York, tốt nghiệp bằng Cử nhân Nghệ thuật năm 1968. Đời tư. Perlman gặp Danny DeVito vào ngày 17 tháng 1 năm 1971 khi đi xem bạn của mình cùng với nam diễn viên đóng vở kịch "The Shrinking Bride". Cả hai chuyển tới ở cùng nhau sau hai tuần làm quen. Ngày 28 tháng 1 năm 1982, họ kết hôn. Cặp đôi sinh được ba người con: Lucy Chet DeVito, Grace Fan DeVito và Jacob Daniel DeVito. Perlman là người Do Thái còn DeVito theo đạo Công giáo.
Tổng giáo phận Daegu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819814
Tổng giáo phận Daegu (tên trước đây là Taiku/Taegu) (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Tổng giám mục Daegu, người có ngai tòa tại Nhà thờ chính tòa Kyesan ở Daegu, là Trưởng giáo tỉnh của các giáo phận Andong, Cheongju, Masan và Busan. Tổng giáo phận là giáo phận lâu đời nhất tại Triều Tiên, ban đầu được thành lập dưới dạng một Hạt Đại diện Tông tòa vào ngày 8/4/1911, tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Triều Tiên. Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một tổng giáo phận vào ngày 10/3/1962. Thống kê. Đến năm 2021, tổng giáo phận có 511.901 giáo dân trên dân số tổng cộng 4.433.870, chiếm 11,5%.
Giáo phận Jeju
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819817
Giáo phận Jeju (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận nằm trong giáo tỉnh Gwangju, Hàn Quốc, tuy nhiên các hoạt động truyền giáo của giáo phận do Bộ Truyền giáo quản lí. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội ở thành phố Jeju. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm toàn bộ tỉnh Jeju, tỉnh có đảo Jeju, đảo lớn nhất của Hàn Quốc trên eo biển Triều Tiên. Tòa giám mục được đặt tại thành phố Jeju, cũng là nơi đặt Nhà thờ chính tòa Joong-Ang Cheju của giáo phận. Giáo phận được chia thành 28 giáo xứ. Lịch sử. Hạt Phủ doãn Tông tòa Cheju được thành lập vào ngày 28/6/1971 theo tông sắc "Quoniam supremi" của Giáo hoàng Phaolô VI, tách ra từ Tổng giáo phận Gwangju. Vào ngày 21/3/1977 Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Munus Apostolicum" của Giáo hoàng Phaolô VI. Vào ngày 9/6/2021, giáo phận đổi tên thành như hiện tại. Thống kê. Đến năm 2021, giáo phận có 82.083 giáo dân trên dân số tổng cộng 674.635, chiếm 12,2%.
Trạm xăng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819823
Trạm xăng (hay trạm đổ xăng) là cơ sở bán nhiên liệu và chất bôi trơn động cơ cho xe cơ giới. Các loại nhiên liệu phổ biến nhất được bán ở đây trong những năm 2010 là xăng và dầu diesel. Máy bơm xăng được sử dụng để bơm xăng, dầu diesel, khí thiên nhiên nén, CGH2, HCNG, LPG, hydro lỏng, dầu hỏa, nhiên liệu cồn (như methanol, ethanol, butanol, propanol), nhiên liệu sinh học (như dầu thực vật, dầu diesel sinh học) hoặc các loại nhiên liệu khác vào thùng chứa trong xe và tính toán chi phí của số nhiên liệu được chuyển vào phương tiện. Bên cạnh máy bơm xăng, một thiết bị quan trọng khác cũng được tìm thấy trong các trạm xăng và có thể tiếp nhiên liệu cho một số phương tiện dùng khí nén là máy nén khí, mặc dù nhìn chung những thiết bị này chỉ được sử dụng để bơm lốp ô tô. Nhiều trạm xăng có các cửa hàng tiện lợi, có thể bán bánh kẹo, đồ uống có cồn, sản phẩm thuốc lá, vé số, nước ngọt, đồ ăn nhẹ, cà phê, báo, tạp chí và trong một số trường hợp là một số mặt hàng tạp hóa nhỏ, chẳng hạn như sữa. Một số cửa hàng cũng bán propan hoặc butan và đã thêm các cửa hàng vào hoạt động kinh doanh chính của họ. Ngược lại, một số chuỗi cửa hàng, chẳng hạn như siêu thị, cửa hàng giảm giá hoặc cửa hàng tiện lợi truyền thống, đã cung cấp máy bơm nhiên liệu tại cơ sở.
Truyền hình tại Turkmenistan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819824
Truyền hình tại Turkmenistan bắt đầu hoạt động hoạt động từ những năm 70 thế kỉ XX. Truyền hình đều chịu sự kiểm duyệt gắt gao của nhà nước, với sự kiểm soát toàn trị trên phương tiện truyền thông khiến Turkmenistan xếp vị trí cuối cùng trong bảng xếp hạng Chỉ số tự do báo chí toàn cầu. Turkmenistan có 8 kênh truyền hình quốc gia bao gồm: Altyn Asyr, Yaşlyk, Miras, The Turkmenistan TV Channel, Türkmen Owazy, Ashgabat TV, Arkadag TV và Turkmenistan Sport. Tất cả 8 kênh đều chịu sự quản lý của Bộ Văn hóa và Phát thanh truyền hình Turkmenistan, trước khi được đưa vào dưới quyền tài phán của Ủy ban Quốc gia về Truyền hình, Phát thanh và Điện ảnh vào ngày 17 tháng 10 năm 2011.
Phần tử ma trận (vật lý)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819832
Trong vật lý, đặc biệt là trong lý thuyết nhiễu loạn lượng tử, phần tử ma trận đề cập đến linear operator của toán tử Hamilton đã sửa đổi bằng cách sử dụng ký hiệu Dirac. Phần tử ma trận xem xét tác động của Hamiltonian mới được sửa đổi (tức là sự chồng chất tuyến tính của Hamiltonian cộng với tiềm năng tương tác không bị xáo trộn) trên trạng thái lượng tử. Các phần tử ma trận rất quan trọng trong vật lý nguyên tử, hạt nhân và hạt.
Hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819833
Khái niệm hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối, hay còn gọi là hiệu ứng ngày sinh, được sử dụng để miêu tả một sự thiên kiến, tồn tại trong những thứ hạng cao hơn trong thể thao trẻ và giáo dục, khi kết quả tham gia sẽ tốt hơn ở những người sinh trước trong khoảng được chọn (và tệ hơn ở những người sinh sau) hơn là được kỳ vọng trong sự phân phối ngày sinh thông thường. Quãng chênh lệch này có thể được xếp theo năm dương lịch, năm học hay là mùa giải thể thao. Sự khác biệt trong sự trưởng thành này cũng đã đóng góp lớn trong hiệu ứng này, với từng lứa tuổi khác nhau, kỹ năng và môn thể thao cũng ảnh hưởng mạnh đến nguy cơ của hiệu ứng chênh lệch tuổi. Những người từ cuối thanh thiếu niên, các môn thể thao phổ biến chịu nhiều ảnh hưởng, trong khi các môn thể thao dưới 11 tuổi, ít phổ biến hơn chịu ít ảnh hưởng hơn. Từ nguyên thiên kiến tháng sinh hay là thiên kiến mùa sinh đẻ cũng được dùng để miêu tả những hiệu ứng như trên nhưng lại là hiệu ứng khác hoàn toàn. Mùa sinh đẻ đã được đánh giá nhiều ảnh hưởng của yếu tố môi trường và phụ huynh như ánh sáng mặt trời, nhiệt độ, hay là vấn đề sức khoẻ bệnh tật trong thời gian thụ tinh, mà liên quan nhiều đến sức khoẻ. Tuy nhiên, hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối lại thay đổi với ngày được chọn di chuyển lợi thế sang gần ngày được chọn bất kỳ đó. Với ảnh hưởng mạnh từ những vấn đề xã hội trẻ em được sinh ra ngay sau ngày cắt thế hệ thường được chọn vào, trong khi những đứa trẻ sinh ngay trước đó bị loại trừ. Trong thể thao. Sự tham gia của các môn thể thao trẻ được chia ra thành các nhóm tuổi khác nhau. IOC, FIFA và 6 liên đoàn bóng đá các châu lục (AFC, CAF, CONCACAF, CONMEBOL, OFC và UEFA) đều sử dụng ngày 1 tháng 1 làm ngày tách nhóm tuổi - một ngày thường được sử dụng thường xuyên nhất, nhưng ngày 1 tháng 9 được sử dụng nhiều ở Anh cũng như là nhiều địa điểm khác trên thế giới. Sự nhóm này cũng có thể xuất hiện ở biểu đồ đầu tiên cho thấy sự phân phối ngày sinh, theo năm, trong Liên minh châu Âu trong khoảng 10 năm từ 2000 đến 2009.
Hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819833
Tỷ lệ sinh cân bằng gần như hoàn toàn với số ngày trong một tháng với một sự tăng nhẹ trong các tháng mùa hè. Biểu đồ thứ hai, cho thấy sự phân phối ngày sinh của 4,000 vận động viên thi đấu trong vòng loại các giải đấu U17, U19 và U21 được tổ chức bởi UEFA trong mùa giải 2010–11. Sự phân bố giảm dần từ đầu đến cuối năm trong những vận động viên thể thao chuyên nghiệp cũng đã được nhìn thấy trong các môn thể thao như: bóng đá, bóng chày, cricket, thể dục dụng cụ, bóng ném, khúc côn cầu trên băng, rugby à XIII, chạy bộ, trượt tuyết, bơi lội, tennis, và Thế vận hội Giới trẻ, cũng như các môn thể thao phi vật lý như bắn súng. Cuốn sách "Outliers: Câu chuyện thành công" của Malcolm Gladwell và cuốn sách "SuperFreakonomics" bởi Steven Levitt và Stephen Dubner đã khắc hoạ vấn đề này với các vận động viên khúc côn cầu trên băng Canada, cầu thủ bóng đá châu Âu và các vận động viên bóng chày Hoa Kỳ. Yếu tố đóng góp. Hiệu ứng chênh lệch tuổi được góp phần chính bởi quy định ngày sinh đủ điều kiện nhưng cũng đã có thể được ảnh hưởng bởi phụ huynh, huấn luyện viên hay những nguồn khác, hiệu ứng Pygmalian, hiệu ứng Galatea, và hiệu ứng Matthew là một trong những ví dụ của các hiệu ứng mà ảnh hưởng đến mục đích và thái độ của vận động viên. Và không chỉ có những yếu tố xã hội, các yếu tố ngữ cảnh cũng thay đổi sự phân phối này với việc giảm hiệu ứng này trong các môn thể thao của nữ, các môn thể thao không phổ biến, ở các độ tuổi khác nhau, môn thể thao cá nhân hay môn thể thao đòi hỏi cơ bắp ít hơn với một sự tăng ở các môn thể thao nam giới, phổ biến hay có tính cạnh tranh cao. Sự phổ biến của môn thể thao này ở một vùng địa lý hay văn hoá cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phân phối ngày sinh so với những ví dụ được nhìn thấy trong bóng chuyền, và bóng bầu dục Mỹ. Sự trưởng thành sớm cũng đã mang lại cho nhiều lợi thế với thành viên thuộc quý đầu tiên có thể tạo ra sự thiên kiến được nhìn thấy ở chiều cao vận động viên bóng rổ, tay thuận ở môn tennis, hay kích cỡ trong một vị trí Cricket, nhưng kích cỡ vật lý thực ra không phải là nguyên nhân chính.
Hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819833
Những thành viên lớn tuổi hơn cũng sẽ càng trở nên có năng lực và tự tin vào bản thân hơn tăng khoảng cách về mức độ thành tích, khiến cho tỷ lệ được chọn của những người sinh vào Quý 1 tăng lên. Tuy nhiên, sự thiên kiến trong môn thể thao mà chiều cao và cân nặng làm giảm độ dẻo dai, tốc độ quay và tỷ lệ sức mạnh với cân nặng, sự chậm trễ trong trưởng thành cũng có thể là một lợi thế như trong môn thể dục dụng cụ. Với một thế hệ lớn tuổi hơn, tuổi tương đối này có một ý nghĩa ngược lại, khi khả năng thực hiện suy giảm theo tuổi tác và đã trở nên nổi bật hơn với môn thể thao cần thể lực cao, tuỳ thuộc vào độ tuổi mà khả năng thi đấu tốt nhất cho môn thể thao đó. Một "hiệu ứng thấp bé" cho thấy rằng những người sinh sau sẽ tăng thêm được cơ hội nếu họ được chọn trong thi đấu, với những lợi thế giảm dần sau khi được lựa chọn. Vị trí thi đấu, thành viên liên đoàn, và khả năng thực hiện của cá nhân cũng như một nhóm cũng đóng góp vào hệ quả này với những thành viên nhiều tuổi hơn có khả năng bị chấn thương cao hơn. Phương pháp giảm hiệu ứng chênh lệch tuổi. Có nhiều phương pháp khác nhau đã được đề xuất và được thử nghiệm để có thể giảm đi hiệu ứng chênh lệch tuổi như là di chuyển ngày phân biệt nhóm, mở rộng phạm vi lứa tuổi, tạo ra giới hạn thành viên theo ngày sinh, độ tuổi trung bình của cả đội để đủ điều kiện, hay nhóm thành viên theo chiều cao và cân nặng. Một số phương pháp đã trở nên kém thành công hơn do việc lợi thế về tuổi tác di chuyển theo ngày phân biệt thế hệ. Việc làm cho hiệu ứng chênh lệch tuổi biết đến cho cá nhân trong môi trường sinh sống cũng giảm đi sự thiên kiến liên quan đến việc tìm kiếm tài năng và giảm hiệu ứng chênh lệch tuổi này. Tạo ra một dải sinh nhật, tính toán lại hệ số dựa trên tuổi tương đối là những phương pháp để giảm hệ quả của hiệu ứng này với việc dải ngày sinh được nghiên cứu nhiều nhất, tạo ra những hệ quả tốt đối với những cầu thủ phát triển sớm và muộn trong cả bóng đá chuyên nghiệp cũng như là bóng đá nghiệp dư.
Hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819833
Việc tạo ra một dải sinh nhật như trên cũng sẽ làm tạo ra một cường độ luyện tập thích hợp và giảm nguy cơ chấn thương, trong khi tăng thêm nhu cầu và kỳ vọng vào vận động viên, tuy nhiên, những môn thể thao đã được đánh giá theo cân nặng và thể hình như Judo, sẽ không cảm nhận được hiệu quả trên. Nhiều nghiên cứu vẫn sẽ cần được phải diễn ra cùng những cách khác nhau để nhóm cá nhân do sự phát triển về thể chất, tâm lý học và xã hội lại không được diễn ra đồng thời tạo ra sự mất cân bằng trong các nhóm. Trong giáo dục. Năm học được quyết định bởi các Bộ giáo dục của các quốc gia với việc tháng 8 và tháng 9 được sử dụng làm mốc phân chia thế hệ ở bán cầu Bắc và tháng 2 và tháng 3 được dùng tại bán cầu Nam. Biểu đồ thứ ba cho hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối liên quan đến tốt nghiệp tại Đại học Oxford trong giai đoạn 10 năm, mà đã được nhìn thấy trong những người đạt được giải Nobel ở Anh. Hiệu ứng chênh lệch tuổi và sự đảo ngược đã được nhìn nhận nhiều trong giáo dục với các học sinh nhiều tuổi hơn về trung bình có điểm cao hơn, được vào các trường chuyên và chương trình nâng cao, và có khả năng cao được nhận vào chương trình giáo dục sau đại học trong các trường đại học thay vì giáo dục nghề nghiệp, không nhất thiết do thông minh hơn. Hiệu ứng Matthew cũng lại lần nữa đóng vai trò lớn trong việc này, với những kỹ năng giáo dục được học sớm trong thời gian dài nâng cao được lợi thế, với học sinh nhiều tuổi hơn có khả năng cao để có thể lấy được những kỹ năng lãnh đạo. Tuy nhiên, như trong thể thao, hệ quả này đã giảm dần sau trường cấp hai, với những người sinh sau trong một năm lại có thành tích tốt hơn trong chương trình đại học. Trong vị trí lãnh đạo. Hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối cũng đã được quan sát trong lĩnh vực vị trí lãnh đạo. Sự gia tăng này bắt đầu xuất hiện trong các chủ tịch câu lạc bộ ở trường THPT hay là đội trưởng đội bóng. Rồi, lúc trưởng thành, việc khẳng định cao này đã được quan sát ở các vị trí lãnh đạo cao nhất (CEO của các công ty S&P 500), và các vị trí chính trị, kể cả ở Hoa Kỳ (thành viên Thượng viện và Hạ viện) , và ở Phần Lan (nghị sĩ Quốc hội).
Hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819833
Hiệu ứng sinh theo mùa. Mùa sinh đẻ của con người thường khá đa dạng, và cùng với hiệu ứng chênh lệch tuổi tương đối ảnh hưởng đến dịch tễ học của sinh sản theo mùa cho thấy được sự gia tăng trong các bệnh y tế như ADHD và tâm thần phân liệt với một nghiên cứu cho rằng "việc tăng độ tuổi bắt đầu học làm giảm khả năng phạm tội ở trẻ vị thành niên". Tuy nhiên, các nghiên cứu khác không thể chỉ ra được hiệu ứng độ tuổi chênh lệch trong cảm xúc, thái độ cũng như là phát triển thể chất. Vấn nạn béo phì cũng đã được liên kết với mùa sinh sản với mức độ gia tăng cao, khả năng cao do nhiệt độ gia tăng lúc sinh khi mùa đông và xuân có sự liên hệ lớn nhất, nhưng sự lười vận động vẫn là một nguy cơ lớn. Những đứa trẻ sinh vào mùa hè thường có những khó khăn trong học tập, và những trẻ sinh vào mùa đông và mùa xuân thường có khả năng cao xuất hiện tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực. Rối loạn tâm thần phân liệt có thể liên quan nhiều vào ngày sinh vào tháng 12 đến tháng 3, u sầu nặng khi sinh vào tháng 3 đến tháng 5, và tự kỷ với đứa sinh vào tháng 3. Sự gia tăng trong trầm cảm theo mùa cũng liên quan đến ảnh hưởng của mùa sinh đẻ trong con người.
Chè kho
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819836
Chè kho còn gọi là Chè khoán hay Chè con ong là một món ngọt phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ; thường được làm để cúng rằm, mồng một, giỗ chạp hay lễ Tết và bày bán ở các chợ quê. Chè kho đậu xanh. Món chè này làm từ đậu xanh và đường để có màu vàng đẹp. Có thể thêm chút dầu chuối hoặc vani và vừng rang cho thơm. Đậu xanh ngon ngâm nước 6-8 tiếng rồi đãi vỏ, đem đồ chín và đánh tơi. Sau đó cho đậu vào nước đường khuấy đều tay đến khi chè quánh lại, đổ ra khay hoặc đĩa rồi rắc vừng. Với thành phẩm được hút chân không có thể bảo quản 3-4 ngày khi trời nóng và tới 10 ngày khi trời rét hoặc trong tủ lạnh. Chè kho mật nếp. Món chè này làm từ gạo nếp, mật mía, gừng, lạc và vừng rang. Gạo nếp ngon đem ngâm 4-5 tiếng. Sau đó cho vào chõ đồ thành xôi, nhưng thành phẩm nát hơn. Một cách dễ hơn là cho vào nồi cơm điện và nấu như nấu cơm, sau đó loại bỏ phần cháy cứng ở đáy nồi. Gừng giã nhỏ, cho vào đun cùng mật mía tạo ra màu nâu đẹp mắt. Nếu dùng đường thì phải là đường đỏ, không dùng đường trắng hay đường đen. Dẫu vậy màu cũng nhợt nhạt hơn mật. Cho xôi vào hỗn hợp mật và đảo đều tay. Đun lửa vừa để không bị cháy. Đến khi sủi lăn tăn, dẻo quánh và đặc lại là được. Múc chè ra đĩa và tạo hình. Đem lạc rang bỏ vỏ, tách làm đôi và vừng rang rắc lên trang trí khi còn ấm. Chè có thể để được 2-3 ngày ở nhiệt độ phòng. Trong văn học. Sách giáo khoa Ngữ văn 12 có tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân với món "Chè khoán" của bà cụ Tứ. Món này thực chất được nấu từ cám lợn thay vì đậu xanh.
Yumoto Yoshihiro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819841
(sinh ngày 19 tháng 5 năm 1964) là chính trị gia người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thị trưởng thành phố Aira kể từ ngày 25 tháng 4 năm 2018. Ngày 17 tháng 4 năm 2022, ông tái đắc cử chức vụ làm thị trưởng thành phố Aira.
Boot Camp (Phần mềm)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819859
Trình công cụ Boot Camp là một phần mềm tiện ích và là trình đa khởi động được giới thiệu trong hệ điều hành macOS của Apple (tên cũ ) hỗ trợ người dùng trong việc cài đặt hệ điều hành Microsoft Windows trên máy tính Macintosh (nền tảng Intel). Phần mềm tiện ích này giúp người dùng phân vùng ổ cứng mà không làm mất dữ liệu (bao gồm điều chỉnh kích thước của phân vùng HFS+ có sẵn hoặc APFS, nếu cần thiết) trên một ổ cứng HDD hoặc ổ cứng SSD và cài đặt các trình điều khiển cần thiết cho Windows dành riêng cho phần cứng của Apple. Công cụ này cũng sẽ cài đặt một ứng dụng nhỏ trong Control Panel của Windows để hỗ trợ cho việc lựa chọn hệ điều hành mặc định trên máy Mac. Ban đầu được giới thiệu là một phiên bản beta không được hỗ trợ cho Mac OS X 10.4 Tiger, tuy nhiên sau đó công cụ này đã được giới thiệu cùng với Mac OS X 10.5 Leopard và được bao gồm đi kèm trong các phiên bản macOS sau đó. Phiên bản đầu của Boot Camp hỗ trợ Windows XP và Windows Vista. Kể từ phiên bản Boot Camp 4.0 có trên Mac OS X 10.6 Snow Leopard phiên bản 10.6.6 cho đến Mac OS X 10.8 Mountain Lion phiên bản 10.8.2 chỉ hỗ trợ Windows 7 (32 và 64-bit). Tuy nhiên, với sự ra mắt của Boot Camp 5.0 dành Mac OS X 10.8 Mountain Lion kể từ phiên bản 10.8.3, chỉ có phiên bản Windows 7 và Windows 8 64-bit là được hỗ trợ chính thức. Kể từ phiên bản Boot Camp 6.0 thì Apple đã thêm hỗ trợ cho Windows 10 64-bit. Đối với phiên bản Boot Camp 6.1 có sẵn trên macOS 10.12 Sierra và trở về sau đã thêm điều kiện mới, nó chỉ cho phép cài đặt Windows 7 và các phiên bản mới hơn trên máy Mac; kể từ macOS 10.14 Mojave, điều kiện này đã được cập nhật một lần nữa và chỉ cho phép cài đặt Windows 10 trở lên. Boot Camp cho đến hiện tại không được hỗ trợ trên dòng máy tính Mac sử dụng chip Apple silicon. Với việc hỗ trợ ảo hóa, hiện tại nó đã có thể chạy Windows 10 và 11 dành cho ARM (chỉ bản dựng Windows Insider vì chúng là bản dựng Windows ARM duy nhất có sẵn công khai) thông qua trình giả lập QEMU và phần mềm ảo hóa Parallels Desktop, cũng cho phép cài đặt Linux. Tổng quan. Quá trình cài đặt. Quá trình cài đặt Windows 10 trên máy Mac yêu cầu tệp ảnh ISO bộ cài của Windows 10 được phân phối bởi Microsoft.
Boot Camp (Phần mềm)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819859
Boot Camp kết hợp bộ cài Windows 10 với các tập lệnh cài đặt đặc biệt do các kỹ sư của Apple viết ra nhằm giúp Windows tải những trình điều khiển phần cứng cần thiết dành cho máy tính Mac đang được cài đặt Windows. Quá trình này được thực hiện bằng cách Boot Camp nhúng trình điều khiển thông qua một số file lệnh riêng biệt nhằm bắt buộc bộ cài Windows 10 tải thêm những trình điều khiển cần thiết được viết ra dành cho phần cứng trên máy Mac đó (i.e bàn phím, bàn di chuột và cổng USB). Nếu người dùng cài đặt theo cách thông thường không thông qua Boot Camp thì có thể sẽ không tương tác được với màn hình cài đặt vì tiêu chuẩn bàn phím và bàn di chuột của máy Mac không theo tiêu chuẩn tương tích chung của Windows, do đó trình điều khiển chung của Windows có thể chỉ tương tích 1 phần hoặc không thể nhận diện được các thiết bị này nếu thiếu driver cần thiết từ Apple. Boot Camp hiện hỗ trợ Windows 10 trên một loạt máy tính Mac được sản xuất từ giữa năm 2012 trở lên. Máy Mac đi kèm với chip Apple Silicon không được hỗ trợ bởi vì phần cứng thuộc cấu trúc ARM không tương tích với Windows vốn hoạt động trên tập lệnh x86-64. Mặc dù Windows 11 có phiên bản hỗ trợ tập lệnh ARM64 (tập lệnh được sử dụng trong máy Mac ARM), tuy nhiên phiên bản ARM64 chỉ được cấp phép cho OEM (không bán lẻ nên không có sẵn bộ cài) và cũng vì Apple không viết trình điều khiển dành cho vi xử lý M1/M2 nên nó không thể chạy được trên máy Mac Apple Silicon. Khởi động vào ổ đĩa. Theo mặc định, máy Mac sẽ ưu tiên khởi động vào ổ đĩa được sử dụng ở thời điểm gần nhất. Bằng cách nhấn phím option (⌥) trong khi máy tính đang khởi động, trên màn hình sẽ hiện trình quản lý khởi động, nơi cho phép người dùng chọn hệ điều hành muốn sử dụng để vận hành thiết bị. Khi sử dụng bàn phím không phải của Apple, phím alt hoạt động chung một công năng. Ta cũng có thể vào trình quản lý khởi động này bằng cách ấn phím "menu" trên Apple Remote khi máy tính đang khởi động. Trên các dòng máy Mac cũ, chức năng khởi động của nó dựa trên việc giả lập BIOS thông qua EFI và cơ chế đồng bộ thông tin bảng phân vùng giữa GPT và kết hợp MBR." Trên các dòng máy Mac mới, Boot Camp giữ ổ cứng ở chế độ bảng phân vùng GPT vì vậy mặc định Windows sẽ được cài và khởi động thông qua chế độ UEFI.
Boot Camp (Phần mềm)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819859
Yêu cầu hệ thống. Mac OS X 10.7 Lion và Mac OS X 10.8 Mountain Lion. Yêu cầu hệ thống Boot Camp của Apple liệt kê các yêu cầu sau đối với các phiên bản Mac OS X Lion và Mac OS X Mountain Lion: Mac OS X 10.5 Leopard và Mac OS X 10.6 Snow Leopard. Apple liệt kê các yêu cầu sau đối với Mac OS X 10.5 Leopard và Mac OS X 10.6 Snow Leopard: Những máy tính Macintosh hỗ trợ Windows 8. Những mẫu máy tính Macintosh hỗ trợ Windows 8 sớm nhất là MacBook Air giữa năm 2011, mẫu 13 inch giữa năm 2011 hoặc mẫu MacBook Pro 15 và 17 inch giữa năm 2010 (ngoại trừ mẫu 13" giữa năm 2010), mẫu Mac Mini giữa năm 2011, mẫu iMac 21 inch giữa năm 2011 hoặc mẫu 27 inch giữa năm 2010 (ngoại trừ mẫu 21.5" giữa năm 2010) và Mac Pro đầu năm 2009. Bằng cách chạy phiên bản Boot Camp tương tích với phiên bản đĩa cài đặt Microsoft Windows nằm trong ổ đĩa quang và sau đó thay đổi đĩa thành đĩa cài đặt Windows 8 khi Mac OS X khởi động lại máy tính trước khi bắt đầu quá trình cài đặt Windows, ta có thể cài đặt Windows 8 trên các phần cứng cũ không được hỗ trợ. Cách này đôi khi cũng có thể dùng được với WIndows 10. Những máy Mac dùng chip Intel trước năm 2011 thường dùng cách này để chạy các phiên bản Windows sau này (Windows 8 đến Windows 10) một cách không chính thức.
Microsoft 3D Viewer
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819873
3D Viewer (trước đây là Mixed Reality Viewer và trước đó là View 3D) là một trình xem đồ họa máy tính 3D và ứng dụng thực tế tăng cường lần đầu tiên được đưa vào Windows 10 1703. Nó hỗ trợ .fbx, .3mf, .obj, và .stl và nhiều định dạng tập tin khác được liệt kê trong phần tính năng. Trong lần khởi chạy đầu tiên, Trình xem 3D tự động tải tập tin 'Bee.glb' và hiển thị một con ong bắp cày hoạt hình, không phải là một con ong, trên nền xám. Người dùng có thể thay đổi góc nhìn, chọn và xem một trong các hình ảnh động có sẵn (được xác định trong tập tin 3D) hoặc điều chỉnh một trong 3 nguồn sáng. Thiết lập ánh sáng có thể được lưu dưới dạng 'chủ đề' và áp dụng cho các đối tượng 3D khác một cách nhanh chóng. Ứng dụng này cũng có bốn 'Hoạt ảnh nhanh'. Đó là những cách mà ứng dụng có thể hiển thị đối tượng 3D bằng cách thay đổi góc nhìn. Ví dụ: mục "Bàn xoay" xoay góc nhìn xung quanh đối tượng theo vĩ độ. Nếu thiết bị chạy ứng dụng được trang bị camera, ứng dụng có thể tạo trải nghiệm thực tế tăng cường cho phép bạn chạm vào bề mặt bạn đang xem và mô hình 3D sẽ rơi xuống bề mặt đó. Sau đó, nó sẽ thực hiện một nỗ lực thô sơ tại SLAM để giữ cho đối tượng ở đúng vị trí. Trình xem 3D có thể đăng tập tin lên trang web Remix 3D, mở nó trong Paint 3D,hoặc gửi đến ứng dụng In 3D (trước đây là 3D Builder) cho in 3D. Khi ở chế độ Thực tế hỗn hợp, Trình xem 3D cũng có thể chụp ảnh và quay video về cảnh có mô hình 3D của bạn được tăng cường vào đó. 3D Viewer không còn được bao gồm trong hệ điều hành kể từ Windows 11, nhưng vẫn có thể tải xuống từ Microsoft Store.
ZDF
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819877
ZDF hay Zweites Deutsches Fernsehen () là đài truyền hình công cộng tại Đức có trụ sở tại Mainz, Rheinland-Pfalz. Thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1963.
Phân rã beta kép phi neutrino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819882
Phân rã beta kép phi neutrino (0νββ) là một quá trình phân rã phóng xạ lý thuyết thường được đề xuất và theo đuổi bằng thực nghiệm sẽ chứng minh bản chất Majorana của hạt neutrino. Cho đến ngày nay vẫn chưa phát hiện hiện tượng này. Việc phát hiện ra phân rã beta kép phi neutrino có thể làm sáng tỏ về khối lượng neutrino tuyệt đối và hệ thống phân cấp khối lượng của chúng (khối lượng neutrino). Đây có thể dấu hiệu đầu tiên về sự vi phạm bảo toàn số lượng lepton toàn phần. Bản chất Majorana của neutrino sẽ xác nhận rằng neutrino là phản hạt của chính nó. Để tìm kiếm sự phân rã beta kép phi neutrino, hiện có một số thí nghiệm đang được tiến hành, với một số thí nghiệm trong tương lai để tăng độ nhạy cũng được đề xuất. Lịch sử phát triển của các cuộc thảo luận lý thuyết. Năm 1939, Wendell H. Furry đề xuất ý tưởng về bản chất Majorana của neutrino, liên quan đến phân rã beta. Furry tuyên bố xác suất chuyển đổi thậm chí còn cao hơn đối với phân rã beta kép "phi" neutrino. Đó là ý tưởng đầu tiên được đề xuất để tìm kiếm sự vi phạm bảo toàn số lượng lepton. Kể từ đó, người ta đã chú ý đến lý thuyết này vì đây là công cụ rất hữu ích để nghiên cứu bản chất của neutrino (xem trích dẫn). Nhà vật lý người Ý Ettore Majorana lần đầu tiên đưa ra khái niệm hạt là phản hạt của chính nó. Bản chất của hạt sau đó được đặt theo tên ông là hạt Majorana. Phân rã beta kép phi neutrino là một phương pháp để tìm kiếm bản chất Majorana khả dĩ của neutrino. Sự liên quan về mặt vật lý. Phân rã beta kép. Neutrino thường được tạo ra trong các phân rã yếu. Các phân rã beta đơn thường tạo ra một electron (hoặc positron), phát ra phản neutrino (hoặc neutrino) và tăng số proton của hạt nhân formula_1 thêm một proton. Khi đó khối lượng của hạt nhân (tức là năng lượng liên kết) thấp hơn và do đó thuận lợi hơn. Tồn tại một số nguyên tố có thể phân rã thành hạt nhân có khối lượng thấp hơn, nhưng chúng không thể chỉ phát ra "một" electron vì hạt nhân tạo thành không thuận lợi về mặt động học (nghĩa là về mặt năng lượng) (năng lượng của nó sẽ cao hơn). Những hạt nhân này chỉ có thể phân rã bằng cách phát ra "hai" electron (nghĩa là thông qua "phân rã beta kép").
Phân rã beta kép phi neutrino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819882
Có khoảng mười trường hợp hạt nhân đã được xác nhận chỉ có thể phân rã thông qua phân rã beta kép. Phương trình phân rã tương ứng là: Đó là một quá trình yếu bậc hai. Sự phân rã đồng thời của hai nucleon trong cùng một hạt nhân là rất khó xảy ra. Do đó, thời gian sống được quan sát bằng thực nghiệm của các quá trình phân rã như vậy nằm trong khoảng formula_3 năm. Một số đồng vị đã được quan sát đã cho thấy sự phân rã beta kép hai neutrino này. Sự phân rã beta kép thông thường này được cho phép trong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt. Do đó, nó có cơ sở lý thuyết và thực nghiệm. Tổng quan. Nếu bản chất của neutrino là Majorana, thì chúng có thể được phát ra và hấp thụ trong cùng một quá trình mà không xuất hiện ở trạng thái cuối cùng tương ứng. Là các hạt Dirac, cả neutrino được tạo ra bởi sự phân rã của các boson W sẽ được phát ra và không bị hấp thụ sau đó. Sự phân rã beta kép phi neutrino chỉ có thể xảy ra nếu: Quá trình phân rã đơn giản nhất được gọi là trao đổi neutrino ánh sáng. Nó có đặc điểm là một neutrino phát ra từ một nucleon và được hấp thụ bởi một nucleon khác (xem hình bên phải). Ở trạng thái cuối cùng, phần còn lại duy nhất là hạt nhân (với số proton thay đổi formula_1) và hai electron: Hai electron được phát ra gần như đồng thời. Khi đó, hai electron thu được là các hạt phát xạ duy nhất ở trạng thái cuối cùng và phải mang xấp xỉ hiệu của tổng năng lượng liên kết của hai hạt nhân trước và sau quá trình dưới dạng động năng của chúng. Các hạt nhân nặng không mang động năng đáng kể. Các electron sẽ được phát ra từ phía sau do sự bảo toàn động lượng. Trong trường hợp đó, tốc độ phân rã có thể được tính bằng công thức: Trong đó: formula_7 biểu thị hệ số không gian pha, formula_8 phần tử ma trận (bình phương) của quá trình phân rã hạt nhân này (theo giản đồ Feynman) và formula_9 là bình phương khối lượng Majorana hữu hiệu. Đầu tiên, khối lượng Majorana hữu hiệu có thể thu được bằng công thức: Trong đó: formula_11 là khối lượng neutrino Majorana (ba neutrino formula_12) và formula_13 là các phần tử của ma trận trộn neutrino formula_14 (xem ma trận PMNS).
Phân rã beta kép phi neutrino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819882
Các thí nghiệm hiện đại để tìm ra các phân rã beta kép phi neutrino (xem phần về các thí nghiệm) nhắm đến cả bằng chứng về bản chất Majorana của neutrino và phép đo khối lượng Majorana hiệu dụng này formula_15 (chỉ có thể thực hiện được nếu sự phân rã thực sự được tạo ra bởi các khối lượng neutrino). Phần tử ma trận hạt nhân (NME) formula_15 không thể đo lường độc lập; nó phải, hoặc cũng có thể được tính toán. Bản thân phép tính này dựa trên các lý thuyết nhiều hạt nhân tinh vi và tồn tại các phương pháp khác nhau để thực hiện điều này. NME formula_15 cũng khác nhau từ hạt nhân đến hạt nhân (tức là nguyên tố hóa học với nguyên tố hóa học). Ngày nay, việc tính toán NME là một vấn đề quan trọng và nó đã được các tác giả khác nhau xử lý theo những cách khác nhau. Một câu hỏi đặt ra là liệu có xử lý phạm vi giá trị thu được cho formula_15 là độ không đảm bảo lý thuyết và liệu điều này sau đó có được hiểu là độ không đảm bảo thống kê hay không. Các cách tiếp cận khác nhau đang được chọn ở đây. Các giá trị thu được cho formula_15 thường thay đổi theo hệ số từ 2 đến khoảng 5. Các giá trị điển hình nằm trong khoảng từ khoảng 0,9 đến 14, tùy thuộc vào hạt nhân/nguyên tố đang phân rã. Cuối cùng, yếu tố không gian pha formula_7 cũng phải được tính toán. Nó phụ thuộc vào tổng động năng được giải phóng (formula_21, tức là "giá trị-formula_22") và số hiệu nguyên tử formula_1. Các phương pháp sử dụng các hàm sóng Dirac, kích thước hạt nhân hữu hạn và sàng lọc điện tử. Có tồn tại kết quả chính xác cao cho formula_7 đối với các hạt nhân khác nhau, dao động từ khoảng 0,23 (đối với formula_25) và 0,90 (formula_26) đến khoảng 24,14 (formula_27). Người ta tin rằng, nếu sự phân rã beta kép phi neutrino được tìm thấy trong những điều kiện nhất định (tốc độ phân rã tương thích với những dự đoán dựa trên kiến ​​thức thực nghiệm về khối lượng neutrino và sự pha trộn), thì điều này thực sự "có khả năng" chỉ ra neutrino Majorana là chất trung gian chính (chứ không phải các hạt khác). nguồn vật lý mới). Có 35 hạt nhân có thể trải qua quá trình phân rã beta kép không có hạt neutrino (theo các điều kiện phân rã nói trên). Thí nghiệm và kết quả.
Phân rã beta kép phi neutrino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819882
Thí nghiệm và kết quả. Chín ứng cử viên hạt nhân khác nhau đang được xem xét trong các thí nghiệm để xác nhận sự phân rã beta kép phi neutrino: formula_28, formula_29. Tất cả họ đều có lập luận ủng hộ và phản đối việc sử dụng chúng trong một thí nghiệm. Các yếu tố được đưa vào và sửa đổi là sự phong phú tự nhiên, sự làm giàu có giá hợp lý và kỹ thuật thử nghiệm được kiểm soát và hiểu rõ. Giá trị-formula_22 càng cao, về nguyên tắc, cơ hội khám phá càng tốt. Yếu tố không gian pha formula_7, và do đó, tốc độ phân rã, tăng lên cùng với formula_32. Thực nghiệm quan tâm và do đó được đo là tổng động năng của hai electron phát ra. Nó phải bằng giá trị-formula_22 của hạt nhân tương ứng đối với sự phát xạ beta kép không có hạt neutrino. Bảng hiển thị tóm tắt các giới hạn tốt nhất hiện tại về thời gian tồn tại của 0νββ. Từ đó, có thể suy ra rằng phân rã beta kép phi neutrino là một quá trình cực kỳ hiếm - nếu nó xảy ra. Hợp tác Heidelberg-Moscow. Cái gọi là "Hợp tác Heidelberg-Moscow" (HDM; 1990-2003) của Viện Vật lý Hạt nhân Max Planck của Đức và Viện Kurchatov của trung tâm khoa học Nga ở Moscow nổi tiếng tuyên bố đã tìm thấy "bằng chứng về sự phân rã beta kép phi neutrino" (tranh chấp Heidelberg-Moscow). Ban đầu, vào năm 2001, sự hợp tác đã công bố bằng chứng 2,2σ hoặc 3,1σ (tùy thuộc vào phương pháp tính toán được sử dụng). Tốc độ phân rã được tìm thấy vào khoảng formula_34 năm. Kết quả này đã và đang là chủ đề thảo luận của nhiều nhà khoa học và tác giả. Cho đến ngày nay, không có thí nghiệm nào khác từng xác nhận hoặc phê duyệt kết quả của nhóm HDM. Thay vào đó, các kết quả gần đây từ thử nghiệm GERDA về giới hạn thời gian tồn tại rõ ràng không ủng hộ và bác bỏ các giá trị của sự hợp tác HDM. Phân rã beta kép phi neutrino vẫn chưa được tìm thấy. Thí nghiệm GERDA (Germanium Detector Array). Kết quả của sự hợp tác GERDA trong giai đoạn I của máy dò là giới hạn củaformula_35 năm (90% C.L.). Nó sử dụng germani làm vật liệu nguồn và vật liệu dò. Argon lỏng được sử dụng để phủ quyết muon và làm lớp chắn bức xạ nền.
Phân rã beta kép phi neutrino
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819882
Các giá trị-formula_22 của germani đối với phân rã 0νββ là 2039 keV, nhưng không tìm thấy quá nhiều sự kiện trong vùng này. Giai đoạn II của thí nghiệm bắt đầu thu thập dữ liệu vào năm 2015 và nó đã sử dụng khoảng 36 kg germani cho các máy dò. Mức phơi nhiễm được phân tích cho đến tháng 7 năm 2020 là 10,8 kg mỗi năm. Một lần nữa, không có tín hiệu nào được tìm thấy và do đó, một giới hạn mới được đặt thành formula_37 năm (90% C.L.). Máy dò đã ngừng hoạt động và công bố kết quả cuối cùng vào tháng 12 năm 2020. Không quan sát thấy sự phân rã beta kép phi neutrino nào. Thí nghiệm EXO (Enriched Xenon Observatory). Thí nghiệm Enriched Xenon Observatory-200 sử dụng cả xenon làm nguồn và máy dò. Thí nghiệm được đặt tại New Mexico (Mỹ) và sử dụng buồng chiếu thời gian (TPC) để phân giải không gian và thời gian ba chiều của sự lắng đọng rãnh electron. Thí nghiệm EXO-200 mang lại giới hạn trọn đời làformula_38 năm (90% C.L.). Khi được dịch sang khối lượng Majorana hiệu quả, đây là giới hạn có cùng thứ tự như giới hạn thu được bởi GERDA I và II. Chuyển đổi muon phi neutrino. Muon phân rã: formula_53 và formula_54 trong khi có những phân rã khác có thể xảy ra, những phân rã này xảy ra mà không phát ra neutrino và khó xảy ra đến mức bị coi là bị cấm như formula_55, formula_56, formula_57 và formula_58, quan sát của họ sẽ được coi là bằng chứng về vật lý mới nâng cao xác suất của các quá trình như vậy. Một số thí nghiệm đang theo đuổi con đường này như Mu to E Gamma, Comet, và Mu2e cho formula_59 và Mu3e cho formula_60. Chuyển đổi tau phi neutrino ở dạng formula_61 đã được tìm kiếm bởi CMS.
Danh sách nhà triết học tiếng Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819883
Đây là danh sách bao gồm các triết gia từ vùng tiếng Đức đồng văn, các cá nhân có những công trình triết học được xuất bản bằng tiếng Đức. Nhiều cá nhân được phân loại là triết gia người Đức hoặc triết gia người Áo, nhưng một số không phải là người Đức hoặc người Áo theo chủng tộc hoặc quốc tịch. Nhiều cái tên được trích dẫn từ các nguồn tài liệu sau đây:
Tivoli (München)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819886
Tivoli là một khu phố ở München. Vị trí. Tivoli thuộc quận Schwabing-Freimann ở bờ trái sông Isar nằm giữa Lehel và Tucherpark trong bốn con đường Ifflandstraße, Tivolistraße, Hirschauer Straße và Am Tucherpark. Lịch sử. Khu phố này được đặt tên theo quán "Zum Tivoli", khai mạc năm 1830 từ một chỗ nghỉ mát mùa hè của một dân cư München. Cái tên Tivoli là tên của thành phố Ý Tivoli ở gần Roma, trong thế kỷ 19 được đặt cho nhiều công viên giải trí. Quán này tồn tại tới năm 1923, bị giật sập năm 1924. Mô tả. Khu phố này có diện tích khoảng 7 ha. Suối Eisbach chảy ngang qua nó.
Danh sách đầu bếp Ấn Độ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819890
Đây là danh sach các đầu bếp Ấn Độ: Các đầu bếp Ấn Độ đáng chú ý bao gồm:
Hồng Kim Hạnh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819893
Hồng Kim Hạnh là một diễn viên người Việt gốc Hoa (sinh ngày 18 tháng 7 năm 1988). Cô sinh ra và lớn lên tại Thành phố Hồ Chí Minh, ba cô là người Hoa, mẹ là người Củ Chi. Cô từng là thủ khoa đầu vào của trường Sân khấu điện ảnh TP Hồ Chí Minh. Cô nổi tiếng qua các bộ phim như: "Trái tim bé bỏng", "Em muốn làm người nổi tiếng", "Dòng sông định mệnh", "Thương nhớ ở ai", "Mạch ngầm vùng biên ải", "Tiệm ăn dì ghẻ"... cô từng được gọi là "viên ngọc mới" của làng phim Việt. Tiểu sử. Hồng Kim Hạnh bắt đầu chạm ngõ bộ môn nghệ thuật thứ bảy từ năm 19 tuổi khi cô đang là sinh viên năm nhất trường Đại học sân khấu Điện ảnh TP HCM. Ngoài ra Hồng Kim Hạnh còn nghệ sĩ đa năng, lấn sân sang các vai trò như: MC, ca sĩ, diễn viên lồng tiếng, ... Cô từng chia sẻ, bản thân yêu thích và muốn được theo đuổi con đường âm nhạc, cô từng có ý định thi Nhạc viện TP HCM. Tuy nhiên cô bị hư dây thanh quản nên đã chuyển sang học nghề diễn xuất. Kể từ đây cô theo nghiệp diễn với nhiều vai diễn gây chú ý. Cô còn cho biết mình nổi danh nhờ chăm đi casting. Đặc biệt, tuy là diễn viên Nam Bộ nhưng lại "nặng duyên" với các đạo diễn gạo cội phía Bắc, được chọn mặt gửi vàng trong nhiều bộ phim truyền hình trên sóng VTV. Sự nghiệp. Năm 19 tuổi, khi đang là sinh viên năm nhất khoa diễn xuất tại trường Sân khấu, Hồng Kim Hạnh được Đạo diễn Nguyễn Thanh Vân mời vào bộ phim truyện nhựa "Trái tim bé bỏng" (2007). Trong phim cô thủ vai con gái thứ hai của diễn viên Hồng Ánh. Cùng năm 2007, Đạo diễn Nguyễn Đức Việt mời cô đóng chính trong bộ phim "Em muốn làm người nổi tiếng". Bộ phim có sự tham gia của diễn viên: Văn Anh, Minh Tiệp, Thanh Tùng, Đan Lê, Hồng Kim Hạnh. Đây được xem là bộ phim nhựa đầu tư lớn nhất con số lên đến 1,8 tỷ đồng.
Hồng Kim Hạnh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819893
Từ những vai diễn đầu tay gây ấn tượng, diễn xuất tự nhiên sau đó Hồng Kim Hạnh liên tục có những vai chính trong các bộ phim truyền hình: Mùa cưới (2007) Hạnh vào vai Vy, Phim Dòng sông định mệnh (2008) của Đạo diễn Châu Huế và vai diễn thực sự ấn tượng khi Hồng Kim Hạnh thủ vai Ly với bạn diễn Minh Luân. Phim "Chào tình yêu" (2009), Hãy cùng em điệu Sarikakeo (2010) của đạo diễn Trương Sơn Hải, vai Hiền trong phim "Những ngày hè xanh" của đạo diễn Xuân Phước. Tiếp đó phim Châu Sa (2012) góp mặt cùng cô là các diễn viên: Á Hậu Trương Thị May, người mẫu Thanh Thức, Xuân Hòa, Kinh Quốc, Hoàng Anh... Cùng năm 2012 cô đóng vai Võ Thị Sáu trong Phim "Cuộc vượt ngục thần kỳ" (Đạo diễn - NSƯT Lê Đức Tiến) bộ phim 30 tập do Đài truyền hình TP HCM sản xuất và phát hành; cùng với đó là 2 bộ phim Mùa xuân quanh ta, Vết xước (2012); Ngôi sao giao thông (2013); Ngũ long công chúa (2014). Đặc biệt đánh dấu sự nghiệp của Hồng Kim Hạnh khi thủ vai Hơn trong phim truyền hình "Thương nhớ ở ai" (sản xuất năm 2014) của Đạo diễn Lưu Trọng Ninh & Bùi Thọ Thịnh. Sau dấu ấn vai Hơn, Hồng Kim Hạnh tham gia nhiều phim như: Mạch ngầm vùng biên ải (2015) của Đạo diễn Bùi Huy Thuần bộ phim 34 tập phát trên khung giờ vàng VTV1. Sau đó gia đình cô gặp biến cố cô phải tạm gác sự nghiệp và gần như ở ẩn, tạm xa showbiz. Sau đó nhiều năm, 2019 cô mới trở lại màn ảnh với vai Thiên Kim trong bộ phim truyền hình VTV "Tiệm ăn dì ghẻ" (2019) vai Hồng Tươi trong bộ phim điện ảnh "Người lạ ơi" của Đạo diễn Trương Chí Bình, bộ phim có sự góp mặt của Rapper Krik, diễn viên Thùy Anh. Cuối 2021, Hồng Kim Hạnh gác lại sự nghiệp diễn xuất để tiếp tục ước mơ du học tại 1 trường đại học ở Canada, may mắn và nỗ lực hết mình cô dành được học bổng toàn phần và đang du học tại Canada. Dấu ấn phim truyền hình. Hồng Kim Hạnh gây ấn tượng khi thủ vai Hơn trong bộ phim truyền hình ăn khách “Thương nhớ ở ai” ( trước đó bộ phim có tên Bến không chồng- Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Dương Hướng).
Hồng Kim Hạnh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819893
Trong phim Hồng Kim Hạnh vào vai Hơn - người vợ địa chủ đẹp nhất Làng Đông. Tuy nhiên cuộc đời cô truân chuyên vì hủ tục và những định kiến thời bấy giờ. Bộ phim sau đó xuất sắc “ẵm” cùng lúc 4 giải Cánh diều vàng. Hồng Kim Hạnh chia sẻ cô hết nước mắt vì vai diễn... Tuy không có đề của cho hạng mục diễn viên xuất sắc nhất, nhưng Hồng Kim Hạnh nhận được đánh giá cao của giới chuyên môn, diễn viên. Khi đóng bộ phim “Thương nhớ ở ai” là lúc ba cô mất được 1 năm, Hồng Kim Hạnh vẫn chưa thể thoát khỏi cảm giác thương nhớ. Cô đã khóc rất nhiều trên đoàn phim, những cảnh rơi nước mắt của nhân vật cô cũng vay mượn những cảm xúc của đời sống vào phim để chân thực nhất có thể. Vì bối cảnh quay ở miền Bắc nên Hồng Kim Hạnh đã phải thuê phòng tại Hà Nội và theo đoàn làm phim suốt nửa năm trời. Khi quay bộ phim gặp rất nhiều khó khăn, là diễn viên nữ Nam Bộ duy nhất tham gia phim nên cô cũng gặp một chút trở ngại về văn hóa. Bộ phim quay với nhiều bối cảnh khó như; lội mình dưới sông, chân trần, gai đâm, đỉa bu, muỗi chích… Hồng Kim Hạnh từng bị chảy máu chân, nhiều vết thương khi tham gia bộ phim “Thương nhớ ở ai”. Tiếp theo đó, 2014 cô lại có duyên với đạo diễn Bùi Huy Thuần & Bùi Quốc Việt khi được mời vai chính trong bộ phim “Mạch ngầm vùng biên ải” bộ phim phát sóng khung giờ vàng VTV1. Trong bộ phim Hồng Kim Hạnh đóng vai Hoài, một cô gái trẻ ở quê vì thương mẹ nên đã ra ngoài bươn chải kiếm tiền nhưng rồi không may bị bán sang biên giới, làm vợ chung cho 3 cha con nông dân. Trải qua bao ê chề, tủi nhục, cuối cùng Hoài mới trốn về Việt Nam, tưởng chừng như không còn niềm tin vào cuộc đời. Đúng lúc này cô gặp Long ( diễn viên Phạm Bảo Anh thủ vai), hai số phận đau thương gặp nhau, đồng cảm và yêu nhau. Toàn bộ ngoại cảnh của bộ phim đều được quay tại khu vực biên giới, bất chấp những khó khăn về sản xuất, sự khắc nghiệt của thời tiết giá lạnh ở vùng biên Hồng Kim Hạnh đã hoàn thành xuất sắc vai diễn của mình.
Danh sách nhà hoá học Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819894
Đây là danh sách các nhà hoá học Đức:
Hermann Julius Grüneberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819901
Hermann Julius Grüneberg ( – ) là một nhà hoá học và phát minh người Đức. Ông cùng với Julius Vorster đã sáng lập nên nhà máy hoá chất Chemische Fabrik Kalk. Tiểu sử. Grüneberg sinh ngày tại Stettin, tỉnh Pomerania, nước Phổ, nay là Szczecin, thành phố thủ phủ của tỉnh Tây Voivod Pomeran của Ba Lan. Ông là con trai thứ hai trong số sáu người con của bậc thầy làm đàn organ August Wilhelm Grüneberg và phu nhân Caroline Henriette née Breslich từ Kamień Pomorski. Một trong số anh em của ông, Barnim Grüneberg, đã nối nghiệp cha theo nghề làm đàn organ. Ông mất ngày tại Cologne, Đế quốc Đức, nơi ông được mai táng tại nghĩa trang Melaten. Di sản. "Trường Grüneberg", và một con phố có tên "Grünebergstraße," tại Kalk, một quận của thành phố Cologne, được đặt theo tên của ông.
Danh sách nhà vật lý Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819908
Đây là danh sách các nhà vật lý Đức:
Danh sách nhà toán học Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819910
Đây là danh sách các nhà toán học Đức:
Giveon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819911
Giveon Dezmann Evans (sinh ngày 21 tháng 2 năm 1995), thường được biết đến với nghệ danh Giveon (cách điệu là GIVĒON), là một ca sĩ R&B người Mỹ. Anh được biết đến nhiều hơn với màn hợp tác cùng Drake trong đĩa đơn năm 2020 của họ, "Chicago Freestyle". Cùng năm đó, Giveon phát hành các EP "Take Time" và "When It's All Said and Done", EP đầu tiên được đề cử giải Grammy cho Album R&B hay nhất và EP thứ hai lọt vào Top 10 trên bảng xếp hạng Top R&B Albums của Hoa Kỳ. Anh cũng đã phát hành "Heartbreak Anniversary", là đĩa đơn thứ hai từ EP "Take Time," đã lọt vào Top 40 tại Hoa Kỳ và đạt được chứng nhận Bạch kim bởi RIAA. Năm 2021, Giveon được giới thiệu rộng rãi tới khán giả cùng với Daniel Caesar trong đĩa đơn "Peaches" của Justin Bieber, được xếp hạng ở vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" Global 200 và US "Billboard" Hot 100. Năm 2022, anh phát hành album phòng thu đầu tay "Give or Take". Đầu đời. Giveon Dezmann Evans sinh ngày 21 tháng 2 năm 1995 tại Quận Los Angeles, California (hoặc ở thành phố Long Beach, California). Anh là một trong ba anh em được nuôi dưỡng bởi một bà mẹ đơn thân; anh đã nhận ra niềm đam mê âm nhạc của mình từ khi còn nhỏ khi anh thường hát trong các bữa tiệc sinh nhật. Anh nói rằng mẹ của anh là nguồn cảm hứng đầu tiên của mình vì mẹ anh đã thúc đẩy anh khám phá ra tình yêu âm nhạc thuở ban đầu này, và bảo vệ anh cùng các anh em của mình khỏi áp lực của văn hóa băng đảng và nghèo đói. Anh theo học tại Trường Trung học Bách khoa Long Beach, và tham gia chương trình giáo dục âm nhạc tại Bảo tàng Grammy năm 18 tuổi, nơi anh nhận được nguồn cảm hứng tiếp theo của mình là Frank Sinatra, người có giọng hát truyền cảm hứng cho anh. Sau này Giveon đã đi theo R&B và soul và cũng được truyền cảm hứng rất nhiều từ Drake. Giveon say mê âm nhạc của Barry White và Frank Sinatra thông qua chương trình Học viện ghi âm (Recording Academy), nơi trẻ em được tìm hiểu về lịch sử âm nhạc. ÂM nhạc của Giveon lấy cảm hứng từ nhạc jazz những năm 1960 và muốn hiện đại hóa những gì anh nghe được. Sự nghiệp. 2018–2019: Bắt đầu sự nghiệp. Giveon tự phát hành đĩa đơn đầu tay "Garden Kisses" vào tháng 8 năm 2018.
Giveon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819911
Ngay sau đó, tài năng của anh đã được phát hiện bởi nhà sản xuất thu âm người Canada Sevn Thomas, người đã vô tình nghe được nhạc của anh trong một danh sách phát ngẫu nhiên trên SoundCloud và sau đó đã giúp anh ký hợp đồng với hãng thu âm Not So Fast và Epic Records. Sau khi ký hợp đồng, anh bắt đầu biểu diễn các bài hát của mình tại các lễ hội âm nhạc khác nhau, bao gồm cả "Like I Want You", trước khi thu âm chúng một cách chuyên nghiệp. Vào tháng 11 năm 2019, anh đã phát hành đĩa đơn "Like I Want You" ngay trước khi đóng vai trò là người mở màn cho nữ ca sĩ Snoh Aalegra trong "chuyến lưu diễn Ugh, A Mini Tour Again" tại Châu Âu và Bắc Mỹ. 2020–nay: "Chicago Freestyle" và những EP đầu tiên. Vào năm 2019, Giveon đã có chuyến lưu diễn với Snoh Aalegra, nơi Giveon thường hát một cách tự do (freestyle) vì anh ấy chỉ có hai bài hát vào thời điểm đó. Người quản lý của Giveon đã gửi bài hát freestyle của anh ấy từ Chicago tới Drake. Điều này dẫn tới màn hợp tác của họ trong "Chicago Freestyle", và đó là cách mà đĩa đơn có tên như vậy. Vào tháng 2 năm 2020, "Chicago Freestyle" được tải lên SoundCloud và YouTube. Vào tháng 3 năm 2020, Evans phát hành EP đầu tay của mình, "Take Time", do Thomas điều hành sản xuất. EP đã đứng đầu bảng xếp hạng Heatseekers Albums của "Billboard", mang về cho Giveon bài hát được xếp hạng đầu tiên của anh ấy. "Take Time" cũng nhận được sự tán thưởng từ các nhà phê bình âm nhạc đương đại và họ gọi nó là một sự "ngoạn mục". Vào tháng 5 năm 2020, "Chicago Freestyle" đã được phát hành chính thức để phát trực tuyến, cùng với mixtape "Dark Lane Demo Tapes" của Drake. Bài hát đạt vị trí thứ 14 trên "Billboard" Hot 100, mang về cho Giveon đĩa đơn đầu tiên lọt vào bảng xếp hạng "Billboard". Đĩa đơn này cũng lọt vào top 40 đĩa đơn ở Vương quốc Anh, Canada, New Zealand và Thụy Sĩ. Vào tháng 9 năm 2020, Giveon thông báo phát hành EP thứ hai gồm bốn ca khúc "When It's All Said and Done", và phát hành đĩa đơn chính "Stuck on You" ngay sau đó. Sau khi được phát hành vào ngày 2 tháng 10 năm 2020, EP đã đạt vị trí thứ 93 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200.
Giveon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819911
Với sự thành công nhanh chóng của sự ủng hộ đông đảo, các đĩa đơn "Stuck on You" và "Like I Want You" của Giveon bắt đầu lọt vào một số bảng xếp hạng R&B "của Billboard" vào cuối năm 2020, đĩa đơn sau đó đã nhận được Chứng nhận vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ vào tháng 12 2020. Trong thời gian này, Giveon đã giành được đề cử Giải Grammy đầu tiên khi "Take Time" được đề cử cho Album R&B hay nhất tại Lễ trao giải Grammy 2021. Anh cũng đã có buổi biểu diễn truyền hình đầu tiên trên "Jimmy Kimmel Live!" với màn biểu diễn "Stuck on You". Ngày 27 tháng 2 năm 2021, Giveon đã giành được vị trí thứ hai và thứ ba trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 với "Heartbreak Anniversary" và "Like I Want You", lọt vào bảng xếp hạng lần lượt ở vị trí thứ 74 và 95. Vào ngày 12 tháng 3, anh phát hành album tổng hợp "When It's All Said and Done." "." "." "Take Time", là một sự kết hợp của hai EP đầu tiên của anh ấy, bao gồm một bài hát mới có tựa đề "All to Me". Chỉ một tuần sau, anh góp mặt trong đĩa đơn "Peaches" của Justin Bieber từ album "Justice" của Bieber. Vào ngày 16 tháng 9 năm 2022, Epic Records tiết lộ rằng Giveon đã thu âm một ca khúc cho bộ phim "Amsterdam" có tựa đề là "Time" do Drake đồng sáng tác. Phong cách âm nhạc. Giọng ca của Giveon mang màu sắc của giọng nam trung. Anh lấy cảm hứng từ nhạc jazz từ những năm 1960 và 1970. Frank Sinatra, Frank Ocean, Drake, Adele và Sampha là một trong những nghệ sĩ có tầm ảnh hưởng lớn nhất tới phong cách âm nhạc của anh. Đĩa nhạc. Album phòng thu
Danh sách nhà khoa học Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819915
Đây là danh sách các nhà khoa học Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland:
John Penrose (linh mục)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819916
John Penrose ( – ) là một linh mục của Giáo hội Anh và là một tác giả về lĩnh vực thần học. Tuổi trẻ. John Penrose sinh ra tại Cardinham ở Cornwall, nơi cha ông, cũng có tên là John, là mục sư của giáo xứ. Penrose được giáo dục tại Trường Blundell vùng Tiverton và tại Cao đẳng Corpus Christi của Oxford. Ông đã nhận bằng cử nhân vào năm 1799 và bằng thạc sĩ vào năm 1802. Sự nghiệp. Penrose được truyền chức tại Exeter vào năm 1801. Ông đã giữ nhiều vị trí giáo hội trong suốt cuộc đời mình, bao gồm: Vào năm 1814, Penrose kết hôn với Elizabeth Cartwright, một giáo viên và là tác giả của nhiều đầu sách thiếu nhi dưới bút danh Mrs Markham. Cặp đôi có ba người con trai, trong đó Francis Penrose là một kiến trúc sư và Charles Penrose là một linh mục, kế nhiệm cha mình. Các tác phẩm. Các tác phẩm được công bố đáng chú ý nhất của ông bao gồm: Bộ sưu tập của Thư viện Thần học Pitts bao gồm một bức thư ba trang từ John Penrose gửi cho một giám mục khuyết danh, đề ngày 24 tháng 11 năm 1844, bình luận về tính cách của Thomas Arnold.
Động đất ngoài khơi phía Đông Chiba 1987
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819922
là trận động đất xảy ra vào lúc 11:08 (JST), ngày 17 tháng 12 năm 1987. Trận động đất có cường độ 6.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 58 km. Không có cảnh báo sóng thần, nhưng trận động đất đã làm hai người chết, 144 người bị thương.
Solo Per Due
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819923
Solo Per Due là một nhà hàng tự cho là nhỏ nhất thế giới ở Ý. Nhà hàng được thành lập vào năm 1989 bởi ba chủ nhà hàng trên khu đất của nhà thơ Horace, gần Vacone, Ý. Theo như tên gọi của nó, có nghĩa là "Chỉ cho Hai [người]", nhà hàng chỉ có chỗ ngồi dành cho hai người trên một chiếc bàn duy nhất trong một căn phòng có diện tích . Mô tả. Solo Per Due thuộc sở hữu của ba người, gồm Giovanni và Remo di Claudio. Họ thành lập nhà hàng vào năm 1989 như một lựa chọn cho các vấn đề hầu bàn chậm trễ tại các nhà hàng lớn. Nhà hàng tọa lạc tại một tòa nhà từ thế kỷ 19 gần Vacone, Ý, gần khu đất của nhà thơ La Mã Horace. Solo Per Due tự nhận là nhà hàng nhỏ nhất thế giới. Phòng ăn của nhà hàng có diện tích chỉ và trang hoàng bằng tượng bán thân của các hoàng đế La Mã, bông hoa và chân nến. Nhà hàng chỉ có một chỗ ngồi dành cho hai người trên chiếc bàn duy nhất: trên thực tế, tên của nhà hàng được dịch từ tiếng Ý là "chỉ dành cho hai người". Nhà hàng phục vụ hai bữa ăn một ngày: bữa trưa và bữa tối. Muốn thưởng thức tại Solo Per Due thực khách phải đặt trước và xác nhận trước hơn 10 ngày. Thực khách Không được phép hủy bỏ vào phút chót và phải gọi thông báo cho nhà hàng trước nửa tiếng. Do nhà hàng quy mô nhỏ, Solo Per Due thường được đặt trước trong nhiều tháng. Thực đơn. Thực đơn cho bữa ăn tại Solo Per Due được chế biến cho mỗi khách dựa theo sở thích của họ. Mỗi thực đơn khởi đầu với giá cố định €250 (không thanh toán bằng thẻ tín dụng). Mức giá cho một bữa ăn bốn món có thể lên tới €500. Tùy thuộc vào số lượng món ăn, một bữa ăn tại Solo Per Due có thể kéo dài hơn ba giờ. Nhà hàng không có rượu vang trong thực đơn. Thay vào đó thực khách được mời chọn trong số 10 loại rượu do người bồi bàn đưa cho họ xem.
Động đất Ōtaki 1984
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819925
là trận động đất xảy ra vào lúc 8:48 (JST), ngày 14 tháng 9 năm 1984. Trận động đất có cường độ 6.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 2 km. Hậu quả trận động đất đã làm 29 người chết, 10 người bị thương.
Hội đồng Lập hiến Pakistan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819930
Hội đồng Lập hiến Pakistan () là cơ quan lập pháp cao nhất của Pakistan trong thời kỳ chuyển tiếp từ một lãnh thổ tự trị của Anh đến một quốc gia độc lập. Hội đồng Lập hiến có nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp cho Pakistan, làm luật và giám sát chính phủ. Hội đồng Lập hiến gồm những đại biểu do hội đồng của các tỉnh thuộc Pakistan bầu ra. Tây Pakistan và Đông Pakistan bầu ra cùng số đại biểu. Trong Hội đồng Lập hiến Liên minh Hồi giáo ban đầu chiếm ưu thế nhưng về sau có ba đảng khác hình thành: Liên minh Nhân dân Bangladesh, Mặt trận Thống nhất và Đảng Cộng hòa. Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng Lập hiến là Muhammad Ali Jinnah, cha đẻ Pakistan. Ngày 24 tháng 10 năm 1954, Toàn quyền Pakistan Malik Ghulam Muhammad giải tán Hội đồng Lập hiến sau bảy năm bế tắc về vài vấn đề quan trọng như địa vị pháp lý của Hồi giáo và cơ chế phân quyền giữa Tây Pakistan và Đông Pakistan. Một hội đồng lập hiến thứ hai được bầu ra vào ngày 28 tháng 5 năm 1955 và hiến pháp đầu tiên của Pakistan được thông qua vào tháng 1 năm 1956, có hiệu lực từ ngày 23 tháng 3 năm 1956. Tuy nhiên, chỉ hai năm rưỡi sau hiến pháp bị hủy bỏ trong cuộc đảo chính của tướng Muhammad Ayub Khan. Bối cảnh. Vào thời kỳ thực dân Anh, các tín đồ Hồi giáo thành lập các tổ chức chính trị nhằm bảo vệ quyền lợi của họ. Năm 1906, Liên minh Hồi giáo được thành lập để gây sức ép với chính quyền thuộc địa. Song song với phong trào độc lập Ấn Độ, phong trào Pakistan hình thành với mục tiêu thành lập một nhà nước riêng biệt cho tín đồ Hồi giáo. Lãnh đạo phong trào Pakistan lo sợ người Hồi giáo sẽ bị yếu thế trong một nước Ấn Độ độc lập với đa số là người Ấn Độ giáo. Năm 1940, Liên minh Hồi giáo thông qua Nghị quyết Lahore, yêu cầu thành lập một quốc gia độc lập với đa số là người Hồi giáo. Trong cuộc bầu cử Hội đồng Lập hiến Ấn Độ năm 1945, Liên minh Hồi giáo trúng cử 425 trong số 496 đại biểu được dành riêng cho người Hồi giáo và giành được hơn 75% số phiếu bầu của người Hồi giáo. Sau khi đàm phán với Đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ thất bại, Liên minh Hồi giáo quyết định thành lập một nhà nước Pakistan riêng biệt.
Hội đồng Lập hiến Pakistan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819930
Năm 1947, Anh thông qua luật chia cắt Ấn Độ và hội đồng lập hiến làm hai. Lịch sử. Tổ chức và thành phần. Hội đồng Lập hiến Pakistan họp lần đầu tiên vào ngày 10 tháng 8 năm 1947 tại Karachi, bốn ngày sau khi Ấn Độ bị chia cắt làm hai nước. Ngày 11 tháng 8, Muhammad Ali Jinnah được Hội đồng Lập hiến bầu làm chủ tịch, kiêm toàn quyền Pakistan. Maulvi Tamizuddin Khan kế nhiệm Jinnah từ năm 1948 đến năm 1954, Abdul Wahab Khan kế nhiệm Khan cho đến khi Hội đồng Lập hiến bị giải tán. Hội đồng Lập hiến có nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp của Pakistan trong thời kỳ chuyển tiếp mà Pakistan là một lãnh thổ tự trị của Anh. Ngoài ra, Hội đồng Lập hiến làm luật và giám sát chính phủ. Hội đồng Lập hiến Pakistan gồm những đại biểu của Hội đồng Lập hiến 1946 được bầu ra từ những khu vực sáp nhập vào Pakistan sau khi Ấn Độ bị chia cắt. Tổng cộng có 80 đại biểu trong Hội đồng Lập hiến, 40 đại biểu từ Tây Pakistan và 40 đại biểu từ Đông Pakistan. Đa số các đại biểu đều là thành viên của Liên minh Hồi giáo. Có hai nữ đại biểu, tiêu biểu là Shaista Ikramullah. Trong hội đồng lập hiến thứ hai năm 1955, Liên minh Hồi giáo chiếm 20 đại biểu, Mặt trận Thống nhất chiếm 16 đại biểu, Liên minh Nhân dân Bangladesh chiếm 12 đại biểu, Đảng Cộng hòa chiếm 21 đại biểu. 28 đại biểu từ Tây Pakistan là địa chủ, 21 đại biểu từ Đông Pakistan là luật sư. Quá trình lập hiến. 1947 - 1951: Jinnah và Ali Khan. Hội đồng Lập hiến thành lập các ủy ban phụ trách các lĩnh vực khác nhau. Công tác lập hiến rất khó nhọc do không có một chủ trương nhất định về khung pháp lý của nhà nước Pakistan cho nên không thể thống nhất ý kiến các yếu tố cơ bản nhất của hiến pháp. Jinnah lại bị mắc bệnh nặng từ khi Pakistan được thành lập nên không thể thường xuyên điều hành công việc. Ông chủ trương thành lập một nhà nước Pakistan dân chủ và Hồi giáo với một chế độ tổng thống. Jinnah qua đời vào ngày 11 tháng 9 năm 1948. Sau khi Jinnah qua đời, Thủ tướng Liaquat Ali Khan tiếp quản công tác lập hiến. Ngày 12 tháng 3 năm 1949, Hội đồng Lập hiến thông qua Nghị quyết Tôn chỉ, xác định các yếu tố cơ bản của hiến pháp.
Hội đồng Lập hiến Pakistan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819930
Nghị quyết đặt ra 12 điểm, gồm dân chủ, độc lập tư pháp, các quyền tự do và công bằng xã hội, "phù hợp với các giáo lý của Hồi giáo". Nghị quyết xác định các nhóm thiểu số được hưởng quyền tự do tôn giáo nhưng bị thiểu số đại biểu Ấn Độ giáo trong Hội đồng Lập hiến phản đối. Hội đồng Lập hiến thành lập Ủy ban Nguyên tắc Cơ bản gồm 24 thành viên với nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp. Ngày 28 tháng 9 năm 1950, Liaquat Ali Khan trình dự thảo hiến pháp đầu tiên trước Hội đồng Lập hiến. Các đại biểu người Bengal phản đối dữ dội dự thảo hiến pháp bởi quy định Đông Pakistan chỉ được bầu ra 20% số đại biểu trong thượng viện của quốc hội mặc dù chiếm gần như một nửa dân số Pakisan và tiếng Urdu là ngôn ngữ chính thức nhưng không có tiếng Bengal. Khan buộc phải rút dự thảo hiến pháp sau hai tháng. 1951 - 1953: Nazimuddin. Sau khi Liaquat Ali Khan bị ám sát vào ngày 16 tháng 10 năm 1951, tân Thủ tướng Khawaja Nazimuddin và Toàn quyền Malik Ghulam Muhammad tiếp quản công tác lập hiến nhưng mâu thuẫn nhau về quyền lãnh đạo. Ngày 22 tháng 12 năm 1952, chính phủ trình báo cáo của Ủy ban Nguyên tắc cơ bản trước Hội đồng Lập hiến, đề nghị thành lập một chế độ liên bang, bán tổng thống với một quốc hội lưỡng viện. Đông Pakistan được ngang hàng với Tây Pakistan về số đại biểu trong thượng viện và không có quy định về ngôn ngữ chính thức. Hạ viện và thượng viện bình đẳng về quyền hạn nhưng hạ viện quyết định bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ và dự toán ngân sách nhà nước. Luật của quốc hội phải phù hợp với Hồi giáo và các tỉnh không được tự trị. Dự thảo được Đông Pakistan và giới hiền triết Hồi giáo ủng hộ nhưng vấp phải chỉ trích từ nhiều phía. Các nhóm tôn giáo thiểu số lo sợ quyền lợi của họ sẽ không được bảo đảm dưới một chế độ Hồi giáo. Vài lãnh đạo Đông Pakistan như Suhrawardy và Sheikh Mujibur Rahman không chấp nhận một chế độ lưỡng viện. Tây Pakistan có những chỉ trích kịch liệt nhất: Balochistan và Punjab sợ người Bengal phía đông sẽ áp đảo phía tây trong chính quyền. Nazimuddin buộc phải rút dự thảo hiến pháp vào ngày 21 tháng 1 năm 1953 trước khi bị miễn nhiệm.
Hội đồng Lập hiến Pakistan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819930
1953 - 1954: dự thảo của Bogra. Muhammad Ali Bogra kế nhiệm Nazimuddin từ ngày 17 tháng 4 năm 1953. Ngày 7 tháng 10 năm 1953, Bogra trình dự thảo hiến pháp mới trước Hội đồng Lập hiến với mục đích hòa giải giữa Tây Pakistan và Đông Pakistan, đề nghị thành lập một chế độ cộng hòa Hồi giáo đại nghị, liên bang với một quốc hội lưỡng viện. Trong hạ viện thì số đại biểu sẽ được phân bố theo dân số nên Đông Pakistan được 165 trong số 300 đại biểu, trong thượng viện thì mỗi tỉnh được mười đại biểu. Trường hợp hai viện bất đồng về quan điểm thì phải họp chung. Tổng thống mà đến từ Tây Pakistan thì thủ tướng phải đến từ Đông Pakistan và ngược lại. Dự thảo này được dư luận đánh giá cao, nhất là báo chí tuy các nhóm tôn giáo thiểu số tiếp tục chỉ trích việc quy định Hồi giáo là quốc giáo là trái với dân chủ. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Hội đồng Lập hiến thông qua kiến nghị sửa đổi dự thảo hiến pháp, quy định tiếng Urdu và tiếng Bengal là ngôn ngữ chính thức. Ngày 21 tháng 9 năm 1954, Hội đồng Lập hiến thông qua dự thảo hiến pháp sơ bộ với Nghị quyết Tôn chỉ là lời mở đầu. Hội đồng Lập hiến dự định chung quyết hiến pháp vào ngày 27 tháng 10 và ấn định thời điểm hiến pháp có hiệu lực là ngày 15 tháng 12. 1954 - 1956: Hội đồng Lập hiến bị giải tán rồi tái lập. Tuy nhiên, Toàn quyền Malik Ghulam Muhammad lo ngại Hội đồng Lập hiến tập trung quyền hạn mà triệt tiêu quyền hạn của ông và phản đối những điều khoản ưu ái người Bengal và giảm quyền hạn của tổng thống. Ngày 24 tháng 10, Muhammad lấy lý do "khủng hoảng chính trị" tuyên bố tình trạng khẩn cấp, giải tán Hội đồng Lập hiến một vài ngày trước cuộc chung quyết hiến pháp với sự ủng hộ của Bộ trưởng Quốc phòng Muhammad Ayub Khan và Iskander Mirza. Ngày 13 tháng 4 năm 1955, Toàn quyền Muhammad tuyên bố thành lập một Hội đồng Lập hiến thứ hai do các hội đồng tỉnh bầu ra. Ngày 30 tháng 9, Hội đồng Lập hiến thông qua chủ trương hợp nhất bốn tỉnh phía tây thành một đơn vị tên Tây Pakistan cho tương xứng với Đông Pakistan.
Hội đồng Lập hiến Pakistan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819930
Ngày 9 tháng 1 năm 1956, Thủ tướng Chaudhry Muhammad Ali trình dự thảo hiến pháp trước Hội đồng Lập hiến. Hiến pháp được thông qua vào ngày 29 tháng 2, được toàn quyền ban hành vào ngày 3 tháng 3 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 3. Hội đồng Lập hiến lưu nhiệm cho đến khi quốc hội được bầu ra vào năm 1959 nhưng cuộc bầu cử không hề được tổ chức. Hiến pháp năm 1956 thành lập một chế độ cộng hòa Hồi giáo bán tổng thống với một quốc hội một viện. Tổng thống có quyền giải tán quốc hội, miễn nhiệm thủ tướng và phủ quyết luật của quốc hội. Nghị quyết Tôn chỉ được đưa vào lời mở đầu. Người Bengal được bảo đảm về quyền lợi: Tây Pakistan và Đông Pakistan bầu ra cùng số đại biểu quốc hội, các tỉnh được tăng cường quyền tự trị và cả tiếng Bengal và tiếng Urdu đều là ngôn ngữ chính thức. Vai trò chính trị. Trong thời gian soạn thảo hiến pháp, Hội đồng Lập hiến đóng vai trò là nghị viện của Pakistan, có quyền làm luật và giám sát chính phủ. Hội đồng Lập hiến sửa đổi Luật chính quyền Ấn Độ năm 1935 và Luật độc lập Ấn Độ năm 1947 nhằm cho phép chính phủ trung ương giải tán chính quyền địa phương. Hội đồng Lập hiến bác bỏ một dự án cải cách ruộng đất vào tháng 7 năm 1949. Ngày 26 tháng 1 năm 1950, Hội đồng Lập hiến thông qua luật cho phép công dân khiếu nại một bộ trưởng hoặc một đại biểu về hành vi tham nhũng hoặc bất công nhưng luật bị bãi bỏ vào năm 1954. Thế lực chính trị và vai trò lập hiến của Hội đồng Lập hiến dần dà tiêu tan. Quyền hạn ngày càng tập trung vào tay của toàn quyền, nhất là sau khi Malik Ghulam Muhammad lên nắm quyền từ ngày 19 tháng 10 năm 1951. Thủ tướng Khawaja Nazimuddin bị miễn nhiệm vào năm 1953 mặc dù được Hội đồng Lập hiến tín nhiệm. Nhằm khôi phục quyền hạn của mình, Hội đồng Lập hiến đề nghị cấm toàn quyền miễn nhiệm thủ tướng được Hội đồng Lập hiến tín nhiệm vào ngày 21 tháng 9 năm 1954 nhưng Ghulam Muhammad đánh úp giải tán Hội đồng Lập hiến và được tòa án chấp nhận. Kết cục.
Hội đồng Lập hiến Pakistan
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819930
Kết cục. Hội đồng Lập hiến Pakistan phải mất gần chín năm mới làm xong hiến pháp của Pakistan, trong khi Hiến pháp Ấn Độ đã có hiệu lực từ ngày 26 tháng 1 năm 1950. Hiến pháp năm 1956 không giải quyết được những vấn đề của Pakistan đã phát sinh trong thời gian soạn thảo mà khó khăn nhất là khoảng cách 1.600 km giữa Tây Pakistan và Đông Pakistan. Thủ tướng người Bengal Huseyn Shaheed Suhrawardy chỉ đạo tăng cường đầu tư vào Đông Pakistan nhưng bị Tây Pakistan phản đối. Suhrawardy cũng vấp phải chỉ trích từ Đông Pakistan do không trao quyền tự trị cho khu vực. Hiến pháp năm 1956 không điều tiết được quan hệ giữa tổng thống và thủ tướng, quốc hội. Cán cân quyền lực nghiêng hẳn về tổng thống và Suhrawardy bị Iskander Mirza ép phải từ chức. Tây Pakistan chiếm ưu thế so với Đông Pakistan. Hiến pháp năm 1956 bị hủy bỏ vào ngày 7 tháng 10 năm 1958 sau cuộc đảo chính của Tổng thống Iskander Mirza và Tổng tư lệnh Muhammad Ayub Khan. Khan thừa cơ bất ổn chính trị, độc chiếm chính quyền từ ngày 27 tháng 10. Di sản của Hội đồng Lập hiến là Nghị quyết Tôn chỉ, xuất hiện trong lời mở đầu của các bản hiến pháp về sau. Ngày 1 tháng 3 năm 1962, chính quyền quân quản ban hành hiến pháp mới, thành lập một chế độ tổng thống đầu phiếu gián tiếp. Chính quyền ra lệnh thiết quân luật hủy bỏ hiến pháp này vào ngày 25 tháng 3 năm 1969. Năm 1970, Pakistan tổ chức tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử nhưng mãi đến năm 1972 quốc hội mới họp do Đông Pakistan ly khai khỏi Pakistan, trở thành Bangladesh. Quốc hội bầu Zulfikar Ali Bhutto làm chủ tịch và ban hành Hiến pháp năm 1973, là hiến pháp hiện hành của Pakistan.
Shōnen no Abyss
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819938
là một sêri manga dài tập viết và minh họa bởi Minenami Ryō. Nó đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí "Tuần san Young Jump" của Shueisha kể từ tháng 2 năm 2020, với các chương của nó được tập hợp thành 13 tập "tankōbon" tính đến tháng 6 năm 2023. Một phim truyền hình chuyển thể từ người thật đóng được phát sóng từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2022. Cốt truyện. Kurose Reiji sống với anh trai, mẹ làm y tá và bà ngoại ở một thị trấn nông thôn. Cậu là bạn thơ ấu của Akiyama Sakuko. Một ngày, Reiji gặp Aoe Nagi, một thành viên của nhóm nhạc thần tượng Acrylic người đang làm nhân viên cửa hàng tiện lợi. Nagi nói với Reiji về một nơi trong thị trấn được gọi là 'Vực thẳm tình nhân', nơi được xem như là nơi những người yêu nhau tự sát. Reiji và Nagi định tự tử nhưng không thành, Reiji được cứu bởi giáo viên của mình là Shibasawa Yuri, cô sau đó đã thề sẽ bảo vệ cậu. Truyền thông. Manga. Được viết và minh họa bởi Minenami Ryō, "Shōnen no Abyss" bắt đầu đăng nhiều kỳ trên tạp chí "Tuần san Young Jump" của Shueisha vào ngày 27 tháng 2 năm 2020; nó đã được biên soạn thành mười ba tập "tankōbon" tính tới ngày 19 tháng 6 năm 2023. Vào tháng 6 năm 2022, Viz Media thông báo rằng họ đã cấp phép xuất bản tiếng Anh cho bộ truyện này. Live-action. Một bộ phim truyền hình live-action chuyển thể đã được công bố vào ngày 27 tháng 7 năm 2022. Nó được đạo diễn bởi Misato Kato với kịch bản của Kyoko Inukai và Towa Araki đảm nhận vai chính. Bộ phim được phát sóng trên khối truyền hình của MBS TV từ ngày 2 tháng 9 đến ngày 21 tháng 10 năm 2022. RIM biểu diễn ca khúc mở đầu , còn SpendyMily biểu diễn ca khúc kết thúc "Iris". Đón nhận. Vào năm 2021, bộ truyện được xếp ở vị trí thứ 11 trong Tsugi ni kuru Manga Taishō lần thứ 7 ở hạng mục bản in. Tính đến tháng 7 năm 2022, bộ truyện đã có hơn một triệu bản được lưu hành.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Bóng đá là tên gọi chung của một nhóm bao gồm nhiều môn thể thao đồng đội khác nhau nhưng đều có liên quan tới việc đá một trái banh vào khung thành để ghi bàn thắng. Thông thường, khi nói đến "bóng đá", người ta thường chỉ đề cập đến hình thức bóng đá phổ biến nhất ở vùng được sử dụng từ ngữ này. Những môn thể thao thường gọi là "bóng đá" bao gồm bóng đá đồng hội (được gọi là "bóng đá" ở Bắc Mỹ, Ireland và Úc); Bóng bầu dục Mỹ; bóng bầu dục Úc; bóng bầu dục liên hiệp và bóng bầu dục liên minh; và bóng đá Gaelic. Những hình thức bóng đá này có nguồn gốc chung và được gọi là các "football codes". Có nhiều tài liệu về các trò chơi bóng truyền thống, cổ xưa hoặc tiền sử được chơi ở nhiều nơi trên thế giới. Các luật bóng đá hiện đại có thể được truy nguyên lại đến việc "định luật" của những trò chơi này tại các trường công lập Anh vào thế kỷ 19. Việc mở rộng và tác động văn hóa của Đế quốc Anh đã cho phép những luật chơi bóng đá này lan rộng đến các vùng có ảnh hưởng của Anh ngoài đế chế được kiểm soát trực tiếp. Đến cuối thế kỷ 19, các luật chơi bóng đá địa phương đã phát triển rõ rệt: ví dụ, bóng đá gaelic đã chủ động tích hợp luật chơi của các trò chơi bóng đá truyền thống địa phương để duy trì di sản của họ. Năm 1888, English Football League được thành lập tại Anh, trở thành một trong những liên đoàn bóng đá chuyên nghiệp đầu tiên. Trong thế kỷ 20, một số hình thức bóng đá đã trở thành một trong những môn thể thao đội phổ biến nhất trên thế giới. Nguyên gốc từ. Có những giải thích trái ngược về nguồn gốc của từ "football". Nhiều người cho rằng từ "football" (hoặc cụm từ "foot ball") ám chỉ đến hành động đá bóng bằng chân. Tuy nhiên, có một giải thích khác, cho rằng ban đầu "football" chỉ ám chỉ đến một loạt trò chơi được chơi "bằng chân" ở châu Âu thời Trung cổ. Tuy nhiên, không có bằng chứng cuối cùng nào chứng minh đúng hoặc sai cho cả hai giải thích này. Lịch sử sớm. Các trò chơi cổ xưa. Trung Quốc cổ đại.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Trung Quốc cổ đại. Trò chơi cạnh tranh Trung Quốc "cuju" (蹴鞠) có nhiều điểm tương đồng với bóng đá hiện đại. Nó đã tồn tại trong thời kỳ nhà Hán và có thể là trong thời kỳ nhà Tần, vào thế kỷ thứ hai và thứ ba trước Công nguyên, được ghi nhận qua mô tả trong một hướng dẫn quân sự. Phiên bản của Nhật Bản cho "cuju" là "kemari" (蹴鞠), được phát triển trong thời kỳ Asuka. Đã biết rằng trò chơi này đã được chơi trong triều đại hoàng gia Nhật Bản tại Kyoto từ khoảng năm 600 sau Công nguyên. Trong "kemari", một nhóm người đứng trong một vòng tròn và đá một quả bóng cho nhau, cố gắng không để bóng chạm đất (tương tự như keepie uppie). Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại. Người Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại đã được biết đến đã chơi nhiều trò chơi bóng, trong đó một số trong số đó liên quan đến việc sử dụng chân. Trò chơi của La Mã "harpastum" được cho là đã được chuyển thể từ một trò chơi đội Hy Lạp được biết đến với tên "ἐπίσκυρος" ("Episkyros") hoặc "φαινίνδα" ("phaininda"), được nhắc đến bởi nhà viết kịch Hy Lạp, Antiphanes (388–311 TCN) và sau đó được đề cập bởi nhà triết gia Kitô giáo Clement of Alexandria (khoảng 150–khoảng 215 sau Công nguyên). Các trò chơi này có vẻ giống với bóng bầu dục. Chính trị gia La Mã Cicero (106–43 TCN) đã miêu tả trường hợp của một người đã bị giết trong lúc cạo râu khi một quả bóng được đá vào tiệm cắt tóc. Trò chơi bóng của La Mã đã biết đến quả bóng bơm hơi, "follis". FIFA mô tả "Episkyros" là một dạng sớm của bóng đá. Người bản địa ở Bắc Mỹ. Có một số tham chiếu đến các trò chơi bóng truyền thống, cổ xưa hoặc tiền sử, được chơi bởi người dân bản địa ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Ví dụ, vào năm 1586, những người đàn ông từ một con tàu do nhà thám hiểm Anh tên là John Davis chỉ huy đã lên bờ đất để chơi một phiên bản bóng đá với người Inuit ở Greenland. Có những báo cáo sau đó về một trò chơi của người Inuit được chơi trên băng, gọi là "Aqsaqtuk".
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Mỗi trận đấu bắt đầu với hai đội đứng đối diện nhau trong các dãy song song, trước khi cố gắng đá bóng qua hàng của đội khác và sau đó vào khung thành. Năm 1610, William Strachey, một cư dân tại Jamestown, Virginia đã ghi lại một trò chơi được chơi bởi người Mỹ bản địa, gọi là "Pahsaheman". "Pasuckuakohowog", một trò chơi tương tự như bóng đá hiện đại chơi bởi người Mỹ bản địa, cũng được ghi nhận càng sớm càng tốt, tồn tại từ thế kỷ 17. Một số trò chơi được chơi ở Mesoamerica với bóng cao su bởi người bản địa cũng được ghi chép rõ ràng trước thời điểm này, nhưng những trò chơi này có nhiều điểm tương đồng với bóng rổ hoặc bóng chuyền, và không tìm thấy liên kết nào giữa những trò chơi này và các trò chơi bóng đá hiện đại. Người Mỹ bản địa miền Đông, đặc biệt là Liên minh Iroquois, đã chơi một trò chơi sử dụng vợt lưới để ném và bắt một quả bóng nhỏ; tuy nhiên, mặc dù đó là một trò chơi bóng-gôn chân, lacrosse (như hậu duệ hiện đại của nó được gọi là) cũng không thường được xếp vào dạng "bóng đá". Châu Đại Dương. Trên lục địa Úc, một số bộ tộc của người bản địa đã chơi các trò chơi đá và bắt bóng với những quả bóng bị lấp đầy, các nhà sử học đã tổng quát hóa đó là "Marn Grook" (Djab Wurrung nghĩa là "quả bóng trò chơi"). Tài liệu lịch sử sớm nhất là một câu chuyện nhỏ từ cuốn sách năm 1878 của Robert Brough-Smyth, "The Aborigines of Victoria", trong đó trích dẫn một người đàn ông tên là Richard Thomas nói, vào khoảng năm 1841 ở Victoria, Úc, rằng anh đã chứng kiến người bản địa chơi trò chơi này: "Ông Thomas mô tả cách cầu thủ hàng đầu sẽ đá bóng từ da của một con động vật có túi và cách những người chơi khác nhảy lên không khí để bắt nó." Một số nhà sử học đã lý giải rằng "Marn Grook" là một trong những nguồn gốc của Australian rules football. Người Māori ở New Zealand chơi một trò chơi gọi là Ki-o-rahi bao gồm các đội có 7 người chơi trên một sân hình tròn được chia thành các khu vực, và ghi điểm bằng cách chạm vào 'pou' (các điểm giới hạn) và đánh trúng 'tupu' hoặc mục tiêu ở giữa.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Những trò chơi này và những trò chơi khác có thể đã tồn tại từ xa xưa. Tuy nhiên, các nguồn chính của các luật bóng đá hiện đại dường như nằm ở châu Âu phương Tây, đặc biệt là Anh. Người Turkic. Mahmud al-Kashgari trong tác phẩm "Dīwān Lughāt al-Turk" của ông, miêu tả một trò chơi gọi là "tepuk" được chơi bởi người người Turkic ở Trung Á và Đông Á. Trong trò chơi này, người chơi cố gắng tấn công lâu đài của nhau bằng cách đá một quả bóng làm từ da cừu. Châu Âu thời trung cổ và đầu kỷ nguyên hiện đại. Thời Trung cổ chứng kiến sự tăng đáng kể về sự phổ biến của các trận đấu bóng đá thường niên Shrovetide football trên toàn Châu Âu, đặc biệt ở Anh. Một tham chiếu sớm đến trò chơi bóng đá được chơi tại Britain xuất hiện trong tác phẩm "Historia Brittonum" từ thế kỷ thứ 9, được quy cho Nennius, nói về "một nhóm cậu bé ... chơi bóng". Tham chiếu đến trò chơi bóng được chơi ở miền bắc nước Pháp, được gọi là "La Soule" hoặc "Choule", trong đó quả bóng được đẩy bằng tay, chân và gậy, xuất hiện từ thế kỷ thứ 12. Những hình thức sơ khai của bóng đá được chơi ở Anh, thỉnh thoảng được gọi là "mob football", thường diễn ra ở các thị trấn hoặc giữa các làng lân cận, bao gồm một số lượng không giới hạn cầu thủ trên các đội đối địch va chạm "đồng loạt", đấu tranh để di chuyển một vật phẩm, chẳng hạn như bó cừu bơm hơi đến các điểm địa lý cụ thể, chẳng hạn như nhà thờ của đối thủ, với trận đấu diễn ra trong không gian mở giữa các xã lân cận. Trò chơi thường được diễn ra trong các lễ hội tôn giáo quan trọng, chẳng hạn như Shrovetide, Giáng sinh hoặc Lễ Phục sinh, và trò chơi Shrovetide đã tồn tại đến thời đại hiện đại ở một số thị trấn ở Anh (xem phần dưới). Mô tả chi tiết đầu tiên về những gì có thể chắc chắn là trò chơi bóng đá ở Anh được đưa ra bởi William FitzStephen vào khoảng năm 1174-1183. Ông miêu tả hoạt động của các thanh niên London trong lễ hội hàng năm của Shrove Tuesday: Hầu hết các tài liệu thời sớm nhất về trò chơi đều chỉ đơn giản là "trò chơi bóng" hoặc "chơi bóng".
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Điều này củng cố ý tưởng rằng các trò chơi chơi vào thời điểm đó không nhất thiết phải liên quan đến việc đá bóng. Một tham chiếu sớm đến một trò chơi bóng đá có lẽ xuất phát từ năm 1280 tại Ulgham, Northumberland, Anh: "Henry... trong lúc chơi bóng... va phải David". Bóng đá đã được chơi ở Ireland vào năm 1308, với một tham chiếu chính thức đến John McCrocan, một người xem trận "bóng đá" tại Newcastle, County Down, bị buộc tội vì vô tình đâm vào một cầu thủ tên là William Bernard. Tham chiếu khác đến trò chơi bóng đá xuất hiện vào năm 1321 tại Shouldham, Norfolk, Anh: "[d]uring the game at ball as he kicked the ball, a lay friend of his... ran against him and wounded himself". Năm 1314, Nicholas de Farndone, Thị trưởng của Thành phố London, ban hành một sắc lệnh cấm bóng đá theo phong cách Pháp mà các tầng lớp thượng lưu Anh sử dụng vào thời điểm đó. Một bản dịch cho thấy: "[v]ì có rất nhiều tiếng ồn trong thành phố do đẩy nhau qua các quả bóng lớn ["rageries de grosses pelotes de pee"] tại các cánh đồng công cộng, điều này có thể dẫn đến nhiều tác hại mà Chúa không thiêng liêng: chúng tôi truyền lệnh và cấm thay mặt vua, dọa phạt tù tội, từ nay về sau không được sử dụng trò chơi này trong thành phố." Đây là tham chiếu sớm nhất đến bóng đá. Năm 1363, Vua Edward III của Anh ban hành một thông báo cấm "...bóng ném tay, bóng đá, hoặc khúc côn cầu; chạy đua và đá gà, hoặc những trò chơi vô ích khác", cho thấy rằng "bóng đá" - dù chính xác hình thức như thế nào - đã được phân biệt với những trò chơi liên quan đến các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như bóng ném tay. Một trò chơi được biết đến với tên gọi "bóng đá" đã được chơi ở Scotland từ thế kỷ 15: nó đã bị cấm bởi Đạo luật Bóng đá 1424 và mặc dù luật pháp này không còn sử dụng nhưng nó không được hủy bỏ cho đến năm 1906. Có bằng chứng cho việc học sinh chơi trò chơi bóng đá ở Aberdeen vào năm 1633 (một số nguồn tham chiếu nêu ngày 1636) được coi là một lời ám chỉ sớm đến việc chuyền bóng.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Từ "pass" (truyền) trong bản dịch gần đây nhất có nguồn gốc từ "huc percute" (đánh vào đây) và sau đó là "repercute pilam" (đánh lại quả bóng) trong tiếng Latin gốc. Chưa chắc chắn rằng quả bóng được đá giữa các thành viên của cùng một đội. Từ gốc ban đầu dịch là "goal" (bàn thắng) là "metum", có nghĩa đen là "cột ở mỗi đầu đường đua đuốc" trong cuộc đua xe ngựa La Mã. Có một đề cập đến "nắm lấy quả bóng trước khi [người khác] làm" (Praeripe illi pilam si possis agere), cho thấy việc cầm bóng là được phép. Một câu trong bản dịch năm 1930 gốc nói "Hãy lao vào anh ấy" (Age, objice te illi). Vua Henry IV của Anh cũng đưa ra một trong những sử dụng lưu trữ sớm nhất của từ "bóng đá" trong tiếng Anh, vào năm 1409, khi ông ban hành một thông báo cấm thu tiền cho "foteball". Cũng có một báo cáo bằng tiếng Latin từ cuối thế kỷ 15 về việc chơi bóng đá ở Caunton, Nottinghamshire. Đây là lời mô tả đầu tiên về một "trò chơi đá bóng" và mô tả đầu tiên về "dribbling": "[t]rò chơi mà họ đã tụ tập để giải trí chung được gọi là trò chơi bóng đá. Đó là một trò chơi trong đó những người trẻ tuổi, trong trò chơi nông thôn, đẩy một quả bóng khổng lồ không phải bằng cách ném lên không trung mà bằng cách đánh và lăn nó dọc theo mặt đất, và không phải bằng tay mà bằng chân... đá theo các hướng đối diện." Nhà sử học cung cấp thông tin về sân bóng đá đầu tiên, xác định rằng: "[các đường] biên đã được đánh dấu và trò chơi đã bắt đầu." Calcio Fiorentino. Vào thế kỷ 16, thành phố Florence đã kỷ niệm khoảng thời gian từ Lễ Hiển Linh cho đến Mùa Chay bằng cách chơi một trò chơi ngày nay được biết đến với tên gọi "calcio storico" ("đá bóng lịch sử") tại Piazza Santa Croce. Các quý tộc trẻ của thành phố sẽ mặc trang phục lụa tinh xảo và tham gia vào một hình thức đá bóng bạo lực. Ví dụ, những người chơi "calcio" có thể đấm, va đập vai và đá đối thủ. Các cú đấm dưới vùng hông cũng được cho phép. Trò chơi được cho là bắt nguồn từ bài tập huấn luyện quân sự.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Năm 1580, Count Giovanni de' Bardi di Vernio đã viết "Discorso sopra 'l giuoco del Calcio Fiorentino". Đây đôi khi được coi là bộ luật sớm nhất cho bất kỳ trò chơi bóng đá nào. Trò chơi không được tổ chức sau tháng 1 năm 1739 (cho đến khi nó được khôi phục vào tháng 5 năm 1930). Sự không tán thành chính thức và các nỗ lực cấm đá bóng. Có nhiều nỗ lực cấm đá bóng, từ thời Trung Cổ cho đến hiện đại. Luật cấm đầu tiên được thông qua tại Anh vào năm 1314; sau đó, chỉ riêng tại Anh đã có hơn 30 luật cấm từ năm 1314 đến 1667. Phụ nữ bị cấm chơi bóng đá tại các sân vận động của Liên đoàn bóng đá Anh và Scotland vào năm 1921, và lệnh cấm này chỉ được bãi bỏ vào những năm 1970. Các nữ cầu thủ bóng đá vẫn đối mặt với những vấn đề tương tự ở một số vùng trên thế giới. Bóng đá Mỹ cũng đối diện với áp lực để cấm môn thể thao này. Trò chơi được chơi trong thế kỷ 19 giống như bóng đá dân gian phát triển ở Châu Âu cổ đại, bao gồm phiên bản phổ biến trên các khuôn viên trường đại học được gọi là "old division football", và một số thành phố đã cấm trò chơi này vào giữa thế kỷ 19. Đến thế kỷ 20, trò chơi đã tiến hóa thành một trò chơi kiểu bóng bầu dục hơn. Năm 1905, đã có những cuộc kêu gọi cấm đá bóng Mỹ ở Hoa Kỳ do tính bạo lực của nó; một cuộc họp năm đó được tổ chức bởi Tổng thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt đã dẫn đến những thay đổi quy định toàn diện khiến trò chơi khác biệt đáng kể so với nguồn gốc bóng bầu dục của nó, trở nên giống hơn với cách chơi bóng đá như ngày nay. Thành lập các luật bóng đá hiện đại. Trường công lập Anh. Trong khi bóng đá tiếp tục được chơi dưới nhiều hình thức khác nhau trên khắp nước Anh, các trường công lập Anh (tương đương với trường tư tại các quốc gia khác) được cho là đã đóng góp vào việc tạo ra các luật bóng đá hiện đại thông qua bốn thành tựu quan trọng. Đầu tiên, bằng chứng cho thấy họ đã có vai trò quan trọng trong việc biến bóng đá từ hình thức "bọn đám đông" trở thành một môn thể thao đội hình có tổ chức.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Thứ hai, nhiều mô tả sơ bộ về bóng đá và nhắc đến nó được ghi chép bởi những người đã học tại những trường này. Thứ ba, chính giáo viên, học sinh và cựu học sinh của các trường này đã đầu tiên hệ thống hóa các trò chơi bóng đá, để cho phép các trận đấu được tổ chức giữa các trường. Cuối cùng, chính tại các trường công lập Anh mà sự phân chia giữa trò chơi "đá" và trò chơi "chạy" (hoặc "mang") lần đầu trở nên rõ ràng. Bằng chứng sớm nhất về việc các trò chơi giống bóng đá được chơi tại các trường công lập Anh - chủ yếu được học sinh nam từ tầng lớp thượng lưu, trung lưu thượng và tầng lớp chuyên nghiệp tham gia - xuất phát từ tác phẩm "Vulgaria" của William Herman vào năm 1519. Herman từng là hiệu trưởng của các trường Eton và Winchester và sách giáo trình tiếng Latin của ông bao gồm một bài tập dịch với cụm từ "Chúng ta sẽ chơi với một quả bóng đầy gió". Richard Mulcaster, một học sinh của Trường Eton vào đầu thế kỷ 16 và sau này là hiệu trưởng của các trường Anh khác, đã được miêu tả là "người ủng hộ bóng đá thế kỷ 16 tuyệt vời nhất". Trong số những đóng góp của ông là bằng chứng sớm nhất về bóng đá đội hình có tổ chức. Những bài viết của Mulcaster đề cập đến các đội ("phía" và "đảng"), vị trí ("thứ hạng"), một trọng tài ("người xử sự giữa các phía") và một huấn luyện viên "(huấn luyện viên)". Vào năm 1633, David Wedderburn, một giáo viên từ Aberdeen, đã đề cập đến các yếu tố của trò chơi bóng đá hiện đại trong một sách giáo trình ngắn bằng tiếng Latin có tên "Vocabula". Wedderburn đề cập đến điều được dịch sang tiếng Anh hiện đại là "bảo vệ khung thành" và gợi ý về việc chuyền bóng ("đá nó ở đây"). Có một tham khảo đến việc "nắm lấy bóng", cho thấy có phần nào đó cho phép sử dụng tay. Rõ ràng rằng các pha đá bóng cho phép bao gồm việc tấn công và giữ đối thủ ("đẩy người đó lại"). Mô tả chi tiết hơn về bóng đá được đưa ra trong cuốn sách "Book of Games" của Francis Willughby, được viết vào khoảng năm 1660. Willughby, người đã học tại Trường Bishop Vesey's Grammar, Sutton Coldfield, là người đầu tiên miêu tả về khung thành và một sân chơi riêng biệt: "một khu vực kín có một cửa ở hai đầu. Các cửa được gọi là Khung thành."
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Các cửa được gọi là Khung thành." Cuốn sách của ông bao gồm một sơ đồ minh họa sân bóng đá. Ông cũng đề cập đến chiến thuật ("để lại một số cầu thủ giỏi nhất để bảo vệ khung thành"); ghi điểm ("người có thể đá bóng qua khung thành đối thủ trước sẽ thắng") và cách các đội được lựa chọn ("các cầu thủ được chia đều dựa trên sức mạnh và nhanh nhẹn của họ"). Ông là người đầu tiên miêu tả một "luật" của bóng đá: "họ không được đá [chân đối thủ] cao hơn quả bóng". Các trường công lập Anh là những người đầu tiên đã lập luật cho các trò chơi bóng đá. Đặc biệt, họ đã phát triển các quy tắc đầu tiên về "việt vị", vào cuối thế kỷ 18. Trong những biểu hiện sớm nhất của các quy tắc này, cầu thủ được coi là "việt vị" nếu họ đứng đứng giữa bóng và khung thành là mục tiêu của họ. Cầu thủ không được phép chuyền bóng về phía trước, bằng chân hoặc bằng tay. Họ chỉ được tiến bóng bằng chân, hoặc tiến bóng trong một "scrum" hoặc tình huống tương tự. Tuy nhiên, các luật việt vị bắt đầu chia rẽ và phát triển khác nhau ở mỗi trường, như được thể hiện bởi luật bóng đá của các trường Winchester, Rugby, Harrow và Cheltenham, trong khoảng thời gian từ năm 1810 đến 1850. Các bộ luật đầu tiên được biết đến - trong nghĩa của một tập hợp các quy tắc - là những bộ luật của Eton năm 1815 và Aldenham năm 1825. Trong thế kỷ 19 đầu, hầu hết người lao động tầng lớp công nhân tại Anh phải làm việc sáu ngày một tuần, thường là hơn mười hai giờ mỗi ngày. Họ không có thời gian cũng như động lực tham gia vào thể thao để giải trí và, vào thời điểm đó, nhiều đứa trẻ tham gia lực lượng lao động. Trò chơi bóng đá trên đường phố trong các ngày lễ đang giảm dần. Các cậu bé học trường công lập, những người được thảnh thơi khỏi công việc, trở thành những người phát minh ra các trò chơi bóng đá có quy tắc chính thức. Bóng đá được các trường công lập áp dụng như một cách khuyến khích tính cạnh tranh và duy trì tình thể chất cho tuổi trẻ. Mỗi trường tự soạn các quy tắc riêng của mình, các quy tắc này khác nhau rộng rãi giữa các trường khác nhau và đã thay đổi theo thời gian với mỗi đợt học sinh mới.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Hai trường phái về quy tắc đã phát triển. Một số trường ưa thích một trò chơi mà bóng có thể được tiếp bóng (như ở Rugby, Marlborough và Cheltenham), trong khi những người khác thích một trò chơi thúc đẩy việc đá và kiểm soát bóng (như ở Eton, Harrow, Westminster và Charterhouse). Sự phân chia thành hai trại này một phần là kết quả của các tình huống mà các trò chơi được chơi trong đó. Ví dụ, Charterhouse và Westminster tại thời điểm đó có không gian chơi hạn chế; các cậu bé bị giới hạn trong việc chơi trò chơi bóng của họ trong cloisters của trường, làm cho họ khó có thể thực hiện các trò chơi chạy lướt vụng và va chạm. William Webb Ellis, một học sinh tại Trường Rugby, được cho là đã "với một sự coi thường đẹp đẽ đối với luật chơi bóng đá, "như được chơi vào thời điểm của mình" [đặt mức độ quan trọng], lần đầu tiên ông đã đưa bóng vào tay và chạy với nó, từ đó tạo ra đặc điểm độc đáo của trò chơi bóng bầu dục." vào năm 1823. Hành động này thường được cho là sự bắt đầu của Bóng bầu dục, nhưng có ít chứng cứ cho rằng nó đã xảy ra, và hầu hết các nhà sử học thể thao tin rằng câu chuyện này là huyền thoại. Hành động 'đưa bóng vào tay' thường bị hiểu sai là 'nhặt bóng lên' vì nó rộng rãi được cho là 'tội' của Webb Ellis là sự xử lý bóng, như trong bóng đá hiện đại, tuy nhiên việc xử lý bóng vào thời điểm đó thường được phép và trong một số trường hợp là bắt buộc, Quy tắc mà Webb Ellis đã bất chấp là "chạy với bóng về phía trước" vì quy tắc của thời đại ông chỉ cho phép một cầu thủ rút lại hoặc đá bóng về phía trước. Sự bùng nổ về giao thông đường sắt ở Anh trong những năm 1840 có nghĩa là mọi người có thể đi du lịch xa hơn và không bất tiện như bao giờ trước đây. Các cuộc thi thể thao giữa các trường trở nên khả thi. Tuy nhiên, việc các trường chơi bóng đá với nhau khó khăn, vì mỗi trường chơi theo quy tắc riêng của mình. Giải pháp cho vấn đề này thường là trận đấu được chia thành hai hiệp, một hiệp theo quy tắc của trường chủ nhà "home", và một hiệp khác theo quy tắc của trường khách "away". "Quy tắc hiện đại" của nhiều môn thể thao bóng đã được định hình vào giữa hoặc cuối thế kỷ 19.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Điều này cũng áp dụng cho các môn thể thao khác như bơi cỏ, quần vợt cỏ, v.v. Động lực lớn cho việc này là việc cấp bằng sáng chế cho máy cắt cỏ đầu tiên trên thế giới vào năm 1830. Điều này cho phép chuẩn bị sân bóng hiện đại, sân chơi, sân bóng, sân cỏ, v.v. Ngoại trừ bóng bầu dục Rugby, các quy tắc của các trường công lập hầu như không được chơi ngoài sân chơi của từng trường. Tuy nhiên, nhiều trong số chúng vẫn được chơi tại các trường đã tạo ra chúng (xem Surviving UK school games phía dưới). Sự ảnh hưởng của các trường công lập trong các môn thể thao tại Vương quốc Anh đã bắt đầu suy yếu sau "Luật Nhà máy năm 1850", đã tăng thời gian giải trí cho các em nhỏ tầng lớp lao động. Trước năm 1850, nhiều em nhỏ Anh phải làm việc sáu ngày một tuần, hơn mười hai giờ một ngày. Từ năm 1850, họ không thể làm việc trước 6 giờ sáng (7 giờ sáng vào mùa đông) hoặc sau 6 giờ tối vào các ngày trong tuần (7 giờ tối vào mùa đông); vào thứ Bảy, họ phải dừng làm việc lúc 2 giờ chiều. Những thay đổi này có nghĩa là các em nhỏ tầng lớp lao động có thêm thời gian chơi các trò chơi, bao gồm các hình thức khác nhau của bóng đá. Câu lạc bộ. Câu lạc bộ thể thao chuyên chơi bóng đá bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ 18, ví dụ như Hội thể dục thể thao London, được thành lập vào giữa thế kỷ 18 và ngừng chơi các trận đấu vào năm 1796. Câu lạc bộ đầu tiên được ghi chép với tiêu đề liên quan đến "câu lạc bộ bóng đá" có tên là "The Foot-Ball Club" có trụ sở tại Edinburgh, Scotland, trong thời gian 1824-1841. Câu lạc bộ này cấm đánh ngã nhưng cho phép đẩy và giữ và cầm bóng. Vào năm 1845, ba cậu bé tại trường Rugby đã được giao nhiệm vụ xây dựng quy tắc đang được sử dụng tại trường. Đây là bộ quy tắc đầu tiên (hoặc mã lệnh) viết ra cho bất kỳ hình thức bóng đá nào. Điều này đã giúp lan rộng trò chơi bóng bầu dục. Những trận đấu đầu tiên được biết đến liên quan đến các câu lạc bộ hoặc tổ chức không phải trường công lập như sau: Cuộc thi.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Một trong những trận đấu bóng đá lâu đời nhất là Cordner-Eggleston Cup, diễn ra giữa Melbourne Grammar School và Scotch College, Melbourne hàng năm kể từ năm 1858. Nhiều người tin rằng đây cũng là trận đấu đầu tiên của bóng đá quyền Anh Úc, tuy nhiên nó đã được chơi dưới luật chơi thử nghiệm trong năm đầu tiên. Giải đấu bóng đá đầu tiên là Caledonian Challenge Cup, được tặng bởi Hội Caledonian Hoàng gia của Melbourne, được tổ chức vào năm 1861 theo các quy tắc Melbourne Rules. Giải bóng đá cổ nhất là một cuộc thi bóng đá rugby, là United Hospitals Challenge Cup (1874), trong khi chiếc cúp rugby cổ nhất là Yorkshire Cup, được tranh tài từ năm 1878. Hiệp hội Bóng đá Nam Úc (30 tháng 4 năm 1877) là cuộc thi bóng đá quyền Anh Úc lâu đời nhất còn tồn tại. Cúp bóng đá quốc gia cổ nhất còn tồn tại là Youdan Cup (1867) và cuộc thi bóng đá quốc gia cổ nhất là Cúp FA Anh (1871). Hiệp hội Bóng đá (1888) được công nhận là giải đấu bóng đá đoàn thể lâu đời nhất. Trận đấu bóng đá quốc tế đầu tiên giữa các đội tuyển đại diện cho Anh và Scotland đã diễn ra vào ngày 5 tháng 3 năm 1870 tại sân The Oval dưới sự kiểm soát của FA. Trận đấu bóng bầu dục quốc tế đầu tiên diễn ra vào năm 1871. Các loại bóng hiện đại. Ở châu Âu, những quả bóng đá ban đầu được làm từ túi tiểu bàng quang động vật, cụ thể là bàng quang của con lợn, và được bơm hơi để phồng lên. Sau đó, bọc da được giới thiệu để cho phép các quả bóng giữ được hình dạng của chúng. Tuy nhiên, vào năm 1851, Richard Lindon và William Gilbert, cả hai đều là thợ làm giày từ thị trấn Rugby (gần trường học), đã trưng bày cả quả bóng tròn và hình bầu dục tại Triển lãm Vĩ đại ở Luân Đôn. Người ta nói rằng vợ của Richard Lindon đã chết vì bệnh phổi do thổi bàng quang tiểu tiện của lợn. Lindon cũng đã đoạt huy chương cho việc phát minh "Túi bóng cao su có thể thổi hơi" và "Bơm tay đồng thau". Vào năm 1855, nhà phát minh người Mỹ Charles Goodyear - người đã đăng ký bằng sáng chế cao su vulcan hóa - đã trưng bày một quả bóng đá hình cầu, với bề mặt là các tấm cao su vulcan hóa, tại Triển lãm Universelle tại Paris.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Quả bóng này đã trở nên phổ biến trong các hình thức đầu tiên của bóng đá tại Hoa Kỳ. Quả bóng biểu tượng với mẫu hình đều nhau của các hình lục giác và ngũ giác (xem hình đa diện cắt góc), không trở nên phổ biến cho đến những năm 1960 và lần đầu tiên được sử dụng tại World Cup 1970. Chiến thuật chuyền bóng hiện đại. Lần đề cập sớm nhất đến trò chơi bóng đá liên quan đến việc các cầu thủ chuyền bóng và cố gắng ghi bàn qua thủ môn được viết vào năm 1633 bởi David Wedderburn, một nhà thơ và giáo viên ở Aberdeen, Scotland. Tuy nhiên, văn bản gốc không nêu rõ liệu việc chuyền bóng như 'đá bóng lại' ('repercute pilam') đã được thực hiện theo hướng tiến hoặc lùi hoặc giữa các thành viên của cùng hai đội đối địch (như thường thấy vào thời điểm này). Bóng đá "khoa học" lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1839 tại Lancashire và trong trò chơi hiện đại của bóng bầu dục từ năm 1862 và từ Sheffield FC ngay từ năm 1865. Đội bóng đầu tiên chơi một trò chơi kết hợp chuyền bóng là Royal Engineers AFC vào mùa giải 1869/70. Vào năm 1869, họ đã "chơi tốt cùng nhau", "ủng hộ lẫn nhau" và hưởng lợi từ "sự hợp tác". Đến năm 1870, các Kỹ sư đã chuyền bóng: "Thiếu tá Creswell, người đã đưa bóng lên bên cạnh sau đó đá nó vào giữa để một thành viên khác của đội anh, người đá nó qua cột đồng hồ vào phút cuối cùng trước khi kết thúc trận đấu". Chuyền bóng đã trở thành đặc điểm thường xuyên của phong cách của họ. Vào đầu năm 1872, các Kỹ sư là đội bóng đầu tiên nổi tiếng với "cách chơi tuyệt vời cùng nhau". Một đường chuyền kép được báo cáo đầu tiên từ trường Derby trong trận đấu với Nottingham Forest vào tháng 3 năm 1872, trong đó đường chuyền đầu tiên không thể bác bỏ là một đường chuyền "ngắn": "Ông Absey đi bóng một nửa chiều dài của sân, chuyền bóng cho Wallis, người đã đá nó một cách khéo léo phía trước khung thành, gửi nó cho đội trưởng, người đá nó ngay lập tức vào giữa hai cột đồng hồ của Nottingham". Đội bóng đầu tiên hoàn thiện hình thức hiện đại là Cambridge University AFC; họ cũng giới thiệu hình thức 2–3–5 "hình kim cương". Bóng bầu dục Rugby.
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Bóng bầu dục Rugby. Bóng bầu dục Rugby được cho là bắt đầu vào khoảng năm 1845 tại Trường Rugby ở Rugby, Warwickshire, Anh Quốc, mặc dù các hình thức bóng đá mà trong đó bóng được ném và mang đã xuất hiện từ thời Trung Cổ. Ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland, đến năm 1870, đã có 49 câu lạc bộ chơi các biến thể của trò chơi của Trường Rugby. Cũng đã có các câu lạc bộ "bóng bầu dục" ở Ireland, Úc, Canada và New Zealand. Tuy nhiên, cho đến năm 1871, chưa có tập hợp quy tắc được chấp nhận rộng rãi cho bóng bầu dục cho đến khi 21 câu lạc bộ từ London hợp nhất để thành lập Hội đồng Bóng bầu dục Rugby (RFU). Quy tắc chính thức đầu tiên của RFU được thông qua vào tháng 6 năm 1871. Những quy tắc này cho phép ném bóng. Họ cũng bao gồm "try", trong đó việc chạm bóng qua vạch cho phép một nỗ lực vào khung thành, tuy nhiên các cú sút xa từ đánh đầu và chơi tổng quát, cùng với chuyển đổi phạt vẫn là hình thức chính của cuộc thi. Bất kể bất kỳ hình thức bóng đá nào, trận đấu quốc tế đầu tiên giữa đội tuyển quốc gia của Anh và Scotland đã diễn ra tại Raeburn Place vào ngày 27 tháng 3 năm 1871. Bóng bầu dục Rugby chia thành Rugby union, Rugby league, Bóng bầu dục Mỹ, và Bóng bầu dục Canada. Tom Wills đã chơi bóng bầu dục Rugby ở Anh trước khi sáng lập Bóng bầu dục Úc. Quy tắc Cambridge. Trong thế kỷ XIX, một số bộ quy tắc bóng đá đã được tạo ra tại Đại học Cambridge, để cho phép các sinh viên từ các trường công lập khác nhau có thể thi đấu với nhau. Quy tắc Cambridge năm 1863 đã ảnh hưởng đến quyết định của Liên đoàn Bóng đá cấm việc mang bóng theo kiểu Rugby trong tập luật đầu tiên của nó. Quy tắc Sheffield. Đến cuối những năm 1850, nhiều câu lạc bộ bóng đá đã được hình thành khắp thế giới nói tiếng Anh, để chơi các kiểu bóng đá khác nhau. Câu lạc bộ bóng đá Sheffield, được thành lập năm 1857 tại thành phố Sheffield của Anh bởi Nathaniel Creswick và William Prest, sau này được công nhận là câu lạc bộ cổ nhất trên thế giới chơi bóng đá liên đoàn. Tuy nhiên, ban đầu câu lạc bộ đã chơi theo quy tắc bóng đá riêng của mình: "quy tắc Sheffield".
Bóng đá (nhóm thể thao)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19819942
Quy tắc này hoàn toàn độc lập với quy tắc của trường công lập, với sự khác biệt quan trọng nhất là việc thiếu quy tắc "việt vị". Quy tắc này đã đưa ra nhiều đổi mới sau này đã lan truyền đến bóng đá liên đoàn. Điều này bao gồm các quả đá phạt, phạt góc, bóng tay, ném biên và thanh ngang gôn. Đến những năm 1870, quy tắc này trở thành quy tắc ưu tiên ở miền Bắc và Trung tây nước Anh. Vào thời điểm này, một loạt thay đổi quy tắc từ cả London và Sheffield FAs dần mòn sự khác biệt giữa hai trò chơi cho đến khi thống nhất quy tắc chung vào năm 1877. Bóng đá kiểu Úc. Có bằng chứng lưu trữ về các trò chơi "bóng" được chơi ở nhiều vùng khác nhau của Úc trong suốt nửa đầu của thế kỷ 19. Nguyên gốc của một trò chơi bóng đá có tổ chức ngày nay được gọi là bóng đá kiểu Úc có thể được truy tìm về năm 1858 tại Melbourne, thủ đô của Victoria. Vào tháng 7 năm 1858, Tom Wills, một người Úc gốc và từng được học ở Trường Rugby ở Anh, viết một lá thư tới "Bell's Life in Victoria & Sporting Chronicle", kêu gọi thành lập một "câu lạc bộ bóng đá" với "một bộ quy luật" để duy trì tình thần luyện tập của người chơi bóng cricket trong mùa đông. Điều này được xem là một khoảnh khắc quan trọng trong quá trình tạo ra bóng đá kiểu Úc. Thông qua việc quảng bá và liên hệ cá nhân, Wills đã thể hiện khả năng tổ chức các trận đấu bóng đá tại Melbourne với các quy luật thử nghiệm khác nhau, trong đó trận đấu đầu tiên được chơi vào ngày 31 tháng 7 năm 1858. Một tuần sau đó, Wills làm trọng tài cho một trận đấu bóng đá giữa Trường Melbourne Grammar và Trường Scotch College. Sau những trận đấu này, bóng đá đã nhanh chóng trở nên phổ biến tại Melbourne. Wills và những người tham gia vào những trận đấu đầu tiên đã thành lập Câu lạc bộ bóng đá Melbourne (câu lạc bộ bóng đá kiểu Úc còn sống cổ nhất) vào ngày 14 tháng 5 năm 1859. Các thành viên của câu lạc bộ, bao gồm Wills, William Hammersley, J. B. Thompson và Thomas H. Smith đã họp với ý định tạo ra một bộ quy luật sẽ được áp dụng rộng rãi bởi các câu lạc bộ khác.