title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Thấu kính mỏng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821482
Trong quang học, thấu kính mỏng là thấu kính có độ dày (khoảng cách dọc theo trục quang học giữa hai bề mặt của thấu kính) không đáng kể so với bán kính cong của các bề mặt thấu kính. Thấu kính có độ dày không đáng kể đôi khi được gọi là "thấu kính dày". Phép tính xấp xỉ thấu kính mỏng bỏ qua các hiệu ứng quang học do độ dày của thấu kính và đơn giản hóa các phép tính dò tia . Nó thường được kết hợp với phép tính ước lượng trục trong các kỹ thuật như phân tích ma trận truyền tia . Tiêu cự. Tiêu cự "f" của một thấu kính trong không khí được cho bởi phương trình thấu kính: trong đó "n" là chiết suất của vật liệu thấu kính và "R" 1 và "R" 2 là bán kính cong của hai bề mặt. Đối với một thấu kính mỏng, "d" nhỏ hơn nhiều so với một trong các bán kính cong ( "R" 1 hoặc "R" 2 ). Trong những điều kiện này, số hạng cuối cùng của phương trình thấu kính trở nên không đáng kể và tiêu cự của một thấu kính mỏng trong không khí có thể xấp xỉ bằng Ở đây, "R"1 là dương nếu như bề mặt đầu tiên là bề mặt lồi và âm nếu như bề mặt là lõm. Các dấu được đảo ngược cho bề mặt phía sau của kính: "R"2 là dương nếu bề mặt là lõm và âm nếu bề mặt là lồi. Đây là một quy ước dấu tùy ý; một số tác giả chọn quy ước dấu khác nhau cho bán kính, điều này làm thay đổi phương trình tiêu cự. Đạo hàm sử dụng định luật Snell. Xem xét một thấu kính mỏng có bán kính bề mặt thứ nhất là formula_3 và một mặt phẳng phía sau, làm bằng vật liệu có chiết suất formula_4 . Áp dụng định luật Snell, ánh sáng đi vào bề mặt thứ nhất bị khúc xạ theo formula_5, theo đó, formula_6 là góc tới trên giao diện và formula_7 là góc khúc xạ. Đối với bề mặt thứ hai, formula_8, theo đó formula_9 là góc tới và formula_10 là góc khúc xạ. Đối với góc nhỏ, formula_11 .
Thấu kính mỏng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821482
Đối với góc nhỏ, formula_11 . Hình học của bài toán sau đó cho ta thấy: formula_12 Nếu tia tới song song với trục chính và khoảng cách từ trục chính tới tia tới là formula_13, ta có formula_14 Thay thế vào biểu thức trên, ta nhận được formula_15 Tia này đi qua trục quang học ở khoảng cách formula_16, được cho bởi formula_17 Kết hợp hai biểu thức ta được formula_18. Thêm vào đó, có thể chỉ ra rằng nếu như hai thấu kính có bán kính như vậy, formula_19 Và formula_20 được đặt gần nhau, độ dài tiêu cự có thể được cộng lại để tạo ra công thức thấu kính mỏng: formula_21 Tạo ảnh. Một số tia tuân thủ theo các quy tắc đơn giản khi đi qua một thấu kính mỏng, trong phương pháp xấp xỉ tia cận trục: Nếu có ba tia như vậy được vạch ra từ cùng một điểm trên một vật thể nằm phía trước thấu kính (chẳng hạn như đỉnh), giao điểm của chúng sẽ đánh dấu vị trí của điểm tương ứng trên ảnh của vật. Bằng cách lần theo đường đi của các tia này, mối quan hệ giữa khoảng cách đối tượng "s" và khoảng cách hình ảnh "s′" có thể được chỉ ra là: hay còn được gọi là phương trình thấu kính mỏng. Quang vật lý. Trong quang học sóng vô hướng, một thấu kính là một bộ phận gây dịch chuyển pha của mặt sóng. Về mặt toán học, có thể hiểu điều này như việc nhân mặt sóng với hàm sau:
Namiki
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821493
Namiki là một thương hiệu chuyên sản xuất bút viết của Nhật Bản, đặc biệt là bút máy, thuộc sở hữu của công ty Pilot Corporation. Namiki chủ yếu nổi tiếng với các thiết kế thủ công "maki-e" (nghề thủ công sơn mài Nhật Bản với nhiều loại hình nghệ thuật và trang trí) trên bề mặt lớp sơn mài làm từ urushi. "Namiki" là họ của Ryosuke Namiki, người sáng lập Pilot Corporation, được đặt tên là "Công ty Sản xuất Namiki" cho đến năm 1938 khi nó trở thành "Công ty TNHH Pilot Pen". Thương hiệu Namiki trở nên nổi tiếng vào đầu thế kỷ 20 khi Dunhill bán tại thị trường phương Tây bút Maki-e do Pilot sản xuất dưới thương hiệu "Dunhill-Namiki". Sự hợp tác này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay (thỉnh thoảng Namiki tạo ra một Phiên bản Giới hạn cho Dunhill) mặc dù Namiki luôn thuộc sở hữu của Pilot. Lịch sử. Hầu hết các bút máy đều được làm bằng ebonit, vật liệu kết hợp giữa lưu huỳnh và cao su. Tuy nhiên, ebonit đổi màu và mất đi độ sáng bóng theo thời gian. Nhận thức được điều này, Namiki Co. Ltd. ("Pilot Corporation") bắt đầu thử các phương pháp và vật liệu khác nhau để khắc phục vấn đề. Sau một số nỗ lực, họ phát hiện ra rằng lớp phủ sơn mài có thể chịu được sự xuống cấp và làm cho bút bền hơn. Họ cũng thử sơn các thiết kế trên thân bút máy, sử dụng kỹ thuật "maki-e", Quá trình này sau đó đã được cấp bằng sáng chế cho Pilot. Năm 1925, thương hiệu Namiki được tung ra thị trường, với các nghệ sĩ sơn mài Shisui Rokkaku và Gonroku Matsuda được mời làm bút máy. Ryosuke Namiki và Masao Wada (người sáng lập Pilot Co. năm 1918) đã đi quảng bá bút "maki-e" của họ tại các nước phương Tây. Năm 1926, văn phòng thí điểm được mở tại London, Anh, và 4 năm sau, hợp đồng được ký kết với Alfred Dunhill Ltd. để thương mại hóa bút Namiki tại các thành phố lớn của Châu Âu và Hoa Kỳ dưới thương hiệu "Dunhill-Namiki Sản xuất tại Nhật Bản". Thương hiệu này sau đó mở rộng sang New York, Thượng Hải và Singapore. Các mẫu mã. Bút máy Namiki và bút máy Pilot không dùng một lần sử dụng chung hộp tiếp mực converter độc quyền của Pilot/Namiki, với các loại mực nhiều màu. Converter mực của cả loại pít-tông và loại bóp cũng có sẵn cho phép tiếp mực bút máy Namiki và Pilot từ lọ mực.
Namiki
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821493
Lọ mực Namiki thiết kế cong có một ống mực bên trong, giữ cho ngòi ổn định trong quá trình châm mực và cũng cho phép lấy gần hết những giọt mực cuối cùng từ lọ vào bút. Kể từ tháng 11 năm 2019, các bộ sưu tập được Namiki thương mại hóa bao gồm "Emperor" (Hoàng đế), bộ sưu tập nổi tiếng nhất của thương hiệu Namiki. Tất cả các mô hình đều có lớp nền Urushi với nghệ thuật Maki-e được vẽ trên lớp nền. Có bảy mẫu trong bộ sưu tập này, Cá vàng (金魚), Rồng (龍), Cú (梟), Kỳ lân (麒麟), Cá chép thác nước (鯉の滝登り) và Châu báu (宝). Các bộ sưu tập khác là Yukari, Yukari Royale, Chinkin, Nippon Art, Urushi và Limited Edition.
Roméo Lavia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821496
Roméo Lavia (sinh ngày 6 tháng 1 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Premier League Chelsea và đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ.
Robert Sánchez
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821497
Robert Lynch Sánchez (sinh ngày 18 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Chelsea tại Premier League và đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha .
Bờ cong nhỏ dạ dày
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821498
Dạ dày gồm tâm vị, đáy vị, thân vị, hang vị, môn vị với hình dạng chữ J. Trong đó phần thân vị là phần ở giữa phình ra to nhất của dạ dày. Do cấu trúc dạ dày hình chữ J mà phần thân vị sẽ có 2 bờ cong gồm: Bờ cong nhỏ cũng là một phần nối giữa tâm vị và môn vị, nó đi xuống dưới như một phần tiếp theo của bờ phải dạ dày thực quản, sau đó quay sang phải, đi qua đốt sống thắt lưng đầu tiên và kết thúc ở môn vị. Bờ cong nhỏ còn gắn vào 2 lớp của dây chằng gan dạ dày, giữa 2 lớp này là hệ thống mạch máu giúp cấp máu nuôi dưỡng dạ dày. Nguyên nhân bờ cong nhỏ hay bị viêm loét. Thức ăn từ thực quản khi đi xuống dạ dày có xu hướng tiếp xúc với bờ cong nhỏ nhiều hơn so với bờ cong lớn. Khi tiếp xúc với thức ăn, dạ dày kích hoạt khả năng co bóp và tiết acid để tiêu hóa, bờ cong nhỏ là vị trí sẽ hoạt động liên tục nhiều nhất lại có áp lực từ thức ăn nhiều tạo điều kiện hình thành các vết loét, viêm nhiễm. Cũng chính vì lý do này mà bở cong nhỏ dạ dày khi bị tổn thương thường lâu lành và dễ tiến triển nặng. Bên cạnh cơ chế hoạt động thì các nguyên nhân khác tác động gây tổn thương cho bờ cong nhỏ dạ dày gồm: Triệu chứng bệnh. Bờ cong nhỏ dạ dày bị viêm loét có thể có các triệu chứng như đau bụng vùng thượng vị, buồn nôn và nôn, đầy hơi, chán ăn và ợ nóng. Trường hợp nặng hơn có thể nôn ra máu, đi tiêu phân đen. Ngoài ra nếu không được điều trị, viêm loét bờ cong nhỏ dạ dày có thể gây thủng dạ dày, xuất huyết dạ dày, hẹp môn vị hoặc ung thư dạ dày. Chẩn đoán. Để chẩn đoán kết hợp chẩn đoán lâm sàng dựa vào triệu chứng kết hợp cùng các phương pháp cận lâm sàng như: Điều trị. Sử dụng thuốc để điều trị triệu chứng, nguyên nhân đồng thời kết hợp với lối sống sinh hoạt Các loại thuốc có thể được chỉ định như: thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn H.pylori, thuốc ức chế bơm Proton, thuốc kháng thụ thể histamin H2, thuốc trung hòa acid, thuốc bảo vệ niêm mạc dạ ày.
Bờ cong nhỏ dạ dày
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821498
Thay đổi lối sống: ăn đúng giờ, ngủ đủ giấc; chia nhỏ bữa ăn; tránh ăn quá no hoặc quá đói; hạn chế thực phẩm gây kích ứng như đồ cay, rượu bia...
Ramy Bensebaini
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821502
Amir Selmane Ramy Bensebaïni (; sinh ngày 16 tháng 4 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Algérie thi đấu ở vị trí hậu vệ trái hoặc trung vệ cho câu lạc bộ Borussia Dortmund tại Bundesliga và đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie .
Julian Ryerson
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821503
Julian Ryerson (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Na Uy , chơi ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ Bundesliga Borussia Dortmund và Đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy .
Guglielmo Vicario
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821504
Guglielmo Vicario (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại Premier League.
Tijjani Reijnders
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821505
Tijjani Reijnders (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ AC Milan tại Serie A.
Fodé Ballo-Touré
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821506
Fodé Ballo-Touré (sinh ngày 3 tháng 1 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal gốc Pháp chơi ở vị trí hậu vệ trái cho câu lạc bộ Serie A AC Milan. Anh thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Senegal..
Otávio Edmilson da Silva Monteiro
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821507
Otávio Edmilson da Silva Monteiro (sinh ngày 9 tháng 2 năm 1995), thường được gọi là Otávio hoặc Otaviho , là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ chạy cánh cho câu lạc bộ Al Nassr tại giải Saudi Pro League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha . Anh ấy đã đến Internacional , trước khi ký hợp đồng với câu lạc bộ Bồ Đào Nha Primeira Liga với Porto vào năm 2014 với tư cách là cầu thủ tự do. Anh ấy ngay lập tức được gửi đến Vitória de Guimarães theo hợp đồng cho mượn hai năm , trước khi trở lại vào năm 2016. Sau khi trở lại, anh ấy trở thành người bắt đầu và giành được ba danh hiệu Primeira Liga , hai Taça de Portugal và hai Supertaças Cândido de Oliveira , khi là một phần của đội đã giành được hai cú đúp quốc nội vào năm 2020 và 2022, có hơn 200 lần ra sân chính thức cho họ. Sinh ra và lớn lên ở Brazil, Otávio đã đại diện cho quê hương của mình thi đấu quốc tế ở cấp độ vào năm 2014, nhưng đã chuyển sang thi đấu ở cấp độ quốc tế chuyên nghiệp cho , và ra mắt quốc tế vào năm 2021.
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 - Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821513
Thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ là một nội dung thi đấu tranh huy chương, được tranh tài từ ngày 25 tháng 09 năm 2023 đến ngày 02 tháng 10 năm 2023. Đây là lần thứ 2 Liên Minh Huyền Thoại là một nội dung thi đấu tranh huy chương trong một Sự kiện thể thao đa môn, lần đầu tiên là tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021 được tổ chức ở Hà Nội, Việt Nam. Tại kì Đại hội Thể thao châu Á 2018 diễn ra tại Indonesia, Thể thao điện tử và Liên Minh Huyền Thoại là nội dung biểu diễn. Vòng bảng. 13 đội tuyển sẽ được chia thành 4 bảng. Bảng A có 4 đội, trong khi bảng B, C và D mỗi bảng có 3 đội. 2 đội có thành tích tốt nhất của 4 bảng sẽ giành quyền vào vòng loại trực tiếp.
Hügelsheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821520
Hügelsheim ( Low Alemannic : "Heilze" hoặc "Helse" ) là một thị xã nằm phía tây nước Đức, bên bờ sông Rhine giáp với Alsace, Pháp.
Concerto cho Piano và tứ tấu đàn dây (Busoni)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821521
Concerto cho Piano và tứ tấu đàn dây cung Rê thứ, Op . 17, BV 80 là một sáng tác của Ferruccio Busoni viết năm 1878 khi ông mới 12 tuổi. Tên ban đầu là "Concerto per piano-forte con accompagnamento di quartetto ad arco", Op. 17. Được sáng tác cho tứ tấu đàn dây, nhưng đàn piano cũng có thể được đệm với một dàn nhạc dây. Tác phẩm đã được xuất bản dưới tiêu đề Concerto cho Piano và Dàn nhạc dây vào năm 1987. Bối cảnh sáng tác. Busoni được xem là một thần đồng. Những kiến thức âm nhạc mà lần đầu ông được tiếp xúc đều được dạy hầu hết bởi cha mình, một nghệ sĩ dương cầm và còn là một nhà soạn nhạc. Sau khi học ở Viên trong 2 năm tại Nhạc viện Vienna, Busoni chuyển đến Graz năm 10 tuổi vì lý do sức khỏe vào tháng 10 năm 1877. Nhà soạn nhạc Wilhelm Kienzl nhớ lại rằng Busoni đã có khả năng ứng tác ở một trình độ trưởng thành: "Ngồi bên cây đàn piano, cậu bé được truyền cảm hứng đến mức nghiêm túc nhất và hoàn toàn say mê với nhiệm vụ của mình". Kienzl đề xuất Busoni học với Wilhelm Mayer. Một số tác phẩm đầu tiên của Busoni đã được xuất bản vào lúc đó, bao gồm hai bản phổ nhạc của Ave Maria và các tác phẩm piano. Bản tổng phổ và các phân phổ hiện được lưu trữ bởi Staatsbibliothek Preussischer Kulturbesitz ở Berlin như một phần thuộc "Nachlass" (tài sản) của Busoni. Cấu trúc. Cấu trúc của tác phẩm bao gồm chương. Vì vậy, tác phẩm có sự tương đồng nhiều hơn với một bản tứ tấu đàn dây cổ điển hơn là một bản concerto dành cho piano thường chỉ có ba chương: Thời lượng tác phẩm bao gồm khoảng 20 phút. Tác phẩm đã ít cho thấy báo trước về đặc điểm sáng tác sau này khi trưởng thành của Busoni, nhưng lúc này ông vẫn đang theo đuổi những hình mẫu của Mozart. Người đánh giá bản thu âm đầu tiên nhấn mạnh rằng phần đầu tiên của piano thể hiện "sắc thái được cá nhân hóa" và "chương Adagio có một sự nghiêm túc bất ngờ nhưng cũng có một sự gần gũi và tế nhị trong sáng. Chương scherzo trữ tình gợi nhớ đến Schubert, và chương cuối khá "thông thường" là màn thể hiện kỹ thuật sáng tác, bao gồm cả sự tương phản nhuần nhuyễn giữa piano và dàn dây. Xuất bản và thu âm.
Concerto cho Piano và tứ tấu đàn dây (Busoni)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821521
Xuất bản và thu âm. Bản concerto được xuất bản bởi Breitkopf & Härtel, Wiesbaden, vào năm 1987, do Larry Sitsky hiệu đính. Ông khuyến nghị dựa trên các đánh dấu của tutti và divisi, nên sử dụng dàn nhạc dây có đàn contrebass tăng cường bè trầm cho đàn cello, đây là một thông lệ phổ biến vào thời điểm sáng tác. Bản nhạc được thu âm lần đầu tiên vào năm 1999 bởi Carlo Grante và nhóm I Pomeriggi Musicali, do Marco Zuccarini làm chỉ huy.
Iffezheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821524
Iffezheim là một thị xã thuộc huyện Rastatt bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm gần sông Rhine.
Loffenau
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821527
Loffenau là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Muggensturm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821529
Muggensturm là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Ötigheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821532
Ötigheim (Alemannic thấp: "Etje") là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Ferruccio Busoni
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821533
Ferruccio Busoni (1 tháng 4 năm 1866 – 27 tháng 7 năm 1924) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano, nhạc trưởng, người biên soạn, nhà văn và là giáo viên người Ý. Sự nghiệp và danh tiếng quốc tế của Busoni đã khiến ông có được nhiều sự hợp tác chặt chẽ với những nhạc sĩ, nghệ sĩ và nhân vật văn học hàng đầu trong thời đại của mình. Ông đồng thời còn là một giảng viên đàn phím và giảng viên sáng tác âm nhạc được ưa thích.
Rheinmünster
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821538
Rheinmünster là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Hà Văn Mạo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821540
Hà Văn Mạo (1928-2016) là một giáo sư đầu ngành y quân đội trong lĩnh vực tiêu hóa. Ông được tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân vào năm 2001. Tiểu sử. Hà Văn Mạo sinh ngày 01 tháng 1 năm 1928, trong một gia đình dòng dõi Nho học ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ ông là cụ Hà Văn Đại, đỗ phó bảng, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Mẹ ông, cụ Nguyến Thị Khuê, là cháu nội tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, thủ lĩnh Cần vương ở Nghệ An.. Năm 1936, khi cha nhận chức tri phủ ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Hà Văn Mạo theo cha vào học lớp 1 đến hết lớp 3 ở trường Quốc học Huế. Năm 1946, 19 tuổi, Hà Văn Mạo đỗ Tú tài toàn phần cả hai bằng Triết học và Toán học rồi học năm thứ nhất Đại học Y khoa Hà Nội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hà Văn Mạo trở vào Quân khu 4 công tác. Tại đây, anh vừa là cán bộ quân y, vừa dạy học văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, lại vừa dự học và đỗ đầu khóa thứ nhất lớp Toán học đại cương do Bộ Giáo dục mở tại Nam Đàn, Nghệ An, được giáo sư Nguyễn Thúc Hào trực tiếp giảng dạy. Năm 1948, ông trở về trường Đại học Y khoa Việt Bắc tiếp tục con đường học và nghiên cứu khoa học. dưới sự dạy dỗ, hướng dẫn của các giáo sư Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ... Cũng trong thời gian đó ông tham gia vào đội phẫu thuật của Giáo sư Tôn Thất Tùng trong các chiến dịch: Trung du, Đường 18, Hòa Bình, Biên giới... Đầu năm 1952, theo điều động của Cục Quân y, ông cùng một số đồng đội bí mật vào vùng địch hậu Tả ngạn nhận công tác. Lúc này ông là Trưởng ban Quân y kiêm Phó phòng Hậu cần Quân khu, cùng với các bác sĩ, y sĩ... vừa làm nhiệm vụ cứu chữa, vừa lo cất giấu thương bệnh binh, bảo vệ an toàn cho các thầy thuốc và anh em thương binh. Năm 1954 Hà Văn Mạo được bầu là chiến sĩ thỉ đua, được đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua Quân khu Tả ngạn.
Hà Văn Mạo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821540
Năm 1955 anh tốt nghiệp Đại học Y khoa với điểm xuất sắc về công trình nghiên cứu chữa bệnh hội chứng buốt thần kỉnh. Giáo sư Hồ Đắc Di đã đặc biệt khen ngợi về công trình này của ông. Sau hòa bình lập lại, Hà Văn Mạo trở về Bệnh viện Trung ương Quân dội 108, giữ chức chủ nhiêm khoa Tĩêu hóa (A3), tiếp tục theo đuổi những ý tưởng nghiên cứu khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu của ông về tiêu hóa, huyết học, ung thư tiêu hóa, ung thư huyết học đã được hoàn thành trong thời kỳ này. Ông cũng là người đầu tiên thực hiện ở miền Bắc các kỹ thuật nội soi thực qụản, dạ dày và trực tràng bằng ống soi nửa cứng, chọc sinh thiết gan bằng kim Menghini tạo điều kiện cho việc đi sâu vào nghiên cứu các bệnh về gan. Từ 1965, theo yêu cầu của Quân đội, Hà Văn Mạo đổi tên thành Hà Việt cấp tốc lên đường vào chiến trường Quân khu 5. Ông cùng đồng đội vượt qua khó khăn gian khổ thiếu thốn, từng bước xây dựng một bệnh xá từ chỗ có 5 giường bệnh trở thành Viện Quân y 17, bệnh viện đa khoa tuyến cuối của Quân khu 5. Đầu 1974, sau 9 năm ở chiến trường, ông được lệnh trở ra Hà Nội và được sang Cộng hòa dân chủ Đức tu nghiệp, thực tập sinh. Cuối 1976, về nước, ông trở lại cương vị chủ nhiệm khoa tiêu hóa (A3) Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trờ thành chuyên viên đầu ngành tiêu hóa quân đội kiêm giảng viên tại Học viện Quân y Bộ Quốc phòng. Các công trình về phát hiện ung thư dạ dày sớm, phương pháp chụp mật qua da, phương pháp chụp mật tụy ngược dòng... đã lần lượt hoàn thành vầ được ứng dụng vào thực tiễn. Tiếp đó hàng loạt các công trình nghiên cứu của ông lại lần lượt hoàn thành. Công trình “Phòng chống bệnh ung thư gan nguyên phát” là một đề tài ám ảnh đeo đuổi ông suối cả cuộc đời. Thời kỳ này ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, với đề tài “Góp phần nghiên cứu bệnh ung thư biểu mô tế bào gan: đặc điểm lâm sàng, giá trị một số phương pháp chẩn đoán và thăm dò tác dụng phòng chống của biệt dược Gacavit”.
Hà Văn Mạo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821540
Ông đã cùng vói Giáo sư Đinh Ngọc Lâm nghiên cứu và hoàn thành các đề tài nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm thuốc Gacavit, một loại dược phẩm có nguồn gốc từ một dược liệu thảo mộc trong nước được dừng cho bênh nhân để khắc phục các tác hại của chất độc điôxin đối vói tế bào và sinh vật bị nhiễm độc, hạn chế những tế bào đó phát triển thành ung thư gan ở những bênh nhân có nguy cơ cao. Dược phẩm Gacavit đã được Cục Quản lý dược, Bộ Y tế cấp giấy phép sản xuất và cho lưu hành trên thị trường toàn quốc và được Cục Sáng chế, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích ngày 24/8/1990. Bên cạnh hàng chục đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước được nghiệm thu và đảnh gỉá cao ông còn có các đề tài hợp tác quốc tế. Nhiều công trình nghiên cứu của ông cũng đã được báo cáo tại các hội nghị Tiêu hóa: châu Á Thái Bình Dương, châu Âu, Nhật Bản. Ông đã cho công bố gần 70 bài báo bằng tiếng Việt và bằng tiếng nước ngoài, xuất bản 8 cuốn sách, và tham gia viết bài trong cuốn “Bách khoa thư Y học”, tập 3.. Ngoài chức vụ Chủ nhiệm khoa Tiêu hóa Viện 108 và chuyên viên đầu ngành Tiêu hóa quân đội, ông kiêm giảng viên Học viện Quân y. Tại đây ông đã góp phần đào tạo đội ngũ những thầy thuốc trong quân đội, đã hướng dẫn khoa học chính cho 6 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Ông được Nhà nước phong tặng Phó Giáo sư Y học (1984) rồi Giáo sư Y học (1991), danh hiệu Thầy thuốc ưu tú (1995) và Thầy thuốc nhân dân (2001). Ông là một trong số ít các nhà khoa học Việt Nam trở thành thành viên Viện Hàn lâm khoa học New York (1998).
Hà Văn Mạo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821540
Ông đã từng làm cố vấn khoa học cho các Hội nghị Tiêu hóa quốc tế tại Philippin (1996), Thái Lan (1998), Ôtxtraylia (2001)... Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn hoạt động có hiệu quả để phục vụ bệnh nhân và xây dựng ngành, lãnh đạo trung tâm nghiên cứu phòng chống ung thư và làm giảng viên kiêm chức ở Học viện Quân y. Ông từng là Phó Chủ tịch Hội Tiêu hóa Việt Nam, Chủ tịch Hội Gan Mật Việt Nam, uỷ viên các Uỷ ban chuyên khoa của Hội tiêu hóa thế giới OMGE, uỷ viên chấp hành Hội Gan Mật Đông Nam Á. Ông đã được mời giảng bài và thuyết trình khoa học tại nhiều trường đại học trên thế giới. Ông mất tháng 8 năm 2016, thọ 88 tuổi..
Bộ ngàm tháo lắp nhanh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821547
Bộ ngàm tháo lắp nhanh là một cơ cấu để gắn bánh xe vào xe đạp. Nó bao gồm một thanh ren ở một đầu và một bộ cam lắp ráp bằng cần đòn bẩy hoạt động ở đầu kia. Thanh ren được chèn vào trục rỗng của bánh xe, một đai ốc đặc biệt được vặn vào, và cần đòn bẩy đóng lại để siết chặt bộ cam và gắn chặt, cố định bánh xe vào càng phuộc. Những loại bánh xe được trang bị cơ chế mở nhanh này có thể được tháo ra khỏi khung xe đạp và thay thế mà không cần dùng đến công cụ bằng cách mở và đóng cần cam, do đó nhanh hơn so với bánh xe có trục và đai ốc cứng. Tuy nhiên, điều bất tiện ở chỗ là ngàm bánh xe mở nhanh có thể khiến cho bánh xe dễ bị mất trộm hơn và cần chú ý cẩn thận để đảm bảo cơ chế được siết chặt đúng cách. Các cơ chế tháo lắp tương tự cũng được sử dụng để vận hành ngàm trục yên xe đạp, gập thân xe đạp gấp và xe tay ga. Lịch sử. Cơ chế được phát minh năm 1927 bởi Tullio Campagnolo, một tay đua xe đạp người Ý. Ông cảm thấy bực bội khi cố gắng chuyển số trong một cuộc đua. Lúc đó, chỉ có một bánh răng ở mỗi phía của bộ trục sau, vì vậy việc thay đổi số đòi hỏi phải dừng xe lại, tháo bánh sau, lật ngang nó ra để bánh răng đối diện được nối với xích, và cuối cùng là lắp lại bánh. Thời tiết trở lạnh và đôi tay ông tê cứng, ông không thể siết các đai vặn cánh cố định bánh xe. Ông đã có một vị trí rất tốt trong cuộc đua trước khi thay bộ số, nhưng lại mất đi nhiều thời gian quý báu. Điều này đã thúc đẩy ông phát triển cơ chế mở nhanh. Một phát minh khác của Campagnolo cũng sử dụng cơ chế mở nhanh là Cambio Corsa, một hệ thống hộp số thay đổi đa mức bao gồm một cần mở nhanh bánh xe sau và một bộ phận tích hợp cơ học đặt cần bẩy gần yên xe đạp, kết hợp với một càng phuộc là phiên bản nguyên thủy của bộ chuyển đĩa sau derailleur (không có bánh đưa xích để lấy dây xích lỏng), đồng thời có một cần điều khiển gần yên xe đạp.
Bộ ngàm tháo lắp nhanh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821547
Sáng kiến này cho phép người đạp thay số nhanh chóng trong quá trình di chuyển bằng cách mở trục, dời bánh xe sau một chút về phía trước bằng cách giãn căng xích, kích hoạt càng kẹp để chuyển sang đĩa bánh lớn hơn và siết chặt cơ chế ngàm mở nhanh lại; hoặc thả trục, sử dụng càng kẹp để chuyển sang đĩa bánh nhỏ hơn, dời bánh xe một chút về phía sau bằng cách phanh và siết chặt cơ chế ngàm mở nhanh lại. Cơ chế ngàm mở nhanh, cùng với các đổi mới khác và tiêu chuẩn sản xuất cao, đã giúp Campagnolo trở thành nhà sản xuất linh kiện xe đạp đường trường và xe đạp đường đua hàng đầu. Sử dụng. Ngàm mở nhanh có xu hướng không được sử dụng trên một số loại xe đạp, chẳng hạn như xe đạp tiện ích (chỉ có một tốc độ hoặc bánh đề) hoặc xe đạp đường đua, một phần vì truyền thống và một phần vì ít cần tháo lắp bánh xe nhanh mà không cần sử dụng dụng cụ. Cơ chế ngàm mở nhanh thỉnh thoảng cũng không được khuyến khích sử dụng cùng với phanh đĩa bởi sự cần thiết phải gắn vào trục bánh để chịu đựng được lực phanh. Các loại ngàm có xuất xứ từ Pháp khác biệt về luồng, bởi nó cùng với các thông số của xe đạp Pháp từng dựa trên Hệ đo Mét. Mặc dù các thông số hiện đại cho xe đạp được đưa ra theo đơn vị mét, chúng lại dựa vào Hệ thống Thông thường Hoa Kỳ (United States Customary System), vốn có nguồn gốc từ đơn vị của Anh, ví dụ, 28,6 mi-li-mét ≈ 1 1/8 inch. Trong những năm qua, các cơ chế ngàm mở nhanh được người lái thông thường sử dụng làm thiết bị nhả bánh chính. Theo Sheldon Brown (thợ sửa xe đạp), các nhà sản xuất thường trang bị đầu càng phuộc bằng các tính năng phần cứng bổ sung nhằm giữ chặt bánh xe ngay cả khi nó không được lắp đúng cách. Phương pháp này được phát triển để giải quyết khả năng hạn chế của một số người dùng có thể tháo bánh xe nhưng không lắp lại được đúng cách. Các tính năng phần cứng này được gọi là "lawyer lips" hoặc "lawyer tabs" vì các nhà sản xuất đã triển khai chúng để tránh kiện tụng tốn kém.
Bộ ngàm tháo lắp nhanh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821547
Các hệ thống kẹp chặt thứ cấp này phía trước và hệ thống thả rời chiều dọc ở phía sau, mặc dù khiến cho giá sản xuất rẻ hơn nhưng lại kém an toàn hơn so với hệ thống ngàm truyền thống. Ngoài ra, sự ra đời của phanh đĩa đã làm tăng khả năng hỏng hóc của trục trước và ngàm, do phanh đĩa tác động lực đẩy có xu hướng kéo trục xe ra khỏi càng phuộc. Ngàm mở nhanh thường được lắp ở cạnh bên trái của xe đạp, tuy nhiên cũng có một số lại ưa lắp bên phải nếu như phanh đĩa nằm bên trái. Xe đạp leo núi thường hướng cần bẩy ra phía sau, nhằm giảm thiểu khả năng bị mở không mong muốn. Các biến thể. Bộ trục khoá có sẵn không có tay cầm hoặc có tay cầm đặc biệt có thể tháo rời để ngăn chặn hành vi trộm cắp bánh xe.
Pilot (công ty)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821564
là một công ty bút viết trụ sở tại Tokyo, Nhật Bản. Công ty sản xuất các loại dụng cụ viết, văn phòng phẩm và trang sức, nhưng được biết đến nhiều nhất thông qua sản phẩm bút viết của họ. Đây là công ty sản xuất bút lớn nhất tại Nhật Bản, với sự cạnh tranh toàn cầu từ các công ty bút viết khác như Pentel Co., Mitsubishi Pencil Co. (Uni-ball) và Paper Mate của Hoa Kỳ. Pilot có nhiều công ty con trên toàn thế giới, bao gồm Philippines, Vương quốc Anh, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Brazil, Nam Phi, Đức và Pháp . Hầu hết bút Pilot được sản xuất tại Nhật Bản, Pháp và Mỹ. Namiki, bút máy của Pilot với thiết kế sơn mài maki-e, được sản xuất tại nhà máy Hiratsuka. Lịch sử. Năm 1915, Ryōsuke Namiki (並木良輔), một giáo sư từ Học viện Hàng hải Tokyo ở Nhật Bản, từ bỏ công việc của mình để thành lập một nhà máy nhỏ gần Tokyo để sản xuất ngòi bút vàng. Năm 1916, Namiki mở rộng dòng sản phẩm của mình và trở thành một nhà sản xuất dụng cụ viết hoàn chỉnh. "Công ty Bút Pilot" được thành lập bởi Ryosuke Namiki cùng với Masao Wada (和田正雄) vào năm 1918 dưới tên gọi "Công ty Sản xuất Namiki". Năm 1926, họ thành lập các văn phòng ở nước ngoài tại Malaysia, Singapore, Boston, London và Thượng Hải. Năm 1938, tên của công ty được thay đổi thành "Công ty Bút Pilot, Ltd". Nó lại đổi tên vào năm 1950 thành "Công ty Mực Pilot, Ltd". Năm 1954, một chi nhánh được mở ở Brazil. Từ năm 1972 đến năm 1999, các công ty con khác nhau đã được thành lập để bao phủ các ngành khác nhau, và tên chung cho chúng là "Tập đoàn Pilot Corporation". Gần đây hơn, Pilot đã bắt đầu dòng sản phẩm BeGreen - bút và bút chì được làm chủ yếu từ chất liệu tái chế . Năm 1995 và 1996, họ đã tham gia cuộc đua với một chiếc Ferrari F40 LM tại giải đua 24 Giờ Le Mans. Đội đua tham gia cuộc đua với F40 LM ban đầu được đặt tên là "Pilot-Aldix Racing", nhưng sau đó được đổi tên thành "Pilot Pen Racing" và "Pilot Racing". Họ đã chiến thắng tại giải 4 Giờ Anderstorp và về vị trí thứ 12 tại Le Mans. Năm 2018, Pilot đã kỷ niệm 100 năm thành lập của công ty bằng việc tung ra nhiều trang đặc biệt trên trang web và bút viết phiên bản đặc biệt. Năm 2023, Pilot đã chấm dứt mối quan hệ đối tác 40 năm với công ty dụng cụ viết Luxor Writing Instruments ở Ấn Độ, và dự định tiến vào thị trường Ấn Độ một cách độc lập. Sản phẩm. Bút máy.
Pilot (công ty)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821564
Sản phẩm. Bút máy. Năm 1963, Pilot Corporation giới thiệu "Capless". Không giống như những chiếc bút máy khác cùng thời, Pilot Capless có ngòi có thể thu vào hoàn toàn. "Capless" sau đó được giới thiệu lại với tên gọi "Vanishing Point" vào năm 1972. Vào năm 2012, công ty đã phát hành "Metropolitan" (được gọi là "Cocoon" tại Nhật Bản), một loại bút máy phổ thông dành cho người mới bắt đầu. "Varsity" là bút máy dùng một lần rồi bỏ, được nạp sẵn mực, trong khi "Prera" là bút bỏ túi nhỏ hơn. Các sản phẩm khác bao gồm Pilot "Falcon", có ngòi vàng bán linh hoạt; "Kakuno", loại bút máy dành cho trẻ em mới bắt đầu tập viết, thường được bán với màu sắc vui nhộn và có khuôn mặt cười trên ngòi bút. Một số loại bút cao cấp hơn của Pilot có tên là "Custom" hoặc "Custom Heritage" và một số có hai hoặc ba chữ số. Các mẫu "Custom" có hình điếu xì gà, trong khi các mẫu "Custom Heritage" có đầu trên và dưới phẳng. Con số này dựa trên năm giới thiệu (từ khi thành lập công ty— "Custom 74" được giới thiệu vào năm 1992) cho các mẫu có hai chữ số, trong khi chữ số thứ ba trên các mẫu có ba chữ số thể hiện giá niêm yết khi nhân với 10.000 Yên ("Custom 823" được giới thiệu vào năm 2000 có giá 30.000 Yên tại thời điểm giới thiệu). Bút từ chai nhựa tái chế. Pilot Corporation đã công bố một số thực tế môi trường về sẩn phẩm bút của mình năm 2015. Sản phẩm thân thiện môi trường nhất là Bottle-2-Pen (B2P), được làm từ 90,4% thành phần tái chế. Nhựa PET từ chai lọ được sử dụng nhiều, do đó nó thỉnh thoảng còn được gọi là 'PetPen' hoặc 'PetBall'. Khác. Thương hiệu cũng sản xuất và thương mại hóa nhiều loại sản phẩm dưới tên riêng của mình và các thương hiệu khác, chẳng hạn như "FriXion" (bút gel mực xóa được, bút tô sáng highlight và tem), "Acroball" (bút bi mực hybrid); "pintor"; "B2P" và "Begreen" (cả hai đều là sản phẩm có thành phần tái chế).
Pilot (công ty)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821564
Các thương hiệu phụ bao gồm "Better", "Rex-Grip", "Super Grip G" (bút bi gốc dầu); "Precise", "Hi-Tecpoint" (bóng lăn); "Hi-Tec-C", "G-2", "Juice" (hoặc "Pop'lol" ) (bút gel); và "Coleto" (hệ thống nhiều bút có thể tùy chỉnh); Dòng "Mogulair", "Doctor Grip", "Super Grip", "Fure Fure" (2020) (bút chì cơ); "Automac" (bút chì cơ được trang bị chức năng tự động); Dòng "S" series: "S3", "S5", "S10", "S20", "S30" (bút chì nháp). Bảng sau đây bao gồm các sản phẩm bút Pilot tại Châu Á, Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ, vào tháng mười hai năm 2019:
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1876 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 23, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 7 tháng 11 năm 1876, trong đó ứng cử viên Đảng Cộng hòa Rutherford B. Hayes đánh bại ứng cử viên Đảng Dân chủ Samuel J. Tilden. Đây là một trong những cuộc bầu cử tổng thống gây tranh cãi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Để giải quyết các vấn đề quanh cuộc bầu cử, hàng loạt các cuộc đàm phán giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đã diễn ra mà cuối cũng dẫn đến Thỏa hiệp 1877. Vào ngày 2 tháng 3 năm 1877, việc kiểm phiếu đại cử tri diễn ra tại Phiên họp chung của Quốc hội đã chứng thực Hayes đắc cử Tổng thống. Đây là cuộc bầu cử tổng thống thứ 2 trong số 5 cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ mà người chiến thắng không giành được đa số phiếu phổ thông trên toàn quốc (lần đầu tiên kể từ năm 1824). Sau khi Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm Ulysses S. Grant từ chối tranh cử nhiệm kỳ thứ ba mặc dù trước đó được cho là sẽ làm vậy, Dân biểu Hoa Kỳ James G. Blaine đã trở thành ứng cử viên hàng đầu cho đề cử của Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, Blaine đã không thể giành được đa số phiếu ủng hộ tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1876, thay vào đó, Đại hội quyết định Thống đốc Hayes từ Ohio là một ứng cử viên thỏa hiệp. Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1876 đã đề cử Thống đốc Tilden từ New York sau 2 lần bỏ phiếu. Kết quả của cuộc bầu cử gây tranh cãi đến tận ngày nay. Mặc dù việc Tilden vượt qua Hayes về số phiếu phổ thông là không thể bàn cãi nhưng vẫn có nhiều cáo buộc về gian lận bầu cử, bạo lực bầu cử và việc tước quyền bầu cử của các cử tri Da đen chủ yếu ủng hộ Đảng Cộng hòa. Sau lần kiểm phiếu đầu tiên, Tilden giành được 184 phiếu đại cử tri so với 165 của Hayes, với 20 phiếu bầu từ 4 bang chưa được công bố. Tại Florida, Louisiana và Nam Carolina, cả 2 đảng đều tuyên bố ứng cử viên của họ đã giành chiến thắng. Ở Oregon, một đại cử tri đã bị thay thế vì đã từng là "quan chức được bầu hoặc được bổ nhiệm."
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Câu hỏi ai nên được trở thành đại cử tri là nguồn gốc của nhiều tranh cãi liên miên trong thời gian dài. Một thỏa hiệp bí mật không chính thức đã được đưa ra để giải quyết các vấn đề về bầu cử: Thỏa hiệp 1877. Theo thỏa hiệp, Đảng Dân chủ nhường 20 phiếu đại cử tri chưa được công bố do tranh cãi cho Hayes, dẫn đến chiến thắng với tỷ lệ 185–184; đổi lại, Đảng Cộng hòa buộc phải đồng ý rút quân đội liên bang khỏi miền Nam, chấm dứt Kỷ nguyên Tái thiết. Cho đến nay, đây vẫn là cuộc bầu cử có tỷ lệ cử tri đi bầu cao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ở mức 82,6%. 50,9% số phiếu phổ thông ủng hộ Tilden là tỷ lệ phiếu phổ thông lớn nhất mà một ứng cử viên thua cuộc nhận được và chỉ số "nhiệt tình" của cử tri dành cho ông (bằng tỷ lệ cử tri đi bầu nhân với tỷ lệ phiếu bầu) cao hơn bất kỳ ứng cử viên tổng thống khác trong lịch sử Hoa Kỳ. Tilden cũng là người cuối cùng giành được đa số quá bán phiếu phổ thông cho đến William McKinley vào năm 1896. Đến nay, đây là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng mà cả 2 ứng cử viên từ 2 đảng lớn đều là thống đốc một bang. Đề cử. Đề cử của Đảng Cộng hòa. Vào năm 1875, nhiều người cho rằng Tổng thống đương nhiệm Ulysses S. Grant có kế hoạch tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ ba bất chấp tình hình kinh tế thảm hại cùng vô số bê bối chính trị đã xảy ra kể từ khi ông nhậm chức vào năm 1869 cũng như một truyền thống lâu đời do George Washington thiết lập rằng Tổng thống không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ. Những người thân cận với Grant đã khuyên ông ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba và ông suýt nữa đã làm vậy, nhưng vào ngày 15 tháng 12 năm 1875, Hạ viện, với số phiếu ủng hộ áp đảo 233 so với 18 phiếu phản đối, đã thông qua một nghị quyết để ủng hộ truyền thống 2 nhiệm kỳ với lý do là để ngăn chặn chế độ độc tài. Cuối năm đó, Grant rút lui và không tham gia tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1876. Thay vào đó, ông cố gắng thuyết phục Ngoại trưởng Hamilton Fish ra tranh cử tổng thống, nhưng Fish, người đã 67 tuổi, từ chối vì cho rằng mình đã quá già để đảm nhận chức vụ đó.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Tuy nhiên, Grant vẫn gửi một lá thư đến Đại hội để bày tỏ sự ủng hộ của mình với Fish, nhưng bức thư đã bị thất lạc và không bao giờ được công khai trước Đại hội. Fish sau đó nhấn mạnh rằng ông sẽ không tranh cử tổng thống ngay cả khi Đại hội đề cử ông. Tại thời điểm Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa nhóm họp tại Cincinnati, Ohio vào ngày 14 tháng 6 năm 1876, James G. Blaine dường như chắc chắn sẽ trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Blaine chỉ thiếu 100 phiếu để giành được đề cử. Tuy nhiên, ông bắt đầu gặp nhiều rào cản sau lần bỏ phiếu thứ 2, vì nhiều đảng viên Cộng hòa lo sợ rằng Blaine không thể thắng trong cuộc tổng tuyển cử. Các đại biểu chống Blaine đã không thể đề cử một ứng cử viên cho đến khi số phiếu bầu của Blaine chiếm 41% tổng số phiếu trong lần bỏ phiếu thứ 6. Lo sợ Blaine giành được đề cử, thượng tầng Đảng Cộng hòa đã bí mật chọn Thống đốc của Ohio Rutherford B. Hayes, người đã dần xây dựng được nền tảng ủng hộ vững chắc trong suốt đại hội cho đến khi ông về nhì trong lần bỏ phiếu thứ 6. Trong lần bỏ phiếu thứ 7, Hayes được đề cử làm Tổng thống với 384 phiếu bầu, so với 351 cho Blaine và 21 cho Benjamin Bristow. Dân biểu New York William A. Wheeler được đề cử làm Phó Tổng thống với cách biệt lớn hơn nhiều (366–89) so với đối thủ chính của ông, Frederick Theodore Frelinghuysen, người sau này là thành viên của Ủy hội Bầu cử, cơ quan đã trao chiến thắng cho Hayes. Đề cử của Đảng Dân chủ. Các ứng cử viên của Đảng Dân chủ: Việc Đảng Dân chủ không đề cử một liên danh trong cuộc bầu cử tổng thống trước đó mà thay vào đó ủng hộ ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Tự do Horace Greeley đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận về khả năng tồn tại của đảng. Mọi nghi ngờ về tương lai của đảng đã bị dập tắt sau khi Đảng Cộng hòa Tự do sụp đổ sau cuộc bầu cử đó, cùng với những chiến thắng đáng kể của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1874 khi lần đầu tiên họ nắm quyền kiểm soát Hạ viện sau 16 năm. Đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ được tổ chức tại St.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Louis, Missouri, vào tháng 6 năm 1876, đây là đại hội chính trị đầu tiên của một đảng lớn được tổ chức ở phía tây sông Mississippi. 5000 người chen chúc trong một khán phòng ở St. Louis với hy vọng Đảng Dân chủ sẽ lần đầu giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử tổng thống sau 20 năm. Cương lĩnh của đảng ủng hộ cải cách ngay lập tức và sâu rộng để đối phó với những vụ bê bối trong chính quyền Grant. Tilden đã giành được hơn 400 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên và được đề cử tổng thống với tỷ số áp đảo trong lần thứ 2. Tilden đã đánh bại Thomas A. Hendricks, Winfield Scott Hancock, William Allen, Thomas F. Bayard và Joel Parker để được đề cử Tổng thống. Tilden đã vượt qua sự chống đối rất lớn từ "Honest John" Kelly, lãnh đạo của Tammany Hall tại New York, để giành được đề cử Tổng thống. Thomas A. Hendricks được đề cử làm Phó Tổng thống vì ông là người duy nhất ứng cử vị trí đó. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ cam kết thay thế chính quyền tham nhũng của Grant bằng một chính quyền trung thực, hiệu quả và chấm dứt bạo lực tại miền Nam. Nó cũng cam kết bảo vệ quyền trở về quê hương của các công dân Hoa Kỳ nhập tịch cũng như hạn chế nhập cư người châu Á, cải cách thuế quan và phản đối việc cấp đất để xây dựng đường sắt. Người ta tuyên bố rằng Tilden nhận được sự ủng hộ nhiệt tình hơn bất kỳ nhà lãnh đạo đảng nào kể từ Andrew Jackson. Nguồn: "Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876". (3 tháng 9, 2012). Nguồn: "Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876". (3 tháng 9, 2012). Nguồn: "Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876" (3 tháng 9, 2012). Đề cử của Đảng Đồng bạc xanh. Ứng cử viên của Dẩng Đồng bạc xanh: Đảng Đồng bạc xanh được thành lập bởi những nhóm lợi ích nông nghiệp ở Indianapolis, Indiana, vào năm 1874 để kêu gọi chính phủ liên bang thổi phồng nền kinh tế thông qua việc phát hành hàng loạt tiền giấy được gọi là "đồng bạc xanh". Đại hội toàn quốc đầu tiên của nó được tổ chức tại Indianapolis vào mùa xuân năm 1876. Peter Cooper được đề cử làm Tổng thống với 352 phiếu bầu so với 119 từ 3 ứng cử viên khác.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Đại hội đã đề cử Thượng nghị sĩ Đảng Chống độc quyền Newton Booth từ California làm Phó Tổng thống. Sau khi Booth từ chối ra tranh cử, ủy ban toàn quốc của đảng đã chọn Samuel Fenton Cary thay thế ông. Đề cử của Đảng Cấm rượu. Đảng Cấm rượu, trong đại hội toàn quốc ở Cleveland, đã đề cử Green Clay Smith làm ứng cử viên Tổng thống và Gideon T. Stewart làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Đề cử của Đảng Quốc gia Hoa Kỳ. Đảng chính trị nhỏ này đã sử dụng nhiều tên khác nhau tại mỗi bang khác nhau. Nó là sự tiếp nối của Đảng Chống Hội Tam điểm và trong đại hội năm 1872 đã đề cử Charles Francis Adams, Sr. làm Tổng thống. Khi Adams từ chối tranh cử, đảng này đã không tham gia cuộc bầu cử năm 1872. Đại hội được tổ chức từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 6 năm 1875 tại Hội trường Tự do, Pittsburgh, Pennsylvania. BT Roberts của New York làm Chủ tịch và Jonathan Blanchard làm diễn giả chính. Cương lĩnh của đảng đã ủng hộ các Tu chính án trong thời Tái thiết, trọng tài quốc tế, đọc thánh thư trong các trường công lập, thanh toán bằng tiền giấy, công lý cho người Mỹ bản địa, bãi bỏ Đại cử tri đoàn và cấm bán đồ uống có cồn. Nó tuyên bố ngày đầu tuần là ngày nghỉ ngơi của Hoa Kỳ. Cương lĩnh phản đối các hội kín và độc quyền. Đại hội đã xem xét 3 ứng cử viên Tổng thống tiềm năng: Charles F. Adams, Jonathan Blanchard và James B. Walker. Khi Blanchard từ chối tranh cử, Walker được nhất trí đề cử làm Tổng thống. Đại hội sau đó đã nhất trí đề cử Donald Kirkpatrick từ New York làm Phó Tổng thống. Tổng tuyển cử. Chiến dịch. Tilden, người đã truy tố nhiều chính trị gia tại New York và tống giam ông trùm chính trị William M. Tweed, đã tranh cử với tư cách là một ứng cử viên ủng hộ cải cách trong bối cảnh chính quyền Grant tham nhũng tràn lan. Cả 2 đảng đều ủng hộ cải cách các dịch vụ dân sự. Cả hai bên đều tiến hành các chiến dịch tranh cử chống lại nhau một cách kịch liệt, Đảng Dân chủ thì nhắm vào nạn tham nhũng tràn lan còn Đảng Cộng hòa nhắm vào các vấn đề Nội chiến, một chiến thuật đã bị các đảng viên Dân chủ chế giễu.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Các đảng viên Cộng hòa còn hô khẩu hiệu "Không phải mọi đảng viên Đảng Dân chủ đều là kẻ nổi loạn, nhưng mọi kẻ nổi loạn đều là đảng viên Đảng Dân chủ." Hayes gần như là một nhân vật ít tiếng tăm bên ngoài Ohio, quê hương của ông, nơi ông đã phục vụ 2 nhiệm kỳ tại Hạ viện Hoa Kỳ và sau đó là 2 nhiệm kỳ với tư cách là Thống đốc bang. Henry Adams mô tả Hayes là "một kẻ vô danh hạng 3 mà điểm cộng duy nhất là hắn không làm ai ghét mình." Hayes đã từng phục vụ trong Nội chiến với tư cách là đại tá của Trung đoàn 23 Ohio và bị thương nhiều lần, điều này khiến ông được nhiều cựu chiến binh ủng hộ. Sau đó, ông được phong hàm thiếu tướng. Điểm quan trọng nhất ở ông là đến từ Ohio, một bang dao động rất quan trọng. Ngược lại, nhà báo John D. Defrees mô tả Tilden là "một người đàn ông độc thân rất tốt bụng, nghiêm nghị, nhỏ bé, khô héo, bồn chồn, nặng khoảng 120 pound, người không bao giờ có động lực trong cuộc đời cũng như không có bất kỳ tình cảm nào dành cho phụ nữ." Chiến lược của Đảng Dân chủ nhằm giành chiến thắng ở các bang miền Nam phụ thuộc rất nhiều vào các nhóm bán quân sự như Sơ mi đỏ và Liên đoàn Trắng. Tái sử dụng chiến lược trong Kế hoạch Mississippi, các nhóm này đã tích cực đàn áp cử tri của Đảng Cộng hòa, kể cả người da đen hay da trắng bằng cách làm gián đoạn các cuộc họp và mít tinh, thậm chí sử dụng bạo lực và đe dọa. Họ tự coi mình là "lực lượng quân sự" của Đảng Dân chủ. Thời điểm ấy một ứng cử viên ra mặt tranh cử chức vụ Tổng thống bị coi là "quá tham vọng" và không phụ hợp nên cả Tilden và Hayes đều không tích cực tham gia chiến dịch tranh cử và giao nhiệm vụ đó cho những người đại diện của họ. Colorado. Colorado được kết nạp vào Liên bang với tư cách là tiểu bang thứ 38 vào ngày 1 tháng 8 năm 1876; đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên mà bang tham gia. Không có đủ thời gian và tiền bạc để tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống ở bang mới do đó cơ quan lập pháp bang Colorado đã tự chọn 3 đại cử tri đoàn của bang.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Đảng Cộng hòa chiếm đa số mong manh trong cơ quan lập pháp bang sau cuộc bầu cử gây tranh cãi gay gắt vào ngày 3 tháng 10 năm 1876. Nhiều ghế trong cuộc bầu cử đó chỉ được quyết định bởi vài trăm phiếu bầu. Vào ngày 7 tháng 11 năm 1876, trong một cuộc bỏ phiếu với 50 ủng hộ và 24 phản đối, cơ quan lập pháp bang đã chọn Otto Mears, William Hadley và Herman Beckurts làm đại cử tri của bang bầu Tổng thống. Cả 3 đại cử tri bang đều bỏ phiếu cho Hayes. Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà bất kỳ tiểu bang nào chọn đại cử tri thông qua cơ quan lập pháp của bang, thay vì thông qua phổ thông đầu phiếu. Tranh chấp và Thỏa hiệp 1877. Florida (với 4 phiếu đại cử tri), Louisiana (với 8) và Nam Carolina (với 7) đã báo cáo Tilden đang trên đà giành chiến thắng, nhưng các cuộc bầu cử ở các bang này tràn ngập gian lận bầu cử và đe dọa bạo lực đối với cử tri Đảng Cộng hòa. Trường hợp cực đoan nhất là ở Nam Carolina, nơi có đến 101% tổng số cử tri của bang đi bầu, và ước tính có khoảng 150 đảng viên Đảng Cộng hòa là người da đen đã bị sát hại. Một trong những điểm gây tranh cãi xoay quanh việc thiết kế các lá phiếu bầu. Vào thời điểm đó, các đảng sẽ tự in phiếu bầu để cử tri bỏ phiếu. Để hỗ trợ những cử tri mù chữ, các đảng sẽ in các biểu tượng của đảng mình lên đó, và trong cuộc bầu cử này, nhiều lá phiếu bầu của Đảng Dân chủ lại in biểu tượng của Đảng Cộng hòa, Tổng thống nổi tiếng Abraham Lincoln lên đó, khiến nhiều người mù chữ ủng hộ Đảng Cộng hòa nhầm lẫn và bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Các ủy ban bầu cử bang do Đảng Cộng hòa thống trị sau đó đã bác bỏ đủ phiếu bầu của Đảng Dân chủ để trao tất cả phiếu đại cử tri của họ cho Hayes. Theo luật, các đại cử tri được bầu cần có chứng thực từ một quan chức cấp tiểu bang, nhưng tại Nam Carolina, những đại cử tri cam kết bầu Tilden lại không nhận chứng thực từ bất kỳ quan chức nào và tự tuyên bố rằng họ được chọn qua phổ thông đầu phiếu dù những tuyên bố đó đã bị hội đồng bầu cử bang bác bỏ. Trong khi đó, tại Oregon, tư cách thành viên của một đại cử tri đã bị tranh cãi dữ dội.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Kết quả trên toàn tiểu bang rõ ràng nghiêng về Hayes, nhưng thống đốc Đảng Dân chủ của bang, La Fayette Grover, tuyên bố rằng một trong những đại cử tri được bầu của đảng Cộng hòa, cựu Giám đốc Bưu cục John Watts, không đủ tư cách theo Điều II, Mục 1 Hiến pháp Hoa Kỳ vì ông đã từng là một "quan chức được bầu hoặc được bổ nhiệm." Grover đã thay thế một đại cử tri Đảng Dân chủ vào vị trí của Watts. Hai đại cử tri Đảng Cộng hòa đã không chấp nhận hành động của Grover và tuyên bố cả 3 phiếu bầu ủng hộ Hayes. Tuy nhiên, đại cử tri đảng Dân chủ, C. A. Cronin, tuyên bố 1 phiếu bầu cho Tilden và 2 phiếu bầu cho Hayes. Việc này dấy lên tranh cãi vì sau này, cách biệt phiếu đại cử tri của 2 ứng cử viên chỉ là 1 phiếu. Sau cùng, cả 3 phiếu bầu của Oregon đều được trao cho Hayes. Đảng Dân chủ tuyên bố có gian lận, thậm chí còn có đe dọa rằng Hayes sẽ không bao giờ được nhậm chức. Tại Columbus, Ohio, một phát súng đã được bắn vào nơi ở của Hayes khi ông đang ngồi ăn tối. Sau đó, Grant đã lặng lẽ củng cố lực lượng quân sự trong và xung quanh Washington D.C. nhằm kiểm soát các cuộc biểu tình. Hiến pháp quy định rằng "Chủ tịch Thượng viện [Phó Tổng thống], trước sự chứng kiến của Thượng viện và Hạ viện, sẽ mở tất cả các giấy chứng nhận [bầu cử], và các phiếu bầu sau đó sẽ được kiểm." Đảng Cộng hòa cho rằng quyền kiểm phiếu thuộc về Chủ tịch Thượng viện, với Hạ viện và Thượng viện chỉ là khán giả. Đảng Dân chủ phản đối tuyên bố đó, vì cho rằng Chủ tịch Tạm quyền của Thượng viện, Đảng viên Cộng hòa Thomas W. Ferry có thể kiểm phiếu cả các bang đang tranh chấp cho Hayes. Đảng Dân chủ nhấn mạnh rằng Quốc hội nên tiếp tục thông lệ đã tuân theo từ năm 1865: không phiếu bầu nào bị phản đối sẽ được tính trừ khi có sự nhất trí của cả hai viện. Tuy nhiên, vì Đảng Dân chủ đang nắm Hạ viện nên chắc chắn họ sẽ bác bỏ tất cả phiếu các bang đang tranh chấp và Tilden, khi ấy, sẽ đắc cử.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiến pháp chưa từng có, Quốc hội đã thông qua luật vào ngày 29 tháng 1 năm 1877 để thành lập Ủy hội Bầu cử gồm 15 thành viên để giải quyết các vấn đề quanh cuộc bầu cử. 5 thành viên được chọn từ mỗi viện của Quốc hội cùng 5 thành viên của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, với William M. Evarts là cố vấn cho Đảng Cộng hòa. Đảng chiếm đa số trong mỗi viện chỉ định 3 thành viên và đảng thiểu số có 2 thành viên. Vì đảng Cộng hòa kiểm soát Thượng viện và đảng Dân chủ kiểm soát Hạ viện, điều đó mang lại 5 thành viên cho đảng Dân chủ và 5 thành viên cho đảng Cộng hòa trong Ủy hội. Trong số các thẩm phán của Tòa án Tối cao, 2 người ủng hộ Đảng Cộng hòa và 2 người ủng hộ Đảng Dân chủ được chọn, người thứ 5 được chọn bởi 4 người này. Ban đầu, các thẩm phán đã chọn Thẩm phán trung lập David Davis. Theo một nhà sử học mô tả, "Không ai, có lẽ kể cả chính Davis, biết ông ấy thích ứng cử viên tổng thống nào hơn." Tuy nhiên, ngay thời điểm Dự luật Ủy hội Bầu cử được Quốc hội thông qua, Cơ quan Lập pháp Illinois đã bầu Davis vào Thượng viện và các đảng viên Đảng Dân chủ trong Cơ quan Lập pháp tin rằng họ đã mua được sự ủng hộ của Davis bằng cách bỏ phiếu cho ông ta và ông sẽ sớm từ bỏ chức Thượng nghị sĩ và vẫn làm Thẩm phán. Tuy nhiên, họ đã tính toán sai, khi Davis nhanh chóng xin phép rời khỏi Ủy hội và từ chức Thẩm phán để trở thành Thượng nghị sĩ. Vì tất cả các Thẩm phán còn lại đều ủng hộ Đảng Cộng hòa, nên họ đã chọn Thẩm phán Joseph P. Bradley, người được coi là thành viên công bằng nhất của tòa án. Thời gian không còn nhiều, ngày nhậm chức ngày càng gần, nên Ủy hội đã nhóm họp vào ngày 31 tháng 1. Mỗi tiểu bang đang tranh chấp (Florida, Louisiana, Oregon và Nam Carolina) lần lượt được Quốc hội đệ trình lên ủy hội. Mỗi đảng đều chọn những cố vấn nổi tiếng cho riêng mình để thuyết phục các thành viên ủy hội ủng hộ đảng mình. Trước tiên, ủy hội quyết định không đề cập đến các kết quả không tranh chấp từ đầu.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Bradley sau đó, cùng với 7 thành viên khác ủng hộ Đảng Cộng hòa, bỏ phiếu với 8 ủng hộ Hayes và 7 ủng hộ Tilden, trao tất cả 20 phiếu đại cử tri tranh chấp (4 ở Florida, 8 ở Louisiana, 7 ở Nam Carolina và 1 ở Oregon) cho Hayes, mang lại cho Hayes chiến thắng với tỷ lệ 185–184 trong phiếu đại cử tri. Ủy hội giải tán vào ngày 2 tháng 3. Hayes tuyên thệ nhậm chức một cách riêng tư vào ngày hôm sau và vào ngày 5 tháng 3 năm 1877, Hayes nhậm chức công khai mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Thỏa hiệp 1877 có thể là một lý do để Đảng Dân chủ chấp nhận kết quả của Ủy hội Bầu cử. Trong các cuộc họp bí mật căng thẳng, giới thượng tầng của Đảng Dân chủ đã miễn cưỡng đồng ý chấp nhận Hayes làm Tổng thống để đổi lấy việc quân đội liên bang rút quân khỏi hai bang miền Nam cuối cùng vẫn còn bị chiếm đóng: Nam Carolina và Louisiana, chấm dứt Tái thiết. Đổi lại, giới thượng tầng Đảng Cộng hòa đã đồng ý trợ cấp cho nhiều công trình mà Đảng Dân chủ ủng hộ, bao gồm cả trợ cấp liên bang cho một tuyến đường sắt xuyên lục địa đi qua miền Nam. Mặc dù một số lời hứa đã không được thực hiện, đặc biệt là về vấn đề đường sắt, nhưng đó là quá đủ để chấm dứt cuộc khủng hoảng. Việc ủy hội trao Nam Carolina cho Hayes làm ông giành chiến thắng ở đây với cách biệt chỉ 889 phiếu bầu, cách biệt phiếu phổ thông sít sao thứ hai ở một bang mang tính quyết định cho cuộc bầu cử trong lịch sử Hoa Kỳ, sau cuộc bầu cử năm 2000, được quyết định bởi 537 phiếu bầu ở Florida. Tuy nhiên, năm 2000, cách biệt trong phiếu Đại cử tri mà George W. Bush thắng là 5 phiếu bầu, khác với 1 trong trường hợp của Hayes. Sau thất bại của mình, Tilden nói, "Tôi có thể lui về cuộc sống cá nhân với ý thức rằng tôi đã nhận được sự tín nhiệm từ hậu thế vì đã được bầu vào vị trí cao nhất [Tổng thống] bởi nhân dân [đề cập đến việc Tilden thắng phiếu phổ thông], mà không cần quan tâm hay có bất kỳ trách nhiệm nào với chức vụ ấy [đề cập đến việc Tilden thua phiếu Đại cử tri, nên chưa bao giờ trở thành Tổng thống]."
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Quốc hội cuối cùng sẽ ban hành Đạo luật Kiểm phiếu Đại cử tri vào năm 1887 để bổ sung các quy tắc chi tiết hơn cho việc kiểm phiếu đại cử tri, đặc biệt là trong trường hợp các đại cử tri một bang bầu cho nhiều người. Kết quả. Theo phán quyết của ủy hội, trong số 2.249 quận, Tilden thắng 1.301 (57,9%) và Hayes chỉ thắng 947 (42,1%). Một quận (<0,1%) ở Nevada chia đều giữa Tilden và Hayes. Liên danh của Đảng Đồng bạc xanh không có tác động lớn đến kết quả của cuộc bầu cử do chỉ thu hút dưới 1% số phiếu phổ thông, dù vậy, Cooper là ứng cử viên tổng thống của đảng thứ ba có kết quả tốt nhất kể từ John Bell vào năm 1860. Cuộc bầu cử năm 1876 là cuộc bầu cử cuối cùng được tổ chức trước khi Kỷ nguyên Tái thiết, nhằm bảo vệ quyền của người Mỹ gốc Phi thường ủng hộ Đảng Cộng hòa ở miền Nam, chấm dứt. Không một bang nô lệ nào trước Nội chiến được thắng bởi một đảng viên Cộng hòa cho đến năm 1896, khi William McKinley thắng Delaware, Maryland, West Virginia và Kentucky. Không có ứng cử viên tổng thống nào của Đảng Cộng hòa cho đến Warren G. Harding vào năm 1920 sẽ thắng bất kỳ bang nào đã từng ly khai và gia nhập Liên minh miền Nam. Năm đó, Harding thắng Tennessee, nơi chưa từng bị quân đội liên bang chiếm đóng và đã được "tái thiết" hoàn toàn trước cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên trong Kỷ nguyên Tái thiết (1868). Không có bang miền Nam nào từng trải qua thời gian dài bị quân đội liên bang chiếm đóng được thắng bởi một đảng viên Cộng hòa cho đến Herbert Hoover vào năm 1928, khi ông thắng Texas, Florida, North Carolina và Virginia, và do đó, đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà ứng cử viên đảng Cộng hòa giành được Louisiana cho đến năm 1956, khi Dwight D. Eisenhower giành chiến thắng tại đây, và cũng là lần cuối cùng ứng cử viên Đảng Cộng hòa giành được Nam Carolina cho đến năm 1964, khi Barry Goldwater giành được. Lần tiếp theo hai bang đó bỏ phiếu chống Đảng Dân chủ là lần họ ủng hộ ứng cử viên của "Dixiecrat " Strom Thurmond vào năm 1948.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Mặc dù năm 1876 đánh dấu cuộc bầu cử hai đảng cạnh tranh cuối cùng ở miền Nam trước khi Đảng Dân chủ thống trị nơi đây cho đến năm 1948 và là lần cạnh tranh tại các bang vùng biên cuối cho đến năm 1896, ngoài ra, đây cũng là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng (tính đến năm 2020) mà Đảng Dân chủ giành chiến thắng tại các quận ủng hộ Liên bang thời Nội chiến sau: Quận Mitchell, Bắc Carolina; Quận Wayne, Tennessee; Quận Henderson, Tennessee và Quận Lewis, Kentucky. Hayes cũng là tổng thống duy nhất của Đảng Cộng hòa từng đắc cử mà không thắng được Indiana, và là người đầu tiên giành chiến thắng mà không thắng New York và Connecticut. Kết quả theo bang. Nguồn: Dữ liệu từ , "Presidential ballots, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57. Bang sít sao. Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (7 phiếu đại cử tri) Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (164 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (33 phiếu đại cử tri): Liên kết ngoài. Thời kỳ tái thiết
Giáo phận Uijeongbu
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821584
Giáo phận Uijeongbu (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm các thành phố Goyang, Guri, Namyangju, Dongducheon, Yangju, Uijeongbu, Paju, và huyện Yeoncheon thuộc tỉnh Gyeonggi ở Hàn Quốc. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ ở thành phố Uijeongbu, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 81 giáo xứ. Lịch sử. Giáo phận được thành lập vào ngày 24/6/2004 theo tông sắc "Animarum saluti" của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trên phần lãnh thổ tách ra từ Tổng giáo phận Seoul. Giám mục quản nhiệm. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Thống kê. Đến năm 2020, giáo phận có 315.620 giáo dân trên dân số tổng cộng 3.110.370, chiếm 10,1%.
Giáo phận Daejeon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821586
Giáo phận Daejeon (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Lãnh đạo đương nhiệm của giáo phận là Giám mục Augustinô Kim Jong-soo. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm đô thị Daejeon và tỉnh Chungcheong Nam ở Hàn Quốc. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở thành phố Uijeongbu, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 143 giáo xứ. Lịch sử. Hạt Đại diện Tông tòa Daejeon được thành lập vào ngày 23/6/1958 theo tông sắc "Sacro suadente" của Giáo hoàng Piô XII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Seoul (hiện là Tổng giáo phận Seoul). Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Fertile Evangelii semen" của Giáo hoàng Gioan XXIII. Nel 2014 Giáo hoàng Phanxicô đã đến thăm giáo phận khi tham dự Ngày hội Giới trẻ Á châu lần thứ VI. Giám mục quản nhiệm. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Thống kê. Đến năm 2021, giáo phận có 335.972 giáo dân trên dân số tổng cộng 3.934.539, chiếm 8,5%.
Amanda Lee
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821597
Amanda Lee (sinh ) là một nữ phi công thuộc Hải quân Hoa Kỳ. Cô được tuyển chọn vào tháng 6 năm 2022 khi là nữ phi công đầu tiên trong phi đội biểu diễn máy bay tiêm kích Blue Angels. Lee ra mắt lần đầu với tư cách là phi công thử nghiệm cánh trái trên chiếc máy bay phản lực số ba vào ngày 11 tháng 3 năm 2023, tại El Centro, California. Cô dùng tín hiệu gọi là "Stalin". Đầu đời. Lee sinh ra tại Mounds View, Minnesota, cô tốt nghiệp trường trung học Irondale ở Minnesota năm 2004. Cô chơi nhiều môn thể thao khi còn học trung học như: khúc côn cầu trên băng, bóng đá và bơi lội. Cô theo học tại Đại học Minnesota Duluth và tuyển vào Hải quân Hoa Kỳ. Năm 2007, cô tốt nghiệp tại Đội quân Huấn luyện Tân binh, Great Lakes, Illinois. Năm 2013, cô tốt nghiệp Đại học Old Dominion với tấm bằng cử nhân hóa sinh. Sự nghiệp. Sau khi tuyển vào Hải quân Hoa Kỳ, Lee là kỹ thuật viên điện tử hàng không. Năm 2013, cô trở thành sĩ quan và được đào tạo thành phi công hải quân tại Trạm Hàng không Hải quân Pensacola ở Florida. Năm 2016, cô trở thành phi công hải quân. Sau đó cô được chỉ định đến tàu sân bay USS "Harry S. Truman" để hỗ trợ Chiến dịch Quyết tâm Vốn có. Trong thời gian huấn luyện cô thực hiện thành công 225 lần hạ cánh xuống tàu sân bay và 1.400 giờ bay. Cô được trao bốn Huy chương Thành tích Hải quân cùng các phần thưởng cá nhân và đơn vị khác. Blue Angels. Vào tháng 7 năm 2022, Lee trở thành nữ phi công biểu diễn đầu tiên gia nhập Blue Angels. Vào tháng 9 năm 2022, cô được chọn là "Đấu sĩ" của Phi đội Tiêm kích (VFA) 106, căn cứ tại Trạm Hàng không Hải quân Oceana ở Virginia. Cô điều khiển chiếc máy bay F/A-18E và F/A-18F Super Hornet. Lee biểu diễn lần đầu khi là phi công thử nghiệm cánh trái với Blue Angels diễn ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2023, tại El Centro, California. Cô biểu diễn trước sự chứng kiến của khoảng 100.000 khán giả tại Triển lãm hàng không MCAS Beaufort vào ngày 22 và 23 tháng 5 năm 2023. Lee được cổ vũ tại buổi biểu diễn trong cả hai ngày khi bước vào buồng lái trong chiếc máy bay số ba của cô.
Backnang
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821598
Backnang (;) là một thị trấn nằm trong bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart khoảng về phía đông bắc.
Dendrochirus barberi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821600
Dendrochirus barberi là một loài cá biển thuộc chi "Dendrochirus" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1900. Từ nguyên. Từ định danh "barberi" được đặt theo tên của thuyền trưởng Barber, người đã tìm thấy mẫu định danh của loài cá này trong chuyến đi từ Honolulu đến Cape Horn. Phân bố và môi trường sống. "D. barberi" là loài đặc hữu của quần đảo Hawaii và đảo Johnston. Loài này thường sống dưới các mỏm đá trong đầm phá và rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 134 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "D. barberi" là 16,5 cm. Loài này có màu nâu cam hoặc nâu lục, nhiều vạch sọc đen. Các vây nhiều chấm cam. So về kiểu hình thì "D. barberi" gần giống nhất với "Dendrochirus tuamotuensis", một loài đặc hữu của Tuamotu. "D. barberi" được xếp vào phức hợp loài "Dendrochirus brachypterus", với số lượng vảy cá trên hàng ngang thường là 51, nhiều hơn hẳn so với 39–49 ở các loài còn lại trong phức hợp. Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 8–10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5; Số tia vây ngực: thường là 18. Sinh thái. "D. barberi" ẩn mình trong các kẽ đá và hang hốc vào ban ngày. Giá trị. "D. barberi" xuất hiện trong ngành buôn bán cá cảnh.
Fellbach
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821601
Fellbach () là thị trấn lớn thứ hai của huyện Rems-Murr-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Kernen im Remstal
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821602
<templatestyles src="Module:Infobox/styles.css"></templatestyles> Kernen im Remstal là một thị xã nằm ở huyện Rems-Murr, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Schorndorf
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821604
Schorndorf là một thị trấn thuộc huyện Rems-Murr-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart khoảng 26 km về phía đông.
Waiblingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821605
Waiblingen (; Swabia: "Woeblinge") là thị trấn lớn nhất và là thủ phủ của huyện Stuttgart. Nơi đây nằm ở trung tâm của vùng Stuttgart, tây nam nước Đức.
Welzheim
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821606
Welzheim là một thị trấn thuộc huyện Rems-Murr, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart 35 km về phía đông và cách Schwäbisch Gmünd 15 km về phía tây bắc.
Winnenden
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821607
Winnenden (tiếng Swabia: "Wẽnnede") là một thị trấn nhỏ nằm ở huyện Rems-Murr, thuộc bang Baden-Württemberg, tây nam nước Đức.
Concerto cho 2 cello (Vivaldi)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821608
Concerto cho hai cello cung sol thứ, RV 531 là một tác phẩm của nhà soạn nhạc Antonio Vivaldi. Đây là một bản concerto cho hai đàn cello, dàn nhạc dây và bè trầm liên tục trong ba chương, được cho là sáng tác vào những năm 1720. Đây là bản concerto duy nhất của Vivaldi dành cho hai đàn cello, và chúng bắt đầu một cách khác thường với phần dẫn nhập của riêng các nhạc cụ độc tấu. Bối cảnh sáng tác. Vivaldi đã sử dụng cello như một nhạc cụ độc tấu trong một số sáng tác, đây là một xu hướng mới trong thời kỳ của ông. Nhà soạn nhạc đã sáng tác 27 bản concerto cho cello, dàn nhạc dây và bè trầm liên tục. Trong số các concerto dành cho cello này, RV 531 là bản duy nhất dành cho hai cello. Vivaldi đã có thể đã sáng tác bản concerto vào những năm 1720 ở Venezia. Một bản thảo âm nhạc đã được tìm thấy trong Bộ sưu tập Renzo Giordano tại Thư viện Quốc gia ở Torino, nơi lưu giữ nhiều bộ sưu tập cá nhân của Vivaldi. Cấu trúc. Bản concerto có cấu trúc gồm 3 chương: Chương đầu tiên không bắt đầu với dàn nhạc đánh phần ritornello thông thường, mà chỉ với hai nghệ sĩ độc tấu lao vào đánh và mô phỏng nét nhạc của nhau một cách nhanh chóng với những đoạn nhạc ngắn trổ kỹ thuật của các nghệ sĩ độc tấu. Cả hai nghệ sĩ độc tấu đều bình đẳng, lần đầu đối đáp nhau mà không có bè nào cao hơn. Karl Heller nhấn mạnh rằng "âm vực tối của hai nhạc cụ có tông trầm hoàn toàn phù hợp với biểu cảm nghiêm túc, không có chút phô trương kỹ thuật điêu luyện nào". Ông nói thêm rằng:Trong chương 2 được Vivaldi đề nhịp điệu là Adagio, hai nghệ sĩ độc tấu và nghệ sĩ cello đệm liên tục tạo thành một bộ ba, để có âm thanh dải trầm thậm chí còn vang rộng hơn. Chương cuối cùng Allegro bắt đầu với "sự đảo phách khác thường lôi cuốn" trong dàn nhạc, trước khi các nghệ sĩ độc tấu tham gia "màn nhào lộn theo nhạc". Chương này chứa một phần fugal bắt đầu bởi cello độc tấu số hai. Nhà âm nhạc học Michael Talbot đã nhấn mạnh đến "nội dung cảm xúc mãnh liệt" của bản concerto được thể hiện ngay từ đầu và cho thấy được "một nỗi buồn gần như mang tính chất tự truyện" trong chương chậm.
Concerto cho 2 cello (Vivaldi)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821608
Ông nhận định phần cuối "điên cuồng" có nhịp điệu và âm sắc giống nhau và tóm tắt lại ""đây là một bản concerto nổi bật trong số hàng trăm bản mà Vivaldi đã viết"." Thu âm. Mã Hữu Hữu và Jonathan Manson đã thu âm bản concerto vào tháng 11 năm 2003.
Spiegelberg
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821609
Spiegelberg là một thị xã nằm ở huyện Rems-Murr, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Ty Barnett
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821610
Ty Kimoni Barnett (sinh ngày 19 tháng 7 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers. Sự nghiệp. Ngày 15 tháng 8 năm 2023, Barnett gia hạn hợp đồng với Wolves đến mùa hè năm 2026.
Weissach im Tal
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821611
Weissach im Tal là một thị xã ("Gemeinde") nằm ở huyện Rems-Murr-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Ga Sungui
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821613
Ga Sungui (Tiếng Hàn: 숭의역, Hanja: 崇義驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở Sungui-dong, Michuhol-gu, Incheon. Ban đầu nó được khai trương vào năm 1937 và bị bãi bỏ vào năm 1973, và tại thời điểm bị bãi bỏ, tên là Ga Namincheon (남인천역). Tên ga phụ của Ga Sungui là Bệnh viện Đại học Inha và gần đó có bệnh viện trực thuộc Trường Y Đại học Inha.
Sameer Zuberi (bác sĩ)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821614
Sameer Zuberi là một bác sĩ tại Bệnh viện Hoàng gia cho Trẻ em bị Bệnh ở Glasgow, Scotland, và là Chủ tịch danh dự về Thần kinh Nhi khoa (Trường Y, Nha khoa & Điều dưỡng) tại Đại học Glasgow. Ông cũng là biên tập viên của tạp chí học thuật xuất bản nửa tháng một lần "European Journal of Paediatric Neurology" và từng là chủ tịch của Hội Thần kinh Nhi khoa châu Âu. Ông đã nhận được Giải thưởng Đại sứ vì bệnh động kinh của Liên đoàn Quốc tế Chống Động kinh.
Yevhen Zubeyko
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821615
Yevhen Anatoliyovych Zubeyko (; sinh ngày 30 tháng 9 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người Ukraina thi đấu ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ bóng đá Đức Eintracht Emseloh.
Túc tý thập nhất mạch cứu kinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821618
Túc tý thập nhất mạch cứu kinh (), tên tiếng Anh là Cauterization Canon of the Eleven Vessels of the Foot and Forearm, là một văn bản y học cổ của Trung Quốc được khai quật vào năm 1973 từ một ngôi mộ ở khu lăng mộ Mã Vương Đôi được niêm phong vào năm 168 trước Công nguyên, dưới thời nhà Hán. Văn bản này được chép tay lại bằng triện thư vào khoảng năm 215 trước Công nguyên, dưới triều đại nhà Tần, trên cùng một tấm giấy từ vải lụa với một văn bản y học khác có tên là "Ngũ thập nhị bệnh phương". "Túc tý thập nhất mạch cứu kinh" mô tả đường đi của 11 mạch bên trong cơ thể và giải thích cách thực hiện biện pháp đốt để điều trị các bệnh liên quan đến mỗi mạch.
Ga đại học Inha
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821621
Ga Đại học Inha (Tiếng Hàn: 인하대역, Hanja: 仁荷大驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở Yonghyeon-dong, Michuhol-gu, Incheon. Ban đầu có tên là Ga Yonghyeon (용현역), đây là một sân ga tạm thời bắt đầu hoạt động vào năm 1965 và đóng cửa vào năm 1973. Vào tháng 8 năm 1969, tuyến đường sắt giữa Ga Songdo và Ga Yonghyeon bị hỏng do mưa lớn.
Quận Trung Tâm (Địa hạt Qom)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821622
Quận Trung Tâm của Địa hạt Qom () thuộc tỉnh Qom, Iran. Thành phố thủ phủ là Qom. Tại cuộc Thống kê Quốc gia năm 2006, dân số được thống kê là 988,462 người trong 248,913 hộ gia đình. Cuộc khảo sát thống kê tiếp theo vào năm 2011 thống kê được 1,102,921 người trong 306,395 hộ gia đình. Tại cuộc khảo sát mới nhất vào năm 2016, quận này có 1,235,485 người cư trú trong 365,662 hộ gia đình.
Azmin Azram Abdul Aziz
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821628
Azmin Azram Abdul Aziz (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1976) là một cựu cầu thủ bóng đá người Malaysia hiện đang là huấn luyện viên thủ môn của câu lạc bộ Công an Hà Nội tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam. Ông đã từng đại diện cho 4 đội bóng của bang và một câu lạc bộ trong sự nghiệp của mình. Bên cạnh đó, ông cũng đại diện cho đội tuyển Malaysia từ năm 1998 đến năm 2004. Sự nghiệp thi đấu. Trẻ. Azmin bắt đầu sự nghiệp tại đội trẻ của câu lạc bộ Kuala Lumpur FA. Quốc tế. Năm 2002, Azmin gọi được triệu tập lên đội tuyển Malaysia, chuẩn bị cho trận đấu giao hữu quốc tế với đội bóng đã từng năm lần vô địch World Cup, Brasil. Ông được lựa chọn trong đội hình xuất phát, đối đầu với các ngôi sao của Brasil, như Ronaldo và Ronaldinho. Ông được dẫn dắt bởi cựu thủ môn Malaysia, Abdul Rashid Hassan và Lim Chuan Chin. Dưới sự dẫn dắt của bộ đôi này, Azmin đã trở thành sự lựa chọn số 1 trong khung gỗ của Malaysia từ năm 2002 đến năm 2004 trước khi vị trí của anh được nhường lại cho Mohd Syamsuri Mustafa. Giải nghệ. Ở tuổi 30, ông đã quyết định giải nghệ sau khi dính chấn thương đầu gối. Sự nghiệp huấn luyện viên. Kể từ đó, ông trở thành huấn luyện viên thủ môn và tuyển trạch viên tài năng tại Hội đồng thể thao quốc gia của Malaysia. Danh hiệu. Kuala Lumpur Selangor Pahang Malaysia
Crespéou
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821637
Crespéou () là một món bánh mặn có nguồn gốc xuất xứ từ vùng Provence. Chúng được làm từ trứng ốp lết, kết hợp với các loại thảo mộc và rau xếp thành từng lớp. Món ăn này có thể ăn nguội, đôi khi ăn kèm với cà chua. Về phần công thức, dường như nó có nguồn gốc từ Avignon và Haut-Vaucluse (Piolenc và Orange), đã trở nên phổ biến khắp quận Venaissin, vùng Provence và vùng nông thôn xung quanh Nice. Xuất xứ. Tên gọi của món ăn bắt nguồn từ "crespèu", một dạng của từ tiếng Pháp "crêpe" trong tiếng Occitan. Tương tự như fougasse, "crespèu" ở Occitania có nhiều biến thể. Món ăn này còn được gọi là "trouchia" hay "omelette à la moissonneuse". Cái tên thứ hai gợi ý rằng nó có nguồn gốc là một món ăn được chế biến theo truyền thống cho công việc đồng áng và đặc biệt cho mùa thu hoạch. Hương vị và màu sắc. Món ăn thường được nướng và úp mặt. Nó bao gồm tối thiểu ba hoặc bốn lớp trứng tráng có màu sắc khác nhau, thường được cho bởi cà chua đỏ, cà rốt màu cam, rau bina xanh hoặc củ cải và ô liu đen. Ớt, với sự đa dạng về màu sắc của chúng cũng cho phép tạo ra bánh crespéou nhiều màu. Một số chế phẩm sử dụng xúc xích hoặc cá thái lát để có lớp màu be. Ở Nice, luôn có món trứng tráng làm từ sườn củ cải. Có thể dùng các loại rau khác như bí xanh, cà tím, hành tây hoặc húng quế. Việc kết hợp món ăn với rượu. Theo truyền thống, bánh crespéou không nhất thiết phải đi kèm với rượu. Tuy nhiên, với hương vị cực kỳ dễ nhận biết của món ăn, nó có thể kết hợp với rượu vang hồng được chứng nhận có nguồn gốc (AOC) từ Côtes du Roussillon hoặc Coteaux d'Aix-en-Provence.
Cộng hòa Nhân dân Nội Mông
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821642
Cộng hòa Nhân dân Nội Mông là một cựu quốc gia ở Nội Mông được thành lập ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhà nước này tồn tại từ ngày 9 tháng 9 năm 1945 đến ngày 6 tháng 11 năm 1945.
Lý Trinh (nhà Minh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821648
Lý Trinh (chữ Hán: 李贞, 1303 – 1378) là ngoại thích nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh rể của Minh Thái Tổ và là phò mã đầu tiên của nhà Minh. Cuộc đời. Nhà họ Lý định cư 4 đời ở huyện Hu Dị, phủ Tứ Châu, hành tỉnh Giang Tô , về sau chuyển đến Đông Hương thuộc Lâm Hoài . Trinh lấy con gái thứ của người Hào Châu là Chu Thế Trân làm vợ. Cuối đời Nguyên loạn lạc, Trinh thấy người trong làng mở rộng ruộng vườn, gom góp tài sản, thì than rằng: “Giờ là khi nào, mà còn muốn làm phú ông vậy?” Trinh quyên góp gia sản, mổ bò lợn, bày rượu thịt, hẹn với đồng hương sẽ tương trợ lẫn nhau. Chưa được bao lâu, loạn binh xâm phạm, Trinh thấy Hoài Đông còn trong tay triều đình, bèn đưa cả nhà lánh đến đấy. Sau khi vợ mất (1351), Trinh bèn đưa con trai Lý Văn Trung đi tìm em vợ là Chu Nguyên Chương. Hai cha con di chuyển trong chiến loạn, màn trời chiếu đất, mấy lần suýt chết, đêm ngày cầu khấn. Tháng 12 ÂL năm 1353, hai người gặp Chu Nguyên Chương ở Trừ Dương, được đối đãi trọng hậu. Khi Văn Trung coi giữ Nghiêm Châu (1358), Trinh cũng rời phủ Ứng Thiên đến đấy. Văn Trung nhiều lần đem quân chinh chiến, đều ủy quyền quân vụ cho Trinh. Năm 1365, quân đội của Trương Sĩ Thành từ Ô Thạch Sơn xâm phạm Nghiêm Châu và Chư Kỵ, trải qua 2 tháng không lui, khiến lòng người chẳng yên. Trinh lại nắm quân vụ, để Văn Trung đi dẹp. Sau 6 ngày, Văn Trung thắng lợi trở về, Nghiêm Châu lại yên. Năm 1366, Chu Nguyên Chương phát động chiến dịch bình định Trương Sĩ Thành, hạ lệnh cho Văn Trung tham gia tấn công Hàng Châu. Văn Trung đem tất cả quân thủy bộ cùng tiến, chiếm được Đồng Lư, đưa tù binh về Nghiêm. Tù binh thấy Nghiêm Châu không còn tinh binh, mưu tính nổi dậy để bỏ trốn. Trinh bèn thết đãi bọn họ, chuốc say rồi trói lại, gởi về Ứng Thiên. Chu Nguyên Chương khen ngợi, cho Trinh nhận lễ nghi như tử tước. Bình xong lưỡng Chiết, Văn Trung được trấn thủ Hàng Châu, Trinh lại đến ở cùng con trai.
Lý Trinh (nhà Minh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821648
Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi, là Minh Thái Tổ, phong Trinh làm Ân thân hầu. Năm 1370, đế ban cho Trinh trạch đệ ở phía tây cầu Huyền Tân, cửa Tây Hoa, Nam Kinh. Trinh rời Hàng Châu về Nam Kinh, được gia làm Đặc tiến Vinh lộc đại phu, Phò mã đô úy, Hữu Trụ quốc, Tào quốc công. Trinh đã lớn tuổi, được nhận sắc miễn vào chầu, vái lạy không xưng tên. Đế thường đến thăm nhà, còn ở lại ăn cơm tối. Thái tử và các vương cũng thường thăm viếng dượng. Năm 1378, Trinh phát bệnh, không nói được nữa. Đế nghe tin cả sợ, lập tức đến thăm, cầm tay Trinh hỏi rằng: “Còn nhận ra trẫm không?” Trinh ngước nhìn mà khóc, đế cũng chảy nước mắt không ngừng. Một lúc sau, đế quay về cung, liên tục sai sứ giả hỏi han. Trinh mất, hưởng thọ 76 tuổi. Đế thương tiếc, nghỉ chầu 3 ngày, đích thân đến viếng, truy phong Lũng Tây vương, đặt thụy là Cung Hiến. Tháng 12 ÂL, Trinh được đưa về chôn cất ở huyện Hu Dị, bên cạnh mộ vợ, chi phí tang sự đều được chu cấp. Ngày đưa tang, đế tiễn đến cửa tây, trèo lên lầu thành để trông theo. Tính cách. Trinh tính hiếu thuận, khiêm nhường và cẩn thận. Cha mất sớm, mẹ tính nghiêm khắc, hễ trái ý thì lập tức trách mắng. Gặp lúc mẹ nổi giận ném thức ăn xuống đất, Trinh nhặt lên để ăn như thường, càng tỏ ra cung kính hơn. Trinh có 4 em trai, đòi chia tài sản ra ở riêng, ông sợ mẹ không vui nên không đồng ý. Về sau Trinh quý hiển, họ hàng có ai lưu lạc bên ngoài, Trinh đều xin mẹ thu nhận kẻ ấy. Bình sanh Trinh ăn mặc tiết kiệm, thức ăn chỉ vừa đủ, áo rách thì vá lại, luôn nói: “Giàu sang quên nghèo hèn, quân tử không làm vậy.” Vật dụng được ngự ban, Trinh không hề tùy tiện dùng đến. Lý Văn Trung có công lớn, Trinh không lấy làm kiêu ngạo. Khi Văn Trung ở nhà, Trinh không khoe khoang; khi anh ta chinh chiến, ông không buồn phiền. Gia đình ngày càng thịnh vượng, Trinh lấy làm lo lắng, thường xuyên răn đe con cháu. Gia đình.
Lý Trinh (nhà Minh)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821648
Gia đình. Nhờ công lao của Lý Văn Trung, 3 đời tiền nhân của Trinh được truy tặng quan tước: Vợ đầu là Hiếu Thân Tào quốc trưởng công chúa Chu Phật Nữ, vợ kế là Trần thị, được truy phong Thục Đức phu nhân. Chu Phật Nữ sanh ra 2 con trai, con trai cả mất sớm, con trai nhỏ là Lý Văn Trung, sử cũ có truyện.
Abdullah Al-Zubi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821663
Abdullah Fayiz Al-Zubi (; sinh ngày 8 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá Jordan hiện thi đấu ở vị trí thủ môn cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan. Sự nghiệp quốc tế. Al-Zubi lần đầu tiên gia nhập đội tuyển quốc gia Jordan tại Đại hội thể thao Toàn Ả Rập 2011 nhưng đã không ra sân trong trận đấu nào. Anh ra sân trong màu áo đội tuyển quốc gia vào ngày 10 tháng 12 năm 2012, trong trận đấu gặp Iraq thuộc khuôn khổ Giải vô địch WAFF 2012, trận đấu mà đội của anh để thua 1-0.
Assad al Zubi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821665
Assad al Zubi () (sinh năm 1956) là một tướng lĩnh của Quân đội Syria Tự do người Sunni, đã đào thoát khỏi Quân đội Syria để gia nhập Quân đội Syria Tự do. Ông theo học tại Học viện Không quân Syria năm 1974, tốt nghiệp năm 1977 với cấp bậc trung úy và sau đó được thăng lên thành thiếu tướng. Ông cũng từng làm cố vấn quân sự ở Yemen trong hơn hai năm. Ông hiện đang giữ chức vụ lãnh đạo trong Mặt trận phía Nam. Trước khi đào ngũ, ông phục vụ trong Lực lượng Không quân Ả Rập Syria và là người đứng đầu nhánh không quân của Học viện Quân sự Tối cao Syria. Vào tháng 1 năm 2016, al-Zubi được bổ nhiệm làm Trưởng đoàn phái đoàn đối lập tham dự hội nghị Geneva lần thứ 3 về tương lai của Syria.
Musa Al-Zubi
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821671
Musa Khaled Ismail Al-Zubi (; sinh ngày 11 tháng 2 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Jordan thi đấu ở vị trí hậu vệ trái cho câu lạc bộ Jordan Al-Salt.
Cobalt(II) stearat
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821675
Cobalt(II) stearat là một hợp chất hữu cơ của cobalt và acid stearic với công thức hóa học Co(C17H35COO)2. Hợp chất này được xếp vào loại xà phòng kim loại, tức là dẫn xuất kim loại của một acid béo. Điều chế. Phản ứng trao đổi của natri stearat và cobalt(II) chloride sẽ tạo ra cobalt(II) stearat. Tính chất vật lý. Cobalt(II) stearat tạo thành chất rắn màu tím, dưới dạng tinh thể. Hợp chất không tan trong nước. Ứng dụng. Cobalt(II) stearat là chất kết dính tốt cho cao su. Hợp chất này thích hợp để sử dụng trong cao su tự nhiên, cisdene, styren-butadien. Các hợp chất của chúng dễ dàng liên kết với dây thép mạ đồng, kẽm hoặc các tấm kim loại, thép trần khác nhau, để liên kết với các lớp mạ đồng thau khác nhau về độ dày.
Mark Wiens
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821677
Mark Wiens (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1986) là một blogger, vlogger, YouTuber người Mỹ, người dẫn chương trình truyền hình và chủ của nhà hàng có trụ sở tại Băng Cốc, Thái Lan. Đời tư. Wiens sinh ra ở Phoenix, Arizona trong một gia đình theo đạo Cơ đốc. Anh là người gốc Đức và Trung Quốc. Anh đã sống cùng gia đình ở Pháp, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Nairobi, Kenya. Anh theo học tại trường Đại học Arizona State, tốt nghiệp năm 2008 với bằng Cử nhân Nghiên cứu Toàn cầu. Sau khi tốt nghiệp, Wiens đi du lịch khắp Nam Mỹ và trở thành giáo viên dạy tiếng Anh ở vùng núi Patagonia. Trong khi dạy tiếng Anh ở Thái Lan, Wiens đã gặp vợ của mình, Ying, và sau đó họ có một người con trai sinh năm 2016. Sự nghiệp. Wiens được nhiều người coi là một trong những vlogger ẩm thực nổi tiếng trên thế giới. Wiens đã xem Anthony Bourdain khi còn là một học sinh và gọi ông là người tiên phong. Năm 2009, Wiens sáng lập ra trang web Migrationology.com, trang web cá nhân của anh về ẩm thực. Vào năm 2012, anh đã xuất bản một cuốn sách điện tử, với tiêu đề "Eating Thai Food Guide", và bỏ việc để bắt đầu viết blog và làm video YouTube toàn thời gian. Các video vlog du lịch của Wiens ghi lại các chuyến thăm của anh tới hàng chục quốc gia. Anh đã được tờ New York Magazine, CNN và Andrew Zimmern giới thiệu như là một chuyên gia về ẩm thực Thái Lan. Năm 2019, Wiens, cùng với blogger ẩm thực người Thái Lan, Khun Tan, nhà thiết kế và diễn viên Khun Pongthep, Gigg (Đầu bếp và Quán quân Iron Chef Thái Lan) mở một nhà hàng có tên là เผ็ดมาร์ค (Phed Mark), đặt trụ sở ở Băng Cốc, chuyên về món phat kaphrao. Năm 2020, Wiens phối hợp với công ty du lịch Bangkokvanguards có trụ sở tại Băng Cốc, ra mắt "The Ultimate Bangkok Food Tour". Năm 2022, Wiens đã được công bố là người dẫn chương trình "Food Affair with Mark Wiens" trên kênh HBO châu Á. Series chương trình đã được thực hiện với sự hợp tác của Tổng cục Du lịch Singapore, tập trung vào nền ẩm thực Singapore.
Lâu đài Dover
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821681
Lâu đài Dover (tiếng Anh: "Dover Castle") là một lâu đài thời trung cổ ở Dover, Kent, Vương quốc Anh và được xếp hạng I. Nó được xây dựng vào thế kỷ XI, và được mô tả là "Chìa khóa của nước Anh" ("Key to England") do ý nghĩa phòng thủ của nó trong suốt lịch sử. Một số tác giả cho rằng đây là lâu đài lớn nhất ở Anh, danh hiệu này cũng được Lâu đài Windsor tuyên bố. Lịch sử. Thời kỳ đồ sắt. Địa điểm này có thể đã được phòng thủ bằng các công trình đào đắp vào Thời đại đồ sắt hoặc sớm hơn, trước khi người La Mã xâm lược vào năm 43 sau Công nguyên. Điều này được gợi ý dựa trên mô hình bất thường của các công trình đào đắp dường như không phù hợp hoàn hảo cho lâu đài thời trung cổ. Các cuộc khai quật đã cung cấp bằng chứng về các công sự của Thời đại đồ sắt trong khuôn viên của lâu đài, nhưng không chắc liệu điều này có liên quan đến pháo đài trên đồi hay không. Thời La Mã. Địa điểm này cũng có một trong hai ngọn hải đăng La Mã (hay pharoses) của Dover, một trong ba ngọn hải đăng thời La Mã còn sót lại trên thế giới, và là công trình kiến trúc La Mã đứng cao nhất và hoàn thiện nhất ở Anh. Nó cũng được cho là tòa nhà lâu đời nhất của Anh. Được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ II, tòa tháp 5 tầng 8 mặt được làm từ các lớp tufa, đá vụn Kentish và gạch đỏ. Ngọn hải đăng của lâu đài vẫn tồn tại sau khi được chuyển đổi thành tháp chuông vào thời Saxon (c. 1000), có thêm một lớp trên mới (c. 1430) và được cải tạo một phần vào năm 1913–1915. Phần còn lại ít ỏi của ngọn hải đăng La Mã khác, được gọi là Bredenstone hoặc Devil's Drop of Mortar, nằm ở Western Heights, đối diện thị trấn Dover. Ngọn hải đăng La Mã tại Boulogne-sur-Mer bên kia eo biển Manche đã tồn tại qua nhiều thế kỷ và lẽ ra ánh sáng của nó phải được nhìn thấy từ Dover. Nó được xây dựng vào khoảng năm 39 sau Công nguyên theo lệnh của Hoàng đế Caligula, có thể là để chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh. Suetonius đề cập đến việc Caligula "dựng một ngọn hải đăng cao, không khác gì ngọn hải đăng ở Pharos, trong đó ngọn lửa được duy trì suốt đêm để dẫn đường cho tàu bè".
Lâu đài Dover
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821681
Được gọi là Tour d'Ordre, sự xói mòn bờ biển đã dẫn đến việc nó đổ xuống biển vào năm 1644. Các bản khắc về chiều cao của nó có thể cho thấy ngọn hải đăng La Mã Dover từng trông như thế nào.
Samari(II) chloride
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821683
Samari(II) chloride (công thức hóa học: SmCl2) là một hợp chất vô cơ, được sử dụng làm tác nhân tạo gốc trong phản ứng xen kẽ qua trung gian keton. Điều chế. Khử samari(III) chloride bằng samari kim loại trong chân không ở nhiệt độ 800 °C đến 900 °C, hoặc với khí hydro ở 350 °C sẽ tạo ra samari(II) chloride: Samari(II) chloride cũng có thể được điều chế bằng cách khử samari(III) chloride với kim loại liti/naphtalen trong THF: Một phản ứng tương tự có thể thực hiện với muối natri. Cấu trúc. Samari(II) chloride có cấu trúc giống PbCl2 (cotunnit).
Giáo phận Chuncheon
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821685
Giáo phận Chuncheon (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma tại Triều Tiên. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul, với tòa giám mục đặt tại tỉnh Gangwon, Hàn Quốc. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm: Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm ở thành phố Chuncheon, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 62 giáo xứ. Lịch sử. Hạt Phủ doãn Tông tòa Shunsen được thành lập vào ngày 25/4/1939 theo tông sắc "Ad fidei propagationem" của Giáo hoàng Piô XI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Seoul (hiện là Tổng giáo phận Seoul). Vào ngày 16/7/1950 Hạt Phủ doãn Tông tòa đã đổi tên thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Ch'unch'on. Vào ngày 20/9/1955 Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa theo tông sắc "Etsi sancta Ecclesia" của Giáo hoàng Piô XII. Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Fertile Evangelii semen" của Giáo hoàng Gioan XXIII. Vào ngày 22/3/1965 một phần lãnh thổ của giáo phận được tách ra để thành lập Giáo phận Wonju. Từ năm 2005 các đời Giám mục chính tòa Giáo phận Ch'unch'on đã giữ chức Giám quản Tông tòa Giáo phận Hàm Hưng nằm trên lãnh thổ Bắc Triều Tiên. Vào ngày 9/6/2021 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại. Lãnh đạo qua từng thời kì. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.
Pfullingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821689
Pfullingen (tiếng Swabia: "Pfullenga") là một thị trấn thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Reutlingen 3 km về phía đông nam.
Engstingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821690
Engstingen là một thị xã thuộc vùng hành chính Tübingen ("Regierungsbezirk"), ở bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Reutlingen khoảng phía nam.
Eningen unter Achalm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821691
Eningen (tên đầy đủ Eningen unter Achalm; tiếng Swabia: "Ẽnenga ondr dr Achl") là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm dưới chân dãy núi Swabia Alps và gần các đô thị lớn Reutlingen và Stuttgart.
Gomadingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821694
Gomadingen là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Riederich
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821697
Riederich là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg của Đức. Có dân số 4300 người, nơi đây nằm cách Stuttgart khoảng 30 km.
Hohenstein (Reutlingen)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821699
Hohenstein là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Römerstein
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821700
Römerstein là một thị xã nằm ở bang Baden-Württemberg, Đức.
Sonnenbühl
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821701
Sonnenbühl là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
St. Johann (Reutlingen)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821703
St. Johann là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg của Đức. Phần lớn diện tích (44,2%) địa phương này nằm trong Khu dự trữ Sinh quyển Swabian Alb của UNESCO.
Walddorfhäslach
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821704
Walddorfhäslach là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg của Đức.
Wannweil
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821706
Wannweil là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm giữa các đô thị Reutlingen và Tübingen, cách Reutlingen 5 km về phía tây bắc.
Zwiefalten
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821707
Zwiefalten là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức.
Trochtelfingen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821708
Trochtelfingen là một thị trấn thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Reutlingen 20 km về phía nam.
Romeo and Juliet (phim 1968)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821709
Romeo and Juliet () là một bộ phim điện ảnh cổ trang công chiếu năm 1968 dựa trên vở kịch cùng tên của William Shakespeare. Do Franco Zeffirelli làm đạo diễn kiêm đồng tác giả kịch bản, phim có sự tham gia diễn xuất của Leonard Whiting trong vai Romeo và Olivia Hussey trong vai Juliet. Laurence Olivier là người dẫn chuyện phần mở đầu và phần kết của bộ phim, đồng thời lồng tiếng cho Antonio Pierfederici, người thủ vai Lord Montague nhưng không được đề tên trên màn ảnh. Phim còn có sự tham gia của Milo O'Shea, Michael York, John McEnery, Bruce Robinson và Robert Stephens. Không chỉ là bộ phim điện ảnh chuyển thể từ vở kịch của Shakespeare thành công nhất về mặt tài chính lúc phim ra mắt, tác phẩm còn được thanh thiếu niên yêu thích một phần vì đây là bộ phim đầu tiên sử dụng các diễn viên gần tuổi các nhân vật trong nguyên tác kịch. Một số nhà phê bình cũng vô cùng tán dương bộ phim. Bộ phim đã giành giải Oscar cho Quay phim xuất sắc nhất (Pasqualino De Santis) và Thiết kế phục trang xuất sắc nhất (Danilo Donati); phim còn nhận được đề cử cho Đạo diễn xuất sắc nhất và Phim xuất sắc nhất (tính đến nay là phim gần nhất về vở kịch của Shakespeare được đề cử Phim xuất sắc nhất). Cả Whiting lẫn Hussey đều thắng giải Quả cầu vàng cho Diễn viên mới triển vọng nhất. Nội dung. Một buổi sáng mùa hè nọ ở Verona, mối thù truyền kiếp giữa gia tộc Montague và Capulet đã làm bùng phát một cuộc ẩu đả trên đường phố. Cuộc ẩu đả bị can thiệp bởi Vương chủ, ông cảnh báo cả hai gia tộc rằng bất kỳ hành vi bạo lực nào trong tương lai giữa họ sẽ phải chịu hậu quả thảm khốc. Đêm nọ, hai thiếu niên từ hai gia tộc - Romeo và Juliet - gặp nhau tại một vũ hội đeo mặt nạ Capulet và đem lòng yêu nhau. Sau đó, Romeo tình cờ bước vào khu vườn hẻo lánh dưới ban công phòng ngủ của Juliet và hai người trao nhau những lời thề nguyện say đắm. Họ bí mật kết hôn vào ngày hôm sau bởi cha giải tội, Friar Laurence (người được Romeo xem như cha mình) với sự hỗ trợ từ bà vú của Juliet. Buổi chiều nọ, Tybalt (anh họ của Juliet) tức giận vì Romeo tham dự vũ hội của gia tộc mình, lên tiếng lăng mạ anh và thách thức anh một trận đánh. Giờ đây Romeo coi Tybalt như thành viên gia đình và từ chối chiến đấu với anh ta, làm cho người bạn thân nhất của Romeo là Mercutio thay thế chiến đấu với Tybalt.
Romeo and Juliet (phim 1968)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821709
Bất chấp những nỗ lực ngăn chiến cuộc đấu của Romeo, Tybalt đã đâm trọng thương Mercutio, rồi anh này nguyền rủa cả gia tộc Montague và Capulet trước khi chết. Tức giận trước cái chết của bạn mình, Romeo trả thù bằng cách chiến đấu với Tybalt và kết liễu anh ta. Sau đó Romeo bị Vương chủ trừng phạt bằng cách trục xuất khỏi Verona, với lời đe dọa sẽ lấy mạng nếu anh tái xuất. Rồi Romeo bí mật dành đêm tân hôn của mình với Juliet, cặp đôi hoàn thành việc kết hôn và Romeo bỏ trốn. Cha mẹ của Juliet do không biết về cuộc hôn nhân bí mật của con gái họ nê đã sắp xếp cho Juliet kết hôn với Bá tước Paris giàu có. Juliet cầu xin cha mẹ hoãn cuộc hôn nhân, nhưng họ từ chối và đe dọa sẽ từ mặt cô. Juliet tìm kiếm Friar Laurence để được giúp đỡ, hy vọng thoát khỏi cuộc hôn nhân sắp đặt của mình với Paris và chung thủy với Romeo. Theo chỉ thị của Friar Laurence, cô làm hòa với cha mẹ mình và đồng ý làm theo mong muốn của họ. Vào đêm trước lễ cưới, Juliet uống một lọ thuốc do Friar Laurence chuẩn bị nhằm để cô giả chết trong 42 giờ. Friar Laurence định thông báo cho Romeo về trò lừa để Romeo có thể gặp Juliet sau khi cô được chôn cất và trốn thoát cùng cổ khi Juliet tỉnh dậy, vì vậy anh cử Friar John đưa cho Romeo một lá thư mô tả kế hoạch. Tuy nhiên, khi Balthasar (người hầu của Romeo) nhìn thấy Juliet được chôn cất và tưởng cô đã chết, anh ta đến nói với Romeo và đến gặp cậu chủ trước khi Friar John tới. Quá tuyệt vọng, Romeo đến mộ Juliet và uống thuốc độc tự vẫn. Ngay sau đó, Friar Laurence đến khi Juliet tỉnh dậy. Bất chấp những nỗ lực thuyết phục cô chạy trốn khỏi hầm mộ, Juliet không chịu rời Romeo, và khi Friar bỏ trốn, cô đã tự sát bằng cách lấy con dao găm của anh đâm vào ngực mình. Sau đó, hai gia tộc đã kết thúc mối thù của họ, tham dự đám tang chung của Romeo và Juliet và bị Vương chủ lên án. Sản xuất. Tuyển vai. Paul McCartney cho biết anh đã được Franco Zeffirelli cân nhắc cho vai Romeo. Mặc dù Zeffirelli không nhắc đến nó trong cuốn tự truyện của mình, nhưng McCartney lại cung cấp chi tiết về chuyện này (kể cả cuộc gặp gỡ với Olivia Hussey và thư trao đổi điện tín với cô) trong cuốn tự truyện mà anh đồng chắp bút.
Romeo and Juliet (phim 1968)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821709
Tháng 4 năm 2020, McCartney nhắc đến những cuộc thảo luận của anh với Zeffirelli trên "The Howard Stern Show". Zeffirelli tham gia vào cuộc tìm kiếm các diễn viên tuổi thiếu niên vô danh trên toàn cầu để thủ vai cặp tình nhân. Anjelica Huston có ý định tranh vai Juliet, nhưng cha cô là đạo diễn John Huston đã rút tên cô khỏi các ứng viên khi ông quyết định mời cô đóng trong bộ phim "A Walk with Love and Death" của ông. Leonard Whiting 16 tuổi và Hussey 15 tuổi lúc được tuyển vai, nhưng đã lần lượt sang 17 tuổi và 16 tuổi khi bộ phim bấm máy mùa hè năm 1967. Zeffirelli đã chuyển thể vở kịch theo hướng phát huy điểm mạnh và che giấu điểm yếu của họ: chẳng hạn như các bài phát biểu dài được cắt bớt và ông nhấn mạnh vào các cảnh quay phản ứng. Laurence Olivier tình cờ tham gia vào quá trình sản xuất bộ phim. Ông ở Roma để ghi hình phim "The Shoes of the Fisherman" và đến thăm trường quay đang ghi hình của "Romeo and Juliet". Ông hỏi Zeffirelli liệu mình có thể làm được gì không, và ông nhận được Đoạn mở đầu, sau đó được giao lồng tiếng cho Lãnh chúa Montague cũng như các vai phụ khác. Ghi hình. Sau khi các diễn viên đọc kịch bản vào cuối tháng 5, các buổi diễn tập và ghi hình bắt đầu vào cuối tháng 6 năm 1967 tại Tuscania, Ý, sau đó chuyển đến Pienza, Gubbio và Artena, trước khi hoàn thành tại xưởng phim Cinecittà ở Roma. Cảnh ban công nổi tiếng của Romeo và Juliet được quay ở Artena vào tháng 9 năm 1967. Phim lấy bối cảnh nước Ý thời Phục hưng thế kỷ 14. Dựng phim. Trong khâu hậu kỳ, một số cảnh bị cắt hoặc lược bớt. Hồi 5, Cảnh 3, trong đó Romeo chiến đấu và cuối cùng lấy mạng Paris ngoài hầm mộ của Juliet đã được ghi hình nhưng bị xóa khỏi bản phim cuối cùng. Theo Leonard Whiting và Roberto Bisacco, Zeffirelli cắt cảnh này vì ông thấy nó làm cho Romeo bớt gây thiện cảm một cách không cần thiết. Một cảnh khác, cảnh Romeo và Benvolio tìm hiểu về vũ hội Capulet bằng cách chặn một lời mời đã được ghi hình nhưng bị xóa bỏ; tuy nhiên, những tấm ảnh tĩnh quảng bá vẫn tồn tại. Kinh phí cuối cùng của bộ phim là 850.000 đô la Mỹ (tương đương đô la Mỹ vào năm ). Phát hành và đón nhận.
Romeo and Juliet (phim 1968)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821709
Phát hành và đón nhận. Ngày 4 tháng 3 năm 1968, "Romeo and Juliet" có buổi trình chiếu ra mắt trong Royal Film Performance và được phát hành toàn quốc tại Vương quốc Anh vào ngày hôm sau. Phim được phát hành vào ngày 8 tháng 10 năm 1968 tại Hoa Kỳ và vào ngày 19 tháng 10 tại Ý. Tác phẩm thu về 14,5 triệu đô la Mỹ từ thị trường phòng vé Bắc Mỹ trong năm 1969 (tương đương 83,4 triệu đô la Mỹ vào ). Phim được tái phát hành vào năm 1973 và thu được 1,7 triệu đô la Mỹ (tương đương 1,7 triệu đô la Mỹ vào năm ). Rotten Tomatoes chấm bộ phim số điểm "Tươi" là 95% dựa trên 41 bài phê bình, đạt điểm trung bình là 8/10, kèm theo sự nhất trí tích cực: "Diễn xuất ổn và hình ảnh bắt mắt đã làm cho "Romeo and Juliet" của Zeffirelli thành một bản chuyển thể điện ảnh chủ chốt từ vở kịch [của Shakespeare]." Roger Ebert của "Chicago Sun-Times" thì viết: "Tôi tin rằng "Romeo and Juliet" của Franco Zeffirelli là bộ phim thú vị nhất về Shakespeare từng được thực hiện." Nhạc phim. Hai đĩa nhạc nền của bộ phim do Nino Rota sáng tác đã được thực hiện. Bài nhạc hiệu "Love Theme from Romeo and Juliet " của bộ phim cực kỳ ăn khách, đáng chú ý là trong "Our Tune", một phân đoạn trong chương trình phát hành của Simon Bates. Ngoài ra, nhiều bản khác nhau của nhạc phẩm đã được thu âm và phát hành, kể cả một bản rất thành công do Henry Mancini trình bày tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1969. Kiện tụng. Bất chấp từng lên tiếng bảo vệ cảnh khỏa thân của bộ phim và khẳng định rằng nó được thực hiện một cách "có thẩm mỹ" và "cần thiết cho bộ phim", vào ngày 30 tháng 12 năm 2022, Hussey cùng với Whiting đã đệ đơn kiện Paramount Pictures tại Tòa án Cấp cao Quận Los Angeles đòi bồi thường 500 triệu đô la Mỹ, cáo buộc lạm dụng tình dục, quấy rối tình dục và lừa đảo, đồng thời cho phép Zeffirelli ghi hình khỏa thân của họ mà họ không hề hay biết. Đơn kiện cáo buộc rằng các diễn viên cảm thấy điều này khiến họ phải chịu tổn thương và đau khổ về mặt tinh thần trong nhiều thập kỷ sau thành công của bộ phim, và làm cho sự nghiệp của họ không phản ánh được thành công ấy.