title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Quang học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2696 | Có hai cách để tăng # là hoặc giảm đường kính của lỗ mở hoặc tăng độ lớn của tiêu cự (trong trường hợp của thấu kính điều chỉnh (ống kính zoom), điều này được thực hiện đơn giản bằng cách điều chỉnh thấu kính). Giá trị f-số cao hơn cũng có nghĩa là độ sâu trường ảnh lớn hơn do thấu kính tiếp cận giới hạn của một máy ảnh đục lỗ (pinhole camera) mà có thể tập trung mọi ảnh một cách hoàn hảo, bất kể khoảng cách, nhưng đòi hỏi thời gian phơi sáng lâu.
Trường nhìn của thấu kính thay đổi theo tiêu cự của thấu kính. Có ba cách phân loại cơ bản dựa trên mối liên hệ giữa kích thước theo đường chéo của phim âm bản hoặc kích cỡ của cảm biến đối với tiêu cự của thấu kính:
Các ống kính zoom hiện đại có thể có đặc tính của ba loại ống kính trên.
Giá trị tuyệt đối cho thời gian phơi sáng đòi hỏi phụ thuộc vào độ nhạy ánh sáng của phim âm bản hay cảm biến CCD (đo bởi tốc độ nhạy của phim, hay đối với cảm biến hiện đại đo bằng hiệu suất lượng tử). Thời buổi đầu của nhiếp ảnh, các nhiếp ảnh gia sử dụng các tấm phim âm bản có độ nhạy sáng thấp, do vậy thời gian phơi sáng cũng cần phải dài ngay cả với lần chụp có hỗ trợ của nguồn sáng mạnh. Với sự phát triển của công nghệ, độ nhạy của phim và cảm biến đã được tăng lên đáng kể.
Những kết quả khác từ quang hình học và quang học vật lý cũng áp dụng cho quang học máy ảnh. Ví dụ, khả năng phân giải lớn nhất của một cấu hình camera được xác định bởi giới hạn nhiễu xạ gắn liền với độ rộng của lỗ máy ảnh, hay giới hạn Rayleigh.
Quang học khí quyển.
Các tính chất quang học độc nhất của khí quyển làm xuất hiện một số các hiện tượng quang học kỳ thú trên thế giới. Màu xanh của nền trời là kết quả trực tiếp của hiện tượng tán xạ Rayleigh làm lệch hướng mạnh các tia sáng có tần số cao (lam) trở lại trường nhìn của người quan sát. Bởi vì ánh sáng xanh da trời bị tán xạ dễ dàng hơn ánh sáng đỏ, Mặt Trời có màu hơi đỏ khi quan sát nó qua lớp khí quyển dày, tại thời điểm Mặt Trời mọc hay Mặt Trời lặn. |
Quang học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2696 | Nếu có thêm những loại hạt bụi hoặc khí đặc biệt trong khí quyển có thể làm tán xạ tia sáng Mặt Trời ở những góc khác nhau tạo ra bầu trời đầy màu sắc vào thời điểm bình minh hoặc chạng vạng. Các tinh thể băng và các hạt bụi khác trong khí quyển là nguyên nhân tạo ra các hiện tượng như hào quang, ánh hồng ban chiều (afterglow), nhật hoa, tia sáng xuyên mây, và Mặt Trời giả. Sự xuất hiện đa dạng của những hiện tượng này là do kích cỡ khác nhau của các hạt bụi và sự phân bố của chúng trong khí quyển.
Ảo tượng (mirage) là hiện tượng quang học trong đó các tia sáng bị lệch do sự thăng giáng nhiệt trong chỉ số khúc xạ của không khí, tạo ra sự dời ảnh hoặc ảnh bị méo của các vật thể ở xa. Những hiện tượng quang học khác kết hợp với hiện tượng này là hiệu ứng Novaya Zemlya khi Mặt Trời trông như có vẻ mọc sớm hơn so với dự định do hình ảnh méo của nó. Một dạng ảo ảnh kỳ lạ khác kết hợp với hiệu ứng nghịch đảo nhiệt (temperature inversion) là ảo ảnh Fata Morgana khi các vật ở chân trời hoặc thậm chí vượt xa chân trời, như đảo, vách núi, tàu thuyền hay băng trôi dường như bị kéo giãn và nâng lên khỏi chân trời, trông giống như "lâu đài trong cổ tích".
Cầu vồng là kết quả của sự kết hợp giữa phản xạ và khúc xạ tia sáng qua các hạt mưa hoặc hơi nước. Phản xạ của tia sáng qua các hạt mưa tạo ra đường kính góc của một cầu vồng trên bầu trời vào khoảng 40° đến 42° với vòng đỏ nằm ngoài cùng. Hiện tượng cầu vồng đôi xảy ra khi hai tia phản xạ tạo ra đường kính góc là 50,5° đến 54° đối với ánh sáng tím nằm bên ngoài. Bởi vì cầu vồng nhìn thấy ở hướng ngược 180° tính từ tâm cầu vồng so với Mặt Trời, cầu vồng càng rõ khi Mặt Trời ở gần chân trời. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Người Hoa () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là người Minh, người Trung Hoa, người Minh Hương, người Bắc, người Thanh, Khách nhân, họ cũng được gọi là người Đường (), người Trung Quốc, người Hán, hoặc dân tộc Hoa ().
Dân tộc Hoa cùng với dân tộc Ngái và Sán Dìu đều được xếp vào nhóm ngôn ngữ Hán. Thông thường, người Hoa ở Việt Nam được gọi là người Việt gốc Hoa để tránh trường hợp gây tranh cãi về thuật ngữ và thái độ kỳ thị. Người Hoa không gồm người Hán có quốc tịch Trung Quốc đang sống ở Việt Nam.
Dân tộc Hoa có dân số 749.466 người theo Điều tra dân số chính thức của Chính phủ Việt Nam năm 2019, chiếm 0,78% dân số Việt Nam.
Tên gọi.
Những người có nguồn gốc từ Trung Quốc (gọi chung là người Trung Quốc) đã qua lại để làm ăn, sinh sống, và hòa nhập với người Việt (người Kinh) bản địa ở Việt Nam vốn từ lâu đời, tùy theo từng các thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh tiếp xúc hoặc nguyên nhân di cư mà người Trung Quốc đã tự xưng về tên dân tộc của mình khác nhau. Người Trung Quốc thường tự gọi mình là dân của các triều đại mà họ cho rằng văn minh, tự hào hoặc cho rằng nó phổ biến và được người bản xứ biết rõ, hoặc đã biết từ lâu như "người Đường" ("tong4 jan4", Thoòng dzằn), "người Thanh", "người Bắc" (quốc). Người Hoa còn tự gọi họ theo quê quán: người Quảng Đông (Quảng Đông), người Tiều (Triều Châu), người Khách Gia, người Hải Nam (Hải Nam), người Phúc Kiến (Phúc Kiến)... Người Việt còn có lệ gọi người Hoa là "người Ngô". Lệ này bắt nguồn từ lịch sử thời Xuân Thu có "nước Ngô" và "nước Việt", bản thân đây là 2 quốc gia phi Hán nhưng sau thì vùng này đã bị Hán hóa hoàn toàn từ phương Bắc. Điển hình là bản "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi vào thế kỷ XV sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đuổi được giặc nhà Minh, do nhà Minh có tiền thân tự xưng là "Ngô". |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Từ phổ thông người Việt hay dùng để gọi người Hoa là "người Tàu"; "chệt"; từ "cắc chú", đọc trại từ chữ "khách trú" vì lúc đấy người Hoa không được nhìn nhận là cư dân mà chỉ là dân ở trú mà thôi. Bản báo sau đây đưa ra nguồn gốc khác cho "cắc chú" nhưng không có cơ sở:
"Theo Gia Định báo, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16 tháng 2 năm 1870: phần tạp vụ (một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay)""Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc. Người bên Tàu thường kêu mình là Đường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Đường nhà Thanh. An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v..."
"Người Bắc thì kêu là "Ngô", nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắt nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi. Từ này không còn phổ biến nữa."
"Kêu "Các-chú" là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy."
"Còn kêu là "Chệc" là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc.. Nay không còn phổ biến nữa."
Từ Ba Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là 3 vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù lao Phố (Đồng Nai), Chợ Lớn (Sài Gòn), Hà Tiên; từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Còn có cách giải thích khác: Người Việt thường xưng hô theo thứ tự như anh Hai (con cả) anh Ba (con thứ)... Vì lý do đó mà người Tàu thường lễ phép gọi thân mật người Việt đang làm ở các cơ quan Pháp thời đó là anh Hai (cậu Hai) và xem mình là em (anh Ba).
Người Hoa Việt Nam thường tự gọi mình là Đường nhân 唐人 ("Tong4 jan4" theo tiếng Quảng Đông, "Deung7 nang5" theo tiếng Triều Châu, "Tángrén" theo tiếng Phổ Thông).
Một danh từ để chỉ người Trung Quốc được chấp nhận và sử dụng phổ biến trên khắp thế giới là "người Hoa" (華人).
Nếu xếp theo phân loại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì người Hoa là người Hán.
Lịch sử.
Trước năm 1945.
Có ý kiến cho rằng những người Trung Quốc đầu tiên bắt đầu đi vào Việt Nam là từ thời nhà Tần vào Tượng Quận nhưng lần di dân đầu tiên được ghi nhận rõ ràng là từ năm 43 vào thời nhà Hán tức thời Bắc thuộc lần 2; người Trung Hoa di dân đến Việt Nam đến thời Trung Hoa Dân Quốc, gồm: binh lính, quan chức, thường dân, nhà buôn..., thậm chí là tội phạm (lý do thì đa dạng); người Trung Quốc di cư đến Việt Nam rất đông nhưng phần lớn họ kết hôn và "nhập gia tùy tục" với người bản xứ rồi con cháu họ cũng dần dần hòa tan vào xã hội Việt Nam xưa để thành người Kinh, hiện Việt Nam chính thức chỉ sót lại số ít người Hoa là còn giữ được bản sắc mà ta đang đề cập.
Vào thế kỷ XVII tại Trung Quốc, sự xâm lược Trung Quốc của người Mãn Châu (1618-1683) dẫn đến làn sóng người Hoa ở miền Nam Trung Quốc trung thành với nhà Minh (Trung Quốc) và không thần phục nhà Thanh (Mãn Châu) bỏ quê hương di dân sang vùng Đông Nam Á, ngoài ra sau này cho đến khi Mãn Thanh sụp đổ thì cũng có những người Hoa có tư tưởng trung lập di cư đến nhưng vẫn có những người bất mãn với triều đình, trong đó, phần lớn người Hoa chọn đến Việt Nam vì gần gũi về địa lý cũng như văn hóa, phong tục tập quán. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Họ sang Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng nhiều nhất là bằng thuyền buồm nên họ được người bản địa gọi là người Tàu hay Tàu Ô vì đặc trưng thuyền của người Hoa vượt biên sang Việt Nam là phần buồm của chúng có màu đen đặc như than tro.
Năm 1671, Mạc Cửu và gia đình ông đến vùng đất Mang Khảm (nay là Hà Tiên), khi đó vẫn thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Chân Lạp. Mạc Cửu đã mở rộng quyền kiểm soát ra các vùng lân cận, và sau đó quy thuận chúa Nguyễn.
Sách "Đại Nam Thực lục (Tiền biên)" chép:
Những cộng đồng người Hoa này được gọi là "người Minh Hương". Chữ "hương" ban đầu dùng chữ 香 có nghĩa là "thơm" khi kết hợp với chữ Minh 明 có nghĩa là "hương hỏa nhà Minh" (明香), đến năm 1827 thì vua Minh Mạng cho đổi chữ Hương 香 sang chữ Hương 鄉 nghĩa là "làng" để tránh đụng chạm với nhà Thanh, từ đó Minh Hương (明鄉) có thể hiểu là "làng của người Minh" và cũng có thể hiểu là "làng sáng sủa".
Năm 1698, ở vùng Phiên Trấn - Bến Nghé - Sài Gòn đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, Chợ Lớn cũ. Từng có câu ca dao nói về phong hóa làng Minh Hương:
Tuy thu được nguồn lợi từ những người Hoa định cư tại Việt Nam, nhưng các vị vua chúa Việt Nam chưa bao giờ cảm thấy yên tâm về lòng trung thành của họ. Tại thời điểm xấu nhất của quan hệ giữa hai bên, 10 ngàn người Hoa vùng cù lao Phố đã bị Nguyễn Nhạc của nhà Tây Sơn tàn sát vào thế kỷ XVIII, và người Hoa cũng là lực lượng ủng hộ nhà Nguyễn chống Tây Sơn. Những khi khác, người Hoa rất có khiếu làm ăn, được hưởng tự do và sự giàu có nhưng họ luôn bị người bản xứ kỳ thị.
Sau khi nhà Nguyễn ban hành quy chế thành lập các Bang Hoa Kiều, người Hoa sinh sống ở Việt Nam có tất cả là 7 bang: Quảng Triệu (còn gọi là Bang Quảng Đông), Khách gia, Triều Châu, Phước Kiến, Phước Châu, Hải Nam và Quỳnh Châu. Trụ sở của 7 Bang (giống như Văn phòng Đại diện) thường được gọi là "Thất Phủ công sở" hoặc "Thất Phủ hội quán". |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Đến thế kỷ XIX, người Pháp tạo điều kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn ở miền Nam cũng như Hà Nội, Hải Phòng ở miền Bắc. Thời kì này người Hoa sang Việt Nam theo các đợt mộ phu khai thác đồn điền, hầm mỏ của các ông chủ tư bản người Pháp. Tháng Giêng năm 1885, Pháp ra lệnh sáp nhập Bang Phước Châu vào trong Bang Phước Kiến; sáp nhập Bang Quỳnh Châu vào trong Bang Hải Nam. Vì vậy mà từ đó về sau, người Hoa chỉ còn 5 bang.
Ngoài ra, riêng đối với Bang Khách gia ở Việt Nam thì không chỉ có người Hẹ. Theo lệnh của Thực dân Pháp, những người Trung Quốc sinh sống ở Việt Nam nhưng có nguyên quán (Tổ tịch) không thuộc 4 Bang kia, tất cả đều phải chịu sự quản lý của Bang Khách gia. Vì vậy mà trong Bang Khách gia Việt Nam có những người gốc Giang Tô, Thượng Hải, Chiết Giang, Hồ Bắc, Hồ Nam...
Khoảng thời gian từ năm 1937-1945, có một số lượng không nhỏ người Hoa từ các khu vực bị phát xít Nhật chiếm đóng ở Trung Quốc chạy xuống Việt Nam lánh nạn.
Năm 1949, sau khi Trung Quốc Quốc dân Đảng thua trận và bị mất quyền kiểm soát ở đại lục trước Đảng Cộng sản Trung Quốc thì có thêm rất nhiều người Hoa vượt biên sang Việt Nam lánh nạn. Họ chủ yếu là ông chủ của các hãng buôn, các xí nghiệp, các tiểu tư sản, trí thức, ... những người được coi là "mầm họa tư bản cần phải được loại bỏ" của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Trước 1945, tại Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp giành độc quyền buôn bán 3 mặt hàng quan trọng nhất là gạo, muối và rượu. Đặc biệt là thuốc phiện được Pháp công khai buôn bán, khuyến khích người Việt sử dụng chứ không bị cấm như ở chính quốc. Lợi nhuận từ thuốc phiện đã đóng góp tới 25% vào ngân sách của Pháp ở Đông Dương. Tổng ngân sách năm 1905 là 32 triệu đồng Đông Dương, trong số này nguồn thu từ độc quyền việc chế biến và kinh doanh thuốc phiện là 8,1 triệu đồng Đông Dương. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Việc phân phối bán lẻ thuốc phiện được Pháp dành cho tư nhân, đa số là người Hoa Người Hoa thu được những món lợi lớn từ việc buôn thuốc phiện cho Pháp trong thời kỳ này, từ đó tạo nguồn lực cho việc họ khống chế kinh tế miền Nam cho tới thập niên 1980.
Tới trước năm 1949, người Hoa ở Việt Nam vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa Dân quốc tuyên bố rằng tất cả người Hoa ở nước ngoài đều là công dân Trung Quốc, có nghĩa là Trung Quốc có quyền bảo vệ công dân của mình. Đến thập niên 1950, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới chính thức thu hồi lời tuyên bố trên.
Giai đoạn 1954-1976.
Ở miền Bắc.
Ở miền Bắc, năm 1955, hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thống nhất rằng người Hoa ở Việt Nam sẽ do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý và họ được hưởng đầy đủ quyền lợi như là công dân Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ước tính rằng quá trình bỏ dần quốc tịch Trung Quốc để thành công dân chính thức của Việt Nam với người Việt gốc Hoa sẽ kéo dài nhiều năm. Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam diễn ra thì người Hoa ở miền Bắc được hưởng tất cả các quyền của công dân Việt Nam, kể cả quyền bầu cử, nhưng họ lại không phải chịu nghĩa vụ quân sự. Trong thập niên 1960, do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, một số người Hoa bắt đầu các hoạt động "Hồng Vệ binh" của mình và tố cáo Đảng Cộng sản Việt Nam đang đi theo chủ nghĩa xét lại. Đối phó với việc này, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gia tăng áp lực trong việc chuyển đổi quốc tịch của người Hoa sang quốc tịch Việt Nam. Nếu không chuyển đổi quốc tịch đúng hạn thì lực lượng thi hành pháp luật của Việt Nam sẽ dùng biện pháp mạnh cưỡng chế tài sản và bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Bước sang thập niên 1970, đặc biệt là sau khi Giải phóng miền Nam, để giảm khả năng thao chính quyền Trung Quốc đại lục lợi dụng người Hoa ở Việt Nam để tiến hành thao túng nền kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam thì chính phủ Việt Nam đã bắt đầu giảm các bài học sử Trung Quốc và tiếng Trung Quốc tại các trường học của con cháu người Hoa tại Việt Nam. Từ vài năm trước đó, các biển hiệu bằng tiếng Trung bắt đầu biến mất và thay bằng tiếng Việt tại các thành phố lớn tập trung đông người Hoa ở miền Bắc như Hà Nội hay Hải Phòng.
Người Hoa ở miền Nam.
Theo một số tài liệu, từ đầu thế kỷ XX, Thiên Địa hội đã phát triển khá mạnh ở thành thị và thôn quê 6 tỉnh Nam Kỳ, nơi tiếp nhận rất nhiều Hoa kiều sang làm ăn mua bán (mặt hàng nông sản, lúa gạo). Xu thế này vẫn tiếp diễn trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và Việt Nam cộng hòa trước năm 1975. Các hoạt động ngầm của giới tội phạm gốc Hoa tại Việt Nam có liên hệ chặt chẽ với hội Tam Hoàng tại Hồng Kông, Đài Loan, Macau. Những hoạt động bất hợp pháp như tổ chức cờ bạc, mại dâm, bảo kê, cho thuê nặng lãi, buôn bán thuốc phiện... diễn ra bán công khai và được chính quyền thời bấy giờ nhắm mắt cho qua, vì những khoản tiền khổng lồ mà các tổ chức này nộp về chính quyền qua những thỏa thuận ngầm. Khu Đại Thế giới (Chợ Lớn) từng là địa bàn cát cứ hoạt động rất mạnh của giới xã hội đen gốc Hoa và là một điểm nóng trong các địa bàn hoạt động mạnh của Hội Tam Hoàng Trung Hoa tại Đông Nam Á dưới sự bảo trợ của Bảy Viễn, Thiếu tướng Quân đội Quốc gia, thủ lĩnh Lực lượng Bình Xuyên (Vừa là quân đội, vừa là băng đảng xã hội đen) kiêm Tổng trấn Sài Gòn-Chợ Lớn, và cũng là một người gốc Hoa (Triều Châu). Họ thậm chí còn mua chuộc được một số tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, quận trưởng, tỉnh trưởng, để có thể giành được những hợp đồng đầu tư. Thực tế hội Tam Hoàng Trung Hoa đã bén rễ rất sâu và phức tạp vào xã hội và kinh tế miền Nam trước 1975. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Một đặc điểm phổ biến của các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á là tính biệt lập của họ. Người Hoa tạo nên những "xã hội" nhỏ, những "khu tự trị" trong quốc gia mà họ cư trú. Người Hoa sống tập trung lại với nhau thành từng khu (như là khu Chợ Lớn ở miền Nam), mỗi địa phương có bang trưởng được cử ra trong số người giàu có, thạo việc làm ăn để thay mặt cộng đồng giao thiệp với bên ngoài, hoặc giải quyết tranh chấp không qua sự can thiệp của chính quyền sở tại. Người Hoa cũng nổi tiếng là biết dùng tiền để mua chuộc quan chức trong chính quyền sở tại. Ý thức biệt lập dựa trên sự nuôi dưỡng tinh thần nước lớn, tổ chức nội bộ chặt chẽ, cơ sở kinh tế mạnh, có nhiều mưu mẹo, thêm vào đó là hậu thuẫn mạnh mẽ của tư sản Hoa kiều ở các nước khác, đó là những đặc điểm và cũng là điều kiện cho phép tư sản gốc Hoa thao túng hầu như toàn bộ nền kinh tế miền Nam trước năm 1975.
Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, ở miền Nam, từ năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm đề ra chính sách buộc tất cả người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc bị trục xuất. Một sắc luật bổ túc (Số 52) ban hành ngày 29 tháng 8/1956 đòi hỏi tất cả người Hoa phải lấy tên tiếng Việt trong thời hạn 6 tháng nếu không sẽ bị phạt. Ngày 6 tháng 9 lại ban hành sắc luật Số 53 cấm người nước ngoài hoạt động trong 11 ngành nghề, kể cả buôn gạo và bán hàng tạp hóa, những ngành mà người Hoa chiếm ưu thế. Những người Hoa đang hoạt động trong khu vực kinh tế này có 6 tháng đến 1 năm để bán hay sang nhượng lại thương nghiệp cho công dân Việt Nam, nếu không sẽ có thể bị trục xuất hay phạt 5 triệu đồng. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng bắt các trường học của người Hoa trong vùng Sài Gòn − Chợ Lớn phải dùng tiếng Việt trong giảng dạy và bổ nhiệm Hiệu trưởng người Việt Nam. Đây là những chính sách nhằm thẳng vào khối 1 triệu người Hoa sinh sống ở miền Nam. Tháng 5 năm 1957, Bắc Kinh phản đối rằng đây là "sự xâm phạm tàn nhẫn các quyền hợp pháp của người Hoa".
Người Hoa xuống đường gây bạo động, phản đối chính sách của Ngô Đình Diệm. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Đến mùa hè 1957, người Hoa đóng cửa gần hết trường học, hoạt động thương mại, và rút tiền ra khỏi ngân hàng. Khoảng 800 triệu đến 1,5 tỉ đồng − gần 17% tiền tệ đang lưu hành ở miền Nam − biến mất khỏi thị trường, thương mại bất chợt ngưng trệ. Đến khoảng giữa tháng 5/1957, có khoảng 6.000 cửa hàng của người Hoa đã đóng cửa, 200.000 người mất công ăn việc làm. Hoa kiều còn phản đối bằng việc ngừng vận tải hàng hóa (các hãng vận tải lớn đều do họ nắm giữ). Với sự hỗ trợ của giới buôn lớn, chủ ngân hàng Hoa kiều ở Đông Nam Á và chính quyền Đài Loan, người Hoa nhất loạt đình chỉ hoạt động, tẩy chay không bốc dỡ gạo Việt Nam đã cập bến cảng nước ngoài. Do ngừng mọi vận chuyển, nông sản ứ đọng ở vùng quê, trong khi Sài Gòn – Chợ Lớn lại rất khan hiếm. Nền kinh tế miền Nam Việt Nam gần như sụp đổ.
Nhận thấy ảnh hưởng không thể thay thế của người Hoa trong nền kinh tế, Chính phủ Ngô Đình Diệm nhượng bộ. Cuối tháng 7/1957, người Hoa được quyền ghi danh cửa hàng bằng tên của bà con sinh tại Việt Nam, hoặc nhập tịch Việt Nam theo thủ tục đơn giản. Hiệu trưởng các trường học chỉ cần là người Hoa sinh tại Việt Nam. Tiếng Hoa được sử dụng lại trong trường học trừ các môn lịch sử, địa lý và văn học. Người Hoa cũng được đối xử mềm mỏng khi áp dụng luật thi hành quân dịch. Đến năm 1961, theo một báo cáo của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa, hơn 1 triệu người Hoa sống ở miền Nam chỉ còn chừng 2.000 người là không chịu đổi quốc tịch, phần lớn là những người đã già.
Trong 15 năm tiếp theo, người Hoa ít khi bị động tới, tự trị tự quản về nhiều mặt, các khu người Hoa giống như vùng tự trị ngay trên đất nước Việt Nam. Cùng lúc chiến tranh leo thang, người Hoa đã góp phần không nhỏ vào tình trạng tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, trốn quân dịch, gây bất ổn định chính trị trong xã hội miền Nam thời đó. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Thời điểm năm 1965, có khoảng 200 nghìn người Hoa, phần lớn sống tập trung ở quanh Sài Gòn, chia thành 5 bang, gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ (hay còn gọi là Khách gia, Hà Cá) và Hải Nam. Đa số các xưởng cơ khí, chế tạo máy móc, dệt may ở Chợ Lớn đều do người Quảng Đông làm chủ. Người Phúc Kiến giỏi về giao thương với hàng loạt các công ty vận tải đường thủy, đường bộ. Người Triều Châu làm ăn nhỏ lẻ bằng cách mở tiệm ăn, tiệm tạp hóa, người Hẹ chuyên về tiểu thủ công nghiệp như lập lò rèn, nhà máy nước đá, đóng giày, làm bánh. Người Hải Nam chuyên kinh doanh thủy hải sản. Trong một bản tường trình gửi Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ có đoạn: "Họ (những con buôn người Hoa) chi phối giá cả từ trên xuống dưới. Vàng chẳng hạn, cứ mỗi tối họ điện thoại sang Hồng Kông để nắm giá rồi sáng hôm sau, họ thông báo giá vàng trong ngày cho tất cả những đầu mối ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây. Phân bón cũng vậy, qua tin mật báo của cảm tình viên Tổng đoàn, trong 6 kho ở bến Chương Dương, bến Hàm Tử, bến Bình Đông hiện vẫn còn trên dưới 50 nghìn tấn nhưng trên thị trường, họ ra lệnh cho các đại lý chỉ bán nhỏ giọt vì họ nắm được thông tin là phân sẽ lên giá…".
Năm 1973, thành phố Sài Gòn có 36 rạp chiếu bóng thì 17 rạp là của người Hoa. 25 trong tổng số 30 nhà nhập khẩu phim truyện của nước ngoài là Hoa, họ đồng thời là chủ các rạp chiếu bóng. Trong tổng số 35 rạp đăng quảng cáo có tới 23 rạp chiếu phim Đài Loan. Báo Sóng thần số ra ngày 14/6/1974 đăng quảng cáo cho 39 rạp phim vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định thì 28 rạp chiếu phim của Đài Loan, còn lại là của các nước khác, không một rạp nào chiếu phim Việt Nam. Trong tổng số 31 ngân hàng hoạt động ở miền Nam trước năm 1975, Đài Loan có 3, 7 ngân hàng khác là của người Hoa mang quốc tịch Việt. Ước lượng hàng năm các ngân hàng của người Hoa chiếm khoảng 80% tổng số tín dụng dành cho thương mại. Người Hoa làm chủ 42 trong tổng số 60 công ty có doanh số hàng năm trên 100 triệu đồng tiền cũ. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Tuyệt đại bộ phận lượng thóc gạo lưu thông ở miền Nam về cơ bản nằm trong tay tư sản Hoa kiều hoặc người Việt gốc Hoa. Chế độ Sài Gòn có lần định trực tiếp nắm việc phân phối lương thực, ít nhất là trong khu vực bán buôn, nhưng mọi cố gắng đều không đưa lại kết quả. Sau một thời gian, đầu năm 1970, chính quyền Sài Gòn tuyên bố "trao trả việc phân phối lúa gạo lại cho tư nhân", nhà nước chỉ đóng vai trò "kiểm soát về giá cả và tham gia vận chuyển". Thực tế đây là một sự đầu hàng trước tư sản người Hoa. Tháng 3 năm 1971, trả lời phỏng vấn của một tờ báo, chủ tịch Nghiệp đoàn Mễ cốc Việt Nam (Sài Gòn) đổ lỗi sở dĩ phải làm vậy là vì "bảy thương gia hoạt động mạnh nhất và coi như đã nắm gần trọn hệ thống thu mua phân phối lúa gạo", hầu hết đều là người Hoa.
Về đường biển, đội thuyền buôn theo kiểm kê năm 1972, có 35 chiếc trọng tải từ 650 – 2.500 tấn, trong đó gần một nửa thuộc sở hữu tư nhân hoặc do tư nhân thuê của nước ngoài, tư nhân ở đây cũng toàn là người Hoa. Tháng 11 năm 1970, một tờ nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn viết: "Cho đến nay, ngành chuyên chở hàng hóa vẫn còn nằm dưới sự độc quyền của người Việt gốc Hoa, chưa có một hãng vận tải người Việt nào xen vào cạnh tranh nổi. Các doanh nhân thủ đô gởi hàng đi và các nhà nông từ các nơi đưa nông phẩm về Sài Gòn – Chợ Lớn đều phải nhờ các hệ thống vận tải của người Việt gốc Hoa. Riêng về ngành này, người Việt gốc Hoa có khoảng 170 hãng hoặc công ty vận tải."
Độc quyền vận tải cũng là phương sách để người Hoa ngầm khống chế thị trường. Người Hoa không bao giờ chở hàng của người Việt, nếu có mặt hàng đó cùng loại với hàng hóa do người gốc Hoa sản xuất. Nói cách khác, hệ thống vận chuyển và phân phối của người Hoa chỉ phục vụ lợi ích của người Hoa. Hàng do người Việt sản xuất nếu bị hệ thống vận tải độc quyền của người Hoa từ chối lưu thông thì sẽ tồn ứ ở trong kho, doanh nghiệp chỉ chờ phá sản
Cuối năm 1973, kiểm kê cho biết, trong số gần 10.000 xí nghiệp lớn nhỏ được kiểm kê, 80% là tài sản của tư sản gốc Hoa. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Hai công ty nhập khẩu và chế biến bột mì lớn nhất là Sakybomi và Viflomico cung ứng 60% nhu cầu bột mì cho toàn miền, thì tư sản người Hoa làm chủ cả hai, ngoài ra họ còn làm chủ luôn 10 công ty nhỏ khác thuộc ngành này. Họ chiếm 90% số vốn của năm công ty và 182 cơ sở sản xuất mì gói. Công ty sản xuất mạch nha duy nhất với số vốn 200 triệu đồng là của tư sản người Hoa. Với sự góp vốn của Đài Loan, họ kiểm soát hoàn toàn 4 công ty sản xuất bột ngọt (mì chính). 30 trong tổng số 40 cơ sở sản xuất rượu ở miền Nam là của người Hoa. Ngoài ra, họ giữ 60% vốn của 14 công ty khai thác hải sản. Sài Gòn có 4 công ty dệt lớn là Sicovina, Vimytex, Vinatexco và Vinatefinco, thì ba công ty sau là của tư sản người Hoa, chiếm khoảng 70% sản lượng toàn ngành.
Trong công nghiệp hóa chất, tư sản người Hoa là chủ của 14 trong tổng số 17 công ty. 55% vốn của các cơ sở sản xuất đệm mút, giày dép, đồ dùng bằng cao su; 50% vốn của các ngành sản xuất nến, diêm, phấn viết… là của người Hoa. Họ tổ chức 4 trong tổng số 5 công ty luyện kim. 60% vốn của khoảng 100 xưởng đúc gang, làm đinh… do tư sản người Hoa kiểm soát. Về sản phẩm cơ khí, đồ dùng điện và điện tử, tư sản người Hoa nắm từ 60 – 70% tổng số vốn, rải ra trên hàng trăm cơ sở. Người Hoa chiếm khoảng 50% doanh số bán lẻ của toàn miền Nam, về bán buôn (tiếng miền Nam gọi là "buôn sỉ") thì tư sản người Hoa gần như nắm độc quyền. Tư sản người Hoa cũng làm chủ khoảng một nửa số khách sạn lớn và 90% số khách sạn nhỏ, nhà trọ ở vùng Sài Gòn.
Người Hoa có có kỹ năng kinh doanh tốt, có truyền thống kinh doanh, khéo lợi dụng quan hệ huyết thống và tinh thần nước lớn (con dân nước Trung Hoa vĩ đại), cộng vào đó là những mưu mẹo, tính thích ứng với mọi hoàn cảnh, sự nhẫn nhục và cần cù. Người Hoa cũng giỏi móc ngoặc với tư bản quốc tế và lợi dụng guồng máy chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Có đủ căn cứ để cho rằng tổng số các nghiệp vụ tín dụng công khai hoặc ngấm ngầm của giới tư sản ngân hàng Hoa Kiều ở miền Nam trước năm 1975 là không dưới 150 tỷ đồng Sài Gòn cũ, trong đó khoảng 100 tỷ được dùng vào việc thu mua lúa gạo. Số tiền đó bằng 1/3 tổng số tiền lưu hành ở miền Nam thời đó, nên rất dễ hiểu tại sao một nhóm nhỏ người Hoa giàu có lại có thể thao túng nền kinh tế.
Trong khi ở miền Bắc, Hoa kiều không đóng vai trò đặc biệt trong nền kinh tế nhà nước quản lý tập trung, thì ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.
Sau năm 1976.
Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào năm 1975, khoảng 4% dân số Việt Nam là người Việt gốc Hoa, trong đó có hơn 1,5 triệu Hoa kiều sinh sống chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn, và chỉ có khoảng 300.000 người Việt gốc Hoa sống ở miền Bắc.
Vấn đề về người Hoa càng thêm phần trầm trọng khi họ treo Quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn. Tháng 1 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lệnh cho người Hoa ở miền Nam đăng ký quốc tịch. Đa số đăng ký là quốc tịch Trung Quốc mặc dù họ đã chuyển sang quốc tịch Việt Nam từ những năm 1956-1957. Tháng 2 năm đó, người Hoa được lệnh đăng ký lại theo quốc tịch đã nhận thời Việt Nam Cộng hòa. Những người vẫn tiếp tục đăng ký là quốc tịch Trung Quốc sau đó bị mất việc và giảm tiêu chuẩn lương thực. Cuối năm đó, tất cả các tờ báo tiếng Trung bị đóng cửa, tiếp theo là các trường học của người Hoa. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Chính sách của Việt Nam năm 1976 (là năm Việt Nam tái thống nhất) (đánh tư sản những người Hoa và tịch thu tài sản của họ) đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản.
Năm 1977, lạm phát 80% cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu cơ lương thực, Chính phủ Việt Nam sợ rằng Hoa kiều có thể bị lôi kéo theo các mục tiêu của Trung Quốc. Kèm theo đó là sự ngừng trệ nghiêm trọng của các vùng kinh tế phía Tây Nam do các xung đột tại biên giới với Campuchia. Người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc. Những điều này làm cho chính phủ Việt Nam lo lắng về nguy cơ đất nước bị rối loạn cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài và coi Hoa kiều là một lực lượng ở Việt Nam và sẵn sàng tiếp tay với Trung Quốc để phá hoại. Mặc dù không có bằng chứng cụ thể về các hoạt động phá hoại, nhưng sự giàu có của cộng đồng Hoa kiều bị xem là mối đe dọa đối với chính quyền Việt Nam. Trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế. Chính quyền cũng tiếp quản cơ sở tổng hội quán người Hoa, bệnh viện Sùng Chính (đầu năm 1976) và 5 bệnh viện khác của 5 bang vào tháng Giêng 1978, đóng cửa 11 tờ báo Hoa ngữ. Khối lãnh đạo người Hoa ở Việt Nam xem như không còn hiện hữu, và việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp bị xóa bỏ.
Quan hệ ngày càng xấu đi giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng làm tăng thêm số người Hoa rời Việt Nam. Phía Trung Quốc tố cáo Việt Nam đã xua đuổi người Hoa sống ở phía Bắc về Trung Quốc. Đầu tiên là những vụ di cư nhỏ lẻ, sau đó là trào lưu ồ ạt người di tản đi đến những bờ biển của các nước láng giềng. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Kết quả là số người di tản từ Việt Nam tăng gấp đôi trong 6 tháng đầu năm 1979, trong những người di tản trong những năm 1978-1979, Hoa kiều chiếm đa số. Cộng thêm vào đó là khoảng 250.000 Hoa kiều sang Trung Quốc qua biên giới phía Bắc từ tháng 4 năm 1978 đến mùa hè năm 1979. Trung Quốc đã gọi đây là vấn đề "nạn kiều". Đến năm 1982, do khó khăn kinh tế và quan hệ chính trị thù địch giữa Việt Nam với Trung Quốc, người Hoa ở miền Nam đã vượt biên qua đường biển, đường bộ để trốn qua nước thứ ba. Khoảng 2/3 trong số nửa triệu người vượt biên từ Việt Nam là người gốc Hoa.
Đến năm 1989, số người gốc Hoa tại Việt Nam đã giảm từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000. Người gốc Hoa không còn là thế lực kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa, và các phong tục, ngôn ngữ gốc Hoa của họ về mặt hình thức không còn phổ biến như trước. Đây là một ngoại lệ hiếm hoi so với những nước Đông Nam Á khác: người gốc Hoa về mặt cư trú, ngôn ngữ, giáo dục... đã gần như bị đồng hóa bởi người Việt Nam. Và cũng khó phân biệt giữa một người gốc Hoa và một người Việt về mặt hình thức dù họ vẫn giữ một số phong tục tập quán của tổ tiên mình. Mặc dù người Việt có thể phản đối hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông hoặc các chính sách của chính quyền Trung Quốc, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù những gia đình người gốc Hoa ở địa phương họ sinh sống.
Từ năm 1986 đến nay.
Sau khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thực thi chính sách Đổi Mới vào năm 1986, sự kỳ thị chống người Hoa đã giảm rõ rệt, và kéo theo đó là chính sách khoan hòa với người Hoa để giảm xung đột với Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam chủ động ngỏ lời muốn hòa giải chính trị và bình thường hóa quan hệ với chính phủ Trung Quốc . Đi kèm theo đó, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu chính sách hỗ trợ và đảm bảo văn hóa của người Hoa tại Việt Nam được giữ gìn. Cùng với đó, người Hoa cũng dần lấy lại ảnh hưởng kinh tế ở Việt Nam. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Về mặt tư tưởng – nhận thức, cho đến cuối thế kỷ 20 – đầu thế kỷ 21, người gốc Hoa đã hòa nhập sâu sắc vào xã hội Việt Nam đến mức họ tự xem mình là người Việt Nam và mang gốc gác văn hóa thuộc dân tộc Hoa (được công nhận trong 54 dân tộc Việt Nam), chứ không phải là Hoa kiều sinh sống trên nước Việt Nam. Và về mặt tâm lý – tình cảm, người Việt gốc Hoa có khuynh hướng ủng hộ lập trường và quan điểm của phía chính phủ Việt Nam nơi họ đang sống hơn trong việc xử lý các sự vụ bất đồng - tranh chấp (nếu có phát sinh, với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), hoặc chí ít là có thái độ ôn hòa và trung hòa nên không thể hiện ý kiến phản đối hay ủng hộ chính phủ Việt Nam trong các sự vụ xung đột và khác biệt với Trung Quốc.
Sự kiện biến động ở Hồng Kông 1997.
Tính cho đến thời điểm trước, trong, và sau năm 1997, có nhiều nguồn dư luận trong cộng đồng dân cư Hồng Kông rằng họ sẽ có thể phải rời bỏ Hồng Kông để sang một nước thứ ba lánh nạn, khi Hồng Kông được trao trả từ tay nước Anh về cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Viễn cảnh một nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hà khắc sẽ tiếp quản và cai trị mọi mặt từ chính trị đến đời sống của người dân Hồng Kông vốn đã quen với các giá trị kiểu phương Tây, đã khiến một số lượng dân cư tại đây cảm thấy bất an và tìm đường sang một nước thứ ba để tránh xáo trộn và không bị đàn áp. Một trong những nơi có thể tiếp nhận được làn sóng người di cư Hồng Kông là Việt Nam. Thực tế, có một số nhà đầu tư đã nhạy bén và đón đầu xu thế này, một số công trình dân cư được đầu tư tài chính xây dựng nên tại Thành phố Hồ Chí Minh (chủ yếu là Chợ Lớn), tiêu biểu là Thuận Kiều Plaza, công trình này được thiết kế theo đúng kiểu mẫu của dạng cao ốc căn hộ tại Hồng Kông (trần nhà thấp và không gian mỗi căn hộ là rất nhỏ) để đón làn sóng di dân Hồng Kông sang. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Tuy nhiên, làn sóng ồ ạt người di cư Hồng Kông sang Việt Nam đã không xảy ra, chỉ có một số lượng ít di dân Hồng Kông chọn sang Mỹ hoặc Canada - nơi có cộng đồng Hoa kiều đông đảo hơn, một số chọn lựa ở lại Hồng Kông đánh cược với thời cuộc thay vì phải di cư sang một nước thứ ba và khởi nghiệp từ đầu. Vì thế đã không có thêm một làn sóng di dân mới nào nữa từ Trung Hoa sang Việt Nam thời điểm cuối thế kỷ XX. Nay quan hệ Việt-Trung rất tốt đẹp; rất nhiều khách du lịch, doanh nhân, và di dân CHNDTH đến Việt Nam.
Dân số, nơi cư trú và ngôn ngữ.
Theo thống kê của cuộc điều tra dân số năm 1999, tổng số người Hoa ở Việt Nam là 862.371 (1,13% dân số ở Việt Nam), được xếp hạng thứ 6, trong đó có khoảng 50% người Hoa sinh sống tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh. Họ tập trung đông nhất ở các quận như Quận 5, Quận 11 (khoảng 45% dân số mỗi quận), Quận 6, Quận 8, Quận 10 với năm nhóm ngôn ngữ chính: tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu, tiếng Phúc Kiến, tiếng Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ). Một thực tế là đối với cộng đồng người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh đa phần giao tiếp bằng tiếng Quảng Đông là chủ đạo (so với các nhóm ngôn ngữ còn lại), và tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ gần như chiếm chủ đạo trong các giao dịch làm ăn nội bộ của cộng đồng người Hoa Chợ Lớn, các nhóm cộng đồng phương ngữ khác (Triều Châu, Phúc Kiến, Khách Gia, Hải Nam) cũng tùy biến sử dụng tiếng Quảng Đông trong giao dịch làm ăn ở vùng Chợ Lớn do tính phổ dụng của nó. Nhiều ngôi đền và nhà cửa của người Hoa ở khu Chợ Lớn đã được khôi phục và xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia và quốc tế, giờ đây mỗi năm đón hàng triệu lượt khách du lịch. Kể từ năm 2007, chính quyền Tp. Hồ Chí Minh đã cho tổ chức Lễ hội Văn hóa Người Hoa định kỳ hàng năm.
Số người Hoa còn lại sinh sống ở các tỉnh toàn quốc, mà hầu hết là ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Đông Nam Bộ như Tây Ninh, Bình Dương, Bình Thuận, Đồng Nai (Hoa Nùng) và Khánh Hòa. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Cộng đồng người Hoa ở Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh và Bạc Liêu phần lớn là người Triều Châu, đến từ Triều Sán.
Cộng đồng người Hoa tại miền Bắc Việt Nam hiện tập trung ở các tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh nói tiếng Pạc Và (Bạch Hỏa, một phương ngữ tiếng Quảng Đông) và tiếng Khách Gia. Người Ngái là cư dân bản địa sống rải rác ở vùng ven biển và trên các đảo phía bắc Bắc bộ, nói tiếng Ngái, một phương ngôn trong tiếng Khách Gia.
Trong những khía cạnh quan trọng, người Việt gốc Hoa đã trở nên không thể phân biệt được khi sinh sống trong cộng đồng, và họ đã thành công đến mức, mặc dù các đám đông có thể phản đối những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù nhằm vào các gia đình người gốc Hoa sống cạnh nhà mình.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hoa ở Việt Nam có dân số 823.071 người, có mặt tại tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Hoa cư trú tập trung tại: Thành phố Hồ Chí Minh (414.045 người, chiếm 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam), Đồng Nai (95.162 người), Sóc Trăng (64.910 người), Kiên Giang (29.850 người), Bạc Liêu (20.082 người), Bình Dương (18.783 người), Bắc Giang (18.539 người).
Ngôn ngữ và văn hóa.
Ngôn ngữ.
Đa phần người gốc Hoa thế hệ sau này ở Việt Nam đã có thể giao tiếp và sử dụng tiếng Việt một cách khá hoàn chỉnh và trôi chảy nhờ những nỗ lực của chính quyền trong việc quảng bá và cập nhật tiếng Việt đối với cộng đồng người gốc Hoa. Người Việt gốc Hoa hiện nay vừa giao tiếp thành thạo tiếng Việt với người bản xứ, trong khi vẫn sử dụng tiếng Hoa trong giao tiếp với cộng đồng người Hoa, là điều rất khó tìm thấy ở các thế hệ người Hoa trước đây. Việc sử dụng tiếng Việt không làm mất hẳn tiếng Hoa trong các thế hệ trẻ người Hoa, nhiều người trong số họ vẫn sử dụng và thực hành tiếng Hoa tại gia đình hoặc trong các giao tiếp trong cộng đồng người Hoa.
Văn hóa.
Về văn hóa, người Hoa và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng trong tập quán, tín ngưỡng, các quy chuẩn khuôn khổ đạo đức, và trong nhân sinh quan xã hội nói chung. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Do đó, người Hoa hòa nhập rất dễ dàng vào xã hội người Việt. Điều này là rất khác nếu so với các cộng đồng người Hoa ở những đất nước như Malaysia, Indonesia hoặc Thái Lan, vốn có một nền văn hóa và tư tưởng khác hoàn toàn với văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên chính vì có rất nhiều điểm tương đồng giữa văn hóa Việt Nam và Trung Hoa mà có sự nhầm lẫn rằng người Hoa tại Việt Nam đang dần bị đồng hóa với người Việt và đánh mất bản sắc. Thực tế, thì ngoài những điểm rất tương đồng trong văn hóa và tư tưởng, người Hoa vẫn có những bản sắc riêng mà có thể khác biệt đôi chút với người Việt, như các ngày lễ hội riêng trong tập quán tín ngưỡng của người Hoa (lễ Nguyên Tiêu, lễ Đông Chí, lễ vía Quan Công, lễ vía bà Thiên Hậu...). Và một số quy chuẩn ứng xử của người Hoa trong một số tình huống cũng có thể sẽ khác đôi chút với người Việt .
Ẩm thực.
Về ẩm thực, có thể thấy người Hoa đã có sự giao lưu rất lớn với nền ẩm thực bản địa Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng món "ngưu nhục phấn"() của người Hoa sinh sống ở Hà Nội đầu thế kỷ XX, vốn làm từ sợi bánh gạo nấu với thịt bò hầm, là khởi nguồn để người Việt biến tấu thành món "phở bò" quốc hồn quốc túy của Việt Nam , tuy nhiên qua khảo sát từ các nhà chuyên môn thì khẩu vị và cách thức chế biến của hai loại món ăn này cũng có khác nhau về cơ bản. Bên cạnh đó, người Hoa ở Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh) cũng đã mang theo nền ẩm thực Hoa đến quảng bá ở mảnh đất này từ rất lâu và mặc nhiên được xem là nét đặc sắc của văn hóa ẩm thực địa phương (Sài Gòn) . Các món hấp, chiên, xào chảo, chưng, hầm, tiềm... theo phong cách Hoa đã được người gốc Hoa giới thiệu và đã hòa nhập rất sâu vào nền ẩm thực tại địa phương (Sài Gòn) . Ở chiều ngược lại, những sản vật đặc thù tại địa phương đã được thêm vào các thành phần nguyên liệu chế biến món ăn, thay thế cho các thành phần nguyên liệu vốn cần để chế biến món ăn đó mà ở địa phương lại không có. |
Người Hoa (Việt Nam) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2699 | Song song đó, những món ẩm thực của người Việt gốc Hoa cũng được tùy biến điều chỉnh về hương vị cho phù hợp hơn với khẩu vị của người Việt bản địa, nhưng vẫn giữ căn bản đặc trưng của món ăn đó. Do đó, đơn cử một món ăn "cơm xào thập cẩm" của người Việt gốc Hoa tại Việt Nam sẽ có thể khác biệt với món "cơm xào thập cẩm" nguyên bản Trung Hoa về thành phần và hương vị. Các phương pháp chế biến món ăn của người Việt và người Hoa cũng lại rất giống nhau, đơn cử như cách chế biến nước dùng (nước lèo) từ xương heo hầm (hoặc xương gà); các loại cơm hoặc món sợi (mì, hủ tiếu, miến, bún) cũng khá tương đồng trong chế biến và các nguyên liệu chính (thịt thái nhỏ, thịt băm, và đồ lòng động vật).
Truyền thông.
Hiện tại ở Thành phố Hồ Chí Minh có một ấn bản Hoa văn của tòa báo Sài Gòn Giải Phóng là tờ "Sài Gòn Giải Phóng nhật báo" () xuất bản hàng ngày nhằm phục vụ cho cộng đồng người Việt gốc Hoa. Về phát thanh, Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (VOH) có mục tin tức bằng tiếng Quảng Đông và tiếng Quan thoại phát thanh hàng ngày trong tuần phục vụ cộng đồng người Việt gốc Hoa, và một chương trình ca khúc tiếng Hoa phát thanh định kỳ.
Những người Việt gốc Hoa nổi tiếng (đương đại).
Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam do nguyên nhân khách quan nên rất ít hoặc không tham gia chính trị ở nước sở tại; ngược lại người Việt gốc Hoa lại đóng góp rất đáng kể trong các lĩnh vực kinh doanh, văn hóa, giải trí, thể thao... Một số lượng đáng kể những doanh nghiệp do người Việt gốc Hoa làm chủ đã đóng góp một phần rất lớn cho nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong đó chủ đạo là cộng đồng doanh nghiệp của người Việt gốc Hoa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) nắm giữ vai trò kinh doanh quan trọng trên thị trường. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), trong số lượng hàng trăm ngàn doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, thì số doanh nghiệp gốc Hoa đã chiếm đến 30% tổng số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Có thể đơn cử một số người Việt gốc Hoa tiêu biểu: |
Người Trung Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2701 | Người Trung Quốc là những cá nhân hoặc nhóm dân tộc khác nhau gắn liền với Đại Trung Hoa, thường là thông qua tổ tiên, dân tộc, quốc tịch hoặc liên kết khác.
Người Hán là nhóm dân tộc lớn nhất ở Trung Quốc, chiếm khoảng 92% dân số đại lục. Người Hán cũng chiếm khoảng 95% dân số Đài Loan, 92% dân số Hồng Kông, 89% dân số Ma Cao và 74% dân số Singapore.
Họ cũng là nhóm dân tộc lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 18% dân số toàn cầu.
Bên ngoài Trung Quốc, các thuật ngữ "người Hán" và "người Trung Quốc" thường bị nhầm lẫn vì những người xác định hoặc đăng ký là người Hán là nhóm dân tộc đông dân nhất ở Trung Quốc. Trên thực tế, có 55 dân tộc thiểu số được công nhận chính thức ở Trung Quốc cũng có thể xác định là "người Trung Quốc".
Mặc dù Hồng Kông và Ma Cao đều thuộc chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc đại lục), cả hai khu vực đều có tính tự trị cao. Hồng Kông và Ma Cao lần lượt được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế được gọi là " Tuyên bố chung Trung-Anh " và " Tuyên bố chung Trung-Bồ Đào Nha ". Cư dân của cả hai khu vực có thể sở hữu nhiều quốc tịch.
Những người từ Đài Loan, chính thức là Trung Hoa Dân Quốc (ROC), cũng có thể được gọi là "người Trung Quốc" trong nhiều bối cảnh khác nhau, mặc dù họ thường được gọi là "người Đài Loan". Lãnh thổ của khu vực đảo Đài Loan đang bị tranh chấp và Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã hạn chế công nhận chủ quyền pháp lý của mình.
Ngoài ra còn có một cộng đồng người Hoa di cư rộng rãi được gọi là Hoa kiều.
Các nhóm dân tộc ở Trung Quốc và các vùng lãnh thổ liên quan.
Một số nhóm dân tộc ở Trung Quốc, cũng như những người ở nơi khác có tổ tiên trong khu vực, có thể được gọi là người Trung Quốc.
Nhóm dân tộc ở Trung Quốc.
Người Hán, nhóm dân tộc lớn nhất ở Trung Quốc, thường được gọi là "người Trung Quốc" hoặc "Trung Quốc bản địa". Người Hán cũng chiếm đa số hoặc thiểu số đáng chú ý ở các quốc gia khác, và họ chiếm khoảng 18% dân số toàn cầu. |
Người Trung Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2701 | Các nhóm dân tộc khác ở Trung Quốc bao gồm người Tráng, Hồi, Mãn, Duy Ngô Nhĩ và người Miêu, những người tạo nên năm dân tộc thiểu số lớn nhất ở Trung Quốc đại lục, với dân số khoảng 10 triệu người trở lên. Ngoài ra, người Lô Lô, Thổ Gia, Tây Tạng và Mông Cổ mỗi dân tộc có dân số từ năm đến mười triệu.
Trung Quốc, tên chính thức là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, công nhận 56 dân tộc bản địa Trung Quốc. Cũng có một số nhóm dân tộc không được công nhận ở Trung Quốc.
Các dân tộc trong triều đại nhà Thanh của Trung Quốc (1636-1912).
Trong triều đại nhà Thanh, thuật ngữ "người Trung Quốc" (, ; Manchu: "Dulimbai gurun i niyalma") được chính quyền nhà Thanh sử dụng để chỉ tất cả các đối tượng bản địa truyền thống của đế chế, bao gồm Hán, Mãn và Mông Cổ.
Dân tộc Trung Hoa.
"Dân tộc Trung Hoa" () là một khái niệm siêu dân tộc bao gồm tất cả 56 dân tộc sống ở Trung Quốc được chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận. Khái niệm này bao gồm các nhóm dân tộc được thành lập đã sống trong biên giới của Trung Quốc kể từ ít nhất là đời nhà Thanh (1636-1912). Thuật ngữ "dân tộc Trung Hoa" được sử dụng trong thời Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1912-1949 để chỉ một nhóm nhỏ gồm năm dân tộc ở Trung Quốc. "Nhân dân Trung Quốc" () là thuật ngữ ưa thích của chính phủ trong thời kỳ Mao Trạch Đông; "dân tộc Trung Hoa" phổ biến hơn trong những thập kỷ gần đây.
Các dân tộc ở Đài Loan.
Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc (ROC), công nhận 17 dân tộc Đài Loan bản địa cũng như nhiều nhóm dân tộc "Nhập cư mới" khác (hầu hết có nguồn gốc từ Trung Quốc và Đông Nam Á). Trong số 17 dân tộc Đài Loan bản địa, 16 dân tộc được coi là người bản địa (người bản địa Đài Loan), trong khi một dân tộc được coi là dân thuộc địa (người Đài Loan). Ngoài ra còn có một số nhóm dân tộc bản địa không được công nhận ở Đài Loan.
Người Hán Đài Loan, người Hán sống ở Đài Loan, thường được chính phủ Đài Loan phân loại thành ba nhóm dân tộc chính; Hoklos Đài Loan, Khách Gia Đài Loan và Đại lục (Đài Loan) (nghĩa là " Người Trung Quốc đại lục ở Đài Loan"). |
Người Trung Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2701 | Người Kim môn và người Mã Tổ là hai dân tộc Hán Đài Loan khác.
Cả người Hoklos và Khách Gia đều được coi là dân số "bản địa" của Đài Loan kể từ khi họ bắt đầu di cư đến Đài Loan với số lượng đáng kể từ Trung Quốc đại lục (chủ yếu từ Phúc Kiến và Quảng Đông) hơn 400 năm trước (họ bắt đầu di cư đến Đài Loan với số lượng nhỏ thế kỷ trước đó). Chúng thường được gọi chung trong tiếng Quan thoại của Đài Loan là "bản tỉnh nhân" (có nghĩa là "người từ tỉnh này "). Người Hoklos chiếm khoảng 70% tổng dân số Đài Loan và người Khách Gia chiếm khoảng 14% tổng dân số Đài Loan.
Trong khi đó, những người được gọi là người Đại lục (Đài Loan) hầu hết là người gốc di cư từ Trung Quốc đại lục sang Đài Loan trong những năm 1940 và 1950, thường là trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai và Nội chiến Trung Quốc. Họ thường được gọi bằng tiếng Quan thoại của Đài Loan là "ngoại tỉnh nhân" (có nghĩa là "những người từ bên ngoài tỉnh này"). Người đại lục (Đài Loan) chiếm khoảng 14% tổng dân số Đài Loan.
Nói chung, các dân tộc bản địa Đài Loan còn lại chiếm khoảng 2% tổng dân số Đài Loan. Các dân tộc bản địa Đài Loan khác nhau được cho là đã sống ở Đài Loan tới 6000 năm trước khi Trung Quốc thuộc địa Đài Loan bắt đầu từ thế kỷ 17.
Tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, người Trung Quốc còn được gọi là người Hoa hay người Tàu.Theo lịch sử thì vào thời quân Nam Minh thua trận nhà Thanh, một số người theo nhà Minh đã chạy khỏi Trung Quốc (phong trào Phản Thanh phục Minh) và được chúa Nguyễn chấp nhận cho tỵ nạn ở miền Nam Việt Nam. Quan quân nhà Minh cùng gia quyến di chuyển qua Việt Nam bằng tàu, nên dân gian gọi họ là người Tàu. Tên gọi Minh Hương được dùng để gọi người Hoa đến Việt Nam từ đời nhà Minh. Ngoài ra "tàu" cũng là phương tiện người Trung Quốc hay sử dụng khi đến làm ăn, buôn bán và định cư ở Việt Nam nên nó đã được dùng làm tên gọi.
Một số người dùng từ chú Khách hay người Khách hay để chỉ người Trung Quốc nhưng thật ra không chính xác vì đây chỉ là một dân tộc tại Trung Quốc (xem người Khách Gia). Từ ""chú Khách" thật ra có nguồn gốc là "khách trú"". |
Người Trung Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2701 | Phần đông người Hoa ở Việt Nam cũng như trên thế giới là người Quảng Đông, người Phúc Kiến, người Triều Châu, người Hẹ (người Khách Gia), người Hải Nam. Riêng người Triều Châu và người Hẹ quê quán của họ cũng nằm trong khu vực miền Đông của tỉnh Quảng Đông, người Triều Châu chủ yếu tập trung ở vùng Đông Nam tỉnh Quảng Đông đó là Triều Châu và Sán Đầu nên người Triều Châu ngày nay còn được gọi là người Triều Sán, người Triều Châu tuy họ sinh sống trong khu vực thuộc tỉnh Quảng Đông, nhưng phương ngữ của họ lại không thuộc hệ thống phương ngữ Quảng Đông (Cantonese) mà thuộc hệ thống phương ngữ Mân Nam (Amoy hay Hokkienese) tỉnh Phúc Kiến, người Quảng Đông hay gọi là tiếng Triều Châu.
Còn người Hẹ ở hải ngoại, quê quán của họ cũng nằm trong nội hạt Đông Bắc của tỉnh Quảng Đông. Phương ngữ mà người Hẹ dùng cũng không thuộc hệ thống phương ngữ của Quảng Đông mà là một phương ngữ riêng biệt gần giống với phương ngữ Cán tỉnh Giang Tây. Người Hẹ ở hải ngoại đa số là đến từ Mai Huyện, Đại Bộ, Hưng Ninh, Tử Kim, Huệ Dương và một bộ ít người ở Đông Hoàn tỉnh Quảng Đông.
Hiện nay những người Hoa ở Việt Nam gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất đã vào Việt Nam sinh sống tại miền Nam từ khoảng 300 năm nay từ thời Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu chủ yếu sống tại các tỉnh miền Nam hiện nay. Nhóm còn lại mới vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX khi Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp, nhóm này chủ yếu sống tại Chợ Lớn. Giống như người Hoa ở các nước khác, người Hoa ở Việt Nam thường tập trung vào lĩnh vực thương mại và thường rất thành đạt trong lĩnh vực này . |
Đông chí | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2706 | Tiết Đông chí, theo lịch Trung Quốc cổ đại, là tiết khí khởi đầu bằng điểm giữa của mùa đông, nó là một trong hai mươi tư tiết khí trong nông lịch. Theo định nghĩa này, điểm bắt đầu của nó trùng với điểm đông chí (tiếng Anh: "Winter solstice") tại Bắc Bán cầu theo quan điểm của khoa học phương Tây. Tuy nhiên, theo khoa học phương Tây thì nó là điểm bắt đầu của mùa đông tại Bắc Bán cầu và tương ứng là bắt đầu mùa hè ở Nam bán cầu, thời điểm mà Mặt Trời xuống tới điểm thấp nhất về phía nam trên bầu trời để sau đó bắt đầu quay trở lại phía bắc.
Theo quy ước, tiết đông chí là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 21 hay 22 tháng 12 khi kết thúc tiết đại tuyết và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng một trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết tiểu hàn bắt đầu.
Theo thuật ngữ thiên văn học phương Tây, đó là thời điểm có liên quan đến vị trí của hành tinh trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Nó là lúc kinh độ Mặt Trời bằng 270 độ ở Bắc Bán cầu, và cũng là ngày bắt đầu mùa đông tại Bắc Bán cầu và ngày bắt đầu mùa hè tại Nam bán cầu.
Trên Trái Đất.
Định nghĩa một: Tại Bắc Bán cầu, ngày đông chí là ngày mà khoảng thời gian ban ngày ngắn nhất và thời gian ban đêm dài nhất. Thời gian này thông thường rơi vào ngày 21 tháng 12 hoặc 22 tháng 12. Khi đó tại Nam bán cầu thì khoảng thời gian ban ngày lại là dài nhất. Tuy nhiên cách định nghĩa này có phần không rõ ràng do độ nghiêng lớn nhất của trục quay Trái Đất là xấp xỉ 23,45° nên đối với những người quan sát ở các vĩ độ cao hơn 66,55° vĩ bắc sẽ thấy thời gian ban đêm trong những ngày cận kề trước và sau ngày đông chí ở nửa bán cầu này có thể kéo dài đến 24 h (Xem thêm ban đêm vùng cực để biết thêm chi tiết). Ngược lại, ở Nam bán cầu, đối với những người quan sát ở các vĩ độ cao hơn 66,55° vĩ nam sẽ thấy thời gian ban ngày trong những ngày cận kề với ngày đông chí ở Bắc Bán cầu có thể kéo dài đến 24 h (Xem thêm ban ngày vùng cực để biết thêm chi tiết). Do vậy không thể biết chính xác ngày nào là ngày hạ chí theo kiểu định nghĩa này. |
Đông chí | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2706 | Định nghĩa hai: Ngày đông chí là ngày chứa điểm đông chí tính theo múi giờ địa phương. Theo quan điểm của người Trung Hoa và các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại thì ngày Đông chí là phù hợp với các tính toán của thiên văn học đối với Bắc Bán cầu. Xem thêm tiết khí
Giữa mùa đông là khoảng thời gian quanh ngày Đông chí đối với nhiều nước, tuy có ngoại lệ như Mỹ thì Đông chí lại là ngày bắt đầu mùa đông. Có nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức vào ngày Đông chí như Lễ hội Yule của đạo Wicca, một trong tám lễ hội Sabbat của những người theo đạo đa thần giáo kiểu mới ("neopagan") này. Rất nhiều nền văn hóa khác cũng tổ chức lễ hội vào ngày này hoặc xung quanh ngày này như lễ hội lễ hội Yalda, lễ hội Saturnalia, lễ Giáng Sinh, Hanukkah, lễ hội Festivus, lễ hội Kwanzaa và lễ hội HumanLight. |
Thu phân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2707 | Tiết Thu phân, theo lịch Trung Quốc cổ đại, là tiết khí có khởi đầu bằng điểm giữa của mùa thu, nó là một trong hai mươi tư tiết khí trong nông lịch. Theo định nghĩa này, thời điểm bắt đầu của nó trùng với điểm thu phân (tiếng Anh: "Autumnal equinox") tại Bắc bán cầu của khoa học phương Tây. Tuy nhiên, theo quan điểm của khoa học phương Tây thì nó là điểm bắt đầu của mùa thu tại Bắc bán cầu, thời điểm mà Mặt Trời xuất hiện trên xích đạo thiên cầu (Mặt Trời ở gần xích đạo nhất) và bắt đầu đi xuống hướng nam. Về mặt thời gian, thu phân bắt đầu vào khoảng 22 tháng 9 đến 24 tháng 9.
Theo quy ước, tiết thu phân là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 23 hay 24 tháng 9 khi kết thúc tiết bạch lộ và kết thúc vào khoảng ngày 8 hay 9 tháng 10 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết hàn lộ bắt đầu.
Theo thuật ngữ thiên văn học phương Tây, đó là thời điểm có liên quan đến vị trí của hành tinh trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Nó là lúc kinh độ Mặt Trời bằng 180 độ.
Ở Nam bán cầu thì thời điểm đó lại là điểm diễn ra điểm xuân phân ("Vernal equinox") tại bán cầu này.
Chuyển động của Mặt Trời.
Tại điểm Thu phân, người quan sát sẽ thấy Mặt Trời khi đó mọc "chính xác" ở phía Đông và lặn "chính xác" ở phía Tây.
Có thể nói nôm na là thu phân là thời điểm mà trước và sau đó khoảng ba tháng Mặt Trời có xu hướng mỗi ngày mọc và lặn nhích dần về phía nam.
Lễ hội.
Lễ hội Mabon của đạo Wicca được tổ chức vào ngày này, đây là một trong tám lễ hội Sabbat của những người theo tân pagan giáo ("neopagan") này.
Tại Nhật Bản ngày Thu phân (秋分の日) là ngày lễ chính thức của quốc gia này để mọi người đi tảo mộ và đoàn tụ gia đình.
Tại các quốc gia Âu Mỹ, mùa thu cũng là mùa thu hoạch chính và có các lễ hội mừng được mùa. Lễ hội thu hoạch truyền thống tại Anh được tổ chức vào ngày chủ nhật gần "Ngày trăng thu hoạch" (Harvest Moon), đó là ngày trăng tròn xảy ra gần điểm thu phân (22 hoặc 23 tháng 9) nhất. Tại Hoa Kỳ và Canada vào tháng 10 hay tháng 11 vào ngày lễ tạ ơn. |
Thu phân | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2707 | Cũng vào độ thời gian này, tại các quốc gia trong Vòng văn hóa Đông Á có lễ hội Trung Thu mà tại Triều Tiên thường gọi là Chuseok (Thu Tịch), ngày mà người nông dân làm lễ tạ ơn tổ tiên vì đã cho một mùa màng bội thu. |
Thức uống có cồn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2708 | Thức uống có cồn là một loại thức uống có chứa ethanol, một loại rượu được sản xuất bằng cách lên men ngũ cốc, trái cây hoặc các nguồn đường khác. Việc tiêu thụ rượu đóng một vai trò xã hội quan trọng trong nhiều nền văn hóa. Hầu hết các quốc gia đều có luật điều chỉnh việc sản xuất, bán và tiêu thụ đồ uống có cồn. Một số quốc gia cấm các hoạt động như vậy hoàn toàn, nhưng đồ uống có cồn là hợp pháp ở hầu hết các nơi trên thế giới. Ngành công nghiệp đồ uống có cồn toàn cầu có doanh thu vượt quá 1 nghìn tỷ đô la vào năm 2018.
Rượu là một chất gây trầm cảm, ở liều thấp gây hưng phấn, giảm lo lắng và cải thiện tính xã hội. Ở liều cao hơn, nó gây ra say rượu, choáng váng, bất tỉnh hoặc tử vong. Sử dụng lâu dài có thể dẫn đến lạm dụng rượu, ung thư, lệ thuộc về thể chất và nghiện rượu. Rượu là một trong những loại thuốc giải trí được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới, với khoảng 33% số người là những người uống rượu hiện tại. Trung bình, phụ nữ uống 0,7 ly và nam 1,7 ly mỗi ngày. Vào năm 2015, trong số những người Mỹ, 86% người trưởng thành đã uống rượu vào một thời điểm nào đó, 70% đã uống nó trong năm ngoái và 56% trong tháng trước. Đồ uống có cồn thường được chia thành ba loại - bia, rượu vang và rượu mạnh. Thông thường nồng độ cồn của các đồ uống này là từ 3% đến 50%.
Khám phá về những chiếc bình thời kỳ đồ đá muộn cho thấy đồ uống lên men đã tồn tại ít nhất là sớm nhất là vào thời kỳ đồ đá mới (khoảng 10.000 năm TCN). Nhiều động vật cũng uống rượu khi có cơ hội và bị say theo cách tương tự như con người, mặc dù con người là loài duy nhất được biết là có sản xuất đồ uống có cồn một cách có chủ ý.
Đồ uống lên men.
Bia.
Bia là một loại đồ uống lên men từ ngũ cốc nghiền thường được làm từ lúa mạch hoặc hỗn hợp của một số loại ngũ cốc và được tạo hương vị với hoa bia. Hầu hết bia được cacbon hóa tự nhiên như là một phần của quá trình lên men. Nếu hỗn hợp lên men được chưng cất, thì thức uống trở thành một loại rượu chưng cất. |
Thức uống có cồn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2708 | Ở vùng Andean, loại bia phổ biến nhất là chicha, được làm từ ngũ cốc hoặc trái cây. Bia là đồ uống có cồn được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới.
Cider.
Cider hoặc cyder ( ) là một thức uống có cồn lên men làm từ bất kỳ nước trái cây nào; nước táo (truyền thống và phổ biến nhất), đào, lê (rượu táo "Perry") hoặc trái cây khác. Nồng độ cồn trong cider thay đổi từ 1,2% ABV đến 8,5% trở lên trong các loại cider truyền thống của Anh. Ở một số vùng, cider có thể được gọi là "rượu táo".
Mead.
Mead () là một thức uống có cồn được làm bằng cách lên men mật ong với nước, đôi khi với nhiều loại trái cây, gia vị, ngũ cốc hoặc hoa bia. Độ cồn của mead có thể dao động từ khoảng 8% ABV đến hơn 20%. Đặc điểm nổi bật của mead là phần lớn đường lên men của thức uống có nguồn gốc từ mật ong.
Pulque.
Pulque là thức uống lên men của vùng Trung Bộ châu Mỹ được làm từ "nước mật ong" của maguey, "Agave americana". Đồ uống được chưng cất từ pulque là tequila hoặc mescal Mezcal.
Rượu vang.
Rượu vang là một loại đồ uống lên men được sản xuất từ nho và đôi khi các loại trái cây khác. Rượu vang bao gồm quá trình lên men lâu hơn bia và quá trình ủ kéo dài (vài tháng hoặc nhiều năm), dẫn đến nồng độ cồn là 9%-16% ABV.
"Rượu trái cây " được làm từ các loại trái cây khác ngoài nho, chẳng hạn như mận, anh đào hoặc táo.
Sake là một ví dụ phổ biến của "rượu gạo".
Rượu vang sủi như Champagne Pháp, Catalan Cava hoặc Ý Prosecco có thể được làm bằng phương pháp lên men thứ cấp.
Whisky
Whisky (tiếng Anh, tiếng Pháp: Whisky, phát âm tiếng Việt như là Uýt-sky) và phần lớn nước Mỹ là Whiskey là một loại đồ uống có chứa cồn được sản xuất từ ngũ cốc bằng cách lên men và chưng cất. Từ Whisky được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1736 xuất phát từ "usisge beatha" trong tiếng Gaelic tại Scotland hay từ "uisce beatha" trong tiếng Gaelic tại Ireland và có nghĩa là "nước của cuộc sống" ("uisge"/"uisce": "nước", "beatha": "sống"). Khái niệm này đã phổ biến ngay từ thế kỷ 16-thế kỷ 17 nhưng thời đấy người ta hiểu đấy không chỉ riêng là Whisky mà còn là những loại rượu chưng cất khác có thêm đồ gia vị.
Lịch sử. |
Thức uống có cồn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2708 | Lịch sử.
Các loại thức uống có chứa cồn lên men đã được biết đến từ thời tiền sử. Người Ai Cập và người Sumer là những người đầu tiên sản xuất bia và sau đó là rượu vang dùng các loại men hoang dã. Họ cũng là những người đầu tiên dùng rượu trong y học. Các kết quả khảo cổ học mới đây đã củng cố cho giả thuyết rằng người Trung Hoa đã sản xuất rượu từ 5000 năm trước Công nguyên.
Rượu vang đã được uống từ thời Hy Lạp cổ điển trong các bữa ăn sáng và tiệc rượu ban đêm. Trong thế kỷ 1 TCN rượu vang cũng được người dân La Mã dùng trong các bữa ăn. Tuy nhiên người Hy Lạp và cả người La Mã đều pha loãng rượu vang với nước.
Trong khoảng từ thế kỷ 8 – 9 các nhà giả kim thuật đạo Hồi đã chưng cất rượu mạnh từ rượu vang. Rượu được dùng phổ biến trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong y học thời đó. Rượu mạnh bắt đầu gia nhập vào châu Âu khoảng giữa thế kỷ 12 qua các nhà giả kim thuật và từ giữa thế kỷ 14 lượng rượu dùng bắt đầu tăng vọt.
Cồn trong cơ thể con người.
Hấp thụ và phân hủy trong cơ thể.
Cồn được hấp thụ trên toàn tuyến của bộ phận tiêu hóa, bắt đầu ngay từ màng niêm mạc trong miệng. Cồn được hấp thụ ở đấy đi thẳng vào máu và vì thế được phân tán ra trên toàn cơ thể. Cồn được hấp thụ ở ruột đi cùng với máu đến gan và được phân hủy một phần ở đó. Khả năng tiếp nhận cồn tăng lên nhờ vào các yếu tố làm gia tăng việc lưu thông máu thí dụ như nhiệt (Irish coffee), đường (rượu mùi) hay dioxide cacbon (hơi ga trong sâm banh). Ngược lại, mỡ làm cho cơ thể tiếp nhận cồn chậm lại. Việc này không làm giảm việc hấp thụ cồn mà chỉ kéo dài thời gian ra. Trong gan cồn được enzim phân hóa thành êtanal (CH3-CHO), êtanal tiếp tục bị oxy hóa thành axít axêtic. Axít axêtic được các tế bào trong toàn cơ thể phân hủy thành năng lượng và dioxide cacbon CO2. Sản phẩm trung gian êtanal chính là thủ phạm của các cơn nhức đầu, hậu quả của việc uống nhiều rượu. Đường ngăn cản việc phân hủy cồn trong cơ thể, vì vậy mà tác động nhức đầu ở các loại rượu có đường rất cao, nhất là ở rượu mùi và một số loại sâm banh.
Tốc độ phân hủy cồn không thay đổi trong giới hạn nhất định. |
Thức uống có cồn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2708 | Ở phần đông người châu Âu là khoảng 1 g cồn trên 10 kg cân nặng trong một giờ. Tốc độ phân hủy cồn không tăng lên vì hay uống rượu. Hiệu ứng quen với cồn thường được nhìn thấy ở những người nghiện rượu không do phân hủy cồn nhanh mà là do hệ thống thần kinh đã quen với lượng chất độc cao hơn.
Biểu hiện của cơ thể do nồng độ cồn trong máu.
Sau khi uống rượu, cơ thể có những phản ứng qua nhiều giai đoạn tương ứng với lượng cồn trong máu ("blood alcohol concentration" - BAC)
Tác động tâm lý trực tiếp.
Cồn làm giãn các mạch máu, đặc biệt là các mạch máu bên ngoài. Từ đó mà người ta có cảm giác ấm khi uống các loại thức uống có cồn. Khi đó việc điều chỉnh nhiệt lượng tự nhiên của cơ thể không còn hiệu lực nữa. Đồng thời cồn lại có tác dụng gây mê vì thế mà giá lạnh không còn cảm nhận được. Do đó uống cồn trong mùa đông có thể dẫn đến lạnh cóng cho đến chết.
Cồn kết hợp cùng với các thuốc uống và các loại chất gây nghiện khác cũng gây hại mạnh hơn và nhanh hơn là chỉ uống rượu đơn thuần.
Tác động đến bộ não và các tác hại khác.
Ngay khi chỉ uống một lượng vừa phải (0,2 phần ngàn (0,2 ‰) cồn trong máu, tương đương với 0,3 l bia hoặc 100 ml rượu vang), tùy theo cân nặng và cấu tạo của cơ thể, cồn đã có tác động đến hệ thống thần kinh và đặc biệt là lên não: góc nhìn bị thu hẹp lại và thời gian phản ứng chậm đi. Các nhà nghiên cứu của Đại học Stockholm đã tìm thấy rằng uống 50 g cồn hằng ngày sẽ để lại tác hại vĩnh viễn. Ước lượng vào khoảng 100.000 tế bào não sẽ bị giết chết khi uống một ly bia. Trong một cơn say rượu con số tế bào não chết đi có thể lên đến 10.000.000.
Cồn cũng ảnh hưởng đến tình dục và khả năng có con. Cồn làm giảm tính tự kiềm chế và vì thế tăng hưng phấn tình dục. Cồn thuộc vào các chất có tác dụng độc hại đến tinh hoàn và tinh trùng. Theo các nghiên cứu mới đây của giáo sư E. Abel (Mỹ), nam giới uống rượu trước khi sinh hoạt tình dục chẳng những làm tăng khả năng sẩy thai mà còn có thể ảnh hưởng đến việc phát triển của đứa con sinh ra. |
Thức uống có cồn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2708 | Người mẹ uống rượu trong thời gian mang thai dễ sinh ra các đứa trẻ có khuyết tật về trí tuệ.
Tác động lớn nhất của các thức uống có cồn là các tác động lên hệ thần kinh. Với khối lượng từ trên 250 đến 500 ml thức uống có cồn, tùy theo tỷ lệ độ cồn có trong thức uống, có thể gây các trạng thái như sau:
Các tác dụng tốt có thể có cho sức khỏe.
Người ta vẫn còn tranh luận gay gắt về việc các loại thức uống có cồn có tác dụng tốt đến sức khỏe. Nhiều tác dụng tốt trước mắt bị triệt tiêu đi vì các tác hại khác, như nguy cơ bị ung thư tăng lên khi uống rượu đều đặn mặc dầu chỉ ở lượng nhỏ, điều này đã được khẳng định bởi những nghiên cứu khoa học.
Xuất phát từ một số nghiên cứu có thể nói là dùng một lượng rất ít một số thức uống có cồn nhất định, đặc biệt là rượu vang đỏ (vào khoảng 1-2 ly một ngày), qua một thời gian dài có thể bảo vệ chống lại bệnh về động mạch vành của tim. Ngoài ra uống cho đến 20-40g ở phái nam hoặc đến 10-20 g ở phái nữ cũng có thể làm tăng tuổi thọ.
Ở trên mức độ này các tác dụng tốt sẽ bị quay ngược lại. Nguyên nhân của các tác động này không phải chính từ cồn mà là từ những chất hòa tan theo có trong rượu vang và bia vì cồn là một dung môi tốt (theo lý thuyết dung môi). Vì thế mà rượu mạnh như rượu đế và đa số các rượu mùi không có các tác dụng tương tự.
Nồng độ cồn trong cơ thể.
Nồng độ của cồn trong máu được tính bằng miligam cồn có trong một gam máu (mg/g). Nồng độ của cồn trong hơi thở được tính bằng milligam cồn có trong một lít hơi thở. Tính chuyển đổi từ nồng độ cồn trong hơi thở sang nồng độ trong máu không chính xác hoàn toàn vì tỉ số thay đổi theo thời gian.
Các hạn định pháp luật.
Trong thương mại và tiêu dùng.
Ở một số nước, đặc biệt là các nước theo đạo Hồi, rượu bị cấm rất nghiêm ngặt như ma túy. Một số loại thức uống có cồn như absinth cũng đã bị cấm ở nhiều nước châu Âu vì tiềm năng nguy hiểm cao. Ở Mỹ vẫn còn có một số nơi cấm rượu hoàn toàn thí dụ như Weston của Massachusetts, Mỹ. |
Thức uống có cồn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2708 | Ở Đức và Thụy Sĩ người ta chỉ được phép bán các thức uống có cồn cho những người trên 16 tuổi. Đối với những thức uống có cồn mạnh thậm chí phải trên 18 tuổi.
Ở Áo việc bảo vệ thanh thiếu niên thuộc về quyền hạn của các tiểu bang. Ở Viên, Niederösterreich và Burgenland chỉ được phép uống rượu khi trên 16 tuổi. Ở những tiểu bang khác chỉ được phép uống các loại thức uống có lượng cồn 14% khi trên 16 tuổi, các loại có lượng cồn nhiều hơn chỉ được phép uống khi đủ 18 tuổi. Ở nhiều nước khác, đặc biệt là ở Mỹ, có nhiều quy định áp dụng độ tuổi ít nhất phải là 21 tuổi.
Trong giao thông.
Vì rượu ảnh hưởng đến khả năng lái xe nên nhiều nước chỉ cho phép có một lượng cồn tối đa trong máu hay trong hơi thở:
Các nước khác như Hungary, Croatia, Bulgaria không cho phép có cồn trong người khi lái xe (0,0 ‰). |
Vốn điều lệ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2712 | Vốn điều lệ là một thuật ngữ chuyên môn kinh tế chỉ số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết đóng góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty để công bố cho các cổ đông.
Vốn điều lệ có thể thay đổi với sự đồng ý của các cổ đông.
Khái niệm.
Vốn Điều lệ là hình thức góp vốn của các thành viên cổ đông đã cam kết góp vốn trong một thời gian nhất định để duy trì hoạt động của doanh nghiệp, số vốn đóng góp ấy sẽ được lưu lại trong 1 hợp đồng gọi là điều lệ công ty.
Tất cả các thành viên cổ đông (bên góp vốn) và bộ phận điều hành doanh nghiệp (bên sử dụng nguồn vốn) có trách nhiệm tôn trọng và nghiêm túc thực hiện theo những điều đã nêu trong điều lệ.
Góp vốn điều lệ có nghĩa là đầu tư vào công ty để trở thành chủ sở hữu công ty (trường hợp đóng góp 100% vốn điều lệ) hoặc đồng sở hữu (trường hợp không đóng góp hoàn toàn vốn điều lệ).
Hình thức góp vốn.
Hình thức góp vốn hợp lệ
Các tổ chức, cá nhân được quyền góp vốn điều lệ bằng các hình thức sau:
Hình thức này không được áp dụng với các trường hợp sau:
Nguồn đóng góp hình thành vốn điều lệ.
Tài sản tham gia góp vốn điều lệ là tiền mặt hoặc các vật chất tương tự có thể quy đổi ra tiền mặt như nội tệ, ngoại tệ, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết hoặc các tài sản giá trị tương đương.
Vai trò vốn điều lệ đối với doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp vốn điều lệ là: |
Vốn pháp định | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2713 | Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để có thể thành lập một doanh nghiệp. Vốn pháp định do Cơ quan có thẩm quyền ấn định, mà nó được xem là có thể thực hiện được dự án khi thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định sẽ khác nhau tùy theo lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh.
Việt Nam.
Vốn pháp định ở Việt Nam chỉ quy định cho một số ngành nghề có liên quan đến tài chính như Chứng khoán, Bảo hiểm, Kinh doanh vàng và Kinh doanh tiền tệ và kinh doanh bất động sản.
Kinh doanh vàng.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, có vốn pháp định tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động tại các tỉnh và thành phố khác, có vốn pháp định tối thiểu là 1 tỷ đồng Việt Nam.
Kinh doanh tiền tệ.
Theo quy định của Luật Ngân hàng và Luật các Tổ chức tín dụng vốn pháp định là 3.000 tỷ.
Kinh doanh Bất động sản.
Vốn pháp định là số vốn tối thiểu ban đầu khi doanh nghiệp được pháp luật công nhận, việc quy định VPĐ nhằm đảm bảo khả năng thực tiễn và mục đích kinh doanh chân chính của doanh nghiệp cũng như bảo hộ quyền lợi của những tổ chức và cá nhân có mối quan hệ với doanh nghiệp, VPĐ khác nhau đối với các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau về tổ chức và quy mô kinh doanh, việc quy định VPĐ phải thể hiện bằng số tiền tuyệt đối. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Tiếng Pháp (, IPA: hoặc , IPA: ) là một ngôn ngữ Rôman (thuộc hệ Ấn-Âu). Giống như tiếng Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, România, Catalonia hay một số khác, nó xuất phát từ tiếng Latinh bình dân, từng được sử dụng ở Đế quốc La Mã. Tiếng Pháp phát triển từ Gaul-Rôman, loại tiếng Latinh tại Gaul, hay chính xác hơn là tại Bắc Gaul. Những ngôn ngữ gần gũi nhất với tiếng Pháp là các langues d'oïl—những thứ tiếng mà về mặt lịch sử từng được nói ở miền bắc Pháp và miền nam Bỉ. Tiếng Pháp được ảnh hưởng bởi các ngôn ngữ Celt tại vùng Gaul miền bắc Rôman (như tại Gallia Belgica) và bởi tiếng Frank (một ngôn ngữ German) của người Frank. Ngày nay, có nhiều ngôn ngữ creole dựa trên tiếng Pháp, đáng chú ý nhất là tiếng Haiti. Cộng đồng người nói tiếng Pháp (có thể là một người hoặc một quốc gia) được gọi là "Francophone".
Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức tại 29 quốc gia, đa phần là thành viên của "la francophonie", một cộng đồng quốc gia Pháp ngữ. Nó là ngôn ngữ thứ nhất tại Pháp, tỉnh Québec của Canada, miền tây Thụy Sĩ, vùng Wallonia tại Bỉ, Monaco, một số phần nhất định khác của Canada và Hoa Kỳ, và tại những cộng đồng Pháp ngữ nhiều nơi. Tới năm 2015, 40% số người francophone (gồm cả người nói L2) sống ở châu Âu, 35% ở châu Phi hạ Sahara, 15% ở Bắc Phi và Trung Đông, 8% ở châu Mỹ, 1% ở châu Á và châu Đại Dương.
Tiếng Pháp là tiếng bản ngữ của nhiều người thứ tư trong Liên minh châu Âu. 1/5 người châu Âu ở vùng phi Francophone nói tiếng Pháp. Do kết quả của việc tạo lập thuộc địa của Pháp và Bỉ từ thế kỷ 17 và 18, ngôn ngữ này được đưa đến châu Phi, châu Mỹ và châu Á. Đa phần người nói tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ hai sống ở châu Phi Francophone, đặc biệt là Gabon, Algérie, Mauritius, Senegal và Bờ Biển Ngà. Năm 2015, ước tính có 77 tới 110 triệu người nói tiếng Pháp bản ngữ, và 190 triệu người nói tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ hai. Chừng 270 triệu người có khả năng nói ngôn ngữ này. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Theo dự án của Université Laval và Réseau Démographie de l'Agence universitaire de la francophonie, tổng lượng người nói tiếng Pháp sẽ đạt 500 triệu vào năm 2025 và 650 triệu vào năm 2050. Organisation internationale de la Francophonie ước tính 700 triệu người vào năm 2050, 80% trong đó sống ở châu Phi.
Lịch sử.
Tiếng Pháp là một ngôn ngữ Rôman (tức là có nguồn gốc từ tiếng Latinh thông tục) phát triển từ các phương ngữ Gaul-Rôman được nói ở miền bắc nước Pháp. Các dạng trước đó của ngôn ngữ bao gồm tiếng Pháp cổ và tiếng Pháp Trung đại.
Tiếng Latinh thông tục ở Gaul.
Do sự cai trị của người La Mã, cư dân Gaul dần dần bị đồng hóa và sử dụng tiếng Latinh thay tiếng mẹ đẻ và do vậy, nó phát triển một số đặc điểm địa phương riêng biệt về ngữ pháp so với tiếng Latinh được nói ở những nơi khác. Giọng địa phương này dần phát triển thành các ngôn ngữ Gaul-Rôman, bao gồm tiếng Pháp và các họ hàng gần nhất của nó, chẳng hạn như tiếng Arpitan.
Sự tiến hóa của tiếng Latinh ở Gaul được định hình qua hơn nửa thiên niên kỷ bởi tiếng Gaul của người Celt bản địa, vốn không tuyệt chủng cho đến cuối thế kỷ thứ 6, rất lâu sau sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã. 90% dân số nơi đây vẫn có nguồn gốc bản địa do người La Mã chỉ đưa tầng lớp tinh hoa bản địa đã bị đồng hóa lên làm quan chứ không đồng hóa toàn bộ cư dân Gaul. Vào thời điểm La Mã lụi tàn, tầng lớp tinh hoa địa phương này đã dần từ bỏ hoàn toàn tiếng Gaul, nhưng các tầng lớp thấp hơn vẫn nói tiếng Gaul, đôi khi họ cũng có thể nói tiếng Latinh hoặc tiếng Hy Lạp. Sự chuyển đổi ngôn ngữ cuối cùng từ Gaul sang Latinh thông tục trong các nhóm dân cư nông thôn và tầng lớp thấp xảy ra sau đó, khi cả họ và giai cấp thống trị/quân đội Frank sử dụng tiếng Latinh Gaul-Rôman thông tục của tầng lớp trí thức thành thị.
Tiếng Gaul có thể vẫn tồn tại cho đến thế kỷ thứ VI ở Pháp, mặc dù đã bị La Mã hóa đáng kể. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Cùng tồn tại với tiếng Latinh, tiếng Gaul đã giúp định hình các phương ngữ Latinh thông tục sau này phát triển thành tiếng Pháp, bao gồm lớp từ mượn và từ dịch sao phỏng, các thay đổi về âm vị chịu ảnh hưởng của tiếng Gaul, và sự chia động từ và thứ tự câu chịu ảnh hưởng của tiếng Gaul. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng sự thay đổi giống ngữ pháp ban đầu có thể đã được thúc đẩy bởi giống ngữ pháp của các từ tương ứng trong tiếng Gaul.
Tiếng Pháp thượng cổ.
Sự khởi đầu của tiếng Pháp ở Gaul còn bị ảnh hưởng bởi các cuộc xâm lăng của người Đức, có tác động đáng kể lên phần phía bắc Pháp và ngôn ngữ ở đó. Sự tách nhánh ngôn ngữ bắt đầu xuất hiện trên khắp đất nước. Dân miền bắc nói "langue d'oïl" trong khi dân miền nam nói "langue d'oc". Langue d'oïl sau này sẽ phát triển thành tiếng Pháp cổ. Thời kỳ Pháp Cổ kéo dài từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIV. Tiếng Pháp cổ có nhiều điểm tương đồng với tiếng Latinh. Ví dụ, tiếng Pháp cổ có trật tự từ có thể đảo cho nhau giống như tiếng Latinh bởi vì nó có một hệ thống cách ngữ pháp linh hoạt. Tiếng Pháp thời kì này hấp thụ một siêu lớp từ vựng (superstrate) tiếng Frankan Giéc-man, một tỷ lệ lớn từ vựng (hiện nay là khoảng 15% từ vựng tiếng Pháp hiện đại) bao gồm cả đại từ số ít mạo danh "on" (từ dịch sao phỏng từ tiếng Frank nghĩa là "ta/người đàn ông/một người" tương đương từ "one" trong tiếng Anh) và tên của chính ngôn ngữ đó ("frank").
Tiếng Pháp trung cổ.
Trong tiếng Pháp cổ, nhiều phương ngữ đã xuất hiện nhưng phương ngữ Francien là tiếng nói không chỉ kế tục mà còn phát triển mạnh trong thời kỳ Trung cổ Pháp (thế kỷ XIV-XVII). Tiếng Pháp hiện đại phát triển từ phương ngữ Francien này. Về ngữ pháp, trong thời kỳ Trung cổ Pháp, biến cách danh từ giảm dần và tiêu biến rồi có thêm những quy tắc tiêu chuẩn hóa. Robert Estienne đã xuất bản cuốn từ điển Latinh-Pháp đầu tiên, bao gồm thông tin về ngữ âm, từ nguyên và ngữ pháp. Về chính trị, chiếu lệnh Villers-Cotterêts (1539) tuyên bố tiếng Pháp là ngôn ngữ của luật pháp.
Tiếng Pháp hiện đại. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Tiếng Pháp hiện đại.
Trong suốt thế kỷ XVII, tiếng Pháp thay thế tiếng Latinh trở thành ngôn ngữ quan trọng nhất của ngoại giao và quan hệ quốc tế ("lingua franca"). Nó giữ vai trò này cho đến khoảng giữa thế kỷ XX, khi nó bị thay thế bởi tiếng Anh khi Hoa Kỳ trở thành cường quốc thống trị toàn cầu sau chiến tranh thế giới thứ hai. Stanley Meisler của tờ "Los Angeles Times" bình rằng việc hiệp ước Versailles được ký kết bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp là "đòn đánh ngoại giao đầu tiên" lên ngôn ngữ này.
Trong thời kỳ Grand Siècle (thế kỷ VII), dưới sự cai trị của các nhà lãnh đạo kiệt xuất như Hồng y Richelieu và Louis XIV, tiếng Pháp đã có một thời kỳ thịnh vượng và nổi bật được công nhận bởi các quốc gia châu Âu. Richelieu thành lập Académie française để bảo toàn tiếng Pháp. Vào đầu những năm 1800, tiếng Pháp giọng Paris đã trở thành ngôn ngữ chính của tầng lớp quý tộc ở Pháp.
Gần đầu thế kỷ XIX, chính phủ Pháp đưa ra chính sách xóa bỏ dân tộc thiểu số và các ngôn ngữ địa phương ("patois") được nói ở Pháp. Chính sách này bắt đầu vào năm 1794 với "Báo cáo về sự cần thiết và phương tiện tiêu diệt patois và phổ cập tiếng Pháp" của Henri Grégoire. Giáo dục công lập bắt buộc chỉ có tiếng Pháp được dùng để giảng dạy và việc sử dụng bất kỳ patois nào khác đều bị trừng phạt. Hệ thống Trường Công lập đặc biệt cử các giáo viên Pháp ngữ đến dạy ở các vùng như Occitania và Brittany. Chỉ dụ của một quan chức Pháp cho các giáo viên ở département Finistère, phía tây Brittany, bao gồm những điều sau: "Và hãy nhớ rằng, các quý vị được giao cho vị trí của mình để giết chết ngôn ngữ Breton". Tỉnh trưởng tỉnh Basses-Pyrénées Xứ Basque thuộc Pháp ghi lại vào năm 1846: "Các trường học của chúng tôi ở Xứ Basque chỉ có ý đồ là để thay thế tiếng Basque bằng tiếng Pháp..." Học sinh được dạy rằng ngôn ngữ tổ tiên của họ thấp kém hơn và họ nên xấu hổ về chúng; Quá trình này được biết đến ở vùng nói tiếng Occitan với tên gọi Vergonha. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Trong số các nhà cải cách lịch sử của chính tả Pháp, như Louis Maigret, Marle M., Marcellin Berthelot, Philibert Monet, Jacques Peletier du Mans, và Somaize, ngày nay cải cách nổi bật nhất được đề xuất bởi Mickael Korvin, một nhà ngôn ngữ học người Mỹ gốc Hungary. Ông muốn loại bỏ dấu trọng âm, chữ cái câm, chữ cái kép và hơn thế nữa.
Các giai đoạn.
Các nhà ngôn ngữ học chia sự phát triển của tiếng Pháp ra làm 4 giai đoạn:
Phân bố địa lý.
Châu Âu.
19,71% dân số Liên minh Châu Âu sử dụng tiếng Pháp, đứng thứ ba ở EU, sau tiếng Anh và tiếng Đức và là ngôn ngữ được giảng dạy rộng rãi thứ hai sau tiếng Anh.
Theo Hiến pháp Cộng hòa Pháp, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của nước Pháp từ năm 1992, mặc dù chiếu lệnh Villers-Cotterêts đã quy định tiếng Pháp là bắt buộc đối với các văn bản pháp luật kể từ năm 1539.
Ở Bỉ, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức ở cấp liên bang cùng với tiếng Hà Lan và tiếng Đức. Ở cấp độ địa phương, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức duy nhất của Wallonia (ngoại trừ một phần Eupen-Malmedy, là vùng nói tiếng Đức) và là một trong hai ngôn ngữ chính thức — cùng với tiếng Hà Lan — của Vùng thủ đô Brussels, nơi có gần 80% người nói L1.
Tiếng Pháp là một trong bốn ngôn ngữ chính thức của Thụy Sĩ, cùng với tiếng Đức, tiếng Ý và tiếng Romansh, và được nói ở miền tây của Thụy Sĩ, được gọi là Romandy, trong đó Geneva là thành phố lớn nhất. Các phân khu ngôn ngữ ở Thụy Sĩ không trùng với các phân khu chính trị và một số bang cho phép song ngữ: ví dụ, các thành phố như Biel/Bienne và các bang Valais, Fribourg và Berne. Tiếng Pháp là ngôn ngữ mẹ đẻ của khoảng 23% dân số Thụy Sĩ, và được nói bởi 50% dân số.
Cùng với tiếng Luxembourg và tiếng Đức, tiếng Pháp là một trong ba ngôn ngữ chính thức của Luxembourg và là ngôn ngữ chủ đạo dùng trong doanh nghiệp cũng như của các cơ quan hành chính khác nhau. Nó cũng là ngôn ngữ chính thức của Monaco.
Ở cấp độ khu vực, tiếng Pháp được thừa nhận là ngôn ngữ chính thức ở vùng Thung lũng Aosta của Ý, nơi nó là ngôn ngữ đầu tiên của khoảng 30% dân số, trong khi các phương ngữ tiếng Pháp vẫn được các dân tộc thiểu số trên Quần đảo Channel sử dụng. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Nó cũng được nói ở Andorra và là ngôn ngữ chính sau tiếng Catalan ở El Pas de la Casa. Tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ hai được dạy chủ đạo từ bậc mẫu giáo ở vùng Saarland của Đức và hơn 43% công dân có thể nói tiếng Pháp.
Châu Phi.
Phần lớn dân số nói tiếng Pháp trên thế giới sống ở Châu Phi. Theo ước tính năm 2018 từ Tổ chức Internationale de la Francophonie, có khoảng 141 triệu người châu Phi đến từ 34 quốc gia và vùng lãnh thổ [Ghi chú 1] có thể nói tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ nhất hoặc thứ hai. Con số này không bao gồm những người sống ở các nước châu Phi không thuộc cộng đồng Pháp ngữ (francophone) học tiếng Pháp như ngoại ngữ. Do sự gia tăng của tiếng Pháp ở châu Phi, tổng dân số nói tiếng Pháp trên toàn thế giới dự kiến sẽ đạt 700 triệu người vào năm 2050. Tiếng Pháp là ngôn ngữ phát triển nhanh nhất trên lục địa này (xét về cả ngôn ngữ chính thức và ngoại ngữ). Tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ hai chủ yếu ở Châu Phi, nhưng nó đã trở thành ngôn ngữ thứ nhất ở một số khu vực thành thị, chẳng hạn như vùng Abidjan, Bờ Biển Ngà[55] và ở Libreville, Gabon. Không có phương ngữ chính thức gốc Phi nào, mà có nhiều dạng khác nhau do tiếp xúc với các ngôn ngữ bản địa khác nhau của châu Phi.
Châu Phi Hạ Sahara là khu vực mà tiếng Pháp có khả năng lan tỏa nhất, vì sự mở rộng của giáo dục và sự gia tăng dân số nhanh chóng. Châu Phi cũng là nơi Pháp ngữ phát triển mạnh nhất trong những năm gần đây. Một số dạng bản ngữ của tiếng Pháp ở châu Phi có thể khó hiểu đối với những người nói tiếng Pháp từ các quốc gia khác, nhưng các dạng viết của ngôn ngữ này có liên quan rất chặt chẽ với những dạng còn lại của thế giới nói tiếng Pháp.
Châu Mỹ.
Tiếng Pháp là ngôn ngữ phổ biến thứ hai ở Canada, sau tiếng Anh, và cả hai đều là ngôn ngữ chính thức ở cấp liên bang. Nó là ngôn ngữ đầu tiên của 9,5 triệu người hoặc 29% và là ngôn ngữ thứ hai của 2,07 triệu người hoặc 6% toàn bộ dân số Canada. Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức duy nhất ở tỉnh Quebec, là tiếng mẹ đẻ của khoảng 7 triệu người, hay gần 80% (Điều tra dân số năm 2006) của tỉnh. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Khoảng 95% dân Quebec nói tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ nhất hoặc thứ hai, đôi khi là ngôn ngữ thứ ba. Quebec bao gồm cả thành phố Montreal, là thành phố nói tiếng Pháp lớn thứ 4 thế giới, tính theo số người nói ngôn ngữ đầu tiên. New Brunswick và Manitoba là các tỉnh song ngữ chính thức duy nhất, mặc dù song ngữ đầy đủ chỉ được ban hành ở New Brunswick, nơi có khoảng một phần ba dân số nói tiếng Pháp. Tiếng Pháp cũng là ngôn ngữ chính thức của tất cả các lãnh thổ (Lãnh thổ Tây Bắc, Nunavut và Yukon). Trong số ba vùng lãnh thổ, Yukon có nhiều người nói tiếng Pháp nhất, chỉ chiếm dưới 4% dân số. Hơn nữa, mặc dù tiếng Pháp không phải là ngôn ngữ chính thức ở Ontario, nhưng Đạo luật Dịch vụ Ngôn ngữ Pháp đảm bảo rằng các dịch vụ của tỉnh bang sẽ được cung cấp bằng ngôn ngữ này. Đạo luật áp dụng cho các khu vực của tỉnh nơi có cộng đồng Pháp ngữ đáng kể, cụ thể là Đông Ontario và Bắc Ontario. Ở những nơi khác, các dân tộc thiểu số nói tiếng Pháp khá lớn được tìm thấy ở miền nam Manitoba, Nova Scotia, Đảo Prince Edward và Bán đảo Port au Port ở Newfoundland và Labrador, nơi phương ngữ Pháp Newfoundland từng được nói trong lịch sử. Những cộng đồng nói tiếng Pháp nhỏ hơn tồn tại ở tất cả các tỉnh khác.
Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ (2011), tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ tư được sử dụng nhiều nhất ở Hoa Kỳ sau tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung Quốc, nếu coi tất cả phương ngữ của tiếng Pháp và các ngôn ngữ tiếng Trung là một. Tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ được sử dụng nhiều thứ hai ở các bang Louisiana, Maine, Vermont và New Hampshire. Louisiana là nơi có nhiều phương ngữ riêng biệt, được gọi chung là tiếng Pháp Louisiana. Theo Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, có hơn 194.000 người ở Louisiana nói tiếng Pháp ở nhà, nhiều nhất ở bất kỳ tiểu bang nào nếu loại trừ tiếng Creole Pháp. Tiếng Pháp New England, về cơ bản là một biến thể của tiếng Pháp Canada, được sử dụng ở các vùng của New England. Tiếng Pháp Missouri từng được nói ở Missouri và Illinois (trước đây gọi là Thượng Louisiana), nhưng ngày nay gần như tuyệt chủng. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Tiếng Pháp cũng cũng được dùng lẻ tẻ dọc theo Bờ biển Vịnh của vùng trước đây là Hạ Louisiana thuộc Pháp, chẳng hạn như Đảo Mon Louis, Alabama và DeLisle, Mississippi nhưng những phương ngữ này đang bị đe dọa nghiêm trọng hoặc đã tuyệt chủng.
Tiếng Pháp là một trong hai ngôn ngữ chính thức của Haiti. Nó là ngôn ngữ chính của văn bản, giảng dạy và hành chính. Nó là tiếng nói của tất cả người Haiti có học thức và được sử dụng trong lĩnh vực kinh doanh. Nó cũng được sử dụng cho các sự kiện nghi lễ như đám cưới, lễ tốt nghiệp và thánh lễ nhà thờ. Khoảng 70–80% dân số của đất nước dùng tiếng Creole Haiti như tiếng mẹ đẻ; số còn lại nói tiếng Pháp như ngôn ngữ thứ nhất. Ngôn ngữ chính thức thứ hai là tiếng Creole Haiti đã được chuẩn hóa gần đây, mà hầu như toàn bộ dân số Haiti đều nói. Tiếng Creole Haiti là một trong những ngôn ngữ creole dựa trên tiếng Pháp, lấy phần lớn từ vựng từ tiếng Pháp, với những ảnh hưởng từ các ngôn ngữ Tây Phi, cũng như một số ngôn ngữ châu Âu. Haiti Creole có liên quan chặt chẽ với Louisiana Creole và creole từ Lesser Antilles.
Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của Guiana thuộc Pháp ở Nam Mỹ, và của Saint Pierre và Miquelon, một quần đảo ngoài khơi Newfoundland, Bắc Mỹ.
Châu Đại Dương.
Pháp có các lãnh thổ hải ngoại ở châu Đại Dương là Wallis và Futuna, Nouvelle-Calédonie và Polynésie thuộc Pháp, nên đương nhiên ở những nơi này thì tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức.
Châu Á.
Trái ngược với các châu lục khác, tiếng Pháp không có sự phổ biến ở châu Á. Hiện nay không có quốc gia nào ở châu Á công nhận tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức. Thuộc địa của Đế quốc thực dân Pháp tại châu Á trước kia chỉ có Liban, Syria, Campuchia, Lào, Việt Nam. Vì vậy tiếng Pháp cũng chỉ được sử dụng xung quanh các quốc gia này. Ngoại trừ Việt Nam thì các quốc gia kể trên coi tiếng Pháp như một ngôn ngữ thiểu số và có in quốc hiệu bằng tiếng Pháp trên hộ chiếu.
Tuy Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp và hiện nay là thành viên của Cộng đồng Pháp ngữ, tiếng Pháp tại Việt Nam đã mất vị thế và hiện nay chỉ được coi là ngoại ngữ phụ với độ phổ biến là cực ít. |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Người Việt trẻ đang theo xu hướng sử dụng tiếng Anh làm ngoại ngữ chính và dùng từ ngoại lai/ từ mượn tiếng Anh nhiều hơn so với người Việt thế hệ trước kia thường dùng từ mượn tiếng Pháp. Các biển hiệu, thông báo ở Việt Nam thường dùng phụ đề ngoại ngữ là tiếng Anh. Sự tăng cường đầu tư và hợp tác kinh tế với sự phổ biến của phương tiện văn hóa của các nước và lãnh thổ Đông Á từ Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, cũng như việc Việt Nam vốn là quốc gia có nền tảng văn hóa tương đồng thuộc vùng văn hóa Đông Á, giúp cho tiếng Trung (Quan thoại và Quảng Đông), tiếng Hàn, tiếng Nhật vượt qua tiếng Pháp để trở thành những ngoại ngữ có mức độ phổ biến tương đối khá ở Việt Nam chỉ sau tiếng Anh.
Ngữ pháp.
Ngữ pháp tiếng Pháp mang đặc điểm của nhóm ngôn ngữ Rôman là một ngôn ngữ biến tố. Các danh từ gồm 2 giống: cái ("féminin") và đực ("masculin") và được hợp theo số lượng; các tính từ được hợp theo giống và số lượng. Các động từ được chia theo các ngôi và phụ thuộc vào trạng thái của chủ ngữ để phân loại và chia cùng với các trợ động từ ("être" hay "avoir") ở các thời kép.
Orthographe du Français ("Chính tả tiếng Pháp").
L'alphabet (bảng chữ cái).
Cũng giống như một số ngôn ngữ khác ở châu Âu, tiếng Pháp sử dụng bảng chữ cái Latin. Bảng chữ cái tiếng Pháp bao gồm 26 chữ cái, đó là
Trong đó, chữ ⟨w⟩ và ⟨k⟩ rất ít khi sử dụng trong tiếng Pháp (không tính tên người), chúng được tìm thấy trong các từ mượn nước ngoài như week-end" (từ tiếng Anh là weekend), ⟨k⟩ thường được tìm thấy trong các từ có tiền tố là kilo như kilomètre, kilogramme, kilohertz"...
Diacritique (Hệ thống "thanh dấu").
Khác với tiếng Anh, từ ngữ tiếng Pháp có thể có thêm dấu ví dụ như dernière, château, création.. etc. Dưới đây là bảng hệ thống dấu câu, tên gọi và cách phát âm
Ngoài ra còn có dấu lược ("apostrophe") như "c'est", "l'hiver" và dấu gạch ngang (trait d'union) như "grands-parents", "plate-forme..."
Ligature (Chữ nối). |
Tiếng Pháp | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2719 | Trong tiếng Pháp, có hai "ligature" điển hình là Æ/æ (hình thành khi ⟨ae⟩ viết cùng với nhau) và Œ/œ (hình thành khi ⟨oe⟩ viết cùng với nhau).⟨æ⟩ được dùng trong những từ có nguồn gốc từ Latin hay Hy Lạp như "tænia", "ex æquo", "cæcum...". Còn〈 Œ 〉 sử dụng rộng rãi trong các từ như "œuf, œuvre, cœur, sœur..." |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Thành Cát Tư Hãn (, "Çingis hán"; ; (1162 - 1227) là một Khả Hãn Mông Cổ và là người sáng lập ra đế quốc Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập ở vùng Đông Bắc Á năm 1206.
Ông là một trong những nhà quân sự lỗi lạc và có ảnh hưởng nhất lịch sử thế giới, được người Mông Cổ kính trọng, như là vị lãnh đạo mang lại sự thống nhất cho Mông Cổ. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này, Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên của Trung Hoa. Tháng 10 năm Chí Nguyên thứ 3 (1266), Hốt Tất Liệt truy tôn Thành Cát Tư Hãn miếu hiệu là Thái Tổ, nên ông còn được gọi là Nguyên Thái Tổ. Thụy hiệu khi đó truy tôn là Thánh Vũ Hoàng đế. Tới năm Chí Đại thứ 2 (1309), Nguyên Vũ Tông gia thụy thành Pháp Thiên Khải Vận. Từ đó thụy hiệu của ông là Pháp Thiên Khải Vận Thánh Vũ Hoàng đế.
Các cuộc chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn trên khắp khu vực Á - Âu để bành trướng lãnh thổ đã đem lại sự thống nhất và phát triển giao lưu buôn bán, đồng thời ông cũng thi hành chính sách tự do tôn giáo. Tuy nhiên, Thành Cát Tư Hãn cũng nổi tiếng bởi sự tàn bạo với những người chống đối. Thành Cát Tư Hãn bị nhiều dân tộc coi là hiện thân của sự tàn bạo, nhất là từ Trung Á, Đông Âu và Trung Đông (là những nơi đã từng bị quân đội Mông Cổ thảm sát hàng loạt). Theo ước tính, đội quân của Thành Cát Tư Hãn đã giết hơn 40 triệu người tại các lãnh thổ mà họ xâm chiếm.
Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, như Thiếp Mộc Nhi, người lập ra đế quốc Timurid; Babur, người sáng lập ra đế quốc Mông Cổ trong lịch sử Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ đến thế kỷ XVII cho đến khi bị đế quốc Đại Thanh của người Mãn Châu thống trị lại.
Thời kỳ đầu.
Thân thế.
Tên thật của ông là Thiết Mộc Chân (), sinh năm 1162 (dù có nguồn cho rằng ông sinh năm 1155), thuộc gia tộc Bột Nhi Chỉ Cân (). Ông là con trai cả của Dã Tốc Cai, thủ lĩnh của bộ lạc Khất Nhan với bà Hạ Ngạch Luân từ bộ lạc Oát Lặc Hốt Nột. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Vào thời điểm bà Hạ Ngạch Luân mang thai ông, một thủ lĩnh người Thát Đát là Thiết Mộc Chân Ngột Cách đã bị cha ông đánh bại. Theo truyền thống trên thảo nguyên, người cha sẽ lấy tên vị tướng quân mà mình đã đánh bại để đặt tên cho con. Đó có thể là lý do khả dĩ nhất cho nguồn gốc cái tên Thiết Mộc Chân của ông. Trong tiếng Mông Cổ, Thiết Mộc Chân có nghĩa là "sắt".
Thiết Mộc Chân có 3 em trai là Cáp Tát Nhi, Hợp Xích Ôn, Thiết Mộc Cách và em gái Thiết Mộc Luân, cùng hai em cùng cha khác mẹ là Biệt Khắc Thiếp Nhi và Biệt Lặc Cổ Đài do vợ thứ của Dã Tốc Cai sinh ra. Khi Thiết Mộc Chân lên 9 tuổi, Dã Tốc Cai đưa cậu về bộ lạc bên ngoại Oát Lặc Hốt Nột để hỏi con gái của một người họ hàng làm vợ tương lai cho cậu. Khi gặp được Hoằng Cát Lạt, ông ngay lập tức đã quý mến Thiết Mộc Chân. Ông liền gả con gái mình là Bột Nhi Thiếp cho cậu và yêu cầu cậu ở rể đến khi đủ 12 tuổi. Dã Tốc Cai đồng ý và quay về một mình.
Tuổi thơ.
Trên đường trở về, Dã Tốc Cai bị một nhóm người Thát Đát đầu độc và qua đời ngay sau đó. Thiết Mộc Chân phải tạm biệt gia đình người vợ tương lai để về chịu tang, đồng thời tiếp quản vị trí tộc trưởng. Nhưng các bô lão trong bộ lạc cho rằng không thể trao vị trí đứng đầu cho một đứa trẻ 9 tuổi, nên họ đã trao vị trí này cho Tháp Nhĩ Hốt Đài - một viên tướng dưới quyền Dã Tốc Cai và đang là thủ lĩnh bộ lạc Thái Xích Ô. Sau khi nắm quyền, Tháp Nhĩ Hốt Đài lập tức trở mặt, đuổi gia đình Thiết Mộc Chân ra khỏi bộ lạc và ra lệnh cho tất cả người dân di chuyển xuống hạ lưu sông Oát Nan, bỏ lại gia đình cậu đơn độc kiếm sống.
Trong những năm sau đó, gia đình Thiết Mộc Chân sống cuộc đời du cư nghèo khó, sống chủ yếu nhờ câu cá, hái lượm và săn bắn. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Trong một lần đi câu cá, Thiết Mộc Chân cùng Cáp Tát Nhi đã giết chết Biệt Khắc Thiếp Nhi, khi bị hắn trộm mất mẻ cá mà họ vất vả thu được, khiến bà Hạ Ngạch Luân tức giận quở mắng anh em ông nhưng cũng bắt đầu dạy ông nhiều bài học từ sống sót trong điều kiện khắc nghiệt của Mông Cổ tới sự cần thiết của liên minh, hình thành nên sự hiểu biết của ông trong những năm sau này về sự cần thiết của thống nhất. Nhưng cái chết của Biệt Khắc Thiếp Nhi đã ám ảnh Thiết Mộc Chân suốt những năm sau đó, đặc biệt là khi ông phải chứng kiến hai cậu con trai là Truật Xích và Sát Hợp Đài luôn bất hòa và không thể tìm được tiếng nói chung.
Năm 15 tuổi, Thiết Mộc Chân giờ đã khôn lớn, chững chạc, là trụ cột chính của gia đình. Còn Tháp Nhĩ Hốt Đài sau một thời gian thì bắt đầu lo lắng, rằng Thiết Mộc Chân khi trưởng thành có thể sẽ quay về lấy lại vị trí tộc trưởng. Vì vậy hắn đã cho binh lính lùng sục khắp thảo nguyên, tìm gia đình Thiết Mộc Chân để trừ khử. Cuối cùng họ bị phát hiện khi đang đi săn trong một khu rừng. Để bảo vệ gia đình, Thiết Mộc Chân phải để mẹ và các em chạy theo một hướng, còn mình chạy theo hướng khác, thu hút sự chú ý của binh lính Thái Xích Ô, giúp gia đình chạy trốn an toàn. Ông sau đó cũng bị bắt và bị đối xử như một tên tội phạm. Nhưng trong lúc này, sự dũng cảm, mưu trí của Thiết Mộc Chân mới lộ rõ. Ông biết trong bộ lạc vẫn còn những người trung thành với cha ông là Dã Tốc Cai, nên đã lợi dụng đêm tối, đánh bất tỉnh lính canh rồi chạy vào nhà một người bạn khi xưa của Dã Tốc Cai, được ông ta giấu kín trong nhà, cho ăn uống và mượn quần áo cùng ngựa để chạy trốn. Thiết Mộc Chân gặp lại gia đình ở chân núi Bất Nhi Hãn. Cả nhà quyết định sẽ di cư sang phía bên kia dãy núi để tránh tai mắt của Tháp Nhĩ Hốt Đài. Về phần ân nhân của Thiết Mộc Chân, con gái của ông ta sau này trở thành vương phi của Thiết Mộc Chân, còn con trai Xích Lão Ôn trở thành một trong Tứ Kiệt, tức 4 vị quân sư đắc lực của Thành Cát Tư Hãn. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Một lần, đàn ngựa của gia đình Thiết Mộc Chân bị mất trộm. Thiết Mộc Chân vừa đi săn về, nghe tin dữ thì lập tức đuổi theo bọn cướp. Đến sẩm tối, người ngựa đều mỏi mệt, may sao Thiết Mộc Chân được một thanh niên sống gần đó là Bác Nhĩ Thuật cho tá túc. Ông nói rõ tình hình và đề nghị Bác Nhĩ Thuật đi cùng. Tài trí của Thiết Mộc Chân lại có dịp được bộc lộ khi cùng Bác Nhĩ Thuật trừ khử bọn cướp và lấy lại đàn ngựa. Sau lần đó, ông cùng Bác Nhĩ Thuật kết nghĩa huynh đệ. Bác Nhĩ Thuật sau này cũng là một trong Tứ Kiệt, là một trong những đại khai quốc công thần của đế quốc Mông Cổ và là cận thần đáng tin cậy của Thành Cát Tư Hãn.
Năm 16 tuổi, Thiết Mộc Chân tìm về bộ lạc Hoằng Cát Lạt để lấy Bột Nhi Thiếp làm vợ. Nhưng ít lâu sau, bộ lạc Miệt Nhĩ đã tấn công làng của Thiết Mộc Chân để trả thù cho việc thủ lĩnh của họ năm xưa bị Dã Tốc Cai cướp vợ (bà Hạ Ngạch Luân) và cướp Bột Nhi Thiếp làm chiến lợi phẩm. Ông đã đến cầu viện người anh em kết nghĩa Trác Mộc Hợp - người sau này trở thành kẻ thù, và người cha đỡ đầu Thoát Lý của bộ lạc Khắc Liệt để giải thoát cho vợ mình. Nhưng trong thời gian bị bắt giữ, Bột Nhi Thiếp đã mang thai đứa con đầu lòng Truật Xích. Điều này đã dẫn đến sự nghi ngờ trong dòng tộc, rằng Truật Xích không phải con của Thiết Mộc Chân, và hậu duệ của Truật Xích không bao giờ được coi là những người kế vị. Thông thường, theo truyền thống Mông Cổ, người đàn ông sẽ giết chết đứa con đầu lòng của mình vì cho rằng đó có thể là con của vợ với người khác trước khi đến với mình, hoặc đó là con của vợ với kẻ bắt cóc, do tình trạng cướp hôn diễn ra thường xuyên tại Mông Cổ. Nhưng Thiết Mộc Chân đã giữ Truật Xích lại và nghiêm cấm mọi người xung quanh bàn tán về thân thế cậu con cả. Nhưng chính vì bị nghi ngờ huyết thống mà Truật Xích luôn gặp rắc rối với mọi người trong dòng tộc, đặc biệt là cậu em thứ Sát Hợp Đài, khi Sát Hợp Đài một mực tin rằng những tin đồn đó là sự thật. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Cả hai luôn xô xát, cãi cọ, thậm chí dùng đến nắm đấm để giải quyết mâu thuẫn, khiến chính người cha vĩ đại của mình cũng phải bất lực. Bên cạnh Truật Xích và Sát Hợp Đài, Bột Nhi Thiếp còn sinh 2 người con trai khác Oa Khoát Đài và Đà Lôi cùng 5 con gái.
Thống nhất Mông Cổ.
Thảo nguyên Mông Cổ vào khoảng cuối thế kỷ XII và đầu thế kỷ XIII được phân chia giữa các bộ lạc hay liên minh bộ lạc, nổi bật như Nãi Man, Miệt Nhĩ, Duy Ngô Nhĩ, Thát Đát, Khất Nhan, Khắc Liệt... thường xung đột với những cuộc đột kích, cướp bóc, trả thù lẫn nhau.
Thiết Mộc Chân bắt đầu sự nghiệp bằng cách liên minh với một người bạn của cha ông là Thoát Lý, thủ lĩnh của bộ lạc Khắc Liệt, được nhà Kim phong tước Vương Hãn năm 1197. Thiết Mộc Chân lấy danh nghĩa là con của Dã Tốc Cai, đến diện kiến Thoát Lý và nhận ông ta làm cha đỡ đầu. Đến khi Bột Nhi Thiếp bị người Miệt Nhĩ bắt, Thoát Lý cho Thiết Mộc Chân mượn 20.000 quân và đề nghị mời cả Trác Mộc Hợp, khi đó đang là thủ lĩnh bộ lạc Trát Đạt Lan cùng tiếp ứng, vì Trác Mộc Hợp cũng có tư thù với người Miệt Nhĩ khi bị họ bắt cóc lúc nhỏ. Người anh em kết nghĩa này đã cho ông mượn thêm 10.000 quân, đồng thời hẹn tập kết ở thượng nguồn sông Oát Nan 3 ngày sau đó. Mặc dù giải cứu Bột Nhi Thiếp thành công và đánh bại hoàn toàn người Miệt Nhĩ, nhưng Thiết Mộc Chân và Trác Mộc Hợp bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn về phân chia quyền lợi, đất đai và cả cách quản lý bộ lạc. Hơn nữa, Trác Mộc Hợp khi thấy thế lực của Thiết Mộc Chân ngày càng lớn mạnh thì nảy sinh nghi ngại. Năm 1190, người của Thiết Mộc Chân trong một cuộc tranh chấp đồng cỏ đã giết chết người của Trác Mộc Hợp. Điều này đã trở thành cái cớ để Trác Mộc Hợp đem 30.000 quân tấn công Thiết Mộc Chân. Thế lực của Thiết Mộc Chân dù đang dần lớn mạnh nhưng cũng chỉ có hơn 10.000 quân, và đã phải chịu thất bại trước Trác Mộc Hợp. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Dù thắng trận, nhưng việc Trác Mộc Hợp đối xử tàn nhẫn với các tù binh và hành quyết họ một cách dã man đã khiến rất nhiều tướng sĩ của ông ta bất mãn và chạy sang đầu quân cho Thiết Mộc Chân. Trong số đó có Mộc Hoa Lê - một trong những vị đại tướng huyền thoại của Mông Cổ, có công rất lớn trong cuộc chiến với nhà Kim sau này.
Các kẻ thù chính của liên minh Mông Cổ vào khoảng năm 1190-1200 là Nãi Man ở phía tây, Miệt Nhĩ ở phía bắc, nước Tây Hạ của người Đảng Hạng ở phía nam và nhà Kim cùng Thát Đát ở phía đông. Năm 1190, Thiết Mộc Chân thống nhất một bộ phận người Mông Cổ, chủ yếu là bạn bè và tướng lĩnh dưới quyền cha ông khi xưa. Trong các bộ lạc chiếm được, ông thực hiện việc cai trị theo cung cách khác với truyền thống của người Mông Cổ bằng cách ủy quyền cho những người xứng đáng và trung thành chứ không dựa trên quan hệ gia đình. Thiết Mộc Chân sau đó ban hành bộ luật bằng văn bản cho người Mông Cổ, gọi là Yassa, ra lệnh phải tuân thủ nghiêm ngặt để xây dựng tổ chức và quyền lực trong phạm vi vương quốc của mình. Để đảm bảo sự phục tùng tuyệt đối và tuân thủ luật pháp, Thiết Mộc Chân cam kết dành cho thần dân và binh lính sự giàu có từ chiến lợi phẩm trong tương lai. Khi đánh bại các bộ lạc thù địch, ông không ruồng bỏ binh lính của họ mà đặt các bộ lạc đó dưới sự bảo hộ của mình và hợp nhất các thành viên bộ lạc đó vào bộ lạc của mình. Mẹ ông còn nhận những đứa trẻ mồ côi từ các bộ lạc đó để nuôi. Những điểm mới trong chính sách đã gây dựng được niềm tin và lòng trung thành từ những người bị chế ngự, giúp Thiết Mộc Chân mạnh hơn sau mỗi chiến thắng.
Năm 1201, một hội nghị Khố Lý Đài (Kurultai, hội nghị các thủ lĩnh Mông Cổ) do thủ lĩnh từ 11 bộ lạc tổ chức đã bầu Trác Mộc Hợp làm Cổ Nhi Hãn, để liên minh tấn công Thiết Mộc Chân. Liên minh này bị liên minh giữa Thiết Mộc Chân với Thoát Lý đánh bại, Trác Mộc Hợp phải đầu hàng Thoát Lý. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Con trai của Thoát Lý là Tang Côn ghen tức với sức mạnh đang lên của Thiết Mộc Chân và không hài lòng sự thân mật giữa Thiết Mộc Chân với cha mình, đã lập kế hoạch ám sát Thiết Mộc Chân. Thoát Lý dù là nghĩa phụ của Thiết Mộc Chân, được Thiết Mộc Chân cứu mạng nhiều lần, lại ủng hộ con mình. Thiết Mộc Chân biết được ý đồ và đánh bại Tang Côn. Một trong những sự kiện cuối cùng làm đoạn tuyệt quan hệ giữa Thiết Mộc Chân và Thoát Lý là Thoát Lý từ chối đề nghị cưới con gái ông ta cho Truật Xích, một dấu hiệu không tôn trọng trong văn hóa Mông Cổ. Hành động này dẫn tới sự chia cắt hai bên và là điềm báo một cuộc chiến tranh sẽ nổ ra. Thoát Lý liên minh với Trác Mộc Hợp, nhưng sau đó hai người nảy sinh mâu thuẫn, cộng với sự chuyển hướng của một loạt cựu liên minh sang phía Thiết Mộc Chân đã dẫn tới thất bại của Thoát Lý. Thoát Lý chạy tới bộ lạc Nãi Man, nhưng bị binh lính Nãi Man giết chết năm 1203. Thất bại này đã làm cho bộ lạc Khắc Liệt bị phân rã hoàn toàn.
Mối đe dọa kế tiếp đối với Thiết Mộc Chân là người Nãi Man, với Trác Mộc Hợp và các tàn dư bộ lạc bị Thiết Mộc Chân đánh bại đã chạy tới nương tựa. Nhưng trước khi Thiết Mộc Chân tấn công Nãi Man, một số tướng lĩnh đã chạy sang phía quân Mông Cổ. Thiết Mộc Chân đã đánh bại Thái Dương Hãn vào cuối năm 1204. Thất bại của người Nãi Man đã làm cho Thiết Mộc Chân trở thành thủ lĩnh duy nhất của thảo nguyên Mông Cổ, nghĩa là tất cả các liên minh hùng mạnh khác hoặc là thất bại hoặc là bị hợp nhất dưới trướng của ông.
Theo "Bí sử Mông Cổ", Trác Mộc Hợp sau thất bại của người Nãi Man phải tiếp tục bỏ chạy để tránh bị truy sát. Nhưng cuối cùng hắn lại bị thuộc hạ của mình phản bội, bắt trói và giải đến chỗ của Thiết Mộc Chân. Tuy nhiên, Thiết Mộc Chân không nỡ xuống tay với người bạn thời thơ ấu nên đã tha chết và đề nghị Trác Mộc Hợp quên đi hận thù mà cùng nhau xây dựng Mông Cổ. Ông cũng hạ lệnh hành hình những kẻ bán đứng Trác Mộc Hợp vì tội tạo phản. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Tuy nhiên, Trác Mộc Hợp từ chối, nói rằng bầu trời chỉ có một mặt trời thôi và đề nghị được chết một cách cao quý theo tập quán là chết không rơi máu. Thiết Mộc Chân dù rất đau lòng nhưng vẫn phải đáp ứng.
Năm 1206, sau khi thống nhất toàn bộ các bộ lạc trên thảo nguyên Mông Cổ, các tướng lĩnh Mông Cổ đã mở hội nghị Khố Lý Đài, tôn Thiết Mộc Chân làm Đại Hãn, tuyên bố lập ra Đại Mông Cổ Quốc, lấy hiệu là Thành Cát Tư Hãn (trong tiếng Mông Cổ thì "Чингис Хаан" có nghĩa là vua của cả thế giới).
Thành lập đế chế.
Trung Hoa.
Sau khi lên ngôi, Thành Cát Tư Hãn đã có nhiều chính sách nhằm giúp Mông Cổ đi lên. Tuy vậy, thực trạng bùng nổ dân số dẫn đến nguồn cung cấp lương thực và tài nguyên trong nước ngày càng cạn kiệt. Điều này khiến Thành Cát Tư Hãn bắt đầu nhắm đến những vùng đất bên ngoài thảo nguyên, cụ thể là vùng đất Trung Nguyên rộng lớn mà gần nhất là nước Kim. Nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên Thành Cát Tư Hãn chuyển hướng sang Tây Hạ, vừa để phá vỡ quan hệ liên minh giữa Kim và Tây Hạ, vừa để làm bàn đạp tấn công Kim. Vì vậy, sau khi bình định thành công các bộ lạc thiểu số phía Bắc, Thành Cát Tư Hãn dẫn quân tiến đánh Tây Hạ vào năm 1209. Ông đã chiếm được một số thành trì vững chắc của Tây Hạ. Vua Tây Hạ là Lý An Toàn sai sứ sang cầu cứu nước Kim nhưng không được hồi đáp. Cuối cùng, Tây Hạ phải ký hiệp ước hòa bình, thừa nhận Thành Cát Tư Hãn là chúa tể, biến quốc gia này trở thành chư hầu của Mông Cổ và cung cấp binh lính cũng như hậu cần cho các chiến dịch trong tương lai của Thành Cát Tư Hãn. Sau đó Tây Hạ cũng bị ông lật đổ (1227).
Sau khi thu phục Tây Hạ và chỉnh đốn quân đội, Thành Cát Tư Hãn nhận thấy thời cơ tiến đánh nước Kim đã đến. Trước tiên, ông sỉ nhục tân hoàng đế của nước Kim là Hoàn Nhan Vĩnh Tế, khi sứ giả nước Kim sang Mông Cổ yêu cầu ông phải sang chầu và tiến cống. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Thành Cát Tư Hãn gọi tân hoàng đế là kẻ đần độn, hèn nhát, thậm chí còn nói với sứ giả nước Kim rằng "Hoàng đế Trung Nguyên phải là người nhà trời như ta mới xứng đáng". Sau đó, ông gả con gái cho con trai tộc trưởng bộ lạc Uông Cổ ở biên giới Mông-Kim, để họ làm tai mắt do thám tình hình nước Kim. Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn điểm 10 vạn kỵ binh tiến đánh nước Kim, với lý do để trả thù cho ông nội là Khả Hãn Yểm Ba Hải đã bị nhà Kim sát hại cũng như những cư dân Mông Cổ bị nhà Kim bắt bớ làm nô lệ và sát hại trong nhiều năm qua. Ông còn lấy lý do giải phóng tộc người Khiết Đan bị người Nữ Chân chèn ép để lôi kéo người Khiết Đan đi theo mình.
Kết quả của chiến thuật siêu đẳng và sự hoàn hảo của chiến lược là Thành Cát Tư Hãn đã xâm chiếm và hợp nhất lãnh thổ nhà Kim đến tận Vạn Lý Trường Thành năm 1213. Tiêu biểu nhất là trận Dã Hồ Lĩnh, khi 10 vạn quân Mông Cổ đánh tan tác 45 vạn quân Kim, khiến quốc lực tích lũy suốt gần 100 năm của nhà Kim bỗng chốc tiêu tan. Cùng năm đó, tướng nhà Kim là Hồ Sa Hổ giết chết Hoàn Nhan Vĩnh Tế rồi lập anh trai cùng cha khác mẹ của Kim Chương Tông là Hoàn Nhan Tuần lên ngôi, tức Kim Tuyên Tông. Sau đó Thành Cát Tư Hãn chỉ huy ba cánh quân tiến vào trung tâm lãnh thổ nước Kim, nằm giữa Vạn Lý Trường Thành và sông Hoàng Hà. Kim Tuyên Tông phải cầu hòa, cắt đất, dâng vàng bạc châu báu và gả công chúa cho Thành Cát Tư Hãn để ông lui binh. Tuy tỏ ra hòa hảo nhưng Kim Tuyên Tông vẫn lo sợ, lập tức dời đô về Khai Phong. Thành Cát Tư Hãn vô cùng giận dữ, cho rằng nhà Kim bội ước, lại xua quân tiến đánh.Năm 1215, Thành Cát Tư Hãn lại xâm chiếm miền bắc Trung Quốc, chiếm giữ hàng loạt thành phố và năm 1215 đã bao vây, chiếm giữ và cướp bóc kinh thành Trung Đô (sau này là Bắc Kinh). Nhưng trong lúc đó, tàn dư bộ lạc Miệt Nhĩ quay lại quấy nhiễu thảo nguyên Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn buộc phải rút quân, chỉ để Mộc Hoa Lê cùng binh sĩ dưới quyền ông ta ở lại. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Mộc Hoa Lê sau đó vì quá lao lực, cộng thêm sự uất ức vì bị Tây Hạ trở mặt mà qua đời khi quân Mông Cổ chuẩn bị tiến vào Khai Phong. Trong suốt thời gian tiến đánh nhà Kim, quân Mông Cổ đã thu được rất nhiều vàng bạc châu báu, sản vật quý cùng hàng ngàn tù binh. Nhưng thu hoạch lớn nhất của Thành Cát Tư Hãn có lẽ là việc thu phục thành công Gia Luật Sở Tài - hậu duệ của hoàng tộc Khiết Đan và là một kỳ tài hiếm có thời điểm đó. Ông đồng ý làm việc cho đế quốc Mông Cổ và làm đến chức Tể tướng dưới thời Oa Khoát Đài.
Tây Á.
Cùng thời gian đó Khuất Xuất Luật, con trai của Thái Dương Hãn của bộ lạc Nãi Man đã chạy về phía tây và cướp Tây Liêu, đồng minh phía tây của Thành Cát Tư Hãn. Trong thời gian này, quân đội Mông Cổ đã mệt mỏi do hơn 10 năm chiến tranh chống lại Tây Hạ và Kim. Vì vậy Thành Cát Tư Hãn chỉ gửi khoảng 20.000 quân dưới sự chỉ huy của Triết Biệt để chống lại Khuất Xuất Luật. Dân chúng Tây Liêu vốn phẫn uất trước sự cai trị tàn bạo của Khuất Xuất Luật đã mở cửa biên giới cho quân Mông Cổ tiến vào. Khuất Xuất Luật đã bị đánh bại ở phía tây Kashgar; ông ta bị bắt sống và hành hình sau đó. Tây Liêu sáp nhập vào Mông Cổ. Năm 1218 đế quốc Mông Cổ mở rộng về phía tây tới hồ Balkhash và tiếp giáp với đế quốc Khwarezm, một quốc gia Hồi giáo trải dài từ biển Caspi ở phía tây và vịnh Ba Tư, biển Ả Rập ở phía nam.
Năm 1218 Thành Cát Tư Hãn gửi một đoàn sứ giả sang tỉnh phía đông của đế quốc Khwarezm với mục đích thảo luận khả năng buôn bán với quốc gia này. Thống đốc của tỉnh này đã giết chết họ và làm Thành Cát Tư Hãn giận dữ. Ông đã cho 200.000 quân tràn sang để trả thù. Quân đội Mông Cổ với chiến lược và chiến thuật hơn hẳn đã nhanh chóng hạ thành phố này và hành hình viên thống đốc bằng cách đổ bạc nóng chảy vào tai và mắt ông ta để trả đũa hành động xúc phạm Thành Cát Tư Hãn và những ý định tốt đẹp ban đầu của người Mông Cổ.
Cùng thời điểm này (1219), ông quyết định mở rộng ảnh hưởng của Mông Cổ với thế giới Hồi giáo. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Quân Mông Cổ lần lượt hạ các thành phố chính của Khwarezm như Bukhara, Samarkand và Balkh, và hoàng đế Khwarezm là Ala ad-Din Muhammad II phải liên tục rút lui. Cuối cùng, ông ta chết ở một hòn đảo trên biển Caspi, gần cảng Abaskun năm 1220, và đế quốc Khwarezm sụp đổ.
Sau đó quân Mông Cổ chia làm 2 đạo quân, Thành Cát Tư Hãn chỉ huy một nhánh tràn vào Afghanistan và bắc Ấn Độ, nhánh kia do Tốc Bất Đài chỉ huy tiến vào Kavkaz và Nga. Không cánh quân nào bổ sung thêm lãnh thổ cho đế chế nhưng họ đã cướp bóc và đánh bại mọi đội quân mà họ gặp. Năm 1225 cả hai cánh quân đều quay trở lại Mông Cổ.
Những cuộc xâm lăng này đã bổ sung thêm Transoxiana và Ba Tư vào đế chế vốn đã ghê gớm và xác lập hình ảnh của Thành Cát Tư Hãn như một chiến binh khát máu trong những người không biết hoặc không muốn biết rằng ông là ông chủ thực sự của thế giới cho đến năm 1227, khi ông qua đời.
Châu Âu.
Sau khi tiêu diệt Đế quốc Khwarezm vào năm 1220, Thành Cát Tư Hãn tập hợp lực lượng ở Ba Tư và Armenia để trở về thảo nguyên Mông Cổ. Theo đề nghị của Tốc Bất Đài, quân Mông Cổ được chia thành 2 cánh. Thành Cát Tư Hãn dẫn phần lớn quân chủ lực về Mông Cổ bằng cách tấn công xuyên qua Afghanistan và bắc Ấn Độ. Cánh còn lại gồm 2 vạn quân do Triết Biệt và Tốc Bất Đài chỉ huy, hành quân qua vùng Kavkaz và vào Nga, tấn công sâu vào Armenia và Azerbaijan. Người Mông Cổ phá hủy Gruzia, chiếm được trung tâm thương mại và quân sự Caffa ở Krym của Cộng hòa Genova, và tiến sát Biển Đen. Ảnh hưởng của vó ngựa Mông Cổ được mở rộng hơn bao giờ hết.
Trên đường trở về Mông Cổ, cánh quân Tốc Bất Đài bị liên quân Cuman-Kipchak và lực lượng lớn quân Nga Kiev lên tới 8 vạn, tập hợp từ quân đội của các vương công Nga, do Mstislav Mstilavich của Halych và Mstislav III của Kiev chỉ huy, chặn lại. Tốc Bất Đài gửi sứ giả đến đề nghị hòa bình nhưng các sứ giả bị hành quyết. Nổi giận vì bị từ chối, Tốc Bất Đài ra lệnh tấn công vào đội quân Nga Kiev, tuy đông nhưng kém phối hợp bởi sự thiếu đoàn kết của các vương công Nga, Tốc Bất Đài đã đánh tan đội quân này tại sông Kalka năm 1223. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Quân Mông Cổ tiếp tục càn quét lãnh thổ Nga và chỉ chịu dừng lại sau trận eo sông Samara, khi bị quân Volga Bulgar, do Ghabdulla Chelbir chỉ huy, phục kích gây thiệt hại nặng nề.
Các vương công Nga không còn cách nào khác ngoài đề nghị cầu hòa, thực chất là lời đầu hàng nhục nhã. Tuy họ không bị tước đi quyền lực, nhưng họ phải chịu thần phục và triều cống cho Thành Cát Tư Hãn. Tương truyền, để dương uy quân Mông Cổ, Tốc Bất Đài cho đặt ván trên đầu các vương công Nga để mở tiệc ăn mừng. 6 vương công Nga, trong đó có Mstislav III của Kiev, đã bị đè đến chết.
Thành Cát Tư Hãn không phải người chấp nhận thất bại. Trước khi 2 cánh quân về Mông Cổ năm 1225, họ đã trinh sát và tìm hiểu kỹ đối phương để chuẩn bị phục thù. Dù Thành Cát Tư Hãn chết 2 năm sau đó, quân Mông Cổ cũng một lần nữa trở lại vào năm 1237 dưới sự chỉ huy của Bạt Đô - con trai của Truật Xích, chinh phục hoàn toàn Nga Kiev và Volga Bulgar vào năm 1240, trả lại mối thù bại trận lần trước.
Chiến dịch cuối cùng.
Tây Hạ từ chối không tham chiến chống lại đế chế Khwarezm, cũng từ chối góp quân để đánh nhà Kim, thậm chí còn giúp nước Kim đánh Mông Cổ khiến Mộc Hoa Lê uất ức mà qua đời. Thành Cát Tư Hãn đã thề sẽ dành cho họ sự trừng phạt. Sau một thời gian nghỉ ngơi để chỉnh đốn quân đội, Thành Cát Tư Hãn chuẩn bị binh mã với mục tiêu san phẳng Tây Hạ.
Cùng thời gian này, ông cũng đã chọn người con trai thứ 3 là Oa Khoát Đài làm người kế vị cũng như thiết lập cơ chế chọn người kế vị thông qua hội nghị Khố Lý Đài và phải là hậu duệ trực hệ của ông.
Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn điểm 180.000 quân tấn công Tây Hạ. Tháng 2, ông chiếm các thành phố Hắc Thủy, Cam Châu và Túc Châu và trong mùa thu năm đó ông chiếm phủ Tây Lương. Các tướng Tây Hạ đã đánh một trận lớn với quân Mông Cổ gần dãy núi Hạ Lan Sơn. Quân Tây Hạ đại bại. Tháng 11, ông bao vây thành Linh Châu và vượt qua sông Hoàng Hà đánh bại quân cứu viện của Tây Hạ. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Năm 1227, ông tấn công kinh đô Tây Hạ, trong tháng 2 chiếm phủ Lâm Thao, tháng 3 chiếm quận Tây Ninh (tỉnh Thanh Hải ngày nay) và phủ Tín Đô. Trong tháng 4 chiếm quận Đức Thuận. Tại Đức Thuận, tướng Tây Hạ Mã Kiên Long chống lại quân Mông Cổ trong nhiều ngày cả trong và ngoài thành. Mã Kiên Long sau đó chết do bị tên bắn. Thành Cát Tư Hãn sau khi chiếm Đức Thuận, tiến quân tới Lục Bàn Sơn (thuộc huyện Thanh Thủy, thành phố Thiên Thủy, tỉnh Cam Túc) để tránh mùa hè khắc nghiệt.
Vua Tây Hạ chính thức đầu hàng Mông Cổ năm 1227 và hẹn xin nộp thành. Tây Hạ bị diệt sau 190 năm (1038 - 1227). Trước thời hạn vua Tây Hạ nộp thành đúng 1 ngày thì Thành Cát Tư Hãn băng hà. Cả hoàng tộc Tây Hạ sau đó cũng bị hành hình.
Trong giờ phút cuối cùng, Thành Cát Tư Hãn vẫn không quên nói ra chiến lược tác chiến sinh tử giữa Mông Cổ, Kim và Nam Tống. Sách lược của Thành Cát Tư Hãn là trước mượn đường Tống để diệt Kim, sau đó quay lại diệt Tống. Không những thế, Thành Cát Tư Hãn còn chỉ cụ thể con đường xuất quân và việc thực hiện phương án tác chiến. Ông nói: "Quân tinh nhuệ của Kim ở Đồng Quan, phía nam chiếm cứ Liên Sơn, phía bắc bị hạn chế bởi sông lớn, như thế khó đánh thắng nhanh. Nhưng Tống và Kim có mối thù truyền kiếp, giả liên Tống thì đánh Kim sẽ dễ. Bởi lúc này Kim nóng vội, trưng binh hàng vạn, tiếp tế khó khăn, người ngựa mệt mỏi, ta sẽ đánh thắng". Nói xong, Thành Cát Tư Hãn băng hà vào ngày 18 tháng 8 năm 1227 tại huyện Thanh Thủy, gần Lục Bàn Sơn, Trung Quốc, thọ 66 tuổi. Nguyên nhân cái chết của ông vẫn chưa được sáng tỏ, nhiều người cho rằng do ông ngã ngựa, cộng với tuổi già và suy giảm thể lực hay bị hạ độc từ phía kẻ thù. "Biên niên sử Galicia-Volhynia" cho rằng ông bị những người Đảng Hạng giết chết, tuy nhiên đến ngày nay vẫn chưa ai biết rõ.
Hậu duệ. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Hậu duệ.
Trước khi mất, Thành Cát Tư Hãn đã chia đế quốc rộng lớn của mình cho 4 đích tử: Truật Xích nhận vùng cực Tây (Nga và Kazakhstan ngày nay) gọi là Kim Trướng Hãn quốc; Sát Hợp Đài nhận Transoxania nằm giữa các sông Amu Darya và Syr Darya tại Uzbekistan ngày nay, và khu vực quanh Kashgar, gọi là Sát Hợp Đài Hãn quốc; Oa Khoát Đài nhận Trung Quốc và được chỉ định làm Đại Hãn kế vị; còn Đà Lôi nhận vùng trung tâm Mông Cổ theo truyền thống con út thừa hưởng gia tài.
Tuy nhiên, sau khi Thành Cát Tư Hãn mất, thay vì Oa Khoát Đài lên kế vị như di chiếu, Đà Lôi đã nắm quyền Giám quốc trong 2 năm. Đến năm 1229, Oa Khoát Đài mới chính thức lên ngôi Đại Hãn. Ông mở cuộc tấn công chưa từng thấy vào nước Kim, cuối cùng nhà Kim bị tiêu diệt ngày 9 tháng 2 năm 1234.
Sau khi lên ngôi Đại Hãn được 13 năm, Oa Khoát Đài băng hà. Hoàng hậu Thoát Liệt Ca Na làm Giám quốc trong 5 năm rồi tôn con trai trưởng Quý Do làm Đại Hãn kế vị (1246). Nhưng Quý Do chỉ ở ngôi được 2 năm thì qua đời mà chưa kịp chỉ định người nối ngôi. Cuộc chiến vương quyền trong hoàng tộc Mông Cổ ngày càng trở nên căng thẳng giữa cánh nhà Oa Khoát Đài (gồm các anh em của Quý Do và Thất Liệt Môn - cháu nội của Oa Khoát Đài, vốn được Oa Khoát Đài chọn làm tân Đại Hãn) và cánh nhà Đà Lôi (gồm Mông Kha và Hốt Tất Liệt). Cuối cùng, với sự trợ giúp của Bạt Đô, người con trưởng của Đà Lôi là Mông Kha đã đánh bại tất cả đối thủ để lên ngôi Đại Hãn (1251). Ông cho mở các chiến dịch để mở rộng lãnh thổ như đánh chiếm Đại Lý (1254) và Đại Việt (1257) để thuận lợi cho việc đánh chiếm Nam Tống. Sau khi thôn tính Đại Lý và thất bại trong cuộc xâm lăng Đại Việt, năm 1258 ông cùng Hốt Tất Liệt dẫn quân tiến đánh Nam Tống. Nhưng ông đã tử trận khi quân Mông Cổ đang vây hãm Điếu Ngư (Trùng Khánh ngày nay) (1259). |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Sau khi Mông Kha mất, trong khi người em thứ 5 của ông là Húc Liệt Ngột tách ra thành lập Y Nhi Hãn quốc (tức Ba Tư cũ), hai em trai cùng mẹ còn lại của ông là Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca cùng xưng Đại Hãn (1260). Thế là cuộc nội chiến nổ ra. Cuối cùng Hốt Tất Liệt dành chiến thắng và trở thành Đại Hãn chính thức (1264). Năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Đại Nguyên, thay thế kinh đô cũ Hòa Lâm bằng 2 kinh đô mới là Đại Đô (kinh đô mùa đông, tức Bắc Kinh ngày nay) và Thượng Đô (kinh đô mùa hè, tức Chính Lam, Nội Mông ngày nay). Năm 1279, Hốt Tất Liệt chinh phục thành công Nam Tống, thôn tính toàn bộ Trung Nguyên. Hốt Tất Liệt cũng tích cực mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chiến với Nhật Bản, Đại Việt, Myanmar và Java, nhưng không thể giành chiến thắng trong mọi cuộc chiến, mà nặng nề nhất là thất bại 2 lần trước Nhật Bản và 2 lần trước Đại Việt. Nhà Nguyên cũng là triều đại khai thác triệt để "Con đường tơ lụa" - tuyến đường giao thương Á - Âu thời điểm đó. Nhà Nguyên thống trị Trung Hoa đến năm 1368, trải qua 11 đời vua, trước khi bị Hoàng Đế khai quốc của nhà Minh là Chu Nguyên Chương đánh đuổi, giành lại Trung Quốc cho người Hán. Nhà Nguyên phải rút về thảo nguyên Mông Cổ, tức nhà Bắc Nguyên, cai trị đến năm 1402 thì bỏ quốc hiệu, Mông Cổ lại bị tách ra thành nhiều bộ lạc nhỏ. Năm 1635, Hoàng Thái Cực - Đại Hãn thứ 2 của nước Hậu Kim, sau là Hoàng đế khai quốc của nhà Thanh thu phục toàn bộ Mông Cổ khi Lâm Đan Hãn - Khả Hãn của bộ lạc Sát Cáp Nhĩ (Chahar) và là hậu duệ của các hoàng đế nhà Nguyên - chết trên đường trốn chạy, và con trai ông ta là Ngạch Triết đầu hàng và dâng ngọc tỷ truyền quốc của nhà Nguyên cho Hoàng Thái Cực. Ngạch Triết sau đó được nhà Thanh phong làm Sát Cáp Nhĩ thân vương. Sau khi Ngạch Triết mất, chức vụ Sát Cáp Nhĩ thân vương được giao lại cho em trai là A Bố Nại. Nhưng A Bố Nại lại bất mãn với triều đình nhà Thanh, cộng thêm việc 2 con trai của ông ta tạo phản, khiến cả gia đình ông ta bị tru di vào năm Khang Hy thứ 6 (1675).
Bí ẩn lăng mộ. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Bí ẩn lăng mộ.
Nhiều năm trước khi qua đời, Thành Cát Tư Hãn đã tiên liệu việc xây dựng lăng mộ cho mình. Ông hạ lệnh xây một ngôi mộ không có bia theo đúng phong tục Mông Cổ, và tuyệt đối giữ bí mật về vị trí huyệt mộ. Sử chép rằng, sau khi qua đời, thi thể của Thành Cát Tư Hãn được đưa về cố hương ở Khentii Aimag, nơi nhiều người cho rằng ông được chôn cất ở đâu đó gần sông Oát Nan và núi Bất Nhi Hãn
Theo truyền thuyết, để đảm bảo vị trí lăng mộ hoàn toàn bí mật, tất cả những quân lính tín nhiệm của ông khi tham gia diễu hành linh cữu đều giết sạch tất cả những gì bất chợt thấy trên đường đi (kể cả người, động vật). Sau khi khâm liệm, hàng ngàn con ngựa được đưa tới để giày xéo, biến khu đất đó trở nên bằng phẳng, không có vẻ gì là nơi chôn người chết. Sau tang lễ, tất cả những người tham gia diễu hành linh cữu đều bị giết hoặc tự sát trong bí mật. Chỉ vài người sống sót, rồi sau khi chết, họ cũng chôn bí mật lớn nhất của vị thủ lĩnh tối cao xuống suối vàng.
Nhiều năm sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, lăng mộ của ông được người Mông Cổ xây dựng lên nhằm tôn vinh những cống hiến của vị thống lĩnh đầu tiên. Tuy nhiên, lăng mộ này chỉ mang tính biểu trưng, bên trong không có thi thể của ông.
Vào ngày 6/10/2004, một dự án khảo cổ đã khám phá ra khu vực được cho là cung điện của Thành Cát Tư Hãn ở vùng nông thôn Mông Cổ, làm tăng khả năng xác định vị trí chôn cất của ông. Điều này làm dấy lên những khả năng về vị trí của khu mộ Thành Cát Tư Hãn. Có người cho rằng, khu mộ được đặt ở Kherem, cách cung điện của ông khoảng 322 km. Một số khác lại cho rằng, nơi chôn cất Thành Cát Tư Hãn ở khu vực gần hai con sông Oát Nan và Kerulen và núi Bất Nhi Hãn
Tuy nhiên, cho đến nay, sau gần 800 năm kể từ ngày ông mất, chưa ai xác định chính xác vị trí ngôi mộ. Bí mật này trở thành một trong những "bài toán khảo cổ" lớn nhất chưa có lời giải của thế kỷ 21. Thậm chí, chính người dân Mông Cổ cũng không bao giờ có ý định khai quật lăng mộ. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Họ cho rằng hãy để vị Đại Hãn tối cao của họ được ngủ yên và việc khai quật lăng mộ bị họ xem là không tôn trọng người đã khuất và là sự báng bổ thần linh.
Tài năng.
Chính trị, văn hóa, và kinh tế.
Thành Cát Tư Hãn là một nhà lãnh đạo thực thụ. Ông tạo ra bộ luật bằng chữ viết của người Mông Cổ mà mọi người trong đế chế phải tuân thủ. Vì sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo và sắc tộc của các công dân và binh lính, ông đã truyền lại sự trung thành chỉ với Đại Hãn. Để giữ vững và bổ sung chi phí cho quân đội cũng như các hoạt động khác, ông đã cho phép các thủ lĩnh duy trì quyền lực khi họ còn cung cấp được sức mạnh quân sự, nộp cống phẩm và cung cấp nhân lực trong các cơ sở cố định. Chiếm đóng được một khu vực đất đai rộng lớn, ông khuyến khích thương nghiệp, trao đổi hàng hóa và người Mông Cổ nhận được hàng hóa và dịch vụ từ những người khác. Các thương nhân, giáo sĩ, đặc sứ có được đảm bảo sự an toàn và hướng dẫn cần thiết dưới đế chế Mông Cổ, ví dụ một số người trong số họ đã đến Trung Hoa như nhà du hành Giovanni da Pian del Carpini dưới thời Oa Khoát Đài hay nhà du hành người Ý Marco Polo tới Bắc Kinh dưới thời Hốt Tất Liệt, là những người đã viết sách về chuyến du hành của họ với độ đáng tin cậy cao. Dưới thời Thành Cát Tư Hãn, “mọi cá nhân và tôn giáo là bình đẳng trước pháp luật Mông Cổ".
Vì sự mở rộng đế chế, Thành Cát Tư Hãn có ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa của nhiều quốc gia châu Á, chủ yếu là Trung Hoa và Nga. Ông tiêu diệt tầng lớp quý tộc hiện thời trong các vùng lãnh thổ của mình, tạo ra tầng lớp trí thức thô sơ. Ông cũng tạo ra hệ thống bưu chính rộng lớn và mở rộng sự phổ biến của việc sử dụng hệ thống chữ cái thế giới, mặc dù trong nhiều năm người ta vẫn tin rằng ông là người thất học vì sự xuất hiện gần đây của chữ viết cũng như tuổi tác của ông tại thời điểm thi hành điều đó. Tuy nhiên, gần đây theo các phát kiến của các nhà sử học Mông Cổ và Trung Quốc thì ông là người có học thức cao. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Các văn bản viết tay được cho là của ông cũng như nội dung của chúng cho thấy ông có thể đọc các bài thuyết pháp của Lão giáo. Thương mại và du lịch trong lãnh thổ Trung Hoa, Trung Cận Đông và châu Âu được phát triển mạnh mẽ bởi sự ổn định chính trị nhất mà đế chế Mông Cổ đã đem lại khi thiết lập lại Con đường tơ lụa. Ông giảm các hình phạt trong các khu vực của mình, miễn giảm thuế cho các lang y và thầy đồ, thiết lập sự tự do tôn giáo. Các ngôn ngữ khác như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ được phát triển và các loại hình tôn giáo đã nảy nở. Quân đội Mông Cổ về sau bao gồm rất nhiều người của các nền di sản khác nhau. Người Mông Cổ giúp cho phần lớn châu Á biết đến bàn tính và la bàn cũng như cho châu Âu biết đến thuốc súng và thuốc nổ (phát minh bởi người Trung Hoa) và các công cụ phục vụ chiến tranh vây hãm mà người Trung Quốc đã phát triển để đối phó với người châu Âu. Người ta cũng cho rằng ông là người đầu tiên ngăn chặn sự phân chia bắc và nam Trung Quốc bắt đầu từ thời nhà Tống. Với thành tựu thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn giành được sự tôn trọng và hậu thuẫn sâu rộng của họ.
Quân sự.
Ông tổ chức quân đội Mông Cổ thành các nhóm theo cơ số 10.10 lính được quản lý bới một thập hộ tướng, 10 thập hộ tướng được quản lý bởi bách hộ tướng, 10 bách hộ tướng được quản lý bởi thiên hộ tướng, 10 thiên hộ tướng được quản lý bới vạn hộ tướng. Cơ cấu mệnh lệnh này tạo ra một sự mềm dẻo cao và cho phép quân Mông Cổ có khả năng tấn công ồ ạt, chia thành các nhóm nhỏ để bao vây và dẫn kẻ thù vào trong mai phục hay áp chế các nhóm tàn quân đã tan vỡ và đang trốn chạy. Mỗi người lính Mông Cổ có thể có từ 2 đến 4 con ngựa cho phép họ phi nước đại trong vài ngày mà không cần nghỉ ngơi hay mệt mỏi. Binh sĩ Mông Cổ cũng có thể sống vài ngày chỉ cần uống máu ngựa và ăn thịt bò Tây Tạng khô khi thời tiết khắc nghiệt. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Khi bổ sung binh lính mới, Thành Cát Tư Hãn chia họ ra thành nhiều nhóm dưới quyền của các thủ lĩnh khác nhau để tránh tình trạng có quan hệ về sắc tộc hay xã hội, vì thế ở đây không có sự phân chia theo các liên minh sắc tộc. Trong mọi chiến dịch, binh sĩ được phép đem theo gia đình của họ. Chỉ những chiến binh dũng cảm nhất mới được thăng chức. Mỗi một thủ lĩnh của một nhóm nào đó phải chịu trách nhiệm về sự sẵn sàng chiến đấu của binh lính dưới quyền tại bất kỳ thời điểm nào và có thể bị thay thế nếu như phát hiện được sự tắc trách.
Binh lính Mông Cổ là các khinh kỵ binh (kỵ binh nhẹ), điều này cho phép họ tiến hành các chiến thuật và rút lui nhanh chóng. Đây là một thông lệ đối với các đội quân linh hoạt. Người Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn và các hậu duệ của ông là sự hoàn hảo của khinh kỵ bắn cung. Một trong những kỹ thuật mà người Mông Cổ sử dụng trong chiến tranh là giả vờ rút lui giữa trận, làm đối phương tin rằng người Mông Cổ đã thua trận. Chỉ sau đó trong một khoảng cách nhất định thì họ mới hiểu là đã bị quân Mông Cổ bao vây và cuối cùng là hàng mưa tên bắn về phía họ. Người Mông Cổ không thích hợp với cận chiến, họ thích tấn công từ một khoảng cách nhất định bằng cung tên, tận dụng khả năng bắn cung khi đang cưỡi ngựa điêu luyện của mình.
Trong các cuộc chiến, thủ lĩnh quân đội Mông Cổ có thể sử dụng cờ hay kèn hiệu để thực hiện chiến lược, chiến thuật của mình. Đối với người Mông Cổ, chiến thắng là vấn đề quan trọng nhất và họ không thể chấp nhận thua trận cũng như mất người bởi vì họ bị thua sút về tiếp viện cũng như phải di chuyển xa lãnh thổ của mình. Vũ khí chủ yếu của người Mông Cổ là cung tên và kiếm lưỡi cong, nhẹ và hiệu quả để mang vác và đánh nhau hơn là kiếm dài và nặng của người châu Âu. Một quy tắc đơn giản trong giao tranh được làm rõ trong thời đại của Thành Cát Tư Hãn là nếu có từ 2 binh sĩ trở lên tách khỏi nhóm của họ mà không có sự chấp thuận của thủ lĩnh thì họ phải chết. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Kiểu giao tranh của người Mông Cổ là phương thức tự nhiên nhất của cuộc sống du cư của họ, có nghĩa là trong các cuộc viễn du thì phải có hành lý gọn nhẹ nhất cũng như tốc độ và sự linh hoạt cao. Do đó Thành Cát Tư Hãn đã bổ sung thêm một yếu tố quan trọng là kỷ luật nghiêm minh.
Triết lý quân sự của Thành Cát Tư Hãn là đánh bại kẻ thù với ít tổn thất và rủi ro nhất, dựa trên lòng trung thành và tài năng trong việc lựa chọn tướng lĩnh và binh sĩ. Do đó, chiến tranh tâm lý rất được ông ưa chuộng, đặc biệt trong việc mở rộng sự đe dọa, khủng bố với các thành phố, thị trấn khác. Nếu ông nhận thấy sự chống cự, ông có thể đưa ra cơ hội để họ đầu hàng và cống nộp. Nếu lời đề nghị bị từ chối, ông sẽ tiêu diệt cả thành phố hay thị trấn đó nhưng để cho một số người chạy trốn nhằm loan truyền tin về tổn thất của họ cho cư dân của các thành phố khác. Khi những tin đồn về sức mạnh của đội quân Mông Cổ đã lan rộng thì sẽ rất khó cho các thủ lĩnh của các thành phố đó trong việc thuyết phục người dân của họ chống lại Thành Cát Tư Hãn. Quan điểm của ông với kẻ thù là: đầu hàng hoặc chết. Khi họ đã đầu hàng, Thành Cát Tư Hãn thông thường giữ cho thành phố đó được nguyên vẹn và đảm bảo cho họ sự bảo vệ để họ trở thành nguồn nhân lực và quân nhu cho các chiến dịch trong tương lai. Nếu họ chống lại, ông thực hiện quyền sinh sát của người cai trị một cách tàn nhẫn. Người ta cho rằng ông đã tiết kiệm nhiều tổn thất sinh mạng cho quân đội Mông Cổ nhờ kiểu chiến tranh tâm lý này.
Công nghệ là một mặt quan trọng trong chiến thuật của ông. Những thiết bị vây hãm là một phần quan trọng trong các cuộc chiến, đặc biệt trong việc tấn công các thành phố đã tăng cường phòng thủ. Ông sử dụng các nhà kỹ thuật Trung Quốc am hiểu về các thiết bị vây hãm trong quân đội của mình. Các thiết bị này được tháo rời và vận chuyển bằng ngựa và được lắp ráp lại ở nơi mà chúng cần sử dụng. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Trong bối cảnh của một cuộc chiến tranh điển hình và các hình thái của nó, trước khi xâm chiếm, Thành Cát Tư Hãn và các tướng lĩnh thực hiện việc chuẩn bị ở hội nghị Khố Lý Nhĩ Đài để quyết định sách lược và tướng lĩnh tham gia. Ở phía khác, các tướng Mông Cổ là những chiến binh với mức độ độc lập cao trong các quyết định khi họ tỏ rõ lòng trung thành với Thành Cát Tư Hãn trong một thời gian dài, điều này làm giảm thiểu sự kiểm tra, giám sát của ông đối với họ trong thời gian diễn ra chiến dịch. Vì bản chất linh hoạt của quân đội Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn đã xây dựng một mạng lưới tình báo phức tạp trong quân đội Mông Cổ cũng như trong các mạng lưới thương mại hay các nước chư hầu, trong đó tình báo có thể nhanh chóng đến được mọi ngõ ngách của đế chế Mông Cổ. Người ta cho rằng, để chuẩn bị cho chiến tranh, các thủ lĩnh có thể cử 200 kỵ binh đi theo 4 hướng khác nhau để do thám các hoạt động của kẻ thù và đôi khi binh sĩ có thể đi tới 300 km trong 1 hay 2 ngày, điều này là thông thường trong thời đại của đội quân Mông Cổ.
Mặc dù chiến lược của người Mông Cổ sẽ có sự thay đổi tùy theo phản ứng của kẻ thù, nhưng kỹ thuật của họ chỉ có một. Người Mông Cổ giao chiến theo hàng dọc, thông thường có ba cánh quân, hai cánh bên hông có thể tách ra từ cánh quân trung tâm khi họ tính toán xem nơi nào họ có thể thọc vào. Các cánh quân bên hông có quân số tương đương có thể đi sâu vào lãnh thổ kẻ thù và bắt đầu chôn vùi kẻ thù bằng các toán quân Mông Cổ được chia thành các nhóm binh sĩ với các thủ lĩnh của họ, tạo ra một lực lượng chiến đấu tinh tế và có tổ chức cao, gần như không thể ngăn chặn. Khi họ hiện diện ở một nơi nào đó và do thám các thành phố và cánh đồng xung quanh, họ có thể nhập lại với cánh quân trung tâm và đưa ra đòn đánh quyết định với đội quân chính của kẻ thù. Tư tưởng và ưu thế của việc sử dụng các lực lượng bên hông là lan truyền đe dọa, khủng bố, thu thập tin tức tình báo từ các kẻ thù và loại bỏ các đơn vị nhỏ hơn của kẻ thù để họ không thể hỗ trợ lẫn nhau. Nói cách khác, nó là một dạng của khái niệm phân chia và chế ngự. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Các cánh quân bên hông này gửi các thông điệp thông qua tình báo cho các cánh quân khác về những gì xảy ra trên hướng của họ và họ có cần sự hỗ trợ từ các cánh quân đó hoặc hỗ trợ các cánh quân đó hay không. Quân đội Mông Cổ có các cuộc giao chiến với các đội quân nhỏ lẻ trên các cánh đồng trước khi tiêu diệt lực lượng đối địch chính, làm tăng ưu thế trong việc loại trừ khả năng thông tin từ nơi này sang nơi khác của đối phương. Người Mông Cổ giỏi chiến tranh vây hãm, làm lệch dòng chảy của các dòng sông cũng như cắt đứt lương thực, thực phẩm cho các thành phố và gửi những người tỵ nạn tới các thành phố khác để tạo sức ép kinh tế - xã hội cho các thành phố này.
Khi trận đánh chính hay sự vây hãm đã kết thúc, người ta cho rằng các lực lượng Mông Cổ sẽ vẫn truy đuổi các thủ lĩnh đối phương cho đến khi họ chắc chắn rằng những kẻ này đã chết.
Những cuộc tàn sát.
Năm 10 tuổi, Thành Cát Tư Hãn đã giết chết người em trai cùng cha khác mẹ trong một vụ tranh giành thức ăn.
Theo các sử gia, Thành Cát Tư Hãn đã trực tiếp tham gia 32 trận đánh lớn, 65 trận đánh nhỏ. Trong quá trình chinh chiến, Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện nhiều cuộc tàn sát đẫm máu. Không chỉ tận diệt quân đội của đối thủ, ông cũng sẵn sàng tàn sát toàn bộ người dân trong một thành phố, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em, nếu thành phố đó kháng cự lại quân đội của ông. Tiếng hung bạo đã được loan truyền khắp châu Âu, kỵ binh Mông Cổ khét tiếng đến độ người ta than rằng: "Cỏ không mọc được dưới vó ngựa Hung Nô"
Theo nhiều số liệu, các cuộc tấn công của người Mông Cổ có thể đã làm sụt giảm dân số toàn thế giới thời đó đi khoảng 11%, tương đương với khoảng 45 triệu người.
Mông Cổ.
Năm 20 tuổi, Thành Cát Tư Hãn đánh bại bộ lạc Thát Đát đã gây ra cái chết của cha mình. Ông có cách trả thù vô cùng tàn khốc, đó là nam giới bị trói vào trục bánh xe, người nào cao hơn trục bánh xe đều bị chém đầu. Hàng vạn người Thát Đát đã bị chém đầu theo cách này.
Trung Á.
Năm 1219, sau khi vua của đế chế Khwarezm giết sứ giả Mông Cổ, ông đã xua toàn bộ quân đội xâm chiếm đế chế này. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Cuộc chiến sau đó đã khiến khoảng 4 triệu thường dân Khwarezm bỏ mạng, và đế chế Khwarezm đã bị phá hủy hoàn toàn:
Nhiều công trình nghệ thuật, những thư viện phong phú, cung điện và giáo đường ở Trung Á cũng bị tàn phá nặng nề trong cuộc chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn.
Trung Quốc.
Trung Quốc cũng chịu sự tàn sát kinh hoàng của quân Mông Cổ. Trong thời gian đế quốc Mông Cổ chinh phục Tây Hạ, Kim và Nam Tống (từ 1211 tới 1279), quân Mông Cổ thường hay tiến hành tàn sát và cướp bóc trên quy mô lớn:
Từ các số liệu dân số trên, nhiều học giả cho rằng chính quân Mông Cổ đã gây ra nguyên nhân cái chết của ít nhất 40 triệu người Trung Quốc, khoảng 1/3 trong số đó là dưới tay của Thành Cát Tư Hãn (giai đoạn 1211-1227).
Gia quyến.
Thê thiếp.
Thành Cát Tư Hãn có khoảng 40 thê thiếp, sống trong 4 "Oát nhi đóa":
Hậu duệ.
Sau mỗi cuộc chiến, Thành Cát Tư Hãn đều bắt và cưỡng bức những cô gái đẹp nhất tại vùng đất vừa chiếm đóng. Vì vậy ông có thế có hàng trăm người con rải rác trên khắp các vùng đất ông đi qua. Dưới đây chỉ là những người con được ghi nhận chính thức của ông.
Di sản.
Các hậu duệ của ông đã mở rộng quốc gia của ông rộng hơn về phía nam Trung Quốc, Nga, Iraq, Triều Tiên và Tây Tạng. Người Mông Cổ cuối cùng đã xâm chiếm Ba Lan và Hungary dưới triều đại của Bạt Đô nhưng hoàn toàn thất bại trong các cuộc xâm lược Syria, Nhật Bản và Việt Nam vì thời tiết như đối với các cuộc xâm lược Nhật Bản; vì khí hậu nóng bức, nhất là ở Trung Đông như Ả Rập Xê Út; vì khó khăn do địa hình rừng núi và mạng lưới sông ngòi dày đặc cùng với chiến thuật "vườn không nhà trống" của Việt Nam trong suốt ba cuộc xâm lược. Việc mở rộng về phía châu Âu bị ngừng lại do nhiều lý do như các thành viên cao cấp của người Mông Cổ phải quay về Mông Cổ để bầu đại hãn mới hay do sự kháng cự của người châu Âu quá mạnh. Nếu không gặp những trở ngại này, người Mông Cổ đã có thể xâm chiếm toàn bộ châu Âu như họ đã xâm chiếm Ba Lan và Hungary chỉ trong thời gian khoảng một vài tháng. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Đế chế Mông Cổ đạt tới cực đại của nó vào thời của cháu nội ông, đại hãn Hốt Tất Liệt, vua triều Nguyên, nhưng sau đó đã bị chia sẻ thành nhiều hãn quốc nhỏ và ít sức mạnh hơn.
Vào thời cực thịnh, Đế chế Mông Cổ đạt tới diện tích lớn nhất trong lịch sử loài người, trải dài từ Đông Nam Á tới châu Âu trên một diện tích 35 triệu km vuông (13,8 triệu dặm vuông). Theo một số nguồn, đế chế này chiếm tới gần 50% dân số thế giới và bao gồm các dân tộc đông dân và văn minh nhất thời kỳ đó như Trung Quốc và phần lớn các quốc gia của thế giới Hồi giáo ở Iraq, Ba Tư và Tiểu Á.
Không thể phủ nhận là những cuộc chiến tranh của Thành Cát Tư Hãn được đặc trưng bởi sự phá hủy toàn bộ với một mức độ chưa hề có cũng như sự thay đổi lớn trong phân bố dân cư châu Á. Theo như các số liệu của các nhà sử học Iran như Rashid-ad-Din Fadl Allah, thì người Mông Cổ đã giết khoảng trên 70.000 dân ở Merv và trên một triệu dân ở Nishapur. Trung Quốc cũng chịu sự suy giảm bi thảm về dân số. Trước khi người Mông Cổ xâm lược Trung Quốc có khoảng 100 triệu dân; sau khi hoàn thành việc xâm lấn năm 1279, điều tra dân số năm 1300 cho thấy chỉ còn khoảng 60 triệu dân. Điều này không có nghĩa là quân đội của Thành Cát Tư Hãn phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với cái chết của 40 triệu người nhưng nó cho thấy mức độ của sự tàn bạo trong các cuộc giao tranh.
Trong thời gian gần đây, Thành Cát Tư Hãn đã trở thành biểu tượng của những cố gắng vươn tới của người Mông Cổ để thế giới thấy được hình ảnh của họ sau những năm dài ngủ quên. Hình ảnh Thành Cát Tư Hãn xuất hiện trên những đồng tiền Mông Cổ và nhãn mác của các loại rượu mạnh. Trong thế giới phương Tây ông thường được gắn với sự khát máu và man rợ. Các hãn Mông Cổ sau này cổ vũ dân chúng tưởng niệm tới ông như một vị thánh thần tôn giáo trong toàn đế chế. Không có Thành Cát Tư Hãn có lẽ đã không có Mông Cổ, bởi vì đế chế Mông Cổ đã co lại từ vương quốc mà Thành Cát Tư Hãn đã dựng lên từ năm 1206. |
Thành Cát Tư Hãn | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2721 | Sự miêu tả có ý nghĩa về Thành Cát Tư Hãn và những người Mông Cổ (dẫu cho không phải thực tế lắm) được viết trong cuốn sách "Những bí mật của lịch sử Mông Cổ".
Cuộc thẩm tra di truyền gần đây tìm thấy các đoạn nhiễm sắc thể Y với những đặc trưng không bình thường trong 8% đàn ông trong khu vực thuộc đế chế Mông Cổ và 0,5% đàn ông trên thế giới. Tuổi của các đoạn này, tương ứng với tỷ lệ của sự biến đổi, đã đưa nguồn gốc của chúng về thời đại của Thành Cát Tư Hãn, và nó đặc biệt là chung trong những người Hazara, là những người tự nhận là hậu duệ của ông.
Ông được nhớ đến vì sự hủy diệt toàn bộ, sức mạnh ý chí mãnh liệt, khả năng thuyết phục và đặc trưng Mông Cổ của mình đối với mọi người.
Thành Cát Tư Hãn trong đời sống văn hóa.
Tiểu thuyết hoá.
Thành Cát Tư Hãn được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện kiếm hiệp "Anh hùng xạ điêu" của Kim Dung. Theo truyện này, ông rất yêu quý nhân vật chính Quách Tĩnh, từng hứa gả con gái Hoa Tranh cho chàng, phong cho chàng tước Kim Đao phò mã. Thành Cát Tư Hãn cũng là người bức tử Lý Bình, mẹ của Quách Tĩnh. Trong truyện, Thành Cát Tư Hãn mất sau khi nói chuyện với Quách Tĩnh trên thảo nguyên.
Phim truyền hình.
Thành Cát Tư Hãn 2004 do diễn viên người Nội Mông là Ba Sâm (tên Mông Cổ là Batdorj-in Baasanjab, hậu duệ của Sát Hợp Đài, con thứ hai của Thành Cát Tư Hãn) trong vai Thành Cát Tư Hãn.
Âm nhạc.
Năm 1979, nhóm nhạc Nhật Bản Berryz Koubou cho ra mắt đĩa đơn "Dschinghis Khan""." Bài hát nói về sự dũng mãnh đến đáng sợ của quân đội Mông Cổ lãnh đạo bởi Thành Cát Tư Hãn và được đánh giá rất cao bởi âm điệu bắt tai người nghe. Năm 2016, Miike Snow cũng cho ra mắt MV "Genghis Khan" và gây được tiếng vang cho sự nghiệp của anh. Đó còn chưa kể đến những bản dân ca vốn đã được truyền tụng của người Mông Cổ.
Trò chơi.
Cuộc đời và những thành quả của ông và các thế hệ sau khi ông qua đời từ lúc khởi đầu cho tới lúc xâm chiếm được Hungary đã được mô phỏng lại trong game dàn trận chiến thuật "", chế độ chơi Chiến dịch (Campaign). |
Dòng Tên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2722 | Dòng Tên (còn gọi là Dòng Chúa Giêsu, tiếng Latinh: "Societas Iesu", viết tắt: SJ) là một dòng tu của Giáo hội Công giáo có trụ sở tại Roma. Dòng do Inhaxiô nhà Loyola, người Basque Tây Ban Nha, cùng một số bạn hữu sáng lập và được Giáo hoàng Phaolô III phê chuẩn năm 1540.
Dòng Tên dấn thân vào hoạt động tông đồ và truyền giảng Phúc Âm trên khắp thế giới: Âu, Á, Phi, Mỹ. Từ lâu đời, Dòng Tên đã nổi bật với công việc giáo dục, nghiên cứu, và thăng tiến văn hóa. Sang thế kỷ 21 Dòng Tên hoạt động trên 100 quốc gia với 19.200 tu sĩ (năm 2007). Bề trên Tổng quyền của Dòng hiện nay là linh mục Arturo Sosa.
Tên gọi.
Nguyên tên tiếng Latinh là "Societas Iesu", ban đầu được gọi trong tiếng Việt là Dòng Đức Chúa Giê-su (chữ Nôm: 用德主支秋, như trong sách của Girolamo Maiorica). Từ khoảng thế kỷ 19, người Việt Công giáo quen gọi là Dòng Tên, có lẽ theo tập tục kị húy nên tránh dùng thẳng tên của Chúa Giêsu. Lúc đầu, "thầy dòng Đức Chúa Giê-su" còn được gọi là "Giê-su hội sĩ" (支秋會士). Khi tiếng Pháp còn được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, người ta còn dùng cách gọi "Giê-duýt", từ "Jésuit". Ngày nay tu sĩ Dòng Tên còn được gọi thân mật là "Giê-su hữu".
Lịch sử.
Sau thời gian tuổi trẻ đầy tham vọng và với binh nghiệp sáng chói, Inhaxiô (tên gốc: "Ignacio López"), một quý tộc xứ Loyola (Tây Ban Nha), đã đi tìm các trải nghiệm về tôn giáo Thiên chúa. Sau nhiều cuộc mò mẫm tìm tòi, ông tuyên bố đã tìm thấy tiếng gọi thiêng liêng "cứu các linh hồn" (chính lời của ông) và phụng sự chúa Kitô. Ông bắt đầu học thần học tại Đại học Paris rồi dần dần tập hợp quanh mình các "bạn hữu trong Chúa", sẵn sàng làm việc để "vinh danh Chúa" (khẩu hiệu tiếng latin "Ad maiorem Dei gloriam" trong Giáo hội Công giáo).
Ngày 15 tháng 8 năm 1534, Inhaxiô cùng 6 bạn sinh viên khác trong đó có François Xavier và Pierre Favre (người được thụ phong linh mục đầu tiên của Dòng Tên) họp lại ở Montmartre và quyết định hiến thân cho Chúa, lập ra "Đoàn Giêsu", khấn hứa giữ khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục (bề trên). |
Dòng Tên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2722 | Inhaxiô đã gợi ý cho các bạn tên Đoàn Giêsu để nhắc nhở các tu sĩ dấn thân triệt để làm chiến sĩ phục vụ Chúa. Tên "Societas Iesu" được ghi trong Sắc chỉ Giáo hoàng công nhận Dòng năm 1539.
Từ "Tu sĩ dòng Tên" (Jésuite) hay "Giêsu hữu" xuất hiện sau năm 1545, khi đó người theo Tin Lành gán cho với nghĩa xấu là "Người đạo đức giả".
Năm 1537, Inhaxiô cùng các bạn sang Ý để xin Giáo hoàng Phaolô III công nhận Dòng và đã được Giáo hoàng công nhận trong sắc chỉ "Regimini militantis ecclesiae" năm 1539. Ngày 21 tháng 7 năm 1550, Giáo hoàng Julius III tái công nhận Dòng trong sắc chỉ "Exposcit debitum".
Khi Cải cách Kháng nghị đang lan tràn, Giáo hội Công giáo thấy cũng cần phải có một cuộc nội cải cách, do đó Giáo hoàng Phaolô III đã triệu tập Công đồng Tridentinô (ở Trento, Ý từ 1545-1563), trong đó các tu sĩ Dòng Tên đã góp phần quan trọng trong Phong trào Phản Cải cách.
Ban đầu, dòng Tên hoạt động chủ yếu trong lãnh vực truyền giáo, nhưng từ năm 1547, dòng đã quay sang tập trung vào lãnh vực giáo dục cho tới cuối thế kỷ 16. Năm 1551, Dòng đã mở 1 trường trung học ở Rôma, trong khi các tu sĩ của Dòng đã có mặt ở Congo, Brasil, Angola và cả Đế quốc Ottoman với trường trung học thánh Benoît lập năm 1583.
Khi Inhaxiô qua đời năm 1556, Dòng đã có trên 1.000 tu sĩ và 60 năm sau, Dòng có trên 13.000 tu sĩ trên toàn châu Âu. Inhaxiô được Giáo hoàng Paul V tôn phong Chân phước năm 1609 và được Giáo hoàng Gregory XV phong Thánh năm 1622.
Phát triển.
François Xavier tới Goa (Ấn Độ) năm 1542 và Nhật Bản ngày 27 tháng 7 năm 1549. Một lãnh chúa samurai là Mitsuhide Akechi cho ông truyền giáo ở Nagasaki từ năm 1580. Nhưng lúc đó Nhật Bản đang trong thời kỳ bất ổn chính trị. Chỉ 2 năm sau, năm 1582, Mitsuhide bị giết và người giết Mitsuhide là Hideyoshi Toyotomi đã trục xuất François Xavier khỏi Nhật Bản vào năm 1587.
Năm 1582, phái bộ truyền giáo Dòng Tên tới Trung Quốc. Linh mục Matteo Ricci được các quan lại công nhận ngang hàng với họ. Matteo là người đầu tiên xuất sắc nghiên cứu Hán học. Các nhà truyền giáo tại Việt Nam như Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes đã khai mở chữ Quốc ngữ, trong khi văn hiến Công giáo chữ Nôm vẫn đặc biệt phát triển, nhất là các tác phẩm của Girolamo Maiorica. |
Dòng Tên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2722 | Hai nhà truyền giáo Dòng Tên Johann Grüber và Albert Dorville tới Lhassa (Tây Tạng) năm 1661.
Tại châu Mỹ, các tu sĩ dòng Tên tới Québec (Canada) năm 1625. Các tu sĩ dòng Tên cũng đã tham gia các phái bộ truyền giáo Tây Ban Nha tại California (1769-1823). Tại Nam Mỹ, nhất là ở Brasil và Paraguay phái bộ truyền giáo dòng Tên gây ra sự bài xích thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, và chống đối việc nô lệ hóa dân bản xứ. Các tu sĩ dòng Tên lập ra các khu tập trung người bản xứ để truyền giáo và dạy chữ cho họ từ năm 1609. Cũng chính các tu sĩ này đã lập ra nhiều thành phố ở đây, như thành phố São Paulo năm 1554.
Năm 1550 và 1551, các hội nghị ở Valladolid công nhận nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người. Văn hóa của người da đỏ bản xứ được công nhận. Mặc dù vậy, một số thực dân vẫn tiếp tục lạm dụng người da đỏ và đối xử với họ như nô lệ. Các tu sĩ dòng Tên đã học ngôn ngữ và phong tục tập quán của người bản xứ và lập ra các tổ chức xã hội để giúp đỡ các người bản xứ.
Ngay khi tới Peru, năm 1566, các tu sĩ dòng Tên cũng đã lập các khu tập trung truyền giáo và dạy chữ cho các người da đỏ Mojos (hoặc Moxos), Chiquitos và Guarani. Tuy nhiên, do sự căng thẳng giữa dòng Tên với các viên chức thuộc địa và sự chống đối của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, các khu này đã dần dần biến mất. Các tu sĩ dòng Tên đã buộc phải dời bỏ các khu truyền giáo ở Nam Mỹ năm 1767, các khu này bị phá, ngoại trừ khu của người Chiquitos và Mojos.
Trên thế giới, dòng Tên tranh đấu chống ảnh hưởng của Tin Lành. Dòng Tên đã phải đối mặt với các cuộc bách hại dữ dội vì lập trường thần học của mình và việc ủng hộ Giáo hoàng vô điều kiện. Dòng đã bị giải tán trên lãnh thổ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1767.
Tại Pháp.
Vào năm 1580, các tu sĩ dòng Tên thiết lập Maison Professe ở Paris, trong khu Marais, để tiếp đón các nhà thần học và khoa học. Đồng thời họ cũng quyết định lập 1 nguyện đường lớn cạnh Maison Professe (nay là nhà thờ Saint-Paul Saint-Louis). Tháng 5/1641, Hồng y de Richelieu đã dâng thánh lễ misa đầu tiên tại nhà thờ này. |
Dòng Tên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2722 | Giới quý tộc thường tới đây dâng lễ và nghe giảng. Bà de Sévigné cũng tới dây dâng lễ, nghe linh mục Louis Bourdaloue (1 người thuyết giảng nổi tiếng) giảng thuyết. Người ta cũng tới đây nghe nhạc của những nhạc sĩ Pháp tên tuổi đương thời như Marc-Antoine Charpentier và Jean-Philippe Rameau.
Người ta nghi ngờ các tu sĩ Dòng Tên đã dính líu đến vụ ám sát vua Henri IV - ông vua đã chấm dứt tình cảnh chiến tranh tôn giáo Pháp vào thế kỷ thứ 16. Trong các năm 1656 - 1657, theo yêu cầu của phái jansénisme, Blaise Pascal đã công kích Dòng Tên trong tập "Les Provinciales" (gồm 18 thư) về vấn đề thần học trong các tình huống khó khăn ("casuistique").
Tại Hoa Kỳ.
Một số trường đại học nghiên cứu hàng đầu của Hoa Kỳ đã được thành lập bởi Dòng Tên, trong đó có Đại học Georgetown, Đại học Boston, Đại học San Francisco và Đại học Fordham. Tuy nhiên hiện nay các trường đại học trên đã trở nên phi giáo phái trên thực tế và hầu hết sinh viên không theo đạo thiên chúa.
Tại Việt Nam.
Dòng Tên với giáo sĩ Francesco Buzomi lần đầu tiên đến Đàng Trong năm 1615. Giáo sĩ Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt. Giáo sĩ Giuliano Baldinotti tới tìm hiểu Đàng Ngoài năm 1626. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa năm 1627 và bắt đầu công cuộc truyền giáo với nhiều thành tựu tại Đàng Ngoài. Giáo sĩ Girolamo Maiorica nhiều năm truyền giảng Phúc Âm, viết sách chữ Nôm và hoạt động mục vụ tại Đại Việt cho tới những năm cuối đời. Dòng Tên đã gây dựng nền móng vững chãi cho Công giáo Việt Nam. Từ năm 1957 đến 1975, các giáo sĩ Dòng Tên điều hành Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt, góp phần đào tạo các linh mục Việt Nam.
Tại Sài Gòn, các giáo sĩ dòng Tên điều hành trung tâm Đắc Lộ. Năm 1979, các giáo sĩ tại đây bị bắt, trung tâm Đắc Lộ bị tịch thu. Từ năm 1980 tới 2004, trung tâm Đắc Lộ được dùng làm trụ sở báo Tuổi Trẻ. Một phần trung tâm Đắc Lộ được trả lại cho dòng Tên năm 2006.
Các khó khăn, giải thể và tái lập.
Trong suốt lịch sử của Dòng Tên, họ đã phải trải qua những năm tháng gian khổ. |
Dòng Tên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2722 | Các năm 1704 và 1742, Giáo hoàng ra lệnh cấm các nghi lễ Trung Hoa, mang nét của thuyết hỗn hợp (syncretism) mà các nhà truyền giáo dòng Tên đã tôn trọng.
Quốc gia châu Âu đầu tiên nỗ lực trục xuất Dòng Tên là Bồ Đào Nha. Vào năm 1758, các tu sĩ Dòng Tên bị quan Tổng trưởng Đế quốc (tương đương Thủ tướng) Sebastião José de Carvalho e Melo gán cho cái tội mưu sát vua José I. Không những thế, Melo còn tiến hành tuyên truyền bài trừ Dòng Tên trên khắp châu Âu, để các nước khác ủng hộ ông ta. Cuối cùng, vào năm 1759, ông ta ban bố sắc lệnh đuổi Dòng Tên ra khỏi Bồ Đào Nha. Không lâu sau, Pháp theo chân Bồ Đào Nha, quan Tổng trưởng Ngoại giao là Công tước Choiseul và ái thiếp của vua Louis XV là Nữ Hầu tước Pompadour chống đối ảnh hưởng của Dòng Tên. Họ gán cho Dòng tội mưu sát vua Louis XV, dù không phải là chủ mưu. Họ bị những người theo thuyết Giansêniô (Jansénisme) và các triều thần tấn công, rồi bị cấm và bị trục xuất khỏi Pháp năm 1763-1764, khoảng 200 trường của họ bị đóng cửa. Theo gót Pháp, vua Tây Ban Nha là Carlos III đã trục xuất Dòng Tên ra khỏi đất nước (1767), không những thế, ông ta còn đuổi các tu sĩ Dòng Tên ra khỏi ra khỏi xứ Napoli (1767) và xứ Parma (1768) - những xứ nằm dưới quyền thống trị của thân quyến của ông ta.
Cuối cùng, vào năm 1773, Giáo hoàng Clêmentê XIV - trước áp lực quá lớn của các nền quân chủ Pháp, Tây Ban Nha và Napoli, phải quyết định bãi bỏ Dòng Tên. Nữ hoàng Áo là Maria Theresia bất đắc dĩ thi hành mệnh lệnh. Lệnh của Giáo hoàng chỉ không có hiệu lực ở hai nước Phổ và Nga - các nền quân chủ phi Công giáo và không chịu ảnh hưởng của thế lực Giáo hoàng. Vua Phổ là Friedrich II Đại Đế đang thực hiện chính sách khoan dung tôn giáo, không những thế ông còn đề cao nền tri thức của Dòng Tên. Vị vua này đã gây bất ngờ đối với trào lưu triết học Khai sáng tiến bộ thời đó. Tương tự, Nữ hoàng Nga là Ekaterina II Đại Đế cũng tôn trọng tài năng xuất sắc của các tu sĩ Dòng Tên, bà cho rằng họ sẽ giúp ích cho nền văn hóa nước nhà. |
Dòng Tên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2722 | Nhờ có Quốc vương Friedrich II Đại Đế và Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế mà Dòng Tên vẫn còn tồn tại được. Dòng Tên được Giáo hoàng Piô VII tái lập vào năm 1814, tuy nhiên các cuộc công kích họ vẫn tiếp tục suốt thế kỷ 19:
Tuy nhiên các ngăn cấm và chống đối nói trên cũng không ngăn cản được Dòng Tên. Họ đã tái lập các phái bộ truyền giáo ở Bắc Mỹ hoặc ở Madagascar. Họ đã lập các trường đại học trong thế kỷ thứ 19. Họ cũng đã xuất bản các tạp chí tinh thần như "Études", "Christus" và "Projet" ở Pháp, "Relations" ở Quebec (Canada), "la Civiltà Cattolica" ở Ý, "La Nouvelle Revue Théologique" ở Bỉ, tuần san "America" ở Hoa Kỳ (từ năm 1909).
. Dòng cũng có nhiều cơ sở giáo dục ở Pháp và có cả các đại học riêng về thần học và triết học ở Centre Sèvres, Paris và ở Brussel.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai họ cũng tới Tchad và trở lại Nhật Bản.
Ngày nay.
Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2005, Dòng có 19.850 tu sĩ ở rải rác tại 112 quốc gia trên thế giới, so với khoảng 35.000 năm 1964. Cũng giống như các dòng khác của Giáo hội Công giáo, Dòng Tên cũng bị giảm ơn gọi (đi tu). Ngày nay phần lớn các tu sĩ dòng Tên có mặt tại [[châu Á] (khoảng 3.500 ở [[Ấn Độ]]), ở [[Mỹ Latinh|châu Mĩ Latin]] và [[châu Phi]]. Hiện dòng có khoảng 900 người dự tu.
Bề trên Tổng quyền của Dòng hiện nay là Arturo Sosa, người [[Venezuela]], được bầu trong Đại Công nghị dòng lần thứ 36 ngày 14 tháng 10 năm [[2016]], thay thế cho linh mục [[Adolfo Nicolás]] người [[Tây Ban Nha]]. Đặc biệt, vào ngày [[13 tháng 3]] năm [[2013]], Hồng y Jorge Mario Bergoglio người [[Argentina]] thuộc Dòng Tên được bầu làm [[giáo hoàng]] thứ 266 của [[Giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội Công giáo]], ông lấy tông hiệu là [[Giáo hoàng Phanxicô]].
Liên kết ngoài.
[[Thể loại:Dòng Tên| ]]
[[Thể loại:Dòng tu và hội đoàn Công giáo Rôma|Tên]]
[[Thể loại:Dòng tu]]
[[Thể loại:Khởi đầu năm 1540]] |
Nồng độ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2724 | Nồng độ là khái niệm cho biết lượng hóa chất trong một hỗn hợp, thường là dung dịch.
Các khái niệm.
Dung dịch bao gồm "chất tan" và "dung môi". Chất tan càng nhiều trong một lượng dung môi cố định, thì nồng độ càng cao. Nồng độ đạt giá trị cao nhất, ở những điều kiện môi trường nhất định khi dung dịch bão hòa, có nghĩa chất tan không thể hòa tan thêm vào dung dịch.
Nếu chất tan được thêm vào một dung dịch đã "bão hoà", nó sẽ không tan nữa mà sẽ xảy ra hiện tượng phân tử bị kết tinh. (tiếng Anh: "phase separation"), dẫn đến các pha đồng tồn tại hoặc tạo huyền phù (còn gọi là "thể vẩn"). Điểm bão hoà phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhiệt độ môi trường, bản chất hoá học của dung môi và chất tan.
Nồng độ có thể tăng bằng cách thêm chất tan vào dung dịch, hoặc giảm lượng dung môi, ví dụ bằng cách cho bay hơi có điều kiện. Ngược lại, nồng độ có thể giảm bằng cách tăng thêm dung môi hay giảm chất tan.
Nồng độ có thể được biểu thị định tính hoặc định lượng.
Hệ thống định tính.
Về mặt định tính, dung dịch có nồng độ tương đối thấp được miêu tả với các tính từ "loãng," trong khi dung dịch có nồng độ cao được miêu tả là "đậm đặc." Theo lệ thường, một dung dịch có nồng độ định tính càng cô đặc thì có màu càng đậm.
Hệ thống định lượng.
Hệ thống định lượng của nồng độ mang nhiều thông tin và hữu ích từ góc độ khoa học. Có nhiều cách khác nhau để biểu thị nồng độ một cách định lượng; các cách thông dụng nhất trong số đó được liệt kê bên dưới.
"Lưu ý: Nhiều đơn vị nồng độ cần đo thể tích của một chất, số đo này lại thay đổi phụ thuộc vào nhiệt độ và áp suất xung quanh. Nếu không được ghi rõ, tất cả các trường hợp bên dưới đều được giả định ở được đo ở áp suất và nhiệt độ trạng thái chuẩn (nghĩa là 25 độ C ở 1 atmosphere)."
Nồng độ phần trăm.
Phần trăm khối lượng.
"Phần trăm khối lượng" biểu thị khối lượng một chất có trong hỗn hợp theo phần trăm của chất đó trong toàn bộ hỗn hợp. Ví dụ: nếu một chai chứa 40 g ethanol và 60 g nước, nó chứa 40% ethanol theo khối lượng. |
Nồng độ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2724 | Trong thương mại, các hoá chất lỏng đậm đặc như acid và base thường được ghi nhãn hiệu theo "phần trăm khối lượng" cùng với tỉ trọng. Trong các tài liệu cũ nó thường được gọi là "phần trăm khối lượng-khối lượng" (viết tắt "w/w").
Phần trăm khối lượng-thể tích.
"Phần trăm khối lượng-thể tích", (thường được viết tắt % m/v hay % w/v) biểu thị khối lượng chất trong một hỗn hợp theo phần trăm thể tích của toàn bộ hỗn hợp. Phần trăm khối lượng-thể tích thường được dùng cho các dung dịch pha từ thuốc thử rắn. Nó là khối lượng chất tan (g) nhân với 100 và chia cho thể tích dung dịch (mL).
Phần trăm thể tích thể tích.
"Phần trăm thể tích thể tích" hay % (v/v) biểu thị thể tích của chất tan theo mL trong 100 mL dung dịch kết quả. Nó thường dùng nhất khi pha 2 dung dịch lỏng. Ví dụ, bia có 5% ethanol theo thể tích nghĩa là mỗi 100 mL bia chứa 5 mL ethanol.
Nồng độ mol.
"Nồng độ mol thể tích" (nồng độ phân tử gam), ký hiệu CM, đơn vị M hay mol/lít, biểu thị số mol của một chất tan cho trước trong 1 lit dung dịch. Ví dụ: 4,0 lit dung dịch chứa 2,0 mol hạt tan tạo thành dung dịch 0,5 M, còn gọi là 0,5 phân tử gam ("0,5 molar"). Sử dụng mol có nhiều ưu điểm vì nó cho phép đo số tuyệt đối các hạt có trong dung dịch, bất kể khối lượng và thể tích của chúng.
Nồng độ molan.
"Nồng độ mol khối lượng" (m) biểu thị số mol của một chất cho trước trong 1 kilogam dung môi. Ví dụ: 2,0 kg dung môi chứa 1,0 mol hạt tan, tạo thành dung dịch có nồng độ 0,5 mol/kg, còn gọi là "0,5 molal."
Ưu điểm của nồng độ mol khối lượng là nó không thay đổi theo nhiệt độ, và nó liên hệ với khối lượng dung môi hơn là thể tích dung dịch. Thể tích tăng khi nhiệt độ tăng dẫn đến giảm nồng độ mol thể tích. Nồng độ mol khối lượng luôn luôn hằng định bất kể các điều kiện vật lý như nhiệt độ và áp suát.
"Molinity".
"Molinity" là thuật ngữ hiếm dùng, biểu thị chỉ số mol một chất cho trước trong 1 kilogam dung dịch. Ví dụ: thêm 1,0 mol của các hạt hoà tan vào 2,0 kg chất tan, khối lượng tổng cộng là 2,5 kg; khi đó "molinity" của dung dịch là 1,0 mol / 2,5 kg = 0,4 mol/kg.
Nồng độ chuẩn. |
Nồng độ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2724 | Nồng độ chuẩn.
"Nồng độ chuẩn" là một khái niệm có liên hệ với "nồng độ mol thể tích", thường được áp dụng cho các phản ứng và dung dịch axít-base. Trong phản ứng axít-base, đương lượng (equivalent) là lượng acid hoặc base có thể nhận hoặc cho đúng 1 mol proton (ion H+). Nồng độ chuẩn cũng được dùng cho phản ứng oxi hoá-khử, trong đó đương lượng là lượng tác nhân oxi hoá hoặc khử có thể nhận hoặc cung cấp một mol electron.
Nếu như nồng độ mol thể tích đo số hạt trong một lit dung dịch, nồng độ chuẩn đo số đương lượng trong một lit dung dịch.
Trong thực hành, điều này chỉ có nghĩa là nhân nồng độ mol thể tích của dung dịch với hoá trị của chất tan ion. Đối với phản ứng oxi hoá-khử thì hơi phức tạp hơn một chút.
Ví dụ: 1 M axít sulfuric (H2SO4) là 2 N trong phản ứng acid-base vì mỗi mol axít surfuric cung cấp 2 mol ion H+. Nhưng 1 M axít sulfuric là 1 N trong phản ứng kết tủa sulfate, vì 1 mol axít sulfuric cung cấp 1 mol ion sulfate.
"Lưu ý: Đối với phản ứng axít-base, nồng độ chuẩn luôn bằng hoặc lớn hơn nồng độ mol thể tích; còn đối với phản ứng oxi hoá-khử thì nó luôn bằng hoặc bé hơn nồng độ mol thể tích."
Tỉ lệ mol.
"Tỉ lệ mol" χ (chi) là số mol chất tan tính theo tỉ lệ với tổng số mol trong dung dịch. Ví dụ: 1 mol chất tan hoà tan trong 9 mol dung môi sẽ có tỉ lệ mol 1/10 hay 0,1.
Nồng độ chính tắc (formal).
"Nồng độ chính tắc" (F) là một cách đo nồng độ tương tự như nồng đổ mol thể tích. Nó hiếm được dùng. Nó tính toán dựa trên lượng hoá chất của công thức cấu tạo trong một lit dung dịch. Sự khác biệt giữa các nồng độ chính tắc và mol thể tích là nồng độ chính tắc biểu thị số mol của công thức hoá học nguyên thủy trong dung dịch, mà không xét đến các thực thể thực sự tồn tại trong dung dịch. Nồng độ mol thể tích, trái lại, là nồng độ các thực thể trong dung dịch.
Ví dụ: nếu hoà tan calcium carbonate (CaCO3) trong 1 lit nước, hợp chất phân li thành các ion Ca2+ và CO32-. CO32- tiếp tục phân li thành HCO3- và H2CO3. Thực tế không có CaCO3 còn lại trong. |
Nồng độ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2724 | Thực tế không có CaCO3 còn lại trong. Vì vậy, mặc dù ta thêm 1 mol CaCO3 vào dung dịch, dung dịch lại không chứa 1 M chất này; tuy vậy, ta vẫn có thể nói dung dịch chứa 1 F CaCO3. |
Nguyễn Đan Quế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2761 | Nguyễn Đan Quế (còn gọi là Nguyễn Châu; sinh ngày 13 tháng 4 năm 1942 tại Hà Nội) là một người bất đồng chính kiến tại Việt Nam. Ông đã ba lần bị đi tù tại Việt Nam, với tổng cộng thời gian trên 20 năm.
Tiểu sử.
Sinh tại Hà Nội, năm 1954 ông theo gia đình di cư vào Nam sau hiệp định Genève. Ông lớn lên ở miền Nam và theo học Đại học Y khoa Sài Gòn. Ông tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ năm 1966. Ông phục vụ tại Bệnh viện Chợ Rẫy, đồng thời là Giảng sư tại Đại học Y khoa Sài Gòn. Ông được học bổng của Tổ chức Y tế Quốc tế (WHO) đi tu nghiệp về ngành Y khoa Nội tiết (Endocrinology) tại Bỉ năm 1968, tại Pháp năm 1969 và tại Anh Quốc năm 1972. Hoàn tất chương trình tu nghiệp năm 1974, Bác sĩ Quế đã từ chối đề nghị làm việc cho Tổ chức Y tế Quốc tế, để trở về nước tiếp tục phục vụ tại bệnh viện Chợ Rẫy, giữ chức Giám đốc Khu Nội khoa Bệnh viện Chợ Rẫy, và giảng dạy tại trường Đại học Y khoa Sài Gòn.
Vào đầu năm 1978, ông và 47 thành viên trong Mặt trận Dân tộc Tiến bộ, theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền là một tổ chức tranh đấu bất bạo động và do ông thành lập, bị nhà nước Việt Nam bắt và giam cầm không xét xử. Năm 1988, ông được phóng thích. Vào năm 1990, ông thành lập tổ chức Cao trào Nhân Bản và công bố "Lời Kêu Gọi của Cao Trào Nhân Bản", tiếp tục đòi hỏi nhà nước tôn trọng nhân quyền, đa nguyên chính trị và tuyển cử tự do. Ông bị bắt lại ngay sau đó, và bị tuyên án 20 năm khổ sai, cộng thêm 5 năm quản thúc tại gia, vì tội "âm mưu lật đổ chính quyền".
Vào đầu tháng 9 năm 1998, trước áp lực của quốc tế, nhà nước Việt Nam trả tự do cho ông, ông từ chối rời khỏi Việt Nam khi được đề nghị. Vào ngày 11 tháng 5 năm 1999, ông ra một thông cáo kêu gọi nhà nước dân chủ hóa đất nước. Vào tháng 3 năm 2003, ông lại bị bắt giữ vì ông đã gửi văn kiện chỉ trích nhà nước Việt Nam đến anh của mình tại Hoa Kỳ. |
Nguyễn Đan Quế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2761 | Ngày 29 tháng 7 năm 2004, tòa án nhà nước Việt Nam lần nữa kết án ông 30 tháng tù về tội "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước". Vào trước Tết năm 2005, ông là một trong những tù nhân chính trị được lãnh đặc xá.
Ngày 26/2/2011, ông Quế bị Công An Thành phố Hồ Chí Minh bắt giam để điều tra vì "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Cũng trong thời gian này, ông có bài viết về tình hình dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam được đăng trên Washington Post. Qua khám xét khẩn cấp, lực lượng chức năng thu giữ nhiều tài liệu khác liên quan đến hoạt động bị cho là chống chế độ của ông Nguyễn Đan Quế cùng hơn 60.000 đầu tài liệu bị cho là kích động, kêu gọi chống phá Nhà nước được lưu trữ trong máy vi tính.
Vinh danh.
Ông đã được trao Giải Nhân quyền Raoul Wallenberg năm 1994, Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy năm 1995, Giải Hellman/Hammett của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) năm 2002, Giải Nhân quyền Heinz R. Pagels năm 2004, và Giải Nhân quyền Việt Nam 2004 của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam. Nhiều lần ông được cử làm ứng viên cho Giải Nobel về hòa bình; gần đây nhất ông được Dân biểu Liên bang Hoa Kỳ Ed Royce cùng bảy Thượng nghị sĩ đề cử cho giải Nobel này cho năm 2004. Năm 2003, ông được "tờ New York Times" mô tả là "nhà bất đồng chính kiến có tiếng nhất Việt Nam."
Tháng 4 năm 2016, trong khi đang cư trú tại Hàn Quốc, ông Quế đã vinh dự được trao Giải nhân quyền Gwangju (Hàn Quốc) cùng số tiền thưởng 50.000 USD bởi Quỹ kỷ niệm ngày 18 tháng 5. Lý giải về việc trao Giải nhân quyền Gwangju cho ông Quế, Ban tổ chức trình bày lý do: "hành trình đi tìm tự do cho dân tộc của bác sĩ Quế và sự trừng phạt mà ông đã từng gánh chịu đã tạo cảm hứng cho những con người không may mắn được như ông trên toàn thế giới".
Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc sau khi nhận được tin trên đã lập tức gửi thư yêu cầu phía chính phủ Hàn Quốc từ bỏ quyết định trao giải nhân quyền Gwangju cho ông Quế. |
Nguyễn Đan Quế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2761 | Trong thư còn nhấn mạnh rằng mối quan hệ ngoại giao Hàn-Việt sẽ bị ảnh hưởng xấu nếu như chính phủ Hàn Quốc trao Giải thưởng này cho ông Quế. Đến ngày 5/5, ban tổ chức lễ trao giải cho hay họ đã nhận được lá thư của Đại sứ quán Việt Nam nhưng họ đã giải thích rằng: ""Ông Quế dù sao thì cũng là một người Việt Nam, một công dân Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài mà chúng ta thường hay gọi là "Việt kiều", việc ông ấy được trao Giải nhân quyền không gây ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ Hàn-Việt, lý do là vì ông ấy đã ủng hộ mối quan hệ Hàn-Việt và ông ấy thực sự rất yêu quý đất nước của ông ấy!"". Quỹ kỷ niệm ngày 18 tháng 5 (May 18 Memorial Foundation) được thành lập năm 1994 nhằm kỷ niệm phong trào dân chủ Gwangju. Ngày 18/5/1980 là ngày mà chính phủ Chun Doo Hwan đàn áp những người hoạt động dân chủ ở thành phố Gwangju làm hơn 100 người chết. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam.
Năm 2018, Khánh Hòa là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 33 về số dân, xếp thứ 24 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 15 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 42 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.232.400 người dân, GRDP đạt 76.569 tỉ Đồng (tương ứng với 3,3250 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 62,13 triệu đồng (tương ứng với 2.698 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,36%.
Khánh Hòa ngày nay là phần đất cũ của xứ Kauthara thuộc vương quốc Chăm Pa. Năm 1653, lấy cớ vua Chiêm Thành là Bà Tấm quấy nhiễu dân Việt ở Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ Hùng Lộc đem quân sang đánh chiếm được vùng đất Phan Rang trở ra đến Phú Yên. Năm 1832
, Vua Minh Mạng thành lập tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở trấn Bình Hòa. Sau lần hợp nhất vào năm 1975, đến năm 1989, Quốc hội lại chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa cho đến ngày nay.
Địa lý.
Vị trí địa lý.
Khánh Hòa nằm ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam, có vị trí địa lý:
Tỉnh lỵ của Khánh Hòa là thành phố Nha Trang, cách Thành phố Hồ Chí Minh 443 km về phía Nam, cách Đà Nẵng 531 km về phía Bắc và cách thủ đô Hà Nội 1.280 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ 1.
Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.197 km². Phần đất liền của tỉnh nằm kéo dài từ tọa độ địa lý 12°52’15" đến 11°42’50" vĩ độ Bắc và từ 108°40’33" đến 109°29’55" kinh độ Đông. Điểm cực Đông trên đất liền của Khánh Hòa nằm tại Mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh và cũng là điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam. Chiều dài vào khoảng 150 km, chiều ngang chỗ rộng nhất vào khoảng 90 km. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử chia cắt và sáp nhập nên 9.300 ha nằm giữa xã Ea Trang (huyện M'Drắk, tỉnh Đắk Lắk) và xã Ninh Tây (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) nên cả hai tỉnh Đắk Lắk và Khánh Hòa đều tranh chấp để phân định địa giới hành chính.
Địa hình.
Là một tỉnh nằm sát dãy núi Trường Sơn, đa số diện tích Khánh Hòa là núi non, miền đồng bằng rất hẹp, chỉ khoảng 400 km², chiếm chưa đến 1/10 diện tích toàn tỉnh. Miền đồng bằng lại bị chia thành từng ô, cách ngăn bởi những dãy núi ăn ra biển. Do đó để đi suốt dọc tỉnh phải đi qua rất nhiều đèo như đèo Cả, đèo Cổ Mã, đèo Chín Cụm, đèo Bánh Ít, đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì.
Vùng núi và bán sơn địa.
Khánh Hòa là một tỉnh có địa hình tương đối cao ở Việt Nam, độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng 60 m. Núi ở Khánh Hòa tuy hiếm những đỉnh cao chót vót, phần lớn chỉ trên dưới một ngàn mét nhưng gắn với dãy Trường Sơn, lại là phần cuối phía cực Nam nên địa hình núi khá đa dạng.
Phía Bắc và Tây Bắc tỉnh có vùng núi cao thuộc dãy Vọng Phu cao hơn 1000 m, trong đó có dãy Tam Phong gồm ba đỉnh núi cao là Hòn Giữ (cao 1264 m), Hòn Ngang (1128 m) và Hòn Giúp (1127 m). Dãy Vọng Phu - Tam Phong có hướng tây nam - đông bắc, kéo dài trên 60 km, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Đắk Lắk. Các núi thuộc đoạn giữa của tỉnh thường có độ cao kém hơn, có nhiều nhánh đâm ra sát biển tạo nên nhiều cảnh đẹp, gắn với những huyền thoại dân gian và di tích lịch sử, sự kiện của địa phương. Đến phía nam và tây nam, lại xuất hiện một vùng núi rộng, với nhiều đỉnh núi cao trên 1500 m đến trên 2000 m, trong đó có Đỉnh Hòn Giao (2062 m) thuộc địa phận huyện Khánh Vĩnh, là đỉnh núi cao nhất Khánh Hòa. Do có nhiều núi cao, mật độ chia cắt lớn bởi khe, suối, sông tạo thành nhiều hẻm, vực, Thung lũng sâu, gây khó khăn cho giao thông. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Ngoài ra, khu vực này còn có Thung lũng Ô Kha, được biết đến là một vùng nguy hiểm cho hàng không.
Đồng bằng.
Đồng bằng ở Khánh Hòa nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi các dãy núi đâm ra biển. Chẳng những thế, địa hình rừng núi của tỉnh không thuận lợi cho quá trình lắng đọng phù sa, nên nhìn chung Khánh Hòa không phải là nơi thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Các đồng bằng lớn ở Khánh Hòa gồm có đồng bằng Nha Trang - Diên Khánh nằm ở hai bên sông Cái với diện tích 135 km²; đồng bằng Ninh Hòa do sông Dinh bồi đắp, có diện tích 100 km². Cả hai đồng bằng này đều được cấu tạo từ đất phù sa cũ và mới, nhiều nơi pha lẫn sỏi cát hoặc đất cát ven biển. Ngoài ra, Khánh Hòa còn có hai vùng đồng bằng hẹp là đồng bằng Vạn Ninh và đồng bằng Cam Ranh ở ven biển, cùng với lượng diện tích canh tác nhỏ ở vùng Thung lũng của hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh.
Bờ biển và biển ven bờ.
Không những có đường bờ biển dài nhất, Khánh Hòa còn là một trong những tỉnh có đường bờ biển đẹp của Việt Nam. Đường bờ biển kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối vịnh Cam Ranh, có độ dài khoảng 385 km tính theo mép nước với nhiều cửa lạch, đầm, vịnh, cùng khoảng 200 đảo lớn, nhỏ ven bờ. Khánh Hòa có sáu đầm và vịnh lớn, đó là Đại Lãnh, vịnh Vân Phong, Hòn Khói, đầm Nha Phu, vịnh Nha Trang (Cù Huân) và vịnh Cam Ranh. Trong đó có nổi bật nhất vịnh Cam Ranh với chiều dài 32 km, chiều rộng 16 km, thông với biển thông qua eo biển rộng 1,6 km, có độ sâu từ 18–20 m, và thường được xem là cảng biển có điều kiện tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á, trước đây được sử dụng làm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ rồi Liên Xô (sau này là Nga) nhưng về sau được chuyển thành cảng dân sự.
Thềm lục địa tỉnh Khánh Hòa rất hẹp. Địa hình vùng thềm lục địa phản ánh sự tiếp nối của cấu trúc địa hình trên đất liền. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Các nhánh núi Trường Sơn đâm ra biển trong quá khứ địa chất như dãy Phước Hà Sơn, núi Hòn Khô, dãy Hoàng Ngưu không chỉ dừng lại ở bờ biển để tạo thành các mũi Hòn Thị, mũi Khe Gà (Con Rùa), mũi Đông Ba... mà còn tiếp tục phát triển rất xa về phía biển mà ngày nay đã bị nước biển phủ kín. Vì vậy, dưới đáy biển phần thềm lục địa cũng có những dãy núi ngầm mà các đỉnh cao của nó nhô lên khỏi mặt nước hình thành các hòn đảo như hòn Tre, hòn Miếu, hòn Mun... Xen giữa các đái đảo nổi, đảo ngầm là những vùng trũng tương đối bằng phẳng gọi là các đồng bằng biển, đó chính là đáy các vũng, vịnh như vịnh Vân Phong, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh.
Ngoài các đảo đá ven bờ, Khánh Hoà còn có các đảo san hô ở huyện đảo Trường Sa, với khoảng 100 đảo bãi cạn, bãi ngầm rải rác trên một diện tích từ 160 đến 180 ngàn km², trong đó có từ 23 đến 25 đảo, bãi cạn nổi thường xuyên, với tổng diện tích 10 km². Đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa là Ba Bình chỉ rộng 0,65 km². Bãi lớn nhất là bãi Thuyền Chài, dài 30 km; rộng 5 km (ngập nước khi triều lên). Địa hình trên bề mặt các đảo rất đơn giản, chỉ là những mõm đá, vách đá vôi san hô, cao vài ba mét.
Địa chất - tài nguyên.
Cấu tạo địa chất của Khánh Hòa chủ yếu là đá granit và ryolit, dacit có nguồn gốc mác ma xâm nhập hoặc phún trào kiểu mới. Ngoài ra còn có các loại sa thạch, trầm tích ở một số nơi. Về địa hình kiến tạo, phần đất của tỉnh Khánh Hòa đã được hình thành từ rất sớm, là một bộ phận thuộc rìa phía Đông-Nam của địa khối cổ Kom Tom, được nổi lên khỏi mặt nước biển từ đại Cổ sinh, cách đây khoảng 570 triệu năm. Trong đại Trung sinh có 2 chu kỳ tạo sản inđôxi và kimêri có ảnh hưởng một phần đến Khánh Hòa. Do quá trình phong hóa vật lý, hóa học diễn ra trên nền đá granit, ryolit đã tạo thành những hình dáng độc đáo, đa dạng và phong phú, góp phần làm cho thiên nhiên Khánh Hòa có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Khánh Hòa có nhiều tài nguyên khoáng sản như than bùn, cao lanh, sét, sét chịu lửa, vàng sa khoáng, cát thủy tinh, san hô, đá granit, quặng ilmênit, nước khoáng, phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp khai thác. Ngoài ra còn có nhiều tài nguyên biển, bao gồm các nguồn rong, tảo thực vật, trữ lượng hải sản lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến hải sản; các điều kiện thuận lợi để khai thác sinh vật biển và nuôi trồng thủy sản.
Sông ngòi.
Sông ngòi ở Khánh Hòa nhìn chung ngắn và dốc, cả tỉnh có khoảng 40 con sông dài từ 10 km trở lên, tạo thành một mạng lưới sông phân bố khá dày. Hầu hết, các con sông đều bắt nguồn tại vùng núi phía Tây trong tỉnh và chảy xuống biển phía Đông. Dọc bờ biển, cứ khoảng 5–7 km có một cửa sông.
Mặc dù hướng chảy cơ bản của các sông là hướng Tây - Đông, nhưng tùy theo hướng của mạch núi kiến tạo hoặc do địa hình cục bộ, dòng sông có thể uốn lượn theo các hướng khác nhau trước khi đổ ra biển Đông. Đặc biệt là sông Tô Hạp, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Khánh Sơn, chảy qua các xã Sơn Trung, Sơn Bình, Sơn Hiệp, Sơn Lâm, Thành Sơn rồi chảy về phía Ninh Thuận. Đây là con sông duy nhất của tỉnh chảy ngược dòng về phía Tây. Hai con sông lớn nhất tỉnh là Sông Cái (Nha Trang) và sông Dinh. Sông Cái có độ dài 79 km, bắt nguồn từ hòn Gia Lê cao 1.812 m chảy qua Khánh Vĩnh, Diên Khánh, Nha Trang rồi đổ ra biển qua Cửa Bé (Tiểu Cù Huân) và Cửa Lớn (Đại Cù Huân). Sông Dinh bắt nguồn từ vùng núi Chư H'Mư (đỉnh cao 2.051 m) thuộc dãy Vọng Phu, có tổng diện tích lưu vực 985 km², chảy qua thị xã Ninh Hòa và đổ ra đầm Nha Phu.
Khí hậu.
Khánh Hòa là một tỉnh ở vùng duyên hải cực Nam Trung Bộ, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới xavan. Song khí hậu Khánh Hòa có những nét biến dạng độc đáo với các đặc điểm riêng biệt. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | So với các tỉnh, thành phía Bắc từ Đèo Cả trở ra và phía Nam từ Ghềnh Đá Bạc trở vào, khí hậu ở Khánh Hòa tương đối ôn hòa hơn do mang tính chất của khí hậu đại dương. Thường chỉ có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50% lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2.600 giờ nắng. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Khánh Hòa cao khoảng 26,7 °C riêng trên đỉnh núi Hòn Bà (cách Nha Trang 30 km đường chim bay) có khí hậu như Đà Lạt. Độ ẩm tương đối khoảng 80,5%.
Từ tháng 1 đến tháng 8, có thể coi là mùa khô, thời tiết thay đổi dần. Những tháng đầu mùa, trời mát, nhiệt độ từ 17-25 °C, nhưng từ tháng 5 đến tháng 8 trời nóng nực, nhiệt độ có thể lên tới 34 °C (ở Nha Trang) và 37-38 °C (ở Cam Ranh). Tháng 9 đến tháng 12, được xem như mùa mưa, nhiệt độ thay đổi từ 20-27 °C (ở Nha Trang) và 20-26 °C (ở Cam Ranh). Khánh Hòa là vùng ít gió bão, tần số bão đổ bộ vào Khánh Hòa thấp chỉ có khoảng 0,82 cơn bão/năm so với 3,74 cơn bão/năm đổ bộ vào bờ biển Việt Nam. Các trận bão được dự đoán sẽ đổ bộ vào Khánh Hòa trong những năm gần đây thường lệch hướng vào Nam hoặc tan ngay khi gần vào bờ. Tuy vậy, do địa hình sông suối có độ dốc cao nên khi có bão kèm theo mưa lớn, làm nước dâng cao nhanh chóng, trong khi đó sóng bão và triều dâng lại cản đường nước rút ra biển, nên thường gây ra lũ lụt.
Lịch sử.
Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa.
Các tư liệu khảo cổ học khẳng định rằng ngay từ thời tiền sử, con người đã sinh sống ở Khánh Hòa. Ở Hòn Tre trong Vịnh Nha Trang các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều công cụ bằng đá của một nền nông nghiệp dùng cuốc. Với việc phát hiện ra bộ đàn đá Khánh Sơn vào tháng 2 năm 1979 tại huyện Khánh Sơn, cho thấy chủ nhân của bộ đàn đá này đã sinh sống ở đây khoảng giữa thiên niên kỷ 1 TCN. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Các di chỉ đã phát hiện của nền văn hóa Xóm Cồn (Ba Ngòi, Cam Ranh) cho phép khẳng định nền văn hóa thời đại đồ sắt ở Khánh Hòa có niên đại khoảng gần 4000 năm và phát triển sớm hơn văn hóa Sa Huỳnh. Nằm trong địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh, Khánh Hòa có nhiều di chỉ khảo cổ học về nền văn hóa này như: Diên Sơn, Bình Tân, Hòn Tre, Ninh Thân.
Vào đầu Công Nguyên, một bộ phận trong bộ tộc Cau (Kranukavamsa) - một trong hai bộ tộc lớn của người Chăm Pa thời bấy giờ - đã thành lập nên một tiểu quốc và được đặt tên là Tiểu quốc Nam Chăm (bia ký ghi là Panrăn hay Panduranga). Tiểu quốc này gồm hai xứ là Panrăn (khu vực ngày nay là Phan Rang, Phan Thiết) và Kauthara (khu vực Khánh Hòa ngày nay). Đối địch với Tiểu quốc Nam Chăm là Tiểu quốc Bắc Chăm ở khu vực thuộc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay.
Sau đó, trải qua nhiều thế kỷ nội chiến liên miên, vương quốc Chăm Pa được thành lập trên cơ sở sự thống nhất của hai xứ Nam Chăm và Bắc Chăm. Đến thế kỷ VIII, Nam Chăm chiếm ưu thế dẫn đến sự ra đời của Vương triều Panduranga (Hoàn Vương Quốc), vùng Kauthara từ đó phát triển đến mức cực thịnh với những khu đền tháp to lớn và linh thiêng mà tiêu biểu là ngôi đền Po Nagar thờ vị nữ thần mẹ xứ sở Yang Pô Y Na Gar. Đến nay, vẫn còn tồn tại nhiều bia ký ghi bằng tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ ở Khánh Hòa nằm rải rác ở nhiều nơi.
Trung đại.
Năm 1653, lấy cớ vua Chiêm Thành là Bà Tấm (hay còn gọi là Bà Bật) quấy nhiễu dân Việt ở Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần đã sai quan cai cơ Hùng Lộc Hầu Trương Phúc Hùng đem 3000 quân sang đánh. Thất bại nặng nề, vua Chiêm Thành sai con mang thư hàng và xin dâng đất cho Chúa từ sông Phan Rang trở ra đến Phú Yên. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Chúa chấp thuận và đặt dinh Thái Khang gồm hai phủ là phủ Thái Khang gồm các huyện Tân Định, Quảng Phước ở phía bắc (nay là các huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh) và phủ Diên Ninh gồm các huyện Phước Diên, Hoa Châu, Vĩnh Xương ở phía nam (nay là các huyện Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Sơn, thị xã Cam Ranh, thành phố Nha Trang và một phần phía Bắc của tỉnh Ninh Thuận), giao cho Hùng Lộc làm thái thú. Từ đó, vùng đất này đã trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam và công cuộc khai khẩn lập làng của người Việt được đẩy mạnh. Dân cư sống tập trung tại các hạ lưu sông Dinh và sông Cái. Đến năm 1690, phủ Thái Khang được đổi tên thành phủ Bình Khang. Năm 1742, phủ Diên Ninh đổi thành phủ Diên Khánh.
Vào năm 1771, ba anh em nhà Tây Sơn dấy binh đánh Chúa Nguyễn. Chỉ ba năm sau, quân Tây Sơn đã kiểm soát vùng đất kéo dài từ Quy Nhơn đến Bình Thuận. Sau đó, tướng nhà Nguyễn là Tống Phúc Hạp kéo quân ra đánh lấy lại được Dinh Bình Thuận và Phủ Diên Khánh nhưng rồi lại bị Nguyễn Huệ đem quân đánh lấy lại được hai vùng trên. Tháng 7 năm 1793, Định Vương Nguyễn Phúc Ánh thân chinh thống lĩnh đại binh thủy, bộ từ Gia Định kéo ra Nha Trang. Từ Nha Trang tấn công lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn không cầm cự nổi phải bỏ Diên Khánh và Bình Khang. Nguyễn Ánh sai người xây thành Diên Khánh, lập xưởng đóng thuyền. Sau đó, tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu còn hai lần đem quân vào đánh nữa vào các năm 1794, 1795 nhưng đều không thành.
Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Năm 1803, Dinh Bình Khang được đổi tên thành Dinh Bình Hòa, phủ Bình Khang cũng được đổi tên thành phủ Bình Hòa nhưng sở lỵ đã được chuyển từ đây sang phủ Diên Khánh. Năm 1808, Dinh được đổi thành Trấn. Đến năm 1831 (năm Minh Mạng thứ 12), trấn Bình Hòa được đổi tên thành tỉnh Khánh Hòa, còn phủ Bình Hòa trở thành phủ Ninh Hòa. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Vào thời điểm đó, tỉnh Khánh Hòa gồm 2 phủ, 4 huyện là: Phủ Diên Khánh gồm 2 huyện: Phước Điền, Vĩnh Xương; Phủ Ninh Hòa gồm 2 huyện: Quảng Phước và Tân Định, tỉnh lỵ là Phủ Diên Khánh.
Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn ký kết hiệp ước Patenotre với Pháp, tạo cơ sở cho việc thiết lập chính quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam và sự suy yếu của nhà Nguyễn. Là một tỉnh ở xứ Trung Kỳ, Khánh Hòa vẫn là bộ phận của Nam triều, đồng thời tồn tại Chính quyền bảo hộ Pháp. Quan lại của Nam triều gồm có chức tuần vũ, án sát coi việc hành chính, lãnh binh coi việc canh gác và giữ gìn an ninh trong tỉnh, đóng tại Diên Khánh. Cơ quan bảo hộ Pháp gồm có chánh sứ, phó sứ và giám binh, đóng tại Nha Trang. Nha Trang dần phát triển thành thị trấn.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, giao tỉnh Khánh Hòa cho các quan Nam triều quản lý, cơ quan hành chính của tỉnh dời xuống Nha Trang. Từ đó, Nha Trang chính thức trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Khánh Hòa.
Thời kỳ từ 1945 đến nay.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, lực lượng Việt Minh ở Khánh Hòa đứng dậy giành chính quyền, nhưng chỉ nắm chính quyền được hai tháng thì Pháp đổ bộ lên Nha Trang và đánh chiếm lại.
Năm 1955, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Khánh Hòa cũng được tổ chức lại trên mọi phương diện. Các phủ huyện đổi thành quận. Các làng đổi thành xã. Tháng 5 năm 1959, hai tổng Krong Jing và Krong Hinh thuộc tỉnh Đắk Lắk được sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa và lập thành quận Khánh Dương. Tháng 4 năm 1960, 12 thôn Thượng thuộc quận Cam Lâm được trích ra khỏi Khánh Hòa để nhập vào quận Du Long tỉnh Ninh Thuận. Tháng 10 năm 1965, một phần đất quận Cam Lâm ở phía Nam bị cắt để thành lập thị xã Cam Ranh trực thuộc trung ương (khu đặc biệt Cam Ranh).
Trong vòng 3 ngày 1, 2 và 3 tháng 4 năm 1975, quân giải phóng miền Nam Việt Nam lần lượt tiếp quản Ninh Hòa, Nha Trang và Cam Ranh. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Việc chuyển giao chính quyền diễn ra trong hòa bình vì hầu hết quân đội Việt Nam Cộng hòa đã rút hết về phòng tuyến Phan Rang.
Sau năm 1975, tỉnh Khánh Hòa hợp nhất với tỉnh Phú Yên và thị xã Cam Ranh thành tỉnh Phú Khánh. Đồng thời, hợp nhất thị xã Cam Ranh và huyện Cam Lâm thành huyện Cam Ranh, hợp nhất hai huyện Diên Khánh và Vĩnh Xương thành huyện Khánh Xương, hợp nhất hai huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh thành huyện Khánh Ninh, thành lập huyện Khánh Vĩnh.
Ngày 10 tháng 3 năm 1977, chuyển thị xã Nha Trang thành thành phố Nha Trang, sáp nhập huyện Khánh Sơn vào huyện Cam Ranh, hợp nhất hai huyện Khánh Xương và Khánh Vĩnh thành huyện Diên Khánh.
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, huyện Khánh Ninh được chia lại thành 2 huyện: Ninh Hòa và Vạn Ninh.
Ngày 28 tháng 12 năm 1982, huyện đảo Trường Sa từ tỉnh Đồng Nai chuyển sang tỉnh Phú Khánh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.
Khi tách ra, tỉnh Khánh Hòa có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thành phố Nha Trang, các huyện: Cam Ranh, Diên Khánh, Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Ninh Hòa, Vạn Ninh và huyện đảo Trường Sa.
Ngày 7 tháng 7 năm 2000, chuyển huyện Cam Ranh thành thị xã Cam Ranh.
Ngày 11 tháng 4 năm 2007, tách một số xã của thị xã Cam Ranh và huyện Diên Khánh để tái lập huyện Cam Lâm.
Ngày 22 tháng 4 năm 2009, thành phố Nha Trang được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 25 tháng 10 năm 2010, chuyển huyện Ninh Hòa thành thị xã Ninh Hòa.
Ngày 23 tháng 12 năm 2010, chuyển thị xã Cam Ranh thành thành phố Cam Ranh.
Hành chính.
Tỉnh Khánh Hòa có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 6 huyện với 139 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 35 phường, 6 thị trấn và 98 xã.
Hội đồng nhân dân tỉnh, với các đại biểu được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm, có quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế, văn hóa, giáo dục... của tỉnh. Đứng đầu Hội đồng Nhân dân gồm một Chủ tịch, một Phó chủ tịch và một Uỷ viên thường trực. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Hội đồng Nhân dân chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch Hội đồng nhân dân hiện nay là ông Nguyễn Tấn Tuân.
Hội đồng Nhân dân tỉnh bầu nên Ủy ban Nhân dân, cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý về mọi hoạt động chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa trên địa bàn Khánh Hòa. Đứng đầu Ủy ban Nhân dân gồm một Chủ tịch và các Phó chủ tịch. Các sở, ngành của Ủy ban Nhân dân sẽ quản lý về các lĩnh vực cụ thể, như y tế, giáo dục, đầu tư, tư pháp, tài chính. Tương tự, cấp thành phố, thị xã, huyện cũng có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân chịu sự chỉ đạo chung của cấp tỉnh. Ngoài ra, Ủy ban Nhân dân còn quản lý Đài Phát thanh - Truyền hình Khánh Hòa và một số tổng công ty trên địa bàn tỉnh. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hiện nay là ông Nguyễn Tấn Tuân.
Bên cạnh Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa (Tỉnh ủy Khánh Hòa) còn bầu ra Bí thư Tỉnh ủy, hiện nay là ông Nguyễn Khắc Định được Bộ Chính trị phân công vào tháng 10 năm 2019. Quyền hạn và trách nhiệm của Bí thư Tỉnh ủy được quy định theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 53 vị:
- Ông Lê Tiến Anh
- Ông Nguyễn Anh
- Ông Lê Tấn Bản
- Ông Nguyễn Duy Bắc
- Ông Huỳnh Ngọc Bông
- Ông Mấu Thái Cư
- Ông Cao Cường
- Ông Nguyễn Chuyện
- Ông Nguyễn Văn Danh
- Ông Lê Văn Dẽ
- Ông Trần Mạnh Dũng
- Ông Lương Dự
- Ông Nguyễn Công Định
- Ông Lương Kiên Định
- Ông Nguyễn Khắc Định
- Ông Nguyễn Văn Ghi
- Ông Nguyễn Khắc Hà
- Ông Nguyễn Xuân Hà
- Ông Lê Văn Hạ
- Ông Lương Đức Hải
- Ông Võ Hoàn Hải
- Ông Trần Sơn Hải
- Bà Nguyễn Thị Hạnh
- Bà Lê Minh Hiền
- Ông Nguyễn Hòa
- Ông Lê Hữu Hoàng
- Ông Trần Duy Hưng
- Ông Lê Văn Khải
- Ông Nguyễn Văn Kháng
- Ông Trần An Khánh
- Ông Trần Ngọc Khánh
- Ông Bùi Xuân Minh
- Ông Hồ Văn Mừng
- Ông Trần Hòa Nam
- Ông Lê Thanh Quang
- Ông Trần Hải Sơn
- Ông Nguyễn Đắc Tài
- Ông Nguyễn Khắc Toàn
- Ông Nguyễn Tấn Tuân
- Ông Hồ Thanh Tùng
- Ông Võ Tấn Thái
- Ông Trần Ngọc Thanh
- Ông Lê Xuân Thân
- Ông Đào Công Thiên
- Ông Lê Hữu Thọ
- Ông Phan Thông
- Ông Nguyễn Lê Đình Thống
- Ông Tống Trân
- Ông Lê Hữu Trí
- Ông Ngô Quang Trung
- Ông Ngô Truyện
- Ông Lê Đức Vinh
- Ông Lê Vinh
Hiện nay, Ủy ban nhân dân Tỉnh Khánh Hòa đang lập đề án đưa cả tỉnh thành thành phố trực thuộc trung ương trước năm 2020. Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa và Bộ Chính trị đã thông qua nghị quyết Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 với mục tiêu đề ra là xây dựng tỉnh Khánh Hòa trở thành đô thị loại I trực thuộc trung ương.
Kinh tế.
Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh và vững của Việt Nam. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Theo số liệu thống kê của Uỷ ban nhân dân tỉnh, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh là 11,55%, giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tăng 15,5%, giá trị nông lâm thủy sản tăng 2,81%, ngành dịch vụ du lịch tăng 14,5%. GDP bình quân đầu người năm 2011 là 1.710 USD cao hơn mức bình quân chung của Việt Nam. Dịch vụ - du lịch chiếm 45% cơ cấu kinh tế, công nghiệp - xây dựng là 42%, còn nông - lâm - thủy sản chiếm 13%..
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,99%, trong đó GRDP theo ngành kinh tế tăng 7,43% gồm:
+. Công nghiệp xây dựng tăng 10,58%.
+. Dịch vụ tăng 7,02%.
+. Nông, lâm, thủy sản tăng 1,52%.
Chỉ số IIP tăng 7,52%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 19.138,38 tỉ đồng (113,9% dự toán; bằng 87,6% năm 2018). Chi ngân sách đạt 9.799,2 tỉ đồng (81,9% dự toán), trong đó: Chi ngân sách thường xuyên là 6.395,8 tỉ đồng (92,8% dự toán); chi đầu tư phát triển là 3.401,7 (80,1% dự toán).
Trong năm 2019, chỉ số GRDP tăng 6,8%, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7%, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 11,2%, doanh thu du lịch tăng 24,2%, kim ngạch xuất khẩu tăng 13,5%, thu ngân sách tăng 10%...
Công - nông - ngư nghiệp.
Ngoài du lịch, Khánh Hòa cũng là địa phương phát triển công nghiệp mạnh trong khu vực Miền Trung và Tây Nguyên. Các thế mạnh công nghiệp truyền thống của Khánh Hòa là công nghiệp đóng tàu, chế biến thủy hải sản, vật liệu xây dựng, may mặc... Ngoài ra, Khánh Hòa cũng có nhiều loại khoáng sản; đến năm 2003 đã có 72 mỏ quặng được phát hiện và đăng ký trên địa bàn tỉnh. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong năm 2009 của Khánh Hòa đạt 14.095 tỷ đồng. Các khu công nghiệp lớn trong tỉnh như Khu công nghiệp Suối Dầu, khu công nghiệp Ninh Hòa, khu công nghiệp Bắc và Nam Nha Trang, cùng với những cảng biển lớn đang được đầu tư xây dựng, giúp cho Khánh Hòa trở thành một trong 10 tỉnh thành có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất nước. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Năm 2018, giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản là 35,6%.
Cũng như các tỉnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ khác có các dải đồng bằng nhỏ hẹp, trồng trọt không phải là thế mạnh của tỉnh. Lúa vẫn chiếm diện tích lớn nhất và được trồng tập trung tại đồng bằng Ninh Hòa và Diên Khánh. Cây công nghiệp ngắn ngày được trồng nhiều nhất là cây mía, sau đó là đậu phộng, cây lương thực được trồng nhiều nhất trong tỉnh là cây khoai mì và cây bắp. Việc trồng cây bắp đã mang lại giá trị kinh tế cao cho nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Khánh Vĩnh.
Bên cạnh nông sản, tài nguyên thủy hải sản ở Khánh Hòa rất dồi dào. Khánh Hòa có tổng trữ lượng hải sản ước tính 150.000 tấn/năm và khả năng khai thác 40-50.000 tấn/năm. Có 600 loài hải sản được các nhà khoa học xác định ở vùng biển Khánh Hòa, trong đó có hơn 50 loài cá có giá trị kinh tế cao.
Dân cư.
Theo số liệu điều tra ngày 1 tháng 4 năm 2019 dân số tỉnh Khánh Hòa là 1.231.107 người với mật độ dân số toàn tỉnh là 225 người/km², trong đó nam giới có khoảng 612.513 người (49.75%) và nữ giới khoảng 618.594 người (50.35%); tỷ lệ tăng dân số của tỉnh bình quân từ năm 2009-2019 là 0,62%; tỷ số giới tính là 97,9%. Theo điều tra biến động dân số năm 2019, Khánh Hòa có 520.008 người sinh sống ở khu vực đô thị (42,2% dân số toàn tỉnh) và 711.099 người sống ở khu vực nông thôn (57,8%).. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến hết năm 2022 đạt 65%.
Dân số Khánh Hòa hiện nay phân bố không đều. Dân cư tập trung đông nhất ở thành phố Nha Trang (chiếm 1/3 dân số toàn tỉnh), trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh. Huyện Diên Khánh và thành phố Cam Ranh cũng có mật độ dân số khá cao (xấp xỉ 400 người/km²) thị xã Ninh Hòa và các huyện còn lại ở đồng bằng có mật độ dân cư không chênh lệch lớn và gần bằng mức trung bình toàn tỉnh (khoảng 200 người/km²), các huyện miền núi có mật độ dân số tương đối thấp là Khánh Sơn (62 người/km²) và Khánh Vĩnh (29 người/km²). |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.