title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Về mặt nội chính, bản thân Kim Thế Tông rất giản dị, lựa chọn phương thức quản lý triều chính trung dung yên ổn, đề xướng Nho học; tra vấn quan lại, nghiêm cấm tham ô; có thái độ thực tế với kinh tế, đồng thời miễn trừ các khoản thuế bất hợp lý, khi xảy ra thiên tai thì lập tức cho cứu tế. Đương thời, nhân dân các tộc liên tiếp khởi nghĩa, Kim Thế Tông vì để duy trì thống trị nên lợi dụng các chế độ khoa cử, học hiệu, tranh thủ sự ủng hộ của quý tộc người Hán, tăng cường quyền lực của mãnh an-mưu khắc, mở rộng diện tích đất đai do người Nữ Chân chiếm hữu. Những việc này đều khiến cho kinh tế-văn hóa của triều Kim khôi phục và phát triển ở trình độ nhất định, sử gọi là Đại Định chi trị. Ngoài việc chống lại Nam Tống bắt phạt, Kim Thế Tông còn xuất binh uy chấn Tây Hạ, Cao Ly, khiến hai nước này thần phục, triều Kim được Kim Sử gọi là 'tiểu Nghiêu Thuấn'. Năm 1189, Kim Thế Tông qua đời, do Thái tử Hoàn Nhan Doãn Cung mất sớm, do vậy nhi tử của Doãn Cung là Hoàn Nhan Cảnh tức vị, tức Kim Chương Tông.
Tiền kỳ thời Kim Chương Tông, chính trị Kim bị Hán hóa rất sâu, kinh tế rất phát triển, sử gọi là Minh Xương chi trị. Không chỉ khích lệ văn hóa trong nước, bản thân Kim Chương Tông cũng được mô tả là người hay chữ. Tuy nhiên, Kim Chương Tông quá xem trọng việc phát triển văn hóa, sủng ái Lý Sư Nhi (sau phong là Nguyên phi) và ngoại thích Lý thị, nhiệm dụng người có xuất thân 'kinh đồng' là Tư Trì Quốc quản lý triều chính. Hai thế lực này hiệp trợ lẫn nhau, mưu cầu tư lợi khi can chính, khiến cho cục thế chính trị vào hậu kỳ thời Kim Chương Tông dần trượt dốc, cộng thêm Hoàng Hà gây lũ lụt và thay đổi dòng chảy khiến quốc thế triều Kim dần suy thoái. Lúc này, quân sự triều Kim dần bị bỏ bê, các bộ Mông Cổ ở phương bắc nổi lên. Kim Chương Tông từng phái binh đến Mông Cổ, đồng thời kích động các bộ lạc Mông Cổ tàn sát lẫn nhau, song hiệu quả thu được không lớn, cuối cùng Thành Cát Tư Hãn thống nhất Mông Cổ. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Quyền thần Nam Tống là Hàn Thác Trụ thấy quốc thế triều Kim suy thoái, mệnh Ngô Hi quản lý đất Thục, chuẩn bị bắc phạt, tuy nhiên triều đình Kim cũng phái Bộc Tán Quỹ trấn giữ Biện Kinh đề kháng quân Tống. Năm 1206, Hàn Thác Trụ phát động Khai Hy bắc phạt, triều Kim từng để mất khu vực Hoài Bắc, song lại nhận được sự đầu hàng của Ngô Hy ở Thục. Đến tháng tám, Bộc Tán Quỹ suất quân chia làm 9 lộ nam hạ, đến cuối năm thì áp sát Trường Giang, đồng thời vây đánh Tương Dương. Năm sau, Ngô Hy bị sát hại, Tứ Xuyên lại về tay Nam Tống, đến lúc này hai bên có ý hòa nghị. Cuối cùng, Hàn Thác Trụ bị giết theo như yêu cầu của Kim, hai bên nghị hòa vào năm 1208, sử gọi là Gia Định hòa nghị. Năm 1208, Kim Chương Tông qua đời, do cả sáu nhi tử của ông đều chết yểu, Lý nguyên phi lập hoàng thúc của ông là Vệ Thiệu vương Hoàn Nhan Vĩnh Tế làm người kế vị.
Trung suy và nam thiên.
Hoàn Nhan Vĩnh Tế sau khi kế vị lập tức thanh trừ thế lực ngoại thích, song bản thân ông lại dùng nhầm người, càng khiến cho quốc thế triều Kim suy thoái hỗn loạn, đương thời không đủ sức phản kháng quân Mông Cổ xâm nhập. Nắm 1206, Thành Cát Tư Hãn thống nhất Đại Mạc, lập nên Đại Mông Cổ Quốc. Đương thời, người Mông Cổ giữ thái độ thù địch nghiêm trọng với triều Kim, có ý thoát khỏi sự khống chế của triều Kim, Thành Cát Tư Hãn cũng biết rằng Hoàn Nhan Vĩnh Tế thuộc hàng bất tài, nhận định hiện là thời cơ tốt để đánh diệt triều Kim. Thành Cát Tư Hãn trước tiên công đánh Tây Hạ nhằm phá vỡ đồng minh Kim-Hạ. Đương thời, Tây Hạ cầu viện Kim, Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế ngồi xem không ứng cứu, cuối cùng Tây Hạ thần phục Mông Cổ, chuyển sang phụ Mông phạt Kim. Sau khi loại bỏ được nỗi lo từ Tây Hạ, Thành Cát Tư Hãn vào năm 1210 đoạn giao với triều Kim. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Năm sau, Thành Cát Tư Hãn phát động chiến tranh Mông-Kim, 40 vạn quân Kim do Thừa tướng Hoàn Nhan Thừa Dụ và Tướng Hoàn Nhan Cửu Cân suất lĩnh bị quân Mông Cổ đại phá trong trận Dã Hồ Lĩnh, Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế đem chức Thừa tướng giao lại cho Đồ Đan Dật giỏi mưu lược. Quân Mông Cổ sau đó đánh vào Hoa Bắc, cướp đoạt tứ xứ, cuối cùng bao vây Trung Đô của Kim, song do thành trì Trung Đô vững chắc nên quân Mông Cổ rút lui. Năm 1212, Thành Cát Tư Hãn lại một lần nữa xuống phía nam đánh Kim, từng bao vây Tây Kinh Đại Đồng phủ của Kim. Cùng năm, một người Khiết Đan là Da Luật Lưu Ca ở vùng đông bắc tiến hành phản Kim phụ Mông, quân triều đình Kim bị đánh bại tại Địch Cát Não (nay ở phụ cận Xương Đồ, Liêu Ninh). Năm 1213, Tướng Hồ Sa Hổ sát hại Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế, Hồ Sa Hổ lập thứ huynh của Kim Chương Tông là Hoàn Nhan Tuần kế vị, tức Kim Tuyên Tông.
Hồ Sa Hổ nắm giữ đại quyền của triều Kim, song do uy hiếp tướng trấn thủ Trung Đô là Truật Hổ Cao Kỳ nên cuối cùng bị người này sát hại. Mùa thu năm 1213, Thành Cát Tư Hãn phân binh làm 3 lộ đánh Kim, phái Hoàng tử Truật Xích kinh lược Sơn Tây, Hoàng đệ Hợp Tát Nhi đến Hà Bắc, bản thân Thành Cát Tư Hãn cùng ấu tử Đà Lôi đến Sơn Đông, triều đình Kim chỉ còn 11 thành như Trung Đô, Chân Định, Đại Danh là chưa bị mất. Năm sau, Kim Tuyên Tông cầu hòa, dâng vàng và Kỳ Quốc công chúa cho Thành Cát Tư Hãn, đạt được Mông-Kim hòa nghị. Sau khi quân Mông Cổ rút lui, Kim Tuyên Tống bất chấp sự phản đối của Đồ Đan Dật và những người khác, cùng Truật Hổ Cao Kỳ dời đô đến Biện Kinh, phái Thái tử Hoàn Nhan Thủ Trung trấn thủ Trung Đô, khiến quân dân Hà Bắc bất an. Năm 1215, quân Mông Cổ lấy lý do Kim dời đô đến phía nam để suất quân đánh chiếm Trung Đô, đến lúc này Kim để mất khu vực Hà Bắc. Tháng mười cùng năm, tướng Kim phụ trách đánh Da Luật Lưu Ca là Bồ Tiên Vạn Nô tự lập làm hoàng đế ở Liêu Đông, dựng nên Đông Chân Quốc. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Đến lúc này, vùng đất mà người Nữ Chân hưng khởi bị phân chia giữa Bồ Tiên Vạn Nô và Da Luật Lưu Ca, còn Sơn Đông và Hà Bắc đều có quân Áo Đỏ nổi dậy, triều đình Kim chỉ còn khống chế được Hà Nam, Hoài Bắc và Quan Trung. Hoàng Hà từ khi Kim nam thiên thì đổi dòng sang hướng đông nam, phạm vi ngập lụt rất rộng.
Sau khi Kim Tuyên Tông nam thiên, quốc thế của Kim càng thêm yếu, Mông Cổ thay thế Kim xưng bá tại Đông Á. Vì Thành Cát Tư Hãn đem quân tây chinh Đế quốc Khwarezm Ba Tư nên ông ta phong Mộc Hoa Lê làm "Thái sư quốc vương" thống lĩnh đất Hán. tiếp tục uy hiếp triều Kim, Kim ở vào trạng thái hấp hối. Mặc dù Kim Tuyên Tông muốn chấn hưng lại triều Kim, song không có tài năng mưu kế kiệt xuất, lại có thiên tính nghi kỵ, về mặt chính trị không có sự khởi sắc. Năm 1219, Thái Nguyên thất thủ, triều đình Kim lập "Hà Bắc cửu công", phong cho 9 người như Vương Phúc, Di Lạt Chúng Gia Nô, Vũ Tiên tước công, ban hiệu "Tuyên lực trung thần", mục đích là để khiến họ giữ vững quốc thổ, song không có kết quả. Kim Tuyên Tông nhiệm dụng Truật Hổ Cao Kỳ, người này có bản tính hà khắc, liên tục nam chinh Nam Tống, tây chinh Tây Hạ để khuếch trương lãnh thổ, đồng thời tiếp tục chiến đấu kháng Mông Cổ. Đến lúc này, tình hình của triều Kim là nội chính không tốt, quân lực đã sút kém, trải qua nhiều lần chiến tranh khiến Kim lâm vào khốn cảnh. Năm 1219, Truật Hổ Cao Kỳ bị Kim Tuyên Tông giết. Năm 1224, Kim Tuyên Tông qua đời, thứ tử Hoàn Nhan Thủ Tự kế vị, tức Kim Ai Tông.
Vong quốc tại Thái châu.
"Bài chi tiết: Trận Tam Phong Sơn;Trận Thái Châu (1233-1234)"
Sau khi Kim Ai Tông tức vị, ông khuyến khích sản xuất nông nghiệp, hòa hảo với Nam Tống và Tây Hạ. Kim Ai Tông cũng lập ra "Trung hiếu quân" trực thuộc trung ương, nhiệm dụng Hoàn Nhan Trần Hòa Thượng và các danh tướng kháng Mông khác, vào năm 1228 đánh tan quân Mông Cổ trong trận chiến Đại Xương Nguyên tại huyện Ninh thuộc Cam Túc ngày nay. Sau đó, quân Kim thu phục được không ít đất đai, khiến triều Kim khởi tử hồi sinh. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Tây Hạ do quốc lực suy lạc nên cuối cùng bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227. Thành Cát Tư Hãn qua đời trong chiến dịch tiêu diệt Tây Hạ, Oa Khoát Đài kế nhiệm vào năm 1229. Sau đó, quân Mông Cổ lại đối phó với Kim, Oa Khoát Đài Hãn phát động ba lộ phạt Kim vào năm 1230, Đại Hãn suất đại quân vượt Hoàng Hà đánh thẳng đến Biện Kinh, Oát Trần Na Nham suất quân Đông lộ đến Tế Nam, Đà Lôi suất quân Tây lộ từ Hán Trung mượn đường Tống theo Hán Thủy tiến đánh Biện Kinh. Năm 1232, Đà Lôi đến gần Biện Kinh, Kim Ai Tông phái Hoàn Nhan Hợp Đạt, Di Lạt Phổ A suất đại quân đánh chặn ở Đặng Châu. Đến lúc này, Oa Khoát Đài Hãn suất đại quân vượt Hoàng Hà, đồng thời phái Tốc Bất Đài đánh Biện Kinh. Quân bắc viện Biện Kinh của Hoàn Nhan Hợp Đạt giao chiến với quân của Đà Lôi ở Tam Phong Sơn (nay ở đông nam Vũ Châu, Hà Nam - nơi diễn ra trận Tam Phong Sơn), kết quả là đội quân tinh nhuệ này của Kim bị đánh bại hoàn toàn, các danh tướng Trương Huệ, Hoàn Nhan Hợp Đạt, Hoàn Nhan Trần Hòa Thượng và Di Lạt Phổ A tử vong. Quân Mông Cổ vây đánh Biện Kinh, Kim Ai Tông phải cầu hòa. Tuy nhiên, sau đó triều đình Kim lại giết sứ giả của Mông Cổ, Mông Cổ lại vây đánh Biện Kinh. Kim Ai Tông kiên trì đến cuối năm thì bỏ thành, chạy về nam đến Quy Đức (nay thuộc Thương Khâu, Hà Nam), tướng trấn thủ Biện Kinh là Thôi Lập đầu hàng Mông Cổ. Bị tướng Mông Cổ là Sử Thiên Trạch truy đuổi, Kim Ai Tông chạy đến Thái châu (nay thuộc Nhữ Nam, Hà Nam), quân Mông Cổ hẹn ước với tướng Nam Tống là Mạnh Củng, Giang Hải liên hiệp vây đánh. Tháng giêng năm 1234, Thái châu cực kỳ nguy cấp, Kim Ai Tông không muốn là quân chủ mất nước, do vậy ông đem hoàng vị trao cho Thống soái Hoàn Nhan Thừa Lân vào ngày 9 tháng 2 DL, sử gọi là Kim Mạt Đế. Đến khi thành Thái châu bị chiếm, Kim Ai Tông tự sát, Kim Mạt Đế tử vong trong loạn quân, triều Kim mất.
Cương vực.
Từ khi Kim Thái Tổ lập quốc, Kim liên tiếp phát động chiến tranh xâm lược Liêu, Bắc Tống, Tây Hạ, Cao Ly. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Sang thời Kim Thái Tông, triều Kim trước sau đánh diệt Liêu và Bắc Tống, cương vực lúc này đông đến vùng đất cư trú của các tộc Cát Lý Mê, Ngột Đích Cải ở hạ du sông Tùng Hoa, giáp biển Nhật Bản; bắc đến Hỏa Lỗ Hỏa Mưu Khắc (nay thuộc khu vực dãy núi Stanovoy của Nga, cách Bồ Dữ lộ (nay thuộc huyện Khắc Đông, Hắc Long Giang) hơn 3.000 lý về phía bắc; tây bắc đến khu vực Hà Sáo, sát với các bộ lạc Đại Mạc như Tháp Tháp Nhi bộ, Uông Cổ bộ; phía tây men theo giới hào phụ cận Tần châu, sát với Tây Hạ. Ở phía nam, lấy Tần Lĩnh-Hoài Hà làm ranh giới với Nam Tống, ở đoạn viễn tây lấy Đại tán quan làm ranh giới. Cương vực triều Kim có thể phân thành 3 bộ phận, khu vực thứ nhất là vùng Đông Bắc và Mạc Nam nguyên nằm dưới quyền thống trị của triều Liêu, đây là vùng đất hưng khởi của triều Kim, bao gồm vùng đất cư trú của các bộ lạc Nữ Chân, cũng như người Khiết Đan, Hề, Bột Hải và các tộc Cát Lý Mê, Ngột Lý Cải. Vào đầu những năm kiến quốc, triều Kim đối với khu vực này đều dùng cựu chế của Sinh Nữ Chân, như sau khi Kim Thái Tổ chiếm lĩnh được các châu huyện ở Đông Kinh của Liêu vào năm 1116, "chiếu trừ Liêu pháp, giảm bớt thuế, đặt mãnh an-mưu khắc như chế độ bản triều", nghĩa là các tộc người Nữ Chân, Hán, Bột Hải, Khiết Đan hoặc Hề đều phải theo chế độ mãnh an-mưu khắc. Khu vực thứ hai từ Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ kéo dài xuống phía nam, đến Yên Vân thập lục châu ở Hà Bắc-Sơn Tây, cư dân ở đây chủ yếu là người Hán, song chịu sự thống trị của người Khiết Đan trong một thời gian dài, dưới thời Kim vẫn duy trì chế độ Hán quan. Sử sách ghi là "Thái Tổ nhập Yên, bắt đầu dùng chế độ Nam-Bắc diện quan của Liêu", tức đồng thời thi hành cựu chế của người Nữ Chân và Hán chế. Khu vực thứ ba là khu vực nguyên thuộc sự thống trị của Tống ở phía bắc Tần Lĩnh-Hoài Hà, cư dân chủ yếu là người Hán, do mới chịu sự thống trị của ngoại tộc nên phần lớn không muốn chịu sự quản chế của Kim. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Triều đình Kim từng lần lượt đặt ra chính quyền bù nhìn Trương Sở và Lưu Tề để thống trị khu vực thứ ba này, cuối cùng triều đình Kim tiến hành quản lý trực tiếp theo chế độ Hán.
Hành chính.
Triều Kim lựa chọn phân chia hành chính ba cấp là lộ, châu, huyện, tổng cộng có 5 kinh 19 lộ:
Ở cấp lộ có đô tổng quản phủ, cùng với tam ty đô chuyển vận ty, án sát, diêm sứ; Ngũ Kinh phủ có chức lưu thủ. Châu thời Kim phân thành ba loại: tiết độ châu đặt chức tiết độ sứ, phòng ngự châu đặt chức phòng ngự sứ, thứ sử châu đặt chức thứ sử. Ở cấp huyện, huyện lệnh là người cai quản, phân thành bảy đẳng cấp. Ngoài ra, Kim còn có các chức quan bộ lạc, Mãnh an gồm 1.000 phu, Mưu khắc gồm 100 phu, hợp xưng là Mãnh an Mưu khắc; "củ tường ổn" (乣詳穩) là chức quan phụ trách việc bảo vệ biên giới, "di lý cận" (移里菫) là chức dành cho thủ lĩnh thôn trại bộ lạc.
Triều Kim thi hành Ngũ Kinh chế, tổng cộng có Trung Đô Đại Hưng phủ, Thượng Kinh Hội Ninh phủ, Nam Kinh Khai Phong phủ, Bắc Kinh Đại Định phủ, Đông Kinh Liêu Dương phủ, Tây Kinh Đại Đồng phủ; ba bồi đô sau nguyên là Trung Kinh Đại Định phủ, Đông Kinh Liêu Dương phủ, Tây Kinh Đại Đồng phủ của triều Liêu. Kinh đô của triều Kim nguyên nằm ở Thượng Kinh, tháng 4 năm 1151 thì Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng ban bố chiếu thư mở rộng Yên Kinh làm Trung Đô, đến năm 1153 thì thiên đô tới Trung Đô, Trung Đô là thủ đô trong thời gian lâu nhất của Kim. Năm 1214, Kim Tuyên Tông trước áp lực của người Mông Cổ đã tuyên bố nam thiên Biện Kinh. Năm 1232, sau khi quân Mông Cổ bao vây Biện Kinh, Kim Ai Tông chạy đến Quy Đức (nay thuộc Thương Khâu, Hà Nam), rồi Thái châu (nay thuộc Nhữ Nam, Hà Nam).
Thể chế chính trị.
Triều Kim vào sơ kỳ áp dụng đầy đủ quan chế Nam-Bắc diện từ thời Liêu, thi hành chế độ lưỡng nguyên: Nữ Chân cựu chế, Hán chế tại lãnh địa của người Hán. Sau khi thi hành "Thiên Quyến tân chế" từ thời Kim Hy Tông, Nữ Chân chế dần bị loại bỏ, dần dần chọn dùng chế độ triều Tống. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Thể chế chính trị được nhất nguyên hóa là một nguyên nhân quan trọng khiến triều Kim lớn mạnh.
Lúc mới lập quốc, Kim Thái Tổ phế trừ chế độ "quốc tướng" từ thời liên minh bộ lạc, chọn dùng chế độ Bột cực liệt, tức là phân thành nhóm, trưởng quan đều gọi là "Bột cực liệt". Trong đó, "Đô Bột cực liệt" là hoàng đế, "Am ban Bột cực liệt" là hoàng trữ, tức người được chỉ định kế thừa hoàng vị; "Quốc luận Bột cực liệt" là quốc tướng; "A mãi Bột cực liệt" trợ thủ cho quốc tướng; "Hạo Bột cực liệt" là trợ thủ thứ hai; hình thành chế độ Bột cực liệt mà theo đó Hoàng đế cùng với một số ít đại thần cùng thảo luận quốc sự. Sau lại có thêm "Hốt lỗ Bột cực liệt", tức trợ thủ thứ ba, đến năm 1132 thì Kim Thái Tông phân "Hốt lỗ Bột cự liệt" thành tả bột cực liệt và hữu bột cực liệt, hình thành nhóm bàn quốc sự gồm Hoàng đế, Hoàng trữ, Quốc tướng ngũ nhân.
Cùng với việc ngày càng mở rộng về phía nam, triều đình Kim chuyển sang sử dụng "tam tỉnh chế". Từ năm 1123 đến năm 1138, Kim Thái Tông chiếm lĩnh Yên Vân thập lục châu và đánh diệt Bắc Tống, thi hành chế độ Hán quan, cùng với cựu chế của người Nữ Chân hình thành chế độ lưỡng nguyên. Về "Nam diện quan" vào đầu thời Kim, từng thiết lập Hán địa Xu mật viện tại Quảng Ninh thuộc Doanh châu (nay thuộc Xương Lê, Hà Bắc), cuối cùng dời đến Yên Kinh. "Bắc diện quan" chủ yếu là thi hành chế độ Bột cực liệt trong nội bộ triều đình. Sau khi Kim Hy Tông kế vị, ông phế trừ chế độ Bột cực liệt nhằm củng cố hoàng quyền, toàn diện sử dụng quan chế triều Tống, triều Liêu. Ông cho lập nên 'tam tỉnh chế' với trung tâm là 'thượng thư tỉnh', dùng tam sư (thái sư, thái phó, thái bảo) và tam công (thái úy, tư đồ, tư không) cùng quản lý công việc của tam tỉnh; địa phương phân thành lộ, phủ, châu, huyện. Năm 1138, đổi Yên Kinh Thượng thư tỉnh thành Hành đài Thượng thư tỉnh, trở thành cơ cấu nhánh của Thượng thư tỉnh Trung ương, kết thúc chế độ song nguyên, lịch sử gọi cuộc cải cách này là Thiên Quyến tân chế. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Thời Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng, triều đình Kim phế trừ Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, tổ chức hành chính được tinh giản và biên chế vào Thượng thư tỉnh.
Sau thời Kim Thế Tông, chế độ chính trị của triều Kim đại thể tương đồng với chế độ chính trị của triều Tống. Trong Thượng thư tỉnh, Thượng thư lệnh chỉ là chức vụ mang tính danh nghĩa, trên thực tế do Tả-hữu thừa tướng và Bình chương chính sự nắm quyền, Tả-hữu thừa và Tham tri chính sự là phó tướng, bên dưới họ có Tả-hữu lưỡng ty lang trung, phân quản Lục bộ. Về cơ cấu quân sự, Đô nguyên soái phủ đổi thành Xu mật viện. Ngoài ra, triều Kim còn đặt ra tam ty Diêm thiết bộ, Độ chi bộ, Hộ bộ để quản lý tài vật, Ngự sử đài duy trì trật tự công cộng, Gián viện, Thẩm quan viện, Quốc sử viện, Tuyên huy viện, Hoành văn viện, Tập hiền viện, Đại lý tự, Lục giám, Ty nông ty, Đại tông chính đều dựa theo chế độ của triều Tống.
Ngoại giao.
Tộc Nữ Chân nguyên thần phục triều Liêu, song cuối cùng tiến hành nổi dậy, xâm nhập Liêu. Triều Liêu có ý muốn hòa đàm với Bắc Tống, song Bắc Tống lại định Hải thượng chi minh với Kim để cùng đánh Liêu, Liêu cuối cùng bị Kim diệt. Sau khi diệt Liêu, Kim lại tiến hành nam chinh tiêu diệt Bắc Tống, sau sự kiện Tĩnh Khang thì Kim và Tống kết thù cực sâu, hai bên nhiều lần phát sinh chiến tranh. Để cai quản vùng đất rộng lớn mới chiếm được của người Hán, triều Kim trước sau lập nên chính quyền bù nhìn Trương Sở và Lưu Tề, song cơ sở không ổn định và không có hiệu quả trong việc đánh diệt Nam Tống, cuối cùng quyết định phế trừ. Trải qua cuộc chiến tiêu diệt Bắc Tống, Ngột Truật nam chinh Trường Giang, trận Thải Thạch giữa Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng với Nam Tống, Kim vẫn không thể tiêu diệt triệt để triều Tống. Trong khi đó, trải qua Nhạc Phi bắc phạt, Long Hưng bắc phạt, Khai Hy bắc phạt, Nam Tống cũng không thể đánh bại được triều Kim đang ngày càng ổn định Trung Nguyên. Do vậy, triều Kim chuyển sang dùng phương thức lấy chiến tranh để ép Tống hòa đàm, đạt được thêm nhiều lợi ích, hai bên trước sau ký kết Tuyên Hòa hòa nghị, Thiệu Hưng hòa nghị, Gia Định hòa nghị. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Cục thế cân bằng này bị phá vỡ khi Đại Mông Cổ Quốc nổi lên, Nam Tống nhận thấy triều Kim suy thoái nên không còn nguyện xưng nước chú - nước cháu và cống nộp hàng năm nữa, hai bên lại một lần nữa trở nên thù địch.
Khu vực Mạc Bắc (bắc sa mạc Gobi) nguyên là vùng đất phụ thuộc của triều Kim, ở khu vực này chủ yếu là các bộ lạc Nãi Man, Khắc Liệt, Miệt Nhi Khất, Thái Xích Ô, Tháp Tháp Nhi, Mông Cổ, Trát Đạt Lan, cùng các bộ lạc khác. Nhằm ổn định khu vực Mạc Bắc, triều Kim chọn cách liên hiệp các bộ lạc để áp chế bộ lạc nào có ý muốn nổi lên, đồng thời cũng nhiều lần phái binh đến Mạc Bắc để tiến hành "giảm đinh", cướp đoạt, khiến một bộ phận bộ lạc ở Mạc Bắc có cái nhìn thù địch với triều Kim. Với việc triều Kim suy lạc, Thành Cát Tư Hãn thuộc Mông Cổ bộ thống nhất Mạc Bắc vào năm 1204, hai năm sau kiến quốc. Thành Cát Tư Hãn không tiếp tục thần phục triều Kim, sau khi hàng phục đồng minh của triều Kim là Tây Hạ thì bắt đầu xâm nhập Kim, trở thành một tai họa lớn của Kim.
Tây Hạ vốn là nước hữu hảo với Liêu, sau khi Kim diệt Liêu vì Kim Thái Tông đồng ý cắt đất tặng nên Tây Hạ chuyển hướng ủng hộ Kim. Sau khi triều Kim ổn định Trung Nguyên, cắt đứt quan hệ giữa Tây Hạ và Nam Tống, mậu dịch giữa Tây Hạ và Trung Nguyên hoàn toàn nằm trong tay Kim, quan hệ hai bên ở trạng thái chỉ hòa thuận ở bên ngoài, còn bên trọng thì chia cách. Người Mông Cổ sau khi nổi lên đã nhiều lần tiến đánh Tây Hạ, song Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế lại lấy việc các nước lân cận bị đánh làm điều vui thích, không ứng cứu Tây Hạ, khiến Tây Hạ thần phục Mông Cổ và chuyển sang đánh Kim. Phải đến sau khi Tây Hạ Hiến Tông kế vị vào năm 1223, Tây Hạ mới chuyển sang liên Kim kháng Mông, song hai nước sau đó không còn chống đỡ nổi quân Mông Cổ.
Người Mông Cổ sau khi buộc Kim phải thiên đô về phía nam, có ý muốn liên kết với Nam Tống để tiêu diệt Kim, đồng thời có ý muốn mượn đường Nam Tống để vào sau lưng Kim. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Để bù đắp cho việc để mất Hà Bắc, Kim Tuyên Tông nhiều lần phát động chiến tranh với Nam Tống, Tây Hạ, mặc dù cuối cùng hòa giải với nhau song nguyên khí của ba nước bị hao tổn đi nhiều. Cuối cùng, Tây Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227, triều Kim không thể thoát khỏi số mệnh mất nước. Năm 1230, Oa Khoát Đài Hãn phát động ba lộ phát Kim, phái Đà Lôi mượn đường Tống vòng đánh kinh đô Khai Phong của Kim. Sau khi Kim Ai Tông chạy đến Thái châu, Mông Cổ yêu cầu Nam Tống suất quân giáp công, triều đình Nam Tống quyết định phái binh vận lương trợ chiến, Kim diệt vong.
Trước khi triều Kim được lập, một bộ phận tộc Nữ Chân triều cống cho Cao Ly, được gọi là Đông Bắc Nữ Chân. Sau khi Kim Thái Tổ thống nhất các bộ Nữ Chân đã cho quân đội xâm nhập Cao Ly. Sau khi diệt Liêu và Bắc Tống, Kim phá hoại quan hệ giữa Cao Ly và Bắc Tống, cô lập Cao Ly.
Năm 1168, Kim Thế Tông sai sứ giả vượt qua lãnh thổ Nam Tống đến Đại Việt và đó cũng là lần duy nhất nhà Kim có quan hệ ngoại giao với Đại Việt. Cùng với sứ nhà Kim, sứ Nam Tống cũng đến Đại Việt lúc đó. Vua Lý Anh Tông sai các quan đón tiếp sứ giả cả triều nước chu đáo nhưng không cho đoàn sứ giả hai nước gặp nhau
Quân sự.
Quân đội Kim đại thể có thể phân thành quân bản tộc, quân tộc khác, 'châu quận binh' và 'thuộc quốc quân'; trong đó hai loại đầu là chủ lực, còn hai loại sau là cánh phụ. Đầu tiên, chủ nô lệ, chủ phong kiến đều phải tòng quân. Sau khi chiếm được đất đai của người Hán, chủ yếu thi hành 'trưng binh chế', trưng dụng người Hán và các dân tộc thiểu số khác làm binh, gọi là "Thiêm quân", đến hậu kỳ thì thi hành "mộ binh chế".
Sau khi triều Kim thống trị Trung Nguyên, cũng phỏng theo Hán chế mà tiến hành phát bổng lộc, giúp đỡ cho quân đội. Đối với quân quan già giải ngũ, từng đặt lệ "cấp thưởng". Đối với quân Tống đầu hàng, triều Kim thường giữ lại hệ thống tổ chức ban đầu, vẫn dùng hàng tướng người Hán thống lĩnh. Quân Kim lấy kị binh làm chủ, bộ binh là thứ. Kị Binh Kim có nhiều ngựa, mặc trọng giáp. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Sau khi binh các bộ tộc tăng lên nhiều, số lượng bộ binh cũng tăng mạnh. Quy mô thủy quân Kim cũng tương đối lớn, song sức chiến đấu lại khá yếu. Ngoài binh khí lạnh, quân Kim còn sử dụng hỏa khí như hỏa pháo, thiết hỏa pháo, phi hỏa thương trong lúc tác chiến. Khi Mông Cổ tràn xuống phía nam, quân Kim đã dùng hỏa khí để kháng cự. Năm 1232, tướng Kim Xích Trản Hợp Hỉ trú thủ Biện Kinh, "có hỏa pháo tên là Chấn thiên lôi, thuốc nổ được nhét vào trong quả sắt để dùng làm hỏa điểm, pháo nổ lửa cháy, nghe như tiếng sấm, ngoài 300 dặm vẫn còn nghe được, mọi thứ trong vòng nửa mẫu bị đốt cháy".
Kim ban đầu đặt "Đô thống" để làm cơ quan quân sự, sau đổi thành "Nguyên soái phủ", "Xu mật viện", hiệp trợ hoàng đế quản lý toàn quân. Thời chiến, hoàng đế chỉ định thân vương lãnh binh xuất chinh, gọi là Đô nguyên soái, Tả-hữu phó nguyên soái, là các chức vụ lâm thời. Cơ cấu quân sự biên phòng có Chiêu thảo ty, Thống quân ty... Quân đội triều Kim sử dụng chế độ Mãnh an Mưu khắc ("Meng'an-Mouke"), một chế độ kết hợp xã hội và quân sự. Từ trước khi lập quốc, nam giới thành niên tộc Nữ Chân đều là chiến sĩ, thời bình tham gia vào hoạt động sản xuất, thời chiến thì tham gia chiến đấu, binh khí và lương thực của bản thân phải tự túc. Khoảng một nghìn hộ được phân thành một 'mãnh an', khoảng một trăm hộ được phân thành một 'mưu khắc', một 'mãnh an' tương đương với một nghìn phu, một 'mưu khắc' tương đương với một trăm phu. 'Vạn hộ phủ' quản lý các 'mãnh an', 'mãnh an' quản lý 'mưu khắc', bên dưới 'mưu khắc' còn có các tổ chức Ngũ Thập (五十), Thập (十), Ngũ (伍). Bố trí binh sĩ phần nhiều là một chính, một phó, thời chiến thì phó quân có thể thay thế vị trí của chính quân nếu trống. Binh sĩ Kim theo chế độ thế tập, có thể để con em thay thế, song không thể cho nô bộc gánh vác thay.
Khi Hoàn Nhan A Cốt Đả khởi binh phản Liêu, lấy 300 khẩu là một 'mưu khắc', 10 'mưu khắc' là một 'mãnh an'. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Với binh lực ít ỏi ban đầu, quân Kim 12 năm sau đã tiêu diệt hoàn toàn Liêu và Bắc Tống. Về sau, "Mãnh an-mưu khắc" vừa là chế độ quân sự, vừa là chế độ hành chính. Triều Kim không ngừng dời về phía nam, chế độ "Mãnh an-mưu khắc" dần thích ứng với chế độ nô lệ và bị suy yếu. Hiện tượng người Nữ Chân ngày càng nhược hóa là khá phổ biến. Thời Kim Thế Tông, A Lỗ Hãn nhậm chức Thiểm Tây lộ Thống quân sứ, "quân tịch Thiểm Tây còn thiếu, theo lệ cũ dùng con em bổ sung, nhưng tư chất phần nhiều không dùng được, A Lỗ Hãn phải tuyển bù trong đám quân dưới trướng A Lý Hỉ" Năm 1168, triều đình Kim tuyển thị vệ, thân quân trong các "Mãnh an-mưu khắc", song "phần lớn không có tài cung tên". Cuối cùng, sau khi kị binh Mông Cổ nổi lên, quân Kim thảm bại trong các chiến dịch quy mô lớn, phải dời đến Biện Kinh, tuy nhiên "Trung hiếu quân" do Kim Ai Tông thành lập vẫn có sự uy hiếp nhất định đối với người Mông Cổ.
Kỵ binh Thiết Phù Đồ.
Quân Kim có những kị binh được trang bị khôi giáp nặng nề bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa. Được biết dưới cái tên "Thiết Phù Đồ" (铁浮屠), đây là một công cụ đắc lực của Kim quốc, tham gia hàng chục trận chiến quan trọng, góp phần tạo dựng nên những võ công vang dội của người Nữ Chân khắp vùng phía Bắc Trung Quốc trong thế kỉ 12. Theo "Kim lỗ đồ kinh" (金虏图经 - ghi chép của một tù binh Kim) có ghi: "Ngột Truật đích thân đem ba ngàn nha binh đến tiếp ứng, tất cả nha binh toàn thân bọc giáp, giặc gọi là Thiết Phủ Đồ, cũng gọi là Xoa Thiên Hộ, cái tên Xoa Thiên Hộ này là để chỉ thân quân thị vệ". Thiết Phủ Đồ là một đơn vị dành riêng cho con trai của các gia đình quý tộc Nữ Chân. Các Thiết Phủ Đồ được bọc giáp toàn thân, chỉ để lộ hai mắt và bàn tay, gần giống với các kị binh Ba Tư thế kỉ 4-7.
"Thiết Phủ Đồ" được sử dụng như một mũi dùi tiên phong lao thẳng vào đội hình quân địch. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Triệu Ngạn Vệ, một người Tống đã ghi chép lại về chiến thuật của họ: "Những kị sĩ xếp thành hình tam giác hướng về phía trước, họ lao về phía kẻ thù nhanh hết mức có thể rồi sau đó tỏa ra, chạy quanh bao vây quân địch, chờ cơ hội để tấn công thêm lần nữa, nếu tình hình yêu cầu, họ có thể xuống ngựa chiến đấu như những người lính bộ binh". Trong một số ghi chép khác, quân Kim cũng sử dụng Quải Tử Mã (拐子马), ba kị sĩ sẽ được liên kết với nhau bằng một sợi dây da, nhằm đẩy ngã và giẫm chết bất kì bộ binh xấu số nào bị kẹt ở giữa. Có ý kiến cho rằng "Quải tử mã" là một đơn vị riêng, tách biệt với "Thiết Phủ Đồ", những cũng có ý kiến lại cho rằng "Quải tử mã" thật ra là lực lượng 10.000 kỵ binh chạy ở hai cánh trợ chiến cho những đợt tấn công của "Thiết Phủ Đồ". "Thiết Phủ đồ" còn có thể xuống ngựa chiến đấu như một đơn vị bộ binh nặng. Trong trận chiến tại Tiên Nhân Quan, họ đã xuống ngựa và tiến lên theo đội hình của bộ binh.
Phong cách chiến đấu của đơn vị này có thể đã chịu ảnh hưởng từ những kị binh "Thiết Dao Tử" (鐵 鷂子) của Tây Hạ. Về "Thiết Dao Tử", trong Tống sử có miêu tả về đơn vị này như sau: ""Những kị sĩ có thể di chuyển hàng trăm đến hàng nghìn dặm một ngày trên mình ngựa, họ là những kị sĩ xuất sắc, tấn công mạnh mẽ như sấm sét, di chuyển linh hoạt như mây bay. Khi gặp quân địch, họ tấn công phủ đầu bằng những đợt xung phong mạnh mẽ và bất ngờ". Những kị binh này là một đội quân tinh nhuệ của hoàng gia Tây Hạ, họ tham gia rất nhiều chiến dịch. Chỉ được bọc giáp ở mức độ trung bình, ưu thế của họ đến từ độ dẻo dai và nhanh nhẹn, những cây thương cũng có thể gắn chặt lên mình ngựa để phòng trường hợp người kị sĩ thương vong, con ngựa vẫn có thể đâm chết kẻ địch bằng cách lao lên. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Để chống lại những đội kị binh thiện chiến quân Kim, quân nhà Tống cũng đã phát triển những chiến thuật của riêng mình với những khối bộ binh vững chắc được trang bị nỏ, ống phóng hỏa khí (tiền thân của súng cầm tay) và các loại kích.
Nhân khẩu.
Sau Nghị hòa Thiệu Hưng năm 1141, tình trạng nhân khẩu giảm thiểu ở phương bắc từ sau sự biến Tĩnh Khang bắt đầu được khắc phục ở mức độ nhất định, đến năm 1207 thời Kim Chương Tông thì đạt 53.532.151 người, cũng là mức tối đa của Đại Kim. Đương thời, tổng nhân khẩu của Kim, Nam Tống, Tây Hạ ước tính là khoảng 136 triệu người. Trong lần thống kê nhân khẩu chuẩn xác thứ tư của triều Kim, mỗi hộ bình quân có trên 6 khẩu, quy mô hộ dưới triều Kim đông đảo, có quan hệ nhất định với việc các quý tộc và mãnh an-mưu khắc sử dụng một lượng lớn nô bộc.
Kim Thái Tổ và Kim Thái Tông khi thống trị Trung Nguyên đã đưa hơn 1 triệu người Nữ Chân đến vùng đất hạ du Hoàng Hà vỗn đã có nhân khẩu đông đúc, dùng biện pháp hy sinh lợi ích của người Hán phục vụ cho người Nữ Chân, mục đích là để đáp ứng cho sinh hoạt và quân sự của họ. Cùng lúc với việc đưa những di dân mới người Nữ Chân đến chiếm lĩnh đất đai Trung Nguyên, người Khiết Đan và người Hán bị đưa đến nội địa của triều Kim (tức vùng Mãn Châu ngày nay). Trong cuộc chiến tranh chống Liêu, quân Kim từng bắt được một lượng lớn người Khiết Đan và người Hán làm nô lệ. Sau đó, Kim Thái Tổ từng hạ chiếu cấm chỉ giam giữ bách tính chịu đầu hàng, cấm chỉ nhà quyền thế mua dân nghèo làm nô lệ, lại quy định những người từng bán thân làm nô lệ có thể dùng công lao động để chuộc thân, song trên thực tế khả năng nô lệ có thể tự chuộc thân là rất thấp. Cư dân người Hán bị buộc phải thiên di không thể không trở thành nô lệ với số lượng lớn. Triều đình Kim đối với nhân dân khu vực chịu đầu hàng tuân phục thì áp dụng biện pháp cưỡng bách thiên di đến nội địa. Như cư dân các châu huyện Sơn Tây bị buộc phải thiên di với số lượng lớn đến Hồn Hà lộ thuộc Thượng Kinh của Kim. Cư dân địa khu Thượng Kinh lại được dời đến Ninh Giang châu. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Nhân dân Bình châu nổi dậy phản kháng, sau khi bị trấn áp thì phải cùng với cư dân Nhuận châu, Tháp châu, Lai châu, Thiên châu dời đến đông đô Thẩm Dương. Những cư dân này không thể vượt qua khó khăn để tồn tại, buộc phải bán thân làm nô lệ, khiến người Hán hận thù sâu sắc.
Nam giới Nữ Chân để kiểu tóc "lưu lô hậu phát" (cạo tóc phần trán), buộc tóc thành một đuôi sam, bị người phương nam gọi là "sách lỗ" (giặc buộc tóc). Trong "Bắc phong dương sa lục" và du ký của Nam Tống, cũng có nói về việc người Kim để đuôi sam, vào năm Thiên Hội thứ 7 (1129) thời Kim Thái Tông còn cưỡng chế mặc Hồ phục để đuôi sam.
Kinh tế.
Có sự khác biệt lớn trong phát triển kinh tế giữa khu vực của triều Kim. Khi mới kiến lập triều Kim, tộc Nữ Chân vẫn còn ở chế độ hỗn hợp đánh cá săn bắn và trồng trọt, sau đó họ khống chế được vùng đất của người Hán, những nơi đã phát triển kinh tế nông nghiệp ở trình độ rất cao. Hơn một nửa thế kỷ từ thời Kim Hy Tông đến thời Kim Chương Tông, kinh tế xã hội phương bắc Trung Hoa có được sự khôi phục và phát triển ở trình độ nhất định. Kinh tế xã hội của khu vực Đông Bắc triều Kim có sự phát triển khá lớn so với thời Liêu, chẳng hạn nghề rèn sắt có tiến bộ rõ rệt. Trong thời Kim Thế Tông và Kim Chương Tông, các hộ mãnh an-mưu khắc vốn sử dụng nô lệ sản xuất dần chuyển hóa thành địa chủ. Việc chuyển hóa này chủ yếu có nhận ruộng, đánh thuế, phân biệt bình dân và nô lệ, quý tộc Nữ Chân dựa vào đó mà mở rộng phạm vi đất đai chiếm hữu.
Nông nghiệp và súc mục nghiệp.
Triều Kim lấy việc phát triển nông nghiệp làm cơ sở để khoách trương quân sự, nhằm biến vùng đất Đông Bắc của tổ tiên thành kho lương thực, các công cụ sản xuất và kỹ thuật trồng trọt ở Trung Nguyên dần được truyền bá đến Đông Bắc. Do các công cụ làm bằng sắt được sử dụng rộng rãi nên sản xuất nông nghiệp tiến triển, số giống cây trồng cũng ngày càng tăng thêm. Vào thời Kim sơ, không trồng cốc mạch mà chỉ trồng kê xuân. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Về sau, số giống cây trồng ngày càng tăng, có lúa mì, kê, kê Âu, cỏ gạo, đay, đậu tương; các loại rau có hành, tỏi, hẹ, hướng dương, cải và dưa. Triều đình Kim cũng khuyến khích khẩn hoang, như quy định khai khẩn đất hoang hoặc đất bãi ven Hoàng Hà có thể được giảm miễn tô thuế, do vậy diện tích đất ruộng khai hoang tăng lên.
Chế độ đất đai của triều Kim cấp rất nhiều ưu đãi cho người Nữ Chân, còn người Hán, người Khiết Đan và người Bột Hải không được hưởng. Chế độ đất đai của người Nữ Chân được gọi là chế độ "ngưu cụ thuế địa", kế thừa tập tục của chế độ thị tộc. Số đất đai chiếm ít hay nhiều phụ thuộc và số bò cày, nhân khẩu; quý tộc Nữ Chân sở hữu nhiều nhân khẩu và bò cày tự nhiên có thể chiếm được một vùng đất rộng lớn. Đến những năm Đại Định (1161-1189) thời Kim Thế Tông, tình hình tỷ lệ giữa bò, người và đất không phù hợp trở nên rất phổ biến.
Thời kỳ Kim Hy Tông, triều Kim bắt đầu thực hành chế độ "kế khẩu thụ điền". Lúc mới đầu sau khi thống trị khu vực Hoa Bắc rộng lớn, triều Kim có kế hoạch đưa một lượng lớn mãnh an mưu khắc phân tán ra các nơi để trấn áp người Hán, được gọi là đồn điền quân. Triều Kim đối với các đồn điền quân hộ này đều chiếu theo hộ khẩu mà cấp cho ruộng công, gọi là "kế khẩu thụ điền". Khi ruộng công không đủ để phân phối thì tiến hành cướp ruộng dân. Sau khi được phân đất, đại đa số đồn điền quân hộ nhượng tô cho người Hán canh tác, hoặc cưỡng bách người Hán trồng cấy mà không trả công. Do tình trạng bóc lột nghiêm trọng, không ai muốn trồng cấy, đất đai dần hoang phế. Đến thời Kim Thế Tông, triều đình lại phái quan lại đến các nơi để "câu xoát lương điền", chiếm đất đai làm ruộng công.
Người Nữ Chân vốn là cư dân ở vùng Đông Bắc Trung Quốc ngày nay, súc mục nghiệp, hay nghề chăn nuôi gia súc, của người Nữ Chân rất phát triển. Thời kỳ Kim Đế Hoàn Nhan Lượng, người Kim vốn có tới 9 quần mục sở. Đến khi Nam chinh, người Kim trưng dụng được hơn 56 vạn chiến mã, song vì chiến sự nên tổn thất hơn một nửa. Đến những năm đầu Kim Thế Tông, người Kim chỉ còn 4 quần mục sở. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Kim Thế Tông bắt đầu phục hồi súc mục nghiệp, đương thời tại các nơi Phủ châu, Lâm Hoàng phủ, Thái châu thiết lập 7 quần mục sở. Từ năm 1168, triều đình hạ lệnh bảo hộ ngựa, bò, cấm chỉ giết thịt, cấm chỉ thương nhân và thuyền xe sử dụng ngựa. Triều đình cũng quy định đối với quần mục quan hay quần mục nhân, dựa theo tình hình sinh trưởng tổn hai của vật nuôi mà thưởng phạt. Triều đình thường phái xuất quan viên đến kiểm tra chính xác số vật nuôi, khi phát hiện thiếu thì xử phạt quan lại, còn người chăn thả phải bồi thường. Đối với các hộ dân tự chăn nuôi, phải đăng ký số ngạch, dựa theo tình trạng giàu nghèo mà tạo bạ tịch, khi có chiến sự thì dựa theo bạ tịch để trưng dụng hoặc miễn trưng dụng song thường xuất hiện hiện tượng không công bằng giữa hộ giàu và nghèo. Đối với dê và ngựa do các bộ tộc nuôi dưỡng, triều đình Kim quy định chế độ, cấm chỉ quan phủ tùy ý cưỡng đoạt.
Thủ công nghiệp.
Sản xuất thủ công nghiệp dưới triều Kim như gốm sứ, khai mỏ và luyện kim, đúc, làm giấy, in ấn, trải qua chiến loạn và phục hồi, đều có sự phát triển. Người Nữ Chân trước khi kiến quốc thì thịnh hành nghề rèn sắt. Sau khi kiến lập triều Kim, nghề luyện sắt tại phương bắc tiếp tục phát triển, các nơi sản xuất đồ sắt có tiếng là Vân Nội châu, Chân Định phủ, Lỗ Sơn ở Nhữ châu, Bảo Phong, Nam Dương thuộc Đặng châu, tại Vân Nội châu sản xuất quy mô lớn một loại đồ sắt gọi là "thanh tấn thiết" (thép già xanh). Ngoài ra, tại khu vực Đông Bắc, người ta bắt đầu khai thác than đá. Các công cụ làm từ đồ sắt được sử dụng rộng rãi. Trên phạm vi rộng lớn thuộc Đông Bắc, đều phát hiện được các đồ làm bằng sắt có niên đại từ thời Kim, trong đó có một lượng lớn nông cụ làm bằng sắt, với nhiều chủng loại, kết cấu phức tạp, hình dạng tương tự hoặc tương hợp như ở khu vực Trung Nguyên, thể hiện rõ ràng rằng phương thức sản xuất nông nghiệp Đông Bắc đã có cải biến to lớn. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Từ năm 1961 đến 1962, tại Ngũ Đạo Lĩnh thuộc huyện A Thành của tỉnh Hắc Long Giang, đã phát hiện được hơn 10 hố khai khoáng sắt vào trung kỳ chiều Kim, hơn 50 di chỉ luyện sắt. Hố khai thác sắt sâu nhất là hơn 40 mét, với các khu tác nghiệp như khai thác khoáng hay tuyển khoáng. Căn cứ trên quy mô khai thác, ước tính trong các hố khoáng sản này có thể khai thác ra được 4 trăm nghìn-5 trăm nghìn tấn quặng sắt.
Nghề gốm sứ do có cơ sở từ thời Liêu và Bắc Tống nên cũng khá phát triển. Thời Kim Hy Tông, các khu vực gốm sứ vốn nổi tiếng ở phương bắc như Diệu Châu diêu ở Thiểm Tây, Quân diêu ở Hà Nam, Định châu diêu và Từ châu ở Hà Bắc không ngừng khôi phục sản xuất, Lâm Nhữ và các nơi sản xuất gốm sứ khác nổi lên, công nghệ mỗi nơi đều có điểm đặc sắc. Nghề đúc tiền, vàng và làm đồ ngọc cũng tương đối phát triển, những năm gần đây đã phát hiện được nhiều văn vật quý báu. Hoạt động thương nghiệp dần sôi động, trong các di chỉ và mộ táng thời Kim ở khu vực Đông Bắc đã phát hiện được lượng lớn tiền đồng triều Tống, có thể thấy sự mật thiết trong mậu dịch giữa triều Kim và phương nam. Giấy trúc Tắc Sơn và giấy đay Bình Dương ở Sơn Tây vang danh một thời. Dùng bản khắc in thành sách trở nên phổ biến, kỹ thuật bản khắc của triều Kim cho ra các sản phẩm đẹp tương đương với Nam Tống, trung tâm bản khắc in ấn của triều Kim là ở Bình Dương.
Thương nghiệp.
Do sản xuất kinh tế của Kim được khôi phục và phát triển, thương nghiệp ngày càng phồn thịnh. Những năm đầu Kim kiến quốc, thương nghiệp các khu vực phát triển rất không đồng đều. Đương thời, vùng đất tổ tiên của người Nữ Chân là khu vực Đông Bắc còn "không có chợ làm nơi mua bán, không dùng tiền mà chỉ dùng vật phẩm trong mậu dịch", nhưng Trung Đô của Kim và Khai Phong phủ đều là những thành thị thương nghiệp hưng thịnh. Triều Kim cho lập nên không ít "các trường" để tiến hành mậu dịch với Tây Hạ và Nam Tống. Tuy nhiên, do Kim và Tống khi chiến khi hòa nên mậu dịch các trường chịu ảnh hưởng nhất định. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Kim chủ yếu xuất sang Nam Tống các thương phẩm như da, nhân sâm, lụa; còn Nam Tống xuất sang Kim các thương phẩm như trà, dược phẩm, tơ. Hội Ninh phủ, Trung Đô, Khai Phong phủ, Tế Nam phủ đều là các trung tâm thương nghiệp khá lớn vào đương thời.
Sau khi Trung Đô (nay thuộc Bắc Kinh) trở thành quốc đô của triều Kim, giao thông thủy bộ phát triển, nhân khẩu gia tăng nhanh chóng, trở thành một trọng trấn thương nghiệp có hoạt động mậu dịch phát triển, trong đó "Thành Bắc tam thị" là trung tâm thương nghiệp. Thời kỳ Kim Thế Tông, chùa Tướng Quốc ở Khai Phong phủ khai tự vào ngày 3, ngày 8 mỗi tháng, lái buôn tập trung tại đó để tiến hành mậu dịch, bên trong "phù ốc" dưới cửa lầu Tuyên Đức, người mua bán rất đông.
Tiền tệ.
Theo chế độ tiền tệ của Kim, ba loại tiền là tiền đồng, tiền giấy, tiền bạc cùng lưu hành. Vào đầu triều Kim, vẫn sử dụng tiền tệ Liêu, Tống; tình trạng này kéo dài đến sau lần nghị hòa thứ hai giữa Kim-Tống, khi mà chiến tranh tạm kết thúc. Năm 1158, Kim Đế Hoàn Nhan Lượng lần đầu tiên cho đúc và lưu hành Chính Long thông bảo Tiểu Bình tiền. Năm 1204, Kim Chương Tông cho đúc Thái Hòa thông bảo Chân Thư tiền. Năm 1213, Kim Đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế cho đúc Chí Ninh nguyên bảo tiền. Kim Tuyên Tông sau khi nam thiên cũng cho đúc và lưu thông tiền tệ. Sau khi tiêu diệt Bắc Tống, triều Kim từng phù trợ Lưu Tề lập quốc, tiền tệ thể chế này đúc ra có vẻ thanh tú đẹp đẽ, tinh chỉnh giống như tiền Bắc Tống.
Văn hóa.
Văn hóa triều Kim phát triển đạt đến mặt bằng rất cao, "từ Đại Định (1161-1189) về sau, văn bút hùng kiện, trực kế Bắc Tống chư hiền". Tại một vài phương diện mặc dù không bì được với Tống, song báo trước sự phát triển của văn hóa hậu thế. Triều Kim thi hành chính sách Hán hóa, từ "tá tài dị đại" đến "quốc triều văn phái" dần hình thành khí phái, phong mạo độc đáo khác với triều Tống, tuy nhiên tinh thần sùng võ dũng mãnh của người Nữ Chân cũng dần biến mất khi tình hình triều Kim ổn định, cuối cùng dẫn đến mất nước. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Thời Nguyên, có người nói "Kim vì Nho mà mất", cách nói này không hẳn là nhất định chính xác song người Kim hoàn toàn Hán hóa là sự thực không cần phải tranh cãi. Lưu Kỳ nói: "sau khi nam độ, những người Nữ Chân thế tập mãnh an, mưu khắc thường thường hiếu văn học, thích ngao du với sĩ đại phu". Từ thời Kim Hy Tông về sau, các bậc đế vương triều Kim về sau đều có kiến thức về văn hóa Hán tương đối cao. Thời Nguyên, có người nói: "đế vương biết về âm nhạc có năm người: Đường Huyền Tông, Hậu Đường Trang Tông, Nam Đường Hậu Chủ, Tống Huy Tông, Kim Chương Tông". Trung kỳ triều Kim về sau, hiện tượng người Nữ Chân đổi sang họ Hán, mặc Hán phục ngày càng phổ biến, triều đình luôn cấm song không cản nổi. Kim Thế Tông một lòng phản đối người Nữ Chân hoàn toàn Hán hóa, tích cực thúc đẩy việc học tập chữ viết và ngôn ngữ Nữ Chân, song không làm đảo ngược được tốc độ Hán hóa của người Nữ Chân. Tiếp thu văn hóa Hán nhanh nhất, có trình độ Hán hóa sâu nhất trước tiên là xã hội quý tộc thượng tầng Nữ Chân. Văn hóa nghệ thuật của Kim sau khi kế thừa Liêu và Bắc Tống thì sau không ngừng phát triển, vượt quá Liêu và sau phát triển song song với Nam Tống, cấu thành hai nhánh lớn trong sự phát triển văn hóa Trung Quốc đương thời. Trong lịch sử văn hóa nghệ thuật Trung Quốc, triều Kim có vai trò "cao hơn Liêu và thấp hơn Nguyên".
Tư tưởng.
Triều Kim dùng Nho gia làm tư tưởng cơ bản để thống trị nhân dân, còn Đạo giáo, Phật giáo và Pháp gia cũng được lưu truyền và ứng dụng rộng khắp. Các nhà tư tưởng của triều Kim thảo luận bình phẩm lý học và kinh nghĩa học Lưỡng Tống, khiến lý học lại một lần nữa nổi lên ở phương bắc, phát triển tư tưởng Trung Hoa. Trên phương diện tư tưởng học thuật, Triệu Bỉnh Văn được gọi là "Nho chi chính lý chi chủ", ông phê bình ngành truyện chú từ thời Hán đến đương thời, hoàn toàn khẳng định lý học Bắc Tống do Chu Liêm Khê, Nhị Trình (Trình Hạo, Trình Di) kiến lập. Đồng thời dung hợp tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và lý học thành một thể, dùng để bảo vệ tính chính thống của Kim. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Vương Nhược Hư phê bình ngành truyện chú, khẳng định lý học Bắc Tống. Tuy nhiên, ông cũng phê bình lý học Bắc Tống, đồng thời từng giành công phu chú thích lý học Lưỡng Tống, cộng thêm bình luận và khen chê; song chưa thành học thuyết. Tác phẩm của Lý Thuần Phủ có "Trung dung tập giải", "Minh đạo tập giải", tư tưởng trước tiên là từ Nho giáo chuyển hướng Đạo giáo, cuối cùng chuyển hướng Phật giáo. Ông nói rằng "học chí ư Phật tắc vô sở học" (học đến Phật thì không còn gì để học nữa), xem các nhà nho Y Xuyên của Tống "giai thiết ngô Phật thư" (đều trộm sách Phật của ta). Để đạt đến tam giáo Nho-Đạo-Phật hợp nhất với Phật giáo là chủ, mạnh dạn khai chiến với lý học Lưỡng Tống.
Về mặt tư tưởng chính trị, Triệu Bỉnh Văn nhận định vương thất và liệt quốc, Hoa và Di, Trung Quốc và quan hệ với bốn phía đều là khả biến, nhận định có lòng thiên hạ của chung thì đều gọi là "Hán", cho rằng giữa xã tắc và dân thì dân quý còn xã tắc thì xem nhẹ, phản đối đề pháp "họa bắt đầu từ phi hậu, thành ở hoạn thủ, mất vì phiên trấn" vào cuối những năm Khai Nguyên thời Đường, nhận định căn nguyên họa hoạn là tại "Minh Hoàng". Vương Nhược Hư cho rằng thống nhất Trung Quốc cần bàn đến "khúc trực chi lý" (cái lý đúng sai), phê phán Âu Dương Tu là nịnh nọt triều đình, cho rằng đất nước tồn vong là do số trời, khen ngợi Tư Mã Quang trong cách nhìn đối với việc chính thống trong lịch sử.
Giống như triều Tống, triều Kim tôn sùng Nho học và Khổng Tử. Ngay từ khi quân Kim tiến quân đến Khúc Phụ, khi binh Kim có ý đồ hủy hoại mộ Khổng Tử thì liền bị Hoàn Nhan Tông Hàn ngăn chặn. Từ thời Kim Hy Tông, triều đình Kim bắt đầu tôn Khổng, lập Khổng miếu tại Thượng Kinh, lại phong hậu duệ của Khổng Tử là Diễn Thánh công. Mặc dù Kim Đế Hoàn Nhan Lượng xem nhẹ Nho học, đến thời Kim Thế Tông và Kim Chương Tông thì Kim lại hết mình tôn Khổng sùng Nho, xây sửa Khổng miếu và miếu học, đồng thời tông sùng "Thượng thư", "Mạnh Tử".
Văn học và văn tự. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Văn học và văn tự.
Vào thời kỳ đầu triều Kim, văn học còn giản đơn mộc mạc, văn học gia phần lớn là bọn người Liêu và người Tống như Hàn Phưởng. Thái Khuê (?~1174) được gọi là cha đẻ của văn học chính truyền triều Kim, ngoài ra còn có Đảng Hoài Anh, cũng như Triệu Phong, Vương Đình Quân, Vương Tịch, Lưu Tòng Ích. Thời kỳ Kim Chương Tông, văn học gia hữu danh có thể kể đến như Triệu Bỉnh Văn, Dương Vân Dực, Lý Thuần Phủ, Nguyên Hiếu Vấn, người Nữ Chân hữu danh có Kim Đế Hoàn Nhan Lượng và Kim Chương Tông. Khi Kim Đế Hoàn Nhan Lượng nam hạ xâm Tống, tại Dương châu làm thơ, có câu: "đề binh bách vạn Tây Hồ trắc, lập mã ngô sơn đệ nhất phong". Hoàn Nhan Lượng lập chí diệt Tống thống nhất Trung Quốc, lời thơ thể hiện sự quyết tâm, bút lực hùng kiện, phong cách khoan khoát. Kim Chương Tông cực kỳ yêu thích thơ từ, sáng tác rất nhiều, song ý cảnh chỉ là cảnh sinh hoạt trong cung, giống như "cung thể thi". Được Kim Chương Tông đề xướng, quan viên quý tộc Nữ Chân cũng có nhiều người học sáng tác thơ Hán. Thi ca do Dự vương Hoàn Nhan Doãn Thành sáng tác được biên thành "Nhạc thiện lão nhân tập". Bên dưới, mãnh an, mưu khắc cũng nỗ lực học thơ, như mãnh an Thuật Hổ Huyền, mưu khắc Ô Lâm Đáp Sảng đều cùng sĩ đại phu người Hán giao du, cần mẫn học thơ. Văn nhân hữu danh triều Kim là Vương Nhược Hư và Nguyên Hiếu Vấn. Tác phẩm của Vương Nhược Hư có "Hô Nam dị lão tập", là bậc anh tài về thơ văn và khảo chứng kinh sử, sơ bộ kiến lập văn pháp học và tu từ học, luận sử của ông công kích Tống Kỳ, luận thi văn của ông lại tôn Tô Thức và hạ thấp Hoàng Đình Kiên, là một bình luận gia có quyền uy trong triều đình Kim, sau này "Kim thạch văn lệ" của Phan Thăng Tiêu chịu ảnh hưởng từ ông. Nguyên Hiếu Vấn là văn học gia có nhiều thành tựu vào thời Kim, tác phẩm của ông có "Di Sơn văn tập", còn "Luận thi tuyệt cú" của ông có 30 bài, xem trọng về đánh giá tác gia, mở đầu cho một môn phái luận thơ quan trọng sau này. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | "Trung châu tập" của Nguyên Hiếu Vấn thì dùng thơ để lưu sử, ông đưa các khu vực, thi nhân các tộc vào làm nhân vật trong Trung châu tập, phản ánh cụ thể tư tưởng thống nhất các tộc người.
Tạp kịch và hí khúc dưới triều Kim đạt được sự phát triển tương đối, thịnh hành hình thức dùng tạp kịch để diễn trò. Sự phát triển của "Viện bản" thời Kim là cơ sở cho tạp kịch "Nguyên khúc" sau này. "Tây sương ký chư cung điều" của Đổng Giải Nguyên vào thời kỳ Kim Chương Tông là một kiệt tác hí kịch cổ điển của Trung Quốc. Ông tiến hành cải biến dựa trên "Oanh oanh truyện" của Nguyên Chẩn thời Đường, song về phương diện tư tưởng nghệ thuật có sự đột phá khỏi rào cản tư tưởng truyền thống, được gọi là "ông tổ cổ kim truyền kỳ", "tổ của Bắc khúc".
Nữ Chân văn và Hán văn là văn tự công thông hành của triều Kim, trong đó Nữ Chân văn căn cứ theo Khiết Đan tự để viết ngôn ngữ Nữ Chân, bản thân Khiết Đan tự lại cải chế từ Hán tự. Người Nữ Chân nguyên sử dụng Khiết Đan tự, sau khi lập quốc triều Kim, Hoàn Nhan Hy Doãn phụng lệnh Kim Thái Tổ tham khảo Hán văn và Khiết Đan văn mà sáng tạo ra Nữ Chân văn, đến tháng 8 năm 1191 thì ban hành. Năm 1165, Đồ Đan Tử Ôn tham khảo Khiết Đan tự tham khảo bản dịch Khiết Đan tự mà dịch xong các sách như "Trinh Quán chính yếu", "Bạch thị sách lâm". Thời Kim Thế Tông, triều đình thiết lập 'dịch kinh sở', phiên dịch kinh sử Hán văn thành Nữ Chân văn, sau đó cũng dần dịch thêm nhiều bản thư tịch Hán văn. Kim Thế Tông nói với bọn tể tướng: "Sở dĩ Trẫm ra mệnh lệnh phiên dịch Ngũ Kinh là muốn người Nữ Chân biết nhân nghĩa đạo đức sở tại". Tuy nhiên, đương thời khi dịch thuật giữa Nữ Chân tự và Hán tự thì trước tiên phải dịch sang Khiết Đan tự, sau lại tiếp tục chuyển dịch. Thời kỳ Kim Chương Tông, thành lập Hoằng văn viện dịch kinh thư Nho học, mệnh học quan giảng giải. Năm 1191, triều đình bãi phế Khiết Đan tự, quy định từ đó về sau phải trực dịch giữa Hán tự và Nữ Chân tự. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Tuy nhiên, cùng với sự thông dụng của Hán ngữ, quý tộc Nữ Chân phần nhiều biết đọc Hán tự. Thư tịch Hán tự được lưu hành rộng khắp trong cộng đồng người Nữ Chân.
Tôn giáo.
Chính sách tôn giáo của triều Kim phần lớn đều chủ trương thuận tòng và nhẫn nại, chủ yếu liên quan tới người Hán và giai cấp thống trị dị tộc. Không kể Phật giáo hay Đạo giáo, đều chủ trương lấy giáo nghĩa của mình làm chủ trong Phật-Đạo-Nho hợp nhất, như trong phát triển lý luận của Phật giáo có Vạn Tùng Hành Tú và Lý Thuần Phủ với trình độ rất cao. Người sáng lập nên Toàn Chân giáo là Vương Triết, phàm khi lập hội đều dùng danh tam giáo, "Toàn Chân giáo tổ bi" của Hoàn Nhan Thục có ghi: "có thể thấy sự hư không minh diệu, tịch tĩnh viên dung, không chỉ chứa nhất giáo". Vương Triết xuất phát từ chủ trương tam giáo hợp nhất, khuyên mọi người tụng "Đạo đức thanh tĩnh kinh", "Bàn nhược tâm kinh", "Hiếu kinh" cùng các kinh điển Đạo, Phật, Nho khác.
Thời kỳ chưa lập quốc, Phật giáo đã lưu truyền trong tộc người Nữ Chân, sau khi họ diệt Liêu và Bắc Tống, lại chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Nguyên, niềm tin đối với Phật giáo càng phát triển. Các phái Phật giáo như Hoa Nghiêm, Thiền, Tịnh, Mật đều có sự phát triển tương đối. Trong đó, Thiền tông đặc biệt thịnh hành, việc này có thể nói là hoàn toàn chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Bắc Tống, đối với các mặt xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa và tập tục của Kim đều có ảnh hưởng trọng yếu. Sau khi tộc Nữ Chân chiếm lĩnh Trung Nguyên, Đạo Tuân kế thừa Tịnh Như hoằng pháp tại Linh Nham tự, tác phẩm có các thư tịch "Kỳ chúng quảng ngữ", "Du phương khám biện", "Tụng cổ xướng tán". Ở Biện Lương có Phật Nhật đại hoằng pháp hóa, đệ tử truyền pháp là Viên Tính trong những năm Đại Định (1161-1189) ứng thỉnh chủ trì Đàm Chá Sơn tự ở Yên Kinh, hết lòng phục hưng Thiền học. Vạn Tùng Hành Tú là một thiền sư đặc biệt có danh tiếng vào thời Kim, tại Tòng Dung am ông từng bình xướng thiên đồng với "Tụng cổ bách tắc", soạn "Tòng Dung lục", là danh tác Thiền học. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Ông đồng thời cũng có tư tưởng dung quán tam giáo, khuyến trọng thần đương thời là Da Luật Sở Tài lấy Phật trị tâm, rất được Da Luật Sở Tài xưng tụng, nói ông "có huyết mạch Tào Động, có tinh xảo của Vân Môn, dự cơ phong của Lâm Tế".
Đạo giáo đến thời Kim xuất hiện Tam đại tân hưng giáo phái là Toàn Chân giáo, Đại Đạo giáo, Thái Nhất giáo. Vương Triết sáng lập ra Toàn Chân giáo vào năm 1167, về sau bảy vị đệ tử của ông luân lưu tiếp nhiệm. Toàn Chân giáo kế thừa tư tưởng Đạo giáo truyền thống, còn đưa thêm tư tưởng phủ lục, đan dược, chỉnh lý nội dung, thiết lập căn cơ cho Đạo giáo ngày nay. Lưu Đức Nhân sáng lập ra Đại Đạo giáo vào năm 1142, giáo phái này chủ trương "thủ khí dưỡng thần", đề xướng tự nuôi dưỡng sức lực, ít nghĩ đến dục, không nói về tu luyện thăng thiên, trường sinh bất lão, đồng thời đưa tư tưởng Nho gia vào hệ thống tư tưởng của mình. Ngoài ra, Đại Đạo giáo còn có chế độ xuất gia. Tiêu Bão Trân là thủy tổ của Thái Nhất giáo, sáng lập ra giáo phái vào năm 1138. Giáo phái này lấy đạo pháp phù lục làm chủ, cũng theo pháp nội luyện mềm yếu. Thái Nhất giáo mô phỏng nguyên tắc bí truyền của Thiên Sư đạo, những người quản lý giáo phái khi tựu nhiệm đều phải đổi sang họ "Tiêu". Thái Nhất giáo lập giáo tông chỉ thị "độ quần sinh ư khổ ách", tôn trọng nhân luân.
Tín ngưỡng của người Nữ Chân là Tát Mãn giáo, là một tôn giáo nguyên thủy bao gồm các tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, vật tổ, vạn vật hữu linh, sùng bái tổ tiên, vu thuật. Tát Mãn là trung gian khai thông giữa người và thần, khi tế tự trong lễ nghi, sự kiện trọng đại và ngày tết đều có vu sư tham gia hoặc do tư nghi của họ tiến hành. Nội dung dung hoạt động của Tát Mãn giáo có thể liệt kê như làm tai họa biến mất và khỏi bệnh, người cầu sinh trai gái, chửi rủa người khác gặp phải tai họa.
Nghệ thuật.
Nghệ thuật thời Kim trong quá trình phát triển đạt được thành tựu rất cao trên các phương diện. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Kim Chương Tông cho lập Thư họa viện, thu tập danh họa từ dân gian và Tống cất giữ, Vương Đình Quân và Bí thư lang Trương Nhữ Phương giám định 500 quyển thư họa mà triều Kim cất giữ, đồng thời phân biệt định ra thứ hạng. Năm 1127, binh Kim công phá kinh thành Biện Lương của Bắc Tống, đã thu được các bức họa do triều đình Tống cất giữ, bắt họa công đưa về bắc. Cung đình thời Kim xem trọng việc cất giữ các thư họa, lấy số tranh thu được từ Bắc Tống và trong nội phủ làm cơ sở, lại tiến hành trưng tập từ dân gian để làm giàu thêm. Hội họa triều Kim nằm dưới sự ảnh hưởng của văn hóa Hán, so với triều Liêu thì thịnh vượng hơn, đặc biệt là thời kỳ từ Kim Thế Tông đến Kim Chương Tông, hoạt động hội họa ngày càng sôi nổi. Kim Chương Tông giỏi thơ văn thư pháp, lại yêu thích hội họa, ông cho thiết lập Thư họa cục thuộc Bí thư giám, đưa số tranh cất giữ giám định hơn nữa, cũng học tập Tống Huy Tông thư thể đề tên đóng dấu lên danh tác. Triều Kim còn cho lập Đồ họa thự thuộc Thiếu phủ giám, "quản lý đồ họa lũ kim tượng". Đương thời, các bức tranh có tiếng phải kể đến "Phu tuấn đồ" của Ngu Trọng Văn, "Khô mộc" của Vương Đình Quân, "Thần quy đồ" của Trương Khuê, "Chiêu lăng lục tuấn đồ" của Triệu Lâm, đẹp nhất là "Văn cơ quy hán đồ" của Trương Vũ. Kim Đế Hoàn Nhan Lượng có tài vẽ trúc, Hoàn Nhan Doãn Cung vẽ hươu nai nhân vật, Vương Đình Quân giỏi vẽ sơn thủy mặc trúc, Vương Bang Cơ giỏi vẽ nhân vật, Từ Vinh Chi giỏi vẽ điểu hoa, Đỗ Kỹ vẽ an mã (ngựa đặt yên). Tác phẩm hội họa sơn thủy trúc thạch của Vũ Nguyên Trực, Lý Sơn và Vương Đình Quân so với tác phẩm cùng thời của Nam Tống thì hình như biểu lộ ra nhiều hơn phẩm vị "văn nhân".
Thư pháp gia thời Kim học từ thư pháp Bắc Tống, Kim Chương Tông học sấu kim thể của Tống Huy Tông, đạt được thành tựu to lớn. Vương Cạnh giỏi thảo thư và lệ thư, nhất là đại tự, bảng đề trên cung điện lưỡng đô đều là chữ của ông. Đảng Hoài Anh giỏi triện văn và trứu văn, được học giả tôn kính. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Triệu Phong giỏi chính, hành, thảo thư, cũng thạo về tiểu triện, chính thư thể đồng thời nhan, tô, thư họa thể hiện vẻ hùng tú, có thể so sánh với Thạch Mạn Khanh của Bắc Tống. Ngô Kích có được bút ý của nhạc phụ Mễ Phất, trong số những người học Mễ Phất đương thời thì Vương Đình Quân đạt được trình độ sâu sắc nhất, đám người Quỳ Tử Sơn vào thời Nguyên sơ không đạt tới trình độ thư pháp của ông. Nhâm Tuân có tài nghệ về nhiều phương diện, thư pháp của ông là đệ nhất đương thời, "Trung châu tập" viết ông "họa cao ư thư, thư cao ư thi, thi cao ư văn".
Những năm đầu triều Kim, nhạc khí của người Nữ Chân chỉ có hai loại trống, sáo; ca vịnh chỉ có một khúc "chá cô". Sau khi tiến vào đất Tống, quân Kim thu được nhạc công, nhạc khí, nhạc thư của giáo phường triều Tống, âm nhạc của người Hán được dung nhập vào trong âm nhạc của người Nữ Chân. Khi Kim Thế Tông thiết yến chiêu đãi sứ giả Nam Tống và Tây Hạ, nhạc nhân học theo triều Tống, song phục trang bất đồng. Vũ đạo triều Kim khởi nguyên từ thời tổ tiên là người Mạt Hạt, sau khi lập quốc, về cơ bản triều Kim trực tiếp hấp thụ vũ đạo từ Bắc Tống, đồng thời cũng phát triển văn hóa nhạc vũ của người Nữ Chân. Về phương diện hí khúc, chư cung điều lưu hành từ thời Bắc Tống, đến triều Kim thì trở thành loại hình thuyết xướng chủ yếu. Trong số tác phẩm chư cung điều đương thời, chỉ có "Tây sương ký chư cung điều" và "Lưu Tri Viễn" của Đổng Giải Nguyên là còn lưu truyền đến ngày nay, trong đó việc "Tây sương ký chư cung điều" xuất hiện có ý nghĩa trong việc hình thành sơ bộ Nguyên khúc về sau.
Khoa học và kỹ thuật.
Từ sau Tĩnh Khang chi biến đến thời kỳ Mông Cổ, do chiến tranh và bạo chính xảy ra thường xuyên, lại thêm thiên tai cũng hay xảy ra, đời sống của nhân dân do đó mà nghèo khổ, bệnh tật lan truyền, khiến cho y học hết sức sôi động, được gọi là "tân học triệu hưng". Vào thời Kim, xuất hiện "Hỏa nhiệt thuyết" của Lưu Hoàn Tố, "Công tà thuyết" của Trương Tòng Chính, "Tì vị thuyết" của Lý Đông Viên. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Do sự phong phú của thực tiễn, không ít y gia thâm nhập nghiên cứu kinh điển y học cổ đại, kết hợp với các kinh nghiệm lâm sàng của bản thân, tự hình thành nên một lý thuyết, từ việc giải thích lý luận của tiên nhân, dần hình thành các lưu phái khác nhau. Lưu Hoàn Tố khai sáng Hà Gian học phái, Trương Nguyên Tố khai sáng ra Dịch Thủy học phái, đệ tử của Trương Nguyên Tố là Lý Đông Nguyên cũng tự lập ra Tì vị học thuyết. Ba người này cùng với Chu Chấn Hanh thời Nguyên được gọi chung là "Kim Nguyên tứ đại gia", có ảnh hưởng đối với sự phát triển của lý luận y học Trung Quốc.
Người Kim hấp thu kỹ thuật nông nghiệp của Bắc Tống, khiến cho sản lượng nông nghiệp ở khu vực Thượng Kinh vùng Đông Bắc gia tăng. Hiện nay các nhà khảo cổ khai quật được rất nhiều các nông cụ bằng sắt như lưỡi cày, hồ lô gieo hạt tại Đông Bắc Trung Quốc. Đương thời, nông thư có tiếng ở các khu vực của Kim và Tây Hạ có "Vũ bản tân thư", "Sĩ nông tất dụng", song đến nay đã thất truyền. Đương thời, kỹ thuật trồng dâu nuôi tằm và làm vườn cũng rất phát triển, như lợi dụng "ngưu phẫn phúc bằng" (giàn che bằng phân bò) để đem dưa hấu đến trồng ở khu vực Đông Bắc khá lạnh giá.
Tiến bộ quan trọng nhất về số học đương thời là phát triển Thiên Nguyên thuật, Thiên Nguyên thuật tức là phương pháp lập phương trình bậc cao Trung Quốc cổ đại, trong đó "Thiên nguyên" tương đương với số chưa biết trong số học hiện đại. Năm 1248, vào thời kỳ Kim-Nguyên, số học gia Lý Dã trong các tác phẩm "Trắc viên hải kính", "Ích cổ diễn đoạn" đã giới thiệu có hệ thống việc dùng Thiên nguyên thuật để lập phương trình bậc hai. Triều đình Kim học tập Bắc Tống mà thành lập ra ty thiên giám để quan trắc thiên văn, số học đương thời cũng rất phát triển khiến cho sĩ nhân triều Kim mong muốn được soạn viết sách lịch. Triều đình Kim vào năm 1137 ban bố "Đại Minh lịch" do Dương Cấp biên viết (không phải Đại Minh lịch của Tổ Xung Chi). "Trùng tu Đại Minh lịch" do Triệu Tri Vi nghiên cứu biên thành vào năm 1180, độ chính xác của lịch này vượt quá "Kỉ nguyên lịch" của Tống. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Cùng thời gian, Da Luật Lý cũng biên ra "Ất Mùi lịch", song độ chính xác không được như "Trùng tu đại minh lịch".
Ngoài ra, về mặt kiến trúc triều Kim cũng có sự phát triển lớn với việc xây dựng cầu Lư Câu, Trung Đô, hay Hoa Nghiêm tự ở Đại Đồng. |
Ngân Xuyên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2794 | Thành phố Ngân Xuyên (giản thể: 银川, phồn thể: 銀川; tiếng Anh: "Yinchuan") là thủ phủ của khu tự trị Ninh Hạ, Trung Quốc, trước đây từng là kinh đô của nhà Tây Hạ.
Diện tích: 4467 km²
Dân số: 736.300 người
Khí hậu.
Nằm trong khu vực ôn đới và miền núi cao nên không quá nóng về mùa hè và cũng không quá lạnh về mùa đông. Nhiệt độ trung bình cả năm là 8,5 °C.
Phân chia hành chính.
Địa cấp thị Ngân Xuyên hiện tại chia ra thành 3 quận, 1 huyện cấp thị và 2 huyện:
Kinh tế.
Thu nhập trên đầu người là ¥ 11.975 (1 nhân dân tệ xấp xỉ 3.500 VNĐ) hay xấp xỉ US$ 1.450 năm 2003, đứng thứ 197 trong 659 thành phố của Trung Quốc. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (, '; , ') là một liên minh quân sự dựa trên Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký kết vào ngày 4 tháng 4 năm 1949 bao gồm Mỹ, Canada và một số nước ở châu Âu (các nước 2 bên bờ Đại Tây Dương).
Mục đích thành lập của NATO là để ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà phát triển rất mạnh ở châu Âu. Việc thành lập NATO lại dẫn đến việc các nước cộng sản thành lập khối Warszawa để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của Chiến tranh Lạnh trong nửa cuối thế kỷ 20.
Những năm đầu tiên thành lập, NATO chỉ là một liên minh chính trị. Tuy nhiên, do cuộc Chiến tranh Triều Tiên tác động, một tổ chức quân sự hợp nhất đã được thành lập. Nghi ngờ rằng liên kết của các nước châu Âu và Mỹ yếu đi cũng như khả năng phòng thủ của NATO trước khả năng mở rộng của Liên Xô, Pháp rút khỏi Bộ Chỉ huy quân sự của NATO (không rút khỏi NATO) năm 1966. Năm 2009, với số phiếu áp đảo của quốc hội dưới sự lãnh đạo của chính phủ của Tổng thống Nicolas Sarkozy, Pháp quay trở lại NATO.
Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, tổ chức này không còn đối trọng (khối Warszawa), nhưng NATO không giải tán mà tiếp tục tham gia vào các cuộc chiến tranh tấn công những nước khác, như cuộc phân chia nước Nam Tư, và lần đầu tiên can thiệp quân sự tại Bosnia và Herzegovina từ 1992 tới 1995 và sau đó đã oanh tạc Serbia vào năm 1999 trong cuộc nội chiến ở Kosovo. Tổ chức ngoài ra có những quan hệ tốt hơn với những nước thuộc khối đối đầu trước đây trong đó nhiều nước từng thuộc khối Warszawa đã gia nhập NATO từ năm 1999 đến 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2009, số thành viên lên đến 28 với sự gia nhập của Albania và Croatia. Đến năm 2023 thì số lượng thành viên của NATO là 31 quốc gia sau khi Phần Lan chính thức tham gia tổ chức này vào tháng 4 năm 2023. Từ sau sự kiện 11/9 năm 2001, NATO tập trung vào những thử thách mới, liên quan đến việc chống lại chủ nghĩa khủng bố, cực đoan. Trong đó có các chiến dịch can thiệp quân sự tại Afghanistan, Iraq và Libya.
Lịch sử. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Lịch sử.
Hiệp ước Brussels là một hiệp ước bảo vệ lẫn nhau giữa các nước Tây Âu để chống lại mối đe dọa ngày càng tăng từ Liên Xô vào đầu Chiến tranh Lạnh. Nó được ký kết vào ngày 17 tháng 3 năm 1948 bởi Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, Pháp và Vương quốc Anh. Đó là tiền thân của NATO. Mối đe dọa từ Liên Xô trở nên thực sự đáng lo ngại sau vụ phong tỏa Berlin năm 1948, dẫn đến việc thành lập một tổ chức quốc phòng đa quốc gia giữa các nước Tây Âu, Tổ chức Quốc phòng Liên hiệp Phương Tây, vào tháng 9 năm 1948. Tuy nhiên, các nước thành viên của tổ chức lúc đó quá yếu về quân sự để có thể chống lại Lực lượng Vũ trang Liên Xô. Bên cạnh đó, tại Tiệp Khắc vào năm 1948 một cuộc đảo chính của những người cộng sản đã diễn ra thành công và Ngoại trưởng Anh Ernest Bevin tin rằng cách tốt nhất để ngăn chặn các quốc gia khác rơi vào tình trạng như Tiệp Khắc đó là phát triển một chiến lược quân sự giữa các nước phương Tây. Ông có một buổi điều trần tiếp nhận tại Hoa Kỳ, đặc biệt là xem xét sự lo lắng của Mỹ đối với Ý (và Đảng Cộng sản Ý)
Năm 1948, các nhà lãnh đạo châu Âu đã gặp các quan chức quốc phòng, quân sự và ngoại giao Mỹ tại Lầu Năm Góc, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ George C. Marshall để đàm phán về một liên minh quân sự mới giữa các nước Phương Tây. Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, được ký bởi Tổng thống Mỹ Harry S. Truman tại Washington vào ngày 4 tháng 4 năm 1949, đánh dấu sự thành lập của NATO. Vào ngày mới được thành lập, NATO bao gồm năm quốc gia thuộc Hiệp ước Brussels cộng với Hoa Kỳ, Canada, Bồ Đào Nha, Ý, Na Uy, Đan Mạch và Iceland .
Các thành viên tham gia Hiệp ước cam kết rằng bất cứ cuộc tấn công vũ trang nào chống lại một trong số họ ở châu Âu hoặc Bắc Mỹ sẽ được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các thành viên còn lại trong khối. Do đó, họ thỏa thuận với nhau rằng, nếu một cuộc tấn công vũ trang xảy ra, tất cả các nước thành viên còn lại, sẽ có trách nhiệm giúp đỡ thành viên bị tấn công, bao gồm cả việc sử dụng vũ trang, để khôi phục và duy trì an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Sự ổn định chính trị đã dần dần khôi phục nền kinh tế Tây Âu và sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ sau chiến tranh đã bắt đầu. Những năm tiếp theo, NATO đã có thêm những thành viên mới: Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1952, và Tây Đức vào năm 1955. Để phản ứng trước sự gia nhập NATO của Tây Đức, Liên bang Xô viết và các quốc gia Đông Âu vệ tinh đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Warsaw năm 1955. Chiến tranh Lạnh bao trùm toàn châu Âu.
Các thành viên NATO.
Thành viên sáng lập.
Ba thành viên của NATO là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với quyền phủ quyết và là các nước sở hữu vũ khí hạt nhân: Mỹ, Pháp và Anh. Trụ sở chính của NATO đặt tại Brussels, Bỉ, nơi Supreme Allied Commander tọa lạc. Bỉ là một trong 29 quốc gia thành viên NATO tại Bắc Mỹ và châu Âu, và mới nhất trong số các thành viên là các nước Albania và Croatia, tham gia vào tháng 4 năm 2009. Một 22 quốc gia khác tham gia với tư cách đối tác quan hệ của NATO trong chương trình Hòa bình, và 15 quốc gia khác tham gia vào các chương trình đối thoại thể chế hóa. Chi phí quân sự của NATO chiếm 70% chi phí quân sự thế giới, riêng Mỹ chiếm khoảng 50%, Anh, Pháp, Đức và Ý gộp lại chiếm 15% chi phí quân sự thế giới. Chi phí của các thành viên NATO dự tính là 2% GDP.
Thành viên Bắc Âu.
Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập tổ chức vào tháng 2 năm 1952. Năm 1955, Cộng hoà Liên bang Đức (lúc đó chỉ có phần Tây Đức) gia nhập, năm 1990 nước Đức thống nhất mở rộng tư cách thành viên cho vùng lãnh thổ Đông Đức tức Cộng hoà Dân chủ Đức cũ. Tây Ban Nha gia nhập ngày 30 tháng 5 năm 1982. Năm 1999, 3 nước thành viên khối Warszawa cũ gia nhập NATO là Ba Lan, Cộng hoà Séc và Hungary.
Pháp là một thành viên NATO, nhưng năm 1966 đã rút khỏi bộ chỉ huy quân sự. Sau đó tổng hành dinh NATO chuyển từ Paris đến Bruxelles. Tháng 4 năm 2009, Pháp quay trở lại bộ chỉ huy quân sự NATO, trở thành thành viên đầy đủ, chấm dứt 43 năm vắng bóng. Iceland là thành viên duy nhất của NATO không có quân đội riêng, vì thế lực lượng Quân đội Hoa Kỳ thường trực tại Iceland đảm nhiệm vai trò Lực lượng Phòng vệ Iceland. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Ngày 29 tháng 3 năm 2004, Slovenia, Slovakia, các nước khối Warszawa cũ gồm Bulgaria, Romania, các nước vùng Baltic thuộc Liên Xô trước đây là Estonia, Latvia và Litva chính thức gia nhập NATO. Tháng 4 cùng năm, các nước này lần đầu tiên dự họp hội đồng NATO.
Ngày 1 tháng 4 năm 2009, Croatia và Albania chính thức được kết nạp vào NATO sau 1 năm nộp đơn xin gia nhập. Montenegro trở thành thành viên thứ 29 của NATO vào năm 2017.
Ngày 27 tháng 3 năm 2020, Bắc Macedonia trở thành thành viên thứ 30 của NATO.
Ngày 4 tháng 4 năm 2023, Phần Lan trở thành thành viên thứ 31 của NATO.
Ngoài ra, NATO còn có chương trình hành động thành viên (MAP). Hiện tại MAP gồm Gruzia, Ukraina và Bosnia-Herzegovina.
Quan hệ Nga-NATO.
Theo NATO, trong hơn hai thập kỷ, NATO đã cố gắng xây dựng quan hệ đối tác với Nga, đối thoại và hợp tác với Nga trong các lĩnh vực hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên quan hệ này bị rạn nứt khi NATO cáo buộc Nga can thiệp quân sự vào Ukraina nhưng NATO vẫn giữ các kênh đối thoại chính trị và quân sự với Nga. NATO tiếp tục quan tâm đến các hoạt động quân sự của Nga sau sự kiện Ukraina. Về phần mình, Nga cũng cáo buộc khủng hoảng tại Ukraina năm 2014 là do NATO gây ra khi không giữ vững các cam kết trước đó với Nga cũng như đã tiến hành lật đổ chính quyền hợp pháp tại đây bằng đảo chính. Trên thực tế, Nga và NATO luôn tồn tại rất nhiều bất đồng.
Theo Học thuyết quân sự Liên bang Nga, Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga được tổ chức theo nguyên tắc phòng thủ, không đe dọa sử dụng vũ lực và ngăn chặn xung đột nhằm bảo vệ hòa bình và các lợi ích quốc gia của Nga, các đồng minh (bao gồm các lợi ích của công dân, xã hội và nhà nước) khi các biện pháp chính trị, kinh tế, ngoại giao, pháp lý và các biện pháp phi bạo lực khác không có tác dụng. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Trong Học thuyết quân sự, Nga coi việc NATO sử dụng năng lực tiềm tàng của mình để vi phạm luật pháp quốc tế thông qua quá trình bành trướng là một mối đe dọa quân sự đối với Nga ngang hàng với các nguy cơ về gây mất ổn định nội bộ của các quốc gia, khu vực, thế giới; triển khai quân đột xuất ở các quốc gia có biên giới tiếp giáp với Nga hoặc biên giới tiếp giáp với đồng minh của Nga; các hệ thống phòng thủ và tấn công gây mất cân bằng hạt nhân chiến lược toàn cầu; sự phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt; sử dụng lực lượng vũ trang không theo luật pháp quốc tế và hiến chương Liên Hợp Quốc; thành lập những chính phủ chống Nga và đồng minh mà không thông qua bầu cử hợp pháp tại các quốc gia láng giềng của Nga và đồng minh; chủ nghĩa khủng bố và lợi dụng chống khủng bố để gây phương hại cho Nga và đồng minh...Chính sách đối ngoại của Nga với NATO là đối thoại trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau nhằm xây dựng nền an ninh với nền tảng không liên kết và có tính tập thể (collective non-aligned), Nga và NATO cùng nhau củng cố vai trò của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE).
Chính sách Đông tiến của NATO và sự lo ngại của Nga.
Chính sách kết nạp các thành viên cũ trong khối Xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu và các nước thuộc không gian hậu Xô viết bị Nga lên án là hành động vi phạm Hiệp ước Các Lực lượng Vũ trang Thông thường ở châu Âu (CFE) khi Hiệp định này nghiêm cấm các thành viên cũ trong khối Xã hội chủ nghĩa tại Đông Âu và các nước thuộc không gian hậu Xô viết gia nhập NATO. Bên cạnh đó Nga cũng cáo buộc NATO không giữ đúng cam kết về duy trì mức trần về số lượng vũ khí thông thường. Việc NATO mở rộng về phía Đông là một trong các nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng chính trị tại Ukraina. Về cơ bản, NATO mở rộng về phía Đông đã tái khẳng định địa vị lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, không gian an ninh và không gian sinh tồn của Nga dần bị thu hẹp, bố cục an ninh địa chính trị của châu Âu thay đổi đáng kể.
Hoa Kỳ chủ trương duy trì NATO và thúc đẩy chính sách Đông tiến của NATO, biến đây trở thành lý do để NATO tồn tại sau Chiến tranh Lạnh. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Nga tuy thừa kế vị thế pháp lý của Liên Xô nhưng không thể hùng mạnh một cách toàn diện như Liên Xô trước kia. Tuy nhiên, Nga vẫn là một cường quốc ở châu Âu và chính sách Đông tiến của NATO là để kiềm chế Nga.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, NATO tiến hành 3 đợt Đông tiến. Ngay trong lần mở rộng đầu tiên, biên giới NATO đã được mở về phía Đông thêm 900 km, quân số tăng thêm 13 Sư đoàn, tiếp nhận toàn bộ vũ khí-khí tài các thành viên mới và Đông Đức. Điều này khiến cho cán cân Nga-NATO mất cân bằng nghiêm trọng. Tổng quân số NATO gần 5 triệu quân (chưa tính quân số của Hoa Kỳ và các nước ngoài châu Âu), trong khi đó Nga có 3,2 triệu. ngày 27/5/1997 đã ký kết "Văn kiện cơ bản về quan hệ, hợp tác và an ninh giữa Nga với NATO". Trong văn kiện, NATO cam kết sẽ để Nga có quyền phát ngôn ở mức độ nhất định đối với các sự vụ của NATO. Hơn nữa NATO bảo đảm không bố trí vũ khí hạt nhân trong lãnh thổ các nước thành viên mới..
Chính sách Đông tiến đã xâm phạm đến sân sau của Nga và đe dọa đến lợi ích chiến lược cốt lõi của nước này, một điều mà Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nhấn mạnh và lặp lại nhiều lần. Tổng thống Boris Yeltsin đã nói: "Đây là dấu hiệu đầu tiên về điều có thể xảy ra khi NATO tiến gần đến biên giới của Liên bang Nga. … Ngọn lửa chiến tranh có thể bùng cháy và trải khắp châu Âu" khi NATO mở rộng lần thứ nhất sau chiến tranh Lạnh. Ngoại trưởng Nga Lavrov đã công bố các tài liệu chứng minh rằng NATO từng hứa với Liên Xô và Nga rằng NATO không bao giờ mở rộng về phía Đông.
Hệ thống phòng thủ tên lửa của NATO tại Đông Âu và sự lo ngại của Nga.
Bên cạnh chính sách Đông tiến, hệ thống phòng thủ tên lửa của NATO tại Đông Âu cũng bị Nga coi là một mối đe dọa khác. Mặc dù NATO tuyên bố hệ thống này làm nhằm chống lại các mối đe dọa từ Iran nhưng Nga cho rằng sự thiếu cân bằng trong việc triển khai lực lượng giữa Đông Âu-Địa Trung Hải là minh chứng cho sự bao vây Nga. Bên cạnh đó, việc Iran không có khả năng tấn công châu Âu nên thực tế hệ thống này là để kiềm chế Nga. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Năm 2001, Chính quyền của Tổng thống Mỹ G. W. Bush đã đơn phương tuyên bố rút khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo (ABM), mà Mỹ và Liên Xô đã ký kết năm 1972 để xây dựng hệ thống này khiến Nga cực kỳ lo ngại khi Hiệp ước này là nền tảng để hai bên duy trì thế cân bằng lực lượng..
Để đáp trả, Nga đã lên kế hoạch việc nâng cấp khả năng tấn công bằng tên lửa của mình, trong đó có kế hoạch triển khai tên lửa đạn đạo chiến thuật 9K720 Iskander tại Kaliningrad, Krashnodar (Nga) và Belarus.
Ngày 13/05/2015, Nga đã phản ứng gay gắt khi Hoa Kỳ đưa hệ thống phòng thủ tên lửa ở Đông Âu chính thức đi vào hoạt động. Hệ thống này trị giá 800 triệu USD. Ngoài ra Nga cũng thành lập 3 sư đoàn mới tại miền Tây nước này để làm đối trọng với NATO
Phát ngôn viên điện Kremlin Dmitri S. Peskov nói rằng: "Ngay từ đầu, các chuyên gia quân sự của Nga đã bị thuyết phục rằng hệ thống tên lửa này tạo ra một mối đe dọa lớn với Liên bang Nga"
NATO và kế hoạch thành lập quân đội riêng của Liên minh châu Âu.
Hiện tại, để khắc phục những nhược điểm của NATO cũng như để độc lập hơn với Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại và phòng thủ, Liên minh châu Âu đã đưa ra đề xuất thành lập một quân đội riêng của các nước trong khối. Cả ông Jean-Claude Juncker – Chủ tịch Ủy ban châu Âu – lẫn bà Federica Mogherini – Cao ủy Liên minh Châu Âu về Đối ngoại (tương đương Ngoại trưởng của khối) đều ủng hộ kế hoạch này. Tiến trình này trước đây bị Anh phản đối do lo ngại lực lượng vũ trang này sẽ cạnh tranh với NATO. Theo Anh, kế hoạch này sẽ làm hỏng chính sách phòng thủ của EU. Tuy nhiên, từ sau khi Anh rời EU, kế hoạch này lại được nối lại. Việc thành lập lực lượng vũ trang riêng của EU rất được Đức, Pháp, hai nước chủ chốt trong khối, ủng hộ. Về phía Hoa Kỳ, việc thành lập quân quân đội EU sẽ khiến nước này giảm bớt chi phí dành cho các nước đồng minh ở châu Âu thông qua NATO, không phải can thiệp vào những công việc của riêng châu Âu, nhưng ít có ảnh hưởng tới lợi ích của Hoa Kỳ như những sự việc ở Balkan. |
NATO | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2796 | Việc bà Mogherini tuyên bố quân đội EU sẽ làm việc độc lập với NATO đã làm gia tăng lo ngại rằng quân đội EU sẽ thay thế vai trò của NATO ở châu Âu. Hungary, Italia và Séc đều ủng hộ kế hoạch này. Tờ Người Bảo vệ của Anh cho rằng Hoa Kỳ sẽ ủng hộ việc thành lập quân đội này nếu nó giải quyết được vấn đề "năng lực quân sự các nước châu Âu ngày càng xuống dốc". Tờ báo này cũng nhấn mạnh rằng hiện tại châu Âu không thiếu một quân đội mà thiếu một cam kết về phòng thủ giữa các nước Châu Âu và xuyên Đại Tây Dương. Ngày 22 tháng 11 năm 2016, Liên minh châu Âu đã đưa ra cam kết quân đội riêng của khối sẽ đi vào hoạt động vào năm 2017. Theo ông Sergey Rastoltsev thuộc Viện Kinh tế Thế giới và Quan hệ Quốc tế Primakov, thuộc Học viện Khoa học Liên bang Nga, quân đội EU có thể khiến quan hệ chính trị-quân sự giữa Nga–EU thêm căng thẳng nhưng trong trường hợp quan hệ Nga–EU được cải thiện, quân đội EU cũng có thể tạo ra nhiều cơ hội hợp tác hơn giữa Nga–EU nếu so với vai trò của NATO do NATO vốn dĩ là một vết tích từ thời Chiến tranh Lạnh và do sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ lên quan hệ Nga–EU cũng sẽ bị giảm bớt khi quân đội này không có Hoa Kỳ tham gia như NATO.
Đọc thêm.
"Đọc thêm – Giai đoạn đầu"
"Đọc thêm – Giai đoạn Chiến tranh Lạnh sắp kết thúc"
"Đọc thêm – Giai đoạn hậu Chiến tranh lạnh"
"Đọc thêm – Lịch sử chung"
"Đọc thêm – Các vấn đề khác" |
Hoàng Hà | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2804 | Hoàng Hà (tiếng Hán: 黃河; pinyin: "Huáng Hé"; Wade-Giles: "Hwang-ho", " hoàng nghĩa là màu vàng của mặt trời, hà nghĩa là mặt bằng, ghép lại hoàn chỉnh Hoàng Hà có nghĩa là mặt nước sông màu vàng "), là con sông dài thứ hai châu Á xếp sau sông Trường Giang (Dương Tử), với chiều dài 5.464 km sông Hoàng Hà xếp thứ sáu thế giới về chiều dài.
Sông Hoàng Hà chảy qua chín tỉnh của CHND Trung Hoa, bắt nguồn từ núi Bayan Har thuộc dãy núi Côn Lôn trên cao nguyên Thanh Tạng phía tây tỉnh Thanh Hải. Hoàng Hà đổ ra Bột Hải ở vị trí gần thành phố Đông Dinh thuộc tỉnh Sơn Đông.
Tên gọi.
Trong các văn liệu chữ Trung Quốc cổ gọi Hoàng Hà là (âm Hán Việt: "Hà"; tiếng Hán thượng cổ: "*C.gˤaj"). Tên gọi (âm Hán Việt: "Hoàng Hà"; tiếng Hán thượng cổ: "*N-kʷˤaŋ C.gˤaj"; tiếng Hán trung cổ: "Hwang Ha") được đề cập đầu tiên trong Hán thư viết về thời kỳ nhà Tây Hán (206 TCN - 9). Chữ 黃 "Hoàng" có nghĩa là màu vàng ám chí nước màu vàng do dòng sông mang nhiều vật liệu có nguồn gốc từ đất vàng (hay hoàng thổ).
Một trong những tên gọi cổ hơn trong tiếng Mông Cổ là "Hắc Hà", do dòng sông trong trước khi chảy vào cao nguyên Hoàng Thổ, nhưng tên hiện tại của con sông ở vùng Nội Mông là "Ȟatan Gol" (, "Queen River"). Ở Mông Cổ, nó có tên là "Šar Mörön" (, "Hoàng Hà").
Ở Thanh Hải, tên sông trong tiếng Tây Tạng là "Sông Công" (tiếng Tây Tạng: །, "Ma Chu"; tiếng Trung: , , "Mǎ Qū").
Tên tiếng Anh Hwang Ho là tên ghi trên bản đồ được Latin hóa của Hoàng Hà
Lưu vực.
Hoàng Hà bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hải, từ độ cao 4.500 m trong vùng lòng chảo Yekuzonglie nằm ở phía bắc của dãy núi Bayankara (hay Ba Nhan Khách Lạp) trên cao nguyên Thanh Tạng.
Từ đầu nguồn của nó, con sông chảy theo hướng nam, sau đó tạo ra một chỗ uốn cong về hướng đông nam và sau đó lại chảy theo hướng nam một lần nữa cho đến khi tới thành phố Lan Châu, thủ phủ của tỉnh Cam Túc, là nơi mà điểm uốn cong lớn về phía bắc, bắt đầu. |
Hoàng Hà | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2804 | Con sông chảy về phía bắc qua Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ tới khu tự trị Nội Mông, đoạn cong này gọi là Hà Sáo. Sau đó con sông này lại đổi hướng, chảy gần như thẳng về phía nam, tạo ra ranh giới của hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Khoảng 130 km về phía đông bắc của thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, Hoàng Hà lại đổi hướng để chảy về phía đông. Nó chảy tới những vùng đất trũng ven biển ở miền đông Trung Quốc gần thành phố Khai Phong. Sau đó chảy qua Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông và đổ ra biển Bột Hải (vịnh Bột Hải).
Các đập thủy điện.
Dưới đây là danh sách các nhà máy thủy điện được xây dựn trên Hoàng Hà, xếp theo năm vận hành đầu tiên:
Theo một báo cáo năm 2000, 7 nhà máy thủy điện lớn nhất (Long Dương Hiệp, Lý Gia Hiệp, Lưu Gia Hiệp, Diêm Oa Hiệp, Bát Bàn Hiệp, Đại Hiệp và Thanh Đồng Hiệp) có tổng công suất lắp máy là 5.618 MW.
Ảnh hưởng đến dân sinh.
Nó tưới tiêu cho một khu vực rộng 944.970 km vuông (364.417 dặm vuông), nhưng do tính chất khô cằn chủ đạo của vùng này (không giống như phần phía đông thuộc Hà Nam và Sơn Đông) nên lưu lượng nước của nó tương đối nhỏ. Tính theo lưu lượng nó chỉ bằng 1/15 của sông Trường Giang và 1/5 của sông Châu Giang, mặc dù khu vực tưới tiêu của con sông cuối (Châu Giang) chưa bằng một nửa của Hoàng Hà.
Trong lịch sử hàng ngàn năm của Trung Quốc, Hoàng Hà vừa đem lại lợi ích vừa đem lại tai họa cho người dân, vì thế nó còn được coi là "Niềm kiêu hãnh của Trung Quốc" (pinyin: "Zhōngguó de Jiāoào") và "Nỗi buồn của Trung Quốc" (pinyin: "Zhōngguó de Tòng"). Các ghi chép chỉ ra rằng, từ năm 602 đến ngày nay, con sông này đã ít nhất 26 lần đổi dòng (5 lần đổi dòng ở quy mô lớn) và các con đê bao bọc đã vỡ hoặc tràn không dưới 1.500 lần. Lần thay đổi dòng năm 1194 đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu của sông Hoài trong gần 700 năm sau. Phù sa Hoàng Hà đã ngăn chặn dòng chảy của sông Hoài và làm hàng ngàn người mất nhà ở. Mỗi lần đổi dòng nó khi thì đổ ra Hoàng Hải, khi thì ra vịnh Bột Hải. |
Hoàng Hà | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2804 | Hoàng Hà có dòng chảy như ngày nay từ năm 1897 sau lần đổi dòng cuối cùng năm 1855.
Trong suốt thế kỷ 20, Hoàng Hà mang ra biển khoảng 0,9x10⁹ tấn trầm tích/năm. Màu nước vàng của con sông là do phù sa mà nó mang theo, do lượng phù sa và trầm tích trong dòng nước có thể lên đến 34 kg/1 mét khối nước - cao gấp 34 lần so với sông Nile ở châu Phi. Hàng thế kỷ của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này chảy ở độ cao lớn hơn so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở nên nguy hiểm hơn. Ngập lụt của Hoàng Hà đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp trong lịch sử như năm 1887 Hoàng Hà đã giết chết khoảng 900.000-2.000.000 người và năm 1931 nó đã giết chết khoảng 1.000.000-3.700.000 người. Trận lũ năm 1931 được ghi nhận là thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất lịch sử thế giới, ước tính cướp đi sinh mạng của khoảng 3,7 triệu người. Năm 1938, trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai, quân đội của Tưởng Giới Thạch đã phá đê bao bọc Hoàng Hà để ngăn cản bước tiến của quân Nhật và làm ngập lụt một vùng rộng lớn làm chết khoảng 500.000-900.000 người.
Đôi khi người ta còn gọi nó là 濁流 (Troọc Lưu), nghĩa là "dòng nước đục". Thành ngữ Trung Quốc "Khi nước Hoàng Hà trong" ám chỉ điều không bao giờ xảy ra.
Hiện nay, tình trạng khô hạn do có quá nhiều đập nước trên Hoàng Hà đã trở thành một vấn đề cho nông nghiệp và hệ sinh thái của khu vực đồng bằng Hoa Bắc.
Hai tỉnh Hà Bắc và Hà Nam được đặt tên theo con sông này. Tên của hai tỉnh này có nghĩa là "bắc" và "nam" của Hoàng Hà.
Các thành phố chính dọc theo Hoàng Hà tính từ đầu nguồn bao gồm: Lan Châu (thuộc tỉnh Cam Túc), Ô Hải, Bao Đầu, Khai Phong, và Tế Nam.
Đọc thêm.
Bằng tiếng Anh: |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Bệnh tả, hoặc thổ tả, bệnh dịch tả ("Cholera") là một bệnh nhiễm trùng đường ruột do vi trùng "Vibrio cholerae" gây ra, độc tố của vi trùng này gây tiêu chảy nặng kèm theo mất nước và có thể dẫn đến tử vong trong một số trường hợp. Robert Koch là người nhận dạng được vi trùng gây bệnh tả vào năm 1883.
Các triệu chứng chính của bệnh là tiêu chảy và nôn mửa, gây mất nước. Bệnh truyền chủ yếu qua nước uống hoặc ăn các thức ăn đã bị nhiễm vi khuẩn có trong phân (chất thải) của người bệnh, bao gồm những người không có biểu hiện triệu chứng.
Việc điều trị chủ yếu là điều trị bù nước đường uống để thay thế nước và điện giải. Nếu việc bù nước không chấp nhận hoặc không cung cấp cải tiến đủ nhanh, có thể cung cấp chất lỏng qua đường tĩnh mạch. Thuốc kháng khuẩn đường dùng cho những người có bệnh nặng để rút ngắn thời gian và mức độ nghiêm trọng của bệnh. Trên toàn thế giới, bệnh tả ảnh hưởng đến 3-5 triệu người và gây ra 100.000-130.000 ca tử vong riêng trong năm 2010. Dịch tả là một trong những bệnh nhiễm trùng đầu tiên được nghiên cứu bằng các phương pháp dịch tễ học.
Lịch sử.
Bệnh tả có lẽ có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ; ở vùng châu thổ sông Hằng vào thời cổ đại. Bệnh tả xuất hiện ở châu Á vào khoảng 600 năm trước Công nguyên, ghi nhận lần đầu tiên trong y học vào năm 1563 tại Ấn Độ. Dịch xuất hiện đầu tiên từ các tuyến đường thương mại (trên đất liền và trên biển) đến Nga năm 1817, sau đó lan sang các phần còn lại của châu Âu, và từ châu Âu sang Bắc Mỹ. Có 7 trận đại dịch đã xảy ra trong 200 năm.
Năm 1832, gần 40.000 người dân Paris chết vì dịch tả, nạn nhân có cả quan tể tướng.
Dịch tả tấn công nước Anh vào năm 1848-1849 đã làm 70.000 người chết. Đại dịch năm 1854 đã cướp đi sinh mạng 1/8 dân số thành phố Luân Đôn.
Sang thời cận đại, riêng tại Bắc Kỳ thời Pháp thuộc năm 1937, dịch tả đã giết 75.000 người.
Dịch tả vào Peru vào năm 1991, lan truyền sang Ecuador, Colombia, México và Nicaragua, kết quả hơn 12.000 người chết.
Lây lan thành bệnh dịch. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Lây lan thành bệnh dịch.
Ước tính bệnh tả lây nhiễm cho 2,8 triệu người trên toàn cầu, và khiến khoảng 21.000-143.000 người chết mỗi năm, tính trong năm 2015. Bệnh diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển Vào đầu những năm 1980, số người tử vong được cho là lớn hơn 3 triệu mỗi năm. Rất khó để tính toán chính xác mức độ lây nhiễm của bệnh, vì nhiều trường hợp không được báo cáo do không phát hiện ra, hoặc bị che giấu vì có thể có tác động tiêu cực đến du lịch của một quốc gia.
Bệnh tả vẫn tiếp tục tạo ra các đợt dịch tại nhiều nơi trên thế giới. Vào tháng 10 năm 2016, một đợt bùng phát dịch tả bắt đầu ở nước Yemen đang bị tàn phá bởi chiến tranh. WHO gọi đây là "đợt phát dịch tồi tệ nhất trên thế giới". Các đợt dịch lớn gần đây là đợt dịch tả ở Haiti những năm 2010 và dịch tả Yemen 2016–2021. Năm 2019, 93% trong số 923.037 ca nhiễm được báo cáo là ở Yemen (với 1911 ca tử vong) Từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 9 năm 2020, toàn cầu có hơn 450.000 trường hợp mắc bệnh và hơn 900 trường hợp tử vong đã được báo cáo; tuy nhiên, những con số này được đẩy cao quá mức từ các quốc gia tính cả những trường hợp nghi ngờ (các trường hợp chưa được phòng xét nghiệm xác nhận), hoặc bị báo cáo thiếu từ các quốc gia tính sót các trường hợp chính thức (như Bangladesh, Ấn Độ và Philippines).
Mặc dù người ta đã biết nhiều về cơ chế lây lan của bệnh tả, nhưng điều này vẫn chưa dẫn đến sự hiểu biết đầy đủ về nguyên nhân làm cho dịch tả chỉ bùng phát ở một số nơi chứ không phải ở những nơi khác. Việc thiếu xử lý phân người và thiếu nước sạch đã tạo điều kiện cho sự lây lan của bệnh, nhưng các vùng nước có thể đóng vai trò như một bể chứa vi khuẩn, và hải sản được vận chuyển đi xa có thể làm lây lan dịch bệnh.
Bệnh tả không được biết đến ở châu Mỹ trong hầu hết thế kỷ 20, nhưng nó đã xuất hiện trở lại vào cuối thế kỷ đó. Sau đợt bùng phát dịch tả ở Haiti vào cuối những năm 2010, không có bất kỳ ca bệnh tả nào ở Châu Mỹ kể từ tháng 2 năm 2019. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Tính đến tháng 8 năm 2021, bệnh thường lưu hành ở Châu Phi và một số khu vực Châu Á (Bangladesh, Ấn Độ và Yemen) Bệnh tả không phải là bệnh đặc hữu ở Châu Âu, tất cả các trường hợp được báo cáo đều có tiền sử du lịch đến các khu vực lưu hành bệnh.
Lịch sử bùng phát.
Từ tiếng Anh "cholera" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "kholera", bắt nguồn từ χολή "kholē" "bile". Bệnh tả có thể bắt nguồn từ tiểu lục địa Ấn Độ , bằng chứng là nó đã phổ biến tại khu vực đó trong nhiều thế kỷ.
Căn bệnh này xuất hiện trong các tài liệu châu Âu từ năm 1642, từ mô tả của bác sĩ người Hà Lan Jakob de Bondt trong cuốn sách "De Medicina Indorum" của ông. (từ "Indorum" của tiêu đề đề cập đến Đông Ấn. Ông cũng đưa ra những mô tả đầu tiên tại châu Âu về một số căn bệnh khác)
Các đợt bùng phát sớm ở tiểu lục địa Ấn Độ được cho là kết quả của điều kiện sống kém vệ sinh cũng như sự hiện diện của các vũng nước đọng, cả hai đều là điều kiện lý tưởng cho bệnh tả phát triển. Bệnh lần đầu tiên lây lan theo đường thương mại (đường bộ và đường biển) đến Nga vào năm 1817, sau đó đến phần còn lại của châu Âu, và từ châu Âu đến Bắc Mỹ và phần còn lại của thế giới, (do đó có tên là "bệnh dịch tả châu Á"). Bảy lần đại dịch tả đã xảy ra trong 200 năm qua, với đại dịch thứ bảy bắt nguồn từ Indonesia vào năm 1961.
Đại dịch tả đầu tiên xảy ra ở vùng Bengal của Ấn Độ, gần Calcutta bắt đầu từ năm 1817 đến năm 1824. Bệnh lây lan từ Ấn Độ sang Đông Nam Á, Trung Đông, Châu Âu và Đông Phi Sự di chuyển của các tàu biển và nhân viên của Quân đội và Hải quân Anh được cho là đã góp phần vào phạm vi của đại dịch, vì các con tàu này đã chở những người mắc bệnh đến các bờ biển của Ấn Độ Dương, từ châu Phi đến Indonesia và phía bắc tới Trung Quốc và Nhật Bản.
Trận đại dịch thứ hai kéo dài từ năm 1826 đến năm 1837 và đặc biệt ảnh hưởng đến Bắc Mỹ và Châu Âu do kết quả của những tiến bộ trong giao thông vận tải và thương mại toàn cầu, và sự gia tăng di cư của con người, bao gồm cả binh lính. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Trận đại dịch thứ ba bùng phát vào năm 1846, kéo dài cho đến năm 1860, lan đến Bắc Phi và Nam Mỹ, lần đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt đến Brazil. Trận đại dịch thứ tư kéo dài từ năm 1863 đến năm 1875, lan từ Ấn Độ đến Naples và Tây Ban Nha. Đại dịch thứ năm là từ năm 1881–1896 và bắt đầu ở Ấn Độ rồi lan sang châu Âu, châu Á và Nam Mỹ. Trận đại dịch thứ sáu bắt đầu từ 1899–1923. Những đại dịch này ít gây tử vong hơn do sự hiểu biết nhiều hơn về vi khuẩn tả. Ai Cập, bán đảo Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ và Philippines bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong đợt dịch bệnh này, trong khi các khu vực khác bị nhẹ hơn. Tại Đức năm 1892 (chủ yếu là thành phố Hamburg, nơi có hơn 8.600 người chết) và Naples từ năm 1910–1911 cũng trải qua những đợt bùng phát dữ dội. Đại dịch thứ bảy bắt nguồn từ năm 1961 tại Indonesia và được đánh dấu bằng sự xuất hiện của một chủng mới, có biệt danh là "El Tor", vẫn tồn tại (tính đến năm 2018) ở các nước đang phát triển.
Bệnh tả trở nên phổ biến vào thế kỷ 19. Kể từ đó nó đã giết chết hàng chục triệu người. Chỉ riêng ở Nga, từ năm 1847 đến năm 1851, hơn một triệu người đã thiệt mạng vì căn bệnh này. Nó đã giết chết 150.000 người Mỹ trong trận đại dịch thứ hai. Từ năm 1900 đến năm 1920, có lẽ 8 triệu người đã chết vì bệnh tả ở Ấn Độ. Bệnh tả trở thành dịch bệnh được báo cáo đầu tiên ở Hoa Kỳ do những ảnh hưởng đáng kể của nó đối với sức khỏe. Bác sĩ John Snow ở Anh là người đầu tiên xác định nước bị ô nhiễm là nguyên nhân gây bệnh vào năm 1854. Bệnh tả giờ đây không còn được coi là một mối đe dọa sức khỏe cấp bách ở châu Âu và Bắc Mỹ do việc lọc và khử trùng bằng clo tại các nguồn cung cấp nước máy, nhưng vẫn ảnh hưởng nặng nề đến các nước đang phát triển.
Trước đây, các tàu phải treo cờ vàng để kiểm dịch nếu có thuyền viên hoặc hành khách bị bệnh tả. Không ai trên tàu treo cờ vàng được phép vào bờ trong một thời gian dài, thường là 30 đến 40 ngày. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Trong lịch sử, nhiều bài thuốc chữa bệnh tả đã tồn tại trong dân gian. Nhiều phương pháp điều trị cũ dựa trên lý thuyết về chướng khí. Một số người tin rằng việc làm lạnh bụng khiến một người dễ mắc bệnh hơn và thắt lưng bằng vải nỉ và "thắt lưng chống bệnh tả" là những thứ thường thấy trong quân trang của quân đội. Theo Hahnemann, trong vụ bùng phát 1854–1855 ở Naples, long não đã được sử dụng Cuốn sách "Các biện pháp của mẹ" của T. J Ritter đã liệt kê xi-rô cà chua như một phương pháp điều trị tại nhà tại miền bắc nước Mỹ. Theo William Thomas Fernie, Elecampane đã được khuyên dùng ở Vương quốc Anh.
Loại vắc xin hiệu quả đầu tiên dành cho người được phát triển vào năm 1885, và loại kháng sinh hiệu quả đầu tiên được phát triển vào năm 1948.
Các ca bệnh tả ít xảy ra hơn nhiều ở các nước phát triển, nơi các chính phủ đã giúp thiết lập các biện pháp vệ sinh nguồn nước và các phương pháp điều trị y tế hiệu quả. Hoa Kỳ đã từng có vấn đề về bệnh tả nghiêm trọng tương tự như ở một số nước đang phát triển. Có ba đợt bùng phát dịch tả lớn vào những năm 1800, có thể là do vi khuẩn Vibrio cholerae lây lan qua các tuyến đường thủy nội địa như Kênh đào Erie và các tuyến đường dọc bờ biển phía đông. Hòn đảo Manhattan ở thành phố New York đã từng bị bệnh dịch tả xâm nhập từ các chuyến tàu biển. Vào thời điểm này, thành phố New York không có hệ thống vệ sinh hiệu quả như ngày nay, vì vậy bệnh tả đã có thể lây lan.
"Cholera morbus" là một thuật ngữ lịch sử được sử dụng để chỉ bệnh viêm dạ dày/ruột hơn là bệnh tả.
Nghiên cứu.
Một trong những đóng góp lớn trong việc chống lại bệnh tả là của bác sĩ và nhà khoa học y tế John Snow (1813–1858), người vào năm 1854 đã tìm ra mối liên hệ giữa bệnh tả và nước uống bị ô nhiễm. Tiến sĩ Snow đề xuất nguồn gốc vi sinh vật đối với bệnh dịch tả vào năm 1849. Trong bài đánh giá "hiện đại" nổi tiếng của mình vào năm 1855, ông đã đề xuất một mô hình về cơ bản là hoàn chỉnh và chính xác cho nguyên nhân gây bệnh. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Trong hai nghiên cứu trên thực địa về dịch tễ học mang tính tiên phong, ông đã có thể chứng minh sự ô nhiễm nguồn nước uống của con người là yếu tố trung gian truyền bệnh dễ xảy ra nhất trong hai trận dịch lớn ở London năm 1854. Mô hình của ông đã không được chấp nhận ngay lập tức, nhưng nó được coi là hợp lý, và sự phát triển của y học vi sinh trong 30 năm tới sẽ chứng minh đề xuất của ông là đúng. Do công trình nghiên cứu về bệnh tả, John Snow thường được coi là "Cha đẻ của Dịch tễ học".
Vi khuẩn này được nhà giải phẫu người Ý Filippo Pacini phân lập vào năm 1854, nhưng bản chất chính xác của nó và kết quả của ông không được nhiều người biết đến. Cùng năm đó, Joaquim Balcells Pascual người xứ Catalan cũng đã phát hiện ra vi khuẩn và vào năm 1856, có lẽ António Augusto da Costa Simões và José Ferreira de Macedo Pinto, hai người Bồ Đào Nha, cũng đạt kết quả như vậy.
Các thành phố ở các quốc gia phát triển đã đầu tư lớn vào việc cung cấp nước sạch và cơ sở hạ tầng xử lý nước thải từ giữa những năm 1850 đến những năm 1900. Điều này đã loại bỏ mối đe dọa của dịch tả ra khỏi các thành phố phát triển lớn trên thế giới. Năm 1883, Robert Koch đã xác định bằng kính hiển vi rằng V. cholerae là vi khuẩn gây bệnh.
Hemendra Nath Chatterjee, một nhà khoa học người Bengal, người đầu tiên đã xây dựng và chứng minh hiệu quả của việc bù nước muối (ORS) đối với bệnh tiêu chảy. Trong bài báo năm 1953 của mình, được xuất bản trên tạp chí The Lancet, ông nói rằng promethazine có thể khiến người bệnh ngừng nôn mửa khi bị bệnh tả và sau đó có thể bù nước bằng đường uống. Công thức của dung dịch nước là 4 gram muối ăn, 25 gram glucoza pha vào 1 lít nước
Nhà y học Ấn Độ Sambhu Nath De đã phát hiện ra độc tố vi khuẩn tả, mô hình động vật truyền bệnh tả, và trình diễn thành công phương pháp truyền mầm bệnh dịch tả Vibrio cholerae.
Robert Allan Phillips, làm việc tại Đơn vị Nghiên cứu Y khoa Hải quân Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, đã đánh giá sinh lý bệnh của căn bệnh này bằng cách sử dụng các kỹ thuật hóa học hiện đại trong phòng thí nghiệm và phát triển một phác đồ bù nước. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Nghiên cứu của ông đã được Quỹ Lasker trao giải thưởng vào năm 1967.
Gần đây hơn, vào năm 2002, Alam, đã nghiên cứu mẫu phân của các bệnh nhân tại Trung tâm Quốc tế về Bệnh tiêu chảy ở Dhaka, Bangladesh. Từ các thí nghiệm khác nhau mà họ tiến hành, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan giữa sự di chuyển của V. cholerae qua hệ tiêu hóa của con người và tình trạng lây nhiễm gia tăng. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu phát hiện ra vi khuẩn này tạo ra một trạng thái siêu nhiễm trong đó các gen kiểm soát quá trình sinh tổng hợp các axit amin và sắt ngay trước khi đi đại tiện. Những đặc điểm cảm ứng này cho phép vi khuẩn tả tồn tại được trong phân "nước gạo", một môi trường hạn chế oxy và sắt, của bệnh nhân bị nhiễm vi trùng tả.
Chiến lược toàn cầu.
Vào năm 2017, WHO đã đưa ra chiến lược "Chấm dứt bệnh Dịch tả: lộ trình toàn cầu đến năm 2030" nhằm mục đích giảm 90% số ca tử vong do bệnh tả vào năm 2030. Chiến lược này được phát triển bởi "Lực lượng đặc nhiệm toàn cầu về kiểm soát bệnh tả" (GTFCC). Mỗi quốc gia sẽ xây dựng kế hoạch cụ thể và giám sát tiến độ. Cách tiếp cận để đạt được mục tiêu này kết hợp giữa giám sát, vệ sinh nguồn nước, điều trị và vắc xin uống. Cụ thể hơn, chiến lược kiểm soát tập trung vào ba cách tiếp cận: i) phát hiện sớm và ứng phó với các ổ dịch để ngăn chặn bùng phát rộng, ii) ngăn chặn lây truyền bệnh tả thông qua cải thiện vệ sinh môi trường và vắc xin tại các điểm nóng, và iii) khuôn khổ toàn cầu để kiểm soát bệnh tả thông qua GTFCC.
WHO và GTFCC không coi việc loại trừ bệnh tả trên toàn cầu là một mục tiêu khả thi. Mặc dù con người là vật chủ duy nhất của bệnh tả, vi khuẩn này vẫn có thể tồn tại trong môi trường mà không cần vật chủ là người. Trong khi không thể xóa sổ hết vi khuẩn, có thể loại trừ việc lây truyền từ người sang người; và có thể loại trừ tại từng địa phương, gần đây nhất là trong đợt bùng phát dịch tả Haiti những năm 2010, nước này đã đạt được chứng nhận loại trừ bệnh tả vào năm 2022.
GTFCC có mục tiêu tại 47 quốc gia, 13 quốc gia trong số đó đã thiết lập các chiến dịch tiêm chủng. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Dấu hiệu và triệu chứng.
Các biểu hiện chính của bệnh tả là tiêu chảy nhiều, không đau và nôn mửa ra những chất dịch lỏng trong suốt. Các triệu chứng này thường bắt đầu bất ngờ, từ nửa ngày đến 5 ngày sau khi nhiễm khuẩn bằng đường ăn uống. Người bệnh tiêu chảy ra chất dịch thường được miêu tả giống như là "nước gạo" và có thể có mùi tanh. Một người bị tiêu chảy chưa được điều trì có thể thải ra 10 đến 20 lít nước chất thải một ngày gây tử vong. Đối với mọi người có triệu chứng, 3 đến 100 người bị nhiễm nhưng không có triệu chứng. Tiêu chảy đã từng được mệnh danh là "cái chết xanh" do da của bệnh nhân chuyển sang sắc xám xanh là kết quả của việc mất quá nhiều nước.
Nếu bị bệnh tiêu chảy nặng mà không điều trị bằng phương pháp bù nước qua tĩnh mạch, có thể đe dọa tính mạng do mất cân bằng điện giải và mất nước. Triệu chứng mất nước đặc trưng như huyết áp thấp, da bàn tay nhăn nheo, mắt trũng, và mạch đập nhanh.
Nguyên nhân.
Nguyên nhân gây ra bệnh tả thường là dùng nước nhiễm vi trùng gây bệnh. Vi trùng gây bệnh có nhiều nhất ở trong phân của người bệnh và trong nước thải có chứa phân. Ngoài ra cá và các thực phẩm khác từ nước nhiễm vi trùng gây bệnh cũng có thể là nguồn gây bệnh do nấu ăn không kỹ hoặc ăn hải sản sống. Loài vi khuẩn này có thể sống một cách tự nhiên trong bất kỳ môi trường nào.
Tính nhạy cảm.
Khoảng 100 triệu vi khuẩn phải đi vào đường tiêu hóa mới gây ra bệnh tả ở người lớn có sức khỏe bình thường. Tuy nhiên, liều này thì thấp hơn đối với những người có axit dạ dày bị thấp (ví dụ như những người sử dụng chất ức chế bơm proton). Trẻ em cũng nhạy cảm hơn, đối với trẻ 2 đến 4 tuổi có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất. Tính nhạy cảm của mỗi người đối với bệnh tả cũng phụ thuộc vào nhóm máu của họ, trong đó người có nhóm máu O sẽ nhạy cảm nhất. Những người có hệ miễn dịch bị suy giảm, như người mắc bệnh AIDS hay trẻ bị suy dinh dưỡng cũng là những đối tượng dễ bị nhiễm.
Truyền bệnh. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Truyền bệnh.
Bệnh tả chủ yếu truyền qua nguồn thức ăn hoặc nguồn nước bị nhiễm khuẩn. Ở các nước phát triển, hải sản thường là nguyên nhân chính, còn ở các nước đang phát triển con đường truyền chủ yếu từ nguồn nước. Ngoài con người bệnh tả chỉ được tìm thấy trên hai nhóm động vật khác đó là: động vật có vỏ cứng và phiêu sinh.
Cơ chế.
Khi ăn vào, hầu hết vi khuẩn không sống sót được trong môi trường axit của dạ dày người. Một vài con còn sống sót sẽ bảo tồn năng lượng và thức ăn đã tích trữ trong quá trình đi qua dạ dày bằng cách ngừng sản xuất phần lớn protein. Khi vi khuẩn sống sót đi qua khỏi dạ dày và đến ruột non, chúng cần đẩy mình qua màng nhầy dày của ruột để đến thành ruột, nơi mà chúng có thể phát triển mạnh. Vi khuẩn "V. cholerae" bắt đầu sản xuất các protein flagellin hình trụ rỗng để tạo roi, chúng là các sợi xoắn xoay để đẩy mình qua chất nhầy của thành ruột non.
Một khi vi khuẩn tả đến được thành ruột non, chúng sẽ không cần roi để di chuyển nữa. Vi khuẩn bắt đầu dừng sản xuất protein flagellin để bảo tồn năng lượng và dinh dưỡng bằng cách trộn các protein mà chúng có được từ các chất hóa học xung quanh bị thay đổi. Khi đến thành ruột, "V. cholerae" bắt đầu sản xuất các protein có độc làm người bị nhiễm tiêu chảy. Điều này mang các lứa vi khuẩn mới vào nguồn nước uống và sẽ đi vào những vật chủ tiếp theo nếu không có các biện pháp vệ sinh thích hợp và đúng chỗ.
Chất độc vi khuẩn tả (CTX hay CT) là một chất phức tạp gồm 6 đơn vị protein: một bản sao duy nhất của tiểu đơn vị A (phần A), và năm bản sao của tiểu đơn vị B (phần B), được liên kết với nhau bởi liên kết disulfua. Năm tiểu đơn vị B tạo thành một vòng có 5 thành phần liên kết với các ganglioside GM1 trên bề mặt của các tế bào biểu mô ruột. Tỉ lệ A1 của tiểu đơn vị A là một enzym mà các G protein ADP-ribosylates, trong khi chuỗi A2 khớp với lỗ rỗng trung tâm của vùng tiểu đơn vị B. Tùy thuộc vào liên kết, phức hợp này được đưa vào tế bào thông qua endocytosis hấp thụ trung gian. Khi vào bên trong tế bào, liên kết disulfua bị giảm, và tiểu đơn vị A1 được tự do kết hợp với một protein của người được gọi là ADP-ribosylation factor 6 (Arf6). |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Sự liên kết thể hiện vị trí hoạt động của nó, cho phép nó ribosylate vĩnh viễn tiểu đơn vị alpha Gs của protein heterotrimeric G. Điều này tạo ra cAMP, chất này sau đó làm tiết ra H2O, Na+, K+, Cl−, và HCO3− trong ruột non và gây mất nước nhanh. Các gen mã hóa độc tố tả được đưa vào "V. cholerae" bằng cách chuyển gen ngang. Chủng độc lực của "V. cholerae" mang một biến thể của bacteriophage được gọi là CTXf hay CTXφ.
Chẩn đoán.
Một que thử nhanh được dùng để xác định sự hiện diện của "V. cholerae". Trong các mẫu này nó cho kết quả dương tính, các thử nghiệm sau đó cần nên tiến hành để xác định sức kháng kháng sinh. Trong các tình huống có dịch, chẩn đoán lâm sàng cần được thực hiện bằng cách lấy lời khai lịch sử bệnh của bệnh nhân và thực hiện các điều tra ngắn. Việc điều trị thường được tiến hành mà không cần hoặc trước khi xác nhận rõ thông tin phân tích từ phòng thí nghiệm.
Mẫu phân và tăm bông được thu thập từ trường hợp bệnh cấp tính, trước khi sử dụng kháng sinh, là hữu ích cho công tác chẩn đoán trong phòng thí nghiệm. Nếu bị nghi ngờ là dịch tả, tác nhân gây bệnh phổ biến là "V. cholerae" O1. Nếu nhóm "V. cholerae" serogroup O1 không được cô lập, công tác trong phòng thí nghiệm cần thử "V. cholerae" O139. Tuy nhiên, nếu các chủng này cũng không được cô lập, cần phải gởi mẫu phân đến phòng thí nghiệm đối chiếu. Nhiễm "V. cholerae" O139 nên được báo cáo và xử lý theo cách tương tự với bệnh gây ra bởi "V. cholerae" O1. Bệnh tiêu chảy có liên quan nên được tham chiếu với bệnh tả và phải được báo cáo trong trường hợp ở Hoa Kỳ.
Phòng tránh.
Bệnh tả có thể tránh nếu có ý thức với bản thân và cộng đồng, bằng cách ăn chín và uống sôi. Tuyệt đối không ăn: rau sống, hải sản tươi sống, tiết canh, uống nước đá... trái cây phải ngâm nước muối, gọt sạch vỏ trước khi ăn. Tay chân luôn vệ sinh sạch sẽ, rửa tay bằng xà phòng sạch sẽ trước khi ăn uống và sau khi đi vệ sinh. Khi thành dịch thì dịch tả có tốc độ lây lan và gây tử vong khủng khiếp, không như tiêu chảy. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Mặc dù bệnh tả có thể đe dọa đến tính mạng, nhưng việc phòng chống bệnh này sẽ đạt hiệu quả nếu như thực hiện tốt công tác đảm bảo vệ sinh môi trường. Ở những nước phát triển, do hệ thống xử lý nước tiên tiến và việc áp dụng tốt các biện pháp vệ sinh môi trường, bệnh tả không còn là mối đe dọa sức khỏe chính. Đợt bùng nổ bệnh tả lớn gần đây nhất xảy ra ở Hoa Kỳ vào năm 1910–1911. Một số biện pháp hiệu quả về vệ sinh môi trường nếu được thiết lập và thực hiện đúng lúc sẽ ngăn chặn được đại dịch. Một số điểm chính làm gián đoạn con đường lan truyền bệnh có thể thực hiện như:
Giám sát.
Giám sát và báo cáo kịp thời giúp khoanh vùng lây lan dịch bệnh. Bệnh tả phát triển theo mùa ở một số nước có căn bệnh này ở dạng đặc hữu (thường xuyên) chủ yếu vào mùa mưa. Hệ thống giám sát giúp cảnh báo sớm khả năng phát dịch, và có những biện pháp ứng phó kịp thời. Hệ thống giám sát hiệu quả cũng có thể cải thiện việc đánh giá nguy cơ bùng phát dịch tả tiềm năng. Hiểu biết về mùa vụ và vị trí của dịch cung cấp hướng dẫn cho việc cải thiện hoạt động kiểm soát dịch tả cho những vùng dễ bị tổn thương nhất. Để việc phòng chống hiệu quả, điều quan trọng là các trường hợp phát bệnh nên thông báo với cơ quan y tế quốc gia.
Tiêm vắc-xin.
Một lượng lớn vắc-xin tả an toàn và hiệu quả dùng qua đường uống đã có. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo tiêm chủng của các nhóm có nguy cơ cao như trẻ em, người bị nhiễm HIV, ở những quốc gia mà bệnh này là đặc hữu. Nếu người dân được tiêm chủng mở rộng, các kết quả miễn dịch đàn, sẽ làm giảm số lượng nhiễm khuẩn trong môi trường.
Lọc Sari.
Một phương pháp tương đối rẻ và hiệu quả đề phòng chống lây truyền vi khuẩn "V. cholera" là thực hiện gấp sari (một loại vải) nhiều lần để tạo ra một bộ lọc đơn giản đối với nước uống. Vải sari được gấp 4 đến 8 lần có thể tạo ra một màng lọc đơn giản nhằm làm giảm số lượng vi khuẩn "V. cholera" hoạt động trong nước được lọc. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Giáo dục sử dụng bộ lọc sari đúng cách là bắt buộc, vì có mối tương quan thuận giữa việc lạm dụng sari và tỉ lệ trẻ bị tiêu chảy; vải sari bẩn của người phụ nữ mặc là các véc tơ truyền bệnh đường ruột ở trẻ nhỏ. Việc giáo dục những nhóm dân cư có nguy cơ nhiễm bệnh cao sử dụng sari đúng cách có thể giảm các bệnh liên quan đến "V. cholera".
Dịch tễ học.
Bệnh tả ảnh hưởng khoảng 3-5 triệu người trên khắp thế giới, và gây ra 58.000–130.000 ca tử vong mỗi năm tính đến năm 2010. Các trường hợp này chủ yếu xuất hiện ở các nước đang phát triển. Vào đầu thập niên 1980, số ca tử vong được tin là hơn 3 triệu người mỗi năm. Rất khó để tính chính xác số ca bệnh, vì nhiều trường hợp tử vong không được báo cáo do người ta lo ngại rằng nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đếnh hoạt động du lịch của quốc gia. Bệnh tả vẫn còn tồn tại quy mô dịch và đặc hữu ở nhiều khu vực trên thế giới.
Mặc dù biết khá rõ về cơ chế của việc lây lan bệnh tả, nhưng điều này không dẫn đến việc hiểu đầy đủ về việc phát dịch ở một vài nơi nhưng nơi khác lại không. Thiếu xử lý chất thải phân và thiếu xử lý nước uống tạo điều kiện cho bệnh lây lan, nhưng những vùng cung cấp nước như các hồ chứ nước, và hải sản được vận chuyển đến những vùng xa có thể phát tán dịch bệnh. Dịch tả không được biết đến ở châu Mỹ trong hầu hết hết kỷ 20, nhưng nó xuất hiện trở lại vào cuối thế kỷ XX này.
Chữa trị.
Biện pháp chữa trị quan trọng nhất là phải cung cấp lại đầy đủ nước, đường và muối, thường phải được tiêm vào mạch máu để không phải qua đường ruột. Ở các nước Thế giới thứ ba, người ta cũng chữa trị thành công và đơn giản bằng cách cho uống nước thay thế. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyên nên cho uống một dung dịch đường và muối gồm có các thành phần sau:
Với những biện pháp này tỷ lệ tử vong có thể giảm từ 60% xuống còn 1%. Cách phòng bệnh tốt nhất là phải sử dụng nước sạch trong ăn uống và sinh hoạt. Chủng ngừa bệnh chỉ có hiệu lực trong vòng khoảng 6 tháng và chỉ ở khoảng 80% người được tiêm chủng.
Nhóm máu và bệnh tả. |
Bệnh tả | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2807 | Nhóm máu và bệnh tả.
Các nghiên cứu gen mới đây cho thấy rằng mức độ dễ bị lây nhiễm của một người đối với bệnh tả phụ thuộc vào nhóm máu của họ. Người có nhóm máu O dễ bị lây nhiễm nhất trong khi người có nhóm máu AB có khả năng kháng cự nhiều nhất, gần như là miễn nhiễm. Giữa hai thái cực này là những người có nhóm máu A và B với nhóm máu A có khả năng kháng cự nhiều hơn nhóm máu B.
Ca bệnh nổi bật.
Một số người nổi tiếng đã chết vì bệnh tả:
Nikola Tesla, nhà phát minh, kỹ sư và nhà tương lai học người Mỹ gốc Serbia nổi tiếng với những đóng góp trong việc thiết kế hệ thống điện xoay chiều (AC) hiện đại, đã mắc bệnh dịch tả vào năm 1873 ở tuổi 17. Ông đã nằm liệt giường trong 9 tháng và gần chết nhiều lần, nhưng đã sống sót và hồi phục hoàn toàn.
Xã hội và văn hóa.
Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo nên tập trung phòng ngừa, chuẩn bị và đối phó với sự lan truyền của bệnh tả. Họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống giám sát. Chính quyền có thể đóng vai trò trong tất cả các lĩnh vực này. Điều này có nghĩa là chính quyền của quốc gia sở tại có thể đóng vai trò quan trọng trong phòng ngừa bệnh tả hoặc làm giảm mức độ lây nhiễm của bệnh. |
Trường Giang (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2809 | Trường Giang có thể là: |
Tam Quốc (định hướng) | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2813 | Tam Quốc trong tiếng Việt có thể hiểu như sau:
Tuy nhiên do ở Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa mạnh hơn nên đôi khi người ta chỉ hiểu đó là Tam Quốc (Trung Quốc) |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tam Quốc (giản thể: 三国; phồn thể: 三國; bính âm: "Sānguó", giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại, được xem là khởi đầu của Ngụy–Tấn–Nam–Bắc triều và Lục triều, thường được tính từ niên hiệu Kiến An thứ nhất tức năm 196. Cuối thế kỷ thứ II, nhà Hán sau gần 400 năm tồn tại bắt đầu nổ ra chiến loạn và khủng hoảng liên tục khiến dân số giảm mạnh hơn 2/3, kinh tế bị tổn hại nghiêm trọng, Đông Hán diệt vong, ba nước mới được thành lập và là đối trọng của nhau đều chú trọng phát triển kinh tế đi đôi với ứng phó tình hình chiến tranh, tuy xã hội xung đột và bất ổn nhưng các lĩnh vực như văn học, nghệ thuật có những điểm nhấn lớn, khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ và đóng góp quan trọng cho lịch sử đất nước.
Vào cuối thời Đông Hán, triều đình nhà Hán rối loạn do hàng loạt biến cố như khởi nghĩa Khăn Vàng, loạn Bắc Cung Bá Ngọc, khởi nghĩa quân Hắc Sơn, âm mưu phế truất Hán Linh Đế của Vương Phấn, loạn Trương Cử, Trương Thuần, và xung đột đỉnh điểm giữa ngoại thích đứng đầu bởi Hà Tiến và hoạn quan Thập thường thị. Năm 184, dưới thời Hán Linh Đế, khởi nghĩa Khăn Vàng do ba anh em Trương Giác lãnh đạo bắt đầu. Để trấn áp loạn Khăn Vàng, một mặt trung ương giao quyền cho Thứ sử, Thái thú, mặt khác cho phép các địa chủ tổ chức lực lượng vũ trang tư nhân để chống lại quân khởi nghĩa này. Sau đó, Đổng Trác loạn triều chính và kiểm soát trung ương, chuyển kinh đô từ Lạc Dương đến Trường An, các thế lực mở ra chiến dịch chống Đổng Trác. Trong giai đoạn này, Tào Tháo ủng hộ Hán Hiến Đế thoát khỏi sự kiểm soát của Đổng Trác để chạy trốn về Lạc Dương, rồi dời đô đến Hứa Xương, đánh bại nhiều thế lực và cuối cùng đánh bại Viên Thiệu trong trận Quan Độ năm 200, trở thành người kiểm soát miền Bắc Trung Quốc. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Với mục đích thống nhất đất nước, Tào Tháo đem quân về phía Nam đến Kinh Châu với lực lượng vượt trội, nhưng bị liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị đánh bại trong trận Xích Bích vào mùa đông năm 208. Lưu Bị lợi dụng chiến thắng này để trở thành một thế lực hùng mạnh, đánh bại Lưu Chương để kiểm soát khu vực Tây Xuyên, cùng thời điểm với việc Tào Tháo hướng mũi nhọn về phía Tây, đánh bại Mã Đằng, Trương Lỗ, Hàn Toại và các lực lượng nổi dậy khác để đặt nền tảng cho Tam Quốc.
Năm 220, Tào Tháo bệnh chết, con là Tào Phi ép Hán Hiến Đế thiện nhượng và xưng đế, đặt quốc hiệu là "Ngụy", lịch sử gọi là "Tào Ngụy", Đông Hán nói riêng và nhà Hán nói chung chính thức diệt vong, bắt đầu thời đại Tam Quốc. Năm sau, Hán Trung Vương Lưu Bị xưng đế với tư cách hoàng tộc, đặt quốc hiệu là "Hán", lịch sử gọi là "Thục Hán", và là lần đầu tiên lịch sử Trung Quốc có hai vị Hoàng đế tồn tại cùng lúc. Sau trận Xích Bích, Lưu Bị và Tôn Quyền tích cực bành trướng thế lực, nhiều lần tranh giành Kinh Châu, cuối cùng Lưu Bị bại trận Di Lăng, Tôn Quyền giành được toàn bộ phía Nam Kinh Châu. Sau khi Lưu Bị chết bệnh năm 223, Gia Cát Lượng phò tá Lưu Thiện, cùng năm đó ông nối lại liên minh với Tôn Quyền. Thống lĩnh Dương Châu, Kinh Châu, và Giao Châu, Tôn Quyền chính thức xưng đế vào cuối năm 229, đặt quốc hiệu là "Ngô", lịch sử gọi là "Tôn Ngô". Kể từ đó, tình hình Tam Quốc chủ yếu là liên minh của Thục và Ngô chống lại Tào Ngụy, ranh giới của mỗi quốc gia không thay đổi nhiều. Năm 237, Công Tôn Uyên nổi dậy chống Tào Ngụy và thành lập một quốc gia ở Liêu Đông gọi là "Yên", nhưng nó đã bị diệt vong trong trận Ngụy – Yên vào năm 238. Năm 249, Tư Mã Ý phát động sự biến lăng Cao Bình nhằm tiêu diệt nhà Tào Sảng, đưa nhà Tư Mã dần nắm quyền kiểm soát triều đình Tào Ngụy. Năm 263, Tư Mã Chiêu vì mục đích chuẩn bị soán ngôi đã chỉ huy quân Ngụy trong chiến tranh Ngụy – Thục, tiêu diệt Thục Hán. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Hai năm sau, Tư Mã Chiêu bệnh chết, con là Tư Mã Viêm phế truất Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán, thành lập nhà Tấn. Tây Tấn đã phát động chiến tranh Tấn – Ngô vào năm 280, tiêu diệt Đông Ngô và thống nhất Trung Quốc, chính thức kết thúc thời kỳ này và bước sang thời kỳ của nhà Tấn.
Thời Tam Quốc, mặc dù các nhà sáng lập là Tào Tháo, Tôn Kiên (cùng Tôn Sách, Tôn Quyền) và Lưu Bị có xuất thân và tính cách khác nhau, nhưng họ đều được xem là "ngoại nhân" dưới góc độ của giai cấp thống trị triều đại Đông Hán – tức giới văn nhân, thế gia vọng tộc giàu có và quyền thế, chỉ ra rằng không có nước nào hoàn thành được sự nghiệp thống nhất thiên hạ, và đây chỉ là giai đoạn phân liệt chuyển tiếp từ nhà Hán sang Nam Bắc triều. Các thế hệ sau thường nhớ lại những nhân vật có ảnh hưởng trong thời kỳ Tam Quốc. Tác phẩm "Tam quốc chí" do sử gia Trần Thọ viết và Bùi Tùng Chi chú giải là một phần trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử, và là cuốn sách then chốt để nghiên cứu lịch sử Tam Quốc. Kết hợp giữa lịch sử và truyện dân gian, La Quán Trung đã viết nên cuốn tiểu thuyết nhiều chương "Tam quốc diễn nghĩa", trở thành một trong tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc với nội hàm phong phú đã đi sâu vào văn hóa Á Đông. Thời đại này được xem là một giai đoạn nổi bật trong lịch sử, văn hóa, và xã hội Trung Quốc, góp phần tạo nên một quốc gia có nền văn hóa độc đáo của thế giới. Các nhà sử học đã mô tả thời kỳ Tam Quốc cùng Ngụy–Tấn–Nam–Bắc triều là "thời kỳ đen tối đầy hoa lệ" của lịch sử Trung Quốc, bởi vì sự hỗn loạn cho phép các anh hùng hào kiệt thi thố tài năng, văn hóa trăm hoa nở rộ.
Lịch sử.
Loạn Khăn Vàng.
Đông Hán suy tàn sau thời Hán Hòa Đế, hầu hết các quân chủ lên ngôi khi còn trẻ, và phần lớn đều do ngoại thích cai trị. Khi quân chủ trưởng thành, họ tìm kiếm sự hỗ trợ của các hoạn quan để nắm quyền, cho phép các hoạn quan kiểm soát triều đình. Kiểu đối đầu giữa ngoại thích và hoạn quan chính là "thích hoạn chi tranh", khiến triều đình rơi vào vòng khủng hoảng đấu đá nội bộ. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Vào thời Hán Hoàn Đế và Hán Linh Đế, giới sĩ đại phu bất mãn với hoạn quan đang nắm quyền lũng đoạn triều chính lúc bấy giờ nên đã viết thư kháng nghị, nhưng hai lần kháng nghị đều bị trấn áp, sử gọi là "họa Đảng cố". Vào năm 159 tức Diên Hi thứ 2, Đại tướng quân Lương Ký và ngoại thích nhà họ Lương nắm quyền bị thảm sát, và hoạn quan Đan Siêu được phong tước Huyện hầu, khiến hoạn quan lại có thêm quyền lực. Trong họa Đảng cố đầu tiên vào năm 166 tức Diên Hi thứ 9, hoạn quan tố giác thanh lưu phái Lý Ưng đã kích động nho sinh kinh đô và phỉ báng chính trị triều đình, khiến khoảng 200 trí thức của thanh lưu phái trên cả nước bị bắt giữ, sang năm 168 tức Vĩnh Khang thứ nhất, đại thần Đậu Vũ đã cầu tình và bảo vệ trí thức, những người bị bắt tạm thời được thả và đưa về quê chịu án. Cùng năm 168 này, Hán Hoàn Đế chết, Hán Linh Đế lên ngôi mở ra năm Kiến Ninh thứ nhất, cuộc đảo chính của Đậu Vũ và Trần Phồn thất bại. Họa Đảng cố lần thứ hai diễn ra năm 169 tức Kiến Ninh thứ hai, hoạn quan Tào Tiết đã kết án tử hình hơn một trăm trí thức phái thanh lưu, trong đó có Lý Ưng, những người có liên quan khác bị giam cầm. Năm 172 tức Hy Bình thứ nhất, hơn một nghìn thái học sinh bị bắt, Hứa Xương nổi dậy ở Cối Kê, tự xưng là Dương Minh Hoàng Đế, sau đó 2 năm vào năm 174 tức Hy Bình thứ 3, Hứa Xương bị trấn áp và bị giết bởi tướng quân Tôn Kiên.Ở địa phương, địa chủ hùng mạnh khắp nơi bắt đầu thôn tính ruộng đất, chèn ép bách tính khiến người dân lâm vào khổ cực. Năm 175 tức Hy Bình thứ 4, triều đình hiệu đính kinh điển của Nho gia là Ngũ kinh, khắc bia đá trước cửa Thái học, và đây là "Hy Bình thạch kinh" sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc, thể hiện mong muốn nho sinh ngừng việc đả kích triều chính, tập trung học hành. Năm 178 tức Quang Hóa thứ nhất, triều đình xây trường học mới ở Hồng Đô Môn Nội, tuyển 1.000 học sinh, cùng năm đó, tác giả của Hy Bình thạch kinh Thái Ung bị đày đến Sóc Bắc vì ủng hộ cải cách. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Cùng với thiên tai liên miên, dân chúng lần lượt đứng lên, trở thành ngòi nổ của cát cứ quần hùng.
Vào tháng 2 năm 184 tức Quang Hoà thứ 7, Giáo chủ Thái Bình Đạo, người Cự Lộc là Trương Giác đã xúi giục một cuộc nổi loạn với hàng trăm nghìn tín đồ ủng hộ. Trương Giác tự xưng là Thiên Công tướng quân, và các em trai của ông là Trương Bảo và Trương Lương lần lượt xưng là Địa Công tướng quân và Nhân Công tướng quân, họ sử dụng khẩu hiệu là "Trời xanh đã hết, Trời vàng nên dựng. Đúng năm Giáp Tí, thiên hạ đại cát". Tín đồ nào cũng đội khăn màu vàng nên gọi là loạn Khăn Vàng, và được lịch sử gọi là khởi nghĩa Khăn Vàng. Trương Giác kết nạp được 36 vạn giáo chúng, cứ 1 vạn người thì lập thành 1 "phương", mỗi phương đặt ra 1 đại soái. Ba mươi sáu phương đó được phân bố ở 8 trong tổng số 12 châu lớn của lãnh thổ nhà Đông Hán là Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, khiến phạm vi của cuộc nổi loạn mở rộng nhanh chóng ra cả nước. Quân khởi nghĩa liên kết với một số hoạn quan, dự định nổi dậy vào ngày 5 tháng 3 năm 184 nhưng bị phát hiện nên tiến hành sớm vào tháng 2. Sau khi triều đình nhận được báo cáo về cuộc nổi loạn, lập tức bổ nhiệm ngoại thích Hà Tiến làm Đại tướng quân để tăng cường phòng thủ cho kinh đô, sau đó hạ lệnh dẹp trừ Đảng cố. Hán Linh Đế cử quân do Hoàng Phủ Tung, Lư Thực và Chu Tuấn chỉ huy, đồng thời ra lệnh cho các châu, quận và hào cường địa chủ hùng mạnh chiêu mộ quân đội để hỗ trợ trấn áp, trong số đó có ba huynh đệ kết nghĩa là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đem quân địa phương tham gia. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt, Trương Giác chết vì bệnh, Trương Bảo và Trương Lương chết trận, nhưng dư quân Khăn Vàng tiếp tục hoạt động. Quân Khăn Vàng nhanh chóng bị đánh bại, nhưng triều đình vẫn tiếp tục tham ô và hỗn loạn, tàn dư cuộc nổi dậy của dân chúng nằm rải rác khắp đất nước, tận dụng tình hình chiếm lĩnh các thành trì hoặc làm thổ phỉ, thế cục không ổn định. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Năm 185 tức Trung Bình thứ 2, các tướng quân phiệt Biện Chương và Hàn Toại ly khai triều đình, các tướng Trương Ôn, Đổng Trác được điều tới thảo phạt nhưng bất thành, sang năm 187 tức Trung Bình thứ 4, Vương Quốc, Hàn Toại và Mã Đằng chỉ huy binh biến vây hãm Quan Trung, quân phiệt Trương Cử xưng đế.
Để đối phó với các cuộc bạo loạn ở nhiều nơi, hoàng tộc Lưu Yên gửi bản tấu lên triều để củng cố quyền lực của các Thứ sử địa phương, lập chức mới gọi là "Mục", được chấp thuận và đồng thời được phong làm Châu mục Ích Châu, phong hoàng tộc Lưu Ngu làm Châu mục U Châu. Năm 188 tức Trung Bình thứ 5, Lưu Yên đề xuất lập các châu thiết mục nhằm trấn áp nổi loạn địa phương, lập tám chức Hiệu úy Tây Viên tham gia kiểm soát miền Tây, Viên Thiệu và Tào Tháo được phong làm Hiệu úy, bên cạnh đó thì Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác thảo phạt Vương Quốc, Công Tôn Toản đánh bại Trương Thuần. Hán Linh Đế đã thông qua các đề nghị của Lưu Yên để cho Thứ sử có quyền lực quân sự địa phương và tăng cường kiểm soát các quận. Ngoài ra, một số Thứ sử đã được thăng chức làm Châu mục, những người được bổ nhiệm là tông thất như Lưu Biểu là Châu mục Kinh Châu và đại thần như Giả Tông là Châu mục Ký Châu. Biện pháp này khiến các châu chính thức trở thành khu hành chính cấp một, có lợi cho việc dẹp loạn địa phương, tuy nhiên, khi uy tín của triều đình suy yếu, các quan Châu mục, Thứ sử nắm thực quyền ở địa phương liền cát cứ địa phương, không phụ thuộc sự chỉ huy của triều đình. Về sau Lưu Ngu bị Viên Thiệu lợi dụng, được đề xuất làm Hoàng đế nhưng từ chối, còn Lưu Yên có tham vọng làm Hoàng đế ở Tứ Xuyên. Để cát cứ Ba Thục, Lưu Yên đã dùng thủ lĩnh Thiên sư Đạo Trương Lỗ chiếm Hán Trung để án ngữ con đường từ Trung Nguyên vào đất Thục, ly khai triều đình. Vì mục đích ổn định đất nước mà thiết lập chế độ châu mục nhưng ngược lại, chế độ này đã đẩy Đông Hán đi vào tình thế quần hùng ly khai.
Tháng 4 năm 189 tức Trung Bình thứ 6, Hán Linh Đế băng hà, Hà Hoàng Hậu đưa con mình là Lưu Biện lên ngôi tức Thiếu Đế, do ngoại thích Hà Tiến nắm thực quyền. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Các hoạn quan mà đứng đầu là Kiển Thạc lên kế hoạch để giết chết Hà Tiến nhằm đưa em trai Lưu Biện là Hoàng tử, Trần Lưu Vương Lưu Hiệp làm Hoàng đế nhưng bị Hà Tiến chặn đứng. Cũng lúc này, Hà Tiến muốn diệt trừ Thập thường thị do Trương Nhượng đứng đầu, được Viên Thiệu nhân cơ hội đề nghị tiêu diệt quyền lực của hoạn quan, nhưng do dự, vì vậy Viên Thiệu sau đó đề nghị chiêu mộ các lực lượng bên ngoài đóng ở kinh đô để trấn áp hoạn quan. Hà Tiến đã triệu Thứ sử Tịnh Châu Đổng Trác tiến về kinh đô, lệnh cho tướng Đinh Nguyên dẫn quân tiếp viện. Lúc bấy giờ, Ngự sử Trịnh Thái phản đối, can gián cho rằng Đổng Trác dung túng cho sự vô ơn và tham vọng vô độ, sẽ lợi dụng quyền lực loạn chính, tạo nên nguy hại triều đình, và lấy nhà Ân ra làm ví dụ, đồng thời được Thượng thư Lư Thực cùng tấu. Tuy nhiên Hà Tiến không nghe, và Đổng Trác liền dẫn quân vào kinh. Vào tháng 8, hoạn quan Trương Nhượng và phe cánh đã phục binh giết Hà Tiến và ngoại thích họ Hà, Hiệu úy Viên Thiệu đem quân giết hơn 2.000 hoạn quan do Thập thường thị đứng đầu, kết thúc thích hoạn chi tranh. Khi mà cả phe ngoại thích và hoạn quan đều bị tiêu diệt, quyền lực triều chính trở nên trống rỗng, đúng lúc này thì Đổng Trác vào Lạc Dương, phế truất Thiếu Đế và lập Lưu Hiệp lên làm Hán Hiến Đế, nắm toàn quyền triều chính. Đổng Trác tiếp quản quân đội dưới quyền chỉ huy của Hà Tiến, sang tháng 11 thì được phong làm Thừa tướng, Viên Thiệu cùng Tào Tháo chạy về phía Đông.
Loạn Đổng Trác và cát cứ quần hùng.
Trước tiên, Đổng Trác phế Thiếu Đế Lưu Biện, lập em trai cùng cha khác mẹ là Trần Lưu Vương Lưu Hiệp lên làm Hoàng đế, tức Hán Hiến Đế, vị hoàng đế cuối cùng của Đông Hán. Sau đó, Đổng Trác khôi phục danh dự của Đậu Vũ, Trần Phồn và những trí thức khác của thanh lưu phái đã bị bức hại trước đó, sử dụng lại con cháu của các trí thức này. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Sau đó, ông bổ nhiệm Công Tôn Độ làm Thái thú Liêu Đông, Lưu Biểu làm Châu mục Kinh Châu, mở màn cho việc quần hùng cát cứ, đồng thời tiến hành tiêu diệt số lượng lớn những người bất đồng chính kiến, bao gồm cả việc thúc giục Lã Bố giết chết Đinh Nguyên – tướng cấm quân ở kinh đô, và nắm lấy quân đội của Đinh Nguyên. Từ khi Đổng Trác dẫn quân vào Lạc Dương vào năm 187, Hoàng đế Đông Hán rơi vào cảnh làm con tin của các quân phiệt, cục diện đất nước thống nhất trên thực tế đã sụp đổ, về sau sử sách nhận định thọ mệnh thực tế của Đông Hán chỉ là 165 năm. Năm 189, Thái thú Đông Quận Kiều Mạo làm giả di thư của tam công, phát hịch cho các châu, quận, kể tội trạng của Đổng Trác, hiệu triệu chư hầu chống Đổng.
Tháng giêng năm 190 tức Sơ Bình thứ nhất, sau khi Đổng Trác nắm thực quyền, Tào Tháo, Viên Thiệu, Viên Thuật tập hợp khởi nghĩa. Các châu, quận vùng Quan Đông đã tôn Viên Thiệu làm minh chủ và mở chiến dịch chống Đổng Trác. Châu mục Ký Châu Hàn Phức đóng quân ở Nghiệp Thành; Thái thú Bột Hải Viên Thiệu và Thái thú Hà Nội Vương Khuông cùng đóng quân ở Hà Nội của bờ Bắc sông Hoàng Hà; Thứ sử Duyện Châu Lưu Đại, Thái thú Trần Lưu Trương Mạc, Thái thú Quảng Lăng Trương Siêu, Thái thú Đông Quận Kiều Mạo, Thái thú Sơn Dương Viên Di, Kỵ đô úy tướng quân Bào Tín, Kiêu Kỵ tướng quân Tào Tháo gồm 7 người đóng quân tập trung ở Toan Tảo của quận Trần Lưu; Thứ sử Dự Châu Khổng Trụ đóng quân ở Nam Dĩnh Xuyên của Trần Lưu; Hậu tướng quân Viên Thuật và bộ hạ Tôn Kiên đóng quân ở Lỗ Dương. Quân số các lộ vùng Quan Đông đông thì hàng vạn, ít thí hàng ngàn, minh chủ là Viên Thiệu, và Trương Mạc chỉ huy quân chủ lực đóng ở Toan Tảo. Tháng 3 cùng năm, Đổng Trác dời đô về Trường An, người được phong làm Thái thú Liêu Đông là Công Tôn Độ tự xưng là Liêu Đông Hầu. Sau khi hội quân, chư hầu Quan Đông mở tiệc nhiều ngày và không chủ động tấn công, chỉ có Vương Khuông, Tào Tháo, Viên Thuật và Tôn Kiên chỉ huy quân chống lại Đổng Trác, và cũng chỉ có Tôn Kiên thắng trận, còn lại đều bị đánh bại. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tháng giêng năm 191 tức Sở Bình thứ 2, Tôn Kiên đánh bại quân của Đổng Trác, tiến vào Lạc Dương, sau đó 3 tháng thì Đổng Trác chính thức đến Trường An, thêm 3 tháng nữa thì Tào Tháo đánh bại quân Hắc Sơn, Viên Thiệu nhận thụ phong làm Châu mục Ký Châu, Công Tôn Toản đánh bại quân Khăn Vàng ở Thanh Châu, Lưu Bị giúp Điền Khải chống Viên Đàm, được phong làm Bình Nguyên tướng. Sau đó, Tào Tháo bại trận trước quân Đổng Trác ở Hình Dương, còn Công Tôn Toản và Lưu Bị không tham gia các lộ chư hầu. Trong bối cảnh đó, đội quân của các chư hầu Quan Đông thành lập hơn một năm tự tan rã vì hết lương thảo và mâu thuẫn nội bộ giữa các tướng lĩnh. Sau khi Đổng Trác dời đô, liên quân Quan Đông lần lượt tan rã, các thế lực như Viên Thiệu, Viên Thuật bắt đầu mở rộng lãnh thổ và cát cứ một phương, đất nước bước vào thời kỳ quần hùng hỗn chiến. Viên Thiệu muốn lập Châu mục U Châu là Lưu Ngu làm Hoàng đế, nhưng bị Tào Tháo phản đối, sau đó đoạt lấy Ký Châu từ Hàn Phức. Châu mục Duyện Châu Lưu Đại giết Kiều Mạo, sau đó chết trận bởi bị quân Khăn Vàng Thanh Châu tấn công, làm cho chức vụ bỏ trống, rồi Bào Tín với những nhìn nhận về tài năng đã tiến cử Tào Tháo giữ chức vụ này.
Sau khi dời đô, Đổng Trác tự phong làm Thái sư, phong con trưởng làm Tương Vi Hầu, xây thành Mi Ổ làm căn cứ, giết hại bừa bãi các đại thần, cùng Vương Doãn duy trì kiểm soát triều chính. Hán Hiến Đế không còn quyền lực, bị điều khiển như con rối, và Đổng Trác đã đạt được mục đích "dùng Hoàng đế để chưởng quản các chư hầu", sau đó, các thế lực chống đối ở phía Đông cũng sụp đổ do bất hòa nội bộ. Tháng giêng năm 192 tức Sở Bình thứ 3, Tôn Kiên đối đầu với tướng Hoàng Tổ của Châu mục Kinh Châu Lưu Bưu thì tử trận, cùng tháng đó, Viên Thiệu đánh bại Công Tôn Toản ở Giới Kiều. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tháng 4, khi mà Đổng Trác trong thời điểm nắm quyền tuyệt đối ở trung ương thì bị Tư Đồ Vương Doãn cùng Hoàng Uyển, Sĩ Tôn Thụy và Lã Bố giết ở Trường An, đồng thời giết cả gia tộc; cùng tháng, Tào Tháo được phong làm Thứ sử Duyện Châu. Sau khi Đổng Trác bị giết, quần thần đều hả hê nhưng riêng Thái Ung lại tỏ ra buồn bã, ông bị bắt và bị kết án tử hình, chết trong tù. Mặc dù đã tiêu diệt được Đổng Trác nhưng Vương Doãn không trấn an hoặc xử lý được những bộ phận và phe phái còn lại của ông, không thu phục được Lã Bố. Vào tháng 6, Lý Thôi và Quách Dĩ giết Vương Doãn; Lã Bố chạy về phía Đông. Tại trung ương, thời kỳ Đổng Trác và sau này là Tào Tháo tiếp tục khống chế quần thần và biến quân chủ thành bù nhìn, duy trì chính sách dùng Hoàng đế chưởng quản các chư hầu, khiến cho Đông Hán chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, và mở ra thời đại Tam Quốc. Tháng 12 năm này, Tào Tháo đánh bại tàn quân Khăn Vàng, thu phục hơn 30 vạn binh mã, tạo thành quân Thanh Châu, thu hút được mưu sĩ Tuân Úc và Trình Dục, không lâu sau đó dưới mối quan hệ của Tuân Úc thì tiếp tục có được sự phục vụ của các quân sư Tuân Du, Chung Do và Quách Gia.
Thời điểm này, một phe cánh của Đồng Trác là Lý Thôi sau khi trốn khỏi Trường An, đã nghe theo mưu sĩ Giả Hủ với kế sách "phụng quốc gia dĩ chính thiên hạ", cầm quân quay trở lại đánh Trường An cùng với vây cánh của mình là Quách Dĩ, Phàn Trù, Trương Tế. Năm 195 tức Hưng Bình thứ 2, Lý Thôi và Quách Dĩ xảy ra nội đấu, lần lượt cưỡng ép quân chủ cùng các đại thần, bắt làm con tin, không quan tâm tới Tào Tháo ở phía Đông. Vào tháng 7, với sự phò tá của Trương Tế, Dương Phụng, Dương Định, và Đổng Thừa, Hán Hiến Đế chạy về Lạc Dương, bị đuổi theo truy bắt bởi Lý Thôi và Quách Dĩ. Giữa chừng thì Trương Tế không đồng ý với Đổng Thừa, quay lại theo Lý Thôi để tấn công quân triều đình. Lý Thôi giảng hòa với Quách Dĩ, cùng Trương Tế đuổi Hán Hiến Đế tới khe Tào Dương cách Thiểm Châu 60 dặm thì đuổi kịp, đánh bại Dương Phụng. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Dương Phụng và Đổng Thừa một mặt giảng hòa với Lý Thôi, Trương Tế, mặt khác ngầm gọi thủ lĩnh quân Bạch Ba là Hàn Tiêm, Lý Nhạc và thủ lĩnh Hung Nô là Khứ Ty lại giúp. Trong trận tái chiến, 3 tướng đuổi theo bị đánh bại, phải rút về phía Tây. Tháng 7 năm 196 tức Kiến An thứ nhất, Hán Hiến Đế cùng quần thần liều chết chạy về phế tích Lạc Dương. Vào lúc này, dư đảng Khăn Vàng Dĩnh Xuyên cấu kết với Viên Thuật; Tào Tháo với đề xuất của Tuân Úc đã đem quân tới Dĩnh Xuyên để tiếp đón Hán Hiến Đế, sau đó đưa Hoàng đế về Hứa Xuyên vào tháng 8. Các thế lực Quan Đông biết được tin tức này, trong khi Viên Thiệu không nghe kế sách dùng Hoàng đế chưởng quản các chư hầu của Thư Thụ, thì Tào Tháo nghe theo chính sách bảo vệ thiên tử, trừng phạt kẻ không phục tùng triều chính của Mao Giới, giữ lấy Hán Hiến Đế từ đây. Tháng 11 năm này, Tào Tháo triển khai chính sách đồn điền. Năm sau, Quách Dĩ bị thuộc cấp là Ngũ Tập giết chết, rồi tiếp tục là Lý Thôi chết năm 198, dư đảng của Đồng Trác bị tiêu diệt toàn bộ, Quan Trung được kiểm soát trong tay Tào Tháo.
Sau khi kết thúc chiến dịch chống Đổng, các quần hùng cát cứ địa phương lần lượt phát triển thế lực riêng của mình, không quan tâm tới vấn đề triều chính trung ương và Hán Hiến Đế. Tướng cũ của Đổng Trác là Trương Tế vì hết lương nuôi quân, thấy vùng Kinh Châu do Lưu Biểu trấn giữ được yên ổn, giàu mạnh liền đem quân cướp lương thực, hai bên giao tranh, Trương Tế tử trận, cháu ông là Trương Tú lên lãnh quyền chỉ huy quân đội do ông để lại, tiếp tục tham gia cuộc chiến quân phiệt. Biết Lưu Biểu có thiện chí, không có ý đối địch, Trương Tú bèn sai sứ sang liên minh, cùng nương tựa và liên thủ chống Tào Tháo. Cùng lúc đó, con cả Tôn Kiên là Tôn Sách sau khi cha mất đã quy thuận Viên Thuật, mượn binh bình định Giang Nam. Tại Giang Nam trong 4 năm 196–200, đối đấu với quân của Tôn Sách, lần lượt Thứ sử Dương Châu Lưu Do thua chạy, Thái thú Ngô Quận Hứa Cống, Thái thú Cối Kê Vương Lãng bại trận đầu hàng, Thái thú Dự Chương Hoa Hâm không đánh mà hàng. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Cuối năm 199, sau hàng loạt trận đánh của chiến dịch Dương châu bất bại, Tôn Sách chiếm lấy 6 quận của Giang Đông, cùng Lưu Biểu giằng co và chờ đợi thời cơ tiến vào Trung Nguyên, nhưng chưa kịp tiến hành thì đã bị ám sát qua đời năm 200 tức Kiến An thứ 4, được Tào Tháo truy phong làm Thảo Nghịch tướng quân.
Ở một phía khác, năm 193 tức Sơ Bình thứ 4, Tào Tháo tiến đánh Từ Châu của Châu mục Đào Khiêm, giết hàng chục vạn người dân. Sang năm 194 tức Hưng Bình thứ nhất, ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi được Công Tôn Toản điều tới cứu trợ Đào Khiêm. Tháng 4 năm này, Trương Mạc theo Lã Bố, phản bội Tào Tháo, hai bên giao chiến tại Bộc Dương. Cuối năm này, Châu mục Ích Châu Lưu Yên chết, Lưu Chương kế vị, Đào Khiêm chết, Lưu Bị được tiến cử làm Châu mục Từ Châu. Phía Hán Trung thì Lưu Chương cùng Trương Lỗ đối chọi quyết liệt, hai phe giằng co, trong khi đó Mã Đằng và Hàn Toại phát triển thế lực riêng của mình ở Lương Châu, Ung Châu. Tại U Châu, Công Tôn Toản đánh bại Lưu Ngu, song không chiếm lĩnh khu vực này được lâu đã thua trận trước Viên Thiệu rồi tự sát. Tháng 5 năm 195 tức Hưng Bình thứ 2, Lã Bố thua trận Bộc Dương trước Tào Tháo, chạy về phía Từ Châu hướng Lưu Bị nhằm cầu viện, trước đó Lã Bố đã lần lượt đầu nhập vào lực lượng của Viên Thuật cùng Viên Thiệu, lưu lạc về Duyện Châu, từng cùng Trương Mạc liên thủ đánh Tào Tháo nhưng thua trận vì những kế sách khổ chiến của mưu sĩ Tào Tháo là Tuân Úc cùng Trình Dục. Năm 196 tức Kiến An thứ nhất, Viên Thuật đánh bại Lưu Bị, Lã Bố nhân cơ hội chiếm đoạt địa bàn và trở thành Châu mục Từ Châu, bắt giam gia quyến Lưu Bị. Cuối năm này, sau khi bị Lã Bố truy kích, Lưu Bị đầu nhập vào phe Tào Tháo.
Tháng 1 năm 197 tức Kiến An thứ 2, Viên Thuật xưng đế, tự xưng là "Trọng Gia", đóng đô ở Thọ Xuân thuộc quận Cửu Giang, Tào Tháo bại trận trước Trương Tú, mãnh tướng Điển Vi chết trận. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Bởi tự xưng đế khi mà Đông Hán vẫn còn, Viên Thuật được xem là phản nghịch, bị nhiều thế lực nhắm vào, trong tháng 5 thì thua trận trước Lã Bố, đến tháng 9 thì thua trận một lần nữa trước cuộc tấn công của Tào Tháo. Năm 198, Tào Tháo và Lưu Bị liên thủ tiến đánh Lã Bố và vị tướng này bị bộ hạ phản bội, bắt sống đem đến giao trước mặt Tào Tháo. Vào lúc này, Lã Bố xin được đầu nhập theo nhằm lấy thiên hạ, Lưu Bị nhắc nhở không nên quên sự tình Đinh Nguyên, Đổng Trác – những người mà Lã Bố từng phục vụ và đều bị Lã Bố giết, thế là Tào Tháo giết Lã Bố tại Hạ Bì, lấy Từ Châu vào tay, và đây cũng là lần thứ 2 mà Lưu Bị mất đi châu này. Năm 200 tức Kiến An thứ 5, Đồng Thừa ám sát Tào Tháo nhưng thất bại, còn Lưu Bị thì rời khỏi Từ Châu, bị Tào Tháo truy kích và tiến đến đầu nhập vào Viên Thiệu, đóng quân ở Tiểu Bái.
Trong giai đoạn này, hai thế lực lớn mạnh và nổi bật nhất là Viên Thiệu cùng Tào Tháo, Viên Thiệu trước dùng kế chiếm cứ Ký Châu của Hàn Phức, tiếp theo đánh bại Điền Giai, Tang Hồng, đánh bại Công Tôn Toản. Viên Thuật cùng đường và chết năm 199, Viên Thiệu nắm giữ 4 châu Thanh, Ký, U, Tinh vùng Hà Bắc. Về phía Tào Tháo thì chinh chiến bốn phía, thu thập dư đảng quân Khăn Vàng, chọn tinh nhuệ hợp thành quân Thanh Châu trứ danh, khống chế Duyện Châu, giữ lấy Hán Hiến Đế bên mình. Ông đưa Hoàng đế dời đô về Hứa Xương, mượn danh nghĩa triều đình để thảo phạt các chư hầu, lần lượt đánh bại Viên Thuật, tiêu diệt Lữ Bố, hàng Trương Tú, đuổi Lưu Bị. Thế lực của ông phát triển chiếm lĩnh các châu Duyện, Dự, Từ, một bộ phận của Ti Lệ và Ung Châu tại Trung Nguyên. Với xuất thân là con trai của Tào Tung, từ gia đình bình thường, không có tiếng tăm, gia thế, cha là con nuôi của hoạn quan Tào Đằng, Tào Tháo có phương châm dùng người chỉ cần có tài, giữ Hán Hiến Đế, lấy Dĩnh Xuyên, Hứa Xương làm nơi tiếp đón nhân tài, được văn nhân ủng hộ, đồng thời nắm giữ thực quyền, củng cố địa vị của mình. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Về sau ông còn đem con gái gả cho vua làm Hoàng hậu, trở thành ngoại thích Đông Hán, một tay nắm giữ triều chính, được xưng là "Đại gian hùng", đương nhiên trở thành phe lớn nhất của Tam Quốc. Tháng 8 năm 199 tức Kiến An thứ 4, bắt đầu tình cảnh 2 phe lớn nhất là Viên Thiệu và Tào Tháo trực tiếp giằng co và đối đầu bên bờ Hoàng Hà. Bởi thế lực của song phương tiếp tục lớn mạnh, các trận đánh nhỏ là Bạch Mã và Diên Tân diễn ra, dẫn tới trận chiến cuối cùng phát sinh ở bến Quan Độ, quyết phân thắng bại.
Trận Quan Độ và Xích Bích.
Lúc bấy giờ, phía Bắc có Công Tôn Độ, phía Tây có Hàn Toại, Mã Đằng tỏ thái độ trung lập, Viên Thiệu không phải lo về phe phái sau lưng, có thể cùng Tào Tháo đối chiến, lực lượng chiếm ưu thế. Về phần Tào Tháo phía sau có Lưu Biểu vừa kết minh cùng Viên Thiệu vừa đối địch cùng Tôn Sách, còn có Sĩ Nhiếp cát cứ độc lập ở Giao Chỉ, Trương Lỗ chiếm cứ Hán Trung.
Trước tiên, Tào Tháo phái Vệ Ký làm sứ giả tới Ích Châu gặp Lưu Chương – người có mâu thuẫn với Lưu Biểu – nhằm nhờ chư hầu này tới Trường An, ngăn chặn sự phối hợp giữ Lưu Biểu và Viên Thiệu, nhưng không thành do đường Ích Châu vào Trung Nguyên đã bị án ngữ. Trong cung thì Hán Hiến Đế mật chiếu cho ngoại thích Đổng Thừa nhằm ám sát Tào Tháo nhưng thất bại, Lưu Bị cùng dư đảng của Đổng Thừa khởi binh ở Tiểu Bái nhưng bị Tào Tháo đánh lui, lúc này chuyển tới nương nhờ Viên Thiện, lưu lại Quan Vũ tại phe Tào Tháo. Tào Tháo lại phái Tang Bá đánh quân Viên Thiệu trên địa bàn Thanh Châu, góp phần tiêu trừ lực lượng tấn công của Viên Thiệu, bên cạnh đó, Thái thú Trường Sa phía Nam Kinh Châu là Trương Tiện hưởng ứng Tào Tháo và tiến đánh Lưu Biểu, làm Lưu Biểu không cách nào cùng Viên Thiệu hợp đồng tác chiến ở Quan Độ. Phía Giang Đô, người lãnh đạo là Tôn Sách ủng hộ Viên Thiệu, tiến đánh phe Tào Tháo ở Quảng Lăng nhưng bị đẩy lui bởi tướng Trần Đăng. Tôn Sách một lần nữa dự định tấn công kinh đô Hứa Xương nhưng bị ám sát và bỏ mình giữa chừng. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Phía Viên Thiệu thì lung lạc dư đảng quân Khăn Vàng của tướng Lưu Tịch và Cung Đô ở Nhữ Nam, phái Lưu Bị tới liên thủ, nhưng thua cả hai trận trước tướng Tào Nhân và chính Tào Tháo ở đây. Nhận thấy Tào Tháo thắng nhiều trận và ngày càng lớn mạnh, Viện Thiệu ra quyết định đem quân xuôi Nam quyết chiến, mở trận Quan Độ. Ông tuần tự phái Đại tướng Nhan Lương tiến công Bạch Mã – nay là huyện Hoạt ở Đông Bắc Hứa Xương, Văn Xú tiến công Diên Tân nhưng lần lượt bị giết tại trận bởi Quan Vũ. Sau đó, Viên Thiệu tự mình lãnh binh tiến tới Nguyên Dương, mà Tào Tháo cũng đem binh tới bến Quan Độ, cùng xây luỹ cao hào sâu, giằng co dài đến nửa năm. Mưu sĩ Hứa Du hiến kế cho Viên Thiệu rằng nhân lúc Hứa Đô phòng thủ lỏng lẻo, nên phái một cánh binh đi vòng qua Quan Độ tập kích Hứa Đô nhưng Viên Thiệu không nghe, lại gặp đúng tình huống Hứa Du có người nhà bị tội vào ngục, xin mà không cho tha nên bất mãn, bỏ sang hàng Tào Tháo và hiến kế tấn công kho lương thực Ô Sào. Quân Tào Tháo tiến hành kế sách này, tấn công Ô Sào trong đêm và đốt cháy kho lương, giành được thắng lợi quyết định, khiến quân Viên Thiệu tan rã. Trận chiến này trở thành cột mốc cho việc Tào Tháo khống chế phương Bắc, và sau đó tiếp tục đánh bại quân Viên Thiệu ở trận Thương Đình năm 201 tức Kiến An thứ 6. Sang tháng 5 năm 202 tức Kiến An thứ 7, Viên Thiệu bệnh chết, hai con là Viên Đàm cùng Viên Thượng xung đột và đấu đá nhau. Trước đó ở thời kỳ trận Quan Độ, Lưu Bị rời khỏi phe Viên Thiệu, đến Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu, được đóng quân ở Tân Dã thuộc quận Nam Dương, là cửa ngõ Kinh Châu với phía Bắc, gần Hứa Xương nhất. Tháng 9 năm này, Tào Tháo đánh bại Viên Đàm cùng Viên Thượng, còn Lưu Bị đánh bại quân Tào Tháo ở Bác Vọng.
Tháng 8 năm 203 tức Kiến An thứ 8, Viên Đàm thua trận trước Viên Thượng, xin Tào Tháo cứu trợ. Tào Tháo nghe lời Tuân Du, đem quân lên phía Bắc, đáp ứng lời thỉnh cầu của Viên Đàm và chi viện, đồng thời lấy con gái của Viên Đàm cho con trai là Tào Chỉnh. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Trong chiến dịch phương Bắc này, không bao lâu sau quân Tào Tháo chiếm lĩnh được căn cứ trung tâm là Nghiệp Thành bằng kế sách thủy chiến, xây dựng làm căn cứ riêng của lực lượng mình ở phía Bắc. Được ít lâu sau thì Viên Đàm phản bội Tào Tháo, Tào Tháo đem gửi trả con gái của Viên Đàm – tức con dâu của mình, rồi tiến đánh, Viên Đàm bại chết. Cũng ở phương Bắc, Thứ sử Tịnh Châu Cao Cán ban đầu theo Tào Tháo nhưng rồi phản bội, trốn về Kinh Châu nhưng bị giết trên đường năm 206. Năm 207 tức Kiến An thứ 12, Tào Tháo tiếp tục chiến dịch tiêu diệt nhà họ Viên. Viên Thượng chạy trốn tới phía Bắc U Châu, theo anh trai thứ hai là Viên Hi, nhưng bị hai bộ tướng phản bội, đành tiếp tục chạy lên phía Bắc Liêu Tây nương nhờ Thiền vu Đạp Đốn của Ô Hoàn. Tào Tháo thừa thắng xông lên, tại Liễu Thành đánh tan Ô Hoàn bằng chiến thuật tập kích của khinh kỵ binh, tướng Trương Liêu chém chết Đạp Đốn. Hai anh em họ Viên chạy sang Liêu Đông chỗ Thái thú Công Tôn Khang, nhưng bị chư hầu này phục giết dâng cho Tào Tháo, họ Viên chính thức diệt vong. Tháng 1 năm 208 tức Kiến An thứ 13, Tào Tháo sau 7 năm chiến chinh liên tục đã bình định Hà Bắc và thống lĩnh Trung Nguyên, khải hoàn trở lại Nghiệp Thành, đồng thời hủy bỏ chế độ Tam công, xây dựng thiết chế Thừa tướng rồi nhậm chức này vào tháng 6, sau đó 1 tháng thì đem quân tới Kinh Châu, chuẩn bị cho chiến dịch xuôi Nam nhằm thống nhất đất nước.
Về phía Đông Nam, năm 203 tức Kiến An thứ 8, con trai Tôn Kiên là Tôn Quyền kế thừa người anh là Tôn Sách, bình định quận Dự Chương, được phụ tá bởi Chu Du và Trương Chiêu rồi ổn định thế cục Dương Châu. Năm 208, mãnh tướng Cam Ninh của Hoàng Tổ quy thuận Tôn Quyền, đến tháng 6 thì Tôn Quyền đại thắng và giết Hoàng Tổ, thừa thế tiến quân tới Sài Tang. Về phía Lưu Bị, năm 207 thì qua sự giới thiệu của Tư Mã Huy, Từ Thứ, ông gặp được Gia Cát Lượng và nghe chiến lược Long Trung đối sách, mời về làm quân sư cho mình. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tháng 8 năm 208, Lưu Biểu chết bệnh, Lưu Bị đánh trận với Hạ Hầu Đôn và Vu Cấm ở gò Bác Vọng, đánh lui 2 vị tướng này.
Sau khi Lưu Biểu chết, con trai Lưu Tông kế vị và nhanh chóng quy hàng Tào Tháo, khiến Lưu Bị phải chạy trốn về phía Nam. Quân khinh kỵ binh của Tào Tháo được cử truy kích, phía Lưu Bị chia thành các nhánh rút lui, trong đó phần chính là tổ hợp quân và dân số lượng lớn, giao Triệu Vân bảo vệ gia quyến, Trương Phi chặn hậu. Phía chủ lực quân và dân của Lưu Bị bị đánh tan ở trận Trường Bản, bỏ chạy tán loạn, may mắn được Trương Phi chắn giữ nên chạy thoát về Hán Tân. Tào Tháo lấy mục tiêu chiếm Giang Lăng làm đầu, nên thúc quân tiến đến nắm giữ nơi đó, bỏ Lưu Bị không truy sát nữa. Do Tào Tháo đã chặn đường đi Giang Lăng, Lưu Bị chỉ còn cách đi sang phía Đông để hội quân với Quan Vũ và con cả Lưu Biểu là Lưu Kỳ ở Hán Khẩu. Về phía Đông, anh họ Tôn Quyền là Thái thú Dự Chương, Chinh Lỗ tướng quân Tôn Bí chuẩn bị đầu hàng Tào Tháo, nhưng Thái thú Ngô Quận là Chu Trị đã toàn lực thuyết phục và ngăn cản sự tình này. Lỗ Túc cùng Chu Du bàn chủ trương thảo phạt Tào Tháo, trước hết Lỗ Túc lấy phúng viếng Lưu Biểu làm cớ để tới Đương Dương bái phỏng Lưu Bị, thuyết phục cùng Tôn Quyền làm đồng minh kháng Tào Tháo, và Lưu Bị đã đồng ý. Sau đó Lỗ Túc cùng Gia Cát Lượng trở lại Sài Tang, thêm Chu Du để cùng thuyết phục Tôn Quyền. Song phương trải qua thảo luận đã quyết định kết minh, thành lập quân Tôn–Lưu chừng 5 vạn, lấy Chu Du, Trình Phổ là Chính và Phó Đô đốc. Tào Tháo từ phương Bắc đem xuống 30 vạn binh lực, tại Kinh Châu lại thu thêm được 10 vạn, tổng cộng chừng 40 vạn, chia 20 vạn quân là chủ lực tiền tuyến. Trong giai đoạn đầu, thủy quân Tôn–Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu–Phàn Khẩu tới Xích Bích và chạm trán với tiền quân của Tào Tháo, giành được lợi thế bởi quân phương Bắc bị hành hạ bởi bệnh dịch, sĩ khí giảm do hành quân kéo dài, buộc phải lui về đóng quân ở Ô Lâm. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến, Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau, thấy động thái này, tướng Hoàng Cái Đông Ngô dùng kế trá hàng và được tin theo, rồi bơi sang đánh úp vào thủy trại Tào. Các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và lao thẳng vào hạm đội của quân Tào theo gió Đông, khiến các hạm đội nhanh chóng bắt lửa, số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc chết đuối dưới sông. Trong lúc quân Tào hoảng hốt vì đám cháy thì liên quân Tôn–Lưu tấn công, buộc quân Tào phải rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Liên quân Tôn–Lưu không ngừng truy kích khiến Tào Tháo phải hủy bỏ chiến dịch phương Nam, để lại Tào Hồng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương và Mãn Sủng giữ Đương Dương. Đại bại trận Xích Bích là mấu chốt khiến Tào Tháo từ đây đã mất đi cơ hội thống nhất thiên hạ, quay trở lại kiểm soát miền Bắc, chuyển hướng về phía Tây của Mã Đằng, Trương Lỗ.
Sau trận Xích Bích, Tôn Quyền cùng Lưu Bị triển khai phản công. Cuối năm 208, Tôn Quyền mở chiến dịch Hợp Phì – vị trí chiến lược bảo vệ Hứa Đô từ Đông Nam đối với quân Tào, đồng thời bảo vệ Giang Đông từ phía Bắc đối với quân Ngô, phái Trương Chiêu tấn công Hợp Phì phía Bắc Đang Đồ. Thành này được bảo vệ bởi tướng Lưu Phức và Tưởng Tế, phòng thủ thành công và chặn đứng chiến dịch ban đầu của Tôn Quyền. Cùng tiến phương Bắc, Đô đốc Chu Du suất lĩnh tướng Trình Phổ, Lã Mông, Cam Ninh tấn công Giang Lăng, trải qua hơn một năm khổ chiến được sử gọi là "Giang Lăng chi chiến", cuối cùng đã giành thắng lợi trước Tào Nhân và chiếm lĩnh Giang Lăng. Năm 209 tức Kiến An thứ 14, Chu Du tiếp tục đánh bại Tào Nhân, chiếm cứ Nam Quận. Ở mặt trận Kinh Châu, Tôn Quyền cùng Lưu Bị tranh đoạt kịch liệt, vào cuối năm 208 thì phía Nam châu này gồm 4 quận Vũ Lăng, Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương bị Lưu Bị và Gia Cát Lượng chiếm giữ, khiến Chu Du phải thừa nhận. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Năm sau, Lưu Bị kết hôn với em gái Tôn Quyền là Tôn phu nhân, gia tăng sự gắn kết của liên minh Tôn–Lưu. Lưu Bị với việc chiếm lĩnh 4 quận của Kinh Nam đã lấy Giang Lăng làm nơi ngăn cách, đổi tên Giang Khẩu thành Công An, đặt căn cứ địa bảo vệ biên giới ở đây. Lúc này, tướng Hoàng Trung từ quận Trường Sa theo Lưu Bị, còn Tào Tháo thì tổ chức lại thủy quân ở huyện Tiều, từ Hoài Hà, qua Phì Thủy tới Hợp Phì, lập đồn điền ở Thược Pha, phái Trương Liêu, Nhạc Tiến, Lý Điển đóng quân ở Hợp Phì.
Năm 210 tức Kiến An thứ 15, Lưu Bị gặp Tôn Quyền tại Kinh Khẩu, yêu cầu mượn Kinh Châu, Chu Du ở Giang Lăng nghe tin bèn viết thư cho Tôn Quyền phản đối việc này, đề nghị giữ Lưu Bị lại nhằm cách ly các mãnh tướng Quan Vũ, Trương Phi, nhưng Lưu Bị không bị lung lạc và lui về Công An. Cùng giai đoạn đó, Chu Du cùng Tôn Du lập kế hoạch đánh Ích Châu với sự đồng ý của Tôn Quyền, chỉnh quân ở Giang Lăng để thực hiện chiến lược và mục tiêu, nhưng chẳng may vết thương cũ tái phát, Chu Du chết ở Ba Khâu năm 210 khi 36 tuổi. Trước khi chết, Chu Du dặn Tôn Quyền 3 việc gồm: tiến cử Lỗ Túc thay mình cầm quân; phòng Tào Tháo ở phía Bắc; và phòng Lưu Bị phía Tây. Sau khi kế vị, Lỗ Túc thay đổi chính sách của Chu Du, cấp quyền quản lý Nam Quận cho Lưu Bị theo chính sách kết minh Tôn–Lưu chống Tào, cho rằng phía Tôn chưa hoàn toàn thu phục lòng người Kinh Châu, vậy nên lợi dụng Lưu Bị quản lý khu vực này, tăng thêm một kẻ địch cho phe Tào, đồng thời chuẩn bị thu lại toàn bộ Kinh Châu trong tương lai. Cuối cùng Tôn Quyền nghe theo Lỗ Túc, chia cắt Kinh Châu lần thứ nhất, liên hợp chống cự Tào Tháo.
Đỉnh lập Tam Quốc.
Trước trận Xích Bích, Lưu Chương phái bộ hạ Trương Tùng đến Kinh Châu tiếp Tào Tháo, thuận tiện xem xét quân tình. Phía Tào Tháo thì đang trong tình thế đắc ý vì vừa hoàn thành chiếm cứ miền Bắc, chuẩn bị đánh xuống miền Nam để thống nhất đất nước, căn bản không quan tâm đến sứ giả này, đối xử qua loa và khinh rẻ. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Sau khi tiếp quân Tào, Trương Tùng bái phỏng Lưu Bị, nhận được đối xử cao quý, ông kính trọng và giới thiệu kỹ lưỡng Ích Châu cho phía Lưu Bị, khi trở về Ích Châu thì đề nghị Lưu Chương đoạn tuyệt quan hệ với Tào Tháo và kết minh cùng Lưu Bị. Phía Hán Trung bị chiếm cứ bởi Trương Lỗ, dần mở rộng thế lực từ xuất phát điểm phụ thuộc Lưu Yên cho đến tự chủ, Lưu Chương thừa kế Lưu Yên không thể khống chế nên giận dữ giết gia đình Trương Lỗ, biến hai bên thành thù, Tào Tháo thừa cơ mà vào khu vực này. Sau đại bại ở Xích Bích, Tào Tháo về phương Bắc, tích cực chiêu mộ nhân tài bằng tuyên bố "dùng người chỉ cần có tài", chuyên tâm nội chính, xây đài Đổng Tước ở Nghiệp Thành, bổ nhiệm con trai Tào Phi làm Trung Lang tướng.Năm 211 tức Kiến An thứ 16, Tào Tháo lệnh Ti Lệ giáo úy Chung Do cùng tướng quân Hạ Hầu Uyên tiến về Hán Trung thảo phạt Trương Lỗ. Các tướng Tây Lương thấy phe Tào không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa, nghi ngờ đối phương dùng kế "mượn đường Quắc diệt Ngu" nên 10 tướng gồm Hàn Toại, Mã Siêu, Hầu Tuyển, Trình Ngân, Dương Thu, Mã Ngoạn, Trương Hoành, Lương Hưng, Thành Nghi, Lý Kham cất 10 vạn quân làm phản, chiếm cứ Đồng Quan. Tháng 7 năm này, quân Tào đánh Mã Siêu, bí mật phái Từ Hoảng và Chu Linh vượt bến Bồ Bản, đóng trại ở Hà Tây để chặn đường lui của Mã Siêu. Mã Siêu phục kích bên bờ sông của Vị Nam nhưng Tào Tháo thoát nạn, sử dụng kế của Giả Hủ để ly gián Mã Siêu và Hàn Toại rồi đem quân tấn công trực diện và giành chiến thắng khiến Hàn Toại bỏ chạy về Kim Thành, Mã Siêu chạy sang bộ lạc của người Nhung. Tào Tháo dẫn quân truy kích Mã Siêu đến Yên Định nhưng chưa bắt được thì có tin Tôn Quyền mang quân đánh Trung Nguyên nên rút đại quân về phía Đông, để Hạ Hầu Uyên ở lại trấn giữ Trường An. Mã Siêu tập hợp người Khương, người Hồ quay trở lại tấn công các quận huyện Lũng Thượng, giết Thứ sử Lương Châu Vi Khang. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Thủ hạ của Vi Khang là Dương Phụ khởi binh báo thù cho chủ, hợp binh với Hạ Hầu Uyên đánh bại Mã Siêu, khiến Mã Siêu phải chạy sang đầu hàng Trương Lỗ ở Hán Trung. Vùng Tây Lương cơ bản thuộc quyền kiểm soát của Tào Tháo. Tháng 12, Chung Do và Hạ Hầu Uyên đem quân chinh phạt Trương Lỗ, khiến chư hầu này sợ hãi không thôi, ở phía Lưu Chương thì Trương Tùng đề nghị mượn lực Lưu Bị và cũng đánh Trương Lỗ. Lưu Chương không nghe lời phản đối của phần đông bộ hạ, tiếp thu kế sách của Trương Tùng, phái Pháp Chính đi mời Lưu Bị tới Ích Châu, chính thức nhập Thục. Lưu Bị để Gia Cát Lượng cùng Quan Vũ, Triệu Vân ở lại trấn thủ Kinh Châu, cùng Bàng Thống, Hoàng Trung, Ngụy Diên tiến về Ích Châu, không lập tức tấn công Trương Lỗ như lời đề nghị của Lưu Chương mà đóng quân ở Hà Manh để thu lòng người trong 1 năm.
Tháng 5 năm 212 tức Kiến An thứ 17, Tào Tháo về đến Hứa Xương, nhân danh Hán Hiến Đế hạ lệnh giết chết Mã Đằng, tru di tam tộc, giết hết những người cùng họ ở kinh thành. Tôn Quyền gửi thư thỉnh cầu Lưu Bị trở về Kinh Châu để cùng chống Tào Tháo, kế đến Lưu Bị nhận được thư rồi lấy cớ Kinh Châu báo nguy nên yêu cầu Lưu Chương cấp 1 vạn quân cùng lương thực, nhưng Lưu Chương chỉ cấp 4.000 quân. Trương Tùng viết thư khuyên Lưu Bị ở lại Ích Châu, thư truyền đến tay Lưu Chương khiến chư hầu này tức giận, xử tử Trương Tùng, đẩy mâu thuẫn hai bên lên đỉnh điểm, Lưu Bị bèn giết 2 tướng của Lưu Chương là Dương Hoài, Cao Bái, chiếm Bạch Thủy và mở chiến dịch Tây Xuyên tấn công Thành Đô. Tháng 9, Tôn Quyền xây dựng một thành trì mới tại Mạt Lăng, gọi là Kiến Nghiệp, sau đó 1 tháng thì trận chiến Tào – Tôn diễn ra ở Nhu Tu, bất phân thắng bại. Cuối năm này, Lưu Bị chính thức triển khai chiến dịch, Lưu Chương tìm cách phòng ngự các thành trì. Quân Lưu Bị do Hoàng Trung, Trác Ưng làm tiên phong đánh bại Trương Nhiệm, chiếm Bồi Thành, kéo hàng được tướng Lý Nghiêm, Ngô Ý rồi tiến tới vây Lạc Thành, triệu Trương Phi, Triệu Vân và Gia Cát Lượng vào Ích Châu trợ chiến. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Năm 213 tức Kiến An thứ 18, Tào Tháo được phong tức Ngụy Công, Mã Siêu đầu nhập Trương Lỗ. Đến cuối năm, quân Kinh Châu tiếp ứng chia làm 2 đường gồm Trương Phi và Gia Cát Lượng đi đường phía Bắc, Triệu Vân đi đường phía Nam, cộng thêm văn thần Tưởng Uyển, Giản Ung và đều cùng giành thắng lợi liên tiếp. Sau năm 214 tức Kiến An thứ 19, Lưu Bị cùng Bàng Thống đánh Lạc Thành, đánh bại và giết Trương Nhiệm, Bàng Thống trúng tên tử trận. Lưu Bị chiêu hàng được Mã Siêu, các cánh quân đến Thành Đô, khiến Lưu Chương mở cửa xin hàng và được đưa về an trí cùng gia quyến tại thành Công An. Cùng thời điểm này, Tào Tháo giết Phục Hoàng Hậu cùng các thân thích khác của Hiến Đế.
Sang năm sau tức Kiến An thứ 20, Tào Tháo đưa con gái mình lên làm Tào Hoàng Hậu, đến tháng 3 thì bắt đầu thảo phạt Trương Lỗ, tới Hán Trung sau đó 1 tháng thì đi qua Tán Quan, phá Dương Bình Quan thẳng tiến tới Nam Trịnh, khiến Trương Lỗ chạy về Ba Trung. Quân sư trong chiến dịch này là Tư Mã Ý đề nghị tiếp tục tiến sâu hơn về phía Tây để thảo phạt Lưu Bị, nhưng Tào Tháo nói: "Người khổ không biết đủ, đã bình Lũng, lại nhìn Thục". Tào Tháo không muốn thừa cơ tấn công đất Thục, phái Hạ Hầu Uyên trấn thủ ở đất Lũng, Hán Trung. Sang tháng 5, Tôn–Lưu tiến hành chia cắt Kinh Châu lần thứ 2, đến tháng 8 thì Tôn Quyền tiến đánh Hợp Phì nhưng đại bại. Tháng 11 năm này, Trương Lỗ đầu hàng Tào Tháo, từ đây chỉ còn ba thế lực Tào–Tôn–Lưu phân chia thiên hạ. Tháng 12, Trương Phi đem quân đánh lui Trương Cáp, đánh bại quân Tào ở Ba Quận. Tháng 5 năm 216 tức Kiến An thứ 21, Tào Tháo ép Hán Hiến Đế ra chiếu phong mình làm Ngụy Vương, thêm "cửu tích" trong lễ nghi của mình, phong con thứ Tào Phi làm Thế tử, tạo cơ sở phân lập quyền lực của cơ chế chính trị và quân sự Đông Hán. Sang năm sau, quân Tào tiến đánh Nhu Tu một lần nữa nhưng bất phân thắng bại, đành rút lui. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Năm 218 tức Kiến An thứ 23, Cảnh Kỷ lập mưu giết Tào Tháo nhưng thất bại, bị xử tử, sang tháng 4 thì cử Tào Chương bình loạn Ô Hoàn và Tiên Ti, Kha Bỉ Năng đầu hàng. Sang tháng 9, Tào Tháo tiến vào chiếm giữ Trường An, chuẩn bị nghênh chiến Lưu Bị trong chiến dịch Hán Trung. Năm 219 tức Kiến An thứ 24, Lưu Bị thúc quân vượt qua sông Miện Thủy, đóng quân hạ trại tại núi Định Quân, mai phục ở phía sau đỉnh núi, đánh lừa được tướng Hạ Hầu Uyên và vị tướng này bị chém chết bởi Hoàng Trung. Nghe tin đại tướng tử trận, Tào Tháo đích thân mang đại quân qua hang Tà Cốc vào Xuyên để quyết chiến. Quân Lưu phái Triệu Vân đi cướp lương thảo, phòng thủ không giao chiến 1 tháng, tung tin làm giảm sĩ khí quân Tào, cho đến tháng 6 thì quân Tào phải rút khỏi Hán Trung, để Trương Cáp và Tào Hồng chia nhau đóng đồn ở Trần Thương và Vũ Đô, sai Tào Chân yểm trợ cho Tào Hồng dần dần rút khỏi Vũ Đô. Sau đó, quân Lưu Bị đánh Phòng Lăng, Thượng Dung và khiến các Thái thú đầu hàng, chiếm lĩnh toàn bộ Tây Xuyên và Đông Xuyên. Tháng 8, Lưu Bị tự xưng là Hán Trung Vương, bổ nhiệm Ngụy Diên làm Thái thú Hán Trung, phòng thủ căn cứ đặc biệt.Về phía Đông, năm 211 tức Kiến An thứ 16, Tôn Quyền bổ nhiệm Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu, Sĩ Nhiếp làm Tả tướng quân của Giao Châu, đồng thời bình định được Lĩnh Nam. Năm 215, khi mà Lưu Bị bình định được Ích Châu, Tôn Quyền lập tức điều Gia Cát Cẩn tới yêu cầu trả lại Kinh Châu, nhưng Lưu Bị trả lời rằng: "Đợi lấy được Lương Châu liền đem Kinh Châu trả lại toàn bộ", ý chẳng khác gì không muốn trả bởi Lương Châu được quân Tào chiếm giữ và xây dựng phòng thủ mạnh mẽ. Nghe lời đáp này, Tôn Quyền giận dữ, phái Lã Mông cướp 3 quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng. Lưu Bị ở Ích châu được tin vội mang 5 vạn quân về thành Công An, sai Quan Vũ mang quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc. Cùng lúc, Tôn Quyền cũng đích thân tới Lục Khẩu và sai Lỗ Túc tiến đến Ích Dương. Hai bên chiến sự giằng co. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Hai bên chiến sự giằng co. Giữa lúc đó có tin đại quân Tào Tháo tiến vào Hán Trung đánh Trương Lỗ, Tây Xuyên bị uy hiếp, đồng thời khó có thể đoạt lại các quận đã mất bởi lực lượng của quân Tôn, Lưu Bị đành phải nhượng bộ, công nhận chủ quyền 3 quận bị chiếm của Tôn Quyền, xin đổi lấy Nam Quận. Tôn Quyền chấp thuận giảng hòa, phân chia lại Kinh châu, hai bên lấy sông Tương Thủy làm ranh giới. Tôn Quyền tiếp tục công nhận phân nửa Nam Quận và trả lại quận Linh Lăng cho Quan Vũ, đổi lại Quan Vũ giao lại quận Trường Sa và Quế Dương cho Tôn Quyền. Từ năm 215, địa bàn Kinh Châu của quân Lưu gồm các quận Vũ Lăng, Linh Lăng, Nghi Đô và một nửa Nam Quận cùng Giang Lăng. Phía Tôn Quyền, sau khi phân chia lại Kinh Châu, thừa dịp Tào Tháo đánh Trương Lỗ đã đem đại quân đánh Hợp Phí, giao chiến với Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến nhưng bị đánh bại. Tháng 3 năm 217, Lỗ Túc chết, quyền lực Đại đô đốc được giao cho Lã Mông, chấp thuận đề xuất hàng Tào Tháo về ngoại giao.
Năm 219, Quan Vũ bắc phạt, tấn công Phàn Thành, giành chiến thắng trước quân của Tào Nhân. Phàn Thành không vẫn còn nằm trong tay quân Tào, Quan Vũ xua quân vây thành, đánh bại Vu Cấm, giết chết Bàng Đức, khiến tình hình nghiêm trọng đến nỗi Tào Tháo muốn bỏ quốc đô Hứa Xương chạy về phía Bắc. Tuy nhiên ở phía Tôn Quyền, với những mâu thuẫn ngoại giao với quân Lưu, đồng thời tuyên bố theo quân Tào và nhận thấy hậu phương Quan Vũ trống trải nên đã nắm lấy cơ hội này, sai Lã Mông cất quân dùng kế "áo trắng qua đò" mà đánh vào Kinh Châu. Hai tướng My Phương và Sĩ Nhân bất bình với Quan Vũ, bèn dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền. Quan Vũ hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui về Kinh Châu mới biết Giang Lăng và Công An đã mất, phải chạy về Mạch Thành ở phía Đông Nam từ Hồ Bắc tới Đương Dương trong tình trạng thân cô thế cô. Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng Quan Vũ. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Quan Vũ giả vờ đầu hàng, nhưng lại dẫn 10 kỵ quân chạy tới Lâm Thư nằm ở Tây Bắc Tương Dương thì bị tướng Tôn là Chu Nhiên và Phan Chương bắt mang về, bị giết chết vào mang đầu đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo hậu táng cho Quan Vũ, lại phong Tôn Quyền làm Phiêu Kị tướng quân, Châu mục Kinh Châu, tước Nam Xương Hầu, nhằm làm Lưu Bị thù hận Tôn Quyền. Từ đó Tôn Quyền khống chế toàn bộ phía Nam sông Trường Giang, gồm Kinh Châu, Dương Châu và Giao Châu.
Tháng giêng năm 220 tức Kiến An thứ 25, Tào Tháo qua đời ở tuổi 65, Tào Phi kế thừa cha làm Ngụy Vương, Thừa tướng, đổi niên hiệu thành Diên Khang, sang tháng 2 thì áp dụng hệ thống quan cửu phẩm. Tới tháng 7, Mạnh Đạt đầu hàng quân Ngụy. Mùa thu năm đó, diễn ra sự kiện Tào Phi soán Hán, buộc Hán Hiến Đế thiện nhượng cho mình sau 30 năm làm vua bù nhìn, đổi xưng là Sơn Dương Công. Tháng 10, Tào Phi tự xưng là Ngụy Hoàng Đế, trở thành vị Hoàng đế đầu tiên của Tào Ngụy, đổi niên hiệu sang Hoàng Sơ, định đô tại Lạc Dương, truy xưng cha mình là Tào Tháo làm Vũ Hoàng Đế. Sau khi lên ngôi, ông đã tiếp tục cuộc chiến của cha mình chống lại Lưu Bị và Tôn Quyền trong giấc mộng thống nhất, bước sang thời kỳ Tam Quốc. Phía Tứ Xuyên, Lưu Bị không thừa nhận Tào Ngụy, không dùng niên hiệu Diên Khang và Hoàng Sơ. Sau khi lên ngôi, Tào Phi cử quân lấy lại Tương Dương từ tay Tôn Quyền. Tháng 1 năm 221 tức Hoàng Sơ thứ 2, Tào Phi bổ nhiệm gia chủ nhà họ Khổng, cháu 20 đời của Khổng Tử là Khổng Di làm Tông Thánh Hầu. Tháng tư năm này, Lưu Bị xưng đế dựa trên cơ sở là tông thất – song chưa được xác định của nhà Hán, lấy quốc hiệu là Hán để kế tục Lưu Hiệp, đặt niên hiệu là Chương Vũ, sử gọi là Thục Hán. Phía Đông thì Tôn Quyền dời đô tới Vũ Xương, phong Lưu Chương làm Châu mục Ích Châu – chức vụ cũ mà chư hầu này từng giữ, bổ nhiệm Chu Thái làm Thái thú Hán Trung, Phan Chương làm Thái thú Cố Lăng, là những hư chức của các địa phương thuộc Thục Hán, với ý đồ nhập Thục diệt Lưu Bị. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tháng 6, Tào Phi giết vợ mình là Chân Hoàng Hậu, Trương Phi bị ám sát mà chết trong thời điểm mà Lưu Bị lấy việc báo thù cho Quan Vũ làm mục tiêu mở chiến dịch tấn công quân Tôn. Tháng 8 thì Tôn Quyền được phong tước Ngô Vương. Trong giai đoạn này, Lưu Bị được xét là xa quê hương – lập quốc ở Tứ Xuyên ở Tây Nam cách quê hương là quận Trác ở Đông Bắc gần 2.000 km, không có địa phương hay huyết thống gia tộc để dựa vào, không có người thân ngoại trừ một người con trai, thuộc hạ cùng gốc gác chỉ có Trương Phi và Giản Ung, muốn đi theo con đường chính nghĩa thì phải diệt Ngụy nhằm "phục hưng Hán thất", cho nên các chiến lược Bắc phạt thứ nhất của Gia Cát Lượng, thứ hai của Khương Duy đã trở thành vận mệnh của Thục Hán, nếu không thì nước này không còn lý do tồn tại. Tuy nhiên, Thục Hán được thành lập bởi chính nghĩa mong manh, chưa kể rằng chính nghĩa đã phai nhạt sau các trận chiến phía Đông và bắc Phạt bất thành, bất chấp sự cống hiến của những người nổi tiếng như Thừa tướng Gia Cát Lượng, nhà Thục Hán vẫn là nước diệt vong đầu tiên trong Tam Quốc, và đây là kết quả không nằm ngoài dự đoán.
Tháng 2 năm 222, các nước Quy Từ, Thiện Thiện từ phía Tây cống nạp cho nước Ngụy, sang tháng sau, quân Thục Hán của Lưu Bị đại bại ở trận Di Lăng trước Lục Tốn, Lưu Bị chạy về thành Bạch Đế. Trong trận Di Lăng, Lưu Bị hạ lệnh cho quân thủy lên bộ hạ trại, lập ra liên tiếp mấy chục doanh trại bằng gỗ cây rừng trong 700 dặm, phạm phải tối kỵ của nhà binh, bị 5 vạn quân Ngô dùng hỏa công đồng loạt đánh vào không kịp trở tay, tan vỡ bỏ chạy. Tháng 9, Tào Phi lệnh cho Tôn Quyền gửi Thái tử Tôn Đăng đến Ngụy Đô Lạc Dương làm con tin nhằm bày tỏ lòng trung thành nhưng Tôn Quyền từ chối và tuyên bố độc lập bằng việc đổi niên hiệu sang Hoàng Vũ, Ngụy bèn xuất binh phạt Ngô. Sau đó 2 tháng, Thục Hán cùng phía Tôn giảng hòa, Thục Hán vừa khiến thiên hạ thất vọng vì xưng đế mà không phạt Ngụy lập Hán lại tấn công Ngô trước, vừa không còn gây uy hiếp cho Ngô được nữa. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tháng 2 năm 223, quân Ngô ở Nhu Tu được chỉ huy bởi Chu Hoàn đánh bại quân Ngụy của Tào Nhân. Sau đó 2 tháng, Lưu Bị qua đời ở tuổi 62, đưa Thái tử Lưu Thiện kế vị. Vào tháng 10, Thục Hán cử Đặng Chi đi sứ Ngô, thuyết phục kết minh và Ngô đồng ý, cắt đứt quan hệ với Tào Ngụy. Quyền lực triều đình Thục Hán được giao cho Gia Cát Lượng, từ đây thế cục Tam Quốc một lần nữa đổi thành liên minh Đông Ngô–Thục Hán đối kháng Tào Ngụy. Sang tháng 4 năm 224, Tào Ngụy thiết lập thái học, thi tiến sĩ, Ngô cử Trương Ôn đi sứ Thục Hán, đến tháng 9 thì Tào Phi thân chinh phạt Ngô, tiến quân tới Quảng Lăng thì thất bại. Tháng 2 năm 225, Gia Cát Lượng mở chiến dịch Nam Trung, đem theo các tướng Lý Khôi, Mã Trung, phân thành 3 nhánh và đánh bại Ung Khải, Mạnh Hoạch, bình định phương Nam. Tháng 3 năm này, Ngụy cử tướng Luơng Tập đánh bại Kha Bỉ Năng, đến tháng 10 thì tấn công Quảng Lăng một lần nữa nhưng tiếp tục thất bại. Vào năm 226, Thái thú Giao Chỉ Sĩ Nhiếp chết, Ngô cử Lã Đại tới tiếp quản, giết 5 người con của Sĩ Nhiếp ngoại trừ Sĩ Hâm và trực tiếp thống trị Giao Châu. Tháng 5 năm này thì Tào Phi chết, Thái tử Tào Duệ kế vị. Tháng 8 năm này, tận dụng vị Ngụy thay vua, Tôn Quyền đem quân tấn công Tương Dương nhưng thất bại. Năm 229, Tôn Quyền chính thức xưng đế, là Ngô Đại Đế, đổi niên hiệu sang Hoàng Long, dời đô lên Kiến Nghiệp, chính thức tồn tại ba quốc gia có vua là Hoàng đế, sử gọi là nhà Đông Ngô hoặc Tôn Ngô. Về mặt lịch sử, các nhà sử học đời sau cho rằng việc phân chia Tam Quốc đã bắt đầu từ sau trận Xích Bích, đến năm 220 thì Tào Phi soán ngôi Đông Hán, lập Tào Ngụy, bước sang thời kỳ Ngụy–Tấn–Nam–Bắc triều. Tuy nhiên, định nghĩa chặt chẽ nhất về sự xác lập của Tam Quốc phải là năm 229, khi mà ba quốc gia cùng đều có quân chủ là Hoàng đế.
Tranh chấp trong ngoài. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tranh chấp trong ngoài.
Sau khi Lưu Bị chết, vùng Nam Trung của Thục Hán nổi loạn, Gia Cát Lượng dùng "tâm chiến" dẹp yên loạn ở phía Nam, không xuất binh, không vận lương mà quản lý thực tế, khiến Nam Trung nhìn chung ổn định, mặc dù sau đó vẫn có loạn lạc lẻ tẻ, nhưng tất cả đều bị Mã Trung, Trương Ngực dẹp loạn. Thục Hán do Gia Cát Lượng lãnh đạo đối phó Tào Ngụy, suốt những năm 227–234 đã có 6 lần phát sinh cuộc chiến Thục – Ngụy, trong đó 5 lần Bắc chinh, 1 lần phòng ngự cuộc Nam chinh của Tào Chân, sử xưng là Gia Cát Lượng Bắc phạt. Tháng 3 năm 227, Gia Cát Lượng tấu xuất sư biểu cho Lưu Thiện, xuất binh từ Hán Trung, sang tháng 10 thì Yên Kỳ Quốc Vương Vương Tử nộp cống cho Ngụy, tháng 11 thì tướng Mạnh Đạt phản Ngụy theo Thục nhưng bị Tư Mã Ý giết. Năm 228, Liêu Đông Công Tôn Khang chết, con là Công Tôn Uyên kế vị, phía Tây Nam thì Gia Cát Lượng Bắc phạt thứ nhất và thứ 2, còn ở phía Đông thì vào tháng 8, Ngô sai Chu Phường giả vờ hàng Ngụy, sau đó Lục Tốn tại Thạch Đình đại phá Tào Hưu.
Mùa xuân năm 229, Gia Cát Lượng Bắc phạt, chiếm cứ quận Vũ Đô rồi Âm Bình. Ông nhiều lần đánh bại quân Ngụy, giết các tướng Trương Cáp, Vương Song, tuy nhiên gặp khó khăn trong khâu tiếp tế và duy trì vì địa hình hiểm trở, phía Ngụy chỉ huy bởi Tư Mã Ý nhìn chung phòng thủ vững chắc với lương thảo đầy đủ, Gia Cát Lượng cuối cùng chưa thể đánh hạ Trường An, qua đời năm 234 ở Ngũ Trượng Nguyên ở tuổi 53. Các tướng kế thừa là Ngụy Diên và Dương Nghi đấu đá nội bộ mà chết, quân Thục mất đi tướng lãnh đạo. Vào thời điểm này, nhận thấy sự mất mát nhân sự lớn của Thục Hán, Tôn Quyền cho rằng nước này rất có khả năng sẽ bị Tào Ngụy tiêu diệt, liền gửi thêm quân tới phía Tây hỗ trợ Thục Hán phòng ngự, cũng chuẩn bị cho việc khi Thục Hán bại vong thì cùng Tào Ngụy chia cắt lãnh thổ. Tướng Đông Ngô Toàn Tông thời điểm này cũng tập kích hòng chiếm lấy thành Bạch Đế của Thục Hán nhưng bất thành, song mối quan hệ Ngô–Thục không vì vậy mà tan vỡ. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Tại Thục Hán, cục diện chính trị sau Gia Cát Lượng được giao cho Tưởng Uyển, Phí Y cùng Đổng Doãn duy trì, tạm dừng việc Bắc phạt. Sau đó Tưởng Uyển và Phí Y lần lượt qua đời, Khương Duy kế nhiệm và bắt đầu triển khai Bắc phạt trở lại ròng rã 15 năm 247–262 song không đem lại hiệu quả rõ ràng, tiêu hao quốc lực. Khương Duy chuyên chú tấn công phía Bắc, trong nước thì đại thần nội trị Đổng Doãn qua đời, Lưu Thiện dùng các hoạn quan Hoàng Hạo cùng Trần Chi để quản lý và làm bại hoại triều chính. Đợi đến khi Khương Duy đối phó Hoàng Hạo thì thất thế, phải tới Đạp Trung để tránh tai họa.
Tôn Ngô vì liên minh với Thục Hán đã phái Đại Đô đốc Lục Tốn, tướng Gia Cát Cẩn đánh Hợp Phì, Tương Dương, Giang Hạ của Tào Ngụy, nhưng thành quả không lớn. Tôn Quyền phân công Cố Ung làm Thừa tướng nước Ngô trong 19 năm, phụ chính đại thần Gia Cát Khác thành công trong việc thu phục tộc Sơn Việt, đánh bại khởi nghĩa Bà Triệu ở Giao Chỉ, yên ổn hậu phương, tăng thêm số lượng nhân khẩu cùng quân đội. Nhà Ngô nhìn chung bình ổn, tuy vậy Tôn Quyền đến lúc tuổi già đã thiếu sự minh mẫn, làm phát sinh không ít sai lầm ảnh hưởng chính trị nội bộ. Phía đối ngoại, ông không nghe tời quần thần, lầm tưởng Liêu Đông Công Tôn Uyên quy hàng dẫn đến bị tổn thất quân lương phía Bắc. Khi con cả là Thái tử Tôn Đăng chết ở tuổi 33, tranh cãi về việc lập người kế vị trong triều đình phát sinh khiến Tôn Quyền chán nản và suy kiệt. Ông lập con trai thứ 3 là Tôn Hòa làm Thái tử năm 242 nhưng lại cho phép người con thứ 4 là Tôn Bá được đối xử ngang Thái tử khiến mâu thuẫn phe phái nảy sinh, sử gọi là "nhị cung chi tranh", trước đó là việc sát hại các quan Trương Ôn, Kỵ Diễm và việc Lã Nhất loạn chính. Khi Đại Đô đốc Lục Tốn cố gắng để bảo vệ Tôn Hòa, Tôn Bá vu cáo ông bằng những tội lỗi không có thật khiến Tôn Quyền giận dữ và đay nghiến Lục Tốn, cuối cùng Lục Tốn lo buồn mà chết. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Sau đó, Tôn Quyền buộc Tôn Bá phải tự tử và phế truất Tôn Hòa, lập con út là Tôn Lượng mới 8 tuổi làm Thái tử, diệt trừ nhiều phe cánh đại thần của Tôn Hòa. Năm 251, Tôn Quyền hạ chiếu lập hậu – người được chọn là mẫu thân của Tôn Lượng, tức phu nhân Phan Thục làm Phan Hoàng Hậu. Năm 252, Tôn Quyền phong Vương cho các con, trong cùng năm thì Phan Hoàng Hậu bị ám sát và chết chưa rõ lý do, đến ngày 21 tháng 5 thì Tôn Quyền chết ở tuổi 70. Sau đó Thái phó Gia Cát Khác phụ tá Tôn Lượng kế vị, đem quân Bắc phạt nhưng thất bại và làm mất lòng người, không lâu sau bị Tôn Tuấn cùng Tôn Lượng giết chết. Sau đó, Tôn Tuấn và em họ Tôn Lâm giữ đại quyền, chuyên quyền tạo ra nhiều mâu thuẫn, chết giao quyền cho Tôn Lâm, sau đó Tôn Lượng bị phế truất bởi Tôn Hưu, đồng thời vua mới cùng Đại tướng quân Đinh Phụng giết Tôn Lâm, nền triều chính Đông Ngô ngày một suy yếu.
Ở phía Tào Ngụy, chiến tranh chủ đạo đối đầu với Thục Hán và Đông Ngô. Sau khi Tào Phi chết, Tào Chân, Tào Hưu, Tư Mã Ý cùng Trần Quần phụ tá Tào Duệ, còn tiền phương giao cho 2 đại tướng Trương Cáp và Mãn Sủng. Trong những vị tướng của Tào Ngụy thời kỳ này, nổi bật nhất là Tư Mã Ý, ông đã chống lại thành công các đợt Bắc phạt của Thục Hán, tiêu diệt nước Yên của Công Tôn Uyên trong trận Liêu Đông. Sau khi Tào Duệ chết năm 239, Tào Sảng và Tư Mã Ý được giao làm phụ chính đại thần phò tá Tào Phương, đồng thời bắt đầu phát sinh đấu tranh quyền lực giữ 2 người. Cuối cùng Tư Mã Ý phát động chính biến năm 249, sử xưng là sự biến lăng Cao Bình, giết chết Tảo Sảng và phe cánh, đưa họ Tư Mỹ kiểm soát hoàn toàn triều chính nước Ngụy. Hai con của Tư Mã Ý là Tư Mã Sư, Tư Mã Chiêu lần lượt cầm quyền chính trị lẫn quân sự, triển khai ngoài trừ phe đối lập, trong phế truất Nguỵ Đế. Những năm này, nhà Tư Mã đã dần tiêu diệt các thế lực địa phương nước Nguỵ, tiến hành ba lần binh biến Thọ Xuân và lần lượt giết Vương Lăng, Quán Khâu Kiệm, Văn Khâm, Gia Cát Đản và quân đội viện trợ của Đông Ngô. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Trong thời kỳ cha con nhà Tư Mã chuyên chính này, các văn thần vũ tướng ủng hộ Ngụy Đế hoặc phản đối nhà Tư Mã thì hoặc bị tiêu diệt, hoặc phải chạy trốn về Đông Ngô lẫn Thục Hán, sau đó Tư Mã Chiêu phế Tào Phương, lập Tào Mao, lại tiếp tục phế Tào Mao, lập Tào Hoán làm Nguỵ Đế cuối cùng, chuẩn bị cho sự soán vị xưng đế của nhà Tấn.
Nhà Tấn thống nhất.
Sau khi làm tốt công tác chuẩn bị, thừa dịp Thục Hán tranh chấp nội bộ khiến Khương Duy lánh về Đạp Trung, Tư Mã Chiêu mở chiến tranh Thục – Ngụy năm 263. Ông phái các tướng Chung Hội, Đặng Ngải, Gia Cát Tự chia binh ba đường xuôi Nam vào Hán Trung. Khương Duy ngay lập tức đem quân tới Kiếm Các để chặn Chung Hội. Đặng Ngải vượt Âm Bình, đi qua con đường nhỏ tiến sát Thành Đô, tới Miên Trúc và đánh bại cánh quân phòng thủ của Gia Cát Chiêm, đoạt lấy Thành Đô khiến Lưu Thiện đầu hàng, Thục Hán diệt vong. Ở Kiếm Các, Khương Duy thua trận và đầu hàng trước Chung Hội, lập mưu xúi Chung Hội làm phản để cứu Thục Hán nhưng bất thành, thua trận và bị giết. Hai tướng Ngụy là Chung Hội và Đặng Ngại lập đại công diệt Thục, song Chung Hội muốn làm phản nên bị giết, Đặng Ngải công lao lớn bị nghi ngờ nên cũng bị giết, đều bởi Vệ Quán. Lúc ấy phía Tôn Ngô có ý đồ đánh vào đất Thục nhưng bị tướng cũ của Thục Hán là La Hiến chặn đường ở quận Ba Tây, thất bại lui về.
Phía Đông Ngô, năm 264 tức 1 năm sau khi Thục Hán diệt vong thì Tôn Hưu chết khi 30 tuổi, di chiếu lập Thái tử Tôn Quân kế vị, nhưng bởi người kế vị còn quá nhỏ tuổi, các quan như Bộc Dương Hưng, Trương Bố và Vu Quốc bàn nhau phế Thái tử, lập con trưởng của cựu Thái tử Tôn Hòa tức Ô Trình Hầu Tôn Hạo lên làm vua. Trong thời gian trị vì, Tôn Hạo hoang dâm vô đạo, xa xỉ cùng cực, giết hại trung lương, tin dùng hoạn quan, việc chính sự thì ít để tâm tới, vì thế quốc lực Giang Đông suy yếu, các đại thần lập ngôi là Bộc Dương Hưng cùng Trương Bố không lâu cũng bị giết. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Song Tôn Hạo vẫn dùng Lục Khải làm Thừa tướng, giữ Lục Kháng trấn thủ Giang Lăng, Kinh Châu, duy trì triều chính Đông Ngô. Năm 265, Ta Mã Chiêu qua đời, con trai Tư Mã Viêm kế vị Tấn Vương, cuối năm thì bắt Hoàng đế Tào Hoán của Tào Ngụy thoái vị và giao lại triều đình cho mình, đăng cơ trở thành Tấn Vũ Đế, thành lập nhà Tây Tấn. Sau đó, Tây Tấn bắt đầu chuẩn bị chiến lược chinh phạt Đông Ngô, sai Vương Tuấn chế tạo thuyền chiến từ Ích Châu, cử Dương Hỗ trấn thủ Tương Dương và trực tiếp đối đầu với Lục Kháng ở Giang Lăng. Đô đốc Dương Hỗ thực hiện chính sách "bảo vệ bờ cõi, không tham lợi nhỏ", tiến hành quốc phòng và hỗ trợ dân chúng, gián tiếp làm dao động lòng dân của Kinh Châu. Tuy nhiên, lúc bấy giờ Thái thú Tây Lăng Bộ Xiển hàng Tấn, Dương Hỗ được lệnh đem quân chi viện, đánh Giang Lăng song bất thành do phòng thủ vững chãi, đồng thời Lục Kháng đánh trả và thành công phá hoại đường vận chuyển lương thảo của quân Tấn, thành công giữ vững Kinh Châu. Trong những năm này, vùng Lĩnh Nam của Đông Ngô thời Tôn Hạo có 2 lần phản loạn theo phe phương Bắc, quân Ngô ý đồ đoạt lại nhưng bị đánh bại bởi Mao Cảnh. Năm 269, Tôn Hạo cử Ngu Dĩ, Tiết Hủ và Đào Hoàng chia làm 2 đường tới Hợp Phố đánh bại Mao Cảnh, chiếm lại Giao Châu. Tôn Hạo cũng khởi xướng Bắc phạt năm 271 nhưng thất bại. Năm 279, thuộc hạ Tu Doãn là Quách Mã tạo phản Quảng Châu, Đông Ngô cử Đằng Tu, Đào Tuấn và Đào Hoàng đi dẹp loạn. Cùng năm thì đại quân nhà Tấn bắt đầu xuất chinh Nam tiến, Đông Ngô tràn ngập hiểm nguy.
Đại thần trọng yếu của Đông Ngô là Lục Khải và Lục Kháng bảo vệ đất nước được hơn 10 năm thì lần lượt chết, Đô đốc Tây Tấn Dương Hỗ đề xuất phạt Ngô nhưng bị đại thần Giả Sung phản bác. Năm 279, sau khi Dương Hỗ chết, cuộc nổi dậy ở Tây Bắc bắt đầu lắng dịu, hai vũ tướng Vương Tuấn, Đỗ Dự đề nghị xuất phạt Ngô dựa trên chiến lược và kế sách của Dương Hỗ, song Giả Sung, Tuân Úc lại cho rằng Tây Bắc vẫn chưa hoàn toàn ổn định nên phản đối. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Cuối cùng Tư Mã Viêm quyết định vào cuối năm này phát động chinh phạt Đông Ngô, sử gọi là chiến tranh Tấn – Ngô. Tây Tấn điều 20 vạn quân, cử Giả Sung làm Đại Đô đốc nhưng thoái thác không tham chiến, tướng Vương Tuấn, Đường Bân chỉ huy cánh quân thượng du, Đỗ Dự và Hồ Phấn, Vương Nhung lĩnh quân trung du, Vương Hồn, Tư Mã Trụ lĩnh quân hạ du, tạo thành 6 cánh quân Nam tiến. Tháng 1 năm 280, Tôn Hạo nóng lòng muốn đánh, cử Thừa tướng Trương Đễ, tướng Thẩm Oánh, Gia Cát Tịnh vượt sông đối chiến nhưng thua trận, đều bị giết. Tướng Vương Tuấn đem quân xuôi theo Trường Giang phối hợp các cánh quân khác dần đánh hạ Tây Lăng, Giang Lăng, Vũ Xương cùng Tầm Dương, trung du Đỗ Dự cũng đoạt lấy phía Nam Kinh Châu. Sang tháng 3, quân Tấn vây kinh đô Kiến Nghiệp, Tôn Hạo cho rằng đại thế đã mất đành đầu hàng. Các quan Đào Hoàng, Đằng Tu cũng biểu thị quy thuận. Đông Ngô chính thức diệt vong, Tây Tấn thống nhất thiên hạ. Đến đây thời đại Tam quốc kết thúc, tiến vào thời kỳ của triều Tấn.
Lãnh thổ và phân chia hành chính.
Tam Quốc chia làm Tào Ngụy, Thục Hán cùng Đông Ngô. Thời đại này đa phần kế thừa phân cấp, chế độ và đơn vị hành chính thời Đông Hán, gồm châu, quận, và huyện, tức 3 cấp hành chính. Lãnh đạo châu thì là Thứ sử hoặc Châu mục, ở quận thì là Thái thú, ở huyện thì là Huyện lệnh, Huyện trưởng. Về đơn vị hành chính cấp quận, thủ đô của Tào Ngụy là Lạc Dương thuộc quận Hà Nam; kinh đô Thục Hán là Thành Đô thuộc quận Thục; và kinh đô Đông Ngô là Kiến Nghiệp thuộc quận Đan Dương. Tào Ngụy thiết lập lại vương quốc, thường phong cho hoàng thất họ Tào, đặt tướng của nước nhỏ, ngang cấp quận. Phía Đông Ngô có vùng Bì Lăng – nay là Thường Châu, Giang Tô được sắp xếp cơ chế điển nông hiệu úy đóng góp cho nền sản xuất nông nghiệp điển hình thời kỳ này, có quyền quản lý 3 huyện và ngang cấp quận. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Bên cạnh đó, nhà Ngô còn lập chức Đô úy quản lý một số khu vực cấp dưới quận có phạm vi quyền hạn rộng lớn, được đặt tên theo Đông, Tây, Nam và Bắc, đặt trụ sở thường trú và lãnh đạo, nhiều khu vực trong số đó chính thức trở thành quận vào thời kỳ sau. Về đơn vị hành chính cấp huyện, Tào Ngụy có công quốc, hầu quốc, bá quốc, tử quốc, nam quốc được phong cho quan chức với tước vị công, hầu, bá, tử, nam tương ứng, và những "quốc" này tương đương với huyện. Phía Đông Ngô thì thiết lập một số vị trí Đô úy quản lý huyện ở quận thủ phủ Đan Dương.
Lãnh thổ chủ yếu của Tào Ngụy được xác lập bởi Tào Tháo trong sự nghiệp chinh chiến của mình, đến Tào Phi xưng đế lập quốc thì chiểm lĩnh toàn bộ khu vực Hoa Bắc và Trung Nguyên. Nước Ngụy phía Bắc và Đông Bắc tới Sơn Tây, Hà Bắc cùng Liêu Đông, giáp ranh Nam Hung Nô, Tiên Ti và Cao Câu Ly; phía Đông đến Hoàng Hải; Đông Nam cùng Đông Ngô giằng co tại Trường Giang, Hoài Hà và Hán Thủy, lấy thành Thọ Xuân, Tương Dương làm điểm mấu chốt; phía Tây là Cam Túc, cùng tộc Hà Tây Tiên Ti, tộc người Khương, người Đê; phía Tây Nam cùng Thục Hán giằng co tại Tần Lĩnh, 1 dải hành lang Hà Tây, lấy cố đô Trường An làm trọng trấn. Sau khi lập quốc, Ngụy vốn có lãnh thổ lớn nhất với 87 quận cùng 12 châu, gồm: Ti Lệ, Từ Châu, Thanh Châu, Dự Châu, Ký Châu, Tịnh Châu, U Châu, Duyện Châu, Lương Châu, Ung Châu, phía Bắc Kinh Châu, phía Bắc Dương Châu. Tào Ngụy tại Tây Vực thiết lập đơn vị Tây Vực trường sử quản hạt Hải Đầu – nay là Lop Nur, Giáo ủy quản lý Cao Xương. Năm 221, khi Tôn Quyền được phong Ngô Vương thì chiếm hữu Kinh Châu và được Ngụy phong làm Châu mục, đem Kinh Dương và các khu vực kế cận do Tôn Quyền giữ đặt tên là Kinh Châu, các vị trí phía Bắc Kinh Châu do Tào Ngụy giữ thì đổi về Dĩnh Châu. Sau đó, song phương đấu quyết liệt về việc Tào Ngụy đổi tên phần Dĩnh Châu về lại tên Kinh Châu. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Giai đoạn 220–226, phần Lũng Hữu nơi thường xuyên diễn ra đại chiến Thục – Ngụy được phân tách làm Tần Châu, cuối cùng nhập vào Ung Châu. Sau khi nhà Thục Hán bị tiêu diệt, Ích Châu được chia thành Lương Châu, tổng cộng có thêm hai châu.
Thục Hán được Lưu Bị xây dựng, sau mấy mươi năm chinh chiến nhưng chưa đạt được thành tựu, thẳng đến khi được Gia Cát Lượng phò tá, tham gia đại chiến Xích Bích năm 208 thì bắt đầu có vị trí, từ việc chiếm lĩnh phía Nam Kinh Châu mà bắt đầu phát triển. Thế lực bao gồm phần lớn Kinh Châu, Ích Châu cùng Hán Trung. Sau khi lập quốc thì nhiều lần phát sinh chiến tranh Thục – Ngô, Thục Hán thua mất Kinh Châu, bên cạnh đó thì có thêm 1 dải Vân Nam khi mà Gia Cát Lượng bình định Nam Trung, nội trị dần dần ổn định. Lãnh thổ gồm phương Bắc giằng co với Tào Ngụy tại Tần Lĩnh, lấy Hán Trung làm thành trì chủ chốt; phía Đông giáp Đông Ngô 1 dải Tam Hiệp, lấy Ba Tây làm trọng trấn; phía Tây Nam chiếm lĩnh Mân Giang, Nam Trung, giáp với khu vực của người Khương, người Đê cùng người Nam Man. Thục Hán tổng cộng có 22 quận, vẻn vẹn một châu là Ích Châu. Tại Ích Châu có thiết lập chức vụ Đô đốc Lai Hàng quản lý Khúc Tĩnh và chuyên khu Nam Trung.
Đông Ngô được Tôn Sách xây dựng ban đầu khi chiếm được phần lớn Dương Châu. Sau đó Tôn Quyền kế vị, sau chiến thắng trận Xích Bích thì lấy được một phần Kinh Châu, Giao Châu, sau đó đánh bại Quan Vũ rồi lấy được toàn bộ Kinh Châu, ổn định từ khi Tôn Quyền xưng đế. Đông Ngô và Tào Ngụy giằng co tại dải Trường Giang, Hoài Hà, Hán Thủy một vùng, lấy Kiến Nghiệp, Giang Lăng làm trọng trấn; phía Tây cùng Thục Hán liền nhau tại Tam Hiệp, lấy Tây Lăng làm trọng trấn; phía Đông giáp biển Hoa Đông, Nam giáp biển Đông, trong đó cực Nam là Trung Bộ của Việt Nam hiện tại. Đông Ngô vốn có 32 quận cùng 3 châu là Kinh Châu, Dương Châu, Giao Châu, đến năm 226 thì lập thêm Quảng Châu, sau nhập vào Giao Châu, rồi đến năm 264 thì thiết lập lại Quảng Châu.
Thể chế chính trị. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Thể chế chính trị.
Tào Tháo có thể kiểm soát quyền lực vì quyền lực của triều đình tập trung ở Thượng thư đài, sau đó để ngăn cản việc Thượng thư đài là cơ quan hành chính giữ quyền lực quá lớn, Tào Phi đã tách quyền và thành lập mới Trung thư viện – cơ quan ra quyết định, chế độ chính trị bắt đầu có xu hướng tới tam tỉnh lục bộ. Ngoài ra, một thể thức tổ chức nhỏ mới được thành lập và hoạt động linh hoạt tách ra từ Thượng thư đài nữa được gọi là Hình đài, từ Thượng thư đài phân ra bộ phận quan viên đi theo và giúp Hoàng đế xử lý công việc. Ở địa phương, xuất hiện loại hình Đô đốc tương tự với Tư lệnh Quân khu, trong đó chức "Đô đốc trung ngoại chư quân sự" nắm giữ quyền lực quân sự trung ương, trên thực tế ba thế hệ nhà Tư Mã đã dùng chức vụ này để kiểm soát triều đình Tào Ngụy. Phía Đông Ngô cũng sắp đặt Trung thư lệnh cùng Đô đốc trung ngoại chư quân sự. Tam Quốc đều cùng thiết lập Ngự sử đài là cơ quan giám sát.
Trước sự cai trị giảm sút nghiêm trọng, càng lúc càng yếu của giai đoạn cuối nhà Đông Hán, Tào Tháo theo quan điểm dùng người không chú trọng đạo đức giả, phản đối dùng người bằng quan hệ và lợi ích nhóm là "A đảng bỉ chu", áp dụng chính sách chỉ cần có tài là tuyển, đưa ra phương thức cầu hiền 3 lần. Tào Tháo coi con người là tài sản quý nhất, dùng trí thông minh để lãnh đạo họ, dùng "pháp thuật" để điều khiển họ, và với chính sách này thì ông đã cải thiện rất nhiều tình trạng chuyên quyền và xóa bỏ cục diện tranh chấp ngoại thích cùng hoạn quan đầy đen tối của chính trị dưới thời Hán mạt. Năm 220, khi Tào Ngụy được thành lập, Tào Phi chấp thuận đề xuất thành lập cơ chế trung chính cửu phẩm của Trần Quần, là một hệ thống mới để tuyển chọn nhân tài, thay thế chế độ sát cử của nhà Hán. Nội dung chính của hệ thống này là bổ nhiệm quý tộc địa phương làm quan chức trung chính ở địa phương, và quan chức trung chính sẽ đánh giá người dân địa phương dựa trên gia cảnh, đạo đức và tài năng, kết quả đánh giá theo các tiêu chuẩn này sẽ được trình lên trung ương làm cơ sở cho việc bổ nhiệm nhân tài. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Bởi vì hệ thống này hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí hoặc lợi ích của các viên quan trung chính – thường do quý tộc nắm giữ, cho nên quý tộc gần như độc quyền hoàn toàn các vị trí chính thức. Điều này đặt nền tảng cho chính trị quý tộc thời Tây Tấn, hình thành cục diện "thượng lưu không hàn môn, hạ phẩm không quý tộc", mãi đến thời nhà Tùy mới bị thay thế bởi hệ thống khoa cử. Trong triều Ngụy, hệ thống nhân tài được chia thành nhiều bộ phận, trong đó lấy chủ lực từ gia tộc Tào và Hạ Hầu, như Tào Nhân, Tào Hồng, Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên. Bộ phận thứ hai là một số lượng lớn các danh sĩ vào cuối thời nhà Hán như Tuân Úc, Tuân Du, Chung Do, Trần Quần, Tư Mã Ý, Hoa Hâm, Vương Lãng, những nhân sĩ này đã đóng góp lớn trong việc ổn định nội trị, lật đổ nhà Hán để lập Ngụy. Bộ phận thứ ba là Hoàng tộc họ Lưu như Lưu Diệp, Lưu Phóng, Lưu Phức, hầu hết họ từ bỏ thân phận Hoàng tộc của mình để ủng hộ họ Tào. Và bộ phận cuối cùng, đồng thời đông đảo nhất là những người đến từ nhiều nơi, có nhiều xuất phát điểm và bất kể từng là tướng địch nhưng chỉ cần có tài thì đều được Tào Tháo trọng dụng, chẳng hạn như Trương Liêu, Vu Cấm, Nhạc Tiến, Bàng Đức. Về sau, hệ thống chính trị Tào Ngụy hình thành 2 phe phái chính, gồm thế gia vọng tộc xuất thân Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên – tức phái Nhữ Dĩnh; và các tướng soái gia tộc Tào và Hạ Hầu từ quê hương của Tào Tháo là hiệu Tiêu, Duyện Châu – tức phe Tiêu Phái, tại thời kỳ Tào Tháo còn sống đều ra sức chồng chéo và ủng hộ. Tuy nhiên, do tranh chấp quyền thừa kế, Thế tử Tào Phi có mối quan hệ tốt hơn với phái Nhữ Dĩnh, và có các thần tử là Trần Quần, Tư Mã Ý, Ngô Chất, Chu Thước – gọi là tứ hữu, sau đó thì dần ép và làm suy yếu sức mạnh của Tiêu Phái.
Đối với Thục Hán, khi còn Gia Cát Lượng thì ông nắm giữ binh quyền như tể tướng, sau khi Gia Cát Lượng qua đời thì không lập chức này nữa. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Chính sự đổi về tay Thượng thư lệnh, binh quyền về tay Đại tư mã, Đại tướng quân nắm quyền chỉ huy quân sự tối cao. Sau khi nhập Thục, Gia Cát Lượng đề xướng chủ trương "trị thực bất trị danh", tức cai trị bằng tinh thần và đi vào thực tế, đề cao sự kiểm chứng và xác minh trong triều chính, không đề cao danh vọng hay tiếng tăm hão huyền. Đối với nội bộ, ông dùng tâm để bình loạn Nam Trung, đạt được hiệu quả ổn định nội bộ. Đối với Đông Ngô, ông khai thác khả năng ngoại giao, giữ kết minh với Ngô và tập trung Bắc phạt, loại trừ "Đông cố chi hoạn", tức rắc rối từ phía Đông. Ông dùng pháp trị, trước trị kẻ mạnh, sau trị kẻ yếu, trấn áp hào cường và trấn an bách tính, đề xướng chuẩn mực quy phạm, ước chế chức quan, nghiêm ngặt tuân theo hệ thống quyền chế đã xây dựng, cởi mở chân thành và hành xử công bằng. Luật cơ bản thức Thục khoa được soạn bởi Gia Cát Lượng, Pháp Chính, Lưu Ba, Lý Nghiêm, Y Tịch. Nhân tài của Thục Hán có ba nhóm, đầu tiên là những công thần khai quốc đi theo Lưu Bị từ thuở đầu như Quan Vũ, Trương Phi; thứ hai là các sĩ phu gia nhập trong quá trình chinh chiến bốn phương như Gia Cát Lượng, Bàng Thống, Pháp Chính và tạo thành xương sống của Thục Hán; và thứ ba là nhóm nhân sĩ trước thuộc Lưu Chương, sau theo Lưu Bị như Ngô Ý, Hứa Tĩnh, Lý Nghiêm. Sau khi Lưu Thiện kế vị, các chính sách đa phần đều do Gia Cát Lượng chủ trì. Ông đặt ra các quy tắc trong triều đình và khuyên nhủ các quan, trong và ngoài triều thanh liêm, lòng người không loạn. Tuy đánh Ngụy nhiều năm nhưng nền kinh tế Thục Hán không bị thiệt hại quá nhiều, có nhận xét cho rằng Thục Hán thời Gia Cát Lượng cai trị quang minh, ruộng khai khẩn nhiều, kho thóc kiên cố, binh khí sắc bén, tích lũy đồ sộ, cung triều không hoa lệ, trên đường không có người say. Sau khi Gia Cát Lượng chết, Tưởng Uyển, Phí Y, Đổng Doãn, Khương Duy đều tiếp tục duy trì chính sách của ông, tuy nhiên về sau Lưu Thiện tin dùng hoạn quan, triều chính dần suy yếu. Mặc dù vậy, cho đến khi nhà Thục Hán diệt vong, nền chính trị địa phương vẫn được coi là trong sạch. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Về Đông Ngô cũng coi Thừa tướng là vị trí thường trực phụ trách chính sự, có quyền thảo luận và tham chính. Tôn Lượng kế vị lúc tuổi nhỏ, vị trí Thừa tướng lần lượt do tông thất Tôn Tuấn, Tôn Lâm đảm nhiệm, tiến hành phế lập quân vương, quyền thế lồng lộng. Về quân quyền thì lấy Đại tư mã, Đại tướng quân và Thượng Đại tướng quân nắm giữ binh quyền, trong đó có chức vụ Đô đốc trung ngoại chư quân sự là đặc biệt quan trọng. Chính sách cai trị đất nước của Đông Ngô là dựa trên ưu thế bảo vệ của các con sông Trường Giang, Hoài Hà, Hán Thủy, trong nước thì ban ân đức đi kèm quản chế, hệ thống chính trị gần giống với Đông Hán. Chính quyền được ủng hộ bởi các thế gia vọng tộc gốc Giang Bắc nhưng vượt Trường Giang về phía Nam như Trương Chiêu, Chu Du, Lỗ Túc, các thế gia vọng tộc Giang Nam như Cố Ung, Lục Tốn, Lục Kháng. Về nông nghiệp, Đông Ngô ban hành chính sách "phục khách chế", tức miễn thuế cho một số bộ phận mà chủ yếu là quan lại, đồng thời miễn khóa dịch – tức thuế khóa, quản thúc, giám sát – cho nhiều tá điền, trên thực tế đã giảm bớt áp lực cho địa chủ, đồng thời chính sách này tạo cơ sở cho chế độ "ấm thân chế" – tức hưởng kế thừa phong ấm các đời và miễn thuế, sưu dịch thời Tây Tấn. Nhìn chung, mặc dù Tôn Quyền đã xây dựng hệ thống thủy lợi với sự hỗ trợ của Cố Ung giúp phía Nam Trường Giang được phát triển, tuy nhiên, ông không xử lý tốt vấn đề thừa kế, khiến tình hình chính trị sau này bất ổn. Sau khi Tôn Quyền chết, triều chính dần mâu thuẫn nghiêm trọng, các quyền thần Tôn Tuấn, Tôn Lâm kiểm soát. Đến lượt Tôn Hưu, các đại thần cho rằng Thái tử tuổi nhỏ nên đã lập Hoàng tộc lớn tuổi hơn là Tôn Hạo kế vị, nhưng gặp phải một đế vương hoang dâm, độc ác và tham lam, dẫn đến sự sụp đổ của Đông Ngô. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Trong lịch sử thế giới, Trung Quốc là một đế quốc rộng lớn và thống nhất lâu dài với 400 năm trước đó của nhà Hán, sang thời đại Tam Quốc tuy chiến tranh liên miên nhưng đều hướng tới mục đích mạnh mẽ nhất là thống nhất đất nước, và điều này đã góp phần ảnh hưởng đến các nước láng giềng là Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Quan hệ đối ngoại.
Quan hệ ngoại giao giữa 3 nước chủ yếu là liên minh Thục Hán–Đông Ngô chống Tào Ngụy, cũng đồng thời là 3 nước kiềm chế lẫn nhau. Liên minh này là kế sách được xây dựng bởi Gia Cát Lượng dựa trên chiến lược Long Trung đối sách, trải qua ba giai đoạn: thành lập, phá vỡ và duy trì. Khi Tào Tháo tiến quân về phía Nam đến Kinh Châu, Lỗ Túc đã thuyết phục Tôn Quyền thành lập liên minh với Lưu Bị, và khi gặp Lưu Bị ở Trường Bản, Đương Dương thì nói với Gia Cát Lượng rằng ông là bạn của Gia Cát Cẩn. Gia Cát Lượng nhận định Giang Đông không cách nào có thể một mình chống trả Trung Nguyên, Tôn Quyền sẽ không khuất phục trước Tào Tháo nên cho rằng Tôn–Lưu nhất định phải đoàn kết mới chống được Tào Tháo. Chu Du cũng cho rằng quân Tào tuy số lượng lớn, nhưng binh mệt, tướng đa nghi, không cần e ngại. Cuối cùng thì liên minh này được thành lập và đánh bại Tào Tháo ở trận Xích Bích, và đây chính là giai đoạn thành lập. Ở giai đoạn 2 tức phá vỡ: sau khi Lưu Bị chiếm Kinh Châu và Ích Châu, Tôn Quyền thừa cơ Quan Vũ Bắc phạt Tương–Phàn, sai Lã Mông đánh Kinh Châu, khiến cho liên minh tan vỡ. Sau đó Tào Phi xưng đế, Tôn Quyền nguyện ý trở thành chư hầu của Tào Ngụy, được phong làm Ngô Vương, cũng bổ nhiệm Trần Hóa, Phùng Hi, Thẩm Hành phụ trách về ngoại giao với nước Ngụy, điều này khiến Tào Phi do dự trong các vấn đề quân sự. Sau đó Lưu Bị phạt Ngô, bị Lục Tốn đánh bại tại Di Lăng, Tào Phi đến thời điểm này mới lấy cớ phát binh ba đường Nam chinh, nhưng đều bị Tôn Quyền xuôi theo Trường Giang chống cự và đẩy lui. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Cuối cùng là giai đoạn duy trì: Lưu Bị sau khi qua đời, Gia Cát Lượng lập tức sai Đặng Chi sang Ngô giảng hòa với Tôn Quyền, sau khi Tôn Quyền nghe lời khuyên của Đặng Chí thì quyết định cắt đứt mối quan hệ với Tào Ngụy, trở lại liên minh với Thục Hán, cử Trương Ôn đi sứ giảng hòa. Về sau Gia Cát Lượng lại phái Phí Y, Trần Chấn sang Ngô duy trí giao hảo. Sau khi Tôn Quyền xưng đế, hai bên thậm chí còn thỏa thuận chia đều Trung Nguyên, tất cả đều thể hiện tinh thần "trị thực" của Gia Cát Lượng, mặc dù thua trận Di Lăng, mất Kinh Châu nhưng vẫn kết nối trở lại với Đông Ngô để giữ vững an toàn phía Đông, tập trung Bắc phạt để thực hiện chính nghĩa của Thục Hán là "phạt Ngụy phục Hán".
Tam Quốc thiết lập mối liên hệ với các ngoại tộc để hoặc cùng nhau tấn công kẻ thù, hoặc tấn công và tiêu diệt để loại bỏ những rắc rối trong tương lai, hoặc để bổ sung dân số. Các dân tộc Hung Nô, Tiên Ti, Yết, Khương, Đê dần dần tiến vào Trung Nguyên, đến Tây Tấn thì cư trú ở Quan Trung, Lũng Hữu, Tịnh Châu cùng U Châu. Phía Đông Bắc Trung Quốc thì có các nước Đông Phù Dư, Cao Câu Ly, Ốc Trở, Ấp Lâu, Uế Mạch, Tam Hàn, Bách Tế. Năm 204, chư hầu cát cứ Liêu Đông Công Tôn Khang suất quân công phá vương đô của Cao Câu Ly, khiến Sơn Thượng Vương phải dời đô về phía Đông tại Quốc Nội Thành. Sau đó, ông liên hôn với nước Bách Tế, thành lập quận Đái Phương, về sau Bách Tế kiểm soát và lập quốc ở đây. Năm 246, Tào Ngụy phái Quán Khâu Kiệm đem quân đánh bại Cao Câu Ly. Vào giai đoạn này, ở Nhật Bản có cổ quốc Yamatai trỗi dậy trong thời kỳ Yayoi đã cử sứ thần đến cống nạp cho Tào Ngụy, và Ngụy Minh Đế Tào Duệ đã phong người đứng đầu Yamatai là nữ thủ lĩnh Himiko làm Thân Ngụy Oa Vương. Ở phía Bắc, kể từ triều đại Ngụy và Tấn, các nhóm dân tộc ở phía Bắc dãy núi Thiên Sơn và đồng cỏ Mông Cổ chủ yếu bao gồm Ô Tôn, Kiên Côn, Sắc Lặc, Đinh Linh, Hô Yết, Hung Nô, Tiên Ti và Ô Hoàn, sau thời Đông Hán thì Hung Nô được chia thành Bắc Hung Nô và Nam Hung Nô. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Năm 51, Nam Hung Nô phần lớn chuyển tới Tịnh Châu, sinh sống dọc theo 1 dải sông Phần, đến năm 188 thì xâm nhập Trung Nguyên dưới thời Thiền vu Ư Phu La thừa dịp Đông Hán loạn lạc, rồi đến năm 202 thì quy thuận Tào Tháo. Sau đó, Tào Tháo đem Nam Hung Nô chia thành 5 bộ là Tả, Hữu, Nam, Bắc, Trung, mỗi bộ lập một đơn vị chỉ huy và cử quan người Hán giám sát. Phía dân tộc Ô Hoàn thì tộc trưởng Đạp Đốn kết minh với Viên Thiệu, được phong Thiền vu, đến năm 205, khi Tào Tháo đánh bại Viên Thượng thì Viên Thượng cùng anh là Viên Hi chạy trốn, được Đạp Đốn chứa chấp, sau đó Tào Tháo đem quân tinh nhuệ viễn chinh tới đánh Ô Hoàn, giết chiết Đạp Đốn ở núi Bạch Lang, hàng phục tộc này. Đối với tộc Tiên Ti thì vào thời Hán mạt được thống nhất bởi Đàn Thạch Hòe, nhiều lần xâm lấn Đông Hán, sau khi thủ lĩnh này chết thì tộc Tiên Ti chia thành 3 phần Đông, Tây và Trung bộ. Tây bộ được Kha Bỉ Năng tổ chức lại và xâm lấn Tào Ngụy hai lần, đồng thời đáp trả cuộc tấn công Ngụy của Gia Cát Lượng, đến năm 235 thì bị Thứ sử U Châu Vương Hùng của Tào Ngụy sai người ám sát, làm sụp đổ phân bộ này.
Ở phía Tây, người Tây Khương bắt đầu di chuyển đến Trung Nguyên vào thời Tam Quốc thừa cơ hỗn loạn, phân bố ở các khu vực miền núi miền Trung Trung Quốc. Khi đó, người Khương ở Âm Bình và Vũ Đô lần lượt quy phục Tào Ngụy và Thục Hán. Khi chiến tranh Thục – Ngụy bùng phát, cả 2 nước đều chiêu mộ người Khương vào quân ngũ và tham chiến. Đối với bộ tộc người Đê, vào cuối thời Đông Hán, Đê Vương nước Hưng A Quý, Đê Vương Cừu Trì Dương Thiên Vạn đã lãnh đạo các bộ tộc của họ, song sau đó bị Tào Tháo tiêu diệt. Tào Tháo sợ rằng Lưu Bị sẽ chiếm Vũ Đô rồi tiến vào Quan Trung nên đã điều hơn 5 vặn quân tới Phù Phong, Thiên Thủy, vừa phòng thủ vừa quản lý người Đê ở Vũ Đô. |
Tam Quốc | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816 | Vào thời điểm này, phía Tây Vực có các nước Thiện Thiện, Cao Xương, Yên Kỳ, Quy Từ, Vu Điền, Tào Phi đã điều quan viên tới quản lý khu vực này, tăng cường mối liên hệ giao hảo cùng các nước Tây Vực, tuy nhiên sức ảnh hưởng không lớn. Năm 229, Ngụy Minh Đế Tào Duệ phong cho thủ lĩnh Đại Nguyệt Thị là Vương Ba làm Đại Nguyệt Thị Vương. Ở phía Tây Nam Tam Quốc, Thừa tướng Thục Hán Gia Cát Lượng dẫn quân dẹp loạn Nam Trung năm 225, thu phục tộc trưởng Nam Man là Mạnh Hoạch, thiết lập chức quan của Thục Hán cai trị khu vực. Về sau tuy có phát sinh nổi loạn làm phản, nhưng đều không lớn. Trong thời kỳ này, có ba bộ lạc man di lớn ở phía Nam, gồm bộ phận phân bố ở quận Ba, Giang Lăng và Hoài Hà gọi là Lẫm Quân Man; bộ phận phân bố ở Vũ Lăng, Trường Sa và xung quanh vùng sông nước gọi là Bàn Hồ Man hoặc người Hề; và bộ phận phân bố ở Lãng Trung gọi là Bản Thuẫn Man hoặc người Tung. Trong trận Di Lăng, Thục Hán cũng cử Mã Lương đi liên lạc với Bàn Hồ Man ở Vũ Lăng để chống lại Đông Ngô.
Trong đất Đông Ngô có tộc Sơn Việt ở Nam Trường Giang, nổi tiếng có tinh thần thượng võ, sống ở vùng đất được tuyên bố chủ quyền bởi Đông Ngô nhưng chưa thực sự kiểm soát. Họ sống tự cung tự cấp, có liên hệ nhất định với Tào Ngụy, sau đó khi nước Ngô được lập bởi Tôn Quyền thì phát động chiến dịch chinh phạt Sơn Việt, sau nhiều trận chiến với sự chống trả quyết liệt thì cuối cùng đã thôn tính được tộc này vào năm 234 bởi chiến thuật khai hoang bao vây núi trong 3 năm của Gia Cát Khác, đưa số lượng lớn người Sơn Việt vào quân Ngô. Ở khu vực Lĩnh Nam có những người Lý cư trú tại Quảng Châu, Giao Châu và phía Nam Ích Châu của Thục Hán đều theo Đông Ngô. Ở phía hải ngoại thì Tôn Quyền quan tâm và triển khai chính sách phát triển hàng hải, cử sứ giả Chu Ứng và Khang Thái tới đảo Di Châu – có thể là Đài Loan hoặc quần đảo Nansei ngày nay, và Đản Châu để bổ sung dân số, đến Liêu Đông, bán đảo Triều Tiên, Lâm Ấp – nay là miền Nam Việt Nam, Phù Nam – nay là Campuchia, và quần đảo Nam Dương, tất cả đều mở rộng ảnh hưởng ở nước ngoài của Đông Ngô. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.