title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Trong thời kỳ này, các thương nhân Đế quốc La Mã và sứ thần Lâm Ấp cũng từng tới kinh đô Kiến Nghiệp của nhà Đông Ngô. Chế độ quân sự. Hầu hết hệ thống quân sự của Tam Quốc đều tuân theo hệ thống nhà Hán, nhưng có một số thay đổi lớn, dẫn đến sự phát triển của nhiều tổ chức và bộ phận. Về tiêu chuẩn và tuyển binh thì Tam Quốc dùng thế binh chế, và đây là một thay đổi quan trọng so với chế độ mộ lính, trưng binh của nhà Đông Hán trước đó, theo đó khi một người trở thành quân nhân thì mang ý nghĩa cả đời phục vụ quân đội, cả gia đình sẽ rút khỏi đăng ký thường dân và chuyển sang đăng ký quân nhân, chế độ này dần dần thay thế hệ thống cũ, duy trì nhiều lực lượng chiến đấu ổn định. Quân đội chia thành nội quân và ngoại quân, đi kèm thiết chế Đô đốc, theo đó nội quân hoặc trung quân chịu trách nhiệm về an ninh công cộng và phòng thủ nội bộ trong nước, ngoại quân chịu trách nhiệm bảo vệ biên giới và quân sự các địa điểm quan trọng, có thể tham gia vào công tác đồn điền, canh tác để phục vụ chính mình mà không chịu sự kiểm soát của nhau. Trung quân được lãnh đạo bởi trung hộ quân, trung lĩnh quân, ngoài việc nắm vững trung quân thì còn chịu trách nhiệm tuyển chọn tướng lĩnh quân đội các cấp. Từ khi xuất hiện chức vụ Đô đốc trung ngoại chư quân sự lãnh đạo trung quân lẫn ngoại quân thì đây trở thành chức vụ trọng yếu, là quyền thần hàng đầu của triều đình. Tào Ngụy chia quân thành nội quân, ngoại quân và châu quận quân – tức quân địa phương; trong khi đó Thục Hán cùng Tôn Ngô chia ngoại quân thành 5 quân gồm tiền, trung, hậu, tả, hữu quân. Tam Quốc lập chiến khu theo thiết chế Đô đốc quản lý quân sự ở châu quận có vị trí đặc biệt, có nơi có thể thêm Đô đốc chư châu quân sự, có sự hài hòa giữa hành chính và quân sự. Chẳng hạn như, Tào Ngụy thiết lập Đô đốc Ung Châu, Dương Châu; Thục Hán có Đô đốc Hán Trung, Vĩnh An, Lai Hàng. Tôn Ngô cũng lập Đô đốc Tây Lăng, Giang Lăng, Ba Khâu, Giao Châu cùng Quảng Châu.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Giai đoạn này có thuật ngữ "bộ khúc", ban đầu là tên gọi tổ chức quân sự của nhà Hán, sau dùng để phiếm chỉ quân đội tư nhân. Ngoài ra, phía Đông Ngô thực hành chế độ lãnh binh thừa kế, hợp pháp hóa mối quan hệ thế hệ giữa tướng lĩnh và binh lính. Về đặc điểm quân đội của Tam Quốc, quân Ngụy chủ yếu được chia thành bộ binh, kỵ binh và thủy quân, ngoài ra còn có các đội quân tinh nhuệ như Hổ Báo kỵ và Ô Hoàn kỵ. Thời điểm bấy giờ còn ít bàn đạp, kỵ binh trở nên quý giá. Trong giai đoạn đầu, những người lính được chọn dựa vào việc tuyển mộ, nhập ngũ, ngoài ra bắt giữ những người dân tộc thiểu số làm lính. Giai đoạn sau, hệ thống quân sự mỗi nước dần hình thành và thế binh chế trở thành phương thức tập hợp quân chủ yếu. Để ổn định nguồn binh lính, Tào Ngụy thực hiện nghiêm khắc phân chia quân hộ và dân hộ, ngoại trừ con trai đi lính nhiều đời, vợ và con gái của quân hộ cũng chỉ kết hôn với quân hộ để đảm bảo sinh sản. Quân Ngô lấy thủy binh làm chủ, bộ binh xếp thứ 2. Lực lượng thủy quân của Đông Ngô đã phát triển tốt, với các căn cứ ở Nhu Tu – nay là phía Đông Nam huyện Sào của An Huy, căn cứ Tây Lăng – nay là Nghi Xương của Hồ Bắc, và một xưởng đóng tàu ở Hầu Quan – nay là Mân Hầu, Phúc Kiến. Các chiến thuyền lớn nhất được đóng và đặt tên "Trường An", "Phi Vân" và "Cái Hải", đều có 5 tầng và có thể chở 3.000 binh lính. Năm 272, Tấn Vũ Đề trong chiến lược phạt Ngô thống nhất đất nước cũng phong tướng Vương Tuấn làm Thứ sử Ích Châu, bí mật lệnh cho ông đóng chiến thuyền ở Tứ Xuyên để xuôi Trường Giang tấn công Đông Ngô, trong đó chiến thuyền lớn nhất được chế tạo có thể chở hơn 2.000 người, và đủ dài lẫn rộng để có thể cưỡi ngựa trên tàu. Đội quân tinh nhuệ của Đông Ngô bao gồm chiến xa Hổ sĩ, quân Đan Dương thanh cân và nghĩa sĩ Giao Châu, bên cạnh đó thu thập đội quân dân tộc thiểu số như binh lính Sơn Việt, man binh, di binh.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Do môi trường chính trị xã hội tương đối đặc biệt, ngoài hệ thống quân sự thế binh chế, Đông Ngô còn có hệ thống lãnh đạo cha truyền con nối. Đội quân do mỗi vị tướng lãnh đạo được coi như quân riêng biệt, là bộ khúc của mình, ngoài việc tuân lệnh của trung ương để tham chiến, quân đội còn có các nhiệm vụ khác như công việc đồng áng, đồn điền phục vụ tướng chỉ huy. Sau khi tướng quân qua đời, quân đội phải tiếp tục phục tùng những người kế vị như con trai hoặc anh, em trai của tướng quân. Còn quân Thục lấy bộ binh làm chủ, kỵ binh xếp thứ 2. Quân đội cũng có biên chế binh sĩ là người dân tộc thiểu số, chủ yếu là binh người Tung, người Thanh Khương, lão binh, và nổi danh nhất là Vô Đương phi quân. Về vũ khí và trang bị, nhà Thục Hán đã phát triển hơn so với nhà Tần và nhà Hán. Về nguồn lực quân sự, Thục Hán thực hiện thế binh chế, bởi dân số ít hơn nhiều so với hai quốc gia còn lại, Thục cũng thực hiện hệ thống nghĩa vụ quân sự để bổ sung nguồn lực quân sự. Gia Cát Lượng phát minh đội hình chiến thuật Bát Trận Đồ để lập doanh và luyện binh. Về nguồn tiếp tế trang thiết bị, lương thảo và vật dụng quân đội, bò gỗ, ngựa gỗ là các phương tiện được thiết kế để thuận tiện cho việc vận chuyển trên núi. Ông cũng chế tạo vũ khí hiệu quả cao là nỏ thuộc loại liên nỗ với mười mũi tên có thể bắn ra cùng lúc và sức sát thương lớn, gọi là "liên nỗ sĩ". Nhân khẩu. Sau loạn Khăn Vàng, thiên tai, đói kém xảy ra ở Trung Nguyên, nạn ăn thịt người xuất hiện. Sau khi Đổng Trác lên nắm quyền, ông cho phép quân lính của mình cưỡng hiếp phụ nữ và cướp đoạt tài sản. Đối mặt với uy hiếp chiến sự từ liên minh Quan Đông, hàng triệu người từ Lạc Dương đã buộc phải chuyển đến Trường An, thậm chí còn đốt cháy các cung điện, đền thờ, miếu mạo và dinh thự của triều đình, không có người sống sót trong vòng 200 dặm quanh Lạc Dương. Khi Tào Tháo chinh phục Từ Châu, ông ta đã giết hàng trăm ngàn đàn ông và phụ nữ, được miêu tả là "giết sạch gà chó, sông Tứ không chảy được".
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Lúc bấy giờ, Lý Thôi chiếm đóng Quan Trung, "Tam Phủ" quanh kinh đô vẫn còn hàng trăm nghìn hộ gia đình, nhưng Lý Thôi đã đưa quân đến cướp bóc, cộng với nạn đói, người dân giết hại lẫn nhau trong 2 năm. Lưu Yên, Lưu Chương ở Ích Châu và Lưu Biểu ở Kinh Châu đã đàn áp các cuộc nổi loạn, ở Dương Châu thì dân số giảm do các cuộc chiến của Tôn Sách và cát cứ địa phương khác. Lúc bấy giờ, dân chúng di chuyển theo ba hướng: thứ nhất là từ Quan Trung đến Lương Châu ở phía Tây, hoặc đến Ích Châu ở phía Nam và đến Kinh Châu dọc theo Hán Thủy, mỗi nơi có khoảng 10 vạn hộ gia đình. Thứ hai là di chuyển từ Trung Nguyên về phía Đông Bắc đến Ký Châu hoặc U Châu, rồi đến Liêu Đông. Người Tiên Ti và Ô Hoản cũng lớn mạnh hơn nhờ làn sóng tị nạn này. Thứ ba và lớn nhất là cuộc di cư từ Trung Nguyên đến Bành Thành, Từ Châu, rồi xuống phía Nam đến vùng Giang Nam. Vào thời điểm đó, nhiều hiền sĩ, đại phu từ khắp nơi chạy đến phía Nam sông Dương Tử, chẳng hạn như Chu Du, Lỗ Túc, Gia Cát Cẩn, Lã Mông, Trương Chiêu, Từ Thịnh, không chỉ tới 1 mình mà còn mang theo danh gia vọng tộc tới vùng đất này, tạo nên nguồn lực để họ Tôn thu hút về dưới trướng, và là nền tảng lập quốc Đông Ngô ở Giang Đông. Từ khi cục diện Tam Quốc dần hình thành, người dân buộc phải di cư vì chiến tranh hoặc sự ép buộc của kẻ thống trị. Khi Tào Tháo tấn công và đánh tan Trương Lỗ, một số cư dân của Hán Trung ở phía Đông Tứ Xuyên đã chuyển đến Quan Trung. Sau khi Tào Phi định đô ở Lạc Dương, ông đã chuyển 5 vạn hộ dân ở Ký Châu đến Hà Nam, rồi đến khi Ngụy diệt Thục, 3 vạn hộ được chuyển từ Thục đến Lạc Dương và Quan Trung. Với nhà Thục Hán, trong quá trình chiếm lĩnh Ích Châu thì Lưu Bị nhiều lần đưa dân chạy nạn về bình nguyên Thành Đô, trong khi đó Thừa tướng Gia Cát Lượng trong lần Bắc phạt thứ nhất đã đem người dân từ Lũng Tây lên Hán Trung. Về phía Đông Ngô, khi Tôn Quyền đánh bại Thái thú Giang Hạ Hoàng Tổ thì đã bắt được hàng vạn đàn ông và phụ nữ.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Sau khi lập quốc, để tăng dân số, ông đã bình định Sơn Việt và sử dụng chiến thuật "kẻ yếu tăng hộ, kẻ mạnh dựng binh", ngoài ra quấy rối Hoài Nam để giành lấy dân số. Từ cuối Đông Hán đến khi tái thống nhất đất nước vào thời Tây Tấn, tuy đã trải qua 125 năm nhưng dân số chỉ bằng 35,3% dân số đỉnh cao của Đông Hán. Và sau đó là Ngũ Hồ thập lục quốc rồi Nam–Bắc triều, số dân vẫn không thể gượng dậy, mãi cho đến thời Tùy Văn Đế thì mới dần phục hồi. Trong thời Tam Quốc, dân số do các nước khống chế bao gồm lại hộ – tức gia đình thường dân, binh hộ – tức gia đình quân nhân, và đồn điền hộ – tức loại thiết chế đồn điền chế kết hợp quân sự và nông nghiệp biên cương do Tào Tháo ban hành từ đầu. Phía Thục Hán là nước ít dân nhất, mặc dù chỉ khoảng 90 vạn dân, nhưng có tới hơn 10 vạn quân. Nhìn chung thì số hộ nông dân đông đảo có vai trò quyết định đối với sự phục hồi và phát triển của nền kinh tế xã hội lúc bấy giờ. Kinh tế. Vào cuối thời Đông Hán, do thiên tai và chiến tranh, xã hội bị hủy hoại, nền kinh tế sa sút và một lượng lớn ruộng đất bị bỏ hoang. Một số hào cường vọng tộc đã lãnh đạo các thị tộc của họ xây dựng kiến trúc Ổ Bảo – hệ thống nhà ở kèm theo các công trình có thể sử dụng trong chiến tranh như tường phòng thủ, kho lương thực, binh khí để tự vệ, tiến hành hoạt động sản xuất xung quanh căn nhà trung tâm này, và hình thức này dần dần trở thành một hệ thống trang viên tự cung tự cấp. Cả hệ thống Ổ Bảo và trang viên đều ảnh hưởng đến mô hình kinh tế của các triều đại thời kỳ Ngụy–Tấn–Nam–Bắc triều. Do sự sụp đổ của nhà Đông Hán, những đồng tiền đã cũ không được đúc lại và một lượng lớn tiền tư nhân đã xuất hiện. Sau khi Tam Quốc thành lập, tiền đồng mới được phát hành chưa thể lưu hành rộng rãi, vì vậy đa phần đành phải sử dụng vải vóc cùng các đồ vật có thật khác làm tiền tệ chính. Trong Tam Quốc thì Tào Ngụy có dân số đông nhất và diện tích khai hoang rộng nhất, đây chính là nguyên nhân khiến Tào Ngụy hùng mạnh nhất Tam Quốc lúc bấy giờ.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Tào Ngụy sử dụng chính sách đồn điền chế, tổ chức cho các lưu dân tham gia canh tác nông nghiệp, lập lại một phần của trật tự xã hội và tăng cường sức mạnh của đất nước. Một bằng chứng khác cho thấy Tào Ngụy rất coi trọng nông nghiệp là công trình giữ nước vĩ đại của họ, quy mô và số lượng nhiều nhất Tam Quốc. Chẳng hạn như Tào Ngụy xây dựng các kênh và hồ chứa ở khu vực Quan Trung đã nhất cử biến đổi hơn 3.000 ha đất nhiễm mặn, góp phần gia tăng lớn cho quốc khố. Một ví dụ khác là các dự án thủy lợi của Tào Ngụy ở Hà Nam, kết quả là sản lượng ngũ cốc tăng gấp bội, tuy nhiên "Tam quốc thực hóa chí" cũng chỉ ra rằng nhiều dự án thủy lợi này thiếu kế hoạch và chỉ có thể đạt được kết quả ngắn hạn. Tào Ngụy xây dựng xưởng thủ công lớn để phát triển sản xuất thủ công mỹ nghệ, Nghiệp, Lạc Dương và các thành phố thương mại khác đã phát triển nền kinh tế thương mại và giao thương với nước ngoài. Ngoài ra, các ngành đóng thuyền, gốm sứ, dệt lụa, làm muối cũng rất phát triển. Điều đáng chú ý là Tào Ngụy đã không thể thoát khỏi mô hình kinh tế giao dịch bằng vật thật, một số nỗ lực cải cách tiền tệ đều thất bại, điều này có thể liên quan đến việc thiếu các mỏ đồng quy mô lớn trong nước làm cơ sở. Về phía Thục Hán thì có đất đai màu mỡ, sản vật phong phú, chiến tranh những năm cuối đời Đông Hán ít hơn so với Trung Nguyên. Sau khi Lưu Bị vào Thục, vùng Ba Thục tài chính hỗn loạn, Lưu Ba đề xuất đúc "trực bách tiền" mệnh giá 100 mỗi đồng, điều hoà giá trị, dùng thư lại làm quan kiểm soát và giải quyết được khó khăn. Trong đất Thục, đồng ngũ thù và trực bách tiền đều được sử dụng cùng nhau, chúng được đúc bởi huyện Kiền Vi, và đồng tiền này không chỉ lưu hành một nơi mà còn tham gia vào thương mại trong ngoài đất Thục suốt thời Tam Quốc, khiến cho nước Ngụy cũng tràn vào lưu hành với số lượng lớn. Về nông nghiệp thì Gia Cát Lượng cử người cải tạo, chăm sóc Đô Giang Yển để đảm bảo tưới tiêu trồng trọt. Về thủ công nghiệp thì đất Thục phát triển nhất là muối, sắt và thổ cẩm.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
"Bác vật chí" của Trương Hoa đã đề cập rằng Gia Cát Lượng đã phát triển muối Thục và sử dụng khí thiên nhiên để tăng đáng kể giá trị sản lượng của muối nước này; còn "Thục đô phú" của Tả Tư đề cập rằng Thục có các trung tâm, cửa hàng mua sắm, trong đó nhà cửa được kiến thiết khéo léo, hàng trăm phòng ngăn cách nhau, các máy móc nông nghiệp phối hợp hài hòa. Vì vậy gấm nhà Thục có thể xuất khẩu sang nước Ngô và Ngụy, Gia Cát Lượng cũng tin rằng gấm vóc nhà Thục là nguyên liệu quan trọng để hỗ trợ đất nước. Ở Nam Trung, vàng, bạc, sắt, sơn mài, trâu cày, ngựa chiến và các cống phẩm khác đã cung cấp nguồn quân sự cho Thục và làm cho đất nước trở nên giàu có. Khi nhà Thục Hán mất, trong phủ còn hai ngàn cân vàng bạc. Kinh đô Thành Đô cũng là một trong những thành phố thương mại lớn nhất vào thời điểm đó, "Thục đô phú" đề cập rằng thành phố là nơi sở hội thương nghiệp, nơi gặp gỡ hàng vạn thương nhân, có hàng trăm dặm đường hầm và hàng ngàn cửa hàng, "của cải chất thành núi, tinh tú sinh sôi nảy nở". Đối với Đông Ngô ở phía Nam sông Dương Tử có bước khởi đầu kinh tế – xã hội tương đối muộn, trong thời Tam Quốc vẫn là nơi dân cư thưa thớt. Tuy nhiên, do ở đây không có chiến tranh, một số lượng lớn người dân ở phía Bắc đã di cư tới, mang theo công nghệ sản xuất và lao động tiên tiến. Sau khi Tôn Quyền lên ngôi, Ngô thiết lập đồn điền chế, thực hiện hệ thống canh tác, đưa sản xuất nông nghiệp và kinh tế xã hội ở khu vực Giang Nam phát triển. Về công nghiệp dệt may, Giang Nam nổi tiếng về sản xuất vải lanh và vải thô ở quận Dự Chương – nay là Nam Xương, Giang Tây, danh tiếng vang xa hàng ngàn dặm. Vùng Tam Ngô sản xuất tơ tằm loại "bát tằm", chất lượng lụa được sản xuất ở Chư Kỵ và Vĩnh An rất cao. Ngành luyện và đúc phát triển nhất ở Vũ Xương – nay là Ngạc Châu, Hồ Bắc, lấy nguồn từ các mỏ đồng được khai thác để chế tạo vũ khí.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Do nằm ở phía Nam Trường Giang và giáp biển nên nước Ngô khá phát triển về đóng tàu và làm muối, quan lại được đặt ở Hải Diêm – nay thuộc Chiết Giang, và Sa Trung – nay là Thường Thục, Giang Tô để quản lý việc sản xuất muối ở hai nơi này. Đông Ngô lập chức Điển thuyền Giáo ủy quản lý đóng thuyền ở quận Kiến An – nay là Phúc Châu, Phúc Kiến, tàu chiến tham trận, tàu thường hoạt động trên biền và đã đến Biển Đông ở phía Nam cùng Liêu Đông ở phía Bắc. Thương mại hàng hải Đông Ngô phát triển mạnh mẽ, các thành phố thương mại của chủ yếu là Kiến Nghiệp – nay là Nam Kinh, Giang Tô, quận Ngô – nay là Tô Châu, Giang Tô, và Phiên Ngung – nay là Quảng Châu, Quảng Đông, trong đó Phiên Ngung chủ yếu hoạt động ngoại thương. Văn hóa. Tư tưởng học thuật. Trong thời kỳ nhà Hán và nhà Tấn, tư tưởng học thuật đã trải qua những thay đổi mạnh mẽ, chủ yếu liên quan đến biến chuyển trong tư duy truyền thống và đấu tranh chính trị, cái trước chiếm đa số. Từ thiên về giao du, trọng phẩm giá chuyển sang tuân theo trách nhiệm, danh xứng với thực, thiên về Thân Bất Hại, Hàn Phi; vì hư danh, đạo đức giả mà phản lại tự nhiên, thẳng thắn, quy về Lão Tử, Trang Tử. Do khủng hoảng chính trị vào cuối thời Đông Hán, tình hình tư tưởng trở nên hỗn loạn. Tào Tháo và Gia Cát Lượng đều áp dụng ý tưởng của những danh gia hoặc Pháp gia để lập lại trật tự xã hội. Trong đó Tào Tháo áp dụng chính sách có thưởng tất phạt, chủ trương pháp trị, đưa ra quan điểm có tài ắt dùng, phá bỏ tiêu chuẩn gia thế, danh giáo. Gia Cát Lượng cũng ủng hộ quan niệm pháp trị, sau khi vào Thục, ông đã cải tiến hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật một cách công bằng, đưa ra quan điểm trọng tâm trị quốc là trọng dụng nhân tài, và bổ nhiệm người thích hợp. Ông cũng rất coi trọng quân luật, chẳng hạn như trong trận Nhai Đình, Mã Tắc bị chém đầu vì vi phạm quân lệnh, đồng thời xin tự giáng chức xuống 3 bậc.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Tư tưởng về danh pháp cuối đời Hán đầu Ngụy đã tạo cơ sở cho trào lưu tư tưởng Huyền học thời Ngụy–Tấn, khiến các danh nhân chuyển trọng tâm từ vấn đề cụ thể của danh pháp sang suy đoán trừu tượng dựa trên cơ sở Huyền học. Kinh điển Nho gia của Khổng Tử có rất nhiều lời chú thích của người đời sau, trong đó những lời chú giải của Trịnh Huyền vào cuối thời Đông Hán là có giá trị nhất. Bên cạnh đó, tập đại thành Kinh học nghiên cứu của Trịnh Huyền có ý nghĩa lớn cho sự phát triển của văn hoá Trung Quốc. Tuy nhiên, vào thời Ngụy–Tấn, Vương Túc kế thừa sự nghiên cứu của cha mình là Vương Lãng và bình luận về kinh điển, quan điểm của ông về kinh điển cũng khác với Trịnh Huyền, nên tạo ra hai trường phái Trịnh – Vương đối kháng nhau. Sau khi nhà Tây Tấn soán ngôi Ngụy, Tấn Vũ Đế là cháu ngoại của Vương Túc đã phế bỏ trường phái của Trịnh Huyền, xác lập trường phái của ông ngoại mình làm chính thức, giữ vị trí chủ đạo một thời gian. Tuy nhiên, kinh điển Nho gia đã rơi vào tình trạng cứng nhắc của chương và câu từ, ngày càng không đáp ứng được nhu cầu của thực tế, một số học giả bắt đầu quay trở lại văn hóa truyền thống và nghiên cứu Đạo gia, khiến cho Huyền học ra đời.Huyền học là tư tưởng nổi bật nhất thời Ngụy–Tấn–Nam–Bắc triều, lấy Lão Tử, Trang Tử và Chu Dịch là đối tượng nghiên cứu chính, gọi chung là Tam huyền. Các nhà Huyền học thích nói về siêu hình học chứ không nói về những điều thông thường, đó gọi là thanh đàm. Vào những năm Chính Thủy cuối triều đại Tào Ngụy, các học giả nổi tiếng Hà Yến và Vương Bật đã nói về Lão Tử và Chu Dịch, Vương Bật đã chú thích Lão Tử và giải thích Chu Dịch bằng tư tưởng của Lão Tử, từ đó mở ra cánh cửa Huyền học. Chủ trương vạn vật từ hư không sinh ra, lấy hư không – nguyên lý của Đạo – làm nền tảng, tồn tại – hình tướng – từ hư vô sinh ra, bên cạnh đó có ý kiến ​​cho rằng Lễ giáo, hoặc Minh giáo, cũng đến từ tự nhiên, và mối quan hệ giữa Lễ giáo và Đạo là mối quan hệ giữa con và mẹ.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Cuối Ngụy thì nhà Tư Mã đã quyền khuynh thiên hạ, bè cánh đấu đá, ý đồ soán ngôi Ngụy đã lộ rõ khiến cho một số học giả không muốn hợp lực với nhà Tư Mã, và cũng bởi vì không thể thay đổi cục diện, họ muốn tìm đường thoát khỏi thế giới với quan điểm ủng hộ tính xác thực tự nhiên của tư tưởng Lão Tử và Trang Tử, đồng thời coi thường đạo đức giả của nhà Tư Mã trong việc kiềm chế thiên hạ bằng Nho giáo. Được đại diện bởi Nguyễn Tịch, Kê Khang, Trúc lâm thất hiền đã chuyển trọng tâm từ lý thuyết hệ tư tưởng sang các vấn đề cuộc sống, phê phán thực tại xã hội. Lúc bấy giờ thì nhà Tư Mã chủ trương lễ giáo, Kê Khang cho rằng hãy để lễ giáo theo tự nhiên, Nguyễn Tịch và những người khác tin rằng các nghi lễ Nho giáo đã triệt tiêu tính xác thực của tự nhiên và nhấn mạnh "tâm và thiện ngộ", trở về với bản chất con người chân chất, trong sáng. Các học giả này không theo lễ tục, hành xử phóng khoáng và sinh sống nơi hoang dã, đã từ chối phục vụ nhà Tư Mã. Sau khi Kê Khang bị giết, Huyền học Trúc lâm rơi vào im lặng. Sau cái chết của Tấn Vũ Đế, bước sang thời kỳ Tấn Huệ Đế và Loạn Bát Vương, xã hội hỗn loạn, cục diện chính trị trở nên hắc ám và Huyền học hồi sinh. Ở Thục Hán thì nước này kế thừa Nho giáo của Đông Hán, trong thời kỳ Lưu Thiện của Thục Hán thì Gia Cát Lượng đã tấu trình kiến nghị phong Cam phu nhân làm Hoàng hậu của Lưu Bị, và việc này được thực hiện theo hệ thống lễ nghi Nho giáo. Cả Lưu Bị và Gia Cát Lượng tôn trọng Nho giáo và Nho sĩ ở đất Thục, Đỗ Vi, Chu Quần, Đỗ Quỳnh, Mạnh Quang và các nhân tài khác được phong làm quan, hoặc làm các chức vụ giáo dục như Nho lâm Giáo úy, Điển học Giáo úy, Khuyến học tòng sự, có người được phong làm Thái tử gia lệnh, Thái tử phó, Thái tử thứ tử. Tư tưởng chỉ đạo chính trị của Thục Hán cũng là Nho giáo như Đông Hán. Đối với sự ngưỡng mộ Pháp gia của Gia Cát Lượng, ông không từ bỏ "đức chính" – tức chính trị đạo đức giúp ích cho dân, Nho giáo đi kèm "hình pháp", nhưng lấy đức chính làm lý tưởng cao nhất.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Văn học. Tào Tháo là một nhà cải cách đầy cá tính và kiệt xuất, hai con trai Tào Phi và Tào Thực cũng đều là nhà thơ kiệt xuất, văn chương thể hiện cá tính, lần đầu tiên giành được địa vị độc lập trong thời Tam Quốc. Trong văn học thời kỳ này, văn học Tào Ngụy thịnh vượng nhất, được chia thành văn học Kiến An sơ kỳ và văn học Chính Thủy hậu kỳ, trong đó văn học Kiến An phản đối lối thơ nhu nhược, đời sau gọi là "phong cốt Kiến An" hay "phong cốt Hán Ngụy". Điều này là do kể từ khi Tào Tháo và những người khác yêu thích văn học, các văn sĩ từ khắp nơi trong thiên hạ bị thu hút, và các đại diện nổi tiếng nhất của văn học Kiến An là Tam Tào – ba cha con nhà họ Tào, Kiến An thất tử, ngoài ra còn có các văn nhân khác như Hàm Đan Thuần, Thái Diễm, Bà Khâm, Lộ Túy, Đinh Nghi, Dương Tu, Tuân Vĩ. Tào Tháo có khí chất trầm hùng và phóng khoáng, phong cách giản dị, ảm đảm với những bài thơ "Đoản ca hành", "Bộ xuất hạ môn hành", "Nhượng huyền tự minh bản chí lệnh". Tào Phi và Tào Thực đều là những người tài năng, trong đó Tào Phi đã viết bài phê bình văn học "Điển luận", dẫn đến sự phát triển văn học một cách tự giác, ngoài ra, bản thân ông cũng tham gia sáng tác văn học và giỏi làm thơ thất ngôn, do đó cũng thuộc Tam Tào. Còn Tào Thực có tính khí lãng mạn và là tác giả của "Lạc thần phú", "Thơ bảy bước" cùng nhiều tác phẩm khác. Kiến An thất tử, Thái Diễm, Dương Tu và các văn sĩ khác quan tâm đến thực tế và đối mặt với cuộc sống, các tác phẩm của họ phản ánh những thay đổi xã hội và sự đau khổ của người dân kể từ cuối thời nhà Hán, chẳng hạn như "Hồ gia thập bát phách" của Thái Diễm.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Trong thời kỳ văn học Chính Thủy, bởi vì tình hình chính trị được kiểm soát bởi nhà Tư Mã sau khi Tư Mã Ý đánh bại Tào Sảng và thế lực Hoàng tộc họ Tào trong sự biến lăng Cao Bình, văn học bị áp bức và rất khó để đối mặt trực tiếp với thực tế, các văn nhân nổi tiếng gồm Trúc lâm thất hiền dẫn đầu bởi Nguyễn Tịch, Kê Khang, bên cạnh đó là Hà Yến, Hạ Hầu Huyền, Vương Bật cùng các Chính Thủy danh sĩ khác. Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu đã áp dụng chính sách gây áp lực mạnh đối với phe đối lập, khiến hầu hết các nhà văn Chính Thủy sợ hãi không dám làm gì, quay sang đàm luận Lão–Trang, lập ra Huyền học. Đối với hiện thực xã hội, các văn sĩ không kiên trì theo đuổi và cố chấp như văn học Kiến An, có thái độ thờ ơ hơn nhiều. Tuy nhiên, một số nhà văn như Kê Khang, Nguyễn Tịch với tác phẩm "Vịnh hoài thi" vẫn kế thừa phong cốt Kiến An, dám đối mặt với chế độ họ Tư Mã, và văn học của họ cũng có những đặc điểm riêng biệt. "Văn tâm điêu long" của Lưu Hiệp Nam triều đánh giá rằng Chính Thủy theo Đạo gia, thơ tạp và "tiên tâm" – tức hướng về cõi thần tiên, các đệ tử của Hà Yến nông cạn, tuy nhiên phong cách của Kê Khang thì trong sạch và cao quý, Nguyễn Tịch thì sâu xa và là 2 đại biểu của văn nhân Chính Thủy. Về phía Đông Ngô có các văn nhân là Trương Hoành, Tiết Tống, Hoa Hạch, Vi Chiêu. Trương Hoành là Trưởng sử của Tôn Quyền, có mối quan hệ thân thiện với Khổng Dung và Trần Lâm của Kiến An thất tử; Tiết Tống là một nhà Nho nổi tiếng ở Giang Đông, và ông là thầy của Thái tử Đông Ngô; Hoa Hạch là văn sĩ cuối triều Ngô. Phía Thục Hán có các văn nhân là Gia Cát Lượng, Khước Chính, Tần Mật, Trần Thọ, trong đó Gia Cát Lượng có vai trò chủ đạo là chính trị gia, tác phẩm của ông có thể kể tới "Xuất sư biểu", văn của ông tuy không hoa mỹ như những người khác, nội dung giản dị, chân thành và cảm động, thể hiện quyết tâm Bắc tiến của mình. Tần Mật có bài thư ngũ ngôn "Viễn du", và đây là bài thơ có thể kiểm chứng duy nhất được lưu truyền từ Thục Hán.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Ngoài ra còn có nhiều học giả ở Thục đã ghi chú cho các tác phẩm như Hứa Từ, Mạnh Quang, Doãn Mặc, Lý Soạn. Cuối thời Thục Hán có Tiều Chu, Khước Chính mê văn chương, Tiều Chu viết "Cừu quốc luận" bàn về những khuyết điểm của chiến chinh, viết "Thích cơ" để bày tỏ quan điểm của mình dựa trên quan điểm của những Nho sĩ đời trước. Ngoài ra, cuối Đông Hán còn có những học giả nghiên cứu thuật số như Nhâm An, Chu Thư, sau đó thì có thêm Chu Quần, Đỗ Quỳnh. Các nhà sử học nổi tiếng thời Tam Quốc bao gồm Vương Thẩm, Ngư Hoạn, Vi Chiêu và Trần Thọ. "Ngụy thư" của Vương Thẩm được nhà sử học Lưu Tri Kỷ thời Đường đánh giá là hầu hết sách phạm "húy kỵ", không phải là ghi chép thực, giá trị tham khảo tương đối thấp, điều này có liên quan đến việc ông gắn bó mật thiết với gia tộc Tư Mã và việc ông từng phản Ngụy Thiếu Đế Tào Mao. Vi Chiêu viết "Ngô thư" 55 quyền, và viết "Ngô cổ xuy khúc thập nhị khúc", trong đó có toàn bộ lịch sử phát triển của Đông Ngô, đối lập Nam Bắc với "Ngụy cổ xuy khúc thập nhị khúc" của Mâu Tập. Trần Thọ viết Tam quốc chí, căn cứ vào nhiều sử liệu như "Ngụy thư" của Vương Thẩm, "Ngụy lược" của Ngư Hoạn, "Ngô thư" của Vi Chiêu, riêng Thục Hán không có chính sử thì ông phải tự thu thập tư liệu để viết, đã áp dụng phương pháp mô tả 3 quốc gia cùng nhau và đổi mới cách viết thể kỷ truyện, trở thành một cuốn trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử. Tuy còn những thiếu sót đây được xem là một trong những sử liệu không thể thiếu đối với việc nghiên cứu lịch sử Tam Quốc. Tôn giáo. Tam Quốc là thời kỳ phát triển của Phật giáo và Đạo giáo. Ở Nam Trung có tín ngưỡng nguyên thủy của người Lô Lô, mang đậm màu sắc siêu nhiên khi coi mọi vật đều có linh hồn, bản chất là thờ thần thoại, mang đặc điểm của tín ngưỡng đa thần và thờ tự nhiên. Với lịch sử lâu dài ở Tây Nam Trung Quốc, tôn giáo nguyên thủy này được hình thành. Hoàng Lão Đạo lưu hành trong dân gian thời Đông Hán.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Cũng vào cuối thời Đông Hán và thời Tam Quốc, tư tưởng Đạo gia như Lão Tử và Trang Tử chính thức trở thành một tôn giáo và bắt đầu thực hiện các hoạt động nhóm tôn giáo. Thái Bình Đạo của Trương Giác và Ngũ Đấu Mễ Đạo của Trương Lăng là những nguyên mẫu của Đạo giáo, và chúng được gọi là Thiên sư Đạo vào thời Tây Tấn. Khởi nghĩa Khăn Vàng là sự nổi dậy của nhóm tôn giáo đầu tiên tức Thái Bình Đạo, và Trương Lỗ của Ngũ Đấu Mễ Đạo cũng đã thành lập một vương quốc tôn giáo độc lập, tách khỏi Tào Tháo và Lưu Bị ở Hán Trung. Thái Bình Đạo của Trương Giác nhấn mạnh phương thức "thủ nhất" của Đạo giáo, với "Thái Bình kinh" là kinh điển chủ yếu, còn được gọi là "Thái Bình thanh lĩnh thư" với nội dung phức tạp, ngôn từ dựa trên âm dương và ngũ hành, đồng thời dùng nhiều từ ngữ "thuật sĩ". Tư tưởng xã hội của nhánh này không chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, mà còn kêu gọi sự công bằng và cảm thông với người yếu thế. Trương Giác đã lãnh đạo 2 em trai của mình là Trương Lương, Trương Bảo, cùng các thuộc hạ như Trương Mạn Thành phát động khởi nghĩa Khăn Vàng vào cuối thời Đông Hán sau khi có một số lượng lớn dân chúng ủng hộ, cuối cùng đã bị triều đình Đông Hán đánh bại và dần dần biến mất. Ở phía Tây, Trương Lăng đã đến núi Hạc Minh của Tứ Xuyên vào thời Hán Minh Đế của Đông Hán, tu đạo, tạo phù chú và thành lập Ngũ Đấu Mễ Đạo. Tôn giáo này là sự kết hợp giữa kiến ​​thức của Hoàng Lão Đạo với tôn giáo địa phương, hầu hết các phù văn đều có nguồn gốc từ vu thuật Ba Thục, có giáo lý cơ bản là giống với Thái Bình Đạo, phục vụ việc học theo Hoàng Lão Đạo. Về sau thì nhánh tôn giáo này được gọi là Thiên sư Đạo, và hậu duệ nhà họ Trương đã nắm giữ quyền lực của trật tự tôn giáo như Trương Thiên sư trong các triều đại trước. Trong thời Tam Quốc, Trương Lỗ từng cúng rượu, ngâm thơ "Lão Tử ngũ thiên văn", và "Đạo đức kinh" trở thành một trong những tác phẩm kinh điển chính.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
"Lão Tử tưởng nhĩ chú" của Trương Lăng đã phản ánh cách giải thích Đạo giáo ban đầu về "Lão Tử ngũ thiên văn", sau đó được truyền bá bởi con trai là Trương Hành, cháu trai Trương Lỗ, trở nên phổ biến ở Tứ Xuyên và Hán Trung. Sau khi Trương Lỗ đầu hàng Tào Tháo, Ngũ Đấu Mễ Đạo đã được lan truyền từ Ba, Hán đến phía Nam sông Dương Tử. Phật giáo truyền bá từ Ấn Độ sang Trung Quốc vào nửa sau thế kỷ thứ nhất, bắt đầu từ thời Hán Minh Đế. Khác với Phật giáo Tiểu thừa du nhập vào Trung Quốc trong thời Lưỡng Hán, Phật giáo Đại thừa được truyền bá vào cuối thời Đông Hán và lan rộng ra khắp nơi dưới ảnh hưởng của Đế quốc Quý Sương. Với sự lan tỏa từ phía Tây, các vương quốc Phật giáo ở Tây Vực hình thành như Quy Từ, Vu Điền, dần dần một số lượng lớn các nhà sư đã đến Trung Quốc để truyền giáo bằng các hoạt động như phiên dịch kinh sách và hoằng pháp, khiến cho Phật giáo truyền bá rộng rãi trong dân gian sau khi kết thúc triều đại Đông Hán, chuyển sang thời đại Tam Quốc. Các tăng lữ như Đàm Ma La Ca đến từ Thiên Trúc, An Thế Cao đến từ Đế quốc Parthia, Khang Tăng Khải đến từ Kangju đã đến Lạc Dương để dịch những cuốn kinh Phật sang tiếng Hán, truyền bá Phật giáo Đại thừa vào Trung Nguyên và tứ phương. Đàm Ma La Ca khuyến khích giới luật, đây là khởi đầu của việc các tăng lữ Trung Quốc có giới luật thọ giới, và các thế hệ sau coi ông là thủy tổ của Luật tông. Kinh "Đàm vô đức (Pháp Tạng) Yết-ma", tức Luật Tứ phần, do Đàm Đế dịch đã được Chu Sĩ Hành nhận truyền giới và cùng những người khác bảo vệ, sau đó thường được sử dụng khi các tăng lữ Trung Quốc bắt đầu xuất gia. Vì việc phiên dịch kinh điển vào thời điểm đó không tốt, Chu Sĩ Hành đã hướng tới mục tiêu nghiên cứu bản kinh gốc, ông khởi hành từ Ung Châu đến Vu Điền vào năm 260 và trở thành tăng lữ Trung Quốc đầu tiên du hành về phía Tây để thỉnh kinh. Ông đã viết bản tiếng Phạn của "Đại phẩm bàn nhược kinh", được các đệ tử của ông gửi lại Lạc Dương vào năm 282, và cuối cùng được Trúc Thúc Lan dịch thành "Phóng quang bàn nhược kinh".
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Về sự phát triển của Phật giáo gắn liền với nhân vật lịch sử thì vào cuối thời Đông Hán có tướng Trách Dung là tín đồ, từng sống tại chùa Đại Hưng ở Giang Đông. Về trọng trấn Phật giáo thì ở phía Bắc là Lạc Dương, phía Nam là Kiến Nghiệp. Tào Ngụy có Tào Duệ xây chùa Đại Hưng, Tào Thực viết thi ca Phật giáo là "Phạm bái", cho thấy tôn giáo này khá thịnh hành vào thời Tam Quốc. Về phần Đông Ngô, nhà sư Chi Khiêm và Khương Tăng Hội lần lượt vào Ngô, được Tôn Quyền tôn trọng và ủng hộ, đồng thời xây chùa Kiến Sơ cho Khương Tăng Hội đến từ Giao Chỉ. Về sau, khi Tôn Hạo xưng đế thì đã muốn phá hủy các ngôi chùa Phật giáo, nhưng từ bỏ vì lời thuyết giảng cảm hóa của Khương Tăng Hội. Về phía Thục Hán thì Phật giáo không hưng thịnh, có quy mô nhỏ. Nghệ thuật. Về nghệ thuật thời đại Tam Quốc, Đông Ngô có nhiều danh sĩ giỏi các loại hình nghệ thuật nhất, được gọi là "Ngô quốc bát tuyệt", có Ngô Phạm, Lưu Đôn, Triệu Đạt, Nghiêm Vũ, Hoàng Tượng, Tào Bất Hưng, Tống Thọ, Trịnh Ẩu. Trong đó Nghiêm Vũ giỏi cờ vây, bất bại trong thế hệ của mình và được mệnh danh là kỳ thánh; về phần Tào Bất Hưng thì vẽ tranh giỏi, Hoàng Tượng giỏi thư pháp. Trong sự loạn lạc cuối đời Hán, nhiều bức họa đã bị hủy hoại hoặc thất lạc, gây ra tổn thất lớn cho hội họa Trung Quốc. Với sự phát triển của Phật giáo, những bức tranh với chủ đề tôn giáo này bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên nhìn chung các bức tranh thời kỳ này không đạt được thành tựu lớn do rối loạn chính trị và hỗn loạn xã hội. Trước thời Tam Quốc, hội họa chủ yếu thuộc nghề kỹ nghệ của "bách công chi uyển", chưa trở thành nghệ thuật, ở thời kỳ này thì nội dung đề tài hiện thực bắt đầu xuất hiện, đồng thời cũng là thời kỳ chuyển tiếp từ tuyên truyền lễ giáo sang tuyên truyền tôn giáo.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Các họa sĩ cũng di chuyển từ Trung Nguyên trong lưu vực sông Hoàng Hà đến lưu vực sông Dương Tử, với những nhân vật nổi tiếng gồm Tào Bất Hưng, Ngô Vương Triệu phu nhân cùng những người am hiểu hội họa khác như Hoàn Phạm, Dương Tu, Ngụy Thiếu Đế Tào Mao, Gia Cát Chiêm. Tào Bất Hưng của Đông Ngô giỏi ký họa và vẽ tranh về Phật giáo, được mệnh danh là "họa Phật chi tổ", có lần ông nối năm mươi thước lụa lại với nhau để vẽ một bức chân dung, và với đầu óc minh mẫn cùng đôi tay nhanh nhẹn, ông đã thực hiện nó bằng bút lông. Ngô Vương Triệu phu nhân là em gái của Triệu Đạt giỏi thư pháp, vẽ phong cảnh, được mệnh danh là "tuyệt trâm" thời bấy giờ. Bà đã vẽ bản đồ địa hình núi và sông ở nhiều quốc gia khác nhau cho chồng mình là Tôn Quyền, đây là những bức tranh đầu tiên về tranh phong cảnh. Ngoài ra các họa sĩ khác đều có ghi chép lại, như Dương Tu với bức "Tây kinh đồ" thời Hán mạt; Hoàn Phạm giỏi về "đan thanh", tức tranh vẽ lụa và tre; Tào Mao vẽ tranh các nhân vật thực sự; cha con nhà Gia Cát Thục Hán vừa vẽ tranh vừa thư pháp. Nghệ thuật thư pháp xuất hiện vào cuối thời Đông Hán. Từ Tam Quốc đến Tây Tấn, lệ thư vẫn là chính văn, và hầu hết các bia ký vào thời điểm đó đều được viết bằng chính văn. Văn phong bia Tào Ngụy vuông vức, trang nghiêm, ít thú vị. Với Đông Ngô thì bia trứ danh gồm "Thiên phát thần sấm bi", "Thiền quốc sơn bi", "Cốc lãng bi", trong đó "Thiên phát thần sấm bi" sử dụng hình tròn làm khung, thế cục chữ rộng, thể hiện sự hùng vĩ. Các nhà thư pháp đại diện cho thời kỳ này là Trương Chi, Trương Sưởng, Vi Đản, Chung Do, Hoàng Tượng.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Trương Chi giỏi "chương thảo" và kiểu mới của "kim thảo", đều thuộc thảo thư, với các tác phẩm nổi tiếng như "Quan quân thiếp", "Kim dục quy thiếp"; Trương Sưởng là em của Trương Chi, giỏi về chương thảo và lệ thư; Vi Đản đã tổng kết kinh nghiệm thư pháp của mình và viết "Bút kinh"; Chung Do đã sáng tác các tác phẩm kinh điển của khải thư là "Tuyên kỳ biểu", "Tiến ký trực biểu"; Hoàng Tượng giỏi tiểu triện, lệ thư, đặc biệt là chương thảo, với các tác phẩm nổi tiếng là "Cấp tựu chương", "Văn vũ tương đội thiếp", và "Thiện phát thần sấm bi". Gia Cát Lượng cũng được biết là giỏi thư pháp với tác phẩm "Viễn thiệp thiếp", bản lưu hành hiện tại được sao chép bởi Vương Hi Chi. Khoa học kỹ thuật. Về kỹ thuật cơ khí, Tào Ngụy có Mã Quân, người Phù Phong – nay là huyện Hưng Bình, Thiểm Tây, là một nhà phát minh nổi tiếng. Ông giỏi ứng dụng cơ giới, nâng cao năng lực sản xuất, chế tạo ra bánh xe gỗ gọi là "bách hý" và xe chỉ Nam, được gọi là "thiên hạ chi danh xảo", tức kỹ sư xuất sắc nhất đất nước thời bấy giờ. Ông đã cải tiến máy dệt satanh của nhà Hán, làm cho các kiểu dệt có hiệu ứng ba chiều, có thể so sánh với thổ cẩm Thục. Thời Hán mạt có Tất Lam tiến hành cải tiến guồng nước "Long cốt xa", phát minh ra xe bơm thủy lực "Long cốt thủy xa" để tưới tiêu cho vùng đất canh tác đạt hiệu quả cao hơn, và ngày nay, một số ruộng bậc thang vẫn đang được sử dụng loại máy móc này. Ngoài ra, ông cũng cải tiến xe ném đá thêm chức năng luân chuyển ném đá để tăng khối lượng và tốc độ ném, phục vụ công thành, thủ thành. Gia Cát Lượng phát minh ra xe bò, ngựa gỗ để thuận tiện cho việc di chuyển trên đường núi. Cấu trúc của nó khác với những triều đại trước, các học giả hiện nay thường tin rằng xe được kết hợp giữa con bò gỗ là một chiếc xe bốn bánh và con ngựa gỗ là xe rùa hoặc xe đạp một bánh, tuy vậy vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Ngoài ra, ông đã phát minh ra một loại nỏ bắn liên tục mười mũi tên, còn được gọi là "Nguyên nhung".
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Tào Ngụy có nhà toán học Lưu Huy, người Truy Xuyên, Sơn Đông, là người yêu thích toán học từ khi còn nhỏ và đã nghiên cứu "Cửu chương toán thuật". Lên tuổi trung niên, ông viết "Cửu chương thuật toán chú" vào năm 263 tức Tào Ngụy Cảnh Nguyên thứ 4, tự mình ghi chú, biên soạn cho dễ hiểu, sau đó viết thêm quyển thứ 10 của tác phẩm này, cụ thể là "Trọng sai" với nội dung về kỹ thuật trắc địa. Vào thời Đường, "Trọng sai" được tách ra khỏi "Cửu chương", và nó được viết thành một cuốn sách riêng, với tiêu đề đầu tiên "Kim hữu vọng hải đảo", sau đó được đặt tên là "Hải đảo toán kinh", là một trong "Toán kinh thập thư". Việc sử dụng các phương pháp đo lường thứ 2, thứ 3 và thứ 4 của Lưu Huy là một sáng tạo hàng đầu trong lịch sử khảo sát và đã đưa ngành trắc địa Trung Quốc lên đến đỉnh cao. Ngoài ra, ông cũng là tác giả của "Lỗ sử y khí đồ", "Cửu chương trọng sai đồ". Về y học, những người nổi tiếng là Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh, Hoàng Phủ Mật, trong đó Hoa Đà được xem là y thuật siêu phàm, giỏi phẫu thuật, cùng với Trương Trọng Cảnh và Đổng Phụng được gọi là "Kiến An tam Thần y". Hoa Đà được xem có thể là thầy thuốc đầu tiên sử dụng thuốc mê "Ma phí tán" để phẫu thuật. Với Trương Trọng Cảnh, trước sự phổ biến của các dịch bệnh đương đại, ông đã cống hiến hết mình cho việc nghiên cứu các loại bệnh tật và viết "Bệnh thương hàn tạp bệnh luận" có tham khảo nhiều sách khác nhau, trong lời tựa của cuốn sách, ông đã đề cập rằng một trong những động lực thúc đẩy hành nghề y là hơn một nửa số thành viên trong gia đình ông đã chết vì bệnh thương hàn. Cuốn sách này là một bộ sưu tập các kinh điển y học và đơn thuốc của nhà Hán, và là cuốn sách kinh điển đầu tiên trong lịch sử y học cổ truyền Trung Quốc có chứa các nguyên tắc, phương pháp và đơn thuốc, được thầy thuốc nhà Minh Dụ Xương gọi là "vi chúng phương chi tông, quần phương chi tổ", tức sách y nguồn cội. Những đóng góp mang tính cơ sở của Trương Trọng Cảnh khiến ông được xưng tụng là "Y Thánh", là 1 trong 10 vị thánh trong lịch sử Trung Quốc.
Tam Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2816
Về Hoàng Phủ Mật thì ông lớn lên trong một gia đình nghèo khó, được biết đến với việc "học quên ăn ngủ, không màng danh lợi" nên không muốn làm quan. Ông đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về châm cứu, đồng thời sắp xếp các lý thuyết kinh mạch và phương pháp châm cứu khác nhau trước thời nhà Tấn thành "Châm cứu giáp ất kinh", trở thành mô hình châm cứu cho các thế hệ sau. Ông cũng đã viết "Hàn thực tán luận", về sau các triều đại Ngụy và Tấn thì loại thuốc Hàn thực tán này dần dần trở nên nổi tiếng. Về các ngành khoa học kỹ thuật khác thì có thiên văn học với nhà thiên văn Trần Trác là Thái sử lệnh của Đông Ngô và Tây Tấn. Ông đã thu thập những tác phẩm của các nhà thiên văn trước đó của triều Hán, kết hợp chúng thành một hệ thống duy nhất với bản liệt kê mục lục 1.464 sao trong 283 chòm sao, được các thế hệ sau sử dụng. Ngành địa lý học có tác phẩm "Chế đồ lục thể" của Bùi Tú chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử bản đồ Trung Quốc; ngành luyện kim có Bồ Nguyên chuyên chế tạo vũ khí cho Gia Cát Lượng, đồng thời từng chế tạo được loại đao vượt trội hẳn so với thời bấy giờ, gọi là "Thần đao", độ sắc có thể chẻ một ống tre chứa đầy hạt sắt. Đông Ngô có kỹ thuật đóng thuyền phát triển mạnh, tạo ra một số chiến thuyền có 5 tầng, và một số có thể chứa tới 3.000 binh sĩ. Ngoài ra, phía Thục Hán rất giàu muối giếng và khí tự nhiên địa phương được sử dụng để nấu muối, giúp tăng năng lực sản xuất.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Áo ( ), tên chính thức là Cộng hòa Áo (, ) là một quốc gia không giáp biển nằm tại Trung Âu. Quốc gia này tiếp giáp với Cộng hòa Séc và Đức về phía bắc, Hungary và Slovakia về phía đông, Slovenia và Ý về phía nam, và Thụy Sĩ và Liechtenstein về phía tây. Lãnh thổ của Áo có diện tích . Địa hình Áo có rất nhiều núi, nằm trong dãy Anpơ; chỉ 32% của quốc gia nằm dưới , và điểm cao nhất là . Áo bao gồm chín tiểu bang liên bang ("Bundesländer"), một trong số đó là Viên, thủ đô và thành phố lớn nhất của Áo. Phần lớn dân số nói phương ngữ Bayern của tiếng Đức làm tiếng bản địa, và tiếng Đức trong dạng tiêu chuẩn là ngôn ngữ chính thức của quốc gia này, người Đức cũng là dân tộc bản địa tại đây. Các ngôn ngữ chính thức khác là tiếng Hungaria, tiếng Burgenland Croatia và tiếng Slovene. Áo ban đầu nổi lên như một phiên hầu quốc vào khoảng năm 976 và phát triển thành một công quốc và đại công quốc. Vào Thế kỷ 16, Áo bắt đầu đóng vai trò là trung tâm của Quân chủ Habsburg và là chi nhánh cơ sở của nhà Habsburg - một trong những triều đại hoàng gia có ảnh hưởng nhất trong lịch sử. Là một thành phố cổ, nó là một thành phần chính và là trung tâm hành chính của Đế chế La Mã Thần thánh. Đầu Thế kỷ 19, Áo thành lập Đế quốc Áo, trở thành một cường quốc và là lực lượng hàng đầu của Liên bang Đức, nhưng theo đuổi lộ trình riêng độc lập với các quốc gia Đức khác sau thất bại trong Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Năm 1867, theo thỏa hiệp với Hungary, Chế độ quân chủ kép Áo-Hungary được thành lập. Áo tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất dưới thời Hoàng đế Franz Joseph sau vụ ám sát Thái tử, người kế vị ngai vàng Đế quốc Áo-Hung. Sau thất bại và sự tan rã của Chế độ quân chủ, Cộng hòa Áo-Đức được tuyên bố với ý định liên minh với Cộng hòa Weimar, nhưng các cường quốc Đồng minh không ủng hộ nhà nước mới này và nó vẫn không được công nhận. Năm 1919, Cộng hòa Áo thứ nhất trở thành nước kế thừa hợp pháp của Áo. Năm 1938, Adolf Hitler gốc Áo, người trở thành Thủ tướng của Đức Quốc Xã, đã thực hiện được việc sáp nhập Áo nhờ sự kiện Anschluss.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Sau thất bại của Đức Quốc xã vào năm 1945 và một thời gian dài bị Đồng minh chiếm đóng, Áo được tái lập thành một quốc gia dân chủ có chủ quyền và tự quản, được gọi là nền Cộng hòa thứ hai. Áo là một nền dân chủ đại nghị với Tổng thống Liên bang được bầu trực tiếp làm nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ liên bang. Các khu vực đô thị lớn của Áo bao gồm Viên, Graz, Linz, Salzburg và Innsbruck. Áo liên tục được xếp hạng trong top 20 quốc gia giàu nhất thế giới tính theo GDP bình quân đầu người. Đất nước này đã đạt được mức sống cao và năm 2018 được xếp hạng thứ 20 trên thế giới về Chỉ số Phát triển Con người. Viên liên tục đứng trong top thành phố quốc tế về các chỉ số chất lượng cuộc sống. Nền Cộng hòa thứ hai tuyên bố trung lập vĩnh viễn trong các vấn đề chính trị đối ngoại vào năm 1955. Áo là thành viên của Liên Hợp Quốc từ năm 1955 và gia nhập Liên minh châu Âu năm 1995. Nó đóng vai trò chủ nhà của OSCE và OPEC và là thành viên sáng lập của OECD và Interpol. Áo cũng đã ký Hiệp định Schengen vào năm 1995, và thông qua đồng tiền chung euro vào năm 1999. Tên gọi. Tên gọi của nước Áo trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Tên tiếng Anh của Áo là "Austria." Bằng tiếng Trung, "Austria" phiên âm thành "Ào dì lì" (theo pinyin), chữ Hán viết là "" ("Áo Địa Lợi"). Tên gọi "Áo" trong tiếng Việt là gọi tắt của "Áo Địa Lợi". Tên tiếng Đức của Áo là "Österreich", có nghĩa là "Đông Quốc" ("Öster" - "East" - "Đông", "reich" - "Realm" - "Quốc"). Tên tiếng Anh của nước Áo (Austria) dễ gây nhầm lẫn với quốc hiệu của nước Úc (Australia). Do vậy ở Áo có một câu khá phổ biến mà người dân hay nói với du khách là "No kangaroos in Austria" (Không có chuột túi ở Áo). Lịch sử. Vùng đất Trung Âu ngày nay là Áo được định cư vào thời tiền La Mã bởi nhiều bộ lạc người Celt. Vương quốc Noricum của người Celt sau đó đã bị Đế chế La Mã tuyên bố chủ quyền và lập thành một tỉnh. Petronell-Carnuntum ngày nay ở miền đông Áo là một doanh trại quan trọng đã biến thành phố thủ phủ ở nơi được biết là tỉnh Thượng Pannonia. Carnuntum là nhà của 50.000 người trong gần 400 năm. Thời kỳ Trung Cổ.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Thời kỳ Trung Cổ. Sau khi Đế chế La Mã sụp đổ, khu vực này đã bị người Bavaria, Slav và Avar xâm chiếm. Charlemagne, vua của người Frank, đã chinh phục khu vực này vào năm 788, khuyến khích thực dân hóa và truyền bá Kitô giáo. Là một phần của Đông Francia, các khu vực cốt lõi hiện bao gồm Áo đã được truyền lại cho nhà Babenberg. Khu vực này được gọi là marchia Orientalis và được trao cho Leopold của Babenberg vào năm 976. Ghi chép đầu tiên về tên Áo là từ năm 996, khi đó, nó được viết là Ostarrîchi, đề cập đến lãnh thổ của Babenberg. Năm 1156, Privilegium Minus nâng Áo lên vị thế một lãnh địa của công tước. Vào năm 1192, người Babenberg cũng đã giành được lãnh địa xứ Styria. Với cái chết của Frederick II vào năm 1246, dòng dõi Babenberg đã bị dập tắt. Kết quả là, Ottokar II của Bohemia đã nắm quyền kiểm soát hiệu quả các lãnh địa công tước của Áo như Styria và Carinthia. Triều đại của ông đã chấm dứt sau thất bại tại Dürnkrut dưới tay của Rudolph I của Đức vào năm 1278. Sau đó, cho đến Thế chiến thứ nhất, lịch sử của Áo phần lớn là lịch sử của triều đại cầm quyền, nhà Habsburgs. Vào Thế kỷ 14 và Thế kỷ 15, nhà Habsburg bắt đầu thu thập các tỉnh trong vùng lân cận của lãnh địa công tước Áo. Năm 1438, Công tước Albert V của Áo được chọn làm người kế vị cha vợ của mình, Hoàng đế Sigismund. Mặc dù bản thân Albert chỉ trị vì trong một năm nhưng từ đó, mọi hoàng đế của Đế chế La Mã thần thánh đều là người nhà Habsburg (chỉ có một ngoại lệ). Nhà Habsburg cũng bắt đầu tích lũy lãnh thổ cách xa các vùng đất cha truyền con nối. Năm 1477, hoàng tử nước Áo Maximilian, con trai duy nhất của Hoàng đế Frederick III kết hôn với người thừa kế Maria xứ Burgundy, do đó có quyền sở hữu hầu hết Hà Lan. Năm 1496, con trai Philipp Đẹp trai kết hôn với Juana I của Castilla, người thừa kế của Castilla và Aragón, do đó nhà Habsburg cũng sở hữu Tây Ban Nha và các phần của Ý, Châu Phi và Tân Thế giới của nó. Năm 1526, sau trận Mohács, Bohemia và một phần của Hungary không bị Ottoman chiếm đóng đã nằm dưới sự cai trị của Áo. Sự bành trướng của Ottoman vào Hungary đã dẫn đến xung đột thường xuyên giữa hai đế chế, đặc biệt rõ ràng trong Chiến tranh dài từ 1593 đến 1606.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Người Thổ Nhĩ Kỳ đã xâm nhập vào Styria gần 20 lần, trong đó một số người được trích dẫn là "đốt, cướp và lấy hàng ngàn nô lệ ". Vào cuối tháng 9 năm 1529, Suleiman the Magnificent đã phát động Cuộc vây hãm Viên lần thứ nhất, kết thúc không thành công, theo các nhà sử học Ottoman, với những trận tuyết rơi của một mùa đông đầu năm. Thế kỷ 17 và 18. Trong triều đại dài của Leopold I (1657-1705) và sau khi phòng thủ thành Viên thành công chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ năm 1683 (dưới sự chỉ huy của Quốc vương Ba Lan John III Sobieski), một loạt các chiến dịch mang lại kết quả là hầu hết Hungary chuyển sang do Áo kiểm soát với Hiệp ước Karlowitz năm 1699. Hoàng đế Charles VI đã từ bỏ nhiều lợi ích mà đế chế đã đạt được trong những năm trước, phần lớn là do sự e ngại của ông trước sự tuyệt tôn sắp xảy ra của Nhà Habsburg. Charles sẵn sàng đưa ra những lợi thế cụ thể trong lãnh thổ và quyền hạn để đổi lấy sự công nhận Sắc lệnh thực dụng để đưa con gái Maria Theresa trở thành người thừa kế. Với sự trỗi dậy của nước Phổ, thuyết nhị nguyên Áo Phổ bắt đầu ở Đức. Áo đã tham gia cùng với Phổ và Nga trong phân chia Ba Lan lần đầu tiên và thứ ba (vào năm 1772 và 1795). Thế kỷ 19. Áo sau đó đã tham gia vào một cuộc chiến tranh với nước Pháp cách mạng, lúc đầu rất không thành công với những thất bại liên tiếp dưới tay Napoleon, dẫn đến sự kết thúc của Đế quốc La Mã Thần thánh cũ vào năm 1806. Hai năm trước, Đế quốc Áo được thành lập. Từ năm 1792 đến năm 1801, người Áo đã phải chịu 754.700 thương vong. Năm 1814, Áo là một phần của lực lượng Đồng minh đã xâm chiếm Pháp và chấm dứt Chiến tranh Napoléon. Đế quốc Áo nổi lên từ Đại hội Viên năm 1815 với tư cách là một trong bốn cường quốc thống trị lục địa và là một cường quốc được công nhận. Cùng năm đó, Liên bang Đức () được thành lập dưới sự lãnh đạo của Áo. Do các cuộc xung đột xã hội, chính trị và quốc gia chưa được giải quyết, các vùng đất của Đức đã bị rung chuyển bởi các cuộc cách mạng năm 1848 nhằm tạo ra một nước Đức thống nhất. Các khả năng khác nhau khác nhau đối với một nước Đức thống nhất là: một nước Đại Đức hoặc Đại Áo hoặc chỉ là Liên bang Đức mà không có Áo.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Vì Áo không sẵn sàng từ bỏ các lãnh thổ nói tiếng Đức của mình để trở thành Đế chế Đức năm 1848, vương miện của đế chế mới được thành lập đã được trao cho Quốc vương Phổ Friedrich Wilhelm IV. Năm 1864, Áo và Phổ đã cùng nhau chiến đấu chống lại Đan Mạch và bảo vệ sự độc lập khỏi Đan Mạch của các lãnh thổ công tước Schleswig và Holstein. Tuy nhiên, vì hai nước không thể đồng thuận về cách quản lý hai lãnh thổ công tước trên, dẫn tới Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Bị đánh bại bởi Phổ trong Trận Königgrätz, Áo phải rời khỏi Liên minh Đức và không còn tham gia vào chính trị Đức. Thỏa hiệp Áo-Hung năm 1867, "Ausgleich", đã tạo nên một nền quân chủ song đôi Áo–Hung giữa Đế quốc Áo và Vương quốc Hungary, dưới thời Franz Joseph I. Sự cai trị của Áo-Hung của đế chế đa sắc tộc này bao gồm nhiều nhóm sắc tộc Slavơ khác nhau như người Croatia, người Séc, người Ba Lan, người Rusyn, người Serb, người Slovak, người Slovene và người Ukraine cũng như các cộng đồng lớn người Ý và người Rumani. Do đó, việc cầm quyền Áo-Hungary ngày càng trở nên khó khăn trong thời đại các phong trào dân tộc nổi lên, đòi hỏi sự phụ thuộc đáng kể vào một cảnh sát mật mở rộng. Tuy nhiên, chính phủ Áo đã cố gắng hết sức để chấp nhận một số khía cạnh: ví dụ như "Reichsgesetzblatt", xuất bản luật và pháp lệnh của Cisleithania được ban hành bằng tám ngôn ngữ; và tất cả các nhóm quốc gia được hưởng các trường học bằng ngôn ngữ của họ và sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ tại các cơ quan nhà nước. Nhiều người Áo thuộc tất cả các nhóm xã hội khác nhau như Georg Ritter von Schönerer đã thúc đẩy Chủ nghĩa dân tộc Đức mạnh mẽ với hy vọng củng cố một bản sắc dân tộc Đức và sáp nhập Áo vào Đức. Một số người Áo như Karl Lueger cũng sử dụng Chủ nghĩa dân tộc Đức như một hình thức của chủ nghĩa dân túy để tiếp tục các mục tiêu chính trị của riêng họ.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Mặc dù các chính sách của Bismarck đã loại trừ Áo và người Áo nói tiếng Đức khỏi Đức, nhưng nhiều người Áo theo Chủ nghĩa dân tộc Đức đã thần tượng ông ta và mặc những bông hoa ngô màu xanh, được biết đến là loài hoa yêu thích của Hoàng đế Đức Wilhelm I trong đôi giày của họ, cùng với màu nước hoa, màu đỏ và màu vàng), mặc dù cả hai đều bị cấm tạm thời tại các trường học ở Áo, như một cách thể hiện sự bất mãn đối với đế chế đa sắc tộc. Việc Áo bị loại khỏi Đức khiến nhiều người Áo gặp vấn đề với bản sắc dân tộc và khiến Nhà lãnh đạo Dân chủ Xã hội Otto Bauer tuyên bố rằng đó là "cuộc xung đột giữa tính cách Áo và Đức của chúng ta." Đế quốc Áo-Hung gây căng thẳng sắc tộc giữa Người Áo Đức và các nhóm dân tộc khác. Nhiều người Áo, đặc biệt là những người liên quan đến các phong trào dân tộc Đức, mong muốn củng cố một bản sắc dân tộc Đức và hy vọng rằng đế chế sẽ sụp đổ, cho phép sáp nhập Áo với Đức. Rất nhiều người theo chủ nghĩa dân tộc Đức của Áo đã nhiệt tình chống lại sắc lệnh ngôn ngữ của Bộ trưởng Kasimir Bá tước Baden năm 1897, khiến các ngôn ngữ đồng chính thức của Đức và Séc ở Bohemia và yêu cầu các quan chức chính phủ mới phải thông thạo cả hai ngôn ngữ. Điều này có nghĩa trong thực tế rằng công vụ dân sự hầu như chỉ thuê người Séc, bởi vì hầu hết những người Séc thuộc tầng lớp trung lưu nói tiếng Đức nhưng không có nhiều người Đức nói được tiếng Séc. Sự ủng hộ của các chính trị gia và giáo sĩ Công giáo theo thuyết giáo hoàng nắm quyền tuyệt đối cho cải cách này đã kích hoạt sự phát động của phong trào "Xa rời Rome" (), được khởi xướng bởi những người ủng hộ Schönerer và kêu gọi các Kitô hữu "người Đức" rời khỏi Giáo hội Công giáo La Mã. Thế kỷ 20. Khi kỷ nguyên Hiến pháp thứ hai bắt đầu ở Đế quốc Ottoman, Áo-Hung đã có cơ hội sáp nhập Bosnia và Herzegovina vào năm 1908.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Vụ ám sát Thái tử Franz Ferdinand tại Sarajevo vào năm 1914 bởi một người Serb gốc Bosnia Gavrilo Princip đã được các chính trị gia và tướng lĩnh hàng đầu của Áo sử dụng để thuyết phục hoàng đế tuyên chiến với Serbia, châm ngòi cho chiến tranh thế giới thứ nhất, dẫn đến sự giải thể của Đế quốc Áo-Hung. Hơn một triệu binh sĩ Áo-Hung đã chết trong Thế chiến I. Vào ngày 21 tháng 10 năm 1918, các thành viên Đức được bầu của Reichsrat (quốc hội của Áo) đã họp tại Viên với tư cách là Quốc hội lâm thời của nhà nước Áo Đức (Provisorische Nationalversammlung für Deutschösterreich). Vào ngày 30 tháng 10, hội nghị thành lập Cộng hòa Áo Đức bằng cách bổ nhiệm một chính phủ, được gọi là Staatsrat. Chính phủ mới này đã được Hoàng đế mời tham gia quyết định đình chiến theo kế hoạch với Ý nhưng đã không thực hiện. Điều này để lại trách nhiệm kết thúc của cuộc chiến, vào ngày 3 tháng 11 năm 1918, chỉ dành cho hoàng đế và chính phủ của ông. Vào ngày 11 tháng 11, hoàng đế được cố vấn bởi các bộ trưởng của chính phủ cũ và mới, tuyên bố ông sẽ không tham gia vào công việc của nhà nước nữa; vào ngày 12 tháng 11, Áo Đức, theo luật, tuyên bố mình là một nước cộng hòa dân chủ và là một phần của nước cộng hòa mới của Đức. Hiến pháp, đổi tên "Staatsrat" thành "Bundesregierung" (chính phủ liên bang) và "Nationalversammlung" thành "Nationalrat" (hội đồng quốc gia) được thông qua vào ngày 10 tháng 11 năm 1920. Hiệp ước Saint-Germain năm 1919 (Hiệp ước Trianon với Hungary năm 1920) đã xác nhận và củng cố trật tự mới ở Trung Âu, đến một mức độ lớn đã được thiết lập vào tháng 11 năm 1918, tạo ra các quốc gia mới và thay đổi các quốc gia khác. Các bộ phận nói tiếng Đức của Áo từng là một phần của Áo-Hung đã bị giảm xuống thành một quốc gia hỗn loạn có tên Cộng hòa Áo Đức (tiếng Đức: "Republik Deutschösterreich"). Mong muốn về Anschluss (sáp nhập Áo vào Đức) là một ý kiến phổ biến được chia sẻ bởi tất cả các nhóm xã hội ở cả Áo và Đức. Vào ngày 12 tháng 11, Áo Đức được tuyên bố là một nước cộng hòa với Karl Renner thuộc đảng Dân chủ Xã hội làm thủ tướng lâm thời.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Cùng ngày, một hiến pháp tạm thời đã soạn thảo tuyên bố rằng "Áo Đức là một nước cộng hòa dân chủ" (Điều 1) và "Áo Đức là một phần không thể thiếu của đế chế Đức" (Điều 2). Hiệp ước Saint Germain và Hiệp ước Versailles cấm liên minh giữa Áo và Đức. Các hiệp ước cũng buộc Áo Đức phải đổi tên thành "Cộng hòa Áo", từ đó dẫn đến Đệ nhất Cộng hòa Áo. Hơn 3 triệu người Áo nói tiếng Đức đã sống bên ngoài Cộng hòa Áo mới với tư cách là thiểu số ở các quốc gia mới được thành lập hoặc mở rộng của Tiệp Khắc, Nam Tư, Hungary và Ý. Chúng bao gồm các tỉnh Nam Tyrol (đã trở thành một phần của Ý) và Bohemia thuộc Đức (Tiệp Khắc). Tình trạng của Bohemia thuộc Đức (Sudetenland) sau đó đã đóng một vai trò trong việc châm ngòi cho Thế chiến thứ hai. Tình trạng của Nam Tyrol là một vấn đề còn sót lại giữa Áo và Ý cho đến khi nó được chính thức giải quyết vào những năm 1980 với một mức độ tự trị tuyệt vời được chính phủ quốc gia Ý trao cho nó. Giữa năm 1918 và 1919, Áo được gọi là Nhà nước Áo Đức (). Các cường quốc Entente không chỉ cấm Áo Đức hợp nhất với Đức, mà họ còn từ chối tên Áo Đức trong hiệp ước hòa bình được ký kết; do đó, nó đã đổi thành Cộng hòa Áo vào cuối năm 1919. Biên giới giữa Áo và Vương quốc của người Serb, Croat và người Slovene (sau đó là Nam Tư) đã được định cư với Carinthian Plebiscite vào tháng 10 năm 1920 và phân bổ phần lớn lãnh thổ của Vương quốc Carinthia thuộc Áo-Hung cũ của Áo cho Áo. Điều này đặt biên giới trên dãy núi Karawanken, với nhiều người Slovene còn lại ở Áo. Thời kỳ giữa hai Thế chiến và Thế chiến II. Sau chiến tranh, lạm phát bắt đầu phá giá đồng Krone là tiền tệ của Áo. Vào mùa thu năm 1922, Áo được cấp một khoản vay quốc tế được giám sát bởi Hội Quốc Liên. Mục đích của khoản vay là ngăn chặn phá sản, ổn định tiền tệ và cải thiện tình trạng kinh tế chung của Áo. Khoản vay này có nghĩa là Áo đã chuyển từ một quốc gia độc lập sang nằm dưới kiểm soát của Hội Quốc Liên. Năm 1925, đồng Schilling ra đời và thay thế đồng Krone với tỷ lệ 10.000: 1.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Sau đó, nó được đặt biệt danh là "đô la Alps" do tính ổn định của nó. Từ năm 1925 đến 1929, nền kinh tế đã đạt mức cao ngắn trước khi gần như sụp đổ sau ngày thứ Ba đen tối. Đệ Nhất Cộng hòa Áo tồn tại đến năm 1933 khi Thủ tướng Engelbert Dollfuss sử dụng cái mà ông gọi là "Quốc hội tự đóng cửa", đã thiết lập một chế độ chuyên quyền có xu hướng theo chủ nghĩa phát xít Ý. Hai đảng lớn tại thời điểm này, Đảng Dân chủ Xã hội và Đảng Bảo thủ đều có quân đội bán quân sự; Schutzbund của Đảng Dân chủ Xã hội hiện đã bị tuyên bố là bất hợp pháp, nhưng vẫn hoạt động khi cuộc nội chiến nổ ra. Vào tháng 2 năm 1934, một số thành viên của Schutzbund đã bị xử tử. [61] Đảng Dân chủ Xã hội bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và nhiều thành viên của nó đã bị cầm tù hoặc di cư. [60] Vào ngày 1 tháng 5 năm 1934, những người Phát xít Áo đã áp đặt một hiến pháp mới ("Maiverfassung") nhằm củng cố quyền lực của Dollfuss nhưng vào ngày 25 tháng 7, ông ta đã bị ám sát trong một nỗ lực đảo chính của Đức Quốc xã. [62] [63] Người kế vị của ông Kurt Schuschnigg thừa nhận Áo là một "quốc gia Đức" và người Áo là "người Đức tốt hơn" nhưng mong muốn Áo vẫn độc lập. Ông tuyên bố trưng cầu dân ý vào ngày 9 tháng 3 năm 1938, được tổ chức vào ngày 13 tháng 3, liên quan đến sự độc lập của Áo khỏi Đức. Vào ngày 12 tháng 3 năm 1938, Đức quốc xã Áo tiếp quản chính phủ, trong khi quân đội Đức chiếm đóng đất nước, điều này ngăn cản cuộc trưng cầu dân ý của Schuschnigg. Vào ngày 13 tháng 3 năm 1938, Anschluss của Áo được tuyên bố chính thức. Hai ngày sau, Hitler vốn sinh ra ở Áo tuyên bố cái mà ông ta gọi là "thống nhất" đất nước quê hương của mình với "phần còn lại của Đế chế Đức" ở quảng trường Heldenplatz, Viên. Ông tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân xác nhận liên minh với Đức vào tháng 4 năm 1938. Cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức tại Đức (bao gồm cả Áo bị sáp nhập gần đây) vào ngày 10 tháng 4 năm 1938.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Đó là cuộc bầu cử cuối cùng của Reichstag trong thời kỳ phát xít, và có hình thức trưng cầu dân ý một vấn đề về việc cử tri có chấp thuận một danh sách Reichstag 813 thành viên của đảng Quốc xã cũng như sự sáp nhập gần đây của Áo (Anschluss). Người Do Thái và Gypsy không được phép bỏ phiếu. Tỷ lệ cử tri trong cuộc bầu cử chính thức là 99,5%, với 98,9% phiếu bầu "có". Ở Áo, quê hương của Adolf Hitler, 99,71% tổng số cử tri là 4.484.475 đã chính thức đi bỏ phiếu với tỷ lệ ủng hộ là 99,73%. Mặc dù hầu hết người Áo thích Anschluss nhưng ở một số vùng của Áo, binh lính Đức không phải lúc nào cũng được chào đón bằng hoa và niềm vui, đặc biệt là ở Viên, nơi có Do Thái đông nhất của Áo. Tuy nhiên, mặc dù tuyên truyền và thao túng và gian lận bao quanh kết quả thùng phiếu, vẫn có sự hỗ trợ thực sự lớn để Hitler hoàn thành Anschluss vì nhiều người Đức từ cả Áo và Đức đã thấy sự thống nhất tất cả người Đức hợp nhất thành một nhà nước lẽ ra đã phải được thực hiện từ trước. Vào ngày 12 tháng 3 năm 1938, Áo bị sáp nhập vào Đế chế thứ ba và không còn là một quốc gia độc lập. Việc Aryan hóa sự giàu có của người Áo Do Thái bắt đầu ngay lập tức vào giữa tháng 3 với giai đoạn được gọi là "hoang dã" (tức là ngoài vòng pháp luật), nhưng đã sớm được cấu trúc hợp pháp và quan liêu để tước đoạt bất kỳ tài sản nào của người Do Thái. Đức quốc xã đã đổi tên Áo vào năm 1938 thành "Ostmark" cho đến năm 1942, khi nó được đổi tên một lần nữa và được gọi là "Alpine và Danubian Gaue" (Alpen-und Donau-Reichsgaue). Mặc dù người Áo chỉ chiếm 8% dân số của Đế chế thứ ba, một số người Đức quốc xã nổi bật nhất là người Áo bản địa như Adolf Hitler, Ernst Kaltenbrunner, Arthur Seyss-Inquart, Franz Stangl và Odilo Globocnik,k]], cũng như hơn 13% SS và 40% nhân viên tại các trại hủy diệt của Đức quốc xã. Viên sụp đổ vào ngày 13 tháng 4 năm 1945 trong cuộc tấn công Viên của Liên Xô, ngay trước khi sự sụp đổ hoàn toàn của Đệ tam Quốc xã.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Các cường quốc Đồng minh xâm lược, đặc biệt là người Mỹ, đã lên kế hoạch cho "Chiến dịch pháo đài núi cao" được cho là của một quốc gia, phần lớn đã diễn ra trên đất Áo ở vùng núi thuộc dãy núi Alps phía đông. Tuy nhiên, nó không bao giờ thành hiện thực vì sự sụp đổ nhanh chóng của Đệ tam Đế chế. Karl Renner và Adolf Schärf (Đảng Xã hội Áo [Dân chủ Xã hội và Xã hội Cách mạng]), Leopold Kunschak (Đảng Nhân dân Áo [Đảng Nhân dân Xã hội Kitô giáo cũ)), và Johann Koplenig (Đảng Cộng sản Áo) tuyên bố ly khai khỏi Đế chế thứ ba bởi Tuyên ngôn Độc lập ngày 27 tháng 4 năm 1945 và thành lập một chính phủ lâm thời ở Viên dưới thời Thủ tướng Renner cùng ngày với sự chấp thuận của Hồng quân chiến thắng và được Joseph Stalin hậu thuẫn. (Ngày này được đặt tên chính thức là ngày sinh nhật của nước Đệ nhị Cộng hòa.) Vào cuối tháng 4, hầu hết miền tây và miền nam Áo vẫn nằm dưới sự cai trị của Đức Quốc xã. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1945, hiến pháp liên bang năm 1929 đã bị nhà độc tài Dollfuss chấm dứt vào ngày 1 tháng 5 năm 1934 lại được tuyên bố hợp lệ. Tổng số tử vong quân sự từ 1939 đến 1945 ước tính là 260.000. Nạn nhân Holocaust Do Thái tổng cộng 65.000. Khoảng 140.000 người Áo Do Thái đã rời khỏi đất nước vào năm 1938. Hàng ngàn người Áo đã tham gia vào các tội ác nghiêm trọng của Đức Quốc xã (hàng trăm ngàn người chết trong trại tập trung Mauthausen-Gusen), một sự thật được Thủ tướng Franz Vranitzky công nhận chính thức vào năm 1992. Thời đại đương đại. Giống như Đức, Áo được chia thành các khu vực của Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô và được quản lý bởi Ủy ban Đồng minh của Áo. Theo dự báo trong Tuyên bố Moscow năm 1943, một sự khác biệt tinh tế đã được nhìn thấy trong cách đối xử của Áo bởi quân Đồng minh. Chính phủ Áo bao gồm các đảng Dân chủ Xã hội, Bảo thủ và Cộng sản (cho đến năm 1947), và cư trú tại Viên, được bao quanh bởi khu vực Liên Xô, đã được các Đồng minh phương Tây công nhận vào tháng 10 năm 1945 sau khi một số nghi ngờ rằng Renner có thể là con rối của Stalin.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Do đó, việc thành lập một chính phủ Tây Áo riêng biệt và phân chia đất nước đã tránh được. Áo nói chung được đối xử như thực thể ban đầu bị Đức xâm chiếm và giải phóng bởi quân Đồng minh. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1955, sau các cuộc đàm phán kéo dài trong nhiều năm và chịu ảnh hưởng của Chiến tranh Lạnh, Áo đã giành lại độc lập hoàn toàn bằng cách ký kết Hiệp ước Nhà nước Áo với Bốn cường quốc chiếm đóng. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1955, sau khi tất cả quân đội chiếm đóng đã rời đi, Áo tuyên bố "tính trung lập vĩnh viễn" của mình bằng một đạo luật của quốc hội. Ngày này là ngày Quốc khánh của Áo. Hệ thống chính trị của nền Đệ nhị Cộng hòa dựa trên hiến pháp năm 1920 và 1929, được giới thiệu lại vào năm 1945. Hệ thống này được đặc trưng bởi Proporz, có nghĩa là hầu hết các chức vụ có tầm quan trọng chính trị được chia đều giữa các thành viên của Đảng Dân chủ Xã hội Áo (SPÖ) và Đảng Nhân dân Áo (VP). "Các văn phòng" của các nhóm lợi ích với tư cách thành viên bắt buộc (ví dụ: đối với công nhân, doanh nhân, nông dân) đã tăng lên tầm quan trọng đáng kể và thường được tư vấn trong quy trình lập pháp. Vì vậy hầu như không có luật nào được thông qua mà không phản ánh sự đồng thuận rộng rãi. Kể từ năm 1945, việc điều hành thông qua một chính phủ độc đảng đã xảy ra hai lần: 1966-1970 (ÖVP) và 1970-1983 (SPÖ). Trong tất cả các thời kỳ lập pháp khác, một liên minh lớn của SPÖ và ÖVP hoặc một "liên minh nhỏ" (một trong hai và một đảng nhỏ hơn) đã cai trị đất nước. Kurt Waldheim, một sĩ quan Wehrmacht trong Thế chiến thứ hai bị cáo buộc tội ác chiến tranh, được bầu làm Tổng thống Áo từ năm 1986 đến năm 1992. Sau một cuộc trưng cầu dân ý năm 1994, khi đó sự đồng ý đạt được phần lớn hai phần ba, quốc gia này đã trở thành thành viên của Liên minh châu Âu vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Các đảng lớn SPÖ và ÖVP có ý kiến trái ngược về tình trạng không liên kết quân sự của Áo: Trong khi SPÖ công khai ủng hộ vai trò trung lập, ÖVP lập luận về việc tích hợp mạnh mẽ hơn vào chính sách an ninh của EU; ngay cả một thành viên NATO trong tương lai cũng không bị loại trừ bởi một số chính trị gia ÖVP (ví dụ: Tiến sĩ Werner Fasslabend (VP) năm 1997). Trên thực tế, Áo đang tham gia Chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU, tham gia vào các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình và tạo dựng hòa bình, và đã trở thành thành viên của "Đối tác vì hòa bình" của NATO; hiến pháp đã được sửa đổi cho phù hợp. Kể từ khi Liechtenstein gia nhập Khu vực Schengen vào năm 2011, không một quốc gia láng giềng nào của Áo thực hiện kiểm soát biên giới đối với nó nữa. Chính trị. Hệ thống. Cộng hòa Áo, theo Hiến pháp liên bang năm 1920, tiếp tục có hiệu lực từ sau 1945, là một nước Cộng hòa liên bang dân chủ nghị viện bao gồm 9 tiểu bang. Nguyên thủ quốc gia là Tổng thống liên bang được bầu trực tiếp từ công dân 6 năm một lần. Người lãnh đạo chính phủ là Thủ tướng liên bang trên thực tế được tổng thống bổ nhiệm theo tỷ lệ đa số trong Hội đồng quốc gia ("Nationalrat"). Chính phủ có thể bị mãn nhiệm thông qua biểu quyết bất tín nhiệm của Hội đồng quốc gia. Bầu cử cho Tổng thống Liên bang và Quốc hội đã từng bắt buộc ở Áo, nhưng điều này đã bị bãi bỏ từ năm 1982 đến năm 2004. Nghị viện của Áo bao gồm hai viện. Thành phần của Hội đồng quốc gia với 183 thành viên được quyết định bởi các cuộc bầu cử tự do 4 năm một lần, được bầu với nhiệm kỳ năm năm của đại diện tỷ lệ. Mức cản 4% được đưa ra nhằm ngăn cản một phân tán quá lớn của các đảng trong Hội đồng quốc gia. Hội đồng liên bang ("Bundesrat") được cử ra từ các Hội đồng tiểu bang ("Landtag"). Hội đồng quốc gia là viện chiếm ưu thế trong lập pháp ở Áo. Hội đồng liên bang trong đa số các trường hợp chỉ có quyền phủ quyết có tính cách trì hoãn, có thể bị mất hiệu lực bởi Nghị định kiên quyết ("Beharrungsbeschluss") của Hội đồng quốc gia. Đảng phái chính trị.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Đảng phái chính trị. Từ khi Cộng hòa Áo được thành lập, nền chính trị ở Áo chịu ảnh hưởng của 2 đảng lớn là Đảng Nhân dân Áo ("Österreichische Volkspartei – ÖVP") có đường hướng Thiên chúa giáo bảo thủ (trước Chiến tranh thế giới thứ hai có tên là Đảng Thiên chúa giáo-Xã hội) và Đảng Xã hội Dân chủ Áo ("Sozialdemokratische Partei Österreichs – SPÖ") có tên trước đây là "Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Áo - Sozialistische Arbeiterpartei Österreichs". Cả hai đảng đã có từ thời quân chủ và được tái thành lập sau khi thủ đô Viên được giải phóng vào thời gian cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai trong tháng 4 năm 1945. Trong hai giai đoạn 1945 – 1966 và 1986 – 1999 hai đảng này cùng cầm quyền ở Áo trong "liên minh lớn" mặc dù có thế giới quan trái ngược nhau. Xu hướng chính trị thứ ba, nhỏ hơn rất nhiều, thuộc đường hướng quốc gia dân tộc Đức, tập trung trong thời đệ Nhất cộng hòa trong Đảng Nhân dân Đại Đức ("Großdeutsche Volkspartei"), trong đệ Nhị cộng hòa là Liên minh Độc lập và sau đấy là trong Đảng Tự do Áo ("Freiheitliche Partei Österreichs – FPÖ"). Đảng Cộng sản Áo cũng đã có vai trò chính trị trong những năn đầu của đệ Nhị cộng hòa, thế nhưng từ thập niên 1960 vì là đảng nhỏ nhất nên đã không còn có tầm quan trọng trên bình diện liên bang nữa. Tuy vậy Đảng Cộng sản Áo vẫn còn có số phiếu đáng kể trong nhiều cuộc bầu cử địa phương, ví dụ như tại thành phố Graz. Trong thập niên 1980 hệ thống đảng phái chính trị cứng nhắc này bắt đầu tan vỡ. Một mặt là do sự xuất hiện của Đảng Xanh (Áo) trên chính trường ở phía cánh tả và mặt khác là do Đảng Tự do Áo chuyển sang đường hướng dân túy khuynh hữu ("right populism"). Tách ra từ đảng này là Diễn đàn Tự do (Liberales Forum), lại biến mất trên trường chính trị ngay sau đó. Liên minh Tương lai Áo ("Bündnis Zukunft Österreich – BZÖ") thành lập trong năm 2005 đánh dấu sự chia rẽ lần thứ hai của Đảng Tự do Áo. Sau cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào tháng 10 năm 2006, Đảng Dân chủ Xã hội (SPÖ) nổi lên là đảng mạnh nhất, và Đảng Nhân dân Áo (ÖVP) đứng thứ hai, mất khoảng 8% số phiếu bầu trước đó.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Luật pháp nghiêm cấm bất kỳ một trong hai đảng chính hình thành liên minh với các đảng nhỏ hơn. Vào tháng 1 năm 2007, Đảng Nhân dân và Đảng Dân chủ Xã hội đã thành lập một liên minh lớn với nhà dân chủ xã hội Alfred Gusenbauer làm Thủ tướng. Liên minh này đã tan rã vào tháng 5 năm 2008. Cuộc bầu cử vào tháng 9 năm 2008 tiếp tục làm suy yếu cả hai đảng chính (SPÖ và ÖVP) nhưng cùng nhau họ vẫn nắm giữ 70% phiếu bầu, với Đảng Dân chủ Xã hội nắm giữ hơi nhiều hơn đảng kia. Họ lại thành lập một liên minh với nhau và Werner Faymann của Đảng Dân chủ Xã hội nắm giữ chức vị Thủ tướng. Trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2013, Đảng Dân chủ Xã hội đã nhận được 27% số phiếu và 52 ghế trong Quốc hội; Đảng Nhân dân xếp thứ hai với 24% phiếu bầu và 47 ghế, do đó 2 đảng này cùng nhau chiếm giữ đa số ghế trong Quốc hội. Đảng Tự do đã nhận được 40 ghế và 21% số phiếu bầu, trong khi Đảng Xanh nhận được 12% phiếu bầu và 24 ghế. Sau khi Liên minh lớn tan rã vào mùa xuân năm 2017, một cuộc bầu cử nhanh chóng được tổ chức vào tháng 10 cùng năm. Đảng Nhân dân Áo (ÖVP) với lãnh đạo trẻ mới là Sebastian Kurz đã nổi lên như là đảng lớn nhất trong Quốc hội, giành 31,5% phiếu bầu và 62 trên tổng số 183 ghế. Đảng Dân chủ Xã hội (SP Dem) đứng thứ hai với 52 ghế và 26,9% phiếu bầu, tiếp sau đó là Đảng Tự do Áo (FPÖ), với 51 ghế và 26% phiếu bầu. ÖVP đã quyết định thành lập một liên minh mới với FPÖ, và Sebastian Kurz đã tuyên thệ nhậm chức thủ tướng vào ngày 18 tháng 12 năm 2017. Hệ thống pháp luật. Cơ sở của luật dân sự Áo là Bộ luật dân sự Áo ("Allgemeines bürgerliches Gesetzbuch – AGB") từ 1 tháng 6 năm 1811, được tu chính sâu rộng trong giao đoạn 1914 – 1916 dưới ảnh hưởng của phong trào "Trường phái lịch sử Đức" ("German Historical School of Law"). Mãi đến năm 1970 mới có nhiều sửa đổi lớn tiếp theo, đặc biệt là trong luật gia đình.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Nhiều phần lớn của luật dân sự được quy định ngoài Bộ luật dân sự, trong đó là nhiều luật đặc biệt được ban hành sau khi Áo "kết nối" với nước Đức Quốc xã năm 1938 và vẫn còn có hiệu lực sau năm 1945 với các phiên bản đã được tu chính tẩy trừ quốc xã, ví dụ như luật hôn nhân, bộ luật thương mại và luật cổ phiếu. Luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự hiện đại từ ngày 23 tháng 1 năm 1974. Ngoài các hình phạt bộ luật còn quy định những biện pháp phòng chống (đưa những phạm nhân có tiềm năng tái phạm, cần phải cai trị hay không bình thường về tâm thần vào trong các trại tương ứng), cả hai chỉ được tuyên xử khi phạm tội từ thời gian có quy định trong luật (nguyên tắc không hồi tố). Án tử hình đã bị hủy bỏ. Luật về vốn tư bản, doanh nghiệp và kinh tế chịu ảnh hưởng của việc tiếp nhận các luật lệ của Liên minh châu Âu năm 1995 và của các chỉ thị (luật lệ khung), quy định (các luật có thể được áp dụng trực tiếp) của Liên minh châu Âu dưới sự cộng tác của Áo từ khi gia nhập và cũng như là các phán quyết của Tòa án châu Âu. Trong trường hợp hoài nghi thì luật của cộng đồng được ưu tiên. Tòa án dân sự và hình sự bao gồm tòa án tỉnh ("Bezirksgericht"), tòa án tiểu bang ("Landesgericht"), tòa án liên bang ("Oberlandesgericht") và tòa án tối cao là cấp phán xử cao nhất. Quân sự. Việc bảo vệ đất nước bằng quân sự dựa trên nghĩa vụ quân sự phổ thông cho tất cả các công dân nam trong độ tuổi từ 17 đến 50. Phụ nữ có thể tình nguyện gia nhập quân đội. Trong năm 2012, chi tiêu quốc phòng của Áo tương ứng với khoảng 0,8% GDP, thuộc vào trong số những ngân sách thấp nhất trên thế giới. Quân đội hiện có khoảng 26.000 binh sĩ, trong đó có khoảng 12.000 người tham dự. Là người đứng đầu nhà nước, Tổng thống Áo được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh của Bundesheer (Lực lượng vũ trang Áo). Bộ trưởng Quốc phòng chỉ huy lực lượng vũ trang Áo. Nhân lực của lực lượng vũ trang Áo (tiếng Đức: Bundesheer) chủ yếu dựa vào nghĩa vụ quân sự. Nam giơi đủ 18 tuổi phải thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc trong vòng sáu tháng.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Những người trong độ tuổi nghĩa vụ nhưng lại từ chối không tham gia quân đội vì lý do lương tâm có thể phục vụ trong các ngành dân sự ("Zivildienst") để thay thế. Thời gian phục vụ là 12 tháng và từ ngày 1 tháng 1 năm 2006 là 9 tháng. Kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, và quan trọng hơn là việc loại bỏ "Bức màn sắt" trước đây đã tách Áo khỏi các nước láng giềng Đông Âu (Hungary và Tiệp Khắc cũ), quân đội Áo đã hỗ trợ tối đa nguồn lực cho Bộ đội biên phòng Áo với nỗ lực ngăn chặn dòng người nhập cư bất hợp pháp từ 2 quốc gia láng giềng. Sự hỗ trợ này chấm dứt khi Hungary và Slovakia gia nhập Khu vực Schengen của EU trong năm 2008, qua đó Áo buộc phải bãi bỏ các biện pháp kiểm soát biên giới vì ÁO cũng là một thành viên của khu vực này. Một số chính khách đã kêu gọi tiếp tục thắt chặt sự kiểm soát đối với vùng biên giới, nhưng tính hợp pháp của nó đã gây nên rất nhiều tranh cãi. Theo hiến pháp Áo, lực lượng vũ trang chỉ có thể được triển khai trong một số trường hợp hạn chế, chủ yếu để bảo vệ đất nước và cứu trợ trong trường hợp khẩn cấp quốc gia, chẳng hạn như khi xảy ra thiên tai. Chính sách tài chính. Ngân sách quốc gia 2005 dự tính chi 64,001 tỉ Euro và thu 58,866 tỉ Euro, tức bội chi 5,135 tỉ Euro hay 2,1% của GDP. Nhờ vào bội thu thuế ngoài dự đoán nên thiếu hụt được dự tính là chỉ vào khoảng 1,6 đến 1,7% tổng sản phẩm nội địa. Nợ quốc gia năm 2005 đạt mức cao nhất từ trước đến nay với tổng cộng 154,86 tỉ Euro. Sau đấy, theo dự tính tổng số nợ sẽ giảm dần xuống còn 154,5 (2006) và 154,2 tỉ Euro (2007). Tỉ lệ nợ trong năm 2005 là 64,3% của GDP, đứng hàng thứ 18 trong Liên minh châu Âu. Vào thời điểm gia nhập Liên minh châu Âu, tỉ lệ nợ của nước Áo còn chiếm đến 69,2% của GDP. Nhờ vào tăng trưởng liên tục của GDP mà phần lớn là do xuất khẩu tăng nhanh sau khi gia nhập Liên minh châu Âu, đặc biệt là khi Liên minh châu Âu được mở rộng, nên tỉ lệ nợ đã giảm đi đôi chút ở những năm sau đó. Tuy vậy, đến năm 2017, tỉ lệ nợ đã đạt mức 81.7% GDP.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Nước Áo chỉ đạt tiêu chuẩn Masstricht (nợ nhiều nhất là 60% của GDP) lần cuối cùng vào năm 1992 – trước khi gia nhập Liên minh châu Âu năm 1995. Ngoại giao. Với chính sách trung lập, từ giữa thế kỷ XX nước Áo tự xem nơi phân giới giữa 2 thế lực lớn đối diện của Tây Âu và Đông Âu. Vì thế chính sách ngoại giao thường bao hàm các biện pháp góp phần tăng cường sự ổn định trong khu vực và hợp tác tạo các quan hệ Đông-Tây mới. Từ khi khối Đông Âu tan rã, phương án này không còn hiệu lực nữa. Năm 1995 Áo trở thành thành viên của Liên minh châu Âu và vì thế trên thực tế không còn trung lập nữa mà chỉ không có liên minh về quân sự. Viên, bên cạnh New York và Genève, là trụ sở thứ ba của văn phòng Liên Hợp Quốc, vì thế mà nguyên tố ngoại giao này có giá trị cao trong truyền thống. Trên 50.000 người Áo phục vụ dưới Cờ của Liên Hợp Quốc, là quân nhân, quan sát viên quân sự, cảnh sát dân sự và chuyên gia dân sự trên toàn thế giới. Ngoài các cơ quan của Liên Hợp Quốc, tai Viên còn có trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (từ 1957 tại Viên), Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ cũng như là nhiều tổ chức phi chính phủ khác. Địa lý. Khoảng 60% nước Áo là đồi núi, gồm một phần của núi Alpen về phía đông. Ở Oberösterreich và Niederösterreich là vùng núi Böhmen chạy dài đến Cộng hoà Séc và Bayern (Đức), ở biên giới phía đông là núi Karpaten. Ngọn núi cao nhất ở Áo là Grossglockner (còn gọi là "Großglockner", cao 3.797 m) ở Hohe Tauern. Các đồng bằng lớn nằm về phía đông dọc theo sông Danube, trước hết là vùng Aplenvorland và lưu vực Viên cũng như phía nam vùng Steiermark. Khí hậu khô dần đi từ tây sang đông và trở thành khí hậu lục địa ở các vùng phía đông và đông nam nước Áo. Mùa đông với nhiều tuyết đã đem lại cho ngành du lịch thêm một mùa thứ hai. Thời gian có ánh nắng mặt trời lâu hơn ở miền bắc nước Đức từ 10 đến 20 phần trăm.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Núi cao nhất của Áo là Großglockner (3.798 m) trong vùng núi Hohe Tauern thuộc dãy núi Anpơ, tiếp theo sau đấy là Wildspitze với 3.774 m và Weißkugel (3.738 m). Địa thế núi non có tầm quan trọng lớn trong du lịch. Áo có rất nhiều vùng du lịch cho các môn thể thao mùa đông và trong mùa hè là cho các môn thể thao như leo núi. Sông và hồ. Hồ lớn nhất Áo là hồ Neusiedler See trong Burgenland, 77% của diện tích tổng cộng là 315 km² thuộc nước Áo, tiếp theo đó là Attersee (46 km²) và Traunsee (24 km²) trong Oberösterreich (Thượng Áo). Nhiều hồ trong Áo là điểm du lịch mùa hè quan trọng, được biết đến nhiều nhất là các hồ như Wörthersee, Millstätter See, Ossiacher See và Weißensee. Phần lớn nước Áo (80.566 km²) được thoát nước qua sông Donau vào Biển Đen, gần một phần ba ở đông nam qua sông Mur, Drau, và sau đó tiếp tục qua Donau vào Biển Đen, một số vùng nhỏ ở phía tây qua sông Rhein (2366 km²) vào Biển Đại Tây Dương và ở phía bắc qua sông Elbe (918 km²) vào Biển Bắc. Những nhánh lớn của sông Donau là (từ tây sang đông): Hệ động thực vật. Do có nhiều địa hình khác nhau nên hệ thực vật và động vật áo rất đa dạng. Trong những thập niên vừa qua 6 vườn quốc gia và nhiều công viên tự nhiên được thành lập để bảo vệ các chủng loại động thực vật. Thực vật. Theo Sở bảo vệ môi trường liên bang, hệ thực vật có tổng cộng khoảng 2.950 loài, kể cả những loài đã tuyệt chủng và biến mất, trong đó có 1.187 loài (40,2 %) nằm trong sách đỏ. Động vật. Nước Áo có khoảng 45.870 loài động vật, trong đó 98,6% là động vật không xương sống. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên 10.882 loài đang bị đe dọa, trong đó 2.804 loài nằm trong sách đỏ. Hành chính. Các đơn vị hành chính. Là một nước cộng hòa liên bang, Áo được chia thành chín tiểu bang (tiếng Đức: "Bundesländer"). Các tiểu bang này được chia thành các quận ("Bezirke") và các thành phố theo luật định ("Statutarstädte"). Các huyện được chia thành các đô thị ("Gemeinden"). Thành phố theo luật định có năng lực được cấp cho cả quận và huyện.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Các tiểu bang không chỉ là các đơn vị hành chính mà còn có một số cơ quan lập pháp khác với chính quyền liên bang, ví dụ như các vấn đề về văn hóa, chăm sóc xã hội, thanh thiếu niên, bảo vệ thiên nhiên, săn bắn, xây dựng và quy hoạch. Trong những năm gần đây, nó đã được thảo luận xem còn phù hợp với việc duy trì 10 nghị viện hay không. Chín tiểu bang của Áo nhóm lại thành ba nhóm tiểu bang. Nhóm tiểu bang là vùng cấp một của Liên minh châu Âu. Đây không phải là một cấp hành chính. Việc phân nhóm chỉ nhằm mục đích thống kê. Mỗi tiểu bang được chia thành nhiều quận ("Bezirk"). Tiểu bang của Áo đồng thời là một đơn vị vùng cấp hai của Liên minh châu Âu. Các thành phố lớn. Vùng dân cư lớn nhất Áo là vùng đô thị Viên với dân số vào khoảng 2,6 triệu người theo ước tính vào ngày 1 tháng 1 năm 2018). Như thế, 1/4 dân số của quốc gia tập trung trong vùng đô thị của thủ đô. Các vùng đô thị lớn khác bao quanh các thủ phủ tiểu bang Graz (bang Steiermark), Linz (Oberösterreich), Salzburg (bang Salzburg) và Innsbruck (Tirol). Tổng cộng có tròn 200 đơn vị hành chánh lớn nhỏ khác nhau được quyền tự xưng là thành phố ("Stadtrecht"). Lãnh thổ bên ngoài. Kleinwalsertal là một trong các lãnh thổ bên ngoài của nước Áo. Tuy thuộc Áo (bang Vorarlberg) và về mặt địa lý giáp ranh với bang này nhưng chỉ có thể đến được Kleinwalsertal bằng đường bộ xuyên qua nước Đức. Một lãnh thổ bên ngoài khác là Jungholz trong vùng Tirol, tuy thuộc Áo nhưng cũng nằm trong nước Đức. Nằm trong nước Áo là làng Samnaun của Thụy Sĩ, cả một thời gian dài chỉ có thể đến được bằng đường bộ xuyên qua nước Áo. Hiện nay tuy đã có đường bộ đến Samnaum chỉ nằm trên lãnh thổ của Thụy Sĩ nhưng làng này vẫn là một vùng phi thuế quan. Kinh tế. Trong năm 2001 có 3.420.788 người làm việc tại 396.288 cơ sở lao động. Sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất ở Áo là Sàn giao dịch chứng khoán Viên với ATX là chỉ số chứng khoán lớn nhất. Số liệu cơ bản. 5% của tổng sản phẩm quốc nội liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các môn thể thao mùa đông. Thành phần: Thành phần lao động: Tỷ lệ thất nghiệp: Các ngành kinh tế.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Khoảng 85% diện tích Áo được sử dụng trong nông nghiệp (45 %) và lâm nghiệp (40 %). Nông nghiệp Áo có cơ cấu rất nhỏ và đang cố gắng chuyên môn hóa vào các sản phẩm có chất lượng cao vì áp lực cạnh tranh đã tiếp tục tăng từ khi Liên minh châu Âu được mở rộng. Người nông dân Áo tăng cường sản xuất theo cách nông nghiệp sạch (nông nghiệp sinh học, không dùng hóa chất, phân bón hóa học...). Với tỷ lệ vào khoảng 10%, Áo có tỷ lệ các cơ sở sản xuất nông nghiệp sạch cao nhất trong Liên minh châu Âu. Rượu vang là một sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu quan trọng của Áo. Nước nhập khẩu chính, bên cạnh Thụy Sĩ và Hoa Kỳ, là nước Đức, chiếm 2/3 tổng lượng. Nhờ vào diện tích rừng lớn mà lâm nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng, cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và công nghiệp giấy. Gỗ là nguyên liệu cũng được xuất khẩu, đặc biệt là đi đến vùng Nam Âu. Ngược lại, săn bắn và ngư nghiệp tương đối không quan trọng và thường chỉ hoạt động cho thị trường trong nước hay chỉ là thú tiêu khiển. Áo có một nền công nghiệp hiện đại và năng suất cao. Công nghiệp khu vực quốc gia phần lớn đã được tư nhân hóa (OMV AG, Voestalpine AG, VA Technologie AG, Steyr Daimler Puch AG, Austria Metall AG). Stey-Daimler-Puch được bán cho tập đoàn Magna, VA Tech cho Siemens AG và Jenbacher Werke cho General Electric. Dịch vụ chiếm phần lớn nhất trong kinh tế Áo, đặc biệt là do ngành du lịch, thương mại và ngân hàng đóng góp. Cho đến ngày nay ngân hàng Áo vẫn còn hưởng ưu thế từ luật bảo vệ bí mật ngân hàng rất nghiêm khắc của Áo. Sau khi gia nhập Liên minh châu Âu, tính vô danh của tài khoản tuy bị hủy bỏ nhưng các cơ quan nhà nước chỉ được phép kiểm tra tài khoản khi có lệnh của tòa. Du lịch. Trong nước công nghiệp Áo, du lịch là ngành kinh tế quan trọng nhất. 1/3 việc làm trong Áo phụ thuộc trực tiếp hay gián tiếp vào du lịch. Khoa học.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Khoa học. Nước Áo, đặc biệt là trong những năm đầu của thế kỷ XX, đã là một quốc gia dẫn đầu về khoa học và đã mang lại nhiều thiên tài như những người sáng lập môn vật lý lượng tử Wolfgang Pauli và Erwin Schrödinger, người thành lập môn phân tích tâm lý Sigmund Freud, cha đẻ của ngành tâm lý thú vật Konrad Lorenz, nhà chế tạo ô tô Ferdinand Porsche, nhà phát minh Viktor Kaplan, người mở đường cho ngành nhiệt động lực học Ludwig Boltzmann, người khám phá ra cấu trúc của benzene Johann Josef Loschmidt, người phát hiện ra các nhóm máu Karl Landsteiner cũng như là các nhà kinh tế Carl Menger và Friedrich August von Hayek. Dân cư và xã hội. Dân cư. Cuộc điều tra dân số lần đầu tiên tương ứng với các tiêu chuẩn ngày nay được tiến hành trong Áo trong thời gian 1869/1870. Từ thời điểm đó dân số trên lãnh thổ của nước Áo ngày nay đã tăng hằng năm cho đến lần điều tra dân số cuối cùng trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ trong năm 1913. Cho đến khi Đế quốc Áo-Hung tan rã vào năm 1918 khi Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt, việc dân số trên lãnh thổ của nước Áo hiện nay tăng trưởng nhanh chóng là do di dân từ những nước ngày nay không còn thuộc Áo. Cuộc điều tra dân số đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ nhất cho thấy dân số đã giảm đi 347.000 người. Thế nhưng dân số lại tiếp tục tăng trưởng liên tục ngay sau đó cho đến 1935, rồi lại giảm đi cho đến 1939, năm thực hiện điều tra dân số cuối cùng trước Chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ còn 6.653.000 người. Sau chiến tranh, vào năm 1946, dân số được điều tra dựa trên thẻ lương thực thực phẩm là tròn 7.000.000 người, là con số cao nhất cho đến thời điểm đấy. Dòng người tỵ nạn vào nước Áo đã bù vào cho con số tử vong vì chiến tranh. Cho đến năm 1953, do người tỵ nạn phần lớn đã trở về lại quê hương hay tiếp tục di dân qua các nước khác, dân số lại giảm xuống còn 6.928.000 người. Từ đấy, do tỷ lệ sinh đẻ cao, dân số lại tiếp tục tăng đến điểm cao mới vào năm 1974, năm có 7.599.000 người sinh sống tại Áo. Từ thập niên 1990, do tiếp tục có di dân vào nước, dân số nước Áo đã tăng lên đến 8.260.000 người vào cuối năm 2004, tương ứng với 1,8% dân số của Liên minh châu Âu.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Vào tháng 4 năm 2016, dân số Áo được ước tính là 8,72 triệu người. Dân số của thủ đô Viên là hơn 1,8 triệu (2,6 triệu nếu tính cả các vùng ngoại ô), chiếm khoảng một phần tư dân số của đất nước. Tuổi thọ trung bình của Áo tại thời điểm 2005 là 82,1 tuổi (phụ nữ) và 76.4 tuổi (nam giới). Trong năm 1971 tuổi thọ trung bình là 75,7 (phụ nữ) và 73,3 (nam giới). Tỷ lệ trẻ sơ sinh chết là 0,45%. Theo dự đoán của Cục Thống kê Áo ("Statistik Austria"), cán cân của sinh đẻ và chết ở Áo sẽ còn cân bằng trong vòng 20 năm tới, sau đấy tỷ lệ sinh được dự đoán là sẽ thấp hơn tỷ lệ chết, việc sẽ làm tăng độ tuổi trung bình. Nhờ vào việc nhập cư mà dân số cho đến năm 2050 sẽ tăng lên đến khoảng 9 triệu người, bù đắp một phần vào cho việc thâm hụt sinh đẻ. Chỉ ở Viên, tiểu bang duy nhất trong số 9 bang của Áo, độ tuổi trung bình sẽ giảm đi và tăng trưởng dân số sẽ cao hơn trung bình của toàn liên bang. Theo đó cho đến năm 2050 Viên có thể lại trở thành thành phố có 2 triệu dân. Theo Cục Thống kê Áo nguyên nhân là do tỉ lệ sinh đẻ cao hơn và tròn 40% những người nhập cư vào Áo sinh sống tại thủ đô. Di dân và nhập cư. Ngày nay, nước Áo, một trong những nước giàu của thế giới, là một nước di dân đến. Thế nhưng trong lịch sử không phải lúc nào cũng có tình trạng này. Vào thời kỳ công nghiệp hóa, mặc dù có nhiều cuộc di dân nội địa lớn từ Böhmen và Mähren, nhưng từ sau 1918 cho đến Chiến tranh thế giới thứ hai đã có nhiều người Áo di dân ra nước ngoài hơn là người từ các nước khác di dân vào Áo. Từ khi có tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và thịnh vượng bắt đầu từ thập niên 1950, việc đã làm cho nước Áo trở thành một nước giàu có và thịnh vượng, cán cân di dân lại bị đảo ngược. Nhiều lao động được tuyển lựa từ nước ngoài đã nhập cư vào nước Áo, dòng người tỵ nạn đến Áo, ví dụ như từ nước thuộc Nam Tư cũ, trong thời gian xảy ra chiến tranh tại bán đảo Balkan và ngày càng có nhiều người tỵ nạn từ Thổ Nhĩ Kỳ đến châu Âu nói chung và đến Áo nói riêng.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Vào thời kỳ công nghiệp hóa từ khoảng năm 1850 bắt đầu có những ghi chép đầu tiên về việc di dân ra khỏi nước Áo. Thế nhưng vào thời điểm đó còn có nhiều vùng đất thuộc Áo mà ngày nay đã trở thành quốc gia độc lập hay thuộc các quốc gia khác. Giữa 1876 và 1910 tròn 3,5 triệu người (theo một số tài liệu khác là đến 4 triệu người) đã rời bỏ nước quân chủ Áo vì thất nghiệp và hy vọng sẽ tìm được những điều kiện sinh sống tốt hơn ở nơi khác. Gần 3 triệu người trong số đó đi đến Hoa Kỳ, 358.000 người chọn Argentina là quê hương thứ hai, 158.000 người đến Canada, 64.000 người đến Brasil và 4.000 người đến Australia. Chỉ riêng năm 1907 đã có nửa triệu người Áo rời bỏ quê hương. Phần đông những người di dân là từ vùng Galicja trong Ba Lan và Ukraina ngày nay. Một làn sóng di dân mới bắt đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 và tiếp tục tăng lên trong những năm 1930 bất ổn về chính trị khi mối đe dọa Quốc xã trở thành hiện thực và bắt buộc nhiều người phải di dân đi trong năm 1938, phần đông là người Do Thái và những người bị Quốc xã truy nã. Cũng nằm trong số đó là một phần lớn tinh hoa khoa học và văn hóa trong thời gian này của nước Áo. Trong các thập niên 1960 và 1970, do thiếu lao động nên nhiều doanh nghiệp đã trực tiếp tuyển chọn lao động từ nước ngoài. Rất nhiều gia đình của những người lao động này hiện nay đang sinh sống với thế hệ thứ hai hay thứ ba trong nước Áo. Một làn sóng lớn người tỵ nạn đã vào nước Áo trong những năm của thập niên 1990 vì chiến tranh ở bán đảo Balkan. Tỷ lệ người nước ngoài chiếm 9,8% hay 814.000 người của dân số Áo, trong đó tròn 227.400 người xuất xứ từ các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (trong đó khoảng 104.000 người từ nước Đức). Tròn nửa số người nhập cư và các thế hệ sau đó sinh sống trong vùng đô thị Viên, nơi tập trung khoảng 1/4 dân số nước Áo. Phần còn lại phân tán chủ yếu trong các vùng đông dân cư, chiếm tỷ lệ khoảng từ 10% đến 20%. Trong một số vùng nông thôn, tỷ lệ người nhập cư nằm trong khoảng từ 0 đến 5%.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Trong thời gian vừa qua, hằng năm có khoảng 30.000 đến 40.000 người được nhận quốc tịch Áo (trong đó khoảng 28,5% sinh tại Áo), con số này đã giảm đi từ năm 2005. Người dân định cư lâu dài từ các quốc gia không thuộc Liên minh châu Âu đến chủ yếu từ các nước thuộc Nam Tư cũ (Serbia và Montenegro, Croatia, Bosna và Hercegovina và Cộng hòa Bắc Macedonia – tổng cộng chiếm tròn 70% những người có quyền định cư lâu dài tại Áo), từ Thổ Nhĩ Kỳ (khoảng 20%), România (khoảng 3,5%), Cộng hòa Nhân dân Trung hoa (khoảng 1,2%) cũng như là từ Bulgaria, Ai Cập, Ấn Độ, Liên bang Nga, Philippines, Hoa Kỳ, Ukraina, Thái Lan và Iran. Con số tổng cộng vào thời điểm ngày 31 tháng 7 năm 2006 là 477.185 người. Một hiện tượng mới xuất hiện trong những năm gần đây là người lao động từ Đức. Những người này thường là lao động theo thời vụ trong những vùng du lịch, đặc biệt là trong Tirol với các nghề nghiệp như đầu bếp, hầu bàn hay dọn dẹp. Nhiều người trong số đó đến Áo vì họ đã không thể tìm được việc làm trong nước Đức hay nhận thấy rằng cơ hội tìm việc làm ở Áo tốt hơn. Một dạng nhập cư khác của người Đức là con số ngày càng tăng của những người tốt nghiệp đại học ở Áo và không trở về quê hương nữa. Trong lĩnh vực những người tốt nghiệp đại học có thể nhận thấy một dòng người nhập cư nguyên là nhân viên của các trường đại học Đức (đặc biệt là trong lĩnh vực y học nhưng cũng có nhiều trong các bộ môn về xã hội). Luật lệ về thuế thu nhập cũng là một nguyên nhân cho việc di cư sang Áo, ví dụ như quan chức bóng đá Franz Beckenbauer hay người đua ô tô Ralf Schumacher. Ngôn ngữ. Tiếng Đức là ngôn ngữ chính thức và là tiếng mẹ đẻ của khoảng 95% dân cư. Bên cạnh đó còn tiếng Slav và các ngôn ngữ khác của các dân tộc thiểu số. Những dân cư người Hung, người Sloven và người Croat lâu đời ở Áo có quyền được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong trường học và giao thiệp với chính quyền. Tiếng Croat và tiếng Sloven là các tiếng chính thức bổ sung ở các tỉnh hành chánh và tòa án vùng Steiermark, Burgenland và Kärnten. Tôn giáo. Vào năm 2001, 73,6% dân số theo đạo Công giáo và 4,7% theo đạo Tin Lành (đa số là dòng tin Ausburg).
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Khoảng 12% dân số không theo cộng đồng tôn giáo nào. Cộng đồng Do Thái có vào khoảng 7.300 thành viên. Trên 10.000 người theo đạo Phật được công nhận là cộng đồng tôn giáo ở Áo từ năm 1983. Khoảng 20.000 là thành viên tích cực của cộng đồng tôn giáo Nhân chứng Jehova. Trong số những người di dân vào nước Áo có khoảng 180.000 là tín đồ Cơ đốc giáo và khoảng 300.000 người là tín đồ của các cộng đồng Hồi giáo. Số lượng tín đồ Kitô giáo đang có xu hướng suy giảm, đến năm 2017 chỉ còn 57,9% người dân tự nhận mình theo Công giáo và 3,4% theo Tin lành, giảm đáng kể so với năm 2001. Bình đẳng nam nữ và quyền con người. Quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong Hiến pháp Áo. Những trường hợp ngoại lệ hình thành trong lịch sử là nghĩa vụ quân sự cho phái nam và quy định về nghỉ hưu. Hiện nay phụ nữ Áo còn được phép về hưu sớm hơn phái nam 5 năm (trường hợp ngoại lệ: nhân viên nhà nước). Vì việc này trái với quy định cơ bản của Liên minh châu Âu nên theo quy định được ghi trong hiến pháp, độ tuổi về hưu của phụ nữ sẽ được từng bước nâng lên ngang bằng với nam giới trong năm 2027. Trong gần như tất cả các lĩnh vực, tiền lương trung bình của người phụ nữ đều thấp hơn nam giới (ngoại lệ: nhân viên nhà nước). Điều này về một mặt là do quyền bình đẳng không được thực hiện một cách triệt để trong thực tế và mặt khác là do nhiều người phụ nữ làm việc ít giờ hơn và vì thế gần như không có khả năng vươn lên trong sự nghiệp. Các vị trí lãnh đạo phần lớn là do nam giới nắm giữ. Chính phủ Áo đã có rất nhiều biện pháp khuyến khích phụ nữ. Nếu như trình độ nghiệp vụ tương đương nhau người phụ nữ sẽ được ưu tiên lựa chọn cho các việc làm trong cơ quan nhà nước – mặc dù tỉ lệ thất nghiệp của nam giới cao hơn. Thế nhưng những biện pháp này không mang lại tác dụng cao trong thực tế. Con số chính thức của người thất nghiệp trong nước Áo năm 2004 bao gồm 2/3 nam giới và 1/3 phụ nữ. Trong những năm vừa qua đã có một vài vụ hành hung của cảnh sát đối với người có nguồn gốc từ châu Phi gây xôn xao trong dư luận. Hai trong số các vụ này, Marcus Omofuma và Seibane Wague, đã dẫn đến tử vong.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Các tổ chức bảo vệ quyền con người như Amnesty International đã phản đối cách xử phạt nhẹ dành cho những người phạm tội vẫn được tiếp tục phục vụ trong ngành cảnh sát. Về quyền tự do ngôn luận, tòa án Áo trong những năm vừa qua đã có nhiều phán quyết dành cho nhà báo không đứng vững trước Tòa án châu Âu. Tòa án Áo đã bị chê trách rằng trong việc cân nhắc giữa quyền của một chính trị gia (bị xúc phạm) và quyền tự do ngôn luận trong truyền thông đại chúng tòa đã không chú ý đến quyền tự do ngôn luận một cách đầy đủ. Giáo dục và đào tạo. Hệ thống giáo dục tại Áo do cấp liên bang chịu trách nhiệm, vì thế là các loại trường cũng như chương trình đào tạo đều thống nhất trên toàn nước Áo. Tất cả trẻ em đang cư trú tại Áo đều phải đi học 9 năm, bắt đầu khi tròn 6 tuổi. Các thành phố Áo có trường đại học là thủ đô Viên (8), các thủ phủ tiểu bang Linz (4), Salzburg (3), Graz (4), Innsbruck (3) và Klagenfurt cũng như là Leoben và Kremas. Trường đại học thực hành ("Fachhochschule") như là một chọn lựa khác của hình thức đào tạo đại học đã tồn tại ở Áo từ 1994. Giáo dục mầm non (gọi là "Kindergarten" trong tiếng Đức), miễn phí ở hầu hết các tiểu bang, được cung cấp cho tất cả trẻ em trong độ tuổi từ ba đến sáu tuổi và không mang tính bắt buộc. Quy mô mỗi lớp học tối đa là khoảng 30 trẻ em, mỗi lớp thường được chăm sóc bởi một giáo viên có trình độ và một trợ lý. Giáo dục tiểu học, hoặc "Volksschule", kéo dài trong bốn năm, bắt đầu từ khi trẻ lên sáu tuổi. Quy mô lớp học tối đa là 30 học sinh, nhưng có thể thấp tới 15. Nói chung, một lớp học sẽ được giảng dạy bởi một giáo viên trong suốt bốn năm và mối quan hệ ổn định giữa giáo viên và học sinh được coi là quan trọng cho mỗi đứa trẻ. Thời gian đi học thông thường là từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa hoặc 1 giờ chiều, với giờ nghỉ giải lao là năm hoặc mười phút sau mỗi tiết học. Trẻ em sẽ phải làm bài tập về nhà hàng ngày ngay từ năm đầu tiên. Không có giờ ăn trưa, với trẻ em trở về nhà để ăn.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Tuy nhiên, do số lượng các bà mẹ làm việc tăng lên, các trường tiểu học đang tăng cường cung cấp các dịch vụ chăm sóc trước giờ học và buổi chiều. Hạ tầng cơ sở. Giao thông. Hạ tầng cơ sở giao thông, kể cả giao thông đường bộ lẫn giao thông đường sắt, đều chịu nhiều ảnh hưởng của địa thế nằm trên dãy núi Apls và về mặt khác là vị trí trung tâm trong Trung Âu. Giao thông qua dãy núi Alps đòi hỏi phải có nhiều hầm xuyên núi và cầu chịu đựng được điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Vì có vị trí ngay trong trung tâm châu Âu nên Áo là một nước quá cảnh, đặc biệt là cho hướng bắc-nam và bắc-đông nam và từ khi bức màn sắt được mở cửa là cho hướng đông-tây. Điều này cũng có nghĩa là thường phải mở rộng đường giao thông, ngay trong các khu vực nhạy cảm về sinh thái, việc hay dẫn đến phản đối trong quần chúng. Để có thể giải quyết được sự cân bằng giữa kinh tế và sinh thái, nước Áo đã có nhiều biện pháp mà đã mang lại cho quốc gia này vai trò tiên phong trong lãnh vực bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong lãnh vực xe cơ giới. Các đạo luật quy định trong mỗi một xe cơ giới đều phải có bộ xúc tác giảm thiểu khí thải ra đời ở Áo tương đối sớm so với các quốc gia khác. Trên nhiều đoạn đường nhất định chỉ cho phép lưu hành xe tải gây ít tiếng ồn. Thế nhưng do nhiều quy định lại bị bãi bỏ nên người dân trong một số vùng nhất định như trong vùng đồng bằng sông Inn cảm nhận là bị các cơ quan điều hành giao thông trong nước và quốc tế bỏ mặc. Giao thông đường bộ. Mạng lưới giao thông Áo bao gồm Mạng lưới đường sá phần lớn thuộc về nhà nước. Trên đường cao tốc và đường nhanh ô tô và xe tải phải trả tiền. Đường sắt. Phần lớn đường sắt là do Công ty Đường sắt liên bang Áo ("Österreichische Bundesbahn – ÖBB") vận hành, là công ty đường sắt lớn nhất Áo. Một phần nhỏ đường sắt không thuộc liên bang, một phần do tư nhân và một phần khác do các tiểu bang sở hữu. S-Bahn (tàu nhanh) hiện nay chỉ có trong các vùng chung quanh Viên và Salzburg nhưng hiện đã có kế hoạch phát triển hệ thống S-Bahn cho các thành phố Graz, Linz và Insbruck. Viên là thành phố Áo duy nhất có một mạng lưới tàu điện ngầm.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Một vài bến tàu điện trong thành phố Linz được xây ngầm. Tàu điện có trong các thành phố Viên, Graz, Linz, Innsbruck và Gmunden. Ngoài ra tại làng Serfaus trong Tirol còn có một tàu chạy trên đệm không khí, thỉnh thoảng cũng còn được gọi là tàu điện ngầm nhỏ nhất thế giới. Đường thủy. Đường thủy quan trọng nhất không những trong chuyên chở hành khách mà còn cho giao thông hàng hóa là sông Donau (Đọc đường thủy Donau). Giao thông chuyên chở hành khách đã được thúc đẩy từ thời triều đại Habsburg với DDSG là công ty giao thông đường thủy nội địa lớn nhất thế giới thời bấy giờ. Thế nhưng hiện nay giao thông chuyên chở hành khách chỉ chủ yếu phục vụ cho ngành du lịch, trên sông Donau cũng như trên sông Inn và các hồ lớn. Twin-City-Liner liên kết Viên với Bratislava vừa được thành lập là một kết nối giao thông tiện lợi cho những người phải đi làm xa. Thường thì giao thông đường thủy chỉ hoạt động trong nửa năm mùa hè. Trong giao thông hàng hóa gần như chỉ có sông Donau là được sử dụng. Đường thủy Donau đã được tăng giá trị sử dụng lên nhiều nhờ vào việc xây dựng Kênh đào Rhein-Main-Donau cho giao thông quá cảnh từ Biển Bắc xuống Biển Đen. Các cảng hàng hóa duy nhất của Áo là Linz, Enns, Krems và Viên. Giao thông đường không. Hãng hàng không quốc gia lớn nhất là Austrian Airlines Group (Austrian Airlines, Lauda Air, Austrian Arrows, Slova Airlines). Từ 2003, với Niki, nước Áo cũng đã có một hãng hàng không giá rẻ. Bên cạnh đó, InterSky cũng là một hãng hàng không giá rẻ trong vùng với sân bay chính là Friedrichshafen (Đức). Các hãng hàng không trong vùng khác là Welcome Air và Air Alps. Cảng hàng không quan trọng nhất là Cảng hàng không Wien-Schwechat, bên cạnh đó Graz ("Cảng hàng không Graz-Thalerhof"), Linz ("Cảng hàng không Linz-Hörsching"), Klagenfurt ("Cảng hàng không Klagenfurt"), Salzburg ("Salzburg Airport W. A. Mozart") và Innsbruck ("Cảng hàng không Innsbruck") đều có các đường bay quốc tế. Hai cảng hàng không quốc tế phục vụ cho vùng Vorarlberg là Altenrhein (Thụy Sĩ) và Friedrichshafen (Đức). Chỉ có tầm quan trọng địa phương là 49 sân bay, trong đó có 31 sân bay không có đường băng trải nhựa đường và trong số 18 sân bay còn lại có đường băng trải nhựa đường chỉ có 4 sân bay là có đường băng dài hơn 914 mét. Có tầm quan trọng về lịch sử trong số đó là sân bay Wiener Neustadt và sân bay Aspern.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Đấy là các sân bay đầu tiên của Áo mà sân bay Aspern từ thời điểm khánh thành năm 1912 cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914 đã là sân bay lớn nhất và hiện đại nhất châu Âu. Thêm vào đó là nhiều sân bay của Không quân Áo ví dụ như tại Wiener Neustadt, Zeltweg, Aigen/Ennstal, Langenlebarn/Tulln. Nước Áo cũng đạt tầm quan trọng quốc tế trong ngành hàng không nhờ vào việc sáp nhập việc kiểm tra tầng không lưu cao (từ 28.500 feet hay 9.200 mét) của 8 quốc gia Trung Âu (Áo, Bosna và Hercegovina, Cộng hòa Séc, Croatia, Hungary, Ý, Slovenia và Slovakia). Chương trình được gọi là CEATS ("Central European Air Traffic Services") dự định đặt một trung tâm kiểm tra cho toàn bộ vùng không lưu cao Trung Âu ("CEATS Upper Area Control Centre – CEATS UAC") tại Fischamend,về phía đông của Schwechat. Cung cấp năng lượng. Năng lượng điện. Năng lượng điện được sản xuất phần nhiều (gần 60%) từ sức nước, từ các nhà máy thủy điện cạnh sông Donau, Enns, Drau và nhiều nhà máy thủy điện nhỏ khác cũng như từ các nhà máy có hồ chứa nước như Karprun hay Malta. Để có thể cung cấp đủ năng lượng trong thời gian cao điểm nhiều nhà máy nhiệt điện (tuốc bin) sẽ được vận hành. Khoảng 2% năng lượng điện được sản xuất từ năng lượng gió, chủ yếu trong vùng phía đông nhiều gió của Áo. Điện từ nhà máy điện hạt nhân không được sản xuất do có luật cấm ("Atomsperrgesetz"). Trong những năm của thập niên 1970 nhà máy điện hạt nhân Zwentendorf mặc dù được xây dựng nhưng chưa từng đi vào hoạt động theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1978. Cung cấp khí đốt và dầu. Về cung cấp khí đốt, Áo phụ thuộc nhiều vào nước ngoài. Mặc dù trong Áo cũng có khí đốt, chủ yếu tại Marchfeld và Weinviertel, nhưng chỉ đủ cung cấp tròn 20% nhu cầu khí đốt hằng năm của Áo. Nước Nga là nguồn cung cấp khí đốt chính, là nơi mà Áo từ 1968 là nước châu Âu đầu tiên nằm về phía tây của Bức màn sắt mua khí đốt. Vào thời điểm năm 2003 Ả Rập Xê Út là nước cung cấp dầu chính cho Áo. Nhà máy lọc dầu duy nhất nằm tại Schwechat và do OVM AG vận hành. Hệ thống cứu cấp. Mỗi một hình thức phục vụ cứu cấp ở Áo thường có trung tâm điều hành riêng.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Tất cả các số điện thoại cứu cấp đều có thể được gọi không tốn tiền tại mỗi một điện thoại công cộng. Các số điện thoại cứu cấp đều thống nhất trên toàn nước Áo, "122" cho cứu hỏa, "133" cho cảnh sát và "144"cho cứu thương. Ngoài ra còn có thể gọi không tốn tiền các số điện thoại cứu cấp khác như số điện thoại cứu cấp toàn Liên minh châu Âu "112". Cứu hỏa. Hệ thống cứu hỏa Áo gần như hoàn toàn dựa trên lực lượng cứu hỏa tình nguyện. Chỉ trong 6 thành phố lớn nhất của Áo là có lực lượng cứu hỏa chuyên nghiệp. Phòng cháy và chữa cháy thuộc thẩm quyền của từng tiểu bang trong khi phòng chống tai họa thuộc thẩm quyền của liên bang, nhưng có trách nhiệm thực hiện bên cạnh quân đội thông qua lực lượng hỗ trợ phòng chống tai họa ("Katastrophenhilfsdienst") cũng là lực lượng cứu hỏa. Cứu thương. Lực lượng cứu thương ("Rettungsdienst") được thông báo khi xảy ra tai nạn có người bị thương. Hội Chữ thập đỏ Áo chịu trách nhiệm cứu thương đặc biệt là trong vùng nông thôn. Bên cạnh đó, các tổ chức khác như Liên hiệp Samarit Công nhân ("Arbeiter-Samarit-Bund"), Tổ chức giúp đỡ tai nạn Johannit ("Johanniter-Unfall-Hilfe"), Hệ thống bệnh viện Dòng tu Malta Áo ("Malteser Hospitaldienst Austria") và Chữ thập Xanh đều có trực cứu cấp. Trong Viên, nhiệm vụ này được chia sẻ giữa lực lượng cứu thương thành phố và các tổ chức giúp đỡ. Trực thăng cứu thương đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống cứu thương Áo. Đất nước này có mật độ trực thăng cứu thương cao nhất thế giới. Hiệp hội cứu thương đường không Christophorus ("Christophorus Flugrettungsverein") sở hữu 16 chiếc trực thăng cứu thương bao phủ toàn diện tích nước Áo, bên cạnh đó, đặc biệt là trong các vùng du lịch, là nhiều dịch vụ tư nhân. Truyền thông đại chúng. Đài truyền hình nhà nước của Áo là ORF ("Österreichischer Rundfunk") với các kênh ORF 1 và ORF 2 cũng như là hai kênh TW1 và ORF SPORT PLUS cùng chia sẻ một băng tần phát sóng. Các đài tư nhân quan trọng nhất là ATV, goTV, Puls TV. ORF có ba kênh phát thanh toàn Áo: kênh phát thanh tin tức và văn hóa Ö1, kênh âm nhạc Ö3 và đài phát thanh FM4. Các đài phát thanh tư nhân quan trọng nhất và được ưa thích nhất là KroneHit, Radio Energy trong Viên và Antenne trên toàn nước Áo.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Nhà xuất bản Mediaprint phát hành tờ nhật báo được ưa thích nhất Áo, "Kronen Zeitung", cũng như là các báo được ưa thích "NEWS", "Profil" và "Kurier" và vì thế là nhà xuất bản có nhiều quyền lực nhất Áo. Các nhật báo khác là "Der Standard", "Die Presse" và "Salzburger Nachrichten". Thông tin. Mặc dù có nhiều điều kiện khó khăn về địa hình nhưng Áo vẫn có một mạng lưới viễn thông tốt. Trên thực tế toàn bộ lãnh thổ liên bang đều được kết mạng cho điện thoại cố định và được phủ sóng cho điện thoại di động. Các dịch vụ như UMTS hiện chỉ hoạt động trong các vùngđông dân cư nhưng được mở rộng liên tục. Thuộc trongsố các nhà cung ứng dịch vụ truyền thông lớn nhất là Telekom Austria, Mobilkom Austria, Drei, T-Mobile và Tele2. Internet vận tốc cao thật ra đều có trong toàn nước Áo. Nhà vận hành mạng ớn nhất là Austria Telekom. Các nhà cung ứngdịch vụ khác hiện đang cố gắng xây dựng mạng lưới cao tốc riêng. Phần lớn các mạng này nằm trong các trung tâm đông dân cư. Văn hóa nghệ thuật. Văn hóa là một đề tải rộng lớn ở Áo: Trong tất cả các thời kỳ đều hình thành nhiều công trình xây dựng quan trọng mà trong số đó nhiều công trình thuộc về di sản thế giới của UNESCO. Trong thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX Viên là một trung tâm hàng đầu của cuộc sống âm nhạc, không những chỉ được thể hiện trong con số rất nhiều tên tuổi các nhạc sĩ và nhà soạn nhạc gắn bó với đất nước mà còn trong con số lớn các nhà hát opera, nhà hát và nhà hòa nhạc vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, cũng như trong những thuyền thống âm nhạc đa dạng như buổi hòa nhạc năm mới hay rất nhiều lễ hội. Thêm vào đó là một truyền thống nhà hát lâu đời. Thế nhưng trong lãnh vực ẩm thực Áo cũng có một truyền thống rộng lớn, được thể hiện ví dụ như trong văn hóa của các quán cà phê ở Viên hay qua nhiều món ăn đặc trưng của đất nước. Năm 2003 thành phố Graz đã là thủ đô văn hóa của châu Âu. Âm nhạc. Âm nhạc cổ điển vẫn có tầm quan trọng cho đến ngày nay trong văn hóa Áo. Nước Áo có nhiều nhà soạn nhạc được nhiều người biết đến.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Thuộc vào trong số những nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất, ngoài những người khác, là người con của thành phố Salzburg Wolfgang Amadeus Mozart, Joseph Haydn, Franz Schubert, Anton Bruckner, Johann Strauß (cha), người được xem là một trong những người sáng lập nên waltz của Viên, và Johann Strauß (con), "vua waltz". Những người yêu âm nhạc của thế kỷ XX cũng biết đến Gustav Mahler, Arnold Schönberg, Alban Berg và Anton von Webern. Tiếp nối truyền thống này từ âm nhạc cổ điển là nhiều nhà nhạc trưởng dành nhạc nổi tiếng như Erich Kleiber, Herbert von Karajan, Karl Böhm, Nikolaus Harnoncourt hay Franz Welser-Möst. Buổi hòa nhạc năm mới của Wiener Philharmoniker nổi tiếng được truyền đi đến 44 quốc gia trên thế giới và vì thế vào buổi sáng năm mới ngày 1 tháng 1 đến với gần một tỉ người. Nhà hát. Đạt nhiều thành công trong lãnh vực nhà hát, ngoài những người khác là Max Reinhardt, Karl Farkas, Curd Jürgens, Maximilian Schell, Romy Schneider, Senta Berger, Oskar Werner, O. W. Fischer, Otto Schenk, Klaus Maria Brandauer, Martin Kusej. Phim. Những nhà đạo diễn phim nổi tiếng của Áo là Barbara Albert, Ruth Beckermann, Florian Flicker, Robert Dornhelm, Nikolaus Geyrhalter, Michael Glawogger, Wolfgang Glück, Michael Haneke, Jessica Hausner, Michael Kreihsl, Fritz Lang, Bady Minck, Franz Novotny, Peter Patzak, Otto Preminger, Stefan Ruzowitzky, Anja Salomonowitz, Hubert Sauper, Ulrich Seidl, Götz Spielmann, Josef von Sternberg, Erich von Stroheim, Hans Weingartner, Virgil Widrich, Billy Wilder. Đọc thêm: Liên hoan phim tại Áo, Lịch sử điện ảnh Áo Văn học. Thuộc vào trong số những nhà văn nổi tiếng nhất của Áo là Franz Grillparzer, Joseph Roth, Johann Nestroy, Robert Musil, Karl Kraus, Friedrich Torberg, Felix Mitterer, Thomas Bernhard và Peter Handke, cũng như là nhà văn nữ đã nhận Giải Nobel về hòa bình Bertha von Suttner và nhà văn nữ nhận Giải Nobel về văn học năm 2004 Elfriede Jelinek. Thể thao. Môn thể thao được người Áo ưa chuộng nhất là chạy ski, tiếp theo sau đó là bóng đá và chạy xe đạp. Thế nhưng đi dạo hay leo núi ngày cũng được ưa thích hơn trong mọi lứa tuổi. Do địa thế địa lý nên trong nhiều bộ môn thể thao mùa đông nước Áo thuộc trong số những quốc gia dẫn đầu của thế giới. Thể thao mùa đông rất được ưa chuộng ở Áo và các chương trình truyền hình về thể thao mùa đông có rất nhiều khán giả, đặc biệt là các giải thi đấu về trượt tuyết.
Áo
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2819
Các vận động viên thể thao trượt tuyết nổi tiếng trong những năm vừa qua là Hermann Maier, Renate Götschl, Michaela Dorfmeister, Alexandra Meissnitzer, Benjamin Raich, Michael Walchhofer và Rainer Schönfelder. Các nhà trượt ski đạt nhiều thành tích trong lịch sử là Toni Sailer, Karl Schranz, Franz Klammer, Stephan Eberharter hay Annemarie Moser-Pröll. Áo cũng thường đạt nhiều thành tích đáng kể trong các bộ môn thể thao mùa hè hay trong những bộ môn thể thao có thể được chơi trong suốt cả năm. Thế nhưng ngoại trừ bóng đá, các bộ môn thể thao này không được người dân ưa thích nhiều như thể thao mùa đông. Những vận động viên đoạt giải Thế vận hội mùa hè (2004): Thể thao trong các câu lạc bộ hay hiệp hội được đánh giá cao trong Áo. Trong một số làng hay thành phố hơn nửa người dân luyện tập thể thao tích cực trong các câu lạc bộ hay hiệp hội. Trước nhất là bóng đá, đặc biệt là ở tại Viên, bộ môn thể thao có truyền thống lâu đời, và sau đó là một vài bộ môn thể thao ít được biết đến hơn có nhiều người tham gia. Hypo Österreich thuộc hàng đầu của thế giới trong bóng ném nữ cũng như là Chrysler Vienna Vikings trong bóng bầu dục nghiệp dư. Các đội thể thao có nhiều thành tích: Môn thể thao phổ biến nhất ở Áo là bóng đá, được điều hành bởi Hiệp hội bóng đá Áo. Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo từng là thế lực ở trên thế giới và từng giành vị trí thứ 4 tại World Cup 1934, thứ 3 tại World Cup 1954. Tuy nhiên, gần đây bóng đá Áo đã không được thành công trong các giải đấu quốc tế. Áo từng đồng tổ chức Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008 với Thụy Sĩ. Giải đấu bóng đá quốc gia của Áo là Austria Bundesliga, bao gồm các CLB bóng đá như SK Rapid Wien, FK Austria Wien, Red Bull Salzburg và Sturm Graz.
Tiếng Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2821
Tiếng Đức ( ) là một ngôn ngữ German Tây được sử dụng chủ yếu tại Trung Âu. Đây là ngôn ngữ chính thức tại Đức, Áo, Thụy Sĩ, Nam Tyrol (Ý), cộng đồng nói tiếng Đức tại Bỉ, và Liechtenstein; đồng thời là một trong những ngôn ngữ chính thức tại Luxembourg và tỉnh Opolskie của Ba Lan. Những ngôn ngữ lớn khác có quan hệ với tiếng Đức gồm những ngôn ngữ thuộc nhánh Tây German khác, như tiếng Afrikaans, tiếng Hà Lan, và tiếng Anh. Đây là ngôn ngữ German phổ biến thứ nhì trên thế giới, chỉ sau tiếng Anh. Là một trong những ngôn ngữ lớn trên thế giới, tiếng Đức có khoảng 95 triệu người bản ngữ trên toàn cầu và là ngôn ngữ có số người bản ngữ lớn nhất Liên minh châu Âu. Tiếng Đức cũng là ngoại ngữ được dạy phổ biến thứ ba ở Hoa Kỳ (sau tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp) và EU (sau tiếng Anh và tiếng Pháp), ngôn ngữ được sử dụng nhiều thứ nhì trong khoa học và ngôn ngữ được sử dụng nhiều thứ ba trên Internet (sau tiếng Anh và tiếng Nga). Các quốc gia nói tiếng Đức đứng thứ năm về số đầu sách mới xuất bản hàng năm, với một phần mười số sách trên thế giới (gồm e-book) phát hành bằng tiếng Đức. Đa phần từ vựng tiếng Đức có gốc German. Một phần được vay mượn từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, và một ít từ hơn mượn từ tiếng Pháp và tiếng Anh. Với những dạng chuẩn khác nhau (tiếng Đức chuẩn Đức, tiếng Đức chuẩn Áo, và tiếng Đức chuẩn Thụy Sĩ), tiếng Đức là một ngôn ngữ đa tâm. Như tiếng Anh, tiếng Đức cũng đáng chú ý vì số lượng phương ngữ lớn, với nhiều phương ngữ khác biệt tồn tại trên thế giới. Do sự không thông hiểu lẫn nhau giữa nhiều "phương ngữ" và tiếng Đức chuẩn, và sự thiểu thống nhất về định nghĩa giữa một "phương ngữ" và "ngôn ngữ", nhiều dạng hay nhóm phương ngữ tiếng Đức (như Hạ Đức và Plautdietsch) thường được gọi là cả "ngôn ngữ" và "phương ngữ". Tình trạng. Do sự hiện diện của kiều dân Đức, cũng như việc tiếng Đức là ngoại ngữ phổ biến thứ ba ở cả Hoa Kỳ và EU cùng những yếu tố khác, người nói tiếng Đức hiện diện tại tất cả các châu lục.
Tiếng Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2821
Về số người nói trên toàn cầu, sự ước tính luôn bị ảnh hưởng bởi việc thiếu nguồn thông tin xác thực và chắc chắn. Thêm vào đó, việc thiếu thống nhất giữa "ngôn ngữ" hay "phương ngữ" (vì lý do chính trị hay ngôn ngữ học) càng gây thêm khó khăn trong tính toán. Dựa trên việc gộp vào hay loại ra một vài dạng ngôn ngữ nhất định, ước tính rằng có khoảng 90–95 triệu người nói tiếng Đức như ngôn ngữ thứ nhất, 10–25 triệu người nói như ngôn ngữ thứ hai, và 75–100 triệu người nói như một ngoại ngữ. Như vậy, tổng cộng có chừng 175–220 triệu người nói tiếng Đức toàn cầu. Ngữ pháp. Tiếng Đức là một ngôn ngữ hòa kết (ngôn ngữ biến tố), với ba giống: đực, cái, và trung. Biến tố danh từ. Danh từ được chia theo cách, giống, và số. Mức độ biến tố này ít hơn đáng kể so với tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp cổ đại, và tiếng Phạn, và cũng phần nào ít hơn so với tiếng Anh cổ, tiếng Iceland và tiếng Nga. Với ba giống và bốn cách, cộng với số nhiều, có 16 loại danh từ theo giống, số và cách, nhưng chỉ có sáu mạo từ hạn định. Ở danh từ, sự biến tố là nhất thiết đối với từ giống đức mạnh và trung số ít. Tuy nhiên, sở hữu cách và tặng cách đang dần bị mất đi trong đối thoại thông tục. Đuôi danh từ biến cách cho bị xem là "lỗi thời" trong nhiều trường hợp và thường bị bỏ đi, nhưng vẫn còn trong tục ngữ, trong lối nói trang trọng và khi viết. Danh từ giống đực yếu dùng chung một đuôi danh từ trong đối cách, tặng cách và sở hữu cách ở số ít. Danh từ giống cái không biến cách ở số ít. Từ số nhiều có biến tố tặng cách. Tổng cộng, bảy đuôi biến tố (không tính phần chỉ số nhiều) hiện diện trong tiếng Đức: ". Trong chính tả tiếng Đức, danh từ và đa số các từ có chức năng cú pháp với danh từ được viết hoa ký tự đầu (" – "Vào thứ sáu tôi đi mua sắm."). Biến tố động từ. Các yếu tố ảnh hưởng đến động từ tiếng Đức là: Tiền tố động từ. Ý nghĩa của động từ có thể được mở rộng và thay đổi bởi việc sử dụng tiền tố. Ví dụ tiền tố chỉ sự phá hủy, như ' (xé rách ra), ' (đập vỡ ra), ' (cắt ra).
Tiếng Đức
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2821
Một số tiền tố khác chỉ mang ý nghĩa mơ hồ nào đó; đi cùng một số lớn động từ với ý nghĩa đa dạng, ' (thử) từ ' (tìm kiếm), ' (dò hỏi) từ ' (lấy), ' (phân bổ) từ ' (chia sẻ), ' (hiểu) từ "" (đứng). Nhận xét. Tiếng Đức là ngôn ngữ có sự khác biệt mạnh giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ viết sử dụng rất nhiều cấu trúc mệnh đề quan hệ nhúng nhưng nó gần như không bao giờ được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày. Trong giao tiếp hàng ngày, mệnh đề quan hệ con (hay còn gọi là câu phụ, nebensatz) hay được sử dụng và luôn luôn được nói kèm với từ quan hệ. Việc giản lược bất kỳ các cấu trúc ngữ pháp nào kể cả trong văn phong nói (chẳng hạn giản lược từ quan hệ như trong tiếng Anh) cũng đều bị coi là sai ngữ pháp. Cụm danh từ ghép lúc nào cũng được viết liền nhau và giống như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nga..., nó được sắp xếp ngược (stacked backward). Ví dụ: Xô: Eimer Nước: Wasser => Xô nước: Wassereimer.
Cân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2838
Cân là đơn vị đo khối lượng trong hệ đo lường cổ Việt Nam, hiện nay tương đương với 1 kilôgram, hay nôm na là 10 lạng, được sử dụng trong giao dịch đời thường ở Việt Nam. Nó cũng là đơn vị đo khối lượng cổ tại Trung Quốc, Hồng Kông... Việt Nam. Hiện nay, một cân bằng 10 lạng. Trong quá khứ, một cân bằng 16 lạng (cân thập lục), nên mới có câu nói dân gian "kẻ tám lạng người nửa cân" (ý nói hai bên bằng nhau). Lúc đó, giá trị của cân trong hệ đo lường cổ của Việt Nam, theo , là 604,5 gam. Có thể một số địa phương ở Việt Nam vẫn còn dùng quy ước khác nhau về cân và lạng. Có nguồn cho biết trước đây 1 cân bằng khoảng 400 gam. Cân thập lục cũng được gọi là cân ta để phân biệt với cân tây là giá trị hiện đại của cân (bằng 1 ki-lô-gam). Trung Quốc. Ở Trung Quốc, cân cũng là đơn vị đo khối lượng cổ, ngày nay bằng 500 gam. Trong lịch sử, một cân ở Trung Hoa có thể có giá trị khác, ví dụ như 600 g (16 lạng). Hồng Kông. Ở Hồng Kông, theo , một cân bằng 604,79 gam.
Lạng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2839
Lạng (còn gọi là lượng, tiếng Hán: 兩; pinyin: liǎng) là đơn vị đo khối lượng, trong hệ đo lường cổ Việt Nam, được sử dụng trong giao dịch đời thường ở Việt Nam. Nó cũng là đơn vị đo khối lượng cổ ở Trung Quốc, Hồng Kông... Việt Nam. Theo cả ngày xưa lẫn ngày nay, 1 lạng bằng 100 gram, và ngày xưa 16 lạng mới được 1 cân, nên mới có câu nói dân gian "kẻ tám lạng người nửa cân" (ý nói hai bên bằng nhau). Theo từ điển Hán-Việt Thiều Chửu: "Lạng, cân ta, mười đồng cân gọi là một lạng, mười sáu lạng là một cân". Có thể một số địa phương ở Việt Nam vẫn còn dùng quy ước khác nhau về cân và lạng. Có nguồn ghi một lạng bằng 25 gam. Theo một lạng bằng 10 đồng (còn gọi là tiền 錢), 100 phân (分), 1000 ly (厘), 10.000 hào (毫), 100.000 ty (絲), 1000.000 hốt (忽). Sau khi người Pháp vào Việt Nam thì việc áp dụng hệ đo lường quốc tế mới được triển khai. Lạng đã bị thay đổi ý nghĩa và giá trị. Hiện nay một lạng bằng 1/10 cân, tức là 0,1 kilôgam (đơn vị đo khối lượng tiêu chuẩn trong hệ đo lường quốc tế) hay là 100 gam. Kim loại quý. Khi nói về đo lường khối lượng của kim loại quý, ví dụ như vàng, bạc, bạch kim v.v, người Việt cũng dùng từ lạng với ý nghĩa như từ lượng hay cây. Một "lạng" hay "lượng" hay "cây" trong trường hợp này bằng 37,50 gam. Giá trị này hiện vẫn còn được sử dụng trong ngành kim khí quý. Trung Quốc. Ở Trung Quốc, lạng cũng là một đơn vị đo khối lượng cổ, ngày nay được chuẩn hóa với giá trị 50 gam. Hồng Kông. Lượng (兩) ở Hồng Kông, theo , bằng 1/16 cân Hồng Kông, bằng 37,79936375 g, tương đương với 1+1⁄3 Ounce (1 Ounce avoirdupois quốc tế là 28,3495231 g).
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Úc, Úc Đại Lợi Á hay Australia (phiên âm: "Ô-xtrây-li-a", phát âm tiếng Anh: ,), tên chính thức là Thịnh vượng chung Úc (), là một quốc gia có chủ quyền nằm ở giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; lãnh thổ bao gồm lục địa Úc, đảo Tasmania và các đảo nhỏ lân cận. Đây là quốc gia lớn thứ 6 trên thế giới về diện tích. Các quốc gia lân cận của Úc bao gồm có Indonesia, Đông Timor và Papua New Guinea ở phía bắc, các quần đảo Solomon, Vanuatu, và Nouvelle-Calédonie thuộc Pháp ở phía đông bắc và New Zealand ở phía đông nam. Thủ đô của Úc là Canberra, thành phố lớn nhất là Sydney. Úc có ngôn ngữ quốc gia là tiếng Anh và ngoài ra còn có hơn 200 ngôn ngữ khác được sử dụng. Những người Úc bản địa đã sinh sống tại lãnh thổ Úc cách đây ít nhất là vào khoảng 40.000 năm, trước khi người Anh tới định cư lần đầu tiên vào thế kỷ XVIII, người Úc bản địa nói nhiều ngôn ngữ khác nhau và ngày nay chúng được nhóm lại thành khoảng 250 nhóm. Các nhà thám hiểm người Hà Lan khám phá ra lục địa vào năm 1606, sau đó, Anh Quốc tuyên bố chủ quyền đối với nửa phía đông của Úc vào năm 1770 và bắt đầu tiến hành công cuộc thuộc địa hóa nơi đây bằng cách đày các tội phạm đến New South Wales từ ngày 26 tháng 1 năm 1788. Dân số Úc tăng đều đặn trong các thập kỷ tiếp theo và người châu Âu nhập cư dần trở nên vượt trội so người bản địa. Ngày 1 tháng 1 năm 1901, 6 thuộc địa liên hiệp tuyên bố thành lập Thịnh vượng chung Úc; bao gồm 6 bang chính và một số lãnh thổ nhỏ trên biển. Từ khi thành lập, Úc duy trì một hệ thống chính trị dân chủ tự do hoàn chỉnh và ổn định. Dân số Úc hiện nay được ước tính vào khoảng 23,1 triệu, Úc có mức độ đô thị hóa cao, tập trung tại các bang giáp biển. Lãnh thổ Úc rộng lớn, giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng có mật độ dân số rất thấp. Úc là một quốc gia công nghiệp phát triển, nền kinh tế Úc lớn thứ 13 trên thế giới theo GDP danh nghĩa năm 2020 còn GDP bình quân đầu người thì cao thứ 10 toàn cầu năm 2019. Chi tiêu quân sự của Úc đứng thứ 10 thế giới năm 2020.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Úc được xếp hạng cao trong hầu hết các chỉ số như phát triển con người, bình quân tiêu chuẩn, chất lượng sinh hoạt, y tế, giáo dục, tự do kinh tế, các quyền tự do dân sự và tự do chính trị. Úc là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế lớn trong số đó nổi bật như Liên Hợp Quốc, Câu lạc bộ Paris, G20, Khối Đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ, Thịnh vượng chung các quốc gia, ANZUS, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương. Tên gọi. Tên gọi "Úc" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Bằng tiếng Trung, "Aus-tra-li-a" được phiên âm là "澳大利亞" (phanh âm: "Àodàlìyà", Hán-Việt: "Áo Đại Lợi Á"). Chữ "澳" có hai âm Hán-Việt là "áo" (bính âm: "ào") và "úc" (bính âm: "yù"). Trong khi người Hán quen đọc chữ "澳" trong tên gọi "澳大利亞" là "Áo", người Việt Nam vẫn đọc thành "Úc" để phân biệt với Austria đã được Việt hóa thành "Áo". Tuy nhiên, "Australia" - tên tiếng Anh của Úc cũng được dùng phổ biến trong tiếng Việt giống như trường hợp của nước Ý (hay Italia). Tên gọi "Australia" bắt nguồn từ từ "australia" trong tiếng Latinh có nghĩa là "phương nam". Những huyền thoại về "một vùng đất chưa được biết đến ở phương Nam" đã có từ thời La Mã và là cái tên bình thường trong địa lý thời Trung Cổ nhưng không dựa trên bất kỳ sự hiểu biết giấy tờ nào về lục địa này. Năm 1521, người Tây Ban Nha là một trong những người châu Âu đầu tiên đến Thái Bình Dương. Lần sử dụng từ "Australia" lần đầu tiên là vào năm 1625 - nằm trong những chữ "Ghi chép về Australia del Espiritu Santo, viết bởi Master Hakluyt", xuất bản bởi Samuel Purchas ở trong "Hakluytus Posthumus". Trong tiếng Hà Lan, từ "Australische" thuộc dạng tính từ được sử dụng bởi công ty Đông Ấn Hà Lan ở Batavia để nhắc tới vùng đất mới được khám phá ở phía Nam năm 1638. Australia còn được sử dụng trong một bản dịch năm 1693 của "Les Aventures de Jacques Sadeur dans la Découverte et le Voyage de la Terre Australe", một tiểu thuyết Pháp năm 1676 viết bởi Gabriel de Foigny.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Alexander Dalrymple sau đó sử dụng từ này trong "An Historical Collection of Voyages and Discoveries in the South Pacific Ocean" (1771), nhắc tới toàn bộ vùng Nam Thái Bình Dương. Năm 1793, George Shaw và James Smith xuất bản cuốn "Zoology and Botany of New Holland" ("Hệ động thực vật của Tân Hà Lan") trong đó họ đã viết hàng loạt "những đảo, hoặc đúng hơn là lục địa, của Australia, Australasia hoặc Tân Hà Lan". Cái tên "Australia" được phổ biến bởi cuốn sách năm 1814 "A Voyage to Terra Australis" ("Một chuyến đi biển tới Australis") bởi nhà hàng hải Matthew Flinders, người đầu tiên được ghi chép là đã đi vòng quanh Australia bằng đường biển. Mặc dù tựa đề của nó được sử dụng cho Bộ Hải quân Anh nhưng Flinders đã dùng từ "Australia" trong cuốn sách của ông bởi vì nó được đọc một cách rộng rãi nên từ này trở nên thịnh hành. Thống đốc Lachlan Macquarie của New South Wales sau đó đã sử dụng từ này trong bản thông điệp gửi tới nước Anh ngày 12 tháng 12 năm 1817, giới thiệu với văn phòng thuộc địa rằng từ ngữ này đã được chính thức thông qua. Năm 1824, Bộ Hải quân đã đồng ý rằng lục địa này sẽ được nhắc tới chính thức bằng cái tên Australia. Lịch sử. Theo ước tính, loài người bắt đầu định cư tại lục địa Úc từ 42.000 đến 48.000 năm trước, các di dân này có thể đã từ khu vực mà nay là Đông Nam Á và đến theo các cầu lục địa và vượt biển khoảng cách ngắn. Các cư dân đầu tiên này có thể là tổ tiên của thổ dân Úc hiện nay. Khi người châu Âu tiến hành định cư vào cuối thế kỷ XVIII, hầu hết thổ dân Úc là những người săn bắn-hái lượm, có một văn hóa truyền khẩu phức tạp và các giá trị tinh thần dựa trên sùng kính thổ địa và tin tưởng vào thời mộng ảo. Người quần đảo Eo biển Torres thuộc nhóm dân tộc Melanesia, họ ban đầu là những người làm vườn và săn bắn-hái lượm. Các ngư dân từ Đông Nam Á hàng hải thỉnh thoảng cũng đi đến các vùng duyên hải và vùng biển bắc bộ của Úc. Nhà hàng hải người Hà Lan Willem Janszoon là người châu Âu đầu tiên được ghi chép là đã trông thấy đại lục Úc, và là người châu Âu đầu tiên được ghi chép là đã đổ bộ lên lục địa Úc. Ông trông thấy bờ biển của bán đảo Cape York vào đầu năm 1606, và tiến hành đổ bộ vào ngày 26 tháng 2 tại sông Pennefather gần thị trấn Weipa ngày nay tại Cape York.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Người Hà Lan vẽ hải đồ toàn bộ đường bờ biển tây bộ và bắc bộ và đặt tên cho lục địa đảo là "Tân Hà Lan" trong thế kỷ XVII, song không tiến hành nỗ lực định cư. Nhà thám hiểm người Anh William Dampier đổ bộ lên bờ biển tây-bắc của Tân Hà Lan vào năm 1688 và tiếp một lần nữa vào năm 1699 trong một chuyến đi trở lại. Năm 1770, James Cook đi thuyền dọc theo và vẽ bản đồ bờ biển phía đông, ông định danh cho nó là New South Wales và tuyên bố chủ quyền cho Anh Quốc. Sau khi mất 13 thuộc địa tại Bắc Mỹ vào năm 1780, Chính phủ Anh cử một hạm đội tàu, "Đệ Nhất hạm đội", dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur Phillip, đi thiết lập một thuộc địa lưu đày mới tại New South Wales. Một trại được lập ra và quốc kỳ được kéo lên tại Sydney Cove, Port Jackson, vào ngày 26 tháng 1 năm 1788, ngày này trở thành ngày quốc khánh của Úc. Một khu định cư của Anh Quốc được thiết lập tại đất Van Diemen, nay là Tasmania, vào năm 1803 và đảo này trở thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1825. Anh Quốc chính thức tuyên bố chủ quyền đối với phần tây bộ của Tây Úc (thuộc địa sông Swan) vào năm 1828. Các thuộc địa riêng biệt được tách ra từ các lãnh thổ của New South Wales: Nam Úc vào năm 1836, Victoria vào năm 1851, và Queensland vào năm 1859. Lãnh thổ phương Bắc được tách ra từ Nam Úc và thành lập vào năm 1911. Nam Úc được thành lập với tình trạng là một "tỉnh tự do" – nơi này chưa từng là một thuộc địa lưu đày. Victoria và Tây Úc cũng được thành lập với tình trạng "tự do", song về sau chấp thuận các tù nhân được vận chuyển đến. Những người định cư tại New South Wales tiến hành một chiến dịch mà cuối cùng đã dẫn đến việc chấm dứt vận chuyển tù nhân đến thuộc địa này; tàu chở tù nhân cuối cùng đến vào năm 1848. Theo ước tính, dân số thổ dân là từ 750.000 đến 1.000.000 vào thời điểm người châu Âu bắt đầu định cư, song dân số của họ suy giảm trong 150 năm sau đó, chủ yếu do bệnh truyền nhiễm.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Một chính sách "đồng hóa" của chính phủ bắt đầu với "Đạo luật Bảo vệ thổ dân 1869", kết quả là nhiều trẻ em thổ dân bị đưa ra khỏi gia đình và cộng đồng của chúng, hành động này cũng có thể góp phần vào sự suy giảm của dân số người bản địa. Chính phủ Liên bang giành được quyền ra các điều luật tôn trọng thổ dân sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1967. Quyền sở hữu đất đai theo truyền thống—quyền sở hữu của thổ dân—không được công nhận cho đến năm 1992, khi Tòa Cao đẳng Úc ra phán quyết "Mabo v Queensland (số 2)" lật đổ học thuyết pháp lý rằng Úc là "đất vô chủ" trước khi người châu Âu chiếm giữ. Một cơn sốt vàng bắt đầu tại Úc vào đầu thập kỷ 1850 và Nổi loạn Eureka năm 1854 nhằm chống phí cấp phép khai mỏ là một biểu hiện bất tuân dân sự đầu tiên. Từ năm 1855 đến năm 1890, sáu thuộc địa dần giành được quyền có chính phủ chịu trách nhiệm, tự quản lý hầu hết các vấn đề của họ song vẫn là một bộ phận của Đế quốc Anh. Văn phòng Thuộc địa tại Luân Đôn duy trì quyền kiểm soát trên một số vấn đề, đáng chú ý là các quan hệ đối ngoại, phòng thủ, xây dựng và vận chuyển quốc tế. Ngày 1 tháng 1 năm 1901, đạt được liên minh của các thuộc địa sau một thập kỷ lên kế hoạch, thảo luận và bỏ phiếu. Thịnh vượng chung Úc được thành lập và trở thành một nước tự trị của Đế quốc Anh vào năm 1907. Lãnh thổ Thủ đô Liên bang (sau đổi tên thành Lãnh thổ Thủ đô Úc) được thành lập vào năm 1911 để làm địa điểm của thủ đô liên bang tương lai- Canberra. Trong khi Canberra được xây dựng, Melbourne là nơi tạm thời đặt trụ sở chính phủ từ năm 1901 đến năm 1927. Quyền kiểm soát Lãnh thổ phương Bắc được chuyển từ chính phủ Nam Úc sang nghị viện liên bang vào năm 1911. Năm 1914, Úc cùng Anh Quốc chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, với sự ủng hộ của Đảng Tự do Thịnh vượng chung đang chuyển giao và Đảng Lao động Úc đang tiếp nhận chính phủ. Úc tham gia trong nhiều trận chiến lớn tại Mặt trận phía Tây. Trong số khoảng 416.000 người từng phục vụ, khoảng 60.000 chết và 152.000 bị thương.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Nhiều người Úc nhìn nhận thất bại của Quân đoàn Úc và New Zealand tại Gallipoli là mốc quốc gia đản sinh, đó là hành động quân sự lớn đầu tiên của Úc.Chiến dịch đường Kokoda được nhiều người nhìn nhận là một sự kiện định nghĩa quốc gia tương tự trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đạo luật Westminster 1931 của Anh Quốc chính thức chấm dứt hầu hết các liên kết hiến pháp giữa Úc và Anh Quốc. Úc chuẩn thuận nó vào năm 1942, song tuyên bố rằng đạo luật có hiệu lực từ năm 1939 để xác nhận tính hợp lệ của các pháp luật do Nghị viện Úc thông qua trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bất ngờ trước thất bại của Anh Quốc tại châu Á vào năm 1942 và mối đe dọa Nhật Bản xâm chiếm khiến Úc hướng sang Hoa Kỳ như một đồng minh và nước bảo hộ mới. Từ năm 1951, Úc trở thành một đồng minh quân sự chính thức của Hoa Kỳ, theo hiệp định ANZUS. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Úc khuyến khích nhập cư từ châu Âu. Kể từ thập niên 1970 và sau khi bãi bỏ chính sách Úc Da trắng, nhập cư từ châu Á và những nơi khác cũng tăng tiến. Kết quả là Úc có sự biến đổi về các mặt nhân khẩu học, văn hóa, tự nhận thức về bản thân. Việc thông qua Đạo luật Úc năm 1986 đã đoạn tuyệt các quan hệ hiến pháp cuối cùng giữa Úc và Anh Quốc, theo đó chấm dứt hoàn toàn vai trò của Anh Quốc trong chính phủ của các bang của Úc, và kết thúc quyền chọn lựa chống án pháp lý lên Xu mật viện tại Luân Đôn. Trong một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1999, 55% số cử tri và đa số tại mọi bang đã bác bỏ một đề xuất trở thành một nước cộng hòa với một tổng chống được bầu từ ít nhất 2/3 số phiếu tại cả hai viện của Nghị viện Úc. Kể từ khi Gough Whitlam trở thành thủ tướng vào năm 1972, chính sách đối ngoại của Úc ngày càng tập trung vào các mối quan hệ với các quốc gia khác trong vành đai Thái Bình Dương, trong khi duy trì quan hệ gần gũi với các đồng minh và đối tác thương mại truyền thống của mình. Địa lý và khí hậu. Địa lý. Diện tích đất liền của Úc là .
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Diện tích đất liền của Úc là . Tọa lạc trên mảng Ấn-Úc, bao quanh là Ấn Độ Dương (phía tây và phía nam) và Thái Bình Dương (phía đông), tách biệt với châu Á qua các biển Arafura và Timor, biển San hô nằm ngoài khơi bờ biển bang Queensland, và biển Tasman nằm giữa Úc và New Zealand. Úc là lục địa nhỏ nhất thế giới nhưng là quốc gia lớn thứ 6 về tổng diện tích, do kích thước lớn và biệt lập nên Úc còn được gán cho tên "lục địa đảo", và đôi khi được xem là đảo lớn nhất thế giới. Úc có đường bờ biển dài (chưa tính đến các đảo ngoài khơi), và tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế rộng , chưa tính đến vùng đặc quyền kinh tế của Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc. Rạn san hô Great Barrier (Đại Bảo tiêu) là ám tiêu san hô lớn nhất thế giới, có một khoảng cách ngắn với bờ biển đông bắc của lục địa và trải dài trên . Núi Augustus tại Tây Úc được tuyên bố là đá nguyên khối lớn nhất thế giới. Với độ cao , núi Kosciuszko thuộc Great Dividing Range (dãy Đại Phân Thủy) là núi cao nhất tại Úc đại lục. Các đỉnh núi cao hơn là đỉnh Mawson với cao độ trên đảo Heard; núi McClintock và núi Menzies có cao độ lần lượt là và tại Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc. "Nước Úc rộng lớn tới mức trải dài hết lục địa Australian" Khí hậu. Kích thước lớn khiến Úc có nhiều dạng phong cảnh khác nhau, với rừng mưa nhiệt đới ở đông-bắc, các dãy núi ở đông-nam, tây-nam và đông, các hoang mạc khô hạn ở trung tâm. Úc là lục địa bằng phẳng nhất, với đất đai cổ nhất và kém phì nhiêu nhất; hoang mạc hay các vùng đất bán khô hạn thường được gọi là "outback" tạo thành phong cảnh phổ biến nhất. Úc là lục địa có người định cư khô hạn nhất, chỉ có các góc đông-nam và tây-nam có khí hậu ôn hòa. Mật độ dân số của Úc là 2,8 người/km², xếp vào hàng thấp nhất trên thế giới, song một phần lớn dân cư sống dọc theo bờ biển đông-nam bộ có khí hậu ôn hòa. Đông bộ Úc có điểm nhấn là Great Dividing Range (dãy Đại Phân Thủy), dãy núi trải dài song song với bờ biển của Queensland, New South Wales và phần lớn Victoria.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Nhiều phần của dãy núi gồm các đồi thấp, và các vùng đất cao thường không có cao độ lớn hơn . Các vùng cao duyên hải và một vành đai thảo nguyên cây keo nằm giữa bờ biển và các ngọn núi, trong khi vùng nội địa của dãy phân thủy là các khu vực thảo nguyên rộng lớn. Chúng gồm có các bình nguyên tây bộ của New South Wales, và cao địa Einasleigh, đài địa Barkly, và thổ địa Mulga ở vùng nội địa Queensland. Đỉnh cực bắc của vùng bờ biển phía đông là bán đảo Cape York với các khu rừng nhiệt đới. Các phong cảnh ở phần bắc bộ của quốc gia— Top End và Gulf Country nằm bên vịnh Carpentaria, có khí hậu nhiệt đới—gồm có rừng thưa, thảo nguyên, và hoang mạc. Tại góc tây-bắc của lục địa là các vách đá và hẻm núi sa thạch của vùng The Kimberley, và Pilbara ở bên dưới. Phía nam của chúng và vùng nội địa, nằm trên nhiều khu vực thảo nguyên hơn: đồng bằng Ord Victoria và đất bụi keo Tây Úc. Phần trung tâm của quốc gia là các cao địa Trung Úc; các đặc trưng của trung bộ và nam bộ gồm có các hoang mạc lục địa Simpson, Tirari và Sturt phủ đá, Gibson, Great Sandy-Tanami, và Đại Victoria, với bình nguyên Nullarbor nổi tiếng tại duyên hải nam bộ. Khí hậu Úc chịu ảnh hưởng đáng kể từ các dòng hải lưu, bao gồm lưỡng cực Ấn Độ Dương và dao động El Niño–phương Nam, tương quan với hạn hán theo chu kỳ, và hệ thống áp thấp nhiệt đới theo mùa là nhân tố sản sinh các xoáy tụ tại bắc bộ Úc. Các nhân tố này khiến cho lượng mưa thay đổi rõ rệt giữa các năm. Phần lớn phần bắc bộ của quốc gia có một khí hậu nhiệt đới, chủ yếu là mùa hạ-mưa (gió mùa). Góc tây nam của quốc gia có một khí hậu Địa Trung Hải. Phần lớn đông nam bộ (bao gồm Tasmania) có khí hậu ôn hòa. Môi trường. Mặc dù hầu hết lãnh thổ là bán khô hạn hoặc hoang mạc, song Úc sở hữu các môi trường sống đa dạng từ những bãi hoang núi cao đến rừng mưa nhiệt đới, và được công nhận là một quốc gia đa dạng sinh học siêu cấp.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Các loại nấm điển hình cho sự đa dạng này; tổng số loài nấm xuất hiện tại Úc, bao gồm cả những loài chưa được phát hiện, được ước tính là khoảng 250.000 loài, trong đó chừng 5% đã được mô tả. Do là lục địa có tuổi lâu năm, các hình thái thời tiết thay đổi cực độ, và cô lập lâu dài về địa lý, phần lớn quần thể sinh vật của Úc có sự khác biệt và đa dạng. Xấp xỉ 85% loài thực vật có hoa, 84% loài thú, trên 45% loài chim, và 89% loài cá ven bờ và vùng ôn đới là loài đặc hữu. Úc là quốc gia có số loài bò sát lớn nhất thế giới, với 755 loài. Rừng tại Úc chủ yếu gồm các loài cây thường xanh, đặc biệt là các loài cây bạch đàn tại những vùng ít khô hạn, các loài keo thay thế địa vị chiếm ưu thế của chúng tại các vùng khô hạn hơn và các hoang mạc. Trong số các động vật nổi tiếng của Úc có các loài đơn huyệt (như thú mỏ vịt và thú lông nhím); một loạt loài thú có túi bao gồm kangaroo (chuột túi), koala (gấu không đuôi), và "Vombatidae" (gấu túi), và các loài chim như đà điểu Emu và chim bói cá kookaburra. Úc là nơi có nhiều loại động vật nguy hiểm, bao gồm một số loài rắn độc nhất trên thế giới. Người Nam Đảo đưa chó Dingo đến Úc- giống người này trao đổi mậu dịch với thổ dân Úc- khoảng năm 3000 TCN. Nhiều loài động thực vật bị tuyệt chủng ngay sau khi những người đầu tiên đến định cư, bao gồm quần thể động vật cỡ lớn Úc (Australian megafauna); nhiều loài khác biến mất sau khi người châu Âu đến định cư, trong số đó có "Thylacinus cynocephalus" (sói túi). Nhiều vùng sinh thái của Úc, cùng các loài trong những vùng đó, bị đe dọa do các hoạt động của con người và các loài động vật, tảo, nấm, và thực vật xâm nhập. "Đạo luật Bảo vệ môi trường và bảo toàn tính đa dạng sinh học 1999" cấp liên bang là khuôn khổ pháp lý cho việc bảo vệ các loài bị đe dọa. Nhiều khu bảo tồn được lập ra theo Chiến lược quốc gia về bảo toàn tính đa dạng sinh học của Úc để bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái độc đáo; 65 vùng đất ngập nước được liệt vào Công ước Ramsar, và 16 di sản tự nhiên thế giới được công nhận.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Úc xếp hạng 51/163 thế giới trong Chỉ số thành tích môi trường 2010. Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu trở thành một mối quan tâm ngày càng tăng lên tại Úc, và bảo vệ môi trường là một vấn đề chính trị lớn. Năm 2007, Nội các đầu tiên của Thủ tướng Kevin Rudd ký vào văn kiện phê chuẩn nghị định thư Kyoto. Tuy thế, lượng phát thải cacbon dioxide đầu người của Úc nằm trong hàng cao nhất trên thế giới, chỉ thấp hơn một vài quốc gia công nghiệp hóa khác. Lượng mưa tại Úc tăng nhẹ trong thế kỷ qua, cả trên quy mô toàn quốc và hai góc phần tư của quốc gia. Hạn chế nước được tiến hành thường xuyên tại nhiều khu vực và thành thị của Úc, mục đích là nhằm đối phó với tình trạng thiếu hụt nước kinh niên do dân số thành thị tăng lên và hạn hán cục bộ. Chính phủ. Úc là một quốc gia quân chủ lập hiến, là một liên bang phân chia quyền lực. Quốc gia này có chính phủ theo thể chế đại nghị, Quốc vương Charles III là nguyên thủ quốc gia với tư cách Quốc vương Úc - một vai trò tách biệt so với địa vị là quân chủ của các quốc gia khác trong Vương quốc Khối thịnh vượng chung. Quốc vương cư trú tại Anh Quốc, các phó vương đại diện cho ông tại Úc (Toàn quyền tại cấp liên bang và Thống đốc tại cấp bang), theo quy ước thì họ hành động theo cố vấn của các bộ trưởng. Hiến pháp Úc trao cho quân chủ quyền hành pháp tối cao, song quyền thi hành nó được Hiến pháp ban cho riêng Toàn quyền. Hành động đáng chú ý nhất về việc thực hành quyền lực dự trữ của Toàn quyền bên ngoài đề nghị của Thủ tướng là việc giải tán chính phủ Whitlam trong cuộc khủng hoảng hiến pháp năm 1975. Chính phủ liên bang được phân thành ba nhánh: Tham nghị viện (thượng nghị viện) có 76 nghị sĩ: mỗi bang có 12 nghị sĩ, mỗi lãnh thổ ở đại lục (Lãnh thổ thủ đô Úc và Lãnh thổ phương Bắc) có hai nghị sĩ. Chúng nghị viện (hạ nghị viện) có 150 thành viên được bầu theo hình thức mỗi đại biểu đại diện cho một khu vực bầu cử, được phân bổ cho các bang dựa theo dân số, với mỗi bang được đảm bảo tối thiểu là năm ghế.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Bầu cử lưỡng viện theo thường lệ được tiến hành mỗi ba năm, và đồng thời; các thượng nghị sĩ từ các bang có các nhiệm kỳ 6 năm so le, còn thượng nghị sĩ từ các lãnh thổ không có nhiệm kỳ cố định mà phụ thuộc vào vòng bầu cử hạ nghị viện; do đó chỉ có 40 trong số 76 ghế tại Thượng được bầu trong các cuộc bỏ phiếu trừ khi vòng bị gián đoạn theo một quyết định giải tán lưỡng viện. Hệ thống bầu cử của Úc sử dụng bầu cử thay thế trong toàn bộ các cuộc bầu cử hạ nghị viện ngoại trừ tại Tasmania và Lãnh thổ Thủ đô Úc, bầu cử hạ nghị viện tại hai nơi này cũng như bầu cử thượng nghị viện liên bang và thượng nghị viện của hầu hết các bang là kết hợp bầu cử thay thế và đại diện tỷ lệ trong một hệ thống bầu cử có thể chuyển di đơn phiếu (single transferable vote). Bầu cử là bắt buộc đối với các công dân 18 tuổi và lớn hơn trong mỗi khu vực thuộc phạm vi quyền hạn, như là ghi danh (ngoại trừ Nam Úc). Đảng nhận được sự ủng hộ của đa số tại Hạ nghị viện sẽ thành lập chính phủ và lãnh tụ của họ trở thành Thủ tướng. Trong trường hợp không đảng nào giành được đa số ủng hộ, Toàn quyền có quyền bổ nhiệm Thủ tướng, và nếu cần thiết thì bãi truất người để mất tín nhiệm của Nghị viện. Có hai phe chính trị lớn thường xuyên thành lập chính phủ ở cấp liên bang và cấp bang: Đảng Lao động Úc (Công đảng Úc) và Liên minh- về chính thức là một nhóm gồm có Đảng Tự do và đối tác nhỏ là Đảng Quốc gia. Các thành viên độc lập và của một vài đảng nhỏ cũng có đại diện trong lưỡng viện quốc hội Úc. Bang và lãnh thổ. Úc có tất cả tám bang và lãnh thổ gồm: sáu bang là—New South Wales (NSW), Queensland (QLD), Nam Úc (SA), Tasmania (TAS), Victoria (VIC) và Tây Úc (WA)—và hai lãnh thổ đại lục— Lãnh thổ Thủ đô Úc (ACT) và Lãnh thổ phương Bắc (NT). Trên hầu hết phương diện thì hai lãnh thổ này có chức năng như các bang, song Nghị viện Thịnh vượng chung có thể phế trưc bất kỳ pháp luật nào do nghị viện hai lãnh thổ này ban hành.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Ngược lại, pháp luật liên bang chỉ có thể phế trừ pháp luật các bang trong các phạm vi được quy định trong điều 51 Hiến pháp; nghị viện các bang bảo lưu toàn bộ các quyền lập pháp còn lại, bao gồm trên các lĩnh vực trường học, cảnh sát bang, tòa án bang, đường sá, giao thông cộng cộng và chính phủ địa phương, những lĩnh vực không được liệt kê trong điều 51. Mỗi bang và lãnh thổ đại lục có nghị viện riêng—đơn viện tại Lãnh thổ phương Bắc, Lãnh thổ Thủ đô Úc, Queensland—và lưỡng viện tại các bang còn lại. Các bang là những thực thể có chủ quyền, song lệ thuộc vào các quyền hạn nhất định của Thịnh vượng chung theo như hiến pháp của liên bang. Các hạ nghị viện của các bang được gọi là Legislative Assembly (House of Assembly tại Nam Úc và Tasmania); các thượng nghị viện được gọi là Legislative Council. Người đứng đầu chính phủ mỗi bang là Thủ tướng (Premier) là tại mỗi lãnh thổ là Thủ tịch bộ trưởng (Chief Minister). Đại diện của Quốc vương tại mỗi bang là một Thống đốc (Governor); và tại Lãnh thổ phương Bắc là Quản lý viên (Administrator). Nghị viện liên bang trực tiếp quản lý các lãnh thổ sau: Đảo Norfolk về mặt kỹ thuật là một lãnh thổ ngoại bộ, song theo Đạo luật Đảo 1979 thì đảo này được trao thêm quyền tự trị và có hội đồng lập pháp riêng quản lý cục bộ. Đại diện cho Quốc vương là một Quản lý viên. Quan hệ đối ngoại và quốc phòng. Trong các thập kỷ gần đây, chi phối các chính sách đối ngoại của Úc là mối quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ, và mưu cầu phát triển các mối quan hệ với châu Á và Thái Bình Dương, đặc biệt là thông qua ASEAN và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương. Năm 2005, Úc gia nhập vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á và có ghế chính thức trong Hội nghị cấp cao Đông Á. Úc là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia, những người đứng đầu các chính phủ trong tổ chức này tiến hành hội nghị để thảo luận về hợp tác. Úc theo đuổi mục tiêu tự do hóa thương mại quốc tế. Quốc gia này dẫn đầu trong việc hình thành nhóm Cairns và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Úc là một thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế và Tổ chức Thương mại Thế giới, và theo đuổi một số hiệp định thương mại tự do song phương quy mô lớn, chẳng hạn như Hiệp định Thương mại tự do Úc-Mỹ và Giao thiệp kinh tế gần gũi với New Zealand, cùng hiệp định thương mại tự do được dàn xếp với Trung Quốc, và Nhật Bản, Hàn Quốc vào năm 2011, Cùng với New Zealand, Anh Quốc, Malaysia và Singapore, Úc là một bên trong FPDA, một hiệp định phòng thủ khu vực. Úc là một thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc, cam kết mạnh mẽ đa phương hóa và duy trì một chương trình viện trợ cho khoảng 60 quốc gia. Ngân sách 2005–06 cung cấp 2,5 tỷ đô la Úc cho viện trợ phát triển. Lực lượng Quốc phòng Úc (ADF)—gồm có Hải quân Hoàng gia Úc (RAN), Lục quân Úc và Không quân Hoàng gia Úc (RAAF), tổng số nhân viên là khoảng 80 nghìn người. Vai trò Tổng tư lệnh mang tính danh nghĩa được trao cho Toàn quyền, người này bổ nhiệm một Tư lệnh lực lượng quốc phòng từ một trong số các nhân viên quân sự theo cố vấn của chính phủ. Hoạt động thường nhật của quân đội nằm dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh, trong khi nhiệm vụ quản lý trên quy mô rộng hơn và xây dựng chính sách quốc phòng do Bộ trưởng và Bộ Quốc phòng tiến hành. Trong ngân sách 2016–17, chi tiêu quốc phòng của Úc chiếm 2% GDP, đứng thứ 12 thế giới về ngân sách quốc phòng. Úc tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu trợ thiên tai và xung đột vũ trang; năm 2009, Úc triển khai khoảng 3.300 nhân viên quốc phòng trong 12 hoạt động quốc tế trong khu vực, bao gồm tại Đông Timor, Quần đảo Solomon và Afghanistan. Kinh tế. Úc là một quốc gia giàu có với một nền kinh tế thị trường, GDP bình quân đầu người tương đối cao, và tỷ lệ nghèo tương đối thấp. Theo mức độ giàu có bình quân, Úc xếp hàng đầu thế giới trong năm 2013, song mức nghèo tại quốc gia tăng lên từ 10,2% đến 11,8% trong khoảng thời gian từ 2000/01 đến 2013. Viện Nghiên cứu Tín dụng Thụy Sĩ (Credit Suisse) xác định Úc là quốc gia có mức giàu có bình quân cao nhất trên thế giới và có mức giàu có bình quân đối với người trưởng thành cao thứ nhì thế giới trong năm 2013.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Đô la Úc là tiền tệ của quốc gia, bao gồm cả đảo Christmas, quần đảo Cocos (Keeling), và đảo Norfolk, cũng như các đảo quốc độc lập Thái Bình Dương là Kiribati, Nauru, và Tuvalu. Với việc hợp nhất Sở giao dịch chứng khoán Úc (Australian Stock Exchange) và Sở giao dịch hàng hóa kỳ hạn Sydney vào năm 2006, Sở giao dịch chứng khoán Úc (Australian Securities Exchange) trở thành sở giao dịch chứng khoán lớn thứ chín trên thế giới. Úc xếp thứ ba trong Chỉ số Tự do kinh tế năm 2010, là nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới. Quốc gia xếp hạng hai trong Chỉ số phát triển con người năm 2011 của Liên Hợp Quốc, xếp hạng nhất trong Chỉ số thịnh vượng năm 2008 của Legatum. Toàn bộ các thành phố lớn của Úc đều được đánh giá tốt trong các nghiên cứu đáng sống tương đối toàn cầu; Melbourne đạt hạng nhất trong các danh sách thành phố đáng sống nhất của "The Economist"' năm 2011, 2012 và 2013, tiếp theo là Adelaide, Sydney, và Perth lần lượt xếp thứ 5, thứ 7, và thứ 9. Tổng nợ chính phủ của Úc chiếm 20% GDP vào năm 2010. Úc nằm trong số những nơi có giá nhà cao nhất và nợ hộ gia đình cao nhất trên thế giới. Nhấn mạnh vào các mặt hàng xuất khẩu thay vì hàng hóa chế tạo đã trở thành trụ cột trong sự gia tăng đáng kể giá cánh kéo của Úc từ khi bắt đầu thế kỷ XXI, do giá các mặt hàng tăng lên. Cán cân thanh toán của Úc âm trên 7% GDP, và trải qua thâm hụt tài khoản vãng lai lớn liên tục trong trên 50 năm. Úc là nền kinh tế phát triển duy nhất không trải qua suy giảm do khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008–2009. Tuy nhiên, nền kinh tế của sáu đối tác thương mại lớn của Úc đã bị giảm sút, khiến Úc bị ảnh hưởng, gây cản trở đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây. Từ năm 2012 đến đầu năm 2013, kinh tế quốc dân của Úc tăng trưởng, song vài bang không dựa vào khai mỏ và kinh tế phi khai mỏ của Úc trải qua một cuộc suy giảm. Chính phủ của Bob Hawke thả nổi đô la Úc vào năm 1983 và bãi bỏ quy định một phần đối với hệ thống tài chính.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Chính phủ Howard theo sau với việc bãi bỏ quy định một phần đối với thị trường lao động và đẩy mạnh tư nhân hóa các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, đáng chú ý nhất là trong ngành công nghiệp viễn thông. Hệ thống thuế gián tiếp được thay đổi về căn bản vào tháng 7 năm 2000 bằng việc ra đời thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) 10%. Trong hệ thống thuế của Úc, thuế thu nhập cá nhân và công ty là những nguồn thu chính của thu nhập chính phủ. Tháng 5 năm 2012, Úc có 11.537.900 người lao động, với tỷ lệ thất nghiệp là 5,1%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh thiếu niên (15–24) đứng ở mức 11,2%. Dữ liệu được công bố vào giữa tháng 11 năm 2013 cho thấy rằng số người nhận phúc lợi tăng lên đến 55%%. Năm 2007, 228.621 người đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp của Newstart, con số này tăng lên 646.414 vào tháng 3 năm 2013. Trong thập kỷ qua, lạm phát thường niên là 2–3% và lãi suất cơ bản là 5–6%. Lĩnh vực dịch vụ của nền kinh tế, gồm du lịch, giáo dục, các dịch vụ tài chính, chiếm khoảng 70% GDP. Úc là nước giàu tài nguyên tự nhiên, là một nước lớn về xuất khẩu các nông sản, đặc biệt là lúa mì và len, các loại khoáng sản như quặng sắt vàng, mặt hàng năng lượng như khí đốt hóa lỏng và than đá. Mặc dù nông nghiệp và tài nguyên tự nhiên chỉ lần lượt chiếm 3% và 5% GDP, song chúng đóng góp đáng kể vào thành tích xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Úc trong năm 2005 là Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và New Zealand. Nhân khẩu. Trong gần hai thế kỷ, phần lớn những người định cư, và sau đó là những người nhập cư, đến Úc từ Quần đảo Anh. Do vậy, người dân Úc chủ yếu có nguồn gốc dân tộc đảo Anh và/hoặc Ireland. Theo điều tra nhân khẩu năm 2016 tại Úc, các tổ tiên được khai nhiều nhất là người Anh (36,1%), người Úc (33,5%) song hầu hết có một phần tổ tiên Anh-Celt, người Ireland (11,0%), người Scotland (9,3%), người Hoa (5,6%), người Ý (4,6%), người Đức (4,5%), người Ấn Độ (2,8%), người Hy Lạp (1,8%), và người Hà Lan (1,6%). Dân số Úc tăng gấp bốn lần kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Tuy vậy, mật độ dân số 2,8 người/km² của Úc vẫn nằm trong hàng thấp nhất trên thế giới. Phần lớn gia tăng dân số bắt nguồn từ nhập cư. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai và cho đến năm 2000, có gần 5,9 triệu trong tổng dân số định cư tại Úc trong thân phận tân di dân, có nghĩa rằng gần hai trong số mỗi bảy người Úc sinh ra tại quốc gia khác. Hầu hết những người nhập cư là người lành nghề, song hạn ngạch nhập cư tính đến cả các diện thành viên gia đình và người tị nạn. Dân số Úc được dự đoán lên đến khoảng 42 triệu người vào năm 2050. Năm 2016, 26% dân số Úc sinh tại hải ngoại; năm nhóm nhập cư lớn nhất là những người sinh tại Anh (3,9%), New Zealand (2,2%), Trung Quốc đại lục (2,2%), Ấn Độ (1,9%), và Philippines (1%). Sau khi bãi bỏ chính sách nước Úc da trắng vào năm 1973, nhiều sáng kiến của chính phủ được tiến hành nhằm cổ vũ và xúc tiến hòa hợp dân tộc dựa trên một chính sách đa nguyên văn hóa. Năm 2015–16, có 189.770 người nhập cư thường trú được nhập vào Úc, chủ yếu là từ châu Á. Dân số nông thôn của Úc vào năm 2012 là 2.420.731 (10,66% tổng dân số). Các cư dân bản địa là thổ dân và người quần đảo Eo biển Torres có 649.171 người (2,8% tổng dân số) vào năm 2016. một sự gia tăng đáng kể so với con số 115.953 trong điều tra dân số năm 1976. Người bản địa Úc có tỷ lệ bị giam cầm và thất nghiệp cao hơn, có trình độ giáo dục thấp hơn, có tuổi thọ của nam và nữ thấp hơn 11-17 năm so với những người Úc phi bản địa. Cùng với nhiều quốc gia phát triển khác, Úc đang phải trải qua một cuộc biến đổi nhân khẩu học theo hướng dân số già hơn, có thêm nhiều người nghỉ hưu và ít người trong độ tuổi làm việc hơn. Năm 2004, tuổi trung bình của cư dân Úc là 38,8 tuổi. Một lượng lớn người Úc (759.849 trong giai đoạn 2002–03; 1 triệu hay 5% tổng dân số vào năm 2005) sống bên ngoài quốc gia của họ. Ngôn ngữ. Mặc dù Úc không có ngôn ngữ chính thức, song tiếng Anh luôn là quốc ngữ trên thực tế.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Tiếng Anh-Úc là một dạng chính của ngôn ngữ này với khẩu âm và từ vựng đặc biệt, và có một số khác biệt nhỏ về chính tả và ngữ pháp với các phương ngữ tiếng Anh khác.. Theo điều tra nhân khẩu năm 2016, tiếng Anh là ngôn ngữ duy nhất được nói trong gia đình của gần 72,7% dân số. Các ngôn ngữ được nói tại gia đình phổ biến tiếp theo là Quan thoại (2,5%), tiếng Ả Rập (1,4%), tiếng Quảng Đông (1,2%), tiếng Việt (1,2%) và tiếng Ý (1,2%). Một tỷ lệ đáng kể các di dân thế hệ thứ nhất và thứ nhì thành thạo hai ngôn ngữ. Từ 200 đến 300 ngôn ngữ Úc bản địa tồn tại vào thời điểm người châu Âu lần đầu tiên tiếp xúc với lục địa, trong đó chỉ còn khoảng 70 ngôn ngữ là còn tồn tại. Nhiều ngôn ngữ trong số đó chỉ còn được những người già nói; chỉ 18 ngôn ngữ bản địa là vẫn được nói ở toàn bộ các nhóm tuổi. Vào thời điểm tiến hành điều tra dân số năm 2006, 52.000 người Úc bản địa, chiếm 12% dân số bản địa, nói rằng họ nói một ngôn ngữ bản địa tại nhà. Úc có một ngôn ngữ ký hiệu được gọi là Auslan, đây là ngôn ngữ chính của khoảng 5.500 người khiếm thính. Tôn giáo. Úc không có quốc giáo; điều 116 của Hiến pháp Úc nghiêm cấm chính phủ liên bang ra bất kỳ đạo luật nào nhằm chính thức hóa bất kỳ tôn giáo nào, lạm dụng bất kỳ nghi thức tôn giáo nào, hoặc nghiêm cấm việc hành lễ tự do bất kỳ tôn giáo nào. Theo điều tra nhân khẩu năm 2016, 18,7% người Úc được xác định là tín đồ Cơ Đốc giáo, trong đó 22,6% là tín đồ Công giáo La Mã và 13,3% là tín đồ Anh giáo; 30,1% được ghi nhận là "không tôn giáo"; 7,3% tự nhận thuộc các tôn giáo phi Cơ Đốc, gồm Hồi giáo (2,6%), Phật giáo (2,5%), Ấn Độ giáo (1,9%) và Do Thái giáo (0,4%). 9,6% còn lại không cung cấp câu trả lời thích hợp. Số người được ghi nhận là không tôn giáo gia tăng từ mức 19% vào năm 2006 lên 30% vào năm 2016. Thay đổi lớn nhất là từ 2011 (22%) đến 2016 (30,1%), khi có thêm 2,2 người được ghi nhận là không tôn giáo.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Trong phần lớn lịch sử của Úc, Giáo hội Anh (nay gọi là Giáo hội Anh giáo Úc) là đoàn thể tôn giáo lớn nhất, tuy nhiên những di dân đến từ những nền văn hóa khác góp phần khiến cho giáo hội này suy giảm tương đối, còn Giáo hội Công giáo La Mã được hưởng lợi từ việc mở cửa nước Úc thời hậu chiến cho nhập cư đa văn hóa và trở thành giáo hội lớn nhất. Tương tự, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo, và Do Thái giáo đều có sự phát triển vào các thập kỷ hậu chiến. Trên mức độ thấp hơn, các tôn giáo nhỏ như Bahá'í, Sikh giáo, Wicca và dị giáo cũng gia tăng đáng kể về số lượng tín đồ. Trong cuộc điều tra dân số năm 2001, có 17.381 tín đồ Sikh giáo, 11.037 tín đồ Bahá'í, 10.632 người dị giáo và 8.755 tín đồ Wicca tại Úc. Giáo dục. Đến trường, hoặc đăng ký học tập tại gia, là điều bắt buộc trên toàn bộ Úc. Giáo dục là trách nhiệm của riêng các bang và lãnh thổ do vậy các quy định có sự khác biệt giữa các bang, song trẻ em thông thường cần phải đến trường từ độ tuổi từ khoảng 5 cho đến khoảng 15 tuổi. Tại các bang như Tây Úc, Lãnh thổ phương Bắc và New South Wales), thiếu niên 16–17 được yêu cầu đi học hoặc tham gia vào giáo dục nghề nghiệp. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành tại Úc được ước tính đạt 99% vào năm 2003. Tuy nhiên, một báo cáo 2011–12 của Cục Thống kê Úc nói rằng một nửa người lớn tại Tasmania mù chữ chức năng. Úc có 37 trường đại học được chính phủ tài trợ và hai trường đại học tư nhân, một số học viện chuyên khoa khác cũng cung cấp các khóa học được phê duyệt ở bậc giáo dục đại học. OECD xếp Úc nằm trong số các quốc gia học đại học tốn kém nhất. Úc có một hệ thống giáo dục nghề nghiệp dựa vào nhà nước, gọi là TAFE. Xấp xỉ 58% người Úc tuổi từ 25 đến 64 có trình độ nghề hoặc đại học, và tỷ lệ tốt nghiệp đại học 49% nằm hàng đầu trong các quốc gia OECD. Tỷ lệ sinh viên quốc tế đến địa phương để theo học giáo dục bậc đại học của Úc là cao nhất trong các quốc gia OECD. Sức khỏe. Cư dân Úc có tuổi thọ cao thứ tư thế giới sau Iceland, Nhật Bản và Hong Kong.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Tuổi thọ tại Úc trong năm 2010 là 79,5 đối với nam giới và 84,0 đối với nữ giới. Úc có tỷ lệ ung thư da cao nhất trên thế giới, trong khi hút thuốc lá là nguyên nhân lớn nhất gây tử vong và bệnh tật. Đứng thứ hai trong số các nguyên nhân là tăng huyết áp, và thứ ba là béo phì. Úc xếp thứ 35 thế giới và gần ở hàng đầu các quốc gia phát triển về tỷ lệ người trưởng thành béo phì. Tổng chi phí y tế (bao gồm chi phí khu vực tư nhân) là khoảng 9,8% GDP. Úc bắt đầu tiến hành chăm sóc y tế toàn dân vào năm 1975. Chương trình này được gọi là Medicare, hiện trên danh nghĩa lấy kinh phí từ một khoản phụ thuế thu nhập là trưng thu Medicare, hiện ở mức 1,5%. Các bang quản lý các bệnh viện và các dịch vụ ngoại trú trực thuộc, còn Thịnh vượng chung cấp kinh phí cho Kế hoạch phúc lợi dược phẩm (trợ cấp giá dược phẩm) và hành nghề nói chung. Văn hóa. Kể từ năm 1788, nền tảng của văn hóa Úc chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa phương Tây Anglo-Celt. Các đặc điểm văn hóa đặc thù cũng xuất hiện từ môi trường tự nhiên của Úc và văn hóa bản địa. Từ giữa thế kỷ XX, văn hóa đại chúng Mỹ có ảnh hưởng mạnh đối với Úc, đặc biệt là thông qua truyền hình và điện ảnh. Các ảnh hưởng văn hóa khác đến từ các quốc gia châu Á lân cận, và thông qua nhập cư quy mô lớn từ các quốc gia không nói tiếng Anh. Nghệ thuật. Nghệ thuật thị giác của Úc được cho là khởi nguồn từ các bích họa hang động, khắc đá và hội họa thân thể của các dân tộc bản địa. Các truyền thống của người Úc bản địa phần lớn được lưu truyền nhờ truyền khẩu, thông qua các nghi lễ và kể các chuyện thời mộng ảo. Từ khi người châu Âu định cư, một đề tài trong nghệ thuật Úc là phong cảnh tự nhiên, có thể nhận thấy thông qua các tác phẩm của Albert Namatjira, Arthur Streeton và những người khác có liên hệ với họa phái Heidelberg, và Arthur Boyd. Phong cảnh quốc gia vẫn là một nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ đương đại của Úc; nó được miêu tả trong các tác phẩm nổi tiếng của Sidney Nolan, Fred Williams, Sydney Long, và Clifton Pugh.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Các nghệ sĩ Úc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật hiện đại Mỹ và châu Âu gồm họa sĩ lập thể Grace Crowley, nghệ sĩ siêu thực James Gleeson, và nghệ sĩ đại chúng Martin Sharp. Nghệ thuật người Úc bản địa đương đại là phong trào nghệ thuật duy nhất nổi lên từ Úc mà có tầm quan trọng quốc tế và "phong trào nghệ thuật lớn cuối cùng của thế kỷ XX"; các truyền nhân của nó gồm có Emily Kngwarreye. Nhà phê bình nghệ thuật Robert Hughes từng viết một vài sách có ảnh hưởng về lịch sử và nghệ thuật Úc, và được "The New York Times" mô tả là "nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới". Nhà trưng bày quốc gia Úc và các nhà trưng bày cấp bang bảo quản các bộ sự tập của Úc và hải ngoại. Úc là một trong những quốc gia có tỷ lệ người đến các nhà trưng bày và bảo tàng nghệ thuật cao nhất thế giới, vượt xa Anh Quốc hay Hoa Kỳ. Nhiều trong số các công ty biểu diễn nghệ thuật của Úc nhận tài trợ thông qua Hội đồng Úc của chính phủ liên bang. Mỗi bang của Úc có một dàn nhạc giao hưởng, và có một công ty nhạc kịch quốc gia là Opera Australia, được biết đến với giọng nữ cao trứ danh Joan Sutherland. Vào đầu thế kỷ XX, Nellie Melba là một trong số các ca sĩ ca kịch hàng đầu thế giới. The Australian Ballet và các công ty cấp bang khác biểu diễn Balê và vũ đạo. Mỗi bang có một kịch đoàn được tài trợ công. Văn học Úc cũng chịu ảnh hưởng từ phong cảnh; các tác phẩm của những nhà văn như Banjo Paterson, Henry Lawson, và Dorothea Mackellar nói về kinh nghiệm trải qua tại rừng cây bụi của Úc. Nhân vật của thời thuộc địa được thể hiện trong văn học thời kỳ đầu, và trở nên nổi tiếng đối với người Úc hiện đại. Năm 1973, Patrick White nhận được giải Nobel Văn học, ông là người Úc đầu tiên giành được giải thưởng này. Những người Úc từng thắng giải Man Booker gồm có Peter Carey và Thomas Keneally; David Williamson, David Malouf, và J. M. Coetzee (người nhập quốc tịch Úc vào năm 2006) cũng là những nhà văn có tiếng, và Les Murray được đánh giá là "một trong những thi sĩ hàng đầu trong thế hệ của ông". Truyền thông.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Truyền thông. Ngành công nghiệp điện ảnh của Úc bắt đầu từ năm 1906 bằng việc phát hành "The Story of the Kelly Gang" (chuyện về băng đảng Kelly)- được xem như phim dài đầu tiên của thế giới; song cả lĩnh vực sản xuất phim chiếu bóng Úc và phân phối phim chiếu bóng do Anh Quốc sản xuất bị suy giảm đột ngột sau Chiến tranh thế giới thứ nhất khi các xưởng phim và nhà phân phối của Hoa Kỳ giữ độc quyền ngành công nghiệp này, và đến thập niên 1930 thì khoảng 95% lượng phim chiếu bóng xuất hiện trên màn bạc tại Úc được sản xuất tại Hollywood. Đến cuối thập niên 1950, sản xuất phim chiếu bóng tại Úc đã không còn hiệu quả và do đó không còn bộ phim chiếu bóng Úc nào được sản xuất trong một thập kỷ từ 1959 đến 1969. Nhờ các sáng kiến của các chính phủ John Gorton và Gough Whitlam, điện ảnh Úc tạo làn sóng mới trong thập niên 1970 khi đem đến các bộ phim kích thích và thành công, một số lấy bối cảnh thời kỳ thực dân trước đây của Úc, như "Picnic at Hanging Rock" (Giao dụ tại núi đá Hanging) và "Breaker Morant", trong khi thể loại được gọi là "Ocker" mang đặc điểm hài đạt được thành công lớn như "The Adventures of Barry McKenzie" (Những cuộc phiêu lưu của Barry McKenzie) và "Alvin Purple". Các phim thành công sau đó gồm có "Mad Max" và "Gallipoli". Các phim thành công trong thời gian gần đây hơn gồm có "Shine" và "Rabbit-Proof Fence". Các diễn Úc nổi tiếng gồm có Judith Anderson, Errol Flynn, Nicole Kidman, Naomi Watts, Hugh Jackman, Heath Ledger, Geoffrey Rush, và Cate Blanchett. Năm 2010, Phóng viên không biên giới xếp Úc đứng thứ 18 trong số 178 quốc gia về tự do báo chí, sau New Zealand (8) song đứng trước Anh Quốc (19) và Hoa Kỳ (20). Thứ hạng này chủ yếu là do hạn chế về tính đa dạng trong sở hữu truyền thông thương mại tại Úc; hầu hết thông tin in xuất bản đều nằm dưới sự kiểm soát của News Corporation và Fairfax Media. Ẩm thực. Thực phẩm của người Úc bản địa chịu ảnh hưởng lớn từ khu vực mà họ cư trú. Hầu hết các nhóm bộ lạc sống bằng một chế độ ăn săn bắn-hái lượm giản đơn. Thuật ngữ chung để chỉ các thực vật và động vật được sử dụng làm nguồn thực phẩm là "bush tucker" (đồ ăn bụi cây).
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Những người châu Âu định cư đầu tiên đưa thực phẩm Anh Quốc đến lục địa, và phần lớn chúng nay được xem là thực phẩm Úc điển hình; Sunday roast (thịt quay Chủ nhật) trở thành một truyền thống lâu dài của nhiều người Úc. Kể từ khi bắt đầu thế kỷ XX, thực phẩm tại Úc ngày càng chịu ảnh hưởng từ những người nhập cư đến quốc gia, đặc biệt là từ các nền văn hóa Nam Âu và châu Á. Rượu vang Úc được sản xuất tại 60 vùng sản xuất riêng biệt với tổng diện tích là 160.000 ha, chủ yếu tại nam bộ- nơi mát hơn tại quốc gia. Các vùng sản xuất rượu vang tại mỗi bang sản xuất ra các chủng loại rượu vang khác nhau dựa theo lợi thế về khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương. Các chủng chiếm ưu thế là Shiraz, Cabernet Sauvignon, Chardonnay, Merlot, Sémillon, Pinot noir, Riesling, và Sauvignon blanc. Thể thao. Khoảng 24% người Úc trên 15 tuổi thường xuyên tham gia vào các hoạt động thể thao có tổ chức. Úc có đội tuyển mạnh ở tầm quốc tế trong các môn cricket, khúc côn cầu sân cỏ, bóng lưới, bóng bầu dục liên minh, bóng bầu dục liên hiệp và bóng đá. Đội tuyển bóng đá nữ và nam của Úc đã lên ngôi vô địch châu Á tại vòng chung kết Asian Cup nữ 2010 và Asian Cup 2015 qua đó trở thành đội tuyển duy nhất vô địch ở cả hai châu lục do trước năm 2006 Úc là thành viên của OFC thuộc châu Đại Dương và đã giành được bốn chức vô địch cúp châu Đại Dương. Úc cũng mạnh trong các môn đua xe đạp đường vòng, chèo thuyền, và bơi. Năm 2016, Ủy ban Thể thao Úc tiết lộ rằng bơi, đạp xe và bóng đá là ba môn thể thao được dân chúng Úc tham gia rộng rãi nhất. Úc tham gia mọi kỳ Thế vận hội Mùa hè trong thời hiện đại, và mọi Đại hội thể thao Thịnh vượng chung. Úc từng đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1956 tại Melbourne và Thế vận hội Mùa hè 2000 tại Sydney, và xếp trong số sáu đoàn giành nhiều huy chương nhất trong các kỳ thế vận hội 2000, 2004 và 2008. Trong tương lai, Úc sẽ đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2032 tại Brisbane. Trong Thế vận hội Mùa hè 2012 tại London, Úc xếp thứ 10 trong bảng tổng sắp huy chương.
Úc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2849
Úc cũng từng đăng cai các kỹ Đại hội thể thao Thịnh vượng chung 1938, 1962, 1982, 2006 và sẽ đăng cai kỳ đại hội năm 2018. Các sự kiện thể thao lớn khác được tổ chức tại Úc bao gồm Giải quần vợt Úc Mở rộng, hay Giải đua ô tô Công thức 1 Úc. Úc từng tổ chức Giải vô địch bóng bầu dục thế giới 2003 và Cúp Bledisloe thường niên giữa Australia–New Zealand được theo dõi nhiệt tình. Các chương trình truyền hình có tỷ suất người xem cao nhất bao gồm các chương trình thể thao như Thế vận hội Mùa hè, Giải vô địch bóng đá thế giới, loạt trận bóng bầu dục liên minh State of Origin, chung kết giải bóng bầu dục liên minh quốc gia và giải bóng đá kiểu Úc quốc gia. Môn trượt tuyết bắt đầu xuất hiện tại Úc trong thập niên 1860 và các môn thể thao tuyết được chơi trên dãy Alps Úc và nhiều nơi tại Tasmania.
Trực khuẩn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2850
Từ bacillus nhằm miêu tả hình dáng của một nhóm vi khuẩn khi được quan sát dưới kính hiển vi. Nó xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa là hình que. Do đó, một số nơi gọi là khuẩn que hoặc trực khuẩn. Tuy nhiên, "Bacillus" là tên của một chi gồm các vi khuẩn hình que, Gam dương, hiếu khí thuộc về họ Bacillaceae trong Firmicutes. Trực khuẩn có ở mọi nơi trong tự nhiên và khi điều kiện sống gay go, chúng có khả năng tạo ra bào tử gần như hình cầu, để tồn tại trong trạng thái "ngủ đông" trong thời gian dài. Loại sinh vật này có cực kỳ nhiều loài khác nhau, trong đó đa số là vô hại. Hai loài được xem là quan trọng về mặt y học là "Bacillus anthracis" (gây ra anthrax) và "Bacillus cereus" (có thể gây ra một dạng bệnh từ thực phẩm tương tự Staphylococcus). Hai loài nổi tiếng làm hỏng thức ăn là "Bacillus subtilis" và "Bacillus coagulans". "B. subtilis" là một sinh vật hiếu khí sống ký sinh có bào tử có thể sống sót trong độ nóng cao thường thấy khi nấu ăn. Nó chính là tác nhân làm cho bánh mì hư. "B. coagulans" có thể phát triến đến tận mức pH 4.2 và gây ra vị chua nặng ở thức ăn đóng hộp bị ôi (bao gồm cả các thức ăn có tính acid mà bình thường có thể khống chế sự phát triển của đa số vi khuẩn ở mức thấp nhất). "Ấu trùng Paenibacillus" gây ra các chứng bệnh của ong mật ở ong mật. "Bacillus" là vi khuẩn gam dương và catalase dương tính, sử dụng khí oxy làm chất nhận electron khi trao đổi khí trong quá trình trao đổi chất. Qua kính hiển vi "Bacillus" đơn lẻ có hình dạng giống những chiếc que, phần lớn những chiếc que này có bào tử trong hình oval có khuynh hướng phình ra ở một đầu. Thường thì người ta quan sát thấy tập đoàn của giống sinh vật này rất rộng lớn, có hình dạng bất định và đang phát triển lan rộng. Có một cách dễ dàng để cô lập một loại trực khuẩn nào đó là cho đất tốt vào trong ống nghiệm cùng với nước, lắc đều, cho vào "mannitol salts agar" đã tan, và giữ ở nhiệt độ trong phòng ít nhất một ngày.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Escherichia coli (), còn được gọi là E. coli (), là vi khuẩn coliform Gram âm, kỵ khí tùy nghi, hình que, thuộc chi "Escherichia". Vi khuẩn thường gặp ở đoạn dưới ống tiêu hóa của các sinh vật máu nóng. Hầu hết các chủng "E. coli" đều vô hại, nhưng một số serotype như EPEC, ETEC, v.v. có thể gây ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng cho vật chủ và đôi khi là nguyên nhân gây ra các sự cố ô nhiễm thực phẩm khiến sản phẩm bị thu hồi. Hầu hết các chủng không gây bệnh cho người và là một phần của hệ vi sinh vật đường ruột bình thường; những chủng như vậy là vô hại hoặc thậm chí có lợi cho con người (mặc dù những chủng này có xu hướng ít được nghiên cứu hơn những chủng gây bệnh). Ví dụ, một số chủng "E. coli" có lợi cho vật chủ của chúng bằng cách sản xuất vitamin K2 hoặc bằng cách ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh vào ruột. Những mối quan hệ cùng có lợi giữa "E. coli" và con người là một loại mối quan hệ sinh học hỗ sinh — trong đó cả con người và "E. coli" đều có lợi cho nhau. "E. coli" theo phân thải ra ngoài môi trường. Ở điều kiện hiếu khí, vi khuẩn phát triển ồ ạt trong phân tươi trong ba ngày, sau đó số lượng giảm dần. "E. coli" và các vi khuẩn kỵ khí tùy nghi khác chiếm khoảng 0,1% hệ vi sinh vật đường ruột. "E. coli" lây truyền qua đường phân-miệng. Các tế bào vi khuẩn có thể tồn tại bên ngoài cơ thể trong một khoảng thời gian giới hạn, "E. coli" là sinh vật chỉ thị để kiểm tra tình trạng nhiễm phân trong các mẫu vật lấy từ môi trường. Tuy nhiên, có nghiên cứu đã chỉ ra rằng vi khuẩn "E. coli" có thể tồn tại ngoài môi trường trong nhiều ngày và phát triển bên ngoài vật chủ. Nuôi cấy "E. coli" dễ dàng và không tốn kém trong môi trường phòng thí nghiệm, và loài vi khuẩn này đã được nghiên cứu chuyên sâu trong hơn 60 năm. "E. coli" là sinh vật hóa dưỡng, tức là môi trường sống phải chứa carbon và năng lượng. "E. coli" là sinh vật mô hình đại diện cho sinh vật nhân sơ ("prokaryote") được nghiên cứu rộng rãi nhất và là loài vi khuẩn rất quan trọng trong lĩnh vực công nghệ sinh học và vi sinh vật học.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
"E. coli" đóng vai trò là vật chủ cho phần lớn nghiên cứu và thao tác liên quan đến DNA tái tổ hợp. Trong điều kiện thuận lợi, chỉ mất ít nhất 20 phút để "E. coli" sinh sản. Sinh học và hóa sinh. Các type và hình thái học. "E. coli" là vi khuẩn coliform Gram âm, kỵ khí tùy nghi, không có bào tử. Tế bào vi khuẩn thường có dạng hình que, dài khoảng 2,0 μm và đường kính 0,25–1,0 μm, thể tích tế bào là 0,6–0,7 μm3. Thuốc kháng sinh có thể điều trị hiệu quả nhiễm trùng "E. coli" bên ngoài đường tiêu hóa và hầu hết các bệnh nhiễm trùng đường ruột. Tuy nhiên không thể dùng kháng sinh để điều trị nhiễm trùng đường ruột do một chủng vi khuẩn "E. coli". Vi khuẩn di chuyển nhờ tiên mao. Tiên mao cũng giúp vi khuẩn gắn vào vi nhung mao của ruột thông qua một phân tử kết dính được gọi là intimin. Trao đổi chất. "E. coli" có thể sống trên nhiều loại chất nền và sử dụng quá trình lên men acid hỗn hợp trong điều kiện yếm khí, tạo ra lactat, succinat, ethanol, acetat và carbon dioxide. Vì nhiều con đường trong quá trình lên men acid hỗn hợp tạo ra khí hydro, nên những con đường này yêu cầu nồng độ khí hydro ban đầu thấp, do đó "E. coli" thường sống cùng với các sinh vật tiêu thụ hydro, chẳng hạn như sinh vật sinh methan hoặc vi khuẩn khử sulfat. "E. coli" có ba con đường đường phân tự nhiên: Con đường Embden–Meyerhof–Parnas (EMPP), con đường Entner–Doudoroff (EDP) và con đường pentose phosphat (OPPP). Mỗi phân tử glucose chuyển hóa theo EMPP gồm 10 bước, kết quả tạo ra 2 pyruvat, 2 ATP và 2 NADH trên. Glucose chuyển hóa theo OPPP đóng vai trò là con đường oxy hóa để tổng hợp NADPH. Mặc dù EDP thuận lợi hơn về mặt nhiệt động học trong ba con đường trên, "E. coli" không sử dụng EDP để chuyển hóa glucose, chủ yếu dựa vào EMPP và OPPP. "E. coli" chỉ dùng EDP trong quá trình vi khuẩn tăng trưởng với gluconat. Nuôi cấy. "E. coli" tăng trưởng tối đa ở , nhưng một số chủng trong phòng thí nghiệm có thể phân đôi ở nhiệt độ lên tới . "E. coli" phát triển trong nhiều loại môi trường phòng thí nghiệm (ví dụ môi trường LB Broth), hoặc bất kỳ môi trường nào có chứa glucose, amoni phosphat, natri chloride, magnesi sulfat, dikali phosphat và nước.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Sự tăng trưởng có thể được thúc đẩy bởi quá trình hô hấp hiếu khí hoặc kị khí, sử dụng nhiều cặp oxy hóa khử khác nhau, bao gồm quá trình oxy hóa acid pyruvic, acid formic, hydro và amino acid, và quá trình khử các chất nền như oxy, nitrat, fumarat, dimethyl sulfoxide, và trimethylamin N-oxide. "E. coli" được phân loại là vi khuẩn kỵ khí tùy nghi, sử dụng oxy khi có tiếp xúc oxy. Tuy nhiên, "E. coli" có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện không có oxy bằng quá trình lên men hoặc hô hấp kỵ khí. Khả năng tiếp tục phát triển trong điều kiện thiếu oxy là một lợi thế đối với vi khuẩn vì khả năng sống sót của loài tăng lên trong môi trường xung quang là nước. Chu kỳ tế bào. Chu kỳ tế bào vi khuẩn được chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn B bắt đầu từ lúc vi khuẩn hoàn thành quá trình phân bào đến khi bắt đầu sao chép DNA. Giai đoạn C là thời gian cần thiết để sao chép DNA trong nhiễm sắc thể. Giai đoạn D tính từ lúc kết thúc sao chép DNA và kết thúc quá trình phân bào. Tỷ lệ nhân đôi của "E. coli" cao hơn khi có nhiều chất dinh dưỡng hơn. Tuy nhiên, độ dài của các khoảng thời gian C và D không thay đổi, ngay cả khi thời gian nhân đôi nhỏ hơn tổng của các khoảng thời gian C và D. Ở tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, quá trình nhân đôi khởi động ngay trước khi vòng nhân đôi trước đó hoàn thành, dẫn đến có nhiều vị trí nhân đôi trên sợi DNA và các chu kỳ tế bào có tính chất chồng chéo. Sự đa dạng. Serotype. Một hệ thống phân chia phổ biến của "E. coli" không dựa trên mối liên hệ tiến hóa là theo serotype, dựa trên các kháng nguyên bề mặt chính (kháng nguyên O: một phần của lớp lipopolysacaride; H: tiên mao; kháng nguyên K: vỏ vi khuẩn), ví dụ: O157:H7). Tuy nhiên, thông thường chỉ viết serotype, tức là kháng nguyên O. Hiện tại đã biết khoảng 190 serotype. Bộ gen của vi khuẩn "E.coli". Trình tự DNA hoàn chỉnh đầu tiên của bộ gen "E. coli" (chủng K-12 dẫn xuất MG1655 trong phòng thí nghiệm) được công bố vào năm 1997. Đó là phân tử DNA dạng vòng dài 4,6 triệu cặp base, chứa 4288 gen mã hóa protein (nằm trong 2584 operon), 7 operon RNA ribosome (rRNA) và 86 gen RNA vận chuyển (tRNA).
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Mặc dù bộ gen "E. coli" được phân tích di truyền chuyên sâu trong khoảng 40 năm, tuy nhiên nhiều gen trong số này chưa được biết đến. Mật độ mã hóa rất cao, với khoảng cách trung bình giữa các gen chỉ là 118 cặp base. Bộ gen có chứa một số lượng đáng kể gen nhảy, vùng lặp lại, thể tiền thực khuẩn ("prophage") và tàn tích của thể thực khuẩn. Cho đến năm 2013, đã biết đến hơn 300 trình tự bộ gen hoàn chỉnh của các loài "Escherichia" và "Shigella".<ref name="doi:10.1186/1944-3277-9-2"></ref> Danh pháp gen. Các gen trong "E. coli" thường được đặt tên theo danh pháp thống nhất do Demerec "và công sự" đề xuất. Tên gen là từ viết tắt gồm 3 chữ cái bắt nguồn từ chức năng của gen (khi đã biết chức năng) hoặc kiểu hình đột biến và được in nghiêng. Khi nhiều gen có cùng một từ viết tắt, các gen khác nhau được chỉ định bằng chữ hoa đứng đằng sau từ viết tắt đó và cũng được in nghiêng. Ví dụ, "recA" được đặt tên theo vai trò của gen trong tái tổ hợp tương đồng ("homologous recombination") kèm với chữ A. Các gen cũng liên quan đến chức năng trên được đặt tên là "recB", "recC", "recD", v.v. Các protein được đặt tên bằng cách viết hoa chữ cái đầu, ví dụ: RecA, RecB, v.v. Nghiên cứu về hệ protein. Hệ protein. Trình tự bộ gen của "E. coli" gồm 4288 gen mã hóa protein, trong đó 38% số gen này không có chức năng. Bộ gen chứa trình tự xen đoạn (i"nserted sequence", IS), tàn dư thể thực khuẩn và nhiều vùng có thành phần bất thường là hệ quả chuyển gen ngang, thể hiện tính dẻo của bộ gen "E. coli". Có nhiều nghiên cứu khám phá hệ protein ("proteome") của "E. coli." Đến năm 2006, 1.627 (38%) protein dự đoán thông qua khung đọc mở (ORF) đã được xác định bằng thực nghiệm. Mateus "và cs" (2020) đã phát hiện 2,586 protein có chứa ít nhất 2 peptide (60% tổng số protein). Biến đổi sau dịch mã (PTM). Mặc dù ít protein vi khuẩn có cơ chế biến đổi sau dịch mã ("post-translational modification", PTM) như protein của sinh vật nhân thực, nhưng có một số lượng đáng kể protein trải qua cơ chế biến đổi này ở "E. coli". Ví dụ, Potel "và cs" (2018) đã tìm thấy 227 phosphoprotein trong đó 173 protein này được phosphoryl hóa ở vị trí histidin.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Điều thú vị là phần lớn amino acid được phosphoryl hóa là serin (1.220 vị trí), chỉ có 246 vị trí trên histidin, 501 vị trí trên theronin và 162 vị trí trên tyrosin. Hệ vi khuẩn chí. "E. coli" thuộc một nhóm vi khuẩn được gọi một cách không chính thức là coliform, được tìm thấy trong đường tiêu hóa của động vật máu nóng. "E. coli" thường xâm nhập đường tiêu hóa của trẻ sơ sinh trong vòng 40 giờ từ lúc trẻ chào đời, thông qua thức ăn, nước uống hoặc từ những người bế trẻ. Trong ruột, "E. coli" dính vào dịch nhầy của ruột già. Đây là vi khuẩn kỵ khí tùy nghi chính của đường tiêu hóa người. (vi khuẩn kỵ khí tùy nghi là những sinh vật đều có thể phát triển trong điều kiện có hoặc không có oxy) Nếu "E. coli" không có yếu tố di truyền mã hóa cho yếu tố độc lực, chúng là những sinh vật hội sinh lành tính. Sử dụng trong điều trị. Do chi phí thấp, tốc độ phát triển nhanh và dễ dàng sửa đổi gen trong môi trường phòng thí nghiệm, "E. coli" được sử dụng để sản xuất protein tái tổ hợp, ứng dụng trong điều trị. Các chủng "E. coli" K-12 và các dẫn xuất (DH1, DH5α, MG1655, RV308 và W3110) là các chủng được sử dụng rộng rãi nhất trong ngành công nghệ sinh học. Chủng "E. coli" không gây bệnh Nissle 1917 (EcN), (Mutaflor) và "E. coli" O83:K24:H31 (Colinfant) được sử dụng làm probiotic trong y học, chủ yếu để điều trị các bệnh đường tiêu hóa khác nhau, bao gồm bệnh viêm ruột. Người ta cho rằng chủng EcN có thể cản trở sự phát triển của mầm bệnh cơ hội, gồm "Salmonella" và các mầm bệnh đường ruột coliform khác, thông qua việc sản xuất protein microcin để tạo ra đại thực bào chứa sắt ("siderophore"). Vai trò gây bệnh. Hầu hết các chủng "E. coli" không gây bệnh, sống tự nhiên trong ruột, chỉ có một vài chủng có độc lực gây bệnh đường tiêu hóa Các dấu hiệu và triệu chứng phổ biến bao gồm đau bụng dữ dội, tiêu chảy, viêm đại tràng xuất huyết, nôn mửa và có thể có sốt. Trong những trường hợp hiếm gặp hơn, các chủng có độc lực cũng là nguyên nhân gây hoại tử ruột và thủng nhưng không tiến triển thành hội chứng tán huyết-ure huyết, viêm phúc mạc, viêm tuyến vú, nhiễm trùng huyết và viêm phổi do vi khuẩn Gram âm.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Trẻ nhỏ dễ mắc bệnh nặng hơn, chẳng hạn như hội chứng tán huyết urê huyết. Tuy nhiên, những người khỏe mạnh ở mọi lứa tuổi đều có nguy cơ mắc các căn bệnh nghiêm trọng gây ra bởi "E. coli". Một số chủng "E. coli", ví dụ O157:H7, có thể tạo ra độc tố Shiga (được phân loại là tác nhân khủng bố sinh học). Độc tố Shiga gây ra các phản ứng viêm trong các tế bào đích của ruột, để lại các tổn thương dẫn đến tiêu chảy phân nhầy máu, đây là triệu chứng của nhiễm trùng "E. coli" sinh độc tố Shiga (STEC). Chất độc này tiếp tục phá hủy sớm các tế bào hồng cầu, làm tắc nghẽn hệ thống lọc máu của cơ thể như thận. Trong một số trường hợp hiếm gặp (thường ở trẻ em và người già) gây ra hội chứng tán huyết-ure huyết (HUS), có thể dẫn đến suy thận và tử vong. Triệu chứng của hội chứng tán huyết-urê huyết gồm: giảm số lần đi tiểu, ngủ lịm, tái nhợt ở má và bên trong mí mắt dưới. Ở 25% bệnh nhân HUS, các biến chứng về hệ thần kinh xảy ra, từ đó gây ra đột quỵ. Ngoài ra, thận không hoạt động gây ra ứ dịch, dẫn đến phù phổi, phù chân và tay. Ứ dịch xung quanh phổi, cản trở hoạt động của tim, gây tăng huyết áp. "E.coli" gây nhiễm khuẩn đường tiết niệu (UPEC) là một trong những nguyên nhân chính gây nhiễm trùng đường tiết niệu. UPEC là một phần của hệ vi khuẩn chí trong ruột, có thể xâm nhập ngược vào đường tiết niệu. Đặc biệt đối với nữ giới, việc chùi hậu môn sau sau khi đi đại tiện (chùi từ sau ra trước) có thể dẫn đến nhiễm phân vào lỗ niệu sinh dục. Giao hợp qua đường hậu môn cũng có thể đưa vi khuẩn này vào niệu đạo của nam giới và khi chuyển từ giao hợp qua đường hậu môn sang âm đạo, nam giới cũng có thể đưa UPEC vào hệ thống sinh dục nữ. "E. coli" sinh độc tố ruột (ETEC) là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tiêu chảy ở khách du lịch, với khoảng 840 triệu trường hợp trên toàn thế giới ở các nước đang phát triển mỗi năm. Vi khuẩn lây truyền qua thực phẩm hoặc nước uống bị ô nhiễm, bám vào niêm mạc ruột.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Tại đây nó tiết ra một trong hai loại độc tố ruột, dẫn đến tiêu chảy nước. Tỷ lệ và mức độ nghiêm trọng của các bệnh nhiễm trùng cao hơn ở trẻ em dưới 5 tuổi, trong đó có tới 380.000 ca tử vong hàng năm. Tháng 5 năm 2011, một chủng "E. coli", gây nên đợt bùng phát vi khuẩn ở Đức. Một số chủng "E. coli" là nguyên nhân chính gây ngộ độc thực phẩm. Sự bùng phát bắt đầu khi một số người ở Đức bị nhiễm "E. coli" gây xuất huyết ruột (EHEC), dẫn đến hội chứng tán huyết-ure huyết (HUS). Sự bùng phát không chỉ liên quan đến Đức mà còn 15 quốc gia khác, bao gồm cả các khu vực ở Bắc Mỹ. Ngày 30 tháng 6 năm 2011, "Bundesinstitut für Risikobewertung (BfR)" (Viện Đánh giá Rủi ro Liên bang, một viện liên bang thuộc Bộ Thực phẩm, Nông nghiệp và Bảo vệ Người tiêu dùng Đức) đã thông báo rằng hạt cỏ cà ri từ Ai Cập có khả năng là nguyên nhân gây ra đợt bùng phát EHEC. Một số nghiên cứu đã chứng minh "E." "coli" không có mặt trong trong hệ vi khuẩn chí của đường ruột gặp ở những người mắc chứng rối loạn chuyển hóa phenylketone niệu. Giả thuyết được đưa ra rằng sự vắng mặt của những vi khuẩn chí này sẽ làm giảm quá trình sản xuất vitamin B2 (riboflavin) và K2 (menaquinon) quan trọng. Đây là những vitamin liên quan mật thiết đến nhiều vai trò sinh lý ở người như chuyển hóa tế bào và xương. "E. coli" kháng carbapenem ("E." "coli" sinh carbapenemase) là chủng "E. coli" đề kháng với kháng sinh nhóm carbapenem. Cabapenem được coi là thuốc cuối cùng được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng. Đây là chủng kháng thuốc vì vi khuẩn sinh ra một loại enzyme gọi là carbapenemase, enzyme này làm vô hiệu hóa phân tử thuốc. Thời gian ủ bệnh. Khoảng thời gian từ khi ăn phải vi khuẩn STEC đến khi cảm thấy ốm được gọi là "thời kỳ ủ bệnh". Thời gian ủ bệnh thường là 3–4 ngày sau khi tiếp xúc, nhưng có thể ngắn nhất là 1 ngày hoặc dài nhất là 10 ngày. Các triệu chứng thường bắt đầu từ từ với đau bụng nhẹ hoặc tiêu chảy không ra máu, nặng hơn trong vài ngày.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Tùy từng bệnh nhân, hội chứng tán huyết-ure huyết tiến triển trung bình 7 ngày sau khi có các triệu chứng đầu tiên, khi tình trạng tiêu chảy đang cải thiện. Điều trị. Nguyên tắc chính trong điều trị là đánh giá tình trạng mất nước, bù dịch và chất điện giải. Sử dụng thuốc kháng sinh đã được chứng minh là rút ngắn quá trình diễn tiến bệnh và thời gian bài tiết "vi khuẩn E. coli" sinh độc tố ruột (ETEC) ở người lớn ở các vùng lưu hành bệnh và mắc bệnh tiêu chảy ở khách du lịch. Tuy nhiên tỷ lệ vi khuẩn kháng các loại kháng sinh thông dụng đang gia tăng và nói chung là không khuyến khích dùng kháng sinh. Loại kháng sinh được sử dụng phụ thuộc vào dịch tễ học, tức là phụ thuộc tính nhạy cảm kháng sinh ở khu vực địa lý cụ thể. Hiện tại, kháng sinh được lựa chọn là fluoroquinolone hoặc azithromycin, đặc biệt là rifaximin. Rifaximin dạng uống (một dẫn xuất rifamycin bán tổng hợp) là một chất kháng khuẩn hiệu quả và dung nạp tốt để kiểm soát người lớn mắc tiêu chảy ở khách du lịch. Rifaximin hiệu quả hơn đáng kể so với giả dược và không kém hiệu quả hơn ciprofloxacin trong việc giảm thời gian tiêu chảy. Mặc dù rifaximin có hiệu quả ở những bệnh nhân mắc tiêu chảy ở khách du lịch chủ yếu do "E. coli", nhưng thuốc tỏ ra không hiệu quả ở những bệnh nhân bị viêm dạ dày lấn. Phòng ngừa. Hầu hết các nỗ lực phát triển vắc-xin đều tập trung vào type ETEC. Các kháng thể chống lại độc tố chịu nhiệt (LT) và các yếu tố định vị ("colonization factor" - CF) của ETEC giúp bảo vệ và chống lại các yếu tố định vị sản xuất độc tố chịu nhiệt. Hiện tại không có vắc-xin được cấp phép để tiêm phòng cho ETEC. Để phòng ngừa lây truyền "E. coli", cần rửa tay, sống vệ sinh cũng như nước uống phải đảm bảo. Ngoài ra, nấu chín kỹ thịt và tránh tiêu thụ đồ uống sống, chưa tiệt trùng, chẳng hạn như nước trái cây và sữa là những phương pháp khác đã được chứng minh để ngăn ngừa vi khuẩn "E. coli". Cuối cùng, nên tránh lây nhiễm chéo dụng cụ và khu vực rửa thức ăn khi nấu nướng. Sinh vật mẫu trong nghiên cứu khoa học sự sống.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
Do nuôi cấy trong phòng thí nghiệm lâu đời và dễ thao tác, "E. coli" đóng một vai trò quan trọng trong kỹ thuật sinh học hiện đại và vi sinh công nghiệp. Công trình khoa học của Stanley Norman Cohen và Herbert Boyer ở vi khuẩn "E. coli", sử dụng plasmid và enzyme giới hạn để tạo ra DNA tái tổ hợp, đã trở thành nền tảng của công nghệ sinh học. "E. coli" là vật chủ rất linh hoạt trong việc tạo ra protein dị loài, cho phép sản xuất protein tái tổ hợp ở "E. coli". Các nhà nghiên cứu có thể đưa gen vào vi khuẩn bằng cách sử dụng plasmid cho phép biểu hiện protein ở mức độ cao và protein như vậy có thể được sản xuất hàng loạt trong quá trình lên men công nghiệp. Một trong những ứng dụng hữu ích đầu tiên của công nghệ tái tổ hợp DNA là sản xuất insulin người. Các tế bào "E. coli" biến đổi được sử dụng trong quá trình phát triển vắc-xin, xử lý sinh học, sản xuất nhiên liệu sinh học, chiếu sáng và sản xuất enzyme cố định. Chủng K-12 là một dạng đột biến của "E. coli" biểu hiện quá mức enzyme alkaline phosphatase (ALP). Sinh vật mẫu. "E. coli" thường được sử dụng làm sinh vật mẫu trong nghiên cứu vi sinh. Một số chủng cấy như "E. coli" K12 thích nghi tốt với môi trường phòng thí nghiệm và không giống như các chủng hoang dã, các chủng được cấy này mất khả năng phát triển trong ruột. Nhiều chủng trong phòng thí nghiệm mất khả năng hình thành màng sinh học. Các tính năng này bảo vệ các chủng hoang dã khỏi các kháng thể, nhưng đòi hỏi phải tiêu tốn nhiều năng lượng và nguyên liệu. "E. coli" thường được sử dụng như một vi sinh vật đại diện trong nghiên cứu các phương pháp khử trùng và xử lý nước mới, bao gồm cả xúc tác quang hóa. Bằng các phương pháp đếm khuẩn lạc thủ công sau khi pha loãng tuần tự và cấy trên các đĩa gel agar (đĩa thạch), có thể đánh giá nồng độ của các sinh vật sống hoặc số khuẩn lạc trong một thể tích nước đã xử lý, cho phép đánh giá so sánh hiệu suất của vật liệu xử lý nước. Năm 1946, Joshua Lederberg và Edward Tatum lần đầu tiên mô tả hiện tượng được gọi là sự tiếp hợp của vi khuẩn bằng cách sử dụng "E. coli" làm vi khuẩn mẫu, và hiện tại "E. coli" vẫn là mô hình chính để nghiên cứu sự tiếp hợp.
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
"E. coli" là một phần không thể thiếu trong các thí nghiệm đầu tiên tìm hiểu về di truyền học của thực thực khuẩn. Các nhà nghiên cứu ban đầu, chẳng hạn như Seymour Benzer, đã sử dụng "E. coli" và thể thực khuẩn T4 để tìm hiểu hình thái cấu trúc gen. Trước nghiên cứu của Benzer, người ta không biết liệu gen có cấu trúc tuyến tính (mạch thẳng) hay là phân nhánh. Sử dụng "E. coli" trong tin sinh học. Từ năm 1961, các nhà khoa học đã đề xuất ý tưởng về các mạch di truyền được sử dụng để xử lý thao tác điện toán. Sự hợp tác giữa các nhà sinh học và nhà khoa học máy tính đã cho phép thiết kế các cổng logic kỹ thuật số về quá trình trao đổi chất của "E. coli". Operon Lac được sử dụng để thực hiện các chức năng điện toán. Quá trình điện toán này được kiểm soát ở giai đoạn phiên mã DNA thành mRNA. Một số nghiên cứu đang được tiến hành nhằm lập trình cho "E. coli" giải các bài toán phức tạp, chẳng hạn như bài toán đường đi Hamilton (xem đường đi Hamilton). Tháng 7 năm 2017, các thí nghiệm riêng biệt với "E. coli" được công bố trên tạp chí Nature cho thấy tiềm năng sử dụng các tế bào sống cho các nhiệm vụ điện toán và lưu trữ thông tin. Một nhóm được thành lập với các cộng tác viên của Viện Thiết kế Sinh học thuộc Đại học bang Arizona và Viện Wys về Kỹ thuật lấy cảm hứng từ Sinh học ("Harvard's Wyss Institute for Biologically Inspired Engineering") của Đại học Harvard đã phát triển một máy tính sinh học bên trong "E. coli". Máy tính sinh học này đáp ứng với hàng chục input (đầu vào). Nhóm nghiên cứu gọi chiếc máy tính này là "ribocomputer", vì chứa acid ribonucleic. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu Harvard đã thăm dò khả năng lưu trữ thông tin ở vi khuẩn sau khi lưu trữ thành công hình ảnh và phim trong DNA của các tế bào "E. coli" sống. Năm 2021, một nhóm nhà nghiên cứu do nhà sinh lý học Sangram Bagh dẫn đầu đã thực hiện một nghiên cứu với "E. coli" để giải quyết bài toán mê cung 2 × 2 nhằm thăm dò nguyên tắc điện toán phân tán giữa các tế bào. Lịch sử. Năm 1885, bác sĩ nhi khoa người Đức gốc Áo Theodor Escherich phát hiện ra sinh vật này trong phân của những người khỏe mạnh. Ông gọi vi khuẩn là "Bacterium coli Commune" vì ông tìm thấy vi khuẩn trong ruột già. "Bacterium coli" là loài thuộc chi "Bacterium".
Escherichia coli
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2851
"Bacterium coli" là loài thuộc chi "Bacterium". Hiện tại danh pháp chi "Bacterium" không còn hợp lệ vì không còn tìm thấy dấu vết của loài trước đây ("Bacterium triloculare"). Migula phân loại vi khuẩn này thành "Bacillus coli" vào năm 1895 và sau đó Aldo Castellani và Albert John Chalmers xếp loài vi khuẩn này vào một chi mới mang tên "Escherichia"đặt tên theo người phát hiện. Năm 1996, vụ ngộ độc thực phẩm "E. coli" xảy ra tại Wishaw, Scotland, khiến 21 người tử vong. Ứng dụng khác. bên cạnh việc sử dụng làm sinh vật trung gian cho các quá trình và thí nghiệm di truyền, "E. coli" có một số ứng dụng khác. "E. coli" được sử dụng để tạo ra propan tổng hợp và hormon GH tái tổ hợp của người.
The Star-Spangled Banner
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2854
"The Star-Spangled Banner", tạm dịch là Lá cờ lấp lánh ánh sao, là quốc ca chính thức của Hoa Kỳ. Lời được viết vào năm 1814 bởi Francis Scott Key, một luật sư và nhà thơ nghiệp dư, sau khi ông chứng kiến cảnh pháo đài McHenry bị quân Anh oanh tạc trong Chiến tranh năm 1812. Bài này được phổ biến là một bài hát yêu nước sau khi được phổ nhạc theo bài tửu ca "To Anacreon in Heaven" của Anh, nhưng chỉ được trở thành quốc ca khi Quốc hội Hoa Kỳ thông qua một nghị quyết vào ngày 31 tháng 3 năm 1931. Nhạc. Phần nhạc trong Quốc ca Hoa Kỳ do John Stafford Smith, một nhà soạn nhạc người Anh, sáng tác. John Stafford Smith sinh ngày 30 tháng 3 năm 1750 và qua đời ngày 21 tháng 9 năm 1836. Ông là người đàn phong cầm cho nhà thờ và cũng là một nhà nghiên cứu âm nhạc. John Stafford Smith là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên đã cẩn thận sưu tầm các tác phẩm của Johann Sebastian Bach. Tuy nhiên, John Stafford Smith được nổi tiếng chỉ vì ông viết nhạc cho bài "To Anacreon in Heaven". Bài hát này được viết vào khoảng giữa thập niên 1760, lúc Smith vẫn còn là một thiếu niên. Lời bài hát do Ralph Tomlinson đặt và nó trở thành bài hát chính thức của Anacreontic Society, hiệp hội nhạc sĩ tài tử viết nhạc trữ tình tại Luân Đôn. Bài hát nhanh chóng được phổ biến tại Anh Quốc và Hoa Kỳ. Khoảng 50 năm sau, vào năm 1814, Francis Scott Key viết bài thơ "Defence of Fort McHenry" để hát với giai điệu của bài "To Anacreon in Heaven". Bài hát được nhiều người tại Hoa Kỳ yêu mến. Năm 1931, Quốc hội Hoa Kỳ đề nghị Tổng thống Herbert Hoover thông qua dự luật công nhận bài hát trên là Quốc ca Hoa Kỳ. Bài hát với lời thơ của Francis Scott Key và phần nhạc do John Stafford Smith viết. Hai tác giả đã qua đời mà không biết mình nhận được vinh dự cao quý đó. Lời Việt. Lời Quốc ca Hoa Kỳ đã được nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, đã mất tại San Jose, California, đặt lời tiếng Việt như sau:
Pháp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2860
Pháp (; ), tên chính thức là Cộng hòa Pháp ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần lãnh thổ Pháp tại châu Âu trải dài từ Địa Trung Hải đến eo biển Manche và biển Bắc, và từ sông Rhin đến Đại Tây Dương. Pháp còn có Guyane thuộc Pháp trên đại lục Nam Mỹ cùng một số đảo tại Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. 18 vùng của Pháp (gồm chính quốc Pháp, Guyane thuộc Pháp, Guadeloupe, Martinique, Reunion và Mayotte và vùng của Pháp gốc) có tổng diện tích 643.801 km², dân số tính đến năm 2022 là gần 65,5 triệu người. Còn nếu tính luôn các lãnh thổ khác ngoài châu Nam cực thì khoảng 674.000 km². Pháp là nước cộng hòa bán tổng thống nhất thể, thủ đô Paris cũng là thành phố lớn nhất, trung tâm văn hóa và thương mại chính của quốc gia. Các trung tâm đô thị lớn khác là Marseille, Lyon, Lille, Nice, Toulouse và Bordeaux. Trong thời đại đồ sắt, Chính quốc Pháp là nơi cư trú của người Gaul thuộc nhóm Celt. La Mã (Roma) sáp nhập khu vực vào năm 51 TCN, tình trạng này kéo dài cho đến năm 486, khi người Frank thuộc nhóm Germain chinh phục khu vực rồi thành lập Vương quốc Pháp. Pháp nổi lên thành một đại cường tại châu Âu vào hậu kỳ Trung Cổ, giành thắng lợi trong Chiến tranh Trăm Năm (1337-1453) giúp củng cố quốc gia và tập trung hoá chính trị. Trong phong trào Phục Hưng, văn hoá Pháp phát triển, và lập nên một đế quốc thực dân toàn cầu, trở thành đế quốc lớn thứ hai thế giới vào thế kỷ XX. Trong thế kỷ XVI, Pháp bị chi phối bởi các cuộc nội chiến tôn giáo giữa thế lực Công giáo La Mã và Tin Lành. Pháp trở thành thế lực chi phối văn hoá, chính trị và quân sự tại châu Âu dưới thời Louis XIV. Đến cuối thế kỷ XVIII, Cách mạng Pháp lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, lập nên một trong các nền cộng hoà sớm nhất trong lịch sử hiện đại, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền là nền tảng của cuộc cách mạng và biểu thị ý thức hệ của Pháp cho đến ngày nay. Trong thế kỷ XIX, Napoléon nắm quyền và lập ra Đệ Nhất Đế chế Pháp, các cuộc chiến tranh của Napoléon định hình tiến trình của châu Âu lục địa.
Pháp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2860
Sau khi đế quốc sụp đổ, Pháp trải qua náo động với các chính phủ kế tiếp nhau, đỉnh điểm là thành lập Đệ Tam Cộng hòa Pháp vào năm 1870. Pháp là một bên tham chiến chính trong chiến tranh thế giới thứ nhất, và giành được đại thắng. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Pháp nằm trong khối Đồng Minh song bị phe Trục chiếm đóng vào năm 1940 bởi Đức Quốc xã. Sau khi được giải phóng vào năm 1944, Đệ Tứ Cộng hòa Pháp được thành lập song sau đó bị giải thể trong tiến trình chiến tranh Algérie. Nền Đệ Ngũ cộng hoà dưới quyền Charles de Gaulle được thành lập vào năm 1958 và tồn tại cho đến nay. Algérie và gần như toàn bộ các thuộc địa khác độc lập trong thập niên 1960 (năm châu Phi), song thường duy trì các liên kết kinh tế và quân sự mật thiết với Pháp. Pháp từ lâu đã có vị thế là một trung tâm của thế giới về nghệ thuật, khoa học và triết học. Pháp có số di sản thế giới UNESCO nhiều thứ ba tại châu Âu, và tiếp đón khoảng 83 triệu du khách nước ngoài vào năm 2012, đứng đầu thế giới. Pháp là một quốc gia phát triển, có nền kinh tế lớn thứ sáu thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ chín theo GDP PPP. Về tổng tài sản gia đình, Pháp xếp hạng tư trên thế giới. Pháp có thành tích cao trong các xếp hạng quốc tế về giáo dục, y tế, tuổi thọ dự tính, và phát triển con người. Pháp duy trì vị thế Đại cường quốc trên thế giới, là một trong năm thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và có quyền phủ quyết, đồng thời là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân chính thức. Đây là một quốc gia thành viên chủ đạo trong Liên minh châu Âu và Khu vực đồng euro. Quốc gia này cũng là thành viên của G7, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ. Nguồn gốc tên gọi. Tên tiếng Pháp. Trong tiếng Pháp, Pháp được gọi là "France". Ban đầu áp dụng cho toàn Đế quốc Frank, tên gọi "France" bắt nguồn từ tiếng Latinh "", hay "quốc gia của người Frank". Pháp ngày nay vẫn được gọi là "Francia" trong tiếng Ý và Tây Ban Nha. Tồn tại các thuyết khác nhau về nguồn gốc của tên gọi Frank.
Pháp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2860
Theo các tiền lệ của Edward Gibbon và Jacob Grimm, tên gọi của người Frank có liên kết với từ "frank" ("miễn") trong tiếng Anh. Người ta cho rằng nghĩa "miễn" được chấp nhận do sau khi chinh phục Gaul, chỉ có người Frank được miễn thuế. Thuyết khác cho rằng nó bắt nguồn từ tiếng Germain nguyên thủy là "frankon", dịch là "cái lao" hoặc "cái thương" do rìu quăng của người Frank được gọi là "francisca". Tuy nhiên, người ta xác định rằng các vũ khí này có tên như vậy do được người Frank sử dụng, chứ không phải ngược lại. Tên tiếng Việt. Tên gọi của nước Pháp trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung Quốc. "France" được người Trung Quốc phiên âm là 法蘭西 (âm Hán Việt: Pháp Lan Tây), gọi tắt là 法國 "Pháp quốc". Cũng giống như Anh, Đức, Mỹ.., người Việt hay bỏ chữ "Quốc" hay chữ "nước" đi, chỉ còn gọi là "Pháp". Trong thư tịch chữ Hán cổ của Việt Nam thì quốc hiệu nước Pháp còn được phiên âm là "Pha Lang Sa" (chữ Hán: "坡郎沙"), "Phú Lang Sa" ("富郎沙"), "Phú Lãng Sa" ("富浪沙"), hoặc "Pháp Lang Sa" ("法浪沙"). Lịch sử. Tiền sử (trước thế kỷ thứ VI TCN). Dấu vết cổ nhất về sinh hoạt của con người tại Pháp có niên đại từ khoảng 1,8 triệu năm trước. Loài người sau đó phải đương đầu với khí hậu khắc nghiệt và hay biến đổi, với dấu ấn là một số kỷ băng hà. Người nguyên thủy ban đầu trải qua đời sống săn bắt hái lượm và du cư. Pháp có một lượng lớn các hang được trang trí có niên đại từ thời đại đồ đá cũ muộn, trong đó Lascaux là một trong các di tích nổi tiếng và được bảo quản tốt nhất (khoảng 18.000 TCN). Đến khi kết thúc kỷ băng hà cuối (10.000 TCN), khí hậu trở nên ôn hoà hơn; từ khoảng 7.000 TCN, khu vực bước vào thời đại đồ đá mới và cư dân tại đây bắt đầu định cư. Sau những phát triển mạnh mẽ về nhân khẩu và nông nghiệp từ thiên niên kỷ 4 đến thiên niên kỷ 3 TCN, nghề luyện kim xuất hiện vào cuối thiên niên kỷ 3 TCN, ban đầu là gia công vàng, đồng và đồng điếu, sau đó là sắt. Pháp có nhiều di chỉ cự thạch từ thời đại đồ đá mới, trong đó có di chỉ các khối đá Carnac dày đặc dị thường (khoảng 3.300 TCN).
Pháp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2860
Cổ xưa (Thế kỷ thứ VI TCN-Thế kỷ thứ V CN). Năm 600 TCN, người Hy Lạp Ionie xuất thân từ Phocée thành lập thuộc địa Massalia (nay là Marseille) bên bờ Địa Trung Hải, là thành phổ cổ nhất tại Pháp. Cùng thời gian này, một số bộ lạc Gaulois thuộc nhóm Celt thâm nhập nhiều nơi của khu vực nay là Pháp, và bành trướng chiếm đóng ra phần còn lại của Pháp từ thế kỷ V đến thế kỷ III TCN. Khái niệm Gaule xuất hiện trong thời kỳ này; nó tương ứng với các lãnh thổ người Celt định cư trải giữa sông Rhin, Đại Tây Dương, dãy Pyrénées và Địa Trung Hải. Biên giới của Pháp ngày này gần đúng với Gaule cổ, là nơi cư trú của người "Gaulois" thuộc nhóm Celt. Gaule sau đó là một quốc gia thịnh vượng, phần cực nam chịu ảnh hưởng mạnh của văn hoá và kinh tế Hy Lạp-La Mã. Khoảng năm 390 TCN, tù trưởng Gaulois Brennos dẫn quân vượt dãy Alpes hướng đến bán đảo Ý, đánh bại người La Mã trong trận Allia, bao vây và đòi tiền chuộc thành La Mã (Roma). Cuộc xâm lăng của người Gaulois khiến La Mã suy yếu, và người Gaulois tiếp tục quấy rối khu vực cho đến khi đạt được một hoà ước chính thức với La Mã vào năm 345 TCN. Tuy nhiên, người La Mã và người Gaulois vẫn là đối thủ trong vài thế kỷ sau đó, và người Gaulois tiếp tục là một mối đe doạ tại bán đảo Ý. Khoảng năm 125 TCN, phần miền nam của Gaule bị người La Mã chinh phục, họ gọi khu vực này là "Provincia Nostra" ("Tỉnh của Chúng ta"), và theo thời gian tiến hoá thành tên gọi Provence trong tiếng Pháp. Julius Caesar chinh phục phần còn lại của Gaule và đánh bại cuộc khởi nghĩa của tù trưởng Gaulois Vercingétorix vào năm 52 TCN. Theo Plutarchus và các tác phẩm của học giả Brendan Woods, Chiến tranh xứ Gallia đã dẫn đến 800 thành phố được chinh phục, 300 bộ lạc bị khuất phục, một triệu người bị bán làm nô lệ và ba triệu người khác chết trong trận chiến. Gaule bị Augustus phân chia thành các tỉnh của La Mã. Nhiều thành thị được thành lập trong giai đoạn Gaulois-La Mã, như Lugdunum (nay là Lyon) được nhìn nhận là thủ phủ của người Gaulois. Các thành thị này được xây dựng theo phong cách La Mã truyền thống, với một quảng trường, một nhà hát, một đấu trường, một đài vòng và các phòng tắm nóng.
Pháp
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2860
Người Gaulois lai với những người định cư La Mã và cuối cùng tiếp nhận văn hoá và ngôn ngữ của người La Mã (tiếng La Tinh, tiếng mà tiếng Pháp tiến hoá từ đó). Thuyết đa thần La Mã hợp nhất với thuyết dị giáo Gaulois thành thuyết hổ lốn tương tự. Từ thập niên 250 đến thập niên 280, Gaule thuộc La Mã trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng do người Man di tiến hành một số cuộc tấn công vào biên giới. Tuy thế, tình hình được cải thiện vào nửa đầu của thế kỷ IV, đây là giai đoạn phục hồi và thịnh vượng của Gaule thuộc La Mã. Năm 312, Hoàng đế Constantinus I cải đạo sang Cơ Đốc giáo, các tín đồ Cơ Đốc giáo vốn trước đây bị ngược đãi thì từ lúc này gia tăng nhanh chóng về số lượng trên khắp đế quốc. Tuy nhiên, từ khi bắt đầu thế kỷ V, người man di lại tiếp tục xâm lăng, và các bộ lạc Germain như Vandal, Suebi và Alan vượt sông Rhin đến định cư tại Gaule, Tây Ban Nha và những nơi khác thuộc Đế quốc La Mã vốn đang suy sụp. Các bộ lạc Teutonic xâm chiếm khu vực Đức ngày nay, người Visigoth định cư ở phía tây nam, người Burgundi dọc theo thung lũng sông Rhine và người Francia (từ đó người Pháp lấy tên của họ) ở phía bắc. Sơ kỳ Trung Cổ (Thế kỷ thứ V-Thế kỷ thứ X). Đến cuối giai đoạn cổ đại, Gaule cổ được phân thành một số vương quốc của người Germain và một lãnh thổ Gaulois-La Mã còn lại mang tên Vương quốc Soissons. Đồng thời, người Briton thuộc nhóm Celt đến định cư tại phần phía tây của Armorique khi họ chạy trốn khỏi những người Anglo-Saxon (thuộc nhóm Germain) đến định cư tại đảo Anh. Do đó, bán đảo Armorique được đổi tên thành Bretagne, văn hoá Celt được phục hưng và các tiểu vương quốc độc lập xuất hiện tại khu vực này. Người Frank dị giáo thuộc nhóm Germain ban đầu định cư tại phần phía bắc của Gaule, song dưới thời Clovis I họ chinh phục hầu hết các vương quốc khác tại miền bắc và miền trung Gaule. Năm 498, Clovis I là nhà chinh phục Germain đầu tiên cải sang Công giáo La Mã sau khi Đế quốc La Mã sụp đổ, thay vì là giáo phái Aria; do đó Pháp được giáo hoàng trao cho danh hiệu "người con gái cả của Giáo hội" ("") và các vị vua Pháp sẽ được gọi là "Các vị vua Cơ đốc nhất của Pháp" ("Rex Christianissimus").