title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Nơi có mật độ dân số thấp nhất tỉnh là huyện đảo Trường Sa (0,39 người/km²). Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2010 thì toàn tỉnh có khoảng 519.600 người sinh sống tại khu vực thành thị và 648.100 sinh sống ở khu vực nông thôn.
Về độ tuổi năm 2009 toàn tỉnh có 526.061 người dưới 25 tuổi (45% dân số), 450.393 người từ 25 đến 50 tuổi (39% dân số) và 183.150 trên 50 tuổi (16%)
Dân tộc.
Hiện nay có 32 dân tộc đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, trong đó dân tộc Kinh có 1.095.981 người sống phân bố đều khắp huyện, thị, thành phố, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là các vùng đồng bằng, thành phố, thị xã, thị trấn. Dân tộc thiểu số lớn nhất là người Raglai với 45.915 người sống tập trung chủ yếu ở hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và một vài xã miền núi các huyện Diên Khánh, Cam Lâm và thành phố Cam Ranh trong các bản làng (palây). Tại các khu vực giáp ranh với Lâm Đồng và Đăk Lăk có khoảng 4.778 người Cơ-ho và 3.396 người Ê-đê sinh sống. Dân tộc Hoa có khoảng 3.034 người tập trung chủ yếu ở thành phố Nha Trang (khoảng 2.000 người), thị xã Ninh Hòa và các xã phía Đông huyện Diên Khánh. Một nhóm thiểu số chính khác là người Tày (1.704) và người Nùng (1.058) di cư từ các tỉnh phía Bắc vào trong cuộc di cư năm 1954 và trong các năm gần đây sinh sống chủ yếu ở huyện Khánh Vĩnh. Ngoài các nhóm chính trên còn có các nhóm dân tộc chiếm 1 thiểu số rất nhỏ trong dân số như Mường, Thái, Chăm, Khmer, Thổ... Người Chăm là cư dân bản địa ở Khánh Hòa. Tuy nhiên do những điều kiện lịch sử, từ giữa thế kỷ XVII về sau này, người Chăm ở Khánh Hòa lần lượt di chuyển vào các tỉnh phía Nam. Vì vậy mà ngày nay, người Chăm ở Khánh Hòa chỉ còn khoảng 290 người.
Trên địa bàn thành phố Nha Trang cũng có một vài nhóm người nước ngoài sinh sống và làm việc thường xuyên trong những năm gần đây, một ít trong số họ hiện đã định cư lâu dài và nhập quốc tịch Việt Nam.
Tôn giáo. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Tôn giáo.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, toàn tỉnh Khánh Hòa vào thời điểm của cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, Khánh Hòa có 265.316 người tự khẳng định mình có tín ngưỡng, nhiều nhất là Công giáo 132.992 người, tiếp theo là Phật giáo 100.560 người, đạo Tin Lành 24.500 người, đạo Cao Đài 6.819 người, Phật giáo Hòa Hảo 284 người và các tôn giáo khác là Hồi giáo 94 người, Bà La Môn 25 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam 17 người, Baha'i giáo 13 người và Minh Sư đạo 12 người. Phật giáo tập trung nhiều nhất ở Nha Trang (50,4%) và Diên Khánh; Công giáo tập trung nhiều ở Cam Lâm, đạo Cao Đài tập trung ở Cam Ranh; đạo Tin Lành tập trung ở Khánh Sơn và Khánh Vĩnh. Riêng Phật giáo Hòa Hảo phân bố chủ yếu ở xã Ninh Ích.
Đô thị hóa.
Khánh Hòa là tỉnh có số dân đô thị cao nhất trong các tỉnh thuộc khu vực miền Trung với 584.200 người (năm 2011) chiếm khoảng 48,8% dân số toàn tỉnh. Tính đến cuối năm 2011, toàn tỉnh có 1 đô thị loại I (thành phố Nha Trang), 1 đô thị loại III (thành phố Cam Ranh), 3 đô thị loại IV (thị xã Ninh Hòa và các thị trấn Diên Khánh, Vạn Giã) cùng với 7 đô thị loại V (các thị trấn Cam Đức, Khánh Vĩnh, Tô Hạp và các xã Đại Lãnh, Suối Hiệp, Suối Tân, Ninh Sim). Phần lớn các đô thị lớn nằm ở vùng duyên hải và dọc theo Quốc lộ 1, một vài đô thị khác nằm dọc theo các hành lang đông dân cư ven các sông chính và các tuyến đường nối vùng duyên hải lên Tây Nguyên như trục Ninh Hòa - Ninh Sim nằm dọc theo sông Dinh và quốc lộ quốc lộ 26 nối lên Buôn Ma Thuột. Trục Diên Khánh - Khánh Vĩnh nằm ven theo sông Cái và quốc lộ 27C (Đường 723 cũ) nối lên Đà Lạt.
Theo kết luận số 53-KL/TW ngày 24 tháng 12 năm 2012 của Bộ Chính trị, Tỉnh Khánh Hòa được phép quy hoạch thành thành phố trực thuộc trung ương trong quy hoạch đến năm 2020
Khoa học - Giáo dục. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Nền khoa học ở Khánh Hòa được đặt nền móng từ thời Pháp thuộc với việc hình thành hai cơ sở khoa học thực nghiệm là Viện Pasteur Nha Trang vào năm 1891, nghiên cứu về vệ sinh dịch tễ và Sở Ngư nghiệp Đông Dương năm 1922 (tiền thân của Viện Hải dương học Nha Trang) chuyên nghiên cứu về biển và động vật biển. Lĩnh vực khoa học từ đó dần dần được mở rộng sang các ngành khoa học ứng dụng để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu tại Khánh Hòa gồm có việc bảo tồn và phát triển trầm hương, kỳ nam, duy trì và nuôi dưỡng chim yến, nghiên cứu các hình thức nuôi trồng thủy sản trên biển...
Trước thời nhà Nguyễn, vì là đất mới được mở mang, lại xa kinh đô, nên nền giáo dục Khánh Hòa gần như không phát triển. Người Khánh Hòa thời đó không có đóng góp gì trong địa hạt văn chương thi phú. Mãi đến đời vua Gia Long, triều đình mới cho lập trường dạy chữ ở phủ Diên Khánh và Bình Hòa. Học sinh sau khi có bằng Tiểu học phải ra Quy Nhơn hoặc các tỉnh khác để tiếp tục học lên Trung học, cho đến năm 1936, khi trường trung học đầu tiên được mở tại Nha Trang là Trường trung học tư thục Kim Yến (Institution Kim Yến), làm nơi học tập cho học sinh từ Phan Thiết đến Quy Nhơn. Đầu năm 1947, Trường Trung học Nha Trang (tiền thân của Trường Phổ thông trung học Lý Tự Trọng) được thành lập. Sang đến năm 1952, trường đổi tên thành Trường Trung học Võ Tánh và chuyển đến địa điểm hiện nay. Năm 1957, trường Võ Tánh được Bộ Giáo dục Quốc gia nâng cấp lên bậc Đệ nhị cấp (tương đương bậc Phổ thông trung học ngày nay). Kể từ đó, học sinh tại Khánh Hòa có thể đi học đến khi tốt nghiệp Tú tài ngay tại tỉnh nhà mà không phải khăn gói đi ra ngoài. Năm 1971, Khánh Hòa có cơ sở đào tạo bậc đại học đầu tiên là Đại Học Cộng đồng Duyên Hải tại Nha Trang. Sau ngày thống nhất đất nước, Trường Đại học Thủy sản Nha Trang, được chuyển từ Hải Phòng vào. Hiện nay, Khánh Hòa có đầy đủ các bậc học, ngành học, phục vụ cho tất cả các đối tượng học sinh sinh viên tại tỉnh (được kê trong bảng phía dưới).
Y tế. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Y tế.
Khánh Hòa là một trong những tỉnh có hệ thống Y tế phát triển nhất ở khu vực Nam Trung Bộ. Theo quyết định 1047/QĐ-BYT của Bộ Y tế thì Nha Trang là một trong 3 trung tâm y tế của vùng Nam Trung Bộ. Tính đến 30/6/2017, Toàn tỉnh có tổng số bác sĩ công lập/10.000 dân là 6,83; thực hiện được 29,5 giường/10.000 dân; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ em dưới 5 tuổi tại Khánh Hòa đạt 8,86% (chỉ tiêu giao là 9%); tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt 81,93%. Hệ thống tuyến y tế cơ sở được quan tâm đầu tư phát triển đã góp phần làm giảm áp lực cho bệnh viện tuyến trên và tạo thuận tiện trong chăm sóc sức khỏe của người dân ở cấp cơ sở. Đến nay, toàn tỉnh có 137/140 xã có trạm y tế xã (riêng các đảo nổi của 3 đơn vị cấp xã tại huyện đảo Trường Sa đều có các trạm y tế do Quân đội quản lý), toàn bộ các đơn vị hành chính cấp huyện đều có bệnh viện tuyến huyện trực thuộc trung tâm y tế (riêng huyện đảo huyện đảo Trường Sa có Trung tâm Y tế thị trấn Trường Sa hoạt động như một trung tâm y tế tuyến huyện), 100% bệnh viện tuyến huyện được xây dựng mới đáp ứng cơ bản nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa là bệnh viện xếp hạng I, 1 trong 10 bệnh viện đa khoa cấp vùng của cả nước
Văn hóa - Du lịch.
Sự kiện.
Tỉnh lỵ của Khánh Hòa đặt tại Nha Trang, một thành phố du lịch và sự kiện. Nha Trang là nơi từng diễn ra nhiều sự kiện lớn như Festival Biển, hay các cuộc thi sắc đẹp lớn như Hoa hậu Việt Nam 2006, Hoa hậu Thế giới người Việt 2007 và 2010, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Trái Đất 2010, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015, Hoa hậu Trái Đất 2023.
Khánh Hòa là địa danh thu hút nhiều du khách với những khu di tích chiến khu, căn cứ cách mạng. Ngoài ra, tỉnh cũng đầu tư chú trọng đến văn nghệ và nghệ thuật để phục vụ người dân và thu hút du khách; các đội chiếu bóng phục vụ ở những nơi hẻo lánh, miền núi hiểm trở. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Hệ thống thư viện, các câu lạc bộ cũng phát triển mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu của quần chúng.
Khánh hòa có 11 di tích văn hóa-lịch sử cấp quốc gia. Công tác bảo tồn, trùng tu bảo tàng và quản lý các khi di tích cũng được chú trọng, có nhiều đợt trưng bày quy mô lớn thu hút hàng chục ngàn du khách tham quan. Công tác sưu tầm, nghiên cứu giới thiệu văn hóa phi vật thể đã và đang tiếp tục được phát triển. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu như: sự nghiên cứu về chữ viết của người Ra Glai, truyện cổ, trường ca và một số loại hình văn hóa dân gian có ảnh hưởng khác, bao gồm một số công trình được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đánh giá cao.
Lễ hội.
Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa còn lưu giữ được khá nhiều lễ hội mang đậm nét văn hóa bản địa, tục thờ cúng trong tín ngưỡng dân gian. Các lễ hội đều xuất phát từ lao động, từ phong tục tập quán, là nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân. Theo thống kê của chính quyền địa phương, tính đến năm 2010, Khánh Hòa có 494 di sản lễ hội lớn, nhỏ của người Kinh, bao gồm 237 lễ hội đình làng, 121 lễ hội miếu, lăng và 136 lễ hội chùa. Ngoài ra còn các lễ hội truyền thống của người dân tộc.
Các lễ hội tiêu biểu:
Ẩm thực.
Là một tỉnh ven biển có nhiều làng chài nên phong cách ẩm thực ở Khánh Hòa chịu ảnh hưởng sâu sắc từ biển, với nguyên liệu chủ yếu được chế biến từ hải sản. Đồng thời cư dân Khánh Hòa xưa chủ yếu di cư vào từ các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam và Quảng Ngãi nên phong cách ẩm thực cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tỉnh trên. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Các món đặc sản của Khánh hòa được nhiều người biết đến như nem Ninh Hòa, bún cá Nha Trang, bún sứa, bánh ướt Diên Khánh... Ngoài ra dưới sự ảnh hưởng của người Hoa (sinh sống đông đúc gần khu vực chợ Đầm phường Xương Huân), người Pháp (từng đến Nha Trang nghỉ dưỡng rất đông thời Pháp thuộc) và những người miền Bắc di cư vào Nam sau năm 1954 tạo cho Nha Trang phong cách ẩm thực đặc biệt khác hẳn với các địa phương khác trong tỉnh và khu vực Nam Trung Bộ tiêu biểu là những món ăn như phở Nha Trang, bánh mì Nha Trang, bò nướng Lạc Cảnh...
Đặc sản.
Khánh Hòa có hai loại sản vật quý hiếm:
Du lịch.
Khánh Hòa là một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Nhờ có bờ biển dài hơn 200 km và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân Phong, Nha Trang (một trong 12 vịnh đẹp nhất thế giới), Cam Ranh... với khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình 26 °C, có hơn 300 ngày nắng trong năm, và nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, nên dịch vụ - du lịch là ngành phát triển nhất ở Khánh Hòa với số du khách hơn 1,6 triệu lượt vào năm 2009. Các hình thức du lịch ở Khánh Hòa rất phong phú với các hình thức như du lịch sinh thái biển đảo, du lịch tham quan - vãn cảnh, du lịch văn hóa... Trong các khách sạn và khu nghỉ mát lớn ở Khánh Hòa, có những khu du lịch và khách sạn tầm cỡ thế giới như khu nghỉ mát Ana Mandara, Vinpearl Land, Sheraton Nha Trang hotel & spa, Novotel, hay khu nghỉ dưỡng cao cấp Evason Hideaway (huyện Ninh Hòa) của tập đoàn Ana Mandara, được tờ "Sunday Times" bầu là một trong 20 resort tốt nhất thế giới vào năm 2005. Những di tích lịch sử văn hóa có Tháp Po Nagar, thành cổ Diên Khánh, các di tích của nhà bác học Alexandre Yersin...
Ngoài vị thế là một trung tâm du lịch lớn Nha Trang đã trở thành điểm đến của nhiều sư kiện lớn của Việt Nam và Thế giới như: Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Thế giới người Việt 2007 và 2009, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Trái Đất 2010... cùng với Festival Biển (Nha Trang) được tổ chức 2 năm một lần đã góp phần quảng bá du lịch Khánh Hòa với thế giới. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Tuy vậy, việc chất lượng dịch vụ sút kém và tăng giá dịch vụ thiếu kiểm soát vào những mùa cao điểm du lịch vẫn chưa được tỉnh giải quyết triệt để. Phát triển du lịch một cách bền vững, bảo vệ tài nguyên môi trường vẫn còn là vấn đề gây nhiều bàn cãi.
Giao thông.
Đường bộ.
Khánh Hòa có hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông tương đối phát triển, nằm trên các trục giao thông quan trọng ven biển của Việt Nam như: Quốc lộ 1 chạy dọc ven biển từ Đèo Cả đến Ghềnh Đá Bạc nối liền với các tỉnh phía Bắc và phía Nam; quốc lộ 26 nối Ninh Hòa với Đăk Lăk và các tỉnh Tây Nguyên; đường quốc lộ 27C (trước là đường 723) (Nha Trang đi Đà Lạt), quốc lộ 27B nối Cam Ranh với huyện Ninh Sơn (tỉnh Ninh Thuận) và dự án đường cao tốc Bắc Nam đi qua Khánh Hòa.
Toàn tỉnh hiện có 2.086 km đường giao thông. Trong đó, đường do trung ương quản lý dài 224,38 km, chiếm 10,75%; đường do tỉnh quản lý dài 254,95 km, chiếm 12,21%; đường do huyện quản lý dài 327,47 km, chiếm 15,69% và đường do xã quản lý dài 1.566,97 km, chiếm 75%. Chất lượng đường bộ: Đường cấp phối, đường đá dăm dài 399,52 km chiếm 19,14%; đường nhựa dài 362,77 km, chiếm 17,38% còn lại là đường đất. Tất cả các xã đã có đường ô tô đến tận trung tâm xã. Hiện nay, Nha Trang đang có 6 tuyến xe buýt phục vụ công cộng.
Đường sắt.
Do vị trí của Khánh Hòa nằm trên tuyến đường cái quan, người Pháp lại chọn Nha Trang làm nơi đặt cơ quan bảo hộ, nên Nha Trang đã sớm trở thành một điểm dừng quan trọng trên tuyến đường sắt do Pháp xây dựng. Tuyến đường sắt Sài Gòn - Nha Trang được khởi công xây dựng từ năm 1900 đến năm 1913 mới hoàn tất. Vào thời điểm đó, điểm cuối của tuyến đường sắt là Ga Phú Vinh, nằm cạnh đường 23 tháng 10 hiện nay, tại xã Vĩnh Thạnh, Nha Trang. Đến năm 1928, người Pháp khởi công đoạn Đà Nẵng đến Nha Trang dài 532 km để hoàn tất tuyến đường sắt xuyên Việt, đồng thời xây dựng Ga Nha Trang với lối kiến trúc đặc trưng cùng cảnh quan hài hòa. |
Khánh Hòa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2764 | Ga Nha Trang được khánh thành ngày 2 tháng 9 năm 1936 và tuyến đường sắt xuyên Việt cũng hoàn thành vào tháng 10 cùng năm. Ga Nha Trang ngày nay vẫn giữ nguyên được lối kiến trúc nhà ga cùng tuyến đường sắt hình "bóng đèn" độc đáo.
Hiện nay, tất cả các tuyến tàu Thống Nhất đều dừng ở đây. Ngoài các tàu Thống Nhất "SE", còn có các đôi tàu địa phương nối với Ga Sài Gòn mang số hiệu "SNT". Ngoài ga Nha Trang, tỉnh còn 12 ga khác phân bố tại tất cả các huyện, thị xã, thành phố trừ hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và huyện đảo Trường Sa.
Đường thủy.
Khánh Hòa có nhiều vùng vịnh kín gió, nước sâu lại nằm ở cực đông của Việt Nam gần với tuyến hàng hải quốc tế nên rất thuận lợi cho xây dựng cảng biển. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 5 cảng biển, trong đó tiêu biểu nhất là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong và cảng Cam Ranh (một trong ba vịnh tốt nhất thế giới cho xây dựng cảng biển).
Hàng không.
Sân bay quốc tế Cam Ranh được nâng cấp ngày 16 tháng 8 năm 2007 tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu trong nước và quốc tế của tỉnh Khánh Hòa cũng như khu vực Nam Trung Bộ
Năm 2008, sân bay này đã phục vụ 683.000 lượt khách, vượt qua Sân bay quốc tế Phú Bài để thành sân bay có số lượng hành khách thông quan đông thứ 4 trong các sân bay tại Việt Nam. Tỷ lệ tăng của số lượt khách thông qua vào năm 2007 là 36,8%, của năm 2008 là 36,3% so với năm trước, là sân bay có tốc độ tăng trưởng lượng hành khách cao nhất tại Việt Nam Hiện nay sân bay phục vụ các đường bay đến Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và nhiều đường bay quốc tế khác |
TeX | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2765 | TEX, (/tɛx/, /tɛk/) viết không định dạng là TeX, là một hệ thống sắp chữ được viết bởi Donald Knuth và giới thiệu lần đầu vào năm 1978.
TeX được thiết kế với hai mục đích chính: cho phép bất kì ai cũng có thể tạo ra những cuốn sách chất lượng cao với ít công sức nhất, và cung cấp một hệ thống sắp chữ cho ra cùng một kết quả trên mọi máy tính, ngay bây giờ và cả trong tương lai.
Nó phổ biến trong môi trường hàn lâm, đặc biệt là trong cộng đồng toán học, vật lý, khoa học máy tính, kinh tế, ngôn ngữ học, thống kê, kỹ thuật. Trong hầu hết các bản cài đặt Unix, nó gần như thế chỗ của troff, cũng là một chương trình định dạng văn bản được ưa thích khác.
TeX là phần mềm miễn phí. Nói chung nó được xem là cách tốt nhất để gõ công thức toán học phức tạp, đặc biệt là ở dạng LaTeX, ConTeXt hoặc các gói khuôn mẫu (template package) khác, nó cũng được dùng cho các tác vụ sắp chữ khác.
Tên.
Để tỏ lòng quý trọng đến Viện Công nghệ California (Caltech), nơi Knuth nhận bằng tiến sĩ, tên TeX được dụng ý dùng với phát âm "tekh", trong đó "kh" đại diện cho âm cuối của "loch" trong tiếng Scotland hay tên của nhà soạn nhạc người Đức "Bach" (theo Bảng chữ cái phiên âm quốc tế IPA /tɛx/). Chữ X được dùng để đại diện cho chữ χ (chi) trong tiếng Hy Lạp. TeX là dạng viết tắt của τέχνη (technē), tiếng Hy Lạp có nghĩa là "nghệ thuật" và "thủ công", cũng là chữ căn nguyên của "technical" (kĩ thuật).
Tên được xếp chữ với "E" nằm bên dưới đường ngang; nếu hệ thống không hỗ trợ subscript, nó được viết "ước chừng" là "TeX".
Các ủng hộ viên của TeX phát triển thêm các tên gọi từ "TeX" — như TeXnician (người dùng phần mềm TeX), TeXhacker (người lập trình TeX), TeXmaster (người lập trình thông thạo TeX), TeXhax, và TeXnique.
Lịch sử.
Knuth bắt đầu viết TeX vì ông cảm thấy khó chịu khi chất lượng sắp chữ bị giảm sút trong các quyển I-III của tác phẩm "The Art of Computer Programming" (Nghệ thuật lập trình máy tính) hoành tráng của ông, được sắp xếp bởi Tập đoàn Monotype. Với phong thái của một "hacker" điển hình thôi thúc giải quyết vấn đề một lần cho mãi mãi, ông bắt đầu thiết kế ngôn ngữ sắp chữ của riêng mình. |
TeX | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2765 | Vào ngày 13 tháng 5 năm 1977, ông đã viết một bản ghi nhớ để tự mô tả các tính năng cơ bản của TeX. Ông dự tính hoàn thành trong kỳ nghỉ phép năm 1978 nhưng phải đến hơn 10 năm sau, tức năm 1989, ngôn ngữ này mới ngưng bổ sung thêm tính năng.
Guy Steele tình cờ ở Stanford trong mùa hè năm 1978, khi Knuth phát triển phiên bản TeX đầu tiên. Khi Steele quay lại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) mùa thu năm ấy, ông viết lại phần nhập/xuất (I/O) của TeX để chạy dưới Hệ thống chia sẻ thời gian không tương thích (ITS).
Phiên bản TeX đầu tiên được viết bằng ngôn ngữ lập trình SAIL để chạy trên một PDP-10 dưới hệ điều hành WAITS của Đại học Stanford. Ở các phiên bản TeX sau này, Knuth phát minh khái niệm lập trình văn chương (literate programming), một phương thức tạo ra mã nguồn có tính tương thích và tài liệu có liên kết chéo với chất lượng cao (dĩ nhiên được sắp chữ bằng TeX) từ một cùng tập tin nguyên thủy. Ngôn ngữ được dùng gọi là WEB và tạo ra chương trình ở dạng DEC PDP-10 Pascal.
Một phiên bản mới của TeX được viết lại từ đầu và gọi là TeX82 do được xuất bản vào năm 1982. Trong số những thay đổi đáng chú ý có, thuật toán gạch nối ban đầu đã được thay thế bằng một thuật toán mới được viết bởi Frank Liang. TeX82 cũng sử dụng số học cố định điểm thay vì dấu phẩy động, để đảm bảo khả năng tái tạo kết quả trên phần cứng máy tính khác nhau và bao gồm một ngôn ngữ lập trình Turing hoàn chỉnh. Năm 1989, Donald Knuth phát hành phiên bản mới của TeX và METAFONT. Mặc dù mong muốn giữ cho chương trình ổn định, Knuth nhận ra rằng 128 ký tự khác nhau cho đầu vào văn bản không đủ để chứa ngôn ngữ nước ngoài; thay đổi chính trong phiên bản 3.0 của TeX là khả năng làm việc với đầu vào 8 bit, cho phép thực hiện 256 ký tự khác nhau trong đầu vào văn bản.
Kể từ phiên bản 3, TeX đã sử dụng một hệ thống đánh số phiên bản riêng, các cập nhật được biểu thị bằng cách thêm vào một chữ số vào cuối số thập phân, sao cho số phiên bản tiệm cận π. Phiên bản hiện tại của TeX là 3.141592653; nó được cập nhật lần cuối vào năm 2021. Đây là sự phản ánh thực tế rằng TeX hiện rất ổn định và chỉ các cập nhật nhỏ được dự tính thực hiện. |
TeX | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2765 | Thiết kế đã bị hoãn lại sau phiên bản 3.0 và không có tính năng mới hoặc thay đổi cơ bản nào được thêm vào, vì vậy tất cả các phiên bản mới hơn sẽ chỉ chứa các bản sửa lỗi. Mặc dù chính Donald Knuth đã đề xuất một vài mảng mà TeX có thể đã được cải thiện. Vì lý do này, ông đã nói rằng "thay đổi cuối cùng (thực hiện sau khi tôi chết)" sẽ chuyển số phiên bản thành π, tại điểm đó mọi lỗi (bug) còn lại sẽ thành tính năng". Tương tự như vậy, các phiên bản của METAFONT sau 2.0 tiếp cận tiệm cận e và một sự thay đổi tương tự sẽ được áp dụng sau khi Knuth qua đời.
Vì mã nguồn của TeX về cơ bản nằm trong phạm vi công cộng, các lập trình viên khác được phép (hay được khuyến khích) cải thiện hệ thống, nhưng được yêu cầu sử dụng tên khác để phân phối TeX đã sửa đổi, có nghĩa là mã nguồn có thể vẫn phát triển. Ví dụ, dự án Omega được phát triển sau năm 1991, chủ yếu để tăng cường khả năng sắp xếp đa ngôn ngữ của TeX. Knuth đã tạo ra các phiên bản sửa đổi "không chính thức", chẳng hạn như TeX-XeT, cho phép người dùng trộn các văn bản được viết bằng các hệ thống viết từ trái sang phải và phải sang trái trong cùng một tài liệu.
Hệ thống sắp chữ.
Các lệnh trong TeX thường bắt đầu với dấu chéo ngược và được nhóm bằng dấu ngoặc nhọn. Tuy nhiên hầu hết các đặc tính pháp cú của TeX có thể được thay đổi ngay trong lúc dùng, khiến một nguồn TeX khó có thể phân tích cấu trúc bởi bất cứ gì trừ chính bản thân TeX. TeX là một ngôn ngữ dựa trên macro và biểu tượng ("token"): nhiều lệnh, bao gồm hầu hết các lệnh do người dùng định nghĩa, được mở rộng trong lúc dùng cho đến khi chỉ còn các biểu tượng không thể mở rộng thêm được nữa và chúng sẽ được thực thi. Bản thân sự mở rộng này thực tế không gây tác dụng phụ. Đệ quy lặp ("tail recursion") các macro không tốn bộ nhớ, và có sẵn cấu trúc if-then-else. Điều này khiến TeX trở thành ngôn ngữ Turing trọn vẹn (Turing-complete) ngay cả ở mức độ mở rộng.
Hệ thống có thể được chia đại khái thành 4 cấp độ: ở cấp độ đầu, TeX phân tích từ vựng để tìm các chuỗi điều khiển. |
TeX | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2765 | Bước kế tiếp, chuỗi điều khiển mở rộng (như câu điều kiện hoặc macro đã được định nghĩa) được thay bởi văn bản của chính chúng. Ở giai đoạn 3, các ký tự được xếp thành đoạn văn; thuật toán ngắt đoạn của TeX tối ưu hoá điểm ngắt cho toàn đoạn. Văn bản được phân thành trang ở bước cuối.
Hệ thống TeX hiểu biết chính xác kích thước tất cả ký tự và ký hiệu, và nó dùng thông tin này để tính toán sắp xếp tối ưu số chữ trong dòng và dòng trong trang. Sau đó nó tạo tập tin DVI (viết tắt cho "device independent", độc lập với thiết bị) chứa vị trí chung cuộc cho mọi ký tự. Tập tin dvi này có thể được in trực tiếp với driver máy in phù hợp, hoặc có thể được chuyển sang các định dạng khác. Ngày nay, PDFTeX thường được dùng để bỏ qua giai đoạn phát sinh DVI.
Hầu hết chức năng được cung cấp bởi các tập tin định dạng. Các định dạng thường gặp là TeX thuần tuý của Knuth, LaTeX (có ở khắp các ngành kĩ thuật), và ConTeXt (chủ yếu được dùng cho xuất bản trên desktop).
Tác phẩm tham khảo cơ bản cho TeX là hai quyển đầu bộ Computers and Typesetting (Máy tính và sắp chữ) của Knuth, "The TeXbook" và "TeX: The Program" (có chứa toàn bộ mã nguồn được chú thích của TeX).
TeX thường được phân phối cùng với Metafont, một chương trình đồng hành cũng được phát triển bởi Knuth cho phép miêu tả các font chữ bằng thuật toán. Cấu trúc thư mục cài đặt TeX / Metafont được chuẩn hoá trong cây thư mục codice_1.
Giấy phép.
Giấy phép cho quyền phân phối và sửa đổi tự do nhưng yêu cầu bất cứ phiên bản sửa đổi nào cũng không được gọi là TEX, TeX, hay bất cứ thứ gì tương tự có thể gây nhầm lẫn, tương tự như một thương hiệu. Bộ thử TRIPTRAP giúp kiểm tra một ứng dụng có thực sự là TEX hay không.
Chất lượng.
Mặc dù được viết kĩ lưỡng, TeX quá lớn (và cũng chứa quá nhiều kĩ thuật mới mẻ) đến nỗi nó được cho là đã phát hiện ít nhất một lỗi lập trình trong mỗi hệ thống Pascal dùng để biên dịch. TeX chạy trên gần như mọi hệ điều hành.
Knuth treo giải thưởng bằng tiền cho những ai phát hiện và thông báo lỗi (lỗi lập trình) trong TeX. Giải thưởng cho mỗi lỗi khởi đầu với $2,56 và nhân đôi mỗi năm cho đến khi nó đóng băng; giá trị hiện tại là $327,68. |
TeX | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2765 | Tuy nhiên điều này không làm Knuth nghèo túng, vì có rất ít lỗi được phát hiện; và trong đa số trường hợp tờ ngân phiếu chứng minh trao cho người tìm ra lỗi thường được đóng thành khung thay vì đổi thành tiền.
Các khía cạnh khoa học máy tính của TeX.
Phần mềm TeX hội tụ một số thuật toán thú vị, đã dẫn đến một số luận án của các học trò của Knuth. Thí dụ, thuật toán dấu nối từ (hyphenation) (công trình của Frank Liang) được dùng để quy định ưu tiên cho dấu ngắt trong nhóm các chữ cái.
Thuật toán ngắt dòng là thí dụ cho lập trình động. Bài toán ngắt một đoạn văn n chữ thành các dòng có độ phức tạp thực formula_1, nhưng với lập trình động, bố trí tối ưu toàn bộ có thể rút ra theo thời gian tỉ lệ với số từ và số từ trong một dòng. Luận án của Michael Plass cho thấy cách thức bài toán ngắt trang có thể NP-trọn vẹn (NP-complete) vì các tình huống nảy sinh khi đặt hình ảnh.
Chương trình đồng hành Metafont để phát sinh ký tự dùng đường cong Bezier theo cách khá chuẩn, nhưng Knuth cống hiến nhiều vào việc bài toán chuyển hình ảnh thành định dạng bitmap (rasterizing). Một luận án khác, bởi John Hobby, khảo sát hơn nữa bài toán số hoá "đường cọ" ("brush trajectories"). Thuật ngữ này xuất phát từ sự kiện rằng Metafont miêu tả ký tự như chúng được vẽ bởi các cọ trừu tượng.
Các công trình dẫn xuất.
Vài hệ thống xử lý tài liệu dựa trên TeX, đáng lưu ý có:
Hiện cũng đã có nhiều bản mở rộng cho TeX, trong số đó BibTeX cho việc tạo thư mục (bibliography) (được phân phối với LaTeX), PDFTeX, bỏ qua giai đoạn DVI và tạo ra sản phẩm với định dạng tài liệu PDF (Portable Document Format) của Adobe Systems, và Omega, cho phép TeX dùng bộ ký tự Unicode. Tất cả các bản mở rộng cho TeX có miễn phí ở CTAN (Comprehensive TeX Archive Network (Mạng lưới lưu trữ TeX tổng hợp).
Công cụ tương thích.
Trên hệ thống tương thích UNIX (gồm cả Mac OS X), TeX được phân phối ở dạng teTeX. Trên Windows, có bản phân phối MiKTeX và bản phân phối fpTeX.
Trình soạn thảo văn bản TeXmacs là chương trình soạn thảo văn bản khoa học WYSIWYG có dụng ý tương thích với TeX. Nó dùng các font của Knuth, và có thể phát sinh kết quả TeX. LyX là công cụ tương tự.
Tiếng Việt và TeX.
Cho đến nay đã có một số nỗ lực đưa tiếng Việt vào TeX. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Sao Hải Vương (tiếng Anh: Neptune), hay Hải Vương Tinh (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ tư về đường kính và lớn thứ ba về khối lượng. Sao Hải Vương có khối lượng riêng lớn nhất trong số các hành tinh khí trong hệ Mặt trời. Sao Hải Vương có khối lượng gấp 17 lần khối lượng của Trái Đất và hơi lớn hơn khối lượng của Sao Thiên Vương (xấp xỉ bằng 15 lần của Trái Đất). Sao Hải Vương quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời ở khoảng cách trung bình 30,1 AU, bằng khoảng 30 lần khoảng cách Trái Đất - Mặt Trời. Sao Hải Vương được đặt tên theo vị thần biển cả của người La Mã (Neptune). Nó có ký hiệu thiên văn là ♆, là biểu tượng cách điệu cây đinh ba của thần Neptune hoặc chữ cái psi của Hy Lạp.
Sao Hải Vương là hành tinh đầu tiên được tìm thấy bằng tính toán lý thuyết. Dựa vào sự nhiễu loạn bất thường của quỹ đạo Sao Thiên Vương, nhà thiên văn Alexis Bouvard đã kết luận rằng quỹ đạo của nó bị nhiễu loạn do tương tác hấp dẫn với một hành tinh nào đó. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1846, nhà thiên văn Johann Galle đã phát hiện ra Sao Hải Vương ở vị trí lệch 1 độ so với tiên đoán của Urbain Le Verrier. Sau đó ít lâu, người ta cũng khám phá ra Triton, vệ tinh lớn nhất của sao Hải Vương, trong khi 13 vệ tinh còn lại của nó chỉ được phát hiện trong thế kỷ XX. Cho tới nay, tàu không gian "Voyager 2" là tàu duy nhất bay qua Sao Hải Vương vào ngày 25 tháng 8 năm 1989.
Sao Hải Vương có cấu tạo tương tự như Sao Thiên Vương, nhưng lại khác biệt với những hành tinh khí khổng lồ như Sao Mộc và Sao Thổ. Khí quyển của sao Hải Vương chứa thành phần cơ bản là hydro và heli, cùng một số ít các hydrocarbon và có lẽ cả nitơ, tương tự như của Sao Mộc hay Sao Thổ. Tuy nhiên khí quyển của nó chứa tỷ lệ lớn hơn các phân tử "băng" như nước, amonia, và methan. Do đó các nhà thiên văn thỉnh thoảng phân loại Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương thành các hành tinh băng đá khổng lồ để nhấn mạnh sự khác biệt này. Bên trong Sao Hải Vương chứa chủ yếu băng và đá, giống như Sao Thiên Vương. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Lõi hành tinh có thể có bề mặt tuy rắn nhưng nhiệt độ của nó có thể cao tới hàng nghìn độ và áp suất rất lớn. Khí methan trong tầng ngoài khí quyển là nguyên nhân Sao Hải Vương hiện lên với màu xanh lam.
Trái ngược với bầu khí quyển mờ đặc và gần như đồng màu của Sao Thiên Vương, khí quyển của Sao Hải Vương có những vùng hoạt động mạnh và dễ nhận thấy. Năm 1989, tàu "Voyager 2" khi bay qua Sao Hải Vương đã chụp được hình ảnh của Vết Tối Lớn trên bán cầu nam có kích thước tương đương với Vết Đỏ Lớn của Sao Mộc. Những vùng hoạt động thời tiết này được duy trì bởi những cơn gió với tốc độ lên tới 2.100 kilômét trên giờ, mạnh nhất trên khí quyển trong các hành tinh thuộc Hệ Mặt Trời. Do cách rất xa Mặt Trời nên lớp khí quyển ngoài cùng của Sao Hải Vương là một trong những nơi lạnh nhất trong Hệ Mặt Trời. Nhiệt độ của những đám mây trên cao khoảng 55 K (-218 °C) trong khi nhiệt độ tại lõi hành tinh xấp xỉ . Sao Hải Vương có một hệ thống vành đai mờ và rời rạc (hay những cung), được phát hiện trong thập niên 1960 nhưng chỉ được xác nhận vào năm 1989 bởi "Voyager 2".
Lịch sử.
Phát hiện.
Các bản vẽ của Galileo Galilei cho thấy ông là người đầu tiên quan sát Sao Hải Vương qua kính viễn vọng vào ngày 28 tháng 12 năm 1612, và một lần nữa vào ngày 27 tháng 1 năm 1613. Trong cả hai lần, Galileo đã nhầm Sao Hải Vương là một ngôi sao cố định khi nó xuất hiện ở vị trí giao hội rất gần với Sao Mộc trên bầu trời. Vì vậy mà Galileo không được công nhận là người phát hiện ra Sao Hải Vương. Trong lúc quan sát đầu tiên của ông tháng 12 năm 1612, Sao Hải Vương gần như đứng yên trên nền trời bởi vì nó vừa mới di chuyển nghịch hành biểu kiến vào ngày đó. Chuyển động ngược biểu kiến xuất hiện khi Trái Đất vượt lên trước hành tinh vòng ngoài trên quỹ đạo quay quanh Mặt Trời. Do Sao Hải Vương vừa mới bắt đầu chuyển động nghịch hành, chuyển động này quá nhỏ để có thể nhận ra qua kính thiên văn nhỏ của Galileo. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Tháng 7 năm 2009, nhà vật lý David Jamieson ở Đại học Melbourne nêu ra bằng chứng mới cho thấy Galileo có lẽ đã nhận ra "ngôi sao" mà ông quan sát có vẻ đã dịch chuyển so với những ngôi sao cố định.
Năm 1821, nhà thiên văn Alexis Bouvard công bố tham số quỹ đạo của Sao Thiên Vương. Tuy nhiên, những quan sát ngay sau đó lại sai lệch so với dữ liệu công bố của ông. Bouvard giả thuyết rằng có một vật thể nào đó đã làm nhiễu loạn quỹ đạo Sao Thiên Vương bằng tương tác hấp dẫn.
Năm 1843, nhà thiên văn John Couch Adams bắt đầu nghiên cứu quỹ đạo của Thiên Vương Tinh dựa trên những dữ liệu hiện có. Adams đã nhờ giám đốc Đài quan sát Cambridge James Challis yêu cầu Sir George Airy, một nhà thiên văn Hoàng gia Anh, gửi thêm cho ông số liệu. Adams tiếp tục công trình của mình trong 1845–46 và đưa ra một vài kết quả về ước lượng vị trí hành tinh mới này.
Cũng trong năm 1845–46, Urbain Le Verrier cũng tiến hành tính toán tham số quỹ đạo độc lập với Adams. Ông cũng gặp phải khó khăn trong việc thu hút sự quan tâm từ những người cùng ngành trong nước. Tháng 6 năm 1846, dựa trên công trình khoa học của Le Verrier và Adams về ước lượng vị trí của hành tinh mới, Airy đã đề nghị Challis sử dụng kính thiên văn tìm kiếm hành tinh này. Challis đã quan sát các vị trí trên bầu trời trong toàn bộ tháng 8 và tháng 9 nhưng không có kết quả.
Trong thời gian này, Le Verrier đã gửi thư đến Johann Galle, giám đốc Đài quan sát Berlin, để thuyết phục tìm kiếm hành tinh mới bằng kính thiên văn phản xạ. Heinrich d'Arrest, một sinh viên thực tập tại đài thiên văn, đã đề xuất với Galle rằng họ nên so sánh bản đồ bầu trời vẽ gần đây trong vùng của vị trí mà Le Verrier tiên đoán với vùng bầu trời quan sát qua kính thiên văn, và tìm xem có vật thể nào di chuyển so với những ngôi sao cố định không. Vào đêm của ngày nhận được lá thư của Le Verrier, ngày 23 tháng 9 năm 1846, Galle và d'Arrest đã phát hiện ra Sao Hải Vương ở vị trí lệch 1° so với tính toán của Le Verrier, và lệch khoảng 12° so với tính toán của Adams. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Challis sau đó nói rằng ông đã hai lần quan sát thấy Sao Hải Vương vào ngày 8 và 12 tháng 8 năm đó, nhưng do Challis không có bản đồ sao mới nhất nên đã không nhận ra đó là một hành tinh.
Ngay sau khi công bố phát hiện ra hành tinh mới, đã có tranh cãi giữa Anh và Pháp về việc ai nên được công nhận là người phát hiện. Cộng đồng khoa học lúc đó cho rằng cả hai nhà thiên văn Le Verrier và Adams đều xứng đáng được công nhận. Từ 1966 Dennis Rawlins nêu ra vấn đề về sự công nhận cho Adams là người đồng khám phá hành tinh, và vấn đề này đã được đánh giá lại bởi các nhà lịch sử khoa học trong hội nghị về "Lịch sử khám phá Sao Hải Vương" năm 1998 tổ chức tại Đài quan sát Hoàng gia, Greenwich. Sau khi đánh giá lại các ghi chép và bài báo trong lịch sử, họ cho rằng "Adams không xứng đáng khi được công nhận bình đẳng với Le Verrier về tính toán khám phá Sao Hải Vương. Sự công nhận chỉ thuộc về người không những tiên đoán đúng vị trí hành tinh mà còn thành công trong thuyết phục các nhà thiên văn thực hiện quan sát nhằm tìm kiếm nó" (Adams không hề thuyết phục nhà thiên văn nào tìm kiếm mà là do Airy khuyến nghị, xem ở trên).
Đặt tên.
Ngay sau khi phát hiện ra, người ta gọi Sao Hải Vương một cách đơn giản là "hành tinh bên ngoài Sao Thiên Vương" hoặc là "hành tinh Le Verrier". Galle là người đầu tiên đề xuất một tên gọi, mà ông gọi hành tinh là "Janus". Ở Anh, Challis đề xuất tên "Oceanus".
Cho rằng mình có quyền được đặt tên cho phát hiện của mình, Le Verrier ngay lập tức đề xuất tên gọi "Neptune", và tuyên bố không đúng sự thực rằng tên gọi này đã được chính thức công nhận bởi cơ quan địa lý và thiên văn "Bureau des Longitudes" của Pháp. Trong tháng 10 năm 1846, ông lại đề nghị sử dụng tên của chính ông là "Le Verrier", và giám đốc đài quan sát François Arago cũng ủng hộ tên gọi này. Tuy nhiên, đề nghị này gặp phải sự chống đối mạnh mẽ bên ngoài nước Pháp. Cơ quan thiên văn và bản đồ Pháp cũng nhanh chóng sử dụng lại tên gọi "Herschel" cho hành tinh "Uranus", mang tên người khám phá Sir William Herschel, và "Leverrier" cho tên của hành tinh mới phát hiện. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Nhà thiên văn người Đức Struve ủng hộ tên gọi "Neptune" vào ngày 29 tháng 12 năm 1846 tại một hội nghị của Viện hàn lâm khoa học Saint Petersburg. Và "Neptune" sớm được cộng đồng quốc tế chấp nhận. Trong thần thoại La Mã, Neptune là vị thần biển cả, có vai trò như thần Poseidon trong thần thoại Hy Lạp. Sự đòi hỏi đặt tên theo thần thoại là để tuân thủ cách đặt tên cho những hành tinh khác, ngoại trừ Trái Đất, đều theo tên các vị thần trong thần thoại Hy Lạp và La Mã.
Các ngôn ngữ khác, kể cả ở những nước không có ảnh hưởng bởi văn hóa Hy Lạp và La Mã, thường địa phương hóa từ tên chính thức Neptune cho Sao Hải Vương. Trong tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc và tiếng Việt, tên hành tinh được dịch thành "Hải Vương Tinh" (chữ Nho, 海王星), vì Neptune là vị thần biển cả. Trong tiếng Hy Lạp hiện đại, tên gọi của hành tinh này là "Poseidon" (Ποσειδώνας: "Poseidonas"), vị thần biển cả tương ứng với tên gọi Neptune của thần thoại La Mã.
Tình trạng.
Từ khi được phát hiện ra năm 1846 cho đến khi Pluto được phát hiện năm 1930, Sao Hải Vương được coi là hành tinh xa nhất. Khi Pluto trở thành hành tinh thứ 9, Sao Hải Vương trở thành hành tinh xa Mặt Trời thứ hai ngoại trừ 20 năm từ 1979 đến 1999 khi quỹ đạo elip dẹt của Sao Diêm Vương đưa thiên thể này đến gần Mặt Trời hơn so với Sao Hải Vương. Năm 1992, vành đai Kuiper được phát hiện dẫn đến cuộc tranh luận giữa các nhà thiên văn học là Sao Diêm Vương nên được coi là một hành tinh hay là một thiên thể nằm trong vành đai. Năm 2006, Hiệp hội Thiên văn Quốc tế lần đầu tiên đưa ra định nghĩa chính thức thế nào là một hành tinh, xếp Sao Diêm Vương thuộc loại "hành tinh lùn" và Sao Hải Vương trở thành hành tinh xa nhất trong Hệ Mặt Trời.
Cấu trúc và thành phần.
Sao Hải Vương có khối lượng 1,0243 kg, nằm trung gian giữa Trái Đất và các hành tinh khí khổng lồ: khối lượng của nó bằng 17 lần khối lượng Trái Đất nhưng chỉ bằng 1/19 so với của Sao Mộc. Lực hấp dẫn trên bề mặt của nó chỉ nhỏ hơn của Sao Mộc. Bán kính xích đạo của Sao Hải Vương bằng 24.764 km hay gấp bốn lần của Trái Đất. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Sao Hải Vương và Sao Thiên Vương được xếp thành một phân nhóm của hành tinh khí khổng lồ được gọi là "các hành tinh băng đá khổng lồ", do chúng có kích thước nhỏ hơn và mật độ các chất dễ bay hơi cao hơn so với Sao Mộc và Sao Thổ. Trong những dự án tìm kiếm hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời, thuật ngữ "hành tinh kiểu Sao Hải Vương" được sử dụng để chỉ những hành tinh có khối lượng tương tự như của Sao Hải Vương, giống như các nhà thiên văn cũng thường gọi các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời là "hành tinh kiểu Mộc Tinh".
Cấu trúc bên trong.
Cấu trúc bên trong của Sao Hải Vương tương tự như của Sao Thiên Vương. Khí quyển của nó chiếm khoảng 5% đến 10% khối lượng hành tinh và chiều dày khoảng 10% đến 20% bán kính hành tinh, xuống sâu tới mức áp suất 10 GPa gấp 100.000 lần áp suất khí quyển trên Trái Đất. Ở tầng khí quyển thấp hơn, mật độ của methan, amonia và nước cũng cao hơn.
Lớp phủ có nhiệt độ từ 2.000 K đến 5.000 K có khối lượng khoảng 10 tới 15 lần khối lượng Trái Đất và chứa chủ yếu nước, amonia và methan. Hỗn hợp này thường được gọi là "băng" mặc dù chúng là chất lỏng nóng và đậm đặc. Hỗn hợp lỏng này có tính dẫn điện tốt và đôi khi được gọi là đại dương nước-amonia. Lớp phủ cũng có thể chứa một tầng nước ion nơi các phân tử nước bị phân ly thành các ion hydro và oxy. Ở những tầng sâu hơn, có thể hình thành trạng thái "nước siêu ion" (superionic water). Các ion oxy bị tinh thể hóa trong khi các ion hydro di chuyển tự do trong mạng tinh thể oxy. Tại độ sâu 7.000 km có thể hình thành các điều kiện làm cho methan biến thành tinh thể kim cương và rơi như mưa đá xuống vùng lõi hành tinh. Các nhà khoa học cũng tin rằng mưa kim cương này cũng xảy ra trên Sao Mộc, Sao Thổ và Sao Thiên Vương. Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore đã tiến hành các thí nghiệm với áp suất cực cao cho thấy nền của lớp phủ có thể bao gồm một đại dương kim cương lỏng (liquid diamond) với các hạt "diamond-bergs" trôi nổi.
Lõi của Sao Hải Vương có thành phần bao gồm sắt, nikel và silicat, và có khối lượng theo mô hình hóa bằng 1,2 lần khối lượng Trái Đất. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Áp suất tại trung tâm lõi cao tới 7 Mbar (700 GPa), gấp hai lần áp suất tại tâm của Trái Đất, và nhiệt độ đạt 5.400 K.
Khí quyển.
Ở cao độ lớn, khí quyển Sao Hải Vương chứa 80% hydro và 19% heli. Cũng có một lượng nhỏ phân tử methan. Dấu vết của khí methan cũng được phát hiện khi các nhà khoa học quan sát thấy vạch quang phổ hấp thụ điển hình của methan ở bước sóng trên 600 nm, trong miền bước sóng đỏ và hồng ngoại. Methan trong khí quyển hấp thụ ánh sáng đỏ làm cho Sao Hải Vương hiện lên có màu xanh giống như Sao Thiên Vương. Tuy nhiên, màu xanh da trời sáng của Sao Hải Vương khác hẳn so với màu xanh lơ lạnh của Sao Thiên Vương. Do mật độ methan trong khí quyển của hai hành tương tương tự nhau nên người ta chưa biết thành phần nào trong khí quyển là nguyên nhân làm cho hai hành tinh có màu sắc khác nhau.
Khí quyển Sao Hải Vương chia ra thành hai vùng chính; tầng đối lưu phía dưới với nhiệt độ trong tầng này giảm theo cao độ, và tầng bình lưu phía trên với nhiệt độ tăng theo cao độ. Biên giới giữa hai vùng này được gọi là khoảng lặng đối lưu có áp suất là 0,1 bar (10 kPa). Tầng bình lưu chuyển dần thành tầng nhiệt ở áp suất từ 10−5 đến 10−4 microbar (1 đến 10 Pa). Tầng nhiệt chuyển dần sang tầng ngoài nơi tiếp giáp với không gian vũ trụ.
Các mô hình khí quyển cho rằng tầng đối lưu của Sao Hải Vương có những dải mây với nhiều thành phần thay đổi phụ thuộc vào cao độ của chúng. Những đám mây cao nhất hình thành ở áp suất dưới 1 bar, nơi nhiệt độ phù hợp cho khí methan ngưng tụ. Những vùng có mức áp suất từ 1 đến 5 bar (100 - 500 kPa) có thể hình thành các đám mây amonia và hydro sunfit. Với áp suất trên 5 bar, các đám mây có thể chứa amonia, amoni sulfide, hydro sunfit và nước. Các đám mây bằng nước hình thành ở độ sâu với mức áp suất 50 bar (5 MPa), nhiệt độ đạt 0 °C. Bên dưới mức này, cũng có thể có đám mây amonia và hydro sunfit.
Tàu "Voyager 2" đã chụp được ảnh các đám mây ở trên cao khí quyển Sao Hải Vương phủ bóng lên tầng mây mờ bên dưới. Có những dải mây ở độ cao lớn bao xung quanh hành tại một vĩ độ nhất định. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Chúng có bề rộng khoảng 50–150 km và cách các tầng mây thấp mờ khoảng 50–110 km. Những độ cao này lại nằm trên tầng đối lưu - tầng khí mà có các kiểu thời tiết đang diễn ra. Trên tầng bình lưu hoặc tầng thượng quyển không có sự hoạt động thời tiết.
Quang phổ của Sao Hải Vương cho thấy phía thấp của tầng bình lưu là đám sương mù chứa những phân tử ngưng tụ của quá trình quang ly methan, như các sản phẩm êtan và acetylen. Trong tầng bình lưu cũng có dấu vết của phân tử cacbon mônôxít và hydro xyanit. Nhiệt độ của tầng bình lưu trên Sao Hải Vương cao hơn nhiệt độ tầng bình lưu trên Sao Thiên Vương do có nhiều phân tử hydrocarbon tập trung hơn.
Tầng nhiệt có nhiệt độ cao bất thường lên tới 750 K do một nguyên nhân chưa rõ. Sao Hải Vương nằm quá xa Mặt Trời để bức xạ tử ngoại từ nó có thể làm nóng tầng này. Một giả thuyết cho cơ chế làm nóng là sự tương tác của các ion trong khí quyển với từ trường của hành tinh. Giả thuyết khác cho rằng sóng trọng lực (gravity wave, chú ý khác với sóng hấp dẫn-gravitational wave) xuất phát từ bên trong hành tinh tiêu tán nhiệt ra khí quyển của nó. Tầng nhiệt chứa lượng nhỏ cacbon dioxide và nước, có nguồn gốc từ bên ngoài như bụi vũ trụ hoặc mảnh vỡ của các thiên thạch.
Từ quyển.
Từ quyển của Sao Hải Vương giống với Sao Thiên Vương. Từ trường của nó nghiêng một góc lớn 47° so với trục tự quay và lệch ra khỏi tâm hành tinh 13.500 km (khoảng 0,55 lần bán kính). Trước khi "Voyager 2" bay qua Sao Hải Vương, người ta cho rằng trục từ quyển của Sao Thiên Vương bị nghiêng lớn là do trục tự quay của hành tinh nghiêng với góc lớn. Nhưng khi so sánh từ trường của hai hành tinh với nhau, các nhà khoa học nhận ra rằng hướng của trục từ trường được đặc trưng bởi các dòng chất lỏng bên trong các hành tinh. Từ trường có thể được sinh ra bởi sự đối lưu của các chất lỏng dẫn điện bên trong một lớp vỏ mỏng hình cầu (chất lỏng này có lẽ chứa amonia, methan và nước) tương tự như hoạt động của các dynamo phát điện.
Thành phần của mômen lưỡng cực từ của Sao Hải Vương tại xích đạo từ bằng 14 microtesla (0,14 G). |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Mô men lưỡng cực từ của Sao Hải Vương bằng 2,2 T•m³ (14 μT•"R""N"3, với "R""N" là bán kính của Sao Hải Vương). Từ trường của hành tinh này có dạng hình học phức tạp bao gồm sự phân bố tương đối lớn của thành phần phi lưỡng cực, trong đó có mô men tứ cực mà có thể vượt giá trị mô men từ lưỡng cực về độ lớn. Ngược lại Trái Đất, Sao Mộc và Sao Thổ có thành phần mô men tứ cực tương đối nhỏ, và trục từ trường của chúng hiện tại không lệch quá lớn so với trục tự quay hành tinh. Giá trị mô men tứ cực lớn của từ trường Sao Hải Vương có thể là do sự lệch khỏi tâm hành tinh của trục từ trường và sự giới hạn về mặt hình học của lớp vỏ dynamo hành tinh.
Vùng sốc hình cung (bow shock) của Sao Hải Vương, nơi từ quyển bắt đầu làm chậm gió Mặt Trời, xuất hiện ở khoảng cách 34,9 lần bán kính hành tinh. Vùng áp suất của gió Mặt Trời cân bằng với áp suất do từ trường (magnetopause), nằm ở khoảng cách 23–26,5 bán kính Sao Hải Vương. Đuôi của từ quyển mở rộng ít nhất tới 72 lần bán kính hành tinh, và thậm chí có thể xa hơn.
Vành đai hành tinh.
Sao Hải Vương cũng có một hệ thống vành đai hành tinh, mặc dù chúng mờ hơn nhiều so với vành đai Sao Thổ. Các vành đai chứa những hạt băng phủ với silicat hoặc vật liệu gốc cacbon, và là nguyên nhân chủ yếu khiến các vành đai có màu sắc đỏ. Ba vành đai chính là những vành hẹp gồm Vành Adams, cách tâm Sao Hải Vương 63.000 km, Vành Le Verrier cách 53.000 km, và một vành rộng hơn nhưng mờ hơn là Vành Galle, cách tâm hành tinh 42.000 km. Phía bên ngoài Vành Le Verrier có một vành mờ là Vành Lassell; và một vành bên ngoài nó ở khoảng cách 57.000 km là Vành Arago.
Vành đai đầu tiên được phát hiện vào năm 1968 bởi một nhóm nghiên cứu do Edward Guinan đứng đầu. Nhưng lúc đó họ chỉ quan sát thấy một vành mờ, và không nhận ra một hệ thống vành đai đầy đủ. Năm 1984, xuất hiện những chứng cứ rõ ràng hơn cho thấy phải có những khoảng trống giữa các vành đai. Các nhà khoa học vẫn quan sát thấy ánh sáng của một ngôi sao ở xa trong khi đáng lẽ nó phải bị che khuất bởi các vành đai. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Năm 1989, vấn đề được sảng tỏ khi tàu "Voyager 2" năm 1989 chụp được ảnh các vành đai mờ bao quanh Sao Hải Vương. Những vành đai này có cấu trúc kết tụ các hạt vật chất lại thành một khối, mà người ta vẫn chưa hiểu là do nguyên nhân gì nhưng có thể là do tương tác hấp dẫn với những vệ tinh nhỏ gần các vành đai này.
Vành Adams ngoài cùng chứa năm cung sáng nổi bật đặt tên là "Courage", "Liberté", "Egalité 1", "Egalité 2" và "Fraternité" (Can đảm, Tự do, Công bằng và Bác ái). Sự tồn tại của những cung này rất khó giải thích bởi vì theo những định luật chuyển động của cơ học thiên thể tiên đoán chúng sẽ tản ra để trở thành một vành đai với mật độ đồng nhất trong một khoảng thời gian ngắn. Các nhà thiên văn học tin rằng những cung này duy trì được hình dạng hiện nay là do ảnh hưởng hấp dẫn của vệ tinh Galatea nằm ngay phía trong những cung vành đai này.
Những quan sát từ mặt đất năm 2005 cho thấy hệ thống vành đai Sao Hải Vương bất ổn định hơn so với suy nghĩ trước đó. Ảnh chụp từ Đài quan sát W. M. Keck trong các năm 2002 và 2003 cho thấy sự tan rã đáng kể trong các vành đai khi so sánh ảnh chụp của chúng từ tàu "Voyager 2" năm 1989. Đặc biệt, dường như cung "Liberté" đã biến mất trong thời gian ngắn khoảng 1 thế kỷ.
Khí hậu.
Một trong những sự khác nhau giữa Sao Hải Vương và Sao Thiên Vương đó là mức độ của các hiện tượng khí hậu trên hai hành tinh. Khi tàu "Voyager 2" bay qua Sao Thiên Vương năm 1986, qua bước sóng khả kiến hành tinh này hiện lên hầu như đồng màu và tĩnh lặng. Ngược lại Sao Hải Vương lại có những hoạt động mạnh trong tầng khí quyển khi "Voyager 2" bay qua từ năm 1989.
Thời tiết trên Sao Hải Vương được đặc trưng bởi hệ thống những cơn bão cực mạnh, với tốc độ gió có khi lên tới gần 600 m/s— gần đạt tới tốc độ siêu thanh đối với dòng khí. Khi theo dõi chuyển động của những đám mây vĩnh cửu, tốc độ gió thay đổi từ 20 m/s theo hướng đông sang 325 m/s theo hướng tây. Ở những đám mây trên cao, tốc độ gió biến đổi từ 400 m/s dọc xích đạo và còn 250 m/s tại hai cực. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Hầu hết gió trên Sao Hải Vương thổi theo hướng ngược với chiều quay của hành tinh. Và miền gió thổi theo hướng cùng chiều với chiều tự quay hành tinh ở những vĩ độ cao, ngược lại gió thổi theo hướng nghịch chiều quay tại vĩ độ thấp và xích đạo. Sự khác nhau trong hướng gió thổi được cho là do hiệu ứng bề mặt và không phải do cơ chế hoạt động khí quyển ở phía dưới sâu. Tại vĩ độ 70° Nam, tồn tại một luồng gió thổi với tốc độ 300 m/s.
Sự phong phú của methan, ethan và axetylen ở vùng xích đạo của Sao Hải Vương nhiều hơn ở vùng cực 10-100 lần. Điều này được xem là bằng chứng cho việc bị dâng lên ở xích đạo và sụt gần các cực bởi vì các quá trình quang hóa không thể giải thích cho sự phân bố mà không có hiện tượng đối lưu vùng kinh tuyến.
Năm 2007, phía trên tầng đối lưu của cực Nam Sao Hải Vương được phát hiện có nhiệt độ cao hơn 10 °C so với phần còn lại của Sao Hải Vương, với nhiệt độ trung bình xấp xỉ . Sự chênh lệch nhiệt độ là đủ để khí methan nằm ở vùng nhiệt độ lạnh trong thượng quyển Sao Hải Vương, có khả năng rò ra ngoài không gian vũ trụ thông qua cực nam. "Điểm nóng tương đối" này là do ảnh hưởng độ nghiêng trục quay của Sao Hải Vương, làm cho vùng cực nam hành tinh phơi dưới ánh sáng Mặt Trời trong một phần tư "năm Sao Hải Vương", hay gần 40 năm Trái Đất. Khi Sao Hải Vương di chuyển chậm dần về phía đối diện, vùng cực nam của nó sẽ bị tối đi và vùng cực bắc được chiếu sáng, và dần dần làm cho methan thoát ra khỏi hành tinh thông qua vùng cực bắc.
Do sự thay đổi theo mùa, nên những dải mây ở bán cầu nam hành tinh này tăng dần theo kích cỡ và suất phản chiếu. Hiện tượng này lần đầu tiên được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1980 và được dự báo sẽ kéo dài đến năm 2020. Chu kỳ quỹ đạo lớn của Sao Hải Vương cũng làm cho các mùa trên hành tinh này diễn ra trong bốn mươi năm.
Bão trên Sao Hải Vương.
Năm 1989, Vết Tối Lớn, một cơn bão xoáy nghịch với diện tích 13000×6600 km được tàu "Voyager 2" phát hiện. Cơn bão này có dạng giống với Vết Đỏ Lớn của Sao Mộc. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | 5 năm sau, ngày 2 tháng 11 năm 1994, kính thiên văn không gian Hubble không nhìn thấy Vết Tối Lớn trên khí quyển hành tinh. Thay vào đó, một cơn bão tương tự như Vết Tối Lớn xuất hiện ở bán cầu bắc hành tinh.
"Scooter", tên gọi của một cơn bão khác, là một nhóm các đám mây trắng ở phía nam của Vết Tối Lớn. Nó được đặt tên như vậy là do khi lần đầu tiên được phát hiện ra vài tháng trước khi "Voyager 2" bay quan hành tinh năm 1989, người ta nhận thấy nó di chuyển nhanh hơn Vết Tối Lớn. Những bức ảnh chụp sau đó cho thấy còn có những đám mây di chuyển nhanh hơn nữa. Vết Tối Nhỏ là một cơn bão xoáy thuận ở bán cầu nam, cơn bão mạnh thứ hai được quan sát trong lần bay qua năm 1989. Ban đầu cơn bão này hoàn toàn tối màu, nhưng khi "Voyager 2" tiếp cận hành tinh, nó đã phát hiện ra cơn bão hình thành một trung tâm sáng và có thể nhìn thấy trong đa số những bức ảnh có độ phân giải cao. Năm 2018, một vết tối mới hơn và nhỏ hơn đã được xác định và nghiên cứu kỹ.
Những vết tối xuất hiện trong tầng đối lưu ở cao độ thấp hơn so với các đám mây sáng trong khí quyển Sao Hải Vương, do vậy chúng hiện lên như là những lỗ tối của tầng mây cao hơn. Chúng là những đặc điểm ổn định có thể tồn tại trong vài tháng, và có cấu trúc xoáy cuộn khí. Thường đi kèm với những vết tối là những đám mây methan vĩnh cửu, sáng hơn hình thành xung quanh tầng đối lưu. Sự luôn xuất hiện những đám mây đồng hành chỉ ra rằng những vết tối trước đó có thể tiếp tục tồn tại như là một xoáy thuận khí quyển ngay cả khi chúng không còn hiện lên là một đặc điểm tối nữa. Những vết tối có thể tiêu tan khi chúng tiến quá gần đến vùng xích đạo hoặc thông qua một cơ chế bí ẩn chưa được khám phá.
Nội nhiệt.
Sao Hải Vương có sự hoạt động trong khí quyển mạnh hơn so với trên Sao Thiên Vương. Nguyên nhân được cho là nội nhiệt trong hành tinh cao hơn so với Sao Thiên Vương. Mặc dù Sao Hải Vương nằm xa Mặt Trời hơn so với Sao Thiên Vương, nó chỉ hấp thụ được 40% lượng ánh sáng Mặt Trời, nhưng nhiệt độ bề mặt trên hai hành tinh lại xấp xỉ bằng nhau. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Vùng bên trên tầng đối lưu của Sao Hải Vương có nhiệt độ thấp . Ở độ sâu nơi áp suất khí quyển bằng , nhiệt độ tại đây bằng . Sâu dưới bên trong tầng khí, nhiệt độ tăng dần theo độ sâu. Cũng giống như Sao Thiên Vương, nguồn gốc sinh ra nhiệt này chưa được làm rõ. Tuy nhiên giữa hai hành tinh có sự khác biệt lớn: Sao Thiên Vương chỉ phát ra 1,1 lần năng lượng nó nhận được từ bức xạ của Mặt Trời; trong khi Sao Hải Vương phát ra năng lượng cao gấp 2,61 lần lượng năng lượng nó nhận từ Mặt Trời. Nó là hành tinh xa Mặt Trời nhất và chỉ nhận được 40% lượng ánh sáng Mặt Trời, do vậy năng lượng tạo ra những cơn gió mạnh nhất trong Hệ Mặt Trời trên khí quyển hành tinh phải đến từ bên trong hành tinh này. Có một số cơ chế giải thích được đề xuất, bao gồm quá trình tiêu tán nhiệt từ lõi hành tinh, sự chuyển đổi của methan dưới áp suất cao thành hydro, kim cương và những hydrocarbon mạch dài hơn (hydro nhẹ nhất có thể bay lên, trong khi kim cương thì chìm xuống, giải phóng thế năng hấp dẫn thành nhiệt thông qua định luật bảo toàn năng lượng), và quá trình đối lưu trong tầng thấp khí quyển làm cho sóng trọng lực phá vỡ tầng đối lưu.
Quỹ đạo và sự tự quay.
Khoảng cách trung bình giữa Sao Hải Vương và Mặt Trời là 4,5 tỷ km (khoảng 30,1 AU), và chu kỳ quỹ đạo bằng 164,79 năm Trái Đất thay đổi trong khoảng ±0,1 năm.
Ngày 11 tháng 7 năm 2011, Sao Hải Vương đã hoàn thành hết một vòng quỹ đạo quanh khối tâm với Mặt Trời kể từ khi phát hiện ra hành tinh năm 1846. Nó không xuất hiện tại đúng vị trí trên bầu trời lúc nó được phát hiện bởi vì Trái Đất đã ở vị trí khác trong quỹ đạo 365,25 ngày. Do Mặt Trời cũng chuyển động so với khối tâm của toàn Hệ Mặt Trời nên ngày 11 tháng 7 Sao Hải Vương cũng không ở vị trí chính xác tương đối so với Mặt Trời ở thời điểm phát hiện ra nó. Nếu chúng ta sử dụng hệ tọa độ có Mặt Trời tại tâm, thì ngày hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo của Sao Hải Vương là 12 tháng 7 năm 2011.
Mặt phẳng quỹ đạo elip của Sao Hải Vương nghiêng 1,77° so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Do độ lệch tâm quỹ đạo của nó bằng 0,011 nên khoảng cách tới Mặt Trời thay đổi trong phạm vi 101 triệu km giữa cận điểm và viễn điểm quỹ đạo.
Trục tự quay của Sao Hải Vương nghiêng 28,32°, xấp xỉ gần bằng so với của Trái Đất (23°) và Sao Hỏa (25°). Vì thế nó là hành tinh có sự thay đổi thời tiết giữa các mùa. Do chu kỳ quỹ đạo lớn, cho nên mỗi mùa của hành tinh diễn ra trong vòng 40 năm Trái Đất. Chu kỳ sao (ngày) của hành tinh gần bằng 16,11 giờ. Do trục quay hành tinh nghiêng tương tự như của Trái Đất, sự biến đổi trong thời gian của một "ngày" Sao Hải Vương không thay đổi đáng kể trong một "năm" của hành tinh.
Bởi vì Sao Hải Vương không phải là một quả cầu rắn, bầu khí quyển của nó thể hiện sự quay vi sai. Vùng xích đạo của khí quyển có chu kỳ quay 18 giờ, chậm hơn chu kỳ quay 16,1 giờ của từ trường hành tinh. Ngược lại, chu kỳ quay của hai vùng cực bằng 12 giờ. Sự khác nhau trong chu kỳ quay của khí quyển giữa các vùng là nổi bật nhất trong khí quyển của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, và kết quả của sự khác biệt này đó là áp lực cắt của gió dọc theo vĩ độ là rất lớn.
Trong năm 2020, Sao Hải Vương ở vào vị trí xung đối (gần Trái Đất nhất) vào ngày 11 tháng 9.
Cộng hưởng quỹ đạo.
Quỹ đạo của Sao Hải Vương có ảnh hưởng lớn đến những vùng bên ngoài quỹ đạo hành tinh này, như vành đai Kuiper. Vành đai Kuiper là một khu vực bao gồm những thiên thạch băng nhỏ, tiểu hành tinh tương tự như vành đai tiểu hành tinh nhưng ở xa hơn, nằm ở phạm vi từ quỹ đạo Sao Hải Vương 30 AU cho đến bán kính 55 AU tính từ Mặt Trời. Tương tụ như ảnh hưởng hấp dẫn của Sao Mộc lên cấu trúc của vành đai tiểu hành tinh, lực hấp dẫn của Sao Hải Vương cũng thống trị vành đai Kuiper. Theo thời gian, những vùng trong vành đai Kuiper trở lên mất ổn định bởi lực hút từ Sao Hải Vương, dần dần tạo ra những khoảng trống trong cấu trúc vành đai Kuiper. Ví dụ như vùng có phạm vi 40 và 42 AU.
Cũng tồn tại những quỹ đạo bên trong những vùng trống này nơi các vật thể có thể tồn tại lâu theo thời gian của Hệ Mặt Trời. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Những quỹ đạo cộng hưởng xuất hiện khi chu kỳ quỹ đạo của Sao Hải Vương bằng tỷ lệ chính xác với chu kỳ quỹ đạo của vật thể đó, như 1:2 hoặc 3:4. Hay, nếu một vật thể quay quanh được một vòng quanh Mặt Trời thì Sao Hải Vương đã quay được 2 vòng, và như vậy vật thể đó chỉ hoàn thành được một nửa quỹ đạo khi Sao Hải Vương hoàn thành 1 chu kỳ quỹ đạo của nó. Tỷ số cộng hưởng mà nhiều vật thể trong vành đai Kuiper có quỹ đạo cộng hưởng với Sao Hải Vương, với trên 200 vật thể đã biết trong vành đai, là cộng hưởng 2:3. Những vật theo cộng hưởng này sẽ hoàn thành 2 vòng quỹ đạo khi Sao Hải Vương hoàn thành 3 vòng quỹ đạo, và các nhà khoa học phân loại những vật thể này vào nhóm plutino bởi vì thiên thể lớn nhất trong nhóm này của vành đai Kuiper là Pluto. Mặc dù quỹ đạo của Pluto cắt qua quỹ đạo của Sao Hải Vương, cộng hưởng 2:3 đảm bảo rằng chúng không bao giờ va chạm vào nhau. Cũng tồn tại những quỹ đạo cộng hưởng 3:4, 3:5, 4:7 và 2:5 nhưng có ít vật thể có quỹ đạo với tỷ số cộng hưởng này.
Sao Hải Vương có một số thiên thể Troia nằm ở điểm Lagrange L4 và L5 trong hệ Sao Hải Vương—Mặt Trời, vùng cân bằng bền của trường lực hấp dẫn đi trước và sau hành tinh trên cùng quỹ đạo của nó. Các thiên thể Troia của Sao Hải Vương có thể coi là những thiên thể có cộng hưởng quỹ đạo 1:1 với Sao Hải Vương. Một số thiên thể Troia tồn tại rất ổn định trong quỹ đạo của chúng, và dường như là đã hình thành cùng với Sao Hải Vương hơn là bị hành tinh này bắt giữ. Vật thể đầu tiên tồn tại ở điểm Lagrange L5 đi theo sau Sao Hải Vương là 2008 LC18. Sao Hải Vương cũng có những vệ tinh giả tạm thời như, . Vật thể này trở thành vệ tinh giả của Sao Hải Vương trong 12.500 năm trước và có lẽ sẽ tồn tại trong trạng thái như vậy trong 12.500 năm nữa. Nó có thể là một vật thể bị bắt giữ.
Sự hình thành và di trú.
Sự hình thành các hành tinh băng đá khổng lồ, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, mà các nhà khoa học rất khó có thể mô hình hóa một cách chính xác. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Những mô hình hiện tại chỉ ra mật độ vật chất ở vùng bên ngoài Hệ Mặt Trời là quá thấp để hình thành lên những vật thể lớn từ phương pháp truyền thống chấp nhận bởi đa số đó là lõi bồi tụ, và người ta đã đưa ra nhiều giả thuyết nhằm giải thích sự hình thành của các hành tinh băng đá. Một giả thuyết đó là các hành tinh này không tạo ra từ sự bồi tụ lõi mà từ quá trình bất ổn định bên trong đĩa tiền hành tinh nguyên thủy, và sau đó bầu khí quyển của chúng bị bức xạ mạnh của những ngôi sao OB thổi bay đi (khi Hệ Mặt Trời hình thành, nó ở trong một đám mây phân tử mà xung quanh có rất nhiều ngôi sao mới đã và đang hình thành, theo thời gian Mặt Trời quay quanh Ngân Hà và dần rời xa đám mây nguyên thủy này).
Một giả thuyết khác đó là các hành tinh băng đá hình thành gần Mặt Trời hơn, nơi có mật độ vật chất cao hơn, và sau đó hành tinh di trú ra quỹ đạo bên ngoài như hiện tại sau khi đã lấy đi khí trong đĩa tiền hành tinh nguyên thủy. Các nhà thiên văn cũng rất quan tâm tới giả thuyết di trú hành tinh, bởi vì khả năng của mô hình giải thích tốt hơn sự có mặt của nhiều vật thể nhỏ trong vùng ngoài quỹ đạo Sao Hải Vương. Mô hình hiện tại được chấp nhận nhiều nhất trong giải thích chi tiết sự hình thành các hành tinh băng đá đó là mô hình Nice, nó giải thích sự di trú của Sao Hải Vương và những hành tinh khí khổng lồ khác cũng như cấu trúc của vành đai Kuiper.
Vệ tinh.
Sao Hải Vương có 14 vệ tinh đã biết. Vệ tinh lớn nhất của nó, Triton chiếm hơn 99,5% khối lượng của toàn bộ các vật thể quay quanh Sao Hải Vương và là vệ tinh duy nhất có hình cầu. Triton do nhà thiên văn học William Lassell phát hiện ra chỉ 17 ngày sau khi Galle và d'Arrest phát hiện Sao Hải Vương. Không giống như những vệ tinh lớn trên các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời, Triton chuyển động trên quỹ đạo có hướng ngược với chiều tự quay của Sao Hải Vương (quỹ đạo nghịch hành), và có khả năng nó bị hành tinh bắt giữ hơn là hình thành cùng với Sao Hải Vương; vệ tinh này có thể từng là một hành tinh lùn trong vành đai Kuiper. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Quỹ đạo Triton rất gần với Sao Hải Vương khiến nó bị khóa quay đồng bộ (tự quay quanh trục), và đang rơi xoắn ốc chậm dần về phía hành tinh do gia tốc thủy triều. Cuối cùng vệ tinh này sẽ bị vỡ nát trong khoảng 3,6 tỷ năm nữa, khi quỹ đạo của nó đến giới hạn Roche, nơi lực thủy triều của hành tinh xé nát Triton ra. Năm 1989, Triton là vệ tinh lạnh nhất trong Hệ Mặt Trời từng được đo, với nhiệt độ bề mặt của nó bằng .
Vệ tinh thứ hai của Sao Hải Vương (theo thứ tự phát hiện), là vệ tinh dị hình Nereid, với quỹ đạo là một trong những quỹ đạo lệch tâm nhất trong các vệ tinh của các hành tinh thuộc Hệ Mặt Trời. Độ lệch tâm quỹ đạo 0,7512 khiến viễn điểm quỹ đạo bằng 7 lần cận điểm quỹ đạo tính tới Sao Hải Vương.
Từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1989, "Voyager 2" phát hiện ra sáu vệ tinh mới của Sao Hải Vương. Trong số chúng, nổi bật là vệ tinh dị hình Proteus với khối lượng không đủ để nó có dạng hình cầu. Tuy nó là vệ tinh có khối lượng lớn thứ hai của Sao Hải Vương, nhưng khối lượng chỉ bằng 0,25% khối lượng Triton. Bốn vệ tinh trong cùng của hành tinh—Naiad, Thalassa, Despina và Galatea— có quỹ đạo nằm trong các vành đai của Sao Hải Vương. Vệ tinh nằm xa nhất, Larissa, khám phá từ năm 1981 khi nó che khuất một ngôi sao. Sự che khuất này cũng khiến các nhà thiên văn cho rằng họ đã phát hiện ra thêm một cung vành đai, nhưng khi "Voyager 2" bay qua Sao Hải Vương năm 1989, thì cung vành đai này là do vệ tinh Larissa gây ra. 5 vệ tinh dị hình mới phát hiện trong các năm 2002 và 2003 được công bố vào năm 2004. Do hành tinh mang tên vị thần biển cả của người La Mã, tên gọi các vệ tinh của nó cũng mang tên các vị thần biển khác.
Vệ tinh mới nhất và nhỏ nhất, Hippocamp, được kính thiên văn Hubble phát hiện vào năm 2013 có đường kính nhỏ hơn 20 km.
Quan sát.
Sao Hải Vương không thể quan sát bằng mắt thường được, với cấp biểu kiến +7,7 đến +8.0, và hành tinh sáng hơn các vệ tinh Galileo của Sao Mộc, hành tinh lùn Ceres và các tiểu hành tinh 4 Vesta, 2 Pallas, 7 Iris, 3 Juno và 6 Hebe. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Một kính thiên văn hoặc một ống nhòm mạnh có thể phân giải Sao Hải Vương thành một đĩa xanh nhỏ, nhìn giống như Sao Thiên Vương.
Bởi vì khoảng cách từ Trái Đất đến hành tinh rất xa, đường kính góc của hành tinh có giá trị trong phạm vi 2,2 đến 2,4 giây cung, giá trị nhỏ nhất đối với các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Kích cỡ biểu kiến nhỏ của hành tinh là một thử thách lớn cho những nghiên cứu từ mặt đất. Hầu hết các kính thiên văn bị giới hạn trong khả năng quan sát cho đến khi các nhà thiên văn có kính thiên văn không gian Hubble và những kính thiên văn mặt đất cỡ lớn khác với công nghệ quang học thích nghi.
Từ Trái Đất, Sao Hải Vương hiện lên trên bầu trời với chuyền động ngược sau mỗi 367 ngày, kết quả của một vòng chuyển động của Trái Đất, và khi nhìn từ mặt đất chúng ta thấy hành tinh chuyển động ngược lại so với các sao cố định sau mỗi lần xung đối với Trái Đất. Sao Hải Vương ở rất gần những vòng này vào năm khám phá 1846 cũng như vào tháng 10 và tháng 11 năm 2011.
Quan trắc Sao Hải Vương qua bước sóng vô tuyến cho thấy hành tinh là một nguồn phát ra những bức xạ vô tuyến và cả những chớp vô tuyến dị thường. Nguyên nhân phát ra những bức xạ vô tuyến này là từ trường quay của hành tinh. Trong dải phổ hồng ngoại, những cơn bão trên khí quyển Sao Hải Vương sáng hơn hẳn những tầng mây lạnh xung quanh, và cho phép các nhà thiên văn đo được hình dạng và kích thước của những cơn bão.
Thăm dò.
"Voyager 2" tiếp cận Sao Hải Vương gần nhất vào ngày 25 tháng 8 năm 1989. Do đây là hành tinh lớn cuối cùng mà con tàu viếng thăm, các nhà quản lý chương trình quyết định cho con tàu bay qua vệ tinh Triton, vì họ không cần phải tính đến quỹ đạo tàu sau đó như thế nào, tương tự như tàu "Voyager 1" bay qua Sao Thổ và thực hiện chuyến bay qua vệ tinh Titan. Những bức ảnh "Voyager 2" gửi về Trái Đất trở thành nội dung chính cho một chương trình của đài PBS, "Neptune All Night".
Trong giai đoạn bay qua, tín hiệu từ "Voyager 2" cần 246 phút để tới được Trái Đất. |
Sao Hải Vương | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2774 | Do vậy, đa số tiến trình thực hiện của tàu là đã được lập trình sẵn trước đó từ mặt đất và gửi lên qua mạng lưới truyền tin không gian trước khi con tàu bay qua Sao Hải Vương. "Voyager 2" cũng bay gần vệ tinh Nereid trước khi cách tầng trên khí quyển hành tinh ở khoảng cách 4.400 km vào ngày 25 tháng 8, và sau đó nó bay qua vệ tinh lớn nhất Triton trong cùng ngày.
"Voyager 2" cũng đo được từ trường bao quanh hành tinh và phát hiện ra trục từ trường lệch khỏi tâm Sao Hải Vương và nghiêng tương tự như trục từ trường của Sao Thiên Vương. Vấn đề chu kỳ tự quay của hành tinh cũng được xác định bằng cách đo chu kỳ phát ra bức xạ vô tuyến từ Sao Hải Vương. "Voyager 2" cũng cho thấy hành tinh có bầu khí quyển hoạt động rất mạnh mẽ. Con tàu phát hiện ra thêm 6 vệ tinh mới, và thêm một vành đai mới.
Năm 2003, có một đề xuất trong Kế hoạch các phi vụ trong tương lai của NASA nhằm phóng một tàu quỹ đạo Sao Hải Vương mang theo một thiết bị thăm dò khí quyển giống như phi vụ "Cassini". Chương trình do Phòng thí nghiệm sức đẩy phản lực JPL và Học viện công nghệ California hợp tác thực hiện, nhưng dự án đã không được phê chuẩn. |
Sếu đầu đỏ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2783 | Sếu đầu đỏ, hay còn gọi là sếu cổ trụi, danh pháp ba phần: "Grus antigone sharpii", là một phân loài của loài sếu sarus. Đây là phân loài chim quý hiếm tại miền nam Việt Nam, nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ IUCN thế giới.
Kích thước và hình dạng.
Sếu đầu đỏ phương Đông trưởng thành cao khoảng 150–180 cm; sải cánh từ 220–250 cm và có trọng lượng trung bình 8–10 kg, là loài lớn nhất trong họ sếu.
Chim trưởng thành đầu và trên cổ trụi lông, trừ một đám màu xám ở má. Họng và vòng bao quanh gáy có ít lông đen. Dưới cổ và toàn bộ lông còn lại màu xám ngọc trai. Cánh con, lông bao quanh cánh sơ cấp và lông cánh sơ cấp đen. Mắt vàng cam. Mỏ xám lục nhạt. Chân đỏ thịt. Da trần ở đỉnh đầu và trước mắt lục xám. Da trần ở đầu và cổ màu đỏ. Khác với loài phụ Ấn Độ (G. a. antigone) có kích thước nhỏ hơn và thiếu vòng trắng ở cổ. Lông cánh tam cấp trắng ở loài phụ Ấn Độ và xám ở loài phụ này ở chim non đầu và cổ có phủ lông nhỏ màu vàng xỉn.
Chế độ ăn.
Chúng có chế độ ăn tạp, có thể ăn các thức ăn thô thường gặp tại đầm lầy và các vùng nước nông như rễ, củ cây, côn trùng, động vật giáp xác và một số loài thú có vú nhỏ.
Sinh sản.
Chúng sinh sản mỗi năm một lần, vào tháng 7 - 10 (mùa mưa). Mỗi năm một lứa, mỗi lứa 2 trứng, thường chỉ nuôi được một con. Tổ làm trên mặt đất bằng xác thực vật thủy sinh. Mỗi cặp sếu đầu đỏ khi kết đôi sẽ sống với nhau trọn vẹn cả đời. Khi một con mất đi, con còn lại sẽ thủy chung và thậm chí "tuyệt thực" để đi theo bạn đời.
Sinh thái và phân bố.
Đầm lầy, các vùng nước nông, các vùng đất ngập nước chua phèn có nhiều cỏ năn. Chúng ăn củ cỏ năn kim và năn ống. đào củ bằng mỏ. Ngoài ra còn ăn cả côn trùng, cá nhỏ, ếch nhái và đôi khi cả chuột. Nơi làm tổ thường có xen những cây thân gỗ như tràm hoặc các cây thân gỗ ngập nước khác để có bóng mát cho trứng trong thời gian ấp trứng. |
Sếu đầu đỏ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2783 | Những cánh rừng khô thuộc khu vực trung tâm Đông Nam Á là nơi cư ngụ của loài Sếu đầu đỏ phương Đông, từng có thời phân bố rộng rãi tại các khu đất ngập nước của Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Vân Nam. Ước tính, hiện nay chỉ còn khoảng 1.000 cá thể tại vùng Đông Nam Á này.
Sự đe dọa.
Sếu đầu đỏ là một loài chim quý hiếm, được bảo vệ bởi pháp luật của hầu hết các quốc gia nơi chúng phân bố, trong đó có Việt Nam. Mối đe doạ lớn nhất đối với loài này, đặc biệt tại Việt Nam là sinh cảnh sống bị thu hẹp, nguồn thức ăn bị hạn chế do những thay đổi về sinh cảnh. Biến đổi khí hậu cùng những tác động không lường trước tới sinh cảnh của chúng cũng là một mối đe doạ cho loài này. Ngoài ra, một mối đe doạ ít phổ biến hơn tại Việt Nam là việc buôn bán bất hợp pháp trứng, chim non và chim trưởng thành hoặc săn bắt trứng và sếu để làm thức ăn.
Bảo tồn.
Tại Việt Nam, những năm gần đây, Sếu đầu đỏ đã trở lại vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn do sinh cảnh đất ngập nước nơi đây đã được phục hồi gần với điều kiện tự nhiên trước đây, giúp cho các bãi thức ăn của chúng phát triển trở lại. Hàng năm, có khoảng gần 20 cá thể xuất hiện tại khu vực này.
Vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn từng là nơi cư trú của Sếu đầu đỏ tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc quản lý chế độ thủy văn để phòng cháy chữa cháy đã khiến cho sinh cảnh khu vực này bị thay đổi, dẫn đến nguồn thức ăn của Sếu đầu đỏ bị hạn chế. Loài chim này hầu như biến mất khỏi khu vực những năm đó. Kể từ năm 2007, WWF đã triển khai nhiều hoạt động nhằm phục hồi sinh cảnh tại Vườn quốc gia Tràm Chim, một phần của Đồng Tháp Mười, gần giống với điều kiện tự nhiên xưa. Sau vài năm thực hiện hoạt động, nguồn thức ăn của sếu – cỏ năng – đã phát triển trở lại. Vườn đã ghi nhận sự trở lại của loài Sếu quý hiếm này trong những năm gần đây. Tiếp nối thành công đã đạt được, WWF hiện đang triển khai các hoạt động tương tự tại khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen, khu đất ngập nước còn lại của vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn xưa kia. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tây Hạ (chữ Hán: 西夏, bính âm: "Xī Xià"; chữ Tây Hạ: hoặc ) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể của Tây Hạ là người Đảng Hạng, ngoài ra còn có người Hán, người Hồi Cốt, người Thổ Phồn. Do triều đại này nằm ở Tây Bắc của khu vực Trung Quốc nên được sử sách chữ Hán gọi là "Tây Hạ".
Người Đảng Hạng vốn cư trú trên cao nguyên Tùng Phan ở Tứ Xuyên, đến thời Đường thì dời đến Thiểm Bắc. Do người Đảng Hạng có công bình loạn giúp triều đình, được hoàng đế Đường phong là Hà châu Tiết độ sứ, trước sau thần phục Đường, các triều Ngũ Đại và Tống. Sau khi chính quyền Hạ châu bị Bắc Tống thôn tính, Lý Kế Thiên không muốn đầu hàng nên một lần nữa dựng nước, nhận được sắc phong của Hoàng đế triều Liêu. Lý Kế Thiên chọn sách lược liên kết với Liêu chống Tống, liên tiếp chiếm lĩnh được khu vực Lan châu và Hà Tây tẩu lang. Năm 1038, Lý Nguyên Hạo xưng đế dựng nước, tức Hạ Cảnh Tông, Tây Hạ chính thức dựng nước. Trong chiến tranh với Tống và với Liêu, Tây Hạ về cơ bản giành được thắng lợi, hình thành cục diện chân vạc ba nước. Sau khi Hạ Cảnh Tông qua đời, đại quyền nằm trong tay thái hậu và mẫu đảng, sử gọi là thời kỳ mẫu đảng chuyên chính. Do đối đầu giữa hoàng đảng và mẫu đảng, Tây Hạ phát sinh nội loạn, Bắc Tống thừa cơ nhiều lần đem quân đánh Tây Hạ. Tây Hạ phòng ngự thành công, đồng thời đánh tan quân Tống, song bị mất Hoành Sơn khiến cho tuyến phòng ngự của Tây Hạ xuất hiện lỗ hổng. Sau khi triều Kim của người Nữ Chân nổi lên rồi tiêu diệt Liêu và Bắc Tống, Tây Hạ chuyển sang thần phục Kim, thu được không ít đất đai, hai bên kiến lập "Kim-Hạ đồng minh" và nhìn chung có quan hệ hòa bình. Trong thời gian Hạ Nhân Tông Lý Nhân Hiếu trị vì, Tây Hạ xảy ra sự kiện thiên tai và "Nhâm Đắc Kính phân quốc", song sau khi trải qua cải cách, đến những năm Thiên Thịnh thì lại xuất hiện thịnh thế. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tuy nhiên, Đại Mông Cổ Quốc ở Mạc Bắc nổi lên, sáu lần đem quân xâm lược Tây Hạ, phá vỡ đồng minh giữa Tây Hạ và Kim, khiến Tây Hạ và Kim tàn sát lẫn nhau. Trong nội bộ Tây Hạ cũng nhiều lần diễn ra việc giết vua, nội loạn, kinh tế do hậu quả của chiến tranh mà tiến đến bờ sụp đổ. Cuối cùng, Tây Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227.
Tây Hạ có nền chính trị liên hiệp Phiên-Hán, lấy người Đảng Hạng làm chủ đạo, người Hán và các dân tộc khác là phụ. Chế độ chính trị lưỡng nguyên Phiên-Hán dần biến thành chế độ nhất nguyên hóa theo Hán pháp. Quyền vua Tây Hạ phải chịu sự cạnh tranh với các thế lực quý tộc, mẫu đảng hay quyền thần, cho nên hỗn loạn không ổn định. Tây Hạ nằm tại khu vực Hà Tây tẩu lang và Hà Sáo, ở giữa các thế lực hùng mạnh, do vậy triều đại này về mặt đối ngoại thì chọn sách lược dựa vào kẻ mạnh, công kích kẻ yếu, dùng chiến tranh để cầu hòa bình. Phương pháp quân sự của người Đảng Hạng rất linh hoạt, phối hợp với địa hình sa mạc, lựa chọn chiến thuật là tới khi thuận lợi, lui khi bất lợi, dụ địch đến nơi bố trí mai phục, cắt đứt đường vận chuyển lương thảo của địch; đồng thời có các binh chủng đặc thù như "thiết diêu tử", "bộ bạt tử", "bát hỉ" phụ trợ. Về mặt kinh tế, Ngành chăn nuôi và thương nghiệp là chủ yếu, mậu dịch đối ngoại của Tây Hạ dễ chịu ảnh hưởng từ triều đại Trung Nguyên, việc có thể lũng đoạn Hà Tây tẩu lang và tuế tệ của Bắc Tống khiến cho nền kinh tế Tây Hạ được hỗ trợ rất lớn.
Tây Hạ là một đất nước Phật giáo, cho xây dựng một lượng lớn chùa tháp, nổi tiếng nhất là "Thừa Thiên tự tháp". |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tuy vậy, Tây Hạ cũng là một quốc gia xem trọng Nho học và Hán pháp, trước khi dựng nước thì tích cực Hán hóa; tuy nhiên Hạ Cảnh Tông đề xướng văn hóa Đảng Hạng, Hồi Cốt và Thổ Phồn để duy trì bảo hộ văn hóa bản địa; đồng thời sáng lập ra chữ Tây Hạ, đặt ra hệ thống quan lại, tập quán riêng; song từ sau thời Hạ Nghị Tông đến Hạ Nhân Tông, Tây Hạ chuyển từ Phiên-Hán đồng hành sang Hán hóa toàn diện. Văn học Tây Hạ chủ yếu là thi ca và ngạn ngữ. Về nghệ thuật, tại hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng, hang Du Lâm ở Qua Châu có các bích họa về Phật giáo, với điểm đặc sắc "lục bích họa". Ngoài ra, về những mặt điêu khắc, âm nhạc hay vũ đạo, Tây Hạ cũng có đặc điểm độc đáo.
Lịch sử.
Thiên di và cát cứ Hạ châu.
Tây Hạ do người Đảng Hạng lập nên, tộc người này là một chi của người Khương, có thuyết thống Tiên Ti. Thời Đường, người Đảng Hạng cư trú tại khu vực cao nguyên Tùng Phan thuộc Tứ Xuyên ngày nay, là một trong các châu ki mi của triều Đường. Đương thời, người Đảng Hạng phân thành tám bộ, Thác Bạt thị là cường thịnh nhất. Thời trung Đường, Thổ Phồn khuếch trương lãnh thổ, áp bách người Đảng Hạng, triều đình Đường bang trợ thủ lĩnh Đảng Hạng đưa người dân thiên cư đến khu vực Thiểm Bắc, Năm 881, người thuộc Bình Hạ bộ là Thác Bạt Tư Cung do có công giúp Đường trấn áp loạn Hoàng Sào nên được Đường Hy Tông phong làm Hạ châu tiết độ sứ, hiệu là Định Nan quân. Sau khi Thác Bạt Tư Cung hiệp trợ triều đình thu phục Trường An, lại được hoàng đế Đường phong là Hạ quốc công, ban cho họ Lý, (của hoàng tộc triều Đường), được lĩnh vùng đất Hạ-Ngân chính quyền Hạ châu (tên gọi chính thức là Hạ châu tiết độ sử hoặc Định Nan quân) hình thành, trở thành một phiên trấn cát cứ ở Thiểm Bắc. Thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, chính quyền Hạ châu tránh tham gia vào các tranh đấu giữa những thế lực tại Trung Nguyên, xưng thần với Ngũ Đại và Bắc Hán để củng cố thế lực tại Thiểm Bắc. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Thời Hậu Đường, Hậu Đường Minh Tông Lý Tự Nguyên có ý muốn hoán đổi chức vụ của Đình châu Tiết độ sứ An Trọng Tiến và Hạ châu Tiết độ sứ Lý Di Siêu, mục đích là để thôn tính chính quyền Hạ châu. Tuy nhiên, Lý Di Siêu cực lực phản đối, cuối cùng đẩy lui được đội quân Hậu Đường do An Trọng Hối lãnh đạo, sang những năm đầu Bắc Tống thì chính quyền Hạ châu có được thực lực hùng hậu.
Sau khi Triệu Khuông Dận kiến lập triều Tống vào năm 960, thủ lĩnh chính quyền Hạ châu là Lý Di Ân xưng thần với Bắc Tống, đồng thời nhiều lần hiệp trợ Bắc Tống trong việc đối kháng với Bắc Hán. Sau khi Bắc Tống liên tiếp bình định các nước phương nam, Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa chuyển chú ý sang phương bắc, có ý muốn trừ bỏ chính quyền Hạ châu. Năm 982, Tống Thái Tông mời Hạ châu Tiết độ sứ Lý Kế Phủng và tộc nhân thiên cư đến Khai Phong, mệnh một người thân Tống là Lý Khắc Văn kế nhiệm, chính quyền Hạ châu bị Bắc Tống thôn tính. Tộc đệ của Lý Kế Phủng là Lý Kế Thiên không muốn đầu hàng triều đình Tống, đem tộc nhân chạy đến Địa Cân Trạch (nay là đông bắc Hoành Sơn, Thiểm Tây) để kháng Tống. Năm 984, triều đình Tống cử Doãn Hiến, Tào Quang Thật đi đánh quân Hạ. Năm sau, thế lực của Lý Kế Thiên mạnh lên, sau khi công phá quân Tống lại liên tiếp thu phục các lãnh địa Hạ châu. Năm 990, Lý Kế Thiên được Liêu Thánh Tông sắc phong là Hạ quốc vương, sau này được truy tôn là Hạ Thái Tổ. Triều đình Tống lựa chọn phương thức "lấy Di chế Di", phái Lý Kế Phủng hồi nhiệm Hạ châu, chiêu phủ Lý Kế Thiên nhậm chức tại Ngân châu, ban họ Triệu của hoàng tộc Tống cho hai người. Không lâu sau, Lý Kế Thiên lại phản lại triều đình, năm 996 đánh lui được 5 lộ đại quân dưới quyền tướng Tống Lý Kế Long. Sau khi củng cố lãnh địa Hạ châu, Lý Kế Thiên cố gắng mở rộng lãnh địa về phía tây đến khu vực Hà Tây, cuối cùng trong lần tiến công thứ ba vào năm 1002 thì đánh hạ được Linh châu (nay ở tây nam Linh Vũ, Ninh Hạ), đổi tên thành Tây Bình phủ. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Đến lúc này, triều đình Tống bất lực không thể vây chặn, năm sau phải thừa nhận Lý Kế Thiên nắm giữ lãnh địa Hạ châu. Lý Kế Thiên liên tiếp chiếm lĩnh các trọng trấn ở Hà Tây như Lương châu (nay là Vũ Uy, Cam Túc), đánh lui liên quân của Tống và Lục Cốc bộ Thổ Phồn. Năm 1004, Lý Kế Thiên qua đời do bị thủ lĩnh Phan La Chi của Lục Cốc bộ tập kích, con là Lý Đức Minh kế vị, sau được truy tôn là Hạ Thái Tông.
Lập quốc.
Sau khi Lý Đức Minh kế vị, do lãnh địa được bành trướng nhanh chóng, nhằm củng cố quốc lực để chống lại nước đối địch tứ phương nên có ý muốn hòa đàm với triều đình Tống. Ngoài ra, triều Tống sau khi ký kết Thiền Uyên chi minh với Liêu cũng muốn ổn định khu vực tây bắc. Năm 1006, hai bên ký kết "Cảnh Đức hòa nghị". Để duy trì nền độc lập, Lý Đức Minh hòa bình với Tống ở phía đông, tuân phục triều Liêu ở phía bắc, đồng thời cho con là Lý Nguyên Hạo kết hôn với Hưng Bình công chúa của Liêu. Về mặt đối nội, Lý Đức Minh định đô ở Hưng châu (nay ở đông nam Ngân Xuyên, Ninh Hạ), lựa chọn sách lược "bảo cảnh an dân", chú trọng sản xuất. Đồng thời, Lý Đức Minh cũng thỉnh cầu Bắc Tống lập "các trường" (chợ biên) tại Bảo An quân (trị sở nay là Chí Đan, Thiểm Tây) nhằm làm nơi mậu dịch giữa hai bên. Ngoài ra, Lý Đức Minh còn tích cực tây chinh Hà Tây, năm 1028 phái Lý Nguyên Hạo đem quân đánh hạ Cam châu (nay là Trương Dịch, Cam Túc), thủ lĩnh Cam Châu Hồi Cốt là Dạ Lạc Cách Thông tự sát, hàng phục thủ lĩnh Lục Cốc bộ là Chiết Bô Du Long Bát. Sau đó, quân Đảng Hạng lại đoạt được Túc châu, hàng phục Quy Nghĩa quân Tiết độ sứ Tào Hiền Thuận. Đến lúc này, quốc lực của chính quyền Hạ châu đã rất thịnh, tạo nên cơ sở vững chắc để Lý Nguyên Hạo xưng đế lập quốc sau này. Năm 1032, Lý Đức Minh qua đời, Lý Nguyên Hạo kế vị.
Sau khi kế vị, Lý Nguyên Hạo hoàn thành việc chiếm lĩnh Hà Tây tẩu lang, đồng thời tích cực chuẩn bị chính thức độc lập khỏi triều Tống. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Đầu tiên, ông bỏ họ Lý, tự xưng họ Ngôi Danh, tự xem mình là hậu duệ hoàng thất Bắc Ngụy. Lý Nguyên Hạo nghe theo kiến nghị của Dương Thủ Tố, lấy lý do là húy kỵ cha, cải niên hiệu triều Tống (Minh Đạo) sang niên hiệu riêng (Hiển Đạo). Sau đó, Lý Nguyên Hạo cho xây dựng cung điện, hạ "thốc phát lệnh" (lệnh tóc hói), khôi phục tục cũ, định đô tại Hưng Khánh phủ, thiết lập hai ban văn võ, lập quân danh, dùng binh chế, sáng tạo văn tự riêng, cải định lễ nhạc. Năm 1038, Lý Nguyên Hạ xưng đế, tức Hạ Cảnh Tông, định đô tại Hưng châu đồng thời đổi gọi là Hưng Khánh phủ, quốc hiệu là "Đại Hạ", đến lúc này thì Tây Hạ chính thức lập quốc. Hạ Cảnh Tông thoát ly quan hệ thần thuộc với Liêu và Tống. Để làm bá chủ ở phía tây, Lý Nguyên Hạo tiến hành mở rộng lãnh thổ ra bốn phía, trước sau khai chiến với Tống và Liêu, là giai đoạn đỉnh cao về vũ lực của Tây Hạ.
Năm sau, Hạ Cảnh Tông lựa chọn chiến lược 'liên Liêu kháng Tống', không ngừng cho quân xâm nhập biên cảnh Tống, đồng thời yêu cầu triều Tống thừa nhận Tây Hạ độc lập. Đương thời, Bắc Tống lập không ít thành lũy tại dãy núi Hoành Sơn, tuy nhiên khả năng phòng ngự của trọng trấn Diên châu ở phía đông lại mỏng yếu, tướng trấn thủ là Phạm Ung không có năng lực. Năm 1040, Hạ Cảnh Tông phát động trận Tam Xuyên Khẩu, xuất 10 vạn đại quân bao vây Diên châu, tập kích viện quân của tướng Tống Lưu Bình, Thạch Nguyên Tôn ở Tam Xuyên Khẩu, cuối cùng quân Hạ do gặp tuyết lớn nên giải vây và triệt thoái. Đối diện với việc Tây Hạ xâm nhập trên quy mô lớn, triều đình Tống phái Hạ Tủng làm "chính sứ", Hàn Kỳ và Phạm Trọng Yêm làm "phó sứ" kinh lược, tức đối phó với Tây Hạ. Đương thời, quân Tống có nhiều binh hơn Tây Hạ, song không giỏi dã chiến, việc tiếp tế cũng không dễ dàng, Hàn Kỳ chủ chiến còn Phạm Trọng Yêm thì chủ thủ nên tranh chấp không ngưng. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Năm 1041, Hạ Cảnh Tông phát động đại quân bao vây khu vực Vị Xuyên, Hoài Viễn ở biên giới phía tây của Tống, Hàn Kỳ không lắng nghe kiến nghị của Phạm Trọng Yêm, phái đại tướng Nhâm Phúc xuất đại quân cứu viện Hoài Viễn, Hạ Cảnh Tông dụ quân Tống đến chỗ mai phục rồi tập kích, tức trận Hảo Thủy Xuyên. Sau đó, triều đình Tống chuyển sách lược sang phòng ngự, cải phái Trần Chấp Trung, Hạ Tủng kinh lược, đồng thời lập ra bốn lộ phòng tuyến. Năm 1042, mưu thần của Tây Hạ là Trương Nguyên kiến nghị tránh phòng tuyến của Tống, đi đường vòng đánh úp Kinh Triệu phủ. Cùng năm, Hạ Cảnh Tông phát động trận Định Xuyên trại nhằm vào Kính Nguyên lộ của Tống, bao vây Định Xuyên trại và tiêu diệt toàn bộ quân Tống, mục tiêu là Trường An, song quân Tây Hạ bị Tri châu Nguyên châu Cảnh Thái của Tống chặn đứng nên phải bãi binh. Chiến tranh Tống-Hạ kéo dài đến năm 1044 mới thôi, hai bên ký kết "Khánh Lịch hòa nghị", triều Tống thừa nhận địa vị cát cứ của Tây Hạ, cấp cho nhiều tài vật và trà, phong Hạ Cảnh Tông là "Hạ quốc chủ". Tây Hạ xưng thần với Tống, chịu làm phiên thuộc chư hầu của Tống, song bên trong thì vẫn xưng đế như cũ, trên thực tế vẫn là một quốc gia độc lập.
Sau khi đánh bại triều Tống, Tây Hạ tự xưng là Tây triều, gọi Liêu là Bắc triều. Liêu Hưng Tông Da Luật Tông Chân bất mãn trước một Tây Hạ lớn mạnh, có ý đồ một lần nữa buộc nước này quy phục. Năm 1043, Liêu Hưng Tông lấy lý do người Đảng Hạng ở tây nam bộ của Liêu làm phản nương nhờ Tây Hạ, vào năm sau xuất đại quân đánh Tây Hạ. Tây Hạ cầu hòa bất thành, lựa chọn phương thức "kiên bích thanh dã" (lũy chắc đồng trống) mà đánh tan được quân Liêu. Sau khi Hạ Cảnh Tông qua đời vào năm 1048, quân Liêu thừa cơ tái xâm phạm Tây Hạ vào năm 1049, quân Tây Hạ tích cực kháng cự, cuối cùng hai bên hòa đàm. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Hạ Cảnh Tông kiến quốc, đồng thời thi hành thể chế trung ương tập quyền, mặc dù điều này giúp củng cố quyền lực cho hoàng đế song đồng thời lại khiến mâu thuẫn với quý tộc thêm sâu sắc. Hạ Cảnh Tông độc đoán chuyên chế, ngày càng kiêu ngạo phóng đãng đồng thời ham thích nữ sắc. Lộn xộn trong hậu cung dẫn đến quý tộc Vệ Mộ thị làm phản vào năm 1034. Hạ Cảnh Tông từng trúng kế phản gián của người Tống Chủng Thế Hành mà giết lầm Dã Lợi Vượng Vinh và Dã Lợi Ngộ Khất, đồng thời lại say đắm thê của Da Lợi Ngộ Khất là Một Tạng thị mà lấy về, sinh ra Lý Lượng Tộ. Thái tử Lý Ninh Minh oán hận phụ hoàng vì phế mẫu (Dã Lợi hoàng hậu) và đoạt thê (Một Di hoàng hậu), lại bị em của Một Tạng thị là Một Tạng Ngoa Bàng xúi giục, do vậy ám sát Hạ Cảnh Tông vào ngày 19 tháng 1 năm 1048. Sau khi Hạ Cảnh Tông mất, Một Tạng Ngoa Bàng giết Thái tử Lý Ninh Minh, lập Lý Lượng Tộ mới 1 tuổi lên kế vị, tức Hạ Nghị Tông.
Mẫu đảng chuyên quyền.
Thời kỳ Hạ Nghị Tông (1048–1067) và Hạ Huệ Tông (1067–1086), triều đình Tây Hạ về đối nội đã tiến thêm một bước trong việc củng cố quyền thống trị, về đối ngoại thì thường cùng hai nước Tống và Liêu ở trong trạng thái chiến tranh và nghị hòa. Hạ Nghị Tông khi kế vị vẫn còn nhỏ tuổi, mẹ là Một Tạng thái hậu cùng với Một Tạng Ngoa Bàng chuyên chính. Đương thời, Liêu Hưng Tông lại một lần nữa đem quân tiến đánh Tây Hạ, Tây Hạ xưng thần với Liêu. Một Tạng thái hậu hoang dâm háo sắc, nhiều lần cấu kết với người ngoài, trong đó Lý Thủ Quý và Cật Đa Kỷ nhiều lần tranh sủng. Kết quả là Lý Thủ Quý giết Thái hậu và Cật Đa Kỷ, Một Tạng Ngoa Bàng giết Lý Thủ Quý. Một Tạng Ngoa Bàng lại đem con gái gả cho Hạ Cảnh Tông để khống chế tiểu hoàng đế. Năm 1059, Hạ Nghị Tông tham dự chính sự, Một Tạng Ngoa Bàng định mưu sát Hạ Nghị Tông, tuy nhiên việc không thành và cả nhà Một Tạng Ngoa Bàng bị giết. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Sau khi thân chính, Hạ Nghị Tông kết hôn với Lương thị- người hiệp trợ cùng ông trừ khử Một Tạng Ngoa Bàng, bổ nhiệm những người như Lương Ất Mai, Cảnh Tuân. Về đối nội, Hạ Nghị Tông tiến hành chỉnh trị quân đội, phân lập văn võ quan viên ở cấp địa phương nhằm để họ kiểm soát lẫn nhau, đề xướng văn hóa và kỹ thuật Hán, phế bỏ Phiên lễ, đổi sang dùng Hán nghi, đồng thời vào năm 1063 lại đổi sang họ Lý. Về đối ngoại, Tây Hạ cùng Tống hoạch định lại biên giới, khôi phục 'các trường', bình thường hóa mậu dịch. Tây Hạ nhiều lần có chiến sự với các bộ lạc Thổ Phồn, chiếm lĩnh khu vực Hà Hoàng và Thanh Hải, vào năm 1063 chiêu phủ thủ lĩnh Thổ Phồn Vũ Tạng Hoa Ma ở Tây Vực thành (nay là Định Tây, Cam Túc). Cải cách của Hạ nghị Tông có ảnh hưởng sâu rộng đến các triều sau đó, tuy nhiên Hạ Nghị Tông trúng tên bị thương trong khi giao chiến với Bắc Tống vào năm 1066, hai năm sau thì qua đời, con là Lý Bỉnh Thường kế vị khi mới 7 tuổi, tức Hạ Huệ Tông.
Do Hạ Huệ Tông còn nhỏ tuổi, mẹ là Lương thái hậu nắm giữ đại quyền, hình thành cục thế Lương thái hậu và mẫu đảng (do em Thái hậu là Lương Ất Mai đứng đầu) chuyên quyền. Mẫu đảng nỗ lực phát triển thế lực, đề xướng Phiên lễ, trọng dụng Đô La Vĩ và Võng Manh Ngoa, chèn ép phái phản đối gồm Ngôi Danh Lãng Ngộ- em của Hạ Cảnh Tông. Năm 1080, Hạ Huệ Tông được hoàng tộc Ngôi Danh thị hiệp trợ nên bắt đầu thân chính. Hạ Huệ Tông xem trọng Hán pháp, hạ lệnh dùng Hán lễ Phiên nghi, bị phái bảo thủ đứng đầu là Lương thái hậu cực lực phản đối. Đối với việc này, Hạ Huệ Tông muốn nghe theo kiến nghị của đại thần Lý Thanh Sách, đem khu vực Hà Nam của Tây Hạ trả lại cho Tống nhằm lợi dụng triều Tống làm suy yếu thế lực ngoại thích. Tuy nhiên, cơ mật bị lộ, Lương thái hậu giết Lý Thanh Sách, quản thúc Hạ Huệ Tông. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Hành động của Lương thái hậu khiến hoàng đảng và nhiều tộc làm phản, liên hợp với người Thổ Phồn là Vũ Tạng Hoa Ma thỉnh cầu triều Tống phái binh đánh Lương thái hậu. Vào lúc này, quốc lực triều Tống được tăng cường sau Vương An Thạch biến pháp, đồng thời vào năm 1071 do Vương Thiều chiếm lĩnh được Hi Hà lộ, tạo thành uy hiếp đối với Tây Hạ. Năm 1081, Tống Thần Tông nghe theo kiến nghị của Chủng Ngạc, thừa cơ Tây Hạ có nội loạn, cho Lý Hiến làm tổng chỉ huy, phát động 5 lộ phát Hạ, mục tiêu là Hưng Khánh phủ. Lương thái hậu chọn sách lược "kiên bích thanh dã" (lũy chắc đồng trống), tập kích đường vận chuyển lương thảo, quân Tống cuối cùng chỉ đoạt được Lan châu. Năm sau, quân Tống sử dụng chiến thuật 'điêu bảo' (xây công sự kiên cố), phái Từ Hi xây dựng Vĩnh Lạc thành, từng bước gia tăng áp lực lên không gian quân sự của Tây Hạ tại Hoành Sơn. Lương thái hậu lợi dụng Vĩnh Lạc thành mới xây, xuất 30 vạn đại quân bao vây đánh chiếm, quân Tống thảm bại, sử gọi là trận Vĩnh Lạc thành. Mặc dù Tây Hạ nhiều lần đánh tan quân Tống, song việc mậu dịch với Tống bị gián đoạn khiến cho kinh tế Tây Hạ suy thoái, chiến sự thường xuyên cũng khiến cho quốc lực Tây Hạ tổn hại nhiều, trong khi nhân dân thì bất mãn. Cuối cùng, Lương thái hậu và Lương Ất Mai phải để cho Hạ Huệ Tông phục vị để làm dịu mâu thuẫn, song Hạ Huệ Tông vẫn không có thực quyền. Sau khi Lương Ất Mai qua đời, chính quyền Tây Hạ do con của ông ta là Lương Khất Bô kiểm soát. Năm 1086, Hạ Huệ Tông qua đời trong uất hận, con là Lý Càn Thuận kế vị khi mới 3 tuổi, tức Hạ Sùng Tông.
Lúc này, chính quyền Tây Hạ lại nằm trong tay tiểu Lương thái hậu và Lương Khất Bô. Thời kỳ Tống Triết Tông (1085–1100), tri Vị châu là Chương Tiết kiến nghị đối với Tây Hạ cần chọn chế tài về kinh tế và tác chiến kiểu điêu bảo, vào năm 1096 ông cho xây dựng Bình Hạ thành và Linh Bình trại ở Vị Xuyên trên đoạn biên giới phía tây, đồng thời nhiều lần đánh lui quân Hạ. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Năm sau, quân Tống đánh vào Hồng châu và Diêm châu trên đoạn biên giới phía đông. Năm 1098, tiểu Lương thái hậu cùng Hạ Sùng Tông tiến công Bình Hạ thành song thất bại, đại tướng Ngôi Danh A Mai và Muội Lặc Đô Bô đều bị bắt, sử gọi là trận Bình Hạ thành. Quân Tống sau đó xây dựng Tây An châu và Thiên Đô trại, đả thông Kính Nguyên lộ và Hi Hà lộ, Tần châu biến thành nội địa. Sau khi triều Tống khống chế được khu vực Hoành Sơn, tình cảnh Tây Hạ ngày càng khó khăn. Năm 1099, dưới tác động của Liêu Đạo Tông, Tống và Tây Hạ lại tiến hành hòa đàm, Tây Hạ thỉnh tội với Tống, chiến tranh kết thúc. Tây Hạ ở trong tình trạng mẫu đảng chuyên quyền, Lương Khất Bô dựa vào uy thế "Lương thị nhất môn nhị hậu", liên tiếp phát động chiến tranh với Tống và Liêu, khiến Tây Hạ chịu tổn thất nghiêm trọng. Lương Khất Bô thường khoe khoang công lao của mình trước các đại thần tại triều đình, nói rằng Tây Hạ liên tục xuất chinh chủ yếu là buộc triều Tống khuất phục, chỉ có theo cách đó thì Tây Hạ mới có được hòa bình. Khi diễn ra trận Hoàn Khánh, Lương Khất Bô bị tiểu Lương thái hậu ngăn cấm xuất chinh nên ôm hận trong lòng. Lương Khất Bô có ý đồ làm phản, tuy nhiên cơ sự bị lộ. Tiểu Lương thái hậu lệnh cho Ngôi Danh A Ngô, Nhân Đa Tông Bảo, Tát Thần xuất binh bắt giữ và xử tử Lương Khất Bô. Sau khi tiểu Lương thái hậu tự thân chuyên quyền, bà tăng cường chiến sự với Tống, nhiều lần xin viện quân của Liêu song bị từ chối. Triều đình Liêu đối với tiểu Lương thái hậu thì cực kỳ phản cảm, nhận định rằng chiến tranh Liêu-Hạ là do bà mà ra, tiểu Lương thái hậu nhiều lần bị cự tuyệt cũng có ác ngôn với Liêu. Năm 1099, gần đến lúc Hạ Sùng Tông thân chính, song Lương thị vẫn chuyên quyền, Liêu Đạo Tông khiển sứ đến Tây Hạ, dùng độc dược giết tiểu Lương thái hậu. Đến thời điểm này, cục diện kéo dài Thái hậu chuyên chính kết thúc, hoàng đế Tây Hạ có thể thân chính.
Khó khăn trong ngoài. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Khó khăn trong ngoài.
Sau khi thân chính vào năm 1099, Hạ Sùng Tông lựa chọn sách lược dựa vào Liêu, kiến tạo hòa bình với Tống, giảm thiểu chiến tranh. Về đối nội, Hạ Sùng Tông cho phổ biến văn hóa Hán, chú trọng kinh tế, khiến kinh tế-xã hội Tây Hạ được phục hồi và phát triển. Thời kỳ Tống Huy Tông (1100-1126), triều đình Tống thực hiện chính sách "Thiệu thịnh khai biên", năm 1114, Đồng Quán kinh lược Tây Hạ, suất lĩnh 6 lộ quân Tống (bao gồm hai lộ Vĩnh Hưng, Tần Phượng) phạt Hạ. Mặc dù Tây Hạ nhiều lần đánh bại các tướng Tống là Lưu Pháp, Lưu Trọng Vũ hay Chủng Sư Đạo, song quân Tống vẫn đánh chiếm được không ít thành lũy. Cuối cùng, Tây Hạ phải khẩn cấp thỉnh cầu Liêu chu toàn giúp, đến năm 1119 quân Tống mới rút, Hạ Sùng Tông lại một lần nữa biểu thị thần phục với Tống. Đến lúc này, quốc thế Tây Hạ không còn như xưa, song Bắc Tống cũng đến bên bờ sụp đổ.
Từ khi triều Kim của người Nữ Chân được thành lập vào năm 1115, cục diện chân vạc ba nước bị phá vỡ, Liêu và Bắc Tống lần lượt bị Kim tiêu diệt, kinh tế Tây Hạ bị Kim khống chế. Năm 1123, Liêu Thiên Tộ Đế có ý muốn chạy từ Mạc Bắc xuống Tây Hạ, tướng Kim là Hoàn Nhan Tông Vọng khuyến dụ Hạ Sùng Tông tìm bắt Liêu Đế, đồng thời uy hiếp Tây Hạ. Hạ Sùng Tông đáp ứng theo, chuyển sang liên Kim diệt Liêu, từ đó Tây Hạ quy phục Kim. Sau khi Liêu bị diệt vào năm 1125, Kim hẹn Tây Hạ giáp công Bắc Tống, lấy đất Tống làm điều kiện. Sau khi Tây Hạ chiếm lĩnh các khu vực Thiên Đức quân, Vân Nội, năm 1126 lại bị Kim cưỡng chiếm, đồng thời còn bị đòi Hà Đông bát quán. Để bù đắp cho Tây Hạ, Kim đồng ý sau khi chiếm lĩnh Thiểm Tây sẽ trao lại Hoành Sơn cho Tây Hạ, song không giữ lời. Những điều này khiến cho quan hệ giữa Kim và Tây Hạ ở trong trạng thái bất tín nhiệm. Tuy nhiên, lúc này Tây Hạ và Nam Tống cách biệt, chỉ có thể dựa dẫm vào kinh tế của Kim. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tây Hạ do vậy duy trì quan hệ hòa bình lỏng lẻo với Kim, cùng lắm thì chỉ có chiến sự quy mô nhỏ. Năm 1141, Kim đồng ý thiết lập 'các trường', từng bỏ lệnh cấm xuất nhập sắt. Đến thời Kim Thế Tông (1161-1189), Kim không muốn dùng sản phẩm vải lụa để đổi lấy xa xỉ phẩm của Tây Hạ, vì vậy chọn phương thức giảm thiểu mậu dịch, 10 năm sau mới khôi phục mậu dịch bình thường. Hạ Sùng Tông mất vào năm 1132, con là Lý Nhân Hiếu kế vị, tức Hạ Nhân Tông.
Thời kỳ Hạ Nhân Tông, lĩnh vực văn hóa và tư tưởng của Tây Hạ phát triển đến đỉnh cao, nhìn chung ở trong trạng thái hòa bình với Kim. Tuy nhiên, Hạ Nhân Tông là người trọng văn khinh võ, chú trọng vào những thứ không thực, khiến quân lực Tây Hạ dần trở nên suy lạc. Hàng tướng Tống Nhâm Đắc Kính là người có tài trí, liên tiếp bình định tướng Tiêu Hợp Đạt làm phản vào năm 1140, và thủ lĩnh Sơn Ngoa là Mộ Vị, Mộ Tuấn chạy sang Kim vào năm sau, được Hạ Nhân Tông trọng dụng. Năm 1143, Tây Hạ xảy ra nạn đói lớn và động đất, người dân cực kỳ khó khăn, Xỉ Ngoa và những người khác phát động dân biến ở Uy châu, Tĩnh châu, Định châu, Hạ Nhân Tông lại phái Nhâm Đắc Kính đi bình định. Do được trọng dụng, Nhâm Đắc Kính nảy dã tâm bành trướng, lại được Tấn vương Lý Sát Ca tiến cử nhập kinh. Sau khi Lý Sát Ca qua đời vào năm 1156, Nhâm Đắc Kính kiểm soát chính quyền, mở rộng thế lực của bản thân. Năm 1160, Nhâm Đắc Kính được phong làm Sở vương, trên thực tế thể hiện giống như hoàng đế. Nhâm Đắc Kính có ý muốn soán vị, ông lấy Linh châu làm đô thành, vào năm 1170 buộc Hạ Nhân Tông phải cấp cho Linh châu, các lãnh địa ở tây nam Tây Hạ. Tuy nhiên, do nhiều lần không được triều đình Kim ủng hộ, Nhâm Đắc Kính cùng những người khác âm mưu làm loạn. Được Kim ủng hộ, Hạ Nhân Tông thành công trong việc đánh diệt phe của Nhâm Đắc Kính, tình trạng quyền thần khống chế chính quyền kéo dài suốt hai thập niên đến đây bị loại bỏ. Sau dân biến năm 1143, Hạ Nhân Tông tiến hành cải cách để khiến kinh tế ổn định. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Hạ Nhân Tông sửa đổi chế độ địa tô và phú thuế; phát triển giáo dục, thực hành khoa cử; Nho giáo được đề cao, dùng khoa cử để chọn kẻ sĩ làm quan; những biện pháp này có tác dụng nhất định trong việc ức chế thế gia đại tộc; cải cách lễ nhạc và pháp luật. Đến những năm Thiên Thịnh (1149-1169), xuất hiện cục diện thịnh thế. Năm 1193, Hạ Nhân Tông qua đời, con là Lý Thuần Hựu kế vị, tức Hạ Hoàn Tông.
Về cơ bản, Hạ Hoàn Tông noi theo quốc sách của Hạ Nhân Tông, về đối nội thì 'an quốc dưỡng dân', thi hành Hán pháp Nho học, về đối ngoại thì hòa hảo với Kim. Tuy nhiên, vào lúc này do Tây Hạ quá an nhàn nên quân lực suy giảm mạnh. Không lâu sau, Đại Mông Cổ Quốc nổi lên ở phía bắc, phá vỡ cục diện chân vạc Kim-Tống-Hạ. Em của Tống Nhân Tông là Việt vương Lý Nhân Hữu có công lao trong việc đánh bại Nhâm Đắc Kính, sau khi qua đời thì con là Lý An Toàn thượng biểu thỉnh cầu tuyên dương công lao của cha đồng thời thừa tập vương vị. Tuy nhiên, Hạ Hoàn Tông không những không đồng ý, còn giáng Lý An Toàn làm Trấn Di quận vương. Lý An Toàn bất mãn, trong lòng nảy sinh ý soán đoạt đế vị. Năm 1206, Lý An Toàn cùng mẹ của Hạ Hoàn Tông là La thái hậu liên hiệp phế Hạ Hoàn Tông, Lý An Toàn tự lập làm hoàng đế, tức Hạ Tương Tông, Hạ Hoàn Tông mất không lâu sau đó.
Mông Cổ xâm lược.
Khắc Liệt bộ ở Mạc Bắc và Tây Hạ có quan hệ rất hữu hảo, tuy nhiên sau này Thiết Mộc Chân lãnh đạo bộ lạc của mình tiến thôn tính các bộ lạc khác. Năm 1203, Khắc Liệt bộ bị Thiết Mộc Chân thôn tính, con của thủ lĩnh Vương Hãn là Tang Côn chạy sang Tây Hạ. Hai năm sau, Thiết Mộc Chân xuất quân xâm nhập Tây Hạ, cướp bóc các thành thị ở vùng biên giới rồi rút lui. Để mong đẩy lui được ngoại hoạn, Hạ Hoàn Tông đổi tên Hưng Khánh phủ thành Trung Hưng phủ, mang ý nghĩa quốc gia trung hưng, trên thực tế Tây Hạ ngược lại phải chịu uy hiếp từ Mông Cỏ. Năm 1206, Thiết Mộc Chân kiến lập Đại Mông Cổ Quốc, tức Thành Cát Tư Hãn (sau này được triều Nguyên tôn xưng là Nguyên Thái Tổ). |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Thành Cát Tư Hãn muốn tiêu diệt triều Kim đối địch, do vậy tìm cách phá vỡ liên minh Tống-Kim, Tây Hạ trở thành một mục tiêu của Mông Cổ. Năm sau, khi Hạ Tương Tông đoạt vị chưa lâu thì Thành Cát Tư Hãn xuất đại quân đánh phá Oát La Hài thành (nay ở phía tây kỳ Ô Lạp Đặc Hậu, Nội Mông)- một công sự kiên cố của Tây Hạ, các lộ quân Tây Hạ tận lực đề kháng và đẩy lui quân Mông Cổ. Năm 1209, Mông Cổ hàng phục Cao Xương Hồi Cốt ở phía tây Tây Hạ, khu vực Hà Tây do đó cũng nằm dưới uy hiếp của Mông Cổ. Trong lần đánh Tây Hạ thứ ba, quân Mông Cổ xâm nhập từ Hà Tây, xuất Hắc Thủy thành, vây đánh Oát La Hài quan khẩu. Hạ Tương Tông phái con là Lý Thừa Trinh xuất quân kháng cự song thất bại, tướng Hạ là Cao Dật bị bắt rồi chết. Quân Mông Cổ lại đánh chiếm Tây Bích Ngoa Đáp- nơi thủ bị của Oát La Hài thành, tiến sát phòng tuyến cuối cùng của Trung Hưng phủ là "Khắc Di Môn". Tướng Hạ Ngôi Danh Lệnh Công xuất quân phục kích quân Mông Cổ, song cuối cùng bị quân Mông Cổ đánh tan. Trung Hưng phủ bị quân Mông Cổ vây khốn, Hạ Tương Tông phái sứ sang cầu cứ Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế của Kim, song bị cự tuyệt. Cuối cùng, Hạ Tương Tông phải dâng con gái thỉnh hòa, dâng một lượng lớn vật tư cho Mông Cổ, đồng thời cam kết phụ Mông phạt Kim.
Sau khi Hạ Tương Tông chuyển sang phụ Mông phạt Kim, Tây Hạ tiến hành chiến tranh hơn 10 năm với Kim, hai bên tổn thất rất lớn. Ở trong nước, bách tính Tây Hạ rất nghèo túng, sản xuất kinh tế chịu bị phá hoại, quân đội suy nhược, chính trị hủ bại. Bản thân Hạ Tương Tông say đắm trong tửu sắc, cả ngày không lo việc triều chính. Năm 1211, Tề vương Lý Tuân Húc phát động chính biến cung đình, phế truất Hạ Tương Tông, tự lập làm hoàng đế, tức Hạ Thần Tông, hay còn gọi là Trạng nguyên hoàng đế. Bất chấp phản đối của các đại thần trong nước, Hạ Thần Tông vẫn tiếp tục kiên trì phụ Mông kháng Kim, Kim Tuyên Tông cũng nhiều lần phản kích Tây Hạ. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Đến lúc này, kinh tế xã hội của Tây Hạ bị suy sụp, các cuộc dân biến diễn ra không ngừng. Lấy lý do Tây Hạ không đồng ý giúp đỡ Mông Cổ tây chinh năm 1216, Thành Cát Tư Hãn vào năm sau xuất quân tiến công Tây Hạ lần thứ tư. Hạ Thần Tông cho Thái tử Lý Đức Vượng phòng vệ Trung Hưng phủ, còn bản thân tránh đến Tây Kinh Linh châu. Cuối cùng, Lý Đức Vượng phái sứ đến chỗ người Mông Cổ hòa đàm, chiến tranh kết thúc. Năm 1223, Hạ Thần Tông nhượng vị cho Thái tử Lý Đức Vương, tức Hạ Hiến Tông. Đến lúc này, triều đình Hạ nhận thấy rõ Mông Cổ muốn tiêu diệt Tây Hạ, do vậy Hạ Hiến Tông quyết định chuyển sang sách lược liên Kim kháng Mông. Nhân lúc Thành Cát Tư Hãn tây chinh, Tây Hạ phái sứ thuyết phục các bộ lạc ở Mạc Bắc liên hiệp kháng Mông, mục đích là để củng cố biên cương phía bắc của Tây Hạ. Đương thời, tướng Mông Cổ tổng quản Hán địa là Bột Lỗ (con của Mộc Hoa Lê) phát hiện ra ý đồ của Tây Hạ, vào năm 1224 xuất quân từ phía đông đánh vào Tây Hạ, đánh chiếm Ngân châu, tướng Hạ Tháp Hải bị bắt. Năm sau, Thành Cát Tư Hãn hồi quốc sau khi tây chinh thắng lợi, đồng thời xuất quân tiến công Sa châu. Cuối cùng, Hạ Hiến Tông phải đồng ý đầu hàng theo điều kiện của quân Mông Cổ, quân Mông Cổ triệt thoái.
Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn lấy lý do Hạ Hiến Tông không làm đúng theo thỏa thuận, phân binh giáp công Tây Hạ từ đông và tây. Thành Cát Tư Hãn xuất đội quân chủ lực đến Ngột Lạt Hài thành (nay thuộc Bayan Nur, Nội Mông) tiến về phía tây đánh chiếm Hắc Thủy thành, sau đó lại tiến đến Hạ Lan Sơn (nay ở tây bắc Ngân Xuyên, Ninh Hạ) ở phía đông, đánh tan quân của tướng Hạ A Sa Cảm Bất, cuối cùng đóng quân tại Hồn Thùy Sơn (nay ở bắc Tửu Tuyền, Cam Túc). Cánh quân Tây do A Đáp Xích suất lĩnh, cùng với Hốt Đô Thiết Mục Nhi, hàng tướng Tây Hạ Tích Lý Linh Bộ, Sát Hãn mượn đường Tây Châu Hồi Cốt, liên tiếp đánh chiếm Sa châu, Túc châu và Cam châu. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tuy nhiên, khi quân Mông Cổ vây đánh Cam châu, tướng trấn thủ của Tây Hạ là Hòa Điển Dã Khiếp Luật ngoan cường đề kháng, cuối cùng Thành Cát Tư Hãn tự thân đánh chiếm, đồng thời hàng phục tướng trấn thủ Lương châu là Oát Trát Quỹ. Đến lúc này, toàn bộ khu vực Hà Tây tẩu lang của Tây Hạ rơi vào tay Mông Cổ. Hạ Hiến Tông lo lắng mà qua đời, cháu là Nam Bình vương Lý Hiển kế vị, tức Hạ Mạt Đế. Tháng tám cùng năm, Thành Cát Tư Hãn xuất quân xuyên qua Sa Đà, vượt Hoàng Hà đánh chiếm Ứng Lý (nay là Trung Vệ, Ninh Hạ). Sau đó, Mông Cổ phân binh đánh chiếm Hạ châu, chủ lực bao vây Linh châu. Hạ Mạt Đế phái Ngôi Danh Lệnh Công xuất quân cứu viện, hai bên quyết chiến trên Hoàng Hà đang đóng băng. Sau đó, Ngôi Danh Lệnh Công và tướng trấn thủ là Phế Thái tử Lý Đức Nhâm hợp quân, Thành Cát Tư Hãn qua đời. Quân Mông Cổ bao vây Trưng Hưng phủ, đồng thời phân binh tiến về phía nam đánh chiếm các lãnh địa Tích Thạch châu (nay thuộc Tuần Hóa, Thanh Hải), Tây Ninh (nay thuộc Tây Ninh, Thanh Hải) của Tây Hạ, đồng thời lưu lại Lục Bàn Sơn của Tây Hạ. Tây Hạ chỉ còn lại Trung Hưng phủ, đến năm 1227 thì Hạ Mạt Đế bị vây tại Trung Hưng phủ, nửa năm sau thì đầu hàng, Tây Hạ mất. Mặc dù Thành Cát Tư Hãn qua đời từ trước song quân Mông Cổ không phát tang nhằm không để Tây Hạ tận dụng thời cơ, Đà Lôi giết Lý Hiển theo di chiếu của Thành Cát Tư Hãn. Sau khi quân Mông Cổ đánh chiếm Trung Hưng phủ, họ tiến hành đồ sát, đốt cháy cung thất và lăng viên, về sau do Sát Hãn khuyến gián mới thôi, song nhân khẩu trong thành đã không còn nhiều.
Cương vực và hành chính.
Khi Tây Hạ kiến quốc vào năm 1038, cương vực bao trùm các khu vực nay là Ninh Hạ, tây bắc bộ Cam Túc, đông bắc bộ Thanh Hải, bắc bộ Thiểm Tây và một phần Nội Mông. Đông đến Hoàng Hà, tây đến Ngọc Môn, nam đến Tiêu Quan (nay ở nam Đồng Tâm, Ninh Hạ), bắc đến Đại Mạc. Đông bắc Tây Hạ liền kề với Tây Kinh của Liêu, phía đông và đông nam giáp với Tống. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Sau khi Kim diệt Liêu và Bắc Tống, các mặt đông bắc, đông và nam của Tây Hạ đều liền kề với Kim. Nam bộ và tây bộ của Tây Hạ liền kết với lãnh địa của các bộ lạc Thổ Phồn, Hoàng Đầu Hồi Cốt và Tây Châu Hồi Cốt. Trên hai phần ba lãnh thổ Tây Hạ có địa hình sa mạc, nguồn nước chủ yếu là Hoàng Hà và nước ngầm có nguồn gốc từ tuyết trên núi. Thủ đô Hưng Khánh phủ nằm tại bình nguyên Ngân Xuyên, tây có Hạ Lan Sơn làm rào cản, đông có Hoàng Hà cung cấp nước.
Tây Hạ là triều đại do người Đảng Hạng kiến lập, ban đầu tộc người này định cư ở cao nguyên Tùng Phan thuộc Tứ Xuyên ngày nay. Thời kỳ Đường Cao Tông, người Đảng Hạng bị Thổ Phồn áp bách, cuối cùng được triều đình Đường hiệp trợ thiên di đến khu vực Hà Sáo-Thiểm Bắc, phân thành Bình Hạ bộ và Đông Sơn bộ, có được vùng đất làm cơ sở cho việc hình thành Tây Hạ. Năm 881, nhân người Bình Hạ bộ là Thác Bạt Tư Cung có công giúp triều đình trấn áp loạn Hoàng Sào, được phong làm Hạ châu Tiết độ sứ, đến lúc này chính thức được lĩnh 5 châu: Ngân châu (nay là Mễ Chi, Thiểm Tây), Hạ châu (nay là Hoàng Sơn, Thiểm Tây), Tuy châu (nay là Tuy Đức, Thiểm Tây), Hựu châu (nay là Tĩnh Biên, Thiểm Tây), Tĩnh châu (nay là tây Mễ Chi, Thiểm Tây). Đến thời Tống, Tống Thái Tông thôn tính Hà châu Tiết độ sứ, tuy nhiên Lý Kế Thiên không muốn đầu hàng nên đem bộ lạc tiến công tứ xứ, cuối cùng thu phục đất đai 5 châu. Sau khi đánh hạ Linh châu, thế lực của người Đảng Hạng mở rộng đến khu vực Hà Sáo và Hà Tây tẩu lang. Sau khi Hạ Cảnh Tông kế vị, Tây Hạ tiếp tục củng cố Hà Tây tẩu lang, khi khai quốc xưng đế cương vực Tây Hạ bao gồm 20 châu. Sau đó, Hạ Cảnh Tông tiến hành chiến tranh với Tống ở khu vực Hoành Sơn, đồng thời có ý chiếm lĩnh Quan Trung. Sau thời Hạ Cảnh Tông, Tây Hạ và Bắc Tống tiến hành chiến tranh qua lại, hai bên chiếm lĩnh thành lũy hay trại của đối phương, chiến tranh còn lan đến khu vực Hà Hoàng ở Thanh Hải. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Hậu kỳ Hạ Sùng Tông (1086-1139), Tây Hạ để mất khu vực Hoành Sơn, từng gặp phải nguy hiểm. Sau khi Kim diệt Liêu và Bắc Tống, Tây Hạ liên tục thu phục đất đai bị mất, đồng thời chiếm lĩnh khu vực Tiền Sáo Hoàng Hà. Tuy nhiên, thế lực của Tây Hạ bị Kim hạn chế, lãnh thổ được mở rộng không nhiều. Đến thời Hạ Nhân Tông, Tây Hạ ước tính có 22 châu, thời kỳ này là lần cuối bản đồ Tây Hạ ở trong trạng thái ổn định.
Về phân chia hành chính, nhìn chung Tây Hạ thi hành hai cấp châu (phủ) và huyện, lập phủ ở một số châu trọng điểm. Ngoài ra còn phân tả hữu sương 12 giám quân ty, là khu quân quản. Từ 5 châu trước khi kiến quốc, Tây Hạ sau khi chiếm lĩnh khu vực Hà Sáo và Hà Tây tẩu lang, vào thời Hạ Sùng Tông-Hạ Nhân Tông có 22 châu: 9 châu Hà Nam (nam Hoàng Hà), 9 châu Hà Tây (tây Hoàng Hà), ngoại Hi Hà-Tần Hà có 4 châu. Châu có số huyện không nhiều, một bộ phận chỉ có pháo đài và thành trấn, quy mô không bằng một châu của Tống. Mục đích của châu chỉ là để khuếch đại thanh thế, an trí thân tín để khống chế chặt chẽ. Các châu được thăng thành phú có: Hưng châu (Hưng Khánh phủ, Trung Hưng phủ) và Linh châu (Tây Bình phủ) ở Hà Sáo, Lương châu (Tây Lương phủ) và Cam châu (Tuyên Hóa phủ) ở Hà Tây tẩu lang. Hạ châu, Linh châu và Hưng châu nối tiếp nhau làm thủ đô của chính quyền Đảng Hạng trước khi lập quốc, có địa vị hết sức quan trọng. Lương châu ở giữa Hà Tây tẩu lang và Hà Sáo, có vị trí địa lý quan trọng. Ở Cam châu đặt ra Tuyên Hóa phủ nhằm phục trách xử lý các vấn đề Thổ Phồn và Hồi Cốt. Tả hữu sương và 12 giám quân ty chủ yếu do Hạ Cảnh Tông sắp xếp và thiết lập nhằm làm phương tiện quản lý và điều khiển quân đội. Mỗi một giám quân ty đều lập quân doanh phỏng theo chế độ của Tống, quy định đất trú đóng.
Thể chế chính trị. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Thể chế chính trị.
Tây Hạ có nền chính trị Phiên-Hán liên hiệp, người Đảng Hạng là dân tộc thống trị chủ yếu, đồng thời liên hiệp với người Hán, người Thổ Phồn, người Hồi Cốt để cùng nhau thống trị. Hoàng tộc Tây Hạ chú ý đến quan hệ với quý tộc Đảng Hạng, dùng thông hôn và chia sẻ quyền lực để gắn kết, song mẫu đảng "quý sủng dụng sự" nên giữa hoàng tộc với mẫu đảng và quý tộc thường phát sinh xung đột. Vào tiền kỳ, Tây Hạ dùng quan chế Phiên-Hán giống như của Liêu, song đến trung hậu kỳ thì toàn diện sử dụng quan chế Tống, Phiên quan dần sa sút.
Thể chế quốc gia và phương thức thống trị của Tây Hạ chịu ảnh hưởng sâu của chính trị-văn hóa Nho gia, phần lớn dựa theo quan chế Tống. Khi lập quốc vào năm 1038, quan phân thành hai ban văn võ, "Trung thư ty", "Xu mật ty", "Tam ty" (Diêm thiết bộ, Độ chi bộ, Hộ bộ) phân biệt quản lý hành chính, quân sự và tài chính. "Ngự sử đài" phụ trách giám sát, "Khai Phong phủ" quản lý sự vụ ở khu vực thủ đô, ngoài ra còn có "Dực vệ ty", "Quan kế ty", "Thụ nạp ty", "Nông điền ty", "Quần mục ty", "Phi long uyển", "Ma khám ty", "Văn tư viện", các cơ cấu Phiên học và Hán học. Năm sau, Hạ Cảnh Tông phỏng theo chế độ của Tống mà thiết lập chức "Thượng thư lệnh", đổi nhị thập tứ ty của Tống thành thập lục ty, phân thành lục tào: công, thương, hộ, binh, pháp, sĩ; khiến chế độ và cơ cấu quan lại của Tây Hạ có quy mô đáng kể. Đến thời Hạ Nghị Tông, lại đặt thêm các chức thượng thư và thị lang các bộ, Nam-Bắc tuyên huy sứ và trung thư, học sĩ. Các chức quan và cơ cấu được phân nhỏ, cải cách quan chế chuyển từ đặt thêm quan chức chính trị-quân sự sang quan chức kinh tế-văn hóa-xã hội.
Phiên quan là các chức quan chuyên do người Đảng Hạng đảm nhiệm, có thuyết nói đây là chế độ tước vị. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Phiên quan chủ yếu là nhằm bảo toàn địa vị chủ đạo của quý tộc Đảng Hạng trong chính quyền trung ương, người thuộc các dân tộc khác không được đảm nhiệm, có "ninh lệnh" (đại vương), "mô ninh lệnh" (thiên đại vương), "đinh lô", "đinh nỗ", "tố trai", "tổ nho", "lã tắc", "xu minh" và các chức khác. Sau khi Hạ Cảnh Tông đặt thêm phiên quan, còn học tập một số chế độ từ Liêu và Thổ Phồn như quan chế Nam-Bắc diện. Chế độ Phiên quan Tây Hạ rất lộn xộn, thời Hạ Nghị Tông lại đặt thêm không ít chức quan, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa rõ về chức năng của các chức quan này, có thuyết cho rằng Phiên quan chỉ là Tây Hạ văn biểu thị quan danh Hán quan mà thôi. Với việc các hoàng đế Tây Hạ sau này xem trọng Hán pháp, đổi Phiên lễ dùng Hán nghi, hệ thống Phiên quan dần sa sút. Sau thời Hạ Sùng Tông, Phiên quan không còn xuất hiện trong các văn hiến liên quan.
Liên quan đến phương diện pháp luật, do luật cũ của Tây Hạ có chỗ không rõ ràng, Hạ Nhân Tông theo chủ trương 'thượng văn trọng pháp' mà ban bố "Thiên Thịnh cải cựu tân định luật lệnh", còn gọi là "Thiên Thịnh luật lệnh", "Khai Thịnh luật lệnh". Chủ yếu do Bắc vương-Trung thư lệnh Ngôi Danh Địa Bạo và các quan lại trọng yếu của Trung thư, Xu mật viện, Trung Hưng phủ, Điện tiền ty, Cáp môn ty tham gia soạn viết. Pháp điển của bộ luật này tham khảo từ pháp điển của triều Đường và triều Tống, đồng thời kết hợp với tình hình quốc dân Tây Hạ, nâng cao độ thích hợp với thực tế. Trên một số phương diện (như súc mục nghiệp, quản chế, dân tục) lại có thêm đặc điểm bản dân tộc.
Ngoại giao.
Tây Hạ có địch thủ ở tứ phía, liên tiếp phải ứng phó với uy hiếp và chiến tranh từ Hậu Đường, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Tống, Liêu, Kim và Mông Cổ, do vậy triều đình Tây Hạ xem trọng vấn đề ngoại giao. Sách lược ngoại giao của Tây Hạ chủ yếu là liên hiệp hoặc dựa vào kẻ mạnh đồng thời công kích kẻ yếu, dùng chiến tranh cầu hòa bình, nhờ đó quốc gia Tây Hạ có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tuy nhiên, do nước phụ thuộc vào quá lớn mạnh, cuối cùng vẫn không thoát khỏi số mệnh bị tiêu diệt.
Chính quyền Hạ châu (Định Nan quân) từ trước đó đã phụng sự triều Đường, các triều Ngũ Đại rồi Bắc Tống để duy trì thế lực của bản thân. Về sau, Bắc Tống thôn tính chính quyền Hạ châu, Lý Kế Thiên cất binh nổi dậy. Vào thời điểm đó, ông chọn sách lược liên Liêu kháng Tống, nhiều lần đánh lui quân Tống, đồng thời khuếch trương thế lực, đến năm 990 thì được Liêu Thánh Tông sắc phong làm Hạ quốc vương. Đến thời Lý Đức Minh, nhằm củng cố lãnh địa mới, người Đảng Hạng hòa đàm với Bắc Tống, đến năm 1006 thì ký kết Cảnh Đức hòa nghị, song Lý Đức Minh vẫn duy trì quan hệ với Liêu như xưa. Ngoài việc phải ứng phó chiến sự với Liêu-Tống, Tây Hạ vì muốn xưng bá vùng Hà Tây nên trước sau tiến hành đánh diệt Cam Châu Hồi Cốt, Quy Nghĩa quân, đối kháng với Lục Cốc bộ và Giác Tư La Quốc của người Thổ Phồn, tiếp cận Tây Châu Hồi Cốt.
Hạ Cảnh Tông chính thức xưng đế kiến quốc, tự xưng Bang Nê Định Quốc, xưng là con trai chứ không xưng thần với Tống, nhiều lần xâm nhập biên cương của Tống. Tống Nhân Tông bất mãn trước việc Tây Hạ độc lập, phái binh tiến đánh, chiến tranh Tống-Hạ bùng nổ. Hạ Cảnh Tông giành thắng lợi trước quân Tống trong ba chiến dịch lớn (Tam Xuyên Khẩu, Hảo Thủy Xuyên, Định Xuyên Trại), sau đó hai bên ký kết Khánh Lịch hòa ước vào năm 1004. Triều Tống cấp cho Hoàng đế Tây Hạ danh hiệu là "Hạ quốc chủ", Tây Hạ xưng thần với Tống song trên thực tế Hoàng đế Tây Hạ trong nước vẫn xưng là quân vương, Tống cũng cấp cho Tây Hạ tiền bạc, trà và một lượng lớn vật tư. Tây Hạ đánh bại Tống khiến Liêu bất mãn, hai bên phát sinh ba lần chiến tranh, cuối cùng Tây Hạ xưng thần với Liêu. Sau này, Tống Thần Tông thừa cơ Tây Hạ có nội loạn, phát động "Ngũ lộ phạt Hạ" và chiến dịch Vĩnh Lạc thành, song Tây Hạ đều giành chiến thắng. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tuy nhiên, quốc lực Tây Hạ dần suy yếu, khu vực Hoành Sơn cũng bị Bắc Tống chiếm lĩnh, sau đó nhờ vào Liêu sắp xếp mới có thể duy trì quân hệ chân vạc ba bên Tống-Liêu-Hạ.
Sau khi Kim nổi lên, diệt Liêu rồi diệt Bắc Tống, Tây Hạ từ bỏ đồng minh Liêu-Hạ, thần phục Kim nhằm tự bảo vệ. Lãnh thổ Kim bao quanh phía đông và phía nam của Tây Hạ, kiểm soát kinh tế của Tây Hạ, do vậy triều đình Tây Hạ không dám có hành động tùy tiện với Kim, cùng lắm giữa hai bên chỉ có chiến sự quy mô nhỏ. Sau khi Mông Cổ nổi lên, nhiều lần xâm nhập Tây Hạ, phá hoại đồng minh Kim-Hạ. Hạ Tương Tông và Hạ Thần Tông chuyển sang dùng sách lược "liên Mông công Kim", nhiều lần phát sinh chiến tranh với Kim, tuy nhiên đây là một phương châm sai lầm. Đến thời Hạ Hiến Tông, Tây Hạ lại chuyển sang "liên Kim kháng Mông", song Tây Hạ bị Mông Cổ tiêu diệt vào năm 1227. Kim sử viết về Tây Hạ "lập quốc hơn hai trăm năm, chống lại ba nước Liêu, Kim, Tống, mạn hương vô thường, xem xét thế mạnh yếu của ba nước để đưa ra sách lược khác nhau".
Đối với Hồi Cốt, Thổ Phồn và các dân tộc thiểu số khác, Tây Hạ chọn phương thức xoa dịu và chiêu phủ, so với Tống có vẻ họ còn làm tốt hơn. Như thủ lĩnh Thổ Phồn là Vũ Tạng Hoa Ma ở Tây Sứ thành (nay ở tây nam Định Nam, Cam Túc) không muốn hàng Tống, từng bị tướng Tống là Vương Thiều đánh cướp, Hạ Nghị Tông lập tức phái binh chi viện, còn gả tông nữ cho ông ta, Vũ Tạng Hoa Ma đem Tây Sứ thành và Lan châu dâng cho Tây Hạ.
Chế độ quân sự.
Chế độ quân sự của Tây Hạ lấy binh chế bộ lạc Đảng Hạng làm cơ sở, thêm vào chế độ của triều Tống để hoàn thiện hơn. Tây Hạ là quốc gia được dựng nên từ chiến tranh, quân đội là cơ sở trong việc duy trì sinh hoạt. Do vậy, Tây Hạ thi hành chế độ 'toàn dân là binh', thời bình thì sản xuất, thời chiến thì quân sự và kinh tế-xã hội hợp làm một. Ngoại trừ một phần rất nhỏ trang bị quân sự được cấp cho quân quan và chính quân, những người còn lại khi tác chiến đều phải tự mang lương thực. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Đơn vị quân sự nhỏ nhất của Tây Hạ là "sao" (抄), mỗi sao do ba người hợp thành, một người chủ lực, một người phụ chủ, một người phụ đảm. Xu mật viện là cơ cấu lãnh đạo quân sự tối cao của Tây Hạ, bên dưới đặt ra các "ty". Hệ thống chỉ huy có: "thống quân", "hành chủ", "tá tướng", "thủ lĩnh", "tá thủ lĩnh", "tiểu thủ lĩnh". Quân đội toàn quốc phân thành hai hệ thống là quân trung ương và quân địa phương. Bố phòng quân sự lấy Hạ Lan Sơn, Hưng Khánh phủ và Lan châu làm phòng tuyến tam giác, là trung tâm trong việc tác chiến của Tây Hạ. Khi địch mạnh đến gần, quân biên phòng nhanh chóng hồi kinh trợ thủ; khi biên cương nguy cấp, quân chủ lực lập tức đến chi viện, quân đội được điều động rất linh hoạt. Khi tác chiến, quân Tây Hạ tiến khi thuận lợi và thoái khi bất lợi. Do địa hình Tây Hạ chủ yếu là sa mạc và núi, quân đội Tây Hạ do vậy mà giỏi về việc dụ địch vào nơi phục kích, cắt đường vận chuyển lương thảo của địch, tập trung binh lực tiến hành vận động chiến, do vậy đương thời có thể lấy ít thắng mạnh.
Hệ thống quân trung ương phân thành Cầm sinh quân, Vệ thú quân, Thị vệ quân, Bát hỉ, Thiết diêu tử, Tràng lệnh lang và Bộ bạt tử. Số quân của Cầm sinh quân ước tính khoảng 10 vạn, nhiệm vụ chủ yếu là bắt người trong khi chiến đấu để biến làm nô lệ, tương đương "đả thảo cốc kị" trong quân đội Liêu, không đảm trách nhiệm vụ quyết chiến. Số quân của Vệ thú quân ước tính có 25 nghìn, bộ thuộc tại khu vực quanh Hưng Khánh phủ, được trang bị rất hoàn thiện, phó binh phối bị bố trí đạt nhiều đến 7 vạn, là đội quân chủ lực của Tây Hạ. Thị vệ quân còn có tên là "Ngự viên nội lục ban trực", có khoảng 5 nghìn người, tuyển từ những con em hào tộc với tiêu chuẩn là giỏi cưỡi ngựa bắn cung, phụ trách việc bảo vệ an toàn của hoàng đế, phân thành tam phiên túc vệ. Bát hỉ ước có khoảng hai trăm người, là pháo binh của Tây Hạ, làm chủ kỹ thuật "hỏa thốc lê", cũng có thể bắn đạn đá, do kị binh bắn, hết sức linh hoạt. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Thiết diêu tử có khoảng ba trăm người, sau mở rộng lên đến vạn người, là kị binh hạng nặng của Tây Hạ, có đặc điểm là cơ động linh hoạt, có uy lực khi tác chiến ở bình địa, thường theo hoàng đế tác chiến. Tràng lệnh lang gồm các binh sĩ tráng kiện người Hán bị Tây Hạ bắt được, dùng làm bia đỡ đạn khi tác chiến, giúp giảm thiểu tổn thất về người của quân đội Tây Hạ. Bộ Bát tử là bộ binh của Tây Hạ, giỏi về tác chiến ở vùng núi, hợp thành từ các tráng đinh thuộc những bộ lạc sống ở khu vực Hoành Sơn, thường cùng với Thiết diêu tử đột kích quân địch.
Đối với quân địa phương, Hạ Cảnh Tông đem quân khu toàn quốc phân thành tả sương, hữu sương với 12 giám quân ty, Tả sương: Thần Dũng quân ty trú tại Di Đà động ở Ngân Xuyên (nay là phía đông Du Lâm, Thiểm Tây), Tường Hựu quân ty trú tại Thạch châu, Gia Ninh quân ty trú tại Hựu châu, Tĩnh Tắc quân ty trú tại Vi châu, Tây Thọ Bảo Thái quân ty trú tại bắc Nhu Lang Sơn (nay thuộc Bình Xuyên, Cam Túc), Trác La Hòa Nam quân ty trú tại Khách La Xuyên (nay thuộc Vĩnh Đăng, Cam Túc); Hữu sương: Triều Thuận quân ty trú tại Khắc Di Môn ở Hạ Lan Sơn (nay thuộc vùng núi Thạch Chủy ở Ninh Hạ), Cam Châu Cam Túc quân ty trú tại đất cũ của huyện San Đan, Qua Châu Tây Bình quân trú tại Qua châu, Hắc Thủy trấn Yên quân ty trú tại Hắc Thủy thành (nay thuộc kỳ Ngạch Tể Nạp, Nội Mông), Bạch Mã Cường Trấn quân ty trú tại Lâu Bác Bối (nay thuộc trấn Cát Lan Thái, kỳ A Lạp Thiện Tả, Nội Mông), Hắc Sơn Uy Phúc quân ty trú tại Hà Sáo (nay thuộc huyện Ngũ Nguyên, Nội Mông). Thời kỳ toàn thịnh, "chư quân binh đạt hơn 50 vạn", binh chủng chủ yếu là kị binh và bộ binh. Mỗi một giám quân ty đều phỏng theo chế độ của Tống mà lập ra quân danh, đặt chức đô thống quân, phó thống quân và giám quân ty các, do hoàng đế bổ nhiệm người trong giới quý tộc. Ở bên dưới, đặt ra chức chỉ huy sứ, giáo luyện sứ và 10 tả hữu thị cấm quan, do người Đảng Hạng và người Hán chia nhau đảm nhiệm.
Nhân khẩu. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Nhân khẩu.
Không có ghi chép trong sử sách chuyên về nhân khẩu Tây Hạ, do vậy ước tính về nhân khẩu của Tây Hạ rất mơ hồ, hiện nay giới sử học cũng không thống nhất được số liệu. Tuy nhiên, do Tây Hạ theo chế độ toàn dân là binh nên có thể từ số lượng binh lực mà suy ra lượng nhân khẩu. Hiện nay nhận định rằng số lượng nhân khẩu của Tây Hạ không ít hơn 30 vạn hộ, không cao hơn 2 triệu hộ. Theo ghi chép trong "Tống sử" thì Tây Hạ có 50 vạn đại quân. Hiện có luận điểm cho rằng Tây Hạ có 37 vạn quân, đồng thời tại "Đông Đô sự lược- Tây Hạ truyện" thì ghi rằng "Nẵng Tiêu có 158.500 binh" (chỉ tính quân Tây Hạ là người Đảng Hạng). Lại có luận điểm cho rằng Tây Hạ có hơn 50 vạn quân địa phương, cộng thêm 19 vạn quân trung ương, tổng cộng có khoảng trên dưới 70 vạn quân, do vậy có thể suy ra số lượng nhân khẩu Tây Hạ là khoảng 2-3 triệu người. Tuy nhiên, còn có luận điểm cho rằng số liệu này quá phóng đại, họ căn cứ theo "Tục thư trị thông giám trường biên" và "Long bình tập", binh lực của Tây Hạ ước tính khoảng từ 15 vạn đến 18 vạn, tổng số hộ do vậy ước khoảng trên dưới 30 vạn.
Liên quan đến diễn biến nhân khẩu Tây Hạ, các nhà nghiên cứu cũng không có sự thống nhất, căn cứ theo "Trung Quốc nhân khẩu sử" của Triệu Văn Lâm và Tạ Thục Quân vào lúc đỉnh cao năm 1038 là 243 vạn người, sau đó giảm thiểu không ngừng do chiến tranh với Tống và Liêu, sau khi chiến tranh chấm dứt thì phục hồi chậm; năm 1069, nhân khẩu Tây Hạ đạt 230 vạn, mức cao nhất sau khi kiến quốc, rồi sau lại giảm thiểu; vào giai đoạn 1131-1210 thì nhân khẩu duy trì ở mức trên dưới 120 vạn. Tuy nhiên căn cứ theo "Trung Quốc nhân khẩu phát triển sử" của Cát Kiếm Hùng thì nhân khẩu Tây Hạ đạt mức cao nhất là 3 triệu vào thời Hạ Cảnh Tông; sau năm 1127 nhân khẩu Tây Hạ luôn dưới 3 triệu. Căn cứ theo "Trung Quốc nhân khẩu sử"-quyển 3- Liêu Tống Kim Hạ thời kỳ của Ngô Tùng Đệ thì nhân khẩu Tây Hạ đạt đỉnh cao vào năm 1100 thời Hạ Sùng Tông với khoảng 3 triệu người. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Mật độ nhân khẩu của Tây Hạ về tổng thể thì thấp hơn mật độ các lộ của Bắc Tống hay các đạo của Đường, song riêng với Lũng Hữu đạo thời Đường thì cao hơn. Điều này là do lãnh thổ Tây Hạ phần lớn là sa mạc, phạm vi thích hợp cho con người cư trú không lớn, lại thêm việc thi hành chế độ toàn dân là binh nên nhân khẩu bị tiêu hao không ít do chiến sự kéo dài.
Tây Hạ là một triều đại đa dân tộc, dân tộc chủ thể là người Đảng Hạng, ngoài ra còn có người Hán, người Thổ Phồn, người Hồi Cốt. Người Tây Hạ phần lớn đều có vóc dáng cao và thanh mảnh, thể hiện ra tính cách thô thiển mạnh mẽ, mau lẹ thẳng thắn. Đẳng cấp xã hội phân biệt rõ ràng, phục sức lễ nghi hàng ngày có sự phân chia. Trang phục của hoàng đế, văn quan và võ quan đều có quy định tiêu chuẩn, bình dân bách tính chỉ được phép mặc y phục xanh lục. Vật đội trên đầu cũng là một căn cứ để phân chia đẳng cấp, hoàng đế đội mũ len, hoàng hậu đội mũ long phượng, mệnh phụ đội mũ hình cành cây hoa lá, văn quan quấn khăn che đầu, võ quan cũng có các kiểu đội đầu.
Kinh tế.
Kinh tế Tây Hạ lấy súc mục nghiệp làm cơ sở, lấy bò, cừu, ngựa và lạc đà làm chính. Nông sản phẩm chủ yếu là đại mạch, gạo, đậu tất, thanh khoa (lúa mạch núi). Nguyên liệu thuốc và một số chế phẩm thủ công của Tây Hạ đặc biệt nổi tiếng. Tại Tây Hạ, các ngành thủ công nghiệp như luyện kim, làm muối, nung gạch, gốm sứ, xe sợi dệt vải, làm giấy, in ấn, nấu rượu, chế tác đồ vàng bạc hay gỗ đều có quy mô và trình độ nhất định. Sau Khánh Lịch hòa nghị năm 1044, triều đình Tống lập ra 'các trường', khôi phục quan hệ dịch giữa Tống và Hạ, sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp mậu dịch của Tây Hạ phát triển nhanh chóng. Thời Hạ Sùng Tông và Hạ Nhân Tông, kinh tế Tây Hạ phát triển mạnh, vật phẩm tứ phương được đưa đến thủ đô Hưng Khánh, là thời kỳ kinh tế Tây Hạ thịnh vượng nhất.
Nông nghiệp. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Nông nghiệp.
Người Đảng Hạng là dân tộc du mục, nông nghiệp của họ phát triển chậm hơn so với súc mục nghiệp, nông-mục đều được xem trọng là điểm đặc sắc trong kinh tế xã hội Tây Hạ. Thời Lý Kế Thiên, người Đảng Hạng liên tiếp chiếm lĩnh các khu vực ở Hà Sáo và Hà Tây tẩu lang, là những nơi thuận lợi cho việc sản xuất ngũ cốc. Trong đó, khu vực Hưng Khánh-Linh châu và khu vực Hoành Sơn là vùng sản xuất lương thực chủ yếu của Tây Hạ, sản lượng lương thực ở đó còn có thể dùng để cứu tế các cư dân chịu ảnh hưởng của thiên tai, lương thực ở khu vực Hoành Sơn đương thời thường được sử dụng để nuôi quân Tây Hạ đánh Tống. Nông sản phẩm chủ yếu của Tây Hạ là đại mạch, gạo, đậu tất, thanh khoa (lúa mạch núi), Dược tài khá nổi tiếng của Tây Hạ có đại hoàng, củ kỷ, cam thảo, nằm trong số các mặt hàng mà các thương nhân gắng sức mua lấy. Ngoài ra Tây Hạ còn có các dược tài như xạ tề, linh giác, sài hồ, thung dung, hồng hoa hay sáp ong. Người Đảng Hạng học tập các kỹ thuật canh tác tương đối tiên tiến của người Hán, sử dụng phổ biến nông cụ làm bằng sắt và dùng bò để cày. Lãnh thổ Tây Hạ phần nhiều là sa mạc, tài nguyên nước khan hiếm, do vậy triều đại này rất xem trọng việc xây dựng công trình thủy lợi. Kênh lạch thời Tây Hạ chủ yếu phân bổ tại Hưng châu và Linh châu, trong đó nổi danh nhất là Hán Nguyên cừ và Đường Lai cừ ở Hưng châu. Thời Hạ Cảnh Tông, triều đình Tây Hạ cho xây dựng kênh tưới nước từ Thanh Đồng Hạp đến Bình La hiện nay, thế gian gọi là "Hạ Vương cừ" hay "Lý Vương cừ". Tại khu vực Cam châu, Lương châu, người Tây Hạ lợi dụng nước tuyết tan từ Kỳ Liên Sơn, nạo vét và đào sâu thêm các sông lạch, dẫn nước tưới cho ruộng đồng, trong số các tài nguyên nước này thì Hắc Thủy tại Cam châu là được biết đến nhất. Vùng núi Hoành Sơn có các tài nguyên nước như Vô Định Hà, Bạch Mã Xuyên. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Trong pháp điển "Thiên Thịnh cải cựu tân định luật lệnh" thời Hạ Cảnh Tông, triều đình Tây Hạ khuyến khích người dân khai khẩn đất hoang, đồng thời quy định về các vấn đề thủy lợi.
Súc mục nghiệp Tây Hạ rất phát triển, triều đình Tây Hạ còn đặt ra 'quần mục ty' để chuyên quản lý. Các khu chăn nuôi phân bố tại khu vực phía bắc của Hoành Sơn và Hà Tây tẩu lang, trọng yếu là ở Hạ châu, Tuy châu, Ngân châu, Diêm châu và Hựu châu, ngoài ra cao nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư, thảo nguyên A Lạp Thiện và Ngạch Tể Nạp cùng thảo nguyên Hà Tây tẩu lang đều là các khu chăn nuôi thuận lợi. Vật nuôi chủ yếu là bò, cừu, ngựa, và lạc đà, ngoài ra cũng có lừa, la hay lợn. Ngựa ở Tây Hạ dùng cho mục đích quân sự và sản xuất, đồng thời cũng là thương phẩm và cống phẩm trọng điểm đối với bên ngoài, khiến "ngựa Đảng Hạng" có được danh tiếng. Lạc đà chủ yếu được nuôi ở khu vực A Lạp Thiện và Ngạch Tể Nạp, chúng là công cụ vận chuyển trọng yếu ở khu vực cao nguyên và sa mạc. Trong từ thư Tây Hạ "Văn hải" có ghi chép nghiên cứu tỉ mỉ về chăn nuôi gia súc, ghi chép rõ ràng về việc cho ăn, bệnh tật, sinh sản và giống, cho thấy rằng người Tây Hạ có kinh nghiệm rất phong phú đối với chăn nuôi gia súc. Ngoài chăn nuôi gia súc ra, nghề săn bắn cũng rất phát triển, đối tượng săn chủ yếu là chim ưng, cáo, chó, ngựa. Quy mô săn bắn không nhỏ, như trong cống phẩm dâng cho Liêu có 1000 bộ da cáo thảo nguyên. Nghề săn bắn vào trung hậu kỳ Tây Hạ vẫn còn hưng thịnh, được đại thần Tây Hạ xem trọng, quân đội Tây Hạ thường dùng việc săn bắn để huấn luyện hay diễn tập quân sự.
Thủ công nghiệp.
Thủ công nghiệp Tây Hạ phân thành hai loại là quan doanh và dân doanh, trong đó quan doanh là chính. Mục đích sản xuất chủ yếu là để cung cấp cho quý tộc Tây Hạ sử dụng, kế đến là sản xuất để bán ra bên ngoài. Các ngành thủ công nghiệp tương đối toàn diện, trong pháp điển "Thiên Thịnh cải cựu tân định luật lệnh- Ty tự hành văn môn" có phân loại chi tiết. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Các ngành thủ công nghiệp chính là xe sợi dệt vải, luyện kim, chế tác đồ bằng vàng bạc hay gỗ, làm muối, nấu rượu, gốm sứ, xây dựng, nung gạch, chế tạo binh khí cũng khá phát triển.
"Thanh diêm" là thương phẩm được cư dân ở biên giới Tống-Hạ ưa chuộng, cũng là một trong các tài nguyên trọng yếu của Tây Hạ. Khu vực sản xuất chủ yếu là các giếng muối Ô Trì, Bạch Trì, Ngõa Trì và Tế Hạng Trì ở Diêm châu (nay ở bắc Diêm Trì, Ninh Hạ), hay là Ôn Tuyền Trì ở Linh châu (nay ở Ngô Trung, Ninh Hạ). Thanh diêm sản xuất ở Tây Hạ có vị ngon giá thấp, được hoan nghênh hơn so với muối từ Giải Trì ở Hà Đông (tức tỉnh Sơn Tây ngày nay) của Tống, ngoài ra ở Kiềm Ôi Xuyên tại Tây An châu (nay ở tây Hải Nguyên, Ninh Hạ) còn sản xuất bạch diêm, hồng diêm, chất lượng chỉ kém thanh diêm. Thanh diêm và bạch diêm sản xuất tại Tây Hạ ngoài việc dùng để cung cấp cho nhân dân trong nước, chủ yếu dùng để mậu dịch theo đường chính phủ với Liêu, Tống và Kim, trong đó hầu hết là vận chuyển đến Quan Trung của Tống và dùng nó để đổi lấy một lượng lớn lương thực. Do vậy, triều đình Tống từng cấm chỉ thanh diêm của Tây Hạ qua cửa khẩu, người Tống từ đó chỉ có thể nhập lậu và kiếm được lợi nhuận lớn.
Thảm len của Tây Hạ là một thương phẩm xuất khẩu quý hiếm, Livre des merveilles du monde ghi theo lời Marco Polo nhận xét loại len trắng làm từ lông lạc đà trắng ở khu vực Tây Hạ là tốt nhất thế giới. Tây Hạ có tài nguyên khoáng sản khá phong phú, do vậy nghề chế tạo binh khí của triều đại này, như áo giáp rèn nguội khiến cả "thần tí cung", "toàn phong pháo", "kính nỗ" cũng không thể bắn xuyên qua, đều được thế nhân khen ngợi; đặc biệt là "Hạ quốc kiếm" sắc nhọn đến mức đương thời không thứ nào bì được, được người Tống quý trọng.
Người Tây Hạ tiếp thu văn hóa Hán đồng thời duy trì văn hóa của mình, dùng hai loại văn tự Hán và Tây Hạ trong việc khắc in sách. Nhằm phát triển nghề in ấn, triều đình Tây Hạ còn đặt ra "Khắc tự ty" để chuyên quản việc xuất bản, ngoài ra tư nhân và học hiệu ở Tây Hạ cũng có khả năng in khắc sách. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Chủng loại sách được khắc in thì có nhiều, như kinh Phật, kinh điển Hán học, văn học thi ca, âm vận, bói toán bùa chú, y học, kỹ thuật, trong đó kinh Phật có số lượng nhiều nhất. Năm 1189, Hạ Nhân Tông cho phát tán 10 vạn quyển "quan Di Lặc thượng thăng đâu suất thiên kinh" bằng chữ Tây Hạ và Hán, 5 vạn quyển "Kim cương Phổ Hiền hành tụng kinh" cùng "Quan Âm kinh" và các đầu sách khác bằng chữ Hán.
Tây Hạ vốn không có đồ sứ, số đồ họ có được chủ yếu là cướp đoạt từ người Tống. Sau Khánh Lịch hòa nghị năm 1044, Tây Hạ học được kỹ thuật làm đồ sứ của người Hán. Đến thời Hạ Nghị Tông, Tây Hạ bắt đầu phát triển nghề làm đồ sứ, chủ yếu lấy Hưng Khánh phủ làm trung tâm sản xuất. Từ những hiện vật khảo cổ khai quật được, có thể thấy đồ sứ được nung của Tây Hạ chủ yếu là bát sứ trắng, mâm sứ trắng. Kỹ thuật của đồ sứ Tây Hạ không bằng được sứ Tống, song đơn giản trang trọng, hình thành một phong cách độc đáo.
Thương nghiệp và tiền tệ.
Lãnh thổ Tây Hạ bao trùm Hà Tây tẩu lang- nơi con đường tơ lụa đi qua, lại thêm việc trong nước chỉ sản xuất được nhiều gia súc, còn lại thì có nhu cầu lớn về lương thực, trà và một bộ phận sản phẩm thủ công, do vậy mậu dịch đối ngoại là một trong những huyết mạch của kinh tế Tây Hạ, chủ yếu phân thành mậu dịch triều cống, mậu dịch "các trường", chợ ngầm. Các thành thị thương nghiệp quốc nội của Tây Hạ rất phồn vinh, Hưng Khánh, Lương châu, Cam châu, Hắc Thủy thành đều rất hưng thịnh. Thương phẩm chính là thực phẩm, vải, lụa, vật nuôi, thịt. Tây Hạ có thể sử dụng việc khống chế Hà Tây tẩu lang để quản lý mậu dịch qua lại giữa Tây Vực và Trung Nguyên, bản thân Tây Hạ có mậu dịch thương mại thường xuyên với Bắc Tống, Liêu, Kim, Tây Châu Hồi Cốt và các bộ Thổ Phồn. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Do Tây Hạ lũng đoạn quá độ Hà Tây tẩu lang, khiến một bộ phận thương nhân Tây Vực chuyển sang đi băng qua bồn địa Sài Đạt Mộc, qua Thiện châu (nay thuộc Thanh Hải, Tây Ninh) và men theo sông Hoàng Thủy mà sang Tần châu (nay thuộc Thiên Thủy, Cam Túc) của Tống, sử gọi là 'con đường Thổ Dục Hồn'.
Đối với triều đình Trung Nguyên và Liêu, Tây Hạ lựa chọn hình thức mậu dịch triều cống, đương thời thường dùng lạc đà hay bò cừu để đổi lấy lương thực, trà, hay vật tư trọng yếu. Sau khi Tây Hạ giành được thắng lợi trong chiến tranh Tống-Hạ, theo điều khoản trong Khánh Lịch hòa nghị năm 1044, Tây Hạ mỗi năm có được từ Tống 5 vạn lạng bạc, 13 vạn thất lụa, 2 vạn cân trà; ngoài ra vào các ngày lễ tết mỗi năm còn có thể thu thêm được 2,2 vạn lạng bạc, 2,3 vạn thất lụa, 1 vạn cân trà. Từ thời Lý Kế Thiên, người Đảng Hạng bắt đầu triều cống cho Liêu, đến khi mất nước thì có tổng cộng cống cho Liêu được 24 lần. Tây Hạ còn dùng trà và tuế tệ của Tống để đổi lấy cừu của người Hồi Cốt hay Thổ Phồn, rồi bán lại cho Liêu, Tống hay Kim, thu được lợi nhuận. Mậu dịch triều cống thường bị gián đoạn bởi chiến tranh, mức độ ổn định không lớn.
Mậu dịch 'các trường' tương đối quy mô mà lại ổn định, ở nơi biên cảnh giữa Tây Hạ với Tống, Liêu, Kim thì hai bên cho đặt 'các trường' dùng chung cho mục đích giao dịch biên mậu. Trên biên giới Hạ-Tống thì lập 'các trường' ở Bảo An quân (nay thuộc Chí Đan, Thiểm Tây), Trấn Nhung quân (nay thuộc Cố Nguyên, Ninh Hạ), Lân châu, Diên châu. Trên biên giới Hạ-Liêu, lập 'các trường' tại Thiên Đức phủ hay Vân Nội ở tây bắc Tây Kinh của Liêu, Ngân Úng Khẩu cùng Quá Yêu Đái và Thượng Thạch Lăng Pha ở tây bắc Vân Trung. Ở những nơi này có không gian ổn định cho hoạt động mậu dịch, có nha nhân đánh giá đẳng cấp của hàng hóa, được quan phủ hai bên trông coi, cùng quản lý thị trường và thu thuế. Vật nuôi, đồ đan len, thảo dược là những mặt hàng mậu dịch chính, ngoài "quan thị" thì các chủng loại thương phẩm có sự phong phú hơn. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Sau khi Kim diệt Bắc Tống, mậu dịch đối ngoại của Tây Hạ nằm trong tay của Kim, kinh tế Tây Hạ phụ thuộc vào Kim. Năm 1141, Kim đồng ý mở cửa 'các trường' tại Bảo An quân, Lan châu, Tuy Đức, Hoàn châu, Đông Thắng châu. Năm 1172, Kim Thế Tông lấy cớ đóng cửa 'các trường' Bảo An quân, Lan châu, Tuy Đức; cho rằng việc đổi tơ lụa lấy xa xỉ phẩm của Tây Hạ là không thích hợp. Điều này khiến cho hai bên có chiến sự không ngừng vào cuối thời Hạ Nhân Tông, 10 năm sau mới khôi phục mậu dịch bình thường. Cuối cùng là "thiết thị" (chợ ngầm) có số lượng lớn và phân tán, là thị trường phi chính thức và buôn lậu, như mậu dịch 'thanh diêm' lựa chọn phương thức này để đổi lấy lương thực của Tống.
Do thương nghiệp Tây Hạ hưng thịnh, tiền tệ lưu thông cũng hết sức quan trọng: một loại là tiền do Tây Hạ đúc; còn có tiền đến từ Tống hay Kim. Tây Hạ đúc tiền ngay từ thời Hạ Cảnh Tông, các hoàng đế sau này chỉ trừ Hạ hiến Tông và Hạ Mạt Đế ra thì đều có cho đúc tiền, Hạ Nhân Tông và năm 1158 còn thiết lập 'Thông tế giám' để quản lý việc đúc tiền. Tiền tệ do Tây Hạ đúc phần lớn đều tốt đẹp, có thư pháp mềm mại thanh thoát. Hiện nay đã phát hiện được năm loại tiền tệ có Tây Hạ văn, phân biệt là "Phúc Thánh bảo tiền", "Đại An bảo tiền", "Trinh Quán bảo tiền", "Càn Hựu bảo tiền", "Thiên Khánh bảo tiền".
Văn hóa.
Văn hóa Tây Hạ chịu ảnh hưởng sâu của văn hóa Hán vùng Hà Lũng, cũng như văn hóa Thổ Phồn và Hồi Cốt. Người Tây Hạ đồng thời cũng tích cực tiếp thu văn hóa và chế độ phép tắc Hán, phát triển Nho học, phổ biến Phật học, hình thành một vương quốc Phật giáo có chế độ phép tắc Nho gia. Người Đảng Hạng khởi đầu là bộ lạc du mục, còn Phật giáo sau khi truyền đến Lương châu vào thế kỷ I thì dần trở nên hưng thịnh trong khu vực, người Tây Hạ sau khi kiến quốc đã sáng tạo ra nền văn hóa nghệ thuật Phật giáo độc đáo của riêng mình. Chùa khắc đá Bách Nhãn ở kỳ Ngạc Thác Khắc thuộc Nội Mông là kho báu nghệ thuật bích họa Phật giáo Tây Hạ. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Trong Hắc Thủy thành ở kỳ Ngạch Tể Nạp phát hiện được kinh Phật bằng Tây Hạ văn, tháp Phật Thích Ca, tượng Quan Âm đắp bằng đất. Ngoài ra, Tây Hạ còn tích cực phát triển hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng. Sau khi Tây Hạ đánh diệt Quy Nghĩa quân vào năm 1036, họ chiếm lĩnh Qua châu và Sa châu, kiểm soát hang Mạc Cao. Từ thời Hạ Cảnh Tông đến thời Hạ Nhân Tông, hoàng đế Tây Hạ nhiều lần hạ lệnh xây dựng sửa chữa trong hang Mạc Cao, khiến nơi đây thêm phần huy hoàng. Đương thời, hang Mạc Cao được bôi màu lục, tiếp thu văn hóa Trung Nguyên và phong cách Úy Ngột Nhi, Thổ Lỗ Phồn. Ngoài ra, biểu hiện cho văn hóa Tây Hạ còn có Tây Hạ văn, còn gọi là "Phiên thư". Tây Hạ thiết lập Phiên học và Hán học khiến ý thức dân tộc Tây Hạ được tăng cường, bách tính "thông Phiên-Hán tự", trình độ văn hóa được tăng thêm nhiều. Lý Nguyên Hạo từng ban bố "Thốc Phát lệnh", lệnh cho nam giới tên toàn quốc trong ba ngày phải cạo đầu, ai trái lệnh phải chết.
Tư tưởng và giáo dục.
Thể chế quan liêu và văn hóa cùng chế độ chính trị của Tây Hạ chịu ảnh hưởng sâu của văn hóa Nho gia, từ thời Lý Kế Thiên đến những năm cuối, các đế vương Tây Hạ không ai không học tập và phỏng theo phép chế của người Hán. Thời Lý Kế Thiên, "ngầm đặt chức quan, khác biệt hoàn toàn so với quy chế của người Khương, hết lòng mời Nho sĩ, dần thi hành tập tục Trung Quốc"; đến thời Lý Đức Minh thì "đều như chế độ ở Trung Quốc". Các thế hệ hoàng thân tông thất của Tây Hạ sùng bái Khổng Tử, tôn trọng ngưỡng mộ văn hóa Hán tộc. Ngoài ra, người Tây Hạ còn soạn viết một số thư tịch dung hợp và tuyên dương học thuyết Nho gia, như "Thánh lập nghĩa hải", "Tam tài tạp tự", "Đức hành ký", "Tân tập từ hiếu truyền", "Tân tập cẩm hiệp đạo lý", "Đức sự yếu văn". Nho học được đề xướng tại các triều Cảnh Tông, Nghị Tông, Huệ Tông, và Sùng Tông, đến thời Nhân Tông thì trở nên rất thịnh. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Khi Hạ Cảnh Tông thiết lập quan chế, đồng thời cũng cho thiết lập Phiên học và Hán học để làm cái nôi giúp bồi dưỡng văn hóa. Nhà bác học đa tài Dã Lợi Nhân Vinh được phân chủ trì Phiên học do Hạ Cảnh Tông xem trọng Phiên học, đồng thời ở các châu đặt chức 'giáo thụ', để tiến hành giảng dạy Phiên học. Tây Hạ nhìn chung thiết lập năm loại học hiệu: Phiên học, quốc học, tiểu học, cung học, thái học. Mục đích của việc thiết lập học hiệu chủ yếu là để bồi dưỡng nhân tài, tôn Khổng Tử làm Văn Tuyên Đế. Tây Hạ vào thời trung hậu kỳ còn phát triển chế độ khoa cử, hậu kỳ Hạ Sùng Tông thì bắt đầu tiến hành 'Đồng tử khoa', tiến hành khảo thí khoa cử; năm 1147 Hạ Nhân Tông phong cử nhân, lập lại 'Đồng tử khoa'. Tây Hạ vào hậu kỳ về cơ bản dùng khoa cử để chọn kẻ sĩ làm quan, bất luận là người Hán hay các dân tộc khác, cũng như tông thất quý tộc đều phải trải qua khoa cử trên con đường làm quan.
Chữ viết, văn học và sử học.
Vào đêm trước khi dựng nước, để đáp lại kiến nghị về ngôn ngữ quốc gia, Hạ Cảnh Tông phái Dã Lợi Nhân Vinh phỏng theo kết cấu của chữ Hán để tạo ra chữ Tây Hạ, đến năm 1036 thì ban hành, cũng được gọi là "quốc thư" hoặc "Phiên thư"; biểu, tấu, văn thư qua lại với vương triều xung quanh đều sử dụng chữ Tây Hạ. Văn tự này được cấu thành phần nhiều là tương tự cấu tạo lục thư (tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú, giả tá) của chữ Hán, song so với chữ Hán thì có số nét nhiều hơn. Văn học gia người Tây Hạ là Cốt Lặc Mậu Tài nhận định quan hệ giữa chữ Tây Hạ và chữ Hán là "luận mạt tắc thù, khảo bổn tắc đồng" (論末則殊,考本則同). Chữ Tây Hạ sau khi xuất hiện thì được sử dụng rộng rãi trong các sách lịch sử, pháp luật, văn học, y học, hay trên các văn bia được chạm khắc, các tiền tệ được đúc, trên các bùa chú hay thẻ bài. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Triều đình Tây Hạ cũng thiết lập Phiên học, do Dã Lợi Nhân Vinh chủ trì, tuyển chọn bổ nhiệm con em quý tộc quan lại phiên dịch văn điển Hán hay kinh điển Phật giáo. Để phục vụ cho việc phiên dịch giữa văn tự Hán và Tây Hạ, Cốt Lặc Mậu Tài vào năm 1190 soạn viết ra "Phiên Hán hiệp thì chưởng trung châu" (番漢合時掌中珠), lời tựa có cả chữ Tây Hạ và chữ Hán, nội dung giống nhau. Nói rằng "không học nói tiếng Phiên thì không thể hòa hợp với dân Phiên, không biết tiếng Hán thì sao hợp được với phép tắc người Hán", ý rằng quyển sách này có mục đích là để cho người Tây Hạ và người Hán có thể học tập ngôn ngữ của nhau, là một chìa khóa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử Tây Hạ hiện nay.
Tây Hạ xem trọng văn hóa Hán, song tác phẩm văn học sáng tác bằng Hán văn truyền đời không nhiều, phần lớn là thi ca và ngạn ngữ. Thi ca Tây Hạ có các thể loại như thơ cung đình, thơ tôn giáo khuyến thiện, thơ khai sáng, kỉ sự và sử thi. Thi ca Tây Hạ có luật vần, thường có kết cấu đối xứng, thông thường là thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn, cũng có thể đa ngôn, mỗi câu thơ có số âm tiết khác nhau. "Đại tụng thi" của tác giả Tây Hạ văn Dã Lợi Nhân Vinh nhận được sự tán dương, khá có tiếng. "Hạ thánh căn tán ca" là tác phẩm mang tính sử thi, nội dung phần nhiều là truyền thuyết dân gian, cách dùng từ chọn câu giàu sắc thái ca dao dân gian. Trong đó, bắt đầu bằng ba câu: "Hắc đầu thạch thành mạc thủy biên, Xích diện phụ trủng bạch hà thượng, Cao di dược quốc tại bỉ phương" (黑頭石城漠水邊, 赤面父冢白河上, 高彌藥國在彼方), được các học giả Tây Hạ học sử dụng trong việc nghiên cứu lịch sử khởi nguyên của người Đảng Hạng. Ngoài ra còn có "Tân tu Thái Học ca" khen ngợi Thái Học được xây dựng lại, mang phong cách thơ cung đình. Hạ Sùng Tông xem trọng văn học, bản thân cũng từng sáng tác "Linh chi ca" đối đáp với đại thần Vương Nhân Trung, truyền thành giai thoại. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Ngạn ngữ Tây Hạ đối ngẫu tinh tế chỉnh tề, kết cấu nghiêm ngặt, số từ không giống nhau, nội dung có phạm vi rộng và phản ánh các mặt của xã hội Tây Hạ, đồng thời liên quan đến các yếu tố sản xuất, phong tục, tôn giáo của bách tính. Tập sách ngạn ngữ Tây Hạ nổi tiếng có "Tân tập cẩm hiệp từ", bởi Lương Đức Dưỡng biên soạn vào năm 1176, được Vương Nhân Trì biên soạn bổ sung vào năm 1187, tổng cộng có 364 điều ngạn ngữ. Nội dung của tập sách có ghi rằng "Ngạn ngữ không thành thạo thì không cần phải nói"; "thiên thiên chư nhân", "vạn vạn dân thứ" đều không thể thiếu được ngạn ngữ, thể hiện ra tính quan trọng của ngạn ngữ đối với nhân dân Tây Hạ.
Hoàng đế Tây Hạ rất xem trọng công tác biên soạn quốc sử của nước mình. Oát Đạo Xung vào thời Lý Đức Minh đã giữ chức chủ quản việc soạn viết quốc sử của Tây Hạ, hậu duệ của người này sau đó kế tiếp nhiệm vụ. Đến thời Hạ Nhân Tông, đặt ra Hàn lâm học sĩ viện, mệnh Vương Thiêm, Tiêu Cảnh Nhan tham khảo chước theo quy cách viết quốc sử kiểu thực lục của Tống, phụ trách việc viết "Lý thị thực lục". Năm 1225, Nam viện tuyên huy sứ La Thế Xương sau khi bãi quan đã viết "Hạ quốc thế thứ", song sau đó bị mất.
Tôn giáo.
Nhân dân Tây Hạ nhìn chung chọn Phật giáo làm tín ngưỡng chủ yếu, trước khi kiến quốc thì họ sùng bái tự nhiên là chính. Người Đảng Hạng khi còn ở khu vực Tùng Phan Tứ Xuyên vào thời Đường đã lấy "trời" làm đối tượng sùng bái Những người Đảng Hạng sau khi thiên di đến khu vực Thiểm Bắc, từ sùng bái tự nhiên phát triển đến tín ngưỡng quỷ thần. Sau khi kiến quốc, người Đảng Hạng vẫn tôn sùng tín ngưỡng đa thần, với các vị thần tự nhiên như sơn thần, thủy thần, long thần, thụ thần, các thần thổ địa. Ví dụ như Hạ Cảnh Tông từng "tự đến Tây Lương phủ cúng tế thần"; Hạ Nhân Tông từng lập bia cầu Hắc Thủy ở ven sông Hắc Thủy tại Cam châu, tế cáo chư thần, thỉnh cầu bảo hộ cầu, dẹp yên lũ lụt. Ngoài sùng bái quỷ thần, người Đảng Hạng còn tôn sùng vu thuật, tức ma thuật. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Người Đảng Hạng gọi việc cúng quỷ là "tư" (廝), thầy cúng quỷ được gọi là "tư kê" (廝乩), là cầu nối giữa người và quỷ thần, chủ yếu đảm nhiệm về đuổi quỷ và xem bói. Trước chiến tranh, người Tây Hạ tiến hành việc xem bói để hỏi về lành dữ, trong chiến tranh thì họ thường xuyên tiến hành vu thuật "sát quỷ chiêu hồn".
Phật giáo là quốc giáo của Tây Hạ, người Đảng Hạng trước khi kiến quốc từng sáu lần xin đổi lấy kinh Phật của Tống, triều đình Tống ban cho "Đại tạng kinh". Hạ Cảnh Tông sau khi lập quốc liền bắt đầu cho phiên dịch kinh Phật sang Tây Hạ văn. Trong vòng năm mươi mấy năm, dịch được 820 bộ kinh Đại Thừa và Tiểu Thừa, với 3.579 quyển, đáp ứng nhu cầu của nhân dân đối với Phật giáo. Ngoài ra, Hạ Cảnh Tông cùng các hoàng đế và thái hậu sau đó của Tây Hạ cũng cho xây dựng nhiều chùa chiền Phật giáo, với các trung tâm Hưng Khánh phủ-Hạ Lan sơn, Cam châu-Lương châu, Đôn Hoàng-An Tây, Hắc Thủy thành. Ví dụ, Thừa Thiên tự được xây dựng dựa theo yêu cầu của Một Tạng thái hậu- mẫu hậu của Hạ Nghị Tông, năm 1093 lại trùng tu tháp Cảm Thông và chùa miếu ở Lương châu, năm sau lập "Trùng tu Hộ Quốc tự Cảm Thông tháp bi". Thời kỳ Hạ Sùng Tông, lại xây dựng thêm Ngọa Phật tự ở Cam châu. Triều đình Tây Hạ hết sức đề xướng Phật giáo, đề cao địa vị của tăng nhân, tăng nhân do đó không cần nộp thuế và gánh vác tạp dịch; nếu phạm tội có thể được giảm miễn tội hình, khu vực xung quanh khuôn viên chùa cũng được triều đình bảo hộ. Đến hậu kỳ, Tây Hạ có xu thế ngày càng chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo Tạng truyền, năm 1159 sơ tổ Đô Tùng Khâm Ba của Già Mã Già Cử phái cho lập chùa Thô Bố, Hạ Nhân Tông phái sứ đến Tây Tạng nghênh tiếp cung phụng. Đô Tùng Khâm Ba phái đại đệ tử Cách Tây Tạng Tỏa Bố đem theo kinh văn đến Hưng Khánh phủ của Tây Hạ, được Hạ Nhân Tông tôn làm thượng sư, đồng thời tham dự vào việc phiên dịch kinh văn. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tây Hạ còn đặt ra chức đế sư, điều mà sau này triều Nguyên cũng thực hiện, và đề cao địa vị của Phật giáo Tạng truyền. Ngoài đế sư ra, Tây Hạ còn có 'quốc sư', các tăng nhân còn có nhiều tôn hiệu cao cấp khác, đóng vai trò là trung tâm và xương sống trong việc thúc đẩy sự phát triển của Phật giáo Tây Hạ.
Bên cạnh Phật giáo, Tây Hạ cũng bao dung các tôn giáo khác. Đạo giáo cũng được lưu truyền ở Tây Hạ, như hoàng tử của Hạ Cảnh Tông là Ninh Minh học tập tịch cốc thuật của Nho gia mà chết. "Văn hải" giải thích chữ "tiên" (仙) là "người cầu đạo trên núi", "người cầu trường thọ trên núi). Đến vãn kỳ của Tây Hạ, tại khu vực Sa châu và Cam châu còn lưu truyền Cảnh giáo và Hồi giáo, như "Livre des merveilles du monde" ghi theo lời kể của Marco Polo ghi rằng tại Đôn Hoàng (tỉnh Tangut) và Cam châu có bộ phận môn đệ Cảnh giáo và Hồi giáo.
Nghệ thuật.
Nghệ thuật của Tây Hạ rất đa nguyên và phong phú, trên các mặt như hội họa, thư pháp, điêu khắc, vũ đạo và âm nhạc đều có thành tựu. Hội họa Phật giáo của Tây Hạ vẫn còn truyền lại cho đến nay, xuất hiện tại bích họa trong các hang đá hay chùa miếu, cho đến nay thì hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng và hang Du Lâm ở Qua Châu là những nơi phong phú nhất. Thời đầu, nghệ thuật hội họa Tây Hạ học tập phong cách của Bắc Tống, sau đó thì chịu ảnh hưởng của Phật giáo Hồi Cốt và Phật giáo Tạng truyền từ Thổ Phồn, cuối cùng hình thành nên phong cách nghệ thuật độc đáo. Nội dung hội họa bao gồm cố sự và thuyết pháp Phật giáo, cung dưỡng Bồ Tát và nhân tượng, hoa văn trang trí trong hang, các tác phẩm có tiếng nhất là "Văn thù biến đồ", "Phổ Hiền biến đồ", "Thủy nguyệt Quan Âm đồ", và "Thiên thủ thiên nhãn Quan Âm kinh biến đồ". Ngoài ra, trong "Nông canh đồ", "Đạp đối đồ", "Đoán thiết đồ" còn quan sát được khung cảnh sản xuất và sinh hoạt trong xã hội Tây Hạ. Về tranh khắc gỗ, phần nhiều là bắt nguồn trong kinh Phật Tây Hạ văn và Hán văn. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tại Hắc Thủy thành khai quật được một lượng lớn tranh vẽ Phật giáo, như "Văn Thù đồ", "Phổ Hiền đồ", "Thắng Tam Thế Minh vương Mạn đồ la đồ", được vẽ đậm với màu nặng, sắc điệu thâm trầm. Còn bản vẽ "Mại nhục đồ" và "Ma quỷ hiện thế đồ" miêu tả sinh động, phản ánh chiều sâu của hội họa Tây Hạ.
Về thư pháp, khải thư được thấy nhiều trên các bản kinh được chép và bia văn, triện thư xuất hiện trên đầu bia và quan ấn. Thời kỳ Hạ Nhân Tông, Hàn lâm học sĩ Lưu Chí Trực giỏi về thư pháp, ông dùng bút được làm từ lông đuôi của linh dương Mông Cổ, người thời đó cũng bắt chước theo. Điêu khắc rất phát triển, có đúc đồng, khắc đá, khắc gạch, khắc gỗ, khắc tre, nặn tượng đất, gốm sứ; chúng có đặc điểm là cân đối, đao pháp tinh tế, rất chân thực. Nặn tượng đất lấy đắp tượng chùa Phật làm đại biểu, phần nhiều vận dụng thủ pháp tả thực và khoa trương nghệ thuật, tạo ra hình tượng nhân vật sinh hoạt hiện thực. Ví dụ như vào thời kỳ Hạ Sùng Tông cho dựng Thích Ca Mâu Ni Niết Bàn tượng ở Đại Phật tự tại Cam châu, tượng Tây Hạ cung dưỡng thiên nữ đầy màu sắc ở hang số 491 tại quần thể hang Mạc Cao tại Đôn Hoàng. Các sản phẩm nghệ thuật gốm sứ khác có kỹ thuật khắc tinh tế và sinh động.
Thời kỳ đầu, người Đảng Hạng dùng các nhạc khí tì bà, hoành xuy, kích phữu là chính, trong đó hoành xuy tức là ống sáo trúc. Sau đó, người Đảng Hạng tiếp thụ văn hóa âm nhạc Trung Nguyên, thời Lý Đức Minh lựa chọn khuôn phép âm nhạc kiểu Tống và dần dần phát triển. Hạ Cảnh Tông sau khi kiến quốc lại trừ bỏ đi âm nhạc mang tính lễ tiết quá nhiều của Đường-Tống, "đổi nhạc ngũ âm thành nhất âm". Năm 1148, Hạ Nhân Tông lệnh cho nhạc quan là Lý Nguyên Nho cải đính âm luật, ban danh là "Đỉnh tân luật". Âm nhạc Tây Hạ rất phong phú, cũng đặt ra 'Phiên-Hán nhạc nhân viện', thời Hạ Huệ Tông từng chiêu dụ giới kỹ nữ, nhạc nhân người Hán gia nhập nhạc viện, các hí khúc như "Lưu Tri Viễn chư cung điệu" cũng được truyền nhập tới Tây Hạ. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Vũ đạo vào thời kỳ Tây Hạ được lưu lại trên các bia khắc và bích họa trong hang đá, có hình tượng sinh động, dung nạp phong cách vũ đạo Đường-Tống và vũ đạo Mông Cổ. Ví dụ như hai bên trên phần đỉnh bia của "Lương châu Hộ Quốc tự Cảm Ứng tháp" có khắc vũ kỹ, tư thế của người múa đối xứng, khỏa thân, cầm khăn và đeo chuỗi ngọc ở cổ, trong khung cảnh hào phòng cũng hiện ra vẻ tha thướt yêu kiều. Trong hang số 3 trong quần thể hang Du Lâm có bích họa Tây Hạ "Nhạc vũ đồ", với tư thế mạnh mẽ.
Khoa học kỹ thuật.
Khoa học kỹ thuật của riêng Tây Hạ tương đối yếu kém, chủ yếu tiếp thu kỹ thuật từ Tống hay Kim, tuy nhiên có chỗ độc đáo trên phương diện rèn đúc vũ khí. Về mặt thiên văn khí tượng, chủ yếu là học tập thiên văn và lịch pháp của triều Tống. Người Tây Hạ đặt ra 'Ty thiên giám' để quan sát thiên văn, đồng thời đặt ra chức 'thái sử', 'ty thiêm' và 'chiêm giả' để phân tích, giải thích thiên văn. Trong "Phiên Hán hiệp thì chưởng trung châu" của Cốt Lặc Mậu Tài có ghi chép chi tiết về thiên văn tinh tượng. Ví dụ như phân bầu trời thành các phương vị Thanh Long (đông), Bạch Hổ (tây), Chu Tước (nam), Huyền Vũ (bắc), mỗi phương vị lại đặt ra 7 Tinh tú. Trên phương diện khí tượng, người Tây Hạ cũng có phân tích chi tiết, ví dụ về gió có hòa phong (gió ôn hòa), thanh phong (gió mát), kim phong (gió thu), sóc phong (gió bắc), hắc phong (cuồng phong), toàn phong (gió lốc); về mưa có cao vũ, cốc vũ, thì vũ, ti vũ; mây có yên vân, hạc vân, quyền vân, la vân, đồng vân. Về mặt lịch pháp, Tây Hạ vào năm 1004 có được "Nghi Thiên lịch" từ Bắc Tống, là bản sách lịch đầu tiên của Tây Hạ. Sau khi lập quốc, Tây Hạ thiết lập cơ cấu "Đại hằng lịch viện" để quản lý biên chế và ban hành lịch pháp. Tây Hạ dùng hai loại sách lịch là sách lịch Phiên-Hán hợp bích và sách lịch do triều Tống ban cho, tình hình chi tiết cần phải nghiên cứu thêm. |
Tây Hạ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2787 | Tri thức y học của người Đảng Hạng vào thời kỳ đầu hết sức thiếu thốn, bách tính mê tín quỷ thần, đại đa số chữa bệnh bằng cách cầu khấn thần linh. Sau khi lập quốc, người Tây Hạ tích cực tiếp thu nền y học và dược học của triều Tống, đồng thời xuất bản tác phẩm y học như "Trị liệu ác sang yếu luận" (治療惡瘡要論). Triều đình Tây Hạ cũng thiết lập "y nhân viện", trong cơ cấu chính phủ thì thuộc về "trung đẳng ty". Đối với việc nhận biết bệnh lý thì người Tây Hạ đại đa phân thành các quan điểm huyết mạch không thông, truyền nhiễm, "tứ đại bất hòa" (địa, thủy, hỏa, phong) trong đó thì "tứ đại bất hòa" bắt nguồn từ thuyết pháp của Phật giáo Tạng truyền. Do nền y học Tây Hạ không bằng được triều đại Trung Nguyên, vì vậy không thể chữa khỏi một số chứng bệnh nan giải, phải cầu trợ Tống hoặc Kim. Vào thời Hạ Nhân Tông, quyền thần Nhâm Đắc Kính mắc bệnh, điều trị lâu nhưng không khỏi, Hạ Nhân Tông phải phái sứ sang Kim để thỉnh cầu chi viện y liệu. Thời kỳ Hạ Hoàn Tông, mẹ của hoàng đế mắc bệnh khiến ông phải khiển sứ sang Kim cầu y.
Người Tây Hạ chế tác vũ khí hết sức tinh thâm chất phác, trong đó "Hạ quốc kiếm" là có tiếng nhất, được người Tống khen là "thiên hạ đệ nhất". Áo giáp Tây Hạ được khen ngợi là cứng trơn chói sáng, không nỏ nào bắn vào được, chuyên cấp cho "Thiết diêu tử" sử dụng. Ngoài ra, Tây Hạ còn có các vũ khí có tiếng khác: chiến xa dùng để công thành gọi là "đỗi lũy", có thể vượt hào rãnh mà tiến; "toàn phong pháo" đặt trên yên lạc đà, có thể bắn ra đạn đá lớn; "thần tí cung" rất mạnh, có thể bắn trong khoảng từ 240 đến 300 bộ, "có thể xuyên qua áo giáp". |
Đông Bắc Bộ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2789 | Đông Bắc Bộ là vùng lãnh thổ ở phía đông bắc Bắc Bộ và ở hướng bắc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Gọi là đông bắc để phân biệt với Vùng Tây Bắc, còn thực chất nó ở vào phía bắc và đông bắc của Hà Nội, rộng hơn vùng Việt Bắc. Vùng đông bắc là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Tây Bắc Bộ và Đồng bằng sông Hồng).
Địa lý.
Đặc điểm.
Ranh giới địa lý phía tây của vùng đông bắc còn chưa rõ ràng. Chủ yếu do chưa có sự nhất trí giữa các nhà địa lý học Việt Nam về ranh giới giữa vùng tây bắc và vùng đông bắc nên là sông Hồng, hay nên là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Vùng đông bắc được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới Việt - Trung phía tây, được giới hạn bởi thung lũng sông Hồng và thượng nguồn sông Chảy, cao hơn, được cấu tạo bởi đá granit, đá phiến và các cao nguyên đá vôi. Thực chất, đây là rìa của cao nguyên Vân Nam. Những đỉnh núi cao của vùng đông bắc đều tập trung ở đây, như Tây Côn Lĩnh, Kiêu Liêu Ti.
Phần phía bắc sát biên giới Việt-Trung là các cao nguyên (sơn nguyên) lần lượt từ tây sang đông gồm: cao nguyên Bắc Hà, cao nguyên Quản Bạ, cao nguyên Đồng Văn. Hai cao nguyên đầu có độ cao trung bình từ 1000–1200 m. Cao nguyên Đồng Văn cao 1600 m. Sông suối chảy qua cao nguyên tạo ra một số hẻm núi dài và sâu. Cũng có một số khu vực đồng bằng nhỏ hẹp, đó là Thất Khê, Lạng Sơn, Lộc Bình, Cao Bằng, Tà Lùng.
Phía đông, từ trung lưu sông Gâm trở ra biển, thấp hơn có nhiều dãy núi hình vòng cung quay lưng về hướng Đông lần lượt từ Tây sang Đông là vòng cung Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều. Núi mọc cả trên biển, tạo thành cảnh quan Hạ Long nổi tiếng. Các dãy núi vòng cung này hầu như đều chụm đuôi lại ở Tam Đảo.
Phía tây nam, từ Phú Thọ, nam Tuyên Quang, nam Yên Bái, và Thái Nguyên sang Bắc Giang thấp dần về phía đồng bằng. Người ta quen gọi phần này là "vùng trung du". |
Đông Bắc Bộ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2789 | Người ta quen gọi phần này là "vùng trung du". Độ cao của phần này chừng 100–150 m., đặc trưng của vùng Trung du là có vùng Đồng Bằng khá rộng bị chia cắt bởi gò đồi.
Vùng đông bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó các sông lớn là sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam (thuộc hệ thống sông Thái Bình), sông Bằng, sông Bắc Giang, sông Kỳ Cùng, v.v...
Vùng biển đông bắc có nhiều đảo lớn nhỏ, chiếm gần 2/3 số lượng đảo biển của Việt Nam (kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
Lịch sử.
Cơ sở lục địa của miền đông bắc được hình thành từ liên đại Nguyên sinh cách đây gần 600 triệu năm. Biển tiến và thoái liên tục cho đến chu kỳ tạo núi Indochina thì miền đông bắc thoát hẳn khỏi chế độ biển và bắt đầu chế độ lục địa. Vận động tạo núi Himalaya sau đó lan tới đây làm cho toàn miền được nâng lên và cũng đồng thời tạo ra những đứt gãy. Đất bị phơi trần và chịu tác động của nắng, mưa và gió nên không ngừng bị phân hủy trong khi các đỉnh núi bị san mòn bớt.
Khí hậu.
Tuy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm nhưng vì địa hình cao, lại có nhiều dãy núi hình cánh cung mở ra ở phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo, vào mùa Đông có gió Bắc thổi mạnh, rất lạnh, còn mùa hè mát mẻ, do đó vùng này có khí hậu cận nhiệt ẩm. Vùng núi ở Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thể có lúc nhiệt độ xuống dưới 0°C và có băng giá, đôi khi có tuyết rơi. Các vùng ở đuôi các dãy núi cánh cung cũng rất lạnh do gió. Nhà thơ Tố Hữu trong bài "Phá đường" từng nhắc đến cái rét ở đây: "Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế".
Về mặt hành chính, vùng Đông Bắc hiện nay gồm 9 tỉnh với diện tích trên 5,661 triệu ha "(tỷ lệ 8,9% so với tổng diện tích cả nước)" với 9.140.142 dân "(tỷ lệ 15,2% so với tổng dân số cả nước)", bình quân khoảng 170 người trên 1 cây số vuông.
Các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc. |
Đông Bắc Bộ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2789 | Các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc.
Đôi khi Lào Cai và Yên Bái vốn thuộc Tây Bắc Bộ cũng được xếp vào vùng này.
Đô thị.
Tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2022, vùng Đông Bắc Bộ có:
Sắc tộc và văn hóa.
Nơi đây nổi tiếng với những điệu múa khèn đặc trưng của dân tộc Mèo. Nhiều nhạc sĩ đã lấy cảm xúc từ vùng đất này để sáng tác nên nhiều bài hát rất hay như "Hà Giang quê hương tôi" và còn rất nhiều bài hát khác.
Kinh tế.
khai thác khoáng sản: than, sắt, chì, kẽm, thiếc, bôxit, apatit, photphorit, đá xây dựng... Phát triển nhiệt điện (Uông Bí). Trồng rừng, cây công nghiệp, dựoc liệu, rau quả ôn đới và cận nhiệt. Du lịch sinh thái: vịnh Hạ Long, hồ Ba Bể... kinh tế biển: đánh bắt nuôi trồng thủy sản, du lịch vịnh Hạ Long.
Quân sự.
Vùng đông bắc có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc phòng. Hiện nay, vùng đông bắc do Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3 bảo vệ.
Quân đoàn 2, còn gọi là Binh đoàn Hương Giang, được thành lập ngày 17 tháng 5 năm 1974 tại Thừa Thiên-Huế.Trụ sở: Thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
Vùng đông bắc có vai trò xung yếu trong an ninh quốc phòng. Trong lịch sử Việt Nam, nhiều lần các thế lực phương Bắc xâm lược đã thâm nhập vào vùng này trước tiên. Nơi đây có các con đường được các nhà sử học Việt Nam gọi là con đường xâm lược, đó là đường bộ qua Lạng Sơn, đường bộ ven biển ở Quảng Ninh, và đường biển trên vịnh Bắc Bộ rồi cũng đổ bộ vào Quảng Ninh. Đã có nhiều trận đánh ác liệt giữa quân và dân Việt Nam với giặc ngoại xâm ngay khi chúng thâm nhập vào vùng này trong đó nổi tiếng là các trận tại ải Chi Lăng, trận Như Nguyệt, các trận Bạch Đằng, v.v... Thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng có các trận đánh lớn như chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến dịch biên giới thu đông (1949), v.v... Cuối thập niên 1970 và trong thập niên 1980, quân Trung Quốc đã tấn công dữ dội Việt Nam chủ yếu là trên dọc tuyến biên giới ở vùng đông bắc. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Thuyết tương đối miêu tả cấu trúc của không gian và thời gian trong một thực thể thống nhất là không thời gian cũng như giải thích bản chất của lực hấp dẫn là do sự uốn cong của không thời gian bởi vật chất và năng lượng. Thuyết tương đối gồm hai lý thuyết vật lý do Albert Einstein phát triển, với thuyết tương đối đặc biệt công bố vào năm 1905 và thuyết tương đối tổng quát công bố vào cuối năm 1915 và đầu năm 1916. Thuyết tương đối hẹp miêu tả hành xử của không gian và thời gian và những hiện tượng liên quan từ những quan sát viên chuyển động đều tương đối với nhau. Thuyết tương đối rộng tổng quát các hệ quy chiếu quán tính sang hệ quy chiếu chuyển động có gia tốc và bao gồm lực hấp dẫn giữa các khối lượng với nhau.
Thuyết tương đối thường phải được tính đến trong những quá trình có vận tốc rất lớn đáng kể so với tốc độ ánh sáng (thường là trên 10% tốc độ ánh sáng) hoặc có trường hấp dẫn khá mạnh và không thể bỏ qua được. Ở vận tốc tương đối tính, các hiệu ứng của thuyết tương đối hẹp trở nên quan trọng và ảnh hưởng tới kết quả tiên đoán cũng như miêu tả hiện tượng vật lý.
Thuật ngữ "thuyết tương đối" (tiếng Đức: "Relativtheorie") sử dụng lần đầu tiên vào năm 1906 bởi Max Planck khi ông nhấn mạnh trong lý thuyết này có một trong những nền tảng là dựa trên nguyên lý tương đối. Trong phần thảo luận của cùng một bài báo, lần đầu tiên sử dụng cách viết "Relativitätstheorie".
Lịch sử phát triển.
Thuyết tương đối hẹp.
Xuất phát từ những vấn đề của lý thuyết Ête và phương trình Maxwell trong thế kỷ XIX, thuyết tương đối hẹp dần hình thành từ những dấu mốc chính sau:
Cuối cùng Albert Einstein (1905) đưa ra thuyết tương đối hẹp bằng diễn giải sáng sủa về toàn bộ lý thuyết dựa trên nguyên lý tương đối và tiên đề tốc độ ánh sáng không đổi, ông loại bỏ khái niệm Ête khi xem xét lại bản chất của không gian, thời gian và liên hệ của chúng với hệ quy chiếu quán tính. Quan điểm động lực của Lorentz và Poincaré được thay thế bằng quan điểm động học của Einstein. Mô hình toán học của lý thuyết tương đối hẹp hoàn thiện đầy đủ khi Hermann Minkowski (1907) thêm thời gian vào thành tọa độ thứ tư trong cách biểu diễn không gian Minkowski. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Thuyết tương đối rộng.
Đã có một số các nhà khoa học đóng góp vào sự phát triển của thuyết tương đối hẹp và cuối cùng với các bài báo Einstein công bố vào năm 1905 đưa đến lý thuyết hoàn thiện đồng thời ông cũng mở ra sự phát triển mới cần thiết của thuyết tương đối rộng. Thuyết tương đối rộng hầu như do một mình Einstein phát triển khi ông nghiên cứu những ý nghĩa vật lý cơ bản và mối liên hệ giữa hình học và vật lý.
Sự phát triển này bắt đầu từ năm 1907, với "ý tưởng hạnh phúc nhất trong đời" của Einstein, đó là nguyên lý tương đương về sự tương đương giữa khối lượng hấp dẫn và khối lượng quán tính. Từ nguyên lý này có thể suy ra được hiệu ứng dịch chuyển đỏ do hấp dẫn và đường đi của ánh sáng bị lệch trong trường hấp dẫn cũng như độ trễ thời gian của tia sáng, hay độ trễ Shapiro. Năm 1911, ông đã có thể tính được sơ bộ độ lệch tia sáng là bao nhiêu. Trong thời gian này ông cũng đề xuất rằng có thể đo được độ lệch rất nhỏ này từ các ngôi sao ở xa khi ánh sáng đi gần Mặt Trời. Tuy vậy, giá trị tính toán lúc đầu của ông chỉ bằng một nửa giá trị đúng của độ lệch.
Trong quá trình nghiên cứu, Einstein nhận ra cách biểu diễn không thời gian bằng không gian Minkowski có vai trò rất quan trọng đối với lý thuyết mới. Lúc này ông cũng nhận thức rõ ràng rằng hình học Euclid không còn phù hợp khi tính tới ảnh hưởng của lực hấp dẫn. Năm 1913, ông bắt đầu sử dụng hình học phi Euclid được phát triển trong thế kỷ XIX cho lý thuyết của mình với sự trợ giúp từ người bạn và là nhà toán học Marcel Grossmann, nhưng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn, tức là miêu tả được mọi định luật của tự nhiên trong mọi hệ quy chiếu. Ông cuối cùng vượt qua được vấn đề này vào tháng 11 năm 1915 sau nhiều lần thất bại, và Einstein đi đến được dạng đúng của phương trình trường hấp dẫn. Hầu như đồng thời với ông, nhà toán học David Hilbert cũng tìm ra được phương trình trường nhờ phương pháp biến phân. Dựa vào kết quả này, Einstein đã tính đúng sự dịch chuyển của điểm cận nhật của Sao Thủy, và giá trị độ lệch của tia sáng bằng 2 lần giá trị ông tìm ra vào năm 1911. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Năm 1919, giá trị này đã được xác nhận trong lần nhật thực toàn phần và đưa đến sự thành công của lý thuyết tương đối tổng quát cũng như gây sự chú ý đối với thế giới.
Sau đó, nhiều nhà vật lý đã tìm ra các nghiệm chính xác của phương trình trường cũng như giới thiệu các kỹ thuật nghiên cứu mới, đưa đến nhiều mô hình vũ trụ học và kết quả kì lạ như sự tồn tại của lỗ đen.
Các lý thuyết mở rộng.
Với lý thuyết mới coi bản chất của lực hấp dẫn như một hiệu ứng hình học, các nhà vật lý đặt câu hỏi liệu những lực cơ bản khác, như lực điện từ có là do hiệu ứng hình học. (1921) và (1926) đã mở rộng thuyết tương đối rộng để nghiên cứu thêm lực điện từ bằng cách thêm một chiều nữa vào không gian bốn chiều để có không gian năm chiều, mà một chiều có kích cỡ vi mô ẩn giấu dưới cảm nhận thông thường. Tuy nhiên, lý thuyết của họ đã không thành công. Thậm chí Einstein đã dành phần lớn thời gian nghiên cứu khoa học của nửa cuộc đời còn lại để nghiên cứu lý thuyết trường thống nhất nhưng ông cũng đã không thành công.
Một trong những lý do thất bại của Einstein đó là, ở thời điểm của ông, cộng đồng các nhà vật lý chưa hiểu rõ hết bản chất của hai lực cơ bản còn lại: tương tác mạnh và tương tác yếu. Cùng với sự phát triển của lý thuyết trường lượng tử, lý thuyết Kaluza-Klein đã được khôi phục lại khi các nhà vật lý dựa trên ý tưởng không thời gian có nhiều hơn bốn chiều như vẫn thường thấy. Ngày nay, hầu hết các lý thuyết nhằm thống nhất thuyết tương đối với cơ học lượng tử bao gồm lý thuyết dây có cơ sở dựa trên không thời gian nhiều chiều, với sáu hoặc bảy chiều ẩn giấu ở phạm vi độ dài Planck.
Tầm quan trọng.
Thuyết tương đối làm nên cuộc cách mạng về sự hiểu biết không gian và thời gian cũng như những hiện tượng liên quan mà vượt xa khỏi những ý tưởng và quan sát trực giác. Những hiện tượng này đã được miêu tả bằng những phương trình toán học chính xác và xác nhận đúng đắn bằng thực nghiệm. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Khi được phát minh, thuyết tương đối chứa đựng lý thuyết cơ học cổ điển của Isaac Newton có từ hơn 200 năm trước như là một trường hợp giới hạn của nó.Và do đó, thuyết tương đối cũng thỏa mãn nguyên lý tương ứng.
Mô hình chuẩn của vật lý hạt mô tả bằng lý thuyết trường lượng tử, lý thuyết thống nhất giữa thuyết tương đối hẹp và cơ học lượng tử. Với thuyết tương đối, ngành vũ trụ học và vật lý thiên văn đã tiên đoán và quan sát thấy những hiện tượng thiên văn học kỳ lạ bao gồm sao neutron, lỗ đen, sóng hấp dẫn, thấu kính hấp dẫn...
Thuyết tương đối tổng quát cùng với vật lý lượng tử là hai trụ cột chính yếu của vật lý hiện đại. Hiện nay, các nhà vật lý đang nỗ lực thống nhất hai lý thuyết này trong một thuyết gọi là Lý thuyết vạn vật (Theory of Everything). Mặc dù có nhiều bước tiến với những mô hình khác nhau, song nỗ lực thống nhất hai lý thuyết vẫn là một trong những thử thách lớn nhất của ngành nghiên cứu vật lý cơ bản.
Thuyết tương đối hẹp.
Nguyên lý tương đối.
Thuyết tương đối hẹp dựa trên hai tiên đề:
Galileo Galilei đã miêu tả một dạng của nguyên lý tương đối trong cuốn "Dialogo sopra i due massimi sistemi del mondo" vào năm 1632 bằng minh họa về một người ngồi trên con thuyền và nguyên lý này cũng được Newton áp dụng cho cơ học của ông. Một hệ quả trực tiếp của nguyên lý này là không có cách nào để đo vận tốc tuyệt đối của quan sát viên chuyển động đều trong không gian và không thể định nghĩa một hệ quy chiếu đứng yên tuyệt đối. Hệ này phải chứa một thứ gì đó đứng im đối với mọi thứ khác và nó mâu thuẫn với nguyên lý tương đối, theo đó các định luật vật lý trong mọi hệ quy chiếu phải là như nhau. Trước khi có sự ra đời của thuyết tương đối, lý thuyết điện từ cổ điển đề xuất sóng điện từ lan truyền trong môi trường gọi là ê te, một môi trường đứng im bất động. Môi trường này lấp đầy không gian với cấu trúc rắn chắc và do đó các nhà vật lý dùng nó để định nghĩa một hệ quy chiếu tuyệt đối. Trong hệ này các định luật vật lý sẽ có dạng đơn giản và tốc độ ánh sáng sẽ không phải là hằng số do vậy trái ngược với nguyên lý tương đối. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Tuy nhiên mọi thí nghiệm nhằm chứng minh sự tồn tại của ê te, như thí nghiệm Michelson - Morley nổi tiếng vào năm 1887 đều thất bại khi không phát hiện ra sự sai khác về tốc độ khi ánh sáng lan truyền theo các hướng khác nhau trong môi trường ê te giả định.
Einstein đã từ bỏ khái niệm thông thường về không gian và thời gian cũng như giả thuyết ê tê để lý giải được vẻ mâu thuẫn bề ngoài giữa nguyên lý tương đối và tốc độ ánh sáng không đổi trong lý thuyết điện từ. Không phải ngẫu nhiên mà có những thí nghiệm và kết luận trong thuyết điện từ dẫn tới sự khám phá ra thuyết tương đối, như thí nghiệm di chuyển cuộn dây và nam châm. Einstein đã đặt tên cho bài báo công bố năm 1905, khai sinh ra thuyết tương đối hẹp, "Về điện động lực học của các vật thể chuyển động" để thể hiện sự trân trọng đối với lý thuyết điện từ Maxwell và ảnh hưởng của nó tới khám phá của ông.
Tính tương đối của không gian và thời gian.
Không gian và thời gian không còn là cấu trúc bất biến phổ quát trong thuyết tương đối nữa. Cụ thể, các quan sát viên sẽ nhận xét hai sự kiện xảy ra trong không gian và thời gian là đồng thời hay sớm hoặc trễ tùy thuộc vào trạng thái chuyển động của họ. Vật thể chuyển động có kích thước bị ngắn lại theo hướng chuyển động so với khi nó đứng yên và đồng hồ chuyển động chạy chậm hơn so với đồng hồ đặt yên một chỗ. Tuy nhiên, mỗi quan sát viên chuyển động với vận tốc đều đưa ra kết luận chỉ đúng trong hệ quy chiếu của riêng họ, do vậy những kết luận từ hai quan sát viên có tính tương hỗ lẫn nhau, ví dụ như mỗi người sẽ thấy đồng hồ của người kia chạy chậm lại. Thêm nữa, nếu hai người chuyển động dọc theo hướng nhìn của nhau, mỗi người sẽ thấy thước đo của người kia ngắn đi. Nguyên lý tương đối không thể trả lời cho câu hỏi về người nào miêu tả là đúng mà nó chỉ cho biết kết quả của từng người thu được.
Sự co ngắn chiều dài và sự dãn thời gian có thể dễ dàng hiểu được từ biểu đồ Minkowski và nghịch lý anh em sinh đôi. Trong dạng thức toán học, chúng là kết quả của phép biến đổi Lorentz miêu tả mối liên hệ giữa tọa độ không gian và thời gian của các quan sát viên khác nhau. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Phép biến đổi tuyến tính này được rút ra trực tiếp từ hai tiên đề trên.
Hầu hết các hiệu ứng tương đối tính đều trở nên đáng kể khi vận tốc là tương đối lớn so với tốc độ ánh sáng, do vậy phần lớn các hiện tượng hàng ngày có thể giải thích dựa trên cơ học Newton và những hiệu ứng tương đối tính có vẻ như trái ngược với trực giác.
Tốc độ ánh sáng là một giới hạn.
Không một vật nào và không một thông tin nào có thể đi nhanh hơn ánh sáng trong chân không. Càng gần tiếp cận với tốc độ ánh sáng, thì năng lượng vật đó càng lớn, bởi vì động năng của vật luôn luôn tăng rất nhanh khi vận tốc của nó tăng. Để vật đạt tới tốc độ ánh sáng thì cần phải cung cấp cho vật năng lượng lớn vô hạn.
Kết luận trên là hệ quả của cấu trúc không thời gian không phải là thuộc tính của vật, chẳng hạn do hạn chế về công nghệ chế tạo tàu vũ trụ. Nếu một vật chuyển động nhanh hơn ánh sáng từ A tới B, và một quan sát viên chuyển động từ B tới A thì lúc này câu hỏi ai miêu tả tình huống đúng đắn lại có ý nghĩa. Khi đó quan sát viên sẽ nhìn thấy kết quả trước khi nhìn thấy nguyên nhân (anh ta nhìn thấy vật xuất hiện ở B trước khi thấy nó đi ra từ A). Như vậy, nguyên lý nhân quả bị vi phạm bởi vì trình tự nguyên nhân kết quả không được xác định. Những vật chuyển động nhanh hơn ánh sáng sẽ đi ra khỏi tầm quan sát của người hoặc thiết bị theo dõi.
Không thời gian.
Không gian và thời gian xuất hiện trong những phương trình cơ bản của thuyết tương đối có vai trò như nhau và có thể kết hợp thành không thời gian bốn chiều. Sự cảm nhận về không gian và thời gian theo cách khác nhau chỉ là do cảm nhận của con người. Về mặt toán học, khoảng không thời gian giữa hai sự kiện được định nghĩa bằng hiệu tọa độ không thời gian bốn chiều của hai sự kiện trong một hệ quy chiếu giống như định nghĩa về khoảng cách giữa hai điểm trong không gian Euclide, chỉ có một điểm khác là tọa độ thời gian ngược dấu với tọa độ không gian. Trong không thời gian cũng định nghĩa vectơ bốn như vectơ thông thường trong không gian ba chiều. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Trong không thời gian Minkowski, giới hạn tốc độ ánh sáng và tính tương đối của độ dài và khoảng thời gian phân ra những vùng riêng biệt đối với mỗi quan sát viên:
Các vectơ-bốn không thời gian có nhiều ứng dụng thực tiễn và lý thuyết, ví dụ như trong tính toán động năng của các hạt chuyển động trong máy gia tốc.
Sự tương đương giữa khối lượng và năng lượng.
Một hệ có khối lượng m chứa trong nó một năng lượng nghỉ E liên hệ bởi công thức
formula_1
với "c" là tốc độ ánh sáng. Công thức này là một trong những công thức nổi tiếng nhất của vật lý học nói riêng và khoa học nói chung. Cũng vì công thức này mà Einstein hay bị hiểu nhầm rằng ông có liên quan tới sự phát triển của bom nguyên tử mặc dù chỉ có lá thư của ông gửi tới tổng thống Franklin D. Roosevelt là đề cập tới việc Hoa Kỳ cần phải cảnh giác với chương trình nghiên cứu vũ khí của Đức Quốc xã. Lượng năng lượng khổng lồ giải phóng ra từ phản ứng phân hạch hạt nhân phần lớn là do giải phóng năng lượng liên kết của các hạt nhân trước khi phản ứng trong khi năng lượng bởi sự chênh lệch khối lượng trước và sau phản ứng nhân với hệ số c² chỉ đóng góp phần nhỏ. Phản ứng phân hạch được Otto Hahn, Otto Frisch và Lise Meitner phát hiện vào năm 1938.
Phương trình E=mc² đóng góp vai trò hỗ trợ trong nghiên cứu phân hạch hạt nhân. Không phải vì cơ chế đằng sau năng lượng hạt nhân, nhưng mà là một công cụ: Bởi vì năng lượng và khối lượng tương đương với nhau, những phép đo độ nhạy cao về khối lượng của các hạt nhân nguyên tử khác nhau cho những nhà nghiên cứu chứng cứ quan trọng về độ lớn của năng lượng liên kết hạt nhân. Công thức của Einstein không nói cho chúng ta tại sao năng lượng liên kết hạt nhân lại lớn đến cỡ đó mà nó mở ra một khả năng (cùng với những phương pháp khác) để đo những năng lượng liên kết này.
Từ trường trong thuyết tương đối.
Sự tồn tại của lực từ có mối liên hệ mật thiết với thuyết tương đối hẹp. Định luật Coulomb về lực điện khi đứng riêng rẽ sẽ không thể tương thích với cấu trúc của không thời gian. Thật vậy, khi các điện tích đứng yên sẽ không có từ trường xuất hiện, trừ khi có một quan sát viên đang di chuyển so với các điện tích. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Có thể giải thích kết quả quan sát này dựa trên phép biến đổi Lorentz giữa mối liên hệ của vectơ từ trường và vectơ điện trường, cho thấy mối liên hệ khăng khít giữa từ trường, điện trường và hệ quy chiếu được lựa chọn. Sự xuất hiện của từ trường khi đưa nam châm di chuyển đến gần vòng dây dẫn (và ngược lại), hay tổng quát hơn khi có từ trường biến đổi thì xuất hiện điện trường (và ngược lại) còn liên quan đến thuộc tính của không gian và thời gian. Từ phương diện này, tuy hai định luật Coulomb và định luật Biot-Savart có vẻ khác nhau nhưng khi xét trong từng hệ quy chiếu của quan sát viên đứng yên hay chuyển động sẽ cho những kết quả như nhau. Trong mô tả toán học của thuyết tương đối, từ trường và điện trường được miêu tả chung bằng một đại lượng, tenxơ trường điện từ hạng bốn, tương tự như sự thống nhất giữa không gian và thời gian trong không thời gian bốn chiều.
Thuyết tương đối rộng.
Lực hấp dẫn và độ cong của không thời gian.
Thuyết tương đối rộng giải thích lực hấp dẫn bằng độ cong hình học của không thời gian xác định bởi:
Không thời gian bốn chiều trong thuyết tương đối hẹp đã thật khó hình dung, vì vậy không thời gian cong thậm chí còn khó hơn nữa. Để minh họa nó, có thể giảm số chiều của không thời gian xưống và lấy hình ảnh tương tự trong trường hợp mặt cong 2 chiều. Giả sử có hai chiếc xe chạy trên mặt cầu, chúng bắt đầu tại đường xích đạo và lái hướng về phía bắc theo đường tròn lớn. Lúc đầu hướng của hai xe này song song với nhau, mặc dù không bị tác động bởi lực nào khác, cuối cùng hai xe sẽ gặp nhau tại cực bắc. Một quan sát viên đứng trên mặt cầu, anh ta sẽ không biết bề mặt bị cong và cho rằng đã có một lực hút hai xe về phía lại gần nhau. Đây là một hiện tượng thuần túy hình học. Do đó lực hấp dẫn đôi khi trong thuyết tương đối rộng được gọi là giả lực.
Vì đường trắc địa nối hai điểm trong không thời gian không phụ thuộc vào đặc tính của vật rơi tự do trong trường hấp dẫn, hiện tượng đã được Galileo Galilei phát hiện ra đầu tiên, nên hai vật ở cùng cao độ sẽ rơi tự do với tốc độ như nhau. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Trong cơ học Newton, điều này có nghĩa là khối lượng quán tính và khối lượng hấp dẫn của một vật phải tương đương nhau. Phát biểu này cũng là cơ sở cho thuyết tương đối rộng.
Cấu trúc toán học của thuyết tương đối rộng.
Trong khi nhiều tiên đoán của thuyết tương đối hẹp được miêu tả dựa trên cấu trúc toán học gọn nhẹ và đơn giản, thì cấu trúc toán học của thuyết tương đối rộng lại phức tạp hơn. Lý thuyết cần các phương pháp của hình học vi phân để miêu tả không thời gian cong, thay thế cho hình học Euclid của không gian phẳng quen thuộc đối với chúng ta.
Để miêu tả sự cong, một vật thể cong hoặc không gian cong thường được nhúng vào không gian có số chiều cao hơn. Ví dụ, mặt cầu hai chiều thường được hình dung ra khi nó đặt trong không gian ba chiều. Tuy nhiên, các nhà toán học có thể miêu tả được độ cong mà không cần áp dụng hình thức nhúng này, tức là nó không phụ thuộc vào không gian bên ngoài, một đặc điểm quan trọng cần thiết của thuyết tương đối tổng quát. Ví dụ như việc một người sống trên mặt cong đo tổng các góc trong của một tam giác trên mặt cong cho kết quả không bằng 180° thì người đó sẽ hiểu rằng anh ta đang sống trong một mặt cong mà không cần phải "nhảy" ra khỏi bề mặt này.
Mối liên hệ giữa độ cong và vật chất-năng lượng cũng như chuyển động của hạt trong trường hấp dẫn được xác định bằng phương trình trường Einstein. Nó là phương trình tenxơ đối xứng hạng hai, tương ứng với hệ 10 phương trình khi viết tường minh. Đối với các hiện tượng vật lý hấp dẫn, các nhà vật lý thường đưa phương trình về những dạng xấp xỉ ít phức tạp hơn để có thể thu được những tính chất hữu ích. Phương trình trường Einstein như sau:
Đồng hồ trong trường hấp dẫn.
Trong thuyết tương đối rộng, tốc độ hoạt động của đồng hồ không chỉ phụ thuộc vào vận tốc tương đối của chúng, mà còn phụ thuộc vào vị trí của nó trong trường hấp dẫn cũng như độ mạnh yếu của trường. Một đồng hồ đặt trên đỉnh núi sẽ chạy nhanh hơn cái y hệt đặt dưới thung lũng. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Tuy hiệu ứng này là rất nhỏ trong trường hấp dẫn của Trái Đất, nhưng để máy thu GPS tránh được các sai số trong tọa độ vị trí khi nó thu được từ tần số vệ tinh thì cần phải hiệu chỉnh thời gian giữa máy thu và thời gian trên vệ tinh để cho chúng đồng bộ.
Vũ trụ học.
Trong khi thuyết tương đối hẹp áp dụng cho trường hợp hệ quy chiếu đang xét nằm trong vùng không thời gian có độ cong nhỏ có thể bỏ qua được, thì thuyết tương đối tổng quát không đòi hỏi giới hạn này. Do đó nó có thể áp dụng cho toàn thể vũ trụ và lý thuyết đóng vai trò quan trọng của ngành vũ trụ học. Vì thế, sự giãn nở của vũ trụ, như được tiên đoán bởi Alexander Friedmann và Georges Lemaître từ phương trình trường Einstein cũng như kết hợp với hằng số vũ trụ học (năng lượng tối) và một số yếu tố khác như vật chất tối đã trở thành mô hình chuẩn của vũ trụ học. Sự giãn nở này bắt đầu từ Vụ Nổ Lớn xảy ra từ cách nay 13,8 tỷ năm trước. Nó cũng là sự bắt đầu của không gian và thời gian khi toàn bộ vũ trụ tập trung trong một vùng không gian có đường kính kích cỡ chiều dài Planck.
Lỗ đen.
Một tiên đoán khác của thuyết tương đối rộng đó là sự tồn tại của lỗ đen. Những vật thể này tạo ra trường hấp dẫn rất mạnh khiến cho ánh sáng cũng bị hút vào chân trời sự kiện, do đó nó không thể thoát ra khỏi lỗ đen. Einstein không thích thú với ý tưởng về sự tồn tại của vật thể này, và ông cho rằng phải có một cơ chế vật lý nào đó ngăn cản sự hình thành lỗ đen. Nhiều dữ liệu quan sát thiên văn vật lý ngày nay cho thấy quả thực có những lỗ đen ẩn nấp trong vũ trụ, và chúng có thể là trạng thái tiến hóa cuối cùng của các ngôi sao lớn trong các thiên hà hoặc được hình thành từ sự suy sụp hấp dẫn của các đám khí trong vũ trụ sơ khai.
Sóng hấp dẫn.
Tương tự như sóng điện từ tiên đoán bởi lý thuyết điện từ của Maxwell, thuyết tương đối rộng cho phép sự tồn tại của sóng hấp dẫn: sự tập trung của khối lượng (hay năng lượng) làm cong không thời gian, và sự thay đổi của hình dáng hoặc vị trí của vật thể gây ra sự biến đổi và lan truyền trong toàn bộ vũ trụ với tốc độ bằng tốc độ ánh sáng. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Tuy nhiên, những biến đổi này rất nhỏ mà các nhà vật lý vẫn chưa phát hiện được sóng hấp dẫn một cách trực tiếp. Một vụ nổ siêu tân tinh năm 1987 có thể phát ra sóng hấp dẫn và được các trạm quan sát ngày nay (2011) phát hiện được. Tuy vậy chỉ có hai trạm quan sát cho tới năm đó và độ nhạy của chúng không thể phát hiện ra được những gợn không thời gian cực nhỏ này. Nhờ những quan sát quỹ đạo hệ pulsar đôi chứng tỏ một cách gián tiếp sự tồn tại của sóng hấp dẫn. Russell Hulse và Joseph Taylor đã nhận Giải Nobel Vật lý năm 1993 nhờ những quan sát này.
Ngày 17 tháng 3 năm 2014, một đoàn thám hiểm Mỹ sau một nghiên cứu 3 năm thông báo tại buổi họp báo ở Harvard, rằng họ đã quan sát được sóng hấp dẫn ban sơ (primordial gravitational waves) của giây phút ngay sau Big Bang. Tuy nhiên sau đó nhóm BICEP 2 và Planck đã hợp tác cùng phân tích dữ liệu với nhau và đi đến kết luận là hình ảnh mà BICEP 2 nhận được chủ yếu do ảnh hưởng của bụi trong Ngân Hà chứ không phải từ sóng hấp dẫn nguyên thủy.
Sau hơn 40 năm khởi xướng, huy động vốn tài trợ từ Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF), xây dựng và nâng cấp, nhóm cộng tác khoa học Advanced LIGO thông báo ngày 11 tháng 2 năm 2016 rằng hai trạm thám trắc ở Livingstone, Louisiana và Hanaford, Washington đã thu được trực tiếp tín hiệu sóng hấp dẫn từ kết quả sáp nhập của hai lỗ đen khối lượng sao nằm cách Trái Đất khoảng 1,3 tỷ năm ánh sáng. Phát hiện này đã mở ra thời kỳ mới của thiên văn sóng hấp dẫn.
Xác nhận bằng thực nghiệm.
Sự thành công đầu tiên của thuyết tương đối hẹp đó là nó giải thích được sự mâu thuẫn trong kết quả thu được ở thí nghiệm Michelson-Morley và lý thuyết điện động lực học, trong khi đó lý thuyết điện động lực học còn được coi là cơ sở cho sự phát triển của thuyết tương đối hẹp. Lý thuyết đã được chứng minh là đúng đắn qua rất nhiều thí nghiệm và thực nghiệm, như thí nghiệm Ives–Stilwell. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Một ví dụ điển hình đó là việc phát hiện muon trong tia vũ trụ, mà những hạt này không thể tới bề mặt Trái Đất được với thời gian sống rất ngắn của chúng nếu không có hiệu ứng giãn thời gian khi chúng chuyển động với tốc độ gần bằng với tốc độ ánh sáng, hoặc các hạt muon chuyển động với một quãng đường ngắn hơn do sự co độ dài. Chứng cứ cho điều này đến từ các cuộc bay bằng khinh khí cầu vào tầng bình lưu thực hiện bởi nhà vật lý Thụy Sĩ Auguste Piccard trong các năm 1931 và 1932, mà quá trình chuẩn bị có sự tham gia của Einstein.
Còn đối với lý thuyết tương đối rộng, ở thời điểm công bố nó mới chỉ có một bằng chứng thực nghiệm có thể để kiểm chứng, đó là sự dịch chuyển điểm cận nhật trong quỹ đạo của Sao Thủy. Năm 1919, Arthur Eddington dẫn đầu tổ chức hai đoàn thám hiểm quan sát hiện tượng nhật thực, họ đo được sự dịch chuyển của vị trí biểu kiến của các sao gần Mặt Trời và xác nhận trực tiếp về các tia sáng bị lệch khi đi qua trường hấp dẫn. Thí nghiệm Pound–Rebka kiểm tra dịch chuyển đỏ do hấp dẫn thực hiện năm 1959 là thí nghiệm chính xác cao đầu tiên về thuyết tương đối tổng quát.
Các thí nghiệm và thực chứng khác bao gồm: thấu kính hấp dẫn, phát hiện trực tiếp sóng hấp dẫn, quan sát quỹ đạo của cặp sao xung, mô hình chuẩn vũ trụ học, thí nghiệm Gravity Probe B...
Ngoài thuyết tương đối rộng nêu bởi Einstein, cũng có những lý thuyết hấp dẫn tương đối tính khác được đề xuất dựa trên các cơ sở của thuyết tương đối rộng. Lý thuyết nổi bật nhất là lý thuyết Jordan - Brans-Dicke, mặc dù đa số những lý thuyết này có cấu trúc phức tạp hơn. Sự đúng đắn của các lý thuyết này vẫn chưa hoàn toàn bị bác bỏ. Đã có nhiều thí nghiệm và thực nghiệm nhằm kiểm tra thuyết tương đối tổng quát lẫn các lý thuyết thay thế khác.
Tiếp nhận và giải thích.
Nhận thức của công chúng.
Cách tiếp cận mới của thuyết tương đối về không gian và thời gian đã thu hút sự quan tâm của công chúng kể từ khi lý thuyết ra đời. Einstein trở nên nổi tiếng và thuyết tương đối dần xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. |
Thuyết tương đối | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2791 | Với cách nói đơn giản mọi thứ đều tương đối, đôi khi lý thuyết trở thành một lĩnh vực xem xét của chủ nghĩa tương đối trong triết học.
Trong bộ phim chiếu vào tháng 4 năm 1922 nhan đề "Những điều cơ bản của thuyết tương đối Einstein", với nhiều khung hình minh họa giải thích thuyết tương đối hẹp của Einstein trước khán giả.
Những lời chỉ trích phê bình về thuyết tương đối bắt nguồn từ nhiều cách khác nhau, như hiểu sai lý thuyết, chống đối những tiến bộ của toán học và vật lý hay liên quan đến nguồn gốc Do Thái của Einstein. Từ thập kỷ 1920 một vài nhà vật lý ở Đức đã công khai chống người Do Thái, bao gồm hai người đoạt giải Nobel là Philipp Lenard và Johannes Stark, với phong trào Deutsche Physik chống lại thuyết tương đối. Vài năm sau khi Chủ nghĩa Quốc xã nắm quyền, Stark đăng một bài viết trên tờ Das Schwarze Korps của SS số ngày 15 tháng 7 năm 1937 chống lại những người trong nước còn theo ủng hộ thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Trong số họ, Stark tố cáo Werner Heisenberg và Max Planck là những người Do Thái trắng. Heisenberg đã đến gặp trực tiếp Himmler và đạt được khôi phục danh dự của mình.
Khoa học công nhận.
Thời gian đầu thuyết tương đối mới ra đời chưa được cộng đồng khoa học công nhận, với Albert Einstein nhận giải Nobel Vật lý năm 1921 với lý do có cống hiến cho nền vật lý lý thuyết và đặc biệt cho hiệu ứng quang điện. Ngày nay, cả thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng đã được thừa nhận rộng rãi và chúng là những trụ cột cho ngành vật lý cũng như nền tảng trong sự phát triển của các công nghệ hiện đại. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Nhà Kim (, tiếng Nữ Chân: 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu, thủ lĩnh Hoàn Nhan A Cốt Đả sau khi thống nhất các bộ lạc Nữ Chân, vào năm 1115 dựng nước đặt đô tại Hội Ninh phủ (nay thuộc A Thành, Hắc Long Giang), quốc hiệu là Đại Kim. Sau khi triều Kim lập quốc, cùng Bắc Tống định "Liên minh trên biển" nhằm giáp công Liêu, đến năm 1125 thì Kim diệt Liêu. Bắc Tống tiến đánh Liêu hai lần song đều thua, Kim thấy vậy liền xé bỏ hẹn ước với Bắc Tống, hai lần nam hạ Trung Nguyên, đến năm 1127 thì tiêu diệt Bắc Tống. Khi dời đô đến Trung Đô (nay thuộc Bắc Kinh), lãnh thổ Kim bao trùm Hoa Bắc, cùng khu vực Hoa Trung ở phía bắc Tần Lĩnh-Hoài Hà, khiến cho Tây Hạ cùng các bộ lạc Mạc Bắc như Tháp Tháp Nhi, Khắc Liệt phải thần phục, Nam Tống phải nhận là nước cháu (Tống gọi Kim là nước chú), xưng bá tại Đông Á.
Đến thời kỳ Kim Thế Tông và Kim Chương Tông, chính trị và văn hóa của Kim đạt đến đỉnh cao, song vào trung hậu kỳ Kim Chương Tông thì dần xuống dốc. Sức chiến đấu của quân Kim không ngừng suy giảm, thậm chí khi người thống trị tiến hành trao bổng lộc ở mức cao cho binh lính cũng không cản lại nổi. Quan hệ giữa người Nữ Chân và người Hán mãi không thể tìm được con đường thích hợp. Thời kỳ Hoàng đế Hoàn Nhan Vĩnh Tế và Kim Tuyên Tông, Kim bị Đại Mông Cổ Quốc mới nổi lên ở phía bắc xâm lược, trong khi nội bộ cũng có tranh đấu, vùng Sơn Đông-Hà Bắc có dân biến không dứt, cuối cùng buộc phải nam thiên Biện Kinh (nay là Khai Phong, Hà Nam). Sau đó, nhằm khôi phục thế lực, Kim lại giao chiến với Tây Hạ và Nam Tống, các bên đều tiêu hao thực lực. Năm 1234, do bị Mông Cổ và Nam Tống bắc nam hợp đánh, Đại Kim diệt vong.
Năm 1115, khi Hoàn Nhan A Cốt Đả xưng đế có nói với quần thần: "Liêu lấy sắt tinh luyện làm hiệu, nhằm thể hiện sự vững mạnh. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Sắt tinh luyện tuy cứng song cuối cùng cũng bị "biến hoại", chỉ có 'kim' là "bất biến bất hoại", vì vậy lấy quốc hiệu là Đại Kim để thể hiện mong muốn mãi mãi chẳng đổi chẳng hỏng.
Kim là 'triều đại chinh phục' do người Nữ Chân dựng nên, mang nặng tính chất chế độ bộ lạc. Vào sơ kỳ, Kim theo chế độ bột cực liệt, tức quý tộc hiệp nghị. Sau đó, triều đình Kim tiếp thu chế độ của Liêu và Tống, dần dần chuyển từ chính trị nhị nguyên sang chế độ Hán pháp đơn nhất, do vậy cơ chế chính trị của Kim được tinh giản mà lại lớn mạnh. Về mặt quân sự, Kim thi hành chế độ Mãnh an Mưu khắc, tức quân dân hợp nhất, có thiết kỵ binh và hỏa khí tinh nhuệ, trước sau đánh bại nhiều cường quốc. Về mặt kinh tế, phần lớn kế thừa Bắc Tống, nghề gốm sứ và nghề rèn sắt hưng thịnh, 'các trường" giữa Kim-Hạ kiểm soát mạch máu kinh tế Tây Hạ. Quý tộc Nữ Chân chiếm lĩnh bừa bãi đất ruộng ở Hoa Bắc, nô dịch người Hán khiến hai bên xung đột quyết liệt. Khi quốc thế triều Kim suy thoái, người Hán nối tiếp nhau tiến hành nổi dậy vũ trang.
Triều Kim trên phương diện văn hóa cũng dần theo hướng Hán hóa, từ trung kỳ về sau, hiện tượng quý tộc Nữ Chân đổi sang họ Hán, mặc Hán phục càng ngày càng phổ biến, triều đình mặc dù cấm song vẫn không cản nổi. Kim Thế Tông tích cực đề xướng học tập tiếng Nữ Chân, chữ Nữ Chân, song không thể vãn hồi xu thế người Nữ Chân bị Hán hóa. Tạp kịch và hí khúc thời Kim khá phát triển, thịnh hành hình thức dùng tạp kịch làm trò. Sự phát triển của viện bản thời Kim đặt cơ sở cho tạp kịch Nguyên khúc về sau này. Y học và số học thời Kim có sự phát triển nhanh chóng, Kim Nguyên tứ đại gia có ảnh hưởng quan trọng tới tiến trình phát triển của Trung y, việc nỗ lực phát triển "Thiên Nguyên thuật" và soạn viết "Trùng tu Đại Minh lịch" có ảnh hưởng quan trọng đối với số học thời Nguyên.
Lịch sử.
Hưng khởi và diệt Liêu.
Triều Kim do người Nữ Chân kiến lập, dân tộc này sinh sống dựa vào đánh cá và săn bắn. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Thời Đường, người Nữ Chân được gọi là Mạt Hạt, đến thời Ngũ Đại thì bao gồm các bộ lạc như Hoàn Nhan bộ, thần thuộc Bột Hải Quốc. Thủ lĩnh Khất Tứ Bỉ Vũ (Gulsabiwu) của người Mạt Hạt (thủy tổ của người Nữ Chân) ngày xưa từng cùng Đại Trọng Tượng và Đại Tộ Vinh chống lại Võ Tắc Thiên những năm 696 - 698. Đại chiến Thiên Môn Lĩnh giữa nhà Chu và Đại Trọng Tượng nổ ra năm 698, Đại Trọng Tượng và Khất Tứ Bỉ Vũ tử chiến, Đại Tộ Vinh lên lãnh đạo dân quân Cao Câu Ly và Mạt Hạt đánh bại 20 vạn quân Chu do hai tướng người Khiết Đan là Lý Giai Cố và Lạc Vũ Chỉnh chỉ huy. Sau khi Đại Tộ Vinh lập ra vương quốc Bột Hải cùng năm 698, người Mạt Hạt được cho nắm giữ 1 phần quyền lực trong vương quốc này. Triều Liêu (đời vua Liêu Thái Tổ) sau khi đánh diệt Bột Hải Quốc (đời vua Đại Nhân Soạn) vào năm 926, thu biên người Nữ Chân ở phương nam, gọi là Thục Nữ Chân, người Nữ Chân ở phương bắc là Sinh Nữ Chân. Đến vãn kỳ của triều Liêu, triều chính hỗn loạn, Liêu Thiên Tộ Đế hồ đồ bất tài, triều đình Liêu không ngừng đòi cống phẩm, chà đạp bách tính Nữ Chân.
Một số bộ lạc Nữ Chân ở đông bắc bộ Cao Ly từng là thần thuộc của vương triều này, đồng thời cũng triều cống, được gọi là Đông Nữ Chân hoặc Đông Bắc Nữ Chân. Sau khi Hoàn Nhan bộ nổi lên, liên minh các bộ lạc Nữ Chân với nòng cốt là Hoàn Nhan bộ muốn thống nhất bộ lạc Nữ Chân tại Hạt Lãn Điện (nay là khu vực đông bắc của Bắc Triều Tiên), Cao Ly bất an nên quyết định khai khẩn vùng đất này, hai bên phát sinh xung đột. Tháng hai năm 1104, các tướng Cao Ly như Lâm Can suất quân xâm nhập Hạt Lãn Điện, bị quân Nữ Chân đánh cho thảm bại. Cao Ly chiến bại tổn binh, song vì Doãn Quán du thuyết nên quân Nữ Chân tạm ngưng chiến. Sau khi quân Nữ Chân rút đi, Doãn Quán thỉnh cầu với Cao Ly Túc Tông huấn luyện binh sĩ nhằm tạo ra một đội quân tinh nhuệ. Năm 1107, Doãn Quán suất lĩnh "Biệt vũ ban" gồm 17 nghìn lính tiến đánh người Nữ Chân, giành được thắng lợi, cho xây dựng 9 tòa thành ở khu vực Hàm Hưng ngày nay. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Năm 1108, Cao Ly có tranh đấu nội bộ, quân chủ mới là Cao Ly Duệ Tông lệnh cho Doãn Quán triệt binh. Từ năm 1108 đến 1109, Ô Nhã Thúc chỉ huy quân Nữ Chân thu phục Hạt Lãn Điện, Cao Ly thỉnh hòa, xin rút quân khỏi 9 thành và các khu vực chiếm được của người Nữ Chân.
Năm 1112, khi Thiên Tộ Đế đến Xuân châu tụ hội cùng với tù trưởng các tộc Nữ Chân đã cư xử bất kính với Hoàn Nhan A Cốt Đả và các tù trưởng khác, khiến cho Hoàn Nhan A Cốt Đả có ý phản kháng triều đình Liêu, sau đó xuất binh thống nhất các tộc Nữ Chân. Năm 1114, Hoàn Nhan A Cốt Đả tuyên chiến với triều đình Liêu. Vua Liêu sai tướng mang 7.000 quân đi đánh Nữ Chân, tập kết tại bờ phía bắc sông Áp Tử (tức sông Nộn Giang, vị trí giữa hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang); A Cốt Đả dàn 3.700 quân đối bờ. Lợi dụng ban đêm, A Cốt Đả mang quân vượt sông, bấy giờ gió lớn nỗi lên, trời tối mù mịt, xua quân tiến đánh, quân Liêu tan vỡ đại bại, sau đó tiếp tục bại trận trong các trận chiến Ninh Giang và Xuất Hà Điếm.
Tháng giêng năm 1115, tại Hoàng Đế trại (nay thuộc A Thành, Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang), Hoàn Nhan A Cốt Đả xưng đế kiến quốc, tức Kim Thái Tổ, định quốc hiệu là "Đại Kim". Đến lúc này, Liêu Thiên Tộ Đế mới xem trọng sự việc, đồng thời hạ lệnh thân chinh, song quân Liêu bị quân Kim đánh bại, còn nội bộ triều Liêu lại xảy ra việc Da Luật Chương Nô và Cao Vĩnh Xương làm phản.
Kim Thái Tổ lấy Ngũ Kinh của Liêu làm mục tiêu, phân binh làm hai lộ triển khai chiến tranh Kim diệt Liêu. Liêu Thiên Tộ Đế từng sắc phong cho Kim Thái Tổ là Đông Hoài quốc hoàng đế nhằm an phủ, song văn bản trong sắc phong không gọi Hoàn Nhan A Cốt Đả là huynh trưởng, quốc hiệu không phải là Đại Kim, do vậy ông không tiếp thụ sắc phong mà tiếp tục tiến đánh Liêu.
Tháng năm của năm 1116, quân Đông lộ chiếm lĩnh Đông Kinh Liêu Dương phủ (nay thuộc Liêu Dương, Liêu Ninh), đến năm 1120 quân Tây lộ đánh chiếm Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ (nay thuộc Ba Lâm Tả, Nội Mông), triều Liêu để mất một nửa đất đai. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Trong lúc đang diễn ra chiến sự, Bắc Tống liên tục phái các sứ giả Mã Chính, Triệu Lương Tự đến, cùng Kim định Hải thượng chi minh, liên hiệp tiến công Liêu. Năm 1122, quân Đông lộ đánh hạ Trung Kinh Đại Định phủ (nay thuộc Ninh Thành, Nội Mông), Thiên Tộ Đế chạy đến sa mạc Gobi. Đồng thời, quân Tây lộ cũng đánh hạ Tây Kinh Đại Đồng phủ (nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây), Da Luật Đại Thạch lập Da Luật Thuần ở Nam Kinh Tích Tân phủ (nay thuộc Bắc Kinh), tức chính quyền Bắc Liêu. Bắc Tống phái Đồng Quán cùng những người khác nhiều lần đem quân bắc phạt Liêu, song đều bị quân Liêu đánh tan. Bắc Tống cuối cùng phải thỉnh quân Kim đánh hạ Nam Kinh của Liêu, Bắc Liêu mất, đến lúc này Ngũ Kinh của Liêu đều bị Kim đánh hạ. Tống và Kim trải qua hiệp thương, kết quả là quân Kim sẽ trao cho Tống một bộ phận thành thị của Yên Vân thập lục châu, đồng thời thu được tuế tệ, song cuối cùng Bắc Tống chỉ thu được các tòa thành không sau khi chúng bị quân Kim cướp phá.
Năm 1123, Kim Thái Tổ qua đời, em trai là Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi kế vị, tức Kim Thái Tông. Tháng giêng năm 1124, nhằm liên hiệp với Tây Hạ để diệt Liêu, Kim Thái Tông cắt đất Liêu cũ ở phía bắc Hạ Trại và phía nam Âm Sơn cho Tây Hạ, Tây Hạ chuyển sang xưng thần với Kim. Năm 1125, Liêu Thiên Tộ Đế bị bắt, triều Liêu mất. Người Nữ Chân đã trả thù cho vương quốc Bột Hải từng bị người Khiết Đan tiêu diệt vào năm xưa. Song Da Luật Đại Thạch suất quân tiến về phía tây, thành lập Tây Liêu ở Tây Vực..
Chinh Tống và hòa đàm.
Sau khi diệt Liêu, triều Kim liền có ý nam hạ diệt triều Tống. Kim Thái Tông mượn "biến Bình châu", vào năm 1125 phát động chiến tranh Kim diệt Tống. Kim Thái Tông phái Bột cực liệt Hoàn Nhan Tà Dã làm Đô nguyên soái, Hoàn Nhan Tông Vọng, Hoàn Nhan Tông Hàn phân binh hai lộ Hà Bắc và Sơn Tây, cuối cùng hội quân ở thủ đô Khai Phong của Bắc Tống. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Trước tình huống tướng Tống Lý Cương tử thủ Khai Phong, hai bên Kim và Tống ký kết "Tuyên Hòa hòa nghị" Năm 1126, lấy lý do triều đình Tống hủy ước, Kim Thái Tông lại phái Hoàn Nhan Tông Vọng và Hoàn Nhan Tông Hàn phân làm hai lộ công phá Khai Phong, đến năm sau bắt được Tống Khâm Tông, Tống Huy Tông cùng hoàng thất Tống và đưa họ về phía bắc, sử gọi là Tĩnh Khang chi họa, Bắc Tống diệt vong. Tuy nhiên, Khang vương Triệu Cấu của Bắc Tống tránh được nạn, đồng thời xưng đế ở Nam Kinh Quy Đức phủ (nay thuộc Thương Khâu, Hà Nam), kiến quốc Nam Tống, tức Tống Cao Tông. Để phục vụ cho mục đích thống trị vùng đất rộng lớn mới chiếm lĩnh được từ tay người Hán, triều Kim trước sau lập ra các chính quyền bù nhìn là Trương Sở và Lưu Tề, đồng thời nhiều lần phái Hoàn Nhan Tông Bật và các tướng Kim khác đem quân nam chinh Tống Cao Tông (lúc này dời đến Giang Nam). Nhờ nỗ lực của các tướng Nhạc Phi, Hàn Thế Trung, Trương Tuấn, Nam Tống mới được giữ vững. Cuối cùng, triều Kim chỉ còn cách buộc Nam Tống xưng nước cháu với mình, đồng thời bắt các nước Tây Hạ và Cao Ly phải thần phục, xưng bá Đông Á.
Năm 1135, Kim Thái Tông qua đời, tôn tử của Kim Thái Tổ là Hoàn Nhan Đản tức vị, tức Kim Hy Tông. Đương thời, có một số công thần phụ tá triều đình Kim được gọi là "Diên Khánh công thần", bọn họ kiểm soát triều chính, chủ yếu phân thành phái chủ chiến và phái chủ hòa. Kim Hy Tông phế trừ Lưu Tề vào năm 1137, sau đó nghe theo kiến nghị của Hoàn Nhan Thát Lãn thuộc phái chủ hòa, tiến hành nghị hòa với phái chủ hòa của Nam Tống gồm Tống Cao Tông và Tần Cối. Việc phải cắt nhượng Hà Nam và Thiểm Tây khiến cho Hoàn Nhan Tông Bật thuộc phái chủ chiến bất mãn, đến năm 1140 thì Hoàn Nhan Tông Bật suất quân đoạt lấy đất Hà Nam, Thiểm Tây. Năm sau, Hoàn Nhan Tông Bật lại nam chinh, song bị Nhạc Phi và Lưu Kỹ đánh bại, Nhạc Phi sau trận Yển Thành tiến hành bắc phạt, tiến sát Biện Kinh. Cuối cùng, Hoàn Nhan Tông Bật và phái chủ hòa của Nam Tống hợp đàm, ký kết Thiệu Hưng hòa nghị, đến lúc này biên giới Kim-Tống hoàn toàn xác định theo Tần Lĩnh-Hoài Hà. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Kim Hy Tông từ nhỏ đã được dạy dỗ trong môi trường văn hóa Hán, sau khi đăng cơ cùng với Hoàn Nhan Tông Bật thúc đẩy cải cách theo Hán chế, đồng thời trọng dụng người Hán. Năm sau, Kim Hy Tông phái ba người thuộc "Diễn Khánh công thần" là Hoàn Nhan Tông Bàn, Hoàn Nhan Tông Cán, Hoàn Nhan Tông Hàn cùng tổng quản cơ cấu chính phủ. Quan chế Kim đến lúc này về cơ bản đã Hán hóa, kiến lập tam tỉnh chế với thượng thư tỉnh là trung tâm. Kim Hy Tông do bị "Diễn Khánh công thần" và Hoàng hậu khống chế, bản thân sầu não quá độ, đến hậu kỳ thì không còn lo việc triều chính, lạm sát người vô tội, cuối cùng bị anh họ là Hữu thừa tướng Hải Lăng vương Hoàn Nhan Lượng sát hại vào năm 1150, Hoàn Nhan Lượng xưng làm hoàng đế.
Nhằm công phạt Nam Tống, thống nhất Trung Hoa, Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng thi hành nhiều biện pháp: thiên đô đến Yên Kinh (nay thuộc Bắc Kinh), gọi là Trung Đô, đồng thời cũng có ý nam thiên đến Biện Kinh; phân chia lại về hành chính với việc thành lập 4 lộ nhằm tạo thuận lợi cho quản lý; đưa quân đội khi trước do Kim Thái Tông cùng Hoàn Nhan Tông Cán và Hoàn Nhan Tông Hàn quản lý đang trú trát tại Thượng Kinh Hội Ninh phủ chuyển sang chịu sự quản chế của triều đình, tạo nền tảng cho chế độ trung ương tập quyền của triều Kim. Tuy nhiên, Hoàn Nhan Lượng nghi kỵ sâu sắc các thành viên trong tông thất, hậu duệ của Kim Thái Tông hầu như đều bị Hoàn Nhan Lượng sát hại; đồng thời ông hao phí của cải rất lớn, không xem xét đến sự phản đối của một bộ phận đại thần, kiên quyết Nam chinh. Tháng 5 năm 1161, triều đình Kim khiến sứ sang Tống yêu cầu hoạch định lại biên giới, có ý muốn tạo cớ gây hấn, Nam Tống bắt đầu phòng bị chiến tranh. Năm sau, Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng suất đại quân từ Biện Kinh phân binh làm 4 lộ tiến hành nam chinh. Quân Đông diện phân thành hải lộ và lục lộ, quân lục lộ do Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng tự thân suất lĩnh, từ Túc châu (nay là Túc Châu, An Huy) vượt qua Hoài Hà đánh thẳng đến Hòa châu (nay là huyện Hòa, An Huy), thủy quân hải lộ đánh thẳng vào thủ đô Lâm An (nay là Hàng Châu, Chiết Giang) của Nam Tống. |
Nhà Kim | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=2793 | Quân Tây lộ phân biệt từ Quan Trung tiến công khu vực Tứ Xuyên và từ Hà Nam tiến công khu vực Hồ Bắc. Quân Đông lộ sau khi vượt Hoài Hà đánh chiếm Hòa châu thì chuẩn bị tiếp tục vượt Trường Giang. Tuy nhiên, thủy quân hải lộ của Kim bị thủy quân của tướng Tống Lý Bảo tiêu diệt tại Giao Tây (nay thuộc Giao Châu, Sơn Đông). Đồng thời, người Khiết Đan ở tây bắc làm phản, em họ là Cát vương Hoàn Nhan Tụ tự lập làm hoàng đế ở Đông Kinh Liêu Dương phủ, đồng thời chuyển đến Yên Kinh, tức Kim Thế Tông. Trước tình hình này, Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng vẫn cố vượt Trường Giang, song đội quân tiến trước bị tướng Tống Ngu Doãn Văn đánh bại trong Trận Thái Thạch, thuyền hạm cũng bị quân Tống tiêu hủy. Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng có ý đồ dời quân đến Dương Châu để vượt Trường Giang, song bị bộ hạ phản đối mạnh mẽ, cuối cùng họ phát động binh biến sát hại Hoàn Nhan Lượng. Quân Tống thừa cơ thu phục khu vực phía nam Hoài Hà, tức Hoài Nam, từ sau đó Kim không còn phát động chiến tranh nhằm diệt Tống nữa.
Thế-Chương thịnh thế.
Năm 1161, Kim Thế Tông sau khi cử binh thì chiêu cáo tội lỗi của Hoàng đế Hoàn Nhan Lượng, suất quân thống nhất Hoa Bắc, đồng thời đình chỉ phát động chiến tranh nhằm diệt Tống. Tuy nhiên, chiến tranh giữa Kim và Tống vẫn chưa kết thúc, vào năm 1162 lấy lý do Nam Tống không nguyện xưng thần, Kim Thế Tông phái chủ tướng Bộc Tán Trung Nghĩa tiến trú Biện Kinh, Hột Thạch Liệt Chí Ninh trấn thủ tiền tuyến, chuẩn bị đoạt lại khu vực Hoài Nam. Lúc này, Tống Hiếu Tông Triệu Thận có ý đồ muốn thu phục Trung Nguyên nên phái chủ tướng Trương Tuấn suất lĩnh quân đội bắc phạt, sử gọi là Long Hưng bắc phạt. Quân Tống dần dần chiếm lĩnh các nơi ở Hoài Bắc, song bị Hột Thạch Liệt Chí Ninh đánh tan trong trận Phù Li, chiến dịch bắc phạt của Tống kết thúc. Sau đó, phái chủ hòa trong triều đình Nam Tống nổi lên, đến năm 1164 khi quân Kim lại tiến hành nam chinh thì Tống cầu hòa, hai bên ký kết hiệp ước, đối đãi bình đẳng, triều Kim thu được của cải mỗi năm từ Tống. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.