id
stringlengths 14
14
| uit_id
stringlengths 10
10
| title
stringclasses 138
values | context
stringlengths 465
7.22k
| question
stringlengths 3
232
| answers
sequence | is_impossible
bool 2
classes | plausible_answers
sequence |
---|---|---|---|---|---|---|---|
0111-0002-0006 | uit_021203 | Dãy núi Rocky | Dãy núi Rocky hình thành cách đây 80 đến 55 triệu năm bởi biến động địa thể "Laramide" khi những mảng kiến tạo từ phía tây bị dồn vùi xuống dưới mảng Bắc Mỹ, đôn cao mặt đất sinh ra rặng núi cao. Kể từ đó, do quá trình xói mòn thiên nhiên của nước và băng mà đất đá bị rạn nứt, chỗ thì khoét sâu thành thung lũng và lòng chảo, chỗ thì tỉa gọt đỉnh núi thêm chót vót. Cuối thời kỳ băng hà gần đây nhất, con người mới đặt chân đến vùng núi Rocky; đó là thổ dân châu Mỹ. Sau đó, người gốc châu Âu, như Alexander MacKenzie, Meriwether Lewis và William Clark dần dẫn cuộc xâm nhập dãy núi, thám hiểm địa hình cùng tìm kiếm khoáng sản và lông thú (những nguồn tài nguyên giá trị rất được ưa chuộng vào thế kỷ 18-19). Cho đến nay vùng núi Rocky vẫn là miền đất tương đối thưa dân cư, không như vùng đồng bằng phía đông lục địa hay duyên hải Thái Bình Dương phía tây. | Những người ở dãy Rocky già đầu tiên đặt chân đến lục địa là ai? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"Alexander MacKenzie, Meriwether Lewis và William Clark"
],
"answer_start": [
499
]
} |
0111-0002-0007 | uit_021204 | Dãy núi Rocky | Dãy núi Rocky hình thành cách đây 80 đến 55 triệu năm bởi biến động địa thể "Laramide" khi những mảng kiến tạo từ phía tây bị dồn vùi xuống dưới mảng Bắc Mỹ, đôn cao mặt đất sinh ra rặng núi cao. Kể từ đó, do quá trình xói mòn thiên nhiên của nước và băng mà đất đá bị rạn nứt, chỗ thì khoét sâu thành thung lũng và lòng chảo, chỗ thì tỉa gọt đỉnh núi thêm chót vót. Cuối thời kỳ băng hà gần đây nhất, con người mới đặt chân đến vùng núi Rocky; đó là thổ dân châu Mỹ. Sau đó, người gốc châu Âu, như Alexander MacKenzie, Meriwether Lewis và William Clark dần dẫn cuộc xâm nhập dãy núi, thám hiểm địa hình cùng tìm kiếm khoáng sản và lông thú (những nguồn tài nguyên giá trị rất được ưa chuộng vào thế kỷ 18-19). Cho đến nay vùng núi Rocky vẫn là miền đất tương đối thưa dân cư, không như vùng đồng bằng phía đông lục địa hay duyên hải Thái Bình Dương phía tây. | ai đến vùng Rocky đầu tiên? | {
"text": [
"thổ dân châu Mỹ"
],
"answer_start": [
451
]
} | false | null |
0111-0003-0001 | uit_021205 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | Dãy Rocky có những dãy phụ lớn nào ở phía Tây? | {
"text": [
"dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia)"
],
"answer_start": [
29
]
} | false | null |
0111-0003-0002 | uit_021206 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | Những dãy núi phụ của Rocky nối liền hai sông nào? | {
"text": [
"từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard"
],
"answer_start": [
183
]
} | false | null |
0111-0003-0003 | uit_021207 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | Bề ngang của dãy Rocky là bao nhiêu? | {
"text": [
"từ 110 đến 480 km"
],
"answer_start": [
267
]
} | false | null |
0111-0003-0004 | uit_021208 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | Đầu phía Bắc dãy Rocky giao nhau với dãy nào? | {
"text": [
"dãy núi Interior"
],
"answer_start": [
450
]
} | false | null |
0111-0003-0005 | uit_021209 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | Cao nguyên McGregor thuộc dãy Rocky hay dãy Interior? | {
"text": [
"Interior"
],
"answer_start": [
659
]
} | false | null |
0111-0003-0006 | uit_021210 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | Dãy Rocky có những dãy phụ lớn nào ở phía bắc? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia)"
],
"answer_start": [
29
]
} |
0111-0003-0007 | uit_021211 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | Dãy Rocky thuộc cao nguyên McGregor hay dãy Interior? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"Interior"
],
"answer_start": [
659
]
} |
0111-0003-0008 | uit_021212 | Dãy núi Rocky | Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. | cao nguyên McGregor thuộc vùng nào? | {
"text": [
"cao nguyên Interior"
],
"answer_start": [
648
]
} | false | null |
0111-0004-0001 | uit_021213 | Dãy núi Rocky | Có nhiều nhân tố môi trường phân bố rộng khắp trong dãy núi Rockey. Dãy Rocky nằm ở vĩ độ giữa sông Liard ở British Columbia (59° B) và Rio Grande ở New Mexico (35° B). Đồng đỏ lớn xuất hiện ở độ cao bằng hoặc nhỏ hơn 1.800 foot (550 m), trong khi đỉnh cao nhất trong dãy núi là núi Elbert ở độ cao 14.440 foot (4.400 m). Giáng thủy dao động từ 10 inch (250 mm) mỗi năm ở các thung lũng phía nam đến 60 inch (1.500 mm) mỗi năm theo khu vực ở các đỉnh phía bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm có thể dao động từ 20 °F (−7 °C) ở Prince George, British Columbia đến 43 °F (6 °C) ở Trinidad, Colorado. Vì vậy, không có một hệ sinh thái nguyên khối duy nhất cho toàn bộ dãy núi Rocky. | Dãy Rocky trải dài trên vĩ độ mấy? | {
"text": [
"giữa sông Liard ở British Columbia (59° B) và Rio Grande ở New Mexico (35° B)"
],
"answer_start": [
90
]
} | false | null |
0111-0004-0002 | uit_021214 | Dãy núi Rocky | Có nhiều nhân tố môi trường phân bố rộng khắp trong dãy núi Rockey. Dãy Rocky nằm ở vĩ độ giữa sông Liard ở British Columbia (59° B) và Rio Grande ở New Mexico (35° B). Đồng đỏ lớn xuất hiện ở độ cao bằng hoặc nhỏ hơn 1.800 foot (550 m), trong khi đỉnh cao nhất trong dãy núi là núi Elbert ở độ cao 14.440 foot (4.400 m). Giáng thủy dao động từ 10 inch (250 mm) mỗi năm ở các thung lũng phía nam đến 60 inch (1.500 mm) mỗi năm theo khu vực ở các đỉnh phía bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm có thể dao động từ 20 °F (−7 °C) ở Prince George, British Columbia đến 43 °F (6 °C) ở Trinidad, Colorado. Vì vậy, không có một hệ sinh thái nguyên khối duy nhất cho toàn bộ dãy núi Rocky. | Vì sao dãy Rocky chứa nhiều đồng đỏ? | {
"text": [
"Đồng đỏ lớn xuất hiện ở độ cao bằng hoặc nhỏ hơn 1.800 foot (550 m), trong khi đỉnh cao nhất trong dãy núi là núi Elbert ở độ cao 14.440 foot (4.400 m)"
],
"answer_start": [
169
]
} | false | null |
0111-0004-0003 | uit_021215 | Dãy núi Rocky | Có nhiều nhân tố môi trường phân bố rộng khắp trong dãy núi Rockey. Dãy Rocky nằm ở vĩ độ giữa sông Liard ở British Columbia (59° B) và Rio Grande ở New Mexico (35° B). Đồng đỏ lớn xuất hiện ở độ cao bằng hoặc nhỏ hơn 1.800 foot (550 m), trong khi đỉnh cao nhất trong dãy núi là núi Elbert ở độ cao 14.440 foot (4.400 m). Giáng thủy dao động từ 10 inch (250 mm) mỗi năm ở các thung lũng phía nam đến 60 inch (1.500 mm) mỗi năm theo khu vực ở các đỉnh phía bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm có thể dao động từ 20 °F (−7 °C) ở Prince George, British Columbia đến 43 °F (6 °C) ở Trinidad, Colorado. Vì vậy, không có một hệ sinh thái nguyên khối duy nhất cho toàn bộ dãy núi Rocky. | Nước thoát từ những đám mây mỗi năm dao động bao nhiêu? | {
"text": [
"từ 10 inch (250 mm) mỗi năm ở các thung lũng phía nam đến 60 inch (1.500 mm)"
],
"answer_start": [
342
]
} | false | null |
0111-0004-0004 | uit_021216 | Dãy núi Rocky | Có nhiều nhân tố môi trường phân bố rộng khắp trong dãy núi Rockey. Dãy Rocky nằm ở vĩ độ giữa sông Liard ở British Columbia (59° B) và Rio Grande ở New Mexico (35° B). Đồng đỏ lớn xuất hiện ở độ cao bằng hoặc nhỏ hơn 1.800 foot (550 m), trong khi đỉnh cao nhất trong dãy núi là núi Elbert ở độ cao 14.440 foot (4.400 m). Giáng thủy dao động từ 10 inch (250 mm) mỗi năm ở các thung lũng phía nam đến 60 inch (1.500 mm) mỗi năm theo khu vực ở các đỉnh phía bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm có thể dao động từ 20 °F (−7 °C) ở Prince George, British Columbia đến 43 °F (6 °C) ở Trinidad, Colorado. Vì vậy, không có một hệ sinh thái nguyên khối duy nhất cho toàn bộ dãy núi Rocky. | Vì sao không có đơn nhất sinh thái trải dài theo dãy Rocky? | {
"text": [
"Nhiệt độ trung bình hàng năm có thể dao động từ 20 °F (−7 °C) ở Prince George, British Columbia đến 43 °F (6 °C) ở Trinidad, Colorado"
],
"answer_start": [
461
]
} | false | null |
0111-0004-0005 | uit_021217 | Dãy núi Rocky | Có nhiều nhân tố môi trường phân bố rộng khắp trong dãy núi Rockey. Dãy Rocky nằm ở vĩ độ giữa sông Liard ở British Columbia (59° B) và Rio Grande ở New Mexico (35° B). Đồng đỏ lớn xuất hiện ở độ cao bằng hoặc nhỏ hơn 1.800 foot (550 m), trong khi đỉnh cao nhất trong dãy núi là núi Elbert ở độ cao 14.440 foot (4.400 m). Giáng thủy dao động từ 10 inch (250 mm) mỗi năm ở các thung lũng phía nam đến 60 inch (1.500 mm) mỗi năm theo khu vực ở các đỉnh phía bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm có thể dao động từ 20 °F (−7 °C) ở Prince George, British Columbia đến 43 °F (6 °C) ở Trinidad, Colorado. Vì vậy, không có một hệ sinh thái nguyên khối duy nhất cho toàn bộ dãy núi Rocky. | Giáng thủy thấp nhất là bao nhiêu? | {
"text": [
"10 inch"
],
"answer_start": [
345
]
} | false | null |
0111-0005-0001 | uit_021218 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Dựa vào đâu người ta phân chia dãy Rocky thành các đới sinh học? | {
"text": [
"Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị"
],
"answer_start": [
81
]
} | false | null |
0111-0005-0002 | uit_021219 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Ở các bình nguyên và đài nguyên có hỗ trợ sự sống của cây các thân gỗ không? | {
"text": [
"không"
],
"answer_start": [
211
]
} | false | null |
0111-0005-0003 | uit_021220 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Các đồng cỏ lớn ở phía Đông Rocky nằm ở độ cao bao nhiêu? | {
"text": [
"1.800 foot (550 m))"
],
"answer_start": [
383
]
} | false | null |
0111-0005-0004 | uit_021221 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Các đài nguyên tập rung ở nơi nào dọc theo dãy Rocky? | {
"text": [
"những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon)"
],
"answer_start": [
428
]
} | false | null |
0111-0005-0005 | uit_021222 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Ở các thảo nguyên khác có hỗ trợ sự sống của cây các thân gỗ không? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"không"
],
"answer_start": [
211
]
} |
0111-0005-0006 | uit_021223 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Các đồng cỏ lớn ở phía Bắc Rocky nằm ở độ cao bao nhiêu? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"1.800 foot (550 m))"
],
"answer_start": [
383
]
} |
0111-0005-0007 | uit_021224 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Các tượng đài tập trung ở nơi nào dọc theo dãy Rocky? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon)"
],
"answer_start": [
428
]
} |
0111-0005-0008 | uit_021225 | Dãy núi Rocky | Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). | Alpine tundra ở New Mexico cao bao nhiêu theo foot? | {
"text": [
"12.000 foot"
],
"answer_start": [
501
]
} | false | null |
0111-0006-0001 | uit_021226 | Dãy núi Rocky | USGS xác định có 10 vùng có rừng bao phủ trong dãy Rocky. Những vùng ở phía nam, những khu vực ấm hơn, hoặc khô hơn được xác định bởi sự có mặt của các loài pinyon pine/juniper, ponderosa pine, hoặc sồi hỗn tạp với thông. Xa về phía bắc, lạnh hơn, hoặc những khu vực lạnh hơn hoặc ẩm ướt được xác định bởi sự có mặt của các loài Douglas-fir, loài thuộc dãy núi Cascade (như western hemlock), lodgepole pine/quaking aspen, hoặc fir hỗn tạp với spruce. Gần đường ranh cây thân gỗ, các đới có thể bao gồm các loài thông trắng (như whitebark pine hoặc bristlecone pine); hoặc hỗn tạp của các loài thông trắng, fir, và spruce giống như loài krummholz thân bụi. Cuối cùng, các dòng sông và hẻm vực có thể tạo thành một khu vực rừng thuần nhất ở các vùng khô hơn trong dãy núi. | Có bao nhiêu khu vực rừng trong dãy Rocky được phân chia? | {
"text": [
"10 vùng"
],
"answer_start": [
17
]
} | false | null |
0111-0006-0002 | uit_021227 | Dãy núi Rocky | USGS xác định có 10 vùng có rừng bao phủ trong dãy Rocky. Những vùng ở phía nam, những khu vực ấm hơn, hoặc khô hơn được xác định bởi sự có mặt của các loài pinyon pine/juniper, ponderosa pine, hoặc sồi hỗn tạp với thông. Xa về phía bắc, lạnh hơn, hoặc những khu vực lạnh hơn hoặc ẩm ướt được xác định bởi sự có mặt của các loài Douglas-fir, loài thuộc dãy núi Cascade (như western hemlock), lodgepole pine/quaking aspen, hoặc fir hỗn tạp với spruce. Gần đường ranh cây thân gỗ, các đới có thể bao gồm các loài thông trắng (như whitebark pine hoặc bristlecone pine); hoặc hỗn tạp của các loài thông trắng, fir, và spruce giống như loài krummholz thân bụi. Cuối cùng, các dòng sông và hẻm vực có thể tạo thành một khu vực rừng thuần nhất ở các vùng khô hơn trong dãy núi. | Trong vùng rừng phía Nam, có các loài sinh vật đặc trưng nào? | {
"text": [
"loài pinyon pine/juniper, ponderosa pine, hoặc sồi hỗn tạp với thông"
],
"answer_start": [
152
]
} | false | null |
0111-0006-0003 | uit_021228 | Dãy núi Rocky | USGS xác định có 10 vùng có rừng bao phủ trong dãy Rocky. Những vùng ở phía nam, những khu vực ấm hơn, hoặc khô hơn được xác định bởi sự có mặt của các loài pinyon pine/juniper, ponderosa pine, hoặc sồi hỗn tạp với thông. Xa về phía bắc, lạnh hơn, hoặc những khu vực lạnh hơn hoặc ẩm ướt được xác định bởi sự có mặt của các loài Douglas-fir, loài thuộc dãy núi Cascade (như western hemlock), lodgepole pine/quaking aspen, hoặc fir hỗn tạp với spruce. Gần đường ranh cây thân gỗ, các đới có thể bao gồm các loài thông trắng (như whitebark pine hoặc bristlecone pine); hoặc hỗn tạp của các loài thông trắng, fir, và spruce giống như loài krummholz thân bụi. Cuối cùng, các dòng sông và hẻm vực có thể tạo thành một khu vực rừng thuần nhất ở các vùng khô hơn trong dãy núi. | Trong vùng rừng phía Bắc, có các loài sinh vật đặc trưng nào? | {
"text": [
"loài Douglas-fir, loài thuộc dãy núi Cascade (như western hemlock), lodgepole pine/quaking aspen, hoặc fir hỗn tạp với spruce"
],
"answer_start": [
324
]
} | false | null |
0111-0006-0004 | uit_021229 | Dãy núi Rocky | USGS xác định có 10 vùng có rừng bao phủ trong dãy Rocky. Những vùng ở phía nam, những khu vực ấm hơn, hoặc khô hơn được xác định bởi sự có mặt của các loài pinyon pine/juniper, ponderosa pine, hoặc sồi hỗn tạp với thông. Xa về phía bắc, lạnh hơn, hoặc những khu vực lạnh hơn hoặc ẩm ướt được xác định bởi sự có mặt của các loài Douglas-fir, loài thuộc dãy núi Cascade (như western hemlock), lodgepole pine/quaking aspen, hoặc fir hỗn tạp với spruce. Gần đường ranh cây thân gỗ, các đới có thể bao gồm các loài thông trắng (như whitebark pine hoặc bristlecone pine); hoặc hỗn tạp của các loài thông trắng, fir, và spruce giống như loài krummholz thân bụi. Cuối cùng, các dòng sông và hẻm vực có thể tạo thành một khu vực rừng thuần nhất ở các vùng khô hơn trong dãy núi. | Sự kết hợp của các sông và hẻm núi tạo nên gì? | {
"text": [
"một khu vực rừng thuần nhất ở các vùng khô hơn trong dãy núi"
],
"answer_start": [
709
]
} | false | null |
0111-0006-0005 | uit_021230 | Dãy núi Rocky | USGS xác định có 10 vùng có rừng bao phủ trong dãy Rocky. Những vùng ở phía nam, những khu vực ấm hơn, hoặc khô hơn được xác định bởi sự có mặt của các loài pinyon pine/juniper, ponderosa pine, hoặc sồi hỗn tạp với thông. Xa về phía bắc, lạnh hơn, hoặc những khu vực lạnh hơn hoặc ẩm ướt được xác định bởi sự có mặt của các loài Douglas-fir, loài thuộc dãy núi Cascade (như western hemlock), lodgepole pine/quaking aspen, hoặc fir hỗn tạp với spruce. Gần đường ranh cây thân gỗ, các đới có thể bao gồm các loài thông trắng (như whitebark pine hoặc bristlecone pine); hoặc hỗn tạp của các loài thông trắng, fir, và spruce giống như loài krummholz thân bụi. Cuối cùng, các dòng sông và hẻm vực có thể tạo thành một khu vực rừng thuần nhất ở các vùng khô hơn trong dãy núi. | Các đới nào tập trụng quanh đường ranh cây thân gỗ? | {
"text": [
"các loài thông trắng (như whitebark pine hoặc bristlecone pine); hoặc hỗn tạp của các loài thông trắng, fir, và spruce giống như loài krummholz thân bụi"
],
"answer_start": [
502
]
} | false | null |
0111-0007-0001 | uit_021231 | Dãy núi Rocky | Hiện trạng sinh tồn của hầu hết các loài ở dãy núi Rocky không được biết rõ do thông tin không đầy đủ. Những khu định cư của người Âu-Mỹ trong dãy núi đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến các loài bản địa. Ví dụ như một vài loài đã bị suy giảm như cóc Tây Bắc Mỹ (Anaxyrus boreas), Oncorhynchus clarki stomias (cá hồi lưng xanh?), cá tầm trắng, trĩ đuôi trắng (Lagopus leucura), thiên nga kèn, và cừu sừng to. Trong phần dãy núi thuộc Hoa Kỳ, các loài động vật ăn thịt đầu bảng gấu xám Bắc Mỹ và sói xám đã bị tiêu diệt ở những nơi phân bố nguyên thủy của chúng, nhưng một phần đã được hồi phục do chính sách bảo tồn và tái du nhập. Các loài đang dần hồi phục khác như đại bàng đầu trắng và cắt lớn. | Nguyên nhân chủ yếu nào đe dọa đến môi trường sống của các loài sinh vật trong dãy Rocky? | {
"text": [
"Những khu định cư của người Âu-Mỹ trong dãy núi"
],
"answer_start": [
103
]
} | false | null |
0111-0007-0002 | uit_021232 | Dãy núi Rocky | Hiện trạng sinh tồn của hầu hết các loài ở dãy núi Rocky không được biết rõ do thông tin không đầy đủ. Những khu định cư của người Âu-Mỹ trong dãy núi đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến các loài bản địa. Ví dụ như một vài loài đã bị suy giảm như cóc Tây Bắc Mỹ (Anaxyrus boreas), Oncorhynchus clarki stomias (cá hồi lưng xanh?), cá tầm trắng, trĩ đuôi trắng (Lagopus leucura), thiên nga kèn, và cừu sừng to. Trong phần dãy núi thuộc Hoa Kỳ, các loài động vật ăn thịt đầu bảng gấu xám Bắc Mỹ và sói xám đã bị tiêu diệt ở những nơi phân bố nguyên thủy của chúng, nhưng một phần đã được hồi phục do chính sách bảo tồn và tái du nhập. Các loài đang dần hồi phục khác như đại bàng đầu trắng và cắt lớn. | Những loài nào không còn được sống ở môi trường sống ưa thích nữa? | {
"text": [
"gấu xám Bắc Mỹ và sói xám"
],
"answer_start": [
476
]
} | false | null |
0111-0007-0003 | uit_021233 | Dãy núi Rocky | Hiện trạng sinh tồn của hầu hết các loài ở dãy núi Rocky không được biết rõ do thông tin không đầy đủ. Những khu định cư của người Âu-Mỹ trong dãy núi đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến các loài bản địa. Ví dụ như một vài loài đã bị suy giảm như cóc Tây Bắc Mỹ (Anaxyrus boreas), Oncorhynchus clarki stomias (cá hồi lưng xanh?), cá tầm trắng, trĩ đuôi trắng (Lagopus leucura), thiên nga kèn, và cừu sừng to. Trong phần dãy núi thuộc Hoa Kỳ, các loài động vật ăn thịt đầu bảng gấu xám Bắc Mỹ và sói xám đã bị tiêu diệt ở những nơi phân bố nguyên thủy của chúng, nhưng một phần đã được hồi phục do chính sách bảo tồn và tái du nhập. Các loài đang dần hồi phục khác như đại bàng đầu trắng và cắt lớn. | Những loài nào đang được bảo vệ và có dấu hiệu sinh sôi trở lại? | {
"text": [
"đại bàng đầu trắng và cắt lớn"
],
"answer_start": [
667
]
} | false | null |
0111-0007-0004 | uit_021234 | Dãy núi Rocky | Hiện trạng sinh tồn của hầu hết các loài ở dãy núi Rocky không được biết rõ do thông tin không đầy đủ. Những khu định cư của người Âu-Mỹ trong dãy núi đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến các loài bản địa. Ví dụ như một vài loài đã bị suy giảm như cóc Tây Bắc Mỹ (Anaxyrus boreas), Oncorhynchus clarki stomias (cá hồi lưng xanh?), cá tầm trắng, trĩ đuôi trắng (Lagopus leucura), thiên nga kèn, và cừu sừng to. Trong phần dãy núi thuộc Hoa Kỳ, các loài động vật ăn thịt đầu bảng gấu xám Bắc Mỹ và sói xám đã bị tiêu diệt ở những nơi phân bố nguyên thủy của chúng, nhưng một phần đã được hồi phục do chính sách bảo tồn và tái du nhập. Các loài đang dần hồi phục khác như đại bàng đầu trắng và cắt lớn. | Những loài động vật nào trong dãy Rocky bị giảm sút rõ rệt? | {
"text": [
"cóc Tây Bắc Mỹ (Anaxyrus boreas), Oncorhynchus clarki stomias (cá hồi lưng xanh?), cá tầm trắng, trĩ đuôi trắng (Lagopus leucura), thiên nga kèn, và cừu sừng to"
],
"answer_start": [
246
]
} | false | null |
0112-0001-0001 | uit_021235 | Trường đại học | Ở Viện Đại học Bologna thời Trung cổ, tập thể giảng viên được gọi là collegium, còn tập thể sinh viên được gọi là universitas. Tuy vậy một số sinh viên sống trong các collegium. Ở hầu hết các viện đại học cuối thời Trung cổ, collegium có nghĩa là một cư xá dành cho sinh viên, thường là những sinh viên sắp tốt nghiệp với bằng cử nhân hay các bằng cấp cao hơn. Các trường đại học (college) phát triển mạnh nhất ở các viện đại học Paris, Oxford, và Cambridge. Vào thế kỷ 13, những viện đại học (university) này đều có các trường đại học; đáng chú ý có Sorbonne của Viện Đại học Paris, Merton của Viện Đại học Oxford, và Peterhouse của Viện Đại học Cambridge. Đến năm 1500, có ít sinh viên sống bên ngoài các trường đại học. Các trường đại học có thư viện và dụng cụ nghiên cứu khoa học, và cấp lương bổng định kỳ cho các tiến sĩ và gia sư giúp các sinh viên chuẩn bị thi lấy bằng. Hoạt động giảng dạy của các trường đại học làm lu mờ hoạt động giảng dạy của viện đại học. Thực vậy, những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau. | Tập thể giảng viên Đại học Bologna thời Trung cổ được gọi là gì? | {
"text": [
"collegium"
],
"answer_start": [
69
]
} | false | null |
0112-0001-0002 | uit_021236 | Trường đại học | Ở Viện Đại học Bologna thời Trung cổ, tập thể giảng viên được gọi là collegium, còn tập thể sinh viên được gọi là universitas. Tuy vậy một số sinh viên sống trong các collegium. Ở hầu hết các viện đại học cuối thời Trung cổ, collegium có nghĩa là một cư xá dành cho sinh viên, thường là những sinh viên sắp tốt nghiệp với bằng cử nhân hay các bằng cấp cao hơn. Các trường đại học (college) phát triển mạnh nhất ở các viện đại học Paris, Oxford, và Cambridge. Vào thế kỷ 13, những viện đại học (university) này đều có các trường đại học; đáng chú ý có Sorbonne của Viện Đại học Paris, Merton của Viện Đại học Oxford, và Peterhouse của Viện Đại học Cambridge. Đến năm 1500, có ít sinh viên sống bên ngoài các trường đại học. Các trường đại học có thư viện và dụng cụ nghiên cứu khoa học, và cấp lương bổng định kỳ cho các tiến sĩ và gia sư giúp các sinh viên chuẩn bị thi lấy bằng. Hoạt động giảng dạy của các trường đại học làm lu mờ hoạt động giảng dạy của viện đại học. Thực vậy, những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau. | Các Viện Đại học nào có các trường đại học chất lượng nhất thời Trung cổ? | {
"text": [
"Paris, Oxford, và Cambridge"
],
"answer_start": [
430
]
} | false | null |
0112-0001-0003 | uit_021237 | Trường đại học | Ở Viện Đại học Bologna thời Trung cổ, tập thể giảng viên được gọi là collegium, còn tập thể sinh viên được gọi là universitas. Tuy vậy một số sinh viên sống trong các collegium. Ở hầu hết các viện đại học cuối thời Trung cổ, collegium có nghĩa là một cư xá dành cho sinh viên, thường là những sinh viên sắp tốt nghiệp với bằng cử nhân hay các bằng cấp cao hơn. Các trường đại học (college) phát triển mạnh nhất ở các viện đại học Paris, Oxford, và Cambridge. Vào thế kỷ 13, những viện đại học (university) này đều có các trường đại học; đáng chú ý có Sorbonne của Viện Đại học Paris, Merton của Viện Đại học Oxford, và Peterhouse của Viện Đại học Cambridge. Đến năm 1500, có ít sinh viên sống bên ngoài các trường đại học. Các trường đại học có thư viện và dụng cụ nghiên cứu khoa học, và cấp lương bổng định kỳ cho các tiến sĩ và gia sư giúp các sinh viên chuẩn bị thi lấy bằng. Hoạt động giảng dạy của các trường đại học làm lu mờ hoạt động giảng dạy của viện đại học. Thực vậy, những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau. | Trường Sorbonne thuộc Viện Đại học nào? | {
"text": [
"Paris"
],
"answer_start": [
430
]
} | false | null |
0112-0001-0004 | uit_021238 | Trường đại học | Ở Viện Đại học Bologna thời Trung cổ, tập thể giảng viên được gọi là collegium, còn tập thể sinh viên được gọi là universitas. Tuy vậy một số sinh viên sống trong các collegium. Ở hầu hết các viện đại học cuối thời Trung cổ, collegium có nghĩa là một cư xá dành cho sinh viên, thường là những sinh viên sắp tốt nghiệp với bằng cử nhân hay các bằng cấp cao hơn. Các trường đại học (college) phát triển mạnh nhất ở các viện đại học Paris, Oxford, và Cambridge. Vào thế kỷ 13, những viện đại học (university) này đều có các trường đại học; đáng chú ý có Sorbonne của Viện Đại học Paris, Merton của Viện Đại học Oxford, và Peterhouse của Viện Đại học Cambridge. Đến năm 1500, có ít sinh viên sống bên ngoài các trường đại học. Các trường đại học có thư viện và dụng cụ nghiên cứu khoa học, và cấp lương bổng định kỳ cho các tiến sĩ và gia sư giúp các sinh viên chuẩn bị thi lấy bằng. Hoạt động giảng dạy của các trường đại học làm lu mờ hoạt động giảng dạy của viện đại học. Thực vậy, những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau. | Khoảng từ khi nào các Trường Đại học được đánh giá cao hơn các Viện Đại học? | {
"text": [
"năm 1500"
],
"answer_start": [
662
]
} | false | null |
0112-0001-0005 | uit_021239 | Trường đại học | Ở Viện Đại học Bologna thời Trung cổ, tập thể giảng viên được gọi là collegium, còn tập thể sinh viên được gọi là universitas. Tuy vậy một số sinh viên sống trong các collegium. Ở hầu hết các viện đại học cuối thời Trung cổ, collegium có nghĩa là một cư xá dành cho sinh viên, thường là những sinh viên sắp tốt nghiệp với bằng cử nhân hay các bằng cấp cao hơn. Các trường đại học (college) phát triển mạnh nhất ở các viện đại học Paris, Oxford, và Cambridge. Vào thế kỷ 13, những viện đại học (university) này đều có các trường đại học; đáng chú ý có Sorbonne của Viện Đại học Paris, Merton của Viện Đại học Oxford, và Peterhouse của Viện Đại học Cambridge. Đến năm 1500, có ít sinh viên sống bên ngoài các trường đại học. Các trường đại học có thư viện và dụng cụ nghiên cứu khoa học, và cấp lương bổng định kỳ cho các tiến sĩ và gia sư giúp các sinh viên chuẩn bị thi lấy bằng. Hoạt động giảng dạy của các trường đại học làm lu mờ hoạt động giảng dạy của viện đại học. Thực vậy, những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau. | Tại sao nói việc giảng dạy của các Viện Đại học kém hơn so với các Trường Đại học từ sau năm 1500? | {
"text": [
"những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau"
],
"answer_start": [
981
]
} | false | null |
0112-0001-0006 | uit_021240 | Trường đại học | Ở Viện Đại học Bologna thời Trung cổ, tập thể giảng viên được gọi là collegium, còn tập thể sinh viên được gọi là universitas. Tuy vậy một số sinh viên sống trong các collegium. Ở hầu hết các viện đại học cuối thời Trung cổ, collegium có nghĩa là một cư xá dành cho sinh viên, thường là những sinh viên sắp tốt nghiệp với bằng cử nhân hay các bằng cấp cao hơn. Các trường đại học (college) phát triển mạnh nhất ở các viện đại học Paris, Oxford, và Cambridge. Vào thế kỷ 13, những viện đại học (university) này đều có các trường đại học; đáng chú ý có Sorbonne của Viện Đại học Paris, Merton của Viện Đại học Oxford, và Peterhouse của Viện Đại học Cambridge. Đến năm 1500, có ít sinh viên sống bên ngoài các trường đại học. Các trường đại học có thư viện và dụng cụ nghiên cứu khoa học, và cấp lương bổng định kỳ cho các tiến sĩ và gia sư giúp các sinh viên chuẩn bị thi lấy bằng. Hoạt động giảng dạy của các trường đại học làm lu mờ hoạt động giảng dạy của viện đại học. Thực vậy, những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau. | Tập thể cử nhân Đại học Bologna thời Trung cổ được gọi là gì? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"collegium"
],
"answer_start": [
69
]
} |
0112-0001-0007 | uit_021241 | Trường đại học | Ở Viện Đại học Bologna thời Trung cổ, tập thể giảng viên được gọi là collegium, còn tập thể sinh viên được gọi là universitas. Tuy vậy một số sinh viên sống trong các collegium. Ở hầu hết các viện đại học cuối thời Trung cổ, collegium có nghĩa là một cư xá dành cho sinh viên, thường là những sinh viên sắp tốt nghiệp với bằng cử nhân hay các bằng cấp cao hơn. Các trường đại học (college) phát triển mạnh nhất ở các viện đại học Paris, Oxford, và Cambridge. Vào thế kỷ 13, những viện đại học (university) này đều có các trường đại học; đáng chú ý có Sorbonne của Viện Đại học Paris, Merton của Viện Đại học Oxford, và Peterhouse của Viện Đại học Cambridge. Đến năm 1500, có ít sinh viên sống bên ngoài các trường đại học. Các trường đại học có thư viện và dụng cụ nghiên cứu khoa học, và cấp lương bổng định kỳ cho các tiến sĩ và gia sư giúp các sinh viên chuẩn bị thi lấy bằng. Hoạt động giảng dạy của các trường đại học làm lu mờ hoạt động giảng dạy của viện đại học. Thực vậy, những người làm việc cho viện đại học không phải làm gì nhiều ngoài việc tổ chức các kỳ thi cho các sinh viên đã được đào tạo ở nhiều trường đại học khác nhau. | Cấp bậc nào nhỏ hơn trong hai cấp bậc sau: viện đại học hay trường đại học? | {
"text": [
"trường đại học"
],
"answer_start": [
365
]
} | false | null |
0112-0002-0001 | uit_021242 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Hoạt động nào nổi bật nhất cho thấy mối quan hệ giữa Trường Đại học và Viện Đại học ở Anh, thế kỉ 19? | {
"text": [
"trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng"
],
"answer_start": [
17
]
} | false | null |
0112-0002-0002 | uit_021243 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Có bao nhiêu Trường Đại học đã ra đời ở London vào những năm 20 thế kỉ XIX? | {
"text": [
"hai"
],
"answer_start": [
140
]
} | false | null |
0112-0002-0003 | uit_021244 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Viện Đại học Durham liên kết với các Trường Đại học nào? | {
"text": [
"trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850"
],
"answer_start": [
694
]
} | false | null |
0112-0002-0004 | uit_021245 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Viện Đại học Durham ra đời dựa theo mô hình của Viện Đại học nào? | {
"text": [
"Oxford"
],
"answer_start": [
476
]
} | false | null |
0112-0002-0005 | uit_021246 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Sinh viên các Trường Đại học liên kết với Viện Đại học Durham được cấp bằng ở đâu từ sau năm 1908? | {
"text": [
"Viện Đại học Quốc gia Ireland"
],
"answer_start": [
887
]
} | false | null |
0112-0002-0006 | uit_021247 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Viện Đại học Durham sáp nhập với các Trường Đại học nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850"
],
"answer_start": [
694
]
} |
0112-0002-0007 | uit_021248 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Viện Đại học Durham liên kết dựa theo mô hình của Viện Đại học nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"Oxford"
],
"answer_start": [
476
]
} |
0112-0002-0008 | uit_021249 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Sinh viên các Trường Đại học liên kết với Viện Đại học Oxford được cấp bằng ở đâu từ sau năm 1908? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"Viện Đại học Quốc gia Ireland"
],
"answer_start": [
887
]
} |
0112-0002-0009 | uit_021250 | Trường đại học | Ý tưởng cho rằng trường đại học đào tạo để lấy bằng và viện đại học cấp bằng trở nên rất phổ biến trong hệ thống giáo dục Anh thế kỷ 19. Có hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820, nhưng đến năm 1836 Viện Đại học London mới được thành lập để cấp bằng cho các sinh viên của hai trường này. Nhiều trường đại học khác - hầu hết ở cách xa nhau – liên kết với Viện Đại học London. Viện Đại học Durham được thành lập vào năm 1837 theo mô hình của Viện Đại học Oxford với vài trường đại học để sinh viên sinh sống và học tập. Viện đại học này sau đó liên kết thêm với những trường đại học ở nơi khác - một số ở các thuộc địa của Anh. Các trường đại học liên kết với viện đại học trường thành lập bởi những người Công giáo Roma ở Ireland vào thập niên 1850; sinh viên của các trường đại học này thường thi lấy bằng ở các viện đại học đã được thiết lập trước đó cho đến khi Viện Đại học Quốc gia Ireland được thành lập vào năm 1908. Các viện đại học khác có các trường đại học cũng được thành lập. Nhưng các viện đại học ở Anh thành lập sau năm 1879 không có các trường đại học. Viện Đại học St. Andrews ở Scotland bao gồm hai trường đại học. | Sinh viên học tại hai trường đại học được thành lập ở London vào thập niên 1820 nhận bằng từ tổ chức nào? | {
"text": [
"Viện Đại học London"
],
"answer_start": [
222
]
} | false | null |
0112-0003-0001 | uit_021251 | Trường đại học | Canada có các trường đại học ở các tỉnh New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island, và Ontario từ thế cuối thế kỷ 18, nhưng hầu hết các trường đại học ở phần Canada nói tiếng Anh liên kết với các viện đại học. Các trường đại học được thành lập ở Cape Province, Nam Phi, vào cuối thế kỷ 19; hầu hết sau đó trở thành các viện đại học. Ở Úc, các viện đại học không có trường đại học được thành lập vào thế kỷ 19. Nhưng các trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao vẫn tồn tại - và cấp bằng cử nhân. Trường đại học duy nhất ở New Zealand không phải trường sư phạm là một cơ sở giáo dục đại học liên kết với một viện đại học. Các nước cựu thuộc địa Anh ở châu Phi trước đây có các trường đại học; sau khi giành được độc lập thì lập ra các viện đại học quốc gia, thường theo mô hình Viện Đại học London. | Ngôn ngữ nào được sử dụng chủ yếu ở Trường Đại học Canada? | {
"text": [
"tiếng Anh"
],
"answer_start": [
175
]
} | false | null |
0112-0003-0002 | uit_021252 | Trường đại học | Canada có các trường đại học ở các tỉnh New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island, và Ontario từ thế cuối thế kỷ 18, nhưng hầu hết các trường đại học ở phần Canada nói tiếng Anh liên kết với các viện đại học. Các trường đại học được thành lập ở Cape Province, Nam Phi, vào cuối thế kỷ 19; hầu hết sau đó trở thành các viện đại học. Ở Úc, các viện đại học không có trường đại học được thành lập vào thế kỷ 19. Nhưng các trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao vẫn tồn tại - và cấp bằng cử nhân. Trường đại học duy nhất ở New Zealand không phải trường sư phạm là một cơ sở giáo dục đại học liên kết với một viện đại học. Các nước cựu thuộc địa Anh ở châu Phi trước đây có các trường đại học; sau khi giành được độc lập thì lập ra các viện đại học quốc gia, thường theo mô hình Viện Đại học London. | Các Viện Đại học ở Úc không có Trường Đại học ra đời từ khi nào? | {
"text": [
"thế kỷ 19"
],
"answer_start": [
405
]
} | false | null |
0112-0003-0003 | uit_021253 | Trường đại học | Canada có các trường đại học ở các tỉnh New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island, và Ontario từ thế cuối thế kỷ 18, nhưng hầu hết các trường đại học ở phần Canada nói tiếng Anh liên kết với các viện đại học. Các trường đại học được thành lập ở Cape Province, Nam Phi, vào cuối thế kỷ 19; hầu hết sau đó trở thành các viện đại học. Ở Úc, các viện đại học không có trường đại học được thành lập vào thế kỷ 19. Nhưng các trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao vẫn tồn tại - và cấp bằng cử nhân. Trường đại học duy nhất ở New Zealand không phải trường sư phạm là một cơ sở giáo dục đại học liên kết với một viện đại học. Các nước cựu thuộc địa Anh ở châu Phi trước đây có các trường đại học; sau khi giành được độc lập thì lập ra các viện đại học quốc gia, thường theo mô hình Viện Đại học London. | Vào thế kỉ 19, Các trường sư phạm Úc có thể cấp loại bằng nào cho sinh viên? | {
"text": [
"bằng cử nhân"
],
"answer_start": [
489
]
} | false | null |
0112-0003-0004 | uit_021254 | Trường đại học | Canada có các trường đại học ở các tỉnh New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island, và Ontario từ thế cuối thế kỷ 18, nhưng hầu hết các trường đại học ở phần Canada nói tiếng Anh liên kết với các viện đại học. Các trường đại học được thành lập ở Cape Province, Nam Phi, vào cuối thế kỷ 19; hầu hết sau đó trở thành các viện đại học. Ở Úc, các viện đại học không có trường đại học được thành lập vào thế kỷ 19. Nhưng các trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao vẫn tồn tại - và cấp bằng cử nhân. Trường đại học duy nhất ở New Zealand không phải trường sư phạm là một cơ sở giáo dục đại học liên kết với một viện đại học. Các nước cựu thuộc địa Anh ở châu Phi trước đây có các trường đại học; sau khi giành được độc lập thì lập ra các viện đại học quốc gia, thường theo mô hình Viện Đại học London. | Những nước Anh thuộc ở châu Phi thành lập các Viện Đại học quốc gia từ khi nào? | {
"text": [
"sau khi giành được độc lập"
],
"answer_start": [
699
]
} | false | null |
0112-0003-0005 | uit_021255 | Trường đại học | Canada có các trường đại học ở các tỉnh New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island, và Ontario từ thế cuối thế kỷ 18, nhưng hầu hết các trường đại học ở phần Canada nói tiếng Anh liên kết với các viện đại học. Các trường đại học được thành lập ở Cape Province, Nam Phi, vào cuối thế kỷ 19; hầu hết sau đó trở thành các viện đại học. Ở Úc, các viện đại học không có trường đại học được thành lập vào thế kỷ 19. Nhưng các trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao vẫn tồn tại - và cấp bằng cử nhân. Trường đại học duy nhất ở New Zealand không phải trường sư phạm là một cơ sở giáo dục đại học liên kết với một viện đại học. Các nước cựu thuộc địa Anh ở châu Phi trước đây có các trường đại học; sau khi giành được độc lập thì lập ra các viện đại học quốc gia, thường theo mô hình Viện Đại học London. | Thành phố Cape thuộc quốc gia nào? | {
"text": [
"Nam Phi"
],
"answer_start": [
267
]
} | false | null |
0112-0003-0006 | uit_021256 | Trường đại học | Canada có các trường đại học ở các tỉnh New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island, và Ontario từ thế cuối thế kỷ 18, nhưng hầu hết các trường đại học ở phần Canada nói tiếng Anh liên kết với các viện đại học. Các trường đại học được thành lập ở Cape Province, Nam Phi, vào cuối thế kỷ 19; hầu hết sau đó trở thành các viện đại học. Ở Úc, các viện đại học không có trường đại học được thành lập vào thế kỷ 19. Nhưng các trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao vẫn tồn tại - và cấp bằng cử nhân. Trường đại học duy nhất ở New Zealand không phải trường sư phạm là một cơ sở giáo dục đại học liên kết với một viện đại học. Các nước cựu thuộc địa Anh ở châu Phi trước đây có các trường đại học; sau khi giành được độc lập thì lập ra các viện đại học quốc gia, thường theo mô hình Viện Đại học London. | Những nước Anh thuộc ở châu Phi thành lập các Viện quân sự quốc gia từ khi nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"sau khi giành được độc lập"
],
"answer_start": [
699
]
} |
0112-0003-0007 | uit_021257 | Trường đại học | Canada có các trường đại học ở các tỉnh New Brunswick, Nova Scotia, Prince Edward Island, và Ontario từ thế cuối thế kỷ 18, nhưng hầu hết các trường đại học ở phần Canada nói tiếng Anh liên kết với các viện đại học. Các trường đại học được thành lập ở Cape Province, Nam Phi, vào cuối thế kỷ 19; hầu hết sau đó trở thành các viện đại học. Ở Úc, các viện đại học không có trường đại học được thành lập vào thế kỷ 19. Nhưng các trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao vẫn tồn tại - và cấp bằng cử nhân. Trường đại học duy nhất ở New Zealand không phải trường sư phạm là một cơ sở giáo dục đại học liên kết với một viện đại học. Các nước cựu thuộc địa Anh ở châu Phi trước đây có các trường đại học; sau khi giành được độc lập thì lập ra các viện đại học quốc gia, thường theo mô hình Viện Đại học London. | Vào thế kỷ 19, ở Úc tuy không có trường đại học nhưng cơ sở nào vẫn giảng dạy cấp bằng cử nhân? | {
"text": [
"trường sư phạm và trường giáo dục bậc cao"
],
"answer_start": [
426
]
} | false | null |
0112-0004-0001 | uit_021258 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Phần lớn các Trường Đại học ở Hoa Kì cấp loại bằng nào cho sinh viên tốt nghiệp? | {
"text": [
"bằng cử nhân hay associate"
],
"answer_start": [
220
]
} | false | null |
0112-0004-0002 | uit_021259 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Các Trường Đại học hệ bốn năm ở Hoa Kì thường chú trọng giảng dạy những ngành nào? | {
"text": [
"khai phóng hay giáo dục tổng quát"
],
"answer_start": [
477
]
} | false | null |
0112-0004-0003 | uit_021260 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Trường Đại học Boston ở quốc gia nào? | {
"text": [
"Hoa Kỳ"
],
"answer_start": [
2
]
} | false | null |
0112-0004-0004 | uit_021261 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Hầu hết các Trường Đại học hệ bốn năm là trường như thế nào? | {
"text": [
"là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục"
],
"answer_start": [
587
]
} | false | null |
0112-0004-0005 | uit_021262 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có bằng cấp ở Mĩ được gọi là gì? | {
"text": [
"college"
],
"answer_start": [
1146
]
} | false | null |
0112-0004-0006 | uit_021263 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Các Trường công lập hệ bốn năm ở Hoa Kì thường chú trọng giảng dạy những ngành nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"khai phóng hay giáo dục tổng quát"
],
"answer_start": [
477
]
} |
0112-0004-0007 | uit_021264 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Các cơ sở giáo dục nghiệp vụ có bằng cấp ở Mĩ được gọi là gì? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"college"
],
"answer_start": [
1146
]
} |
0112-0004-0008 | uit_021265 | Trường đại học | Ở Hoa Kỳ, trường đại học có thể chỉ một cơ sở giáo dục đại học hệ bốn năm cấp bằng cử nhân, hoặc một trường đại học cộng đồng hay tư thục hệ hai năm cấp bằng associate. [Điều này không có nghĩa là trường đại học chỉ cấp bằng cử nhân hay associate. Một số trường đại học còn có các chương trình đào tạo sau đại học và cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ, ví dụ: Trường Đại học Boston và Trường Đại học Dartmouth.] Trường đại học hệ bốn năm thường nhấn mạnh đến giáo dục trong các ngành khai phóng hay giáo dục tổng quát, thay vì có tính huấn nghệ hoặc nhấn mạnh đến giáo dục kỹ thuật. Đây có thể là một trường đại học khai phóng tư thục độc lập, hoặc là một bộ phận chuyên về giáo dục bậc đại học của một viện đại học công lập hay tư thục. Bộ phận của viện đại học cung cấp giáo dục chuyên nghiệp hay sau đại học thường gọi là trường đại học (college), trường (school), hay trường sau đại học (graduate school) [Nhiều viện đại học Hoa Kỳ hiện nay có một trường sau đại học có chức năng điều phối các chương trình sau đại học trong các trường đại học cấu thành viện đại học, chứ không nhất thiết có các trường riêng cho các bậc đại học và sau đại học]. Từ college cũng được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập. | Từ college không những dùng để chỉ về trường đại học mà còn dùng để chỉ về cái gì? | {
"text": [
"cơ sở giáo dục chuyên nghiệp có cấp bằng như các trường sư phạm và trường nông nghiệp công lập"
],
"answer_start": [
1180
]
} | false | null |
0112-0005-0001 | uit_021266 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Cho đến năm 1783, Mĩ đã xây dựng được bao nhiêu Trường Đại học? | {
"text": [
"9"
],
"answer_start": [
24
]
} | false | null |
0112-0005-0002 | uit_021267 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Các Viện Đại học ở Mi chính thức xuất hiện từ khi nào? | {
"text": [
"Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập"
],
"answer_start": [
125
]
} | false | null |
0112-0005-0003 | uit_021268 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Viện Đại học Cornell nằm ở thành phố nào? | {
"text": [
"Ithaca"
],
"answer_start": [
350
]
} | false | null |
0112-0005-0004 | uit_021269 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Viện Đại học Johns Hopkins bao gồm các trường với hệ đào tạo như thế nào? | {
"text": [
"một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học"
],
"answer_start": [
626
]
} | false | null |
0112-0005-0005 | uit_021270 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Viện Đại học Harvard được thành lập vào khi nào? | {
"text": [
"thập niên 1890"
],
"answer_start": [
767
]
} | false | null |
0112-0005-0006 | uit_021271 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Viện cử nhân Johns Hopkins bao gồm các trường với hệ đào tạo như thế nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học"
],
"answer_start": [
626
]
} |
0112-0005-0007 | uit_021272 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Viện nông nghiệp Harvard được thành lập vào khi nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"thập niên 1890"
],
"answer_start": [
767
]
} |
0112-0005-0008 | uit_021273 | Trường đại học | Vào năm 1783, Hoa Kỳ có 9 trường đại học trước đó được phép cấp bằng cử nhân và lúc đó đôi khi được gọi là các viện đại học. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập, các bang thiết lập các viện đại học tương tự như các trường đại học thời thuộc địa; các trường đại học sư phạm và các trường đại học nông nghiệp cũng được thành lập. Viện Đại học Cornell, ở Ithaca, New York, mở cửa đón sinh viên từ năm 1868 lúc đó là viện đại học Hoa Kỳ đầu tiên được chia thành các trường đại học có các chương trình đào tạo và trao các bằng cấp khác nhau. Khi Viện Đại học Johns Hopkins khai giảng vào năm 1876, về mặt quản trị nó được chia thành một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học. Nhiều viện đại học công lập sau đó nhanh chóng bắt chước mô hình này; vào thập niên 1890, Yale, Harvard, và những viện đại học tư thục khác cũng làm theo. | Vào thập niên 1890, Yale và Harvard có mô hình trường đại học như thế nào? | {
"text": [
"một trường đại học dành cho bậc đại học và một trường sau đại học"
],
"answer_start": [
626
]
} | false | null |
0112-0006-0001 | uit_021274 | Trường đại học | Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có mô hình trường đại học tổng hợp và trường đại học bách khoa. Các trường đại học tổng hợp tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ bản. Loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Các trường đại học bách khoa thì tập trung vào các ngành kỹ thuật và công nghệ. Loại này gồm có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). | Mô hình trường đại học tổng hợp tồn tại vào thời điểm nào? | {
"text": [
"dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
],
"answer_start": [
9
]
} | false | null |
0112-0006-0002 | uit_021275 | Trường đại học | Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có mô hình trường đại học tổng hợp và trường đại học bách khoa. Các trường đại học tổng hợp tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ bản. Loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Các trường đại học bách khoa thì tập trung vào các ngành kỹ thuật và công nghệ. Loại này gồm có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). | Các trường đại học tổng hợp chủ yếu đào tạo các ngành nào? | {
"text": [
"các ngành nhân văn và khoa học cơ bản"
],
"answer_start": [
202
]
} | false | null |
0112-0006-0003 | uit_021276 | Trường đại học | Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có mô hình trường đại học tổng hợp và trường đại học bách khoa. Các trường đại học tổng hợp tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ bản. Loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Các trường đại học bách khoa thì tập trung vào các ngành kỹ thuật và công nghệ. Loại này gồm có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). | Trước đây, các trường đại học nào thuộc hệ thống trường đại học tổng hợp ở Việt Nam? | {
"text": [
"Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)"
],
"answer_start": [
257
]
} | false | null |
0112-0006-0004 | uit_021277 | Trường đại học | Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có mô hình trường đại học tổng hợp và trường đại học bách khoa. Các trường đại học tổng hợp tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ bản. Loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Các trường đại học bách khoa thì tập trung vào các ngành kỹ thuật và công nghệ. Loại này gồm có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). | Các trường đại học bách khoa chủ yếu đào tạo các ngành nào? | {
"text": [
"các ngành kỹ thuật và công nghệ"
],
"answer_start": [
526
]
} | false | null |
0112-0006-0005 | uit_021278 | Trường đại học | Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có mô hình trường đại học tổng hợp và trường đại học bách khoa. Các trường đại học tổng hợp tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ bản. Loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Các trường đại học bách khoa thì tập trung vào các ngành kỹ thuật và công nghệ. Loại này gồm có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). | Nêu tên các trường đại học bách khoa ở Việt Nam? | {
"text": [
"Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)"
],
"answer_start": [
575
]
} | false | null |
0112-0006-0006 | uit_021279 | Trường đại học | Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có mô hình trường đại học tổng hợp và trường đại học bách khoa. Các trường đại học tổng hợp tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ bản. Loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Các trường đại học bách khoa thì tập trung vào các ngành kỹ thuật và công nghệ. Loại này gồm có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). | Các trường đại học Huế chủ yếu đào tạo các ngành nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"các ngành nhân văn và khoa học cơ bản"
],
"answer_start": [
202
]
} |
0112-0006-0007 | uit_021280 | Trường đại học | Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có mô hình trường đại học tổng hợp và trường đại học bách khoa. Các trường đại học tổng hợp tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ bản. Loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Các trường đại học bách khoa thì tập trung vào các ngành kỹ thuật và công nghệ. Loại này gồm có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). | Các trường đại học Đà Nẵng chủ yếu đào tạo các ngành nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"các ngành kỹ thuật và công nghệ"
],
"answer_start": [
526
]
} |
0112-0007-0001 | uit_021281 | Trường đại học | Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành được thành lập ở Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình trường đại học cộng đồng ở Việt Nam là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California năm 1970 với tựa đề Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó vào công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). | Trường Đại học cộng đồng trước đây ở Việt Nam tồn tại dưới thể chế chính trị nào? | {
"text": [
"Việt Nam Cộng hòa"
],
"answer_start": [
111
]
} | false | null |
0112-0007-0002 | uit_021282 | Trường đại học | Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành được thành lập ở Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình trường đại học cộng đồng ở Việt Nam là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California năm 1970 với tựa đề Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó vào công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). | Mục đích của sinh viên học tại Trường Đại học cộng đồng là gì? | {
"text": [
"để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc"
],
"answer_start": [
150
]
} | false | null |
0112-0007-0003 | uit_021283 | Trường đại học | Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành được thành lập ở Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình trường đại học cộng đồng ở Việt Nam là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California năm 1970 với tựa đề Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó vào công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). | Dự án về Trường Đại học cộng đồng bắt đầu được nghiên cứu bới ai? | {
"text": [
"ông Đỗ Bá Khê"
],
"answer_start": [
522
]
} | false | null |
0112-0007-0004 | uit_021284 | Trường đại học | Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành được thành lập ở Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình trường đại học cộng đồng ở Việt Nam là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California năm 1970 với tựa đề Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó vào công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). | Luận án tiến sĩ của ông Đỗ Bá Khê ở Viện Đại học Nam California năm 1790 có tên là gì? | {
"text": [
"Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam"
],
"answer_start": [
666
]
} | false | null |
0112-0007-0005 | uit_021285 | Trường đại học | Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành được thành lập ở Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình trường đại học cộng đồng ở Việt Nam là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California năm 1970 với tựa đề Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó vào công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). | Dự án về Trường Đại học kinh tế bắt đầu được nghiên cứu bới ai? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"ông Đỗ Bá Khê"
],
"answer_start": [
522
]
} |
0112-0007-0006 | uit_021286 | Trường đại học | Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành được thành lập ở Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình trường đại học cộng đồng ở Việt Nam là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California năm 1970 với tựa đề Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó vào công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). | Luận án tiến sĩ của ông Đỗ Bá Khê ở Viện Đại học tại Việt Nam năm 1790 có tên là gì? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"Community Junior College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam"
],
"answer_start": [
666
]
} |
0112-0008-0001 | uit_021287 | Trường đại học | Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang (1971) ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. Các trường đại học cộng đồng khác gồm có: Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. | Trường Đại học Cộng đồng đầu tiên ở Việt Nam là trường nào? | {
"text": [
"Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang"
],
"answer_start": [
34
]
} | false | null |
0112-0008-0002 | uit_021288 | Trường đại học | Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang (1971) ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. Các trường đại học cộng đồng khác gồm có: Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. | Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải nằm ở đâu? | {
"text": [
"Nha Trang"
],
"answer_start": [
227
]
} | false | null |
0112-0008-0003 | uit_021289 | Trường đại học | Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang (1971) ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. Các trường đại học cộng đồng khác gồm có: Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. | Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang tập trung giảng dạy các ngành thuộc lĩnh vực nào? | {
"text": [
"nông nghiệp"
],
"answer_start": [
343
]
} | false | null |
0112-0008-0004 | uit_021290 | Trường đại học | Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang (1971) ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. Các trường đại học cộng đồng khác gồm có: Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. | Tại sao dự án Trường Đại học Long Hồ bị bỏ dở? | {
"text": [
"chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán"
],
"answer_start": [
468
]
} | false | null |
0112-0008-0005 | uit_021291 | Trường đại học | Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang (1971) ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. Các trường đại học cộng đồng khác gồm có: Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. | Trường Đại học Regina Pacis chính thức hoạt động từ khi nào? | {
"text": [
"năm 1973"
],
"answer_start": [
570
]
} | false | null |
0112-0008-0006 | uit_021292 | Trường đại học | Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang (1971) ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. Các trường đại học cộng đồng khác gồm có: Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. | Trường Đại học cộng sản đầu tiên ở Việt Nam là trường nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang"
],
"answer_start": [
34
]
} |
0113-0001-0001 | uit_021293 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Bản chất của đảo Wake là gì? | {
"text": [
"là một rạn san hô vòng"
],
"answer_start": [
43
]
} | false | null |
0113-0001-0002 | uit_021294 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Vị trí địa lí của đảo Wake nằm ở đâu? | {
"text": [
"nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam"
],
"answer_start": [
66
]
} | false | null |
0113-0001-0003 | uit_021295 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Đặc điểm nổi bật của đảo Wake là gì? | {
"text": [
"là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới"
],
"answer_start": [
336
]
} | false | null |
0113-0001-0004 | uit_021296 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Tên gọi khác của đảo Wake là gì? | {
"text": [
"Rạn san hô vòng Wake"
],
"answer_start": [
21
]
} | false | null |
0113-0001-0005 | uit_021297 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Rạn san hô vòng Utrik thuộc quần đảo nào? | {
"text": [
"thuộc quần đảo Marshal"
],
"answer_start": [
440
]
} | false | null |
0113-0001-0006 | uit_021298 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Tên gọi khác của đảo là gì? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"Rạn san hô vòng Wake"
],
"answer_start": [
21
]
} |
0113-0001-0007 | uit_021299 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Rạn san hô vòng Utrik tiếp giáp quần đảo nào? | {
"text": [],
"answer_start": []
} | true | {
"text": [
"thuộc quần đảo Marshal"
],
"answer_start": [
440
]
} |
0113-0001-0008 | uit_021300 | Đảo Wake | Đảo Wake (còn gọi là Rạn san hô vòng Wake) là một rạn san hô vòng nằm ở Tây Thái Bình Dương, thuộc phần đông bắc tiểu vùng Micronesia, cách Guam 2.416 km (1.501 dặm) về phía đông, Honolulu 3.698 km (2.298 dặm) về phía tây và Tokyo 3.204 km (1.991 dặm) về phía đông nam. Wake là một lãnh thổ chưa hợp nhất và phi tổ chức của Hoa Kỳ. Đây là một trong những hòn đảo cô lập nhất trên thế giới, nơi gần nhất có người ở là rạn san hô vòng Utirik thuộc quần đảo Marshall cách đó 953 km (592 dặm) về phía đông nam. | Ở Đảo Wake có gì nhiều nhất? | {
"text": [
"rạn san hô"
],
"answer_start": [
50
]
} | false | null |
0113-0002-0001 | uit_021301 | Đảo Wake | Đảo Wake do Không quân Hoa Kỳ quản lý dưới thỏa thuận với Bộ Nội vụ Hoa Kỳ. Sân bay Wake Island được sử dụng chủ yếu làm điểm tiếp nhiên liệu dừng và hạ cánh khẩn cấp cho máy bay quân sự ở giữa Thái Bình Dương là trung tâm diễn ra các hoạt động. 3.000 m (9.800 ft) là độ dài đường băng lớn nhất ở quần đảo Thái Bình Dương. Tọa lạc phía nam đường băng là Wake Island Launch Center, một cơ sở phóng tên lửa Reagan Test Site (chỗ thử tên lửa Reagan) do Cơ quan phòng thủ tên lửa (MDA) và Bộ tư lệnh phòng thủ tên lửa và không gian lục quân Hoa Kỳ (SMDC) điều hành. Có khoảng 94 người sống trên đảo và việc tiếp cận đảo bị hạn chế. | Cơ quan nào của Hoa Kỳ chịu trách nhiệm quản lý đảo Wake? | {
"text": [
"Không quân Hoa Kỳ"
],
"answer_start": [
12
]
} | false | null |
0113-0002-0002 | uit_021302 | Đảo Wake | Đảo Wake do Không quân Hoa Kỳ quản lý dưới thỏa thuận với Bộ Nội vụ Hoa Kỳ. Sân bay Wake Island được sử dụng chủ yếu làm điểm tiếp nhiên liệu dừng và hạ cánh khẩn cấp cho máy bay quân sự ở giữa Thái Bình Dương là trung tâm diễn ra các hoạt động. 3.000 m (9.800 ft) là độ dài đường băng lớn nhất ở quần đảo Thái Bình Dương. Tọa lạc phía nam đường băng là Wake Island Launch Center, một cơ sở phóng tên lửa Reagan Test Site (chỗ thử tên lửa Reagan) do Cơ quan phòng thủ tên lửa (MDA) và Bộ tư lệnh phòng thủ tên lửa và không gian lục quân Hoa Kỳ (SMDC) điều hành. Có khoảng 94 người sống trên đảo và việc tiếp cận đảo bị hạn chế. | Sân bay Wake Island được sử dụng với mục đích chính là gì? | {
"text": [
"làm điểm tiếp nhiên liệu dừng và hạ cánh khẩn cấp cho máy bay quân sự ở giữa Thái Bình Dương"
],
"answer_start": [
117
]
} | false | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.