text
stringlengths
0
512k
Tia phóng xạ theo nghĩa gốc là các dòng hạt chuyển động nhanh phóng ra từ các chất phóng xạ (các chất chứa các hạt nhân nguyên tử không ở trạng thái cân bằng bền) nhằm khôi phục lại sự cân bằng năng lượng. Các hạt phóng ra có thể chuyển động thành dòng định hướng. Có nhiều loại dòng hạt phát ra từ các chất phóng xạ. Cụ thể: Tia alpha: gồm các hạt alpha có điện tích gấp đôi điện tích proton, tốc độ của tia là khoảng 20.000 km/s. Tia beta: gồm các electron tự do, tương tự tia âm cực nhưng được phóng ra với vận tốc lớn hơn nhiều khoảng 270.000 km/s. Tia gamma, Tia X: là dòng các hạt photon, không mang điện tích, có bản chất gần giống ánh sáng nhưng bước sóng nhỏ hơn, chuyển động với tốc độ 300.000 km/s. Dòng các neutron không có điện tích. Dòng các hạt neutrino không có điện tích, chuyển động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng (phát ra cùng với các hạt beta trong phân rã beta). Ngoài sự phân rã tự nhiên của các chất phóng xạ, tia phóng xạ cũng còn được quan sát từ các nguồn khác như các lò phản ứng hạt nhân, máy gia tốc hay va chạm của các tia vũ trụ trong khí quyển Trái Đất. Các lò phản ứng hạt nhân có thể tạo ra dòng hạt neutron mạnh. Các máy gia tốc có thể sinh ra dòng các hạt tổ hợp có khối lượng cao hơn. Còn tia vũ trụ có thể sản sinh muon và meson. Thuật ngữ tia phóng xạ cũng có thể mở rộng, để bao gồm các dòng hạt chuyển động nhanh phát ra từ các nguồn này. Tương tác với vật chất Các hạt alpha có thể dễ dàng chặn lại bởi một tờ giấy. Tia beta cần miếng kim loại để chặn. Trong khi đó, dòng tia gamma có khả năng xuyên qua vật chất cao, cần một khối vật chất có mật độ dày đặc chặn lại (Ví dụ như các bác sĩ ở phòng chụp X-quang hay đeo tấm chì để ngăn tia phóng xạ). Các hạt neutrino hầu như không tương tác với vật chất và có thể xuyên qua tất cả và đi ra ngoài vũ trụ. Tính chất Khi vật tụ phân rã vật tạo ra 3 tia quang tuyến di chuyển với vận tốc ánh sáng mang theo năng lượng phóng xạ nhiệt có múc năng lượng. Bước sóng phóng xạ Tạo ra điện Thay đổi vật
San Jose (IPA: , tên chính thức là Thành phố San José) là thành phố lớn thứ 3 ở tiểu bang California, lớn thứ 10 ở Hoa Kỳ. Đây là thủ phủ Quận Santa Clara. San Jose nằm trong Thung lũng Silicon, mũi phía Nam của Vịnh San Francisco. Diện tích của thành phố này vào khoảng 466.11 km², dân số của thành phố được cập nhật năm 2011 là 958.789 người, với mật độ đạt 2,100 người/km², đây là thành phố lớn nhất vùng Bắc California. San Jose theo tiếng Tây Ban Nha nghĩa là Thánh Giuse, được thành lập năm 1777 như là thị trấn đầu tiên của thuộc địa Tây Ban Nha tại vùng Nueva California (Tân Ca Li) – sau này thành Alta California (Thượng Ca Li). Thành phố là cơ sở trang trại hậu cần phục vụ cho quân đội Tây Ban Nha xây dựng ở San Francisco và Monterey. Sau khi California nhận được quy chế tiểu bang Hoa Kỳ năm 1850, San Jose là thủ phủ đầu tiên của California. Sau 150 năm phát triển nông nghiệp, sự gia tăng nhu cầu nhà ở của binh lính và các cựu chiến binh trở về từ Chiến tranh thế giới thứ 2 đã khiến thành phố nhanh chóng được mở rộng xây dựng. Trong thập niên 70, việc xây dựng Thung lũng Silicon tại đây khiến cho San Jose – nằm trong trung tâm Thung lũng Silicon được đặt nickname là "Thủ đô Thung lũng Silicon". Tháng 4 năm 1979, Hội đồng thành phố đã quy định đặt tên thành phố chính thức là "San José", theo tên gốc trong tiếng Tây Ban Nha, trên con dấu và các văn bản chính thức. Tuy nhiên, người ta thường phát âm và viết tên thành phố theo dạng Anh hóa mà không có dấu sắc. San Jose và người Việt Theo cuộc Kiểm kê Dân số Hoa Kỳ năm 2000, số người Mỹ gốc Việt ở San Jose là 82.834 người, là thành phố có đông người Mỹ gốc Việt nhất, chiếm 9.2% dân số toàn thành phố. Theo báo Mercury News vào năm 2015 thì người gốc Việt ở đây lên tới 160 ngàn người. Đối với cộng đồng người Việt, San Jose còn mệnh danh là Thung lũng Hoa Vàng với khu thương mại chính thức do thành phố ấn định năm 2007 mang tên "Saigon Business District". Trong số 10 ghế của hội đồng thành phố, người Việt có 1 đại diện là cô Madison Nguyen, đắc cử năm 2005 với nhiệm kỳ 4 năm. Tháng 11 năm 2007, Hội đồng thành phố San Jose đã bỏ phiếu tán thành quy hoạch khu phố dành cho công đồng người Việt tai một đoạn ở đường Story với tên gọi là "Saigon Business District". Nhưng cộng đồng người Việt tại San Jose đã không tán thành quyết định của hội đồng thành phố. Trải qua một thời gian đấu tranh, Hội đồng thành phố San Jose đã chính thức thông qua tên gọi cho khu phố người Việt tại San Jose là "Little Saigon". Ngày 21 tháng 5, năm 2011, khánh thành Bia Đá Little Saigon San Jose. Cũng về mặt văn hóa, San Jose có Viet Museum hoạt động từ năm 2007 trong Kelley Historic Park. Khí hậu Khí hậu ở San Jose giống như hầu hết các khu vực vùng vịnh, có khí hậu cận nhiệt đới Địa Trung Hải. San Jose có trên 300 ngày nắng hằng năm và nhiệt độ trung bình hằng ngày cao, 73 °F (23 °C). Mặc dù nằm trong nội địa và không đối diện với Thái Bình Dương như San Francisco, nhưng San Jose được bao quanh ba phía bởi các dãy núi. Chính điều này làm hạn chế mưa, tạo cho thành phố cảm giác hơi khô với lượng mưa trung bình hằng năm 14,4 inch (366 mm), bằng 1/3 so với các khu vực vùng vịnh khác. Vào tháng Giêng, nhiệt độ trung bình cao nhất là 59 °F (15 °C), nhiệt độ trung bình thấp nhất là 42 °F (6 °C). Vào tháng Bảy, nhiệt độ trung bình cao nhất là 84 °F (29 °C), nhiệt độ trung bình thấp nhất là 57 °F (14 °C). Nhiệt độ cao nhất được ghi nhận tại San Jose là 114 °F (46 °C) vào tháng 6 năm 1961; và thấp nhất là 20 °F (-7 °C) vào tháng 12 năm 1990. Chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm thấp, chỉ vào khoảng 10 °F - 12 °F (5.5 °C - 6.6 °C), không biến động nhiều như một số khu vực khác ở California. Với lượng mưa thấp, San Jose và các vùng ngoại ô có khoảng 300 ngày nắng trong năm. Mưa chủ yếu từ tháng 11 cho đến tháng Tư hoặc tháng Năm. Vào mùa đông và mùa xuân, sườn đồi và các cánh đồng chuyển sang màu xanh với các thảm cỏ và thực vật, mặc dù cây rụng lá ít. Khi thời tiết chuyển sang hè, giai đoạn khô hạn làm thảm thực vật chết khô tạo ra các mảng đồi màu vàng óng, nhưng cũng là điều kiện thuận lợi cho các đám cháy. Nhân khẩu Theo điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010, San Jose có số dân là 945.942 người. Mật độ dân số là 5.256 người trên mỗi dặm vuông (2.029 người / km²). Cơ cấu chủng tộc của San Jose là: 404.437 (42,8%) người da trắng, 303.138 (32,0%) người châu Á (Việt Nam 10,4%, Trung Quốc 6,7%, Philippines 5,6%, Ấn Độ 4,6%, Hàn Quốc 1,2%, Nhật Bản 1,2%, Campuchia 0,3%, Thái Lan 0,2%, Pakistan 0,2%, Lào 0,2%), 30.242 (3,2%) người Mỹ gốc Phi, 8.297 (0,9%) người Mỹ bản xứ, 148.749 (15,7%) từ các chủng tộc khác, 47.062 (5,0%) người lai. 313. 636 (33.2%) người nói tiếng Tây Ban Nha hoặc gốc ngôn ngữ La Tinh. Trong số người nói tiếng Tây Ban Nha, 28,2% là México, 0,7% Salvador, Puerto Rico 0,5%, và 0,3% Nicaragua. Người da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha chiếm 28,7% dân số trong năm 2010. Có 314.038 đơn vị nhà ở với mật độ trung bình của 1.745 căn mỗi dặm vuông (673,7/km²), trong đó 176.216 căn do người chủ sở hữu ở (58,5%), và 125.150 căn là nhà cho thuê đã có khách thuê (41,5%). Kinh tế Việc các công ty công nghệ cao, máy tính, và bộ vi xử lý tập trung nhiều ở San Jose làm cho khu vực này được biết đến với cái tên "Thung lũng Silicon". Khu vực các trường như Đại học California tại Berkeley, Đại học California tại Santa Cruz, San Jose Đại học Bang, San Francisco Đại học Bang, California Đại học Bang, East Bay, Đại học Santa Clara, và Đại học Stanford hàng năm bơm hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp các ngành kỹ thuật và khoa học máy tính vào nền kinh tế địa phương. Thởi kỳ tăng trưởng cao của bong bóng công nghệ đã tạo ra nhiều việc làm, đẩy giá cả lên cao, ùn tắc giao thông đến đỉnh điểm vào cuối những năm 1990. Khi nền kinh tế chậm lại vào đầu những năm 2000, việc làm và ùn tắc giao thông giảm bớt phần nào. Giữa những năm 2000, giao thông dọc tuyến đường cao tốc chính một lần nữa bắt đầu tồi tệ hơn khi nền kinh tế được cải thiện. San Jose đã có 405.000 việc làm trong năm 2006, tỷ lệ thất nghiệp 4,6%. Vào năm 2000, San Jose có thu nhập hộ gia đình cao nhất so với các thành phố có dân số trên 300.000 người của Mỹ. Chi phí sinh hoạt ở San Jose và các khu vực lân cận vào hàng cao nhất ở California và toàn quốc. Chi phí nhà ở là lý do chính của việc giá sinh hoạt cao. Bất chấp chi phí sinh hoạt cao ở San Jose, các hộ gia đình vẫn có thu nhập khả dụng cao nhất so với các thành phố trên 500.000 dân. Phương tiện công cộng Từ San Jose có thể đón xe lửa Caltrain về phía Bắc đi San Francisco, về phía Nam đi Gilroy. Có thể thanh toán bằng thẻ tín dụng hoặc tiền mặt (tiền giấy hoặc tiền xu). Có thể mua thẻ Clipper để đi xe lửa. Trạm dừng chính ở San Jose là nhà ga San Jose Diridon gần Trung tâm SAP, là hội trường thể thao và hòa nhạc lớn nhất tại San Jose. Cơ quan Vận chuyển Thung lũng Santa Clara hoạt động một hệ thống tàu điện trên các đường sắt nhẹ. Khách được đi tàu trong thành phố San Jose và vài thành phố khác, ví dụ như Santa Clara, Sunnyvale, và Mountain View. Ở San Jose, nhiều bảng hướng dẫn tại các trạm dừng được ghi bằng ba ngôn ngữ: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Việt. Luật pháp và chính phủ Địa phương Đứng đầu là Thị trưởng dân cử và Hội đồng Thành phố dân cử. Hội đồng Thành phố San Jose được cấu thành từ mười Thành viên Hội đồng do các quận bầu ra, và một Thị trưởng được bầu bởi toàn bộ Thành phố. Thị trưởng chủ trì các cuộc họp Hội đồng Thành phố, và tất cả mười một thành viên có thể bỏ phiếu về vấn đề bất kỳ. Thị trưởng không có quyền phủ quyết. Thành viên Hội đồng và Thị trưởng được bầu cho nhiệm kỳ bốn năm. Thành viên Hội đồng và Thị trưởng được giới hạn hai nhiệm kỳ liên tục. Tuy nhiên, khi một Thành viên Hội đồng hết nhiệm kỳ có thể được bầu để làm Thị trưởng, và ngược lại Thị trưởng hết nhiệm kỳ có thể được bầu làm Thành viên Hội đồng. Hội đồng bầu một phó Thị trưởng từ các thành viên của Hội đồng tại cuộc họp thứ hai của năm. Người này hoạt động như Thị trưởng trong thời gian Thị trưởng vắng mặt tạm thời. Quản lý Thành phố là người quản lý hành chính của Thành phố, và phải trình ngân sách hàng năm để Hội đồng Thành phố phê duyệt. Khi văn phòng không có người phụ trách, Thị trưởng đề xuất một ứng cử viên để làm Quản lý Thành phố theo sự chuẩn y của Hội đồng. Hội đồng bổ nhiệm người quản lý với nhiệm kỳ không xác định. Có thể loại bỏ người quản lý bất cứ lúc nào thông qua việc bầu lại. Các viên chức khác do Hội đồng chỉ định là Luật Sư Thành phố, Kiểm toán viên Thành phố, Thư ký Thành phố và Kiểm toán Cảnh Sát Ðộc Lập. Và giống như tất cả các Thành phố và các hạt trong tiểu bang, San Jose có đại diện trong Cơ quan Lập pháp Nhà nước. San Jose là thủ đô của Hạt Santa Clara. Nhiều cơ sở chính quyền Hạt được đặt tại đây, bao gồm phòng Điều hành Hạt, Ban kiểm soát, Văn phòng Biện lý Hạt, tám Tòa án, Văn phòng Cảnh sát, và Thư ký hạt. Tội phạm Tội phạm ở San Jose vẫn luôn thấp hơn so với các Thành phố lớn của Mỹ khác. Giống như hầu hết các Thành phố lớn, mức độ tội phạm đã giảm đáng kể sau khi tăng nhanh trong những năm 1980. Ngày nay, Thành phố được xếp hạng là một trong những Thành phố trên 500.000 dân an toàn nhất nước. Kết quả này dựa trên các số liệu thống kê tội phạm được báo cáo lên Cục Điều tra Liên bang trong sáu loại: giết người, hiếp dâm, cướp tài sản, bạo lực nghiêm trọng, trộm nhập nha, và trộm cắp ô tô. Tính đến năm 2009, Thành phố có tỷ lệ tội phạm thấp thứ nhì so với tất cả các Thành phố trên 500.000 dân, chỉ sau Honolulu. Tuy nhiên trong năm 2011, các vụ giết người đã tăng vượt so với năm 2010. Cụ thể là 39 vụ trong năm 2011 so với 20 vụ trong năm 2010. Thành phố kết nghĩa Okayama, Nhật Bản San José, Costa Rica Veracruz, México Tainan, Đài Loan Dublin, Ai-Len Yekaterinburg, Nga Kanpur, Ấn Độ Oeiras, Bồ Đào Nha Pune, Ấn Độ Pekanbaru, Indonesia Chú thích Thành phố của California Quận Santa Clara, California Khu vực vịnh San Francisco Thung lũng Silicon Quận lỵ California Cựu thủ phủ tiểu bang Hoa Kỳ
Duy Tiên là một thị xã nằm ở phía bắc tỉnh Hà Nam, Việt Nam. Địa lý Thị xã Duy Tiên nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Nam, nằm cách thành phố Phủ Lý khoảng 12 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 48 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Lý Nhân và thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên Phía tây giáp huyện Kim Bảng và huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội Phía nam giáp thành phố Phủ Lý và huyện Bình Lục Phía bắc giáp huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Thị xã Duy Tiên có diện tích tự nhiên 120,92 km², dân số năm 2019 là 137.150 người, mật độ dân số đạt 1.134 người/km². Thị xã Duy Tiên nằm ở cửa ngõ phía bắc tỉnh Hà Nam, là vùng trọng điểm phát triển công nghiệp dịch vụ của tỉnh Hà Nam. Địa hình của thị xã chủ yếu là đồng bằng. Thị xã Duy Tiên nằm cạnh sông Hồng và trên địa bàn thị xã còn có sông Châu Giang chảy qua. Thị xã có địa hình đặc trưng của vùng đồng bằng thuộc khu vực châu thổ Sông Hồng. Nhìn chung địa hình của thị xã khá thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa và cây vụ đông. Địa hình của thị xã được chia thành 2 tiểu địa hình. Vùng ven đê sông Hồng và sông Châu Giang bao gồm các xã Mộc Bắc, Mộc Nam, Chuyên Ngoại, Trác Văn, Yên Nam, Tiên Sơn... và phường Châu Giang có địa hình cao hơn, đặc biệt là khu vực núi Đọi, núi Điệp thuộc các xã Tiên Sơn và Yên Nam. Vùng có địa hình thấp bao gồm các phường như Tiên Nội, Yên Bắc và xã Tiên Ngoại chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của thị xã cao độ phổ biến từ  1,8 - 2,5 m, địa hình bằng phẳng, xen kẽ là các gò nhỏ, ao, hồ, đầm. Duy Tiên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, thuộc tiểu khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng sâu sắc của gió mùa đông bắc và gió mùa đông nam. Với các đặc điểm nhiệt đới gió mùa, nắng và bức xạ mặt trời lớn, thuận lợi cho phát triển một nền nông nghiệp đa dạng với nhiều loại cây trồng, vật nuôi và tạo điều kiện tốt cho thâm canh tăng vụ. Tuy nhiên, sự biến động mạnh mẽ với nhiều hiện tượng thời tiết như bão, dông, lượng mưa tập trung theo mùa... kết hợp với địa hình thấp gây ra ngập úng cục bộ, một số vùng đòi hỏi phải có biện pháp phòng tránh kịp thời. Trên địa bàn thị xã có hai tôn giáo chính: Phật giáo và Thiên Chúa giáo. 13% dân số theo đạo Thiên Chúa. Hành chính Thị xã Duy Tiên có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: Bạch Thượng, Châu Giang, Duy Hải, Duy Minh, Đồng Văn, Hòa Mạc, Hoàng Đông, Tiên Nội, Yên Bắc và 7 xã: Chuyên Ngoại, Mộc Bắc, Mộc Nam, Tiên Ngoại, Tiên Sơn, Trác Văn, Yên Nam. Lịch sử Duy Tiên ban đầu có tên là huyện Duy Tân (維新縣), được thành lập và đặt tên năm Quang Thuận thứ 10 (1469) đời Lê Thánh Tông. Đến đời Lê Trung Hưng, đầu niên hiệu Hoằng Định (1601-1619) do kiêng tên huý Kính Tông Lê Duy Tân, đổi là huyện Duy Tiên (維先縣). Sau năm 1954, huyện Duy Tiên có 27 xã: Bạch Thượng, Châu Sơn, Chuyên Mỹ, Chuyên Nội, Đọi Sơn, Duy Hải, Duy Minh, Mộc Bắc, Mộc Nam, Thắng Lợi, Thành Công, Tiên Hải, Tiên Hiệp, Tiên Hồng, Tiên Hòa, Tiên Hương, Tiên Lý, Tiên Minh, Tiên Ngoại, Tiên Nội, Tiên Phong, Tiên Tân, Tiên Thái, Tiên Thắng, Tiên Yên, Trác Bút, Yên Hà. Ngày 25 tháng 4 năm 1967, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định 163-NV hợp nhất một số xã thuộc huyện Duy Tiên. Theo đó: Hợp nhất hai xã Chuyên Mỹ và Yên Hà thành một xã lấy tên là xã Chuyên Ngoại Hợp nhất hai xã Thắng Lợi và Thành Công thành một xã lấy tên là xã Trác Văn Hợp nhất hai xã Tiên Hương và Tiên Minh thành một xã lấy tên là xã Yên Nam Hợp nhất hai xã Tiên Hồng và Tiên Hòa thành một xã lấy tên là xã Lam Hạ Hợp nhất hai xã Tiên Thái và Tiên Lý thành một xã lấy tên là xã Hoàng Đông. Từ năm 1976 đến nay Ngày 18 tháng 12 năm 1976, Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định 1507-TTCP hợp nhất một số xã thuộc huyện Duy Tiên. Theo đó: Hợp nhất hai xã Tiên Thắng và Tiên Yên thành một xã lấy tên là xã Yên Bắc. Hợp nhất hai xã Trác Bút, Chuyên Nội và thôn Duyên Giang (xã Tiên Yên) thành một xã lấy tên là xã Châu Giang. Ngày 10 tháng 1 năm 1984, thành lập thị trấn Đồng Văn trên cơ sở một phần diện và dân số của các xã Duy Minh và Hoàng Đông. Ngày 1 tháng 4 năm 1986, thành lập thị trấn Hòa Mạc - thị trấn huyện lị của huyện Duy Tiên - trên cơ sở một phần diện và dân số của các xã Trác Văn và Yên Bắc. Cuối năm 1999, huyện Duy Tiên có 2 thị trấn: Hòa Mạc, Đồng Văn và 20 xã: Bạch Thượng, Châu Giang, Châu Sơn, Chuyên Ngoại, Đọi Sơn, Duy Hải, Duy Minh, Hoàng Đông, Lam Hạ, Mộc Bắc, Mộc Nam, Tiên Hải, Tiên Hiệp, Tiên Ngoại, Tiên Nội, Tiên Phong, Tiên Tân, Trác Văn, Yên Bắc, Yên Nam. Ngày 25 tháng 9 năm 2000, xã Lam Hạ được sáp nhập vào thị xã Phủ Lý (nay là phường Lam Hạ và một phần phường Quang Trung thuộc thành phố Phủ Lý). Ngày 23 tháng 7 năm 2013, các xã Tiên Tân, Tiên Hiệp và Tiên Hải được sáp nhập vào thành phố Phủ Lý. Huyện Duy Tiên còn lại 2 thị trấn và 16 xã. Ngày 29 tháng 12 năm 2017, huyện Duy Tiên được công nhận đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV. Cuối năm 2018, huyện Duy Tiên có 2 thị trấn: Hòa Mạc (huyện lị), Đồng Văn và 16 xã: Bạch Thượng, Châu Giang, Châu Sơn, Chuyên Ngoại, Đọi Sơn, Duy Hải, Duy Minh, Hoàng Đông, Mộc Bắc, Mộc Nam, Tiên Ngoại, Tiên Nội, Tiên Phong, Trác Văn, Yên Bắc, Yên Nam. Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 829/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Hà Nam (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Thành lập thị xã Duy Tiên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Duy Tiên. Điều chỉnh địa giới hành chính 2 thị trấn: Đồng Văn, Hòa Mạc và 7 xã: Bạch Thượng, Châu Giang, Duy Hải, Duy Minh, Hoàng Đông, Tiên Nội, Yên Bắc để thành lập 9 phường có tên tương ứng. Sáp nhập 3 xã Tiên Phong, Đọi Sơn, Châu Sơn để thành lập xã Tiên Sơn. Sau khi thành lập, thị xã Duy Tiên có 9 phường và 7 xã trực thuộc như hiện nay. Kinh tế - xã hội Kinh tế Năm 2019: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,1%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, thương mại, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; đến hết năm 2019 Công nghiệp xây dựng chiếm 73,6%; Dịch vụ chiếm 24,3%, Nông, lâm nghiệp giảm còn 2,1%; có 4 Khu công nghiệp và 2 cụm công nghiệp, đã thu hút 960 doanh nghiệp trong và ngoài nước vào đầu tư, tạo việc làm cho trên 5 vạn lao động; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt trên 3.000 tỷ đồng; thu nhập đầu bình quân đầu người năm 2019 ước đạt 50,8 triệu đồng/người/năm; Văn hoá - xã hội diễn ra nhiều hoạt động sôi nổi: Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn, Lễ hội đền Lảnh Giang được ghi danh di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia; chùa Long Đọi Sơn được xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt. Ngành Giáo dục - Đào tạo tiếp tục đạt nhiều thành tích nổi bật, năm thứ 7 liên tiếp là lá cờ đầu của tỉnh. Quốc phòng được giữ vững. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân tiếp tục được củng cố; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ngày càng được nâng cao. Hạ tầng đô thị đã và đang được đầu tư, chỉnh trang; các trung tâm thương mại, khu đô thị mới, công trình phúc lợi công cộng, hệ thống cây xanh, chiếu sáng đã và đang được đầu tư đồng bộ hiện đại, tạo diện mạo mới và khẳng định Duy Tiên là địa phương năng động, đang ngày càng khởi sắc, mang tầm vóc của một trung tâm kinh tế, thương mại lớn của tỉnh Hà Nam. Công nghiệp Trên địa bàn thị xã Duy Tiên hiện có 5 khu công nghiệp, 2 cụm công nghiệp và 1 cụm tiểu thủ công nghiệp: KCN Đồng Văn I: Diện tích 208 ha bao gồm cả phần mới mở rộng, đã hoàn thành cơ sở hạ tầng. Đã thu hút 59 doanh nghiệp, trong đó có 20 doanh nghiệp nước ngoài (gồm Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc...), với tổng vốn đầu tư là 2.274 tỷ đồng và 94,1 triệu USD KCN Đồng Văn II: Diện tích 264 ha, đã lấp đầy khoảng 90% diện tích đất công nghiệp với trên 60 dự án đầu tư với rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước KCN hỗ trợ Đồng Văn III: Diện tích 336 ha, được định hướng là KCN hỗ trợ, bao gồm các ngành: điện tử, viễn thông sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo và các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, là KCN dành riêng cho các nhà đầu tư Nhật Bản KCN Đồng Văn IV: Diện tích 600 ha, được định hướng là KCN đa ngành, có công nghệ sạch, tiên tiến, thân thiện với môi trường; các ngành nghề bao gồm: điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo, chế biến thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng và các ngành công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp công nghệ cao KCN Hòa Mạc: Tổng diện tích 203 ha, Giai đoạn I 131ha. Sau 04 năm đi vào hoạt động, hiện cơ sở hạ tầng giai đoạn I đã được xây dựng cơ bản đồng bộ, thu hút 22 dự án đầu tư với tổng nguồn vốn đăng ký 149 triệu USD, trong đó có 17 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu là nhà đầu tư đến từ Hàn Quốc và Nhật Bản. Theo kế hoạch, đến năm 2020, KCN Hòa Mạc sẽ mở rộng thêm 72 ha về phía Bắc nâng tổng diện tích lên 203 ha, trong đó ưu tiên thu hút các dự án đầu tư không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, có công nghệ tiên tiến, bảo đảm hiệu quả đầu tư Cụm CN Hoàng Đông và Cụm CN Cầu Giát đều đã lấp đầy 100%. Cụm TTCN Ngọc Động: Thành lập từ năm 2004 với mục tiêu phát triển ngành thủ công mỹ nghệ, thủ công nghiệp. Đã thu hút các doanh nghiệp địa phương và nước ngoài đầu tư sản xuất. Thương mại Các chợ trên địa bàn thị xã: Hòa Mạc, Đồng Văn, Ngọc Động, Lương, Duy Minh, Nhì, Bút,... Ngoài ra, còn có nhiều trung tâm thương mại và cửa hàng bán lẻ. Xã hội Giáo dục Một số trường học trên địa bàn thị xã: Cụm trường Công an nhân dân tại phường Hoàng Đông Dự án Khu Đại học Nam Cao tỉnh Hà Nam Trường THPT A Duy Tiên Trường THPT B Duy Tiên Trường THPT Nguyễn Hữu Tiến Trường THCS Nguyễn Hữu Tiến Trường THCS Hoàng Đông Trường THCS Đồng Văn. Trường THCS Yên Bắc Trường THCS Bạch Thượng Y tế Trung tâm Y tế thị xã Duy Tiên - Bệnh viện Đa khoa thị xã Duy Tiên Phòng khám Đa khoa Đồng Văn, Khu đô thị mới Đồng Văn Bệnh viện Đa khoa quốc tế Hà Nội - Đồng Văn, Khu đô thị Đồng Văn Xanh. Giao thông Hạ tầng giao thông Duy Tiên có tuyến trục giao thông là Quốc lộ 1, đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình và đường sắt Thống Nhất chạy qua. Bên cạnh đó còn có tuyến Quốc lộ 38 từ Đồng Văn đi Hòa Mạc - cầu Yên Lệnh - Hưng Yên và quốc lộ 38B nối từ Hải Dương qua Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định tới Ninh Bình. Về đường thủy, Duy Tiên có sông Hồng, sông Nhuệ, sông Châu Giang. Đường phố Đường Bạch Thái Bưởi Phố Bùi Đạt Phố Bùi Đình Thảo Phố Cao Bá Quát Đường Châu Giang Phố Chế Lan Viên Phố Chử Đồng Tử Phố Đặng Thùy Trâm Đường Nguyễn Tất Thành Phố Nguyễn Công Thành Phố Tiên Dung Phố Phạm Đãi Đãn Phố Lê Quý Đôn Phố Nguyễn Thiện Thuật Phố Trần Quốc Vượng Phố Lê Tư Lành Phố Nguyễn Thành Lê Đường Võ Nguyên Giáp Đường Nguyễn Lam Đường Đào Văn Tập Đường Trần Bình Trọng Đường Lý Trần Thản Đường Trần Thuấn Du Đường Trần Quang Khải Đường Nguyễn Hữu Tiến;... Đô thị Thị xã đã đầu tư xây dựng các khu đô thị mới như: Khu đô thị Đồng Văn Khu đô thị mới Đồng Văn: diện tích 11,7 ha,... Lễ hội Thị xã Duy Tiên có Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn tại xã Tiên Sơn. Đây là là một lễ hội cầu mùa đặc trung của các dân tộc trồng lúa nước, mang ý nghĩa khuyến nông và là nét đẹp văn hóa trở về nguồn cội. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được tổ chức lần đầu tiên từ thời vua Lê Đại Hành, năm 987 (SCN). Hàng năm, đến ngày 7 tháng Giêng Âm lịch, nhà vua cùng với văn võ bá quan đến dự hội. Đích thân nhà vua cởi áo, xắn quần lội ruộng điều khiển trâu cày. Sau nhiều năm bị thất truyền, Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn được khôi phục lại từ ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (2009). Danh nhân Bác học, Nho sĩ Trần Thuấn Du (1402 - 1481): Người xã Đọi Lĩnh, nay là thôn Đọi Lĩnh, xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên. Hiệu là Mật Liêu đỗ đầu khoa, khoa thi chế khoa, năm Kỷ Dậu niên hiệu Thuận Thiên 2, đời Lê Thái Tổ (1429) Hiện có 1 miếu thờ nhỏ tại thôn, có 2 đạo sắc phong: Niên hiệu Duy Tân 5 (1911) và Khải Định 9 (1924) phong là Trung đẳng phúc thần phối thờ cùng bản cảnh thành hoàng Thái cảo Đại Vương ở Đình Đọi Nhì, xã Tiên Sơn. Trần Bích Hoành (1469 - 1550): Năm 42 tuổi đỗ Đệ Tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận 3 (1511) thời vua Lê Tương Dực, làm quan giám sát Ngự sử. Có tên ở bia Đề danh tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Quê xã Hồng Khê, nay thuộc phường Yên Bắc, thị xã Duy Tiên. Nguyễn Kiện Huy (1470 - ?): Năm 27 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức 27 (1496) thời vua Lê Thánh Tông và được ghi tên vào bia Đề danh tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội dựng ngày 06 tháng 12 năm Hồng Đức thứ 27 (1496). Quê xã Động Linh, huyện Duy Tiên, nay thuộc phường Duy Minh, thị xã Duy Tiên. Tạ Đình Huy (1474 - 1542): Năm 38 tuổi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Mùi niên hiệu Đồng Thuận 3 (1511) thời vua Lê Tương Dực cùng khoa thi với Trần Bích Hoành, làm quan chức cấp sự trung. Có tên ở bia Đề danh tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội dựng ngày 15 tháng 3 (1511). Quê xã Hồng Khê, nay thuộc phường Yên Bắc, thị xã Duy Tiên. Bùi Đạt (1483 - 1509): Đỗ Tiến sĩ khoa Quý Dậu, niên hiệu Thái Hoà thứ 11, thời vua Lê Nhân Tông (1453), làm quan đến chức Tham chính, quê tại thôn Động Linh, phường Duy Minh, thị xã Duy Tiên. Trương Minh Lượng (1636 - 1712): Quê xã Nguyễn Xá thuộc phường Tiên Nội, thị xã Duy Tiên. Năm 65 tuổi, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn, niên hiệu Chính Hoà 21 (1700) thời vua Lê Hy Tông, truy phong Thiếu bảo hoành nguyên hầu, chức Tự Khanh. Ông có tên ở bia Đề danh tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Lê Trọng Thứ (1694 - 1782): Người xã Diên Hà, huyện Diên Hà, nay là huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, là cha của tiến sĩ Lê Quý Đôn. Ông kết duyên với bà Trương Thị Ích là con gái thứ 3 tiến sĩ Trương Minh Lượng. Ông có nhiều công lao, được dân làng Khả Duy, xã Mộc Bắc, huyện Duy Tiên thờ làm thành hoàng sống và lập đền thờ, ở đình làng Khả Duy hiện nay thờ ông bằng tượng. Theo dân làng cho biết được sự đồng ý của ông, dân làng dùng 72 viên gạch Bát Tràng để tạo tượng, khi ông còn sống vào năm 72 tuổi. Lý Trần Thản (1721 - 1776): Người xã Lê Xá, nay là thôn Lê Xá, xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên. Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu niên hiệu Cảnh Hưng 30 (1769) thời vua Lê Hiển Tông, được ghi tên bia Đề danh tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ông từng giữ chức thượng thư Bộ Binh, là con rể của Lê Quý Đôn. Hiện ông được phối thờ ở đền Thanh Liệt Hà Nội, có sắc phong, ngai, bài vị thờ ở bên phải hậu cung đình Lê Xá, xã Tiên Sơn. Có bia phúc thần và nhà thờ họ tại xã Tiên Sơn. Lê Quý Đôn (1726 - 1782): Là con trai trưởng của tiến sĩ Lê Trọng Thứ, cháu ngoại tiến sĩ Trương Minh Lượng. Đỗ bảng nhãn khoa Nhâm Thân, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23, thời vua Lê Hiển Tông (1762). Nghệ nhân, nghệ sĩ Trạng Sấm - Nguyễn Đức Năng (925 - 990): Ông là tổ nghề trống Đọi Tam ở thôn Đọi Tam, xã Đọi Sơn (nay thuộc xã Tiên Sơn), thị xã Duy Tiên. Tương truyền có hai anh em họ Nguyễn, người anh là Nguyễn Đức Năng, người em là Nguyễn Đức Đạt nghề vốn làm bưng trống khi đi qua Đọi Tam thấy vùng chân núi Đọi có nhiều cây mít đẹp, gỗ vàng ươm không bị mọt nên quyết định chọn nơi đây làm chốn định cư để hành nghề và truyền nghề làm trống cho dân làng nơi đây. Một hôm, dân Đọi Tam nghe tin vua Lê Đại Hành sửa soạn về đây cày ruộng tịch điền khuyến nông, ông Lăng tự tay cùng em làm một quả trống đặc biệt để đón vua. Cây mít già tốt nhất, hai tấm da trâu to đẹp nhất được thuộc thật kỳ công. Chiếc trống được hoàn thành mùa xuân 987. Tiếng vang như tiếng sấm, nên đời sau gọi ông là Trạng Sấm. Ông được nhân dân Đọi Tam tôn là tổ nghề - Thành hoàng làng. Do có nghề làm trống nức tiếng thiên hạ, người dân Đọi Tam đã được vua Lý Thái Tổ đưa lên Kinh đô làm trống và lập nên phố Hàng Trống ở Hà Nội ngày nay. Kép Trà (1873 - 1928): Tên thật là Hoàng Thuỵ Phương, tên thường gọi là Trà. Ông đi thi đỗ Tú tài hai khoa, nên người ta gọi ông là Kép Trà. Ông sinh năm Quý Dậu (1873) ở làng Lê Xá nay thuộc xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên. Là đồng môn với Bùi Kỷ, ông đỗ Tú tài lần thứ nhất năm 1879, đỗ Tú tài lần thứ hai 1900 và được cử làm Trưởng tràng. Tính tình Kép Trà khẳng khái, cứng cỏi. Ông luôn hướng ngòi bút vào bọn tham quan ô lại và gọi chúng kà bọn “cướp ngày”. Cũng như thơ trào phúng của Tú Xương, thơ trào phúng của Kép Trà có tính chiến đấu cao và tính nhân văn sâu sắc, được quần chúng ưu thích. Trong đó, thơ của ông tập trung đả kích tệ nạn tham nhũng, hà hiếp. bóc lột nhân dân của bọn tham quan ô lại một cách trực diện và “chỉ mặt, đặt tên” một cách cụ thể. Nguyễn Hữu Tiến (1901 - 1941): Tác giả của Quốc kỳ Việt Nam. Phong Nhã (1924 - 2020): quê ở Ngọc Động, phường Hoàng Đông, thị xã Duy Tiên, là nhạc sĩ Việt Nam, tác giả của các ca khúc viết về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh như: Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng, Cùng nhau ta đi lên, Kim Đồng, Nhanh bước nhanh nhi đồng, Hành khúc Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Bài ca sum họp. Bùi Đình Thảo (1931-1997); tên thật là Đặng Đức Ngao, Nhạc sĩ, quê quán tại phường Đồng Văn, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Nguyễn Khuyến. Ông là tác giả của bản Giao hưởng thơ Mùa xuân Hồ Chí Minh - mùa xuân thống nhất (1978) và hơn 20 ca khúc, trong đó có nhiều ca khúc viết cho lứa tuổi thiếu niên nhi đồng như: Đi học (thơ Minh Chính), Bàn tay mẹ (thơ Tạ Hữu Yên), Chúng em làm chị Tấm, Bà thương em, Em đi giữa biển vàng (thơ Nguyễn Khoa Đăng), Sách bút thân yêu ơi... Ông còn soạn nhạc cho nhiều tác phẩm sân khấu chèo, múa rối, kịch nói, ca cảnh, tổ khúc múa hát... Nhiều tác phẩm âm nhạc của ông được tặng các huy chương vàng, bạc tại các hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp khu vực và toàn quốc. Lực lượng vũ trang Nguyệt Nga Công Chúa (14 - 43): Bà là nữ tướng thời Hai Bà Trưng. Tổ nghề trồng dâu nuôi tằm ở Tiên Phong. Tương truyền bà sinh ở trang Dưỡng Mông, nay thuộc xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên, tên là Nàng Nga. Khi cha mẹ mất, bà về ở với dì ruột (lấy chồng ở vùng sông Dâu thuộc bộ Vũ Ninh) và đã học được nghề trồng dâu nuôi tằm kéo kén và nhiều võ thuật. Vì có kẻ muốn bắt nàng nộp cho Thái thú Tô Định, nên Nàng Nga trở về trang Dưỡng Mông, dạy dân ở đây nghề trồng dâu chăn tằm, rồi chiêu mộ trai tráng dấy binh ủng hộ Hai Bà Trưng khởi nghĩa ở Mê Linh. Quân Tô Định bỏ chạy, Trưng Trắc lên làm vua, Nàng Nga được phong làm Nguyệt Nga công chúa, giúp việc cho hai bà. Người dân Dưỡng Mông, Tiên Phong tôn bà là “Loa tổ” - bà tổ nghề trồng dâu nuôi tằm. Tại các ngôi đền thờ Nguyệt Nga, các danh sỹ đời sau sáng tác nhiều câu đối ca tụng công lao “vì dân, vì nước” của bà. Trần Khánh Dư (1240 - 1340): Võ tướng thời Nhà Trần, ông tổ nghề dệt lụa Nha Xá, xã Mộc Nam, thị xã Duy Tiên. Là danh tướng tài ba trong các cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, Trần Khánh Dư được phong thái ấp ở vùng Nha Xá, Duy Tiên. Sau chiến thắng giặc Mông – Nguyên lần thứ ba, ông trở lại làng Nha Xá, vào chùa tu hành. Trong thời kỳ này, ông đã truyền nghề dệt cho người dân làng Nha Xá. Ban đầu là dệt săm vặn làm vợt vớt cá (Nha Xá có nghề vớt cá bột sông Hồng về nuôi thành cá giống ở ao), sau đó dần phát triển thành nghề dệt lụa như ngày nay. Trần Quyết (1922-2010); quê quán tại phường Hoàng Đông, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trung tướng, Tư lệnh Công an Nhân dân vũ trang, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam. Ngô Xuân Lịch: Đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn Tân Cương, Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Du lịch Chùa Long Đọi Chùa Long Đọi Sơn (xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) có tên chữ là Diên Linh tự là di tích cấp quốc gia đặc biệt 2017. Chùa do Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng từ năm 1054 (do tể tướng Dương Đại Gia và mời thiên sư Đàm Cứu Chỉ đến trụ trì và tham gia xây dựng). Đến đời Lý Nhân Tông, nhà vua này tiếp tục xây dựng phát triển và xây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm 1118 đến năm 1121. Ngôi chùa được xây dựng trên đỉnh núi, trong khuôn viên 2 hec-ta vườn rừng. Chùa quay về hướng nam, đúng như câu tục ngữ: "Đầu gối núi Đọi, chân dọi Tuần Vường, phát tích đế vương lưu truyền vạn đại". Ngay cổng chính, trước tòa tam bảo là nhà bia để tấm bia Sùng Thiện Diên Linh nổi tiếng. Khi xây xong chùa và tháp, nhà vua sai Thượng thư bộ Hình Nguyễn Công Bật soạn văn bia. Văn bia nguyên có tên là Đại Việt quốc dương gia đệ tứ Sùng Thiện Diên Linh tháp bi, được viết xong ngày 6 tháng 7 năm Tân Sửu (1121). Nội dung bài văn bia chủ yếu ca ngợi công lao tài trí của Lý Nhân Tông trong việc xây dựng, kiến thiết và đánh giặc giữ nước. Đầu thế kỷ XV, khi giặc Minh xâm lược nước ta, chùa và tháp đã bị phá hủy hoàn toàn. Riêng bia Sùng Thiện Diên Linh vì không phá nổi, chúng đã lật đổ xuống bên cạnh núi. Mãi tới cuối thế kỷ XVI, vào năm 1591 đời Mạc Mậu Hợp, tức là gần 170 năm sau khi bị giặc Minh tàn phá, ngôi chùa bị bỏ phế hoàn toàn, nhân dân địa phương mới "dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà và những chỗ tường hư hỏng, làm cửa xây tường khiến cho sau hơn 500 năm, một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ". Vào năm Tự Đức thứ 13 (1860), chùa Long Đọi Sơn có sửa sang thượng điện, tiền đường, nhà tổ, siêu hương, gác chuông, nghi môn. Đến năm 1864, chùa lại tiếp tục sửa hành lang, đúc tượng Di Lặc, đúc khánh đồng và đúc khánh đá do sư tổ đời thứ 5 là Thích Chiếu Trường chủ trì xây dựng hoàn chỉnh 125 gian, từ đó trở thành trường Bắc Kỳ Phật giáo. Ngôi chùa lúc này được dựng theo kiểu nội công ngoại quốc. Lễ hội chùa Long Đọi Sơn được tổ chức hàng năm vào ngày 21 tháng 3 âm lịch đã trở thành một nét văn hoá tín ngưỡng lâu đời của người dân xã Đọi Sơn nói riêng và huyện Duy Tiên nói chung. Với mục đích nhằm quảng bá các công trình kiến trúc tại di tích lịch sử chùa Long Đọi Sơn, đồng thời khơi dậy truyền thống văn hoá dân tộc, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân và du khách thập phương. Ngoài ra, Lễ hội Tịch điền Đọi Sơn là một lễ hội mang ý nghĩa khuyến nông và là nét đẹp văn hóa trở về nguồn cội. Nghi lễ chính trong toàn bộ lễ hội là lễ tịch điền Đọi Sơn, tái hiện huyền tích từ thời Thập đạo tướng quân Lê Hoàn khi ông nhận thấy núi Đọi có vị trí chiến lược quan trọng đối với kinh đô Hoa Lư đến khi lên ngôi vua, Lê Đại Hành về chân núi Đọi cày ruộng để khuyến khích mở mang nông trang. Lễ hội được tổ chức vào mùng 7 tháng Giêng hàng năm ở cánh đồng Đọi Sơn nằm dưới chân núi Đọi. Đền Lảnh Giang Đền Lảnh Giang (xã Mộc Nam, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) thờ Tam vị danh thần đời Hùng Vương thứ 18 có công giúp vua Hùng Duệ Vương chống lại Thục Phán. Đền Lảnh Giang tọa lạc trong khuôn viên có diện tích gần 3.000 m², bao quanh là không gian xanh của vườn nhãn, đầm sen, bến nước. Cửa đền hướng ra dòng sông Hồng mênh mông sóng nước. Sau nhiều lần tu sửa, kiến trúc đền hiện nay gồm các công trình: hồ bán nguyệt, tam quan và đền chính. Hồ bán nguyệt được trồng hoa súng đỏ, giữa hồ là ngọn bảo tháp 2 tầng và cây cầu cong tạc hình “lưỡi long hướng địa” nối bảo tháp với tam quan. Tam quan đền xây theo kiểu chồng diêm tám mái với các đầu đao cong vút đắp nổi hình đầu rồng, đan xen là mặt nguyệt, lá lật cách điệu mềm mại. Đền chính có kiến trúc theo kiểu nội công, ngoại quốc bao gồm 3 tòa với 14 gian lớn, nhỏ. Trong đó, nổi bật nhất là tòa Trung đường được dựng theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái cong. Ngoài kiến trúc bề thế, đền Lảnh Giang lưu giữ nhiều đồ thờ giá trị như: khám long đình, khám đặt tượng 3 vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, kiệu bát cống long đình, sập thờ và nhiều hoành phi câu đối, nhang án… Hàng năm, đền Lảnh Giang tổ chức hai kỳ Lễ hội, từ ngày 2 – 5/6 âm lịch và 20/8 âm lịch. Bên cạnh các nghi thức tế lễ, rước thánh, còn có phần hội gồm nhiều hoạt động hấp dẫn như: chọi gà, đánh gậy, đấu cờ người, tổ tôm điếm, múa sư tử, thi thổi cơm trên quang gánh, diễn tập trận giả, hát chầu văn, thi bơi chải trên sông Hồng... Các di tích khác Đình Ngọc Động (phố Ngọc Động, phường Hoàng Đông): Thờ Phạm Phúc - tướng công thời Hùng Vương, nơi có nghề mây giang đan truyền thống. Đình Động Linh (phố Động Linh, phường Duy Minh): là đình chính thờ Phạm Phúc tướng công thời Hùng Vương, đến năm 2010, đình Động Linh mới tìm lại được sắc phong sau nhiều năm bị thất lạc. Đình Đôn Lương (phường Yên Bắc) thờ Vua Đinh Tiên Hoàng - vị anh hùng dân tộc đánh dẹp loạn 12 sứ quân lập ra nhà nước Đại Cồ Việt trong lịch sử. Đình Lũng Xuyên (tổ dân phố Lũng Xuyên, phường Yên Bắc): thờ vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt, tại đây còn có nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, người vẽ Quốc kỳ Việt Nam. Đình Ngô Xá (phố Ngô Xá, phường Tiên Nội): thờ Đức Chúa Phạm Thị Hồng (thời Tiền Lê thế kỷ thứ 11) cùng hai Đức Thánh: Nhất Vị Không Vị Đại Vương và Nhất Vị Không Hoàng Đại Vương (là hai vị tướng phò tá vua Trần Nhân Tông, cùng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn). Trải qua nhiều triều đại, đình đã có 9 đạo sắc phong cho hai Đức Thánh. Đình Tường Thụy (thôn Tường Thụy, xã Trác Văn): thờ công đồng lục vị thành hoàng làng (gồm năm vị tướng tài và một hoàng phi thời Hùng Vương). Đình Khả Duy (thôn Khả Duy, xã Mộc Bắc): là nơi thờ Thành hoàng Lê Trọng Thứ. Đình Lê Xá (thôn Lê Xá, xã Tiên Sơn): thờ tiến sĩ Lý Trần Thản, từng giữ chức thượng thư Bộ Binh. Đình đá Tiên Phong: thờ Nguyệt Nga công chúa, nữ tướng của Hai Bà Trưng. Chùa Bạch Liên: thuộc địa phận thôn Tường Thụy, xã Trác Văn, thị xã Duy Tiên. Chùa Khánh Long: thuộc địa phận phố Bút Thượng, phường Châu Giang, thị xã Duy Tiên. Nhà thờ Bút Đông: thuộc địa phận phố Đông Nội, phường Châu Giang, thị xã Duy Tiên, Hà Nam. Đây là ngôi nhà thờ được xây dựng từ năm 1920, có kiến trúc kiểu Gotich với tòa tháp đôi Đây là một trong các nhà thờ cổ nhất và có kiến trúc đẹp ở đòng bằng Bắc Bộ. Hình ảnh Làng nghề Là một thị xã phía bắc tỉnh Hà Nam giáp ranh với Hà Nội - vùng đất trăm nghề nên Duy Tiên có nhiều làng nghề truyền thống lâu đời, làng có nghề. Các làng nghề ở đây hoạt động sản xuất ở nhiều nhóm như tơ tằm sợi, dệt, thêu ren, mộc, dịch vụ, chế biến lương thực. Riêng nhóm dịch vụ phát triển nhất ở các phường Hòa Mạc, Đồng Văn, Duy Minh, Hoàng Đông, Bạch Thượng, Yên Bắc. Các làng nghề truyền thống, làng có nghề, nghề phụ tại thị xã Duy Tiên: Làng nghề làm trống Đọi Tam (Tiên Sơn) Làng nghề mây giang đan Hòa Trung (Tiên Nội) Nghề mộc ở Đôn Lương (Yên Bắc) Làng nghề mộc Yên Mỹ (Chuyên Ngoại) Mây tre đan Ngọc Động (Hoàng Đông) Làng nghề thêu ren Vũ Xá (Yên Bắc) Nghề nuôi bò sữa ở Mộc Bắc Dâu tằm sợi thôn Dưỡng Thọ (Tiên Sơn) Dâu tằm sợi An Mông (Tiên Sơn) Làng nghề sen, ươm tơ Từ Đài (Chuyên Ngoại) Nghề dệt lụa ở Nha Xá (Mộc Nam) Nghề nấu rượu làng Bèo (Tiên Ngoại) Nghề mộc thôn Quan Nha (Yên Bắc) Làng nghề mây giang đan Động Linh (Duy Minh) Có nghề làm đậu phụ ở Trác Văn Nghề mộc thôn Nhất (Tiên Nội) Nuôi ba ba, rắn, bò sát Bạch Xá (Hoàng Đông). Chú thích
Keylogger hay "trình theo dõi thao tác bàn phím" theo cách dịch ra tiếng Việt là một chương trình máy tính ban đầu được viết nhằm mục đích theo dõi và ghi lại mọi thao tác thực hiện trên bàn phím vào một tập tin nhật ký (log) để cho người cài đặt nó sử dụng. Vì chức năng mang tính vi phạm vào riêng tư của người khác này nên các trình keylogger được xếp vào nhóm các phần mềm gián điệp. Về sau, khi keylogger phát triển cao hơn nó không những ghi lại thao tác bàn phím mà còn ghi lại cả các hình ảnh hiển thị trên màn hình (screen) bằng cách chụp (screen-shot) hoặc quay phim (screen-capture) thậm chí còn ghi nhận cách con trỏ chuột trên máy tính di chuyển. Phân loại keylogger Keylogger bao gồm hai loại, một loại keylogger phần cứng và một loại là phần mềm. Bài viết này nói đến loại phần mềm. Theo những người lập trình, keylogger viết ra với chỉ có một loại duy nhất là giúp các bạn giám sát con cái, người thân xem họ làm gì với PC, với internet, khi chat với người lạ. nhưng cách sử dụng và chức năng của keylogger hiện tại trên thế giới khiến người ta thường hay phân loại keylogger theo mức độ nguy hiểm bằng các câu hỏi: Nhiễm vào máy không qua cài đặt/Cài đặt vào máy cực nhanh (quick install)? Có thuộc tính ẩn/giấu trên trình quản lý tiến trình (process manager) và trình cài đặt và gỡ bỏ chương trình (Add or Remove Program)? Theo dõi không thông báo/PC bị nhiễm khó tự phát hiện? Có thêm chức năng Capturescreen hoặc ghi lại thao tác chuột? Khó tháo gỡ? Có khả năng lây nhiễm, chống tắt (kill process)? Cứ mỗi câu trả lời "có", cho một điểm. Điểm càng cao, keylogger càng vượt khỏi mục đích giám sát (monitoring) đến với mục đích do thám (spying) và tính nguy hiểm nó càng cao. Keylogger có thể được phân loại theo số điểm: Loại số 1 Không điểm: chạy công khai, có thông báo cho người bị theo dõi, đúng với mục đích giám sát. Loại số 2 Một đến hai điểm: keylogger nguy hiểm; chạy ngầm, hướng đến mục đích do thám nhiều hơn là giám sát (nguy hại đến các thông tin cá nhân như là tài khoản cá nhân, mật khẩu, thẻ tín dụng vì người dùng không biết). Loại số 3 Ba đến năm điểm: keylogger loại rất nguy hiểm; ẩn giấu hoàn toàn theo dõi trên một phạm vi rộng, mục đích do thám rõ ràng. Loại số 4 Sáu điểm: keylogger nguy hiểm nghiêm trọng, thường được mang theo bởi các trojan-virus cực kỳ khó tháo gỡ, là loại keylogger nguy hiểm nhất. Chính vì vậy (và cũng do đồng thời là "đồng bọn" của trojan-virus) nó thường hay bị các chương trình chống virus tìm thấy và tiêu diệt. Cách hoạt động của keylogger Thành phần của Keylogger Thông thường, một chương trình keylogger sẽ gồm có ba phần chính: Chương trình điều khiển (Control Program): dùng để theo điều phối hoạt động, tinh chỉnh các thiết lập, xem các tập tin nhật ký cho Keylogger. Phần này là phần được giấu kỹ nhất của keylogger, thông thường chỉ có thể gọi ra bằng một tổ hợp phím tắt đặc biệt. Tập tin hook, hoặc là một chương trình monitor dùng để ghi nhận lại các thao tác bàn phím, capture screen (đây là phần quan trọng nhất) Tập tin nhật ký (log), nơi chứa đựng/ghi lại toàn bộ những gì hook ghi nhận được. Ngoài ra, tùy theo loại có thể có thêm phần chương trình bảo vệ (guard, protect), chương trình thông báo (report)… Cách thức cài đặt vào máy Các loại keylogger từ 1 - 3 thông thường khi cài đặt vào máy cũng giống như mọi chương trình máy tính khác, đều phải qua bước cài đặt. Đầu tiên nó sẽ cài đặt các tập tin dùng để hoạt động vào một thư mục đặc biệt (rất phức tạp), sau đó đăng ký cách thức hoạt động rồi đợi người dùng thiết lập thêm các ứng dụng. Sau đó nó bắt đầu hoạt động. Loại keylogger số 4 có thể vào thẳng máy của người dùng bỏ qua bước cài đặt, dùng tính năng autorun để cùng chạy với hệ thống. Một số loại tự thả (drop) mình vào các chương trình khác, để khi người dùng sử dụng các chương trình này keylogger sẽ tự động chạy theo. Cách hoạt động Trong một hệ thống (Windows, Linux, Mac…), khi bấm 1 phím trên bàn phím, bàn phím sẽ chuyển nó thành tín hiệu chuyển vào CPU. CPU sẽ chuyển nó tới hệ điều hành để hệ điều hành dịch thành chữ hoặc số cho chính nó hoặc các chương trình khác sử dụng. Nhưng khi trong hệ thống đó có keylogger, không những chỉ có hệ điều hành theo dõi mà cả hook file/monitor program của keylogger theo dõi nó sẽ ghi nhận và dịch lại các tính hiệu ghi vào tập tin nhật ký. Đồng thời nó còn có thể theo dõi cả màn hình và thao tác chuột. Phòng, tránh và chống keylogger Phòng Keylogger thường bị vào máy qua hai con đường chính: được cài đặt hoặc bị cài đặt. Phòng ngừa "được cài đặt" Phương pháp sau chỉ có tác dụng với chủ máy (người nắm quyền root/administrator) Cách tốt nhất là không cho ai sử dụng chung máy tính. Bảo mật máy bằng cách khóa lại bằng các chương trình bảo vệ, hoặc mật khẩu khi đi đâu đó. Nếu phải dùng chung nên thiết lập quyền của người dùng chung đó thật thấp (guest đối với Windows XP, user đối với Linux) để kiểm soát việc cài đặt chương trình của họ. Phòng ngừa "bị cài đặt" Bị cài đặt là cách để nói đến các trường hợp keylogger vào máy không do người nào đó trực tiếp đưa vào trên máy đó mà do trojan, virus, spyware cài đặt vào máy nạn nhân mà nạn nhân không hề hay biết. Các biện pháp phòng ngừa: Không tùy tiện mở các tập tin lạ, không rõ nguồn gốc. Tốt nhất là nên xóa đi, hoặc kiểm tra (scan) bằng một chương trình antivirus và một chương trình antispyware, vì nhiều chương trình antivirus chỉ có thể tìm thấy virus, không thể nhận biết spyware. Không vào các trang web lạ, đặc biệt là web "tươi mát" vì có thể các trang web này ẩn chứa một loại worm, virus, hoặc là mã độc nào đó có thể âm thầm cài đặt. Không click vào các đường link lạ do ai đó cho bạn. Không cài đặt các chương trình lạ (vì nó có thể chứa virus, trojan) Không download chương trình từ các nguồn không tin cậy. Nếu bạn có thể, xem xét chữ ký điện tử, để chắc chắn chương trình không bị sửa đổi. Hạn chế download và sử dụng cracked-program. Luôn luôn tự bảo vệ mình bằng các chương trình chuyên dùng chống virus, chống spyware (antivirus, antispyware) và dựng tường lửa (firewall) khi ở trong Internet. Thường xuyên cập nhật đầy đủ các bản cập nhật bảo mật của hệ điều hành. Hoặc chúng ta có thể download một số phần mềm chống keylog về để bảo vệ Tránh keylogger Khi nghi ngờ nó có keylogger mà không có điều kiện kiểm tra. Diệt tập tin hook, chương trình theo dõi Sử dụng một chương trình task manager (có thể gọi ra bằng tổ hợp phím tắt Ctrl+Alt+Del trên Windows) xem các chương trình đang chạy. Nếu bạn thấy process nào lạ (đặc biệt đối với Windows XP là các tập tin được chạy dưới User name không phải là System) chưa thấy bao giờ hãy tắt (end, kill) nó đi. Lưu ý, cách này có thể làm treo hệ thống nếu đó là một tập tin cần cho nó; vì vậy người dùng cần có kinh nghiệm. Che mắt keylogger Keylogger hoạt động trên nguyên tắc theo dõi bàn phím (monitoring keyboard) chỉ có rất ít có khả năng theo dõi chuột (dù có theo dõi được cũng không chính xác lắm) và có khả năng capture clipboard. Vì vậy dù hệ thống có keylogger (trừ các keylogger có khả năng quay phim) có thể được vượt qua bằng cách: Sử dụng On-Screen Keyboard (bàn phím trên màn hình) (trong windows gọi ra bằng Start/Run/osk) để nhập cách dữ liệu nhạy cảm (mật khẩu, thẻ tín dụng) bằng cách click chuột. Vì đây là cách nhập liệu nằm ngoài vùng theo dõi của các tập tin hook (vì không qua bàn phím) nên keylogger sẽ không ghi nhận được thông tin gì. Cách này dễ dùng nhưng người khác có thể trông thấy thông tin được nhập vào (tiếng lóng thường dùng là đá pass) từ đó bạn mất password. Sử dụng Copy’n’Paste (chép và dán): tìm một đoạn văn bản nào đó có các từ nằm trong đoạn thông tin muốn giấu (ví dụ: mật khẩu là password bạn hãy tìm một đoạn văn có các từ p, a, s, w, o, r, d (ví dụ to day Is a hot day, peter feel bad he want a cool drink or a ice-cream) copy từng chữ một và dán nó thành chữ password rồi gửi đi. Cách này có ưu điểm là dễ dùng nhưng khá rắc rối và kém hiệu quả nhất bởi vì nhiều keylogger có chức năng theo dõi clipboard. Sử dụng type’n’Click (bấm và nhấn): vì bản thân một keylogger thông thường không thể theo dõi các bấm chuột. Ví dụ muốn đánh một đoạn thông tin là password, đầu tiên hãy đánh một số từ có trong nó: psr rồi sử dụng chuột (không dùng bàn phím) chen ngang vào p và s đánh chữ a giữa s và r đánh chữ swo sau r là chữ d. Dòng thông tin nhập vào password nhưng trong tập tin nhật ký log keylogger ghi lại được là psraswod. Cách này khá hay nhưng không phù hợp với các thông tin dài vì dễ gây quên. Chống keylogger Phương pháp đơn giản Nhanh hiệu quả nhất diệt trừ toàn bộ các chương trình đang theo dõi bàn phím đi. Một số chương trình như là Keylogger Killer của quét các tìm các chương trình theo dõi cùng lúc quá nhiều ứng dụng dùng cách này thường bằng một tập tin rồi đề nghị bạn tắt nó đi. Thế nhưng một số chương trình tốt (như các chương trình giúp gõ bàn phím Unikey, Vietkey) cũng dùng cách này nên có thể gây diệt lầm. Phương pháp nâng cao Sử dụng một chương trình chống spyware chuyên dùng. Các chương trình này sẽ tự động quét, phân tích các chương trình đang chạy cũng như trên máy để từ đó nhận biết các chương trình keylogger và tự động diệt. Một số chương trình còn có chế độ bảo vệ thời gian thực (Real-Time Protection) giúp bảo vệ bạn chống ngay khi spyware chuẩn bị cài vào máy. Nhưng điểm gây khó khăn nhất của cách dùng này là đa số các chương trình sử dụng tốt đều phải trả tiền (ví dụ như Spyware Doctor của Pctools, McAfee Antispyware của McAfee, Bitdefender…) Tuy thế vẫn có một số chương trình miễn phí và khá tốt như Ad-Aware SE, Spybot S&D, Spyblaster tuy rằng nó lâu lâu vẫn bắt hụt một số chương trình đặc biệt, nhưng nếu dùng kết hợp (cùng lúc cả hai hoặc cả ba) thi hiệu quả hầu như là hoàn toàn.(nói thêm: nếu bạn chạy 2-3 chương trình không phù hợp với nhau sẽ gây ra xung đột phần mềm chống virut) Trong một số trường hợp, người dùng chọn cách chống Keylogger theo cách "sống chung với lũ". Lấy ví dụ về Keyscrambler là một trong số những phần mềm bảo vệ máy tính theo phương pháp này. Mọi dữ liệu về phím bấm được truyền đến Hệ điều hành và được Keyscrambler mã hóa trước (do keyscrambler tác động trực tiếp từ phần lõi Kennel), sau đó mới đến các phần mềm khác (bao gồm cả keylogger) và cuối cùng được giải mã lại cho đúng với các phím được gõ. Phương pháp này có thể vô hiệu hóa đa số các loại keylogger hiện tại, không yêu cầu người dùng cập nhật các trình anti-keylogger thường xuyên. Tuy nhiên, nó cũng có những điểm yếu riêng. Nếu keylogger được viết để ghi lại các phím sau khi chúng được giải mã (ví dụ: cài keylogger như là một addon của trình duyệt...) thì xem như đã vô hiệu hóa được keyscrambler, và nó cũng chỉ hỗ trợ một số phần mềm nhất định. Khi dùng chung với các phần mềm gõ tiếng Việt, người dùng sẽ phải tắt KeyScramble đi, đây là một sự phiền phức lớn dù nó minh chứng cho khả năng bảo mật của phần mềm này.
Oakland, thành lập năm 1852, là thành phố lớn thứ 8 tại tiểu bang California (Hoa Kỳ) và là thủ phủ của Quận Alameda. Thành phố tọa lạc tại bờ Đông của Vịnh San Francisco, nép mình vào Đồi Berkeley và giáp với các công viên khu vực vịnh. Phía Bắc của thành phố là Berkeley, nơi có trường Đại học California tại Berkeley, phía bờ Tây là thành phố San Francisco. Theo thống kê năm 2000, dân số thành phố là 399.484, năm 2005 là 295.274, xếp thứ 3 ở khu vực Vịnh San Francisco. Diện tích là 202,4 km² (145,2 km² diện tích đất và 57,2 km² diện tích mặt nước). Cảng Oakland là một trong 3 cảng chính của Bờ Tây nước Mỹ. Sân bay quốc tế Oakland (Oakland International Airport) phục vụ phần lớn thị trường hàng không du lịch giá rẻ. Chú thích
Dallas (thường đọc như "Đa-lát") là thành phố lớn thứ ba của tiểu bang Texas và lớn thứ 9 tại Hoa Kỳ. Diện tích của thành phố là 400 dặm vuông (1036 km²), là quận lỵ Quận Dallas. Theo thống kê năm 2005, dân số của thành phố Dallas là 1.213.825 người. Đây là trung tâm văn hóa, kinh tế của 12 quận thuộc Vùng đô thị Dallas, Fort Worth và Arlington có dân số 5,8 triệu – vùng đô thị lớn thứ năm của Hoa Kỳ. Dallas là một trong 11 Các thành phố đẳng cấp thế giới được Tổ chức Globalization and World Cities Study Group & Network xếp hạng. Dallas được thành lập năm 1841 và được chính thức công nhận là thành phố ngày 2 tháng 2 năm 1856. Thành phố được toàn thế giới biết đến như là trung tâm viễn thông, công nghệ máy tính, ngân hàng và vận tải dù thành phố không được nối trực tiếp với vận tải biển. Thành phố đã từng là trung tâm công nghiệp dầu khí và bông vải. Vị trí thành phố dọc theo nhiều tuyến đường sắt, thành phố có nhiều tập đoàn công nghiệp và tài chính mạnh. Dallas có Sân bay Quốc tế Dallas-Forth Worth. Dallas là một trong những thành phố đi đầu về nền giáo dục ở Mỹ. Trong top 100 trường TH có chất lượng nhất nước Mỹ thì Dallas có rất nhiều trường; tiêu biểu là School for the Talented and Gifted nằm số 1210 East Eight Street là trường tốt nhất nước Mỹ. Hiện chính quyền Dallas cũng đang rất đầu tư vào giáo dục. Vào ngày 22 tháng 11 năm 1963, tổng thống John F. Kennedy đã bị ám sát lúc 12:30 giờ trung tâm (CST) khi đang thăm viếng thành phố này. Khí hậu
Danh sách này bao gồm các thành phố thuộc về tiểu bang Texas (Hoa Kỳ). A Abbott Abilene Addison Alamo Alamo Heights Albany Alice Allen Alpine Alvarado Alvin Amarillo Ames Anahuac Anderson Mill Andrews Angleton Appleby Aransas Pass Thành phố Archer (Archer City) Argyle Arlington Athens Atlanta Austin (thủ phủ) Austonio Austwell Avery Azle B Bailey's Prairie Baird Balch Springs Ballinger Barrett Bartonville Bastrop Bay City Baytown Beach City Beaumont Bedford Bee Cave Beeville Bellaire Bellmead Bellville Belton Benbrook Big Lake Big Sandy Big Spring Blue Ridge Boerne Bogata Bolivar Peninsula Bonham Booker Borger Brazos Bend Brazos Country Breckenridge Bremond Brenham Bridge City Bridgeport Brookshire Brookside Village Brownsville Brownwood Bruceville-Eddy Bryan Buda Buffalo Bulverde Burkburnett Burleson Burnet C Caldwell Calvert Camden Cameron Camp Wood Canadian Canton Canyon Carrollton Carthage Castroville Cedar Hill Cedar Park Centerville Chappell Hill Chester Chillicothe Christoval Cibolo Cisco Clear Lake Cleburne Cleveland Clifton Clute Clyde Cockrell Hill Coldspring College Station Colleyville Columbus Comanche Combine Comfort Commerce Conroe Converse Coolidge Coppell Copperas Cove Copper Canyon Corinth Corpus Christi Corral City Corrigan Corsicana Cove Crane Cresson Crockett Crosby Cross Plains Crowell Crowley Crystal Beach Cuero Cumings Cuney Cut and Shoot D Daingerfield Daisetta Dalhart Dallas Danbury Dayton Dayton Lakes De Leon Decatur DeCordova Deer Park Del Rio Denison Denton Denver City DeSoto Detroit Devers Diboll Dickinson Dime Box Donna Dripping Springs Dublin Dumas Duncanville E Eagle Pass Eden Eola Early Eastland Edinburg El Campo El Paso Eldorado Electra Elgin Elysian Fields Emory Ennis Euless F Fairfield Farmers Branch Farmersville Farwell Flatonia Flower Mound Forney Fort Davis Fort Stockton Fort Worth Franklin Fredericksburg Freeport Friendswood Frisco Fritch Fulshear G Gainesville Galveston Garden Ridge Garland Gatesville Georgetown Giddings Gilmer Glenn Heights Glen Rose Goliad Gonzales Gordon Graham Granbury Grand Prairie Grape Creek Grapeland Grapevine Groveton Gruene Gun Barrel City H Hale Center Hallettsville Hallsville Haltom City Hamilton Hardin Harker Heights Harleton Harlingen Harriett Haskell Hearne Hemphill Hempstead Hewitt Hico Hidalgo Hideaway Highland Village Highlands Hill Country Village Hillsboro Hilshire Village Hondo Houston Huntington Huntsville Hurst Hutto I Idalou Impact Independence Indian Lake Industry Ingleside on the Bay, Texas Ingleside Ingram Iowa Park Iraan Iredell Irving Italy Itasca J Jacksboro Jacksonville Jamaica Beach Jasper Jefferson Jewett Johnson City Junction K Karnack Katy Keller Kemah Kenefick Kennedale Kerens Kerrville Kilgore Killeen Kingsville Kingwood Kirbyville Kosse Krugerville Krum Kurten Kyle L La Marque La Porte Lacy-Lakeview LaGrange Lake Brownwood Lake Dallas Lake Jackson Lakeway Lampasas Lamesa Lancaster Laredo League City Leander Leon Valley Leonard Levelland Lewisville Lindale Littlefield Live Oak Livingston Lockhart Lolita Longview Lorenzo Los Fresnos Los Ybanez Lubbock Lucas Luckenbach Lueders Lufkin Lumberton M Malakoff Mansfield Marble Falls Marlin Marshall Mason Mathis McAllen McGregor McKinney McLeod Menard Merkel Mesquite Mexia Midland Midlothian Midway Miles Millersview Millican Mineola Mission Missouri City Mobile City Monahans Mont Belvieu Moody Moore Station Morgan's Point Moulton Mount Pleasant Murphy N Nacogdoches Nassau Bay Neiderwald Nesbitt New Boston New Braunfels Newton Neylandville North Cleveland North Richland Hills North Zulch O Oak Leaf Oak Point Odessa Old River-Winfree Onalaska Orange Overton P Paint Rock Palestine Pampa Pana Maria Paris Parker Pasadena Pearland Pecos Perryton Pflugerville Pharr Pineland Pittsburg Plainview Plano Plum Grove Ponder Port Aransas Port Arthur Port Lavaca Portland Post Post Oak Bend City Presidio Prosper Q Quanah Queen City Quinlan Quitaque Quitman R Ranger Ravenna Red Oak Refugio Reno Richardson Richland Riesel Rising Star River Oaks Roanoke Robinson Rockwall Rosenberg Rosser Round Rock Round Top Rowena Rowlett Rusk S Sachse Sadler Saginaw Salado San Angelo San Antonio San Benito San Marcos San Saba Sanctuary Sanderson Sanger Santa Anna Santa Fe Savoy Schertz Scottsville Scurry Seabrook Seagoville Sealy Seguin Seminole Seymour Shallowater Shamrock Shavano Park Shenandoah Sheldon Sherman Shiner Shoreacres Silsbee Slaton Smithville Snyder Somerville Sonora Sour Lake South Padre Island Southlake Southmayd Spearman Spring Valley Springtown Spur Stafford Stephenville Stowell Sugar Land Sunnyvale Sweeny Sweetwater T Tahoka Taylor Teague Temple Tenaha Terrell Texarkana Texas City The Colony The Woodlands Tiki Island Timpson Tioga Toco Tom Bean Tomball Trophy Club Troup Turkey Tyler U Uncertain Universal City University Park Utopia V Van Alstyne Vanderbilt Van Horn Venus Vernon Victoria Vidor Volente W Waco Waskom Watauga Waxahachie Weatherford Webberville Webster Weslaco West Columbia West Lake Hills West Orange West University Place Westlake Wheeler White Oak White Settlement Whitehouse Wichita Falls Willow Park Wimberley Windrest Winnie Winters Wixon Valley Wolfe City Woodlake Woodlawn Woodville Woodway Wortham Wylie Y Yoakum Z Zapata Zavalla
Các thành phố tiểu bang California (Hoa Kỳ) xếp theo dân số:
Uniform Resource Locator (viết tắt là URL, nghĩa tiếng Việt: Hệ thống định vị tài nguyên thống nhất; được gọi một cách thông thường là một địa chỉ web ) là một tham chiếu đến tài nguyên web chỉ định vị trí của nó trên một mạng máy tính và cơ chế để truy xuất nó. URL là một loại Mã nhận dạng tài nguyên thống nhất (Uniform Resource Identifier). http://www.example.com là một URL, trong khi www.example.com thì không phải. Giao thức cho URL phổ biến nhất cho các trang web tham chiếu là HTTP, nhưng các giao thức khác cũng được sử dụng như FTP để truyền file, Mailto cho email, JDBC để truy cập cơ sở dữ liệu và các giao thức khác. Hầu hết các trình duyệt web hiển thị URL của một trang web phía trên trang trong một thanh địa chỉ. Một URL thông thường có thể có dạng http: //www.example.com/index.html, cho biết một giao thức (HTTP), tên máy chủ (www.example.com) và tên file (index.html). Lịch sử Bộ định vị tài nguyên thống nhất (URL) được định nghĩa trong RFC 1738 vào năm 1994 bởi Tim Berners-Lee, nhà phát minh của World Wide Web và nhóm làm việc URI của Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), là kết quả của phiên hợp tác bắt đầu tại IETF Living Documents Bird of a Feather vào năm 1992. Định dạng này kết hợp hệ thống tên miền tồn tại từ trước (được tạo năm 1985) với cú pháp đường dẫn tệp, trong đó dấu gạch chéo được sử dụng để phân tách tên thư mục và tên tệp. Các quy ước đã tồn tại trong đó tên máy chủ có thể được thêm tiền tố để hoàn thành các đường dẫn tệp, trước dấu gạch chéo kép (//). Berners-Lee sau đó đã bày tỏ sự hối tiếc về việc sử dụng dấu chấm để phân tách các phần của tên miền trong URI, nói rằng đáng lẽ ông đã sử dụng dấu gạch chéo trong toàn bộ địa chỉ thay cho dấu chấm, và cũng nói rằng, đưa dấu hai chấm theo thành phần đầu tiên của URI, hai dấu gạch chéo trước tên miền là không cần thiết. Bản nháp đầu tiên (1993) của HTML Specification được đề cập đến Bộ định vị tài nguyên "phổ quát". Điều này đã bị loại bỏ một thời gian giữa tháng 6 năm 1994 (RFC 1630) và tháng 10 năm 1994 (dự thảo-ietf-uri-url-08.txt). Cấu trúc Mỗi HTTP URL đều tuân theo tiêu chuẩn cú pháp của một URI. Một URL gồm có nhiều phần được liệt kê dưới đây: URI scheme hay phương pháp truy cập thường là tên giao thức (ví dụ: HTTP, FTP) nhưng cũng có thể là một cái tên khác (ví du: news, mailto). Muốn hiểu rõ về URL scheme xin xem URI scheme Tên máy chủ (ví dụ: vi.wikipedia.org) Chỉ định thêm cổng (có thể không cần) Đường dẫn tuyệt đối trên máy phục vụ của tài nguyên (ví dụ: thumuc/trang) Các truy vấn (có thể không cần) Chỉ định mục con (có thể không cần) Cụ thể hơn: https://vi.wikipedia.org/wiki/thumuc/trang?timkiem=cauhoi \__/ \_/\___/ \/ \_/ | | | | | | URL scheme tên máy chủ | đường dẫn truy vấn mục con cổng Hiện nay trên thế giới mỗi ngày có rất nhiều tên miền (domain) (thí dụ org) mới xuất hiện. Để có thể tìm đến một đường dẫn Internet để chỉ mục nội dung cần thiết phục vụ cho người sử dụng Internet, chúng ta có thể sử dụng các công cụ trên mạng Internet. Hiện nay các công cụ tìm kiếm trên mạng Internet ngày càng phổ biến và được sử dụng rộng rãi. Hoặc chúng ta có thể sử dụng việc tìm kiếm đến URL thích hợp thông qua danh bạ các website hay là các công cụ tìm kiếm. URL quốc tế hóa Người dùng Internet được phân phối trên toàn thế giới bằng nhiều ngôn ngữ và bảng chữ cái khác nhau và hy vọng có thể tạo URL trong bảng chữ cái địa phương của riêng họ. Mã định danh tài nguyên quốc tế hóa (IRI) là một dạng URL bao gồm các ký tự Unicode. Tất cả các trình duyệt hiện đại đều hỗ trợ IRI. Các phần của URL yêu cầu xử lý đặc biệt cho các bảng chữ cái khác nhau là tên miền và đường dẫn. Tên miền trong IRI được gọi là Tên miền Quốc tế hóa (IDN). Phần mềm web và Internet tự động chuyển đổi tên miền thành dạng chữ thập có thể sử dụng được bởi Hệ thống tên miền; ví dụ: URL tiếng Trung http://例子.卷筒纸 trở thành http://xn--fsqu00a.xn--3lr804guic/. xn-- chỉ ra rằng ký tự ban đầu của URL không phải là ký tự ASCII. Mối quan hệ giữa URL và URN, URI Về kỹ thuật, URL là một dạng của URI, nhưng trong nhiều tài liệu kỹ thuật và các cuộc thảo luận bằng lời nói, URL thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa với URI, và điều này không bị coi là một vấn đề. URI có thể được phân loại như là nhận dạng (URL), như tên gọi (URN), hoặc là cả hai. Một Định danh tài nguyên thống nhất (Uniform Resource Name - URN) có chức năng giống như tên của một người, trong khi một Định vị tài nguyên thống nhất (Uniform Resource Locator - URL) tương tự như địa chỉ đường phố của người đó. Nói cách khác: URI xác định việc nhận dạng cho đối tượng, trong khi URN đặt tên và URL cung cấp phương pháp tìm đối tượng đó. Hệ thống mã số ISBN sử dụng để nhận dạng sách cung cấp 1 ví dụ rất cụ thể về URN. Chỉ số ISBN 0486275574 (run:isbn:0-486-27557-4) cho biết đây là một ấn bản truyện kịch Romeo và Juliet của Shakespeare. Để tìm cuốn sách này, phải cần địa chỉ cuốn sách đó chính là địa chỉ URL. Đường dẫn địa chỉ URL của cuốn sách trên hệ thống Unix sẽ có địa chỉ như là: file:///home/username/RomeoAndJuliet.pdf, đây là đường dẫn tập tin được lưu trên ổ cứng máy tính. Vì vậy URN và URL luôn có mục đích hỗ trợ & bổ sung cho nhau. Chú thích
Danh sách này bao gồm các thành phố trong Tiểu bang New York (Hoa Kỳ) A Albany, Quận Albany Amsterdam, Quận Montgomery Auburn, Quận Cayuga B Batavia, Quận Genesee Beacon, Quận Dutchess Binghamton, Quận Broome Buffalo, Quận Erie C Canandaigua, Quận Ontario Cohoes, Quận Albany Corning, Quận Steuben Cortland, Quận Cortland D Dunkirk, Quận Chautauqua E Elmira, Quận Chemung F Fulton, Quận Oswego G Geneva, Quận Ontario Glen Cove, Quận Nassau Glens Falls, Quận Warren Gloversville, Quận Fulton H Hornell, Quận Steuben Hudson, Quận Columbia I Ithaca, Quận Tompkins J Jamestown, Quận Chautauqua Johnstown, Quận Fulton K Kingston, Quận Ulster L Lackawanna, Quận Erie Little Falls, Quận Herkimer Lockport, Quận Niagara Long Beach, Quận Nassau M Mechanicville, Quận Saratoga Middletown, Quận Orange Mount Vernon, Quận Westchester N New Rochelle, Quận Westchester New York City, New York, Bronx, Kings, Queens, và các Quận Richmond Newburgh, Quận Orange Niagara Falls, Quận Niagara North Tonawanda, Quận Niagara Norwich, Quận Chenango O Ogdensburg, Quận St. Lawrence Olean, Quận Cattaraugus Oneida, Quận Madison Oneonta, Quận Otsego Oswego, Quận Oswego P Peekskill, Quận Westchester Plattsburgh, Quận Clinton Port Jervis, Quận Orange Poughkeepsie, Quận Dutchess R Rensselaer, Quận Rensselaer Rochester, Quận Monroe Rome, Quận Oneida Rye, Quận Westchester S Salamanca, Quận Cattaraugus Saratoga Springs, Quận Saratoga Schenectady, Quận Schenectady Sherrill, Quận Oneida Sodus Point, Quận Wayne Syracuse, Quận Onondaga T Tonawanda, Quận Erie Troy, Quận Rensselaer U Utica, Quận Oneida W Watertown, Quận Jefferson Watervliet, Quận Albany White Plains, Quận Westchester Y Yonkers, Quận Westchester
Càng Long là một huyện thuộc tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Địa lý Huyện Càng Long nằm ở phía bắc của tỉnh Trà Vinh, cách thành phố Trà Vinh khoảng 21 km, cách thành phố Vĩnh Long khoảng 43 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp thành phố Trà Vinh và huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre Phía tây giáp huyện Cầu Kè Phía nam giáp huyện Tiểu Cần và huyện Châu Thành Phía bắc giáp huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Huyện Càng Long có diện tích 293,91 km², dân số năm 2019 là 147.694 người, mật độ dân số đạt 502 người/km². Trung tâm của huyện nằm ven Quốc lộ 53, nối liền hai tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long. Càng Long được xem là cửa ngõ giao lưu kinh tế – văn hóa – xã hội của Trà Vinh với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Huyện nằm xa biển hơn so các huyện khác trong tỉnh, nên ít bị ảnh hưởng mặn. Đây là điểm thuận lợi để bố trí sản xuất nông nghiệp đa dạng và phát triển kinh tế – xã hội trong huyện. Địa hình Huyện Càng Long mang đặc điểm địa hình rõ nét của vùng đồng bằng sông Cửu Long có địa hình cao trên 1,2 m. Địa hình chung của huyện tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình của huyện là 0,4 m - 1,0 m so với mặt nước biển, cao trình thấp phân bố rãi rác ở một số khu vực tại các xã An Trường, Mỹ Cẩm, Tân An có địa hình thấp trũng (cao trình < 0,4 m). Địa hình của huyện thích hợp canh tác lúa, hoa màu và trồng cây ăn trái. Tuy nhiên ở các xã phía Bắc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ bán nhật triều nên vào mùa lũ và lúc triều cường lên cao đất thường bị ngập khá sâu,... Khí hậu Huyện mang những đặc điểm chung của khí hậu đồng bằng Nam Bộ, có chế độ khí hậu gió mùa cận xích đạo với nền nhiệt cao đều quanh năm, lượng mưa lớn phân hóa theo mùa. Một năm có hai mùa: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5, kết thúc tháng 11; mùa khô bắt đầu từ tháng 12, kết thúc tháng 4 năm sau. Chế độ nhiệt: Nhìn chung trên địa bàn huyện Càng Long có nền nhiệt cao ít biến động, nhiệt độ trung bình/ tháng từ 25-280°C, nhiệt độ cao nhất là 35,80°C vào tháng 4. Tổng lượng bức xạ là 820.800 cal/cm²/năm, trung bình tháng 6.900 cal/cm²/năm. Biên độ nhiệt ngày và đêm tương đối nhỏ khoảng 5,5- 7,50°C. Lượng Mưa: lượng mưa trung bình là 1.600 mm phân bố không đều theo mùa. Lượng mưa vào các tháng mùa mưa chiếm tới 90% lượng mưa cả năm, tập trung từ tháng 8 đến tháng 10 (trung bình từ 260-270mm/ tháng). Mùa khô chỉ chiếm 10% lượng mưa cả năm, thời kỳ khô hạn nhất là vào các tháng 12, 1, 2, 3. Nắng: Tổng số giờ nắng trung bình hàng năm khoảng 2.600 giờ. Số giờ nắng từ 5,4 đến 9,7 giờ/ngày tùy theo mùa. Độ ẩm không khí trung bình từ 80-90% biến đổi theo mùa và theo giá mùa. Các tháng mùa mưa có độ ẩm lớn hơn các tháng mùa khô, các tháng cuối mùa mưa có độ ẩm cao nhất và đạt sắp xỉ 90%. Lượng bốc hơi nước: Lượng bốc hơi nước bình quân đầu năm của các tháng biến thiên từ 48 mm (tháng 7) và 11 mm (tháng 3). Gió: có hai hướng gió chính là gió Đông và Đông Bắc thổi vào mùa khô, tốc độ gió trung bình từ 1,6 - 2,8m/s. Gió Tây, Tây Nam thổi vào mùa mưa, tốc độ gió trung bình từ 3 - 4m/s. Thủy văn Huyện chịu ảnh hưởng chế độ chủ yếu thủy văn sông Cổ Chiên và hệ thống các sông nhỏ chằng chịt trên địa bàn. Chế độ thủy văn: Huyện chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều biển Đông thông qua Sông Cổ Chiên, trong ngày nước lên xuống 2 lần, mỗi tháng có 2 lần triều cường và 2 lần triều kém, biên độ triều trong ngày rất lớn, nhất là các khu vực gần cửa sông. Hệ thống các sông, kênh rạch tự nhiên và kênh đào khá chằng chịt, tạo nên mạng lưới tiêu úng, rửa phèn tốt. Mạng lưới sông, rạch: Sông Cổ Chiên: Là một trong ba nhánh sông lớn của sông Tiền, rẽ nhánh từ khu vực qua tỉnh Vĩnh Long và chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam vào địa bàn tỉnh Trà Vinh ở huyện Càng Long, qua địa bàn thành phố Trà Vinh, huyện Châu Thành, Cầu Ngang. Đoạn sông Cổ Chiên đi vào địa bàn huyện dài khoảng 11,5 km. Sông rộng trung bình từ 1,8 - 2,1 km và rất sâu với mặt cắt rộng chịu ảnh hưởng của thủy triều nên khả năng tích nước và thoát nước lớn lưu lượng bình quân 12.000 - 19.000 m³/s. Sông Cái Hóp - An Trường: Bắt nguồn từ sông Cổ Chiên, có chiều dài 25 km nối từ ngã ba Mây Tức vào trung tâm huyện cho tới kinh Trà Ngoa, có các nhánh lớn là Mây Tức - Cái Cá, Suối Cạn và Dừa Đỏ nối thông qua hệ thống sông Láng Thé. Sông Láng Thé - Ba Si: Bắt nguồn từ sông Cổ Chiên chạy theo ranh giới huyện Càng Long với huyện Châu Thành và thành phố Trà Vinh chia làm 2 nhánh: Từ cửa vào đến ngã ba Ô Chát – Trà Ếch dài 16,3 km và nhánh Láng Thé thông qua Dừa Đỏ. Hệ thống kênh Trà Ngoa: Đoạn qua huyện dài 11,8 km, là nơi kết thúc của nhiều sông, rạch tạo các giáp nước gây hiện tượng bồi lắng trên kênh xảy ra khá nhanh. Chế độ thủy triều: Huyện Càng Long chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ bán nhật triều biển Đông thông qua sông Cổ Chiên và hệ thống sông rạch trên địa bàn huyện như: Sông Cái Hóp – An Trường, sông Láng Thé – Ba Si, hệ thống kinh Trà Ngoa… Hàng ngày nước lên xuống 2 lần, mỗi tháng có hai lần triều cường sau ngày 01 và 15 âm lịch, hai lần triều kém sau ngày 07 và ngày 23 âm lịch từ 2 – 3 ngày. Biên độ triều tắt dần khi vào nội đồng, đặc biệt vào mùa triều cường (tháng 9 – 12 dương lịch), đối với vùng sát kênh Trà Ngoa biên độ triều hàng ngày thay đổi nhỏ hơn và hầu như không đáng kể vào thời kỳ triều cường âm lịch trong năm. Do địa hình tương đối thấp nên trên 95% đất đai của huyện bị ngập vào thời kỳ triều cường tháng 10 và cũng do chân triều dâng cao vào mùa này nên các vùng có cao trình thấp có một thời gian dài không tiêu rút được nước. Những năm lưu lượng mùa kiệt ở thượng nguồn về thấp, mặn sẽ xâm nhập và gây ảnh hưởng đến sản xuất. Tài nguyên đất Đất giồng cát: Là những giồng cát chạy dài ven theo phía tây Quốc lộ 53 và sông An Trường (từ thị trấn Càng Long đến ấp An Định), có diện tích 461,86 ha, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên. Đất giồng cát phân bố ở các xã Bình Phú, Phương Thạnh, Huyền Hội và trị trấn Càng Long. Thành phần cơ giới chủ yếu là cát mịn pha thịt sét. Đất có tầng canh tác mỏng, nghèo chất dinh dưỡng, hiện chủ yếu đang là đất thổ cư và một số diện tích đất trồng cây lâu năm, hoa màu. Đất phù sa: Có diện tích 14.690,50 ha, chiếm 55,89% diện tích tự nhiên, đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất trong huyện, bao gồm các loại đất sau: Đất phù sa phát triển trên chân giồng cát, đất phù sa chưa phát triển và đất phù sa đã và đang phát triển. Đất được phân bố nằm rải rác các xã trong huyện. Đất có cao trình phổ biến từ 0,6 – 1,2 m, thành phần chủ yếu là sét pha thịt, hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất ở mức trung bình đến khá cao. Phần lớn diện tích loại đất này thích hợp cho việc phát triển đồng lúa. Đất phèn: Có diện tích 11.133,40 ha, chiếm 42,35% diện tích tự nhiên, gồm hai nhóm phụ sau: Đất phèn hoạt động ở các xã An Trường, Huyền Hội, Phương Thạnh. Đất phèn tiềm tàng ở các xã Mỹ Cẩm, Nhị Long, Đức Mỹ, Phương Thạnh, Bình Phú, thị trấn Càng Long, An Trường, An Trường A, Huyền Hội, Tân An. Cao trình phổ biến 0,4 – 0,8 m. Thành phần cơ giới của nhóm đất này là từ sét đến sét pha thịt. Hàm lượng các chất dinh dưỡng ở mức thấp đến trung bình. Hiện trạng sử dụng phổ biến là lúa, hoa màu. Tài nguyên nước Nguồn nước mặt: Nguồn nước mặt trực tiếp cung cấp cho các hoạt động sản xuất của huyện được bắt nguồn từ sông Cổ Chiên thông qua các sông nhánh như: Sông Cái Hóp - An Trường, sông Láng Thé - Ba Si... và hệ thống các kênh rạch chằng chịt với trữ lượng phong phú. Hiện nay đầu tư thủy lợi tương đối hoàn chỉnh, kênh mương được phân bố rộng khắp trên địa bàn huyện, mật độ đạt trên 50m/ha, đảm bảo chủ động tưới tiêu phần lớn diện tích canh tác của huyện. Nguồn nước phục vụ cho sản xuất và đời sống của người dân Càng Long được cải thiện rõ rệt từ khi các công trình thủy lợi thuộc Dự án Nam Măng Thít đi vào hoạt động; đặc biệt là Cống Cái Hóp và Cống Láng Thé đưa vào vận hành đã góp phần ngăn mặn. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nên thời gian gần đây, nước mặt đã bị nhiễm mặn và vào sâu trong nội đồng, ảnh hưởng rất lớn cho sản xuất nông nghiệp. Nước dưới đất: Kết quả nghiên cứu chung của tỉnh Trà Vinh, huyện Càng Long có 5 tầng chứa nước, ở tầng trên nguồn nước bị nhiễm mặn (do các kênh dẫn nước mặn vào 3 tầng tiếp theo ở giữa nước dưới đất phong phú và chất lượng khá hơn và cuối cùng là tầng Miocene ở sâu nhất chiều sâu của 3 tầng chứa nước ở giữa, thay đổi từ 60 m đến 400 m và phổ biến từ 90 m đến 120 m, là nước dưới đất có áp, trữ lượng lớn và chất lượng khá tốt, không bị nhiễm mặn, thuộc nhóm nước mền, có hàm lượng kim loại nặng thấp. Đây là nguồn tài nguyên quý giá, là nguồn nước sạch quan trọng phục vụ cho sinh hoạt và công nghiệp chế biến. Cần có các biện pháp để khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên nước dưới đất, tránh khai thác lạm dụng bừa bãi ở tầng quá nông. Tài nguyên khoáng sản Theo khảo sát lập bản đồ địa chất khoáng sản đồng bằng Nam bộ, huyện Càng Long đến nay mới phát hiện ra một số loại khoáng như cát sông khu vực các xã nằm ven sông Cổ Chiên, sét gạch ngói tại các xã Tân An, Tân Bình, Đức Mỹ… Tuy nhiên cần phải đánh giá trữ lượng và có phương án khai thác phù hợp. Tránh việc khai thác tràn lan không theo quy hoạch dễ dẫn đến các tác hại nghiêm trọng đến môi trường và điều kiện sản xuất nông nghiệp. Cảnh quan môi trường Huyện Càng Long mang đặc điểm chung của đồng bằng ven biển, với đặc điểm chính là những cánh đồng lúa bằng phẳng và những vườn trái cây xanh tốt, bề mặt bị chia cắt và xen kẻ bởi hệ thống sông rạch chằng chịt cùng những giồng cát chạy dài. Môi trường sinh thái của huyện cơ bản mang sắc thái tự nhiên của vùng nông thôn. Những nét đặc trưng của điều kiện tự nhiên chi phối mạnh mẽ tới vấn đề môi trường của huyện là hiện tượng xâm mặn nước mặt vào mùa khô ở khu gần sông Cổ Chiên với mức độ khác nhau đối với từng tiểu vùng. Ngoài ra, sự gia tăng dân số, quá trình sản xuất, sinh hoạt cũng tác động xấu tới môi trường. Hiện nay môi trường sinh thái của Càng Long còn khá tốt, đáp ứng được nhu cầu bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Cần khuyến khích nông dân sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, sử dụng thức ăn trong nuôi trồng thủy sản thật hợp lý, ... ý thức việc xử lý nước thải và rác thải trong sản xuất và sinh hoạt để đảm bảo an toàn cho môi trường đất và nước trong tương lai. Cùng với quá trình khai thác tài nguyên để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống thì việc tái tạo cảnh quan, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững là cần thiết. Hành chính Huyện Càng Long có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Càng Long và 13 xã: An Trường, An Trường A, Bình Phú, Đại Phúc, Đại Phước, Đức Mỹ, Huyền Hội, Mỹ Cẩm, Nhị Long, Nhị Long Phú, Phương Thạnh, Tân An, Tân Bình với 145 ấp, khóm. Lịch sử Năm 1917, Càng Long là quận thuộc tỉnh Trà Vinh gồm có 2 tổng. Đến năm 1928, quận được phân chia lại gồm có tổng Bình Khánh và tổng Bình Khánh Thượng. Ngày 6 tháng 1 năm 1931, quận được sáp nhập tổng Bình Phước với 3 làng tách từ quận Châu Thành. Năm 1939, quận Càng Long có 2 tổng với 7 làng: Tổng Bình Khánh Thượng có 4 làng: An Trường, Huyền Hội, Mỹ Cẩm, Tân An Tổng Bình Khánh có 3 làng: Bình Phú, Đức Mỹ, Nhị Long. Năm 1956, Càng Long thuộc tỉnh Vĩnh Bình. Từ năm 1965 trở đi, các tổng đều mặc nhiên giải thể. Sau năm 1975, Càng Long từ quận được đổi thành huyện và thuộc tỉnh Cửu Long. Từ năm 1976 đến nay Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban hành Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam bằng sự sáp nhập tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Vĩnh Bình thành tỉnh Cửu Long. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 59-CPvề việc giải thể các huyện Châu Thành Đông, sáp nhập xã Hiếu Tử của huyện Tiểu Cần và 5 xã: Nguyệt Hóa, Lương Hóa, Đa Lộc, Thanh Mỹ, Sông Lộc của huyện Châu Thành Đông vào huyện Càng Long. Ngày 29 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 98-HĐBT về việc chuyển 5 xã: Song Lộc, Đa Lộc, Lương Hoà, Nguyệt Hoá và Thanh Mỹ về huyện Châu Thành quản lý. Huyện Càng Long gồm có 9 xã: Mỹ Cẩm (trụ sở huyện), An Trường, Huyền Hội, Tân An, Bình Phú, Phương Thạnh, Đại Phước, Nhị Long và Đức Mỹ. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Cửu Long được chia thành 2 tỉnh: Vĩnh Long và Trà Vinh, huyện Càng Long thuộc tỉnh Trà Vinh. Ngày 3 tháng 10 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định 57/1996/NĐ-CP về việc: Thành lập xã Tân Bình trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của xã Tân An Thành lập thị trấn Càng Long trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của xã Mỹ Cẩm. Ngày 2 tháng 3 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 13/1998/NĐ-CP về việc thành lập xã An Trường A trên cơ sở 1.658,3 ha diện tích tự nhiên và 9.134 nhân khẩu của xã An Trường. Ngày 10 tháng 12 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 157/2003/NĐ-CP về việc: Thành lập xã Đại Phúc trên cơ sở 1.050,675 ha diện tích tự nhiên và 5.003 nhân khẩu của xã Đại Phước Thành lập xã Nhị Long Phú trên cơ sở 1.193,13 ha diện tích tự nhiên và 7.560 nhân khẩu của xã Nhị Long. Từ đó, huyện Càng Long có 1 thị trấn và 13 xã như hiện nay. Dân số Theo số liệu thống kê dân số đến tháng 12/2019, dân số huyện Càng Long có 147.694 người. Trong đó: Dân tộc Kinh: 137.221 người, chiếm 92,91 %.Dân tộc Khmer: 10.306 người, chiếm 6,98 %.Dân tộc Hoa: 136 người, chiếm 0,09 %.Dân tộc khác: 31 người, chiếm 0,02 %.Số hộ nghèo: 710 hộ.Số hộ cận nghèo: 2.011 hộ. Sự phân bố dân cư trên địa bàn không đồng đều, chủ yếu tập trung tại trung tâm huyện lỵ, trung tâm hành chánh của các xã, thị trấn và dọc các tuyến giao thông thủy, bộ. Xét theo mối tương quan giữa tỷ trọng đất tự nhiên và tỷ trọng dân số, huyện Càng Long có mật độ dân số bình quân toàn huyện là 502 người/km², gấp 119% mật độ dân số của tỉnh Trà Vinh (440 người/km²) nên Càng Long được xem là vùng dân cư tập trung đông. Tổng dân số của huyện 147.694 người, trong đó lao động trong độ tuổi chiếm tỷ lệ 64,77%. Trong đó: Lao động có việc làm ổn định chiếm 97,73% tổng số lao động trong độ tuổi, lao động thiếu việc làm thường xuyên và lao động chưa có việc làm chiếm 2,27% tổng số lao động trong độ tuổi. Tổng lao động trong độ tuổi toàn huyện là 94.190 người. Số người đang làm việc trong các ngành kinh tế là 79.562 người, lao động trong độ tuổi có khả năng lao động đang đi học là 5.570 người, lao động đang làm nội trợ là 5.520 người, lao động không có việc làm 4.731 người. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu khu vực nông lâm nghiệp - thủy sản, việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm. Kinh tế - xã hội Tổng giá trị sản xuất năm 2019 ước đạt 9.165 tỷ đồng, tăng 8,76% so cùng kỳ. Trong đó: ngành nông nghiệp - lâm nghiệp tăng 2,5%; ngành thủy sản tăng 15% so cùng kỳ; ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 12,63% so cùng kỳ; ngành xây dựng tăng 13,18% so cùng kỳ; ngành thương mại - dịch vụ so cùng kỳ tăng 13,13%. Giá trị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp ước đạt khoảng 3.576 tỷ đồng, tăng 1,23% so với năm 2018. Cây lúa vẫn là cây canh tác chính. Bên cạnh đó còn có các loại hoa màu, cây ăn trái, cây công nghiệp: điều, dừa, hồ tiêu,... Việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi được đẩy mạnh. Giá trị thủy sản ước đạt khoảng 403 tỷ đồng, tăng 7,04% so với năm 2018. Toàn huyện có diện tích thả nuôi trên 1.089,88 ha, 7.228 tấn cá, tôm các loại, sản lượng khai thác nội đồng ước đạt 3.125 tấn.Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ước đạt khoảng 921 tỷ đồng, giảm 4,84% so với năm 2018.Giá trị sản xuất thương mại dịch vụ ước đạt 3.371 tỷ đồng, tăng 6,16% so với năm 2018. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện hoạt động có hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành khoảng 8,76%, giảm 2,29% so với năm 2018. Thu nhập bình quân đầu người 46 triệu đồng/người/năm, tăng 3 triệu đồng so cùng kỳ, đạt 97,87%. Sản xuất nông nghiệp Trồng trọt: Diện tích gieo trồng là 55.518,3 ha đạt 99,5% kế hoạch giảm 0,8% so cùng kỳ, cụ thể: Cây lúa: Diện tích là 35.349,22 ha, đạt 99,44% so kế hoạch, giảm 1,7% so cùng kỳ; năng suất 5,45 tấn/ ha, đạt 96,67% so kế hoạch, giảm 3,1% so cùng kỳ. Sản lượng l 92.706,78 tấn, đạt 96,12% so kế hoạch, giảm 4,7% so cùng kỳ. Cây màu: Diện tích 7.611 ha, đạt 103,8% so kế hoạch, tăng 1,8% so cùng kỳ. Trong đó: Màu lương thực: Diện tích 734 ha đạt 100,14% so kế hoạch tăng 1,6% so cùng kỳ. Màu thực phẩm: Diện tích 4.025 ha đạt 100,2% so kế hoạch tăng 2% so cùng kỳ. Hiện nay có nhiều loại rau màu cho thu nhập cao như cây ớt chỉ thiên cho thu nhập cao từ 95 triệu - 120 triệu/ ha; cây dưa leo, cà chua, hành... cho thu nhập từ 100 - 110 triệu đồng/ha. Cây công nghiệp ngắn ngày: Diện tích trồng: 2.852 ha, đạt 14% kế hoạch, tặng 1,8% so với cùng kỳ. Diện tích trồng nấm rơm là: 113.220 mét mô đạt 113,2% kế hoạch giảm 24,4% so cùng kỳ. Sản lượng 239,792 tấn. Năng suất ước đạt 1,6 kg/mét mô. Diện tích trồng cây ăn trái: 5.374 ha, đạt 104,03% so kế hoạch tăng 5,3% so cùng kỳ. Trong đó diện tích cây có múi là 1.408 ha (trồng các loại cây cam sành, quýt, bưởi, chanh); diện tích trồng thanh long ruột đỏ là: 305 ha. Do nông dân sử dụng giống chất lượng, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, chăm sóc tốt vườn cây ăn trái nên năng suất đạt cao. Đến nay trên địa bàn huyện có rất nhiều hộ trồng cây có múi cho thu nhập cao (cây cam sành cho lợi nhuận bình quân 150 - 200 triệu đồng/ha). Diện tích trồng cây dừa hiện có 7.772 ha, đạt 104,11% so kế hoạch, tăng 4,7% so cùng kỳ. Chăn nuôi, thú y Trong năm, đàn vật nuôi của một số hộ đã phát sinh Newcastle ghép Gumboro làm chết 1.300 con gia cầm, các ngành chức năng phối hợp với địa phương và gia đình đã xử lý, ngăn chặn, không lây sang các hộ nuôi khác; Công tác tiêm phòng: đã tiêm phòng cúm gia cầm cho 1.314.571 con gia cầm/1.314.571 liều vaccin (Trong đó, gà: 1.178.112 con; vịt: 136.459 con); tiêm các loại vaccin thường xuyên cho 41.113 con gia súc (bệnh tụ huyết trùng, dịch tả, phó thương hàn) và 1.151 liều vaccin lở mồm long móng và tiêm phòng bệnh dại cho 3.021 con chó, mèo. Thực hiện tốt công tác kiểm soát giết mổ ở các lò giết mổ Thành Công, Tài Lộc, các điểm giết mổ khác như xã Nhị Long, Đức Mỹ, An Trường A, đã kiểm soát giết mổ được 57.500 con heo và 58.500 con gia cầm. Gia súc khi đưa vào cơ sở giết mổ đều được đưa qua kiểm dịch động vật. Công tác tiêu độc khử trùng: Trên đàn gia cầm, gia súc trong năm đã phun xịt tiêu độc khử trùng cho 8.091.744 lượt con gia cầm và 1.102.419 lượt con gia súc với diện tích 5.206.210 m³/2.829 lít thuốc/152.539 lượt hộ chăn nuôi. Quản lý chăn nuôi: Đến nay cấp được 100 sổ chăn nuôi gia súc, gia cầm (chăn nuôi gia súc 70 sổ, chăn nuôi gia cầm tập trung 18 sổ và 11 sổ vịt chạy đồng). Tổng số đàn heo ước 61.370 con, đạt 87,05 % kế hoạch, giảm 12,6% so cùng kỳ; tổng số đàn bò, trâu 28.580 đạt 103,93% kế hoạch, tăng 5,1 % so cùng kỳ; đàn gia cầm: 1.916.000 con, đạt 127,73% kế hoạch, tăng 23,4% so cùng kỳ. Thủy sản Tận dụng diện tích mặt nước ao, hồ, ruộng lúa, mương vườn, các vùng đất ven các sông, kênh, rạch chính,... để nuôi thủy sản. Xây dựng mô hình nuôi thủy sản như: mô hình nuôi ba ba, nuôi tôm càng canh xen trong mương vườn; mô hình nuôi chuyên tôm càng xanh toàn đực để làm cơ sở nhân rộng. Mặt khác áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng. Diện tích thả nuôi thủy sản: 1.089,88 ha đạt 100,54% so kế hoạch, tăng 0,9% so cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch: 10.541,7 tấn đạt 105,42% kế hoạch, tăng 5,5% so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng nuôi thủy sản: 7.228 tấn (55,6 tấn tôm tép, cá lóc 668,1 tấn, cá các loại 4.835 tấn, thủy sản khác 232 tấn, cá tra 1.437 tấn). Sản lượng khai thác thủy hải sản: 3.314 (khai thác nội đồng 3.125 tấn có 616 tấn tôm tép các loại và 189 tấn sản lượng khai thác hải sản ven bờ có 29 tấn tôm tép các loại). Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp Giá trị sản xuất Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) ước đạt 921 tỷ đồng, đạt 100,87% kế hoạch, với các sản phẩm chủ yếu như: xay xát lương thực, lau bóng gạo, sửa chữa cơ khí, sản xuất gạch, tơ xơ dừa, thảm xơ dừa, đan đát, nước đá, mộc gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc,... Thương mại, dịch vụ Hoàn thành các bước chuyển đổi mô hình tổ chức kinh doanh, khai thác và quản lý chợ Càng Long sang hình thức hợp tác xã theo Quyết định 1270/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Tỉnh, đưa vào hoạt động chợ Mỹ Huê, chợ Tân An được công nhận đạt chuẩn Nông thôn mới. Trên địa bàn huyện có một số chợ trung tâm khu vực như chợ Càng Long, chợ Nhị Long, chợ Tân An nhưng vẫn chưa có trung tâm thương mại. Ngành thương mại – dịch vụ của huyện Càng Long trong những năm qua phát triển không ngừng và ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho cư dân và cho sản xuất. Mạng lưới thương mại tại huyện Càng Long có những chuyển biến tương đối tích cực, các ngành nghề thương mại đang phát triển đều khắp. Hệ thống chợ trên địa bàn huyện về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa thông thường của người dân. Tuy nhiên, để mở rộng những nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng rộng rãi của người dân, hệ thống chợ trên địa bàn xã chưa đáp ứng tốt, đặc biệt về nhu cầu hàng hóa vật tư nông nghiệp, trao đổi hàng hóa nông sản và hàng hóa tiêu dùng. Giáo dục Toàn huyện có 62 trường và 1 trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên, đến nay có 27 trường học đạt chuẩn quốc gia (trong đó có 3 trường mẫu giáo, 1 trường mầm non, 11 trường tiểu học, 7 trường trung học cơ sở và 5 trường trung học phổ thông). Y tế Cơ sở y tế của huyện bao gồm 16 cơ sở: Bệnh viện đa khoa (Trung tâm y tế huyện) quy mô 100 giường bệnh, đặt tại thị trấn Càng Long, 2 phòng khám ĐKKV (20 giường), 12 trạm y tế xã, thị trấn có tổng cộng 60 giường. Văn hóa - Thể thao - Du lịch Văn hóa Ngoài trung tâm văn hóa huyện tại thị trấn Càng Long, hệ thống văn hóa xã tương đối đầy đủ. Có 13/13 xã và thị trấn có thư viện và trung tâm văn hóa. Danh mục hiện trạng công trình văn hóa: Nhà văn hóa huyện: Khóm 4, thị trấn Càng Long Phòng văn hóa & thông tin: Khóm 4, thị trấn Càng Long Thư viện: Khóm 4, thị trấn Càng Long Trung tâm vui chơi trẻ em huyện Càng Long: Khóm 4, thị trấn Càng Long Nhà văn hóa xã: Ấp 4, xã Mỹ Cẩm. Thể thao Hệ thống trung tâm thể dục thể thao phát triển chưa đồng đều. Toàn huyện hiện có 1 sân vận động và 1 nhà thi đấu TDTT huyện tại thị trấn Càng Long, 1 khu liên hợp thể thao tại xã An Trường và 4 sân thể thao cấp xã tại các xã Huyền Hội, Nhị Long Phú và Đức Mỹ. Danh mục hiện trạng công trình thể dục thể thao: Sân thể dục thể thao xã Mỹ Cẩm: Ấp 2, xã Mỹ Cẩm Khu liên hợp thể thao xã An Trường: Ấp 7A, xã An Trường Sân thể thao: Ấp Sóc, xã Huyền Hội Sân thể thao: Ấp Lưu Tư, xã Huyền Hội Sân thể thao xã: Ấp Thạnh Hiệp, xã Nhị Long Phú Sân thể thao xã: Ấp Mỹ Hiệp A, xã Đức Mỹ Nhà thi đấu TDTT huyện Càng Long: Khóm 4, thị trấn Càng Long Du lịch Trên địa bàn huyện có 1 khu du lịch sinh thái Miệt vườn MêKông tại ấp Đon, xã Nhị Long mở cửa cho khách tham quan du lịch, có trên 685 lượt khách trong và ngoài nước đến tham quan vào những ngày lễ, Tết. Trên địa bàn huyện Càng Long phát triển du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh hiện có. Vì vậy, cần đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, mua sắm đa dạng các sản phẩm du lịch. Phát triển du lịch góp phần làm tăng thêm giá trị về văn hóa, giá trị các di tích đồng thời nâng cao nhận thức của người dân về lợi ích trong việc phát triển du lịch, tạo thêm việc làm. Giao thông Đường bộ Huyện có 2 tuyến Quốc lộ 53, Quốc lộ 60 tổng chiều dài là 28 km, tuyến tỉnh lộ 911 dài 15,6 km, 5 tuyến hương lộ dài 71,3 km và nhiều đường giao thông nông thôn với chiều dài 416 km. Ngoài các tuyến đường giao thông chính thì trên địa bàn khu vực nghiên cứu còn có nhiều tuyến đường liên ấp, liên xã, phần lớn mặt đường đã được trải nhựa với chiều rộng 3,0 - 7,0m, nền đường rộng từ 3,5 - 9,0m, một số tuyến cơ nền đường rộng đến 11-14m. Đường nội đồng phục vụ việc đi lại của người dân. Đa số các tuyến đường này là đường đất, đường đal; rộng trung bình 1,5-2,0m, chất lượng trung bình, tuy nhiên đã xuống cấp ở nhiều xã như xã An Trường, An Trường A, Bình Phú, Huyền Hội, Đức Mỹ,.. Bến xe Càng Long là bến xe trung tâm huyện, tại thị trấn Càng Long, nằm tại Quốc lộ 53, là đầu mối giao lưu hàng hóa và hành khách chính trong khu vực, nối liền các tuyến trong tỉnh và liên tỉnh, nối các tuyến vận tải từ xã lên huyện và từ huyện đi các tỉnh khác. Đường thủy Sông Cổ Chiên dài 11,5 km và 2 hệ thống sông, sông Rạch Bàng và Láng Thé đảm bảo cho tàu có trọng tải từ 100 – 250 tấn lưu thông. Hệ thống cảng thủy nội địa: Bến hành khách Càng Long: nằm bờ trái sông Càng Long, TT.Càng Long. Bến xăng dầu cơ sở Hoàng Tâm: nằm bờ trái sông Càng Long, TT. Càng Long, tiếp nhận tàu có mướn nước ≤1,2m. Bến hàng hoá khu vực chợ Càng Long - thị trấn Càng Long. Chú thích
Lê Vân (tên đầy đủ Trần Lê Vân, sinh 1958 tại Hà Nội) là một diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ múa Việt Nam. Chị là con của hai nghệ sĩ kịch nói Trần Tiến và Lê Mai, chị của Lê Khanh, nghệ sĩ kịch nói, và Lê Vi, nghệ sĩ múa. Chị được phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú của Việt Nam. Tháng 10 năm 2006, Lê Vân viết cuốn tự truyện "Lê Vân, yêu và sống" nói về cuộc đời chị, trong đó có một phần viết khá chi tiết về gia đình nghệ sĩ này. Các phim đã đóng Chom và Sa (1978) của đạo diễn Phạm Kỳ Nam Những con đường (1979) của đạo diễn Nông Ích Đạt Tự thú trước bình minh (1979) của đạo diễn Phạm Kỳ Nam Đất mẹ (1980) của đạo diễn Hải Ninh Chị Dậu (1981) của đạo diễn Phạm Văn Khoa (có sự tham gia diễn xuất của nhà văn Nguyễn Tuân, Kim Lân và nghệ sĩ nhân dân Trịnh Thịnh) - vai chị Dậu Bao giờ cho đến tháng Mười (1984) của đạo diễn Đặng Nhật Minh - vai Duyên Tọa độ chết (1985) của đạo diễn Samvel Gasparov và Nguyễn Xuân Chân - vai Mai Thằng Bờm (1987) của đạo diễn Lê Đức Tiến Tình xa (1988) Đêm hội Long Trì (1990) của đạo diễn Hải Ninh - vai Tuyên phi Đặng Thị Huệ Kiếp phù du (1991) của đạo diễn Hải Ninh - vai Tuyên phi Đặng Thị Huệ Thương nhớ đồng quê (1995) của đạo diễn Đặng Nhật Minh - vai Quyên Lời thề (1996) của đạo diễn Tường Phương
Đây là danh sách các thành phố tại Hoa Kỳ có từ 100 nghìn người trở lên. Theo định nghĩa của Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, một khu hợp nhất (incorporated area) có thể sử dụng nhiều tên, bao gồm thành phố, thị trấn, làng, và khu. Trong danh sách này, dựa trên những dân số ước lượng ngày 1 tháng 7 năm 2005 của Cục Thống kê, phần nhiều của những khu vực này được tổ chức là thành phố. Những thành phố-quận hỗn hợp thuộc loại chính phủ đặc biệt tại vì có những khu vực tổ chức khác nằm ở trong thành phố hỗn hợp. Danh sách này chỉ tính những vùng (gọi balance) của thành phố hỗn hợp mà không thuộc về thành phố, thị trấn, hay làng khác. Những con số này ít hơn dân số tổng cộng trong khu vực đô thị, ý nghĩa chính của từ "thành phố" ở nhiều nước. Trong một số trường hợp, hai ba thành phố ở dưới cùng khu vực đô thị. Các thành phố có dân số hơn 100.000 Danh sách dưới đây bao gồm các khu vực được hợp nhất ở Hoa Kỳ với dân số trên 100.000 người tại thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2010 theo kết quả điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010.. Thủ phủ bang được bôi đậm. Chú thích
Thuật toán Bellman–Ford là một thuật toán tính các đường đi ngắn nhất nguồn đơn trong một đồ thị có hướng có trọng số (trong đó một số cung có thể có trọng số âm). Thuật toán Dijkstra giải cùng bài toán này tuy nhiên Dijkstra có thời gian chạy nhanh hơn, đơn giản là đòi hỏi trọng số của các cung phải có giá trị không âm. Thuật toán Bellman–Ford chạy trong thời gian , trong đó V là số đỉnh và E là số cung của đồ thị. Tư tưởng thuật toán Bước 1: Khởi tạo và . Bước 2: Với mỗi ta đặt: Bước 3: Nếu với thì chính là độ dài đường đi ngắn nhất từ x đến i. Ngược lại nếu k < n thì tăng k = k+1 và trở lại bước 2; nếu k = n thì dừng vì từ x đi tới được 1 mạch âm. Ưu điểm: Từ 1 đỉnh xuất phát nhìn hình ta có thế suy ra đường đi ngắn nhất từ đỉnh đó tới các đỉnh khác mà không cần làm lại từ đầu. Ví dụ: Từ đỉnh 1 ta có thể tìm đường đi ngắn nhất từ 1->3 và 1->4 mà không cần làm lại. Nội dung thuật toán function BellmanFord(danh_sách_đỉnh, danh_sách_cung, nguồn) // hàm yêu cầu đồ thị đưa vào dưới dạng một danh sách đỉnh, một danh sách cung // hàm tính các giá trị khoảng_cách và đỉnh_liền_trước của các đỉnh, // sao cho các giá trị đỉnh_liền_trước sẽ lưu lại các đường đi ngắn nhất. // bước 1: khởi tạo đồ thị for each v in danh_sách_đỉnh: if v is nguồn then khoảng_cách(v):= 0 else khoảng_cách(v):= vô cùng đỉnh_liền_trước(v):= null // bước 2: kết nạp cạnh for i from 1 to size(danh_sách_đỉnh)-1: for each (u,v) in danh_sách_cung: if khoảng_cách(v) > khoảng_cách(u) + trọng_số(u,v): khoảng_cách(v):= khoảng_cách(u) + trọng_số(u,v) đỉnh_liền_trước(v):= u // bước 3: kiểm tra chu trình âm for each (u,v) in danh_sách_cung: if khoảng_cách(v) > khoảng_cách(u) + trọng_số(u,v): error "Đồ thị chứa chu trình âm" Chứng minh tính đúng đắn Tính đúng đắn của thuật toán có thể được chứng minh bằng quy nạp. Thuật toán có thể được phát biểu chính xác theo kiểu quy nạp như sau: Bổ đề. Sau i lần lặp vòng for: Nếu khoảng_cách(u) không có giá trị vô cùng lớn, thì nó bằng độ dài của một đường đi nào đó từ s tới u; Nếu có một đường đi từ s tới u qua nhiều nhất i cung, thì Khoảng_cách(u) có giá trị không vượt quá độ dài của đường đi ngắn nhất từ s tới u qua tối đa i cung. Chứng minh Trường hợp cơ bản: Xét i = 0 và thời điểm trước khi vòng for được chạy lần đầu tiên. Khi đó, với đỉnh nguồn khoảng_cách(nguồn) = 0, điều này đúng. Đối với các đỉnh u khác, khoảng_cách(u) = vô cùng, điều này cũng đúng vì không có đường đi nào từ nguồn đến u qua 0 cung. Trường hợp quy nạp: Chứng minh câu 1. Xét thời điểm khi khoảng cách tới một đỉnh được cập nhật bởi công thức khoảng_cách(v):= khoảng_cách(u) + trọng_số(u, v). Theo giả thiết quy nạp, khoảng_cách(u) là độ dài của một đường đi nào đó từ nguồn tới u. Do đó, khoảng_cách(u) + trọng_số(u, v) là độ dài của đường đi từ nguồn tới u rồi tới v. Chứng minh câu 2: Xét đường đi ngắn nhất từ nguồn tới u qua tối đa i cung. Giả sử v là đỉnh liền ngay trước u trên đường đi này. Khi đó, phần đường đi từ nguồn tới v là đường đi ngắn nhất từ nguồn tới v qua tối đa i-1 cung. Theo giả thuyết quy nạp, khoảng_cách(v) sau i-1 vòng lặp không vượt quá độ dài đường đi này. Do đó, trọng_số(v, u) + khoảng_cách(v) có giá trị không vượt quá độ dài của đường đi từ s tới u. Trong lần lặp thứ i, khoảng_cách(u) được lấy giá trị nhỏ nhất của khoảng_cách(v) + trọng_số(v, u) với mọi v có thể. Do đó, sau i lần lặp, khoảng_cách(u) có giá trị không vượt quá độ dài đường đi ngắn nhất từ nguồn tới u qua tối đa i cung. Khi i bằng số đỉnh của đồ thị, mỗi đường đi tìm được sẽ là đường đi ngắn nhất toàn cục, trừ khi đồ thị có chu trình âm. Nếu tồn tại chu trình âm mà từ đỉnh nguồn có thể đi đến được thì sẽ không tồn tại đường đi nhỏ nhất (vì mỗi lần đi quanh chu trình âm là một lần giảm trọng số của đường). Ứng dụng trong định tuyến Một biến thể phân tán của thuật toán Bellman-Ford được dùng trong các giao thức định tuyến vector khoảng cách, chẳng hạn giao thức RIP (Routing Information Protocol). Đây là biến thể phân tán vì nó liên quan đến các nút mạng (các thiết bị định tuyến) trong một hệ thống tự chủ (autonomous system), ví dụ một tập các mạng IP thuộc sở hữu của một nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). Thuật toán gồm các bước sau: Mỗi nút tính khoảng cách giữa nó và tất cả các nút khác trong hệ thống tự chủ và lưu trữ thông tin này trong một bảng. Mỗi nút gửi bảng thông tin của mình cho tất cả các nút lân cận. Khi một nút nhận được các bảng thông tin từ các nút lân cận, nó tính các tuyến đường ngắn nhất tới tất cả các nút khác và cập nhật bảng thông tin của chính mình. Nhược điểm chính của thuật toán Bellman-Ford trong cấu hình này là Không nhân rộng tốt Các thay đổi của tô-pô mạng không được ghi nhận nhanh do các cập nhật được lan truyền theo từng nút một. Đếm dần đến vô cùng (nếu liên kết hỏng hoặc nút mạng hỏng làm cho một nút bị tách khỏi một tập các nút khác, các nút này vẫn sẽ tiếp tục ước tính khoảng cách tới nút đó và tăng dần giá trị tính được, trong khi đó còn có thể xảy ra việc định tuyến thành vòng tròn) Minh họa bằng hình Tìm đường đi ngắn nhất từ đỉnh B tới đỉnh D của đồ thị G - Bước 0: Ta đánh dấu đỉnh xuất phát = 0, các đinh còn lại bằng vô cực. - Bước 1: Tại đỉnh A có đỉnh B đi vào có chi phí hiện tại (2) < chi phí trước (∞) => cập nhật lại chi phí đỉnh A Tại đỉnh C có đỉnh B đi vào có chi phí hiện tại (6) < chi phí trước (∞) => cập nhật lại chi phí đỉnh C - Bước 2: Tại đỉnh C có đỉnh A đi vào có chi phí hiện tại (5) < chi phí trước (6) => cập nhật lại chi phí đỉnh C Tại đỉnh D có đỉnh C đi vào có chi phí hiện tại (8) < chi phí trước (∞) => cập nhật lại chi phí đỉnh D - Bước 3: Tại đỉnh D có đỉnh A đi vào có chi phí hiện tại (7) < chi phí trước (8) => cập nhật lại chi phí đỉnh D - Bước 4: Bước 4 giống bước 3 nên thuật toán dừng. - Kết luận: Có đường đi ngắn nhất từ B->D: B->A->C->D - Lưu ý: Nếu bước 4 không giống bước 3 => kết luận không có đường đi ngắn nhất từ B->D Cài đặt Bellman Hàm khởi tạo (bước 0) Không như khi cài đặt thuật toán Dijkstra, do Bellman chấp nhận cạnh âm, việc sử dụng trị -1 không còn đúng nữa. Tạm thời, ta có thể sử dụng trị MAXINT (32767) cho giá trị inf, vì nếu như chi phí đạt đến ngưỡng này, có thể xem như tràn số. step = 0; for {i...} { mincost[step][i] = inf; previous[step][i] = i; } mincost[step][x] = 0; Cài đặt hàm Bellman Chú ý rằng để có thể kết luận được đồ thị có chu trình âm hay không. ta cần chạy đến bước thứ n (nghĩa là đi qua tối đa n+1 đỉnh). Do đó, cấu trúc dữ liệu để lưu cũng cần lưu ý khi khai báo. bSuccess = false; for (step = 1; step <=n; step ++) // dùng <=n thay vì <n { for(i...) { mincost[step][i] = mincost[step-1][i] previous[step][i] = previous[step-1][i] // tìm các đỉnh j có đường nối từ j -->i // và chi phí bước step-1 của j khác vô cực for (j...) if (...&&...) { // cập nhật lại nếu chi phí bước step của i là vô cực // hoặc chi phí đi qua j: mincost[step-1][j]+a[j][i] //tối ưu hơn if (...||...) { // cập nhật lại chi phí và lưu đỉnh cha } } } // so sánh mincost[step] với mincost[step-1], nếu bằng nhau // kết thúc thành công int bSame = true; for (i...) if (mincost[step][i]!= mincost[step-1][i]) { bSame = false; break; // đã giống nhau,đường đi đã tối ưu if (bSame) break; } Cấu trúc dữ liệu int mincost [MAX+1][MAX]; int previous[MAX+1][MAX]; Hàm in kết quả Nếu nStep = n+1, ta kết luận đồ thị có chu trình âm. Ngược lại, ta sẽ dò chi phí ngược từ bước nStep-1 đến bước 0 (Do bước nStep có giá trị giống bước nStep-1). k = y; for (i=nStep-1;i>0;i--) // chừa lại bước cuối { printf("%d <---", k); k = previous[i][k]; // đỉnh trước k } printf("%dn",k); // có thể thêm kiểm tra k == x Chú thích
Tại Hoa Kỳ, vùng thống kê đô thị (tiếng Anh: Metropolitan Statistical Area, viết tắt là MSA) là các khu vực địa lý có mật độ dân cư tương đối cao ở trung tâm và toàn bộ khu vực có liên hệ mật thiết với nhau về mặt kinh tế. Các Vùng thống kê đô thị bao gồm các quận và những đơn vị tương đương quận. Các quận có vùng thành thị cốt lõi được gọi là các quận trung tâm của Vùng đô thị. Các quận bao quanh khác (được biết như là các quận ngoại ô) có thể được cộng vào Vùng thống kê đô thị nếu các quận này có mối quan hệ kinh tế và xã hội mạnh mẽ với các quận trung tâm, được tính qua việc đáp xe hàng ngày ra vào các quận trung tâm và công ăn việc làm. Ghi chú là một số vùng nằm bên trong các quận ngoại ô này có thể thật sự là những vùng nông thôn tự nhiên. Vùng thống kê đô thị được dùng cho các mục đích chính thức nhưng chúng không phải là cách để ước tính dân số đô thị duy nhất. Các con số chính xác đối với một số vùng đô thị vẫn còn bị tranh cãi và có một số trường hợp, các nguồn thống kê danh tiếng lại cung cấp các con số sai khác đến hàng triệu. Các trường hợp đáng tranh cãi nhất gồm có Vùng Đại Los Angeles, Vùng Vịnh San Francisco, và Đại Cleveland. Các định nghĩa chính thức được dùng cho Điều tra dân số Hoa Kỳ lần cuối thường hay khác những lần điều tra dân số trước đây, làm cho việc so sánh gặp nhiều khó khăn thậm chí là giữa các con số chính thức của các năm khác nhau (so sánh năm 2000 với năm 1990, Baltimore bị tách rời khỏi Washington, D.C. nhưng West Palm Beach lại được kết hợp lại với Miami-Fort Lauderdale làm cho có con số sai khác khá lớn trong việc xếp hạng cả hai vùng đô thị này). Cho đến thời điểm tháng 6 năm 2003, hiện tại có thêm một xếp loại mới, đó là "Phân vùng đô thị" (Metropolitan Division). Cụm từ "phân vùng đô thị" được dùng để chỉ một quận hay một nhóm gồm nhiều quận liên tục nằm sát nhau mà phục vụ như một vùng công ăn việc làm rõ rệt trong một vùng thống kê đô thị có tổng dân số ít nhất là 2,5 triệu. Mặc dù một phân vùng đô thị là một phân vùng của một vùng thống kê đô thị lớn hơn nhưng nó thường có chức năng như một vùng văn hóa, kinh tế, xã hội riêng biệt trong vùng đô thị lớn hơn. 25 vùng đô thị hàng đầu đông dân nhất Hoa Kỳ Sau đây là danh sách gồm 25 vùng thống kê đô thị đông dân nhất tại Hoa Kỳ (một số vùng đô thị còn có những phân vùng đô thị) theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ ước tính cho đến ngày 1 tháng 7 năm 2007: Để biết hết tất cả các Vùng thống kê đô thị Hoa Kỳ, xin xem Danh sách các vùng thống kê đô thị Hoa Kỳ. Để biết danh sách gồm các vùng đô thị kết hợp, xin xem Danh sách các vùng thống kê điều tra dân số sơ khởi của Hoa Kỳ. Ghi chú
Danh sách này bao gồm các thành phố thuộc về tiểu bang Illinois (Hoa Kỳ). A Abingdon Albion Aledo Altamont Alton Amboy Anna Antioch Arcola Ashley Assumption Athens Atlanta Auburn Aurora Ava B Barry Batavia Beardstown Belleville Belvidere Benld Benton Berwyn Bloomington Blue Island Braidwood Breese Bridgeport Brookport Bunker Hill Burbank Bushnell Byron C Cairo Calumet City Canton Carbondale Carlinville Carlyle Carmi Carrollton Carterville Carthage Casey Centralia Centreville Champaign Charleston Chenoa Chester Chicago Chicago Heights Chillicothe Chrisman Christopher Clinton Coffeen Colchester Collinsville Colona Columbia Country Club Hills Countryside Creal Springs Crest Hill Crystal Lake Cuba D Dallas City Danville Darien Decatur DeKalb Delavan Des Plaines Dixon Du Quoin E Earlville East Dubuque East Moline East Peoria East St. Louis Edwardsville Effingham Eldorado Elgin Elmhurst Elmwood El Paso Eureka Evanston F Fairbury Fairfield Fairview Heights Farmer City Farmington Flora Freeport Fulton G Galena Galesburg Galva Geneseo Geneva Genoa Georgetown Gibson City Gillespie Gilman Girard Golconda Grafton Grand Tower Granite City Grayville Greenfield Greenville Griggsville H Hamilton Harrisburg Harvard Harvey Havana Henry Herrin Hickory Hills Highland Highland Park Highwood Hillsboro Hometown Hoopeston Hurst I Illinois City J Jacksonville Jerseyville Johnston City Joliet Jonesboro K Kankakee Keithsburg Kewanee Kinmundy Knoxville L La Harpe La Salle Lacon Lake Forest Lanark Lawrenceville Le Roy Lebanon Leland Grove Lewistown Lexington Lincoln Litchfield Lockport Loves Park M Macomb Macon Madison Marengo Marion Markham Maroa Marquette Heights Marseilles Marshall Martinsville Mascoutah Mason City Mattoon McHenry McLeansboro Mendota Metropolis Minonk Moline Momence Monmouth Monticello Morris Morrison Mound City Mounds Mount Carmel Mount Carroll Mount Olive Mount Pulaski Mount Sterling Mount Vernon Murphysboro N Naperville Nashville Nason Nauvoo Neoga New Boston Newman Newton Nokomis North Chicago Northlake O O'Fallon Oak Forest Oakbrook Terrace Oakland Oglesby Olney Oneida Oregon Orient Ottawa P Palos Heights Palos Hills Pana Paris Park City Park Ridge Paxton Pekin Peoria Peru Petersburg Pinckneyville Pittsfield Plano Polo Pontiac Princeton Prophetstown Prospect Heights Q Quincy R Red Bud Robinson Rochelle Rock Falls Rockford Rock Island Rolling Meadows Roodhouse Rosiclare Rushville S Salem Sandwich Savanna Sesser Shawneetown Shelbyville Silvis South Beloit Sparta Springfield Spring Valley St. Charles St. Elmo St. Francisville Staunton Sterling Streator Sullivan Sumner Sycamore T Taylorville Toluca Toulon Trenton Troy Tuscola U Urbana V Vandalia Venice Vienna Villa Grove Virden Virginia W Wamac Warrenville Warsaw Washington Waterloo Watseka Waukegan Waverly Wenona West Chicago West Frankfort West Peoria Wheaton White Hall Wilmington Winchester Windsor Witt Wood Dale Wood River Woodstock Wyoming Y Yorkville Z Zeigler Zion
Danh sách này bao gồm các thành phố thuộc về Tiểu bang Washington (Hoa Kỳ). A Aberdeen Airway Heights Algona Anacortes Arlington Asotin Auburn B Bainbridge Island Battle Ground Belfair Bellevue Bellingham Benton City Bingen Black Diamond Blaine Bonney Lake Bothell Bremerton Brewster Bridgeport Brier Buckley Burien Burlington C Camas Carnation Cashmere Castle Rock Centralia Chehalis Chelan Cheney Chewelah Clarkston Cle Elum Clyde Hill Colfax College Place Colville Connell Cosmopolis Covington D Davenport Dayton Deer Park Des Moines DuPont Duvall E East Wenatchee Edgewood Edmonds Ellensburg Elma Entiat Enumclaw Ephrata Everett Everson F Federal Way Ferndale Fife Fircrest Forks G George Gig Harbor Gold Bar Goldendale Grand Coulee Grandview Granite Falls H Harrington Hoquiam I Ilwaco Issaquah J K Kahlotus Kalama Kelso Kenmore Kennewick Kent Keller Kettle Falls Kirkland Kittitas L La Center Lacey Lake Forest Park Lake Stevens Lakewood Langley Leavenworth Liberty Lake Long Beach Longview Lynden Lynnwood M Mabton McCleary Maple Valley Marysville Medical Lake Medina Mercer Island Mesa Mill Creek Milton Monroe Montesano Morton Moses Lake Mossyrock Mountlake Terrace Mount Vernon Moxee Mukilteo N Napavine Newcastle Newport Nooksack Normandy Park North Bend North Bonneville O Oak Harbor Oakville Ocean Shores Okanogan Olympia Omak Oroville Orting Othello P Pacific Palouse Pasco Pateros Pomeroy Port Angeles Port Orchard Port Townsend Poulsbo Prosser Pullman Puyallup Q Quincy R Raymond Redmond Renton Republic Richland Ridgefield Ritzville Rock Island Roslyn Roy Royal City S Sammamish SeaTac Seattle Sedro-Woolley Selah Sequim Shelton Shoreline Snohomish Snoqualmie Soap Lake South Bend Spanaway, Washington Spokane Spokane Valley Sprague Stanwood Stevenson Sultan Sumas Sumner Sunnyside T Tacoma Tekoa Tenino Toledo Tonasket Toppenish Tukwila Tumwater U Union Gap University Place V Vader Vancouver W Waitsburg Walla Walla Wapato Warden Washougal Wenatchee Westport West Richland White Salmon Winlock Woodinville Woodland Woodway X Y Yakima Yelm Z Zillah
Lòng chảo Tarim, (tiếng Trung: 塔里木盆地, Hán-Việt: Tháp Lý Mộc bồn địa) là một trong số các lòng chảo khép kín lớn nhất trên thế giới có diện tích bề mặt khoảng 400.000 km², nằm trong Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền viễn tây Trung Quốc. Phần lớn của lòng chảo là sa mạc Taklamakan. Khu vực này có dân cư rất thưa thớt, chủ yếu là người Uyghur và các dân tộc Trung Á khác, cũng như là người Hán, phần nhiều trong số họ là những người nhập cư gần đây. Con đường tơ lụa trong lòng chảo Tarim nằm giữa Khách Thập (Kashgar) () và Ngọc Môn (Yumen) () và được chia thành hai lộ trình, men theo các rìa phía bắc và phía nam của sa mạc Taklamakan. Các thành thị dọc theo mỗi nhánh, tính từ tây sang đông là: Lộ trình phía bắc: A Khắc Tô (Aksu) (41°10′vĩ bắc, 80°15′kinh đông) Khố Xa (Kucha) (41°39′vĩ bắc, 82°54′kinh đông) Khố Nhĩ Lặc (Korla) (41°39′vĩ bắc, 86°08′kinh đông) Thổ Lỗ Phan (Turfan) (42°59′vĩ bắc, 89°11′kinh đông) Lâu Lan (Loulan) (40°55′vĩ bắc, 89°9′kinh đông) Lộ trình phía nam: Toa Xa (Yarkand) (37°52′vĩ bắc, 77°24′kinh đông) Bì Sơn (Pishan) (37°37′vĩ bắc, 78°18′kinh đông) Hòa Điền (Khotan) (37°6′vĩ bắc, 80°1′kinh đông) Ngoài ra, trước đây còn: "Lộ trình trung tâm": Đã bị bỏ hoang từ thế kỷ 6) Trước đây thì các thứ tiếng trong ngôn ngữ Tochari được người dân sử dụng trong khu vực lòng chảo Tarim. Đây là các thứ tiếng xa nhất về phía đông của ngữ hệ Ấn-Âu. Tên gọi trong tiếng Trung "Nguyệt Chi" (月氏; Wade-Giles: Yüeh-Chih) đã dùng để chỉ những người Trung Á cổ đại sống trong khu vực Cam Túc ngày nay, những người này đã bị người Hung Nô xua đuổi, sau này họ di cư về phía lòng chảo Tarim và về phía nam để lập ra Vương triều Quý Sương tại miền bắc Ấn Độ. Người Hán dưới sự chỉ huy của một viên tướng giỏi là Ban Siêu (32-102) đã giành được sự kiểm soát khu vực lòng chảo Tarim từ tay người Hung Nô vào cuối thế kỷ 1. Vương quốc Quý Sương hùng mạnh đã mở rộng trở lại vào lòng chảo Tarim trong giai đoạn từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 2, khi họ lập ra một vương quốc tại Khách Thập. Họ đã tranh giành quyền kiểm soát khu vực này với các bộ lạc du cư và các lực lượng quân sự của người Hán. Họ là những người đưa ra chữ viết Brahmi, tiếng Prakrit của người Ấn Độ để quản lý cũng như là những người đóng vai trò lớn trong việc truyền Phật giáo trên Con đường tơ lụa chuyển giao Phật giáo tới Đông Á. Hồ Lop Nur (La Bố Bạc) là một khu vực đầm lầy lõm xuống chứa nước mặn ở phần rìa phía đông của lòng chảo Tarim, cũng là khu vực thử nghiệm hạt nhân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sông Tarim chảy vào khu vực Lop Nur. Lòng chảo Tarim được cho là có chứa các bể dầu mỏ và khí tự nhiên lớn. Một điều đáng chú ý là tuyết trên đỉnh K2 (trong tiếng Trung gọi là 乔戈里峰, Hán-Việt: Kiều Qua Lý Phong), đỉnh cao thứ hai trên thế giới sau Everest, chảy xuống thành các dòng sông băng, chúng di chuyển xuống các thung lũng thấp và tan chảy để tạo thành nước sông, con sông này uốn khúc trong các dãy núi để cuối cùng đổ vào lòng chảo Tarim. Ở đoạn giữa sa mạc, những nguồn nước này tạo nên các ốc đảo và được bơm lên để phục vụ nông nghiệp và con người, cuối cùng sau khi đã chảy trên một khoảng cách lớn thì chúng hóa thành các hồ và đầm lầy nước mặn và bốc hơi.
Aníbal Cavaco Silva (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1939) là nhà kinh tế học, cựu Thủ tướng và là Tổng thống thứ 19 của Cộng hòa Bồ Đào Nha. Ông đã chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống ngày 22 tháng 1 năm 2006 và chính thức nhậm chức ngày 9 tháng 3 năm 2006 và phục vụ đến ngày 9 tháng 3 năm 2016. Ông là thành viên đảng Dân chủ Xã hội và là hội viên của Câu lạc bộ Madrid. Ông từng làm Thủ tướng Bồ Đào Nha gần 10 năm, từ 6 tháng 11 năm 1985 đến 28 tháng 10 năm 1995. Đây là khoảng thời gian nắm quyền dài nhất kể từ khi chức vụ Thủ tướng được bầu một cách dân chủ trong lịch sử.
Parthenon (tiếng Hy Lạp: Παρθενών) là một ngôi đền thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ 5 trước Công nguyên ở Acropolis. Đây là công trình xây dựng nổi tiếng nhất còn lại của Hy Lạp cổ đại, và đã được ca ngợi như là thành tựu của kiến trúc Hy Lạp. Các điêu khắc trang trí của ngôi đền bằng từ đá cẩm thạch (marble) trắng, được coi như là đỉnh cao của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Đền Parthenon là biểu tượng của sự kết thúc Hy Lạp cổ đại và của nền dân chủ Athena, và được đánh giá như là một trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất thế giới. Tên của đền Parthenon dường như có nguồn gốc từ tượng đài kỷ niệm Athena Parthenos ở căn phòng phía Đông công trình. Bức tượng này do Phidias điêu khắc từ ngà voi và vàng; tên gọi cho Athena là parthenos (παρθένος, "virgin") có nghĩa là vị chúa vẫn còn trinh nguyên. Đền Parthenon được thay thế một đền thờ Athena cũ hơn đã bị huỷ hoại bởi Đế chế Ba Tư vào năm 480 trước Công nguyên. Giống như phần lớn các ngôi đền Hy Lạp khác, đền Parthenon đã được sử dụng như là một kho tàng, và đã phục vụ cho liên minh Delian, liên minh mà sau này trở thành Đế chế Athena. Vào thế kỷ 6 sau Công nguyên, đền Parthenon được chuyển sang thành nhà thờ Kitô giáo và được thiết kế để tôn kính Đức Mẹ Đồng trinh. Sau cuộc xâm chiếm của Thổ Nhĩ Kỳ, công trình lại được chuyển sang thành nhà thờ Hồi giáo. Vào năm 1687, một kho quân trang đạn dược của Thổ Nhĩ Kỳ có bên trong công trình đã bị bốc cháy; kết quả của vụ nổ này đã làm hỏng đền Parthenon và những điêu khắc của nó. Vào thế kỷ 19, Thomas Bruce đã tháo dỡ một vài điêu khắc còn sót lại và mang chúng đến Anh. Những tác phẩm điêu khắc này, bây giờ được biết đến như Elgin Marbles hay Parthenon Marbles, được trưng bày trong Viện Bảo tàng Anh. Cuộc tranh luận về việc Elgin Marbles cần phải được mang trả lại Hy Lạp vẫn còn đang tiếp diễn. Đền Parthenon, cùng với các công trình khác ở Acropolis, là một trong những địa điểm khảo cổ học có nhiều khách du lịch đến tham quan nhất. Bộ Văn hóa Hy Lạp hiện nay đang tiến hành một chương trình bảo tồn và khôi phục công trình. Thiết kế và xây dựng Đền Parthenon được xây dựng theo đề xuất của Pericles, chính trị gia lãnh đạo Athen trong thế kỉ thứ 5 TCN. Đền được xây dựng dưới sự giám sát chung của nhà điêu khắc Phidias, người cũng đóng vai trò chính trong việc điêu khắc trang trí đền. Các kiến trúc sư là Iktinos và Kallikrates. Việc xây dựng bắt đầu vào năm 447 TCN, và công trình gần như được hoàn thành vào năm 438 TCN, nhưng việc trang trí trong đền tiếp tục cho đến ít nhất là năm 433 TCN. Một số ghi chép về tài chính của đền Parthenon vẫn còn sót lại cho thấy chi phí đắt nhất là việc chuyên chở đá từ núi Pentelicus, cách Athena khoảng 16 km, đến Acropolis. Số tiền này một phần lấy ra từ ngân khố của liên minh Delian, đã được mang từ nhà thờ Panhellenic ở vùng Delos đến Acropolis vào năm 454 TCN. Mặc dù đền Hephaestus gần đó là công trình còn sót lại hầu như nguyên vẹn nhất của loại đền thờ xây dựng có trang trí thức cột Doric, đền Parthenon, trong thời gian tồn tại, vẫn được xem như là đền thờ đẹp nhất. John Julius Cooper đã viết về đền thờ rằng, "có danh tiếng là đền thờ kiểu thức cột Doric hoàn hảo nhất đã từng được xây dựng. Ngay cả trong thời cổ đại, kiến trúc tinh vi của nó đã trở thành truyền thuyết, đặc biệt là sự liên hệ tinh tế giữa độ cong của bệ đỡ hàng cột, các đường trau chuốt của các bức tường các phòng trong công trình và các đường gờ của các cột." Các đường gờ này hơi cong lên phía trên một chút theo chiều cao của cột để làm bù trừ các hiệu ứng quang học khi nhìn lên phía trên đền. Hiệu ứng của những đường cong tinh tế này làm đền thờ có vẻ cân đối hơn là cách nhìn thật về nó. Đo ở bậc cao nhất, kích cỡ của nền đền Parthenon là 69,5 m × 30,9 m (228,0 × 101,4 ft). Căn phòng bên trong dài 29,8 m và rộng 19,2 m (97,8 × 63,0 ft), với dãy cột kiểu Doric bên trong theo hai tầng, cấu trúc cần để chống đỡ mái đền. Ở bên ngoài, các cột Doric có đường kính 1,9 m (6,2 ft) và cao 10,4 m (34,1 ft). Các cột ở góc có đường kính hơi lớn hơn một chút. Bệ đỡ hàng cột có độ cong lên phía trên về phía trung tâm 60 mm (2,36 inch) về đầu phía Đông và phía Tây, và 110 mm (4,33 inch) ở hai bên. Một số kích thước đã tạo thành hình chữ nhật vàng diễn tả tỉ lệ vàng, được đề xuất bởi Pythagoras vào thế kỉ trước đó. Mái của công trình được lợp bằng những tấm đá cẩm thạch được biết đến như là imbrex và tegula. Điêu khắc trang trí Đền Parthenon, một đền thờ kiểu cột Doric và kiểu Peripteral với các kiến trúc mang đặc điểm của thức cột Ionic, chứa bức tượng bằng ngà và vàng của Athena Parthenos được điêu khắc bởi Pheidias và hoàn thành khoảng năm 439/438 TCN. Đền thờ được dùng để thờ thần Athena vào thời điểm đó, mặc dù công việc xây dựng được tiếp tục gần như là đến giai đoạn bắt đầu của cuộc chiến tranh Peloponnesian vào năm 432 TCN. Cho đến năm 438 TCN, các trang trí điêu khắc của các metope của cột Doric trên trụ ngạch phía bên dãy cột bên ngoài, và của trụ ngạch cột Ionic vòng quanh phần trên các của bức tường của phòng thờ, đã được hoàn thành. 92 metope được chạm khắc nổi, một công việc mà lúc đó chỉ dành cho các kho tàng (các tòa nhà dùng để chứa các quà tạ ơn cho các thần linh). Theo như các tài liệu ghi lại về việc xây dựng, các điêu khắc metope có niên đại khoảng 446-440 TCN. Thiết kế của chúng được cho là do nhà điêu khắc Kalamis. Các metope về phía Đông của đền Parthenon, phía trên lối ra vào chính, miêu tả Gigantomachy (trận đánh thần thoại giữa các vị thần trên đỉnh Olympus và các người khổng lồ). Các metope phía Tây diễn tả Amazonomachy (trận đánh thần thoại của dân thành Athena chống lại người Amazon). Các metope phía Nam —với ngoại trừ một số metope 13-20 có vấn đề, giờ đây thất lạc—miêu tả Thessalian Centauromachy (trận đánh của người Lapith được giúp bởi Theseus chống lại nhân mã, một sinh vật nửa người, nửa ngựa). Trên mặt phía Bắc của đền Parthenon các metope không được bảo tồn tốt, nhưng đề tài có vẻ như là cướp phá Troia. Các metope cho thấy các vết tích còn lại của kỹ thuật cao trong điêu khắc giải phẫu đầu, trong giới hạn đường nét của những chuyển động thân thể và những bó cơ, những tĩnh mạch cũng nhận thấy rõ ở các hình Nhân mã. Một vài metope vẫn có ở công trình nhưng ngoại trừ những phần ở mặt phía Bắc, chúng hầu như đã bị hỏng gần hết. Một vài metope hiện có ở Bảo tàng Acropolis, những cái khác thì có ở bảo tàng Anh và một cái có thể được thấy ở bảo tàng Louvre. Phần lớn những đặc điểm trong kiến trúc và trang trí đền theo kiểu cột Ionic có xung quanh tường ngoài của phòng thờ. Các chạm khắc ở phù điêu miêu tả một phiên bản lý tưởng hóa của đám diễu hành Panathenaic từ cổng Dipylon ở Kerameikos đến Acropolis. Đám diễu hành này được tổ chức 4 năm một lần, người dân Athen và những người nước ngoài bị lôi cuốn vào việc tôn vinh thần Athena. Hệ thống cột còn lại được chạm khắc vào thời gian khoảng năm 442-438 TCN. Pausanias, một người du lịch vào thế kỷ thứ 2, khi đến thăm Acropolis và nhìn thấy Parthenon, đã miêu tả ngắn gọn cái trán tường của đền. Trán tường phía Đông miêu tả sự sinh ra của Athena từ đấu của bố cô, Zeus, trong khi đó trán tường phía Tây cho thấy sự tranh luận của thần Athena và thần Poseidon về thành phố Athena. Các công việc tạo dựng trán tường có thời gian từ 438-432 TCN. Sự phong phú trong trang trí của đền Parthenon là duy nhất trong số các ngôi đền Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, nó cũng phù hợp với chức năng của đền là nơi cất giữ kho báu. Ở trong opisthodomus (phòng phía sau phòng thờ) đã lưu giữ rất nhiều tiền bạc thu được của liên minh Delian mà thành phố Athena là thành viên lãnh đạo. Kho tàng hay đền đài Về mặt kiến trúc, Parthenon rõ ràng là một ngôi đền, gồm những tranh tượng tôn giáo nổi tiếng về thần Athena do Phidias làm và kho chứa những đồ dâng cúng tạ ơn. Những buổi cúng tế thực tế của người Hy Lạp được tổ chức ở nơi thờ ngoài trời, và cũng như những luyện tập mang tính tôn giáo của họ, đền Parthenon không phù hợp với một vài định nghĩa về đền cũng như không có bằng chứng gì chứng tỏ những việc thờ cúng ngoài trời. Tuy nhiên, có vài nhà nghiên cứu đã cho rằng đền Parthenon chỉ đã từng là kho báu. Lần đầu tiên có những ý kiến này là vào thế kỷ 19 và nó ngày càng được củng cố trong những năm gần đây. Những ý kiến chính của việc nghiên cứu vẫn xem công trình theo thuật ngữ của Walter Burkert miêu tả về thánh đường của Hy Lạp, gồm có temenos, altar và đền với những tranh tượng tôn giáo.:p Lịch sử sau này Parthenon đã tồn tại như một ngôi đền của thần Athena mà đã bị đóng cửa hàng ngàn năm. Nó chắc chắn vẫn còn nguyên vẹn cho đến thế kỷ 4 sau công nguyên, cùng thời với Nhà thờ Đức Bà ở Paris ngày nay và lâu đời hơn Nhà thờ Thánh Phêrô ở Roma. Nhưng vào thời gian đó Athens đã bị chuyển thành một thị trấn của Đế chế Roman, mặc dù nó đã có một quá khứ huy hoàng. Vào thế kỷ thứ 5, thỉnh thoảng những tranh tượng tôn giáo lớn của Athena đã bị lấy mất bởi một trong các vị Hoàng đế, và được mang tới Constantinopolis, và sau này nó đã bị huỷ hoại tại đó, có thể là vào thời kỳ thành phố bị giảm sút uy tín trong cuộc thập tự chinh thứ 4 vào năm 1204. Một thời gian ngắn sau, Parthenon đã được chuyển sang thành một nhà thờ Cơ đốc giáo. Vào thời kỳ Đế quốc Byzantine nó trở thành nhà thờ của Parthena Maria (Mary Đồng trinh), hay còn gọi là nhà thờ Theotokos. Vào thời kỳ đế chế Latin công trình trở thành nhà thờ Công giáo Rôma của Đức Mẹ đồng trinh. Sự chuyển đổi từ ngôi đền thành nhà thờ đòi hỏi đến việc di chuyển các hàng cột bên trong và một vài bức tường phòng thờ và tạo ra một hậu đường ở phần cuối phía Đông công trình. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến việc di chuyển và phân tán một vài điêu khắc kiến trúc. Những vị thần được miêu tả cũng được thể hiện lại theo chủ đề Cơ đốc giáo hoặc bị mang đi chỗ khác và tiêu hủy. Vào năm 1456, Athena rơi vào tay đế chế Ottoman và Parthenon lại được chuyển đổi lần nữa, trở thành nhà thờ Hồi giáo. Với một nhận thức đối lập lại với nhận thức của đế chế cũ, người Ottoman nói chung tôn thờ các công trình cổ ở trong chủ quyền đất nước họ và không cố tình hủy hoại những công trình cổ xưa của Athena, mặc dù họ không có một chương trình bảo vệ chúng thực sự. Tuy nhiên, trong nhiều thời gian chiến tranh họ đã tự phá hủy chúng để cung cấp nguyên liệu cho những bức tường và công sự. Một ngọn tháp đã được xây thêm vào Parthenon, cái mà nền cùng với cầu thang của nó hiện vẫn còn sử dụng được, đã dẫn trên cao tận architrap và từ bên ngoài không thể nhìn thấy được chỗ này; ngoài ra, công trình không bị hủy hoại gì thêm. Các vị khách tham quan châu Âu trong thế kỷ 17, cũng như một vài người đại diện cho Acropolis đã chứng thực rằng công trình vẫn còn nguyên vẹn. Vào năm 1687, đền Parthenon đã phải chịu một sự hủy hoại lớn nhất khi Cộng hòa Venezia dưới thời Francesco Morosini tấn công Athena, và người Ottoman đã phải bảo vệ Acropolis và sử dụng công trình như một kho chứa thuốc súng. Vào ngày 26 tháng 9, một quả pháo đại bác của người Venezia bay từ quả đồi của Philopapus, tới và làm nổ kho thuốc súng và làm cho công trình đã bị phá hủy một phần. Những cấu trúc bên trong đã bị phá hủy, những gì còn lại của mái đã bị sập và một vài cột chống, đặc biệt ở cạnh phía Nam, đã bị chặt gãy. Các điêu khắc bị hư hỏng nặng. Nhiều thứ đã bị rơi xuống sàn và những kỷ vật sau này đã được làm từ những mảnh vỡ này. Sau trận chiến, rất nhiều bộ phận của công trình bị bỏ đi và một nhà thờ Hồi giáo nhỏ hơn đã được xây lên. Vào cuối thế kỷ 18, có nhiều người châu Âu khác đã tới Athena và phong cảnh về những hư hại, đổ nát Parthenon đã được vẽ lại rất nhiều, gợi lên những sự cảm thông của người Anh và người Pháp cho nền độc lập của Hy Lạp. Vào năm 1801, viên đại sứ Anh ở Constantinople, Thomas Bruce, đã đệ trình một firman (giấy phép) từ Sultan để làm ra các bản quy hoạch và bản vẽ về những công trình cổ xưa ở Acropolis, để phá bỏ những công trình mới xây dựng gần đây nếu chúng làm hỏng sự quan sát các công trình cổ và để tháo dỡ các điểu khắc từ chúng. Ông đã lấy giấy phép này để thu thập tất cả những điêu khắc mà ông có thể tìm thấy. Ông đã cho tuyển dụng những người địa phương để gỡ bỏ chúng ra khỏi các công trình, một vài thứ thì ông tìm được ở trên các mặt sàn và một vài mảnh nhỏ hơn thì ông mua từ người dân địa phương. Ngày nay, những điêu khắc này được nhìn thấy trong Bảo tàng Anh, nơi chúng có tên là Elgin Marbles hay Parthenon Marbles. Những điêu khắc khác từ Parthenon cũng có ở Bảo tàng Louvre tại Paris và ở Copenhagen. Phần lớn các vật còn lại ở Athena, trong bảo tàng Acropolis và được đặt ở dưới sàn, cách một vài mét về phía Đông Nam của Parthenon. Một vài điêu khắc vẫn có thể được quan sát trực tiếp ở công trình. Chính phủ Hy Lạp đã tiến hành một chiến dịch trong nhiều năm với bảo tàng Anh để có thể mang trả lại những điêu khắc trên về Hy Lạp. Nhưng bảo tàng Anh đã từ chối thẳng về việc xem xét điều này và chính phủ Anh đã miễn cưỡng phải ép bảo tàng làm việc như vậy (cái việc mà có thể đòi hỏi đến pháp chế). Khi Hy Lạp giành được độc lập và lấy được quyền kiểm soát Athena vào năm 1832, những phần nhìn thấy được của ngọn tháp đã bị chuyển đi khỏi Parthenon và tất cả những công trình thời trung cổ và thời Ottoman có ở Acropolis cũng đã bị di chuyển đi. Khu này trở thành một khu vực lịch sử, có rào cấm và do chính phủ Hy Lạp kiểm soát. Ngày nay, nó là địa điểm hấp dẫn hàng triệu người du lịch mỗi năm, những người đã du lịch từ phía cuối Tây của Acropolis, qua Propylaea và lên đường Panathenaic tới Parthenon, nơi được bao vây bởi một hàng rào thấp để chống sự hư hại. Xây dựng lại Vào năm 1975, chính phủ Hy Lạp bắt đầu bàn tính đến việc tu bổ đền Parthenon và những kiến trúc khác ở Acropolis. Dự án sau này đã thu hút được nhiều sự trợ giúp kỹ thuật và tài chính từ Liên minh châu Âu. Một hội đồng khảo cổ học đã làm báo cáo về các mảnh vỡ còn lại ở chân công trình và những kiến trúc sư được sự trợ giúp của máy tính đã dựng nên những mô hình để xác định những vị trí ban đầu của chúng. Trong một vài trường hợp, những việc tái tạo xây dựng lại trước đây đã mắc sai lầm. Những điêu khắc đặc biệt quan trọng và dễ vỡ được chuyển đến bảo tàng Acropolis. Một chiếc cần cẩu đã được lắp đặt để di chuyển những khối đá cẩm thạch; chiếc cần cẩu được thiết kế để được xếp lại phía dưới mái khi không dùng đến. Những phần xây dựng cũ mà không chính xác được tháo dỡ và một quá trình tu bổ cẩn thận được bắt đầu. Đền Parthenon sẽ không được tái tạo lại theo tình trạng trước năm 1687, mà những gì còn lại sau vụ nổ sẽ được giữ lại và làm cho chân thực nhất và đá cẩm thạch mới được lấy từ nơi khai khác cũ và được hàn gắn vào các khe hở và những cấu trúc bị ảnh hưởng cũng được sửa chữa. Cuối cùng, tất cả những mảnh đá chính được đặt vào đúng vị trí ban đầu của chúng và được hỗ trợ bởi những vật liệu hiện đại nếu thấy cần thiết. Ban đầu, những khối đá khác nhau được giữ chặt bởi chốt sắt dài hình chữ H mà sau này được phủ bằng chì, vật liệu bảo vệ sắt khỏi bị ăn mòn. Những cái chốt được thêm vào từ thế kỷ 19 đã không được phủ chì và đã bị ăn mòn. Khi phần han gỉ bị rộng một khoảng lớn, nó sẽ gây nguy hiểm hơn và làm vỡ các khối đá. Tất cả các công việc về kim loại đều sử dụng titanium, một vật liệu cứng, nhẹ và chống gỉ. Mối nguy hại do ô nhiễm Từ thập niên 1960, mối đe dọa lớn nhất đối với đền Parthenon là môi trường. Thành phố Athena đã phát triển nhanh từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đã có vấn đề trong việc tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm không khí. Những miếng đá cẩm thạch bị ăn mòn bởi mưa axit, được gây ra bởi những loại khí thải ra từ động cơ ô tô, nó đe dọa các tác phẩm điêu khắc của công trình và bản thân công trình. Qua 20 năm, chính phủ Hy Lạp và thành phố Athena đã cho tiến hành một vài chương trình để ngăn chặn việc này, nhưng tương lai của Parthenon vẫn còn là một vấn đề cần quan tâm.
Vũ Khoan (7 tháng 10 năm 1937 – 21 tháng 6 năm 2023) là một chính trị gia và là nhà ngoại giao Việt Nam, từng giữ chức vụ Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Thủ tướng phụ trách Kinh tế đối ngoại Việt Nam từ tháng 8 năm 2002 đến cuối tháng 6 năm 2006. Ông được nhiều người cho là có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam. Xuất thân Thiếu sinh quân Ông sinh ngày 7 tháng 10 năm 1937, quê ở huyện Phú Xuyên, Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Đông Dương, ông làm liên lạc viên cho chính phủ Việt Minh. Năm 1949, ông được đưa về Việt Bắc, theo học tại Trường Thiếu sinh quân Việt Nam. Năm 1951, ông được Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lựa chọn và sang học tại "Dục tài học hiệu Nam Ninh", sau chuyển sang "Dục tài học hiệu Nam Ninh-Quế Lâm" (còn gọi là trường Thiếu nhi Việt Nam tại Quảng Tây, Trung Quốc). Hoạt động trong ngành ngoại giao Cuối năm 1954, khi chưa học xong lớp 7, ông được cử sang Liên Xô học tiếng Nga, học được 9 tháng thì được điều ra Đại sứ quán làm phiên dịch. Tham gia vào ngành ngoại giao từ năm 1956, khởi đầu từ vị trí phiên dịch, đồng thời theo học bổ túc tại Trường Sư phạm Leningrad; giữa năm 1961, ông được cử theo học tại Trường Đại học Quan hệ Quốc tế Matxcơva (MGIMO), ngành Kinh tế Quốc tế. Ông được kết nạp Đảng Lao động Việt Nam ngày 19 tháng 12 năm 1961 và trở thành đảng viên chính thức ngày 19 tháng 8 năm 1962. Tuy nhiên, năm 1964, khi chưa tốt nghiệp, ông được điều về nước, công tác ở Bộ Ngoại giao làm các công tác nghiên cứu chiến lược đối ngoại, kinh tế quốc tế, tổ chức. Ông 4 lần làm việc tại Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô, đã từng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hữu nghị và làm việc tại Liên Xô (cũ), từng làm phiên dịch tiếng Nga cho các lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng khi làm việc với lãnh đạo Liên Xô như Leonid Brezhnev, Nikolai Podgorny, Alexey Kosygin,... Ông có mặt trong buổi ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Liên Xô - Việt Nam tại Điện Kremli vào năm 1978. Ông lần lượt giữ các chức vụ: Tùy viên, Bí thư thứ Ba, Bí thư thứ Nhất, Tham tán, Tham tán Công sứ Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô cho đến năm 1982. Từ năm 1982, ông được rút về nước, lần lượt giữ các chức vụ Phó Vụ trưởng, rồi Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế, rồi Trợ lý Bộ trưởng Phụ trách về các vấn đề luật pháp, kinh tế và lãnh sự. Năm 1990, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, năm 1998, được phân công làm Thứ trưởng Thứ nhất Phụ trách Quan hệ với các nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, quan hệ với ASEAN, ASEM, APEC, công tác nghiên cứu, hợp tác kinh tế, lãnh sự, pháp luật, báo chí, đào tạo. Năm 2000, ông được Chủ tịch nước phong hàm Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền. Đẩy mạnh Việt Nam gia nhập WTO Ngày 28 tháng 1 năm 2000, ông được phê chuẩn bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Thương mại trong Chính phủ Việt Nam, kế nhiệm cho ông Trương Đình Tuyển chuyển sang làm Trưởng phái đoàn đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Ngày 8 tháng 8 năm 2002, ông được phê chuẩn bổ nhiệm Phó Thủ tướng, được phân công Phụ trách Kinh tế đối ngoại, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về APEC. Trên cương vị của mình, ông được nhiều người cho là có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và quá trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam. Ngày 27 tháng 6 năm 2006, ông được Quốc hội phê chuẩn miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng vì lý do sức khỏe. Sau khi thôi chức Phó Thủ tướng, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cử làm Đặc phái viên của Thủ tướng về đối ngoại, Tổng Chỉ huy các hoạt động Tuần lễ cấp cao APEC 2006 Hà Nội cuối năm 2006. Ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng từ khóa VII đến khóa IX (1991-2006), Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX. Ông cũng được bầu làm Đại biểu Quốc hội các khóa X, XI. Năm 2007, ông nghỉ hưu tại Hà Nội. Phong tặng Sự nghiệp của ông là bề dày với các cuộc thương thuyết đàm phán, khởi sự là hoà đàm Paris trong thời gian chiến tranh, sau đó vấn đề người di tản, việc Việt Nam gia nhập ASEAN và khu mậu dịch tự do của khối này, kế đến là Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và một chặng đường dài với cuộc thương thuyết gia nhập WTO. Ông là quan chức Nhà nước Việt Nam đầu tiên được vào Phòng Bầu Dục Nhà Trắng gặp gỡ Tổng thống Bill Clinton lúc bấy giờ, trong dịp Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Để tôn vinh công lao của ông, Nhà nước Việt Nam đã trao tặng: 2 30px Huân chương Độc lập hạng Nhất 2 30px Huân chương Lao động hạng Nhất Huân chương Lao động hạng Ba Huân chương Kháng chiến hạng Nhì Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì Hàm Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền (2000) Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng (2016) Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng (2021) Ngoài ra, ông còn được chính phủ các nước trao tặng: Huân chương Hữu nghị các dân tộc (Liên Xô) Huân chương Tự do hạng Nhất (Lào) Huân chương Mặt trời mọc (Nhật Bản) Gia đình Ông lập gia đình với bà Hồ Thể Lan, nguyên Vụ trưởng Vụ Báo chí, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam và là con gái của Giáo sư Bác sĩ Hồ Đắc Di. Hai người quen nhau cùng khóa học sinh được cử đi học ở Liên Xô năm 1954. Qua đời và tang lễ Theo tin từ Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, sau một thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao sức yếu, ông đã từ trần vào hồi 7h05' ngày 21/6/2023 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hưởng thọ 86 tuổi. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Ban lễ tang Nhà nước gồm 26 thành viên do Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái làm trưởng ban. Linh cữu của ông quàn tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ viếng tổ chức từ 8h đến 13h30 ngày 27/6 (tức ngày 10/5 năm Quý Mão). Lễ truy điệu diễn ra vào 13h30 và lễ an táng vào 15h cùng ngày tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Bếp năng lượng Mặt Trời là một thiết bị giữ các tia nắng và dùng năng lượng này để đun nấu các loại thực phẩm hoặc đun nước sôi. Một trong các thiết kế là gồm một cái thau bằng nhôm, được cách ly tốt đặt trong một hộp gỗ. Một tấm kiếng đậy trên miệng thau có gắn với một tấm phản chiếu ở phía sau. Các thiết kế dùng gương hay thấu kính Fresnel để hội tụ ánh nắng vào điểm cần đun nấu có thể được dùng. Các bếp này có thể đạt công suất vài trăm Watt và nhiệt độ tới 200°C. Lợi ích: Bếp năng lượng Mặt Trời: đem lại nhiều lợi ích về môi sinh, kinh tế, và sức khỏe như sau: Dùng ánh nắng đun nấu thay củi, trấu, than, dầu lửa, hơi đốt,... giúp giữ được oxy và tránh thải ra thêm dioxide cacbon vào khí quyển. Bếp điện đôi khi cũng dùng điện sản xuất từ các nhà máy nhiệt điện đốt than đá hoặc dầu hỏa, do đó vẫn góp phần làm ô nhiễm khí quyển và làm Trái Đất nóng thêm. Nếu loại bếp này thay được đa số bếp củi, thì chặn được phần nào nạn phá rừng, và tiến trình sa mạc hóa ở nhiều vùng đất. Ánh nắng là nguồn sức nóng miễn phí. Có được một hay vài cái bếp năng lượng mặt trời trong nhà thì nhẹ được khoản chi tiêu dành để mua nhiên liệu, để trả tiền điện, hoặc thời gian đi kiếm củi hàng ngày. Các tổ chức hoạt động từ thiện và các tổ chức bảo vệ môi sinh đang đẩy mạnh cố gắng trong năm 2008 để giới thiệu và chỉ dẫn cách làm, cách dùng bếp năng lượng mặt trời khắp nơi. Nhiều kiểu bếp chỉ cần mua vật liệu khoảng 2 đô la Mỹ là làm được. Một trong những kiểu không đắt tiền vẫn có thể dùng được đến 10 năm. Các kiểu bếp này có thể nhanh chóng trở thành một nguồn công ăn việc làm quan trọng cho thủ công nghệ và tiểu công nghệ, nhất là tại các xứ nóng. Bếp năng lượng mặt trời: không thải ra khói, nên đỡ cay mắt và hại phổi. Tổ chức Y tế Thế giới cho biết đun bếp bằng củi cho hai bữa ăn hàng ngày gây thiệt hại cho phổi tương đương như hút hai gói thuốc lá. Các kiểu bếp bằng thùng, hộp cac-tông không gây phỏng cho trẻ em sờ mó trong lúc đang đun. Các kiểu này, vì không có lửa ngọn, cũng khó phát cháy nếu bị quên trông chừng. Lịch sử: Một trong những bếp năng lượng mặt trời xưa nhất được biết đến đã được chế tạo bởi nhà khoa học Thụy Sĩ Horace-Bénédict de Saussure năm 1767. Năm 1945, đã có những bếp hình hộp được chế tạo tại Ấn Độ. Bếp dùng hiệu ứng nhà kính được đề xướng bởi giáo sư Roger Bernard ở Lyon (Pháp) năm 1976. Nguyên tắc: Hiện nay đã có rất nhiều loại bếp năng lượng mặt trời. Tất cả các bếp này đều dựa trên đa số các nguyên tắc sau đây: Hội tụ ánh nắng: Các thiết kế dùng gương hoặc kim loại có độ phản chiếu cao (như giấy nhôm) để đưa ánh sáng và sức nóng mặt trời tập trung vào một vùng nhỏ hay có thể dùng gương cầu lõm để biến chùm sáng song song thành chùm sáng hội tụ cũng như hội tụ nhiệt của mặt trời tại một điểm trước gương. Chuyển ánh sáng thành sức nóng: Màu đen có tính chất hút nóng, nên người ta hay dùng màu đen bên trong các thiết kế. Chất liệu dẫn nhiệt tốt: Dùng các kim loại có đặc tính dẫn nhiệt nhanh thì bếp mau nóng, thức ăn mau chín hơn. Giữ nóng: Một tấm thủy tinh, một bao nylon trong suốt, hoặc một lớp chất dẻo trong suốt nào khác cũng đủ để cho ánh sáng vào trong. Một khi ánh sáng đã biến thành sức nóng rồi thì lớp thủy tinh hoặc chất dẻo không cho sức nóng thoát ra. Đó chính là hiệu ứng nhà kính nhằm giữ lại sức nóng trong bếp. Không khí bên trong càng được cách ly kỹ với không khí bên ngoài thì hiệu năng càng cao. Điều này khiến bếp có được nhiệt độ cao trong các ngày trời lạnh hoặc trời gió không kém các ngày trời trong, nắng nóng. Và cũng khiến cho bếp tiếp tục đun bình thường, đồ ăn vẫn chín nếu bếp đã nóng mà có mây kéo đến che trong hai ba mươi phút. Nhiều thiết kế với giá thành rẻ dùng tấm cac-tông bọc kim loại chẳng hạn để phản chiếu trở lại ánh sáng thoát ra từ bếp. Các kiểu bếp: Các kiểu bếp được rao bán trên thị trường đã có nhiều, cũng như các kiểu bếp được chỉ dẫn cách làm trên Internet. Sự phân tích về các kiểu bếp này rất dễ mất đi độ chính xác vì nhiệt độ tối đa trong bếp có thể xê xích với độ kín hoặc với vật liệu thiết kế, v.v.... Do đó, khả năng, các ưu điểm và khuyết điểm của mỗi bếp có thể khác đi ít nhiều so với tài liệu công bố của kiểu bếp. Người dùng cũng có thể thay đổi độ kín, góc hướng về mặt trời, v.v... để chỉnh sức nóng khi dùng. Bếp hình hộp: Bếp hình hộp có thể đưa nhiệt độ lên đến 150 °C (300 °F). Vật liệu cách nhiệt bên trong do đó cần phải chịu nổi nhiệt độ này mà không chảy hoặc xì hơi. Nhiều vật liệu rẻ tiền có thể thỏa mãn nhu cầu này: giấy báo vò, len, giẻ rách, cỏ khô, bìa cứng, v.v... Phần lớn hơi nóng bốc lên phía trên, nơi có che bằng thủy tinh hoặc chất dẻo nên chỉ cần để chút ít vật cách nhiệt bốn bên thành bếp là đủ. Bên trong hộp cần có nồi, bình hoặc mâm bằng kim loại dẫn nhiệt để đun. Đáy nồi, bình, mâm nên màu đen. Có thể dùng sơn đen (loại sơn không độc khi nhiệt độ tăng cao) hoặc phết lọ nồi, lọ chảo cũng được. Bếp này rất tiện để nấu cơm, rau cải, hầm thịt, hầm cá. Chỉ dẫn cách làm: http://www.pathtofreedom.com/pathproject/offthegrid/solaroven.shtml http://video.google.com/videoplay?docid=7629834796636900144&q=cooker+solar&ei=OzpVSIzIL5Sw2QLCjK30Dg&hl=en Ưu điểm: Có thể làm bằng vật liệu rẻ tiền Không thể cháy khét Người sử dụng bếp có thể ở trong mát. Khuyết điểm: Nhiệt độ 150 °C (300 °F) thấp hơn nhiệt độ của các bếp thường, nên phải đun lâu hơn. Một lít nước phải đun trong 1 giờ mới sôi. Tuy nhiên, vì độ sôi của nước là 100 °C (212 °F), nên cần lưu ý với các thức ăn có hơi ẩm, không nên để lâu quá. Không được mở trong khi đun nấu, vì hơi nóng sẽ thoát ra ngoài. Do đó không thể xào, trở, xâm khi dùng bếp này. Khi mở nắp phải cẩn thận vì có thể bị phỏng tay. Cứ mỗi nửa giờ (không cần chính xác 30 phút) phải xoay hướng. Tại châu Âu, không thể dùng được từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 2 dương lịch. Nặng khoảng 15 kg, và không chịu được mưa. Nếu để ngoài trời khi có mưa phải bưng gấp vào nhà. Bếp làm bằng hộp pizza: Nhiệt độ trong bếp này có thể lên đến 135 °C (275 °F). Vật liệu để làm đại khái gồm một hộp cac-tông đựng bánh pizza (hình vuông cạnh khoảng 30 cm, cao 4 cm), giấy nhôm, băng keo, giấy báo, cây chống cỡ chiếc đũa. Bếp này cần làm nóng nửa giờ trước khi dùng. Chỉ dẫn cách làm: http://www.solarnow.org/pizzabx.htm http://video.google.com/videosearch?hl=en&q=cooker%20solar&um=1&ie=UTF-8&sa=N&tab=wv# Bếp pa-nô: Bếp pa-nô là sáng kiến của giáo sư Roger Bernard. Bếp này dùng vài mảnh pa-nô phản chiếu ánh nắng vào một cái nồi, được bọc trong bao nylon trong suốt. Một kiểu thông dụng là bếp CooKit, do Solar Cookers International đế xướng. Bếp này có thể xếp nhỏ bỏ vào bọc rất gọn, khi mở ra đo được cỡ 3 bộ bề ngang, 4 bộ bề dài (1m ngang, 1m30 dài). Chỉ cần khoảng 5 đô la Mỹ, theo giá sỉ, là có thể mua đủ vật liệu làm được một bếp như thế này. Hoặc cũng có thể làm từ vật liệu miễn phí như thùng cac-tông cũ. Bếp CooKit dễ dàng đạt đến nhiệt độ để đun sôi nước hoặc nấu chín cơm. Một ngày nắng ráo, một bếp CooKit có thể nấu cơm, thịt, rau cải cung cấp cho một gia đình 3 hoặc bốn con. Gia đình đông hơn cần có thêm bếp. Một cách nấu mau chín là chêm cây dưới nồi cho có không khí luân lưu bên dưới. Các bao chất dẻo tốt có thể dùng đi dùng lại được hơn 1 tháng. Nhưng bất cứ bao bằng chất dẻo nào cũng được, miễn là có chêm gỗ hoặc căng dây để tránh bao chạm vào nồi làm chất dẻo bị nóng chảy và dính vào thành nồi. Những ngày nắng gắt và đứng gió không cần dùng bao vì hơi nóng không thoát đi xa. Biểu diễn cách dùng: http://video.google.com/videosearch?hl=en&q=cooker%20solar&um=1&ie=UTF-8&sa=N&tab=wv# Bếp dùng hai lớp nồi: . Kiểu bếp HotPot được chế tạo mới đây do tổ chức người Mỹ Solar Household Energy, Inc.. Thiết bị này gồm hai lớp nồi, nồi phía trong màu đậm để hút sức nóng mặt trời, lớp vỏ ngoài để cho nắng rọi vào và giữ lại sức nóng không cho thoát đi. Đáy nồi phía trong bầu, nên nắng cũng soi vào được. Nắp nồi trong, người ta có thể quan sát thức ăn trong khi nấu. Bếp parabol: Bếp parabol khó làm, nhưng đạt đến nhiệt độ cao rất nhanh, có thể đến 380 °C (716 °F). Bếp parabol cũng cần chỉnh thường xuyên theo góc độ mặt trời và cần canh chừng để được an toàn. Đã có vài trăm ngàn bếp parabol được sử dụng, nhiều nhất là tại Trung Quốc. Các bếp này đặc biệt hữu dụng cho nấu ăn tập thể trong các cơ quan. Một bếp parabol có đường kính 1 mét có thể nấu cho 8 đến 10 người ăn. Ưu điểm: Nóng nhanh. Một lít nước có thể sôi sau nửa giờ. Có thể dùng để chiên, xào thịt. Dùng được quanh năm tại châu Âu. Chịu được mưa. Chỉ nặng khoảng 9 kg. Khuyết điểm: Khó làm tại nhà, vì cần vật liệu đặc biệt và mức chính xác cao. Giá cao, từ 200 euro trở lên ở Pháp vào năm 2008. Thức ăn có thể cháy khét. Dễ gây bỏng. Dễ chói mắt và hại mắt, cần có kính bảo vệ mắt. Người sử dụng bếp phải đứng ngoài nắng. Mỗi 15 phút phải chỉnh lại hướng. Bếp hỗn hợp: Bếp hỗn hợp dùng năng lượng mặt trời khi có nắng và dùng năng lượng khác lúc có mây che lâu, mưa lâu, hoặc ban đêm. Năng lượng khác có thể là điện, khí đốt hoặc ngay cả củi. Loại bếp này cho phép người ta dùng lại một số bộ phận đã vất đi của các kiểu bếp "xưa", nên cũng góp phần bảo vệ môi sinh. Những ví dụ: Việt Nam: Việt Nam là nước giàu nguồn năng lượng mặt trời. Hằng năm các vùng ở phía Bắc Việt Nam có khoảng 1400-2000 giờ nắng và các vùng miền Trung và một số vùng miền Nam có từ 2000-3000 giờ nắng. Nhưng rất ít người biết tận dụng điều kiện thuận lợi của năng lượng mặt trời vào sử dụng trong việc đun nấu hằng ngày. Chỉ một điều cơ bản thiết yếu của bếp năng lượng mặt trời là bảo vệ sự sống, tiết kiệm tiền bạc, thời gian và bảo vệ môi trường sinh thái. Kể từ năm 2000 một số bếp đun nấu bằng năng lượng mặt trời rất đơn giản đã được giới thiệu bởi tổ chức phục vụ năng lượng mặt trời (Solar Serve) tại một vài huyện trong tỉnh Quảng Nam. Hiện nay có đến hơn 1500 hộ gia đình đã được cung cấp bếp và hầu hết có khoảng 79% số bếp đó được sử dụng thường xuyên. Người dân đã có thể tiết kiệm được tiền bạc, thời gian và ngay cả cải thiện tốt về sức khoẻ của ho. Ấn Độ: Tại Auroville, Ấn Độ, bếp mặt trời hình chén dùng một chén lớn hình cầu, bất động, để phản chiếu ánh nắng. Ánh nắng phản chiếu được hội tụ vào một đường thẳng góc với bề mặt của chén. Một hệ thống kiểm soát bằng máy tính di chuyển bộ phận tiếp nhận đến đúng vị trí hội tụ. Hơi nước được phát ra ở nhiệt độ lên đến 150 °C, và được chuyển vào nhà bếp để đun nấu 2000 bữa ăn mỗi ngày. Làng Bysanivaripalle, một ngôi làng sản xuất tơ lụa, nằm cách thành phố Tirupati, bang Andhra Pradesh 125 km về phía tây bắc, là ngôi làng đầu tiên dùng toàn bếp năng lượng mặt trời. Người ta dùng các bếp parabol kiểu "Sk-14" do Intersol, một tổ chức phi chính phủ người Úc biếu tặng năm 2004. Bolivia: Hội Bolivia Inti-Sud Soleil của người Pháp quảng bá tại châu Mỹ la tinh, và nhất là ở Bolivia, cách chế tạo các bếp năng lượng mặt trời. Hội đến gặp các phụ nữ và trẻ em vốn đi kiếm củi hàng ngày, chỉ dẫn và giúp đỡ phương tiện cho họ thực hiện các bếp này. Châu Phi: Hội Atouts Soleil lập các dự án giúp các nước ở châu Phi. Bếp của hội Atouts Soleil có thể dùng để nướng thịt, và cho phép trở thịt trong khi nướng. Ông Michael Hönes người Đức đã giúp nhiều nhóm phụ nữ xứ Lesotho làm lò nướng bánh bằng bếp năng lượng mặt trời. Giấy bìa cứng, giấy nhôm và bao chất dẻo cho hơn 10.000 bếp đã được biếu cho trại tị nạn Iridimi và trại tị nạn Touloum ở Chad do các cố gắng chung của hội Jewish World Watch, hội KoZon người Hà Lan, và Solar Cookers International. Những người tị nạn tự làm lấy bếp từ vật liệu biếu tặng, cộng thêm với nhựa cây keo Ả Rập (Arabic gum) mua trong vùng. Pháp: Bếp năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới hiện ở Odeillo, miền nam nước Pháp. Bếp đạt đến nhiệt độ hơn 3000 °C, do Trung tâm Ngiên Cứu Khoa Học Quốc gia (Centre national de la recherche scientifique - CNRS) thiết lập. Chú thích:
Thiên long bát bộ () là một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung. Tác phẩm được bắt đầu được đăng trên tờ Minh báo ở Hồng Kông và Nam Dương thương báo ở Singapore vào ngày 3 tháng 9 năm 1963 đến ngày 27 tháng 5 năm 1966, liên tục trong 4 năm. Nội dung "Thiên long bát bộ" thấm đượm tinh thần Phật giáo mà Kim Dung vốn ngưỡng mộ, tiếng nói của Phật giáo trong tác phẩm vừa dịu dàng sâu lắng vừa thật hiển minh, quán xuyến từ đầu chí cuối tác phẩm. Các nhân vật chính trong tiểu thuyết được dựa trên Bát bộ chúng, là tám loài hữu tình trong thần thoại Phật giáo bao gồm: Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la và Ma-hầu-la-già. Cuối năm 2004, nhà xuất bản giáo dục nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đưa tác phẩm Thiên long bát bộ vào sách giáo khoa lớp 12. Bộ Giáo dục Singapore cũng làm như vậy đối với các trường cấp 2, 3 sử dụng tiếng Trung Quốc. Thiên long bát bộ cũng đã được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều lần bởi cả các nhà sản xuất Trung Hoa đại lục và Hồng Kông. Ý nghĩa tên gọi Tên gọi "Thiên long bát bộ" được tác giả Kim Dung lấy dựa theo kinh Phật Đại Thừa. Trong đó chỉ ra rằng "Thiên long bát bộ" là tám loài hữu tình trong thần thoại Phật giáo. Trước kia họ hung ác, sau được Phật chuyển hoá thành những thần vật hộ trì phật pháp. Tuy tựa đề của Thiên Long bát bộ xuất phát từ Phật giáo, nhưng nội dung của bộ truyện lại hoàn toàn kể về mối quan hệ giữa người với người (Kiều Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự, A Tử, Vương Ngữ Yên,...) về cái phức tạp và đa dạng của con người trong xã hội. Kim Dung mượn tên tám loại phi nhân sức mạnh hơn người, mang hình dáng giống người nhưng không phải là người để ám chỉ từng nhân vật trong bộ truyện. Tám loại phi nhân đó là: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gia. Tám loài này do Thiên và Long đứng đầu nên trong kinh Phật được gọi là "Thiên Long bát bộ". Thiên: là thiên thần (Deva), đứng đầu bởi Đế Thích. Thiên thần trong Phật giáo vẫn còn trong cõi sinh tử, có sống có chết, có tất cả mười hai thiên thần quan trọng nhất tượng trưng cho tám hướng và bốn tinh thể của vũ trụ: mặt trời, Mặt Trăng, bầu trời và mặt đất Long: là rồng (Naga) nhưng không có chân, trông giống như một con mãng xà lớn, là chúa tể các loài trong nước. Kinh Phật kể rằng một con rắn tên là Mucilinda da cuộn thành một cái tàn che cho đức Phật nhập định trong một cơn giông bão. Dạ Xoa: (Yaksha) quỷ thần (thần ăn được quỷ), có thể tốt hoặc xấu. Dạ Xoa Bát Đại tướng có nhiệm vụ bảo hộ chúng sinh Càn Thát Bà: (Gandharva) nhạc thần thân thể tỏa mùi thơm, phục thị Đế Thích, không ăn thịt, không uống rượu A-tu-la: (Asura) tuy có phước báo lớn nhưng hay ganh tị với chư Thiên nên thường đem quân gây chiến thường bị thua, rất đau khổ không được vui sướng mặc dù có thể giàu có nhưng bị tâm ganh ghét đố kị làm cho đau khổ Ca Lâu La: (Garuda) chim đại bàng cánh vàng đầu có một cái bướu to gọi là Như Ý Châu, tiếng kêu bi thảm, được người Trung Hoa bản địa hóa thành Đại Bàng Kim Sí Điểu. Ca Lâu La thích ăn rồng, khi chết chất độc xông lên cháy tiêu thành tro, chỉ còn một trái tim xanh biếc Khẩn Na La: (Kinnara) nhạc thần của Đế Thích, đầu có sừng, giỏi múa hát Ma Hầu La Gia: (Mahoràga) là thần rắn, mình người đầu rắn Các hồi Thiên long bát bộ có 50 hồi, tên các hồi hợp lại thành 5 bài từ, mỗi bài từ bao gồm tên của 10 hồi. Thiếu niên du (少年游) Tô mạc già (蘇幕遮) Phá trận tử (破陣子) Động tiên ca (洞仙歌) Thủy long ngâm (水龍吟) Tóm tắt Kim Dung đã chỉnh sửa truyện này 3 lần, lần gần nhất là vào năm 2009. Có tổng cộng 50 hồi. Câu chuyện xoay quanh mối quan hệ phức tạp giữa nhiều nhân vật đến từ nhiều nước khác nhau: Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc. Với tác phẩm này, Kim Dung muốn nói đến mối quan hệ nhân - quả giữa chính bản thân các nhân vật với gia đình, xã hội, dân tộc, đất nước. Câu chuyện xảy ra vào thời Bắc Tống và còn bao gồm các cuộc chiến tranh giữa nhà Tống, Đại Lý, Đại Liêu, Thổ Phồn và Tây Hạ. Đoàn Dự Đoàn Dự là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, hoàng tử của nước Đại Lý. Tuy là con nhà võ nhưng không thích luyện tập võ nghệ mà chỉ thích ngao du sơn thủy. Tình cờ trong quá trình can thiệp để giải cứu Chung Linh cô nương, Đoàn Dự lọt vào một hang đá, thấy một bức tượng ngọc bích rất đẹp (mà anh gọi là Thần tiên tỷ tỷ). Sau khi vái lạy bức tượng 1000 cái, anh lấy được bí kíp về Bắc Minh thần công (món võ hút lấy nội công kẻ khác, nhưng không tiêu huỷ nội lực đối thủ như Hóa công đại pháp do Đinh Xuân Thu luyện sai Bắc Minh thần công) và Lăng ba vi bộ (món võ có thể uyển chuyển chạy nhanh và tránh né các đòn công kích), và Đoàn Dự cũng miễn nhiễm độc tố sau khi vô tình nuốt phải một con cóc cực độc có tên là Mãng cổ chu cáp. Đồng thời Đoàn Dự cũng làm quen được Mộc Uyển Thanh, một cô gái xinh đẹp, võ công cao cường, nhưng tính tình đanh đá và lúc nào cũng che kín mặt. Mộc cô nương đem lòng yêu mến chàng công tử họ Đoàn, và trong lúc đánh thua Nam Hải Ngạc Thần (một trong tứ đại ác nhân), đã nguyện kết nghĩa vợ chồng với Đoàn Dự và cho Đoàn Dự xem mặt nàng. Khi đó, các thuộc hạ của Đoàn Chính Thuần xuất hiện giải vây và đưa Đoàn Dự cùng Mộc cô nương về Đại Lý. Trên đường về, họ ghé thăm Đao Bạch Phượng, là mẹ ruột của Đoàn Dự, đang ở ẩn trong một ngôi chùa. Khi Đao Bạch Phượng thấy cách phóng phi tiêu của Mộc cô nương, bà nghi ngờ Mộc cô nương có liên hệ với Tần Hồng Miên, vốn là tình địch ngày xưa của bà. Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh về Đại Lý, mọi người phát hiện ra Mộc Uyển Thanh là con gái của Đoàn Chính Thuần và Tần Hồng Miên, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh là anh em cùng cha khác mẹ nên không thể lấy nhau được. Quá chán chường và đau khổ, Mộc Uyển Thanh định tự vẫn, sau đó bị Đoàn Diên Khánh bắt giam vào thạch thất trong Vạn Kiếp Cốc, cả Đoàn Dự cũng bị Nam Hải Ngạc Thần nhốt chung vào đây. Hai người bị lừa uống phải Âm dương hòa hợp tán, một loại thuốc kích dục, nhưng Đoàn Dự nghị lực hơn người nên cả hai đã thoát khỏi hiểm cảnh. Bảo Định Đế Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần cùng các thuộc hạ đến Vạn Kiếp Cốc giải cứu được hai người. Đoàn Dự phát hiện ra Chung Linh, con gái Chung Vạn Cừu ở Vạn Kiếp Cốc cũng là con ruột cha mình, tức là em gái của mình. Sau đó tại chùa Thiên Long, Đoàn Dự may mắn luyện thành công Lục mạch thần kiếm (là môn chỉ pháp được xem là một trong hai môn võ công đệ nhất thiên hạ cùng với Dịch Cân Kinh của Thiếu Lâm - theo lời nhân vật Mộ Dung Bác), nhưng chàng lại bị Hòa thượng Cưu Ma Trí nước Thổ Phồn bắt tới Cô Tô vì Đoàn Dự biết Lục mạch thần kiếm và hắn muốn hỏa thiêu chàng để cúng Mộ Dung Bác, bằng hữu lâu năm của hắn. Do tính tình thật thà nghĩa hiệp, lại có dung mạo khôi ngô nên Đoàn Dự được hai nữ tỳ là A Châu, A Bích quý mến và giúp đỡ cứu thoát. Ở đất Cô Tô, Đoàn Dự đã gặp Vương Ngữ Yên và đem lòng yêu nàng. Nhưng thật trớ trêu, Vương Ngữ Yên chỉ yêu mỗi Mộ Dung Phục. Sau này Mộ Dung Phục vì muốn khôi phục Hậu Yên nên đã bỏ nàng, vì vậy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên đã đến bên nhau, mối tình si cũng được hạnh phúc. Tuy nhiên, éo le ập đến khi chàng biết Ngữ Yên là con của Đoàn Chính Thuần với Vương phu nhân, tức nàng là em ruột mình. Về sau trong lúc sắp chết, mẹ của Đoàn Dự mới tiết lộ rằng thật ra chàng là con của Đoàn Diên Khánh chứ không phải Đoàn Chính Thuần. Theo phong tục Đại Lý, anh em ngoài giá thú vẫn được lấy nhau.Tức là Đoàn Dự được phép cưới hết các cô con rơi của người cha hờ Đoàn Chính Thuần. Chàng chọn Mộc Uyển Thanh, Chung Linh và Ngữ Yên làm vợ. Cuối cùng, Đoàn Dự trở thành vua Đại Lý. Theo nguyên tác ban đầu, Vương Ngữ Yên trở thành hoàng hậu. Tuy nhiên, trong lần sửa đổi mới đây của Kim Dung vào năm 2009, thì Mộc Uyển Thanh mới là người yêu thật sự của Đoàn Dự, trở thành hoàng hậu. Một trong những cháu nội hai người là Đoàn Trí Hưng, là nhân vật xuất chúng, một trong "Thiên hạ ngũ tuyệt" hiệu là Nam đế, trong Xạ điêu tam bộ khúc. Với Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự nhận ra anh không yêu cô mà chỉ là si mê nhan sắc với bức tượng ngọc bích gán cho cô, và đã để cô ra đi. Vương Ngữ Yên lúc này, do bị Đoàn Dự vô tình hút cạn sinh lực nên già đi khá nhanh. Cô muốn học thuật Trụ nhan của phái Tiêu Dao nhưng nó đã thất truyền, cuối cùng cô trở về Cô Tô, cùng A Bích chăm sóc Mộ Dung Phục lúc này đã trở nên điên dại. Sau này, bất chấp đang ở địa vị ngôi vua cao quý, Đoàn Dự còn mạo hiểm đi giải cứu Tiêu Phong, nghĩa huynh của chàng. Đến cuối truyện, Đoàn Dự là người có nội công rất cao cường, vì lúc này nội lực của chàng vốn đã cao hơn Cưu Ma Trí, một trong những đại cao thủ trong truyện rồi, mà còn hút được nội lực cả đời của ông ta nữa. Lưu ý: Đoàn Dự cùng Đoàn Chính Thuần, Đoàn Chính Minh là các nhân vật có thật trong lịch sử và là các bậc vua chúa của nước Đại Lý. Tất nhiên các tình tiết trong truyện Kim Dung về những người này đều là hư cấu. Tiêu Phong Tiêu Phong (Kiều Phong) là người trong Cái Bang. Với võ công cao cường và nhiều công trạng, dần dần uy tín của chàng lên cao. Khi bang chủ Cái Bang qua đời, chàng được phong làm bang chủ Cái Bang, sở hữu Hàng long thập bát chưởng và Đả cẩu bổng pháp. Lúc này trong giang hồ có câu nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung để nói rằng uy tín của Tiêu Phong đã nổi khắp miền Trung Nguyên. Trong một lần khi các trưởng lão muốn phế chức bang chủ của chàng, Tiêu Phong đã biết được nguồn gốc thật của mình. Ba mươi năm về trước, cha của chàng Tiêu Viễn Sơn bị mai phục bởi các cao thủ võ lâm nước Tống tại Nhạn Môn Quan, vợ bị giết hại, ông phải nhảy xuống vực tự vẫn và bỏ lại đứa con nhỏ là Tiêu Phong. Khám phá rằng việc mai phục là sai, các cao thủ hối hận và gửi Tiêu Phong cho một gia đình họ Kiều nuôi dưỡng và dặn không được nói cho Tiêu Phong biết, vì thế chàng có tên là Kiều Phong. Vào năm 7 tuổi, trong một lần đi kiếm củi chàng bị chó sói tấn công, may có một vị hòa thượng Thiếu lâm pháp danh Huyền Khổ cứu giúp và đón về Thiên Âm Tự. Tiêu Phong lớn lên được đón về Cái Bang. Sự thật đã khiến Kiều Phong (nay là Tiêu Phong) tức giận và từ bỏ chức Bang chủ Cái Bang. Sau đó, nhiều vụ mưu sát bí hiểm xảy ra (trong số người bị hại có cha mẹ nuôi và sư phụ dạy võ cho Tiêu Phong ở chùa Thiếu Lâm) và giới giang hồ đều cho rằng đó chính là do Tiêu Phong. Để tự minh oan cho mình, Tiêu Phong quyết đi tìm kẻ chủ mưu cùng với sự giúp đỡ của A Châu, người mà chàng tình cờ gặp trên đường giang hồ và trở thành người yêu của chàng. A Châu có tài cải trang rất khéo, và đã giúp Tiêu Phong trong nhiều dịp. Tuy nhiên, khi giả trang thành một trưởng lão Cái Bang để đi gặp Khang Mẫn, nàng đã không thành công và bị Khang Mẫn lừa rằng kẻ chủ mưu các vụ mưu sát bí hiểm không ai khác hơn là Đoàn Chính Thuần. Điều này đã làm Tiêu Phong đi tìm và quyết đấu tay đôi với Đoàn Chính Thuần. Số phận trớ trêu, khi A Châu gặp Đoàn Chính Thuần thì nàng mới biết đó là cha ruột của mình. Để cứu cha, A Châu giả vờ ngủ say để Tiêu Phong đi trước, rồi sau đó cải trang thành Đoàn Chính Thuần và lẻn ra bãi đấu để chết dưới chưởng của Tiêu Phong. Chàng hết sức hối hận, và nhận lời chăm sóc A Tử (em gái A Châu) theo lời trăng trối của người chị. Sau đó, vì cứu mạng được Hoàng đế nước Liêu Gia Luật Hồng Cơ, Tiêu Phong sang nước Liêu làm quan đại thần, A Tử được phong làm quận chúa. Lúc này, nhân vật Du Thản Chi xuất hiện, cha mẹ hắn trước đây bị Tiêu Phong giết nên bây giờ hắn tìm Tiêu Phong để trả thù. Dù không đánh lại, hắn tình cờ nhặt được bí kíp võ công do Tiêu Phong làm rơi, chính là một trong 2 bộ võ công được đánh giá là đệ nhất thiên hạ, Dịch Cân Kinh (Lục Mạch Thần Kiếm là tu luyện võ công, còn Dịch Cân Kinh là tu luyện nội lực). Quyển bí kíp này vốn là do A Châu ăn trộm trong chùa Thiếu Lâm. Vì bị thương, Du Thản Chi bị A Tử bắt lại, chữa lành rồi trở thành kẻ mua vui cho nàng. A Tử cho đóng một mặt nạ sắt lên mặt Du Thản Chi, rồi gọi hắn là Thiết Sửu (Hề Sắt). Hắn cũng bị A Tử cho rắn, rết, sâu độc cắn để thử độc tính cho nàng luyện độc công. May mắn là hắn có Dịch Cân Kinh hộ thể nên không những hóa giải mà còn hấp thu độc tính tăng nội lực cho cơ thể. Tình cờ hắn bắt con sâu cực độc Băng Tằm cho A Tử, A Tử bắt hắn cho sâu cắn, hắn biết chắc sẽ chết nhưng cũng đồng ý làm theo. Hàn khí cực mạnh của Băng Tằm khiến Du Thản Chi đông thành băng, A Tử cho là hắn đã chết nên cho người vất xác xuống sông. Tuy nhiên, Du Thản Chi nhờ có Dịch Cân Kinh nên lại lần nữa may mắn thoát chết và hấp thu được Băng Tằm Hàn Kình vào thân thể. Sau này hắn về lại Trung Nguyên, rồi lên chùa Thiếu Lâm để thách thức với tất cả các môn phái khác tranh chức vô địch võ lâm. Lúc này chỉ xét về nội lực thì hắn rất thâm hậu, có thể sánh với các đại cao thủ, vì có Dịch Cân Kinh và vô tình luyện được thần công khi ở bên A Tử. Tại đại hội võ lâm này thì Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác lộ mặt. Tiêu Viễn Sơn kể rằng ông ta thoát chết khi nhảy xuống vực tự vẫn, thừa nhận rằng ba mươi năm qua ông ẩn náu trong chùa Thiếu Lâm để học hết võ công Trung Nguyên. Ông ta cũng là người giả dạng Tiêu Phong sát hại nhiều cao thủ trong giang hồ, và là người đã bắt cóc Hư Trúc lúc còn là một đứa bé và bỏ vào chùa Thiếu Lâm để các nhà sư nuôi dạy. Hư Trúc lúc này cũng biết được thân thế thật sự của mình, anh ta chính là con ruột của Phương trượng đại sư Huyền Từ là Đại Ca Lãnh đạo nhóm cao thủ Trung Nguyên sát hại gia đình của Tiêu Viễn Sơn năm xưa, chính vì vậy Huyền Từ phải chịu hình phạt phạm dâm giới bị đánh hai trăm gậy mà chết. Mộ Dung Bác cũng thừa nhận là chỉ giả vờ chết để lẻn vào chùa Thiếu Lâm và là người tung tin đồn nhảm ba mươi năm về trước cho Huyền Từ để lãnh đạo cao thủ võ lâm Trung Nguyên ám hại Tiêu Viễn Sơn, và ông ta lợi dụng việc đó để khôi phục nước Yên. Lúc này nhà sư quét rác trong Tàng kinh các xuất hiện (vị sư này là Chân nhân bất lộ tướng - người có võ công cao nhất trong Thiên long bát bộ, ông có thể tiêu diệt các cao thủ hàng đầu như Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn chỉ trong 1 chiêu), không ai biết tên ông, nên người đời gọi là Vô Danh Thần Tăng. Ông đã theo dõi Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn từ lúc 2 người vào xem trộm kinh thư trong Tàng Kinh Các mà 2 người không ai hay biết. Vô Danh Thần Tăng dùng Phật pháp, kiến thức uyên thâm giảng giải cho Mộ Dung Bác và Tiêu Viễn Sơn nhận ra cái sai khi luyện võ, 2 người đã luyện quá nhanh nên bị tổn thương ngũ tạng, tẩu hỏa nhập ma. Để chữa bệnh, ông đã đánh chết cả hai người để rồi cứu sống họ; do vậy mà đã cảm hóa được cả hai ông già quy y Phật giáo. Hai ông già quyết định xuất gia theo tu tại chùa Thiếu Lâm. Về sau, khi vua Liêu ra lệnh xâm lược nước Tống, Tiêu Phong chống lệnh vì không muốn binh đao giết hại dân lành vô tội của hai nước, vì vậy chàng bị nhốt vào ngục. Được Đoàn Dự, Hư Trúc, và nhiều cao thủ võ lâm khác giúp vượt ngục, Tiêu Phong thoát ra Nhạn Môn Quan, nơi vua nước Liêu đang bài binh bố trận chuẩn bị tấn công nước Tống. Quan quân nước Tống ở Nhạn Môn Quan thì đóng cổng quan ải không cho đám người Tiêu Phong và quân Liêu tiến vào nước Tống. Tiêu Phong, Đoàn Dự và Hư Trúc dùng võ công xuất thế bắt sống vua Liêu. Tiêu Phong thuyết phục vua Liêu lui binh rồi rút đao tự vẫn và nhảy xuống vực để giữ trọn đạo trung quân. A Tử vì yêu Tiêu Phong tha thiết cũng lao mình xuống vực tự vẫn (sau này Kim Dung chỉnh sửa lại là Tiêu Phong dùng mũi tên mà vua Liêu đã bẻ gãy đâm vào tim mình mà chết, còn A Tử thì sau khi móc mắt mình trả cho Du Thản Chi thì ôm xác Tiêu Phong nhảy xuống vực tự vẫn). Du Thản Chi lúc biết A Tử đã nhảy xuống vực, nhận ra rằng từ trước đến nay hy sinh vì tình yêu với A Tử là vô nghĩa, nên lao đầu vào vách núi chết. Quan quân nước Tống ở Nhạn Môn Quan thấy vậy thì viết thư báo về triều đình nhà Tống rằng quân Tống ở Nhạn Môn Quan đã giết chết Nam Viện đại vương Tiêu Phong của nước Liêu, đuổi được quân Liêu về bắc. Vua Tống vui mừng ban thưởng cho tướng sĩ nước Tống ở Nhạn Môn Quan rồi ngày đêm tiếp tục hành lạc với các mỹ nữ. Hư Trúc Hư Trúc là một hòa thượng chùa Thiếu Lâm. Ngoại hình xấu trai nhưng tâm tính hiền lành, tốt bụng. Hư Trúc đã vô tình giải được một bàn cờ vây tên gọi "Trân Lung kỳ trận", 30 năm nay chưa ai giải được, vì thế nên đã được Vô Nhai Tử, chưởng môn của phái Tiêu Dao truyền 70 năm công lực cả đời của ông. Vô Nhai Tử muốn Hư Trúc dùng nội công của ông truyền cho đi giết Đinh Xuân Thu, nhưng Hư Trúc từ chối vì nghĩ mình là một hòa thượng, không thể giết người bừa bãi. Sau đó, ông truyền chức chưởng môn nhân và giao thiết chỉ hoàn cho Hư Trúc, nhưng Hư Trúc không dám nhận và cũng không muốn đầu nhập phái khác. Vì thấy ông sau khi truyền cho mình 70 năm công lực cả đời, có vẻ như ông sắp chết, Hư Trúc muốn ông ra đi trong thanh thản nên đã đồng ý làm chưởng môn nhân phái Tiêu Dao cũng như đồng ý đi giết Đinh Xuân Thu. Sau khi Hư Trúc đồng ý, Vô Nhai Tử quy tiên. Bọn người trước kia bị hành hạ bởi Linh Thứu Cung bắt được một cô gái trẻ từ Linh Thứu Cung. Họ muốn lấy thông tin từ cô gái trẻ để họ có thể tự giải Sinh Tử Phù do Thiên Sơn Đồng Mỗ chủ Linh Thứu Cung cấy. Họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để lấy thông tin từ cô gái. Lúc đó, Hư Trúc đi ngang nên đã cứu cô gái khỏi bọn người đó. Sau đó cô gái trẻ mới lộ chân tướng, bà là Thiên Sơn Đồng Mỗ, chủ Linh Thứu Cung. Mấy mươi năm trước, trong lúc đang luyện công bị Lý Thu Thủy, sư muội của mình phá đám, nên từ đó, Thiên Sơn Đồng Mỗ có ngoại hình giống một cô bé con 12 tuổi. Hiện giờ Thiên Sơn Đồng Mỗ không còn nội công mấy và lúc đó bà đang bị Lý Thu Thủy truy sát. Bà cần phải uống máu mỗi giữa trưa và luyện công đủ 90 ngày mới khôi phục lại công lực vì môn nội công này cứ mỗi 30 năm, phải tịnh tu một lần, thời gian một lần tùy theo số tuổi, lúc đó, Thiên Sơn Đồng Mỗ 96 tuổi thì phải luyện 90 ngày (Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt đầu luyện môn này lúc 6 tuổi). Thiên Sơn Đồng Mỗ sợ lúc Lý Thu Thủy đến thì mình sẽ vô lực, không thể kháng cự nên đã kêu Hư Trúc giúp đỡ. Hư Trúc không muốn Thiên Sơn Đồng Mỗ chết nên bằng lòng giúp bà, mặc dù bà làm rất nhiều chuyện Hư Trúc không đồng ý. Để tránh sự truy sát của Lý Thu Thủy, Thiên Sơn Đồng Mỗ và Hư Trúc đã đến ẩn nấp trong một hầm băng của hoàng cung Tây Hạ, nơi Lý Thu Thủy đang làm hoàng thái phi. Lúc này, xảy ra một cuộc tranh cãi giữa Thiên Sơn Đồng Mỗ Lão và Hư Trúc. Thiên Sơn Đồng Mỗ khăng khăng bắt Hư Trúc phải ăn thịt cá còn không thì nhịn đói. Cũng như bà muốn truyền thụ võ công của bà cho Hư Trúc để Hư Trúc có thể giúp bà đánh trọng thương Lý Thu Thủy một khi Lý Thu Thủy tìm đến, Hư Trúc vì không muốn phải đầu nhập Linh Thứu cung nên đã không chịu học. Hư Trúc thà nhịn đói cũng như không chịu học võ công tuyệt thế chứ không muốn phá vỡ thanh quy giới luật chùa Thiếu Lâm. Điều này làm Thiên Sơn Đồng Mỗ tức lắm. Bà quyết ý phải làm cho Hư Trúc tự nguyện phá giới nên đã đem một cô gái (khỏa thân) mà mình bắt cóc về thảy vào giường của Hư Trúc. Vì đó là trong hầm băng nên Hư Trúc phải giữ ấm cho cô gái kia (và cho mình) và đã phạm dâm giới. Hư Trúc sau đó thấy mình không còn giới gì để giữ nữa cho nên đã ăn thịt, ăn cá và làm theo những gì Thiên Sơn Đồng Mỗ sai bảo. Sau khi nghe lời Thiên Sơn Đồng Mỗ bà ta truyền dạy võ công và không ngờ tại đây đã tạo nên mối tình giữa chàng và Ngân Xuyên công chúa Tây Hạ - nhưng Hư Trúc hoàn toàn không biết đó là công chúa Tây Hạ. Nhưng Thiên Sơn Đồng Mỗ cũng không thoát khỏi trận kịch chiến và chết chung với sư muội Lý Thu Thủy. Trước lúc lâm chung Đồng lão đã truyền ngôi chủ nhân của Linh Thứu cung cho Hư Trúc. Trở lại Linh Thứu Cung, Hư Trúc lại ra tay hoá giải hiềm khích giữa đảo chủ, động chủ 72 đảo và thuộc hạ Linh Thứu cung đồng thời giải trừ Sinh Tử Phù cho mọi người, trở thành lãnh tụ của quần hào. Cũng tại đây, nhờ tính tình chất phác hiền lành, Hư Trúc có duyên kết nghĩa huynh đệ với Đoàn Dự - Thế tử Đại Lý cùng Tiêu Phong. Sau này quay lại Thiếu Lâm, dùng võ công bảo vệ chùa trước Cưu Ma Trí, cùng Tiêu Phong, Đoàn Dự chung tay kháng địch, đại hiển thần oai, đánh bại Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu, thanh lý môn hộ. Hư Trúc nhận mặt cha mẹ trong tình huống bất ngờ. Cha Hư Trúc là Huyền Từ - phương trượng chùa Thiếu Lâm, mẹ là người thứ hai trong Tứ Đại Ác Nhân - Vô Ác Bất Tác Diệp Nhị Nương. Huyền Từ phương trượng tư tình với Diệp Nhị Nương nên tự nhận phạt 200 trượng, sau đó tự chấn đứt kinh mạch mà chết (đây là một hành động anh hùng, vì nếu đã có ý tự vẫn thì không cần đợi chịu xong 200 trượng), còn Diệp Nhị Nương thấy Huyền Từ phương trượng chết cũng tự tử theo. Đáng thương thay, Hư Trúc trong một ngày gặp lại được cha mẹ, lại trong ngày đó mất cả cha lẫn mẹ. Hư Trúc sau đó bị trục xuất khỏi Thiếu Lâm (vì phạm quá nhiều giới), cùng Đoàn Dự, Tiêu Phong sang Tây Hạ tham gia hội kén rể với công chúa, không ngờ cơ duyên xảo diệu, lại gặp người tình trong mộng của mình, kết đôi vui vầy. Xét về võ công có thể nói Hư Trúc là một trong những nhân vật có võ công cao nhất trong Thiên Long Bát Bộ. Về nội lực thì trong người chàng có nội công thâm hậu của ba cao thủ là Vô Nhai Tử, Thiên Sơn Đồng Mỗ và Lý Thu Thủy, nội công của họ đều có nguồn gốc từ Tiêu Dao phái. Đặc biệt chàng còn tập thuần thục được Sinh Tử Phù, một loại ám khí độc không dấu vết cực kỳ lợi hại. Nhân vật Bang phái Câu chuyện là sự tương tác trong bối cảnh của 4 quốc gia Đại Tống, Đại Liêu, Đại Lý, Thổ Phồn, trong lòng của nó là vô số môn phái, danh gia, các tổ chức chính trị. Nếu Tiêu Phong thân thế mang mối bất hòa Tống - Liêu, Thiếu Lâm - Cái Bang, kẻ thù võ lâm, thì Đoàn Dự, Hư Trúc như con thoi giữa Đại Tống với Đại Lý, Tây Hạ, Thổ Phồn và các môn phái khác nhau.... Đại Lý Đoàn Thị Là hoàng tộc, thế gia võ lâm, tuy ở miền biên cảnh nhưng có qua lại ảnh hưởng lớn với võ lâm Trung Nguyên, chùa Thiên Long Tự là căn bản. Cao Thủ: Đoàn Dự, Khô Vinh Đại Sư, Bảo Định Đế, Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần, Bản Nhân, Bản Quan, Bản Tham, Bản Tướng Võ công tuyệt kĩ bao gồm: Nhất Dương Chỉ, Lục Mạch Thần Kiếm Thiếu Lâm tự Thánh địa của võ lâm Trung Nguyên, Phương Trượng: Linh Môn, Huyền Từ Cao thủ: Tảo Địa tăng (Vô Danh thần tăng), Huyền Trừng, Huyền Bi, Huyền Nạn, Huyền Thống, Huyền Khổ, Huyền Độ, Huyền Sinh.... Tuyệt kĩ bao gồm: Dịch cân Kinh, 72 tuyệt kĩ.... Tiêu Dao phái Tiêu Dao phái ảnh hưởng của Đạo giáo thần tiên, võ công ảo diệu khôn lường đầy rẫy cao thủ kiêm cả cầm, kỳ, thi, họa, thổ (xây dựng), mộc (thủ công tinh xảo), y (thuốc), bốc (bói toán) nhưng ít nổi danh trên giang hồ do các trưởng bối đều ẩn cư, Chưởng Môn: Tiêu Dao Tử, Vô Nhai Tử, Hư Trúc Môn hạ: Tề Tự Phong, Lý Thu Thủy, Tô Tinh Hà, Thiên Sơn Đồng Lão, Đinh Xuân Thu, Hàm Cốc Bát hữu(Tiết Mộ Hoa, Khang Quảng lăng,....) Bảo bối: nhẫn Cơ bảo của chưởng môn, Lang Hoàng Phúc Địa lưu giữ võ công của các nhà các phái... Tuyệt kĩ: Bắc Minh thần công, Lăng ba vi Bộ, Tiểu Vô Tướng Công... Cái Bang Bang hội đông đảo, nghĩa hiệp, chuyên làm tai mắt tình báo giúp nhà Tống chống ngoại xâm. Bang chủ: Uông Kiếm Thông, Tiêu Phong, Trang Tụ Hiền (Du Thản Chi) Cao thủ: Từ trưởng lão, Mã Đại Nguyên, Tứ Đại trưởng lão Tuyệt kĩ: Giáng Long thập bát chưởng, Đả cẩu bổng pháp Thiên Sơn Linh Tụ Cung Là phái do Thiên Sơn Đồng Lão phái Tiêu Dao sáng lập ở trên Tuyết Sơn Tây Vực Cung Chủ: Thiên Sơn Đồng Lão, Hư Trúc Môn Hạ: Đặng bà bà, Dư bà bà, Mai, Lan, Trúc, Cúc kiếm, 36 động chủ, 72 đảo chủ.... Tuyệt kĩ: Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên sơn chiết mai thủ, Sinh Tử phù... Cô Tô Mộ Dung Gia Là thế gia võ lâm, một hoàng tộc thất thế lưu vong nhiều đời, dân tộc Tiên Ty nước Đại Yên, ngụ cư ở Yến Tử ổ vùng Cô Tô Thái Hồ ở Giang Nam, luôn tích trữ của cải nhân lực, lấy lòng võ Lâm, gây mâu thuẫn các nước để mưu phản hòng chiếm cứ giang sơn Trang Chủ: Mộ Dung Bác, Mộ Dung Phục Môn Hạ: Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác, A Châu, A Bích... Tuyệt kĩ: Đẩu Chuyển Tinh Di Cô Tô - Mạn Đà Sơn Trang Là thế gia vọng tộc nổi tiếng ở Cô Tô về giàu có, ngang danh với nhà Mộ Dung, là thông gia với nhà Mộ Dung vì Mộ Dung Bác đã lấy con gái nhà họ Vương. Nhà họ Vương tuy ban đầu chỉ là 1 nhà giàu nhưng có cô vợ góa Vương Phu nhân vốn là con gái của Vô Nhai Tử kế thừa Lang Hoàng Ngọc Động là nơi giữ tàng thư gần như hoàn chỉnh của các môn phái cho nên đây có thể nói là nơi tàng tụ của tuyệt kĩ võ lâm các nhà các phái sau Lang Hoàng Phúc Địa của phái Tiêu Dao Tây Hạ Nhất phẩm Đường Là nơi nhà Tây Hạ quy tụ các cao thủ để xâm chiếm Trung Nguyên. Ngay trong Hoàng Cung Tây Hạ cũng có võ công trác tuyệt của phái Tiêu dao do Thái Phi Lý Thu Thủy mang về Thủ lĩnh: Phạt Đông tướng quân Hách Liên Thiết Thụ Cao thủ: Tứ Đại ác nhân, Lý Diên Tông (Mộ Dung Phục).... ngoài ra còn có quân đội Thổ Phồn Là quốc gia láng giềng với Đại Tống và Đại Lý, đang nhăm nhe xâm chiếm các nơi, Chùa Đại tuyết sơn: là nơi ở của các cao tăng võ công cao cường, họ cũng chuyên đi nghiêm tầm các võ học điển tịch của trung nguyên, Đại Lý.... để giúp nhà vua Thổ Phồn xâm chiếm trung Nguyên Cao thủ: Quốc sư Cưu Ma Trí, Ba La Tinh, Triết La Tinh... Đại Liêu Quốc gia đang hưng thịnh, tuy không có võ công bác đại tinh thâm nhưng lại có đội quân thiện chiến đặc biệt là thiết kị.... ôm mộng xâm chiếm Trung Nguyên. Quân đội nhà Liêu từng giao đấu với cả võ lâm Trung Nguyên khi họ sang Liêu cứu Tiêu Phong Hoàng đế: Gia Luật Hồng Cơ Môn hạ: Bắc Viện Đại Vương, Nam Viện Đại Vương (Tiêu Phong), Hoàng thái thúc Phái Tinh Túc (Tinh Tú) Do Tinh Túc (Tinh Tú) Lão Quái Đinh Xuân Thu là phản đồ phái Tiêu Dao sáng lập tại Tây Vực, sở trường chuyên dùng độc dược, tuy thế bang phái lỏng lẻo toàn là phường ô hợp lẻo mép. Môn hạ: Du Thản Chi, Trích Tinh Tử, A Tử.... Báo bối: Thần Mộc Vương Đỉnh Tuyệt kĩ: Hóa Công Đại Pháp Các bang phái, danh gia khác Vô Lượng kiếm phái, Vạn kiếp Cốc, chùa thanh Lương ngũ giới Đài, Chùa tướng quốc tự Khai Phong, Chùa Quốc thanh, Niêm hoa tự, Thần Nông Bang, Tụ hiền trang, Thanh thành phái, Tần Gia trại.... Chuyển thể Phim điện ảnh Phim truyền hình Video game Demi-Gods and Semi-Devils là một RPG chơi đơn phát hành năm 2002. Người chơi sẽ vào vai trò của một nhân vật chính không liên quan (tên mặc định là Lei Zhen) và gặp gỡ các nhân vật trong cuốn tiểu thuyết. Lựa chọn và hành động của người chơi sẽ ảnh hưởng đến tiến triển của câu chuyện. Thiên long bát bộ là một MMORPG được phát triển bởi Changyou và Sohu và được phát hành vào năm 2007. Tại Việt Nam nó được FPT Online phát hành đến năm 2013 và hiện tại đang được VNG phát hành. Tian Long Ba Bu: Shen Bing Hai Yu (天龙八部:神兵海域) là một MMORPG được phát triển bởi Changyou và Sohu và được phát hành tại Trung Quốc vào năm 2012 thay cho phiên bản cũ. Trò chơi được xác nhận bởi Hồ Ca và Lưu Thi Thi, những người đóng vai Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên trong một đoạn video ngắn quảng bá cho trò chơi và các tài liệu quảng cáo khác. Chú thích
Danh sách các thành phố Tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ Dân số nội đô > 1.000.000 Phoenix Dân số > 500.000 (Vùng nội đô) Tucson Mesa Dân số > 100.000 (Vùng nội đô) Glendale Scottsdale Chandler Tempe Gilbert Peoria Dân số > 25.000 (Vùng nội đô) Yuma Flagstaff Avondale Lake Havasu City Surprise Sierra Vista Prescott Bullhead City Apache Junction Oro Valley Casa Grande Dân số > 10.000 (Vùng nội đô) Goodyear Prescott Valley Kingman Fountain Hills Nogales Marana San Luis Douglas Florence Payson Paradise Valley El Mirage Sedona Eloy Cottonwood Dân số < 10.000 (Vùng nội đô) Camp Verde Winslow Safford Buckeye Chino Valley Show Low Coolidge Somerton Globe Page Bisbee South Tucson Queen Creek Wickenburg Guadalupe Tolleson Holbrook Dân số < 5.000 Benson Snowflake Cave Creek Thatcher Eagar Litchfield Park Pinetop-Lakeside Sahuarita Willcox Colorado City Clarkdale St. Johns Taylor Superior Quartzsite Carefree Parker Youngtown Williams Dân số < 2.500 Kearny Clifton Gila Bend Joseph City, Arizona Pima Springerville Miami Mammoth Wellton Huachuca City Tombstone Fredonia Patagonia Hayden Duncan Winkelman Jerome Theo số liệu thống kê 1/1/2002, dân số theo thống kê năm 2000 của Tổng cục thống kê dân số Hoa Kỳ
Anatoly Evgenyevich Karpov (; sinh 23 tháng 5 năm 1951) là một đại kiện tướng cờ vua người Nga và là cựu vô địch cờ vua thế giới. Ông là nhà vô địch thế giới từ năm 1975 đến 1985, tham gia vào các trận chung kết để giành lại ngôi vô địch từ 1986 đến 1990 (tuy nhiên đều thất bại trước Garry Kasparov), sau đó là nhà vô địch thế giới của FIDE từ 1993 đến 1999 (khi có sự chia tách trong làng cờ vua thế giới). Ông từng vô địch (hoặc đồng vô địch) 161 giải đấu trong sự nghiệp. Sự nghiệp thi đấu cờ chuyên nghiệp của ông theo thống kê có 1.118 trận thắng, 287 trận thua và 1.480 trận hoà trong 3.163 trận đấu, với hệ số Elo cao nhất là 2780. Theo bảng xếp hạng mới nhất của FIDE, Karpov không còn nằm trong 100 kì thủ hàng đầu thế giới. Thành tích Karpov được người cha dạy cờ từ năm lên 4 tuổi, và sau đó tiến bộ rất nhanh: trở thành ứng cử viên cho chức kiện tướng năm 11 tuổi, kiện tướng chính thức năm 15 tuổi và đại kiện tướng năm 19 tuổi. Năm 18 tuổi Karpov giành chức vô địch Cờ vua trẻ. Vào các năm 1971, 1972, Karpov liên tục đạt số điểm đồng hạng nhất trong ba giải đấu (Moskva, Hastings, Texas) Năm 1973, tại Leningrad, Karpov đạt cùng số điểm hạng nhất với Viktor Korchnoi. Trong giải vô địch thế giới năm 1974, ở vòng loại Karpov thắng Lev Polugaevsky, Boris Spassky và Korchnoi. Trận cuối cùng với đương kim vô địch Bobby Fischer đã không diễn ra theo kì vọng của khán giả. Do những đòi hỏi từ phía Fischer mà FIDE cho là quá đáng, tháng 4 năm 1975 FIDE đã quyết định truất ngôi vua cờ của Fischer và phong danh hiệu này cho Karpov. Anatoly Karpov chính thức trở thành vua cờ mới của thế giới kể từ tháng 4 năm 1975. Năm 1978, tại Baguio, Karpov bảo vệ thành công ngôi vô địch khi thắng Korchnoi (thắng 6, thua 5, hòa 21 ván). Năm 1981, tại Merano, một lần nữa Korchnoi là ứng cử viên đấu chung kết với Karpov. Lần này Karpov đã thắng dễ dàng (thắng 6, thua 2, hòa 10). Năm 1985, sau 10 năm giữ chức vô địch thế giới, Karpov đã phải nhường lại ngôi vô địch cho Garry Kasparov (thắng 3 thua 5 hòa 16). Karpov còn giành lại chức vô địch FIDE (năm 1993) và giữ ngôi vị này cho đến tận năm 1999 (thua Aleksandr Khalifman). Tháng 9 năm 2009, Karpov và kình địch Kasparov đã có trận đấu biểu diễn tại Valencia. Với 4 ván cờ nhanh và 8 ván cờ chớp, Karpov thua với tỉ số 3–9 (+2 =2 –8) . Theo đánh giá của Samuel Reshevsky, Karpov là kì thủ có khả năng công thủ toàn diện và tốc độ chơi cờ rất nhanh với một phong thái điềm tĩnh. Karpov có kiểu chơi giống như Mikhail Botvinnik. Chú thích và tham khảo
Philadelphia (tên thông tục Philly) là một thành phố tại Hoa Kỳ có diện tích 369 km², có nghĩa theo tiếng Hy Lạp là "tình huynh đệ" (Φιλαδέλφεια), là thành phố lớn thứ năm tại Hoa Kỳ và là thành phố lớn nhất trong Thịnh vượng chung Pennsylvania. Dân số thành phố năm 2005 là khoảng 1,56 triệu người , là thành phố lớn thứ 2 ở bờ Đông Hoa Kỳ, là trung tâm thương mại, giáo dục, văn hóa của Hoa Kỳ. Thành phố cách Thành phố New York 46 dặm (trung tâm cách New York 80 dặm), là khoảng cách gần nhất giữa 2 thành phố có dân số trên 1 triệu dân. Vùng đô thị Philadelphia lớn thứ tư Hoa Kỳ với dân số 5,8 triệu người. Philadelphia là một trong những thành phố quan trọng và cổ xưa nhất của Hoa Kỳ. Trong một giai đoạn ở Thế kỷ 18, Philadelphia là thủ đô thứ 2 và là thành phố đông dân nhất của Hoa Kỳ và là thành phố nói tiếng Anh lớn thứ 2 trên thế giới, sau London. Vào thời kỳ đó, thành phố này hơn hẳn Boston và Thành phố New York về tầm quan trọng về chính trị và xã hội với vai trò đóng góp của Benjamin Franklin. Khí hậu
Jean-Jacques Rousseau (, ; ; tiếng Việt: Giăng Giắc Rút-xô,28 tháng 6 năm 1712 – 2 tháng 7 năm 1778), sinh tại Geneva, là một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý thuyết xã hội, và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc. Rousseau cũng có nhiều đóng góp cho âm nhạc cả trên phương diện lý luận và sáng tác. Ông cũng là người sáng tạo nên cách viết tiểu sử kiểu hiện đại với trọng tâm được đặt vào tính chủ thể. Ông cũng viết tiểu thuyết và đóng góp quan trọng cho trào lưu lãng mạn trong văn học. Tiểu thuyết của Rousseau Émile hay là về giáo dục là một tuyệt tác nói về nền giáo dục công dân. Tiểu thuyết tình cảm Julie hay nàng Héloïse mới của ông có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển của văn học tiền lãng mạn và văn học lãng mạn. Các tác phẩm tự truyện của Rousseau - Những lời bộc bạch, đã mở đầu phong trào viết hồi ký hiện đại, và tác phẩm Les Rêveries du promeneur solitaire đã mở ra một phong trào vào cuối thế kỷ 18 được biết đến như là Thời đại nhạy cảm, với việc tập trung cao độ vào tính khách quan và cái nhìn hướng nội mà sau này đã trở thành một đặc trưng trong các tác phẩm văn học hiện đại sau này. Tác phẩm Bàn về sự bất bình đẳng và Các quan hệ xã hội là những tác phẩm kinh điển về tư duy chính trị và tư duy xã hội hiện đại. Trong suốt thời gian của cuộc cách mạng Pháp, Rousseau là triết gia nổi tiếng nhất trong số những thành viên của câu lạc bộ Jacobin. Rousseau đã được an táng như một người anh hùng dân tộc ở điện Panthéon tại Paris năm 1794, 16 năm sau khi mất. Tiểu sử Tuổi trẻ Rousseau sinh ra ở Geneve, lúc đó là một thành phố kiêm quốc gia và là một thành phần của Liên minh Tin lành trong liên bang Thụy Sĩ. Kể từ năm 1536, Geneva đã là quốc gia Huguenot và là cội nguồn của thần học Calvin. Năm thế hệ trước của Rousseau là ông cố Didier, một người bán sách có thể đã xuất bản các tác phẩm Kháng Cách, để tránh bị Công giáo Pháp truy tố, đã chạy trốn tới Geneve vào năm 1549, tại đó ông đã trở thành một thương gia buôn rượu vang. Rousseau rất tự hào rằng cả gia đình của ông đã từng là gia đình trung lưu, có quyền bầu cử trong Geneva. Suốt cuộc đời, ông thường ký vào sách của mình những dòng chữ "Jean-Jacques Rousseau, công dân Geneva". Geneve, trên lý thuyết, được quản lý một cách dân chủ nhờ những "công dân" nam giới có quyền biểu quyết. Những công dân này là một thiểu số dân số khi so sánh với những người nhập cư. Họ được nhắc đến như là những "cư dân", dòng dõi của họ được gọi là "người địa phương" và vẫn không có quyền bầu cử. Thực tế, cả thành phố Geneva lúc đó được cai trị bởi một hiệp hội của vài gia đình giàu có với tên "Hội đồng Hai Trăm". Những gia đình này trao quyền cho một nhóm 25 thành viên quản trị lấy từ những gia đình trên, với tên là "Tiểu Hội đồng". Có nhiều tranh luận chính trị trong Geneva bao gồm cả những thương nhân. Nhiều cuộc thảo luận đã tranh luận về tính hợp pháp của quyền lực những Hội đồng trên có được, nội dung tranh luận thường bị giới cầm quyền chế giễu. Trong năm 1707, một người cải cách dân chủ tên Pierre Fatio phản ứng, nói rằng "một quyền lực tối cao mà không có hành động tương xứng thì chỉ là một ảo tưởng". Fatio sau đó bị bắn theo lệnh của Tiểu Hội đồng. Cha của Jean-Jacques Rousseau, Isaac, lúc đó không có mặt trong thành phố, nhưng ông nội của Rousseau đã ủng hộ Fatio và đã phải trả giá. Mua bán đồng hồ đã trở thành một truyền thống gia đình khi cha của Rousseau - ông Isaac đến Geneva. Isaac tiếp quản doanh nghiệp của ông và cha mình, ngoại trừ một thời gian rẽ ngang ngắn ngủi với công việc làm vũ sư.Isaac mặc dù không nổi tiếng trong giới nghệ sĩ, nhưng ông đã được dạy dỗ chu đáo và là một người yêu âm nhạc. "Với tư cách là một thợ sửa đồng hồ ở Geneva", Rousseau đã viết, "tôi là một người đàn ông có thể được giới thiệu ở bất cứ đâu, một thợ sửa đồng hồ tại Paris thì chỉ thích hợp để nói chuyện về đồng hồ". Trong năm 1699, Isaac đã dính vào bê bối chính trị khi cãi cọ với một sĩ quan người Anh, người sau đó đã tuốt kiếm ra dọa ông. Sau khi các quan chức địa phương tới nơi, Isaac đã bị trừng phạt, vì Geneva đặc biệt quan tâm và gìn giữ các liên hệ của thành phố với sức mạnh nước ngoài. Mẹ của Rousseau, Suzanne Bernard Rousseau, là một người phụ nữ xuất thân từ tầng lớp quý tộc. Bà được ông chú Samuel Bernard, một giáo sĩ Calvin nuôi dưỡng. Ông chú Bernard này chăm sóc Suzanne sau khi cha cô -Jacques (người đã gặp rắc rối với pháp luật và các quan chức tôn giáo vì đã gian dâm và có một tình nhân) chết sớm khi mới ngoài 30 tuổi. Trong năm 1695, Suzanne đã phải đối diện những lời buộc tội bà đã đến một nhà hát dưới ngụy trang như một phụ nữ nông dân để bà có thể ngắm nhìn M. Vincent Sarrasin, người mà bà thích mặc dù anh ta đã có gia đình. Sau phiên tòa, bà đã bị cấm không bao giờ được lại gần ông ta nữa. Bà đã kết hôn với cha của Rousseau ở tuổi 31. Em gái của Isaac đã kết hôn với anh trai của Suzanne tám năm trước đó, sau khi cô ấy có thai và họ đã bị Hội đồng thành phố trừng phạt. Đứa bé đã chết ngày sau khi sinh. Sau này, Rousseau khi còn là một cậu bé đã được người lớn trong nhà kể một câu chuyện cổ tích về hai cuộc hôn nhân trên— một câu chuyện về tình yêu tuổi trẻ đã bị hai gia tộc từ chối nhưng tình yêu đã chiến thắng nhờ lòng trung thành và kết cuộc là hai cuộc hôn nhân kết hợp hai gia tộc Rousseau được tổ chức trong cùng một ngày. Rousseau không bao giờ biết được được sự thật là hoàn toàn khác hẳn. Rouseau rời Geneva năm 1728 sau nhiều năm học việc nghề thư ký và tới thủ đô Paris năm 1742. Là thư ký cho Đại sứ Pháp tại Venezia từ 1743-1744. Sau đó ông về Pháp và có năm con với Thérèse Levasseur nhưng ông đều bỏ cho trại trẻ mồ côi nuôi. Trong thời gian này ông làm bạn với Diderot và có đóng góp cho tập Bách khoa thư với các bài về âm nhạc và quan trọng nhất là bài về kinh tế chính trị viết năm 1755. Năm 1754, Rousseau quay về Geneva và bắt đầu cho ra đời tác phẩm Đối thoại về Nguồn gốc và Cơ sở của Sự Bất bình đẳng của Con người năm 1755. Do viết nhiều tiểu thuyết đả kích tôn giáo, ông buộc phải rời sang Bern và Mộtiers (Thụy Sĩ), nơi ông viết Đề án Hiến pháp cho đảo Corse và tiếp tục phải tị nạn với nhà triết học David Hume tại Anh Quốc. Ông về Pháp năm 1767 và cưới Thérèse năm 1768, đến 1770 ông trở về thủ đô Paris. Ông tiếp tục viết nhưng các tác phẩm chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời vì xuất huyết não vào ngày 2 tháng 7 năm 1778. Triết học Tự nhiên và xã hội Rousseau nhận thấy có sự phân chia về bản chất giữa xã hội và bản chất tự nhiên của con người. Ông cho rằng loài người là tốt về bản chất nếu sống ở trạng thái tự nhiên và rằng con người bị tha hóa bởi chính xã hội. Ông cho xã hội là nhân tạo và sự phát triển phụ thuộc lẫn nhau trong xã hội là cản trở đối với chất lượng cuộc sống của loài người. Trong "Đối thoại giữa Khoa học và Nghệ thuật", Rousseau tranh luận rằng cả khoa học và nghệ thuật đều không bổ ích cho con người. Tiếp theo, trong Bàn về Bất bình đẳng, ông tiếp tục theo vết tiến trình tha hóa của loài người từ trạng thái tự nhiên nguyên thủy lên xã hội hiện đại. Khi loài người buộc phải gắn kết với nhau chặt chẽ hơn, cũng là khi loài người trải qua quá trình ngày càng phụ thuộc lẫn nhau do phân chia lao động và dẫn đến bất bình đẳng, và do vậy cần phải có khế ước xã hội.. Học thuyết chính trị Khế ước Xã hội Khế ước xã hội là tác phẩm phác họa trật tự chính trị hợp lý của ông. Xuất bản năm 1762, tác phẩm đã có nhiều ảnh hưởng tới triết học phương Tây. Rousseau cho rằng trạng thái tự nhiên bị tha hóa trở thành một tình trạng dã man không còn luật pháp hay đạo đức, nên loài người cần một thể chế để tồn tại, vì bên cạnh sự cạnh tranh lẫn nhau, loài người cũng phụ thuộc vào nhau. Theo Rousseau, bằng cách sát cánh bên nhau thông qua một khế ước xã hội và từ bỏ các quyền tự nhiên, cá nhân sẽ giải thoát cả hai áp lực nói trên, tức là vẫn tồn tại và vẫn tự do. Bởi vì khi đã trao quyền lực cho những người đại diện cho nguyện vọng và ý chí chung của quảng đại quần chúng, thì chính điều này đảm bảo cho cá nhân khỏi bị lệ thuộc vào ý chí của các cá nhân khác. Mặc dù ông cho rằng chủ quyền phải thuộc về nhân dân, nhưng ông lại phân biệt chủ quyền và chính quyền. Chính quyền là người thực hiện chủ quyền, tức ý chí và nguyện vọng chung của quảng đại quần chúng. Tuy chính quyền chỉ là một phần nhỏ trong dân chúng, nhưng lại là những người nắm vững pháp luật nhất, họ chính là các quan tòa - những người áp đặt việc thực thi ý chí nguyện vọng chung của dân chúng. Ông cho rằng luật pháp phải do dân chúng trực tiếp lập ra, thay vì được lập ra thông qua các cơ quan đại diện. Giáo dục Quan điểm giáo dục của Rousseau được thể hiện qua cuốn tiểu thuyết Emile (Ê-min). Trong đó Emile trải qua giai đoạn giáo dục đầu tiên đến năm 12 tuổi, giáo dục giai đoạn này về bản chất là hoàn toàn tự nhiên. Giai đoạn hai từ 12 đến 16 là giai đoạn lý tính bắt đầu phát triển. Và giai đoạn cuối cùng là từ 15 tuổi trở đi để đứa trẻ tiếp tục phát triển thành người lớn. Ông cho rằng mục đích của giáo dục là học cách sống và điều này có thể đạt được khi có người bảo trợ chỉ dẫn con đường đi để có cuộc sống tốt đẹp. Tuy nhiên, quan điểm của Rousseau cho giáo dục trẻ em nữ lại không như vậy. Sophie, người yêu của Emile, được giáo dục để tuân theo sự chỉ bảo của chồng, trong khi Emile được giáo dục để tự quyết định lấy cuộc sống của mình. Tôn giáo Từng cải sang Công giáo Rôma lúc còn trẻ rồi quay trở lại với nền giáo thuyết Calvin khổ hạnh của cố hương Geneva như một phần trong giai đoạn cải cách luân lý của mình, Rousseau - xuyên suốt quãng đời còn lại - duy trì việc tuyên tín triết lý tôn giáo đó và coi John Calvin là một nhà lập pháp hiện đại. Tuy vậy, các quan điểm về tôn giáo được trình bày trong các tác phẩm triết học của ông có thể khiến một số người ấn tượng rằng chúng đối nghịch với giáo lý của cả Công giáo và chủ thuyết Calvin. Tuy nhiên, vào thời đó, sự tán thành khoan dung tôn giáo mạnh mẽ của Rousseau, như được thể hiện qua vị mục sư xứ Savoyard trong cuốn Émile, đã bị suy diễn là ủng hộ cho chủ nghĩa lãnh đạm - một lạc thuyết, dẫn đến việc sách của ông bị lên án ở cả Geneva theo Calvin thuyết và Paris theo Công giáo. Việc ông khẳng định trong Khế ước xã hội rằng các môn đệ đích thực của Đức Giêsu sẽ không là những công dân tốt có thể là lý do khác cho việc lên án ông ở Geneva. Không giống với các triết gia Khai sáng triệt để khác, Rousseau khẳng định sự cần thiết của tôn giáo. Nhưng ông bác bỏ giáo lý về tội nguyên tổ, điều đóng vai trò quan trọng trong chủ thuyết Calvin (trong Émile, Rousseau viết "không có sự lầm lạc nguyên thủy trong trái tim con người"). Vào thế kỷ 18, nhiều nhà thần giáo tự nhiên coi Thiên Chúa chỉ thuần túy là một đấng tác tạo vũ trụ trừu tượng và phi vị cách, mà họ xem giống như một cỗ máy khổng lồ. Thần giáo tự nhiên của Rousseau khác biệt với kiểu thông thường trong tính xúc cảm nồng nhiệt của nó. Ông nhận thấy sự hiện diện của Thiên Chúa qua tạo vật của ngài, bao gồm loài người - mà tách khỏi ảnh hưởng gây hại của xã hội - thì tốt đẹp, bởi vì Thiên Chúa thì tốt lành. Việc Rousseau gắn kết một giá trị tinh thần cho vẻ đẹp của tự nhiên đã thúc đẩy thái độ của chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ 19 hướng về tự nhiên và tôn giáo. Rousseau thấy phiền não rằng quan điểm thần giáo tự nhiên của mình bị lên án quá mạnh, trong khi những người trong nhóm philosophes vô thần hơn thì lại được lờ đi. Ông tự biện hộ trước những người chỉ trích quan điểm tôn giáo của ông trong "Thư gửi Christophe de Beaumont, Tổng giám mục Paris, trong đó ông khẳng định rằng tự do thảo luận về các vấn đề tôn giáo về bản chất thì có tính tôn giáo hơn so với nỗ lực áp đặt niềm tin bằng vũ lực." Ảnh hưởng Rousseau có ảnh hưởng lớn đến cuộc Cách mạng Pháp, mặc dù ý tưởng chủ quyền thuộc về toàn thể nhân dân được thực hiện qua hình thức đại diện thay vì trực tiếp. Ông cũng là một trong những tác giả đầu tiên phê phán thể chế tư hữu và được xem là bậc tiền bối của chủ nghĩa xã hội hiện đại và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Ông cũng là người sớm đặt câu hỏi liệu ý chí nguyện vọng của đa số liệu có phải lúc nào cũng đúng và mục tiêu của chính quyền theo ông là phải đảm bảo tự do, bình đẳng và công bằng cho tất cả cho dù có phải là ý chí của đa số hay không. So với các nhà khai sáng đương thời như Voltaire và Montesquieu, tư tưởng chính trị của Rousseau cấp tiến hơn. Ông cũng cho rằng nguyên tắc cơ bản của triết học chính trị là chính trị và đạo đức không được tách rời. Khi nhà nước không thực hiện đúng theo giá trị đạo đức thì cũng không thể thực hiện đúng các chức năng của mình và cũng không thể có quyền lực đối với một cá nhân được nữa. Nguyên tắc quan trọng thứ hai là tự do mà nhà nước được lập ra để gìn giữ. Quan niệm về giáo dục của Rousseau mà trong đó đối tượng của giáo dục chính là những đứa trẻ mạnh khỏe cả về thể chất và tinh thần, cũng như việc ông không xem trọng sự cần thiết của giáo dục qua sách vở, cũng như việc ông nhấn mạnh sự cần thiết phải giáo dục cảm xúc cho trẻ em trước khi giáo dục lý tính đã là tiền đề cho lý thuyết giáo dục hiện đại đặt trẻ em làm trung tâm. Các tác phẩm của Rousseau đều thể hiện rằng thiên nhiên giúp con người hình thành nên bản chất của mình, giúp con người thống nhất để vượt qua sự tù đày và giam cầm của xã hội. Chính vì vậy, ông khẳng định sự cần thiết của việc con người về với tự nhiên, sự cần thiết đặt con người ở nơi nằm ngoài những ràng buộc của xã hội và những định kiến của văn minh. Và như vậy, ý tưởng của ông chính là Chủ nghĩa Lãng mạn, mặc dầu chính bản thân ông xem mình là người của phong trào Khai sáng. Tác phẩm chính Dissertation sur la musique moderne, 1736 Discourse on the Arts and Sciences (Discours sur les sciences et les arts), 1750 Narcissus, or The Self-Admirer: A Comedy, 1752 Le Devin du Village: an opera, 1752, Discourse on the Origin and Basis of Inequality Among Men (Discours sur l'origine et les fondements de l'inégalité parmi les hommes), 1754 Discourse on Political Economy, 1755 Letter to M. D'Alembert on Spectacles, 1758 (Lettre à d'Alembert sur les spectacles) Julie hay nàng Heloise mới (Julie, ou la nouvelle Héloïse), 1761 Émile hay là về giáo dục (Émile ou de l'éducation), 1762 The Creed of a Savoyard Priest, 1762 (in Émile) Bàn về khế ước xã hội (Du contrat social), 1762 Four Letters to M. de Malesherbes, 1762 Pygmalion: a Lyric Scene, 1762 Letters Written from the Mountain, 1764 (Lettres de la montagne) Những lời bộc bạch (Les Confessions), 1770, published 1782 Constitutional Project for Corsica, 1772 Considerations on the Government of Poland, 1772 Essay on the Origin of Languages, phát hành 1781 (Essai sur l'origine des langues) Reveries of a Solitary Walker, chưa hoàn thành, phát hành 1782 (Rêveries du promeneur solitaire) Dialogues: Rousseau Judge of Jean-Jacques, phát hành 1782 Tác phẩm được dịch sang tiếng Việt J.-J. Rousseau, Émile hay là về giáo dục, Lê Hồng Sâm và Trần Quốc Dương dịch, Bùi Văn Nam Sơn giới thiệu, Nhà xuất bản Tri thức (2008). J.-J. Rousseau, Những lời bộc bạch, Nhà xuất bản Tri thức (2012), Lê Hồng Sâm dịch. J.-J. Rousseau, Khế ước Xã hội, Dương Văn Hóa dịch, Alphabooks và Nhà xuất bản Thế giới (2013). J.-J. Rousseau, Julie hay nàng Héloïse mới, Hướng Minh dịch, Nhã Nam và Nhà xuất bản Văn học (2020). Chú thích Đọc thêm . . . . . . Cooper, Laurence (1999). Rousseau, Nature and the Problem of the Good Life. Pennsylvania: Pennsylvania State University Press. . Cranston, Maurice (1982). Jean-Jacques: The Early Life and Work. New York: Norton. . . . Dent, Nicholas J. H. (1988). Rousseau: An Introduction to his Psychological, Social, and Political Theory. Oxford: Blackwell. . . Derathé, Robert (1948). Le Rationalism de J.-J. Rousseau. Press Universitaires de France. . Derrida, Jacques (1976). Of Grammatology, trans. Gayatri Chakravorty Spivak. Baltimore: Johns Hopkins Press. Einaudi, Mario (1968). Early Rousseau. Ithaca: Cornell University Press. Ellingson, Ter (2001). The Myth of the Noble Savage. Berkeley, CA: University of California Press. Farrell, John (2006). Paranoia and Modernity: Cervantes to Rousseau. New York: Cornell University Press. . Garrard, Graeme (2003). Rousseau's Counter-Enlightenment: A Republican Critique of the Philosophes. Albany: State University of New York Press. Gauthier, David (2006). Rousseau: The Sentiment of Existence. Cambridge: Cambridge University Press. Hendel, Charles W. (1934). Jean-Jacques Rousseau: Moralist. 2 Vols. (1934) Indianapolis, IN: Bobbs Merrill. Israel, Jonathan I., Radical Enlightenment: Philosophy and the Making of Modernity, (Oxford University Press, 2002). Kateb, George (1961). "Aspects of Rousseau's Political Thought", Political Science Quarterly, December 1961. Kitsikis, Dimitri (2006).Jean-Jacques Rousseau et les origines françaises du fascisme. Nantes: Ars Magna Editions. LaFreniere, Gilbert F. (1990). "Rousseau and the European Roots of Environmentalism." Environmental History Review 14 (No. 4): 41–72 Lange, Lynda (2002). Feminist Interpretations of Jean-Jacques Rousseau. University Park: Penn State University Press. Lovejoy, Arthur O. ([1923] 1948). "The Supposed Primitivism of Rousseau's 'Discourse on Inequality'". Modern Philology: XXI: 165–186. Reprinted in Essays in the History of Ideas (Baltimore: Johns Hopkins Press). "A classic treatment of the Second Discourse"—Nicholas Dent. Maguire, Matthew (2006). The Conversion of the Imagination: from Pascal through Rousseau to Tocqueville. Harvard University Press. Marks, Jonathan (2005). Perfection and Disharmony in the Thought of Jean-Jacques Rousseau. Cambridge: Cambridge University Press. Roger Masters (ed.), 1964. The First and Second Discourses by Jean-Jacques Rousseau, translated by Roger D Masters and Judith R Masters. New York: St. Martin's Press. ISBN 0-312-69440-7 Roger Masters, 1968. The Political Philosophy of Rousseau. Princeton, NJ, Princeton University Press (ISBN 978-0-691-01989-5), also available in French (ISBN 2-84788-000-3). . Melzer, Arthur (1990). The Natural Goodness of Man: On the System of Rousseau’s Thought. Chicago: University of Chicago Press. Pateman, Carole (1979). The Problem of Political Obligation: A Critical Analysis of Liberal Theory. Chichester: John Wiley & Sons. . . Riley, Patrick (ed.) (2001). The Cambridge Companion to Rousseau. Cambridge: Cambridge University Press. Robinson, Dave & Groves, Judy (2003). Introducing Political Philosophy. Icon Books. ISBN 1-84046-450-X. . . Schaeffer, Denise. (2014) Rousseau on Education, Freedom, and Judgment. Pennsylvania State University Press. Simpson, Matthew (2006). Rousseau’s Theory of Freedom. London: Continuum Books. . Starobinski, Jean (1988). Jean-Jacques Rousseau: Transparency and Obstruction. Chicago: University of Chicago Press. Strauss, Leo (1953). Natural Right and History. Chicago: University of Chicago Press, chap. 6A. . Strong, Tracy B. (2002). Jean Jacques Rousseau and the Politics of the Ordinary. Lanham, MD: Rowman and Littlefield. Talmon, Jacob R. (1952). The Origins of Totalitarian Democracy. New York: W. W. Norton. . Williams, David Lay (2007). Rousseau's Platonic Enlightenment. Pennsylvania State University Press. . Wokler, Robert. (1995). Rousseau. Oxford: Oxford University Press. . Wraight, Christopher D. (2008), Rousseau's The Social Contract: A Reader's Guide. London: Continuum Books.
A Aliquippa Allentown Altoona Ambridge Arnold B Baldwin Beaver Falls Bethlehem Bradford Butler C Carbondale Carlisle Chester Clairton Coatesville Connellsville Corry D DuBois Duquesne E Easton Erie F Farrell Franklin (Venango County) G Greensburg H Harrisburg Hazleton Hermitage J Jeannette Johnstown L Lansdowne Lancaster Latrobe Lebanon Lock Haven Lower Burrell M McKeesport Meadville Monessen Monongahela Monroeville N Nanticoke New Castle New Kensington O Oil City P Parker Philadelphia Pittsburgh Pittston Pottsville Pleasant Mount R Reading S St. Marys Scranton Shamokin Sharon Sunbury T Titusville U Uniontown W Warren Washington West Chester Wilkes-Barre Williamsport Y York
Jacksonville là một thành phố ở Quận Calhoun, Alabama, Hoa Kỳ. Dân số năm 2000 của thành phố là 8404 bao gồm 3.274 hộ gia đình với mật độ dân số là 393,3/km². Thành phần dân cư: 76,20% da trắng, 20,18% da đen, 1,29% châu Á, 0,35% da đỏ. Thu nhập bình quân mỗi hộ 48.137 USD. Thành phố có trường Đại học Tiểu bang Jacksonville với khoảng 9.000 sinh viên.
Alexandria, Virginia Bedford, Virginia Bristol, Virginia Buena Vista, Virginia Charlottesville, Virginia Chesapeake, Virginia Colonial Heights, Virginia Covington, Virginia Danville, Virginia Emporia, Virginia Fairfax, Virginia Falls Church, Virginia Franklin, Virginia Fredericksburg, Virginia Galax, Virginia Hampton, Virginia Harrisonburg, Virginia Hopewell, Virginia Lexington, Virginia Lynchburg, Virginia Manassas, Virginia Manassas Park, Virginia Martinsville, Virginia Newport News, Virginia Norfolk, Virginia Norton, Virginia Petersburg, Virginia Poquoson, Virginia Portsmouth, Virginia Radford, Virginia Richmond, Virginia Roanoke, Virginia Salem, Virginia Staunton, Virginia Suffolk, Virginia Virginia Beach, Virginia Waynesboro, Virginia Williamsburg, Virginia Winchester, Virginia
Las Vegas () là thành phố đông dân nhất ở tiểu bang Nevada, là thủ phủ của quận Clark, và là một thành phố nghỉ dưỡng, đánh bạc và ẩm thực nổi tiếng thế giới. Las Vegas, tự mệnh danh là Thủ đô giải trí của thế giới, nổi tiếng với các khu nghỉ dưỡng sòng bạc và các loại hình giải trí liên quan. Đây là thành phố đông dân thứ 28 ở Hoa Kỳ với dân số ước tính bởi Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là 558.383 người vào năm 2008. Dân số ước tính của vùng đô thị vào năm 2008 là 1.865.746. Được thành lập năm 1905, Las Vegas chính thức trở thành thành phố vào năm 1911. Với sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo, Las Vegas đã là thành phố Mỹ đông dân nhất được thành lập trong thế kỷ 20 (danh hiệu tương tự do Chicago giữ trong thế kỷ 19). Thành phố đã được chọn làm bối cảnh cho nhiều bộ phim, chương trình truyền hình. Thành phố này cũng có số lượng nhà thờ trên đầu dân cao nhất trong các thành phố lớn ở Hoa Kỳ. Tên gọi Las Vegas thường được dùng để chỉ các khu chưa hợp nhất bao quanh thành phố, đặc biệt là các khu nghỉ dưỡng vui chơi nằm trên Dải Las Vegas. Vị trí của thành phố (36.194168, 115.222060). Diện tích thành phố là 340 km2. Lịch sử Những người da đỏ du mục đã định cư tại Las Vegas 10.000 năm trước, để lại những bức tranh khắc đá. Các bộ lạc Anasazi và Paiute từng định cư tại Las Vegas cách đây ít nhất 2.000 năm. Một trinh sát trẻ người Mexico tên là Rafael Rivera được cho là người Mỹ không phải thổ dân đầu tiên đặt chân đến thung lũng Las Vegas, vào năm 1829. Thương nhân Antonio Armijo dẫn đầu một nhóm gồm 60 người dọc theo Đường mòn Tây Ban Nha đến Los Angeles, California vào năm 1829. Khu vực này được đặt tên là Las Vegas, theo tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "đồng cỏ", vì nó có nhiều loại cỏ phong phú. Năm 1844 đánh dấu sự xuất hiện của John C. Frémont, những bài viết của ông đã giúp thu hút những nhà thám hiểm đến khu vực này. Phố Fremont của trung tâm thành phố Las Vegas ngày nay được đặt theo tên của ông. Las Vegas được thành lập như một thành phố vào năm 1905, khi 110 mẫu Anh (45 ha) đất liền kề với các tuyến đường sắt Union Pacific Railroad được bán đấu giá để trở thành khu vực trung tâm của thành phố. Năm 1911, Las Vegas chính thức được hợp nhất để trở thành một thành phố. Năm 1931 là một năm trọng đại của Las Vegas. Vào thời điểm đó, Nevada đã hợp pháp hóa việc đánh bạc trong sòng bạc. Năm này cũng chứng kiến ​​việc khởi công xây dựng đập Hoover gần đó. Những người công nhân xây dựng và gia đình của họ đã giúp Las Vegas tránh được thảm họa kinh tế trong cuộc Đại suy thoái. Công trình hoàn thành vào năm 1935. Cuối năm 1941, Sân bay Quân đội Las Vegas được thành lập. Được đổi tên thành Căn cứ Không quân Nellis vào năm 1950. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các khách sạn được trang hoàng lộng lẫy, sòng bạc và các khu giải trí đã trở thành biểu tượng của Las Vegas. Trong năm 1951, vũ khí hạt nhân đã được thử nghiệm tại một địa điểm cách 65 dặm (105 km) về phía tây bắc của Las Vegas. Trong thời gian này, thành phố có biệt danh là "Thành phố nguyên tử" . Người dân và du khách có thể chứng kiến ​​những đám mây hình nấm (và tiếp xúc với bụi phóng xạ) Năm 1955, Moulin Rouge Hotel được khai trương và trở thành khách sạn-sòng bạc tích hợp chủng tộc đầu tiên ở Las Vegas. Biển hiệu "Chào mừng đến với Las Vegas" mang tính biểu tượng , được tạo ra vào năm 1959 bởi Betty Willis. Trong những năm 1960, các tập đoàn và ông trùm kinh doanh như Howard Hughes đã xây dựng và mua lại một loạt các khách sạn-sòng bạc. Cờ bạc đã trở thành một hoạt động kinh doanh hợp pháp. Năm 1995 đánh dấu việc khai trương Fremont Street Experience, tại khu vực trung tâm thành phố Las Vegas. Dân cư Dân số của Las Vegas Theo Điều tra dân số năm 2010 , thành phần chủng tộc của Las Vegas như sau: Người da trắng : 62,1% (người da trắng không phải gốc Latinh: 47,9%; người da trắng gốc Latinh: 14,2%) Người Mỹ da đen hoặc gốc Phi: 11,1% Người Mỹ gốc Á: 6,1% (3,3% Philippines, 0,7% Trung Quốc, 0,5% Hàn Quốc, 0,4% Nhật Bản, 0,4% Ấn Độ, 0,2% Việt Nam, 0,2% Thái Lan Hai hoặc nhiều chủng tộc : 4,9% Người Mỹ bản địa: 0,7% Người Hawaii bản địa và những người dân Đảo Thái Bình Dương khác : 0,6% Vài nét Las Vegas là một thành phố nổi tiếng thế giới về đánh bạc. Một số người Mỹ nói vui rằng phải gọi Las Vegas là "Lost Wages" (có nghĩa là "mất hết tiền lương"). Các sòng bài và khách sạn có nhiều đèn nê ông đến nỗi nhiều người gọi thành phố trên sa mạc này là "Thành phố Ánh sáng". Las Vegas còn nổi tiếng về nhà thờ tiệc cưới. Nhiều ngôi sao điện ảnh nổi tiếng đã tổ chức tiệc cưới tại đây.Mỗi khách sạn lớn ở Las Vegas đều rất đặc biệt. Vào trong đó như bước vào một thế giới khác. Có khách sạn thì giống như Ai Cập cổ xưa. Khách sạn khác thì giống như hòn đảo nhiệt đới. Có cái thì giống như thành phố New York. Ở những khách sạn này luôn có những nhà giải trí nổi tiếng biểu diễn. Mọi thứ Las Vegas có vẻ đắt đỏ nhưng riêng phòng ngủ thì chỉ tốn nửa giá so với những nơi khác. Các nhà hàng thì bán đủ các món bạn-có-thể-ăn-được chỉ kiếm một ít tiền lãi. Sở dĩ có như vậy bởi vì các khách sạn chủ yếu kiếm tiền từ các sòng bạc. Las Vegas bắt đầu năm 1905 như là ga xe lửa nhỏ. Lúc đó chỉ có một vài toà nhà ở trung tâm sa mạc. Năm 1946, một tay lưu manh nổi tiếng có tên là Bugsy Siegel dựng nên sòng bài đầu tiên tại Las Vegas. Vì nhiều lý do khác nhau, hắn bị giết năm 1947. Điều này làm cho cả hắn lẫn Las Vegas càng nổi tiếng hơn. Đầu những năm 1950, du khách đến Las Vegas không chỉ để đánh bạc mà họ đến để xem các cuộc thí nghiệm bom nguyên tử ở sa mạc nằm ngoài thành phố. Hồi đó, người ta không biết nó nguy hiểm, thậm chí họ nghĩ nó rất thú vị khi xem.Las Vegas rất nổi tiếng về nhà thờ tiệc cưới. Cũng giống như tất cả những nơi khác ở Las Vegas, nhà thờ tiệc cưới ở đây mở cửa 24/24. Cách thức tổ chức tiệc cưới đơn giản. Đôi vợ chồng chỉ trả vài đô-la cho một giấy đăng ký và họ có thể cưới ngay lập tức mà không cần phải chờ đợi thêm bất cứ điều gì. Trong nhiều năm, Las Vegas đã trở thành sự lựa chọn cho ngày vui trong cuộc đời của những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng. Một điều thú vị khác là du khách có nhiều cơ hội để thưởng thức những cảm giác mạnh tại Las Vegas hơn bất kỳ một thành phố nào khác ở Mỹ. Cũng như Monte Carlo, thành phố đánh bạc này còn được đặt tên cho một loại thuật toán ngẫu nhiên mang tên Thuật toán Las Vegas. Khí hậu Kinh tế Nền kinh tế của Las Vegas chủ yếu dựa vào du lịch, đánh bạc, tổ chức hội nghị kéo theo các ngành khác như bán lẻ, nhà hàng phát triển theo. Thành phố này là nơi đóng trụ sở của hai công ty trong nhóm Fortune 500 công ty đánh bạc lớn nhất thế giới, Harrah's Entertainment và MGM Mirage. Nhiều công ty sản xuất máy đánh bạc điện tử nằm ở khu vực Las Vegas. Việc quảng cáo và tiếp thị do Las Vegas Convention and Visitors Authority đảm trách. Dân số tăng liên tục đã khiến ngành xây dựng quan trọng. Chỉ riêng năm 2000, hơn 21.000 căn nhà mới và 26.000 nhà bán lại đã được mua-bán. Đầu năm 2005, có 20 dự án phát triển nhà ở với diện tích hơn 300 mẫu Anh mỗi khu đã được triển khai. Trong cùng thời kỳ đó, Las Vegas được xem như cộng đồng tăng trưởng nhanh nhất ở Hoa Kỳ.
Seattle (, ) là một thành phố cảng biển tọa lạc ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Thành phố này nằm ở phía tây tiểu bang Washington trên một dải đất giữa Vịnh Puget (một nhánh nhỏ của Thái Bình Dương) và hồ Washington, khoảng cách khoảng 160 km về phía nam biên giới Canada – Hoa Kỳ. Thành phố được đặt tên theo tù trưởng Seattle, thuộc các bộ lạc Duwamish và Suquamish. Seattle là trung tâm của vùng đô thị Seattle–Tacoma–Bellevue lớn thứ 15 ở Hoa Kỳ và lớn thứ nhất ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Là một trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục của khu vực, Seattle là thủ phủ của Quận King. Theo cuộc điều tra dân số vào tháng 4 năm 2009, Seattle có dân số khoảng 617.000 người, còn vùng đô thị là 4.158.000 người. Cảng Seattle và Sân bay quốc tế Seattle-Tacoma là cửa ngõ chính đi tới Châu Á, Alaska và các nơi khác trên thế giới. Những người bản địa đã định cư tại Seattle ít nhất 4000 năm, nhưng khu định cư người châu Âu chỉ bắt đầu vào giữa thế kỷ 19. Những người định cư châu Âu lâu dài đầu tiên — Arthur A. Denny và những người tiếp theo được gọi là bọn Denny — đã đến đây vào ngày 13 tháng 11 năm 1851. Năm 1853, David Swinson Maynard đã đề xuất tên gọi khu định cư chính được đổi thành "Seattle", một tên gọi Anh hóa của tên Sealth, tù trưởng của hai bộ lạc địa phương. Kể từ đó, thành phố có tên gọi là Seattle. Từ năm 1869 cho đến năm 1882, Seattle đã có biệt danh "Queen City". Seattle nổi tiếng với việc tiêu thụ nhiều cà phê; các công ty cà phê được thành lập hoặc đóng trụ sở ở Seattle có Starbucks, Seattle's Best Coffee, và Tully's. Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Central Connecticut đã xếp hạng Seattle là thành phố học thức nhất Hoa Kỳ trong 69 thành phố lớn nhất châu Mỹ trong năm 2005 và 2006, xếp thứ nhì trong năm 2007 (sau Minneapolis, Minnesota), và hòa với Minneapolis vào năm 2008. Ngoài ra, số liệu điều tra từ Cục điều tra dân số Hoa Kỳ cho thấy Seattle là thành phố có giáo dục cao nhất Hoa Kỳ, với 52,5% dân số từ tuổi 25 trở lên có bằng cử nhân hoặc cao hơn. Seattle là nơi sinh của huyền thoại nhạc rock Jimi Hendrix và phong cách nhạc gọi là "grunge" trứ danh bởi các ban nhạc Nirvana, Alice in Chains, Pearl Jam, và Soundgarden. Bruce Lee và người con trai của ông, Brandon Lee được an táng ở khu nghĩa trang Lakeview. Xét về thu nhập bình quân đầu người, một nghiên cứu của Cục phân tích kinh tế Mĩ xếp hạng vùng đô thị Seattle đứng thứ 17 trong 363 khu vực đô thị trong năm 2006. Seattle từ một vùng kinh tế lạc hậu, nay đã phát triển mạnh mẽ về trung tâm công nghệ thông tin, hàng không, kiến trúc và các ngành công nghiệp giải trí. Thành phố được biết đến như một trung tâm của những người yêu công nghệ "xanh". Các tuyến đường sắt và xe điện thô sơ (street car) đã từng thống trị hệ thống giao thông nhưng đã bị thay thế phần lớn bằng một hệ thống xe buýt dày đặc và sự phát triện nhanh chóng đã khiến cho xe hơi trở thành phương tiện chính của người dân từ giữa đến cuối thế kỉ XX. Chính vì vậy, Seattle đã trở thành một trong những thành phố có nạn ùn tắc giao thông nhiều nhất nước Mĩ. Mặc dù vậy, những nỗ lực để thay đổi vấn nạn này tại các khu vực và các cơ quan chức năng đã dẫn đến dịch vụ đường sắt mới nối Seattle đến Everett và Tahoma, liên kết khu vực Light Rail về phía Nam từ khu Trung tâm và khu nội thành South Lake Union bằng tuyến đường sắt South Lake Union. Một tuyến đường mở rộng ở phía Nam đi tới Sân bay Quốc tế Seattle-Tahoma bắt đầu được đưa vào sử dụng từ ngày 19 tháng 12 năm 2009; tuyến đường mở rộng ở phía Bắc thì đi đến Đại học Washington được xây dựng vào năm 2010; và một vài mở rộng xa hơn như kế hoạch đi đến Lynnwood ở phía Bắc, Des Moines ở phía Nam, và Bellevue và Redmond ở phía Đông vào năm 2023. Lịch sử Thành lập Khai quật khảo cổ xác nhận rằng khu vực Seattle đã có con người sinh sống cách đây ít nhất 4.000 năm. Trước khi những người châu Âu đầu tiên đến khu vực này, người dân bản địa (nay gọi là tộc Duwamish) đã chiếm 17 làng quanh khu vực Vịnh Elliott. Người châu Âu đầu tiên đặt chân đến khu vực Seattle là George Vancouver vào tháng 5 năm 1792 trong chuyến thám hiểm để lập biểu đồ Tây Bắc Thái Bình Dương (1791-1795). Năm 1851, một đoàn người đông đúc do Luther Collins đặt chân đến cửa sông Duwamish, họ đã tuyên bố chủ quyền vùng đất này vào ngày 14 tháng 9 năm 1851. Mười ba ngày sau đó, các thành viên của nhóm người Collins trên đường đi dành chủ quyền đã đi ngang qua ba trinh sát viên của nhóm Denny. Các thành viên của nhóm Denny tuyên bố chủ quyền vùng đất Aiki Point vào ngày 28 tháng 9 năm 1851. Số người còn lại của nhóm Denny đi buồm từ Portland, Oregon và đến được Aiki Point trong một cơn mưa bão ngày 13 tháng 11 năm 1851. Sau một mùa đông khó khăn, hầu hết các thành viên nhóm Denny di chuyển qua Vịnh Elliott và thành lập làng "Dewamps" hoặc "Duwamps" trên vùng đất mà ngày nay Pioneer Square. Charles Terry và John Low ở lại vị trí ban đầu và lập một ngôi làng mang tên "New York", nhưng lại đổi lại thành "New York Aiki" từ tháng 4 năm 1853. Chữ "Aiki" trong tiếng Chinook có nghĩa là lát nữa thôi, ngay bên cạnh hoặc một người nào đó. New York Alki và Duwamps cạnh tranh cho sự thống trị trong một vài năm tới, nhưng sau đó Aiki bị bỏ rơi và người dân chuyển sang sinh sống ở bên kia vịnh. David Swinson ("Doc") Maynard, một trong những người sáng lập Duwamps, là người đề xuất tên gọi làng là "Seattle" từ tên của tù trưởng của hai bộ lạc Duwamish và Suquamish, Sealth. Thuật ngữ "Seattle", xuất hiện trên chính thức trên lãnh thổ Washington ngày 23 Tháng Năm 1853. Năm 1855, khu định cư được thành lập. Ngày 14 tháng 1 năm 1865, Lập pháp của Washington hợp nhất thị trấn Seattle với một ủy ban quản lý thành phố. Hai năm sau, sau khi đơn xin đã được nộp bởi hầu hết các công dân hàng đầu, lập pháp đã giải tán trị trấn. Năm 1867, một linh mục Công giáo người Canada gốc Pháp tên là Francis X. Prefontaine đến Seattle và quyết định thành lập một giáo xứ ở đó. Trong thời gian 1868-1869, ông đã góp tiền xây dựng nhà thờ bằng cách nâng cao tiền tại hội chợ, triển lãm ở khu vực Vịnh Puget và cho ra nhiều công trình, vào năm 1869, ông mở cửa nhà thờ Công giáo đầu tiên tại Seattle trên Đại lộ thứ ba và đường Washington, Thị trấn vẫn còn một khuôn viên của Quận King cho đến cuối năm 1869 khi một đơn yêu cầu mới đã được đệ lên và thành phố đã được tái hợp với một chính quyền thị trưởng-hội đồng. Các con dấu chính thức của thành phố Seattle mang năm "1869". Cuộc đi tìm vàng, Thế chiến thứ I và Đại Khủng hoảng Kể từ khi tìm ra vàng ở dọc sông Klondike gần cuối thế kỉ XIX, mọi người đổ xô đến để đào vàng. Kể từ đó, Seattle đã trở thành một trung tậm vận chuyển lớn. Ngày 14 tháng 7 năm 1897, các tàu SS Portland chứa hàng tấn vàng cập cảng Seattle, và Seattle đã trở thành mốc giao thông chính và cung cấp hàng hoá cho các thợ mỏ ở Alaska và Yukon. Cùng với Seattle, các thành phố khác như Everett, Tacoma, Port Townsend, Bremerton, và Olympia, tất cả trong khu vực Vịnh Puget, trở thành đối thủ cạnh tranh để trao đổi, chứ không phải chỉ mình Seattle là trung tâm chính khai thác các kim loại quý. Cuộc đổ xô đi tìm vàng ở Yukon kết thúc vào năm 1909, và năm đó thành phố cũng đã đăng cai tổ chức Triển lãm thế giới. Một sự bùng nổ đóng tàu có quy mô lớn ở phần đầu của thế kỷ 20 làm cho các hãng đóng tàu tăng thêm nhân công nhưng lại trả lương rất ít ỏi, các công nhân đã đồng loạt đình công để đạt được mức lương cao hơn sau hai năm Thế chiến thứ I kiểm soát tiền lương, đã tạo nên cuộc Tổng đình công ở Seattle năm 1919, là cuộc tổng đình công đầu tiên trong nước. Một kế hoạch phát triển thành phố vào năm 1912 do Virgil Bogue đề xướng nhưng không được sử dụng. Nền kinh tế của Seattle phát triển thịnh vượng vào những năm 1920 nhưng lại bị suy thoái do ảnh hưởng của Đại Khủng hoảng, và đã phải trải qua nhiều cuộc xung đột lao động nghiêm trọng nhất của đất nước trong thời kỳ đó. Những cuộc xung đột trong thời gian diễn ra cuộc Đình công bờ biển phía Tây năm 1934 đã khiến cho Seattle phải trả chi phí rất lớn nếu muốn đi đến cảng Los Angeles bằng tàu. Seattle cũng là trụ sở của ông trùm sân khấu kịch hài Alexander Pantages, người mà đã mở hàng loạt các sân khấu dành cho kịch hài, kịch câm tại Seattle. Những nhà hát của ông luôn được mở rộng, và từ một người Mỹ gốc Hy Lạp nghèo túng, ông đã trở thành một trong những ông bầu xuất sắc nhất nước Mĩ và mau chóng trở thành ông trùm màn bạc. Seattle được cho là nơi hấp dẫn du khách ở miền Tây Hoa Kỳ nhờ vào các tạp kỹ (biểu diễn ca, nhạc, múa, xiếc...). Thành công của Pantages một phần là do công của Kỹ sư- Kiến trúc sư người Scotland B. Marcus Priteca. Priteca đã xây những nhà hát có thể phá huỷ hoặc dễ dàng di chuyển từ nơi này sang nơi khác cho nhiều mục đích khác nhau. Liên doanh Pantages-Priteca có độ ảnh hưởng rất lớn đối với công chúng Mĩ thời đó. Tuy nhiên, những nhà hát của Pantages-Priteca còn sót lại trên một số thành phố của Hoa Kỳ chỉ còn một cái tên là Pantages. Những năm sau chiến tranh: Hàng không và điện tử Nền kinh tế khu vực xuống dốc sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đồng nghĩa với việc làn sóng nhập cư từ Nhật Bản đến Seattle. Nền kinh tế được phục hồi trở lại nhờ sự thống trị ngày càng tăng trong thị trường máy bay chở khách của công ty sản xuất máy bay Boeing. Seattle tổ chức lễ ăn mừng cho sự phục hồi thịnh vượng của nó và tổ chức Triển lãm thế kỉ 21 và Hội chợ thế giới 1962. Nhưng kinh tế địa phương đã đi vào một tình trạng suy thoái lớn trong cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Nhiều người rời khỏi khu vực để tìm việc làm ở nơi khác, và các công ty bất động sản lớn ở Seattle đã đăng bản thông báo "Will the last person leaving Seattle – Turn out the lights." Tuy nhiên, Seattle vẫn là trụ sở của Boeing cho đến năm 2001, sau đó thì chuyển sang thành phố Chicago, Illinois. Tuy vậy, Seattle vẫn là nơi sản xuất các dòng máy bay dân dụng của Boeing. Có hai nhà máy sản xuất đó là Boeing Renton Factory (nơi mà 707, 720, 727, và 757 được lắp ráp, trong đó 737 vẫn còn hoạt động đến ngày nay), nhà máy thứ hai là Boeing Everett Factory (nơi sản xuất 747, 767, 777, và 787). Khi sự thịnh vượng bắt đầu trở lại vào những năm 80, thành phố đã làm sửng sốt giới truyền thông sau khi mười ba người đã thiệt mạng trong một câu lạc bộ đánh bài bất hợp pháp ở Quận International, Khu phố Tàu. Đây là vụ thảm sát tồi tệ nhất trong lịch sử của Seattle. Kỷ nguyên điện tử của Seattle bắt đầu từ việc Microsoft dời trụ sở từ Albuquerque, New Mexico đến gần Bellevue, Washington, Vào giai đoạn này, Seattle đã có sự thu hút đối với giới doanh nghiệp. Vì vậy, thành phố đã là trụ sở của nhiều công ty lớn. Thành phố cũng là chủ nhà của Đại hội thể thao Goodwill Games năm 1990, Hội nghị APEC năm 1993. Cũng trong giai đoạn này, dòng nhạc grunge (xuất xứ từ Seattle) đã phát triển và phổ biến rộng khắp. Địa lý Với tổng diện tích 83,9 dặm vuông, Seattle nằm ở 47,37 vĩ độ Bắc và 122,20 kinh độ Tây. Địa hình chính là đồi núi, Seattle nằm trên bảy ngọn đồi là Capitol Hill, First Hill, West Seattle, Beacon Hill, Magnolia, Denny Hill và Queen Anne. Kitsap và bán đảo Olympic cùng với những ngọn núi Olympic nằm ở phía Tây của Vịnh Puget, trong khi dãy Cascade và Lake Sammamish nằm về phía đông hồ Washington. Các khu rừng xanh tươi tốt và nhiều cơ quan nước đã cung cấp kế sinh nhai cho nhiều cộng đồng hái lượm và săn bắn. Địa hình Seattle nằm giữa Vịnh Puget (là một vịnh nhỏ, được xem là cánh tay phải của Thái Bình Dương) về phía tây, và hồ Washington về phía đông. Cảng chính của thành phố, Elliott Bay, là lối vào của Vịnh Puget. Ở phía Tây, bên kia Vịnh Puget là bán đảo Kitsap, dãy núi Olympic trên bán đảo Olympic; ở phía Đông, có hồ Washington, vùng ngoại ô, hồ Sammamish và dãy Cascade. Biển, sông, rừng, hồ, và các cánh đồng xung quanh Seattle đã hỗ trợ cho các hoạt động xã hội. Khu vực xung quanh cũng có địa hình rất thích hợp cho việc chèo thuyền, trượt tuyết, đi xe đạp, cắm trại, đi bộ đường dài,... Thành phố năm ngay tại khu vực đồi núi, mặc dù không được đồng đều cho lắm. Giống như Roma, thành phố được cho là nằm trên bảy ngọn đồi, bao gồm đồi Capitol, đồi First, West Seattle, đồi Beacon, Queen Anne, Magnolia, và Denny. Nhiều khu vực đồi núi nằm gần trung tâm thành phố, tạo thành một sống núi dọc theo một eo đất giữa Vịnh Elliott và Hồ Washington. Vết nứt trong các sóng núi giữa đồi First và đồi Beacon là nhân tạo, kết quả của việc hai trong số nhiều dự án định hình lại trung tâm thành phố. Địa hình ở trung tâm thành phố cũng đã được thay đổi bởi việc xây dựng một bờ đê và đảo nhân tạo Harbor (hoàn thành năm 1909) ở cửa công nghiệp Duwamish Waterway. Điểm cao nhất trong giới hạn thành phố nằm ở West Seattle, nằm gần Đại lộ Tây Nam thứ 35 và SW Myrtle St. Các ngọn đồi đáng chú ý khác bao gồm Crown Hill, View Ridge/Wedgwood/Bryant, Maple Leaf, Phinney Ridge, Mt. Baker Ridge, Highlands/Carkeek/Bitterlake. Ở phía Bắc trung tâm thành phố, kênh đào Hồ Washington kết nối Vịnh Puget với Hồ Washington. Nó hợp thành bốn phần: Hồ Union, Vịnh Salmon, Vịnh Portage, và Vịnh Union. Vì nằm trên Vành đai lửa Thái Bình Dương, Seattle là nơi thường xuyên xảy ra động đất. Vào ngày 28 tháng 2 năm 2001, một cơn động đất 6,8 độ Richter đã tàn phá thành phố, đặc biệt là ở khu vực Quảng trường Pioneer (được xây dựng trên đất khai hoang, là Khu công nghiệp và một phần trung tâm thành phố), nhưng không gây tử vong. Một số địa chấn có thể kể đến vào ngày 26 tháng 1 năm 1700 (ước tính khoảng 9 độ richter), ngày 14 tháng 12 năm 1872 (7.3 hoặc 7.4 độ), ngày 13 tháng 4 năm 1949 (7.1), and ngày 29 tháng 4 năm 1965 (6.5). Cơn địa chấn vào năm 1949 đã gây ra 8 ca tử vong, tất cả đều sống ở Seattle; còn cơn địa chấn năm 1965 đã làm ba người thiệt mạng ở Seattle, trong đó có một vụ là do lên cơn đau tim. Mặc dù rãnh đứt gãy Seattle nằm về phía nam trung tâm thành phố, không phải nó cũng không phải hút chìm Cascadia đã gây nên trận động đất lúc thành phố được thành lập. Khu vực hút chìm Cascadia đặt ra mối đe dọa vì nó có thể gây nên một trận động đất 9 độ richter hoặc cao hơn, có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng thành phố và khiến nhiều tòa nhà sụp đổ, đặc biệt là trong khu vực được xây trên nền đất yếu. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, Seattle có tổng diện tích là , ở đất liền và là nước (chiếm 41% tổng diện tích thành phố). Khu vực lân cận Khí hậu Seattle là nơi có mưa nhiều làm thành phố luôn xanh tươi, vì vậy Seattle được gọi là "The Emerald City". Thành phố thường được mô tả là có khí hậu Ôn đới Hải dương hoặc là khí hậu Bờ biển tây Marine, một loại khí hậu đặc trưng của bờ biển phía Tây của châu lục. Ở Seattle, mùa đông thì ẩm ướt còn mùa hạ thì ấm áp. Theo hệ thống Phân loại khí hậu Köppen thì giống như các thành phố khác ở Tây Bắc Thái Bình Dương, Seattle nằm trong khu vực cận nhiệt đới có mùa hè khô và tương đối mát mẻ. Một số các hệ thống phân loại khí hậu khác như Trewartha chỉ phân loại Seattle là thuộc khí hậu Ôn đới. Nhiệt độ ít khi xuống 0 độ C vào mùa đông nên ít khi có tuyết. Lượng tuyết rơi trung bình hằng năm là 33 cm (được đo bởi Sân bay Sea-Tac). Mưa nhiều nhất là vào tháng 1 đến tháng năm và từ tháng mười đến tháng mười hai. Mưa không lớn nhưng đa số là mưa phùn, nhỏ và kéo dài. Trong một tuần mưa có thể liên tục bảy ngày, một năm chỉ được khoảng 60-70 ngày nắng. Bão ít khi xảy ra ở Seattle. Thời gian khô ráo nhất trong năm là từ tháng 6 đến tháng 8. Cũng giống như các thành phố nằm trên cùng vĩ tuyến cao phía Bắc, ngày mùa hè ở Seattle kéo dài (mặt trời chiếu sáng suốt 16 giờ vào ngày 21/6), ngược lại, ngày mùa đông lại ngắn và ảm đạm (mặt trời chỉ chiếu 8,5 giờ ngày 21/12). Tám mươi dặm (130 km) về phía Tây là Rừng già Hoh ở Công viên Quốc gia Olympic. Nó nằm trên các sườn tây của dãy núi Olympic nhận được một lượng mưa hàng năm trung bình là 3.610 mm và thủ phủ của tiểu bang, Olympia có lượng mưa hàng năm là 1320 mm. Khí hậu vào giữa tháng Bảy đến giữa tháng Chín thường nắng và khô ráo hơn. Trong khoảng thời gian này, Seattle thường sẽ có mười, hai mươi, hoặc ba mươi ngày không có hạt mưa nào. Trung bình có 20 mm mưa rơi vào tháng bảy và 25 mm trong tháng Tám. Khí hậu vào mùa hè khô hơn đáng kể và có độ ẩm thấp hơn so với ở những vùng có khí hậu lục địa ẩm. Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều đó, thường là khi nhiệt độ đạt trên 26,7 độ C. Chính vì vậy, Seattle thỉnh thoảng có các cơn dông vào mùa hè. Kinh tế Vùng Vịnh Puget là trung tâm kinh tế của Bang Washington và khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương. Seattle chiếm ưu thế ở vùng này, nơi có xấp xỉ 2/3 tổng số lao động của tiểu bang. Kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Seattle đã chuyển mình từ một thị trấn bình lặng chuyên về ngư nghiệp và khai thác lâm sản sang một trung tâm tiên phong về công nghệ cao. Seattle là nơi xuất phát của công ty làm chủ các quán cà phê Starbucks và những công ty cạnh tranh nhỏ hơn để thỏa mãn nhu cầu về loại cà phê dành cho giới thượng lưu. Theo các nhà phân tích, Seattle có mức độ tăng trưởng trung bình. Bên cạnh cuộc suy thoái gần đây, nền kinh tế Seattle/ Vịnh Puget đã phát triển nhanh hơn nền kinh tế cả nước. Sự tăng trưởng kinh tế của Seattle cũng đã vượt xa hầu hết các thành phố ở khu Bờ biển phía Tây. Tốc độ tăng trưởng trên trung bình là xu hướng trường kỳ, nó vượt qua vòng tuần hoàn kinh tế và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng theo như dự đoán trong tương lai. Nền kinh tế ở Seattle cũng phụ thuộc vào Boeing. Gần 60 ngàn người khắp thành phố Seattle làm việc cho hãng Boeing. Vào năm 2005, chỉ riêng hãng hàng không vũ trụ này đã chiếm 40.6% về việc làm trong tất cả các ngành công nghiệp sản xuất ở Khu đô thị Seattle. Tuy nhiên Vụ tấn công khủng bố ngày 11/9 và suy thoái kinh tế quốc gia đã kéo sự suy sụp của du lịch hàng không. Vào giữa năm 2004, hãng Boeing đã sa thải 50,800 công việc trong khu vực. Mặc dù vậy, hãng Boeing tuyên bố rằng việc sản xuất máy bay thương mại chở khách vẫn sẽ được duy trì sự phát triển tập trung ở vùng Vịnh Puget, và vào năm 2003 đã thông báo rằng thế hệ tiếp theo của máy bay phản lực, 787, sẽ được lắp ráp ở Everett. Hãng Boeing bắt đầu thuê lại nhân công, công ty này đã tuyển thêm 3,200 nhân công địa phương. Các hoạt công nghệ cao đang mở rộng vai trò của chúng trong nền kinh tế Seattle. Khu vực này đã phát triển thành trung tâm hàng đầu về các ngành phần mềm, viễn thông, công nghệ sinh học và công nghệ y học. Microsoft, công ty có trụ sở nằm ở khu vực Tây ngoại ô Redmond, đã phát triển lớn mạnh và trở thành nhà sản xuất phần mềm lớn nhất trên thế giới và hiện nay đã thuê xấp xỉ 28,000 nhân công địa phương, đây cũng là doanh nghiệp tư nhân lớn thứ hai trong khu vực. Công nghệ sinh học – chuyên ngành mũi nhọn của trường Đại học Washington, học viện nghiên cứu Ung Thư Fred Hutchinson, tổ hợp lớn về phương tiện y tế ở Seattle – là một ngành công nghiệp phát triển nhanh chóng. Tiểu bang Washington còn trồng trái cây để xuất khẩu, và rượu nho của tiểu bang này, được sản xuất tại Thung Lũng Columbia ở phía tây Seattle, đang bắt đầu thu hút được những khách hàng trung thành trên thế giới, như lời nhà sản xuất rượu nho Mike Mrachek, chủ nhân hãng rượu St.Laurent Wines. Ông Mrachek nói: "Táo và anh đào của Tiểu bang Washington đã nổi tiếng trên thế giới rồi, và công nghiệp làm rượu nho cũng thế. Chúng tôi trồng được những loại nho có chất lượng". Dân số Dân số thành phố này thời điểm ngày 18 tháng 9 năm 2009 khoảng 602,000 người, là thành phố đông dân thứ 25 ở Hoa Kỳ còn dân số vùng đô thị là 3,407,848 người. Mật độ dân số của thành phố là 7.1 36/mi². Hầu hết sự gia tăng dân số của thành phố diễn ra ở các khu ngoại ô. Giống như những khu đô thị lớn của Mỹ, trước năm 1990 trung tâm thành phố có số lượng dân số ổn định hoặc giảm sút. Cuối những năm 1980, Seattle đảo ngược sự suy giảm suốt 30 năm, và dân số đã nhanh chóng phục hồi từ 493,846 năm 1980 lên 572,600 năm 2004. Theo cuộc Khảo sát cộng đồng người Mỹ vào năm 2006-2008, thành phần chủng tộc ở Seatte được thống kê như sau: Mỹ trắng: 71.3% Người Mỹ gốc Phi: 8.0% Người da đỏ: 0.9% Người châu Á:13.2% Người Mỹ gốc Úc: 0.4% Chủng tộc khác: 2.2% Mỹ lai: 4.0% Tây Ban Nha và Mỹ Latin: 5.6% Người Việt: 2.4% Nguồn: Cũng theo cuộc Khảo sát cộng đồng người Mỹ 2006-2008, tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến nhất khi nói ở nhà, khoảng 78,9% trẻ trên năm tuổi chỉ nói tiếng Anh ở nhà. Tiếng Tây Ban Nha có 4.5% dân số ở Seattle sử dụng; 3.9% dân số nói các tiếng khác thuộc Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu; những người nói ngôn ngữ châu Á ở nhà chiếm 10.2% dân số. 2.5% còn lại là những người nói các ngôn ngữ khác. Vào năm 1999, thu nhập trung bình của một hộ gia đình ở thành phố là $45,736, còn thu nhập trung bình cho một gia đình là $62,195. Nam giới có thu nhập trung bình là $40,929 so với 35,134 $ của phái nữ. Thu nhập bình quân đầu người của thành phố là $30,306. 11.8% dân số và 6.9% số gia đình ở Washington thuộc dạng đói nghèo. Trong số những người sống trong cảnh đói nghèo, có 13,8 phần trăm là ở độ tuổi dưới 18 và 10,2 phần trăm là 65 tuổi trở lên. Người ta ước tính rằng Quận King có 8.000 người vô gia cư và nhất là ở thành phố Seattle. Trong tháng 9 năm 2005, các huyện đã thực hiện một kế hoạch mười năm để giúp người vô gia cư bằng cách xây dựng nhà cửa cho họ.. Cơ sở hạ tầng Giao thông Seattle là một điểm nút giao thông quan trọng ở ven biển Thái Bình Dương, một hải cảng lớn của Hoa Kỳ trong thế kỉ 20.Thành phố tạo lạc trên một vùng cảng biển nước sâu rất đẹp nằm ở ngay trung tâm lưu vực Vịnh Puget. Vị trí này tạo điều kiện thuận lợi cho Seattle khả năng cạnh tranh thương mại trong khu vực cũng như quốc tế. Seattle được ví như một cửa ngõ lớn cho cả khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và Alaska. Seattle đã xây dựng sự thịnh vượng của nó bằng cách tận dụng vị trí chiến lược vốn có. Sân bay quốc tế Seattle-Tacoma nằm ở phía Nam thành phố có các chuyến bay trực tiếp tới nhiều sân bay khác trong lãnh thổ nước Mỹ cũng như với Canada và các thành phố bên kia đại dương. Thương mại với khu vực Châu Á đã phát triển đáng kể và đóng vai trò quan trọng trong suốt 20 năm qua, và xu hướng này hy vọng sẽ tiếp tục được duy trì hiệu quả trong tương lai. Nằm trong thị trấn gần Sea-Tac và quản lý bởi Cảng Seattle, nó cung cấp các điểm đến như Paris, Luân Đôn, Amsterdam và Tokyo và Đài Bắc. Alaska Airlines có trụ sở chính tại sân bay. Năm 2006, sân bay phục vụ khoảng 30 triệu hành khách. Một sân bay nữa tên là Boeing Field (còn có tên là Sân bay quốc tế King County) được đặt tại Seattle. Nó chủ yếu được sử dụng cho chuyên chở hàng hóa, thử nghiệm các chiếc máy bay Boeing được xây dựng gần đó. Mặc dù thành phố Seattle có các phương tiện vận tải như đường sắt và xe buýt nhưng xe ô tô mới là phương tiện chủ yếu. Các tàu điện đầu tiên được xuất hiện đầu tiên vào năm 1889 đã góp phần vào việc tạo ra một trung tâm tương đối ổn định. Sự xuất hiện của xe ô tô đã lên tiếng hồi chuông báo tử cho hệ thống đường sắt ở Seattle. Vào năm 1929, hệ thống đường sắt Seattle-Tacoma phải đóng cửa, còn tuyến đường sắt Seattle-Everett đóng cửa vào năm 1939, thay vào đó là xe ô tô giá rẻ chạy trên đường cao tốc. Và đến năm 1941, sự xuất hiện của xe điện chở hành khách đã mang lại sự kết thúc cho xe điện. Điều này đã làm trải rộng mạng lưới xe buýt tư nhân (sau này là công cộng) như là giao thông công cộng duy nhất trong thành phố và cả khu vực. Seattle tọa lạc tại điểm giao nhau của hai tuyến đường cao tốc nối các tiểu bang: tuyến đường số 5 và 90. Tuyến đường số 5 có lộ trình Bắc - Nam, nối hai thành phố lớn của bờ biển Thái Bình Dương. Tuyến đường số 90 nối liền Seattle với khu vực phía Tây; tuyến đường này mở rộng tới Spokane, Minneapolis- St. Paul, Chicago và cuối cùng là Boston. Rất nhiều tuyến phà đi dọc theo Vịnh Puget và kết nối Seattle với những thành phố khác ở bờ phía đông của khu Sound với Bán đảo Kitsap và Bán đảo Olympic về phía Tây. Y tế Đại học Washington liên tục được xếp hạng một trong những dịch vụ y tế tốt nhất trong một nghiên cứu về y dược gần đây. Các địa phương lân cận của Seattle đã được trang bị hệ thống cấp cứu và y tế hiện đại ngay từ năm 1970. Ba bệnh viện lớn nhất Seattle là Harborview Medical Center, bênh viện công lớn nhất hạt, Virginia Mason Medical Center và Swedish Medical Center's đều nằm tại đồi First Hill. Chính vì thế ngọn đồi này còn được gọi là "Pill Hill" (tạm dịch: đồi thuốc). Văn hóa Seattle thường được xem như nơi sinh ra nhạc grunge với các ca sĩ và ban nhạc nổi tiếng như Nirvana, Pearl Jam, Soundgarden, Alice in Chains, Green River, Mudhoney và Screaming Trees. Những nhóm nhạc này đã ảnh hưởng rất lớn với người dân Seattle vào những năm 1990. Ngoài ra, thành phố cũng có những ngôi sao nhạc jazz như Bill Frisell và Wayne Horvitz, rapper Sir Mix-a-Lot, nhạc công saxophone Kenny G, ban nhạc heavy metal Nevermore, ban nhạc industrial metal KMFDM, và các nhóm nhạc pop/rock như Aiden, Goodness và The Presidents of the United States of America. Một số nhạc sĩ nổi tiếng như Jimi Hendrix, Duff McKagan, Nikki Sixx, và Quincy Jones đều sinh sống ở Seattle. Seattle là một trung tâm biều diễn nghệ thuật trong nhiều năm. Dàn nhạc giao hưởng Seattle là một trong những dàn nhạc lớn nhất thế giới, biểu diễn hơn 125 bản nhạc giao hưởng và được đề cử 12 giải Grammy. Thơ cũng là một phần nghệ thuật ở Seattle. Nó được phát triển song song với thể loại nhạc indie rock trong thập niên 1980 và thập niên 1990. Các nhà thơ tài năng như Buddy Wakefield (hai lần vô địch thế giới cuộc thi thơ ca), Anis Mojgani (hai lần vô địch quốc gia về thơ ca) và Danny Sherrardune (một lần vô địch quốc gia về thơ ca) đều là người Seattle. Seattle đã tổ chức cuộc thi thơ quốc gia vào năm 2001 và cứ sáu tháng một lần, thành phố đều tổ chức lễ hội thơ Seattle. Seattle còn nổi tiếng về tiêu thụ nhiều cà phê. Công ty cà phê được thành lập ở đây có Starbucks và Tully's. Seattle là nơi nhóm họp của WTO năm 1999 - cuộc họp bị nhiều nhà hoạt động chống toàn cầu hóa tổ chức biểu tình phản đối. Các nhà nghiên cứu của Đại học Trung tâm bang Connecticut xếp Seattle vào hạng thành phố có học thức nhất châu Mỹ năm 2005. Một thống kê cho thấy tỷ lệ người tốt nghiệp đại học cao đẳng của thành phố này cao nhất trong các thành phố lớn của Hoa Kỳ. Xếp theo đầu người, Seattle xếp thứ 36/522 khu vực học hành ở tiểu bang Washington. Truyền thông Vào năm 2010, Seattle có một tờ báo thường nhật chính là The Seattle Times. Tờ Seattle Post-Intelligence, được xuất bản từ năm 1863 cho đến ngày 17 tháng 3 năm 2009 thì dừng phát hành, chuyển sang làm báo mạng và cùng với The Seattle Times, Seattle Post-Intelligence trở thành hai tờ báo mạng lớn nhất Seattle. Đại học Washington thì phát hành tờ The Daily, một tờ báo của học sinh và chỉ phát hành khi bắt đầu một năm học mới. Các tuần báo nổi bật nhất là Seattle Weekly và The Stranger. Tờ báo Real Change là một tờ báo thường nhật chủ yếu dành cho người vô gia cư và những người ăn xin. Ngoài ra còn có một số tờ báo dân tộc địa phương, bao gồm Northwest Asian Weekly và North Seattle Journal. Seattle cũng cung cấp cho người dân các đài truyền hình và vô tuyến riêng và phủ sóng trên toàn nước Mỹ, với năm trạm phát các tiếng khác tiếng Anh và hai trạm phát tiếng Tây Ban Nha. Người dùng truyền hình cáp ở Seattle có thể nhận được đài CBUT 2 (CBC) từ Vancouver, British Columbia. Seattle có hai tạp chí trực tuyến là Worldchaging và Grist.org là hai trong số các "Green Website" vào năm 2007 theo tạp chí Time. Thể thao Thư viện Seattle có một mạng lưới các thư viện công cộng khá dày đặc và phục vụ theo từng nhu cầu của mỗi người. Thư viện Trung tâm Seattle, thiết kế bởi Rem Koolhaas, được mở cửa vào năm 2004. Những người nổi tiếng ở Seattle Kurt Cobain (20 tháng 2 năm 1967 - 5 tháng 4 năm 1994): Ca sĩ, nhạc sĩ và là nhóm trưởng ban nhạc Nivarna. Chris Cornell (20 tháng 7 năm 1964): Ca sĩ, nhạc sĩ. Frances Farmer (19 tháng 3 năm 1913 - 1 tháng 8 năm 1970): Diễn viên. Bill Gates (28 tháng 5 năm 1955): Doanh nhân, nhà từ thiện, đồng sáng lập Microsoft. Jimi Hendrix (27 tháng 11 năm 1942 - 18 tháng 9 năm 1970): Ca sĩ, nhạc sĩ nhạc rock. Eddie Vedder (23 tháng 12 năm 1964): Ca sĩ, nhạc sĩ nhạc rock, thành viên nhóm Pearl Jam Lý Tiểu Long (21 tháng 11 năm 1940 - 20 tháng 7 năm 1973): Diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất, chỉ đạo võ thuật được chôn cất ở nghĩa trang Lake View, Seattle. Lý Quốc Hào (1 tháng 2 năm 1965 - 31 tháng 3 năm 1993): Diễn viên được chôn cất ở nghĩa trang Lake View, Seattle. Du lịch Seattle có nhiều điểm thu hút sự quan tâm của du khách như Ballard Locks (cống dẫn nước vào Vịnh Puget); Experience Music Project (bảo tàng âm nhạc), Museum of Flight (bảo tàng hàng không)... Khách đến thăm Seattle có thể đi du thuyền trong Vịnh Puget và lên tháp Space Needle. Chợ ngoài trời Pike Place cũng là một điểm đến vô cùng hấp dẫn. Chợ cực kì sạch sẽ, hiện đại và luôn chật cứng vào dịp cuối tuần. Nằm trên dãy núi Everett, cách Seattle 40 phút chạy xe là nhà máy sản xuất máy bay Boeing. Đa số du khách đặt chân đến Seattle đều tham quan nơi này, kéo dài từ phía Bắc xuống phía Nam của thành phố. Toà nhà của nhà máy sản xuất Boeing này có kiến trúc đồ sộ vào bậc nhất thế giới, đủ rộng lớn để chứa cả công viên Disneyland. Quy trình sản xuất một chiếc máy bay ở đây rất đặc biệt, đến nỗi tour du lịch dành cho du khách tham quan nhà máy này đã trở thành một trong những tour du lịch hấp dẫn nhất ở vùng đất Tây Bắc nước Mỹ này. Một số những hội chợ và các lễ hội nổi bật hàng năm ở Seattle như Liên hoan phim Quốc tế Seattle, nhiều sự kiện Seafair diễn ra trong suốt Tháng 7 và 8, Northwest Folklife qua ngày Lễ Chiến sĩ trận vong, các chương trình âm nhạc, nghệ thuật và vui chơi giải trí qua ngày Labor Day,... Tất cả thu hút khoảng 100.000 người tham dự, ngang bằng với sự kiện Seattle Hempfest (là sự kiện hàng năm tán thành việc bất hợp pháp hóa đối với ma túy, cần sa và thuốc lá) và Ngày Độc lập Hoa Kỳ. Ở đây cũng có một số sự kiện thường niên khác, như Seattle Antiquarian Book Fair & Book Arts Show (Hội chợ sách khảo cổ học và sách nghệ thuật); và hội nghị anime, Sakura-Con; Penny Arcade Expo, hội nghị trò chơi điện tử; và một số liên hoan phim như Liên hoan phim Maelstrom International Fantastic và Liên hoan phim Đồng tính luyến ái (Seattle Gay and Lesbian Film Festival). Địa điểm nổi tiếng Nguồn: Chính quyền Seattle là một thành phố có hiến pháp riêng, với hình thức là Thị trưởng-Hội đồng, khác với đa số các thị trấn lân cận với hình thức Hội đồng-Quản lý. Từ năm 1911, chín thành viên hội đồng thành viên thành phố đều được bầu chọn với quy mô lớn, chứ không phải tách riêng ra bởi các phân khu địa lý. Các cơ quan được quyền bầu khác là luật sư, thẩm phán và những người có ủy quyền. Tất cả họ đều không theo một đảng nào. Seattle là một thành phố theo chủ nghĩa tự do và có xu hướng bầu chọn các chính trị gia phe cánh tả. Với đặc điểm như vậy, Seattle khá tương đồng với các thành phố trong nước cũng theo xu hướng cánh tả như Madison, Wisconsin, Berkeley, California, và Cambridge, Boston tại Massachussets. Biệt danh, hoa, nhạc và khẩu hiệu chính thức Năm 1981, chính quyền Seattle mở cuộc thi sáng tạo biệt danh mới thay cho biệt danh hiện hành vào thời điểm đó là "the Queen City". "Queen City" được đặt bởi các nhà địa ốc từ năm 1869, nhưng tên này cũng là biệt danh của các thành phố Cincinnati; Denver; Regina, Saskatchewan; Buffalo; Bangor, Maine; Helena, Montana; Burlington, Vermont, Charlotte, North Carolina, và một vài thành phố khác. Sau một năm bình chọn, năm 1982, Seattle có biệt danh mới là "the Emerald City". Tên này được đặt bởi Sarah Sterling-Franklin đến từ California mang ý nghĩa thành phố Seattle có một màu xanh ngọc bích nhờ vào những rừng cây xum xuê rậm rạp, nhờ vào những cơn mưa thường xuyên mang lại sự tươi tốt cho cây trái. Seattle còn có một biệt danh không chính thức khác là "the Jet City", ám chỉ công ty Boeing đặt trụ sở tại đây. Ngoài ra thành phố còn có tên khác nữa là "Portal to the Pacific", cụm từ ám chỉ những đường hầm hướng về phía tây bắt nguồn từ cây cầu trên hồ Washington ở Quốc lộ 90. Bông hoa chính thức của thành phố là hoa thược dược từ năm 1913. "Seattle the Peerless City" là bài hát chính thức của Seattle từ năm 1909. Và vào năm 1942, khẩu hiệu của thành phố là "The City of Flowers"; 48 năm sau, tức năm 1990, đổi lại thành "The City of Goodwill", hưởng ứng sự kiện Goodwell Games được tổ chức tại Seattle tại thời điểm đó. Vào ngày 20 tháng 10 năm 2006, tháp Space Needle được trang hoàng bởi khẩu hiệu mới "Metronatural". Khẩu hiệu này là kết quả của 16 tháng ròng rã với 200.000 đô la được chi bởi Cục Sự kiện và Du khách Seattle. Tại đây, Diệc xanh lớn là loài chim chính thức do Hội đồng Thành phố bình chọn vào năm 2003. Thành phố kết nghĩa Beersheba, Israel Bergen, Na Uy Cebu, Philippines Trùng Khánh, Trung Quốc Christchurch, New Zealand Daejeon, Hàn Quốc Galway, Cộng hoà Ireland Gdynia, Ba Lan Hải Phòng, Việt Nam Cao Hùng, Đài Loan Kobe, Nhật Bản Limbe, Cameroon Mazatlán, México Mombasa, Kenya Nantes, Pháp Pécs, Hungary Perugia, Ý Reykjavík, Iceland Sihanoukville, Campuchia Surabaya, Indonesia Tashkent, Uzbekistan
Derbent (tiếng Nga: Дербент; tiếng Lezgian: Дербенд; tiếng Azerbaijan: Dərbənd; tiếng Ba Tư: دربند Darband) là một thành phố của Liên bang Nga, thuộc nước cộng hòa tự trị Dagestan. Nó là thành phố xa nhất về phía nam của Liên bang Nga và là thành phố có tầm quan trọng thứ hai tại Dagestan. Dân số: 101.031 (điều tra dân số năm 2002) và năm 2006 là khoảng 106.000 người. Người Lezgi là nhóm dân tộc chính chính ở đây, tiếp theo là người Azerbaijan và người Tabasaran. Thông thường nó được coi là các cổng Alexander truyền thuyết, Derbent cũng được coi là thành phố cổ nhất của Nga. Từ thời cổ đại thì giá trị của khu vực này như là cổng vào khu vực Kavkaz đã được hiểu rõ và Derbent có các công trình xây dựng mà các nhà khảo cổ học đánh giá là trên 5.000 năm tuổi (tính đến năm 2006). Như là kết quả của tính đặc thù địa lý này nên thành phố đã phát triển giữa hai tường thành, kéo dài từ các dãy núi xuống tới biển. Theo thời gian, các dân tộc khác nhau đã đặt cho thành phố này các tên gọi khác nhau, nhưng tất cả đều có liên hệ với nghĩa 'cổng'. Địa lý Thành phố này được xây dựng gần bờ tây của biển Caspi, về phía nam sông Samur, trên sườn của dãy núi Tabasaran (một phần của dãy núi Kavkaz). Derbent có đường giao thông thuận tiện, với bến cảng riêng, đường sắt và đường bộ chạy về phía nam nối với Baku, cũng như về phía bắc tới Rostov-na-Dony, hai thành phố lớn trong khu vực. Derbent có một vị trí chiến lược duy nhất trong khu vực Kavkaz: thành phố này nằm trên một dải đất bằng hẹp (khoảng 3 km) giữa biển Caspi và dãy Kavkaz, kiểm soát việc giao thông đường bộ giữa đông nam châu Âu và Trung Đông. Về phía bắc của thành phố là tượng đài Kirk-lar, hay 40 vị anh hùng, những người đã ngã xuống trong công cuộc phòng thủ Dagestan chống lại người Ả Rập năm 728. Ở phía nam là điểm xa nhất về phía biển của tường thành Kavkaz (dài 50 m), còn được gọi là Tường thành Alexander, ngăn chặn lối đi qua rất hẹp của Cổng Sắt hay Cổng Caspi (Portae Athanae hay Portae Caspiae). Tường thành này khi còn nguyên vẹn có chiều cao 9 m (29 ft) và chiều dày khoảng 3 m (10 ft), và với các cổng sắt và hàng loạt các chòi quan sát, tạo thành một hàng rào phòng ngự có giá trị trên biên giới với Ba Tư. Lịch sử Sự định cư đông đúc đầu tiên tại khu vực Derbent có niên đại vào khoảng thế kỷ 8 TCN. Cho đến thế kỷ 4 thì nó là một phần của Albania Kavkaz (Aghbania), và thông thường được coi là Albana, kinh đô của vương quốc này. Tên gọi ngày nay của thành phố, một từ có gốc từ tiếng Ba Tư (دربند Darband) nghĩa là "các cổng đóng", đã bắt đầu được sử dụng vào cuối thế kỷ 5 hoặc đầu thế kỷ 6, khi thành phố này được Kavadh I của vương triều Sassanid thuộc Đế chế Ba Tư tái thành lập. Các tường thành và thành quách được cho là xây dựng vào thời con trai của Kavadh là Khosrau I. Derbent trở thành một tiền đồn quân sự và một hải cảng mạnh của đế chế Sassanid. Trong thế kỷ 5 và 6 thì Derbent cũng trở thành một trung tâm quan trọng trong việc truyền bá các niềm tin Ki tô giáo trong khu vực Kavkaz. Trong thập niên 630 thành phố này đã bị hãn quốc Khazar xâm chiếm. Năm 654 Derbent đã bị người Ả Rập nắm giữ, những người này đã chuyển đổi nó thành một trung tâm hành chính quan trọng và truyền bá các niềm tin Hồi giáo vào trong khu vực này. Khaliph (vua Hồi giáo) Harun al-Rashid đã từng sống ở Derbent, và đưa thành phố này trở thành một nơi có danh tiếng về nghệ thuật và thương mại. Theo các nhà sử học Ả Rập thì Derbent với dân số trên 50.000 người đã từng là thành phố lớn nhất của khu vực Kavkaz trong thế kỷ 9. Trong thế kỷ 10, với sự sụp đổ của vương quốc Hồi giáo của người Ả Rập thì Derbent đã trở thành kinh đô của một tiểu vương quốc Ả Rập độc lập. Tiểu vương quốc này thường có những cuộc chiến tranh với quốc gia Ki tô giáo láng giềng là Sarir, nhưng thường là thua trận nên Sarir thỉnh thoảng có thể thao túng các hoạt động chính trị của Derbent, tuy nhiên điều này đã kết thúc với sự tan rã của Sarir trong thế kỷ 12. Về tổng thể, tiểu vương quốc này đã phồn thịnh cho đến khi người Mông Cổ xâm chiếm nó vào năm 1239. Trong thế kỷ 14 nó đã bị các bộ lạc du cư của lãnh chúa của người Tatar là Timur cướp bóc. Năm 1437 nó rơi vào sự kiểm soát của Shirvanshahs. Trong thế kỷ 16 Derbent là nơi diễn ra các cuộc chiến giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư do vương triều Safavid cai trị. Vào đầu thế kỷ 17 thì Shah Safavid Abbas I đã đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ và lấy lại Derbent. Năm 1722 trong chiến tranh Nga-Ba Tư Pyotr Đại Đế của Nga đã giành được thành phố này từ tay người Ba Tư, nhưng vào năm 1735 theo hiệp ước Gjandzhinskii thì Derbent lại rơi vào tay nhà nước Ba Tư, năm 1736 thì uy quyền của Nadir Shah một lần nữa lại được công nhận. Năm 1747 Derbent trở thành kinh đô của một hãn quốc cùng tên. Trong cuộc viễn chinh Ba Tư 1796 thành phố này lại bị lực lượng quân sự Nga dưới sự chỉ huy của V. A. Zubov chiếm đóng. Theo hiệp ước Gulistan ngày 24 tháng 10 (lịch cũ- lịch mới là 5 tháng 11) năm 1813 giữa Nga và Ba Tư thì Derbent trở thành một phần của đế chế Nga. Một phần lớn tường thành và các đài quan sát còn được bảo quản tốt cho đến ngày nay. Các tường thành chạy tới biển, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 6, dưới thời triều đại Sassanid. Thành phố này còn có một pháo đài cổ được bảo quản khá tốt là Narin-kala, chiếm một diện tích khoảng 45.000 m², được khép kín bằng các bức tường dày. Các điểm hấp dẫn về mặt lịch sử còn có các nhà tắm, các bể nước, các nghĩa trang cổ, các nhà trọ lớn, lăng mộ của một hãn vương thế kỷ 18 cũng như vài nhà thờ Hồi giáo: các công trình đáng chú ý nhất là pháp đình Ki tô giáo có từ thế kỷ 6, các nhà thờ Hồi giáo như Juma (với các trường học (madrash) thế kỷ 15); Kyrhlyar, Bala (thế kỷ 17) và Chertebe (thế kỷ 18). Kinh tế và văn hóa Thành phố này có các ngành công nghiệp như chế tạo máy móc, thực phẩm (thậm chí có cả ngành công nghiệp rượu!), dệt may, đánh bắt cá, vật liệu xây dựng và công nghiệp gỗ. Hạ tầng cơ sở giáo dục là khá tốt; ở đây có một trường đại học cũng như một vài trường kỹ thuật. Về mặt văn hóa, ở đây có nhà hát kịch Lezgi (nhà hát S. Stalsky). Khoảng 2 km từ thành phố là quần thể nhà nghỉ Chayka (chim mòng biển). Derbent trên thực tế có thể coi là một viện bảo tàng lớn với các dãy núi nguy nga và biển cận kề, có tiềm năng lớn trong việc phát triển du lịch, được gia tăng thêm bởi sự xếp hạng của UNESCO cho pháo đài và thành phố cổ như là Di sản thế giới vào năm 2003. Tuy nhiên, sự bất ổn trong khu vực đã cản trở rất lớn sự phát triển này. Thành phố kết nghĩa Yakima, Washington, Hoa Kỳ Địa lý Khí hậu Chú thích
Rừng nguyên sinh Komi (tiếng Nga: Девственные леса Коми) là một Di sản thế giới của UNESCO ở phía bắc Dãy núi Ural, thuộc Cộng hòa Komi, Nga. Với diện tích khoảng 32.800 km², đây là rừng nguyên sinh lớn nhất châu Âu. Địa lý Khu vực này được bảo vệ trong Khu bảo tồn thiên nhiên Pechora-Ilych và Vườn quốc gia Yugyd Va. Được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1995 trở thành Di sản thiên nhiên đầu tiên tại Nga. Sự công nhận này đã giúp cho các cánh rừng này có thêm nguồn tài trợ bổ sung từ ngoại quốc và cứu nó thoát khỏi việc đốn hạ chuẩn bị xảy ra từ phía công ty khai thác gỗ của Pháp. Tuy nhiên, các mối đe dọa với công tác bảo tồn vẫn còn, chẳng hạn như việc phá rừng, chặt trộm hay khai thác vàng, dầu mỏ trong khu vực. Các trầm tích chứa vàng ở khu vực phía bắc của Vườn quốc gia Yugyd-Va đã dược khai thác từ trước năm 1995.. Đe dọa Năm 1994, các cánh rừng này đã bị đe dọa trực tiếp từ nhiều phía. Một công ty khai thác gỗ của Pháp đã bắt đầu thực hiện việc chặt đốn gỗ dọc theo các sông Pechora và Ilych trong khi một trong các vụ tràn dầu lớn nhất thế giới đã phá hủy con sông và các làng mạc xuôi theo dòng. Mặc dù đã có sự thừa nhận khu vực này là di sản thế giới, nhưng các cố gắng nhằm khai thác vàng cũng đã được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên của Cộng hòa Komi vận động hành lang tích cực. Các cố gắng của chính quyền khu vực nhằm dịch chuyển ranh giới của khu di sản này sao cho nó loại trừ các phần có chứa nhiều vàng và tước bỏ tình trạng được bảo vệ của chúng gần đây đã bị Tòa án tối cao của Komi bác bỏ. Động thực vật Rừng nguyên sinh Komi thuộc về vùng sinh thái rừng taiga dãy núi Ural. Đây là khu vực chiếm ưu thế bởi các loài Vân sam Siberi, Linh sam Siberi, Tùng Siberi. Về động vật, tại đây có nhiều loài động vật có vú quý hiếm, 200 loài chim. Đáng chú ý nhất là tuần lộc, chồn zibelin, thỏ rừng, rái cá, sóc, gấu nâu, gà rừng châu Âu. Hình ảnh
Las Vegas có thể là: Las Vegas, Nevada, một thành phố nghỉ dưỡng và vui chơi lớn tại Hoa Kỳ Vùng đô thị Las Vegas, gồm các thành phố Las Vegas, Henderson, North Las Vegas, Thành phố Boulder, và các địa phương chưa hợp nhất khác nằm xung quanh các thành phố này Dải Las Vegas, nơi có nhiều bất động sản khách sạn, sòng bạc, khu nghỉ dưỡng vui chơi, nằm bên cạnh thành phố Las Vegas, Nevada Las Vegas cũng có thể là: Las Vegas, New Mexico, Hoa Kỳ Las Vegas, Santa Bárbara, Honduras Vịnh Las Vegas, vịnh nằm ở rìa phía tây của Hồ Mead Las Vegas Wash, sông đô thị
Tương Nam Đàn là một loại tương truyền thống của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tương Nam Đàn là một loại nước chấm, nước chan được làm từ hạt đậu nành và xôi nếp ủ mốc dùng trong sinh hoạt ăn uống giống như các loại mắm (nước mắm) ở miền Nam như: mắm cái, mắm nêm, mắm ruốc … và các loại tương ở miền Bắc như: Tương Bần (Bần Yên Nhân - Hưng Yên), Tương Cự Đà (Thanh Oai – Hà Nội)…
Phi hồ ngoại truyện () là một trong những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, ra mắt lần đầu tiên vào năm 1960 trong tạp chí Võ thuật và Lịch sử Cốt truyện của Phi hồ ngoại truyện đi trước Tuyết sơn phi hồ mặc dù nó được viết một năm sau đó. DANH SÁCH CHƯƠNG: Chương 1: giới thiệu về yến đao Chương 2: nói về cuộc đời của yến đao Chương 3: tiểu sử của yến đao Chương 4: sự ra đi của yến Chương 6: Thủy Chung Thiếu Phụ Chẳng Quay Đầu Chương 7: Hào Kiệt Mất Đao Rồi Để Lại Chương 8: Nghe Lén Chuyện Anh Hùng Chột Dạ Chương 9: Không Hiểu Lòng Người Nên Mắc Bẫy Chương 10: Chàng Tuổi Trẻ Vốn Dòng Hào Kiệt Chương 11: Hồ Phỉ Đánh Té Thương Lão Thái Chương 12: Thiên Thủ Như Lai Triệu Bán Sơn Chương 13: Kiếm Anh Mắc Bẫy Bị Tiêu Thương Chương 14: Triệu Bán Sơn Thanh Toán Môn Hộ Chương 15: Mến Tài Hào Kiệt Chỉ Điểm Võ Công Chương 16: Lơ Lững Trên Không Mượn Sức Người Chương 17: Vương Thị Huynh Đệ Toan Giết Hồ Phỉ Chương 18: Tiểu Hồ Phỉ Giải Cứu Quần Hùng Chương 19: Triệu Bán Sơn Từ Biệt Hồ Lang Chương 20: Nghe Thãm Kịch Anh Hùng Nóng Tiết Chương 21: Hồ Lang Đại Náo Điển Đương Phố Chương 22: Sát Quan Ẩu Lại Bạt Phụng Mao Chương 23: Trong Tổ Miếu Hồ Lang Đả Bại Thiên Nam Chương 24: Hồ Lang Dò La Tin Phụng Lão Chương 25: Lựa Chọn Chưởng Môn Phái Vi Đà Chương 26: Viên Tử Y Đả Bại Tam Đồ Chương 27: Tỷ Mai Hoa Tử Y Thủ Thắng Chương 28: Viên Tử Y Tỹ Kiếm Với Lam Tần Chương 29: Phải Chăng Các Hạ Là Tiểu Nê Thu ? Chương 30: Cuộc Chiến Đấu Trên Ngọn Cột Buồm Chương 31: Toà Cổ Miếu Dưới Trận Mưa Rào Chương 32: Trong Cổ Miếu Oan Gia Chạm Trán Chương 33: Trong Khám Thờ Lưu Gia Lánh Nạn Chương 34: Giúp Lưu Lão Hồ Lang Dùng Kế Hoãn Binh Chương 35: Bị Ám Toán Miêu Gia Đui Mắt Chương 36: Điền Quy Nông Ám Hại Miêu Gia Chương 37: Lên Động Đình Hồ Kiếm Dược Vương Chương 38: Thương Cô Thôn Nữ Tưới Hoa Dùm Chương 39: Bầy Lang Sói Phá Hoại Vườn Hoa Chương 40: Màn Kịch Rùng Rợn Trong Rừng Khuya Chương 41: Tiểu Anh Hùng Phục Tài Thiếu Nữ Chương 42: Dược Vương Trang Thiết Tượng Trả Thù Chương 43: Bọn Cường Đồ Uy Hiếp Miêu Nhân Phượng Chương 44: Hồ Phỉ Đại Chiến Điền Quy Nông Chương 45: Trình Linh Tố Trị Thương Miêu Nhân Phượng Chương 46: Phiền Lòng Mà Chẳng Muốn Dời Chẳng Muốn Rời Tay Chương 47: Hai Người Giao Kết Nghĩa Chi Lan Chương 48: Hồ Thiếu Gia Trổ Tài Đoạt Đáng Chương 49: Hồ Công Tử Trả Kiếm Lui Binh Chương 50: Đã Thề Nguyền Hoạn Nạn Chẳng Chia Lìa Chương 51: Những Mối Dư Tình Tại Thương Gia Bảo Chương 52: Trả Thù Chồng Hạ Sát Thương Công Tử Chương 53: Ngựa Về Chủ Cũ, Phụng Tặng Hiệp Nữ Chương 54: Vào Tửu Lâu Gặp Lại Quần Hùng Chương 55: Giữa Tiệc Vui, Thiên Nam Xuất Hiện Chương 56: Viên Tử Y Lại Đoạt Chưởng Môn Chương 57: Viên Tử Y Đả Bại Quần Hào Chương 58: Viên Tử Y Tường Thuật Chuyện Xưa Chương 59: Phúc Khang An Ám Toán Hồ Lang Chương 60: Bọn Thâm Độc Bắt Con Giết Mẹ Chương 61: Tây Nhạc Hoa Quyền Lựa Chọn Chưởng Môn Chương 62: Hồ Phỉ Lên Đài Đoạt Chưởng Môn Chương 63: Cơ Hiểu Phong Kết Giao Hồ Phỉ Chương 64: Trong Tửu Quán Hồ Phỉ Gặp Người Quen Chương 65: Hồ Lang Mạo Hiểm Đoạt Hài Nhi Chương 66: Trình Linh Tố Lắm Mưu Nhiều Kế Chương 67: Dùng Ngự Bôi Đánh Bẫy Quần Hùng Chương 68: Cuộc Tranh Giành Bốn Chiếc Ngọc Bôi Chương 69: Anh Em Nghê Thị Đoạt Hài Nhi Chương 70: Văn Túy Ông Sợ Quỷ Chết Người Chương 71: Thang Bái Mưu Cao Đoạt Ngự Bôi Chương 72: Điền Quy Nông Đại Chiến Đồng Hoài Đạo Chương 73: Điền Qui Nông Đả Bại Quần Hùng Chương 74: Vô Ảnh Ngân Châm Cực Kỳ Hiểm Độc Chương 75: Hồ Lang Chém Gãy Thục Đồng Côn Chương 76: Viên Tử Vu Hãm Thang Bái Chương 77: Trình Linh Tố Diệu Kế Thoát Hang Hùm Chương 78: Người Đâu Giống Hệt Phúc Khang An Chương 79: Hồ Phỉ Đả Bại Thập Bát Cao Thủ Chương 80: Trình Linh Tố Gặp Độc Thủ Thần Kiêu Chương 81: Thử Chất Độc Vào Tay Đệ Tử Chương 82: Trình Linh Tố Xả Thân Cứu Nghĩa Huynh Chương 83: Trên Phần Mộ, Nam Lan Xuất Hiện Chương 84: Hồ Thiếu Gia Bị Địch Bao Vây NỘI DUNG CỦA PHI HỒ NGOẠI TRUYỆN Chương 1 - chương 19: Hồ Phỉ tại Thương Gia Bảo. Truyện lấy bối cảnh vào Nhà Thanh, dưới triều của vua Càn Long (năm 1735-1796). Hồ Phỉ, nhân vật chính của truyện, một thiếu niên anh hùng, được nuôi nấng bởi Bình A Tứ sau cái chết của cha chàng là Hồ Nhất Đao. Khi chàng cùng Bình A Tứ tha hương khắp nơi, rồi một hôm đi trú mưa thì vào trú đúng Thương Gia Bảo, nhà của kẻ Hồ Nhất Đao trước đã đả bại và chém đầu. Tình cờ tại đây, chàng đã gặp cảnh Diêm Cơ (khi ấy đã luyện võ theo hai trang đầu tiên của cuốn Quyền Kinh Đao Phổ và trở thành đạo tặc) cướp tiêu của Bách Thắng Thần Quyền - Mã Hành Không cùng đại đồ đệ Từ Tranh và con gái của lão là Mã Xuân Hoa. Nhờ đó mà Hồ Phỉ cũng ghi nhớ chiêu thức mà Diêm Cơ dùng để đả bại Mã Hành Không luyện thành công Pho Quyền Kinh Đao Phổ, bản lãnh hết sức cao cường. Khi cả Diêm Cơ và Mã Hành Không đều bị thương, bất phân thắng bại, hai bên chuẩn bị dẫn đến đổ máu thì Điền Qui Nông cùng Nam Lan (vợ của Miêu Nhân Phượng) trên đường bỏ trốn lên tiếng. Điền Qui Nông định chèn ép Mã lão tiêu đầu, cướp tiêu rồi chia trác với Diêm Cơ và định tiếp tục bỏ trốn thì Miêu Nhân Phượng bồng Miêu Nhược Lan mới 2 tuổi xuất hiện. Sau khi nhận ra ánh mắt đầy tình ý của vợ mình với Điền Qui Nông, Miêu Nhân Phượng lẳng lặng bồng con bỏ đi giữa trời mưa bão. Miêu phu nhân vì quá xấu hổ với những gì đã làm, bà và Điên Qui Nông cùng nhau bỏ đi mà không hề đến cái đống bảo tiêu của Mã Hành Không nữa. Thương Lão Thái, hiện tại là chủ của Thương Gia Bảo xuất hiện trừng trị Diêm Cơ, đuổi hắn đi cà bắt hắn bỏ nghiệp đạo tặc để đi xuất gia. Kết thúc sự kiện đó, Thương Lão Thái cho đoàn bảo tiêu của Mã lão tiêu đầu và chú chàu Hồ Phỉ và Bình A Tứ nương nhờ (với ý đồ xấu xa, tiêu diệt Mã lão tiêu đầu vì mụ nghĩ trước kia chồng bà bị Hồ Nhất Đao giết là do đã đánh bại Mã Hành Không làm tiêu hao khí lực). Thương Lão Thái định tìm cách hứa hôn cho con trai mình là Thương Bảo Chấn và Mã Xuân Hoa (con gái Mã Hành Không) để tiện bề níu chân và triệt tiêu lão. Nhưng không ngờ rằng Mã Hành Không đã biết trước câu chuyện qua một lần nghe trộm cuộc đối thoại của hai mẹ con lão, Mã lão tiêu đầu đã đi trước một nước cờ, cho con gái mình thành hôn với đại đệ tử là Từ Tranh, cùng lúc đó Phúc Khang An cùng tay chân lần đầu tiên xuất hiện và tiến đên Thương Gia Bảo, đây cũng là khi Mã Xuân Hoa và Phúc Khang An đã nảy sinh tình cảm với nhau. Sau khi phát hiện Hồ Phỉ là con trai kẻ thù giết chồng của mình, Thương Lão Thái đã nhốt tất cả mọi người vào đại sảnh nhả mình hun lửa thiêu đốt nhằm trả mối thù năm xưa. Nhưng không ngờ rằng, Hồ Phỉ đã tìm cách thoát ra đánh bại hai mẹ con họ Thương, giết chết Thương Lão Thái. Trước khi chết, Thương Lão Thái vẫn kịp kéo theo Mã Hành Không chết cùng, coi như trả được một phần mối thù. Chương 20 - chương 24: Hồ Phỉ gặp Phụng Thiên Nam và Viên Tử Y. Vài năm sau sự kiện ở Thương Gia Bảo, chàng bôn tẩu giang hồ thì chạm trán Phụng Thiên Nam, một tay ác bá cường đạo kiêm đại tài chủ ở chốn Phật Sơn. Chàng muốn tiêu diệt hắn để trả lại công bằng cho gia đình Chung A Tứ và những người dân Phật Sơn bị nạn về tay hắn, nhưng cả ba lần đều bị cản lại bởi Viên Tử Y, cả hai người đều có cảm tình với nhau. Sau này, Viên Tử Y giải thích rằng Phụng Thiên Nam là cha nàng, tuy hắn không đối xử tốt với mẹ con nàng, nhưng sư phụ nàng dặn nể tình phụ tử cứu hắn ba lần rồi coi như trả mối ơn nghĩa, rồi sau đó đường ai nấy đi. Chương 25 - chương 46: Hồ Phỉ cứu giúp Miêu Nhân Phượng, gặp gỡ Trình Linh Tố. Dựa vào những gì mình biết được và qua những lời Bình A Tứ kể, Hồ Phỉ luôn nghĩ rằng Miêu Nhân Phượng có trách nhiệm với cái chết của cha mình. Khi tìm thấy Miêu Nhân Phượng, chàng kiềm chế bản thân, bỏ mối thù giết cha sang một bên vì lúc đó Miêu Nhân Phượng bị kẻ thù bẫy làm đui mù đôi mắt bằng thuốc độc. Chàng rất ấn tượng về tinh thần hiệp võ của ông và bắt đầu nghi ngờ những gì mình biết trong cái chết của Hồ Nhất Đao có chính xác hay không. Hồ Phỉ quyết định giúp Miêu Nhân Phượng và bắt đầu cuộc hành trình đi tìm Độc Thủ Dược Vương tìm cách chữa mắt cho ông. Chàng đi lên vùng bờ hồ động đình để tìm kiếm, tại đậy, Hồ Phỉ đã gặp được Trình Linh Tố, tứ đệ tử của Độc Thủ Dược Vương, đồng thời cũng là người giỏi cả tài lẫn đức nhất trong tất cả các đệ tử. Tại đây, chàng được chứng kiến Trình Linh Tố một mình đả bại cả ba vị sư huynh, sư tỉ tâm địa độc ác của mình bằng sự khôn khéo, tinh thông dược vật của nàng. Sau đó, nàng chấp nhận đi chữa mắt cho Miêu Nhân Phượng. Khi về tới nhà của Miêu Nhân Phượng, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố thấy ông đang bị bao vây bởi Điền Qui Nông (kẻ đã tán tỉnh, dụ dỗ Miêu phu nhân chạy trốn theo mình để hòng tìm được kho báu Sấm Vương) và bè lũ. Chàng với sự chỉ điểm của Miêu Nhân Phượng, đã đánh bại lũ bao vây và để Trình Linh Tố chữa mắt cho Miêu Nhân Phượng. Sau khi được chữa mắt kịp thời, Miêu Nhân Phượng đã thừa nhận rằng vô tình hại chết Hồ Nhất Đao nhiều năm trước. Hồ Phỉ đau khổ khi nghe thấy sự thật, rồi chàng bỏ đi với Trình Linh Tố. Sau đó hai người có tình cảm với nhau. Chương 47 - chương 77: Hồ Phỉ và Trình Linh Tố tham gia đại hội trưởng môn. Khi hai người hành tẩu giang hồ với nhau, họ gặp lại Mã Xuân Hoa và Từ Tranh (con gái và đại đệ tử của Mã Thành Không xuất hiện đầu truyện tại Thương Gia Bảo, nay đã thành vợ chồng) đang bảo tiêu món hàng rẻ mạt chín nghìn lượng cùng mang theo hai đứa con trai sinh đôi. Hai đứa trẻ này mặt mày trắng trẻo rạng rỡ khác hẳn Từ Tranh, thực ra hai đứa trẻ có trước khi hai người thành thân. Do Hồ Phỉ nhớ ơn Mã Xuân Hoa hồi xưa đã xin thả mình ra nên chàng đã quyết tâm bảo vệ hai vợ chồng họ. Không may, Từ Tranh bị thuộc hạ của Phúc Khang An giết chết, Mã Xuân Hoa tuy báo thù được cho chồng nhưng vẫn nghe theo tiếng gọi tình yêu đi về phủ Phúc Khang An cùng hai đứa con trai sinh đôi. Nhưng sau cùng thì bị Phúc Khang An ám hại vì là người Hán, chỉ giữ lại tính mạng cho hai đứa con trai song sinh. Trước khi chết Mã Xuân Hoa đã kịp cho hai đứa bé nhận Hồ Phỉ làm nghĩa phụ. Cũng thời gian này, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cùng nhau tham dự Đại Hội Trưởng Môn do Phúc Khang An đứng đầu chủ trì. Cuộc đại hội này thực ra đã nằm sẵn trong kế hoạch nham hiểm của Phúc Khang An, hắn mưu đồ mở cuộc đại hội này để náo loạn võ lâm, giữ các anh hùng, hiệp khách tránh xa triều điều, khó lòng nghĩ đến việc phản trắc nữa. Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cùng cải trang và tham dự đại hội này. Với sự giúp sức của Viên Tử Y, cả ba người cùng nhau lật tẩy kế hoạch của Phúc Khang An và phá hỏng đại hội này. Chương 78 - hết: Trình Linh Tố hi sinh cho Hồ Phỉ, sự thật về Viên Tử Y. Sau đại hội này, chàng có cơ duyên gặp được Trần Gia Lặc cùng các vị đại hiệp trong hội. Khi quay về lấy xác Mã Xuân Hoa đi mai táng, Trình Linh Tố phát giác được cái bẫy mà các vị sư huynh sư tỉ của mình bày ra. Trong lúc tranh đấu, Hồ Phỉ chẳng may dính loại độc không có thuốc chữa khi đang bảo vệ Trình Linh Tố. Trình Linh Tố tiên liệu mọi thứ, sắp xếp cạm bẫy để thanh lí môn hộ, tiêu diệt sư huynh sư tỉ, đồng thời cứu sống Hồ Phỉ bằng cách hi sinh mạng sống của nàng hút hết máu độc ra. Trước khi ra đi Trình Linh Tố còn nhắc đến những tình tiết liên quan trong cái chết của cha chàng và bộc lộ tình cảm đơn phương của mình với Hồ Phỉ. Chàng đau khổ sau khi nghe qua những lời đó. Chàng gặp lại Viên Tử Y sau khi chàng an táng xong cho Trình Linh Tố thì phát hiện ra Viên Tử Y là ni cô, đệ tử của một đạo cô phái Nga Mi đã tuyên thệ trước Đức Phật, không được phạm sắc giới kể cả khi nàng đã có tình cảm đơn phương với Hồ Phỉ. Cuối truyện, nàng niệm phật rồi lên ngựa bỏ đi. Hồ Phỉ đau khổ vì người mình yêu là Trình Linh Tố lại chết vì mình. Nhân vật Hồ Phỉ: Là nhân vật chính của hai bộ truyện Tuyết Sơn Phi Hồ và Phi Hồ Ngoại Truyện, con trai của Hồ Nhất Đao. Chàng tinh thông võ công trong Pho Quyền Kinh Đao Phổ, tính tình lanh lợi nhưng không kém phần hào sảng giống cha mình. Sau này trong phần Tuyết Sơn Phi Hồ, chàng đã lấy biệt hiệu của mình là Tuyết sơn phi hồ. Trình Linh Tố: Là đệ tử thứ tư của Độc Thủ Dược Vương, cô đã yêu Hồ Phỉ ngay từ cái nhìn đầu tiên khi cô gặp chàng đang tìm cách cứu chữa cho đôi mắt của Miêu Nhân Phượng. Sau đó, cô đi theo Hồ Phỉ như người bạn đồng hành rồi cả hai kết nghĩa huynh muội. Sau trận ác chiến với sư huynh sư tỉ đồng môn của mình, Trình Linh Tố đã hi sinh mạng sống hút hết máu độc từ cánh tay của Hồ Phỉ (chàng bị trúng độc khi đang cố bảo vệ cho nàng) ra. Cuối đời, nàng vẫn kịp thổ lộ tình cảm của mình với Hồ Phỉ và nhắc nhở cho Hồ Phỉ ai mới là kẻ thù thực sự đã sát hại cha chàng. Hồ Phỉ đau khổ tột cùng trước cái chết của Trình Linh Tố, chàng cuối cùng đã chôn Trình Linh Tố bên cạnh mộ cha mẹ mình. Viên Tử Y: Tên xuất gia là Viên Tính, nàng là con hoang của tên ác tặc Phụng Thiên Nam. Mẹ nàng đẻ nàng sau khi bị cưỡng hiếp bởi Phùng Thiên Nam. Sau đó còn tiếp tục bị Thang Bái bức bách đến mức phải tự tử mà chết. Sau này khi Viên Tử Y lớn lên, nàng đã thề với trời đất rằng sẽ báo thù cho mẹ nàng, giết tên lòng lang dạ sói Phụng Thiên Nam (sau khi đã hứa với sư phụ của nàng sẽ cứu hắn ba lần để trả ơn sinh thành) và cả kẻ đã bức tử mẹ nàng là Thanh Bái. Tuy nàng có tình cảm với Hồ Phỉ, nhưng họ không thể đến được với nhau vì nàng đã xuất gia thành ni cô, qui y cửa phật. Miêu Nhân Phượng: Có biệt hiệu là Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ - Kim Diện Phật, một cao thủ có võ công tuyệt diệu ngang ngửa với võ công của Hồ Nhất Đao. Tính tình ông khá là bảo thủ và kém phần tinh tế trong khoản bộc lộ cảm xúc, đây cũng là lý do chính mà Điền Qui Nông có thể tán tỉnh Miêu phu nhân thành công. Qua lần tỉ thí võ công với Hồ Nhất Đao, Miêu Nhân Phượng cực kì kính trọng tinh thần hiệp nghĩa và thái độ hào sảng của Hồ Nhất Đao nên cả hai đã không ngần ngại kết bái huynh đệ với nhau. Nhưng không may, vì vũ khí họ sử dụng để tỉ thí đã bị Điền Qui Nông chủ mưu bôi thuốc độc vào, Miêu Nhân Phượng đã sơ ý giết chết Hồ Nhất Đao sau khi chém một vết xước nhỏ vào Hồ Nhất Đao. Ông luôn luôn hối hận về biến cố này. Miêu Nhược Lan: Là con gái của Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ, Kim Diện Phật - Miêu Nhân Phượng, trong Phi Hồ Ngoại Truyện nàng vẫn còn rất bé, chưa đóng góp gì nhiều vào mạch truyện này. Trần Gia Lạc: Là một nhân vật trong truyện Thư Kiếm Ân Cừu Lục, Trần Gia Lạc là tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội, xuất hiện trong những chương gần cuối của bộ truyện. Ông có dung mạo, tướng tá giống hệt Phúc Khang An, rất nhiều người đã nhầm lẫn hai người trong đó có Hồ Phỉ. Mã Xuân Hoa: Là con gái Mã lão tiêu đầu - Mã Hành Không, cô có dung nhan xinh đẹp, hồi còn đi bảo tiêu với cha, cô đã có duyện cơ gặp được Phúc Khang An và phải lòng nhau, cho dù đại sư ca của cô là Từ Tranh và thiểu gia ở Thương Gia Bảo là Thương Bảo Chấn cùng đem lòng thích cô. Mã Xuân Hoa có thai (con của Phúc Khang An), rồi nàng cưới Từ Tranh đẻ ra hai đứa trẻ sinh đôi. Sau này, khi hai vợ chồng đi bảo tiêu thì Phúc Khang An đã sai người đến giết Từ Tranh rồi đưa ba mẹ con Mã Xuân Hoa về vương phủ. Tưởng sẽ được đoàn tụ với tình nhân nối lại tình cũ, ai ngờ Phúc Khang An đã dùng mưu kế hạ độc nàng chỉ giữ lại hai đứa nhỏ. Trước khi chết nàng có di nguyện được chôn cùng Từ Tranh và cho cặp sinh đôi nhận Hồ Phỉ làm nghĩa phụ. Phúc Khang An: Là một viên tướng quý tộc người Mãn Châu, xuất hiện tại Thương Gia Bảo với dáng vẻ hào hoa, phong nhã, một công tử quyền quý nhưng thực chất là một tên mưu mô, xảo quyệt. Hắn tổ chức đại hội trưởng môn để dấy lên một cuộc hỗn chiến trong giới võ lâm, bảo vệ triều đình khỏi các âm mưu phản quốc của các anh hùng, hiệp khách. Hắn tư tình với Mã Xuân Hoa và có với nàng một cặp sinh đôi, nhưng cuối cùng thì hắn lại tìm cách hạ độc Mã Xuân Hoa. Điền Quy Nông: Chưởng môn phái Thiên Long Môn, truyền nhân của họ Điền trong bốn cận vệ thân tín của Sấm Vương. Hắn là kẻ thủ ác vô đạo đức, vô liêm sỉ trong truyện. Hắn đã quyến rũ Nam Lan - Miêu phu nhân đến mức bỏ chồng bỏ con với mưu đồ hòng đoạt được kho báu của Sấm Vương. Rồi hắn còn cấu kết với Phúc Khang An bởi lời hứa sẽ được trao chức minh chủ võ lâm đổi lại bằng sự trung thành. Giấc mộng của hắn đi vào dĩ vãng khi, Hồ Phỉ xuất hiện và làm nảo loạn ở đại hội chưởng môn. Văn Thái Lai: Là chồng của Uyên ương đao Lạc Băng, người của Hồng Hoa Hội. Lạc Băng: Là vợ của Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai, người đã tặng con ngựa quý cho Hồ Phì Hồ Nhất Đao: Là cha của Hồ Phỉ. Một hậu duệ tiêu biểu của Phi thiên hồ ly, võ nghệ cao cường, tính tình hào sảng. Khi ông tìm ra kho báu của Sấm Vương, đã gặp người con gái ở đó, và nhận ra người con gái đích thực. Ông đem lòng yêu cô, và cả hai đã lấy nhau, sinh ra Hồ Phỉ. Vợ ông cũng là một nữ trượng phu rất hiểu chồng. Hồ Nhất Đao biết rõ cái chết của cha Kim Diện Phật nên đã không ngần ngại vào quan nội đấu với Kim Diện Phật và ông đã kết bạn tri kỷ với Kim Diện Phật. Hồ Nhất Đao không may bị thương do chính cây đao của mình, cây đao này bị tẩm thuốc độc bởi chủ mưu của Điền Quy Nông, sau khi ông chết, vợ ông cũng tự sát theo chồng. Bình A Tứ: Là tiểu nhị chứng kiến tất cả diễn biến vụ việc trận đấu giữa Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phượng. Sau đó bị cụt một tay và mang vết sẹo dài trên mặt. Do mang ơn Hồ Nhất Đao nên Bình A Tứ đã dành cả đời mình để chăm sóc và nuôi nấng Hồ Phỉ thay cho cha mẹ của chàng.
Bạch mã khiếu tây phong () là một trong những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, xuất bản lần đầu vào năm 1962 trên Minh Báo. Nội dung Câu chuyện nói về hành trình lưu lạc của Lý Văn Tú, con gái của Bạch Mã Lý Tam và Kim Ngân Tiểu Kiếm Tam Nương Tử (Thượng Quan Hồng). Vợ chồng Lý Tam trên đường đi tìm kho báu (Cao Xương mê cung) thì bị người của tiêu cục Tấn Uy truy sát dẫn đến phải bỏ mạng tại miền sa mạc Hồi Cương. Cô bé Lý Văn Tú lạc vào bộ tộc người Cáp Tát Khắc (Nội Mông) và được một người Hán (Kế lão lão) nuôi nấng. Lúc đó Lý Văn Tú mới 8 tuổi. Trong một lần tình cờ đuổi theo chim Thiên Linh, Lý Văn Tú gặp Tô Phổ (con trai Tô Lỗ Khắc - dũng sĩ số một của người Cáp Tát Khắc) và từ đó hai đứa trẻ thường xuyên đi chăn cừu, kể chuyện và hát cho nhau nghe. Một hôm, hai đứa trẻ đang ngồi trông đàn cừu thì một con sói lớn bất ngờ tấn công Lý Văn Tú, Tô Phổ đã liều mình giết sói giải cứu Lý Văn Tú, tuy nhiên Tô Phổ bị sói cắn vào cổ. Lý Văn Tú vội lấy chiếc khăn của mình buộc vết thương cho Tô Phổ. Vừa lúc đó cha của Tô Phổ là Tô Lỗ Khắc đi tới, biết được việc con trai đã giết được con sói lớn nên rất vui mừng. Nhưng khi gặp Lý Văn Tú, biết cô gái là người Hán nên do thâm thù từ trước (với người Hán, đã cướp bóc và giết vợ và con trai lớn của Khắc) nên đã cấm con trai mình qua lại với Lý Văn Tú. Lý Văn Tú biết vậy nên đem bộ lông sói Tô Phổ tặng đặt trước nhà A Mạn - con gái dũng sĩ của Cáp Tát Khắc là Xa Nhĩ Khố, đối thủ của cha Tô Phổ. Thời điểm này hai đứa trẻ thơ ngây còn chưa hiểu gì về tình yêu. Về sau, Lý Văn Tú vẫn nhớ tới Tô Phổ nhưng không thổ lộ vì cha Tô Phổ căm ghét cô, đồng thời Tô Phổ và A Mạn cũng đã thành đôi. Trong một lần ra ngoài, Lý Văn Tú gặp được Hoa Huy - nhất chỉ chấn Giang Nam, được nhận làm đồ đệ, sau đó cứ vài ngày lại đến chỗ ông luyện võ công. Một ngày nọ mưa tuyết lớn, Tô Phổ, A Mạn trú nhờ nhà Kế lão lão, Lý Văn Tú phải cải nam trang vào nhà, rồi đến khi một kẻ ở Tấn Uy tiêu cục tìm đến, đánh Tô Phổ bị thương, mọi người phát hiện ra bản đồ Cao Xương mê cung. Lúc sau Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố tìm con cũng tới đây và tên cướp thì bị Lý Văn Tú đuổi đi. Đến lúc trời sáng, Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố dẫn con cùng trai tráng lên đường đến Cao Xương mê cung, tại đây họ gặp được Hoa Huy, phát hiện ra bí mật về thân thế của y (Ngoã Nhĩ Lạp Tề) và Kế lão lão (Mã Gia Tuấn) - cũng là đồ đệ của Hoa Huy, Lý Văn Tú cũng được ông kể cho bí mật bất ngờ của Cao Xương mê cung. Cuối cùng, sau cái chết của sư phụ và Kế lão lão, Lý Văn Tú cùng con bạch mã trở về Trung Nguyên, lòng đầy tâm trạng. Chuyển thể Tác phẩm được chuyển thể 3 lần: Năm 1972 do Dương Phán Phán đóng Lý Văn Tú Năm 1987 do Khương Đại Vệ đóng Kế lão lão/Mã Gia Tuấn Năm 2002 do hãng phim Đại Lục sản xuất
Hiệp khách hành (, tiếng Anh là Ode to Gallantry) là một trong những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, được phát hành trên Minh báo vào năm 1965. Nội dung chính Câu truyện xoay quanh các cuộc phiêu lưu của Thạch Phá Thiên, xoay quanh bài thơ "Hiệp khách hành" của thi tiên Lý Bạch. Hiệp khách hành là câu chuyện hoàn toàn không có sự liên hệ với lịch sử, với những tình tiết mang tính chất mờ ảo, thần thoại. Chỉ có thể đoán rằng nó xảy ra trong thời kỳ nhà Minh, khi mà đã xuất hiện phái Võ Đang với huyền thoại Trương Tam Phong. Người đang chấp chưởng trưởng môn phái Võ Đang lúc ấy là Ngu Trà đạo trưởng. Các nhân vật chính Cẩu Tạp Chủng: có tên thật là Thạch Trung Kiên (con trai của Thạch Thanh và Mẫn Nhu), sau gọi là Thạch Phá Thiên, Thạch Phá Thiên (石 破 天, Shi Potian), là nhân vật chính trong bộ tiểu thuyết. Nhân vật này khi mới xuất hiện có tên là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống - cái tên do bà mẹ nuôi Mai Phương Cô gọi) và sau đó được bang Trường Lạc "gán" cho cái tên là Thạch Phá Thiên (thực chất ban đầu là danh xưng của Thạch Trung Ngọc) và từ đó dùng tên Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên có hình dáng bên ngoài giống hệt với người em của mình là Thạch Trung Ngọc nên vô tình bị vướng vào hàng loạt rắc rối, ân oán giang hồ do Thạch Trung Ngọc gây ra, nhưng cũng nhờ đó đã học được võ công tuyệt thế và được cả giang hồ kính trọng nhờ bản tính thật thà, trung hậu và hào hiệp của mình. Ngoài ra Thạch Phá Thiên còn có tên khác là Sử Ức Đao (do sư phụ Sử Tiểu Thúy đặt). Bạch A Tú: là con gái của Bạch Vạn Kiếm, cháu gái của Bạch Tự Tại, chưởng môn phái Tuyết Sơn. A Tú từng bị Thạch Trung Ngọc cưỡng hiếp nhưng không thành vì có người phát giác sau nàng nhảy xuống vực tự vẫn, rồi được bà nội nàng là Sử Tiểu Thúy (vợ Bạch Tự Tại) cứu, hai bà cháu đã bỏ đi khỏi Tuyết Sơn. Vô tình, khi cả hai bà cháu đang bị tẩu hỏa nhập ma được Thạch Phá Thiên cứu, nàng đã yêu Thạch Phá Thiên. Chỉ có nàng và bà nội là Sử Tiểu Thúy nhận ra sự khác biệt giữa 2 người giống hệt nhau là Thạch Phá Thiên (anh hùng) và Thạch Trung Ngọc (dâm tặc) qua đôi mắt lương thiện của chàng. Kết thúc tiểu thuyết, A Tú và Tiểu Thúy đợi mọi người trở về từ đảo Hiệp Khách, đã nhảy xuống biển tự vẫn vì tưởng mọi người không về, nhưng đã được Phá Thiên cứu kịp thời. Thạch Trung Ngọc: Vợ chồng Huyền Tố trang chủ Thạch Thanh - Mẫn Nhu Mai Phương Cô Tạ Yên Khách (biệt hiệu Ma thiên cư sĩ) là người có tính tình cổ quái nhưng rất trọng lời hứa. Tạ Yên Khách xuất hiện rất sớm trong tác phẩm, ban đầu đã là 1 người có võ công cực kì cao cường. Vợ chồng Hắc bạch song kiếm Thạch Thanh-Mẫn Nhu vì đứa con tưởng lầm bị kẻ thù giết chết nên vất vả tìm Huyền thiết lệnh về cho Tạ Yên Khách lúc đó đang ở Hầu Giám Tập để ông thực hiện lời hứa sẽ giúp người tìm cho mình Huyền thiết lệnh một việc bất cứ là việc gì. Tuy nhiên 2 vợ chồng vất vả không công mà lại còn bị Tạ Yên Khách lấy mất đôi Hắc bạch song kiếm. Ở Hầu Giám Tập, Cẩu Tạp Chủng (đứa con tưởng đã chết của Thạch Thanh-Mẫn Nhu) tìm được Huyền thiết lệnh và đưa cho Tạ Yên Khách. Sợ cậu bé sai khiến việc không có lợi cho mình nên Tạ Yên Khách bắt cậu về Ma Thiên Nhai nuôi dưỡng và bắt Cẩu Tạp Chủng luyện cả hai nội công Âm-Dương đối nghịch để cậu vì thế mà tẩu hỏa nhập ma mà chết. Không ngờ trong lúc luyện công bị tẩu hỏa nhập ma Cẩu Tạp Chủng lại được Bối Hải Thạch của bang Trường Lạc cứu chữa thành công và thoát chết, đồng thời từ đó cậu lại có công lực cực kì thâm hậu. Sau khi biết Cẩu Tạp Chủng bị người khác bắt đi, Tạ Yên Khách đi tìm và bắt được Thạch Trung Ngọc. Bang Trường Lạc đang cần kẻ làm bang chủ thế mạng nên lên Ma Thiên Nhai đòi người. Tạ Yên Khách lúc đó đang luyện Bích Trâm Thanh Chưởng chưa thành nên bị Bối Hải Thạch đánh bị thương. Tạ Yên Khách tháo chạy, tìm nơi văng vẻ luyện thành Bích Trâm Thanh Chưởng rồi đến tổng đà bang Trường Lạc đánh giết 1 trận, đánh trọng thương Bối Hải Thạch rồi đem Thạch Trung Ngọc lên phái Tuyết Sơn. Tại đây Tạ Yên Khách gặp lại Cẩu Tạp Chủng và nhận ra. Cẩu Tạp Chủng nhờ Tạ Yên Khách dạy dỗ Thạch Trung Ngọc nên người, Tạ Yên Khách nhận lời rồi đem Thạch Trung Ngọc đi. Tạ Yên Khách có thể nói là truyền nhân hiếm có của Đông Tà Hoàng Dược Sư trong Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ khi cả hai đều võ công cao cường, thích thổi tiêu, tính tình cổ quái và đều có tuyệt chiêu Đàn chỉ thần thông. Đinh Bất Tam là người kỳ quái và tàn ác, không phân biệt chính tà, không coi trọng nhân phẩm, luôn cho mình kiệt xuất, tự nhận là anh hùng. Đinh Bất Tứ Em trai Đinh Bất Tam, võ công cao cường nhưng cũng rất tự phụ. Vì yêu đơn phương Sử Tiểu Thúy mà quyết không lập thân. Đinh Bất Nhị anh cả trong 3 anh em nhà họ Đinh, chỉ xuất hiện thoáng qua trong tiểu thuyết. Đinh Đang là cô gái xinh đẹp, thông minh. Nhưng nàng vô cùng láu lỉnh, độc ác, chỉ chuộng vẻ hào nhoáng bên ngoài. Bạch Tự Tại: là trưởng môn phái Tuyết Sơn Sử Tiểu Thúy Vợ của Bạch Tự tại cũng như là su phụ của Thạch Phá Thiên, là người sáng lập ra phái Kim Ô. Bạch Vạn Kiếm Con trai Bạch Tự Tại và Sử Tiểu Thúy, cũng như là cha của A Tú Phong Vạn Lý Đệ tử Bạch Tự Đại, sư phụ của Thạch Trung Ngọc ở Tuyết Sơn, sau vì tội lỗi của Thạch Trung Ngọc mà bị Bạch Tự Tại chặt mất tay phải. Bối Hải Thạch và bang Trường Lạc Thưởng thiện Phạt ác sứ giả (Trương Tam, Lý Tứ) Long, Mộc đảo chủ Chuyển thể
Uyên ương đao () là một tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, xuất bản lần đầu vào năm 1961 trên Minh Báo. Nhân vật Nhân vật chính: Viên Quán Nam Tiêu Trung Tuệ Nội dung Tương truyền Uyên Ương đao là một cặp đao báu, ai chiếm được nó sẽ có thể xưng bá võ lâm. Chuyển thể
Việt nữ kiếm () là một truyện ngắn võ hiệp của Kim Dung, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1970. Nội dung Câu chuyện xảy ra vào thời Chiến Quốc, sau khi Việt vương Câu Tiễn bại trận trước Ngô vương Phù Sai. Câu Tiễn thi hành chín chính sách diệt Ngô của Văn Chủng. Trong đó có việc dâng hai mỹ nữ là Tây Thi và Trịnh Đán cho Phù Sai. Phù Sai cử tám kiếm sĩ sang nước Việt để so tài, đồng thời cũng để giám sát thực lực của Câu Tiễn, cho ông ta biết khó, mà từ bỏ ý định phục thù. Các kiếm sĩ Ngô lần lượt đấu một, đấu đôi và đấu bốn với các kiếm sĩ nước Việt và giết liên tục tám người là vệ sĩ của Câu Tiễn. Hơn nữa họ còn biết sử dụng binh pháp trong khi giao đấu. Mặc dù rất tức giận nhưng Câu Tiễn vẫn làm ra vẻ thản nhiên và ban tặng cho tám kiếm sĩ nước Ngô mỗi người mười cân vàng. Các kiếm sĩ nước Ngô theo lệnh Phù Sai dâng tặng Câu Tiễn một thanh bảo kiếm. Nhắc đến chuyện đúc kiếm họ cho mời Tiết Chúc vào cung. Tiết Chúc cho biết Ngũ Tử Tư đã mời sư huynh của ông ta là Phong Hồ Tử sang giúp nước Ngô dạy cho thợ đúc kiếm, vì thế mà binh khí của nước Ngô trở nên sắc bén. Phong Hồ Tử phụng mệnh Ngũ Tử Tư mời Tiết Trúc sang giúp Ngô đúc kiếm. Tiết Chúc sợ có ngày họ sẽ dùng kiếm đó để giết người Việt nên từ chối không đi, bị Phong Hồ Tử chặt đứt bốn ngón tay. Văn Chủng đề nghị Tiết Chúc dạy người đúc kiếm. Tiết Chúc cho biết "sắt để đúc kiếm thì hai nước Việt Ngô đều có cả, nhưng đồng tốt thì Việt có, mà thiếc tốt thì lại ở tại Ngô". Phạm Lãi liền đưa ra kế dùng giá cao để mua thiếc tốt. Trong một lần đi dạo, Phạm Lãi gặp tám kiếm sĩ nước Ngô. Tám kiếm sĩ này ngang ngược chém đứt tay thị vệ của Phạm Lãi. Và cũng vô duyên vô cớ chém chết dê của cô bé A Thanh. A Thanh bắt chúng đền nhưng chúng không đền còn muốn giết cô, chỉ với bốn động tác cô đã chọc mù một mắt hai tên. Sáu tên còn lại xông vào bao vây nhưng cũng bị cô chọc mù một mắt từng người một. Phạm Lãi đã đứng ra đền dê cho cô gái và mời cô gái về nhà. Cô gái nói thương đàn dê không nỡ thấy chúng bị người ta giết thịt. Thấy thế, Phạm Lãi cho người đem gạo, vải đến nhà cô để cô khỏi phải bán dê, đồng thời dò hỏi xem ai đã dạy cô kiếm pháp. A Thanh nói là ông Bạch. Muốn gặp ông Bạch thì phải đi chăn dê. Từ đó, ngày ngày Phạm Lãi đi chăn dê cùng cô, kể cho cô nghe nhiều câu chuyện và cô đã yêu ông. Ông Bạch, thực ra là một con vượn trắng, trông thấy A Thanh và Phạm Lãi thân mật thì nổi cơn ghen ba lần xông vào định giết Phạm Lãi, nhưng A Thanh đều phá giải được các đường tấn công của nó và đánh nó gãy hai tay. Con vượn đau quá bỏ chạy. Biết cô gái không biết dạy người khác kiếm pháp nên Phạm Lãi đã triệu tập tám mươi kiếm sĩ giỏi nhất đến để đấu với cô, nhưng họ đều bị cô đánh trọng thương chỉ sau hai hoặc ba lần múa gậy. Rồi sau đó cô bỏ đi mất tích. Phạm Lãi cho người tìm khắp nước Việt nhưng không thấy cô. Tám mươi kiếm sĩ kia tuy không nhìn thấy rõ ràng những động tác của cô nhưng cũng đã hình dung được một thứ kiếm pháp tuyệt diệu. Trên nền tảng đó họ đã huấn luyện kiếm pháp cho quân đội nước Việt. Ba năm sau Câu Tiễn hưng binh phạt Ngô. Quân Ngô bị thua. Phạm Lãi dẫn một ngàn binh tiến vào Quán Oa cung của Ngô vương. Đang vui mừng gặp lại Tây Thi thì nghe thấy tiếng dê, rồi tiếng A Thanh vang vọng ở bên ngoài đòi giết Tây Thi. Lúc này Phạm Lãi mới hiểu ra A Thanh đã yêu mình. Phạm Lãi liền cho điều một nghìn tên giáp sĩ, một nghìn kiếm sĩ, chia ra thủ ngự mặt trước, mặt sau Quán Oa cung. Và băn khoăn không biết xử lý A Thanh thế nào vì cô ấy là ân nhân của nước Việt. Phạm Lãi nhìn Tây Thi và mỉm cười chấp nhận chết chung với nàng. Lúc đó A Thanh đã vượt qua hàng rào thị vệ của Phạm Lãi và đến trước mặt hai người. A Thanh nhìn thấy Tây Thi còn đẹp hơn cả sự mô tả của Phạm Lãi liền bỏ đi. Phạm Lãi bỏ lại tất cả, đưa Tây Thi đi bơi thuyền trên Thái Hồ, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài, sống cuộc đời phóng khoáng tự do, ung dung tự tại. Các nhân vật Phạm Lãi Tây Thi A Thanh Kiếm sĩ nước Ngô Kiếm sĩ nước Việt Bạch Viên Câu Tiễn Văn Chủng Tiết Chúc Chuyển thể
Đại Lý, Đại Lý hay đại lý có thể chỉ: Một khái niệm trong kinh doanh: đại lý Các địa danh ở Trung Quốc: Châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý tại Vân Nam, Trung Quốc. Thành phố cấp huyện (huyện cấp thị) Đại Lý thuộc châu này. Vương quốc Đại Lý từng tồn tại trong lịch sử.
Xạ điêu tam bộ khúc (射鵰三部曲) là bộ ba tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung. Câu chuyện bắt đầu từ sự sụp đổ của nhà Kim, nhà Tống và sự nổi lên của Đế chế Mông Cổ. Câu chuyện kết thúc một trăm năm sau đó với sự thiết lập nhà Minh. Những nhân vật trong truyện đóng vai trò quan trọng trong sự suy tàn và hưng vong của những triều đại đó. Hầu như 3 tác phẩm đều có mối liên hệ về nhân vật qua nhiều đời, nhất là các nhân vật chính. Xạ điêu tam bộ khúc đã được chuyển thể thành phim màn ảnh rộng, phim truyền hình, truyện tranh và game. Anh hùng xạ điêu Tiểu thuyết có 2 nhân vật chính là Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Câu chuyện kể về sự hình thành của đế quốc Mông Cổ, sự sụp đổ của nhà Kim, sự suy yếu trầm trọng của nhà Tống thông qua quá trình trưởng thành của nhân vật chính Quách Tĩnh cùng với Hoàng Dung. Truyện kết thúc khi Thành Cát Tư Hãn qua đời. Thần điêu hiệp lữ Tiểu thuyết có 2 nhân vật chính là Dương Quá, Tiểu Long Nữ. Truyện diễn ra sau phần đầu khoảng 10 năm. Chủ đề chính của bộ truyện là mối tình trắc trở giữa Dương Quá và Tiểu Long Nữ diễn ra trong bối cảnh lịch sử, Mông Cổ đã cực kỳ lớn mạnh, bắt đầu tấn công xâm lược nhà Tống. Truyện kết thúc bằng chiến thắng của quân đội nhà Tống tại thành Tương Dương. Hầu như các nhân vật của phần 1 có mối liên hệ mật thiết về mối quan hệ họ hàng với phần này và tiếp tục diễn biến phức tạp hơn. Cả hai phần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như không hiểu và không xem, độc giả khó có thể hình dung được tuyến nhân vật ở phần 2. Ỷ thiên Đồ long ký Tiểu thuyết có các nhân vật chính là Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn quận chúa. Nếu hai phần đầu tiên có liên quan chặt chẽ đến nhau thì phần thứ ba này không liên quan lắm. Truyện diễn ra sau sự kiện trong Thần Điêu hiệp lữ khoảng 80 năm. Lúc này Mông Cổ đã diệt Tống, nhà Nguyên được thành lập, thống trị Trung Quốc. Những cuộc khởi nghĩa nổi lên liên miên. Thông qua quá trình tu luyện, trưởng thành của nhân vật chính Trương Vô Kỵ cùng câu chuyện tình của chàng với bốn cô gái Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Chiêu và Ân Ly, bối cảnh giang hồ và lịch sử được hoà quyện, miêu tả một cách khá rõ nét. Truyện kết thúc khi nhà Minh được thành lập. Phần này gần như biệt lập về nhân vật, chỉ có sự xuất hiện một cách rất mờ nhạt của tuyến nhân vật và bối cảnh của cả hai phần đầu.
Nirvana có thể là: Tôn giáo Niết bàn, khái niệm trong Phật giáo Âm nhạc Nghệ sĩ Nirvana (ban nhạc), ban nhạc từ Seattle, Washington (1988-1994) Nirvana (ban nhạc Anh), ban nhạc rock từ Anh (1967-nay) Album Album Nirvana của ban nhạc này Nirvana (EP) của ca sĩ người Anh Sam Smith Điện ảnh Phim Nirvana, phim khoa học giả tưởng Ý sản xuất năm 1997
Thành phố Salt Lake () là thành phố thủ phủ và lớn nhất tiểu bang Utah, Hoa Kỳ. Dân số của thành phố là 181.743 (năm 2000) và 178.097 năm 2005 theo thống kê của Tổng cục Thống kê dân số Hoa Kỳ. Mới đầu có tên Great Salt Lake City theo hồ Great Salt Lake, nó được thành lập năm 1847 bởi một nhóm tín hữu Mormon dẫn đầu là Brigham Young. Thành phố này chính là nơi đăng cai Thế vận hội mùa đông năm 2002.
Baltimore là một thành phố độc lập thuộc tiểu bang Maryland, bờ biển phía Đông Hoa Kỳ. Năm 2018, dân số của Baltimore là 602.495. Dân số vùng đô thị Baltimore là 2,6 triệu (năm 2005). Baltimore là thành phố lớn nhất tiểu bang Maryland và là trung tâm công nghiệp và văn hóa lớn của tiểu bang này.
Detroit (IPA: ; tiếng Pháp: D'étroit, phát âm [detʁwa]) là thành phố lớn nhất của tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ, là thủ phủ của Quận Wayne. Thành phố được thành lập năm 1701 bởi các nhà buôn lông thú người Pháp. Đây là thành phố cảng lớn, tọa lạc tại phía bắc Windsor, Ontario (Canada), bên sông Detroit ở phía trung tây của vùng Ngũ Đại Hồ. Dân số vùng đô thị Detroit: 5.456.428 người. Diện tích thành phố: 370,2 km² (142,9 dặm vuông), trong đó: diện tích đất là 359,4 km², diệc tích mặt nước: 10,8 km². Detroit được biết đến như là trung tâm ô-tô truyền thống của thế giới và là một nguồn di sản quan trọng của nhạc pop. Nickname của thành phố là Motor City and Motown. Detroit cũng được biết đến như là "Paris của miền Tây" - tên này xuất phát từ sông Detroit (trong tiếng Pháp là Rivière du Détroit, có nghĩa là dòng sông eo biển), cái tên ám chỉ sự chấp nối của con sông tạo ra giữa Hồ St. Clair và Hồ Erie. Năm 2005, thành phố Detroit xếp thứ 11 trong các thành phố ở Hoa Kỳ về quy mô dân số với 886.675 dân - con số này thấp hơn thời kỳ dân số đạt cực điểm năm 1950. Detroit đứng đầu Hoa Kỳ về sự sụt giảm dân số đô thị trong vòng 50 năm qua. Detroit trung tâm của là một trong 10 vùng đô thị lớn nhất Hoa Kỳ. Tỷ lệ tội phạm của thành phố này đã mang đến tai tiếng cho thành phố Detroit trong lúc thành phố không ngừng đấu tranh chống lại gánh nặng về sự bất hòa giữa các dân tộc thành phố với vùng xung quanh. Thành phố đã trải qua một thời kỳ sụt giảm ngân sách kéo theo sự cắt giảm các dịch vụ của thành phố. Tuy nhiên, trung tâm đô thị Detroit đang phục hồi với việc xây dựng các trụ sở của các công ty phần mềm, một trung tâm Phục Hưng được nâng cấp gần đây, 3 sòng bạc, các sân vận động mới và the khu đi dạo ven sông Detroit Riverwalk. Thành phố là trung tâm giải trí cho vùng đô thị. Người dân Detroit được gọi là "Detroiters." Tên Detroit cũng được dùng để gọi vùng đô thị Detroit - một vùng đô thị có 4.488.335 dân, nếu tính cả khu vực chín quận nữa thì dân số là 5.456.428 người. Nếu tính cả thành phố Windsor của Canada nằm kề vùng đô thị thì dân số khu vực này là 5,9 triệu. Khí hậu
Dù lượn, tiếng Anh gọi là Paragliding, gọi theo tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếng Pháp là Parapent, là một môn thể thao hàng không giải trí nhưng cũng không kém phần cạnh tranh mang tính chuyên nghiệp. Dù lượn là hình thức bay tự do, cất cánh bằng chân. Phi công ngồi vào một ghế ngồi được may bằng những dây đai bền chắc (đai ngồi) bên dưới một cánh dù làm bằng vải, được bơm căng đầy không khí để giữ hình dáng khí động học nhờ vào áp lực không khí khi dù di chuyển tràn vào các "xoang dù". Lịch sử Năm 1954, Walter Neumark có ý tưởng khi cho rằng có thể cất cánh bằng chân khi chạy trên một con dốc với một cánh bằng vải. Sau đó một vài vận động viên leo núi đã dùng cách này để lao xuống núi cho nhanh thay vì leo xuống tại dãy núi Alps, Thụy Sĩ. Năm 1961, Pierre Lemoigne – một kỹ sư pháp cải tiến chiếc dù của lính dù (para-commander) bằng cách cắt bớt một phần phía trước và bên hông của một dù tròn, và có thể kéo lên cao nhờ dây thừng, ngày nay được gọi là dù kéo (parasailing) Năm 1964, Domina Jalbert – một người Mỹ phát minh ra chiếc dù vuông thể thao mà ngày nay các vận động viên môn rơi tự do vẫn dùng, cấu tạo gồm những xoang khí khi may hở phần trước và đóng phần sau của 2 lớp dù với các vách ngăn. Khi bay dù căng lên giữ biên dạng cho cánh dù tương tự như biên dạng cánh máy bay, được gọi là dù vuông thể thao "parafoil", các loại dù sau này dùng phương pháp bơm căng bằng không khí như vậy gọi là loại dù "ram air" Trong cùng thời gian đó (1965), David Barish người Mỹ lại nghiên cứu và phát triển một dạng cánh dù (loại sail-wing) cho phép tàu con thoi của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ NASA có thể đáp xuống mặt đất đúng điểm, sau đó ông áp dụng cho việc lượn cặp theo dốc cho môn trượt tuyết nhưng không gặt hái thành công. Tháng 6 năm 1978, Jean-Claude Bétemps, André Bohn và Gérard Bosson – 3 người Pháp, lấy cảm hứng từ cuốn sách do Dan Poynter viết về sail-wings, đã may một loại dù mới dễ dàng bơm căng khí khi chạy theo một triền đồi. Thử nghiệm bởi Bétemps khi cất cánh tại Pointe du Pertuiset, Mieussy, Pháp thì chỉ bay được 100m. Nhưng sau đó Bohn thử nghiệm lại thì bay được 1000 m, môn Dù lượn từ đó chính thức ra đời. Kể từ những năm đầu của thập niên 80, các tiến bộ về vật liệu, công nghệ và tính toán đã làm cho dù lượn dần dần thu hút được rất nhiều người quan tâm và tham gia. Giải vô địch thế giới đầu tiên được tổ chức tại Kossen, Áo năm 1989. Biến thể Một biến thể khác của dù lượn là dù bay (Paramotor), là loại hình dù lượn có gắn động cơ. Nguyên lý và các trang bị của dù bay tương đồng gần hoàn toàn với dù lượn, khác biệt lớn nhất là phi công dù bay có đeo thêm một động cơ cánh quạt cỡ nhỏ để tạo lực bay ngang đồng thời hỗ trợ lực nâng thay vì chỉ có lực rơi như dù lượn. Cấu tạo và trang bị kèm theo Vòm dù Cánh dù lượn (hay vòm dù, cánh dù), là một hệ thống có thể tự bơm không khí vì được thiết kế thành những xoang dù may bằng vải mỏng tạo thành. Phi công nâng dù bằng cách kéo nhóm dây liên kết với cửa của các xoang dù. Các dây này lại liên kết với các đai nhỏ rồi nối vào móc dù và nối vào đai ngồi. Khi điều khiển, phi công dùng tay kéo phần thành thoái (phần phía sau của dù) bằng một sợi dây được gọi là dây phanh (dây thắng) làm dù chuyển hướng hay tăng giảm tốc độ. Phi công được cài vào đai ngồi, cũng là một chiếc ghế có gắn dù dự phòng. Trên đai ghế ngồi có gắn một hệ thống cho phép tăng tốc thêm so với tốc độ trung bình của dù gọi là thanh tăng tốc. Các đai ngồi ngày nay thường có những miếng xốp hay những đệm khí để giảm chấn động cho phi công khi đáp mạnh. Cánh dù lượn thường có diện tích khoảng 25 -35m², dù đôi có diện tích gần gấp đôi so với dù đơn, sải cánh từ 8 – 12m, nặng từ 3 – 7kg. Một bộ thiết bị dù bao gồm: dù, đai ngồi, dù dự phòng, các thiết bị điện tử, nón bảo hiểm, tất cả nặng khoảng 12 – 18 kg. Máy đo độ leo - độ cao Những con chim trời đều là những động vật cực kỳ nhạy cảm với áp suất không khí, và chúng có thể cảm nhận được việc đang bay lên hay đang bay xuống bằng những bộ cảm biến sinh học rất nhạy cảm, nhưng con người thì không. Con người có thể cảm nhận khi vừa bay vào cột khí nóng, nhưng sau đó lại không biết là hiện tại mình đang bay lên hay bay xuống và như vậy cũng không biết là còn đang bên trong cột khí nóng hay không!?. Các công nghệ tiên tiến ngày nay giúp cho các phi công không những chỉ biết được dù đang bay lên hay xuống mà còn biết dù bay lên hay xuống bao nhiêu mét mỗi giây nhờ vào thiết bị đo độ leo, với những bộ cảm biến điện tử rất nhạy cảm bên trong. Máy đo độ leo cũng là máy tích hợp máy đo độ cao, luôn hiển thị cho phi công biết tốc độ leo của dù trong mỗi giây (- khi bay xuống, + khi bay lên). Đồng thời hiển thị độ cao, và có thể chọn hiển thị độ cao so với mặt đất hay độ cao so với mực nước biển. Công dụng chính của máy đo độ leo là giúp phi công tìm ra và duy trì đường bay luôn nằm trong cột khí nóng hay khu vực tạo lực nâng rồi điều khiển dù để đạt độ cao như mong muốn. Máy bộ đàm, liên lạc vô tuyến - Radio Máy bộ đàm là máy liên lạc vô tuyến dùng để liên lạc giữa phi công và phi công, phi công và mặt đất... Việc liên lạc này rất quan trọng trong khi huấn luyện, và hữu ích trong việc liên lạc giữa các phi công trong quá trình bay, họ có thể trao đổi về tình huống thời tiết, các sự cố, cảnh báo, và những báo cáo về lộ trình bay, điểm đáp. Thường các radio được dùng là những radio có tần số FM, VHF hay UHF vừa thu vừa phát, thông dụng nhất là những máy bộ đàm có tần số 144 – 148 MHz. Để quá trình bay diễn ra thuận tiện hơn, các loa nghe thường nằm trong mũ bảo hiểm, các nút bấm để nói (pust to talk – PTT) được thiết kế trên mũ luôn hoặc nằm nơi ngón tay để việc bấm – nói dễ dàng hơn. Máy định vị toàn cầu – GPS (Global Positioning System) Là thiết bị rất cần thiết cho những phi công bay khoảng cách xa. Máy giúp phi công ghi lại bằng các vector đồ họa toàn bộ đường bay nhằm dẫn đường hay ghi lại các điểm nút địa danh (waypoint) mà dù bay qua. Sau khi kết thúc chuyến bay, phi công có thể xem lại đường bay và cả những thông số liên quan đến đường bay đó như tốc độ (tốc độ mặt đất), độ cao, ngày giờ… phi công sẽ rút tỉa được những kinh nghiệm và khả năng của mình. Việc lưu lại bản đồ bay này có thể được thực hiện trên máy tính với nhiều máy GPS khác nhau, Ban Giám khảo của các giải đấu cũng qua đó có thể chấm giải một cách khách quan hơn. Phi công cũng có thể tải vào máy những nơi không được phép bay qua như khu quân sự, khu vực dân cư, nhiều dây điện cao thế hay đánh dấu những nơi được ban giám khảo quy định phải bay qua, hay đường bay yêu cầu đối với những phi công không thông thuộc địa hình mới. Khi lên kết với máy tính, các phần mềm hỗ trợ ngày nay giúp phi công thể hiện lại toàn cảnh quá trình bay theo không gian 3 chiều, Tỉ số lượn (glide ratio - là độ lượn xa tối đa khi dù ở 1 đơn vị chiều cao) cho dù thông thường là 6:1 (bay xa 6 km nếu bay từ độ cao 1 km), và khoảng 10:1 cho các loại dù lượn cho phi công chuyên nghiệp hay các đấu thủ đẳng cấp cao (trong khi đó diều lượn là 15:1 và tàu lượn là 60:1). Tốc độ tối thiểu có thể mất lực năng (triệt nâng) của dù lượn là 20 km/giờ tốc độ tối đa có thể đạt tới 65km/giờ (tốc độ dòng không khí qua dù). Vật liệu may cánh dù là những loại vải được sản xuất theo công nghệ cao, không thấm không khí như Porcher, Gelvenor. Dây dù được làm những loại sợi tổng hợp rất chắc như kevlar, aramid. Để bảo quản dù, sau khi xếp dù thì dù được cột vào đai ngồi rồi cho vào túi. Túi đựng dù được cho vào đai ngồi trong khi bay. Một vài Hãng sản xuất gần đây cho ra đời những sản phẩm là kết hợp đai ngồi và túi dù là một, như vậy chỉ cần lộn đai ngồi thì sẽ có một túi đựng dù. Dù đôi, được thiết kế để bay hai người, phi công và hành khách. Tuy có diện tích rộng hơn nhưng thiết kế cũng tương tự như dù đơn, lực nâng đủ cho 2 người. Dù đôi bay nhanh hơn dù thông thường một chút nhưng có cấu tạo rất an toàn và rất hiếm khi bị xẹp khi đang bay, tuy nhiên tỷ số góc lượn không cao như dù đơn. Quá trình bay Dù lượn là một thiết bị bay không động cơ, những luồng gió giúp dù ở trên cao hàng giờ, những cơn gió như vậy được sinh ra từ 2 nguồn: Khi mặt trời đốt nóng mặt đất, những cột không khí nóng nhẹ hơn sẽ bay lên cao tạo thành những cột khí nóng (thermal) Khi gió thổi trực diện vào một vách núi, không khí chuyển hướng từ dưới lên trên tạo lực nâng theo dòng không khí giúp dù duy trì độ cao, lực nâng theo vách núi này không thể đưa dù lên cao như kiểu nâng theo cột khí nóng. Được gọi là bay theo vách núi (ridge soaring) Cất cánh Không khác các máy bay khi cất cánh, dù cũng cất cánh ngược gió. Khi bay theo cột khí nóng, phi công đôi khi cất cánh trong điều kiện không gió để rồi tìm kiếm các cột khí nóng trong không khí. Khi ít gió hay khi không có gió, phi công phải cất cánh xuôi, có nghĩa là phi công phải chạy về phía trước, mặt nhìn về nơi xuất phát của gió để có thể bơm căng cánh dù và chạy lấy đà. Khi gió vừa đủ mạnh, phi công có thể cất cánh ngược, mặt của phi công nhìn vào dù rồi dùng động tác đưa dù lên đỉnh đầu và xoay người lại để lấy đà cất cánh. Cất cánh ngược đòi hỏi kỹ năng tốt, nhưng dù sẽ được đưa lên đỉnh đầu trong trạng thái cân bằng hơn vì phi công luôn quan sát được tình trạng dù, các dây dù khi toàn bộ dù nhấc khỏi mặt đất. Và cũng an toàn hơn nếu như gió mạnh đẩy dù về sau, trong khi đó cất cánh xuôi có thể lôi phi công bật ra sau nếu gíó mạnh. Phương pháp cất cánh ngược này, phi công có thể bước lùi trong khi vẫn có thể dùng tay điều chỉnh và đưa dù về trạng thái sẵn sàng cất cánh trước khi quyết định xoay người để cất cánh, như vậy nếu bị vấp té ra sau khi đang bước lùi thì cũng không ngã bật ra sau, vì lúc này các dây dù đang căng lên ngay phía trước mặt của phi công. Ở những nơi bằng phẳng hơn, không có độ cao để cất cánh, có thể cất cánh bằng một hệ thống dây kéo, tời (Towing, Winch). Sau khi được kéo lên đến độ cao cần thiết, thường trong khoảng 100 – 400m, phi công sẽ chủ động ngắt dây, phương pháp cất cánh này đòi hỏi phải được huấn luyện một cách chuyên nghiệp cho người điều khiển thiết bị kéo dù lẫn người được kéo dù. Dù dùng cho phương pháp cất cánh này cũng là dù được thiết kế thích hợp cho việc kéo dù, trên đầu mút cánh dù thường ghi rõ dù này có thích hợp cho kéo dù hay không. Cất cánh và bay bằng phương pháp này hoàn toàn khác với các kiểu bay thông thường, trình độ căn bản được khuyến cáo không nên dùng cách cất cánh này để bay mà chỉ nên tập luyện với độ cao thấp mà thôi. Tại một số quốc gia trên thế giới phương pháp này được quy định là phải dùng thiết bị kéo cố định và được kiểm tra chất lượng trước khi dùng cho việc kéo dù. Đáp là một quá trình bao gồm: bay ngược gió, giảm tốc độ, giảm độ cao, tiếp đất bằng động tác phanh tối đa, chân chạm đất trong tư thế chạy về trước. Góc đáp dù còn tùy thuộc vào tốc độ gió. Điều khiển dù Phi công dùng tay giữ hai dây phanh (hay dây lái), hai dây này được nối với phần sau của cánh dù. Khi kéo cả hai bên dây lái, góc tấn tăng (góc tấn là góc hợp thành bởi phương di chuyển của dù và đường trục chính của dù), điều này làm tăng lực nâng đôi chút nhưng cũng tăng lực cản làm dù chậm lại, dây lái lúc này có tác dụng tương tự như cánh tà của máy bay (tiếng Anh gọi là flap). Nếu kéo 1 bên nhóm dây lái kết hợp nhẹ nhàng với việc nghiêng người sang cùng bên khi phi công đang ngồi trong đai ngồi, dù sẽ chuyển hướng sang một bên, lái kết hợp với việc nghiêng người, gọi là lái bằng trọng lực (cánh diều lượn cũng được điều khiển tương tự kiểu này, tiếng Anh gọi là "weight shift"). Điều chỉnh cho tốc độ bay của dù nhanh hơn bình thường là khi phi công dùng dây tăng tốc được thiết kế trong đai ngồi, khi thực hiện việc tăng tốc phi công sẽ dùng chân làm căng dây tăng tốc, lúc đó phần thành tiến của dù (phần trước của dù) sẽ hơi bị kéo xuống làm giảm góc tấn, bớt sức cản và dù sẽ tăng thêm tốc độ. Trong một vài trường, phi công muốn giảm độ cao một cách nhanh chóng, anh ta (hay cô ta) sẽ làm giảm diện tích của dù bằng cách làm xẹp một phần ở cả hai bên đầu mút cánh dù, động tác này gọi là động tác tai voi (tiếng Anh gọi là "Big ear"). Động thái này không những làm giảm diện tích của dù và làm giảm lực nâng nhưng lại làm tăng lực cản nên dù bay chậm hơn (vì thông thường giảm diện tích lại làm dù bay nhanh hơn). Một động tác khác có thể làm dù giảm độ cao nhanh chóng đó là giảm lực nâng bằng nhóm dây B (gọi là "B Stall"), hoặc bay thắt vòng xuyến, bay khoan (gọi là "spiral dive, spin"). Những động tác này nguy hiểm hay không cũng tùy vào từng loại dù và khả năng của phi công, thường thì các phi công đều tránh những động tác có thể đem lại những trường hợp nguy hiểm hay phải xử lý phức tạp. Bay cặp vách núi - Ridge soaring Trong cách bay này, phi công điều khiển cho cho dù bay cặp theo sườn núi, lợi dụng dòng di chuyển của không khí khi gió thổi vào. Bay cặp vách núi yêu cầu gió ổn định, thổi đều vào sườn núi chạy dài và gần như vuông góc với hướng gió. Mức độ đáp ứng để có thể bay nhanh hay chậm, lực nâng nhiều hay ít của cánh dù còn tùy thuộc vào tính năng của Dù khi xuất Xưởng và kỹ năng của phi công. Với gió yếu, lực nâng chỉ đủ để dù có thể cho phép phi công cất cánh và làm một đường bay ngắn rồi lại đáp. Với sức gió vừa phải (còn tùy loại dù đáp ứng), lực nâng cho phép dù bay lượn dọc theo sườn dốc và bay lên trên cao hơn cả sườn núi. Nhưng nếu gió quá mạnh, dù có nguy cơ sẽ bị đẩy lùi về phía sau (bay lùi), và ra phía sau của sườn núi, như vậy rất nguy hiểm vì đó là nơi những dòng khí nhiễu loạn (dòng khí quẩn). Khi bay cặp vách núi với tốc độ gió vừa phải, phi công có thể khéo léo đáp dù xuống ngay nơi vừa cất cánh trên đỉnh hoặc ngay triền dốc không xa nơi cất cánh để tiết kiệm thời gian sau khi bay xong và trở về hoặc lại cất cánh lần nữa. Bay theo cột khí nóng - Thermal flying Khi mặt trời lên cao đốt nóng mặt đất, có những vùng được đốt nóng hơn so với những nơi khác (nhiệt độ khác nhau khi mặt trời chiếu vào một khoảng rừng hay một cánh đồng khô…), không khí tại những nơi nóng hơn sẽ bốc lên cao thành những cột khí nóng. Những cột khí nóng được hình thành sẽ bốc thẳng lên cao, nhưng gió thổi ngang làm cho chúng bốc lên với góc nghiêng. Khối khí nóng hình thành khi không còn nguồn cung cấp năng lượng cho cột khí nóng. Khi phi công tìm thấy cột khí nóng, phi công sẽ điều khiển cho dù bay theo hình vòng tròn phía trong của biên dạng cột khí nóng và giữ đường bay này sao có cho lực nâng tốt nhất. Phần lớn phi công đều sử dụng máy báo độ leo và độ cao (vario meter) để nhận biết tốc độ leo của dù, các thông số của máy sẽ cho phép phi công bay trong những vùng có lực nâng tốt nhất. Bay theo biên dạng của cột khí nóng là một lý thuyết đơn giản: bay vòng tròn siết chặt hơn, nhỏ hơn sẽ ít nâng hơn, bay với đường bay tròn rộng hơn sẽ nâng nhiều hơn. Vùng bên ngoài bên cạnh cột khí nóng thường không tạo ra lực nâng và dù sẽ mất lực nâng và mất cao độ khá nhanh, và ngay trong những cột khí nóng có những dòng không khí nquẩn bên trong làm cho dù có khi mất cân bằng, chòng chành như con thuyền trên sóng lớn, có khi làm xẹp dù khi vào những cột khí nóng có lực nâng quá mạnh. Bay theo dòng khí nóng là hình thức bay đòi hỏi phi công phải tốn thời gian để luyện tập, một phi công nhiều giờ bay hoàn toàn khác với một phi công ít giờ bay, một phi công có kỹ năng tốt sẽ có thể bay theo dòng khí nóng lên đến chân mây (cloud base) và đi rất xa. Bay việt dã - Bay đường trường - Xc cross country Khi đã thuần thục kỹ năng bay trong dòng khí nóng, phi công sẽ theo những dòng khí nóng nối tiếp nhau để có thể bay thật xa gọi là bay đường trường hay bay việt dã. Khi bay đường trường, phi công sẽ lợi dụng dòng khí nóng bay lên cao và lượn ra ngoài dòng khí nóng này theo hướng muốn bay đến. Trên đường đi, phi công sẽ tìm và lại bay theo những cột khí nóng gặp được trên đường đi. Việc tìm ra những cột khí nóng là kinh nghiệm riêng của mỗi phi công, nhưng thường có thể bắt đầu bằng việc nhận định địa hình bên dưới hay việc nhận định hình dạng và tính chất của những đám mây tích thành khối (cumulus), những đám mây này đánh dấu một cách tự nhiên nơi xuất hiện cột khí nóng. Độ ẩm trong không khí và mật độ không khí khi đạt đến độ ngưng tụ sương sẽ tạo ra mây. Khi bay đường trường, phi công không những phải có những kỹ năng bay trong cột khí nóng mà còn phải hiểu luật bay, quy tắc bay, có bản đồ bay chỉ rõ những khu vực không được bay vào, vùng cấm bay, trần bay tối đa… Bị xếp dù – Collapses Khi bay trong dòng không khí nhiễu loạn, dòng khí quẩn (turbulent), dù có thể bị xếp một phần hay toàn phần. Những dù hiện đại ngày nay, hiện tượng xếp hay xẹp dù có thể được phục hồi tự động mà không cần đến xử lý của phi công bởi cấu tạo của dù với các thiết kế được tính toán bằng các ứng dụng khí động học tiên tiến ngày nay. Trong những trường hợp hiếm gặp khác, khi dù không tự động phục hồi trở về trạng thái duy trì lực nâng, phi công có thể mở dù dự phòng để có thể hạ cánh an toàn. Thật may mắn là có rất hiếm trường hợp phải mở dù dự phòng trong khi bay ngày nay, tuy nhiên nếu sự cố xảy ra trong khi dù bay ở độ cao quá thấp như lúc mới cất cánh hay gần bãi đáp, thì có thể dù sẽ không còn thời gian để phục hồi trạng thái, lúc đó ngay cả dù dự phòng cũng không có đủ thời gian để mở ra, trường hợp này có thể mang lại những hậu quả là những chấn thương nghiêm trọng hay tử vong. Xẹp dù và những trạng thái bay nguy hiểm sẽ được giảm thiểu nếu ta chọn đúng dù thích hợp, đúng điều kiện thời tiết tốt, đúng nơi đúng chỗ, tuân thủ các quy tắc an toàn bay và thường xuyên trau dồi kinh nghiệm. Các giải thi đấu Có nhiều phi công hoàn toàn không vừa lòng khi chỉ bay lượn đơn thuần, họ muốn chinh phục những đoạn đường xa hơn, hoặc bay cao hơn, hay bay nhào lộn như làm xiếc xem ai đẹp hơn. Để có thể phân định ai giỏi hơn, các giải thi đấu cũng vì vậy ra đời, không những có thể phân ranh thắng bại cho việc ai bay xa hơn, ai nhào lộn đẹp hơn, ai đáp chính xác hơn… mà còn là dịp phi công của nhiều quốc gia gặp nhau trao đổi kinh nghiệm, kết bạn, nhà sản xuất giới thiệu công nghệ và sản phẩm mới. Các giải đấu của thế giới thường là: Giải Liên Đoàn bay việt dã (cross country – XC) – tổ chức hàng năm xem ai bay xa nhất. Giải vô đich thế giới, với những bài bay bắt buộc như bay qua những điểm định trước. Giải bay và đáp chính xác, điểm đáp là một vòng tròn nhỏ như miệng một cái lọ mứt. Giải bay nhào lộn và bay nguy hiểm đến ngẹt thở. Được tổ chức với các quy tắc an toàn nghiêm ngặt như: phải nhào lộn trên mặt nước, có dù dự phòng, tàu cao tốc cứu hộ… Các giải bay trong nước và quốc tế để xác lập kỷ lục thế giới hay quốc gia đó như: bay cao nhất, bay xa nhất, bay qua 3 điểm định trước (tam giác), bay đến một điểm định trước, bay qua 3 điểm định trước với độ dài 100 km. Dù dùng cho các giải đấu này và cho các ứng dụng khác nhau như nhào lộn hay bay xa đều được thiết kế đặc biệt cho ứng dụng đó. Tầm bay xa cũng như tốc độ hoàn toàn khác biệt so với dù giải trí thông thường. An toàn bay Dù lượn là một môn thể thao mang rất nhiều yếu tố mạo hiểm. Nhưng nó lại là một môn thể thao cảm giác mạnh mà khi đã "sa chân" thì sẽ yêu mến nó mà không dứt ra được. Phi công ai ai cũngmuốn được bay trong một môi trường an toàn, tránh những yếu tố rủi ro trong khi có thể phòng tránh được, một vài nguyên tắc nên tránh như sau: Bay trong những cột khí nóng có tốc độ leo chết người, quá mãnh liệt, chênh lệch nhiệt độ giữa cột khí nóng và môi trường xung quanh quá cao, khi bay vào khu vực này, dù có thể bị xẹp toàn phần và đòi hỏi phi công phải có những phản ứng thích hợp, bay trong môi trường này rất căng thẳng. Bay trong lúc gió mạnh, nếu đang bay gió mạnh lên thì cẩn thận khi đáp, gió mạnh hơn sẽ thổi lùi dù về phía sau của dãy núi nơi không có lực nâng mà có khi là nơi có rất nhiều dòng khí quẩn, hay các dòng khí cuộn (rotor) hay có khi thổi lùi dù vào vách núi, trong điều kiện này có thể xẹp dù mà không thể khôi phục, phản ứng hay nhất là bật dù dự phòng. Bay bên dưới những đám mây tích khổng lồ, đám mây này lại được tăng cường bằng một cột khí nóng khác chuyển động lên cao nhanh hơn tốc độ leo của dù, như vậy sinh ra rất nhiều dòng không khí quẩn mãnh liệt, dù dễ dàng bị xẹp hay xoắn vào nhau. Hạ cánh trong điều kiện không an toàn như đáp phía sau những vật cản như cây cối, nhà cửa, khi dòng không khí trườn qua các vật cản này sẽ làm sản sinh ra dòng không khí cuộn có thể làm xếp dù, hay chọn điểm đáp gần dây điện. Phi công vô tâm, không giữ an toàn cho các phi công khác hay cho chính mình. Phi công coi thường các chỉ dẫn về an toàn bay. An toàn bay cũng bao gồm cả việc kiểm tra trước khi cất cánh, mũ bảo hiểm hay đai ngồi đúng tiêu chuẩn, dù dự bị, quan sát trước khi cất cánh và bảo quản dù… Những phi công muốn có thêm những cảm giác bay thách thức hơn, có thể học nâng cao với hình thức bay "mô phỏng tình huống có sự cố - SIV" (simulation d’incidents de vol) qua những khóa học nâng cao, qua khóa học này phi công được học để làm thế nào có thể tạo ra được những tình huống gặp sự cố có thể xảy ra khi bay rồi thoát ra khỏi tình huống đó. Để thực hiện những động tác khó này, học viên được huấn luyện viên điều khiển qua máy bộ đàm trên một mặt hồ rộng lớn, phi công sẽ thận trọng đưa dù vào tình huống xẹp dù, triệt nâng (stall), bay khoan (spin) v..v…. Rồi làm sao khôi phục dù về trạng thái ban đầu. Trong khi thực hiện những thao tác này, có lúc xảy ra tình huống rất nghiêm trọng sẽ được huấn luyện viên hướng dẫn thao tác. Một phi công luôn luôn tuân theo chỉ dẫn và có trách thì trong trường hợp xấu nhất cũng chỉ là những chấn thương không đáng kể, trong khi những phi công quá mạo hiểm và coi thường cảnh báo hay chỉ dẫn của HLV có thể gặt hái những chấn thương như gãy cổ chân hay chấn thương cột sống và luôn bay trong trạng thái tim đập thình thịch. Kỷ lục thế giới Bay xa: ngày 14 tháng 12 năm 2008, kỷ lục thế giới được xác lập bởi thành tích của Nevil Hulett người Nam Phi, với độ dài đoạn đường là 502,2 km trong 7 giờ 39 phút, địa điểm bay tại Nam Phi. Kỷ lục trước đó là 461.6 km do Frank Brown, Marcelo Prieto và Rafael Monteiro Saladini người Brazil lập ở Quixadá – Duque, Brasil vào ngày 14 tháng 11 năm 2007. Bay cao: kỷ lục thế giới được công nhận chính thức là 4526m so với mực nước biển của một người Anh tên Robbie Whittal xác lập ngày 06 tháng 01 năm 1993 tại Brandvlei, Nam Phi. Nhưng sau đó có rất nhiều người đã phá kỷ lục này nhưng không đăng ký thành kỷ lục. Ngày 14 tháng 02 năm 2007, một phi công nữ của Đức tên Ewa Wisnierska đạt độ cao 9947m so với mực nước biển trong một tình huống gặp sự cố khi đang bay gần một đám mây và bị hút lên cao do cấu tạo của đám mây này có áp xuất thấp hơn rất nhiều so với môi trường bên dưới, đám mây này hình thành một cơn bão trên cao. Địa điểm bay thuộc Tamworth, Úc. Sau khi bị hút vào đám mây này, phi công đã bất tỉnh do thiếu oxy và vì lạnh khi cô ta gần như bị đóng băng trên cao độ này. Nhưng thật may mắn là cô ta sống sót và hạ cánh. Một phi công Đài Loan bay chung và cũng gặp tình huống tương tự nhưng lại không may mắn như Ewa. Số lượng phi công trên thế giới Số lượng phi công trên thế giới là một con số phỏng chừng và lớn lên từng ngày. Nước có số phi công cao nhất là Pháp với hơn 25 ngàn phi công. Kế đến là Đức, Áo, Thụy Sĩ, Nhật, Hàn Quốc trong khoảng 15 – 20 ngàn, rồi đến Ý, Anh, Tây Ban Nha khoảng 7-10 ngàn, Mỹ có khoảng 4500 phi công (số liệu năm 2004) Dù lượn được 2 phi công người Pháp là Stephane và Didier du nhập vào Việt Nam từ năm 1994 ở Đà Lạt. Câu lạc bộ dù lượn đầu tiên của người Việt được Phạm Duy Long thành lập năm 2002 lấy tên là Vietwings. Hiện nay, số lượng phi công dù lượn tại Việt Nam khoảng trên dưới 100 người thuộc các câu lạc bộ ở hai miền là: Vietwings (2002), Mê Kông (2006) Vietwings Hanoi (2007), Hà Nội Paragliding (2007) và Saigon Flying Club (2010).
Sông Volkhov (tiếng Nga: Волхов), còn được gọi là sông Olhava, là một con sông chảy qua tỉnh Novgorod và tỉnh Leningrad của Nga. Địa lý Sông Volkhov chảy từ hồ Ilmen về phía bắc tới hồ Ladoga, hồ lớn nhất tại châu Âu. Nó là sông nhánh lớn thứ hai của hồ Ladoga. Chiều dài của nó là 224 km, và cao độ là khoảng 15–18 m. Toàn bộ chiều dài con sông là thuận tiện cho giao thông đường thủy. Diện tích lưu vực của con sông này, bao gồm cả lưu vực cho hồ Ilmen là khoảng 80.200 km². Lưu lượng nước thay đổi khá cao theo mùa, phụ thuộc chủ yếu vào mực nước trong hồ Ilmen: từ 44 đến 2.900 m³/s, tính trung bình khoảng 580–593 m³/s. Người ta cũng thông báo rằng sông Volkhov trong một số trường hợp ngoại lệ còn đổi ngược hướng dòng chảy. Mực nước sông này được điều chỉnh bởi đập thủy điện Volkhov (đập thủy điện đầu tiên của chính quyền Xô viết trong khu vực này, được khánh thành ngày 19 tháng 12 năm 1926 trong khuôn khổ kế hoạch GOELRO) nằm cách cửa sông 25 km. Ngoài mục đích phát điện, đập này còn tạo thuận lợi cho việc giao thông ở phần hạ lưu con sông này, mà trước đây đã gặp khó khăn các thác ghềnh. Phần thượng lưu sông Volkhov được nối với sông Msta bằng kênh đào Siversov vòng qua hồ Ilmen. Phần hạ lưu được nối với các sông Neva, Syas và Svir bằng kênh đào Novoladozhsky vòng tránh hồ Ladoga. Sông Volkhov bị đóng băng từ cuối tháng 11 và tan băng vào đầu tháng 4 năm sau. Lịch sử Thủ đô của nước Nga cổ đại là Staraya Ladoga và một trong các thành phố chính của nước Nga thời Trung cổ là Velikiy Novgorod đều nằm dọc theo bờ sông Volkhov. Trong giai đoạn thế kỷ 9-11, sông Volkhov là một phần quan trọng trong hành trình thương mại từ người Varyag tới người Hy Lạp nối liền biển Baltic và biển Đen. Mặc dù chiều dài tương đối nhỏ, nhưng sông Volkhov đã đóng một vai trò lớn trong lịch sử và kinh tế nước Nga thời kỳ đó. Hình ảnh tượng trưng cho sông Volkhov đã xuất hiện trong số các đài kỷ niệm tượng trưng cho bốn con sông chính (Volga, Dnepr, Neva và Volkhov) của nước Nga trên các cột bằng đá granit đỏ trong quần thể kiến trúc của nhà chứng khoán St. Peterburg xây dựng đầu thế kỷ 19. Các thành thị dọc sông Velikiy Novgorod (), gần đầu nguồn Kirishi () Volkhov () Novaya Ladoga (), gần của sông Các sông nhánh chính Vishera (hữu ngạn), nối với nhánh sông Maly Volkhovets Kerest (tả ngạn) Oskuya (hữu ngạn) Pchezhva (hữu ngạn) Tigoda (tả ngạn) Chyornaya (hữu ngạn) Vloya (tả ngạn) Olomna (tả ngạn)
Novgorod là tên gọi của: Nước cộng hòa Novgorod thời Trung cổ (thế kỷ 12- thế kỷ 15) Thành phố Velikiy Novgorod, Nga (đơn giản chỉ gọi là Novgorod) Thành phố Nizhny Novgorod, Nga Một tên gọi cũ của Novograd-Volynskyi, thuộc tỉnh Zhitomi, Ukraina Novgorod-Siversky (Novgorod-Seversky), thuộc tỉnh Chernihiv (Chernigov), Ukraina Novgorod-Litovsky tức Navagrudak (Novogrudok), thuộc tỉnh Grodzno, Belarus Tỉnh Novgorod tại miền tây bắc Nga, với thủ phủ là Velikiy Novgorod. Tỉnh Nizhny Novgorod ở đông nam Moskva, với thủ phủ là Nizhny Novgorod. Cũng có thể dùng để chỉ Tàu chiến Novgorod của Nga, một tàu thủy thân tròn, được hạ thủy ngày 17 tháng 12 năm 1871 (theo lịch Julius) và phá hủy năm 1912, được coi là chiếc tàu chiến thô kệch nhất mà con người đã tạo ra.
Nguyễn Hồng Sơn (nguyên danh Nguyễn Hùng Sơn) (sinh ngày 9 tháng 10 năm 1970 tại Hà Nội) là một cựu cầu thủ của đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam và câu lạc bộ Thể Công trong những năm từ 1995 đến 2001. Hồng Sơn là chủ nhân của 2 Quả bóng vàng Việt Nam vào các năm 1998 và 2000. Hồng Sơn là cầu thủ tài hoa của Việt Nam, được biết đến với kỹ thuật rê bóng lắt léo. Anh được bình chọn là cầu thủ bóng đá nam xuất sắc nhất châu Á tháng 8 năm 1998. Lịch sử Theo lời anh, do gia đình quá nhiều con trai nên bố mẹ mong có con gái, sinh anh xong bèn đổi Nguyễn Sỹ Sơn thành Nguyễn Hùng Sơn (ý nghĩa "rặng núi hùng vĩ"), quả nhiên về sau có em gái Nguyễn Cẩm Tú (ý nghĩa "sông núi tươi đẹp"). Trong những chuyến du đấu miền Nam, khán giả phía Nam thường xướng nhầm tên anh là Hồng Sơn, mà vì mỗi chuyến như vậy thường có kết quả tốt cho đội bóng, nên anh đổi hẳn tên thành Nguyễn Hồng Sơn. Cậu bé Hùng Sơn gia nhập Đội bóng đá Thể Công năm 1988 và bắt đầu khoác áo đội tuyển quốc gia năm 1993. Ban đầu Hồng Sơn thi đấu tại vị trí tiền đạo sau đó chuyển sang tiền vệ cánh. Năm 1990 Hồng Sơn giành danh hiệu vua phá lưới giải vô địch quốc gia. Anh đã từng giành được huy chương bạc tại SEA Games 18, 20 và Tiger Cup 1998, huy chương đồng tại Cúp Tiger 1996 và SEA Games 19. Năm 1998, sau khi nhận giải thưởng "Cầu thủ xuất sắc nhất Tiger Cup 1998", Nguyễn Hồng Sơn đã từng được trao danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất tháng của châu Á đó là tháng 8 năm 1998 và "Quả bóng vàng Việt Nam" lần đầu tiên. Đến năm 1999 anh đứng thứ 2 tại giải đấu bóng đá biểu diễn do Pepsi tổ chức (Giải đấu này gồm nhiều danh thủ tham gia như David Beckham, Yorke, Ruis Cósta, Roberto Carlos,...) Đầu năm 2001, anh giành danh hiệu "Quả bóng vàng Việt Nam" lần thứ hai. Cuối mùa giải V-League 2002 Hồng Sơn tuyên bố giải nghệ do chấn thương nhưng đến giai đoạn 2 mùa giải 2003 anh quay lại đội bóng Thể Công và sau đó thi đấu cho Công nhân Bia Đỏ. Anh cũng là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Trung tá. Năm 2001 trước khi rời Việt Nam, HLV Dido để lại câu nói về Sơn: "Nếu Hồng Sơn sinh ở Brasil, cậu ta đủ khả năng thành huyền thoại bóng đá thế giới". Sau khi nghỉ thi đấu, Nguyễn Hồng Sơn trở thành huấn luyện viên bóng đá dẫn dắt Câu lạc bộ bóng đá Thành Nghĩa - Quảng Ngãi, sau đó là đội U15 của Thể Công. Năm 2005, anh được cử làm huấn luyện viên phó đội tuyển futsal quốc gia Việt Nam chuẩn bị cho Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2007, tuy nhiên do thành tích đội không tốt nên sau giải anh xin nghỉ. Từ đó anh chuyên tâm vào việc quản lý Trung tâm huấn luyện bóng đá HS8, cơ sở đào tạo tư thục do anh làm chủ đầu tư. Sự nghiệp Quốc tế Bàn thắng Thành tích Với đội tuyển Việt Nam Huy chương bạc Tiger Cup năm 1998 Huy chương bạc SEA Games năm 1995 và 1999 Với Thể Công Vô địch Việt Nam 1990 & 1998 Vô địch Siêu cúp bóng đá Việt Nam 1998 Á quân Cúp Quốc gia 1992 Danh hiệu cá nhân Quả bóng vàng Việt Nam 1998 và 2000 Vua phá lưới giải vô địch bóng đá Việt Nam 1990 Cầu thủ xuất sắc nhất Tiger Cup 1998 Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của châu Á vào tháng 8 năm 1998 Chú thích
Vương Mãnh (chữ Hán: 王猛; tự là Cảnh Lược 景略; bính âm Wáng Měng; 325–375) là người dân tộc Hán, Tể tướng của nước Tiền Tần, thời Thập lục quốc. Tước hiệu chính thức của ông là Thanh Hà Vũ Hầu (清河武侯). Tiểu sử Vương Mãnh sinh ra tại quận Bắc Hải, nay là Duy Phường, thuộc tỉnh Sơn Đông, vào thời loạn lạc và xuất thân trong một gia đình nghèo khó. Đây là khoảng thời gian dài sau khi Tây Tấn bị diệt vong, cả một vùng lớn Trung Hoa bị đau thương tang tóc, hai vùng Nam Bắc Trường Giang trở thành chiến trường của các dân tộc thiểu số. Thời trẻ, có lúc ông đã từng đi buôn bán để sinh nhai. Về sau, ông bỏ nghề bán hàng và chuyển sang đọc sách. Binh nghiệp Sau thế kỷ 4, trong hơn 130 năm thì có hơn 20 chính quyền thay nhau thống trị. Phù Kiên (苻堅), vua thứ ba nước Tiền Tần, là vị vua mà Vương Mãnh phò tá. Khi đại tướng Đông Tấn là Hoàn Ôn bắc tiến đánh Tiền Tần dưới thời Phù Kiên (354) đã từng sai người đi mời Vương Mãnh nhưng ông từ chối không ra. Phù Kiên lúc đó làm tướng nước Tiền Tần, nghe nói Vương Mãnh có tài, sai người thân cận là Lã Bà Lâu đi mời ông về, sử viết "giống như Lưu Bị gặp Gia Cát Lượng". Đến lúc này, Vương Mãnh như đã tìm được minh chủ mà mình kỳ vọng. Năm 357, Phù Kiên giết anh họ là Phù Sinh rồi lên ngôi Hoàng đế (tức Chiêu Đế), đóng đô ở Trường An. Phù Kiên phong cho Vương Mãnh làm Trung Thư thị lang, sau này còn tiến thăng cho ông chức Thượng thư, rồi Trung thư lệnh kiêm Lãnh binh y doãn. Ông luôn khuyên vua sử dụng phép nước nghiêm minh, thực hiện nghiêm túc pháp luật của triều đình. Phù Kiên trọng dụng ông không chỉ do ông có tài năng cai trị đất nước có lợi cho vua, mà còn vì Vương Mãnh là người dân tộc Hán. Năm 359, Vương Mãnh lại được thăng chức Thượng thư lệnh, là một chức vị Tể tướng. Vương Mãnh và em trai vua là Phù Kiên thường được bàn bạc với vua về những việc quan trọng trong triều đình. Trên thực tế, mọi quyền hành là do Vương Mãnh nắm hết. Năm 376, nhà vua nghe theo lời Vương Mãnh đã cho bắt hơn ba vạn đầy tớ, chân tay, người nhà vương công quý tộc phải đi lao động công ích như dân thường. Vương Mãnh là người hiểu được tác dụng sâu sắc của Nho giáo với sự thống trị phong kiến nên ông đã dựa vào đường lối đào tạo con người của trường Nho giáo. Ông đã cho xây dựng nhiều trường học, ra lệnh cho con cháu các quan trong triều phải đến các trường nhà nước học tập. Các việc nhà vua giao ông đều hoàn thành xuất sắc. Ông được nhà vua ban cho rất nhiều chức tước như: Tể tướng, Trung thư giám, Thượng thư lệnh, Thái thú, Thái phó, Tư lệ, Hiệu úy, Tư đồ... Phù Kiên đã nói với ông "Ta được nhà ngươi như Chu Văn Vương gặp Khương Thái công". Vương Mãnh là người Hán, tuy làm quan cho triều Tiền Tần, là ngoại tộc (tộc Chi hay Đê) xâm lược Trung Hoa, nhưng ông đã biết thúc đẩy việc các dân tộc thiểu số tiếp thu văn hóa Hán, hòa hợp với các dân tộc khác, nhất là dân tộc Hán ở Trung Nguyên. Năm 375, Vương Mãnh qua đời. Trước lúc lâm chung, ông đã nói với nhà vua: "...Triều Đông Tấn tuy dời về Ngô Việt, nhưng là triều đại chính thống của Trung Hoa. Sau khi thần chết, không nên tấn công Đông Tấn". Ông nghĩ rằng Đông Tấn kế thừa vương triều Hán tộc, vẫn được nhân dân Trung Hoa tín nhiệm, không thể tiêu diệt được. Tuy nhiên, Phù Kiên đã nôn nóng mà không nghe theo lời ông. Năm 383, nhà vua thân chinh dẫn 90 vạn quân xuống phía Nam chinh phạt Đông Tấn và bị đại bại ở trận Phì Thủy, cuối cùng sự nghiệp đổ vỡ.
Gibberellin (viết tắt trong tiếng Anh: GAs) là một hormone có tác dụng điều chỉnh sự phát triển ở thực vật và có ảnh hưởng tới một loạt các quá trình phát triển như làm cho thân dài ra, nảy mầm, ngủ, ra hoa, biểu hiện gen, kích thích enzyme và tình trạng già yếu của lá cũng như quả. Lịch sử Gibberellin lần đầu tiên được nhà khoa học người Nhật Bản là Eiichi Kurosawa ghi nhận vào năm 1926, khi ông nghiên cứu bệnh bakanae (lúa von) ở lúa. Chất này kích thích cây lúa phát triển rất cao, các lóng dài ra, thân cây nhỏ lại, màu xanh của cây ngả dần sang xanh vàng hoặc trắng. Người Việt Nam gọi đây là bệnh "lúa von". Những giberelin được Teijiro Yabuta kết tinh đầu tiên là vào năm 1935 từ chủng nấm Gibberellin fujikuroi do Kurosawa cung cấp, khi đó ông đã kết tinh được hai dạng gibberellin và gọi chúng là gibberellin A và B. Sự quan tâm tới gibberellin ngoài phạm vi Nhật Bản chỉ bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Tại Hoa Kỳ, nghiên cứu đầu tiên do một đơn vị của Fort Detrick tại Maryland thực hiện, thông qua nghiên cứu sự nảy mầm của đậu Vicia faba. Tại Vương quốc Anh công việc nhằm cô lập các dạng gibberellin mới do Imperial Chemical Industries thực hiện. Sự quan tâm tới các gibberellin lan rộng ra khắp thế giới như là một chất tiềm năng để sử dụng đối với nhiều loài thực vật và có tầm quan trọng thương mại đã trở nên ngày càng rõ nét. Ví dụ, nghiên cứu bắt đầu từ Đại học California, Davis vào giữa thập niên 1950 đã dẫn tới việc sử dụng nó ở quy mô thương mại đối với nho không hạt Thompson trong khu vực California vào năm 1962. Hóa học Về mặt hóa học, tất cả các gibberellin đã biết là các acid ditecpenoid được tổng hợp từ terpenoid trong thể hạt và sau đó biến đổi trong mô lưới nội chất và cytosol cho đến khi chúng đạt tới dạng hoạt hóa sinh học của mình. Tất cả các gibberellin đều dẫn xuất từ bộ khung ent-gibberellan, nhưng được tổng hợp thông qua ent-kauren. Các gibberellin được đặt tên là GA1, GA2,....GAn theo trật tự phát hiện. Acid gibberellic là gibberellin đầu tiên được mô tả cấu trúc, có tên gọi GA3. Gibberellin không chứa nitơ trong phân tử, hòa tan tốt trong các dung môi hữu cơ bình thường nhưng tan kém trong nước. Giberelin tổng hợp bằng con đường vi sinh vật. Chức năng Gibberellin là chất trao đổi thứ cấp, có chức năng của một hormone thực vật, kích thích sinh trưởng thực vật. Thực vật chứa các gibberellin như những hormone nội sinh. Ở thực vật bậc cao, người ta còn thấy nó có đặc tính điều chỉnh sinh trưởng. Một lượng rất nhỏ gibberellin cũng ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển thực vật, nhưng chúng không có tác dụng đối với động vật và vi sinh vật. Phân loại Tính đến năm 2020, đã có 136 chất gibberellin được biết đến từ thực vật, nấm và vi khuẩn, trong đó gibberellin A3 hay Giberelin X, GA3 là chất có tác dụng sinh học lớn nhất. Những gibberellin A2, A10 đến A15, A24 và A25 chỉ tách được từ nấm Fusarium moniliforme; các gibberellin A5, A6, A8, A16 đến A23, A26 đến A32 chỉ thấy ở thực vật bậc cao, còn gibberellin A1, A3, A4, A7 và A9 thấy có cả ở nấm Fusarium moniliforme và thực vật bậc cao.
Thành phố và Quận Denver là thủ phủ và thành phố lớn nhất của tiểu bang Colorado, Hoa Kỳ. Thành phố nằm ở phía bắc bang Colorado, trong khu vực thung lũng sông Platte, rìa phía tây của vùng đồng bằng cao(Great Plains) giáp với chân đồi của dãy núi Rocky, cách núi Rocky 12 miles (19km) về phía đông. Quận trung tâm của thành phố nằm ở khu vực mà Cherry Creek đổ vào South Platte. Với dân số 715,522 người, đây là thủ phủ bang đông dân thứ 5 và là thành phố đông dân thứ 19 của Hoa Kỳ. Đây là thành phố đầu tiên của vùng đô thị Front Range, kéo dài từ Wyoming đến New Mexico. Địa lý Denver nằm ở trung tâm của Hành lang Đô thị Dãy Trước, giữa Dãy núi Rocky ở phía tây và Cao nguyên ở phía đông. Địa hình của Denver bao gồm các đồng bằng ở trung tâm thành phố với các khu vực đồi núi ở phía bắc, phía tây và phía nam. Tại cuộc Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2020 , Thành phố và Quận Denver có tổng diện tích là 99.025 mẫu Anh (400,739 km² ) bao gồm 1.057 mẫu Anh (4,276 km² ) nước. [11] Thành phố và Quận Denver chỉ được bao quanh bởi ba quận khác: Quận Adams ở phía bắc và phía đông, Quận Arapahoe ở phía nam và phía đông, và Quận Jefferson ở phía tây. Mặc dù biệt danh của Denver là "Thành phố cao một dặm" ​​vì độ cao chính thức của nó là một dặm so với mực nước biển, được xác định bằng độ cao của điểm chuẩn trên các bậc thang của tòa nhà Quốc hội, độ cao của toàn thành phố dao động từ 5,130. đến 5.690 feet (1.560 đến 1.730 m). Denver nằm cách điểm gần nhất của Vịnh California, đại dương gần thành phố nhất, 750 dặm (1.200 km). Vùng lân cận Xem thêm: Danh sách các vùng lân cận Denver 78 khu vực lân cận chính thức của Denver Khu phố hồ Sloans vào mùa đông Tính đến tháng 1 năm 2013, Thành phố và Quận Denver đã xác định 78 khu dân cư chính thức mà thành phố và các nhóm cộng đồng sử dụng để lập kế hoạch và quản lý. [47] Mặc dù việc phân định ranh giới khu vực lân cận của thành phố hơi tùy tiện, nhưng nó gần như tương ứng với các định nghĩa được cư dân sử dụng. Không nên nhầm lẫn các "khu phố" này với các thành phố hoặc vùng ngoại ô, chúng có thể là các thực thể riêng biệt trong khu vực tàu điện ngầm. Đặc điểm của các khu dân cư thay đổi đáng kể từ cái này sang cái khác và bao gồm mọi thứ, từ những tòa nhà chọc trời lớn đến những ngôi nhà từ cuối thế kỷ 19 đến những khu phát triển hiện đại theo phong cách ngoại ô. Nói chung, các khu vực lân cận gần trung tâm thành phố dày đặc hơn, lâu đời hơn và chứa nhiều vật liệu xây dựng bằng gạch hơn. Nhiều khu phố cách xa trung tâm thành phố được phát triển sau Thế chiến thứ hai, và được xây dựng bằng vật liệu và phong cách hiện đại hơn. Một số khu vực lân cận thậm chí xa trung tâm thành phố hơn, hoặc các khu đất được tái phát triển gần đây ở bất kỳ đâu trong thành phố, có đặc điểm rất ngoại ô hoặc là những khu đô thị mới phát triển cố gắng tạo lại cảm giác của các khu phố cũ. Denver không có các ký hiệu khu vực lớn hơn, không giống như Thành phố Chicago , nơi có các khu vực lớn hơn là nơi chứa các khu dân cư (ví dụ: Phía Tây Bắc). Cư dân Denver sử dụng các thuật ngữ "phía bắc", "phía nam", "phía đông" và "phía tây". [48] Denver cũng có một số khu vực lân cận không được phản ánh trong địa giới hành chính. Những vùng lân cận này có thể phản ánh cách mọi người trong một khu vực xác định chính họ hoặc họ có thể phản ánh cách những người khác, chẳng hạn như các nhà phát triển bất động sản, đã xác định các khu vực đó. Các khu phố phi hành chính nổi tiếng bao gồm LoDo lịch sử và thời thượng (viết tắt của "Lower Downtown"), một phần của khu phố Union Station của thành phố ; Uptown, nằm giữa Đồi Bắc Capitol và Công viên Thành phố phía Tây ; Công viên Curtis, một phần của khu phố Five Points ; Alamo Placita , phần phía bắc của khu phố Speer ; Đồi công viên, một ví dụ thành công về sự hòa nhập chủng tộc có chủ đích; [49] và Tam giác vàng , ở Trung tâm hành chính. ===Khí hậu Denver nằm trong vùng khí hậu lục địa ẩm ( phân loại khí hậu Köppen : Dfa / Dfb ), giáp với khí hậu bán khô hạn lạnh ( phân loại khí hậu Köppen : BSk ), [53] mặc dù có thể tìm thấy các vi khí hậu cận nhiệt đới . [54] [55] Nó có bốn mùa rõ rệt và nhận được phần lớn lượng mưa từ tháng 4 đến tháng 8. Do nằm trong đất liền trên Cao nguyên , dưới chân Dãy núi Rocky , khu vực này có thể chịu sự thay đổi đột ngột của thời tiết. [56] Tháng 7 là tháng ấm nhất, với nhiệt độ cao trung bình là 89 ° F (31,7 ° C). [57] Mùa hè dao động từ ấm đến nóng, thỉnh thoảng, đôi khi nghiêm trọng, giông bão vào buổi chiều và nhiệt độ cao lên tới 90 ° F (32 ° C) vào 38 ngày hàng năm và đôi khi 100 ° F (38 ° C). Tháng 12, tháng lạnh nhất trong năm, có nhiệt độ cao trung bình hàng ngày là 46 ° F (7,8 ° C). Mùa đông bao gồm các giai đoạn tuyết và nhiệt độ rất thấp xen kẽ với các giai đoạn thời tiết ôn hòa hơn do hiệu ứng ấm lên của gió Chinook . Vào mùa đông, nhiệt độ cao nhất vào ban ngày đôi khi vượt quá 60 ° F (16 ° C), nhưng chúng cũng thường không đạt đến 32 ° F (0 ° C) trong thời gian thời tiết lạnh giá. Đôi khi, nhiệt độ cao nhất vào ban ngày thậm chí có thể không tăng lên trên 0 ° F (-18 ° C) do khối không khí ở Bắc Cực. [58]Vào những đêm lạnh nhất trong năm, nhiệt độ thấp nhất có thể xuống tới −10 ° F (−23 ° C) hoặc thấp hơn. Tuyết rơi phổ biến trong suốt cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân, trung bình là 53,5 inch (136 cm) trong giai đoạn 1981–2010, [59] tuy nhiên vào mùa đông năm 2021, Denver bắt đầu tháng 12 mà lần đầu tiên trong lịch sử không có tuyết rơi. . [60] Cửa sổ trung bình cho lượng tuyết có thể đo được (≥0,1 inch hoặc 0,25 cm) là từ ngày 17 tháng 10 đến ngày 27 tháng 4; tuy nhiên, lượng tuyết có thể đo được đã rơi ở Denver sớm nhất là vào ngày 4 tháng 9 và muộn nhất là vào ngày 3 tháng 6. [61] Các vùng nhiệt độ cực đoan từ −29 ° F (−34 ° C) vào ngày 9 tháng 1 năm 1875, lên đến 105 ° F ( 41 ° C) gần đây nhất là ngày 28 tháng 6 năm 2018. [62] Do vị trí thung lũng của thành phố và sự khô cằn, sự thay đổi nhiệt độ vào ban ngàylớn trong suốt cả năm. Lốc xoáy hiếm khi xảy ra ở phía tây của hành lang I-25; tuy nhiên, một ngoại lệ đáng chú ý là một cơn lốc xoáy F3 tấn công 4,4 dặm về phía nam trung tâm thành phố vào ngày 15 tháng 6 năm 1988. Mặt khác, các vùng ngoại ô phía đông Denver và phần mở rộng về phía đông-đông bắc của thành phố ( Sân bay Quốc tế Denver ) có thể thấy một vài cơn lốc xoáy, các cơn lốc xoáy đổ bộ thường yếu , vào mỗi mùa xuân và mùa hè, đặc biệt là trong tháng 6 với sự tăng cường của Vùng xoáy thuận hội tụ Denver (DCVZ). DCVZ, còn được gọi là Lốc xoáy Denver, là một xoáy thuận biến đổi của luồng không khí hình thành bão thường được tìm thấy ở phía bắc và phía đông của trung tâm thành phố, và thường bao gồm sân bay. [63] [64] Thời tiết nặng nề từ DCVZ có thể làm gián đoạn hoạt động của sân bay.[65] [66] Trong một nghiên cứu xem xét các hiện tượng mưa đá ở các khu vực có dân số ít nhất 50.000 người, Denver được phát hiện là xếp hạng thứ 10 trong lục địa Hoa Kỳ . [67] Trên thực tế, Denver đã nhận được 3 trong số 10 trận mưa đá lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, xảy ra vào ngày 11 tháng 7 năm 1990; Ngày 20 tháng 7 năm 2009; và ngày 8 tháng 5 năm 2017, tương ứng. Dựa trên số liệu trung bình trong 30 năm thu được từ Trung tâm Dữ liệu Khí hậu Quốc gia của NOAA cho các tháng 12, 1 và 2, Weather Channel xếp hạng Denver là thành phố lớn thứ 18 của Hoa Kỳ tính đến năm 2014 . [68] Trạm thời tiết chính thức của Denver nằm tại Sân bay Quốc tế Denver, cách trung tâm thành phố khoảng 20 dặm. Một phân tích năm 2019 cho thấy nhiệt độ trung bình tại Sân bay Quốc tế Denver, 50,2 ° F (10 ° C), mát hơn đáng kể so với trung tâm thành phố, 53,0 ° F (12 ° C). Nhiều vùng ngoại ô cũng có nhiệt độ ấm hơn và có tranh cãi liên quan đến vị trí của các kết quả đo nhiệt độ chính thức Một trong những khu phố mới hơn của Denver được xây dựng trên địa điểm cũ của Sân bay Quốc tế Stapleton, được đặt theo tên của cựu thị trưởng Denver Benjamin Stapleton, người từng là thành viên của Ku Klux Klan. [50] Vào năm 2020, hiệp hội cộng đồng của khu phố đã bỏ phiếu để đổi tên khu phố từ Stapleton thành Công viên Trung tâm [51] (xem thêm trong phần Chính trị bên dưới). Bản thân khu vực Công viên Trung tâm có 12 "khu phố" trong ranh giới của nó. [52] Thành phố kết nghĩa Brest, Pháp (1948) Takayama, Nhật Bản (1960) Nairobi, Kenya (1975) Karmiel, Israel (1977) Cuernavaca, México (1983) Potenza, Ý (1983) Chennai, Ấn Độ (1984) Côn Minh, Trung Quốc (1985) Aksum, Ethiopia (1995) Ulan Bator, Mông Cổ (2001)
Trần Công Minh (sinh ngày 01/9/1970 ở xã Hòa Long, Quận Đức Thành, tỉnh Sa Đéc nay là thị trấn Lai Vung, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp) là một cựu cầu thủ của Câu lạc bộ Đồng Tháp và đội tuyển Việt Nam, hiện nay ông là huấn luyện viên bóng đá. Ông thi đấu ở vị trí hậu vệ phải và được xem là một trong những hậu vệ cánh xuất sắc nhất lịch sử bóng đá Việt Nam từ trước tới nay và là một thành viên chủ chốt của đội tuyển Việt Nam từ năm 1993 đến 2000. Ông giành được danh hiệu Quả bóng vàng Việt Nam vào năm 1999 và một số danh hiệu Quả bóng bạc và đồng ở các năm trước đó. Sau khi giải nghệ vào năm 2002, Trần Công Minh chuyển sang công tác huấn luyện. Hiện ông đang là HLV trưởng Câu lạc bộ Đồng Tháp. Sự nghiệp tại câu lạc bộ Trần Công Minh vốn không phải cầu thủ được đào tạo chuyên nghiệp. Ông xuất thân là một sinh viên của trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Tháp. Với năng khiếu chơi bóng, năm 1987, ông tham gia đội bóng đá trẻ Đồng Tháp, sau đó chuyển lên đội hình chính cùng lứa với các cầu thủ như Trần Thanh Nhạc, Trịnh Tấn Thành, Huỳnh Quốc Cường, Phạm Anh Tuấn, Ngô Công Nhậm, Nguyễn Phát Đạt. Năm 1989 và 1996, Trần Công Minh đoạt chức vô địch quốc gia trong màu áo Đồng Tháp. Ông đã thi đầu cho Đồng Tháp đến khi giải nghệ vào năm 2002. Sự nghiệp thi đấu quốc tế Trần Công Minh được gọi vào đội tuyển quốc gia lần đầu tiên vào năm 1995 để chuẩn bị cho SEA Games 18. Tại Sea Games này, ông chia sẻ vị trí hậu vệ phải với hậu vệ Nguyễn Chí Bảo (Công an TP.HCM). Trong trận đấu cuối cùng của vòng bảng gặp Indonesia, chính nỗ lực dốc bóng lăn xả của ông đã tạo cơ hội để tiền vệ Nguyễn Hữu Đang đệm bóng ghi bàn thắng quyết định của trận đấu, loại đội tuyển chủ nhà Indonesia, đồng thời đem lại chiếc vé vào bán kết cho đội tuyển Việt Nam. Kể từ sau SEA Games 18, ông trở thành hậu vệ phải không thể thay thể trong đội tuyển Việt Nam. Với lối chơi công thủ toàn diện và tinh thần thi đấu cao độ, ông để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người hâm mộ. Tại Tiger Cup 1996, Trần Công Minh là một trong những tuyển thủ thi đấu xuất sắc nhất. Ông đã ghi được 2 bàn thắng cho đội tuyển: một bàn trong trận thắng Campuchia 3-1 và một bàn thắng đáng nhớ trong trận thắng Myanmar 4-1. Tại SEA Games 19, do chấn thương, ông đã không tham dự trận đấu đầu tiên gặp Malaysia. Thế vào chỗ của ông là cầu thủ Nguyễn Phúc Nguyên Chương. Đội tuyển Việt Nam đã để thua 0-1. Tại Tiger Cup 1998, ông một lần nữa tỏa sáng trong vai trò hậu vệ phải. Trong trận đấu đầu tiên gặp Lào, ông đã kiến tạo 2 đường chuyền thành bàn cho đồng đội. Tuy nhiên, đội tuyển Việt Nam một lần nữa lỗi hẹn với chức vô địch. Tại SEA Games 20, hàng phòng ngự của Việt Nam gồm Đỗ Khải, Mai Tiến Dũng, Phạm Như Thuần, Nguyễn Đức Thắng và Trần Công Minh được xem là hàng phòng ngự chắc chắn nhất giải. Cho đến trước trận chung kết, họ không để lọt lưới một bàn nào. Tuy nhiên, đội tuyển Việt Nam cũng chỉ giành được huy chương Bạc, sau khi thúc thủ 0-2 trước Thái Lan. Trần Công Minh giành được danh hiệu Quả bóng vàng năm đó. Tiger Cup 2000 là giải đấu cuối cùng của Trần Công Minh cho đội tuyển Việt Nam. Mặc dù đã lớn tuổi nhưng ông vẫn làm tròn vai trò phòng ngự của mình. Tại giải đấu này, Việt Nam bị loại tại bán kết sau khi thua 2-3 trước Indonesia trong hiệp phụ. Cũng trong năm 2000, trước khi Tiger Cup 2000 khởi tranh, Trần Công Minh được góp mặt trong đội hình những ngôi sao toàn châu Á trong trận đấu chia tay tuyển thủ người Iran Nader Mohammadkhani, sánh vai cũng với Dusit Chalermsan, Hong Myeong-bo, Lee Dong-gook, Tochtawan Sripan, Yoo Sang-chul và Atsuhiro Miura đối đầu với tuyển chủ nhà Iran. Iran thắng trận đấu này 5-0. Bàn thắng Sự nghiệp huấn luyện Trần Công Minh từ giã sân cỏ năm 2002. Năm 2003, Công Minh bắt đầu công việc huấn luyện và đã từng giữ vai trò huấn luyện viên trưởng đội 1 Đồng Tháp. Ông từng là trợ lý huấn luyện viên trưởng đội Đồng Tâm Long An. Tháng 7, 2008 ông lên thay huấn luyện viên Ednaldo Patricio làm huấn luyện viên trưởng và có trận thắng đầu tiên trước Hải Phòng với tỷ số 2-1 ngày 27 tháng 7 năm 2008. Sau đó ông liên tục là người đóng thế ở Đồng Tâm Long An. Tháng 4, 2012 Trần Công Minh chính thức thanh lý hợp đồng với Đồng Tâm Long An và trở về quê nhà Sa Đéc ba ngày sau ông được lãnh đạo đội Đồng Tháp mời làm huấn luyện viên trưởng thay thế Trang Văn Thành và đúng 1 năm sau khi thành tích của đội bóng không như mong muốn thì đội bóng đã quyết định sa thải. Từ tháng 2.2015 ông được Liên đoàn bóng đá Việt Nam VFF mời làm trợ lý cho HLV Miura ở Đội tuyển Quốc gia và Đội tuyển U23 Việt Nam. Tháng 12.2015 ông cho biết về việc nhận lời làm HLV trưởng, dẫn dắt đội Cà Mau thi đấu tại Giải hạng nhất 2016 với mục tiêu đến năm 2020 đưa Cà Mau lên V-League. Tuy dẫn dắt Cà Mau tham dự Giải hạng nhất 2016 nhưng ông và đội Cà Mau không ký kết hợp đồng với nhau "vì không tìm được tiếng nói chung". Đến tháng 5 năm 2016, ông quyết định nhận lời làm HLV trưởng đội Đồng Tháp sau khi đội Đồng Tháp chỉ có được 3 điểm sau 7 trận tại V-League 2016. Thành tích Vô địch Việt Nam: Vô địch: 1989, 1996 Cúp Tiger Hạng nhì: 1998 Hạng ba: 1996 Các lần tham dự khác: 2000 SEA Games Hạng nhì: SEA Games 1995, SEA Games 1999 Hạng ba: SEA Games 1997 Quả bóng vàng Việt Nam: Quả bóng vàng: 1999 Quả bóng bạc: 1996 Quả bóng đồng: 1997, 1998 Chú thích
Ca Huế là một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, Việt Nam, là một hình thức diễn xướng trong cung vua phủ chúa dành cho giới thượng lưu say mê nghệ thuật. Môi trường diễn xướng của ca Huế thường hạn chế cả về số người biểu diễn và số người nghe biểu diễn. Mỗi một dàn nhạc cũng chỉ gồm 5 -6 nhạc công và 4 – 5 nhạc cụ. Trình diễn ca Huế là một cuộc tao ngộ giữa các tao nhân mặc khách có hiểu biết về nên văn hóa âm nhạc. Ca Huế là một thể loại âm nhạc đỉnh cao trong toàn bộ các di sản về âm nhạc ở Việt Nam. Ca Huế bao gồm ca và đàn, ở nhiều phương diện khá gần gũi với ca trù, làm từ dòng nhạc dân gian bình dân và nhã nhạc cung đình thanh cao Lịch sử Ca Huế được hình thành từ thế kỉ 17 và phát triển một cách nhanh chóng. Có ý kiến cho rằng vua Tự Đức, là một người yêu thích Ca Huế nên đã tự sáng tác "Tứ đại cảnh" nên ca Huế được triều đình chăm sóc, khuyến khích phát triển. Đây là thời kỳ cực thịnh của ca Huế và thể loại âm nhạc này còn lan rộng tới Nam Bộ, và sự phát triển của ca Huế đã trở thành yếu tố quan trọng hình thành đờn ca Tài tử Nam Bộ. Ca Huế khởi nguồn từ hát cửa quyền trong cung vua phủ chúa, với hình thức diễn xướng mang tính bác học dành cho giới thượng lưu say mê nghệ thuật. Theo thời gian, lối hát thính phòng này dần được dân gian hóa để có điều kiện đến được với nhiều tầng lớp công chúng. Năm 2015, Ca Huế được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL ban hành ngày 08 tháng 6 năm 2015.
Hòa Vang là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Đây là huyện duy nhất ở thành phố Đà Nẵng nằm trên phần đất liền của thành phố. Vị trí địa lý Huyện Hòa Vang nằm ở phía tây của thành phố Đà Nẵng, có vị trí địa lý: Phía đông giáp quận Liên Chiểu, quận Cẩm Lệ và quận Ngũ Hành Sơn Phía tây giáp huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế và huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam Phía nam giáp thị xã Điện Bàn và huyện Đại Lộc thuộc tỉnh Quảng Nam Phía bắc giáp huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Huyện có diện tích 707,33 km², dân số năm 2018 là 185.223 người, mật độ dân số đạt 262 người/km². Đây là địa phương có hai đoạn tuyến của đường cao tốc Bắc Nam, gồm đường cao tốc La Sơn – Túy Loan và đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đều đã được đưa vào khai thác. Lịch sử Sau năm 1975, huyện Hòa Vang trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, ban đầu bao gồm 16 xã: Hòa Châu, Hòa Hải, Hòa Hiệp, Hòa Khánh, Hòa Khương, Hòa Liên, Hòa Minh, Hòa Nhơn, Hòa Phát, Hòa Phong, Hòa Phước, Hòa Quý, Hòa Sơn, Hòa Thọ, Hòa Tiến và Hòa Xuân. Ngày 23 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 79-HĐBT. về việc: Chia xã Hòa Liên thành 2 xã: Hòa Bắc và Hòa Liên Chia xã Hòa Sơn thành 2 xã: Hòa Sơn và Hòa Ninh. Ngày 9 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 194-HĐBT về việc thành lập huyện Hoàng Sa bao gồm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trước đây. Ngày 11 tháng 1 năm 1986, chia xã Hòa Phong thành 2 xã: Hòa Phong và Hòa Phú. Ngày 6 tháng 12 năm 1996, kỳ họp thứ 10 - Quốc hội khóa IX ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương, huyện Hòa Vang trực thuộc thành phố Đà Nẵng, bao gồm 19 xã: Hòa Bắc, Hòa Châu, Hòa Hải, Hòa Hiệp, Hòa Khánh, Hòa Khương, Hòa Liên, Hòa Minh, Hòa Nhơn, Hòa Ninh, Hòa Phát, Hòa Phong, Hòa Phú, Hòa Phước, Hòa Quý, Hòa Sơn, Hòa Thọ, Hòa Tiến và Hòa Xuân. Ngày 23 tháng 1 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 07/1997/NĐ-CP. Theo đó: Tách 2 xã: Hòa Quý và Hòa Hải để thành lập quận Ngũ Hành Sơn Tách 3 xã: Hòa Hiệp, Hòa Khánh và Hòa Minh để thành lập quận Liên Chiểu. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Hòa Vang còn lại 73.749 ha diện tích tự nhiên và 132.042 người, gồm 14 xã: Hòa Tiến, Hòa Sơn, Hòa Phát, Hòa Thọ (huyện lỵ), Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Liên, Hòa Xuân, Hòa Nhơn, Hòa Phong, Hòa Khương, Hòa Bắc, Hòa Ninh và Hòa Phú. Ngày 5 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 102/2005/NĐ-CP. Theo đó, tách 3 xã: Hòa Phát, Hòa Thọ và Hòa Xuân để thành lập quận Cẩm Lệ. Huyện Hòa Vang còn lại 70.733 ha diện tích tự nhiên và 106.746 người với 11 xã trực thuộc, bao gồm: Hòa Tiến, Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Nhơn, Hòa Khương, Hòa Phong, Hòa Phú, Hòa Ninh, Hòa Liên, Hòa Sơn và Hòa Bắc. Huyện lỵ dời về xã Hòa Phong. Hành chính Huyện Hòa Vang có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 11 xã: Hòa Bắc, Hòa Châu, Hòa Khương, Hòa Liên, Hòa Nhơn, Hòa Ninh, Hòa Phong (huyện lỵ), Hòa Phú, Hòa Phước, Hòa Sơn và Hòa Tiến. Đường phố Âu Dương Lân Bùi Cẩm Hổ Bùi Huy Đáp Cao Bá Đạt Cồn Đỉnh Đặng Đức Siêu Đặng Hòa Đặng Văn Kiều Đào Trinh Nhất Đinh Văn Chất Hà Duy Phiên Hà Văn Mao Hoàng Đạo Thành Hoàng Phê Hoàng Văn Thái Huỳnh Tịnh Của Hà Tông Quyền Kha Vạng Cân Kiều Sơn Đen Lê Đình Diên Lê Trực Lê Văn Hoan Lý Thiên Bảo Mai An Tiêm Mai Thúc Trực Mẹ Thứ Nam Kỳ Khởi Nghĩa Ngô Mây Nguyễn Án Nguyễn Bá Loan Nguyễn Bảo Nguyễn Chí Trung Nguyễn Hàm Ninh Nguyễn Hồng Ánh Nguyễn Huy Oánh Nguyễn Khả Trạc Nguyễn Kim Nguyễn Minh Vân Nguyễn Triệu Luật Nguyễn Văn Tỵ Nguyễn Văn Vĩnh Nguyễn Văn Xuân Phạm Công Trứ Phạm Hùng Phạm Hữu Nghi Phan Quang Định Phan Thêm Phan Thúc Trực Phan Văn Đáng Quảng Xương Tế Hanh Thu Bồn Trần Tử Bình Trần Văn Giàu Trịnh Quang Xuân Trung Đồng Trường Chinh Trường Sơn Trương Vĩnh Ký Võ Thành Vỹ Vũ Miên Vũ Phạm Hàm Đặc điểm Sông ngòi: Sông Yên, sông Cầu Đỏ, sông Hàn, sông Lỗ Đông, sông Tuý Loan, sông Cu Đê, sông Bắc, sông Nam, sông Cha Nay. Hồ: hồ Hoà Trung (nằm trên địa phận 2 xã Hòa Ninh và Hòa Liên). Đỉnh núi: Hòng Chan (1528m), Khé Khato (1038m), đỉnh núi Mang (1712m), Khé Xương (1178m), đều nằm trên địa phận xã Hoà Bắc. Đèo: đèo Mũi Trâu, đèo Đê Bay (xã Hoà Bắc), đèo Đại La (nằm ở ranh giới giữa xã Hoà Sơn - huyện Hòa Vang và phường Hoà Khánh - quận Liên Chiểu) Di tích: di tích Bà Nà (xã Hoà Ninh),thắng cảnh suối Mơ(xã Hòa Ninh) Đường giao thông: các đường tỉnh ĐT601, ĐT602, ĐT604, ĐT605, quốc lộ 14B, Quốc lộ 1, đường sắt Bắc-Nam. Kinh tế - xã hội Kinh tế huyện Hòa Vang phát triển đa dạng với đủ loại ngành nghề. Phần lớn người dân sinh sống bằng nghề nông, chăn nuôi gia súc, gia cầm, dệt lụa, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, một bộ phận nhỏ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ phục vụ du lịch... Hiện nay, trên huyện có 5 xã đô thị loại V gồm: Hòa Tiến, Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Phong và Hòa Liên. Văn hóa - Giáo dục Hòa Vang có các trường trung học phổ thông Phạm Phú Thứ ở Hòa Sơn, Ông Ích Khiêm ở Hòa Phong, Phan Thành Tài ở Hòa Châu. Một trung tâm giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp tại Hòa Phong. Mỗi xã đều có 1 trường THCS (cấp 2) và ít nhất có 1 trường tiểu học. Truyền thống Hòa Vang là địa danh nổi tiếng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Danh lam - Thắng cảnh Đây là địa phương có nhiều địa danh đẹp và thơ mộng như khu du lịch sinh thái rừng Bà Nà, Suối Mơ, hồ thủy lợi Hòa Trung, hồ thủy lợi Đồng Nghệ, sông Cu Đê mang tôm cá vùng biển lên với đồng bào thượng nguồn và sản vật vùng cao như gỗ, nông sản về đồng bằng. Chú thích
Danh sách các thành phố Tiểu bang Colorado, Hoa Kỳ: Arvada, Colorado Aspen, Colorado Aurora, Colorado Avon, Colorado Bayfield, Colorado Basalt, Colorado Berthoud, Colorado Black Hawk, Colorado Boulder, Colorado Breckenridge, Colorado Brighton, Colorado Broomfield, Colorado Brush, Colorado Burlington, Colorado Castle Rock, Colorado Cedaredge, Colorado Centennial, Colorado Cherry Hills Village, Colorado Colorado Springs, Colorado Commerce City, Colorado Cortez, Colorado Craig, Colorado Creede, Colorado Cripple Creek, Colorado Delta, Colorado Denver, Colorado Dillon, Colorado Durango, Colorado Eagle, Colorado Eaton, Colorado Edgewater, Colorado Englewood, Colorado Erie, Colorado Estes Park, Colorado Evans, Colorado Federal Heights, Colorado Firestone, Colorado Frederick, Colorado Fort Collins, Colorado Fort Lupton, Colorado Fort Morgan, Colorado Fountain, Colorado Frisco, Colorado Fruita, Colorado Georgetown, Colorado Glendale, Colorado Glenwood Springs, Colorado Golden, Colorado Grand Junction, Colorado Greeley, Colorado Greenwood Village, Colorado Gunnison, Colorado Gypsum, Colorado Idaho Springs, Colorado Ignacio, Colorado Johnstown, Colorado La Junta, Colorado Lafayette, Colorado Lakewood, Colorado Lamar, Colorado Larkspur, Colorado Limon, Colorado Littleton, Colorado Lone Tree, Colorado Longmont, Colorado Louisville, Colorado Loveland, Colorado Lyons, Colorado Minturn, Colorado Montrose, Colorado Monument, Colorado Morrison, Colorado Nederland, Colorado New Castle, Colorado Northglenn, Colorado Olathe, Colorado Pagosa Springs, Colorado Palmer Lake, Colorado Parker, Colorado Pueblo, Colorado Rifle, Colorado Sheridan, Colorado Silt, Colorado Silverthorne, Colorado Silverton, Colorado Town of Snowmass Village, Colorado South Fork, Colorado Steamboat Springs, Colorado Sterling, Colorado Stratton, Colorado Superior, Colorado Telluride, Colorado Timnath, Colorado Thornton, Colorado Trinidad, Colorado Vail, Colorado Westminster, Colorado Wheat Ridge, Colorado Windsor, Colorado Winter Park, Colorado Woodland Park, Colorado
Danh sách các thành phố tại tiểu bang New Mexico, có dân số trên 3.000 người. (*) (PART of unincorporated Bernailillo County that is NOT PART of Albuquerque, and NOT included in Albuquerque totals.)
Bốc thăm Hệ số điểm được dùng để phân chia các đội vào các nhóm khác nhau tại lễ bốc thăm lần này là dựa theo kết quả các đội đạt được tại vòng đấu bảng của vòng loại Euro 2004 và vòng loại World Cup 2006. Có vài điều đáng lưu ý sau: Đội đương kim vô địch Hy Lạp nghiễm nhiên được xếp làm đội hạt giống. Bồ Đào Nha không có hệ số điểm của vòng loại Euro 2004 do là nước chủ nhà. Đức không có hệ số điểm của vòng loại World Cup 2006 do là nước chủ nhà. Nên thay vì đó, thành tích của đội tại vòng loại World Cup 2002 đã được sử dụng. Kazakhstan không có thành tích nào ở các vòng loại Euro do lần đầu tham dự giải. Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 27 tháng 1 năm 2006 tại Montreux, Thụy Sĩ. Dưới đây là thành phần các nhóm khác nhau đã được quyết định trước lễ bốc thăm. Vòng đấu bảng Ngoài Áo và Thụy Sĩ với cương vị nước đăng cai vòng chung kết, nên không phải trải qua vòng loại. Tất cả các đội còn lại, được chia vào 7 bảng (6 bảng 7 đội và 1 bảng 8 đội), thi đấu lượt đi và lượt về, lấy hai đội đứng đầu vào vòng chung kết. Trường hợp các đội bằng điểm thì xét kết quả đối đầu trực tiếp, sau đó mới tính tới hiệu số bàn thắng - bàn thua và số bàn thắng. Bảng A (*) Do Armenia và Azerbaijan không thỏa thuận được địa điểm thi đấu, loạt trận đấu giữa hai đội bị hủy. Cả hai đội đều không có điểm trong hai trận đấu này. Bảng B Bảng C Bảng D Bảng E Bảng F Bảng G Cầu thủ ghi bàn Cập nhật lần cuối ngày: 21 tháng 11 năm 2007 Các quốc gia vượt qua vòng loại 1 Với tư cách là đội Tây Đức 2 Với tư cách là đội Tiệp Khắc 3 Với tư cách là đội Liên Xô 4 Với tư cách là đội CIS Năm in đậm là năm mà đội giành chức vô địch. Ghi chú
Kiểu số thực là một kiểu dữ liệu được sử dụng trong chương trình máy tính để biểu diễn xấp xỉ một số thực. Do các số thực đều không đếm được, nên với một lượng thông tin hữu hạn, máy tính không thể biểu diễn số thực một cách chính xác. Thường thì để biểu diễn một số thực, máy tính sẽ sử dụng một hữu tỷ xấp xỉ tương đương. Số hữu tỷ Kiểu dữ liệu tổng quát nhất để lưu trữ số hữu tỷ gồm có một tử số và một mẫu số dưới dạng nguyên. Xem kiểu số nguyên. Số thực dấu phẩy tĩnh Kiểu dữ liệu "số thực dấu phẩy tĩnh" giả thiết tồn tại một mẫu số cho trước cho mọi số. Mẫu số ở đây thường là một lũy thừa của hai. Ví dụ: trong một hệ thống có mẫu số là 65.536 (216), số thập lục phân 0x12345678 biểu diễn 0x12345678/65536, 305419896/65536, 4660 + 22136/65536, hoặc khoảng 4660,33777. Xem Số thực dấu phẩy tĩnh. Số thực dấu phẩy động Kiểu "số thục dấu phẩy động" là một kiểu kết hợp giữa tính linh hoạt của kiểu số hữu tỷ và tốc độ xử lý của số dấu phẩy tĩnh. Nó sử dụng một số bit trong kiểu dữ liệu để biểu diễn mẫu số dưới dạng một lũy thừa của hai. Xem Số thực dấu phẩy động và IEEE 754: chuẩn dấu phẩy động.
Học viện Hậu cần (tiếng Anh là: Military Academy of Logistics) là học viện quân sự trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, có nhiệm vụ đào tạo sĩ quan và nhân viên ngành hậu cần cho Quân đội nhân dân Việt Nam.Ngày 7 tháng 2 năm 1993, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định công nhận trình độ đào tạo đại học quân sự cho Học viện Hậu cần. Trụ sở chính: phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, Hà Nội. Cơ sở 2: xã Kim Sơn, thị xã Sơn Tây 2 cơ sở này chủ yếu: đào tạo sĩ quan hậu cần trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học với các chuyên ngành: chỉ huy tham mưu hậu cần, quân nhu, vận tải, xăng dầu, doanh trại, tài chính. Đào tạo hệ cao đẳng, đại học và sau đại học dân sự với chuyên ngành Tài chính – ngân hàng, Kế toán doanh nghiệp và Kỹ thuật Xây dựng. Lịch sử hình thành và phát triển Trước yêu cầu của cách mạng và nhiệm vụ quân đội trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đầu năm 1951, Tổng cục Cung cấp mở: Lớp huấn luyện cán bộ cung cấp đầu tiên do đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp trực tiếp chỉ đạo. Ngày khai giảng lớp học, Bác Hồ đã gửi thư cho cán bộ, học viên, trong thư Người viết: “Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận, cung cấp đủ súng, đạn, đủ cơm áo thì bộ đội mới đánh thắng trận”; đồng thời Người chỉ rõ: “cán bộ cung cấp càng phải làm kiểu mẫu cần, kiệm, liêm, chính”. Tiếp sau đó là: Các lớp huấn luyện cán bộ cung cấp (1951 - 1953) Trường Cán bộ Cung cấp (1953 - 1955) Trường Cán bộ Hậu cần (1955 - 1958) Trường Sĩ quan Hậu cần (1958 - 1974) Học viện Hậu cần - được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ Trường Sĩ quan Hậu cần (Quyết định 188/QĐ-QP - Ngày 23 tháng 7 năm 1974) Tháng 8 năm 1980, một bộ phận của Học viện Hậu cần được tách ra để thành lập Trường sĩ quan Hậu cần. Tháng 3 năm 1996, sáp nhập Trường sĩ quan Hậu cần về Học viện Hậu cần (Quyết định số 257/QĐ–QP) Năm 2021, Học viện Hậu cần bàn giao nội dung đào tạo Trung cấp cho Cao đẳng Hậu cần/Tổng cục Hậu cần, Học viện chỉ đào tạo từ Cử nhân đến Tiến sĩ hậu cần, tài chính. Ngày 15 tháng 6 năm 1951 là Ngày truyền thống của Học viện Hậu cần - Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho lớp cán bộ cung cấp đầu tiên của Tổng cục Cung cấp. Lãnh đạo hiện nay Giám đốc: Thiếu tướng, PGS, TS Phan Tùng Sơn Chính ủy: Trung tướng Dương Đức Thiện Phó Giám đốc: Thiếu tướng, PGS, TS Trịnh Bá Chinh Phó Giám đốc: Thiếu tướng Nguyễn Văn Kiên Phó Giám đốc: Đại tá, TS Nguyễn Quang Dũng Phó Chính ủy: Thiếu tướng, TS Lê Thành Long Tổ chức Đảng Đảng bộ trong Học viện Hậu cần bao gồm: Đảng bộ Học viện Hậu cần là cao nhất. Đảng bộ, chi bộ cơ sở các Phòng, Khoa, Hệ, Tiểu đoàn thuộc Đảng bộ Học viện Hậu cần. Chi bộ các cơ quan, đơn vị trực thuộc các Đảng bộ cơ sở. Tổ chức chính quyền Các cơ quan trực thuộc Phòng Đào tạo; Phòng Khoa học quân sự; Phòng Chính trị; Phòng Hậu cần - Kỹ thuật Văn phòng; Phòng Sau đại học; Phòng Thông tin khoa học quân sự; Ban Tài chính; Viện Nghiên cứu khoa học hậu cần quân sự; Tạp chí Nghiên cứu khoa học hậu cần quân sự; Ban Khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo. Các khoa giáo viên Khoa Chỉ huy hậu cần; Khoa Quân nhu; Khoa Vận tải; Khoa Xăng dầu; Khoa Doanh trại; Khoa Tài chính; Khoa Quân sự; Khoa Lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Khoa Công tác Đảng, công tác chính trị; Khoa Khoa học cơ bản; Khoa Ngoại ngữ; Khoa Hậu cần chiến dịch. Các đơn vị quản lý học viên Hệ Đào tạo Sau đại học; Hệ Đào tạo Chỉ huy tham mưu hậu cần; Hệ Đào tạo Chuyên ngành; Hệ Đào tạo Quốc tế; Tiểu đoàn 1; Tiểu đoàn 2; Tiểu đoàn 3; Tiểu đoàn 4. Thành tích Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước Huân chương Sao vàng Huân chương Hồ Chí Minh Huân chương Quân công hạng Nhất (3 lần) Huân chương Quân công hạng Ba Huân chương Chiến công hạng Nhất (3 lần) Huân chương Chiến công hạng Ba (2 lần) Huân chương Lao động hạng Nhì Hiệu trưởng, Giám đốc qua các thời kỳ Chính ủy qua các thời kỳ Hoàng Ngọc Chiêu, Thiếu tướng 2004–2010 Trung tướng Ngô Lương Hanh, nguyên Chính ủy Quân đoàn 1, Quân đội nhân dân Việt Nam. 2010–2014 Vũ Văn Đức, Trung tướng (2014), nguyên phó Chính ủy Học viện. 2014–2016, Đặng Nam Điền, Trung tướng (2014), nguyên Chính ủy Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. 2016– 2019, Hà Tuấn Vũ, Thiếu tướng (2014), Trung tướng (2018); nguyên Chính ủy Quân đoàn 2. 2019–10.2021, Nguyễn Văn Hùng, Thiếu tướng (2018), nguyên Chính ủy Quân đoàn 1. 10.2021 - nay, Dương Đức Thiện, Trung tướng (2011), nguyên Cục trưởng Cục BVANQĐ. Phó Giám đốc qua các thời kỳ Bạch Ngọc Liễn, Thiếu tướng (1985) Đào Xuân Định, Thiếu tướng (2006) Trần Đức Sơn, Thiếu tướng (2008) Lê Viết Tuyến, Thiếu tướng (2008) Đào Xuân Hước, Thiếu tướng (2013), nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 2 Trần Đình Hướng, Thiếu tướng (2016) Vũ Văn Nghiệp, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh Binh chủng Đặc công Trần Đình Thăng, Thiếu tướng, nguyên Phó Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 2 Phạm Nghĩa Tình, Thiếu tướng (2019), nguyên Chủ nhiệm Hậu cần, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam Nguyễn Văn Kiên, Thiếu tướng (2022), nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 2. Nguyễn Quang Dũng, Đại tá (2023). Phó Chính ủy qua các thời kỳ Nguyễn Quốc Chiến, Đại tá Lại Duy Trợ, Thiếu tướng Vũ Mạnh Hà, Thiếu tướng Lê Nguyên Đương, Thiếu tướng Lê Thành Long, Thiếu tướng Chú thích Hậu cần Trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội Bộ Quốc phòng Việt Nam
Vợ nhặt là một tác phẩm văn học của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945 diễn ra tại Thái Bình. Được in trong tập Con chó xấu xí (truyện ngắn 1962), tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư (1946) được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Về sau (1954), tác giả đã dựa vào cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. Một trích đoạn trong tác phẩm đã được xuất hiện trong đề thi môn ngữ văn của kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông tại Việt Nam năm 2023.
Veliky Novgorod (tiếng Nga: Великий Новгород), đơn giản chỉ gọi là Novgorod (do vậy, trong phạm vi bài này sẽ dùng từ Novgorod để chỉ thành phố này), là thành phố lịch sử hạng nhất ở miền tây bắc nước Nga. Thành phố là trung tâm hành chính tỉnh Novgorod. Nó nằm trên đường cao tốc Liên bang M10 nối liền Moskva với Sankt-Peterburg. Novgorod là một từ trong tiếng Nga để chỉ "thành phố mới", còn "Velikiy" nghĩa là "vĩ đại". Là trung tâm hành chính của tỉnh Novgorod, thành phố này nằm dọc theo bờ sông Volkhov chỉ ngay dưới chỗ bắt đầu của nó là hồ Ilmen. Dân số của thành phố này theo thống kê dân số năm 2002 là 216.856 người. Dân số qua các thời kỳ: Lịch sử Mặc cho ý nghĩa tên gọi của nó, Novgorod là thành phố cổ nhất kiểu Slav được ghi nhận trong lịch sử Nga. Biên niên sử có đề cập tới nó từ năm 859, khi nó là một trạm chính trên Hành trình thương mại từ người Varjag tới người Hy Lạp. Tên gọi của thành phố này trong tiếng của người Varjag là Holmgard (hay Holmgarðr, Hólmgarður, Holmgaard, Holmegård) được đề cập tới trong Norse saga (Những câu chuyện Na Uy) như là đã tồn tại từ sớm hơn, nhưng các sự kiện sử học không thể được gỡ rối từ truyền thuyết ở đây. Ban đầu, Holmgard chỉ trỏ tới một đồn lũy nằm ở phía đông nam thành phố ngày nay là Riurikovo gorodishche (được đặt tên trong thời gian tương đối gần đây theo tên của Rurik, người được cho là đã biến nó thành "kinh đô" của mình). Các dữ liệu khảo cổ học gợi ý rằng gorodische, nơi cư ngụ của một Knyaz (konung hay đại công tước), có niên đại vào khoảng giữa thế kỷ 9, trong khi thành phố này chỉ có niên đại từ cuối thế kỷ 9, vì thế mà có tên gọi Novgorod, "thành phố mới". Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ 10 thì Novgorod đã trở thành một thành phố cổ phát triển đầy đủ. Năm 882, người kế nghiệp của Rurik, Oleg của Novgorod, đã chiếm giữ Kiev và thành lập quốc gia Kievskaya Rus. Trong quốc gia này thì Novgorod là thành phố thứ hai về tầm quan trọng. Theo tập quán, con trai lớn và là người kế vị ngai vàng của nhà cầm quyền vương quốc Kievskaya Rus được gửi tới để cai quản Novgorod thậm chí ngay cả khi còn bé. Khi vua không có con trai thì Novgorod được các posadnik (một kiểu phó công tước) cai quản, chẳng hạn như Gostomysl, Dobrynya, Konstantin và Ostromir huyền thoại. Trong các Norse saga thì thành phố được đề cập tới như là kinh đô của Gardariki (nghĩa là các vùng đất Đông Slav). Bốn vị vua của người Viking — Olav I của Na Uy, Olav II của Na Uy, Magnus I của Na Uy và Harald Haardraade — đã tìm kiếm nơi nương náu ở Novgorod để tránh các kẻ thù từ quê hương. Trong số các công tước của mình, người Novgorod giữ trong lòng nhiều nhất các kỷ niệm về Yaroslav I Mudryi (Yaroslav Thông thái), người đã ban hành các văn bản luật pháp đầu tiên của họ (sau này được kết hợp vào Russkaya pravda- bộ luật của Kievskaya Rus) và đã tài trợ cho việc xây dựng thánh đường Sophia, còn tồn tại đến ngày nay. Như là sự bày tỏ lòng biết ơn vì đã giúp ông đánh bại anh trai mình và giành được ngai vàng của Kievskaya Rus, Yaroslav đã trao nhiều đặc quyền cho thành phố. Ở phía kia, người Novgorod đã đặt tên quảng trường trung tâm của mình là Yaroslav. Năm 1136, các nhà buôn và các boyar của Novgorod ly khai khỏi Kievskaya Rus, trục xuất công tước của họ và tuyên bố thành lập Cộng hòa Novgorod. Nhà nước thành bang hùng mạnh này kiểm soát phần lớn khu vực đông bắc châu Âu, từ Estonia ngày nay tới dãy núi Ural. Nhân vật quan trọng nhất tại Novgorod là Posadnik, một quan chức được bầu ra bởi hội đồng nhân dân (gọi là Veche-một kiểu nghị viện Đông Slav thời Trung cổ) từ tầng lớp quý tộc của thành phố. Triều đình Novgorod về mặt hình thức là do công tước chủ trì (cũng do Veche bầu ra), nhưng các phán quyết của ông phải được Posadnik xác nhận để có thể có hiệu lực. Trong thế kỷ 13, thành phố này đã gia nhập liên minh Hanze (tức liên minh thương mại và chính trị của các thành phố ở vùng đông bắc châu Âu). Trong suốt thời Trung cổ, thành phố này đã rất thịnh vượng về mặt văn hóa. Phần lớn dân cư đều có học và sử dụng các chữ viết trên vỏ cây bu lô để liên lạc. Người ta đã khai quật được tại Novgorod cuốn sách Slav cổ nhất được viết ra ở phía bắc Vương quốc Bulgaria và chữ viết cổ nhất bằng tiếng Phần Lan-Ugra. Khi Paris và London còn chìm ngập trong bùn lầy thì Novgorod đã được những người nước ngoài tán dương vì các đường đắp cao được lát và các đường phố sạch sẽ. Một số các biên niên sử Nga cổ nhất đã được viết tại thành phố này. Nhà buôn Novgorod tên là Sadko đã trở thành nhân vật phổ biến trong văn hóa dân gian Nga. Sự suy thoái của thành phố là kết quả của sự bất lực của nó trong việc nuôi một cộng đồng dân cư quá lớn, điều này làm cho thành phố bị phụ thuộc vào việc cung cấp lương thực từ khu vực Vladimir-Suzdal. Các thành phố lớn trong khu vực này như Moskva và Tver, sử dụng sự lệ thuộc này để giành quyền kiểm soát Novgorod. Cuối cùng Ivan III đã sáp nhập thành phố này vào công quốc Muscovy năm 1478. Tuy nhiên, Novgorod vẫn còn là thành phố lớn thứ ba tại Nga cho đến tận khi Ivan Hung Đế cướp phá thành phố và sát hại hàng nghìn dân tại đây vào năm 1570. Tầng lớp thương nhân và quý tộc của thành phố đã bị lưu đày tới Moskva, Yaroslavl và nhiều nơi khác. Trong thời kỳ loạn lạc, người Novgorod đã nhanh chóng đầu hàng quân đội Thụy Điển do Jacob De la Gardie chỉ huy vào mùa hè năm 1611. Thành phố này chỉ được hoàn lại cho Nga sau sáu năm, theo hiệp ước Stolbovo và trở lại thời kỳ thịnh vượng trước đây của nó vào cuối thế kỷ này, khi những công trình xây dựng nhiều tham vọng như thánh đường Sign và tu viện Vyazhischi được xây dựng. Người nổi tiếng bậc nhất trong số các giáo chủ Nga, Nikon, đã từng làm tổng giám mục giáo khu Novgorod trong giai đoạn từ năm 1648 tới năm 1652. Năm 1727, Novgorod trở thành trung tâm hành chính của guberniia Novgorod (một kiểu tổng trấn thời kỳ 1708-1927) trong Đế chế Nga, được tách ra từ guberniia Sankt-Peterburg (xem bài Các đơn vị hành chính Nga năm 1727-1728). Đơn vị hành chính này tồn tại đến năm 1927. Trong giai đoạn từ năm 1927 tới năm 1944 thành phố này là một phần của tỉnh Leningrad, và sau đó trở thành trung tâm hành chính của tỉnh mới thành lập là tỉnh Novgorod. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thành phố đã bị quân đội Đức chiếm đóng từ ngày 15 tháng 8 năm 1941. Các tượng đài lịch sử của thành phố đã bị phá hủy một cách có hệ thống. Khi Hồng quân Liên Xô giải phóng thành phố vào ngày 19 tháng 1 năm 1944, trong số 2.536 công trình xây dựng bằng đá chỉ còn lại ít hơn 40. Sau thế chiến, các khu buôn bán kinh doanh dần dần được khôi phục. Các tượng đài chính của thành phố được công nhận là Di sản thế giới. Năm 1998, thành phố này đã chính thức đổi tên thành Velikiy Novgorod, và như thế đã phần nào phục hồi lại danh hiệu thời Trung cổ của nó "Ngài Novgorod vĩ đại". Cảnh quan Không có một thành phố nào của Nga hay Ukraina có thể so sánh với Novgorod về sự đa dạng và niên đại của các đài tưởng niệm thời Trung cổ của nó. Đứng đầu trong số này là thánh đường Sophia, được xây dựng trong thập niên 1040 theo chỉ thị của Yaroslav Mudryi. Nó là nhà thờ được bảo tồn tốt nhất trong số các nhà thờ thuộc thế kỷ 11, và là nhà thờ đầu tiên thể hiện các đặc trưng nguyên thủy của kiến trúc Nga (các tường đá mộc mạc, 5 vòm tương tự như cái mũ sắt). Các bích họa được vẽ vào thế kỷ 12 và được phục chế trong thập niên 1860. Thánh đường được trang trí bằng các cổng làm từ đồng thau, sản xuất tại Magdeburg năm 1156 và được cho là người Novgorod đã giành được từ thủ đô của Thụy Điển khi đó là Sigtuna vào năm 1187. Kremli của Novgorod, theo truyền thống được gọi là Detinets, có cung điện cổ nhất tại Nga (gọi là Phòng Facet, 1433), tháp chuông cổ nhất ở Nga (giữa thế kỷ 15) cùng tháp đồng hồ cổ nhất tại Nga (1673). Trong số các kiến trúc muộn hơn, khu vực đáng chú ý nhất là cung hoàng gia (1771) và tượng đài bằng đồng thau để kỷ niệm Thiên niên kỷ nước Nga, thể hiện các nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử nước này (khánh thành năm 1862). Bên ngoài các bức tường của kremli, có ba thánh đường được xây dựng trong thời kỳ trị vì của Mstislav Đại Đế, vị vua cuối cùng của nhà nước Rus thống nhất. Thánh đường St Nicholas (1113-1123), chứa các bích họa về gia đình Mstislav, làm vẻ vang cho triều đình Yaroslav (trước đây là quảng trường chính của Cộng hòa Novgorod). Tu viện Yuriev (có lẽ là cổ nhất tại Nga, 1030) chứa thánh đường kiểu Rôman u ám có từ năm 1119. Một thánh đường ba vòm tương tự (1117), có lẽ đã được cùng một người thiết kế, nằm trong tu viện Antoniev. Có nhiều nhà thờ cổ nằm rải rác trong thành phố. Một số đã bị quân đội Đức quốc xã phá hủy và sau này được phục hồi. Kiểu cổ nhất được thể hiện trong các nhà thờ này được dành cho các thánh Pyotr và Pavel (trên đồi Thiên Nga, 1185-1192), tới lễ Truyền tin (trong Myachino, 1179), hay lễ Đức Mẹ thăng thiên (trên đồng Volotovo, thập niên 1180) và St Paraskeva (tại triều đình Yaroslav, 1207). Kiệt tác lớn nhất của kiến trúc Novgorod thời kỳ đầu là nhà thờ Chúa Cứu thế tại Nereditsa (1198). Trong thế kỷ 13, mốt thịnh hành là các nhà thờ nhỏ với thiết kế ba mái. Các đại diện tiêu biểu là nhà thờ nhỏ ở Peryn (thập niên 1230) và nhà thờ St Nicholas trên đảo Lipnya (1292, cũng đáng chú ý vì các bích họa thế kỷ 14 của nó). Thế kỷ tiếp theo là sự phát triển của hai thiết kế nhà thờ nguyên thủy, một trong chúng là nhà thờ St Theodor (1360-61, các bích họa nghệ thuật thập niên 1380),còn cái kia là nhà thờ Chúa Cứu thế tại đường Ilyina (1374, Feofan Grek vẽ năm 1378). Nhà thờ Chúa Cứu thế tại Kovalevo (1345) phản ánh ảnh hưởng của người Serbia. Trong thế kỷ cuối cùng của chế độ cộng hòa phong kiến, một số thánh đường mới cũng được dành cho các thánh Pyotr và Pavel (trên Slavna, 1367; trong Kozhevniki, 1406), hay lễ Thánh đản (tại Cemetery, 1387), hoặc thánh tông đồ John (1384), các thánh tông đồ (1455), thánh Demetrius (1467), thánh Simeon (1462) và các thánh khác. Nói chung, chúng không có nhiều điểm sáng tạo như các nhà thờ từ các thời kỳ trước. Một số lăng mộ thuộc thế kỷ 12 (chẳng hạn trong Opoki) đã bị phá hủy và sau này được tái tạo chính xác như chúng đã từng là như thế. Sự xâm chiếm thành phố của Ivan III năm 1478 đã làm thay đổi cơ bản các đặc trưng kiến trúc của khu vực này. Kể từ đó, những nhiệm vụ lớn đều được các thợ đến từ Moskva thực hiện và có kiểu dáng tương tự như các thánh đường của Kremli tại Moskva: chẳng hạn thánh đường Chúa Cứu thế của tu viện Khutyn (1515), thánh đường Sign (1688), thánh đường Nicholas của tu viện Vyaschizhy (1685). Tuy nhiên, một vài nhà thờ có tính chất cục bộ địa phương vẫn duy trì các kiểu dáng truyền thống của nghệ thuật khu vực, chẳng hạn nhà thờ Các bà vợ thần thánh (1510) và nhà thờ các thánh Boris và Gleb (1586). Tại Vitoslavlitsy, một khu vực trên bờ sông Volkhov, trên đường tới tu viện Yuriev, một viện bảo tàng kiến trúc gỗ đã được lập ra năm 1964. Trên 20 công trình xây dựng bằng gỗ (nhà thờ, nhà và cối xay) có niên đại từ thế kỷ 14 tới thế kỷ 19 đã được chuyển từ mọi nơi trong khu vực xung quanh Novgorod tới đây. Vận tải Liên thành phố Novgorod có đường giao thông tới Moskva (531 km) và Sankt-Peterburg (189 km) là đường cao tốc Liên bang M10. Từ Novgorod có các tuyến xe buýt tới Moskva, St. Petersburg và các khu vực khác. Thành phố này cũng có đường sắt nối liền với Moskva (tới ga đường sắt Leningradsky bằng các chuyến tàu đêm), Sankt-Peterburg (tới ga đường sắt Moskva và ga đường sắt Vitebsk, bằng các tàu chạy quanh ngoại ô) và các thành phố chính ở miền tây bắc Nga như Pskov, Murmansk. Hai sân bay tại thành phố này là Yurievo và Krechevitsy không có các chuyến bay định kỳ kể từ giữa thập niên 1990. Sân bay quốc tế gần nhất là Pulkovo, khoảng 180 km về phía bắc thành phố. Nội thành Vận chuyển khu vực chủ yếu là xe buýt và xe điện bánh hơi. Mạng lưới xe điện bánh hơi hiện tại bao gồm 5 tuyến, bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1995, và nó là hệ thống xe điện bánh hơi đầu tiên được mở ra tại Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Giáo dục Velikiy Novgorod có một trường đại học là Đại học Quốc gia Novgorod thành lập năm 1993. Các thành phố kết nghĩa Strasbourg, Pháp Rochester, New York, Hoa Kỳ Bielefeld, Đức Watford, Anh Truy Bác (淄博), Trung Quốc
Ngân hàng Grameen (tiếng Bengali: গ্রামীণ ব্যাংক) là một tổ chức tài chính vi mô (tiếng Anh: microfinance) khởi đầu tại Bangladesh với mục đích cho vay vốn nhỏ (được gọi tín dụng vi mô; tiếng Anh: microcredit) cho người nghèo mà không cần điều kiện bảo đảm. Hệ thống dựa trên ý tưởng người nghèo có các kỹ năng mà không được tận dụng hết. Ngân hàng cũng nhận ký quỹ, cung cấp các dịch vụ khác và kinh doanh trên các lĩnh vực hướng-phát triển bao gồm các công ty sản xuất, điện thoại và năng lượng. Tổ chức này và người thành lập, Muhammad Yunus, được nhận giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2006. Lịch sử Muhammad Yunus, nhà sáng lập ngân hàng, đạt học vị Tiến sĩ ngành Kinh tế học tại trường Đại học Vanderbilt, Hoa Kỳ. Qua nạn đói khủng khiếp tại Bangladesh năm 1977 ông được tiếp cảm hứng cho vay một khoản nhỏ 27 đôla Mỹ cho một nhốm 43 hộ gia đình để họ có thể tạo các đồ vật nhỏ đem bán mà không đòi hỏi thế chấp Yunus tin rằng việc cho vay các khoản nhỏ như vậy nếu được đem áp dụng rộng rãi cho cộng đồng thì có thể làm cải thiện đói nghèo tại làng quê phổ biến tại Bangladesh. Ngân hàng Grameen (tiếng Bangla nghĩa là "Ngân hàng của làng quê") bắt nguồn từ ý tưởng của Muhammad Yunus. Ngân hàng bắt đầu với một dự án nghiên cứu của Yunus và dự án kinh tế nông thôn tại trường đại học Chittagong, Bangladesh để kiểm tra phương pháp của ông trong việc cho vay tín dụng và các dịch vụ ngân hàng cho người nghèo nông thôn. Vào năm 1976, làng Jobra và các làng quê khác xung quanh trường đại học Chittagong trở thành khu vực đầu tiên đạt điều kiện tiếp nhận dịch vụ từ ngân hàng Grameen. Ngân hàng thành công vang dội và dự án, được chính phủ hỗ trợ, được giới thiệu vào năm 1979 cho quận Tangail (phía bắc thủ đô Dhaka). Sự thành công của ngân hàng tiếp tục và nó nhanh chóng trải rộng đến các quận các của Bangladesh và vào năm 1983 nó chuyển thành một ngân hàng độc lập dưới quyết định của cơ quan lập pháp Bangladesh. Tỷ lệ hoàn vốn bị ảnh hưởng mạnh bởi trận lụt năm 1998 nhưng lại phục hồi một vài năm sau. Ngân hàng ngày nay tiếp tục mở rộng phạm vi biên giới và vẫn cung cấp tín dụng cho người nghèo nông thôn. Vào giữa năm 2006, số lượng chi nhánh ngân hàng Grameen Bank vượt qua con số 2.100. Thành công của nó truyền cảm hứng cho các dự án tương tự trên thế giới. Việc áp dụng tín dụng vi mô Hệ thống kết hợp chặt chẽ một tập hợp các giá trị vào hệ thống ngân hàng, nòng cốt tại Bangladesh bởi Mười sáu quyết định . Hệ thống là cơ sở cho hệ thống tín dụng vi mô và các nhóm tự giúp (self-help group) hiện hoạt động trên 43 quốc gia. Mỗi nhóm gồm năm cá thể được vay một khoản tiền, nhưng cả nhóm sẽ bị từ chối nhận tín dụng tiếp nếu một cá thể vỡ nợ. Việc này tạo động lực kinh tế cho nhóm hoạt động có trách nhiệm, và làm tăng tính khả thi kinh tế của Grameen. Tại một quốc gia trong đó ít phụ nữ có khả năng vay vốn từ các ngân hàng thương mại lớn có một thực tế đáng ngạc nhiên là phần lớn (96%) người vay vốn là phụ nữ. Tại các khu vực khác, kỷ lục đáng ngạc nhiên của Grameen là tỷ lệ hoàn vốn đạt đến trên 98 phần trăm. Hơn một nửa những người vay vốn của Grameen tại Bangladesh (gần tới 50 triệu) đã thoát khỏi nghèo đối nhờ khoản vay của ngân hàng, được đánh giá bằng các tiêu chuẩn như có tất cả con trong tuổi đến trường được đi học, tất các thành viên gia đình được ăn ba bữa một ngày, một nhà vệ sinh, một nhà có mái tránh dột, nước uống sạch và khả năng hoàn vốn một khoản 300 taka (8 USD) một tuần. Quyền sở hữu và các thông tin khác Một đặc điểm đáng ngạc nhiên của Ngân hàng Grameen là ngân hàng được sở hữu bởi những người nghèo vay vốn từ ngân hàng mà phần lớn trong số họ là phụ nữ. Trong tổng số cổ phiếu của ngân hàng, người vay sở hữu 94%, và 6% còn lại thuộc sở hữu của Chính phủ Bangladesh. Một số thông tin khác về ngân hàng, vào tháng 8 năm 2006: Tổng số người vay là 6.61 triệu, và 97% trong số này là phụ nữ (3.123.802 thành viên vào năm 2003 ) Ngân hàng có 2.226 chi nhánh, bao phủ 71.371 thôn bản, với tổng số nhân viên là 18.795. (43.681 thôn bản vào năm 2003 ) Tỷ lệ hoàn vốn là 98.85% (tỷ lệ hoàn vốn là 95% vào năm 1998) Tính từ khi bắt đầu tổng số vốn được phân bổ cho vay là Tk 290.03 tỷ (tương đương US$ 5.72 tỷ). Trong số này, Tk 258.16 tỷ (tương đương US$ 5.07 tỷ) đã được hoàn trả. Giải thưởng Nobel Hòa bình Ngày 13 tháng 10 năm 2006 Ủy ban Nobel đã trao cho Ngân hàng Grameen Bank và người sáng lập Muhammad Yunus Giải thưởng Hòa bình Nobel năm 2006, "vì những nỗ lực của họ trong việc tạo ra sự phát triển kinh tế và xã hội từ dưới lên." Các doanh nghiệp liên quan Ngân hàng Grameen đã phát triển sang hơn hai tá các doanh nghiệp do Nhóm Doanh nghiệp Grameen đại diện bao gồm: Grameen Trust Grameen Fund Grameen Communications Grameen Shakti/Energy Grameen Shikkha/Education Grameen Telecom Grameen Knitwear Ltd Grameen Cybernet Ltd. Đến tháng 11 năm 2004 Ngân hàng đã vượt qua con số cho vay trên 4,4 tỷ dollar Mỹ cho người nghèo. Cùng với việc mang năng lượng đến cho cư dân nông thôn và mở rộng việc làm, nhóm doanh nghiệp Grameen còn mở rộng sang cả việc quản lý các ao hồ nông thôn thông qua Grameen Motsho hay Hiệp hội Nghề cá, tìm kiếm giải pháp bảo vệ tính đa dạng của các loài cá trong các ao hồ đánh bắt cá của Bangladesh . Ngày 11 tháng 7 năm 2005, Quỹ Grameen Mutual Fund One đã được Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái (SEC) Bangladesh cho phép phát hành chứng khoán ra công chúng lần đầu. Là một trong những quỹ tương hỗ đầu tiên trong số những quỹ tương tự, GMFO sẽ cho phép hơn 4 triệu thành viên của Grameen cũng như những người chưa phải thành viên tham gia thị trường vốn của Bangladesh. Ngân hàng và các công ty con của nó ngân hàng hiện có trị giá trên 7 tỷ dollar Mỹ . Các chương trình cải thiện xã hội Bên cạnh việc mở rộng vốn tín dụng vi mô cho người nghèo, Ngân hàng Grameen đã có nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo. Chương trình các thành viên xóa đói giảm nghèo Chương trình này tập trung phân bổ vốn nhỏ cho người ăn xin. Các quy định hiện hành của ngân không được áp dụng ở đây như: Vốn vay hoàn toàn không có lãi suất. Kỳ hoàn vốn có thể kéo dài, ví dụ, một người ăn xin có thể nhận một khoản vay nhỏ khoảng 100 taka (tương đương US $1.50) có thể trả chỉ 2.00 taka (tương đương 3.4 US cents) một tuần. Người vay được hưởng bảo hiểm tính mệnh hoàn toàn miễn phí. Ngân hàng không áp buộc người vay phải ngừng ăn xin; thay vì đó ngân hàng khuyến khích họ sử dụng vốn để tạo thu nhập từ việc bán các vật phẩm giá hạ. Vào năm 2005, khoảng 45.000 người ăn xin đã nhận khoảng Tk 28.7 triệu (tức khoảng US$441.538) và đã hoàn trả Tk. 13.66 triệu (tức US$210.154). Chương trình điện thoại nông thôn Bangladesh có mật độ điện thoại thấp nhất thế giới. Trên tổng số hơn 85.000 thôn bản phần lớn đều không có mạng điện thoại kéo dây của các công ty viễn thông thuộc sở hữu nhà nước. Để phá bỏ tình trạng này, Ngân hàng Grameen đã có chương trình mang điện thoại tới các thôn bản xa xôi. Grameen Phone, một công ty chị em với ngân hàng, hiện đã là nhà cung cấp điện thoại di động lớn nhất nước. Sử dụng mạng lưới trên toàn quốc của mình, Grameen Telecom, và các công ty chị em khác của Ngân hàng Grameen, đã mang điện thoại di động và vô tuyến đế gần một nửa thôn bản tại Bangladesh. Ngân hàng đồng thời cũng phân bổ vốn vay đến khoảng 139.000 phụ nữ nghèo tại nông thôn để họ mua điện thoại. Những người phụ nữ này thiết lập tại nhà mình trung tâm liên lạc nơi những người dân làng có thể đến và trả một khoản phí nhỏ để sử dụng điện thoại. Chương trình này thường được gọi là Polli Phone (Điện thoại thôn bản) tại Bangladesh.
hay cụ thể hơn là một loại cá chép thường (Cyprinus carpio) đã được thuần hóa, lai tạo để nuôi làm cảnh trong những hồ nhỏ, được nuôi phổ biến tại Nhật Bản. Chúng có quan hệ họ hàng gần với cá vàng và, trên thực tế, kiểu cách nhân giống và nuôi cảnh là khá giống với cách nuôi cá vàng, có lẽ là do các cố gắng của những người nhân giống Nhật Bản trong việc ganh đua với cá vàng. Cá chép Koi và các hình xăm trên cá được người Nhật coi là điềm may mắn. Xuất xứ Hàng 1000 năm trước đã xuất hiện loại cá chép sống phân bố chủ yếu ở khu vực Đông Bắc Á, phần lớn tại Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam. Từ loài cá này, một nhóm các nhà khoa học Israel đã nghiên cứu và lai tạo thành công ra một loại cá hình dạng cá chép, màu sắc sặc sỡ như các loài cá ở đại dương. Đầu những năm của thế kỷ 19, Nhật Bản đã mua độc quyền gen của cá chép này và mời các chuyên gia của Israel lai tạo với giống cá chép của Nhật Bản. Người Nhật Bản đặt tên là cá Koi theo nghĩa rộng là cá chép của người Nhật Bản. Để nghiên cứu thêm về cách lai tạo màu, sinh sản, nhân giống và nuôi dưỡng v.v. từ năm 1950, Nhật Bản đã cử các chuyên gia đến học hỏi tại Trung tâm Khoa học Kỹ thuật thuộc khoa Sinh vật trường Đại học Chicago và khoa Hóa lý thuộc Viện nghiên cứu Illinois, Hoa Kỳ. Cá chép do người Nhật lai tạo đẹp về màu sắc và đắt giá. Do vậy, mỗi khi nhắc đến loài cá chép được lai tạo có nhiều màu sắc đẹp, người ta liên tưởng ngay đến người Nhật và thường được dùng chung một tên gọi là "cá chép Nhật". Thực ra, cá chép do Nhật Bản lai tạo có tên gọi là Nishikigoi, dịch ra tiếng Việt là cá chép nhiều màu sắc, đến thế kỷ 19 thì có thêm tên gọi KOI. Từ Koi theo tiếng Nhật là cá chép, từ đồng âm khác nghĩa là tình yêu, yêu mến. Do cá Koi của Nhật thuộc loại xuất sắc, đắt giá và nổi tiếng, nên người Nhật đã tự đặt ra những quy cách về gam màu, tên gọi để phân biệt từng chủng loại. Chủng loại Cá Koi được chia ra làm hai loại: Koi chuẩn và Koi bướm. Koi chuẩn: Hình dáng giống như cá nguyên thủy, nhưng được pha trộn nhiều màu sắc rất đẹp (khi được nhìn từ trên xuống, dọc theo sống lưng), do đó cá Koi chỉ thật sự đẹp khi được nuôi ở ao. Koi bướm: Khác với cá nguyên thủy là vi, vây và đuôi dài, khi bơi nhìn uyển chuyển rất đẹp, nên có thể nuôi được ở cả ao và hồ kiếng. Koi bướm còn có những tên gọi khác như "cá chép vây dài" hoặc "cá chép Rồng". Từ năm 1980 Nhật Bản mới bất đầu nhân giống loại Koi bướm. Màu sắc Người Nhật tin rằng những mảng màu trên mình cá chép Koi khi là những hình xăm sẽ luôn luôn mang lại sự may mắn. Tiêu chuẩn về màu được người Nhật đặt tên như sau: Trắng pha Đỏ = Kohaku. Trắng pha Đỏ+Đen = Showa Sanke. Trắng pha Đen = Utsurimono. Đen pha Trắng = Shiro Bekko. Vàng pha Đen = Ki Utsuri. Bạch kim hoặc Vàng kim = Kinginrin. Xám bạc = Asagi Trắng, trên đỉnh đầu có một vòng tròn Đỏ = Tancho. và những giống khác như: Sanke, Ogon, Shusui, Matsuba, Chagoi, Soragoi, Karasu (crow), Taisho Sanke, Koromo, Kawarimono. Hiện nay, không riêng gì Nhật Bản mà các nước châu Âu, châu Á cũng biết cách lai tạo giống Koi, nhưng các mảng màu và màu sắc thì khó sánh được với Koi của Nhật. Phân biệt Cá chép Koi Trung Quốc và Việt Nam là giống với chép nguyên thủy và Koi Nhật, Koi Pháp có hông ngắn (nhìn ngang) đầu hơi gù…và điều đặc biệt là chỉ Koi Nhật là có màu đỏ chót như đỏ máu và đỏ ớt còn tất cả các loại Koi khác chỉ có màu đỏ cam hay cam. Màu sắc của Koi Nhật rất rực rỡ và có đường biên sắc nét, các mảng màu lớn và đều ở hai bên hông (khi nhìn từ trên xuống, dọc theo sống lưng). Riêng loại Butterfly Koi của Nhật thì vi, vây và đuôi rất dài (có khi bằng 2/3 thân) và màu thì phủ kín đuôi… Việt Nam cũng có giống Butterfly Koi màu trăng sữa, đuôi dài vừa phải, dọc trên sống lưng hàng vảy có pha chút màu đen. Khác với cá Nhật, toàn thân trắng sữa, đuôi dài hơn và đặc biệt là có một hình tròn đỏ chót ngay giữa đỉnh đầu, tượng trưng cho quốc kỳ của Nhật, giá cá này rất cao; Thời gian gần đây xuất hiện giống Koi có màu óng ánh như kim tuyến, nhưng chỉ có trên 2 màu là trắng vàng mà người Nhật gọi là Kinginrin. Kích thước Trước đây, cá chép Koi được xác nhận là chiều dài có thể tới 2 m (6 ft) và chúng có thể sống tới 230 năm, rồi suy giảm dần xuống theo các thế hệ. Người ta cho rằng, phần lớn cá Koi hiện nay, có thể dài tới 1 m (3 ft) và tuổi thọ từ 40 đến 60 năm tuổi. Nếu cá Koi được nuôi ở ao thì đến năm thứ 8 có thể chiều dài tối đa của cá đạt đến 1 mét. Hình dưới đây là kích thước tính bằng cm theo tháng tuổi của cá. Cách chọn Trước hết, phải xác định là nuôi cá ở hồ kiếng hay hồ xi măng. Nếu là hồ kiếng thì nên chọn giống cá Butterfly Koi (chép đuôi dài) vì chúng đẹp ở dáng thướt tha. Chọn cá nhỏ hoặc lớn đều được, khoảng từ 5 cm đến 40 cm tùy từng hồ, vì nuôi hồ kiếng cá bột lớn rất nhanh, nhưng khi phát triển đến 20 cm thì khựng lại và chậm lớn… Nếu nuôi hồ xi măng (hồ ít nhất là 6 m3) nên có hòn non bộ, một vài cây sen và súng vừa trang trí cho đẹp vừa tạo bóng mát cho cá cũng nên có vòi phun hoặc thác nước cho hòn non bộ, chủ yếu là để tạo oxy cho cá. Để nuôi hồ xi măng nên chọn cá đã phát triển từ 20 cm trở lên, vì hồ xi măng sẽ có rất nhiều vi sinh vật vừa có lợi vừa có hại cho cá, cá nhỏ sẽ khó chống chọi lại được, cũng như sự phát triển của cá ở hồ xi măng sẽ đạt tối đa. Theo kinh nghiệm, cá bột tỉ lệ sống là 50 %, trong khi cá trên 20 cm tỉ lệ sống từ 90 đến 99 %. Vì cá nuôi trong hồ xi măng, cho nên cần chọn loại cá Standard Koi (giống cá đuôi ngắn) vì sức khỏe và đề kháng gần gấp đôi loại Butterfly. Do chỉ nhìn từ phía trên, nên màu cá là quan trọng nhất. Nên chọn cá có những mảng màu lớn và cân đối đều 2 bên, luôn có màu chủ đạo là trắng và đỏ. Một điểm đáng chú ý nữa và cũng rất quan trọng khi chọn cá Koi là hình dáng của chúng. Nên xem xét kỹ, dáng bơi phải thẳng và uyển chuyển, không có dị tật như: phần cuối thân bị cong lên, hở mang, râu không đều (do bị cụt, mọc lại không được như cũ) và dị tật xấu nhất của cá chép là "méo miệng". Tỷ lệ méo miệng khoảng 5 %.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (tiếng Anh: Organization for Economic Cooperation and Development; viết tắt: OECD) có mục đích là để tìm ra các chính sách phát triển kinh tế cùng phúc lợi của người dân. Đây là 1 diễn đàn dành cho các thành viên, hiện là chính phủ của 38 nước kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới cũng như 70 nước không phải là thành viên, cùng nhau bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như các vấn đề chung khác. Hiện OECD có 38 thành viên, hầu hết trong số đó là các quốc gia có thu nhập cao. Trụ sở của tổ chức hiện nay cũng như tiền thân OEEC trước đó từ năm 1949 là ở Lâu đài La Muette ở Paris, Pháp. Lịch sử phát triển Tiền thân của OECD là Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu (OEEC) của 16 nước châu Âu nhằm khôi phục kinh tế và giám sát phân bổ viện trợ. Năm 1950, Mỹ và Canada tham gia OEEC với tư cách quan sát viên. Năm 1961, OEEC được chuyển thành OECD. 16 nước châu Âu trong OEEC cùng với Mỹ và Canada trở thành những thành viên sáng lập của OECD (tổng cộng 20 thành viên). Trong những năm tiếp theo, OECD tiếp tục kết nạp một số quốc gia, bắt đầu từ Nhật Bản (1964), Phần Lan (1969), Úc (1971), New Zealand (1973), México (1994), Cộng hòa Séc (1995), Hungary, Ba Lan và Hàn Quốc (1996), Slovakia (2000), Chile, Slovenia, Israel và Estonia (2010), Latvia (2016), Litva, (2018) và mới nhất là Colombia (2020). Thành viên OECD hiện đang có 37 thành viên. Châu Âu: 27 thành viên. (1995) (2010) (1969) (1996) (1962) (2016) (2018) (1996) (2000) (2010) Châu Mỹ: 5 thành viên, 3 thành viên từ Bắc Mỹ và 2 từ Nam Mỹ. (2010) (2020) (1994) Châu Á: 3 thành viên. (2010) (1964) (1996) Châu Đại Dương: 2 thành viên. (1971) (1973) Các quốc gia được mời để trở thành thành viên Ngày 16/5/2007 OECD đã đồng ý mời Chile, Estonia, Israel, Nga và Slovenia thảo luận để trở thành thành viên. Ngoại trừ Nga, các nước còn lại hiện đã là thành viên. : Ngày 13/3/2014, OECD loan báo ở Paris là sẽ ngưng các đàm phán với Nga về việc nước này xin vào tổ chức theo như yêu cầu của 34 nước thành viên vì cuộc khủng hoảng Krym 2014. Từ tháng 5/2013 OECD bắt đầu các cuộc thảo luận với , và . Chú thích
Phòng Huyền Linh (chữ Hán: 房玄齡, 579 – 648), vốn tên là Kiều (乔), Huyền Linh là biểu tự, là một vị quan lại đời nhà Đường, nổi tiếng là một mưu sĩ, về sau làm chức quan Tư mã, Tể tướng và Tể phụ của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Do công lao lớn giúp Đường Thái Tông, ông được liệt vào một trong 24 vị công thần được vẽ trong Lăng Yên các. Ông còn là chủ biên của Tấn thư, là một trong 24 bộ chính sử Trung Hoa. Tiểu sử Phòng Huyền Linh là người Lâm Tri, Tề Châu (齐州; nay là Tri Bác, tỉnh Sơn Đông). Cha ông là Phòng Ngạn Khiêm (房彦謙), xuất thân Thanh Hà Phòng thị gia tộc, làm Huyện lệnh tại huyện Kính Dương. Mẹ ông xuất thân từ Lũng Tây Lý thị (陇西李氏), Cô Tang phòng, là đường tỉ muội của Lý Huyền Đạo (李玄道). Khi còn nhỏ, ông là người chịu khó, thông minh, cần cù, thông thạo kinh sách. Năm 594, ông đỗ Tiến sĩ tại bản châu, nhận chức Vũ Kỵ Úy (羽骑尉). Cuối đời nhà Tuỳ, Tùy Dạng đế cùng tập đoàn thống trị ăn chơi sa đọa, bạo ngược, gây chiến tranh liên miên và bị thất bại, nhân dân phải chịu cuộc sống cực khổ, loạn lạc. Năm 617, Lý Uyên (sau này là Đường Cao Tổ) đã dấy binh tranh quyền bính từ Tùy Dạng đế, được nhân dân khắp nơi ủng hộ. Cha con Lý Uyên đi đến đâu cũng thu nhận hào kiệt, dùng người tài. Nhân sĩ, trí thức khắp nơi xuống núi tìm minh chủ cho mình và Phòng Huyền Linh cũng là một trong số đó. Khi gặp được Phòng Huyền Linh, Lý Thế Dân rất mừng vì đã nghe tiếng ông từ lâu. Tần vương Lý Thế Dân, là người con trai thứ 2, vốn có mâu thuẫn với Thái tử Lý Kiến Thành và Tề vương Lý Nguyên Cát là con trai thứ tư của Đường Cao Tổ, do việc tranh giành ngôi vua. Lý Thế Dân đã từng bị Tề vương đầu độc, may được cứu chữa kịp thời nên mới qua khỏi. Thấy tình hình như vậy, Phòng Huyền Linh đã bàn với Trưởng Tôn Vô Kị để giúp Lý Thế Dân đánh bại âm mưu của Tề vương cũng như Thái tử câu kết với nhau nhằm triệt hạ Lý Thế Dân. Lý Thế Dân đã bàn với các mưu sĩ phải hạ thủ 2 người này. Sự biến cửa Huyền Vũ nổi tiếng chính là nói về việc hạ thủ hai người này. Sự việc xảy ra nhanh chóng, Cao Tổ chẳng kịp làm gì và từ đó, mọi quyền hành đành giao phó cho Lý Thế Dân. Năm 627, Lý Thế Dân lên ngôi, tức là Đường Thái Tông, đặt niên hiệu Trinh Quán, ban thưởng cho các trung thần. Phòng Huyền Linh, Trưởng Tôn Vô Kị, Uất Trì Kính Đức, Hầu Quân Tập và Đỗ Như Hối được phong tước công, hưởng nhiều bổng lộc. Trong những năm Đường Thái Tông bắt đầu cai trị, Phòng Huyền Linh thực sự là nhà tham mưu tốt về chính trị, quân sự và kinh tế. Ông được phong làm Trung thư lệnh, thuộc hàng cao cấp nhất. Năm Trinh Quán thứ 3 (629), thăng Thượng thư Tả phó xạ. Năm Trinh Quán thứ 11 (637), gia phong tước vị Lương Quốc công (梁国公). Năm Trinh Quán thứ 16 (642), thăng làm Tư không, tổng lý triều chính. Gia đình ông theo đó cũng hiển quý. Con trai cả Phòng Di Trực (房遺直) trở thành Thái trung Đại phu, kiêm chức Tư nghiệp ở Quốc tử giám. Người con trai thứ hai của ông Phòng Di Ái (房遺愛) thì trở thành phò mã, lấy Cao Dương công chúa. Con trai út Phòng Di Nghĩa (房遗义) làm Thái tử Xá nhân, Cốc Châu Thứ sử. Con gái đầu của ông được gả cho Hàn vương Lý Nguyên Gia (李元嘉), là con trai của Đường Cao Tổ. Người con gái út lấy Trịnh Nhân Khải (郑仁恺), làm Thứ sử Mật Châu và Bạc Châu. Đến năm Trinh Quán thứ 14 (640), Đường Thái Tông lập Lý Trị làm Thái tử. Vào lúc này, Phòng Huyền Linh đã ở tuổi 70, được Hoàng đế cấc nhắc phong cho chức Thái phó của Thái tử. Càng về sau, Lý Thế Dân do thu được nhiều chiến công nên đã tỏ ra kiêu ngạo, ưa xiểm nịnh, đưa quân đi tàn sát nhiều người. Năm Trinh Quán thứ 22 (648), quân Đường tiến đánh Cao Câu Ly, bị Phòng Huyền Linh phản đối mạnh mẽ: "Hiện nay Cao Câu Ly có xâm phạm nước ta đâu, tương lai họ cũng không dám gây chiến tranh xâm lược. Do đó chúng ta đánh Cao Câu Ly là hoàn toàn sai lầm". Đường Thái Tông nghe ra và đến năm Trinh Quan thứ 23 (649), sau khi Thái Tông băng hà, quân Đường rút về nước và cuộc chiến chấm dứt. Tháng 6 năm Trinh Quán thứ 22 (648), ngày 18 tháng 8, Phòng Huyền Linh qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được an táng tại Thái Thạch Sơn, Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Mộ Phòng Huyền Linh được đặt cạnh lăng tẩm Đường Thái Tông, ông được phong làm Tể phụ, thụy hiệu là Văn Chiêu (文昭). Tể tướng sợ vợ Trước khi trở thành Tể tướng, Phòng Huyền Linh có cuộc sống rất nghèo khổ. Tuy nhiên, ông có người vợ là Lư thị rất xinh đẹp và nổi tiếng đức hạnh, chung thủy trước sau với chồng. Một lần ốm nặng, Phòng Huyền Linh cảm thấy mình sắp chết. Thấy vợ trẻ trung, không muốn để cho ở vậy, do đó, ông gọi vợ là Lư thị đến bảo rằng: "Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ không nên ở vậy. Liệu mà ăn ở cho tử tế với người chồng sau". Khi nghe người chồng mình yêu thương nói vậy, vợ ông đã khóc nức nở. Chẳng nói chẳng rằng, Lư thị liền vào trong tự khoét một mắt bỏ đi. Hành động này của bà để cố ý chứng tỏ cho chồng biết rằng bà là người chí tình và nhất tâm với chồng. Dù chồng bất hạnh có chết đi, bà cũng không bao giờ lấy ai nữa. Hoặc cũng không ai muốn lấy bà vì bà đã thành tật. Chồng bà nếu có chết đi cũng có thể yên lòng. Ít lâu sau đó, nhờ vợ tận tâm cứu vớt, sau trận ốm gần chết, Huyền Linh khỏi bệnh. Sau đó, cũng nhờ vợ vun vén gia đình cho ông chuyên tâm vào việc học nên Huyền Linh cũng thi đỗ, làm quan đến chức Tể tướng. Tuy cuộc sống đã không còn nghèo khổ nữa nhưng Huyền Linh vẫn một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng. Ông không bao giờ lấy người tì thiếp nào nữa. Người ngoài không biết, cho rằng ông sợ vợ vì nghĩ vợ ông có tính hay ghen. Một hôm, chuyện này đến tai vua Đường Thái Tông. Nhà vua rất tò mò và muốn thử Lư phu nhân. Vì thế một hôm nhà vua cho Hoàng hậu mời Lư thị vào cung và bảo: "Theo phép thường, các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một người mỹ nhân". Thế nhưng Lư thị nhất quyết không nghe. Điều này làm nhà vua nổi giận lắm. Vua Đường Thái Tông nói rằng nếu không muốn cho chồng Huyền Linh có thê thiếp thì bản thân Lư thị phải uống chén thuốc độc. Nào ngờ, Lư Thị không ngần ngại cầm ngay chén rượu độc giả vua ban để uống hết ngay. Hành động này của vợ tể tướng khiến vua cũng phải nể sợ. Bị vợ đuổi ra khỏi nhà không cho về cũng không dám về Một hôm, sau khi bãi triều, văn võ bá quan đều ra về duy chỉ có Phòng Huyền Linh vẫn đứng tại chỗ không ra về. Vua Đường Thái Tông thấy lạ lắm liền hỏi Tể tướng có điều gì muốn tâu vua nữa không. Được vua hỏi, Huyền Linh quỳ xuống khẩn khoản tâu vua rằng hôm nay ông đã bị vợ đuổi ra khỏi nhà và không cho về. Giờ ông không biết làm sao để có thể trở về nhà nên chỉ nghĩ ra mỗi cách cầu xin vua hạ lệnh để cho Lư thị phải để Tể tướng hồi gia. Thấy vị tể tướng thông minh xuất chúng, học rộng tài cao, được mọi người ví như "Gia Cát Lượng của Nhà Đường" lại ở trong tình cảnh này, nhà vua trố mắt kinh ngạc và bật cười. Song trước thái độ cầu khẩn của Huyền Linh, ông đành phải ra lệnh cho vợ tể tướng để chồng được về nhà. Chính vì nể sợ vợ nên vợ chồng tể tướng Phòng Huyền Linh suốt đời kính yêu nhau.
Hà Nội là thành phố có hệ thống trường Trung học phổ thông (THPT) hay còn gọi là các trường cấp III rất đa dạng, bao gồm các trường công lập, dân lập, tư thục, các trường chuyên và các trường có yếu tố nước ngoài. Trong số đó có một số trường được coi là có chất lượng đào tạo hàng đầu cả nước, là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà Nội mà còn của toàn miền Bắc. Các trường chuyên Trên địa bàn Hà Nội hiện có 6 trường Trung học phổ thông chuyên và 2 trường Trung học phổ thông có lớp chuyên. Có 4 trường chuyên và trường có lớp chuyên trực thuộc Sở GD&ĐT Hà Nội, 3 trường chuyên của Đại học Quốc gia Hà Nội và 1 trường chuyên của Đại học Sư phạm Hà Nội. Để vào các trường chuyên học sinh lớp 9 phải đăng ký dự tuyển vào lớp 10 Trung học phổ thông có dạy hệ chuyên hoặc tham gia kỳ thi tuyển sinh lớp 10 chuyên do Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội tổ chức. Các trường công lập Đây là loại hình trường học do Nhà nước, Trung ương hay cấp Địa phương đứng ra đầu tư về kinh tế. Các khoản kinh phi và cơ sở vật chất đều hoạt động chủ yếu từ kinh phí công. Tức là các nguồn tài chính công hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi. Để vào các trường công lập học sinh lớp 9 phải tham gia kỳ thi tuyển sinh lớp 10 Trung học phổ thông,(Ngoại trừ các trường hợp được ưu tiên xét tuyển như HS khuyết tật,dân tộc ít người). Các trường công lập tự chủ tài chính Các trường ngoài công lập Các trường ngoài công lập gồm hai loại hình: Trường dân lập: do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động. Trường tư thục: do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, nhà đầu tư trong nước - ngoài nước hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước. Các trường dân lập Các trường tư thục Các trường có yếu tố nước ngoài Trường có yếu tố nước ngoài là các trường phổ thông tư thục có vốn liên doanh nước ngoài, giảng dạy một số môn theo chương trình nước ngoài, giảng dạy chương trình tích hợp với chương trình nước ngoài, được Bộ GD-ĐT thẩm định và cấp phép. Một số trường có vốn đầu tư Việt Nam nhưng đăng ký với các tổ chức quốc tế để trở thành trường dạy chương trình quốc tế. Những trường này được tổ chức quốc tế công nhận và cấp phép trở thành trường thành viên tại Việt Nam. Các trường quốc tế Hiện tại vẫn chưa có định nghĩa cụ thể cho loại hình trường học này. Tuy nhiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác nhận chỉ có 7 trường phổ thông được coi là quốc tế trên địa bàn thành phố, các trường này có 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc một số được thành lập bởi liên Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ Ngoại giao giảng dạy bằng chương trình nước ngoài (dạy bằng ngoại ngữ).
Trường Đại học Nguyễn Huệ(tiếng Anh: Nguyen Hue University - Second Army Academy) hay Trường Đại học Sĩ quan Lục quân 2 trực thuộc Bộ Quốc phòng là một trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy lục quân cấp phân đội (trung đội, đại đội, tiểu đoàn) ở khu vực phía Nam Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1998, nhà trường được Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo bậc đại học quân sự. Các chuyên ngành đào tạo đại học và cao đẳng quân sự gồm: Binh chủng hợp thành; Trinh sát bộ binh; Trinh sát đặc nhiệm. Lịch sử Ngày 27 tháng 8 năm 1961, tại ấp Lò Gò, Xóm Rẫy, xã Hoà Hiệp (trước đây thuộc huyện Châu Thành, nay thuộc huyện Tân Biên), Trường Quân chính sơ cấp Quân Giải phóng miền Nam - tiền thân của Trường Sĩ quan Lục quân 2 đã ra đời. Trường đặt dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục và sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Quân sự Miền. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà trường đã di chuyển đến nhiều địa điểm, kể cả trên đất bạn Campuchia, với nhiều tên gọi, phiên hiệu khác nhau. Cùng với nhiệm vụ đào tạo, nhà trường còn trực tiếp tham gia nhiều trận chiến đấu, lập nhiều chiến công xuất sắc, tiêu diệt hàng ngàn tên địch, bắn cháy và phá huỷ hàng chục máy bay, xe tăng, thu hàng trăm vũ khí các loại và phương tiện chiến tranh của địch. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhà trường được về tiếp quản thị xã Thủ Dầu Một, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ huấn luyện. Ngày 10 tháng 10 năm 1975, Bộ Quốc phòng ký quyết định thành lập Trường Đại học Sĩ quan Lục quân 2 trên cơ sở Trường Lục quân tổng hợp H28, trực thuộc Bộ Quốc phòng, đóng quân ở xã Hoà Hiệp, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Tháng 12 năm 1975, nhà trường chuyển về đóng quân tại căn cứ Nước Trong, thuộc xã Tam Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, tiếp tục làm nhiệm vụ đào tạo sĩ quan chỉ huy binh chủng hợp thành cấp phân đội cho quân đội. Ngày 28 tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định thành lập Trường Đại học Nguyễn Huệ trên cơ sở nâng cấp Trường Đại học Sĩ quan Lục quân 2. Từ đây, Nhà trường có 2 tên gọi khác nhau: Trường Đại học Sĩ quan Lục quân 2 là tên dùng trong quân đội; Trường Đại học Nguyễn Huệ là tên giao dịch dân sự và giao dịch quốc tế. Tên gọi qua các thời kỳ Trường Quân chính sơ cấp Miền (phiên hiệu C86): Từ ngày 27 tháng 8 năm 1961 – tháng 4 năm1964. Trường Quân chính Trung – sơ cấp Miền (phiên hiệu H12): Từ tháng 4 năm 1964 – tháng 12 năm 1969. Trường Quân chính sơ cấp Miền (phiên hiệu H12): Từ 1969 – 1973. Trường Lục quân Tổng hợp (phiên hiệu H28): Từ tháng 1 năm 1973 – ngày 10 tháng 10 năm 1975. Trường Sĩ quan Lục quân 2: Từ ngày 10 tháng 10 năm 1975 đến nay. Ngày 28 tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1973/QĐ-TTg thành lập Trường Đại học Nguyễn Huệ trên cơ sở nâng cấp Trường Sĩ quan Lục quân 2. Lãnh đạo hiện nay Hiệu trưởng: Thiếu tướng, Tiến sĩ Lương Đình Lành Chính ủyː Trung tướng Thạc sĩ Nguyễn Xuân Sơn Phó Hiệu trưởng: Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Vũ Thanh Hiệp Phó Hiệu trưởng: Thiếu tướng Lê Đức Thảo Phó Hiệu trưởng: Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trọng Sỹ Phó Chính ủy: Thiếu tướng PGS.TS Đỗ Hoàng Ngân Phó Chính ủy: Thiếu tướng Nguyễn Văn Thế Tổ chức Đảng bộ Năm 2006, thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội. Theo đó Đảng bộ trong Trường Sĩ quan Lục quân 2 bao gồm: Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 2 là cao nhất. Đảng bộ cơ sở ở các Hệ, Tiểu đoàn quản lý học viên, khoa, Phòng thuộc Trường Sĩ quan Lục quân 2. Chi bộ cơ sở các Tiểu đoàn, khoa, ban chức năng; chi bộ trực thuộc ở các Bộ môn, các ban, đơn vị cấp đại đội và tương đương. Tổ chức chính quyền Các Phòng, Ban chức năng Phòng Đào tạo Phòng Chính trị Phòng Khoa học Quân sự Phòng Tham mưu - Hành chính Phòng Hậu cần Phòng Kỹ thuật Ban Tài chính Ban Khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục đào tạo Ban Sau đại học Ban Thông tin khoa học quân sự Các Khoa Khoa Cơ bản Khoa Lý luận Mác - Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh Khoa Công tác Đảng - Công tác chính trị Khoa Ngoại ngữ Khoa Chiến thuật Khoa Binh chủng Khoa Sư phạm Quân sự Khoa Trinh sát Khoa Kỹ thuật Bộ binh Khoa Thể dục - Thể thao Khoa Quân sự chung Khoa Quân sự địa phương Các đơn vị quản lý học viên Hệ: 1, 2, 3, 4 Các Tiểu đoàn: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 Tặng thưởng Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (1996). 01 Huân chương Hồ Chí Minh (2006). 01 Huân chương Quân công hạng Nhất (1984). 01 Huân chương Quân công hạng Nhì (2011, 2021) 01 Huân chương Quân công hạng Ba (2001). 01 Huân chương Chiến công hạng Nhất (1971). 02 Huân chương Chiến công hạng Hai (1968, 1981). 04 Huân chương Chiến công hạng Ba (1962, 1966, 1975, 1997). 01 Huân chương Hữu nghị hạng Nhất của Vương quốc Campuchia (2006). 01 Huân chương Hữu nghị Xa - hạ - Mê - T’rây bậc cao hạng nhất của Chính phủ Hoàng gia Campuchia (2011). Hiệu trưởng qua các thời kỳ 1961-1964, Đỗ Phong 1964-1966, Trần Phi Hùng 1969-1969, Nguyễn Đức Song 1969-1971, Đỗ Quang Hưng, Trung tướng 1973-1976, Tăng Thiện Kim 1976-1977, Nguyễn Mạnh Quân, Đại tá 1977-1979, Nguyễn Như Thiết (1917-1991), Thiếu tướng (1974) 1979-1987, Mạc Đình Vịnh, Thiếu tướng (1984) 1987-1997, Lê Nam Phong, Trung tướng (1988) 1997-2000, Đào Văn Lợi  2000-2008, Nguyễn Đức Xê, Trung tướng, Giám đốc Học viện Lục quân (2008-2011) 2008-2012, Vũ Đức Hinh, Trung tướng (2012), PGS.TS. 2012-2018, Từ Ngọc Lương, Thiếu tướng (2013), Trung tướng (2016), PGS.TS 2018-10.2022, Nguyễn Ngọc Cả, Trung tướng, PGS.TS, nguyên Phó giám đốc Học viện Lục quân (Việt Nam).(2015-2018) 10.2022-nay, Lương Đình Lành, Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 4 (6.2021-10.2022) Chính ủy qua các thời kỳ 1964-1966, Lê Thiện Tứ 1966-1966, Tô Việt Hồng 1966-1967, Nguyễn Văn Tây, nguyên Chính ủy Trung đoàn Đồng Tháp 1 khu 8 (1964-1966) 1967-1969, Nguyễn Văn Thiều 1969-1971, Lê Phải  1971-1973, Nguyễn Tường Quang 1975-1976, Đặng Văn Thượng, Đại tá 1976-1976, Vương Thế Hiệp 1976-1978, Dương Cự Tẩm, Trung tướng (1984) 1978-1982, Vương Thế Hiệp 1982-1984, Đoàn Cận Thính 1984-1989, Nguyễn Đình Trương 1989-1996, Vũ Minh Tâm 1996-2008, Nguyễn Viết Khai, Thiếu tướng 2008-2010, Phạm Văn Dỹ, Thiếu tướng, hiện là Trung tướng, Chính ủy Quân khu 7 (2010-9.2018) 2010-2017, Lê Thái Bê, Trung tướng (2012), nguyên Chính ủy Quân đoàn 4 (2007-2010) 2017- 3.2020, Nguyễn Văn Hòa, Thiếu tướng (2014), Trung tướng (2018), nguyên Phó Chính ủy Trường Sĩ quan Lục quân 2 3.2020- nay, Nguyễn Xuân Sơn, Trung tướng (2018), nguyên Chính ủy Quân đoàn 4 (2017-2020) Phó Hiệu trưởng qua các thời kỳ 2004–2010: Mai Đại Từ, Thiếu tướng (2006), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, Phó Tư lệnh Quân đoàn 4. 2007–2010: Nguyễn Đức Tỉnh,PGS.TS Trung tướng(2013) Cục trưởng Cục Nhà trường, BTTM (2010–2016) 2011–2015: Trần Trọng Ngừng, Thiếu tướng (2011), nguyên Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 2011–2019: Nguyễn Thế Thức, PGS.TS, Thiếu tướng (1.2015) 2011–2019: Đỗ Duy Tần, PGS.TS, Thiếu tướng 2014–2018: Phạm Xuân Trạo, Thiếu tướng (2014), nguyên Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 2018–nay, Lê Đức Thảo, Thiếu tướng (2018), nguyên Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 2019–nay: Vũ Thanh Hiệp 2.2020–nay: Nguyễn Trọng Sỹ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chiến dịch, Học viện Lục quân. Phó Chính ủy qua các thời kỳ 2013-2017 Nguyễn Văn Hòa, Thiếu tướng (2014) 2017- 4.2020, Vũ Đức Long, Thiếu tướng (2018), nguyên Phó Chính ủy Quân đoàn 4, Quân đội nhân dân Việt Nam 4.2020- nay, Đỗ Hoàng Ngân, Chủ nhiệm Chính trị Trường Sĩ quan Lục quân 2. 9.2021 - nay, Nguyễn Văn Thế, Thiếu tướng (2020, nguyên Chính ủy Quân đoàn 3
Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, cùng với Bảo tàng Cách mạng Việt Nam là hai bảo tàng đã được sáp nhập thành Bảo tàng Lịch sử quốc gia, tọa lạc ở thành phố Hà Nội. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (cũ) là nơi lưu giữ những hiện vật, phản ánh các nền văn hóa, lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt Nam từ thuở ban đầu khai sáng đến ngày ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Viện bảo tàng có phong cách kiến trúc Đông Dương, nằm ở số 1 phố Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Viện Bảo tàng mở cửa đón khách cả tuần, trừ thứ hai. Tại đây còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như Trống đồng Đông Sơn, gốm Bát Tràng, tượng thần Shiva, cọc gỗ trong trận Bạch Đằng,... Bảo tàng Lịch sử Việt Nam là thành viên của Hội đồng Bảo tàng Quốc tế (ICOM), là thành viên sáng lập Hiệp hội các bảo tàng quốc gia châu Á (ANMA). Bảo tàng tọa lạc tại số 1 phố Tràng Tiền, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, nằm phía sau Nhà hát Lớn Hà Nội. Lịch sử Bảo tàng Lịch sử Việt Nam được thành lập ngày 3 tháng 9 năm 1958 trên cơ sở kế thừa Bảo tàng Louis Finot do người Pháp xây dựng năm 1929 và hoạt động vào năm 1932. Đây là Viện bảo tàng của trường Viễn Đông Bác cổ. Ngày ấy, đây là nơi trưng bày những đồ cổ thu thập từ các nước ở Đông Nam Á. Nǎm 1958, người Pháp bàn giao lại ngôi nhà này cho chính quyền cách mạng mới. Kiến trúc Bảo tàng Louis Finot (Bảo tàng lịch sử ngày nay) thuộc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (École Française d’Extrème - Orient), do các kiến trúc sư C.Batteur và E.Hébrard thiết kế năm 1925 có thể được coi là một đại diện lớn của phong cách Kiến trúc Đông Dương, một phong cách nỗ lực kết hợp các giá trị của nền kiến trúc Pháp với các giá trị kiến trúc bản địa. Công trình được khởi công năm 1926 và hoàn thành năm 1932 trên khu đất phía sau Nhà hát lớn, chạy dọc theo bờ đê sông Hồng và là điểm kết thúc của tuyến phố Quaï Guillemoto (phố Trần Quang Khải ngày nay), một vị trí có thể tạo ra điểm nhấn kiến trúc cho tuyến đường bờ đê. Mặt bằng bảo tàng được kiến tạo theo yêu cầu của không gian kiến trúc trưng bày nên được cấu tạo dựa trên những không gian khẩu độ lớn. Không gian chính sảnh hình bát giác có kích thước mỗi cạnh lớn lên đến 11m, không gian trưng bày chính nằm ngay sau đại sảnh có hình chữ nhật kéo dài và được tổ chức theo hình thức xuyên phòng có sự chuyển tiếp được tổ chức khéo léo. Ngoài ra còn có các không gian trưng bày chuyên đề nằm ở hai phía của đại sảnh tạo thành một tổng thể trưng bày khoáng đạt. Phía dưới tầng trưng bày là một tầng trệt cao 2,5 m nơi tổ chức các phòng phục chế, lưu trữ, kho và bộ phận hành chính, tầng này cũng mang ý nghĩa của một tầng cách ẩm làm cho không gian trưng bày phía trên luôn khô ráo trong điều kiện độ ẩm cao ở Hà Nội. Hình khối mặt đứng công trình được nhấn mạnh bởi hệ thống mái che khối sảnh hình bát giác nhô cao phía trên công trình. Đây là một hệ ba lớp mái bao gồm mái trên có độ dốc lớn và được ngăn cách với các mái dưới bởi hệ thống cửa lấy sáng và một hệ con sơn liên tục, phía dưới là hai lớp mái có độ dốc nhỏ hơn. Mặc dù hình khối theo kiểu bát giác mang nhiều nét của kiến trúc Trung Hoa cổ, nhưng nhìn toàn bộ khối mái này lại gợi cho chúng ta hình ảnh của tháp chuông chùa Keo, Thái Bình do cách xử lý khéo léo của các kiến trúc sư - tác giả theo kiểu hệ mái ba lớp với các con sơn liên tục chồng lên nhau. Bảo tàng là một công trình văn hoá lớn lúc bấy giờ nên khối sảnh bát giác mang nhiều tính hình thức của chủ nghĩa Biểu hiện là điều dễ hiểu và tạo được ấn tượng tốt. Toàn bộ hệ mái cho các khu trưng bày được cấu tạo theo kiểu mái chồng diêm hai lớp thường thấy ở các công trình tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam truyền thống. Khe hở giữa hai lớp mái đóng vai trò thoát gió trong hệ thống thông gió tự nhiên của công trình. Lớp mái phía dưới đua rộng ra khỏi hệ thống tường ngoài, có tác dụng che nắng và chống mưa hắt cho hệ thống cửa mở rộng phía dưới, đồng thời tạo bóng đổ trên mặt đứng làm tăng vẻ duyên dáng cho toà nhà. Phần mái đua được đỡ bởi hàng cột kép kết hợp với hệ con sơn cách điệu cùng các hoạ tiết trên lan can tạo ra một dáng vẻ Á Đông rõ rệt. Tuyến tham quan Hệ thống trưng bày chính của Bảo tàng rộng khoảng 2000 m², được chia thành nhiều không gian cho các tuyến tham quan theo chủ điểm và thứ tự thời gian lịch sử. Hệ thống trưng bày của Bảo tàng Lịch sử gồm bốn phần trọng tâm: Phần thứ nhất: Việt Nam thời tiền sử Phần thứ hai: Từ thời dựng nước đầu tiên đến triều Trần Phần thứ ba: Việt Nam từ triều Hồ đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 Phần thứ tư: Phòng trưng bày sưu tập điêu khắc đá Chăm Pa Một số hiện vật
Marseille là một thành phố cảng của nước Pháp. Marseille (phát âm tiếng Pháp , tiếng bản địa ; phương ngữ vùng Provençal Occitan: Marselha theo phát âm chuẩn cổ điển hoặc tiếng Marsiho ở Mistralian; phiên âm tiếng Việt: Mác-Xây) là thành phố lớn thứ hai của Pháp, sau Paris, và là vùng đô thị lớn thứ ba của Pháp với dân số 1.516.340 người theo số liệu thống kê năm 1999. Thành phố tọa lạc tại tỉnh Provence trước đây, nằm bên Địa Trung Hải, là thành phổ cảng lớn nhất nước Pháp. Thành phố được xem như thủ phủ của Provençale, một trong những thủ phủ Occitan của vùng Occitania nước Pháp. Marseille là thủ phủ của vùng hành chính Provence-Alpes-Côte d'Azur cũng như là của tỉnh Bouches-du-Rhône. Đây cũng là thành phố cảng đầu tiên của Pháp trên biển Địa Trung Hải và là nơi có một trong những đội bóng lớn nhất của Pháp, Olympique de Marseille. Vị trí địa lý Là thành phố lớn thứ hai của Pháp nếu xét về mặt diện tích (bao gồm cả các vùng lân cận), Marseille cũng là một trong những thành phố cổ nhất ở Pháp và châu Âu. Thành phố cảng này tạo nên một đài vòng, bao bọc bởi biển Địa Trung Hải ở phía Tây, những ngọn núi (Calanques) ở phía Nam, những đường bờ biển xanh ở phía Bắc mà đã được họa sĩ Paul Cézanne, người con của mảnh đất này, đem vào trong những bức họa của mình. Nếu tính về diện tích, Marseille rộng hơn 2.5 lần so với Paris, 5 lần so với Lyon. Cũng chính vì điều đó, cộng thêm diện tích chính của thành phố đa phần là đồi núi nên người ta đã gặp rất nhiều khó khăn để phát triển hệ thống giao thông công cộng. Toàn cảnh thành phố Marseille từ nhà thờ Notre-Dame de la Garde Khí hậu Marseille là thành phố mang kiểu khí hậu Địa Trung Hải điển hình, với số giờ nắng cao: trên 2800 giờ mỗi năm, và đặc biệt là gió Mistral thổi trung bình 93 ngày/ năm. Lượng mưa trung bình hằng năm đạt 525 mm. Nhiệt độ trung bình của Marseille là 15,9 °C Mặc dù sở hữu một khí hậu tương đối ôn hòa, những biến động về thời tiết ở nơi đây cũng đã được ghi nhận. Nhiệt độ đã từng xuống tới -16,8 °C ngày 12 tháng 2 năm 1956 và 40,6 °C ngày 26 tháng 7 năm 1983. Ngày 19 tháng 9 năm 2000 và ngày 1 tháng 12 năm 2003 người ta đo được lượng mưa trên 200mm trong vòng 24 giờ. Ngày 14 tháng 1 năm 1987 và ngày mồng 7 tháng 1 năm 2009, lượng tuyết tại đây dày tới 10 cm. Nhân khẩu Sau cuộc khủng hoảng nghiêm trọng những năm 70 - 80 của thế kỷ XX (xuất phát từ việc đóng cửa kênh đào Suez), dân số của Marseille đã giảm từ 900 000 người xuống còn 800 000 người. Chính quyền và các nhà chức trách đã khởi động công cuộc tái thiết nền kinh tế thành phố với chương trình Euroméditerranée, nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào đây, kéo theo đó là sự gia tăng dân số tại đô thị trung tâm. Theo cuộc điều tra dân số mới nhất, Marseille là thành phố có tỉ lệ tăng trưởng dân số cao, vượt mức trung bình cả nước Pháp.. Marseille hiện nay là vùng đô thị lớn thứ hai của Pháp (sau vùng đô thị Paris và đứng trên Vùng đô thị Lyon) với dân số 1 560 343 người (năm 2008). Ngoài khu vực trung tâm, vùng đô thị Marseille bao gồm xã Aix-en-Provence ở phía bắc, Istres, Martigues, Vitrolles ở phía tây, và Aubagne ở phía đông. Biến động dân số Văn hóa - xã hội Marseille được chọn là thủ đô Văn hóa châu Âu năm 2013 Di sản kiến trúc Quần thể kiến trúc Thiên chúa giáo ở Marseille là nét hấp dẫn của thành phố này. Trong số đó phải kể đến nhà thờ Notre-Dame de la Garde, xây dựng bởi kiến trúc sư người Nîmes tên là Jacques Henri Esperandieu từ 1855 đến 1870. Trên đỉnh chuông nhà thờ có bức tượng Bonne mère bằng mạ đồng dát vàng cao 5,3m. Ngoài ra, Marseille còn nổi tiếng với các nhà thờ khác mang tên Sacré-Cœur de Marseille, Notre-Dame du Mont, Saint-Marie-Madeleine. Tu viện Saint-Victor là nơi chiêm bái của nhiều con chiên từ thế kỉ V, và là một trong những tu viện cổ nhất ở châu Âu. Cảng cổ Marseille (phương ngữ vùng Provence gọi là lo Pòrt Vielh1) là một di tích lịch sử và trung tâm văn hóa của toàn thành phố kể từ thời cổ đại. Nơi đây từng là trung tâm kinh tế chính của Marseille tới giữa thế kỷ XIX, là nơi kết nối thương mại giữa vùng Địa Trung Hải, sau đó là các thuộc địa của Pháp. Sau đó, hoạt động giao thương đường biển được rời lên các cảng mới ở phía Bắc thành phố. Cảng cổ Marseille hiện nay trở thành nơi thăm thú, điểm tập trung người dân và là địa điểm du lịch nổi tiếng của thành phố này. Cảng cổ Marseille, nhìn từ công viên Pharo Ẩm thực «Pasti» là loại đồ uống phổ biến của người dân Marseille. Đây là loại đồ uống có cồn, với nguyên liệu chính là hồi và các loại gia vị. «Aïoli» là một loại nước xốt gần giống như mayonnaise, nhũ tương, gồm thành phần chính như tỏi, dầu ô-liu và trứng được trộn với rau quả, là món ăn nổi tếng của Marseille nói riêng và vùng Provence nói chung. «Bouillabaisse» là món súp hải sản nổi tiếng của vùng biển Marseille. Món ăn có nguồn gốc từ những người làm nghề chài lưới, sau chuyến đi biển thường góp các loại hải sản để nấu thành một bữa súp. Bánh bích quy «Navette de Marseille» có hình dáng giống một con thuyền là loại bánh nổi tiếng của Marseille. Thể thao Olympique de Marseille, là một trong những câu lạc bộ bóng đá giàu thành tích nhất trong lịch sử bóng đá Pháp. Đại bản doanh của Olympique de Marseille là sân vận động Sân vận động Vélodrome, với sức chứa 60 000 chỗ ngồi,xây dựng vào năm 1937 phục vụ Giải vô địch bóng đá thế giới 1938. Năm 1998, sân vận động này đăng cai 7 trận đấu của giải vô địch bóng đá thế giới 1998, trong đó có 4 trận vòng bảng, 1 trận vòng 1/16, 1 trận tứ kết và 1 trận bán kết. Thành phố có 172 sân tennis, 45 phòng tập thể dục, 22 bể bơi và 72 sân vận động và có sân trượt băng lớn nhất nước Pháp . Ngoài ra thành phố có hơn 30 câu lạc bộ tennis, 3 trường đua ngựa và hơn 50 địa điểm phục vụ cho môn lặn. Kể từ năm 1947, Marseille đã 12 lần đón tiếp các cua rơ của giải Tour de France. Giải đua thuyền buồn Tour de France à voile được tổ chức thường niên ở đây. Giao thông Hệ thống giao thông của Marseille rất phát triển, bao gồm cả đường hàng không, mạng lưới tàu điện ngầm, đường sắt cao tốc nối với các tỉnh khác và đặc biệt là giao thông đường biển rất thuận lợi với hệ thống cảng biển từ lâu đời. Đường không Sân bay quốc tế Marseille Provence (trước kia gọi là Sân bay Marseille-Marignante), cách trung tâm thành phố 25 km, thuộc xã Marignane, là sân bay lớn thứ tư của Pháp (sau Sân bay quốc tế Charles de Gaulle (Paris), Sân bay Lyon-Saint Exupéry (Lyon) và Sân bay Nice - Côte d'Azur (Nice) . Các điểm đến quan trọng của sân bay này là Paris, đảo Corse, và Bắc Phi, Bordeaux, Nantes và London Hơn nữa, các chuyến xe buýt còn giúp nối liền sân bay Marseille Provence với nhà ga Saint-Charles . Nhà ga Vitrolle - Aéroport-Marseille-Provence được mở từ tháng 12 năn 2009, là một trong những trạm dưng chân của mạng lưới TER, cụ thể là tuyến đường sắt Marseille-Avignon. Giao thông công cộng Mạng lưới giao thông công cộng của Marseille được quản lý bởi Công ty quản lý giao thông Marseille (RTM), tương tự như RATP tại vùng đô thị Paris. Tàu điện ngầm Marseille (Métro de Marseille) gồm 2 tuyến chính là M1 (tuyến màu xanh) và M2 (tuyến màu đỏ), với độ dài 25 km. Mạng lưới tramway dài 12 km. Mạng lưới xe buýt gồm 80 tuyến. Ngoài ra, kể từ tháng 10 năm 2007, xe đạp công cộng (Le Vélo) được đưa vào sử dụng tại vùng trung tâm thành phố, với 130 trạm (8 - 30 xe đạp) được phát triển để hướng tới mục tiêu loại hình này đạt mức 1000 xe. Giao thông đường biển Cảng biến Marseille là một trong những cảng lớn nhất nước Pháp, kết nối với 220 điểm đến, với 400 cảng biển và 120 nước khác nhau , trong đó một nửa là vùng Địa Trung Hải, Châu Phi và Trung Đông. Đường sắt cao tốc Mạng lưới TGV - Méditerranée giúp rút ngắn thời gian từ Paris đến Marseille, với thời gian 3 giờ đồng hồ. Ga Saint-Charles là ga chính của Marseille, điểm kết thúc của trục TGV PLM (Paris-Lyon-Marseille). Các thành phố kết nghĩa Abidjan, Ivory Coast. Antwerp, Bỉ. Copenhagen, Đan Mạch. Dakar, Senegal. Genoa, Ý. () Glasgow, Scotland, Vương quốc Anh Haifa, Israel. Hamburg, Đức. Kobe, Nhật Bản. Marrakech, Maroc. Odessa, Ukraina. Piraeus, Hy Lạp. Thượng Hải, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Agadir, Maroc. Alexandria, Ai Cập. Algiers, Algérie. Bamako, Mali. Barcelona, Tây Ban Nha. Beirut, Liban. Cape Town, Nam Phi. Casablanca, Maroc. Yerevan, Armenia. Gdansk, Ba Lan. Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Izmit, Thổ Nhĩ Kỳ. Jerusalem, Israel. Limassol, Cộng hòa Síp. Lome, Togo. Lyon, Pháp. Meknes, Maroc. Montevideo, Uruguay. N'Djamena, Tchad. Nice, Pháp. Nimes, Pháp. Rabat, Maroc. Sarajevo, Bosnia-Herzegovina. Sousse, Tunisia. Salonica, Hy Lạp. Tirana, Albania. Tripoli, Libya. Tunis, Tunisia. Những người con của thành phố Antonin Artaud, 1896-1948, diễn viên, nhà soạn bi kịch, đạo diễn César Baldaccini, 1921-1998, nhà điêu khắc Elie Bayol, 1914-1995, vận động viên đua xe François Bazin, 1816-1878, nhà soạn nhạc Maurice Béjart, sinh 1927, biên đạo múa, giám đốc Béjart-Ballett Fernand Cabrol, 1855-1937, nhà thần học Lucius Caesar, 17 TCN - 2, cháu, con trai nuôi của hoàng đế Augustus Éric Cantona, sinh 1966, cầu thủ bóng đá, sau này là diễn viên Désirée Clary, 1777-1860, người hứa hôn với Napoléon Bonaparte Louise Colet, 1810-1876, nhà thơ nữ François Coli, 1881-1927, nhà tiên phong trong lĩnh vực hàng không Régine Crespin, sinh 1927, nữ ca sĩ opera Charles Crodel, 1894-1973, họa sĩ Honoré Daumier, 1808-1879, họa sĩ, nhà điêu khắc, họa sĩ biếm họa Edmond Demolins, 1852-1907 Henri Fabre, 1882-1984, nhà tiên phong trong lĩnh vực hàng không Charles Fabry, 1867-1945, nhà vật lý học, người phát minh ra máy đo giao thoa Fabry-Pérot Fernandel, 1903-1971, diễn viên, ca sĩ Zino Francescatti, 1902-1991, nghệ sĩ violin Sébastien Grosjean, sinh 1978, vận động viên quần vợt Jean-Claude Izzo, 1945-2000, nhà văn Edmond Jaloux, 1878-1949, nhà văn, nhà phê bình văn học Louis Jourdan, sinh 1919, diễn viên Cyprien Katsaris, sinh 1951, nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc Philippe Mabboux, sinh 1957, nhà soạn nhạc Pat Mallet, sinh 1941, tác giả truyện tranh Robert Manzon, sinh 1917, vận động viên đua xe Công thức 1 Francis Miroglio, 1924-2005, nhà soạn nhạc France Nuyen, sinh 1939, nữ diễn viên Émile Ollivier, 1825-1913, chính khách Marcel Pagnol, 1895-1974, nhà văn Marius Petipa, 1819-1910, diễn viên múa ballett, biên đạo múa, được xem như là "cha đẻ của ballett cổ điển" Charles Plumier, 1646-1704, nhà thực vật học Joseph Pujol, 1857-1945, nghệ nhân Jean-Pierre Rampal, 1922-2000, nghệ sĩ chơi sáo Jean-Pierre Kardinal Ricard (sinh 1944), tổng giám mục của Bordeaux Jean-Baptiste Rossi, 1931-2003, nhà báo, viết kịch bản phim và là nhà văn Edmond Rostand, 1868-1918, nhà viết kịch Damien Saez, sinh 1977, nhà soạn nhạc Jean-Jacques Schuhl, sinh 1944, nhà văn Simone Simon, 1910-2005, nữ diễn viên Adolphe Thiers, 1797-1877, chính khách Henri Tomasi, 1901-1971, nhà soạn nhạc, nhạc trưởng dàn nhạc Honoré d'Urfé, 1568-1625, nhà văn Peter Wyngarde, sinh 1933, diễn viên Zinedine Zidane, sinh 1972, cầu thủ bóng đá Clara Morgane, sinh 1981, nữ diễn viên, người mẫu
Rutgerus Johannes Martinus van Nistelrooij (; sinh ngày 1 tháng 7 năm 1976), được biết đến rộng rãi hơn với tên gọi Ruud van Nistelrooy, là cựu cầu thủ bóng đá người Hà Lan chơi ở vị trí tiền đạo cắm. Anh ghi được 56 bàn tại giải đấu Champions League. Anh cũng ba lần là vua phá lưới Champions League, Van Nistelrooy là cầu thủ đoạt giải vua phá lưới ở ba giải bóng đá quốc gia khác nhau ở châu Âu là Hà Lan, Anh và Tây Ban Nha. Biệt danh của anh khi còn thi đấu là Van Gol. Van Nitstelrooy hiện đang là HLV của CLB PSV Eindhoven. Sự nghiệp câu lạc bộ Sự nghiệp ban đầu Sinh ra ở Oss, North Brabant, Van Nistelrooy bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1993, ở tuổi 17, với đội bóng Hà Lan Eerste Divisie Den Bosch, nơi anh được chuyển đổi từ một tiền vệ trung tâm thành trung vệ , sau khi chơi cho các câu lạc bộ địa phương Nooit Gedacht và RKSV Margriet. Sau khi ghi 12 bàn sau 31 trận trong mùa giải 1996–97, anh chuyển tới Heerenveen với giá 360.000 euro vào năm sau và ghi 13 bàn sau 31 trận trong mùa giải duy nhất của anh với câu lạc bộ. Sau đó, anh được PSV Eindhoven ký hợp đồng vào mùa giải tiếp theo với giá 6,3 triệu euro, số tiền chuyển nhượng kỷ lục khi đó giữa hai đội Hà Lan. Anh ghi 31 bàn sau 34 trận đấu, tổng số bàn thắng cao nhất mùa giải ở Eredivisie và cao thứ hai ở châu Âu nói chung, ngoài việc ghi cả ba bàn thắng cho PSV trong trận đấu với HJK Helsinki tại Champions League vào ngày 25 tháng 11 năm 1998. Van Nistelrooy đã kết thúc năm bằng việc giành giải Cầu thủ Hà Lan xuất sắc nhất năm .  Mùa giải tiếp theo, anh giành được danh hiệu ghi bàn Eredivisie thứ hai với 29 bàn thắng. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2001 với The Daily Telegraph, huấn luyện viên Manchester United, Sir Alex Ferguson nói rằng con trai của ông, Darren, người đang thi đấu cho đối thủ của Eredivisie là Heerenveen vào thời điểm đó, cầu xin cha mình, "Cha phải ký ngay với Van Nistelrooy, anh ấy thật tuyệt vời. Chúng con đã theo dõi anh ấy." Ferguson cử đại diện của đội đến trận đấu tiếp theo của PSV và ký hợp đồng với Van Nistelrooy vào ngày hôm sau. Manchester United Van Nistelrooy có vẻ sẽ hoàn thành kỷ lục câu lạc bộ 18,5 triệu bảng chuyển đến Manchester United vào mùa hè năm 2000. Anh ấy sẽ được công bố trong một cuộc họp báo bốn ngày sau đó, nhưng điều này thay vì được sử dụng để thông báo rằng vụ chuyển nhượng đã được thực hiện nhưng hoãn lại vì lo ngại về thể lực của anh ấy, đã không thi đấu trong một tháng do vấn đề với đầu gối của anh ấy. Vụ chuyển nhượng sau đó bị hủy bỏ sau khi PSV từ chối đồng ý kiểm tra y tế thêm, và ngày hôm sau anh ấy bị đứt dây chằng chéo trước đầu gối trong một buổi tập, khiến anh ấy bị chấn thương trong một năm. Một năm sau, Van Nistelrooy ký hợp đồng 5 năm sau khi vượt qua kiểm tra y tế. Anh ấy hạ thấp khoản đầu tư 19 triệu bảng của United trước các phóng viên, nói rằng, "Cái giá phải trả không quá nặng đối với tôi - nó nâng tôi lên bởi vì điều đó có nghĩa là United rất tin tưởng vào tôi." 2001–02 Van Nistelrooy đã có trận ra mắt trong trận Charity Shield với Liverpool , ghi bàn trong trận thua 2–1.  Vào ngày 19 tháng 8, Van Nistelrooy có trận ra mắt Premier League trước Fulham tại Old Trafford , và ghi hai bàn thắng để giúp United giành chiến thắng 3–2.  Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League vào ngày 17 tháng 10 trong trận thua 3–2 trước Deportivo La Coruña . Vào ngày 22 tháng 12, Van Nistelrooy ghi hat-trick đầu tiên ở Premier League trong chiến thắng 6–1 trước Southampton. Tại FA Cup, Van Nistelrooy bắt đầu từ băng ghế dự bị trong trận đấu ở vòng ba với Aston Villa do căng cơ háng, nhưng được tung vào sân thay Luke Chadwick trong hiệp hai với trận đấu với United 2–0 và ghi hai bàn." Những bàn thắng đẹp mắt trong vòng 3 phút để giúp United tiến vào vòng 4 với chiến thắng 3–2. Tổng cộng trong mùa giải đầu tiên của mình, Van Nistelrooy đã ghi được 23 bàn sau 32 trận tại giải VĐQG. Anh ấy đã phá kỷ lục mà anh ấy đã chia sẻ với Mark Stein, Alan Shearer và Thierry Henry, bằng cách ghi bàn trong tám trận đấu liên tiếp. Anh cũng ghi được 10 bàn thắng tại Champions League và được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất của PFA. 2002–03 Mùa giải tiếp theo, anh trở thành Vua phá lưới Premier League với 25 bàn sau 34 trận, với bàn thắng trong ngày cuối cùng gặp Everton, giúp anh giành được Chiếc giày vàng trước Thierry Henry của Arsenal. Anh ấy có ba cú hat-trick vào lưới Newcastle United, Fulham và Charlton Athletic. Anh ấy cũng ghi bàn trong mỗi trận đấu trong số tám trận cuối cùng của mùa giải khi United giành chức vô địch. Van Nistelrooy giành giải Cầu thủ xuất sắc nhất Premier League năm 2003. Anh ấy đã được công nhận là người dẫn đầu chiến thắng danh hiệu cho United với một bàn thắng được mô tả là "đáng kinh ngạc". Sau khi ghi 12 bàn thắng tại Champions League trong chín trận đấu liên tiếp, anh được UEFA vinh danh là tiền đạo xuất sắc nhất châu Âu. 2003–04 Van Nistelrooy bắt đầu mùa giải 2003–04 bằng việc ghi hai bàn trong hai trận đấu đầu tiên của anh. Điều này có nghĩa là anh ấy đã ghi bàn trong 10 trận liên tiếp ở giải VĐQG, sau đó là kỷ lục Premier League thời điểm đó, tồn tại cho đến năm 2015 khi Jamie Vardy ghi bàn trong 11 trận liên tiếp. Trong trận hòa 0–0 vào ngày 21 tháng 9 năm 2003, sau này được gọi là Trận chiến ở Old Trafford, Van Nistelrooy là trung tâm của một trong những sự cố khét tiếng nhất của cuộc so tài giữa Arsenal và Manchester United. Sau khi bỏ lỡ một quả phạt đền ở phút cuối cùng mà lẽ ra sẽ giành chiến thắng cho United,  Van Nistelrooy đã bị tấn công bởi Martin Keown, gây ra một cuộc hỗn chiến liên quan đến một số người chơi của cả hai bên; 5 cầu thủ Arsenal bao gồm Keown đã nhận nhiều lệnh cấm và tiền phạt, trong khi bản thân câu lạc bộ nhận khoản tiền phạt kỷ lục 175.000 bảng. Trước đó trong trận đấu, anh đã bị Patrick Vieira phạm lỗi, người đã bị đuổi khỏi sân vì một hành vi phạm lỗi có thể tính được thứ hai. Vieira và huấn luyện viên Arsène Wenger đều cáo buộc Van Nistelrooy gian lận và hành hạ Vieira, khiến Alex Ferguson lên tiếng bảo vệ. Vào ngày 27 tháng 9, anh ghi một hat-trick vào lưới Leicester City trong chiến thắng 4–1. Anh ghi bàn thắng thứ 100 cho câu lạc bộ trong chiến thắng 4–3 đầy kịch tính trước Everton vào ngày 7 tháng 2 năm 2004. Trong trận derby vòng 5 FA Cup với Manchester City, Van Nistelrooy ghi hai bàn để giúp Man United thắng 4–2, và một lần nữa ghi hai bàn trong trận tứ kết với Fulham khi United lội ngược dòng để giành chiến thắng 2-1. Anh ghi thêm hai bàn, trong đó có một quả phạt đền, trong chiến thắng của United trước Millwall trong trận Chung kết FA Cup năm 2004. 2004–05 Van Nistelrooy đã bỏ lỡ phần lớn mùa giải 2004–05 do chấn thương, nhưng vẫn ghi được tám bàn thắng tại Champions League. Một trong số đó là bàn thắng thứ 30 trong sự nghiệp ở châu Âu, anh ghi được bàn thắng trong trận hòa 2–2 với Lyon tại vòng bảng Champions League vào ngày 15 tháng 9 năm 2004, vượt qua kỷ lục 28 bàn của câu lạc bộ trước đó của Denis Law. Law sau đó nói với các phóng viên, "Tôi rất vui cho Ruud. Điều đó không thể xảy ra với một anh chàng đẹp hơn." Vào ngày 24 tháng 10, Arsenal trở lại Old Trafford cho một trận đấu kịch tính khác. Arsenal bước vào trận đấu với 49 trận bất bại và được mệnh danh là " Những kẻ bất khả chiến bại ", nhưng United đã giành chiến thắng với tỷ số 2–0. Van Nistelrooy đã ghi bàn mở tỷ số từ chấm phạt đền, chuộc lỗi cho quả penalty năm trước, với bàn thắng thứ hai của Wayne Rooney. Van Nistelrooy sau đó bị cấm thi đấu 3 trận vì phạm lỗi với Ashley Cole mà trọng tài đã bỏ qua.  Vào ngày 3 tháng 11, Van Nistelrooy ghi cả bốn bàn trong chiến thắng 4–1 trước Sparta Prague. Vào ngày 17 tháng 4 năm 2005, anh ghi hai bàn trong chiến thắng 4–1 trước Newcastle tại FA Cup giúp United vào bán kết, nhưng United đã thua Arsenal trong trận chung kết trên chấm phạt đền. 2005–06 Vào đầu mùa giải 2005–06, Van Nistelrooy đã ghi bàn trong bốn trận đầu tiên của United tại Premier League. Anh kết thúc với tư cách là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai giải đấu với 21 bàn thắng, sau Thierry Henry của Arsenal. Tuy nhiên, anh đã phải ngồi dự bị trong trận Chung kết Cúp Liên đoàn với Wigan Athletic, làm dấy lên suy đoán về sự rạn nứt giữa anh và Alex Ferguson, điều mà Van Nistelrooy phủ nhận. Tuy nhiên, anh ấy đã bị bỏ lại trên băng ghế dự bị trong sáu trận đấu liên tiếp, và mặc dù sau đó anh ấy đã trở lại đội hình xuất phát và ghi bàn thắng trong trận đấu với West Ham United và Bolton Wanderers, sự nghi ngờ mới lan rộng về tương lai của Van Nistelrooy khi anh được dự bị trong trận thắng cuối mùa của United trước Charlton Athletic. Ferguson cho rằng Van Nistelrooy đã tức giận với quyết định này và rời sân vận động ba giờ trước khi trận đấu bắt đầu. Vào ngày 9 tháng 5 năm 2006, có thông tin cho rằng Van Nistelrooy bị loại khỏi đội là do cuộc đánh nhau trong buổi tập giữa anh và đồng đội Cristiano Ronaldo. Van Nistelrooy bị cáo buộc chỉ trích xu hướng giữ bóng thay vì chuyền cho đồng đội của Ronaldo, điều này đã châm ngòi cho cuộc chiến, sau đó Van Nistelrooy mắng:"Đi mà khóc với bố của mày!", ám chỉ đến trợ lý người Bồ Đào Nha của United, Carlos Queiroz. Tuy nhiên, Ronaldo đã thực hiện tuyên bố theo đúng nghĩa đen và được cho là đã bật khóc kể từ khi cha anh José qua đời 8 tháng trước đó. Van Nistelrooy sau đó đã xin lỗi Ferguson về hành vi của mình trong vài tháng trước đó. Van Nistelrooy đã ký hợp đồng với đội bóng La Liga, Real Madrid vào ngày 28 tháng 7, rời Old Trafford sau 5 mùa giải với tổng cộng 150 bàn thắng sau 219 lần ra sân, với bàn thắng cuối cùng của anh là vào ngày 1 tháng 4 trong trận gặp Bolton, ghi bàn thắng quyết định. Với 38 bàn thắng, anh cũng là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai ở châu Âu mọi thời đại của câu lạc bộ, sau Wayne Rooney. Real Madrid Vào ngày 15 tháng 7 năm 2006, Ferguson xác nhận rằng Van Nistelrooy muốn rời Manchester United và Real Madrid thông báo hai tuần sau đó rằng anh đã ký hợp đồng ba năm sau khi hỏi mua với giá 14 triệu euro. Van Nistelrooy ra mắt câu lạc bộ Tây Ban Nha trong trận giao hữu thắng 1–0 trước Reggina vào ngày 4 tháng 8 năm 2006. Van Nistelrooy ghi một hat-trick trong trận đấu thứ hai với Levante và vào ngày 12 tháng 11 năm 2006, anh ghi tất cả bốn bàn thắng của Real Madrid trong chiến thắng 4–1 trước Osasuna. Trong sáu tháng đầu tiên, anh ấy là đồng đội của Ronaldo, cầu thủ mà Van Nistelrooy đánh giá là hay nhất mà anh ấy từng chơi cùng. Van Nistelrooy đã giành được giải thưởng Pichichi của giải đấu với 25 bàn thắng khi Real Madrid mang về chức vô địch 2006–07, và anh cũng đã cân bằng chuỗi ghi bàn liên tiếp dài nhất trong lịch sử La Liga với bảy trận liên tiếp, đồng thời lập kỷ lục giải đấu được chia sẻ bởi Hugo Sánchez. Vào tháng 1 năm 2008, Van Nistelrooy đã ký một gia hạn hợp đồng giữ anh lại Madrid cho đến năm 2010, với ngày hết hạn một ngày trước sinh nhật lần thứ 34 của anh. Anh ấy đã trải qua cuộc phẫu thuật mắt cá chân vào tháng 3, và trở lại cho trận El Clásico với Barcelona vào ngày 7 tháng 5, trong đó anh ấy đã thực hiện một quả phạt đền hai phút sau khi vào sân thay người. Anh kết thúc mùa giải với 20 bàn thắng sau 33 lần ra sân. Vào tháng 11 năm 2008, Real Madrid thông báo rằng Van Nistelrooy sẽ bỏ lỡ phần còn lại của mùa giải 2008–09 sau khi phẫu thuật nội soi thăm dò phát hiện ra một phần sụn chêm ở đầu gối phải của anh ấy, với thời gian phục hồi dự kiến ​​từ sáu đến chín tháng sau ca phẫu thuật thứ hai để sửa chữa. thiệt hại.  Van Nistelrooy đến Hoa Kỳ để gặp bác sĩ chuyên khoa Richard Steadman , người trước đó đã phẫu thuật cùng đầu gối vào năm 2000. Vào thời điểm chấn thương, anh đã có 10 bàn thắng sau 12 lần ra sân cho câu lạc bộ trong mùa giải.  Sau chấn thương, anh bị Real Madrid hủy đăng ký trong phần còn lại của mùa giải 2008–09 và số áo của anh được trao cho Dani Parejo. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2009, trong trận đấu cuối cùng trước khi La Liga khởi tranh , Van Nistelrooy bước ra sân lần đầu tiên kể từ khi chấn thương và chơi 15 phút cuối trận gặp Rosenborg , thay cho Kaká . Van Nistelrooy vào sân thay Cristiano Ronaldo ở phút 80 trong trận đấu với Xerez trong trận đấu đầu tiên tại La Liga kể từ khi bình phục chấn thương. Ở phút 81, anh kiến ​​tạo cho Karim Benzema ghi bàn, sau đó là bàn thắng cho riêng anh ở phút 88. Tuy nhiên, trong cuộc đình công của mình, anh ấy đã dính một chấn thương đùi, nơi mà sau đó Real Madrid tiết lộ rằng anh ấy sẽ phải nghỉ thi đấu ở đội một trong tối đa sáu tuần. Vào ngày 27 tháng 10, Van Nistelrooy đã có sự trở lại thứ hai trong mùa giải khi vào sân thay Raúl ở phút 71 trong trận đấu với Alcorcón tại Copa del Rey. Hamburg Vào ngày 23 tháng 1 năm 2010, Van Nistelrooy ký hợp đồng 18 tháng với câu lạc bộ Hamburger SV của Đức cho đến tháng 6 năm 2011.  Anh ra sân lần đầu tiên cho câu lạc bộ sau khi vào sân từ băng ghế dự bị trong hai phút cuối của trận đấu trong trận hòa 3–3 của Hamburg với 1. FC Köln vào ngày 6 tháng 2. Van Nistelrooy ghi hai bàn đầu tiên cho Hamburg vào ngày 13 tháng 2 năm 2010 trước VfB Stuttgart ở các phút 75 và 77 trong chiến thắng 3–1, sau khi vào trận chỉ vài phút trước đó. Vào ngày 11 tháng 3 năm 2010, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại UEFA Europa League ở phút 40 trong trận đấu giữa Hamburg với Anderlecht. Van Nistelrooy ghi hat-trick duy nhất trong trận đấu với Hamburg vào ngày 15 tháng 8 năm 2010, trong chiến thắng 5–1 trước Torgelower SV Greif ở vòng đầu tiên của DFB-Pokal 2010–11. Vào ngày 21 tháng 8 năm 2010, anh ghi một cú đúp trong trận mở tỷ số mùa giải của Hamburg trước Schalke 04, mà HSV giành chiến thắng 2-1. Trong trận đấu đó, anh đã đối đầu với người bạn và đồng đội cũ của Real Madrid là Raúl, người đang có trận ra mắt Bundesliga. Trong kỳ chuyển nhượng tháng Giêng, Van Nistelrooy được cho là sẽ trở lại Real Madrid và có thể được sử dụng trong thời gian ngắn hạn để trang trải, sau chấn thương của Gonzalo Higuaín và Karim Benzema dưới thời huấn luyện viên José Mourinho .sẽ rất vui cho Van Nistelrooy gia nhập câu lạc bộ khi Mourinho để lại cửa cho anh ấy.  Van Nistelrooy thừa nhận anh ấy đã cân nhắc nghiêm túc việc chuyển trở lại câu lạc bộ nếu vụ mua bán diễn ra.  Tuy nhiên, câu lạc bộ đã từ chối lời đề nghị của Madrid đối với Van Nistelrooy, đưa ra lời cảnh báo cho câu lạc bộ vì Hamburg muốn giữ anh cho đến khi kỳ chuyển nhượng kết thúc. Mặc dù rất tức giận vì việc chuyển đến Real Madrid bị từ chối, Van Nistelrooy cho biết anh sẽ tiếp tục gắn bó với Hamburg.  Trong trận đấu giữa Hamburg và Hannover 96 vào ngày 16 tháng 4 năm 2011, Van Nistelrooy bị chấn thương bắp chân khiến anh phải ngồi ngoài cho đến ngày thi đấu cuối cùng. Van Nistelrooy đã ghi bảy bàn và thực hiện hai pha kiến ​​tạo sau 25 lần ra sân trong mùa giải duy nhất của anh ấy với Hamburg. Málaga Vào ngày 1 tháng 6 năm 2011, Van Nistelrooy trở lại Tây Ban Nha để ký hợp đồng một năm với đội bóng La Liga, Málaga, theo dạng chuyển nhượng tự do. Van Nistelrooy được ra mắt tại Sân vận động La Rosaleda khi anh được 15.000 người hâm mộ Málaga chào đón. Anh có trận ra mắt trong trận thua 2–1 trước Sevilla ở trận mở màn mùa giải 2011–12. Van Nistelrooy ghi bàn đầu tiên vào ngày 1 tháng 10 năm 2011 trong trận đấu với Getafe. Vào ngày 21 tháng 12, trong trận đấu với cùng câu lạc bộ, anh mở tỉ số bằng cú vô lê giúp Málaga giành chiến thắng chung cuộc 3–2 tại Copa del Rey. Sau đó trong mùa giải, Van Nistelrooy ghi thêm hai bàn trong trận đấu với Espanyol và Racing Santander, với bàn thắng cuối cùng trong sự nghiệp của anh. Chỉ một ngày trước khi giải nghệ, Van Nistelrooy xuất hiện lần cuối cùng trong sự nghiệp, vào sân thay người ở phút 75 cho tay săn bàn Salomón Rondón, người đã ghi bàn thắng duy nhất trong trận đấu của Málaga với Sporting Gijón. Vào ngày 14 tháng 5 năm 2012, Van Nistelrooy tuyên bố giã từ sự nghiệp bóng đá ở tuổi 35. Anh nói với Sport1 trước đó anh đã gợi ý rằng sự nghiệp bóng đá của anh sắp kết thúc sau khi khẳng định Málaga sẽ là câu lạc bộ cuối cùng của anh. Sự nghiệp quốc tế Van Nistelrooy đã có 70 lần khoác áo đội tuyển và ghi được 35 bàn thắng cho Hà Lan. Anh có trận ra mắt đội tuyển quốc gia trong trận giao hữu với Đức vào ngày 18 tháng 11 năm 1998. Tuy nhiên, chấn thương dây chằng chéo sau khiến việc chuyển nhượng của anh đến Manchester United không thành đồng thời cũng khiến Van Nistelrooy bị loại khỏi Euro 2000. Vì Hà Lan không vượt qua được vòng loại World Cup 2002, Van Nistelrooy đã không có trận đấu ra mắt cho đội tuyển Hà Lan cho đến Euro 2004, nơi anh và Milan Baroš của CH Séc là những cầu thủ duy nhất ghi bàn trong cả ba trận vòng bảng. Hà Lan lọt vào bán kết, nơi họ bị đánh bại bởi chủ nhà Bồ Đào Nha với tỷ số 2-1. Van Nistelrooy có tên trong đội hình toàn sao của giải đấu. Trong trận đấu ở vòng loại World Cup 2006, anh ghi bàn trong chiến thắng 4–0 của Hà Lan trước Andorra , đội xếp cuối bảng và bị thẻ vàng vì đi với cầu thủ Andorra, Antoni Lima và ăn mừng trước mặt anh ta, sau sự cố sáu phút trước khi Van Nistelrooy bỏ lỡ một quả phạt đền và Lima đã cười vào mặt anh ta.  Anh là một phần trong đội hình của huấn luyện viên Marco van Basten cho vòng chung kết World Cup 2006, mà anh giữ vai trò là đại sứ chính thức của FIFA / SOS.  Anh ấy bắt đầu, và được thay ra, trong tất cả các trận đấu vòng bảng của Hà Lan, và ghi bàn thắng duy nhất của mình vào lưới Bờ Biển Ngà. Van Nistelrooy đã bị Van Basten tung lên băng ghế dự bị mà không có lời giải thích nào trong trận đấu vòng hai của Hà Lan, trận đấu khiến họ một lần nữa bị loại bởi Bồ Đào Nha. Van Basten đã loại tiền đạo này ra khỏi danh sách trong trận giao hữu với Cộng hòa Ireland vào ngày 16 tháng 8 năm 2006.  Dirk Kuyt thay thế Van Nistelrooy trong trận đấu tiếp theo của họ với Bồ Đào Nha vào tháng 9.  Sau khi Klaas-Jan Huntelaar không thể tham dự vòng loại Euro 2008 gặp Bulgaria và Belarus vì chấn thương, Van Nistelrooy đã từ chối yêu cầu của Van Basten để thay thế anh trong danh sách. Vào ngày 23 tháng 1 năm 2007, Van Nistelrooy tuyên bố từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế sau khi tiếp tục tranh chấp với Van Basten, trận đấu bắt đầu từ năm 2006 trong quá trình diễn ra các trận chung kết World Cup. Tuy nhiên, sau vài lần trò chuyện qua điện thoại và trước sự thuyết phục của thủ môn kỳ cựu Edwin van der Sar, cả cầu thủ và huấn luyện viên đều gạt bỏ những khác biệt của họ. 4 tháng sau, Van Basten thông báo rằng Van Nistelrooy sẽ trở lại Oranje. Vào ngày 8 tháng 9, Van Nistelrooy điền vào vị trí của Huntelaar, như được yêu cầu trước đó, cho vòng loại với Bulgaria, ghi bàn trong chiến thắng 2–0, và ghi bàn thắng quyết định 4 ngày sau đó ở phút bù giờ của trận thắng Albania của Hà Lan. Tại Euro 2008, Van Nistelrooy ghi bàn cho Hà Lan trong chiến thắng quyết định 3–0 trước Ý ở vòng bảng, và ghi bàn gỡ hòa trong trận thua 3–1 trước Nga ở tứ kết. Vào ngày 4 tháng 8, anh một lần nữa tuyên bố từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế. Trong quá trình chuẩn bị cho World Cup 2010, Van Nistelrooy một lần nữa được ra sân, nhưng bị huấn luyện viên mới Bert van Marwijk của Hà Lan gạt ra ngoài. Sau khi bị loại khỏi World Cup, Van Nistelrooy cho biết anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với sự thật rằng sự nghiệp quốc tế của mình đã kết thúc. Sau khi tiền đạo chủ lực Robin van Persie dính chấn thương trong trận đấu với câu lạc bộ Arsenal, Van Marwijk đã trao cơ hội cho Van Nistelrooy trở lại vị trí tiền đạo chủ lực của ĐTQG Hà Lan. Van Nistelrooy đã được triệu tập tham dự hai trận đấu vòng loại bảng E của Hà Lan cho Euro 2012 gặp San Marino và Phần Lan. Anh ghi bàn trong chiến thắng 5–0 trước San Marino vào ngày 3 tháng 9 năm 2010. Van Nistelrooy một lần nữa được triệu tập trở lại đội tuyển vào tháng 3 năm 2011 cho hai trận đấu ở vòng loại Euro 2012 với Hungary, sau chấn thương của các tiền đạo Klaas-Jan Huntelaar, Arjen Robben và Theo Janssen. Trong trận đấu trên sân khách vào ngày 25 tháng 3, anh ấy xuất hiện với tư cách là người thay thế muộn cho Dirk Kuyt trong khi trong trận lượt về ở Amsterdam bốn ngày sau, anh ấy vào sân từ băng ghế dự bị để ghi bàn thắng quốc tế thứ 35 của mình. Nói thêm rằng thật là "tuyệt vời khi có thể thêm gì đó vào Oranje", như anh nói với Berend Scholten. Phong cách thi đấu Là một tay săn bàn có hiệu suất ghi bàn cao, Van Nistelrooy được biết đến là người cực kỳ cẩn thận và cơ hội trước khung thành, và nổi bật trong suốt sự nghiệp của mình nhờ khả năng nổi bật và khả năng dứt điểm bằng cả hai chân cũng như bằng đầu. của những tiền đạo xuất sắc nhất trong thế hệ của anh ấy. Nhờ khả năng chọn vị trí tuyệt vời, phản ứng nhanh và di chuyển tấn công thông minh, anh ấy rất xuất sắc trong việc tìm kiếm khoảng trống trong vòng cấm và ở đoán trước đối thủ của mình với bóng, và cũng được biết đến với khả năng căn cứ vào thời gian để đánh mất dấu ấn, phá bẫy việt vị và nhận đường chuyền của đồng đội; khuynh hướng đi đúng nơi, đúng lúc trong vòng cấm khiến anh thỉnh thoảng bị gán cho là "kẻ rình rập" trên các phương tiện truyền thông. Là một tiền đạo toàn diện, ngoài khả năng ghi bàn, Van Nistelrooy còn có năng khiếu về tốc độ, thể lực và sức mạnh sút xa, cũng như kỹ năng kỹ thuật tuyệt vời và khả năng giữ bóng bằng lưng về phía khung thành và liên kết với đồng đội của anh ấy hoặc cung cấp cho họ sự hỗ trợ, do khả năng đọc trận đấu của anh ấy. Anh ấy cũng là một người thực hiện quả phạt đền chính xác. Tuy nhiên, bất chấp tài năng và khả năng săn bàn của mình, đôi khi anh ấy đã bị các huấn luyện viên, cầu thủ và các chuyên gia chỉ trích vì hành vi gây tranh cãi của mình, cũng như có xu hướng ích kỷ, khoa trương quá mức hoặc sở thích giả vờ ngã . Mâu thuẫn với Cristiano Ronaldo và Sir Alex Ferguson Ở giai đoạn 2003-2006, khi Cristiano Ronaldo mới gia nhập Manchester United từ Sporting Lisbon, anh vẫn là một cầu thủ chạy cánh đơn thuần và có một lối chơi màu mè, rườm rà thiếu hiệu quả, ít chịu chuyền bóng cho đồng đội. Van Nistelrooy khó chịu ra mặt với cầu thủ người Bồ Đào Nha vì anh bị ám ảnh với việc cạnh tranh danh hiệu "Chiếc giày vàng Premier League" cùng với một chân sút khét tiếng khác của giải đấu là Thierry Henry và chính lối chơi của Ronaldo có phần gây khó khăn cho mục tiêu của anh. Anh thường xuyên bắt nạt Ronaldo trong những buổi tập với đỉnh điểm là câu nói khiến cầu thủ người Bồ Đào Nha chực trào nước mắt: "Mày về mà khóc với bố mày ấy!", mặc dù người bố mà Van Nistelrooy ám chỉ không phải là người bố đã khuất của Ronaldo - ông José Dinis Aveiro - mà là trợ lý huấn luyện viên của Manchester United thời điểm đó - ông Carlos Queiroz. Đến thời điểm đó anh đã bị chính Sir Alex Ferguson chống lại và ra sức bảo vệ Ronaldo. Tại trận chung kết League Cup mùa giải 2005-06, khi Manchester United đã dẫn trước Wigan Athletic 4-0 thì huyến luyện viên Ferguson thay trung vệ Nemanja Vidić vào sân ở phút 83 và bỏ Van Nistelrooy ở trên băng ghế dự bị. Lúc đó, Van Nistelrooy đã không kiềm chế được bản thân và đã chửi thẳng mặt vị huấn luyện viên người Scotland khiến ông giận đến đỏ mặt. Ferguson liền nói rằng: "Hết rồi Ruud! Thời gian của cậu tại câu lạc bộ này đã hết!". Ngay đầu mùa hè năm 2006, anh bị bán sang Real Madrid với giá chỉ 15 triệu euro. Sau này, Sir Alex Ferguson đã có chia sẻ về Van Nistelrooy: "Ruud (Van Nistelrooy) là cầu thủ ích kỷ nhất mà tôi được chứng kiến. Cậu ta chỉ quan tâm đến việc mình đã ghi được bao nhiêu bàn thắng mà không cần quan tâm đến việc xây dựng lối chơi của đội bóng." Sự nghiệp huấn luyện U-17 PSV Vào ngày 22 tháng 6 năm 2013, Van Nistelrooy gia nhập PSV với tư cách là một huấn luyện viên thực tập làm việc với các cầu thủ trẻ U-17. Anh được tiết lộ là huấn luyện viên tiền đạo mới của lứa tuổi U-17, U-19 và đội dự bị vào tháng 2 năm 2016. Hà Lan Vào tháng 3 năm 2014, có thông báo rằng Van Nistelrooy sẽ làm trợ lý Guus Hiddink sau World Cup 2014 . U-19 PSV Vào ngày 25 tháng 6 năm 2018, Van Nistelrooy trở thành huấn luyện viên mới của đội U-19 PSV, thay cho Mark van Bommel, người đã để lại vai trò cho đội một. Vào tháng 12 năm 2019, người ta đã xác nhận rằng Van Nistelrooy bên cạnh vị trí của anh ấy tại PSV, cũng đã được bổ sung vào đội ngũ nhân viên phòng sau của Ronald Koeman với tư cách trợ lý giám đốc cùng với Maarten Stekelenburg trước thềm Euro 2020, sau khi Kees van Wonderen gần đây đã rời vị trí này. Ngoài bóng đá Đời sống cá nhân Van Nistelrooy kết hôn với bạn gái của mình, Leontien Slaats, vào tháng 7 năm 2004. Cặp đôi có con đầu lòng, một bé gái tên là Moa Annette, vào tháng 9 năm 2006, và một con trai tên Liam vào tháng 3 năm 2008. Van Nistelrooy lớn lên với tư cách một người Công giáo La Mã. Từ thiện Van Nistelrooy và vợ đều tham gia rất nhiều vào tổ chức từ thiện Làng trẻ em SOS. Tổ chức đã ra đời từ năm 1949 và là một tổ chức từ thiện phát triển quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích và quyền của trẻ em. Van Nistelrooy chính thức được bổ nhiệm làm Đại sứ "FIFA cho các làng trẻ em SOS" tại Hà Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 2001. Vào ngày 17 tháng 11 năm 2009, Van Nistelrooy và vợ đã tổ chức SOS tại Ciudad Real Madrid . Mục đích của sự kiện là giúp tạo ra một cuốn lịch được bán để mang lại lợi ích cho tổ chức. Tài trợ Van Nistelrooy được tài trợ bởi hãng đồ thể thao Nike và xuất hiện trong các quảng cáo của Nike. Trong một chiến dịch quảng cáo toàn cầu của Nike trước thềm World Cup 2002 ở Hàn Quốc và Nhật Bản, anh ấy đã đóng vai chính trong một quảng cáo "Secret Tournament" (mang nhãn hiệu "Scorpion KO") do Terry Gilliam đạo diễn, xuất hiện cùng với các cầu thủ bóng đá như Thierry Henry, Ronaldo, Edgar Davids, Fabio Cannavaro, Francesco Totti, Ronaldinho, Luís Figo và Hidetoshi Nakata, cùng với cựu danh thủ Eric Cantona là "trọng tài" của giải đấu. Sự nghiệp truyền thông Trong suốt FIFA World Cup 2014, Van Nistelrooy làm việc với tư cách là nhà phân tích trường quay cho ESPN. Thống kê sự nghiệp Sự nghiệp cầu thủ Câu lạc bộ Đội tuyển quốc gia Sự nghiệp Huấn luyện Danh hiệu Cầu thủ Câu lạc bộ PSV Eindhoven Eredivisie: 1999–2000, 2000–01 Johan Cruijff Shield: 1998, 2000, 2001 Manchester United Premier League: 2002–03 FA Cup: 2003–04 EFL Cup: 2005–06 FA Community Shield: 2003 Real Madrid La Liga: 2006–07, 2007–08 Supercopa de España: 2008 Huấn luyện viên PSV Eindhoven Johan Cruijff Shield: 2022 Cá nhân Vua phá lưới Eredivisie: 1998–99, 1999–2000 Vua phá lưới Champions League: 2001–02, 2002–03, 2004–05 Vua phá lưới Premier League: 2002–03 Vua phá lưới La Liga (Pichichi): 2006–07 Vua kiến tạo Champions League: 2001-02 Cầu thủ xuất sắc nhất Hà Lan: 1999, 2000 Cầu thủ chuyên nghiệp xuất sắc nhất Anh do Hiệp hội các cầu thủ Anh (PFA) bầu chọn: 2002 Tiền đạo xuất sắc nhất Cúp C1 châu Âu: 2001–02
Phan Huy Lê (23 tháng 2 năm 1934 – 23 tháng 6 năm 2018) là Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân và một trong những chuyên gia về lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam từ Khóa II đến khóa VI (1990 – 2015), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học năm 2016. Ông là một trong "tứ trụ" của nền sử học Việt Nam (Lâm, Lê, Tấn, Vượng). Ông sinh ngày 23 tháng 2 năm 1934 tại xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là thành viên của dòng họ Phan Huy Lộc Hà. Thân sinh là Phan Huy Tùng (1878 – 1939, đỗ Hội nguyên và Tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Quý Sửu –1913), Lang trung Bộ Hình triều Nguyễn, anh cả là cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Phan Huy Quát. Mẹ ông là người dòng họ Cao Xuân giàu truyền thống khoa bảng với các danh nhân như Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy. Một "chi phái Phan Huy" năm 1787 đã ra ở làng Thụy Khuê xã Sài Sơn huyện Quốc Oai, Hà Nội, với các danh nhân như Thượng thư, nhà ngoại giao Phan Huy Ích, nhà bác học Phan Huy Chú, Thượng thư – nhà văn hóa Phan Huy Vịnh. Tiểu sử và quá trình công tác Phan Huy Lê sinh ngày 23 tháng 2 năm 1934 tại xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1952, ông học Dự bị Đại học ở Thanh Hóa. Năm 1956, ông tốt nghiệp cử nhân Sử – Địa trường Đại học sư phạm Hà Nội, sau đó ông được nhận chức danh Trợ lý giảng dạy Bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Khoa Lịch sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1958, ông là chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ trung đại khi mới 24 tuổi. Năm 1988 đến nay, ông đảm nhiệm vị trí Chủ tịch hội Sử học Việt Nam. Năm 1988, ông sáng lập Trung tâm Trung tâm hợp tác nghiên cứu Việt Nam (thuộc Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội), tiền thân của Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hóa, sau này là Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. Năm 1995, ông sáng lập Khoa Đông phương học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 2004-2009, ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo cho Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hóa đã phát triển thành Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. Giáo sư Phan Huy Lê qua đời vào lúc 13 giờ 6 phút ngày 23 tháng 6 năm 2018 tại Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, hưởng thọ 84 tuổi. Phong tặng Ông được Nhà nước phong hàm giáo sư đợt đầu tiên (năm 1980) (nhưng không phải là lần phong hàm giáo sư theo Quyết định 162/CP do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 11 tháng 9 năm 1956 về việc phong hàm giáo sư cho 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu); danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (năm 1994); Giải thưởng Nhà nước (năm 2000). Ông là người Việt Nam đầu tiên được Nhật Bản trao tặng Giải thưởng quốc tế văn hóa châu Á Fukuoka (năm 1996). Năm 2002, ông được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Cành cọ Hàn lâm. Năm 2011, ông được Báo Thể thao Văn hóa trao tặng giải thưởng "Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội". Tháng 5/2011, ông được bầu làm viện sĩ thông tấn nước ngoài (Correspondant étranger) của Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn Pháp. Năm 2014, ông được nhận Giải thưởng danh dự Pháp ngữ năm 2014  (Prix d’honneur de la Francophonie 2014) do nhóm các Đại sứ quán, phái đoàn và tổ chức Pháp ngữ tại Hà Nội (GADIF) trao tặng. Năm 2016, ông được Viện Viễn Đông Bác cổ (Pháp) trao bằng Tiến sĩ danh dự. Năm 2016, ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học cho công trình Lịch sử và Văn hóa Việt Nam – Tiếp cận bộ phận. Ngày 17/10/2017, Đại sứ quán Nhật Bản truy tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nhật Bản cho GS. Phan Huy Lê vì Giáo sư Phan Huy Lê vì những đóng góp to lớn của ông cho sự phát triển của quan hệ hữu nghị, tin cậy lẫn nhau giữa Nhật Bản và Việt Nam. Tác phẩm Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Tập II, Nhà xuất bản Giáo dục, 1960; tái bản 1962. Tìm hiểu thêm về phong trào nông dân Tây Sơn. Nhà xuất bản Giáo dục, 1961. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (chủ biên). Tập III. Nhà xuất bản Giáo dục, 1960; tái bản 1965. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập (Chú thích về lịch sử và địa lý). Sử học, 1961. Khởi nghĩa Lam Sơn và phong trào đấu tranh giải phóng đất nước vào đầu thế kỉ XV (viết chung). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,1965, tái bản: 1969. Nguyễn Trãi toàn tập (Chú thích, bổ sung và sắp xếp lại phần“Quân trung từ mệnh tập và chiếu biểu triều Lê”). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1976. Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc (viết chung). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1976. Khởi nghĩa Lam Sơn (In lần thứ ba, có bổ sung và sửa chữa) (viết chung). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1977. Lịch sử Việt Nam (14-6-1958), Tập 2 (Giáo trình Lịch sử Việt Nam), Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 1978. Nguyễn Trãi (1380 – 1442) (viết chung). 1980. L’itinéraire d’un historien britanique (viết chung). Le courier du Vietnam 1/1982. Lịch sử Việt Nam, Tập I (viết chung). Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983; tái bản: 1985 và 1991. Nghệ Tĩnh hôm qua và hôm nay (chủ biên). Nhà xuất bản Sự thật, 1985. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và 1288 (viết chung). Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1988. Văn hoá Việt Nam tổng hợp: những bước đi của lịch sử Đại thắng Thăng Long xuân Kỉ Dậu (1789) (viết chung). VHVN, 1989. Phan Huy Chú: Hải Trình chí lược / Récit sommaire d’un voyage en mer (1933) (do Phan Huy Lê, Claudine Salmon & Tạ Trọng Hiệp dịch và giới thiệu). Cahier d’Archipel 25, Paris, 1994. Địa bạ Hà Đông (Chủ trì). Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu Việt Nam xuất bản, 1995. Thăng Long – Hà Nội (viết chung). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995. Gia tộc và gia phổ Việt Nam (tiếng Nhật) do S. Tsuboi biên tập, Nhật Bản, 1995. Lịch sử và Văn hóa Việt Nam, Tiếp cận bộ phận (2012) Vùng đất Nam bộ - quá trình hình thành và phát triển, tác phẩm được tặng giải A giải thưởng sách quốc gia năm 2019. Hoạt động gây tranh cãi Câu chuyện về Lê Văn Tám Trong bài viết đăng trên tạp chí Xưa và Nay số ra tháng 10 (năm 2009), giáo sư sử học Phan Huy Lê nói rằng ông đã được Giáo sư Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện sử học và cũng là Bộ trưởng Tuyên truyền hồi thập niên 1940 kể cho nghe nhân vật Lê Văn Tám là do ông Liệu dựng lên để cổ vũ tinh thần chiến đấu của người Việt. Ông Phan Huy Lê cũng nói rằng ông Trần Huy Liệu đã nói với ông và hai người khác trong một cuộc gặp: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. . Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Lý Châu Hoàn, ngoài câu chuyện tự kể này thì ông Phan Huy Lê không đưa ra được bằng chứng xác thực cho sự phủ định nhân vật Lê Văn Tám mà ông nêu ra. Mặt khác, lời kể của Phan Huy Lê cũng bị chỉ ra là có mâu thuẫn lớn: ông Trần Huy Liệu làm bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong giai đoạn cuối 1945 – đầu 1946, khi đó ông Phan Huy Lê chỉ là một đứa trẻ chưa đầy 12 tuổi, không thể có chuyện ông Trần Huy Liệu lại tiếp đón ông Phan Huy Lê, gọi ông là "nhà sử học" và còn kể cho ông chuyện quan trọng như vậy. Ông Phan Huy Lê cũng đã nhầm lẫn giữa 2 trận đánh kho Thị Nghè (trận đánh kho của Lê Văn Tám diễn ra vào ngày 17/10/1945, còn trận đánh của công nhân nhà máy đèn Chợ Quán diễn ra ngày 1/1/1946, đây là hai trận đánh khác nhau). Ông Lý Châu Hoàn đã đăng bài phân tích, đưa ra các bằng chứng bác bỏ lời kể của ông Phan Huy Lê và chứng minh Lê Văn Tám là có thực, bao gồm các tài liệu thời kỳ đó cũng như lời kể của nhân chứng địa phương và đề nghị ông Phan Huy Lê đối chất Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thịnh còn tìm ra nhân chứng là ông Hồ Thanh Điền, từng là đội viên Thanh niên Tiền phong đoàn Trần Cao Vân, sau thuộc Chi đội 13 (tiền thân của trung đoàn 300), khẳng định Lê Văn Tám có thật: “Lúc đó đơn vị tôi đóng quân ở Trung Chánh. Ngay sớm hôm sau khi cháy kho xăng Thị Nghè, Nguyễn Thanh Hùng là chiến sĩ của tiểu đội tôi, nhà ở Đa Kao, chạy về báo tin: Thằng Tám trong xóm nhà tui là người đốt kho xăng hồi hôm đó!”. Ông Phạm Văn Đông là đồng đội, nhà ở 22/3 Hồ Văn Đại, TP. Biên Hòa thường xuyên nghe ông Điền kể chuyện này. Thời đại Đồng thau Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng bị phê phán là đã sai lầm khi dùng thuật ngữ thời đại đồng thau trong các sách của ông biên soạn, là quyển Giáo trình Lịch sử Việt Nam tập 1 (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1991; các tác giả: Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Lương Ninh) . Theo tác giả Lê Mạnh Chiến: Sai lầm này là một “công trình tập thể”, trong đó có đóng góp to lớn của các GS Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê… Chính các ông đã rao giảng nó, truyền bá nó, tự hào về nó và ra sức bảo vệ nó. Tuy nhiên, về vấn đề này, Giáo sư Phan Huy Lê đã trả lời rõ ràng rằng: "Đây là thuật ngữ khảo cổ học do các nhà khảo cổ học đưa ra tương ứng với thuật ngữ “bronze age” trong tiếng Anh, từ những năm 1960. Tôi là một nhà sử học, không liên quan gì đến sự ra đời của thuật ngữ này. Đúng là thuật ngữ này được giới khảo cổ học sử dụng phố biến và khi khai thác các tư liệu khảo cổ học, người nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khác, trong đó có tôi, cũng dùng theo." Ngược với các phê phán của Lê Mạnh Chiến, Giáo sư Phan Huy Lê khẳng định mình "với tư cách Phó trưởng ban thứ nhất Ban biên soạn đã cùng GS Nguyễn Văn Chiển là Ủy viên Ban thường trực, mời đại diện tiểu ban Khảo cổ học lên làm việc và sau khi trao đổi, Tiểu ban đã chỉnh sửa lại thành mục từ “thời đại đồ đồng”, trong đó có ghi chú “trước đây trong ngành khảo cổ học VN quen gọi là thời đại đồng thau” (TĐBKVN, T.IV, tr.262)". Thực tế ghi chép trong Từ điển Bách khoa cho thấy Giáo sư Phan Huy Lê không phải là người cố tình sử dụng thuật ngữ "đồng thau" như Lê Mạnh Chiến phê phán, mà chính là người góp phần đính chính thuật ngữ "đồng thau" trong nghiên cứu lịch sử và khảo cổ học. Nạn cống vải Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm, Hà Văn Tấn, Trương Hữu Quýnh, Hoàng Văn Khoán, Ngô Đăng Tri, Nguyễn Xuân Đình, Đinh Văn Thiềm cũng bị phê phán về chủ đề gọi là Nạn cống vải của Mai Thúc Loan. Lê Mạnh Chiến cho rằng các nhà sử học hàng đầu, gồm cả những nhà nghiên cứu thuộc nhóm "Tứ trụ sử học" như Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm, Hà Văn Tấn đã bịa đặt thông tin, không thực sự khảo cứu tài liệu gốc bằng chữ Hán và cho rằng: Trong bài ấy, tôi đã chứng minh rằng, tám nhà sử học, trong đó có sáu giáo sư, ba người thuộc nhóm “tứ trụ” của giới sử học, đã bịa ra cứ liệu kể trên. Ngoài ra, các giáo sư này chưa từng biết Đường thư, Tân Đường thư, Cựu Đường thư là những sách gì. Họ chỉ biết vài đoạn của các sách đó qua bản dịch chép tay của các cụ nhà nho làm việc ở Viện Sử học hồi những năm 1960. Tuy nhiên, trong bài viết "Trả lời Lê Mạnh Chiến về nạn cống vải", Giáo sư Phan Huy Lê đã chứng minh trong các cuốn sách đề cập đến "nạn cống vải" là Lịch sử Việt Nam tập 1 hay Lịch sử Hà Tĩnh, ông không phải là người trực tiếp chấp bút về nạn cống vải, thể hiện qua phần mục lục tác giả trong sách. Ông khẳng định: "Trước cuộc hội thảo về “Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu” ngày 8 và 9 tháng 11 năm 2008, tôi chưa hề viết một bài báo hay một chương nào trong bất cứ cuốn sách nào về nạn cống vải." Trên thực tế, câu chuyện Mai Thúc Loan và nạn cống vải đã được đề cập ngay từ năm 1925 bởi tác giả Lê Thúc Thông trong chuyên đề “Nam sử liệt truyện khảo cứu” đăng trên Nam Phong tạp chí. Lê Thúc Thông đã viết: “Sách Ngoại thư lại có nói rằng: Ông Mai khởi quân chống nhà Đường thanh thế nhức động, vua Đường lo lắm, bèn tha cho nước ta khỏi lệ cống lệ chi (tức là quả vải), để trấn tĩnh nhân tâm”. Đồng thời, Lê Thúc Thông cũng chép lại nội dung về nạn cống vải trong sách Bảo huấn chân kinh (lưu giữ tại đền thờ Mai Thúc Loan ở Nam Đàn), bài chầu văn tương truyền Mai Đại Đế (Thúc Loan) và Mai Thiếu Đế (Thúc Huy) ứng vào đồng tử làm thơ, trong đó có câu “lệ chi tuyệt cống Đường nhi hậu” và “Lệ chi vũ trạch thiên kha Việt”. Chú thích
Hoàng Đình Bảo (1743-1782) là Huy Quận công (còn gọi là Quận Huy) thời Lê-Trịnh, trong lịch sử Việt Nam. Tiểu sử Hoàng Đình Bảo (黄廷寶), trước tên ông là Đăng Bảo (登寶), sau đổi là Tố Lý (素履), lại đổi là Đình Bảo. Ông quê ở Hoan Châu (nay thuộc xã Hoà Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) là cháu nuôi danh tướng Hoàng Ngũ Phúc, quê ở xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Sự nghiệp Thời Trịnh Sâm Ông đậu hương tiến, lại đậu tạo sĩ, lấy con gái chúa Trịnh Doanh. Vì được phong làm Huy quận công nên ông thường được gọi là quận Huy. Năm 1774, ông theo quận Việp Hoàng Ngũ Phúc đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chiếm được kinh thành Phú Xuân. Quận Huy nguyên có tên là Đăng Bảo (nghĩa là "lên ngôi báu"), được quận Việp nhận làm cháu nuôi. Do uy tín của quận Việp trong triều quá lớn, nhiều người dị nghị hai chú cháu sẽ cướp ngôi chúa của họ Trịnh. Họ đặt ra những câu sấm đồn đại việc này. Quận Việp sợ vạ lây bèn đổi tên ông thành Tố Lý. Về sau, quận Việp qua đời (1775), ông mới đổi tên lần nữa thành Đình Bảo. Năm 1777, ông làm trấn thủ trấn Nghệ An. Tại đây xảy ra nạn đói, quận Huy ra lệnh cho các nhà giàu trong vùng phải xuất thóc lúa trợ cấp cho người nghèo. Vì vậy người nghèo Nghệ An rất biết ơn ông. Năm 1778, ông được Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm cho coi việc phủ chúa và lĩnh chức trấn thủ Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình). Bấy giờ trong họ Trịnh xảy ra tranh chấp ngôi thế tử giữa con trưởng là Trịnh Tông và con thứ là Trịnh Cán, do người mẹ Cán là Tuyên phi Đặng Thị Huệ làm đại diện. Quận Huy từng có ý theo Trịnh Tông nhưng không được bèn ngả theo Đặng Thị Huệ giúp Trịnh Cán còn nhỏ. Nhân vụ án năm Canh tý (1780), Trịnh Tông có ý làm loạn thất bại nên bị truất làm con út, ngôi thế tử thuộc về Trịnh Cán. Phụ chính cho Trịnh Cán Sau khi Trịnh Sâm mất, Trịnh Cán mới 5 tuổi lên thay, tức là Điện Đô vương. Quận Huy được cử giữ chức phụ chính. Vì Tuyên phi còn trẻ tuổi, quận Huy thường ra vào bàn kế với Tuyên phi nên mọi người dị nghị ông tư thông với Tuyên phi. Người đời đồn đại câu: Trăm quan có mắt như mờ Để cho Huy quận vào sờ chính cung Cái chết và hệ quả Lính kiêu binh ủng hộ Trịnh Khải cùng nhau mưu đảo chính lật đổ Trịnh Cán để lập Trịnh Khải. Sách Lê quý dật sử chép vắn tắt chuyện như sau Lính trong phủ ước hẹn cùng vào núi bí mật toan định ngày giờ phế lập. Bèn bên trong theo ý quốc mẫu (mẹ Trịnh Sâm), bên ngoài dựa vào sự chi viện của Phan quận công (Nguyễn Phan), và nhờ tiến triều Nguyễn Nhưng làm bài (hịch) khích lệ quân lính, phù chính nghĩa. Lại có Thư lại đội quân Tiệp Bảo là Nguyễn Bằng (Hoàng Lê nhất thống chí ghi tên Bằng Vũ) tự xin lên gác phủ đánh trống làm hiệu. (Nghe có biến) Quận Huy sai đội quản voi chỉnh đốn bành voi. Huy lên voi tuần hành để răn đe quân sĩ..Quân sĩ đập phá gạch ngói ném bừa vào Huy. Huy bị thương ngã gục trên mình voi, quân sĩ lại lấy kiếm dài đâm lên, làm Huy bị thương tiếp. Rồi (họ) lấy câu liêm lôi Huy xuống, băm ra từng khúc, tranh nhau ăn gan Huy... Khi đó, lính trong phủ đã rước Thế tử Khải lên nối nghiệp chúa, và dời Trịnh Cán đến ở một cung khác. Ngày hôm đó, nhà cửa dinh thự của các quan lại trong kinh đô đều bị lính phá hủy gần hết. Đình thần im hơi lặng tiếng, đứng yên một chỗ. Kể từ đó quyền hành lọt hết vào tay lính tam phủ. Quận Huy bị giết, Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ bị truất, Trịnh Khải lên ngôi, tức là Đoan Nam vương. Ngô Thì Nhậm làm bài Điếu Huy Quận công để tưởng nhớ ông: Cái chết của quận Huy đã tạo ra một hệ quả phụ giật đổ nền thống trị 200 năm của chúa Trịnh ở phía bắc Đại Việt. Sau khi phe Trịnh Khải chiếm quyền, quận Huy bị giết, môn hạ của quận Huy ở Nghệ An là Nguyễn Hữu Chỉnh đã đem vợ con, binh lính vào Nam đầu quân cho triều Tây Sơn – chính quyền cai trị phía nam Đại Việt sau khi đánh đổ chúa Nguyễn năm 1777. Nguyễn Hữu Chỉnh hiểu tình hình Bắc Hà, đã hiến kế cho tướng Tây Sơn là Bắc Bình vương Nguyễn Huệ xuất quân chinh phạt Đàng Ngoài, đánh báo thù cho chủ cũ của Nguyễn Hữu Chỉnh là quận Huy. Quân Tây Sơn hành binh thần tốc liên tiếp thắng trận; chỉ sau 1 tháng giao tranh, quân đội của họ Trịnh đã bị đánh bại hoàn toàn. Chúa Đoan Nam vương tự sát. Trong văn hoá đại chúng
Giuđa Ítcariốt (Judas Iscariot, , Yehudah, , chết năm 30-33 Công Nguyên) theo Tân Ước, là một trong mười hai tông đồ đầu tiên của chúa Giêsu, và con trai của Simon. Trong nhóm mười hai, ông được biết như là người giữ "túi tiền" (), nhưng ông nổi tiếng đến với vai trò phản bội Chúa Giêsu và nộp ông cho các chức sắc Do Thái. Tên của ông thường được sử dụng đồng nghĩa với sự phản bội hay phản quốc. Đôi khi người ta nhầm lẫn với Jude Thaddeus. Mặc dù có các câu chuyện khác nhau về cái chết của Judas, phiên bản truyền thống cho là đã treo cổ tự tử sau sự phản bội. Vị trí của ông trong số Mười Hai Tông Đồ sau đó đã được thay thế bởi Matthias. Mặc dù vai trò nổi tiếng của ông trong câu chuyện Phúc Âm, Judas vẫn là nhân vật gây tranh cãi trong lịch sử Kitô giáo. Sự phản bội của Judas được xem là sự kiện mấu chốt dẫn đến Chúa Giêsu bị đóng đinh và sự phục sinh của Chúa, theo đó, theo thần học Kitô giáo truyền thống, mang lại sự cứu rỗi cho nhân loại. Một số bản văn ngộ giáo – bị Giáo hội bác bỏ và coi là dị giáo – ca ngợi Judas vì vai trò của ông trong việc xúc tác cho sự cứu rỗi nhân loại, và xem Judas là nhân vật nổi trội nhất trong các tông đồ. Tường thuật kinh thánh Giuđa được nhắc đến trong Phúc âm Nhất Lãm, Phúc âm John và ở đoạn đầu của Công vụ Tông Đồ. Chứng cớ nói rằng các thầy tư tế đang tìm cách bắt giữ Giêsu cách bí mật. Họ quyết định không làm công khai vì sợ dân chúng bạo động; thay vào đó, họ chọn bắt Giêsu vào ban đêm. Trong Phúc âm Luke, Satan nhập vào Giuđa lúc này. Theo Phúc âm John, Giuđa là người giữ túi tiền của các môn đệ khác và phản bội Giêsu để lấy "30 đồng bạc", chỉ điểm Giêsu bằng một nụ hôn—"Nụ hôn của Giuđa"— để binh lính mang Giêsu tới nhà Thượng tế Caiaphas, người sau đó đã giao Giêsu cho Pontius Pilatus.
Chợ Đồng Xuân là một trong những chợ lớn nhất tại Hà Nội, Việt Nam; là chợ lớn nhất trong khu phố cổ Hà Nội. Chợ có lịch sử tồn tại hàng trăm năm từ thời phong kiến nhà Nguyễn. Vị trí Chợ Đồng Xuân nằm trong khu phố cổ, phía tây là phố Đồng Xuân, phía bắc là phố Hàng Khoai, phía nam là phố Cầu Đông, phía đông là phố Nguyễn Thiện Thuật. Cổng chợ nhìn sang phía tây, phía trước là một khoảng trống nhỏ. Phía Bắc có Quán Huyền Thiên - sau đổi thành Chùa Huyền Thiên. Ngay sát sau chợ là chợ Bắc Qua . Vì vậy nhiều người gọi cả hai là chợ Đồng Xuân - Bắc Qua. Ở góc tây bắc của chợ có đài Cảm Tử để kỉ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến diễn ra vào năm 1946. Lịch sử Trong thời gian xây dựng lại thành Thăng Long vào mùa hạ năm Giáp Tí (1804), Tổng trấn Nguyễn Văn Thành dưới triều đại Nguyễn đã cho đặt ngôi chợ lớn ở cửa chính đông, hay còn gọi là chợ Đồng Xuân ngày nay. Chợ Đồng Xuân tuy nằm trong khu phố cổ nhưng có tuổi đời trẻ hơn rất nhiều so với các phố xung quanh. Trước kia đây là khu đất trống thuộc phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương nằm trước quán Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên). Người dân họp chợ trên hai khu đất ở cạnh chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường và cạnh đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm vì hai khu đất đó gần bến sông, tiện cho thuyền đi lại. Năm 1889, khi những dấu tích cuối của sông Tô Lịch và hồ Thái Cực bị lấp hoàn toàn, người Pháp quy hoạch lại đã giải tỏa hai chợ trên và dồn tất cả các hàng quán vào khu đất trống của phường Đồng Xuân, tạo thành chợ Đồng Xuân. Trong năm đầu tiên chợ họp ngoài trời, hoặc có che mái lá giống như hai chợ cũ. Năm 1890 chính quyền Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân, tạo thành năm vòm cửa và năm nhà cầu dài 52m, cao 19m. Mặt tiền theo kiến trúc Pháp, gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn. Tháng 2 năm 1947, tại đây đã diễn ra các trận chiến ác liệt giữa Vệ quốc đoàn chống lại lính Lê dương của Pháp, rất nhiều Vệ quốc quân đã hi sinh tại đây trước khi rút khỏi Hà Nội. Từ sau ngày quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Hà Nội, chợ Đồng Xuân là chợ lớn nhất thành phố này. Vào khoảng năm 1990, chợ được xây dựng lại, phá bỏ hai dãy hai bên, ba dãy giữa xây lên ba tầng. Hai tấm cửa hai bên cũng bị dỡ, nhưng vẫn còn giữ hai cột ngoài cùng. Tối ngày 14 tháng 7 năm 1994, chợ Đồng Xuân đã bị hỏa hoạn, lửa thiêu rụi gần như toàn bộ các gian hàng trong chợ. Phải đến ngày 19 tháng 7 thì ngọn lửa mới được dập tắt hoàn toàn. Đây là vụ cháy chợ lớn nhất tại Hà Nội cho đến nay. Hàng hóa Chợ Đồng Xuân là chợ đầu mối chủ yếu dành cho bán buôn. Tuy nhiên dạo quanh trong chợ, người mua vẫn tìm được cho mình những quầy hàng bán lẻ. Bên trong, chợ được chia làm 3 tầng chủ yếu với đầy đủ các mặt hàng thiết yếu. Tầng trệt: Ngay từ cửa vào là những hàng bán quần áo, kính râm, giày dép, vali cho đến đồ điện tử như điện thoại, cáp sạc, pin sạc, đèn pin siêu sáng, loa, đài radio...nhưng chủ yếu là những mặt hàng xuất xứ từ Trung Quốc. Tầng 2: Là khu vực bán buôn bán lẻ quần áo cho người lớn và các loại vải vóc, gấm, lụa,.... Tầng 3: Chủ yếu người ta bán đồ dành cho trẻ sơ sinh.... Phía sau chợ có các hàng bán chim thú cảnh. Hàng thực phẩm và ăn uống chủ yếu bán ở chợ Bắc Qua. Phía Bắc của chợ, là các hàng ăn, phục vụ khách cả ăn đêm. Xung quanh chợ lúc nào cũng đông đúc nhộn nhịp. Hàng hóa từ đây vận chuyển đi khắp các tỉnh phía Bắc.
Michael Shawn Hickenbottom (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1965) là đô vật người Mỹ được biết đến dưới tên "The Heartbreak Kid" Shawn Michaels. Anh là một trong những đô vật có mặt sớm nhất tại World Wrestling Entertainment, và bắt đầu làm việc cho công ty từ năm 1987. Sự nghiệp của anh tưởng chừng kết thúc khi một lần bị chấn thương ở lưng vào năm 1998, nhưng sau đó anh quay lại võ đài vào năm 2002. Hiện nay Michaels đang thi đấu cho RAW và là thành viên của nhóm D-Generation X cùng với Triple H. Sau đó, vào ngày Chủ nhật 20/5, trong chương trình Judgment Day, anh đã bị Randy Orton đập đầu vào giàn giáo, dù bác sĩ không cho phép đấu nhưng anh ta đã cố gắng ra võ đài và đã bị Randy Orton phang ống quyển vào đầu và chấn thương nặng. Hiện nay,anh ta đang được chữa trị. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2007, Shawn Michael đã làm cho fan của anh 1 bất ngờ lớn là trở lại Raw sau thời gian nghỉ vì chấn thương, và trong ngày hôm đó anh đã ra đòn Sweet Chin Music vào WWE Champion Randy Orton. Tại No Mercy, anh có cơ hội tranh đai World heaveweigh championship trong trận Ladder match với Chris Jericho nhưng không thành. Sắp tới tại sự kiện PPV lớn nhất trong năm của WWE WrestleMania 26 sẽ được tổ chức tại Houston bang Texas, anh sẽ có trận đấu với The Undertaker, nếu anh thua trong trận này có thể anh sẽ nghỉ thi đấu mãi mãi. Tuy nhiên trong cuộc phỏng vấn gần đây với "Chicago's Q101 alternative rock station" ngày 4/4/2009, Shawn Michaels nói rằng: tôi nghĩ rằng WrestleMania năm sau sẽ là WrestleMania cuối cùng của tôi. "The Heartbreak Kid" nói rằng bản hợp đồng với WWE của anh ấy sẽ hết hiệu lực sau buỗi diễn và anh ấy muốn ở gần con mình nhiều hơn. Michaels nói anh ấy sẽ trở lại thi đấu wrestling vào 1 lúc nào đó, nhưng khi con của anh ấy đã lớn và không muốn dựa vào anh ấy nữa. Các đòn thường sử dụng Các đòn sở trường hay được anh sử dụng trong sự nghiệp: Dứt điểm: Sweet Chin Music (Super kick thường được làm sau 1 loạt dậm chân khi đứng gần cột) Modified Figure Four leg lock-bắt đầu sử dụng từ 2007 Jumping Piledriver (được sử dụng như 1 đòn kết thúc trong những năm 1992-1993 ngày nay được dùng như 1 đòn hay sử dụng) Diving Moonsault to standing opponent (Moonsault được dùng trong khi đối thủ đang đứng) Diving Elbow Drop Scoop Slam Flying Forearm Shot Swinging Neck Breaker Inverted Atomic Drop Slingshot Cross body Sharp Shooter (Được sử dụng như 1 đòn để chống lại huyền thoại Bret "The Hitman" Hart) Lou thes Prezz cùng với những cú đấm Với người cộng sự hợp tác ăn ý Shawn từng có mối quan hệ lâu dài với Marty Jannetty từ lúc còn ở nhóm The Rockers, nhưng sau đó ông đã phản bội Marty sau khi Sweet Chin Music và đập Marty vào kính cửa sổ. Ông từng có mối thù với Hunter Hearst Helmsley (Triple H) vào năm 2002 và thề sẽ là kẻ thù không đội trời chung của nhau. Họ đã có những trận đấu đỗ máu ác liệt gây nhiều sự tranh cãi của khán giả, những trận đấu đó luôn được trình diễn vào cuối các chương trình của WWE nên khán giả thường ngồi để theo dõi. Thế nhưng một năm sau họ lại trở thành cộng sự của nhau và bấy giờ nhóm D-Geration X chỉ còn hai thành viên là Shawn và Hunter. Từ đó họ trở nên rất thân thiết và hợp tác ăn ý, nhóm họ đã trở thành nhóm quậy nhất ở WWE. Họ thường quấy nhiễu chương trình, ghi chữ "DX" và vẽ bậy khắp nơi. Những mối thù tiêu biểu của họ là với gia đình McMahon, đội Spirit Squad và đội Rated RKO Năm 2006, nhóm tan rã vì Triple H bị chấn thương nặng ở chân trái. Ở Wrestlemania XXVI, Shawn đã bị đánh bại bởi The undertaker và đây cũng là trận đấu cuối cùng của Shawn Michael sau 26 năm sự nghiệp. Vào ngày 30 tháng 3, Shawn đã lên võ đài để chào khán giả lần cuối trước khi chia tay WWE. Và trong lần này, anh cũng được Triple H và The Undertaker (người đã đánh bại Shawn trong Wrestlemania XXVI) ra chia tay. Anh chính thức nghỉ ngày 30 tháng 3 năm 2010 (sau Ric Flair đúng 2 năm, ngày 30 tháng 3 năm 2008 ở Wrestlemania XXIV). Nhưng thật bất ngờ, Michael đã trở lại show RAW, nhưng không phải để đánh nhau mà là để phát biểu về sự kiện sắp tới, anh sẽ nhận danh hiệu Hall of Famer dành cho những tượng đài của WWE, nhưng khi anh chưa kịp phát biểu thì bị Alberto Del Rio cắt ngang. Del Rio nói anh sẽ thay thế Michael để trở thành một Mr.Wrestlemania mới. Quá nóng giận, Michael tung một cú Sweet Chin Music nhằm vào Del Rio. Sau đó, anh trở vào trong khi chưa phát biểu lời nào. Wrestlemania 27 anh không tham gia mà đến với tư cách là 1 Hall Of Famer .Wrestlemania 28, anh tham gia với vai trò trọng tài khách mời đặc biệt cho trận đấu giữa HHH và Undertaker trong trận Hell In The Cell, the end of era. Hiện nay anh đã trở lại WWE RAW để giúp Triple H đánh bại Brock Lesnar. Các chức vô địch và danh hiệu World Wrestling Federation / Entertainment WWF Championship (3 lần) World Heavyweight Championship (1 lần) WWF Intercontinental Championship (3 lần) WWF European Championship (1 lần) WWE World Tag Team Championship (6 lần) - với Diesel (2), Steve Austin, John Cena,Triple H,Marty Jannetty. Royal Rumble (1995) Royal Rumble (1996) Giải thưởng Pro Wrestling Illustrated Trận đấu tiêu biểu năm 1993 – đấu với Marty Jannetty (Monday Night RAW, 17 tháng 5 1993) Trận đấu tiêu biểu năm 1994 – đấu với Razor Ramon (WrestleMania X, 20 tháng 3 1994) Trận đấu tiêu biểu năm 1995 – đấu với Diesel (WrestleMania XI, 2 tháng 4 1995) Đô vật nổi tiếng nhất năm 1995 Đô vật nổi tiếng nhất năm 1996 Trận đấu tiêu biểu năm 1996 – với Bret Hart (WrestleMania XII, 31 tháng 3 1996) Bầu chọn đứng thứ 1 trong tốp PWI 500 năm 1996 Bầu chọn đứng thứ 9 trong tốp PWI 500 năm 1996 Bầu chọn đứng thứ 10 trong tốp PWI 500 năm 2003 Bầu chọn đứng thứ 33 trong tốp PWI 100 những cặp đô vật tiêu biểu năm 2003 - với Marty Jannetty Bầu chọn dứng thứ 55 trong tốp PWI 100 những cặp đô vật tiêu biểu năm 2003 - với Diesel Trận đấu tiêu biểu năm 2004 - đấu với Chris Benoit và Triple H (WrestleMania XX, 14 tháng 3 2004) Trận đấu tiêu biểu năm 2005 - đấu với Kurt Angle (WrestleMania 21, 3 tháng 4 2005) Trận dấu tiêu biểu cua năm 2007: đấu với John Cena(WrestleMania23) Trận đấu tiểu biểu của năm 2008: đấu với Ric Flair(WrestleMania24)(Và trận đó đã khiến cho Ric Flair phải từ bỏ sự nghiệp của mình) Trận đấu tiêu biểu của năm 2009: đấu với Undertaker (WrestMania 25) Michaels là người giữ kỉ lục với chín trận đấu được chọn là trận tiêu biểu trong năm của PWI. Cuộc sống đời thường Michaels đã kết hôn với cựu diva WCW, Rebecca Curci vào ngày 31 tháng 3, năm 1999 tại nhà thờ Graceland Wedding ở Las Vegas, Nevada. Họ cùng nhau có hai đứa con, cậu con trai tên Cameron Kade (sinh 5 tháng 1 năm 2000) và cô con gái tên Cheyenne Michelle (sinh 19 tháng 8 năm 2004). Michaels là người thuận cả hai tay. Anh dùng tay phải để vẽ, và tay trái để viết. Michaels còn là một người Thiên Chúa giáo, anh thường làm dấu thánh và quỳ xuống cầu nguyện mỗi khi bước lên võ đài đấu vật. Hiện nay tuy đã giải nghệ nhưng Michaels vẫn hay tới WWE
Trịnh Tuệ (chữ Hán: 鄭橞; 1701–?, trước có tên là Trịnh Huệ, sau vì trùng tên với Tuyên Phi Đặng Thị Huệ nên đổi sang là Trịnh Tuệ, hiệu là Cúc Lam, là vị Trạng nguyên cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Quê quán Trịnh Tuệ quê ở Biện Thượng (nay thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), trú quán tại xã Bất Quần (nay là xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa). Theo Kim Giám Thực Lục (1802) và Kim Giám Tục Biên (1869), thì Trịnh Huệ là cháu 5 đời của chúa Trịnh Tùng, thuộc dòng của Thuần Nghĩa Công Trịnh Dương. Gia đình ông đều có những người đỗ đạt. Anh ruột là Trịnh Côn và các con ông là Trịnh Đức, Trịnh Sa đều đỗ hương cống và làm quan dưới triều Lê - Trịnh. Cuộc đời Trước, Trịnh Tuệ đi thi Hương đỗ Tứ trường, được bổ làm việc ở Phủ Tôn Nhân, giữ chức Phó hình phiên. Đến khoa Bính Thìn (1736), ông đỗ đầu thi Hội. Vào thi Đình ông đỗ luôn Trạng nguyên. Trên Bia Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hữu năm thứ 2 (1736) ở Văn Miếu - Hà Nội, trong đó ghi rõ: Cho đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh: Trịnh Huệ, làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, trú quán xã Bất Quần, huyện Quảng Xương... Ra lệnh khắc tên vào đá để truyền mãi mai sau. Sau đó, Trịnh Tuệ nhanh chóng được phong Đông các đại học sĩ, rồi lên tới chức Tham tụng Thượng thư bộ Hình (tước Quận Công), Năm Canh Thân (1740) chúa Trịnh Doanh lên thay chúa Trịnh Giang, ông bị nghi ngờ theo đảng phản nghịch, cùng với Hoàng Công Phụ nên phải biếm chức, bị bắt giam, rồi được thả. Ông về quê mẹ ở thôn Giáp Ngũ, xã Thịnh Liệt (nay thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội), mở trường dạy học khoảng 5 năm. Sau ông được phục hồi làm Thừa chấp chính xứ Sơn Nam, rồi thăng Tả thị lang bộ Hình. Con đường công danh của ông cũng gập ghềnh, không phát huy được hết tài năng. Cuối đời, Trạng nguyên Trịnh Huệ về mở trường dạy học ở chân núi Voi (thôn Thọ Sơn, xã Bất Quần), rồi mất năm nào không rõ. Di sản Trịnh Huệ là tác giả cuốn sách "Tam giáo", là người nhuận sắc và soạn văn một số bia hiện còn ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Bình… Đặc biệt ông cùng với Bảng nhãn Hà Tông Huân (1697 -1766) người cùng quê đã soạn văn bia: "Khánh nguyên kỳ bị ký" dựng năm Cảnh Hưng thứ 13 (1752) để ghi công tích đối với dân với nước của nhân vật có hiệu là Quy Triều hầu, khi mất được tặng phong là Đô đốc trụ quốc Thượng tướng quân, người huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đây là tấm bia khá đặc biệt, vì soạn văn là Trịnh Huệ và Hà Tông Huân, hai người đứng nhất nhì bảng Tam khôi và đều giữ chức Tể tướng! Nghi vấn được thiên vị Trịnh Huệ vốn thông minh, học giỏi, nhưng khoa thi Hội ông dự thì do một người họ Trịnh là Trịnh Diễm làm chủ khảo, đến khi thi Đình lại xảy ra một sự thay đổi khác so với những khoa thi trước, đó là việc các thí sinh thay vì vào sân rồng để vua Lê vấn thi thì lại vào sân chúa để chúa Trịnh Giang hỏi thi. Theo sử sách ghi chép, thì việc đổi thay nói trên là do Hoàng Công Phụ, viên quan trong triều đình được chúa yêu, lại chơi thân với ông Huệ, bày đặt ra. Do đó dư luận dị nghị cho rằng Trịnh Huệ không có tài mà là do có dòng dõi nhà Chúa nên mới được lấy đỗ trạng. Ông Huệ lấy làm bực tức nói với mọi người "Tôi đã nhất Tam khôi mà nói là do Vương phủ thiên vị thì còn gọi gì là văn chương nữa! Nay để khỏi nghi ngờ, trong triều ngoài nội ai có câu hỏi gì khó ở bất cứ sách vở nào về kinh sử, tả truyện, ý nho, lý số thì đem đến tôi xin trả lời hết!". Nhiều người sau đó đến hỏi đều đã được ông giải đáp. Riêng có một phụ nữ nêu ý kiến: "Chiếc đũa là vật thiêng không có chân, lúc thì gãy, lúc thì mất. Vậy nó chạy đi đâu, ở trong kinh điển nào?" Trịnh Huệ trả lời: "Không thấy ở Thanh Hóa có núi Chiếc Đũa đó sao? Nó không có chân mà chạy về gốc đấy!". Mọi người đều bái phục ông thông minh và hiểu biết rộng. Quả ở Thanh Hóa, nơi cửa biển Thần Phú, nay thuộc địa phận làng Văn Đức, xã Nga Phú, huyện Nga Sơn có ngọn núi đứng một mình tên chữ là "Chính Trợ Sơn" gọi nôm là núi Chiếc Đũa, đã có tên trong sách vở. Một số vua chúa, danh nhân nước ta có thơ đề vịnh ngọn núi này. Ví như Thiên Nam động chủ (Lê Thánh Tông) thế kỷ 15, Thượng Dương động chủ (Lê Hiến Tông) đầu thế kỷ 16, Nhật Nam nguyên chủ (Trịnh Sâm) thế kỷ 18. Có lẽ người phụ nữ hỏi về núi Chiếc Đũa nhằm thử trạng nguyên Trịnh Huệ kiến thức có thật sâu rộng không, cả kiến thức sách vở và kiến thức thực tế về núi Chiếc Đũa ở ngay tại quê hương ông. Trạng nguyên cuối cùng Khoa thi nho học Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức dưới triều Lý Nhân Tông, niên hiệu Thái Ninh thứ 4 (1075), gọi là Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển đỗ nhất, được vào hầu vua. Nhưng mãi tới triều Trần Thái Tông, niện hiệu Chính Bình thứ 16 (1247), mới đặt ra Tam khôi, gồm 3 bậc: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Qua 63 kỳ thi Đình, lẫy đỗ được 45 vị trạng nguyên và đến khoa thi năm Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) đời Lê Ý Tông, thì người đỗ trạng nguyên là Trịnh Huệ. Tuy sau khoa thi này, dưới triều Lê Trung Hưng, có gần hai chục lần thi Đình nữa, song không có ai đỗ trạng nguyên. Còn dưới triều Nguyễn, từ khoa thi Đình năm Nhâm Ngọ triều Minh Mệnh thứ 3 (1822) đến khoa thi Đình cuối cùng của chế độ khoa cử Việt Nam dưới thời phong kiến, được tổ chức vào năm Kỷ Mùi, niên hiệu Khải Định thứ tư (1919) thì không có vị trạng nguyên nào, vì triều Nguyễn chỉ lấy bảng nhãn trở xuống. Do đó Trịnh Huệ là vị trạng nguyên cuối cùng của chế độ khoa cử nước ta thời phong kiến.
Điêu khắc đá Chămpa là một loại hình điêu khắc của nghệ thuật Chămpa. Các tác phẩm điêu khắc này thường được gắn liền với các công trình kiến trúc cổ Việt Nam, tạo thành một tổng thể nghệ thuật hoàn chỉnh. Các hiện vật điêu khắc đá Chămpa quý hiếm hiện được lưu giữ tại nhiều bảo tàng ở Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới. Điêu khắc đá Chămpa có hai loại hình chính là phù điêu và tượng có chủ đề về thần voi, sư tử, chim thần Garuda, vũ nữ Apxara, thần Visnu, thần Siva...Các loại hình này thường được nhìn thấy trang trí ở thân hoặc chân tháp Chàm. Thần Indra Thường được thể hiện ở tư thế ngồi ở 2 chân xếp bằng trên một cái bệ, tay cầm một vật (có thể là lưỡi tầm sét), có một con voi đang phủ phục, là vật cưỡi của thần. Bò Nandin Là vật cưỡi của thần Shiva, thường được thể hiện dưới dạng tượng tròn và ở tư thế nằm. Theo Ấn Độ giáo thì bò Nandin tượng trưng cho phần dương tính của Shiva, thể hiện tính dục, sự sung mãn của Shiva. Đồng thời,còn tượng trưng cho nền nông nghiệp. Chim thần Garuda Là vật cưỡi của thần Visnu, có trang trí hoa văn cầu kỳ. Là kẻ thù không đội trời chung với rắn Naga. Tương truyền, tổ tiên của Garuda bi rắn Naga cắn chết. Vì thế Garuda thường ăn Naga. Do đó trong các phù điêu điêu khắc thường có hình Garuda đang nuốt Naga, chân quặp hoặc dẫm lên Naga. Sư tử Hầu hết đều được thể hiện là sư tử đực, và ở tư thế đứng hai chân. Hình tượng sư tử phổ biến trong điêu khắc đá Chămpa, nhưng tập trung nhiều ở trong cách Trà Kiệu (do Trà Kiệu là kinh đô đầu tiên của Chămpa được xây dựng với tên gọi là Sinhapura-thành phố sư tử). Thần Siva Ân Độ giáo ở Chămpa thuộc phái Siva, thường được thể hiện dưới dạng Linga để tôn thờ. Những hình tượng Siva thường được thể hiện ở dạng người (hay nhân hóa)...
Sidney Sheldon (11 tháng 2 năm 1917 – 30 tháng 1 năm 2007), là một tiểu thuyết gia người Mỹ, đoạt giải của Viện Hàn Lâm nghệ thuật Mỹ, ông còn là một kịch tác gia và một người viết kịch bản phim và chương trình truyền hình chuyên nghiệp. Tiểu sử Sheldon sinh tại Chicago, Illinois, với tên khai sinh là Sidney Schechtel, có bố là người Do Thái gốc Đức, mẹ là gốc Nga. Nhà văn người Mỹ này có 2 đời vợ. Ông sống với diễn viên Jorja Curtright Sheldon hơn 30 năm, cho tới khi bà qua đời năm 1985. Bốn năm sau, Sidney Sheldon tái hôn với Alexandra Kostoff, người từng đóng phim khi còn nhỏ và hoạt động trong ngành quảng cáo. Ông là cha của nhà văn nữ Mary Sheldon. Trải qua một tuổi thơ khốn khó và nhờ đó mà kinh nghiệm, vốn sống của ông vô cùng phong phú, là điểm tựa cho ông viết nên những bộ tiểu thuyết hay nhất và đi sâu vào lòng người. Lớn lên trong thời kỳ Đại khủng hoảng, cha mẹ ông chỉ học đến lớp ba và hầu như không đọc sách, Sheldon xem sự thành công trong viết lách của mình là một điều giống như phép lạ. Phần lớn tác phẩm của ông thuộc thể loại trinh thám, hình sự, tình cảm, và đều thuộc hàng best-seller. Các tác phẩm như Rage of Angels (Thiên thần nổi giận), The Other Side of Midnight (Phía bên kia nửa đêm), If Tomorrow Comes (Nếu còn có ngày mai)... đã làm nên tên tuổi Sheldon. Với cốt truyện ly kỳ, hồi hộp, gây thích thú, những quyển sách này đã lôi kéo khá đông độc giả đến với Sheldon. "Tôi cố gắng viết sao cho sách của mình hấp dẫn để độc giả không thể buông nó xuống", Sheldon giải thích trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1982. "Tôi cố gắng xây dựng chúng sao cho độc giả khi đọc xong một chương, họ phải đọc thêm một chương nữa". Phân tích vì sao có khá nhiều phụ nữ tìm mua sách mình, ông bình luận: "Tôi thích viết về phụ nữ, những người giỏi giang, có tài, tuy nhiên điều quan trọng nhất là họ vẫn giữ được nữ tính". Không như nhiều nhà viết tiểu thuyết khác cần cù bên máy đánh chữ hoặc máy vi tính, Sheldon đọc cho một thư ký viết hoặc ghi âm mỗi ngày 50 trang. Ngày hôm sau ông sửa các trang viết, tiếp tục công việc cho đến khi có được 1.200-1.500 trang viết. "Sau đó tôi viết lại 12-15 lần. Có khi tôi mất cả năm để viết lại", ông kể. Sheldon bắt đầu viết lách tại Chicago, nơi ông chào đời ngày 11-2-1917. Năm lên 10, ông "kinh doanh" tác phẩm đầu tiên, một bài thơ, và được trả 10 USD. Ông đã xuất bản 18 tiểu thuyết, bán ra đến 300 triệu bản, và là tác giả sách nổi bật nhất trong nhiều thập kỷ. Các bản dịch tác phẩm sang 71 ngôn ngữ ở 180 quốc gia giúp ông được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là "tác giả được dịch nhiều nhất thế giới". Tuy nhiên, trước khi sự nghiệp văn chương khởi sắc ở độ tuổi ngũ tuần, tác giả gốc Chicago này đã để lại dấu ấn trong làng điện ảnh truyền hình Hollywood và sân khấu kịch Broadway. Đặt chân đến Los Angeles năm 17 tuổi, Sheldon khởi nghiệp bằng công việc đọc kịch bản tại những xưởng phim lớn. Đến năm 25, ông có 3 nhạc kịch thành công lớn tại Broadway. 5 năm sau, vào năm 1948, ông nhận giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất trong phim The Bachelor and the Bobby Soxer (với sự diễn xuất của hai ngôi sao Cary Grant và Myrna Loy). Đây là thành công rực rỡ nhất của ông. Ông còn đoạt giải Tony Award cho vở nhạc kịch Rehead (1957) nổi tiếng của sân khấu kịch Broadway và giải Emmy cho Dream of Jeannie (1967). Là người viết kịch bản phim cho cả MGM và Paramount Pictures, Sheldon tiếp tục cho ra đời 25 kịch bản phim gồm Easter Parade (do Judy Garland và Fred Astaire thủ vai chính), Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes (có sự góp mặt của Bing Crosby). Năm 1963, ông chuyển sang ngành công nghiệp truyền hình còn non trẻ bằng việc biên kịch cho chương trình The Patty Duke Show. Tiếp tục vào năm 1964, ông sáng tác, sản xuất và biên kịch chương trình thành công vang dội lúc bấy giờ I Dream of Jeannie. Năm 2005, ông viết quyển tự truyện The Other Side of Me, trong đó có đưa ra một cái nhìn thoáng qua hiếm hoi về cuộc đời các ngôi sao như Grant, Garland. Ông qua đời tại bệnh viện Eisenhower ở thành phố Rancho Mirage thuộc bang California, Hoa Kỳ và thọ 89 tuổi. Ước tính tổng tài sản sau khi qua đời của Sidney Sheldon là 3 tỷ USD. Các tác phẩm của Sidney Sheldon Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Người đàn bà quỷ quyệt If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes Chú thích
Uông Chu Lưu (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1955) là một Tiến sĩ Luật học, chính khách Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Uông Chu Lưu quê quán ở xã Xuân Trường (nay là xã Đan Trường), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, người Việt. Ông hiện cư trú tại quận Ba Đình, thủ đô Hà Nội. Giáo dục Giáo dục phổ thông: 10/10 Cử nhân Luật Tiến sĩ luật Sự nghiệp Ngày 3 tháng 12 năm 1983, Uông Chu Lưu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam (chính thức ngày 3 tháng 12 năm 1984). Ông Uông Chu Lưu từng là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, XI và XII. Năm 2001, ông Uông Chu Lưu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 9 (2001 – 2006). Từ ngày 12 tháng 8 năm 2002 đến ngày 23 tháng 7 năm 2007, ông Uông Chu Lưu là Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam. Ông Uông Chu Lưu là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11 (2002 – 2007) tỉnh Sóc Trăng kiêm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa 12 Ông Uông Chu Lưu là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 nhiệm kì 2007-2011 tỉnh Sóc Trăng (đại biểu chuyên trách trung ương). Ngày 23 tháng 7 năm 2007, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa 12, Ông Uông Chu Lưu được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa 12 với tỷ lệ số phiếu thuận gần 94%. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa 13 Ngày 22 tháng 5 năm 2011, Ông Uông Chu Lưu trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016 tại tỉnh Thanh Hóa với tỉ lệ số phiếu thuận trên 83% (đại biểu chuyên trách trung ương). Ngày 3 tháng 1 năm 2012, Ông Uông Chu Lưu được Quốc hội Việt Nam khóa 13 bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 26 tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông tiếp tục được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12 nhiệm kì 2016 – 2021. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 Ngày 22 tháng 5 năm 2016, Ông Uông Chu Lưu trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016 – 2021 tại tỉnh Thanh Hóa. Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa 14 Sáng ngày 22 tháng 7 năm 2016, Ông Uông Chu Lưu được Quốc hội Việt Nam khóa 14 bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa 14 với tỉ lệ tán thành là 96,76% (tổng số đại biểu: 494, tán thành: 478, không tán thành: 12, phiếu trống: 4). Tại kì họp thứ 5 năm 2018, về dự án Luật Đơn vị Hành chính – Kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc (gọi là các đặc khu), ông cho rằng cần thiết phải có nhiều ưu đãi dành cho các đặc khu như thời hạn cho thuê đất 99 năm nhằm “dọn chỗ để hút phượng hoàng”. ông Uông Chu Lưu cho biết dự án Luật Đặc khu là chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam mà ông là thành viên cao cấp. Ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại kỳ họp thứ mười một Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc miễn nhiệm Phó Chủ tịch Quốc hội đối với ông Uông Chu Lưu, sau đó ông sẽ nghỉ hưu theo chế độ. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Bạc Liêu là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam. Thành phố nằm ở phía đông tỉnh Bạc Liêu, bên bờ rạch Bạc Liêu. Trung tâm thành phố cách biển 10 km và là trung tâm hành chính và đầu mối giao lưu trong và ngoài tỉnh, cơ cấu kinh tế của thành phố là thương mại - dịch vụ - công nghiệp và nông nghiệp. Hiện nay, thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II. Địa lý Thành phố Bạc Liêu nằm ở vị trí địa lý từ 9o16’05’’ vĩ độ Bắc 105o45’06’’ kinh độ Đông. Thành phố Bạc Liêu nằm ở phía đông tỉnh Bạc Liêu, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 288 km, cách thành phố Cần Thơ khoảng 110 km có vị trí địa lý: Phía đông giáp thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng Phía tây giáp huyện Hoà Bình Phía nam giáp Biển Đông Phía bắc và tây bắc giáp huyện Vĩnh Lợi. Địa hình Thành phố Bạc Liêu có địa hình tương đối bằng phẳng và thấp, hướng nghiêng chính từ Tây Bắc xuống Đông Nam, cao độ trung bình khoảng 0,2 đến 0,8 m, độ dốc trung bình 1–1,5 cm/km. Trên địa bàn thành phố có nhiều ao, hồ, khu vực đất ruộng và đầm nuôi tôm có nhiều mương rạch chia cắt, nên rất thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Địa hình chính chia thành hai khu vực như sau: Khu vực phía Bắc Quốc lộ 1 địa hình thấp (cao trung bình 0,2–0,3 m). Dạng địa hình như trên rất thuận lợi trong việc tận dụng nước thủy triều để tiêu thoát nước, nhưng cũng tạo thành những vùng trũng đọng nước chua phèn gây khó khăn cho canh tác nông nghiệp. Khu vực phía Nam Quốc lộ 1 có địa hình cao hơn (cao trình 0,4–0,8 m), do có những giồng cát biển không liên tục tạo nên khu vực có địa hình cao ven biển hướng nghiêng thấp dần từ biển vào nội địa. Nhìn chung, với địa hình bằng phẳng, không chênh lệch quá lớn về độ cao, thành phố Bạc Liêu có nhiều thuận lợi trong việc phát triển các ngành thuộc các lĩnh vực như: phát triển công nghiệp thương mại, dịch vụ–du lịch, sản xuất nông nghiệp nhất là nuôi trồng thủy sản. Khí hậu Thành phố nói riêng và tỉnh Bạc Liêu nói chung mang đặc thù chung của khí hậu gió mùa cận xích đạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long và những đặc trưng riêng khu vực Bán đảo Cà Mau. Các yếu tố khí hậu phân thành hai mùa rõ rệt trong năm là mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ: Nền nhiệt của thành phố bình quân cao đều trong năm, trung bình là 26,6°C. Nhiệt độ trung bình cao nhất là 29,8°C và thấp nhất là 24,9°C. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa khô là 26–28°C, các tháng mùa mưa là 24–26°C. Biên độ nhiệt giữa các tháng không đáng kể, chỉ từ 1–2°C, nhưng biên độ nhiệt giữa ngày và đêm khá lớn (mùa khô từ 8–10°C, mùa mưa từ 6–7°C), yếu tố nhiệt độ này thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển. Mưa: Chế độ mưa được phân hoá thành 2 mùa rõ rệt, sự thay đổi lượng mưa giữa các tháng trong năm tương đối phức tạp nhưng mức độ biến động không lớn, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 với lượng mưa chiếm tới 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình năm là 1.874,4 mm, phân bố không đều theo thời gian ngay cả trong các tháng của mùa mưa, lượng mưa tập trung chủ yếu ở các tháng 8–10 với lượng mưa từ 235 đến 260 mm, có tháng mưa trên 265 mm. Số ngày mưa trung bình khoảng 110–120 ngày/năm. Lượng mưa đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp và một phần cho sinh hoạt, tuy nhiên lượng mưa tập trung lớn, kéo dài cũng làm giảm độmặn ảnh hưởng xấu đến vùng nuôi tôm, giảm tiến độ đầu tư xây dựng cơ bản, tăng chi phí đầu tư xây dựng. Nắng: Số giờ nắng trung bình là 6,6 giờ/ngày, độ ẩm trung bình đạt 85,0%. Tổng tích ôn từ 9.750°C đến 9.850°C, thời gian chiếu sáng kéo dài bình quân 2.202 giờ/năm, tổng lượng bức xạ trung bình năm khoảng 4,46 kcal/cm²/năm. Lượng nước bốc hơi trung bình hàng năm là 1.233 mm, các tháng có lượng bốc hơi lớn nhất là các tháng mùa khô (694 mm, bằng 56% lượng bốc hơi cả năm). Độ ẩm không khí trung bình đạt 85% và trong các tháng mùa khô 79–80%. Gió: Trong năm thường xuất hiện 3 hướng gió chính, tốc độ gió bình quân đạt khoảng 3–3,5 m/s, mùa khô có gió mạnh đạt 8–9 m/s. Gió Đông Nam khô và nóng thường xuất hiện từ tháng 1 đến tháng 4; gió Tây Nam thổi từ biển vào mang theo nhiều hơi nước thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 10; còn gió Đông Bắc khô và lạnh thường xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 12. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển năng lượng điện gió trên địa bàn tỉnh. Nhìn chung, với nền nhiệt cao và đều trong năm, nhiều nắng, mưa theo mùa và không có bão, điều kiện khí hậu của Bạc Liêu khá thuận lợi cho việc phát triển các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Thủy văn Chế độ thủy văn của thành phố phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông (biên độ triều khoảng 2,8–2,9 m), đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp cùng các yếu tố: chế độ mưa, gió, đặc điểm địa hình và thủy triều. Từ khi hoàn thành các cống ngăn mặn dọc theo Quốc lộ 1, do quy mô diện tích truyền triều bị thu hẹp, mức ngập triều ở vùng Nam Quốc lộ 1 nói chung và thành phố Bạc Liêu nói riêng cao hơn trước, tạo thuận lợi cho việc dẫn nước mặn vào các khu vực nuôi tôm, làm muối. Lượng phù sa khá cao làm cho hệ thống kênh rạch và các vùng nuôi tôm bị bồi lắng nhanh, nên công tác chủ động điều tiết thủy lợi gặp nhiều khó khăn. Trong những năm gần đây, do hệ thống đê và cống ngăn mặn khá hoàn chỉnh dọc theo Quốc lộ 1 và sông Bạc Liêu nên tình trạng xâm nhập mặn đã giảm đáng kể ở khu vực phía Bắc. Hiện nay, khả năng điều tiết nguồn nước mặn - ngọt đang từng bước được cải thiện để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên cả hai vùng phía Bắc và Nam Quốc lộ 1, kênh Bạc Liêu - Cà Mau theo hướng quy hoạch chuyển đổi sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh (gồm cả thành phố Bạc Liêu). Trong mùa khô, độ mặn nước sông và nước trong các ruộng tôm tăng cao, thường ở những vùng cửa sông nước có độ mặn cao hơn, càng sâu vào trong nội đồng độ mặn càng giảm. Vào mùa mưa, độ mặn giảm nhanh cả nước sông và trong các đầm nuôi tôm. Do đó, một số tiểu vùng ở các xã ngoại thị và các phường 7, 8 có điều kiện rửa mặn, giữ ngọt tốt có thể sản xuất luân canh một vụ lúa trên đất nuôi tôm trong mùa mưa. Thời gian tới, để giải quyết việc cung cấp và thoát nước tốt cho nuôi trồng thủy sản, thành phố cần quan tâm đầu tư nạo vét hệ thống thủy nông và đê bao hoàn chỉnh để chủ động điều tiết nguồn nước, phục vụ tốt cho canh tác và nuôi trồng thủy, hải sản. Hệ thống sông ngòi TP. Bạc Liêu có nhiều sông, kênh, rạch như: sông Bạc Liêu, kênh 30-4,... đáp ứng được nguồn cung cấp nước cho hoạt động nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và tiêu, thoát nước trong khu vực đô thị. Xâm nhập mặn do tác động trực tiếp của chế độ bán nhật triều không đều của biển Đông. Trong những năm gần đây, do hệ thống đê và cống ngăn mặn khá hoàn chỉnh dọc theo Quốc lộ 1 và sông Bạc Liêu nên tình trạng xâm nhập mặn đã giảm đáng kể ở khu vực phía Bắc. Hiện nay, khả năng điều tiết nguồn nước mặn - ngọt đang từng bước được cải thiện để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên cả hai vùng phía Bắc và Nam Quốc lộ 1, kênh Bạc Liêu - Cà Mau theo hướng quy hoạch chuyển đổi sản xuất trên địa bàn toàn tỉnh (gồm cả thành phố Bạc Liêu). Trong mùa khô, độ mặn nước sông và nước trong các ruộng tôm tăng cao, thường ở những vùng cửa sông nước có độ mặn cao hơn, càng sâu vào trong nội đồng độ mặn càng giảm. Trái lại vào mùa mưa, độ mặn giảm nhanh (cả nước sông và trong các đầm nuôi tôm). Do đó, một số tiểu vùng ở các xã ngoại thị và các phường 7, 8 có điều kiện rửa mặn, giữ ngọt tốt có thể sản xuất luân canh một vụ lúa trên đất nuôi tôm trong mùa mưa. Tài nguyên đất Theo số liệu thống kê đất đai năm 2020, thành phố Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 21.371,61 ha, chiếm 8% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Bạc Liêu. Tài nguyên đất trên địa bàn thành phố Bạc Liêu có 3 nhóm chính với 8 loại đất như sau: 1. Nhóm đất cát: Có diện tích 1.555 ha, chiếm 10,08% diện tích tự nhiên của thành phố, phân bố chủ yếu nơi địa hình trung bình–cao, có khả năng tiêu thoát nước, tập trung chủ yếu ở xã Vĩnh Trạch Đông và phường Nhà Mát với 2 loại đất như sau: Đất cát giồng (Cz) có diện tích 363 ha, chiếm 2,36% diện tích tự nhiên của thành phố. Đất cát biển (C) có diện tích 1.192 ha, chiếm 7,76% diện tích tự nhiên của thành phố. Nhóm đất cát có trên địa bàn thành phố Bạc Liêu chiếm tỷ lệ nhỏ, độ phì thấp, thành phần cơ giới nhẹ, điều kiện tưới tiêu tương đối thuận lợi, thích hợp cho cây ăn trái (nhãn,...), cây lâu năm hoặc trồng xen các loại cây rau màu. 2. Nhóm đất mặn: Có diện tích 9.606 ha, chiếm 62,25% diện tích tự nhiên của thành phố. Đất mặn được hình thành và phát triển trên các trầm tích biển, sông biển hỗn hợp và trầm tích biển–đầm lầy, tuổi Holocence. Đất chịu ảnh hưởng mặn của nước biển do thủy triều hoặc do mao dẫn đưa muối từ các tầng đất phía dưới lên bề mặt. Trên địa bàn thành phố Bạc Liêu nhóm đất mặn được phân chia ra các đơn vị đất sau: Đất mặn nặng và mặn thường xuyên: Có diện tích 1.738 ha, chiếm 11,26% tổng diện tích tự nhiên, phân bố sau đê biển ở các xã, phường ven biển của thành phố. Đất bị mặn thời kỳ dài trong năm với độ mặn cao do thủy triều hoặc do đưa nước mặn vào làm muối và không thích hợp cho canh tác nông nghiệp. Hướng sử dụng thích hợp là nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ, trồng rừng phòng hộ với các loại cây chịu mặn như mắm, đước. Ngoài khu vực rừng phòng hộ ven biển ra, nên bố trí cho nuôi tôm hoặc kết hợp mô hình tôm rừng; ở những khu vực sâu trong nội đồng nếu có điều kiện ngăn mặn, ngọt hóa, đất cũng thích hợp cho chuyên canh lúa hoặc lúa - cá. Đất mặn trung bình: có diện tích 732,63 ha, chiếm 4,75% tổng diện tích tự nhiên thành phố, phân bố ở nơi có địa hình thấp ven sông, rạch. Đất thường có nền cứng, ổn định, nhiễm mặn trung bình vào mùa khô. Tầng đất mặt ảnh hưởng mặn đã được giảm đáng kể do hệ thống đê bao ngăn mặn và được rửa mặn vào mùa mưa, do đó vẫn thích hợp cho canh tác các loại cây trồng nông nghiệp và lúa, nhất là vào mùa mưa. Trong canh tác nông nghiệp trên đất mặn trung bình cần chú ý các biện pháp tăng cường ngăn mặn, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai bão lũ làm nước mặn có thể tràn vào đồng ruộng làm chết cây. Đất mặn ít: có diện tích lớn nhất trong nhóm đất mặn với 7.135 ha, chiếm 46,24% tổng diện tích tự nhiên thành phố. Hàm lượng dinh dưỡng trong đất khá, chỉ bị nhiễm mặn vào mùa khô trong thời gian ngắn nên thích hợp cho trồng lúa và rau màu các loại. 3. Nhóm đất phèn: Đất phèn có diện tích 2.843 ha, chiếm 18,42% diện tích tự nhiên của thành phố, tập trung ở địa hình thấp, có các đơn vị đất như sau: Đất phèn tiềm tàng: có diện tích là 777 ha, chiếm 5,04% tổng diện tích toàn thành phố, được phân bố ở các xã Hiệp Thành, Vĩnh Trạch Đông và các phường Nhà Mát, phường 2, phường 5 và phường 8. Có 3 loại trong đất phèn tiềm tàng: Đất phèn tiềm tàng - mặn thường xuyên dưới rừng ngập mặn: Loại đất này chịu ảnh hưởng của hai yếu tố phèn và mặn nặng nên không có khả năng canh tác nông nghiệp. Hướng sử dụng đất chủ yếu là tập trung cho nuôi trồng thủy sản, trồng rừng phòng hộ hoặc làm muối. Đất phèn tiềm tàng– mặn nặng: tập trung chủ yếu ở phần ven biển của thành phố, đất có độ phì tiềm tàng khá cao. Đất bị nhiễm mặn không nặng, tính chất vật lý của đất đã tương đối thuần thục và phát triển xuống sâu, nền đất khá ổn định nên thuận lợi cho sử dụng đất vào mục đích trồng trọt nông nghiệp. Hướng sử dụng thích hợp là tiếp tục canh tác các loại cây trồng nông nghiệp (đặc biệt là lúa 1 vụ mùa mưa), hoặc nuôi trồng thủy sản nước lợ. Đất phèn tiềm tàng–mặn trung bình và ít: Loại đất này thường phân bố ở địa hình thấp trũng và sâu trong nội địa do đó dễ bị ảnh hưởng bởi nước chua phèn trong kênh rạch từ các nơi khác dồn xuống, vì vậy đòi hỏi điều kiện đủ nước ngọt tưới vào mùa khô và tiêu thoát nước phèn nhanh vào đầu mùa mưa. Hướng sử dụng đất thích hợp là tiếp tục canh tác nông nghiệp kết hợp nuôi thủy sản hoặc nuôi trồng thủy sản nước lợ (tôm sú). Đất phèn hoạt động: Có diện tích 1.542 ha, chiếm 9,99% diện tích tự nhiên toàn thành phố. Do hệ thống đê bao ngăn mặn và kênh tưới tiêu nội đồng được phát triển tốt trong những năm qua nên mức độ ảnh hưởng của nước mặn đối với đất phèn hoạt động đã giảm đáng kể, nhiều khu vực đã thoát khỏi ảnh hưởng của nước mặn. Tuy nhiên, trong khi các yếu tố mặn giảm xuống thì độc tố phèn là một hạn chế lớn đối với cây trồng canh tác trên loại đất này. Đất phèn hoạt động là loại đất xấu, do đất có phản ứng rất chua và chứa nhiều muối tan. Để khai thác và sử dụng có hiệu quả loại đất này cần chủ động nguồn nước ngọt để rửa muối và ém phèn, bón vôi và các loại phân có tính kiềm để cải tạo độ chua của đất. Có thể canh tác nông nghiệp, trồng lúa 1, 2 vụ hoặc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày với các giống chịu phèn như khóm, mía,... và các loại rau màu thích hợp khác, kết hợp với nuôi cá hoặc thủy sản nước ngọt và nước lợ. Đất phèn bị thủy phân: có diện tích 524 ha, chiếm 3,40% tổng diện tích đất tự nhiên của thành phố. Các loại đất phèn bị hạn chế bởi các yếu tố chua phèn hoặc chịu đồng thời cả yếu tố phèn và mặn, do đó thường có diễn biến nhanh theo chiều hướng bất lợi. Vì vậy, trong sử dụng và cải tạo đất cần chú ý để hạn chế tối đa những ảnh hưởng bất lợi này. Hướng sử dụng đất thích hợp là canh tác lúa 2 vụ hoặc xen canh màu ở các vùng ít hoặc không bị ảnh hưởng mặn. Các loại cây công nghiệp ngắn ngày chịu phèn như khóm, mía,... cũng thích hợp đối với loại đất phèn. Tuy nhiên cần chú ý đến độ sâu xuất hiện của tầng phèn kết hợp với các biện pháp cải tạo đất phù hợp để tránh đưa tầng đất sinh phèn bên dưới lên trên mặt đất, gây độc cho cây trồng. Ngoài các loại đất nêu trên, Bạc Liêu còn có khoảng 5.941,11 ha diện tích không điều tra chủ yếu đất sông, rạch, kênh, mương chiếm 27,79% tổng diện tích tự nhiên, cung cấp lượng nước mặt khá tốt cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt hằng ngày của người dân. Thực tế cho thấy, nền thổ nhưỡng trên địa bàn thành phố Bạc Liêu tuy còn những hạn chế, nhưng trên phương diện tổng thể thì đất đai của thành phố tương đối tốt, thích hợp cho việc đầu tư phát triển nông nghiệp lẫn phi nông nghiệp. Tài nguyên nước Nước mặt: Nguồn nước mặt trên địa bàn thành phố Bạc Liêu chia làm hai khu vực sau: Khu vực Bắc kênh Bạc Liêu - Cà Mau và Quốc lộ 1: nhờ thực hiện hệthống thủy lợi trong dự án Quản Lộ - Phụng Hiệp nên khả năng tưới nước ngọt khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Khu vực Nam Quốc lộ 1 và kênh Bạc Liêu–Cà Mau: trong mùa khô tất cả các kênh rạch đều bị nhiễm mặn, với độ mặn cao (15–30‰), thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản và làm muối, trong mùa mưa độ mặn còn ở mức 5–15‰ vẫn thích hợp cho nuôi trồng thủy sản. Chất lượng nước mặt (sông rạch, ao, hồ, nước mưa) cũng diễn biến theo mùa. Lượng nước mưa trên địa bàn tỉnh tập trung 90% vào mùa mưa, do đó mùa mưa nước ngọt chiếm ưu thế, tuy nhiên vào đầu và cuối mùa mưa nước thường bị chua phèn. Mùa khô nước thường bị ảnh hưởng bởi tình trạng xâm nhập mặn. Nguồn nước mặt hiện nay được xem là nguồn nước chủ lực phục vụ tưới cho hầu hết diện tích gieo trồng của thành phố. Ngoài việc sử dụng nguồn nước mặt cho sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực sản xuất khác, nguồn nước mặt còn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu cho các hộ dân, cho các nhà máy chế biển thủy sản, nuôi trồng thủy sản,... Nước mặn: Đây là nguồn nước được đưa vào từ biển hoặc được pha trộn với nguồn nước mưa. Nước mặn không thích hợp đối với cây, con nước ngọt, ngược lại nước mặn lại là nguồn tài nguyên quý giá để phát triển nuôi trồng thủy sản, làm muối, phát triển rừng ngập mặn,... Trên thực tế ngành thủy sản đã và đang là ngành kinh tế mũi nhọn có những đóng góp lớn cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu nói chung và thành phố Bạc Liêu nói riêng trong những năm vừa qua. Nước ngầm: Nguồn nước ngầm trên địa bàn thành phố khá phong phú với 4 phức hệ thủy văn chứa nước ở các mức độ khác nhau: Phức hệ chứa nước trầm tích Holoxen: là phức hệ chứa nước ngầm có mặt thoáng tự do, chiều dày trầm tích thay đổi từ 40–70 m, trữ lượng nhỏ, chất lượng không đảm bảo tiêu chuẩn nước sinh hoạt về mặt vi sinh. Phức hệ chứa nước lỗ hổng trầm tích Pleistoxen: là phức hệ chứa nước thuộc dạng lỗ hổng, độ sâu từ 80–150 m, trữ lượng nước thay đổi theo từng khu vực với tổng trữ lượng khoảng 716.440 m³/ngày, chất lượng nước tốt. Đây là tầng có trữ lượng nước lớn nhất nhưng do phân bố không đều nên chỉ thích hợp cho khai thác quy mô nhỏ và phải thăm do kỹ trước khi khai thác. Phức hệ chứa nước vỉa lỗ hổng trầm tích Plioxen: chiều dày trầm tích thay đổi từ 130–180 m, trữ lượng nước phong phú với tổng trữ lượng khoảng 361.300 m³/ngày nhưng do nước có độ khoáng hóa cao (1,28–9,40 mg/l), có khi lên tới 21,56 mg/l nên không đủ tiêu chuẩn nước sinh hoạt cho thành phố. Phức hệ chứa nước vỉa lỗ hổng trầm tích Mioxen: chiều dày trầm tích thay đổi từ 450–500 m với tổng trữ lượng nước khoảng 273.600 m³/ngày. Đây là tầng nước có áp lực mạnh, độ khoáng hóa cao (1,49–3,92 mg/l), nhiệt độ cao (39–40°C), có triển vọng khai thác nước khoáng. Tài nguyên sinh học Theo thống kê, toàn tỉnh Bạc Liêu có có 78 loài thực vật thuộc 38 họ, chủ yếu là cây đước (Rhizophoraceae), vẹt (Bruquiera), mấm (Avicennia marina), dà (Ceriops); động vật có 3 loài thú, 8 loài bò sát và lưỡng cư, 80 loài chim đầm lầy (chim nước), 25 loài tôm và 258 loài cá nước mặn,... Bên cạnh đó, toàn tỉnh hiện có 2 vườn chim do nhà nước quản lý và các vườn chim tư nhân quản lý, phân bố tại huyện Phước Long, Đông Hải và thị xã Giá Rai với đa dạng sinh học phong phú. Trong khi đó, tài nguyên sinh học khu vực thực hiện dự án chia làm 2 vùng đặc trưng: Vùng nội ô thành phố Bạc Liêu: bao gồm các phường 1, 2, 3, 5, 7, 8. Đây là các phường có tốc độ đô thị hóa cao nên hệ sinh thái mang tính đặc trưng của hệ sinh thái đô thị. Tính đa dạng của hệ sinh thái này khá nghèo nàn, chỉ bao gồm các loại động thực vật do con người trồng trọt và nuôi thả. Cụ thể tại khu vực thực hiện các hạng mục đầu tư của dự án, hệ sinh thái trên cạn chủ yếu bao gồm các động vật nuôi trong nhà như chó, mèo, gà cùng các loại cây ăn trái (dừa nước, đu đủ,...), dây leo (rau muống, mướp,...), cây lấy bóng mát (tre, gòn,...) và một số dạng cây bụi như chó đẻ, khoai môn tía, bèo cái, cỏ lác, cỏ dại. Hệ sinh thái dưới nước cũng không mang tính đa dạng do các kênh rạch bị ô nhiễm. Các loài thực vật thủy sinh bao gồm: rau muống (do người dân canh tác), bèo tây, lục bình,... và trắm đen, rô phi, cá mè; loài giáp xác như tôm, cua; động vật thân mềm cùng một số loài nhuyễn thể là các động vật thủy sinh phát hiện trong môi trường nước kênh Xáng. Vùng ngoại ô thành phố Bạc Liêu bao gồm xã Hiệp Thành và phường Nhà Mát. Hệ sinh thái tại khu vực này mang tính đa dạng hơn. Loài thực vật chiếm ưu thế là cây đước (Rhizophoraceae), vẹt (Bruquiera), mấm (Avicennia marina). Đây là các loài thực vật đặc trưng cho vùng ngập nước. Động vật cũng thích nghi với các điều kiện này như chim nước, tôm và cá nước mặn. Tài nguyên khoáng sản Trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu nói chung, thành phố Bạc Liêu nói riêng hầu như không có các loại tài nguyên khoáng sản có giá trị kinh tế và trữ lượng để đảm bảo khai thác công nghiệp. Chỉ có vài loại khoáng sản vật liệu xây dựng với trữ lượng không lớn như cát san lấp, sét, gạch ngói, sa khoáng,... Tài nguyên rừng Tổng diện tích đất lâm nghiệp của thành phố năm 2020 là 557,60 ha, chiếm 2,61% tổng diện tích tự nhiên, trong đó chủ yếu là rừng trồng phòng hộ ven biển là 434,89 ha. Rừng phòng hộ của thành phố Bạc Liêu phát triển dọc theo 12,50 km bờ biển với chiều rộng trung bình khoảng 500 m, tập trung chủ yếu ở xã Vĩnh Trạch Đông, xã Hiệp Thành và phường Nhà Mát. Quy mô diện tích rừng ở Bạc Liêu tuy không lớn nhưng có vai trò rất quan trọng nên được xếp vào loại rừng “phòng hộ rất xung yếu”. Thực tế những năm qua đã chứng minh, rừng phòng hộcó tác dụng rất lớn đối với việc chắn sóng, chắn gió bảo vệ đê và vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản phía trong đê. Ngoài diện tích rừng phòng hộ ven biển, thành phố Bạc Liêu có vườn chim Bạc Liêu nằm trong diện tích đất rừng đặc dụng. Nhiều loại cây ở vườn chim có nguồn gốc từ rừng ngập mặn ven biển, quá trình bồi đắp và lấn biển làm cho khu rừng ngày càng ở sâu trong nội địa và trở thành nơi cư trú của rất nhiều loài chim và các động vật khác. Ngoài ý nghĩa quan trọng về bảo vệ cảnh quan môi trường, bảo tồn nguồn gen, rừng đặc dụng của sân chim Bạc Liêu còn là nơi hấp dẫn đối với khách du lịch và các nhà nghiên cứu khoa học. Tài nguyên biển Thành phố Bạc Liêu có 12,5 km bờ biển với vùng lãnh hải và thềm lục địa trải rộng. Vùng bãi triều là khu vực sinh sản của động vật hai mảnh vỏ như nghêu, sò,... Thành phố có cửa kênh 30/4 thông ra biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cảng cá và khu neo đậu tàu trú bão. Theo tài liệu, số liệu điều tra, vùng biển của thành phố Bạc Liêu nói riêng và tỉnh nói chung có hệ sinh thái đa dạng với trữ lượng hải sản lớn, phong phú về chủng loại với trên 600 loài cá, 33 loài tôm và hàng trăm loại mực cùng động vật nhuyễn thể khác. Nhiều loại hải sản có trữ lượng lớn và có giá trị kinh tế cao như: tôm, cá hồng, cá gộc, cá sao, cá thu, cá chim, cá đường,... Theo kết quả khảo sát của ngành thủy sản, trữ lượng cá, tôm của khu vực này vào khoảng 250 nghìn tấn, hàng năm có thể khai thác 50–60 nghìn tấn. Khu vực nước lợ ven biển tạo thành vùng sinh thái đặc thù có tiềm năng cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Ngoài nguồn lợi thủy sản, biển còn cung cấp lượng muối quan trọng cho công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Vào mùa khô, độ mặn nước biển lên tới 30‰, năng suất muối đạt 10–15 tấn/ha. Ngoài ra nguồn nước biển cũng là tài nguyên quý cho sự phát triển rừng phòng hộ ven biển. Trong những năm qua, nhờ khai thác hợp lý tài nguyên biển và ven biển, kinh tế thủy sản đã trở thành ngành mũi nhọn xuất khẩu và là động lực thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu nói chung và của thành phố nói riêng. Hành chính Thành phố Bạc Liêu có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 7 phường: 1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát và 3 xã: Hiệp Thành, Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông với 49 khóm và 18 ấp. Lịch sử Thời Pháp thuộc Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn Nam Kỳ, trong đó có hạt tham biện Bạc Liêu đổi thành tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu đặt tại làng Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi. Thời Pháp thuộc, làng Vĩnh Lợi vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi và là tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu. Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thị xã Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho trực thuộc các tỉnh cùng tên gọi. Các thị xã này đều có Ủy ban thị xã, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Thị xã Bạc Liêu lúc đó được thành lập trên phần đất làng Vĩnh Lợi. Đất miền Hậu Giang trù phú nên có nhiều phú nông. Dưới thời Pháp thuộc, nhiều gia đình hạng cự phú có con cái ăn tiêu phóng khoáng "thả cửa" nên danh từ "công tử Bạc Liêu" đã xuất hiện để chỉ giới dân chơi giàu có miền Lục tỉnh. Giai đoạn 1956-1975 Việt Nam Cộng hòa Ngày 28 tháng 8 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Dụ số 50 về việc bãi bỏ quy chế thị xã. Theo quyết định này, bãi bỏ Dụ số 13 ban hành ngày 30 tháng 5 năm 1954 về quy chế thị xã. Những thị xã hiện đặt dưởi quy chế trên, từ nay sẽ theo chế độ thôn, xã và được quản tri bởi một ủy ban hành chính do tỉnh trường bồ nhiệm. Theo đó, giải thể thị xã hỗn hợp Bạc Liêu. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 143-NV để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Ba Xuyên được thành lập trên cơ sở hợp nhất phần đất tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Bạc Liêu trước đó, tỉnh lỵ đặt tại Sóc Trăng nhưng lúc này lại bị đổi tên là "Khánh Hưng". Như vậy, lúc này tỉnh Bạc Liêu đã bị giải thể, đồng thời xã Vĩnh Lợi chỉ còn đóng vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi. Bạc Liêu thời Pháp thuộc rất sung túc, dân cư đông đảo, nổi tiếng là xứ ăn xài, lắm khách hào hoa phong nhã, chợ búa mua bán phồn thịnh, nền kinh tế dồi dào. Cho đến khi chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chánh, tỉnh Bạc Liêu bị sáp nhập vào tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng cũ) trước kia thịnh vượng đông đảo bao nhiêu, bây giờ lại hóa ra u trệ bấy nhiêu. Vì bỗng dưng bị thu hẹp lại thành một quận là quận Vĩnh Lợi, trọn 9 năm châu thành Bạc Liêu lâm vào cảnh vắng vẻ, nền kinh tế bị sụp đổ, du khách có dịp đi ngang qua cảm tưởng cho là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá. Suốt 9 năm dưới thời chính quyền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bạc Liêu từ một tỉnh phát triển mạnh ngày nào dưới thời Pháp thuộc thì giờ đây bị thu hình lại chỉ thành một quận lỵ nhỏ (tức quận Vĩnh Lợi). Thời Pháp thuộc, Cà Mau ngày nào chỉ là một quận lỵ nhỏ hơn nhiều tỉnh lỵ Bạc Liêu thì lúc này, Bạc Liêu lại trở thành quận lỵ Vĩnh Lợi nhỏ hơn cả tỉnh lỵ Quản Long (tức Cà Mau cũ). Do không nghiên cứu kỹ, nhắm mục đích tuyên truyền chính trị hơn là nghĩ đến lợi ích thiết thực của đại đa số quần chúng nhân dân, chính quyền Ngô Đình Diệm đã động phạm đến luật tự nhiên. Rốt cuộc thì vẫn phải trở về đường cũ. Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 254/NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở tách các quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu của tỉnh Ba Xuyên và quận Phước Long của tỉnh Chương Thiện và thị xã Bạc Liêu có dân số lúc đó khoảng 40.000 người, mật độ trung bình 825 người/km². Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu khi đó lại có tên là Vĩnh Lợi, do lấy theo tên xã Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi là nơi đặt tỉnh lỵ. Trong giai đoạn 1964-1975, xã Vĩnh Lợi vẫn tiếp tục giữ hai vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi và là tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu như thời Pháp thuộc. Chính quyền Cách mạng Ngày 13 tháng 11 năm 1948, cắt hai làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi của quận Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu. Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa thị xã Bạc Liêu giao về tỉnh Sóc Trăng quản lý. Tháng 6 năm 1953, giải thể thị xã Bạc Liêu để thành lập thành lập huyện Châu Thành – Vĩnh Lợi. Trong gia đoạn 1964 – 1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý, vì vậy thị xã Bạc Liêu lúc này vẫn thuộc tỉnh Sóc Trăng. Tháng 11 năm 1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, lúc này thị xã Bạc Liêu trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976. Địa bàn thị xã Bạc Liêu tương ứng với xã Vĩnh Lợi và xã Vĩnh Trạch cùng thuộc quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976. Từ năm 1976 đến nay Tháng 2 năm 1976, tỉnh Minh Hải được thành lập trên cơ sở hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu trước đó. Lúc này, thị xã Bạc Liêu đổi tên thành thị xã Minh Hải và được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải. Tuy nhiên, thị xã Minh Hải (thị xã Bạc Liêu) chỉ đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải trong thời gian ngắn 1976-1984. Ngày 25 tháng 7 năm 1979, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 275-CP về việc: Chia xã Vĩnh Trạch thành hai xã lấy tên là Vĩnh Thuận và Vĩnh Hòa Chia xã Vĩnh Lợi thành hai xã lấy tên là Vĩnh Hiệp và Vĩnh Thành. Ngày 17 tháng 5 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 75-HĐBT về việc đổi tên thị xã Minh Hải thành thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Minh Hải. Ngày 18 tháng 12 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 170-HĐBT về việc chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải từ thị xã Bạc Liêu về thị xã Cà Mau. Ngày 14 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 33B-HĐBT về việc sáp nhập xã Vĩnh Hiệp và xã Vĩnh Thành thành một xã lấy tên là xã Hiệp Thành thuộc thị xã Bạc Liêu, tỉnh Minh Hải. Ngày 2 tháng 2 năm 1991, Ban Tổ chức Chính phủ ban hành Quyết định 51/QĐ-TCCP về việc: Sáp nhập Phường 6 vào Phường 5 Sáp nhập Phường 4 vào Phường 7 Giải thể Phường 1 nhập địa bàn vào Phường 3 và Phường 8 Hợp nhất hai xã Vĩnh Thuận và Vĩnh Hòa thành xã Thuận Hoà. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, tỉnh Minh Hải được tách thành hai tỉnh là tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau. Khi đó, thị xã Bạc Liêu trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Bạc Liêu. Ngày 25 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 82/1999/NĐ-CP về việc thành lập xã Vĩnh Trạch và Vĩnh Trạch Đông trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Thuận Hòa: Xã Vĩnh Trạch có 4.229,81 ha diện tích tự nhiên và 12.804 nhân khẩu Xã Vĩnh Trạch Đông có 4.656,97 ha diện tích tự nhiên và 9.632 nhân khẩu. Ngày 13 tháng 5 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2002/NĐ-CP về việc thành lập Phường 1 trên cơ sở 582,6 ha diện tích tự nhiên và 17.568 nhân khẩu của Phường 7. Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2003/NĐ-CP về việc thành lập phường Nhà Mát trên cơ sở 2.439 ha diện tích tự nhiên và 9.237 nhân khẩu của xã Hiệp Thành. Ngày 26 tháng 12 năm 2006, Bộ Xây Dựng ban hành Quyết định số 1779/QĐ-BXD về việc công nhận thị xã Bạc Liêu là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Bạc Liêu. Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Chính phủ ban hành quyết định số 32/NQ-CP về việc thành lập thành phố Bạc Liêu trực thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bạc Liêu. Thành phố Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 17.538,19 ha và 188.863 nhân khẩu; có 10 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 7 phường: 1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát và 3 xã: Hiệp Thành, Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông. Ngày 16 tháng 4 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 537/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bạc Liêu. Thành phố Bạc Liêu có diện tích tự nhiên 17.525 ha, dân số 190.045 người, có 10 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 7 phường: 1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát và 3 xã: Hiệp Thành, Vĩnh Trạch, Vĩnh Trạch Đông. Kinh tế Cơ cấu kinh tế thành phố Bạc Liêu trong 5 năm qua (2016–2020) có sự chuyển dịch và phát triển theo hướng tăng mạnh tỷ trọng thương mại, dịch vụ, công nghiệp xây dựng và giảm về tỷ trọng nông nghiệp–thủy sản: cơ cấu thương mại–dịch vụ–du lịch, chiếm 48,20%; công nghiệp - xây dựng, chiếm 42,12%; nông nghiệp - thủy sản 9,68%). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn thành phố trong 5 năm đạt 28.822 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 1.402 tỷ 278 triệu đồng, với 428 công trình. Thương mại, dịch vụ: Đây được xem là lĩnh vực mũi nhọn, có bước chuyển biến nhanh trong những năm gần đây, đóng góp ngày càng nhiều vào tăng trưởng của thành phố, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chung của nền kinh tế địa phương. Tuy nhiên, tình hình cung cầu hàng hóa năm 2020 tuy gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh Covid-19, nhưng bằng sự nỗ lực của các doanh nghiệp và sự chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo địa phương, mức tăng trưởng vẫn giữ ổn định và cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Tổng mức bán lẻ thương mại - dịch vụ ước thực hiện trong năm 2020 là 16.285 tỷ 200 triệu đồng, đạt 100% so với kế hoạch, tăng 23,3% so với cùng kỳ. Trên địa bàn thành phố hiện có 5.420 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ, tăng 135 cơ sở so với cùng kỳ, với 16.945 lao động, tăng 173 lao động so với cùng kỳ. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: là lĩnh vực có tỷ trọng đứng thứ hai trong ba khu vực kinh tế của thành phố. Trong năm 2020, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tuy gặp khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19 nhưng vẫn phát triển ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ước thực hiện năm 2020 là 2.351 tỷ 020 triệu đồng, tăng 0,1% so với kế hoạch, tăng 19,2% so với cùng kỳ. Đến nay, thành phố có 1.019 cơ sở sản xuất, tăng với 30 cơ sở so với cùng kỳ, với 4.350 lao động, tăng 86 lao động so với cùng kỳ gồm các mặt hàng chủ lực, như: chế biến thực phẩm và đồ uống, sản xuất sản phẩm dệt may, sửa chữa và sản xuất các sản phẩm bằng kim loại, sản xuất giường - tủ - bàn - ghế, rượu... Tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2016 - 2020 trên 8.802 tỷ đồng, so với chỉ tiêu vượt 7,58%, tốc độ tăng trưởng bình quân 14,58%/năm (tăng 86,08% so với giai đoạn 2011 - 2015). Hoàn thành cơ bản các đoạn tuyến điện lưới quốc gia về các khu, cụm dân cư. Về xây dựng, tổng nguồn vốn đầu tư công đã được triển khai thực hiện trong nhiệm kỳ là 1.402 tỷ 278 triệu đồng. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất - kinh doanh trên địa bàn thành phố đã có nhiều nỗ lực để duy trì hoạt động, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động và vẫn duy trì hoạt động có hiệu quả để góp phần tăng trưởng kinh tế của thành phố Bạc Liêu. Nông nghiệp: Là lĩnh vực chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong cơ cấu kinh tế, tuy thế thành phố vẫn chú trọng phát triển với quy mô vừa và nhỏ, ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất, sử dụng những loại giống tốt đạt chất lượng và năng suất cao nhằm nâng cao nguồn thu nhập cho các hộ dân sản xuất nông nghiệp. Trồng trọt: Về sản xuất lúa diện tích canh tác lúa 1.609 ha, đạt 100% so kế hoạch, so với cùng kỳ không tăng; diện tích gieo trồng lúa ước thực hiện năm 2020 là 2.045 ha, đạt 100% so kế hoạch, so với cùng kỳ không tăng; năng suất đạt 6,72 tấn/ha; do chịu ảnh hưởng hạn hán, ngập úng dẫn đến sản lượng có giảm so cùng kỳ, tổng sản lượng 13.751 tấn, đạt 96,9% so với kế hoạch, giảm 0,35% so với cùng kỳ. Tổng diện tích gieo trồng rau màu ước thực hiện năm 2020 4.656 ha, tăng 0,19% so với kế hoạch, tăng 2,08% so với cùng kỳ; tổng sản lượng đạt 61.616,64 tấn, tăng 0,19% so với kế hoạch, tăng 2,08% so với cùng kỳ. Tổng diện tích cây ăn trái là 273 ha, trong đó: nhãn 160 ha, xoài 35 ha, chuối 26 ha, các loại cây khác 49 ha; sản lượng đạt được 1.239,1 tấn, tăng 2,55% so với kế hoạch, tăng 2,55% so với cùng kỳ. Chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm hiện nay đang khởi sắc trở lại. Về giá cả bắt đầu tăng giá trở lại, người nông dân hiện nay đang tái đàn để kịp thời phục vụ cho các ngày lễ lớn. Tổng đàn gia súc là 14.826 con, tăng 19,4% so với kế hoạch, giảm 5,4% so với cùng kỳ; tổng đàn gia cầm là 47.067 con, đạt 87,9% so với kế hoạch, giảm 12,1% so với cùng kỳ; tổng đàn động vật hoang dã 67.418 con, tăng 6,1% so với kế hoạch, tăng 6,1% so với cùng kỳ. Công tác phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi của thành phố Bạc Liêu luôn được quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt. Các ngành chức năng của thành phố cùng mạng lưới thú y phối hợp các phường, xã tiến hành rà soát đàn gia cầm, tiêu độc, khử trùng chuồng trại, tiêm vacxin, đã thực hiện tiêm phòng trên đàn gia súc 86.210 liều vacin, tiêm phòng trên đàn gia cầm 21.000 liều vacxin và tiêm phòng bệnh dại trên chó 1.439 liều vacxin. Diêm nghiệp: Tổng diện tích sản xuất muối từ đầu năm đến nay là 33ha, trong đó: phường Nhà Mát 32 ha, xã Vĩnh Trạch Đông 1 ha; tổng sản lượng đạt 312 tấn; năng suất bình quân 09 tấn/ha/năm; giá bán giao động từ 1.200 - 1.500 đồng/kg. Về sản xuất Artemia trên địa bàn thành phố hiện có 22 ha nuôi Artemia, chủ yếu ở xã Vĩnh Trạch Đông; tổng sản lượng đạt 3.234,8 kg, năng suất bình quân 147 kg/ha/năm, giá bán từ 1.000.000 - 1.200.000 đồng/kg trứng tươi. Khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản: Tổng sản lượng khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đạt 51.462 tấn (trong đó: tôm 30.912 tấn; cá và thủy sản khác 20.550 tấn), đạt 97,1% so với kế hoạch, giảm 2,9% so với cùng kỳ. Tổng sản lượng khai thác, đánh bắt thủy sản ước đạt 19.850 tấn (trong đó: tôm 1.500 tấn; Cá và thủy sản khác 18.350 tấn) đạt 100% so với kế hoạch, tăng 4,3% so với cùng kỳ. Trên địa bàn thành phố hiện có 307 phương tiện khai thác thủy sản đang hoạt động; tổng công suất bình quân: 54.098CV (trong đó: 112 phương tiện <50CV; 29 phương tiện từ 50-90CV; 166 phương tiện >90CV); tổng số lao động 2.240 lao động. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản là 31.612 tấn, trong đó: sản lượng tôm là 29.412 tấn, bao gồm 1.000 tấn tôm nuôi theo mô hình công nghệ cao; cá và thủy sản khác là 2.200 tấn, đạt 96,3% so với kế hoạch (giảm 4,6% so với cùng kỳ). Diện tích đã thả nuôi 6.975ha, trong đó: tôm CN-BCN là 6.050ha (bao gồm: tôm sú 2.500ha; tôm thẻ chân trắng 3.550ha); tôm QCCT 620ha; cá và thủy sản khác 305ha, đạt 96,9% so với kế hoạch (giảm 11% so với cùng kỳ); năng suất bình quân nuôi trồng thủy sản: tôm sú 03 tấn/ha, tôm thẻ chân trắng 10 tấn/ha; quãng canh cải tiến: 1,1 tấn/ha; cá và các loài thủy sản khác: 3 - 12 tấn/ha. Mô hình nuôi tôm công nghệ cao: Trên địa bàn thành phố Bạc Liêu hiện có 75 hộ dân và 10 công ty, doanh nghiệp đã, đang thực hiện mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng ứng dụng công nghệ cao trên tổng diện tích 509,1ha, bao gồm: 126 ao ương, diện tích là: 21.300 m²; 306 ao nuôi trên 34,82 ha tổng diện tích mặt nước, trong đó thực hiện mô hình nuôi tôm thẻ chân trăng quy mô theo công nghệ CP có 01 công ty, doanh nghiệp và 38 hộ, tổng diện tích 120,4ha, số ao nuôi 127 ao; tổng diện tích mặt nước 12.640 m²; diện tích đang thả nuôi: 29 ha/205 ao; diện tích thu hoạch: 29 ha; sản lượng thu hoạch: 1.000 tấn (chủ yếu là tôm thẻ chân trăng); năng suất bình quân 50 tấn/ha. Quốc phòng, an ninh Thành phố luôn thực hiện tốt chủ trương phát triển KT-XH gắn với QP-AN, xây dựng thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững mạnh. Triển khai thực hiện tốt các Luật, Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ về lĩnh vực ANQP. Tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng hàng năm cho các đối tượng trong hệ thống chính trị và nhân dân, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh. Công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, công tác quân sự được thực hiện thường xuyên. Công tác đảm bảo an ninh quốc gia được lực lượng chức năng thực hiện có hiệu quả; bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị, các hoạt động lễ, hội trong và ngoài tỉnh. Tăng cường công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật và bảo đảm nguyên tắc kỷ cương. Phối hợp chặt chẽ với mặt trận, đoàn thể vận động nhân dân, đưa các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước đến nhân dân, làm dân thông, dân hiểu; cũng cố vai trò khối nội chính; thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là ở điểm nóng vùng đồng bào dân tộc về lĩnh vực liên quan đến đất đai, đền bù giải tỏa. Xã hội Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân giai đoạn 2016 – 2020 là 0,95%. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2016 đạt 1,36% đến năm 2020 giảm còn 0,03%. Tỷ lệ bảo hiểm y tế toàn dân năm 2016 đạt 70,67% đến năm 2020 tăng lên đạt 89,41%. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi năm 2016 là 11,43% đến năm 2020 giảm còn 9,43%. Tỷ lệ trường đạt chuẩn Quốc gia năm 2016 là 37,50% đến năm 2020 tăng lên đạt 69,64%. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế năm 2020 đạt thấp ở mức 85%. Tỷ lệ hộ dân dùng nước hợp vệ sinh luôn ổn định ở mức 100% trong giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt năm 2020 đạt 95%. Tỷ lệ độ che phủ bình quân của thành phố năm 2020 đạt 10,70%. Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lưới quốc gia đạt 99,96%. Dân số: Theo niên giám thống kê năm 2020, toàn thành phố có 157.351 người, mật độ dân số bình quân 736 người/km², với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 0,90%. Trong đó dân số thành thị có 116.259 người chiếm 74% và dân số nông thôn có 41.092 người chiếm 26% dân số toàn thành phố, với tổng số hộ có 42.850 hộ bình quân hộ 3,7 người/hộ. Đặc biệt số nam giới có 77.432 người, chiếm trên 49,21% dân số của thành phố. Lao động: Số người trong độ tuổi lao động của thành phố có 102.775 người, chiếm 65% tổng dân số (lao động nam giới là 51.751 người và nữ giới là 50.990 người). Trong đó lao động thành thị có 72.804 người, chiếm 74% số người trong độ tuổi lao động và lao động nông thôn có 26.971 người, chiếm 26% số người trong độ tuổi lao động. Việc làm và thu nhập: Trong năm 2020 thành phố đã tổ chức đào tạo nghề cho 5.426 lao động, đạt 91,43% kế hoạch. Trong đó: có 2.560 lao động làm việc trong tỉnh; 2.866 lao động làm việc ngoài tỉnh; 987 lao động tự tìm việc làm tại chỗ. Nâng tổng số lao động được đào tạo nghề trong năm 2020 là 3.580 lao động, tăng 2,29% so với kế hoạch. Với việc tập trung thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động, mức sống của người dân trên địa bàn thành phố ngày được cải thiện, GRDP bình quân đầu người: 97 triệu đồng/người/năm. Thành phố có một cửa biển là cửa biển Nhà Mát thuộc phường Nhà Mát. Ở đây còn có khu du lịch Quán Âm Phật Đài (thường gọi Phật bà Nam Hải). Theo tín ngưỡng của những người đi biển, Phật bà Nam Hải đã chở che cho họ rất nhiều trong lúc họ hoạt động, làm ăn trên biển. Nơi đây đã trở thành một điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Bạc Liêu, thu hút hàng ngàn du khách đến viếng, thưởng ngoạn mỗi năm, nhất là vào dịp Vía Bà vào các ngày 22, 23, 24 tháng 3 âm lịch hằng năm. Bên cạnh khu du lịch Quán âm Phật đài, thành phố còn đang xây dựng một khu du lịch mới cũng ở phường Nhà Mát. Ngoài ra, thành phố Bạc Liêu còn có khu du lịch Vườn nhãn Bạc Liêu với những cây nhãn cổ thụ và giống nhãn Vĩnh Châu nổi tiếng thơm ngon, có cánh đồng điện gió với 62 trụ điện gió to lớn giữa biển khơi tại khu vực xã Vĩnh Trạch Đông. Về nông nghiệp, thành phố phát triển ngành nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh và tôm sú trên địa bàn các xã ngoại thành như Vĩnh Trạch và Vĩnh Trạch Đông, nghề đánh bắt hải sản cũng khá phổ biến tại các xã, phường giáp biển. Về công nghiệp, trên địa bàn thành phố có một số khu, cụm công nghiệp dạng vừa như khu công nghiệp Trà Kha và cụm công nghiệp Nhà Mát. Thành phố Bạc Liêu có 3 dân tộc chính: Kinh, Khmer và Hoa. Do đó văn hoá ẩm thực của địa phương này cũng khá đa dạng, nhiều món ăn được biết tới như: bánh xèo, bún nước lèo, bún bò cay,... Giáo dục, đào tạo Trong những năm qua, thành phố Bạc Liêu luôn cố gắng, nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo một cách toàn diện, trong đó đặc biệt quan tâm thực hiện xây dựng trường đạt Chuẩn quốc gia. Tổng số trường mầm non, phổ thông công lập đạt chuẩn quốc gia của thành phố tính đến thời điểm hiện tại là 25/34 trường, tăng 5 trường so với cùng; đạt tỷ lệ 73,53% (10 trường MN–MG, 7 trường tiểu học, 8 trường THCS); trong đó có 4 trường Mầm non, 3 trường Tiểu học và 1 trường THCS đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 (tăng 5 trường đạt mức độ 2). Về huy động học sinh đến trường: Đầu năm học 2020-2021 đã huy động trẻ trong độ tuổi đến trường toàn thành phố có 27.033 học sinh đến trường, đạt 99,26% so với kế hoạch (kế hoạch 27.234 học sinh). Trong đó: Trẻ 5 tuổi vào lớp mẫu giáo là 2.405 trẻ, đạt 100% dân số trong độ tuổi. Trẻ 6 tuổi vào lớp 1 là 2.634 học sinh, đạt 100% dân số trong độ tuổi. Số học sinh lớp 6 tuyển mới: 2.362 học sinh, đạt 99,54% số học sinh hoàn thành chương trình tiểu học (2.362/2.373 học sinh). Về mạng lưới cơ sở giáo dục: toàn thành phố có 41 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông. Trong đó: Mầm non: Hiện thành phố có 17 trường Mẫu giáo và nhà trẻ, trong đó có 12 trường công lập và 5 trường tư thục với tổng số trẻ năm học 2020-2021 hiện có 6.042 trẻ (công lập 4.198 trẻ), số học sinh bình quân một lớp có khoảng 29 trẻ, bình quân diện tích sử dụng đất trường mầm non công lập có khoảng 11,59 m²/trẻ, so với định mức thì bình quân diện tích đất đối với bậc mầm non đạt chuẩn quy định 10 m²/trẻ. Trường MN Bạc Liêu: Đường 3/2, khóm 1, phường 1 Trường MN Họa Mi: Điểm Trung Tâm: Nguyễn Thái Học, khóm 7, phường 1 Điểm lẻ: Cách Mạng, khóm 10, phường 1 Trường MN Hoa Mai: 22 Trần Phú, khóm 4, phường 3 Trường MN Sơn Ca: Đường Võ Thị Sáu, khóm 6, phường 3 Trường MN Hoa Sen: Điểm Trung Tâm: Nguyễn Đình Chiểu, khóm 2, phường 7 Điểm lẻ: Khóm 3, phường 7 Trường MG Măng Non: Đường Đống Đa, khóm 2, phường 2 Trường MG Hướng Dương: Điểm Trung Tâm: Số 65 Thống Nhất, khóm 2, phường 5 Khu Gia Long: Số 3/36B, Lê Thị Hồng Gấm, khóm 6, phường 5 Khu Rạch ông Bổn: Rạch Ông Bổn, khóm 2, phường 5 Trường MG Tuổi Thơ: Quốc lộ 1, khóm Trà Kha A, phường 8 Trường MG Hoa Hồng: Đường Bạch Đằng, khóm Nhà Mát, phường Nhà Mát Trường MG Tuổi Ngọc: Ấp Giồng Giữa, xã Hiệp Thành Trường MG Vành Khuyên: Điểm Trung Tâm: Ấp Kim Cấu, xã Vĩnh Trạch Điểm An Trạch Đông A: Ấp An Trạch Đông, xã Vĩnh Trạch Trường MG Vàng Anh: Ấp Biển Tây A, xã Vĩnh Trạch Đông. Tiểu học: Toàn thành phố có 16 trường tiểu học, trong đó có 14 trường công lập và 2 trường ngoài công lập. Tổng số học sinh đang theo học cấp tiểu học năm học 2020-2021 là 21.109 học sinh, trong đó số học sinh trường công lập có 13.691 học sinh, bình quân có khoảng 6 m²/học sinh, so với định mức thì bình quân diện tích đất đối với bậc tiểu học chưa đạt chuẩn quy định 8 m²/học sinh. Trong thời gian tới cần phải mở rộng hoặc tạo quỹ đất xây mới các trường để giảm tải khu vực trung tâm thành phố để đảm bảo về định mức sử dụng đất. Trung học cơ sở: Toàn thành phố có 8 trường Trung học cơ sở công lập, với số lượng học sinh theo học trong năm học 2020-2021 là 7.461 học sinh, bình quân có khoảng 5,4 m²/học sinh, so với định mức thì bình quân diện tích đất đối với bậc Trung học cơ sở chưa đạt chuẩn quy định 8 m²/học sinh. Do đó, cần phải đầu tư mở rộng hoặc xây mới để đảm bảo về định mức sử dụng đất. Trung học phổ thông: Hiện thành phố có 4 trường Trung học phổ thông công lập. Xét trên tổng chung thì bậc Trung học phổ thông của thành phố đạt chuẩn so với định mức. Ngoài ra, trên địa bàn thành phố còn có Trường Đại học Bạc Liêu, Trường Cao đẳng nghề, Trường Trung cấp nghề, Trường trung cấp y tế, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trường kỹ thuật nghiệp vụ giao thông vận tải,... đã đáp ứng được phần nào về nhu cầu đào tạo các ngành nghề cho người dân trong và ngoài thành phố. Y tế Trong những năm qua, tỉnh nói chung và thành phố nói riêng luôn tiếp tục đầu tư hạ tầng, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật y tế các tuyến tỉnh, thành phố, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa y tế tư nhân. Đến nay, thành phố có 10/10 phường, xã đều có trạm y tế. Với hệ thống cơ sở y tế đã đáp ứng được nhu cầu khám và điều trị bệnh cho người dân không chỉ của thành phố mà cả những huyện, thị khác trong và ngoài tỉnh. Chợ và trung tâm thương mại Trong những năm gần đây, các khu thương mại, siêu thị và chợ được các doanh nghiệp và lãnh đạo thành phố đầu tư phát triển mạnh, hệ thống được bố trí đều khắp các phường, xã trên địa bàn thành phố, chủ yếu tập trung ở ngay trung tâm xã, phường được xây dựng kiên cố, cơ sở hạ tầng chợ được quan tâm đầu tư và đang từng bước hoàn thiện. Hiện ngay trung tâm thành phố đã có hệ thống của hàng Điện máy xanh, Bách Hóa Xanh, Vinmart,.. đáp ứng được nhu cầu mua bán của nhân dân. Xây dựng nông thôn mới Với sự quyết tâm của các cấp, các ngành việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố đạt được kết quả nhất định. Cơ sở hạ tầng xây dựng nông thôn mới nâng cao đã và đang được đầu tư nâng cấp ngày một tốt hơn, bộ mặt nông thôn từng bước được đổi mới, đã tạo ra một động lực lớn, góp phần chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng tích cực. Đến nay thành phố được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2020 tại Quyết định số 987/QĐ-TTg ngày 23/6/2021. Trong đó đã công nhận 06 ấp đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao: ấp Vĩnh An, xã Vĩnh Trạch; ấp Giồng Giữa B, xã Vĩnh Trạch Đông và 4 ấp của xã Hiệp Thành; tiếp tục thực hiện công tác thẩm định các ấp đạt nông thôn mới nâng cao. Dân số Thành phố Bạc Liêu có diện tích là 213,80  km², dân số năm 2018 là 157.389 người. Trong đó dân số sống ở thành thị là 118.689 người chiếm tỉ lệ 75,41% và dân số sống ở nông thôn là 38.700 người chiếm tỉ lệ 24,59%. Mật độ dân số của đạt 736 người/km². Năm 2016, dân số toàn thành phố là 155.874 người, trong đó dân tộc Kinh 123.432 người, dân tộc Hoa 15.702 người, dân tộc Khmer 17.044 người, dân tộc khác 51 người. Thành phố Bạc Liêu có diện tích là 213,80  km², dân số năm 2019 là 156.284 người, trong đó dân số thành thị là 115.806 người chiếm 74,10%, dân số nông thôn là 40.478 người chiếm 25,90%, mật độ dân số đạt 731 người/km². Năm 2020, dân số toàn thành phố Bạc Liêu là 157.351 người, trong đó, dân số thành thị là 116.259 người chiếm 73,88%, dân số nông thôn là 41.092 người chiếm 26,12%. Theo thống kê sơ bộ năm 2021, thành phố Bạc Liêu có 158.844 người. Theo thống kê dân số thành phố Bạc Liêu ngày 1 tháng 11 năm 2021 là 158.264 người. Trong đó, dân số thành thị là 117.252 người (74,09%), dân số nông thôn là 41.012 người (25,91%). Văn hóa - Du lịch Thành phố Bạc Liêu với nhiều di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh với nhiều địa danh nổi tiếng gồm: khu căn cứ, Đình, Chùa, Thành, Đền thờ, Tháp, Bia kỉ niệm, phủ thờ,.. Ngoài các di tích nêu trên, Bạc Liêu còn có khu du lịch và danh lam thắng cảnh như: khu du lịch Quán Âm Phật Đài; khu du lịch Nhà Mát; khu du lịch Vườn nhãn Bạc Liêu; cánh đồng điện gió với 62 trụ điện gió to lớn giữa biển khơi tại xã Vĩnh Trạch Đông và các điểm tham quan nổi tiếng: Quảng trường Hùng Vương; Khu lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu; Khu nhà Công tử Bạc Liêu,... Nơi đây đã trở thành một điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Bạc Liêu, thu hút hàng ngàn du khách đến tham quan, mua sắm. Tính đến năm 2020, thành phố giữ vững 97% hộ gia đình văn hóa, 67/67 khóm, ấp văn hóa; 7/7 phường đạt chuẩn phường văn minh đô thị, 3/3 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; công nhận, công nhận lại 110/124 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa, đạt 88,7%. Di tích lịch sử Đến nay, thành phố Bạc Liêu có 3 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh, nâng tổng số trên địa bàn có 21 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh và 7 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia; trùng tu 2 di tích cấp quốc gia và 4 di tích cấp tỉnh. DTKTNT (di tích kiến trúc nghệ thuật). Di tích cấp Quốc gia Đình An Trạch xây dựng năm 1877: Khóm 2, phường 5 được Bộ VHTT xếp hạng là DTKTNT năm 2000. Thành Hoàng Cổ Miếu (chùa Minh) xây dựng năm 1865: Phường 3 được Bộ VHTT xếp hạng là DTKTNT năm 2000. Phước Đức Cổ Miếu (Chùa Bang) xây dựng năm 1780: Phường 3 được Bộ VHTT xếp hạng là DTKTNT năm 2000. Phước Đức Cổ Miếu (Miếu Ông Bổn) xây dựng năm 1871: Khóm Trà Kha B, phường 8 được Bộ VHTT xếp hạng là DTKTNT năm 2005. Di tích cấp Tỉnh Tiên Sư Cổ Miếu xây dựng năm 1855: Phường 7 được UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là DTKTNT năm 1997. Khu Mộ cố Nhạc sĩ Cao Văn Lầu xây dựng năm 1976: Đường Ninh Bình, phường 2 được UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là DTLS năm 1997. Thiên Hậu Cổ Miếu (chùa Bà Thiên Hậu) xây dựng năm 1901: Phường 1 được UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là DTKTNT năm 1997. Chùa Long Phước (chùa Cô Bảy) xây dựng năm 1840: Phường 5 được UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là DTLS năm 2001. Chùa Vĩnh Đức được xây dựng 1890: Phường 1 được UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử năm 2001. Chùa Xiêm Cán (Chùa Kom Phi Sakor Prêkchou) xây dựng năm 1887: Xã Vĩnh Trạch Đông dược UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2001. Đồng Hồ Thái Dương (Đồng hồ Đá) xây dựng đầu TK 20: Phường 3 được UBND tỉnh Bạc Liêu xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa năm 2006. Chùa Khánh Long An: Khóm Trà Kha B, Phường 8 được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2021. Căn cứ Thị ủy Bạc Liêu: Khóm Kinh Tế, phường Nhà Mát được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2021. Chùa Vĩnh Phước An: Khóm 4, phường 2 được UBND tỉnh công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh năm 2021. Khu mộ Cao Triều đường lộ Lò Rèn: Khóm 7, phường 5 được UBND tỉnh xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh năm 2021. Phủ thờ họ Cao Triều (Nhà ông Cao Minh Thạnh): Số 100, đường Đống Đa, khóm 1, phường 5 được UBND xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh năm 2021. Du lịch Thành phố Bạc Liêu có 8 địa điểm du lịch tiêu biểu, bao gồm: Quảng trường Hùng Vương: Đường Nguyễn Tất Thành, khóm 7, phường 1 Khu du lịch sinh thái Hồ Nam - Bạc Liêu: Số 01, đường Trần Quang Diệu, khóm 10, phường 1 Khu lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu: Đường Ninh Bình, khóm 4, phường 2 Khu nhà Công tử Bạc Liêu: Số 13, đường Điện Biên Phủ, khóm 1, phường 3 Khu du lịch Nhà Mát - Bạc Liêu: Khóm Nhà Mát, phường Nhà Mát Khu du lịch Điện Gió Bạc Liêu: Ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông Khu du lịch Quán âm Phật Đài: Khóm Bờ Tây, phường Nhà Mát Khách sạn Sài Gòn - Bạc Liêu: Số 04-06, đường Hoàng Văn Thụ, khóm 1, phường 3. Giao thông Giao thông đường bộ nhỏ|phải|250px| Đường phố ở thành phố Bạc Liêu Thành phố Bạc Liêu cách Thành phố Hồ Chí Minh 280 km, cách thành phố Cà Mau 67 km về phía Tây Bắc, cách thành phố Cần Thơ 110 km về phía Nam (theo Quốc lộ 1). Mạng lưới giao thông đường bộ của địa bàn thành phố Bạc Liêu gồm có tuyến đường Quốc lộ 1, Đường Nam Sông Hậu và các tuyến ĐT.977, ĐT.977B, tỉnh lộ 38. Hệ thống giao thông phát triển đồng bộ, các tuyến đường giao thông nội thành như đường Hùng Vương, Trần Phú, Cao Văn Lầu, Trần Huỳnh,... Những năm gần đây, trên địa bàn thành phố nhiều tuyến đường được chú trọng đầu tư cải tạo, mở rộng, nhựa hóa, hệ thống giao thông thuận lợi đi lại và giao thương vận tải hàng hóa trong và ngoài thành phố được đảm bảo thông suốt. Quốc lộ 1: Đi qua phía Bắc thành phố, kết nối các tỉnh trong vùng TP. Hồ Chí Minh và vùng Đồng bằng sông Cửu Long, với giao điểm quan trọng đường Hùng Vương, đường Trần Phú. Mặt đường rộng 12m, thảm bêtông nhựa. Đường Nam Sông Hậu: Kết nối TP. Bạc Liêu với tỉnh Sóc Tăng, đường đạt tiêu chuẩn cấp III, lộ giới 46m, nền đường 12m. Đoạn qua thành phố Bạc Liêu có nền đường rộng từ 33m (mặt đường rộng 2x9m) đến 42m (mặt đường rộng 2x12m), mới tráng nhựa 2 lớp. Đường ĐT977 (đường Giồng Nhãn – Gò Cát): Nối TP. Bạc Liêu với tỉnh Sóc Trăng, đến huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu (điểm đầu tại xã Vĩnh Trạch Đông – TP. Bạc Liêu, kết thúc tại ngã 3 Gò Cát, xã Long Điền Tây – huyện Đông Hải). Nền đường 6m, mặt đường 3,5m. Đường ĐT977B (đường Thuận Hòa - Xiêm Cán): Nền đường 6,5m, mặt đường 3,5m. Đường ĐH36 (tuyến đê biển Đông): Là tuyến đường ven biển của tỉnh Bạc Liêu, đoạn qua TP. Bạc Liêu dài 12 km. Giao thông nội thị Đường 23-8: Là trục chính đô thị, từ đường Trần Phú đến Cầu Sập, chiều dài 4 km, lộ giới 31m. Đường Trần Phú: Là trục chính hướng tâm, đoạn từ đường vành đai đến đường Bà Triệu, lộ giới 31m; đoạn từ Bà Triệu đến Hai Bà Trưng lộ giới 32,5m; đoạn từ Hai Bà Trưng đến cầu Kim Sơn lộ giới 33,5m. Đường Cao Văn Lầu và đường Bạch Đằng: Là trục chính nối từ cầu Kim Sơn đến cầu Nhà Mát. Chiều dài 8,639 km, lộ giới từ 30-58m. Đường Trần Huỳnh: Là trục ngang chính, từ đường Võ Thị Sáu đến kênh Xáng, lộ giới 26,5m. Đường Võ Thị Sáu: Đoạn từ đường 23-8 đến đường Trần Huỳnh lộ giới 26,5m, đoạn từ đường Trần Huỳnh đến Bà Triệu lộ giới 21m, đoạn từ đường Bà Triệu đến cầu Bạc Liêu lộ giới 26,5m. Đường Nguyễn Thị Minh Khai: Là trục ngang chính lộ giới 26,5m. Đường Hai Bà Trưng, đường Hòa Bình: Lộ giới 26,5m. Các tuyến đường chính trên địa bàn thành phố: Các cây cầu Có các cầu: cầu Kim Sơn (cầu Quay hoặc Bạc Liêu 1), cầu Võ Thị Sáu (cầu Bạc Liêu 2), cầu Tôn Đức Thắng (cầu Bạc Liêu 3), cầu Xáng, cầu Kè, cầu Vườn Chim, cầu Trường Sơn, (cầu Nhà Mát), cầu Út Đen (cầu Nguyễn Văn Út),... Tên đường của thành phố Bạc Liêu trước năm 1975 Giao thông thủy Với tuyến kênh chính như kênh Cà Mau - Bạc Liêu chạy dọc thành phố Bạc Liêu với chiều dài 15 km, rộng hơn 30m; kênh 30/4 dài 10 km, rộng 35m thông ra biển Đông tại cửa biển Nhà Mát, đây là khu vực hậu cần rất quan trọng cho việc đánh bắt thủy hải sản, lưu thông tàu có trọng tải lớn trong vận chuyển hàng hóa; giúp chia sẻ không gian vận tải thủy trên địa bàn thành phố. Đồng thời là trục giao thông thủy kết nối kênh trục Bạc Liêu - Cà Mau với tuyến kênh Trường Sơn nối các tuyến đường thủy ở vùng ven biển với thành phố được xem là tuyến huyết mạch phục vụ vận chuyển hàng hóa, có vai trò hết sức quan trọng trong hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh nói riêng và khu vực ĐBSCL nói chung trong việc giao thương thủy bộ. Biển Đông: Nằm ở phía Nam TP.Bạc Liêu, tạo điều kiện giao lưu quốc tế và phát triển du lịch. Kênh Cà Mau - Bạc Liêu: Do Trung ương quản lý, điểm đầu từ Sóc Trăng đến Cà Mau, đoạn qua tỉnh Bạc Liêu dài 48,5 km, chiều rộng 40m, chiều sâu 7m, sông cấp III. Kênh Cổ Cò - Bạc Liêu: điểm đầu từ Sóc Trăng đến Cà Mau, đoạn qua tỉnh Bạc Liêu dài 18 km, chiều rộng 40m, chiều sâu 7m, sông cấp III (Trung ương quản lý). Kênh Cầu Sập - Ngan Dừa: Kênh cấp V do Tỉnh quản lý, kênh bắt đầu từ kênh Phụng Hiệp đến kênh Cà Mau - Bạc Liêu, chiều rộng 20m, chiều sâu 1,2m. Kênh 30-4: Kênh cấp V do Tỉnh quản lý, kênh thuộc TP. Bạc Liêu, bắt đầu từ sông Bạc Liêu ra biển Đông, chiều dài 8,8 km, chiều rộng 20m, chiều sâu 1,2m. Các công trình đầu mối giao thông Đường bộ: Hiện có bến xe khách liên tỉnh tại phường 7, TP. Bạc Liêu. Đường thủy: Có cửa sông, biển Nhà Mát có khả năng xây dựng cảng biển, cảng du lịch điều kiện để phát triển giao thông biển. Kết nghĩa Thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Hình ảnh Chú thích
Đào Duy Anh (chữ Hán: 陶維英, 25 tháng 4 năm 1904 - 1 tháng 4 năm 1988) là nhà sử học, địa lý, từ điển học, ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của Việt Nam. Ông được xem là người mở đầu cho nhiều ngành khoa học xã hội Việt Nam. Tiểu sử Thời niên thiếu Đào Duy Anh sinh ngày 25 tháng 4 năm 1904 tại Thanh Hóa, tuy nhiên dòng họ của ông vốn gốc ở làng Khúc Thủy, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay là huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội), đời ông nội của Đào Duy Anh chuyển cư vào xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Các em trai của ông là Đào Duy Kỳ, Đào Duy Dếnh, Đào Hùng, Đào Phan. Sau khi đỗ Thành chung tại trường Quốc học Huế năm 1923, ông không làm công chức dưới chính quyền thực dân Pháp mà làm nghề dạy học ở Trường Tiểu học Đồng Hới tỉnh Quảng Bình. Ông chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước đang dấy lên thời kỳ đó như phong trào đấu tranh đòi "ân xá" cho Phan Bội Châu năm 1925, đám tang Phan Chu Trinh năm 1926... Cuối năm 1925, ông tham gia sự kiện Hội Quảng Tri Đồng Hới đón tiếp Phan Bội Châu trên đường từ Hà Nội vào Huế. Con đường đến với sử học Năm 1926, ông từ chức giáo học, vào Đà Nẵng và có ý định đến Sài Gòn. Trên đường vào Đà Nẵng, ông đã gặp Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở chùa Phổ Quang, vào Quảng Nam gặp Huỳnh Thúc Kháng đang làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Ông đã giúp Huỳnh Thúc Kháng sáng lập báo Tiếng dân và làm Thư ký tòa soạn. Đào Duy Anh tham gia Việt Nam Cách mạng Đảng năm 1926 và sau khi đảng này đổi tên thành Tân Việt Cách mạng Đảng (tháng 7 năm 1928), ông trở thành Tổng Bí thư. Năm 1928, ông sáng lập Quan hải tùng thư, với sự cộng tác của những trí thức như Võ Liêm Sơn, Trần Đình Nam, Phan Đăng Lưu... xuất bản những tập sách phổ cập để người đọc làm quen với tư tưởng khoa học và duy vật lịch sử (như Lịch sử các học thuyết kinh tế, Phụ nữ vận động, Lịch sử nhân loại, Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì?). Trong thời gian này, ông lấy biệt hiệu là Vệ Thạch (chim tinh vệ). Tháng 7 năm 1929, Đào Duy Anh bị chính quyền bắt giam cho đến đầu năm 1930. Từ đó ông chuyên tâm nghiên cứu văn hóa bắt đầu là từ điển học rồi văn hóa, văn học, sử học. Sau Cách mạng tháng Tám, Đào Duy Anh được mời giảng dạy môn Lịch sử tại Đại học Văn khoa Hà Nội. Ông là Ủy viên Ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc năm 1946. Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động trong Chi hội văn nghệ Liên khu IV. Từ năm 1955 - 1960, ông là Chủ nhiệm khoa Sử Trường Đại học Sư phạm và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau đó làm chuyên viên Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Ông có công lao to lớn trong việc đào tạo cán bộ nghiên cứu Sử học Việt Nam. Trong những năm từ 1960 đến 1970, ông dịch, hiệu đính chú giải nhiều bộ sách lớn về văn hoá, sử học như: Lịch triều hiến chương loại chí lục của Lê Quý Đôn, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Thơ chữ Hán của Nguyễn Du... Ngoài ra ông còn biên khảo chữ nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, dịch Khoá hư lục của Trần Thái Tông... Các hoạt động chính (1950 đến 1988) Năm 1950, ông được mời ra Việt Bắc làm Trưởng ban Sử - Địa thuộc Vụ Văn học Nghệ thuật, Bộ Giáo dục. Năm 1952, Đào Duy Anh về Thanh Hóa giảng dạy tại trường Dự bị Đại học. Năm 1954, ông trở về Hà Nội giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa. Năm 1956, khi trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thành lập, ông được cử làm Chủ nhiệm Bộ môn Cổ sử Việt Nam cho đến năm 1958. Năm 1956, ông có bài trả lời phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do, dân chủ đăng trên bán nguyệt san Nhân văn số 5 (ngày 20 tháng 11). Năm 1958, Đào Duy Anh chuyển sang làm việc tại Bộ Giáo dục, năm 1960 chuyển sang Viện Sử học. Từ đây, ông thôi công tác giảng dạy đại học và tập trung vào nghiên cứu. Ông nghỉ hưu năm 1965 nhưng vẫn tiếp tục nghiên cứu cho đến năm 1988 Ngày 1 tháng 4 năm 1988, ông qua đời tại Hà Nội, thọ 84 tuổi. Vinh danh Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào bộ từ điển Larousse với tư cách là một nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại. Đào Duy Anh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội năm 2000. Tên của ông được đặt cho các con đường tại quận Phú Nhuận (TP Hồ Chí Minh), quận Đống Đa (TP Hà Nội), thành phố Thanh Hóa, thành phố Hạ Long (từ đường Trần Phú tới đường Trần Thái Tông)... Công trình nghiên cứu, biên soạn Đào Duy Anh đã thực hiện trên 30 công trình về nghiên cứu và dịch thuật cổ văn được in thành khoảng hơn 60 tập sách bắt đầu từ năm 1927. Từ điển Hán - Việt từ điển (1932) Pháp - Việt từ điển (1936) Từ điển Truyện Kiều (viết xong năm 1965, xuất bản năm 1974) Giáo trình, công trình nghiên cứu Việt Nam văn hóa sử cương (1938) Khổng giáo phê bình tiểu luận (1938) Trung Hoa sử cương (1942) Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943) Lịch sử Việt Nam (giáo trình đại học, 1956) Cổ sử Việt Nam (giáo trình đại học, 1956) Lịch sử cổ đại Việt Nam (1957) gồm 4 tập: "Nguồn gốc dân tộc Việt Nam", "Vấn đề An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc", "Văn hóa đồ đồng và trống đồng Lạc Việt", "Giai đoạn quá độ sang chế độ phong kiến". Vấn đề hình thành của dân tộc Việt Nam (1957) Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX (2 tập, 1958) Đất nước Việt Nam qua các đời (1964) Chữ Nôm, nguồn gốc, cấu tạo và diễn biến (1975) Hiệu đính, biên dịch, chú giải Lịch triều hiến chương loại chí (1961 - 1962) Đại Nam thực lục (1962 - 1977) Phủ biên tạp lục (1964) Đại Việt sử ký toàn thư (1967 - 1968) Đại Nam nhất thống chí (1969 - 1971) Binh thư yếu lược (1970) Gia Định thành thông chí Nguyễn Trãi toàn tập (1969) Khóa hư lục (1974) Sở từ (1974) Truyện Hoa Tiên (1978) Thơ chữ Hán Nguyễn Du" (1988) Ngoài ra ông còn biên dịch và chú giải Kinh Thi, "Đạo Đức Kinh và học thuyết của Lão Tử" nhưng chưa xuất bản. Khác Nhớ nghĩ chiều hôm (hồi ký, xuất bản năm 1989) Những đóng góp lớn của ông Lĩnh vực nghiên cứu Là một trong những người có công xây dựng nền khoa học xã hội - nhân văn hiện đại của Việt Nam, Đào Duy Anh có nhiều đóng góp trong các lĩnh vực nghiên cứu. Ông là một nhà từ điển học đặt cơ sở cho nền từ điển học hiện đại Việt Nam. Trên lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, văn học, tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh cùng với Văn minh An Nam (La Civilization Annamite, 1944) của Nguyễn Văn Huyên là những công trình khoa học đặt nền tảng cho sự hình thành nền văn hóa học hiện đại Việt Nam một cách khoa học. Lĩnh vực sử học Trên lĩnh vực sử học, với những tư liệu đã tích lũy từ nhiều năm và tham khảo những công trình khoa học liên quan của nước ngoài, ông đã tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu rất cơ bản về lịch sử Việt Nam, nhất là về lịch sử cổ đại và trung đại như vấn đề phân kỳ lịch sử, nguồn gốc dân tộc, vấn đề chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, sự hình thành dân tộc Việt Nam... Chú thích
Sự kiện 1 tháng 1: Otto Stich trở thành tổng thống Thụy Sĩ 14 tháng 3: Hải chiến Trường Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam, trong đó Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa do Việt Nam đang nắm giữ. 18 tháng 3: Nhật thực toàn phần ở phía tây Thái Bình Dương 26 tháng 3: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), đã chính thức được thành lập 15 tháng 5: Liên Xô bắt đầu rút khỏi Afghanistan 3 tháng 7: Một chiếc Airbus A300 của hãng hàng không Iran Air bị tàu chiến Mỹ USS Vincennes (CG-49) bắn nhầm, 290 người chết 5 tháng 8: Ngưng bắn giữa Angola, Cuba và Cộng hòa Nam Phi 20 tháng 8: Động đất tại Nepal và Ấn Độ khoảng 1450 người chết 13 tháng 9: Công ty Cổ phần FPT chính thức được thành lập 18 tháng 9: Phong trào dân chủ tại Myanma bị dập tắt 5 tháng 10: Hiến pháp dân chủ tại Brasil 8 tháng 11: George H. W. Bush được bầu làm tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ 16 tháng 11 – Chính trị gia Pakistan Benazir Bhutto là người phụ nữ đầu tiên được bầu chọn tự do trở thành người lãnh đạo chính phủ của một nhà nước Hồi giáo. 7 tháng 12: Armenia: động đất, khoảng 25.000 nạn nhân tử vong, 15.000 người bị thương và 400.000 mất nhà cửa 8 tháng 12: Một chiếc Fairchild-Republic A-10 của Không quân Hoa Kỳ rơi tại thành phốRemscheid (Đức). Phi công và 6 người khác chết, 50 người bị thương. 21 tháng 12: Chuyến bay Pan Am 103 bị đánh bom và rơi xuống ngôi làng Lockerbie, Scotland, làm 270 người trên máy bay và dưới đất thiệt mạng. Sinh Tháng 1 5 tháng 1: Emiliano Molina, cầu thủ bóng đá Argentina (mất 2005) 7 tháng 1: Hardwell, tên khai sinh (Robert van de Corput), DJ kiêm nhà sản xuất âm nhạc người Hà Lan 25 tháng 1 : Ryota Ozawa, diễn viên người Nhật Bản Tháng 2 8 tháng 2: Arik Braun, người đánh cờ Đức 11 tháng 2: Paul Kim, ca sĩ, nhạc sĩ người Hàn Quốc 18 tháng 2: Rihanna, nữ ca sĩ Mỹ gốc Barbados 20 tháng 2: Only C, nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam, thành viên nhóm nhạc Traisway 22 tháng 2: Sebastian Tyrala, cầu thủ bóng đá Đức 26 tháng 2: Kiều Minh Tuấn, diễn viên Việt Nam Tháng 3 28 tháng 3: Trương Hinh Dư, người mẫu, diễn viên Trung Quốc Tháng 4 5 tháng 4: Chí Thiện, diễn viên, ca sĩ, thành viêm nhóm nhạc Việt Nam La Thăng (A#) 9 tháng 4: Quốc Thiên, nam ca sĩ Việt Nam 10 tháng 4: Haley Joel Osment, diễn viên Mỹ 16 tháng 4: Peter Liebers, vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức 30 tháng 4: Trịnh Thăng Bình, ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình, thành viên nhóm nhạc Việt Nam La Thăng (A#) Tháng 5 2 tháng 5: Hà Thanh Xuân, nữ ca sĩ người Việt Nam 5 tháng 5: Skye Sweetnam, nữ ca sĩ nhạc rock Canada Adele, nữ ca sĩ Anh 12 tháng 5: Marcelo Vieira, cầu thủ bóng đá Brazil 18 tháng 5: Taeyang, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Big Bang. Tháng 6 2 tháng 6: Sergio Aguero, cầu thủ bóng đá Argentina 2 tháng 6: Bảo Thy (Trần Thị Thúy Loan), nữ ca sĩ người Việt Nam 13 tháng 6: Isaac, ca sĩ nhóm nhạc Việt Nam 365 25 tháng 6: Thôi Tử Cách, nữ ca sĩ Trung Quốc đại lục 29 tháng 6: Ngô Kiến Huy, nam ca sĩ, diễn viên kiêm người dẫn chương trình người Việt Nam Tháng 7 13 tháng 7: Maya (Ca sĩ), nữ ca sĩ nhạc R&B của Việt Nam 14 tháng 7: James Vaughan, cầu thủ bóng đá Anh 26 tháng 7: Zick Jasper, ca sĩ solo, rapper Hàn Quốc Tháng 8 5 tháng 8: Federica Pellegrini, nữ vận động viên bơi lội Ý 6 tháng 8: Mai Phương Thúy, Hoa hậu Việt Nam năm 2006. 8 tháng 8: Beatrice, công chúa của York 10 tháng 8: Gào, nữ nhà văn người Việt Nam 11 tháng 8: Hoàng Thùy Linh, nữ ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình và người mẫu ảnh nổi tiếng Việt Nam 18 tháng 8: G-Dragon, Kw­on Ji Yong, ca sĩ thành viên nhóm nhạc Hàn Quốc Big Bang 21 tháng 8: Robert Lewandowski, cầu thủ bóng đá Ba Lan Lee Bo-mee, nữ tay golf chuyên nghiệp người Hàn Quốc, vợ của nam diễn viên Lee Wan 24 tháng 8: Rupert Grint, diễn viên Anh 27 tháng 8: Alexa Vega, nữ diễn viên Mỹ Tháng 9 30 tháng 9: Thu Quỳnh, diễn viên người Việt Nam 5 tháng 9: Nuri Şahin, cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ 7 tháng 9: Quỳnh Nga, nữ diễn viên, ca sĩ người Việt Nam 22 tháng 9: Hamlet Trương, ca sĩ, nhạc sĩ, nhà văn, MC người Việt Nam 27 tháng 9: David Baramidze, kiện tướng cờ vua Đức Wowy (Nguyễn Ngọc Minh Huy), rapper người Việt Nam Tháng 10 7 tháng 10: Phương Trinh Jolie, Ngôi sao Tiếng hát Truyền hình năm 2006 17 tháng 10: Mansoor Bedal Ali, vận động viên điền kinh 13 tháng 10: Đông Nhi (Mai Hồng Ngọc), nữ ca sĩ Việt Nam 15 tháng 10: Mesut Ozil, cầu thủ bóng đá Đức 24 tháng 10: Lynk Lee (Tô Mạnh Linh/Tô Ngọc Bảo Linh), ca sĩ chuyển giới người Việt Nam 29 tháng 10: Võ Hoàng Yến, nữ siêu mẫu, á hậu Hoàn vũ Việt Nam 2008 30 tháng 10: Janel Parrish, nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ Tháng 11 13 tháng 11: Minh Xù, ca sĩ, MC người Việt Nam 25 tháng 11: Addy Trần, nhạc sĩ người Việt Nam 11 tháng 11: Châu Ngọc Hà, nữ ca sĩ Mỹ gốc Việt 13 tháng 11: Vũ Hoàng My, Á hậu Việt Nam 15 tháng 11: B.o.B (Bobby Ray Simmons, Jr.), rapper, ca sĩ, nhà sản xuất thu âm người Mỹ 22 tháng 11: Hải Băng (Nguyễn Hải Huyền), nữ ca sĩ người Việt Nam, cựu thành viên nhóm nhạc nữ Mây Trắng. 28 tháng 11: Richie Stringini, nam ca sĩ Mỹ 30 tháng 11: Julie Zangenberg, nữ diễn viên Đan Mạch Tháng 12 3 tháng 12: Nguyên Hà, nữ ca sĩ Việt Nam 7 tháng 12: Min (Nguyễn Minh Hằng), nữ ca sĩ, vũ công Việt Nam, cựu thành viên nhóm nhảy St. 319 17 tháng 12: Takanashi Rin, nữ diễn viên, ca sĩ Nhật Bản 18 tháng 12: Noo Phước Thịnh, nam ca sĩ, vũ công người Việt Nam ? Nguyễn Ngọc Oanh, nữ siêu mẫu người Việt Nam Mất 1 tháng 1: Rolf Presthus, chính trị gia, luật gia Na Uy (sinh 1936) 3 tháng 1: Gaston Eyskens, chính khách Bỉ, thủ tướng (sinh 1905) 3 tháng 1: Franz Muxeneder, diễn viên (sinh 1920) 4 tháng 1: Friedrich Joloff, diễn viên Đức (sinh 1908) 5 tháng 1: Pete Maravich, cầu thủ bóng rổ Mỹ (sinh 1947) 7 tháng 1: Trevor Howard, diễn viên Anh (sinh 1916) 10 tháng 1: Hilde Bussmann, nữ vận động viên bóng bàn Đức (sinh 1914) 11 tháng 1: Isidor Isaac Rabi, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1898) 12 tháng 1: Piero Taruffi, người đua mô tô và ô tô (sinh 1906) 14 tháng 1: Pi Scheffer, nhà soạn nhạc Hà Lan, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1909) 14 tháng 1: Georgy Maximilianovich Malenkov, chính trị gia Xô Viết (sinh 1902) 15 tháng 1: Seán MacBride, chính trị gia Ireland, người nhận Giải thưởng Nobel về hòa bình (sinh 1904) 19 tháng 1: Jewgeni Alexandrowitsch Mrawinski, người điều khiển dàn nhạc Nga (sinh 1903) 26 tháng 1: Stephan Koren, chính trị gia Áo (sinh 1919) 29 tháng 1: Seth Neddermeyer, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1907) 1 tháng 2: Johannes Bours, nhà thần học Công giáo La Mã, nhà văn (sinh 1913) 1 tháng 2: Heather O'Rourke, nữ diễn viên Mỹ (sinh 1975) 2 tháng 2: Solomon, nghệ sĩ dương cầm Anh (sinh 1902) 3 tháng 2: Radamés Gnattali, nhạc sĩ Brasil, nhà soạn nhạc (sinh 1906) 4 tháng 2: Willi Kollo, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1904) 5 tháng 2: Stefan Dittrich, chính trị gia Đức (sinh 1912) 10 tháng 2: Lothar Malskat, họa sĩ (sinh 1913) 12 tháng 2: Adolf Bieringer, chính trị gia Đức, nghị sĩ quốc hội liên bang (sinh 1928) 14 tháng 2: Frederick Loewe, nhà soạn nhạc Mỹ (sinh 1904) 15 tháng 2: Richard Feynman, nhà vật lý học Mỹ, nhận Giải thưởng Nobel (sinh 1918) 15 tháng 2: Neil R. Jones, nhà văn thể loại khoa học giả tưởng (sinh 1909) 19 tháng 2: René Char, thi sĩ Pháp (sinh 1907) 19 tháng 2: André Frédéric Cournand, nhà y học (sinh 1895) 24 tháng 2: Memphis Slim, ca sĩ nhạc blues Mỹ (sinh 1915) 24 tháng 2: Bljuma Wulfowna Seigarnik, nhà nữ tâm lý học Nga (sinh 1900) 25 tháng 2: Helmut Echternach, mục sư, nhà thần học Tin Lành, Giám mục (sinh 1907) 3 tháng 3: Sewall Wright, nhà sinh vật học Mỹ (sinh 1889) 9 tháng 3: Kurt Georg Kiesinger, chính trị gia Đức, 1966–1969, thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức (sinh 1904) 10 tháng 3: Phạm Hùng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam (sinh 1912) 13 tháng 3: John Holmes, diễn viên phim khiêu dâm Mỹ (sinh 1944) 14 tháng 3: Reinhold Ebertin, nhà chiêm tinh Đức (sinh 1901) 14 tháng 3: Rudolf Gramlich, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1908) 15 tháng 3: Peter Lühr, diễn viên Đức (sinh 1908) 20 tháng 3: Gil Evans, nhạc sĩ nhạc jazz Canada (sinh 1912) 21 tháng 3: Hans Fronius, họa sĩ Áo, họa sĩ vẽ tranh minh họa (sinh 1903) 22 tháng 3: Albert Benz (Komponist), nhà soạn nhạc Thụy Sĩ, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1927) 30 tháng 3: Edgar Faure, chính trị gia Pháp (sinh 1908) 31 tháng 3: William McMahon, chính trị gia Úc, thủ tướng (sinh 1908) 1 tháng 4: Oliver Hassencamp, diễn viên, tác giả (sinh 1921) 3 tháng 4: Dieter Mauritz, vận động viên bóng bàn Đức (sinh 1918) 3 tháng 4: Martin Wagenschein, nhà sư phạm, nhà vật lý học, nhà toán học (sinh 1896) 4 tháng 4: Herbert Heinicke, người đánh cờ (sinh 1905) 7 tháng 4: Cesar Bresgen, nhà soạn nhạc Áo (sinh 1913) 9 tháng 4: Brook Benton, ca sĩ nhạc soul Mỹ (sinh 1931) 12 tháng 4: Alan Stewart Paton, nhà văn Nam Phi (sinh 1903) 14 tháng 4: Endre Székely, nhà soạn nhạc Hungary (sinh 1912) 15 tháng 4: Kenneth Williams, diễn viên Anh (sinh 1926) 21 tháng 4: I A. L. Diamond, tác giả kịch bản Mỹ (sinh 1920) 22 tháng 4: Ulrich Leman, họa sĩ Đức (sinh 1885) 25 tháng 4: Clifford Simak, nhà báo, tác giả (sinh 1904) 2 tháng 5: Berthold Koch, người đánh cờ Đức (sinh 1899) 4 tháng 5: Stanley William Hayter, họa sĩ Anh, nghệ sĩ tạo hình (sinh 1901) 7 tháng 5: Conny Freundorfer, vận động viên bóng bàn Đức (sinh 1936) 13 tháng 5: Chet Baker, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ, nam ca sĩ, nhà soạn nhạc (sinh 1929) 13 tháng 5: Willem Drees, chính trị gia Hà Lan (sinh 1886) 25 tháng 5: Karl A. Wittfogel, nhà xã hội học Đức, triết gia (sinh 1896) 27 tháng 5: Vladimír Menšík, diễn viên Séc (sinh 1929) 29 tháng 5: Siaka Stevens, cựu tổng thống của Sierra Leone (sinh 1905) 1 tháng 6: Herbert Feigl, triết gia (sinh 1902) 6 tháng 6: Lê Thị Lựu, nữ hoạ sĩ người Việt Nam (sinh 1911) 9 tháng 6: Willy Bartsch, chính trị gia Đức (sinh 1905) 12 tháng 6: Marcel Poot, nhà soạn nhạc Bỉ, giáo sư (sinh 1901) 23 tháng 6: Martin Gregor-Dellin, nhà văn Đức (sinh 1926) 25 tháng 6: Hillel Slovak, nhạc sĩ Mỹ (sinh 1962) 26 tháng 6: Hans Urs von Balthasar, nhà thần học Công giáo người Thụy Sĩ, Hồng y (sinh 1905) 1 tháng 7: Anton Leader, đạo diễn phim Mỹ, nhà sản xuất phim (sinh 1913) 2 tháng 7: Johann Baptist Gradl, chính trị gia Đức (sinh 1904) 2 tháng 7: Eddie "Cleanhead" Vinson, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ (sinh 1917) 6 tháng 7: Hans Gutzwiller, nhà ngữ văn Thụy Sĩ (sinh 1913) 7 tháng 7: Paula Mollenhauer, nữ vận động viên điền kinh Đức (sinh 1908) 8 tháng 7: Raymond Barbuti, vận động viên điền kinh, huy chương Thế Vận Hội (sinh 1905) 12 tháng 7: Michael Jary, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1906) 12 tháng 7: Joshua Logan, đạo diễn Mỹ (sinh 1908) 18 tháng 7: Christa Päffgen, người mẫu Đức, nữ ca sĩ (sinh 1938) 27 tháng 7: Brigitte Horney, nữ diễn viên Đức (sinh 1911) 1 tháng 8: Louis-Jean Guyot, tổng Giám mục của Toulouse, Hồng y Công giáo (sinh 1905) 2 tháng 8: Raymond Carver, tác giả Mỹ (sinh 1938) 9 tháng 8: Paul Ruegger, luật sư Thụy Sĩ (sinh 1897) 9 tháng 8: Giacinto Scelsi, nhà soạn nhạc Ý (sinh 1905) 10 tháng 8: Arnulfo Arias, tổng thống Panama (sinh 1901) 11 tháng 8: Jean-Pierre Ponnelle, đạo diễn phim Pháp (sinh 1932) 11 tháng 8: Alfred Kelbassa, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1925) 11 tháng 8: Pauline Lafont, nữ diễn viên Pháp (sinh 1963) 14 tháng 8: Robert Calvert, nghệ nhân Anh, thi sĩ, diễn viên, nhạc sĩ (sinh 1945) 17 tháng 8: Mohammed Zia ul-Haq, tổng thống Pakistan (sinh 1924) 17 tháng 8: Bruno Mathsson, kiến trúc sư, nhà thiết kế (sinh 1907) 18 tháng 8: Frederick Ashton, biên đạo múa (sinh 1904) 24 tháng 8: Kurt Zips, diễn viên Áo (sinh 1922) 29 tháng 8: Lưu Quang Vũ, nhà soạn kịch, nhà thơ và nhà văn hiện đại của Việt Nam. 29 tháng 8: Xuân Quỳnh,nhà thơ nữ Việt Nam. 1 tháng 9: Luis Walter Alvarez, nhà vật lý học Mỹ, Giải Nobel (sinh 1911) 4 tháng 9: Oda Schaefer, nhà văn nữ Đức (sinh 1900) 5 tháng 9: Ann-Charlott Settgast, nhà văn nữ Đức (sinh 1921) 5 tháng 9: Gert Fröbe, diễn viên Đức (sinh 1913) 6 tháng 9: Axel von Ambesser, đạo diễn phim (sinh 1910) 13 tháng 9: Gerd Hornberger, vận động viên điền kinh Đức (sinh 1910) 21 tháng 9: Henry Koster, đạo diễn phim Đức (sinh 1905) 21 tháng 9: Walter Vogt, nhà văn (sinh 1927) 26 tháng 9: Branko Zebec, cầu thủ bóng đá (sinh 1929) 30 tháng 9: Trường Chinh, Nguyên Tổng Bí thư, Nguyên Chủ tịch Hội đồng nhà nước, nguyên Chủ tịch Quốc hội, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (sinh 1907) 2 tháng 10: Peter Kilian, nhà văn Thụy Sĩ (sinh 1911) 3 tháng 10: Franz Josef Strauß, chính trị gia Đức (sinh 1915) 4 tháng 10: Geoffrey Household, tác giả (sinh 1900) 7 tháng 10: Otto Arnholz, chính trị gia (sinh 1894) 7 tháng 10: Heinrich Maria Janssen, Giám mục Đức (sinh 1907) 8 tháng 10: Ernst Hermann Meyer, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1905) 9 tháng 10: Felix Wankel, nhà phát minh động cơ Wankel (sinh 1902) 10 tháng 10: Reinhart Wolf, nhiếp ảnh gia Đức (sinh 1930) 11 tháng 10: Max Imdahl, sử gia về nghệ thuật Đức (sinh 1925) 12 tháng 10: Trần Duy Hưng, Cố Chủ tịch Thành phố Hà Nội (sinh 16 tháng 1 năm 1912) 19 tháng 10: Son House, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1902) 20 tháng 10: Sheila Scott, nữ phi công Anh (sinh 1922) 27 tháng 10: Curt Herzstark, nhà phát minh (sinh 1902) 27 tháng 10: Charles Hawtrey, diễn viên Anh (sinh 1914) 28 tháng 10: Pietro Annigoni, họa sĩ Ý (sinh 1910) 29 tháng 10: Thomas Benjamin Cooray, tổng Giám mục của Colombo, Hồng y (sinh 1901) 30 tháng 10: Heinz Heckhausen, nhà tâm lý học Đức (sinh 1926) 30 tháng 10: Ernst Fritz Fürbringer, diễn viên Đức, diễn viên (sinh 1900) 31 tháng 10: George Eugene Uhlenbeck, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1900) 9 tháng 11: Mario Nasalli Rocca di Corneliano, Hồng y Công giáo La Mã (sinh 1903) 12 tháng 11: Tomasz Sikorski, nhà soạn nhạc Ba Lan (sinh 1939) 13 tháng 11: Antal Doráti, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1906) 14 tháng 11: Takeo Miki, thủ tướng thứ 66 của Nhật Bản (sinh 1907) 22 tháng 11: Erich Fried, nhà thơ trữ tình, dịch giả, nhà văn tiểu luận (sinh 1921) 23 tháng 11: Wieland Herzfelde, nhà xuất bản Đức, tác giả, nhà xuất bản (sinh 1896) 24 tháng 11: Joachim Fernau, nhà văn Phổ, họa sĩ (sinh 1909) 25 tháng 11: Alphaeus Philemon Cole, nghệ nhân Mỹ, họa sĩ vẽ tranh minh họa (sinh 1876) 27 tháng 11: John Carradine, diễn viên Mỹ (sinh 1906) 27 tháng 11: Johannes Hendrikus Donner, kiện tướng cờ vua Hà Lan (sinh 1927) 29 tháng 11: Hans Scholz, nhà văn Đức, nhà báo, họa sĩ (sinh 1911) 3 tháng 12: Thawal Thamrong Navaswadhi, chính trị gia Thái Lan, thủ tướng (sinh 1901) 5 tháng 12: August Lenz, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1910) 16 tháng 12: Sylvester James, nhạc sĩ Mỹ (sinh 1947) 21 tháng 12: Gottfried Amann, nhà lâm học Đức (sinh 1901) 23 tháng 12: Hermann Heimpel, nhà sử học Đức (sinh 1901) 23 tháng 12: Georg Kurlbaum, chính trị gia Đức (sinh 1902) 25 tháng 12: Evgeny Kirillovich Golubev, nhà soạn nhạc Nga (sinh 1910) 27 tháng 12: Hal Ashby, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1929) 30 tháng 12: Isamu Noguchi, nhà điêu khắc Mỹ (sinh 1904) Giải thưởng Nobel Hóa học - Johann Deisenhofer, Robert Huber, Hartmut Michel Văn học - Naguib Mahfouz Hòa bình - Lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc Vật lý - Leon M. Lederman, Melvin Schwartz, Jack Steinberger Y học - Sir James W. Black, Gertrude B. Elion, George H. Hitchings Kinh tế - Maurice Allais
Sự kiện Tháng 1 3 tháng 1: Quân Trung Quốc tại Miến Điện phản công Nhật Bản 8 tháng 1: Benito Mussolini bị tử hình. 25 tháng 1: Quốc quân phát động phản công toàn diện Nhật Bản tại Miến Điện Tháng 2 8 tháng 2: Mao Trạch Đông hạ lệnh tránh giao chiến bảo toàn thực lực 25 tháng 2: Trung đội cứu quốc quân 3 được thành lập. Tháng 3 6 tháng 3: Tân Tứ quân tấn công Hoài An Đông Kiều trấn 8 tháng 3: Nhật Bản tấn công Ấn Độ Tháng 4 12 tháng 4: Nhật Bản giải phóng liên minh tại Trung Quốc thành lập 17 tháng 4: Nhật Bản mở chiến dịch Ichi-Go, phản công Đồng Minh tại Trung Quốc. 28 tháng 4: Phát xít Nhật tại Tượng Trung phát động phản công, Hứa Xương hội chiến bùng phát. 29 tháng 4: Phát xít Nhật thả ngư lôi tấn công hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ Không rõ ngày: Chiếc máy bay phản lực đầu tiên là Messerschmitt Me 262 được giới thiệu, chiếc máy bay này đã làm tiền đề cho cuộc cách mạng về động cơ phản lực trên máy bay. Tháng 5 7 tháng 5: Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị " Sửa sọan khởi nghĩa". 11 tháng 5: Trung ương Trung cộng tại Hoa Trung tổ chức lực lượng, thành lập căn cứ địa kháng Nhật 20 tháng 5: Tại Trùng Khánh, Quốc Dân đảng tổ chức đại hội 26 tháng 5: Phát xít Nhật đột nhập thành Lạc Dương Tháng 6 6 tháng 6: Quân Đồng Minh đổ bộ lên Normandie, mở mặt trận thứ hai giải phóng châu Âu khỏi Đức Quốc xã. 15 tháng 6: Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Lục quân Hoa Kỳ mở cuộc đổ bộ lên Saipan. 16 tháng 6: Đảng Cộng sản Trung Quốc thương nghị Hoa Nam phát triển lực lượng 18 tháng 6: Quân Nhật Bản chiếm Trường Sa. 23 tháng 6: Mở màn chiến dịch Bagration Tháng 7 4 tháng 7: Trung cộng phát biểu Quốc Cộng hòa đàm không còn hy vọng 22 tháng 7: Hoa Kỳ công chiếm đảo Trại Ban Tháng 8 10 tháng 8: Trung ương Đảng kêu gọi " Sắm vũ khí đuổi thù chung". 15 tháng 8: Tân Tứ quân tấn công chiến lược quân Nhật tại Trung Nguyên 20 tháng 8: Phát xít Nhật tấn công Imphal thất bại 24 tháng 8: Rumani tuyên chiến với Đức 25 tháng 8: Đồng minh giải phóng Paris 29 tháng 8: Kết thúc chiến dịch Bagration Tháng 9 19 tháng 9: Thành lập Trung Quốc Dân Chủ đồng minh tại Trùng Khánh Tháng 10 4 tháng 10: Nhật Bản đánh chiếm Phúc Châu. 17 tháng 10: Hoa Kỳ đổ bộ lên Philippines 20 tháng 10: Liên Xô giải phóng Nam Tư Mở đầu hải chiến Lai Đặc 26 tháng 10: Trận hải chiến Lai Đặc đảo kết thúc 28 tháng 10: Nhật Bản bao vây Quế Lâm, Liễu Châu Tháng 11 10 tháng 11: Quân Nhật Bản đánh chiếm Quế Lâm. Tháng 12 22 tháng 12: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) được thành lập. Sinh 17 tháng 1 - Françoise Hardy, ca sĩ và diễn viên điện ảnh Pháp 19 tháng 1 - Dan Reeves, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Mỹ (m. 2022) 14 tháng 2 - Alan Parker, nhà làm phim người Anh (m. 2020) 23 tháng 3 - Ric Ocasek, ca sĩ Mỹ (Cars) (m. 2019). 4 tháng 4 - Abuzed Omar Dorda, thủ tướng thứ 18 của Libya. (m. 2022) 14 tháng 4 - Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam 20 tháng 5 - Lê Hoàng Sương, Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Việt Nam (m. 2022) 6 tháng 8 - Phạm Gia Khiêm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Vojislav Koštunica, Tổng thống Nam Tư 10 tháng 9 - Giuse Võ Đức Minh, Giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang 14 tháng 9 - Antôn Vũ Huy Chương, Giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt 11 tháng 11 - Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. 19 tháng 12 - Richard Leakey, nhà cổ sinh vật học và nhà bảo tồn người Kenya (m. 2022) Mất 14 tháng 1: Hàm Nghi. (s. 1871) 8 tháng 8: Michael Wittmann 3 tháng 9: Tôn Thất Hân. (s. 1854) 17 tháng 9 – Dương Thị Thục, tôn hiệu Khôn Nghi Hoàng thái hậu, thứ thất của vua Đồng Khánh (s. 1868). 14 tháng 10: Erwin Johannes Eugen Rommel 10 tháng 11: Uông Tinh Vệ Giải Nobel Vật lý - Isidor Isaac Rabi Hóa học - Otto Hahn Y học - Joseph Erlanger, Herbert Spencer Gasser Văn học - Johannes Vilhelm Jensen Hòa bình - Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD, COAD hay COLD) là một dạng bệnh lý tắc nghẽn thông khí phổi được định tính là sự suy giảm thông khí mạn tính. Nó thường diễn tiến xấu dần theo thời gian. Các triệu chứng chính bao gồm khó thở, ho và sinh đờm. Đa số bệnh nhân viêm phế quản mạn tính có COPD. Hút thuốc là nguyên nhân thường gặp nhất của COPD, với một số yếu tố khác như ô nhiễm không khí hay di truyền đóng vai trò nhỏ hơn. Ở các nước đang phát triển, một trong những nguồn ô nhiễm không khí là khói từ việc đốt lửa nấu ăn hay sưởi ấm dẫn thoát kém. Tiếp xúc lâu dài với những kích thích tố kể trên sẽ gây phản ứng viêm tại phổi dẫn đến kết quá là sự co hẹp các đường dẫn khí nhỏ và sự phá hủy mô phổi, gọi là khí phế thũng. Chẩn đoán dựa vào sự giảm khả năng thông khí, được đo bằng các bài kiểm tra thăm dò chức năng hô hấp. Trái ngược với hen suyễn, sự giảm thông khí của COPD không cải thiện đáng kể với chỉ định dược phẩm. COPD có thể được ngăn ngừa bằng việc hạn chế tiếp xúc với các nguyên nhân đã biết, bao gồm các cố gắng giảm tần suất hút thuốc và tăng chất lượng không khí môi trường trong và ngoài nhà. Chỉ định COPD bao gồm: cai hút thuốc, chủng ngừa, phục hồi chức năng, hít thường xuyên các thuốc giãn phế quản và các steroid. Một số trường hợp có thể cải thiện bằng trị liệu oxy dài hạn hay ghép phổi. Ở những bệnh nhân có các đợt kịch phát cấp tính, tăng liều điệu trị hay nhập viện có thể cần thiết. Trên toàn thế giới, COPD ảnh hưởng đến 329 triệu người, tức là gần 5% dân số. Năm 2012, nó xếp hạng ba trong các nguyên nhân tử vong hàng đầu, giết chết hơn 3 triệu người. Số ca tử vong được dự đoán là sẽ tăng lên do tăng tỷ lệ hút thuốc và do dân số già đi ở nhiều nước. COPD gây tổn thất kinh tế ước tính trị giá 2,1 ngàn tỷ vào năm 2010. Theo kết quả nghiên cứu được thực hiện trên gần 2.600 người ở Hà Nội năm 2005, 6,8% số người trên 40 tuổi bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Tại Khoa Hô Hấp Bệnh viện Bạch Mai, số bệnh nhân nội trú điều trị căn bệnh này chiếm 26%. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính gây tử vong rất cao, chỉ đứng sau bệnh mạch vành, ung thư và tai biến mạch máu não.. Các yếu tố nguy cơ Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ gây BPTNMT hàng đầu. Người hút thuốc dễ bị BPTNMT gấp 10 lần hơn người không hút thuốc. 80-90% bệnh nhân BPTNMT có hút thuốc. Gần 50% những người hút thuốc lâu dài sẽ bị BPTNMT (hút >20gói năm thì nguy cơ bị COPD là rất cao). Hút thuốc lá thụ động cũng là yếu tố nguy cơ gây bệnh. Chú ý nhất là phụ nữ hút thuốc lá trong khi có thai nó ảnh hưởng không những phổi và sức khoẻ của người mẹ mà còn ảnh hưởng rất lớn đến sự trưởng thành của phổi con. Ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường trong nhà với khói lò sưởi, khói bếp rơm, rạ, củi, than... gây nên khoảng 20% các trường hợp BPTNMT trên thế giới. Ô nhiễm không khí với khói của các nhà máy, khói của các động cơ giao thông, khói, bụi nghề nghiệp cũng là các yếu tố nguy cơ gây bệnh. Cơ chế sinh bệnh Bệnh PTNMT có liên quan đến phản ứng viêm và các yêu tố nguy cơ:khói thuốc lá,khí độc khi vào đường dẫn khí thì chính các khí này kích thích đại thực bào và các tế bào thượng bì tiết ra các TNF alpha và các chất trung gian gây viêm như IL8...Cho nên phản ứng viêm trong bệnh này chính là đáp ứng bảo vệ của đường hô hấp trước những tác động của khói thuốc và các chất độc khác. Thiếu alpha1 antiytripsin: đây là một chất ức chế một số protein như là neutrophile elastase làm gia tăng nguy cơ gây khí phế thủng; elastin là một thành phần chính của thành phế bào bị huỷ bởi neutrophile elastase. Sự mất quân bình giữa proteinase và antiproteinase nội sinh có thể gây nên sự phá huỷ phổi và có thể xảy ra do sự suy giảm hoạt tính của antiproteinase do stress oxy hóa, do thuốc lá và có thể do những yếu tố nguy cơ khác của BPTNMT. Sinh lý bệnh Sự giới hạn lưu lượng khí thở trong BPTNMT thường không hồi phục và chỉ có một số ít có khả năng hồi phục do hiện tượng tái cấu trúc lại gây xơ hoá và hẹp đường thở nhỏ. Những vị trí thường xảy ra là các tiểu phế quản hay một số các phế quản có đường kính dưới 2mmm.Chính chúng gây ra kháng lực đường thở (tăng > 2lần so với bình thường) cho nên khi đo chức năng hô hấp thì ta có FEV1 và FEV1/FVC giảm. Trong thực tế điều này chứng tỏ có sự giới hạn lưu lượng khí. Cũng chính sự tăng kháng lực đường thở này chúng tăng số lượng phá huỷ các tế bào,tăng khí phế thủng Tổn thương và khí phế thủng gây nên sự mất cân bằng giữa tỷ tưới máu và thông khí cho nên nó dẫn đến thiếu oxi máu, lúc đầu chỉ thiếu oxi máu khi gắng sức, sau đó tiến triển nặng dần dẫn đến thiếu oxi máu cả khi nghỉ ngơi. Tăng áp phổi và tâm phế mạn. Triệu chứng Triệu chứng của BPTNMT phát triển chậm. Những triệu chứng đầu tiên có vẻ nhẹ, bệnh nhân thường cho rằng đây là chuyện không đáng quan tâm: Ho - khi đầu vào buổi sáng, sau đó dần dần ho nhiều lần suốt ngày đêm Ho ra đờm - lúc đầu ít, loãng, càng về sau càng đặc, khó khạc lên Khó thở - lúc đầu chỉ thỉnh thoảng. Khi bệnh nặng, người bệnh luôn luôn thấy khó thở, không di chuyển được - nhiều trường hợp phải dùng mặt nạ thở oxy trường kỳ Thở khò khè hay như hen suyễn - do phế nang bị sưng và đàm làm nghẽn Mệt nhọc, thiếu sức Ngực bị nén Viêm phổi Phân loại giai đoạn lâm sàng theo GOLD 2003 1. Giai đoạn 0: Những cá thể mang những yêu tố nguy cơ của bệnh. 2. Giai đoạn I: Ho mãn tính và khạc đàm. NHững triệu chứng này có thể tồn tại rất nhiều năm trước khi có các dấu hiệu của giới hạn lưu thông khí và thường bệnh nhân không để ý những triệu chứng này 3. Giai đoạn II: Giai đoạn này bệnh nhân thường có triệu chứng khó thở khi gắng sức và đây là giai đoạn bệnh nhân thường được chẩn đoán là BPTNMT. 4. Giai đoạn III, IV: triệu chứng khó thở ngày càng nặng thêm và xảy ra thường xuyên hơn..khi nghỉ ngơi. Đây là giai đoạn có thể có những biến chứng Phân độ trầm trọng của bệnh theo lâm sàng 1. Đợt bộc phát nhẹ: một trong các triệu chứng Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên Sốt không rõ nguyên nhân Ho tăng và khi khám phổi có khả năng nghe được rale rít 2. Đợt bộc phát vừa có 2 trong ba triệu chứng 3. Đợt bộc phát nặng có 3 triệu chứng Biến chứng Nếu không được phát hiện và can thiệp sớm, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính có thể gây ra một số biến chứng nặng nề ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống, thậm chí là tính mạng của bệnh nhân. 1. Tràn khí màng phổi: Người bệnh mắc bệnh ở giai đoạn nặng có tình trạng tắc nghẽn đường thở kéo dài dẫn tới hiện tượng lượng khí hít vào trong phế nang không được thở ra hết. Lượng khí tích tụ làm phế nan bị căng giãn, mỏng dần và vỡ khoang màn phổi, dẫn đến tràn khí màng phổi. 2. Bệnh tim mạch: Bệnh gây cản trở sự trao đổi khí, nồng độ oxy trong máu giảm, gây ảnh hưởng đến hoạt động của tim 3. Giảm tuổi thọ: Khoảng 30% bệnh nhân tử vong vì suy hô hấp cấp và mạn tính, tiếp sau đó là suy tim. Các nguyên nhân gây tử vong tiếp theo bao gồm: Nhiễm trùng hô hấp, nhồi máu phổi, rối loạn nhịp tim, ung thư phổi. Điều trị tóm tắt theo từng giai đoạn Tử vong Việt Nam Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), căn bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đang hoành hành và cướp đi mạng sống của hơn 25.000 người Việt Nam mỗi năm và hiện còn đang tiếp tục tăng lên. Nhân ngày "Bệnh Phổi Tắc Nghẽn Mạn Tính Toàn Cầu", ở Sài Gòn ngày 19 Tháng Mười Một, 2019, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Lê Thị Tuyết Lan, Phó Chủ tịch Hội Hô hấp Việt Nam, cho biết bệnh COPD đang chiếm vị trí thứ ba trong các bệnh lý gây chết hàng đầu, chỉ sau tai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim. Chú thích
Proteales là một danh pháp thực vật của một bộ thực vật có hoa. Bộ này được gần như tất cả các nhà phân loại học công nhận. Tên gọi trong tiếng Việt của nó là Bộ Quắn hoa. Tên gọi quắn hoa chỉ mới xuất hiện trong thời gian không lâu do các loài quắn hoa mới được du nhập vào Việt Nam trong thời gian gần đây. Các họ Hệ thống APG II năm 2003 công nhận bộ này và đặt nó trong nhánh eudicot = Thực vật hai lá mầm thật sự, với giới hạn định nghĩa như sau: Bộ Proteales Họ Sen (Nelumbonaceae) Họ Quắn hoa (Proteaceae) Họ Chò nước (Platanaceae), có thể được tách ra tùy ý từ họ Quắn hoa. Hệ thống APG IV năm 2016 đã thêm họ Sabiaceae vào bộ này. Các thành viên được biết đến nhiều nhất của bộ Proteales là các loài quắn hoa protea (chi Protea) ở Nam Phi, quắn hoa banksia (chi Banksia) và mắc ca (chi Macadamia) ở Úc, tiêu huyền (Platanus orientalis), các loài chò nước (Platanus spp.) và các loài sen trắng hay sen hồng. Nguồn gốc của các loài trong bộ này là rất cổ, với chứng cứ về sự đa dạng hóa vào giữa kỷ Phấn Trắng, khoảng trên 100 triệu năm trước. Một điều đáng chú ý là sự phân bổ của các họ hiện nay, với họ Proteaceae (quắn hoa) chủ yếu ở Nam bán cầu trong khi các họ Platanaceae (chò nước, tiêu huyền) và Nelumbonaceae (sen) ở Bắc bán cầu. Các hệ thống phân loại khác Cronquist Hệ thống Cronquist năm 1981 công nhận bộ này và đặt nó trong phân lớp Rosidae thuộc lớp Magnoliopsida [=thực vật hai lá mầm]. Nó sử dụng định nghĩa sau: Bộ Proteales Họ Elaeagnaceae (nhót) Họ Proteaceae Dahlgren & Thorne Hệ thống Dahlgren và hệ thống Thorne (1992) công nhận bộ này và đặt nó trong siêu bộ Proteanae thuộc phân lớp Magnoliidae [=thực vật hai lá mầm]. Các hệ thống này dùng định nghĩa sau: Bộ Proteales Họ Proteaceae Engler Hệ thống Engler, trong phiên bản cập nhật năm 1964, cũng công nhận bộ này và đặt nó trong phân lớp Archychlamydeae của lớp Dicotyledoneae. Nó dùng định nghĩa sau: Bộ Proteales Họ Proteaceae Wettstein Hệ thống Wettstein, sửa đổi lần cuối năm 1935, cũng công nhận bộ này và đặt nó trong nhóm Monochlamideae thuộc phân lớp Choripetalae của lớp Dicotyledones. Nó sử dụng định nghĩa sau: Bộ Proteales Họ Proteaceae Chú thích
Kiều Công Tiễn ( hoặc ; 870 - 938) là người Phong Châu (Phú Thọ, Việt Nam), là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ (một chức quan đời nhà Đường) cuối cùng cai trị lãnh thổ Việt Nam trong thời kỳ Tự chủ từ năm 937 đến năm 938. Hậu duệ của ông sau này trở thành 2 trong số 12 sứ quân ở khu vực Phong Châu là Kiều Công Hãn và Kiều Thuận. Theo họ Dương Kiều Công Tiễn vốn là hào trưởng Phong Châu (Phú Thọ) từ thời họ Khúc tự chủ. Khi vua Nam Hán xâm chiếm Tĩnh Hải quân (tên gọi Việt Nam lúc đó), bắt Khúc Thừa Mỹ, tướng cũ của họ Khúc là Dương Đình Nghệ tập hợp lực lượng ở Ái châu để chống Hán. Kiều Công Tiễn đến theo Dương Đình Nghệ và được Dương Đình Nghệ dùng làm gia tướng. Một số tài liệu nói rằng Dương Đình Nghệ nhận tất cả 3.000 tráng sĩ đến đầu quân làm "con nuôi" (nghĩa tử) và Kiều Công Tiễn cũng ở trong số đó. Năm 931, Kiều Công Tiễn theo Dương Đình Nghệ tiến quân ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán về nước. Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, Tiễn được sai giữ Phong Châu. Phản họ Dương Năm 937, Kiều Công Tiễn giết chết Dương Đình Nghệ, nắm lấy quyền bính, tự xưng là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Theo các thần phả, ngay trong hàng ngũ họ Kiều đã có chia rẽ. Con Kiều Công Tiễn là Kiều Công Chuẩn và cháu nội là Kiều Công Hãn không theo Tiễn. Kiều Công Chuẩn mang con nhỏ là Kiều Công Đĩnh về Phong Châu, Kiều Công Hãn mang quân vào Ái châu theo Ngô Quyền. Chỉ có một người con khác của Kiều Công Chuẩn là Kiều Thuận theo giúp ông nội. Sát hại Một số tướng cũ của Dương Đình Nghệ mà tiêu biểu là Ngô Quyền - con rể Dương Đình Nghệ - quyết tâm tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Ngô Quyền đang trấn thủ Ái châu, tập hợp lực lượng ở đó và phát lời kêu gọi mọi người chống Công Tiễn. Các hào trưởng, hào kiệt nhiều nơi như Dương Tam Kha, Đinh Công Trứ, Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc... về theo. Công Tiễn bị cô lập, sợ hãi cầu cứu vua Nam Hán, Nam Hán Cao Tổ lập tức phái con trai là Lưu Hoằng Tháo đem binh sang Tĩnh Hải quân. Tháng 4 năm 938, Ngô Quyền mang quân ra Bắc. Theo thần phả thì đạo quân tiên phong do Dương Tam Kha và con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chỉ huy. Đạo quân này nhanh chóng hạ thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn, khi đó quân Hán chưa kịp đến cứu giúp Tiễn, Công Tiễn xưng Tiết độ sứ chưa đầy 1 năm. Khi quân Nam Hán kéo đến nơi, Ngô Quyền theo kế của Kiều Công Hãn bày sẵn trận địa cọc trên sông Bạch Đằng chờ đợi và đánh bại giết chết Lưu Hoằng Tháo, đó là trận Bạch Đằng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, qua đó đã chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc. Theo thần phả, người cháu nội duy nhất ủng hộ ông là Kiều Thuận thoát chết khi thành Đại La bị hạ, bỏ trốn về ẩn náu ở Hồi Hồ (Phú Thọ). Ngô Quyền nể tình anh Kiều Thuận là Kiều Công Hãn có công theo giúp nên không hỏi tới. Sau này khi nhà Ngô suy yếu, Kiều Thuận lại nổi dậy trở thành một sứ quân trong loạn 12 sứ quân và bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan.
Ấu là tên thông dụng tại Việt Nam để chỉ các loài thực vật có hoa thuộc họ Trapaceae trong bộ Đào kim nương (Myrtales). Họ này chỉ gồm một chi duy nhất là Trapa với các loài phổ biến nhất là Trapa natans, Trapa bicornis và Trapa incisa. Họ này đôi khi được coi là một phần của họ Anh thảo chiều (Onagraceae) hoặc phân họ Trapoideae của họ Bằng lăng (Lythraceae, chẳng hạn như APG II) khi theo các dữ liệu của phát sinh loài học. Danh sách loài Các loài trong họ Ấu là các thực vật thủy sinh sống một năm, có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới hoặc ôn đới ấm của đại lục Á-Âu và châu Phi. Chúng sống trong các vùng nước nông, chảy chậm, mực nước sâu tối đa 5 m. Các quả của chúng trông giống như đầu trâu với sừng là các gai nhọn và nói chung tại Việt Nam được gọi là củ ấu. Bên trong các "củ" này là một hạt chứa tinh bột. Thông thường các củ ấu hay được luộc để ăn. Trapa acicularis Trapa acornis Trapa alatyrica Trapa algeriensis Trapa amurensis Trapa annosa Trapa annosa f. bicornis Trapa annosa f. erecticornis Trapa annosa f. pseudomuzzanensis Trapa antennifera Trapa araborum Trapa arcuata Trapa astrachanica Trapa astrachanica var. caspica Trapa austroafricana Trapa bicornis: Ấu hoa trắng Trapa bicornis var. acornis Trapa bicornis var. bispinosa Trapa bicornis var. coreanus Trapa bicornis var. quadrispinosa Trapa bicornis var. taiwanensis Trapa bispinosa Trapa borysthenica Trapa brevicarpa Trapa brevicarpa var. delicata Trapa brevicarpa var. mirabila Trapa brevicarpa subsp. calosa Trapa brevicarpa subsp. rubida Trapa brevicarpa f. effigia Trapa brevicarpa f. miniata Trapa brevicarpa f. muzzanensoides Trapa brevicarpa f. perexcelsa Trapa brevicarpa f. quadrata Trapa carinthiaca Trapa caspica Trapa castanea Trapa caucasica Trapa chinensis Trapa cochinchinensis Trapa colchica Trapa congolensis Trapa conocarpa Trapa conocarpa var. pyramidalis Trapa conocarpa var. suecica Trapa cruciata Trapa danubialis Trapa europaea Trapa europaea var. clipeata Trapa europaea var. egregia Trapa europaea var. vulgata Trapa fastigiata Trapa flerovii Trapa grozdovii Trapa hungarica Trapa hyrcana Trapa incisa: Ấu dài Trapa insperata Trapa jankovicii Trapa japonica Trapa japonica var. jeholensis Trapa japonica var. longicollum Trapa japonica var. magnicorona Trapa japonica var. tuberculifera Trapa jeholensis Trapa kasachstanica Trapa kazakorum Trapa komarovii Trapa korshinskyi Trapa krauselii Trapa laevis Trapa litwinowii Trapa litwinowii var. chihuensis Trapa longicarpa Trapa longicarpa var. contortula Trapa longicarpa var. loricata Trapa longicarpa var. mammeata Trapa longicarpa var. rubra Trapa longicarpa var. spatiosa Trapa longicarpa subsp. perlongicornis Trapa longicarpa subsp. valida Trapa longicarpa f. alticarpa Trapa longicarpa f. amplicornis Trapa longicarpa f. arcuata Trapa longicarpa f. bicornis Trapa longicarpa f. brevicola Trapa longicarpa f. columnifera Trapa longicarpa f. concamerata Trapa longicarpa f. coronatoides Trapa longicarpa f. depressa Trapa longicarpa f. elata Trapa longicarpa f. elongata Trapa longicarpa f. falcata Trapa longicarpa f. perangusticornis Trapa longicarpa f. producticarpa Trapa longicarpa f. pseudomuzzanensis Trapa longicarpa f. subcoronata Trapa longicarpa f. tesselata Trapa longicarpa f. turgida Trapa macropoda Trapa macropoda var. bispinosa Trapa macrorhiza Trapa maleevii Trapa manshurica Trapa manshurica var. tranzschelii Trapa manshurica f. komarovii Trapa maeotica Trapa maximowicii Trapa media Trapa metschorica Trapa natans: Ấu nước Trapa natans var. bispinosa Trapa natans var. borysthenica Trapa natans var. europaea Trapa natans var. hamata Trapa natans var. natans Trapa natans var. pumila Trapa numidica Trapa okensis Trapa pectinata Trapa potaninii Trapa pseudincisa Trapa pseudincisa var. nanchangensis Trapa pseudincisa var. potaninii Trapa pseudocolchica Trapa pseudoincisa Trapa pseudoincisa var. aspinifa Trapa pseudoincisa var. complana Trapa pseudorossica Trapa pyramidalis Trapa quadricornis Trapa quadrispinosa Trapa quadrispinosa var. yongxiuensis Trapa raciborskii Trapa rossica Trapa rossica var. pseudorossica Trapa saissanica Trapa sajanensis Trapa septentrionalis Trapa sibirica Trapa spryginii Trapa taiwanensis Trapa tranzschelii Trapa tuberculifera Trapa turbinata Trapa ucrainica Trapa uralensis Trapa verbanensis Trapa wolgensis Đặc điểm Thân mọc ngầm dưới nước của các loài ấu dài tới 3,6-4,5 m (12–15 ft), với các rễ ăn sâu trong lòng bùn. Chúng có hai dạng lá, các lá mọc ngầm dưới nước được phân chia như lông chim mọc dọc theo chiều dài thân và các lá mọc nổi trên mặt nước không phân chia mọc thành hình hoa thị trên mặt nước. Các lá mọc nổi có các khía răng cưa, hình trứng hoặc tam giác, dài khoảng 2–3 cm, trên các cuống lá phình to và xốp, dài 5–9 cm. Các hoa có màu trắng hay tím với 4 cánh hoa, mọc vào mùa hè và được thụ phấn nhờ côn trùng. Chú thích
Sân bay quốc tế Washington Dulles (tiếng Anh: Washington Dulles International Airport) phục vụ cho Đại đô thị Washington, D.C. (Vùng đô thị Baltimore-Washington). Tên sân bay này được đặt theo John Foster Dulles - ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Dwight D. Eisenhower. Đây là sân bay trung tâm của hãng United Airlines và là một thành phố trọng tâm (focus city) của hàng JetBlue Airways. Sự khởi đầu của hãng Hàng không giá rẻ (low-cost carrier) Independence Air năm 2004 đã khiến Sân bay quốc tế này xếp từ vị trí sân bay bận rộn thứ 24 lên vị trí thứ năm và trở thành một trong 10 Sân bay bận rộn nhất thế giới. Vào những ngày cao điểm nhất, sân bay này phục vụ 600 chuyến bay giá rẻ/ngày. Hãng Independence, kết hợp dịch vụ của các hãng hàng không JetBlue và AirTran, đã khiến cho Dulles trở thành trung tâm của các hãng hàng không giá rẻ lớn nhất Hoa Kỳ. Hiện tại, trong một ngày điển hình, sân bay Dulles phục vụ 1800 đến 2000 chuyến bay – so với 1000 đến 1200 chuyến/ngày năm 2003. Đây là sân bay cửa ngõ cho các chuyến bay xuyên Đại Tây Dương ở bờ đông Hoa Kỳ. Gần đây, với sự nhượng lại của hãng Independence Air, JetBlue đã dần dần mở rộng hoạt động focus city tại sân bay Dulles bằng 6 chuyến bay thẳng hàng ngày đến Boston và Thành phố New York. Hãng này cũng phục vụ các chuyến bay thẳng đến Long Beach, Oakland, Ft. Lauderdale, Las Vegas, West Palm Beach và San Diego, khiến cho JetBlue trở thành hãng lớn thứ 2 tại sân bay Dulles xét về các điểm đến trực tiếp. Diện tích của sân bay là 13.000 mẫu Anh (52,6 km²) đất, cách trung tâm thủ đô Washington 26 dặm (41,6 km), nằm giữa biên giới 2 hạt (county – tương đương cấp tỉnh) Hạt Fairfax và Hạt Loudoun, tiểu bang Virginia. Sân bay này tọa lạc một phần ở Chantilly và một phần ở Dulles (Virginia), phía tây Herndon và tây nam Sterling. Năm 1958, làng Willard đã được giải toả để xây sân bay này. Sân bay quốc tế Washington Dulles do Cơ quan quản lý sân bay vùng đô thị Washington (Metropolitan Washington Airports Authority) (MWAA) vận hành và quản lý. Năm 2005, sân bay này phục vụ 25 triệu khách. Vào một ngày điển hình, hơn 60.000 hành khách đi qua Washington Dulles đến và từ hơn 125 điểm đến trên khắp thế giới. Các nhà ga Nhà ga chính thiết kế đẹp mắt với các móc xích treo tạo ra một khu vực khéo kín rộng rãi được không có cột chống đỡ. Đây là nơi làm thủ tục lên máy bay, băng truyền hành lý, các khu vực thông tin cũng như khu xử lý thủ tục nhập cảnh cho hành khách đến quốc tế. Có 2 loạt cổng ở tòa nhà ga chính. Các cổng "H" Ethiopian Airlines (Addis Ababa, Rome-Fiumicino) Lloyd Aereo Boliviano (Santa Cruz de la Sierra, La Paz) Saudi Arabian Airlines (Jeddah, Riyadh) TACA (Guatemala City, Lima, San Salvador) Các cổng "Z" US Airways (Charlotte, San Jose (CR) [kết thúc ngày 28/10/2006], San Juan [theo mùa vụ, bắt đầu ngày 29/10/2006]) US Airways operated by America West Airlines (Las Vegas, Phoenix) US Airways Express operated by Colgan Air (Altoona, Beckley, Bluefield, Pittsburgh, Shenandoah Valley) US Airways Express cung cấp bởi hãng Air Midwest (Lewisburg/Greenbriar, WV) US Airways Express cung cấp bởi hãng Mesa Airlines (Charlotte) US Airways Express cung cấp bởi hãng PSA Airlines (Charlotte) Midfield Terminals There are three midfield terminal buildings: One contains the A and B Midfield Concourses, another the C and D Midfield Concourses, and the last the G Midfield Concourse. The C and D Concourses, completed in 1983, were designed to be temporary. Their replacements are under development. The A and B Concourses are the first of the permanent Midfield Concourses. Midfield Concourse A United Airlines United Express operated by Chautauqua Airlines (Boston, Buffalo, Columbus, Greensboro, Harrisburg, Indianapolis, Manchester (NH), Rochester (NY), Toronto) United Express operated by Colgan Air (Allentown, Binghamton, Charleston (WV), Charlottesville, State College, White Plains) United Express operated by GoJet Airlines (Cincinnati/Northern Kentucky, Kansas City, Portland (ME), San Antonio, Syracuse) United Express operated by Mesa Airlines (Atlanta, Austin, Birmingham (AL), Boston, Buffalo, Charlotte, Cleveland, Columbia, Daytona Beach, Detroit, Greensboro, Greenville/Spartanburg, Hartford, Jacksonville, Kansas City, Manchester (NH), Minneapolis/St. Paul, Nashville, Newark, New York-JFK, New York-LaGuardia, Myrtle Beach, Norfolk, Philadelphia, Pittsburgh, Portland (ME), Raleigh/Durham, Rochester (NY), Savannah) United Express operated by Trans States Airlines (Albany, Burlington, Dayton, Harrisburg, Hartford, Knoxville, Manchester (NH), Newark, New Orleans, Norfolk, Providence, Raleigh/Durham, Richmond, Roanoke, Syracuse, St. Louis) Midfield Concourse B AirTran Airways (Atlanta, Orlando) Air France (Paris-Charles de Gaulle) All Nippon Airways (Tokyo-Narita) Continental Airlines (Cleveland, Houston-Intercontinental) Continental Express operated by ExpressJet Airlines (Cleveland, Houston-Intercontinental, Newark) Delta Air Lines (Atlanta, Cancún, Cincinnati/Northern Kentucky, Salt Lake City) Delta Connection operated by Atlantic Southeast Airlines (Atlanta) Delta Connection operated by Comair (Cincinnati/Northern Kentucky, New York-JFK) JetBlue Airways (Boston, Fort Lauderdale, Las Vegas, Long Beach, New York-JFK, Oakland, San Diego, West Palm Beach) KLM Royal Dutch Airlines (Amsterdam) Lufthansa (Frankfurt, Munich) Korean Air (Seoul-Incheon) MAXjet (London-Stansted) Northwest Airlines (Detroit, Minneapolis/St. Paul) Northwest Airlink operated by Pinnacle Airlines (Memphis) Scandinavian Airlines System (Copenhagen) South African Airways (Dakar, Johannesburg) Southwest Airlines (Chicago-Midway, Las Vegas, Orlando, Tampa) Sun Country Airlines (Minneapolis/St. Paul) Virgin Atlantic (London-Heathrow) Midfield Concourse C Air Canada Air Canada Jazz (Montréal, Ottawa) Lufthansa (Frankfurt) United Airlines (Albuquerque, Amsterdam, Beijing [Currently requires connection via Chicago-O'Hare; Non-stop service starts ngày 25 tháng 3 năm 2007/pending gov't approval], Boston, Brussels, Buenos Aires-Ezeiza, Bermuda, Calgary [starts May, 2007], Chicago-O'Hare, Denver, Edmonton [starts May, 2007], Fort Myers [starts late october], Frankfurt, Hartford, Kuwait City [starts Oct. 28, 2006], London-Heathrow, Los Angeles, Mexico City, Montego Bay, Montevideo, Munich, Nassau, New Orleans, New York-LaGuardia, Oakland, Oranjestad, Paris-Charles de Gaulle, Phoenix, Portland (OR), Punta Cana, Rio de Janeiro-Galeão, Rome-Fiumicino [starts ngày 1 tháng 4 năm 2007/Pending Gov't Approval], Sacramento, San Diego, San Francisco, San Jose (CA), São Paulo-Guarulhos, Seattle/Tacoma, St. Maarten, St. Thomas, Tokyo-Narita [starts Oct. 28, 2006], Tucson [starts Oct. 31, 2006] Vancouver, West Palm Beach [starts December 2006], Zurich) Ted operated by United Airlines (Cancún, Fort Lauderdale, Las Vegas, Miami, Orlando, San Juan, Tampa) United Express (See Concourse A) United Express operated by Shuttle America (Albany, Atlanta, Dallas/Fort Worth, Halifax, Hartford, Houston-Intercontinental, Indianapolis, Minneapolis/St. Paul, Montréal, Raleigh/Durham, Toronto) Midfield Concourse D American Airlines (Dallas/Fort Worth, Los Angeles, Miami, San Juan) AmericanConnection operated by Chautauqua Airlines (St. Louis) American Eagle (Chicago-O'Hare, Miami) Aeroflot (Moscow-Sheremetyevo) Austrian Airlines (Vienna) British Airways (London-Heathrow) United Airlines (Destinations listed under Concourse C) Airline Lounges Air France operates a Departures Lounge in the B Concourse, opposite B46. All Nippon Airways operates a Club ANA lounge in the B Concourse, opposite B46. American Airlines operates an Admirals Club lounge in Concourse D opposite D26. British Airways operates a Terraces Lounge and a First Class Lounge in Concourse D opposite D19. Northwest Airlines/KLM operate a WorldClubs lounge in the B Concourse opposite B20. United Airlines operates three Red Carpet Clubs in the C and D Concourses opposite C8, C16, and D7. Virgin Atlantic operates a Clubhouse in the B Concourse opposite B32. Star Alliance members without a lounge offer access to the United Red Carpet Club lounges or the ANA Lounge, while other airlines who do not operate a lounge of their own offer access to lounges of partner airlines.
Sân bay quốc tế Los Angeles (Los Angeles International Airport) mã là KLAX, là sân bay phục vụ ở thành phố Los Angeles, bang California. Người dân California thường gọi sân bay này là LAX với việc đánh vần từng chữ riêng. Sân bay có 4 đường cất hạ cánh dài lần lượt là: 3382 m, 3135 m, 2720 m và 3382 m. KLAX phục vụ khách bay thẳng 2 tuyến điểm (không phải transit) nhiều hơn bất kỳ sân bay bận rộn trên thế giới. LAX là sân bay bận rộn thứ 5 thế giới nếu tính lưu lượng khách phục vụ. Sân bay đã phục vụ khoảng 61.95.548 hành khách năm 2007 và 70 triệu lượt khách năm 2014. LAX đứng thứ 3 về lượng khách thông qua ở các sân bay Hoa Kỳ. Nếu tính riêng lượng khách quốc tế, LAX là sân bay bận rộn thứ 2, chỉ sau Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở Thành phố New York. Nhưng chỉ xếp thứ 20 thế giới về tiêu chí này. Trước 11 tháng 9, đây là sân bay bận rộn thứ 3 thế giới. LAX là sân bay trung tâm của hãng hàng không United Airlines. LAX phục vụ các điểm đến như Bắc Mỹ, Mỹ Latinh, châu Á và châu Đại Dương. Các hãng hang không nổi tiếng ở sân bay này là: United (19.57% lượng khách, kết hợp với số khách của United Express), American chiếm (15%) và hãng Southwest (12.7%). LAX cũng là một thành phố tập trung của Alaska Airlines và là một cửa ngõ cho hãng Delta Air Lines. Diện tích sân bay vào khoảng 3.425 ha (14km²), nằm bên bờ Thái Bình Dương của Los Angeles, cách trung tâm thành phố này 15 dặm (24km) về phía tây nam trung tâm Los Angeles. Vị trí của sân bay này ở bên bờ biển nên thường phải chịu cảnh sương mù dày đặc, lúc đó các chuyến bay buộc phải chuyển qua Sân bay quốc tế Ontario (Ontario International Airport) ở Hạt San Bernardino các LAX 47 dặm (76 km) về phía đông. Dù LAX là sân bay lớn nhất ở thành phố Los Angeles, khu vực này vẫn phải phụ thuộc vào nhiều sân bay khác do quy mô của vùng đô thị Đại Los Angeles rộng lớn. Nhiều tuyến điểm du lịch của vùng này gần các sân bay thay thế khác trong khu vực hơn LAX như Hollywood và Công viên Griffith gần Sân bay Bob Hope hơn (toạ lạc tại Burbank) thuộc Quận Los Angeles (Los Angeles County). Các nhà ga (Terminal), các hãng hàng không và các điểm đến: Hàng hóa
Lythraceae là danh pháp khoa học của một họ thực vật có hoa. Nó bao gồm khoảng 500-620 loài, chủ yếu là cây thân thảo, với một ít loài là cây bụi hoặc cây thân gỗ, trong 32 chi. Trong tiếng Việt nó được gọi là họ Bằng lăng hoặc họ Tử vi (theo chi Lagerstroemia). Nếu đặt tên họ theo đúng chi Lythrum (không thấy có ở Việt Nam) thì sẽ là họ Thiên khuất. Họ Lythraceae phân bổ khắp toàn cầu, với phần lớn các loài ở vùng nhiệt đới nhưng chúng cũng sinh sống tốt trong các khu vực có khí hậu ôn đới. Chi từ đó có danh pháp Lythraceae là chi Lythrum, chứa các loài thiên khuất (chẳng hạn Lythrum salicaria hay thiên khuất tía). Hiện nay người ta đã gộp cả lựu, trước đây được xếp trong một họ riêng là Punicaceae. Các chi Phân họ Lythroideae Juss. ex Arn. 1832 = Lythraceae nghĩa hẹp (sensu stricto), 27 chi: Adenaria Ammannia (bao gồm cả Ammanella, Cornelia): thanh hồ điệp, hồng liễu, mùi chó. Capuronia Crenea (bao gồm cả Crena, Crenaea, Dodecas) Cuphea (bao gồm cả Balsamona, Banksia, Bergenia, Cuphaea, Dipetalon, Duvernaya, Endecaria, Maja, Melanium, Melfona, Melvilla, Parsonsia, Quirinia): cẩm tú Decodon Didiplis Diplusodon (bao gồm cả Diplodon, Diplousodon, Friedlandia) Galpinia Ginoria (bao gồm cả Amannia, Antherylium, Ginora, Haitia) Heimia Hionanthera Koehneria Lafoensia (bao gồm cả Calyplectus, Ptychodon) Lagerstroemia (bao gồm cả Orias): tử vi, bằng lăng, săng lẻ. Lawsonia (bao gồm cả Rotantha): lá móng Lourtella Lythrum (bao gồm cả Peplis, Salicaria): ngưu đốn thảo, thiên khuất. Nesaea Pehria (bao gồm cả Grislea) Pemphis: bằng phi Physocalymma (bao gồm cả Physocalymna) Pleurophora Rotala (bao gồm cả Ameletia, Boykiana, Boykinia, Ditheca, Hoshiarpuria, Hydrolythrum, Hypobrichia, Nexilis, Nimmonia, Quartinia, Rhyacophila, Sellowia, Suffrenia, Tritheca, Winterlia): luân thảo, vảy ốc. Socotria Tetrataxis (bao gồm cả Tetradia) Woodfordia: lâm phát. Phân họ Punicoideae (Horan. 1834) S. A. Graham, Thorne & Reveal 1998 = Punicaceae Punica: hai loài lựu (thạch lựu) Phân họ Sonneratioideae (Engl. & Gilg 1924) S. A. Graham, Thorne & Reveal 1998 Sonneratia (bao gồm cả Blatti): các loài bần. Phân họ Duabangoideae (Takht. 1986) S. A. Graham, Thorne & Reveal 1998 = Duabangaceae Duabanga: các loài phay, mía tương, trâm đĩ Phân họ Trapoideae Voigt 1845 = Trapaceae Trapa: các loài ấu. Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài dưới đây vẽ theo Julie A. Morris, 2007. Các chi không đưa vào phân tích bao gồm Crenea, Diplusodon, Hionanthera, Socotria. Phát sinh chủng loài này cho thấy việc phân chia thành các phân họ như đề cập trên đây là không phù hợp. Hình ảnh
Dưới đây là danh sách các sân bay bận rộn nhất Hoa Kỳ. Theo số lượng khách lên máy bay Theo tổng số khách (2009) Busiest Airports as of 2006 Số liệu theo Airports Council International Bắc Mỹ. Số liệu lấy từ 100 sân bay có lượng khách đông nhất năm 2006. Theo lượng hàng
Sông Ông Đốc hay Sông Đốc là tên một con sông tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Sông dài 58 km, bắt nguồn từ ngã ba sông Cái Tàu – Sông Trẹm chảy về hướng Tây ngang qua nhiều làng xóm đã được định cư lâu đời: Xóm Sở, Cán Dù, Nổng Kè, Ông Tự, Tham Trơi,... và đổ ra cửa Ông Đốc ở phía Vịnh Thái Lan. Hai bên hữu ngạn và tả ngạn có nhiều sông rạch nhỏ: rạch Cái Tàu, Rạch Giếng, Rạch Cui, Rạch Ráng, Rạch Vọp,... Địa danh sông Ông Đốc Theo nhiều tài liệu lịch sử ghi lại, vào thế kỷ thứ 18, sông Ông Đốc có tên gọi là Khoa Giang. Sau sự kiện năm Quý Mão (1783), khi bị hùng binh Tây Sơn Nguyễn Huệ truy đuổi, Nguyễn Ánh cùng gia tộc chạy về vùng đất phương Nam đến cửa Khoa Giang, nhờ có tướng Đốc Huỳnh liều mình cứu cho Nguyễn Ánh thoát chết. Sau đó, sông Khoa Giang được đổi tên sông Ông Đốc cho đến bây giờ. Về sau, nhiều người đọc trại thành Sông Đốc và đó cũng là tên gọi của thị trấn miền quê biển này. Ngày 10 tháng 2 năm 1955, cửa biển sông Ông Đốc trở thành nơi ghi dấu lịch sử cách mạng, là nơi chứng kiến, tiễn đưa chuyến tàu cuối cùng đưa cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dòng sông này trước kia còn có tên là Khoa Giang, nơi đây đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử của vùng đất Cà Mau từ thời kỳ đầu khai phá đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta. Tên gọi sông Ông Đốc xuất phát từ truyền thuyết, trong thời gian bị quân Tân Sơn truy đuổi, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng chạy về phương Nam, đã đến nhiều nơi trên đất Cà Mau. Một hôm chạy trốn vào xóm Cái Tàu (nay thuộc xã Khánh An), rồi dự định theo con sông này để ra hòn Thổ Chu (nằm ngoài Vịnh Thái Lan) sang nước Xiêm La xin cầu viện. Không ngờ, đoàn thuyền vừa đi khỏi vàm Rạch Cui một quãng thì quân Tây Sơn đuổi tới. Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Đô Đốc Thủy binh Nguyễn Văn Vàng ở trong đoàn tùy tùng bèn tâu với vua xin cởi hoàng bào cho ông mặc để ở lại cản trở và đánh lạc hướng quân giặc. Nhờ vậy, Nguyễn Ánh thoát lên bờ và trốn lên rừng Khánh Bình. Còn Đô Đốc Vàng thì bị quân Tây Sơn giết chết, thây chìm xuống sông sâu. Quân Tây Sơn tưởng rằng đã giết được Nguyễn Ánh nên không truy đuổi nữa. Nguyễn Ánh nhờ vậy mới thoát thân, liền thay đổi lộ trình, quay trở lại rạch Ông Tự (thuộc xã Phong Lạc), rồi hành quân qua ngọn rạch Cái Rắn và đóng quân tại nơi đây để củng cố lực lượng tìm đường thoát thân. Ngày nay ở vùng Cái Rắn còn lưu lại di tích một nền trại lính và một cái ao lịch sử, dân địa phương gọi là Ao Vua. Cảm phục trước sự hy sinh cứu chúa của Đô Đốc Vàng, người dân ở đây gọi con sông này là sông Đốc Vàng để tưởng nhớ vị Đô Đốc Thủy binh đã tận trung. Dần dần, cái tên gọi sông Ông Đốc trở nên quen thuộc với người Cà Mau, có khi dân gian gọi tắt thành Sông Đốc. Năm 1954, dòng sông Ông Đốc lại chứng kiến cuộc chia ly lịch sử của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ là con em Cà Mau và Nam Bộ tập kết ra miền Bắc. Sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, cửa sông Ông Đốc là một trong những điểm tập kết lớn của miền Nam. Và trong những chuyến tàu cuối cùng, người ta thấy đồng chí Lê Duẩn cùng với đồng chí Lê Đức Thọ lên tàu đi tập kết. Ít ai biết rằng, đồng chí Lê Duẩn bước chân lên tàu chỉ để đánh lạc hướng quân thù. Sau khi những chuyến tàu tập kết rời bến Sông Đốc, đồng chí Lê Duẩn đã được bí mật đưa trở lại để lãnh đạo Cách mạng miền Nam trong những năm giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ. Địa danh Sông Đốc còn được dùng để đặt cho chợ Sông Đốc, thị trấn Sông Đốc (thị trấn thuộc huyện Trần Văn Thời). Nơi đây tập trung đông dân cư, buôn bán sầm uất với nhiều ngành nghề kinh doanh đặc thù của một thị trấn ven biển, với những phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, tín ngưỡng dân gian tạo nên một không gian văn hóa rất riêng của miền biển. Đặc biệt, ở đây còn có Lăng thờ Cá Ông “Nam Hải Đại Tướng Quân” ở khóm 2, thị trấn Sông Đốc. Vào các ngày 14, 15, 16 tháng 2 âm lịch hằng năm, nơi đây diễn ra Lễ hội Nghinh Ông, là lễ hội dân gian lớn nhất Cà Mau, thu hút hàng chục ngàn người dân trong tỉnh và các vùng lân cận đến tham dự. Kể cả những ngư phủ từ các tỉnh ven biển miền Trung và Nam Bộ cũng tìm đến cúng viếng, cầu cho mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng. Chú thích
Sông Sài Gòn là một phụ lưu của sông Đồng Nai. Sông bắt nguồn từ rạch Chàm, có độ cao tương đối khoảng 150 m, nằm trong huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, rồi chảy qua giữa địa phận ranh giới tự nhiên giữa 2 tỉnh Bình Phước và Tây Ninh, qua hồ Dầu Tiếng, chảy tiếp qua tỉnh Bình Dương, là ranh giới giữa Bình Dương với Thành phố Hồ Chí Minh, hợp với sông Đồng Nai thành hệ thống sông Đồng Nai, đổ ra biển. Ở thượng lưu sông chảy theo hướng bắc - nam, trung lưu và hạ lưu sông chảy theo hướng tây bắc - đông nam.. Sông Sài Gòn dài 256 km, chảy dọc trên địa phận Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 80 km, có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại Thành phố khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu có chỗ tới 20 m, diện tích lưu vực trên 5.000 km². Hồ Dầu Tiếng được xây dựng nhằm điều tiết dòng chảy, hạn chế lũ và xâm nhập mặn ở hạ lưu, đồng thời cung cấp nước cho Tây Ninh, khu vực tây bắc Thành phố Hồ Chí Minh và Long An. Hồ Dầu Tiếng ngăn dòng từ ngày 24-6-1984 đã làm ảnh hưởng đến dòng chảy tự nhiên của sông Sài Gòn. Tên gọi Vì chảy qua nhiều vùng nên sông mang nhiều tên khác nhau: Từ đầu nguồn ở huyện Lộc Ninh tỉnh Bình Phước, huyện Dương Minh Châu tỉnh Tây Ninh đến gần chợ Thủ Dầu Một (Bình Dương) gọi là sông Ngã Cái. Đoạn từ chợ Thủ Dầu Một đến cư xá Thanh Đa (Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh) gọi là sông Thủ Khúc. Đoạn từ cư xá Thanh Đa đến chỗ đổ vào sông Đồng Nai (Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Đức) có tên là sông Sài Gòn hay sông Bến Nghé (tên chữ là Ngưu Chử giang, trong sách Gia Định thành thông chí ghi là Tân Bình giang, vì ngày xưa chảy qua phủ Tân Bình). Dòng chảy Dòng chính Sông là ranh giới tự nhiên giữa: Bình Phước (Lộc Ninh, Hớn Quản) ở phía đông và Tây Ninh (Tân Châu, Dương Minh Châu) ở phía tây; Bình Dương (Dầu Tiếng, Bến Cát, Thủ Dầu Một, Thuận An) ở phía đông và Tây Ninh (Dương Minh Châu, Trảng Bàng), Thành phố Hồ Chí Minh (Củ Chi, Hóc Môn, Quận 12) ở phía tây; Thủ Đức ở phía đông và Quận 12, Gò Vấp, Bình Thạnh, Quận 1, Quận 4, Quận 7 ở phía tây. Sông Sài Gòn hợp lưu với sông Đồng Nai ở chỗ ngã ba giữa Thủ Đức, Quận 7 và Nhơn Trạch (Đồng Nai). Phụ lưu Sông Thị Tính: bắt nguồn từ thị trấn Lai Uyên, Bàu Bàng chảy theo hướng bắc - nam qua thị xã Bến Cát đến thành phố Thủ Dầu Một, Bình Dương. Thị Tính hợp lưu với sông Sài Gòn ở phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một. Sông Vàm Thuật Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè Rạch Bến Nghé Kênh Tẻ Lịch sử Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức mô tả về sông Bến Nghé như sau: Ở phủ Tân Bình, trước thành Gia Định, tục gọi là sông Bến Nghé, rộng 142 tầm, sâu 10 tầm, khi nước lên sâu 13 thước ta, sông này vừa rộng lớn vừa trong sâu, những tàu buôn và ghe thuyền sông biển trong và ngoài nước ra vào không ngớt, trông thấy đầu tàu nối liền, đuôi cột buồm chi chít, đủ biết đó là nơi đô hội. Từ bến đò trước thành, uốn quanh lên phía tây đến sông Bình Đồng (tục gọi là sông Đồng Cháy) qua sông Băng Bột (Thủy Vọt), ngược lên thủ sở Tầm Phong Tích rồi đến thác lớn Bưng Đàm (Nhồm) là chỗ cuối nguồn, tất cả là 462 dặm. Từ bến đò trước thành quanh ra phía bắc uốn qua đông xuống cửa Tam Giang Nhà Bè, hợp làm sông Phước Bình đổ ra cửa lớn Cần Giờ là 142 dặm rưỡi. Hai bên sông có nhiều sông nhánh, phía tây nam sông thuộc địa giới trấn Phiên An, phía đông bắc thuộc địa giới trấn Biên Hòa. Sông Bến Nghé có vai trò quan trọng trong việc phát triển vùng đất Gia Định xưa. Trích bài viết của nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng: Sau khi chiến tranh tàn phá Cù lao Phố và tiếp đó, thành Gia Định (thành Bát Quái, thành Qui) được thành lập theo ý đồ chính trị của chúa Nguyễn Ánh, Bến Nghé trở thành xứ thành thị...Chợ phố Sài Gòn, nằm trên bờ sông Sài Gòn, đã dần dần giành mất vai trò của Cù lao Phố; xã Thanh Hà ở Biên Hòa cũng bị làng Minh Hương thay thế. Cuối thế kỷ XVIII, Bến Nghé – Sài Gòn là một thành thị đô hội...Từ năm 1788, vùng đất này đã bước vào công cuộc xây dựng hòa bình. Thành Gia Định được xây theo kiểu thành Vauban và là cơ quan của Gia Định kinh với dinh thự, kho lẫm, cuộc chế tạo, xưởng đóng ghe thuyền, tàu chiến. Hệ thống đường sá, phố chợ được chỉnh đốn một bước quy mô. Thương cảng Bến Nghé thu hút tàu bè của thương nhân ngoại quốc đến buôn bán đông đảo. Chợ phố, bến cảng đã làm cho Bến Nghé–Sài Gòn (hiểu là Chợ Lớn) trở thành trung tâm chính trị, kinh tế cho toàn vùng. Cho đến khi: "Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây"...Khu vực trung tâm Bến Nghé, kinh rạch được san lấp, dinh thự, công sở (Bưu điện, Pháp đình, dinh Thống đốc, tòa thị chính), nhà thờ Thiên Chúa giáo, đường sá, phố xá...lại được dựng lên...đã làm thay đổi về chất bộ mặt của xứ đô hội Gia Định cũ . Ngoài vai trò là thủy lộ quan trọng, sông bến Nghé còn là nơi xảy ra nhiều trận đánh ác liệt dưới thời phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Khi thực dân Pháp cai trị Nam Kỳ, để hướng dẫn tàu bè ra vào sông Sài Gòn được an toàn, nhà cầm quyền Pháp đã cho xây một cột cờ cao 30 mét cách vàm Bến Nghé vài trăm mét, gọi là cột cờ Thủ Ngữ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, khu vực cột cờ Thủ Ngữ đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh của quân và dân Việt. Giao thông Sông này có các cảng lớn thuộc hệ thống Cảng Sài Gòn. Có tuyến buýt đường sông xuất phát từ bến Bạch Đằng (Quận 1) đi theo sông Sài Gòn, qua kênh Thanh Đa và ra lại sông Sài Gòn đến khu vực phường Linh Đông (thành phố Thủ Đức). Ngoài ra, ở Thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Thầy Cai, Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi... Môi trường Công ty TNHH nông sản Việt Phước Ngày 14-8, cơ quan điều tra Công an tỉnh Bình Phước vừa đề nghị UBND tỉnh ra quyết định xử phạt Công ty TNHH nông sản Việt Phước, trụ sở tại xã Minh Tâm, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước gần 300 triệu đồng do công ty có vi phạm xả nước thải bẩn chưa qua xử lý trực tiếp ra sông Sài Gòn. Đồng thời, cơ quan chức năng cũng buộc đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường của cơ sở chăn nuôi heo thuộc công ty này trong thời gian 4,5 tháng. Ngày 6-7, người dân phát hiện cá chết hàng loạt trên thượng nguồn sông Sài Gòn đoạn qua địa phận ấp 4, xã Minh Tâm và ấp Bàu Lùng, xã Tân Hiệp, huyện Hớn Quản và hàng trăm xác heo thối rữa vứt mé thượng nguồn sông Sài Gòn. Các loài cá bị chết chủ yếu là cá trắng, cá dảnh, cá mè, cá rô phi và một số lượng nhỏ cá lăng, ước khối lượng cá chết khoảng 2 tấn. Ngày 13-7, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (PC49), Công an tỉnh Bình Phước) cùng Sở Tài nguyên - Môi trường tiến hành khảo sát nguồn xả thải với một số doanh nghiệp xung quanh đoạn sông xảy ra cá chết và phát hiện Công ty TNHH Nông sản Việt Phước đã vứt hàng trăm xác heo chết ra mé sông Sài Gòn. Trước đó, tháng 6-2015, Công ty TNHH nông Sản Việt Phước cũng̣ đã bị UBND tỉnh Bình Phước xử phạt hơn 300 triệu đồng về hành vi xả thải trực tiếp ra sông Sài Gòn. Hình ảnh Các công trình khác Nhà máy nước Tân Hiệp, Củ Chi lấy nước từ sông Sài Gòn với công suất 300.000 m³/ngày
Sông Vàm Cỏ Đông là một chi lưu của sông Vàm Cỏ, thuộc hệ thống sông Đồng Nai. Sông Vàm Cỏ Đông bắt nguồn từ vùng đồng bằng trũng thấp thuộc lãnh thổ Campuchia chảy vào Việt Nam tại xã Biên Giới, xã Thành Long, huyện Châu Thành, Tây Ninh, rồi qua các huyện Bến Cầu, Hòa Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng (đều thuộc Tây Ninh) với thủy trình khoảng 98 km. Đoạn tiếp theo dài khoảng 6 km là ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, Long An. Sau đó, sông chảy vào địa phận tỉnh Long An qua các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Cần Đước với thủy trình khoảng 86 km rồi kết hợp với sông Vàm Cỏ Tây tạo nên sông Vàm Cỏ để đổ vào sông Soài Rạp và đi ra biển Đông. Sông Vàm Cỏ Đông có một số chi lưu trong đó có sông Nhật Tảo. Vào thời nhà Nguyễn, sông Vàm Cỏ Đông mang tên là sông Quang Hóa vì chảy qua gần lỵ sở và cắt ngang chính giữa huyện Quang Hóa, phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định thời nhà Nguyễn (vùng đất nay là các huyện Bến Cầu, Gò Dầu, Trảng Bàng,... tỉnh Tây Ninh). Đại Nam nhất thống chí chép về sông này như sau: Nguồn chính chảy từ tỉnh Prey Veng Campuchia, qua phía bắc tỉnh Svay Rieng có tên Khmer gọi là Prek Kampong Spean, đoạn đầu nguồn của nguồn chính khi vào Việt Nam ngày nay gọi là sông Suối Mây, còn trước đây gọi là Cái Cậy. Sông có chiều dài 280 km trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam dài hơn 190 km.Lưu vực sông rộng 8.500 km² và lưu lượng là 96 m³/s. Tại Tây Ninh, Vàm Cỏ Đông chảy từ phía tây bắc hướng Bến Cầu có cảng Bến Kéo qua Gò Dầu Hạ, rồi xuôi hướng đông nam chảy qua thị trấn Bến Lức của tỉnh Long An. Đoạn trung lưu chảy từ Bến Lức tới Tân Trụ, vào thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn gọi là sông Bến Lức (hoặc sông Lật Giang hay sông Cửu An). Sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây hợp lưu lại (tại Tân Trụ) thành sông Vàm Cỏ. Vì có nhiều nhánh sông nhỏ của Vàm Cỏ Đông nên nó rất thuận tiện cho việc lưu thông bằng đường thủy để vận chuyển hàng hóa từ các nơi về Tây Ninh hay ngược lại từ Tây Ninh đến những nơi khác (chủ yếu là các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long), điển hình là tại cảng Bến Kéo (huyện Hòa Thành) rất tấp nập. Đây là nơi xảy ra nhiều trận đánh ác liệt trong các cuộc chiến tranh. Trong cuộc chiến chống Pháp, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đã chỉ huy trận đánh đốt tàu Hy Vọng của thực dân Pháp tại vàm Nhựt Tảo. Trong chiến tranh Việt Nam, đây cũng là nơi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt. Sông này nổi tiếng với bài hát cùng tên là bài "Vàm Cỏ Đông" (sáng tác: Trương Quang Lục, thơ: Hoài Vũ), "Lên ngàn" (sáng tác: Hoàng Việt). Bắt nguồn từ phía bắc tỉnh Svay Rieng của nước bạn Campuchia, sông Vàm Cỏ Đông có tên Khmer là Prek Kampong Spean. Khi qua biên giới Việt Nam sông có tên gọi theo tiếng bản địa là sông Cái Cay. Tổng chiều dài của sông hơn 280 km trong đó phía Việt Nam là 180 km chảy dài. Sông chảy uốn khúc quanh co qua nhiều làng mạc trù phú của cả hai nước Việt- Cam và hàng năm đem lại rất nhiều hoa lợi cho cư dân ven bờ. Lữ khách ai đó một chiều ngang bến sông thơ, con sông đã mang nhiều huyền thoại và sử tích lưu danh truyền đời mà dừng chân ngắm trời non nước mới thấy cái thú tiêu dao của kẻ phong hồ quả cũng là không uổng. Về đây cảm nhận và khám phá con sông huyền thoại rồi lần theo dấu vết thăng trầm lịch sử của dòng sông Vàm Cỏ Đông từ cách nay mấy trăm năm ta thấy quả nhiên dòng sông này chất chứa trong mình nhiều điều rất ư thầm kín. Người xưa gọi là sông Quang Hóa hay Khê Lăng. Có lẽ thế nên trong phần giới thiệu về thổ nhưỡng sông núi của trấn Phiên An- Nam Việt thì sách Gia Định Thành Thông Chí của Trình Hoài Đức thời nhà Nguyễn chép rằng: "Ở thượng lưu sông Thuận An cách phía tây trấn 160 dặm rưỡi. Phủ sở ở bờ phía Bắc sông lớn có người Trung Hoa và Cao Miên ở chung lẫn lộn làm ăn, có tuần ty coi thâu thuế lệ cước đồn và phòng giữ biên cảnh. Từ đây chảy 24 dặm rưỡi có cửa sông Khê Lăng, 91 dặm rưỡi đến thủ sở Quang Phong giáp địa giới Cao Miên. đây là con đường mà sứ thần Cao Miên sang cống hiến phải đi ngang qua. Dọc theo sông ruộng đất mới khẩn còn nhiều rừng rú. Lên hướng Tây nước chia làm hai nhánh. Nhánh phía Bắc tục danh là Cái Bát đi thẳng ra Bắc 100 dặm chỗ cùng tuyền về đằng Bắc 100 dặm nữa là rừng Quang Hóa. Nhánh phía Nam tục gọi là sông Cái Cay đi lên hướng Tây hơn 100 dặm cũng cùng tuyền. Tới đây đều là đất rừng Quang Hóa liên tiếp nối dài…" Nếu nói như vậy sông sông Quang Hóa ngày xưa và Vàm Cỏ ngày nay tính từ hợp lưu ở Tân Trụ đổ lên thì Vàm Cỏ Tây gọi là Cái Bát, Vàm Cỏ Đông gọi là Cái Cay. Tên gọi Cái Cay ấy nghe bằng âm Hán tự cổ có nghĩa gần giống như suối tóc hay tóc dài của người nữ phụ. Nếu quan sát sông Vàm Cỏ Đông của ngày hôm nay mà lấy cầu Gò Dầu làm trung tâm chia đôi nữa Thượng- Hạ lưu sông Vàm Cỏ Đông rồi phóng tầm mắt nhìn bao qua ra xa mới thấy bốn bề rộng mở với ngút ngàn màu xanh của đồng lúa và cây cối ven bờ. Chính cây cầu Gò Dầu bắc qua sông Vàm Cỏ này theo cư dân địa phương thì còn một cái tên gọi nữa nghe hơi huyền hoặc chút là cầu "Xóa Nợ". Dân gian nói rằng mỗi năm có rất nhiều con bạc từ Việt Nam qua cửa khẩu Mộc Bài (Cách có mấy cây số) bên đất Cambodia chơi trò đen đỏ. Kẻ được thì ít người thua thì nhiều, có người thua quá cùng đường nghỉ quẩn khi về ngang qua sông Vàm Cỏ Đông trầm mình xuống đó để xóa đi món nợ khốn cùng. Trần gian có những điều bất công là thế, dòng sông vốn hiền hòa bốn mùa nước chảy xuôi dòng nuôi sống biết bao thế hệ, một ngày bỗng dưng thành nơi ai oán tương phùng cho âm dương cách biệt. Tháng sáu về những cơn mưa giữa mùa thường hay xuất hiện lúc sang chiều mang đến cái mát trong lành cho thời tiết khu vực. Từ cầu "Xóa Nợ" nhìn xuôi về hạ lưu là vùng đất giáp ranh của hai tỉnh Long An- Tây Ninh sông Vàm Cỏ như một dải lụa mềm ôm lấy hai triền bờ cỏ cây xanh mướt. Lâu lâu nước chảy xuôi dòng bị cản lại bởi các cầu cảng mọc ngay mép nước làm nơi trú ngụ cho tàu thuyền cập bến, những con thuyền xuôi ngược ngày đêm rẽ đôi sóng nước Vàm Cỏ là phương tiện trao đổi hàng hóa giao thương giữa các miền. Nhìn lên thượng lưu con sông bị thu hẹp tầm mắt bởi núi Bà Đen án ngữ, người ta nói thế núi và sông này giống như Long chầu Hổ phục mà tạo nên một vùng đất có nhiều huyền tích về địa linh nhân kiệt nhiều đời. Bình thường trời sáng trong mặt sông lững lờ xuôi nước và những đám Lục Bình theo thuyền rẽ sóng lên xuống. Gặp khi trời nhiều mây mù cộng với gió nam từ biển thổi vào, hơi nước dưới mặt sông bốc lên tạo thành những đám vũ tích lững lờ lãng đãng như sương như khơi trước khi lên cao và vướng vào các sườn núi khu vực Bà Đen là thế. Có một thời những văn nhân theo bước phong hồ mà thường khi vẫn đắm mình vào con nước chiều lên xuống lúc hoàng hôn buông nắng để tạo ra những thi khúc sống mãi với thời gian về dòng sông huyền thoại này là có thực. Bài hát Lên Ngàn của nhạc sĩ Hoàng Việt và bài ca Vàm Cỏ Đông của Trương Quang Lục cũng bắt nguồn từ đây. Trở lại sông Vàm Cỏ Đông một chiều sương giăng mờ phủ, đứng trên cầu ‘Xóa Nợ" lặng im nhìn nước chảy xuôi chiều mà nghe âm vang tiếng mái chèo khua nhịp, tiếng hò lữ thứ của người khách qua sông dạo ấy, khi chính nơi đây cũng là một bến sông thơ tấp nập ghe thuyền ngược xuôi. Ngày nay qua nhiều thăng trầm biến động của thời gian và con vần kiến tạo dòng Quang Hóa xưa cũng thay đổi đi nhiều. Các cây cầu mọc lên, bến sông thơ không còn nữa, hai bên bờ sông mọc lên các tiểu khu công nghiệp và làng mạc, phố xá người xe tấp nập nhưng dòng sông ấy vẫn còn giữ trong mình những tháng năm huyền thoại mà cư dân hai bên bờ vẫn kể cho hậu thế nhân sinh nghe lại. Thời gian là minh chứng, sông Vàm Cỏ Đông trải qua các cuộc dựng xây và giữ gìn đất nước cũng đóng góp không ít chiến công vào trang sử vẻ vang của dân tộc. Từ giá trị văn hóa truyền thống và cảnh quan thiên tạo này, nếu có một ngày các hãng lữ hành quốc tế và trong nước khám phá ra để triển khai được các dự án du lịch ngược xuôi sông Vàm Cỏ cho du khách từ khắp nơi về thưởng lãm nét đẹp hoang sơ quyến rũ của dòng sông lịch sử mang sắc màu huyền thoại này thì hay biết mấy! Tây Ninh một chiều tháng 6 năm 2015 Nguyễn Quang Vinh (Tư liệu minh họa là sông Vàm Cỏ Đông- Núi Bà Đen và Thánh thất Trảng Bàng- Tây Ninh cùng sách Gia Định Thành thông Chí- Photo by Quang Vinh. Cơ quan hợp tác báo chí và truyền thông quốc tế ITCI) Các cây cầu Các cầu qua sông Vàm Cỏ Đông địa phận Việt Nam: cầu Bến Sỏi (trên đường lộ 781 nối từ thị trấn Châu Thành về Cửa khẩu Phước Tân, Tây Ninh), cầu Gò Chai (Châu Thành, Tây Ninh), Cầu Bến Đình nối từ quốc lộ 22B thuộc địa phận xã Cẩm Giang huyện Gò Dầu qua xã Tiên Thuận tới thị trấn Bến Cầu huyện Bến Cầu, Tây Ninh, cầu Gò Dầu (nối thị trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu với cửa khẩu Mộc Bài huyện Bến Cầu, Tây Ninh, trên quốc lộ 22 đường Xuyên Á), cầu An Phước nối xã Phước Chỉ với phường An Hòa thị xã Trảng Bàng cầu Đức Huệ (nối thị trấn Hiệp Hòa huyện Đức Hòa với thị trấn Đông Thành huyện Đức Huệ - Long An), cầu Đức Hòa (trên Quốc lộ N2), cầu nối Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Trung Lương (đã thi công), cầu Bến Lức (Long An). Theo quy hoạch xây dựng của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh thì sẽ có thêm 8 cây cầu bắc qua sông Vàm Cỏ Đông bao gồm: cầu Băng Dung (xã Biên Giới và xã Phước Vinh, huyện Châu Thành), cầu Bến Trường (xã Hòa Hội và xã Hảo Đước, huyện Châu Thành), cầu Ninh Điền (xã Ninh Điền và xã Thanh Điền, huyện Châu Thành), cầu Trường Đông (xã Long Vĩnh, huyện Châu Thành với xã Trường Đông, thị xã Hòa Thành), cầu Thạnh Đức (thị trấn Bến Cầu với xã Thạnh Đức, huyện Gò Dầu), cầu Hiệp Thạnh (xã Lợi Thuận với xã Hiệp Thạnh, huyện Gò Dầu), cầu trên đường cao tốc TP. HCM - Mộc Bài và cầu Phước Chỉ - Lộc Giang kết nối xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An với xã Phước Chỉ, thị xã Trảng Bàng.
Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh (thường được gọi ngắn gọn là Nhà hát Thành phố , tên chính thức là Nhà hát Giao hưởng – Nhạc, Vũ kịch Thành phố Hồ Chí Minh), còn được biết đến với cái tên Saigon Opera House, là một nhà hát có mặt tiền hướng ra Công trường Lam Sơn và đường Đồng Khởi, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Nằm ở một vị trí thuận lợi tại trung tâm thành phố, nhà hát được xem là nhà hát trung tâm, đa năng chuyên tổ chức biểu diễn sân khấu nghệ thuật đồng thời cũng được sử dụng để tổ chức các sự kiện lớn. Đây cũng là nhà hát thuộc loại lâu đời theo kiến trúc Tây Âu và được xem như một địa điểm tham quan của thành phố này. Lịch sử Sau khi chiếm được Nam Kỳ, năm 1863, chính quyền Pháp đã mời một đoàn hát sang biểu diễn tại Sài Gòn để giải trí cho lính viễn chinh Pháp. Lúc đầu, đoàn biểu diễn tạm tại nhà gỗ của dinh Thủy sư đề đốc tại Công trường Đồng Hồ (Place de l'Horloge) (góc Nguyễn Du - Đồng Khởi hiện nay). Sau đó, một nhà hát tạm được lập ở vị trí Khách sạn Caravelle ngày nay. Năm 1898, Nhà hát lớn được khởi công ngay cạnh nhà hát cũ và đến ngày 1 tháng 1 năm 1900 thì khánh thành. Giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, việc đem gánh hát từ Pháp sang đây biểu diễn hoàn toàn do sự trợ cấp của chính quyền thành phố. Tuy có dự định nơi đây sẽ trở thành một khu trung tâm giải trí dành riêng cho những nhân vật sang trọng, nhưng Nhà hát Tây càng ngày càng mất khách, vì các tay ăn chơi bị các hộp đêm, các quán ăn có nhạc và khiêu vũ giúp vui thu hút hầu hết... Sau thời gian đầu hoạt động sôi nổi, nhà hát chỉ còn sinh hoạt cầm chừng với các buổi ca hát, hòa nhạc và cải lương. Do có nhiều chỉ trích về kiến trúc rườm rà và chi phí tổ chức tốn kém, nên chính quyền thành phố đã từng có ý định chuyển nhà hát thành nơi hòa nhạc (Salle de Concert). Tuy nhiên, ý định này đã không được thực hiện. Thay vào đó, năm 1943 phần trang trí, điêu khắc ở mặt tiền nhà hát bị xóa bỏ (tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn...) nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc. Tuy nhiên, vào năm 1944, nhà hát bị phi cơ Đồng Minh oanh tạc, làm hư hại hại nặng, phải ngưng hoạt động. Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, do hoàn cảnh chiến tranh, nhà hát không được tu bổ nhiều. Năm 1954, nơi đây được sử dụng làm nơi ở tạm trú cho các thường dân Pháp từ miền Bắc di cư vào Nam theo Hiệp định Genève năm 1954. Năm 1955, nhà hát được tu bổ cải tạo nhưng lại được sử dụng với chức năng tòa Trụ sở Quốc hội (sau gọi là nhà Hạ nghị viện) của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, Nhà hát được trả lại chức năng ban đầu là tổ chức biểu diện nghệ thuật. Năm 1998, nhân dịp 300 năm khai sinh Thành phố Sài Gòn, Chính quyền thành phố đã cho tu bổ lớn với phương châm bảo tồn phong cách kiến trúc ban đầu, với một số trang trí, điêu khắc nổi ở mặt tiền nhà hát như tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa... được phục chế. Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã phê chuẩn một dự án tân trang nhà hát vào tháng 11 năm 2007, kinh phí trù liệu là 1,6 tỷ đồng. Trong chương trình này, những bộ phận kiến trúc trùng tu dược liệt kê như sau: Mái ngói với những vật liệu chế tạo đúng theo khuôn mẫu của thời đó (1900). Thay ghế ngồi bằng ghế đệm (giảm số ghế từ 559 xuống 500 chỗ ngồi). Thay gạch lát nền. Trùng tu các tượng phía trong nhà hát. Trùng tu các điêu khắc nổi trên tường và các tượng theo đúng mẫu ban đầu. Dự án hoàn tất cuối năm 2009. Công ty tổ chức các buổi trình diễn văn nghệ đã nhận 160.000 € trợ cấp của Thành phố Lyon (Pháp) để trang bị hệ thống chiếu sáng mỹ thuật về đêm. Kiến trúc Nhà hát lớn Sài Gòn là một đối trọng về mặt kiến trúc với Nhà hát Lớn Hà Nội - cất năm 1911, kiến trúc theo mẫu Opéra Garnier tại Paris, 900 chỗ ngồi, kiến trúc sư Broger et Harloy. Nhà hát Sài Gòn giữ riêng nét đặc thù có một không hai. Tác giả của tòa kiến trúc này là các kiến trúc sư Félix Olivier, Ernest Guichard và Eugène Ferret xây dựng năm 1900 theo lối kiến trúc "flamboyant" của thời Đệ tam Cộng hòa Pháp. Cửa mặt tiền chịu ảnh hưởng nghệ thuật khá rõ nét của Petit Palais cất cùng năm tại Pháp. Thiết kế bên trong tân tiến với đầy đủ thiết bị cho âm thanh và ánh sáng. Ngoài tầng trệt còn 2 tầng lầu tổng cộng 1800 chỗ ngồi. Toàn bộ các mẫu trang trí, phù điêu mặt tiền và nội thất đều được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ 19 và gửi từ Pháp qua. Tuy vậy, về phần trang trí ở mặt tiền nhà hát cũng có nhiều lời chỉ trích. Theo phong cách Đế quốc (sau được trang trí thêm theo phong cách Beaux Arts, rồi giản tiện hóa kiểu Art Deco), mặt tiền nhà hát được trang trí nhiều phù điêu và tượng đắp nổi giống như Tòa thị chính, nên bị chỉ trích là khá rườm rà và rối rắm. Vì vậy vào năm 1943, một số chi tiết trang trí này đã bị dỡ bỏ nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc. Vào năm 1998, nhân dịp kỷ niêm 300 thành lập Thành phố Hồ Chí Minh, chính quyền đương thời phục hồi chức năng cũ là nhà hát thành phố cũng như đã cho phục hồi một số trang trí như tượng 2 nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn... trong đợt cải tạo và nâng cấp nhà hát. Tổng kinh phí trùng tu phục chế vào khoảng 25 tỷ đồng thời giá bấy giờ. Những chuyện liên quan đến Vườn hoa Nhà hát Nguyên thủy, vườn hoa trước Nhà hát không có tượng đài. Năm 1967, chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam đã cho xây dựng tượng đài Thủy quân lục chiến cao 9 mét, trong tư thế xung phong hướng vào trụ sở Hạ viện. Dư luận đương thời cho đó là một điềm gở khi quân đội "chĩa súng" vào Quốc hội. Ngày 25 tháng 7 năm 1970, hai người Pháp phản chiến là André Marcel Menras và Jean Pierre Debris đã trèo lên tượng để phất cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam và rải truyền đơn kêu gọi phản chiến. Cả hai đều bị chính quyền Sài Gòn bắt giam và bị Tòa án binh Sài Gòn kết tội "phá rối trị an" với mức án bốn năm tù giam đối với Jean Pierre Debris và ba năm tù giam cho André Marcel Menras. Cả hai bị giam ở khám Chí Hòa và được những người tù Cộng sản đặt tên Việt là Hồ Cương Quyết (André Marcel Menras) và Hồ Tất Thắng (Jean Pierre Debris). Sau đó cả hai đều bị đày ra Côn Đảo mãi đến đến cuối năm 1972 thì được trả tự do và trục xuất về Pháp. Khi ra tù, hai ông đã xuất bản chung một quyển sách có tựa đề "Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn, chúng tôi vạch tội", tố cáo chế độ lao tù hà khắc của chế độ Sài Gòn. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, tượng đài bị giật đổ. Khu vườn hoa trở lại như ban đầu, tuy vẫn còn tồn tại cái bệ tượng cũ. Mãi đến tháng 12 năm 1997, nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng Thành phố đã quyết định cho xây một đài phun nước và một tượng đài bằng đá hoa cương đỏ, kích thước 2,6 mét, bệ tượng bằng granit đen viền đỏ, cao 2,40 mét, có tên là "Tình mẫu tử". Tác giả của bức tượng là ông Nguyễn Quốc Thắng - nguyên Phó giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, thuyết minh về tác phẩm như sau: "bố cục theo hình khối tròn, hình ảnh hai mẹ con trìu mến, người mẹ bao giờ cũng che chở cho con...". Tuy nhiên, giữa năm 2005, trong một bài phóng sự điều tra, báo Lao động đã đặt nghi vấn về bản quyền khi dẫn chứng của bức tượng "Tình mẫu tử" của bà Dương Lệ Vân, hội viên Uỷ ban Điêu khắc - Hiệp hội Mỹ thuật công nghệ Trung Quốc, được đăng trong đặc san điêu khắc do Hiệp hội Mỹ thuật - công nghệ Trung Quốc xuất bản tháng 8 năm 1995.
Thảo Cầm Viên Sài Gòn (cũng còn được gọi là Sở Thú) là công viên bảo tồn động vật - thực vật ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây là vườn thú lâu đời đứng hàng thứ tám trên thế giới. Khuôn viên rộng lớn này hiện tọa lạc gần hạ lưu kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè với hai cổng nằm ở số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và số 1 đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Cho đến nay, Thảo Cầm Viên Sài Gòn đang nuôi dưỡng hơn 1.300 động vật thuộc 125 loài, trong đó có nhiều loại thuộc loại quý hiếm như: trĩ sao, chà vá, vượn má vàng, hươu vàng, báo lửa, báo gấm... Tại đây cũng có hơn 2.500 cây xanh với hơn 900 loài thực vật được bảo tồn. Lịch sử Ngày 23 tháng 3 năm 1864, Chuẩn đô đốc Pierre-Paul de La Grandière ký nghị định cho phép xây dựng Vườn Bách Thảo tại Sài Gòn. Ngay sau đó, Louis Adolphe Germain, một bác sĩ thú y của quân đội Pháp, được giao nhiệm vụ mở mang 12 ha trên vùng đất hoang ở phía đông bắc rạch Thị Nghè (Pháp gọi là Arrroyo d'Avalanche, lấy theo tên chiến tàu chiến đã vào rạch Thị Nghè để tấn công thành Gia Định) để làm nơi nuôi thú và ươm cây. Tháng 3 năm sau (1865) thì một số chuồng trại đã xây xong. Để biến nơi này thành nơi nuôi trồng các loài động vật, thực vật của toàn Đông Dương; vừa để trưng bày, vừa để cung cấp cây giống cho Muséum national d'histoire naturelle và trồng dọc theo các trục lộ ở Sài Gòn; viên Thống đốc Nam Kỳ nhận thấy cần phải có người giỏi chuyên môn hơn, nên đã mời J. B. Louis Pierre, người phụ trách chăm sóc thực vật của Vườn bách thảo Calcutta (Ấn Độ), sang làm giám đốc vào ngày 28 tháng 3 năm 1865. Cuối năm 1865, Vườn Bách Thảo được nới rộng đến 20 ha. Sang năm 1924, khuôn viên sáp nhập thêm bên bờ bắc rạch Thị Nghè 13 ha nữa; một cây cầu đúc được bắc qua rạch để nối liền hai khu vực hoàn thành năm 1927. Và cũng trong năm đó, nhờ sự vận động của một viên chức Pháp tại Nhật, chính phủ Nhật Bản đã cung cấp cho Vườn Bách Thảo khoảng 900 giống cây lạ. Ngày 15 tháng 12 năm 1867, Thống đốc De La Grandière ban hành nghị định số 183 nhằm chấn chỉnh tổ chức và điều hành Vườn Bách Thảo, đặt nơi đây dưới sự quản lý của Hội đồng thành phố Sài Gòn, với một ngân khoản điều hành 21.000 quan Pháp/năm, do ngân sách thuộc địa cung cấp. Ngày 17 tháng 2 năm 1869, phó đô đốc G. Ohier, quyền Thống đốc Nam Kỳ, ký nghị định số 33 thành lập Ủy ban thường trực do Philastre làm chủ tịch, để giám sát việc chi tiêu tại Thảo Cầm Viên. Vào thời điểm này, chi phí hàng năm của Vườn Bách Thảo đã được nâng lên 30.000 quan Pháp/năm. Cũng theo nghị định trên, đúng ngày Quốc khánh của Pháp 14 tháng 7 năm 1869, Vườn Bách Thảo mở cửa thường trực cho công chúng vào xem. Tu tạo Năm 1924 - 1927 Trải nhựa đường nội bộ trong khuôn viên, xây dựng các chuồng thú có quy mô lớn và kiên cố như chuồng lồng tròn để nuôi khỉ, chuồng cọp v.v... Năm 1956 Tu sửa, tái thiết và đổi tên là Thảo Cầm Viên Sài Gòn. Năm 1984 Xây dựng mới nhiều hạng mục công trình như: kè đá dọc kênh Thị Nghè, cải tạo hệ thống thoát nước và hệ thống dây điện trần, trải nhựa và bê tông đường nội bộ, xây dựng tường rào dọc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm... Năm 1990 Nhiều chuồng thú được cải tạo và mở rộng cho phù hợp với đời sống của từng loài thú, đã nâng tổng diện tích chuồng thú sau năm 1975 từ 8.500 mét vuông lên đến năm 2000 là 25.000 mét vuông. Bổ sung bộ sưu tập động vật Nhờ mối quan hệ hợp tác, trao đổi, mua bán với nhiều vườn động thực vật và các tổ chức khoa học quốc tế, bộ sưu tập động vật của Thảo Cầm Viên Sài Gòn ngày một thêm phong phú. Cho nên bên cạnh hàng chục loài có vú, hàng chục giống chim, nhiều giống bò sát và giống có cánh các loại như: khỉ, gấu ngựa, gấu chó, hổ Đông Dương, hổ Bengal, báo hoa mai, báo lửa, sư tử, tinh tinh, ngựa vằn, linh dương, hươu, nai, heo rừng, mang, nhím, rùa, rái cá, voi châu Á, tê giác trắng, cá sấu hoa cà, cá sấu nước ngọt, trăn đất, công...Nhiều loài động vật mới lạ đã xuất hiện tại Thảo cầm viên như: vượn cáo, bò tót, sói xám, sói đỏ, hà mã (Hippopotamus amphibius), hà mã lùn (Choeropsis liberiensis), báo đốm Mỹ (Panthera onca), đà điểu châu Phi (Struthio camelus), hồng hạc (Phoenicopterus ruper ruper), đười ươi (Pongo pygmaeus), hươu cao cổ (Giraffa camelopardalis)... Theo quy hoạch động vật giai đoạn 2013-2015 do Công ty TNHH MTV Thảo Cầm Viên Sài Gòn lập và duyệt, số lượng hổ giữ ở Sài Gòn là 14 con (gồm 10 con hổ vàng và bốn con hổ trắng), trong khi số lượng hổ mà Thảo Cầm Viên đang sở hữu là 16 con (gồm 11 con hổ vàng và năm con hổ trắng). Hiện nay, ở Thảo Cầm Viên Sài Gòn, ngoài những khu vực nuôi trồng cầm thú, cây cảnh và sưu tập phong lan, còn có khu dành cho trẻ em, cho người lớn vui chơi, giải trí... Ngoài ra, trong Thảo Cầm Viên Sài Gòn còn có hai công trình kiến trúc đặc sắc khác, đó là Đền thờ Vua Hùng dựng năm 1926 và Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2015, có nhiều thông tin cho rằng hổ ở Thảo cầm viên bị bỏ đói, bị cắt xén khẩu phần ăn nên gầy ốm, tê giác bị mài sừng nên sừng chúng bị mòn và hiện nay có nhiều thông tin xung quanh việc hổ chết tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn bị đem nấu cao nhưng lãnh đạo Vườn thú đã nhanh chóng chối bỏ những thông tin phản ánh này. Theo phản ảnh trên báo chí tháng 9 năm 2019, có sự thất vọng trong cách đối xử với các loài sinh vật, sự nhỏ hẹp của các chuồng và sự thiếu vệ sinh ở khu vực nuôi nhốt thú, tại khu vực chuồng voi, mùi xú uế bốc nồng nặc từ những bãi phân voi tồn đọng chưa được dọn. Trên các lối đi vào vườn thú, rải rác các vỏ bánh, kẹo của người tham quan vứt lại. Các cửa kính nhìn vào chuồng thú khá cáu bẩn, mờ mịt. Tại khu vực chuồng nuôi nhốt các loài bò sát như cá sấu hay các loài dưới nước sống trong những vũng nước bẩn, chật chội, tù đọng, không gian tù túng và thiếu vệ sinh khiến các sinh vật đang bị nuôi nhốt tại đây lờ đờ, thiếu sức sống, nhiều con vật gầy còm, nhiều khách đến từ nước ngoài bày tỏ sự phẫn nộ khi các loài thú nơi đây sống trong môi trường thiếu chất lượng. Giá trị Sau hơn 150 năm tồn tại, Thảo Cầm Viên đã trở thành một vườn thú lớn với 590 đầu thú thuộc 125 loài, thực vật có 1800 cây gỗ thuộc 260 loài, 23 loài lan nội địa, 33 loài xương rồng, 34 loại bon sai... và đang được bổ sung thêm. Cho nên tuy ở chốn thị thành nhưng không khí ở đây khá trong lành với tiếng thú, tiếng chim muông cùng vô vàn cây xanh, hoa đẹp... Hơn thế nữa, Thảo Cầm Viên còn có vai trò giáo dục, bảo tồn và nghiên cứu... Hiện nay, Thảo Cầm Viên Sài Gòn có quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế như: Hiệp hội các Vườn thú Đông Nam Á (SEAZA), Liên đoàn Thế giới Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN), Hiệp hội Giáo dục Bảo tồn các Vườn thú trên Thế giới (IZEA)... Ngày 23 tháng 3 năm 2015, Thảo Cầm Viên Sài Gòn tổ chức lễ kỷ niệm 150 năm ngày thành lập và đón nhận Huân chương Lao động hạng ba do Chủ tịch nước trao tặng và cờ thi đua của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. J. B. Louis Pierre Bài chi tiết: Jean Baptiste Louis Pierre Jean Baptiste Louis Pierre (1833 - 1905) là người sáng lập và là Giám đốc đầu tiên của Thảo Cầm Viên Sài Gòn. Là một nhà thực vật học suốt đời tận tụy cho sự nghiệp khoa học ông đã đưa nhiều cây rừng về trồng kể cả một số loài đại mộc từ các lục địa khác, và cây ăn trái từ những khu vực khác ở Đông Nam Á. Cây được ươm trồng, nhân giống, và từ đó tạo cơ sở cho những giống cây trái ngon nay phổ biến ở Việt Nam. Trong 12 năm phụ trách Thảo Cầm Viên Sài Gòn (1865 - 1877), ông còn để lại một di sản quý giá là bộ sưu tập hơn 100.000 tiêu bản hiện được lưu giữ tại Bảo tàng thực vật thuộc Viện Sinh học Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh và hàng ngàn cây cổ thụ trên các đường phố khu trung tâm, trong công viên Tao Đàn... Để tưởng nhớ và ghi công ông, vào tháng 2 năm 1933, Hội đồng khoa học Pháp đã cho xây dựng một cột bia, bằng đá hoa cương đặt phía sau khu vườn kiểng. Trên mặt cột bia, ghi lại câu nói của ông trước khi qua đời: Tôi đã nghỉ hưu nhưng còn quá nhiều việc để làm cho ngành thực vật, chỉ tiếc là không còn thời gian và cuộc đời thì quá ngắn ngủi. Vào năm 1994, nhân dịp kỷ niệm 130 năm thành lập Thảo Cầm Viên Sài Gòn, cột bia đã được tôn tạo và đặt ngay trên trục đường chính, giữa Bảo tàng lịch sử và Đền thờ các vua Hùng. Lần này, cột bia có gắn thêm bức tượng bán thân bằng đá hoa cương màu hồng, tạc chân dung J. B. Louis Pierre. Thông tin thêm Dự án: Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh đang có Dự án xây dựng một vườn động thực vật mới với diện tích gần 487 ha, tại xã An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, cách trung tâm thành phố khoảng 50 km với nhiều mục tiêu như: xây dựng khu trưng bày thú mô hình hoang dã, nhân giống và bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm, giáo dục bảo tồn và bảo vệ môi trường sống, nghiên cứu về động thực vật... Vài thông tin khác: Năm 1942 - 1945, quân đội Nhật đã chiếm đóng Thảo cầm viên. Năm 1945 - 1955, quân đội Pháp cũng chiếm Thảo cầm viên làm đồn trú và kho tàng cất giấu vũ khí, nên đã phá nhiều chuồng trại và một số cây cổ thụ. Chú thích
Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn gọi là Rừng Sác là một quần thể gồm các loài động, thực vật rừng trên cạn và thủy sinh, được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các cửa sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. UNESCO đã công nhận đây là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào ngày 21/1/2000 với hệ động thực vật đa dạng độc đáo điển hình của vùng ngập mặn. Nơi đây được công nhận là một khu du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam Vị trí địa lý Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ được hình thành ở hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai – sông Sài Gòn, nằm ở cửa ngõ Đông Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Tọa độ: 10°22’ – 10°40’ độ vĩ Bắc và 106°46’ – 107°01’ kinh độ Đông. Cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 60 km, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, giáp biển Đông ở phía Nam, giáp tỉnh Tiền Giang và Long An ở phía Tây, và giáp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ở phía Đông. Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ là 75.740 ha, trong đó: vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm 41.139 ha, và vùng chuyển tiếp 29.880 ha. Đây là khu rừng ngập mặn với một quần thể động thực vật đa dạng, trong số đó nổi bật là đàn khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis) cùng nhiều loài chim, cò. Hình thành Trước chiến tranh, Cần Giờ là khu rừng ngập mặn với quần thể động thực vật phong phú nhưng bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Năm 1978, Cần Giờ được sáp nhập về Thành phố Hồ Chí Minh, và năm 1979 UBND thành phố Hồ Chí Minh phát động chiến dịch trồng lại rừng Cần Giờ, thành lập Lâm trường Duyên Hải (đóng tại Cần Giờ, thuộc Ty Lâm nghiệp) với nhiệm vụ khôi phục lại hệ sinh thái ngập mặn. Diện tích rừng đã phủ xanh hơn 31 nghìn héc-ta, trong đó có gần 20 nghìn héc-ta rừng trồng, hơn 11 nghìn héc-ta được khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và các loại rừng khác. Ngày 21/ 01/ 2000, khu rừng này đã được Chương trình Con người và Sinh Quyển - MAB của UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển đầu tiên của Việt Nam nằm trong mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Sự khôi phục và phát triển cũng như bảo vệ của khu rừng này ghi nhận sự đóng góp rất lớn của lực lượng thanh niên xung phong thành phố Hồ Chi Minh và nhân dân Cần Giờ. Hiện khu rừng đã được giao cho chính người dân nơi đây chăm sóc và quản lý. Hệ sinh thái Rừng ngập mặn Cần Giờ có điều kiện môi trường rất đặc biệt, là hệ sinh thái trung gian giữa hệ sinh thái thủy vực với hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái nước ngọt và hệ sinh thái nước mặn. Rừng Cần Giờ nhận một lượng lớn phù sa từ sông Đồng Nai, cùng với ảnh hưởng của biển kế cận và các đợt thủy triều mà hệ thực vật nơi đây rất phong phú với trên 150 loài thực vật, trở thành nguồn cung cấp thức ăn và nơi trú ngụ cho rất nhiều loài thủy sinh, cá và các động vật có xương sống khác. Về thực vật: nhiều loại cây, chủ yếu là bần trắng, mấm trắng, các quần hợp đước đôi - bần trắng cùng xu ổi, trang, đưng v.v… và các loại nước lợ như bần chua, ô rô, dừa lá, ráng, v.v… Thảm cỏ biển với các loài ưu thế Halophyla sp., Halodule sp., và Thalassia sp.; đất canh tác nông nghiệp với lúa, khoai mỡ, các loại đậu, dừa, các loại cây ăn quả. Khảo sát của Phạm Văn Ngọt và cộng sự (2007) ghi nhận rừng ngập mặn Cần Giờ có 220 loài thực vật bậc cao với 155 chi, thuộc 60 họ; trong đó, các họ có nhiều loài nhất gồm: họ Cúc (Asteraceae) 8 loài, họ thầu dầu (Euphorbiaceae) 9 loài, họ Đước (Rhizophoraceae) 13 loài, họ Cói (Cyperaceae) 20 loài, họ Hòa thảo (Poaceae) 20 loài, họ Đậu (Fabaceae) 29 loài. Về động vật: khu hệ động vật thủy sinh không xương sống với trên 700 loài, khu hệ cá trên 130 loài, khu hệ động vật có xương sống có 9 loài lưỡng thê, 31 loài bò sát, 4 loài có vú. Trong đó có 11 loài bò sát có tên trong sách đỏ Việt Nam như: tắc kè (gekko gekko), kỳ đà nước (varanus salvator), trăn đất (python molurus), trăn gấm (python reticulatus), rắn cạp nong (bungarus fasciatus), rắn hổ mang (naja naja), rắn hổ chúa (ophiophagus hannah), vích (chelonia mydas), cá sấu hoa cà (crocodylus porosus)… Khu hệ chim có khoảng 130 loài thuộc 47 họ, 17 bộ. Trong đó có 51 loài chim nước và 79 loài không phải chim nước sống trong nhiều sinh cảnh khác nhau., Đây là một khu rừng mà theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài là được khôi phục, chăm sóc, bảo vệ thuộc loại tốt nhất ở Việt Nam và toàn thế giới. Đây cũng là địa điểm lý tưởng phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái. Rừng ngập mặn Cần Giờ đã trở thành "lá phổi" đồng thời là "quả thận" có chức năng làm sạch không khí và nước thải từ các thành phố công nghiệp trong thượng nguồn sông Đồng Nai - Sài Gòn đổ ra biển Đông. Di tích lịch sử Từ năm 1966 đến 30-4-1975, bộ đội đặc công Rừng Sác đã đánh gần 400 trận lớn nhỏ, gây thiệt hại lớn về nhân lực cũng nhue khí tài quân dụng cho đối phương. Trong tổng số hơn 1.000 lính thì có đến 860 đã hy sinh (trong đó 767 người hy sinh từ năm 1966 tới 1975), trong đó có 542 chiến sĩ đến nay vẫn chưa tìm thi hài. Ngày 23/9/1973, Đoàn 10 - Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Ngày nay, chiến khu rừng Sác được coi là di tích lịch sử cấp quốc gia. Du lịch Từ một vùng đất nghèo, Cần Giờ đã đổi thay khi được Thành phố Hồ Chí Minh quy hoạch và phát triển thành khu du lịch sinh thái. Năm 2000, khu du lịch sinh thái Vàm Sát nằm trong vùng lõi của khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ được thành lập, tháng 2/2003 đã được chức du lịch thế giới cũng công nhận khu du lịch Vàm Sát là một trong hai khu du lịch sinh thái phát triển bền vững của thế giới ở nước ta. Ở đây có nhiều hoạt động du lịch thú vị như tham quan Đầm Dơi, đi thuyền trên sông, thăm sân chim với rất nhiều loài chim sinh sống, tiếp xúc với đàn khỉ hoang dã, xem cá sấu săn mồi và tìm hiểu về hệ thực vật - động vật nơi đây. Tiếp giáp về phía Nam của rừng Cần Giờ là biển Đông. Biển Đông trong xanh, bờ cát mịn, với không khí thoáng mát với một khu sinh thái, đang được xây dựng trở thành khu du lịch hiện đại. Chú thích