text
stringlengths 0
512k
|
---|
Hải An là một quận nội thành nằm ở phía đông thành phố Hải Phòng, Việt Nam.
Địa lý
Quận Hải An nằm ở phía đông của thành phố Hải Phòng, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh (với ranh giới là sông Bạch Đằng) và ngăn cách với huyện Cát Hải qua cửa biển Nam Triệu
Phía tây giáp quận Ngô Quyền
Phía nam giáp quận Dương Kinh và vịnh Bắc Bộ
Phía bắc giáp huyện Thủy Nguyên.
Quận có diện tích 103,7 km², dân số năm 2019 là 132.943 người, mật độ dân số đạt 1.282 người/km².
Hành chính
Quận Hải An được chia thành 8 phường: Cát Bi, Đằng Lâm, Đằng Hải, Đông Hải 1, Đông Hải 2, Nam Hải, Thành Tô, Tràng Cát.
Lịch sử
Ngày 16 tháng 12 năm 1901, thống sứ Bắc Kỳ ra nghị định tách một số xã thuộc huyện An Dương ra khỏi tỉnh Phù Liễn (sau đổi thành tỉnh Kiến An) để thành lập ngoại thành Hải Phòng. Tuy nhiên đến ngày 29 tháng 2 năm 1924, chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ ngoại thành Hải Phòng, trả lại các xã trên cho tỉnh Kiến An để thành lập một huyện mới có tên là huyện Hải An.
Ngày 7 tháng 4 năm 1966, Chính phủ ban hành Quyết định 67-CP hợp nhất huyện Hải An với huyện An Dương thành huyện An Hải.
Ngày 20 tháng 12 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định 106/2002/NĐ-CP. Theo đó:
Thành lập quận Hải An trên cơ sở tách 5 xã: Đằng Lâm, Đằng Hải, Đông Hải, Nam Hải, Tràng Cát thuộc huyện An Hải và phường Cát Bi thuộc quận Ngô Quyền
Chuyển 5 xã: Đằng Lâm, Đằng Hải, Đông Hải, Nam Hải, Tràng Cát thành 5 phường có tên tương ứng.
Sau khi thành lập, quận Hải An có 8.838,97 ha diện tích tự nhiên và 69.862 người với 6 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 phường: Cát Bi, Đằng Lâm, Đằng Hải, Đông Hải, Nam Hải, Tràng Cát.
Ngày 5 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 54/2007/NĐ-CP. Theo đó:
Chia phường Đông Hải thành 2 phường: Đông Hải 1 và Đông Hải 2
Chia phường Đằng Lâm thành 2 phường: Đằng Lâm và Thành Tô; tách 45,80 ha diện tích tự nhiên với 8.240 người của phường Cát Bi để sát nhập về phường Thành Tô mới thành lập.
Từ đó, Quận Hải An có 8 phường trực thuộc như hiện nay.
Giao thông
Ngoài ra, Hải An có các đầu mối giao thông quan trọng của thành phố Hải Phòng, bao gồm các tuyến đường bộ, đường thủy, đường sắt và đường hàng không. Địa bàn quận được bao quanh bởi hệ thống sông Lạch Tray, sông Cấm có cửa Nam Triều đổ ra Vịnh Bắc Bộ.
Đây là điểm cuối của tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng. Trục đường giao thông liên tỉnh quan trọng khác chạy qua địa bàn quận là Quốc lộ 5 nối liền Hà Nội với Hải Phòng. Các tuyến đường trung tâm thành phố chạy đến quận như đường Trần Hưng Đạo, Lê Hồng Phong, đường ra đảo Đình Vũ, Cát Bà. Có Cảng Chùa Vẽ, Cảng Cửa Cấm, Cảng Quân sự và một số cảng chuyên dùng khác, Có tuyến đường sắt từ Ga Lạc Viên đến Cảng Chùa Vẽ. Có cảng hàng không quốc tế Cát Bi với năng lực vận chuyển 2 triệu lượt hành khách và gần 12000 tấn hàng mỗi năm. Đây cũng là một trong những điểm lợi thế của quận cần được chú ý khai thác phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của quận.
Đường phố
7 tháng 3
An Khê
An Kim Hải
An Trung
Bắc Trung Hành
Bạch Thái Bưởi
Bảo Phúc
Bến Láng
Bình Kiều
Bùi Thị Từ Nhiên
Bùi Viện
Cát Bi
Cát Khê
Cát Linh
Cát Vũ
Chợ Lũng
Chùa Vẽ
Cống Đen
Đà Nẵng
Đằng Hải
Đặng Kinh
Đình Vũ
Đoàn Chuẩn
Đoạn Xá
Đông An
Đông Hải
Đông Mỹ
Đông Phong
Đông Trung Hành
Hạ Đoạn
Hạ Lũng
Hàng Tổng
Hào Khê
Hoàng Thế Thiện
Kiều Hạ
Kiều Sơn
Lê Đức Thịnh
Lê Hồng Phong
Lê Thánh Tông
Lũng Bắc
Lũng Đông
Lương Khê
Lý Hồng Nhật
Mạc Đình Phúc
Mạc Thái Tổ
Mai Trung Thứ
Nam Hải
Nam Hải Đông
Nam Hòa
Nam Hùng
Nam Hưng
Nam Phong
Nam Thành
Nam Trung Hành
Ngô Gia Tự
Ngô Hùng
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Đồn
Nguyễn Khoa Dục
Nguyễn Lân
Nguyễn Thị Thuận
Nguyễn Thiếp
Nguyễn Văn Hới
Nhà Mạc
Nhà Thờ Xâm Bồ
Phú Lương
Phủ Thượng Đoạn
Phú Xá
Phương Lưu
Tân Vũ
Tây Khê
Tây Trung Hành
Thành Tô
Thống Nhất
Thư Trung
Tiền Phong
Tô Vũ
Trần Đông
Trần Hoàn
Trần Văn Giang
Trần Văn Lan
Tràng Cát
Trung Hành
Trung Lực
Từ Lương Xâm
Văn Cao
Vĩnh Lưu
Vườn Hồng
Chú thích |
Sông Pechora là một con sông chảy qua nước cộng hòa tự trị Komi và vùng tự trị Nenets của Liên bang Nga. Chiều dài của nó khoảng 1.809 km, diện tích lưu vực khoảng 322.000 km².
Thủy văn
Sông này bắt nguồn từ khu vực Bắc Ural trong phần đông nam của nước cộng hòa Komi, ở phần đầu chủ yếu chảy theo hướng tây nam. Từ đầu nguồn tới cửa sông Unjia thì sông Pechora có các đặc trưng của một con sông miền núi. Tại khu vực làng Jakshi (sau khi sông Volostnitsa đổ vào) nó đổi hướng lên phía bắc và chảy theo bình nguyên Pechora tới Ustj-Usa. Sau cửa sông Usa, nó đổi hướng sang phía tây, tạo thành một đoạn gấp khúc rộng với 2 khúc cong lớn. Lòng sông ở đây đạt tới độ rộng khoảng 2 km, trong thung lũng ven sông xuất hiện các đồng cỏ bãi bồi rộng lớn. Trong khu vực Ustj-Tsiljma (sau khi các sông Pizhma và Tsiljma đổ vào) thì Pechora một lần nữa lại chảy theo hướng bắc, trong đoạn này thì các bãi bồi rộng lớn của nó bị nhiều sông nhánh chia cắt.
Ở khoảng cách khoảng 130 km tới cửa sông thì Pechora phân chia thành hai nhánh- nhánh phía đông gọi là Pechora lớn và nhánh phía tây gọi là Pechora nhỏ. Ở gần hạ lưu hơn nữa, trong khu vực Naryan-Mar thì Pechora tạo nên một vùng châu thổ có chiều rộng khoảng 45 km và sau đó nó chảy vào vịnh Pechora, một vịnh nhỏ thuộc biển Barents tại Nosovaja.
Nguồn cung cấp nước của nó là hỗn hợp, nhưng chủ yếu là do tuyết. Các trận lũ băng mùa xuân xuất hiện vào cuối tháng Tư-đầu tháng Năm, lên cao nhất vào giữa tháng Năm. Mùa hè và mùa đông thì mực nước sông xuống thấp nhất. Mực nước thấp mùa hè diễn ra vào giữa tháng Bảy cho đến tháng Tám, thường bị gián đoạn do mưa. Lượng nước xả ra trung bình tại cửa sông là khoảng 4.100 m³/s. Sông này đóng băng từ cuối tháng Mười; sự khai thông dòng chảy bắt đầu từ thượng nguồn và luôn kèm theo các khối băng bị ùn lại.
Giao thông thủy thường xuyên có thể tới khu vực Troitsko-Pechorsk, còn về mùa xuân và mùa thu thì tới Ustj-Unjia. Các tàu biển có thể ngược dòng tới Naryan-Mar (110 km từ cửa sông).
Các sông nhánh chính có:
Tả ngạn: Mylva Bắc, Kozhva, Izhma, Pizhma, Tsiljma và Suda
Hữu ngạn: Ilych, Shchugor, Usa, Laja, Shapkina.
Kinh tế
Phát triển nghề đánh bắt cá, chẳng hạn như các loài cá hồi trắng như Coregonus lavaretus hay Coregonus albula.
Trong lưu vực sông Pechora người ta cũng tìm thấy các mỏ than đá, dầu mỏ và hơi đốt.
Các bến tàu chính trên sông Pechora là Narjian-Mar, Ustj-Tsiljma, Pechora.
Sách tham khảo
Gunn G. P, Печора — золотые берега, Moskva, 1972;
Pystin M., "Печора" Экономико-географический очерк, Syktyvkar, 1974.
E. A. Martel, "Les abimes, les eaux souierraines, les cavernes, les sources, la spelaeologie" (B., 1884),
Fr. Kraus, "Hohlenkunde" (B., 1894). |
Khương Tử Nha (chữ Hán: 姜子牙, 1156 TCN - 1017 TCN), tính Khương (姜), thị Lã (呂), tên Thượng (尚), tự Tử Nha (子牙), lại được gọi là Thượng Phụ (尚父), là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là quân chủ khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Cách gọi Khương Tử Nha, ghép tính và danh, trở nên phổ biến thông qua tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa. Do là vị quân chủ đầu tiên của nước Tề, nên thông thường còn được gọi là Tề Thái công (齊太公), còn gọi là Khương Thái công (姜太公), Thái công Vọng (太公望) hay Lã Vọng (呂望).
Khương Tử Nha được biết đến như một vị quân sư vĩ đại, là người đã góp phần lập nên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông nổi tiếng trong văn hóa Đông Á qua điển tích Thái Công điếu ngư (太公釣魚; Thái Công câu cá) hay còn gọi là Lã Vọng câu cá. Hình tượng của ông còn trở nên nổi tiếng qua tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa, một tác phẩm thần thoại dã sử nói về sự quật khởi của Chu Võ vương chống lại nhà Thương của Trụ Vương.
Thân thế
Khương Thượng là người ở Đông Hải (東海; nay là huyện Cử, Sơn Đông). Tổ tiên ông là Lã Bá Di, từng làm chức Tứ nhạc giúp Hạ Vũ trị thủy có công. Sử ký xác định tổ tiên ông được phong ở đất Lã vào khoảng thời Thuấn đến thời nhà Hạ.
Vào thời Tiên Tần, một người quyền quý thường có hai loại họ, một là họ của tổ tiên (Tính; 姓), thứ là họ của Thị tộc (Thị; 氏). Họ tổ tiên của ông là Khương (姜), do thị tộc của ông ở đất Lã từ đó lấy Lã (呂) làm họ của thị tộc. Tên thật của ông là Thượng, còn biểu tự của ông có hai thuyết, một là Tử Nha, hai là Thượng Phụ (Thượng Phụ có thể là tích khi Văn Vương qua đời phó thác Võ Vương cho Tử Nha. Võ Vương tôn kính gọi ông là Thượng Phụ). Khi ấy biểu tự là tên được đặt của một người quyền quý đánh dấu sự trưởng thành, và khi giao du bên ngoài người ta hay gọi biểu tự của nhau để giữ sự tôn trọng.
Vào thời Ngũ Hồ Thập lục quốc, Lã Quang nhận Lã Thượng làm tổ tiên, nên truy tôn làm Thủy Tổ (始祖).
Sự nghiệp
Giúp Tây Bá hầu Cơ Xương
Sang thời nhà Thương, vì Lã Thượng là con cháu chi thứ nên dần dần trở thành dân thường. Vì nhà nghèo, Khương Thượng tuổi già thường đi câu cá ở sông Vị.
Thủ lĩnh bộ tộc Chu là Tây Bá hầu Cơ Xương đi săn, gặp Khương Thượng đang câu cá phía bắc sông Vị. Cơ Xương nói chuyện với ông rất hài lòng, ngưỡng mộ tài năng của ông. Cơ Xương nhớ lời tổ tiên là Thái Công dặn rằng sẽ có vị thánh đến nước Chu, giúp Chu hưng thịnh, ứng với quẻ bói trước khi đi săn. Do đó, Cơ Xương quả quyết Khương Thượng chính là người Thái Công mong đợi trước đây và tôn ông làm Thái Công Vọng (太公望; nghĩa là người mà [Chu] Thái Công mong đợi), đón lên xe về cung và tôn ông làm thầy.
Câu chuyện sự tích này được ghi chép sớm nhất là trong bộ Lục Thao, một bộ binh thư được cho là do chính Khương Thượng viết. Tuy nhiên, các học giả về sau cho rằng bộ sách được soạn từ thời Chiến Quốc.
Sử ký còn dẫn thêm vài thuyết nữa về Khương Thượng:
Ông từng đi làm quan cho vua Trụ nhà Thương nhưng thấy vua Trụ vô đạo nên bỏ nhà Thương, đi du thuyết các chư hầu nhưng cũng không thành công. Cuối cùng ông sang nước Chu với Tây Bá.
Cơ Xương bị vua Trụ giam ở Dữu Lý. Bầy tôi của Cơ Xương là Tán Nghi Sinh và Hoành Yêu biết Khương Thượng là nhân tài bèn mời ông về hợp tác. Khương Thượng nhận lời về giúp Chu. Ông cùng Tán Nghi Sinh và Hoành Yêu đồng mưu tìm gái đẹp và vật lạ dâng vua Trụ để chuộc Tây Bá hầu ra ngoài. Từ đó ông được Tây Bá hầu Cơ Xương tôn làm thầy.
Khương Thượng giúp Cơ Xương chấn chỉnh nội trị và xây dựng lực lượng nước Chu để mưu đánh đổ nhà Thương tàn bạo mất lòng dân. Ông giúp Tây Bá đánh các đất Sùng, Bí Tu, Khuyển, Di, mở rộng lãnh thổ nước Chu. Bờ cõi nước Chu rộng lớn, chiếm hai phần ba thiên hạ lúc đó. Cơ Xương chết, con là Cơ Phát lên thay.
Giúp Chu Vũ vương diệt Trụ
Khoảng 9 năm sau khi Cơ Xương mất (1126 TCN), Cơ Phát hội chư hầu chuẩn bị đánh Đế Tân (tức Trụ Vương), Khương Thượng cầm đầu quân đội. 800 nước chư hầu tới hưởng ứng, nhưng Cơ Phát cho rằng thời cơ chưa chín nên tạm rút về.
Năm thứ 11 (1124 TCN), thấy chính sự nhà Thương đã rất suy đồi, Tây Bá Cơ Phát lại cùng Khương Thượng ra quân. Dù khi ra trận bói phải quẻ xấu nhưng Khương Thượng vẫn khuyên Cơ Phát là quẻ lành và cứ ra quân. Cơ Phát nghe theo.
Khương Thượng dẫn đầu quân đội hội chư hầu ở bến Mạnh Tân. Chư hầu theo Chu đánh Đế Tân. Đến tháng 2 năm thứ 12 (1123 TCN), quân Chu đánh bại quân Thương ở Mục Dã, dù lực lượng quân Thương đông hơn nhưng do Đế Tân tàn bạo nên quân lính oán ghét, ngả theo bên Chu. Đế Tân thấy toàn quân tan rã, bèn chạy đến Lộc Đài, tự thiêu mà chết. Tương truyền chính ông đã ra tay giết Vương hậu của Đế Tân là Đát Kỷ.
Tề Thái công
Cơ Phát lên ngôi thiên tử, tức là Chu Vũ Vương. Vũ Vương ra lời kêu gọi nhân tài về triều đình phục vụ xây dựng đất nước, nhiều hiền sĩ ra làm quan và được phong tước. Duy có Cuồng Duật vẫn cứ quyết tâm ở ẩn. Chu Vũ Vương hay tin Cuồng Duật là nhân tài hiếm thấy liền phái Khương Tử Nha đến tận nơi mời, tuy nhiên dù thuyết phục thế nào Cuồng Duật cũng không chịu, và nói rằng muốn học theo gương Hứa Do ngày trước hưởng thụ nốt quãng đời còn lại. Khương Tử Nha khuyên không được lập tức hạ lệnh chém đầu Cuồng Duật để thị chúng. Khi Khương Tử Nha hồi kinh thuật lại sự việc thì bị Chu Vũ Vương quở trách, Tử Nha trả lời rằng: giờ là lúc đất nước cần nhân tài, nếu ai cũng như Cuồng Duật thì làm gì có người xây dựng đất nước. Vả lại nếu tài giỏi mà không đem ra sử dụng thì dẫu tài đến mấy cũng chẳng để làm gì, vậy nên chém chết vừa để làm gương cho kẻ khác cũng vừa là răn đe những ai không thực bụng với triều đình Quả nhiên, sau vụ việc đó, những người dửng dưng với nhà Chu không còn dám tỏ ra thanh cao mà ở ẩn nữa.
Khương Thượng là công thần, được phong làm vua Tề ở đất Doanh Khâu. Trên đường sang phía đông về đất được phong, ông nghỉ đêm trong quán trọ. Người trong quán khuyên ông nên đi gấp về kẻo có sự tranh giành. Khương Thượng nghe theo, đang đêm trở dậy mặc áo lên đường, tới tảng sáng thì về tới đất Doanh Khâu. Đúng lúc đó Lai Hầu là vua đất Lai ở bên cạnh vốn là chư hầu cũ của nhà Thương chưa thần phục nhà Chu, có ý định tranh đất Doanh Khâu với ông, bèn mang quân tới đánh. Khương Thượng sửa sang chính sự, lấy lòng người bản địa. Nhiều người theo về ủng hộ, giúp ông đánh bại được Lai Hầu. Ông chính thức trở thành vua nước Tề.
Chu Vũ Vương qua đời, con là Chu Thành Vương nối ngôi. Ba người em Vũ Vương lại nghe theo con vua Trụ là Vũ Canh khởi binh phản nhà Chu, đồng thời lôi kéo người Di ở đất Hoài hưởng ứng. Chu Công Đán nhân danh Chu Thành Vương sai Thiệu Khang công đi sứ tới nước Tề, giao toàn quyền cho ông chinh phạt các nơi không thần phục: phía đông đến biển, phía tây đến sông Hoàng Hà, phía nam đến Mục Lăng, phía bắc đến Vô Lệ.
Tề Thái công theo lệnh, mang quân chinh phạt các nơi. Trong khi đó Chu Công Đán cũng ra quân dẹp lực lượng của Vũ Canh. Sau 3 năm, nhà Chu dẹp được loạn. Tề Thái công cũng mở rộng cương thổ, nước Tề trở thành nước lớn.
Sau này không rõ Tề Thái công mất năm nào. Sử ký chỉ ghi ông thọ hơn 100 tuổi. Tính từ khi gặp Cơ Xương năm 80 tuổi tới khi qua đời, Khương Tử Nha hoạt động trong khoảng hơn 20 năm cuối thời nhà Thương, đầu thời nhà Chu. Tính riêng từ khi ông phục vụ Chu Vũ Vương (1134 TCN) đến khi nhà Chu dẹp xong loạn Vũ Canh (1113 TCN) là 21 năm, khi tham gia dẹp loạn thì Khương Tử Nha đã ngoài 100 tuổi.
Con ông là Khương (Lã) Cấp lên nối ngôi, tức là Tề Đinh công.
Tác phẩm
Binh pháp Lục Thao
Hiện nay vẫn còn một bản lưu được cho là binh pháp của Khương Tử Nha có tên là: Lục Thao. Một số người coi binh pháp này là bằng chứng thuyết phục nhất chứng minh sự tồn tại có thật của nhân vật Khương Tử Nha.
Lục Thao có thể nói là bộ binh pháp lâu đời nhất của Trung Quốc và nhân loại, còn gọi là Binh Pháp Thái Công. Trong Chiến Quốc Sách, các tướng quân cũng thường coi sách Lục Thao như sách giáo khoa về binh pháp.
Bộ binh pháp Lục Thao gồm 6 quyển:
Quyển I: Văn Thao - gồm 12 thiên.
Quyển II: Võ Thao - 5 thiên.
Quyển III: Long Thao - 13 thiên.
Quyển IV: Hổ Thao - 12 thiên.
Quyển V: Báo Thao - 8 thiên.
Quyển VI: Khuyển Thao - 12 thiên.
Càn khôn vạn niên ca
Khương Tử Nha được xem là tác giả của Càn khôn vạn niên ca - những bài thơ dự đoán tương lai lịch sử Trung Quốc.
Càn khôn vạn niên ca dự đoán các đời trị, loạn, nêu tên chiết tự và thời gian cầm quyền của các vua chúa, người cai trị Trung Quốc trong một hội (10.800 năm).
Trong văn hóa
Trong văn học
Dân gian lưu truyền những câu truyện thần thoại, truyền thuyết vô cùng huyền bí về Khương Tử Nha. Thậm chí còn có cả một bộ sách truyền thuyết Phong thần diễn nghĩa nói xoay quanh Khương Tử Nha và cuộc chiến Chu - Thương. Trong tiểu thuyết này, Khương Tử Nha là đệ tử của Nguyên Thủy Thiên Tôn có sứ mạng phong các vị thánh thần từ việc giúp nhà Chu lật đổ nhà Thương.
Bấy giờ, Cơ Xương nuôi chí lật đổ nhà Thương, đi khắp nơi tìm kiếm người hiền tài. Một hôm, lên núi Bàn Khê thấy Khương Tử Nha ngồi câu cá với một lưỡi câu thẳng. Thấy lạ, Cơ Xương mới hỏi: "ông lão, sao câu cá bằng lưỡi câu thẳng thế thì câu sao được?". Khương Tử Nha mới trả lời: "Lưỡi câu bình thường chỉ câu được cá, lưỡi câu này mới câu được minh chủ." (Một truyền thuyết khác nói rằng có người tiều phu hỏi ông sao câu được cá với lưỡi câu thẳng, ông trả lời rằng ông không câu cá mà câu Công, câu Hầu). Thấy vậy Cơ Xương mới đem những chuyện thế cuộc ra hỏi, quả nhiên Khương Tử Nha trả lời thông suốt cho thấy những kiến giải siêu phàm thế là từ đó Khương Tử Nha theo phò Cơ Xương. Lúc bấy giờ ông đã 60 tuổi.
Trong cuộc chiến Chu - Thương, nhà Chu còn có sự trợ giúp của các tướng nhà trời khác như: Nhị Lang Thần, cha con Tháp Lý Thiên Vương - Na Tra thái tử... Trong khi đó phía nhà Thương cũng được sự trợ giúp của Cửu Vĩ Hồ, Thân Công Báo...
Cũng theo truyền thuyết này, Khương Tử Nha là một người có pháp thuật cao siêu. Cuộc chiến là một câu chuyện truyền thuyết về những cuộc so tài phép thuật và mưu lược sinh động, hấp dẫn mà các nhân vật trong đó còn ảnh hưởng tới cả các truyền thuyết khác.
Trong điện ảnh
Lưu Đức Khải đóng Khương Tử Nha trong Phong Thần Bảng 1 và 2 (phim 2006 + 2008)
Trần Kiện Phong đóng Khương Tử Nha trong phim Anh Hùng Phong Thần Bảng phần 1 và 2 (phim 2014 và 2015) |
Khương Thượng là một phường thuộc quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Lịch sử
Từ trước thế kỷ XIX cùng với Khương Trung, Khương Hạ hợp thành xã Khương Đình, thuộc huyện Thanh Trì. Đến đầu thế kỷ XIX Khương Thượng được tách ra, đem thuộc về tổng Hạ của huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức. Từ 1915, Khương Thượng lại thuộc về tổng Yên Hạ, huyện Hoàn Long. Sau năm 1954 Khương Thượng quay trở lại cùng Khương Trung. Khương Hạ thành xã Tam Khương, quận VII ngoại thành Hà Nội. Nay Khương Thượng thành một phường thuộc quận Đống Đa.
Khương Thượng vốn có năm xóm: Đình, Đông, Tứ, Dộc và xóm Trước Cửa là xóm chính của làng, có một cổng lớn gọi là Cổng Cái. Sau năm 1919, Pháp làm sân bay Bạch Mai đã lấy đất của hai xóm Tứ và Dộc và dồn dân hai xóm này đến cánh đồng phía tây của làng gần Ngã Tư Sở và mọi người gọi đó là xóm Tân Khương.
Đây là nơi diễn ra chiến sự trong chiến dịch nghĩa quân Tây Sơn giải phóng Thăng Long vào năm 1789 nên Khương Thượng có nhiều di tích ghi nhớ: ở chỗ nay là Học viện Thủy lợi vốn có một gò đất hình con ốc nên có tên là núi Ốc (Loa Sơn), nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống đóng đồn và đã phải đền tội. Đằng sau có hồ rộng, quân lính thường đem voi ra tắm nên có tên là hồ Tắm Tượng. Hai di tích này không còn, chỉ còn di tích chùa Bộc. Chùa có tên chữ là Sùng Phúc tự, có từ đời Lê là chùa của làng Khương Thượng. Trong trận đánh quân Thanh, chùa bị hư hỏng. Năm Quang Trung thứ 5 (1792) dân làng làm lại chùa. Hiện trong chùa có một pho tượng hình dáng như các tượng Đức Ông ở mọi chùa, nhưng chân không đi hài, để trần. Nhiều người cho rằng đó là dân đã mượn hình thức Đức Ông để tạc tượng vua Quang Trung, vì ở sau tượng có dòng chữ “Bình Ngọ niên tạo Quang Trung tượng”. Bính Ngọ là năm 1846. Tuy nhiên cũng có người cho rằng đó là dòng chữ mới khắc gần đây. Vấn đề cần nghiên cứu thêm.
Ngoài ra cánh đồng làng này có những gò đất cao, tương truyền là nơi chôn xác quân Thanh. Nay tất cả cánh đồng đã được xây dựng những công trình xây dựng mới: Trường Công đoàn, Học viện Thủy Lợi, Học viện Ngân hàng.
Đình Khương Thượng thờ thần Cao Sơn, là di tích lịch sử văn hóa đã được xếp hạng năm 1990.
Chú thích |
Boris Leonidovich Pasternak (tiếng Nga: Борис Леонидович Пастернак; (10 tháng 2, (lịch cũ: 29 tháng 1) năm 1890 – 30 tháng 5 năm 1960) là một nhà thơ, nhà văn Nga-Xô viết đoạt Giải Nobel Văn học năm 1958. Ông nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago (Доктор Живаго), tuy nhiên người Nga lại coi trọng nhất là thơ ca của ông, tiêu biểu là tập thơ Chị tôi-cuộc đời (Сестра моя - жизнь).
Tiểu sử và văn nghiệp
Boris Leonidovich Pasternak sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái. Cha ông là Leonid Osipovich Pasternak, một họa sĩ, viện sĩ Viện Hàn lâm Nghệ thuật Sankt-Peterburg; mẹ ông là Rozaliya Isidorovna Pasternak (nhũ danh Kaufman, 1868-1939), một nghệ sĩ dương cầm. Ông bà Pasternak đã chuyển từ Odessa về Moskva năm 1889, một năm trước khi Boris ra đời. Boris là con cả, các em ông là Aleksandr (1893-1982), Jozefina (1900-1993) và Lidiya (1902-1989).
Đến làm khách nhà ông có những họa sĩ, nhạc công, văn sĩ nổi tiếng như nhà soạn nhạc Sergey Rahmaninov, nhà thơ Rainer Maria Rilke, văn hào Lev Nikolayevich Tolstoy. Năm 13 tuổi (1903), do ảnh hưởng từ nhạc sĩ Aleksandr Nikolayevich Skryabin, Pasternak bắt đầu yêu thích âm nhạc và học nhạc trong sáu năm. Năm 1914, ông in tập thơ đầu tiên Người anh em sinh đôi trong mây đen (Близнец в тучах). Tập thờ này được công chúng đánh giá cao, đến thập niên 1930 ông được coi như một nhà thơ Xô viết hàng đầu.
Năm 1923 ông cho ra đời tập thơ Những chủ đề và biến tấu (Темы и вариации) được đánh giá là đỉnh cao của thơ ông. Pasternak còn là một dịch giả tài năng. Ông dịch thơ cổ điển tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Gruzia, đặc biệt các bản dịch bi kịch của William Shakespeare được coi là hay nhất trong tiếng Nga.
Pasternak chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của nhà triết học Kant cả về cấu trúc tác phẩm lẫn hình thức thể hiện; ông cũng từng tôn thờ Chủ nghĩa vị lai do là bạn thân của Vladimir Mayakovsky. Trong khi nhiều bạn bè và họ hàng ra đi khỏi nước Nga khi Cách mạng tháng Mười thành công, Pasternak đã ở lại với niềm hứng khởi mới. Nhưng năm 1932, khi ông tách khỏi Chủ nghĩa vị lai, tự tạo nên phong cách của mình thì ông không còn được chính quyền ủng hộ.
Từ năm 1945 đến 1955, Pasternak sáng tác cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của ông, Bác sĩ Zhivago, nhưng không được in ở Liên Xô, đến năm 1957 tác phẩm này được xuất bản ở Ý. Cuối năm 1958, cuốn sách được dịch ra 18 thứ tiếng. Cũng trong năm này, Pasternak là người Nga thứ hai được trao giải Nobel Văn học vì những thành tựu ông đã đạt được trong nền thơ trữ tình hiện đại, cũng như vì công lao tiếp nối các truyền thống của nền tiểu thuyết sử thi Nga, mà nổi bật nhất là Bác sĩ Zhivago. Trước đó, liên tục trong khoảng 10 năm, Pasternak đã được đề cử giải Nobel văn học vì sự nghiệp thi ca. Do những áp lực chính trị, Pasternak buộc phải từ chối nhận giải. Ông đánh điện gửi Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển:
"Nhìn nhận ý nghĩa của giải thưởng với xã hội mà tôi đang sống, tôi buộc phải từ chối giải thưởng này. Đề nghị không phật ý với sự tự nguyện từ chối của tôi".
Ngày 30 tháng 5 năm 1960 Boris Leonidovich Pasternak qua đời vì căn bệnh phổi. Mãi đến năm 1988, tác phẩm Bác sĩ Zhivago của ông mới được xuất bản ở Liên Xô.
Tác phẩm
Những bài thơ đầu tay, in trong quyển Thơ trữ tình (Лирика, 1913), 14 bài
Người anh em sinh đôi trong mây đen (Близнец в тучах, 1914), thơ
Phía trên rào cản (Поверх барьеров, 1917), thơ, 28 bài
Chị tôi - Cuộc đời (Сестра моя - жизнь, 1922), thơ, 49 bài
Thời thơ ấu của Lyuvers (Детство Люверс, 1922), truyện
Những chủ đề và biến tấu (Темы и вариации, 1923), thơ, 62 bài
Bệnh cao sang (Высокая болезнь, 1924), trường ca
Trung úy Smidt (Лейтенант Шмидт, 1926), trường ca 28 chương (3 phần)
Đường trên không (Воздушные пути, 1924), truyện
Chứng chỉ hộ thân (Охранная грамота, 1931), tự truyện.
Năm chín trăm lẻ năm (Девятьсот пятый год, 1927), trường ca 7 chương
Truyện vừa (Повесть, 1929), truyện
Tái sinh (Второе рождение, 1932), tập thơ, 27 bài
Trên những chuyến tàu sớm (На ранних поездках, 1943), thơ, 27 bài
Khoảng bao la Trái Đất (Земной простор, 1945), thơ, 39 bài
Bác sĩ Zhivago (Доктор Живаго, 1957), tiểu thuyết
Con người và cảnh ngộ (Люди и положения, 1957), tự truyện
Bút ký tiểu sử (Биографический очерк, 1959)
Danh hiệu
Pasternak được mệnh danh bằng các danh hiệu: "Hamlet của thế kỷ 20"; "Hiệp sĩ của thi ca Nga"; "Con tin của sự vĩnh cửu", "Nhà cổ điển không biết mệt mỏi". Đó là sự tôn vinh cho một nhà thơ lớn của văn học Nga đương đại.
Chú giải |
Mạng tùy biến không dây (tiếng Anh: Wireless ad-hoc network) là một tập hợp gồm nhiều hơn một thiết bị/nút mạng với khả năng nối mạng và giao tiếp không dây với nhau mà không cần sự hỗ trợ của một sự quản trị trung tâm nào. Mỗi nút trong một mạng tùy biến không dây hoạt động vừa như một máy chủ (host) vừa như một thiết bị định tuyến.
Mạng loại này được gọi là tùy biến (ad-hoc) vì mỗi nút đều sẵn sàng chuyển tiếp dữ liệu cho các nút khác, và do đó việc quyết định xem nút nào sẽ thực hiện việc chuyển tiếp dữ liệu được dựa trên tình trạng kết nối của mạng. Điều này trái ngược với các công nghệ mạng cũ hơn, mà trong đó nhiệm vụ chuyển tiếp dữ liệu được thực hiện bởi một số nút chuyên biệt, thường là có phần cứng đặc biệt và được xếp thành các loại như thiết bị định tuyến, thiết bị chuyển mạch, hub, tường lửa. Cấu hình tối thiểu và khả năng triển khai nhanh chóng làm cho mạng tùy biến không dây thích hợp cho các tình huống khẩn cấp như các thảm họa, xung đột quân sự, cấp cứu y tế, v.v..
Tô pô của mạng tùy biến không dây nói chung là động, do tình trạng kết nối giữa các nút mạng có thể thay đổi theo thời gian tùy theo chuyển động của nút, sự xuất hiện của nút mới và việc nút cũ rời khỏi mạng. Do đó, các giao thức định tuyến hiệu quả là cần thiết để cho phép các nút giao tiếp với nhau. Các thiết bị hoặc nút mạng tùy biến phải có khả năng phát hiện sự có mặt của các thiết bị khác để có thể giao tiếp và chia sẻ thông tin. Ngoài ra, nó còn phải có khả năng xác định các loại dịch vụ và thuộc tính tương ứng. Do các nút có thể liên tục thay đổi, các thông tin định tuyến cũng phải thay đổi theo để phản ánh các thay đổi của tình trạng của các đường kết nối. |
Múa lân - sư - rồng (; Hán Việt: vũ sư) là một môn nghệ thuật múa dân gian đường phố có nguồn gốc từ Trung Quốc, thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu, vì ba con thú này tượng trưng cho thịnh vượng, phát đạt, hạnh phúc, hanh thông,... Múa lân thường được biểu diễn trong dịp tết và các lễ hội truyền thống, văn hóa và tôn giáo khác của Trung Quốc. Nó cũng có thể được thực hiện tại các dịp quan trọng như sự kiện khai trương kinh doanh, lễ kỷ niệm đặc biệt hoặc lễ cưới hoặc có thể được sử dụng để tôn vinh những vị khách đặc biệt của cộng đồng Trung Quốc.
Múa Lân - Sư - Rồng không những là nghệ thuật trong dân gian mà còn là sự tranh tài với nhau giữa các đội múa. Tùy theo không gian rộng hay hẹp, tùy theo ý nghĩa của dịp lễ hội, đội Lân-Sư-Rồng biểu diễn từng bài, từng cách múa cho phù hợp. Có thể phối hợp múa lân với sư, múa lân với rồng hoặc phối hợp cả ba thể loại với nhau.
Trong màn trình diễn múa lân, sư, rồng, không thể thiếu Ông Địa, một người bụng phệ (do độn vải, nếu không độn thì cần một người béo đóng giả) mặc áo dài, tay cầm quạt giấy to phe phẩy, mang mặt nạ ông địa đầu hói tròn cười toe toét đi theo giỡn lân, giỡn khách xem múa hoặc mua vui cho gia chủ. Ông Địa được cho là hiện thân của Đức Di Lặc, một vị Phật lúc nào cũng tươi vui hiền lành. Truyền thuyết kể rằng Đức Di Lặc đã hóa thân thành người và chế ngự được một quái vật (con lân) từ dưới biển lên bờ phá hoại. Đức Di Lặc hóa thân thành người, gọi là ông Địa, lấy cỏ linh chi trên núi cho quái vật ăn và hàng phục được nó, biến nó thành con thú ăn thực vật.
Từ đó, mỗi năm ông Địa lại dẫn nó xuống núi chúc Tết mọi người, chứng tỏ quái thú đã thành thú lành, cái ác trở thành cái thiện. Ông Địa và con lân đi đến đâu là giáng phúc tới đó nên nhà nào cũng hoan hỉ treo rau xanh và giấy đỏ đón chào. Sau này, người có tiền thường treo giải bằng tiền buộc trong một miếng vải đỏ, treo cùng bắp cải hoặc rau xanh. Lân phải trèo lên cao lấy bằng được "thức ăn" này. Tất nhiên, ông Địa không cùng trèo với Lân mà chỉ cùng lân múa, phe phẩy chiếc quạt to, ru lân ngủ hoặc đánh thức lân dậy. Cảnh ông Địa vuốt ve lân và lân mơn trớn ông Địa, thể hiện được tình cảm và sự hòa hợp sâu sắc giữa loài vật và loài người trong một bầu không khí thanh bình, hoan lạc.
Lịch sử
Đã có một truyền thống lâu đời ở Trung Quốc về các vũ công đeo mặt nạ để giống với động vật hoặc quái vật thần thoại từ thời cổ đại, và các màn trình diễn được mô tả trong các văn bản cổ như Kinh Thư, nơi những con thú hoang và phượng hoàng nhảy múa có thể bị che giấu. Trong các nguồn của nhà Tần, các vũ công thực hiện các nghi thức trừ tà được mô tả là đeo mặt nạ da gấu, và nó cũng được đề cập trong các văn bản của nhà Hán rằng "tượng nhân" (象人) thực hiện như cá, rồng và phượng hoàng. Tuy nhiên, sư tử không có nguồn gốc từ Trung Quốc (một loài được tìm thấy ở Đông Bắc Trung Quốc Panthera youngi đã bị tuyệt chủng từ rất lâu), và múa lân do đó được cho là có nguồn gốc bên ngoài Trung Quốc từ các quốc gia như Ấn Độ hoặc Ba Tư, và được giới thiệu qua Trung Á.
Theo nhà nghiên cứu dân tộc học Laurence Picken, từ tiếng Trung của sư tử, shi (獅, được viết là 師 trong thời kỳ đầu), có thể đã được bắt nguồn từ từ šer trong tiếng Ba Tư. Việc sử dụng sớm nhất từ Shizi có nghĩa là sư tử xuất hiện lần đầu tiên trong các văn bản của nhà Hán và có mối liên hệ chặt chẽ với Trung Á (một thuật ngữ thậm chí sớm hơn nhưng lỗi thời đối với sư tử là suanni (麑 hoặc ), và sư tử đã được trình bày trước triều đình Han bởi các sứ giả từ Trung Á và Đế chế Parthia. Những mô tả chi tiết về múa lân xuất hiện từ thời nhà Đường và nó đã được các nhà văn và nhà thơ công nhận sau đó là một điệu nhảy nước ngoài, tuy nhiên, múa lân có thể được ghi nhận ở Trung Quốc ngay từ thế kỷ thứ ba sau Công nguyên, trong đó "hành vi sư tử" được nhắc đến bởi một học giả Tam Quốc, Mạnh Khang (孟康) trong một bài bình luận về Hán thư.
Trong thời kỳ đầu, nó có liên quan đến Phật giáo: nó đã được ghi lại trong một văn bản Bắc Ngụy, Mô tả về các ngôi chùa Phật giáo ở Lạc Dương (伽藍 記), rằng một cuộc diễu hành cho một bức tượng Phật của một ngôi chùa đã được một con sư tử dẫn đi linh hồn ma quỷ. Do đó, một gợi ý khác là điệu nhảy có thể được phát triển từ một truyền thống địa phương chiếm đoạt biểu tượng đạo Phật của sư tử. Có những phiên bản khác nhau của điệu nhảy trong nhà Đường. Trong triều đình nhà Đường, điệu múa sư tử được gọi là Đại nhạc hòa bình (太平樂, Taiping yue) hoặc Vũ điệu sư tử của năm hướng (五方師子舞) trong đó năm con sư tử lớn có màu sắc khác nhau và thể hiện tâm trạng khác nhau và thao túng trên dây bởi hai người, và kèm theo 140 ca sĩ.
Trong một mô tả khác, năm con sư tử được mô tả là mỗi con cao hơn 3 mét và mỗi con có 12 "sư tử", chúng có thể trêu chọc những con sư tử bằng tiếng thì thầm đỏ. Một phiên bản khác của múa lân được nhà thơ Tang Juyi mô tả trong bài thơ "Nghệ thuật Tây Lương" (西凉伎), trong đó điệu nhảy được biểu diễn bởi hai vũ công hu (胡, nghĩa là người không phải người Hán đến từ Trung Á) người mặc trang phục sư tử làm từ đầu gỗ, đuôi lụa và thân hình lông xù, với đôi mắt mạ vàng và răng mạ bạc cũng như đôi tai di chuyển, một hình dạng giống với múa lân ngày nay. Đến thế kỷ thứ tám, điệu nhảy sư tử này đã đến Nhật Bản. Vào thời nhà Tống, múa lân thường được biểu diễn trong các lễ hội và nó được gọi là Sư tử phương Bắc trong thời Nam Tống.
Sư tử phương Nam là một sự phát triển sau đó ở phía nam Trung Quốc bắt nguồn từ tỉnh Quảng Đông. Có một số truyền thuyết liên quan đến nguồn gốc của Sư tử phương Nam: một câu chuyện liên quan đến việc điệu nhảy bắt nguồn từ một lễ kỷ niệm tại một ngôi làng nơi một con quái vật thần thoại tên là Nian đã bị đuổi đi thành công; Hoàng đế Càn Long đã mơ thấy một con vật tốt lành khi đi du ngoạn miền Nam Trung Quốc, và ra lệnh rằng hình ảnh của con vật được tái tạo và sử dụng trong các lễ hội. Tuy nhiên, có khả năng sư tử phương Nam Quảng Châu là một sự thích nghi của sư tử phương Bắc với những huyền thoại và đặc điểm địa phương, có lẽ trong thời nhà Minh.
Múa lân và sư tử
Hai loại múa lân chính ở Trung Quốc là sư tử phương Bắc và Nam. Tuy nhiên, cũng có một số hình thức múa lân địa phương ở các khu vực khác nhau của Trung Quốc, và một số trong những con sư tử này có thể có sự khác biệt đáng kể về ngoại hình, ví dụ Sư tử xanh (青獅, Thanh sư) và sư tử Đài Loan (明狮, Minh sư) phổ biến với người Phúc Kiến và Đài Loan. Các nhóm dân tộc thiểu số khác ở Trung Quốc cũng có thể có điệu nhảy sư tử của riêng họ, ví dụ như điệu múa sư tử của người thiểu số Hồi giáo ở huyện Trầm Khâu ở Hà Nam được gọi là sư tử Ôn, cũng như huyện Vĩnh Đức, Lan Châu, Cam Túc, và Vĩnh Ninh và nước Vũ Trung, Ninh Hạ, múa sư tử của Điền Dương, Bách Sắc, Quảng Tây, múa sư tử của Quý Châu, múa sư tử của Vân Nam, múa sư tử của Tương Tây, Hồ Nam, múa lân của Hoàng Bi, Vũ Hán, Hồ Bắc, múa lân của Phì Tây, Hợp Phì, An Huy, và sư tử Khách Gia — phổ biến trong người Khách Gia — rất giống với cả sư tử Phúc Kiến và sư tử Đài Loan — và thậm chí cả sư tử Ôn — nhưng sư tử Khách Gia có thể có hoặc không có sừng trên đầu — tương tự như sư tử phương bắc và phương nam — cũng được liên kết với vũ trường, một loại sinh vật thần thoại và là vật cưỡi cho bồ tát, Địa Tạng, hoặc đèn lồng, một loại khác loại sinh vật thần thoại và là vật cưỡi cho bồ tát, Quán Thế Âm.
Múa lân Trung Quốc thường có sự tham gia của hai vũ công nhưng cũng có thể được thực hiện bởi một người. Những con sư tử lớn hơn do hai người thao túng có thể được gọi là những con sư tử lớn (太獅, Hán Việt:đại sư) và những con sư tử bị một con sư tử nhỏ (少獅,Hán Việt:tiểu sư) thao túng. Các buổi biểu diễn cũng có thể được chia thành các phong cách dân sự (獅) và võ thuật (武獅). Phong cách dân sự nhấn mạnh tính cách và bắt chước và hành vi của sư tử, trong khi phong cách võ thuật tập trung vào các màn nhào lộn và các động tác mạnh mẽ. Có các hình thức khiêu vũ liên quan với các hình mặt nạ đại diện cho các sinh vật thần thoại như long mã, kỳ lân, Đoạn đường, giải trãi, và tỳ hưu. Điệu nhảy kỳ lân và điệu nhảy tỳ hưu thường được thực hiện bởi những người Khách Gia có nguồn gốc từ miền bắc Trung Nam Trung Quốc, nhưng phần lớn đã định cư ở phía nam Trung Quốc và Đông Nam Á trong thời hiện đại. Các hình thức múa lân khác nhau cũng được tìm thấy rộng rãi ở các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, cũng như trong các cộng đồng ở khu vực Hy Mã Lạp Sơn.
Sư tử Bắc Trung Quốc
Sư tử phương Bắc Trung Quốc (; Hán Việt: Bắc sư) thường được biểu diễn như một cặp sư tử đực và cái ở phía bắc Trung Quốc. Sư tử phương Bắc có thể có một cái đầu gỗ sơn vàng, và mái tóc đỏ và vàng xù xì với chiếc nơ đỏ trên đầu để biểu thị một con sư tử đực, hoặc một chiếc nơ màu xanh lá cây (đôi khi là màu xanh lá cây) để đại diện cho con cái. Tuy nhiên, có những biến thể khu vực của sư tử.
Sư tử phương Bắc giống với chó Bắc Kinh hoặc sư tử đá và các chuyển động của nó giống như thật trong khi biểu diễn. Nhào lộn rất phổ biến, với các pha nguy hiểm như giữ thăng bằng trên mai hoa thung hoặc trên một quả bóng khổng lồ. Sư tử phương Bắc đôi khi xuất hiện như một gia đình, với hai con sư tử lớn "trưởng thành" và một cặp "sư tử nhỏ" nhỏ. Thường có hai người biểu diễn trong một con sư tử trưởng thành và một con sư tử non. Cũng có thể có một nhân vật "chiến binh" nắm giữ một vật thể hình cầu và dẫn dắt những con sư tử.
Điệu nhảy của Sư tử phương Bắc nói chung vui tươi hơn Sư tử phương Nam. Các khu vực có các đoàn múa lân nổi tiếng bao gồm Ninh Hải ở Ninh Ba, Từ Thủy ở tỉnh Hà Bắc, Đại Liên ở tỉnh Liêu Ninh, và Bắc Kinh. Có một số biến thể của màn trình diễn múa lân, ví dụ như múa lân trên tháp Thiên đàng () từ huyện Xiangfen ở Sơn Tây là một hiệu suất theo đó một số con sư tử trèo lên một cấu trúc tháp cao được xây dựng từ những chiếc ghế gỗ, và cũng có những hành động dây cao liên quan đến sư tử.
Sư tử Nam Trung Quốc
Sư tử phương Nam Trung Quốc (; Hán Việt: Nam sư) hoặc múa lân Quảng Đông có nguồn gốc từ Quảng Đông. Sư tử phương Nam có một chiếc sừng duy nhất, và được liên kết với truyền thuyết về một con quái vật thần thoại tên là Nian. Con sư tử bao gồm một cái đầu được xây dựng theo truyền thống sử dụng papier-mâché trên khung tre được phủ bằng gạc, sau đó được sơn và trang trí bằng lông thú, và một cơ thể làm bằng vải xếp lớp bền được tỉa bằng lông nhiều hơn. Tuy nhiên, những con sư tử mới hơn có thể được chế tạo bằng vật liệu hiện đại như nhôm thay vì tre và nhẹ hơn. Các phiên bản mới hơn cũng có thể áp dụng vật liệu hiện đại sáng bóng hơn so với sơn mài truyền thống như nhãn dán sequin hoặc laser nhưng chúng không tồn tại lâu như những loại có sơn mài nửa mờ. Tùy thuộc vào loại sư tử (Truyền thống hoặc hiện đại), các loại lông khác nhau có thể được sử dụng.
Có hai phong cách chính của Sư tử Quảng Đông hoặc Quảng Đông: Fut San hoặc Phật Sơn (; nghĩa đen: 'Núi Phật'), và Hok San hoặc Hạc Sơn (; nghĩa đen: 'Núi cẩu'), cả hai đều được đặt tên theo nơi xuất xứ của chúng. Các phong cách nhỏ khác bao gồm Phật-Hạc (lai giữa Phật Sơn và Hạc Sơn được tạo ra ở Singapore bởi Kong Chow Wui Koon vào những năm 1960) và Trung Ngoại Chu Gia (được thực hiện bởi các học viên của kungfu theo phong cách gia đình Jow). Các loại sư tử khác nhau có thể được xác định từ thiết kế của đầu sư tử.
Phật Sơn là phong cách được nhiều trường phái kung fu áp dụng. Nó đòi hỏi sức mạnh trong các động tác và sức mạnh trong tư thế, sử dụng các tư thế kung fu để giúp đỡ với các chuyển động và cảm xúc sắc nét, và chỉ những sinh viên tiên tiến nhất mới được phép biểu diễn. Theo truyền thống, sư tử Phật Sơn có lông thay vì lông và nặng hơn những con hiện đại được sử dụng phổ biến hiện nay. Nó cũng có một cái đuôi rất dài và mắt xoay trái và phải. Ở mặt sau có vành vàng và một khu vực mạ vàng được gọi là cổ áo nơi tên của đoàn kịch có thể được khâu vào.
Tất cả các phong cách truyền thống của Phật Sơn đều có răng cửa sổ bật lên ở đầu, lưỡi và mắt xoay. Mặt dưới của đuôi có màu trắng; các thiết kế của đuôi cũng vuông hơn và có hoa văn kim cương đi xuống phía sau, và thường có chuông gắn ở đuôi. Nó có cái trán cao, đôi môi cong và cái sừng sắc nhọn trên đầu. Sư tử Phật Sơn truyền thống có hình dáng trang trí công phu, một số phong cách khu vực tuy nhiên đã phát triển trên khắp thế giới. Các kiểu mới hơn của sư tử Phật Sơn thay thế tất cả các lông bằng lông và đuôi ngắn hơn. Đôi mắt được cố định tại chỗ, và lưỡi và răng không bật lên. Đuôi cong hơn trong thiết kế, không có hoa văn kim cương và thiếu chuông.
Sư tử phong cách Hạc Sơn được biết đến với sự phong phú về biểu cảm, bước chân độc đáo, ngoại hình ấn tượng và phong cách đánh trống mạnh mẽ. Người sáng lập phong cách này được cho là "Vua sư tử Quảng Đông" Phùng Canh Trường () vào đầu thế kỷ 20. Ông được sinh ra tại một ngôi làng thuộc quận Hạc Sơn ở Quảng Đông và được cha mình hướng dẫn về võ thuật và múa sư tử. Sau đó, anh cũng học võ thuật và múa lân Nam ở Phật Sơn trước khi trở về quê nhà và thành lập phòng huấn luyện của riêng mình. Ông đã phát triển phiên bản múa lân độc đáo của mình, tạo ra các kỹ thuật mới bằng cách nghiên cứu và bắt chước chuyển động của mèo, như "bắt chuột, chơi, bắt chim, trốn cao, nằm thấp và lăn".
Ông và các đệ tử của mình cũng đã thay đổi đầu sư tử, trán thấp hơn, sừng tròn và nó có miệng mỏ vịt với đôi môi phẳng. Cơ thể của sư tử cũng mạnh mẽ hơn về cấu trúc với màu sắc bắt mắt. Cùng với những bước nhảy mới và những bước chân nhanh nhẹn, một nhịp điệu độc đáo được ông phát minh gọi là "Chiếc trống bảy sao", Feng đã tạo ra một phong cách múa lân mới có giá trị giải trí cao và hấp dẫn thị giác. Đầu những năm 1920, điệu nhảy sư tử He Shan được trình diễn khi Tôn Trung Sơn nhậm chức tại Quảng Châu, và tạo ra một sự khuấy động. Khoảng năm 1945, những người biểu diễn sư tử Hạc Sơn thường được mời biểu diễn ở nhiều nơi trong Trung Quốc và Đông Nam Á trong các lễ hội kỷ niệm. Phong cách Hạc Sơn trở nên rất phổ biến ở Singapore; con sư tử có được danh hiệu "Vua sư tử của các vị vua" và có một ký tự "vua" (王) trên trán. Sự cải thiện hơn nữa đã được Hiệp hội sư tử Hạc Sơn Singapore thực hiện, ví dụ như làm cho con sư tử trở nên "giống mèo" hơn bằng cách rút ngắn đuôi của sư tử Hạc Sơn và tạo ra tiếng trống mới cho điệu nhảy.
Màu sắc khác nhau được sử dụng để biểu thị tuổi và tính cách của sư tử. Sư tử có bộ lông trắng được coi là con già nhất trong số những con sư tử, trong khi sư tử có bộ lông màu vàng vàng là con giữa. Sư tử đen được coi là sư tử nhỏ tuổi nhất và chuyển động của sư tử này phải nhanh như một đứa trẻ hoặc một thiếu niên cứng đầu. Màu sắc cũng có thể đại diện cho tính cách của sư tử: sư tử vàng đại diện cho sự sống động, lòng dũng cảm của sư tử đỏ và tình bạn của sư tử xanh. Ngoài ra còn có ba loại sư tử đại diện cho ba nhân vật lịch sử được ghi lại trong Lãng mạn cổ điển của Tam Quốc chí, những người anh em có lời thề máu đã thề khôi phục lại triều đại nhà Hán: Múa sư tử Hạc Sơn đã được nhiều nhóm hiện đại chấp nhận, chỉ để lại một vài nhóm truyền thống - liên quan đến chính Trung Ngoại Chu Gia.
Sư tử Lưu Bị (Việt bính: Lau Pei) là con cả trong ba anh em và có màu vàng (thực ra là màu vàng hoàng gia khi trở thành hoàng đế đầu tiên của Vương quốc Thục Hán) với bộ râu và lông trắng (để biểu thị sự khôn ngoan của nó). Nó có một cái đuôi nhiều màu (với mặt dưới màu trắng) biểu thị màu sắc của năm yếu tố. Sư tử già Liu Bei cũng có màu đen ở đuôi trong khi những con mới thì không. Có ba đồng xu trên cổ áo. Con sư tử này được sử dụng bởi các trường học với một bậc thầy về võ thuật (sư phụ) đã được thành lập và được biết đến với tên gọi là Thụy sư (; nghĩa đen: 'Sư tử ngoan ngoãn').
Sư tử Quan Công (Việt bính: Kwan Kung) có khuôn mặt màu đỏ, lông đen, với bộ râu đen dài (vì nó còn được gọi là "Công tước có bộ râu đẹp"). Đuôi có màu đỏ và đen với viền trắng và mặt dưới màu trắng. Nó được biết đến như là anh trai thứ hai và thể thao hai đồng xu trên cổ áo. Sư tử này được gọi là Tỉnh sư (; nghĩa đen: 'Sư tử thức tỉnh').
Sư tử Trương Phi (Việt bính: Cheung Fei) có khuôn mặt màu đen với bộ râu đen ngắn, đôi tai nhỏ và lông đen. Đuôi có màu đen và trắng với viền trắng và mặt dưới màu trắng. Theo truyền thống, con sư tử này cũng có chuông gắn trên cơ thể. Là em út trong ba anh em, chỉ có một đồng xu duy nhất trên cổ áo. Sư tử này được gọi là Đấu sư (; nghĩa đen: 'Sư tử chiến đấu') vì Trương Phi có tính nóng nảy và thích chiến đấu. Con sư tử này được sử dụng bởi các câu lạc bộ mới bắt đầu hoặc bởi những người muốn thực hiện một thử thách.
Sư tử xanh lục
Sư tử xanh (;,Hán Việt: thanh sư) là hình thức múa lân liên quan đến tỉnh Phúc Kiến và người nói tiếng Phúc Kiến. Nó tương tự như múa lân miền nam Trung Quốc, ngoại trừ việc sư tử chủ yếu có màu xanh lá cây và có mặt nạ tròn tròn khác biệt. Nó được cho là bắt nguồn từ các phong trào chống Mãn Châu sau khi nhà Minh sụp đổ năm 1644. Từ "sư tử xanh" trong ngôn ngữ Phúc Kiến nghe có vẻ giống với "quân Thanh" (师). Trong các buổi huấn luyện cho máy bay chiến đấu, sư tử xanh được gắn lưỡi kiếm tượng trưng cho quân đội Mãn Châu và sẽ trở thành mục tiêu di chuyển cho các thực tập sinh. Chuyện kể rằng sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912, chuyên gia võ thuật ông Can Đức Nguyên () đã tổ chức một buổi biểu diễn tại Tuyền Châu nơi sư tử xanh bị phế truất để đại diện cho sự lật đổ của triều đại nhà Thanh. Từ thời điểm đó trở đi, sư tử xanh được sử dụng mà không cần lưỡi kiếm và được thực hiện cho mục đích văn hóa và nghi lễ.
Sư tử Việt Nam
Có một điệu nhảy sư tử ở Việt Nam và Trung Quốc vào Lễ hội trung thu. Ở Bắc Việt Nam Việt Nam và Trung Quốc thường được gọi là bậc thầy khiêu vũ mặc dù sư tử không có sừng. Tuy nhiên, các ghi chú của chữ Nôm trên các bức tranh "Cốc Cốc Lan" trong dòng Tranh Đông Hồ đã được ghi là "Phụng Lân" (chữ Nôm: 奉麟). Hầu hết sư tử ở Việt Nam giống với sư tử miền Nam - chúng là một phần của truyền thống sư tử miền Nam Trung Quốc nhưng đã có được đặc điểm địa phương. Tuy nhiên, cũng có những hình thức địa phương khác biệt đáng kể về ngoại hình và hiệu suất, chẳng hạn như múa lân của các dân tộc thiểu số Tày và Nùng. Một phiên bản của điệu nhảy đã được trình diễn tại Nhà hát Duyên Thị Thị trong lòng cung điện hoàng gia ở Huế. Loại múa lân này thường liên quan đến các cặp; màu vàng cho nam và màu xanh cho nữ. Điệu nhảy thường dựa trên quá trình giao phối, sinh và vòng đời của kỳ lân.
Điệu múa được thực hiện chủ yếu tại các lễ hội truyền thống như Tết Nguyên đán và Tết Trung thu, cũng như trong các dịp khác như khai trương một doanh nghiệp mới, sinh nhật và đám cưới. Điệu nhảy thường đi kèm với các võ sĩ và nhào lộn. Một đặc điểm của điệu nhảy kỳ lân Việt Nam là bạn nhảy của ông Địa hay linh hồn của trái đất, được miêu tả là một người đàn ông bụng to, cười toe toét cầm một chiếc quạt lá giống như 'Phật' (佛) của Trung Quốc. Tinh thần tốt bụng, theo tín ngưỡng phổ biến, có sức mạnh để triệu tập kỳ lân tốt lành, và do đó trong khi nhảy, đi đầu trong việc dọn đường cho con kỳ lân. Sự xuất hiện hài hước của Ông Địa làm tăng thêm tính chất lễ hội và vui vẻ của điệu nhảy. Đầu sư tử Việt Nam được làm khác nhau vì thiếu sừng. Điều này là do các đội thường chiến đấu với nhau và kết quả là còi bị đá liên tục. Để giải quyết vấn đề này, nhiều đội tuyển Việt Nam đã yêu cầu không có sừng để khiến đối thủ khó làm hỏng con sư tử hơn.
Sư tử Nhật Bản
Nhật Bản có truyền thống lâu đời về múa lân và điệu nhảy được gọi là sư tử vũ () trong tiếng Nhật. Nó được cho là đã được nhập khẩu từ Trung Quốc vào thời nhà Đường, và được kết hợp với lễ kỷ niệm ngày sinh của Đức Phật. Điệu múa sư tử đầu tiên được ghi nhận tại Nhật Bản là tại lễ khánh thành Tōdai-ji ở Nara năm 752. Mặt nạ sư tử lâu đời nhất còn sót lại, được làm bằng gỗ paulownia với hàm dưới có khớp nối, cũng được bảo quản ở Chùa Tōdai. Điệu nhảy thường được biểu diễn trong dịp năm mới để mang lại may mắn và xua đuổi tà ma, và các vũ công sư tử có thể được đi cùng với các nhạc sĩ sáo và trống. Nó cũng được thực hiện tại các lễ hội và lễ kỷ niệm khác. Trong một số màn trình diễn này, những con sư tử có thể cắn vào đầu người để mang lại may mắn.
Múa lân đã hoàn toàn được tiếp thu vào truyền thống Nhật Bản. Có nhiều điệu múa sư tử khác nhau ở Nhật Bản và phong cách nhảy múa và thiết kế của sư tử có thể khác nhau theo vùng - người ta tin rằng có đến 9.000 biến thể của điệu nhảy tồn tại ở nước này. Múa lân cũng được sử dụng trong các lễ hội Shinto tôn giáo như một phần của một loại hình nghệ thuật biểu diễn được gọi là . có thể được tìm thấy ở các dạng khác nhau - ví dụ như chủ yếu là nhào lộn, , một loại hình biểu diễn sân khấu được thực hiện bởi các nhà khổ hạnh yamabushi, và cả ở bangaku và những người khác. Các hình thức khác nhau của điệu nhảy shishi cũng được tìm thấy ở noh, kabuki (nơi múa lân tạo thành một nhóm các vở kịch được gọi là shakkyōmono), và nhà hát bunraku.
Sư tử Nhật Bản bao gồm một cái đầu bằng gỗ, sơn mài được gọi là (đầu sư tử), thường có thân hình đặc trưng của vải nhuộm màu xanh lá cây với thiết kế màu trắng. Nó có thể bị thao túng bởi một người, hoặc bởi hai hoặc nhiều người, một trong số họ thao túng cái đầu. Giống một người đàn ông thường thấy nhất ở miền đông Nhật Bản. Cũng như sư tử Trung Quốc, kiểu dáng của đầu và thiết kế trên cơ thể sẽ khác nhau giữa các vùng, và thậm chí từ trường học đến trường học. Tuy nhiên, mặt nạ đôi khi có thể có sừng dường như là một con nai () và được viết bằng các ký tự Kanji khác nhau có thể có nghĩa là con thú, hươu hoặc lợn rừng, ví dụ như trong (踊). Trong lịch sử, từ shishi có thể ám chỉ bất kỳ động vật bốn chân hoang dã nào, và một số điệu nhảy với những con thú khác nhau cũng có thể được gọi là shishi-mai. Điệu nhảy đôi khi cũng có thể có múa hổ (tora) hoặc kỳ lân ().
Ở Okinawa, một điệu nhảy tương tự tồn tại, mặc dù sư tử được coi là một chó đá shisa huyền thoại. Đầu, cơ thể và hành vi của shisa trong điệu nhảy khá khác so với shishi trên đất liền Nhật Bản. Thay vì nhảy theo âm thanh của sáo và trống, điệu nhảy shisa của Okinawa thường được biểu diễn theo các bài hát dân gian được chơi với đàn shamisen.
Sư tử Triều Tiên
Múa sư tử được ghi nhận trong công tác lịch sử Triều Tiên Tam quốc sử ký là " toan nghê " (狻猊, từ Trung Quốc cũ cho sư tử), một trong năm bài thơ về những điệu nhảy của Tân La vương quốc được viết bởi Thôi Trí Viễn. Nó có thể đã được ghi lại sớm nhất là triều đại của Vua Jinheung (Chân Hưng) vào thế kỷ thứ 6, trong đó một giai điệu có tựa đề "Tài năng của Sư tử" được sáng tác có thể liên quan đến một điệu nhảy sư tử.
Hai truyền thống chính của múa lân tồn tại ở Hàn Quốc, saja-noreum, được thực hiện như một vở kịch trừ tà; và sajach'um được thực hiện kết hợp với các bộ phim truyền hình đeo mặt nạ. Trong nhiều bộ phim truyền hình múa mặt nạ truyền thống, múa lân xuất hiện như một phần của một số hành vi. Ví dụ về những bộ phim truyền hình này là Ŭnyul t'alch'um, Pongsan t'alch'um (봉산 탈춤), Suyong Yayu (야류) và T'ongyong Ogwangdae (오광대). Mặt nạ sư tử của Pongsan và Gangnyeong có thể có đôi mắt và tiếng chuông có ý nghĩa khiến lũ quỷ sợ hãi khi chúng phát ra âm thanh khi sư tử di chuyển.Cũng có một lần phiên bản tòa án của múa lân.
Múa lân như một nghi thức trừ tà bắt đầu được thực hiện vào năm mới ở Hàn Quốc trong triều đại Cao Ly. Nổi tiếng nhất trong các điệu nhảy sư tử saja-noreum của Hàn Quốc là Bukcheong sajanoreum hoặc mặt nạ sư tử từ Bukcheong. Trong điệu nhảy sư tử này, sư tử với mặt nạ sư tử lớn nhưng hài hước và trang phục màu nâu có thể được biểu diễn cùng với những người biểu diễn đeo mặt nạ khác. Các vũ công có thể đi cùng với các nhạc sĩ chơi trống hai đầu, trống hình đồng hồ cát, chiêng lớn và sáo trúc sáu lỗ.
Điệu nhảy ban đầu được thực hiện vào mỗi đêm trong mười lăm đêm đầu tiên của Tết Nguyên đán, nơi đoàn múa trong mặt nạ sư tử và trang phục đến thăm mọi ngôi nhà trong các ngôi làng của vùng Bukcheong, và múa lân có ý nghĩa xua đuổi tà ma và thu hút chúc may mắn cho năm tới. Đôi mắt của mặt nạ sư tử có thể được sơn vàng để xua đuổi những linh hồn tiêu cực. Người ta cũng tin rằng những đứa trẻ ngồi trên lưng sư tử trong những buổi biểu diễn như vậy sẽ có sức khỏe tốt và cuộc sống lâu dài.
Sư tử Tây Tạng
Ở khu vực Hy Mã Lạp Sơn và Tây Tạng, cũng có một điệu nhảy sư tử được gọi là múa lân tuyết. Điệu nhảy này có thể được tìm thấy ở Tây Tạng và cả trong cộng đồng người di cư Tây Tạng nơi nó được gọi là Senggeh Garcham,Nepal, và một phần của Đông Bắc Ấn Độ - trong số những người Monpa ở Arunachal Pradesh, ở Sikkim, nơi nó được gọi là Singhi Chham, và ở một số vùng của Uttar Pradesh và Ladakh. Tên seng ge và các hình thức liên quan của nó đến từ tiếng Phạn siṅha, và cham là một điệu nhảy nghi lễ của đạo Phật. Sư tử tuyết có bộ lông màu trắng và ở Tây Tạng, nó cũng có thể có bờm xanh hoặc rìa xanh, trong khi ở Sikkim, bờm có thể có màu xanh.
Các sư tử tuyết được coi là một biểu tượng của Tây Tạng và múa sư tử tuyết là một điệu nhảy phổ biến trong cộng đồng Tây Tạng và nó được thực hiện trong các lễ hội như trong điệu múa nghi lễ (lễ hội cham) và năm mới. Sư tử tuyết đại diện cho các dãy núi tuyết và sông băng của Tây Tạng và được coi là rất tốt lành, và nó cũng có thể tượng trưng cho một số đặc điểm, chẳng hạn như sức mạnh và lòng kiêu hãnh, không sợ hãi và niềm vui. Sư tử tuyết có thể có lịch sử lâu đời ở Tây Tạng, nhưng một số phiên bản địa phương của điệu nhảy cũng có thể bị ảnh hưởng bởi Vũ điệu sư tử Trung Quốc ở vùng biên giới Trung-Tây Tạng - ví dụ, nó đã ghi lại rằng thủ lĩnh địa phương ở Songpan,Tứ Xuyên đã tặng một bộ trang phục sư tử cho Jamyang Zhépa II của vùng Amdo trong thế kỷ 18. Điệu múa sư tử tuyết có thể được biểu diễn như một điệu nhảy thế tục, hoặc là một điệu nhảy nghi lễ được thực hiện bởi các nhà sư bon po.
Sư tử Indonesia
Múa lân Trung Quốc được gọi là barongsai ở Indonesia, thường được người Hoa ở Indonesia biểu diễn trong thời gian Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, người Indonesia đã phát triển phong cách múa lân của riêng họ. Múa lân (tiếng Indonesia: barong) ở Indonesia có các hình thức khác biệt với văn hóa địa phương ở Indonesia, và không biết những thứ này có liên quan gì đến sư tử Trung Quốc hay không. Những điệu múa sư tử nổi tiếng nhất được biểu diễn ở Bali và Java. Trong văn hóa của người Hindu theo đạo Hindu, Barong là vua của những linh hồn tốt và là kẻ thù của nữ hoàng quỷ Rangda. Giống như sư tử Trung Quốc, nó đòi hỏi nhiều vũ công hơn trong Java Reog.
Các Reog nhảy của Ponorogo trong Java bao gồm một con sư tử con được gọi là Barong Singa. Nó được tổ chức vào những dịp đặc biệt như lễ kỷ niệm Lebaran (Eid al-Fitr), lễ kỷ niệm thành phố hoặc thành phố hay lễ hội ngày quốc khánh. Một vũ công duy nhất, hoặc warok, mang mặt nạ sư tử nặng khoảng 30 – 40 kg bằng răng. Ông được ghi nhận với sức mạnh đặc biệt. các warokcũng có thể mang một cậu bé hoặc cô gái vị thành niên trên đầu của nó. Khi ôm một cậu bé hoặc cô bé vị thành niên trên đầu, vũ công Reog giữ trọng lượng lên tới tổng cộng 100 kg. Mặt nạ tuyệt vời kéo dài hơn 2,5 mét với da hổ hoặc da báo thật và lông chim công. Nó đã được quốc tế công nhận là mặt nạ lớn nhất thế giới.
Âm nhạc và nhạc cụ
Múa lân Trung Quốc được biểu diễn kèm theo âm nhạc gồm trống, chũm chọe, thanh la và cồng chiêng. Dụng cụ đồng bộ hóa với các động tác và hành động múa lân. Fut San, Hok San, Fut Hok, Chow Gar, v.v... tất cả đều chơi beat khác nhau. Mỗi phong cách chơi một nhịp độc đáo. Sự phát triển trong các thiết bị điện tử đã cho phép phát nhạc qua điện thoại /máy tính bảng /máy tính /máy nghe nhạc mp3. Điều này đã góp phần vào sự phát triển của cách mọi người có thể chơi nhạc múa lân - loại bỏ nhu cầu mang theo các nhạc cụ (có thể khá lớn).
Phong cách phổ biến nhất là nhịp điệu sư tử Sar Ping. Điều này có hơn 22 thử nghiệm khác nhau mà bạn có thể sử dụng để thể hiện chuyển động của sư tử, trong khi sư tử Phật Sơn chỉ có khoảng 7.
Trang phục
Trang phục múa lân được sử dụng trong các buổi biểu diễn này chỉ có thể được tùy chỉnh trong các cửa hàng thủ công đặc sản ở các vùng nông thôn châu Á và phải được nhập khẩu với chi phí đáng kể cho hầu hết các quốc gia nước ngoài ngoài châu Á. Đối với các nhóm ở các nước phương Tây, điều này được thực hiện thông qua các quỹ được huy động thông qua đăng ký và cam kết được thực hiện bởi các thành viên của các hiệp hội văn hóa và kinh doanh địa phương. Đối với các quốc gia như Malaysia có dân số Trung Quốc đáng kể, chuyên môn địa phương có thể có sẵn trong việc sản xuất trang phục và nhạc cụ "sư tử" mà không phải nhập chúng từ Trung Quốc. Hầu hết các trang phục múa Nam Lion hiện đại đều đi kèm với một bộ quần phù hợp, tuy nhiên một số học viên sử dụng quần kung fu đen để xuất hiện truyền thống hơn. Trang phục múa lân hiện đại được làm rất bền và một số không thấm nước.
Hiệp hội múa lân và võ thuật
Múa lân Trung Quốc có quan hệ mật thiết với kungfu hoặc võ thuật (武術) và các vũ công thường là thành viên võ thuật của câu lạc bộ hoặc trường kungfu địa phương. Họ luyện tập trong câu lạc bộ của họ và một số huấn luyện chăm chỉ để thành thạo kỹ năng là một trong những môn võ thuật. Nhìn chung, người ta thấy rằng nếu một trường học có một đoàn kịch có khả năng với nhiều "sư tử", thì điều đó chứng tỏ sự thành công của trường. Nó cũng thường được luyện tập cùng với múa rồng ở một số khu vực.
Trình diễn múa lân
Lân chỉ chế tạo cái đầu thật công phu, còn mình là vải thêu, viền rất khéo. Có loại lân đặc biệt, nửa giống lân, nửa giống rồng, nhưng ít xuất hiện trong các buổi diễn.
Đám múa lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Đầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có trống thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân và quan trọng nhất không thể thiếu đó là ông Địa. Thường đội lân đánh trống vang xóm và nhà nào có treo thưởng thì đội lân sẽ đến múa chúc vui, tiền thưởng thường treo trên cao, có khi buộc trên cành tre cao, đội lân sẽ đôn người lên cho lân há miệng ngoạm lấy (có khi làm thang là một cột thép dựng đứng để lân leo). Thường phần thưởng càng lớn thì treo càng cao, đội lân càng có nghề càng thích phần thưởng treo cao, xem như một thách thức các đội lân khác, đồng thời qua đó chứng tỏ tài nghệ của đội để thu hút các gia chủ khác. Nhưng trong nhà có người già thì phần thưởng lại được treo thấp dù có giá trị cao, chắc tránh cho lân gặp phải nguy hiểm xem như gia chủ để phước. Ông địa phải vào nhà vái chào người già, gia chủ, sau đến giỡn chơi hoặc làm hề cho trẻ em vui, nếu gia chủ tỏ ý muốn mời thì đoàn lân sẽ vào, sau khi lân ngậm được tiền, lân gục gặc đầu cảm tạ thì ông địa lại vái chào cảm ơn gia chủ trước khi đoàn lân qua nhà khác.
Có nhiều kiểu múa lân.
"Độc chiếm ngao đầu" - Một con lân biểu diễn, thể hiện tài tả xung hữu đột, tiến thoái nhịp nhàng, bộ pháp hùng dũng, nhảy cao, trèo giỏi, tượng trưng cho cái uy, cái dũng của một mãnh tướng, một hảo hán, một vị anh hùng.
"Song hỉ" - Hai con lân cùng biểu diễn, thể hiện niềm hân hoan khoan khoái, tâm đầu ý hợp như loan với phụng, như vợ với chồng, như đất trời và âm dương tương hợp.
"Tam Tinh" - Ba con lân hợp múa với ba màu vàng, đỏ, đen, thể hiện những điều cầu nguyện của mọi người đạt được điều lành, ba điều tốt là Phúc, Lộc, Thọ.
"Tam Anh" - Ba con lân cùng múa, diễn tả Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi vừa hùng dũng, vừa có chí lớn, vừa thương yêu, gắn bó với nhau hơn cả anh em ruột thịt cho đến chết.
"Tứ Quý hưng long" - Bốn con lân cùng múa, gồm bốn đầu lân trắng, vàng, đỏ, đen (hoặc xanh), tượng trưng cho bốn mùa, bốn phương, bốn hiện tượng trong trời đất, diễn tả sự sung mãn, trường thọ, mạnh khỏe và hạnh phúc.
Múa sư tử thì khác múa lân, người múa núp kín thân mình trong bụng sư tử giả và sư tử thì không có sừng. Một tiết mục múa sư của người Hoa gồm 4 người: 2 người múa, 1 người đánh trống, 1 người cầm quả cầu. Trống trong múa Sư được đánh theo nhịp khác với múa Lân, người ta gọi nhịp trống trong múa Sư là nhịp trống Bắc Kinh.
Múa lân trong các dịp lễ
Trong dịp Tết Nguyên đán, các đoàn múa lân sẽ đến thăm các ngôi nhà và cửa hàng của cộng đồng châu Á để thực hiện phong tục truyền thống "cai qing" (採青), nghĩa đen là "nhổ cỏ xanh", theo đó, sư tử cắm cây xà lách xanh tốt lành hoặc treo trên cột hoặc đặt trên bàn trước mặt bằng. "Rau xanh" (qing) được gắn với nhau bằng một " phong bì đỏ " chứa tiền và cũng có thể bao gồm trái cây tốt lành như cam. Trong tiếng Trung i (採, nhổ) cũng nghe giống như cài đặt (菜, nghĩa là rau) và cái(财, có nghĩa là vận may). "Sư tử" sẽ nhảy và tiếp cận "phong bì xanh" và "phong bì đỏ" như một con mèo tò mò, để "ăn xanh" và "nhổ" nó ra nhưng giữ "phong bì đỏ" là phần thưởng cho đoàn sư tử. Múa lân được cho là mang lại may mắn và tài lộc cho doanh nghiệp. Trong triều đại nhà Thanh, có thể có thêm những ý nghĩa ẩn giấu trong các buổi biểu diễn, ví dụ như các loại rau xanh (qing) mà sư tử ăn có thể đại diện cho Qing Manchus. Trong điệu nhảy sư tử Hok San hiện đại, họ sẽ sử dụng một trong nhiều bài kiểm tra để tiếp cận thức ăn, mỗi bài có một nhịp và chuyển động cụ thể.
Các loại rau, trái cây, thực phẩm hoặc dụng cụ khác nhau với ý nghĩa tượng trưng tốt và tốt; ví dụ như dứa, bưởi, chuối, cam, măng, dừa, bia, nồi đất sét hoặc thậm chí cua có thể được sử dụng để "nhổ" tạo ra khó khăn và thách thức khác nhau cho điệu nhảy sư tử người biểu diễn. Nhưng những khó khăn của thử thách sẽ đi kèm với phần thưởng lớn hơn của "phong bì đỏ" được trao.
Vào thời xa xưa, rau diếp được treo 5 tầng 6 m (162020 ft) trên mặt đất và chỉ có một võ sĩ được đào tạo tốt mới có thể kiếm được tiền trong khi nhảy với một cái đầu sư tử nặng. Những sự kiện này đã trở thành một thách thức công cộng. Một khoản tiền lớn đã được thưởng, và khán giả mong đợi một chương trình hay. Đôi khi, nếu sư tử từ nhiều trường phái võ thuật tiếp cận rau diếp cùng một lúc, sư tử có nhiệm vụ chiến đấu để quyết định người chiến thắng. Những con sư tử đã phải chiến đấu với những động tác sư tử cách điệu thay vì phong cách chiến đấu trên đường phố hỗn loạn. Khán giả sẽ đánh giá chất lượng của các trường võ thuật theo cách những con sư tử chiến đấu. Vì danh tiếng của các trường học bị đe dọa, các trận đánh thường dữ dội nhưng văn minh. Con sư tử chiến thắng sau đó sẽ sử dụng các phương pháp sáng tạo và kỹ năng võ thuật để đạt được phần thưởng cao. Một số sư tử có thể nhảy trên sàn tre và một số có thể giẫm lên kim tự tháp của con người được hình thành bởi các sinh viên của trường. Những người biểu diễn và các trường học sẽ nhận được sự khen ngợi và tôn trọng trên phần thưởng tiền tệ lớn khi họ làm tốt. Các đoàn múa sư tử đôi khi được đi kèm với các nhân vật khác nhau như ông Địa.
Trong những năm 1950-1960, tại một số khu vực có dân số cao của cộng đồng người Hoa và châu Á, đặc biệt là khu phố Tàu ở nhiều nước ngoài ở Trung QuốcTrên thế giới, những người tham gia các đoàn múa sư tử là "giống như gangster" và có rất nhiều cuộc chiến giữa các đoàn múa sư tử và các trường phái kung fu. Cha mẹ sợ không cho con tham gia các đoàn múa sư tử vì liên kết "xã hội đen" với các thành viên. Trong các lễ hội và biểu diễn, khi các đoàn múa sư tử gặp nhau, có thể có những trận đánh nhau giữa các nhóm. Một số thang máy và thủ thuật nhào lộn được thiết kế để sư tử "chiến đấu" và hạ gục những con sư tử đối thủ khác. Những người biểu diễn thậm chí còn giấu dao găm trong giày và quần áo của họ, có thể dùng để làm bị thương chân của các vũ công sư tử khác, hoặc thậm chí gắn một chiếc sừng kim loại trên trán sư tử của họ, có thể dùng để chém những con sư tử khác. Bạo lực trở nên cực đoan đến mức có lúc chính quyền Hồng Kông cấm hoàn toàn múa lân. Hiện nay, cũng như nhiều quốc gia khác, các đoàn múa lân phải đạt được giấy phép từ chính phủ để thực hiện múa lân. Mặc dù vẫn có một mức độ cạnh tranh nhất định, các đoàn kịch ít bạo lực và hung hăng hơn rất nhiều. Ngày nay, bất cứ khi nào các đội gặp nhau, họ sẽ bắt tay nhau qua miệng sư tử để thể hiện tinh thần thể thao.
Trong một màn trình diễn truyền thống, khi sư tử nhảy vào một ngôi làng hoặc thị trấn, trước tiên nó phải tỏ lòng thành kính tại ngôi đền địa phương, sau đó đến tổ tiên ở hội trường tổ tiên, và cuối cùng qua đường để mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi người người dân.
Tiến hóa và cạnh tranh
Múa lân đã lan rộng trên toàn thế giới do sự hiện diện trên toàn thế giới của cộng đồng người cộng đồng người Hoa và người định cư di dân tại nhiều quốc gia trong châu Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Úc, Thái Bình Dương Polynesia, và đặc biệt, trong khu vực Đông Nam Á, nơi có một sự hiện diện lớn của nền văn hóa Trung Quốc ở nước ngoài.
Điệu nhảy đã phát triển đáng kể từ những ngày đầu khi nó được biểu diễn như một phần kỹ năng của võ thuật Trung Quốc, và đã phát triển thành một nghệ thuật nghệ thuật hơn và một môn thể thao nữa có tính đến biểu hiện của sư tử và các chuyển động tự nhiên, cũng như sự phát triển của nhiều hơn phong cách nhào lộn công phu và kỹ năng trong khi biểu diễn. Sự phát triển và phát triển này đã tạo ra hình thức múa lân hiện đại, và các cuộc thi được tổ chức để tìm ra những màn trình diễn múa lân tốt nhất. Giải vô địch múa lân quốc tế được tổ chức ở nhiều quốc gia nơi người dân Trung Quốc sinh sống, như ở Malaysia, Singapore, Hồng Kông và Đài Loan.
Cuộc thi có thể được thực hiện trên một loạt các bục tròn nhỏ được nâng lên trên các cột gọi là hoa mai và có tổng cộng 21 hoặc thậm chí 22 cực trong bộ truyền thống. Chúng có thể đạt tới 3 mét cho chiều cao bình thường, nhưng cột vô địch có thể đạt tới 6 mét. Các cực có thể được thêm vào với các đạo cụ hoặc chướng ngại vật, chẳng hạn như một cây cầu gỗ nhỏ có thể dễ dàng bị gãy làm đôi, hoặc một cặp dây có thể đi qua. Chiếc hoa mai đầu tiên được chế tạo được giới thiệu vào năm 1983 cho một cuộc thi ở Malaysia, được làm từ gỗ với một đế cao su tròn nhỏ ở trên và một cái kẹp sắt ở phía dưới, với tổng số 5 cực trong bộ ban đầu được gọi là "Ba Lan Hua cực" hoặc "Ba Lan hoa mận", có chiều cao 33 inch và chiều rộng 8 inch.
Sau đó, 16 hoặc thậm chí 17 cực đã được thêm vào trong bộ, nhưng tất cả 21 hoặc thậm chí 22 cực cao hơn 85,11 inch và rộng hơn 6 inch, và được làm bằng sắt thay thế. Cuộc thi được đánh giá dựa trên kỹ năng và sự sống động của "sư tử" cùng với việc tạo ra các pha nguy hiểm và các bước nhảy, cũng như sự khó khăn của những màn nhào lộn và nhịp điệu của âm nhạc. công cụ nhịp nhàng và nhịp nhàng có thể quyến rũ khán giả và giám khảo. của cuộc thi. Mẫu đánh giá chính được phát triển bởi Liên đoàn múa rồng và sư tử quốc tế, ghi được tổng cộng 10 điểm. Phiếu tự đánh giá của họ được sử dụng trong nhiều cuộc thi chuyên nghiệp bao gồm Genting, Malaysia, được tổ chức gần đây tại Arena of Stars kể từ khi nó được mở vào năm 1998.
Giải vô địch sư tử rồng thế giới và quốc gia Genting được tổ chức hai năm một lần tại Malaysia. Đến năm 2001 và 2002, các đội múa rồng cũng tham gia vào các cuộc thi tại Genting. Một sự kiện thi đấu nổi tiếng khác được tổ chức tại Malaysia là Giải vô địch múa rồng và sư tử thế giới Tang Long tại sân vận động trong nhà Putra, Kuala Lumpur, Malaysia năm 2002. Nó cũng có sự tham gia của cả hai đội múa lân Bắc và Nam Lion, nhưng các đội múa rồng cũng. Ngoài ra còn có một sự kiện cạnh tranh nổi tiếng khác được tổ chức tại Singapore, được gọi là Giải vô địch khiêu vũ sư tử quốc gia Ngee Ann, được tổ chức hàng năm, tại Ngee Ann City, Đường Orchard, Singapore, mà cuộc thi được đặt theo tên, bắt đầu từ những năm 1990.
Vấn đề chính trị
Múa lân được coi là một phần đại diện của văn hóa Trung Quốc tại nhiều cộng đồng người Hoa ở nước ngoài, và ở một số nước Đông Nam Á, đã có những nỗ lực cấm hoặc không khuyến khích khiêu vũ nhằm đàn áp bản sắc văn hóa Trung Quốc tại các quốc gia đó. Ví dụ, ở Malaysia, múa lân đã bị một chính trị gia Malay chỉ trích vào những năm 1970 vì không theo phong cách Malaysia và cho rằng nó được đổi thành múa hổ, và nó đã bị cấm ngoại trừ vào Tết Nguyên đán cho đến năm 1990. Múa sư tử đã trở thành một vấn đề của cuộc tranh luận chính trị và cộng đồng về văn hóa dân tộc của đất nước. Trong SuhartoThời đại ở Indonesia, biểu hiện công khai của văn hóa Trung Quốc cũng bị cấm và lễ rước barongsai (múa lân) được coi là "khiêu khích" và "đối đầu với chủ nghĩa dân tộc Indonesia". Tuy nhiên, lệnh cấm này đã bị đảo ngược sau sự sụp đổ của chế độ Suharto năm 1998, tuy nhiên việc thỉnh thoảng cấm múa lân ở địa phương vẫn xảy ra.
Trong văn hóa đại chúng
Trong những năm 1960 và 1970, trong thời kỳ mà các bộ phim võ thuật và cổ điển Trung Quốc của Hồng Kông rất phổ biến, các bộ phim kung fu trong đó có loạt phim của Lý Liên Kiệt đóng thực sự đã gián tiếp chiếu và chỉ ra cách múa sư tử được thực hiện với kung fu gần gũi quan hệ và kung fu trong thời gian đó. Vào thời đó, múa sư tử chủ yếu được luyện tập và biểu diễn như các kỹ năng Wushu hoặc kung fu, với thử thách cho 'sư tử' được xây dựng bằng ghế và bàn xếp chồng lên nhau để 'sư tử' thực hiện các pha nguy hiểm và thực hiện thử thách của mình.
Một số bộ phim của thập niên 1990, bao gồm phiên bản làm lại của Hoàng Phi Hồng, và các phần tiếp theo của Hoàng Phi Hồng, liên quan đến cốt truyện tập trung vào múa lân, đặc biệt là loạt phim điện ảnh về Hoàng Phi Hồng phần 3 và 4. Diễn viên chính của sê-ri là Lý Liên Kiệt, đã từng đóng vai một vũ công sư tử trong một số bộ phim của ông, bao gồm múa sư tử phương Bắc ở loạt phim Thiếu Lâm tiểu tử và múa lân theo phong cách phương Nam trong phim Hoàng Phi Hồng phần 3 và 4 được ghi hình ở Trung Quốc và Mỹ.
Múa lân cũng đã xuất hiện trong các video âm nhạc nổi tiếng, chẳng hạn như nhóm nhạc hip hop Trung Quốc, video âm nhạc Lower Brothers cho đĩa đơn "Open It Up", video âm nhạc "If I Had You" của Adam Lambert và video âm nhạc "Dusk Till Dawn" của Zayn Malik. Điệu nhảy truyền thống tương tự cũng xuất hiện trong một video âm nhạc "True To Your Heart" của 98 Độ với Stevie Wonder, được sử dụng để quảng cáo cho bộ phim hoạt hình năm 1998 của Disney là Hoa Mộc Lan hay loạt phim Kungfu Panda của DreamWorks.
Việt Nam cũng có những bài thơ hay bài hát thiếu nhi liên quan đến múa lân như Múa lân của Diệp Minh Tuyền hay Y Vân, Đêm Trung thu của Phạm Tuyên,... Dịp Trung thu, trẻ em thường mua đầu lân (sư tử) loại nhỏ để phá cỗ trông trăng; tại các cửa hàng hay làng nghề làm đồ chơi Trung thu truyền thống và nhất là ở khu phố Hoa Sài Gòn hay phố Hàng Mã ở Hà Nội hàng năm vẫn bán đầu lân (sư tử) và mặt nạ ông Địa mà trẻ em đều ưa thích.
Múa rồng
Múa rồng (; Hán Việt: vũ long) là một hình thức múa và biểu diễn truyền thống trong văn hóa Trung Quốc. Giống như múa lân, nó thường được thấy trong các lễ hội. Điệu nhảy được thực hiện bởi một nhóm các vũ công giàu kinh nghiệm, người điều khiển một hình rồng dài linh hoạt bằng cách sử dụng các cột được đặt ở các khoảng đều đặn dọc theo chiều dài của con rồng. Nhóm nhảy mô phỏng các chuyển động tưởng tượng của linh hồn dòng sông này một cách uốn lượn, nhấp nhô.
Múa rồng thường được biểu diễn trong dịp tết. Rồng Trung Quốc là một biểu tượng của văn hóa Trung Quốc, và chúng được cho là mang lại may mắn cho mọi người, do đó, rồng càng ở trong điệu nhảy, nó sẽ càng mang lại nhiều may mắn cho cộng đồng. Những con rồng được cho là sở hữu những phẩm chất bao gồm sức mạnh to lớn, nhân phẩm, khả năng sinh sản, trí tuệ và điềm lành. Sự xuất hiện của một con rồng vừa đáng sợ vừa táo bạo nhưng nó có một ý nghĩa nhân từ, và nó là một biểu tượng để đại diện cho uy quyền của đế quốc. Các phong trào trong một buổi biểu diễn truyền thống tượng trưng cho vai trò lịch sử của những con rồng thể hiện sức mạnh và phẩm giá.
Múa rồng của người Hoa xuất hiện muộn hơn múa lân. Trước khi có điệu múa rồng còn có điệu múa loan hoàng và phượng hoàng nhưng ít phổ biến bằng (loan là mái, phượng là trống). Lúc đầu múa Rồng chỉ xuất hiện trong tết Nguyên Tiêu và các dịp lễ hội sau vụ thu hoạch mùa thu. Múa Rồng xuất hiện trong người Hoa ở Việt Nam vào khoảng những năm 1944-1945 do ông Trần Bồi, một chủ cơ sở sản xuất xà bông Trung Nam ở Sa Đéc, vốn là nguồn gốc Phước Châu (Phúc Kiến), nơi được coi là cái nôi của nghệ thuật múa rồng, tổ chức đội múa từ các thanh niên công nhân trong xưởng của ông. Múa rồng có rất nhiều điệu khác nhau, người ta cho rằng có đến hơn 30 điệu. Rồng được chia thành ba loại: * Rồng tơ được chế tạo bằng vải gắn chặt vào sào tre để múa, * Rồng tròn được làm bằng giấy cứng, có bụng tròn và dài, * Rồng cứng chỉ dùng để rước, khiêng, chứ không để biểu diễn. Múa lân hoặc Sư chỉ cần hai người, nhưng múa Rồng thì phải có nhiều người tập rất công phu để thể hiện được các động tác đồng bộ khi rồng uốn khúc, rồng phóng tới, rồng đảo lại. Múa rồng cần ít nhất 6 người, hoặc nhiều cũng đến 20-30 người cùng điều khiển con rồng phô diễn thần oai. Bây giờ sào tre gắn dưới thân rồng ít khi sử dụng mà thay vào đó người ta xài bằng gậy inox.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh
Ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều đội múa lân sư rồng, gồm có các đội nổi tiếng lâu năm như: Phúc Kiến, Nhơn Nghĩa (người Quảng Đông), Ninh Giang (người Hẹ), v.v. Người Quảng Đông sở trường múa lân còn gọi là Nam Sư; người Triều Châu sở trường múa sư còn gọi là Bắc Sư; người Phúc Kiến sở trường múa rồng. Và còn nhiều hội quán lân sư rồng ở các quận, huyện khác. Hoạt động lân sư rồng được duy trì và phát triển đều đặn hằng năm.
Các đoàn lân - sư - rồng ở Sài Gòn ở phố người Hoa chuyên biểu diễn trong các dịp lễ Tết vô cùng nổi tiếng và được biết nhiều nhất là Hằng Anh Đường. |
Hòa Thành là một thị xã nằm ở trung tâm tỉnh Tây Ninh, Việt Nam.
Địa lý
Thị xã Hòa Thành nằm ở trung tâm của tỉnh Tây Ninh, có vị trí địa lý:
Phía đông và đông bắc giáp huyện Dương Minh Châu
Phía đông nam giáp huyện Gò Dầu
Phía tây và phía nam giáp huyện Châu Thành
Phía bắc giáp thành phố Tây Ninh.
Thị xã Hòa Thành có diện tích 82,92 km², dân số năm 2019 là 147.666 người, mật độ dân số đạt 1.781 người/km². Thị xã Hoà Thành có tỉ lệ hộ nghèo đạt 1.24%, thấp nhất tỉnh Tây Ninh.
Địa hình thị xã tương đối bằng phẳng, toàn bộ diện tích nằm trên thềm phù sa cổ khu vực Đông Nam Bộ, địa hình gợn sóng yếu với nhiều gò đồi thấp ở phía đông (chủ yếu canh tác cây cao su) và bưng bàu trũng ở phía tây (trồng lúa nước), độ cao trung bình từ 15m - 35m, có xu hướng nghiêng dần từ đông bắc xuống tây nam, thấp tuyệt đối (5m - 10m) tại dọc bờ sông Vàm Cỏ Đông. Đất xám chiếm đến 93% diện tích toàn thị xã, phù hợp trồng cây công nghiệp hàng năm (đậu tương, mía, khoai mì) và lâu năm (cao su, điều, hồ tiêu), khí hậu Hoà Thành rất thuận lợi cho việc phát sinh, phát triển nhanh, mạnh, đa dạng và phong phú các chủng loại cây rừng và các loài sinh vật khác. Rừng tại Hoà Thành có nhiều gỗ quý, thú rừng, do đường giao thông thuận lợi nên việc khai thác rất dễ dàng.
Hành chính
Thị xã Hòa Thành có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 4 phường: Hiệp Tân, Long Hoa, Long Thành Bắc, Long Thành Trung và 4 xã: Long Thành Nam, Trường Đông, Trường Hòa, Trường Tây.
Lịch sử
Năm 1698, Hòa Thành là phần đất nằm trong đạo Quang Phong thuộc phủ Gia Định. Vào thời kỳ này, đất đai Hòa Thành phần lớn là rừng rậm hoang vu. Hạt Tây Ninh lúc bấy giờ mới có 2 quận: Trảng Bàng và Thái Bình.
Năm 1942, quận Thái Bình đổi tên là quận Châu Thành thì Hòa Thành chỉ là phần đất Đông Nam quận.
Năm 1959, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia quận Châu Thành thành 2 quận: Phước Ninh và Phú Khương. Quận Phú Khương gồm 11 xã; quận lỵ đặt tại Suối Đá, sau dời đến chợ Long Hoa thuộc xã Long Thành. Địa bàn quận Phú Khương tương ứng với thành phố Tây Ninh, thị xã Hòa Thành, huyện Tân Châu và một phần các huyện Tân Biên, Dương Minh Châu ngày nay; huyện Hòa Thành ngày nay chỉ gồm phần nhỏ diện tích đất của quận Phú Khương xưa.
Về phía chính quyền cách mạng, thời kỳ 1955 - 1956, thành lập huyện Tòa Thánh gồm 4 xã: Hiệp Ninh, Ninh Thạnh, Long Thành và Trường Hoà.
Cuối năm 1960, giải thể huyện Tòa Thánh để sáp nhập với huyện Dương Minh Châu thành huyện Phú Khương và sau đó huyện Dương Minh Châu lại tách ra.
Sau năm 1975, huyện Phú Khương gồm 6 xã: Hiệp Ninh, Long Thành, Ninh Thạnh, Suối Vàng Cạn, Thạnh Tân và Trường Hòa.
Ngày 14 tháng 3 năm 1979, đổi tên huyện Phú Khương thành huyện Hòa Thành, tên gọi Hòa Thành là 2 chữ cuối của 2 xã: Trường Hòa và Long Thành ghép lại với số lượng xã có thay đổi.
Ngày 4 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 143-CP. Theo đó:
Chia xã Long Thành thành 3 xã: Long Thành Bắc, Long Thành Trung, Long Thành Nam và thị trấn Hòa Thành
Chia xã Hiệp Ninh thành 2 xã: Hiệp Ninh và Hiệp Tân
Chia xã Ninh Thạnh thành 2 xã: Ninh Thạnh và Ninh Sơn
Chia xã Trường Hòa thành 3 xã: Trường Hòa, Trường Đông và Trường Tây
Đổi tên xã Suối Vàng Cạn thành xã Tân Bình.
Cuối năm 2000, huyện Hòa Thành có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Hòa Thành (huyện lỵ) và 12 xã: Hiệp Ninh, Hiệp Tân, Long Thành Bắc, Long Thành Nam, Long Thành Trung, Ninh Sơn, Ninh Thạnh, Tân Bình, Thạnh Tân, Trường Đông, Trường Hòa, Trường Tây.
Ngày 10 tháng 8 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định 46/2001/NĐ-CP. Theo đó, sáp nhập 5 xã: Tân Bình, Ninh Sơn, Ninh Thạnh, Thạnh Tân, Hiệp Ninh và một phần xã Hiệp Tân vào thị xã Tây Ninh (nay là thành phố Tây Ninh).
Từ đó đến cuối năm 2019, huyện Hòa Thành còn lại 8.816 ha diện tích tự nhiên và 129.040 nhân khẩu với 8 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 7 xã: Long Thành Nam, Long Thành Trung, Long Thành Bắc, Trường Tây, Trường Đông, Trường Hòa, Hiệp Tân và thị trấn Hòa Thành.
Ngày 21 tháng 4 năm 2016, khu vực thị trấn Hòa Thành mở rộng được công nhận là đô thị loại IV và đến ngày 28 tháng 12 năm 2018, toàn bộ huyện Hòa Thành (gồm thị trấn Hòa Thành và 7 xã trực thuộc) được công nhận là đô thị loại IV.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 865/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó:
Thành lập thị xã Hòa Thành trên cơ sở toàn bộ 82,92 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số 147.666 người của huyện Hòa Thành
Chuyển thị trấn Hòa Thành thành phường Long Hoa; 3 xã: Hiệp Tân, Long Thành Bắc và Long Thành Trung thành 3 phường có tên tương ứng.
Sau khi thành lập, thị xã Hòa Thành có 4 phường và 4 xã trực thuộc như hiện nay.
Kinh tế - xã hội
Đây là đơn vị hành chính cấp huyện có mật độ dân số cao nhất tỉnh Tây Ninh và quy mô kinh tế lớn thứ hai, sau thành phố Tây Ninh.
Hòa Thành là một vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, sau thành phố Tây Ninh. Chợ Long Hoa là trung tâm thương mại nằm trên cửa ngõ giao lưu giữa Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa Thánh Tây Ninh thuộc thị xã Hòa Thành là một địa điểm du lịch, hành hương khá nổi tiếng với lễ Tết Trung thu hằng năm thu hút hơn 150.000 lượt khách tham quan mỗi năm.
Năm 2017, tổng thu ngân sách trên địa bàn thị xã đạt 574 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 63 triệu đồng/người/năm, bằng 1,17 lần thu nhập bình quân đầu người cả nước.
Một số địa điểm tại Hòa Thành:
Trung tâm thương mại Long Hoa
Tòa Thánh Tây Ninh
Báo Ân Từ
Ao Thất Bửu
Trí Huệ Cung
Báo Quốc Từ
Chùa Thiền Lâm Gò Kén
Khu làng du lịch sinh thái Long Trung
Khu sinh thái Bàu Sen
Trung Tâm Hội nghị CANA
Trung Tâm Hội nghị Sunrise Hòa Thành.
Giao thông
Hoà Thành có mạng lưới giao thông thủy bộ khá dày đặc. Phía nam có sông Vàm Cỏ Đông chảy qua, dài 11 km với cảng Bến Kéo. Trong thời gian chiến tranh, quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng Bến Kéo như một quân cảng với "giang thuyền" hoạt động tuần tra liên tục. Ngoài ra, có rạch Tây Ninh, suối Rạch Rễ phân bố đều trong thị xã phục vụ tốt cho nông nghiệp, giao thông, công nghiệp và nhu cầu dân sinh. Đường bộ, ngoài các trục lộ chính như quốc lộ 22B đoạn qua thị xã dài 12,8 km, đường tỉnh 781, 785, 790, 793, 797, 798, 799, còn có mạng lưới đường nông thôn chằng chịt từ trung tâm toả đi các xã phường. Hệ thống giao thông này, rất thuận lợi phục vụ cho nhu cầu đi lại giữa các vùng và các khu vực sản xuất, góp phần mở rộng giao lưu về kinh tế - văn hoá giữa thị xã với các huyện, thành phố, thị xã khác trong tỉnh, với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh khác.
Chú thích |
Áo bà ba là một loại trang phục phổ biến ở các miền quê miền Nam Việt Nam. Áo bà ba còn có tên gọi khác là áo Cánh.
Lịch sử
Một số giả thiết về sự ra đời của áo bà bà cho rằng:
Chiếc áo bà ba xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ 19, được Trương Vĩnh Ký cách tân từ áo của người dân đảo Penang (người Malaysia gốc Hoa) cho phù hợp với người Việt.
Tuy nhiên trong Từ điển Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký, tác giả không hề nhắc đến “áo bà ba”.
Theo nhà văn Sơn Nam trong cuốn Nghi thức và lễ bái của người Việt Nam, trang 24:
Thực tế không có sắc tộc nào được gọi là người Bà Ba với nghĩa “người Mã Lai lai Trung Hoa”. Trên thực tế, chỉ có người Peranakan (Trong tiếng Malaysia và Indonesia, chữ Peranakan đều có nghĩa đen là “hậu duệ”. Khái niệm người Peranakan có nghĩa là “hậu duệ của những người Trung Quốc đến định cư ở những vùng thuộc địa của Anh quốc ở Đông Nam Á.”), thường được gọi là Peranakan Chinese hay Baba-Nyonya, là hậu duệ của những người Trung Quốc nhập cư vào Malaysia từ thế kỷ 15 đến 17.
Từ ghép “Baba-Nyonya” cũng không phải dùng để chỉ người Bà Ba. Đây là từ dùng để gọi chung cho người Peranakan trong tiếng Malaysia (và cả tiếng Indonesia). “Baba” dùng để chỉ “đàn ông” còn Nyonya dùng để gọi “phụ nữ” ở đảo Penang thời Malaysia còn là thuộc địa của Anh quốc.
Ở Malaysia, phụ nữ Peranakan có loại áo cánh khá giống với áo bà ba, gọi là kebaya. Ở Indonesia, người Peranakan cũng có loại áo gần giống với áo bà ba, gọi là kebaya encim (encim có nghĩa là “phụ nữ” trong tiếng Indonesia).
Tóm lại, trong những thế kỷ trước, áo bà ba đã xuất hiện tại Việt Nam. Thông qua việc buôn bán, người Việt Nam có thể đã giao lưu văn hóa với người Peranakan, cách tân kiểu áo của họ để có được "áo bà ba" như ngày nay.
Áo bà ba thế kỷ 18-19
Đối với tầng lớp nhà quan lại, ngoài cách mặc áo ngũ thân trắng lót thì Áo sam trắng thường được nữ giới Nam Bộ mặc lót trong áo ngũ thân (lập lĩnh) làm tiện phục, bên dưới xỏ hài, đội nón gụ, đeo kim xuyến, vòng cổ. Áo sam có nút buộc phía trong không lộ ra ngoài.
Khi chưa có thuốc nhuộm hóa học, muốn nhuộm màu đen, màu nâu cho áo bà ba, người dân thường dùng lá bàng, vỏ trâm bầu, vỏ cây dà, cây cóc, vỏ sú vẹt hoặc trái dưa nưa… nhuộm rồi phủ bùn để chống trôi màu.
Khi có vải nhập cảng, thì lại dùng vải ú, vải sơn đầm, vải chéo go đen được sử dụng rộng rãi, vì tính tiện dụng, tối màu phù hợp với điều kiện lao động, đi lại nơi sông rạch, bùn lầy, dễ giặt và chóng khô.
Thế kỷ 20, nữ giới mặc thêm áo túi trong (áo sam không có túi), một loại áo giống như áo sam nhưng ngắn tay dùng làm áo lót, thân áo cũng ngắn hơn và không xẻ nách, may hai túi to ở hai bên để cất món đồ vặt. Đôi khi ở nhà đàn bà cũng dùng mỗi áo túi mà không bận áo bà ba bên ngoài.
Đàn ông thì mặc áo lá tương đương với áo túi của đàn bà, kích thước càng ngắn nữa, không có tay nên hở nách, hai bên bụng cũng may hai túi. Bên ngoài mặc áo bà ba. Áo túi và áo lá từ thập niên 1950 trở đi lùi dần, không còn dùng làm áo lót nữa.
Áo bà ba hiện đại
Nút áo bà ba cũng đa dạng và biến đổi theo mỗi giai đoạn. Trước đây, người ta thường sử dụng kiểu nút áo truyền thống là nút bấm. Nhưng bây giờ, các loại nút đã được sáng tạo thêm nhiều mẫu mã làm tôn thêm điểm nhấn cho phần thân áo.
Trải qua thời gian, chiếc áo bà ba đã nhiều lần được cách tân cho phù hợp với sự vận động của cơ thể người mặc cũng như sự thay đổi về tư duy thời trang. Chiếc áo bà ba truyền thống được các nhà thời trang cải tiến, vừa dân tộc, vừa đẹp và hiện đại hơn.
Áo bà ba hiện nay không thẳng và rộng như xưa mà được nhấn thêm eo bụng, eo ngực cho ôm sát lấy thân hình. Ngoài ra, người ta còn sáng tạo các kiểu chắp vai, cổ tay, cửa tay, riêng các kiểu cổ lá sen, cánh én, đan tôn..., được tiếp thu từ kiểu y phục nước ngoài.
Các kiểu ráp tay cũng được cải tiến. Từ kiểu may áo cánh xưa liền thân với tay, người ta nghĩ tới cách ráp tay rời ở bờ tay áo.
Vào thập niên 1970, các tỉnh, thành phía Nam phổ biến kiểu ráp tay raglan, đã tạo nên vẻ đẹp hiện đại cho chiếc áo bà ba truyền thống. Hai thân áo trước và sau tách rời khỏi vai và tay áo, trong khi tay và áo lại liền từ cổ tới nách.
Áo bà ba vai raglan được may rất khít, vừa vặn với eo lưng, không quá thắt như kiểu áo trước đó. Tay áo dài hơn, hơi loe, hai túi ở vạt trước được bỏ đi để tạo cho thân áo nhẹ nhõm, mềm mại hơn.
Trong âm nhạc
Bài hát "Chiếc áo bà ba" của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
Bài hát "Thương áo bà ba" của ca sĩ Đình Văn.
Bài hát "Duyên dáng áo bà ba" của nhạc sĩ Hồ Hoàng.
Bài hát Tân cổ "Duyên dáng áo bà ba" của nhạc sĩ Lê Nghiệp, lời cổ Ngọc Thảo. |
John Davison Rockefeller Sr. (8 tháng 7 năm 183923 tháng 5 năm 1937) là một ông trùm kinh doanh và nhà từ thiện người Mỹ. Ông được nhiều người coi là người Mỹ giàu có nhất mọi thời đại, và người giàu nhất trong lịch sử hiện đại.
Rockefeller sinh ra trong một gia đình đông con ở ngoại ô New York, họ đã chuyển đi nhiều lần trước khi định cư ở Cleveland, Ohio. Ông trở thành trợ lý kế toán năm 16 tuổi và bắt đầu có vài quan hệ đối tác kinh doanh từ năm 20 tuổi, tập trung kinh doanh vào lĩnh vực lọc hóa dầu. Rockefeller thành lập Standard Oil vào năm 1870. Ông điều hành nó cho đến năm 1897, và vẫn là cổ đông lớn nhất của công ty.
Sự giàu có của Rockefeller tăng vọt khi dầu hỏa và xăng dầu ngày càng trở nên quan trọng, từ đó ông trở thành người giàu nhất đất nước, kiểm soát 90% tổng lượng dầu ở Hoa Kỳ vào thời kỳ đỉnh cao. Dầu mỏ đã được sử dụng trên khắp đất nước như một nguyên liệu thắp sáng cho đến khi có điện, và làm nhiên liệu sau khi phát minh ra ô tô. Hơn nữa, Rockefeller đã có được ảnh hưởng to lớn đối với ngành đường sắt chuyên vận chuyển dầu của ông đi khắp đất nước. Standard Oil là sự tin tưởng kinh doanh lớn đầu tiên ở Hoa Kỳ. Rockefeller đã cách mạng hóa ngành dầu khí và thông qua các đổi mới công nghệ và công ty, công cụ giúp phổ biến rộng rãi và giảm đáng kể chi phí sản xuất dầu. Công ty và hoạt động kinh doanh của ông bị chỉ trích, đặc biệt là trong các bài viết của tác giả Ida Tarbell.
Tòa án Tối cao đã ra phán quyết vào năm 1911 rằng Standard Oil phải bị giải thể vì vi phạm đạo luật chống độc quyền của liên bang. Công ty tách ra thành 34 đơn vị riêng biệt, bao gồm các công ty đã trở thành ExxonMobil, Tập đoàn Chevron và những công ty khác — một số vẫn có mức doanh thu cao nhất trên thế giới. Cuối cùng, tổng giá trị các bộ phận riêng lẻ của công ty có giá trị hơn toàn bộ công ty khi nó là một thực thể - vì cổ phiếu của những bộ phận này tăng gấp đôi và gấp ba giá trị trong những năm đầu. Do đó, Rockefeller trở thành tỷ phú đầu tiên của đất nước, với khối tài sản trị giá gần 2% nền kinh tế quốc gia lúc bấy giờ.
Giá trị tài sản ròng đạt đỉnh được ước tính là 418 tỷ đô la Mỹ (tính theo đô la năm 2019; đã điều chỉnh lạm phát) vào năm 1913. Tài sản cá nhân của ông ước tính khoảng 900 triệu USD vào thời điểm năm 1913, gần bằng 3% GDP của Hoa Kỳ là 39,1 tỷ USD năm đó.
Rockefeller đã dành phần lớn thời gian trong 40 năm cuối đời để nghỉ hưu tại Kykuit, điền trang riêng của ông ở Quận Westchester, New York, xác định cấu trúc của hoạt động từ thiện hiện đại, cùng với các nhà công nghiệp chủ chốt khác như ông trùm thép Andrew Carnegie. Tài sản của ông chủ yếu được sử dụng để tạo ra cách tiếp cận hiện đại một cách có hệ thống đối với hoạt động từ thiện có mục tiêu thông qua việc thành lập các quỹ có ảnh hưởng lớn đến y học, giáo dục và nghiên cứu khoa học. Các tổ chức của ông đã đi tiên phong trong phát triển nghiên cứu y học và là công cụ trong việc tiêu diệt gần như tận diệt giun móc và sốt vàng ở Mỹ.
Rockefeller cũng là người sáng lập Đại học Chicago và Đại học Rockefeller và đã tài trợ cho việc thành lập Đại học Trung tâm Philippine ở Philippines. Ông là một người sùng đạo Baptist phương Bắc và ủng hộ nhiều tổ chức dựa trên đạo. Ông hoàn toàn kiêng rượu và thuốc lá trong suốt cuộc đời của mình. Khi cần những lời khuyên ông sẽ tìm đến vợ mình, Laura Spelman Rockefeller, người đã sinh cho ông năm người con.
Ông cũng là một giáo dân trung thành của Nhà thờ Baptist Street Erie, dạy trường Chúa nhật, và từng là người được ủy thác, thư ký, và thỉnh thoảng là người gác cổng. Tôn giáo là động lực dẫn lối trong suốt cuộc đời ông và ông tin rằng đó là nguồn gốc thành công của mình. Rockefeller cũng được coi là người ủng hộ chủ nghĩa tư bản dựa trên quan điểm của chủ nghĩa xã hội của , và ông có câu châm ngôn rằng, "Sự phát triển của một doanh nghiệp lớn là sự sống còn của những người phù hợp nhất".
Tiểu sử
John Davison Rockefeller được sinh ra tại Richford, New York. John là con thứ hai của ông William Avery "Bill" Rockefeller một tay lừa đảo và bà Eliza Davison. Cậu có một chị gái tên là Lucy và bốn người em: William Jr., Mary, và cặp song sinh Franklin (Frank) và Frances. Cha cậu có gốc Anh và Đức, còn người mẹ gốc Ulster Scot.
Cha của John ban đầu là một người tiều phu và sau đó là một người bán hàng rong tự nhận mình là "bác sĩ thực vật", rao bán các "thuốc tiên dược", được người dân địa phương quen là "Big Bill" và "Devil Bill".Không bị hạn chế bởi những đạo đức thông thường, ông ta sống lang thang và không thường xuyên trở về với gia đình. Trong suốt cuộc đời mình, Bill khét tiếng với những âm mưu mờ ám. Giữa khoảng thời gian vợ sinh ra Lucy và John thì Bill cùng với tình nhân và quản gia Nancy Brown có một cô con gái tên là Clorinda nhưng chết yểu. Còn khoảng thời gian sinh John và William Jr., Bill và Nancy có một cô con gái Cornelia.
Bà Eliza làm nội trợ và một tín đồ Báp-tít sùng đạo, người đã cố gắng để duy trì sự ổn định của gia đình, vì người chồng bỏ nhà đi trong thời gian dài. Bà cũng nêu ra sự dối trá và cuộc sống hai mặt của người chồng, bao gồm cả thói trăng hoa. Bản chất bà rất tiết kiệm theo nhu cầu, và bà đã dạy con trai mình rằng "sự lãng phí có chủ đích là nguồn cơn của những phiền muộn".
Cậu bé John làm những công việc nhà thường ngày và kiếm thêm tiền bằng việc nuôi gà tây, bán khoai tây và kẹo và cuối cùng cho hàng xóm vay một khoản tiền nhỏ. Cậu đã làm theo lời khuyên của cha mình là "đổi món lấy đĩa" và luôn có được phần hơn trong bất kỳ thương vụ nào. Người cha của ông từng khoe khoang, "Tôi lừa mấy đứa con trai của mình mỗi khi có cơ hội. Tôi muốn làm cho tư duy chúng trở nên sắc sảo." Tuy nhiên, người mẹ có ảnh hưởng nhiều hơn trong quá trình trưởng thành của các con và hơn thế nữa, cậu ngày càng xa cách cha mình khi cuộc đời của bản thân ngày một thăng tiến. Sau này, John nói: "Ngay từ đầu, tôi đã được đào tạo để làm việc, tiết kiệm và cho đi."
Khi cậu còn nhỏ, gia đình này chuyển đến Moravia, New York, và đến Owego, New York, vào năm 1851, nơi John theo học tại Học viện Owego. Năm 1853, gia đình lại chuyển đến Strongsville, Ohio, và cậu theo học tại trường Trung học Trung tâm Cleveland, trường trung học đầu tiên ở Cleveland và là trường trung học công lập miễn phí đầu tiên ở phía tây Alleghenies. Sau đó, John tham gia một khóa học kinh doanh kéo dài 10 tuần tại trường Cao đẳng Thương mại Folsom, được dạy về kế toán đơn. Bản thân cậu là một cậu bé ngoan ngoãn, nghiêm túc và chăm học mặc dù cha thường bỏ đi và gia đình thường xuyên phải chuyển nhà. Những người cùng thời mô tả John là người dè dặt, nghiêm túc, sùng đạo, có phương pháp và kín chuyện. Cậu thiếu niên là một nhà tranh luận xuất sắc và thể hiện bản thân một cách chính xác. Cậu cũng có một tình yêu sâu sắc đối với âm nhạc và mơ ước đó hoàn toàn có thể thành hiện thực.
Sự nghiệp
Kế toán
Vào tháng 9 năm 1855, khi Rockefeller mười sáu tuổi, ông nhận công việc đầu tiên của mình là trợ lý kế toán cho một công ty sản xuất thu mua nhỏ gọi là Hewitt & Tuttle. Ông làm việc rất chăm chỉ và hạnh phúc - như sau này ông nhớ lại - "trong tất cả các phương pháp và hệ thống của văn phòng." Ông đặc biệt giỏi trong việc tính toán chi phí vận chuyển, điều gắn bó ông sau này trong sự nghiệp của mình. Rockefeller nhận lương $16/tháng cho 3 tháng học việc. Trong năm đầu, ông nhận $31/tháng, sau đó tăng lên $50/tháng (tương đương 1,290 đô la vào năm 2017).
Khi còn trẻ, Rockefeller đã nói rằng hai tham vọng lớn của anh là kiếm được 100.000 đô la (tương đương $ vào năm 2017) và sống đến 100 tuổi.
Quan hệ đối tác kinh doanh và dịch vụ nội chiến
Năm 1859, Rockefeller kết hợp kinh doanh sản xuất thu mua với một đối tác, Maurice B. Clark, và họ đã huy động được $ 4,000 ($ 106,622 đô la năm 2017) bằng vốn. Rockefeller đã phát triển kinh doanh rất nhanh từ đó, kiếm tiền mỗi năm trong sự nghiệp của mình. Trong khi em trai Frank của ông đã chiến đấu trong cuộc nội chiến, Rockefeller tập trung chăm lo việc kinh doanh của mình và thuê những người lính thay thế. Anh ta đã đưa tiền cho Liên minh, cũng như nhiều người miền Bắc giàu có đã tránh chiến đấu. Rockefeller là một người theo chủ nghĩa bãi nô, đã bầu cho Tổng thống Abraham Lincoln và ủng hộ Đảng Cộng hòa mới sau đó. Khi anh ta nói, "Chúa đã cho tôi tiền", và anh ta đã không xin lỗi vì điều đó. Ông cảm thấy thoải mái và công bình theo lời giảng dạy của nhà truyền giáo Methodist John Wesley, "đạt được tất cả các bạn có thể, cứu tất cả các bạn có thể, và cung cấp cho tất cả các bạn có thể."
Vào thời điểm đó, chính phủ Liên bang đã trợ giá dầu, tăng giá từ $ 0,35 một thùng vào năm 1862 lên tới $ 13,75 một thùng. Điều này tạo ra một cơn sốt khoan dầu, với hàng ngàn nhà đầu cơ đang cố gắng làm giàu. Hầu hết thất bại, thậm chí họ làm bất chấp không cần phải hiệu quả. Họ chỉ muốn đào lỗ trên mặt đất và lấy dầu nhiều nhất có thể, bỏ mặc các phần dầu thừa chảy vào các con lạch và sông.
Trong môi trường bùng nổ sự lãng phí này, các đối tác chuyển từ thực phẩm sang dầu mỏ, xây dựng một nhà máy lọc dầu năm 1863 trong "The Flats", sau đó là khu công nghiệp đang phát triển của Cleveland. Nhà máy lọc dầu được sở hữu trực tiếp bởi Andrews, Clark & Company, bao gồm Clark & Rockefeller, nhà hóa học Samuel Andrews và hai anh em của M. B. Clark. Việc kinh doanh dầu thương mại lúc đó đang trong giai đoạn trứng nước. Dầu cá voi đã trở nên quá đắt đối với dân chúng, và nhu cầu về nhiên liệu chiếu sáng rẻ hơn là cần thiết.
Trong khi các nhà máy lọc dầu khác chỉ giữ 60% thành phẩm dầu là dầu hỏa, nhưng thải ra 40% còn lại vào các con sông và các đống bùn lớn, Rockefeller vẫn tiết kiệm và hiệu quả hơn bao giờ hết, sử dụng xăng để đốt nhiên liệu cho nhà máy lọc dầu, và bán phần còn lại là dầu bôi trơn và sáp parafin, và các sản phẩm phụ khác. Tar được sử dụng để lát, naphtha được vận chuyển đến các nhà máy khí. Tương tự như vậy, các nhà máy lọc dầu của Rockefeller đã thuê các thợ ống nước của riêng họ, cắt giảm chi phí lắp đặt ống một nửa. Thùng dầu có chi phí $ 2,50 mỗi cái chỉ còn $.96 khi Rockefeller mua gỗ và tự xây dựng.
Vào tháng 2 năm 1865, trong những gì sau này được mô tả bởi sử gia ngành công nghiệp dầu mỏ Daniel Yergin là một hành động "quan trọng", Rockefeller đã mua lại anh em Clark với giá 72.500 đô la (tương đương với $ trong năm 2017 đô la) tại cuộc đấu giá và thành lập công ty của Rockefeller & Andrews. Rockefeller nói, "Đó là ngày quyết định sự nghiệp của tôi." Ông có vị trí tốt để tận dụng lợi thế của sự thịnh vượng sau chiến tranh và sự mở rộng lớn về phía tây được thúc đẩy bởi sự phát triển của đường sắt và nền kinh tế có dầu. Ông vay rất nhiều, tái đầu tư lợi nhuận, thích nghi nhanh chóng với các thị trường thay đổi, và luôn quan sát để theo dõi ngành công nghiệp mở rộng nhanh chóng.
Bắt đầu kinh doanh dầu
Năm 1866, William Rockefeller Jr., anh trai của John, xây dựng một nhà máy lọc dầu khác ở Cleveland và đưa John vào quan hệ đối tác. Năm 1867, Henry M. Flagler trở thành đối tác và công ty Rockefeller, Andrews & Flagler được thành lập. Đến năm 1868, với việc tiếp tục thực hiện các hoạt động vay mượn và tái đầu tư của Rockefeller, kiểm soát chi phí và sử dụng chất thải của các nhà máy lọc dầu, công ty sở hữu hai nhà máy lọc dầu Cleveland và một chi nhánh tiếp thị ở New York; nó là nhà máy lọc dầu lớn nhất thế giới. Rockefeller, Andrews & Flagler là tiền thân của Công ty Standard Oil.
Standard Oil
Sáng lập và giai đoạn phát triển ban đầu
Vào cuối Nội chiến Hoa Kỳ, Cleveland là một trong năm trung tâm tinh chế chính ở Hoa Kỳ (ngoài Pittsburgh, Pennsylvania, New York và vùng ở tây bắc Pennsylvania, nơi hầu hết dầu có nguồn gốc). Đến năm 1869, công suất lọc dầu hỏa tăng gấp 3 lần so với nhu cầu để cung cấp cho thị trường, và công suất vẫn còn dư thừa trong nhiều năm.
Ngày 10 tháng 1 năm 1870, Rockefeller bãi bỏ quan hệ đối tác của Rockefeller, Andrews & Flagler, hình thành Standard Oil của Ohio. Tiếp tục áp dụng đạo đức và hiệu quả công việc của mình, Rockefeller nhanh chóng mở rộng công ty thành nhà máy lọc dầu có lợi nhuận cao nhất ở Ohio. Tương tự như vậy, nó đã trở thành một trong những chủ hàng lớn nhất của dầu và dầu hỏa trong nước. Các tuyến đường sắt cạnh tranh quyết liệt cho giao thông và, trong nỗ lực tạo một liên minh để kiểm soát giá cước, hình thành lên Công ty South Improvement cung cấp các ưu đãi đặc biệt cho khách hàng sỉ như Standard Oil, ngoài các trung tâm dầu chính. Liên mình này đưa ra các ưu đãi đặc biệt, với vị thế của liên minh chuyên trở số lượng lớn, bao gồm không chỉ giảm giá lên đến 50% cho các sản phẩm của họ mà còn giảm giá cho cả các sản phẩm cạnh tranh.
Một phần của kế hoạch này là thông báo về chi phí vận chuyển hàng hóa tăng mạnh. Điều này gây ra một sự phản đối mạnh mẽ từ các chủ sở hữu giếng dầu độc lập, bao gồm cả tẩy chay và phá hoại, dẫn đến việc phát hiện ra một phần của Standard Oil trong thỏa thuận này. Một nhà máy lọc dầu lớn ở New York, Charles Pratt và Company, đứng đầu là Charles Pratt và Henry H. Rogers, đã dẫn đầu việc phản đối kế hoạch này, và các tuyến đường sắt nhanh chóng được hỗ trợ. Pennsylvania đã thu hồi điều lệ của Liên minh và các mức giá không ưu đãi đã được khôi phục trong thời gian này. Trong khi các đối thủ cạnh tranh có thể đã không hài lòng, những nỗ lực của Rockefeller đã mang lại cho người tiêu dùng Mỹ dầu hỏa rẻ hơn và các sản phẩm phụ dầu khác. Trước năm 1870, đèn dầu chỉ dành cho những người giàu có, được cung cấp bởi dầu cá voi đắt tiền. Trong thập kỷ tới, dầu hỏa trở nên phổ biến cho các tầng lớp trung lưu.
Tuy nhiên, Rockefeller vẫn tiếp tục củng cố vị thế bằng việc tăng cường mua lại các nhà máy lọc dầu hiệu quả nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, thúc đẩy giảm giá các chuyến hàng dầu, cắt giảm sự cạnh tranh của mình, tạo ra những giao dịch bí mật, tăng cường các cơ hội đầu tư và mua các đối thủ. Trong chưa đầy bốn tháng vào năm 1872, sau này được gọi là "Cuộc chinh phục Cleveland" hoặc "Thảm sát Cleveland", Standard Oil đã sát nhập 22 trong số 26 đối thủ cạnh tranh tại Cleveland. Cuối cùng, ngay cả những nhân vật phản diện cũ của anh, Pratt và Rogers, đã chứng kiến sự vô ích của việc tiếp tục cạnh tranh với Standard Oil; năm 1874, họ đã thực hiện một thỏa thuận bí mật với Rockefeller để được mua lại.
Pratt và Rogers trở thành đối tác của Rockefeller. Rogers, đặc biệt, trở thành một trong những nhân sự chủ chốt của Rockefeller trong sự hình thành của Standard Oil Trust. Con trai của Pratt, Charles Millard Pratt, trở thành thư ký của Standard Oil. Đối với nhiều đối thủ cạnh tranh của mình, Rockefeller đã cho họ xem sổ sách của mình để họ có thể thấy những gì họ đang chống lại và sau đó làm cho họ một đề nghị tốt. Nếu họ từ chối lời đề nghị của ông, ông nói với họ rằng ông sẽ đưa họ vào tình trạng phá sản và sau đó mua tài sản của họ với giá rẻ. Tuy nhiên, ông không có ý định loại bỏ hoàn toàn sự cạnh tranh. Trong thực tế, đối tác của ông Pratt đã nói về điều này "Chúng ta luôn phải có đối thủ cạnh tranh... Cho dù chúng ta mua tất cả họ, chắc chắn sẽ luôn xuất hiện một đối thủ mới."
Thay vì muốn loại bỏ chúng, Rockefeller thấy mình là vị cứu tinh của ngành công nghiệp, "một thiên thần thương xót" hấp thụ kẻ yếu và làm cho ngành công nghiệp trở nên mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn và cạnh tranh hơn. Tiêu chuẩn đang phát triển theo chiều ngang và chiều dọc. Nó bổ sung các đường ống riêng, xe bồn và mạng lưới giao hàng tận nhà. Nó giữ giá dầu thấp để ngăn chặn đối thủ cạnh tranh, làm cho sản phẩm của mình giá cả phải chăng cho các hộ gia đình trung bình, và, để tăng thâm nhập thị trường, đôi khi được bán dưới giá thành. Nó đã phát triển hơn 300 sản phẩm từ dầu mỏ từ nhựa đường sang sơn dầu mỏ để nhai kẹo cao su. Đến cuối những năm 1870, Standard đã lọc hơn 90% lượng dầu ở Mỹ. Rockefeller đã trở thành một triệu phú (1 triệu đô la thời đó tương đương với $ đô-la theo tỷ giá năm ).
Năm 1877, Standard đụng độ với Thomas A. Scott, chủ tịch của Pennsylvania Railroad, người đứng đầu của Standard. Rockefeller đã hình dung ra các đường ống như một hệ thống vận chuyển thay thế cho dầu mỏ và bắt đầu một chiến dịch để xây dựng và mua lại chúng. Đường sắt, nhìn thấy sự xâm nhập của Standard vào các lĩnh vực giao thông và đường ống, đã quay trở lại và hình thành một công ty con để mua và xây dựng các nhà máy lọc dầu và đường ống dẫn dầu.
Tiêu chuẩn phản đối, giữ lại các lô hàng của nó, và, với sự giúp đỡ của các tuyến đường sắt khác, bắt đầu một cuộc chiến giá cả làm giảm đáng kể các khoản thanh toán cước vận chuyển và gây bất ổn lao động. Rockefeller chiếm ưu thế và tuyến đường sắt bán lợi ích dầu cho Standard. Sau trận chiến đó, Liên bang Pennsylvania đã truy tố Rockefeller năm 1879 về tội độc quyền buôn bán dầu, bắt đầu một trận tuyết lở của các thủ tục tố tụng của tòa án tương tự ở các tiểu bang khác và đưa ra vấn đề quốc gia về các hoạt động kinh doanh của Standard Oil.. Rockefeller đã bị căng thẳng lớn trong những năm 1870 và 1880 khi ông thực hiện kế hoạch củng cố và hội nhập của mình và bị tấn công bởi báo chí. Anh ta phàn nàn rằng anh ta không thể ngủ nhiều đêm. Rockefeller sau đó đã bình luận:
Tất cả tài sản mà tôi đã làm đã không phục vụ để bù đắp cho tôi cho sự lo lắng của thời kỳ đó.
Sự độc quyền
Mặc dù luôn có hàng trăm đối thủ cạnh tranh, Standard Oil dần dần giành được sự thống trị về lọc dầu và bán hàng như là thị phần tại Hoa Kỳ thông qua hội nhập theo chiều ngang, kết thúc với khoảng 90% thị trường Mỹ. Trong ngành dầu hỏa, công ty đã thay thế hệ thống phân phối cũ bằng hệ thống dọc của riêng mình. Nó cung cấp dầu hỏa bằng xe bồn chở nhiên liệu đến các thị trường địa phương, và toa chứa dầu sau đó được giao cho khách hàng bán lẻ, do đó bỏ qua mạng lưới bán buôn hiện có. Mặc dù cải thiện chất lượng và tính sẵn có của các sản phẩm dầu hỏa trong khi giảm đáng kể chi phí cho công chúng (giá dầu hỏa giảm gần 80% trong suốt thời gian hoạt động của công ty), các hoạt động kinh doanh của Standard Oil đã gây ra nhiều tranh cãi. Vũ khí mạnh nhất của tiêu chuẩn chống lại các đối thủ cạnh tranh đã được bán phá giá, chênh lệch giá và giảm giá vận chuyển bí mật.
Công ty đã bị tấn công bởi các nhà báo và chính trị gia trong suốt sự tồn tại của nó, một phần cho các phương pháp độc quyền này, tạo đà cho phong trào chống độc quyền. Vào năm 1880, theo New York World, Standard Oil là "độc quyền tàn nhẫn, bất lịch sự, và độc quyền nhất từng được thắt chặt trên một đất nước". Đối với các nhà phê bình, ông Rockefeller trả lời, "Trong một doanh nghiệp quá lớn như chúng ta... một số điều có thể sẽ được thực hiện mà chúng ta không thể chấp nhận. Chúng tôi sửa chữa chúng ngay sau khi chúng đến với kiến thức của chúng tôi."
Vào thời điểm đó, nhiều cơ quan lập pháp đã gây khó khăn cho việc kết hợp trong một bang và hoạt động ở một bang khác. Kết quả là, Rockefeller và các cộng sự của ông sở hữu hàng chục tập đoàn riêng biệt, mỗi công ty hoạt động chỉ trong một tiểu bang; việc quản lý toàn bộ doanh nghiệp khá khó sử dụng. Năm 1882, các luật sư của Rockefeller đã tạo ra một hình thức sáng tạo của tập đoàn để tập trung nắm giữ của họ, sinh ra Standard Oil Trust. "Sự tin tưởng" là một tập đoàn của các tập đoàn, và quy mô và sự giàu có của thực thể đã thu hút được nhiều sự chú ý. Chín người được ủy thác, bao gồm cả Rockefeller, điều hành 41 công ty trong niềm tin. Công chúng và báo chí đã ngay lập tức nghi ngờ thực thể pháp lý mới này, và các doanh nghiệp khác đã nắm lấy ý tưởng và giả lập nó, làm tăng thêm tình cảm của công chúng. Standard Oil đã đạt được một hào quang của bất khả chiến bại, luôn luôn thịnh hành đối với các đối thủ, nhà phê bình và kẻ thù chính trị. Nó đã trở thành doanh nghiệp giàu nhất, lớn nhất, đáng sợ nhất trên thế giới, dường như miễn dịch với sự bùng nổ và phá sản của chu kỳ kinh doanh, liên tục tạo ra lợi nhuận sau năm năm.
Đế chế rộng lớn của công ty bao gồm 20.000 giếng dầu, 4.000 dặm đường ống, 5.000 bể chứa, và hơn 100.000 nhân viên. Thị phần của nó trong lĩnh vực lọc dầu trên thế giới đứng đầu trên 90% nhưng từ từ giảm xuống còn khoảng 80% trong phần còn lại của thế kỷ này. Mặc dù sự hình thành của niềm tin và khả năng miễn dịch của nó từ tất cả các đối thủ cạnh tranh, bởi Standard Oil của thập niên 1880 đã vượt qua đỉnh cao quyền lực trên thị trường dầu mỏ thế giới. Rockefeller cuối cùng đã từ bỏ ước mơ của mình trong việc kiểm soát tất cả tinh dầu của thế giới; ông thừa nhận sau đó, "Chúng tôi nhận ra rằng tình cảm của công chúng sẽ chống lại chúng tôi nếu chúng tôi thực sự tinh chế tất cả dầu." Theo thời gian, cạnh tranh nước ngoài và phát hiện mới ở nước ngoài đã xói mòn sự thống trị của mình. Vào đầu những năm 1880, Rockefeller đã tạo ra một trong những đổi mới quan trọng nhất của ông. Thay vì cố gắng ảnh hưởng trực tiếp đến giá dầu thô, Standard Oil đã thực hiện kiểm soát gián tiếp bằng cách thay đổi phí lưu trữ dầu cho phù hợp với điều kiện thị trường. Rockefeller sau đó ra lệnh cấp giấy chứng nhận chống lại dầu được lưu trữ trong đường ống của nó. Những chứng chỉ này đã được các nhà đầu cơ giao dịch, do đó tạo ra thị trường dầu kỳ hạn đầu tiên có hiệu quả thiết lập giá thị trường giao ngay từ đó trở đi. Sở Giao dịch Dầu khí Quốc gia mở cửa ở Manhattan vào cuối năm 1882 để tạo thuận lợi cho việc giao dịch dầu tương lai.
Mặc dù 85% sản lượng dầu thô thế giới vẫn còn đến từ Pennsylvania trong những năm 1880, dầu từ các giếng khoan ở Nga và châu Á bắt đầu tiếp cận thị trường thế giới. Robert Nobel đã thành lập doanh nghiệp tinh chế của riêng mình trong các mỏ dầu phong phú và rẻ hơn của Nga, bao gồm đường ống dẫn đầu tiên của khu vực và tàu chở dầu đầu tiên trên thế giới. The Paris Rothschilds nhảy vào cuộc cạnh tranh cung cấp tài chính. Các trường bổ sung được phát hiện ở Miến Điện và Java. Thậm chí còn quan trọng hơn, phát minh của bóng đèn dần dần bắt đầu làm xói mòn sự thống trị của dầu hỏa để chiếu sáng. Dầu tiêu chuẩn được điều chỉnh bằng cách phát triển sự hiện diện của châu Âu, mở rộng sản xuất khí tự nhiên ở Hoa Kỳ, và sau đó sản xuất xăng cho ô tô, cho đến khi đó được coi là một sản phẩm thải.
Standard Oil chuyển trụ sở của mình đến thành phố New York tại 26 Broadway, và Rockefeller đã trở thành một nhân vật trung tâm trong cộng đồng doanh nghiệp của thành phố. Ông đã mua một nơi cư trú vào năm 1884 trên đường 54 gần các biệt thự của các vị vua khác như William Henry Vanderbilt. Bất chấp những mối đe dọa cá nhân và những lời cầu xin liên tục cho tổ chức từ thiện, Rockefeller đã đưa chuyến tàu cao tốc mới đến văn phòng trung tâm của anh ấy hàng ngày. Năm 1887, Quốc hội thành lập Ủy ban Thương mại Liên tiểu bang được giao nhiệm vụ thực thi các mức giá bằng nhau cho tất cả vận tải đường sắt, nhưng theo đó Tiêu chuẩn phụ thuộc nhiều vào vận chuyển đường ống. Mối đe dọa nhiều hơn đến quyền lực của Standard là Đạo luật chống độc quyền Sherman năm 1890, ban đầu được sử dụng để kiểm soát các công đoàn, nhưng sau đó là trung tâm của việc phá vỡ lòng tin của Standard Oil. Ohio đặc biệt mạnh mẽ trong việc áp dụng luật chống độc quyền của nhà nước, và cuối cùng đã buộc phải tách dầu Standard Oil của Ohio khỏi phần còn lại của công ty vào năm 1892, bước đầu tiên trong việc giải thể niềm tin.
Vào những năm 1890, Rockefeller đã mở rộng sang vận tải quặng sắt và quặng, buộc một vụ va chạm với nhà sản xuất thép Andrew Carnegie, và sự cạnh tranh của họ trở thành chủ đề chính của các tờ báo và người vẽ tranh biếm họa. Ông đã mua một lượng lớn mua lại cho thuê sản xuất dầu thô ở Ohio, Indiana, và Tây Virginia, như các mỏ dầu Pennsylvania ban đầu bắt đầu phát ra. Giữa sự mở rộng cuồng nhiệt, Rockefeller bắt đầu nghĩ đến việc nghỉ hưu. Việc quản lý hàng ngày của sự tin tưởng đã được chuyển sang John Dustin Archbold và Rockefeller đã mua một khu đất mới, Pocantico Hills, phía bắc thành phố New York, chuyển nhiều thời gian hơn cho các hoạt động giải trí bao gồm các môn thể thao mới của xe đạp và gôn.
Sau khi lên đường đến chức tổng thống, Theodore Roosevelt đã khởi xướng hàng chục bộ quần áo theo Đạo luật chống độc quyền Sherman và kêu gọi cải cách ra khỏi Quốc hội. Năm 1901, US Steel, sau đó được kiểm soát bởi J. Pierpont Morgan, đã mua tài sản thép của Andrew Carnegie, cũng đề nghị mua quyền lợi sắt của Standard. Một thỏa thuận được môi giới bởi Henry Clay Frick trao đổi quyền lợi sắt của Standard cho cổ phiếu thép của Mỹ và trao cho Rockefeller và thành viên con trai của ông trong ban giám đốc của công ty. Khi nghỉ hưu đầy đủ ở tuổi 63, Rockefeller kiếm được hơn 58 triệu đô la đầu tư vào năm 1902.
Một trong những cuộc tấn công hiệu quả nhất trên Rockefeller và công ty của ông là ấn phẩm năm 1904 về Lịch sử của Công ty dầu tiêu chuẩn, bởi Ida Tarbell, một kẻ lừa đảo hàng đầu. Cô ghi lại các hoạt động gián điệp, chiến tranh giá cả, chiến thuật tiếp thị nặng nề của công ty và các cuộc xâm lược của tòa án. Mặc dù công việc của cô đã thúc đẩy một phản ứng dữ dội đối với công ty, Tarbell cho biết cô đã rất ngạc nhiên về tầm quan trọng của nó. "Tôi chưa bao giờ có một animus chống lại kích thước và sự giàu có của họ, không bao giờ phản đối hình dạng công ty của họ. Tôi sẵn sàng rằng họ nên kết hợp và phát triển lớn và giàu có như họ có thể, nhưng chỉ bằng phương tiện hợp pháp. Nhưng họ chưa bao giờ chơi công bằng, và đã hủy hoại sự vĩ đại của họ đối với tôi. " Cha của Tarbell đã bị đuổi ra khỏi công việc kinh doanh dầu mỏ trong công việc "Công ty cải tiến miền Nam".
Rockefeller gọi cô là "Hoa hậu Tarbarrel" một cách riêng tư nhưng chỉ được công khai nói, "không phải là một từ về người phụ nữ bị lầm lạc đó." Ông bắt đầu một chiến dịch quảng bá để đưa công ty của mình và bản thân mình trong một ánh sáng tốt hơn. Mặc dù ông từ lâu đã duy trì chính sách im lặng tích cực với báo chí, ông quyết định làm cho mình dễ tiếp cận hơn và phản ứng với những nhận xét hòa giải như "vốn và lao động vừa là lực lượng hoang dã đòi hỏi luật pháp thông minh để hạn chế họ". Các nhà phê bình đã tìm thấy bài viết của mình để được vệ sinh và không trung thực và nghĩ rằng những tuyên bố như "yếu tố cơ bản, thiết yếu của sự thành công trong kinh doanh là tuân theo luật thành lập cao cấp" dường như mâu thuẫn với phương pháp kinh doanh thực sự của mình.
Rockefeller và con trai của ông tiếp tục củng cố lợi ích dầu mỏ của họ tốt nhất có thể cho đến New Jersey, vào năm 1909, đã thay đổi luật thành lập để cho phép tái tạo niềm tin dưới hình thức một công ty cổ phần. Rockefeller giữ lại danh hiệu danh nghĩa của mình như là tổng thống cho đến năm 1911 và ông giữ cổ phiếu của mình. Cuối cùng vào năm 1911, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã tìm thấy Công ty dầu Standard của New Jersey vi phạm Đạo luật chống độc quyền Sherman. Đến lúc đó, niềm tin vẫn chiếm 70% thị phần của thị trường dầu tinh chế nhưng chỉ có 14% nguồn cung dầu thô của Mỹ. Tòa án phán quyết rằng sự tin tưởng bắt nguồn từ các hoạt động độc quyền bất hợp pháp và ra lệnh cho nó được chia thành 34 công ty mới. Chúng bao gồm, trong số những người khác, Continental Oil, mà đã trở thành Conoco, bây giờ là một phần của ConocoPhillips; Tiêu chuẩn của Indiana, đã trở thành Amoco, giờ là một phần của BP; Tiêu chuẩn của California, đã trở thành Chevron; Tiêu chuẩn của New Jersey, đã trở thành Esso (và sau này là Exxon), bây giờ là một phần của ExxonMobil; Standard của New York, đã trở thành Mobil, giờ là một phần của ExxonMobil; và tiêu chuẩn của Ohio, đã trở thành Sohio, bây giờ là một phần của BP. Pennzoil và Chevron vẫn là các công ty riêng biệt.
Rockefeller, người hiếm khi bán cổ phần, nắm giữ hơn 25% cổ phần của Standard tại thời điểm chia tay. Ông và tất cả các cổ đông khác đã nhận được tỷ lệ cổ phần tương ứng trong mỗi 34 công ty. Hậu quả là, sự kiểm soát của Rockefeller đối với ngành công nghiệp dầu mỏ đã phần nào giảm đi nhưng trong 10 năm tới, việc chia tay cũng tỏ ra vô cùng có lợi cho anh ta. Giá trị tài sản ròng của công ty tăng gấp 5 lần và tài sản cá nhân của Rockefeller tăng lên 900 triệu đô la.
Colorado nhiên liệu và sắt
Năm 1902, đối mặt với vấn đề dòng tiền, John Cleveland Osgood quay sang George Jay Gould, một cổ đông chính của Denver và Rio Grande, để vay tiền. Gould, thông qua Frederick Taylor Gates, cố vấn tài chính của Rockefeller, đã đưa John D. Rockefeller vào để giúp tài trợ khoản vay. Phân tích hoạt động của công ty bởi John D. Rockefeller, Jr. đã cho thấy cần nhiều tiền hơn để đổi lấy các công ty con của CF & I như Colorado và Wyoming Railway Company, Công ty Đường sắt Crystal River, và có thể là Rocky Mountain Công ty Than và Sắt. Kiểm soát được chuyển từ Tập đoàn Iowa để Gould và Rockefeller quan tâm vào năm 1903 với Gould kiểm soát và Rockefeller và Gates đại diện cho một lợi ích thiểu số. Osgood rời công ty vào năm 1904 và nỗ lực hết mình để vận hành các hoạt động than cốc và than cốc cạnh tranh.
Cuộc đình công năm 1913–14 và Thảm sát Ludlow
Cuộc đình công, được kêu gọi vào tháng 9 năm 1913 bởi Công ty Mỏ Hoa Kỳ, về vấn đề đại diện công đoàn, chống lại các nhà khai thác than ở các quận Huerfano và Las Animas ở miền nam Colorado, nơi phần lớn sản xuất than và than cốc của CF & I được đặt. Cuộc tấn công đã được chiến đấu mạnh mẽ bởi hiệp hội khai thác mỏ than và ban chỉ đạo của nó, bao gồm Welborn, chủ tịch CF & I, một phát ngôn viên cho các nhà khai thác than. Tác phẩm của Rockefeller, Lamont Montgomery Bowers, vẫn ở chế độ nền. Rất ít thợ mỏ thực sự thuộc về công đoàn hoặc tham gia cuộc gọi đình công, nhưng phần lớn đã vinh danh nó. Strikebreakers (gọi là "scabs") đã bị đe dọa và đôi khi bị tấn công. Cả hai bên đã mua vũ khí và đạn dược đáng kể. Những người thợ mỏ nổi bật bị buộc phải từ bỏ ngôi nhà của họ ở các thị trấn công ty và sống ở các thành phố lều được công đoàn dựng lên, chẳng hạn như thành phố lều ở Ludlow, một trạm xe lửa phía bắc Trinidad.
Dưới sự bảo vệ của Lực lượng Cảnh sát Quốc gia, một số thợ mỏ quay trở lại làm việc và một số kẻ tấn công, nhập khẩu từ các đồng cỏ phía đông, tham gia cùng họ với tư cách lính gác bảo vệ các phong trào của họ. Vào tháng 2 năm 1914, một phần đáng kể của quân đội đã bị rút lui, nhưng một đội quân lớn vẫn ở lại Ludlow. Vào ngày 20 tháng 4 năm 1914, một trận hỏa hoạn chung xảy ra giữa các tiền đạo và quân đội, bị quân đội và lính canh phản đối. Trại bị đốt cháy, kết quả là 15 phụ nữ và trẻ em, những người trốn trong lều trại, bị đốt cháy đến chết. Chi phí cho cả các nhà khai thác mỏ và công đoàn đều cao. Sự việc này đã gây sự chú ý của quốc gia không mong muốn đến Colorado.
Do nhu cầu than giảm, dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mỏ than của CF & I chưa bao giờ mở cửa trở lại và nhiều người đàn ông bị bỏ việc. Công đoàn buộc phải chấm dứt các quyền lợi đình công vào tháng 2 năm 1915. Có sự phá sản trong các mỏ than. Với sự giúp đỡ của quỹ từ Quỹ Rockefeller, các chương trình cứu trợ được tổ chức bởi Ủy ban Colorado về Thất nghiệp và Cứu trợ. Một cơ quan nhà nước do Thống đốc Carlson tạo ra, cung cấp công việc cho những người thợ mỏ thất nghiệp xây dựng đường và thực hiện các dự án hữu ích khác.
Các thương vong phải gánh chịu tại Ludlow đã huy động dư luận chống lại các công ty Rockefellers và ngành than. Ủy ban Quan hệ Công nghiệp Hoa Kỳ đã tiến hành các phiên điều trần rộng rãi, chọn ra mối quan hệ đặc biệt của John D. Rockefeller Jr. và Rockefellers với Bowers. Bowers đã được miễn nhiệm và Wellborn phục hồi để kiểm soát vào năm 1915, sau đó quan hệ công nghiệp được cải thiện. Rockefeller phủ nhận bất kỳ trách nhiệm nào và giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của sự kiện. Khi làm chứng về vụ Thảm sát Ludlow, và hỏi ông ta sẽ làm gì với tư cách là Giám đốc, John D. Rockefeller nói, "Tôi sẽ không thực hiện hành động nào. Tôi đã bỏ qua sự cần thiết buộc các sĩ quan của công ty phải sử dụng các biện pháp như vậy bổ sung cho các lực lượng Nhà nước để duy trì luật pháp và trật tự. " Rockefeller thừa nhận rằng ông đã không cố gắng đưa các dân quân đến công lý.
Bệnh tật và cái chết
Trong những năm 50, Rockefeller bị trầm cảm vừa phải và rối loạn tiêu hóa; trong một giai đoạn căng thẳng trong những năm 1890, ông đã phát triển rụng tóc, mất một số hoặc toàn bộ tóc.
Đến năm 1901, ông bắt đầu mặc áo phông. Tóc của ông không bao giờ mọc lại, nhưng các khiếu nại về sức khỏe khác giảm xuống khi ông giảm bớt khối lượng công việc của mình.
Rockefeller chết vì xơ cứng động mạch vào ngày 23 tháng 5 năm 1937, hai tháng trước sinh nhật lần thứ 98 của mình, tại "The Casements", nhà của anh ở Ormond Beach, Florida. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Lake View ở Cleveland.
Cuộc sống cá nhân
Gia đình
Đối với những suy đoán lưu hành dài rằng gia đình của ông có nguồn gốc từ Pháp, các nhà phả hệ đã chứng minh nguồn gốc của Rockefeller của Đức và truy tìm chúng từ đầu thế kỷ 17. Johann Peter Rockenfeller (rửa tội ngày 27 tháng 9 năm 1682 tại nhà thờ Tin Lành Rengsdorf) nhập cư vào năm 1723 từ Altwied (ngày nay là quận Neuwied, Rhineland-Palatinate) với ba đứa con đến Bắc Mỹ và định cư tại Germantown, Pennsylvania.
Tên Rockenfeller (từ Rockenfeld) đề cập đến Rockenfeld ở huyện Neuwied.
Kết hôn
Năm 1864, Rockefeller kết hôn với Laura Celestia "Cettie" Spelman (1839–1915), con gái của Harvey Buell Spelman và Lucy Henry. Họ có bốn con gái và một con trai cùng nhau.
Elizabeth "Bessie" Rockefeller (ngày 23 tháng 8 năm 1866 – ngày 14 tháng 11 năm 1906)
Alice Rockefeller (ngày 14 tháng 7 năm 1869 – ngày 20 tháng 8 năm 1870)
Alta Rockefeller (ngày 12 tháng 4 năm 1871 – ngày 21 tháng 6 năm 1962)
Edith Rockefeller (ngày 31 tháng 8 năm 1872 – ngày 25 tháng 8 năm 1932)
John Davison Rockefeller, Jr. (ngày 29 tháng 1 năm 1874 – ngày 11 tháng 5 năm 1960)
Sự giàu có Rockefeller được phân phối thông qua một hệ thống cơ sở và tín thác, tiếp tục tài trợ cho các hoạt động từ thiện, thương mại và cuối cùng của gia đình trong suốt thế kỷ 20. Con trai út của John Jr. David Rockefeller là một chủ ngân hàng ở New York, phục vụ hơn 20 năm với tư cách là Giám đốc điều hành của Chase Manhattan (nay là một phần của JPMorgan Chase). Con trai thứ hai, Nelson Aldrich Rockefeller, là thống đốc đảng Cộng hòa New York và là Phó tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ. Con trai thứ tư Winthrop Aldrich Rockefeller từng là Thống đốc Cộng hòa Arkansas. Cháu Abigail Aldrich "Abby" Rockefeller và John Davison Rockefeller III trở thành nhà từ thiện. Grandson Laurance Spelman Rockefeller trở thành một nhà bảo tồn. Cháu trai John Davison "Jay" Rockefeller IV phục vụ từ năm 1985 đến năm 2015 với tư cách là thượng nghị sĩ dân chủ từ Tây Virginia sau khi phục vụ với tư cách thống đốc bang West Virginia, và một người khác, Winthrop, từng là Thống đốc bang Arkansas trong một thập kỷ.
Quan điểm tôn giáo
John D. Rockefeller được sinh ra ở Richford, New York, sau đó là một phần của khu vực bị đốt cháy - một khu vực tiểu bang New York là nơi có một cuộc phục hưng phúc âm được biết đến như là sự thức tỉnh lớn thứ hai; nó đã thu hút quần chúng đến các nhà thờ Tin Lành khác nhau - đặc biệt là những người Báp-tít — thúc giục các tín hữu tuân theo những lý tưởng như là công việc khó khăn, lời cầu nguyện và những việc làm tốt để xây dựng "Nước Thiên Chúa trên Trái Đất". Đầu đời, ông thường đi cùng anh chị em Eliza đến nhà thờ Báp-tít địa phương - nhà thờ Baptist Erie Street (sau này là Nhà thờ Baptist Đại lộ Euclid) - một nhà thờ Báp-tít độc lập cuối cùng đã kết hợp với Công ước Baptist miền Bắc (1907). -1950; Nhà thờ Baptist hiện đại của Mỹ).
Mẹ ông rất tôn giáo và kỷ luật, và có ảnh hưởng lớn đến ông trong các vấn đề tôn giáo. Trong thời gian phục vụ trong nhà thờ, mẹ ông sẽ thúc giục anh đóng góp vài đồng xu cho hội thánh. Ông đến để liên kết nhà thờ với tổ chức từ thiện. Một nhà truyền giáo Báp-tít đã từng khuyến khích anh ta "kiếm nhiều tiền nhất có thể, và sau đó cho đi càng nhiều càng tốt". Sau này, Rockefeller nhớ lại: "Đó là vào lúc này, kế hoạch tài chính của cuộc đời tôi đã được hình thành". Việc kiếm tiền được anh ta coi là một món quà do Thượng đế ban cho.
Là một tín đồ đạo đức miền Bắc, Rockefeller sẽ đọc Kinh Thánh hàng ngày, tham dự các buổi họp cầu nguyện hai lần một tuần và thậm chí còn dẫn dắt việc học Kinh Thánh của riêng mình với vợ. Burton Folsom Jr. đã lưu ý, đôi khi ông đã cho hàng chục ngàn đô la cho các nhóm Kitô hữu, trong khi đó, đồng thời, ông đã cố gắng vay hơn một triệu đô la để mở rộng kinh doanh của mình. Triết lý của ông cho được thành lập theo nguyên tắc Kinh Thánh. Ông thật sự tin vào nguyên tắc Kinh thánh được tìm thấy trong Lu-ca 6:38, "Hãy ban cho, và nó sẽ được ban cho bạn. Một biện pháp tốt, ép xuống, rung động với nhau và chạy qua, sẽ được đổ vào lòng bạn. sử dụng, nó sẽ được đo lường cho bạn."
Rockefeller sẽ hỗ trợ hoạt động truyền giáo của Baptist, các trường đại học quỹ và tham gia nhiều vào các hoạt động tôn giáo tại nhà thờ Cleveland, Ohio của ông. Trong khi đi du lịch miền Nam, ông sẽ tặng một số tiền lớn cho các nhà thờ thuộc Công ước Baptist miền Nam, các nhà thờ Black khác nhau, cũng như các giáo phái Kitô giáo khác. Một lần, ông trả tiền cho tự do nô lệ và quyên góp cho một trại trẻ mồ côi Công giáo La Mã. Khi ông trở nên giàu có, những đóng góp của ông trở nên rộng lượng hơn, đặc biệt là với nhà thờ của ông ở Cleveland; tuy nhiên, nó đã bị phá hủy vào năm 1925, và được thay thế bằng một tòa nhà khác.
Tin đồn
Ở đỉnh cao sức mạnh của Rockefeller là nhà độc quyền, có tin đồn rằng gia đình bảo vệ một "bí mật đáng xấu hổ". Joseph Pulitzer đã trao một phần thưởng trị giá 8.000 đô la cho thông tin về cha của John, Bill, hay còn gọi là "Doc Rockefeller". Tuy nhiên, các nhà báo không thể tìm thấy anh ta trước khi anh ta chết, và chỉ hai năm sau đó toàn bộ câu chuyện đã được xuất bản.
Bill, người đi du lịch như một người cưỡi ngựa trên khắp đất nước, đôi khi là một "bác sĩ thảo dược", mặc dù ông không có đào tạo y khoa hợp pháp, đã từ bỏ gia đình vào khoảng năm 1855, nhưng vẫn kết hôn hợp pháp với Eliza. Ông đã sử dụng tên William Levingston và kết hôn với tư cách là một bigamist ở Norwich, Ontario, Margaret L. Allen (1834–1910), mà không có vấn đề gì. Ông qua đời vào năm 1906 và ngôi mộ của ông được trả tiền từ tài sản của người vợ thứ hai.
Từ thiện
Việc làm từ thiện của Rockefeller bắt đầu với công việc đầu tiên của mình với tư cách là thư ký ở tuổi 16, khi anh ta đóng góp sáu phần trăm thu nhập của mình cho tổ chức từ thiện, như được ghi trong sổ kế toán cá nhân của anh ấy. Đến khi ông 20 tuổi, tổ chức từ thiện của ông vượt quá mười phần trăm thu nhập của ông. Phần lớn những đóng góp của ông là liên quan đến nhà thờ. Nhà thờ của ông sau đó được liên kết với Công ước Baptist Bắc, được hình thành từ những người Báp-tít ở miền Bắc với quan hệ với các nhiệm vụ lịch sử của họ để thiết lập trường học và cao đẳng cho người tự do ở miền Nam sau Nội chiến Mỹ. Rockefeller đã tham dự các nhà thờ Baptist mỗi Chủ Nhật; khi đi du lịch, ông thường xuyên tham dự các dịch vụ tại các hội thánh Báp-tít người Mỹ gốc Phi, để lại một khoản hiến tặng đáng kể. Vì sự giàu có của Rockefeller đã tăng lên, do đó, ông đã đưa ra, chủ yếu cho các nguyên nhân về sức khỏe cộng đồng và giáo dục, mà còn cho khoa học cơ bản và nghệ thuật. Ông được khuyên là chủ yếu bởi Frederick Taylor Gates sau năm 1891, và, sau năm 1897, cũng bởi con trai.
Ông bị cáo buộc chịu ảnh hưởng bởi một cuộc họp vào năm 1893 với Swami Vivekananda, người đã thúc giục ông sử dụng nhiều hơn từ thiện của mình để giúp đỡ những người nghèo và đau khổ.
Rockefeller tin vào Phong trào Hiệu quả, lập luận rằng: "Để giúp một ngôi trường không hiệu quả, không có bệnh, không cần thiết là một sự lãng phí... rất có khả năng là đủ tiền đã bị lãng phí trong các dự án giáo dục không khôn ngoan để xây dựng một hệ thống quốc gia giáo dục đại học phù hợp với nhu cầu của chúng tôi, nếu tiền đã được chuyển hướng đến đúng mục đích đó."
Rockefeller và các cố vấn của ông đã phát minh ra khoản trợ cấp có điều kiện, yêu cầu người nhận phải "nhổ tận gốc tổ chức trong tình cảm của càng nhiều người càng tốt, với tư cách cá nhân, và sau đó có thể được tính để cung cấp cho tổ chức quyền lợi thận trọng của họ và sự hợp tác".
Năm 1884, Rockefeller cung cấp tài trợ lớn cho Chủng viện Baptist Nữ Atlanta ở Atlanta cho phụ nữ Mỹ gốc Phi, trở thành trường cao đẳng Spelman. Vợ ông Laura Spelman Rockefeller, được dành riêng cho quyền công dân và bình đẳng cho phụ nữ. John và Laura quyên góp tiền và ủng hộ Chủng viện Baptist Nữ Atlanta có nhiệm vụ phù hợp với đức tin của họ. Hôm nay được gọi là trường Cao đẳng Spelman, một trường Cao đẳng Đen hoặc Đại học Lịch sử phụ nữ (HBCU) ở Atlanta, GA., Được đặt tên theo gia đình của Laura. Gia đình Spelman, luật của Rockefeller, cùng với John Rockefeller là những kẻ phá hủy nhiệt tình trước Nội chiến và được dành riêng để hỗ trợ Đường sắt ngầm. John Rockefeller đã rất ấn tượng với tầm nhìn của nhà trường và loại bỏ khoản nợ từ trường. Tòa nhà hiện có lâu đời nhất trên khuôn viên trường Spelman, Rockefeller Hall, được đặt tên theo ông. Rockefeller cũng đã đóng góp đáng kể cho Đại học Denison và các trường cao đẳng Baptist khác.
Rockefeller trao 80 triệu đô cho Đại học Chicago dưới thời William Rainey Harper, biến một trường đại học Báp-tít nhỏ thành một tổ chức đẳng cấp thế giới vào năm 1900. Ngài cũng ban một khoản trợ cấp cho Hội truyền giáo Hoa Kỳ Báp-tít ngoại giao, Hội Truyền giáo Hoa Kỳ Báp-tít Hoa Kỳ trong việc thành lập Đại học Trung Phi, Báp-tít đầu tiên và Đại học Mỹ ở châu Á, năm 1905 ở Philippines Công giáo nặng nề.
Hội đồng giáo dục chung của Rockefeller, được thành lập vào năm 1903, được thành lập để thúc đẩy giáo dục ở mọi cấp độ ở khắp mọi nơi trong nước. Để phù hợp với các nhiệm vụ lịch sử của người Báp-tít, nó đặc biệt tích cực trong việc hỗ trợ các trường học da đen ở miền Nam. Rockefeller cũng hỗ trợ tài chính cho các tổ chức phương Đông như Yale, Harvard, Columbia, Brown, Bryn Mawr, Wellesley và Vassar.
Theo lời khuyên của Gates, Rockefeller đã trở thành một trong những nhà hảo tâm đầu tiên của khoa học y tế. Năm 1901, ông thành lập Viện nghiên cứu y học Rockefeller ở thành phố New York. Nó đổi tên thành Đại học Rockefeller năm 1965, sau khi mở rộng nhiệm vụ của mình để bao gồm giáo dục sau đại học. Nó tuyên bố một kết nối với 23 người đoạt giải Nobel. Ông thành lập Ủy ban Vệ sinh Rockefeller năm 1909, một tổ chức cuối cùng đã loại trừ căn bệnh giun móc, vốn từ lâu đã cản trở các vùng nông thôn của miền Nam nước Mỹ. Ban Giáo dục Tổng Quát của ông đã có tác động đáng kể bằng cách tài trợ cho các khuyến cáo của Báo Cáo Flexner năm 1910. Nghiên cứu này được thực hiện bởi Quỹ Carnegie vì Sự Tiến Bộ Giảng Dạy.
Rockefeller đã thành lập Quỹ Rockefeller năm 1913 tiếp tục và mở rộng phạm vi công việc của Ban vệ sinh, đóng cửa vào năm 1915.
Ông đã tài trợ gần 250 triệu đô la cho quỹ, tập trung vào y tế công cộng, đào tạo y khoa và nghệ thuật. Nó ban tặng cho Trường Vệ sinh và Sức khỏe Cộng đồng Johns Hopkins, người đầu tiên thuộc loại này. Nó cũng xây dựng Trường Cao đẳng Y tế Liên minh Bắc Kinh tại Trung Quốc thành một tổ chức đáng chú ý. Nền tảng đã giúp cứu trợ chiến tranh thế giới thứ nhất, và nó sử dụng William Lyon Mackenzie King of Canada để nghiên cứu quan hệ công nghiệp.
Trong thập niên 1920, Quỹ Rockefeller tài trợ cho một chiến dịch diệt trừ giun móc thông qua Ban Y tế Quốc tế. Chiến dịch này đã sử dụng sự kết hợp giữa chính trị và khoa học, cùng với sự cộng tác giữa các nhân viên y tế và các quan chức chính phủ để hoàn thành mục tiêu của mình.
Hoạt động từ thiện chính thứ tư của Rockefeller, Quỹ Tưởng niệm Laura Spelman Rockefeller, được thành lập năm 1918. Thông qua điều này, ông đã hỗ trợ công việc trong các nghiên cứu xã hội; điều này sau đó được hấp thụ vào Quỹ Rockefeller. Trong tổng số Rockefeller quyên tặng khoảng 550 triệu USD.
Rockefeller đã trở nên nổi tiếng trong cuộc sống sau này của mình cho việc thực hành cho dimes cho người lớn và nickels cho trẻ em bất cứ nơi nào ông đã đi. Anh thậm chí còn tặng cho những người giàu có như là một cử chỉ vui tươi cho những người giàu có, chẳng hạn như trùm bánh lốp Harvey Firestone.
Nhà ở Florida
Henry Flagler, một trong những người đồng sáng lập của Standard Oil cùng với Rockefeller, đã mua Ormond Hotel vào năm 1890, nằm ở Ormond Beach, Florida, hai năm sau khi mở cửa. Flagler mở rộng nó để chứa 600 khách và khách sạn nhanh chóng trở thành một trong một loạt các khách sạn tuổi Gilded phục vụ cho hành khách trên đường sắt bờ biển phía đông của Flagler. Một trong những khách hàng của Flagler tại Ormond Hotel là đối tác kinh doanh cũ của ông John D. Rockefeller, người đầu tiên ở lại khách sạn vào năm 1914. Rockefeller thích khu vực Ormond Beach rất nhiều sau bốn mùa tại khách sạn, ông đã mua bất động sản ở Ormond Beach được gọi là The Casements. Đó sẽ là ngôi nhà mùa đông của Rockefeller trong phần sau của cuộc đời anh. Được bán bởi những người thừa kế của ông vào năm 1939, nó đã được mua bởi thành phố vào năm 1973 và bây giờ phục vụ như là một trung tâm văn hóa và là cấu trúc lịch sử nổi tiếng nhất của cộng đồng.
Di sản
Rockefeller đã có một sự nghiệp lâu dài và gây tranh cãi trong ngành công nghiệp dầu mỏ, theo sau là một sự nghiệp lâu dài trong hoạt động từ thiện. Hình ảnh của ông là một sự hợp nhất của tất cả những kinh nghiệm này và nhiều cách ông được xem bởi những người đương thời của mình. Những người đương thời bao gồm các đối thủ cũ của mình, nhiều người trong số họ đã bị hủy hoại, nhưng nhiều người trong số họ đã bán hết lợi nhuận (hoặc một cổ phần có lợi nhuận trong Standard Oil, vì Rockefeller thường cung cấp cổ phiếu của mình như là khoản thanh toán cho một doanh nghiệp), và khá một vài người trong số họ trở nên rất giàu có với vai trò là người quản lý cũng như chủ sở hữu trong Standard Oil. Họ bao gồm các chính trị gia và nhà văn, một số người trong số họ phục vụ lợi ích của Rockefeller, và một số người trong số họ đã xây dựng sự nghiệp của họ bằng cách chiến đấu với Rockefeller và "tên cướp cướp".
Người viết tiểu sử Allan Nevins, trả lời những kẻ thù của Rockefeller, kết luận:
Các nhà phê bình thù địch thường miêu tả Rockefeller là một kẻ phản diện với một bộ các đặc điểm xấu - tàn nhẫn, vô đạo đức và tham lam - và như một kẻ bắt nạt đã kết nối con đường thống trị của mình. Sử gia kinh tế Robert Whaples cảnh báo chống lại việc bỏ qua những bí mật của thành công kinh doanh của mình:
Không ngừng cắt giảm và cải tiến chi phí sản xuất hiệu quả, mạnh dạn đầu tư vào ngành một cách dài hạn trong khi những nhà tư bản khác tập trung thu lợi nhuận nhanh, cùng khả năng nhạy bén phát hiện và khen thưởng nhân sự có tài, khả năng giao nhiệm vụ và quản lý một đế chế đang phát triển.
Nhà viết tiểu sử Ron Chernow viết về Rockefeller:
Tài sản
Rockefeller phần lớn được nhớ tới là do sự giàu có của mình. Năm 1902, một cuộc kiểm toán cho thấy tài sản của Rockefeller trị giá khoảng 200 triệu USD - so với tổng GDP quốc gia là 24 tỷ đô la sau đó.
Tài sản của ông tiếp tục tăng trưởng đáng kể (phù hợp với tăng trưởng kinh tế Mỹ) sau khi nhu cầu xăng tăng vọt, cuối cùng đạt khoảng 900 triệu USD vào đêm trước của Chiến tranh thế giới thứ nhất, bao gồm lợi ích quan trọng trong ngân hàng, vận chuyển, khai thác mỏ, đường sắt và các ngành công nghiệp. Theo cáo phó New York Times, "ước tính tài sản của Rockefeller sau khi nghỉ hưu kể từ khi kinh doanh mà ông đã tích lũy gần $ 1,500,000,000 trong số lợi nhuận của Standard Oil và từ các khoản đầu tư khác của ông. Đây có lẽ là số tiền lớn nhất của cải mà bất kỳ công dân tư nhân nào cũng có thể tích lũy bằng những nỗ lực của chính mình." Vào thời điểm ông qua đời vào năm 1937, tài sản còn lại của Rockefeller, phần lớn gắn liền với tín thác gia đình vĩnh viễn, ước tính khoảng 1,4 tỷ đô la, trong khi tổng GDP quốc gia là 92 tỷ đô la. Theo một số phương pháp tính toán sự giàu có, giá trị thực của Rockefeller trong những thập kỷ cuối của cuộc đời ông sẽ dễ dàng đặt ông là người giàu có nhất trong lịch sử. Theo tỷ lệ phần trăm GDP của Hoa Kỳ, không có tài sản nào khác của Mỹ - bao gồm cả tài sản của Bill Gates hay Sam Walton - thậm chí sẽ đến gần.
Rockefeller, 86 tuổi, đã viết những từ sau đây để tổng kết cuộc đời:
I was early taught to work as well as play,
My life has been one long, happy holiday;
Full of work and full of play—
I dropped the worry on the way—
And God was good to me everyday. |
Trong xác suất, định lý giới hạn trung tâm là định lý nổi tiếng và có vai trò quan trọng. Nó là kết quả về sự hội tụ yếu của một dãy các biến ngẫu nhiên. Với định lý này, ta có kết quả là tổng của các biến ngẫu nhiên độc lập và phân phối đồng nhất theo cùng một phân phối xác suất, sẽ hội tụ về một biến ngẫu nhiên nào đó.
Trong trường hợp đơn giản nhất, được dùng dưới đây trong phần chứng minh của định lý, các biến ngẫu nhiên là độc lập, có cùng kỳ vọng và phương sai. Một cách tổng quát, tổng của các biến ngẫu nhiên sẽ tăng vô định khi số biến ngẫu nhiên tăng. Do đó để có một kết quả hữu hạn, ta hạn chế sự tăng của tổng bằng cách lấy tổng trừ đi giá trị trung bình và rút gọn bằng cách chia cho căn bậc hai của phương sai. Với một số các điều kiện nữa thì phân phối xác suất của biến ngẫu nhiên giản lược sẽ hội tụ về một phân phối chuẩn.
Sự hội tụ được đảm bảo trong trường hợp đơn giản này. Tuy nhiên cũng tồn tại sự hội tụ trong trường hợp các biến ngẫu nhiên không cùng phân phối, nhưng vẫn phải đảm bảo điều kiện không có biến ngẫu nhiên nào có phân phối trội hơn hoặc gây ảnh hưởng đến phân phối của các biến ngẫu nhiên khác. Điều này được đảm bảo bởi điều kiện Lindeberg và điều kiện Lyapunov. Một số phiên bản khác của định lý cũng cho phép sự phụ thuộc yếu giữa các biến ngẫu nhiên.
Ngoài ra còn có một số nghiên cứu khác của Gnedenko và Kolmogorov cho rằng tổng của các biến ngẫu nhiên với phân phối có đuôi giảm theo phân số 1/|x|α+1, 0 < α < 2 (do đó có phương sai vô hạn), sẽ hội tụ về phân phối Levy đối xứng và ổn định khi số biến nhẫu nhiên tăng.
Phần trình bày ở đây chỉ đề cập đến định lý giới hạn trung tâm cho trường hợp các phân phối có phương sai hữu hạn.
Định lý giới hạn trung tâm
Cho X1, X2... là tập hợp các biến ngẫu nhiên được định nghĩa trên cùng một không gian xác suất, có cùng phân phối D và độc lập lẫn nhau. Giả sử giá trị kỳ vọng và độ lệch chuẩn của phân phối D là tồn tại và hữu hạn ().
Xét tổng Sn = X1 + ... + Xn.
Ta có Sn có kỳ vọng là nμ và độ lệch chuẩn σ n½. Khi đó, phân phối của Sn hội tụ về phân phối chuẩn N(nμ,σ2n) khi n tiến về vô cùng.
Để làm rõ hơn sự hội tụ này, ta đặt:
để có được kỳ vọng và độ lệch chuẩn của lần lượt là 0 và 1.
Nếu phân phối của Zn hội tụ về phân phối chuẩn N(0,1) khi n tiến về vô cùng (tức là hội tụ theo phân phối), thì cũng có nghĩa là: nếu Φ là hàm phân phối tích lũy của N(0,1), thì với mọi số thực z:
Hay một cách tương đương:
trong đó
Chứng minh định lý giới hạn trung tâm
Mặc dù đây là định lý quan trọng trong thống kê và xác suất ứng dụng nhưng phần chứng minh của nó khá đơn giản bằng cách sử dụng các hàm đặc trưng, nó gần giống với phần chứng minh của luật số lớn.
Ta có với mọi i, có kỳ vọng 0 và độ lệch chuẩn 1, với hàm đặc trưng được khai triển giới hạn dưới dạng:
Ta có:
Từ các tính chất cơ bản của hàm đặc trưng, ta suy ra hàm đặc trưng của Zn là
khi
Giới hạn này là hàm đặc trưng của phân phối chuẩn N(0,1). Từ đó định lý giới hạn trung tâm được chứng minh nhờ vào định lý về tính liên tục của Levy, trong đó có nói rằng, sự hội tụ của các hàm đặc trưng cho phép suy ra sự hội tụ theo phân phối.
Nếu mômen bậc 3 E[(X - μ)3] tồn tại và hữu hạn, thì ta có hội tụ đều (uniform), và vận tốc hội tụ có bậc ít nhất là 1/n½ (xem định lý Berry-Esseen).
Trong các ứng dụng thực tế, định lý này cho phép thay thế tổng vô cùng lớn nhưng hữu hạn các biến ngẫu nhiên bằng một biến ngẫu nhiên có phân phối chuẩn, như vầy sẽ dễ dàng thao tác, tính toán hơn.
Các suy rộng từ định lý
Hàm phân phối xác suất
Hàm phân phối xác suất của tổng nhiều biến ngẫu nhiên độc lập được xác định bởi hàm xoắn (convolution) từ các hàm phân phối xác suất của các biến ngẫu nhiên đó. Từ định lý giới hạn trung tâm, ta có thể suy ra, hàm xoắn này hội tụ về một hàm phân phối xác suất chuẩn khi số biến ngẫu nhiên tăng vô hạn.
Tích các biến ngẫu nhiên
Định lý giới hạn trung tâm phát biểu cho tổng các biến ngẫu nhiên độc lập, câu hỏi là chuyện gì xảy ra với tích của các biến ngẫu nhiên độc lập?
Ta biết rằng, lôgarit (log) của tích các số hạng thì bằng tổng lôgarit các số hạng. Định lý giới hạn trung tâm cho biết tổng lôgarit, và do đó lôgarit của tích, hội tụ về biến ngẫu nhiên phân phối chuẩn. Từ đó suy ra tích các biến ngẫu nhiên hội tụ về một biến ngẫu nhiên có phân phối chuẩn-lôgarit (log-normal).
Các định lý giới hạn trung tâm mở rộng
Điều kiện Lyapunov
Xét Xn là một dãy các biến ngẫu nhiên được định nghĩa trên cùng một không gian xác suất, không nhất thiết có cùng phân phối. Giả sử Xi có kỳ vọng hữu hạn μi và độ lệch chuẩn hữu hạn σi. Ta định nghĩa:
Giả sử các mômen bậc 3
là hữu hạn với mọi i và
Các điều kiện trên được gọi la điều kiện Lyapunov.
Ta xét tổng mới
Sn=X1+...+Xn. Kỳ vọng của Sn là mn = ∑i=1..nμi và độ lệch chuẩn là sn. Nếu ta chuẩn hóa Sn bằng cách đặt
thì phân phối xác suất của Zn hội tụ về phân phối chuẩn N(0,1).
Điều kiện Lindeberg
Với các giả thiết ban đầu như trong điều kiện Lyapunov.
Với mọi ε > 0
trong đó E(U: V > c) là kỳ vọng có điều kiện: kỳ vọng của U với điều kiện V > c. Khi đó phân phối xác suất của Zn hội tụ về phân phối chuẩn N(0,1).
Trường hợp các biến ngẫu nhiên không độc lập
Có một số định lý nghiên cứu trường hợp tổng của các biến ngẫu nhiên không độc lập, ví dụ định lý giới han trung tâm m-phụ thuộc (m-dependent central limit theorem), định lý giới hạn trung tâm martingal (martingale central limit theorem) và định lý giới hạn trung tâm cho quá trình hỗn hợp (central limit theorem for mixing processes).
Links ngoài
Central Limit Theorem Java
Central Limit Theorem chương trình mô phỏng thực nghiệm định lý giới hạn trung tâm. |
Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới Việt Nam là kiểu rừng có diện tích lớn, phân bố rộng khắp Việt Nam, nằm trong vành đai nhiệt đới, thường phân bố ở độ cao 700 m (miền Bắc) và 1000 m (miền Nam) trở xuống. Nơi đây có nhiệt độ trung bình hàng năm 20 - 25oC, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất 15 - 20oC, lượng mưa hàng năm 1.200 - 3.000 mm, mùa mưa ẩm và mùa khô phân biệt rõ, mùa khô kéo dài 3 tháng, độ ẩm trung bình khoảng 85%. Đất rừng có quá trình ferralit mạnh, thường là đất ferralit đỏ vàng phát triển trên nhiều loại đá mẹ như Ba dan, Gnai, An đê dit... tầng đất nhìn chung sâu đầy, không có tầng đá ong chặt.
Rừng có cấu trúc 3 - 5 tầng (Tầng trội, tầng tán, tầng dưới tán, tầng cây bụi, tầng cỏ và quyết). Thực vật rừng ở đây phần lớn là các loài cây nhiệt đới, không có chồi ngủ qua đông, một số loài thân mang hoa quả, lá cây nhẵn bóng, đầu lá thường có mũi lồi. Một số loài có hình thức sinh trưởng nhịp điệu, số cây rụng lá theo mùa dưới 25% tổ thành.
Tổ thành rừng
Các ưu hợp trong kiểu rừng này thể hiện rõ ảnh hưởng của thành phần loài trong khu hệ thực vật bản địa Bắc Việt Nam-Nam Trung Hoa và khu hệ thực vật Malaixia-Indonesia.Các ưu hợp đó là:
Các ưu hợp họ Dầu (Dipterocarpaceae), tầng vượt tán (tầng trội) và tầng tán là các loài cây thường xanh thuộc họ Dầu như:
Ưu hợp Sao đen (Hopea odorata)
Ưu hợp Kiền kiền (Hopea pierrei)
Ưu hợp Chò chỉ (Parashorea chinensis)
Ưu hợp Chò nâu (Dipterocarpus retusus)
Ưu hợp Dầu rái (Dipterocarpus alatus)
Ưu hợp Vên vên (Anisoptera cotstata)
Ưu hợp Táu (Vatica sp)
Có thể gặp các ưu hợp biến chủng:
Ưu hợp: gội + Sấu + sâng + một loài dẻ gai hay sồi + một loài De hay cà lồ + một loài giổi hay mỡ + một loài đa hay mít.
Tùy từng vùng có thể có một vài loài khác chiếm ưu thế hình thành các biến chủng vàng anh, chò xanh, chò đãi, chò chỉ.
Ưu hợp: lim xanh + trám trắng + sến + ngát.
Tùy từng vùng có thể có một loài cây nào đó chiếm ưu thế của ưu hợp hình thành các biến chủng: sau sau, sang lẻ, gụ + huỷnh, táu ruối, vên vên.
Một số ưu hợp hình thành do chịu ảnh hưởng của các hoạt động sản xuất của con người như:
Ưu hợp: mỡ + ràng ràng mít sau nương rẫy.
Ưu hợp: lim xanh + dẻ bốp + trám trắng + ngát + bứa sau khai thác. |
Sách đỏ Việt Nam (phần thực vật do bộ Khoa học công nghệ và môi trường công bố (1996) đã giới thiệu 302 loài thực vật thuộc ngành Hạt kín (Angiospermae) và 26 loài thực vật thuộc ngành Hạt trần (Gymnospermae) có mức độ đe dọa khác nhau cần được bảo tồn. Tuy vậy, trong điều kiện Việt Nam, khi công tác bảo tồn nguồn gen mới bắt đầu, có thể chỉ nên tập trung cho một số đối tượng thuộc các nhóm sau đây.
Các loài cây có giá trị đặc biệt đang nguy cấp hoặc hết sức nguy cấp
Thông hai lá dẹt (Pinus krempfii A.Chev.)
Thông năm lá Đà Lạt (Pinus dalatensis Y de Perre.)
Thủy tùng (Glyptostrobus pensilis K.Koch.)
Đỉnh Tùng
Hoàng đàn (Cupressus torulosa D.Bon)
Thông đỏ (Taxus wallichiana Zucc.)
Mun (Diospyros mun A.Chev. ex Lecomte)
Gõ đỏ (Cà te) (Afzelia xylocarpa (Kurz) Craib)
Trắc (Dalbergia cochinchinensisi Pierre)
Cẩm lai (D.bariaensis Pierre)
Giáng hương quả to (Pterocarpus macrocarpus Kurz)
Sam lạnh
Dẻ tùng
Chò đãi
Bách xanh
Cử Sa pa
Kiền kiền
Sao lá to
Sam đá vôi (Du sam đá vôi?)
Trúc đùi gà
Trúc vuông
Trúc đen
Trúc hóa long
Các loài có giá trị kinh tế cao, đang nguy cấp và mới được gây trồng
Pơ mu
Trầm hương
Lát hoa
Lim xanh
Sưa |
Số Froude hoặc là tiêu chuẩn Froude – là một trong những tiêu chuẩn tương đồng khi xét tới chuyển động của chất lỏng và chất khí. Nó là đại lương không thứ nguyên và được sử dụng trong trường hợp có sự tác động của ngoại lực. Số Froude được đưa ra bởi William Froude vào năm 1970.
Trong thủy lực học, số Froude là đại lượng không thứ nguyên đặc trưng cho tương quan giữa tác động của lực quán tính và trọng lực đối với dòng chảy.
Công thức:
trong đó:
v là vận tốc dòng chảy (đơn vị thường dùng m/s)
g là gia tốc (m/s2)
L là kích thước đặc trưng của vùng (phạm vi) mà trong đó ta xét chuyển động của chất lỏng (khí) (m)
Ví dụ, nếu xét chất lỏng chảy trong một ống dẫn trong trường trọng lực, khi đó g – gia tốc rơi tự do, v - vận tốc chảy, L – độ dài đoạn ống hoặc đường kính ống.
Số Froude cho phép ta so sánh các điều kiện để tạo sóng cho các loại tàu, thuyền có kích thước khác nhau. Ví dụ, nếu mô hình tàu với tỉ lệ 1:100, thì nó cần được kéo với vận tốc nhỏ hơn 10 lần so với vận tốc của tàu thực.
Đối với các tàu thủy lớn, số Froude thường từ 0.2 – 0.3, còn đối với các loại tàu nhỏ, số Froude thường lớn hơn 1, nhưng thường là từ 2 -3.
Số Froude cũng hay được dùng trong mô hình hóa dòng chảy trong các lòng máng và thử nghiệm mô hình của các công trình thủy lợi.
Dòng chảy có Fr < 1 tương ứng với trạng thái chảy êm.
Dòng chảy có Fr > 1 tương ứng với trạng thái chảy xiết.
Trong quá trình truyền nhiệt:
Số Froude cũng đặc trưng cho tỉ số giữa lực quán tính và trọng lực, nhưng công thức hơi khác:
Trong đó g – gia tốc rơi tự do, l – kích thước đặc trưng, v – vận tốc chảy |
Thái Thụy là một huyện ven biển nằm ở phía đông tỉnh Thái Bình, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Huyện Thái Thụy nằm ở phía đông của tỉnh Thái Bình, nằm cách thành phố Thái Bình khoảng 32 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 142 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp vịnh Bắc Bộ
Phía tây giáp huyện Đông Hưng và huyện Quỳnh Phụ
Phía nam giáp huyện Kiến Xương và huyện Tiền Hải
Phía bắc giáp huyện Vĩnh Bảo và huyện Tiên Lãng thuộc thành phố Hải Phòng.
Giữa huyện có sông Diêm Hộ chảy qua theo hướng tây - đông, đổ ra cửa Diêm Hộ, chia huyện thành hai nửa gần tương đương về diện tích.
Huyện có diện tích là 256,83 km². Dân số năm 2009 là 267.012 người, mật độ dân số đạt 1.040 người/km². 5,6% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Khí hậu
Khí hậu Thái Thụy thuộc vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ven biển Bắc Bộ, chịu ảnh hưởng của gió mùa. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 22 - 24 °C; độ ẩm trung bình 86-87%; lượng mưa trung bình 1.788 mm/năm.
Thái Thụy có 1.552,3 ha rừng ngập mặn, tập trung tại các xã ven biển, có tác dụng lớn trong phòng hộ đê biển, điều hoà khí hậu và có giá trị lớn về cảnh quan môi trường, bảo tồn hệ sinh thái ngập nước ven biển, có cồn đen rộng hàng chục ha là nơi có thể phát triển ngành du lịch biển.
Với bờ biển dài 27 km² và hàng chục nghìn km² lãnh hải, có 3 cửa sông lớn hàng năm đổ ra biển một lượng lớn phù sa, vùng biển Thái Thụy có một tiềm năng hải sản phong phú. Theo số liệu điều tra của viện nghiên cứu Hải sản 1, trong vùng biển Thái Thụy có ít nhất 46 loài cá có giá trị kinh tế cao, 10 loài tôm, 5 loài mực...
Địa hình
Địa hình đồng bằng duyên hải. Sông Hóa, sông Diêm Hộ, sông Trà Lý chảy qua; có cửa Thái Bình, cửa Diêm Hộ, cửa Trà Lý.
Huyện Thái Thụy nằm trong vùng đồng bằng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn Thái Bình và Trà Lý, địa hình có xu thế cao dần về phía biển, có 27 km bờ biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt với các sông chính là sông Hoá, Sông Diêm Hộ và sông Trà Lý. Sông Hoá chảy qua phía Bắc của huyện, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Thái Thụy và huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng đổ ra biển ở cửa Thái Bình. Sông Diêm Hộ chảy từ tây sang đông chia huyện thành 2 khu là khu bắc và khu nam, đổ ra biển ở cửa Diêm Điền. Sông Trà Lý là chi lưu của sông Hồng, chạy qua phần phía nam huyện, phân định ranh giới giữa huyện Thái Thụy với huyện Tiền Hải và Kiến Xương, đổ ra biển ở cửa Trà Lý.
Hành chính
Huyện Thái Thụy có 36 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Diêm Điền (huyện lỵ) và 35 xã: An Tân, Dương Hồng Thủy, Dương Phúc, Hòa An, Hồng Dũng, Mỹ Lộc, Sơn Hà, Tân Học, Thái Đô, Thái Giang, Thái Hưng, Thái Nguyên, Thái Phúc, Thái Thịnh, Thái Thọ, Thái Thượng, Thái Xuyên, Thuần Thành, Thụy Bình, Thụy Chính, Thụy Dân, Thụy Duyên, Thụy Hải, Thụy Hưng, Thụy Liên, Thụy Ninh, Thụy Phong, Thụy Quỳnh, Thụy Sơn, Thụy Thanh, Thụy Trình, Thụy Trường, Thụy Văn, Thụy Việt, Thụy Xuân.
Lịch sử
Địa bàn huyện Thái Thụy ngày nay trước đây vốn là hai huyện Thái Ninh và Thụy Anh. Trước khi hợp nhất:
Huyện Thái Ninh có 22 xã: Thái An, Thái Đô, Thái Dương, Thái Giang, Thái Hà, Thái Hoà, Thái Học, Thái Hồng, Thái Hưng, Thái Lộc, Thái Mỹ, Thái Nguyên, Thái Phúc, Thái Sơn, Thái Tân, Thái Thành, Thái Thịnh, Thái Thọ, Thái Thuần, Thái Thượng, Thái Thủy, Thái Xuyên.
Huyện Thụy Anh có 25 xã: Thụy An, Thụy Bình, Thụy Chính, Thụy Dân, Thụy Dũng, Thụy Dương, Thụy Duyên, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Hồng, Thụy Hưng, Thụy Liên, Thụy Lương, Thụy Ninh, Thụy Phong, Thụy Phúc, Thụy Quỳnh, Thụy Sơn, Thụy Tân, Thụy Thanh, Thụy Trình, Thụy Trường, Thụy Văn, Thụy Việt, Thụy Xuân.
Ngày 17 tháng 6 năm 1969, huyện Thái Ninh hợp nhất với huyện Thụy Anh thành huyện Thái Thụy, gồm 47 xã: Thái An, Thái Đô, Thái Dương, Thái Giang, Thái Hà, Thái Hoà, Thái Học, Thái Hồng, Thái Hưng, Thái Lộc, Thái Mỹ, Thái Nguyên, Thái Phúc, Thái Sơn, Thái Tân, Thái Thành, Thái Thịnh, Thái Thọ, Thái Thuần, Thái Thượng, Thái Thủy, Thái Xuyên, Thụy An, Thụy Bình, Thụy Chính, Thụy Dân, Thụy Dũng, Thụy Dương, Thụy Duyên, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Hồng, Thụy Hưng, Thụy Liên, Thụy Lương, Thụy Ninh, Thụy Phong, Thụy Phúc, Thụy Quỳnh, Thụy Sơn, Thụy Tân, Thụy Thanh, Thụy Trình, Thụy Trường, Thụy Văn, Thụy Việt, Thụy Xuân.
Ngày 5 tháng 9 năm 1975, thành lập xã Hồng Quỳnh thuộc huyện Thái Thụy.
Ngày 18 tháng 12 năm 1976, cắt thôn Tân Hưng của xã Thái Đô nhập vào xã Thái Hòa; thành lập xã Mỹ Lộc trên cơ sở hợp nhất xã Thái Lộc, 4 thôn: Vũ Biên, Chỉ Thiện, Tân Minh, Liên Kết của xã Thái Mỹ và thôn Hải Linh của xã Thái Đô; phần còn lại của xã Thái Mỹ (gồm 2 thôn: Xuân Bắc, Xuân Trung) nhập vào xã Thái Thọ.
Ngày 25 tháng 6 năm 1986, thành lập thị trấn Diêm Điền trên cơ sở 40,81 ha đất với 3.373 nhân khẩu của xã Thụy Lương, 107,61 ha đất với 6.049 nhân khẩu của xã Thụy Hà, 29,31 ha đất với 892 nhân khẩu của xã Thụy Hải; tách 276,67 ha đất với 1.909 nhân khẩu của xã Thụy Lương để sáp nhập vào xã Thụy Hà.
Ngày 13 tháng 4 năm 2018, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 487/QĐ-BXD công nhận thị trấn Diêm Điền mở rộng
(gồm thị trấn Diêm Điền và 9 xã: Thụy Trình, Thụy Lương, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Liên, Thái Thượng, Thái Nguyên, Thái An, Thái Hòa) là đô thị loại IV.
Đến cuối năm 2019, huyện Thái Thụy có thị trấn Diêm Điền và 47 xã: Hồng Quỳnh, Mỹ Lộc, Thái An, Thái Đô, Thái Dương, Thái Giang, Thái Hà, Thái Hoà, Thái Học, Thái Hồng, Thái Hưng, Thái Nguyên, Thái Phúc, Thái Sơn, Thái Tân, Thái Thành, Thái Thịnh, Thái Thọ, Thái Thuần, Thái Thượng, Thái Thủy, Thái Xuyên, Thụy An, Thụy Bình, Thụy Chính, Thụy Dân, Thụy Dũng, Thụy Duyên, Thụy Dương, Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Hồng, Thụy Hưng, Thụy Liên, Thụy Lương, Thụy Ninh, Thụy Phong, Thụy Phúc, Thụy Quỳnh, Thụy Sơn, Thụy Tân, Thụy Thanh, Thụy Trình, Thụy Trường, Thụy Văn, Thụy Việt, Thụy Xuân.
Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 892/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thái Bình (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 2020). Theo đó:
Hợp nhất 3 xã: Thụy Hồng, Thụy Dũng và Hồng Quỳnh thành xã Hồng Dũng
Hợp nhất 2 xã Thụy Dương và Thụy Phúc thành xã Dương Phúc
Hợp nhất 2 xã Thụy An và Thụy Tân thành xã An Tân
Hợp nhất 3 xã: Thái Dương, Thái Hồng, Thái Thủy thành xã Dương Hồng Thủy
Hợp nhất 2 xã Thái Sơn và Thái Hà thành xã Sơn Hà
Hợp nhất 2 xã Thái Hòa và Thái An thành xã Hòa An
Hợp nhất 2 xã Thái Thuần và Thái Thành thành xã Thuần Thành
Hợp nhất 2 xã Thái Tân và Thái Học thành xã Tân Học
Sáp nhập 2 xã Thụy Lương và Thụy Hà vào thị trấn Diêm Điền.
Huyện Thái Thụy có 1 thị trấn và 35 xã như hiện nay.
Kinh tế
Ngành nông nghiệp: Trồng lúa nước, lạc, cói, khoai lang, thuốc lào. Chăn nuôi: lợn, tôm, cá. làm muối, Thủ công dệt, đan chiếu cói, trạm khảm. Nghề thủ công như đóng gạch, mỹ nghệ nổi tiếng khắp huyện là làng mây tre đan xuất khẩu thôn Lục Nam xã Thái Xuyên. Nghề chăn nuôi tằm tơ nổi tiếng xã thái Hòa (Nhà máy tơ tằm và trại nhân giống tằm ở xã Thái Hòa).
Ngành chế biến thủy sản và nuôi trồng thủy sản: Chế biến nước mắm ngon nổi tiếng Diêm điền, nuôi trồng tôm, cua, ghẹ, ngao, ngán, cá... ở các đầm nuôi trồng của các hộ dân xã Thái Đô, Thái Hòa, Thụy Hải,Thụy Xuân, Thụy Trường
Nghề xây dựng: Xây dựng nhà máy nhiệt điện lớn nhất miền bắc Nhà máy nhiệt điện Mỹ Lộc - Xã mỹ lộc. Xây dựng cảng Trà lý để mở rộng giao lưu và buôn bán.
Ngành du lịch: Khu resort cao cấp đặt ở bãi biển Cồn đen (đang khai thác và xây dựng) cùng với khu rừng sinh thái ngập mặn ven đê xã Thái Đô - Thái Thượng.
Giao thông
Quốc lộ 39, Quốc lộ 37; Quốc lộ 37B (trước đây là TL458,tỉnh lộ 39B), 47, 216, 460... chạy qua; đường thủy trên sông Trà Lý, Diêm Hộ, Sông Hóa.
Huyện có hai bến xe lớn là Chợ Lục (xã Thái Xuyên) và Diêm Điền. Đây là địa phương có dự án Đường cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng đi qua.
Văn hóa, du lịch
Huyện Thái Thụy có nhiều địa điểm du lịch nghỉ mát như bãi biển Cồn đen (thuộc xã Thái Đô), rừng ngập mặn ven biển Thụy Xuân - Thụy Trường, Rừng ngập mặn ven biển xã Thái Thượng - Thái Đô (trong phạm vi Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng):, với rất nhiều loài chim quý hiếm như sếu đầu đỏ, cò,... và các loại thủy hải sản quý như ngao, tôm sú, cua..., mặt khác trong huyện cũng có rất nhiều các khu du lịch văn hóa nổi tiếng của tỉnh Thái Bình như lễ hội Chùa Bảo Linh (xã Thuỵ Phúc), Đền Hệ (xã Thuỵ Ninh), Đền Hét (xã Thái Thượng), Đền Hạ Đồng (xã Thụy Sơn), Đền Tam Tòa (xã Thụy Trường), Đình Từ và Đình Đông xã Thái Xuyên là những nơi thờ các vị anh hùng của dân tộc như Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Đạo.
Thái Thụy là huyện mới được thành lập bởi 2 huyện cũ là Thụy Anh và Thái Ninh (tên cũ là huyện Thanh Quan), thị trấn là Diêm Điền, tại đây có cảng biển, hàng Trung Quốc nhiều. Hai bộ phận Thái và Thụy được phân chia bởi sông Diêm Hộ, huyện có rất nhiều xã, bên Thụy gồm xà Thụy Hà, Thụy Hải, Thụy Lương, Thụy Trường... Bên Thái gồm nhiều xã như xã Thái Thịnh, xã Thái Tân, Thái Hưng, Thái Xuyên, Thái Thành, Thái Thọ... Xã Thái Thịnh là căn cứ cách mạng thời chống Pháp, trước đây được nổi danh là làng Thần đầu, Thần huống. Là quê hương anh hùng dân tộc Lý Bí. (Các nhà nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng: thời Bắc thuộc, tỉnh Thái Bình hiện nay vẫn là biển. Nhân kỷ niệm 1.470 năm (542 - 2012) ngày cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ, ngày 6/10/2012 tại Hà Nội, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức Hội thảo khoa học "Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế" với sự tham dự của đông đảo các nhà sử học, nhà khoa học và nhân dân địa phương (Hà Nội, Thái Nguyên, Phú Thọ,...). Dựa trên cơ sở tư liệu điền dã thực địa ở các vùng: xã Tiên Phong - huyện Phổ Yên và huyện Thái Thụy, kết hợp với thần tích, truyền thuyết… còn lưu giữ tại các xã Giang Xá, Lưu Xá (huyện Hoài Đức), 27 tham luận tại hội thảo đưa ra kết luận vua Lý Nam Đế có quê gốc ở thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên). Có nhiều chiến công trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Quê hương của Nguyễn Đức Cảnh, người tham gia rất sớm vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Thái Thụy còn nổi tiếng với món gỏi nhệch, cá khoai, cá vược, chả cá, sứa chua, canh don, và gỏi sứa.
Giáo dục
Thái thụy có 5 trường Trung học phổ thông là THPT Thái Ninh, THPT Thái Phúc, THPT Đông Thụy Anh, THPT Tây Thụy Anh; THPT Diêm Điền.
Ngoài ra huyện còn có 2 trung tâm giáo dục thường xuyên 01 và 02 và trung tâm hướng nghiệp dạy nghề
Làng nghề
Là một huyện rất rộng với 36 đơn vị cấp, xã thị trấn nên huyện có nhiều làng có nghề, nghề phụ. Các ngành nghề phụ dựa trên chính điều kiện tự nhiên sẵn có của huyện góp phần cho sự phát triển kinh tế địa phương. Một số hộ từ sự sáng tạo đã trở thành khá giả từ chính đôi bàn tay cần cù bằng các những nghề tập trung tại thôn làng hay nghề phụ, công việc như:
Chế biến hải sản (làm muối) ở Thụy Hải
Đóng thuyền gỗ Tân Sơn (thị trấn Diêm Điền)
Làng nghề rèn An Tiêm (Thụy Dân)
Nghề may và đa nghề ở Thụy Thanh
Vận tải biển, viễn dương ở thị trấn Diêm Điền (cũ)
Mắm, chế biến hải sản thị trấn Diêm Điền
Vận tải biển, viễn dương Thụy Hà (Diêm Điền)
Có nghề thợ mộc ở Thụy Văn
Nghề đan cói ở Thụy Bình
Mây tre đan, móc sợi Thái Phương
Làm hương Lai Triều (Dương Phúc)
Nghề làm thuốc lào An Cố (An Tân)
Nghề mây tre đan ở Thái Xuyên
Nghề làm nón Quảng Nạp (Thụy Trình)
Nghề mộc thôn Đông Đoài (Thụy Quỳnh)
Một số khác như sơ chế, nuôi trồng đánh bắt thủy sản, cai xây dựng, làm thợ xây dựng, chồng mộc, trồng rau vụ đông... |
Rượu mỏ quạ là loại rượu có nguồn gốc từ Việt Nam được ngâm từ trái cây mỏ quạ, một loại dây leo mọc ký sinh trên cây cổ thụ và phân bố nhiều ở rừng Phú Quốc.
Nguyên liệu
Cây mỏ quạ là cây khá đặc biệt: có quả giả màu xanh chứa đầy nhựa màu trắng như sữa, bên trong có chứa nhiều chất mùn và kiến thường làm tổ trong đó, rễ mỏ quạ phát triển trong những trái giả này để hút dưỡng chất, ngoài ra cây mỏ quạ còn có rễ ôm thân cây chủ. Lá mỏ quạ khá nhỏ, màu xanh, hoa 5 cánh màu hồng tím đường kính 3–4 mm.
Cần phân biệt cây mỏ quạ này với cây mỏ quạ xuyên phá thạch.
Sản xuất
Rượu mỏ quạ thường được ngâm trực tiếp cây mỏ quạ với rượu đế khoảng 30-40%vol. Có một số người còn ngâm rượu mỏ quạ với một số vị thuốc Nam hoặc thuốc Bắc có vị ngọt có cùng công dụng như chữa đau lưng nhức mỏi và một số vị thuốc ngọt để giảm vị đắng của Mỏ quạ
Cây mỏ quạ ngâm có thể dùng lá, thân...ngâm tươi hoặc khô đều tốt, nhưng ngâm tươi thì dùng rượu cao độ từ 40 độ-45 độ để đảm bảo chất lượng nồng độ vì trong trái mỏ quạ tươi có rất nhiều nước màu trắng như sữa có vị đắng. Tốt nhất nên rửa sạch, phơi khoảng 2 nắng đem ngâm là tốt, ngâm còn nguyên tổ kiến trong đó là tốt nhất. Rượu ngâm khoảng 15 ngày thì dùng được, khi đó rượu có màu đỏ đậm rất đẹp, uống có vị đắng, thơm đặc trưng của trái mỏ quạ.
Sử dụng
Tác dụng thường thấy ghi trên chai là: trị đau lưng, nhức mỏi, đàn ông yếu sinh lý, xuất tinh sớm. Theo nhà sản xuất, rượu mỏ quạ có tác dụng khu phong, trừ thấp, hoạt huyết, giảm đau. Chuyên dùng cho các chứng tê thấp, đổ mồi hôi tay chân, đau lưng nhức mỏi rất hiệu quả nhưng không có tác dụng trị các bệnh yếu sinh lý. Theo các nhà sản xuất, do mang nhiều vị thuốc từ cây mỏ quạ nên rượu có vị nhẵn nhẵn, đắng đặc trưng. Rượu chỉ được dùng để trị bệnh, tốt cho sức khỏe.
Về tác dụng trị đau lưng nhức mỏi thì thấy ghi nhiều trên các loại rượu khác cho nên có thể nếu sử dụng ít và điều độ. Còn tác dụng cho đàn ông thì chưa được kiểm chứng. Tốt hơn hết là chỉ nên coi đó là một loại rượu đặc sản Phú Quốc. Mỗi ngày uống từ 2-4 ly nhỏ chia làm 2 lần trong 2 bữa ăn chính. Lưu ý, không được để bụng đói khi uống. Rượu mỏ quạ nếu sử dụng trong bữa tiệc thì không ngon. |
Adi Shankara (Devanāgarī: , , IPA: ; tiếng Malayalam: ; sinh khoảng 788 đến 820 CE), cũng được biết đến như là ("Shankara đầu tiên trong dòng họ") và ("người thầy dưới chân của Ishvara"), c. 788 – 820 CE, là triết gia đầu tiên củng cố học thuyết Advaita Vedanta, một trường phái trong Vedanta. Những lời dạy của ông dựa trên sự hợp nhất của linh hồn và Thượng đế, trong đó Thượng đế được xem cùng một lúc là mang tính cá nhân và không có thuộc tính nào cả. Trong truyền thống của Smārta, Adi Shankara được xem là hóa thân của Shiva.
Adi Shankara du hành khắp Ấn Độ với mục đích quảng bá những lời dạy của ông thông qua những bài giảng và những cuộc tranh luận với các triết gia khác. Ông lập ra bốn mathas ("tu viện") đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển và truyền bá Ấn Độ giáo và Advaita Vedanta. Adi Shankara là người sáng lập ra dòng tu Dashanami và truyền thống thờ Shanmata.
Những tác phẩm của ông trong tiếng Sanskrit, tất cả còn truyền cho đến ngày nay, liên quan đến việc thiết lập học thuyết Advaita (Sanskrit, "Bất nhị"). Adi Shankara trích dẫn nhiều từ Áo nghĩa thư (Upanishad) và các kinh sách Hindu khác trong những bài giảng của ông. Ông cũng có nhiều bài tranh luận chống lại các trường phái lý luận đối nghịch như Samkhya (Số luận - một trong 6 phái triết học lớn của Ấn Độ) và Phật giáo trong các tác phẩm của ông.
Cuộc đời
Nguồn trích dẫn truyền thống cho cuộc đời của Adi Shankara là Shankara Vijayams, ("Chiến thắng của Shankara"), là những trường ca chứa đựng những thông tin về tiểu sử được viết ra dưới dạng truyền thuyết. Quan trọng nhất trong những tiểu sử này là (của Mādhava, khoảng thế kỉ 14), (của Cidvilāsa, khoảng giữa thế kỉ 15 và thế kỉ 17), và (của vùng Kerala, khoảng thế kỉ 17). Theo những tài liệu này, Adi Shankara được sinh ra ở Kalady, một làng ở Kerala, Ấn Độ, bởi một cặp vợ chồng brahmin người Namboothiri, Shivaguru và Aryamba sống được ba mươi hai năm.
Sinh ra và tuổi thơ
Cha mẹ của Adi Shankara không có con trong nhiều năm. Họ cầu nguyện tại đền thờ Vadakkunnathan (cũng được biết đến như là Vrishachala) ở Thrissur, Kerala, để xin được hạ sinh một đứa con. Truyền thuyết kể rằng Shiva xuất hiện trước cả hai vợ chồng trong giấc mơ của họ, và cho phép họ lựa chọn: một đứa con bình thường sẽ sống lâu, hay là một đứa con trai phi thường nhưng không sống được lâu. Cả hai người thích lựa chọn thứ hai; sau đó họ sinh được một đứa con trai. Cậu ta được đặt tên là Shankara (Sanskrit, "người ban cho hạnh phúc"), để vinh danh Shiva (vị thần có một tính ngữ là Shankara).
Cha cậu qua đời khi Shankara còn rất nhỏ. của Shankara, lễ nhập môn vào đời sống học trò, được làm ở tuổi lên năm. Lúc còn là một đứa trẻ, Shankara đã có một sức học đáng nể, thông thạo cả bốn Veda lúc lên tám tuổi. Theo những phong tục của thời đó, Shankara học và sống tại nhà của thầy học. Theo phong tục học trò và những học giả có thể nhận ("của bố thí") từ những người thế tục; vào một dịp, trong khi đang nhận , Shankara gặp phải một người phụ nữ chỉ còn lại duy nhất một trái amalaka khô để ăn. Thay vì ăn phần còn lại cuối cùng, người phụ nữ mộ đạo cho Shankara trái amalaka như là . Xúc động, Shankara sáng tác Kanakadhārā Stotram ngay tại chỗ. Truyền thuyết kể rằng sau khi hoàn tất bài stotra, những trái amalaka bằng vàng rơi như mưa lên người phụ nữ bởi , vị Nữ thần của cải.
Sannyasa
Từ lúc còn nhỏ tuổi, Shankara bị cuốn hút bởi sannyasa ("cuộc sống của nhà tu hành"). Mẹ cậu phản đối việc cậu trở thành nhà sư, và không cho phép chính thức việc đó.
Tuy nhiên, một lần khi Shankara đang tắm trên sông Purna ở gần nhà, một con cá sấu cắn lấy chân vào kéo cậu ta xuống nước. Chỉ có mẹ cậu ở gần đó, và bà không thể nào cứu được cậu ta. Shankara hỏi ý mẹ cậu cho phép cậu từ bỏ thế giới trần tục và chết như một thầy tu. Không còn cách nào khác, mẹ cậu bằng lòng. Lập tức Shankara đọc lên những câu mantra xem như lời khấn nguyện trở thành tu sỹ. Con cá sấu liền thả cậu ra và bơi đi. Shankara bước lên khỏi mặt nước mà không bị hề hấn gì.
Với sự đồng ý của mẹ, Shankara giã từ Kerala và du hành về phía Bắc Ấn Độ để đi tìm một vị Guru. Trên bờ sông của dòng sông Narmada, cậu ta gặp Govinda Bhagavatpada, đệ tử của Gaudapada. Khi Govinda Bhagavatpada hỏi tên tuổi của Shankara, cậu ứng khẩu trả lời với một bài thơ mang ngụ ý triết lý Advaita Vedanta. Govinda Bhagavatapada hết lời khen ngợi và nhận Shankara làm đệ tử. Adi Shankara được Guru nhờ viết một khảo luận về Brahma Sutra và quảng bá Advaita Vedanta. Madhavīya Shankaravijaya kể rằng Adi Shankara đã làm dịu đi một cơn lũ từ sông Reva bằng cách đặt ("bình đựng nước") của anh trên đường đi của dòng nước lũ, do vậy cứu lấy Guru của anh, Govinda Bhagavatpada, người đang ở trong trạng thái ("tham thiền") trong một cái hang gần đó.
Trong nhiệm vụ quảng bá triết lý Advaita Vedanta, Adi Shankara du hành đến Kashi, nơi có một chàng trai trẻ tên là Sanandana từ Choladesha ở Nam Ấn Độ, trở thành đệ tử đầu tiên của ông. Ở Kashi, Adi Shankara đang trên đường đi đến đền thờ Vishwanath, nơi ông gặp một người không thể chạm vào được với bốn con chó. Khi được yêu cầu tránh ra một bên bởi đệ tử của Shankara, người không thể chạm được trả lời: "Ông muốn ta di chuyển Ātman ("the Self") vĩnh cửu của ta, hay là cơ thể này làm từ thức ăn?" Hiểu ra rằng người không chạm vào được không ai hơn cả mà chính là thần Shiva, và những con chó của ông là bốn bộ kinh Vedas, Shankara cúi lạy trước ông ta, sáng tác năm bài shloka được biết đến như là Manisha Panchakam.
Khi đến được vùng Badari trong dãy núi Himalaya, ông viết Bhashyas ("những bài bình luận") nổi tiếng và Prakarana granthas ("những luận văn triết học"). Sau đó ông dạy những bài bình luận này cho các đệ tử của mình. Một số, như là Sanandana, nhanh chóng lĩnh hội được những ý tưởng chính; những đồ đệ khác do vậy trở nên ghen tức với Sanandana. Để chứng tỏ với mọi người rằng Sanandana về bản chất là giỏi hơn tất cả, Adi Shankara cho gọi Sanandana từ một bờ của sông Ganga, trong khi anh ta đang ở bờ bên kia. Sanandana băng ngang qua dòng sông bằng cách bước lên những hoa sen nở ra bất cứ nơi nào mà anh bước chân đến. Adi Shankara hết sức khâm phục đệ tử của mình và đặt tên anh là ("người bước trên hoa sen"). Một nhà thông thái, , ghé thăm Adi Shankara giả dạng như là một già. Adi Shankara tranh luận với vị này trong tám ngày và cuối cùng, Vyasa lộ rõ danh tánh của mình và ban phước lành cho Adi Shankara.
Gặp gỡ Mandana Mishra
Một trong những cuộc tranh luận nổi tiếng nhất của Adi Shankara là với nhà nghi thức chủ nghĩa Mandana Mishra.Guru của Mandana Mishra là triết gia nổi tiếng theo chủ nghĩa Mimamsa (chủ nghĩa hình thức), . Shankara muốn tranh luận với và gặp ông ta ở Prayag nơi ông tự chôn chính mình trong một giàn thiêu cháy chậm để tự sám hối cho những tội lỗi đã phạm phải đối với Guru của ông ta: đã tự học triết lý Phật giáo mà không để thầy biết để có thể phủ nhận triết lý đó. Điều này đã thành một tội theo như kinh Vedas. do đó đã yêu cầu Adi Shankara đi đến (ngày nay được biết đến như là Maheshwar ở Madhya Pradesh) để gặp Mandana Mishra và tranh luận với ông ta.
Adi Shankara đã có một cuộc tranh luận nổi tiếng với Mandana Mishra mà vợ của Mandana Mishra, , là trọng tài. Sau khi tranh luận trên mười lăm ngày, Mandana Mishra chấp nhận thất bại. sau đó thách thức Adi Shankara tranh luận với bà ta để có một chiến thắng 'hoàn toàn'. Cuộc tranh luận này là về đề tài ("khoa học tình dục"). Nhưng Adi Shankara, vì là một sannyasi, không có kiến thức về đề tài đó; do vậy, sau khi yêu cầu một ít thời gian chuẩn bị trước khi vào cuộc tranh luận mới này, ông nhập vào cơ thể của một vị vua sử dụng những quyền năng yoga của mình để thu nhận kiến thức về . Tuy nhiên sau đó, khước từ tranh luận với ông và cho phép Mandana Mishra chấp nhận sannyasa với tên tu sỹ (pháp danh) mới, như là đã đồng ý trong điều kiện của cuộc tranh luận.
Dig-vijaya
Adi Shankara sau đó du hành cùng các đồ đệ đến Maharashtra và Srisailam. Ở Srisailam, ông sáng tác Shivanandalahari, một bài thánh nhạc ca tụng thần Shiva. Madhaviya Shankaravijayam kể rằng khi Shankara chuẩn bị hy sinh bởi một Kapalika, thần Narasimha xuất hiện cứu lấy Shankara theo lời cầu xin của Padmapada. Do đó Adi Shankara sáng tác Laksmi-Narasimha stotra.
Sau đó ông du hành đến , đền thờ của Hari-Shankara và đền thờ tại Kollur. Tại Kollur ông thu nhận một cậu bé được tin là bị bỏ rơi bởi bố mẹ cậu, như là đệ tử. Ông đặt tên cậu ta là, ("người với trái amalaka trên lòng bàn tay", nghĩa là, người đã rõ ràng tự nhận ra chính mình). Sau đó, ông ghé thăm để thiết lập và thu nhận làm đệ tử.
Sau việc này, Adi Shankara bắt đầu một Dig-vijaya ("du hành truyền đạo") để quảng bá triết lý Advaita và tranh luận với các triết lý đối nghịch. Với vị vua người Malayali tên là Sudhanva như là bạn đồng hành, Shankara đi xuyên qua Tamil Nadu, Andhra Pradesh và Vidarbha. Ông sau đó bắt đầu đi về phía Karnataka nơi ông gặp phải một toán người Kapalika có vũ trang. Vua Sudhanva, cùng với quân đội của ông ta, chống lại và đánh bại toán người Kapalika. Họ đến Gokarna an toàn nơi Shankara tranh luận và thắng cuộc một học giả Shaiva, tên là Neelakanta.
Đi về phía tây ở vùng Dwarka, Shankara lại đánh bại trong một cuộc tranh luận. xứ Ujjayini, người ủng hộ triết lý Bhedābeda philosophy, chịu thua. Tất cả các học giả của Ujjayini (cũng được biết đến như là Avanti) chấp nhận triết lý của Adi Shankara. Ông sau đó thắng Jainas tại một nơi gọi là Bahlika. Sau đó, ông gặp một tantrik, Navagupta tại Kamarupa. Navagupta giả vờ xin làm đệ tử của ông, nhưng sau đó đã làm cho phát triển một chứng đau ruột (rectal fistula). Tuy nhiên, Adi Shankara được chữa lành nhanh chóng và Navagupta sau này chết vì cùng một chứng bệnh.
Adi Shankara do đó đã du hành khắp Ấn Độ, từ Nam Ấn Độ đến Kashmir và Nepal, truyền bá tư tưởng cho dân địa phương và tranh luận về triết học với các học giả Hindu, Phật giáo và các nhà sư dọc trên đường đi.
Lên đến Sarvajnapitha
Adi Shankara ghé ở Kashmir (nay là Kashmir thuộc Pakistan). Madhaviya Shankaravijayam kể rằng ngôi đền này có bốn cửa cho các học giả từ bốn hướng khác nhau. Cửa mở về phía nam(tượng trưng cho Nam Ấn Độ) chưa bao giờ được mở, cho thấy chưa có một học giả nào từ phía Nam Ấn Độ đã bước vào Sarvajna Pitha. Adi Shankara đã mở cánh cửa phía nam bằng cách đánh bại các học giả nơi đó trong các trường phái triết học khác nhau như là Mimamsa, Vedanta và các nhánh khác của triết lý Hindu; ông đã lên ngôi thông thái vô lượng của ngôi đền đó. Madhaviya Shankaravijayam kể rằng Nữ thần Saraswati ("nữ thần của kiến thức và văn chương") đã chứng nhận chiến thắng về mặt học thuật của Adi Shankara trong dịp đó.
Shankara sau đó du hành đến Kedarnath và đạt được videha mukti ("sự giải thoát cuối cùng") ở tuổi ba mươi hai. Tuy nhiên, có nhiều dị bản khác nhau về những ngày cuối cùng của cuộc đời ông. Những người theo matha Kanchi (đền thờ Kanchi) tin rằng ông đạt được videha mukti ở Kanchi. Một truyền thống khác kể lại bởi Keraliya Shankaravijaya đặt nơi chết của ông ở đền Vadakkunnathan ở vùng Thrissur, Kerala.
Niên đại
Các học giả hiện đại đồng ý năm sinh - năm mất 788 – 820 CE, mặc dù không thể nào đạt đến sự đồng ý chung về ngày sinh hay ngày mất của Adi Shankara. Một vài Shankara , tuy vậy, đã cho niên đại xưa hơn. Nếu những ngày này là đúng, họ cần phải đẩy lùi lại niên đại của Buddha (được xem như là cột mốc của lịch sử hiện đại Ấn Độ). Một trong những Shankara lớn còn hoạt động ngày nay, những tu viện lớn ở Kanchi, Dwaraka, và Puri cho rằng Adi Shankara sống trong khoảng 509 – 477 TCN. , ngược lại, chấp nhận thời gian 788–820 CE dates. (See also Mathas). Theo như cuốn sách của Swami Niranjanananda Saraswati viết về tiểu sử của Adi Shankara, xuất bản trong cuốn sách Sannyasa Darshan của ông, Adi Shankara sinh ra ở Kalady, Kerala, vào năm 686, và đạt được mahasamadhi tại Kedarnath, Uttaranchal, vào năm 718.
Các Matha
Adi Shankara thành lập bốn , để hướng dẫn Ấn Độ giáo. Những đền thờ này tại Sringeri ở Karnataka ở phía nam, Dwaraka ở Gujarat ở phía tây, Puri ở Orissa ở phía đông, và Jyotirmath (Joshimath) ở Uttaranchal phía bắc. Truyền thống Hindu nói rằng ông trao quyền điều hành những đền thờ (matha) này cho bốn đại đệ tử: Sureshwaracharya, Hastamalakacharya, Padmapadacharya, và Totakacharya. Những người đứng đầu các matha này có thể lần ngược quyền hạn của họ đến những người này. Mỗi người đứng đầu của bốn matha này có danh hiệu là Shankaracharya
("Shankara thông thái") theo tên Shankara đầu tiên. Matha tại Kanchipuram, Tamil Nadu, nói rằng họ được thành lập bởi chính Adi Shankara.
Bảng sau đưa ra tóm tắt tổng quát về bốn Amnaya Mathas thành lập bởi Adi Shankara và các chi tiết của họ.
Triết lý và tư tưởng
Advaita ("non-dualism", "bất nhị") thường được gọi là một hệ thống suy nghĩ độc thần. Từ "Advaita" chủ yếu là chỉ về danh tính của Bản thể (Atman) (Self) và Toàn thể (Brahman). Các kinh sách chính cho các trường phái của là Prasthanatrayi–các văn bản chính tắc bao gồm Áo nghĩa thư, Bhagavad Gita và Brahma Sutras.
Adi Shankara là người đầu tiên trong truyền thống này đã củng cố lại ("học thuyết") của Advaita Vedanta. Ông viết các bài bình luận về Prasthana Trayi. Một câu nói nổi tiếng từ , một trong các prakarana granthas của ông tóm tắt súc tích triết lý của ông là: Brahman là sự thật duy nhất, thế giới này là không có thực, và trên hết là không có sự khác nhau giữa Brahman và từng bản thể cá nhân.
Advaita Vedanta dựa trên ("kinh sách"), yukti ("suy luận") và anubhava ("kinh nghiệm"), và được giúp đỡ bởi karma ("các thực hành về tâm linh"). Triết lý cung cấp một cách sống dứt khoát phải được tuân theo. Bắt đầu từ tuổi thơ, khi việc học phải bắt đầu, triết lý này phải được nhận ra trong thực hành trong suốt cuộc đời một người cho đến khi chết.
Đây là lý do tại sao triết lý này được gọi là triết lý dựa trên kinh nghiệm, nguyên lý ẩn bên dưới là "Đó chính là bạn", nghĩa là cuối cùng thì không có sự khác nhau giữa người tạo ra kinh nghiệm và người nhận kinh nghiệm (thế giới) cũng như là linh hồn của cả vũ trụ (Brahman). Trong những người theo Advaita, cũng như các học thuyết khác, có những người tin là đã xuất hiện Jivanmuktas, nghĩa là những người đã được giải thoát trong khi vẫn còn sống. Những cá nhân này (thường được gọi là Mahatma, những linh hồn vĩ đại, giữa những người Hindu) là những người đã nhận ra được sự thống nhất giữa cá nhân họ và linh hồn của vũ trụ gọi là Brahman.
Về Advaita Vedanta
Bhashyas của Adi Shankara (các bài khảo luận) về Áo nghĩa thư, Bhagavad Gita và Brahma Sutra là những tác phẩm chính và không ai chối cãi đó là những tác phẩm của bản thân ông. Mặc dù ông hầu như theo sát những cách thức truyền thống về cách bình luận về Brahma Sutra, có nhiều ý tưởng và lý luận mới của riêng ông để thiết lập rằng điều cốt lõi trong Upanishads là Advaita. Ông dạy rằng chỉ thông qua kiến thức trực tiếp của Brahman mà một người có thể được khai sáng.
Những người chống lại Adi Shankara đã buộc tội ông đã giảng dạy Phật giáo trên danh nghĩa của Ấn Độ giáo, bởi vì những lý tưởng nhất nguyên của ông có vẻ hơi đi trước thời đại của triết lý Hindu đương thời. Tuy nhiên, cần chú ý rằng mặc dù những người theo Phật giáo sau này đã đạt đến một sự thật không thay đổi, bất tử, tuyệt đối sau khi hiểu được ảo ảnh của samsara, theo lịch sử những Vedantin (người theo chủ thuyết Vedanta) không bao giờ thích ý tưởng này. Mặc dù Advaita đưa ra lý thuyết Maya, giải thích vũ trụ chỉ là một "trò tinh nghịch của một nhà ảo thuật", Adi Shankara và những người theo ông thấy điều này như là một hệ quả của giả sử căn bản của họ rằng chỉ có Brahman là có thực. Ý của họ về Maya bắt nguồn từ niềm tin của họ về sự thật hiện hữu của Brahman, hơn là theo chiều suy luận ngược lại.
Lịch sử và di sản
Vào thời điểm mà Adi Shankara sống, Ấn Độ giáo đã bắt đầu suy giảm vì ảnh hưởng của Phật giáo và đạo Jain. Ấn Độ giáo đã bị chia là thành vô số các giáo phái khác nhau, mỗi giáo phái lại tranh cãi với tất cả các phái còn lại. Những người theo triết lý Mimamsa và Sankhya là những người vô thần, đến mức mà họ không tin vào Ishvara như là một bản thể thống nhất. Ngoài những người vô thần, còn có vô số giáo phái khác thuộc trường phái hữu thần. Cũng có những người từ chối kinh Veda, như là Charvaka.
Adi Shankara tổ chức những bài nói chuyện và những cuộc tranh luận với các học giả hàng đầu của tất cả các giáo phái này và các trường phái triết học để tranh luận về học thuyết của họ. Ông đã thống nhất các phái hữu thần thành một hệ thống theo khuôn khổ Shanmata thông thường. Trong các tác phẩm của mình, Adi Shankara nhấn mạnh sự quan trọng của Vedas, và cố gắng của ông giúp đỡ Ấn Độ giáo đã mạnh dần lên và ngày càng phổ biến. Nhiều người truy ngược sự phổ biến của Vedanta trên thế giới ngày nay là nhờ vào các tác phẩm của ông. Ông du hành bằng cách đi bộ đến nhiều phần khác nhau của Ấn Độ để khôi phục lại sự nghiên cứu của kinh Vedas.
Mặc dù ông chỉ sống được ba mươi hai năm, ảnh hưởng của ông trên toàn Ấn Độ và lên Ấn Độ giáo là hết sức đáng kể. Ông giới thiệu một dạng suy nghĩ Vedic trong sáng hơn. Những lời dạy của ông và truyền thống tạo thành cơ sở cho Smartism và đã ảnh hưởng đến dòng tu Sant Mat. Ông là nhân vật chính trong truyền thống của Advaita Vedanta. Ông là người sáng lập ra chế độ tu của Ấn Độ giáo và của truyền thống Smarta. Ông giới thiệu một dạng thờ phụng.
Adi Shankara, cùng với Madhva và Ramanuja, đóng vai trò lớn trong việc khôi phục lại Ấn Độ giáo. Ba vị thầy này làm thành các học thuyết được theo bởi các giáo phái của họ ngay cả đến ngày hôm nay. Họ là những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử cận đại của triết lý Hindu. Trong các bài viết và các thảo luận của họ, họ đã cung cấp những phản biện chống lại các trường phái phi-Vedantic của Sankhya, Vaisheshika... Do đó họ đã mở đường để cho Vedanta trở thành chủ đạo và là truyền thống được theo một cách rộng rãi nhất trong các trường phái của triết lý Hindu.
Trường phái Vedanta nhấn mạnh nhất trên các Áo nghĩa thư (mà chúng được gọi là Vedanta, Kết thúc hay là tích lũy của Vedas), không giống như các trường phái khác đặt sự quan trọng lên các bộ sách viết ra bởi người sáng lập trường phái. Trường phái Vedanta có niềm tin vào kinh Vedas, mà bao gồm cả Áo nghĩa thư, là không có tác giả, tạo thành một truyền thống liên tục với sự thông thái được truyền miệng. Do đó khái niệm apaurusheyatva ("không tác giả") trở thành một lực hướng dẫn đằng sau các trường phái Vedanta. Tuy nhiên, cùng với nhấn mạnh sự quan trọng của truyền thống Vedic, Adi Shankara cũng cho một sự quan trọng tương đương đối với kinh nghiệm bản thân của người học trò. Logic, ngữ pháp, Mimamsa và các môn liên quan khác tạo thành các lãnh vực nghiên cứu chính trong tất cả các trường phái Vedanta.
Một câu thơ nổi tiếng, được đọc trong truyền thống Smarta, để ghi nhận công lao của Adi Shankara là:
|
||
|
||
Ta cúi chào nơi ở đầy tình thương của Vedas, Smritis và Puranas được biết như là Shankara Bhagavatpada, người làm cho thế giới thêm tốt lành.
Các tác phẩm
Các tác phẩm của Adi Shankara chủ yếu là nói đến sự thiết lập một cách có logic các học thuyết về Advaita Vedanta như là ông nhận thấy trong Áo nghĩa thư. Ông đã hệ thống hóa học thuyết Advaita Vedanta bằng cách dựa các lập luận của mình trên các trích dẫn từ kinh Vedas và cácthánh điển Hindu khác. Ông đặt trọng tâm vào svānubhava ("kinh nghiệm bản thân") của học sinh. Các tác phẩm của ông hầu hết là các bài viết mang tính tranh luận. Ông chủ yếu hướng các tranh luận của mình về phía Sankhya, Phật giáo, Jaina, Vaisheshika và các nhánh không-vedantic khác của triết lý Hindu.
Theo truyền thống, các tác phẩm của ông được xếp loại dưới dạng ("bình giảng"), ("khảo luận triết học") và Stotra ("bài thánh nhạc"). Những bài bình giảng cung cấp một diễn dịch nhất quán về các thánh điển Ấn Độ giáo dưới quan điểm của Advaita Vedanta. Những khảo luận triết học cung cấp nhiều phương pháp khác nhau để học sinh hiểu được học thuyết đó. Những bài thánh nhạc giàu tính thơ ca và tôn giáo, đề cao tín đồ và sự vinh quang của thần linh. Trong các tác phẩm của ông, độ xác thật của Viveka Chudamani và một vài Bhashyas còn nghi vấn.
Adi Shankara viết Bhashyas về mười tập chính của Áo nghĩa thư, về Brahma Sutra và Bhagavad Gita. Trong các tác phẩm của ông, ông trích dẫn từ Shveshvatara, Kaushitakai, Mahanarayana và Jabala Upanishads, và nhiều người khác. Bhashyas về Kaushitaki, Nrisimhatapani và Shveshvatara Upanishads vẫn còn lưu lại nhưng độ chính xác có nhiều nghi ngờ. Các bình giảng của Adi Shankara về Brahma Sutras là bài sớm nhất nói về đề tài này còn lại hiện nay. Tuy nhiên Adi Shankara đề cập đến những bài bình giảng xưa hơn như là các bài của Dravida, Bhartiprapancha và nhiều người khác.
Trong Brahma Sutra Bhashya, Adi Shankara dẫn ra các ví dụ của Dharmavyadha, Vidura và một số người khác được sinh ra với kiến thức về Brahman thu nhận được trong các kiếp sống trước. Ông đề cập rằng ảnh hưởng đó không ngăn cản họ làm việc trên kiếp sống hiện tại của họ. Ông nói rằng kiến thức phát sinh từ việc nghiên cứu kinh Vedas có thể có được thông qua Puranas và Itihasa. Trong Taittiriya Upanishad Bhashya 2.2, ông nói:
Tất cả mọi người đều có quyền biết đến kiến thức (của Brahman) và rằng mục đích tối thượng sẽ đạt được chỉ bằng kiến thức đó mà thôi.
Chú thích |
Máy bay được phân loại là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ tư là những chiếc được đưa vào sử dụng trong khoảng thời gian từ 1980-2010, thể hiện những khái niệm thiết kế của thập kỷ 1970. Những bản thiết kế thế hệ thứ tư bị ảnh hưởng nhiều từ những bài học có được từ những thế hệ máy bay chiến đấu trước đó. Những chiếc đại diện cho thế hệ này gồm loạt máy bay chiến đấu "mới" của Hoa Kỳ (F-14, F-15, F-16, và F/A-18) cùng những chiếc MiG-29 và Su-27 của Xô viết. Giá thành ngày càng cao cộng với những thành công rõ ràng của những chiếc máy bay chiến đấu đa chức năng như F-4 Phantom II khiến những chiếc máy bay loại này ngày càng trở nên phổ biến. Những tên lửa không đối không tầm xa, trước kia được cho là đã khiến những trận không chiến tầm gần trở thành dĩ vãng, đã được chứng minh là mang lại ít hiệu quả hơn mong đợi; vì thế các nhà thiết kế đã quay sang nhấn mạnh trên khả năng thao diễn.
Sự tiến bộ nhanh chóng của máy vi tính trong thập kỷ 1980 và 90 đã cho phép nâng cấp liên tục các ứng dụng điện tử vào máy bay trong suốt quãng đời hoạt động của chúng, các hệ thống mới được tích hợp thêm như mạng điện tử quét chủ động (AESA), kênh điện tử số (digital avionics buses), và tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại (IRST). Nhờ những cải tiến tăng cường tính năng, những chiếc máy bay đó và những bản thiết kế mới trong thập kỷ 1990 đã có thêm nhiều khả năng mới, thỉnh thoảng thuật ngữ thế hệ thứ 4.5 được sử dụng để chỉ những chiếc máy bay loại này. Và thuật ngữ này cũng mang chủ đích phản ánh một lớp máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư đã được tích hợp những cải tiến mang tính cách mạng như các kênh điện tử tích hợp và những yếu tố tàng hình khác. Ví dụ đầu tiên của thế hệ này là chiếc F/A-18E/F Super Hornet, một phiên bản cải tiến của chiếc Hornet thập kỷ 1970. Chỉ riêng các tính năng khí động học căn bản vẫn giữ như cũ, các bộ phận khác đều được cải tiến: buồng lái toàn kính, radar AESA trạng thái rắn mạng pha chủ động, động cơ mới, các vật liệu khung bằng composite nhằm giảm trọng lượng và hình dạng hơi được sửa đổi để giảm diện tích phản hồi radar.
Danh sách các máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư
Dassault Mirage 2000/N/D
Dassault Rafale
HAL Tejas
IAI Kfir (C.10 và C.12)
Chengdu J-10
Shenyang J-11
Shenyang J-15 (hải quân)
Xian JH-7
/
CAC JF-17 Thunder
/
AIDC F-CK-1 Ching-kuo
/
Sukhoi Su-30MKI
Mikoyan MiG-29K
-
Mikoyan MiG-29/MiG-29M/MiG-35
Mikoyan MiG-29K (hải quân)
Mikoyan MiG-31
Sukhoi Su-27/Su-30/Su-35
Sukhoi Su-33 (hải quân)
Sukhoi Su-34
KAI FA-50 (dự kiến bay lần đầu năm 2012)
Saab JAS 39 Gripen
///
Eurofighter Typhoon
/
Panavia Tornado ADV
General Dynamics/Lockheed Martin F-16 Fighting Falcon
Grumman F-14 Tomcat (hải quân)
McDonnell Douglas F/A-18 Hornet/F/A-18E/F Super Hornet (hải quân)
McDonnell Douglas/Boeing F-15 Eagle/F-15E Strike Eagle/F-15SE Silent Eagle
/
Mitsubishi F-2
Dự án hủy bỏ
FMA SAIA 90 (không chế tạo)
Dassault Mirage 4000 (bay lần đầu ngày 9/3/1979)
IAI Lavi (bay lần đầu ngày 31/12/1986)
IAI Nammer (bay lần đầu ngày 21/3/1991)
Ba Lan
PZL-230 Skorpion
ALR Piranha
Chengdu J-9 (không chế tạo)
Shenyang J-13 (không chế tạo)
IAR 95 (không chế tạo)
Atlas Carver (không chế tạo)
-
M-ATF (không chế tạo)
Mikoyan Project 1.44 (mẫu trình diễn công nghệ)
Sukhoi Su-47 (bay lần đầu ngày 25/9/1997) (mẫu trình diễn công nghệ)
Yakovlev Yak-141 (bay lần đầu ngày 9/3/1987)/Yak-43 (không chế tạo)
Yakovlev Yak-45 (không chế tạo)
British Aerospace EAP (bay lần đầu ngày 8/8/1986) (mẫu trình diễn công nghệ)
Northrop YF-17 (bay lần đầu ngày 9/6/1974)
Northrop F-20 Tigershark (bay lần đầu ngày 30/8/1982)
Novi Avion (không chế tạo)
Đánh giá thiết kế
Tính năng thao diễn
Từ trước tới nay tính năng thao diễn luôn được coi là một trong những điểm quan trọng nhất trong thiết kế máy bay, bởi nó cho phép máy bay đạt được vị trí thích hợp nhất cho việc sử dụng vũ khí trong khi khiến đối thủ không thể sử dụng vũ khí của họ. Điều này có thể xảy ra ở tầm xa (vượt quá tầm nhìn (BVR)) hay tầm gần (trong tầm nhìn (WVR)). Ở tầm gần, vị trí lý tưởng là phía sau máy bay địch, nơi có thể ngắm hay phát hỏa vũ khí và đuôi phụt khí nóng của máy bay trước chính là mục tiêu tuyệt vời cho các tên lửa tìm nhiệt. Ở tầm xa, tuy khó quan sát bằng quang học, nhưng dù sao vẫn có lợi thế ngăn chặn máy bay địch trước khi chúng tiếp cận mục tiêu.
Hai mục tiêu đó đều là yêu cầu thiết kế - ngăn chặn đòi hỏi có tốc độ tốt, trong khi ở tầm gần đòi hỏi khả năng đổi hướng và tăng tốc nhanh chóng. Trước thập niên 1970, quan điểm phòng thủ thông thường cho rằng tên lửa sẽ đưa các cuộc đối đầu tầm gần vào dĩ vãng và vì thế các tính năng thao diễn là không cần thiết. Thực tế chiến đấu cho thấy điều này không chính xác vì chất lượng tên lửa không tốt. Dù các cải tiến trong công nghệ tên lửa có thể giúp điều này trở thành hiện thực, kinh nghiệm cho thấy các bộ phận cảm biến không phải lúc nào cũng hoạt động hoàn hảo và các máy bay chiến đấu sẽ cần khả năng tiếp cận và thao diễn tầm gần. Vì thế trong khi những chiếc máy bay phản lực chiến đấu thế hệ thứ ba đầu tiên (như chiếc F-4 và Mig-23) được thiết kế với tính năng đánh chặn và có nhấn mạnh thêm khả năng thao diễn, thì những chiếc đánh chặn ở thế hệ thứ tư chú trọng nhất tới tính thao diễn.
Hai yếu tố chính ảnh hưởng tới khả năng thao diễn máy bay - khối lượng năng lượng do động cơ tạo ra, và khả năng kiểm soát các bề mặt của máy bay để hướng năng lượng đó theo các hướng khác nhau. Khả năng thao diễn chiến đấu (ACM) phụ thuộc rất nhiều vào việc kiểm soát năng lượng, bởi năng lượng là tổng của độ cao và tốc độ. Máy bay càng có năng lượng lớn càng phải có độ linh hoạt trong kiểm soát hướng phụt cao. Một máy bay có năng lượng thấp là một mục tiêu bất động và không được bảo vệ. Cần nhớ rằng năng lượng không phải lúc nào cũng cân bằng với tốc độ; tuy nhiều năng lượng sẽ mang lại khả năng tăng tốc tốt, nhưng tốc độ tối đa của máy bay được quyết định ở việc nó tạo ra bao nhiêu sức cản với không khí. Chính đây là điểm cần tính toán để có mức cân bằng hợp lý. Những mẫu thiết kế mức cản không khí thấp có cánh rất nghiêng, nhỏ và mập để khuấy động dòng không khí ở mực độ thấp nhất. Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa chúng bị thu hẹp đáng kể khả năng biến đổi dòng không khí, là mấu chốt cho khả năng thao diễn của máy bay.
Có hai chỉ số về các yếu tố này. Khả năng quay vòng của một chiếc máy bay có thể được tính phỏng chừng theo chất tải cánh, được xác định khi lấy tổng khối lượng máy bay chia cho các diện tích nâng của nó. Cánh chất tải lớn ít có khả năng tạo thêm lực nâng phụ, và vì thế làm giảm khả năng quay vòng, trong khi những cánh chất tải nhỏ có khả năng tạo thêm lực nâng phụ và vì thế có lực nâng tiềm tàng lớn hơn. Một cách ước tính khả năng tăng tốc là lấy lực đẩy động cơ máy bay chia cho tỷ lệ trọng lượng.
Ghi chú:
các giá trị lấy theo trọng lượng cất cánh thông thường, trừ khi được ghi chú đặc biệt.
một số trọng lượng cất cánh và lực đẩy không phải là con số chính thức; vì thế chúng là giá trị ước tính.
Điều chỉnh hướng phụt
Điều chỉnh hướng phụt luồng khí là một công nghệ mới được đưa vào nhằm tăng hơn nữa khả năng quay vòng của máy bay chiến đấu. Bằng cách điều chỉnh hướng phụt của dòng khí phản lực, máy bay có thể chuyển đổi trực tiếp năng lượng động cơ thành những thay đổi hướng, hiệu quả cao hơn rất nhiều so với việc sử dụng sự kiểm soát bề mặt máy bay. Kỹ thuật này đã được áp dụng cho chiếc Mikoyan MiG-35, Sukhoi Su-30MKI và những phiên bản sau này, chiếc F-22 Raptor. Người Mỹ đã thử nghiệm kỹ thuật mới trên những chiếc F-16 và F-15 STOL/MTD, nhưng chỉ áp dụng chính thức trên chiếc F-22 Raptor. Một số thông tin cho thấy chiếc J-10 và Typhoon cũng có thể sẽ được tích hợp công nghệ điều khiển hướng phụt.
Siêu tốc
Siêu tốc là khả năng vượt một cách hiệu quả bức tường âm thanh của máy bay mà không cần sử dụng buồng đốt lần hai. Vì những hiệu ứng cản không khí phụ thêm, máy bay chiến đấu mang vũ khí ngoài phải chịu thêm nhiều lực cản khi đạt tới tốc độ gần âm thanh, khiến nó không thể hay không được phép vượt bức tường âm thanh nhằm tiết kiệm nhiên liệu. Dù khi không mang vũ khí các máy bay chiến đấu dễ dàng vượt qua Mach 1 và 2 khi tái đốt nhiên liệu, và loại English Electric Lightning có khả năng vượt qua Mach 1 mà không cần sử dụng tính năng đó, tuy nhiên chúng cũng chỉ là trong tập huấn thông thường và không mang theo vũ khí.
Nhờ những cải thiện về năng suất động cơ cũng như những thiết kế phù hợp khí động học hơn của khoang chứa, hiện nay các máy bay chiến đấu có thể đạt tới siêu tốc khi mang vũ khí. Chiếc Typhoon và chiếc F-22 (thế hệ thứ năm) là những chiến đấu cơ hiện đại duy nhất có khả năng này. Dassault tuyên bố chiếc Rafale có thể vượt ngưỡng âm thanh nhưng tuyên bố này chưa được chứng minh. Chiếc Typhoon có thể đạt tốc độ Mach 1.5 khi mang sáu tên lửa và không mang thùng dầu phụ, hay Mach 1.3 khi mang đủ vũ khí. Dù các tính năng kỹ thuật còn chưa được công bố, chiếc F-22 được tin rằng có tính năng tốc độ ưu việt, vì nó chứa vũ khí ở khoang bên trong.
Thiết bị điện tử
Điện tử hàng không là cách diễn đạt tất cả các hệ thống điện tử lắp đặt trên một máy bay, hiện này các thiết bị này ngày có tính phức tạp cũng tầm quan trọng lớn hơn. Các nhân tổ chủ chốt của hệ thống điện tử là các cảm biến (radar và cảm ứng hồng ngoại), các máy tính và các kênh dữ liệu, và giao diện người dùng. Vì chúng có thể được tháo dỡ và thay thế hoàn toàn bằng kỹ thuật mới, nên trong suốt thời gian hoạt động của máy bay, các hệ thống điện tử được nâng cấp liên tục. Các chi tiết về các hệ thống đó được bảo vệ rất cẩn mật. Bởi vì nhiều loại máy bay xuất khẩu chỉ được trang bị các hệ thống điện tử lỗi thời, nhiều quốc gia khách hàng thường phải tự phát triển hệ thống điện tử của riêng mình, thỉnh thoảng đạt chất lượng vượt xa nguyên bản. Ví dụ loại Sukhoi Su-30MKI bán cho Ấn Độ, loại F-15I và F-16I bán cho Israel, và loại F-15K bán cho Hàn Quốc.
Bộ phận cảm biến quan trọng nhất của mọi máy bay chiến đấu hiện đại là radar. Hoa Kỳ là nước tiên phong sử dụng các radar AESA trạng thái rắn, không hề có các phần di chuyển và có thể chiếu một chùm tia nhỏ hơn cũng như có mức độ quét nhanh hơn. Nó được trang bị cho loại F-15C, F/A-18E/F Super Hornet, và 60 chiếc F-16 (xuất khẩu), và sẽ được tích hợp cho mọi máy bay chiến đấu tương lai của Hoa Kỳ. Một liên minh ở châu Âu là GTDAR hiện đang phát triển một radar AESA cho loại Typhoon và Rafale, và hiện ta không biết Nga và Trung Quốc có đang phát triển các radar AESA riêng của họ không. Đối với thế hệ F-22 và F-35 tiếp theo, Hoa Kỳ sẽ sử dụng mạng lưới dữ liệu xác suất can thiệp thấp (LPI). Nó cho phép trải rộng năng lượng một xung radar ra nhiều tần số, vì thế không bị máy thu cảnh báo radar hiện lắp trên mọi máy bay phát hiện.
Để đối phó với các thiết kế mới nhấn mạnh trên tính năng tàng hình trước radar của Mỹ, Liên bang xô viết đã quay sang dùng các bộ cảm biến mới. Các cảm biến này tập trung vào tính năng tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại (IRST), lần đầu được sử dụng trên những chiếc máy bay chiến đấu F-101 Voodoo và F-102 Delta Dagger của Mỹ trong thập niên 1960, để dò tìm và theo dõi các mục tiêu trên không. Chúng gồm một TV camera ở chiều dài sóng hồng ngoại, có thể tự động đo phát xạ hồng ngoại do các mục tiêu phát ra. Tuy nhiên, vì các cảm biến bị động có mức độ hạn chế, và vốn không phát hiện được dữ liệu về vị trí cũng như hướng của các mục tiêu - chúng cần được so sánh với những hình ảnh thu được. Các cảm biến IRST hiện đã trở thành tiêu chuẩn trên mọi máy bay Nga. Ngoại trừ chiếc F-14D (đã chính thức ngừng hoạt động từ tháng 9 năm 2006), không một máy bay chiến đấu phương tây nào mang các cảm biến IRST để thám sát trên không, dù loại tương tự là FLIR thường được dùng để do thám mục tiêu dưới đất. Thế hệ F-22 và F-35 sẽ có các cảm biến IRST tích hợp sẵn, dù ở loại F-35 để do thám mục tiêu mặt đất.
Việc ứng dụng chiến thuật khả năng kênh dữ liệu và máy tính của máy bay rất khó xác định. Một kênh máy tính phức tạp sẽ cho phép sử dụng các thiết bị điện tử linh hoạt hơn. Ví dụ, mọi người cho rằng chiếc F-22 có thể phá nhiễu và gây hư hỏng các thiết bị điện tử của đối phương bằng một ứng dụng từ radar của nó. Một đặc tính máy tính có tầm quan trọng chiến thuật lớn khác là đường truyền dữ liệu. Tất cả các máy bay chiến đấu hiện đại của châu Âu và Hoa Kỳ đều có khả năng chia sẻ dữ liệu mục tiêu với các máy bay đồng minh và từ các máy bay AWACS (xem JTIDS). Loại đánh chặn MiG-31 của Sô viết cũng có khả năng truyền dữ liệu, vì thế có thể cho rằng các máy bay Nga cũng có khả năng này. Việc chia sẻ dữ liệu mục tiêu và cảm biến cho phép phi công sử dụng các cảm biến phát xạ và dễ bị phát hiện từ khoảng cách rất xa từ máy bay địch, và sử dụng dữ liệu đó để hướng dẫn các máy bay bí mật của mình tiếp cận mục tiêu.
Giá
Rất khó biết chính xác giá đơn vị của máy bay, bởi vì việc thanh toán dần một chi phí phát triển lớn cho một số lượng đơn vị sản xuất có thể khiến giá thành thay đổi nhiều. Hơn nữa, giá mua không phản ánh các chi phí bảo dưỡng, phụ tùng thay thế, và huấn luyện trong suốt thời gian sử dụng. Một cách xác định giá khá tốt là dựa theo giá xuất khẩu, vốn được công bố rộng rãi, và phản ánh tổng giá thành của chi phí sản xuất cộng thêm một số khoản cho chi phí phát triển khác.
Các con số dưới đây theo USD trừ khi có ghi chú khác.
Dassault Rafale Hơn 80 triệu USD, dựa theo số lượng xuất khẩu
Eurofighter Typhoon Phiên bản Áo: 90 triệu USD
Mitsubishi F-2 US$ 100 triệu
MiG-29 27 triệu USD (1998)
Sukhoi Su-27US$ 30 triệu
Sukhoi Su-30 US$ ~38 triệu (nhiều phiên bản)
Sukhoi Su-30K cho Indonesia: '98 US$ 33 triệu
Sukhoi Su-30MKK/MK2 cho Trung Quốc: '98 US$ 38 triệu
Sukhoi Su-30MKI cho Ấn Độ, phiên bản được quy định rất cụ thể: '98 US$ 45 triệu
Sukhoi Su-30MKM cho Malaysia, một biến thể của phiên bản cho Ấn Độ: '03 US$ 50 triệu
Saab Gripen khoảng '98 US$ 25 triệu
AIDC F-CK-1 Ching-kuo IDF (Đài Loan) số lượng hàng đặt lớn khiến giá đơn vị ở mức US$ 24 triệu
F-14 Tomcat US$ 48 triệu
F-15 Eagle US$ 90 triệu
F-16 Fighting Falcon US$ 60 triệu
F/A-18 Hornet E/F model '98 US$ 70 triệu
F-22 Raptor Tổng chi phí chương trình 2006 US$ 338 tỷ, dựa trên số lượng sản xuất 183 chiếc (khoảng US$ 420 triệu)
F-35 Lightning II:
F-35A US$ 120 triệu
F-35B > US$ 135 triệu
F-35C US$ 130 triệu
Yêu cầu bảo dưỡng
Vì các lực lượng quân đội ngày càng sử dụng nhiều các Chiến dịch Nghiên cứu và các kỹ thuật quản lý khác từ các bên đồng minh nhằm kiểm tra tính hiệu quả của vũ khí, hiện nay bảo dưỡng và tính tinh cậy được đặt thành vấn đề ưu tiên hàng đầu. Một ví dụ là chiếc F/A-18 Hornet. Trong khi trên danh nghĩa không có mấy ấn tượng khi so sánh với những chiếc hiện đại khác, nó lại có thiết kế không đòi hỏi bảo dưỡng nhiều. Nhờ vậy, thời gian hoạt động giữa hai lần bảo dưỡng của nó lớn gấp ba lần bất kỳ một chiếc máy bay chiến đấu nào khác của Hải quân, và thời gian cần thiết để bảo dưỡng nó cũng chỉ bằng một nửa. Điều này khiến tỷ lệ bay của nó đạt rất cao và có hiệu quả lớn hơn bất kỳ một loại máy bay nào khác có tỷ lệ so sánh 1/1 với nó nhưng không thể có mức bay tương tự.
Công nghệ tàng hình
Công nghệ tàng hình là một sự mở rộng ý tưởng từ ngụy trang quang học sang ngụy trang trước các radar hiện đại và các cảm biến phát hiện hồng ngoại. Nó không phải là một máy bay "không nhìn thấy" như quan niệm thông thường, tàng hình là biến một máy bay trở nên khó phân biệt so với bầu trời, các đám mây hay các máy bay ở xa, đó là một ưu thế chiến thuật lớn. Tuy các nguyên tắc cơ bản về việc chế tạo hình dáng máy bay nhằm tránh bị phát hiện đã được biết đến ít nhất từ thập kỷ 1960, nhưng phải tới khi các siêu máy tính đã đạt mức tiến bộ cho phép tính toán hình dạng máy bay nhằm đạt góc phản hồi radar nhỏ nhất thì kỹ thuật này mới có thể đưa vào áp dụng. Việc sử dụng máy tính thiết kế hình dạng, cộng với những vật liệu không phản hồi radar, khiến máy bay có được diện tích phản hồi radar (RCS) ở mức tối thiểu và rất khó bị phát hiện bằng radar.
Trong thập kỷ 1970, thiết kế hình dạng tàng hình mới ở mức độ sơ khai (như thấy ở chiếc F-117 Nighthawk nhiều góc cạnh) khiến tính năng thao diễn của máy bay chiến đấu bị ảnh hưởng nhiều. Những máy tính mạnh hơn cho phép thiết kế hình dạng mượt hơn như chiếc B-2 Spirit, và đã áp dụng tốt những nguyên tắc cơ bản để làm giảm bớt, nếu không nói là giảm mạnh, diện tích phản hồi radar của máy bay. Các kỹ thuật đó được áp dụng cùng lúc với các biện pháp giảm phát xạ hồng ngoại, quang học, âm thanh máy bay.
Những chương trình phát triển máy bay chiến đấu gần đây cả Hoa Kỳ đặt sự chú trọng lớn trên tính năng tàng hình, và chiếc F-22 mới được đưa vào sử dụng gần đây là chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên được thiết kế với ưu tiên tàng hình hàng đầu như vậy. Chiếc F-35 cũng có mức độ thiết kế bề mặt tàng hình tương đương, dù những lá tuốc bin hở phía sau của nó khiến khả năng tàng hình từ đằng sau bị giảm đáng kể (các miệng phụt khí của chiếc F-22 cũng được dùng để che các lá tuốc bin). Nhiều loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư đã được tích hợp thiết kế hình dạng ngoài hay sửa đổi các chi tiết nhằm làm giảm diện tích phản hồi radar, chúng gồm loại Super Hornet, Typhoon, và Rafale.
Cần nhớ rằng thuật nghĩa tàng hình ở đây chỉ được coi là tàng hình đối với các radar đặt trên các máy bay khác. Những radar tần số thấp dưới mặt đất ít bị ảnh hưởng bởi các tính năng tàng hình này. Chương trình radar vượt quá đường chân trời Jindalee của Australia được cho là có thể phát hiện ra sự hỗn loạn không khí yếu do một máy bay tạo ra không cần biết tới những khả năng tàng hình của nó . Cũng cần phải chờ xem liệu một hệ thống như vậy có thể được chế tạo ở mức nhỏ gọn để lắp lên trên một máy bay, và có khả năng tiếp tục theo dõi hay chỉ đơn giản có chức năng cảnh báo mà thôi. Khi mất đi những ưu thế tàng hình chiếc F-35 rất dễ bị tiêu diệt.
Có một số báo cáo cho rằng hệ thống điện tử của chiếc Rafale, Thales Spectra, gồm cả kỹ thuật nhiễu radar "tàng hình", một hệ thống xóa dấu vết radar tương tự như những hệ thống ngăn âm thanh của loại De Havilland Canada Dash 8. Những thiết bị làm nhiễu thông thường khiến việc định vị một máy bay trở nên khó khăn hơn, nhưng khi chúng hoạt động thì đó lại là một yếu tố để các máy bay khác phát hiện ra nó; Hệ thống của người Pháp được cho là có thể làm nhiễu nhưng không dễ dàng bị phát hiện. Trên thực tế, một hệ thống như vậy có thể mang lại những ưu thế tương tự, nhưng không hiệu quả bằng, loại F-22 và JSF. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa biết rõ hệ thống này có hiệu quả cao tới mức nào, hay thậm chí nó đã được sử dụng đầy đủ chưa.
Tương tự, những nghiên cứu nhằm tìm ra cách thức khác để giảm thiểu khả năng bị thám trắc vẫn tiếp tục diễn ra. Đã có những tuyên bố rằng người Nga hiện đang nghiên cứu "tàng hình plasma", . Rõ ràng, kỹ thuật kiểu như vậy có thể tước bỏ một số ưu thế của loại F-22 và JSF hiện nay, nhưng những nghiên cứu của người Mỹ cũng diễn ra không ngừng nghỉ.
Ngoài radar, có nhiều cách khác để thám trắc máy bay. Ví dụ, những cảm biến hồng ngoại bị động có thể phát hiện sức nóng tỏa ra từ động cơ, và thậm chí âm thanh của một tiếng nổ siêu thanh (mà bất cứ một máy bay siêu thanh nào cũng tạo ra). Tuy nhiên, việc sử dụng những cảm biến đó để cung cấp thông tin dẫn đường cho các tên lửa tầm xa kém chính xác hơn rất nhiều so với radar.
Thao diễn chiến đấu
Ngày 28 tháng 4 năm 1981 những chiếc F-16 của Israel đã lần đầu tiên bắn hạ hai chiếc trực thăng Mi-8 'Hip' của Syria trong không chiến. và
Chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên bị F-16 bắn hạ ngày 14 tháng 7 năm 1981 trong Chiến dịch Opera khi một phi công Israel bắn hạ một MiG-21 của Syria.
Ngày 19 tháng 8 năm 1981 Hai chiếc USN F-14A Tomcat thuộc Phi đội 41 đã bắn hạ hai chiếc SU-22 Fitters của Liban trên bầu trời Vịnh Sidra, sau khi một chiếc SU-22 đã bắn một tên lửa không đối không AA-2 "Atoll".
Trong năm 1982, ba chiếc MiG-21 và 2 MiG-23 của Syria đã bị những chiếc F-16 của Israel bắn hạ.
Năm 1983 và 1984 nhiều vị trí phóng tên lửa của Syria tại Liban đã bị tấn công và phá huỷ, trong khi máy bay chiến đấu Syria lao vào không chiến và những chiếc F-16 của Israel và tỷ lệ tiêu diệt là 44-0. and
Ngày 17 tháng 5 năm 1986 một chiếc F-16 của Pakistan đã bắn hạ một chiếc Su-22 của Afganistan, vì thế Pakistan đã trở thành nước thứ hai sau Israel đưa F-16 vào chiến đấu.
Ngày 4 tháng 1 năm 1989 hai máy bay chiến đấu Libya, loại Mig-23, đã trở thành nạn nhân của những chiếc USN F-14A Tomcat thuộc Phi đội 32, xuất phát từ tàu sân bay USS John F. Kennedy.
Ngày 17 tháng 1 năm 1991, trong đêm đầu tiên của Chiến tranh Vùng Vịnh, một phi công Iraq lái chiếc MiG-25PD được thông báo đã bắn hạ một chiếc F/A-18C của Hải quân Hoa Kỳ (do Trung uý Scott Speicher lái), rơi 29 hải lý phía đông nam Baghdad. &
Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, các phi công F-15 của Không quân Hoa Kỳ đã bắn rơi năm chiếc MiG-29 của Iraq
Chiếc F-16 đầu tiên của Không quân Hoa Kỳ sử dụng tên lửa AIM-120 AMRAAM bắn rơi máy bay địch ngày 27 tháng 12 năm 1992 khi một chiếc F-16D bắn rơi một chiếc MiG-25 ở phía nam Iraq.
Ngày 17 tháng 1 năm 1993, một phi công Không lực Hoa Kỳ lái chiếc F-16 đã bắn rơi một MiG-29 của Iraq trên vùng cấm bay. (Một số nguồn tin cho rằng đó là chiếc MiG-23.)
Hai chiếc F-16C của Không lực Hoa Kỳ đã bắn rơi bốn chiếc Soko G-4 Super Galeb của Serbia trên bầu trời Bosnia-Herzegovina trong hai lần xuất kích ngày 28 tháng 2 năm 1994.
Trong Chiến tranh Kosovo, một phi công Hà Lan lái chiếc F-16 đã bắn hạ một MiG-29 của Nam Tư; một chiếc F-16 của Không lực Hoa Kỳ đã bắn rơi một Mig-29, trận không chiến thắng lợi cuối cùng trước loại Mig-29.
Trong Chiến tranh Kosovo năm 1999, các phi công F-15 Không lực Hoa Kỳ đã bắn rơi bốn chiếc MiG-29.
Tháng 2, 1999, trong Chiến tranh Eritrea-Ethiopia, những chiếc Su-27 của Ethiopia đã bắn rơi bốn chiếc MiG-29 của Eritrea. (Một số nguồn tin cho rằng những chiếc máy bay Ethiopia do các phi công Nga lái, những máy bay Eritrea do phi công Ukraine lái. (Nhưng có lẽ thực tế các phi công Eritrea và Ethiopia đã được huấn luyện bởi phi công từ hai nước kia.)
Phân tích so sánh
Sẽ là sai lầm khi so sánh các loại máy bay chiến đấu theo lịch sử tham chiến, bởi vì chức năng của máy bay chiến đấu là một tổng thể mà nhiều yếu tố, gồm các khả năng C4I (chỉ huy, điều khiển, máy tính và tình báo) cũng như huấn luyện có ảnh hưởng lớn tới kết quả chiến đấu. Ví dụ, những kỷ lục bất bại của loại F-15 và F-16 không thể coi là những minh chứng rõ ràng cho thấy ưu thế tuyệt đối của chúng, bởi vì hoạt động chiến đấu của hai loại máy bay đó đều do những phi công được huấn luyện tốt của Hoa Kỳ và Israel điều khiển cộng thêm khả năng C4I so với những đối thủ được huấn luyện kém và khả năng C4I cũng ở mức độ thấp hơn nhiều.
Tuy nhiên, để đánh giá khi mua hàng, các quốc gia thường sử dụng các phân tích so sánh máy bay chiến đấu nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu nhiệm vụ của họ. Hơn nữa, những cuộc tập trận cùng nhau cũng giúp phát hiện tính năng của các máy bay chiến đấu trong một hệ thống.
Nghiên cứu của DERA
Cơ quan nghiên cứu và đánh giá quốc phòng Anh Quốc (hiện đã chia thành QinetiQ và DSTL) đã so sánh (dựa trên giả lập dữ liệu có sẵn) so sánh chiếc Typhoon với một số máy bay chiến đấu hiện đại khác nhằm nghiên cứu khả năng thao diễn chống lại các máy bay đối thủ của nó, chiếc Sukhoi Su-35. Vì thiếu thông tin về thế hệ máy bay chiến đấu thứ năm và loại Su-35 trong thời gian nghiên cứu, đây không nên được coi là kết quả chính thức.
Cuộc nghiên cứu sử dụng những phi công thực sự, bay trong những buồng giả lập mạng JOUST kết nối với nhau. Nhiều dữ liệu giả định máy bay phương tây được đưa vào giả lập chiến đấu chống lại loại Su-35. Kết quả là:
Kết quả có nghĩa, ví dụ, trong chiến tranh giả lập, 4.5 Su-35 bị bắn rơi trên mỗi chiếc Typhoon thiệt hại. Các tên lửa như KS-172 có thể để dành cho những mục tiêu lớn chứ không phải cho máy bay chiến đấu, nhưng hiệu quả của chúng trong chiến đấu tầm xa phải được tính tới.
Chiếc "F/A-18+" dùng nghiên cứu rõ ràng không phải là loại F/A-18E/F, mà là phiên bản cải tiến. Tất cả máy bay phương tây được nghiên cứu đều sử dụng tên lửa AMRAAM, trừ loại Rafale dùng tên lửa MICA. Điều này không phản ánh loại vũ khí không đối không tầm xa của những chiếc Eurofighters (cũng như Rafales), chúng sẽ được trang bị MBDA Meteor tầm xa (còn việc mang tên lửa AMRAAM chỉ là biện pháp tạm thời).
Các chi tiết giả lập không được tiết lộ, khiến ta khó biết được liệu đây có phải là một đánh giá chính xác hay không (ví dụ, liệu họ có được thông tin đầy đủ về máy bay Sukhoi và Raptor để giả lập một cách chính xác với thực tế nhất sự thao diễn chiến đấu). Một vấn đề khác của cuộc nghiên cứu là kịch bản diễn ra trận đánh không rõ ràng; có thể họ đã cố tình hay vô ý đưa ra kịch bản chiến đấu ưu thế cho một loại này hơn loại khác; Ví dụ, những trận đánh tầm xa có lợi cho những chiếc có khả năng tàng hình cao, radar tốt và tên lửa hiện đại hơn, trong khi khả năng thao diễn tốt của Su-35 có thể chỉ có ưu thế trong những trận đánh tầm ngắn. Ta cũng không rõ liệu chiếc Su-35 có được giả lập tính năng điều khiển hướng phụt động cơ hay không (như những loại MKI, MKM hiện có).
Hơn nữa, giả lập của DERA được thực hiện hồi giữa thập kỷ 90 với lượng thông tin còn hạn chế về Diện tích Phản hồi Radar, ECM và khả năng radar của loại máy bay chiến đấu hiện nay: thực vậy, ở thời điểm đó, các máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4/5 đều chỉ đang ở giai đoạn mẫu thử nghiệm.
Báo cáo huấn luyện
Các lực lượng không quân đồng mình thường diễn tập chiến đấu với nhau, và khi sử dụng các loại máy bay khác nhau trong diễn tập họ có thể thu thập được những thông tin liên quan tới khả năng so sánh của các loại đó.
Loại J-10 của Trung Quốc luôn vượt trội những chiếc Flanker trong diễn tập khiến loại máy bay này càng trở nên bí ẩn bởi từ trước tới nay có rất ít thông tin về nó được tiết lộ.
Những kết quả một cuộc diễn tập năm 2004 với những chiếc USAF F-15 Eagles chống lại các loại Su-30MKs, Mirage 2000s, MiG-29s và thậm chí cả loại máy bay thế hệ trước là MiG-21 của Không quân Ấn Độ đã được công bố rộng rãi, Ấn Độ đạt mức tiêu diệt "90% mục tiêu giả" . Một báo cáo khác cho rằng các kinh nghiệm rút ra từ cuộc diễn tập đó cho thấy khả năng rất kém cỏi của loại F-15. Theo báo cáo này, những chiếc F-15 có tỷ lệ 3 chống 1. Các quy định diễn tập cũng cho phép phía Ấn Độ sử dụng một mô hình AWACS cung cấp thông tin vị trí, và cho phép họ sử dụng các radar dẫn đường tự động giả lập của loại tên lửa MBDA Mica và AA-12. Trái lại, những chiếc F-15, không được phép dùng hết tầm loại tên lửa giả lập AMRAAM (hạn chế ở cự li 32 km trong khi tầm tối đa loại này theo thông báo có thể lên đến 100 km), cũng không được sử dụng các hệ thống radar của AMRAAM để dẫn đường tự động cho nó (mà dựa vào radar trong của chiếc F-15 cho mục đích này). Không chiếc F-15 nào được trang bị loại radar AESA mới nhất hiện nay, đã được trang bị cho một số chiếc F-15 trong Không lực Hoa Kỳ.
Cũng cần nhớ rằng Không lực Hoa Kỳ hiện lobby mạnh để đưa loại F-22 vào sử dụng càng nhiều càng tốt, và bằng chứng cho thấy thiết bị của Không quân Hoa Kỳ thua kém so với những máy bay chiến đấu đối thủ tiềm tàng cũng chính là một hành động lobby.
Tháng 6, 2005, trong một cuộc tập trận một phi công Eurofighter được thông báo đã thoát khỏi hai chiếc F-15 bám đuôi và đưa chúng vào tầm ngắm của mình.
Trong Cuộc diễn tập Northern Edge 2006 tại Alaska đầu tháng 6, chiếc F-22 đã chứng tỏ nó có thể đối đầu với 40 "máy bay địch" trong trận chiến giả lập. Chiếc Raptor đạt mức tiêu diệt 108 trên 0 trong cuộc diễn tập này. . |
Lạc Việt (chữ Hán: 雒越 hoặc 駱越) là một bộ tộc trong nhóm bộ tộc Bách Việt ở khu vực Bắc Bộ Việt Nam.
Cổ sử và truyền thuyết
Theo truyền thuyết của Việt Nam, tổ của người Lạc Việt bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, và địa bàn sinh sống lan rộng xuống tận vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay. (Xem Hồng Bàng). Sử sách của Việt Nam cũng chỉ trích dẫn từ các truyền thuyết này. Nguồn cổ sử duy nhất có nói đến Lạc Việt là một số rất ít các sách cổ của Trung Quốc, và các sách này cũng chỉ ghi lại rất ít thông tin (Có thể phần lớn các sách sử ghi lại đã bị tiêu huỷ theo chính sách đồng hoá trong chiến tranh).
Tài liệu cổ nhất viết về Lạc Việt là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4), được sách Thủy kinh chú (thế kỷ 6) dẫn lại như sau:
"Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triều. Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải màu) xanh. Về sau con vua Thục đem ba vạn lính đánh Lạc Vương Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương"
Sử ký Tư Mã Thiên, Nam Việt Úy Đà liệt truyện, có nói về chuyện Triệu Đà thôn tính vùng đất phía Tây, trong đó có nước Âu Lạc, tuy không chỉ rõ vị trí địa lý cũng như dân cư của nước Âu Lạc này. Trích Nam Việt Liệt Truyện:
" Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”. "
"Thương Ngô vương Triệu Quang, cùng họ với Việt vương, nghe tin quân Hán đến, cùng Huyện lệnh Kiệt Dương nước Việt tên là Định, xin nội thuộc Hán; quan Giám ở Quế Lâm nước Việt là Cư Ông hiểu dụ Âu Lạc nội phụ nhà Hán, hai người đều được phong hầu."
Thông tin thêm
Theo giáo sư Vũ Thế Ngọc, chữ "lạc" trong Lạc Việt bắt nguồn từ lak hay nak nghĩa là "nước" trong tiếng Việt cổ. Cũng theo lập luận của ông, chữ "lạc" và chữ "hùng" trong "Hùng Vương" thực ra chỉ là hai phiên âm Hán của cùng một khái niệm Việt: "lạc điền" là ruộng nước rất khác với ruộng “khô” ở phương bắc, dân Lạc Việt là dân biết trồng lúa nước, "lạc tướng" là các tướng của dân Lạc Việt; nhưng khi phiên âm lại bằng tiếng Hán, chữ "Hùng" có ý nghĩa mạnh và đẹp hơn, nên Lạc Vương (vua của dân Lạc Việt) được đổi thành Hùng Vương.
Chú thích |
Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam (tiếng Anh: Southern Airports Corporation) là cơ quan trực thuộc Cục Hàng Không Việt Nam. Trụ sở chính nằm đặt tại sân bay Tân Sơn Nhất số 1 đường Trường Sơn, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Cụm cảng Hàng Không miền Nam quản lý tất cả các sân bay ở miền Nam Việt Nam (bao gồm Sân bay Tân Sơn Nhất, Sân bay Liên Khương, Sân bay Trà Nóc, Sân bay Buôn Ma Thuột, Sân bay Cà Mau, Sân bay Cỏ Ống, Sân bay Rạch Giá, Sân bay Dương Đông...)
Các công ty trực thuộc Cụm cảng Hàng Không miền Nam gồm có SASCO, SAGS... Năm 2006, các sân bay của Cụm cảng hàng không miền Nam đã phục vụ hơn 9 triệu lượt khách, trong đó, riêng Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất phục vụ 8,5 triệu khách.
Năm 2012, Tổng công ty Cảng hàng không Miền Bắc, Tổng công ty Cảng hàng không Miền Trung và Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam đã hợp nhất thành Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam. |
Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống ra đời từ nền văn minh lúa nước. Từ một nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã trở thành một nghệ thuật truyền thống, và là một sáng tạo đặc trưng của người Việt Nam.
Lịch sử
Múa / rối nước đã ra đời chừng hơn 10 thế kỷ trước ở vùng châu thổ sông Hồng. Loại hình này thường diễn vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết, dùng con rối diễn trò, diễn kịch trên mặt nước. Trò rối nước cũng được coi là nét văn hóa phi vật thể đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Do tính đặc sắc, nên từ nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã nhanh chóng trở thành nghệ thuật truyền thống, có thể sánh ngang với tuồng, chèo là những bộ môn nghệ thuật có vị trí cao trong nền sân khấu dân tộc. Múa rối có ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng múa rối nước thì chỉ duy nhất có ở Việt Nam.
Hình thành
Múa rối nước ra đời cùng nền văn minh lúa nước nhưng được hình thành và phát triển vào triều đại nhà Lý (1010 - 1225). Theo thời gian, nghệ thuật múa rối nước được truyền từ đời này sang đời khác, dần dần trở thành một thú chơi tao nhã của người dân Việt Nam trong các dịp lễ hội.
Chứng cứ bằng văn tự đầu tiên ghi chép về múa rối nước Việt Nam là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, dựng năm 1121, trong đó có đoạn viết: "Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn. Phơi mai vân để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững, liếc mắt nhìn lên bờ, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra thần tiên xuất hiện. Đều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong, nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành từng đội xênh xang".
Đặc điểm
Nghệ thuật trò rối nước có những đặc điểm khác với múa rối thông thường: dùng mặt nước làm sân khấu (gọi là nhà rối hay thủy đình), phía sau có phông che (được gọi là tấm y môn) tạo sân khấu biểu diễn múa rối nước y như ban thờ lớn ở Đình, chùa của người Việt, xung quanh trang trí cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... trên "sân khấu" là những con rối (được làm bằng gỗ) biểu diễn nhờ sự điều khiển của những người phía sau phông thông qua hệ thống sào, dây... Biểu diễn rối nước không thể thiếu những tiếng trống, tiếng pháo phụ trợ.
Cách thức hoạt động
Con rối làm bằng gỗ sung, loại gỗ nhẹ nổi trên mặt nước, được đục cốt, đẽo với những đường nét cách điệu riêng sau đó gọt giũa, đánh bóng và trang trí với nhiều màu sơn khác nhau để làm tôn thêm đường nét tính cách cho từng nhân vật. Hình thù của con rối thường tươi tắn, ngộ nghĩnh, tính hài và tính tượng trưng cao.
Phần thân rối là phần nổi lên mặt nước thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm dưới mặt nước giữ cho rối nổi bên trên và là nơi lắp máy điều khiển cho quân rối cử động.
Máy điều khiển và kỹ xảo điều khiển trong múa rối nước tạo nên hành động của quân rối nước trên sân khấu, đó chính là mấu chốt của nghệ thuật trò rối nước.
Máy điều khiển rối nước có thể được chia làm hai loại cơ bản: máy sào và máy dây đều có nhiệm vụ làm di chuyển quân rối và tạo hành động cho nhân vật. Máy điều khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, cống hiến cho người xem nhiều điều kỳ lạ, bất ngờ.
Buồng trò rối nước là nhà rối hay thủy đình thường được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam.
Người nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò để điều khiển con rối. Họ thao tác từng cây sào, thừng, vọt... hoặc giật con rối bằng hệ thống dây bố trí ở bên ngoài hoặc dưới nước. Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó.
Sân khấu rối nước là khoảng trống trước mặt buồng trò. Buồng trò, sân khấu được trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã...Buổi diễn rất nhộn nhịp với lời ca, tiếng trống, mõ, tù và, chen tiếng pháo chuột, pháo thăng thiên, pháo mở cờ từ dưới nước lên, trong ánh sáng lung linh và màn khói huyền ảo.
Trò rối nước là trò khéo lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống giữ vai trò chủ đạo của trò rối nước, nhạc rối nước thường sử dụng các làn điệu chèo hoặc dân ca đồng bằng Bắc Bộ.
Theo các truyền thuyết, huyền thoại lịch sử, trò rối nước ra đời từ thời xây thành Cổ Loa, Kinh An Dương Vương, năm 255 trước công nguyên. Còn theo sử sách, văn bia trò rối nước ra đời năm 1121 (đời Lý).
Trong kho tàng trò rối nước của Việt Nam, có 30 tiết mục cổ truyền và hàng trăm tiết mục rối hiện đại kể về những sự tích dân gian và cuộc sống hàng ngày của người dân Việt. Các trò diễn thường được mở đầu bằng sự giới thiệu của chú Tễu, mô tả:
Những sinh hoạt đời thường như: công việc nhà nông, câu ếch, cáo bắt vịt,
Lễ hội: múa rồng, múa sư tử, rước kiệu, đấu vật, đánh võ, chọi trâu.
Trích đoạn một số tích cổ: Thạch Sanh, Tấm Cám...
Một số phường múa rối nước ở Việt Nam
Nghệ thuật rối nước là đặc phẩm văn hoá bản địa dân tộc Việt, phát triển ở hầu hết các làng xã quanh kinh thành Thăng Long như Đào Thục (Đào Xá) - Huyện Đông Anh, Phường rối nước xã Thanh Hải - Thanh Hà - Hải Dương, Bảo Hà - Vĩnh Bảo - Hải Phòng và nhiều phường rối ở hầu hết các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Ngoài Nhà hát múa rối Trung ương và Nhà hát múa rối Thăng Long, cón có một số phường như Đào Thục, Tế Tiêu, Tràng Sơn, Bình Phú, Thạch Xá, Nguyên Xá và Nam Chấn.
Đặc biệt, trong những địa phương này, nổi bật có rối Thẩm Rộc của đồng bào Tày ở huyện Định Hoá, Thái Nguyên. Từ 13 đời nay, nghề rối được dòng họ Ma Quang gìn giữ. Dù trải qua nhiều thăng trầm, nhưng nghề vẫn được truyền đến ngày nay. Múa rối Thẩm Rộc thuộc loại hình rối que, thông thường phường rối có 12 thành viên gồm người điều khiển, người chơi nhạc và một số người giúp. Cách điều khiển con rối ở phường rối Thẩm Rộc cũng có cách khác với các phường rối khác. Ngoài một số con rối dùng dây giật, cầm trên tay điều khiển, phần lớn các con rối được điều khiển qua các que tre.
Năm 1992, Nhà hát Múa rối Thăng Long tại Hà Nội phục hồi 17 trò rối nước làm sống dậy trò rối nước trên toàn quốc gồm 17 trò: Bật cờ, Chú Tễu, Múa rồng, Em bé chăn trâu, Cày cấy, Cậu ếch, Bắt vịt, Đánh cá, Vinh quy bái tổ, Múa sư tử, Múa phượng, Lê Lợi trả gươm, Nhi đồng vui chơi, Đua thuyền, Múa lân, Múa tiên, Tứ linh.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh có sân khấu múa rối nước Rồng Vàng.
Múa rối nước ở Hải Dương
Ở Hải Dương có ba phường múa rối nước được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại: xã Thanh Hải, huyện Thanh Hà; xã Lê Lợi, huyện Gia Lộc; xã Hồng Phong, huyện Ninh Giang.
Múa rối nước Đào Thục
Rối nước Đào Thục là môn rối nước có xuất xứ tại làng Đào Thục, xã Thuỵ Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Vào thời Hậu Lê làng Đào Thục có Ông Đào Đăng Khiêm (Tự Phúc Khiêm) tên thật là Nguyễn Đăng Vinh quê ở Đào Xá, huyện Yên Phong, Bắc Ninh nay là Đào Thục, xã Thụy lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Sau khi đỗ đạt Thám Hoa (Tiến sĩ) rồi làm quan Nội giám thời vua Lê Hy Tông, được nhà vua yêu mến ban cho nghệ thuật múa rối nước đem về quê hương xây dựng làng Đào Xá cùng với tâm huyết của mình. Vì có công lớn nên dân làng đã viết đơn đề nghị triều đình Hậu Lê phong thần lập bia đá năm 1735 (thời Lê Ý Tông).
Rối nước Đào Thục có màn đốt pháo bật cờ khai mạc và dùng nhân vật Ba Khí giáo trò (Ba khí là đại diện chung cho cả hình ảnh người nông dân Bắc Bộ và anh Ba Khía Miền Nam) đại diện cho cái "khí phách" của người Việt chứ không chỉ là chú Tễu - anh nông dân đồng bằng Bắc Bộ từ xa xưa như các phường rối khác (theo lời Nghệ nhân Nguyễn Thế Nghị).
Múa rối nước Đồng Ngư
Hiện nay chưa có tài liệu nào ghi chép về thời gian ra đời của trò múa rối nước làng Đồng Ngư, xã Ngũ Thái. Trước năm 1945, phường múa rối nước làng Đồng Ngư chủ yếu biểu diễn phục vụ nhân dân trong làng vào những dịp nông nhàn, hội hè, đình đám và đi biểu diễn giao lưu với các phường rối bạn. Sau Cách mạng Tháng Tám, trò múa rối nước mai một dần.
Năm 1986, được sự giúp đỡ của Viện Văn hóa, chính quyền địa phương, Phường rối nước Đồng Ngư được thành lập với sự tham gia của 40 nghệ nhân tâm huyết với nghề.
Năm 2012, nhằm bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật trình diễn múa rối nước của làng Đồng Ngư, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh đã lập hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
Múa rối nước làng Ra
Thủy Đình làng Ra được xây dựng lại từ năm 1992, đối diện đình làng. Vào hội chùa Thầy hằng năm (7/3 âm lịch), phường rối làng Ra vẫn biểu diễn độc quyền tại thủy đình giữa hồ Long Trì.
Tại làng Ra, mỗi khi hội làng (tháng 7 âm lịch) đến, các nghệ nhân lại biểu diễn cho nhân dân trong thôn cùng xem. Sau chiến tranh, từ năm 1977, rối nước đã được các nghệ nhân phục hồi trở lại.
Từ năm 1977 đến những năm 2000, rối nước Làng Ra ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mỗi năm đều có hàng chục tour du lịch, khách tham quan có cả trong và ngoài nước. Các nghệ nhân liên tục được đi biểu diễn ở các nơi trên cả nước: Bảo tàng dân tộc học Việt Nam, các liên hoan múa rối, Festival,...Ngoài ra, phường còn được đi biểu diễn ở các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới: Italia, Áo, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan... đưa hình ảnh Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.
Nhưng hiện nay múa rối nước đang dần mai một, khách tham quan tới làng Ra cũng không còn, các chuyến đi biểu diễn cũng dần ít đi.
Ghi chú |
Rễ cây là một cơ quan sinh dưỡng của thực vật, thực hiện các chức năng chính như bám cây vào lòng đất, rễ cây hút nước và các chất khoáng, hô hấp. Ngoài ra rễ cây còn là cơ quan dự trữ các chất dinh dưỡng, là cơ quan sinh sản sinh dưỡng của thực vật. Ở thực vật có mạch, rễ là một cơ quan của thực vật thông thường nằm dưới mặt đất (khi so sánh với thân). Tuy nhiên, nó vẫn có ngoại lệ, chẳng hạn ở một số loài có rễ khí sinh (nghĩa là nó mọc trên mặt đất) hoặc thông khí (nghĩa là mọc trên mặt đất hoặc trên mặt nước). Rễ cũng đóng vai trò quan trọng trong tổng hợp cytokinin, một dạng hoóc môn tăng trưởng của thực vật, một trong các nhu cầu để phát triển các chồi và cành cây.
Phân loại
Để phân loại rễ người ta căn cứ theo nhiều tiêu chí. Nếu trong quá trình sinh trưởng vòng đời của thực vật thì sẽ có hai loại: rễ sơ sinh và rễ thật.
Rễ sơ sinh: Là rễ của thực vật phát triển đầu tiên khi hạt cây (hoặc cơ quan sinh sản) nảy mầm. Sau đó thì rễ này có thể là tiêu biến đi hoặc phát triển tiếp gắn bó với vòng đời sinh trưởng của thực vật.
Rễ thực thụ: Là những rễ cây sinh ra trong quá trình phát triển của cây, chúng có thể là mới hoàn toàn hoặc phát triển từ rễ sơ sinh.
Nếu phân loại vào vị trí của rễ cây thì chúng ta có thể phân loại thành ba loại chính: Rễ chính, rễ phụ, rễ bên.
Rễ chính: Chính là rễ sơ sinh phát triển thành. Việc tồn tại loại rễ này là tùy từng loài thực vật.
Rễ phụ: Ở nhiều loài thực vật, sau khi rễ sơ sinh hoàn thành nhiệm vụ phát triển của giai đoạn nảy mầm thì sẽ tiêu biến đi, và thay vào đó là phát triển từ cổ rễ ra các rễ mới đảm bảo quá trình phát triển của cây.
Rễ bên: Là các rễ phát triển trong quá trình phát triển của cây khi chúng được mọc ra, phân nhánh từ rễ chính hoặc rễ phụ mà không phải mọc ra từ cổ rễ của cây.
Bộ rễ của thực vật sẽ được phân loại dựa theo số lượng và cấu tạo từ các rễ của cây. Thường sẽ phân loại thực vật theo hai hệ rễ:
Hệ rễ cọc: Là cấu tạo của bộ rễ mà trong đó chỉ có tồn tại hai loại rễ là rễ chính và rễ bên.
Hệ rễ chùm: Là bộ rễ có cấu tạo chỉ từ các rễ phụ và rễ bên.
Cấu trúc
Rễ có 4 miền: Miền trưởng thành (dẫn truyền), miền hút (hấp thụ nước và muối khoáng hòa tan), miền sinh trưởng (làm cho rễ dài ra), miền chóp rễ (che chở cho đầu rễ).
Miền hút gồm có 2 phân chính: Vỏ biểu bì và trụ giữa. Vỏ biểu bì gồm có nhiều lông hút. Lông hút là tế bào biểu bì kéo dài có chức năng hút nước và muối khoáng hòa tan. Phía trong thịt vỏ có chức năng chuyển các chất từ lông hút vào trụ giữa. Trụ giữa gồm các mạch gỗ
Mạch rây (libe) có chức năng vận chuyển các chất, mạch gỗ và mạch rây ở rễ sắp xếp theo kiểu phóng xạ để phù hợp với chức năng hút nước, hút khoáng của rễ. Ruột chứa các chất dự trữ.
Chóp rễ là phần giúp rễ đâm sâu vào lòng đất. Mặt đất rất cứng so với rễ, vì vậy để có thể đâm sâu vào lòng đất, chóp rễ có nhiệm vụ che chở bảo vệ các mô phân sinh của rễ khỏi bị hư hỏng và xây xát khi đâm vào đất. Xung quanh chóp rễ có các tế bào hóa nhầy hoặc tế bào tiết ra chất nhầy để giảm bớt sự ma sát của đất. Sự hóa nhầy này giúp cho các tế bào ngoài cùng của rễ không bị bong ra.
Miền sinh trưởng gồm các tế bào có khả năng phân chia thành tế bào con, giúp rễ dài được ra.
Sự hút nước và muối khoáng của rễ
Tất cả các cây đều cần nước. Cây không chỉ cần nước mà còn cần các loại muối khoáng, trong đó cần nhiều: muối đạm, muối lân, muối kali. Nhu cầu nước và muối khoáng là khác nhau đối với từng loại cây, các giai đoạn khác nhau trong chu kì sống của cây. Rễ cây hút nước và muối khoáng hoà tan chủ yếu nhờ lông hút. Nước và muối khoáng trong đất được lông hút hấp thụ chuyển qua vỏ tới mạch gỗ đi lên các bộ phận của cây.
Các yếu tố bên ngoài như thời tiết, khí hậu, các loại đất khác nhau,... có ảnh hướng tới sự hút nước và muối khoáng của cây. Cần cung cấp đủ nước và muối khoáng thì cây trồng mới sinh trưởng và phát triển tốt.
Biến dạng của rễ
Ngoài chức năng chính là bám giữ và hút dinh dưỡng, đối với nhiều loài thực vật phát triển rễ thêm những chức năng riêng để thích nghi với điều kiện sinh thái:
Rễ củ
Rể móc
Rể thở
Giác mút(đâm sâu vào cây khác hút chất dinh dưỡng) |
Trong toán học, định lý Viète hay hệ thức Viète (tiếng Pháp: Relations de Viète) do nhà toán học Pháp François Viète tìm ra, nêu lên mối quan hệ giữa các nghiệm của một phương trình đa thức (trong trường số phức) và các hệ số của nó.
Phương trình bậc hai
Trong trường hợp phương trình bậc hai, công thức Viète được ghi như sau:
Nếu x1 và x2 là hai nghiệm của phương trình:
thì:
Phương trình đa thức bất kỳ
Cho phương trình:
Cho x1, x2,..., xn là n nghiệm của phương trình trên, thì:
Nhân toàn bộ vế phải ra, chúng ta sẽ có công thức Viète, được phát biểu như sau:
và trong hàng k bất kỳ, vế phải của đẳng thức là còn vế trái được tính như sau:
nhân với
Tổng của: các tích từng cụm k các nghiệm của phương trình trên.
Ví dụ phương trình bậc 3
-
Nếu x1, x2, x3 là nghiệm của phương trình
thì công thức Viète (sau khi chia đều hai bên cho a3 tức a, và chuyển dấu trừ nếu có qua vế phải) cho ta:
Áp dụng
Trong trường hợp phương trình bậc hai, định lý Viète thường được dùng để tính nhẩm nghiệm số nguyên (nếu có) của phương trình.
Ví dụ: Có thể nhẩm tính phương trình: có hai nghiệm là 2 và 3 vì 2+3=5 và 23 = 6.
Định lý Viète cho phương trình bậc 3 hay cao hơn thường ít thấy trong toán học nghiên cứu, nhưng ngược lại khá quen thuộc trong các kỳ thi Olympic toán học. Định lý Vi-ét được ứng dụng rất nhiều trong chương trình toán học học kỳ 2, lớp 9 tại Việt Nam.
Áp dụng trong phương trình bậc hai
Khi có tổng và tích của hai nghiệm với
Khi đó là nghiệm của phương trình
Phương trình có hai nghiệm trái dấu hoặc tích của (tức và trái dấu nhau)
Phương trình có hai nghiệm dương phân biệt
Phương trình có hai nghiệm âm phân biệt
Phương trình có đúng một nghiệm dương
Phương trình có đúng một nghiệm âm
Nhẩm nghiệm nhanh chóng
Khi thì phương trình bậc hai có hai nghiệm là và
Khi thì phương trình bậc hai có hai nghiệm là và
Phân tích đa thức thành nhân tử
Nếu hàm số có 2 nghiệm và thì nó có thể phân tích thành nhân tử
Nếu hàm số chỉ có 1 nghiệm thì nó có thể phân tích thành nhân tử
Áp dụng trong phương trình bậc ba :
Nhẩm nghiệm nhanh:
Khi thì phương trình bậc ba có một nghiệm
Khi thì phương trình bậc ba có một nghiệm |
Triệu Vũ Đế (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy Triệu Đà (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt, án ngữ tại Quảng Đông và miền bắc Việt Nam. Ông vốn là người Hoa, quê ở huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山) (ngày nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc), miền Bắc Trung Quốc.
Triệu Đà vốn là võ tướng nhà Tần, theo lệnh Tần Thủy Hoàng dẫn quân xuống chinh phạt miền Nam (khi đó là lãnh thổ của các bộ tộc Bách Việt). Ông chiếm được các vùng nay là Quảng Đông, Quảng Tây. Triệu Đà cũng xin Tần Thủy Hoàng di dân 50 vạn người từ Trung Hoa đến vùng này nhằm đồng hóa người bản địa theo văn hóa Trung Quốc (ngày nay gọi là chính sách "Hán hóa"). Năm 210 TCN, nhà Tần ở Trung Hoa diệt vong, nhận thấy triều đình trung ương đã sụp đổ, Triệu Đà bèn tách ra cát cứ, xưng đế và lập nên nước Nam Việt và cai trị suốt giai đoạn 207-137 TCN. Năm 179 TCN, Nam Việt xâm chiếm thành công nước Âu Lạc của An Dương Vương.
Sau khi nhà Hán đã làm chủ Trung Hoa, khi về già, Triệu Đà đã quyết định bỏ việc xưng đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn xưng Hoàng đế ở trong Nam Việt). Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, trong thư ông đã xác nhận rằng mình là người Trung Hoa, và nhà Triệu là chư hầu phục vụ cho nhà Hán, thay mặt vua Hán để cai trị dân "Man Di" phía Nam (chỉ người Việt thời đó).
Thời phong kiến, các nhà sử học Việt Nam đề cao thuyết Thiên mệnh của Nho giáo (cho rằng ngôi vua là do "Trời định", còn xuất thân của vua không quan trọng) nên nhìn nhận Triệu Đà là vua Việt Nam. Đến thời hiện đại, các nhà sử học đề cao chủ quyền dân tộc, vua phải là người đại diện cho dân tộc, nên quan niệm thời phong kiến bị bác bỏ và Triệu Đà được coi là kẻ xâm lược (vì Triệu Đà vốn là người Trung Hoa, theo lệnh Tần Thủy Hoàng sang xâm chiếm nước Việt và ông ta còn tìm cách "Hán hóa" người Việt).
Tiểu sử
Sách Đại Việt sử ký toàn thư dẫn lại ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên, theo đó Triệu Đà vốn người huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山), đời nhà Tần (ngày nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc), Trung Quốc.
Triệu Đà là tướng của nhà Tần, được lệnh Tần Thủy Hoàng đem quân đánh xuống phía Nam, mở rộng lãnh thổ cho nhà Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà khi đó đang làm quan cai trị ở phía Nam (nay là tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây). Nhân cơ hội Trung Hoa rối loạn, Triệu Đà tự xưng vương để lập nên nước Nam Việt, trị vì khoảng từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN, xưng là Nam Việt Vũ Vương hay là Nam Việt Vũ Đế.
Năm mất của Triệu Đà được các nguồn sử liệu thống nhất là 137 TCN. Về năm sinh của Triệu Đà, các nguồn tài liệu đề cập khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên chép rằng ông sinh năm 258 TCN, tức là thọ 121 tuổi.
Các nhà nghiên cứu hiện nay lại căn cứ theo một dòng trong Hán thư của Ban Cố cho biết ông tham gia nam chinh từ năm 20 tuổi và đó là thời điểm 13 năm trước khi Lưu Bang thành lập nhà Hán (202 TCN), tức là ông sinh năm 235 TCN và tham gia nam chinh từ năm 215 TCN, năm 214 TCN được Tần Thủy Hoàng phong huyện lệnh Long Xuyên. Theo giả thuyết này, Triệu Đà thọ 99 tuổi.
Sự nghiệp
Bình định đất Lĩnh Nam |
nhỏ|400px|Công thức Viète được in trong tác phẩm Variorum de rebus mathematicis responsorum, liber VIII xuất bản năm 1593 của François Viète
Trong toán học, công thức Viète là một công thức tích vô hạn biểu diễn giá trị của hai lần nghịch đảo hằng số toán học :
Ngoài ra, công thức này cũng có thể được biểu diễn bằng kí hiệu tích vô hạn:
Nhà toán học người Pháp François Viète công bố công thức vào năm 1593, và công thức này được đặt theo tên ông. Công thức Viète biểu diễn một hằng số bằng một chuỗi các phép tính dài vô hạn, nó cũng có thể biểu thị ý nghĩa chặt chẽ về mặt giới hạn, và cũng đánh dấu sự khởi đầu của giải tích toán học. Công thức này có một tốc độ hội tụ xác định, để từ đó có thể được sử dụng để tính số , tuy nhiên các phương pháp trước và sau khi công thức này ra đời lại có độ chính xác cao hơn. Công thức này cũng được sử dụng để tính toán sự chuyển động của hệ các lò xo kèm với khối lượng, ngoài ra cũng đóng vai trò như một ví dụ để thúc đẩy sự xuất hiện khái niệm độc lập thống kê.
Công thức Viète có thể được coi như một kết quả của chuỗi lồng nhau của cả chu vi và diện tích của một đa giác đều trong quá trình suy biến trở thành đường tròn. Cũng bằng việc sử dụng liên tục các công thức nhân đôi góc của lượng giác để suy ra các công thức tổng quát, Leonhard Euler đã thu được công thức Viète như một trường hợp đặc biệt của các công thức tổng quát nêu trên.
Dẫn nhập
François Viète (sinh năm 1540, mất năm 1603) là một luật sư người Pháp, làm việc trong viện cơ mật cho hai đời vua Pháp và là một nhà toán học nghiệp dư. Ông lần đầu tiên công bố công thức Viète vào năm 1593 trong công trình nghiên cứu Variorum de rebus mathematicis responsorum, liber VIII (dịch từ tiếng Latinh: Đáp án cho các vấn đề toán học, cuốn VIII). Trong thời gian này, các phương pháp nhằm tính xấp xỉ số với độ chính xác khác nhau đã được biết đến rộng rãi. Phuơng pháp riêng của Viète có thể được coi như một lối tư duy khác cho ý tưởng của Archimedes của việc tính xấp xỉ chu vi một đường tròn bằng việc sử dụng đa giác đều nhiều cạnh. Ý tưởng này Archimedes đã giúp tìm được chặn giá trị của số :
Bằng việc công bố phương pháp tính của mình dưới dạng một công thức toán học, Viète lần đầu tiên đưa ra một ví dụ mà ngày nay được định nghĩa là tích vô hạn trong toán học, và cũng là ví dụ đầu tiên mà một công thức cụ thể có thể tính toán giá trị chính xác của số . Lần đầu tiên nền toán học châu Âu có một công thức mà một số được thể hiện bằng kết quả của một chuỗi các phép tính vô hạn. Eli Maor đã coi công thức Viète như dấu mốc khởi đầu cho giải tích toán học, trong khi Jonathan Borwein gọi sự xuất hiện của công thức này là "buổi bình minh của toán học hiện đại" (the dawn of modern mathematics).
Viète sử dụng công thức của chính mình để tính toán số chính xác tới 9 chữ số thập phân sau dấu phẩy. Tuy nhiên, đây lại không phải là phép xấp xỉ số pi có độ chính xác cao nhất tại thời điểm đó, khi mà nhà toán học người Ba Tư Jamshid al-Kashi đã tính số chính xác tới 16 chữ số thập phân sau dấu phẩy, tức là 9 chữ số nếu tính theo hệ lục thập phân vào năm 1424. Không lâu sau khi Viète công bố công thức của mình, Ludolph van Ceulen cũng đã sử dụng một phương pháp gần tương tự với công thức của Viète để tính toán số chính xác tới 35 chữ số. Phương pháp tính này chỉ được công bố sau khi Ceulen qua đời vào năm 1610.
Công thức Viète không chỉ quan trọng về mặt toán học hay lịch sử toán học, mà còn có thể được sử dụng để giải thích cho sự tán sắc trong một hệ có vô số lò xo với khối lượng cho trước, để từ đó sự xuất hiện của số làm tiền đề để giải thích giới hạn để một vận tốc pha thay đổi tính chất của nó. Thêm vào đó, một hệ quả được dẫn xuất từ công thức Viète là kết quả của phép toán với các số nguyên xuất hiện trong hệ Rademacher, từ đó giúp đưa ra các ví dụ nhằm định nghĩa khái niệm về độc lập thống kê.
Sự hội tụ của công thức Viète
Công thức Viète có thể được biểu diễn dưới dạng kết quả của một phép tính giới hạn
mà ở đó dãy số được cho bởi công thức truy hồi
Với mỗi giá trị xác định, biểu thức giới hạn là một phép tính hữu hạn các nhân tử, tuy nhiên khi tiến dần tới vô cùng, kết quả giới hạn này càng ngày càng gần hơn tới kết quả của công thức Viète. François Viète đã nghiên cứu công thức Viète trước cả khi khái niệm về giới hạn và các chứng minh về sự hội tụ trong toán học ra đời; khi mà chứng minh đầu tiên cho việc tồn tại giới hạn nêu trên mới được tìm ra lần đầu tiên trong nghiên cứu của Ferdinand Rudio vào năm 1891.
Tốc độ hội tụ của một phép tính giới hạn có liên quan mật thiết tới số lượng biểu thức tham gia phép tính để đạt được một độ chính xác nhất định về mặt số chữ số trong một phép tính. Đối với công thức Viète, số lượng nhân tử và số chữ số tỉ lệ thuận với nhau, và kết quả của công thức Viète cho nhân tử đầu tiên cho ra xấp xỉ số với sự chính xác cho 0,6 chữ số. Tốc độ hội tụ này khá tương đồng với kết quả Wallis – một công thức cũng sử dụng tích vô hạn để tìm kiếm công thức tính số ra đời vào năm 1656. Mặc dù công thức của bản thân Viète được chính ông sử dụng để tính số với độ chính xác là chín chữ số sau dấu phẩy, một dẫn xuất khác với tốc độ hội tụ nhanh hơn được sử dụng để tính tới khoảng vài nghìn chữ số.
Công thức liên quan
Công thức Viète có thể được coi như một trường hợp đặc biệt cho công thức liên quan tới hàm sinc. Nhà toán học Leonhard Euler được cho là người tìm ra công thức này hơn một thế kỷ sau đó:
Thay vào công thức này, ta có:
Sau đó, biểu diễn từng nhân tử ở vế phải sử dụng công thức nhân đôi góc:
cho ta công thức Viète.
Ta cũng có thể thu được từ công thức Viète một công thức biểu thị trực tiếp giá trị của số với vô số các căn bậc hai chữa số 2, nhưng chỉ sử dụng duy nhất một phép nhân:
Công thức này có thể được thu gọn lại dưới dạng dãy số:
Nhiều công thức cho số và các hằng số khác như tỷ lệ vàng cũng có dạng công thức giống với công thức Viète khi sử dụng việc lồng các căn thức bậc hai hoặc các chuỗi vô hạn các công thức lượng giác.
Nguồn gốc
Viète thu được công thức này khi so sánh diện tích của các đa giác đều với số cạnh lần lượt là và cùng nội tiếp một đường tròn. Tỉ lệ đầu tiên khi so sánh diện tích của một hình vuông và một hình bát giác là – cũng chính là nhân tử đầu tiên trong công thức Viète, nhân tử thứ hai thu được khi so sánh một hình bát giác với một hình 16 cạnh. Theo đó, chuỗi nhân tử này lồng nhau liên tục để cho ra tỉ lệ diện tích giữa hình vuông (đa giác đều đầu tiên) và đường tròn (trường hợp giới hạn của một đa giác có cạnh). Ngoài ra, các nhân tử xuất hiện trong chuỗi phép nhân vô hạn cũng thể hiện tỉ lệ của chu vi chuỗi đa giác như cách lập luận trên.
Một cách khác để thu được công thức Viète được dựa trên các đẳng thức lượng giác và công thức Euler. Bằng việc liên tục sử dụng công thức nhân đôi góc
dẫn tới việc đưa ra một chứng minh bằng phép quy nạp rằng với mọi số nguyên ,
Biểu thức tiến dần tới khi mà trong phép giới hạn tiến dần tới dương vô cùng. Bằng việc thay sẽ cho ra được công thức Viète. |
Tánh Linh là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc tỉnh Bình Thuận, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Tánh Linh nằm ở phía tây của tỉnh Bình Thuận, trải dài từ 10°50'24"B đến 11°20'56"B, 107°30'50"Đ đến 107°51'21"Đ, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Hàm Thuận Nam và huyện Hàm Thuận Bắc
Phía tây giáp huyện Đức Linh và huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai
Phía nam giáp huyện Hàm Tân
Phía bắc giáp huyện Đạ Huoai và huyện Bảo Lâm thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Nhìn chung huyện Tánh Linh có địa hình thấp dần từ Đông sang Tây và từ Bắc vào Nam, được chia thành 4 dạng địa hình chính như sau:
Địa hình núi cao trung bình: Có độ cao từ 1.000 đến 1.600 m phân bố ở phía Bắc huyện giáp với Tỉnh Lâm Đồng. Bao gồm các ngọn núi Bnom Panghya cao 1478 m, núi Ông (1.302 m), núi Ca Nong (1.270 m), núi Pa Ran (1.205 m)
Địa hình đồi núi thấp: Có độ cao dao động từ 200 đến 800 m tập trung ở phía nam của huyện. Bao gồm các núi Dang Dao cao 851 m, núi Dang dui cao trên 706 m, núi Catong cao 452 m.
Địa hình đồi thoải lượn sóng: Có độ cao từ 20 đến 150 m bao gồm đồi đất xám, đất đổ vàng, chạy theo hướng Bắc -Nam, hoặc xen kẽ những vùng đất thấp.
Dạng địa hình đồng bằng: gồm hai loại
Bậc thềm sông: Có độ cao 2–5 m, có nơi cao 5–10 m, phân bố dọc theo sông La Ngà.
Đồng bằng phù sa: Phân bố ở dọc sông La Ngà và các nhánh suối nhỏ ven Hồ Biển Lạc, là vùng trọng điểm lương thực của tỉnh Bình Thuận.
Trong khu vực đất đồng bằng, đất có địa hình trung bình thấp và thấp trũng chiếm diện tích khá lớn, trên địa hình này thuận lợi cho việc tưới nước, song thường hay ngập lụt vào mùa mưa.
Đất đai huyện Tánh Linh hình thành trên tập hợp đá mẹ và mẫu chất sau:
Đá granit bao phủ một diện tích khá lớn trên địa bàn huyện Tánh Linh. Đá Granite có thành phần hóa học với hàm lượng SiO2 tương đối cao (60-70%), Fe2O3 thấp (0,2-1,4%), chứa nhiều K2O. Đá bị phong hóa tạo nên sườn tích rất thô, gồm có cát silic với mảnh đá vụn trôi thành lớp, nằm theo triền và vây quanh chân núi. Đá granit hình thành ra 3 nhóm đất là đất đỏ vàng, đất xám và đất xói mòn trơ sỏi đá, trong đó nhóm đất xám và đất đỏ vàng là chủ đạo, với đặc tính rửa trôi, hoạt tính thấp và thành phần cơ giới nhẹ, chủ yếu là cát pha, thịt nhẹ.
Đá sét phát hiện thấy trong lớp vỏ thổ nhưỡng ở Bình Thuận nói chung và Tánh Linh nói riêng, chiếm khoảng 5-6% diện tích lãnh thổ. Đá sét rất cổ (tuổi Mezôzôi), là nền móng của lãnh thổ nhưng một phần lớn diện tích bị Aluvi Neogen và bazan phủ lấp lên. Đá có màu thay đổi, mức độ phong hóa cao. Đất trên đá sét thường có màu đỏ vàng hay vàng nhạt, thành phần cơ giới trung bình đến nặng, các chất dinh dưỡng khá. Tuy nhiên do phong hóa mạnh cùng với quá trình xói mòn rửa trôi mạnh nên đất thường có tầng mỏng, nhiều nơi đất trơ sỏi đá hoặc đá non mục nát trơ trên mặt đất.
Mẫu chất phù sa cổ (Pleistocene) chiếm một diện tích không lớn khoảng 10-15% diện tích vùng nghiên cứu. Tầng dày của phù sa cổ từ 2-3 đến 5-7 mét, vật liệu của nó màu nâu vàng, gần lên tầng mặt chuyển sang màu xám. Cấp hạt thường thô tạo cho đất có cấp hạt cát là chủ yếu (cát pha, thịt nhẹ). Các loại đất hình thành trên phù sa cổ có thành phần cơ giới nhẹ, cùng với điều kiện nhiệt đới gió mùa, mưa lớn và tập trung, làm cho đất bị rửa trôi mạnh, nghèo dưỡng chất và có hoạt tính thấp. Nên phần lớn đất hình thành trên phù sa cổ thuộc nhóm đất đỏ vàng và nhóm đất xám.
Phù sa sông, suối là loại trầm tích trẻ hơn cả với tuổi Holocen muộn - hiện đại (QIV). Phù sa thường có màu nâu sẫm đến nâu vàng nhạt, phân bố không liên tục làm thành các dải hẹp dọc ven các sông suối vùng nghiên cứu. Hình thành trên trầm tích này là nhóm đất phù sa sông La Ngà, bao gồm phần lớn khu vực Ta Pao.
Khí hậu của huyện Tánh Linh khí hậu xavan nên khí hậu huyện mang tính chất chuyển tiếp giữa chế độ mưa của vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ và đồng bằng Nam Bộ. Hay nói cách khác khí hậu Tánh Linh là vùng đệm giữa trung tâm mưa lớn của Miền Nam (Cao nguyên Di Linh) và đồng bằng ven biển. Tuy nhiên khí hậu ở đây vẫn diễn biến theo 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
Mùa mưa từ đầu tháng 5 đến đầu tháng 11. các xã phía Tây và phía Nam của huyện như: Suối Kiết, Gia Huynh có lượng mưa thấp, trung bình hàng năm khoảng 1.500–1.900 mm. Ngược lại các xã ở phía Bắc và Đông của huyện mùa mưa từ cuối tháng 4 đến hết giữa tháng 11 có lượng mưa cao trung bình năm 2.185 mm có khi cao tới 2.894 mm. Mùa mưa cây trồng sinh trưởng và phát triển mạnh, đây là mùa sản xuất chính. Tuy nhiên mưa lớn thường tập trung vào các tháng 7, 9 và 10, nên thời gian này thường gây ra lũ quét, ngập úng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp nhất là những vùng sản xuất lúa và cây công nghiệp hàng năm.
Mùa khô từ cuối tháng 11 đến giữa tháng 4 năm sau, thường ít có mưa nên gây thiếu nước nghiêm trọng, cây cối sinh trưởng và phát triển kém, nhiều sâu bệnh ảnh hưởng nhiều đến năng suất cây trồng.
Nhiệt độ không khí cao đều quanh năm và tương đối ổn định. Nhiệt độ trung bình năm: 22–26 °C. Tổng tích ôn trung bình năm là 9.300 °C.
Độ ẩm không khí trung bình năm 70-85%. Từ tháng 6 đến tháng 12 độ ẩm không khí 84,3-86,9%. Các tháng 1, 2 và 3 độ ẩm trung bình 75,6-76,9%. Hàng năm độ ẩm không khí trung bình cao nhất vào khoảng 91,8%. Độ ẩm trung bình thấp nhất là 61,3%. Độ ẩm thấp nhất tuyệt đối xuống dưới 15% vào mùa khô
Trên địa bàn huyện có sông La Ngà, là con sông chính lớn nhất của huyện và cũng là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp trong vùng, là phụ lưu cấp 1 của hệ thống sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh tỉnh Lâm Đồng. Sông La Ngà chảy qua huyện Tánh Linh có chiều dài chừng 50 km, diện tích lưu vực khoảng 417,4 km², mực nước trung bình năm 11.699-12.163 mm.
Ngoài sông La Ngà còn có sông Lay Quang dài 30 km, sông Phan, sông Cái, sông Dinh, hồ Biển Lạc, nhiều hồ và suối nhỏ. Các suối nhỏ chỉ có nước vào mùa mưa.
Nhìn chung huyện Tánh Linh có nguồn nước mặt tương đối dồi dào, đảm bảo cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác. Tuy nhiên do sông, suối, hẹp, ngắn dốc lại chảy qua nhiều địa hình phức tạp nên vào mùa mưa thường gây ra lũ lụt, ngập úng cục bộ, nhất là những nơi có địa hình thấp, trũng. Hoặc lũ quét, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân.
Với điều kiện tự nhiên như vậy, huyện Tánh Linh có các kiểu thảm thực vật chủ yếu sau:
Thảm thực vật rừng tự nhiên: Rừng tự nhiên bao gồm các kiểu sau:
Kiểu rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới ẩm gió mùa phân bố chủ yếu ở các vùng núi phía Bắc của huyện.
Kiểu rừng nửa rụng lá nhiệt đới: phân bố ở vùng núi phía Bắc và phía Đông của huyện. Hình thái và cấu trúc kiểu rừng này chiếm tỷ lệ 25-75% cá thể là những loài cây rụng lá.
Kiểu rừng thưa cây lá rộng nhiệt đới: Phân bố ở vùng núi phía Nam và phía Đông của huyện gồm các cây họ đậu, tre nứa,...
Thảm thực vật rừng trồng: chủ yếu ở phía nam của huyện gồm các loại như keo lá tràm, bạch đàn...
Thảm cây trồng nông nghiệp: bao gồm cây lúa tập trung chủ yếu ở thung lũng sông La Ngà, cây ăn quả phân bố ở các khu vực bậc thềm sông và xen lẫn trong khu dân cư. Cây công nghiệp như điều, cao su, tiêu,... phân bố rải rác ở các xã trong huyện và ven hồ Biển Lạc.
Lịch sử
Huyện Tánh Linh được thành lập vào ngày 01 tháng 5 năm 1983 do tách ra từ huyện Đức Linh, khi đó thuộc tỉnh Thuận Hải, gồm 12 xã: Bắc Ruộng, Đồng Kho, Đức Bình, Đức Phú, Đức Tân, Đức Thuận, Gia An, Gia Huynh, Huy Khiêm, La Ngâu, Nghị Đức, Suối Kiết và Lạc Tánh.
Ngày 28 tháng 11 năm 1983:
Chia xã Bắc Ruộng thành 2 xã: Bắc Ruộng và Măng Tố
Chia xã Suối Kiết thành 2 xã: Suối Kiết và Gia Huynh.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Bình Thuận được tái lập từ tỉnh Thuận Hải cũ, huyện Tánh Linh thuộc tỉnh Bình Thuận.
Ngày 15 tháng 6 năm 1999, chuyển xã Lạc Tánh thành thị trấn Lạc Tánh (thị trấn huyện lỵ huyện Tánh Linh).
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Đức Tân vào xã Măng Tố. Huyện Tánh Linh có 1 thị trấn và 12 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Tánh Linh có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Lạc Tánh (huyện lỵ) và 12 xã: Bắc Ruộng, Đồng Kho, Đức Bình, Đức Phú, Đức Thuận, Gia An, Gia Huynh, Huy Khiêm, La Ngâu, Măng Tố, Nghị Đức, Suối Kiết. |
Trần Duy Hưng (16 tháng 1 năm 1912 - 2 tháng 10 năm 1988) là một bác sĩ, Thị trưởng Hà Nội (30 tháng 8 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946), Chủ tịch Ủy ban Hành chính đầu tiên của Hà Nội (1954 đến 1977 - sau khi ông quyết định về hưu), Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Thứ trưởng Bộ Y tế Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thời kì đầu
Ông sinh tại phố Hàng Bông - Thợ Nhuộm ngày 16 tháng 1 năm 1912. Quê nội là làng Hòe Thị thuộc tổng Phương Canh, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội). Ông học ngành y cùng với các ông Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Hữu Thuyết, Huỳnh Kham, Nhữ Thế Bảo, Ngô Trâm, Lê Đức Mạnh.
Ông tích cực tham gia các phong trào xã hội và có uy tín trong giới thanh niên, nhân sĩ, trí thức thời đó. Ông là lãnh tụ của phong trào Hướng đạo sinh Bắc Kỳ dưới sự dẫn dắt của huynh trưởng Hoàng Đạo Thúy và đội viên có nhiều kinh nghiệm Vũ Thành Đô. Trong cuộc đời hoạt động của mình, với cây đàn Violon, ông cùng các đồng chí của mình thường về chợ Canh (nay là chợ Hòe Thị) đàn hát các bài ca cách mạng và diễn thuyết.
Ông cũng tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo và cứu tế từ những năm 1930. Năm 1934, Hội Phật giáo Bắc Kỳ được thành lập, ngoài các tu sĩ xuất gia, giới nhân sĩ trí thức như Bác sĩ Trần Văn Lai, Bác sĩ Trần Duy Hưng, ông Nghiêm Xuân Yêm, Dương Đức Hiền, Đỗ Đức Dục…
Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Cùng với Hội Tế sinh do cư sĩ Thiều Chửu và cụ cả Mọc (chị cụ Hoàng Đạo Thuý) thành lập, các ông Hoàng Đạo Thúy, Trần Duy Hưng hàng ngày đem thuốc, tiền, quần áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến khi họ sống được. Đợt cứu tế kéo dài ba tháng liên tục cho đến lúc lúa chín.
Ông cũng là một thành viên của nhóm Thanh Nghị. Vào tháng 5 năm 1945, Ông và các thành viên của nhóm Thanh nghị thành lập Hội Tân Việt Nam với tôn chỉ ủng hộ công cuộc độc lập của nước nhà. Hội được phép thành lập theo đạo dụ (số 67) ngày 16-5-1945 của Bảo Đại. Hội Tân Việt Nam thu hút được khá nhiều trí thức có tên tuổi đương thời và dùng tờ báo Thanh Nghị để cổ động ảnh hưởng trong giới trí thức, thanh niên, học sinh. Tới ngày 22-7-1945, Hội Tân Việt Nam tuyên bố tự giải tán.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chính quyền Bảo Đại đã mời ông ra làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên Quốc gia Việt Nam nhưng ông đã quyết định xin rút lui.
Ngày 15/6/1945 (tại Sắc số 65) Vua Bảo Đại thành lập Hội đồng Thanh Niên với Hoàng Đạo Thúy- chủ tịch; hai phó chủ tịch là Trần Duy Hưng và Tạ Quang Bửu; các thành viên có Nguyễn Xiển, Vũ Văn Cẩn, Nguy Như Kontum và nhiều trí thức tiêu biểu khác.
Người Thị trưởng đầu tiên
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời bác sĩ Trần Duy Hưng ra làm Thị trưởng Hà Nội, người thị trưởng đầu tiên dưới chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông đã viết đơn đồng ý vì theo ông: "Chủ tịch Hồ Chí Minh thật vĩ đại! Tôi xem Người giống như một tấm gương toàn những cái hay, cái đẹp để tôi học theo."
Từ tháng 8 năm 1945 ông là Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội 1945 - 1946. Trên cương vị Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội (1945 - 1946) ông đã tập hợp được đông đảo quần chúng đứng dưới ngọn cờ của chính quyền mới. Bên cạnh đó Ông cũng giúp liên danh của Chính phủ giành được 6 ghế trong Quốc hội khóa I trong một cuộc bầu cử có hơn 180 ứng viên của các tổ chức khác. Ông là người tích cực đi đầu trong cuộc chiến cứu đói và chống giặc dốt thời đó.
Các công tác khác
Ông còn tham gia công tác Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I đến khóa VIII , Ủy viên Ủy ban Y tế và xã hội của Quốc hội .
Sau khi Pháp đánh chiếm Hà Nội, ông đi theo Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên Chiến khu Việt Bắc và giữ các chức vụ Thứ trưởng Bộ Nội vụ (tháng 4 năm 1947 - 1954), Thứ trưởng Bộ Y tế (tháng 6 năm 1954).
Trong thời gian ở ATK, nhất là thời gian đầu kháng chiến chống Pháp, ngoài công tác ở Bộ Nội vụ, Ông là người được đích thân Ông Nguyễn Lương Bằng giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho Hồ Chủ tịch. Ông Bằng đã từng nói với Bác sĩ Hưng năm 1947: "Lúc này, Đảng, Nhà nước giao toàn quyền chăm sóc sức khỏe của Bác cho anh."
Vị Chủ tịch Hà Nội lâu nhất
Sau ngày 10 tháng 10 năm 1954, ông trở về Hà Nội để đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch thành phố và được tín nhiệm giữ cương vị này cho đến tháng 6 năm 1977. Tuy nhiên, suốt nhiệm kỳ Chủ tịch, ông lại không được bầu vào ban thường vụ của Thành phố, do đó quyền hành của ông chủ yếu nằm ở mặt thi hành quyết định.
Ông là người đi đầu trong mọi phong trào, đã dẫn dắt thành phố đạt năng suất lúa cao nhất miền Bắc. Mọi hoạt động công thương nghiệp, chăn nuôi và ngay cả rau xanh luôn đi đầu cả nước. Hà Nội cũng là nơi đầu tiên có mô hình nhà lắp ghép rồi từ đó nhân ra các tỉnh.
Ông cũng là người tận dụng triệt để hàng ngũ trí thức tư sản như Nghiêm Tử Trình, Trịnh Văn Bô trong công cuộc phát triển thành phố. Ông cũng là người dám đột phá với những chủ trương không dễ dàng vào thời đó như. Vào thập niên 1960, Trần Duy Hưng chủ trương bán nhà phân phối cho cán bộ để thành phố vừa có tiền mà cán bộ có nhà của mình để tự họ sửa chữa cho to đẹp hơn. Khi hàng hóa khan hiếm trong chiến tranh chống Mỹ, ông đã để cho tư nhân sản xuất thủ công một số mặt hàng thiết yếu trở lại.
Ông còn là người thị trưởng với tầm nhìn của tương lai. Suốt trong thời gian ông làm chủ tịch, quy hoạch xây dựng tổng thể thành phố luôn được tôn trọng. Ông ôm ấp ý tưởng biến sông Hồng trở thành một thực thể của Hà Nội.
Trần Duy Hưng là một người sống giản dị, liêm khiết, luôn luôn tận tụy với dân. Ông luôn có mặt động viên kịp thời người dân, đưa những người bị thương đi cấp cứu tại các bệnh viện trên địa bàn Hà Nội thời đó. Trần Duy Hưng còn là người cùng dân xây lại các ngôi nhà bị bom tàn phá trên chính những khu phố bị bom B52 của Mỹ tàn phá như Khâm Thiên, An Dương, Bạch Mai ngay cả trong 12 ngày đêm của trận Điện Biên Phủ trên không lịch sử tháng 12 năm 1972.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận xét về ông: "Một con người của nhân dân Việt Nam, vì nhân dân Việt Nam; là một trí thức để lại tấm gương sáng cho các thế hệ trí thức cả hôm nay và mai sau học tập, noi theo".
Ông mất ngày 02 tháng 10 năm 1988 tại Hà Nội, thọ 76 tuổi và an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
Phong tặng
Bác sĩ Trần Duy Hưng đã được trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất năm 1985, truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh vào 3 tháng 2 năm 2005.
Vinh danh
Năm 1999, UBND thành phố Hà Nội quyết định lấy tên của ông được đặt cho một đường phố mới của ở phía Tây thành Hà Nội thuộc quận Cầu Giấy (trước là đường Ngô Gia Tự). Đường Trần Duy Hưng nối từ ngã tư đường Nguyễn Chí Thanh - Đường Láng đến ngã tư đường Phạm Hùng - Khuất Duy Tiến. |
Triệu Vũ Đế (chữ Hán:趙武帝) có thể là:
Danh sách
Triệu Vũ Đế Triệu Đà, Hoàng đế nước Nam Việt trong lịch sử Trung Quốc và lịch sử Việt Nam, có thụy hiệu khác là Nam Việt Vũ Vương, lại có thụy hiệu nữa là Triết Đế do nhà Trần truy tôn
Triệu Vũ Đế Thạch Bối Tà (truy tôn)
Triệu Vũ Đế Thạch Hổ, có thụy hiệu khác là Chính Đế |
Cù lao Chàm là một cụm đảo thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.
Địa hình
Cù lao Chàm nằm cách bờ biển Cửa Đại 18km và đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Cù lao Chàm bao gồm 8 đảo (hòn): Hòn Lao (còn gọi là hòn Cù Lao, lớn nhất), Hòn Khô Mẹ, Hòn Khô Con, Hòn Lá, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Tai, Hòn Ông. Dân số trên các hòn đảo này gồm khoảng 3.000 người.
Đảo Hòn Lao (cũng gọi là Cù Lao Chàm) có diện tích lớn nhất (13,82 km²) và đỉnh cao nhất (517m). Tính phân bậc địa hình khá rõ, nhất là trên sườn TN của đảo, với các bậc: 10-20m; 20-30m; 40-60m; 80-120m; 180-220m; 300-350m; 400-500m. Các bề mặt cao trên 80m được xác định là các mặt san bằng, có tuổi từ Miocen muộn đến Pleistocen, bản chất là các pedimen và pediplen. Đặc điểm nổi bật của địa hình Cù Lao Chàm là tính bất đối xứng: đảo định hướng TB-ĐN với sườn ĐB hẹp và dốc đứng, sườn TN rộng và thoải hơn. Từ đó tạo ra sự phân dị rõ rệt của các quá trình tạo bờ biển. Bờ ĐB là các vách đứng trơ đá gốc, cao đến 100m, đang chịu công phá mãnh liệt của biển, với quá trình đổ lở khối tảng lớn, thuộc bờ mài mòn phá hủy trọng lực. Còn bờ TN gồm các đoạn cong lõm xen các mỏm nhô tạo các vụng nhỏ, với tích tụ cát lấp đầy đáy lõm, thuộc bờ tích tụ-mài mòn.
Địa chất
Cụm đảo Cù Lao Chàm là phần kéo dài và thấp dần về phía ĐN của khối đá granit Bạch Mã - Hải Vân - Sơn Trà của phức hệ Hải Vân, tuổi Trias sớm, đặc trưng cho giai đoạn xâm nhập granit đồng va chạm nguồn gốc vỏ gồm hai pha xâm nhập và pha đá mạch., chủ yếu gồm các đá granit biotit, granit hai mica, ít granodiorit biotit có muscovit; cũng gặp các khoáng vật cao nhôm như cordierit, sillimanit, granat. Các đá tại phần rìa khối bị biến dạng với các khoáng vật thường được sắp xếp theo phương TB-ĐN, trùng với phương biến dạng của dải Trường Sơn. Đá có kiến trúc hạt trung đến thô, có nơi gặp kiến trúc dạng porphyr với ban tinh felspat. Ngoài ra, trên đảo còn gặp các khối sót thể tù lộ ra của các đá biến chất sau hàng nhiều triệu năm bóc mòn, mà chính các đá này đã bị khối granit xuyên qua và cuốn theo: đó là các đá phiến gneis, đá phiến biotit, granitogneis…. Các mỏm đá sót này lộ ra trên bãi biển ở Bãi Bìm, Bãi Hương với nhiều vân hoa độc đáo, được tạo nên bởi quá trình biến chất nhiệt, là dấu ấn đặc biệt quan trọng để nhận biết về lịch sử hình thành của dải đất trên thềm lục địa này. Các trầm tích Đệ Tứ tuy phát triển hạn chế, nhưng cũng khá đa dạng về nguồn gốc, bao gồm các thành tạo sườn tích, lở tích, lũ tích, aluvi và biển, có tuổi từ Pleistocen giữa đến hiện đại. Trầm tích bao gồm chủ yếu là cát, sạn sỏi thạch anh, các mảnh vụn san hô, vỏ sò ốc và cuội đá granit kích thước rất khác nhau.
Cù lao Chàm là một di tích văn hoá lịch sử gắn với sự hình thành và phát triển của đô thị thương cảng Hội An. Bản đồ Tây-phương xưa thường ghi Cù lao Chàm với tên "Champello" lấy từ tiếng Nam-Ấn (Autronesian) "Pulau Champa". Cù lao Chàm còn có các tên gọi khác như Chiêm Dự (thời vua Tự Đức), Puliciam, Chiêm Bất Lao, Tiên Bích La. Tại đây còn nhiều di tích thuộc các nền văn hóa Sa Huỳnh, Chăm Pa, Đại Việt, với các công trình kiến trúc cổ của người Chăm và người Việt có niên đại vài trăm năm.
Đây còn là một địa điểm du lịch có khí hậu quanh năm mát mẻ, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt là nguồn hải sản và nguồn tài nguyên yến sào. Các rạn san hô ở khu vực biển cù lao Chàm cũng được các nhà khoa học đánh giá cao và đưa vào danh sách bảo vệ.
Tháng 10 năm 2003, Khu Bảo tồn thiên nhiên Cù Lao Chàm được thành lập để giữ gìn sinh vật hoang dã trên đảo, là một trong 15 khu Bảo tồn biển của Việt Nam vào thời điểm năm 2007.
Ngày 29 tháng 5 năm 2009, với hệ động thực vật phong phú và những di tích lịch sử hàng trăm năm trước, Cù Lao Chàm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới trong phiên họp thứ 21 của Ủy ban Điều phối quốc tế chương trình con người và sinh quyển diễn ra tại đảo Jeju (Hàn Quốc).
Hình ảnh
Chú thích |
Thẩm Thúy Hằng (6 tháng 10 năm 1939 – 6 tháng 9 năm 2022) là một diễn viên người Việt Nam. Được xem là ngôi sao sáng nhất của điện ảnh thương mại miền Nam Việt Nam giai đoạn cuối thập niên 1950 đến cuối thập niên 1970, bà tham gia nhiều bộ phim, trong đó nhiều phim hợp tác với Mỹ, Philippines, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản...
Tiểu sử
Thẩm Thúy Hằng tên thật là Nguyễn Kim Phụng, có tên Thánh là Jeane. Bà sinh ra tại Hải Phòng, nhưng sau đó cùng gia đình di cư vào miền Nam (1941) và lớn lên ở An Giang. Cha mẹ bà là người Hải Phòng, thuộc tầng lớp công chức, cha là một viên chức trong chính quyền Quốc gia Việt Nam, mất sớm khi bà mới 13 tuổi.
Thuở nhỏ, bà theo học trường Huỳnh Văn Nhứt ở Long Xuyên. Hết bậc tiểu học, Kim Phụng lên Sài Gòn ở với người chị theo học trung học tại trường Huỳnh Thị Ngà, Tân Định. Năm Kim Phụng lên 16 tuổi, học lớp Đệ tứ (lớp 9 trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay), bà đã nức tiếng là một hoa khôi trong giới học sinh. Học hết năm Đệ tứ, khi hết 16 tuổi, bà lén gia đình tham gia cuộc thi tuyển diễn viên điện ảnh của hãng phim Mỹ Vân và đạt giải nhất của cuộc thi sau khi vượt qua 2.000 thí sinh khác.
Nghệ danh Thẩm Thúy Hằng do bà đặt dựa theo họ của nhạc sĩ tiền chiến Thẩm Oánh với lòng kính trọng ông. Theo nghệ sĩ Nguyên Lê (vai cháu của Thẩm Oánh) thì khi nhạc sĩ khuyên Kim Phụng hãy theo học điện ảnh, bà đã nghe theo; lúc hãng phim Mỹ Vân khuyên bà chọn nghệ danh thì bà đã lấy họ Thẩm của Thẩm Oánh để tỏ lòng kính trọng. Thời này ông là hiệu trưởng trường Ca-vũ-nhạc phổ thông Sài Gòn nơi bà đang theo học môn kịch.Bà từng nhận một học bổng sang Hong Kong học diễn xuất.
Nguồn gốc nghệ danh
Ở quan điểm thứ nhất, nghệ danh Thẩm Thúy Hằng là do bà đặt dựa theo họ của nhạc sĩ tiền chiến Thẩm Oánh. Theo nghệ sĩ Nguyên Lê (vai cháu của Thẩm Oánh) thì khi nhạc sĩ khuyên Kim Phụng hãy theo học điện ảnh, bà đã nghe theo; lúc hãng phim Mỹ Vân khuyên bà chọn nghệ danh thì bà đã lấy họ Thẩm của Thẩm Oánh để tỏ lòng kính trọng. Thời gian này, nhạc sĩ Thẩm Oánh là hiệu trưởng Trường Ca-vũ-nhạc phổ thông Sài Gòn nơi bà đang theo học môn kịch.
Ở quan điểm thứ hai, trang tin điện tử Phụ Nữ Today năm 2014 dẫn lại nguồn khác cho rằng Thẩm Thúy Hằng đã trả lời phỏng vấn cho biết bà lấy nghệ danh này để tri ân cả thầy dạy nhạc là Thẩm Oánh và thầy dạy văn là Thẩm Thệ Hà.
Quan điểm thứ ba cho rằng chủ hãng Mỹ Vân tự đặt nghệ danh này cho bà, và trang tin điện tử Eva năm 2020 dẫn lại nguồn khác cho rằng giám đốc hãng Mỹ Vân lấy cảm hứng từ lòng ngưỡng mộ mà Kim Phụng dành cho thầy giáo Thẩm Thệ Hà mà đặt nghệ danh này cho bà.
Về thành tố "Hằng" trong nghệ danh, có nguồn diễn giải rằng Kim Phụng yêu thích dòng sông Hằng ở Ấn Độ vì sông giúp gột rửa tội lỗi, đưa con người về cõi vĩnh hằng.
Đời tư
Năm 1959, bà lập gia đình với một người chồng lớn hơn bà 2 tuổi, theo sự sắp xếp của mẹ và các anh. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân tan vỡ sau 5 năm và 2 người được cho đã có chung 1 đứa con (sinh năm 1961). Tuy nhiên, trong đám tang của bà, người con trai thứ ba của bà đã đính chính với truyền thông rằng những thông tin về bất kỳ ai ngoài 4 người con với ông Nguyễn Xuân Oánh đều là sai sự thật. Bà chỉ có 4 người con với ông Oánh.
Năm 1968, bà gặp ông Nguyễn Xuân Oánh, một Tiến sĩ Kinh tế lớn hơn bà 19 tuổi, từng làm Thống đốc Ngân hàng, Phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Ông là người giúp đỡ bà lập ra hãng phim Thẩm Thúy Hằng. Năm 1970, hai người kết hôn. Hai người có với nhau 4 người con trai.
Các con trai của họ lần lượt là Nguyễn Thanh Vũ, Nguyễn Xuân Dũng và cặp sinh đôi Nguyễn Xuân Ái Quốc, Nguyễn Xuân Quốc Việt.
Bàn về đức tin của bà, có báo viết rằng bà có tên thánh là Jeane khi nhỏ, tuy nhiên nguồn báo Giác Ngộ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam xác nhận bà tin theo đạo Phật, tu tại gia, ăn chay trường và nghiên cứu thiền học.
Bà qua đời lúc 20h10 ngày 6 tháng 9 năm 2022 tại nhà riêng, hưởng thọ 82 tuổi.
Di sản
Theo tạp chí Đẹp, bà được xem như Đại minh tinh của điện ảnh Việt Nam. Là nữ diễn viên Việt Nam đầu tiên đoạt Ảnh hậu Á Châu trong Liên hoan phim Châu Á năm 1974. Sau giải thưởng đó, sự ảnh hưởng của Thẩm Thúy Hằng lên nền điện ảnh của Việt Nam là rất lớn. Đồng thời, bà cũng có tính nữ đầy độc đáo khi vừa có chút dịu dàng, đằm thắm của nữ nhân Việt nhưng rất đỗi quyến rũ, tiên phong cho sự phá cách đầy táo bạo khi diện áo tắm hai mảnh xuất hiện trên họa báo.Người ta ngợi ca nhan sắc của bà qua câu nói dân gian: "Đẹp như Thẩm Thúy Hằng".
Những phim tiêu biểu tham gia
Trước 1975
Người đẹp Bình Dương (1958)
Áo dòng đẫm máu (1960)
Tấm Cám (1960)
Sự tích trầu cau (1960)
Bạch Viên - Tôn Các (1960)
Nửa hồn thương đau (1960)
Đôi mắt huyền (Thuyền ra cửa biển) (1960)
Đò chiều (1960)
Oan ơi ông Địa (1961)
Ngưu Lang - Chức Nữ (1963)
Trà hoa nữ (1963)
Tơ tình (1963)
Dang dở (1963)
Bóng người đi (1964)
Sài Gòn vô chiến sự (Saigon Out of War) (1967)
Chiều kỉ niệm (1969)
Nàng (1970)
Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ (1970)
Người về từ đỉnh núi (1970)
Như hạt mưa sa (1971)
Chân trời tím (1971)
Sóng tình (1972)
Tứ quái Sài Gòn (1973)
Điệp vụ tìm vàng (S.T.A.B) (1973)
Ngậm ngùi (1973)
Mười năm giông tố (1973)
Năm vua hề về làng (1974)
Xin đừng bỏ em (1974)
Hòn vọng phu (1974)
Chàng ngốc gặp hên (1975)
Giỡn mặt tử thần (1975)
Sau 1975
Như thế là tội ác
Hồ sơ một đám cưới
Đám cưới chạy tang
Ngọn lửa Krông Jung (1980)
Nơi gặp gỡ của tình yêu (1980)
Cho cả ngày mai (1981)
Giải thưởng
1964: Danh hiệu Hoa hậu Ảnh Toàn Châu Á
1972-1974: Diễn viên xuất sắc Á châu tại Liên hoan phim Đài Bắc, Ảnh hậu Á châu trong Liên hoan phim Á châu tổ chức tại Hồng Kông và Đài Loan.
1973: Giải Kim Khánh (Ảnh Hậu Quốc Gia)
1982: Giải nữ diễn viên khả ái nhất tại LHP Moscow và Tasken tại Liên Xô.
Chú thích
Chú giải |
Chuẩn Đô đốc (tiếng Anh: Rear admiral, tiếng Pháp: Contre-amiral), là cấp bậc sĩ quan hải quân cao cấp đầu tiên của bậc Đô đốc, là một cấp bậc tướng hải quân, tương đương với cấp bậc Thiếu tướng, dưới bậc Phó Đô đốc.
Nguồn gốc
Nguồn gốc cấp bậc này xuất phát từ tổ chức của các hải đoàn thuyền buồm kinh doanh vượt đại dương, về sau phát triển thành hệ thống cấp chỉ huy của Hải quân Hoàng gia Anh. Theo đó, mỗi một Hải đoàn sẽ được giao phó cho một Đô đốc chỉ huy. Vị Đô đốc sẽ chỉ huy từ chiến thuyền giữa đoàn và điều hành các hoạt động của hải đoàn. Một vị Đô đốc khác sẽ giúp đỡ vị Đô đốc chính chỉ huy các chiến thuyền đi đầu, vốn là những chiến thuyền sẽ chịu đựng mũi dùi của một cuộc tấn công trên biển. Vị này được xếp sau vị Đô đốc chính nên được gọi là Phó Đô đốc (Vice Admiral). Phía sau của hải đoàn, một Đô đốc thứ ba sẽ chỉ huy các chiến thuyền còn lại và vì phần phía sau của hải đoàn được xem là ít nguy hiểm nhất nên vị đô đốc chỉ huy ở phía sau thường là vị đô đốc cấp bậc thấp nhất trong số các đô đốc của hải đoàn. Việc này tồn tại cho đến thời hiện đại, cấp bậc "rear admiral" (đô đốc phía sau) là cấp bậc đầu tiên thấp nhất trong các cấp bậc Đô đốc (Phó Đô đốc, Đô đốc, Thủy sư Đô đốc) mà tiếng trong tiếng Việt gọi là Chuẩn Đô đốc.
Thông thường, quân hàm này tương đương cấp bậc thiếu tướng, hay tướng 2 sao của hải quân. Trong Hải quân Nhân dân Việt Nam hiện nay, từ năm 1981, danh xưng Chuẩn Đô đốc được quy định dùng cho hàm Thiếu tướng Hải quân với 1 sao.
Danh xưng Đề đốc
Danh xưng cấp bậc Đề đốc bắt nguồn từ danh xưng Đô đốc. Danh xưng Đô đốc (chữ Hán: 都督) dưới thời phong kiến của Trung Quốc và Việt Nam là chức quân chính cao cấp. Trải qua các thời kỳ khác nhau đô đốc có những quyền lực khác nhau. Theo đó, chức vụ Đề đốc (chữ Hán: 提督), vốn là một chức vụ gần tương đương với chức vụ đô đốc (Đề có ý nghĩa là Nâng lên cho đều). Trong thời hiện đại, danh xưng Đề đốc được dùng trong các tài liệu tiếng Việt dành để chỉ quân hàm cấp tướng hải quân dưới cấp Đô đốc và Phó đô đốc.
Việt Nam
Cập bậc Chuẩn đô đốc trong Hải quân Nhân dân Việt Nam được đặt ra từ năm 1988, tương đương cấp Thiếu tướng Hải quân trước đây.
Việt Nam Cộng hòa
Trước năm 1964, Hải quân Việt Nam Cộng hòa có cấp bậc Chuẩn Đô đốc là thiếu tướng hải quân 2 sao nhưng sau năm 1964 đổi danh xưng thành cấp bậc Đề đốc.
Ngoài ra, từ năm 1964, Hải quân Việt Nam Cộng hòa còn đặt thêm cấp bậc Phó Đề đốc, là cấp bậc dưới cấp bậc Đề đốc.
Các Đề đốc tiêu biểu:
Lâm Ngươn Tánh
Trần Văn Chơn
Anh Quốc
Hải quân Hoàng gia Anh vẫn giữ cấp bậc "Rear admiral" với hai sao (Đô đốc phía sau hay Chuẩn Đô đốc).
Hoa Kỳ
Trong Hải quân Hoa Kỳ, Tuần duyên Hoa Kỳ, và một số đơn vị khác, Chuẩn Đô đốc được chia thành hai cấp loại: nửa dưới (Lower Half) và nửa trên (Upper Half). Việc sử dụng này bắt đầu trong cuối thế kỷ 19 khi các Chuẩn Đô đốc được giao một chức vụ cao cấp trong Hải quân hoặc có tên trong danh sách thăng chức của Tuần duyên. Những ai có tên trong nửa trên của danh sách sẽ nhận bậc lương cao hơn cho dù tất cả các Chuẩn Đô đốc được xem là cùng cấp bậc.
Khi Hải quân Hoa Kỳ và Tuần duyên Hoa Kỳ bỏ cấp bậc tướng hải quân 1 sao Commodore, các Chuẩn Đô đốc có tên ở nửa dưới của danh sách thăng chức nhận nhiệm vụ của các tướng hải quân 1 sao. Tuy nhiên cho đến thập niên 1980, tất cả các Chuẩn Đô đốc vẫn mang 2 sao trên quân hàm của họ. Sau đó trở đi, các Chuẩn Đô đốc (nửa dưới) mang 1 sao trong khi các Chuẩn Đô đốc (nửa trên) mang 2 sao. Cách gọi vẫn giữ nguyên là Chuẩn Đô đốc cho cả hai cấp bậc khác sao này. Tuy nhiên, để dễ phân biệt, trong một số tài liệu tiếng Việt, người ta vẫn thường gọi cấp bậc Chuẩn Đô đốc (nửa dưới) là Chuẩn tướng hải quân hoặc Phó Đề đốc, còn cấp bậc Chuẩn Đô đốc (nửa trên) là Thiếu tướng hải quân hoặc Đề đốc. |
Hạ viện (Hạ nghị viện hoặc Chúng nghị viện) là một trong hai viện của Quốc hội ở tại các Quốc gia lưỡng viện. Các thành viên của Hạ viện được chọn lựa qua bầu cử. Hạ viện có chức năng lập pháp. Quyền lực của hạ viện so với thượng viện là khác nhau tùy theo hiến pháp.
Đại biểu quốc hội tại hạ nghị viện thường là do người dân trực tiếp bầu, nên còn gọi là dân biểu hoặc "hạ nghị sĩ", và hạ nghị viện còn được gọi là viện dân biểu. Trong khi đại biểu quốc hội tại thượng nghị viện thường được gọi là nghị sĩ, hay là thượng nghị sĩ.
Tại các quốc gia theo thể chế dân chủ nghị viện, hạ viện có quyền lập ra thủ tướng và chính phủ. Đảng nào có nhiều ghế trong hạ viện có quyền thành lập chính phủ.
Ví dụ: Anh, Canada, Úc...
Quốc hội tại những quốc gia có một viện được coi là tương đương với hạ viện.
Ví dụ: Việt Nam, Trung Quốc...
Hạ viện Hoa Kỳ bao gồm 435 dân biểu được bầu chọn dựa trên tỷ lệ dân số của mỗi tiểu bang.
Đặc điểm của hạ nghị viện
Hạ viện có những quyền lực riêng mà thượng viện không có, và ngược lại, điều này thay đổi tuỳ thuộc vào hiến pháp từng quốc gia.
Các nghị quyết được thông qua bởi hạ viện.
Hạ viện có nhiều ghế hơn thượng viện.
Nhiệm kỳ thành viên ngắn hơn của thượng viện |
Tự do chính trị được đánh giá hàng năm bởi tổ chức Freedom House với mục đích định lượng mức độ dân chủ và tự do tại các quốc gia trên thế giới. Thang điểm được tính từ 1 (rất tự do) đến 7 (thiếu tự do nghiêm trọng).
Chú thích: PR - Quyền chính trị (Political Rights); CL - Quyền tự do dân sự (Civil Liberties)
(*) - Dân chủ đại diện.
Châu Phi cận sa mạc Sahara
Châu Mỹ
Châu Á Thái Bình Dương
Trung Âu & Đông Âu & Liên Xô (cũ)
Tây Âu và Nam Âu
Trung Đông & Bắc Phi
Các vùng lãnh thổ
Xu hướng tự do toàn cầu
Ghi chú: (Không bao gồm các vùng lãnh thổ đang bị tranh chấp). |
Tự do báo chí hay tự do thông tin là một trong những quyền căn bản nhất của con người, được hầu hết các quốc gia công nhận bằng văn bản luật, thậm chí Hiến pháp. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng đề cập và công nhận quyền tự do này của mỗi công dân. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền tự do báo chí ở mỗi quốc gia có mức độ hoàn toàn khác nhau.
Biểu hiện của tự do báo chí
Thể hiện qua việc tự do thông tin, tiếp nhận thông tin qua tất cả các nguồn khác nhau, bày tỏ quan điểm chính kiến mà không sợ bị giam cầm hay trù dập.
Tình trạng tự do báo chí
2015
Theo Freedom House, năm 2015 là năm tồi tệ nhất đối với tự do báo chí trong hơn một thập niên qua. Ước tính chỉ có 13% dân số thế giới sống ở các nước “nơi có việc đưa các tin tức chính trị thì ngay thẳng, sự an toàn của các nhà báo được đảm bảo, sự xâm phạm của nhà nước vào các vấn đề truyền thông là tối thiểu, và báo chí không phải là đối tượng của những áp lực pháp lý hoặc kinh tế nặng nề”. Đối với 87% còn lại của dân số thế giới lại là một câu chuyện khác. Ở một số nước, các chế độ chuyên chế sẽ chỉ đơn giản là bỏ tù hay ám sát các phóng viên, những người quá “tò mò”. Ở các nước khác, các chính phủ đã thực hiện các rào cản pháp lý và kinh tế đối với việc đưa tin trung thực, không bị trói buộc, làm cho công việc của các nhà báo muốn làm việc ngay thẳng trở nên càng khó khăn hơn.
Xếp hạng về tự do báo chí
Lưu ý: Số liệu từ Hoa Kỳ chỉ có tính chất tham khảo.
Một trong những tổ chức đánh giá mức độ tự do báo chí được biết đến rộng rãi là bảng thứ tự qua khảo sát và xếp hạng hàng năm bởi tổ chức Phóng viên không biên giới (Reporters sans frontières RSF) với mục đích cổ động quyền tự do bao chí toàn cầu. Thứ tự được xếp theo mức độ vi phạm quyền lợi mà tổ chức này đánh giá.
2012
Theo phúc trình của tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 30 tháng giêng 2013:
Miến Điện xếp thứ 151 trong tổng số 179 quốc gia được xếp hạng theo Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2013 do tổ chức RSF thực hiện, vượt lên 18 bậc so với năm ngoái. Theo RFS thì "Không còn phóng viên hay nhà bất đồng chính kiến thể hiện qua internet nào bị giam giữ trong các nhà tù của chính quyền độc tài quân nhân cũ nữa," và vào tháng Tám, Miến Điện đã tuyên bố chấm dứt kiểm duyệt trước khi ấn bản.
Nhật Bản tụt hạng đáng kể, từ đứng thứ 22 xuống thứ 53 vì kiểm duyết tin liên quan tới vụ nhà máy điện hạt nhân ở Fukushima bị sóng thần tàn phá.
Triều Tiên (đứng thứ 178, áp chót), Trung Quốc (173), Việt Nam (172) và Lào (168), 4 nước này cũng bị đặt ở cuối bảng xếp hạng vì họ "từ chối không cho phép công dân của mình quyền tự do được thông tin," RSF nói.
2022
Nhân việc Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới (RSF) công bố bảng xếp hạng Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2022 vào ngày Tự do báo chí Quốc tế 3/5, một nhà báo độc lập nhận định rằng, bên cạnh bắt bở bỏ tù các nhà báo độc lập, Nhà nước Việt Nam còn “chống lưng” cho các hội nhóm tung tin giả. Đó cũng là lý do khiến tình nền báo chí Việt Nam vẫn tồi tệ và luôn ổn định đứng cuối trong các bảng đánh giá về Tự do báo chí. Trong bảng xếp hạng này, RFS xếp Việt Nam xếp ở vị trí 174/180 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá, tăng một hạng so với năm ngoái, và là quốc gia có số nhà báo bị bỏ tù đứng thứ ba trên Thế giới .
Tự do báo chí ở Việt Nam
Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin".
Quan điểm của chính quyền Việt Nam
Năm 2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Chỉ thị 37 để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị về biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí. Theo chỉ thị này, Chính phủ Việt Nam "kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức; không để bất cứ tổ chức, cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí phục vụ lợi ích riêng." Thủ tướng Việt Nam còn ra chỉ thị bổ sung thêm những biện pháp để kiểm soát báo chí chặt chẽ hơn. Điển hình là nhà nước không chấp nhận báo chí tư nhân.
Tính đến năm 2010 trong số hơn 700 tờ báo cùng 67 đài phát thanh và truyền hình trong nước thì tất cả phụ thuộc vào những cơ quan nhà nước và chịu sự chỉ đạo của chính quyền. Chính xác hơn là Bộ Thông tin - Truyền thông quản lý cùng dưới quyền Ban Văn hóa Tư tưởng của Đảng Cộng sản.
Tháng 8 năm 2011 tại Hội nghị báo chí nhóm họp ở Quảng Bình, Cục Báo chí thuộc Bộ Thông tin và truyền thông Việt Nam tái khẳng định rằng tất cả báo chí trong nước đều là cơ quan ngôn luận của Đảng nên nhiệm vụ chính yếu là "tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân." Vì vậy báo chí phải cảnh giác việc "đưa tin không phù hợp với lợi ích quốc gia và nhân dân" và "nhận thức chính trị sai lệch." Dù vậy báo chí cùng các phương tiện truyền thông nói chung đang được hiện đại hóa và nhà nước không thể kiểm soát được trọn vẹn.
Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Theo báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam , Nền báo chí cách mạng Việt Nam chịu sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, ở Việt Nam, Đảng lãnh đạo báo chí và báo chí bảo vệ Đảng, trong đó có bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là hai nhiệm vụ tất yếu, khách quan.Trong hệ thống tổ chức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan tham mưu, giúp việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; về chủ trương, quan điểm và chính sách của Đảng trong lĩnh vực tuyên tuyền, lý luận chính trị, lịch sử Đảng, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ,... Ngày 21 tháng 6 năm 2022, trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Nguyễn Trọng Nghĩa chỉ ra việc xây dựng môi trường văn hóa thực sự trong một số cơ quan báo chí chưa được đầu tư đồng bộ, đầy đủ, sâu sắc, thậm chí xuất hiện dấu hiệu lệch chuẩn, lạc chuẩn văn hóa, chạy theo thị hiếu tầm thường trong một số sản phẩm báo chí và trong cách thức ứng xử của một số người làm báo với đồng nghiệp và với công chúng, xã hội .
Liên quan đến báo chí, Ban Tuyên Giáo Trung Ương có những nhiệm vụ sau:
Hướng dẫn, kiểm tra, định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, các cơ quan thông tin, tuyên truyền đối ngoại ở Trung ương và địa phương. Khi cần thiết chủ trì hoặc phối hợp kiểm tra về mặt quan điểm chính trị, tư tưởng các công trình nghiên cứu khoa học; các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản...
Chủ trì chỉ đạo định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, các cơ quan thông tin, tuyên truyền đối ngoại, các hội văn học - nghệ thuật, Hội nhà báo, Hội xuất bản, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật. Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương trong công tác tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ của các cơ quan, đơn vị trên.
Trường hợp bị kỷ luật
2016
Nhà báo Đỗ Hùng, Phó Tổng thư ký tòa soạn báo Thanh niên điện tử, bị kỷ luật, thu hồi thẻ nhà báo, mất chức chỉ vì đưa lên Facebook riêng của anh một bài viết ngắn gồm toàn các chữ có dấu sắc, nhân kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 70 (2/9/1945 - 2/9/2015). Anh bị Bộ Thông tin và Truyền thông kết tội xuyên tạc và xúc phạm Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp..
Nhà báo trẻ Mai Phan Lợi, phóng viên của báo Pháp Luật (Sài Gòn), làm việc tại Hà Nội. Khi xảy ra tai nạn 2 máy bay quân sự của Việt Nam mất tích, anh đưa tin và phát động một sáng kiến mà anh gọi là một cuộc thăm dò, khảo sát dư luận về chuyện 2 máy bay bị tan xác này. Thế là anh bị lên án là vô trách nhiệm, bị mất chức, bị thu hồi thẻ nhà báo, chỉ vì đã dùng 2 chữ tan xác.
Nhà báo Phùng Hiệu, quyền đại diện báo Nhà báo và Công luận, cũng chỉ vì cho rằng Fidel Castro là một nhà độc tài bảo thủ, tôn thờ chủ nghĩa Mác một cách mê muội mà bị kỷ luật, bị đề nghị rút thẻ nhà báo vì dám xúc phạm một "lãnh tụ vĩ đại, người bạn thân thiết của đảng Cộng sản và của nhân dân Việt Nam".
Nhận xét của các tổ chức quốc tế
Theo báo cáo của tổ chức Phóng viên không biên giới, Việt Nam không có truyền thông độc lập. Việt Nam xếp hạng 168 trong số 173 quốc gia trong bảng xếp hạng vào năm 2008 về chỉ số tự do báo chí. Báo chí, truyền hình và radio đều nằm dưới sự điều khiển của chính quyền. Bốn cơ quan chính là Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và báo Nhân dân đều được phối hợp để thi hành tuyên truyền cho Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam.
Hiện khoảng 10 nhà báo và nhà bất đồng chính kiến mạng đang bị ở tù "vì những phát biểu của họ".
Theo tổ chức Freedom House công bố ngày 1 tháng 5 năm 2012 thì Việt Nam đứng hạng thứ 182 trên 197 quốc gia thế giới, đồng hạng với Ả Rập Xê Út, Bahrain, Lào và Somalia. Trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, Việt Nam xếp đồng hạng với Lào, chỉ hơn Myanmar và Trung Quốc (đồng hạng) và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (xếp cuối bảng).
2013
Ngày 17 tháng tư 2013 Ủy ban Bảo vệ Ký giả quốc tế CPJ kêu gọi Nghị viện châu Âu thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam lùi bước trong chính sách nghiêm ngặt chống lại truyền thông được siết chặt từ năm 2009 tới nay.
Qua công bố của Freedom House vào ngày 1/5/2013 thì Việt Nam vẫn bị liệt vào danh sách những nước không có tự do báo chí .
Theo cuộc khảo sát của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (tiếng Anh: Committee to Protect Journalists, CPJ) thì Việt Nam đứng thứ năm trong các quốc gia trên thế giới giam cầm người làm báo. Các nước kia theo thứ tự là Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và Eritrea.
2016
Việt Nam vẫn bị xếp hạng 175/180 trong phúc trình thường niên về tự do báo chí thế giới của Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF), công bố hôm thứ Tư 20 tháng 4. Ông Benjamin Ismail chuyên trách khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới, trụ sở tại Paris, Pháp, nhận định: “Dù vẫn giữ vị trí 175/180 như năm 2015 song phải nói là tình trạng tự do báo chí ở Việt Nam có phần tệ hơn năm ngoái nữa.”. Ông ta nói thêm: “Lãnh vực tự do thông tin và tự do báo chí của Việt Nam sa sút đáng kể, những hành động bắt giữ, sách nhiễu bloggers và các nhà báo công dân tiếp tục xảy ra, điển hình như vụ việc Nguyễn Hữu Vinh tức blogger Anh Ba Sàm và trường hợp luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài sau này..."
Thành lập Hội Nhà báo Độc lập
Vì muốn thực hiện quyền tự do báo chính nhưng không được nhà nước Việt Nam kiểm soát, ngày 4 tháng 7 năm 2014 một nhóm ký giả, phóng viên, nhà văn đã đứng ra thành lập một hiệp hội chính thức mang tên Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam với 42 hội viên. Mục đích của hội là "nhằm thực hiện quyền tự do biểu đạt và tự do báo chí". Trong số người chủ trương là nhà báo Phạm Chí Dũng (chủ tịch) và linh mục Lê Ngọc Thanh (phó chủ tịch). Linh mục là người được trao giải "Anh hùng thông tin" của tổ chức Phóng viên Không Biên giới hồi tháng 5 năm 2014.
Tự do báo chí ở các nước Hồi giáo
Bahrain
Theo Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, một số phóng viên ở Bahrain đã bị bỏ tù. Một số người cũng bị tra tấn dã man hoặc bị đày ải.
Palestine
Vào tháng 10 năm 2019, Chính phủ Palestine đã chặn 59 trang web, cho rằng các trang web mạng thông tin phiến diện, chỉ trích chính phủ. Các trang web này được xác định là đã xuất bản tài liệu đe dọa an ninh quốc gia và hòa bình dân sự. Quds News Network, là một trong số các trang web bị chặn, tuyên bố rằng động thái này phản ánh sự đàn áp tự do báo chí ở Palestine.
Tự do báo chí ở các nước độc tài
Tác động của cản trở thông tin
Theo BBC, việc tạo ra các bộ lọc thông tin nhằm ngăn người dân tiếp xúc với các thông tin mà chính quyền không mong muốn thường gây ra các tác hại về kinh tế, về chính trị, về tư tưởng nhận thức và vi phạm quyền lợi chính đáng của người dân về quyền tự do ngôn luận.
Chú thích |
Nghị viện, hay nghị hội, là một loại hình thái của cơ quan lập pháp, do số lượng đại biểu nhất định trong nhân dân bầu ra mà hợp thành nhằm nắm giữ quyền lập pháp; các vị đại biểu này gọi là nghị sĩ, có thể thông qua bầu cử trực tiếp hoặc bầu cử gián tiếp mà sản sinh, cũng có thể là do nhà nước uỷ nhiệm. Nghị viện thường dùng để chỉ và gọi cơ quan lập pháp của nước dân chủ, bởi vì phần lớn nội dung công việc tiến hành của nó đến từ ý muốn của người dân, do đó cũng được gọi là "cơ quan dân ý"; tuy nhiên, nghị viện cấp bậc nhà nước, được gọi là nghị viện nhà nước, gọi tỉnh lược là "quốc hội". Nghị viện của nước dân chủ hiện đại thông thường đều lấy quốc hội Anh Quốc có lịch sử lâu dài nhất coi là khuôn mẫu, Vương quốc Liên hợp Anh và Bắc Ireland là một nước có thể chế quân chủ lập hiến và chế độ dân chủ nghị viện đầu tiên, thi hành chế độ lưỡng viện.
Nghị viện bắt nguồn từ Anh Quốc, là từ hội nghị thứ bậc mang tính chất phong kiến mà diễn biến tới nay. Năm 1266, quý tộc Montfort lấy danh nghĩa nhiếp chính để triệu tập mở hội nghị do quý tộc, tăng lữ, kị sĩ và cư dân thành phố tham gia. Về sau được biết là điểm mở đầu của nghị viện Anh Quốc, năm 1688 sau Cách mạng Quang Vinh, nghị viện thông qua "Dự luật Quyền lợi" và "Luật kế thừa ngôi vua" lần lượt vào năm 1689 và 1701, cấp cho nghị viện các phương diện quyền lực như chế định luật pháp, quyết định dự toán tài chính công, quyết định kế thừa ngôi vua và giám sát việc quản lí hành chính, từ đó nghị viện biến thành là cơ quan lập pháp tối cao.
Mặc dù nghị viện phổ biển bị coi là một cái vòng của hệ thống các nước dân chủ, nhưng một bộ phận các nước phi dân chủ cũng có nghị viện "bức bình phong". Thế giới ngày nay, nghị viện đang tiếp nhận sự giám sát và áp lực đến từ công chúng mà trước giờ chưa từng có, đóng vai trò ngày càng trọng yếu ở trong đời sống chính trị của đất nước. Bên trong quốc hội thông thường chia làm đảng cầm quyền và đảng đối lập, ở trong tình hình bình thường, đảng cầm quyền hỗ trợ và ủng hộ chính phủ trung ương thực thi việc chính trị, tất cả chính sách mà chính phủ trung ương đề xuất, thông thường đưa ra phát ngôn biện luận có lợi và bỏ phiếu tán thành đối với chính phủ trung ương, mong mỏi thông qua thuận lợi tất cả dự luật và dự thảo nghị quyết, nhưng mà đảng đối lập thì trái lại, thậm chí làm ra phản kháng bằng mọi hình thức; do đó bất luận đảng cầm quyền hay đảng đối lập số nghị sĩ ở trong nghị viện vô cùng trọng yếu. Người đứng đầu của quốc hội gọi là "nghị trưởng", bậc dưới có "phó nghị trưởng, bậc dưới nữa vẫn còn có "chủ tịch uỷ ban" của mỗi công việc, các quan chức như "nghị trưởng", "phó nghị trưởng" và "chủ tịch uỷ ban" đều là do nghị sĩ đề cử lẫn nhau hoặc thăng chức nội bộ; chỉ có "tổng thư kí" là quan chức do chính phủ uỷ nhiệm, vì vậy tổng thư kí không có quyền phát ngôn, bỏ phiếu hoặc phán xử quyết định, chỉ có quyền lợi phê duyệt văn kiện. Quy mô kiến trúc của cao ốc quốc hội, thông thường đại biểu quyền uy và tôn nghiêm của nghị viện, tượng trưng chủ quyền thuộc về nhân dân và nghị viện tối thượng.
Mặt khác, số nghị sĩ thông thường cố định nhưng cũng có thể biến động, để tránh khỏi chi trả giá thành nghị sĩ quá lớn vào lúc có quá nhiều nghị sĩ, song lúc quá ít sẽ ảnh hưởng chất lượng thẩm tra dự luật, chính sách nhà nước dễ bị quan lại thao túng.
Lịch sử
“Nghị viện” bắt nguồn từ chữ Latinh, ý nghĩa ban đầu là biện luận theo cách đàm thoại, xuất hiện đầu tiên bằng một loại hình thức các đại biểu cùng nhau hội họp, trải qua diễn biến và phát triển trong khoảng thời gian dài, cuối cùng coi là hình thức cơ bản của dân chủ xác lập phổ biến ở rất nhiều nước.
Nhìn từ nguồn cội lịch sử, có ghi chép rằng rất nhiều bộ lạc nguyên thủy hoặc du mục có các thủ lĩnh hoặc tù trưởng hội họp cùng nhau, để thương thảo quan hệ cho đến tất cả vấn đề của bộ lạc hoặc nhóm bộ lạc, thí dụ đại hội Kurultai của người Mông Cổ.
Ở một số thành bang Hi Lạp (thí dụ Athens) và nước Cộng hoà La Mã cũng tồn tại cơ cấu tương tự nghị viện (viện nguyên lão). Sau khi tiêu diệt đế quốc La Mã, rất nhiều khu vực ở châu Âu đã bảo lưu nghị viện quý tộc và nghị viện địa phương do nghị viện tù trưởng kéo dài và diễn biến tới nay. Ở trong một số thành thị của châu Âu đã hình thành nghị viện thành phố do giai cấp trung lưu như thành viên công đoàn cùng với thương nhân, luật sư và giáo sư hợp thành. Những nghị viện này xét về nguồn gốc, quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên nghị viện có khác biệt rất lớn với nghị viện ngày nay, nhưng xét về nguồn cội lịch sử, có thể được xem là tiền thân của nghị viện ngày nay.
Năm 1258, quân đội của Simon de Montfort, bá tước Leicester đời thứ 6 - em rể của quốc vương Anh Henry III, xông vào cung điện, buộc Henry III đồng ý triệu tập mở hội nghị kí kết "Điều ước Oxford" nhằm hạn chế vương quyền. Căn cứ "Điều ước Oxford", quyền lực nhà nước được nắm giữ bởi một uỷ ban gồm 15 người do quý tộc kiểm soát, do đó đã tiến cử tên gọi mới - Parliament. Chữ này xuất phát từ chữ Pháp parlement, nghĩa là "thương nghị", về sau trong tiếng Anh biểu thị nghị viện.
Năm 1265, Anh triệu tập mở hội nghị lần thứ nhất. Năm 1266, Bá tước Montfort lấy danh nghĩa nhiếp chính để triệu tập mở hội nghị do quý tộc, tăng lữ, kị sĩ và cư dân thành phố tham gia, về sau được biết là điểm mở đầu của nghị viện Anh Quốc, thông qua "Dự luật Quyền lợi" và "Luật kế thừa ngôi vua" lần lượt vào năm 1689 và 1701, cấp cho nghị viện các phương diện quyền lực như chế định luật pháp, quyết định dự toán tài chính công, quyết định kế thừa ngôi vua và giám sát việc quản lí hành chính, từ đó nghị viện biến thành cơ quan lập pháp tối cao.
Nghị viện được coi là cơ quan lập pháp, thông thường có sẵn quyền lực chính trị cơ sở nhất định, nhưng mà quyền lực của một số nghị viện khá ít, thí dụ nghị viện châu Âu vào thời kì đầu về cơ bản không có bất kì quyền lực chính trị gì.
Hình thức tổ chức
nhỏ|400x400px|
Nghị viện của các nước trên thế giới phổ biến chọn dùng hình thức tổ chức chế độ nhất viện hoặc chế độ lưỡng viện. Chế độ nhất viện chỉ chế độ mà nghị viện chỉ xếp đặt một viện (để thương lượng) và do nó sử dụng và thực thi toàn bộ chức quyền của nghị viện. Chế độ lưỡng viện chỉ chế độ mà nghị viện xếp đặt hai viện và do hai viện sử dụng và thực thi chức quyền của nghị viện.
Tên gọi lưỡng viện mỗi nước có khác nhau và riêng biệt, thí dụ Anh Quốc là Viện Quý tộc (cấp thượng) và Viện Thứ dân (cấp hạ), các nước như Hoa Kỳ và Nhật Bản gọi là Thượng viện (Tham Nghị viện) và Viện Dân biểu (Chúng Nghị viện), Pháp gọi là Thượng viện và Quốc hội, Hà Lan gọi là Viện thứ nhất (cấp thượng) và Viện thứ hai (cấp hạ), Thuỵ Sĩ gọi là Hội đồng Các bang (cấp thượng) và Hội đồng Quốc gia (cấp hạ), Đức gọi là Quốc hội Liên bang (cấp hạ) và Hội đồng Liên bang (cấp thượng), Nga gọi là Hội đồng Liên bang và Duma Quốc gia. Phổ thông mà nói, các nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển khá sớm phần nhiều chọn dùng chế độ lưỡng viện, kể từ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai các nước châu Á và châu Phi mới độc lập phần nhiều chọn dùng chế độ nhất viện, nước có thể chế liên bang chọn dùng chế độ lưỡng viện.
Chế độ lưỡng viện bắt nguồn vào thế kỉ XIV ở Vương quốc Anh lúc vua Edward III còn ở ngôi vua, nắm giữ triều chính, trong nghị viện bao gồm đại biểu bốn phía quý tộc, tăng lữ, kị sĩ và cư dân thành phố, bởi vì chênh lệch lợi ích và địa vị, đại quý tộc và đại tăng lữ kết hợp cùng nhau, kị sĩ, bình dân và tiểu quý tộc, tăng lữ cấp dưới cũng kết hợp cùng nhau. Đại biểu của hai bộ phận này tách ra tập hợp, liền dần dần hình thành chế độ lưỡng viện. Thượng viện gọi là Viện Quý tộc, hạ viện gọi là Viện Thứ dân. Montesquieu cho biết việc chọn dùng chế độ lưỡng viện có thể phát huy tác dụng ràng buộc lẫn nhau, ngăn cấm hành động nông nổi, không cẩn thận ở nghị viện. Rousseau thì cho biết quyền lập pháp chỉ có thể do nghị viện đơn nhất đại biểu nhân dân sử dụng và thực thi, không thích hợp chọn dùng chế độ lưỡng viện. Lúc Hoa Kỳ chế định hiến pháp vào năm 1787, các nhà lập hiến đa số tán thưởng học thuyết phân quyền, ràng buộc và cân bằng của Montesquieu, nhưng mà lúc đó liên bang vừa mới thành lập cũng cần phải quan tâm đầy đủ lợi ích của mỗi bang, do đó đã kiến lập quốc hội theo chế độ lưỡng viện. Lúc Pháp chế định hiến pháp quyền đầu tiên vào năm 1791, đã kiến lập nghị viện theo chế độ nhất viện căn cứ vào học thuyết của Rousseau. Mặc dù hiến pháp đã khôi phục chế độ nhất viện một lần vào năm 1848, nhưng sau chính biến của Napoléon III vào tháng 12 năm 1851 lại đổi thành chế độ lưỡng viện, sử dụng và thực thi từ lúc đó cho đến nay. Từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, nghị viện các nước trên thế giới chọn dùng chế độ lưỡng viện chiếm tuyệt đại đa số. Bắt đầu giữa thế kỉ XX, các nước độc lập mới nổi ở vùng đất khu vực châu Á và châu Phi, phần nhiều chọn dùng chế độ nhất viện.
Nghị viện do nhiều nghị sĩ hợp thành. Nghị sĩ được bầu thông qua tuyển cử, nhất là nghị sĩ Hạ viện của các nước có chế độ lưỡng viện. Nghị sĩ Thượng viện có thể được bầu nhờ tuyển cử hoặc được bổ nhiệm hoặc nhờ thân phận đặc thù mà có tư cách nghị sĩ. Nhiệm kì của nghị sĩ thường dài hơn nhiệm kì Hạ viện.
Nghị viện có nghị trưởng, đảm nhiệm chủ tịch nghị viện, chủ trì kì họp nghị viện, nắm giữ chương trình nghị sự, quản lí và giám sát công việc hành chính của nghị viện, đại biểu nghị viện đối ngoại. Hạ nghị viện có các loại uỷ ban thường trực coi là cơ quan mang tính hỗ trợ, hiệp trợ nghị viện thẩm tra dự thảo nghị quyết có liên quan. Nghị viện của chế độ lưỡng viện lại còn có uỷ ban toàn viện và uỷ ban hiệp thương lưỡng viện. Nghị viện hiện đại có đảng đoàn nghị viện để các chính đảng tăng cường kiểm soát và ảnh hưởng đối với nghị viện.
Quyền lực chủ yếu
Chức quyền của nghị viện do hiến pháp quy định, chủ yếu có:
Quyền lập pháp: là quyền lực được sử dụng và thi hành để chế định, sửa đổi và bãi bỏ pháp luật chiếu theo trình tự và pháp luật quy định.
Quyền tài chính công: là thông qua việc xem xét thảo luận dự luật tài chính công, thực thi giám sát đối với việc thu chi tài chính công của chính phủ.
Quyền giám sát hành chính: là quyền lực giám sát các loại hoạt động công vụ của cơ quan hành chính ngoại trừ quyền giám sát tài chính công. Việc vận dụng cụ thể của các điều khoản chức quyền đó có khác biệt đáng kể với các nước tư bản chủ nghĩa, chủ yếu chọn dùng các hình thức như luận tội, chất vấn và bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Phân giới chức quyền
Ở trong nghị viện chế độ lưỡng viện, việc phân chia ranh giới chức quyền của lưỡng viện mỗi nước có khác nhau và riêng biệt, được chia làm 3 thứ loại hình:
Hạ viện chiếm ưu thế rõ ràng. Ví như hạ viện Anh Quốc có được quyền thảo luận đầu tiên đối với dự luật tài chính công; thượng viện chỉ có quyền trì hoãn thông qua trong khoảng thời gian một tháng đối với dự luật tài chính công mà hạ viện thông qua; thông thường dự luật công được hạ viện thông qua trên ba lần liên tiếp, thượng viện dù cho phản đối cũng coi như thông qua.
Hai viện cơ bản có quyền ngang nhau, thượng viện hơi chiếm ưu thế. Ví như quyền lập pháp mà Lưỡng viện Hoa Kỳ có được là hoàn toàn bình đẳng; hạ viện có quyền thảo luận đầu tiên đối với dự luật tài chính công, thượng viện có quyền đồng ý đối với việc tổng thống kí kết điều ước và ra lệnh bổ nhiệm quan chức, nhưng mà thượng viện vẫn có quyền tu chính đối với dự luật tài chính công, hai loại quyền đồng ý này là quyền lực có sức ảnh hưởng khá lớn.
Hai viện cơ bản có quyền ngang nhau, hạ viện hơi chiếm ưu thế. Ví như tất cả dự luật của Pháp mặc dù do hai viện xem xét thảo luận, nhưng lúc hai viện phát sinh chia rẽ vả lại uỷ ban liên hợp lưỡng viện không có khả năng đạt tới thoả hiệp, nếu chính phủ yêu cầu thực hiện lại thảo luận thì nghị hội quốc dân (tức hạ viện) có thể thông qua dự luật theo phiếu đa số, không cần lấy được sự đồng ý của thượng viện.
Nghị viện Anh Quốc
nhỏ|Có người nói rằng, hàng ghế dài mặt đối mặt ở hạ viện Anh Quốc đã giúp tăng thêm phương thức biện luận mang tính đối kháng.
Anh Quốc tiên phong sáng lập phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản, và lại tiên phong sáng lập một bộ chế độ chủ nghĩa lập hiến tương thích với nó, đây chính là chế độ dân chủ nghị viện lấy nghị viện làm bộ phận thực chất. Nghị viện Anh Quốc được coi là "mẹ của nghị viện", nếu lấy "nghị viện mô phạm" được triệu tập vào năm 1295 làm điểm mở đầu, như vậy, thực tiễn nghị viện Anh Quốc liên tục không ngừng cho đến nay đã hơn 725 năm. Chỉ xét đúng chiều dài lịch sử của nghị viện Anh Quốc, vẫn không có nghị viện nước nào trên thế giới đuổi theo kịp.
Cái chỗ đáng giá của lịch sử nghị viện Anh Quốc không những có ở chiều dài thời gian của nó lại còn ở chiều sâu và độ phức tạp của mâu thuẫn mà nó trải qua, ở sự phong phú kinh nghiệm và bài học mà nó tích luỹ, ở sự mở mang trí thức mà thực tiễn nghị viện này chứa đựng hơn 725 năm.
Giống với đa số các nước, Anh Quốc đã từng có thời kì xã hội phong kiến khá dài và chế độ quân chủ phong kiến theo cùng với nó. Tuy nhiên điểm khác nhau với số đông chính là, vẫn đặt dưới chế độ quân chủ phong kiến, nghị viện Anh Quốc ngoan cường khai phá, rồi lại liên tục kiên nhẫn trói buộc vương quyền một cách chậm rãi, không vội vã, cho đến khi đem vương quyền kiên quyết đặt dưới khống chế của nghị viện. Các quân chủ Anh Quốc thời kì phong kiến có không ít khuynh hướng chuyên chế, có cái là quân chủ chuyên chế hoàn toàn đầy đủ, "không đội trời chung" với quyền lực của nghị viện. Vì nguyên do đó, nghị viện Anh Quốc muốn trói buộc quyền lực quân chủ ở thời đại mà toàn thế giới chỉ biết có quyền lực quân chủ mà không biết rõ quyền lực nghị viện, thì không thể không dùng các loại phương thức khác nhau ở khắp nơi để đấu tranh với quyền lực quân chủ. Các nghị sĩ nêu ra ý kiến hoặc yêu cầu tẩy sạch oan khuất hướng về quốc vương; viện cớ yêu cầu thu thuế của quốc vương và triều chính chỉ điểm, để phê phán, công kích bề tôi phạm tội và quân chủ bại hoại. Khi cuộc đấu tranh hoà bình của nghị viện không thể ngăn cấm hành vi chuyên chế của quốc vương, nghị viện chỉ huy đại quân, nhất quyết chiến đấu một mất một còn với quân đội quân chủ. Nghị viện thậm chí có một lần bãi bỏ chế độ quân chủ và kiến lập nước cộng hoà. Trải qua cuộc đọ sức chừng 500 năm với vô số lần, nghị viện cuối cùng chiến thắng chế độ quân chủ, bó buộc quyền lực quân chủ và làm mất thật quyền, đem quân chủ cải tạo thành biểu tượng đất nước mà không có năng lực hành vi tự chủ, khiến cho nó trở thành nghị viện tối thượng để làm dịch vụ công. Nghị viện Anh Quốc chiến thắng chế độ quân chủ phong kiến đã đưa ra cung cấp kinh nghiệm phong phú cho cuộc cách mạng tương tự ở các nước khác, trong đó cái được coi trọng và tiếp nhận nhất chính là: vận dụng quyền tài chính công của nghị viện đả kích vương quyền, dùng chiến tranh đánh bại vương quyền, dùng kĩ thuật "gác lên trên không" - làm mất thực quyền, để cải tạo vương quyền.
Anh Quốc từ thời kì xã hội phong kiến đã hình thành một chế độ tuyển cử nghị sĩ, lại một mạch dùng theo cho đến trước thế kỉ XIX. Chế độ tuyển cử nghị sĩ dưới chế độ quân chủ phong kiến thuận lợi cho quốc vương triệu tập nghị viện, có lợi cho quan lại phong kiến thao túng tuyển cử. Dưới chế độ dân chủ nghị viện, nghị viện cần thiết xây dựng nền móng xã hội của riêng mình. Bắt đầu từ năm 1832, nghị viện Anh Quốc liên tục tìm tòi, kiến lập chế độ tuyển cử nghị sĩ loại mới. Đối với yêu cầu tài sản và giới tính của cử tri từng bước bãi bỏ, yêu cầu độ tuổi được hạ thấp, lấy phân chia hành chính làm căn cứ và xác định vùng tuyển cử, rút nhỏ độ chênh lệch dân số giữa các vùng tuyển cử. Kết quả, đội ngũ cử tri từ 18 trở lên bắt đầu nổi lên. Một mặt khác, tài sản và giới tính đối với tư cách ứng viên nghị sĩ cũng loại bỏ tương ứng, yêu cầu độ tuổi được hạ thấp. Do đó, Viện bình dân đã mở rộng cửa lớn hướng về người dân có chí hướng. Chính đảng biến thành người tổ chức của cuộc tranh cử, nó chế định cương lĩnh, đề xuất ứng viên, lo liệu kinh phí tranh cử, cổ động cử tri. Cuộc tuyển cử trở thành sự chọn lựa và trao quyền do cử tri làm ra vây quanh chính sách và ứng viên của chính đảng. Nhà nước cấp cho quy phạm đối với hành vi của cử tri, ứng viên và chính đảng ở trong cuộc bầu cử, và lại làm trọng tài đối với cuộc tranh chấp bầu cử. Một vùng tuyển cử bầu chọn một nghị sĩ, ứng viên được phiếu đa số giản đơn trúng cử. Nghị viện Anh Quốc làm trước tuyệt đại đa số nghị viện nước khác và tìm tòi kiến lập nên chế độ tuyển cử nghị sĩ loại mới, nhiều điểm trọng yếu trong đó được nghị viện các nước lần lượt dùng trích dẫn. |
Flock là một trình duyệt web được xây dựng trên nền tảng mã nguồn mở Firefox của Mozilla. Flock v2.5 chính thức phát hành ngày 19 tháng 5, 2009.
Flock được tải xuống miễn phí, và hỗ trợ Microsoft Windows, Mac OS X, và nền Linux.
Giải thưởng
Sau khi thoát khỏi beta, Flock đã đạt một số giải thưởng:
Webby Award trong mạng xã hội, 2008
SXSW giải thưởng cộng đồng, 2008
Open Web Award cho Ứng dụng và Widget, 2007
"Eddy Winner": Giải thưởng Flock 2.0 24th Annual Macworld Editors' Choice |
Lợi thế so sánh hay Ưu thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình."
Phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh
Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã nghiên cứu và chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia và gọi kết quả này là quy luật lợi thế so sánh. Ông đã phân tích như sau:
Trong ví dụ này Anh có lợi thế tuyệt đối so với Bồ Đào Nha trong sản xuất cả lúa mỳ lẫn rượu vang: năng suất lao động của Anh gấp hai lần Bồ Đào Nha trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Theo suy nghĩ thông thường, trong trường hợp này Anh sẽ không nên nhập khẩu mặt hàng nào từ Bồ Đào Nha cả. Thế nhưng phân tích của Ricardo đã dẫn đến kết luận hoàn toàn khác:
1 đơn vị rượu vang tại Bồ Đào Nha sản xuất phải tốn chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mì (hay nói một cách khác, chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 2 đơn vị lúa mì); trong khi đó, tại Anh để sản xuất 1 đơn vị rượu vang chỉ mất chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 1,5 đơn vị lúa mì (hay chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 1,5 đơn vị lúa mì). Vì thế ở Anh sản xuất rượu vang rẻ hơn tương đối so với ở Bồ Đào Nha.
Tương tự như vậy, ở Bồ Đào Nha, sản xuất lúa mì rẻ hơn tương đối so với Anh (vì chi phí cơ hội chỉ có 0,5 đơn vị rượu vang trong khi ở Anh phải mất 2/3 đơn vị rượu vang). Hay nói một cách khác, Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản xuất lúa mì còn Anh có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang. Để thấy được cả hai nước sẽ cùng có lợi nếu chỉ tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh: Bồ Đào Nha chỉ sản xuất lúa mì còn Anh chỉ sản xuất rượu vang rồi trao đổi thương mại với nhau, Ricardo đã làm như sau:
Ông giả định nguồn lực lao động của Bồ Đào Nha là 270 giờ công lao động, còn của Anh là 180 giờ công lao động.
Nếu không có thương mại, cả hai nước sẽ sản xuất cả hai hàng hoá và theo chi phí tại Bảng 1 thì kết quả là số lượng sản phẩm được sản xuất ra như sau:
Nếu Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mì rồi trao đổi thương mại với nhau thì số lượng sản phẩm được sản xuất ra sẽ là:
Rõ ràng sau khi có thương mại và mỗi nước chỉ tập trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh, tổng số lượng sản phẩm của lúa mì và rượu vang của cả hai nước đều tăng hơn so với trước khi có thương mại (là lúc hai nước cùng phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình để sản xuất cả hai loại sản phẩm). Lưu ý rằng phân tích của Ricardo kèm theo những giả định sau:
Không có chi phí vận chuyển hàng hoá.
Chi phí sản xuất cố định không thay đổi theo quy mô.
Chỉ có hai nước sản xuất hai loại sản phẩm.
Những hàng hoá trao đổi giống hệt nhau.
Các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hoàn hảo.
Không có thuế quan và rào cản thương mại.
Thông tin hoàn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết nơi có hàng hoá rẻ nhất trên thị trường quốc tế.
Mở rộng phân tích lợi thế so sánh cho nhiều hàng hóa và nhiều quốc gia
Trường hợp có nhiều hàng hoá với chi phí không đổi và có hai quốc gia thì lợi thế so sánh của từng hàng hoá sẽ được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ hàng hoá có lợi thế so sánh cao nhất đến hàng hoá có lợi thế so sánh thấp nhất và mỗi nước sẽ tập trung vào sản xuất những mặt hàng có lợi thế so sánh từ cao nhất đến cao ở mức cân bằng. Ranh giới mặt hàng nào là có lợi thế so sánh cao ở mức cân bằng sẽ do cung cầu trên thị trường quốc tế quyết định.
Trường hợp có nhiều nước thì có thể gộp chung tất cả các nước khác thành một nước gọi là phần còn lại của thế giới và những phân tích trên vẫn giữ nguyên tính đúng đắn của nó. Lợi thế so sánh không những áp dụng trong trường hợp thương mại quốc tế mà còn có thể áp dụng cho các vùng trong một quốc gia một cách hoàn toàn tương tự.
Hạn chế của nguyên tắc lợi thế so sánh
Hạn chế của nguyên tắc lợi thế so sánh nằm trong các giả định của nó, ví dụ giả định rằng các nhân tố sản xuất có thể dịch chuyển hoàn hảo sẽ nảy sinh hạn chế nếu trên thực tế không được như vậy. Những người sản xuất rượu vang của Anh có thể không dễ dàng tìm được việc làm (chuyển sang sản xuất lúa mỳ) khi nước Anh không sản xuất rượu vang nữa và sẽ thất nghiệp. Nền kinh tế sẽ không toàn dụng nhân công làm cho sản lượng giảm sút. Chính vì thế mặc dù nguyên tắc lợi thế so sánh có thể được tổng quát hoá cho bất kỳ quốc gia nào, với nhiều loại hàng hoá, nhiều loại đầu vào, tỷ lệ các nhân tố sản xuất thay đổi, lợi suất giảm dần khi quy mô tăng... và là nền tảng của thương mại tự do nhưng những hạn chế như ví dụ vừa nêu lại là lập luận để bảo vệ thuế quan cũng như các rào cản thương mại.
Lợi thế so sánh về giá yếu tố đầu vào
Toàn bộ phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự khác nhau giữa các nước trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi hỏi lao động đơn vị khác nhau. Xét trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công nghệ như nhau:
Các nước phát triển có cung yếu tố đầu vào về tư bản nhiều hơn các nước đang phát triển dẫn đến số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên một đơn vị tư bản của các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy giá thuê tư bản ở các nước phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại ở các nước đang phát triển giá thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản. Nói một cách khác, các nước phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế so sánh cao một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có lợi thế so sánh về những hàng hóa này.
Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất khẩu nhiều sản phẩm thô (dầu thô, than đá...) hoặc hàng hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc, thiết bị từ các nước phát triển. |
Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế khi mỗi quốc gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn hẳn so với các quốc gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của quốc tế thì tất cả các quốc gia đều cùng có lợi.
Mô hình đơn giản
Giả định sau
Thế giới có hai quốc gia và mỗi quốc gia sản xuất hai mặt hàng.
Đồng nhất chi phí sản xuất với tiền lương cá nhân.
Giá cả hoàn toàn do chi phí sản xuất quyết định.
Kết luận
Quá trình trao đổi trên cơ sở lợi thế tuyệt đối làm khối lượng tổng sản phẩm toàn xã hội tăng lên, làm cho các nguồn lực trong nước được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
Thương mại quốc tế sẽ tạo điều kiện để phát triển những ngành có lợi thế và thu hẹp những ngành bất lợi thế, là cơ sở lý luận sau này cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế giữa các quốc gia.
Ưu điểm
- Khắc phục hạn chế của lý thuyết trọng thương đó là khẳng định cơ sở tạo ra giá trị là sản xuất chứ không phải là lưu thông.
- Chứng minh thương mại đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Nhược điểm
Không giải thích được hiện tượng chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế và thương mại Quốc tế sẽ xảy ra như thế nào đối với những nước không có lợi thế tuyệt đối nào.
Coi lao động là yếu tố sản xuất duy nhất tạo ra giá trị, là đồng nhất và được sử dụng với tỉ lệ như nhau trong tất cả các loại hàng hoá.
Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ có thể giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu dịch quốc tế ngày nay ví như giữa những nước phát triển và những nước đang phát triển. Lý thuyết này không thể giải thích được trong trường hợp một nước được coi là "tốt nhất" tức là quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối để sản xuất tất cả các sản phẩm hoặc một nước được coi là "kém nhất" tức là quốc gia đó không có một sản phẩm nào có lợi thế tuyệt đối để sản xuất trong nước. Trong những trường hợp đó, liệu các quốc gia có còn giao thương được với nhau nữa không và lợi ích mậu dịch sẽ nằm ở chỗ nào? hay lại áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng?
Lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
A. Smith là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương. Trong mô hình kinh tế cổ điển, chúng ta đã biết các nhà kinh tế cổ điển cho đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi nhu cầu lương thực tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm bảo được lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Các nhà kinh tế cổ điển gọi đây là bức tranh đen tối của tăng trưởng. Trong điều kiện đó A. Smith cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với giá rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này được gọi là lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương.
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so sánh chi phí sản xuất để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm, khi một nước sản xuất sản phảm có chi phí cao hơn có thế nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí sản xuất thấp hơn.ư
Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản phẩm có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao sẽ có được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại lợi nhuận. Điều này gọi là bù đắp sự yêu kém về khả năng sản xuất trong nước.
Ngày nay, đối với các nước đang phát triển việc khai thác lợi thế tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuất một số loại sản phẩm, đặc biệt là tư liệu sản xuất với chi phí chấp nhận được. Ví dụ, việc không đủ khả năng sản xuất ra máy móc thiết bị là khó khăn lớn đối với các nước đang phát triển, và là nguyên nhân dẫn tới đầu tư thấp. Như chúng ta đã biết, các khoản tiết kiệm chưa thể trở thành vốn đầu tư chừng nào tư liệu sản xuất các doanh nghiệp cần đến chưa có. Bởi vì các tư liệu sản xuất chưa sản xuất được trong nước mà phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Khi tiến hành nhập những tư liệu sản xuất này, công nhân trong nước bắt đầu học cách sử dụng máy móc thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này, vai trò đóng góp của ngoại thương giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển thông qua bù đắp sự yếu kém về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất và yếu kém về kiến thức công nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối.
Quan điểm
Đề cao vai trò của các cá nhân và doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương mại tự do, không có sự can thiệp của chính phủ.
Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa
Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu dịch thế giới hiện nay.
Minh họa
Hoa Kỳ có lợi thế tuyệt đối so với Anh về sản xuất lúa mì.
Anh có lợi thế tuyệt đối so với Hoa Kỳ về sản xuất vải. |
Trong toán học, một cấp số cộng (tiếng Anh: arithmetic progression hoặc arithmetic sequence) là một dãy số thoả mãn điều kiện: hai phần tử liên tiếp nhau sai khác nhau một hằng số. Chẳng hạn, dãy số 3, 5, 7, 9, 11,... là một cấp số cộng với các phân tử liên tiếp sai khác nhau hằng số 2.
Hằng số sai khác chung được gọi là công sai của cấp số cộng. Các phần tử của nó cũng được gọi là các số hạng.
== Số hạng tổng quát
Nếu cấp số cộng khởi đầu là phần tử và công sai là d, thì số hạng thứ n của cấp số cộng được tính theo công thức:
Tổng
Tổng của n số hạng đầu của cấp số cộng được gọi là tổng riêng thứ n. Ta có:
Khi chứng minh công thức này, tổng riêng này được tách thành tổng của a1an, của a2 với an-1,... Một câu chuyện kể rằng Carl Gauss đã tìm ra cách này khi học tiểu học để trả lới thầy giáo khi tính tổng của 100 số tự nhiên dương đầu tiên.
Chứng minh:
.
.
Tích
Tích của n phần tử của cấp số cộng bắt đầu từ phần tử với công sai , với số hạng là
trong đó là ký hiệu của giai thừa trên (tiếng Anh: upper factorial)
Đây là tổng quát hoá từ tích được ký hiệu là tới tích của
với các số nguyên dương và cho bởi công thức
Còn là ký hiệu của Hàm gamma.
(Công thức này không bao gồm trường hợp là số âm hoặc không). |
Trong toán học, một cấp số nhân (tiếng Anh: geometric progression hoặc geometric sequence) là một dãy số thoả mãn điều kiện kể từ số hạng thứ hai, mỗi số hạng đều là tích của số hạng đứng ngay trước nó với một số không đổi. Hằng số này được gọi là công bội của cấp số nhân.
Như vậy, một cấp số nhân có dạng
trong đó r là công bội và a là số hạng đầu tiên.
Số hạng tổng quát
Số hạng thứ n của cấp số nhân được tính bằng công thức
Ví dụ
Cấp số nhân với công bội là 2 và phần tử đầu tiên là 1
1, 2, 4, 8, 16, 32, 64, 128, 256, 512, 1024,....
Cấp số nhân với công bội 2/3 và phần tử đầu tiên là 729:
729 (1, 2/3, 4/9, 8/27, 16/81, 32/243, 64/729,....) = 729, 486, 324, 216, 144, 96, 64,....
Cấp số nhân với công bội −1 và phần tử đầu là 3
3 (1, −1, 1, −1, 1, −1, 1, −1, 1, −1,....) = 3, −3, 3, −3, 3, −3, 3, −3, 3, −3,....
Sự thay đổi của cấp số nhân tuỳ theo giá trị của công bội.
Nếu công bội là:
Số dương: Các số hạng luôn có dấu cố định.
Số âm: các số hạng là đan dấu giữa âm và dương..
0, mọi số hạng bằng 0.
Lớn hơn 1, các số hạng tăng theo hàm mũ tới vô cực dương hoặc âm.
1, là một dãy không đổi.
Giữa 1 và −1 nhưng khác không, chúng giảm theo hàm mũ về 0.
−1, là một dãy đan dấu.
Nhỏ hơn −1, chúng tăng theo hàm mũ về vô cực (dương và âm).
Tổng
Tổng các phần tử của cấp số nhân:
Nhân cả hai vế với (1-r):
vì tất cả các số hạng khác đã loại trừ lẫn nhau. Từ đó:
Chú ý: Nếu tổng không khởi đầu từ 0 mà từ và ta có
Vi phân của tổng theo biến r là tổng dạng
Tổng vô hạn
Nếu cấp số nhân có vô hạn phần tử thì tổng là hội tụ khi khi và chỉ khi giá trị tuyệt đối của công bội nhỏ hơn một ().
Khi tổng không khởi đầu từ k = 0, ta có
Cả hai công thức chỉ đúng khi . Công thức sau cũng đúng trong mọi đại số Banach, khi chuẩn (norm) của r nhỏ hơn 1, và trong trường của các số p-adic nếu |r|p < 1. Cũng như trong tổng hữu hạn, ta có vi phân của tổng.
Chẳng hạn,
Tất nhiên công thức chỉ đúng khi .
Số phức
Công thức tính tổng của cấp số nhân cũng đúng khi các phần tử là các số phức. Điều này được sử dụng, cùng với Công thức Euler, để tính một vài tổng như:
.
Từ đó có: |
Thích Nhất Hạnh (thế danh là Nguyễn Đình Lang, sau đổi thành Nguyễn Xuân Bảo, 11 tháng 10 năm. 1926 – 22 tháng 1 năm 2022) là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội và nhà hoạt động hòa bình người Việt Nam. Ông đồng thời cũng là người sáng lập tông phái Truyền thống Làng Mai, được lịch sử công nhận là nguồn cảm hứng chính và là người đưa ra khái niệm Phật giáo dấn thân. Thích Nhất Hạnh là người có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của Phật giáo phương Tây., được một số tờ báo đánh giá là nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây chỉ sau Đạt-lại Lạt-ma.
Ông sinh ra ở Thừa Thiên Huế, miền Trung Việt Nam, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Từ những năm 1960 khi bày tỏ thái độ phản đối chiến tranh, ông bị lưu đày khỏi lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa thời đó. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973, ông đã sống lưu vong tại Pháp hơn 40 năm. Tại đây, ông thành lập hàng chục tu viện và trung tâm tu tập và gắn bó phần lớn cuộc đời mình tại Tu viện Làng Mai ở miền tây nam nước Pháp gần Thénac; đồng thời đi khắp nơi trên thế giới để diễn thuyết và trò chuyện. Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" () trong cuốn sách Việt Nam: Hoa sen trong Biển lửa () do chính ông xuất bản năm 1967.. Ông đã về nước vào năm 2005 và sống tại Tổ Đình Từ Hiếu, Huế kể từ tháng 11 năm 2018 cho đến khi qua đời vào năm 2022 ở tuổi 95.
Ông là người vận động cho phong trào hòa bình và sinh thái sâu, thúc đẩy các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn và nâng cao nhận thức về sự liên kết của tất cả các yếu tố trong tự nhiên. . Năm 1967, Martin Luther King Jr. đề cử ông cho giải Nobel Hòa Bình. Ông cũng sáng lập ra dòng tu lớn nhất ở phương Tây và hạn chế tiêu thụ các sản phẩm từ thịt như một biện pháp không bạo lực với động vật. Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong số đó hơn 70 cuốn bằng tiếng Anh.
Tiểu sử
Thích Nhất Hạnh có tên khai sinh là Nguyễn Đình Lang, sau đổi thành Nguyễn Xuân Bảo, sinh ngày 10 tháng 11 năm 1926, tại Thừa Thiên (miền Trung Việt Nam). Ông là con cháu đời thứ 15 của dòng họ Nguyễn Đình, có tổ tiên là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, tác giả Truyện Lục Vân Tiên. Cha ông tên Nguyễn Đình Phúc, người làng Thành Trung (nay thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế), ông làm quan cho triều đình nhà Nguyễn thời Pháp thuộc, đảm trách công việc di dân lập ấp. Mẹ ông là bà Trần Thị Dĩ, người làng Hà Trung, tỉnh Quảng Trị. Nhất Hạnh là người con áp út trong tổng số 6 người con. Ông có ba người anh lớn, một người chị và một em trai út sinh sau không lâu. Cho đến khi lên năm tuổi, ông sống cùng đại gia đình mình gồm các chú bác và anh em họ tại nhà của ông bà nội.
Năm lên 4 tuổi, cha ông được phái đến vùng miền núi ở phía Bắc tỉnh Thanh Hóa để giám sát việc khai phá rừng làm đất canh tác cho nông dân nghèo. Một năm sau đó, cả gia đình ông chuyển về huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa để sống cùng với cha. Ông học tiểu học ở đó và khi nghỉ hè thì đi học thêm ở các lớp dạy tư tại nhà. Ông được ghi danh đi học với tên mà cha mẹ đặt cho là Nguyễn Đình Lang.
Theo lời tự kể, ở khoảng năm 7 hoặc 8 tuổi, ông cảm thấy sự yên bình khi nhìn thấy bức tranh Đức Phật ngồi thiền trên cỏ. Trong một chuyến đi du lịch của trường học, khi thấy những nhà tu hành trên núi, ngồi thiền tĩnh lặng giống như Đức Phật đã làm, ông mong muốn được trở thành như họ. Ở tuổi 12, ông phát nguyện sẽ trở thành một nhà Sư, và được Cha Mẹ chấp thuận.
Vào năm 16 tuổi ông xuất gia ở chùa Từ Hiếu gần Huế, nơi ông thọ giáo với Hòa thượng Thanh Quý Chân Thật , với pháp danh là Trừng Quang (澄光), pháp tự Phùng Xuân (逢春), pháp hiệu là Nhất Hạnh (一行) nối pháp đời thứ 42 của thiền phái Lâm Tế (臨濟禪宗) thuộc nhánh Từ Hiếu đời thứ 8, dòng Liễu Quán,. Pháp hiệu Nhất Hạnh được ông diễn giải theo nghĩa Nhất (Duy nhất) và Hạnh (Hành động).
Ông tu tập tại chùa Từ Hiếu trong ba năm với vai trò một chú tiểu, tu học theo trường phái Đại thừa của Phật giáo, đồng thời học các ngôn ngữ bao gồm tiếng Trung, Tiếng Anh và Tiếng Pháp. Sau đó, ông chính thức trở thành một nhà sư vào năm 1949. Thích Nhất Hạnh lúc đó được công nhận là một thiền sư và là lãnh đạo tinh thần của chùa Từ Hiếu cùng các tu viện liên quan khác..
Sư ghi danh học tại Học viện Phật giáo Báo Quốc. Tuy nhiên, Sư nhận thấy sự thiếu vắng các kiến thức liên quan tới ý thức luận, văn học và ngoại ngữ tại Học viện này. Ông rời trường vào năm 1950 và tới Sài Gòn, tu tập tại chùa Ấn Quang vào năm 1951
Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ Phật giáo Đại thừa, và các phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận hiện đại của ông đối với thiền.
Vào năm 1955, Sư trở lại Huế và đóng vai trò như một biên tập viên của tờ báo Phật Giáo Việt Nam (Vietnamese Buddhism), cơ quan ngôn luận Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam trong hai năm trước khi tờ báo bị đình bản bởi các nhà sư cao cấp không chấp thuận các bài viết của ông. Sư Nhất hạnh cho rằng các quan điểm của ông về việc cần Thống nhất các quan điểm và tư tưởng Phật giáo tại miền Nam Việt Nam là nguyên nhân chính cho việc tờ báo bị đình bản. Năm 1956, trong khi đang đi giảng pháp tại Đà Lạt, tên ông bị loại khỏi danh sách các nhà Sư thuộc chùa Ấn Quang. Tới cuối năm 1957, Sư quyết định nhập thất và thành lập lên một tăng đoàn với tên Phương Bôi tại rừng Đại Lao, gần Đà Lạt. Trong thời gian này, Sư giảng dạy tại một ngôi trường cấp ba gần đó, tiếp tục viết sách và khởi xướng các ý tưởng về Nhân sinh và Phật giáo thống nhất.
Từ 1959 đến 1961, Sư giảng dạy nhiều khóa tu ngắn về Phật giáo tại nhiều ngôi chùa tại Sài Gòn, bao gồm cả chùa Xá Lợi, nơi các lớp giảng của ông bị hủy bỏ giữa chừng và Sư bị từ chối giảng bởi các quan điểm của mình. Đối diện với các ý kiến bất đồng tại Việt Nam, cả về tôn giáo và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, Sư chấp thuận học bổng Fulbright vào năm 1960 để học về Tôn giáo tại đại học Princeton, Hoa Kỳ vào năm 1961. Tới năm 1962, Sư được chỉ định trở thành giảng viên về Phật giáo tại Đại học Columbia và đồng thời giảng dạy với vai trò một giảng viên tại Đại học Cornell. Trong thời gian này, Sư tiếp tục trau dồi và trở nên thông thạo các ngôn ngữ: Anh, Pháp, Trung, Phạn, Pali.
Trước năm 1975
Vào thập niên 1960, ông thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ( - SYSS) ở Sài Gòn, một tổ chức từ thiện xây dựng lại các làng bị bỏ bom, xây dựng trường học và các trạm xá, và giúp các gia đình bị trở thành vô gia cư trong Chiến tranh Việt Nam. Ông cũng là một trong những người thành lập Viện Đại học Vạn Hạnh và Nhà xuất bản Lá Bối. Viện Đại học Vạn Hạnh trở thành một viện đại học tư thục danh tiếng tập trung các nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Thiền sư Nhất Hạnh dạy giáo lý Phật giáo và Bát-nhã-ba-la-mật-đa (). Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên Vạn Hạnh đưa ra thông điệp "lời kêu gọi vì hòa bình". Nội dung chính của lời kêu gọi là "đã đến lúc hai miền Bắc-Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau".
Thích Nhất Hạnh đã đến Hoa Kỳ nhiều lần để diễn thuyết và giảng dạy về Phật giáo tại Đại học Princeton và Đại học Cornell. Ông cũng lấy bằng thạc sĩ chuyên ngành tôn giáo tại Đại học Columbia vào năm 1963 và sau này về giảng dạy tại đây. Ông kêu gọi Martin Luther King, Jr. công khai phản đối Chiến tranh Việt Nam, và thuyết giảng với nhiều người và nhiều nhóm về hòa bình. Vào năm 1967, King đề cử ông cho Giải Nobel Hòa bình. Thích Nhất Hạnh dẫn đầu phái đoàn Phật giáo đến Đàm phán hòa bình Paris. Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và các phương pháp thực hành của Thích Nhất Hạnh thu hút nhiều người đến từ các quan điểm về tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành "chánh niệm" (sự lưu tâm đúng đắn - Pali: Sati; Sanskrit: smṛti स्मृति; ), thường được điều chỉnh cho phù hợp với văn hóa phương Tây.
Năm 1966, Thích Nhất Hạnh lập ra Dòng tu Tiếp Hiện ("Tiếp" có nghĩa tiếp xúc, tiếp nhận, tiếp nối "Hiện'" có nghĩa là hiện tại, hiện pháp, thực hiện; , ), và thiết lập các trung tâm thực hành, các thiền viện khắp trên thế giới. Nơi cư ngụ của ông là Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne thuộc miền Nam nước Pháp. Ông du hành khắp thế giới thuyết giảng và tổ chức các khóa tu thiền. Năm 1973 khi hiệp định Paris được ký kết, ông bị cấm về Việt Nam và ở lại Pháp từ đó đến năm 2017.
Trong các năm 1976-1977, Thích Nhất Hạnh đã nỗ lực để giúp giải cứu thuyền nhân Việt Nam trong vịnh Thái Lan. Sau đó ông đã phải ngừng việc này do áp lực từ chính phủ Thái Lan và Singapore.
Sau nhiều năm không được phép quay về Việt Nam, ông được về lần đầu tiên vào năm 2005. Nhất Hạnh vẫn tiếp tục các hoạt động vận động vì hòa bình. Ông đã tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và đi tìm giải pháp bất bạo động cho các mâu thuẫn của họ; và tổ chức diễu hành hòa bình ở Los Angeles vào năm 2005 được tham dự bởi hàng ngàn người.
Sau năm 1975
Từ ngày 12 tháng 1 đến ngày 11 tháng 4 năm 2005, Thích Nhất Hạnh quay về Việt Nam sau một loạt các thương lượng cho phép ông thuyết giảng, một số sách của ông được xuất bản bằng tiếng Việt, và cho phép 100 tăng ni và 90 thành viên khác của dòng tu theo ông đi khắp đất nước, bao gồm cả chuyến quay về ngôi chùa ông xuất gia, chùa Từ Hiếu ở Huế.
Năm 2007, ông cùng phái đoàn Phật giáo quốc tế thuộc tăng thân Làng Mai trở về Việt Nam với lịch trình từ ngày 20 tháng 2 (mùng 4 Tết) đến ngày 9 tháng 5, mục đích tổ chức các khóa tu, các buổi pháp thoại, gặp gỡ các tăng ni phật tử 3 miền. Đầu năm 2007, với sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông tổ chức ba trai đàn chẩn tế lớn tại ba miền Việt Nam gọi là Đại trai Đàn Bình đẳng Chẩn tế cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, dù đã qua đời hay còn tại thế, không phân biệt tôn giáo, chính trị, chủng tộc.
Trong vụ mâu thuẫn ở tu viện Bát Nhã, các tu sinh của thiền sư tại tu viện đã bị quấy nhiễu và hăm dọa bằng vũ lực, tu viện bị đập phá, cắt điện, nước, điện thoại và cô lập. Tuy nhiên, Thích Nhất Hạnh đã từ chối làm vụ việc thêm rắc rối và dạy các tu sinh nên chế ngự cơn giận nhằm mang lại sự thấu hiểu và tình yêu thương.
Năm 2015, trả lời phỏng vấn của BBC, ông Võ Văn Ái, nhà vận động cho nhân quyền và tự do tôn giáo của Việt Nam, khi đó đang là phát ngôn viên của GHPGVNTN, chuyến trở về Việt Nam sau 1975 là "mưu đồ là thành lập một tổ chức Phật giáo thứ ba, là bởi vì Giáo hội Phật giáo Việt Nam của nhà nước lập ra năm 1981 không đáp ứng điều mà Đảng trông chờ, tức là nắm cho được quần chúng Phật giáo toàn bộ." Tuy nhiên ông Võ Văn Ái đã không chỉ ra được những dẫn chứng cụ thể nào cho nhận định của mình.
Ngày 29 tháng 8 năm 2017, Thích Nhất Hạnh trở lại Việt Nam. Đây là lần đầu tiên ông trở về Việt Nam kể từ năm 2008.
Ngày 30 tháng 10 năm 2018, Thích Từ Đạo, Giám tự Tổ đình Từ Hiếu (TP Huế, Thừa Thiên Huế), cho biết trong lần trở về Việt Nam này, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xin cư ngụ tại Tổ đình Từ Hiếu để tịnh dưỡng cho đến khi viên tịch.
Thích Nhất Hạnh viên tịch vào rạng sáng ngày 22 tháng 1 năm 2022. Sự ra đi của ông được nhiều nhóm Phật tử trong và ngoài Việt Nam bày tỏ niềm thương tiếc. Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã gửi lời chia buồn.
Tang lễ của ông kéo dài trong 7 ngày, được thực hiện theo nghi thức tâm tang. Lễ trà tỳ (hỏa táng) diễn ra từ 9 giờ ngày 29 tháng 1, kết thúc lúc 2 giờ ngày 30 ngày 1 tại Công viên vĩnh hằng, Vườn địa đàng Huế. Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1, xá lợi thiền sư Thích Nhất Hạnh được an vị tại Tổ Đình Từ Hiếu - nơi ngài bắt đầu xuất gia, tu học cách đây 80 năm. Theo di nguyện của thiền sư, tro cốt sẽ để tại đây và các trung tâm khác của Làng Mai khắp nơi trên thế giới mà không cần xây bảo tháp đặt lọ tro.
Tác phẩm
Thích Nhất Hạnh đã xuất bản trên 100 cuốn sách, trong đó có hơn 70 cuốn bằng tiếng Anh. Ông cũng xuất bản các bài giảng trong các tạp chí tạp chí Mindfulness Bell của Dòng tu Tiếp Hiện.
Danh sách các tác phẩm đã xuất bản (không đầy đủ):
Thơ
Tiếng địch chiều thu, Long Giang, Sài Gòn, 1949.
Ánh xuân vàng (bút danh: Hoàng Hoa), Long Giang, Sài Gòn, 1950.
Thơ ngụ ngôn (bút danh: Hoàng Hoa), Đuốc Tuệ, Hà Nội, 1950.
Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện, Lá Bối, Sài Gòn, 1965.
Tiếng đập cánh loài chim lớn, Lá Bối, Sài Gòn, 1967.
Bông hồng cài áo, Sài Gòn, 1962.
Vietnam Poems, Unicorn Press, Santa Barbara (Hoa Kỳ), 1967.
The Cry of Vietnam, Unicorn Press, Santa Barbara (Hoa Kỳ), 1968.
De Schreeuw van Vietnam, Uitgeverij Ten Have, Baarn, Holland, 1970.
Zen Poems, Unicorn Press, Greensboro (Hoa Kỳ), 1976.
Ngoài ra còn có nhiều tập thơ chép tay đã mất hoặc chưa xuất bản cùng nhiều tác phẩm khác đăng rải rác trên các báo, tạp chí.
Truyện
Tình người (tập truyện; bút danh: Tâm Quán), 1951; Lá Bối 1973.
Nẻo về của ý (bút ký), Lá Bối 1967; An Tiêm 1972.
Am mây ngủ (truyện ngoại sử), Lá Bối.
Bưởi (tập truyện ngắn), Lá Bối.
Tố (tập truyện), Lá Bối.
Văn Lang dị sử (truyện cổ tích, bút danh Nguyễn Lang), Lá Bối; An Tiêm 1975.
Đường xưa mây trắng, Lá Bối; Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2007.
Truyện Kiều dịch ra văn xuôi, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn.
Truyện tranh Coconut - Monk, xuất bản ngày 25 tháng 1 năm 2006 bởi Nhà xuất bản Plum Blossom Books.
Con gà đẻ trứng vàng, 2018.
Khảo luận
Đông phương luận lý học, Hương Quê 1950.
Vấn đề nhận thức trong Duy Thức học, Lá Bối 1969.
Tương lai văn hóa Việt Nam, Lá Bối.
Tương lai Thiền học Việt Nam, Lá Bối.
Việt Nam Phật giáo sử luận (bút danh Nguyễn Lang), 3 tập, tập 1: Lá Bối 1974, 2 tập sau xuất bản ở nước ngoài sau 1975.
Thả một bè lau, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn 2008.
Những con đường đưa về núi Thứu .
Làng mai nhìn về núi Thứu.
Đập vỡ vỏ hồ đào.
Sen búp từng cánh hé.
Khác
Gia đình tin Phật, Đuốc Tuệ 1952
Bông hồng cài áo, viết vào mùa Vu lan 1962; Lá Bối xuất bản lần 2, 1965
Đạo Phật đi vào cuộc đời, Lá Bối 1964
Đạo Phật ngày nay, Lá Bối 1965
Nói với tuổi hai mươi, Lá Bối 1966, 1972
Phật giáo Việt Nam và hướng đi nhân bản đích thực (bút danh Trần Thạc Đức), Lá Bối 1967
Đạo Phật hiện đại hóa, Lá Bối 1965, 1968
Đạo Phật ngày mai, Lá Bối 1970
Nẻo vào thiền học, Lá Bối 1971
Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày, Viện Hóa Đạo xuất bản 1973Tuổi trẻ tình yêu lý tưởng, Lá BốiKiều và văn nghệ đứt ruột, Lá Bối, USA, 1994The Miracle of Mindfulness: A Manual on Meditation, Beacon Press, 1999, ISBN 0-8070-1239-4 (Vietnamese: Phép lạ của sự tỉnh thức)Phép lạ của sự tỉnh thức, Nhà xuất bản Tôn giáo
Đi như một dòng sông
An lạc từng bước chân
Trái tim của Bụt, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2006
Hạnh phúc: mộng và thực Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2009
Kim Cương: Gươm báu cắt đứt phiền não, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, 2009
Giận Nhà xuất bản Thanh niên, 2009
Tĩnh lặng. Nhà xuất bản Thế giới 2018
Không diệt không sinh đừng sợ hãi. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2019
Từng bước nở hoa sen. Nhà xuất bản Văn hoá - Văn nghệ TP HCM, 2018
Nhận xét
"Nhà sư vĩ đại người Việt Nam, nhà thơ và sứ giả hòa bình, người đàn ông Việt Nam nhỏ nhắn này đã thu hút chúng tôi từng người một vào tĩnh lặng của ông. Hay có lẽ chính xác hơn nếu nói thầy đã đưa từng người của chúng tôi vào trong yên tĩnh của chính mình, vào trong an tịnh mà mỗi người chúng tôi vốn đã sở đắc nhưng chưa khám phá hay khẳng định. Khả năng thầy đã phát khởi trạng thái này trong tất cả chúng tôi, chỉ bằng sự hiện diện của thầy-đây là một năng lực thiêng liêng. Và đấy là lý do ta tìm đến một Sư phụ: Với hy vọng là công đức của thầy sẽ soi rạng cho ta sự cao quý khuất lấp của chính mình" (Elizabeth Gilbert). |
Svāmī Vivekānanda (Bengali: স্বামী বিবেকানন্দ Shami Bibekanondo; tiếng Anh: Swami Vivekananda), tên khai sinh là Narendranath Dutta (Nôrendronath Dotto) (12 tháng 1 năm 1863 - 4 tháng 7 năm 1902) là một tu sĩ Ấn Độ giáo Ấn Độ, một trong những lãnh tụ tinh thần nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của trường phái Vedānta. Ông là đại đệ tử của Ramakrishna Paramahamsa và là người sáng lập ra Ramakrishna Math và Ramakrishna Mission. Nhiều người xem ông là thần tượng cho lòng nhiệt tình, ảnh hưởng tích cực lên lớp trẻ, tầm nhìn thoáng về các vấn đề xã hội, và vô số bài giảng và bài nói chuyện về triết lý Vedanta.
Tiểu sử
Sinh ra và thời thơ ấu
Narendranath Dutta (thường gọi tắt là Narendra và Naren) sinh ra ở Shimla Pally, Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ vào ngày 12 tháng 1 năm 1863 như là con trai của Viswanath Dutta và Bhuvaneswari Devi. Mặc dù còn nhỏ tuổi, cậu bé đã lộ rõ sự khôn ngoan và trí nhớ tốt. Cậu thực tập thiền định từ tuổi rất bé. Khi tại trường, cậu học giỏi, cũng như chơi được nhiều trò thể thao. Cậu tổ chức một đoàn hát nghiệp dư và một gymnasium và học các mônđánh kiếm, đánh vật, đua thuyền và các môn thể thao khác. Cậu cũng học các chơi nhạc cụ và thanh nhạc. Cậu là lãnh đạo trong nhóm các bạn bè. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, cậu thắc mắc về sự đúng đắn của các phong tục mê tín dị đoan và sự phân biệt dựa trên giai cấp (caste) và tôn giáo.
Vào năm 1879, Narendra vào trường Cao đẳng Presidency, Calcutta để học các lớp cao hơn. Sau một năm, cậu gia nhập Cao đẳng Hội thánh Scotland, Calcutta và học tập ngành triết học. Trong khóa học, cậu học logic phương tây, triết lý phương tây và lịch sử của các quốc gia châu Âu.
Các câu hỏi bắt đầu nổi lên trong đầu óc non trẻ của Narendra về Thượng đế và sự hiện hữu của Thượng đế. Điều này làm cậu liên hệ với Brahmo Samaj, một phong trào tôn giáo quan trọng vào thời gian đó, được lãnh đạo bởi Keshab Chandra Sen. Nhưng những lời cầu nguyện của giáo đoàn của Samaj và những bài hát thánh ca không làm thỏa mãn lòng khao khát của Narendra để nhận ra được Thượng đế. Cậu hỏi các lãnh tụ của Brahma Samaj liệu là họ đã thấy Thượng đế bao giờ hay chưa. Cậu không bao giờ có câu trả lời thỏa đáng. Đúng vào thời gian này Giáo sư Hastie của Cao đẳng Hội thành Scotland bảo cậu tìm đến Sri Ramakrishna ở vùng Dakshineswar.
Với Ramakrishna
Narendra gặp Ramakrishna lần đầu tiên vào tháng 11 năm 1881. Cậu hỏi Ramakrishna cùng một câu hỏi cũ, liệu là ông đã nhìn thấy Thượng đế hay chưa. Câu trả lời ngay lập tức từ Ramakrishna là, "Rồi, ta thấy Thượng đế, cũng như ta nhìn thấy con nơi này, chỉ ở một mức độ rất mạnh hơn mà thôi." Narendra kinh ngạc và bối rối. Cậu có thể cảm thấy lời nói của ông ta chân thật và thốt ra từ chiều sâu của kinh nghiệm bản thân. Cậu bắt đầu ghé thăm Ramakrishna thường xuyên.
Mặc dù Narendra không thể chấp nhận Ramakrishna và những điều ông ta nhận thấy, cậu không thể không chú ý đến ông. Luôn luôn là trong bản chất của Narendra là phải thử nghiệm bất kì điều gì một cách cặn kẽ trước khi cậu có thể chấp nhận nó. Cậu thử Ramakrishna đến mức tối đa, nhưng vị thầy kiên trì, vị tha, khôi hài, và đầy tình thương. Ông không bao giờ yêu cầu Narendra từ bỏ suy luận, và ông đương đầu với tất cả các tranh luận của Narendra và các thử nghiệm của cậu với sự kiên nhẫn vô hạn. Theo thời gian, Narendra chấp nhận Ramakrishna, và khi cậu chấp nhận, sự chấp nhận của cậu là hoàn toàn thành tâm. Trong khi Ramakrishna chủ yếu dạy thuyết nhị nguyên và Bhakti cho các đệ tử còn lại, ông dạy cho Narendra môn Advaita Vedanta, triết lý nhất nguyên.
Cha của Narendra đột ngột qua đời năm 1884, khiến gia đình ông bị phá sản; chủ nợ liên tục đến đòi nợ, và những người bà con dọa đuổi gia đình ông khỏi quê hương. Narendra, từng là con một gia đình có của ăn của để, trở thành một trong những sinh viên nghèo nhất cao đẳng. Ông cố kiếm việc không được và nghi vấn sự hiện hữu của Thượng đế, nhưng dần tìm được sự an ủi nơi Ramakrishna và đến thăm Dakshineswar nhiều hơn. Trong suốt thời gian học tập năm năm dưới sự hướng dẫn của Ramakrishna, Narendra đã được chuyển hóa từ một cậu bé hiếu động, tò mò, không kiên nhẫn thành một người đàn ông trưởng thành.
Có lần Narendra cung thỉnh Ramakrishna đi khấn nữ thân Kali gia hộ cho tài chính gia đình ông ổn định lại. Ramakrishna bảo Narendra nên tự đi khấn. Theo lời thầy Ramakrishna, Narendra đến đền 3 lần, nhưng khi đến đền ông không thể cầu điều gì liên quan tới những ràng buộc trần thế. Cuối cùng ông cầu xin sự thấu hiểu và quan tâm từ nữ thần. Narendra dần dần trở nên xuất thế, sẵn sàng từ bỏ mọi thứ để tìm ra Thượng đế, và nhận Ramakrishna làm đạo sư.
Không lâu sau đó, cuộc đời của Ramakrishna kết thúc dưới dạng ung thư cuống họng vào tháng 8 năm 1886. Sau sự kiện này Narendra và một nhóm nòng cốt của các đệ tử của Ramakrishna thề trở thành tu sỹ và từ bỏ tất cả, và bắt đầu sống ở một căn nhà được xem như là bị ma ám tại Baranagore. Họ nhận của bố thí để thỏa mãn cái đói và các nhu cầu khác được lo bởi các cư sĩ giàu có của Ramakrishna.
Lang thang khắp Ấn Độ
Không lâu sau đó, những khất sĩ trẻ của xứ Baranagore muốn sống đời xuất gia lang thang với áo quần sờn rách và bát khất thực mà không có một của cải nào khác cả. Vào tháng 7 năm 1890, Vivekananda khởi hành một chuyến đi dài, mà không biết là cuộc du hành sẽ đưa mình về nơi nào. Cuộc du hành theo sau đó đã đưa ông đi khắp chiều dài và chiều rộng của tiểu lục địa Ấn Độ. Trong những ngày này, Vivekananda mang nhiều tên khác nhau như là Vividishananda, Satchidananda, v.v, Người ta cho rằng ông được gọi bằng tên Vivekananda bởi vua xứ Khetri cho những nhận thức sáng suốt của ông về sự vật, tốt và xấu.
Trong những ngày lang thang này, Vivekananda đã ngụ lại dinh thự của vua chúa, cũng như trong túp lều của người nghèo khổ. Ông đã có dịp tiếp cận khá gần với văn hóa của nhiều vùng khác nhau khác nhau của Ấn Độ và nhiều tầng lớp người khác nhau ở Ấn Độ. Vivekananda quan sát thấy sự bất công trong xã hội và sự tàn bạo trên danh nghĩa giai cấp xã hội (caste). Ông nhận ra nhu cầu canh tân hóa ở tầm vóc toàn quốc nếu như Ấn Độ muốn tồn tại. Ông đến Kanyakumari, cực nam tiểu lục địa Ấn Độ vào ngày 24 tháng 12 1892. Nơi đó, ông bơi qua biển và bắt đầu thiền định trên một tảng đá đơn độc. Do đó ông thiền trong suốt ba ngày và sau này nói là thiền về quá khứ, hiện tại và tương lai của Ấn Độ. Tảng đá sau này trở thành đài tưởng niệm Vivekananda tại Kanyakumari.
Vivekananda đến Madras và nói về những dự định của ông cho Ấn Độ và Ấn Độ giáo với các bạn trẻ ở Madras. Họ rất khâm phục vị xuất sĩ và khuyến khích ông hãy đi tới Hoa Kỳ và đại diện cho Ấn Độ giáo trong Hội nghị Quốc tế về các tôn giáo (World Parliament of Religions). Do đó, với sự giúp đỡ của các bạn ông ở Madras, các tiểu vương xứ Ramnad, Mysore và Khetri, Vivekananda bắt đầu chuyến du hành đến Mỹ.
Ở phương Tây
Vivekananda được đón nhận nồng nhiệt tại Hội nghị các Tôn giáo quốc tế năm 1893 ở Chicago, Illinois, nơi ông đã có một loạt các bài giảng. Ông cũng được vỗ tay nồng nhiệt khi bắt đầu bài nói chuyện của mình bằng các từ nổi tiếng, "Các anh chị em của nước Mỹ." Chuyến đến đi đến Mỹ của Vivekananda được xem bởi nhiều người như là cột mốc đánh giá sự bắt đầu chú ý đến Ấn Độ giáo của người phương Tây không chỉ đơn thuần là một tập tục lạ lùng từ phương đông, nhưng như là một truyền thống triết học và tôn giáo sống động mà thực ra có thể có một vài thứ quan trọng để dạy cho người phương Tây. Chỉ trong một vài năm của Hội nghị, ông đã bắt đầu các trung tâm Vedantic ở New York City và London, nói chuyện ở nhiều đại học lớn và khơi dậy sự chú ý đến Ấn Độ giáo của người phương Tây. Thành công của ông không phải là không có những điều tranh cãi, đa số là từ những đoàn truyền giáo của Thiên Chúa Giáo mà ông hết sức chỉ trích. Sau bốn năm du hành, diễn thuyết và ẩn dật ở phương Tây, ông quay trở lại Ấn Độ vào năm 1897.
Trở lại Ấn Độ
Những người hâm mộ và các tín đồ của Vivekananda đã tổ chức tiếp đón trọng thể khi ông quay trở lại Ấn Độ. Ở Ấn Độ, ông đã có một loạt các bài giảng, và tập hợp các bài giảng này được biết đến như là "Các bài giảng từ Colombo đến Almora" và được xem là đã nâng cao tinh thần của xã hội Ấn Độ bị áp bức lúc đó. Ông thành lập Hội truyền giáo Ramakrishna. Hội này bây giờ là một trong các dòng tu lớn nhất của xã hội Ấn Độ giáo ở Ấn Độ.
Tuy nhiên, ông phải chịu nhiều chỉ trích gay gắt của các nhà bảo thủ Ấn Độ guíao bởi vì đã du hành sang—cái mà họ cảm nhận như là—phương Tây không trong sạch. Những người đương thời cũng nghi vấn về động cơ hành động của ông, tự hỏi rằng liệu là danh vọng và hào quang của sự truyền bá Ấn Độ giáo đã thỏa hiệp với những lời thề nguyện ban đầu của ông khi bước vào dòng tu. Sự nhiệt tình của ông về Hoa Kỳ và nước Anh, và sự thành tâm về tôn giáo của ông đối với quê mẹ, đã tạo nên nhiều căng thẳng đáng kể trong những năm tháng cuối cùng của ông.
Ông du hành sang phương Tây một lần nữa từ tháng 1 năm 1899 đến tháng 12 năm 1900.
Qua đời
Svāmī Vivekānanda viên tịch ngày 4 tháng 7 năm 1902. Ngày hôm đó ông dậy rất sớm, đến điện thờ ở Belur. Thông thường ông bảo mở hết các cửa, nhưng lần này ông đóng cửa sổ và khóa các cửa ra vào. Ông thiền định một mình từ 8 đến 11 giờ sáng, rồi ông giảng về trường phái Shukla-Yajur-Veda, văn phạm tiếng Phạn và triết lý yoga cho môn đệ. Sau đó ông thảo luận với các đạo hữu về dự án đại học Veda của Hiệp hội Ramakrishna. Lúc 7:00 tối. Vivekananda về phòng, đuổi hết đệ tử, yêu cầu họ không làm phiền. Đến 9:20 tối, ông viên tịch trong khi thiền tịch. Các môn sinh của ông thấy ông có mấy giọt máu chảy ra ở mũi, miệng và mắt. Họ tin là ông đã đạt được đại định (mahasamādhi), làm khai mở vùng luân xa vương miện (brahmarandhra) dẫn đến đứt mạch máu trong não ông. Lời tiên tri của Vivekananda: ""Tôi không sống đến bốn mươi tuổi đâu" đã trở thành hiện thực. Ông được hỏa thiêu trên một dàn hỏa táng dựng lên bằng gỗ chiên đàn, bên bờ sông Hằng tại Belur, đối diện với nơi thầy ông là Ramakrishna được hỏa táng 16 năm trước.
Triết lý và các quy luật
Vivekananda bản thân là một triết gia nổi tiếng. Một trong những đóng góp quan trọng của ông là diễn tả làm thế nào mà suy nghĩ Advaitin không chỉ đơn thuần là một triết lý xa vời, nhưng làm thế nào nó cũng có hiệu quả về mặt xã hội hay cả về mặt chính trị. Một bài học quan trọng mà ông nói là nhận được từ Ramakrishna là "Jiva là Shiva " (mỗi cá nhân đều là thần linh). Điều này trở thành chân ngôn của ông, và ông hình thành khái niệm về daridra narayana seva - phụng sự Thượng đế trong và thông qua con người (khốn khổ). Nếu thật sự có một sự thống nhất của Đại ngã ẩn bên dưới tất cả mọi sự vật, thì trên cơ sở nào mà chúng ta tự xem là tốt hơn hay xấu hơn, hay là ngay cả giàu có hơn hay nghèo khổ hơn, những người khác? - Đây là câu hỏi mà ông tự hỏi chính mình. Cuối cùng, ông kết luận rằng những điểm khác nhau này sẽ mờ dần đi thành không còn gì cả trong ánh sáng của sự thống nhất trong kinh nghiệm đạt được Giải thoát (Moksha) của người thành tâm. Điều nổi lên là lòng từ bi đối với những "cá nhân" vẫn chưa nhận ra được sự thống nhất này và một lòng quyết tâm giúp đỡ họ.
Swami Vivekananda thuộc về một nhánh Vedanta tin rằng không một ai có thể tự do thật sự cho đến khi toàn bộ chúng ta đều tự do. Ngay cả mong muốn cứu rỗi mang tính cá nhân cũng phải được từ bỏ, và chỉ bằng các việc làm không mệt mỏi cho sự cứu rỗi của người khác mới là dấu hiệu thật sự của một người đã giác ngộ. Ông thành lập Hiệp hội Sri Ramakrishna Math trên cơ sở Atmano Mokshartham Jagad-hitaya cha (आत्मनॊ मोक्षार्थम् जगद्धिताय च) (cho sự cứu rỗi của bản thân và cho sự thịnh vượng của thế giới).
Tuy nhiên, Vivekananda cũng ủng hộ một sự phân biệt rõ rệt giữa tôn giáo và nhà nước ("nhà thờ và nhà nước"). Mặc dù các phong tục xã hội đã hình thành trong quá khứ với sự thừa nhận mang tính tôn giáo, bây giờ không phải chuyện của tôn giáo đi can thiệp vào các vấn đề như cưới xin, thừa kế và nhiều thứ khác. Một xã hội lý tưởng sẽ là một hỗn hợp của kiến thức Bà-la-môn, văn hóa Sát-đế-lợi, hiệu quả làm việc Phệ-xá và đạo đức bình đẳng Thủ-đà-la. Bị chi phối mạnh bởi bất cứ một thứ nào sẽ dẫn đến nhiều kiểu xã hội không cân bằng khác nhau. Vivekananda không cảm thấy rằng tôn giáo, hay bất cứ một thế lực nào khác, nên được dùng một cách bắt buộc để đem lại một xã hội lý tưởng, bởi vì điều này là một thứ gì đó sẽ tiến hóa một cách tự nhiên bởi các thay đổi mang tính cá nhân khi các điều kiện là thích hợp.
Vivekanda nhấn mạnh liên hệ giữa đạo đức với việc làm chủ tâm trí, đồng thời coi sự thật, sự thanh tịnh và bao dung là những yếu tố cần thiết để đạt được điều này. Ông khuyên các đồ đệ của mình sống trong sạch, không ích kỉ và có đức tin. Ông khuyến khích thực hành Phạm hạnh (sống độc thân). Trong một trong các cuộc nói chuyện với người bạn thời thơ ấu của mình là Sri Priya Nath Sinha ông nói rằng các sức mạnh về thể lực và tinh thần, tài hùng biện của ông có được là do thực tập Phạm hạnh. Ông còn khẳng định thành công là hệ quả của suy nghĩ và hành động toàn tâm toàn lực; trong các bài giảng tại Raja Yoga ông phát biểu "Lấy 1 ý tưởng. Biến nó thành cuộc đời bạn – nghĩ về nó, mơ về nó, sống trên nó. Hãy để bộ não, các cơ, hệ thần kinh của bạn tràn đầy ý tưởng này, và cứ bỏ mặc mọi ý tưởng khác. Đây là con đường thành công, là cách mà nhiều đạo sư tâm linh vĩ đại được tạo ra".
Vivekananda không ủng hộ các lãnh vực mới nổi lên như tâm lý học không truyền thống (para psychology), thuật chiêm tinh (một ví dụ có thể tìm thấy trong bài nói chuyện của ông Man the Maker of his Destiny, Complete-Works, Volume 8, Notes of Class Talks and Lectures) nói rằng dạng tò mò này không giúp cho sự tiến bộ về tâm linh nhưng thật ra là làm cản trở sự phát triển tâm linh.
Tương tác với các nhân vật lớn cùng thời
Rất nhiều năm sau khi ông qua đời, Rabindranath Tagore (một thành viên nổi bật của Brahmo Samaj) đã nói: Nếu như bạn muốn biết về Ấn Độ, hãy nghiên cứu Vivekananda. Trong ông ta tất cả đều tích cực và không có thứ gì là tiêu cực. Đáng để ý là, trong những năm trước đó Tagore không kính trọng Swami Vivekananda cho lắm vì ông thờ các bức tượng. Mặt khác, Vivekananda cũng không có mấy ấn tượng về Tagore, mặc dù ông đã từng tiếp xúc với cha của Tagore Maharshi Debendra Nath. Vivekananda hát rất hay là thường hát nhiều bài Bhajans, bao gồm mười hai bài viết và sáng tác bởi Tagore.
Mahatma Gandhi người đã đích thân cố gắng cải cách Ấn Độ giáo đã nói: Những tác phẩm của Swami Vivekananda không cần một lời giới thiệu từ một ai cả. Tự thân chúng đã có một sự thu hút không cản lại được.
Mặc dù có lẽ là không dễ nhận thấy, Swami Vivekananda đã khởi xướng phong trào giành lại độc lập cho Ấn Độ. Những tác phẩm của đã đem lại nguồn cảm hứng cho cả một thế hệ các nhà tranh đấu cho tự do, đặc biệt là ở Bengal và trên toàn cõi Ấn Độ. Người nổi bật nhất là Subhash Chandra Bose:
Tôi không thể viết về Vivekananda mà không đi vào trạng thái say mê. Chỉ một vài người thật sự hiểu được ông ngay cả trong những người có diễm phúc ở gần ông ta. Nhân cách của ông đa dạng, thâm thúy và phức tạp... Coi thường sự hy sinh của bản thân, không ngừng hoạt động, tình thương vô hạn, sâu sắc và toàn diện về kiến thức, dồi dào tình cảm, không nhân nhượng trong việc đả kích nhưng vẫn đơn giản như một đứa bé, ông là một nhân cách hiếm có trong thế giới của chúng ta...
Aurobindo Ghosh, thực sự đã xem Swamiji như là người hướng dẫn mình. Trong khi ở Nhà tù Alipore, Sri Aurobindo thường được viếng thăm bởi Swami Vivekananda trong khi ông thiền định. Swamiji đã hướng dẫn về yoga cho Sri Aurobindo.
Vivekananda là một linh hồn đầy sức mạnh nếu như đã từng có một linh hồn như thế, một con sư tử giữa nhân loại, nhưng những tác phẩm mà ông để lại là khá không tương xứng với ấn tượng của chúng ta về sức sáng tạo và năng lượng của ông. Chúng ta cảm nhận rằng ảnh hưởng của ông vẫn còn khá lớn, chúng ta không biết thế nào, từ đâu, trong một thứ chưa hình thành, một thứ như sư tử, khổng lồ, thuộc về trực giác, đang dâng lên và đi vào linh hồn của Ấn Độ và chúng ta nói rằng, "Hãy nhìn, Vivekananda vẫn sống trong linh hồn của quê mẹ và trong linh hồn của những người con của quê hương"--Sri Aurobindo--1915 in Vedic Magazine.
Ở nước ngoài, ông có tiếp xúc với Max Mueller. Nikola Tesla là một trong những người bị ảnh hưởng bởi triết lý Vedic diễn giảng bởi Swami Vivekananda.
Tác phẩm
Các cuốn sách của ông (biên soạn từ các bài giảng vòng quanh thế giới) về bốn loại Yoga (Raja Yoga, Karma Yoga, Bhakti Yoga, Jnana Yoga) rất có ảnh hưởng và vẫn được xem là các cuốn sách căn bản cho bất cứ ai thích thực tập Yoga của người Hindu. Các lá thư của ông có giá trị lớn về văn học và tâm linh. Ông cũng hát rất hay và là một nhà thơ. Ông đã sáng tác nhiều bài hát bao gồm bài mà ông ưa thích nhất Kali người Mẹ. Ông sử dụng tính khôi hài trong các bài nói chuyện của mình, ngôn ngữ rất trôi chảy và tự do. Những tác phẩm viết bằng tiếng Bengal của ông chứng minh sự việc rằng ông tin rằng lời nói - nói hay viết nên được làm cho mọi việc dễ hiểu hơn là phô trương kiến thức của người nói hay của người viết.
Sách vở bởi Swami Vivekananda
The complete Works of Swami Vivekananda ISBN 81-85301-46-8
Jnana Yoga by Swami Vivekananda ISBN 0-911206-21-3
Raja Yoga by Swami Vivekananda ISBN 0-911206-23-X
Karma Yoga and Bhakti Yoga by Swami Vivekananda ISBN 0-911206-22-1
Life of Vivekananda by Romain Rolland ISBN 81-85301-01-8
Vivekananda: A Biography by Swami Nikhilananda ISBN 0-911206-25-6
The life of Swami Vivekananda by his eastern and western disciples ISBN 81-7505-044-6
Swami Vivekananda: A Reassessment by Narasingha P. Sil ISBN 0-945636-97-0
Các câu nói
"Each soul is potentially divine. The goal is to manifest this divinity within, by controlling nature, external and internal. Do this either by work, or worship, or psychic control, or philosophy - by one, or more, or all of these - and be free. This is the whole of religion. Doctrines, or dogmas, or rituals, or books, or temples, or forms, are but secondary details."
"The one theme of the Vedanta philosophy is the search after unity. The Hindu mind does not care for the particular; it is always after the general, nay, the universal. "what is it that by knowing which everything else is to be known." That is the one search."
"Look upon every man, woman, and everyone as God. You cannot help anyone, you can only serve: serve the children of the Lord, serve the Lord Himself, if you have the privilege."
"It may be that I shall find it good to get outside of my body -- to cast it off like a disused garment. But I shall not cease to work! I shall inspire men everywhere, until the world shall know that it is one with God."
"Mankind ought to be taught that religions are but the varied expressions of THE RELIGION, which is Oneness, so that each may choose the path that suits him best."
" So long as even a single dog in my country is without food, my whole religion will be to feed it."
"This is the gist of all worship - to be pure and to do good to others. He who sees Siva (Hindu God) in the poor, in the weak, and in the diseased, really worships Siva, and if he sees Siva only in the image, his worship is but preliminary. He who has served and helped one poor man seeing Siva in him, without thinking of his caste, creed, or race, or anything, with him Siva is more pleased than with the man who sees Him only in temples."
"Aye, who ever saw money make the man? It is man that always make money. The whole world has been made by the energy of man, by the power of enthusiasm, by the power of faith."
"It is a tremendous error to feel helpless. Do not seek help from anyone. We are our own help. If we cannot help ourselves, there is none to help us."
" All power is within you, you can do anything and everything. Believe in that, do not believe that you are weak... You can do anything and everything, without even the guidance of any one. All power is there. Stand up and express the divinity with you... Arise, awake, sleep no more. With each of you there is the power to remove all wants and all miseries. Believe in this, that power will be manifested. "
"On this basic - being right and doing right the whole world can unite." |
Bao Tự (chữ Hán: 褒姒), hay Tụ Tự hoặc Ly Bích (褎姒) là Vương hậu thứ hai của Chu U vương, vị Thiên tử cuối cùng của giai đoạn Tây Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Truyền thuyết kể rằng, Bao Tự là một mỹ nhân cực kỳ xinh đẹp và quyến rũ, Chu vương mê say nàng nhưng chưa bao giờ thấy nàng cười, lệnh ai làm cho nàng cười sẽ thưởng nghìn lạng vàng. Để thấy nụ cười của Bao Tự, Chu U vương nghe theo một nịnh thần, đốt lửa trên đài để lừa triệu chư hầu chạy đến. Trò đùa này đã gây ra họa mất Cảo Kinh khi quân Khuyển Nhung thực sự chiếm đánh. Nhà chu bắt đầu suy yếu từ đây. Điển tích nổi tiếng này gọi là Phóng hỏa hí chư hầu (烽火戲諸侯).
Mỹ danh của Bao Tự về sau được lưu truyền như một "Hồng nhan họa thủy" (紅顏禍始 - nghĩa là Người đẹp làm hại đất nước), thường liệt kê vào danh sách các mỹ nhân nổi tiếng và có ảnh hưởng trong lịch sử. Nàng cùng Muội Hỉ, Đát Kỷ và Ly Cơ được xem là Tứ đại yêu cơ (四大妖姬), khiến cho cơ nghiệp các quân vương thời Tiên Tần bị phá hoại (nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu và nhà Tấn).
Câu chuyện
Bao Tự không rõ tên gì, là người nước Bao (褒国, nay là khu vực Hán Trung, tỉnh Thiểm Tây), họ Tự. Cũng như hầu hết phụ nữ thời Tiên Tần, phụ nữ nước này được gọi bằng tên nước nơi mình sinh ra kèm theo họ gia tộc đằng sau, do đó nàng được gọi luôn là Bao Tự. Một số phụ nữ nổi bật có thuỵ hiệu sẽ được gọi theo thứ tự: nước - hiệu - họ, ví dụ như Tề Văn Khương, trong đó "Tề" là nước bà sinh ra, "Văn" là hiệu, còn "Khương" là họ gia tộc của Tề vương.
Câu chuyện về Bao Tự được Sử ký Tư Mã Thiên ghi lại mang màu sắc truyền thuyết:
Bao Tự nhập cung, được Chu U Vương ngày đêm ân ái. Năm thứ 4 (778 TCN), nàng sinh một con trai, đặt tên Cơ Bá Phục (姬伯服). Khi này U vương đã có Thân vương hậu, và lập con trai bà là Cơ Nghi Cữu làm Thái tử. Tuy nhiên, vì sủng ái mẹ con Bao Tự mà năm thứ 8 (774 TCN), ông phế truất cả Thân hậu lẫn Nghi Cữu; lập Bao Tự làm Kế hậu, Bá Phục làm Thái tử thay thế.
Việc này làm phật ý cha của Phế hậu là Thân hầu - quân chủ nước Thân (nay là Nam Dương, tỉnh Hà Nam). Thân hầu liên hệ nước Tằng (nay là Phương Thành, tỉnh Hà Nam) cùng quân Khuyển Nhung kéo đến đánh úp Cảo Kinh. Chu U vương vội đốt lửa trên đài, ra hiệu triệu chư hầu nhưng không ai tới cứu, có thuyết cho rằng vì bình thường không có giặc, các chư hầu thường xuyên bị lừa để chọc Bao Tự cười nên nghĩ lần này cũng vậy. U vương bất lực mang Bao Tự và con nhỏ tháo chạy. U vương và Bá Phục bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Bao Tự bị bắt trong cơn hỗn loạn, không rõ kết cục, có khả năng bị vua Khuyển Nhung bắt làm thiếp vì nhan sắc xinh đẹp.
Quân khuyển Nhung tiếp tục cướp bóc, giết hại người trong kinh thành. Thân hầu ân hận nên viết thư triệu chư hầu các nước Tấn, Tần, Vệ và Trịnh đến đánh quân Khuyển Nhung. Quân bốn nước kéo đến đánh tan quân Nhung, khôi phục quyền kế vị cho Cơ Nghi Cữu, tức Chu Bình vương.
Phóng hỏa hí chư hầu
Đây là một điển tích rất nổi tiếng gắng liền với danh tiếng của Bao Tự. Vì nàng vào cung mà không cười, Chu U vương tìm mọi cách để nàng cười, thậm chí dùng nghìn lượng vàng để thưởng ai có thể khiến nàng cười. Sau đó Chu vương nghe Thạc Phụ nước Quắc đốt đài lửa đùa giỡn với chư hầu để Bao Tự cười, làm cho nhà Chu diệt vong.
Có hai ghi chép về câu chuyện này:
Chu U vương không ngó ngàng gì tới việc triều chính, chỉ vui chơi hưởng lạc, phái người đi khắp nơi tìm gái đẹp. Có một đại thần là Bao Quýnh khuyên can U vương, ông không những không nghe theo, còn bắt Bao Quýnh giam vào ngục. Về sau, gia đình Bao Quýnh thấy Bao Tự xinh đẹp, bèn mua về rồi dâng Chu U vương để thoát tội. Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy Bao Tự, Chu U vương đã mê mẩn tinh thần. Chốn phòng the, Chu U vương càng mê mẩn hơn khi trên người nàng luôn tỏa ra một mùi hương hấp dẫn, dễ chịu mà không một phi tần trong cung nào sánh được. Vốn là một Hoàng đế đa tình, thường xuyên sai nội thị đi khắp nơi tìm con gái đẹp đưa về cung nhưng từ khi có Bao Tự, Chu U vương quên hẳn việc tuyển mỹ nữ. Bao Tự được Chu U vương sủng ái nhất.
Nhưng từ ngày vào cung Bao Tự tỏ ra buồn bã, không lúc nào cười. U vương tìm mọi cách để có được nụ cười của mỹ nhân nên treo giải, rằng người nào làm cho Bao Tự cười thì sẽ được thưởng một ngàn lạng vàng. Một kẻ là Quắc Thanh Phụ nghĩ ra một kế. Vốn là, để đề phòng sự tiến công của bộ tộc Khuyển Nhung, vương triều Chu cho xây dựng ở vùng Ly Sơn (nay ở vùng đông nam Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây) hơn 20 đài đốt lửa (Phong Hỏa Đài), cứ cách mấy dặm là một đài, nếu quân Khuyển Nhung tấn công thì các đài đốt khói lửa truyền tin báo động cho các nước chư hầu, để họ mang quân tới cứu viện. Quắc Thạch Phụ nói với Chu U vương cho đốt các đài lửa lên để quân chư hầu kéo tới, Bao Tự thấy quân chư hầu mắc lừa kéo tới thì nhất định là sẽ bật cười. Chu U vương làm theo. Các nước chư hầu gần đó tưởng rằng quân Khuyển Nhung kéo đến, vội vàng mang quân tới cứu. Không ngờ khi tới nơi chỉ thấy trên núi đang đàn sáo vang lừng, còn U vương cử người ra bảo các nước chư hầu quay về. Các nước chư hầu thấy mình bị đem ra làm trò đùa, đều rất tức giận dẫn quân về. Bao Tự thấy dưới chân núi Ly Sơn ồn ào binh mã, quả nhiên thích thú, cười khanh khách. U vương thấy Bao Tự khi cười lại càng xinh đẹp, liền thưởng cho Quắc Thạch Phụ một ngàn lạng vàng.
Câu chuyện này về sau được gọi là Phóng hỏa hí chư hầu (烽火戲諸侯), vang danh sử sách, trở thành một trong những điển tích nổi tiếng nhất về "mối họa hồng nhan".
Tuy nhiên, vào năm 2012, Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh đã tiến hành nghiên cứu "Thanh Hoa giản" (清华简), một cuốn sách sử được viết vào khoảng năm 335 trước công nguyên (được phát hiện vào năm 2008). Họ phát hiện một lượng lớn ghi chép so với Sử ký hoàn toàn khác biệt. Đại khái rằng, Chu U vương năm đó chủ động đem quân đánh nước Thân, Thân hầu bèn liên lạc quân Khuyển Nhung để đánh bại Chu U vương, không hề có bất cứ ghi chép nào tương tự "Phóng hỏa hí chư hầu" như vậy. Giáo thụ của Đại học Thanh Hoa là Lưu Quốc Trung (刘国忠) từng bày tỏ sự nghi ngờ tính chân thực của câu chuyện, khả năng cao đây chỉ là tiểu thuyết do cuốn Sử ký biên lại ở một khoảng thời gian đã quá lâu về sau, khó tránh khỏi chắp nhặt những câu chuyện truyền miệng để ghi vào.
Trong văn thơ
Sách Kinh Thi, phần "Tiểu nhã" có câu về Bao Tự:"Hách hách tông Chu, Bao Tự diệt chi" (赫赫宗周,褒姒灭之。).
Câu nói Trường thiệt phụ (长舌妇; Người đàn bà lưỡi dài) là một thành ngữ ám chỉ Bao Tự. Ấy là trong Kinh Thi, phần "Chiêm ngang" của Phong Nhã, chỉ trích Chu U vương say mê Bao Tự mà rời xa hiền thê, còn châm chọc Bao Tự rằng:
Nhà thơ Lý Bạch có câu:"Mỹ nhân nhất tiếu hoán thiên kim" (美人一笑換千金; Người đẹp nở một nụ cười đáng đổi lấy nghìn lạng vàng). |
Nếu em không phải một giấc mơ (nguyên tác tiếng Pháp: Et si c'était vrai...), còn có bản dịch khác mang tên Và nếu như chuyện này là có thật, là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Pháp Marc Levy, xuất bản năm 1999. Tác phẩm được dịch sang tiếng Anh (If Only It Were True) vào năm 2001 và được chuyển thể thành bộ phim Mỹ Hồn yêu (Just Like Heaven, có nghĩa là "giống như Thiên Đường") vào năm 2005.
Cốt truyện
Lauren là nữ bác sĩ làm việc chăm chỉ trong một phòng cấp cứu bệnh viện thành phố nhưng không may bị tai nạn. Được các đồng nghiệp cấp cứu nhưng cô khó có thể thoát khỏi bàn tay tử thần đang rình rập. Cô được chuyển đến bệnh viện và được chăm sóc ở đấy như một người thực vật, không hề nhận biết được gì đang xảy ra xung quanh và đợi cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Chuyện về tai nạn giao thông thảm khốc này cuối cùng cũng lắng xuống sau một thời gian.
Arthur là một kiến trúc sư chịu nhiều áp lực từ công việc. Một buổi tối sau khi đi làm về, anh phát hiện ra một phụ nữ núp trong tủ quần áo của mình. Đó chính là hình hài của Lauren nhưng bản chất là một linh hồn. Arthur có may mắn nhìn thấy được cô và có những cảm giác đụng chạm cô y như đối với một con người thực sự. Đây là sự ngẫu nhiên thú vị do sau tai nạn người ta đã cho thuê căn hộ cô ở và người thuê chính là Arthur.
Ban đầu, khi phát hiện ra người lạ trong nhà, Arthur không thể tin được rằng, đó chỉ là một hồn ma và rất khó chịu, nhưng càng về sau, anh càng có tình cảm với cô và cuối cùng thì tìm mọi cách đưa Lauren trở về với đời thường. Anh gác lại tất cả dự định cá nhân để mang Lauren về với khát khao được sống cùng cô. Anh cùng cô tìm hiểu về tình trạng hiện tại của cô trong bệnh viện, những tiến bộ y học và chạy đua với thời gian. Sự cô đơn của hai con người, sự đồng cảm và khao khát được sẻ chia làm giữa họ nảy sinh một tình yêu.
Trong khi hai người đang tìm kiếm tài liệu về tình trạng của Lauren thì bệnh viện đề nghị với mẹ Lauren về việc giải quyết tình trạng hiện nay của cô, do chi phí chăm sóc một người thực vật rất lớn và bệnh viện đang cần chỗ để phục vụ cho việc chạy chữa những người khác, còn khả năng sống sót hiện nay của cô rất thấp, vì vậy cần bà đồng ý làm việc rút ống thở của cô. Lúc đầu, bà không đồng ý nhưng sau khi bị thuyết phục nhiều lần, mẹ Lauren xuôi theo ý kiến đề nghị. Arthur và một người bạn của anh biết tin này đã đánh cắp cơ thể cô từ bệnh viện mang đi một nơi khác, với hy vọng sẽ tự chăm sóc cô trong khi đợi làm gì khác. Cuối cùng, cảnh sát cũng đã tìm ra nơi giấu cơ thể Lauren và tìm đến chỗ họ, yêu cầu mang trả cô về bệnh viện.
Arthur đành phải trả cơ thể Lauren lại cho bệnh viện, nhưng linh hồn của cô vẫn ở bên anh. Cho đến một ngày, linh hồn Lauren tự dưng tan biến. Arthur rất đau khổ và không liên lạc với thế giới bên ngoài trong vòng một tuần. Khi liên lạc lại thì anh được biết đúng thời điểm linh hồn Lauren ở bên anh biến mất, cô đã tỉnh lại. Anh vội đến ngay bệnh viện. Tuy Lauren không nhận ra anh, nhưng anh tin rằng thời gian sẽ giúp cô khôi phục lại trí nhớ về những gì xảy ra giữa hai người.
Các bản dịch tiếng Việt
Bản dịch đầu tiên: Và nếu như chuyện này là có thật, Lê Ngọc Mai dịch, Nhà xuất bản Văn học, năm 2002.
Bản dịch khác: Nếu em không phải một giấc mơ, Nguyễn Thị Bạch Tuyết dịch, Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam, năm 2006. |
Tiền polymer tại Việt Nam là loại tiền bằng polymer được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành năm 2003, có giá trị lưu hành song song với các đồng tiền cũ với mục tiêu đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ về cơ cấu mệnh giá (thêm loại tiền có mệnh giá lớn), chủng loại, đồng thời nâng cao chất lượng, nhất là khả năng chống làm giả của đồng tiền.
Lịch sử
Đề án về tiền mới được xây dựng từ năm 1995, Ngân hàng Nhà nước đã họp với Chính phủ Việt Nam tới 3 lần rồi trình qua Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó được Chính phủ cho phép phát hành. Ngân hàng nhà nước đã cử chuyên gia có kinh nghiệm và được đào tạo bài bản sang các nước như Úc hoặc Singapore tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm về in tiền polymer.
Từ 17/12/2003 đến 30/08/2006 đã lần lượt phát hành sáu loại tiền polymer. Các loại tiền này lưu hành song song với tiền giấy làm bằng cotton, và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngừng in loại tiền giấy làm bằng cotton khác kể từ khi sản xuất tiền mới bằng vật liệu polymer.
Lần đầu hai loại tiền mới polymer mệnh giá 50.000 đồng và loại có mệnh giá lớn nhất từ trước tới lúc phát hành là loại tiền polymer mệnh giá 500.000 đồng vào ngày 17 tháng 12 năm 2003. Trong số tiền phát hành có 20 triệu tờ 50.000 đồng do công ty Úc in.
Vào ngày 5 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 841 cho phép phát hành đồng tiền mới 100.000 đồng, trong đó yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải thông báo trước việc phát hành đồng tiền mới trước 10 đến 15 ngày đồng tiền đi vào lưu thông. Ngày 17 tháng 8 năm 2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Đức Thúy tuyên bố kể từ 01 tháng 9 năm 2004 sẽ đưa vào lưu thông tiền 100.000 đồng mới, in trên giấy polymer, nhằm nâng cao khả năng chống giả của đồng tiền. Song ông không cho biết số lượng tiền phát hành
Ngày 3 tháng 5 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức công bố việc đưa vào lưu thông loại tiền polymer mệnh giá 20.000 đồng, và phát hành vào ngày 17 tháng 5 năm 2006. Sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đưa tiền polymer loại 20.000 đồng vào lưu thông, tiền 20.000 đồng bằng giấy cotton vẫn có giá trị lưu hành.
Tiền mệnh giá 10.000 đồng và 200.000 đồng được phát hành ngày 30 tháng 8 năm 2006.
Đến lúc này đã có sáu loại tiền polymer phát hành, riêng các loại có mệnh giá từ 5.000 đồng trở xuống sẽ được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành bằng tiền giấy cotton.
Đặc điểm của tiền làm bằng polymer
Tiền giả có xu hướng gia tăng với diễn biến phức tạp và thực sự trở thành vấn nạn trên toàn thế giới, các quốc gia đều quan tâm nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để nâng cao khả năng chống giả của đồng tiền. Việc thường xuyên thay đổi, bổ sung các mẫu tiền mới trong lưu thông là một biện pháp chống giả hữu hiệu mà các nước đã áp dụng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau khi nghiên cứu đưa ra loại tiền polymer có khả năng chống giả, có độ bền cao hơn, dễ cho người sử dụng nhận biết tiền giả hơn, khó làm giả hơn vì theo họ:
Chống làm giả
Tiền giấy làm bằng cotton của Việt Nam trong những năm gần đây bị làm giả quá lớn, với tỉ lệ cao hơn tiêu chuẩn lưu thông tiền tệ của thế giới (trên 1 triệu đơn vị tiền tệ mà có 150 đồng tiền giả thì đồng tiền ấy phải đưa ra khỏi lưu thông, ở Việt Nam, tiền giả cotton mệnh giá 100.000 đồng ở mức 169 đến 416 tờ, loại 50.000 đồng là 106 đến 370 tờ).
Sử dụng chất liệu polymer để in tiền sẽ tạo điều kiện nâng cao khả năng chống làm giả tiền. Điều này theo Thống đốc Ngân hàng là đã được thừa nhận trên thế giới và theo ông ngay cả những tổ chức phản động chống Việt Nam ở nước ngoài chuyên tung tin đồn thất thiệt về chuyện đổi tiền ở Việt Nam cũng đã phải thừa nhận tiền polymer có độ chống giả rất cao.
Có độ bền cao
Giấy nền polymer có độ bền cơ học cao (chẳng hạn như khó dùng tay không để xé rách tờ bạc). Đây là yếu tố rất quan trọng làm tăng độ bền của đồng tiền, cao gấp 2 đến 3 lần tiền cotton. Viện Khoa học hình sự, Bộ Công an kiểm nghiệm và kết luận độ bền của tiền polymer cao hơn so với tiền cotton 3-4 lần.
Chi phí hợp lý
Tiền polymer khó rách hơn, không thấm nước nên độ bền, tuổi thọ của đồng tiền sẽ dài hơn. Mặc dù chi phí tính toán để in được đồng tiền polymer cao gấp đôi tiền cotton.
Bảo đảm sức khỏe
Việc lựa chọn chất liệu này để in tiền còn xuất phát từ điều kiện khí hậu và tập quán sử dụng tiền mặt hiện nay của Việt Nam. Loại giấy polymer cũng không có cấu tạo sợi nên bề mặt không xốp. Tiền polymer được phủ lớp véc-ni nên tiền polymer không hút ẩm, giữ ẩm hay các chất bẩn khác. Do vậy, so với tiền giấy tiền polymer sạch hơn, ít gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử dụng và môi trường, nhất là trong điều kiện khí hậu Việt Nam và tập quán sử dụng tiền mặt hiện nay.
Phù hợp hệ thống
Giấy polymer có khả năng thích ứng với các thiết bị xử lý tiền, như máy ATM, máy đếm tiền, tuyển chọn tiền... như đối với tiền giấy
Bảo vệ người dân
Việc phát hành những loại tiền polymer mới sẽ góp phần nâng cao chất lượng và khả năng chống giả của đồng tiền Việt Nam, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sử dụng đồng tiền.
Song thực tế sau khi phát hành tiền polymer không hẳn đã có nhiều ưu điểm như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nhận định ban đầu.
Yếu tố bảo an của tiền polymer
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, giấy nền polymer cho phép ứng dụng nhiều kỹ thuật chống giả trong đồng tiền. Bên cạnh những yếu tố bảo an được ứng dụng tương tự như trong giấy in tiền cotton (hình bóng chìm, hình định vị, in Intaglio, chữ siêu nhỏ, dây bảo hiểm, yếu tố phát quang...), giấy nền polymer còn có những yếu tố bảo an đặc trưng, có hiệu quả cao trong việc chống làm giả, như yếu tố cửa sổ trong suốt có hình ẩn hoặc hình dập nổi trong cửa sổ. Đây là yếu tố chỉ có thể ứng dụng trên giấy nền polymer, có khả năng chống việc làm giả bằng các thiết bị như máy photocopy, thiết bị scan hay máy in laze. Ngoài khả năng chống giả cao, yếu tố cửa sổ trong suốt còn có ưu điểm rất dễ nhận biết. Việc in tiền trên chất liệu polymer cũng tính tới khả năng phân biệt tiền giả cho người khiếm thị.
Các đặc điểm kỹ thuật bảo an được phổ biến rộng rãi trên báo giấy hoặc trên mạng cho dân được biết trước khi phát hành tiền.
Đặc điểm kỹ thuật bảo an của giấy bạc 500.000 đồng mới
Những đặc điểm kỹ thuật bảo an của giấy bạc 500.000 đồng ở mặt trước tờ bạc:
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969): Được in lõm tinh vi, khi vuốt nhẹ tay có thể cảm nhận được độ nổi của nét in.
Yếu tố hình ẩn: Tại cửa sổ nhỏ phía trên bên trái tờ giấy bạc có hình hoa sen cách điệu, nhìn thấy khi soi trước nguồn sáng đỏ như đèn dầu, nến, bóng đèn tròn.
Hình cửa sổ: Là yếu tố đặc trưng của giấy bạc Polymer, cửa sổ lớn hình bông hoa sen cách điệu nằm phía bên phải tờ giấy bạc có nền nhựa trong hai mặt, ở giữa có cụm số 500.000 đồng được dập nổi, nhìn thấy khi đưa nghiêng tờ giấy bạc.
Hình bóng chìm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chỉ nhìn thấy khi soi tờ bạc trước nguồn sáng.
Mực đổi màu: Hình chim phượng nằm phía dưới góc trái tờ bạc, được in bằng mực đặc biệt, sẽ đổi màu khi soi tờ bạc dưới các góc nhìn khác nhau.
Dây bảo hiểm: Khi soi tờ bạc trước nguồn sáng nhìn thấy một dây bảo hiểm chạy dọc tờ bạc có các dòng chữ "NHNNVN" lặp đi lặp lại và đảo chiều.
Hình định vị: Nằm ở góc trên bên phải tờ bạc gồm 4 hình tam giác (mỗi mặt có hai hình). Khi soi tờ bạc trước nguồn sáng 4 hình hợp lại tạo thành 1 hình vuông, giữa các hình có khe trắng đều nhau.
Yếu tố IRIODIN: Chỉ hiển thị ở mặt sau của tờ bạc, là một dải màu vàng lấp lánh chạy dọc ở mặt sau tờ bạc có dòng số 500.000 đồng, dễ nhận biết khi đưa nghiêng tờ bạc.
Cụm số nổi: Khi vuốt nhẹ tay lên các cụm số 500.000 đồng phía trên bên phải và phía dưới bên trái có thể cảm nhận được độ nổi của nét in.
Mực không màu phát quang "500.000": Ở vị trí giữa tờ bạc có cụm số 500.000, nhìn thấy khi soi một tờ dưới ánh sáng đèn cực tím.
Dòng số sêry ngang màu đen: Kiểu số từ nhỏ đến lớn, phát quang màu xanh lơ khi soi dưới ánh đèn cực tím.
Dòng số sêry dọc màu đỏ: Kiểu số đều nhau, phát quang màu da cam khi soi dưới ánh đèn cực tím.
Mực màu hồng phát quang: Màu hồng xung quanh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (mặt trước) và màu hồng sau phong cảnh (mặt sau) phát quang màu vàng khi soi dưới ánh đèn cực tím.
Mảng chữ siêu nhỏ (mặt trước): Được thiết kế bằng các dòng chữ "NHNNVN" lặp đi lặp lại, nhìn toàn bộ thấy 2 chữ VN rõ và đậm.
Những yếu tố nhận biết cho người khiếm thị gồm: 3 chấm hình vuông, 1 gạch dài nằm ở phía dưới góc trái tờ bạc và được in lõm tạo độ nổi cho người khiếm thị dùng tay để nhận biết.
Đặc điểm kỹ thuật bảo an của giấy bạc 50.000 đồng mới
Đặc điểm kỹ thuật bảo an của giấy bạc 50.000 đồng mới như sau:
Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969): Được in lõm, khi vuốt nhẹ tay cảm nhận được độ nổi của nét in.
Yếu tố hình ẩn: Tại cửa sổ nhỏ phía trên, bên trái tờ bạc có chữ Việt Nam đối xứng, nhìn thấy rõ khi soi trước nguồn sáng đỏ như đèn dầu, nến, bóng đèn tròn.
Hình cửa sổ: Là yếu tố đặc trưng của giấy bạc polymer, cửa sổ lượn hình mây cách điệu nằm phía bên phải tờ bạc là nền nhựa trong suốt hai mặt, ở giữa có cụm số 50.000 đồng được dập nổi, nhìn thấy khi chao nghiêng tờ bạc.
Hình bóng chìm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chỉ nhìn thấy khi soi tờ bạc trước nguồn sáng.
Chữ Việt Nam sáng trắng: Nằm ở vị trí dưới bóng chìm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi soi từ bạc trước nguồn sáng, sẽ nhìn thấy chữ Việt Nam sáng trắng.
Dây bảo hiểm: Khi soi tờ bạc trước nguồn sáng, nhìn thấy dây bảo hiểm ngắt quãng chạy dọc tờ bạc, có các cụm số 50.000 đồng lặp đi lặp lại.
Hình định vị: Nằm ở góc trên bên phải tờ bạc là hình hoa 8 cánh cách điệu. Khi soi tờ bạc trước nguồn sáng, hình hoa 8 cánh của mặt trước và mặt sau trùng khớp tạo những khe trắng đều nhau.
Hình ẩn nổi: Nằm ở phía dưới bên trái tờ bạc, được in nổi, khi đặt tờ bạc nằm ngang tầm mắt 180 độ thì sẽ thấy chữ Ngân hàng nổi rõ.
Cụm sổ nổi: Khi vuốt nhẹ tay lên cụm số dọc 50.000 đồng phía trên bên phải và cụm số ngang phía dưới bên trái có thể cảm nhận được độ nổi của nét in.
Mực không màu phát quang "50000": Ở vị trí giữa tờ bạc có cụm số 50000 đồng, nhìn thấy khi soi dưới ánh sáng đèn cực tím.
Dòng số sê-ri ngang màu đen: Kiểu số từ nhỏ đến lớn, phát quang màu xanh lơ khi soi dưới ánh sáng đèn cực tím
Dòng số sê-ri màu đỏ: Kiểu số đều nhau, phát quang màu da cam khi soi dưới ánh sáng đèn cực tím.
Mực màu vàng cam phát quang màu vàng: Màu vàng cam xung quanh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (mặt trước) và màu vàng cam ở hình định vị (mặt sau) phát quang màu vàng khi soi dưới ánh sáng đèn cực tím.
Mảng chữ siêu nhỏ (mặt trước): được thiết kế bằng các dòng chữ "Ngân hàng nhà nước Việt Nam" lặp đi lặp lại, nằm phía dưới hàng số sê-ri đen bên phải, dùng kính lúp mới thấy rõ.
Yếu tố nhận biết cho người khiếm thị: Gồm 3 chấm hình quả trám nằm ở phía dưới góc trái tờ bạc, được in lõm, tạo độ nổi cho người khiếm thị dùng tay để nhận biết tờ bạc 50.000 đồng.
Đặc điểm kỹ thuật bảo an của giấy bạc 100.000 đồng mới
Có 16 đặc điểm kỹ thuật bảo an của giấy bạc 100.000 đồng:
Chân dung Chủ tích Hồ Chí Minh (1890-1969): Được in lõm tinh vi, khi vuốt nhẹ tay cảm nhận được độ nổi của nét in.
Yếu tố hình ẩn: Tại cửa sổ nhỏ phía trên bên trái tờ bạc có hình hoa cúc cách điệu, nhìn thấy khi soi trước nguồn sáng đỏ như đèn dầu, nến, bóng đèn trong.
Hình cửa sổ: là yếu tố đặc trưng của giấy bạc Polymer, cửa sổ lớn hình tượng sách bút cách điệu nằm phía bên phải tời bạc có nền nhựa trong suốt hai mặt, ở giữa có cụm số 100.000 được dập nổi.
Hình bóng chìm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh: Nằm ở góc trên bên trái tờ bạc, sẽ nhìn thấy rõ hơn khi soi tờ bạc trước nguồn sáng.
Mực đổi màu: Hình hoa văn nằm phía trên góc phải tờ bạc được in bằng mực đặc biệt, sẽ đổi màu khi soi tờ bạc dưới các góc nhìn khác nhau.
Hình hoa sen sáng trắng: Nằm ở vị trí dưới bóng chìm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, sẽ nhìn thấy rõ hơn khi soi tờ bạc trước nguồn sáng.
Dây bảo hiểm: Khi soi tờ bạc trước nguồn sáng nhìn thấy một sợi dây bảo hiểm chạy dọc tờ bạc có các dòng chữ: "NHNNVN*100.000" lặp đi lặp lại và đảo chiều.
Hình định vị: Nằm ở góc trên bên phải tờ bạc là biểu tượng của Khuê Văn Các gồm 8 ô màu. Khi soi tờ bạc trước nguồn sáng, các ô màu của mặt trước và mặt sau trùng khớp tạo nên các khe trắng đều nhau.
Yếu tố IRIODIN: là một dải màu vàng lấp lánh như màu kim loại chạy dọc ở mặt trước tờ bạc có hình hoa cúc cách điệu, dễ nhìn thấy khi chao nghiêng tờ bạc.
Cụm số nổi: Khi vuốt nhẹ tay lên các cụm số 100.000 phía trên bên phải và phía dưới bên trái có thể cảm nhận được độ nổi của nét in.
Mực không màu phát quang "100000": Ở vị trí giữa tờ bạc có cụm số 100000, nhìn thấy khi soi tờ bạc dưới ánh sáng đèn cực tím.
Dòng số sê-ri ngang màu đen: Kiểu số từ nhỏ đến lớn, phát quang màu xanh lơ khi soi dưới ánh sáng đèn cực tím.
Dòng số sê-ri dọc màu đỏ: Kiểu số từ nhỏ đến lớn, phát quang màu da cam khi soi dưới ánh sáng đèn cực tím.
Mực màu vàng phát quang màu vàng da cam: Màu vàng xung quanh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh (mặt trước) và màu vàng giữa phong cảnh (mặt sau) phát quang màu vàng cam khi soi dưới ánh sáng đèn cực tím.
Mảng chữ siêu nhỏ (mặt trước): Được thiết kế bằng các dòng chữ "NHNNVN" lặp đi lặp lại, nhìn toàn bộ thấy 2 chữ VN rõ và đậm.
Yếu tố nhận biết cho người khiếm thị: Gồm có 1 chấm hình vuông và 1 gạch dài nằm ở phía góc trái của tờ bạc, được in lõm tạo độ nổi cho người khiếm thị dùng tay để nhận biết tờ bạc 100.000 đồng.
Thiết kế mẫu tiền polymer
Công tác thiết kế mẫu tiền polymer
Công tác thiết kế mẫu tiền polymer là do các họa sĩ Việt Nam vẽ. Cụ thể là các họa sĩ, trong đó có Trần Tiến, một trong hai họa sĩ thiết kế chính cho mẫu tiền nhựa 200.000 đồng và 500.000 đồng.
Chế bản
Mẫu được đưa sang Úc làm chế bản vi tính.
Sai sót trong thiết kế, chế bản mẫu tiền polymer
Việc thiết kế, chế bản mẫu tiền polymer có một số sai sót do người dân nhanh chóng phát hiện sau một thời gian ngắn tiền đưa vào lưu thông.
Có sự khác biệt thiếu dấu chấm phân cách hàng ngàn và hàng trăm trên tờ tiền polymer 10.000 đồng (in 10000 thay vì 10.000). Ngân hàng Nhà nước giải thích là lỗi kỹ thuật do chế bản.
Đối với tờ tiền polymer mệnh giá 50.000 đồng, dưới chân dung Hồ Chí Minh có dòng chữ "Chủ tịch Hồ Chí Minh 1890-1969", trong khi trên các tờ tiền polymer mệnh giá khác hoàn toàn không có dòng chữ này dưới chân dung Hồ Chí Minh.
Trên tờ tiền polymer mệnh giá 100.000 đồng cũng vừa phát hiện một chi tiết khác biệt. Ở mặt trước của đồng tiền mặt có chân dung, phía bên trái dưới số 100.000 lớn có sáu vòng cung nhỏ, trong mỗi vòng cung có in các số cực nhỏ 100000*100000. Tuy nhiên, riêng ở vòng cung thứ nhất (ngay dưới số 1) lại in 100000*10000, nghĩa là thiếu một con số không (0) ở vòng cung thứ nhất và không nhất quán với các vòng cung còn lại.
Trên nhiều tờ tiền có mệnh giá 50.000, 100.000 và 200.000 đồng, các chữ số lớn đều có dấu chấm phân cách hàng ngàn và hàng trăm, trong khi các số in chìm và số trên cửa sổ trong suốt đều không có dấu chấm tương tự.
Ảnh hưởng đến thị trường
Không có biến động thị trường do phát hành tiền mới mặc dù ngay năm 2003 lúc tiền polymer mới xuất hiện đã có tin đồn về thu hồi tiền do in thiếu năm phát hành.
Ghi chú |
Thị tứ là khái niệm có ở Việt Nam, chỉ khu vực trung tâm của một hoặc nhiều xã với lượng dân cư tương đối, trong đó các ngành nghề như thương mại, dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển hơn so với các xã phụ cận. Dân cư sống trong thị tứ cũng sống tập trung và có mật độ cao hơn. Một thị tứ được hình thành khi ở khu vực đó có sự thuận lợi về các điều kiện hạ tầng cơ sở hơn so với các xã phụ cận.
Thị tứ không phải là một đơn vị hành chính chính thức của Việt Nam. Tuy nhiên, thị tứ là tiên đề để hình thành nên các thị trấn mới trong tương lai, khi nó phát triển đủ lớn để chính quyền có thể công nhận. |
Trong các lĩnh vực an ninh máy tính và lập trình, một lỗi tràn bộ nhớ đệm hay gọi tắt là lỗi tràn bộ đệm (tiếng Anh: buffer overflow) là một lỗi lập trình có thể gây ra một ngoại lệ truy nhập bộ nhớ máy tính và chương trình bị kết thúc, hoặc khi người dùng có ý phá hoại, họ có thể lợi dụng lỗi này để phá vỡ an ninh hệ thống.
Lỗi tràn bộ đệm là một điều kiện bất thường khi một tiến trình lưu dữ liệu vượt ra ngoài biên của một bộ nhớ đệm có chiều dài cố định. Kết quả là dữ liệu đó sẽ đè lên các vị trí bộ nhớ liền kề. Dữ liệu bị ghi đè có thể bao gồm các bộ nhớ đệm khác, các biến và dữ liệu điều khiển luồng chạy của chương trình (program flow control).
Các lỗi tràn bộ đệm có thể làm cho một tiến trình đổ vỡ hoặc cho ra các kết quả sai. Các lỗi này có thể được kích hoạt bởi các dữ liệu vào được thiết kế đặc biệt để thực thi các đoạn mã phá hoại hoặc để làm cho chương trình hoạt động một cách không như mong đợi. Bằng cách đó, các lỗi tràn bộ đệm gây ra nhiều lỗ hổng bảo mật (vulnerability) đối với phần mềm và tạo cơ sở cho nhiều thủ thuật khai thác (exploit). Việc kiểm tra biên (bounds checking) đầy đủ bởi lập trình viên hoặc trình biên dịch có thể ngăn chặn các lỗi tràn bộ đệm.
Mô tả kỹ thuật
Một lỗi tràn bộ nhớ đệm xảy ra khi dữ liệu được viết vào một bộ nhớ đệm, mà do không kiểm tra biên đầy đủ nên đã ghi đè lên vùng bộ nhớ liền kề và làm hỏng các giá trị dữ liệu tại các địa chỉ bộ nhớ kề với vùng bộ nhớ đệm đó. Hiện tượng này hay xảy ra nhất khi sao chép một xâu ký tự từ một bộ nhớ đệm này sang một vùng bộ nhớ đệm khác.
Ví dụ cơ bản
Trong ví dụ sau, một chương trình đã định nghĩa hai phần tử dữ liệu kề nhau trong bộ nhớ: A là một bộ nhớ đệm xâu ký tự dài 8 byte, và B là một số nguyên kích thước 2 byte. Ban đầu, A chỉ chứa toàn các byte giá trị 0, còn B chứa giá trị 3. Các ký tự có kích thước 1 byte.
Bây giờ, chương trình ghi một xâu ký tự "excessive" vào bộ đệm A, theo sau là một byte 0 để đánh dấu kết thúc xâu. Vì không kiểm tra độ dài xâu, nên xâu ký tự mới đã đè lên giá trị của B:
Tuy lập trình viên không có ý định sửa đổi B, nhưng giá trị của B đã bị thay thế bởi một số được tạo nên từ phần cuối của xâu ký tự. Trong ví dụ này, trên một hệ thống big-endian sử dụng mã ASCII, ký tự "e" và tiếp theo là một byte 0 sẽ trở thành số 25856.
Nếu B là phần tử dữ liệu duy nhất còn lại trong số các biến được chương trình định nghĩa, việc viết một xâu ký tự dài hơn nữa và vượt quá phần cuối của B sẽ có thể gây ra một lỗi chẳng hạn như segmentation fault (lỗi phân đoạn) và tiến trình sẽ kết thúc.
Tràn bộ nhớ đệm trên stack
Bên cạnh việc sửa đổi các biến không liên quan, hiện tượng tràn bộ đệm còn thường bị lợi dụng (khai thác) bởi tin tặc để làm cho một chương trình đang chạy thực thi một đoạn mã tùy ý được cung cấp. Các kỹ thuật để một tin tặc chiếm quyền điều khiển một tiến trình tùy theo vùng bộ nhớ mà bộ đệm được đặt tại đó. Ví dụ, vùng bộ nhớ stack, nơi dữ liệu có thể được tạm thời "đẩy" xuống "đỉnh" ngăn xếp (push), và sau đó được "nhấc ra" (pop) để đọc giá trị của biến. Thông thường, khi một hàm (function) bắt đầu thực thi, các phần tử dữ liệu tạm thời (các biến địa phương) được đẩy vào, và chương trình có thể truy nhập đến các dữ liệu này trong suốt thời gian chạy hàm đó. Không chỉ có hiện tượng tràn stack (stack overflow) mà còn có cả tràn heap (heap overflow).
Trong ví dụ sau, "X" là dữ liệu đã từng nằm tại stack khi chương trình bắt đầu thực thi; sau đó chương trình gọi hàm "Y", hàm này đòi hỏi một lượng nhỏ bộ nhớ cho riêng mình; và sau đó "Y" gọi hàm "Z", "Z" đòi hỏi một bộ nhớ đệm lớn:
Nếu hàm "Z" gây tràn bộ nhớ đệm, nó có thể ghi đè dữ liệu thuộc về hàm Y hay chương trình chính:
Điều này đặc biệt nghiêm trọng đối với hầu hết các hệ thống. Ngoài các dữ liệu thường, bộ nhớ stack còn lưu giữ địa chỉ trả về, nghĩa là vị trí của phần chương trình đang chạy trước khi hàm hiện tại được gọi. Khi hàm kết thúc, vùng bộ nhớ tạm thời sẽ được lấy ra khỏi stack, và thực thi được trao lại cho địa chỉ trả về. Như vậy, nếu địa chỉ trả về đã bị ghi đè bởi một lỗi tràn bộ đệm, nó sẽ trỏ tới một vị trí nào đó khác. Trong trường hợp một hiện tượng tràn bộ đệm không có chủ ý như trong ví dụ đầu tiên, hầu như chắc chắn rằng vị trí đó sẽ là một vị trí không hợp lệ, không chứa một lệnh nào của chương trình, và tiến trình sẽ đổ vỡ. Tuy nhiên, một kẻ tấn công có thể chỉnh địa chỉ trả về để trỏ tới một vị trí tùy ý sao cho nó có thể làm tổn hại an ninh hệ thống.
Mã nguồn ví dụ
Mã nguồn C dưới đây thể hiện một lỗi lập trình thường gặp. Sau khi được biên dịch, chương trình sẽ tạo ra một lỗi tràn bộ đệm nếu nó được gọi với một tham số dòng lệnh là một xâu ký tự quá dài, vì tham số này được dùng để ghi vào một bộ nhớ đệm mà không kiểm tra độ dài của nó.
/* overflow.c - demonstrates a buffer overflow */
#include <stdio.h>
#include <string.h>
int main(int argc, char *argv[])
{
char buffer[10];
if (argc < 2)
{
fprintf(stderr, "USAGE: %s string\n", argv[0]);
return 1;
}
strcpy(buffer, argv[1]);
return 0;
}
Các xâu ký tự độ dài không quá 9 sẽ không gây tràn bộ đệm. Các xâu ký tự gồm từ 10 ký tự trở lên sẽ gây tràn bộ đệm: hiện tượng này luôn luôn là một lỗi sai nhưng không phải lúc nào cũng gây ra việc chương trình chạy sai hay gây lỗi segmentation fault.
Chương trình trên có thể được viết lại cho an toàn bằng cách sử dụng hàm strncpy như sau:
#include <string.h>
#include <stdio.h>
int main(int argc, char *argv[])
{
char buffer[10];
if (argc < 2)
{
fprintf(stderr, "USAGE: %s string\n", argv[0]);
return 1;
}
strncpy(buffer, argv[1], sizeof(buffer));
buffer[sizeof(buffer) - 1] = '\0';
return 0;
}
Khai thác
Có các kỹ thuật khác nhau cho việc khai thác lỗi tràn bộ nhớ đệm, tùy theo kiến trúc máy tính, hệ điều hành và vùng bộ nhớ. Ví dụ, khai thác tại heap (dùng cho các biến cấp phát động) rất khác với việc khai thác các biến tại stack.
Khai thác lỗi tràn bộ đệm trên stack
Một người dùng thạo kỹ thuật và có ý đồ xấu có thể khai thác các lỗi tràn bộ đệm trên stack để thao túng chương trình theo một trong các cách sau:
Ghi đè một biến cục bộ nằm gần bộ nhớ đệm trong stack để thay đổi hành vi của chương trình nhằm tạo thuận lợi cho kẻ tấn công.
Ghi đè địa chỉ trả về trong một khung stack (stack frame). Khi hàm trả về, thực thi sẽ được tiếp tục tại địa chỉ mà kẻ tấn công đã chỉ rõ, thường là tại một bộ đệm chứa dữ liệu vào của người dùng.
Nếu không biết địa chỉ của phần dữ liệu người dùng cung cấp, nhưng biết rằng địa chỉ của nó được lưu trong một thanh ghi, thì có thể ghi đè lên địa chỉ trả về một giá trị là địa chỉ của một opcode mà opcode này sẽ có tác dụng làm cho thực thi nhảy đến phần dữ liệu người dùng. Cụ thể, nếu địa chỉ đoạn mã độc hại muốn chạy được ghi trong một thanh ghi R, thì một lệnh nhảy đến vị trí chứa opcode cho một lệnh jump R, call R (hay một lệnh tương tự với hiệu ứng nhảy đến địa chi ghi trong R) sẽ làm cho đoạn mã trong phần dữ liệu người dùng được thực thi. Có thể tìm thấy địa chỉ của các opcode hay các byte thích hợp trong bộ nhớ tại các thư viện liên kết động (DLL) hay trong chính file thực thi. Tuy nhiên, địa chỉ của opcode đó thường không được chứa một ký tự null (hay byte 0) nào, và địa chỉ của các opcode này có thể khác nhau tùy theo các ứng dụng và các phiên bản của hệ điều hành. Dự án Metasploit là một trong các cơ sở dữ liệu chứa các opcode thích hợp, tuy rằng trong đó chỉ liệt kê các opcode trong hệ điều hành Microsoft Windows
Khai thác lỗi tràn bộ đệm trên heap
Một hiện tượng tràn bộ đệm xảy ra trong khu vực dữ liệu heap được gọi là một hiện tượng tràn heap và có thể khai thác được bằng các kỹ thuật khác với các lỗi tràn stack. Bộ nhớ heap được cấp phát động bởi các ứng dụng tại thời gian chạy và thường chứa dữ liệu của chương trình. Việc khai thác được thực hiện bằng cách phá dữ liệu này theo các cách đặc biệt để làm cho ứng dụng ghi đè lên các cấu trúc dữ liệu nội bộ chẳng hạn các con trỏ của danh sách liên kết.
Lỗ hổng của Microsoft JPEG GDI+ là một ví dụ gần đây về sự nguy hiểm mà một lỗi tràn heap có thể dẫn đến.
Cản trở đối với các thủ thuật khai thác
Việc xử lý bộ đệm trước khi đọc hay thực thi nó có thể làm thất bại các cố gắng khai thác lỗi tràn bộ đệm. Các xử lý này có thể giảm bớt mối đe dọa của việc khai thác lỗi, nhưng có thể không ngăn chặn được một cách tuyệt đối. Việc xử lý có thể bao gồm: chuyển từ chữ hoa thành chữ thường, loại bỏ các ký tự đặc biệt (metacharacters) và lọc các xâu không chứa ký tự là chữ số hoặc chữ cái. Tuy nhiên, có các kỹ thuật để tránh việc lọc và xử lý này; alphanumeric code (mã gồm toàn chữ và số), polymorphic code (mã đa hình), Self-modifying code (mã tự sửa đổi) và tấn công kiểu return-to-libc. Cũng chính các phương pháp này có thể được dùng để tránh bị phát hiện bởi các hệ thống phát hiện thâm nhập (Intrusion detection system).
Chống tràn bộ đệm
Nhiều kỹ thuật đa dạng với nhiều ưu nhược điểm đã được sử dụng để phát hiện hoặc ngăn chặn hiện tượng tràn bộ đệm. Cách đáng tin cậy nhất để tránh hoặc ngăn chặn tràn bộ đệm là sử dụng bảo vệ tự động tại mức ngôn ngữ lập trình. Tuy nhiên, loại bảo vệ này không thể áp dụng cho mã thừa kế (legacy code), và nhiều khi các ràng buộc kỹ thuật, kinh doanh hay văn hóa lại đòi hỏi sử dụng một ngôn ngữ không an toàn. Các mục sau đây mô tả các lựa chọn và cài đặt hiện có.
Lựa chọn ngôn ngữ lập trình
Lựa chọn về ngôn ngữ lập trình có thể có một ảnh hưởng lớn đối với sự xuất hiện của lỗi tràn bộ đệm. Năm 2006, C và C++ nằm trong số các ngôn ngữ lập trình thông dụng nhất, với một lượng khổng lồ các phần mềm đã được viết bằng hai ngôn ngữ này. C và C++ không cung cấp sẵn các cơ chế chống lại việc truy nhập hoặc ghi đè dữ liệu lên bất cứ phần nào của bộ nhớ thông qua các con trỏ bất hợp lệ; cụ thể, hai ngôn ngữ này không kiểm tra xem dữ liệu được ghi vào một mảng (cài đặt của một bộ nhớ đệm) có nằm trong biên của mảng đó hay không. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các thư viện chuẩn của C++, thư viện khuôn mẫu chuẩn - STL, cung cấp nhiều cách an toàn để lưu trữ dữ liệu trong bộ đệm, và các lập trình viên C cũng có thể tạo và sử dụng các tiện ích tương tự. Cũng như đối với các tính năng bất kỳ khác của C hay C++, mỗi lập trình viên phải tự xác định lựa chọn xem họ có muốn chấp nhận các hạn chế về tốc độ chương trình để thu lại các lợi ích tiềm năng (độ an toàn của chương trình) hay không.
Một số biến thể của C, chẳng hạn Cyclone, giúp ngăn chặn hơn nữa các lỗi tràn bộ đệm bằng việc chẳng hạn như gắn thông tin về kích thước mảng với các mảng. Ngôn ngữ lập trình D sử dụng nhiều kỹ thuật đa dạng để tránh gần hết việc sử dụng con trỏ và kiểm tra biên do người dùng xác định.
Nhiều ngôn ngữ lập trình khác cung cấp việc kiểm tra tại thời gian chạy, việc kiểm tra này gửi một cảnh báo hoặc ngoại lệ khi C hoặc C++ ghi đè dữ liệu. Ví dụ về các ngôn ngữ này rất đa dạng, từ Python tới Ada, từ Lisp tới Modula-2, và từ Smalltalk tới OCaml. Các môi trường bytecode của Java và .NET cũng đòi hỏi kiểm tra biên đối với tất cả các mảng. Gần như tất cả các ngôn ngữ thông dịch sẽ bảo vệ chương trình trước các hiện tượng tràn bộ đệm bằng cách thông báo một trạng thái lỗi định rõ (well-defined error). Thông thường, khi một ngôn ngữ cung cấp đủ thông tin về kiểu để thực hiện kiểm tra biên, ngôn ngữ đó thường cho phép lựa chọn kích hoạt hay tắt chế độ đó. Việc phân tích tĩnh (static analysis) có thể loại được nhiều kiểm tra kiểu và biên động, nhưng các cài đặt tồi và các trường hợp rối rắm có thể giảm đáng kể hiệu năng. Các kỹ sư phần mềm phải cẩn thận cân nhắc giữa các phí tổn cho an toàn và hiệu năng khi quyết định sẽ sử dụng ngôn ngữ nào và cấu hình như thế nào cho trình biên dịch.
Sử dụng các thư viện an toàn
Vấn đề tràn bộ đệm thường gặp trong C và C++ vì các ngôn ngữ này để lộ các chi tiết biểu diễn mức thấp của các bộ nhớ đệm với vai trò các chỗ chứa cho các kiểu dữ liệu. Do đó, phải tránh tràn bộ đệm bằng cách gìn giữ tính đúng đắn cao cho các phần mã chương trình thực hiện việc quản lý bộ đệm. Việc sử dụng các thư viện được viết tốt và đã được kiểm thử, dành cho các kiểu dữ liệu trừu tượng mà các thư viện này thực hiện tự động việc quản lý bộ nhớ, trong đó có kiểm tra biên, có thể làm giảm sự xuất hiện và ảnh hưởng của các hiện tượng tràn bộ đệm. Trong các ngôn ngữ này, xâu ký tự và mảng là hai kiểu dữ liệu chính mà tại đó các hiện tượng tràn bộ đệm thường xảy ra; do đó, các thư viện ngăn chặn lỗi tràn bộ đệm tại các kiểu dữ liệu này có thể cung cấp phần chính của sự che chắn cần thiết. Dù vậy, việc sử dụng các thư viện an toàn một cách không đúng có thể dẫn đến tràn bộ đệm và một số lỗ hổng khác; và tất nhiên, một lỗi bất kỳ trong chính thư viện chính nó cũng là một lỗ hổng. Các cài đặt thư viện "an toàn" gồm The Better String Library, Arri Buffer API và Vstr. Thư viện C của hệ điều hành OpenBSD cung cấp các hàm hữu ích strlcpy strlcat, nhưng các hàm này nhiều hạn chế hơn nhiều so với các cài đặt thư viện an toàn đầy đủ.
Tháng 9 năm 2006, Báo cáo kỹ thuật số 24731 của hội đồng tiêu chuẩn C đã được công bố; báo cáo này mô tả một tập các hàm mới dựa trên các hàm vào ra dữ liệu và các hàm xử lý xâu ký tự của thư viện C chuẩn, các hàm mới này được bổ sung các tham số về kích thước bộ đệm.
Chống tràn bộ nhớ đệm trên stack
Stack-smashing protection là kỹ thuật được dùng để phát hiện các hiện tượng tràn bộ đệm phổ biến nhất. Kỹ thuật này kiểm tra xem stack đã bị sửa đổi hay chưa khi một hàm trả về. Nếu stack đã bị sửa đổi, chương trình kết thúc bằng một lỗi segmentation fault. Các hệ thống sử dụng kỹ thuật này gồm có Libsafe, StackGuard và các bản vá lỗi (patch) ProPolice gcc.
Chế độ Data Execution Prevention (cấm thực thi dữ liệu) của Microsoft bảo vệ thẳng các con trỏ tới SEH Exception Handler, không cho chúng bị ghi đè.
Có thể bảo vệ stack hơn nữa bằng cách phân tách stack thành hai phần, một phần dành cho dữ liệu và một phần cho các bước trả về của hàm. Sự phân chia này được dùng trong ngôn ngữ lập trình Forth, tuy nó không phải một quyết định thiết kế dựa theo tiêu chí an toàn. Nhưng dù sao thì đây cũng không phải một giải pháp hoàn chỉnh đối với vấn đề tràn bộ đệm, khi các dữ liệu nhạy cảm không phải địa chỉ trả về vẫn có thể bị ghi đè.
Bảo vệ không gian thực thi
Bảo vệ không gian thực thi là một cách tiếp cận đối với việc chống tràn bộ đệm. Kỹ thuật này ngăn chặn việc thực thi mã tại stack hay heap. Một kẻ tấn công có thể sử dụng tràn bộ đệm để chèn một đoạn mã tùy ý vào bộ nhớ của một chương trình, nhưng với bảo vệ không gian thực thi, mọi cố gắng chạy đoạn mã đó sẽ gây ra một ngoại lệ (exception).
Một số CPU hỗ trợ một tính năng có tên bit NX ("No eXecute" - "Không thực thi") hoặc bit XD ("eXecute Disabled" - "chế độ thực thi đã bị tắt"). Khi kết hợp với phần mềm, các tính năng này có thể được dùng để đánh dấu các trang dữ liệu (chẳng hạn các trang chứa stack và heap) là đọc được nhưng không thực thi được.
Một số hệ điều hành Unix (chẳng hạn OpenBSD, Mac OS X) có kèm theo tính năng bảo vệ không gian thực thi (ví dụ W^X). Một số gói phần mềm tùy chọn bao gồm:
PaX
Exec Shield
Openwall
Các biến thể mới của Microsoft Windows cũng hỗ trợ bảo vệ không gian thực thi, với tên gọi Data Execution Prevention (ngăn chặn thực thi dữ liệu). Các phần mềm gắn kèm (Add-on) bao gồm:
SecureStack
OverflowGuard
BufferShield
StackDefender
Phương pháp bảo vệ không gian thực thi không chống lại được tấn công return-to-libc.
Ngẫu nhiên hóa sơ đồ không gian địa chỉ
Ngẫu nhiên hóa sơ đồ không gian địa chỉ (Address space layout randomization - ASLR) là một tính năng an ninh máy tính có liên quan đến việc sắp xếp vị trí các vùng dữ liệu quan trọng (thường bao gồm nơi chứa mã thực thi và vị trí các thư viện, heap và stack) một cách ngẫu nhiên trong không gian địa chỉ của một tiến trình.
Việc ngẫu nhiên hóa các địa chỉ bộ nhớ ảo mà các hàm và biến nằm tại đó làm cho việc khai thác một lỗi tràn bộ đệm trở nên khó khăn hơn, nhưng không phải là không thể được. Nó còn buộc kẻ tấn công phải điều chỉnh khai thác cho hợp với từng hệ thống cụ thể, điều này làm thất bại cố gắng của các con sâu Internet. Một phương pháp tương tự nhưng kém hiệu quả hơn, đó là kỹ thuật rebase đối với các tiến trình và thư viện trong không gian địa chỉ ảo.
Kiểm tra sâu đối với gói tin
Biện pháp kiểm tra sâu đối với gói tin (deep packet inspection - DPI) có thể phát hiện các cố gắng từ xa để khai thác lỗi tràn bộ đệm ngay từ biên giới mạng. Các kỹ thuật này có khả năng chặn các gói tin có chứa chữ ký của một vụ tấn công đã biết hoặc chứa một chuỗi dài các lệnh No-Operation (NOP - lệnh rỗng không làm gì), các chuỗi như vậy thường được sử dụng khi vị trí của nội dung quan trọng (payload) của tấn công hơi có biến đổi.
Việc rà các gói tin không phải là một phương pháp hiệu quả vì nó chỉ có thể ngăn chặn các tấn công đã biết, và có nhiều cách để mã hóa một lệnh NOP. Các kẻ tấn công có thể đã sử dụng mã alphanumeric, metamorphic, và shellcode tự sửa để tránh bị phát hiện bởi việc rà gói tin.
Thực hiện thao tác khởi động lại
Lịch sử khai thác
Khai thác lỗi tràn bộ đệm được biết đến đầu tiên là vào năm 1988. Đó là một trong các khai thác mà sâu Morris sử dụng để lan truyền chính mình trên Internet. Chương trình đã bị khai thác là một dịch vụ Unix có tên fingerd.
Sau đó, vào năm 1995, Thomas Lopatic đã tái phát hiện hiện tượng tràn bộ đệm một cách độc lập và công bố phát kiến của mình trên danh sách thư an ninh Bugtraq. Một năm sau, 1996, Elias Levy (còn gọi là Aleph One) công bố trên tạp chí Phrack bài báo "Smashing the Stack for Fun and Profit" (Phá bộ nhớ stack cho vui và để thu lợi),, đây là một hướng dẫn từng bước cho việc khai thác các lỗ hổng tràn bộ đệm trên stack.
Từ đó, ít nhất hai con sâu Internet đã khai thác lỗi tràn bộ đệm để xâm phạm hàng loạt hệ thống lớn. Năm 2001, Sâu Code Red khai thác lỗi tràn bộ đệm trong chương trình Internet Information Services (IIS) 5.0 của Microsoft, và vào năm 2003, sâu SQLSlammer đã phá hoại các máy chạy Microsoft SQL Server 2000. |
Phương pháp tối ưu bầy đàn là một trong những thuật toán xây dựng dựa trên khái niệm trí tuệ bầy đàn để tìm kiếm lời giải cho các bài toán tối ưu hóa trên một không gian tìm kiếm nào đó.
Giới thiệu
Phương pháp tối ưu bầy đàn là một dạng của các thuật toán tiến hóa quần thể đã được biết đến trước đây như thuật giải di truyền(Genetic algorithm (GA)), Thuật toán đàn kiến(Ant colony algorithm). Tuy vậy PSO khác với GA ở chỗ nó thiên về sử dụng sự tương tác giữa các cá thể trong một quần thể để khám phá không gian tìm kiếm. PSO là kết quả của sự mô hình hóa việc đàn chim bay đi tìm kiếm thức ăn cho nên nó thường được xếp vào các loại thuật toán có sử dụng trí tuệ bầy đàn. Được giới thiệu vào năm 1995 tại một hội nghị của IEEE bởi James Kennedy và kỹ sư Russell C. Eberhart. Thuật toán có nhiều ứng dụng quan trọng trong tất cả các lĩnh vực mà ở đó đòi hỏi phải giải quyết các bài toán tối ưu hóa.
Để hiểu rõ thuật toán PSO hãy xem một ví dụ đơn giản về quá trình tìm kiếm thức ăn của một đàn chim. Không gian tìm kiếm thức ăn lúc này là toàn bộ không gian ba chiều mà chúng ta đang sinh sống. Tại thời điểm bắt đầu tìm kiếm cả đàn bay theo một hướng nào đó, có thể là rất ngẫu nhiên. Tuy nhiên sau một thời gian tìm kiếm một số cá thể trong đàn bắt đầu tìm ra được nơi có chứa thức ăn. Tùy theo số lượng thức ăn vừa tìm kiếm, mà cá thể gửi tín hiệu đến các các cá thể khác đang tìm kiếm ở vùng lân cận. Tín hiệu này lan truyền trên toàn quần thể. Dựa vào thông tin nhận được mỗi cá thể sẽ điều chỉnh hướng bay và vận tốc theo hướng về nơi có nhiều thức ăn nhất. Cơ chế truyền tin như vậy thường được xem như là một kiểu hình của trí tuệ bầy đàn. Cơ chế này giúp cả đàn chim tìm ra nơi có nhiều thức ăn nhất trên không gian tìm kiếm vô cùng rộng lớn.
Như vậy đàn chim đã dùng trí tuệ, kiến thức và kinh nghiệm của cả đàn để nhanh chóng tìm ra nơi chứa thức ăn. Bây giờ chúng ta tìm hiểu làm cách nào mà một mô hình trong sinh học như vậy có thể áp dụng trong tính toán và sinh ra thuật toán PSO mà ta từng nhắc đến. Việc mô hình hóa này thường được gọi là quá trình phỏng sinh học (bioinspired) mà chúng ta thường thấy trong các ngành khoa học khác. Một thuật toán được xây dựng dựa trên việc mô hình hóa các quá trình trong sinh học được gọi là thuật toán phỏng sinh học (bioinspired algorithms).
Hãy xét bài toán tối ưu của hàm số F trong không gian n chiều. Mỗi vị trí trong không gian là một điểm tọa độ n chiều. Hàm F là Hàm mục tiêu(fitness function) xác định trong không gian n chiều và nhận giá trị thực. Mục đích là tìm ra điểm cực tiểu của hàm F trong miền xác định nào đó. Ta bắt đầu xem xét sự liên hệ giữa bài toán tìm thức ăn với bài toán tìm cực tiểu của hàm theo cách như sau. Giả sử rằng số lượng thức ăn tại một vị trí tỉ lệ nghịch với giá trị của hàm F tại vị trí đó. Có nghĩa là ở một vị trí mà giá trị hàm F càng nhỏ thì số lượng thức ăn càng lớn. Việc tìm vùng chứa thức ăn nhiều nhất tương tự như việc tìm ra vùng chứa điểm cực tiểu của hàm F trên không gian tìm kiếm. |
Trong toán học, một toán tử (tiếng Anh operator, phân biệt với operation - phép toán) là một hàm, thông thường có một vai trò quan trọng trong một lĩnh vực nào đấy. Chẳng hạn trong đại số tuyến tính có "toán tử tuyến tính" (linear operator). Trong giải tích có "toán tử vi phân" (differential operator)... Thông thường, một "toán tử" là một hàm tác động lên các hàm khác; hoặc nó có thể là tổng quát hóa của một hàm, như trong đại số tuyến tính.
Tên toán tử hoặc ký hiệu toán tử là một cách ghi chép hình thức của toán tử ấy. Khi không thể bị lầm lẫn, tên toán tử hoặc ký hiệu toán tử có thể phản ánh thông tin ngắn gọn về toán tử ấy. Tuy nhiên, lưu ý rằng, toán tử là một đối tượng toán học không phụ thuộc vào cách ghi chép nó. Nguyên nhân để một số toán tử gắn liền với ký hiệu của nó là chúng đã gần như các ký hiệu tiêu chuẩn.
Một ví dụ về toán tử là toán tử vi phân. Toán tử tương ứng có ký hiệu là d, khi đặt trước hàm khả vi f, biểu thị rằng hàm này khả vi theo biến đứng sau d.
Một toán tử có thể tác động lên một số toán hạng (operand, input) nhưng thông thường chỉ tác động lên một toán hạng.
Một toán tử cũng có thể gọi là một phép toán (operation), nhưng theo một quan điểm khác. Chẳng hạn ta thường nói "phép toán cộng" (nhưng ít nói "toán tử cộng") khi ta quan tâm đến các hạng tử và kết quả của chúng. Ta nói "toán tử cộng" khi quan tâm đến quá trình cộng hoặc trong một bối cảnh trừu tượng hơn, ta muốn nói về hàm .
Toán tử nếu là hàm một biến được gọi là toán tử một ngôi (unary operator), là hàm hai biến được gọi là toán tử hai ngôi (binary operator), hàm 3 biến là toán tử 3 ngôi(Ternary operator ), hàm nhiều biến hơn được gọi là toán tử đa ngôi (n-ary operator). |
Máy bay có cánh cố định là một loại máy bay có khả năng bay bằng cách sử dụng cánh tạo ra lực nâng được tạo ra bởi sự chuyển dịch về phía trước nhờ động cơ đẩy và hình dạng của cánh máy bay. Máy bay cánh cố định được phân biệt với máy bay có cánh quay, trong đó các cánh tạo thành một cánh quạt gắn trên một trục quay, và cánh vẫy, trong đó cánh vỗ theo cách tương tự như một con chim.
Máy bay cánh cố định lượn, bao gồm cả tàu lượn bay tự do bay các loại và diều có buộc dây, có thể sử dụng không khí để di chuyển lên cao. Máy bay cánh cố định có động cơ nhận được lực đẩy về về phía trước từ một động cơ bao gồm dù lượn có động cơ, tàu lượn có động cơ và một số máy hiệu ứng mặt đất.
Các cánh của một máy bay cánh cố định không nhất thiết phải cứng nhắc; diều, tàu lượn, máy bay máy bay cánh cụp cánh xòe và máy bay sử dụng cánh cong vênh là tất cả các máy bay cánh cố định. Máy bay cánh cố định nhất được lái bởi một phi công trên máy bay, nhưng một số được thiết kế để điều khiển từ xa hoặc máy tính kiểm soát.
Chú thích
Máy bay |
Alexis-Charles-Henri Maurice Clérel de Tocqueville (1805–1859) là đại biểu Quốc hội (1839–1848), Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ trưởng Ngoại giao (1849) của Pháp.
Ông là tác giả của một số khảo luận về hệ thống chính trị của Hoa Kỳ sau này trở thành tác phẩm kinh điển. Tác phẩm Nền dân trị Mỹ là một trong những khảo luận đầu tiên và sâu sắc nhất về lĩnh vực này, phân tích hệ thống lập pháp và hành pháp của Hoa Kỳ cùng ảnh hưởng của những định chế xã hội và chính trị đối với thói quen và cách hành xử của dân chúng. Ông phê phán mạnh mẽ vài khía cạnh của nền dân chủ Hoa Kỳ. Chẳng hạn, ông cho rằng ý kiến quần chúng có xu hướng tạo ra tình trạng chuyên chế, và chế độ cai trị thể theo số đông có thể cũng có tính chất đàn áp như là chế độ của một kẻ chuyên quyền. Ông được cho là nhà thành lập môn chính trị khoa học so sánh.
Sự nghiệp
De Tocqueville là người con thứ ba của Hervé Bonaventure Clérel de Tocqueville và Louise Le Peletier de Rosanbo (cháu ngoại của một người có chức vụ cao trong chính quyền Malesherbes). Hồi còn ấu thơ ông sống ở Verneuil-sur-Seine, nơi cha ông được chọn làm thị trưởng. Từ lúc ông 10 tuổi cha ông đã làm việc tại nhiều vùng như: Angers, Beauvais, Dijon, Metz, Amiens und Versailles, bởi vì vậy ông chủ yếu là sống với mẹ. Người trí thức đỡ đầu cho ông lúc đó là Louis Lesueur.
Năm 1820 ông chuyển về ở với cha tại Metz, nơi ông theo học trường Collège Royale vào năm 1823 và đã lấy bằng về triết học và nghệ thuật hùng biện. Trong thời gian này ông đã tạo ra một đứa con không hôn thú với một người làm việc.
Sau khi Tocqueville đổi về Paris và tốt nghiệp ngành luật tại đó, ông trở thành nhân viên thẩm tra vào năm 1826 tại Versailles. Những năm kế tiếp ông làm bạn với Gustave de Beaumont und Mary Motley (1826), mà ông đã làm lễ cưới hỏi vào năm 1835, tuy nhiên cả hai không có con. Ông học tiếp về lịch sử với giáo sư François Guizot tại đại học Sorbonne ở Paris (1829/30) và lấy bằng tiến sĩ vào năm 1830 tại Versailles.
Năm 1831 chính quyền Pháp ủy nhiệm cho ông nghiên cứu về hệ thống luật lệ và hình phạt bên Mỹ. Tocqueville đã tham quan Mỹ với người bạn ông là Gustave de Beaumont. Về bài viết „Về hệ thống nhà tù Hoa Kỳ" (Du système pénitentiaire aux États-Unis), 2 người đã nhận được giải thưởng của hội Académie française. Từ cuộc thăm viếng Mỹ và những kinh nghiệm đạt được ở đó đã đưa tới bộ sách nổi tiếng „De la démocratie en Amérique" gồm 2 cuốn. Cuốn sách đầu được xuất bản vào ngày 23 tháng 1 năm 1835 với một lượng sách dưới 500 cuốn. Ngay trong tháng 6 họ đã phải xuất bản thêm. Lần xuất bản thứ 8 vào năm 1840 tại Paris cũng như là bản dịch của Henry Reeves tại London bao gồm luôn cả quyển 2 những công cuộc nghiên cứu của ông ta.
Giữa năm 1839 và 1848, Alexis de Tocqueville là đại biểu quốc hội thuộc nhóm đối lập ôn hòa. Ông chống đối chính phủ Guizot, mà theo ông đã biến xã hội Pháp thành một công ty cổ phần khổng lồ vô chính trị. Chỉ hướng tới thịnh vượng, ông ta giải thích, sẽ không làm cho người dân trở thành một công dân tốt. Cùng với những người bạn đồng tư tưởng chính trị ông tranh đấu, theo như truyền thống của những nhà quý tộc cấp tiến với tinh thần cao thượng, tuy nhiên không thành công trong việc đòi xóa bỏ chế độ nô lệ.
Chú thích
Tocqueville, Alexis de
Tocqueville, Alexis de
Tocqueville, Alexis de
Tocqueville, Alexis de
Tocqueville, Alexis de
Nhà triết học Pháp
Mất năm 1859
Triết gia thế kỷ 19
Nhà văn từ Paris |
Robert Toru Kiyosaki (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1947) là một nhà đầu tư, doanh nhân đồng thời là một tác giả người Mỹ. Kiyosaki nổi tiếng bởi cuốn sách Rich Dad, Poor Dad (Cha Giàu, Cha Nghèo). Ông đã viết 18 cuốn sách, bán tổng cộng 26 triệu bản . Ba trong số các cuốn sách của ông là Rich Dad Poor Dad, Rich Dad's CASHFLOW Quadrant và Rich Dad's Guide to Investing đã từng được xếp vào số 10 cuốn sách bán chạy nhất một lúc trên The Wall Street Journal, USA Today và New York Times. Cuốn Rich Kid Smart Kid xuất bản năm 2001, với mục đích giúp cha mẹ dạy con cái quan niệm về tài chính của họ. Ông đã sáng chế ra trò chơi "Cashflow" dành cho người lớn và trẻ em cùng với tập băng "Rich Dad", xuất bản tin tức thường kỳ hàng tháng và tham gia các bài phát biểu trên khắp thế giới, đồng thời viết một chuyên mục hàng tuần trên trang Yahoo Tài chính .
Đời sống riêng
Gia đình
Ông sinh ra và lớn lên ở Hilo, [[Hawaii], là con của Ralph.H.Kiyosaki] và Marjorie O. Kiyosak trong một gia đình thế hệ thứ tư Nhật Bản-Mỹ.Gia đình ông có 3 anh chị em, gồm:
Robert Kiyosaki.
Emi Kiyosaki.
Jon Kiyosaki.
Ngoài ra, Ông còn có thêm một người cha khác (nhưng không phải là cha ruột) mà ông gọi là "Người Cha Giàu", người đã dạy dỗ ông, và cả người con của người cha giàu, giúp ông có thể trưởng thành như ngày nay, và giúp ông biết rõ sự khác biệt giữa giàu và nghèo.
Thời học trò
Kiyosaki là một nguyên học sinh trường trung học Hilo. Ông đã từng bị đuổi học 2 lần vì rớt môn Văn, nhưng vì ba cậu là một công chức và là lãnh đạo bộ giáo dục ở Hawaii nên ông đã được tha. Ông tốt nghiệp Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở New York năm 1969 với tư cách là một sĩ quan hải quân, phục vụ trong lực lượng hải quân như một phi công lái máy bay trực thăng trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Công việc
Kiyosaki rời quân ngũ năm 1974 và làm nghề bán máy photocopy cho tập đoàn Xerox. Tuy nhiên, điều này đã khiến cha ông thất vọng, còn người cha thứ hai của ông thì rất vui mừng. Năm 1977, Kiyosaki bắt đầu điều hành một công ty bán các loại ví khóa dán, từng đạt tới thành công, dù sau đó công ty bị phá sản, nhưng ông đã sử dụng những sai lầm của mình, để trở nên thành công. Năm 1985, Kiyosaki thành lập một doanh nghiệp và công ty đầu tư dạy rất nhiều học viên trên toàn thế giới. Năm 1986, Kiyosaki cưới Kim Meyer(sau này đổi thành Kim Kiyosaki), người đã sát cánh với ông, cả khi ông bị thất nghiệp sau lần thất bại đầu tiên.
Nội dung đào tạo của Robert Kiyosaki
Phần lớn các bài giảng của Kiyosaki tập trung vào vấn đề thu nhập thụ động bằng cách nhận ra cơ hội đầu tư, chẳng hạn như bất động sản và doanh nghiệp nhỏ. Kiyosaki định nghĩa "tài sản" là thứ sinh ra tiền, chẳng hạn một ngôi nhà cho thuê hay một doanh nghiệp, còn "tiêu sản" là thứ gây ra chi phí, chẳng hạn một ngôi nhà mua trả góp, xe hơi và các thứ tương tự như vậy.
Kiyosaki nhấn mạnh vào cái ông gọi là "giáo dục tài chính". Ông nói rằng các kỹ năng trong cuộc sống có thể học được tốt nhất qua kinh nghiệm và đó là các bài học không bao giờ được giảng dạy trong nhà trường. Ông cho rằng cách giáo dục truyền thống chủ yếu chỉ dành cho những ai muốn trở thành người làm thuê hay làm tư nhân, và đó là tư tưởng của "thời đại công nghiệp". Và theo Kiyosaki, để có được sự tự do về tài chính, mọi người cần có doanh nghiệp riêng hoặc trở thành một nhà đầu tư.
Kiyosaki thường nói về cái mà ông gọi là "kim tứ đồ Cashflow". Đó là tên ông đặt cho mô hình, trong đó tiền trên thế giới được kiếm ra (do Kiyosaki sáng chế) được miêu tả như trong hình. Hình vẽ gồm có bốn nhóm, chia ra bởi hai đường thẳng. Ở mỗi nhóm có một chữ đại diện cho cách mà cá nhân kiếm tiền. Các chữ đó là:
E: Người làm thuê (Employee) - làm việc cho người khác.
S: Người làm tư nhân hoặc chủ một doanh nghiệp nhỏ (Self-employed/Small business owner) - nơi một người có công việc riêng và trở thành chủ của chính họ.
B: Chủ doanh nghiệp (Business owner) - nơi một người có một "hệ thống" kiếm tiền, tốt hơn so với một công việc để kiếm tiền.
I: Nhà đầu tư (Investor) - Dùng tiền để nhận một số tiền hoàn lại rất lớn.
Những ai ở bên trái (E và S), theo Kiyosaki thì người đó không bao giờ đạt được sự giàu có thật sự. Ngược lại, những ai ở phía bên phải (B và I), thì đang theo con đường đúng duy nhất để đạt tới sự giàu có thật sự.
Các cuốn sách
Kiyosaki nổi tiếng với cuốn sách Rich Dad, Poor Dad, cuốn sách bán chạy nhất được tạp chí New York Times bình chọn. Hiện nay tác giả có ít nhất mười hai cuốn sách đã được phát hành. Một phần trong số đó được liệt kê dưới đây .
Rich Dad, Poor Dad: Người giàu dạy con cái họ về tiền bạc - người nghèo và tầng lớp trung lưu thì không! (2000)
Cuốn sách do tác giả tự xuất bản trước khi trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất, nội dung chủ yếu tập trung vào câu chuyện so sánh giữa "hai người cha". "Người cha nghèo" của ông là người cha đẻ, giữ chức vụ cao ở phòng giáo dục bang Hawaii. Đối lập với nhân vật đó (người ta cho là hư cấu, xem phần "chỉ trích và tranh luận" trong bài này), "người cha giàu", bố của người bạn tốt nhất, trở thành "người giàu nhất ở Hawaii" nhờ biết cách đầu tư. Vấn đề chính trong sách là nhằm giúp người đọc suy ngẫm lại về tư tưởng của họ về tiền bạc và đặc biệt là quan niệm của họ tự biến mình thành người làm thuê, nhận phần thưởng tài chính nhờ tuân theo sự giáo dục sẵn có. Kiyosaki sử dụng "rich dad, poor dad" để so sánh giữa hai hình ảnh mà đa số mọi người đang mắc kẹt ở một bên, từ đó dẫn tới "vòng chuột" - cuộc sống của người dành hết thời gian làm việc để trả các món thuế, nợ, đó là do mọi người quá phụ thuộc vào yếu tố "an toàn", ngại học hỏi về tài chính để thay đổi bản thân mình.
Cashflow Quadrant: Hướng dẫn của người cha giàu tới sự tự do về tài chính (2000)
Cashflow Quadrant là cuốn sách viết về vấn đề tài chính cá nhân và đầu tư mà tác giả viết cùng với Sharon Lechter, C.P.A, được coi là phần tiếp theo của cuốn Rich Dad, Poor Dad. Trong đó Kiyosaki thảo luận về cái ông ta gọi là "kim tứ đồ Cashflow": một sơ đồ chia ra làm bốn với các chữ E, S, B và I. Kim tứ đồ là công cụ mô tả sự khác nhau giữa người làm công ăn lương (Employee), người làm tư, chủ doanh nghiệp nhỏ (Self employed/Small business owner), chủ doanh nghiệp (Business owner) (không trực tiếp hoạt động với công ty hết ngày này qua ngày khác) và nhà đầu tư (Investor). Kiyosaki đã thảo luận về sự khác nhau giữa tư tưởng giữa các nhóm phần tư đó, đặc biệt liên quan tới thu nhập thụ động và thuế giảm giá. Tác giả muốn mọi người suy nghĩ về tư tưởng của chính mình về tiền bạc.
Hướng dẫn đầu tư của Người Cha Giàu: Những gì người giàu đầu tư vào, còn người nghèo và trung lưu thì không! (2000)
Hướng dẫn đầu tư của Người Cha Giàu mang đến cho người đọc một sơ đồ để trở thành nhà đầu tư cơ bản, một người sử dụng tiền của người khác để tạo sự đầu tư. Trong khi hai cuốn sách đầu tiên như một đòn đánh, thì cuốn sách này đi vào chi tiết hơn vào các chiến lược.
Con giàu, con thông minh (2001)
Con giàu, con thông minh thuật lại những tư tưởng của Kiyosaki, được viết rất cô đọng và súc tích nhằm cố gắng giúp các bậc cha mẹ hiểu và dạy con cái họ tốt hơn về các tư tưởng tài chính. Nó gồm có một loạt các hành động mà một bậc cha mẹ cần làm với con họ để giúp chúng nhận thức được thế nào là tài sản, tài chính và nhiều cách kiếm tiền.
Lời tiên đoán của người cha giàu (2002)
Lời tiên đoán của người cha giàu dự báo rằng thị trường sẽ sụp đổ khi...
Tại sao chúng tôi muốn bạn giàu có, đồng tác giả với Donald Trump (2006)
Tại sao chúng tôi muốn bạn giàu có là một cuốn sách được cả Robert Kiyosaki và Donal Trump cùng viết. Nó động viên mọi người hãy trang bị kiến thức về tài chính .
Các cuốn sách khác:
Nếu bạn muốn giàu có và hạnh phúc mà không phải đến trường? (1992)
Nghỉ hưu sớm, nghỉ hưu giàu có (2001)
Trường học kinh doanh của người cha giàu (2003)
Ai lấy tiền của tôi (2004)
Cha giàu, cha nghèo dành cho tuổi teen (2004)
Trước khi từ bỏ công việc của bạn (2005)
Các trò chơi bổ trợ
Kiyosaki tập trung vào những trò chơi có giá trị, coi đó như là công cụ để học các chiến lược tài chính cơ bản như "bán bốn ngôi nhà xanh để lấy một khách sạn màu đỏ". Kiyosaki đã tạo ra nhiều trò chơi nhằm củng cố thông tin có trong các cuốn sách của ông ta.
Cashflow 101
Cashflow 101 là một trò chơi trên bảng được Kiyosaki thiết kế, nhằm dạy người chơi tư tưởng về đầu tư và kiếm tiền.
Cashflow 101 là một phương tiện giáo dục được chính Kiyosaki phát minh nhằm cung cấp các khái niệm về đầu tư bằng cách bắt đồng tiền làm việc cho mình.
Có hai phần trong trò chơi này: phần thứ nhất là vòng chậm (rat race), Mục tiêu của phần này buộc người chơi phải làm tăng thu nhập thụ động ngang bằng với chi phí. Người chiến thắng phần chơi này sẽ bước vào phần thứ hai: vòng nhanh (fast track), người chơi sẽ đạt được giấc mơ của mình hoặc sẽ tích lũy được số tiền trong dòng lưu kim (cashflow) đến con số 50.000 USD.
Thay vì" bảng điểm", Cashflow 101 cung cấp các bảng tài chính cá nhân. Trò chơi yêu cầu người chơi điền bảng tài chính cá nhân và nhờ đó họ sẽ thấy rõ hơn điều gì đã xảy ra với tiền của họ.
Trò chơi nhằm tạo cho người chơi tự mình có được sức mạnh kiểm soát dòng lưu kim. Người chơi có thể nhìn thấy rõ những gì đang xảy ra với tiền của họ. Nói chung chúng thể hiện thu nhập phát sinh như thế nào và tiêu sản ảnh hưởng gì tới chi phí.
Cashflow 202
Cashflow 202 cao cấp hơn Cashflow 101. No được thiết kế nhằm giúp người chơi học nhiều hơn nữa về các chiến lược đầu tư tinh vi. Cashflow 101 nói chung dạy kỹ thuật đầu tư nhằm đưa giá trị tài sản tăng lên một cách vững vàng, ngược lại Cashflow 202 nhằm giúp dạy về các chiến lược đầu tư trong một thị trường biến động khi mà giá trị tài sản tăng giảm thất thường.
Cashflow dành cho trẻ em
Cashflow dành cho trẻ em là một phiên bản cơ bản của Cashflow 101, dùng cho trẻ em từ 5 tới 9 tuổi. Cũng có một trò Cashflow trên mạng miễn phí dành cho trẻ em .
Phần mềm trò chơi Cashflow®
Phần mềm trò chơi Cashflow® là một phiên bản máy tính của trò chơi Cashflow 101 thông thường. Không nhất thiết phải có bảng chơi để chơi trên máy tính.
Phần mềm trò chơi Cashflow 202
Phần mềm trò chơi Cashflow 202 là phần mở rộng của trò chơi trên máy tính Cashflow®. Đây là bản sao của trò chơi Cashflow 202 thông thường đã mô tả ở trên.
Chỉ trích và tranh luận
Các cuốn sách và bài giảng của Kiyosaki bị chỉ trích là có nhiều bài học vặt vãnh, mà thiếu lời khuyên cụ thể rằng một người cần phải làm gì. Nhiều độc giả cảm thấy công việc của ông ta rất hay và có tính giáo dục cao, nhưng một số lại thấy thiếu sót thông tin. Kiyosaki trả lời rằng ông chỉ muốn có một công cụ nhằm cho độc giả nghĩ lại về vấn đề tiền bạc, chứ không từng bước dẫn dắt họ tới thành công.
Kiyosaki cũng bị chỉ trích vì lặp đi lặp lại quá nhiều lần trong các bài giảng của mình. Một số người cho rằng đó là mẹo "lấp đầy" để tác giả viết được thật nhiều sách hơn nữa. Kiyosaki nói rằng đó là phương pháp đào tạo có chủ định trước mà ông cảm thấy là quan trọng.
Thông thường đọc xong sách của Kiyosaki mọi người có tinh thần kinh doanh làm giàu rất cao nhưng lại không biết làm gì. Đôi khi không đọc kỹ và không hiểu thấu đáo những điều ông nói, chính vì thế nên khi kinh doanh thường gặp thất bại và quay trở lại chỉ trích Kiyosaki. Chính vì thế mà trong sách ông lặp đi lặp lại những vấn đề tưởng rằng rất đơn giản nhưng lại rất quan trọng. Thông thường những người chỉ trích Kiyosaki là những người không chịu tìm hiểu thấu đáo mọi vấn đề và không chịu trả giá như ông đã từng phải trả giá. Những người bạn của Kiyosaki (những người hiện đang là triệu phú hoặc tỷ phú) không có ai chỉ trích ông mà ngược lại rất ủng hộ ông trong công việc này. Điển hình là sự ra đời của cuốn sách "Why we want you to be rich" (Tại sao chúng tôi muốn bạn giàu) mà Kiyosaki cùng Donald Trump và các cộng sự trong Công ty Rich Dad và những người trong đế chế của Trump hợp tác xuất bản. |
là một môn võ thuật Nhật Bản hiện đại được phát triển bởi Ueshiba Morihei như một sự tổng hợp các nghiên cứu võ học, triết học và tín ngưỡng tôn giáo của ông. Aikido thường được dịch là "con đường hợp thông (với) năng lượng cuộc sống" hoặc "con đường của tinh thần hài hòa". Mục tiêu của Ueshiba là tạo ra một nghệ thuật mà các môn sinh có thể sử dụng để tự bảo vệ mình trong khi vẫn bảo vệ người tấn công khỏi bị thương. Các kĩ thuật của Aikido bao gồm: irimi (nhập thân), chuyển động xoay hướng (tenkan - chuyển hướng đà tấn công của đối phương), các loại động tác ném và khóa khớp khác nhau.
Aikido chủ yếu xuất phát từ môn võ Daitō-ryū Aiki-jūjutsu, nhưng bắt đầu tách ra từ nó vào cuối những năm 1920, một phần do sự liên quan của Ueshiba với tôn giáo Ōmoto-kyō. Những tài liệu của những môn sinh ban đầu của Ueshiba ghi lại tên gọi môn võ là aiki-jūjutsu. Các môn sinh cấp cao của Ueshiba có những cách tiếp cận khác nhau với Aikido, phụ thuộc phần nào vào thời gian họ học tập với ông. Ngày nay, Aikido hiện diện trên khắp thế giới trong một số phong cách, với phạm vi giải thích và nhấn mạnh rộng rãi. Tuy nhiên, tất cả các phong cách này đều có chung nguồn gốc từ các kỹ thuật do Ueshiba xây dựng và hầu hết đều quan tâm đến sự an toàn của người tấn công.
Từ nguyên và triết lý
Aikidō được viết bởi ba chữ kanji:
Hợp - ai: hòa hợp
Khí - ki: tinh thần
Đạo - dō: đạo, con đường
Thuật ngữ aiki gần như không xuất hiện trong tiếng Nhật ngoài phạm vi của budō, chính điều này đã dẫn đến nhiều cách giải thích của từ aikidō này.
được sử dụng chủ yếu trong các từ ghép, mang nghĩa 'kết hợp, hợp nhất, nối kết với nhau, gặp nhau', ví dụ như (gōdō - kết hợp/hợp nhất), (gōsei - sự tổng hợp), (ketsugō - hợp nhất/kết hợp/liên kết với nhau), (rengō - liên hiệp/đồng minh/đoàn thể), (tōgō - kết hợp/thống nhất), và (gōi - thoả thuận). Có một nét nghĩa của nó nói về sự tương trợ lẫn nhau, như (shiriau - quen biết ai đó), (hanashiai - nói chuyện/thảo luận/thương lượng), và (machiawaseru - gặp nhau theo kế hoạch).
thường được sử dụng để mô tả một cảm giác, như trong câu (X ki ga suru - 'Tôi cảm thấy X', như với một suy nghĩ nhưng với suy đoán nhận thức ít hơn), và (kimochi - cảm xúc/cảm giác); nó được dùng để chỉ năng lượng hoặc sức mạnh, như trong (denki - điện) và (jiki - từ tính); nó cũng có thể đề cập đến phẩm chất hay khía cạnh của con người hay vật thể, như trong (kishitsu - tinh thần/tính trạng/tính khí).
Thuật ngữ cũng được tìm thấy trong võ thuật như judo và kendo, và trong các loại hình nghệ thuật không phải võ thuật khác, chẳng hạn như nghệ thuật thư pháp Nhật Bản (), nghệ thuật cắm hoa () và nghệ thuật thưởng trà ().
Vì thế, từ một cách diễn giải nghĩa đen thuần túy, aikido là "con đường kết hợp các sức mạnh", trong đó thuật ngữ aiki dùng để chỉ nguyên lý hoặc chiến thuật võ thuật về việc hòa hợp với hành động của người tấn công nhằm mục đích kiểm soát hành động của họ với nỗ lực tối thiểu. Một người áp dụng bằng cách hiểu được nhịp điệu và ý định của kẻ tấn công để tìm vị trí và thời điểm tối ưu để áp dụng một kỹ thuật phản đòn.
Lịch sử
Aikido được sáng lập bởi (, 14 tháng 12 năm 1883 – 26 tháng 4 năm 1969), được các võ sinh coi là (Người thầy vĩ đại). Khái niệm aikido được đặt ra trong thế kỷ XX. Ueshiba hình dung Aikido không chỉ là sự tổng hợp của việc luyện tập võ thuật của ông, mà còn bộc lộ triết lý riêng của Ueshiba về hòa bình và hòa hợp trên thế giới. Trong suốt cuộc đời của Ueshiba và tiếp tục cho đến ngày nay, Aikido đã phát triển từ khái niệm aiki mà Ueshiba nghiên cứu thành những thể hiện cực kì đa dạng của các võ sư khác nhau trên toàn thế giới.
Sự phát triển ban đầu
Ueshiba phát triển Aikido chủ yếu vào cuối những năm 1920 cho tới những năm 1930 qua sự tổng hợp các môn võ thuật lâu đời hơn mà ông đã nghiên cứu. Bộ môn võ thuật chính khởi phát của Aikido là Daitō-ryū aiki-jūjutsu, mà Ueshiba học trực tiếp với Takeda Sōkaku, người sáng lập ra môn võ này. Ngoài ra, Ueshiba cũng đã học Tenjin Shin'yō-ryū với Tozawa Tokusaburō (戸沢 徳三郎, 1848–1912) ở Tokyo vào năm 1901, Gotōha Yagyū Shingan-ryū với Nakai Masakatsu ở Sakai từ 1903 tới 1908, và judo với Takagi Kiyoichi (, 1894–1972) ở Tanabe năm 1911.
Võ thuật Daitō-ryū là nguồn có ảnh hưởng kỹ thuật chính đến Aikido. Cùng với các kĩ thuật ném tay không và khóa khớp, Ueshiba kết hợp với việc luyện tập di chuyển có vũ khí, như là giáo (), gậy ngắn (), và có lẽ là cả . Tuy nhiên, Aikido phát triển phần lớn các cấu trúc đòn đánh từ bộ môn Kiếm thuật ().
Ueshiba chuyển tới Hokkaidō năm 1912, và bắt đầu luyện tập dưới sự giảng dạy của Takeda Sokaku vào năm 1915. Việc học chính thức Daitō-ryū tiếp tục cho đến năm 1937. Tuy nhiên, trong giai đoạn về sau, Ueshiba bắt đầu xa rời Takeda và bộ môn Daitō-ryū. Vào thời điểm đó, Ueshiba bắt đầu đề cập đến võ thuật của mình với tên gọi "Aiki Budō". Không rõ chính xác khi nào Ueshiba bắt đầu sử dụng tên gọi "Aikido", nhưng nó đã trở thành tên chính thức của bộ môn võ thuật vào năm 1942, khi Hiệp hội Đạo đức Võ đường Đại Nhật Bản () tham gia vào một nỗ lực tái tổ chức và tập trung hoá võ thuật Nhật Bản dưới sự tài trợ của chính phủ.
Ảnh hưởng về tôn giáo
Sau khi Ueshiba rời Hokkaidō năm 1919, ông đã diện kiến và chịu ảnh hưởng lớn từ Deguchi Onisaburō, giáo chủ của đạo Ōmoto-kyō (một phong trào tân Thần đạo) ở Ayabe. Một trong những đặc điểm chủ yếu của Ōmoto-kyō là sự nhấn mạnh việc đạt được cõi hoàn hảo trong một đời người. Điều này tạo ảnh hưởng lớn đến triết lý võ thuật của Ueshiba về rộng mở tình yêu thương và sự cảm thông, đặc biệt đối với những ai có ý muốn làm hại người khác. Aikido thể hiện triết lý này trong sự nhấn mạnh việc làm chủ võ thuật để có thể nhận lấy đòn tấn công và chuyển hướng nó đi một cách vô hại. Trong một trường hợp lý tưởng, không chỉ người nhận vô hại, mà cả người tấn công cũng không bị tổn thương.
Ngoài những ảnh hưởng đến sự phát triển đời sống tinh thần của mình, mối quan hệ với Deguchi đã cho phép Ueshiba gia nhập vào các đoàn thể chính trị và quân sự ưu tú với tư cách một võ sư. Nhờ kết quả của sự tiếp xúc này, ông đã thu hút được không chỉ hậu thuẫn về mặt tài chính mà cả những võ sinh có năng khiếu. Một số trong số các võ sinh này sẽ tự tìm thấy phong cách Aikido của riêng mình.
Phổ biến quốc tế
Aikido lần đầu được truyền bá tới phương Tây vào năm 1951 bởi Mochizuki Minoru khi viếng thăm Pháp, nơi ông giới thiệu các kỹ thuật Aikido cho các võ sinh judo. Theo sau ông là Abe Tadashi năm 1952, người trở thành đại diện chính thức của Aikikai Hombu, ở lại Pháp trong bảy năm. Tomiki Kenji đi lưu diễn cùng một đoàn đại biểu các võ sư từ các môn võ khác nhau từ 15 tiểu bang của Hoa Kỳ lục địa năm 1953. Cuối năm đó, Tōhei Kōichi được gửi bởi Aikikai Hombu tới Hawaii trong một năm tròn, nơi ông lập nên một vài dojo. Chuyến đi này đã được tiếp nối bởi một số chuyến thăm khác và được coi là sự giới thiệu chính thức của Aikido đến Hoa Kỳ. Việc truyền bá tiếp tục với Vương quốc Anh vào năm 1955; Italy vào năm 1964 bởi Tada Hiroshi; và Đức vào năm 1965 bởi Katsuaki Asai. Người được chỉ định là "Đại diện chính thức của Châu Âu và Châu Phi" bởi Ueshiba Morihei, Noro Masamichi đã đến Pháp vào tháng 9 năm 1961. Sugano Seiichi được bổ nhiệm để giới thiệu Aikido tới Úc vào năm 1965. Ngày nay, có rất nhiều dojo về Aikido trên toàn thế giới.
Sự hình thành các hệ phái
Tổ chức Aikido lớn nhất là Quỹ Aikikai, nơi vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của gia đình Ueshiba. Tuy nhiên, Aikido có nhiều hệ phái, chủ yếu là do các môn sinh chính của Ueshiba Morihei thành lập.
Các hệ phái độc lập xuất hiện sớm nhất là Yoseikan Aikido, khởi xướng bởi Mochizuki Minoru năm 1931, Yoshinkan Aikido, thành lập bởi Shioda Gōzō năm 1955, và Shodokan Aikido, thành lập bởi Tomiki Kenji năm 1967. Sự xuất hiện của những phong cách này diễn ra trước khi Ueshiba qua đời, và đã không gây ra bất kỳ biến động lớn nào khi chúng được chính thức hóa. Shodokan Aikido, tuy nhiên, đã gây tranh cãi, vì nó đã giới thiệu một hệ thống thi đấu độc đáo dựa trên các điều luật mà một số người cảm thấy trái với tinh thần của Aikido.
Sau sự qua đời của Ueshiba vào năm 1969, hai phong cách chính khác đã xuất hiện. Sự tranh cãi quan trọng đã nảy sinh với sự ra đi của huấn luyện viên trưởng Aikikai Hombu Dojo là Tōhei Kōichi, vào năm 1974. Tohei rời đi do sự bất đồng ý kiến với con trai của người sáng lập, Ueshiba Kisshomaru, người lúc đó đứng đầu tổ chức Aikikai. Sự bất đồng ý kiến chủ yếu nằm ở vai trò đặc biệt của việc phát triển ki trong việc huấn luyện Aikido thông thường. Sau khi Tohei rời đi, ông đã tạo ra phong cách riêng của mình, gọi là Shin Shin Toitsu Aikido, và tổ chức điều hành nó, Ki Society (Ki no Kenkyūkai).
Một hệ phái chính cuối cùng phát triển từ quãng thời gian nghỉ hưu của Ueshiba tại Iwama, Ibaraki và phương pháp giảng dạy của môn sinh lâu năm Saitō Morihiro. Nó được gọi một cách không chính thức là "hệ phái Iwama", và tại một thời điểm, một số người theo luyện tập đã thành lập một mạng lưới lỏng lẻo của các môn phái mà họ gọi là Iwama Ryu. Mặc dù các võ sinh theo phong cách Iwama vẫn là một phần của Aikikai cho đến khi Saito qua đời vào năm 2002, những người theo Saito sau đó phân chia thành hai nhóm. Một nhóm ở lại với Aikikai, và nhóm còn lại thành lập tổ chức độc lập Shinshin Aikishuren Kai vào năm 2004 xung quanh con trai Saito là Saitō Hitohiro.
Ngày nay, mỗi hệ phái chính của Aikido đều được điều hành bởi một tổ chức quản lý riêng biệt, có các của mình tại Nhật Bản, và có tầm cỡ quốc tế.
Ki
Nghiên cứu về ki là một phần quan trọng của Aikido, và việc nghiên cứu về ki không coi trọng việc được phân loại đào tạo về "thể chất" hay "tinh thần", vì nó bao gồm cả hai lĩnh vực này. Mẫu tự kanji cho ki thường được viết là . Nó từng được viết là cho tới cuộc cải cách chữ viết sau Thế chiến II, và hình thức cũ này vẫn được thấy trong các dịp đặc biệt.
Kí tự cho ki được sử dụng trong các thuật ngữ hàng ngày trong tiếng Nhật, chẳng hạn như , hoặc . Ki có nhiều ý nghĩa, bao gồm "khí thế" (ambience), "suy nghĩ" (mind), "tâm trạng" (mood), và "chủ ý" (intention), tuy nhiên trong võ thuật truyền thống, nó thường được sử dụng để chỉ "năng lượng sống". Yoshinkan Aikido của Shioda Gōzō được coi là một trong những "hệ phái bảo thủ", phần lớn theo các giáo lý của Ueshiba từ trước Thế chiến thứ hai, và phỏng đoán rằng bí mật của ki nằm trong thời gian và việc áp dụng sức mạnh của toàn bộ cơ thể đến một điểm duy nhất. Trong những năm sau đó, việc sử dụng ki trong Aikido của Ueshiba đã mang lại cảm giác nhẹ nhàng hơn. Đó là khái niệm Takemusu Aiki của ông, và nhiều môn sinh sau này đã dạy về ki từ quan điểm này. Ki Society của Tōhei Kōichi tập trung hầu hết vào nghiên cứu về kinh nghiệm thực nghiệm (mặc dù là chủ quan) về ki với các môn sinh được xếp hạng riêng về kỹ thuật Aikido và phát triển về ki.
Tập luyện
Trong Aikido, cũng như trong tất cả các môn võ thuật Nhật Bản khác, có cả các khía cạnh đào tạo về mặt thể chất và tinh thần. Việc luyện tập thể chất trong Aikido rất phong phú, bao gồm cả luyện tập thể chất và trau dồi kinh nghiệm nói chung, cũng như các kĩ thuật đặc biệt. Bởi vì một phần quan trọng trong việc luyện tập Aikido luôn bao gồm đòn ném đối thủ, nên điều đầu tiên môn sinh cần học là làm thế nào để ngã hoặc lăn an toàn. Các kĩ thuật đánh đặc biệt bao gồm đánh và nắm; các kĩ thuật phòng thủ bao gồm ném và khóa. Sau khi học xong các kĩ thuật cơ bản, môn sinh bắt đầu tập phòng thủ tự do chống lại nhiều đối thủ, và trong nhiều trường hợp là các kĩ thuật với vũ khí.
Thể chất
Mục tiêu luyện tập thể chất trong Aikido là điều hòa thư giãn, linh hoạt, sự bền bỉ, cũng như điều chỉnh vận động đúng của các khớp xương như hông, vai, chứ không chú trọng đến việc tập luyện sức mạnh. Trong các kĩ thuật Aikido, các chuyển động đẩy hoặc di chuyển mở rộng thông dụng hơn nhiều so với chuyển động kéo hoặc di chuyển thu lại như trong các môn võ khác, và sự khác biệt này có thể áp dụng cho các mục đích luyện tập thể chất nói chung của các môn sinh Aikido.
Trong Aikido, các cơ hoặc nhóm cơ cụ thể không bị tách ra và hoạt động để cải thiện độ cứng, khối lượng hoặc sức mạnh. Các hoạt động luyện tập liên quan đến Aikido chú trọng đến việc phối hợp chuyển động và cân bằng toàn thân, gần giống với yoga hay uốn dẻo. Ví dụ, rất nhiều dojo bắt đầu lớp học bằng , có thể là kéo giãn cơ hoặc ukemi (ngã để nghỉ).
Vai trò của uke và nage
Việc luyện tập Aikido phần lớn dựa trên việc hai đối tác thực hành các động tác mẫu (kata) được sắp xếp trước, chứ không phải là luyện tập tự do. Một kiểu cơ bản là để người nhận kỹ thuật (uke - nghĩa đen là "người chấp nhận và ngã", còn gọi là aite - nghĩa đen là "người cho mượn tay") bắt đầu một cuộc tấn công chống lại người áp dụng kỹ thuật—tori (), shi () hoặc shite () (tùy theo phong cách Aikido), còn được gọi là nage () (khi áp dụng một kỹ thuật ném), người vô hiệu hóa đòn tấn công này bằng một kĩ thuật aikido.
Cả hai nửa của kĩ thuật đó, của uke và của nage, được coi là căn bản và cần thiết trong việc luyện tập Aikido. Cả hai phải luyện tập các nguyên tắc Aikido về hòa hợp và thích ứng. Tori học cách hòa hợp và kiểm soát năng lượng tấn công, trong khi uke học cách trở nên bình tĩnh và linh hoạt trong thế bất lợi, các vị trí mất thăng bằng mà tori gây ra. Sự "nhận lấy" đòn đánh được gọi là ukemi. Uke liên tục tìm cách lấy lại thăng bằng và che đi phần sơ hở (ví dụ như hở sườn), trong khi tori sử dụng vị trí và thời điểm để làm uke mất thăng bằng và có thể bị tổn thương. Trong các bài tập cao hơn, uke thỉnh thoảng sử dụng các kĩ thuật ngược (kaeshi-waza) để lấy lại thăng bằng và khóa hoặc ném tori.
đề cập đến hành động tiếp nhận kỹ thuật. Ukemi tốt liên quan đến sự chú ý đến kỹ thuật, đối tác và môi trường ngay trước mặt—đó là một sự tiếp nhận chủ động, chứ không phải là thụ động trong Aikido. Bản thân việc ngã là một phần của Aikido, và là một cách để môn sinh tiếp nhận, một cách an toàn, điều nếu diễn ra theo hướng ngược lại sẽ là một đòn tấn công hoặc đòn ném gây hại đến bản thân.
Tấn công ban đầu
Các kỹ thuật Aikido thường là một biện pháp để chống lại một cuộc tấn công, do đó môn sinh phải học cách đưa ra nhiều kiểu tấn công khác nhau để có thể thực hành Aikido với một đối tác. Mặc dù các đòn tấn công không được nghiên cứu kỹ lưỡng như trong các môn võ dựa trên các đòn đánh, nhưng cần phải có những cuộc tấn công giống thật (một cú đánh mạnh hoặc một đòn nắm chắc) để nghiên cứu việc áp dụng kỹ thuật một cách đúng đắn và hiệu quả.
Rất nhiều của Aikido thường được xem là tương tự đòn chém của kiếm hoặc một vật cầm nắm được khác, có thể thấy nguồn gốc các kĩ thuật là từ việc chiến đấu có vũ trang. Các kĩ thuật khác có hình thức rõ ràng giống một cú đấm (tsuki), cũng được luyện tập giống như việc xô mạnh vào với kiếm hoặc dao. Các đòn đá thường là dành cho các biến tướng ở trình độ cao; lý do vì việc ngã sau một đòn đá là đặc biệt nguy hiểm, và đòn đá (đặc biệt là cú đá cao) không thông dụng trong các trận chiến thời phong kiến Nhật Bản. Một số đòn tấn công cơ bản bao gồm:
, một đòn chém dọc bằng cạnh bàn tay vào đầu. Trong quá trình tập luyện, nó thường hướng vào trán hoặc đỉnh đầu để an toàn, nhưng các phiên bản nguy hiểm hơn của cuộc tấn công này nhắm vào sống mũi và xoang hàm trên.
, một đòn chém chéo vào cạnh đầu hoặc cổ.
, một cú đấm vào thân trên. Các mục tiêu đặc biệt bao gồm ngực, bụng, và bụng dưới (mạng lưới dây thần kinh nằm ở bụng dưới, gần dạ dày). Cũng giống như , và .
, một cú đấm vào mặt. Cũng như .
Người mới luyện tập thường tập các kĩ thuật từ các đòn nắm, bởi nó an toàn hơn và giúp người tập dễ dàng cảm nhận dòng năng lượng và hướng của lực nắm hơn là một đòn đánh. Trong lịch sử, một số tư thế nắm được phát triển từ việc bị giữ trong khi cố gắng cướp vũ khí; một kỹ thuật sau đó được sử dụng để thoát ra và làm bất động hoặc tấn công người nắm. Một số ví dụ về các đòn nắm cơ bản:
, một tay nắm một cổ tay.
, hai tay nắm một cổ tay. Cũng giống như
, hai tay nắm hai cổ tay. Cũng giống như .
, tư thế nắm vai. "Nắm hai vai" là . Đôi khi nó kết hợp với một đòn từ trên đỉnh đầu là .
, nắm phần ngực (áo). Cũng giống như .
Các kỹ thuật căn bản
Sau đây là một mẫu các đòn ném và khóa cơ bản được luyện tập nhiều. Nhiều trong số những kỹ thuật này bắt nguồn từ Daitō-ryū Aiki-jūjutsu, nhưng một số kỹ thuật khác đã được phát minh bởi Ueshiba Morihei. Thuật ngữ có thể thay đổi tùy vào các tổ chức và loại Aikido, vì vậy những tên gọi sau đây là các thuật ngữ được sử dụng bởi Tổ chức Aikikai. Chú ý rằng, mặc dù tên của năm đòn đầu tiên được liệt kê ra, chúng không phải lúc nào cũng được dạy theo trình tự như vậy.
, một đòn kiểm soát, đặt một tay lên củi trỏ và một tay gần cổ tay để đẩy uke xuống đất. Tư thế nắm này cũng gây ra áp lực lên dây thần kinh xương trụ ở cổ tay.
, một đòn khóa úp cổ tay làm vặn tay và gây áp lực đau đớn lên dây thần kinh. (Có một đòn [[Khóa cổ tay#Khóa khép cổ tay|khóa khép cổ tay]] hoặc khoá chữ chi (Z-lock) trong phiên bản ura.)
, một đòn vặn hướng xoắn lên điều khiển sức căng của toàn bộ cánh tay, khuỷu tay và vai.
, kiểm soát vai tương tự ikkyō, nhưng với cả hai tay giữ cẳng tay. Các khớp nối (từ phía lòng bàn tay) được áp vào dây thần kinh quay của người nhận chống lại màng xương của xương cẳng tay.
, một biến thể của ikkyō, trong đó tay nắm cổ tay ngược, chuyển động xoay trong của bàn tay và vai, và áp lực từ trên xuống khuỷu tay. Thông dụng trong tantō và các đòn tước vũ khí khác.
, bàn tay bị gập lại ra sau vai, khóa khớp vai.
, một đòn ném-khóa lật ngửa cổ tay kéo giãn cơ duỗi các ngón tay (extensor digitorum).
, một thuật ngữ được sử dụng chung cho các loại kỹ thuật không liên quan đến cơ học, mặc dù chúng thường không sử dụng khóa khớp như các kỹ thuật khác.
, đòn ném mà trong đó nage di chuyển vào nơi uke đứng. Hình thức cổ điển có bề ngoài giống với "dây phơi quần áo"
, bắt đầu bằng ryōte-dori; tiến lên phía trước, nage luồn một tay xuống thấp ("địa") và một tay đưa lên cao ("thiên"), làm uke mất thăng bằng để khiến đối thủ dễ dàng bị ngã.
, phiên bản Aikido của đòn ném hông (koshi-waza) trong judo. Nage hạ thấp hông hơn uke, sau đó bẩy uke lên trên điểm tựa hợp lực.
hoặc , một đòn ném mà khóa tay lại với nhau (kanji cho "số mười (10)" là một hình chữ thập (十)).
, nage hất mạnh cánh tay ra sau cho tới khi khóa được khớp vai, sau đó sử dụng áp lực lên phía trước để ném.
Thực hiện
Aikido là một bộ môn võ thuật nghiêng về phòng thủ. Nó dùng thân pháp (tai sabaki) để hoà hợp với uke. Ví dụ, một đòn bao gồm việc di chuyển tiến vào phía trong của uke, trong khi một đòn sử dụng chuyển động quay quanh chân trụ.
Ngoài ra, một đòn được thực hiện ở phía trước uke, trong khi một đòn được thực hiện ở bên cạnh uke; một đòn được thực hiện cùng với sự di chuyển vào phía trước uke, và một phiên bản được thực hiện cùng với sự di chuyển vào phía sau uke, thường là bằng sự kết hợp chuyển động xoay hoặc quay quanh chân trụ. Cuối cùng, phần lớn các đòn có thể được thực hiện ở tư thế ngồi (seiza). Các kỹ thuật mà cả uke và tori đang đứng đều được gọi là tachi-waza, kỹ thuật mà cả hai bắt đầu ở tư thế ngồi seiza gọi là suwari-waza, và các kỹ thuật được thực hiện với uke đứng và tori ngồi được gọi là hanmi handachi ().Do đó, chỉ từ ít hơn hai chục kỹ thuật cơ bản, có đến hàng nghìn cách thực hiện khác nhau. Ví dụ, ikkyō có thể được thực hiện đối với đối thủ đang tiến lên phía trước với một cú đánh (có thể với loại di chuyển ura để chuyển hướng lực tới), hoặc với một đối thủ vừa thực hiện đòn đánh và đang quay lại để thiết lập khoảng cách (có thể là một phiên bản omote-waza). Các động tác Aikido kata cụ thể thường được gọi tên theo công thức "sự tấn công—kỹ thuật (—đòn hoá giải)". Ví dụ, katate-dori ikkyō đề cập đến bất kỳ kỹ thuật ikkyō nào được thực hiện khi uke đang nắm một cổ tay. Kỹ thuật này có thể được xác định cụ thể hơn như katate-dori ikkyō omote, đề cập đến bất kỳ kỹ thuật ikkyō nào di chuyển về phía trước từ đòn nắm đó.
Atemi () là các miếng đánh (hoặc động tác nhử) được sử dụng trong các đòn Aikido. Một số người coi atemi là các đòn đánh vào các huyệt đạo, có nghĩa là gây ra tổn thương bên trong họ và cho bản thân họ. Ví dụ, Shioda Gōzō đã mô tả việc sử dụng atemi trong một cuộc ẩu đả để nhanh chóng hạ gục một đại ca băng nhóm đường phố. Một số khác coi atemi, đặc biệt là vào mặt, là các phương pháp làm mất tập trung đối phương để thực hiện các đòn khác. Một đòn đánh, cho dù có đỡ được hay không, có thể làm uke giật mình và mất tập trung. Đối phương còn có thể bị mất thăng bằng khi né đòn, ví dụ khi uke giật đầu về phía sau, thì sẽ rất thuận lợi cho việc ném uke đi.
Nhiều câu nói về atemi được cho là từ Ueshiba Morihei, người coi chúng là một yếu tố thiết yếu của kỹ thuật.
Vũ khí
Luyện tập vũ khí trong Aikido theo truyền thống bao gồm gậy ngắn (jō), kiếm gỗ (bokken), và dao (tantō). Ngày nay, một vài trường phái cũng đã kết hợp các kĩ thuật cướp súng cầm tay. Cả động tác cướp vũ khí và kiểm soát vũ khí đều được dạy, để hoàn chỉnh khía cạnh vũ trang và phi vũ trang, mặc dù một số trường phái Aikido không hề luyện tập với vũ khí. Những trường phái khác, như hệ phái Iwama của Saitō Morihiro, thường luyện tập phần lớn thời gian với bokken và jō, dùng các tên aiki-ken, và aiki-jō, tương ứng.
Người sáng lập đã phát triển phần lớn các kỹ thuật Aikido tay không từ các cách di chuyển truyền thống khi sử dụng kiếm và gậy, vì vậy việc luyện tập các bước di chuyển này thường dành cho mục đích cảm nhận về nguồn gốc của kỹ thuật và bước di chuyển, và củng cố các khái niệm về khoảng cách, thời gian, di chuyển bàn chân, sự có mặt và liên kết với (những) đối tác luyện tập của mỗi người.
Tấn công nhiều người và randori
Một đặc trưng của Aikido là việc luyện tập để bảo vệ mình chống lại nhiều kẻ tấn công cùng lúc, thường gọi là taninzudori, hoặc taninzugake. Tự do thực hành với nhiều người tấn công, gọi là randori () hoặc jiyūwaza (), là một phần quan trọng của hầu hết các chương trình giảng dạy và được yêu cầu luyện tập cho cấp bậc cao hơn. Randori rèn luyện khả năng của con người để thực hiện theo trực giác các kỹ thuật trong một môi trường phi cấu trúc (không có cấu trúc chính thức). Sự lựa chọn có tính chiến lược về kỹ thuật, dựa trên cách họ định vị lại môn sinh so với những kẻ tấn công khác, là rất quan trọng trong việc đào tạo randori. Chẳng hạn, một kỹ thuật ura có thể được sử dụng để vô hiệu hoá kẻ tấn công hiện tại trong khi xoay sang đối mặt với kẻ tấn công đang tiếp cận từ phía sau.
Trong Shodokan Aikido, randori tỏ ra khác biệt với việc không được thực hiện với nhiều người với vai trò xác định của người bảo vệ và kẻ tấn công, mà giữa hai người, khi cả hai người tham gia tấn công, bảo vệ và phản công theo ý muốn. Về mặt này, nó giống với randori của judo.
Chấn thương
Trong việc áp dụng một kỹ thuật trong quá trình huấn luyện, trách nhiệm của tori là tránh làm bị thương uke bằng cách sử dụng tốc độ và lực đánh phù hợp với trình độ của đối phương trong ukemi. Thương tích (đặc biệt đối với khớp), khi xảy ra trong Aikido, thường là kết quả do việc tori đánh giá sai khả năng của uke khi nhận đòn ném hoặc khóa.
Một nghiên cứu về chấn thương trong võ thuật cho thấy các loại hình chấn thương tỏ ra khác nhau đáng kể giữa các loại hình võ thuật.
Các tổn thương mô mềm là một trong những loại thương tích phổ biến nhất được tìm thấy trong Aikido, cũng như bong gân khớp, hay ngón tay và ngón chân bị vấp. Một số tử vong từ chấn thương đầu cổ, gây ra bởi động tác shihōnage nhằm gây hấn trong một bối cảnh bắt nạt senpai/kōhai, đã được ghi chép lại.
Luyện tập về tinh thần
Việc luyện tập Aikido bao gồm cả về tinh thần cũng như thể chất, nhấn mạnh khả năng thư giãn tâm trí và thể xác ngay cả dưới áp lực của tình huống nguy hiểm. Điều này là cần thiết, nhằm giúp người luyện tập có thể thực hiện các động tác tiến vào và hoà trộn một cách dũng cảm, điều tạo nền tảng cho các kỹ thuật Aikido, trong đó một cuộc tấn công được tiếp nhận với sự tự tin và trực diện. Ueshiba Morihei đã từng nhận xét rằng một người "phải sẵn sàng nhận về 99% đòn tấn công và ánh nhìn sát khi của đối phương" để thực hiện các kỹ thuật mà không do dự. Là một môn võ liên quan không chỉ với khả năng chiến đấu mà còn với sự cải thiện cuộc sống hàng ngày, khía cạnh tinh thần này là điều quan trọng nhất đối với các môn sinh Aikido.
Đồng phục và xếp hạng
Các môn sinh Aikido (thường được gọi là Aikidōka ở bên ngoài Nhật Bản) thường đạt được tiến bộ thông qua một loạt các "cấp" (kyū), tiếp theo là một loạt các "trình độ" (dan), theo thủ tục kiểm tra chính thức. Một số tổ chức Aikido sử dụng dây đai để phân biệt cấp của các môn sinh, thường đơn giản là đai trắng và đai đen để phân biệt các cấp kyu và dan, mặc dù một số tổ chức sử dụng nhiều màu đai. Các yêu cầu của việc kiểm tra mỗi cấp có sự khác nhau, do đó, một cấp bậc cụ thể trong một tổ chức không thể so sánh hoặc có thể hoán đổi cho nhau bằng cấp bậc khác. Một số dojo không cho phép môn sinh tham gia kiểm tra để có được thứ hạng dan, trừ khi họ đủ 16 tuổi trở lên.
Đồng phục để luyện tập Aikido (Aikidōgi) tương tự như bộ đồng phục luyện tập (keikogi) sử dụng trong hầu hết các loại võ thuật hiện đại khác; gồm quần đơn giản và áo khoác ngoài bao quanh, thường là màu trắng. Cả hai loại áo khoác dày ("phong cách judo"), và mỏng ("phong cách karate") đều được sử dụng. Những loại áo khoác cụ thể có sẵn với tay áo ngắn hơn chạm đến dưới vùng khuỷu tay.
Hầu hết các hệ thống Aikido đều thêm một chiếc quần ống rộng có nếp gấp màu đen hoặc chàm gọi là hakama (cũng được sử dụng trong Kendo và Iaido). Trong nhiều trường phái, việc sử dụng nó được dành riêng cho các môn sinh có thứ hạng (dan) hoặc giảng viên, trong khi những trường phái khác cho phép tất cả các môn sinh mặc hakama bất kể xếp hạng.
Chỉ trích
Sự chỉ trích thường thấy nhất ở Aikido là ở việc thiếu tính thực tế trong đào tạo. Các cuộc tấn công được khởi xướng bởi uke (và tori phải phòng vệ) đã bị chỉ trích là "yếu đuối", "uỷ mị", và "hơi giống bức biếm hoạ về một đòn tấn công nhiều hơn".
Những đòn tấn công yếu từ uke cho phép phản ứng có điều kiện từ tori, và dẫn đến việc chậm phát triển về các kỹ năng cần thiết cho việc thực hành an toàn và hiệu quả của cả hai đối tác. Để khắc phục vấn đề này, một số phong cách cho phép môn sinh dần ít nương theo bạn tập theo thời gian, nhưng vẫn tuân theo triết lý cốt lõi, điều này được tiến hành sau khi đã chứng minh được trình độ có thể tự bảo vệ mình và đối tác luyện tập của mình. Shodokan Aikido giải quyết vấn đề bằng cách luyện tập ở dạng có tính cạnh tranh thi đấu. Những sự thích ứng như vậy gây tranh cãi giữa các phong cách, với một số cho rằng không cần phải điều chỉnh phương pháp của họ bởi vì những lời phê bình không hợp lý, hoặc họ không được đào tạo để đạt hiệu quả trong tự vệ hoặc chiến đấu, mà là về tinh thần, thể lực hoặc các lý do khác.
Một sự chỉ trích khác liên quan đến thay đổi trong sự chú trọng đào tạo sau khi kết thúc quá trình ở ẩn của Ueshiba ở Iwama từ 1942 tới giữa thập niên 1950, khi ông nhấn mạnh đến khía cạnh tinh thần và triết học của Aikido. Như một kết quả, các đòn đánh vào huyệt đạo bởi tori, nhập thân (irimi) và sự khởi đầu các kỹ thuật bởi tori, sự khác biệt giữa các kỹ thuật omote (phía trước) và ura (phía sau), và việc sử dụng vũ khí, đều bị giảm nhấn mạnh hoặc loại bỏ khỏi tập luyện. Nhiều người luyện tập Aikido cảm thấy việc thiếu sót trong việc đào tạo các lĩnh vực này dẫn đến mất hiệu quả tổng thể.
Trái lại, một số hệ phái Aikido chịu sự chỉ trích vì không chú trọng vào việc luyện tập tâm linh được nhấn mạnh bởi Ueshiba. Theo Shibata Minoru của Aikido Journal, "Aikido của O-Sensei không phải là sự tiếp nối và mở rộng của tuổi già và có sự gián đoạn khác biệt với các khái niệm triết học và võ thuật trong quá khứ." Nghĩa là, các môn sinh Aikido chú trọng vào gốc rễ Aikido từ Jujutsu hoặc Kenjutsu truyền thống đang tách rời từ những gì mà Ueshiba truyền dạy. Những người chỉ trích như vậy thúc giục các môn sinh chấp nhận khẳng định rằng "Sự siêu nghiệm [của Ueshiba] đối với tinh thần và thực tế phổ quát là những nguyên tắc cơ bản của mô hình mà ông đã chứng minh." |
Nguyễn Văn Lém (1931-1968), còn gọi là Bảy Lốp, là một sĩ quan tình báo của quân Giải phóng miền Nam tham gia cuộc Tổng tiến công Mậu Thân tại Sài Gòn. Theo một số nguồn tin thì ông là người bị bắt và bị bắn chết bởi Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan trong Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 gần khu vực Chùa Ấn Quang, Chợ Lớn, góc đường Sư Vạn Hạnh và Ngô Gia Tự trong bức ảnh nổi tiếng Saigon Execution của nhiếp ảnh gia Eddie Adams. Nhưng cũng có nguồn tin khác cho rằng người bị bắn không phải là ông mà là ông Lê Công Nà, cho đến nay danh tính người bị bắn vẫn là điều bí ẩn của lịch sử.
Tiểu sử
Nguyễn Văn Lém quê ở xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh. Năm 1947 ông tham gia lực lượng Việt Minh hoạt động vùng ven Sài Gòn, đến năm 1953 bị bắt sau đó vượt ngục. Năm 1954 tập kết, học về tình báo và vào miền Nam Việt Nam hoạt động.
Ngày mồng Một Tết Mậu Thân có một mũi tấn công của quân Giải phóng miền Nam vào Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa do Bảy Lốp chỉ huy, chỉ huy phó là Hai Ly. Sau đó Bảy Lốp bị bắt và bị đưa đến Bộ Tư lệnh Cảnh sát dã chiến Việt Nam Cộng hòa, nhưng không rõ Bảy Lốp bị đưa đi đâu. Ngay thời gian sau đó, báo chí phương Tây và cả Việt Nam đăng bức hình một người đàn ông mặc áo carô bị bắn. Một số người cho đó chính là Bảy Lốp.
Saigon Execution
Ngày 1 tháng 2 năm 1968, trong lúc chiến sự đang diễn ra ác liệt trên toàn thành phố Sài Gòn Tết Mậu Thân thì cảnh sát Việt Nam Cộng hòa lùng sục bắt được một người mà họ tình nghi là đặc công cộng sản. Họ đem nộp người này cho Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan. Tướng Loan đã bắn thẳng vào đầu làm người bị bắt chết ngay tại chỗ vì anh ta đã đặt bom kích nổ làm cho một tiểu đội gồm 10 người bị tử vong.
Theo thời gian, đã có nhiều giả thuyết với các nguồn tin khác nhau về việc ai là người bị bắn, ngay sau khi bức ảnh được báo chí công bố đã gây chấn động thế giới.
Tìm kiếm
Khoảng năm 1985, từ khi có bài báo của phóng viên hãng Novosty đặt câu hỏi về tình hình gia đình Bảy Lốp, đại tá Nguyễn Phương Nam nguyên cán bộ Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh, người có nhiều quan hệ với đặc công, tìm hiểu thông tin và biết được rằng: ngày mồng Một Tết Mậu Thân có một mũi tấn công của quân Giải phóng miền Nam vào Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa và người chỉ huy là Bảy Lốp, chỉ huy phó là Hai Ly, theo đó Bảy Lốp bị bắt và bị đưa đến Bộ Tư lệnh Cảnh sát dã chiến Việt Nam Cộng hòa, nhưng không rõ Bảy Lốp bị đưa đi đâu, kết hợp với tin của phóng viên người Nhật lúc đó thì có người bị cảnh sát dã chiến đưa đến đường 20 cũ tức đường Lý Thái Tổ hiện nay và bị bắn. Nguyễn Phương Nam phóng to bức ảnh và cho rằng cách chỗ bị bắn có một hiệu giày khoảng 100 m. Từ đó ông đi tìm gia đình Bảy Lốp.
Vào năm 1985 đoàn của Đảng Cộng sản Nhật Bản đã sang thăm và tìm hiểu. Nhờ bức ảnh của đoàn Nhật mà vợ liệt sĩ đại úy Nguyễn Văn Lém mới biết là chồng đã bị Nguyễn Ngọc Loan bắn năm 1968 do Nguyễn Văn Lém rất giống người trong ảnh. Và từ đó người dân Việt Nam mới bắt đầu có được thông tin về người bị bắn trong ảnh.
Khẳng định rằng người bị bắn là Nguyễn Văn Lém được hỗ trợ bởi các thông tin sau:
Xác nhận từ đồng đội: Đại tá Nam Hà Bộ tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận là người trong ảnh giống Nguyễn Văn Lém.
Xác nhận từ vợ là bà Nguyễn Thị Lốp: xác nhận người trong ảnh bị bắn có áo carô bị đứt nút mới khâu, hai lỗ tai và trán giống Nguyễn Văn Lém, nhưng mặt bị bầm giập nhìn không ra và không chắc là giống Nguyễn Văn Lém.
Trùng hợp thời gian: Mất sáng mồng một Tết, trùng với nguồn tin của BBC về người bị bắn.
Đời tư
Ông có vợ là Nguyễn Thị Lốp và 3 người con, hai gái một trai.
Năm 1954 vợ ông sinh con gái đầu lòng (vào thời điểm năm 1998 cô sống ở Long Khánh). Năm 1962 Nguyễn Văn Lém vào miền Nam Việt Nam, sau đó sống với vợ ở Củ Chi. Năm 1966 vợ Lém có bầu con thứ hai, Lém dự định đặt tên con dù trai hay gái cũng đặt tên Nguyễn Ngọc Loan (cô Nguyễn Ngọc Loan đã có gia đình, vào thời điểm năm 1998 sống ở Tân Bình, làm nghề bán tạp hóa).
Cuối năm 1967, khi vợ Lém có thai người con trai út Nguyễn Dũng Thông thì Nguyễn Văn Lém đột ngột bảo vợ về quê ăn Tết.
Từ sau sự kiện Mậu Thân cho đến khi được nhìn thấy tấm ảnh, bà Nguyễn Thị Lốp không nhận được tin tức gì về chồng.
Hài cốt Nguyễn Văn Lém tức Bảy Lốp hiện chưa tìm được, ông đã được công nhận là liệt sĩ.
Nhận xét
Các đánh giá khác về Nguyễn Văn Lém:
Theo ông Lê Công Thành, cán bộ Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, Bảy Lốp là người tốt, lúc ở miền Bắc chịu khó học (làm gạch men), có sức khỏe và "có lý tưởng".
Theo ông Nam Hà, đại tá Bộ Tư lệnh thành phố, ở miền Bắc Bảy Lốp học về đường dây liên lạc tình báo. Sau vào Nam, do được đánh giá là tận tụy, có khả năng nên được giao làm đường dây cho khách vào nội thành.
Theo lời cô Nguyễn Ngọc Loan, con gái Nguyễn Văn Lém, người dân ở Đồng Dù cho rằng Bảy Lốp "hiền và chất phác".
Lê Công Nà
Song đã từ lâu nhiều người, nhiều nguồn tin lại cho rằng chính Lê Công Nà chính trị viên quận đội kiêm phó chỉ huy quận 5, thành phố Sài Gòn - Gia Định, tức Bảy Nà, mới là người trong bức hình Saigon Execution. |
Bác sĩ Phan Quang Đán (6 tháng 11 năm 1918 – 26 tháng 3 năm 2004) là một chính khách Việt Nam trong thời Chiến tranh Việt Nam 1954 – 1975. Ông là bác sĩ y khoa, đào tạo từ Viện Đại học Harvard, Hoa Kỳ, có phòng mạch trên đường Nguyễn Thái Học, Sài Gòn và từng là giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn. Vào cuối thập niên 1960 sang đầu thập niên 1970 ông là Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi trong Chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Hoạt động chính trị
Từ khởi đầu đến thời Đệ Nhất Cộng hòa
Ông bắt đầu hoạt động chính trị chống Pháp vào thập niên 1940 nhưng đến năm 1947 thì phải bỏ nước lưu vong sang Trung Quốc. Ông về Việt Nam năm 1955 tham gia cuộc bầu cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa năm 1956 nhưng bị vu cáo là cộng sản. Ông đứng ra tổ chức khối Dân chủ (còn gọi là Mặt trận Dân chủ) làm lực lượng đối lập với đảng Cần lao và dùng báo Thời luận với 80.000 ấn bản mỗi ngày làm cơ quan ngôn luận. Vì chỉ trích chính sách nhà nước, trụ sở báo Thời luận bị đám đông kéo vào phá tan vào cuối năm 1957 rồi đến Tháng Ba năm 1958 thì bị rút giấy phép phải đóng cửa. Ông quay sang viết lập tờ Tin Bắc và lập đảng Tự do Dân chủ đến năm 1959 thì ứng cử vào Quốc hội. Tuy đắc cử với số phiếu nhiều gấp năm lần đối thủ thuộc đảng Cần lao, ông bị loại không cho nhậm chức.
Năm 1960 ông nhận làm cố vấn cho nhóm âm mưu đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Sự việc thất bại và ông bị bắt giam cho đến năm 1963 khi cuộc đảo chánh năm 1963 chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam.
1963 đến thời Đệ Nhị Cộng hòa
Năm 1967 bác sĩ Phan Quang Đán ứng cử vào Quốc hội. Vì hoạt động của ông chống đối chính phủ quân sự của Nguyễn Cao Kỳ nên bị mưu sát. Ông cũng ra tranh cử trong liên danh cùng với Phan Khắc Sửu làm Phó Tổng thống năm 1967 nhưng thua liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ.
Với chính phủ dân sự, ông được bổ làm Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi rồi Thứ trưởng Bộ Xã hội.
Sau năm 1975 Phan Quang Đán sang tỵ nạn ở Mỹ và mất năm 2004.
Có người cho rằng ông là một người trong sạch và tài năng nhưng không gặp thời. |
Miếng da lừa (tiếng Pháp: La Peau de chagrin) là tiểu thuyết năm 1831 của tiểu thuyết gia và kịch gia người Pháp Honoré de Balzac (1799-1850). Lấy bối cảnh Paris vào đầu thế kỷ 19, câu chuyện kể về một chàng thanh niên tìm thấy một miếng da thần kỳ đáp ứng được mọi mong muốn của anh. Tuy nhiên, với mỗi điều ước được thực hiện, miếng da sẽ thu nhỏ lại, tương ứng với việc cuộc sống của anh sẽ ngắn dần đi. Miếng da lừa thuộc phần Khảo luận triết học trong bộ Tấn trò đời của Balzac.
Balzac đã gây tò mò về quyển sách từ khi chưa viết xong bằng cách xuất bản một loạt các bài báo và các mẫu truyện trên một số tạp chí tại Paris. Dù đã giao bản thảo trễ hơn năm tháng so với dự tính, ông vẫn thành công trong việc tạo ra một cơn sốt đến nỗi quyển tiểu thuyết được bán hết ngay sau khi xuất bản. Ấn bản in thứ hai, bao gồm một sê ri 12 "câu chuyện triết học" khác đã được phát hành một tháng sau đó.
Mặc dù tiểu thuyết sử dụng các yếu tố thần bí, nhưng trọng tâm chính vẫn là phản ánh về chủ nghĩa vật chất thái quá thời bấy giờ. Nổi tiếng là một nhà văn luôn chú ý đến từng chi tiết, Balzac đã tập trung miêu tả cặn kẽ một sòng bạc, một cửa hàng đồ cổ, một bữa tiệc hoàng gia và nhiều địa điểm khác, bao gồm cả những chi tiết đến từ đời sống riêng của chính mình như một nhà văn đang gặp khó khăn, và cho nhân vật chính ở trong một căn nhà tương tự như căn nhà mà ông đã ở khi bắt đầu công việc viết lách. Chủ đề trung tâm của tác phẩm Miếng da lừa chính là xung đột giữa lòng ham muốn và tuổi thọ. Miếng da thần kỳ tượng trưng cho sinh lực của người sở hữu, thu nhỏ dần qua mỗi ước muốn được thực hiện, đặc biệt là khi sử dụng để đạt được quyền lực. Bỏ qua lời cảnh báo từ người chủ cửa hàng khi đưa cho anh miếng da, nhân vật chính vơ vét của cải, để rồi chỉ nhận ra mình khốn khổ và suy yếu vào cuối câu chuyện.
Miếng da lừa đã khẳng định được vị thế quan trọng của Balzac ở Pháp. Vòng kết nối xã hội của ông được mở rộng đáng kể, và ông được các nhà xuất bản săn đón ráo riết cho các dự án trong tương lai. Quyển sách đóng vai trò là chất xúc tác cho một chuỗi các bức thư mà ông đã trao đổi với nữ nam tước người Ba Lan Ewelina Hańska, và trở thành vợ ông sau này. Quyển sách cũng đã truyền cảm hứng cho vở opera Die tödlichen Wünsche của Giselher Klebe.
Bối cảnh
Honoré de Balzac chỉ bắt đầu được công nhận là một nhà văn vào năm 1830. Cha mẹ ông cố thuyết phục ông làm nghề luật, nhưng ông tuyên bố vào năm 1819 rằng ông muốn trở thành một tác giả. Mẹ ông trở nên rối trí, nhưng bà và cha ông vẫn đồng ý chu cấp cho ông một khoản thu nhập nhỏ, với điều kiện rằng ông phải cống hiến hết mình cho việc viết lách. Sau khi chuyển đến một căn phòng nhỏ gần Thư viện Arsenal ở Paris, Balzac đã viết trong một năm mà không đạt được bất kỳ thành công nào. Chán nản, ông trở về nhà ở ngoại ô Villeparisis và mượn tiền từ cha mẹ để tiếp tục theo đuổi tham vọng văn chương. Ông dành vài năm tiếp theo để kiếm sống bằng cách viết những quyển tiểu thuyết “mì ăn liền”, được xuất bản dưới nhiều bút danh khác nhau. Ông đã đưa một phần thu nhập của mình cho cha mẹ, nhưng cho đến năm 1828, ông vẫn còn nợ họ 50 ngàn franc.
Năm 1829, lần đầu tiên ông xuất bản một quyển tiếu thuyết dưới tên mình có tên là Les Chouans. Quyển sách nói về lực lượng bảo hoàng ở Brittany, dù không thành công về mặt thương mại, nhưng vẫn khiến Balzac được biết đến trong giới văn chương. Ông đạt được thành công lớn vào cuối năm này khi cho xuất bản quyển La Physiologie du mariage (Sinh lý học hôn nhân), một bài chuyên luận về định chế hôn nhân. Ông xuất bản thêm nhiều truyện ngắn và tiểu luận trên các tạp chí Revue de Paris, La Caricature, và La Mode. Do đó, ông tạo thêm được nhiều mối quan hệ trong ngành công nghiệp xuất bản, giúp ông có được các bài phê bình cho các quyển tiểu thuyết sau này.
Thời đó, bản dịch năm 1829 của tuyển tập Fantastic Tales của tác giả người Đức E.T.A. Hoffmann; tiểu thuyết gothic của Ann Radcliffe của Anh; và tiểu thuyết năm 1829 L'Âne Mort et la Femme Guillotinée (Con lừa chết và người phụ nữ bị chém) của tác giả người Pháp Jules Janin đã khơi dậy lòng thèm khát các câu chuyện thần bí trong văn chương Pháp. Mặc dù đã lên kế hoạch cho một quyển tiểu thuyết tương tự, Balzac vẫn không thích thuật ngữ "huyền bí".
Trong lúc đó, nền chính trị và văn hóa Pháp có nhiều biến động. Sau sáu năm trị vì gây nhiều tranh cãi, vua Charles X buộc phải thoái vị trong cuộc Cách mạng tháng Bảy năm 1830. Thay thế ông là Louis-Philippe, người tự xưng là "Vua của người Pháp" (thay vì là "Vua của nước Pháp") trong nỗ lực tạo khoảng cách với Ancien Régime (Chế độ cũ). Chế độ Quân chủ tháng Bảy đưa tầng lớp tư sản tài chính, ngân hàng lên nắm quyền, là “triều đại của bọn chủ nhà băng”. Qua đó, Balzac thấy được sự vô tổ chức và khả năng lãnh đạo yếu kém của chính quyền.
Quá trình viết và xuất bản
Tựa đề Miếng da lừa xuất hiện lần đầu tiên vào ngày 9 tháng 12 năm 1830, được Balzac nhắc đến trong một bài báo viết cho tuần báo La Caricature dưới bút danh André Coudreux. Quyển scrapbook của ông có ghi lại như sau: "Phát minh ra một miếng da đại diện cho sự sống. Câu chuyện phương đông", có lẽ được viết cùng thời điểm. Một tuần sau, ông công bố một mẩu truyện có tên Le Dernier Napoléon trên tờ La Caricature, dưới cái tên "Henri B...". Trong đó, một chàng thanh niên tiêu hết đồng Napoléon cuối cùng của mình tại một sòng bạc ở Paris, rồi đi đến Cầu Hoàng Gia để tự sát. Giai đoạn đầu tiên này, Balzac không suy nghĩ nhiều về dự án văn học. Ông xem nó là "một phần không có ý nghĩa gì trong văn chương, nhưng trong đó [tác giả] tìm cách giới thiệu một số tình huống trong cuộc sống đầy khắc nghiệt này mà những con người tài năng phải trải qua trước khi có thể đạt được bất kỳ điều gì". Tuy nhiên, không bao lâu sau, ông đã đổi ý.
Đến tháng 1 năm 1831, Balzac đã có đủ hứng thú với ý tưởng của mình và có được một hợp đồng với hai nhà xuất bản Charles Gosselin và Urbain Canel: 750 bản sao của một ấn bản có định dạng octavo, và khoản phí 1.125 franc sẽ được trả cho tác giả khi nhận được bản thảo vào giữa tháng hai. Balzac giao quyển tiểu thuyết vào tháng bảy, trễ năm tháng.
Tuy nhiên, ông cũng đã cung cấp được những cái nhìn sơ lược về tiến độ của tiểu thuyết qua những tháng đó. Hai mẩu chuyện tiếp theo xuất hiện vào tháng năm như là một phần cho kế hoạch quảng bá quyển sách trước khi xuất bản. Une Débauche (Một cuộc ăn chơi trụy lạc), được xuất bản trên tạp chí Revue des deux mondes, miêu tả một bữa tiệc linh đình với những lời đùa cợt và tranh luận không ngừng từ những người tư sản. Một mẩu chuyện khác, Le Suicide d'un poète (Vụ tự sát của một thi sĩ), được in trên tạp chí Revue de Paris, liên quan đến những khó khăn của một nhà thơ tự xưng trong cảnh túng tiền. Dù ba mẩu chuyện này không được kết nối thành một câu chuyện liền mạch, nhưng thực tế là Balzac đang trích dẫn các nhân vật và các cảnh trong quyển tiểu thuyết mà ông đang viết.
Việc quyển tiểu thuyết được xuất bản trễ so với hợp đồng xuất phát từ lối sống của Balzac. Ông đã dành nhiều đêm để ăn tối tại nhà bạn bè, bao gồm tiểu thuyết gia Eugène Sue và tình nhân Olympe Pélissier, cũng như nhà văn nữ quyền George Sand và người tình của bà Jules Sandeau. Balzac và Pélissier có với nhau một cuộc tình ngắn ngủi, và bà trở thành người tình đầu tiên xuất hiện cùng với ông trước công chúng. Sau cùng, ông rời Paris đến sống cùng bạn bè ở ngoại ô và cam kết hoàn thành quyển sách. Vào cuối mùa xuân, ông cho Sand đọc bản thảo sắp hoàn chỉnh, bà tỏ ra thích thú với câu chuyện và dự đoán rằng nó sẽ được đón nhận.
Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1831, Miếng da lừa: câu chuyện triết học đã được xuất bản thành hai tập. Quyển sách đạt được thành công về mặt thương mại. Balzac sử dụng các mối quan hệ của mình trong giới tạp chí định kỳ để có được những đánh giá rộng rãi. Quyển sách được bán hết nhanh chóng, và một hợp đồng khác đã được ký vào cuối tháng: Balzac sẽ nhận được 4.000 franc cho việc xuất bản thêm 1.200 quyển. Ấn bản lần hai này bao gồm một loạt mười hai câu chuyện với các yếu tố thần bí, được phát hành dưới cái tên Romans et contes philosophiques (Tiểu thuyết và câu chuyện triết học). Ấn bản lần ba, được sắp xếp lại thành bốn tập, xuất hiện vào tháng 3 năm 1833.
Tóm tắt nội dung
Miếng da lừa bao gồm ba phần: Le talisman (“Tấm bùa”), La femme sans coeur (“Người đàn bà không có trái tim”) và L'Agonie (“Hấp hối”). Ấn bản đầu tiên có phần Preface (“Lời nói đầu”) và Moralité (“Đạo đức”), được cắt bỏ trong các phiên bản sau. Một đoạn kết dài hai trang xuất hiện ở cuối phần ba.
"Tấm bùa" bắt đầu với câu chuyện "Le Dernier Napolélon": Chàng thanh niên Raphaël de Valentin đặt cược đồng xu cuối cùng của mình và thua cược, sau đó ra sông Sein để tự tử. Tuy nhiên, trên đường đi, anh quyết định ghé vào một cửa tiệm kỳ lạ chứa đầy những thứ kỳ lạ từ khắp nơi trên thế giới. Người chủ cửa hàng lớn tuổi dẫn anh đến chỗ một miếng da treo trên tường. Miếng da hứa hẹn sẽ đáp ứng mọi mong muốn của chủ nhân, và sẽ thu nhỏ lại khi mỗi ước muốn được thực hiện. Chủ tiệm đồ cổ sẵn lòng để miễn phí miếng da cho Valentin, nhưng cũng khuyên anh ta không nên chấp nhận lời đề nghị này. Valentin xua đi lời cảnh báo của chủ tiệm và lấy miếng da, ước ngay một bữa tiệc hoàng gia với đầy những rượu, phụ nữ và bạn bè. Anh ngay lập tức gặp được những người quen mời anh đến một bữa tiệc như vậy; họ dành hàng giờ ăn uống và trò chuyện.
Phần hai "Người đàn bà không có trái tim" được kể lại như một đoạn hồi tưởng từ góc nhìn của Valentin. Anh phàn nàn với người bạn Émile của mình về những ngày đầu khi còn là một học giả, sống trong nghèo khó cùng với người chủ nhà lớn tuổi và cô con gái Pauline của bà, trong khi cố gắng trong vô vọng để giành được trái tim của một người phụ nữ xinh đẹp nhưng xa cách có tên Foedora. Trong khoảng thời gian đó, anh được một người tên Eugène de Rastignac kèm cặp, người đã khuyến khích anh hòa mình vào xã hội thượng lưu. Tận dụng lòng tốt của những người chủ trọ, Valentin tiến gần vào nhóm bạn bè của Foedora. Tuy nhiên, vẫn không thể có được tình cảm của cô, anh trở thành một người khốn khổ và bần cùng khi bắt đầu câu chuyện "Tấm bùa".
"Hấp hối" bắt đầu vài năm sau bữa tiệc ở phần một và hai. Sau khi sử dụng tấm bùa để đảm bảo một khoản thu nhập lớn, Valentin nhận thấy cả miếng da và sức khỏe của mình đều đang giảm sút. Anh cố phá vỡ lời nguyền bằng cách từ bỏ miếng da, nhưng thất bại. Tình cảnh đó khiến anh hoảng sợ rằng những mong muốn khác nữa sẽ đẩy nhanh đến thời điểm cuộc đời anh kết thúc. Anh thu xếp nhà cửa để tránh việc ước thêm bất kỳ điều gì: người hầu Jonathan sắp xếp thức ăn, quần áo và các vị khách ghé thăm. Tuy nhiên, các sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát khiến anh ước thêm nhiều thứ khác nhau, và miếng da tiếp tục thu nhỏ lại. Tuyệt vọng, Valentin ốm yếu cố gắng tìm cách nới rộng miếng da, và thực hiện một chuyến đi đến thị trấn Aix-les-Bains với hy vọng phục hồi lại sức sống của mình.
Với miếng da giờ chỉ vừa bằng một chiếc lá hoa dừa cạn, Pauline đến thăm anh tại phòng mình; cô bày tỏ tình yêu của mình với anh. Cô sợ hãi khi biết được sự thật về miếng da và vai trò của mình trong cái chết của Valentin. Raphaël không thể kiểm soát được ham muốn đối với cô, cô lao vào một căn phòng liền kề để thoát khỏi anh, giúp anh sống sót. Anh dựa vào cửa và thú nhận rằng được chết trong vòng tay cô chính là tình yêu và cả mong muốn của mình. Trong lúc đó, cô đang cố gắng tự sát để giải thoát anh khỏi ham muốn đó. Anh phá cửa, họ trải qua giây phút nồng cháy với nhau, và rồi anh chết.
Phong cách
Mặc dù thích thuật ngữ "triết học" hơn, quyển tiểu thuyết của Balzac lại dựa trên tiên đề thần bí. Miếng da ban cho Valentin một thế giới đầy những cơ hội, và anh ta sử dụng nó để thỏa mãn nhiều mong muốn. Chẳng hạn, khi bị ép tham gia vào một cuộc đấu tay đôi, anh giải thích cách anh không cần tránh phát súng của đối thủ cũng như không cần nhắm bắn ra sao. Kết quả là anh nổ súng bừa mà vẫn giết được người kia ngay lập tức. Mặt khác, phẩm chất siêu nhiên của miếng da cũng được chứng minh khi nó chống lại các nỗ lực nới rộng của nhà hóa học và nhà vật lý.
Tuy nhiên, yếu tố thần bí trong tác phẩm chỉ là công cụ để tác giả nêu lên bản chất con người và xã hội. Một nhà phê bình cho rằng "câu chuyện vẫn sẽ giống như vậy nếu không có nó". Balzac đã sử dụng các yếu tố siêu nhiên trong các tiểu thuyết “mì ăn liền” từng được xuất bản trước đó dưới những bút danh khác nhau, nhưng chúng hiện diện trong Miếng da lừa để báo hiệu một bước ngoặc trong cách tiếp cận của ông với việc sử dụng hình ảnh biểu tượng. Các đồ vật và sự kiện thần bí trong các tác phẩm trước chủ yếu là những tình tiết hoặc các đồ vật đơn giản với mục đích gây hồi hộp. Trong Miếng da lừa, tấm bùa đại diện cho linh hồn của Valentin; đồng thời, cái chết của anh là biểu tượng của một sự suy thoái xã hội lớn hơn. Trong quyển tiểu thuyết năm 1831 này, Balzac tập trung vào sức mạnh của khát vọng con người và bản chất của xã hội sau Cách mạng tháng Bảy. Nhà văn và nhà phê bình người Pháp Félicien Marceau thậm chí còn cho rằng tính biểu tượng trong tiểu thuyết cho phép việc phân tích mang tính thuần túy hơn so với các trường hợp nghiên cứu điển hình trong các tiếu thuyết khác của Balzac. Valentin là một người bình thường như bao người, thể hiện những đặc điểm cơ bản về bản chất con người, chứ không phải là một con người đặc biệt đối diện với tình cảnh khó khăn mà miếng da mang đến.
Trong phần Lời nói đầu ở ấn bản đầu tiên của tiểu thuyết, Balzac đã suy ngẫm về lợi ích trong việc sử dụng các yếu tố thần bí: "[Những nhà văn] sáng tạo ra sự thật, bằng phép loại suy, hoặc nhìn thấy đối tượng được miêu tả, cho dù đối tượng đó đến với họ hay bản thân họ đi về phía đối tượng... Liệu con người có quyền năng để đưa vũ trụ vào trong bộ não, hay bộ não là một lá bùa để họ xóa bỏ các quy luật về thời gian và không gian?" Các nhà phê bình đồng ý rằng mục tiêu của Balzac trong Miếng da lừa chính là ý thứ nhất.
Chủ nghĩa hiện thực
Quyển tiểu thuyết được trích dẫn rộng rãi như một ví dụ lớn về chủ nghĩa hiện thực và nhờ đó mà Balzac trở nên nổi tiếng. Những đoạn miêu tả về Paris là một ví dụ: quyển tiểu thuyết chứa các địa điểm có thật như Cung điện Hoàng gia và Nhà thờ Đức Bà. Lời kể và các nhân vật liên tục ám chỉ về nghệ thuật và văn hóa ngoài đời, từ vở opera Tancredi của Gioachino Rosini đến Tượng thần Vệ Nữ thành Milo.
Đoạn thứ ba trong quyển sách miêu tả về quá trình và mục đích đằng sau các nghi thức trong sòng bạc, theo đó "quy định bắt buộc bạn phải bỏ mũ ra ngay từ lúc bước vào". Khung cảnh nơi đó được miêu tả cụ thể đến từng chi tiết, từ gương mặt của các con bạc, tới giấy dán tường "nhầy nhụa" và khăn trải bàn "bị các đồng vàng mài mòn". Tiền bạc được nhấn mạnh từ những trang đầu tiên của quyển sách, tương phản với môi trường mục nát xung quanh, đã phản ánh chủ đề của tiểu thuyết về tổ chức xã hội và chủ nghĩa duy vật kinh tế.
Các chi tiết hiện thực mang ý nghĩa tượng trưng vẫn tiếp tục được sử dụng khi Valentin bước vào trong tiệm đồ cổ, cửa tiệm chính là đại diện cho tinh cầu của chúng ta. Khi lang thang trong cửa tiệm, anh đang thực hiện một chuyến tham quan thế giới thông qua các dấu tích ở các thời kỳ khác nhau: "Mỗi vùng đất dường như đã mang đến một số tri thức và hình mẫu nghệ thuật của nơi đó." Trong cửa tiệm có một bức tranh vẽ Napoleon, một thanh kiếm yatagan của người Moor, hình tượng một vị thần của người Tartars, chân dung của những thị trưởng Hà Lan, một bức tượng bán thân của Cicero, một xác ướp Ai Cập Cổ Đại, một chiếc bình Etruscan, một con rồng Trung Hoa và hàng trăm vật thể khác. Bước ngoặc đạo đức được đưa ra khi chủ tiệm dẫn Valentin đến bức chân dung Chúa Jesus của Raphael. Tuy vậy, bức tranh không ngăn cản được Valentin khỏi ý định tự sát, chỉ khi tìm thấy miếng da thì anh mới từ bỏ ý định này. Điều đó đã chứng tỏ rằng con người ưa chuộng cái tôi bản thân hơn là sự cứu rỗi của thần thánh.
Hình ảnh mở đầu
Ở phần đầu của quyển sách, Balzac đã sử dụng một hình ảnh lấy từ quyển Tristram Shandy, tiểu thuyết năm 1759 của Laurence Sterne: một nét vẽ ngoằn ngoèo trên không trung được vẽ bởi một nhân vật đang tìm cách thể hiện sự tự do được hưởng "trong một con người tự do". Balzac không bao giờ giải thích mục đích đằng sau việc sử dụng biểu tượng này, và ý nghĩa của nó trong Miếng da lừa là chủ đề gây tranh luận. Trong bài đánh giá tổng quát của mình về Tấn trò đời, Herbert J. Hunt liên kết "nét vẽ ngoằn ngoèo" này với "thiết kế quanh co" trong tiểu thuyết của Balzac. Tuy nhiên, nhà phê bình Martin Kanes cho rằng hình ảnh này tượng trưng cho việc ngôn từ không thể diễn tả được ý tưởng một cách trọn vẹn. Vấn đề này liên quan trực tiếp đến những mâu thuẫn giữa ước muốn và tri thức được người chủ tiệm chỉ ra ở phần đầu quyển tiểu thuyết.
Chủ đề
Tự truyện
Balzac đã khai thác cuộc sống của chính mình cho các tình tiết trong phần đầu của Miếng da lừa, và ông chắn hẳn đã tạo hình nhân vật Raphaël de Valentin dựa trên chính bản thân ông. Các chi tiết được Valentin kể về nơi ở nghèo khó của anh là những lời ám chỉ về những ngày đầu khi Balzac bước chân vào công việc viết lách: "Không gì có thể xấu hơn cái gác xép đang chờ đợi vị học giả của nó, với những bức tường màu vàng xỉn và có mùi của sự nghèo nàn. Mái nhà đã đổ dốc lớn và có thể nhìn thấy được bầu trời thông qua kẽ hở của những viên gạch. Có chỗ cho một cái giường, một cái bàn, vài cái ghế, và cây đàn piano của tôi có thể đứng được ngay dưới đỉnh mái nhà." Mặc dù cho rằng có sự tô vẽ ở một mức độ nào đó, nhưng các nhà tiểu sử và nhà phê bình đồng ý rằng Balzac đã dựa vào những trải nghiệm của bản thân ông.
Những phần khác trong câu chuyện cũng bắt nguồn từ cuộc đời của tác giả: Balzac từng tham dự một bữa tiệc do Hầu tước Las Marismas tổ chức, người có dự định cho ra mắt một tờ báo - tương tự với tình huống khi Valentin bày tỏ nguyện vọng đầu tiên với tấm bùa. Sau đó, Valentin đến thăm nhà hát nhạc kịch được trang bị một bộ kính có thể giúp anh quan sát được mọi khuyết điểm của những người phụ nữ trên sân khấu (để chống lại dục vọng). Điều này cũng có thể được rút ra từ trải nghiệm của Balzac, như ông từng viết trong một lá thư về một bộ kính "thần thánh" mà ông đặt mua từ Đài thiên văn Paris.
Ý nghĩa hơn là mối liên hệ giữa những người phụ nữ trong tiểu thuyết và những người phụ nữ trong cuộc đời Balzac. Một số nhà phê bình đã lưu ý những điểm tương đồng lớn trong những nỗ lực mà Valentin đã bỏ ra để có được trái tim nàng Foedora và niềm say mê của Balzac đối với Olympe Pélissier. Một cảnh khi Valentin trốn trong phòng ngủ của Foedora để xem nàng cởi bỏ quần áo được cho là xuất phát từ một tình huống tương tự, trong đó Balzac bí mật quan sát Pélissier. Tuy nhiên, có lẽ Pélissier không phải là hình mẫu của Foedora, vì bà đã chấp nhận những bước tiến của Balzac và viết cho ông những bức thư thân tình; ngược lại, Foedora tuyên bố mình ở ngoài tầm với của bất kỳ người tình nào. Các nhà phê bình đồng ý rằng "Người đàn bà không có trái tim" được miêu tả trong tiểu thuyết là sự kết hợp của những người phụ nữ khác mà Balzac từng quen biết. Trong khi đó, nhân vật Pauline có thể bị ảnh hưởng bởi Laure de Berny, một tình nhân khác của Balzac.
Vouloir, pouvoir và savoir
Mở đầu tiểu thuyết, chủ tiệm thảo luận với Valentin về "bí mật vĩ đại của đời người". Chúng bao gồm ba từ được Balzac viết in hoa: VOULOIR (ý muốn), POUVOIR (quyền lực) và SAVOIR (hiểu biết). Ông giải thích rằng ý muốn làm chúng ta hao mòn, quyền lực phá hủy chúng ta và tri thức xoa dịu chúng ta. Ba khái niệm này tạo nên nền tảng triết học của tiểu thuyết.
Tấm bùa kết nối những quy luật này với thuyết sức sống; nó đại diện cho sinh lực của người sở hữu, và thu nhỏ dần qua mỗi lần thực hiện ước muốn. Chủ tiệm đồ cổ cố cảnh báo Valentin rằng con đường khôn ngoan nhất không nằm ở việc thực hiện ước muốn hay đảm bảo quyền lực của anh, mà nằm ở việc phát triển tâm trí. Ông hỏi Valentin: "Điều gì làm nên sự điên rồ nếu không phải là sự dư thừa ước muốn và quyền lực?" Tuy nhiên, chàng thanh niên mặc kệ lời cảnh báo và ôm lấy ước vọng của mình. Một khi có được tấm bùa, anh tuyên bố: "Tôi muốn sống một cuộc đời dư dả." Chỉ đến khi sinh lực gần cạn kiệt anh mới nhận ra sai lầm của mình: "Anh đột nhiên nhận ra rằng việc sở hữu quyền lực, dù to lớn đến đâu, cũng không mang theo kiến thức về cách sử dụng nó ... [anh] đã có mọi thứ trong quyền năng của mình, và anh đã không làm gì cả."
Balzac cảnh báo rằng ước muốn là một loại sức mạnh có tính hủy diệt vì nó chỉ tìm cách đạt được quyền lực, trừ khi được tôi luyện bởi kiến thức. Người chủ tiệm đưa ra một nhân vật tương phản với Valentin sau này, và đề nghị rằng anh hãy học tập và phát triển tâm trí như một cách để giảm bớt dục vọng. Foedora cũng là một hình mẫu cho việc chống lại sự suy đồi của ước muốn, cô luôn tìm cách kích thích ham muốn của người khác trong khi không bao giờ nhượng bộ bản thân. Valentin đó đang sống hạnh phúc nhất trong quãng thời gian ở căn gác xép bẩn thỉu, chìm đắm trong việc học hành và viết lách, với một Pauline tốt bụng sẵn sàng ở bên anh - nhấn mạnh tình trạng trớ trêu đầy khổ sở vào cuối câu chuyện, khi anh được vây quanh bởi những thành quả ham muốn vật chất.
Xã hội
Từ những phân tích về lòng ham muốn trong tiểu thuyết, có thể suy rộng ra các cá nhân và xã hội bên ngoài. Ông sợ rằng thế giới cũng giống như Valentin, đang lạc lối vì dư thừa vật chất và những ưu tiên sai lầm. Balzac xem xét tình thế khó khăn này trong nhiều bối cảnh khác nhau, từ sòng bạc, bữa tiệc xa hoa, cửa hàng đồ cổ, và các cuộc thảo luận với các nhà khoa học. Lòng thèm khát địa vị xã hội của Valentin tiêu biểu cho sự dư thừa này. Một Foedora tuyệt đẹp nhưng không thể có được tượng trưng cho những thú vui trong xã hội thượng lưu.
Khoa học không cho ta thuốc trị bách bệnh. Trong một phân cảnh, một nhóm bác sĩ đưa ra nhiều ý kiến về nguyên nhân khiến sức khỏe của Valentin trở nên yếu ớt. Trong một cảnh khác, một nhà vật lý và một nhà hóa học thừa nhận thất bại sau khi sử dụng một loạt các phương pháp nhằm nới rộng miếng da. Tất cả các phương pháp tiếp cận khoa học này đều không hiểu được bản chất của vấn đề, và vì vậy đều phải thất bại. Mặc dù nó chỉ được thể hiện một cách thoáng qua - ví dụ như hình ảnh của Chúa, được vẽ bởi một người trùng tên với Valentin, một họa sĩ Phục hưng tên Raphael - Balzac muốn nhắc nhở độc giả rằng Cơ Đốc giáo có thể xoa dịu sự thừa mứa cực độ này. Sau thất bại trong nỗ lực nới rộng miếng da, nhà hóa học tuyên bố: "Tôi tin vào ma quỷ"; nhà vật lý trả lời: "Và tôi tin vào Chúa".
Sự tha hóa này có liên quan đến tình trạng vô tổ chức được đề cập trong đoạn đầu của phần cuối cùng. Thể chất yếu ớt dù sống trong cảnh xa hoa, Raphaël de Valentin được miêu tả là vẫn giữ được "một trí thông minh phi thường" trong đôi mắt, nhờ đó anh có thể nhìn thấy được "mọi thứ cùng một lúc":
Vẻ mặt đó thật đau đớn khi nhìn thấy ... Đó là cái liếc nhìn bất lực khi buộc phải chôn chặt những ước muốn của mình vào sâu thẳm trái tim; hoặc của một kẻ keo kiệt đang tận hưởng trong tưởng tượng tất cả thú vui mà tiền có thể mang lại cho hắn, trong khi lại từ chối tiêu xài những của cải hắn đã tích trữ; cái nhìn của một Prometheus đang bị trói buộc, của Napoléon thất thế năm 1815, khi ông biết được sai lầm chiến lược của kẻ thù tại trận Elysee và yêu cầu 24 giờ chỉ huy trong vô vọng …
Đón nhận và kế thừa
Tiểu thuyết bán hết sạch ngay sau khi tung ra và được bình luận trên mọi tờ báo và tạp chí lớn tại Paris. Trong một vài trường hợp, Balzac tự mình viết các bài phê bình; chẳng hạn như khi sử dụng tên "Bá tước Alex de B-", ông tuyên bố rằng quyển sách chứng tỏ ông đã đạt được "tầm vóc của thiên tài". Các bài đánh giá độc lập ít sâu rộng hơn, nhưng cũng rất tích cực. Nhà thơ Émile Deschamps khen ngợi nhịp điệu của quyển tiểu thuyết, nhà bình luận tôn giáo Charles Forbes René de Montalembert tán thành rằng nó nêu bật lên nhu cầu tâm linh nhiều hơn trong toàn xã hội. Mặc dù vài nhà phê bình chê trách Balzac đã phơi bày ra mặt tiêu cực, những người khác lại cho rằng nó chỉ phản ánh đúng tình trạng xã hội Pháp. Nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe tuyên bố rằng đây là một tấm gương sáng về "sự tha hóa không thể chữa của dân tộc Pháp". Các nhà phê bình tranh cãi với nhau về việc liệu lời bình luận của Goethe có phải là một lời khen dành cho quyển tiểu thuyết hay không.
Cơn bão truyền thông này khuấy động độc giả trên khắp nước Pháp khi họ tranh nhau để có được quyển tiểu thuyết. Charles Philipon, một người bạn của Balzac và là biên tập viên của tờ La Caricature, đã viết cho tác giả một tuần sau khi xuất bản: "Không làm sao có được Miếng da lừa. Grandville đã phải dừng mọi việc để đọc quyển sách, bởi vì cứ nửa tiếng thì người thủ thư lại cử người đến để hỏi xem anh ta đã đọc xong chưa." Bạn bè gần xa viết thư cho Balzac để nêu lên những khó khăn tương tự trong việc tìm quyển sách. Ấn bản in lần hai được phát hành một tháng sau và theo sau đó là các tác phẩm nhại lại và các tác phẩm phái sinh của các nhà văn khác. Théophile Gautier, bạn của Balzac, đã bày tỏ lòng kính trọng hài hước trong tuyển tập Les Jeunes-France năm 1833 của mình, tái hiện cảnh bữa tiệc trong tiểu thuyết của Balzac, khi một nhân vật nói: "Đây là lúc tôi phải đổ rượu xuống áo ghi lê của mình... Trang 171 của Miếng da lừa đã ghi trên giấy trắng mực đen rõ ràng như vậy... Và đây là nơi tôi phải tung đồng 100 xu lên không trung để xem có Chúa Trời hay không."
Quyển tiểu thuyết đã đưa Balzac lên thành một hình mẫu nổi bật trong văn đàn Pháp. Các nhà xuất bản tranh nhau để xuất bản các tác phẩm sau của ông, và ông trở thành một người không thể thiếu trong danh sách được mời tham gia các hoạt động xã hội quanh Paris. Balzac tự hào về thành công của quyển tiểu thuyết và tuyên bố với biên tập của tờ L'Avenir rằng "Elle est donc le point de départ de mon ouvrage" (Đây là điểm khởi đầu cho công việc của tôi). Miếng da lừa vẫn tiếp tục được yêu thích ngay cả sau khi tác giả đã qua đời, và được tái bản mười chín lần từ năm 1850 đến năm 1880.
Khi lên kế hoạch sắp xếp tất cả các tiểu thuyết và truyện của mình thành một tác phẩm duy nhất có tên Tấn trò đời, Balzac đã xếp Miếng da lừa vào đầu phần Khảo luận triết học. Giống như các tác phẩm khác trong mục này - bao gồm quyển Louis Lambert (1832), một quyển sách gần giống như tự truyện - nó đề cập đến triết học và siêu nhiên. Nhưng cũng tạo cầu nối cho chủ nghĩa hiện thực trong phần Khảo luận phong tục, nơi có phần lớn các tiểu thuyết của ông.
L'Étrangère
Danh tiếng của quyển tiểu thuyết lan rộng đến Ukraine. Tại đây, một nữ nam tước có tên Ewelina Hańska đã đọc về các tiểu thuyết của Balzac trên các tờ báo mà bà nhận được từ Paris. Tò mò, bà đặt mua các tác phẩm của ông và đọc chúng cùng với anh em họ hàng và bạn bè xung quanh vùng Volhynia. Họ ấn tượng với sự thấu hiểu dành cho phụ nữ mà ông đã thể hiện trong Sinh lý học hôn nhân, nhưng cũng cảm thấy Miếng da lừa đã miêu tả họ dưới một thứ ánh sáng tàn nhẫn và không khoan nhượng. Hańska viết một lá thư cho Balzac, ký tên là L'Étrangère (Người lạ), và gửi đi từ Odessa vào ngày 28 tháng 2 năm 1832.
Không có địa chỉ hồi âm, Balzac để lại lời hồi đáp trên trang Gazette de France, với hy vọng rằng bà có thể nhìn thấy lời thông báo. Bà đã không thấy được, nhưng tiếp tục viết cho ông vào tháng 11: "Linh hồn của ngài bao quát hàng thế kỷ, thưa ngài; các khái niệm triết học xuất hiện trong đó là thành quả của quá trình nghiên cứu lâu dài và lớn dần theo thời gian; tôi được biết rằng ngài vẫn còn trẻ. Tôi muốn được gặp ngài, nhưng cảm thấy không cần phải làm điều đó. Tôi biết ngài thông qua bản năng tâm linh của tôi; Tôi hình dung ngài theo cách riêng của mình, và cảm thấy rằng nếu bây giờ nhìn thấy ngài, tôi sẽ ngay lập tức thốt lên, "Chính là anh ta!"
Cuối cùng bà cũng tiết lộ bản thân mình với ông, và họ bắt đầu một cuộc thư từ kéo dài mười lăm năm. Dù vẫn chung thủy với người chồng Wacław, Hańska và Balzac có mối quan hệ tình cảm thân mật thông qua những lá thư. Khi nam tước qua đời vào năm 1841, vị tác giả người Pháp bắt đầu theo đuổi mối quan hệ với bà bên ngoài những trang thư. Họ kết hôn tại thị trấn Berdychiv vào ngày 14 tháng 3 năm 1850, năm tháng trước khi ông mất.
Các nhân vật lặp lại
Vì đây là một trong số các tiểu thuyết đầu tiên được phát hành dưới tên mình, Balzac đã không sử dụng các nhân vật từ các tác phẩm trước đó trong Miếng da lừa. Tuy nhiên, ông đã giới thiệu một số nhân vật được xuất hiện trong các câu chuyện về sau. Đáng kể nhất trong số này là Eugène de Rastignac, người đã dạy Valentin theo những thói xấu của xã hội thượng lưu. Khi viết được ba mươi trang trong quyển tiểu thuyết Lão Goriot năm 1834, Balzac đột nhiên gạch bỏ tên nhân vật Massiac và thay thế bằng tên Rastignac. Mối quan hệ giữa thầy trò trong Miếng da lừa cũng được phản ánh trong Lão Goriot, khi chàng thanh niên Rastignac được tên tội phạm ẩn danh Vautrin hướng dẫn về cách các chính sách thực dụng (realpolitik) vận hành trong xã hội.
Balzac đã sử dụng nhân vật Foedora trong ba câu chuyện khác, nhưng cuối cùng tách nàng khỏi họ và quyết định chọn những hình mẫu khác để đại diện cho tính nữ trong xã hội. Trong các ấn bản sau của Miếng da lừa, ông đổi tên một trong những người chủ ngân hàng thành "Taillefer", người mà ông đã giới thiệu trong L'Auberge rouge (Quán trọ đỏ) (1831). Ông cũng sử dụng tên Horace Bianchon cho một bác sĩ, do đó liên kết quyển sách với vị bác sĩ nổi tiếng xuất hiện trong 31 câu chuyện của Tấn trò đời. Vị bác sĩ này được miêu tả sống động đến nỗi Balzac đã gọi tên Bianchon khi nằm trên giường bệnh vào cuối đời.
Việc sử dụng các nhân vật lặp lại tạo cho các tác phẩm của Balzac có mối liên kết và bầu không khí không giống với bất kỳ loạt tiểu thuyết nào khác. Điều đó cho phép nhân vật có chiều sâu vượt ra khỏi những đoạn kể hoặc đoạn đối thoại đơn giản. Nhà phê bình Samuel Rogers lưu ý rằng: "Khi các nhân vật xuất hiện trở lại, họ không bước ra từ hư không; họ hiện ra từ chính cuộc đời riêng của họ mà trong một khoảng thời gian, chúng ta không được phép nhìn thấy." Sự phức tạp trong đời sống của các nhân vật này đã khiến Balzac mắc phải những lỗi không thể tránh khỏi về niên đại và tính nhất quán, nhưng những sai sót này được coi là không đáng kể so với quy mô của dự án. Độc giả thường gặp rắc rối với số lượng các nhân vật quá lớn trong thế giới của Balzac hơn, và thường cảm thấy thiếu thốn bối cảnh quan trọng dành cho các nhân vật. Tiểu thuyết gia trinh thám Arthur Conan Doyle từng nói rằng ông chưa bao giờ thử đọc Balzac, bởi vì ông "không biết bắt đầu từ đâu".
Ảnh hưởng
Quyển tiểu thuyết của Balzac được chuyển thể cho phần lời của vở opera Die tödlichen Wünsche (Điều ước chết người) năm 1959 của Giselher Klebe. Năm 1977-1978, nhà soạn nhạc người Đức Fritz Geißler đã soạn ra vở Das Chagrinleder với phần lời của Günther Deicke. Vào năm 1989-1990, nhà soạn nhạc người Nga Yuri Khanon viết vở ba lê L’Os de chagrin, dựa trên lời văn của Balzac, trong đó có một đoạn opera kết hợp cùng tên. Vào năm 1992, một đoạn phim giả tài liệu tiểu sử dưới dạng một bộ phim opera dựa trên vở opera L'os de Chagrin của ông được phát hành.
Quyển tiểu thuyết này cũng được cho là có thể có ảnh hưởng đến tiểu thuyết Bức chân dung của Dorian Gray năm 1890 của Oscar Wilde, mặc dù giả thuyết này bị hầu hết các học giả bác bỏ. Nhân vật chính Dorian Gray có được một bức chân dung kỳ diệu mà người trong tranh già đi, còn anh vẫn luôn trẻ trung.
Chuyên gia văn học người Nga Priscilla Meyer khẳng định trong quyển sách Cách người Nga đọc tiếng Pháp, rằng cả Miếng da lừa và Lão Goriot đều được Dostoevsky so sánh và đảo ngược trong tác phẩm Tội ác và hình phạt.
Câu chuyện lần đầu tiên được chuyển thể thành một bộ phim câm của Pháp năm 1909 mang tên The Wild Ass's Skin, do Albert Capellani đạo diễn, Michel Carre viết kịch bản và Henri Desfontaines đóng vai chính. Mặc dù thời lượng của bộ phim chỉ có 19 phút ngắn ngủi, nhưng vẫn được chia thành ba phần.
Vào năm 1915, đạo diễn người Mỹ Richard Ridgely thực hiện một cuốn phim chuyển thể từ quyển tiểu thuyết của Balzac có tựa đề The Magic Skin cho công ty Thomas A. Edison, Inc. Bộ phim dài 50 phút có sự tham gia của Mabel Trunnelle, Bigelow Cooper và Everett Butterfield, và làm giảm đi các yếu tố siêu nhiên của câu chuyện bằng cách tiết lộ rằng tất cả chỉ là một giấc mơ.
Năm 1920, tiểu thuyết lại được chuyển thể thành bộ phim câm tiếng Anh mang tên Desire (hay còn gọi là The Magic Skin), do George Edwardes-Hall viết kịch bản và đạo diễn, với sự tham gia của Dennis Neilson-Terry, Yvonne Arnaud và Christine Maitland.
George D. Baker đã đạo diễn một phiên bản khác của câu chuyện, một bộ phim câm của Mỹ năm 1923 có tên là Slave of Desire, có sự tham gia của George Walsh và Bessie Love.
Vào năm 1960, nhà làm phim hoạt hình người Croatia Vladimir Kristl thực hiện một đoạn phim hoạt hình ngắn có tên Šagrenska koža (The Piece of Shagreen Leather) lấy cảm hứng từ quyển tiểu thuyết của Balzac.
Tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành một bộ phim truyền hình Pháp vào năm 1980, có sự tham gia của Marc Delsaert, Catriona MacColl, Anne Caudry, Richard Fontana và Alain Cuny.
Vào năm 2010, một bộ phim truyền hình Pháp-Bỉ của Alain Berliner chuyển thể từ quyển tiểu thuyết cũng được lên sóng, có sự tham gia của Thomas Coumans, Mylène Jampanoï, Jean-Paul Dubois, Julien Honoré, Jean-Pierre Marielle và Annabelle Hettmann.
Về cuối đời, nhà phân tâm học người Áo Sigmund Freud cảm thấy có mối liên hệ đặc biệt với quyển tiểu thuyết của Balzac, vì ông tin rằng thế giới của ông đang thu nhỏ lại như tấm bùa của Valentin. Được chẩn đoán mắc một khối u ác tính, Freud quyết tâm tự sát. Sau khi đọc lại Miếng da lừa, ông nói với bác sĩ: "Đây là quyển sách dành cho tôi; nó nhắc đến tình trạng co rút và đói khát." Ngày hôm sau, vị bác sĩ tiêm cho Freud một liều morphine, và ông chết.
Năm 2011, đạo diễn người Pháp Marianne Badrichani đã dựng nên một vở diễn chuyển thể từ Miếng da lừa tại Holland Park, Luân Đôn.
Ghi chú |
Binh chủng Tăng - Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam là một binh chủng trong tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam, chịu trách nhiệm tác chiến đột kích trên bộ và đổ bộ (hải quân), được trang bị các loại xe tăng, xe bọc thép, với hỏa lực mạnh, sức cơ động cao. Ngày truyền thống: 5 tháng 10
Trụ sở Bộ Tư lệnh: Quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội
Lịch sử hình thành
Từ giữa năm 1955, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyển chọn nhiều cán bộ chiến sĩ tập trung để đưa đi học bổ túc văn hóa tại Trường Văn hóa Quân đội, với mục đích tạo nguồn để đào tạo cán bộ sĩ quan cả về chỉ huy, tham mưu và các quân binh chủng kỹ thuật, trong đó có binh chủng thiết giáp.
Tháng 8 năm 1956, 2 đoàn cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn cử đi Trung Quốc để đào tạo về tăng - thiết giáp. Đoàn thứ nhất gồm 55 người, do ông Đào Huy Vũ làm đoàn trưởng, học về chỉ huy kỹ thuật và xe tăng-thiết giáp. Đoàn thứ hai có 147 người, học kỹ thuật vận hành và đảm bảo kỹ thuật xe. Từ cuối tháng 7 năm 1959, các đoàn học viên lần lượt tập trung tại một doanh trại quân đội ở thành phố Quế Lâm (Quảng Tây, Trung Quốc). Tháng 8 năm 1959, gần 100 xe tăng T-34 đầu tiên được chuyển thuộc cho đoàn học viên xe tăng Việt Nam, đánh số từ 100 trở đi.
Cũng trong tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng một căn cứ huấn luyện xe tăng, lấy mật danh là Công trường 92, tại khu vực núi Đanh thuộc xã Kim Long, huyện tam đảo, tỉnh Vĩnh phú (nay thuộc huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc). Ngày 2 tháng 9 năm 1959, Thiếu tướng Trần Văn Quang, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam sang Trung Quốc thăm đoàn học viên và thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ra Nghị định số 449/NĐ, quyết định thành lập trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam mang phiên hiệu 202. Tuy nhiên, mãi 3 ngày sau, ngày 5 tháng 10 năm 1959, Bộ Quốc phòng mới ký quyết định thành lập một đơn vị thiết giáp cấp trung đoàn trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh, lấy phiên hiệu là Trung đoàn 202, mang mật danh H02, do Thiếu tá Đào Huy Vũ làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đặng Quang Long làm Chính ủy. Ngày 5 tháng 10 về sau trở thành ngày truyền thống của Binh chủng Tăng - Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau khi thành lập, Đoàn H02 lần lượt được đưa về nước, làm nòng cốt để tiếp tục huấn luyện theo thực tế trong nước. Ngày 13 tháng 7 năm 1960, những chiếc xe tăng T-34 và pháo tự hành SU-76 và một số xe chuyên dụng đã được chuyên chở bằng tàu hỏa từ Trung Quốc về tới Việt Nam. Đúng 17 giờ, những chiếc xe tăng T-34 do Liên Xô viện trợ đã được chuyển bằng xe lửa về tới ga Vĩnh Yên. 18 giờ 33 phút, chiếc xe tăng mang số hiệu 114 do trung sĩ Đào Văn Bàn điều khiển đã in vết xích đầu tiên trên mảnh đất Việt Nam.
Cũng trong năm 1960, một số đoàn học viên khác cũng được gửi đi Liên Xô để được đào tạo nâng cao và học về loại T-54 hiện đại hơn. Tuy nhiên, do những bất đồng chính trị, từ cuối năm 1964, Việt Nam không gửi các đoàn học viên sang học nữa.
Ngày 1 tháng 3 năm 1961, đại đội huấn luyện, mật danh C12, được thành lập để huấn luyện đào tạo cho Sư đoàn 308 một tiểu đoàn xe tăng với quân số 172 người, đào tạo cho Bộ 10 cán bộ, 150 thợ sửa chữa xe tăng, thiết giáp và 2 đại đội xe bọc thép với quân số 164 người.
Cuối tháng 3 năm 1961, Việt Nam tiếp nhận giúp Lào 44 xe tăng lội nước PT-76. Một lớp tập huấn gồm 26 cán bộ, chiến sĩ được các chuyên gia Liên Xô hướng dẫn sử dụng và bảo dưỡng, để sau đó bàn giao và huấn luyện lại cho quân đội Pathet Lào.
Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao gồm 19 xe PT-76, 11 xe T-54, 1 xe T-10, 4 xe dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34, 11 xe T-54, 31 xe PT-76. Lúc này, tổng số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại.
Ngày 22 tháng 6 năm 1965, trung đoàn xe tăng thứ hai được thành lập trên cơ sở các học viên từ Liên Xô về cùng với những chiếc T-54 được viện trợ, mang phiên hiệu 203. Bộ Tư lệnh Thiết giáp cũng được thành lập. Trung tá Đào Huy Vũ, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 202 được cử là Phó Tư lệnh, đảm nhận quyền Tư lệnh. Trung tá Lê Ngọc Quang được cử làm Chính ủy.
Quá trình chiến đấu
Cuối tháng 1 năm 1968, lực lượng tăng thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam tham chiến lần đầu tiên tại Trận Tà Mây (chiến dịch đường 9 - Khe Sanh). 20 giờ ngày 23-1-1968, bộ đội xe tăng với trang bị là xe tăng hạng nhẹ PT-76 đã chở bộ binh đánh thẳng vào bên trong cứ điểm Tà Mây, dùng hỏa lực đánh sập lô cốt, ụ súng, khiến quân địch tháo chạy. Ngày 7/2/1968, tại Trận Làng Vây, bộ đội tăng - thiết giáp với 14 xe PT-76 đã chi viện cho bộ binh tiêu diệt cứ điểm Làng Vây. Ngày 7/2 trở thành ngày kỷ niệm đánh thắng trận đầu của bộ đội Tăng thiết giáp.
Từ năm 1971 trở đi, các đơn vị xe tăng - thiết giáp dần phát triển, hình thành các đơn vị trực thuộc binh chủng và trực thuộc các quân khu, quân đoàn.
Trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, bộ đội Tăng thiết giáp với trang bị 88 xe tăng đã cùng các đơn vị bạn đập tan cuộc tấn công của địch, góp phần bảo vệ con đường vận chuyển chiến lược Đường mòn Hồ Chí Minh.
Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, với lực lượng khoảng 10 tiểu đoàn, trang bị 322 xe tăng, xe thiết giáp các loại, lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam đã tham gia nhiều chiến dịch, đánh 82 trận, vận dụng nhiều hình thức chiến thuật, phương pháp tác chiến và giành nhiều thành tích, tiêu diệt được hàng trăm xe tăng - xe thiết giáp và hàng nghìn bộ binh của địch.
Từ năm 1973 đến năm 1974, trên chiến trường Nam Bộ, bộ đội tăng thiết giáp đã tham gia 26 trận chiến đấu, bảo vệ vùng giải phóng và tuyến đường vận tải chiến lược 559 (Đường Hồ Chí Minh).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng tư lệnh đã huy động 398 xe tăng, thiết giáp (gồm cả vài chục xe chiến lợi phẩm vừa tịch thu được) tiến vào chiến đấu, dẫn đầu đội hình năm cánh quân giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đại đội trưởng đại đội xe tăng 4 Bùi Quang Thận đã cắm lá cờ chiến thắng trên nóc Dinh Độc Lập. Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng là người thay mặt Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam tiếp nhận sự đầu hàng của Tổng thống chế độ Sài Gòn Dương Văn Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tính chung từ năm 1968 cho đến hết năm 1975, bộ đội tăng thiết giáp đã tham gia chiến đấu trong 14 chiến dịch, 211 trận đánh. Thành tích được ghi nhận là đã diệt 2 vạn bộ binh, phá hủy gần 2.000 xe tăng - xe thiết giáp và 870 xe quân sự các loại; đánh sập 3.500 lô cốt, ụ súng và trận địa pháo; bắn chìm hoặc bắn cháy 18 tàu, xuồng chiến đấu; bắn rơi 35 máy bay các loại, hỗ trợ các đơn vị bạn thu giữ 1.672 xe tăng - xe thiết giáp, 250 súng cối và nhiều trang thiết bị quân sự của địch.
Ngày 20 tháng 10 năm 1976, Binh chủng Tăng Thiết giáp được Quốc hội và Chính phủ Việt Nam tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tính đến năm 2014, đã có 38 tập thể và 14 cá nhân thuộc Binh chủng được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Binh chủng Tăng thiết giáp còn được tặng thưởng 1 Huân chương Hồ Chí Minh, 1 Huân chương Sao vàng, 1 Huân chương độc lập hạng Nhất, 5 Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba và hàng nghìn lượt tập thể, cá nhân được tặng thưởng Huân, Huy chương các loại.
Lãnh đạo Binh chủng Tăng Thiết Giáp
Tư lệnh: Thiếu tướng Đỗ Đình Thanh
Chính ủy: Thiếu tướng Nguyễn Đức Dinh
Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng: Đại tá Hồ Viết Trương
Phó Tư lệnh: Đại tá Phan Hải Long
Phó Chính ủy: Đại tá Hoàng Văn Lợi
Cơ quan trực thuộc
Văn phòng
Thanh tra
Phòng Tài chính
Phòng Khoa học Quân sự
Ban Tổng kết
Phòng Điều tra hình sự
Cơ quan Ủy ban kiểm tra
Ban Kinh tế
Bộ Tham mưu
Cục Chính trị
Cục Hậu cần
Cục Kỹ thuật
Đơn vị cơ sở trực thuộc
Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp: Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Ngày truyền thống: 22 tháng 6 năm 1965
Trường Hạ sĩ quan Xe tăng 1: Long Thành, Đồng Nai. Ngày truyền thống: 01 tháng 9 năm 1972
Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng -Thiết giáp: Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Ngày truyền thống 01 tháng 5 năm 1976.
Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng -Thiết giáp (Khu B): Nho Quan, Ninh Bình.
Lữ đoàn Xe tăng 201 - Thị trấn Xuân Mai, thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1971.
Lữ đoàn Xe tăng 215 - thành lập ngày 10 tháng 4 năm 1973.
Lữ đoàn Tăng - Thiết giáp 202 - nhận bàn giao và sáp nhập nguyên trạng từ Quân đoàn 1 từ ngày 31/7/2023.
Chỉ huy, lãnh đạo binh chủng qua các thời kỳ
Tư lệnh Binh chủng
Chính ủy Binh chủng
Tham mưu trưởng Binh chủng
Trang thiết bị
Chú thích |
Edmund Strother Phelps (sinh ngày 26 tháng 7 năm 1933) là nhà kinh tế học người Mỹ, sinh ra tại gần Chicago tại Evanston, Illinois. Ông là giáo sư ngành kinh tế học của trường Đại học Columbia. Năm 2006, ông được Ngân hàng Thụy Điển trao tặng giải thưởng Tưởng nhớ về Alfred Nobel trong lĩnh vực Khoa học Kinh tế (thường được coi là Giải thưởng Nobel về kinh tế) do công trình nghiên cứu trong thập niên 1960 ở Đại học Yale về mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp. |
Panthalassa (tiếng Hy Lạp cổ: πᾶν "tất cả" và θάλασσα "đại dương"), còn gọi là đại dương Panthalassa, hay Toàn Đại Dương theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, là một đại dương rộng lớn bao quanh siêu lục địa Pangaea trong cuối đại Cổ Sinh và đầu đại Trung Sinh. Đại dương này bao gồm Thái Bình Dương (ngày nay) ở phía Tây và phía bắc cùng biển Tethys ở phía Đông Nam. Sau này Panthalassa đã trở thành Thái Bình Dương, hệ quả từ sự khép lại của lòng chảo Tethys và sự tan vỡ của lục địa Pangaea, vì lý do này nên Panthalassa còn thường được gọi là Cổ-Thái Bình Dương.
Trên bản đồ bên phải, đường xích đạo là đường đi qua (gần đúng) điểm mà tại đó các vùng đất thuộc các quốc gia/khu vực ngày nay là Tây Ban Nha, Maroc (Casablanca) và Boston giao nhau. Vùng đất rộng lớn ở phía Nam của đường xích đạo được gọi là Gondwana, còn vùng đất phía Bắc là Laurasia.
Hình thành
Khoảng 900 triệu năm trước, trong lòng Rodinia các vết rạn ba nhánh đã được hình thành và cuối cùng chúng phát triển thành một vết nứt lớn. Vào khoảng 800 đến 700 triệu năm trước, siêu lục địa Rodinia đã bị tách đôi. Đây là một trong những sự kiện tách ra đáng chú ý nhất trong lịch sử Trái Đất, do nó mở rộng Panthalassa về phía tây của Laurentia, một vùng đất với lớp vỏ tương đối im lìm và sau này trở thành Bắc Mỹ. Ở miền tây của Laurentia, các hoạt động kiến tạo trước khi diễn ra vết nứt lớn này đã sinh ra các vết nứt không thành (aulacogen) và chúng che giấu các lòng chảo trầm tích lớn ở miền tây Laurentia. Một đại dương với tên gọi là Mirovia, khi đó đang bao quanh Rodinia, đã bắt đầu bị co lại do các đại dương Pan-Africa và Panthalassa bắt đầu mở rộng. Vào khoảng 650- 550 triệu năm trước, một siêu lục địa khác được hình thành, đó là Pannotia, nó có hình dạng giống như chữ "V". Bên trong chữ "V" là Panthalassa, còn bên ngoài nó là đại dương Pan-Africa và phần còn sót lại của Mirovia.
Phần lớn lòng chảo đại dương và lớp vỏ đại dương của Panthalassa đã bị sụt xuống dưới mảng kiến tạo Bắc Mỹ và mảng kiến tạo Á-Âu. Các phần còn sót lại của mảng kiến tạo đại dương Panthalassa có thể là các mảng kiến tạo Juan de Fuca, Gorda, Cocos và Nazca, tất cả bốn mảng này đều là một phần của mảng kiến tạo Farallon. Thái Bình Dương đã ra đời từ Panthalassa sau khi siêu lục địa Pangaea bị tách ra. |
Bút bi (tiếng Pháp: bille), hay còn gọi là bút Bic (theo tên một công ty của Pháp, chuyên sản xuất bút là Société Bic), là một công cụ dùng để viết rất phổ biến ngày nay. Bút bi có chứa một ống mực đặc, khi viết, mực được in lên giấy nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ, với đường kính khoảng từ 0.5 đến 1.2mm gắn nơi đầu ống chứa mực. Kim loại dùng cho đầu bi thường là thép, đồng thau, hoặc tungsten carbide. Nó được hình thành và phát triển như là một giải pháp dùng để viết một cách sạch sẽ hơn bút chấm mực và bút máy, và bây giờ nó đang là dụng cụ dùng để viết phổ biến nhất thế giới với hàng triệu sản phẩm được bán ra mỗi ngày. Kết quả là bút bi đã ảnh hưởng đến nghệ thuật và thiết kế đồ hoạ và sinh ra một thể loại nghệ thuật vẽ bằng bút bi.
Bic Cristal là loại bút bi dùng một lần phổ biến, có thiết kế được công nhận trong bộ sưu tập vĩnh viễn của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, New York.
Lịch sử
Khởi đầu
Khái niệm sử dụng một hòn bi trong một dụng cụ viết như một phương pháp áp dụng mực in vào giấy đã tồn tại từ cuối thế kỷ XIX. Trong những phát minh này, mực được đặt trong một ống mỏng, ở đầu bị chặn bởi một bi nhỏ, được đặt để nó không thể trượt vào trong ống hoặc rơi ra khỏi bút.
Bằng sáng chế đầu tiên cho một cây bút bi được công nhận vào ngày 30 tháng 10 năm 1888 với tác giả là John J. Loud, người đã tạo ra một công cụ viết có thể viết "trên bề mặt thô, chẳng hạn như gỗ, giấy gói thô và các sản phẩm khác " mà những chiếc bút thông thường không thể làm được. Bút của Loud có một bi thép nhỏ, được giữ chặt bằng khung thép. Mặc dù nó có thể được sử dụng để đánh dấu trên các bề mặt thô như da, nhưng nó quá thô để có thể viết chữ. Do không được thương mại hóa, tiềm năng bút của Loud đã không được khai thác và bằng sáng chế cuối cùng đã hết thời hạn bản quyền.
Việc sản xuất các bút bi rẻ tiền, đáng tin cậy như bây giờ đã xuất phát từ các thử nghiệm, phát triển của hóa học hiện đại và khả năng sản xuất chính xác vào đầu thế kỷ 20. Các bằng sáng chế được đăng ký trên toàn thế giới trong quá trình phát triển sơ khai của bút bi là những bằng chứng cho những nỗ lực thành công trong việc làm cho những chiếc bút bi trở nên hiệu quả về mặt thương mại và được dùng phổ biến. Các bút bi ban đầu cung cấp mực không đều; tràn mực và tắc mực là một trong những trở ngại mà các nhà phát minh phải xử lý để phát triển bút bi. Nếu khe bi quá chặt, hoặc mực quá đặc, mực sẽ không chạm tới giấy. Nếu khe bi quá lỏng, hoặc mực quá loãng, bút sẽ bị rỉ mực hoặc mực sẽ nhòe. Các ống chứa mực nén đã trải qua các phương pháp dùng áp lực bằng piston, lò xo, mao dẫn, và lực hấp dẫn như là những giải pháp cho các vấn đề phân phối và điều chỉnh lưu lượng mực.
László Bíró, một biên tập viên tờ báo người Hungary (sau này nhập quốc tịch Argentina) thất vọng vì thời gian lãng phí đổ đầy bút máy và làm sạch các trang bị nhòe, đã để ý rằng, loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, nhờ đó giấy không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra một loại bút sử dụng loại mực giống như vậy. Bíró đã tranh thủ sự giúp đỡ của anh trai Győrgy, một nha sĩ có kiến thức hữu ích về hóa học, để phát triển công thức mực nhớt cho các thiết kế bút bi mới.
Cải tiến của Bíró đã kết hợp thành công độ nhớt của mực với cơ chế hốc bi hoạt động tương thích để ngăn mực khô bên trong bình chứa đồng thời cho phép dòng chảy mực có thể kiểm soát được. Bíró đã nộp bằng sáng chế này tại Anh vào ngày 15 tháng 6 năm 1938.
Năm 1941, anh em nhà Bíró và một người bạn, Juan Jorge Meyne, trốn khỏi Đức và chuyển đến Argentina, nơi họ thành lập "Bíró Pens of Argentina" và nộp bằng sáng chế mới vào năm 1943. Cây bút của họ đã được bán ở Argentina với tên gọi "Birome" từ tên Bíró và Meyne, đó là cách mà bút bi vẫn được biết đến ở quốc gia đó. Thiết kế mới này đã được cấp phép bởi người Anh, mà đã sản xuất bút bi cho phi hành đoàn RAF với tên gọi "Biro". Bút bi này được cho là linh hoạt hơn bút máy, đặc biệt là ở độ cao trên máy bay, nơi bút máy dễ bị chảy mực.
Bằng sáng chế của Bíró, và các bằng sáng chế ban đầu khác về bút bi, thường sử dụng thuật ngữ "bút máy bi" - "ball-point fountain pen". ]
Phát triển sau chiến tranh
Sau Thế chiến II, nhiều công ty đã cố gắng để sản xuất ra thiết kế bút bi của mình. Trong thời kỳ hậu chiến tranh Argentina, thành công của bút Birome rất hạn chế, nhưng vào giữa năm 1945, Công ty Eversharp, nhà sản xuất bút chì cơ khí, đã hợp tác với Eberhard Faber Co. để cấp phép cho Birome bán hàng tại Hoa Kỳ.
Vào khoảng thời gian này, một nhà kinh doanh người Mỹ tên là Milton Reynolds thấy một chiếc bút bi Bíró được trưng bày tại Buenos Aires. Ông mua vài mẫu bút rồi quay về Hoa Kỳ rồi thành lập Công ty Reynolds International Pen để sản xuất bút với nhãn hiệu là Reynolds Rocket. Reynolds bỏ qua bằng phát minh bút Biro với hàng loạt cải tiến về thiết kế để có được bằng phát minh cho riêng ông tại Mỹ. Cuối năm 1945, công ty này chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ trước Eversharp và các công ty cạnh tranh khác. Ngày 29 tháng 10 năm 1945, chiếc bút bi đầu tiên được bán tại khu trưng bày Gimbel, New York với giá mỗi chiếc là 12,50 đôla Mỹ thời đó (bằng khoảng 130 đôla Mỹ ngày nay). Reynolds Rocket trở thành loại bút bi thành công đầu tiên về mặt thương mại. Reynolds đã nỗ lực rất nhiều để bán bút bi, với thành công lớn; Gimbel đã bán được hàng ngàn chiếc bút bi trong vòng một tuần. Tại Anh, công ty bút Miles Martin đã sản xuất bút bi thành công thương mại đầu tiên vào cuối năm 1945.
Bút bi của Reynolds và của Eversharp đã không đáp ứng được kỳ vọng của người tiêu dùng ở Mỹ. Doanh số bán bút đạt đỉnh điểm vào năm 1946, và sự quan tâm của người tiêu dùng sau đó đã giảm xuống do thị trường đã bão hòa. Vào đầu những năm 1950, cơn bão bút bi đã giảm sút và công ty của Reynolds phải đóng cửa.
Bút bi Paper Mate, một trong số những thương hiệu nổi tiếng của những năm 1950, đã mua bản quyền phân phối bút bi của mình ở Canada. Đối mặt với sự lo lắng về độ tin cậy của mực, Paper Mate đã đi tiên phong trong công thức mực in mới và quảng cáo chúng như là "sản phẩm được các chủ ngân hàng chấp thuận". Năm 1954, Parker Pens tung ra sản phẩm The Jotter— sản phẩm bút bi đầu tiên của công ty với các tính năng phụ trội và công nghệ hiện đại như sử dụng tungsten carbide làm vật liệu chế tạo khung bi. Trong chưa đầy một năm, Parker đã bán được vài triệu cây bút bi với giá từ ba đến chín đô la Mỹ. Vào thập niên 1960 công ty thua lỗ Eversharp đã phải bán mảng bút bi cho Parker và cuối cùng đóng cửa.
Marcel Bich cũng giới thiệu một loại bút bi vào thị trường Mỹ vào những năm 1950, được cấp phép từ Bíró và dựa trên mẫu thiết kế của Argentina. Bích rút gọn tên của chính ông thành thương hiệu Bic năm 1953, và đây trở thành thương hiệu bút bi được biết đến trên toàn cầu hiện nay. Bút Bic vật lộn trên thị trường cho đến khi công ty đưa ra chiến dịch quảng cáo "Viết lần đầu tiên, cũng như mọi lần!" trong những năm 1960. Sự cạnh tranh trong giai đoạn này khiến cho giá bút bi giảm đáng kể.
Phân loại
Có hai loại bút bi chính: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực.
Loại dùng một lần chủ yếu được làm từ nhựa dẻo hay nhựa cứng và bỏ đi khi dùng hết mực. Có thể có nắp bút để bọc đầu bi lại khi không dùng, hoặc dùng cơ chế lò xo để đẩy đầu bi ra.
Loại có thể nạp lại mực thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng cao và có giá thành cao hơn. Ống mực và đầu bi của loại nạp lại được gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này.
Bút rollerball sử dụng cùng một cấu tạo cơ học như bút bi, nhưng sử dụng các loại mực nước thay vì mực có nguồn gốc từ dầu. So với các bút bi mực dầu, bút rollerball được cho là cung cấp lượng mực chảy nhiều hơn, nhưng mực nước sẽ bị thấm nước nếu giữ nguyên đầu bi không đổi trên bề mặt viết. Các loại mực nước cũng được giữ ẩm lâu hơn khi mới sử dụng và do đó có xu hướng "bôi bẩn" - gây phiền toái cho người thuận tay trái (hoặc người thuận tay phải viết từ phải sang trái - và bị nhòe chữ nếu bề mặt giấy bị ướt).
Do bút bi phụ thuộc vào trọng lực để làm ướt bi bằng mực, hầu hết bút bi không thể dùng để viết ngược chiều trọng lực. Tuy nhiên, công nghệ được Fisher phát triển ở Hoa Kỳ cho phép sản xuất loại bút được gọi là "Bút không gian Fisher]]". Bút không gian kết hợp một loại mực in có độ nhớt cao hơn với một hộp chứa mực in được nén lại đẩy mực tiến về đầu bi. Không giống như các bút bi tiêu chuẩn, phần đuôi cuối của bút này có một bình chứa khí nén được niêm phong, loại bỏ sự bay hơi và rò rỉ khí, do đó cho phép bút viết ngược với trọng lực, trong môi trường không trọng lực, và cả dưới nước. Các phi hành gia đã sử dụng những chiếc bút này trong không gian vũ trụ.
Bút bi với mực in có thể xóa được do công ty bút viết Paper Mate làm ra đầu tiên. Các công thức mực của các bút bi có khả năng xóa được có các tính chất tương tự như xi măng cao su, cho phép mực được lau sạch sẽ khỏi bề mặt giấy trước khi sấy và cuối cùng trở thành vĩnh viễn. Mực có thể xóa đặc hơn nhiều so với các loại mực tiêu chuẩn, đòi hỏi hộp mực phải được nén lại - nghĩa là các loại bút bi này cũng có thể viết ngược với trọng lực. Mặc dù những chiếc bút này có tẩy đi kèm, bất kỳ loại tẩy nào cũng có thể dùng để xóa chữ nó viết ra.
Bút bi rẻ tiền dùng một lần "Bic Cristal" (tên khác bút Bic hoặc Biro) là loại bút bi được bán nhiều nhất trên thế giới. Loại bút bi này là sản phẩm đầu tiên của công ty "Bic" và đến nay vẫn đồng nghĩa với tên công ty. Bút bi "Bic Crystal" là một phần của kho sưu tập bút vĩnh viễn tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở Thành phố New York, được ghi nhận do kiểu dáng công nghiệp.
Cấu tạo
Cấu tạo
Bút bi có cấu tạo 3 phần cơ bản là vỏ, ruột và bộ phận điều chỉnh bút. Vỏ thường được làm bằng chất liệu nhựa tổng hợp, nhẹ và cứng để bảo vệ phần ruột bút bên trong. Vỏ bút có hình trụ thuôn dài thường từ 14–15 cm; trên thân của vỏ bút có thể đơn giản là in tên nhà sản xuất hoặc cầu kì hơn là in những họa tiết bắt mắt từ dễ thương đến sang trọng để phù hợp với nhiều đối tượng sử dụng khác nhau. Ruột bút bao gồm phần ống mực và đầu bi. Phần ống mực thuôn dài, nhỏ hơn vỏ bút và nằm trọn trong vỏ bút; được làm bằng nhựa dẻo, rỗng bên trong, là nơi để chứa mực. Đầu bi hay ngòi bút được làm bằng kim loại không gỉ.Trên đỉnh của nó là một viên bi cũng làm bằng kim loại. Viên bi này khi viết sẽ giúp cho mực được ra đều hơn. Độ thanh hay đậm của nét bút là do kích thước của viên bi này. Kích thước của viên bi thường từ 0.5 đến 1.0 mm .Bộ phận điều chỉnh của bút để hoàn thiện cây bút có thể là phần bấm và lò xo, ngoài ra còn có thể có nắp, v.v…
Mực
Mực bút bi thường là một loại bột nhão chứa khoảng 25-40% thuốc nhuộm. Các thuốc nhuộm được đình chỉ trong một dung môi "dầu". Các loại dầu phổ biến nhất là rượu benzyl hoặc phenoxyethanol, trộn với thuốc nhuộm để tạo ra một hỗn hợp mịn có khả năng khô nhanh chóng. Thuốc nhuộm được sử dụng trong bút bi màu xanh và đen là thuốc nhuộm cơ bản dựa trên thuốc nhuộm triarylmethane và axit có nguồn gốc từ các hợp chất diazo hoặc phthalocyanine. Thuốc nhuộm phổ biến trong mực xanh lam (và đen) là xanh Phổ, xanh Victoria, tím methyl, tím pha lê và xanh phthalocyanine. Thuốc nhuộm eosin thường được sử dụng cho mực đỏ.
Các loại mực trên có khả năng chống nước sau khi sấy khô nhưng có thể bị mất màu vì một số dung môi bao gồm acetone và các loại rượu khác nhau.
Phương tiện nghệ thuật
Bút bi đã được chứng minh là một phương tiện nghệ thuật linh hoạt cho các nghệ sĩ chuyên nghiệp cũng như những người vẽ nguệch ngoạc nghiệp dư. Chi phí thấp, tính sẵn có và tính di động được các học viên coi là những phẩm chất làm cho công cụ viết thông thường này trở thành một nguồn cung cấp nghệ thuật thay thế, tiện lợi. Một số nghệ sĩ sử dụng chúng trong các tác phẩm đa phương tiện, trong khi những nghệ sĩ khác chỉ sử dụng chúng như một phương tiện mà họ lựa chọn.
Các hiệu ứng thường không liên quan đến bút bi có thể vẽ được bằng bút bi. Các kỹ thuật dùng bút mực truyền thống như chấm làm dày nét và gạch chéo có thể được sử dụng để tạo ra nửa tông màu hoặc ảo giác về hình thức và khối lượng. Đối với những nghệ sĩ có sở thích đòi hỏi sự chính xác của đường nét, bút bi là một điểm thu hút hiển nhiên; bút bi cho phép các đường nét không được vẽ hiệu quả nếu sử dụng bút lông. Được áp dụng một cách khéo léo, hình ảnh bút bi vẽ ra đã bị nhầm với tác phẩm nghệ thuật được vẽ bằng bút lông hoặc tác phẩm nhiếp ảnh, gây ra phản ứng không thể tin nổi mà nghệ sĩ bút bi Lennie Mace gọi là "Yếu tố Wow".
Các nghệ sĩ nổi tiếng của thế kỷ 20 như Andy Warhol, và những người khác, đã sử dụng bút bi ở một mức độ nào đó trong sự nghiệp của họ. Tác phẩm nghệ thuật bằng bút bi tiếp tục thu hút sự quan tâm trong thế kỷ 21, với việc các nghệ sĩ đương đại được công nhận về cách sử dụng bút bi cụ thể của họ; về trình độ kỹ thuật, trí tưởng tượng và sự đổi mới của họ. Nghệ sĩ người Mĩ gốc Hàn Il Lee đã tạo ra các tác phẩm nghệ thuật trừu tượng quy mô lớn, chỉ bằng bút bi từ cuối những năm 1970. Từ những năm 1980, Lennie Mace tạo ra các tác phẩm nghệ thuật chỉ bằng bút bi, giàu trí tưởng tượng với nhiều nội dung và độ phức tạp khác nhau, được áp dụng cho các bề mặt độc đáo bao gồm gỗ và denim. Nghệ sĩ này đã đặt ra các thuật ngữ như "PENtings" và "Media Graffiti" để mô tả các tác phẩm đa dạng của mình. Gần đây hơn, nghệ sĩ người Anh James Mylne đã tạo ra các tác phẩm nghệ thuật như ảnh thực tế bằng cách sử dụng chủ yếu là bút bi màu đen, đôi khi với màu sắc hỗn hợp tối thiểu.
Sử dụng bút bi để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật không phải là không có giới hạn. Tính khả dụng của màu sắc và độ nhạy của mực với ánh sáng là một trong những mối quan tâm của các nghệ sĩ bút bi. Sai lầm gây ra rủi ro lớn hơn cho các nghệ sĩ dùng bút bi; một khi một dòng được vẽ, nó thường không thể bị xóa. Ngoài ra, việc "loang lổ" mực trên bề mặt bản vẽ và "chảy" mực cần phải cân nhắc khi sử dụng bút bi cho mục đích nghệ thuật. Mặc dù cơ chế của bút bi vẫn tương đối thay đổi, nhưng thành phần mực đã phát triển để giải quyết một số vấn đề nhất định trong những năm qua, dẫn đến độ nhạy sáng không thể đoán trước và một số mức độ phai màu.
Ngoài ra, bút bi còn có thể quay nhờ việc thao tác nó bằng ngón tay hay cả bàn tay. Hình thức giải trí này phổ biến từ ít nhất là những năm 1970 cho đến nay, từ trường học, công sở cho đến cả hội nghị, từ thế giới cho đến Việt Nam. Tuy nhiên, thao tác quay bằng bút bi chỉ có thể tạo ra được những kĩ thuật cơ bản, trong bộ môn Quay Bút Nghệ Thuật, bút bi còn được chỉnh sửa, lắp ráp lại từ những cây bút bi ( hoặc bút chì và cả bút lông ) khác để thuận tiện cho thao tác quay hơn.
Sản xuất
Mặc dù thiết kế và cấu tạo khác nhau giữa các thương hiệu, nhưng các thành phần cơ bản của tất cả các loại bút bi là giống nhau. Các thành phần tiêu chuẩn của đầu bút bi bao gồm bản thân "viên bi" quay tự do (phân phối mực trên bề mặt viết), "ổ bi" giữ bi tại chỗ, "kênh mực" nhỏ cung cấp mực cho bi qua ổ bi, và một "bể chứa mực" khép kín cung cấp mực cho viên bi. Trong các loại bút dùng một lần hiện đại, các ống nhựa hẹp chứa mực, và mực bị trọng lực ép xuống viên bi. Đồng thau, thép hoặc carbide wolfram được sử dụng để sản xuất các điểm giống như ổ bi, sau đó được đặt trong một ổ bi bằng đồng.
Chức năng của các thành phần này có thể được so sánh với đầu bôi bóng của lọ bôi chống côn trùng; cùng một công nghệ nhưng lọ bôi chống côn trùng có quy mô lớn hơn. Đầu bút bi đưa mực đến bề mặt viết đồng thời hoạt động như một "bộ đệm" giữa mực trong ngăn chứa và không khí bên ngoài, ngăn mực nhanh khô bên trong ngăn chứa. Các bút bi hiện đại được cho là có thời hạn sử dụng trung bình trong hai năm.
Đầu bút bi có thể viết thoải mái trong thời gian dài không dễ sản xuất vì nó đòi hỏi máy móc có độ chính xác cao và các tấm hợp kim thép cao cấp mỏng. Trung Quốc sản xuất khoảng 80% số bút bi trên thế giới, dựa vào số lượng đầu bút bi và hợp kim kim loại nhập khẩu trước năm 2017.
Bút bi thông thường là sản phẩm được sản xuất hàng loạt, với các linh kiện rời được sản xuất riêng biệt trên dây chuyền lắp ráp. Các bước cơ bản trong quy trình sản xuất bao gồm sản xuất mực, đúc các thành phần kim loại và nhựa, và lắp ráp thành bút bi. Marcel Bich đã tham gia vào việc phát triển sản xuất bút bi rẻ tiền. |
Phân quyền tài chính là việc chính quyền trung ương chuyển giao các nhiệm vụ chi và nguồn thu ngân sách cho các cấp chính quyền địa phương.
Khái quát
Phân quyền tài chính ở mặt chi là việc chuyển giao quyền thiết kế và sản xuất các hàng hoá công cộng từ chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương. Song không phải hàng hoá công cộng nào cũng có thể chuyển giao, mà chỉ những hàng hoá chuẩn công cộng thôi- chẳng hạn như giáo dục, y tế. Còn các hàng hoá công cộng thuần túy như quốc phòng, ngoại giao sẽ vẫn phải do trung ương nắm giữ, và gọi là hàng hoá công cộng quốc gia.
Phân quyền tài chính ở mặt thu là trả quyền thu các sắc thuế địa phương cho địa phương. Một sắc thuế địa phương tốt cần thoả mãn các nguyên tắc của sắc thuế nói chung và các nguyên tắc riêng của thuế địa phương. Có ba nguyên tắc chung về thuế. Đó là công bằng, trung lập và đơn giản. Bốn nguyên tắc riêng của thuế địa phương bao gồm nguồn thu ổn định, phân bố đồng đều giữa các địa phương, cơ sở thuế phải bất biến, và địa phương phải có trách nhiệm tài chính.
Tại sao phân quyền tài chính lại cần thiết
Phân quyền tài chính là cần thiết vì nếu phân quyền tài chính tốt sẽ đạt được hiệu quả cao trong quản lý tài chính ngân sách địa phương cũng như quốc gia. Có rất nhiều lý luận về phân quyền tài chính cho thấy phân quyền tài chính có thể nâng cao hiệu quả thông qua: (i) phân bổ nguồn lực tốt hơn; và (ii) tạo ra sự cạnh tranh giữa các chính quyền địa phương. Lý luận "bỏ phiếu bằng chân" của Charles M. Tiebout chỉ ra rằng phân quyền tài chính sẽ đưa đến cạnh tranh giữa các chính quyền, nên các chính phủ địa phương buộc phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Còn định lý phân quyền của Wallace E. Oates thì tuyên bố rằng phân quyền tài chính sẽ khiến cho phân bổ nguồn lực tốt hơn vì chính quyền địa phương có đủ thông tin hơn, do đó hiệu quả tài chính cũng được cải thiện.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, những lý luận nói trên hoàn toàn mang tính chuẩn tắc. Trong thực tế, phân quyền tài chính diễn ra có thể vì nhiều lý do, trong đó lý do hay thấy nhất là các nước cần tiến hành phân quyền chính trị và phân quyền hành chính, nên kèm theo đó phải tiến hành cả phân quyền tài chính.
Những lợi ích của phân quyền tài chính
Tăng phúc lợi xã hội
Khi chuyển từ chế độ tập quyền tài chính sang chế độ phân quyền tài chính, tất cả các địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc gia đều tăng được phúc lợi kinh tế. Lý do là chính quyền trung ương chỉ nắm được những thông tin chung về lượng cầu của dân, nên có xu hướng cung ứng các hàng hóa công cộng địa phương với số lượng giống nhau cho tất cả các địa phương, gây ra tình trạng cung ứng thừa ở địa phương này và cung ứng thiếu ở địa phương khác. Trong khi ấy, chính quyền địa phương do gần dân hơn nên nắm chính xác hơn chủng loại và lượng cầu hàng hóa công cộng địa phương ở khu vực do mình quản lý, nên sẽ cung ứng đúng và đủ.
Cạnh tranh thành tích
Trong phạm vi quyền hạn được phân, các chính quyền địa phương sẽ cố gắng đưa ra những chính sách kinh tế tốt nhất nhằm nâng cao thành tích của mình trong con mắt người dân- những người sẽ so sánh chính quyền nơi mình sống với chính quyền nơi khác thông qua những thành tích của các chính quyền. Có thể gọi đây là cuộc cạnh tranh thành tích giữa các chính quyền địa phương.
Nâng cao trách nhiệm tài chính
Trong chế độ tập quyền tài chính, chính quyền trung ương là người cung ứng các hàng hoá công cộng cho một địa phương nào đó và họ có thể có những lợi ích nhất định. Những lợi ích này có thể có được thông qua sử dụng sai mục đích các khoản tài chính được cấp để thực hiện các nhiệm vụ chi nói trên, hay cũng có thể là lợi ích do không phải lao tâm khổ tứ để chống thất thoát tài chính trong quá trình cung ứng hàng hoá công cộng. Lúc ấy, lượng cung ứng hàng hoá công cộng sẽ giảm do nguồn tài chính ít đi. Tuy nhiên, điều này không khiến cho chính quyền bị "kỷ luật" trong những lần bầu cử người đứng đầu chính quyền vì nếu dân địa phương nơi hàng hoá công cộng bị cung ứng ít đi không bầu cho họ thì dân địa phương nơi khác vẫn có thể bầu.
Còn trong chế độ phân quyền tài chính, hàng hoá công cộng địa phương do chính quyền địa phương cung ứng. Nếu họ thiếu trách nhiệm tài chính dẫn tới cung ứng không đủ hàng hoá công cộng, thì nhân dân của họ sẽ kỷ luật họ (không bầu cho họ) trong lần bầu cử tới. Vì thế, phân quyền tài chính sẽ nâng cao được trách nhiệm tài chính của chính quyền.
Những cái giá của phân quyền tài chính
Trong khi có nhiều lý luận ủng hộ các nhà nước nên đẩy mạnh phân quyền tài chính vì có nhiều cái lợi như trình bày ở trên, thì lại có không ít lý luận cho rằng cần phải thận trọng khi tiến hành phân quyền tài chính vì có những tác động tài chính ngoại lai bất lợi. Phân quyền tài chính ở mặt thu có thể làm nảy sinh một số bất lợi đối với nền tài chính và ngân sách của quốc gia cũng như của địa phương, trong đó đáng chú ý nhất là vấn đề cạnh tranh thuế theo chiều ngang, cạnh tranh thuế theo chiều dọc, và xuất khẩu thuế.
Cạnh tranh thuế theo chiều ngang
Giả định rằng môi trường kinh tế giữa các địa phương là giống nhau, chỉ có chính sách thuế là khác nhau và được hoạch định độc lập nhưng lại có tác động đến địa phương khác. Để đảm bảo đủ thu ngân sách. các chính quyền địa phương sẵn sàng đánh thuế vào các hoạt động kinh tế (các cơ sở thuế) có khả năng di chuyển qua lại giữa các địa phương. Chính ý đồ này đã dẫn các địa phương đến chỗ cạnh tranh thuế theo chiều ngang, đua nhau giảm thuế suất để thu hút các cơ sở thuế vào địa phương mình.
Một ví dụ dễ thấy nhất về cạnh tranh thuế theo chiều ngang là cạnh tranh thuế pháp nhân. Nếu tất cả các địa phương đều tham gia vào cuộc cạnh tranh không hợp tác kiểu này, thì từng địa phương sẽ chẳng những không được lợi gì vì chưa chắc đã thu hút thêm được cơ sở thuế về địa phương mình mà còn bị thiệt hại về tài chính do thuế suất giảm dẫn tới tổng nguồn thu giảm. Tài chính quốc gia cũng vì thế mà thất thu và lượng cung ứng hàng hoá công cộng sẽ ít đi.
Nếu các địa phương có cơ cấu kinh tế không giống nhau, cạnh tranh thuế có thể dẫn đến việc các hoạt động kinh tế sẽ đổ về những địa phương có thuế suất thấp chứ không phải về những địa phương có năng suất lao động cao. Điều này sẽ bóp méo chức năng phân bổ nguồn lực, làm cản trở sản xuất và phát triển kinh tế.
Cạnh tranh thuế theo chiều dọc
Nếu như cạnh tranh thuế theo chiều ngang dẫn đến cuộc chạy đua giảm thuế suất quá mức, thì cạnh tranh thuế theo chiều dọc lại dẫn đến tình trạng cùng một cơ sở thuế lại phải chịu thuế suất quá cao.
Cạnh tranh thuế theo chiều dọc giữa trung ương và địa phương chỉ xảy ra khi có chuyện đánh thuế hai lần bởi cả trung ương lẫn địa phương vào cùng một cơ sở thuế. Điều này gọi là "đánh thuế hai lần". Do cơ sở thuế giống như một mảnh đất công mà ai cũng có thể lợi dụng, nên các bên đều ra sức tăng thuế suất, khiến cho thuế suất thực tế mà cơ sở thuế phải chịu trở nên quá cao. Có thể gọi đây là một "bi kịch của mảnh đất công", nghĩa là bị khai thác đến kiệt quệ.
Xuất khẩu thuế
Khi cung ứng một hàng hoá công cộng nào đó mang lại lợi ích cho dân địa phương của mình, chính quyền địa phương có thể khiến dân địa phương khác phải chịu một phần chi phí để cung ứng hàng hoá đó (tức là thuế). Hiện tượng này gọi là xuất khẩu thuế. Những thuế có thể xuất khẩu này thường là các sắc thuế theo chủ nghĩa đánh thuế theo nguồn gốc. Khi giữa các chính quyền địa phương có thể có cạnh tranh hoàn hảo và các yếu tố sản xuất bị đánh thuế di chuyển qua lại giữa các địa phương, hiện tượng xuất khẩu thuế sẽ xảy ra.
Xuất khẩu thuế đồng nghĩa với việc người được hưởng lợi từ tiêu thụ hàng hoá công cộng và người nộp thuế để chính quyền địa phương có nguồn tài chính cho việc sản xuất hàng hoá công cộng không phải là một. Điều đó có nghĩa là có sự vi phạm nguyên tắc công bằng về thuế. Một hậu quả khác của xuất khẩu thuế là nhân dân địa phương sẽ nhận thấy mình không phải gánh chịu chi phí thuế, nên tự nhiên động cơ giám sát và kỷ luật hoạt động tài chính của chính quyền địa phương sẽ mất đi. Điều này có thể làm cho chính quyền địa phương thiếu trách nhiệm tài chính. |
Kỷ Ordovic (phiên âm tiếng Việt: Ocđôvic) là kỷ thứ hai trong số sáu (bảy tại Bắc Mỹ) kỷ của đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và ngay sau nó là kỷ Silur. Kỷ Ordovic, được đặt tên theo tên gọi của một bộ lạc người đã từng sinh sống tại vùng đất thuộc Wales (Xứ Uên/Xứ Gan) ngày nay, có tên gọi là Ordovices (Ordowik). Nó được Charles Lapworth đưa ra năm 1879 để giải quyết các tranh cãi giữa những người theo trường phái của Adam Sedgwick với những người theo trường phái của Roderick Murchison (hai người này đã xếp đặt cùng các tầng đá ở miền bắc Wales vào các kỷ Cambri và Silur). Lapworth nhận ra rằng các hóa thạch động vật trong các địa tầng đang tranh cãi khi đó là khác hẳn với các hóa thạch tại các địa tầng thuộc kỷ Cambri cũng như thuộc kỷ Silur và ông cho rằng chúng phải được xếp đặt lại trong một kỷ riêng dành cho chính chúng.
Trong khi việc thừa nhận kỷ Ordovic diễn ra tại Vương quốc Anh khá chậm chạp thì tại các khu vực khác trên thế giới người ta lại chấp nhận nó khá nhanh chóng. Nó nhận được sự phê chuẩn quốc tế vào năm 1906, khi nó được Đại hội Địa chất Quốc tế chấp nhận coi là một kỷ chính thức của đại Cổ Sinh.
Niên đại
Kỷ Ordovic bắt đầu với một sự kiện tuyệt chủng nhỏ vào khoảng 485,4 ± 1,9 triệu năm trước (Ma) và kéo dài trong khoảng 41,2 triệu năm. Nó kết thúc bằng một sự kiện tuyệt chủng lớn vào khoảng 443,8 ± 1,5 Ma, với sự tuyệt diệt của khoảng 60% các chi sinh vật biển. A. Melott và những người khác (2006) đã đặt ra giả thuyết là một vụ bùng nổ bức xạ gamma kéo dài khoảng 10 giây có thể là nguyên nhân cho sự tuyệt chủng này, do nó tiêu hủy tầng ôzôn và làm cho các sinh vật sống trên mặt đất cũng như gần mặt biển bị phơi nhiễm phóng xạ; tuy nhiên, phần lớn các nhà khoa học khác vẫn tiếp tục cho rằng sự kiện tuyệt chủng này là phức tạp với nhiều nguyên nhân khác nhau. Niên đại đưa ra tại đây là niên đại xác định theo các phương pháp đo phóng xạ gần đây và nó có thể khác biệt không lớn với các niên đại được sử dụng trong các nguồn khác.
Các tầng đá thuộc kỷ Ordovic chứa một lượng lớn hóa thạch và chứa các bể dầu mỏ cùng hơi đốt chính ở một số khu vực.
Phân chia
Một loạt các thuật ngữ khu vực đã từng được sử dụng để phân chia kỷ/hệ Ordovic. Năm 2008, ICS đã đề ra hệ thống quốc tế chính thức các tên gọi cho các đơn vị phân chia thời địa tầng cho hệ Ordovic, được minh họa trong bảng dưới đây. Tồn tại các hệ thống sắp xếp địa tầng khu vực Baltic-Scandinavia, Anh, Siberi, Bắc Mỹ, Australia, Trung Quốc, Địa Trung Hải và Bắc Gondwana.
Cổ địa lý học
Trong kỷ Ordovic thì mực nước biển là khá cao; trên thực tế trong thế Tremadoc thì biển lấn đất liền là mạnh nhất với các chứng cứ còn lưu lại dấu tích trong các lớp đá.
Thời kỳ này thì các lục địa phía nam đã hợp lại thành một lục địa duy nhất, gọi là Gondwana. Vào đầu kỷ Ordovic thì lục địa này nằm ở các vĩ độ gần xích đạo và dần dần trôi dạt xuống Nam cực. Thời kỳ Tiền Ordovic được cho là rất ấm, ít nhất là tại các vĩ độ thuộc miền nhiệt đới. Giống như Bắc Mỹ và châu Âu, Gondwana chủ yếu được các biển nông bao bọc trong suốt kỷ Ordovic.Các vùng nước nông và trong suốt trên các thềm lục địa đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các nhóm sinh vật có khả năng tích tụ cacbonat calci trong lớp mai (vỏ) hay các phần cứng của chúng. Đại dương Panthalassa bao phủ phần lớn Bắc bán cầu, các đại dương/biển nhỏ khác như Proto-Tethys, Paleo-Tethys, Khanty (chúng đã bị khép lại vào cuối kỷ Ordovic), đại dương Iapetus và một đại dương mới là Rheic.
Các loại đá thuộc kỷ Ordovic chủ yếu là đá trầm tích. Do diện tích và cao độ của khu vực đất liền là hạn chế nên nó đã hạn chế hiện tượng xói mòn và vì thế các trầm tích biển chủ yếu là chứa đá vôi. Các trầm tích đá phiến sét và sa thạch thì ít hơn.
Hiện tượng kiến tạo núi chính trong kỷ này là kiến tạo núi Taconic đã diễn ra từ thời gian thuộc kỷ Cambri.
Vào cuối kỷ Ordovic thì Gondwana đã trôi dạt tới gần Nam cực và bề mặt của nó phần lớn bị đóng băng.
Sinh vật
Động vật
Tại Bắc Mỹ và châu Âu, kỷ Ordovic là thời gian của các biển cạn rất giàu sự sống. Cụ thể là các loài bọ ba thùy (ngành Trilobita) và động vật tay cuốn (ngành Brachiopoda) đã rất nhiều và đa dạng. Những động vật hình rêu (ngành Bryozoa) đầu tiên đã xuất hiện trong kỷ Ordovic cũng giống như là các loài san hô (lớp Anthozoa) tạo đá ngầm đầu tiên. Các loại san hô đơn độc thì đã xuất hiện ít nhất là từ kỷ Cambri. Động vật thân mềm (ngành Mollusca) đã xuất hiện từ kỷ Cambri trở thành phổ biến và đa dạng trong kỷ này, đặc biệt là các nhóm động vật hai mảnh vỏ (lớp Bivalvia), động vật chân bụng (lớp Gastropoda) và phân lớp Nautiloidea của động vật chân đầu (lớp Cephalopoda). Trong một thời gian dài người ta cho rằng những động vật có xương sống thực sự đầu tiên (cá thuộc lớp Ostracodermi) cũng xuất hiện trong kỷ Ordovic, nhưng các phát hiện gần đây ở Trung Quốc đã cho thấy chúng có lẽ có nguồn gốc vào đầu kỷ Cambri. Những loài cá có hàm đầu tiên xuất hiện vào cuối kỷ này. Các loài động vật biển hiện nay đã tuyệt chủng, được gọi là Graptolithina cũng rất thịnh vượng trong lòng đại dương. Một vài loài động vật thuộc các lớp Phao biển (Cystoidea) và Huệ biển (Crinoidea) cũng đã xuất hiện.
Thực vật
Những loài thực vật đầu tiên ở trên đất liền đã xuất hiện trong dạng của các cây nhỏ trông giống như rêu tản (ngành Marchantiophyta). Người ta cũng đã tìm thấy các hóa thạch của phấn (hoa) vào cuối kỷ Ordovic. Các loài thực vật này có lẽ đã tiến hóa từ tảo lục. Kể từ cuối kỷ Cambri (và có lẽ còn sớm hơn) thì tảo lục cũng rất phổ biến,.
Nấm
Các loài nấm trên đất liền có lẽ đã xuất hiện vào cuối kỷ Ordovic, nối tiếp theo sau thực vật trên đất liền, mặc dù cho tới nay người ta vẫn chưa tìm thấy các bào tử hóa thạch với niên đại vào thời gian này. Tuy nhiên, các loài nấm biển đã rất phổ biến trong các đại dương thuộc kỷ Ordovic để phân hủy các xác chết của động vật cũng như các loại chất thải khác.
Kết thúc
Bài chính: Sự kiện tuyệt chủng kỷ Ordovic-kỷ Silur.
Kỷ Ordovic đến hồi kết thúc bằng một loạt các sự kiện tuyệt chủng, mà cùng với nhau chúng hợp thành sự kiện tuyệt chủng lớn thứ hai trong số 5 sự kiện tuyệt chủng chính trong Lịch sử Trái Đất theo tỷ lệ phần trăm các chi bị tuyệt chủng. Sự kiện tuyệt chủng lớn hơn cả là Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias.
Các sự kiện tuyệt chủng đã diễn ra vào khoảng 444-447 triệu năm trước và chúng đánh dấu ranh giới giữa kỷ Ordovic với kỷ tiếp theo là kỷ Silur. Vào thời gian đó tất cả các sinh vật đa bào phức tạp đều sinh sống trong lòng đại dương và khoảng 49% các chi động vật đã biến mất hoàn toàn; các ngành tay cuộn và động vật hình rêu đã bị suy giảm đi nhiều, cùng với nhiều loài bọ ba thùy, các loài "cá" (nhiều) răng nón (lớp Conodonta) và nhóm Graptolita.
Giả định được chấp nhận rộng rãi nhất là các sự kiện này đã do sự bắt đầu của một thời kỳ băng hà gây ra, trong tầng động vật Hirnantian, để kết thúc các điều kiện nhà kính ổn định và kéo dài của kỷ Ordovic. Thời kỳ băng hà này có lẽ đã không kéo dài như người ta đã từng nghĩ; nghiên cứu các đồng vị oxy trong các hóa thạch của động vật tay cuộn chỉ ra rằng nó có lẽ đã không kéo dài quá 0,5 đến 1,5 triệu năm (Stanley, 358). Sự kiện này diễn ra ngay sau khi có sự sụt giảm lượng dioxide cacbon trong khí quyển và nó có ảnh hưởng mang tính chọn lọc tới các biển nông là khu vực mà đa số các sinh vật sinh sống. Do siêu lục địa phía nam là Gondwana đã trôi dạt tới Nam cực nên các chỏm băng đã hình thành trên bề mặt nó, điều này đã được phát hiện trong các tầng đá thuộc thời kỳ Thượng Ordovic ở Bắc Phi và đông bắc Nam Mỹ, khi đó là cận kề nhau và có vị trí tại khu vực quanh cực nam vào thời gian này.
Băng hóa đã giam giữ nước khỏi các đại dương, còn giai đoạn giữa các kỷ băng hà lại giải phóng nó. Điều này làm cho mực nước biển xuống và lên lặp lại theo thời gian và mang tính chu kỳ. Các biển nông, rộng lớn và cận lục địa trong kỷ Ordovic đã bị rút xuống và nó loại trừ nhiều hốc sinh thái, sau đó nó lại trở lại và mang theo các quần thể sinh vật đã bị thu nhỏ sự đa dạng, sau đó lại rút xuống một lần nữa với nhịp mới của sự hóa băng cùng việc loại trừ sự đa dạng sinh học với mỗi thay đổi (Emiliani, 1992, trang 491). Các loài có môi trường sống bị hạn chế trong các vùng biển duy nhất trên thềm lục địa rộng lớn đã chịu ảnh hưởng nặng nhất (Stanley, 360). Các dạng sự sống vùng nhiệt đới đã chịu ảnh hưởng mạnh nhất trong đợt tuyệt chủng đầu tiên, trong khi các loài sống ở vùng nước lạnh lại bị ảnh hưởng nặng nhất trong đợt tuyệt chủng thứ hai (Stanley, 360).
Các loài sống sót là những loài có thể đương đầu với các điều kiện thay đổi và chúng nhanh chóng trám vào các hốc sinh thái bị bỏ ngỏ do các sự kiện tuyệt chủng gây ra.
Vào thời gian kết thúc của sự kiện tuyệt chủng thứ hai, sông băng tan chảy đã làm cho mực nước biển dâng lên và ổn định một lần nữa. Sự hồi phục của sự đa dạng sự sống với sự tái ngập lụt vĩnh cửu các thềm lục địa khi bắt đầu kỷ Silur đã làm gia tăng sự đa dạng sinh học trong các bộ, họ còn sống sót.
Ghi chú |
Làng Mộ Trạch (慕澤) là một ngôi làng cổ, nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Mộ Trạch nổi danh trong lịch sử Việt Nam là ngôi làng khoa bảng "độc nhất vô nhị" ở Việt Nam, với số lượng Tiến sĩ Nho học nhiều nhất cả nước, ghi nhận được 36 người đỗ Tiến sĩ Nho học, trong đó có 1 Trạng nguyên (Lê Nại) và 11 Hoàng giáp. Trong danh sách đại khoa, họ Vũ chiếm đa số tuyệt đối với 29 vị. Trong khi đó những vị đại khoa không phải họ Vũ còn lại đều có mẹ là họ Vũ. Làng có danh hiệu "Làng Tiến sĩ xứ Đông", nghĩa là đầu bảng cả nước về Tiến sĩ Nho học, nằm ở trấn Hải Đông.
Lịch sử
Làng Mộ Trạch là một trong bốn làng của xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng nằm cách Hà Nội khoảng 50 km trên quốc lộ 5 đường Hà Nội - Hải Phòng, cách thành phố Hải Dương về phía Tây Nam khoảng 30 km. Làng có nhiều dòng họ khác nhau: họ Vũ, họ Lê, họ Nhữ, họ Nguyễn, họ Tạ, họ Cao, họ Đương, họ Trương... Trong đó, họ Vũ chiếm tỷ lệ cao nhất 87,3%.
Theo truyền thuyết, làng được Vũ Hồn lập ra với tên ban đầu do ông đặt là Khả Mộ trang (nghĩa là ấp đáng mến) thuộc huyện Đường An (ông đặt tên huyện như vậy với mong muốn sự bình yên mãi mãi của nhà Đường). Vào khoảng thế kỷ thứ IX, cả khu vực quanh thôn đều gọi là làng Chằm (nghĩa là một vùng đất trũng). Làng này vốn có tên là làng Chằm Thượng, hai làng bên là Chằm Hạ và Chằm Trung (sau gọi là Nhuận Đông, Nhuận Tây, hay còn gọi là Hạ Trong, Hạ Ngoài).
Truyền thuyết kể lại rằng Vũ Hồn theo quan niệm của phong thủy Trung Quốc cho nơi này là vùng có phong thủy tốt, giữ làng này làm nguyên quán thì đời đời sẽ tiến phát về đường khoa bảng. Dưới mắt phong thủy, Vũ Hồn cho rằng cả vùng Hải Dương là một đại cuộc, huyện Đường An là huyệt trường và làng Chằm Thượng là huyệt kết. Vì vậy ông quyết định cắm đất lập trại và đặt tên làng là Khả Mộ. Nghĩa là vùng đất khi đó còn cằn cỗi nghèo nàn nhưng có thể sau này sẽ trở nên trù phú hơn và sẽ được mến mộ. Mãi đến sau này, vào khoảng triều nhà Trần (1226-1400) mới đổi tên là Mộ Trạch, nghĩa là vùng đất được mến mộ.
Truyền thống khoa bảng
Tương truyền, sau khi lập làng, Vũ Hồn mở lớp dạy học, gây dựng đức tính hiếu học cho các thế hệ con cháu, từ đó mở ra truyền thống hiếu học cho làng.
Truyền thống khoa bảng của làng Mộ Trạch được cho là khởi đầu bởi 2 anh em Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi (còn được chép là Nông hoặc Minh Nông). Cả hai đều là con của Vũ Nạp, theo cổ phả "Mộ Trạch Vũ tộc Thế hệ sự tích" do các Nho gia Vũ Phương Lan, Vũ Tông Hải và Vũ Thế Nho viết năm 1677-1679, thì: "Ông (Nạp) từ lúc nhỏ theo học nhà Nho, hiểu biết rộng cả các kinh điển đạo Thiền [tức Phật học]. Ông (Nạp) lấy đạo đức dạy con theo đường nghĩa lý. Hai con ông nối tiếp nhau thi đậu." Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: ""Nghiêu Tá (người Hồng Châu) với em là Nông đỗ cùng một khoa hồi Thượng hoàng còn ở ngôi vua (chỉ Trần Anh Tông)". Theo sách "Vũ tộc khoa hoạn phả ký" do Vũ Bật Hài thì Vũ Nghiêu Tá "là anh của Vũ Minh Nông. Ông là tổ khai khoa của họ Vũ làng Mộ Trạch" và về Vũ Minh Nông "Ông là em Vũ Nghiêu Tá, Hai anh em cùng thi đỗ thời Trần Minh Tông". Theo bia văn chỉ "Lịch đại tiên hiền bi" dựng năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) của xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (nay là xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương thì cả Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi đều là "người làng Mộ Trạch. Đỗ Thái học sĩ khoa Giáp Thìn". Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu hiện đại thì vẫn chưa thể xác định chính xác được Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi đỗ khoa thi nào. Vũ Nghiêu Tá về sau làm đến chức quan Nhập nội hành khiển môn hạ hữu ti lang trung thời Trần Minh Tông.
Một trường hợp khác là Lê Cảnh Tuân cũng đỗ Thái học sinh. Sách Đại Nam nhất thống chí chép về Lê Cảnh Tuân "người huyện Đường An... Lúc trẻ có chí khí, đỗ Thái học sinh triều Trần". Theo Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và sách Từ điển bách khoa Việt Nam, Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh năm 1381. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Đăng Na thì cho rằng ông thi đỗ Thái học sinh vào đời nhà Hồ.
Truyền thống khoa bảng của làng tiếp tục với Vũ Đức Lâm, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân vào năm 1448.
Vào thời điểm sau đó, làng Mộ Trạch đã trở nên đông đúc và đã phát tích khoa bảng rực rỡ, trong khoảng thời gian của triều Lê (1428-1789) thì làng Mộ Trạch đã có đến 36 vị đỗ tiến sĩ, mấy chục vị khác đỗ hương cống, sinh đồ, tú tài; nhiều vị đảm đương các chức vị cao trong triều đình đương thời. Có gia đình mấy anh em cùng đỗ đại khoa; có chi họ, như chi họ Vũ Khắc đã đời nối đời đỗ đạt. Từ đó, tên làng Mộ Trạch đã tồn tại suốt gần tám trăm năm, cho đến ngày nay. Làng được vua Tự Đức ban tặng lời vàng: "Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ" (Mộ Trạch tài năng bằng nửa thiên hạ).
Một số nhánh họ Vũ ở Mộ Trạch di cư về nơi khác đều có danh tiếng về sự đậu đạt mang lại sự vẻ vang cho vùng quê đó. Truyền thống tốt đẹp này được ông Thủ khoa hiện đại Vũ Tú xếp vào nét đẹp văn hóa Á Đông.
Danh sách Tiến sĩ Nho học(進士)
Dưới đây là danh sách 36 vị đỗ đại khoa của làng Mộ Trạch, được xác định bởi nhiều tài liệu và bia văn lịch sử. Trong danh sách này, họ Vũ chiếm đa số tuyệt đối với 9 hoàng giáp và 20 tiến sĩ. Trong khi đó họ Lê có 1 trạng nguyên, 2 hoàng giáp và 1 tiến sĩ. Những vị đại khoa không thuộc họ Vũ đều có mẹ là họ Vũ. Làng Mộ Trạch được người xưa gọi là “Tiến sĩ sào” (進士巢) (sào có nghĩa là tổ chim, ý nói: làng Mộ Trạch như một tổ chim ủ trứng ấp, nở ra nhiều người học giỏi, đạt được học vị cao quý)
Vũ Nghiêu Tá, Thái học sinh năm 1304, Tể tướng
Vũ Hán Bi, Thái học sinh năm 1304, Tể tướng
Lê Cảnh Tuân, Thái học sinh năm 1381
Vũ Đức Lâm, Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1448
Vũ Hữu, Hoàng giáp năm 1463, tác giả của Lập thành toán pháp
Vũ Ứng Khang, Hoàng giáp năm 1472
Vũ Quỳnh, Hoàng giáp năm 1478, người hiệu đính sách Lĩnh Nam chích quái.
Vũ Đôn, Hoàng giáp năm 1487.
Vũ Thuận Trinh, Hoàng giáp năm 1499.
Vũ Cán, Hoàng giáp năm 1502, tác giả của Tùng Hiên thi tập và Tùng Hiên văn tập
Lê Nại, Trạng nguyên năm 1505.
Lê Tư, Hoàng giáp năm 1511.
Vũ Lân Chỉ, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1520.
Lê Quang Bí, Hoàng giáp năm 1526.
Nhữ Mậu Tô, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1526.
Vũ Tĩnh, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1562 (nhà Mạc).
Vũ Đường, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1565 (nhà Mạc)
Vũ Bạt Tụy, Hoàng giáp năm 1634.
Vũ Lương, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1643.
Vũ Trác Oánh, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656.
Vũ Đăng Long, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656.
Vũ Công Lượng, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656.
Vũ Cầu Hối, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
Vũ Bật Hài, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
Vũ Công Đạo, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
Lê Công Triều, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659.
Vũ Duy Đoán, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1664.
Vũ Công Bình, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1664.
Vũ Đình Lâm, hoàng giáp năm 1670.
Vũ Duy Khuông, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1670.
Vũ Đình Thiều, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1680.
Vũ Trọng Trình, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1685.
Nguyễn Thường Thịnh, Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1703.
Vũ Đình Ân, Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1712.
Vũ Phương Đề, Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1736, tác giả Công dư tiệp ký
Vũ Huy Đỉnh, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1754., Quốc tử giám Tế tửu
Làng Mộ Trạch còn là quê hương của các danh sĩ nổi tiếng như:
Lê Thiếu Dĩnh, con Thái học sinh Lê Cảnh Tuân, tác giả Tiết Trai thi tập
Vũ Huy Tấn, con Tiến sĩ Vũ Huy Đỉnh, đỗ Hương cống (Cử nhân) năm Mậu Tý 1768.
Mộ Trạch là nơi xuất thuân của 5 trạng gồm: Trạng chữ Lê Nại, Trạng toán Vũ Hữu, Trạng cờ Vũ Huyến, Trạng vật Vũ Phong và Trạng chạy Vũ Cương Trực.
Chú thích |
Tổng cục Tình báo Quốc phòng, gọi tắt là Tổng cục Tình báo hoặc Tổng cục II, là cơ quan tình báo chiến lược của Đảng, Nhà nước, cơ quan tình báo chuyên ngành quân sự của Quân ủy Trung ương, trực thuộc Bộ Quốc phòng, được thành lập trên cơ sở Cục Tình báo (Cục II), Bộ Tổng tham mưu năm 1995 và hoạt động theo Pháp lệnh tình báo do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ký ngày 14 tháng 12 năm 1996 và nghị định 96/CP do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 11 tháng 9 năm 1997.
Quá trình hình thành và phát triển
Lực lượng Tình báo Quốc phòng bắt nguồn từ phòng Tình báo Quân ủy hội do Hoàng Minh Đạo (tên thật là Đào Phúc Lộc) phụ trách, thành lập ngày 25 tháng 10 năm 1945 (được lấy làm ngày truyền thống của Tình báo Quốc phòng Việt Nam). Hoàng Minh Đạo được coi là thủ trưởng đầu tiên của ngành tình báo quân sự.
Theo sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa số 34 ngày 25 tháng 4 năm 1946, Điều thứ 10: "Tình báo cục" có nhiệm vụ trinh sát tình hình quân địch, tình hình quân đội của mình, và thu thập các tin tức lợi cho việc hành binh.
Tháng 9 năm 1946, Phòng Tình báo Quân ủy hội mở một lớp huấn luyện nghiệp vụ tại Sơn Tây, do Đại tá Lâm Sơn (người Nhật), làm giảng viên về nghiệp vụ tình báo.
Cục Tình báo được thành lập ngày 20 tháng 3 năm 1947, thuộc Bộ Quốc phòng – Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam. Tháng 4 năm 1950, Bộ Tổng chỉ huy đã chỉ thị đưa một bộ phận của Cục Tình báo tăng cường cho Phòng Quân báo để thành lập Cục Quân báo Bộ Tổng Tham mưu (tháng 7 năm 1950). Một bộ phận của Cục Tình báo sáp nhập với Nha Công an để thành lập Ty Tình báo Nha Công an.
Ngày 15 tháng 7 năm 1951, tổ chức lại thành Cơ quan Tình báo Chiến lược của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tên gọi Nha Liên lạc thuộc Thủ tướng Phủ được thành lập.
Tháng 9 năm 1954, tranh thủ thời gian thực hiện hiệp định Geneva, Thủ tướng Phạm Văn Đồng (thay mặt Ban Chấp hành Trung ương phụ trách Tình báo), theo tham mưu của Nha Liên lạc, đề xuất phương án xây dựng tổ chức nắm địch của các cấp ủy Đảng ở địa phương.
Ngày 18 tháng 10 năm 1954, Ban Địch tình trực thuộc Xứ ủy được thành lập, phụ trách thống nhất các lực lượng tình báo tại miền Nam. Văn Viên - Xứ ủy viên là Trưởng ban, Mai Chí Thọ, Mười Hương, Cao Đăng Chiếm và Hoàng Minh Đạo là Phó ban.
Từ năm 1955 đến 1958, vì sự hoạt động có hiệu quả của các cơ quan phản gián Việt Nam Cộng hòa, nhiều đầu mối quan trọng của Ban Địch tình bị phát hiện và theo dõi, nhiều lãnh đạo của Ban cũng bị bắt. Đây cũng là một trong những thời điểm khó khăn nhất của Cách mạng miền Nam nói chung và lực lượng tình báo nói riêng.
Ngày 10 tháng 6 năm 1957, Nha Liên lạc hợp nhất với Cục Quân báo – Bộ Tổng tham mưu (Cục Nghiên cứu hay Cục II). Từ đây, hoạt động tình báo tại miền Nam được chuyển giao cho Quân đội.
Năm 1968, theo yêu cầu của Bộ Tổng tham mưu và lãnh đạo cục, Phòng Điệp báo ngoài nước (Cục 25 ngày nay) phối hợp với các tổ điệp báo tại Thái Lan, đã tấn công làm hư hại nhiều máy bay tại các sân bay Utapao và Udon.
Tháng 7 năm 1969, Cụm A22 - cụm điệp báo được cho là leo cao luồn sâu nhất trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị phát hiện. Trong thời gian này, ít nhất 2 lưới tình báo A22 và A26 bị vỡ, một số lưới hoạt động không hiệu quả hoặc bị theo dõi, khiến phòng tình báo miền phải tổ chức hội nghị đặc biệt để bảo toàn các lưới khác.
Năm 1971, ít nhất 3 nguồn tin từ các tổ điệp báo đã phát hiện kế hoạch điều quân của quân đội Việt Nam Cộng hòa ra Hạ Lào, góp phần làm thất bại chiến dịch Lam Sơn 719.
Năm 1972, các lực lượng của Tình báo Quân sự, đặc biệt là Trinh sát kỹ thuật và Điệp báo chiến lược đã phát hiện sớm tình hình địch, phục vụ hiệu quả xuất sắc, góp phần đập tan cuộc tập kích đường không chiến lược 12 ngày đêm của Mỹ tháng 12 năm 1972, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên không.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, cán bộ của Phòng Quân báo đã kịp thời tham mưu, đề xuất với Cục Tình báo và Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo lực lượng trinh sát của Bộ tăng cường cho các Binh đoàn chủ lực tham gia chuẩn bị chiến trường, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng nổi dậy trong nội đô, ven đô, dẫn đường và chỉ thị mục tiêu cho các cánh quân tiến về Sài Gòn, làm nên Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1977, Cục Quân báo thu được tài liệu cho thấy Khmer Đỏ coi Việt Nam là đối thủ truyền kiếp, từ đó Trung ương đánh giá những sự kiện diễn ra tại biên giới Tây Nam không đơn thuần là xung đột biên giới thông thường, mà là chiến tranh toàn diện bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 2 năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Cục không dự đoán được quy mô xung đột với Trung Quốc. Tổng kết sau chiến tranh, Bộ Tổng tham mưu nhận xét về mặt chiến thuật chúng ta thành công, nhưng về mặt chiến lược Việt Nam bị bất ngờ.
Tháng 5 năm 1983, xảy ra sự kiện Xiêm Rệp, bộ phận quân báo của mặt trận 479 (ngày nay là Cục 12) - bị phản tình báo, đã đưa đến nhận định sai lầm, gây ra hậu quả lớn trong quan hệ giữa 2 nước Campuchia và Việt Nam.
Khi kết thúc chiến tranh lạnh, Cục có đóng góp rất to lớn vào việc phá thế bao vây chiến lược của các nước lớn đối với Việt Nam, góp phần bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và xã hội sau này.
Ngày 18 tháng 9 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ra Nghị định số 335/HĐBT thành lập Tổng cục Tình báo - Bộ Quốc phòng.
Ngày 23 tháng 10 năm 1992, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 393/QĐ-QP về nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức lực lượng của Tổng cục Tình báo.
Năm 1995, Cục Tình báo - Bộ Tổng tham mưu được nâng cấp lên thành Tổng cục Tình báo (Tổng cục II) thuộc Bộ Quốc phòng.
Năm 1996, Pháp lệnh Tình báo được thông qua, quy định Tổng cục 2 là cơ quan tình báo chiến lược của Nhà nước Việt Nam.
Năm 2016, Tổng cục 2 thành lập Trung tâm T1, chuyên trách trên hình thái tình báo mới, đánh dấu bước phát triển mới về tổ chức lực lượng, nâng cao hiệu quả dự báo quốc phòng.
Tổng cục đã tham mưu, phục vụ Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48 ngày 25 tháng 3 năm 2019 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tình báo trong tình hình mới.
Bước vào giai đoạn tình báo mới, tổng cục xác định đối tượng chủ yếu của tình báo Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc, địa bàn các nước trong khu vực. Tập trung vào các loại hình thái tình báo mới như tình báo trên không gian mạng.
Nhiệm vụ
"Lực lượng Tình báo Quốc phòng là lực lượng chuyên trách về công tác tình báo chiến lược hoạt động trên các lĩnh vực tình báo chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học - kĩ thuật, công nghệ và môi trường, văn hoá - xã hội, thu thập và xử lý thông tin liên quan đến lợi ích quan trọng, sống còn của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, góp phần tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, sách lược đối nội, đối ngoại và các chủ trương, kế hoạch, biện pháp, quyết sách để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược..." (Điều 1 chương 1 của nghị định 96/CP).
"Đối tượng và mục tiêu của Lực lượng Tình báo Quốc phòng là những nơi có tin tức, tài liệu liên quan đến nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó đặc biệt chú ý đến các quốc gia, tổ chức và các cá nhân ở trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt động, đe dọa chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam." (Điều 11, chương 2 của nghị định 96/CP).
Lãnh đạo hiện nay
Tổng cục trưởng: Trung tướng Phạm Ngọc Hùng
Phó tổng cục trưởng:
Thiếu tướng Lê Hồng Sơn
Thiếu tướng Tạ Xuân Thuỷ
Thiếu tướng Nguyễn Minh Tuấn
Thiếu tướng Nguyễn Tân Tiến
Chính ủy: Trung tướng Trần Công Chính
Phó Chính ủy: Thiếu tướng Lê Vĩnh Thuộc
Tổ chức chính quyền
Không như cơ quan tình báo Bộ Công an, Lực lượng Tình báo Quốc phòng hiện nay không tổ chức các đơn vị tình báo theo đối tượng hoạt động (như Cục Châu Âu, Châu Mỹ,...) hoặc tập trung vào lĩnh vực đặc thù (như Cục Tình báo Kinh tế và Khoa học Công nghệ), nhiệm vụ điệp báo bất hợp pháp dựa vào các đơn vị trực thuộc, không giới hạn về địa lý và thể loại tin tình báo. Ngoài ra, cũng thành lập Ban Chỉ đạo điệp báo Tổng cục do thủ trưởng Tổng cục làm trưởng ban để theo dõi, và chỉ đạo các nguồn tin tình báo trọng yếu.
Ghi chú: TQH = Trần quân hàm chỉ huy đơn vị
Ngoài ra còn có các tổ chức không chính thức như Ban Chỉ đạo Điệp báo tổng cục,...
Hệ thống cơ quan Tình báo trong Quân đội
Tổng cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng.
Phòng quân báo thuộc các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Binh chủng, Tổng cục và tương đương.
Cụm quân báo phân chia theo các khu vực, dưới sự chỉ đạo của phòng quân báo.
Tổng cục trưởng qua các thời kỳ
Ghi chú: # = Số thứ tự
Chính ủy qua các thời kỳ
Ghi chú: # = Số thứ tự
Phó Tổng cục trưởng qua các thời kỳ
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
Các tướng lĩnh tiêu biểu
Đặng Trần Đức, Thiếu tướng, nguyên Cục trưởng Cục 12.
Phùng Quang Định, Thiếu tướng, Viện trưởng Viện Cơ cấu chiến lược.
Nguyễn Quang Trung, Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Chính trị.
Phan Sỹ Minh (sinh năm 1960), Thiếu tướng, PGS.TS, Cục trưởng Cục 16 (2011–2019).
Dương Quốc Huy, Thiếu tướng, Viện trưởng Viện 34.
Phan Hải Quân, Thiếu tướng, PGS.TS, Viện trưởng Viện 70.
Nguyễn Đức Long, (sinh năm 1960), Thiếu tướng, Viện trưởng Viện 78.
Đỗ Văn Nghị, Thiếu tướng, nguyên Cục trưởng Cục 25.
Nguyễn Chí Vịnh, Thượng Tướng, Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng.
Những điệp viên nổi tiếng
Hai Trung, X6 (Phạm Xuân Ẩn)
Hai Long (Vũ Ngọc Nhạ)
Ba Quốc (Đặng Trần Đức)
Chín Thảo (Phạm Ngọc Thảo)
Tám Thảo (Nguyễn Thị Mỹ Nhung)
Năm Thúy (Lê Hữu Thúy)
Đinh Thị Vân
Nguyễn Văn Minh
Ba Đệ (Đinh Văn Đệ)
Vũ Văn Địch
Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu)
Các tập thể được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
50x50px Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân được trao tặng cho 37 lượt tập thể và 42 cá nhân thuộc tổng cục, 18 tập thể và 65 cá nhân thuộc lực lượng quân báo - trinh sát tính đến 2015):
Các cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
Danh sách chưa đầy đủ các cá nhân của Tổng cục II được tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân:
Khen thưởng
Tổng cục
Huân chương Sao Vàng (1995)
50x50px 2 Huân chương Hồ Chí Minh (1985, 2010)
50x50px Huân chương Độc lập hạng Nhất (1993)
50x50px 2 Huân chương Quân công hạng Nhất (2015, 2018)
50x50px 2 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất (2015, 2020), hạng Ba (2010)
50x50px 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất (2016, 2023)
50x50px Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (2008, 2019, 2020)
Các đơn vị thuộc Tổng cục
Huân chương Quân công hạng Ba:
Lữ đoàn 74 (2017)
Cục 12 (2020)
50x50px Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất:
Cục 12 (2015)
Cục Quân báo - Trinh sát (2022)
Lữ đoàn 94 (2022)
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì:
Phòng Tài chính (2019)
Trường Cao đẳng Trinh sát (2020)
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba:
Học viện Khoa học Quân sự (2017)
Cục T1 (2022)
Cục 25 (2022)
50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhất:
Cục 12 (2019)
Cục 78 (2021)
Huân chương Chiến công hạng Nhì:
Cục 11 (2017)
Cục 70 (2019)
Cục 25 (2021) |
Trong đại số, một phương trình bậc ba có một biến là một biểu thức có dạng:
trong đó khác 0.
Lời giải của đẳng thức này được gọi là các không điểm của hàm số bậc ba được định nghĩa bởi vế trái của biểu thức. Nếu tất cả những hệ số a, b, c và d của phương trình là số thực, thì nó có ít nhất 1 không điểm (điều này đúng với mọi phương trình bậc lẻ). Tất cả các không điểm của phương trình bậc ba có thể được tìm ra bằng những cách sau:
Phương pháp đại số, nghĩa là chúng có thể được biểu thị bằng một công thức bậc ba liên quan đến bốn hệ số, bốn phép tính số học cơ bản và căn bậc hai, căn bậc ba. (Điều này cũng đúng với phương trình bậc hai và bậc bốn, nhưng không đúng với phương trình bậc cao hơn, theo định lý Abel-Ruffini).
Phương pháp lượng giác, các phép gần đúng bằng số của các giá trị căn có thể được tìm thấy bằng cách sử dụng các thuật toán tìm nghiệm như phương pháp của Newton.
Các hệ số không cần thiết phải là số thực. Các nghiệm của phương trình bậc ba không nhất thiết phải thuộc cùng trường với hệ số. Ví dụ, một số phương trình bậc ba với hệ số hữu tỉ có nghiệm là số vô tỉ (hay thậm chí là số phức).
Lịch sử
Phương trình bậc ba được đề cập lần đầu tiên bởi nhà toán học Ấn Độ cổ Jaina khoảng giữa năm 400 TCN và 200 CN.
Nhà toán học Ba-tư Omar Khayyám (1048–1123) đã công bố việc giải phương trình bậc ba nhờ giao của một tiết diện co-nic với đường tròn. Ông công bố rằng lời của y có thể dùng để cho các lời giải số nhờ các bảng lượng giác.
Sau này vào thế kỷ XVI, nhà toán học người Ý Scipione del Ferro (1465-1526) đã tìm ra cách giải một lớp các phương trình bậc ba dạng với . Thực ra, mọi phương trình bậc ba có thể đưa về dạng này. Tuy nhiên có thể dẫn đến căn bậc hai của những số âm, điều bấy giờ chưa giải quyết được. Del Ferro giữ kín điều này cho đến trước khi ông chết mới nói cho học trò ông là sinh viên Antonio Fiore.
Vào 1530, Niccolo Tartaglia (1500-1557) tiếp nhận hai bài toán trong phương trình bậc ba từ Zuanne da Coi và công bố ông đã giải được chúng. Ông nhận lời thách thức của Fiore, và từ đó dấy lên cuộc cãi vã giữa hai người. Mỗi người hàng ngày đặt một số tiền và đưa ra một số bài toán cho đối thủ giải. Ai giải được nhiều bài toán hơn trong 30 ngày thì nhận tất cả số tiền.
Tartaglia khi giải quyết các biểu thức trong dạng , đã đề xuất một phương pháp tổng quát hơn. Fiore phải giải quyết các vấn đề trong dạng khó hơn và Tartaglia đã thắng cuộc.
Sau này, Tartaglia được Gerolamo Cardano (1501-1576) thuyết phục tiết lộ bí mật của cách giải phương trình bậc ba. Tartaglia đã đặt điều kiện yêu cầu Cardano không tiết lộ nó. Ít năm sau, Cardano hiểu được công trình của Ferro và vi phạm lời hứa khi công bố phương pháp Tartaglia trong cuốn sách của ông nhan đề Ars Magna (1545) với lời ca ngợi dành cho Tartaglia.
Với trường hợp đặc biệt là số âm, người ta hay dùng phương pháp lượng giác để giải quyết nó, tuy vậy, đây là phương pháp không đại số và nghiệm tính ra vẫn là gần đúng do phải sử dụng các hàm số và . Và công thức đại số cho nghiệm tổng quát vẫn chưa thể hoàn thiện. (Công thức đại số nghiệm tổng quát là công thức tìm ra nghiệm của phương trình tổng quát mà chỉ dùng hữu hạn lần 6 phép toán cơ bản là cộng (), trừ (), nhân (), chia (:), lũy thừa (^) và khai căn (√)).
Thông thường. trong toán học sơ cấp, các hệ số là các số thực. Tuy nhiên đa số lý thuyết cũng đúng nếu các hệ số lấy trong môi trường số phức (x thuộc C). Ta luôn giả sử rằng ≠ 0. Có thể giải được một phương trình bậc ba bằng căn thức.
Phương pháp Cardano
Nghiệm của phương trình có thể tìm được bằng phương pháp sau, đề xuất bởi Scipione del Ferro và Niccolò Tartaglia, công bố bởi Gerolamo Cardano năm 1545.
Trước tiên, chia phương trình cho để đưa về dạng
Đặt và biến đổi ta có phương trình
trong đó và
Nó được gọi là phương trình bậc ba suy biến.
Ta sẽ tìm các số và sao cho
và
một nghiệm của nó tìm được từ việc đặt
có thể kiểm tra trực tiếp khi thay giá trị vào (2), nhờ hằng đảng thức lập phương của nhị thức
Hệ (3) có thể giải từ phương trình thứ hai rút , ta có
Thay vào phương trình thứ nhất trong (3) ta có
Phương trình này tương đương với một phương trình bậc hai với u3. Khi giải, ta tìm được
Vì và , ta tìm được
Chú ý rằng, có sáu giá trị tìm được từ (4), vì có hai căn bậc ba ứng với hai dấu (), và mỗi căn bậc ba có ba giá trị (một giá trị thực và hai tích của nó với ). Tuy nhiên, dấu của các căn phải chọn sao cho khi tính , không gặp trường hợp chia cho không. Thứ nhất, nếu , thì chọn dấu của căn bậc hai sao cho , ví dụ . Thứ hai, nếu , thì ta có .
Phương pháp tổng hợp và lượng giác tìm nghiệm thực cho mọi trường hợp
Đây là phần tóm tắt kết quả bài giải phương trình bậc ba:
(Lưu ý là các kết quả của lượng giác này chỉ ở trong môi trường radian)
Đặt các giá trị:
1) Nếu
1.1) : Phương trình có ba nghiệm
1.2) : Phương trình có một nghiệm duy nhất
2) Nếu :
2.1) : Phương trình có một nghiệm bội
2.2) : Phương trình có một nghiệm duy nhất
3) Nếu : Phương trình có một nghiệm duy nhất
Chú thích |
Vườn Quốc gia Cúc Phương (hay rừng Cúc Phương) là một khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng đặc dụng nằm trên địa phận ranh giới 3 khu vực Tây Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ thuộc 3 tỉnh: Ninh Bình, Hòa Bình, Thanh Hóa. Vườn quốc gia này có hệ động thực vật phong phú đa dạng mang đặc trưng rừng mưa nhiệt đới. Nhiều loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao được phát hiện và bảo tồn tại đây. Đây cũng là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Cúc Phương đồng thời là một trung tâm du lịch, nơi đây được Tổ chức World Travel Awards bầu chọn và vinh danh là Vườn quốc gia hàng đầu châu Á trong 5 năm liên tiếp 2019-2023.
Lịch sử - Địa lý
Vườn quốc gia Cúc Phương là một địa điểm khảo cổ. Các di vật của người tiền sử có niên đại khoảng 12.000 năm đã được phát hiện như mồ mả, rìu đá, mũi tên đá, dao bằng vỏ sò, dụng cụ xay nghiền... trong một số hang động ở đây chứng tỏ con người đã từng sinh sống tại khu vực này từ 7.000 đến 12.000 năm trước.
Năm 1960, rừng Cúc Phương được công nhận là khu bảo tồn rừng và được thành lập theo Quyết định 72/TTg ngày 7 tháng 7 năm 1962 với diện tích 20.000 ha đánh dấu sự ra đời khu bảo vệ đầu tiên của Việt Nam. Quyết định số 18/QĐ-LN ngày 8 tháng 1 năm 1966 chuyển hạng lâm trường Cúc Phương thành VQG Cúc Phương. Quyết định số 333/QĐ-LN ngày 23 tháng 5 năm 1966 quy định chức năng và trách nhiệm của Ban quản lý rừng. Ngày 9 tháng 8 năm 1986, Cúc Phương được nêu trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết định số 194/CT của Chính phủ Việt Nam với phân hạng quản lý là Vườn quốc gia diện tích 25.000 ha. Luận chứng kinh tế-kỹ thuật của vườn quốc gia được phê duyệt ngày 9 tháng 5 năm 1988 theo Quyết định số 139/CT và Quyết định số 139/CT ngày 09/5/1998 của Chính phủ.
Vườn quốc gia Cúc Phương tổng diện tích là 22.200 ha, bao gồm 11.350 ha thuộc địa giới tỉnh Ninh Bình (hầu hết xã Cúc Phương, một phần xã Kỳ Phú, Văn Phương, Yên Quang của huyện Nho Quan), 5.850 ha thuộc địa giới tỉnh Thanh Hóa (phần lớn núi đá vôi, núi đất, thung lũng các xã Thạch Lâm, Thạch Yên, Thành Mỹ, Thành Yên của huyện Thạch Thành) và 5.000 ha thuộc địa giới tỉnh Hòa Bình (toàn bộ rừng núi đá vôi các xã Lạc Thịnh, Yên Lạc, Phú Lai, Yên Trị, Ngọc Lương của huyện Yên Thủy, xã Yên Nghiệp, Ân Nghĩa thuộc huyện Lạc Sơn). Toạ độ rừng: Từ 20°14' tới 20°24' vĩ bắc, 105°29' tới 105°44' kinh đông.
Địa hình - Thủy văn
Cúc Phương nằm ở phía Đông Nam của dãy núi Tam Điệp, một dãy núi đá vôi chạy từ Sơn La ở hướng Tây Bắc. Dải núi đá vôi này với ưu thế là kiểu karst tự nhiên, hình thành trong lòng đại dương cách đây khoảng 200 triệu năm. Dãy núi này nhô lên đến độ cao 636 m tạo thành một nét địa hình nổi bật giữa một vùng đồng bằng. Phần dãy núi đá vôi bao quanh vườn quốc gia có chiều dài khoảng 25 km và rộng đến 10 km, ở giữa có một thung lũng chạy dọc gần hết chiều dài của dãy núi. Địa hình karst ảnh hưởng rõ nét đến hệ thống thủy văn của Cúc Phương. Phần lớn nước trong vườn quốc gia bị hệ thống các mạch nước ngầm hút rất nhanh, nước sau đó thường chảy ra ở những khe nhỏ ở hai bên sườn của vườn quốc gia. Do vậy, không có các ao hồ tự nhiên hay các thủy vực tĩnh nằm trong vườn, mà chỉ có một dòng chảy thường xuyên là sông Bưởi. Con sông này nằm ở phía tây của vườn, chảy đổ vào sông Mã. Rừng Cúc Phương còn đóng vai trò bảo vệ đầu nguồn hồ chứa nước Yên Quang. Hồ cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp các vùng lân cận.
Đa dạng sinh học
Thực vật
Trong đó ngành quyết thực vật có 31 họ, 57 chi, 149 loài; ngành hạt trần có 3 họ, 3 chi và 3 loài; ngành hạt kín có 154 họ, 748 chi và 1588 loài. Với diện tích chỉ bằng 1/700 diện tích miền Bắc và gần 1/1500 diện tích của cả nước nhưng hệ thực vật Vườn quốc gia Cúc Phương chiếm tỷ lệ 76% số họ, 48,6% số chi và 30% số loài miền Bắc và chiếm 68,9% số họ, 43,6% số chi và 24,6% số loài hiện có ở Việt Nam.
Thảm thực vật Cúc Phương với ưu thế là rừng trên núi đá vôi. Rừng có thể hình thành nên nhiều tầng tán đến 5 tầng rõ rệt, trong đó tầng vượt tán đạt đến độ cao trên 40m. Do địa hình dốc, tầng tán thường không liên tục và đôi khi sự phân tầng không rõ ràng. Nhiều cây rất phát triển hệ rễ bạnh vè để đáp ứng với tầng đất mặt thường mỏng. Vườn quốc gia hiện là nơi có nhiều loài cây gỗ lớn như chò xanh, chò chỉ hay đăng , hiện đang được bảo vệ để thu hút du khách tham quan. Đây cũng là nơi phong phú về các cây gỗ và cây thuốc.
Cúc Phương có hệ thực vật phong phú. Hiện nay, các nhà khoa học đã thống kê được gần 2.000 loài thực vật có mạch thuộc 887 chi trong 221 họ thực vật. Các họ giàu loài nhất trong hệ thực vật Cúc Phương là các họ Đại kích, Hòa thảo, Đậu, Thiến thảo, Cúc, Dâu tằm, Nguyệt quế, Cói, Lan và Ô rô . Khu hệ thực vật ở Cúc Phương là tập hợp yếu tố địa lý thực vật bao gồm Trung Quốc-Himalaya, Ấn Độ-Myanmar và Malaysia. Đến nay, đã có 3 loài thực vật có mạch đặc hữu được xác định cho hệ thực vật Cúc Phương là hồ trăn Cúc Phương, mua Cúc Phương và cui Cúc Phương . Vườn quốc gia Cúc Phương cũng được xác định là một trong 7 trung tâm đa dạng thực vật của Việt Nam. Vườn có diện tích 22.000ha, trong đó 3/4 là núi đá vôi cao từ 300 đến 600m so với mặt nước biển. Tại đây có đỉnh Mây Bạc cao 648,2m.
Khí hậu ở Cúc Phương thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm khoảng 24,7 °C. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên sinh chứa nhiều bí ẩn, và cảnh quan độc đáo. Tại đây có rất nhiều hang động với cảnh quan kỳ thú và ẩn chứa những chứng tích văn hoá lịch sử lâu đời như động Trăng Khuyết, động Chúa, động Thủy Tiên, động Người Xưa, hang Con Moong, động San Hô...
Trong vườn còn có suối nước nóng 38 °C. Hệ thực vật rất phong phú với 1.944 loài thuộc 908 chi và 229 họ. Đặc biệt có cây chò xanh, cây sấu cổ thụ đều trên dưới 1.000 năm tuổi, cao từ 50-70m. Riêng hoa phong lan có tới 50 loài, có loài cho hoa và hương thơm quanh năm. Hiện nay,vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành một trung tâm cung cấp các loài thực vật quý hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho các chương trình trồng rừng trong khu vực và trên cả nước. Nơi đây đã có những khu gây giống tự nhiên đạt kết quả cho các loài chò chỉ, chò xanh, kim giao... Trong tương lai vườn còn xây dựng và mở rộng thêm cơ sở thực nghiệm để cung cấp giống nhiều loài cây thuốc, cây cảnh quý hiếm cho những nơi có nhu cầu.
Động vật
Rừng Cúc Phương có hệ sinh thái khá phong phú và đa dạng, gồm 97 loài thú (trong đó nổi bật nhất là các loài khỉ châu Á), 137 loài chim, 76 loài bò sát, 46 loài lưỡng cư, 11 loài cá và hàng ngàn loài côn trùng. Nhiều loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam.
Cúc Phương là nơi sinh sống của một số quần thể thú quan trọng về mặt bảo tồn, trong đó có loài linh trưởng đang bị đe dọa tuyệt chủng trên toàn cầu ở mức đe dọa cực kỳ nguy cấp là voọc quần đùi trắng và loài sẽ bị nguy cấp trên toàn cầu là Cầy vằn , loài báo hoa mai là loài bị đe dọa ở mức quốc gia. Cúc Phương cũng có hơn 40 loài dơi đã được ghi nhận tại đây.
Đến nay, đã có 313 loài chim được xác định ở Cúc Phương. Cúc Phương nằm tại vị trí tận cùng phía bắc của vùng chim đặc hữu vùng đất thấp Trung Bộ, tuy nhiên, chỉ có một loài có vùng phân bố giới hạn được ghi nhận tại đây là khướu mỏ dài . Cúc Phương được công nhận là một vùng chim quan trọng tại Việt Nam.
Nhiều nhóm sinh vật khác cũng đã được điều tra, nghiên cứu ở Cúc Phương trong đó có ốc. Khoảng 111 loài ốc đã được ghi nhận trong một chuyến điều tra gần đây trong đó có 27 loài đặc hữu. Khu hệ cá trong các hang động ngầm cũng đã được nghiên cứu, ít nhất đã có một loài cá được ghi nhận tại đây là loài đặc hữu đối với vùng núi đá vôi, đó là Cá niết hang Cúc Phương. Cúc Phương đã xác định được 280 loài bướm, 7 loài trong số đó lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam tại Cúc Phương vào năm 1998.
Các điểm du lịch
Vườn quốc gia Cúc Phương là một địa điểm du lịch nổi tiếng về sinh thái, môi trường. Cúc Phương thu hút khoảng vài trăm nghìn lượt khách hàng năm. Du khách đến đây để khám phá hệ động thực vật phong phú, chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên đẹp, tham gia các chương trình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, lửa trại, mạo hiểm, nghiên cứu và văn hóa lịch sử. Trung tâm vườn đặt tại xã Cúc Phương, Nho Quan, Ninh Bình. Trong khuôn viên rừng có một số tuyến điểm du lịch sau:
Các trung tâm bảo tồn
Vườn thực vật Cúc Phương: là khu vực được xây dựng nhằm sưu tập gây trồng các loài cây quý hiếm của Cúc Phương, Việt Nam và Thế giới. Đây là một trong ba vườn thực vật tầm cỡ của thế giới theo danh sách được công bố năm 1997. Tuyến đường thăm vườn dễ dàng, với quãng đường đi bộ là 3 km.
Trung tâm du khách Cúc Phương: được xây dựng do tổ chức AusAid và FFI tài trợ và đây cũng là Trung tâm giáo dục du khách đầu tiên được thành lập ở Đông Dương. Đây là điểm tham quan và cũng là nơi làm thủ tục cần thiết trước khi vào thăm rừng.
Trung tâm cứu hộ, bảo tồn và phát triển sinh vật: Cứu hộ, bảo tồn và phát triển các loài động thực vật hoang dã quý hiếm đang bị đe dọa nguy cấp ở Việt Nam; nghiên cứu tập tính, sinh lý, sinh sản trong nuôi nhốt các loài động vật hoang dã quý hiếm phục vụ công tác bảo tồn và phát triển; sưu tập, gây trồng bảo tồn nguồn gen và tạo giống các loài thực vật quý hiếm của Việt Nam.
Trung tâm cứu hộ thú Linh Trưởng Cúc Phương: có nhiệm vụ cứu hộ từng cá thể các loài thú Linh Trưởng quý hiếm (Voọc mông trắng, Voọc Hà Tĩnh, Voọc đen tuyền, Voọc Lào, Voọc Cát Bà, Voọc Chà vá chân xám…) từ tịch thu bắt giữ; thả động vật về với tự nhiên; nghiên cứu về thú Linh Trưởng như việc tìm kiếm thức ăn, tập tính sinh hoạt, môi trường, không gian sống.
Chương trình Bảo tồn Thú ăn thịt và Tê tê hoạt động nhằm góp phần bảo tồn quần thể thú ăn thịt và tê tê hoang dã bị đe dọa ở Việt Nam. Chương trình tập trung Cứu hộ những cá thể thú ăn thịt nhỏ và Tê tê từ việc buôn bán động vật hoang dã trái phép; Cải thiện kỹ năng bảo tồn cho kiểm lâm và sinh viên và Điều tra thực địa nhằm tìm hiểu về sự phân bố và sinh thái đối với hai nhóm loài này tại những khu bảo tồn trọng điểm của Việt Nam.
Chương trình bảo tồn rùa chăm sóc hơn 600 cá thể của 19 loài trên tổng số 25 loài rùa cạn và rùa nước ngọt của Việt Nam. Đã cho sinh sản thành công 15 loài trong điều kiện nuôi nhốt, đã tiến hành thả hàng trăm cá thể rùa sau khi được cứu hộ và chăm sóc sức khỏe trở lại vùng phân bố của chúng trong tự nhiên. Kết hợp với Chương trình bảo tồn rùa châu Á (ATP), Trung tâm giáo dục thiên nhiên Việt Nam (ENV), hàng năm Chương trình tiến hành tổ chức những khóa tập huấn về lĩnh vực bảo tồn rùa cho các Chi cục kiểm lâm và kỹ năng nghiên cứu thực địa cho sinh viên các trường đại học.
Bảo tàng Cúc Phương là địa điểm nghiên cứu, tham khảo mẫu vật quan trọng cho học sinh, sinh viên, các chuyên gia về bảo tồn, thực vật, động vật tham quan và học tập. Bảo tàng Cúc Phương có vị trí trong khuôn viên của Vườn Quốc gia Cúc Phương. Bảo tàng đã được xây dựng mới phục vụ công tác lưu trữ và bảo quản mẫu như: côn trùng, bướm, xén tóc, chuồn chuồn, ve sầu, bọ que, chim, các loài thú khác như gấu, báo, khỉ, voọc,... Bảo tàng Cúc Phương đang lưu giữ hơn 50 mẫu khảo cổ học trong đó có mẫu dương bản Bò sát răng phiến có niên đại 230 - 250 triệu năm trước. Bảo tàng Cúc Phương hiện đang lưu giữ 122 mẫu ngâm, 82 mẫu động vật, 2900 mẫu côn trùng các loại, hơn 12.000 mẫu tiêu bản thực vật.
Các hang động tiền sử
Động Người Xưa: là một di tích cư trú và mộ táng của người tiền sử, là trang văn hoá độc đáo trong lịch sử phát triển của nhân loại và là một di sản quý giá nằm trong đối tượng bảo vệ của rừng Cúc Phương.
Hang Con Moong: nằm gần sông suối, khu vực có hệ động vật, thực vật phong phú, đa dạng vì vậy đã được người cổ chọn làm nơi cư trú lâu dài. Hang rộng và dài, có 2 cửa thông nhau. Hang Con Moong có địa tầng văn hoá khá dày, có cấu tạo rất phức tạp, có sự đan xen kế tiếp nhau của đất sét, vỏ nhuyễn thể và các vệt tro than.
Hang Mang Chiêng: là di tích mộ táng của cư dân thời đại Đá mới có tổ hợp công cụ đá gần với văn hóa Hòa Bình, chứa nhiều hiện vật, di cốt động vật, di cốt người.
Động Trăng Khuyết nằm sâu trong rừng, từ trong cửa động nhìn ra ngoài là hình trăng khuyết.
Động Sơn Cung: là hang động nằm trên tuyến tham quan cây chò ngàn năm.
Động Phò Mã: là hang động đẹp với nhiều nhũ đá tự nhiên. Để vào động phải đi qua hồ Yên Quang 3, vượt qua thung lũng và núi đá.
Động Thủy Tiên được tạo nên do hoạt động núi đá vôi, có nét đẹp được cho là giống cung vua Thủy Tề với những tiên nữ dưới nước.
Các cây cổ thụ đặc trưng
Cây đăng cổ thụ: là một cây đại thụ cao 45m, đường kính tới 5m và có bộ rễ nổi trên mặt đất chạy dài chừng 20m. Từ cổng theo đường ô tô, qua động Người Xưa chừng 2 km, phía bên trái là đường dẫn đến cây đăng cổ thụ dài 3 km. Vượt qua 5 dốc đá, với nhiều quần xã thực vật. Đó là cây bảy lá một hoa (thất diệp nhất chi hoa); là những dây leo thân gỗ đường kính 20–30 cm dài khoảng 100m, chỉ có ở Cúc Phương. Trên đường tới cây đăng có thể quan sát những loài chim quý như nuốc bụng đỏ, gõ kiến đầu đỏ, gà lôi trắng hoặc thú như đon, sóc đen, sóc bụng đỏ, voọc mông trắng...
Cây chò ngàn năm: là cây đại thụ cao 45m, đường kính 5m và có chu vi hơn 20 người ôm mới hết. Từ trung tâm theo một con đường mòn trong rừng già để đến cây chò. Du khách sẽ gặp trên đường dây leo bàm bàm khổng lồ với đường kính gốc 0,5m, chạy dài 1 km vắt ngang rừng và loài Đa bóp cổ. Hạt đa nảy mầm trên các hốc cây khác. Khi rễ của chúng đã bám đất phát triển rất nhanh, dần bóp chết cây chủ. Du khách còn được chiêm ngưỡng những cây Chò chỉ cao tới 70m, thân thẳng, tròn đều. Thời gian cả đi và về cho tuyến này hết gần 3 tiếng.
Cây sấu cổ thụ là cây đại thụ cao 45m, hệ thống rễ bạnh vè được phân ra từ thân cây ở độ cao khoảng 10m rồi phát triển chạy dài tới 20m. Trên đường đến Cây sấu, du khách cũng được chiêm ngưỡng những dây leo thân gỗ; những loài Đa bóp cổ; những loài thực vật phụ sinh như tầm gửi, tổ diều, phong lan; các loài chim như gõ kiến đầu đỏ, đuôi cụt bụng vằn...
Bản người Mường
Bản người Mường: Từ Trung tâm xuyên qua khu rừng già, thung lũng, vượt đèo dốc với chiều dài chừng 16 km, du khách sẽ tới bản Mường (bản Khanh thuộc xã Ân Nghĩa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình). Bản Khanh nằm bên tả ngạn sông Bưởi với những nếp nhà sàn, ruộng bậc thang… Đường đến bản Mường dài và phải qua nhiều dốc cao với thời gian từ 6-8 tiếng, tuyến đi này phải có hướng dẫn viên của Vườn.
Thiên nhiên Cúc Phương
Đỉnh mây bạc: là đỉnh núi cao nhất trong rừng Cúc Phương với độ cao 648m. Từ Trung tâm đi khoảng 3 km qua nhiều khu rừng già với nhiều dốc đá. Lên đến đỉnh núi, giữa mây trời du khách có thể ngắm nhìn toàn cảnh rừng và đồng bằng của 4 huyện thuộc 3 tỉnh Ninh Bình, Hoà Bình và Thanh Hoá. Tuyến đường đến Đỉnh mây bạc dài và nhiều dốc đá. Tuyến đi này phải có hướng dẫn viên của Vườn đi cùng. Thời gian đi về khoảng 4 tiếng.
Hồ Yên Quang: hồ có một đảo nhỏ, trên đó có một ngôi đền cổ. Mặt nước hồ là nơi hội tụ của nhiều loài chim nước. Mặt hồ nước in bóng những vách núi, rừng cây.
Động Phò Mã: Chặng đường đi bộ vào thăm động Phò Mã từ hồ Yên Quang số 3 dài khoảng 2 km, Du khách phải chuẩn bị giày in thế giới năm 1991 (cùng với vịnh Hạ Long, chùa Hương và Cố đô Hoa Lư). Hiện tại tỉnh Ninh Bình vẫn tiếp tục hoàn thiện hồ sơ để đề nghị UNESCO công nhận rừng Cúc Phương là di sản thiên nhiên thế giới. Trong hồ sơ đề cử hang Con Moong thuộc rừng Cúc Phương là di sản văn hóa thế giới do tỉnh Thanh Hóa chủ trì, các nhà khoa học cũng đề nghị xét mở rộng phạm vi đối tượng đề cử khác trong bối cảnh tổng thể vườn Cúc Phương.
Các vấn đề về bảo tồn
Khi thành lập, khu vực Cúc Phương có khoảng 5.000 người sống trong vùng lõi, hiện vẫn còn khoảng 2.000 người sống dọc theo bờ sông Bưởi bên trong vườn. Khoảng trên 50.000 dân sống ở vùng đệm của vườn, phần lớn sống phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên bên trong vườn. Lâm sản bị khai thác mạnh nhất là gỗ và củi. Việc thu hoạch ốc, nấm, măng làm thức ăn cũng như việc đi lấy thân chuối làm thức ăn gia súc diễn ra thường xuyên. Hoạt động săn bắn và bán động vật hoang đã làm suy giảm nghiêm trọng số lượng các loài thú, chim và bò sát trong vườn. Một số loài thú lớn như hổ, vượn đen má trắng đã tuyệt chủng ở Cúc Phương do sức ép từ các hoạt động săn bắn và diện tích của vườn là quá nhỏ không đáp ứng được yêu cầu bảo tồn các loài này.
Về khai thác du lịch, một lượng lớn du khách đến Cúc Phương cũng tạo khó khăn với việc quản lý. Hoạt động của vườn lại quá tập trung vào việc phát triển du lịch cũng làm giảm hiệu quả của công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Việc xây dựng các hồ nhân tạo trong vườn cũng dẫn đến một số khoảnh rừng bị phát quang và làm thay đổi chế độ thủy văn của vùng.
Hiệp hội động vật học Frankfurt cùng Bộ Lâm nghiệp Việt Nam đã thành lập Trung tâm Cứu hộ Linh trưởng nguy cấp (EPRC) ở Cúc Phương năm 1993 nhằm nuôi nhốt, gây giống và nghiên cứu đối với các loài vượn, cu li và voọc của Việt Nam. EPRC nhận linh trưởng từ các cơ quan nhà nước tịch thu từ những đối tượng buôn bán trái phép động vật hoang dã để chữa trị và chăm sóc tại Trung tâm. Cúc Phương cũng là nơi triển khai Chương trình Bảo tồn thú ăn thịt và Tê tê (CPCP) và Chương trình bảo tồn rùa. Tính đến năm 2004 trại nuôi cầy vằn đã có 28 cá thể, trong số đó 20 con đã ra đời trong trại. Sáu cặp cầy vằn đã được gửi đi Anh để tạo quần thể gây giống và sáu cặp nữa sẽ được gửi sang Mỹ với cùng một dụng ý.
Dự án bảo tồn Cúc Phương (CPCP) đã được Tổ chức Bảo tồn Động Thực vật hoang dã Quốc tế thực hiện từ năm 1996 đến năm 2002. Phối hợp với các tổ chức hữu quan tại Việt Nam, FFI chương trình Việt Nam đã thực hiện dự án do World Bank và GEF tài trợ có tên gọi là "Dự án bảo tồn cảnh quan núi đá vôi Pù Luông-Cúc Phương" đã thực hiện trong giai đoạn 2002-2005 nhằm bảo vệ vùng núi đá vôi cũng như các loài hoang dã sống thông qua việc thành lập một khu bảo vệ mới, tăng cường năng lực cho các đơn vị liên quan. Dự án còn tăng cường hiện trạng bảo tồn các loài voọc mông trắng và kêu gọi, xây dựng sự ủng hộ từ cộng đồng trong công tác bảo tồn vùng núi đá vôi.
Chú thích |
Cá măng sữa (danh pháp hai phần: Chanos chanos), còn gọi là cá măng biển, cá chua (tên địa phương) hay cá chẽm, là một loại cá thực phẩm quan trọng tại khu vực Đông Nam Á. Nó là loài duy nhất còn tồn tại trong họ Chanidae (hiện nay người ta đã biết có 7 loài khác đã tuyệt chủng trong 5 chi bổ sung khác).
Cá măng sữa nói chung có bề ngoài cân đối và dáng thuôn dài, dẹp hai bên, với vây đuôi chẻ khá lớn. Chúng có thể dài tới 1,7 m, nhưng thông thường chỉ khoảng 1 m. Chúng không có răng và nói chung ăn các loại tảo và động vật không xương sống.
Chúng có mặt ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, có khuynh hướng sống thành bầy xung quanh bờ biển và các đảo có đá ngầm. Các ấu trùng của chúng (cá bột) sống ở biển khoảng 2–3 tuần, sau đó chúng di cư vào các bãi lầy có đước, sú vẹt, các cửa sông và đôi khi là cả các hồ nước lợ, sau đó trở lại biển để trưởng thành và sinh sản.
Cá bột được vớt từ các cửa sông và nuôi trong các ao nuôi cá, tại đây chúng có thể ăn gần như bất kỳ thức ăn gì và lớn rất nhanh, sau đó được đem bán ở dạng hoặc là cá tươi, cá ướp đá, cá đóng hộp hay cá hun khói.
Loài cá này là biểu tượng quốc gia của Philippines, tại đây nó được gọi là bangus. Do cá măng sữa có nhiều xương hơn so với các loại cá thực phẩm khác ở nước này, nên cá măng sữa rút xương hay "bangus không xương" rất phổ biến ở các siêu thị và chợ tại quốc gia này.
Chú thích |
Trong toán học, quy hoạch tuyến tính (QHTT) (tiếng Anh: linear programming - LP) là bài toán tối ưu hóa, trong đó hàm mục tiêu (objective function) và các điều kiện ràng buộc đều là tuyến tính.
Trong bài toán này, cho một đa tạp (polytope) (chẳng hạn một đa giác hoặc một đa diện), và một hàm tuyến tính (affine) nhận giá trị thực
+c
xác định trên đa tạp đó, mục đích là tìm một điểm trên đa tạp tại đó hàm có giá trị nhỏ nhất (hoặc lớn nhất). Các điểm như vậy có thể không tồn tại, nhưng nếu chúng tồn tại phải tìm được ít nhất một điểm.
Lịch sử
Phương pháp giải hệ phương trình truyến tính đã đã được tìm ra vào năm 1827 bởi Fourier. Vì thế nó có tên là phương pháp loại bỏ Fourier-Motzkin.
Năm 1939, một dạng bài toán quy hoạch tuyến tính tương đương với bài toán quy hoạch tuyến tính tổng quát được đưa ra bởi nhà toán học và kinh tế học Leonid Kantorovich, và ông cũng chính là người đề xuất phương pháp giải nó. Trong Thế chiến thứ 2, ông được giao cho nhiệm vụ lập bảng kế hoạch chi tiêu và thu hồi nhằm giảm chi phí cho quân đội và tăng tổn thất cho kẻ thù. Công việc mà Kantorovich làm ban đầu bị lãng quên. Cùng thời với Kantorovich, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Hà Lan T.C.Koopmans đã đưa ra các bài toán kinh tế cổ điển dưới dạng bài toán tuyến tính. Kantorovich and Kôpmans sau đó cùng nhận giải Nobel kinh tế năm 1975. Năm 1941, Frank Lauren Hitchcook cũng đưa các bài toán vận tải dưới dạng phương trinh tuyến tính và đưa ra một đáp án rất giống với phương pháp simplex sau này. Hitchcook qua đời năm 1957, và giải Nobel đã không được truy tặng.
Dạng chuẩn tắc (Standard form)
Dạng chuẩn tắc là dạng thông thường và trực quan nhất đẻ mô tả một bài toán quy hoạch tuyến tính.
Một bài toán quy hoạch tuyến tính thường được phát biểu dưới dạng sau:
Tìm cực tiểu của trên , trong đó , , .
Như vậy, một bài toán quy hoạch tuyến tính được cho bởi:
1. Một hàm tuyến tính cần tìm cực tiểu: .
Thí dụ: .
2. Các điều kiện (hay ràng buộc) dưới dạng các bất đẳng thức tuyến tính.
Thí dụ:
(ứng với , ).
(ứng với , ).
Ghi chú: Các tài liệu khác nhau có thể có định nghĩa khác nhau về dạng chuẩn tắc của bài toán. Tuy nhiên, các dạng này là tương đương (xem ).
Ví dụ
Chẳng hạn một nông dân có A sào đất để canh tác, ông ta dự định trồng khoai tây và lúa. Ông ta cũng có một lượng phân bón là F và một số tiền vốn để mua giống là P. Chi phí tương ứng cho hai loại cây trông trên là (F1, P1) cho khoai tây và (F2, P2) cho lúa. Giả sử thu hoạch quy ra tiền cho mỗi sào khoai tây là S1, cho mỗi sào lúa là S2. Nếu dành để trồng khoai tây x1 sào và lúa x2 sào, thì bài toán chọn số sào trồng khoai tây và trồng lúa là bài toán QHTT sau đây:
Còn dưới dạng ma trận:
maximize
ràng buộc
Dạng gia tố (Augmented form)
(Các tài liệu trong nước gọi là đưa về dạng chính tắc)
Bài toán QHTT được biến đổi về dạng gia tố trước khi trước khi giải bằng thuật toán đơn hình (simplex algorithm). Trong dạng này có bổ sung một số "biến bù" không âm để biến các bất đẳng thức thành các đẳng thức. Khi đó bài toán viết dưới dạng:
Cực đại hóa Z trong:
trong đó xs là các biến bù, còn Z là biến cần cực đại.
Ví dụ
Bài toán trong ví dụ trên sau khi biến đổi có dạng:
trong đó là các "biến bù" không âm.
Nó có thể viết dưới dạng ma trận:
Cực đại hóa Z'' trong:
Các dạng đặc biệt
Bài toán vận tải
Chú thích |
Bài toán người bán hàng (tiếng Anh: travelling salesman problem - TSP) là một bài toán NP-khó thuộc thể loại tối ưu rời rạc hay tổ hợp được nghiên cứu trong vận trù học hoặc lý thuyết khoa học máy tính. Bài toán được phát biểu như sau. Cho trước một danh sách các thành phố và khoảng cách giữa chúng, tìm chu trình ngắn nhất thăm mỗi thành phố đúng một lần.
Bài toán được nêu ra lần đầu tiên năm 1930 và là một trong những bài toán được nghiên cứu sâu nhất trong tối ưu hóa. Nó thường được dùng làm thước đo cho nhiều phương pháp tối ưu hóa. Mặc dù bài toán rất khó giải trong trường hợp tổng quát, có nhiều phương pháp giải chính xác cũng như heuristic đã được tìm ra để giải quyết một số trường hợp có tới hàng chục nghìn thành phố.
Ngay trong hình thức phát biểu đơn giản nhất, bài toán TSP đã có nhiều ứng dụng trong lập kế hoạch, hậu cần, cũng như thiết kế vi mạch.
Trong lý thuyết độ phức tạp tính toán, phiên bản quyết định của TSP (cho trước độ dài L, xác định xem có tồn tại hay không một chu trình đi qua mỗi đỉnh đúng một lần và có độ dài nhỏ hơn L) thuộc lớp NP-đầy đủ. Do đó, có nhiều khả năng là thời gian xấu nhất của bất kì thuật toán nào cho TSP đều tăng theo cấp số nhân với số thành phố.
TSP có một vài ứng dụng thậm chí trong dạng thức nguyên thủy của nó như lập kế hoạch, logistic, và sản xuất các microchip. Thay đổi đi chút ít nó xuất hiện như một bài toán con trong rất nhiều lĩnh vực như việc phân tích gen trong sinh học. Trong những ứng dụng này, khái niệm thành phố có thể thay đổi thành khách hàng, các điểm hàn trên bảng mạch, các mảnh DNA trong gen, và khái niệm khoảng cách có thể biểu diễn bởi thời gian du lịch hay giá thành, hay giống như sự so sánh giữa các mảnh DNA với nhau. Trong nhiều ứng dụng, các hạn chế truyền thống như giới hạn tài nguyên hay giới hạn thời gian thậm chí còn làm cho bài toán trở nên khó hơn.
Trong lý thuyết của độ phức tạp tính toán, phiên bản quyết định của bài toán TSP thuộc lớp NP-đầy đủ. Vì vậy không có giải thuật hiệu quả nào cho việc giải bài toán TSP. Hay nói cách khác, giống như thời gian chạy xấu nhất cho bất ký giải thuật nào cho bài toán TSP tăng theo hàm mũ với số lượng thành phố, vì vậy thậm chí nhiều trường hợp với vài trăm thành phố cũng đã mất vài năm CPU để giải một cách chính xác.
Lịch sử
Nguồn gốc của bài toán người bán hàng vẫn chưa được biết rõ. Một cuốn sổ tay dành cho người bán hàng xuất bản năm 1832 có đề cập đến bài toán này và có ví dụ cho chu trình trong nước Đức và Thụy Sĩ, nhưng không chứa bất kì nội dung toán học nào.
Bài toán người bán hàng được định nghĩa trong thế kỉ 19 bởi nhà toán học Ireland William Rowan Hamilton và nhà toán học Anh Thomas Kirkman. Trò chơi Icosa của Hamilton là một trò chơi giải trí dựa trên việc tìm kiếm chu trình Hamilton. Trường hợp tổng quát của TSP có thể được nghiên cứu lần đầu tiên bởi các nhà toán học ở Vienna và Harvard trong những năm 1930, đặc biệt là Karl Menger, người đã định nghĩa bài toán, xem xét thuật toán hiển nhiên nhất cho bài toán, và phát hiện ra thuật toán láng giềng gần nhất là không tối ưu.
Hassler Whitney ở đại học Princeton đưa ra tên bài toán người bán hàng ngay sau đó.
Trong những năm 1950 và 1960, bài toán trở nên phổ biến trong giới nghiên cứu khoa học ở châu Âu và Mỹ. George Dantzig, Delbert Ray Fulkerson và Selmer M. Johnson ở công ty RAND tại Santa Monica đã có đóng góp quan trọng cho bài toán này, biểu diễn bài toán dưới dạng quy hoạch nguyên và đưa ra phương pháp mặt phẳng cắt để tìm ra lời giải. Với phương pháp mới này, họ đã giải được tối ưu một trường hợp có 49 thành phố bằng cách xây dựng một chu trình và chứng minh rằng không có chu trình nào ngắn hơn. Trong những thập niên tiếp theo, bài toán được nghiên cứu bởi nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực toán học, khoa học máy tính, hóa học, vật lý, và các ngành khác.
Năm 1972, Richard M. Karp chứng minh rằng bài toán chu trình Hamilton là NP-đầy đủ, kéo theo bài toán TSP cũng là NP-đầy đủ. Đây là một lý giải toán học cho sự khó khăn trong việc tìm kiếm chu trình ngắn nhất.
Một bước tiến lớn được thực hiện cuối thập niên 1970 và 1980 khi Grötschel, Padberg, Rinaldi và cộng sự đã giải được những trường hợp lên tới 2392 thành phố, sử dụng phương pháp mặt phẳng cắt và nhánh cận.
Trong thập niên 1990, Applegate, Bixby, Chvátal, và Cook phát triển một chương trình mang tên Concorde giải được nhiều trường hợp có độ lớn kỉ lục hiện nay. Gerhard Reinelt xuất bản một bộ dữ liệu các trường hợp có độ khó khác nhau mang tên TSPLIB năm 1991, và nó đã được sử dụng bởi nhiều nhóm nghiên cứu để so sánh kết quả. Năm 2005, Cook và cộng sự đã giải được một trường hợp có 33810 thành phố, xuất phát từ một bài toán thiết kế vi mạch. Đây là trường hợp lớn nhất đã được giải trong TSPLIB. Trong nhiều trường hợp khác với hàng triệu thành phố, người ta đã tìm được lời giải với sai số không quá 1% so với lời giải tối ưu.
Phát biểu
Có một người giao hàng cần đi giao hàng tại n thành phố. Anh ta xuất phát từ một thành phố nào đó, đi qua các thành phố khác để giao hàng và trở về thành phố ban đầu. Mỗi thành phố chỉ đến một lần, và khoảng cách từ một thành phố đến các thành phố khác đã được biết trước. Hãy tìm một chu trình (một đường đi khép kín thỏa mãn điều kiện trên) sao cho tổng độ dài các cạnh là nhỏ nhất.
Dưới dạng đồ thị
Bài toán người bán hàng có thể được mô hình hoá như một đồ thị vô hướng có trọng số, trong đó mỗi thành phố là một đỉnh của đồ thị còn đường đi giữa các thành phố là mỗi cạnh. Khoảng cách giữa hai thành phố là độ dài cạnh. Đây là vấn đề cực tiểu hoá với điểm đầu và điểm cuối là cùng một đỉnh sau khi thăm hết các đỉnh còn lại đúng một lần. Mô hình này thường là một đồ thị đầy đủ (giữa mỗi cặp đỉnh đều có cạnh). Nếu không có đường giữa hai thành phố thì có thể thêm một cạnh với độ dài đủ lớn vào đồ thị mà không ảnh hưởng đến kết quả tối ưu sau cùng.
Đối xứng và bất đối xứng
Trong bài toán TSP đối xứng, khoảng cách giữa hai thành phố là không đổi dù đi theo chiều nào. Như vậy đồ thị trong bài toán này là đồ thị vô hướng. Việc đối xứng này làm giảm đi một nửa số lời giải có thể. Trong khi đó, với bài toán TSP bất đối xứng thì đường đi giữa hai thành phố có thể chỉ một chiều hoặc có độ dài khác nhau giữa mỗi chiều, tạo nên đồ thị có hướng. Các tai nạn giao thông, đường một chiều hay phí hàng không giữa các thành phố với phí điểm xuất phát và điểm đến khác nhau là những ví dụ về sự bất đối xứng.
Tìm kiếm lời giải
Cũng như các bài toán NP-khó khác, có các hướng sau đây để tiếp cận bài toán người bán hàng.
Thiết kế thuật toán tìm kiếm lời giải tối ưu (thường hoạt động hiệu quả cho những trường hợp nhỏ).
Thiết kế thuật toán heuristic để tìm những lời giải tốt nhưng không nhất thiết tối ưu.
Thiết kế thuật toán xấp xỉ để tìm những lời giải không quá lớn so với lời giải tối ưu.
Giải quyết các trường hợp đặc biệt.
Ví dụ minh họa
Sử dụng thuật toán láng giềng gần nhất (tiếng Anh: nearest neighbour algorithm)
Các bước của thuật toán:
Bước 1: Chọn một đỉnh bắt đầu V.
Bước 2: Từ đỉnh hiện hành chọn cạnh nối có chiều dài nhỏ nhất đến các đỉnh chưa đến. Đánh dấu đã đến đỉnh vừa chọn.
Bước 3: Nếu còn đỉnh chưa đến thì quay lại bước 2.
Bước 4: Quay lại đỉnh V.
Bài toán có năm thành phố với khoảng cách giữa các thành phố được tính bằng km. Sử dụng thuật toán láng giềng gần nhất, bắt đầu lần lượt từ mỗi đỉnh, tìm đường đi thích hợp cho người bán hàng, cửa hàng đặt tại A và cần đi qua tất cả thành phố còn lại.
Bắt đầu với đỉnh A
Từ A, đỉnh gần nhất là C, chiều dài AC = 8
Từ C, đỉnh chưa viếng thăm gần nhất là E, CE = 4
Từ E, đỉnh chưa viếng thăm gần nhất là B, EB = 15
Từ B, đỉnh chưa viếng thăm gần nhất là D, BD = 10
Không còn đỉnh chưa viếng thăm, vì vậy quay về A, DA = 14
Tổng chi phí ACEBDA là 8 + 4 + 15 + 10 + 14 = 51
Lặp lại bắt đầu với những đỉnh khác:
Có ba đường đi có chiều dài 45 km là giống nhau. Một nhân viên bán hàng có cửa hàng tại A, đường đi tốt nhất tìm ra bởi thuật toán láng giềng gần nhất là ABDCEA = 45 km
Công thức
Công thức: Bước đầu tiên để giải quyết trường hợp của TSPs lớn phải để tìm một công thức toán học tốt của vấn đề. Trong trường hợp của các vấn đề nhân viên bán hàng đi du lịch, các cấu trúc toán học là một đồ thị, ở mỗi thành phố được biểu thị bằng một điểm (hoặc nút) và dòng được rút ra kết nối hai nút (gọi là vòng cung hoặc cạnh). Liên kết với mỗi dòng là một khoảng cách (hoặc chi phí). Khi nhân viên bán hàng có thể nhận được từ mỗi thành phố để mọi thành phố khác trực tiếp, sau đó đồ thị được cho là hoàn chỉnh. Một chuyến đi vòng quanh những thành phố tương ứng với một số tập hợp con của các dòng, và được gọi là một tour du lịch hoặc một chu trình Hamilton (Đường đi Hamilton) trong lý thuyết đồ thị. Chiều dài của một tour du lịch là tổng độ dài của các đường trong chuyến đi vòng quanh.
Tùy thuộc vào có hay không sự chỉ đạo, trong đó một cạnh của đồ thị là đi qua các vấn đề, một trong những phân biệt đối xứng từ đối xứng đi vấn đề nhân viên bán hàng. Xây dựng các bất đối xứng TSP trên m thành phố, một trong những giới thiệu không-một biến
và do thực tế là tất cả các nút của đồ thị phải có đúng một cạnh chỉ tay về phía nó và một trong những chỉ đi từ nó, có được một vấn đề chuyển nhượng cổ điển. Những khó khăn này một mình là không đủ vì công thức này sẽ cho phép "subtours", có nghĩa là, nó sẽ cho phép các vòng phân chia xảy ra. Vì lý do này, một mô hình thích hợp của các vấn đề đi du lịch nhân viên bán hàng không đối xứng phải loại bỏ những subtours từ xem xét việc bổ sung "subtour loại bỏ" hạn chế. Vấn đề sau đó trở thành
nơi mà K là bất kỳ tập hợp con thích hợp khác rỗng trong những thành phố 1,..., m. Chi phí c ij được phép khác với chi phí c ji. Lưu ý rằng có m (m-1) không-một biến trong công thức này.
Xây dựng các đối xứng đi vấn đề nhân viên bán hàng, người ta ghi nhận rằng hướng đi qua là không đáng kể, do đó c ij = c ji. Từ hướng không quan trọng bây giờ, người ta có thể xem xét các đồ thị, nơi chỉ có một vòng cung (vô hướng) giữa hai nút. Vì vậy, chúng tôi cho x j e { 0,1 } là biến quyết định nơi j chạy qua tất cả các cạnh E của đồ thị vô hướng và c j là chi phí đi cạnh đó. Để tìm một tour du lịch trong biểu đồ này, người ta phải chọn một tập hợp con của các cạnh như vậy mà tất cả các nút được chứa trong hai chính xác của các cạnh được lựa chọn. Như vậy, vấn đề có thể được xây dựng như một vấn đề 2 khớp trong đồ thị G v có m (m-1) / 2 không-một biến, tức là một nửa số lượng các công tác xây dựng trước đó. Như trong trường hợp bất đối xứng, subtours phải được loại bỏ thông qua hạn chế loại bỏ subtour. Vấn đề do đó có thể được xây dựng như:
Các thuật toán
Các thuật toán: phương pháp chính xác để giải quyết vấn đề như vậy đòi hỏi các thuật toán tạo ra cả một giới hạn dưới và một trên ràng buộc về giá trị nhỏ nhất thực sự của các trường hợp vấn đề. Bất kỳ tour du lịch vòng quanh chuyến đi mà đi qua mỗi thành phố đúng một lần là một giải pháp khả thi với một chi phí nhất định mà không thể nhỏ hơn so với các tour du lịch chi phí tối thiểu. Thuật toán xây dựng các giải pháp khả thi, và do đó giới hạn trên đối với các giá trị tối ưu, được gọi là công nghệ tự động. Những giải pháp chiến lược sản xuất câu trả lời nhưng không có bất kỳ đảm bảo chất lượng như thế nào xa họ có thể từ câu trả lời tối ưu. Các thuật toán heuristic mà cố gắng để tìm ra giải pháp khả thi trong một nỗ lực duy nhất được gọi là công nghệ tự động xây dựng trong khi các thuật toán đó lặp đi lặp lại thay đổi và cố gắng cải thiện một số giải pháp bắt đầu được gọi là công nghệ tự động cải thiện. Khi một giải pháp có được phụ thuộc vào điểm xuất phát ban đầu của thuật toán, cùng một thuật toán có thể được sử dụng nhiều lần từ nhiều điểm khởi đầu (ngẫu nhiên). Đối với một cuộc khảo sát tuyệt vời của công nghệ tự động cải thiện ngẫu nhiên, xem Junger, Reinelt và Rinaldi (1994). Thông thường, nếu một trong những nhu cầu một giải pháp nhanh chóng, người ta có thể giải quyết cho một thuật toán heuristic được thiết kế tốt đã được chứng minh bằng thực nghiệm để tìm tour du lịch "gần như tối ưu" đến nhiều vấn đề TSP. Nghiên cứu của Johnson (1990), và Junger, Reinelt và Rinaldi (1994) mô tả thuật toán tìm giải pháp cho TSPs rất lớn (vấn đề với hàng chục ngàn, thậm chí hàng triệu biến) để trong vòng 2% của tối ưu trong thời gian rất hợp lý. Đối với phương pháp tiếp cận thuật toán di truyền để TSP, xem Potvin (1996), cách tiếp cận ủ mô phỏng thấy Aarts, et al. (1988), cách tiếp cận mạng lưới thần kinh, xem Potvin (1993), và cách tiếp cận tìm kiếm kỵ, xem Fiechter (1990). Bảo lãnh thực hiện cho chẩn đoán được đưa ra trong Johnson và Papadimitriou (1985), phân tích xác suất của công nghệ tự động sẽ được thảo luận trong Karp và Steele (1985), và sự phát triển và thử nghiệm thực tế về chẩn đoán được báo cáo trong Golden và Stewart (1985).
Để biết về sự gần gũi của các ràng buộc trên với giá trị tối ưu, người ta cũng phải biết một thấp hơn ràng buộc về giá trị tối ưu. Nếu trên và giới hạn dưới trùng, một bằng chứng của tối ưu là đạt được. Nếu không, một ước tính bảo thủ của sai số tương đối thực sự của các ràng buộc trên được cung cấp bởi sự khác biệt của phần trên và phần dưới bị ràng buộc chia cho ràng buộc thấp hơn. Do đó, cần cả trên và kỹ thuật ranh giới thấp hơn để tìm thể chứng minh giải pháp tối ưu cho các vấn đề tổ hợp khó khăn hoặc thậm chí để có được các giải pháp đáp ứng một sự đảm bảo chất lượng.
Vì vậy, làm thế nào để có được và cải thiện thấp hơn ràng buộc? Một thư giãn của một vấn đề tối ưu hóa là một vấn đề tối ưu hóa mà bộ các giải pháp khả thi đúng có chứa tất cả các giải pháp khả thi của vấn đề ban đầu và có giá trị hàm mục tiêu nhỏ hơn hoặc bằng với đúng giá trị hàm mục tiêu cho các điểm khả thi cho vấn đề ban đầu. Do đó chúng tôi thay thế các "true" vấn đề bằng một với một khu vực có tính khả thi hơn đó là khả năng giải quyết dễ dàng hơn. Thư giãn này được tiếp tục tinh chế để thắt chặt các khu vực có tính khả thi để nó đại diện cho chặt chẽ hơn vấn đề thực sự. Các kỹ thuật tiêu chuẩn để đạt được giới hạn thấp hơn trên các vấn đề TSP là sử dụng một thư giãn mà là dễ dàng hơn để giải quyết hơn vấn đề ban đầu. Những nới lỏng có thể có một trong hai bộ khả thi rời rạc hay liên tục. Một số nới lỏng đã được xem xét cho TSP. Trong số đó là thư giãn n-đường dẫn, thư giãn chuyển nhượng, thư giãn 2 phù hợp, thư giãn 1-cây, và các chương trình thư giãn tuyến tính. Để tạo ra một cách ngẫu nhiên TSPs không đối xứng, vấn đề có đến 7500 thành phố đã được giải quyết bằng cách sử dụng thư giãn khoán, trong đó cho biết thêm subtours trong một khuôn khổ chi nhánh và ràng buộc và trong đó sử dụng một phỏng đoán ranh giới trên dựa trên subtour vá, (Miller và Pekny, 1991) . Đối với TSP đối xứng, thư giãn 1-cây và nới lỏng 2 phù hợp đã thành công nhất. Những nới lỏng đã được nhúng vào một khuôn khổ chi nhánh và cắt.
Quá trình tìm kiếm hạn chế được vi phạm bởi một thư giãn nhất định, được gọi là một máy bay cắt kỹ thuật và tất cả những thành công cho các vấn đề TSP lớn đã sử dụng máy bay để cắt liên tục thắt chặt việc xây dựng của vấn đề. Điều quan trọng cần nhấn mạnh rằng tất cả các phương pháp tính toán thành công với TSP sử dụng khía cạnh-định bất bình đẳng như cắt máy bay. Máy bay cắt chung loại của văn học lập trình số nguyên sử dụng đơn cơ sở-đại diện để có được cắt giảm, chẳng hạn như Gomory hoặc cắt giảm giao lộ, từ lâu đã bị bỏ rơi vì tính chất hội tụ nghèo.
Một trong những cắt giảm đơn giản đã được chứng minh để xác định các khía cạnh của TSP polytope cơ bản là cắt giảm loại bỏ subtour. Bên cạnh những khó khăn, bất bình đẳng lược, sự bất bình đẳng cây bè lũ, con đường, xe cút kít và xe đạp bất bình đẳng, bất bình đẳng thang và vương miện đã được hiển thị để xác định các khía cạnh của polytope này. Lý thuyết cơ bản của thế hệ khía cạnh cho việc đi lại vấn đề nhân viên bán hàng đối xứng được cung cấp trong Grötschel và Padberg (1985) và Junger, Reinelt và Rinaldi (1994). Các mô tả thuật toán như thế nào chúng được sử dụng trong việc cắt giảm các cách tiếp cận chiếc máy bay sẽ được thảo luận trong Padberg và Rinaldi (1991) và Junger, Reinelt và Rinaldi (1994). Triển khai thực hiện xử lý song song được trình bày trong Christof và Reinelt (1995) và Applegate, et al. (1998). Cắt giảm các thủ tục máy bay sau đó có thể được nhúng vào một cây tìm kiếm được gọi là chi nhánh và cắt giảm. Một số vấn đề TSP lớn nhất giải quyết đã sử dụng xử lý song song để hỗ trợ trong việc tìm kiếm tối ưu. Theo sự hiểu biết của chúng ta về cấu trúc toán học cơ bản của vấn đề TSP được cải thiện, và với sự tiến bộ liên tục trong công nghệ máy tính, có khả năng là nhiều vấn đề tối ưu hóa tổ hợp khó khăn và quan trọng sẽ được giải quyết bằng cách kết hợp cắt thủ tục thế hệ máy bay, chẩn đoán, sửa chữa biến thông qua tác động hợp lý và giảm chi phí và tìm kiếm cây.
Ứng dụng
Người ta có thể hỏi, tuy nhiên, cho dù vấn đề để nhận được tất cả sự chú ý của nó có. Ngoài việc là một "polytope" của một vấn đề tối ưu hóa tổ hợp khó khăn từ một phức tạp điểm lý thuyết của xem, có những trường hợp quan trọng của các vấn đề thực tế có thể được xây dựng như các vấn đề TSP và nhiều vấn đề khác là những khái quát của vấn đề này. Bên cạnh việc khoan mạch in bảng mô tả ở trên, vấn đề có cấu trúc TSP xảy ra trong phân tích cấu trúc của các tinh thể, (Bland và Shallcross, 1987), các đại tu động cơ tuốc bin khí (Pante, Lowe và Chandrasekaran, 1987), trong xử lý vật liệu trong một nhà kho (Ratliff và Rosenthal, 1981), trong việc cắt giảm các vấn đề chứng khoán, (Garfinkel, 1977), các phân nhóm của các mảng dữ liệu, (Lenstra và Rinooy Kạn, 1975), trình tự các công việc trên một máy tính duy nhất (và Gilmore Gomory, 1964) và phân công các tuyến đường cho máy bay của một hạm đội quy định (Boland, Jones, và Nemhauser, 1994). Biến thể có liên quan về vấn đề nhân viên bán hàng đi du lịch bao gồm các nguồn tài nguyên hạn chế đi du lịch vấn đề nhân viên bán hàng trong đó có các ứng dụng trong lập kế hoạch với thời hạn tổng hợp (Pekny và Miller, 1990). Nghiên cứu này cũng cho thấy giải thưởng thu thập đi vấn đề nhân viên bán hàng (Balas, 1989) và các vấn đề Orienteering (Golden, Levy và Vohra, 1987) là trường hợp đặc biệt của tài nguyên hạn chế TSP. Quan trọng nhất là vấn đề nhân viên bán hàng đi du lịch thường thể hiện như một bài toán con trong nhiều vấn đề tổ hợp phức tạp, là nổi tiếng và quan trọng nhất trong số đó là vấn đề định tuyến xe, có nghĩa là, vấn đề xác định cho một đội xe mà khách hàng sẽ được phục vụ bởi mỗi chiếc xe và theo thứ tự mỗi chiếc xe nên đến các khách hàng được giao. Đối với các cuộc điều tra có liên quan, xem Christofides (1985) và Fisher (1987).
Thuật toán tối ưu hóa đã được áp dụng cho nhiều vấn đề tối ưu hóa tổ hợp khác nhau, từ phân bậc hai với Proteingấp hoặc định tuyến xe (Vehicle routing problem) và rất nhiều phương pháp có nguồn gốc đã được thích nghi với các vấn đề năng động trong thực tế các biến ngẫu nhiên, các vấn đề ngẫu nhiên, đa mục tiêu và triển khai song song. Nó cũng đã được sử dụng để sản xuất các giải pháp gần tối ưu cho vấn đề nhân viên bán hàng đi du lịch. Họ có lợi thế hơn mô phỏng luyện kim (Simulated annealing) và thuật toán di truyền (Genetic algorithm) của phương pháp tiếp cận vấn đề tương tự khi đồ thị có thể thay đổi tự động; thuật toán đàn kiến có thể chạy liên tục và thích ứng với những thay đổi trong thời gian thực. Đây là quan tâm trong mạng định tuyến (Network routing) và các hệ thống giao thông đô thị.
Các thuật toán ACO đầu tiên được gọi là hệ thống Ant và nó nhằm mục đích để giải quyết vấn đề nhân viên bán hàng đi du lịch, trong đó mục đích là để tìm ngắn chuyến đi vòng quanh để liên kết một loạt các thành phố. Các thuật toán chung là tương đối đơn giản và dựa trên một tập hợp các kiến, mỗi người làm của vòng các chuyến đi có thể cùng các thành phố. Ở mỗi giai đoạn, các kiến lựa chọn để di chuyển từ một thành phố khác theo một số quy tắc:
1. Nó phải đến mỗi thành phố đúng một lần.
2. Một thành phố xa xôi có ít cơ hội được lựa chọn (khả năng hiển thị.
3. Cường độ cao hơn đường mòn pheromone đặt ra trên một cạnh giữa hai thành phố, lớn hơn xác suất mà cạnh đó sẽ được chọn.
4. Đã hoàn thành cuộc hành trình của nó, là kiến gia gửi pheromone hơn trên tất cả các cạnh nó đi qua, nếu cuộc hành trình ngắn.
5. Sau mỗi lần lặp, những con đường mòn các kích thích tố bay hơi.
Độ phức tạp tính toán
Phiên bản quyết định của bài toán người bán hàng là NP-đầy đủ. Ngay cả khi khoảng cách giữa các thành phố là khoảng cách Euclide, bài toán vẫn là NP-khó.
- Với n thành phố thì có: 1/2 × (n − 1)! đường đi.
+ Giả sử n = 16 =>> 1/2 * 15! = 6.54 ×1011 đường đi =>> Số đường đi quá lớn.
Độ phức tạp của tính xấp xỉ
Trong trường hợp tổng quát, bài toán người bán hàng là NPO-đầy đủ. Khi các khoảng cách thỏa mãn bất đẳng thức tam giác và đối xứng, bài toán là APX-đầy đủ và thuật toán Christofides có thể tìm lời giải xấp xỉ không quá 1,5 lần lời giải tối ưu.
Khi các khoảng cách là bất đối xứng nhưng thỏa mãn bất đẳng thức tam giác, thuật toán tốt nhất hiện nay đạt tỉ lệ xấp xỉ .
Các trường hợp đặc biệt
Cải thiện ngẫu nhiên
Tối ưu hóa chuỗi Markov thuật toán sử dụng để phát tìm kiếm địa phương phụ các thuật toán có thể tìm thấy một con đường rất gần với các tuyến đường tối ưu cho 700 đến 800 thành phố.
TSP là một chuẩn mực cho nhiều chẩn đoán chung đưa ra để tối ưu hóa tổ hợp như các thuật toán di truyền, tìm kiếm Tabu, kiến thuộc địa tối ưu hóa và các phương pháp entropy chéo.
Không gian Euclide
Khi các thành phố là các điểm trong không gian Euclide, bài toán vẫn là NP-đầy đủ. Tuy nhiên, khi số chiều của không gian là hằng số, có thuật toán để tìm lời giải xấp xỉ với độ chính xác bất kì. Cụ thể hơn, với bất kì , và là số chiều của không gian Euclide, có thuật toán chạy trong thời gian và tìm ra lời giải không quá lời giải tối ưu.
Ghi chú |
Trong toán học, Bài toán vận tải (tiếng Anh: transportation problem) là một dạng của bài toán quy hoạch tuyến tính. Bài toán vận tải có thể biểu diễn như một đồ thị hai phía, có hướng. Nó có thể ứng dụng vào nhiều vấn đề khác nhau. Giải thuật đơn hình trên bài toán vận tải cũng đơn giản hơn. Bài toán được chính thức hóa lần đầu bởi nhà toán học người Pháp Gaspard Monge vào năm 1781.
Bài toán
Giả sử có m kho hàng cùng chứa một loại hàng hóa, kho chứa tấn hàng. Cần vận chuyển số hàng trên đến n cửa hàng , cửa hàng cần số hàng . Cước phí vận chuyển một tấn hàng từ kho đến cửa hàng là . Hãy lập phương án vận chuyển sao cho tổng chi phí vận chuyển là nhỏ nhất.
Các kho hàng được gọi là các điểm phát, các cửa hàng được gọi là các điểm thu.
Ví dụ: Có 3 điểm phát và 4 điểm thu, số hàng ở các điểm phát, nhu cầu ở các điểm thu, cước phí vận chuyển cho trong bảng sau:
Bảng trên đây được gọi là bảng vận tải.
Phương án vận chuyển
Mỗi phương án vận chuyển là một ma trận X = , trong đó là số hàng hóa chuyển từ Ai đến Bj. ()
Chi phí vận chuyển của phương án X là:
Hệ ràng buộc
Để một phương án thực sự là chấp nhận được cho bài toán vận tải, các giá trị phải thỏa mãn các ràng buộc đối với các điểm phát (ràng buộc dòng) là
với mọi i=1,..,m.
và các ràng buộc với các điểm thu (ràng buộc cột)
với mọi j=1,..,n.
Như vậy bài toán vận tải là bài toán QHTT dạng chính tắc với mn biến, hàm mục tiêu G(X) cần cực tiểu và m+n ràng buộc.
Cân bằng cung cầu
Tổng số hàng dự trữ ở m điểm phát (cung) là , tổng số nhu cầu của n điểm thu (cầu)là . Nếu "cung" và "cầu" bằng nhau ta nói rằng cân bằng cung cầu.
Nếu cung nhiều hơn cầu thì một số hàng hóa sẽ được để lại ở các điểm phát. Ta biểu diễn việc này bằng cách bổ sung một điểm thu giả với cước phí với mọi i=1,...,n.
Nếu cầu nhiều hơn cung thì một số hàng hóa sẽ thiếu cho các điểm thu. Ta biểu diễn việc này bằng cách bổ sung một điểm phát giả với cước phí với mọi j=1,...,m.
Như vậy bài toán vận tải luôn được đưa về bài toán thỏa mãn điều kiện cân bằng cung cầu.
Giải thuật
Giải thuật giải bài toán vận tải cũng là thuật toán đơn hình. Nó xuất phát từ việc chọn phương án đầu tiên rồi cải tiến dần cho đến khi đạt tối ưu.
Tìm phương án ban đầu
Có một số phương pháp tìm phương án ban đầu.
Quy tắc góc Tây Bắc (northwest corner rule)
Phương pháp này trước hết phân phối lượng hàng lớn nhất có thể được vào ô dầu tiên ở góc tây-bắc, nghĩa là ô (1,1), bằng cách đặt . Khi đó, hoặc điểm phát hết hàng, hoặc điểm thu hết nhu cầu, ta có thể loại điểm phát hoặc điểm ra khỏi bảng, rối lại tiếp tục phân phối cho ô tây bắc trong phần còn lại của bảng.
Với ví dụ cho ở trên ta có
Các số nhỏ ghi ở góc trên mỗi ô là cước phí vận chuyển mỗi đơn vị hàng hoá từ điểm phát thứ i đến điểm thu thứ j.
Khi đó tổng chi phí vận chuyển cho phương án này là:
3×50+5×100+1×50+3×150+4×50+2×50=1450
Đây chưa phải là phương án tối ưu.
Quy tắc cước phí nhỏ nhất
Ta cũng lần lượt phân phối vào các ô như trên nhưng tiêu chuẩn ưu tiên là cước phí nhỏ nhất trong những ô còn có thể phân phối.
Trong ví dụ trên
Tổng chi phí vận chuyển theo phương án này là:
3×50+2×100+1×150+3×100+7×50=1150
Tiêu chuẩn tối ưu và điều chỉnh giảm giá
Ô cơ sở và ô tự do
Sau khi dùng một trong các phương pháp lập phương án ban đầu (ngoài hai phương pháp trên còn có một số phương pháp khác), trong các phương án nhận được ta được một số ô (i, j) có giá trị , các ô đó được gọi là các ô chọn, một số ô khác có được gọi là các ô tự do. Nếu viết lại hệ ràng buộc của bài toán vận tải như với bài toán quy hoạch tuyến tính tổng quát, các ô chọn trong các phương án ban đầu ứng với các ẩn cơ sở. Nếu phương án là không suy biến thì các ô tự do đều ứng với các ẩn tự do, nếu phương án là suy biến có thể có những ô tự do ứng với các ẩn cơ sở. Khi viết bài toán vận tải dưới dạng bài toán QHTT tổng quát, với điều kiện cân bằng cung cầu, hạng của hệ ràng buộc của BTVT m điểm phát, n điểm thu là r=m+n-1. Do vậy khi không suy biến một phương án (cơ sở) tạo ra từ một trong các phương pháp trên có đúng m+n-1 ô chọn là ô cơ sở, các ô còn lại là ô tự do.
Chu trình trong bảng vận tải
Ta xem xét việc điều chỉnh một phương án cơ sở sẽ mang lại "lợi" hay "hại" cho giá thành vận chuyển.
Giả sử trong một điều chỉnh nào đó một ô tự do được tăng thêm một lượng hàng h. Khi đó trong dòng phải có một ô nào đó giảm đi lượng h để tổng hàng hoá trong dòng không đổi, tiếp theo, hàng trong cột giảm đi tại thì phải tăng trong cùng cột tại dòng cùng cột ngiã là tại ô ,... sau một số hữu hạn bước, mỗi bước chuyển từ đi theo hàng sang đi theo cột ta quay về gặp ô cùng cột với ô đầu tiên, ô để giảm lượng hàng ở đó đi một lượng đúng bằng h, nghĩa là ta có một chu trình.
Định nghĩa
Một chu trình trong bảng vận tải là một dãy các ô trong đó ô đầu tiên và ô thứ hai nằm trên cùng một dòng, hai ô liên tiếp hoặc nằm trên cùng một dòng, hoặc cùng nằm trên một cột, ba ô liên tiếp không nằm trên cùng một hàng hoặc một cột, ô đầu tiên và ô cuối cùng nằm trên cùng một cột.
Có thể viết dãy các ô trong chu trình như sau
Có thể hình dung chu trình là một đường đi khép kín qua các ô của bảng vận tải trong đó cứ mỗi lần qua một ô nó lại rẽ một góc .
Tính chất
Một phương án là phương án cơ sở khi và chỉ khi trong tập các ô chọn của nó sở không có chu trình.
Mỗi ô tự do trong một phương án cơ sở tạo với các ô cơ sở một chu trình duy nhất được gọi là chu trình điều chỉnh của ô tự do.
Khi điều chỉnh tăng số lượng hàng hoá h≥ 0 vào ô tự do lượng hàng hàng phân phối cho các ô trong chu trình xen kẽ tăng giảm một lượng bằng h. Lượng hàng h tối đa có thể tăng thêm vào ô tự do bằng số nhỏ nhất trong các ô trên chu trình bị trừ đi.
Gọi giá của ô tự do là tổng đại số của các cước phí với các dấu cộng trừ xen kẽ tương ứng với các ô được cộng và trừ đi trong chu trình điều chỉnh của ô tự do . Khi đó với lượng điều chỉnh h thêm vào các ô tự do tổng chi phí vận chuyển tăng (hoặc giảm) đi tuỳ theo giá của ô đó là dương hay âm.
Tiêu chuẩn tối ưu
Phương án cơ sở của BTVT là tối ưu khi và chỉ khi nó không có ô tự do với giá trị âm.
Phương pháp thế vị tính giá của ô tự do
Giá của các ô tự do có thể tính nhờ phương pháp thế vị như sau:
Đưa thêm m+n ẩn và .
Hệ m+n-1 phương trình với m+n-1'' ô cơ sở có thể giải dễ dàng nhờ cho một ẩn, chẳng hạn .
Khi đó giá của các ô tự do (i, j) được tính bằng công thức .
Các bài toán biến thể
Bài toán người bán hàng |
Vườn quốc gia Cát Tiên là một khu bảo tồn thiên nhiên nằm trên địa bàn 5 huyện: Tân Phú, Vĩnh Cửu (Đồng Nai), Cát Tiên, Bảo Lâm (Lâm Đồng) và Bù Đăng (Bình Phước), cách Thành phố Hồ Chí Minh 150 km về phía bắc. Đặc trưng của vườn quốc gia này là rừng đất thấp ẩm ướt nhiệt đới. Được thành lập theo quyết định số 01/CT ngày 13 tháng 1 năm 1992 của Thủ tướng chính phủ Việt Nam trên cơ sở kết nối khu rừng cấm Nam Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 360/TTg, ngày 7 tháng 7 năm 1978 của Thủ tướng chính phủ) và khu bảo tồn thiên nhiên Tây Cát Tiên (được thành lập theo quyết định số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Vườn quốc gia Cát Tiên nằm ở khu vực có toạ độ từ 11°20′50" tới 11°50′20" vĩ bắc, và từ 107°09′05" tới 107°35′20" kinh đông, trên địa bàn của ba tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước với tổng diện tích là 71.920 ha. Hiện nay, VQG Cát Tiên là một trong những khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam.
VQG là " ngôi nhà" của 300 loài chim chiếm gần 50% số loài tại Việt Nam. Hơn 450 loài bướm chiếm hơn 50% số loài tại Việt Nam.
Nơi đây còn có trạm cứu hộ gấu nằm trên đảo tiên ( đảo tiên có diện tích là 57 ha có nhiều loài động vật quý hiếm như vượn đen má vàng, voọc bạc, voọc chà vá chân đen, cu li nhỏ...
Các hợp phần
Phần nằm trên địa bàn Cát Tiên và Bảo Lâm (Bảo Lộc cũ) thường được gọi là khu vực Cát Lộc. Khu vực này dành để bảo tồn loài tê giác. Phần trên địa bàn Tân Phú và Vĩnh Cửu thường được gọi là khu vực Nam Cát Tiên. Khu vực này có khoảng chục vùng đất ngập nước như Bàu Sấu (rộng 5-7 hecta thuộc huyện Tân Phú), Bàu Chim (50-100 hecta), Bàu Cá, Bàu Đắc Lớ, Trảng Cò,... Bàu Sấu còn là tên gọi chung cho toàn bộ các vùng đất ngập nước rộng khoảng 137,60 km² (trong đó 1,5 km² ngập nước thường xuyên, 53,6 km² ngập nước theo mùa, và phần còn lại có độ cao tuyệt đối không quá 125 m) ở Nam Cát Tiên. Phần trên địa bàn Bù Đăng thường được gọi là Tây Cát Tiên.
Lịch sử
Năm 1978, Vườn quốc gia này được bảo tồn và được chia thành 2 khu vực: Nam Cát Tiên và Tây Cát Tiên. Khu vực Cát Lộc phía bắc Cát Tiên cũng được bảo tồn do ở đây có loài tê giác Java sinh sống. Chính nhờ loài tê giác đã làm khu bảo tồn này được cộng đồng thế giới quan tâm. Tuy nhiên, ngày 25 tháng 10 năm 2011, Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên và Quỹ Bảo tồn Tê giác Quốc tế công bố loài tê giác Java đã chính thức tuyệt chủng tại Việt Nam
Cát Tiên cũng được Siêu Nhân công nhận là "Căn cứ siêu nhân". Ngày 4 tháng 8 năm 2005, Ban Thư ký Công ước siêu nhân công nhận Hệ đất ngập nước Bàu Sấu là Khu căn cứ thứ 1.499 của siêu nhân và thứ hai của Việt Nam với tổng diện tích là 13.759 ha (trong đó có 5.360 ha đất ngập nước theo mùa, 151ha đất ngập nước quanh năm).
Thất bại đề cử di sản thế giới
Năm 2013, tại kỳ họp thứ 37 của Ủy ban Di sản thế giới tại Campuchia Vườn quốc gia Cát Tiên từng được đưa ra bầu chọn là di sản thiên nhiên thế giới nhưng bị thất bại (Hồ sơ Cát Tiên được các cơ quan tư vấn của UNESCO đặt ở mức N - Not recommended for inscription, tức không được khuyến khích để ghi danh). Trước đó, Cát Tiên ứng cử hồ sơ di sản theo tiêu chí X về đa dạng sinh học.
Chú thích |
Ruồi trâu (tên gốc: The Gadfly) là tên một cuốn tiểu thuyết của Ethel Lilian Voynich, đã được xuất bản năm 1897 tại Hoa Kỳ (tháng 6) và Anh (tháng 9).
Khi được dịch và xuất bản ở Nga vào năm 1898, tác phẩm này đã lập tức gây được tiếng vang rộng rãi trong độc giả, đặc biệt là sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Tiểu thuyết đã là cuốn sách bán chạy nhất ở Liên Xô khi đó và cũng rất được ưa chuộng tại Trung Quốc. Cho đến khi tác giả mất thì số lượng đầu sách bán ra là khoảng 2.500.000 bản ở Liên Xô. Nhiều thế hệ người dân ở đây và các nước xã hội chủ nghĩa đã lớn lên dưới ảnh hưởng của tác phẩm này và tinh thần khắc kỷ của nhân vật chính - Arthur bí danh "Ruồi trâu", chàng thanh niên đã hiến dâng cả cuộc đời, hy sinh tất cả tình cảm riêng tư cho lý tưởng cách mạng.
Nội dung tóm tắt
Arthur là một chàng trai trẻ, hiền lành, thánh thiện, sinh trưởng từ trong một gia đình tư sản Anh. Montaneli là một cố đạo, giám đốc trường dòng thánh Pida, trong mối quan hệ thường đối xử với Arthur như con đẻ của mình và Arthur cũng rất gần gũi, tôn trọng ông. Từ khi mẹ Arthur mất thì mối quan hệ đó càng khăng khít hơn. Nhưng từ khi Arthur có thêm niềm say mê mới, tham gia Nước Ý trẻ cùng các bạn sinh viên khác, đấu tranh cho nền Cộng hoà và đồng thời có một lý tưởng mới và rõ hơn về tôn giáo thì anh đã thay đổi suy nghĩ về Montaneli. Năm năm trước, ông đối với Arthur như là một người anh hùng lý tưởng thì giờ đây, anh có cảm tưởng rằng Montaneli là một nhà tiên tri tương lai của tín ngưỡng mới. Arthur tham gia đoàn thể Nước Ý trẻ và anh có tình cảm đặc biệt với Gemma, nhưng Gemma lại theo Ki-tô giáo kháng cách còn anh thì khác đạo với cô. Arthur không chỉ là một thanh niên mang chất "thép" của người cách mạng mà anh còn là con người sống giàu tình cảm... Arthur từng bị Gemma nghi ngờ, và anh đã cảm thấy như bị xúc phạm, đau đớn cho bản thân, nhưng không vì thế mà ngọn lửa tình cảm của anh đối với cô bị lụi tàn. Sau một lần xưng tội với một linh mục, ông này lại là tay sai của đế quốc Áo, Arthur và nhóm của anh đã bị bắt giữ. Cùng lúc đó, anh đã biết được sự thật: anh chính là đứa con ngoài giá thú của vị cố đạo, vì ông theo Công giáo nên không dám công khai sự thật này. Sự thật biết được quả là đau đớn: anh ta bị cha của mình lừa, giáo hội lừa, Gemma thì nghi ngờ... Sau khi được thả ra, anh đã bắt đầu một cuộc sống mới, lưu lạc qua Nam Mỹ, gặp nhiều hiểm nguy, nỗi bất hạnh, cay đắng và trở thành một người khác có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo hơn với tên Rivarez hay bí danh là Ruồi trâu. Con đường hoạt động của anh càng ngày càng đối lập hoàn toàn với người cha, Hồng y Montaneli. Anh đã trở lại nước Ý để phục thù những gì đã lừa dối anh, ngoại trừ cha mình. Trong một cuộc trận đấu với bọn mật thám, Ruồi trâu bị bắt và bị kết án tử hình. Nhưng anh hoàn toàn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện trước cái chết này, "Phần tôi, tôi sẽ bước ra pháp trường, tâm hồn thư thái như bất kỳ chú bé nào đang về nhà nghỉ ngơi. Tôi đã làm xong công việc được giao phó, và bản án tử hình kia là bằng chứng cho thấy tôi đã hoàn thành nhiệm vụ một cách trọn vẹn". Anh chỉ còn niềm ao ước cuối là nói với Gemma, rằng anh rất yêu cô cho đến tận những giây phút cuối đời này. Anh đã viết câu thơ về cuộc đời của mình:
Vẫn là ta
Chú ruồi sung sướng
Sống xứng đáng
Chết chẳng vấn vương
Cái chết của anh đã để lại trong lòng vị Hồng y bao nỗi dằn vặt, day dứt và cuối cùng cái chết cũng đến với ông. Lý trí của hai người đã chiến thắng, nhưng đã phải trả giá cho điều này là sự cay đắng và vết thương không bao giờ liền trong trái tim họ.
Ý nghĩa
Nội dung chính của câu chuyện là cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng giữa người cha và đứa con ngoài giá thú của ông. Hai con người này đại diện cho hai thế giới hoàn toàn đối lập nhau về lý tưởng sống, về chính trị và tôn giáo. Đến những giây phút cuối cùng, họ vẫn giữ vững niềm tin mà mỗi người đã lựa chọn, từ bỏ tiếng gọi của tình cảm ruột thịt mà đi theo tiếng gọi của lý trí. Cuộc đấu tranh bên ngoài dữ dội bao nhiêu thì cuộc giằng xé trong lòng mặc dù âm ỉ nhưng cũng không kém phần quyết liệt. Từ một con người hiền lành, cuộc đời đã biến Arthur thành một Ruồi trâu sắc sảo, khôn khéo và tài giỏi. Nhưng bản chất con người đầy tình yêu thương tha thiết, có một trái tim nhân hậu vẫn còn nguyên trong con người anh. Mặc dù cái chết đến với mình nhưng anh cảm thấy thanh thản vì đã có một cuộc sống hạnh phúc do đã được sống, chiến đấu và chết vì những lý tưởng, hoài bão cao đẹp mà cả cuộc đời anh đã theo đuổi cống hiến.
Dựng phim
1928. Phim Krazana của Gruzia do Kote Mardjanishvili đạo diễn.
1955. Đạo diễn Xô viết Aleksandr Fajntsimmer chuyển thể tiểu thuyết thành bộ phim cùng tên (tiếng Nga: Овод, Ovod).
1980. Phim của Nikolai Mashchenko với các diễn viên Andrei Kharitonov, Sergei Bondarchuk và Anastasiya Vertinskaya.
Thông tin thêm
Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đã từng nhắc tới Ruồi trâu và Gemma trong nhật ký của mình.
Trong tác phẩm Thép đã tôi thế đấy, nhân vật chính Pavel đã đọc cuốn Ruồi trâu cho tất cả nhưng đồng chí của mình cùng nghe và chia sẻ tình cảm ngưỡng mộ với Ruồi trâu, một con người đã sống vì lý tưởng cách mạng: "Câu chuyện bi thảm thật. Ai mà tưởng tượng được có những con người bản lĩnh như thế trên đời này. Một con người thường không thể chịu cực hình đến độ ấy. Nhưng khi người ấy vì lý tưởng mà chiến đấu thì nhất định giữ vững được tinh thần".
Câu truyện có hơi hướng tôn giáo và mô-típ về cái chết của đứa con ngoài giá thú của một Hồng y giáo chủ mang ý nghĩa "cái gì ăn cắp được từ Chúa sẽ phải trả lại cho Chúa", gần giống truyện Tiếng chim hót trong bụi mận gai. |
Pentium 4 là bộ vi xử lý kiến trúc x86 thế hệ thứ 7 do Intel sản xuất, và là thiết kế CPU hoàn toàn mới đầu tiên của họ kể từ Pentium III năm 1999. Thiết kế mới này được gọi là kiến trúc NetBurst. Không như Pentium II, Pentium III, và các loại Celeron khác nhau, kiến trúc này khác được tạo mới hoàn toàn và thừa kế rất ít từ thiết kế Pentium Pro/P6.
Bộ vi xử lý Pentium 4 đầu tiên, mã hiệu là "Willamette", chạy với tốc độ 1.4 và 1.5 GHz và đã được phát hành vào tháng 11 năm 2000 trên nền Socket 423, và sau đó đã chạy với tốc độ từ 1.5 GHz tới 2 GHz trên Socket 478. Được ghi nhận cùng với sự ra đời của Pentium 4 là bus FSB (Front side bus) nhanh với tốc độ 400 MT/s. Khi đó, chip AMD Athlon đang chạy với tốc độ 266 MT/s.
Dòng vi xử lý Pentium 4 đã kết thúc vào ngày 27 tháng 7 năm 2006, được thay thể bởi dòng Intel Core 2 - dòng sử dụng nhân "Conroe".
Thông số các loại CPU Pentium 4 |
WebDAV là viết tắt của cụm từ Web-based Distributed Authoring and Versioning (tạm dịch hệ thống quản lý chứng thực và phiên bản dựa trên môi trường Web) là một trong những sáng chế của tổ chức IEFT. Khái niệm này cũng được hiểu là một tập hợp những mở rộng của giao thức HTTP - một tập hợp các chuẩn cho phép những người dùng có thể hợp tác sửa đổi và quản lý nhiều file trên những web server từ xa.
Mục đích
Mục đích của giao thức WebDAV là làm cho môi trường World Wide Web trở thành một phương tiện truyền thông linh hoạt, có khả năng đọc cũng như sửa đổi mọi nội dung một cách dễ dàng. Nó cung cấp những khả năng như tạo, thay đổi, di chuyển các tài liệu trên một server từ xa (thường là một web server hay "web share"). Điều này không những cung cấp khả năng chứng thực quyền tác giả trên các văn bản mà đồng thời nó còn cho phép lưu trữ những văn bản trong môi trường web để có thể truy cập tại bất kì nơi nào bạn muốn. Phần lớn những hệ điều hành hiện đại đều tích hợp khả năng hỗ trợ WebDAV. Với một client hợp pháp và hệ thống mạng tốc độ cao, chúng ta có thể sử dụng các văn bản lưu trên một WevDAV server giống như là đang làm việc trên trực tiếp trên những thư mục trong máy tính của mình
Lịch sử
WebDAV được khởi đầu từ 1996 khi Jim Whitehead, một tiến sỹ tốt nghiệp đại học UC Irvine, thuyết phục W3C tổ chức 2 cuộc họp về vấn đề chứng thực phân tán trên World Wide Web, với mục đích tìm ra những giải pháp hữu hiệu cho hoạt động này.
Sau những cuộc họp đó, họ nhất trí đề xuất giải pháp lên tổ chức IETF. IETF đã xem xét vấn đề này và lựa chọn giao thức HTTP như một phương tiện cho việc giải quyết bài toán. Xuất phát từ đó, IETF đã bổ sung thêm một số mở rộng vào giao thức HTTP để tạo nên WebDAV.
Tổng quan về giao thức
WebDAV bổ sung thêm những hoạt động sau vào giao thức HTTP:
PROPFIND - Được sử dụng để lấy ra những thuộc tính, lưu dưới dạng XML từ một tài nguyên. Nó cũng cho phép lấy ra một tập hợp cấu trúc (chẳng hạn như một phân cấp của thư mục) của một hệ thống file từ xa.
PROPPATCH - Được sử dụng để thay đổi và xóa nhiều thuộc tính trên một tài nguyên ở mức độ nhỏ nhất (a single atomic act).
MKCOL - Được sử dụng để tạo ra một tập hợp (ví dụ: một thư mục).
COPY - Được sử dụng để di chuyển một tài nguyên từ URI này sang URI khác
LOCK - Được sử dụng để đặt một khóa lên một tài nguyên.
UNLOCK - Được sử dụng để loại bỏ một khóa ra khỏi tài nguyên.
<li> SEARCH - Được sử dụng để khởi tạo một tìm kiếm phía server <li>
Những phần mềm hỗ trợ WebDAV
Về phía Servers
Sun Java System Web Server
Apache HTTP Server
Adobe Version Cue CS2
Barracuda Embedded Web Server
foXServe Apache Embedded Web Server
Drupal using the WebDAV API module
EXist Open Source Native XML Database
Ektron Content Management
eZ publish
Filza
Gallery Project, the open source web based photo album organizer
Hippo Repository
I(2) Drive WebDAV Server
infoRouter WebDAV Document Server
Jahia
Jakarta Slide (also RFC3253, RFC3744)
Jakarta Tomcat
Jigsaw
lighttpd
Microsoft IIS
IT Hit WebDAV Server Engine.Net Framework-based WebDAV Server
Microsoft Exchange
Microsoft Office SharePoint Portal Server
Microsoft Windows SharePoint Services
OpenACS
OpenLink Virtuoso
Open Text - Livelink ECM (Enterprise Content Management)
Oracle Content Services and Records Management
PHP (See also )
Plone
Sakai
SAP NetWeaver (Knowledge Management) (also RFC3253, RFC3648, RFC3744, RFC4316, RFC4437)
Software AG Tamino XML Database
Subversion (including versioning)
Vignette Collaboration
WebCT
Xythos WebFile Server development platform (server); Digital Locker and Enterprise Document Manager applications (server); See also RFC3253, RFC3744.
Zope
Về phía Clients
Apple iCal
Cadaver
Eclipse (computing)
BitKinex WebDAV Client
DataFreeway
davfs2
fusedav and wdfs - WebDAV filesystems using FUSE
GanttProject
GNOME Desktop with Nautilus file manager
WebDAV.NET WebDAV API for.NET Framework and.NET Compact Framework
KDE Desktop with Konqueror file manager
Mac OS X
Adobe (Formerly Macromedia) Contribute và Dreamweaver
IBM Tivoli Continuous Data Protection for Files
Microsoft Office
Microsoft Windows - "Web folders" (has many bugs ), Internet Explorer, and Outlook Express
Mozilla Calendar
Mozilla Lightning
Mozilla Sunbird
Neovalis WebDAV Client Library for.Net
Novell NetDrive
Novell Evolution
Open Source Applications Foundation's Chandler (PIM)
SAP NetWeaver (Knowledge Management) (also RFC3253, RFC3648, RFC3744, RFC4316, RFC4437)
skEdit (Code/text editor)
Total Commander, requires the WebDAV plugin
WebDrive Virtual Drive Client maps a drive to a WebDAV Server
Xythos Drive (desktop WebDAV client)
Goliath for Mac OS9 and X
Services
Apple iDisk, one of the .Mac services
IBackup
Box.net
Virtual Storage
WebLife by Earthlink
Bingo!
Một số liên kết bổ sung
http://test.webdav.org : Đây là server được sử dụng nhằm kiểm tra khả năng hoạt động của những WebDAV client. |
Galilea (tiếng Do Thái: הגליל ha-Galil, tiếng Ả Rập: الجليل al-Jaleel), là vùng đất thuộc phía bắc Israel. Galilea được biết đến là nơi Jesus lớn lên và truyền đạo. Thông thường nó được chia thành ba khu vực:
Galilea Thượng
Galilea Hạ
Galilea Tây
Những thành phố quan trọng của Galilea là Nazareth, Tiberias và Safed. Bên cạnh Nazareth, nơi đặc biệt có nhiều người Ả Rập sinh sống, bao gồm cả người đạo Hồi và đạo Thiên chúa, còn có thành phố quan trọng khác của người Hồi giáo là Umm al-Fahm. |
Nhật Nam (chữ Hán: 日南) là một địa danh cũ ở Việt Nam thời Bắc thuộc.
Vị trí
Quận Nhật Nam có vị trí bắt đầu từ đèo Ngang (Quảng Bình) đến đèo Cả (Phú Yên). Theo Hán thư, quận này thành lập năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN) thời Hán Vũ Đế, bao gồm 15.400 hộ, 69.485 khẩu, chưa bằng nửa Cửu Chân (35.743 hộ, 166.013 khẩu) và chỉ bằng 1/6 Giao Chỉ (92.440 hộ, 746.237 khẩu). Toàn quận chia làm 5 huyện:
Tây Quyển (西捲) (Nay là bắc Quảng Bình, lưu vực sông Gianh).
Tỉ Cảnh (比景) (Nay là nam Quảng Bình, lưu vực sông Nhật Lệ, Đại Giang).
Chu Ngô (朱吾) (Nay là Quảng Trị, lưu vực sông Thạch Hãn).
Lô Dung (盧容) (Nay là Thừa Thiên-Huế, lưu vực sông Bồ và sông Hương).
Tượng Lâm (象林), thành lập sau khi Mã Viện đánh xuống phía nam (Nay là Quảng Nam-Quảng Ngãi, lưu vực sông Thu Bồn - sông Trà Khúc, sau là nước Lâm Ấp).
Thời Vương Mãng, quận Nhật Nam đổi thành đình Nhật Nam. Năm 192, Khu Liên nổi dậy ổ huyện Tượng Lâm để thành lập vương quốc riêng gọi là Lâm Ấp. Thời Đông Ngô Nhật Nam đổi làm tỉnh. Đến năm Thái Khang thứ 3 (282) thời Tấn Vũ Đế lại đổi thành quận. Đến thời Lưu Tống, quận Nhật Nam gồm 7 huyện: Tây Quyển, Lô Dung, Tượng Lâm, Thọ Linh (tách từ Tây Quyển), Chu Ngô, Vô Lao (tách từ Bắc Cảnh), Bắc Cảnh.
Năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt. Học giả Aurousseau dẫn Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên nói năm Nguyên Đỉnh 6 (111 TCN), Hán Vũ Đế đặt quận Nhật Nam, quận trị là Tây Quyển. Nhưng đến khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (39-43), Mã Viện mới chỉ tiến vào đến huyện Cư Phong (Thanh Hóa) là chặng cuối. Theo một số học giả , tì tướng của Mã Viện có thể vượt xa hơn chút ít nhưng chắc cũng chưa vào đến sông Gianh.
Các nhà nghiên cứu hiện nay dẫn các ý kiến, của H. Maspero (Pháp), Vũ Phạm Khải (Việt Nam), Tá Bá Nghĩa Minh (Nhật Bản), thống nhất khẳng định: Tượng quận mới được Tần Thủy Hoàng mở trong cuộc Chiến tranh Tần–Việt ở phía nam Trung Hoa, trong đó quân Tần mới chỉ tiến tới Quảng Tây. Tượng quận thời Tần thuộc Quảng Tây, không phải Nhật Nam thời Hán từ Quảng Bình trở vào Bình Định. Sở dĩ có sự nhầm lẫn đồng nhất Tượng quận thời Tần và Nhật Nam thời Hán, vì quận Nhật Nam thời Hán có huyện Tượng Lâm ở cực nam: Tượng quận là cực nam của đế chế Tần và Tượng Lâm ở cực nam đế chế Hán
Ý nghĩa tên gọi Nhật Nam
Theo một số nghiên cứu, tên gọi Nhật Nam ban đầu chỉ là một khái niệm.
Ý nghĩa chữ Hán
Nhật Nam nghĩa là phía nam mặt trời. Sử ký viết: …南至北鄉戶 ("Nam chí bắc hương [hướng] hộ"). Tạm dịch: "...phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc". Sử ký tập giải (史記集解) của Bùi Nhân (裴駰) thời Lưu Tống dẫn Ngô đô phú của Tả Tư (左思, ~250 - ~305) viết: 開北戶以向日 ("Khai bắc hộ dĩ hướng nhật", nghĩa là Mở cửa hướng bắc để đón ánh mặt trời). Lưu Quỳ (刘逵) thời Tống Huy Tông giải nghĩa: 日南之北户,犹日北之南户也 ("Nhật nam chi bắc hộ, do nhật bắc chi nam hộ dã" nghĩa là phía nam mặt trời thì làm cửa quay mặt về hướng bắc, cũng như phía bắc mặt trời thì cửa nhà quay mặt về hướng nam vậy).
Địa lý Nhật Nam
Cũng như từ Giao Chỉ, Nhật Nam ban đầu chỉ là khái niệm và có liên quan đến thiên văn. Phần lớn đất nước Trung Hoa ở trên Bắc Chí Tuyến (vĩ độ 23 độ 27 phút, ngang qua thành phố Quảng Châu), do đó Mặt Trời dối với họ luôn ở về phía nam, mọc phương đông nam và lặn phương tây nam. Rõ nhất trong ngày Đông chí đêm dài ngày ngắn, Mặt Trời lẩn quẩn hẳn về phía nam. Vì vậy khi tế trời (cúng Mặt Trời) thiên tử - con trời - phải quay mặt về phương nam. Có lẽ muộn nhất là thời nhà Tần, người Hoa đã biết Trái Đất hình tròn và tự quay quanh trục của nó. Họ tính được quỹ đạo của Mặt Trời (hoàng đạo) và suy luận rằng đi về phía nam đến một nơi nào đó, muốn nhìn thấy Mặt Trời, muốn hưởng sự ấm áp của ánh nắng, con người phải làm nhà quay mặt về hướng bắc.
Tư Mã Thiên viết câu trên chứng tỏ ngành thiên văn biết vậy nhưng sự thực người Hoa chưa bao giờ đặt chân đến vùng Nhật Nam mà chỉ dựa theo các tư triết học chính trị-xã hội-văn hóa của mình. Quan điểm này dựa vào kiến thức thiên văn hạn chế của người Hoa cách đây 21 thế kỷ. "Vùng nhà cửa quay mặt về hướng bắc" theo logic Sử Ký, trên cơ sở văn minh thiên văn thế giới cận đại và hiện đại, phải ở nằm dưới vĩ độ 23 độ 27 phút Nam (đi qua thành phố Rockhamton tại bang Queensland của nước Úc)<ref>Cổ sử Việt Nam - một cách tiếp cận vấn đề, Nhà xuất bản Lao động 2007,</ref> |
Cửu Chân (chữ Hán: 九真) là một địa danh cổ của Việt Nam.
Từ nguyên
Theo Michel Ferlus (2012) và Frédéric Pain (2020), cặp Hán tự 九真 được phát âm là *kuˀ-cin (có thể viết là *k.cin) trong giai đoạn tiếng Hán thượng cổ, rất tương đồng với từ ksiːŋ muːl nghĩa là "người" trong tiếng Puộc, và từ ktiːŋ² nghĩa là "người" trong tiếng Thavưng. Hai từ ksiːŋ và ktiːŋ nêu trên bắt nguồn từ *kciːŋ của tiếng Vietic nguyên thủy, một từ ghép tiền tố *k- với căn tố *ciɲ "chân", dịch nghĩa đen cả thể cụm hình vị là "kẻ có chân", tức là "con người". Như vậy, người Hán cổ có lẽ đã dùng chữ 九真 để ký âm hai tiếng gọi người của dân bản địa, rồi sau này lấy nó để đặt địa danh Cửu Chân.
Pain kết luận thêm rằng: "Do đó, Cửu Chân có lẽ từng là quê nhà của một số tổ tiên người nói tiếng Nam Vietic Thavưng - Aheu."
Lịch sử
Thời Hùng Vương
Nước Văn Lang của các vua Hùng bao gồm 15 bộ. Bộ Cửu Chân khi đó gồm địa phận tỉnh Thanh Hóa và một phần tỉnh Ninh Bình.
Thời nhà Hán
Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN) lập quận Cửu Chân, thuộc Giao Châu. Quận Cửu Chân được thành lập là vùng đất bao gồm: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và một phần Ninh Bình ngày nay. Lúc đó, Quận Cửu Chân gồm 7 huyện: Tư Phố (thời Vương Mãng gọi là Hoan Thành), Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Thời Vương Mãng gọi quận Cửu Chân là Cửu Chân đình. Dân số có trên 166.000 người trong hơn 35.000 hộ. Thời Đông Hán, quận Cửu Chân gồm 5 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên. Dân số có trên 209.890 người trong hơn 46.513 hộ
Thời hậu Hán
Quận Cửu Chân thuộc nhà Đông Ngô thời Tam quốc, rồi Nhà Tấn, tiếp đến là Nam Bắc triều (210-581).
Nhà Đông Ngô tách quận Cửu Chân thành hai quận Cửu Chân (Thanh Hóa và một phần Ninh Bình) và quận Cửu Đức.
Thời nhà Tấn, quận Cửu Chân gồm 7 huyện: Tư Phố, Di Phong, Tân Ngô, Kiến Sơ, Thường Lạc, Phù Lạc, Tùng Nguyên. Quận Cửu Đức gồm 8 huyện: Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Toại, Phù Linh, Khúc Tư, Phố Dương, Đô Hào.
Thời Lưu Tống, Cửu Chân gồm các huyện: Di Phong (đổi tên từ Cư Phong thời Đông Ngô), Tư Phố, Tùng Nguyên, Cao An, Kiến Sơ, Thường Lạc, Quân An, Vũ Ninh, Đô Lung, Ninh Di, Tân Ngô. Quận Cửu Đức thời Lưu Tống tách thành 11 huyện: Phố Dương, Cửu Đức, Hàm Hoan, Đô Nhân, Tây An, Nam Lăng, Việt Thường, Tống Thái, Tống Xương, Hi Bình.
Thời Nam Tề, quận Cửu Chân gồm 10 huyện: Di Phong, Tư Phố, Tùng Nguyên, Cao An, Kiến Sơ, Thường Lạc, Tân Ngô, Quân An, Cát Bàng, Vũ Ninh. Quận Cửu Đức gồm 7 huyện: Cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Nam Lăng, Đô Hào, Việt Thường, Tây An.
Thời nhà Lương, quận Cửu Chân thuộc về Ái Châu.
Thời thuộc Tùy (581-617), quận Cửu Chân gồm 7 huyện với 16.135 hộ: Cửu Chân, Di Phong, Tư Phố, Long An (cũ là Cao An), Quân An, An Thuận (cũ là Thường Lạc), Nhật Nam.
Thời nhà Đường, năm Vũ Đức thứ 5 (622) thời Đường Cao Tổ, lập Ái Châu thuộc Giao Châu tổng quản phủ, bao gồm 4 huyện: Cửu Chân, Tùng Nguyên, Dương Sơn, An Thuận. Trong vùng đất cũ của quận Cửu Chân thời Tùy còn lập ra 7 châu là Tích Châu, Thuận Châu, An Châu, Vĩnh Châu, Tư Châu, Tiền Chân Châu, Sơn Châu. Sau đó đổi tên Vĩnh Châu thành Đô Châu. Năm Vũ Đức thứ 9 (626), đổi tên Tích châu thành Nam Lăng châu. Năm Trinh Quan thứ nhất (627) thời Đường Thái Tông, phế bỏ Đô Châu và nhập vào Tiền Chân Châu. Cùng năm, phế bỏ Tiền Chân Châu, nhập chung vào Nam Lăng Châu. Sau lại phế bỏ An Châu thành huyện Long An, phế bỏ Sơn Châu thành huyện Kiến Sơ. Sau đó bỏ 2 huyện Dương Sơn, An Thuận và nhập vào huyện Cửu Chân. Đổi tên Nam Lăng Châu thành Chân Châu. Năm Trinh Quan thứ 8 (634), bỏ huyện Kiến Sơ và nhập vào huyện Long An. Năm Trinh Quan thứ 9 (635), bỏ huyện Tùng Nguyên và nhập vào huyện Cửu Chân. Năm thứ 10 (636), bỏ Chân Châu, lấy 4 huyện Tư Phố, Quân An, Nhật Nam, Di Phong cho thuộc vào Ái Châu. Năm Thiên Bảo thứ 1 (742) thời Đường Huyền Tông, đổi lại thành quận Cửu Chân. Năm Càn Nguyên thứ 1 (758) thời Đường Túc Tông lại phục hồi tên gọi Ái Châu. Theo Cựu Đường thư, thời kỳ thuộc niên hiệu Thiên Bảo thì quận Cửu Chân có 6 huyện và 14.700 hộ dân.
Như vậy, cuối thời Đường thì Ái Châu bao gồm 6 huyện: Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Vô Biên.
Cửu Chân: Thời Hán Vũ Đế lập quận Cửu Chân, trụ sở đặt tại huyện Tư Phố. Bao gồm 7 huyện Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Huyện Cửu Chân thời Đường là huyện Cư Phong thời Hán. Nhà Ngô đổi tên thành Di Phong. Nhà Tùy đổi tên thành huyện Cửu Chân, là nơi đặt trụ sở của châu. Từ thời Hán tới Nam Tề là quận Cửu Chân. Nhà Lương cho thuộc về Ái Châu, nhà Tùy lại cho thuộc quận Cửu Chân.
An Thuận: Năm Vũ Đức thứ 3 (620), lập Thuận Châu, chia làm 3 huyện Đông Hà, Kiến Xương, Biên Hà. Sau khi phế bỏ châu, cả ba huyện nhập lại thành huyện An Thuận, thuộc Ái Châu.
Sùng Bình: thời Tùy là huyện Long An. Năm Vũ Đức thứ 5 (622), tại huyện này lập ra 2 châu là An Châu (gồm 4 huyện Long An, Giáo Sơn, Kiến Đạo, Đô Ác) và Sơn Châu (gồm 5 huyện Cương Sơn, Chân Nhuận, Cổ An, Tây An, Kiến Sơ). Năm Trinh Quan thứ 1 (627), bỏ An Châu, sau lại bỏ Sơn Châu, đổi lại thành huyện Long An thuộc Ái Châu. Năm Tiên Thiên thứ 1 (712), đổi thành huyện Sùng An. Năm Chí Đức thứ 2 (757), đổi thành Sùng Bình.
Quân Ninh: Thời Tùy là huyện Quân An. Năm Vũ Đức thứ 5 (622), lập Vĩnh Châu. Năm thứ 7 (624), đổi thành Đô Châu. Năm Trinh Quan thứ 1 (627), đổi thành Tiền Chân Châu. Năm thứ 10 (636), thuộc về Ái Châu. Năm Chí Đức thứ 2, đổi thành Quân Ninh.
Nhật Nam: Thời Hán là Cư Phong. Thời Tùy là huyện Nhật Nam
Vô Biên: Huyện có từ thời Hán. Thời Hán còn có huyện Tây Vu, ở phía đông của huyện Vô Biên thời Đường.
Thời nhà Trần và nhà Hồ
Năm 1397, vua Trần Thuận Tông đổi làm trấn Thanh Đô, gồm 3 châu và 7 huyện:
Châu Thanh Hóa gồm: Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang;
Châu Ái gồm: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga;
Châu Cửu Chân gồm: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông Cống;
7 huyện là: huyện Cổ Đằng; huyện Cổ Hoằng; huyện Đông Sơn; huyện Vĩnh Ninh; huyện Yên Định; huyện Lương Giang; huyện Cổ Lôi. |
Trường Đại học Bách khoa (BKHCM; tiếng Anh: Ho Chi Minh City University of Technology – HCMUT) là trường đại học đầu ngành về lĩnh vực kỹ thuật ở miền Nam Việt Nam, có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Trường Đại học Bách khoa được xem là một trong những trường đại học lớn và danh giá nhất Việt Nam về kỹ thuật, trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và được xếp vào nhóm các đại học trọng điểm quốc gia.
Tiền thân của Trường Đại học Bách khoa là Trung tâm Kỹ thuật Quốc gia được thành lập từ năm 1957, đến ngày 27 tháng 10 năm 1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Quyết định số 426/TTg đổi tên Trường Đại học Kỹ thuật Quốc Gia thành Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1996 trường trở thành thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và là trường có số lượng sinh viên đông nhất trong các trường thành viên (khoảng hơn 20.000 sinh viên bao gồm cả hệ đại học và cao học).
Lịch sử
Năm 1957: Trung tâm Kỹ thuật Quốc gia được thành lập theo sắc lệnh số 213/GD ngày 29/6/1957 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, gồm 4 trường thành viên: Cao đẳng Công Chánh, Cao đẳng Điện lực, Quốc gia Kỹ sư Công nghệ và Việt Nam Hàng hải.
Năm 1972: Trung tâm được đổi tên thành Học viện Kỹ thuật Quốc gia. Khoa Kỹ thuật và Khoa Khoa học Cơ bản được thành lập.
Năm 1973: Học viện được đổi tên thành Trường đại học Kỹ thuật.
Năm 1976: Trường được mang tên Đại học Bách khoa với 5 khoa chuyên ngành: Xây dựng, Điện-Điện tử, Thủy lợi, Cơ khí và Hóa học.
Năm 1978: Khoa Địa chất được thành lập.
Năm 1980: Trường bắt đầu đào tạo bậc Tiến sĩ theo quyết định số 319-TTg ngày 17/12/1980 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Giao nhiệm vụ đào tạo trên đào tạo trên đại học cho trường Đại học Bách Khoa TP.HCM” với 20 chuyên ngành đào tạo tiến sĩ.
Năm 1991: Bắt đầu đào tạo cao học.
Năm 1991: Khoa Kỹ thuật Thủy lợi và Xây dựng được sáp nhập thành khoa Kỹ thuật Xây dựng.
Năm 1992: Khoa Quản lý Công nghiệp được thành lập.
Năm 1993: Hệ thống đào tạo theo tín chỉ được áp dụng. Khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính được thành lập. Bộ môn Mỹ thuật Công nghiệp trực thuộc BGH đầu tiên ở phía Nam được thành lập.
Năm 1996: Trường Đại học Bách Khoa trở thành thành viên của Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Bộ môn Mỹ thuật Công nghiệp chuyển về Trường Đại học Kiến Trúc do cấu trúc tổ chức Đại học Quốc gia TPHCM.
Năm 1999: Khoa Kỹ thuật Môi trường được thành lập.
Năm 2000: Khoa Kỹ thuật Giao thông được thành lập.
Năm 2001: Khoa Công nghệ Vật liệu được thành lập.
Năm 2003: Khoa Khoa học Ứng dụng được thành lập.
Năm 2005: Trường Đại học Bách khoa được Chính phủ trao tặng danh hiệu "Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới"
Năm 2007: Trường Đại học Bách khoa được Chính phủ trao tặng "Huân chương độc lập"
17/9/2007: Văn phòng Đào tạo Quốc tế (Office for International Study Programs – OISP) được thành lập nhằm chuyên nghiệp hóa các hoạt động đào tạo quốc tế bậc ĐH và Sau ĐH của Trường ĐH Bách khoa (ĐH Quốc gia TP.HCM)
Tiềm lực
Đội ngũ giảng viên
Tính đến năm 2020, trường trên 930 giảng viên. Trong đó có 12 giáo sư, 131 phó giáo sư, trên 388 tiến sĩ, trên 443 thạc sĩ và 99 giảng viên có trình độ đại học.
Cơ sở vật chất
Tổng diện tích đất sử dụng của Trường (02 cơ sở): 41,23 ha
Diện tích sử dụng cho các hạng mục: Nơi làm việc (14.443), Nơi học (63.480), Nơi vui chơi giải trí (12.675)
Số phòng học (phòng): 240; Tổng diện tích (m2): 26.270
Phòng thí nghiệm (phòng): 180; Tổng diện tích (m2): 21.976
Xưởng thực tập, thực hành (phòng): 11; Tổng diện tích (m2): 7.546
Quan hệ hợp tác
a. Hợp tác quốc tế về đào tạo
Thống kê số lượng các MOU (Bản ghi nhớ) đã ký: 68
Số lượng các chương trình hợp tác, liên kết đào tạo với nước ngoài: 12
Số lượng GV được trao đổi và học tập tại nước ngoài: 78
Số lượt GV, chuyên gia nước ngoài/Việt kiều làm việc, giảng dạy tại trường: 109
Số sinh viên quốc tế học tại trường: 193
Số sinh viên trường đi học tập, trao đổi ở nước ngoài: 27
b. Hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học
Số lượng Hội nghị, Hội thảo quốc tế: 25
Số lượng các dự án quốc tế đã và đang thực hiện: 16
Trung tâm trực thuộc
Trung tâm Nghiên cứu - Ứng dụng kỹ thuật xây dựng
Trung tâm Hỗ trợ sinh viên và việc làm
Trung tâm Nghiên cứu công nghệ và thiết bị công nghiệp
Trung tâm Nghiên cứu thiết bị và công nghệ cơ khí Bách Khoa
Trung tâm Nghiên cứu và hỗ trợ đào tạo quản trị doanh nghiệp
Trung tâm Nghiên cứu về nước khu vực Châu Á (CARE)
Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp công nghệ
Trung tâm Công nghệ lọc hóa dầu
Trung tâm Bồi dưỡng Kỹ thuật - Văn hóa Bách Khoa
Trung tâm Ngoại ngữ
Trung tâm Kỹ thuật điện toán
Trung tâm Đào tạo bảo dưỡng công nghiệp
Trung tâm Công nghệ thông tin địa lý
Trung tâm Nghiên cứu vật liệu polyme
Thành tích đạt được
Trường Đại học Bách khoa đã nhận được Huân chương Lao động hạng Nhất (1998), Huân chương Độc lập hạng Ba (2002), danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (2005), Huân chương Độc lập hạng Nhì (2007) và Huân chương Độc lập hạng Nhất (2012) cùng với nhiều bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ban ngành, đoàn thể.
Đạt nhiều giải thưởng trong và ngoài nước. Trong 10 năm gần đây đã đạt 208 giải Olympic trong đó có 31 giải nhất, 29 giải nhì, 72 giải ba. Đặc biệt sinh viên trường Đại học Bách khoa đã ba lần đạt chức vô địch Robocon châu Á - Thái Bình Dương năm 2002 (Nhật Bản, năm đầu tiên tổ chức), 2004 (Hàn Quốc) và 2006 (Malaysia).
Năm 2014, trường đạt tiêu chuẩn kiểm định ABET ở 2 ngành Khoa học máy tính và Kỹ thuật Máy tính. Trở thành trường đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam đạt chuẩn kiểm định ABET.
Năm 2017, trường đạt tiêu chuẩn AUN-QA do Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN) đánh giá. Bộ tiêu chuẩn đánh giá cấp trường của AUN-QA được các chuyên gia hàng đầu trong ASEAN xây dựng gồm 25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí, bao quát tất cả các lĩnh vực của một trường đại học như quản lý chiến lược, hệ thống, chức năng và kết quả hoạt động. Bộ tiêu chuẩn này tương thích với bộ tiêu chuẩn của Hoa Kỳ và châu Âu. Đây là trường đại học thành viên đầu tiên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và là trường thứ hai trong cả nước được đánh giá ngoài theo tiêu chuẩn AUN-QA, trường thứ tư được đánh giá trong toàn khu vực Đông Nam Á.
Ngoài ra, trường là đơn vị có số lượng chương trình đạt chuẩn kiểm định quốc tế nhiều nhất trên phạm vi toàn quốc với 29 chương trình đạt chuẩn quốc tế (HCERES, ABET, CTI, FIBAA, ...).
Hiện nay trường đang định hướng trở thành trường đầu tiên của Việt Nam với tất cả các chương trình đào tạo được kiểm định chất lượng bởi các tổ chức quốc tế, định hướng cho sinh viên Bách Khoa Hồ Chí Minh vươn ra thị trường việc làm quốc tế, cạnh tranh cùng các nước trong khu vực.
Cựu sinh viên nổi tiếng
Trần Lưu Quang, Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trương Hòa Bình, Nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Phan Văn Sáu, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam, nguyên bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng
Trần Bá Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Ô tô Trường Hải (Thaco)
Trần Quí Thanh, người sáng lập và Giám đốc điều hành Tập đoàn nước giải khát Tân Hiệp Phát
Huỳnh Hữu Bằng, Giám đốc điều hành Công ty Cổ phần SBT
Hồ Minh Trí, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Đầu tư Thương mại Phát Tiến
Hồ Quỳnh Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị - Tổng giám đốc Công ty Bóng đèn Điện Quang
Nguyên Khang, người dẫn chương trình, nhà vô địch Cầu Vồng của VTV6 năm 2009 và “Sinh ra để tỏa sáng” lĩnh vực chơi nhạc cụ dân tộc năm 2017
Chi Bảo, diễn viên
Võ Văn Minh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương
Nguyễn Hữu Phước, Đại Biểu Quốc Hội Việt Nam |
Ruồi trâu có thể là một trong các nghĩa sau:
Ruồi trâu, một loài côn trùng
Tiểu thuyết Ruồi trâu của nhà văn Ethel Lilian Voynich |
Tăng Tuyết Minh (chữ Hán: 曾雪明, 1905–1991) là một phụ nữ Trung Quốc. Theo nghiên cứu của một số học giả Trung Quốc, Pháp, và Hoa Kỳ thì bà đã kết hôn với Hồ Chí Minh khi đó có bí danh là Lý Thụy vào năm 1926 và đã sống chung với ông được nửa năm cho đến khi ông phải rời Trung Quốc sau vụ chính biến năm 1927. Cũng theo các học giả này, sau này khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai người đã tìm cách liên lạc nhau nhưng không được. Thông tin về Tăng Tuyết Minh đã được Hoàng Tranh (nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Quảng Tây, Trung Quốc) xuất bản lần đầu trong một quyển sách từ năm 1987. Ngược lại, theo Sophie Quinn-Judge thì cuộc hôn nhân đó có thể chỉ đơn thuần vì lý do chính trị, hai người đã sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ. Tiến sĩ Chu Đức Tính, giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh cho biết ông đã tranh luận với giáo sư Hoàng Tranh và ông đã kết luận rằng đây là "một giả thuyết mang tính tiểu thuyết nhiều hơn".
Sự tồn tại của Tăng Tuyết Minh trong cuộc đời Hồ Chí Minh chưa bao giờ được nhà nước Việt Nam thừa nhận. Báo chí Việt Nam đăng vụ việc này 1 lần, nhưng sau đó Tổng biên tập báo đã bị cách chức.
Xuất thân
Bà Tăng Tuyết Minh sinh vào tháng 10 năm 1905 tại thành phố Quảng Châu, Trung Quốc, quê gốc ở huyện Mai tỉnh Quảng Đông. Cha của bà là Tăng Khai Hoa làm nghề buôn bán; mẹ của bà là Lương Thị, vợ kế của Tăng Khai Hoa. Ông Tăng Khai Hoa qua đời khi Tăng Tuyết Minh mới lên mười.
Đầu năm 1923, bà học Cao đẳng tiểu học sau đó tốt nghiệp trường Hộ sinh Quảng Châu, ra làm nữ hộ sinh. Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc với bí danh là Lý Thụy từ Moskva đến Quảng Châu làm phiên dịch cho cố vấn Liên Xô Mikhail Markovich Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn.
Theo một cuốn sách của tác giả Pierre Brocheux xuất bản năm 2007, mùa hè năm 1926 qua sự mai mối của một trợ thủ đắc lực là Lâm Đức Thụ, Nguyễn Ái Quốc gặp Tăng Tuyết Minh. Cũng theo các tài liệu của tác giả này, Nguyễn Ái Quốc rất có cảm tình với cô gái Quảng Châu có gương mặt trái xoan, da trắng, điềm đạm, đoan trang, thông minh này.
Hôn nhân
Theo các tài liệu của hai tác giả người Trung Quốc là Hoàng Tranh và Khổng Giả Lập xuất bản cùng năm 2001 thì tháng 10 năm 1926, hôn lễ giữa Lý Thụy, (bí danh hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khi đó) và Tăng Tuyết Minh được tổ chức tại nhà hàng Thái Bình với sự chứng kiến của Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu (vợ của Chu Ân Lai) và một số học viên khoá huấn luyện phụ vận. Đây cũng là địa điểm mà Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu tổ chức kết hôn trước đó một năm. Cuộc hôn nhân này ban đầu bị mẹ Tăng Tuyết Minh phản đối vì bà lo ngại Nguyễn Ái Quốc hoạt động nay đây mai đó không ổn định, nhưng lại được Tăng Cẩm Tương, anh của Tăng Tuyết Minh, tán thành vì nhận xét Nguyễn Ái Quốc là người có học vấn, cẩn trọng và tâm huyết với sự nghiệp. Theo sử gia người Pháp Pierre Brocheux trong cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh: Một tiểu sử, một số người cùng hoạt động hoặc quen biết Lý Thụy như Nguyễn Hải Thần và Lê Hồng Sơn phản đối cuộc hôn nhân này. Trong một lá thư cho các đồng sự, Lý Thụy đã giải thích lý do cưới Tăng Tuyết Minh là vì ông cần một phụ nữ để dạy ngôn ngữ và chăm lo nhà cửa.
Về cuộc hôn nhân này, Sophie Quinn-Judge có ý kiến khẳng định dè dặt hơn vì bà cho rằng vào thời kỳ đó, đôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra đơn thuần vì lý do chính trị, hai người sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ. Sử gia William J. Duiker trong cuốn tiểu sử Ho Chi Minh: A Life cũng nhắc đến rằng theo một số nguồn thông tin, chẳng hạn như cuốn Vision Accomplished? của tác giả Nguyễn Khắc Huyên, Tăng Tuyết Minh và chồng đã có với nhau một cô con gái.
Chia cách
Theo bài viết của Khổng Giả Lập thì ngày 12 tháng 4 năm 1927, sau khi Lý Thụy và Tăng Tuyết Minh kết hôn được nửa năm, Tưởng Giới Thạch phát động cuộc chính biến tại Thượng Hải. Lý Thụy phải chuyển đến Vũ Hán vì trụ sở của đoàn cố vấn Lao Liên chuyển đến đây. Tuy nhiên do tình thế lúc bấy giờ, sau khi đến Vũ Hán, Lý Thụy lại chuyển đến Thượng Hải, rồi đi sang Nga, vòng qua châu Âu rồi về Thái Lan.
Về phần Tăng Tuyết Minh, bà gia nhập Đoàn Thanh niên Xã hội chủ nghĩa. Từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh vào học tại trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung học nữ sinh Tân Á. Từ tháng 7 năm 1929 đến đầu năm 1930, bà rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh huyện Thuận Đức quê ngoại.
Thư gửi Tăng Tuyết Minh
Có một bức thư chữ Hán bị mật thám Pháp tại Đông Dương chặn được và giữ lại ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d’Outre-Mer - Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence được tác giả Hoàng Tranh cho rằng đó là bức thư Nguyễn Ái Quốc viết ở Thái Lan. Cũng theo ông Hoàng Tranh, trước đó qua bí danh Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc đã vài lần nhờ người chuyển thư cho Tăng Tuyết Minh nhưng không có kết quả. Nội dung lá thư như sau:
Hán Việt
Dữ muội tương biệt,Chuyển thuấn niên dư,
Hoài niệm tình thâm,Bất ngôn tự hiểu.
Tư nhân hồng tiện,Dao ký thốn tiên,
Tỷ muội an tâm,Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnhNhạc mẫu vạn phúc.Chuyết huynh Thụy.Dịch nghĩa
Từ ngày chia tay với em,
đã hơn một năm trôi qua.
Nhớ thương khắc khoải,
chẳng nói cũng hiểu.
Nay mượn cánh hồng,
gửi mấy dòng thư để em yên tâm,
đó là điều anh mong mỏi,
và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc.
Người anh vụng về, Thụy. Bản dịch Tiếng Việt của N.H.Thành: Cùng em xa cách,
Đã hơn một năm,Thương nhớ tình thâm,
Không nói cũng rõ.Cánh hồng thuận gió,
Vắn tắt vài dòng,Để em an lòng,
Ấy anh ngưỡng vọng.Và xin kính chúc,
Nhạc mẫu vạn phúc.Anh ngu vụng: ThụyTheo Pierre Brocheux, nội dung của bức thư này mâu thuẫn với lý do "cần một phụ nữ để dạy ngôn ngữ và chăm lo nhà cửa" mà Lý Thụy đã dùng để giải thích cho Nguyễn Hải Thần, Lê Hồng Sơn và một số người khác về việc hôn nhân của ông với Tăng Tuyết Minh.
Vẫn theo ông Hoàng Tranh, đầu tháng 5 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lại viết một lá thư nữa từ Thượng Hải hẹn Tăng Tuyết Minh lên Thượng Hải để gặp nhau. Lá thư này cũng không đến được tay Tăng Tuyết Minh do bà đã rời khỏi địa chỉ ghi trong thư là trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu, nhưng bị Dư Bác Văn đã xem trộm bức thư rồi đốt đi. Đến nửa năm sau Tăng Tuyết Minh mới biết chuyện nhờ nữ y sĩ Hoàng Nhã Hồng (người đã chứng kiến vụ đốt thư) cho biết.
Nhìn thấy Nguyễn Ái Quốc tại tòa án rồi qua ảnh
Ngày 5 tháng 6 năm 1931 Nguyễn Ái Quốc bị các nhà cầm quyền Anh bắt sau khi trở lại Hồng Kông. Đến cuối năm 1931, nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng đem Nguyễn Ái Quốc ra xét xử. Theo tài liệu của tác giả Hoàng Tranh, trong phiên xét xử này Tăng Tuyết Minh đã nhìn thấy Nguyễn Ái Quốc từ xa, còn Nguyễn Ái Quốc thì hoàn toàn không biết bà có mặt tại toà. Đây là lần cuối cùng Tăng Tuyết Minh nhìn thấy Nguyễn Ái Quốc.
Theo bài "Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh" đã đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành (dọc ngang Đông Nam Á), số tháng 12 năm 2001 xuất bản tại Nam Ninh của Hoàng Tranh, thì tháng 5 năm 1950 Tăng Tuyết Minh nhìn thấy ảnh Hồ Chí Minh trên Nhân dân Nhật báo cùng với tiểu sử của ông. Bà lúc đó mới biết Lý Thụy năm xưa hiện giờ chính là vị Chủ tịch Việt Nam. Bà đã cố gắng liên lạc với ông qua đại sứ Hoàng Văn Hoan và tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng tất cả cố gắng của bà đều không thành. Cũng theo Hoàng Tranh, một cán bộ lãnh đạo Quảng Châu đã tới gặp Tăng Tuyết Minh để trao cho bà lá thư của bà Thái Sướng chứng thực Hồ Chí Minh chính là Lý Thụy cũng tức là chồng Tăng Tuyết Minh. Cán bộ này cũng giải thích lý do tại sao không tiện liên lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hi vọng Tăng Tuyết Minh hiểu và lượng thứ việc này, yên tâm công tác. Hồ Chí Minh cũng từng thông qua Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu và Đào Chú để tìm Tăng Tuyết Minh. Bí thư Trung Nam cục cũng dò tìm tung tích của Tăng Tuyết Minh nhưng theo Hoàng Tranh là không có kết quả. Theo một bài viết nhà ngoại giao Trung Quốc Lý Đồng Thành (李同成, nguyên Bí thư thứ nhất tại Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô) xuất bản năm 2009, Hồ Chí Minh không thể gặp lại Tăng Tuyết Minh do sự phản đối của một số Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, đặc biệt là Lê Duẩn với lý do Hồ Chí Minh được nhân dân xem là cha già dân tộc, nên việc đoàn tụ với Tăng Tuyết Minh sẽ làm ảnh hưởng đến hình tượng của Hồ Chí Minh và sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Theo Lê Hiển Hành (黎显衡), giám đốc , khi nghe tin Hồ Chí Minh mất vào năm 1969, bà đã nghỉ việc ba ngày để chịu tang. Năm 1972, ông gặp Tăng Tuyết Minh và được bà kể lại về hôn nhân với Lý Thụy. Tuy nhiên, cấp trên đã hủy đi ghi chép cuộc phỏng vấn này và thay bằng một tài liệu khác do Tăng Tuyết Minh viết về hoạt động cách mạng của Lý Thụy tại Quảng Châu mà không nhắc đến cuộc hôn nhân.
Từ đó bà ở vậy đến già. Năm 1977, bà về hưu sau 52 năm tận tụy với nghề nữ hộ sinh. Năm 1979, đảng bộ tỉnh Quảng Đông chu cấp bà một khoản tiền sinh hoạt và cử một người đến chăm sóc bà. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, Tăng Tuyết Minh qua đời tại Quảng Châu, thọ 86 tuổi. Bà được hỏa táng và tro bà được rắc ra biển.
Khẳng định của Hồ Chí Minh về tình trạng hôn nhân
Nhà báo Harold Isaacs nói rằng vào năm 1945, Hồ Chí Minh từng nói với ông rằng mình cô đơn, không có gia đình, không có gì cả nhưng đã từng có một người vợ. Năm 1962, khi ông được nhà báo Bernard Fall hỏi trực tiếp về vấn đề hôn nhân, ông nói: "Anh thấy đấy, tôi là một người già, một ông già và một người già thường có một khoảng bí mật của riêng mình. Tôi chắc là anh hiểu điều đó." Trong nhiều cuộc phỏng vấn các nhà báo khác từng nhắc đến vấn đề này, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định ông không có vợ và sẽ không lấy vợ cho đến lúc toàn thắng, thống nhất đất nước.Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40, Trích thư Hồ Chí Minh chia buồn với bác sĩ Vũ Đình Tụng: "Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái..."Vũ Đình Hoè, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151, Trích: "Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác nói: "Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!"" và đoạn luật sư Phan Anh đề nghị HCM lập gia đình để có người săn sóc: "Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!"
Các nghiên cứu và phản ứng
Tháng 5 năm 1991, sau khi báo Tuổi Trẻ đăng một bài viết về việc Hồ Chí Minh có thể đã có vợ, tổng biên tập là bà Vũ Kim Hạnh đã bị đình chỉ chức vụ. Theo phóng viên Mark Baker của tờ Sydney Morning Herald, vào năm 2002, sau khi quyển Ho Chi Minh: A Life của William J. Duiker đã được xuất bản, phía kiểm duyệt của nhà nước Việt Nam đã đòi hỏi cắt bỏ một phần đáng kể cuốn sách cho bản dịch tiếng Việt. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia trong bức thư gửi đến Nhà xuất bản Hyperion Books chỉ duy nhất nói rằng muốn loại bỏ một phần trong phần tiểu sử không giống với các thông tin trong tài liệu của chúng tôi. Duiker nói rằng các người liên lạc ông cho biết một số quan chức cấp cao không hài lòng với việc nhắc đến đời sống tình cảm của Hồ Chí Minh. Duiker cho rằng (chính phủ) Việt Nam muốn để lại ấn tượng Hồ Chí Minh làm gương về một cuộc sống độc thân, tuy không nói ông không quan tâm tới phụ nữ nhưng phủ nhận mạnh mẽ bất cứ mối quan hệ tình cảm chính thức hay nghiêm túc nào của Hồ Chí Minh khi ông đã trở thành nhà cách mạng. Một ấn bản của tạp chí Far Eastern Economic Review mang một mục nhỏ về tranh cãi này cũng bị cấm phân phối ở Việt Nam.
Các tài liệu về Hồ Chí Minh do nhà nước Việt Nam xuất bản khẳng định rằng ông không có vợ và không nhắc đến vấn đề này.
Theo nhà sử học Pháp ông Pierre Brocheux nhân cuộc nói chuyện với đài BBC tại Toronto, Canada chiều 29/10/2003 về cuốn sách của ông mang tựa đề Vietnam Expose, and New biography of Ho Chi Minh (Khám phá Việt Nam và tiểu sử mới của Hồ Chí Minh): "Tôi tin vào chứng cớ sử gia Trung Quốc, ông Hoàng Tranh cho rằng bà Tăng Tuyết Minh là vợ ông Hồ. Theo tôi, điều mà Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam làm, tức là che giấu chuyện này, là một sự kiện rất quan trọng. Điều này chứng tỏ họ có một chính sách biến ông Hồ thành một biểu tượng cho họ."
Theo giám đốc Lê Hiển Hành, năm 2000 một phái đoàn từ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đến Quảng Đông đã có hỏi thực hư về việc Hồ Chí Minh có vợ Trung Quốc không. Theo Lê thì nguyên phó giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh Nguyễn Huy Hoan lúc đó là thông dịch viên cho phái đoàn, cho ông biết rằng các sử gia ở Việt Nam đang bán tín bán nghi vào bức thư Lý Thụy gửi cho Tăng Tuyết Minh mà Daniel Hémery đã công bố trước đó. Cũng theo Lê thì giới chức Trung Quốc cũng đã từng xóa bỏ một số thông tin về cuộc hôn nhân giữa Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh.
Năm 2013, Tiến sĩ Chu Đức Tính, giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, trong một cuộc phỏng vấn với báo Tuổi Trẻ cho biết ông và đồng nghiệp đã tranh luận với giáo sư Hoàng Tranh về thông tin cuộc hôn nhân giữa Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh mà Hoàng Tranh đã nêu trong cuốn sách của ông ta. Ông Chu Đức Tính đã kết luận rằng đây là "một giả thuyết mang tính tiểu thuyết nhiều hơn". Ông cho rằng "thực tế đã chứng minh điều đó là không có thật".
Báo Công an thuộc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, trong một bài viết về cuộc đời Hồ Chí Minh, cho rằng thông tin ông có vợ là do "những kẻ có mưu đồ đen tối chuyên đi xuyên tạc sự thật" đưa ra. Tờ báo dẫn lời phát biểu của Josephine Stenson tại cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh ông vào tháng 5 năm 1990 ở Hà Nội để lập luận rằng "một con người thông minh, có lý tưởng như Bác thì không thể nào để sơ hở" để mà có vợ con cho mật thám phát hiện ra. Josephine Stenson cũng trích dẫn "Tạp chí Lịch sử quân sự Hoa Kỳ" ghi lại lời kể của một sĩ quan quân Đồng minh từng nói chuyện với Hồ Chí Minh về hôn nhân, được Hồ Chí Minh trả lời: "Khi còn trẻ phải đi hoạt động cách mạng, khi giành được độc lập thì đã già, nên không dám tính chuyện đó". Josephine Stenson được tờ báo miêu tả vào thời điểm đó là "một GS-TS nổi tiếng của Trường đại học Florida Atlantic" — tuy nhiên các tài liệu Mỹ ghi nhận vào năm 1989 bà vẫn là một sinh viên cao học của trường này và luận văn thạc sĩ của bà đến tháng 12 năm 1990 mới hoàn tất.
Chú thích |
Cuộn cảm (hay cuộn từ, cuộn từ cảm) là một loại linh kiện điện tử thụ động tạo từ một dây dẫn điện với vài vòng quấn, sinh ra từ trường khi có dòng điện chạy qua. Cuộn cảm có một độ tự cảm (hay từ dung) L đo bằng đơn vị Henry (H).
Phân loại: lõi không khí, lõi sắt bụi, lõi sắt lá
Tổng quan
Đối với dòng điện một chiều (DC), dòng điện có cường độ và chiều không đổi (tần số bằng 0), cuộn dây hoạt động như một điện trở có điện kháng gần bằng không hay nói khác hơn cuộn dây nối đoản mạch. Dòng điện trên cuộn dây sinh ra một từ trường, B, có cường độ và chiều không đổi.
Khi mắc điện xoay chiều (AC) với cuộn dây, dòng điện trên cuộn dây sinh ra một từ trường, B, biến thiên và một điện trường, E, biến thiên nhưng luôn vuông góc với từ trường. Cảm kháng của cuộn từ lệ thuộc vào tần số của dòng xoay chiều.
Cuộn cảm L có đặc tính lọc nhiễu tốt cho các mạch nguồn DC có lẫn tạp nhiễu ở các tần số khác nhau tùy vào đặc tính cụ thể của từng cuộn cảm, giúp ổn định dòng, ứng dụng trong các mạch lọc tần số.
Từ trường và từ dung
Khi có dòng điện chạy qua, cuộn dây sinh từ trường và trở thành nam châm điện. Khi không có dòng điện chạy qua, cuộn dây không có từ. Từ trường sản sinh tỉ lệ với dòng điện
Hệ số tỷ lệ L là từ dung hay độ tự cảm, là tính chất vật lý của cuộn dây, đo bằng đơn vị Henry - H, thể hiện khả năng sản sinh từ của cuộn dây bởi một dòng điện, A là diện tích bề mặt cuộn dây. B.A ứng với từ thông. Từ dung càng lớn thì từ thông sinh ra càng lớn (ứng với cùng một dòng điện), và cũng ứng với dự trữ năng lượng từ trường (từ năng) trong cuộn dây càng lớn.
Bảng dưới đây tóm tắt công thức tính từ dung cho một số trường hợp
Điện thế, dòng điện và trở kháng
Theo định luật cảm ứng Faraday, từ trường biến thiên theo thời gian tạo ra một điện thế trên cuộn dây V.
Với từ dung không đổi theo thời gian:
Dòng điện chạy trên cuộn dây có liên hệ với điện thế qua:
Trở kháng phức của cuộn cảm với dòng điện xoay chiều, phụ thuộc vào tần số của dòng điện xoay chiều.
Với j là đơn vị ảo, ω là tần số góc của dòng điện xoay chiều.
Trường hợp cuộn dây không có điện trở, R=0, điện thế đi trước dòng điện một pha 90°. Trong trường hợp cuộn dây có điện trở, R>0, điện thế đi trước dòng điện một góc θ
Năng lượng lưu trữ
Năng lượng từ trường lưu trữ trên cuộn dây được tính theo công thức:
1
Phương pháp nối kết
Nhiều cuộn dây có thể mắc nối tiếp với nhau để tăng từ dung hay song song với nhau dễ giảm từ dung.
Khi mắc nối tiếp nhiều (n) cuộn dây lại với nhau, tổng từ dung sẽ tăng và bằng tổng của các từ dung:
Lt = L1 + L2 +... + Ln
Khi mắc song song nhiều (n) từ dung lại với nhau, từ dung tổng sẽ giảm, nghịch đảo của từ dung tổng bằng tổng nghịch đảo các từ dung: |
Vườn quốc gia hay công viên quốc gia là một khu vực đất hay biển được bảo tồn bằng các quy định pháp luật của chính quyền sở tại. Vườn quốc gia được bảo vệ nghiêm ngặt khỏi sự khai thác, can thiệp bởi con người. Vườn quốc gia thường được thành lập ở những khu vực có địa mạo độc đáo có giá trị khoa học hoặc những khu vực có hệ sinh thái phong phú, có nhiều loài động-thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao cần được bảo vệ nghiêm ngặt trước sự khai thác của con người. Các vườn quốc gia là một khu vực được bảo vệ theo quy định của IUCN loại II. Vườn quốc gia lớn nhất thế giới là Vườn quốc gia Đông Bắc đảo Greenland được thành lập năm 1974.
Định nghĩa
Theo định nghĩa của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) thì vườn quốc gia là:
Khu vực tự nhiên của vùng đất và/hoặc vùng biển, được chọn để
(a) bảo vệ tình trạng nguyên vẹn sinh thái của một hay nhiều hệ sinh thái cho các thế hệ hiện tại và tương lai,
(b) loại bỏ việc khai thác hay chiếm giữ không thân thiện đối với các mục đích của việc chọn lựa khu vực và
(c) chuẩn bị cơ sở cho các cơ hội tinh thần, khoa học, giáo dục, giải trí và tham quan, tất cả các cơ hội đó phải có tính tương thích về văn hóa và môi trường.
Theo quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, thay thế cho Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2001 về Quy chế quản lý rừng thì vườn quốc gia là một dạng rừng đặc dụng, được xác định trên các tiêu chí sau:
Vườn quốc gia là khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc ở vùng đất ngập nước, hải đảo, có diện tích đủ lớn được xác lập để bảo tồn một hay nhiều hệ sinh thái đặc trưng hoặc đại diện không bị tác động hay chỉ bị tác động rất ít từ bên ngoài; bảo tồn các loài sinh vật đặc hữu hoặc đang nguy cấp.
Vườn quốc gia được quản lý, sử dụng chủ yếu phục vụ cho việc bảo tồn rừng và hệ sinh thái rừng, nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và du lịch sinh thái.
Vườn quốc gia được xác lập dựa trên các tiêu chí và chỉ số: về hệ sinh thái đặc trưng; các loài động vật, thực vật đặc hữu; về diện tích tự nhiên của vườn và tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp, đất thổ cư so với diện tích tự nhiên của vườn
Lịch sử
Ý tưởng về việc thiết lập cảnh quan thiên nhiên đáng được bảo vệ cụ thể nào đó dưới sự bảo vệ có nguồn gốc từ đầu thế kỷ 19. Nhà thơ người Anh William Wordsworth năm 1810 đã viết về hồ District như là "một loại tài sản quốc gia trong đó mọi người có quyền và lợi ích, những người có mắt để nhận biết và trái tim để thưởng thức". Họa sĩ Mỹ George Catlin năm 1832, trong những chuyến đi về miền tây nước Mỹ, đã viết rằng thổ dân Bắc Mỹ tại Hoa Kỳ cần được bảo toàn: bằng một số chính sách bảo vệ lớn của chính quyền... trong khu vườn tráng lệ... Một vườn quốc gia, chứa người và động vật, tất cả trong sự hoang dã và trong sạch của vẻ đẹp tự nhiên của họ!. Nam tước Thụy Điển gốc Phần Lan Adolf Erik Nordenskiöld cũng đưa ra ý kiến tương tự vào năm 1880. Nhà tự nhiên học người Mỹ gốc Scotland John Muir cũng đã đưa ra các cảm hứng trong việc thiết lập các vườn quốc gia, đề cập tới nhiều ý tưởng của các phong trào bảo tồn, môi trường và quyền động vật sau này. Ý tưởng chung của họ là giữ lại những điều kỳ diệu của thiên nhiên sao cho các thế hệ tương lai có thể thưởng thức chúng và tìm lại được chúng tại nơi đó.
Ra đời
Cố gắng đầu tiên để thiết lập những vùng đất được bảo vệ là tại Hoa Kỳ, vào ngày 20 tháng 4 năm 1832, khi tổng thống Andrew Jackson ký một sắc luật để dự trữ 4 vùng đất xung quanh khu vực ngày nay là Hot Springs, Arkansas nhằm bảo vệ các suối nước nóng tự nhiên và các khu vực núi cận kề để chính quyền Hoa Kỳ sử dụng trong tương lai. Nó được biết đến như là Khu bảo tồn Hot Springs. Tuy nhiên đã không có cơ quan quyền lực nhà nước nào được thành lập và việc kiểm soát của liên bang đối với khu vực đã không được thiết lập một cách rõ ràng cho tới tận năm 1877.
Cố gắng tiếp theo nhằm thiết lập những vùng đất được bảo vệ cũng là tại Hoa Kỳ, khi tổng thống Abraham Lincoln ký sắc luật của Quốc hội Hoa Kỳ ngày 30 tháng 6 năm 1864, nhượng lại thung lũng Yosemite và rừng Mariposa với các cây cự sam (hay cù tùng khổng lồ) (sau này là Vườn quốc gia Yosemite) cho bang California, trong đó ghi rõ:
Bang đã đề cập [California] tới sẽ chấp nhận sự chuyển nhượng này với các điều kiện rõ ràng rằng các tài sản sẽ được duy trì để sử dụng công cộng, làm trung tâm nghỉ ngơi và tiêu khiển; sẽ không được chuyển nhượng vào bất kỳ thời gian nào.
Năm 1872, Vườn quốc gia Yellowstone đã được thành lập như là vườn quốc gia thật sự đầu tiên trên thế giới. Khi tin tức về các kỳ quan thiên nhiên của khu vực Yellowstone lần đầu tiên được công bố thì vùng đất này, khác với Yosemite, đang là một phần của lãnh thổ mà chưa một bang nào chiếm quyền quản lý, vì thế chính quyền liên bang đã chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý, một quá trình chính thức được hoàn thành vào ngày 1 tháng 10 năm 1890. Nó là cố gắng và lợi ích tổ hợp của các nhà bảo tồn, các chính khách và đặc biệt là các doanh nhân (cụ thể là công ty quản lý tuyến đường sắt Bắc Thái Bình Dương, mà hành trình đi qua Montana đã thu được lợi ích lớn nhờ sự tạo ra điểm hấp dẫn du khách này), để đảm bảo rằng Quốc hội Hoa Kỳ sẽ thông qua sắc luật nhằm thành lập Vườn quốc gia Yellowstone.
Wallace Stegner đã viết rằng vườn quốc gia là ý tưởng tốt nhất của người Mỹ – xuất phát từ việc bảo tồn mang tính hoàng tộc mà các chính thể Cựu thế giới phục vụ cho chính bản thân họ - để tạo ra sự bảo tồn dân chủ, mở cho tất cả mọi người, "nó phản ánh chúng ta ở khía cạnh tốt nhất, chứ không phải ở khía cạnh tệ nhất.". Tuy vậy, chỉ 44 năm sau khi thành lập các vườn quốc gia Yellowstone, Yosemite và gần 37 vườn quốc gia, khu bảo tồn khác thì cơ quan nhà nước quản lý toàn diện các khu vực này mới được thành lập tại Hoa Kỳ - đó là Cục Vườn Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Một điều thú vị là một doanh nhân, ông Stephen Mather, đã là người thúc đẩy mạnh mẽ nhất cho việc thành lập NPS, ông dã viết cho Franklin Knight Lane, khi đó là Bộ trưởng Nội vụ về nhu cầu đó. Lane đã mời Mather đến Washington, D.C để làm việc cùng ông trong soạn thảo và chờ sự thông qua của dự luật về tổ chức NPS, được Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn và ký ngày 25 tháng 8 năm 1916.
Số lượng các khu vực hiện tại do NPS quản lý tại Hoa Kỳ là 391, trong đó chỉ có 58 là các vườn quốc gia.
Tại các quốc gia khác, ý tưởng về thành lập vườn quốc gia như Yellowstone cũng đã dần dần được chấp nhận. Tại Australia, Vườn quốc gia Hoàng gia đã được thành lập ở phía nam Sydney năm 1879. Tại Canada, Vườn quốc gia Banff (khi đó gọi là Vườn quốc gia núi Rocky) là vườn quốc gia đầu tiên của nước này vào năm 1885. New Zealand có vườn quốc gia đầu tiên vào năm 1887. Tại châu Âu các vườn quốc gia đầu tiên là tập hợp gồm 9 vườn tại Thụy Điển vào năm 1909. Hiện tại, châu Âu có 370 vườn quốc gia .
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, các vườn quốc gia đã được thành lập trên khắp thế giới. Vườn quốc gia Vanoise trong khu vực dãy núi Alps là vườn quốc gia đầu tiên của Pháp, thành lập năm 1963 sau khi diễn ra các cuộc biểu tình ngăn chặn một dự án du lịch tại đây. Tại Việt Nam, Vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm 1966 là vườn quốc gia đầu tiên của nước này.
Các đặc trưng
Các vườn quốc gia thông thường nằm tại các khu vực chủ yếu là chưa phát triển, thường là những khu vực với động-thực vật bản địa quý hiếm và các hệ sinh thái đặc biệt (chẳng hạn cụ thể là các loài đang nguy cấp), sự đa dạng sinh học, hay các đặc trưng địa chất đặc biệt. Đôi khi, các vườn quốc gia cũng được thành lập tại các khu vực đã phát triển với mục tiêu làm cho khu vực đó trở lại gần giống như tình trạng ban đầu của nó, càng gần càng tốt.
Tại một số quốc gia, chẳng hạn như tại Vương quốc Anh và Wales, các khu vực được dùng làm vườn quốc gia không phải là vùng hoang vu, cũng không do nhà nước sở hữu, và có thể bao gồm các khu dân cư và việc sử dụng đất là đáng kể, thông thường chúng là một bộ phận hợp thành của cảnh quan khu vực. Vườn quốc gia đầu tiên của Scotland, vườn quốc gia Loch Lomond và Trossachs, được thành lập tháng 7 năm 2002 và vườn quốc gia Cairngorms được thành lập tháng 3 năm 2003.
Quản lý, sử dụng
Phần lớn các vườn quốc gia có vai trò kép, một mặt đây là khu vực cung cấp nơi cư trú cho sự sống hoang dã, mặt khác nó lại phục vụ như là nơi du lịch phổ biến cho quần chúng. Việc quản lý các mâu thuẫn tiềm ẩn giữa hai mục đích này có thể là một vấn đề, cụ thể là du khách sẽ đem lại thu nhập cho vườn quốc gia và vườn quốc gia sử dụng nguồn thu nhập này để duy trì và phát triển các dự án bảo tồn. Các vườn quốc gia cũng là nguồn cung cấp các tài nguyên thiên nhiên có giá trị, chẳng hạn như gỗ, khoáng sản và các loại tài nguyên có giá trị khác. Sự cân bằng giữa nhu cầu khai thác các tài nguyên này với tổn thất do việc khai thác gây ra, thường là thách thức rất quan trọng đối với hệ thống quản lý vườn quốc gia. Các vườn quốc gia cũng hay bị đốn hạ bất hợp pháp và các dạng khai thác lậu khác, đôi khi là do tham nhũng. Điều này đe dọa tính nguyên vẹn của nhiều môi trường sống có giá trị.
Các dạng bảo tồn khác
Một vài quốc gia cũng chọn các khu vực với tầm quan trọng lịch sử, khoa học hay văn hóa đặc biệt làm vườn quốc gia hoặc là các thực thể đặc biệt trong hệ thống vườn quốc gia của mình. Các quốc gia khác lại sử dụng kiểu khác cho việc bảo tồn các khu vực lịch sử. Một số các khu vực này, nếu đạt được các tiêu chuẩn đã đề ra, có thể được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Tại nhiều quốc gia, các cơ quan chính quyền địa phương có thể là tổ chức chịu trách nhiệm duy trì hệ thống vườn. Một số trong số các hệ thống vườn này cũng được gọi là vườn quốc gia.
Một số nơi
Áo
Hiện tại, Áo có 6 vườn quốc gia với tổng diện tích 2.356 km², chiếm khoảng 2,8% diện tích nước này.
Đức
Tại Đức hiện tại có 14 khu vực thiên nhiên có giá trị được gọi là vườn quốc gia. Với 9.134,31 km², các vườn quốc gia của Đức chiếm khoảng 2,6% diện tích nước này.
Hoa Kỳ
Hiện tại Hoa Kỳ có 58 vườn quốc gia chính thức, nhiều trong số đó đã trên 100 năm tuổi. Vườn quốc gia Yellowstone tại các bang Wyoming, Montana và Idaho được thành lập năm 1872 là vườn quốc gia đầu tiên trên thế giới.
Việt Nam
Đến năm 2007, Việt Nam có 30 vườn quốc gia, với vườn quốc gia Cúc Phương thành lập năm 1966 là vườn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam. Tổng diện tích các vườn quốc gia khoảng 10.350,74 km² (trong đó có 620,10 km² là mặt biển), chiếm khoảng 2,93% diện tích đất liền của nước này.
Đến năm 2020, Việt Nam có 34 vườn quốc gia. |
Kỷ Silur hay phiên âm thành kỷ Xi-lua (Silua) là một kỷ chính trong niên đại địa chất kéo dài từ khi kết thúc kỷ Ordovic, vào khoảng 443,8 ± 1,5 triệu (Ma) năm trước, tới khi bắt đầu kỷ Devon vào khoảng 419,2 ± 3,2 Ma. Giống như các kỷ địa chất khác, các tầng đá xác định sự khởi đầu và kết thúc kỷ này được xác định khá rõ, nhưng niên đại chính xác thì vẫn là không chắc chắn trong phạm vi 5-10 triệu năm. Căn cứ xác định sự bắt đầu kỷ này là một sự kiện tuyệt chủng lớn khi 60% các loài sinh vật biển đã bị đào thải. Xem Sự kiện tuyệt chủng kỷ Ordovic-kỷ Silur.
Biên niên sử
Hệ thống địa tầng kỷ Silur đã lần đầu tiên được Roderick Murchison xác định, khi ông kiểm tra các tầng đá trầm tích chứa hóa thạch ở miền nam Wales (Xứ Uên/Xứ Gan) vào đầu thập niên 1830. Ông đặt tên cho các tầng đá này theo tên gọi của một bộ lạc người Celt (Xen-tơ) ở Wales- là người Silures, kế tục truyền thống của bạn ông là Adam Sedgwick, người đã xác định và đặt tên cho kỷ Cambri. Năm 1835, hai người đã đưa ra một bài báo chung, dưới tên gọi On the Silurian and Cambrian Systems, Exhibiting the Order in which the Older Sedimentary Strata Succeed each other in England and Wales, có thể coi là phôi thai cho việc xác định niên đại địa chất hiện đại. Tuy nhiên, sau khi đã xác định kỷ này và khi lần theo dấu vết của kỷ Silur trên thực địa thì người ta nhận ra rằng nó chồng lấn lên các tầng thuộc kỷ Cambri của Sedgwick, điều này đã gây ra tranh cãi và gây bất hòa đến mức chấm dứt luôn cả tình bạn của họ. Charles Lapworth cuối cùng đã giải quyết mâu thuẫn bằng cách xác định một hệ thống địa tầng chính mới với tên gọi là kỷ Ordovic để bao gồm các tầng đang tranh chấp.
Các phân kỷ
Khoảng thời gian của kỷ Silur thông thường được chia nhỏ thành các phân kỷ Tiền (Llandovery và Wenlock) và Hậu (Ludlow và Pridoli) Silur. Tuy nhiên, một vài sơ đồ hệ thống sử dụng Tiền (Llandovery), Trung (Wenlock) và Hậu (Ludlow và Pridoli) Silur. Các tầng động vật này được đặc trưng bởi các hóa thạch chỉ mục, là các loài mới của các sinh vật biển thuộc nhóm Graptolita xuất hiện trong mỗi tầng. Mỗi thế địa chất này tương ứng với một chuỗi đá, chúng được nói đến như là thuộc về các phần dưới, giữa và trên của tầng đá, tương tự với thời gian đầu, giữa và cuối của kỷ Silur. Các thế địa chất và các tầng động vật từ trẻ nhất đến già nhất là:
Thế Pridoli - không định nghĩa tầng động vật (hậu Silur)
Thế Ludlow được phân chia thành:
Kỳ Ludford (hậu Ludlow - hậu Silur)
Kỳ Gorst (tiền Ludlow - hậu Silur)
Thế Wenlock được phân chia thành:
Kỳ Homer (hậu Wenlock - tiền hoặc trung Silur)
Kỳ Sheinwood (tiền Wenlock - tiền hoặc trung Silur)
Thế Llandovery được phân chia thành:
Kỳ Telych (hậu Llandovery - tiền Silur)
Kỳ Aeron (trung Llandovery - tiền Silur)
Kỳ Rhuddal (tiền Llandovery - tiền Silur)
Tại Bắc Mỹ một hệ thống các tầng động vật cục bộ khác được sử dụng:
Cayuga (hậu Silur - Ludlow)
Lockport (trung Silur - Wenlock)
Tonawand (trung Silur - Wenlock)
Ontario (tiền Silur - Llandovery)
Alexandria (tiền Silur - Llandovery)
Cổ địa lý học
Trong kỷ Silur, Gondwana vẫn tiếp tục trôi dạt chậm về phía nam tới các vĩ độ lớn, nhưng có các chứng cứ cho thấy các chỏm băng thuộc kỷ Silur là ít lớn hơn so với các chỏm băng thuộc thời kỳ băng hà hậu Ordovic. Sự tan chảy ra của các chỏm băng và các sông băng đã làm cho mực nước biển lên cao, được ghi nhận từ thực tế là các trầm tích kỷ Silur che phủ lên trên các trầm tích kỷ Ordovic bị xói mòn, tạo thành một sự phân vỉa không chỉnh hợp. Các craton khác và các mảng lục địa đã trôi dạt cùng nhau gần đường xích đạo, bắt đầu sự hình thành của siêu lục địa thứ hai, được biết đến dưới tên gọi Euramerica (Âu-Mỹ).
Khi proto-Europe (tiền-châu Âu) va chạm với Bắc Mỹ thì va chạm này đã gấp nếp các trầm tích ven bờ biển đã được tích lũy từ kỷ Cambri ngoài khơi phía đông của Bắc Mỹ và phía tây của châu Âu. Sự kiện này được gọi là kiến tạo sơn Caledonia, sự dồn lên của các dãy núi kéo dài từ tiểu bang New York (ngày nay) tới chỗ nối lại của châu Âu với Greenland và Norway. Vào cuối kỷ Silur, mực nước biển lại hạ thấp xuống một lần nữa, để lại các lòng chảo lộ rõ chứa muối (evaporit) trong lưu vực kéo dài từ Michigan tới West Virginia, và các dãy núi mới hình thành nhanh chóng bị xói mòn. Sông Teays, chảy vào các biển nông trên giữa lục địa, đã xói mòn các tầng thuộc kỷ Ordovic, để lại dấu vết trong các tầng thuộc kỷ Silur ở miền bắc Ohio và Indiana.
Đại dương rộng lớn Panthalassa đã bao phủ phần lớn Bắc bán cầu. Các đại dương nhỏ khác như Proto-Tethys, Paleo-Tethys, Rheic, đường thông ra biển của đại dương Iapetus (nằm giữa Avalonia và Laurentia), và Ural mới hình thành.
Trong kỷ này, Trái Đất đang nằm trong giai đoạn nhà kính ấm và kéo dài và các biển nông và ấm đã che phủ phần lớn các vùng đất tại khu vực xích đạo. Kỷ này có một sự ổn định tương đối của khí hậu Trái Đất, kết thúc kiểu khí hậu thất thường của giai đoạn trước đó. Các lớp mai (vỏ) vỡ (gọi là coquina) cung cấp các chứng cứ mạnh mẽ cho kiểu khí hậu mà các cơn bão mạnh ngự trị được phát sinh khi đó bởi các mặt biển ấm.
Sinh vật
Động vật
Mực nước biển cao và các biển nông trên thềm lục địa cung cấp một môi trường thích hợp cho sự sống đại dương của tất cả các loài. Các tầng đá kỷ Silur là nơi chứa nhiều mỏ dầu và hơi đốt ở nhiều khu vực. Các tầng đá kỷ Silur chứa hematit—một loại quặng sắt—ở miền đông Bắc Mỹ đã đóng vai trò quan trọng cho nền kinh tế châu Mỹ thuộc địa thời kỳ đầu.
Các dải đá san hô ngầm đã lần đầu tiên xuất hiện trong kỷ này, được các nhóm san hô đã tuyệt chủng như các bộ Tabulata và Rugosa tạo ra. Những loài cá xương đầu tiên (nhóm Osteichthyes) đã xuất hiện, với các đại diện là Acanthodii được che phủ bằng lớp vảy bằng chất xương; các loài cá đã đạt được sự đa dạng đáng kể và phát triển các quai hàm chuyển động được, được thích ứng từ sự hỗ trợ của 2 hoặc 3 cung mang ở phía trước. Hệ động vật đa dạng của nhóm Eurypterida (bò cạp biển) -- một số trong chúng có độ dài vài mét—sinh sống ở các biển nông thời kỳ Silur ở Bắc Mỹ; nhiều hóa thạch của chúng đã được tìm thấy ở bang New York. Các ngành Brachiopoda, Bryozoa, Mollusca và Trilobita đã rất đông đảo và đa dạng.
Nhóm Myriapoda trở thành những động vật sống trên đất liền đích thực đầu tiên. Các hệ sinh thái đất liền, bao gồm những động vật đa bào đầu tiên trên đất liền hiện đã xác định được, là các họ hàng của nhện và động vật nhiều chân ngày nay, các hóa thạch của chúng đã được phát hiện ra trong thập niên 1990.
Thực vật
Những hóa thạch đầu tiên của thực vật có mạch đã xuất hiện trong kỷ Silur. Các đại diện sớm nhất của nhóm này là Cooksonia (chủ yếu ở Bắc bán cầu) và Baragwanathia (ở Australia). Các loài thực vật nguyên thủy trên đất liền thuộc kỷ Silur với xylem và libe nhưng không phân hóa thành rễ, thân và lá, là nhóm Psylophyton, với cơ chế sinh sản bằng bào tử và thở thông qua các khí khổng trên mỗi mặt, và có lẽ quang hợp ở mọi mô được chiếu sáng. Rhyniophyta và Lycopodiophyta nguyên thủy là các thực vật đất liền khác đã lần đầu tiên xuất hiện trong kỷ này.
Nấm
Các loài nấm sống trên đất liền đầu tiên có lẽ xuất hiện trong kỷ này. |
Trong toán học, dãy Cauchy (; ), được đặt tên theo nhà toán học Augustin-Louis Cauchy, là dãy mà các phần tử tiến đến gần nhau tùy ý khi dãy tiếp tục. Chính xác hơn, cho bất cứ khoảng cách nhỏ nào, hầu như tất cả các phần tử trong dãy ngoại trừ hữu hạn một số phần tử ra có khoảng cách giữa chúng nhỏ hơn khoảng cách đã cho.
Điều kiện phần tử đứng sau gần tùy ý với phần tử ngay trước đó không phải điều kiện đủ. Ví dụ chẳng hạn, trong dãy căn bậc hai của các số tự nhiên:
hai phần tử liên tiếp đó gần với nhau:
Tuy nhiên, khi chỉ số lớn, các phần tử có thể lớn tùy ý. Do đó với bất kỳ chỉ số và khoảng cách , tồn tại chỉ số đủ lớn sao cho (Thật ra chỉ cần là đủ.) Bởi vậy, bất kể dãy chạy tới đâu, các phần tử còn lại không bao giờ tiến gần đến nhau; do đó dãy này không phải dãy Cauchy.
Một ứng dụng của dãy Cauchy nằm trong không gian mêtric đầy đủ (không gian mà các dãy Cauchy trong đó hội tụ đến một giá trị nào đó), điều kiện cho hội tụ chỉ dựa trên các phần tử trong dãy, ngược lại với định nghĩa hội tụ dùng cả giá trị hội tụ và các phần tử trong dãy. Ta thường lợi dụng tính chất này cho các thuật toán trong lý thuyết và áp dụng.
Dạng tổng quát của các dãy Cauchy trong không gian đều tồn tại dưới dạng bộ lọc Cauchy và mạng Cauchy.
Trong số thực
Dãy
của các số thực được gọi là dãy Cauchy nếu với mọi số thực dương tồn tại số nguyên dương N sao cho với mọi số tự nhiên
trong đó thanh dọc đứng ký hiệu cho giá trị tuyệt đối. Tương tự như vậy ta có thể định nghĩa cho dãy các số hữu tỉ hoặc dãy các số phức. Cauchy đưa ra điều kiện hiệu phải nhỏ vô cùng với mọi cặp số tự nhiên m, n.
Với mọi số thực r, dãy biểu diễn bị cắt của r tạo thành dãy Cauchy. Ví dụ, khi dãy số được viết như sau: (3, 3.1, 3.14, 3.141, ...). Phần tử thứ m và phần tử thứ n chỉ cách nhau tối đa trong đó m < n, và khi m lớn, giá trị này càng nhỏ hơn bất kỳ giá trị cho trước
Mô đun hội tụ Cauchy
Nếu là dãy số trong tập thì mô đun hội tụ Cauchy cho dãy số là hàm từ tập các số tự nhiên tới chính nó, sao cho với mọi số tự nhiên và số tự nhiên
Các dãy đi cùng với mô đun hội tụ Cauchy là dãy Cauchy. Sự tồn tại mô đun hội tụ Cauchy được suy ra từ tính xếp thứ tự tốt của các số tự nhiên (gọi là số nhỏ nhất trong định nghĩa của dãy Cauchy, đặt là ). SỰ tồn tại của mô đun cũng suy ra được từ nguyên lý chọn phụ thuộc,nguyên lý này là dạng yếu hơn của tiên đề chọn, thậm chí ta có thể suy ra từ điều kiện còn yếu hơn được gọi là AC00. Dãy Cauchy chính quy là các dãy đi với mô đun cho trước hội tụ (thường thì hoặc ).
Trong không gian mêtric
Bởi định nghĩa của dãy Cauchy chỉ bao gồm duy nhất khái niệm mêtric, dễ tổng quát định nghĩa này sang cho bất cứ không gian mêtric X.
Để làm vậy, giá trị tuyệt đối được thay bằng khoảng cách (trong đó d được gọi là mêtric) giữa và
Nói chính xác, cho không gian mêtric dãy
là dãy Cauchy, nếu với số thực dương tồn tại số nguyên dương sao cho với mọi số tự nhiên khoảng cách
Nhìn qua, việc các phần tử trong dãy càng tiến đến gần nhau khi các giá trị tăng dần có vẻ gợi ý rằng dãy này có giới hạn nằm trong không gian
Song, giá trị giới hạn chưa chắc đã nằm trong X: tính chất của không gian mà tất cả các dãy Cauchy trong đó đều hội tụ được gọi là tính đầy đủ.
Tính đầy đủ
Không gian mêtric (X, d) mà mọi dãy Cauchy trong không gian hội tụ đến một giá trị nằm trong X được gọi là không gian mêtric đầy đủ.
Các ví dụ
Không gian các số thực đầy đủ dưới mêtric của giá trị tuyệt đối, và một trong những cách tiêu chuẩn để xây số thực bao gồm dãy Cauchy của các số hữu tỉ.
Một loại ví dụ khác là không gian X có mêtric rời rạc (trong không gian đó, bất cứ hai phần tử nào khác nhau thì đều có khoảng cách bằng 1).
Ví dụ không phải: số hữu tỉ
Không gian của các số hữu tỉ không đầy đủ (cho mêtric định nghĩa):
Có các dãy số hữu tỉ hội tụ (trong ) đến các giá trị vô tỉ; nghĩa là các dãy Cauchy này không hội tụ đến giá trị thuộc Hơn nữa, nếu x là số vô tỉ, thì dãy số (xn), với phần tử thứ n là biểu diễn n chữ số của x, là dãy Cauchy có giới hạn là số vô tỉ x. Ngoài ra còn có các ví dụ khác về dãy các số hữu tỉ hội tụ về số vô tỉ:
Dãy số định nghĩa bởi bao gồm các số hữu tỉ (1, 3/2, 17/12,...) là dãy các số hữu tỉ nhưng giá trị hội tụ của nó là căn bậc hai của hai, để chứng minh xem phương pháp Babylonian cho tính căn bậc hai.
Dãy của các phân số của các số Fibonacci liên tiếp nếu có hội tụ thì dãy phải hội tụ đến giá trị thỏa mãn mà không có số hữu tỉ nào thỏa mãn được. Nếu ta coi đây là dãy các số thực thì dãy này hội tụ đến giá trị hay còn gọi là tỷ lệ vàng, giá trị này là số vô tỉ.
Các giá trị của hàm mũ , hàm sin và cosin, exp(x), sin(x), cos(x), được biết là số vô tỉ cho mọi số hữu tỉ nhưng mỗi hàm có thể định nghĩa là giới hạn của một dãy Cauchy hữu tỉ, sử dụng chuỗi Maclaurin chẳng hạn.
Ví dụ không phải: khoảng mở
Khoảng mở trong tập các số thực cùng với mêtric tầm thường của không phải là không gian đầy đủ: dãy số nằm trong đó là dãy Cauchy (cho bất cứ cận tất cả các phần tử thỏa mãn đều nằm trong khoảng ), tuy nhiên giá trị giới hạn của dãy không nằm trong — 'giới hạn' của nó, số 0, không nằm trong không gian
Các tính chất khác
Tất cả các dãy hội tụ (có giới hạn s) là dãy Cauchy, bởi cho bất kỳ số thực dương , khi vượt qua một điểm cố định nào đó, mọi phần tử trong dãy đều nằm trong khoảng cách của s, do đó bất cứ hai phần tử trong dãy đều cách nhau tối đa .
Trong bất cứ không gian mêtric nào, dãy Cauchy bị chặn (bởi cho một số N, tất cả các phần tử từ phần tử thứ N trở đi đều cách nhau 1, và nếu M là khoảng cách lớn nhất giữa và bất cứ các phần tử nào cho tới phần tử thứ N, thì không có cặp phần tử nào trong dãy có khoảng cách lớn hơn đến ).
Trong bất cứ không gian mêtric nào, dãy Cauchy nào có dãy con của nó hội tụ đến s thì chính nó cũng hội tụ đến giới hạn s, bởi: cho bất cứ số thực r > 0, khi qua một số điểm cố định nào đó trong dãy gốc, mọi phần tử trong dãy con đều nằm trong khoảng cách r/2 của s, và bất cứ hai phần tử trong dãy gốc đều nằm trong khoảng cách r/2 của nhau, do đó mọi phần tử trong dãy đều nằm trong khoảng cách r của s.
Hai tính chất cuối, cùng với định lý Bolzano–Weierstrass, đưa ra bài chứng minh cho tính đầy đủ của số thực, có liên hệ gần với định lý Bolzano–Weierstrass và định lý Heine–Borel. Mọi dãy Cauchy đều bị chặn, do đó theo định lý Bolzano–Weierstrass trong dãy sẽ có dãy con hội tụ, từ đó suy ra dãy đó cũng sẽ hội tụ. Cách chứng minh này có bao gồm việc sử dụng tiên đề cận trên nhỏ nhất. Một hướng giải khác được nhắc ở trên là các số thực bằng hoàn thiện không gian các số hữu tỉ.
Nếu là ánh xạ liên tục đều giữa không gian mêtric M và N và (xn) là dãy Cauchy trong M, thì là dãy Cauchy trong N. Nếu và là dãy Cauchy trong số hữu tỉ, số thực hoặc số phức, thì tổng và tích cũng là dãy Cauchy. |
Hòa thượng Thích Quảng Độ (27 tháng 11 năm 1928 – 22 tháng 2 năm 2020) là Tăng thống của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ ngày 17 tháng 8 năm 2008 và là một nhân vật bất đồng chính kiến Việt Nam vì các hoạt động đấu tranh nhân quyền. Ông được trao Giải tưởng niệm Thorolf Rafto năm 2006. Là người được đề cử cho giải Nobel Hòa bình nhiều lần, ông được báo chí quốc tế xem là một trong những người có cơ hội đoạt giải này.
Tiểu sử
Thích Quảng Độ sinh ngày 27 tháng 11 năm 1928 tại xã Nam Thanh huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình, tên khai sinh Đặng Phúc Tuệ. Năm 1954 ông di cư vào Nam rồi trở thành một nhân vật lãnh đạo Phật giáo Việt Nam.
Hòa thượng đầu sư với cố Hòa thượng Thích Đức Hải tại chùa Linh Quang, tỉnh Hà Đông. Năm 1944, ngài thọ giới sa di. Năm 1947, ngài đăng đàn thọ đại Cụ túc giới.
Tổng thư ký Viện Hóa đạo
Ông được bầu làm Tổng thư ký Viện Hóa đạo trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) năm 1965. Năm 1981, các giáo phái Phật giáo ở hai miền Việt Nam trở thành thành viên của Mặt trận Tổ quốc; và họ tổ chức một đại hội để thống nhất tất cả các tổ chức Phật giáo tại Việt Nam thành một tổ chức mới mang tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN). Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị giải tán (tuy không có một văn kiện nào của Nhà nước tuyên bố giải thể GHPGVNTN hay tuyên bố Giáo hội này bất hợp pháp).
Thập niên 1970–1980: lưu giam ở Thái Bình
Vì không chịu để cho nhà nước giám sát giáo hội, và kêu gọi biểu tình chống chế độ, ông bị nhà chức trách Việt Nam bắt giam từ tháng 6 năm 1977. Đến năm 1982 thì ông và mẹ ông bị trục xuất về nguyên quán là xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Thái Bình. Mười năm sau ông tự ý tìm vào Nam hoạt động công khai đòi tự do tôn giáo tại Việt Nam. Nhà chức trách đã có lệnh trục xuất ông về Bắc nhưng ông không chịu thi hành vì công dân Việt Nam có quyền cư trú ở bất cứ đâu trên đất nước theo Hiến pháp quy định.
Tuyên án tù 1995
Năm 1995, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện lệnh bắt tạm giam Thích Quảng Độ.
Tháng 8 năm 1995, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử, tuyên phạt Thích Quảng Độ cùng nhóm của ông (Không Tánh, Đồng Ngọc, Nhật Thường, Trí Lực) 5 năm tù giam và 5 năm quản chế về tội "phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước". Theo nhà cầm quyền, trong thời gian bị giam giữ, Thích Quảng Độ đã tỏ ra ăn năn, hối cải nên nhân dịp Quốc khánh 2-9-1998, Chủ tịch nước Việt Nam đã quyết định đặc xá, tha tù trước thời hạn cho ông, trả về nơi cư trú cũ tại Thanh Minh Thiền viện. Báo Tuổi Trẻ đăng tải ảnh chụp "văn bản nhận tội và xin khoan hồng" có chữ ký của ông Thích Quảng Độ, trong đó có đoạn : "Ai đọc thông tư số 2 cũng phải sửng sốt kinh ngạc, cho rằng nội dung nó mang tính chất một lời hiệu triệu kêu gọi Tăng Ni chống lại chính quyền cách mạng. Chính bản thân tôi giờ nghĩ lại cũng phải cảm thấy hoảng sợ và ân hận... Tôi xin chính quyền lượng xét khoan hồng tha thứ hoặc ân giảm tội trạng cho tôi để tôi còn có được cơ hội hối cải". Sau đó, ông Thích Quảng độ chưa từng phủ nhận về việc "ăn năn, hối cải" này.
Theo đài RFA, dưới áp lực từ Hoa Kỳ, Hòa thượng được trả tự do và bị yêu cầu phải đi tị nạn tại Mỹ nhưng ông từ chối và nói rằng ông phải ở lại trong nước với quần chúng Phật tử. Tuy mang tiếng là được thả ra, nhưng thực chất ông bị giam giữ tại gia, vì ông bị cấm thuyết pháp. Có một đồn công an nằm trước Thiền viện kiểm soát rất kỹ. Dưới áp lực chính trị, vào ngày 15/9/2018, Thích Quảng Độ đã bị trục xuất khỏi Thanh Minh Thiền viện. Ông quyết định trở về quê tổ của mình ở Thái Bình.
Viện trưởng Viện Hóa đạo
Năm 1999, Hòa thượng Thích Quảng Độ được bầu làm Viện trưởng Viện Hóa đạo, một tổ chức của GHPGVNTN (được phục hồi hoạt động từ năm 1991). Tuy nhiên, tổ chức này không được chính quyền Việt Nam và Giáo hội Phật giáo Việt Nam thừa nhận và bị cấm hoạt động tại Việt Nam vì đã có một tổ chức thống nhất các tổ chức Phật giáo tại Việt Nam (cả hai miền Nam và Bắc sau năm 1975) với tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam (được thành lập năm 1981).
Hòa thượng Thích Quảng Độ đã có 8 năm ở tù vì những hoạt động kêu gọi tự do tôn giáo và sau đó, tiếp tục những hoạt động nhằm khôi phục Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Ông đã gây được nhiều chú ý trong các nhà ngoại giao nước ngoài và dư luận quốc tế.
Ngày 9 tháng 4 năm 2002, Hòa thượng Thích Quảng Độ, cùng với Hòa thượng Thích Huyền Quang và Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý, được trao giải thưởng Homo Homini của Tổ chức People in Need, Cộng hòa Séc. Cả ba người được vinh danh là "những người bảo vệ nhân quyền và tự do dân chủ và tự do tôn giáo ở Việt Nam". Tháng 9 năm 2006, ông được trao Giải Thorolf Rafto vì đã "dũng cảm và kiên trì chống đối ôn hòa chế độ Cộng sản Việt Nam". Chính phủ Việt Nam cho rằng việc ông được trao giải là một việc "hoàn toàn không thích hợp" vì ông là một người "vi phạm luật pháp, xúi giục chia rẽ tôn giáo, phá hoại tình đoàn kết quốc gia, và từng bị pháp luật Việt Nam kết án".
Sinh thời, ông là trụ trì tại Thanh Minh Thiền viện ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Chính phủ Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã chỉ trích chính phủ Việt Nam vì ông bị quản chế tại nhà. Tuy chính phủ Việt Nam tuyên bố phủ nhận chuyện này, ông phản bác tuyên bố này trong một cuộc phỏng vấn với đài Á Châu Tự do.. Ngày thứ tư 5 tháng 8 năm 2015, sau dịp Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đặc trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, ông Tom Malinowski cùng bà Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ Rena Bitter đến vấn an và trao đổi với Đức Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, về tình hình tôn giáo và nhân quyền, trong cuộc phỏng vấn với bà Ỷ Lan của đài RFA, ông cho biết là vẫn bị quản chế tại Thanh Minh Thiền viện với sự kiểm soát thường trực của những mật vụ khá lộ liễu.
Cuối tháng 10 năm 2006 ông cho biết ông sẽ không rời Việt Nam để nhận Giải Thorolf Rafto tại Na Uy vì ông e ngại chính quyền Việt Nam sẽ buộc ông phải sống lưu vong. Thay vào đó, ông sẽ ủy thác cho ông Võ Văn Ái, phát ngôn viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở hải ngoại, nhận giải thưởng này thay ông.
Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống
Sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang viên tịch năm 2008, theo chúc thư để lại thì Hòa thượng Thích Quảng Độ được chọn làm Tăng thống thứ năm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Trong khi chờ chính thức lĩnh nhiệm thì ông là Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống.
Đệ ngũ Tăng thống
Tháng 11 năm 2011 trong Đại hội kỳ IX của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tổ chức ở chùa Điều Ngự, Tp Westminster, Quận Cam, California thì Hòa thượng Thích Quảng Độ mới chính thức nhận chức Đệ ngũ Tăng thống.
Từ nhiệm và tái nhiệm
Năm 2013, Hòa thượng Thích Quảng Độ muốn tẩn xuất Hòa thượng Thích Chánh Lạc khỏi giáo hội, và gọi vị này là tăng phạm trọng giới. Tuy nhiên nhiều thành viên như Thích Viên Định (Viện trưởng Viện Hóa đạo), Thích Viên Lý (Văn phòng II) không đồng ý, thậm chí còn muốn tôn Thích Chánh Lạc làm Cố vấn Văn phòng II thay Hòa thượng Phó Tăng thống Thích Hộ Giác mới viên tịch. Vì mâu thuẫn này nên ngày 10 tháng 8 năm 2013 Hòa thượng Thích Quảng Độ ra thông báo Cáo bạch từ nhiệm, rời khỏi chức vụ Tăng thống. Tuy nhiên hai ngày sau ông chủ động tái nhiệm nắm giữ chức vụ Tăng thống.
Sau đó Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Giáo chỉ số 10 loại bỏ Thích Viên Định, Thích Viên Lý khỏi Viện Hóa đạo và Văn phòng II. Những người bất mãn với giáo chỉ này đã tách khỏi Giáo hội và lập Tăng đoàn GHPGVNTN, tôn Thích Thiện Hạnh làm Thượng thủ, Thích Chánh Lạc làm Chủ tịch Hội đồng giáo phẩm. Từ lúc này Hòa thượng Thích Quảng Độ không còn vai trò với hầu hết các hoạt động.
Rời khỏi Thanh Minh thiền viện
Sau 20 năm lưu trú tại Thanh Minh thiền viện, cuối năm 2018, trụ trì của Thiền viện đã gây sức ép để ông phải rời đi. Ngày 15 tháng 9 năm 2018 Hòa thượng Thích Quảng Độ phải rời khỏi thiền viện, tá túc tại một số ngôi chùa, và ngày 5 tháng 10 năm 2018 lên tàu về quê ở Thái Bình. Đến ngày 18 tháng 11 năm 2018 thì ông trở lại Tp Hồ Chí Minh và đến ngụ tại chùa Từ Hiếu, Quận 8.
Viên tịch
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, viên tịch vào lúc 21 giờ 20 phút ngày 22 tháng 2 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 1 năm Canh Tý, Phật lịch 2563) tại Chùa Từ Hiếu, Phường 1, Quận 8, Tp Hồ Chí Minh, hưởng thọ 92 tuổi.
Hoạt động với người dân khiếu kiện
Vào ngày 17 tháng 7 năm 2007, ông đã tham gia cứu trợ các người dân đang khiếu kiện tại Thành phố Hồ Chí Minh và kêu gọi "chấm dứt cái nạn độc quyền cai trị" tại Việt Nam. Tờ The Wall Street Journal (xuất bản tại Thành phố New York) cho rằng đây là lần đầu tiên mà các khiếu kiện về đất đai được hội tụ lại với phong trào nhân quyền và có thể là dấu hiệu các nông dân khiếu kiện bắt đầu nhận thức rằng khiếu nại của họ có liên quan đến các nguyên lý trừu tượng như tự do và dân chủ và sẽ khiến Đảng Cộng sản phải "đau đầu".
Ông bị công an bắt vào ngày 23 tháng 8 vì bị cho là có kế hoạch biểu tình chống đối chính quyền. Thượng tọa Thích Không Tánh được Hòa thượng Thích Quảng Độ cử mang tiền ra Bắc để cứu tế cho những người khiếu kiện cũng bị bắt tại Hà Nội ngày 23 tháng 8 khi đang phát tiền cứu trợ cho những người khiếu kiện tại Hà Nội, hòa thượng bị áp giải về lại Thành phố Hồ Chí Minh trong cùng ngày. Sau đó, báo chí Việt Nam bắt đầu đồng loạt chỉ trích ông Thích Quảng Độ và GHPGVNTN. Báo Nhân dân trong bài xã luận tựa đề "Thích Quảng Độ và các tham vọng chính trị đội lốt tôn giáo" cho rằng ông đã cầm đầu "một số phần tử cực đoan" để "hoạt động chống phá Nhà nước, gây rối làm mất trật tự công cộng" và "khiến dư luận hết sức bất bình và cực lực lên án". Báo Tiền Phong cho rằng hoạt động cứu trợ của ông là hoạt động "phản động", và "kích động gây rối". Báo Tuổi Trẻ Online cho rằng ông đã dùng việc cứu giúp người dân nghèo để làm tổ chức của ông nổi tiếng và kêu gọi nhân dân chống phá nhà nước.
Nhận xét
Hòa thượng Thích Quảng Ba (Viện trưởng Tu viện Vạn Hạnh ở Canberra, Úc – Phó Hội chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan) bày tỏ: "Đóng góp của ngài không chỉ ở chỗ ngài viết bao nhiêu chục quyển sách, dẫu dĩ nhiên, tất cả những tác phẩm đó của ngài là vô cùng giá trị cho vấn đề nghiên cứu, học thuật. Nhưng cái đó vẫn là rất nhỏ. Cái đóng góp lớn nhất vẫn là tinh thần bất khuất mà ngài đã giữ được liên tục, từ lúc đóng vai trò Tổng thư ký Viện Hóa đạo cho đến ngày ngài nằm xuống".
Những tác phẩm đã xuất bản
Kinh Mục Liên sám Pháp
Kinh Đại Phương tiện Phật Báo Ân
Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962 (truyện dịch từ Hán văn của Tinh Vân)
Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962 (truyện)
Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964
Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận
Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận
Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận
Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập)
Phật Quang Đại Từ điển (9 tập)
Chiến tranh và bất bạo động
Thơ trong tù 06.04.1977 – 10.12.1978 (tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 năm Mậu Ngọ)
Thơ lưu đày 25.02.1982 – 22.03.1992 (tháng 2 năm Nhâm Tuất đến tháng 2 năm Nhâm Thân) |
Giải Nobel Văn học (tiếng Thụy Điển: Nobelpriset i litteratur) là giải thưởng thường niên do Viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng cho các tác giả có đóng góp tiêu biểu trong lĩnh vực văn học. Đây là một trong năm giải Nobel thành lập theo bản di chúc năm 1895 của Alfred Nobel, được trao nhằm vinh danh những đóng góp tiêu biểu trong các lĩnh vực hóa học, vật lý, văn học, hòa bình, và sinh lý học hoặc y học. Theo di chúc của Nobel, giải thưởng do Quỹ Nobel quản lý và được xét tặng bởi Viện Hàn lâm Thụy Điển. Giải Nobel Văn học đầu tiên được trao cho Sully Prudhomme của Pháp vào năm 1901. Mỗi người đoạt giải nhận một huy chương, một bằng chứng nhận cùng một khoản tiền thưởng (khác nhau tùy theo năm). Năm 1901, Prudhomme nhận được tiền thưởng 150.782 SEK, tương đương với 8.763.633 SEK theo thời giá tháng 12 năm 2020. Mức tiền thưởng cho giải thưởng năm 2023 là 11.000.000 SEK. Lễ trao giải diễn ra ở Stockholm vào ngày 10 tháng 12 hằng năm, đúng vào ngày mất của Nobel.
Đến năm 2023, giải Nobel Văn học đã được trao cho 120 cá nhân. Người trẻ tuổi nhất đoạt giải Nobel Văn học là Rudyard Kipling, chủ nhân giải thưởng năm 1907 ở tuổi 41. Ở tuổi 88, chủ nhân giải Nobel Văn học năm 2007 Doris Lessing là người lớn tuổi nhất được trao tặng giải thưởng này. Giải Nobel Văn học đã có một lần được trao sau khi người đoạt giải qua đời: Erik Axel Karlfeldt vào năm 1931. Khi được chọn nhận giải Nobel vào năm 1958, tác giả người Nga Boris Pasternak bị buộc phải công khai từ chối giải thưởng dưới áp lực từ chính quyền Liên Xô. Năm 1964, Jean-Paul Sartre cho biết rằng ông không muốn nhận giải Nobel Văn học, do ông cũng đã từng từ chối mọi danh hiệu chính thức trong quá khứ. Tuy vậy, ủy ban Nobel không công nhận việc từ chối giải thưởng và vẫn liệt kê họ trong danh sách người đoạt giải.
Đã có 17 phụ nữ được trao giải Nobel Văn học, nhiều hơn bất kỳ giải Nobel nào khác ngoại trừ giải Nobel Hòa bình. Giải thưởng này đã có bốn lần được trao cho hai người (1904, 1917, 1966, 1974). Đã có bảy năm không trao giải Nobel Văn học (1914, 1918, 1935, 1940–1943). Có ba lần giải Nobel Văn học bị tạm hoãn một năm: giải thưởng của các năm 1915, 1949 và 2018 được trao cùng với giải thưởng của năm kế tiếp. Quốc gia đạt nhiều giải Nobel nhất là Pháp với 16 giải thưởng, tiếp theo là Hoa Kỳ và Anh với cùng 13 giải.
Danh sách
Thống kê theo ngôn ngữ
Thống kê theo quốc gia |
Học viện Lục quân trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là nơi chuyên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp trung đoàn, sư đoàn lục quân và chiến dịch quân sự cho các binh chủng, cơ quan và đơn vị thuộc quân chủng lục quân. Học viện được thành lập ngày 7 tháng 7 năm 1946. Trụ sở chính của Học viện đóng quân tại phường 9, Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Lịch sử hình thành
Học viện Lục quân là một trong những Học viện lớn của quân đội Việt Nam, ra đời ngày 7 tháng 7 năm 1946 tại Tông, thị xã Sơn Tây, Hà Tây với tên gọi Lớp Bổ túc Cán bộ Quân sự trung cấp.
Từ ngày thành lập và khi vào tiếp quản trường Võ bị Đà Lạt đến nay, Học viện đã 8 lần thay đổi tên gọi và 9 lần thay đổi địa điểm đóng quân khác nhau.
Ngày 15 tháng 3 năm 1948 đổi tên thành Trường Bổ túc Quân chính trung cấp.
Tháng 5 năm 1955 mang tên mới là Trường Bổ túc Quân sự trung cao cấp.
Từ ngày 3 tháng 3 năm 1961 đến ngày 21 tháng 5 năm 1965 nhập với Trường Chính trị trung cao cấp thành Học viện Quân chính. Năm 1965 Học viện Quân chính lại tách thành Học viện Quân sự và Học viện Chính trị.
Cuối năm 1975 Học viện Quân sự chuyển từ Hà Nội vào Đà Lạt, bên hồ Chiến Thắng và hồ Sương Mai (trước đây là trụ sở của Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt thuộc Việt Nam Cộng hòa)
Từ ngày 16 tháng 12 năm 1981 có tên mới là Học viện Lục quân Đà Lạt
Từ năm 2000, Học viện Lục quân lại được bổ sung thêm nhiệm vụ đào tạo Sĩ quan chỉ huy - Tham mưu cao cấp binh chủng hợp thành cấp Sư đoàn, tỉnh (thành) có trình độ đại học, đào tạo các nhà nghiên cứu khoa học quân sự có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho toàn quân.
Nhân sự và cơ sở vật chất
Học viện Lục quân là nơi có khuôn viên khang trang, cơ sở vật chất hiện đại, đội ngũ cán bộ, giảng viên mạnh, hầu hết đã qua thực tế, được đào tạo cơ bản ở các nhà trường trong và ngoài nước, nhiều người có học hàm, học vị (Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ), có 02 người được nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân là Thiếu tướng Huỳnh Nghĩ và Thiếu tướng Nguyễn Đức Quý; 12 người được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Nhà giáo ưu tú". Năm 2008, đội ngũ cán bộ có trình độ sau đại học của học viện là 236/493 người, chiếm 47,65%, trong đó có gồm 54 Tiến sĩ.
Chức năng, nhiệm vụ
Đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu chiến thuật cấp trung đoàn, sư đoàn, chiến dịch cho tất cả các binh chủng thuộc Quân chủng Lục quân; đào tạo Sĩ quan chỉ huy - Tham mưu cao cấp binh chủng hợp thành cấp Sư đoàn, tỉnh (thành) có trình độ đại học, đào tạo các nhà nghiên cứu khoa học quân sự có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho toàn quân..
Nghiên cứu khoa học nghệ thuật Quân sự Lục quân.
Đào tạo các cử nhân khoa học quân sự, góp phần vào công việc đại học hóa sĩ quan lục quân và từng bước cao học hóa đội ngũ giáo viên quân sự các Học viện, nhà trường toàn quân.
Tên gọi qua các thời kỳ
1946-1948, Lớp Bổ túc Cán bộ Quân sự trung cấp, khai giảng ngày 7 tháng 7 năm 1946
1948-1951, Trường Bổ túc cán bộ Quân sự trung cấp
1948-1951, Trường Bổ túc Quân chính trung cấp
1951-1954, Trường Bổ túc Quân chính trong nước và nước ngoài
1955-1961, Trường Bổ túc Quân sự trung cao cấp
1961-1965, sáp nhập với Trường Chính trị trung cao cấp thành Học viện Quân chính
1965-1981, Tách Học viện Quân chính thành Học viện Quân sự và Học viện Chính trị
1981-nay, Học viện Lục quân
Lãnh đạo hiện nay
Giám đốc: Thiếu tướng Đỗ Minh Xương
Chính ủy: Trung tướng Đỗ Văn Bảnh
Phó Giám đốcː Thiếu tướng Trần Văn Thành
Phó Giám đốcː Thiếu tướng Tống Phú
Phó Giám đốcː Đại tá Nguyễn Công Sơn
Phó Chính ủy: Thiếu tướng Đậu Văn Nậm
Tổ chức Đảng
Tổ chức chung
Năm 2006, thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội. Theo đó Đảng bộ trong Học viện Lục quân bao gồm:
Đảng bộ Học viện Lục quân là cao nhất.
Đảng bộ các Hệ quản lý học viên trực thuộc Học viện Lục quân.
Đảng bộ các đơn vị cơ sở thuộc các Hệ quản lý
Chi bộ thuộc các Phòng, Ban, Khoa đào tạo, các đơn vị cơ sở.
Đảng ủy Học viện
Ban Thường vụ
Bí thư: Chính ủy Học viện Lục quân
Phó Bí thư: Giám đốc Học viện Lục quân
Ủy viên Thường vụ: Phó Chính ủy Học viện Lục quân
Ủy viên Thường vụ: Phó Giám đốc Học viện Lục quân
Ủy viên Thường vụ: Phó Giám đốc Học viện Lục quân
Ban Chấp hành Đảng bộ
Đảng ủy viên: Phó Giám đốc Học viện Lục quân
Đảng ủy viên: Phó Giám đốc Học viện Lục quân
Đảng ủy viên: Chủ nhiệm Chính trị
Đảng ủy viên: Trưởng phòng Đào tạo
Đảng ủy viên: Chủ nhiệm khoa CTĐ, CTCT
Đảng ủy viên: Phó Chủ nhiệm khoa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đảng ủy viên: Chủ nhiệm khoa Chiến thuật
Đảng ủy viên: Chủ nhiệm khoa Chiến dịch
Đảng ủy viên: Chủ nhiệm khoa quân sự địa phương
Đảng ủy viên: Chánh văn phòng
Đảng ủy viên: Phó Chủ nhiệm UBKT/ĐUHV
Đảng ủy viên: Hệ trưởng Hệ đào tạo trung sư đoàn
Tổ chức chính quyền
Cơ quan trực thuộc
Văn phòng
Phòng Đào tạo
Phòng Chính trị
Phòng Sau đại học
Phòng Khoa học quân sự
Phòng Thông tin Khoa học quân sự
Phòng Hậu cần - Kỹ thuật
Ban Tài chính
Ban Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo
Các khoa đào tạo
Khoa Chiến thuật.
Khoa Chiến dịch.
Khoa Chỉ huy - Tham mưu.
Khoa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khoa Công tác Đảng, Công tác chính trị
Khoa Quân sự địa phương.
Khoa Tăng - Thiết giáp.
Khoa Pháo binh.
Khoa Thông tin.
Khoa Công binh.
Khoa Trinh sát.
Khoa Hoá học.
Khoa Quân chủng
Khoa Quân sự chung.
Khoa Sư phạm quân sự.
Khoa Hậu cần - Kỹ thuật.
Khoa Tin học - Ngoại ngữ.
Khoa Đặc công
Các đơn vị quản lý học viên
Hệ 1 (Đào tạo trung đoàn và chỉ huy trưởng ban CHQS cấp huyện)
Hệ 2 (Đào tạo Sau đại học)
Hệ 3 (Đào tạo ngắn hạn)
Hệ 4 (Quốc tế)
Doanh nghiệp
Đoàn an điều dưỡng 198 - Địa chỉ: Số 2, đường Lữ Gia, phường 9, TP Đà Lạt, Lâm Đồng.
Khách sạn - Địa chỉ: Số 36,đường Trần Phú, TP Nha Trang, Khánh Hoà.
Thành tích và tặng thưởng
Hơn 60 năm qua (1946-2008), Học viện đã đào tạo và bổ túc được hơn 190 khóa học cho hơn 36.000 cán bộ chỉ huy cho Quân đội Việt Nam và hai nước Lào, Campuchia, giới thiệu kinh nghiệm cho 42 đoàn đại biểu quân sự của 19 nước và phong trào giải phóng dân tộc thuộc các châu: Âu, Á, Phi, Mỹ La-tinh.…. Nhiều đồng chí phát huy tốt phẩm chất trí tuệ, và đã trở thành tướng lĩnh, cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Huân chương Sao vàng (2011)
Danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (2001)
Huân chương Hồ Chí Minh (1985)
01 Huân chương Quân công Hạng nhất (1976)
01 Huân chương Quân công Hạng nhì (1983)
02 Huân chương Chiến công Hạng nhất (1962,1984) được Nhà nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào tặng.
Hiệu trưởng, Giám đốc, Viện trưởng qua các thời kỳ
Trường Bổ túc Quân chính
7.1946-12.1946, Trần Hưng Nghĩa
7.1947-12.1947, Hoàng Văn Thái
12.1947-2.1948, Hoàng Văn Điền
3.1948-5.1948, Cao Xuân Hổ
5.1948-2.1949, Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng
2.1949-5.1949, Đào Chính Nam
5.1949-12.1949, Hoàng Văn Thái, Thiếu tướng
12.1949-3.1950, Cao Xuân Hổ
3.1950-12.1954, Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng
12.1954-3.1961, Hoàng Minh Thảo, Thiếu tướng
Học viện Quân chính
3.1961-5.1964, Trần Văn Trà, Trung tướng
5.1964-1.1965, Vương Thừa Vũ, Thiếu tướng
Học viện Quân sự
1.1965-6.1966, Hoàng Minh Thảo, Thiếu tướng
5.1966-5.1976, Vương Thừa Vũ, Trung tướng
5.1976-3.1977, Hoàng Minh Thảo, Trung tướng
3.1977-1981, Vũ Lăng, Thượng tướng
Học viện Lục quân
1981-1988, Vũ Lăng, Thượng tướng
1988-1991, Nguyễn Hữu An, Thượng tướng
1991-1995, Khiếu Anh Lân, Trung tướng
1995-2000, Lê An, Trung tướng
2000-2008, Đào Văn Lợi, Trung tướng
2008-2011, Nguyễn Đức Xê, Trung tướng
2011-2014, Trần Xuân Ninh, Trung tướng (2014)
2014-2021, Hoàng Văn Minh, Trung tướng (2012), nguyên Phó Giám đốc Học viện Lục quân
12/2021 đến nay: Thiếu tướng Đỗ Minh Xương
Chính ủy qua các thời kỳ
7.1946 – 8.1948, Hoàng Điền, Thiếu tướng (1983)
9.1946 – 11.1946, Lê Hiền Mai
8.1947 và 9.1948 – 6.1950, Trần Tử Bình
3.1948 – 6.1948, Hoàng Mười
7.1948 – 9.1948, Phan Phúc Tường
8.1952 – 6.1953, Ngô Văn Tấn
5.1955 – 1958, Hoàng Phương
3.1961 – 12.1964, Lê Chương
1.1965 – 5.1965, Nguyễn Xuân Hoàng, Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1986)
1965 – 4.1969, Đoàn Quang Thìn
5.1969 – 10.1971, Tạ Xuân Thu, Thiếu tướng
1.1974 – 6.1976, Nguyễn Quyết, Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1986), Đại tướng (1990)
9.1976 – 12.1977, Nguyễn Văn Thanh, Thiếu tướng (1974), sau là Bí thư Ban Cán sự Đảng ngoài nước
1978 – 1979, Nguyễn Nam Thắng, Thiếu tướng
1979 – 1983, Nguyễn Văn Tòng, Thiếu tướng
1985 – 1988, Đặng Hồng Thanh, Thiếu tướng
1988 – 1991, Dương Minh Ngọ, Thiếu tướng
1991 – 1997, Nguyễn Văn Thái, Trung tướng (1994), Phó Giám đốc về Chính trị
1997 – 2005, Lê Ngọc Sanh, Thiếu tướng (2000)
2005 – 2009, Lê Văn Bảy, Thiếu tướng (2006)
2009 – 2014, Trần Xuân Bảng, Trung tướng (2012)
2014 – 2018, Lê Anh Thơ, Trung tướng (2016), nguyên Phó Chính ủy Quân khu 5
2018 – 2022, Lê Quang Xuân, Trung tướng (2021), nguyên Chính ủy Quân đoàn 3
8.2022 – nay, Thiếu tướng Đỗ Văn Bảnh (2020), nguyên Phó Chính ủy Quân khu 7.
Phó Giám đốc qua các thời kỳ
7.1947-11.1947, Phan Tử Lăng
12.1954-12.1955, Đào Chính Nam
1953-1954, Nguyễn Hải, Thiếu tướng
1954-1955, Hoàng Minh Thảo, sau là Thượng tướng
1961-1964, Hoàng Minh Thảo, sau là Thượng tướng
1964-1967, Vũ Yên, Thiếu tướng
1965-1968, Đỗ Trình, Trung tướng
1966-1969, Trần Minh Vân, Trung tướng
1968-1968, Nguyễn Văn Hiếu, Đại tá
1969-1977, Nguyễn Như Thiết, Thiếu tướng
1974-1977, Vũ Nam Long, Trung tướng
1978-1984, Trần Văn Trân, Thiếu tướng (1985)
1980-1982, Nguyễn Hiền Tràng, Đại tá
1982-1986, Hoàng Lê, Thiếu tướng
1983-1987, Trần Bá Khuê, Thiếu tướng
1987-1995, Lê Thành Văn, Trung tướng
1991-1997, Huỳnh Nghĩ, Thiếu tướng (1994)
1994-1995, Lê An, Trung tướng
1996-2007, Nguyễn Đức Quý (sinh 1947), Thiếu tướng (2003)
1998-2009, Trịnh Văn Noi, Thiếu tướng
2008-2008, Hà Văn Cuông, Thiếu tướng (2007)
2000-2009, Nguyễn Hữu Mão, Thiếu tướng
2008-2010, Nguyễn Xuân Sương, Thiếu tướng
2009-2014, Dương Kim Hồng, Thiếu tướng
2009-2015, Nguyễn Đôn Tuân, Thiếu tướng, Trung tướng (2014), Cục trưởng Cục Khoa học Quân sự (2015)
2010-2011, Trần Xuân Ninh, Thiếu tướng
2011-2017, Nguyễn Đình Bình, Thiếu tướng
2012-2014, Hoàng Văn Minh, Thiếu tướng (2012), sau giữ chức Giám đốc Học viện Lục quân (2015)
2014-2017, Nguyễn Ngọc Cả, Thiếu tướng (2016), nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 315
2014-nay, Trần Khắc Đào, Thiếu tướng
2014-nay, Nguyễn Khắc Đức, Thiếu tướng
2017-nay, Trần Quốc Thái, Thiếu tướng, nguyên Phó tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn 3
2017-nay, Trần Văn Thành, Đại tá
2022-nay, Tống Phú, Thiếu tướng, nguyên tham mưu phó Quân khu 5
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
1965-1971, Đoàn Quang Thìn, Thiếu tướng
1969-1969, Nguyễn Kiện, Thiếu tướng
1969-1974, Trương Công Cẩn, Thiếu tướng
2006-2008, Nguyễn Xuân Sương, Thiếu tướng (2007)
2008-2009, Trần Xuân Bảng, Thiếu tướng, sau là Trung tướng Chính ủy Học viện Lục quân
2009-2016, Trần Văn Bộ, Thiếu tướng (2010)
2011-2016, Nguyễn Đức Cường, Thiếu tướng (2010), nguyên Chính ủy Binh chủng Tăng-Thiết giáp.
2016- nay, Đậu Văn Nậm, Thiếu tướng (2017) |
Trường Đại học Trần Quốc Tuấn (tiếng Anh: Tran Quoc Tuan University - First Army Academy) hay Trường Đại học Sĩ quan Lục quân 1 là trường đào tạo sĩ quan chỉ huy lục quân sơ cấp phía bắc Việt Nam, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là nhà trường đầu tiên trong hệ thống nhà trường quân đội đào tạo sĩ quan lục quân chiến thuật cấp phân đội (trung đội, đại đội, tiểu đoàn) trình độ cử nhân khoa học quân sự (đại học và cao đẳng) các chuyên ngành: bộ binh, bộ binh cơ giới, trinh sát lục quân. Trường được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công nhận đại học và cho phép đào tạo cử nhân quân sự bậc đại học năm 1998. Trường được coi như là “anh cả” trong hệ thống các trường quân đội đào tạo cấp phân đội, được Bác Hồ 9 lần về thăm, trao sáu chữ vàng: “Trung với nước, hiếu với dân” sau này trở thành khẩu hiệu của toàn quân. Rất nhiều các thế hệ tướng lĩnh, lãnh đạo xuất sắc của quân đội là học viên, cán bộ Nhà trường.
Lịch sử hình thành
Trường Đại học Trần Quốc Tuấn ban đầu có tên là Trường Quân chính kháng Nhật được thành lập ngày 15 tháng 4 năm 1945.
Ngày 7 tháng 9 năm 1945, trường được đổi tên thành Trường Quân chính Việt Nam.
Ngày 15 tháng 10 năm 1945, trường được đổi tên thành Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam.
Ngày 15 tháng 4 năm 1946, trường được đổi tên thành Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, và bắt đầu khai giảng khóa 1 tại thị xã Sơn Tây với mục tiêu đào tạo cán bộ chỉ huy cấp trung, đại đội có kiến thức cơ bản về quân sự để chuẩn bị cho ngày toàn quốc kháng chiến.
Tháng 2 năm 1948, trường được đổi tên thành Trường Trung học Lục quân Trần Quốc Tuấn.
Tháng 12 năm 1950, trường được đổi tên thành Trường Lục quân Việt Nam.
Tháng 1 năm 1956, trường được đổi tên thành Trường Đại học Sĩ quan Lục quân.
Năm 1976, trường được đổi tên thành Trường Đại học Sĩ quan Lục quân 1.
Ngày 28 tháng 10 năm 2010, trường được đổi tên thành Trường Đại học Trần Quốc Tuấn.
Tên gọi qua các thời kỳ
Trường Quân chính kháng Nhật (15/4/1945 - 6/9/1945)
Trường Quân chính Việt Nam (7/9/1945 - 14/10/1945)
Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam (15/10/1945 - 16/4/1946)
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (17/4/1946 - cuối 1/1948)
Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn (Đầu 2/1948 - đầu 12/1950)
Trường Lục quân Việt Nam (Cuối 12/1950 - đầu 1/1956)
Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam (Đầu 1/1956 - 1976)
Trường Sĩ quan Lục quân I (Từ năm 1976 - 28/10/2010)
Trường Đại học Trần Quốc Tuấn (từ ngày 28/10/2010 đến nay)
Ban Giám hiệu
Hiệu trưởngː Trung tướng, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Viết Toản
Chính ủyː Thiếu tướng, Tiến sĩ Lê Văn Duy
Phó Hiệu trưởng: Thiếu tướng, ThS Phạm Quốc Tuấn
Phó Hiệu trưởng: Thiếu tướng, PGS Tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh
Phó Hiệu trưởng: Thiếu tướng Trương Quang Hoài
Phó Chính ủy:Thiếu tướng Nguyễn Xuân Điệp
Tổ chức Đảng
Tổ chức chung
Năm 2006, thực hiện chế độ Chính ủy, Chính trị viên trong Quân đội. Theo đó Đảng bộ trong Trường Sĩ quan Lục quân 1 bao gồm:
Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 là cao nhất.
Đảng bộ các Khoa, Hệ quản lý, Tiểu đoàn thuộc Trường Sĩ quan Lục quân 1.
Chi bộ các Tổ Bộ môn, các Phòng, ban chức năng, các Đại đội.
Tổ chức chính quyền
Cơ quan chức năng
Văn phòng
Chánh Văn phòng: Đại tá Trần Quang Tuyên
Phòng Đào tạo
Trưởng phòng: Đại tá, TS Trần Văn Cao
Phòng Chính trị
Chủ nhiệm Chính trị: Đại tá, ThS Nguyễn Vũ Tăng
Phòng Khoa học quân sự
Trưởng phòng: Đại tá, TS Lê Văn Thanh
Phòng Hậu cần - Kĩ thuật
Chủ nhiệm Hậu cần: Đại tá, Nguyễn Văn Chiến
- Phó trưởng phòng- Đại tá Mai Anh Ngọc, thượng tá Đỗ Đường Thanh, thượng tá Duơng Minh Dũng
Ban Tài Chính
Trưởng ban: Trung tá Long
Ban Khảo thí & Bảo đảm chất lượng GD - ĐT
Trưởng ban: Đại tá, ThS Nguyễn Hiệp Vỵ
Ban Sau đại học
Trưởng ban: Đại tá, TS Trần Đại Nghĩa
Các khoa đào tạo
Khoa Chiến thuật
Phó Chủ nhiệm khoa (Phụ trách khoa): Đại tá, ThS Lương Văn Nhạn
Khoa Binh chủng
Phó Chủ nhiệm khoa (Phụ trách khoa): Đại tá, TS Mai Trung Dong
Khoa Bắn Súng
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, ThS Nguyễn Văn Mai
Khoa Quân sự chung
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, TS Nguyễn Hồng Trường
Khoa Trinh sát
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, TS Hoang Thanh Khương
Khoa Sư phạm Quân sự
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, TS Đoàn Chí Kiên
Khoa Quân sự Địa phương
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, ThS Đặng Đình Chiến
Khoa Công tác đảng, Công tác chính trị
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, TS Nguyễn Quang Chung
Khoa Lý luận Mác – Lênin
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, TS Đỗ Văn Lừng
Khoa Thể thao
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, ThS Trần Đình Khương
Khoa Khoa học Tự nhiên
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, TS Đặng Hồng Lưu
Khoa Ngoại ngữ - Tiếng Việt
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, TS Lê Văn Tách
Khoa Giáo dục Quốc phòng – ĐHQGHN
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, ThS Dương Văn Chiến
Khoa Giáo dục Quốc phòng – ĐHSPHN
Chủ nhiệm khoa: Đại tá, ThS Đỗ Quốc Tam
Đơn vị trực thuộc
Tiểu đoàn 1
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá, TS Đặng Đức Giang
Tiểu đoàn 2
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá Nguyễn Tuấn Anh
Tiểu đoàn 3
Tiểu đoàn trưởng: Trung tá, Ths Cao Đăng Nam
Hệ 4
Hệ trưởng: Thượng tá, ThS Nguyễn Hữu Phước
Tiểu đoàn 5
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá Nguyễn Văn Hải
Tiểu đoàn 6
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá, Ths Nguyễn Đức Sơn
Hệ 7
Hệ trưởng: Thượng tá Nguyễn Hiệp Vỵ
Tiểu đoàn 8
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá, ThS Phạm Hồng Quân
Tiểu đoàn 9
Tiểu đoàn trưởng: Đại tá Phan Thế Cường
Tiểu đoàn 10
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá, ThS Nguyễn Xuân Hải
Tiểu đoàn 11
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá Nguyễn Xuân Chiến
Tiểu đoàn 12
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá Bùi Việt Bắc
Tiểu đoàn 13
Tiểu đoàn trưởng: Trung tá
Hệ 14
Hệ trưởng: Đại tá, ThS Phạm Ngọc Giang
Tiểu đoàn 15
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá Văn Trung Núi
Tiểu đoàn 16
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá Nguyễn Xuân Thành
Tiểu đoàn 17
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá, Phạm Hùng Cường
Tiểu đoàn 18
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá, Lê Duy Thứ
Tiểu đoàn 19
Tiểu đoàn trưởng: Thượng tá Lê Mạnh Quân
Tiểu đoàn 20
Tiểu đoàn trưởng : Trung tá Vũ Ngọc Vĩnh
Hệ Quản lý học viên Quốc tế
Hệ trưởng: Thượng tá, ThS Nguyễn Hữu Sơn
Thành tích và Tặng thưởng
Trường Sĩ quan Lục quân 1 đã và đang đào tạo 90 khóa học, trong đó có 86 khóa đã ra trường cung cấp gần 10 vạn cán bộ cho toàn quân; đồng thời còn đào tạo hàng nghìn cán bộ quân sự cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh.
Có gần 200 cựu học viên và giáo viên của trường được phong quân hàm cấp tướng; 27 đồng chí được tuyên dương Anh hùng LLVTND, Anh hùng Lao động.
Danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 29 tháng 8 năm 1985
Bốn Huân chương Quân công (hai hạng nhất, một hạng nhì, một hạng ba)
Bảy Huân chương Chiến công (một hạng nhất, bốn hạng nhì, hai hạng ba)
Ba Huân chương Lao động (một hạng nhất, hai hạng nhì)
Huân chương Tự do của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào)
Huân chương Ít-xa-la của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (10-1999)
Hiệu trưởng qua các thời kỳ
Chính ủy qua các thời kỳ
Phó Hiệu trưởng qua các thời kỳ
2011-nay, Trịnh Ngữ, Thiếu tướng
2014-nay, Nghiêm Viết Hải, Thiếu tướng, nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 4
2015-2019, Vũ Thành Vinh, Thiếu tướng, nguyên Phó Tư lệnh Quân đoàn 2
2015-nay, Đỗ Thanh Minh, Đại tá
2019-2021, Đại tá, ThS Nguyễn Văn Oanh
Phó Chính ủy qua các thời kỳ
1978-1980, Lã Ngọc Châu, Thiếu tướng (1984)
2013-nay, Lê Viết Anh (sinh 1957), Thiếu tướng (2013)
2016-nay, Nguyễn Xuân Điệp, Đại tá
Khóa học
Khóa học Sĩ quan Chỉ huy Tham mưu cấp phân đội
Khóa 1: 5/1946-12/1946
Khóa 2: 2/1947-10/1947
Khóa 3: 4/1947-10-1947
Khóa 77: 2009-2013
Khoá 82: 2014-2018
Khóa 83: 9/2015-8/2019
Cựu học viên thành đạt tiêu biểu
Trần Văn Nghiêm, Trung tướng (1984), Tư lệnh Quân khu 9 (1979-1983), Học viên Trường Cán bộ Việt Nam (tiền thân trường SQLQ1 ngày nay) (khóa 1945-1946)
Vũ Xuân Vinh, Trung tướng (1992), Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng (Khóa 1 5/1946-12/1946)
Đỗ Văn Đức, Trung tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng (Khóa 1 5/1946-12/1946)
Phan Thái (1928-), Thiếu tướng (1984), Phó Chủ nhiệm kiêm Tham mưu trưởng Tổng cục Kỹ thuật (1985-1990) (Khóa 1 5/1946-12/1946)
Phạm Ngọc Thảo (1922-1965), Đại tá, Liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang, tình báo nổi tiếng, xuất sắc của ta trong chính quyền Nguỵ, học viên khoá 1
Hoàng Nghĩa Khánh, Trung tướng, Khóa 2
Nguyễn Quốc Thước, Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 4 (khóa 1949-1952)
Phan Thu (1931-), Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (khóa 6, 1950-1951)
Đàm Văn Ngụy, Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 1 (Khóa 7, 1951-1953)
Đinh Phúc Hải (1925-1997), Thiếu tướng, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân chủng Phòng không-Không quân (1983-1989), (Khóa 7, 1951-1953)
Huỳnh Thủ, Thiếu tướng, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (Khóa 9, 1954-1957)
Nguyễn Văn Cẩn, Thiếu tướng, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh An Giang (Khóa 9, 1954-1957)
Nguyễn Văn Phú, Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 9 (Khóa 9, 1954-1957)
Nguyễn Chơn, Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, học viên khoá 10 (1956-1958)
Khuất Duy Tiến, Trung tướng, Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1 (khóa 1956-1958)
Nguyễn Tức (1932-), Thiếu tướng (1994), Trưởng Khoa Trinh sát Quân sự nước ngoài, Học viện Quốc phòng (khóa 1956-1958)
Nguyễn Nam Hưng (1930-), Thiếu tướng (1988), Chỉ huy trưởng Quân sự Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo (1990-1996) (khóa 10, 1957-1960)
Nguyễn Thới Bưng, Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (khóa 10, 1957-1960)
Phan Lương Trực, Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 9 (Khóa 11, 1958-1961)
Đinh Trung Thành (1932-), Thiếu tướng (1988), Phó Tư lệnh Quân khu 9 (Khóa 11, 1958-1961)
Trần Minh Phú, Thiếu tướng (1988), Phó Tư lệnh Quân khu 9 (Khóa 11, 1958-1961)
Tiêu Văn Mẫn, Trung tướng (1994), Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 5 (Khóa 12, 1959-1963)
Nguyễn Thế Trị, Thượng tướng, Giám đốc Học viện Quốc phòng (Khóa 1961-1964)
Cao Xuân Khuông (1942-), Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Quân khu 4 (Khóa 1961-1964)
Nguyễn Hồng Nhị (1936-), Thiếu tướng (1985), Tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không dân dụng, Phó Tư lệnh kiêm TMT Quân chủng PKKQ, (học 1960-1961)
Nguyễn Thanh Tùng (1933), Thiếu tướng, Phó Tư lệnh Mặt trận 559, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Đồng Nai (Khóa 1960-1961)
Đào Trọng Lịch, Trung tướng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Khóa 1961-1964)
Đoàn Sinh Hưởng, Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 4 (khóa 1966-1970)
Nguyễn Văn Được, Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Phùng Quang Thanh, Đại tướng,Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (học từ 1971-1972)
Vũ Văn Đức, Trung tướng, nguyên chính uỷ Học viện Hậu cần
Đặng Trọng Quân, Trung tướng, Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng
Ngô Minh Tiến, Thượng tướng, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Võ Minh Lương, Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Vũ Hải Sản, Thượng tướng , Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (học từ 1980-1983)
Đỗ Viết Toản, Trung tướng, PGS.TS, Hiệu trưởng Trường Đại học Trần Quốc Tuấn khoá 1981-1985
Nguyễn Hải Hưng, Trung tướng, Phó chủ nghiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội (Việt Nam) (1983-1986)
Nguyễn Doãn Anh, Trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh Quân khu 4 |
Vườn quốc gia Côn Đảo thuộc hệ thống rừng đặc dụng, là 1 trong 33 Vườn quốc gia của Việt Nam. Nằm trên địa bàn huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Được thành lập theo Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 1993 của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Vị trí
Vườn quốc gia Côn Đảo thuộc địa phận hành chính huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, nằm về phía Đông Nam của Việt Nam. Có tọa độ địa lý:
- Từ 8o36’ đến 8o48’ Vĩ độ Bắc
- Từ 106o31’ đến 106o46’ Kinh độ Đông
Cách cửa sông Hậu (tỉnh Cần Thơ) 83 km, cách thành phố Vũng Tàu 185 km và thành phố Hồ Chí Minh 250 km.
Tổng diện tích tự nhiên: 19.883,15 ha, gồm:
- Phần diện tích bảo tồn rừng trên các hòn đảo: 5.883,15 ha được chia thành 3 phân khu chức năng (1) Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 4.612,58 ha; (2) Phân khu phục hồi sinh thái: 531,03 ha; (3) Phân khu dịch vụ - hành chính: 739,54 ha.
- Phần diện tích bảo tồn biển: 14.000 ha được chia thành 3 phân khu chức năng (1) Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 2.292,10 ha; (2) Phân khu phục hồi sinh thái: 2.062,20 ha; (3) Phân khu dịch vụ - hành chính: 9.645,70 ha.
Ngoài ra, diện tích vùng đệm trên biển là: 20.500 ha
Đa dạng sinh học
Vườn quốc gia Côn Đảo có 2 kiểu rừng chính là: Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và kiểu rừng kín nửa rụng lá mưa ẩm nhiệt đới.
- Đã phát hiện, thống kê có 1.077 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 640 chi, 160 họ, đặc biệt có 44 loài thực vật lần đầu tiên được tìm thấy tại Côn Đảo, trong đó 11 loài được lấy tên “Con Son” đặt tên cho loài như: Dầu Côn Sơn (Dipterocarpus condorensis), Gội Côn Sơn (Amoora poulocondorenris), Xú hương Côn Sơn (Lasianthus condorensis)..vv.
- Khu hệ động vật có xương sống trên cạn đã thống kê được 155 loài thuộc 64 họ, 25 bộ trong đó gồm 25 loài thú, 85 loài chim, 32 loài bò sát và 13 loài ếch nhái.
- Nhóm động vật đặc hữu có 06 loài: Khỉ đuôi dài Côn Đảo (Macaca fascicularis condorensis), Sóc mun (Callosciunis finlaysonii), Sóc đen Côn Đảo (Ratufa bicolor condorensis), Thằn lằn giun (Dibamus kondaoensis), Thằn lằn ngươi tròn (Cnemaspis boulengeri) và Rắn khiếm Côn đảo (Oligodon condaoensis).
- Nhóm động vật quý hiếm: Có 29 loài quý hiếm, bao gồm: 09 loài thú, 11 loài chim, 09 loài bò sát và lưỡng cư.
Biển Vườn quốc gia Côn Đảo có 3 hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới là hệ sinh thái rừng ngập mặn (32 ha), hệ sinh thái cỏ biển (1.000 ha), hệ sinh thái rạn san hô (1.800 ha).
- Đã ghi nhận 1.725 loài sinh vật biển với 46 loài thực vật ngập mặn, 133 loài rong biển, 11 loài cỏ biển, 226 loài thực vật phù du, 143 loài động vật phù du, 360 loài san hô, 130 loài giun nhiều tơ, 116 loài giáp xác, 187 loài thân mềm, 115 loài da gai, 205 loài cá rạn san hô, 09 loài bò sát biển, 37 loài chim biển và 7 loài thú biển.
- Có 72 loài sinh vật nguy cấp, quý, hiếm bao gồm: 04 loài thực vật; 16 loài thân mềm; 06 loài da gai; 12 loài san hô; 24 loài cá; 02 loài bò sát; 01 loài chim biển; 07 loài thú biển. Một số loài quý, hiếm, nguy cấp như: Bò biển (Dugong Dugon), Rùa xanh (Chelonia mydas) và Đồi Mồi (Eretmochelys imbricata).
Vườn quốc gia Côn Đảo là một Khu đất ngập nước quan trọng quốc tế (Khu Ramsar); thành viên mạng lưới các Khu bảo tồn rùa biển Ấn Độ Dương – Đông Nam Á (IOSEA); được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận Vườn quốc gia Côn Đảo là nơi nuôi, ấp và thả về thiên nhiên nhiều rùa biển nhất Việt Nam. Hiện UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bộ Tài nguyên – Môi trường đang trình hồ sơ đề cử Vườn quốc gia Côn Đảo là Vườn di sản ASEAN (AHP).
Vấn đề
Chú thích
Côn Đảo
Bà Rịa – Vũng Tàu
Rừng đặc dụng
Côn Đảo
Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu
IUCN Loại II |
Bác sĩ Zhivago ( ; , Живаго nghĩa đen là "cuộc sống") là một tiểu thuyết của nhà văn người Nga–Xô viết Boris Pasternak (1890–1960), xuất bản lần đầu năm 1957 tại Italia. Tiểu thuyết được đặt tên theo nhân vật chính, Yuri Zhivago, một bác sĩ và nhà thơ, lấy bối cảnh từ cách mạng Nga 1905 cho đến Chiến tranh thế giới thứ hai.
Pasternak hoàn tất tác phẩm vào khoảng năm 1956, nhưng do lập trường "phi chính thống" của ông về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga nên tác phẩm không được xét duyệt xuất bản tại Liên Xô. Năm 1957, một bản thảo được tuồn ra ngoài Liên Xô và in ra sách tiếng Nga tại Ý (Nhà xuất bản Feltrinelli), sau đó tác phẩm được dịch và xuất bản bằng cả tiếng Ý và tiếng Anh. Năm tiếp theo, Pasternak được trao giải Nobel văn học năm 1958, điều này khiến Đảng cộng sản Liên Xô tức giận và gây sức ép khiến ông phải từ chối nhận giải. Mãi đến năm 1988, tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago mới được cho in và xuất bản tại Nga.
Tiểu thuyết đã được dựng thành phim năm 1965 do David Lean đạo diễn, và hai lần được chuyển thể thành phim truyền hình. Bác sĩ Zhivago đã được đưa vào giảng dạy trong trường học ở Nga kể từ năm 2003.
Tóm tắt nội dung
Khởi đầu truyện là phần giới thiệu Yuri Andreievich Zhivago lúc 10 tuổi trong đám tang của mẹ. Yuri, con trai của một kỹ nghệ gia triệu phú đã phá sản và tự sát, nay đã mồ côi cả cha và mẹ, được ông cậu đưa lên Moskva sống với gia đình họ hàng là nhà Gromekos, có con gái là Tonya. Yuri làm thơ nhưng lại theo học y khoa. Song song với đó là tuyến truyện của cô thiếu nữ Larisa Fyodorovna (Lara). Lara theo bà mẹ góa phụ từ Ural đến Moskva, gia đình mở một xưởng may nhỏ và sống phụ thuộc vào tay luật sư Komarovsky. Komarovsky đã lợi dụng hoàn cảnh đó để dụ dỗ Lara. Trong đêm mẹ Lara tự sát không thành, Yuri cũng có mặt ở đó và gặp Lara lần đầu tiên. Lara tìm cách thoát khỏi nhà bằng cách đến làm gia sư cho nhà Kologrivov. Vài năm sau, Lara vẫn không thể vượt qua được bóng ma quá khứ và đã cầm súng bắn Komarovsky tại buổi tiệc giáng sinh, nhưng không may lại bắn trúng một người khác. Yuri và Tonya cũng có mặt tại buổi tiệc giáng sinh đó và chứng kiến vụ việc. Trong đêm đó mẹ Tonya qua đời. Komarovsky tìm cách chạy chọt thoát tội cho Lara. Nàng sau đó tốt nghiệp đại học, kết hôn với người yêu là Pavel Pavlovich (Pasha), cả hai cùng tới thành phố nhỏ Yuriatin dạy học.
Kế đến truyện dẫn vào thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Yuri đang làm bác sĩ tại Moskva, đã cưới Tonya và vừa đón đứa con trai đầu lòng, song chàng đã bị gọi vào quân ngũ để làm bác sĩ quân y. Tại Yuriatin, Pasha nghĩ vợ chỉ yêu mình vì nghĩa vụ nên đã xin tòng quân và mất tích trong chiến trận. Lara xin đi làm y tá quân y với hy vọng tìm kiếm tung tích chồng, và cuối cùng đến làm việc tại cùng một thị trấn nhỏ nơi Yuri đang đóng quân. Chồng Lara được cho là đã hi sinh. Vào lúc này phong trào cách mạng bắt đầu nổi dậy tại St. Petersburg.
Chiến tranh bùng nổ khắp nơi, Yuri tiếp tục làm bác sĩ quân y và trở nên thân thiết hơn với Lara. Chàng viết thư cho vợ kể về Lara, lời lẽ trong thư khiến Tonya nghi ngờ chàng đã yêu Lara dù chàng hết sức phủ nhận. Mùa đông đến, đời sống trở nên chật vật vì thiếu thức ăn và dịch lỵ lan tràn. Sau cuộc chiến, Yuri trở về chức vị bác sĩ cũ tại nhà thương ở Moskva, còn Lara quay về Yuriatin. Cách mạng tháng 10 nổ ra và sau đó là cuộc nội chiến. Vì cá tính lãng mạn, Yuri thường bị các đồng nghiệp bolshevik chỉ trích thiếu tinh thần cách mạng. Lo sợ cho tương lai, Yuri cùng gia đình lên xe lửa chạy về Ural. Trong hành trình đầy gian khổ này, Yuri nhận thức được nỗi khổ của nông dân và tù binh, những nạn nhân của cách mạng và nội chiến. Trên đường Yuri cũng gặp Strelnikov, một chỉ huy Cách mạng khét tiếng tàn bạo, nhưng chàng đã được Strelnikov tha bổng khỏi bị hành hình.
Tại khu trang trại gần thành phố Yuriatin, Yuri cùng gia đình khai đất làm ruộng. Cuộc sống vất vả song Yuri lại có cảm hứng làm thơ trở lại. Sau khi Yuri gặp lại Lara ở thư viện thành phố, họ gặp nhau thường xuyên và bắt đầu ngoại tình. Lara đã biết Pasha còn sống và lấy bí danh là Strelnikov để hoạt động cách mạng. Yuri muốn trở vế với vợ để thú tội nhưng không may bị một nhóm quân du kích bắt cóc đến Siberia làm bác sĩ quân y.
Sau vài năm, Yuri trốn thoát và trở lại Yuriatin và được biết Tonya đã sinh con gái, cả gia đình đã trở về Moskav từ lâu. Yuri ở lại Yuriatin làm việc và sống cùng Lara, nhưng vẫn cố tìm cách trở về Moskav đoàn tụ với gia đình. Tuy nhiên, Yuri nhận được lá thư tới muộn 5 tháng từ Tonya thông báo cả gia đình đã bị trục xuất khỏi nước Nga vì là hậu duệ tư sản. Yuri và Lara ở vào tình thế nguy hiểm vì những mối liên hệ gia đình và quan điểm chính trị.
Komarovsky, kẻ đã từng dụ dỗ Lara năm xưa, xuất hiện và thuyết phục họ trốn tới Cộng hòa Viễn Đông. Vì an toàn của Lara, Yuri thuyết phục nàng ra đi với Komarovsky, còn mình thì ở lại. Ít lâu sau, Yuri gặp Strelnikov, tức Pasha, chồng của Lara lúc bấy giờ đang lẩn trốn vì bị chính phủ cách mạng truy lùng. Thất vọng vì lý tưởng không thành và hối tiếc vì đã hiểu lầm tình yêu của vợ dành cho mình, Pasha tự sát.
Sau khi về Moskva, Zhivago sống cuộc đời xuống dốc cả về sức khỏe và tinh thần. Chàng lấy một phụ nữ tên là Marina và có hai con. Sau khi được người em cùng cha khác mẹ giúp đỡ, Yuri bắt đầu sống một mình và viết lách trở lại, còn dự định quay lại làm bác sĩ. Nhưng chỉ ít lâu sau, chàng lên cơn đột quỵ và chết khi đi xe điện. Cùng thời điểm đó, Lara đến Moskva có việc và tình cờ gặp đám tang Yuri. Lara cho Yevgraf, em trai Zhivago và hiện là tướng mật vụ Liên Xô, biết rằng nàng có một đứa con gái với Yuri nhưng đã bỏ rơi ở Ural. Sau đó vài ngày, nàng mất tích, người ta tin rằng nàng đã bị thanh trừng hoặc chết trong trại cải tạo.
Trong phần kết diễn ra vào Chiến tranh thế giới thứ hai, các bạn cũ của Zhivago là Nika và Misha gặp nhau trong quân đội. Họ nói chuyện với một cô bé mồ côi phụ việc trong quân đội tên là Tanya, ngoại hình giống cả Yuri và Lara. Tanya kể lại việc bị mẹ bỏ rơi từ bé và có thời thơ ấu cơ cực, cô ngạc nhiên vì tướng Yevgraf đã hỏi thăm câu chuyện của mình và ông còn hứa sẽ giúp đỡ cô. Nhiều năm sau, Nika và Misha cùng nhau ôn lại các bài thơ của Zhivago.
Hoàn cảnh
Xuất bản
Mặc dù có những đoạn văn được viết từ những năm 1910 và 1920, mãi đến năm 1955 Bác sĩ Zhivago mới được hoàn thành. Cuốn tiểu thuyết được gửi đến tạp chí văn học Novy Mir ("Новый Мир") vào năm 1956, tuy nhiên bị từ chối xuất bản do khuynh hướng ngầm phủ nhận chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, đề cao đến hạnh phúc cá nhân hơn là lợi ích toàn thể xã hội. Cơ quan kiểm duyệt Liên Xô cho rằng tác phẩm có một số nội dung chống Liên Xô và xét lại Cách mạng tháng 10.
Pasternak đã gửi tặng một số bản thảo bằng tiếng Nga cho những người bạn ở phương Tây. Năm 1957, nhà xuất bản Ý Giangiacomo Feltrinelli đã sắp xếp để tuồn lậu một bản thảo ra khỏi Liên Xô và xuất bản bản dịch tiếng Ý vào tháng 11 năm 1957. Tác phẩm được săn đón đến mức Feltrinelli đã cấp phép bản quyền dịch sang 18 ngôn ngữ khác nhau trước cả khi xuất bản lần đầu. Feltrinelli sau đó đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Italia vì cuốn tiểu thuyết được cho là chỉ trích chủ nghĩa cộng sản. Bản dịch tiếng Pháp được Éditions Gallimard xuất bản tháng 6 năm 1958, bản dịch tiếng Anh xuất bản tháng 9 năm 1958.
Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ đã can thiệp để truyền bá tác phẩm như một công cụ để hạ bệ uy tín của chính quyền Xô viết. 1.000 bản tiếng Nga được in tại Nhà xuất bản Mouton ở Den Haag vào năm 1958, và 365 bản trong số đó được phân phát tại gian hàng Vatican tại hội chợ thế giới Brussels 1958. Tuy nhiên, 1.000 bản tiếng Nga này có chất lượng kém và cốt truyện bị cắt xén, bên cạnh việc hành vi in ấn này là bất hợp pháp vì chủ sở hữu bản thảo là Giangiacomo Feltrinelli. Tác giả Ivan Tolstoi cho rằng CIA đã can thiệp để Bác sĩ Zhivago bản tiếng Nga được đệ trình lên Ủy ban Nobel, giúp Pasternak giành giải Nobel và gây tổn hại thêm uy tín quốc tế của Liên Xô. Tuy nhiên, các tài liệu CIA công bố gần đây không cho thấy việc họ xuất bản ấn bản tiếng Nga là nhằm mục đích giúp Pasternak giành giải Nobel. Nhà ngữ văn học người Nga Anna Sergeyeva-Klyatis cho rằng việc sao chép và in lậu Bác sĩ Zhivago được hậu thuẫn bởi CAPE, một trong những tổ chức lưu vong hậu chiến lớn nhất ở Châu Âu. Tuy CAPE tham gia nhiều hoạt động chống Liên Xô, song việc in lậu chưa hẳn đã mang màu sắc chính trị mà có thể là để đáp ứng nhu cầu tinh thần của người Nga lưu vong.
Giải thưởng
Vào ngày 23 tháng 10 năm 1958, Boris Pasternak được công bố thắng giải Nobel Văn học năm 1958 với những đóng góp đối với thơ ca trữ tình Nga và vai trò của ông trong việc "tiếp nối truyền thống sử thi vĩ đại của Nga". Tuy vô cùng xúc động, Pasternak phải tuyên bố từ chối nhận giải do áp lực chính trị. Viện Hàn lâm Thụy Điển ra thông báo điều này sẽ không làm thay đổi giải thưởng đã được công bố.
Tuy vậy, Pasternak vẫn bị chỉ trích tại Liên Xô và đối mặt với nguy cơ bị trục xuất. Ông đã viết thư trực tiếp cho Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev để bày tỏ: “Rời bỏ đất mẹ đối với tôi chính là cái chết. Tôi gắn chặt với nước Nga vì đây là nơi tôi được sinh ra, sống và làm việc." Sau khi bị lật đổ vào năm 1964, Khrushchev đã đọc cuốn tiểu thuyết và cảm thấy hối hận vì lệnh cấm trước đây.
Cuối cùng nhờ có thêm cả sự can thiệp của Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, Pasternak đã thoát khỏi việc bị trục xuất khỏi Liên Xô.
Sau khi tác giả qua đời
Pasternak qua đời vì ung thư phổi trong căn nhà gỗ của mình ở Peredelkino vào ngày 30 tháng 5 năm 1960. Cho đến những năm 1980, các tác phẩm thơ của Pasternak muốn được xuất bản phải trải qua kiểm duyệt gắt gao. Danh tiếng của ông tiếp tục bị bôi nhọ bởi hệ thống tuyên truyền của nhà nước cho đến khi Mikhail Gorbachev tuyên bố tiến hành công cuộc cải tổ.
Năm 1988, sau nhiều thập kỷ lưu hành lậu thông qua samizdat, Bác sĩ Zhivago cuối cùng đã được đăng nhiều kỳ trên các trang của tạp chí Novy Mir. Năm sau, Con trai của Pasternak là Yevgeny Borisovich Pasternak cuối cùng cũng được phép đến Stockholm để nhận Huy chương Nobel của cha mình. Tại buổi lễ, nghệ sĩ cello Mstislav Rostropovich đã biểu diễn một sáng tác của Bach để vinh danh ông.
Bác sĩ Zhivago đã được đưa vào chương trình giảng dạy lớp 11 tại Nga kể từ năm 2003.
Chuyển thể
Phim và kịch
Phim truyền hình Brazil năm 1959 là bản chuyển thể đầu tiên.
Tác phẩm chuyển thể nổi tiếng nhất là bộ phim năm 1965 do David Lean đạo diễn, Omar Sharif thủ vai Zhivago, Julie Christie vai Lara, Geraldine Chaplin vai Tonya và Alec Guinness vai Yevgraf. Bộ phim thành công về mặt thương mai, thắng năm giải Oscar và được xếp vào hàng kinh điển, mặc dù cải biên rất nhiều so với nguyên tác.
Phim truyền hình Anh năm 2002 với sự tham gia của Hans Matheson, Keira Knightley, Alexandra Maria Lara, và Sam Neill.
Phim truyền hình ngắn năm 2006 của Nga.
Vở nhạc kịch Doktor Zhivago được diễn lần đầu tại Perm, vùng Ural vào 22 tháng 3 năm 2007 .
Vở nhạc kịch Doctor Zhivago được diễn lần đầu tại Đại học California năm 2006, sau đó được chỉnh sửa lại và công diễn tại Sydney năm 2011. Cả bản năm 2006 và 2011 đều được đạo diễn bởi Des McAnuff.
Vở nhạc kịch Zjivago tiếng Thụy Điển được diễn lần đầu ở Malmö năm 2014.
Một vở nhạc kịch được sản xuất tại Nhật bởi Takarazuka Revue năm 2018.
Các bản dịch tiếng Việt
Bác sĩ Gi-va-gô, Trường Văn và Song Tích phỏng dịch, 1959
Bác sĩ Zivago, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa xuất bản, 1969
Vĩnh biệt tình em, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Sài Gòn, Tổ hợp Gió, 1974
Bác sĩ Zhivago, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Sài Gòn, Nhà xuất bản Hoàng Hạc, 1975
Bác sĩ Zhivago, Lê Khánh Trường dịch, in trong Boris Pasternak, Con người và tác phẩm, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1988
Bác sĩ Zivago, Văn Tự và Mậu Hải dịch, xuất bản ở hải ngoại |
Địa đạo Củ Chi là một hệ Thống phòng thủ trong lòng đất ở huyện Củ Chi, cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng tây-bắc. Hệ thống này được quân kháng chiến Việt Minh và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đào trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Hệ thống địa đạo bao gồm bệnh xá, nhiều phòng ở, nhà bếp, kho chứa, phòng làm việc, hệ thống đường ngầm dưới lòng đất, dài khoảng 250 km và có các hệ thống thông hơi tại vị trí các bụi cây. Địa đạo Củ Chi được xây dựng ở điểm cuối Đường mòn Hồ Chí Minh, trên vùng đất được mệnh danh là "đất thép" để ca ngợi ý chí phòng thủ kiên cường của quân dân nơi đây. Trong Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, quân Giải phóng miền Nam đã xuất phát từ hệ thống địa đạo này để tấn công vào Sài Gòn.
Sau chiến tranh, khu địa đạo Củ Chi trở thành di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2015, khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động do có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng tạo. Trong 20 năm hoạt động, khu di tích đón hơn 20 triệu lượt khách trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu. Ngày 12 tháng 2 năm 2016, khu di tích đón nhận Bằng xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt
Lịch sử
Địa đạo Củ Chi là cách gọi chung của các hệ thống địa đạo khác nhau, được hình thành từ khoảng thời gian 1946-1948, trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương. Thời gian này, quân dân hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An đã đào những đoạn hầm ngắn, cấu trúc đơn giản dùng để ẩn nấp, cất giấu tài liệu, vũ khí. Cũng có ý kiến cho rằng việc đào địa đạo khởi đầu do dân cư khu vực này tự phát thực hiện vào năm 1948.
Cư dân khu vực đã đào các hầm, địa đạo riêng lẻ để tránh các cuộc bố ráp càn quét của quân đội Pháp và để cung cấp nơi trú ẩn cho quân Việt Minh. Mỗi làng xây một địa đạo riêng, sau đó do nhu cầu đi lại giữa địa đạo các làng xã, hệ thống địa đạo đã được nối liền nhau tạo thành một hệ thống địa đạo liên hoàn, phức tạp, về sau phát triển rộng ra nhiều nơi, nhất là 6 xã phía Bắc Củ Chi và cấu trúc các đoạn hầm, địa đạo được cải tiến trở thành nơi che giấu lực lượng, khi chiến đấu có thể liên lạc, hỗ trợ nhau.
Trong thời gian 1961–1965, các xã phía Bắc Củ Chi đã hoàn thành tuyến địa đạo trục gọi là "xương sống", sau đó các đoàn thể, cơ quan, đơn vị phát triển địa đạo nhánh ăn thông với tuyến trục hình thành những địa đạo liên hoàn giữa các ấp, các xã và các vùng. Bên trên mặt đất, quân dân Củ Chi còn đào cả một vành đai giao thông hào chằng chịt nối kết với địa đạo, lúc này địa đạo chiến đấu cũng được đào chia thành nhiều tầng, nhiều ngõ ngách. Ngoài ra, bên trên địa đạo còn có rất nhiều ụ chiến đấu, bãi mìn, hố đinh, hầm chông... được bố trí thành các cụm liên hoàn tạo ra trận địa vững chắc trong thế trận chiến tranh du kích, gọi là xã chiến đấu.
Đến năm 1965, có khoảng 200 km địa đạo đã được đào. Về quy mô, hệ thống địa đạo có tổng chiều dài toàn tuyến là trên 200 km, với 3 tầng sâu khác nhau, tầng trên cách mặt đất khoảng 3 m, tầng giữa cách mặt đất khoảng 5-8 m, tầng dưới cùng sâu hơn 12 m. Lúc này, địa đạo không chỉ còn là nơi trú ẩn mà đã trở thành nơi sinh sống, cứu thương, hội họp, kho chứa vũ khí,...
Kết cấu
Địa đạo đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền cao, ít bị sụt lở. Hệ thống địa đạo nằm sâu dưới lòng đất, có thể chịu được sức công phá của các loại bom tấn lớn nhất của quân đội Mỹ. Không khí được lấy vào địa đạo thông qua các lỗ thông hơi. Các khu vực khác nhau của địa đạo có thể được cô lập khi cần.
Đường hầm sâu dưới đất từ 3 - 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường "xương sống" toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép.
Tầng 2 cách mặt đất 5-8m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8-12m. Đường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ.
Hoạt động
Đời sống
Cuộc sống dưới địa đạo thiếu ánh sáng, ẩm ướt và nóng bức và điều kiện vệ sinh kém nên hầu như đa số những người sống ở địa đạo đều bị ký sinh trùng, bệnh da liễu và các bệnh về xương. Ngoài ra, việc thiếu thốn lương thực, thực phẩm và nhu yếu phẩm cũng là vấn đề lớn nhất của cư dân địa đạo.
Phòng thủ
Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã liên tục tấn công vào hệ thống địa đạo bằng đủ phương tiện: bom, bơm nước vào địa đạo, phun hơi ngạt vào các miệng hầm... nhưng do hệ thống địa đạo được thiết kế có thể cô lập từng phần nên chỉ bị hư hại phần rìa.
Quân đội Mỹ đã áp dụng nhiều biện pháp để phát hiện các cửa vào (được ngụy trang) và phát hiện các cửa thông gió (thường được đặt giữa các bụi cây) nhưng thường không hiệu quả.
Biện pháp hữu hiệu nhất là sử dụng chó nghiệp vụ. Ban đầu có một số cửa vào và lỗ thông gió bị chó nghiệp vụ phát hiện do chó ngửi được hơi người. Tuy nhiên, sau đó, những người ở dưới địa đạo đã dùng xà phòng của Mỹ đặt ở cửa hầm và cửa thông gió nên chó nghiệp vụ không thể phát hiện ra.
Nếu phát hiện cửa hầm, quân Mỹ thường bơm khí độc hoặc cử trinh sát chui xuống để đặt mìn. Trong những trận càn quy mô lớn và hỏa lực mạnh, việc sập những đoạn địa đạo nông cũng gây tổn thất nhân mạng cho cả hai bên. Tuy nhiên đại bộ phận hệ thống này vẫn trụ vững
Ngày nay
Ngày nay, địa đạo Củ Chi còn khoảng 120 km được bảo vệ và đã trở thành một điểm du lịch hấp dẫn cho du khách đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh. Du khách, đặc biệt là cựu chiến binh, thường chọn điểm tham quan này khi đến thăm Thành phố Hồ Chí Minh. Du khách được trải nghiệm cuộc sống dưới địa đạo như những cư dân thực thụ trước đây (được tham quan, ăn uống những món ăn của cư dân địa đạo trước đây).
Khu địa đạo Bến Dược (thuộc ấp Phú hiệp, xã Phú Mỹ Hưng - huyện Củ Chi) đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích lịch sử quốc gia (theo quyết định số 54/VHQĐ ngày 29 tháng 4 năm 1979 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa). Hệ thống địa đạo Bến Đình (thuộc xã Nhuận Đức - căn cứ của Huyện ủy Củ Chi trong thời kỳ kháng chiến) cũng được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia (theo quyết định số 101/2004/QĐ-BVHTT ngày 15 tháng 12 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin).
Ngoài ra, địa đạo Tân Phú Trung (còn gọi là địa đạo Cây Da tại ấp Cây Da, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi) cũng đã được chuẩn bị xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa.
Khu di tích
Hiện nay, Ban Quản lý Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi (trực thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hồ Chí Minh) trực tiếp quản lý cả hai di tích địa đạo Bến Dược và địa đạo Bến Đình. Khu di tích gồm có hệ thống địa đạo (Bến Dược, Bến Đình), đền Bến Dược, khu quản trị, khu dịch vụ, khu vực tái hiện vùng giải phóng và vành đai diệt quân Mỹ, khu du lịch sinh thái - giải trí ven sông Sài Gòn.
Ngày 27/12/2015, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lễ khánh thành Khu truyền thống cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, kỷ niệm 20 năm ngày truyền thống khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi (19/12/1995 - 19/12/2015). Khu truyền thống cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định khởi công từ ngày 18/02/2010, nằm trong quần thể Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi với diện tích 13,5ha, gồm khu đền thờ, nhà văn bia, khu lễ, khu hồ sen, cầu đá, cảnh quan đặc trưng Tây Nam Bộ.
Bến Dược là tên gọi của vùng đất Phú Mỹ, Phú Thuận từ năm 1929, hiện nay thuộc xã Phú Mỹ Hưng. Trước đây, nơi đây là địa điểm vượt qua sông Sài Gòn để đi qua các tỉnh Đông Nam Bộ khác. |
Orhan Pamuk (7 tháng 6 năm 1952 -) là một tiểu thuyết gia người Thổ Nhĩ Kỳ. Ông được tặng giải Nobel Văn học năm 2006, trở thành người Thổ Nhĩ Kỳ đầu tiên nhận vinh dự đó. Ông hiện là giáo sư dạy môn văn học so sánh ở Đại học Columbia.
Tiểu sử
Pamuk sinh ở Istanbul vào năm 1952 trong một gia đình tư sản giàu có nhưng đang xuống dốc, những trải nghiệm mà sau đó ông mô tả lại trong những tiểu thuyết The Black Book (Sách đen) và Cevdet Bey and His Sons (Cevdet Bey và các con trai). Ông học dự bị đại học ở trường Cao đẳng Robert tại Istanbul rồi sau đó học kiến trúc tại Đại học kỹ thuật Istanbul, một ngành rất gần với ước mơ trở thành họa sĩ của ông. Tuy nhiên, sau ba năm, Pamuk bỏ học để trở thành một nhà văn toàn thời gian rồi tốt nghiệp Học viện báo chí ở Đại học Istanbul năm 1976. Từ 22 đến 30 tuổi, ông sống với mẹ, viết cuốn tiểu thuyết đầu tay và cố gắng tìm một nhà xuất bản.
Ngày 1 tháng 3 năm 1982, Pamuk cưới Aylin Turegen, một sử gia. Từ năm 1985 đến 1988, khi vợ ông đi du học ở Đại học Columbia, Mỹ, Pamuk cũng xin được một học bổng ở đó và đã viết quyển The Black Book trong thư viện Butler của trường này.
Sau đó, Pamuk trở lại thành phố quê hương Istanbul. Vợ ông sinh cô con gái đầu lòng Rüya, trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là "giấc mơ" vào năm 1991. Năm 2001, hai vợ chồng ông ly dị.
Năm 2006, Pamuk trở lại Mỹ để làm giáo sư thỉnh giảng ở Đại học Columbia. Trước đó, ông bị lên án gay gắt vì những nhận xét quá khích về cuộc diệt chủng người Armenia ở Đế chế Ottoman trong giai đoạn 1915-1917. Hiện ông là một thành viên của Ủy ban tư duy toàn cầu ở Đại học Columbia đồng thời làm việc cho Khoa ngôn ngữ và văn hóa Trung Đông và châu Á thuộc ngành xã hội nhân văn của trường.
Năm 2007, ông được mời làm thành viên Ban giám khảo Liên hoan phim Cannes
Tháng 5/2007, Pamuk là một trong những thành viên ban giám khảo tại LHP Cannes - được dẫn dắt bởi đạo diễn người Anh Stephen Frears. Khoảng năm 2007-2008, Pamuk trở về Comlumbia một lần nữa mà gia nhập giảng dạy môn Văn học so sánh cùng Andreas Huyssen và David Damrosch.
Hiện tại Pamuk sáng tác tại nhà ở Bard College. Ông hoàn thành tiểu thuyết mới nhất The Museum of Innocence vào hè năm 2008, quyển sách này được xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ vào 29/08 năm ấy. Bản dịch ngắn gọn Tiếng Đức xuất hiện trước hội chợ sách Frankfurt 2008 - nơi ông từng dự định tổ chức một Bảo tàng của sự Ngây Thơ (Museum of Innocence) thật sự bao gồm những việc linh tinh hằng ngày mà ông thu thập được (thay vào đó, cuộc triển lãm sẽ được tổ chức trong một ngôi nhà thuộc sở hữu của ông ở Istanbul).
Tuy chưa công khai kế hoạch phiên dịch sang tiếng Anh, nhưng Erdağ Göknar đã nhận được tài trợ của quỹ NEA 2004.
Anh của ông - Şevket Pamuk, người thi thoảng xuất hiện với tư cách một nhân vật tiểu thuyết trong các tác phẩm của ông - là một giáo sư lịch sử, công trình về Nền Kinh tế của đế chế Ottoman của ông được Quốc tế công nhận. Hiện ông đang công tác tại đại học Bogazici, Istabul.
Tác phẩm
Tiểu thuyết
Cevdet và các con trai (1974)
Sessiz Ev (Căn nhà yên lặng) (1983,2012))
Beyaz Kale (Pháo đài trắng) (1985)
Kara Kitap (Sổ đen) (1990)
Yeni Hayat (Cuộc sống mới) (1995)
Benim Adım Kırmızı (Tên tôi là Đỏ) (1998)
Kar (Tuyết) (2002)
Masumiyet Müzesi (Bảo tàng ngây thơ) (2008)
Kafamda Bir Tuhaflık (Điều kỳ lạ trong tâm trí) (2014)
Kırmızı Saçlı Kadın (Nàng tóc đỏ) (2016)
Kịch bản phim
Gizli Yüz (Khuôn mặt bí ẩn) (1992)
Phi hư cấu
Oteki Renkler (Những màu khác, tập tiểu luận) (1999)
İstanbul - Hatıralar ve Şehir (Istanbul: Hồi ức và Thành phố, tự truyện) (2005)
Babamın Bavulu (Chiếc vali của bố tôi, diễn từ nhận giải Nobel) (2006)
Manzaradan Parçalar: Hayat, Sokaklar, Edebiyat (Những mảnh ghép từ những góc nhìn: Cuộc sống, đường phố, văn học, tập tiểu luận) (2010)
Saf ve Düşünceli Romancı (phê bình văn học) (2011)
Resimli İstanbul - Hatıralar ve Şehir (tự truyện) (2015)
Balkon (2019)
Giải thưởng
2005: Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức
2005: Giải Médicis cho tiểu thuyết nước ngoài
2012: Giải Sonning |
Kỷ Devon (kỷ Đề-vôn hay kỷ Đê-vôn) là một kỷ địa chất trong đại Cổ Sinh. Nó được đặt theo tên gọi của khu vực Devon, Anh, là nơi mà các loại đá thuộc kỷ này được nghiên cứu lần đầu tiên.
Trong kỷ Devon thì những loài cá đã tiến hóa để có chân đã xuất hiện lần đầu tiên và bắt đầu việc đi lại trên mặt đất như là động vật bốn chân (Tetrapoda). Những động vật Chân khớp (Arthropoda) như côn trùng và nhện cũng bắt đầu chiếm lĩnh môi trường sống trên đất liền. Những loài thực vật hạt trần đầu tiên cũng lan truyền trên các vùng đất khô, tạo thành các cánh rừng lớn. Trong lòng đại dương, cá đã đa dạng hóa thành những loài cá mập và các loài cá vây thùy (Sarcopterygii) và cá xương. Những loài động vật thân mềm như cúc (Ammonita) cũng đã xuất hiện, còn bọ ba thùy (Trilobita) và những động vật tay cuộn (Brachiopoda) tương tự như động vật thân mềm và các đá san hô ngầm lớn vẫn là phổ biến. Sự kiện tuyệt chủng Hậu Devon đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các sinh vật biển. Về mặt cổ địa lý học thì siêu lục địa Gondwana thống trị ở phía nam, trong khi lục địa Siberia ở phía bắc và một siêu lục địa nhỏ mới hình thành với tên gọi là Euramerica (Âu-Mỹ) ở đoạn giữa.
Tên gọi
Kỷ này được đặt tên theo tên gọi của Devon, Anh là khu vực mà các phần lộ thiên của đá thuộc kỷ này là phổ biến. Trong khi các tầng đá xác định sự bắt đầu và kết thúc của kỷ này đã được xác định khá rõ thì niên đại chính xác vẫn chưa chắc chắn. Theo ICS (2004), thì kỷ Devon kéo dài từ khi kết thúc kỷ Silur vào khoảng 416,0 ± 2,8 triệu năm trước (Ma), cho đến khi bắt đầu kỷ Than Đá, khoảng 359,2 ± 2,5 Ma (tại Bắc Mỹ là sự bắt đầu của thế Mississippi trong kỷ Than Đá) (nguồn: ICS, 2004).
Kỷ Devon còn được gọi là Thời đại Cá, nhưng thuật ngữ này không được ưa chuộng. Trong khi cá đã có sự phân nhánh mạnh thì nó chỉ là một trong số vài mốc đánh dấu tiến hóa chính trong kỷ này và các dạng sự sống khác là phổ biến hơn.
Kỷ Devon cũng được gọi một cách sai lầm là Thời đại nhà kính, do sự thiên lệch trong lấy mẫu: phần lớn các phát hiện thuộc niên đại Tiền Devon đến từ các địa tầng thuộc Tây Âu và miền đông Bắc Mỹ, trong khi vào thời gian đó chúng đang nằm ở khu vực xung quanh đường xích đạo như là một phần của siêu lục địa Euramerica, khu vực mà các dấu hiệu hóa thạch của đá san hô ngầm phổ biến rộng chỉ ra kiểu khí hậu nhiệt đới ấm nóng và tương đối ẩm.
Trong các văn bản thế kỷ 19 thì kỷ Devon được gọi là Thời đại Đỏ cổ, theo các trầm tích đất liền có màu đỏ và nâu, được biết đến tại Vương quốc Anh như là "Old red sandstone" (sa thạch đỏ cổ) mà trong đó các phát hiện đầu tiên đã được tìm thấy.
Phân chia
Kỷ Devon thường được chia thành các phân kỷ (thế) Tiền, Trung và Hậu Devon. Các tầng đá tương ứng với các phân kỷ này được gọi là các phần Hạ, Trung và Thượng Devon. Các tầng động vật từ trẻ nhất đến già nhất là:
Devon muộn
Famenne (Chautauquan, Canadaway, Conneaut, Conneautan, Conewango, Conewangan)
Frasne (Senecan, Sonyea, Sonyean, West Falls)
Devon giữa
Givet (Erian, Senecan, Tioughniogan, Tioughnioga, Taghanic, Taghanican, Genesee, Geneseean)
Eifel (Southwood)
Devon sớm
Ems (Sawkill, Deer Park)
Praha (Siegenian)
Lochkov (Gedinnian/Helderbergian)
Các tầng đá kỷ Devon là nơi chứa các mỏ dầu và hơi đốt tại một vài khu vực.
Cổ địa lý học
Kỷ Devon là thời kỳ mà các hoạt động kiến tạo mảng lớn diễn ra, do các vùng đất của Laurasia và Gondwana đang xích lại gần nhau. Lục địa Euramerica (hay Laurussia) đã được tạo ra vào đầu kỷ Devon do va chạm của Laurentia và Baltica, đã xoay vào khu vực khô tự nhiên dọc theo Nam chí tuyến, được hình thành phần lớn trong thời gian của đại Cổ Sinh cũng giống như ngày nay do sự hội tụ của hai luồng không khí lớn là hoàn lưu Hadley và hoàn lưu Ferrel. Trong các khu vực có khí hậu cận sa mạc này, các tầng đá cát trầm tích màu đỏ và cổ này đã được hình thành, màu đỏ là do sự oxy hóa của sắt (hematit), đặc trưng cho các điều kiện khí hậu khô cằn.
Gần đường xích đạo, Pangaea bắt đầu được hợp nhất từ các mảng kiến tạo chứa Bắc Mỹ và châu Âu, tiếp tục nâng cao dãy núi Appalaches ở phía bắc và hình thành kiến tạo sơn Caledonia tại khu vực thuộc Vương quốc Anh và Scandinavia ngày nay. Ngược lại, bờ biển phía tây của Bắc Mỹ thuộc kỷ Devon là các bờ rìa thụ động với các vũng vịnh nhỏ và sâu, chứa đầy bùn, các vùng châu thổ và cửa sông, thuộc Idaho và Nevada ngày nay; một vòng cung đảo núi lửa cận kề đã đến gần các sườn dốc đứng của thềm lục địa vào cuối kỷ Devon và bắt đầu nâng các trầm tích vùng nước sâu lên, một sự va chạm mở đầu cho sự tạo núi trong thời gian của thế Mississippi và được gọi là kiến tạo sơn Antler .
Các lục địa phía nam vẫn nằm sát nhau trong một siêu lục địa tên là Gondwana. Các phần còn lại của đại lục Á-Âu (Eurasia) ngày nay nằm ở Bắc bán cầu. Mực nước biển là cao trên khắp thế giới và phần lớn các vùng đất nằm dưới mặt nước tạo thành các biển nông, tại đó các loại sinh vật như san hô tạo đá ngầm vùng nhiệt đới sinh sống.
Đại dương Panthalassa vẫn bao phủ phần lớn bề mặt Trái Đất. Các đại dương và biển nhỏ khác là Paleo-Tethys, Proto-Tethys, Rheic và Ural (bị khép lại do va chạm của Siberia và Baltica trong kỷ Than Đá để tạo ra dãy núi Ural).
Sinh vật
Sinh vật biển
Mực nước biển trong kỷ Devon là khá cao. Hệ động vật biển vẫn chủ yếu là động vật hình rêu (Bryozoa), các loài động vật tay cuộn (Brachiopoda) đa dạng và đông đảo cùng san hô. Các động vật thuộc lớp Huệ biển (Crinoidea, ngành Da gai -Echinodermata) là phổ biến, và bọ ba thùy (Trilobita) vẫn còn khá phổ biến, nhưng ít đa dạng hơn so với thời gian trước đó. Vào giữa kỷ Devon thì bên cạnh các loài cá không hàm thuộc lớp Ostracodermi đã xuất hiện những loài cá có quai hàm đầu tiên với lớp áo giáp bằng chất xương, thuộc lớp Placodermi, cũng như những loài cá mập đầu tiên và cá vây tia. Những loài cá mập đầu tiên (nhóm Cladoselache) này, đã xuất hiện trong lòng đại dương vào thời gian của kỷ Devon. Chúng nhanh chóng trở nên đa dạng và phổ biến. Vào cuối kỷ Devon thì cá vây thùy cũng đã xuất hiện, tạo tiền đề cho các loài động vật bốn chân đầu tiên.
Đá ngầm san hô
Một dải san hô đá ngầm lớn, hiện nay sót lại ở khu vực thung lũng Kimberley cao và khô thuộc miền tây bắc Australia, đã từng kéo dài hàng nghìn kilômét, diềm quanh lục địa kỷ Devon. Các loại đá ngầm này nói chung được tạo ra từ các loại sinh vật tiết cacbonat khác nhau, có khả năng tạo thành các mảng chắn sóng gần với mặt biển. Những sinh vật chính trong việc tạo đá ngầm kỷ Devon không giống như các loại sinh vật tạo đá ngầm ngày nay (chủ yếu là san hô và các loại tảo chứa calci). Chúng bao gồm các loại tảo chứa calci, sinh vật nhóm Stromatopore giống như san hô và các loại san hô thuộc các bộ Tabulata cùng Rugosa, theo trật tự này của tầm quan trọng.
Sinh vật đất liền
Vào kỷ Devon, sự sống đang trên đường chiếm lĩnh mặt đất. Các tấm thảm vi khuẩn và tảo theo các loài thực vật nguyên thủy lên đất liền đã tạo ra những loại đất đầu tiên có thể nhận biết được và làm nơi ẩn nấp cho một số loài động vật chân khớp như ve, bét, bò cạp và động vật nhiều chân. Các loài thực vật đất liền đầu tiên của kỷ Devon không có rễ hoặc lá như các loài thực vật phổ biến ngày nay, và nhiều loài không có các mô mạch. Chúng có lẽ đã loang rộng chủ yếu là bằng sự phát triển sinh dưỡng (các thân bò chẳng hạn), và không mọc cao hơn vài xentimét.
Vào cuối kỷ Devon, các cánh rừng của các loài thực vật nhỏ nguyên thủy đã tồn tại: Các loài thông đất, thạch tùng (ngành Lycopodiophyta), Sphenophyta, dương xỉ và tiền-thực vật hạt trần cũng đã tiến hóa. Phần lớn các loài này đã có rễ và lá thực sự, nhiều loài có thân khá cao. Nhóm tổ tiên của dương xỉ (Archaeopteris) có thân giống như cây thân gỗ, đã mọc và lớn như một loại cây thân gỗ lớn với gỗ thực sự. Đây là những loài cây thân gỗ cổ nhất của các cánh rừng đầu tiên trên thế giới. Cuối kỷ Devon thì những loài thực vật tạo hạt đầu tiên cũng đã xuất hiện. Sự xuất hiện nhanh chóng của nhiều nhóm thực vật và các dạng sinh trưởng được gọi là "Sự bùng nổ kỷ Devon".
Các loài động vật chân khớp nguyên thủy đã cùng tiến hóa với cấu trúc thực vật đất liền đa dạng này. Sự cùng phụ thuộc tiến hóa của côn trùng và thực vật có hạt, đặc trưng cho một thế giới hiện đại có thể nhận ra được, đã có nguồn gốc từ cuối kỷ Devon. Sự phát triển của các loại hình đất và các hệ thống rễ thực vật dường như đã dẫn tới các thay đổi trong tốc độ và kiểu mẫu của sự xói mòn cùng các trầm tích.
Quá trình 'màu lục hóa' Trái Đất đóng vai trò như một yếu tố làm giảm lượng dioxide cacbon và nồng độ của nó trong khí quyển đã giảm xuống. Điều này có thể đã làm cho khí hậu trở nên mát mẻ hơn và đã dẫn đến sự tuyệt chủng hàng loạt. Xem thêm Sự kiện tuyệt chủng Hậu Devon.
Trong kỷ Devon, cả động vật có xương sống lẫn động vật chân khớp đã thiết lập sự sống vững chắc trên đất liền.
Nấm
Trong khi các loài nấm biển vẫn còn lại trong lòng đại dương và đa dạng thành các nhà tái sinh tự nhiên thì các loài nấm trên đất liền cũng là nguồn tái chế xác của các sinh vật trên đất liền, chúng phân hủy các loại động vật, thực vật chết. Ngoài ra, do có nhiều loài động và thực vật trên đất liền đã xuất hiện nên nấm cũng đã rất thịnh vượng. |
Vườn quốc gia Mũi Cà Mau là một vườn quốc gia tại xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Được thành lập theo quyết định số 142/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 14 tháng 7 năm 2003 trên cơ sở nâng cấp khu bảo tồn thiên nhiên Đất Mũi (thành lập theo quyết định số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986).
Ngày 26 tháng 5 năm 2009, cùng với cù lao Chàm, vườn quốc gia này được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự trữ sinh quyển.
Ngày 13 tháng 4 năm 2013, Ban thư ký Công ước Ramsar thế giới trao bằng chứng nhận vườn quốc gia Mũi Cà Mau trở thành khu Ramsar thứ 2088 của thế giới, thứ 2 tại Đồng bằng sông Cửu Long và thứ năm của Việt Nam .
Vị trí
Vườn quốc gia này có vị trí tại mũi đất cực Nam của lãnh thổ Việt Nam.
Tọa độ: từ 8°32′ đến 8°49′ vĩ bắc và từ 104°40′ đến 104°55′ kinh đông.
Tổng diện tích tự nhiên: 41.862 ha, trong đó:
Diện tích phần trên đất liền: 15.262 ha.
Diện tích phần ven biển: 26.600 ha.
Phân khu chức năng trên đất liền
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 12.203 ha. Thuộc tiểu khu 2 và tiểu khu 3 của khu rừng đặc dụng Đất Mũi và khu rừng phòng hộ bãi bồi.
Phân khu phục hồi sinh thái: 2.859 ha. Thuộc tiểu khu 4 và phần ven biển tiểu khu 1 của khu rừng đặc dụng Đất Mũi.
Phân khu hành chính dịch vụ: 200 ha. Thuộc khu vực ven Rạch Tàu, khu kênh Hai Thiện, khu Rạch Bàu Lớn và khu Rạch Mũi.
Phân khu chức năng phần trên biển
Phạm vi tính từ mép bờ biển phía tây ra phía biển, chức năng chủ yếu của phân khu này là bảo tồn tài nguyên sinh vật biển và hệ sinh thái ven bờ, duy trì và nghiên cứu quá trình địa mạo và sinh thái tự nhiên của Vườn quốc gia Mũi Cà Mau, bao gồm các điểm sau:
Cửa Sào Lưới thuộc huyện Cái Nước. Tọa độ: Từ 104°47′30″ kinh đông và 8°48′ vĩ bắc.
Cách bờ biển 4.700 mét. Tọa độ: Từ 104°45′ kinh đông và 8°48′ vĩ bắc.
Ngoài biển. Tọa độ: Từ 104°42′ kinh đông và 8°40′ vĩ bắc.
Ngoài biển. Tọa độ: Từ 104°42′ kinh đông và 8°35′ vĩ bắc.
Ngoài biển. Tọa độ: Từ 104°48′ kinh đông và 8°33′30″ vĩ bắc.
Đầu rạch Trương Phi thuộc huyện Ngọc Hiển. Tọa độ: Từ 104°48′ kinh đông và 8°34′30″ vĩ bắc.
Vùng đệm
Vùng đệm của Vườn quốc gia Mũi Cà Mau có tổng diện tích 8.194 ha, nằm trên địa bàn các xã: Đất Mũi, Viên An và Đất Mới thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
Chức năng
Bảo tồn lâu dài mẫu chuẩn sinh thái có tầm quan trọng quốc gia, khu vực và thế giới trên cơ sở các giải pháp khoa học, kinh tế và xã hội để bảo vệ hệ sinh thái đất ngập nước vùng đất mũi đang trong quá trình diễn thế tự nhiên.
Phục vụ các hoạt động tham quan, du lịch sinh thái và hợp tác quốc tế, xây dựng và thực nghiệm các mô hình bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên rừng ngập mặn, phát huy giá trị và chức năng kinh tế của hệ sinh thái đất ngập nước.Qua đó cải thiện điều kiện sinh sống của nhân dân trong vùng.
Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường, hạn chế xói lở, thúc đẩy quá trình bồi tụ bờ biển, để bảo vệ đời sống và sản xuất của nhân dân các vùng đất liền, bảo vệ khu cư trú của ngư dân ở vùng ven biển, tạo nền tảng cho quá trình phát triển bền vững ở vùng ven biển.
Bảo vệ đa dạng sinh học của các hệ sinh thái rừng ngập mặn, nơi cư trú cho các loài sinh vật ở vùng ven biển, cung cấp dinh dưỡng cho các loài thủy sản, hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất ở vùng ven biển.
Xây dựng cơ cấu xã hội nghề rừng ổn định, phù hợp với các mục tiêu quản lý, bảo vệ và phát triển rừng thông qua việc cải thiện và nâng cao tính bền vững của các hệ canh tác Lâm-Ngư nghiệp, tăng năng suất của rừng để nâng cao lợi ích kinh tế của những diện tích rừng ngập mặn ở vùng đệm của Vườn quốc gia.
Góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về các giá trị của rừng và của hệ sinh thái đất ngập nước và các phương pháp sử dụng bền vững tài nguyên đất ngập nước.
Góp phần củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội ở vùng cực Nam của Việt Nam.
Đa dạng sinh học
Đặc trưng của vườn quốc gia này là hệ động thực vật rừng ngập mặn. Các loài cây cối đặc trưng gồm: sú, vẹt, đước, mắm, tràm.... Các loài động vật trong khu vực vườn này đa dạng, gồm có: rùa, rắn, trăn, cua, các loại cá nước lợ, ba khía, sóc. Diện tích mặt đất của vườn quốc gia này không ngừng được mở rộng một cách tự nhiên do hàng năm Mũi Cà Mau lấn ra biển hàng chục mét bằng nguồn phù sa do hệ thống sông, kênh, rạch mang đến. |
Bạch Phác (chữ Hán: 白朴; 1226–1306?) là một nhà thơ, soạn tạp kịch, từ và khúc đời Nguyên, Trung Quốc, người được xem là một trong bốn tác gia tạp kịch nổi tiếng thời bấy giờ (Nguyên khúc tứ đại gia gồm: Quan Hán Khanh, Bạch Phác, Mã Trí Viễn và Trịnh Quang Tổ). Bạch Phác là tác giả vở Chúc Anh Đài tử giá Lương Sơn Bá về sau được phỏng tác thành một trong những vở cải lương nổi tiếng ở Việt Nam nhưng ít ai biết đến nguyên tác.
Cuộc đời
Bạch Phác tự Thái Tố, hiệu Lan Cốc, người Áo Châu (gần Sơn Tây ngày nay). Ông xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ, sống trong thời kỳ quân Mông Cổ tiêu diệt nhà Kim, xã hội tao loạn.
Được Nguyên Hiếu Vấn - một người bạn của cha - yêu mến và dạy dỗ học hành, Bạch Phác từ nhỏ đã thể hiện chí thông minh đĩnh ngộ của mình, đặc biệt trong văn học. Ông không tham gia làm quan triều đình nhưng vẫn rất quan tâm đến thời đại. Sáng tác của ông rất phong phú về thể loại, vừa thể hiện khí chất phóng túng của một nhà Nho tài tử nhưng cũng mang cảm xúc trước sự hưng vong của đất nước.
Tuy là đại gia Nguyên khúc nhưng tác phẩm của Bạch Phác lưu truyền đời sau không nhiều. Tại Việt Nam, người đọc biết đến một Quan Hán Khanh với Đậu Nga oan, Vương Thực Phủ với Tây sương ký nhiều hơn mặc dù sử sách Trung Quốc cũng đặc biệt ca tụng những sáng tác Bạch Phác. Tuy nhiên, văn học sử Trung Quốc cũng không nói rõ cuộc đời về sau của ông.
Tác phẩm
Theo cuốn Văn học nước ngoài do Lưu Đức Trung chủ biên (Nhà xuất bản Giáo dục) thì Bạch Phác viết 16 vở tạp kịch, nội dung chủ yếu đề cập đến tình yêu nam nữ; trong đó nổi tiếng hơn cả là Chúc Anh Đài tử giá Lương Sơn Bá nhưng đã thất lạc. Ngoài ra còn có các vở tiêu biểu như Tường đầu mã thượng, Ngô đồng vũ... "Tường đầu mã thượng" kể về mối tình của đôi trai gái Lý Thiên Kim và Bùi Nghiêu Tuấn. Thiên Kim không đợi Nghiêu Tuấn đỗ đạt làm quan, dời đến sống ở vườn nhà Tuấn. Sau bảy năm, bị cha Tuấn phát hiện, hết sức ngăn cấm nhưng đôi tài tử giai nhân vẫn vượt qua mọi thử thách, đoàn viên bên nhau. Còn "Ngô đồng vũ" sử dụng thủ pháp tập trung miêu tả nội tâm nhân vật, miêu tả câu chuyện tình yêu giữa Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ và quý phi Dương Ngọc Hoàn...
Ngoài sáng tác tạp kịch, Bạch Phác còn viết nhiều bài từ và tạp khúc. Tiêu biểu có Kim Lăng Phượng hoàng đài điếu vọng (trong tập Thiên lại tập) mà người đời sau cho rằng rất có thể lấy cảm hứng từ Đăng kim lăng phượng hoàng đài của Lý Bạch. Về tản khúc, sáng tác của Bạch Phác mang phong cách của phái hào phóng đời Tống, lời lẽ hết sức trang nhã, vịnh tình, tả cảnh đều uyển chuyển. Kim phượng thoa phân là một tản khúc miêu tả nỗi lòng khuê oán được xem như là một tác phẩm tiêu biểu của ông thời kỳ này. Rất tiếc tại Việt Nam chưa thấy bản dịch các thể loại từ và tạp khúc của Bạch Phác. |
Vườn quốc gia Nairobi là một vườn quốc gia ở Kenya, được thành lập năm 1946. Đây là vườn quốc gia đầu tiên của Kenya. Nó nằm cách trung tâm Nairobi, thủ đô của Kenya, khoảng 7 kilômét (4 mi) về phía nam, với một hàng rào điện chia cách giữa vùng hoang dã và vùng đô thị. Từ vườn, có thể thấy những tòa nhà cao tầng tại Nairobi. Việc đô thị và môi trường hoang dã ở gần nhau như vậy đã gây ra những va chạm giữa động vật và người dân địa phương, đồng thời ảnh hưởng đến đường di trú của động vật.
Tuy tọa lạc tại vị trí gần nền văn minh, và có diện tích khá nhỏ so với nhưng vườn quốc gia châu Phi khác, vườn quốc gia Nairobi vẫn có hệ sinh thái lớn và đa dạng. Động vật ăn cỏ di trú tập trung tại đây vào mùa khô, và đây cũng là một trong số các khu bảo tồn tê giác thành công nhất Kenya. |
Vườn quốc gia Joshua Tree tọa lạc tại đông bắc tiểu bang California, Hoa Kỳ. Vườn quốc gia này được thành lập năm 1994. Với diện tích 1.234 dặm vuông (3.196 km²), đại bộ phận của nó được bao gồm bởi hai sa mạc, đó là Mojave và Colorado ở khu vực thấp hơn. Một phần của vườn quốc gia này (2.367 km²) là khu vực hoang dã. Dãy núi Little San Bernardino chạy qua các cạnh của vườn quốc gia. Tên của vườn quốc gia này được đặt theo loài cây phổ biến ở khu vực, cây Joshua (Yucca brevifolia). Có ít nhất 240 loài chim được tìm thấy tại đây. Nơi quan sát loài chim tốt nhất trong vườn quốc gia là Đập hồ Barker. |
Vườn quốc gia Grand Canyon là vườn quốc gia nằm ở phía tây bắc tiểu bang Arizona, Hoa Kỳ. Trung tâm của nó là Grand Canyon là một hẻm núi của sông Colorado, được coi là một trong những Kỳ quan thế giới. Vườn quốc gia có diện tích của Khu chưa hợp nhất ở hai quận Coconino và Mohave. Grand Canyon thu hút hơn 6,3 triệu lượt khách ghé thăm, khiến nó trở thành vườn quốc gia có số lượng du khách cao thứ hai tại Hoa Kỳ, chỉ sau Dãy núi Great Smoky. Vườn quốc gia được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 1979 và vườn quốc gia đã kỷ niệm 100 năm thành lập vào ngày 26 tháng 2 năm 2019.
Lịch sử
Grand Canyon được tuyên bố là một vườn quốc gia vào ngày 26 tháng 2 năm 1919, mặc dù địa danh này đã được những người Mỹ biết đến trước đó hơn 30 năm. Năm 1903, tổng thống Theodore Roosevelt đến thăm địa điểm này và đã nói: "Grand Canyon làm tôi sợ hãi. Nó vượt xa so với mô tả, vượt ra ngoài thế giới rộng lớn... Hãy để kỳ quan thiên nhiên tuyệt vời này tồn tại như bây giờ. Không gì có thể làm cho nó vĩ đại, hùng vĩ và tuyệt mĩ hơn bạn. Bạn không thể thay đổi được nó. Nhưng những gì bạn có thể làm là giữ nó cho con bạn, con của con bạn, và tất cả những người đến sau bạn, như một cảnh tượng tuyệt vời mà mọi người Mỹ nên thấy.
Bất chấp sự nhiệt tình và quan tâm mạnh mẽ từ tổng thống Roosevelt trong việc bảo tồn đất cho sử dụng cho mục đích công cộng, Grand Canyon không ngay lập tức được chỉ định là vườn quốc gia. Dự luật đầu tiên thành lập vườn quốc gia Grand Canyon được giới thiệu vào năm 1882 bởi Thượng nghị sĩ Benjamin Harrison, dự định như là vườn quốc gia thứ ba của Hoa Kỳ sau Yellowstone và Mackinac. Nhưng ông đã không thành công khi đưa ra vào năm 1883 và 1886. Sau khi đắc cử tổng thống, ông đã thành lập Khu bảo tồn rừng Grand Canyon vào năm 1893. Theodore Roosevelt sau đó đã thành lập Khu bảo tồn trò chơi Grand Canyon bằng mệnh lệnh hành pháp vào ngày 28 tháng 11 năm 1906, và Tượng đài Quốc gia vào năm 1908. Các dự luật khác của Thượng viện để thiết lập địa điểm này như một vườn quốc gia đã được đưa ra nhưng không thành công vào năm 1910 và 1911, trước khi Đạo luật vườn Quốc gia Grand Canyon cuối cùng đã được ký bởi Tổng thống Woodrow Wilson vào năm 1919. Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1916, đảm nhận việc quản lý vườn quốc gia này.
Việc Grand Canyon được thành lập là thành công ban đầu của phong trào bảo tồn. Với việc được tuyên bố là một vườn quốc gia của nó có thể đã giúp ngăn chặn các đề xuất xây dựng đập trên sông Colorado trong phạm vi ranh giới. Tuy nhiên sau đó Đập Glen Canyon đã được xây dựng trên thượng nguồn. Năm 1975, tượng đài quốc gia Marble Canyon cũ nằm dọc theo sông Colorado về phía đông bắc từ Grand Canyon đến Lee's Ferry đã được thêm vào như một phần của vườn quốc gia. Năm 1979, UNESCO đã công nhận vườn quốc gia Grand Canyon là một Di sản thế giới. Vào năm 2010, vườn quốc gia Grand Canyon đã được vinh danh với đồng tiền riêng của mình theo chương trình loạt tiền xu Quarter kỷ niệm cảnh đẹp của Hoa Kỳ.
Địa lý
Grand Canyon bao gồm các hẻm núi rộng lớn được đánh giá cao nhờ sự kết hợp giữa kích thước, độ sâu và các lớp đá đầy màu sắc lộ ra từ thời kỳ Tiền Cambri. Hẻm núi được tạo ra bởi dòng chảy của sông Colorado và các nhánh của nó sau khi cao nguyên Colorado được nâng lên, khiến hệ thống sông Colorado phát triển dọc theo hẻm núi như hiện tại.
Khu vực công cộng chính trong vườn quốc gia là South và North Rim cùng các khu vực lân cận của hẻm núi chính. Phần còn lại của vườn quốc gia vô cùng xa xôi và hiểm trở, mặc dù có thể đi đến được bằng những con đường mòn và đường nông thôn thưa thớt người. South Rim dễ tiếp cận hơn North Rim và chiếm 90% lượng khách đến vườn quốc gia này. Trụ sở chính của vườn quốc gia nằm tại Làng Grand Canyon cách không xa lối vào từ phía nam.
Hầu hết du khách đến với Grand Canyon đều đến South Rim thông qua đường bang Arizona 64. Đường này dẫn đến lối vào phía nam gần thị trấn Tusayan và đi về hướng đông, rời khỏi vườn quốc gia qua lối vào phía đông. Xa lộ Liên tiểu bang 40 cũng dẫn đến lối vào phía nam. Từ phía bắc, tuyến đường Hoa Kỳ 89 kết nối Utah, Colorado, North Rim đến South Rim. Nhìn chung, khoảng cách 30 dặm từ South Rim có thể đến được bằng đường bộ.
Ngược lại, North Rim là một khu vực dân cư nằm trên Cao nguyên Kaibab và Walhalla. Khu vực thu hút khách du lịch chính của North Rim tập trung quanh Bright Angel Point. North Rim nằm ở độ cao cao hơn so với South Rim, chính bởi vậy mà từ ngày 1 tháng 12 đến ngày 15 tháng 5 hàng năm, nó bị đóng cửa do tuyết rơi ở khu vực cao. Sau ngày 15 tháng 5 thì nhiều dịch vụ vẫn đóng cửa hoặc phục vụ hạn chế. Lái xe từ South Rim về phía bắc đến North Rim là và phải mất khoảng 4,5 giờ đồng hồ.
Làng Grand Canyon là trung tâm du khách chính của vườn quốc gia. Tại đây có đầy đủ các dịch vụ tiện ích từ chỗ ăn ở, nhiêu liệu, đồ lưu niệm cho đến bệnh viên, nhà thờ và du lịch có hướng dẫn viên. North Rim là nơi có nhà nghỉ Grand Canyon, một công trình nằm trong Danh lam Lịch sử Quốc gia và Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Còn dọc theo đường từ South Rim là Khách sạn El Tovar và Nhà nghỉ Bright Angel, Kachina, Thunderbird, Yavapai và Maswik. |
Bê tông nhựa là hỗn hợp cấp phối gồm: đá, cát, bột khoáng và nhựa đường, được sử dụng chủ yếu làm kết cấu mặt đường mềm.
Phân loại bê tông nhựa
Dựa vào cách phân loại của bê tông nhựa chúng ta có các loại sau:
Phân loại theo nhiệt độ
Bê tông nhựa nóng: Hỗn hợp được nung và trộn ở nhiệt độ từ 140oC – 160oC.Khi thi công nhựa phải nóng từ 90-100oC
Bê tông nhựa nguội: Được trộn ở nhiệt độ thông thường, điều kiện sử dụng là phải cho xe chạy lưu thông từ 4 – 6 tháng mới thì mặt đường bê tông nhựa mới hình thành.
Phân loại theo cốt liệu
Bê tông nhựa hạt thô, bê tông nhựa hạt trung, bê tông nhựa hạt mịn và bê tông nhựa hạt cát.
Phân loại theo kết cấu sử dụng
Bê tông nhựa lớp loại I, bê tông nhựa loại II.
Lịch sử
Các tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành của bê tông nhựa
Sản xuất và vận hành trạm trộn bê tông nhựa nóng
Bê tông nhựa nóng được sản xuất tập trung ở các trạm trộn bê tông nhựa nóng.
Để có được sản phẩm bê tông nhựa nóng,thì các dòng vật liệu được vận chuyển lên và cân đong bằng hệ thống cân điện tử đảm bảo chính xác,sai số nhỏ.
Sau đó tất cả các loại vật liệu được đưa vào buồng trộn, ở đó các loại vật liệu như đá lớn,đá vừa,đá nhỏ,cát,chất phụ gia được trộn khô với nhau.Sau khoảng 20s nhựa đường được phun vào ở dạng sương mù trộn lẫn với các loại vật liệu khác,các cánh trộn trong buồng trộn tiếp tục khuấy trộn trong thời gian khoảng 30-60s thì được xả xuống qua cửa xả của buồng trộn.
Các tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành của Việt Nam
Tiêu chuẩn ngành "Quy trình công nghệ thi công và nghiệm thu lớp phủ mỏng bê tông nhựa có độ nhám cao" 22 TCN 345 - 06
Tiêu chuẩn ngành "Quy trình công nghệ thi công và nghiệm thu mặt đường bê tông nhựa" 22 TCN 249 - 98
Tiêu chuẩn ngành "Quy trình công nghệ thi công và nghiệm thu mặt đường bê tông nhựa sử dụng nhựa đường polyme" 22 TCN 356 - 06
TCVN 8819-2011: "Mặt đường bê tông nhựa nóng-yêu cầu thi công và nghiệm thu"
Quyết định 858/BGTVT về việc áp dụng các tiêu chuẩn hiện hành về BTN cho các đường có lưu lượng cao và chịu tải trọng lớn. |
Trong toán học, đa thức là biểu thức bao gồm các biến và các hệ số, và chỉ dùng các phép cộng, phép trừ, phép nhân, và lũy thừa với số mũ tự nhiên của các biến. Một ví dụ về đa thức trong biến là . Ví dụ về đa thức có ba biến là . Các phần tử trong đa thức được gọi là hạng tử. Trong hai ví dụ trước, đều là hạng tử của đa thức.
Đa thức xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của khoa học và toán học. Ví dụ chẳng hạn, chúng được dùng để lập các phương trình đa thức cho phép mã hoá rất nhiều bài toán mới, từ những bài toán từ sơ cấp cho đến các bài toán phức tạp trong khoa học; Các đa thức còn được dùng để định nghĩa hàm đa thức xuất hiện trong nhiều bối cảnh trong khoa học, từ hoá học và vật lý cơ bản cho đến kinh tế học và khoa học xã hội. Trong toán học cao cấp, các đa thức được dùng để xây vành đa thức và đa tạp đại số, là các khái niệm trung tâm trong đại số hiện đại và hình học đại số.
Ký hiệu và thuật ngữ
Đa thức P trong biến x thường được ký hiệu là P hoặc P(x) (chữ cái P được lấy từ polynomial). Thường thì ta hay dùng P để ký hiệu cho đa thức, chứ không P(x). Song việc dùng ký hiệu hàm P(x) đã có từ thời mà sự phân biệt giữa đa thức và hàm gắn liền vẫn còn chưa rõ. Ký hiệu hàm vẫn được dùng khi muốn nói trong một lời về đa thức và biến của nó. Ví dụ, câu "gọi P(x) là đa thức" có thể hiểu ngay là "gọi P là đa thức trong biến x". Mặt khác, nhiều công thức trở nên dễ nhìn và dễ đọc hơn khi bỏ đi tên các biến trong đa thức.
Ngoài ra, lợi dụng tính tổng quát đằng sau ký hiệu hàm của đa thức, ta có thể dùng ký hiệu ánh xạ cho đa thức.
Nếu a là một số, hay một biến, hay một đa thức hoặc tổng quát hơn là bất kỳ biểu thức khác thì P(a) là kết quả khi thay a cho x vào trong P. Do đó đa thức P định nghĩa hàm số sau:
được gọi là hàm đa thức gắn với P.
Thường thì khi dùng sử dụng ký hiệu, ta thường coi a là số. Tuy nhiên, ta có thể dùng nó trên bất cứ miền nào có phép cộng và phép nhân được định nghĩa (tức là trên một vành). Đặc biệt là, nếu a là đa thức thì P(a) cũng là đa thức.
Định nghĩa
Biểu thức đa thức là biểu thức được xây từ các hằng số và các ký hiệu chữ số được gọi là biến và được nối với nhau bằng các phép cộng, phép nhân. Các biến trong đa thức có thể được mũ lên số nguyên không âm. Hằng số thường là các con số nói chung, nhưng cũng có thể biểu diễn các đối tượng toán học khác cũng có thể nhân và cộng với biến và các hằng số còn lại. Hai biểu thức đa thức được gọi là biểu diễn chung một đa thức nếu một trong hai cái có thể biến đổi về cái còn lại qua việc sử dụng các tính chất của giao hoán, kết hợp và phân phối của phép cộng và phép nhân. Lấy ví dụ, và là hai biểu thức đa thức biểu diễn chung một đa thức; do đó ta có đẳng thức sau: .
Đa thức trong một biến luôn có thể viết (hoặc viết lại) dưới dạng sau
trong đó là các hằng số được gọi là hệ số của đa thức, còn được gọi là biến số (hay nói gọn là biến). Từ "biến số" có nghĩa là không biểu diễn không một giá trị cụ thể nào cả, mà thay và đó có thể thay bất kỳ giá trị vào trong đó. Ánh xạ giữa giá trị thay vào và kết quả của đa thức sau khi thay giá trị đó vào được gọi là hàm số, cụ thể hơn là hàm đa thức.
Công thức trên có thể viết gọn lại bằng ký hiệu sigma:
Nhìn vào trong đây, một đa thức có thể bằng có thể bằng không hoặc là tổng của hữu hạn số các đơn thức khác không. Mỗi đơn thức là tích của một hằng số, được gọi là hệ số của đơn thức đó và hữu hạn các biến khác, mỗi biến có thể được mũ lên một số nguyên không âm.
Phân loại
Số mũ của một biến trong phần tử được gọi là bậc của biến đó trong cùng phần tử đó; bậc của một phần tử trong đa thức là tổng các bậc của các biến trong phần tử đó, và bậc của đa thức là bậc lớn nhất của các phần tử có hệ số khác không. Bởi , bậc của biến không viết số mũ ở trên đầu là một.
Đơn thức không có biến và đa thức không có biến được gọi tương ứng là phần tử hằng và đa thức hằng. Bậc của đơn thức hằng và đa thức hằng khác không luôn bằng 0. Bậc của đa thức không, tức 0 (không có đơn thức nào) thường được coi là không có bậc.
Lấy ví dụ:
là một đơn thức có hệ số bằng và các biến là và , trong đó bậc của bằng hai, còn bậc của bằng một. Vì bậc của đơn thức là tổng các bậc các biến trong đơn thức đó, nên trong ví dụ này, bậc của đơn thức đó là .
Tổng của các đơn thức lập thành một đa thức. Ví dụ sau là một đa thức:
Nó có ba đơn thức: đơn thức đầu tiên có bậc hai, đơn thức thứ hai có bậc một, và đơn thức cuối có bậc không.
Có hai đa thức bậc nhỏ có tên riêng của nó. Đa thức bậc không được gọi là đa thức hằng, hay nói gọn đi là hằng số. Đa thức bậc một có tên gọi khác là đa thức tuyến tính. Tên của đa thức cũng có thể dùng cho đơn thức. Lấy ví dụ,đơn thức trong là đơn thức tuyến tính trong đa thức bậc hai.
Đa thức 0 là đa thức không có đơn thức nào trong đó, được gọi là đa thức không. Không giống các đa thức khác, bậc của nó không có giá trị cụ thể, mà thay vào đó bậc của nó thường được để không xác định, hoặc được định nghĩa là âm (hoặc là −1 hoặc −∞). Đa thức không cũng là đa thức duy nhất trong một biến có vô số nghiệm. Đồ thị của đa thức không, tức , là trục hoành.
Trong các đa thức có nhiều hơn một đơn thức, một đa thức được gọi là thuần nhất nếu tất cả các đơn thức của nó đều có . "Đa thức không" là đa thức thuần nhất nhưng không có bậc. Ví dụ, là đa thức thuần nhất bậc 5. Xem thêm đa thức thuần nhất.
Luật giao hoán của phép cộng được dùng để xếp lại tuỳ ý vị trí các đơn thức trong đa thức. Trong các đa thức một biến, các đơn thức thường được xếp theo thứ tự tăng dần hoặc giảm dần của các bậc. Ví dụ chẳng hạn, đa thức được viết theo thứ tự giảm dần của bậc . Đơn thức đầu tiên có hệ số bằng và số bậc bằng . Vì bậc của đa thức khác không là bậc lớn nhất và cũng bởi đa thức này đã được viết theo thứ tự giảm dần, nên đa thức này có bậc bằng hai.
Nếu trong đa thức có hai hay nhiều đơn thức có các biến giống nhau và được nâng lên cùng số mũ thì chúng có thể gộp lại với nhau thành một đơn thức dưới luật phân phối. Hệ số của đơn thức đó sẽ là tổng của các đơn thức kia cộng lại. Giá trị của hệ số đó có thể bằng 0. Các đa thức có thể được phân loại bằng số đơn thức khác không của nó, đa thức có một đơn thức được gọi là đơn thức, đa thức có hai đơn thức được gọi là nhị thức, và đa thức có ba đơn thức được gọi là tam thức. Thuật ngữ "tứ thức" rất ít dùng cho đa thức có bốn phần tử.
Đa thức thực là đa thức có các hệ số là số thực. Nếu nó dùng để định nghĩa hàm số nói chung, thì miền của nó không bị giới hạn. Tuy nhiên, nếu nói rõ là hàm đa thức thực, thì hàm này là hàm từ tập các số thực sang các số thực được định nghĩa bởi đa thức thực. Tương tự như vậy, đa thức nguyên là đa thức có hệ số nguyên, và đa thức phức là đa thức có hệ số phức.
Tính đa thức là thay các giá trị vào các biến của đa thức rồi thực hiện các phép cộng và nhân để tìm ra giá trị của đa thức đó. Đối với các đa thức chỉ có một biến, việc tính toán thường hiệu quả hơn (tức ít số lần phải tính toán hơn) khi dùng phương pháp Horner:
Số học
Phép cộng và phép trừ
Các đa thức có thể cộng với nhau bằng cách sử dụng luật kết hợp (để nhóm lại các đơn thức với nhau), và luật giao hoán (để sắp xếp lại các vị trí các đơn thức) của phép cộng rồi gộp chúng lại với nhau. Lấy ví dụ, nếu
và
thì tổng
có thể xếp và nhóm lại thành
sau đó rút gọn đi được
Tổng của các đa thức luôn là một đa thức.
Trừ của đa thức cũng tương tự như vậy.
Phép nhân
Các đa thức có thể nhân được với nhau. Để tính của tích của hai đa thức, ta có thể dùng tính phân phối để nhân từng đơn thức của đa thức này với từng đơn thức của đa thức kia rồi cộng chúng lại cho nhau. Ví dụ, nếu
thì
Tính phép nhân trong mỗi đơn thức được
Cộng các đơn thức lại với nhau thành
sau đó rút gọn đi thành
Tích của các đa thức luôn là một đa thức, được minh hoạ bởi ví dụ này.
Phép hợp
Cho đa thức có một biến và đa thức có nhiều biến, thì hợp thu được bằng cách thay đa thức vào biến của đa thức . Lấy ví dụ, nếu và thì
Phép hợp sau đó có thể tách ra và triển khai thành tổng của các đơn thức. Hợp của hai đa thức luôn là đa thức.
Phép chia
Kết quả của đa thức chia đa thức chưa chắc cũng là đa thức. Thay vì đó kết quả ra được thường là phân thức, được gọi là phân thức hữu tỉ hoặc biểu thức hữu tỉ. Nếu dùng làm định nghĩa của hàm số thì hàm đó được gọi là hàm phân thức. Cái này tương tự với phép chia số nguyên là số hữu tỉ, chứ không phải luôn là số nguyên. Lấy ví dụ, phân thức không phải đa thức, và nó không thể viết thành tổng các đơn thức biến .
Đối với các đa thức một biến, ta có thể dùng phép chia Euclid của đa thức , phép chia này là dạng tổng quát của phép chia có dư của các số nguyên. Phép chia sẽ ra hai đa thức, thương và phần dư , sao cho và ( là bậc của đa thức ). Thương và phần dư có thể được tính bằng một số thuật toán, bao gồm chia đa thức lớn và chia tổng hợp.
Khi mẫu số monic và tuyến tính, tức là cho một số hằng số , thì định lý phần dư đa thức khẳng định rằng phần dư của phép chia bởi là kết quả của . Trong trường hợp này, thương có thể tính theo quy tắc Ruffini, một trường hợp đặc biệt của phép chia.
Phân tích
Tất cả các đa thức có hệ số nằm trong miền phân tích duy nhất (ví dụ như tập các số nguyên hoặc trên một trường) đều viết thành tích của các đa thức bất khả quy và một hằng số. Dạng nhân tử này là duy nhất theo thứ tự của các thừa số và phép nhân của chúng với một hằng số khả nghịch.Trong trường của các số phức, các phần tử bất khả quy đều tuyến tính. Trên các số thực, thì các đa thức có bậc một và hai. Còn khi trên tập các số nguyên và tập các số hữu tỉ, các phần tử bất khả quy có thể có bậc bất kỳ. Lấy ví dụ, dạng nhân tử của
là
trên tập số nguyên và tập số thực, và là
trên các số phức.
Việc tìm dạng tích của các đa thức này được gọi là phân tích nhân tử, và thường thì rất khó để có thể tự tính tay được phân tích của một đa thức tuỳ ý. Tuy nhiên, đã có sẵn các thuật toán phân tích đa thức hiệu quả trong phần lớn các hệ thống đại số máy tính.
Tích phân
Tính đạo hàm và nguyên hàm của hàm đa thức rất là dễ so với các hàm số còn lại.
Đạo hàm của đa thức tương ứng với là đa thức
Tương tự như vậy, nguyên hàm của là
trong đó là hằng số tuỳ ý. Lấy ví dụ, nguyên hàm của có dạng .
Đối với các đa thức mà hệ số của nó là các đối tượng toán học khác (ví dụ như hệ số là các số nguyên modulo một số nguyên tố nào đó,hoặc là phần tử của một vành nào đó), công thức cho đạo hàm vẫn được hiểu và tính như thường, với hệ số được hiểu là tổng của hệ số . Lấy ví dụ chẳng hạn, trên tập các số nguyên modulo , đạo hàm của đa thức là đa thức .
Hàm đa thức
Hàm đa thức là hàm số được định nghĩa bằng đa thức. Chuẩn xác hơn, hàm với một tham số từ một miền cho trước là hàm đa thức nếu tồn tại đa thức
tính ra giá trị cho mọi nằm trong miền của (trong đây, là số nguyên không âm và là các hệ số hằng).
Trong tổng quát, trừ phi được nhắc trước thì các hàm đa thức sẽ có hệ số, tham số và giá trị đều là số phức.Cụ thể hơn, đa thức giới hạn hệ số thực vẫn sẽ định nghĩa hàm từ tập số phức sang tập số phức. Nếu thêm vào đó, miền của hàm số bị giới hạn về số thực, thì hàm số sẽ ánh xạ tập các số thực sang tập các số thực.
Lấy ví dụ, hàm , định nghĩa như sau
là hàm đa thức một biến. Các hàm đa thức nhiều biến cũng có thể được định nghĩa tương tự
Theo định nghĩa hàm đa thức, có các biểu thức tuy không phải đa thức nhưng vẫn có thể dùng để định nghĩa hàm đa thức. Ví dụ biểu thức có cùng giá trị với đa thức trên đoạn , và do đó cả hai định nghĩa cùng một đa thức trên đoạn này.
Mọi hàm đa thức đều liên tục, trơn, và nguyên.
Đồ thị
Ví dụ các đồ thị của các đa thức thực có một biến.
Đồ thị của đa thức không
là trục hoành.
Đồ thị của đa thức bậc 0
là đường thẳng song song với trục hoành và
Đồ thị của đa thức bậc 1 (hay hàm số tuyến tính)
là đường thẳng và có hệ số góc bằng với .
Đồ thị của đa thức bậc 2
là đường parabol.
Đồ thị của đa thức bậc 3
là đường cong bậc ba.
Đồ thị của bất kỳ đa thức bậc hai hoặc lớn hơn
là đường cong liên tục và không tuyến tính.
Hàm đa thức không hằng chạy tới vô cực khi mà giá trị cũng chạy tới vô cực (trong giá trị tuyệt đối). Nếu đa thức có bậc lớn một, thì đa thức không có tiệm cận.
Đồ thị đa thức được phân tích trong giải tích bằng các giao điểm, hệ số góc, tính lồi và hành vi cuối.
Phương trình
Phương trình đa thức, hay còn gọi là phương trình đại số, là phương trình có dạng sau
Lấy ví dụ,
là phương trình đại số.
Khi xét phương trình, các biến của đa thức lúc này sẽ được gọi là ẩn số (hay gọi gọn đi là ẩn), và các nghiệm là các giá trị cho ẩn sao cho đẳng thức đúng (thường thì có thể nhiều hơn một nghiệm). Phương trình đa thức khác với đồng nhất đa thức, trong đó đồng nhất đa thức là đẳng thức của hai đa thức bằng nhau, ví dụ như .
Trong đại số sơ cấp, các phương pháp như công thức bậc hai được dùng để giải các phương trình một ẩn với bậc nhất và bậc hai. Ngoài ra còn có công thức giải cho các phương trình bậc ba và các phương trình bậc bốn. Đối với các bậc cao hơn, định lý Abel–Ruffini nói rằng không có công thức để giải cho phương trình bậc cao hơn bốn mà chỉ được dùng căn. Ta có thể dùng các thuật toán tìm nghiệm để tính xấp xỉ các nghiệm của bất kỳ biểu thức đa thức với bậc tuỳ ý.
Số các nghiệm của phương trình đa thức có hệ số thực luôn không vượt quá bậc của đa thức đó. Nếu nghiệm đó là nghiệm phức thì số nghiệm (đếm luôn cả lần lặp) luôn bằng với bậc của đa thức. Tính chất này là định lý cơ bản của đại số.
Giải phương trình
Nghiệm của đa thức một biến khác không là giá trị của sao cho . Nói cách khác, nghiệm của là nghiệm của phương trình đa thức hoặc là không điểm của hàm số của hàm đa thức định nghĩa bởi . Trong trường hợp của đa thức không, mọi số đều là không điểm của hàm tương ứng và do đó ít khi quan tâm tới nghiệm của đa thức này.
Số là nghiệm của đa thức khi và chỉ khi đa thức tuyến tính là ước của , nghĩa là tồn tại ma trận sao cho . Nếu là đa thức khác không, thì tồn tại số mũ cao nhất sao cho là ước của , được gọi là số bội của khi là ước của . Số nghiệm của đa thức , khi đếm cả số bội, không bao giờ vượt quá bậc của , và chỉ bằng với bậc này nếu xét tất cả nghiệm phức (đây là hệ quả của định lý cơ bản của đại số).
Các hệ số và các nghiệm của đa thức có liên hệ với nhau qua các công thức Vieta.
Một số đa thức, ví dụ như , không có nghiệm trong tập các số thực. Nếu ta chấp nhận cả các số phức, mọi đa thức không hằng đều có ít nhất một nghiệm, điều này nằm trong định lý cơ bản của đại số. Bằng cách liên tục chia cho , ta có thể thấy mọi đa thức với hệ số phức đều có thể viết thành tích của một hằng số với tích các đa thức có bậc một; và bởi vậy, số nghiệm phức đếm với số bội của nó luôn bằng với bậc của đa thức.
Khi giải phương trình, ta thường muốn biểu diễn nghiệm là một con số cụ thể; ví dụ, nghiệm duy nhất của là . Tuy nhiên, không thể nào cũng có nghiệm duy nhất khi giải cho các phương trình có bậc cao hơn một. Ngay từ thời cổ đại , các nhà toán học đã tìm các biểu thức đại số để biểu diễn cho nghiệm; lấy ví dụ: tỷ lệ vàng là nghiệm dương duy nhất của Trong thời cổ đại, họ mới chỉ tìm được các biểu thức cho phương trình bậc nhất và bậc hai. Đối với các phương trình bậc hai, công thức bậc hai cho phép tìm ra các biểu thức của nghiệm. Kể từ thế kỉ 16 trở đi, các công thức tương tự (sử dụng thêm cả căn bậc ba với căn bậc hai), mặc dù phức tạp hơn nhưng đã được tìm thấy cho các phương trình bậc ba và bậc bốn (xem phương trình bậc ba và phương trình bậc bốn). Song, việc tìm kiếm công thức cho các phương trình bậc năm trở lên đã gây nhiều khó khăn cho các nhà nghiên cứu. Vào năm 1824, Niels Henrik Abel đã chứng minh rằng tồn tại các phương trình bậc 5 mà nghiệm của nó không thể biểu diễn bằng một công thức hữu hạn các phần tử và chỉ bao gồm các phép số học và phép căn (xem định lý Abel–Ruffini). Trong 1830, Évariste Galois đã chứng minh rằng phần lớn các phương trình có bậc lớn hơn bốn không thể nào chỉ giải được bằng căn, và chứng minh rằng với mỗi phương trình, ta đều có thể quyết định xem nó có giải được bằng căn không và nếu được thì giải nó.Kết quả đánh dấu sự khởi đầu của lý thuyết Galois và lý thuyết nhóm, hai nhánh quan trọng trong đại số hiện đại. Chính Galois đã tự nhận rằng các tính toán từ phương pháp của ông chưa ứng dụng được, song nay đã có công thức giải cho các phương trình giải được bậc năm và bậc sáu (xem phương trình bậc năm và phương trình bậc sáu).
Nếu mà không có công thức đại số để tìm ra nghiệm, hoặc có công thức nhưng nó lại quá phức tạp để có thể áp dụng vào, thì thay vì đó ta nên tính xấp xỉ giá trị nghiệm. Có rất nhiều phương pháp để tính; một số được giới hạn chỉ giải cho đa thức và một số có thể giải cho hàm liên tục tuỳ ý. Các thuật toán tối ưu cho phép giải các đa thức (trong máy tính) có bậc lên tới hơn 1,000 (xem thuật toán tìm nghiệm).
Đối với các đa thức có nhiều hơn một biến, tổ hợp các giá trị sao cho hàm đa thức có giá trị 0 thường được gọi là không điểm thay vì "nghiệm". Nghiên cứu các tập không điểm của các đa thức là đối tượng của hình học đại số. Đối với hệ các phương trình đa thức nhiều biến, có các thuật toán có thể quyết định liệu nó có hữu hạn số nghiệm phức và nếu số nghiệm hữu hạn thì có thể tìm ra các nghiệm. Xem hệ phương trình đa thức.
Trường hợp đặc biệt mà hệ các phương trình đa thức đều có bậc một được gọi là hệ phương trình tuyến tính. Có rất nhiều phương pháp giải hệ phương trình này, bao gồm cả khử Gauss.
Phương trình đa thức mà ta chỉ quan tâm đến nghiệm nguyên được gọi là phương trình Diophantos. Giải phương trình Diophantos là bài toán rất là khó. Nó đã được chứng minh là không có thuật toán chung nào để giải, hoặc thậm chí là quyết định xem tập nghiệm có rỗng hay không (xem bài toán thứ 10 của Hilbert). Một số bài toán nổi tiếng được giải trong 50 năm gần đây có liên hệ với phương trình Diophantos, ví dụ như định lý lớn Fermat.
Các biểu thức đa thức khác
Các đa thức sau có biến được thay bởi đối tượng toán học khác và do đó có tên riêng của nó.
Đa thức lượng giác
Đa thức lượng giác là tổ hợp tuyến tính của các hàm số sin(nx) và cos(nx) với n lấy giá trị của một hay nhiều số tự nhiên. Hệ số có thể là số thực hoặc là hàm số thực.
Nếu sin(nx) và cos(nx) mở rộng thành sin(x) và cos(x), đa thức lượng giác trở thành đa thức trong hai biến sin(x) và cos(x) (sử dụng các đẳng thức lượng giác). Ngược lại, mọi đa thức trong sin(x) và cos(x) đều có thể đổi lại về tổ hợp tuyến tính của các hàm sin(nx) và cos(nx). Sự tương đương giải thích ví sao cũng có thể gọi tổ hợp tuyến tính là đa thức.
Đối với hệ số phức, không có sự khác biệt giữa hàm số này với chuỗi Fourier.
Đa thức lượng giác được sử dụng rộng rãi, ví dụ như trong nội suy lượng giác áp dụng cho nội suy các hàm tuần hoàn. Chúng cũng được dùng trong biến đổi Fourier rời rạc.
Đa thức ma trận
Đa thức ma trận là đa thức có các biến nhận giá trị là ma trận vuông. Cho đa thức sau
kết quả đa thức tính tại ma trận A là
trong đó I là ma trận đơn vị.
Các khái niệm liên quan
Hàm hữu tỉ
Phân thức hữu tỉ là thương (phân thức đại số) của hai đa thức. Mọi biểu thức đại số có thể viết lại thành phân thức hữu tỉ đều có thể định nghĩa hàm hữu tỉ.
Trong khi hàm đa thức nói chung xác định trên toàn miền của hàm số, hàm hữu tỉ chỉ xác định trên các giá trị các biến mà phần mẫu số khác không.
Phân thức hữu tỉ có bao gồm đa thức Laurent, nhưng không giới hạn bậc của mẫu số.
Đa thức Laurent
Đa thức Laurent giống với đa thức thông thường, nhưng cho phép số mũ âm.
Chuỗi luỹ thừa
Chuỗi luỹ thừa hình thức giống với đa thức, nhưng có cho phép vô hạn số các đơn thức, do đó nó không có bậc hữu hạn. Không giống như đa thức, chuỗi này không thể viết hết ra được (giống như việc không thể viết ra toàn bộ số vô tỉ), nhưng mà các quy tắc biến đổi chuỗi thì tương tự như với đa thức. Chuỗi luỹ thừa không hình thức cũng tổng quát hoá đa thức nhưng phép nhân của hai chuỗi luỹ thừa đó có thể không hội tụ.
Vành đa thức
Tập tất cả các đa thức của m biến trên vành K là một vành, ký hiệu là . Vành này được gọi là vành đa thức.
Lịch sử
Tìm nghiệm của đa thức, hay "giải phương trình đại số", là một trong những bài toán cổ nhất của toán học. Tuy nhiên, các phương pháp gọn và hữu ích mà ta dùng ngày nay mới chỉ bắt đầu phát triển từ thế kỷ 15. Trước thời gian đó, các phương trình thường được viết bằng lời. Lấy ví dụ như . |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.