text
stringlengths 0
512k
|
---|
Diana, Vương phi xứ Wales (Diana Frances Spencer; 1 tháng 7 năm 1961 – 31 tháng 8 năm 1997), báo chí Việt Nam thường gọi là Công nương thay vì Vương phi, là vợ thứ nhất của Charles, Thân vương xứ Wales (sau này là Quốc vương Charles III) , con trai trưởng của cố Nữ vương Elizabeth II. Hai người con trai của bà là Thân vương xứ Wales William và Vương tử Harry, từng xếp thứ hai và thứ ba trong thứ tự kế vị ngôi vua của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và 15 vùng đất khác thuộc Khối thịnh vượng chung trong thời gian khi bà còn sống.
Diana sinh ra trong gia đình quý tộc Anh và được tiếp xúc với vương tộc Anh từ thời thơ ấu do sống trên khu đất Sandringham thuộc sở hữu của vương thất. Là con gái út của John Spencer, Bá tước Spencer thứ 8, và Frances Shand Kydd, bà bị ảnh hưởng nặng nề sau khi cha mẹ ly hôn vào năm 1967. Bà không nổi trội về mặt học vấn nhưng có năng khiếu về âm nhạc, khiêu vũ và thể thao. Năm 1978, bà chuyển đến London sống cùng vài người bạn cùng phòng và nhận một số công việc trả lương thấp.
Diana Spencer và Charles, Thân vương xứ Wales công bố đính hôn vào ngày 24 tháng 2 năm 1981, bà đã tham dự rất nhiều sự kiện của Vương thất trước khi họ chính thức kết hôn vào ngày 29 tháng 7 năm 1981 tại Nhà thờ St. Paul. Diana trở nên nổi tiếng sau khi bà kết hôn với Thân vương xứ Wales. Cuộc sống của bà trở thành đề tài chú ý của công chúng do địa vị vương thất và các hoạt động xã hội của bà. Với tư cách là Vương phi xứ Wales, Diana thay mặt Nữ vương thực hiện các nghĩa vụ vương thất cũng như tham dự các buổi lễ trên khắp các vương quốc thuộc Khối thịnh vượng chung. Bà được các phương tiện truyền thông ca ngợi vì cách tiếp cận trái thông lệ trong công tác từ thiện. Ban đầu Diana tập trung bảo trợ các tổ chức liên quan đến trẻ em và thanh thiếu niên nhưng sau đó nổi tiếng vì sự gần gũi với các bệnh nhân AIDS và chiến dịch tháo gỡ bom mìn. Bà cũng nâng cao nhận thức và vận động giúp đỡ những người bị ung thư và tâm thần. Với địa vị Vương phi, Diana ban đầu bị chú ý vì tính cách rụt rè, nhưng sức hút và sự thân thiện của bà nhanh chóng khiến công chúng quý mến và giúp giữ vững danh tiếng của bà sau khi đổ vỡ hôn nhân. Được đánh giá cực kỳ ăn ảnh, Diana từng là người đi đầu xu hướng thời trang thập niên 1980-1990.
Sau nhiều năm bị dư luận bàn tán về các vấn đề trong cuộc sống hôn nhân, Thân vương và Vương phi xứ Wales đã quyết định ly dị vào ngày 28 tháng 8 năm 1996, kết thúc cuộc hôn nhân kéo dài 15 năm. Một năm sau khi ly dị, Diana đã bị thiệt mạng trong một vụ tai nạn xe hơi kinh hoàng xảy ra dưới đường hầm cầu Alma ở Paris, Pháp vào ngày 31 tháng 8 năm 1997. Cái chết của bà dẫn đến sự thương tiếc rộng rãi và gây chú ý tới toàn thế giới. Bạn thân của bà, Elton John đã hát bài hát "Candle in the Wind 1997" để tưởng nhớ bà tại tang lễ.
Tuổi thơ
Diana Frances Spencer hay thường được gọi tắt là Diana, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, tại Park House, Sandringham, Norfolk, vương quốc Anh. Bà là con thứ tư trong số năm người con của Tử tước xứ Althorp, John Spencer (1924-1992), người thừa kế của Bá tước Spencer thứ 7, và người vợ đầu của ông Frances (1936–2004). Gia tộc Spencer vốn có mối quan hệ đồng minh bền chặt với vương thất Anh qua vài thế hệ. Cả hai người bà của Diana đều phục vụ như là vai trò phụ tá riêng cho Thái hậu Elizabeth, vị trí chỉ dành cho các quý tộc cao quý. Gia đình Spencer hi vọng mẹ Diana sẽ sinh một bé trai để kế thừa huyết thống dòng họ, và đã không có cái tên được chọn trong tuần đầu tiên, cho đến khi họ chọn tên Diana Frances, được đặt theo tên của mẹ bà và Lady Diana Spencer, Bà Công tước xứ Bedford - chị của ông cố nhiều đời trước của bà. Lady Diana Spencer cũng từng được hứa hôn với Frederick, Thân vương xứ Wales vào trước những năm 1730 nhưng bất thành vì Thủ tướng Anh đương nhiệm muốn Thân vương xứ Wales kết hôn với Công chúa từ các vương thất châu Âu khác.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1961, Diana làm lễ rửa tội tại nhà thờ St. Mary Magdalene, Sandringham. Bà lớn lên cùng ba người chị em ruột: Sarah, Jane, và Charles. Anh trai của bà, John Spencer, đã mất sau khi sinh một năm trước khi Diana được sinh ra. Nỗi khao khát có một người con trai thừa kế làm tăng căng thẳng trong cuộc hôn nhân của gia đình Spencer, mẹ Diana được cho rằng đã được đưa tới các phòng khám ở London để xác định nguyên nhân của vấn đề. Điều này được miêu tả là "nỗi xấu hổ" đối với em trai của Diana, Charles Spencer: "Đó là một khoảng thời gian khủng khiếp đối với cha mẹ tôi và có lẽ là gốc rễ của việc ly dị bởi vì tôi không nghĩ họ đã vượt qua nó". Diana lớn lên ở Park House, nằm trên mảnh đất Sandringham. Gia đinh Spencer thuê căn dinh thự từ Nữ vương Elizabeth II. Vương thất thường xuyên đi nghỉ tại xung quanh khu vực dinh thự Sandringham, và Diana từng chơi với Vương tử Andrew và Vương tử Edward khi còn nhỏ.
Diana được 7 tuổi thì cha mẹ bà ly dị, mẹ bà sau này bắt đầu một mối quan hệ với ông Peter Shand Kydd và kết hôn vào năm 1969. Diana sống với mẹ ở London trong lúc cha mẹ ly thân, nhưng trong mùa lễ Giáng sinh Tử tước Althorp (cha của Diana) không cho phép Diana trở về London với mẹ. Sau đó, với sự giúp đỡ của mẹ vợ cũ là bà Ruth Roche, Bà Nam tước Fermoy, Tử tước John Spencer được quyền nuôi nấng Diana. Vào năm 1976, John Spencer kết hôn với Raine McCorquodale, trước đây là Bà Tử tước Dartmouth, con gái duy nhất của Alexander McCorquodale và bà Barbara Cartland. Mối quan hệ của Diana với mẹ kế đặc biệt tồi tệ. Bà không ưa Raine, người mà bà gọi là "Bully", và đã có lần Diana xô Raine ngã từ trên cầu thang xuống. Diana bắt đầu được xem là "Lady Diana Spencer" khi cha bà thừa kế tước vị Bá tước Spencer vào ngày 9 tháng 6 năm 1975. Sau khi học xong trường Institut Alpin Videmanette tại Thụy Sĩ, Lady Diana dọn về London và làm công việc giữ trẻ tại trường Young England.
Giáo dục và sự nghiệp
Diana ban đầu học tại nhà dưới sự giám sát của cô giáo Gertrude Allen. Bà bắt đầu nhận sự giáo dục chính thức tại trường tư Silfield ở Gayton, Norfolk và chuyển tới trường Riddlesworth Hall, một trường nội trú dành cho nữ gần Thetford, khi bà lên 9 tuổi. Bà cùng các chị của mình học tại Trường nữ West Heath ở Sevenoaks, Kent, năm 1973. Bà không tỏa sáng trong việc học, đã từng bị cấp độ O hai lần. Tinh thần cộng đồng nổi bật của bà đã được công nhận bằng một giải thưởng từ West Heath. Bà rời West Heath khi mười sáu tuổi. Em trai Charles của bà nhớ rằng chị gái ông khá nhút nhát cho đến thời điểm đó. Bà đã thể hiện tài năng trong âm nhạc như một nghệ sĩ piano không chuyên. Bà cũng rất xuất sắc trong bơi lội và lặn, múa Ballet và nhảy điệu Clacket.
Sau khi vào học tại Institut Alpin Videmanette (một ngôi trường tại Rougemont, Thụy Sĩ, huấn luyện các cô con gái tầng lớp quý tộc hoặc thượng lưu làm quen với lối sống phong lưu đài các) với một kỳ học trong năm 1978, Diana trở lại London, nơi bà sống cùng hai người bạn chung trường trong căn hộ được mẹ tặng. Tại London, Diana tham gia khóa học cao cấp về nấu ăn, nhưng ít khi nấu cho bạn cùng phòng. Bà nhận một loạt công việc thu nhập thấp; bà làm công việc giảng dạy khiêu vũ cho thiếu niên cho đến khi khi một tai nạn trượt tuyết làm bà phải nghỉ ba tháng. Sau đó, bà tìm việc làm trợ lý trước giờ học của nhóm nhạc, làm một số công việc dọn dẹp cho chị gái Sarah Spencer và một vài người bạn của chị, làm công việc chủ trì tại các bữa tiệc. Diana đã dành thời gian để làm bảo mẫu cho Robertsons, một gia đình người Mỹ sinh sống ở London, và làm trợ lý giáo viên mầm non tại Trường Young England ở Pimlic. Vào tháng 7 năm 1979, mẹ bà mua cho bà một căn hộ tại Tòa án Coleherne ở Earl's Court vào ngày sinh nhật thứ 18. Bà sống ở đó với ba bạn cùng phòng cho đến ngày 25 tháng 2 năm 1981.
Hôn nhân
Diana lần đầu gặp Charles, Thân vương xứ Wales, khi bà 16 tuổi, vào tháng 11 năm 1977; lúc đó Charles đang hẹn hò với chị của Diana, Lady Sarah Spencer. Họ là khách tại buổi tiệc nhân dịp cuối tuần trong mùa hè năm 1980 khi bà xem ông chơi polo và Thân vương có sự hứng thú nghiêm túc với bà, xem bà như một cô dâu tiềm năng. Mối quan hệ tiến triển khi Charles mời bà lên tàu du lịch vương thất Britannia để chuẩn bị cho chuyến đi thuyền buồm cuối tuần tới Cowes. Sau đó là một lời mời đến Balmoral (dinh thự của vương thất ở Scotland) để gặp gia đình của Charles một trong những ngày cuối tuần tháng 11 năm 1980. Diana đã được Nữ vương, Thái hậu và chồng Nữ vương là Công tước xứ Edinburgh tiếp đón nồng nhiệt. Thân vương xứ Wales sau đó đã tán tỉnh Diana ở London. Thân vương cầu hôn bà vào ngày 6 tháng 2 năm 1981 và được bà chấp nhận, nhưng việc đính hôn của họ đã được giữ bí mật trong vài tuần sau đó.
Là một gia đình quý tộc lâu đời tại Anh, gia tộc Spencer có điều kiện tốt nhất để làm sui gia với gia đình Nữ vương. Ngoài ra điều kiện dành cho người vợ của Thân vương xứ Wales là xuất thân quý tộc, được hưởng một nền giáo dục theo đạo Tin lành và phải là trinh nữ, 3 điều kiện này Diana đều có. Cả hai phía, vương thất cũng như gia đình Spencer, tạo cơ hội để Diana có dịp gặp gỡ Thân vương xứ Wales. Tina Brown (nhà báo và là vợ của Sir Harold Evans, còn được gọi là Lady Evans) cho là hoàng tộc lúc đó đang khẩn cấp tìm người để thay thế Camilla Parker Bowles, người mà Thân vương xứ Wales yêu say đắm mặc dù Camilla đã có chồng. Charles và Camilla Shand, quen nhau vào mùa hè năm 1971, và Charles đã tỏ tình với Camilla vào tháng 12 năm 1972, tuy nhiên không hỏi cưới. Vào tháng 7 năm 1973 Camilla Shand đã thành hôn với thiếu tá Andrew Parker Bowles.
Hôn ước và lễ cưới
Lễ đính hôn của họ được thông cáo chính thức vào ngày 24 tháng 2 năm 1981. Diana đã lựa một một chiếc nhẫn đính hôn cỡ đại gồm 14 viên kim cương đính xung quanh một viên đá Sappire Ceylon hình oval màu xanh dương 12 carat đặt trong vàng trắng 18 carat. chiếc nhẫn giống với chiếc nhẫn đính hôn của mẹ cô. Chiếc nhẫn đính hôn được làm bởi thợ kim hoàn của công ty Garard. Vào năm 2010, nó trở thành chiếc nhẫn đính hôn của con dâu bà là Catherine, Vương phi xứ Wales. Bà ngoại của Charles, Thái hậu Elizabeth đã tặng Diana quà đính hôn là một viên đá Sapphire và một cài áo kim cương.
Sau lễ đính hôn, Diana đã bỏ công việc giữ trẻ và sống một thời gian ngắn tại dinh thự Clarence với Thái hậu Elizabeth. Sau đó bà sống tại cung điện Buckingham cho đến ngày cưới. Diana là người phụ nữ Anh đầu tiên trong 300 năm trở thành vợ của một người thừa kế và cũng là cô dâu đầu tiên của vương thất có một công việc được trả lương trước khi kết hôn. Diana đã xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên cùng với Thân vương xứ Wales trong một bữa tiệc từ thiện vào tháng 3 năm 1981 tại Hội trường Goldsmiths, nơi bà gặp Grace Kelly, Vương phi của Thân vương quốc Monaco.
Năm 20 tuổi, Diana trở thành Vương phi xứ Wales khi kết hôn với Charles, Thân vương xứ Wales vào ngày 29 tháng 7 năm 1981 tại Thánh đường St. Paul, nơi có nhiều chỗ ngồi hơn Tu viện Wesminster, một nhà thờ thường được sử dụng cho các lễ cưới vương thất. Sự kiện này được mô tả rộng rãi như một "hôn lễ cổ tích" và được 750 triệu khán giả truyền hình toàn cầu theo dõi trong khi 600.000 khán giả xếp hàng trên đường phố để chứng kiến cặp đôi đến buổi lễ. Tại thánh đường, Diana vô tình đảo ngược thứ tự của hai cái tên đầu tiên của Charles, thay vào đó nói "Philip Charles" Arthur George. Bà đã không hứa sẽ "vâng lời chồng"; lời thề truyền thống đó đã được bỏ ra theo yêu cầu của cặp đôi, gây ra một số bàn tán vào thời điểm đó. Diana mặc chiếc váy cưới trị giá 9.000 bảng với một đuôi váy dài 7,62 mét.
Sau khi trở thành Vương phi xứ Wales, Diana được xếp hạng là người phụ nữ có vị trí cao thứ ba trong Vương thất (sau Nữ vương và Thái hậu), và thứ năm hoặc thứ sáu theo thứ tự ưu tiên của các tước hiệu khác, theo sau Nữ vương, vị đại diện có liên quan, Công tước xứ Edinburgh, Thái hậu Elizabeth và Thân vương xứ Wales. Trong vòng một vài năm đầu sau đám cưới, Nữ vương mở rộng mối quan hệ của Diana với các thành viên trong gia đình vương thất; Nữ vương tặng cho Vương phi vương miện Cambridge Lover's Knot Tiara và trao cho Diana huy hiệu Royal Family Order of Queen Elizabeth II.
Con cái
Sau kết hôn, Thân vương và Vương phi xứ Wales cư ngụ tại Cung điện Kensington và Dinh Highgrove gần Tetbury. Vào ngày 5 tháng 11 năm 1981, Vương phi xứ Wales được thông báo mang thai con đầu lòng. Vào tháng 1 năm 1982, 12 tuần sau khi có thai, Diana ngã cầu thang tại Sandringham và bác sĩ phụ khoa vương thất Sir George Pinker được triệu từ London đến. Ông kết luận đứa trẻ trong bụng không gặp vấn đề gì dù Vương phi bị một số vết thương nghiêm trọng. Diana sau đó thừa nhận rằng chính bà đã cố tình ngã xuống cầu thang vì cảm thấy "thiếu thốn tình cảm trầm trọng". Vào tháng 2 năm 1982, hình ảnh Diana bầu bì trong trang phục bikini khi đi nghỉ mát được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Nữ vương sau đó đã phát biểu và gọi đó là "ngày đen tối nhất trong lịch sử báo chí Anh." Vào ngày 21 tháng 6 năm 1982, Vương phi hạ sinh con trai đầu lòng, Thái tử William. Dù phải nhận một số chỉ trích trên các phương tiện truyền thông, Diana quyết định đưa William đi cùng chuyến công du lớn đầu tiên tới Úc và New Zealand, và quyết định này được công chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Vương phi xứ Wales sau này đã thừa nhận rằng bà ban đầu không có ý định đưa William đi cùng cho đến khi Malcolm Fraser, Thủ tướng Úc, đưa ra gợi ý.
Con trai thứ hai của hai vợ chồng, Vương tử Harry, chào đời ngày 15 tháng 9 năm 1984. Vương phi cho biết bà và chồng gần gũi nhất trong khoảng thời gian mang thai Harry. Bà nhận ra đứa con thứ hai là con trai nhưng không nói với bất cứ ai, kể cả Thân vương xứ Wales.
Diana cho hai con trai những trải nghiệm khác với những đứa trẻ sinh ra trong vương tộc. Diana ít khi làm theo ý của Thân vương hay vương thất và thường không khoan nhượng những chuyện liên quan đến con mình. Bà tự chọn tên thánh cho con, sa thải một vài bảo mẫu vương thất và chọn theo ý mình, bà cũng chọn trường và quần áo cho các con, lên kế hoạch đi du lịch và thường tự đưa con đi học mỗi khi rảnh rỗi. Bà cũng sắp xếp các nhiệm vụ của mình dựa theo thời gian biểu của William và Harry.
Hôn nhân rạn nứt
Năm năm sau khi kết hôn, sự bất đồng và chênh lệch tuổi tác gần 13 tuổi của hai vợ chồng trở nên rõ hơn và gây tổn thương lẫn nhau. Charles nối lại quan hệ với bạn gái cũ Camilla Parker Bowles và Diana bắt đầu ngoại tình với Thiếu tá James Hewitt, người trước đây từng dạy cưỡi ngựa cho gia đình. Các phương tiện truyền thông suy đoán rằng cha của Vương tôn Harry là Hewitt chứ không phải Charles dựa trên sự tương đồng về ngoại hình giữa Hewitt và Harry, nhưng Hewitt và một số người khác đã phủ nhận điều này. Harry được sinh ra hai năm trước khi Hewitt và Diana bắt đầu mối quan hệ tình cảm. Năm 1989, Diana có mặt tại bữa tiệc sinh nhật của em gái Camilla, Annabel Elliot, tại đó bà đối chất với Camilla về chuyện ngoại tình của chồng mình. Những chuyện này sau đó bị phơi bày vào tháng 5 năm 1992 khi cuốn sách của Andrew Morton, Diana: Her True Story được xuất bản rộng rãi. Cuốn sách cũng tiết lộ sự bất hạnh và quyết định tự tử của Vương phi xứ Wales đã gây ra một cơn bão truyền thông. Morton sau đó tiết lộ rằng vào năm 1991, ông cũng đã thực hiện một cuộc phỏng vấn bí mật với Diana, trong đó bà đã tiết lộ những vấn đề và khó khăn trong hôn nhân của mình. Nữ vương và Công tước xứ Edinburgh đã triệu tập một cuộc họp giữa Charles và Diana nhằm hòa giải nhưng bất thành. Philip đã viết thư cho con dâu và bày tỏ sự thất vọng về chuyện ngoại tình của bà và Charles, ông yêu cầu bà xem lại hành vi của mỗi người theo quan điểm của người kia. Công tước xứ Edinburgh đã rất thẳng thắn còn Diana thì nhạy cảm. Bà cảm thấy những lá thư ấy khó có kết quả nhưng đánh giá cao mục đích tốt của cha chồng. Một số người, kể cả Simone Simmons, bạn thân của Diana, cáo buộc rằng mối quan hệ giữa Vương phi và cha chồng vô cùng căng thẳng, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khác cho rằng không có dấu hiệu xích mích trong những lá thư của hai người.
Trong hai năm 1992 và 1993, các đoạn băng ghi âm cuộc điện thoại của Thân vương và Vương phi xứ Wales bị rò rỉ tạo nên hình ảnh tiêu cực cho cả hai. Các bản ghi âm của Vương phi và James Gilbey bị công bố vào tháng 8 năm 1992 và các bản sao được xuất bản cùng tháng. Bài báo, "Squidgygate", được theo dõi vào tháng 11 năm 1992 bởi các băng "Camillagate" bị rò rỉ, cuộc trò chuyện "mùi mẫn" giữa Thân vương xứ Wales và Camilla, được xuất bản trên các tờ báo lá cải. Vào tháng 12 năm 1992, Thủ tướng đương nhiệm John Major thông báo quyết định ly thân của Thân vương và Vương phi xứ Wales với Hạ viện:
Từ năm 1992 đến 1993, Diana thuê huấn luyện viên giọng nói Peter Settelen để giúp bà cải thiện giọng nói khi phát biểu trước công chúng. Trong một đoạn băng được Settelen quay lại vào năm 1992, Diana thừa nhận rằng từ năm 1984 đến 1986, bà đã "yêu sâu sắc một người làm việc quanh bà." Nhiều người cho rằng bà đang ám chỉ Barry Mannakee, người được luân chuyển tới Đội phòng hộ ngoại giao vào năm 1986 sau khi các quản lý của Barry nhận định mối quan hệ của ông với Vương phi "không đúng đắn". Diana nói trong đoạn băng rằng Mannakee đã bị "đuổi" khỏi vị trí vệ sĩ của bà do sự nghi ngờ giữa hai người có quan hệ tình cảm. Penny Junor đề cập trong cuốn sách năm 1998 của mình rằng Vương phi lúc bấy giờ đang có quan hệ tình cảm với Mannakee. Bạn bè của Diana bác bỏ chuyện này và cho rằng lời cáo buộc ấy vô lý. Tuy nhiên, trong những đoạn băng được phát hành sau đó, Diana nói rằng bà đang có tình cảm với "một người nào đó", nói rằng "Tôi rất hạnh phúc để từ bỏ mọi thứ để ra đi và sống cùng anh ấy". Bà mô tả người đàn ông ấy là "người bạn tuyệt vời nhất mà bà từng có", tuy vậy lại phủ nhận hành vi quan hệ tình dục với ông ấy. Diana cũng cay đắng nói về chồng mình rằng "[Anh ấy] làm đủ mọi cách khiến tôi cảm thấy thiếu thốn, đến nỗi mỗi lần tôi muốn thay đổi không khí thì anh ấy lại khiến tôi hụt hẫng." Dì của Charles, Vương nữ Margaret, đã đốt những lá thư "đặc biệt riêng tư" mà Diana gửi cho Thái hậu vào năm 1993. Người viết tiểu sử William Shawcross nhìn nhận hành động của Margaret là "dễ hiểu" vì bà đang "bảo vệ mẹ và các thành viên khác trong gia đình", nhưng lại "đáng tiếc về mặt lịch sử".
Tuy đổ lỗi cho Camilla Parker Bowles về những trục trặc trong hôn nhân của mình, Diana bắt đầu tin rằng chồng bà cũng tham gia vào những chuyện khác. Vào tháng 10 năm 1993, Vương phi viết thư cho quản gia Paul Burrell rằng bà tin rằng chồng mình hiện đang yêu trợ lý riêng Tiggy Legge-Bourke - đồng thời là cựu nhũ mẫu của hai Vương tôn William và Harry- và đang có ý định giết bà ấy nhằm "dọn đường cho anh ta kết hôn với Tiggy". Legge-Bourke được Thân vương xứ Wales thuê chăm sóc cho các con trai của ông và Vương phi rất ghét Legge-Bourke cũng như bực tức mối quan hệ của Legge-Bourke với các Vương tôn. Thân vương Charles cố gắng mưu cầu sự thấu hiểu của công chúng qua một cuộc phỏng vấn trên truyền hình với Jonathan Dimbleby vào ngày 29 tháng 6 năm 1994. Trong cuộc phỏng vấn, Thân vương xứ Wales nói ông đã hàn gắn lại mối quan hệ với Camilla vào năm 1986 chỉ sau khi cuộc hôn nhân của ông với Vương phi đã "không thể cứu vãn".
Cùng năm, tờ News of the World cho biết Diana đã thực hiện hơn 300 cuộc gọi với nhà buôn đồ mỹ nghệ đã có vợ là Oliver Hoare. Những cuộc gọi này đã được chứng minh được gọi từ căn hộ của Diana trong Điện Kensington và từ buồng điện thoại ngay bên ngoài cung điện. Theo lời cáo phó của Hoare, chỉ rất ít điều nghi hoặc về chuyện Diana có tình cảm với ông. Dù vậy, Vương phi xứ Wales đã phủ nhận bất kỳ mối quan hệ tình ái nào với Hoare, người bà xem là bạn, và nói rằng "một cậu bé" chính là nguồn cơn của những cuộc gọi phiền toái tới Hoare. Bà cũng được báo chí gán ghép với cầu thủ liên đoàn bóng bầu dục Will Carling và nhà đầu tư cổ phần tư nhân Theodore J. Forstmann, nhưng những cáo buộc này không được xác nhận cũng như chứng minh.
Danh hiệu
1 tháng 7 năm 1961 - 9 tháng 6 năm 1975: Diana Frances Spencer Danh dự
9 tháng 6 năm 1975 - 29 tháng 7 năm 1981: Công nương Diana Frances Spencer
29 tháng 7 năm 1981 - 28 tháng 8 năm 1996: Vương phi xứ Wales Điện hạ
tại Scotland: Công tước phu nhân xứ Rothesay Điện hạ
28 tháng 8 năm 1996 - 31 tháng 8 năm 1997: Diana, Vương phi xứ Wales |
Bác sĩ Zhivago (tiếng Ý: Il dottor Živago; tiếng Anh: Doctor Zhivago) là một phim của Anh được sản xuất năm 1965 do David Lean đạo diễn và dựa theo truyện nổi tiếng cùng tên của nhà văn Nga Boris Pasternak. Cuốn tiểu thuyết đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel về văn học năm 1958, bị cấm phát hành tại Liên Bang Xô viết cho mãi đến năm 1988.
Phim nổi tiếng trong nhiều thập kỉ và cho đến năm 2014 vẫn là phim có doanh thu cao thứ tám mọi thời đại, không tính lạm phát.
Nội dung
Nói về mối tình của một bác sĩ đã có vợ con, với hồn thơ lai láng, và một cô y tá xinh đẹp lãng mạn mà ông gặp gỡ như một định mệnh oái oăm với những giằng co éo le tình cảm, phim trình bày theo lối kể chuyện xen kẽ nhau hai cảnh đời của Yuri và Lara cho đến khi hai người yêu nhau và xa nhau, với nhạc phim "Lara's Theme" réo rắt làm nền, thiết tha trong tiếng đàn balalaika. Phim đã thành bất hủ trong hơn bốn mươi năm qua, đã khiến cho tên tuổi của nhà đạo diễn phim David Lean, và hai tài tử Omar Sharif cùng Julie Christie đi vào huyền thoại.
Tướng Yevgraf Zhivago (Alec Guinness) tìm kiếm một đứa cháu gái con ngoại hôn của em trai mình là bác sĩ Yuri Zhivago (Omar Sherif) và người tình Lara Antipova (Julie Christie). Ông tìm thấy một thiếu nữ quê mùa đang làm việc trên công trường mà ông tin rằng đó là người cháu thất lạc của ông, cho gọi lên để hỏi han, và thuật lại chuyện xưa.
Yuri mồ côi từ nhỏ. Gia sản duy nhất của cậu là cây đàn balalaika do mẹ để lại. Sau khi mẹ mất, Yuri về sống với gia đình Gromeko tại Moskva: ông Alexander (Ralph Richardson), bà Anna (Siobhán McKenna) và cô con gái độc nhất của họ là Tonya (Geraldine Chaplin) mà sau đó Yuri lấy làm vợ. Ông Alexander Gromeko là một giáo sư đã về hưu và cũng nhờ đó mà Yuri đã được giới thiệu vào học trường thuốc dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Boris Kurt (Geoffey Keen) mặc dù chàng có tài làm thơ.
Trong lúc đó thì Lara đang sống với mẹ (Adrienne Corri) làm nghề thợ may và "dưỡng phụ" Victor Komarovsky, một luật sư rất có thế lực chính trị. Komarovsky cũng là bạn của người cha quá cố của Yuri trong việc hùn hạp kinh doanh trước kia. Lara có cảm tình với Pasha Antipov (Tom Courteney), một nhà cách mạng lý tưởng, bị thương (đạp bể kính đeo mắt) trong một cuộc biểu tình.
Khi mẹ Lara biết Komarovsky có quan hệ mật thiết với con mình, bà uống iodine để tự vẫn. Komarovsky cho mời bác sĩ Kurt và Yuri đến để cứu sống, và nhân đó mà Yuri gặp gỡ Lara lần đầu.
Khi Pasha, giờ này hoạt động cho Bolshevik, cho Komarovsky biết có ý định muốn lấy Lara, thì bị ông lạnh lùng và có ý miệt thị Pasha và chế nhạo hỏi, "Anh làm có đủ sống không ?", và có ý ngăn cản cuộc hôn nhân của Lara, mặc dù hai người tỏ thái độ rất quả quyết trước mặt ông. Thật ra thì Lara đã sa ngã vào vòng tay của Komarovsky trước đó vì những sự nuông chiều, lệ thuộc, và bị cám dỗ vào vật chất từ những sự cung phụng của ông. Ông đã ôm hôn lên môi nàng lần đầu trong cỗ xe sau một buổi dạ tiệc mặc dù nàng có kháng cự lại một cách yếu ớt. Nàng đã ở lại đêm với Komarovsky nhiều bận, và mặc dù không thể hiện trên màn ảnh, nhưng phim ngầm cho người xem biết rằng nàng đã thất thân với ông. Sau khi biết Lara có ý định lấy Pasha, Komarovsky điên tiết mắng nàng: "Cô có biết không, cô chỉ là một con đĩ!". Nàng tát vào mặt Komarovsky, ông tát lại, và đè nàng ra hãm hiếp. Nàng cố đẩy ra, nhưng phút chốc lại ôm lấy cổ ông. Hãm hiếp nàng xong ông nói "cô đừng có tự dối mình rằng tôi đã cưỡng hiếp cô vì chính cả hai chúng ta cùng được sướng". Chính vì thái độ miệt thị của Komarovsky mà Lara cảm thấy mình bị xúc phạm nặng nề. Để thỏa mãn lòng tự ái của mình, Lara bọc trong mình một khẩu súng lục của Pasha nhờ dấu hộ, theo Komarovsky đến một buổi tiệc Giáng sinh, bắn ông này (cũng may là ông thoát chết), trước cặp mắt sững sốt của quan khách, trong đó có Yuri.
Lara đem chuyện viết thư kể hết cho Pasha. Pasha đau khổ gục khóc trên vai nàng. Nhưng rồi hai người cũng lấy nhau sanh ra một đứa con gái.
Chiến tranh cách mạng xảy ra, Pasha bị mất tích. Lara xung phong làm y tá ra chiến trường để tìm chồng và đã gặp Yuri - lúc này là Bác sĩ Zhivago làm việc cứu thương cho đội Thánh Giá (Holy Cross). Hai người làm việc chung với nhau sáu tháng. Tình của hai người còn trong giai đoạn phôi thai, chỉ bắt đầu từ tình đồng nghiệp. Cách mạng thành công "Nga Hoàng bị nhốt, Lê-nin ở tại Moskva". Phim chiếu đoạn hai người đối thoại nhau trong lúc chia tay, trong lúc Lara đang ủi đồ. Họ hỏi nhau, " Anh về đâu?", "Còn cô về đâu?". Bất giác Zhivago hỏi "Có lẽ cô đã có người đùm bọc khi trở về". Chàng có ý ám chỉ Komarovsky. Lara nhìn sững làm cháy khét cái áo đang ủi.
Rồi hai người cũng chia tay. Zhivago trở về nhà tại Moskva thấy nhà mình bị ủy ban cách mạng mới trưng dụng, phân theo lối ở chung cư rất chật hẹp. Nhà thiếu củi nấu ăn, Zhivago nửa đêm lẻn ra bẻ gỗ hàng rào và tình cờ gặp lại người anh cùng mẹ khác cha là Yegraf (người đang thuật chuyện) nay là một viên chức cao cấp; và theo lời khuyên của ông này, Zhivago cùng gia đình đến sống tại điền trang Gromeko, ở Varykino, vùng Ural. Và Zhivago đã tình cờ gặp Lara tại một thư viện địa phương. Hai người nhận ra nhau. Lara mời Zhivago về nhà. Hai người hôn nhau, và chẳng mấy chốc đã mau chóng yêu một cách mãnh liệt.
Diễn viên
Omar Sharif.... Bác sĩ Yuri Zhivago
Julie Christie.... Lara Antipova
Geraldine Chaplin.... Tonya Gromeko
Rod Steiger.... Viktor Komarovsky
Alec Guinness.... Tướng Yevgraf Zhivago
Tom Courtenay.... Pasha
Siobhan McKenna.... Anna
Ralph Richardson.... Alexander Gromeko
Rita Tushingham.... Cô gái
Jeffrey Rockland.... Sasha
Tarek Sharif.... Yuri (lúc 8 tuổi)
Bernard Kay.... Bolshevik
Klaus Kinski.... Kostoyed Amourski
Gérard Tichy.... Liberius
Giải thưởng
Phim giành được năm giải Oscar:
Chỉ đạo nghệ thuật, dàn dựng cảnh trí và màu sắc: John Box; Terence Marsh; Dario Simoni
Quay phim: Freddie Young
Thiết kế trang phục: Phyllis Dalton
Nhạc phim: Maurice Jarre
Kịch bản chuyển thể: Robert Bolt
Phim được đề cử năm giải Oscar khác:
1. Phim hay nhất
2. Đạo diễn xuất sắc nhất
3. Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất: Tom Courtenay
4. Biên tập xuất sắc nhất
5. Âm thanh xuất sắc nhất
Phim cũng giành được năm giải Quả cầu vàng cho Phim chính kịch hay nhất, Đạo diễn phim chính kịch xuất sắc nhất, Nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất, Kịch bản xuất sắc nhất, Nhạc phim xuất sắc nhất. |
Trung điểm là điểm nằm chính giữa đoạn thẳng, chia đoạn thẳng ra làm hai đoạn dài bằng nhau.
Công thức để xác định trung điểm của một đoạn thẳng trên một mặt phẳng Euclid nối điểm (x1, y1) và (x2, y2) là |
Nguyễn Xuân Vinh (3 tháng 1 năm 1930 - 23 tháng 7 năm 2022) , nguyên là sĩ quan Không quân cao cấp của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Xuất thân từ khóa Sĩ quan Trừ bị đầu tiên được Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Nam Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Ông nguyên là Tư lệnh thứ hai của Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng hòa. Ông cũng là Giáo sư, Tiến sĩ, Viện sĩ chuyên ngành Kỹ thuật Không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới. Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng Tiến sĩ Khoa học Không gian sau khi ông thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho Phi thuyền do NASA tài trợ. Những lý thuyết của ông đã góp phần quan trọng đưa các Phi thuyền Apollo lên được Mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các Phi thuyền con thoi trở về Trái đất an toàn. Ông còn là nhà nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản.
Tiểu sử và binh nghiệp
Ông sinh ngày 3 tháng 1 năm 1930 trong một gia đình khá giả tại Yên Bái, Bắc Kỳ, là con trai trưởng. Cha ông là Nguyễn Xuân Nhiên. Mẹ ông là người Nam Định.. Ông có nhiều em trai và em gái, tiêu biểu là tiến sĩ toán học Nguyễn Xuân Huy, kĩ sư Nguyễn Xuân Chúc (công tác và làm việc cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), nhà thơ Nguyễn Thị Hoài Thanh... Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông 2 cấp chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II).
Từ khi còn nhỏ ông đã là một người có năng khiếu toán. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi còn đang là học sinh, ông đã có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập hình học không gian. Cuốn sách đã trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.
Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên của Quốc trưởng Bảo Đại, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, được theo học tại trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 cùng năm. Ngày 1 tháng 6 năm 1952, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy và được phân bổ vào ngành Công binh. Cuối năm, ông xin chuyển sang ngành Không quân và được đi du học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l'Air). Đầu năm 1954, ông tốt nghiệp với bằng phi công 2 động cơ và bay phi cụ, đồng thời ông được thăng lên cấp Thiếu úy. Sau đó ông lưu trú và phục vụ chuyên ngành tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông ghi danh học Đại học và thi đậu bằng Cử nhân toán ở Đại học Aix-Marseille.
Đầu năm 1955, khi Quân đội Pháp chính thức bàn giao cơ sở và trang thiết bị của ngành Không quân lại cho Quân đội Quốc gia, ông được lệnh trở về Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ trong Bộ tư lệnh Không quân. Cuối năm 1955, ông được thăng cấp Đại úy làm Trưởng phòng Nhân viên trong Bộ Tư lệnh Không quân, Tháng 10 năm 1956, sau khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng hòa, ông được thăng cấp Thiếu tá làm Tham mưu phó tại Bộ tư lệnh Không quân. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1957, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không quân do Đại tá Trần văn Hổ làm Tư lệnh. Tháng 2 năm 1958 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Không quân, ngay sau đó được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai sĩ quan phi công là Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử điều khiển 2 chiếc Khu trục cơ thả bom Dinh Độc Lập, ông bị liên đới trách nhiệm nên Tổng thống Diệm đã cách chức Tư lệnh Không quân của ông. Cùng năm này, ông xin giải ngũ và đi du học ở Hoa Kỳ. Ngay sau đó, Trung tá Huỳnh Hữu Hiền thay thế ông làm Tư lệnh Không quân.
Nghiên cứu khoa học
Năm 1962, ông đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp Khoa học của mình khi mới 32 tuổi. Năm 1965, ông là người đầu tiên được cấp bằng Tiến sĩ về Khoa học Không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, ông được làm phó giáo sư (Associate Professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, ông được phong hàm giáo sư (Professor) tại Viện Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng Tiến sĩ Quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.
Năm 1982, ông là giáo sư (Chair Professor) của ngành Toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan. Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l'Air et de l'Espace). Đến năm 1986, ông trở thành Viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).
Trong nhiều năm ông đã được mời tham gia thuyết trình thỉnh giảng tại nhiều Đại học lớn và các Hội nghị Quốc tế nhiều nơi trên Thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.
Năm 1999, ông nghỉ hưu, ông đã được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư Danh dự ngành Kỹ thuật Không gian (Professor Emeritus of Aerospace Engineering) vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.
Gia đình
Thân phụ: Cụ Nguyễn Xuân Nhiên (1904-1950)
Thân mẫu: Cụ Đỗ Thị Thảo (1909-2002) (sinh hạ 11 người con, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là con thứ 2 và là trưởng nam)
Bào tỷ: Nguyễn Thị Bính (đã mất)
Bào đệ: Nguyễn Xuân Chúc (sinh 1932), Nguyễn Xuân Đăng (đã mất), Nguyễn Xuân Quang (đã mất), Nguyễn Xuân Huy (sinh 1944)
Bào muội: Nguyễn Thị Bạch Yến, Nguyễn Thị Hoài Thanh (1936-2020), Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Thị Minh Nguyệt (đã mất).
-Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh có vợ và 4 người con, hiện định cư ở Hoa Kỳ.
Ngoài ra thân phụ ông có người vợ kế là Đỗ Thị Huyền (1920-1998), chính là em ruột của Đỗ Thị Hảo, có với nhau 4 người con: Nguyễn Thị Băng Tâm, Nguyễn Thị Vân Khanh, Nguyễn Thị Sinh và Nguyễn Chí Bảo.
Đời tư
Cha của ông là Nguyễn Xuân Nhiên, liệt sĩ hy sinh năm 1950 thời Chiến tranh Đông Dương .
Em trai là Nguyễn Xuân Chúc , sinh ngày 30 tháng 9 năm 1932 tại Hải Phòng. Ông Chúc là kỹ sư cầu đường, tốt nghiệp Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Trái ngược với anh trai Nguyễn Xuân Vinh, ông Nguyễn Xuân Chúc tham gia Việt Minh và công tác trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra người em trai khác là Nguyễn Xuân Huy, sinh năm 1944, hiện đang công tác tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam . Người em gái Nguyễn Thị Hoài Thanh là nhà thơ nổi tiếng, sinh năm 1936, đã mất năm 2020 tại Hải Phòng .
Ngày 19 tháng 10 năm 2016, ông đã được Đức cha Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại Nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy Tên Thánh là Anphongsô. Ông cũng được lãnh nhận bí tích Thêm Sức do Giám mục Mai Thanh Lương ban trong Thánh lễ với sự hiện diện của gia đình thân quyến và các bạn hữu lâu năm của ông.
Giải thưởng
Năm 1994: Mechanics and Control of Flight Award presented do American Institute of Aeronautics and Astronautics tặng.
Năm 1996: "Excellence 2000 Award" của Pan Asian American Chamber of Commerce
Năm 2000: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc tế du hành vũ trụ và Viện Hàn lâm Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Pháp. Ông được chọn là một trong những người xuất sắc của Hoa Kỳ Pan Asian American Chamber of Commerce tại Washington, DC.
Năm 2006: "Giải thưởng Dirk Brouwer" về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society)
Hội Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng "Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh" để khuyến khích học sinh ở địa phương.
Tác phẩm
Tác giả Nguyễn Xuân Vinh đã xuất bản ba cuốn sách và hơn 100 bài báo kỹ thuật trong lĩnh vực toán học, astrodynamics, và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Ông Vinh cũng từng là biên tập viên trong khoảng thời gian dài 20 năm cho tạp chí lưu trữ cho Học viện vũ trụ Quốc tế (the archival journal for the International Academy of Astronautics). Giáo sư Vinh nguyên là chủ tịch hội đồng chấm luận án tiến sĩ (chaired the doctoral committees) cho 30 nghiên cứu sinh, nhiều người trong số họ hiện nay đang là giáo sư của các Hiệp hội uy tín của Hoa Kỳ, các trường Đại học các trường học hoặc các hiệp hội nhà khoa học hàng đầu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.
Khoa học
Ông đã viết hàng trăm tiểu luận về toán, động học không gian (Astrodynamics) và tối ưu hóa quỹ đạo (Trajectory optimization). Các sách viết bao gồm:Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics. 1980. Vinh, N. X.; Busemann, A.; Culp, R. D. University of Michigan Press.Optimal Trajectories in Atmospheric Flight 1981. Vinh N. X., Studies in Astronautics 2, Elsevier Scientific Publishing Company, Amsterdam.
Flight Mechanics of High-Performance Aircraft. 1993. Nguyen X. Vinh. Cambridge Aerospace Series. ISBN 052134123X
Văn chương
Gương Danh Tướng, 1956.
Đời Phi Công, 1959. Truyện dài, Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961 (Việt Nam Cộng hòa)
Theo Ánh Tinh Cầu, 1991. Truyện ký sự.
Chú thích |
Nguyễn Chí Vịnh (15 tháng 5 năm 195914 tháng 9 năm 2023), bí danh Năm Vịnh, là sĩ quan cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông nguyên là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam phụ trách ngoại giao, tình báo, công tác gìn giữ hòa bình. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, XII, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương. Ông từng giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục 2, lãnh đạo công tác tình báo quân đội trong vòng gần 8 năm từ 2002 đến 2009.
Tiểu sử
Nguyễn Chí Vịnh sinh ngày 15 tháng 5 năm 1959 tại Hà Nội, nguyên quán ở thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là con trai của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Nguyên tên Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là Nguyễn Vịnh, vì vậy về sau ông lấy tên khai sinh của mình đặt tên cho con trai là Nguyễn Chí Vịnh. Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Cúc, thiếu tá, công tác ở Bệnh viện 108, mất năm 1979. Chị gái ông là Nguyễn Thanh Hà, nguyên Phó Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam, từ 2007 đến nay là Chủ tịch Hội đồng quản trị – Công ty Cổ phần Hàng không Vietjet Air.
Trong giấy tờ lý lịch chính thức ghi ông sinh năm 1957, nhưng thực tế ông sinh năm 1959. Khi được hỏi về việc này, ông giải thích: "Khi tôi xin đi bộ đội thì mới có 17 tuổi, nếu khai tuổi thật người ta không cho nhập ngũ, nên phải khai thêm 2 tuổi. Sau này Đảng và Nhà nước có cho điều chỉnh tuổi, nhưng tôi để vậy không điều chỉnh, kẻo người ta lại nghĩ mình chạy tuổi thì buồn lắm".
Cha vợ của ông là Trung tướng Đặng Vũ Chính, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng Việt Nam (từ năm 1994 đến năm 2002). Con trai ông là Trung tá Nguyễn Chí Đức, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Thọ, Quân khu 2. Con gái trưởng là Nguyễn Ngọc Mai.
Giáo dục
Năm 1968 đến 1973, học viên Trường Văn hóa Quân đội - Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi.
Năm 1973 đến 1974, học sinh trường Chu Văn An
Cuối năm 1974, ông chuyển qua học trường Thường Kiệt nay là Trường Trung học phổ thông Việt Đức – Hà Nội.
Năm 1976, ông thi đại học được 23,5 điểm trong khi tiêu chuẩn đi nước ngoài là 19,5 điểm.
Từ tháng 10 năm 1976 đến tháng 8 năm 1977: Chiến sĩ Đoàn 871, học viên Trường Văn hóa, Bộ Quốc phòng.
Từ tháng 9 năm 1977 đến tháng 10 năm 1979: Học viên khóa 12, sau đó là khóa 13, Khoa Công nghệ Chế tạo máy của Học viện Kỹ thuật Quân sự.
Từ tháng 11 năm 1979 đến tháng 8 năm 1980: Chiến sĩ d18, Sư đoàn 390, Quân đoàn 1, ông đi rèn luyện thực tế tại đơn vị ở Thanh Hóa. Tại đây ông có xô xát với một số học viên khác, và bị đề nghị chuyển trường.
Từ tháng 9 năm 1980 đến tháng 7 năm 1984: Học viên Trường Sĩ quan Kỹ thuật Thông tin; đào tạo nghiệp vụ tại Đại học Ngoại ngữ Quân sự nay là Học viện Khoa học Quân sự (1994-1996). Trong thời gian ở Trường sĩ quan Thông tin, ông là đội trưởng đội văn nghệ của trường và được kết nạp Đảng.
Tháng 7 năm 1984, ông tốt nghiệp thủ khoa Trường sĩ quan Thông tin và được bộ trưởng Văn Tiến Dũng quyết định điều về đoàn 871, nhằm chuẩn bị đi học chỉ huy kỹ thuật tác chiến điện tử ở Liên Xô. Xác định chưa đủ tiêu chuẩn ngoại ngữ để đi, ông đề nghị được đi chiến trường Campuchia.
Năm 2003, bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
Ngày 27 tháng 4 năm 2010: Tiến sĩ Nguyễn Chí Vịnh được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước trao học hàm Phó Giáo sư chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
Tháng 10 năm 2013, Tiến sĩ Nguyễn Chí Vịnh được Hội đồng Chức danh Giáo sư nhà nước công nhận học hàm Giáo sư chuyên ngành khoa học quân sự.
Sự nghiệp
Từ tháng 8 năm 1984 đến tháng 8 năm 1988. Trợ lý nghiệp vụ Phòng 3 - phụ trách công tác xét hỏi - phản tình báo, Đoàn 817, Cục Nghiên cứu, Bộ Tổng Tham mưu, tham gia thực hiện nhiệm vụ tại Campuchia. Ra trường vì là con lãnh đạo, lẽ ra được đặc cách du học Liên Xô nhưng ông từ chối, xung phong đi chiến trường Campuchia. Dưới sự quan tâm của một số lãnh đạo cấp cao, ông được điều về phòng tình báo của Bộ Tư lệnh 719 tại Campuchia thay vì làm lính thông tin ở Sư đoàn 330 của đại tá Phạm Văn Trà. Năm 1986, ông kết hôn cùng bà Đặng Thị Minh Ngọc là con gái ông Vũ Chính - lãnh đạo lực lượng tình báo tại Campuchia.
Từ tháng 9 năm 1988 đến tháng 6 năm 1989: ông được cử đi đào tạo nghiệp vụ tại Học viện Tình báo Liên Xô.
Từ tháng 7 năm 1989 đến tháng 8 năm 1993: Phó Trưởng phòng 3 kiêm đội trưởng đội đặc nhiệm, Đoàn 817, Cục Nghiên cứu, Bộ Tổng Tham mưu. Trong năm 1990, ông phụ trách tổ công tác của đơn vị tại Biên giới Phía bắc - tham gia nhiệm vụ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Năm 1992, ông phụ trách việc thâm nhập thành công vào lực lượng Liên Hợp quốc trong UNTAC, tạo chỗ đứng của tình báo tại địa bàn Campuchia trong giai đoạn mới.
Từ tháng 9 năm 1993 đến tháng 12 năm 1994: Trưởng phòng 9, Cục 12, Tổng cục II, Bộ Quốc phòng.
Từ tháng 01 năm 1995 đến tháng 10 năm 1999: Phó Cục trưởng Cục 12 (tháng 5 năm 1995), Cục Trưởng Cục 12 (1996), Tổng cục II, Bộ Quốc phòng. Trong giai đoạn này, ông tham gia thành lập lực lượng Tình báo Ngoài nước và Tình báo Công nghệ (Cục 15), ông còn là chỉ huy trực tiếp của chiến dịch tình báo giúp chính quyền thủ tướng Hunsen trong cuộc chính biến 1997, trong tổ tình báo được cử qua Campuchia, còn có cả tổng cục trưởng Tình báo tương lai Phạm Ngọc Hùng. Tổ này sau này được phong anh hùng.
Năm 1998, ông dẫn đầu đoàn công tác cùng Phạm Ngọc Hùng đi Nam Tư, trong thời điểm NATO đang can thiệp quân sự, để tìm hiểu hình thức tác chiến của phương tây nhằm chuẩn bị cho chiến tranh hiện đại. Tại đây ông tiếp cận được cựu tổng thống Nam Tư Slobodan Milošević.
Từ tháng 11 năm 1999: Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục II, ông được thăng hàm Thiếu tướng (tháng 2 năm 2002).
Tháng 6 năm 2000 ông được bổ nhiệm giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng. Ông là người góp phần lớn trong việc giữ vững sự tồn tại và phát triển của Tổng cục II, Bộ Quốc phòng. Trong thời gian đảm nhiệm cương vị Tổng cục trưởng Tổng cục 2 (2002 – 2009), nhiều đơn vị dưới quyền được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác.
Tháng 12 năm 2004, ông được thăng quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 3 năm 2009, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo Quốc phòng.
Tháng 8 năm 2009: ông thôi kiêm nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục II.
Tháng 12 năm 2013, ông được thăng quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI.
Ngày 26 tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII.
Ngày 29 tháng 4 năm 2016, ông được Bộ Chính trị chỉ định tham gia Thường vụ Quân ủy Trung ương.
Ngày 20 tháng 2 năm 2017, theo Quyết định 249/QĐ-TTg, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã bổ nhiệm lại Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ngày 1 tháng 6 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 838/QĐ-TTg về việc Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, thôi giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kể từ ngày ký.
Ngày 7 tháng 12 năm 2021, Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị công bố, trao quyết định nghỉ hưu từ ngày 1 tháng 12 cho ông và 5 Ủy viên Trung ương Đảng khác, đồng thời công bố quyết định tặng thưởng cho ông Huân chương Độc lập hạng Nhất - huân chương cao thứ 3 trong danh sách huân chương khen thưởng.
Đóng góp
Ông tiếp quản Tổng cục 2 từ bố vợ mình vào đầu những năm 2000 sau những bê bối có liên quan đến cơ quan này, một số ý kiến tiêu cực nhằm thẳng vào ông và cả tập thể lực lượng tình báo quốc phòng, thậm chí còn yêu cầu rút Nguyễn Chí Vịnh ra khỏi vị trí lãnh đạo tổng cục để chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên sau đó ông được minh oan và dưới sự dẫn dắt của ông, tình báo quốc phòng không chỉ còn tồn tại sau những khó khăn kể trên, mà còn phát triển trở thành lực lượng tình báo chiến lược duy nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhiều đơn vị và cá nhân Tổng cục dưới thời ông được đánh giá lại công trạng và trao tặng nhiều huân chương và danh hiệu cao quý khác nhau.
Trong 12 năm làm Thứ trưởng Quốc phòng, ông Vịnh có nhiều đóng góp thúc đẩy đối ngoại quốc phòng Việt Nam phát triển như cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc; tổ chức các chuỗi hội nghị quốc phòng - quân sự ASEAN... Ông từng nói công thức đối ngoại thành công nhất là khi cả hai bên cùng thắng. Nếu chỉ nghĩ đến lợi ích của mình thì sẽ thất bại, nhưng nếu không bảo vệ lợi ích của mình thì sẽ có hại cho đất nước.
Hiểu sâu sắc tầm quan trọng của quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới, tướng Vịnh đã tham mưu để Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc tổ chức thành công Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới lần đầu tiên ở cấp Thứ trưởng Quốc phòng vào tháng 3/2014. Sau đó, cơ chế hợp tác này được nâng lên cấp Bộ trưởng Quốc phòng và diễn ra hằng năm, tạo đột phá trong quan hệ quốc phòng Việt Nam - Trung Quốc nói riêng và quan hệ giữa hai nước nói chung.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh thường xuyên lên tiếng về những vấn đề gai góc. Ông nhiều lần khẳng định, các nước lớn phải tôn trọng luật chơi của ASEAN và không nước nào có thể buộc Việt Nam chọn bên:"Không ai và không nước nào có thể bắt Việt Nam phải chọn bên vì chúng tôi độc lập, tự chủ, giành và giữ độc lập bằng sức của mình"- Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh trả lời VnExpress nhân kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vào năm 2020.Ông khẳng định "Không một ai ở đất nước này có suy nghĩ rời bỏ hoặc nhân nhượng về chủ quyền, đặc biệt là những nhà lãnh đạo. Nếu để mất Biển Đông thì quân đội Việt Nam, các nhà lãnh đạo sẽ có tội với đất nước. Trong quân đội, từ trên xuống dưới, đều coi Biển Đông là sống còn. Chủ quyền lãnh thổ là điều chúng ta tuyệt đối không bao giờ buông tay."
Quan điểm
Chính sách quốc phòng
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh là người đầu tiên phát biểu công khai về chính sách quốc phòng "3 không" của Việt Nam vào năm 2010 (không liên minh, liên kết; không đi với nước này chống nước kia; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam). Ông đã tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng, đưa Cảng Quốc tế Cam Ranh vào hoạt động, trở thành biểu tượng cụ thể về chính sách quốc phòng "4 không" hiện nay của Việt Nam (không liên minh quân sự, không đi theo nước này chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam để chống lại nước khác và không dùng vũ lực, đe dọa hòa bình trong quan hệ quốc tế).
Chiến tranh Nga và Ukraina
Tướng Vịnh nhấn mạnh chủ trương của Việt Nam là "không tham gia bên này để chống bên kia". Tuy nhiên, ông cho rằng "những quốc gia theo đuổi đường lối sử dụng bạo lực để giành giật lấy lợi ích không chính đáng sẽ phải trả giá."
Qua đời
Ông qua đời vào lúc 1 giờ 17 phút ngày 14 tháng 9 năm 2023 tại Hà Nội do mắc căn bệnh ung thư, hưởng thọ 64 tuổi. Lễ viếng được tổ chức theo nghi thức Lễ tang cấp cao từ 7 giờ đến 12 giờ 30 phút ngày 18 tháng 9 năm 2023; lễ truy điệu hồi 12 giờ 30 phút, lễ đưa tang hồi 13 giờ 5 phút, lễ an táng hồi 17 giờ 15 phút cùng ngày tại Nghĩa trang Công viên Thiên Đức (nằm ở xã Bảo Thanh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ). Trưởng ban Tổ chức Lễ tang là Đại tướng Phan Văn Giang - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Trích dẫn
Tác phẩm
Cuốn tự truyện Người thầy. Đây là tác phẩm văn học đầu tay của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh viết về ông Ba Quốc - Thiếu tướng Đặng Trần Đức, Anh hùng Lực lượng vũ trang, người thầy tình báo mà tác giả vô cùng yêu quý, biết ơn, khâm phục và kính trọng.
Khen thưởng
Huân chương trong nước
50x50px Huân chương Độc lập hạng Nhất.
50x50px Huân chương Quân công hạng Nhất.
Huân chương Quân công hạng Nhì.
50x50px Huân chương Quân công hạng Ba.
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhất.
50x50px Huân chương Chiến công hạng Nhì.
Huân chương Chiến công hạng Ba.
50x50px Huân chương Lao động hạng Ba.
50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
50x50px Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cùng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý khác.
Huân chương nước ngoài
Huân chương Bảo vệ Tổ quốc Hạng Nhất, Nhì của Campuchia.
50x50px Huân chương Hoàng gia Sahametrei hạng Nhất (Đại thập tự) của Vương quốc Campuchia.
50x50px Huân chương Hữu nghị của Liên bang Nga (2019).
Huân chương Mặt trời mọc Tia sáng vàng và ruy băng cổ của Nhật Bản (2021).
Huân chương Antonio Maceo của Cộng hòa Cuba.
Huân chương Tự do (Isala) hạng Nhất, Nhì của Nhà nước Lào.
Huân chương Anh dũng hạng Nhì của Nhà nước Lào. |
Bán kính thủy lực của một lòng dẫn là đại lượng được tính bằng tỉ số giữa diện tích mặt cắt ướt và chu vi ướt của lòng dẫn đó.
Công thức chung dùng để tính bán kính thủy lực là:
trong đó:
là diện tích mặt cắt ướt (đơn vị thường dùng là m²)
là chu vi ướt (m)
là bán kính thủy lực (m)
Đối với đường ống, kênh dẫn nhân tạo
Nếu ống dẫn tròn có đường kính và dòng nước luôn chảy đầy ống (dòng chảy có áp) thì bán kính thủy lực:
Với kênh dẫn hình chữ nhật có bề rộng và chiều sâu nước trong kênh :
Với kênh dẫn hình thang có bề rộng đáy , độ dốc mái và chiều sâu nước trong kênh :
Đối với sông ngòi tự nhiên
Các sông ngòi tự nhiên thường có bề rộng sông rất lớn so với độ sâu nên bán kính thủy lực của sông thường được lấy bằng chiều sâu trung bình của đoạn sông:
Như vậy trong mọi trường hợp lòng dẫn hở (nghĩa là kênh dẫn hoặc sông ngòi), bán kính thủy lực luôn có quan hệ trực tiếp với chiều sâu nước trong lòng dẫn. |
Công thức Chézy được thiết lập bởi nhà thủy lực học người Pháp, Antoine Chézy, biểu thị mối liên hệ giữa vận tốc của dòng chảy đều với bán kính thủy lực của lòng dẫn và độ dốc mặt nước.
trong đó:
v là vận tốc dòng chảy (đơn vị thường dùng: m/s)
C là hệ số Chezy ()
R là bán kính thủy lực (m)
i là độ dốc mặt nước. |
Tư sản mại bản (tiếng Anh: comprador hoặc comprador bourgeoisie; gốc latinh: comparātor có nghĩa là "người mua") là thuật ngữ gắn với chủ nghĩa Marx để chỉ những cá nhân hoặc nhóm thương gia làm trung gian với các thế lực nước ngoài buôn bán tài nguyên, quyền lợi của nhân dân quốc gia để thủ lợi riêng. Tự họ không thể kinh doanh làm giàu theo phương cách tư bản. Họ cần dựa vào thế lực của đế quốc bên ngoài để làm giàu.
Tư sản nói chung là những người kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa để kiếm lời, gây tài sản cho riêng mình. Những người này bị xem là đi ngược lại với đường hướng của chủ nghĩa cộng sản. Mại bản là đem lợi ích của quốc gia bản xứ, nhân dân bản xứ để đánh đổi với thế lực nước ngoài lấy lợi tức riêng. Cụm từ tư sản mại bản do đó có tính cách cáo buộc và chỉ có ý nghĩa khi dùng trong khuôn khổ cách mạng xã hội chủ nghĩa tại các nước thuộc địa hoặc các nước bị nước ngoài can thiệp sâu vào nền kinh tế - chính trị.
Tư sản mại bản tại Việt Nam
Một số định nghĩa:
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:
"... bộ phận thoả hiệp của giai cấp tư sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, làm trung gian giữa tư bản nước ngoài và thị trường trong nước, gắn chặt lợi ích của mình với lợi ích của tư bản nước ngoài, thực chất là làm tay sai cho các thế lực đế quốc bóc lột nước mình. Tư sản mại bản một mặt cấu kết chặt chẽ với tư bản nước ngoài, mặt khác cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến phản động trong nước để bóc lột nhân dân lao động, duy trì địa vị và lợi ích của mình. Vì vậy, Tư sản mại bản cũng là đối tượng của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ở Việt Nam, Tư sản mại bản xuất hiện dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp đầu thế kỉ 20, đã hoàn toàn xoá bỏ về mặt chính trị và kinh tế sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1954) và trên cả nước (1975)..."
Từ Tạp chí Văn hóa Doanh nhân
"...khái niệm mà các văn kiện chính trị thường hay nhắc đến như một thành phần xã hội mang yếu tố phản động trong cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chỉ ở giai đoạn sau của lịch sử, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam sau 1954 mới hình thành tầng lớp mại bản ăn theo cuộc chiến tranh của Mỹ..."
Trong khoảng năm 1977, hai năm sau khi kết thúc chiến tranh thống nhất Việt Nam, chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phát động cuộc tố cáo và truy nã các thành phần tư sản mại bản tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam Việt Nam - phần lớn là các thương gia gốc Hoa. Tài sản của những người bị quy là tư sản mại bản bị tịch thu. Đôi khi, ngay cả tài sản của những người có công với cách mạng, hay các nhân viên tình báo cũng bị quốc hữu hóa.
Những thành phần này bị cáo buộc:
Buôn bán với đế quốc Mỹ và chính quyền Ngụy
Làm giàu bằng cách nhập cảng, phát hành tài liệu đồi trụy ru ngủ nhân dân
Nhập cảng súng đạn và nhu liệu quân sự chống lại nhân dân
Đầu cơ tích trữ, tạo lũng đọan kinh tế của nhà nước
Sau giải phóng, vẫn ngoan cố dụ dỗ, lôi kéo các cán bộ nhà nước làm ăn bất hợp pháp
Trong thời gian vài năm sau đó, những gia đình gốc Hoa này tổ chức vượt biển hàng loạt trốn sang nước ngoài, phần lớn với sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam đổi lại Chính phủ Việt Nam sẽ nhận được một số vàng và bất động sản của những người này - gọi là "vượt biên bán chính thức".
Hiện tại
Thời của Marx chưa có các tổ chức kinh tế toàn cầu như WTO hoặc các hiệp định về thuế quan và mậu dịch như GATT, Liên minh châu Âu, hoặc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều tham dự ở nhiều cấp độ khác nhau vào các tổ chức kinh tế toàn cầu hoặc hiệp định thuế quan mậu dịch để dựa vào đó trao đổi mua bán cho nên khái niệm tư sản mại bản không còn được sử dụng nữa.
Sau năm 1975, tại miền Nam Việt Nam nhà nước Việt Nam sử dụng thuật ngữ tư sản mại bản chủ yếu để lấy cớ trừng phạt, truy tố và loại bỏ các doanh nhân có liên hệ với nước ngoài mà không xem xét những lợi ích kinh tế mà họ mang lại. Ngày nay, thành ngữ trên ít được nhắc đến vì sợ gợi lại những ký ức cũ.
Ngày nay các doanh nhân được quyền giao thương trực tiếp với các cá nhân tổ chức quốc tế mà không gặp nhiều rào cản từ chính sách kinh tế. Đây là kết quả của chính sách Đổi mới của hệ thống chính trị cầm quyền. Tại nhiều quốc gia, các hoạt động nhạy cảm như xuất nhập khẩu mua bán vũ khí được các công ty trực thuộc nhà nước hoặc lực lượng vũ trang như Cảnh sát và Quân đội thực hiện thay vì giao cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Liên quan
Cải tạo công thương nghiệp
Tư bản nhóm lợi ích
Chú thích
Nghề kinh doanh
Lịch sử kinh tế Trung Quốc
Chức vụ quản trị
Công ty thương mại |
Sylwia Gruchała (sinh ngày 6 tháng 11 năm 1981) là nữ kiếm thủ người Ba Lan. Ở nội dung đồng đội cô giành nhiều thích tích tại giải vô địch thế giới 1998 (đồng), 1999 (bạc), 2002 (bạc), 2003 (vàng), 2004, 2007 (vàng) cũng như huy chương bạc Olympic 2000. Ở nội dung cá nhân cô giành huy chương bạc 2003 tại giải vô địch thế giới và huy chương đồng Olympic 2004.
Gruchała là lính thuộc tiểu đoàn thứ 3 lực lượng Command Support (3rd Command Support Battalion) trực thuộc bộ binh Ba Lan đóng tại Warsaw. Cô cũng là 1 thành viên của đội Leon Paul. Năm 2009, cô chụp ảnh cho tạp chí CKM của Ba Lan.
Huy chương
Nhờ thành tích thể thao, cô nhận được:
Giải thưởng Golden Cross năm 2000.
Hiệp sĩ Hoàng Gia Ba Lan (cấp 5) năm 2004. |
Nói lái là một cách nói kiểu chơi chữ trong nhiều ngôn ngữ. Đối với từng vùng miền khác nhau thì do cách nói của tiếng địa phương nên tiếng nói lái sẽ có thay đổi một chút.
Nói lái được coi là ít nghiêm trang, có tính cách bông đùa, mỉa mai hoặc châm biếm, một số dùng để diễn tả sự thô tục một cách kín đáo.
Cách thức
Có nhiều cách nói lái:
Cách 1: Đổi âm sau, giữ chữ đầu và thanh.
Ví dụ: mèo cái → mài kéo, cối đá → cá đối, hai tư → hư tai, đơn giản → đang giỡn (đối với miền Nam), trời cho → trò chơi, đại học → độc hại (đối với miền Nam), vô hàng → giang hồ (đối với miền Nam), mau co → mo cau, hiện đại → hại điện, đánh trâu → đấu tranh, giỗ lớn → giỡn lố
Cách 2: Đổi toàn bộ, trước ra sau, nhưng giữ thanh. Ví dụ: đầu tiên → tiền đâu, từ đâu → đầu tư, đấu tranh → tránh đâu...
Cách 3: Đổi dấu thanh điệu (kiểu lái Bắc). Ví dụ: Thụy Điển → thủy điện, bí mật → bị mất, mộng năng → nặng mông, giải phóng → phỏng giái, thao túng→ tháo tung
Cách 4: Đổi phụ âm đầu.
Ví dụ: cao đẳng → đau cẳng (đối với miền Nam), giải pháp → phải giáp.
Cách 5: Đổi âm sau và thanh sau, giữ phụ âm đầu. Ví dụ: bí mật → bật mí, một cái → mái cột, mèo cái → mái kèo, trâu đực → trực đâu, trâu cái → trái cau (đối với miền Nam), mắc cười → mười cắc, tánh mạng → táng mạnh, hổ chết → hết chỗ.
Lưu ý:
Không phải từ nào cũng có thể nói lái được. Những từ láy toàn bộ, hai từ lặp lại hoàn toàn, từ có chung dấu thanh và âm đầu, dấu thanh và vần, âm đầu và vần đều không nói lái được.Ví dụ: luôn luôn, mãi mãi, đi đâu (có chung phụ âm đầu và dấu thanh).
Đại đa số là lái đôi (hai tiếng), nhưng cũng có lái ba. Ví dụ: Muốn cầu gia đạo thì phải cạo da đầu, "Mộng dưới hoa" (ca khúc) thành… họa dưới mông, chà đồ nhôm → chôm đồ nhà, ban lãnh đạo → bao lãnh đạn, chả lo gì → chỉ lo già, chả sợ chi → chỉ sợ cha, có chỗ đứng → cứng chỗ đó, Hương qua đèo → heo qua đường.
Các câu nói lái phổ thông, giai thoại về nói lái
Nói lái trong dân gian
Ca dao
Con cá đối bỏ trong cối đá,
Con mèo cái nằm trên mái kèo,
Trách cha mẹ em nghèo, anh nỡ phụ duyên em
Câu đố
Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn
- Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai
Bò la, bò liệt đố ai biết gì? - (đáp: khoai lang).
- Con gì ở cạnh bờ sông,
Cái mui thì nát cái cong thì còn - (đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)
- Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái)
- Miệng bà ký lớn, bà ký banh
Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (đáp: canh bí, canh khoai)
- Ông cố ngoài Huế ông cố ai. (đáp: cái ô)
- Ông đánh cái chen, bà bảo đừng. (đáp: cái chưn đèn - chen đừng).
- Lăng quằng lịt quỵt... lăng quằng trứng là cái gì ?-> (lưng quần trắng)
- Lăng quằng lịt quỵt... lăng quằng rừn là cái gì?-> (lưng quần rằn)
- Ở đâu có phố Trần Dư? Đáp rằng là phố trừ dân, chỉ dành cho quan phụ mẫu, nơi nào chẳng có.
- Nước ta là cường quốc thi ca, nên khắp nơi từ Bắc vào Nam thảy đều có đường Thi Phú (thu phí)
Chơi chữ cho líu lưỡi
Đếm thật nhanh những câu sau sẽ làm líu lưỡi và nói lái xảy ra
-Một con cá đối nằm trên cối đá, Hai con cá đối nằm trên cối đá, Ba con...
-Một thầy giáo tháo giày, Hai thầy giáo tháo giày, Ba thầy giáo...
Câu đối, hò vè
Người ta còn có thể lái liên tiếp những cặp hai tiếng kèm theo phép đảo ngữ tạo thành những kiểu diễn đạt ba vế rất ấn tượng. Một nhóm hài đã dựng nên một tiểu phẩm mang tên "Bật mí bí mật bị mất". Cầm ly rượu, một cô gái nghẹn ngào nói: Em uống ly này thiệt là cháy lòng, bởi em đang chống lầy, vì rất muốn lấy chồng. Thiên hạ thường dặn nhau: Đấu tranh là tránh đâu, coi chừng bị trâu đánh. Vừa đá banh, vừa ăn bánh đa, coi chừng bị ba đánh, chuyện chợ Cần Giuộc có bán chuột Cần Giờ, hay dặn dò qua cầu Ông Đen nhớ hỏi kèn ông đâu? Rồi cảnh giác: Nhiều đứa nhìn bao dung, mà quay lưng là bung dao với mình liền! Hoặc tâm sự nỗi lòng Em chưa có gì (còn độc thân) vì chưa gí cò…
Lối nói lái này tạo thành nhiều câu đối rất độc chiêu: Con cá rô cố ra khỏi rá cô / Chú chó mực chực mó vào chõ mứt; Văn sĩ Nhật Tiến bảo học tiếng Nhật là tiện nhất/ Luật sư Đức Tiến không biết tiếng Đức nên tức điếng…
Ví dụ 1
Vua Tự Đức cũng có câu đối chỉnh mà đến nay chưa chắc ai giải được.
Vế đối ra:
Kia mấy cây mía
và vế đối lại của vua Tự Đức là:
Có vài cái vò
Ví dụ 2:
Con cá đối nằm trong cối đá. Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo. Anh mà đối được dẫu nghèo em cũng ưng.
Con mỏ kiến đậu trên miếng cỏ. Chim vàng lông đậu cạnh vồng lang. Anh đà đối được e nàng chẳng ưng.
Ví dụ 3
Chàng trai xưa kia có râu, cạo râu xong, cô gái nhận không ra. Chàng bèn làm thơ nói lái:
Xưa tê câu ró ngó xinh. Bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ.
Ở đây câu ró, câu rạo không dính líu xa gần với chuyện đi câu.
Ví dụ 4
Trong cuốn Thú chơi chữ(Nhà xuất bản Trẻ, 1990), hai nhà ngôn ngữ học Hồ Lê và Lê Trung Hoa cung cấp một số câu đối lái. Trong đó có một số thách đối có cặp từ ngữ nói lái lắt léo nên chưa có ai đối lại:
Bò lang chạy vào làng Bo
(có người đối: Mồi câu ném xuống cầu Môi – không chỉnh lắm).
Đầu Xuân Thế Lữ sắm hai thứ lễ: một quả lê tây, một quả lê ta.
(Nhà thơ Nguyễn Thứ Lễ có hai bút danh là Thế Lữ và Lê Ta).
Ví dụ 5
Có câu như câu đối, dùng từ Hán Việt:
Giai nhân tái đắc, giai nhân tử
Anh hùng khai đống, anh hùng tiêu.
Ví dụ 6: Thời kỳ đời sống khó khăn, hình ảnh người thầy giáo phải tháo giày, giáo chức phải dứt cháo là cảm hứng cho nhiều câu đối:
_Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ
Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày.
Thầy giáo tháo giày đi dép lốp
Nhà trường nhường trà uống nước trong
_Thầy giáo tháo giày, tháo giáo án dán áo
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương
Làm giáo chức, phải giứt cháo
Thảo chương, rồi để được... thưởng chao'.
Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương
Nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường
Nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận xương
Nhường tới cái túi, nhúi...tới cái tường
Lấy lương hưu, để lưu hương
Ví dụ 7: Một câu hò ở Nam bộ, giải rõ ra thì thô tục, nhưng mới nghe qua khó nhận thấy:
Thằn lằn đeo cột thằn lằn trốn
Cá nằm trong đăng, cá mắc kẹt đăng
Anh với em nhân ngãi đồng bằng
Dù xa duyên nợ nhưng cột lằn đừng xa.
Có những bài không rõ tác giả:
Yêu em từ độ méo trời
Khi nào méo đất mới rời em ra.
Bài này đọc lên nghe rất tục:
Ban ngày lặt cỏ tối công phu
Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu
Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo
Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".
Ví dụ 8:
Trai Hóc Môn, vừa hôn vừa móc
Gái Gò Công vừa gồng vừa co
Ví dụ 9:
Ở Bắc Ninh, Hà Nội thuở trước có câu đối nói lái cũng rất hay. Một bên xướng: "Chị chờ em ở chợ Chì" (chợ Chì là địa danh thuộc huyện Quế Võ - Bắc Ninh). Bên kia đối lại là: "Tao kéo mày về keo táo" (Keo Táo thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội). Hai câu đối, lái rất chuẩn về từ lẫn nghĩa.
Ví dụ 10:
Cũng ở nhiều địa phương phía Bắc còn lưu giữ trong dân gian câu đố sau đây: "Bên đây cưa ngọn bên kia cũng cưa ngọn, đố là cái gì?". Bên kia trả lời: "Cưa ngọn nói lái là con ngựa. Hai bên đều cưa ngọn, vậy là có hai con ngựa!". Trả lời như vậy thật là chí lý. Bên đố lại đố tiếp như sau: "Bên đây cưa ngọn, bên kia cưa ngọn mà không phải hai con ngựa là cái gì?". Bên đáp trả lời: "Là cái nạng!". Câu trả lời như thế quả thật lý thú bất ngờ. Bởi vì, một cành mà cưa hai bên thì còn lại hình chữ "V", thân cây chắp lại phía dưới, thành chữ y dài (Y). Chữ y dài thì hình cái nạng. Trả lời như thế thì rõ ràng không ai bắt bẻ được.
Ví dụ 11: Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Văn Lợi (nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Quảng Bình) là người có tài ứng khẩu, nói lái và làm câu đối có vận dụng yếu tố nói lái rất giỏi. Khi lên chức ông ngoại ở năm thứ 3, có khách đến chơi, nhà thơ Văn Lợi đều nói: "Dạo này mình vừa oai vừa ngọng". "Oai" là vì lên chức mới, còn "ngọng" là vì hay nhái giọng của cháu ngoại khi cháu lên 3, oai ngọng lại là ông ngoại. Lúc còn ở Huế, thuở tỉnh Bình Trị Thiên chưa chia tách, trong một lần đi thực tế về nông trường nọ, gồm anh, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhận Vỹ, Xuân Hoàng, Hoàng Vũ Thuật… cùng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vốn người gầy yếu, lại phải đi đường dài nên khi đến nơi, chưa kịp nhận phòng nghỉ thì Trịnh Công Sơn đã lăn kềnh ra ghế ở phòng khách. Nhà thơ Xuân Hoàng thấy thế, bèn ra vế đối: "Đi phong trào, chưa trao phòng đã trồng phao để trào phong". Đang lúc bạn bè gật gù, ngẫm nghĩ tìm câu đốithì Văn Lợi đã xuất đối đối ngay: "Đến nông trường để trồng nương (tức trồng các cây trên nương rẫy), mới trông nường (tức nàng - tiếng miền Trung) đã trương nòng".
Ví dụ 12:Xưa có một nghị viên họ Lại làm nghề lái lợn, giàu có, hống hách vì xây được khu lăng mộ đẹp cho tổ tiên. Nhiều người dân bị hắn chèn ép nhiều nên ghét hắn lắm. Một đêm, không rõ ai đã đề đôi câu đối sau ở lăng mộ của nhà nghị viên:
Rực rỡ mé đường Tây, kẻ lại người qua, ca tụng sinh phần quan lớn Lại
Vang lừng trong thân Bắc, trên kinh dưới rái, một lòng tôn trọng cụ trong dân
Nói lái trong văn học, thơ ca
Giai thoại về Trạng Quỳnh
1/Truyện kể, một lần Quỳnh dâng lên chúa Trịnh một lọ thức ăn, bên ngoài có ghi hai chữ "đại phong". Chúa không hiểu là món gì, hỏi Quỳnh, Quỳnh trả lời:
- Bẩm "đại phong" là gió to, gió to thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo,tượng lo là lọ tương đấy ạ.
2/Một buổi trưa, Trạng Quỳnh vào hầu chúa. Thấy chúa đang ngủ, sẵn bút mực, Quỳnh viết vào tường hai chữ "ngọa sơn" rồi về.
Sau khi thức giấc, chúa không hiểu Quỳnh muốn nói gì, bèn bảo Quỳnh giải thích, Quỳnh thưa:
- Ngọa nghĩa là nằm, nằm tất nhiên phải ngáy; sơn nghĩa là núi, núi tất phải có đèo. Hợp hai chữ lại, là ngáy đèo (Nếu nói lái lại thành đ… ngày).
3/Một buổi trưa khác, một bà chúa thấy Quỳnh đang lấy chân vọc đám bèo trong một cái ao sen ven đường. Bà ngạc nhiên hỏi:
- Trạng làm gì đấy?
Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Trời nóng quá, không ngủ được, tôi phải ra đây đá bèo chơi!
Bà chúa đỏ mặt bỏ đi.
4/Tương truyền gần quê của Trạng Quỳnh có một pho tượng đá trần truồng đứng giữa đồng, miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống hạ bộ, chân mang đôi giày, gọi là tượng bà Banh. Quỳnh viết ngay một bài thơ vào ngực bức tượng, như sau:
Đề tượng bà Banh
Khen ai đẽo đá tạc nên mầy!
Khéo đứng ru mà đứng mãi đây
Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt
Dưới chân đứng chéo một đôi giày
Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu
Hay là bốc gạo thử thanh thầy?
Có ngứa gần đây nhiều góc dứa
Phô phang chi ở đám quân nầy.
Giai thoại về Hồ Xuân Hương
1/Sư bị làng đuổi
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió thành ra phải lộn lèo!
2/Chùa Quán Sứ
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào người móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.
3/Hang Cắc Cớ
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
4/Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,/Rủ chị em ra tát nước khe(Tát Nước).Tương truyền câu đối sau đây của Hồ Xuân Hương, cảm tác khi nàng đi qua cửa Đò ở đèo Ngang:
Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá;
Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút xuôi cho lọt khách cổ kim.
5/Có lần Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ, kẻ thách người đối thành câu sau đây:
Tán vàng, lọng tía, che đầu nhau đỡ khi nắng cực;
Thuyền rồng, mui vẽ, vén buồn lên rồi sẽ lộn lèo.
Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976) có bài " Lỡm cô Ngọc Hồ " với hai câu nói lái phong cách Hồ Xuân Hương: HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo (Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá Mỹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.)
Thảo Am Nguyễn Khoa Vy mất năm 1968, cùng với cụ Ưng Bình Thúc Giạ thuộc thế hệ cuối cùng của Quốc tử giám. Cụ làm bài thơ Nhớ bạn thế này:
Nhớ Bạn
Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông
Đêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi
Công khó chờ nhau biết có không
một dị bản khác:
Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong
Công khó đợi chờ, biết có không ?
Nhắc bạn thêm thương người nhạn bắc
Trông đời ngao ngán giữa trời đông
Hoặc một bài thơ khác:
Đời chua, bậu cứ thử đùa chơi
Chơi ngổ xong rồi, kiếm chỗ ngơi
Bến đậu thênh thang, mời bậu đến
Ngồi đây say tít, ngất ngây đời.
'Một bài thơ của Thảo Am viết sau khi nghe tin giặc Pháp chiếm lại đồn Mang Cá, 1946
Lũ quỷ nay lại về luỹ cũ
Thầy tu mô Phật cũng thù Tây.
Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến (1799-1874) cũng có giai thoại về nói lái: Một ngôi đền kế bên làng Yên Đỗ bị bà hỏa viếng thăm. Cụ Nguyễn Khuyến vẽ một chữ giống như cái chày dựng đứng nên gọi là "chày đứng" tức "đừng cháy" để răn dân làng bỏ thói mê tín dị đoan.
Bùi Giáng, có người gọi là nhà thơ Bán Dùi vì là Ông ưa nói lái. Kiểu nói lái của Bùi Giáng thật khác người, không cần người đọc có hiểu hay không. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lý tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp…
Lọt cồn trận gió đi hoang
Tồn liên ở lại xin làn dồn ra
(Mưa nguồn)
Cá ở ngoài khe có ít nhiều
Cồn lau cỏ lách có hoang liêu
Em về có hỏi răng ri rứa
Nhắm mắt đưa chân có bận liều.
(Bờ trần gian)
Bài "Trong bàn chân đi" đầy dẫy những chỗ nói lái nhưng thật khó mà hiểu được:
Có mấy ngón
Năm ngón
Mười ngón
Món người
Non ngắm
Nắm ngon
Hoặc là năm ngón nón ngăm
Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần
Nón ngăm dặm bóng xoay vần
Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.
Nhà thơ VÕ QUÊ xứ Huế có một tập gần 50 bài. Thơ lái Võ Quê, thông minh, dí dỏm, thâm trầm và sâu sắc, không chỉ là những lời cười cợt mua vui. Khởi đầu là một bài cảm tác từ trận lụt kinh hoàng năm 1999 ở Huế:
Trời lụt ca nhi cũng trụt lời
Trời đong mưa lũ xuống trong đời
Vái lạy lụt tan lành váy lại
Đời cho du khách dạo đò chơi.
Có nhiều bài bỡn cợt vui vui kiểu như bài đùa các bợm rượu:
Một chai mai chột, coi chừng!
Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà
Ba chai là bai nghe cha!
Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn
Ngũ chai ngai chủ hùng hồn
Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!
làng vọng còn hơn cái lọng vàng
Mang sơ tấm áo, chớ mơ sang
Nhắn bạn lên non đừng bắn nhạn
Hang lỗ tìm vào bắt hổ lang
Nhân dịp ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6, Nguyễn Thái Dương nhắn tin tặng các ông bố bài thơ Lời trẻ thơ, sau này bạn bè đổi lại thành Mực ngón tức "món ngực" cho phù hợp với nội dung. Bài thơ này được Nguyễn Thái Dương nhắn tin kèm câu "cảnh giác": "Làm cha mà mê "mực ngón" quá thì con sẽ không có sữa để uống đâu.
"Mực ngò, mực ngó, mực ngằn
Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi
Chao ôi bất luận mực gì
Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm".
Ở bài thơ sau đây, khi đọc nhớ lái ở ba từ cuối mỗi câu):
Mỗi độ xuân sang chả có gì (chỉ có già)
Giàu sang, keo kiệt để mà chi? (đĩ mẹ cha)
Vui xuân chúc tết cầu gia đạo (cạo da đầu)
Cạn chén tiêu sầu tiễn người đi (đĩ người tiên).
Bông ế!
Ông Đồn chợ sáng chẳng ồn đông
Bông giữa rằm giêng gặp bữa giông
Cổng đá hàng bày còn cả đống
Mông khua đít tét hỏi mua không
Cọc mòn hoa cắt đâu còn mọc
Hồng trết bùn trây cũng hết trồng
Cố lãi vô thời ôm cái lỗ
Đồng Kho về sớm kẻo đò không!
(Tố Mỹ)
Trong văn xuôi hình như ít thấy nói lái, hoặc tản mác nên khó phát hiện. Tác giả sở trường món này chắc phải là Vương Hồng Sển (1902- 1996). Rải rác trong tác phẩm " Hơn nửa đời hư " ông chen vô mấy chữ " ủ tờ ", " mống chuồng ", dễ thấy là tiếng lái của " ở tù ", " muốn chồng ". Khi nhắc lại kỷ niệm chuyến du lịch thăm Đài Loan và Nhật Bản, ông kể chuyện cùng người bạn Pháp trọ ở một khách sạn, mặc tạm áo kimono để sẵn trong tủ: " Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẵn cho khách mượn, Menken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa " lù coi ", đứa " lắc cọ ", áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười". Cũng chính tác giả của " Saigon năm xưa", " Saigon Tạp pín lù " đã đặt tên cho xe thổ mộ là xe u mê, và giải thích: " vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải ê mu, nói lái cho bớt tục".
Trong một truyện ngắn, nhà văn Y Ban kể chuyện một bà vợ chạy chữa bệnh liệt dương cho chồng bằng đủ loại thực phẩm, thuốc men đều không hiệu quả, nên mới nghĩ tới một bài thuốc dân gian. " Bài thuốc này gồm 3 vị: Hà thủ ô, cỏ thiên, và trứng vịt lộn ". Người đọc cứ thắc mắc, hà thủ ô với trứng vịt lộn thì ai cũng biết, nhưng cỏ thiên là cỏ gì ? Tác giả bật mí: Ba vị thuốc đó gọi tắt là HÀ THIÊN LỘN, có thể do tâm lý ông chồng không thấy hứng thú khi gần vợ, cho ông đi tìm …, may ra hết bệnh!
Nói lái thời chiến tranh Việt Nam
Trong thời kỳ chống Pháp, thanh niên nam nữ thường đi dân công gánh gạo từng đoàn. Các cô gái sức yếu nên rất mỏi gối khi lên dốc. Có chàng trai chỉ cho các nàng cách khắc phục:
- Các cô vừa đi vừa nói "bái dốc, bái dốc" thì sẽ bớt mệt.
Nhiều cô ngây thơ không hiểu ẩn ý của anh chàng vừa đi vừa lặp "bái dốc, bái dốc", khiến cả đoàn cười vang, vui vẻ nên…
Trong chiến tranh Việt Nam, nói lái cũng có lúc được Việt Cộng dùng trong tuyên truyền chính trị, mị dân. Đó là trường hợp câu đối "Dán ở Sở Chỉ huy quân Mỹ":
"Tìm diệt" bãi Cửu Long, bị sóng Cửu Long dìm tiệt;
"Dồn dân" bờ Trà Khúc, nhừ đòn Trà Khúc dần Giôn.
("Tìm diệt", "dồn dân" là những cách chống Việt Cộng của ta. Trà Khúc là tên con sông lớn của tỉnh Quảng Ngãi. Giôn là Johnson, tổng thống Mỹ).
Năm 1969, Hồ Chí Minh qua đời cho tuổi già và bị Lê Duẩn chèn ép. Nhiều nguồn tư liệu chưa được xác minh cho thấy, Lễ truy điệu chui Hồ Chí Minh tại chùa Khánh Hưng (hẻm 390 đường Cách mạng Tháng Tám (là đường Lê Văn Duyệt), phường 11, quận 3, Sài Gòn), do Hòa thượng Thích Pháp Lan, khi đó là Thượng tọa trụ trì, làm chủ lễ với sự tham dự của nhiều thành viên Việt Cộng. Đây là nơi duy nhất ở Sài Gòn tổ chức truy điệu Hồ Chí Minh. Để che mắt chính quyền và ngụy trang cho Việt Cộng, Hòa thượng nghĩ cách làm sao để trang trí bàn thờ có hình ảnh Hồ Chí Minh. Thông thường bàn thờ có mâm hoa, mâm quả. Bên mâm hoa, Hòa thượng cho bày bông trang màu đỏ thay cho nền cờ và bông điệp làm ngôi sao vàng. Bên mâm quả, Hòa thượng bày quả xoài cát Hòa Lộc màu vàng làm ngôi sao và quả mận hồng đào (quả bồng bồng) làm nền cờ. Trên bàn thờ đặt bài vị viết bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh cho giống với phong tục của Trung Quốc. Tuy đã công phu như vậy, nhưng những người đứng ra tổ chức buổi lễ vẫn không dám thể hiện rõ tên Hồ Chí Minh trong lễ cầu siêu. Trong hoàn cảnh chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tăng cường các biện pháp tìm và ngăn chặn sự xâm lăng của cộng sản Bắc Việt, không cho bất kỳ cá nhân, đoàn thể nào công khai tổ chức truy điệu Hồ Chí Minh, Hòa thượng Thích Pháp Lan vẫn tìm được cách tổ chức chui truy điệu cho lãnh tụ Cộng Sản của họ.
Sau ngày Cộng Sản chiếm được Việt Nam Cộng Hòa, sai lầm về kinh tế của tư tưởng chủ nghĩa xã hội đã ảnh hưởng đến đời sống của nhiều người, Cũng trong hoàn cảnh khó khăn ấy, trong quân đội xuất hiện câu nói lái rất thú vị, mang ý nghĩa mỉa mai là: "Nhà cấp tướng/ Tường cấp tá". Có người mở quán sửa chữa, phục hồi máy thu thanh, lấy tên hiệu là "Đài tắp lự" (nói lái của "Đài tự lắp"). Quảng Bình thời kỳ đó nghèo lắm. Để diễn tả điều này, có người đã nói lái cho vui: "Đến Đèo Ngang là đến xứ Đang Nghèo".
Nói lái ngày nay
Nói lái tên
Đảo từ: Bích Đào thành Bào... Đích, Mai Liên thành Miên Lai, Dương Cầm thành Dâm Cường… Có cô gái bảo, bây giờ em phải đi gặp Mộng Trà. Hóa ra, Mộng Trà, là Mộng Chè, tức là… mẹ chồng! Nữ ca sĩ Lâm Chí Khanh sau khi chuyển giới đã đổi nghệ danh thành Lâm Khánh Chi.
Lái trong tình yêu
Dân gian đã tổng kết bốn sắc màu của tình yêu, theo đúng các giai đoạn của đời người. Thuở mới yêu nhau, sắc màu đẹp nhất chính là màu nho (mò nhau). Khi đã lấy nhau rồi, về ở chung với cha với mẹ, phòng ốc chưa được riêng tư, lại sợ tai vách mạch rừng, cứ vội vội vàng vàng, mà thành ra màu lam (làm mau). Làm ăn khấm khá, có cửa có nhà, lúc này là lúc sung sướng nhất đây, với sắc màu pha lê (cứ phê là la). Nhưng rồi tuổi đời chồng chất, sức khỏe giảm dần, đến lúc chỉ còn lại với đời một màu đọt chuối (chọt là đuối).
Ngoài ra còn có: Tiền ai nấy tính, tình ai nấy tiến! Và chẳng cần gìn vàng giữ ngọc như người thời xưa chi cho mất thời gian và công sức: Ăn cơm trước kẻng như ăn kem trước cổng! Cứ lao vào nhau thành ra yêu nhiều nên ốm - ôm nhiều nên yếu. Đến lúc thất bại thảm hại trong tình trường mới buột miệng than rằng: Tình theo giấc mộng tan, tàn theo giấc mộng tinh. Rồi chợt ngộ ra rằng: Đời thay đổi khi ta thôi đẩy! Những cô gái xinh, nhan sắc chim sa cá lặn thì dành cho đại gia chim săn cá lạ. Đành chép miệng mà dặn dò nhau: Đừng mơ hão mà thành hao mỡ! kẻo yêu nhầm mấy cô chuyển giới cú có gai!
Một chàng trai tỏ tình với cô gái: Mắt anh thường thâm vì thức nhìn người anh thầm thương
Trong tiệc nhậu
Ngay cả chuyện uống rượu cũng thành chuyện nói lái: Cầm ly mời nhau là phải lên tiếng uống theo kiểu nào: kiểu Long Nhĩ (uống để nhỏng ly, không còn gì hết), kiểu hai ngày cưới (uống chung ly hai người một cái)… Thông thường, chả ai cho phép bạn uống theo lối Mộ Đức (uống có mức độ) mà phải theo mấy anh Đức Phổ (uống như đổ phứt), mấy anh Sơn Trạch (sạch trơn). Uống xong lại phải Tây Bắc (tức là bắt tay). Dân lưu linh thù nhất những kẻ mang tên Lý Đen, Lý Đẻn (lén đi, lẻn đi), Bảy Chọ, Bảy Nhỏ (bỏ chạy, bỏ nhảy). Hết nước đá thì hỏi quán có cá nước đục (cục nước đá) không?
Sợ vợ nhưng phải giữ gìn thể diện, nên buộc phải dùng ám hiệu ra đấu cho riêng vài chiến hữu: bỏ đá (bả đó), Diệu Cơ (vợ kêu), tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu (biểu thôi)
Nói lái tuổi học trò
Nói lái đi vào đời sống sinh hoạt hằng ngày và càng trở nên phổ biến. Tuổi teen học trò hầu như sử dụng nói lái để tán gẫu, chọc vui nhau.
"Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò" quả không sai. Như khi cha đưa con đến trường, cha la lên: "Thôi chết con ơi trễ giờ rồi!" Con vui vẻ nói: "Trễ giờ thì chở về thôi ba!".
Trong lớp học thì dù có sợ giáo viên nhưng học trò vẫn có thể nghĩ ra nhiều cách nói lái như: bạn nào đạt điểm cao thì cả nhóm đồng thanh hô:"Mừng cho em nó". Hoặc ai mách lẻo với thầy cô thì sẽ nhận được câu hăm dọa chiều nay sẽ "cho mày một buổi tan trường" tức là một buổi tương tràn, chính là "cho mày ra tương".
Nói lái kiểu Quảng Nam
Giọng Quảng Nam phát âm rất sai nhưng chính đặc điểm này lại là miếng đất màu mỡ cho Nói lái phát triển. Nói lái kiểu Quảng Nam thường mang đặc điểm "chém to kho mặn" của người dân vùng đất này, nghĩa là người ta khoái nói lái "mặn". Trong các nhóm chữ nói lái, hầu hết đều nhắc đến bộ phận kín đáo trên cơ thể hoặc những điều bị xem là "cấm kỵ" trong ngôn ngữ, chỉ có người bình dân mới dám mạnh dạn nói dưới hình thức nói lái, dù chỉ để thư giãn.
Ví dụ 1: ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể Đường luật. Có cậu công nhân gốc Hội An làm việc ở Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Cậu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng. Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, đọc bài thơ này và nhà trai thực sự vui vẻ khi tuyên bố nhận con dâu.
Ai bàn chi chuyện đã an bài,
Trai khiển đồng tình gái triển khai.
Cứ sợ cho nên thành cớ sự,
Mai than mốt thở lỡ mang thai.
Tính từ ngày tháng vương tình tứ,
Khai ổ bây giờ báo khổ ai.
Cưỡng chúng ông bà nghe cũng chướng,
Thôi đành để chúng được thành đôi!
Ví dụ 2: Các cô chủ quán người Quảng Nam tại các quán nhậu, ngoài bản chất nói lái cố hữu, dường như được thêm qua nền "văn hóa nhậu" nên khả năng nói lái đáng nể. Tên các món ăn thức uống đều trở thành phương tiện để đùa bỡn, chọc ghẹo nhau:
- Lươn thì phải có món lươn nấu với rau dền, hay gọi tắt là lươn dền.
- Dưa leo thì phải là loại leo đá và phải được thái dọc ăn mới ngon.
- Mực thì món đặc biệt vẫn là mực xào với ngò, là món mực ngò.
-Ăn mít phải chọn mít đặt và có người đút cho thì ăn mới thấy ngon".
Ví dụ 3: Để phê phán thói lãng phí tổ chức tiệc cưới của gia đình nọ. Đi dự đám cưới ông Thủ Thiệm mua một tấm lụa, viết lên đó ba chữ Hán thật to: "Miêu Bất Tọa" làm quà. Trong tiệc rượu, nhiều người nhờ Thủ Thiệm giải thích mấy chữ đó. Thủ Thiệm giải thích:"Miêu" là mèo, "Bất" là không, "Tọa" là ngồi. "Miêu Bất Tọa" là mèo không ngồi, mà mèo không ngồi tức là mèo đứng.
Ngôn ngữ khác
Cách nói này cũng được nhiều dân quốc gia khác sử dụng.
Thí dụ trong tiếng Anh: "The Lord is a shoving leopard" (thay vì "The Lord is a loving shepherd") - gọi là Spoonerism. Giáo sư William Archibald Spooner là người nối tiếng có thói quen đãng trí hay nói lộn ngược, ví dụ, "You have hissed my mystery lecture" ("You have missed my history lecture").
Thí dụ trong tiếng Đức: "Auf der Liebesreise // sprach der Leibesriese: // "Reib es, Liese!" // Und sie rieb es leise." - gọi là "Wortdreher" hay "Buchstabendreher", cách làm thơ có vần như thế gọi là Schüttelreim
trong tiếng hán việt: thiết trường kỷ dĩ tôn kỳ trưởng (lấy ghế dài mời các trưỡng lão) đối lại là lập bình phong nhi tuyển phòng binh (lập tấm phong để tuyển dụng quân sĩ) câu đối này hay lẫn cã vần bằng trắc lẫn nói lái!
Thí dụ trong tiếng Pháp: văn hào Voltaire, tên thật là François Marie Arouet, lấy tên thành phố quê hương là Airvault (thuộc vùng Deux Sèvres) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire. |
BTU (viết tắt của tiếng Anh British thermal unit, tức đơn vị nhiệt Anh) là một đơn vị năng lượng sử dụng ở Hoa Kỳ. Nó cũng có thể được bắt gặp ở Vương quốc Anh, trong ngữ cảnh các hệ thống làm lạnh và sưởi ấm kiểu cũ. Trong hầu hết các nơi khác, nó đã được thay thế bởi đơn vị năng lượng SI, joule (J).
Ở Hoa Kỳ, "BTU" được sử dụng để mô tả giá trị nhiệt (năng lượng) của nhiên liệu, và cũng để mô tả công suất của các hệ thống sưởi ấm và làm lạnh, như lò sưởi, lò sấy, lò nướng và điều hòa nhiệt độ. Khi sử dụng như một đơn vị công suất, mặc dù vẫn được viết tắt là "BTU" nhưng khái niệm này cần được hiểu là BTU trên giờ (BTU/h).
Các định nghĩa
Một Btu được định nghĩa là nhiệt lượng cần thiết để tăng nhiệt độ của một pound nước lên một độ Fahrenheit. 143 Btu là nhiệt lượng cần thiết để làm tan chảy 1 pound băng. Trong trường hợp với calorie, có rất nhiều định nghĩa về Btu, dựa trên các nhiệt độ nước khác nhau và sai khác khoảng 0.5%:
Các giá trị chuyển đổi
Một BTU xấp xỉ với:
1.054–1.060 joule.
252–253 cal (calorie)
0,252–0,253 kcal (kilocalorie)
778–782 ft·lbf (foot-pounds-force)
Các chuyển đổi khác:
Trong khí ga thiên nhiên, 1 MMBtu (1 triệu Btu, đôi lúc còn được viết là "mmBTU") = 1,054615 GJ. Ngược lại, 1 gigajoule tương đương với 26,8 m³ khí ga tự nhiên ở nhiệt độ và áp suất xác định.
Các đơn vị liên quan
Đại lượng BTU trên giờ (BTU/h) là đơn vị năng lượng phổ biến liên quan với BTU.
1 watt xấp xỉ 3,41214 Btu/h
1000 BTU/h xấp xỉ 0,293071 kW
1 sức ngựa xấp xỉ 2511,34 BTU/h
12.000 BTU/h được gọi là "ton of cooling" trong phần lớn các ứng dụng điều hòa không khí của Bắc Mỹ. Đây là năng lượng cần thiết để làm đông đặc một short ton (0,893 long tons; 0,907 t) nước thành băng trong 24h.
Khái niệm therm được định nghĩa ở Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu EU là 100.000 BTU – nhưng Hoa Kỳ sử dụng BTU59 °F trong khi đó EU sử dụng BTUIT. Một đơn vị gọi là quad (viết tắt của triệu lũy thừa bốn) được định nghĩa là 1015 BTU, khoảng một exajoule (1.055×1018 J). Quads thỉnh thoảng được sử dụng ở Hoa Kỳ để biểu diễn cho lượng tiêu thụ năng lượng hàng năm của các nền kinh tế lớn: ví dụ, nền kinh thế Hoa Kỳ sử dụng khoảng 94.2 quads trong năm 1997. .
Không nên nhầm lẫn BTU với Board of Trade Unit (B.O.T.U.), với lượng năng lượng lớn hơn.
Chú thích |
Trung bình tấn là một trong những tấn pháp (bộ pháp) cơ bản của võ thuật cổ truyền Á Đông. Ở các môn phái khác nhau thì nó có các tên gọi khác nhau: Thiếu Lâm của Trung quốc gọi nó là Mã bộ hay Tứ bình bộ, Karate của Nhật Bản thì gọi nó là Kiba Dachi (Tấn kỵ mã) hoặc Naihanchi dachi, Taekwondo của Triều Tiên thì gọi nó là Annin Sogi...
Kỹ thuật
Hai bàn chân mở rộng sang hai bên, cách nhau khoảng gấp rưỡi bề rộng vai (tức là khoảng 3 bàn chân), đặt trên cùng một trục thẳng ngang, hai bàn chân song song.
Gập đầu gối, hạ thấp người cho hai đùi gần song song mặt đất.
Lòng bàn chân áp chắc xuóng đất, phần phía ngoài gót chân hơi nhẹ hơn.
Không được xiêu đầu gối về phía trước mũi bàn chân, không được ngả người ra sau quá gót chân.
Hai tay nắm chặt quyền, đặt hai bên hông.
ngực ưỡn cao, lưng thẳng.
mắt nhìn thẳng.
Hít thở đều.
Trung bình tấn chính là mã bộ không di động, tạo trụ vững chắc cho bộ tay hoạt động và di chuyển theo yêu cầu của bộ tay.
Karate
Trung bình tấn Kiba-dachi được nhiều số võ phái Karate sử dụng, võ phái Gōjū-ryū không có thế võ này. Hai bàn chân song song nhau, trọng lượng cơ thể đặt trên hai cạnh ngoài của hai bàn chân. Tên gọi cũ của thế võ Kiba-dachi là Naihanchi-dachi (hay Naifanchi-dachi), có từ tên bài quyền Naihanchi (hay Naifanchi) của võ phái Shuri (hay Shorei). Về sau Funakoshi Gichin đổi tên bài quyền thành Tekki. Bài quyền Tekki mang nội dung của Naihanchi, trong đó gần như cả bài được thực hiện trong thế Kiba-dachi.
Lưu ý
Người tập luyện lần đầu tiên sẽ rất nhanh chóng chán nản, mỏi mệt, cần cố gắng thật nhiều.
Ban đầu nên đứng khoảng từ 1 đến 2 phút sau tăng lên dần càng lâu càng tốt.
Ý nghĩa
Luyện tập tấn này giúp cho chúng ta nâng cao sức khỏe, tốt cho gân cốt.
Tạo thăng bằng cơ thể, tăng cường ý chí bước đầu cho môn sinh.
Là một trong những thế võ cơ bản.
Bắp chân sẽ to dần và tăng dần sức chịu đựng cho đôi chân |
Tăng trưởng rừng là kết quả của hai quá trình trái ngược nhau: quá trình tăng trưởng của những cây rừng đang sống và quá trình tỉa thưa tự nhiên, những cây chết vì già cỗi. Trong giai đoạn đầu, lượng tăng trưởng của rừng còn mạnh, xu hướng phát triển là tích lũy sinh khối. Đến giai đoạn rừng già, sức sinh trưởng của cây rừng đã yếu, những cây già cỗi chết đi.
Thang đánh giá
Để đánh giá tăng trưởng của rừng, chủ yếu người ta dựa vào đánh giá tăng trưởng của cây rừng. Nếu có hiện tượng tỉa thưa tự nhiên thì trị số tăng trưởng của cây rừng sẽ âm (như vậy đánh giá tăng trưởng của cây rừng sẽ phản ánh khá trung thực tăng trưởng của lâm phần). Nếu tạm phân mức tăng trưởng của các loài cây sống ở rừng tự nhiên sẽ chia làm 4 cấp:
Tăng trưởng rất chậm: Tăng trưởng đường kính bé hơn 0.3 cm/ năm.
Tăng trưởng chậm: Tăng trưởng đường kính nằm trong khoảng (0.3-0.5) cm/năm.
Tăng trưởng trung bình: Tăng trưởng đường kính nằm trong khoảng (0.6-0.8) cm/năm.
Tăng trưởng nhanh: Tăng trưởng đường kính lớn hơn 0.8 cm/năm.
Ý nghĩa
Trong kinh doanh lâm nghiệp, đánh giá tăng trưởng rừng giúp người kinh doang nắm được trữ lượng lâm phần, có các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động thích hợp.
Đánh giá tăng trưởng rừng còn giúp chúng ta xây dựng được các mẫu rừng chuẩn tự nhiên của các vùng sinh thái. Trên cơ sở này chúng ta có thể xác định thời gian và số lần chặt nuôi dưỡng cũng như luân kỳ khai thác rừng cho từng vùng riêng.
Tăng trưởng rừng ở Việt nam
Đa số rừng ở Việt nam ta có tổ thành từ những cây sinh trưởng chậm và trung bình. Đó là lý do chính giải thích năng suất rừng tự nhiên của Việt nam thấp. Theo nhiều nghiên cứu của viện điều tra và quy hoạch rừng, viện khoa học lâm nghiệp, thì tăng trưởng rừng tự nhiên ở Việt nam khoảng 2–4 m³/ha/năm, được cho là chậm. |
Chyngyz Torekulovich Aytmatov () (12/12/1928 - 10/6/2008) là một nhà văn người Kyrgyzstan. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về quê hương ông. Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Aitmatov là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Kyrgyzstan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh, thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu.
Tiểu sử và sự nghiệp
Ông được sinh ra từ một người cha và người mẹ Tatar. Cha mẹ của Aitmatov là công chức ở Sheker. Năm 1937, cha ông bị buộc tội "chủ nghĩa dân tộc tư sản" tại Moscow, bị bắt và xử tử năm 1938.
Aitmatov sống tại thời điểm mà Kyrgyzstan đang được chuyển đổi từ một trong những vùng đất xa xôi nhất của Đế quốc Nga sang một nước cộng hòa thuộc Liên Xô. Tác giả tương lai đã học tại một trường học của Liên Xô ở Sheker. Ông cũng làm việc từ khi còn nhỏ. Mười bốn tuổi, ông là trợ lý cho Bộ trưởng tại Làng Xô Viết. Sau đó, ông giữ các công việc như một người thu thuế, một người tải, một trợ lý kỹ sư và tiếp tục với nhiều loại công việc khác.
Năm 1946, ông bắt đầu học tại Phòng Chăn nuôi của Viện Nông nghiệp Kirghiz ở Frunze, nhưng sau đó chuyển sang nghiên cứu văn học tại Viện Văn học Maxim Gorky ở Moscow, nơi ông sống từ năm 1956 đến 1958. Trong tám năm tiếp theo, ông làm việc cho Pravda. Hai ấn phẩm đầu tiên của ông xuất hiện vào năm 1952 bằng tiếng Nga: "The Boy Boy Dziuio". Tác phẩm đầu tiên của ông được xuất bản ở Tiếng Slovak là "Tiếng Pháp" (Mưa trắng, 1954), và tác phẩm nổi tiếng của ông "Jamila" (Jamila) xuất hiện vào năm 1958. Năm 1961, ông là thành viên ban giám khảo tại Liên hoan phim quốc tế Moscow lần thứ 2 Năm 1971, ông là thành viên ban giám khảo tại Liên hoan phim quốc tế Moscow lần thứ 7.
Năm 1980 chứng kiến cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông "Và một ngày dài hơn thế kỷ"; cuốn tiểu thuyết quan trọng tiếp theo của ông, The Scaffold đã được xuất bản năm 1988. "Và một ngày dài hơn thế kỷ" và các tác phẩm khác đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Năm 1994, ông là thành viên ban giám khảo tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 44. [4] Năm 2002, ông là Chủ tịch Ban giám khảo tại Liên hoan phim quốc tế Moscow lần thứ 24.
Aitmatov bị suy thận, và vào ngày 16 tháng 5 năm 2008, được đưa vào bệnh viện ở Nieders, Đức, nơi ông qua đời vì viêm phổi vào ngày 10 tháng 6 năm 2008 ở tuổi 79. [1] Trước khi chết, Aitmatov đã bay đến Kyrgyzstan, nơi có rất nhiều nghi lễ trước khi ông được chôn cất tại nghĩa trang Ata Beyit, nơi ông đã giúp tìm thấy và nơi mà cha ông rất có thể được chôn cất, tại làng Chong-Tash, Alamüdün huyện, Chüy oblast, Kyrgyzstan.
Cáo phó của ông trên tờ Thời báo New York đã mô tả ông là "một nhà văn Cộng sản có tiểu thuyết và kịch trước khi Liên Xô sụp đổ đã lên tiếng cho người dân của nước cộng hòa Xô Viết xa xôi" và nói thêm rằng ông "sau đó trở thành một nhà ngoại giao và một bạn và cố vấn cho nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev. "
Tác phẩm
Mặt đối mặt (1955)
Kình địch (1957)
Giamilia (1958)
Mắt lạc đà (1960)
Cây phong non trùm khăn đỏ (1961)
Người thầy đầu tiên (1962)
Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963) (tập truyện gồm các truyện Người thầy đầu tiên, Mắt lạc đà, Cây phong non trùm khăn đỏ, Mặt đối mặt, Kình địch)
Vĩnh biệt Gyulsary (1966)
Con tàu trắng (1970)
Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov)
Sếu đầu mùa (1975)
Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977)
Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок)
Đoạn đầu đài (1986)
Тавро Кассандры, (1996)
Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998)
Когда падают горы (2006)
Материнское поле (2012)
Vinh danh
Chyngyz Aytmatov được trường Đại học Quốc gia Moskva phong tặng hàm giáo sư. |
Trong tiếng Việt, nhà có thể chỉ:
Một công trình xây dựng thường để cư trú: nhà.
Một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam: nhà Lý, nhà Trần,...
Một cá nhân có kiến thức hoặc nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực tương ứng: nhà vật lý, nhà hóa học,...
Chỗ ở |
Một mô hình vận chuyển nước là một mô hình toán học được sử dụng để mô phỏng sông hoặc dòng chảy và tính các thông số về chất lượng nước. Các mô hình này, nhìn chung, đi vào sử dụng trong những năm 1960 và 1970, khi có một số nhu cầu dự báo chất lượng nước do pháp luật về môi trường, và cũng tại thời điểm đó bắt đầu phổ biến việc sử dụng sức mạnh cực lớn của máy tính. Rất nhiều mô hình đầu tiên được phát triển tại Mỹ và Anh, và ngày nay các mô hình này được cải tiến và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Có rất nhiều mô hình được ứng dụng trong tính toán ô nhiễm nước bởi nhiều thông số khác nhau đã được đưa ra để mô phỏng trạng thái biến đổi của chất ô nhiễm, thời gian phát tán chất ô nhiễm... Mô hình được xem là tốt thì phải có khả năng dự báo được nhiều điểm trên dòng sông, tất nhiên là với độ chính xác có thể chấp nhận được. Các mô hình cơ bản thường chỉ mô tải một chất ô nhiễm thải vào nguồn tiếp nhận tại một điểm. Còn đối với các mô hình phức tạp nhiều nguồn tuyến chảy vào nguồn tiếp nhận mang theo rất nhiều chất ô nhiễm, các chất ô nhiễm này có thể phản ứng với nhau hoặc bị tác động của sinh vật có trong nước, bao gồm cả lượng nước ngầm trong cùng lưu vực.
Các mô hình thông thường gồm nhiều modul để mô phỏng quá trình theo trình tự từng bước một. MJodul phổ biến nhất là chương trình con để tính toán dòng chảy mặt dựa trên yếu tố sử dụng đất, địa hình, đất, lớp phủ thực vật, lượng mưa hoặc tuyết, và quản lý đất đai (như mức độ sử dụng phân bón). Ý tưởng mô hình thủy văn cũng có thể được ứng dụng các môi trường khác như đại dương, tuy nhiên đối tượng chính của mô hình (trong bài này) chủ yếu đề cập đến lưu lực sông. |
Wolfgang Ernst Pauli (25 tháng 4 năm 1900 – 15 tháng 12 năm 1958) là một nhà vật lý người Áo chuyên nghiên cứu về hạt cơ bản, spin, và đã đưa ra nguyên lý loại trừ Pauli nổi tiếng. Ông được Giải Nobel Vật lý năm 1945.
Tiểu sử
Pauli sinh ra ở Viên cha là Wolfgang Joseph Pauli và mẹ là Berta Camilla Schütz. Tên giữa của ông là theo tên cha đỡ đầu, nhà vật lý Ernst Mach. Cha của Pauli, Wolfgang Pauli, Sr. (nguyên là Wolf Pascheles), cha mẹ có nguồn gốc từ một gia đình Do Thái nổi tiếng ở Praha, chuyển từ đạo Do Thái sang Công giáo La Mã không lâu trước khi ông lập gia đình vào năm 1899. Bertha Schütz lớn lên theo truyền thống Công giáo của mẹ, nhưng cha bà là nhà văn Do Thái Friedrich Schütz. Mặc dù Pauli lớn lên trong truyền thống Công giáo, cuối cùng ông và cha mẹ đã rời khỏi nhà thờ công giáo.
Pauli theo học Döblinger-Gymnasium tại Wien, tốt nghiệp loại giỏi vào năm 1918. Chỉ 2 tháng sau khi tốt nghiệp, cậu bé thiên tài đã xuất bản bài báo khoa học đầu tiên, về lý thuyết tương đối của Albert Einstein. Ông theo học tại Đại học Ludwig-Maximilians tại München, dưới sự hướng dẫn của Arnold Sommerfeld, nơi ông nhận bằng tiến sĩ vào tháng 7 năm 1921 cho một luận văn về cơ học lượng tử của phân tử hydrogen ion hóa.
Sommerfeld yêu cầu Pauli viết bài tóm tắt cho lý thuyết tương đối cho Encyklopaedie der mathematischen Wissenschaften, một từ điển bách khoa của Đức. Hai tháng sau khi nhận bằng tốt nghiệp, Pauli đã hoàn thành bài tóm tắt, dài đến 237 trang. Bài đó được khen bởi Einstein; xuất bản như là một monograph, và là một tài liệu tham khảo chuẩn cho đến ngày hôm nay.
Ông làm trợ lý cho Max Born tại Đại học Göttingen trong thời gian một năm. Sau đó ông nghiên cứu Vật lý lý thuyết tại Copenhagen mà ngày nay là Viện Niels Bohr.
Vào năm 1928, ông được phong chức giáo sư Vật lý lý thuyết tại ETH Zurich, Thụy Sĩ nơi ông đã có nhiều đóng góp cho tiến bộ của khoa học. Ông đạt các danh hiệu giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Michigan vào năm 1931, và Institute for Advanced Study tại Princeton, New Jersey năm 1935. Ông được tặng thưởng Huy chương Lorentz vào năm 1931.
Năm 1931, ông đoạt Huy chương Lorentz.
Vào năm 1934, ông thành hôn với Franciska Bertram. Cuộc hôn nhân này kéo dài đến hết đời ông. Họ không có con.
Năm 1945, ông nhận giải Nobel Vật lý cho những "đóng góp quyết định thông qua khám phá năm 1925 một luật mới của tự nhiên, nguyên lý loại trừ hay là nguyên lý Pauli principle." Albert Einstein là người đã đề cử ông đến giải thưởng này.
Vào năm 1958, Pauli được tặng thưởng Huy chương Max Planck. Cùng năm đó, ông ngã bệnh vì ung thư thận. Khi trợ lý cuối cùng của ông, Charles Enz, thăm ông tại bệnh viện Rotkreuz ở Zurich, Pauli hỏi anh ta: "Ông có thấy số phòng không?" Đó là phòng 137. Cả cuộc đời, Pauli bận tâm suy nghĩ với câu hỏi tại sao hằng số cấu trúc vi mô, một hằng số cơ bản, có giá trị gần với 1/137. Pauli qua đời ở phòng đó vào 15 tháng 12 năm 1958.
Giai thoại
Theo các đồng nghiệp của Pauli kể lại thì cứ hễ mỗi lần Pauli xuất hiện ở phòng thí nghiệm thì y như rằng sẽ có một cái gì đó hỏng: mất điện, rò rỉ ống chân không, đổ vỡ dụng cụ... và từ đó họ truyền miệng cái gọi là "hiệu ứng pauli". Phòng thí nghiệm của giáo sư James Frank thuộc Viện Vật lý Đại học Gottingen bỗng nhiên bị hỏng tan tành đúng lúc chuyến tàu Pauli đi từ Zurich đến Copenhagen dừng lại tại nhà ga Gottingen để đón khách. Sự kiện này cũng được nhắc đến như hiệu ứng Pauli.
Chú thích
Các tác phẩm
Sách về Pauli
(historical fiction) |
Họ Cà hay còn được gọi là họ Khoai tây (danh pháp khoa học: Solanaceae) là một họ thực vật có hoa, nhiều loài trong số này ăn được, trong khi nhiều loài khác là các cây có chứa chất độc (một số loài lại có cả các phần ăn được lẫn các phần chứa độc).
Tên gọi khoa học của họ này có nguồn gốc từ tiếng Latinh Solanum nghĩa là "cây cà dược", nhưng từ nguyên xa hơn nữa thì không rõ ràng; người ta cho rằng nó có nguồn gốc từ một động từ trong tiếng Latinh là solari, mang nghĩa "làm dịu". Điều này có lẽ là chỉ tới các tính chất làm dịu của một số loài có tính chất dược phẩm trong họ này. Tuy nhiên, rất có thể là tên gọi này đến từ sự tương tự thấy được của hoa một số loài luôn nghiêng về phía mặt trời và các tia nắng của nó, và trên thực tế một loài của chi Solanum là Solanum nigrum được biết đến dưới tên gọi sunberry (quả mọng mặt trời). Họ này bao gồm cà độc dược (chi Datura), cà tím, khoai ma, cà dược (benlađôn), ớt, khoai tây, thuốc lá, cà chua và cỏ dã yên. Họ Cà là một họ có quan hệ chặt chẽ với con người trong phương diện được con người sử dụng. Nó là một nguồn quan trọng trong cung cấp lương thực, thực phẩm, gia vị và một số loại thuốc. Tuy nhiên, các loài họ Cà thường chứa nhiều glucozit dạng ancaloit có thể gây ra ngộ độc đối với con người và động vật từ mức dị ứng nhẹ tới tử vong chỉ với một lượng nhỏ. Theo hệ thống APG II năm 2003 thì họ này chứa 102 chi với 2.460 loài.
Đặc điểm
Hoa của chúng có dạng hình nón hay phễu với 5 cánh hoa, thông thường là hòa lẫn. Lá mọc so le, thường có lông hoặc bề mặt hơi dính. Các loài trong họ này sinh ra quả hoặc là quả mọng (cà chua) hay quả nang dễ nứt như trong trường hợp của chi Datura. Hạt thường là tròn và bẹt, đường kính 2–4 mm. Các nhị hoa là bội số của 4 (thường là 4 hoặc 8). Các bầu nhụy ở phía dưới. Nhụy hoa dưới bầu là loại quả tụ nằm xiên so với điểm giữa.
Ancaloit
Họ Cà được biết đến vì chúng có được một loạt các glocozit dạng ancaloit đa dạng. Khi liên quan tới con người, chúng có thể là hữu ích mà cũng có thể là chất độc hoặc đóng cả hai vai trò, mặc dù chúng có lẽ được tiến hóa để làm giảm sự thích ăn các loài cây này của động vật.
Một trong các nhóm quan trọng nhất là nhóm các ancaloit tropan. Thuật ngữ "tropan" đến từ tên gọi khoa học của một chi là Atropa (chi chứa cây benlađôn), trong đó các ancaloit này được tìm thấy. Chi chứa cây benlađôn được đặt theo tên gọi của một vị thần Hy Lạp liên quan đến số mệnh là nữ thần Atropos, người cắt sợi chỉ của sự sống. Danh pháp này liên quan tới độc tính và khả năng gây tử vong đặc trưng của các hợp chất này mà người ta đã biết đến từ lâu. Các ancaloit tropan cũng có mặt trong các chi Datura, Mandragora và Brugmansia, cũng như trong nhiều loài khác thuộc họ Cà. Về mặt hóa học, các phân tử của các hợp chất này có cấu trúc hai vòng đặc trưng và bao gồm atropin, scopolamin và hyoscyamin. Về mặt dược học, chúng là những chất chống cholin mạnh nhất hiện có, nghĩa là chúng ngăn cản các tín hiệu thần kinh được các chất truyền tải tín hiệu thần kinh nội sinh là axetylcholin (ACh) truyền tải. Các triệu chứng của việc sử dụng quá liều có thể là khô miệng, giãn đồng tử, mất điều hòa, bí tiểu, ảo giác, co giật, hôm mê và tử vong. Mặc dù là chất cực độc, nhưng các tropan vẫn là một loại dược phẩm quan trọng khi sử dụng đúng liều chỉ định (một lượng cực nhỏ). Chúng có thể giải ngộ độc cholin, có thể do sự phơi nhiễm quá mức trước các thuốc trừ dịch hại và các tác nhân của chiến tranh hóa học, chẳng hạn như sarin và VX. Thông dụng hơn thì chúng có thể ngăn chặn nhiều loại hình dị ứng. Scopolamin, thông thường được sử dụng như một tác nhân trong nhãn khoa, có tác dụng làm giãn đồng tử và vì thế làm cho việc kiểm tra mắt được thuận tiện hơn. Chúng cũng có thể dùng làm chất chống gây nôn đối với những người bị hội chứng say tàu xe hoặc những người đang dùng hóa học trị liệu. Atropin có hiệu ứng kích thích lên hệ thần kinh trung ương và tim, trong khi scopolamin có tác dụng giảm đau.
Cocain cũng được coi là một dạng ancaloit tropan do sự tương tự về cấu trúc với các hợp chất nêu trên. Tuy nhiên, thuộc tính dược học của nó là hoàn toàn khác và nó hoàn toàn không có mặt trong các loài thuộc họ Cà.
Ancaloit nổi tiếng nhất trong các cây họ Cà có lẽ là nicotin. Giống như các tropan, tác động dược học của nó là trên các nơron cholin, nhưng với các hiệu ứng ngược lại. Nó có đặc trưng cao hơn cho các thụ quan axetylcholin nicotin (nAChRs) so với các protein ACh khác. Các hiệu ứng của nó được biết khá rõ. Nicotin trong tự nhiên có mặt trong chi Nicotiana tức chi Thuốc lá.
Capsaicin về mặt cấu trúc thì không liên quan gì với nicotin và các tropan, nó được tìm thấy trong chi Capsicum, bao gồm các loài ớt, chẳng hạn như Tabasco peppers và ớt Habana. Hợp chất này không phải là một chất độc đáng kể với động vật. Tuy nhiên, nó kích thích các thụ quan cảm nhận cảm giác đau đớn đặc biệt ở phần lớn các động vật có vú, các thụ quan này cảm nhận nhiệt ở các màng nhầy trong miệng cũng như ở các mô biểu mô khác. Điều này gây ra cảm giác cay (nóng) không giống như do nhiệt thực sự hoặc bỏng do hóa chất. Nó được dùng dưới dạng quả tươi, ngâm dấm hoặc dạng bột cũng như được thêm vào trong nhiều món ăn với vai trò của một chất gia vị. Người ta cho rằng nguyên nhân mà một người cảm thấy cay và nóng khi ăn ớt là sự giải phóng các morphin nội sinh (endormorphin) mà nó gây ra. "Độ cay" của các sản phẩm chứa capsaicin được biểu diễn theo thang Scoville. Một đơn vị scoville là hệ số mà theo nó thì các chất chứa capsaicin phải được hòa loãng để dung dịch nhận được không gây ra cảm giác gì cho người thử nghiệm (ví dụ, một thìa trà của loại nước chấm cay 5.000 đơn vị Scoville cần phải được hòa tan với 4.999 thìa trà nước đường để làm mất đi khả năng của nó trong việc tạo ra cảm giác khẩu vị).
Phân bố
Các loài trong họ cà được tìm thấy khắp mọi nơi trên hầu hết các lục địa, trừ Nam Cực. Phần lớn các loài được tìm thấy ở Trung Mỹ và Nam Mỹ. Các khu vực tập trung nhiều khác như Australia và Châu Phi. Họ Cà chiếm hữu nhiều hệ sinh thái khác nhau từ hoang mạc đến rừng nhiệt đới, và thường được tìm thấy tring các thảm phủ thứ cấp ở những vùng đã bị khai phá. Nhìn chung, các cây trong họ này phân bố ở vùng nhiệt đới và ôn đới.
Phân loại
Họ Cà Solanaceae
Phân họ Browallioideae (hay Cestroideae)
Tông Benthamielleae
Tông Browallieae
Tông Cestreae
Tông Salpiglossideae
Tông Unassigned Browallioideae
Phân họ Goetzeoideae
Phân họ Nicotianoideae
Phân họ Petunioideae
Phân họ Schizanthoideae
Phân họ Schwenckioideae
Phân họ Solanoideae
Tông Capsiceae
Tông Datureae
Tông Hyoscyameae
Tông Jaboroseae
Tông Juanulloeae
Tông Lycieae
Tông Mandragoreae
Tông Nicandreae
Tông Nolaneae
Tông Physaleae
Tông Solandreae
Tông Solaneae
Tông Incertae sedis
Một số chi
Acnistus
Atropa (cà dược)
Browallia
Brugmansia
Brunfelsia
Calibrachoa
Capsicum (ớt)
Cestrum (dạ lan hương)
Chamaesaracha
Combera
Crenidium
Cuatresia
Cyphanthera
Cyphomandra
Datura (cà độc dược)
Hyoscyamus (kỳ nham)
Iochroma
Juanulloa
Lycium (cẩu kỷ)
Mandragora (khoai ma)
Nicandra
Nicotiana (thuốc lá)
Nierembergia
Nolana
Petunia
Physalis (tầm bóp)
Scopolia
Solandra
Solanum (cà chua, khoai tây, cà tím)
Streptosolen
Withania
Tầm quan trọng dinh dưỡng
Loài có tầm quan trọng toàn cầu trong họ này có lẽ là khoai tây (Solanum tuberosum). Mặc dù loài cây này nói chung được coi là độc, nhưng các phần phình ra dưới đất của thân đã biến đổi, được gọi là củ nói chung lại không độc. Thay vì thế, phần thân củ này là nơi chứa lượng cacbohyđrat dư thừa mà cả loài cây này và con người đều có thể sử dụng để thu nạp thêm năng lượng. Tuy nhiên, củ khoai tây có thể trở thành chứa chất độc nếu nó đang nảy mầm. Các vùng vỏ có màu xanh chỉ ra rằng củ khoai tây đang chuẩn bị nảy mầm, đồng thời nó cũng là chỉ thị của sự có mặt của các chất như chaconin hay solanin. Các hợp chất glycozit này khi tích lũy nhiều trong củ có thể gây ngộ độc cho con người. Ở nhiều chi, quả là nguồn cung cấp dinh dưỡng đáng kể khi dùng làm rau ăn, chẳng hạn cà chua, cà chua vỏ khô Trung Mỹ (Physalis ixocarpa), cà tím (cà dái dê) hay cà bát, cà pháo hoặc ớt. Tuy vậy, một số người dễ bị các triệu chứng dị ứng hoặc mẫn cảm với các loài trong họ này. |
Bộ Cà (danh pháp khoa học: Solanales) là một bộ thực vật có hoa, được bao gồm trong nhóm Cúc (asterid) của thực vật hai lá mầm. Một số văn bản cũ còn dùng tên gọi Polemoniales cho bộ này.
Phân loại
Các họ dưới đây được tính là thuộc bộ Cà trong hệ thống phân loại mới của Angiosperm Phylogeny Group (APG):
Họ Solanaceae (cà độc dược, cà tím, khoai tây, thuốc lá, cà chua v.v; bao gồm cả họ Nolanaceae cũ)
Họ Convolvulaceae (họ bìm bìm, khoai lang, rau muống, tơ hồng)
Họ Montiniaceae
Họ Sphenocleaceae
Họ Hydroleaceae
Hệ thống APG II và hệ thống APG III coi bộ Cà là một phần của nhóm Cúc thực thụ I (Euasterids I).
Các loài được biết đến nhiều nhất trong bộ Cà là các loài cà (độc dược, cà pháo, cà bát, cà tím v.v), khoai tây, khoai lang, cà chua, thuốc lá và dã yên thảo (thuốc lá cảnh).
Trong hệ thống Cronquist, ba họ sau cùng trong phân loại của APG trên đây được đặt ở các bộ khác, còn bộ này thì lại có thêm các họ sau:
Họ Duckeodendraceae (hiện nay được coi là một phần/từ đồng nghĩa của họ Solanaceae)
Họ Nolanaceae (hiện nay được coi là một phần/từ đồng nghĩa của họ Solanaceae)
Họ Cuscutaceae (hiện nay được coi là một phần/từ đồng nghĩa của họ Convolvulaceae)
Họ Retziaceae (hiện nay được coi là một phần/từ đồng nghĩa của họ Stilbaceae thuộc bộ Lamiales)
Họ Menyanthaceae (hiện nay đặt trong bộ Asterales)
Họ Polemoniaceae (hiện nay đặt trong bộ Ericales)
Họ Hydrophyllaceae (hiện nay được coi là một phần của bộ Boraginales)
Phát sinh chủng loài
Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ phát sinh chủng loài của bộ Cà với các bộ khác trong nhánh Cúc như sau:
Cây phát sinh chủng loài trong phạm vi bộ Cà dưới đây lấy theo Bremer B. và ctv (2002). |
Trong vật lý học và điện từ học, lực Lorentz là lực tổng hợp của lực điện và lực từ tác dụng lên một điện tích điểm chuyển động trong trường điện từ.
Định luật phát biểu rằng nếu hạt có điện tích q (C) chuyển động với vận tốc v (m/s) trong điện trường E (V/m) và từ trường B (T) thì nó sẽ chịu lực tác dụng lên nó. Định luật III Newton phát biểu về lực và phản lực, do vậy mặc dù phản lực của từ trường là nhỏ nhưng nó phải được tính đến. Lực Lorentz bằng:
Các công thức phát sinh từ công thức cơ bản này miêu tả lực từ tác dụng lên dây dẫn có dòng điện chạy qua (đôi khi gọi là lực Laplace), lực điện từ trong một vòng dây di chuyển qua từ trường (một khía cạnh của định luật cảm ứng điện từ Faraday), và lực tác dụng lên điện tích điểm chuyển động với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng (dạng tương đối tính của lực Lorentz).
Oliver Heaviside là người đầu tiên suy luận ra công thức cho lực Lorentz vào năm 1889, mặc dù một số nhà lịch sử cho rằng James Clerk Maxwell đã đưa ra nó trong một bài báo năm 1865. Định luật được đặt theo tên của Hendrik Lorentz, người tìm ra công thức sau Heaviside một vài năm và ông đã nghiên cứu và giải thích chi tiết ý nghĩa của lực này.
Lực từ động
Thành phần gây ra bởi từ trường của lực này, còn gọi là lực từ hay đôi khi là lực Lorentz, có phương luôn vuông góc với phương chuyển động của hạt mang điện và làm thay đổi quỹ đạo chuyển động của hạt mang điện. Nếu hạt mang điện chuyển động theo phương vuông góc với đường cảm ứng từ thì hạt sẽ chuyển động theo quỹ đạo tròn, nếu hạt chuyển động theo phương không vuông góc với đường cảm ứng từ thì quỹ đạo của nó sẽ là hình xoắn ốc.
Lực tác động của từ trường lên dòng điện có nguyên nhân là thành phần này của lực Lorentz.
Lực từ giữa các cực của nam châm, cũng là tổng hợp lực gây ra bởi từ trường của nam châm này lên các electron chuyển động quanh nguyên tử ở nam châm kia, về bản chất cũng là thành phần này của lực Lorentz: |
Ngũ Lĩnh (chữ Hán: 五岭), còn gọi là Nam Lĩnh (giản thể: 南岭, chữ Hán phồn thể: 南嶺), là tên loạt dãy núi ở vùng ranh giới các tỉnh Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc. Nhóm núi trải dài 600 km từ Tây sang Đông trong khu vực từ vĩ tuyến 24 đến vĩ tuyến 26, ngăn cách vùng Lưỡng Quảng với phần lãnh thổ phía nam của vùng Giang Nam.
Ngũ Lĩnh gồm 5 dãy núi nhỏ: Việt Thành Lĩnh (越城岭), Đô Bàng Lĩnh (都庞岭), Manh Chử Lĩnh (萌渚岭), Kỵ Điền Lĩnh (骑田岭) và Đại Dữu Lĩnh (大庾岭). Ngũ Lĩnh cũng là đường phân thủy giữa hai con sông lớn là Dương Tử và Châu Giang. Mai Quan cổ đạo được mở tại Đại Dữu Lĩnh dưới thời nhà Đường. Khu vực phía nam dãy núi Nam Lĩnh gọi là Lĩnh Nam.
Các dãy núi hợp thành
Việt Thành Lĩnh giữa Hồ Nam với Quảng Tây, có đỉnh Miêu Nhi Sơn (猫儿山) cao 2.142 m.
Đô Bàng Lĩnh giữa Hồ Nam với Quảng Tây, có núi Cửu Thái Lĩnh (韭菜岭) cao 2.009 m.
Manh Chử Lĩnh giữa Hồ Nam với Quảng Tây có đỉnh Mã Đường (马塘顶) cao 1.787 m.
Kỵ Điền Lĩnh ở Trầm Châu, Hồ Nam, có đỉnh cùng tên cao 1.510 m.
Đại Dũ Lĩnh giữa Quảng Đông và Giang Tây, có núi Du Sơn cao 1.073 m.
Ngoài ra còn có:
Cửu Nghi Sơn giữa Hồ Nam với Quảng Đông.
Hải Dương Sơn có đỉnh Bảo Giới Lĩnh (宝界岭) cao 1.935,8 m.
Địa chất
Phần lõi của Nam Lĩnh chủ yếu là đá hoa cương, được che phủ chủ yếu là sa thạch cứng có niên đại thuộc kỷ Devon và đá vôi thuộc kỷ Than Đá. Các dãy núi hợp thành Nam Lĩnh chủ yếu chạy theo hướng đông bắc-tây nam, nhưng về tổng thể thì Nam Lĩnh chạy dài theo hướng đông-tây. Giữa các dãy núi có các thung lũng và các dãy đồi thấp. Gió bắc lạnh khô đôi khi vượt qua các Ngũ Lĩnh ở các thung lũng và đồi thấp này nhưng nói chung bị ngăn lại bởi vùng không khí ấm ẩm phía nam dãy núi. |
Chi Lưu ly hay Borage là một chi thực vật có danh pháp khoa học là Myosotis trong một họ thực vật có hoa là họ Mồ hôi (Boraginaceae - lấy theo tên cây mồ hôi Borago officinalis), tuy nhiên trong các văn bản về thực vật bằng tiếng Việt gọi nó là họ Vòi voi nhiều hơn, lấy theo tên loài vòi voi là Heliotropium indicum). Nguồn gốc ở châu Âu.
Tiếng Việt còn gọi Myosotis theo chữ Nho là "sơn miêu nhi nhãn" có nghĩa là "mắt con mèo núi bé con".
Từ nguyên
Tên gọi khoa học của chi có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là "tai chuột", theo hình dáng lá.
Mô tả chung
Có khoảng 50 loài lưu ly trong chi này, và chúng khác biệt nhau một cách đáng kể. Tuy nhiên, một lượng lớn các loài có chung các đặc điểm được miêu tả như hoa màu lam-tím, nhỏ (đường kính 1 cm) với 5 cánh hoa mọc dày dặc trên các thân cây bò lan um tùm, ra hoa vào mùa xuân. Các loại màu sắc khác của hoa cũng không phải là bất thường trong chi này, với các dạng màu hồng hay trắng vẫn có thể tồn tại. Chúng hay được trồng trong vườn và các giống trồng thường có hoa với màu sắc hỗn tạp.
Hoa mọc thành xim ngắn ở ngọn thân, đài có lông, tràng màu hồng sau chuyển thành màu lam, thơm, có ống dài bằng các thùy, phía trên xẻ 5 thùy.
Các loài lưu ly có thể là cây một năm hoặc cây lâu năm. Hệ thống bộ rễ của chúng nói chung là rễ chùm. Hạt của chúng được tìm thấy trong các quả dạng quả đậu nhỏ, hình tulip dọc theo thân tới hoa. Quả đậu bám vào quần áo khi va chạm phải chúng và cuối cùng rơi xuống đất, giải phóng các hạt nhỏ để chúng có thể nảy mầm ở mọi nơi.
Các loài lưu ly bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hoại, như Xestia c-nigrum.
Các loài lưu ly khá phổ biến ở nhiều nơi. Phần lớn các loài là đặc hữu của New Zealand, mặc dù một hoặc hai loài có nguồn gốc châu Âu, đặc biệt là loài lưu ly rừng (Myosotis sylvatica) đã được đưa vào nhiều khu vực ôn đới của châu Âu, châu Á và châu Mỹ. Loài lưu ly đầm lầy (Myosotis scorpioides) còn được gọi là cỏ bò cạp.
Hoa tượng trưng cho niềm hy vọng về một mối tình chung thủy.
Hoa lưu ly là hoa biểu tượng của bang Alaska. Nó cũng là hoa chính thức của liên đoàn các bà xơ Alpha Phi (ΑΦ) và hiệp hội Alpha Phi Omega (ΑΦΩ).
"Xin đừng quên tôi"
Trong một số ngôn ngữ, tên gọi của hoa lưu ly có nghĩa "xin đừng quên tôi". Tên tiếng Anh "Forget me not" được mượn từ tên tiếng Pháp cổ là "Ne m'oubliez pas" và được dùng lần đầu tiên vào khoảng năm 1532. Nhiều ngôn ngữ châu Âu và ngoài châu Âu khác cũng vay mượn cái tên này, chẳng hạn tiếng Nga "Незабудка" (Nezabudka) tiếng Đức "vergissmeinnicht", tiếng Ba Lan "niezapominajki", tiếng Đan Mạch "forglem-mig-ej", tiếng Hà Lan "vergeet-mij-nietje", Esperanto "neforgesumino", tiếng Triều Tiên "물망초" (勿忘草, mul mang cho), tiếng Nhật "wasurenagusa", tiếng Hebrew "זכריני" (Zichrini), tiếng Ba Tư (Farsi) "فراموشم مکن" (farâmusham makon), v.v.
Theo truyền thuyết của Đức, khi Chúa trời đặt tên cho các loài cây thì một loài cây bé nhỏ chưa có tên khóc lóc: "Ôi lạy Đức Chúa, xin đừng quên con", và Chúa trời đáp lại: "Đó sẽ là tên của ngươi". Vào thế kỷ 15 ở Đức, người ta cho rằng những người mang theo hoa này sẽ không bao giờ bị người tình quên lãng.
Truyền thuyết nói rằng trong thời Trung cổ, một hiệp sĩ cùng người tình đi dọc theo bờ sông. Chàng hiệp sĩ cố nhổ một cụm hoa, nhưng do bộ áo giáp nặng nề nên đã bị rơi xuống nước. Khi bị chìm xuống, anh ta đã ném bó hoa cho tình nhân của mình và kêu lên "xin đừng quên anh". Vì thế loài hoa này gắn liền với chuyện tình lãng mạn và định mệnh bi thảm. Nó thường được các cô gái mang theo như là biểu hiện của lòng chung thủy và tình yêu vĩnh cửu.
Vua Henry IV đã chọn loài hoa này làm biểu tượng trong thời gian ông tha hương năm 1398 và tiếp tục chọn làm biểu tượng của mình khi trở về Anh vào năm sau đó.
Một số loài
Myosotis albiflora
Myosotis alpestris (M.palustris; M.scorpioides)- Lưu ly miền núi, Xin đừng quên tôi
Myosotis antarctica
Myosotis arvensis - Lưu ly đồng
Myosotis asiatica - Lưu ly châu Á
Myosotis azorica - Lưu ly Azores
Myosotis baltica - Lưu ly Baltic
Myosotis bothriospermoides
Myosotis caespitosa - Lưu ly búi
Myosotis decumbens
Myosotis densiflora
Myosotis incrassata
Myosotis krylovii
Myosotis lamottiana
Myosotis latifolia - Lưu ly lá rộng
Myosotis laxa - Lưu ly búi, lưu ly vịnh
Myosotis lithospermifolia
Myosotis nemorosa
Myosotis popovii
Myosotis ramosissima
Myosotis rivularis
Myosotis sachalinensis
Myosotis scorpioides - Lưu ly đầm lầy
Myosotis sicula - Lưu ly Jersey
Myosotis sparsiflora
Myosotis speluncicola
Myosotis stenophylla
Myosotis stricta (đồng nghĩa: M. discolor) - Lưu ly hoa nhỏ
Myosotis strigulosa
Myosotis sylvatica - Lưu ly rừng
Myosotis verna - Lưu ly mùa xuân
Hình ảnh |
Tân Thạnh là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Tân Thạnh nằm ở phía tây của tỉnh Long An, nằm cách thành phố Tân An khoảng 45 km về phía tây bắc theo quốc lộ 62, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Thạnh Hóa và huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang
Phía tây giáp huyện Tân Hưng và huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp
Phía nam giáp huyện Cái Bè và huyện Cai Lậy thuộc tỉnh Tiền Giang
Phía bắc giáp thị xã Kiến Tường và huyện Mộc Hóa.
Theo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 422,85 km², dân số là 77.537 người, mật độ dân số đạt 183 người/km².
Đây là huyện duy nhất trong số 6 huyện, thị thuộc vùng Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An không giáp biên giới Campuchia.
Hhuyện có diện tích trồng tràm lớn nhất tỉnh. Tân Thạnh nằm ở vùng sâu của Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Tân Thạnh thuộc tiểu vùng 3 (gồm Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh).
Dân số - lao động
Dân số trung bình năm 1995 là 68.016 người đến năm 2001 là 76.202 người, mật độ dân số 179 người/km², chỉ bằng 60,88% mức trung bình mật độ dân số của tỉnh Long An (294 người/km²) nên Tân Thạnh được xem là huyện có mật độ dân số cao trung bình của tỉnh. Dân số thành thị có 5770 người(chiếm 7,57% dân số), dân số nông thôn 70.432 người (chiếm 92,43%), tốc độ tăng dân số bình quân 1,91%/năm.
Mật độ dân đông nhất là thị trấn Tân Thạnh 780 người/km², gấp 10,83 lần so với nơi có mật độ dân số thấp nhất là xã Nhơn Hòa 72 người/km². Mật độ dân số bình quân 179 người/km².
Tổng số lao động toàn huyện năm 2001 là 39.683 người; trong đó, nông - lâm nghiệp 33.960 người (chiếm 85,6%), công nghiệp - TTCN 643 người (chiếm 1,6%) và thương mại - dịch vụ 3.265 người (chiếm 8,2%), lao động khác 1.815 người chiếm 4,6%. Như vậy, nguồn nhân lực tập trung chủ yếu cho nông - lâm nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành diễn ra chậm.
Nguồn nhân lực ở huyện Tân Thạnh có chất lượng thấp, đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến phát triển kinh tế vì nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất. Số lao động có chuyên môn kỹ thuật và quản lý trong các ngành là 567 người (chiếm 1,42% lao động xã hội); trong đó, đại học: 195 người, cao đẳng 245 người, trung cấp 127 người. Nếu kể cả trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật ước khoảng 3.2% thì tổng số lao động được đào tạo là 4,62%, song lại tập trung ở khu vực quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Do vậy, đây là một tồn tại lớn của huyện Tân Thạnh.
Để phát triển kinh tế - xã hội, nhất thiết phải đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí, trình độ chuyên môn cho người lao động, để họ có khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
Khí hậu
Khí hậu huyện Tân Thạnh mang tính chất đặc trưng nhiệt đới gió mùa với nền nhiệt cao đều quanh năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn và phân bố theo mùa. Nhiệt độ bình quân năm là 27,2 °C, tháng 5 là tháng nóng nhất với nhiệt độ trung bình 29,3 °C và tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất 25 °C. Biên độ nhiệt trong năm dao động khoảng 4,3 °C và biên độ nhiệt ngày và đêm dao động cao (từ 8 °C đến 10 °C). Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây lúa, ngô, rau đậu thực phẩm. Lượng mưa trung bình năm khá lớn 1.447,7 mm/năm và phân bố theo mùa rõ rệt. Mùa mưa trùng với mùa lũ gây ngập úng, cản trở quá trình sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Nguồn nước mặt
Tân Thạnh được hưởng lợi nguồn nước ngọt sông Tiền qua kênh trục chính Dương Văn Dương, hệ thống kênh cấp I cấp II và kênh mương thủy lợi nội đồng.
Nguồn nước ngầm
Đặc điểm nổi bật về nguồn nước ngầm trong khu vực huyện Tân Thạnh là xuất hiện sâu, giá thành khai thác cao, nên ít được khai thác. Trong khu vực huyện Tân Thạnh nước mạch nông xuất hiện ở độ sâu 30 - 40 mét, nhưng do ảnh hưởng của phèn nên chất lượng không tốt, khả năng sử dụng cho sinh hoạt bị hạn chế. Hơn nữa, tại Tân Thạnh nước ngầm có hàm lượng tổng độ khoáng hóa rất thấp (1-3g/l) và PH<4, nên việc sử dụng nước ngầm ở độ sâu <40 m để tưới hỗ trợ cho nông nghiệp và sinh hoạt rất hạn chế. Nước ngầm có khả năng khai thác ở độ sâu 260 – 290 m, trữ lượng 400m3 ngày đêm/giếng, lưu lượng nước 05 lít/s và chất lượng tốt.
Hiện nay, nước sinh hoạt của nhân dân trong huyện hầu hết dùng nước mưa và nước kênh rạch qua lọc lắng. Nước ngầm do giá thành khai thác cao nên mới có một số điểm tập trung do nhà nước đầu tư, một số xã vùng sâu đã có sự phối hợp tốt phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, xã hội hóa cấp nước sinh hoạt.
Chế độ thủy văn
Ngập lũ là quy luật thường niên của ĐBSCL, trong đó Tân Thạnh được xếp vào một trong những huyện chịu ảnh hưởng nặng nhất. Lũ lớn đang có xu thế rút ngắn chu kỳ từ 12 năm xuống còn 6 năm và 3 năm (1961, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000) trong đó lũ lịch sử năm 2000 đã gây thiệt hại rất nặng nề cho Tân Thạnh. Tuy nhiên lũ mang đến lượng phù sa đáng kể tăng thêm màu mở cho ruộng đồng, thau chua rữa phèn, tăng nguồn lợi thủy sản, vệ sinh môi trường.
Ảnh hưởng của phèn - chua: Theo dõi diễn biến của phèn - chua trên các sông, kênh rạch vùng ĐTM cho thấy Tân Thạnh bị ảnh hưởng chua phèn khá nặng. Thời điểm nước trên kênh rạch bị chua là khoảng 10 ngày sau khi bắt đầu mưa, vấn đề chua có thể giải quyết nhanh chóng khi đầu tư hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi.
Ảnh hưởng mặn: Mặn 4g/l trên sông Vàm Cỏ Tây bình quân nhiều năm chỉ ngang hoặc qua Tuyên Nhơn 4 - 5 Km về phía thượng lưu. Song, vào các năm 1992, 1993 mặn đã ảnh hưởng sâu hơn và nồng độ mặn cũng cao hơn bình quân nhiều năm. Do Tân Thạnh ở sâu trong nội đồng, xa sông Vàm Cỏ Tây với độ mặn nhỏ hơn 4g/lít nên không gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp.
Tài nguyên đất
Đất đai: Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/100.000 vùng ĐTM năm 1994 của Phân viện Quy hoạch - TKNN cho thấy toàn huyện có 3 nhóm đất với 13 đơn vị chú giải bản đồ đất; trong đó, nhóm đất phù sa có 414 ha (chiếm 0,97% DTTN) và nhóm đất phèn 35.996 ha (chiếm 84,54% DTTN), nhóm đất xáo trộn 6.168 ha chiếm 14,49% DTTN. Như vậy, hầu hết diện tích đất của huyện Tân Thạnh thuộc loại đất có vấn đề, do đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được xem là một hạn chế lớn nhất của huyện Tân Thạnh.
Đất phèn: Nhóm đất phèn có diện tích:35.996 ha, chiếm 84,55% DTTN. Đất phèn có trị số pH thấp và hàm lượng SO4—cao (0,15 - 0,25%), đặc biệt là các ion Fe2+ và Al3+ dễ gây độc hại cho cây trồng. Vấn đề sử dụng đất phèn trong sản xuất nông nghiệp ở Đồng Tháp Mười nói chung và huyện Tân Thạnh nói riêng phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng cung cấp nước ngọt trong mùa khô. Đất phèn phân bố ở hầu hết các xã trong huyện, đất có hàm lượng mùn cao, nếu giải quyết tốt vấn đề thủy lợi thì canh tác lúa đạt năng suất cao.
Tài nguyên rừng
Năm 1995 có 5.540 ha rừng, trong đó hầu hết là tràm cừ; đến năm 2001 diện tích rừng tăng lên 6.920 ha (tỷ lệ che phủ 20,75%) kể cả cây lâu năm và vườn tạp, phần lớn rừng trồng từ trước năm 1995 nên trữ lượng khá.
Nguồn tài nguyên động vật dưới tán rừng đã dần được phục hồi, đây là thành quả đáng ghi nhận của chương trình 773/TTg và 661, đã góp phần sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên cũng như khôi phục hệ sinh thái vốn có của vùng đất phèn.
Khoáng sản
Theo các tài liệu điều tra địa chất thổ nhưỡng, trên địa bàn huyện Tân Thạnh, chưa cho thấy có loại khoáng sản đặc trưng nào.
Hành chính
Huyện Tân Thạnh được chia thành 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Tân Thạnh và 12 xã: Bắc Hòa, Hậu Thạnh Đông, Hậu Thạnh Tây, Kiến Bình, Nhơn Hòa, Nhơn Hòa Lập, Nhơn Ninh, Tân Bình, Tân Hòa, Tân Lập, Tân Ninh, Tân Thành.
Lịch sử
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất Tân Thạnh thuộc tỉnh Kiến Tường.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất Tân Thạnh thuộc huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.
Ngày 19 tháng 9 năm 1980, Hội đồng Chính phủ Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 298-CP, chia huyện Mộc Hoá thành 2 huyện: Mộc Hoá và Tân Thạnh. Huyện Tân Thạnh bao gồm 10 xã: Hậu Thạnh, Nhơn Hoà Lập, Nhơn Ninh, Tân Ninh, Tân Hoà, Kiến Bình, Thủy Đông, Tân Đông, Bắc Hoà và Thuận Nghĩa Hoà.
Ngày 15 tháng 8 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 220/HĐBT, theo đó:
Chia xã Tân Ninh thành 2 xã: Tân Ninh và Tân Thành.
Chia xã Nhơn Hòa Lập thành 2 xã: Nhơn Hòa Lập và Tân Lập.
Ngày 4 tháng 4 năm 1989, chia xã Hậu Thạnh thành 2 xã: Hậu Thạnh Đông và Hậu Thạnh Tây.
Ngày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 74/HĐBT, theo đó:
Tách 948 ha diện tích tự nhiên và 70 nhân khẩu của xã Bình Thành thuộc huyện Đức Huệ để sáp nhập vào xã Thuận Nghĩa Hòa.
Chia xã Thuận Nghĩa Hòa thành 2 xã: Thuận Nghĩa Hòa và Thuận Bình.
Tách 1.400 ha diện tích tự nhiên và 1.185 nhân khẩu của xã Thủy Đông cùng 2.667 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên và hộ phi nông nghiệp ở khu vực này để thành lập thị trấn Thạnh Hóa (huyện Tân Thạnh).
Chia xã Thủy Đông thành 2 xã: Thủy Đông và Thủy Tây.
Chia xã Tân Đông thành 2 xã: Tân Đông và Tân Tây.
Từ đó, huyện Tân Thạnh bao gồm thị trấn Thạnh Hóa và 16 xã: Kiến Bình, Hậu Thạnh Tây, Tân Ninh, Tân Thành, Tân Lập, Tân Hòa, Bắc Hòa, Nhơn Ninh, Nhơn Hòa Lập, Hậu Thạnh Đông, Tân Đông, Tân Tây, Thủy Đông, Thủy Tây, Thuận Nghĩa Hòa, Thuận Bình.
Cùng ngày, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 74/HĐBT, tách thị trấn Thạnh Hoá và các xã Tân Đông, Tân Tây, Thủy Đông, Thủy Tây, Thuận Nghĩa Hoà, Thuận Bình; các xã Thạnh Phước, Tân Hiệp và Thạnh Phú của huyện Mộc Hoá để thành lập huyện Thạnh Hoá. Sau khi điều chỉnh, huyện Tân Thạnh còn 10 xã Kiến Bình, Hậu Thạnh Tây, Tân Ninh, Tân Thành, Tân Lập, Tân Hoà, Bắc Hoà, Nhơn Ninh, Nhơn Hoà Lập và Hậu Thạnh Đông với 38.220,25 ha diện tích tự nhiên, 58.219 nhân khẩu.
Ngày 31 tháng 8 năm 1992, thành lập thị trấn Tân Thạnh từ xã Kiến Bình và lập xã mới Tân Bình từ 2 xã: Kiến Bình và Tân Hoà.
Ngày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27-CP , thành lập xã Nhơn Hoà trên cơ sở 1.809 ha diện tích tự nhiên với 1.513 nhân khẩu của xã Tân Lập; 392 ha diện tích tự nhiên với 209 nhân khẩu của xã Tân Bình và 541 ha diện tích tự nhiên với 1.550 nhân khẩu của xã Nhơn Ninh.
Huyện Tân Thạnh có 1 thị trấn và 12 xã như hiện nay.
Kinh tế - xã hội
Tân Thạnh là huyện nghèo, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, cây trồng chủ lực là cây lúa và tràm. Tuy nhiên, đất đai của huyện có chất lượng thấp (đất phèn nhiều độc tố) lại phân bố trên các địa hình thấp trũng, bi chia cắt mạnh bởi kênh rạch; nên quá trình sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó khăn như: đầu tư cải tạo đất tốn kém, năng suất cây trồng thấp, giá thành cao, sản phẩm có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp và Thương mại - Dịch vụ chưa phát triển, chưa hỗ trợ cho nông nghiệp phát triển
Cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, đặc biệt là giao thông đường bộ, công trình kiểm soát lũ và cơ sở vật chất phục vụ dân sinh (trường học, y tế, chợ,...) còn thiếu nghiêm trọng, thiếu thông tin thị trường.....là những trở ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế của huyện.
Tân Thạnh nằm ở vùng sâu của Đồng Tháp Mười, hàng năm chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Sự hình thành và phát triển kinh tế - xã hội của Tân Thạnh gắn liền với quá trình khai thác đất hoang hóa, di dân xây dựng vùng kinh tế mới ở Đồng Tháp Mười. Trong phân vùng địa lý kinh tế của tỉnh Long An, Tân Thạnh thuộc tiểu vùng 3 (gồm Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh). Phương hướng phát triển kinh tế chủ yếu là Nông - lâm nghiệp, mà hàng đầu là sản xuất lúa hàng hóa.
Thuận lợi
Xét về vị trí địa lý và quá trình khai thác tài nguyên phát triển kinh tế xã hội cho thấy lợi thế cơ bản của Tân Thạnh là:
Tân Thạnh một huyện thuộc vùng Đồng Tháp Mười, được hưởng lợi nguồn nước ngọt từ sông Tiền qua trục chính là kênh Dương Văn Dương phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân.
Thông qua chương trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười của Chính phủ nên cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể.
Tân Thạnh có quốc lộ 62 và QLN2 chạy qua, là các trục giao thông vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, mặt khác hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi cho việc vận chuyển và giao lưu hàng hóa với thành phố Tân An và TP Hồ Chí Minh.
Khó khăn
Ngoài những lợi thế cơ bản nêu trên, Tân Thạnh còn có một số hạn chế:
Bị ảnh hưởng của lũ lụt thường niên, dễ gây rủi ro cho sản xuất, hư hỏng cơ sở hạ tầng hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội.
Đất đai của Tân Thạnh chủ yếu là đất phèn ở địa hình trũng có nồng độ các độc tố cao (SO42-, Al3+, Fe3+) dễ gây ảnh hưởng xấu cho cây trồng trong điều kiện chưa hoàn chỉnh thủy lợi, đồng thời ít có điều kiện để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản phẩm để phá thế độc canh cây lúa.
Cơ sở hạ tầng nông thôn như: Giao thông đường bộ, nước sinh hoạt, trạm y tế, điện, trường học, các công trình phúc lợi công cộng chưa phát triển, xa thị trường tiêu thụ nên hạn chế lớn đến việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện.
Để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cần thấy hết các lợi thế để khai thác, đồng thời khắc phục và giảm thiểu ảnh hưởng của các yếu tố hạn chế, tạo động lực phát triển nền kinh tế một cách ổn định và bền vững.
Giao thông
Tân Thạnh có quốc lộ 62, quốc lộ N2 chạy qua - là các trục giao thông vô cùng quan trọng trong việc xây dựng kinh tế kết hợp với củng cố quốc phòng, mặt khác hệ thống giao thông thủy rất thuận lợi cho việc vận chuyển và giao lưu hàng hóa với thành phố Tân An và TP Hồ Chí Minh.
Chú thích |
Muhammad Yunus (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1940) là một nhà kinh tế học người Bangladesh. Ông là người làm phổ biến khái niệm tín dụng vi mô (cho những người dân rất nghèo vay các khoản tín dụng nhỏ) và là người sáng lập Ngân hàng Grameen. Năm 2006, ông được đồng trao tặng Giải Nobel Hòa bình với chính ngân hàng của ông.
Tiểu sử
Muhammad Yunus, là người con thứ ba trong số 9 người con của một gia đình Hồi giáo. Ông sinh ngày 28.06.1940 tại làng Bathua thuộc quận Chittagong lúc đó là thuộc vùng Bengal ở Ấn Độ, bây giờ là nước Bangladesh. Cha mẹ ông, Hazi Dula Mia Shoudagar và Sufia Khatun, buôn bán đồ nữ trang. Lúc nhỏ ông sống ở làng mình cho tới khi gia đình dọn lên thành phố Chittagong vào năm 1944.
Yunus được học bổng Fulbright năm 1966 để theo học tại đại học Vanderbilt (USA). 1969 ông lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại đây và làm giảng sư kinh tế từ năm 1970 cho tới 1972 tại Middle Tennessee State University ở Tennessee, Hoa Kỳ. 1972 ông được phong làm giáo sư tại Chittagong University ở Bangladesh. từ năm 1976 ông làm quản lý cho một công trình phát triển của đại học này, từ đó mà nhà băng Grameen được thành lập vào năm 1983. Ngoài công việc làm giám đốc điều hành nhà băng này, từ năm 1996 ông còn có chức vụ cố vấn cho chính phủ Bangladesch.
Vào tháng 3 năm 2011, Yunus bị cho thôi việc ở nhà băng này với lý do là tuổi già; ông đã đưa việc này ra tòa nhưng không thành công. Ông tố cáo chính phủ Bangladesch là muốn kiểm soát nhà băng Grameen. Nhà băng sẽ trở thành một cơ quan của chính phủ, và công trình suốt cuộc đời của ông sẽ bị làm hư hại vì sự quản lý sai lầm, thiếu hiệu quả và vì chỉ chú trọng đến lời lãi.
Ngân hàng Grameen
Giải thưởng
1998 Giải Indira Gandhi
Chú thích |
Diode bán dẫn (gọi tắt là diode) là một loại linh kiện bán dẫn chỉ cho phép dòng điện đi qua nó theo một chiều mà không theo chiều ngược lại.
Có nhiều loại diode bán dẫn, như diode chỉnh lưu thông thường, diode Zener, LED. Chúng đều có nguyên lý cấu tạo chung là một khối bán dẫn loại P ghép với một khối bán dẫn loại N và được nối với 2 chân ra là anode và cathode.
Diode là linh kiện bán dẫn đầu tiên. Khả năng chỉnh lưu của tinh thể được nhà vật lý người Đức Ferdinand Braun phát hiện năm 1874. Diode bán dẫn đầu tiên được phát triển vào khoảng năm 1906 được làm từ các tinh thể khoáng vật như galena. Ngày nay hầu hết các diode được làm từ silic, nhưng các chất bán dẫn khác như selen hoặc germani thỉnh thoảng cũng được sử dụng.
Diode bán dẫn, loại sử dụng phổ biến nhất hiện nay, là các mẫu vật liệu bán dẫn kết tinh với cấu trúc p-n được nối với hai chân ra là anode và cathode.
Hoạt động
Khối bán dẫn loại P chứa nhiều lỗ trống tự do mang điện tích dương nên khi ghép với khối bán dẫn N (chứa các điện tử tự do) thì các lỗ trống này có xu hướng chuyển động khuếch tán sang khối N. Cùng lúc khối P lại nhận thêm các điện tử (điện tích âm) từ khối N chuyển sang. Kết quả là khối P tích điện âm (thiếu hụt lỗ trống và dư thừa điện tử) trong khi khối N tích điện dương (thiếu hụt điện tử và dư thừa lỗ trống).
Ở biên giới hai bên mặt tiếp giáp, một số điện tử bị lỗ trống thu hút và khi chúng tiến lại gần nhau, chúng có xu hướng kết hợp với nhau tạo thành các nguyên tử trung hòa. Quá trình này có thể giải phóng năng lượng dưới dạng ánh sáng (hay các bức xạ điện từ có bước sóng gần đó).
Sự tích điện âm bên khối P và dương bên khối N hình thành một điện áp gọi là điện áp tiếp xúc (UTX). Điện trường sinh ra bởi điện áp có hướng từ khối n đến khối p nên cản trở chuyển động khuếch tán và như vậy sau một thời gian kể từ lúc ghép 2 khối bán dẫn với nhau thì quá trình chuyển động khuếch tán chấm dứt và tồn tại điện áp tiếp xúc. Lúc này ta nói tiếp xúc P-N ở trạng thái cân bằng. Điện áp tiếp xúc ở trạng thái cân bằng khoảng 0.7V đối với diode làm bằng bán dẫn Si và khoảng 0.3V đối với diode làm bằng bán dẫn Ge.
Hai bên mặt tiếp giáp là vùng các điện tử và lỗ trống dễ gặp nhau nhất nên quá trình tái hợp thường xảy ra ở vùng này hình thành các nguyên tử trung hòa. Vì vậy vùng biên giới ở hai bên mặt tiếp giáp rất hiếm các hạt dẫn điện tự do nên được gọi là vùng nghèo (depletion region). Vùng này không dẫn điện tốt, trừ phi điện áp tiếp xúc được cân bằng bởi điện áp bên ngoài. Đây là cốt lõi hoạt động của diode.
Nếu đặt điện áp bên ngoài ngược với điện áp tiếp xúc, sự khuếch tán của các điện tử và lỗ trống không bị ngăn trở bởi điện áp tiếp xúc nữa và vùng tiếp giáp dẫn điện tốt. Nếu đặt điện áp bên ngoài cùng chiều với điện áp tiếp xúc, sự khuếch tán của các điện tử và lỗ trống càng bị ngăn lại và vùng nghèo càng trở nên nghèo hạt điện tự do. Nói cách khác diode chỉ cho phép dòng điện qua nó khi đặt điện áp theo một hướng nhất định.
Diode chỉ dẫn điện theo một chiều từ anode sang cathode. Theo nguyên lý dòng điện chảy từ nơi có điện thế cao đến nơi có điện thế thấp, muốn có dòng điện qua diode theo chiều từ nơi có điện thế cao đến nơi có điện thế thấp, cần phải đặt ở anode một điện thế cao hơn ở cathode. Khi đó ta có UAK > 0 và ngược chiều với điện áp tiếp xúc (Utiếp xúc). Như vậy muốn có dòng điện qua diode thì điện trường do UAK sinh ra phải mạnh hơn điện trường tiếp xúc, tức là: UAK >UTX. Khi đó một phần của điện áp UAK dùng để cân bằng với điện áp tiếp xúc (khoảng 0.6V), phần còn lại dùng để tạo dòng điện thuận qua diode.
Khi UAK > 0, ta nói diode phân cực thuận và dòng điện qua diode lúc đó gọi là dòng điện thuận (thường được ký hiệu là IF tức I-FORWARD hoặc ID tức I-diodeE). Dòng điện thuận có chiều từ anode sang cathode.
Khi UAK đã đủ cân bằng với điện áp tiếp xúc thì diode trở nên dẫn điện rất tốt, tức là điện trở của diode lúc đó rất thấp (tầm khoảng vài chục Ohm). Do vậy phần điện áp để tạo ra dòng điện thuận thường nhỏ hơn nhiều so với phần điện áp dùng để cân bằng với Utiếp xúc. Thông thường phần điện áp dùng để cân bằng với Utiếp xúc cần khoảng 0.6V và phần điện áp tạo dòng thuận khoảng 0.1V đến 0.5V tùy theo dòng thuận vài chục mA hay lớn đến vài Ampere. Như vậy giá trị của UAK đủ để có dòng qua diode khoảng 0.6V đến 1.1V. Ngưỡng 0.6V là ngưỡng diode bắt đầu dẫn và khi UAK = 0.7V thì dòng qua diode khoảng vài chục mA.
Nếu diode còn tốt thì nó không dẫn điện theo chiều ngược cathode sang anode. Thực tế là vẫn tồn tại dòng ngược nếu diode bị phân cực ngược với hiệu điện thế lớn. Tuy nhiên dòng điện ngược rất nhỏ (cỡ μA) và thường không cần quan tâm trong các ứng dụng công nghiệp. Mọi diode chỉnh lưu đều không dẫn điện theo chiều ngược nhưng nếu điện áp ngược quá lớn (VBR là ngưỡng chịu đựng của diode) thì diode bị đánh thủng, dòng điện qua diode tăng nhanh và đốt cháy diode. Vì vậy khi sử dụng cần tuân thủ hai điều kiện sau đây:
Dòng điện thuận qua diode không được lớn hơn giá trị tối đa cho phép (do nhà sản xuất cung cấp, có thể tra cứu trong các tài liệu của hãng sản xuất để xác định).
Điện áp phân cực ngược (tức UKA) không được lớn hơn VBR (ngưỡng đánh thủng của diode, cũng do nhà sản xuất cung cấp).
Ví dụ diode 1N4007 có thông số kỹ thuật do hãng sản xuất cung cấp như sau: VBR=1000V, IFmax = 1A, VF¬ = 1.1V khi IF = IFmax. Những thông số trên cho biết:
Dòng điện thuận qua diode không được lớn hơn 1A.
Điện áp ngược cực đại đặt lên diode không được lớn hơn 1000V.
Điện áp thuận (tức UAK) có thể tăng đến 1.1V nếu dòng điện thuận bằng 1A. Cũng cần lưu ý rằng đối với các diode chỉnh lưu nói chung thì khi UAK = 0.6V thì diode đã bắt đầu dẫn điện và khi UAK = 0.7V thì dòng qua diode đã đạt đến vài chục mA.
Đặc tuyến Volt-Ampere
Đặc tuyến Volt-Ampere của diode là đồ thị mô tả quan hệ giữa dòng điện qua diode theo điện áp UAK đặt vào nó. Có thể chia đặc tuyến này thành hai giai đoạn:
Giai đoạn ứng với UAK = 0.7V > 0 mô tả quan hệ dòng áp khi diode phân cực thuận.
Giai đoạn ứng với UAK = 0.7V < 0 mô tả quan hệ dòng áp khi diode phân cực nghịch.
(UAK lấy giá trị 0,7V chỉ đúng với các diode Si, với diode Ge thông số này khác)
Khi diode được phân cực thuận và dẫn điện thì dòng điện chủ yếu phụ thuộc vào điện trở của mạch ngoài (được mắc nối tiếp với diode). Dòng điện phụ thuộc rất ít vào điện trở thuận của diode vì điện trở thuận rất nhỏ, thường không đáng kể so với điện trở của mạch điện.
Ứng dụng
Vì diode có đặc tính chỉ dẫn điện theo một chiều từ anode đến cathode khi phân cực thuận nên diode được dùng để chỉnh lưu dòng điện xoay chiều thành dòng điện một chiều.
Ngoài ra diode có nội trở thay đổi rất lớn, nếu phân cực thuận RD 0 (nối tắt), phân cực nghịch RD (hở mạch), nên diode được dùng làm các công tắc điện tử, đóng ngắt bằng điều khiển mức điện áp. Diode chỉnh lưu dòng điện, giúp chuyển dòng điện xoay chiều thành dòng điện một chiều, điều đó có ý nghĩa rất lớn trong kĩ thuật điện tử. Vì vậy diode được ứng dụng rộng rãi trong kỹ thuật điện và điện tử.
Ký hiệu điện tử
Ký hiệu điện tử dùng để chỉ diode trong sơ đồ mạch để chỉ các loại diode khác nhau. |
LED (viết tắt của light-emitting diode, có nghĩa là diode phát sáng hoặc diode phát quang) là các diode có khả năng phát ra ánh sáng hay tia hồng ngoại, tử ngoại. Cũng giống như diode, LED được cấu tạo từ một khối bán dẫn loại p ghép với một khối bán dẫn loại n.
Lịch sử
Những phát hiện sơ khai
Hiện tượng biến điện thành ánh sáng được H. J. Round phát hiện đầu tiên vào năm 1907 ở phòng thí nghiệm Marconi. Ông đã dùng 1 dây dẫn và tinh thể Silicon carbide (SiC). Oleg Vladimirovich Losev, nhà nghiên cứu người Nga công bố lần đầu tiên đã tạo ra LED trên tạp chí khoa học Nga, Đức và Anh. Tuy nhiên không có thực tế hóa trong mấy thập kỷ kế tiếp. Rubin Braunstein, công ty Radio Corporation of America, phát hiện có bức xạ hồng ngoại trên hợp chất GaAs và các hợp chất khác vào năm 1955. Braunstein đã thí nghiệm trên các diode GaSb, GaAs, indium phosphide (InP), và silicon-germanium (SiGe) ở nhiệt độ phòng và ở 77 độ K.
Năm 1961, các nhà thí nghiệm người Mỹ Robert Biard và Gary Pittman, làm việc ở Texas Instruments, cũng phát hiện GaAs phát ra tia hồng ngoại khi có dòng điện chạy qua và đã nhận bằng phát minh LED hồng ngoại.
LED đầu tiên phát ra ánh sáng có thể nhìn thấy là loại LED đỏ, do Nick Holonyak, Jr. phát hiện, vào năm 1962 khi đang làm việc cho General Electric ở Syracuse, New York. Holonyak đã báo cáo hiện tượng này trong lá thư ông gởi cho tạp chí Applied Physics Letters vào ngày 01-12-1962.[16] Holonyak được xem là cha đẻ của LED.[17] M. George Craford,[18], một sinh viên tốt nghiệp trước Holonyak, đã phát minh ra LED vàng đầu tiên và đã cải thiện thêm độ sáng lên 10 lần cho LED đỏ cũng như LED đỏ-cam vào năm 1972.[19] Vào năm 1976, T. P. Pearsall lần đầu tiên đã tạo ra LED công suất cao, hiệu suất cao cho cáp quang nhờ vào việc sáng chế ra vật liệu bán dẫn mới có khả năng phát ra sóng điện từ phù hợp cho cáp quang.[20]
Quá trình thương mại hóa
LED đầu tiên được thương mại hóa để thay thế cho đèn chỉ thị làm bằng đèn dây tóc, neon và màn hình bảy đoạn. Đầu tiên là các thiết bị mất tiền trong phòng thí nghiệm. Sau đó là tivi, radio, điện thoại, máy tính và thậm chí là đồng hồ. Đến năm 1968, LED cực kì đắt, cỡ 200 đôla Mỹ mà lại ít ứng dụng. Năm 1968, Công ty Monsanto là công ty đầu tiên sản xuất LED hàng loạt dùng gali asen phosphor (GaAsP). Năm này, Hewlett Packard cũng giới thiệu LED làm từ GaAsP do công ty Monsanto cung cấp. Các LED này là LED đỏ và có thấu kính nhựa đi kèm trên từng chữ số để có thể dùng trong màn hình máy tính và chỉ đủ sáng để làm đèn chỉ thị. Thời gian sau đó thì LED vàng, cam.. cũng trở nên phổ biến. Năm 1970, LED thật sự đã được thương mại hóa thành công khi công ty Fairchild Semiconductor bán ra thị trường 5 xu Mỹ cho mỗi bóng LED. Công ty này đã sản xuất bằng quy trình Planar do tiến sĩ Jean Hoerni phát minh khi làm việc cho họ. Sự kết hợp giữa quy trình Planar và các phương pháp đóng gói giúp nhóm trưởng Thomas Brandt của công ty Fairchild đã có được khả năng giảm thiểu giá thành cần thiết. Các phương pháp này vẫn được các công ty dùng để sản xuất LED hiện nay.
Ngành công nghệ vật liệu cho LED đã phát triển ngày càng mạnh mẽ. Công suất ngày càng tăng nhưng hiệu suất, độ tin cậy vẫn đạt được mức có thể chấp nhận. Việc phát minh và phát triển LED trắng công suất cao nhanh chóng thay thế đèn dây tóc, đèn huỳnh quang. LED ngày này đa số là cỡ 5mm T1¾ và 3mm T1. Tuy nhiên, xu hướng công suất ngày càng lớn nên các kiểu đóng gói khác cũng được phát triển để đáp ứng yêu cầu tỏa nhiệt. LED công suất cao ngày nay cấu trúc bên trong rất phức tạp nhưng bề ngoài thì như các LED thời ban đầu.
LED xanh da trời và LED trắng
LED xanh da trời làm từ InGaN được phát minh đầu tiên do Shuji Nakamura của công ty Nichia Corporation vào năm 1994. Hai kỹ thuật mấu chốt là cấy GaN trên lớp nền Saphia và tạo lớp bán dẫn P từ GaN (do Isamu Akasaki và H. Amano phát triển ở Nagoya). Năm 1995, Alberto Barbieri tại phòng thí nghiệm ĐH Cardiff đã nghiên cứu và giới thiệu LED "tiếp xúc trong suốt" có công suất, hiệu suất cao bằng cách dùng Indi thiếc oxide. Sự ra đời của LED xanh da trời cộng với LED hiệu suất cao nhanh chóng dẫn đến sự ra đời LED trắng đầu tiên dùng :Ce. Hợp chất này có tên khác là YAG, là lớp phủ để trộn ánh sáng vàng với ánh sáng xanh da trời cho ra ánh sáng trắng. Năm 2006, Nakamura được trao giải thưởng công nghệ thiên niên kỷ cho phát minh này.
Hiệu suất, công suất của LED tăng theo hàm mũ, gấp đôi sau mỗi 3 năm kể từ năm 1960, tương tự như định luật Moore. Sự phát triển LED nói chung đã đóng góp cho sự phát triển song song giữa các công nghệ bán dẫn, khoa học vật liệu và quang học. Người ta đã đặt tên nó là định luật Haitz, lấy từ tên của tiến sĩ Roland Haitz.
Năm 2001 và 2002, quy trình cấy GaN lên chất nền được hiện thực. Tháng 1 năm 2012, LED công suất lớn theo công nghệ này được thương mại hóa. Tin đồn là dùng tấm đế 6 inch(15.24 cm) thay vì tấm đế Saphia (Nhôm oxide) 2 inch (5.08 cm) sẽ làm giảm 90% giá thành.
Hoạt động
Về mặt điện tử
Hoạt động của LED giống với nhiều loại diode bán dẫn.
Khối bán dẫn loại p chứa nhiều lỗ trống tự do mang điện tích dương nên khi ghép với khối bán dẫn n (chứa các điện tử tự do) thì các lỗ trống này có xu hướng chuyển động khuếch tán sang khối n. Cùng lúc khối p lại nhận thêm các điện tử (điện tích âm) từ khối n chuyển sang. Kết quả là khối p tích điện âm (thiếu hụt lỗ trống và dư thừa điện tử) trong khi khối n tích điện dương (thiếu hụt điện tử và dư thừa lỗ trống).
Ở biên giới hai bên mặt tiếp giáp, một số điện tử bị lỗ trống thu hút và khi chúng tiến lại gần nhau, chúng có xu hướng kết hợp với nhau tạo thành các nguyên tử trung hòa. Quá trình này có thể giải phóng năng lượng dưới dạng ánh sáng (hay các bức xạ điện từ có bước sóng gần đó).
Hầu hết các vật liệu làm LED có chiết suất rất cao, tức là hầu hết ánh sáng phát ra sẽ quay ngược vào bên trong thay vì phát ra ngoài không khí. Do đó công nghệ trích xuất ánh sáng từ LED cũng rất quan trọng, cần rất nhiều sự nghiên cứu và phát triển.
Chiết suất
Các chất bán dẫn như có chiết suất rất cao khi chưa có lớp tráng phủ. Điều này sẽ ngăn cản photon đi ra khỏi chất bán dẫn. Đặc điểm này ảnh hưởng đến hiệu suất LED và tế bào quang điện. Chiết suất của là 3.96 (590 nm), còn không khí là 1.0002926.
Nói chung, chỉ có những photon vuông góc với mặt bán dẫn hoặc góc tới cỡ vài độ thì mới có thể thoát ra ngoài. Những photon này sẽ tạo thành 1 chùm sáng dưới dạng hình nón. Những photon không thể thoát ra ngoài sẽ chui ngược vào bên trong chất bán dẫn.
Những photon phản xạ toàn phần có thể thoát ra ngoài qua các mặt khác của chất bán dẫn nếu góc tới đủ nhỏ và chất bán dẫn đủ trong suốt để không hấp thụ hoàn toàn các photon. Tuy nhiên, với LED đều vuông góc ở tất cả các mặt thì ánh sáng hoàn toàn không thể thoát ra và sẽ biến thành nhiệt làm nóng chất bán dẫn.
Hình dáng lý tưởng cho phép tối đa phát sáng là dạng vi cầu, là các hình cầu có kích thước siêu nhỏ từ 1 μm đến 1000 μm. Ánh sáng sẽ phát ra từ điểm trung tâm và điện cực cũng phải chạm điểm trung tâm. Tất cả ánh sáng phát ra sẽ vuông góc toàn bộ bề mặt quả cầu, do đó sẽ không có phản xạ. Bán cầu cũng có thể cho kết quả tương tự nếu mặt lưng hoàn toàn phẳng để phản xạ hoàn toàn các tia phát về phía mặt lưng.
Lớp tráng phủ
Rất nhiều LED được bọc bằng 1 vỏ nhựa màu hoặc trong suốt vì 3 mục đích
hàn LED vào bảng mạch sẽ dễ hơn.
dây dẫn bên trong LED rất mỏng sẽ được bảo vệ tốt hơn.
lớp nhựa sẽ đóng vai trò như là môi trường trung gian. Chiết suất của vỏ nhựa sẽ thấp hơn chiết suất bán dẫn nhưng cao hơn không khí.
Lý do thứ ba sẽ gia tăng khả năng phát sáng của LED vì nó sẽ như 1 thấu kính phân kỳ, cho phép ánh sáng có góc tới cao hơn góc tới hạn có thể lọt ra ngoài không khí.
Hiệu suất và các thông số hoạt động
LED dùng làm chỉ thị có công suất chỉ cỡ 30-60 mW. Năm 1999, Philips Lumileds giới thiệu LED có thể hoạt động liên tục với công suất 1W. Nó dùng 1 đế bán dẫn lớn hơn rất nhiều so với LED chỉ thị. Thêm nữa là có bộ phận tản nhiệt bằng kim loại.
Một trong những ưu điểm của LED là có hiệu suất chiếu sáng cao. LED trắng nhanh chóng bắt kịp và vượt qua hiệu suất của đèn dây tóc.
Năm 2002, Lumileds chế tạo thành công LED 5 W với hiệu suất chiếu sáng từ 18 - 22 lumen/oát. Để so sánh, đèn dây tóc 60 - 100 W có hiệu suất cỡ 15 lm/W, còn đèn huỳnh quang tốt thì 100 lm/W. Một vấn đề khá cũ là hiệu suất giảm nhanh khi tăng dòng qua LED.
Tháng 9 năm 2003, một loại LED xanh da trời được công ty Cree giới thiệu phát ra 24 mW với dòng điện là 20 mA. Điều này có nghĩa là 1 bóng LED trắng sẽ có 65 lm/W với dòng 20 mA. Đây chính là LED trắng có hiệu suất cao nhất thời đó, hơn 4 lần so với đèn dây tóc.
Năm 2006, họ giới thiệu sản phẩm mẫu đạt kỷ lục mới cho hiệu suất của LED trắng là 131 lm/W với dòng điện 20 mA. Năm này, công ty Nichia Corporation giới thiệu LED trắng với hiệu suất 150 lm/W cũng với dòng điện 20 mA.
Năm 2011, Xlamp XM-L, 1 dòng sản phẩm của hãng Cree phát ra 100 lm/W với công suất 10 W, hiệu suất là 160 lm/W nếu công suất là 2 W.
Năm 2012, Cree giới thiệu LED trắng hiệu suất 254 lm/W. Trong thực tế, LED chiếu sáng có công suất từ 1 W trở lên, dòng tiêu thụ điển hình là 350 mA.
Chú ý là hiệu suất nói trên chỉ tính riêng cho LED và dưới môi trường nhiệt độ thấp trong phòng thí nghiệm. Trên thực tế, nhiệt độ cao và mạch nguồn cho LED cũng có thất thoát năng lượng nên hiệu suất thấp hơn nhiều.
Tháng 3 năm 2012, Cree tuyên bố LED mẫu đã đạt được 208 lm/W với nhiệt độ phòng, nhiệt độ màu là 4579 K.
Tuổi thọ
Bán dẫn nói chung và LED nói riêng rất bền khi dòng tiêu thụ nhỏ và ở nhiệt độ thấp. Nhiều LED sản xuất năm 1970-1980 vẫn còn cho tới ngày nay. Tuổi thọ thường là 25.000 cho đến 100.000 giờ nhưng nhiệt độ cao và dòng tiêu thụ cao thì tuổi thọ sẽ giảm nhanh chóng.
Dạng hư hỏng chung của LED (và diode laser) là sẽ dần giảm độ sáng, hiệu suất. Hư hỏng đột ngột dù hiếm nhưng cũng xảy ra. Các LED đỏ thời kì đầu tuổi thọ khá ngắn. Với sự phát triển LED công suất cao, LED hiện đại phải chịu nhiệt độ cao hơn, dòng tải cao hơn ngày xưa. Điều này có thể làm giảm tuổi thọ nhanh chóng. Để phân loại LED theo tuổi thọ, người đưa ra khái niệm L70 và L50, nghĩa là thời gian để hiệu suất chiếu sáng còn 70% và 50%.
Như các loại đèn khác, LED cũng phụ thuộc vào nhiệt độ. Hầu hết các nhà sản xuất đều công bố thông số cho nhiệt độ phòng 25 °C. LED ngoài trời như đèn giao thông hoặc chiếu sáng công cộng nơi có nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao có thể giảm độ sáng hoặc có thể làm hư hỏng LED.
LED tăng độ sáng ở nhiệt độ thấp tùy loại cụ thể, thường là -30 °C. Do đó LED có thể là sự lựa chọn tốt để chiếu sáng ở kho lạnh của siêu thị và tuổi thọ sẽ cao hơn các loại đèn khác. Vì LED ít phát nhiệt hơn đèn dây tóc nên sẽ có hiệu suất cao hơn ở những nơi dùng máy lạnh. Tuy nhiên cũng vì ít phát ra hơi nóng nên LED có thể không dùng được ở những nơi có tuyết rơi dày. Để giải quyết vấn đề này, người ta có thể thêm một mạch điện tạo sức nóng. Thêm nữa, một nghiên cứu vừa thành công tạo ra một loại tản nhiệt truyền nhiệt vào khu vực thích hợp bên trong đèn LED.
Màu sắc và vật liệu
LED truyền thống được làm từ một số chất bán dẫn vô cơ. Bảng dưới đây trình bày các loại màu sắc cùng với bước sóng, điện áp và vật liệu:
LED xanh da trời và LED tia cực tím
LED xanh da trời hiện tại dựa trên chất bán dẫn có vùng cấm rộng như GaN (gali nitride) và InGaN (indi gali nitride). Chúng có thể được gắn chung với LED xanh lá và LED đỏ để tạo ánh sáng trắng dù LED trắng ngày nay ít dùng cách này.
LED xanh da trời đầu tiên do Jacques Pankove làm bằng chất gallium nitride vào năm 1971 ở RCA Laboratories. Tuy nhiên ánh sáng của nó quá yếu nên không dùng được trên thực tế và sau đó nghiên cứu về gallium nitride không có tiến triển gì nhiều. Vào tháng 8 năm 1989, công ty Cree Inc. bán ra LED xanh da trời đầu tiên dùng chất bán dẫn có vùng cấm gián tiếp, silíc carbide. LED bằng SiC có hiệu suất rất thấp, không quá 0.03%.
Cuối thập niên 1980, đột phá trong nghiên cứu màng mỏng GaN epitaxial và cấy p-type đã dẫn tới một kỷ nguyên mới cho các thiết bị quang điện dựa trên GaN. Trên nền tảng này, vào năm 1993 LED xanh nước biển có độ sáng cao đã được hiện thực. do Shuji Nakamura của công ty Nichia Corporation dùng gallium nitride.
Cuối thập kỷ 1990, LED xanh da trời đã được phổ biến rộng rãi. Chúng có một hoặc nhiều lớp kích hoạt InGaN quantum well được kẹp giữa các lớp dày bằng GaN, gọi là lớp che phủ. Bằng cách thay đổi tỷ lệ In-Ga trong lớp InGaN quantum wells, về lý thuyết có phát ra ánh sáng từ màu tím cho đến màu hổ phách. Thay đổi tỷ lệ Al/Ga trong Nhôm gali nitride (AlGaN) rồi dùng làm lớp che phủ và lớp kích hoạt có thể tạo được LED tia cực tím. Tuy nhiên cách này vẫn chưa có được hiệu suất cũng như độ chín muồi của công nghệ InGaN/GaN (LED xanh lá, xanh da trời). Nếu dùng GaN làm lớp kích hoạt quantum well layers thì có thể sẽ tạo được LED phát ra ánh sáng gần khu vực tia cực tím, đỉnh cực đại nằm gần 365 nm. LED xanh lá làm từ InGaN/GaN có độ sáng, hiệu suất bỏ xa so với làm từ các chất không phải hợp chất của Nitơ nhưng hiệu suất vẫn còn quá thấp so với yêu cầu thực tế cho 1 hệ thống chiếu sáng công suất lớn.
Với hợp chất nitride có chứa nhôm, thường là AlGaN và AlGaInN, có thể phát ra bước sóng ngắn hơn tia cực tím. Các LED cực tím đang trở nên phổ biến trên thị trường. LED có bước sóng gần tia cực tím bước sóng từ 375–395 nm giá rẻ đã có trên thị trường như các đèn soi chống tiền giả, công văn giả. Các diode có bước sóng ngắn hơn vẫn còn mắc nhưng cũng đã có trên trị trường với bước sóng nhỏ hơn 247 nm. Vì độ nhạy sáng của vi sinh vật gần bằng với phổ hấp thụ của DNA, đỉnh ở gần 260 nm, các LED cực tím từ 250–270 nm sẽ trở thành thiết bị khử trùng trong tương lai. Các nghiên cứu gần đây cho thấy LED cực tím kiểu A (365 nm) đã trở thành thiết bị khử trùng hiệu quả.
Bước sóng ngắn hơn tia cực tím đã đạt được trong phòng thí nghiệm dùng nhôm nitride (210 nm), bo nitride (215 nm) và kim cương (235 nm).
Năm 2011, Zhong Lin Wang của Viện công nghệ Georgia đã phát hiện ra dùng dây kẽm oxide siêu nhỏ có thể tăng hiệu suất của LED áp điện phát tia cực tím lên 4 lần, từ 2% lên 8%.
Tính chất
Tùy theo mức năng lượng giải phóng cao hay thấp mà bước sóng ánh sáng phát ra khác nhau (tức màu sắc của LED sẽ khác nhau). Mức năng lượng (và màu sắc của LED) hoàn toàn phụ thuộc vào cấu trúc năng lượng của các nguyên tử chất bán dẫn.
LED thường có điện thế phân cực thuận cao hơn diode thông thường, trong khoảng 1,5 đến 3 V. Nhưng điện thế phân cực nghịch ở LED thì không cao. Do đó, LED rất dễ bị hư hỏng do điện thế ngược gây ra.
Ứng dụng
Trước đây, một bộ phận rất nhỏ của công nghệ LED được ứng dụng trong một số lĩnh vự như bộ phận hiển thị trong các thiết bị điện, điện tử, đèn quảng cáo, trang trí, đèn giao thông.
Có nghiên cứu về các loại LED có độ sáng tương đương với bóng đèn bằng khí neon. Đèn chiếu sáng bằng LED được cho là có các ưu điểm như gọn nhẹ, bền, tiết kiệm năng lượng.
Các LED phát ra tia hồng ngoại được dùng trong các thiết bị điều khiển từ xa cho đồ điện tử dân dụng.
LED còn được sử dụng để cung cấp ánh sáng bổ sung cho thực vật, nhất vào giai đoạn nảy mầm và ra hoa.
Ngày nay (khoảng từ 2010–2015), tại Việt Nam, công nghệ LED đã có những bước nhảy vọt trong ứng dụng vào thị trường dân dụng & công nghiệp một cách rộng rãi. Cụ thể trong từng lĩnh vực là:
Chiếu sáng dân dụng: Đèn LED được ứng dụng mạnh mẽ vào lĩnh vực trang trí nội thất hiện đại và cổ điển, trang trí ngoại thất, tiểu cảnh, sân vườn,...
Chiếu sáng công nghiệp: Vì có chi phí cao nên mặc dù hiểu rõ được tính ưu việt của công nghệ LED, nhưng chỉ một bộ phận nhỏ các nhà doanh nghiệp nước ngoài có năng lực về tài chính mới dám lựa chọn giải pháp chiếu sáng bằng công nghệ LED cho các nhà xưởng sản xuất của doanh nghiệp mình. |
Y tá là một ngành chuyên nghiệp với nhiều trách nhiệm nhiệm vụ quan trọng trong hệ thống y tế. Y tá hợp tác cùng những chuyên viên y tế khác để chăm sóc, chữa trị, giáo huấn và bảo đảm an toàn cho người bệnh trong nhiều hoàn cảnh - từ cấp cứu đến hồi phục, từ tư gia đến nhà thương và trong nhiều lĩnh vực y khoa khác nhau - từ chuyên khoa đến y tế công cộng.
Để trở thành y tá đòi hỏi phải có kiến thức y học tổng quát và thường phải qua trung học cấp hai. Tại nhiều quốc gia (như Chile), y tá tối thiểu phải có bằng cử nhân. Trong khi ở một số nước châu Âu, sau khi học tốt nghiệp cấp 2 và được huấn luyện chuyên môn 18 tháng có thể được chấp nhận làm y tá.
Công tác và nhiệm vụ
Theo Bộ Lao động Hoa Kỳ nhiệm vụ tổng quát của y tá gồm có:
Chữa trị bệnh nhân.
Giáo dục bệnh nhân và người thân về các bệnh chứng.
Khuyên nhủ an ủi bệnh nhân và người thân.
Ghi chép và cập nhật thay đổi bệnh lý..
Giúp xét nghiệm, thử nghiệm.
Sử dụng máy móc, công cụ y tế.
Thực thi chỉ định điều trị.
Giúp theo dõi bệnh nhân trong thời gian hồi phục.
Lịch sử
Florence Nightingale
Florence Nightingale (12 tháng 5 năm 1820 – 13 tháng 8 năm 1910) được giới y tế công nhận là người phát huy ngành y tá hiện đại. Từ lâu, nghề "y tá" bị coi rẻ, họ thường làm những công việc phụ như "bám" theo các đội quân, phụ giúp dọn dẹp, nấu nướng, giặt ủi... Vì bà là con của một gia đình giàu có, vọng tộc, nên Nightingale đã làm cha mẹ bà kinh ngạc và thất vọng khi bà quyết định trở thành một y tá. Sau đó bà không ngừng đòi hỏi cải tiến y tế chăm sóc cho người nghèo và dần dần đưa ngành y tá lên bậc quan trọng trong hàng ngũ chuyên viên y tế.
Liên kết
Đào tạo y tá đủ tiêu chuẩn làm việc tại Mỹ www.vietnamnet.vn
Chú thích
Chuyên viên y tế
Điều dưỡng |
Florence Nightingale (; 12 tháng 5 năm 182013 tháng 8 năm 1910) là một nhà cải cách xã hội, nhà thống kê học người Anh và là nhà sáng lập của ngành điều dưỡng hiện đại. Nightingale trở nên nổi tiếng với vai trò người quản lý và huấn luyện đội ngũ y tá phục vụ trong Chiến tranh Krym, tại đó bà đã tổ chức công tác chăm sóc thương binh ở Constantinopolis. Bà đã góp phần mang đến sự ủng hộ và công nhận cho công việc điều dưỡng và trở thành một biểu tượng quan trọng của thời kỳ Victoria, đặc biệt là với hình ảnh nổi tiếng "Người phụ nữ với cây đèn" đến chăm sóc những người lính bị thương vào ban đêm.
Tuy gần đây nhiều người cho rằng những thành tựu trong Chiến tranh Krym của Nightingale đã bị giới truyền thông thời đó phóng đại, nhưng hầu hết các nhà phê bình đồng ý về tầm quan trọng của bà trong công cuộc chuyên nghiệp hóa ngành điều dưỡng sau này. Năm 1860, bà đã đặt nền móng cho ngành điều dưỡng chuyên nghiệp với việc thành lập trường điều dưỡng của mình tại Bệnh viện St Thomas ở London. Đây là trường điều dưỡng thế tục đầu tiên trên thế giới, hiện nay thuộc Đại học Nhà vua Luân Đôn. Vai trò tiên phong trong lĩnh vực điều dưỡng của bà được thể hiện qua Lời cam kết Nightingale mà mỗi điều dưỡng viên tuyên thệ trước khi bắt đầu sự nghiệp, Huân chương Florence Nightingale là danh hiệu quốc tế cao nhất trong ngành điều dưỡng, cùng với ngày Quốc tế điều dưỡng hàng năm được tổ chức vào sinh nhật của Nightingale. Những cải cách xã hội của bà bao gồm cải thiện chăm sóc sức khỏe cho tất cả các thành phần trong xã hội Anh, vận động cứu trợ nạn đói ở Ấn Độ, giúp xóa bỏ luật mại dâm hà khắc đối với phụ nữ, và tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào lực lượng lao động chính quy.
Nightingale là người tiên phong trong lĩnh vực thống kê. Bà trình bày phân tích của mình dưới dạng đồ họa để dễ dàng rút ra kết luận và đề xuất từ các dữ liệu. Bà đã phát triển một dạng nhánh của biểu đồ tròn hiện được gọi là biểu đồ phân cực, hay biểu đồ hoa hồng Nightingale. Biểu đồ này vẫn thường xuyên được sử dụng trong trực quan hóa dữ liệu.
Nightingale cũng là một tác giả với khối lượng tác phẩm lớn và đa dạng. Phần lớn các công trình đã xuất bản trong suốt cuộc đời bà là nhằm mục đích phổ cập kiến thức y học. Một số tác phẩm của bà được viết bằng tiếng Anh đơn giản để dễ dàng tiếp cận với cả những người có trình độ đọc hiểu hạn chế. Bà cũng là người đi tiên phong trong lĩnh vực trực quan hóa dữ liệu với việc sử dụng đồ họa thông tin để trình bày thông tin một cách hiệu quả. Các bản thảo về tôn giáo và chủ nghĩa thần bí của bà chỉ được xuất bản dưới dạng di cảo sau khi bà qua đời.
Đầu đời
Florence Nightingale sinh ngày 12 tháng 5 năm 1820 trong một gia đình thượng lưu giàu có người Anh tại Villa Colombaia, Firenze, Toscana, Ý, và được đặt tên theo thành phố nơi bà sinh ra (trong tiếng Anh là Florence). Chị gái của Florence, Frances Parthenope, cũng được đặt tên theo nơi sinh là Parthenope, một địa danh Hy Lạp cổ hiện nay thuộc thành phố Napoli. Sau khi gia đình chuyển về Anh vào năm 1821, Nightingale lớn lên tại tư gia ở Embley Park, Hampshire, và Lea Hurst, Derbyshire.
Florence thừa hưởng quan điểm tự do-nhân đạo từ cả hai phía gia đình nội ngoại. Cha mẹ bà là William Edward Nightingale, tên khai sinh William Edward Shore (1794–1874) và Frances ("Fanny") Nightingale, nhũ danh Smith (1788–1880). Mẹ của William là Mary Evans, cháu gái của Peter Nightingale, qua đó William được thừa kế tài sản tại Lea Hurst, cùng với dòng họ và gia huy nhà Nightingale. Cha của Fanny (ông ngoại của Florence) là William Smith, người theo chủ nghĩa bãi nô và nhất vị luận. Cha của Nightingale đã giáo dục chị em bà tại nhà. Một bộ phim tài liệu của BBC nói rằng, "Florence và chị gái Parthenope đã được hưởng lợi từ những quan điểm tiến bộ của cha mình về giáo dục phụ nữ. Họ được học lịch sử, toán học, tiếng Ý, văn học cổ điển và triết học; ngay từ khi còn nhỏ, Florence, người vượt trội hơn trong học tập, đã thể hiện một thiên phú phi thường trong việc thu thập và phân tích dữ liệu, điều đã được bà vận dụng trong cuộc sống sau này."
Năm 1838, cha bà đưa cả gia đình đi du lịch ở châu Âu, từ đó bà quen biết với Mary Clarke, một phụ nữ thượng lưu gốc Anh trong giới giao tế phòng khách Paris. Bà ghi lại rằng "Clarkey" là một nữ chủ nhân truyền cảm hứng, không quan tâm đến vẻ bề ngoài, và trong khi không phải lúc nào bà cũng đồng ý với những vị khách, "bà không bao giờ khiến bất kỳ ai nhàm chán." Hành vi của bà được cho là dị hợm và cổ quái, bà không mấy tôn trọng phụ nữ thượng lưu Anh và cho họ là tầm thường. Bà nói rằng nếu được lựa chọn giữa việc trở thành một phụ nữ hay một nô lệ hầm tàu, thì bà sẽ chọn sự tự do trong hầm tàu. Bà thường tránh quan hệ với nữ giới và ưu tiên kết thân với các trí thức nam giới. Tuy nhiên, Clarkey dành một ngoại lệ cho gia đình Nightingale và cụ thể là Florence. Bà và Florence duy trì tình bạn thân thiết trong suốt 40 năm mặc dù cách nhau 27 tuổi. Clarke đã chứng minh cho Florence thấy rằng phụ nữ có thể bình đẳng với nam giới, một điều mà Florence không thấy được ở mẹ mình.
Nightingale đã có một vài trải nghiệm mà bà tin rằng đó là tiếng gọi thiêng liêng vào tháng Hai năm 1837 tại Embley Park, điều này đã khơi dậy ước nguyện cống hiến cuộc đời mình để phụng sự con người ở bà. Khi còn trẻ, bà thuận theo sự phản đối của gia đình và từ bỏ việc sự nghiệp điều dưỡng, mãi đến tận năm 1844 bà mới khẳng định quyết tâm theo đuổi nghề nghiệp này. Bất chấp sự tức giận và đau khổ của mẹ và chị gái, bà từ chối tuân theo vai trò được mong đợi đối với một người phụ nữ ở địa vị của mình là trở thành một người vợ và người mẹ. Nightingale đã dốc sức học tập nghệ thuật và khoa học về điều dưỡng, và phải đối mặt với sự phản đối từ gia đình và những quy tắc xã hội kìm kẹp đối với một phụ nữ trẻ thượng lưu Anh quốc.
Khi còn trẻ, Nightingale được mô tả là cuốn hút, mảnh mai và duyên dáng. Tuy thường có phong thái nghiêm nghị song bà được cho là rất lôi cuốn và có nụ cười rạng rỡ. Nhà chính trị và nhà thơ Richard Monckton Milnes đã theo đuổi bà rất nhiều năm, nhưng bà từ chối ông sau chín năm quen biết vì cho rằng hôn nhân sẽ cản trở bà đi theo tiếng gọi nghề nghiệp.
Tại Roma năm 1847, bà gặp Sidney Herbert, một chính trị gia từng là Bộ trưởng Chiến tranh (1845–1846) đang đi hưởng tuần trăng mật. Hai người đã trở thành bạn bè thân thiết trong suốt cuộc đời. Khi Herbert lại ra giữ chức Bộ trưởng Chiến tranh trong thời gian Chiến tranh Krym, hai vợ chồng ông đã tạo điều kiện thuận lợi cho công việc của Nightingale ở Crimea. Bà trở thành cố vấn quan trọng của Herbert trong suốt sự nghiệp chính trị của ông, mặc dù bà bị một số người cáo buộc là đã gián tiếp đẩy Herbert đến cái chết vì bệnh Bright vào năm 1861 vì chịu quá nhiều áp lực từ chương trình cải cách của bà. Nightingale cũng có quan hệ gắn bó thân thiết với học giả Benjamin Jowett, ông có thể từng có ý định cầu hôn bà.
Nightingale tiếp tục các chuyến du hành của mình (cùng với Charles và Selina Bracebridge ) đến Hy Lạp và Ai Cập. Khi ở Athens, Hy Lạp, Nightingale đã giải cứu một con cú nhỏ đang bị hành hạ bởi một đám trẻ con, bà đặt tên cho con cú là Athena. Nightingale thường mang theo con cú bên mình cho đến khi nó qua đời (ngay trước khi Nightingale đến Krym).
Những đoạn viết về Ai Cập thể hiện tinh thần ham học, kỹ năng văn chương và triết lý sống của bà. Tại Thebes, bà viết về việc được "Chúa vẫy gọi". Một tuần sau đó tại Cairo, bà viết trong nhật ký: "Chúa đã gọi tôi vào vào buổi sáng và hỏi liệu tôi có thể làm điều thiện chỉ vì ngài chứ không vì bất kỳ tiếng tăm gì hay không." Sau đó vào năm 1850, bà viếng thăm cộng đồng Luther giáo tại Kaiserswerth-am-Rhein ở Đức, và quan sát Mục sư Theodor Fliedner và các nữ chấp sự chăm sóc những người bệnh tật và những người thiếu thốn. Bà coi trải nghiệm này là một bước ngoặt trong cuộc đời mình và đã công bố ẩn danh những phát hiện của mình vào năm 1851; Viện Kaiserswerth trên sông Rhine, để Đào tạo Thực hành cho các Nữ Chấp sự, v.v ... là tác phẩm xuất bản đầu tiên của bà. Bà cũng tiếp thu bốn tháng đào tạo y tế tại viện, đây là cơ sở cho kiến thức điều dưỡng của bà.
Từ ngày 22 tháng 8 năm 1853 đến tháng 10 năm 1854, Nightingale đảm nhiệm chức vụ giám đốc tại Viện chăm sóc phụ nữ bị bệnh ở Phố Upper Harley, London. Cha bà cho bà một khoản thu nhập hàng năm là 500 bảng Anh (khoảng 40.000 bảng Anh / 65.000 đô la Mỹ tại thời điểm hiện tại), cho phép bà sống thoải mái để theo đuổi sự nghiệp của mình.
Chiến tranh Krym
Florence Nightingale trở nên nổi danh với những đóng góp của bà trong Chiến tranh Krym. Trong cuộc chiến này, liên quân Anh và Pháp chống lại quân Nga bên phe của Đế chế Ottoman. Bà bắt đầu quan tâm đến cuộc chiến sau khi có các báo cáo gửi về Anh về điều kiện sống khủng khiếp đối với những người bị thương tại bệnh viện quân sự bên phía châu Á ở Bosporus, đối diện với Constantinopolis, tại Scutari (ngày nay là Üsküdar, Istanbul). Vào ngày 21 tháng 10 năm 1854, bà và đội ngũ 38 y tá tình nguyện viên bao gồm y tá trưởng Eliza Roberts và người dì của bà là Mai Smith, cùng với 15 nữ tu Công giáo (do Henry Edward Manning điều động) đã được cử đến Đế chế Ottoman (dưới sự cho phép của Sidney Herbert). Trên đường đi, Nightingale được người bạn Mary Clarke giúp đỡ ở Paris. Nơi các y tá tình nguyện làm việc cách trại đóng quân chính của Anh ở bên kia Biển Đen tại Balaklava khoảng . Trên thực tế, Nightingale chưa từng đặt chân đến Krym.
Nightingale đến Doanh trại Selimiye ở Scutari vào đầu tháng 11 năm 1854. Nhóm của bà nhận thấy rằng tại đây thương binh được chăm sóc sơ sài bởi đội ngũ y tế phải làm việc quá tải, trước sự thờ ơ của chính quyền. Thuốc men thiếu thốn và vệ sinh không được chú ý khiến tình trạng nhiễm trùng hàng loạt diễn ra phổ biến, dẫn đến nhiều ca tử vong. Trong khi đó, không hề có dụng cụ chuyên dùng để chế biến thức ăn cho bệnh nhân.
Sau khi Nightingale gửi lời kêu gọi trợ giúp đến The Times để gây sự chú ý của chính phủ trước tình trạng tồi tệ của cơ sở vật chất ở đây, Chính phủ Anh đã giao cho Isambard Kingdom Brunel thiết kế một bệnh viện được chế tạo sẵn tại Anh và vận chuyển đến Dardanelles. Bệnh viện Renkioi mới được thành lập này có tỷ lệ tử vong thấp hơn một phần mười so với tại Scutari.
Stephen Paget trong bộ Từ điển Tiểu sử Quốc gia khẳng định rằng Nightingale đã giảm tỷ lệ tử vong từ 42% xuống 2%, bằng cách tự cải thiện quy trình vệ sinh hoặc kêu gọi hành động từ Ủy ban Vệ sinh. Ví dụ, Nightingale đã áp dụng quy định rửa tay và các thực hành vệ sinh khác trong bệnh viện dã chiến nơi bà làm việc.
Trong mùa đông đầu tiên của Nightingale ở Scutari, 4.077 binh sĩ đã tử vong tại đây. Số binh sĩ tử vong do các bệnh như sốt phát ban, thương hàn, tả, và kiết lỵ nhiều gấp mười lần so với do các vết thương trong trận chiến. Do tình trạng quá tải, hệ thống cống rãnh yếu kém và không có hệ thống thông khí, Chính phủ Anh đã phải cử Ủy ban Vệ sinh đến Scutari vào tháng 3 năm 1855, gần sáu tháng sau khi Nightingale đến đây. Ủy ban đã khơi thông cống rãnh và cải thiện hệ thống thông khí. Tỷ lệ tử vong đã giảm mạnh, nhưng Nightingale không bao giờ nhận công lao về phần mình. Bà đã vượt qua một cơn bệnh nguy kịch vào tháng 5 năm 1855 với sự chăm sóc của y tá trưởng Eliza Roberts.
Các bộ phim tài liệu do BBC phát hành năm 2001 và 2008 đã hoài nghi về những đóng góp của Nightingale trong Chiến tranh Krym, theo sau là một số bài báo trên The Guardian và Sunday Times. Học giả Lynn McDonald đã bác bỏ những lời chỉ trích này là không đáng tin cậy và không chính thống.
Nightingale tin rằng tỷ lệ tử vong cao là do các binh sĩ phải chịu đựng tình trạng dinh dưỡng kém, vật tư thiếu thốn, không khí ô nhiễm và lao động quá sức. Sau khi trở về Anh và bắt đầu thu thập bằng chứng trước Ủy ban Y tế Quân đội Hoàng gia, bà bị thuyết phục rằng hầu hết các binh sĩ tại bệnh viện thiệt mạng do điều kiện sống tồi tàn. Trải nghiệm này có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp sau này và những nỗ lực của bà trong việc vận động nâng cao điều kiện sống và điều kiện vệ sinh. Do đó, bà đã góp phần giảm thiểu số ca tử vong trong quân đội thời bình trong quân đội và chuyển sự chú ý sang hệ thống vệ sinh của các bệnh viện và nhà ở của tầng lớp lao động.
Theo một số nguồn tin thứ cấp, Nightingale có quan hệ lạnh nhạt với y tá đồng nghiệp Mary Seacole, đồng thời là bà chủ một quán trọ/bệnh viện dành cho các sĩ quan. Cuốn hồi ký của Seacole, Những cuộc phiêu lưu kỳ diệu của Bà Seacole ở mọi miền¸ chỉ ghi lại một lần duy nhất hai người thân thiện với nhau là khi bà hỏi xin chỗ ngủ và được bố trí; Seacole đã ghé Scutari trên đường đến Krym để bắt đầu công việc kinh doanh. Tuy nhiên, Seacole kể lại rằng khi bà xin gia nhập nhóm của Nightingale, một người trong nhóm đã từ chối bà, Seacole cho rằng phân biệt chủng tộc là gốc rễ vấn đề. Nightingale nói qua thư với anh rể rằng bà lo ngại công việc của mình sẽ bị ảnh hưởng bởi công việc kinh doanh của Seacole, vì trong khi "cô ấy đối xử rất tốt với mọi người và nhất là đối với các sĩ quan, cô cũng đá làm nhiều người say bí tỉ”. Nightingale được cho là đã viết, "Khó khăn lớn nhất là phải chống lại tính tranh thủ của bà Seacole, và ngăn chặn bà ấy quan hệ với các y tá (không cần bàn cãi gì thêm!). . . Bất kỳ ai có liên quan đến bà Seacole đều giàu lòng tốt - cũng như thói say xỉn và hành vi lệch lạc".
Hai đợt nữ tu Ireland đến để hỗ trợ đoàn y tá tại Scutari được Nightingale đón nhận khác nhau. Đợt đầu tiên do sơ Mary Clare Moore chỉ huy và hoạt động dưới quyền của Nightingale. Hai người duy trì tình bạn cho đến cuối đời. Đợt thứ hai do sơ Mary Francis Bridgeman chỉ huy không được Nightingale hoan nghênh lắm, do Bridgeman không muốn trao quyền lãnh đạo cho Nightingale, đồng thời không tin tưởng bà, cho bà là đầy tham vọng.
Người phụ nữ với cây đèn
Trong chiến tranh Krym, Nightingale nổi danh với tên gọi "Người phụ nữ với cây đèn" sau một bài báo đăng trên tờ The Times:
Cụm từ này đã được phổ biến rộng rãi bởi bài thơ năm 1857 "Santa Filomena" của Henry Wadsworth Longfellow.
Kìa! ở nơi khổ ải ấy
Tôi thấy bà đến với cây đèn
Lướt qua những bóng sáng mịt mờ,
Thấp thoáng từ phòng này sang phòng khác.
Sự nghiệp sau này
Tại Krym vào ngày 29 tháng 11 năm 1855, Quỹ Nightingale được thành lập để đào tạo các y tá trong một buổi mít ting để vinh danh những đóng góp của Nightingale trong chiến tranh. Quỹ đã nhận được rất nhiều khoản đóng góp hào phóng. Sidney Herbert từng là thư ký danh dự của quỹ và Hoàng tử George Công tước xứ Cambridge là chủ tịch.
Nightingale đã sử dụng 45.000 bảng Anh từ Quỹ Nightingale để thành lập Trường đào tạo Nightingale tại Bệnh viện St Thomas vào ngày 9 tháng 7 năm 1860. Các y tá Nightingale đầu tiên đã bắt đầu làm việc vào 16 tháng 5 năm 1865 tại Bệnh xá tế bần Liverpool. Hiện nay, trường Nightingale được gọi là Trường Điều dưỡng và Hộ sinh Florence Nightingale, thuộc King's College London.
Nightingale viết cuốn Ghi chú về điều dưỡng năm 1859. Cuốn sách đóng vai trò là nền tảng của chương trình giảng dạy tại Trường Nightingale và các trường điều dưỡng khác, mặc dù nó được viết đặc thù cho những người điều dưỡng tại gia. Nightingale đã viết, "Kiến thức vệ sinh hàng ngày, hoặc kiến thức về điều dưỡng, hay nói cách khác, về cách duy trì thể trạng không bệnh tật, hoặc dưỡng bệnh, dần càng được xem trọng. Nó được công nhận là kiến thức mà mỗi người cần phải có - khác biệt với kiến thức y khoa mà chỉ một ngành nghề mới có".
Ghi chú về Điều dưỡng cũng rất phổ biến đối với công chúng phổ thông và được coi là cuốn sách nhập môn kinh điển về điều dưỡng. Nightingale đã dành phần đời còn lại của mình để thúc đẩy và tổ chức ngành nghề điều dưỡng. Trong phần giới thiệu cho ấn bản năm 1974, Joan Quixley của Trường Điều dưỡng Nightingale đã viết: “Đây là cuốn sách đầu tiên từng được viết về chủ đề này. Nó xuất hiện vào thời điểm mà các quy tắc đơn giản về sức khỏe chỉ mới bắt đầu được biết đến, khi các chủ đề của nó có tầm quan trọng sống còn không chỉ đối với sức khỏe và sự phục hồi của bệnh nhân, khi các bệnh viện tràn ngập tình trạng nhiễm trùng, khi các y tá vẫn chủ yếu được coi như những người dốt nát, vô học. Cuốn sách hiển nhiên được xếp vào lịch sử ngành điều dưỡng, vì nó được viết bởi người sáng lập ngành điều dưỡng hiện đại".
Một trong những thành tựu nổi bật của Nightingale là việc đưa các y tá được đào tạo vào làm việc trong hệ thống nhà tế bần ở Anh từ những năm 1860 trở đi. Điều này có nghĩa là những người bệnh tật thay vì được chăm sóc bởi những người bệnh tật khác thì sẽ được chăm sóc bởi những điều dưỡng viên được đào tạo bài bản. Vào nửa đầu thế kỷ 19, các y tá thường là những người giúp việc hoặc góa phụ không tìm được công việc nào khác và do đó buộc phải kiếm sống bằng công việc này. Charles Dickens đã trong cuốn tiểu thuyết Martin Chuzzlewit xuất bản năm 1842–1843 của mình đã châm biếm tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe với hình ảnh y tá Sarah Gamp là người bất tài, cẩu thả, nghiện rượu và hư hỏng. Theo Caroline Worthington, giám đốc Bảo tàng Florence Nightingale, "Khi bà [Nightingale] bắt đầu, không có cái gọi là điều dưỡng. Nhân vật Sarah Gamp của Dickens, người thích uống rượu gin hơn là chăm sóc bệnh nhân, chỉ là một sự phóng đại nhẹ. Bệnh viện là nơi cuối cùng mà người ta phải chấp nhận, nơi sàn được trải bằng rơm để thấm máu. Florence đã thay đổi công việc điều dưỡng khi bà trở về [từ Krym]. Bà có mối quan hệ với những người cầm quyền và bà đã sử dụng nó để đạt được mục đích. Florence bướng bỉnh, cố chấp và thẳng thắn nhưng bà phải như vậy để hoàn thành tất cả những thành tựu đó."
Mặc dù Nightingale đôi khi được cho là đã phủ nhận thuyết lây nhiễm trong suốt cuộc đời của mình, một tiểu sử năm 2008 không đồng ý, chỉ ra rằng bà chỉ đơn giản là phản đối tiền thân của thuyết vi trùng được biết đến như thuyết lây truyền ngẫu nhiên. Thuyết này cho rằng các bệnh chỉ có thể lây truyền khi chạm vào. Trước những thí nghiệm vào giữa những năm 1860 của Pasteur và Lister, hầu như không ai coi trọng thuyết vi trùng; thậm chí sau đó, nhiều nhà y học cũng không bị thuyết phục. Bostridge chỉ ra rằng vào đầu những năm 1880, Nightingale đã viết một chương cho một cuốn sách giáo khoa, trong đó bà ủng hộ các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt được thiết kế để tiêu diệt vi trùng. Công việc của Nightingale là nguồn cảm hứng cho các y tá trong Nội chiến Hoa Kỳ. Chính phủ Liên bang đã tiếp cận bà để xin lời khuyên trong việc tổ chức y tế thực địa. Ý tưởng của bà đã truyền cảm hứng cho đội ngũ tình nguyện của Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ.
Vào những năm 1870, Nightingale đã hướng dẫn Linda Richards, "y tá được đào tạo đầu tiên của Hoa Kỳ", và giúp bà quay về Hoa Kỳ với tập huấn và kiến thức đầy đủ để thành lập các trường điều dưỡng chất lượng cao. Richards tiếp tục trở thành nhà tiên phong ngành điều dưỡng ở Mỹ và Nhật Bản.
Đến năm 1882, một số y tá Nightingale đã trở thành y tá trưởng tại một số bệnh viện hàng đầu, bao gồm ở Luân Đôn (Bệnh viện St Mary, Bệnh viện Westminster, Bệnh xá tế bần St Marylebone Workhouse và Bệnh viện thương tật ở Putney) và trên khắp nước Anh (Bệnh viện Hoàng gia Victoria ở Netley; Bệnh viện Hoàng gia Edinburgh; Bệnh viện Cumberland và Bệnh viện Hoàng gia Liverpool), cũng như tại Bệnh viện Sydney ở New South Wales, Úc.
Năm 1883, Nightingale trở thành người đầu tiên nhận Huy chương Chữ thập đỏ Hoàng gia. Năm 1904, bà được ban tước hiệu Công nương Ân sủng Dòng St John (LGStJ). Năm 1907, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên được trao tặng Huân chương Công tích. Trong năm sau, bà được trao tặng Bằng Tự do danh dự của Thành phố Luân Đôn. Ngày sinh của bà hiện nay là Ngày Nhận thức về CFS Quốc tế.
Từ năm 1857 trở đi, Nightingale thường xuyên phải nằm liệt giường và mắc bệnh trầm cảm. Một tiểu sử gần đây cho rằng nguyên nhân là bệnh brucella và viêm cột sống liên quan. Hầu hết các nguồn chính thống ngày nay đều chấp nhận rằng Nightingale bị một dạng bệnh brucella đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả của bệnh này chỉ bắt đầu giảm bớt vào đầu những năm 1880. Bất chấp sức khỏe xuống dốc, bà vẫn làm việc miệt mài với năng suất phi thường trong công cuộc cải cách xã hội. Trong những năm nằm liệt giường, bà vẫn có những đóng góp tiên phong trong lĩnh vực lập kế hoạch bệnh viện, và công việc của bà lan truyền nhanh chóng trên khắp nước Anh và thế giới. Lượng sáng tác của Nightingale suy giảm đáng kể trong thập kỷ cuối cùng. Bà viết rất ít trong thời gian đó do bị mù và sa sút trí tuệ, mặc dù vậy bà vẫn quan tâm đến các vấn đề thời sự.
Các mối quan hệ
Mặc dù công việc của Nightingale đã nâng cao vị thế và nghề nghiệp của phụ nữ ở nhiều nơi, Nightingale có thể tin rằng nhiều phụ nữ không có năng lực bằng nam giới. Bà chỉ trích các nhà hoạt động vì quyền phụ nữ thời kỳ đầu rằng họ luôn than vãn về sự thiếu hụt công việc dành cho phụ nữ trong khi các vị trí công tác y tế dưới quyền Nightingale và những người khác thì không lúc nào đủ người. Bà thích kết bạn với những người đàn ông quyền lực, nhấn mạnh rằng họ đã giúp bà đạt được nhiều thành quả hơn là các phụ nữ khác. Bà viết rằng: "Tôi không biết một người phụ nữ nào đã thay đổi cuộc đời mình, dẫu chỉ là một chút, vì tôi hoặc ý kiến của tôi." Bà thường tự xưng bằng những đại từ nam tính, chẳng hạn như "một người đàn ông hành động" và "một người đàn ông của công việc".
Tuy nhiên, bà có một số tình bạn quan trọng và lâu dài với những người phụ nữ khác. Sau chiến tranh Krym, bà vẫn trao đổi thư từ với người đồng sự cũ là nữ tu người Ireland Mary Clare Moore. Người bạn tâm giao của bà là Mary Clarke, một phụ nữ Anh mà bà gặp ở Paris năm 1837 và giữ liên lạc trong suốt cuộc đời.
Một số học giả nghiên cứu về Nightingale tin rằng bà giữ trinh tiết suốt đời, có thể là vì lý do niềm tin tôn giáo.
Qua đời
Florence Nightingale qua đời yên bình trong giấc ngủ tại South Street, Mayfair, London, vào ngày 13 tháng 8 năm 1910, ở tuổi 90. Chính quyền đề nghị chôn cất bà tại Tu viện Westminster nhưng gia đình đã từ chối. Bà được an táng tại nhà thờ St Margaret ở East Wellow, Hampshire, gần Embley Park với bia tưởng niệm chỉ đề tên viết tắt và ngày sinh, ngày mất của bà. Bà đã để lại một khối lượng lớn tác phẩm, bao gồm hàng trăm ghi chú mà trước đây chưa được xuất bản. Một đài tưởng niệm Nightingale bằng đá cẩm thạch Carrara được tạc bởi Francis William Sargant vào năm 1913 đặt trong tu viện của Vương cung thánh đường Santa Croce, ở Florence, Ý.
Đóng góp
Thống kê học và cải cách vệ sinh
Florence Nightingale thể hiện năng khiếu toán học ngay từ khi còn nhỏ và xuất sắc vượt trội trong môn học này dưới sự dạy dỗ của cha mình. Sau đó, Nightingale trở thành nhà tiên phong trong việc trình bày trực quan hóa dữ liệu và đồ họa thống kê. Bà đã sử dụng các phương pháp như biểu đồ tròn, được phát triển lần đầu tiên bởi William Playfair vào năm 1801, là một phương pháp tương đối mới mẻ tại thời điểm đó.
Nightingale được mô tả là "nhà tiên phong thực sự trong việc trình bày dữ liệu thống kê bằng đồ thị", và được ghi công cho việc phát triển một dạng biểu đồ hình tròn hiện được gọi là biểu đồ vùng cực hoặc biểu đồ hoa hồng Nightingale, tương đương với biểu đồ tròn hiện đại, để minh họa các nguồn tử vong của bệnh nhân theo mùa trong bệnh viện dã chiến do bà quản lý. Nightingale gọi tổng hợp các sơ đồ như vậy là "coxcomb", nhưng sau này thuật ngữ đó thường được sử dụng cho các sơ đồ riêng lẻ. Bà đã tích cực sử dụng các coxcomb để trình bày các báo cáo về bản chất và tầm quan trọng của các điều kiện chăm sóc y tế trong Chiến tranh Krym trước các Thành viên Quốc hội và quan chức, những người khó có thể đọc hiểu các dạng báo cáo thống kê truyền thống. Năm 1859, Nightingale được bầu làm thành viên nữ đầu tiên của Hiệp hội Thống kê Hoàng gia. Năm 1874, bà trở thành thành viên danh dự của Hiệp hội Thống kê Hoa Kỳ.
Sau đó bà chuyển hướng chú ý sang tình hình sức khỏe của Quân đội Anh ở Ấn Độ và bà đã chứng minh rằng hệ thống thoát nước kém, nguồn nước ô nhiễm, tình trạng quá tải và hệ thống thông gió kém là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tử vong cao. Theo báo cáo trước Ủy ban Hoàng gia về Ấn Độ (1858–1863), bao gồm các bản minh họa được thực hiện bởi người chị họ sống cùng bà là nghệ sĩ Hilary Bonham Carter,}} Nightingale kết luận rằng sức khỏe của quân đội và người dân Ấn Độ phải đi liền với nhau, do đó, bà vận động để cải thiện điều kiện vệ sinh trên toàn quốc.
Nightingale đã thực hiện một nghiên cứu thống kê toàn diện về vấn đề vệ sinh tại các vùng nông thôn Ấn Độ và là người đi đầu trong việc giới thiệu dịch vụ chăm sóc y tế và y tế công cộng nâng cao ở Ấn Độ. Năm 1858 và 1859, bà đã vận động thành công việc thành lập Ủy ban Hoàng gia về tình hình Ấn Độ. Hai năm sau, bà gửi một báo cáo đến ủy ban, ủy ban hoàn thành nghiên cứu về Ấn Độ vào năm 1863. "Sau 10 năm cải cách vệ sinh, vào năm 1873, Nightingale báo cáo rằng tỷ lệ tử vong trong số những người lính ở Ấn Độ đã giảm từ 69 xuống còn 18 trên mỗi 1.000 người".
Ủy ban Vệ sinh Hoàng gia những năm 1868–1869 đã tạo cơ hội cho Nightingale đứng ra vận động quy định bặt buộc về hệ thống vệ sinh tại nhà riêng. Bà đã vận động nhà chức trách là bộ trưởng James Stansfeld tăng cường Dự luật Y tế Công cộng được đề xuất để yêu cầu các chủ nhà trả tiền để lắp đường dẫn vào hệ thống thoát nước chính. Quy định tăng cường được ban hành trong Đạo luật Y tế Công cộng năm 1874 và 1875. Đồng thời, bà hợp tác với nhà cải cách vệ sinh đã nghỉ hưu Edwin Chadwick để thuyết phục Stansfeld trao quyền thực thi luật pháp cho Chính quyền địa phương, loại bỏ cách quản lý tập trung của các kỹ thuật viên y tế từ trên xuống. Từ các số liệu thống kê về Chiến tranh Krym, Nightingale tin rằng với trình độ y học thời bấy giờ thì các phương pháp tiếp cận phi y học sẽ hiệu quả hơn. Các nhà sử học hiện nay tin rằng cả hệ thống thoát nước và quản lý phân quyền đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng tuổi thọ trung bình của vương quốc Anh lên 20 năm trong khoảng từ 1871 đến giữa những năm 1930. Trong thời gian này, các tiến bộ y học trên thực tế không tạo ra ảnh hưởng gì đến những bệnh dịch nghiêm trọng nhất.
Văn học và phong trào phụ nữ
Nhà sử học Bernard Cohen cho rằng:
Lytton Strachey đã đưa Nightingale vào cuốn sách châm biếm những nhân vật anh hùng của thế kỷ 19, Những người nổi tiếng thời Victoria (1918). Tuy nhiên, thay vì chê bai, Strachey dành hẳn một chương ca ngợi Nightingale, khiến danh tiếng của bà càng được củng cố trên toàn quốc và trở thành biểu tượng cho các nhà nữ quyền Anh những năm 1920 và 1930.
Tuy được biết đến nhiều hơn với những đóng góp của mình trong lĩnh vực điều dưỡng và toán học, Nightingale cũng là một mắt xích quan trọng trong việc nghiên cứu nữ quyền ở Anh. Bà đã viết khoảng 200 cuốn sách, sổ tay và bài báo trong suốt cuộc đời mình. Trong những năm 1850 và 1852, bà vật lộn để khẳng định bản thân và chống lại áp lực kết hôn từ gia đình. Bà thể hiện những suy nghĩ của mình trong Suggestions for Thought to Searchers after Religious Truth (Tạm dịch: Gợi ý Tư tưởng cho Người đi tìm Chân niệm). Đây là một tác phẩm dài 829 trang, ba tập, mà Nightingale đã cho in riêng vào năm 1860, nhưng mãi cho đến gần đây mới được xuất bản toàn bộ. Tập 11 trong dự án gồm 16 tập của Đại học Wilfrid Laurier (2008), Florence Nightingale tuyển tập, bao gồm nhiều tiểu luận, nổi tiếng nhất trong số đó là "Cassandra", từng được xuất bản trước đó bởi Ray Strachey vào năm 1928 trong cuốn The Cause (Tạm dịch: Nguyên nhân).
"Cassandra" phản đối việc nữ quyền hóa quá mức khiến phụ nữ gần như bất lực, như Nightingale nhận thấy trong lối sống buông xuôi của mẹ và em gái, mặc dù họ được giáo dục tử tế. Bà khước từ cuộc sống thoải mái vô lo vô nghĩ của họ để lựa chọn sự nghiệp phụng sự xã hội. Tác phẩm cũng phản ánh nỗi sợ hãi của bà nếu những cố gắng trở nên uổng công vô ích, giống như trường hợp của Cassandra. Cassandra là công chúa thành Troia, phụng sự trong đền thờ thần Apollo ở thời kỳ Chiến tranh thành Troia. Thần đã ban cho nàng khả năng tiên tri, nhưng khiến cho không một ai tin những lời tiên đoán của nàng bởi vì nàng đã cự tuyệt tình cảm của thần. Elaine Showalter gọi tác phẩm của Nightingale là "một tài liệu quan trọng của chủ nghĩa nữ quyền Anh, là sự kết nối giữa Wollstonecraft và Woolf". Nightingale ban đầu miễn cưỡng gia nhập Hiệp hội Quyền lợi Phụ nữ khi được John Stuart Mill đề nghị, nhưng sau đó bà đã bị Josephine Butler thuyết phục rằng 'trao quyền cho phụ nữ là điều kiện tiên quyết của một quốc gia tiến bộ về đạo đức và xã hội'.
Thần học
Mặc dù một số nguồn trước đây cho rằng Nightingale theo Nhất vị luận, bà hiếm khi đề cập đến điều này. Tuy có những quan điểm phi chính thống của mình, bà vẫn theo Nhà thờ Anh giáo trong suốt cuộc đời mình. Nightingale bị ảnh hưởng bởi giáo lý Giám lý ngay từ khi còn nhỏ và cho rằng niềm tin chân chính thể hiện ở việc tích cực quan tâm và yêu thương người khác.}} Bà đã viết một tác phẩm thần học: Gợi ý tư tưởng, đề xuất quan điểm thần học của riêng mình. Bà tin rằng tất cả mọi người, dù có được cứu rỗi hay không, cuối cùng cũng sẽ lên được Thiên đường. Đôi khi bà an ủi những người bà chăm sóc với niềm tin này. Ví dụ, một cô gái điếm trẻ đang hấp hối được Nightingale chăm sóc lo sợ sẽ phải xuống địa ngục và nói với bà "Cầu Chúa cho bà đừng bao giờ phải rơi vào tình cảnh tuyệt vọng như tôi lúc này". Bà trả lời: “Ôi, cô gái của tôi, không phải bây giờ em nhân từ hơn vị Chúa mà em đang nghĩ sẽ phải đối mặt sao? Vì thực sự Đấng chân tể nhân từ hơn bất kỳ sinh vật nào mà con người từng biết hoặc từng tưởng tượng ra."
Bất chấp lòng sùng tín mãnh liệt đối với Kitô giáo, Nightingale cũng tin rằng các tôn giáo ngoại giáo và phương đông cũng bao hàm mặc khải đích thực. Bà phản đối sự phân biệt đối xử, kể cả giữa những người Ki tô giáo theo các giáo phái khác nhau và cả những người theo các tôn giáo khác. Nightingale tin rằng tôn giáo giúp tiếp cho mọi người sức mạnh để làm những công việc thiện nguyện gian khổ nhất, vì vậy, bà đảm bảo cho đội ngũ y tá của mình tham gia các nghi lễ tôn giáo. Tuy nhiên, bà thường chỉ trích các tổ chức tôn giáo, như việc Giáo hội Anh ở thế kỷ 19 nhiều khi còn làm trầm trọng thêm tình trạng áp bức người nghèo. Nightingale cho rằng các bệnh viện thế tục thường cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt hơn các bệnh viện giáo hội. Trong khi bà tin rằng nhân viên y tế nên được thúc đẩy bởi niềm tin tôn giáo cũng như nghề nghiệp, bà nói rằng, trên thực tế, nhiều nhân viên y tế có động cơ tôn giáo chủ yếu quan tâm đến sự cứu rỗi của chính mình hơn là động cơ nghề nghiệp nhằm hướng đến chăm sóc cho bệnh nhân tốt nhất có thể.
Di sản
Điều dưỡng
Trong suốt cuộc đời mình những cống hiến không ngừng nghỉ của Nightingale đã đặt nền móng cho ngành điều dưỡng hiện đại. Bà trở thành một tấm gương về lòng nhân ái, sự chăm sóc tận tâm và khả năng quản lý mẫn cán, sáng suốt. Chương trình đào tạo điều dưỡng viên chính thức đầu tiên, Trường Điều dưỡng Nightingale, bắt đầu vào năm 1860 và hiện là Khoa Điều dưỡng và Hộ sinh Florence Nightingale tại Đại học Hoàng đế Luân Đôn.
Năm 1912, Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế đã thiết lập Huân chương Florence Nightingale, được trao hai năm một lần cho các điều dưỡng viên hoặc phụ tá điều dưỡng vì những cống hiến xuất sắc. Đây là sự công nhận quốc tế cao nhất mà một điều dưỡng viên có thể đạt được với "lòng dũng cảm và sự tận tâm đặc biệt đối với những người bị thương, bệnh tật hoặc tàn tật hoặc cho các nạn nhân dân sự của một cuộc xung đột hoặc thảm họa" hoặc "công việc mẫu mực hoặc một tinh thần sáng tạo và tiên phong trong các lĩnh vực giáo dục sức khỏe cộng đồng hoặc điều dưỡng”. Kể từ năm 1965, Ngày Quốc tế Điều dưỡng được kỉ niệm vào ngày sinh nhật của bà (12 Tháng 5) mỗi năm. Tổng thống Ấn Độ tôn vinh các điều dưỡng viên với "Giải thưởng Quốc gia Florence Nightingale" hàng năm vào Ngày Quốc tế Điều dưỡng. Giải thưởng được thành lập vào năm 1973, để ghi nhận công lao của các điều dưỡng viên xuất sắc với sự tận tâm, chân thành, cống hiến và lòng nhân ái.
Cam kết Nightingale là một phiên bản sửa đổi của Lời thề Hippocrate, được các điều dưỡng viên tuyên thệ trong lễ tốt nghiệp. Cam kết được soạn năm 1893 và được đặt theo tên của Nightingale, là một tuyên ngôn về đạo đức và nguyên tắc của nghề điều dưỡng.
Chiến dịch Tuyên bố Florence Nightingale do các nhà lãnh đạo ngành điều dưỡng trên toàn thế giới tổ chức thông qua chương trình Sáng kiến Nightingale vì Sức khỏe Toàn cầu (NIGH), nhằm mục đích xây dựng một phong trào toàn cầu tại cấp cơ sở để hướng tới đạt được hai Nghị quyết được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua năm 2008. Các tuyên bố bao gồm: Năm Quốc tế Điều dưỡng – 2010 (kỷ niệm 100 năm ngày mất của Nightingale); Thập kỷ LHQ vì một Thế giới Khỏe mạnh - 2011 đến 2020 (kỷ niệm hai thế kỷ ngày sinh của Nightingale). NIGH cũng hoạt động để nâng cao nhận thức về các vấn đề quan trọng đã được Florence Nightingale nhấn mạnh, như y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe toàn diện. Tính đến năm 2016, Tuyên bố Florence Nightingale đã nhận được hơn 25.000 chữ ký từ 106 Quốc gia.
Trong Chiến tranh Việt Nam, Nightingale đã truyền cảm hứng cho rất nhiều điều dưỡng của Quân đội Hoa Kỳ, khiến tên tuổi và cuộc đời bà lại được quan tâm trở lại. Country Joe McDonald và ban nhạc Country Joe and the Fish đã lập ra một trang web đồ sộ để vinh danh bà. Trường Y khoa Agostino Gemelli ở Roma, bệnh viện đại học đầu tiên và là một trong những trung tâm y tế uy tín nhất của Ý, đã vinh danh những đóng góp của Nightingale cho ngành điều dưỡng bằng cách đặt tên "Bedside Florence" cho một hệ thống máy tính không dây được phát triển để hỗ trợ điều dưỡng viên.
Bệnh viện
Bốn bệnh viện ở Istanbul được đặt tên theo Nightingale: Bệnh viện Florence Nightingale ở Şişli (bệnh viện tư nhân lớn nhất ở Thổ Nhĩ Kỳ), Bệnh viện Metropolitan Florence Nightingale ở Gayrettepe, Bệnh viện Châu Âu Florence Nightingale ở Mecidiyeköy và Bệnh viện Kızıltoprak Florence Nightingale ở Kadiköy, tất cả đều thuộc Tổ chức Tim mạch Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 2021, Bệnh viện cộng đồng London Road ở Derby, Anh được đổi tên thành Bệnh viện Cộng đồng Florence Nightingale.
Trong đại dịch COVID-19, một số bệnh viện dã chiến NHS Nightingale đã được thành lập để sẵn sàng ứng phó với số lượng bệnh nhân cần chăm sóc đặc biệt gia tăng, tại London và trên khắp nước Anh.
Bảo tàng và tượng đài
Tượng Florence Nightingale được thực hiện bởi Arthur George Walker được đặt ở Waterloo Place, Westminster, London, ngay gần đại lộ The Mall. Có ba bức tượng Nightingale ở Derby - một bên ngoài Bệnh viện Hoàng gia Derbyshire cũ, một ở St Peter's Street, và một ở phía trên Đơn vị Chăm sóc Liên tục Nightingale-Macmillan đối diện với Bệnh viện Hoàng gia Derbyshire, gần đó có quán rượu mang tên bà. Đơn vị chăm sóc thường xuyên Nightingale-Macmillan hiện thuộc Bệnh viện Hoàng gia Derby, trước đây được gọi là Bệnh viện Thành phố Derby.
Một cửa sổ kính màu đã được đưa vào nhà nguyện Bệnh viện Hoàng gia Derbyshire vào cuối những năm 1950. Khi nhà nguyện bị phá bỏ, cửa sổ đã được tháo ra và lắp vào nhà nguyện thay thế. Khi đóng cửa Bệnh viện Hoàng gia Derbyshire, cửa sổ lại được gỡ ra và lưu kho. Vào tháng 10 năm 2010, 6.000 bảng Anh đã được huy động để phục hồi lại cửa sổ tại Nhà thờ St Peter, Derby. Cửa sổ gồm 9 ô, mô tả cảnh cuộc sống trong bệnh viện, cảnh quan thị trấn Derby và bản thân Nightingale.
Bảo tàng Florence Nightingale tại Bệnh viện St Thomas ở London mở cửa trở lại vào tháng 5 năm 2010, kỷ niệm một trăm năm ngày mất của Nightingale. Một bảo tàng Nightingale khác là tại ngôi nhà của gia đình chị gái bà, Claydon House, hiện thuộc sở hữu của National Trust.
Vào ngày kỉ niệm một trăm năm ngày mất của Nightingale năm 2010, Bảo tàng Malvern đã tổ chức một cuộc triển lãm Florence Nightingale để tưởng nhớ mối liên kết giữa bà và thị trấn Malvern, Worcestershire.
Tại Istanbul, tòa tháp cực bắc của tòa nhà Selimiye Barracks nay là Bảo tàng Florence Nightingale, trưng bày các di vật và bản sao liên quan đến Florence Nightingale và đội ngũ y tá của bà.
Một tấm bảng bằng đồng gắn trên đài tưởng niệm Krym ở Nghĩa trang Haydarpaşa, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ được khánh thành vào Ngày Đế chế năm 1954 để kỷ niệm 100 năm những đóng góp của bà ở khu vực này, khắc dòng chữ: "Tới Florence Nightingale, với những cống hiến tại Nghĩa trang này một thế kỷ trước đã cứu vớt nhiều con người và đặt nền móng cho nghề điều dưỡng." Các tượng đài khác của Nightingale bao gồm một bức tượng ở Đại học Chiba ở Nhật Bản, một bức tượng bán thân tại Đại học Bang Tarlac ở Philippines, và một bức tượng bán thân tại Công viên Gun Hill ở Aldershot, Anh. Nhiều trường điều dưỡng khác trên thế giới được đặt theo tên của Nightingale, chẳng hạn như tại Anápolis ở Brazil.
Ghi âm
Giọng nói của Florence Nightingale đã được thu lại trong một đĩa ghi từ năm 1890, được lưu trữ trong Kho lưu trữ âm thanh của Thư viện Anh. Đoạn ghi âm, được thực hiện với sự hỗ trợ của Quỹ Cứu trợ Lữ đoàn nhẹ và hiện có sẵn trực tuyến, có nội dung như sau:Khi tôi không còn tồn tại, dù chỉ là một mẩu ký ức, mà chỉ còn lại một cái tên, tôi hy vọng giọng nói này có thể tiếp tục sự nghiệp lớn của cả cuộc đời mình. Xin Chúa phù hộ cho những người đồng đội cũ thân yêu của tôi ở Balaclava và đưa họ cập bến an toàn. Florence Nightingale.
Sân khấu
Hóa thân trên sân khấu đầu tiên của Nightingale là vở kịch Người phụ nữ với cây đèn của Reginald Berkeley, công chiếu lần đầu ở London vào năm 1929 với Edith Evans thủ vai chính, và được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1951. Năm 2009, một vở kịch sân khấu về Nightingale mang tên Hành trình của người thiếu nữ được sản xuất bởi Hiệp hội các nhà quản lý dịch vụ điều dưỡng Philippines.
Phim ảnh
Năm 1912, một bộ phim câm tiểu sử mang tên Thập tự chương Victoria được phát hành, tiếp nối bởi một bộ phim câm Florence Nightingale năm 1915, bộ phim Thiên thần áo trắng năm 1936, bộ phim Người phụ nữ với cây đèn năm 1951. Năm 1993, Nest Entertainment phát hành bộ phim hoạt hình Florence Nightingale, mô tả công việc y tá của bà trong Chiến tranh Krym.
Truyền hình
Nightingale được nhiều lần thể hiện trên truyền hình, phim tài liệu cũng như các loại hình văn học khác - bộ phim Florence Nightingale năm 2008 của BBC, nhấn mạnh sự độc lập và tiếng gọi tôn giáo của bà, nhưng trong loạt phim Mary Seacole: Thiên thần thực sự của Crimea do Channel 4 sản xuất năm 2006, bà được miêu tả là người hẹp hòi và luốn chống đối những nỗ lực của Seacole.
Các màn thể hiện Nightingale khác bao gồm:
Laura Morgan trong phim truyền hình Victoria tập # 3,4 "Foreign Bodies" (2018)
Kate Isitt trong Magic Grandad tập "Người nổi tiếng: Florence Nightingale" (1994)
Jaclyn Smith trong bộ phim tiểu sử truyền hình Florence Nightingale (1985)
Emma Thompson trong loạt phim hài của ITV Alfresco tập # 1.2 (1983)
Jayne Meadows trong loạt phim PBS Meeting of Minds (1978)
Janet Suzman trong bộ phim tiểu sử kịch nghệ của Anh Miss Nightingale (1974)
Julie Harris trong Hallmark Hall of Fame tập # 14.4 " The Holy Terror" (1965)
Sarah Churchill trong Hallmark Hall of Fame tập # 1.6 " Florence Nightingale" (1952)
Tiền giấy
Hình ảnh của Florence Nightingale xuất hiện trên mặt sau của tờ tiền 10 bảng Anh Series D do Ngân hàng Anh phát hành từ năm 1975 đến năm 1994, với tay cầm chiếc đèn trong khung cảnh một bệnh viện dã chiến. Hình ảnh Nightingale trên tiền giấy được lưu hành cùng với hình ảnh của Isaac Newton, William Shakespeare, Charles Dickens, Michael Faraday, Sir Christopher Wren, Công tước Wellington và George Stephenson; trước năm 2002, ngoài các nữ quốc vương, bà là người phụ nữ duy nhất từng xuất hiện trên tờ tiền giấy của Ngân hàng Anh.
Ảnh chụp
Nightingale có nguyên tắc hạn chế chụp ảnh hoặc vẽ chân dung. Một bức ảnh cực kỳ hiếm hoi của bà chụp tại Embley trong chuyến thăm nhà vào tháng 5 năm 1858 được phát hiện vào năm 2006 và hiện được lưu giữ ở Bảo tàng Florence Nightingale, London. Một bức ảnh đen trắng được chụp vào khoảng năm 1907 bởi Lizzie Caswall Smith tại ngôi nhà ở London của Nightingale tại South Street, Mayfair, đã được bán đấu giá vào ngày 19 tháng 11 năm 2008 với giá 5.500 bảng Anh.
Tiểu sử
Cuốn tiểu sử đầu tiên của Nightingale được xuất bản ở Anh vào năm 1855. Năm 1911, Edward Tyas Cook được ủy quyền viết tiểu sử chính thức về bà, xuất bản thành hai tập vào năm 1913. Nightingale cũng là chủ đề của một trong bốn bài luận tiểu sử tiểu sử nổi tiếng của Lytton Strachey, Những người Victoria nổi tiếng. Strachey xem Nightingale là một người phụ nữ mạnh mẽ, có chí hướng, là người khó chịu về phương diện cá nhân nhưng lại đáng ngưỡng mộ về phương diện những thành tựu mà bà đã đạt được.
Cecil Woodham-Smith, giống như Strachey, dựa rất nhiều vào tiểu sử của Cook để viết cuốn tiểu sử của mình năm 1950, mặc dù bà được quyền truy cập vào các tài liệu gia đình lưu giữ tại Claydon. Năm 2008, Mark Bostridge xuất bản một bộ tiểu sử mới về Nightingale, hầu như chỉ dựa trên tài liệu chưa được xuất bản từ Bộ sưu tập Verney tại Claydon và các tài liệu lưu trữ từ khoảng 200 kho lưu trữ trên khắp thế giới.
Khác
Năm 2002, Nightingale được xếp thứ 52 trong Danh sách 100 người Anh vĩ đại nhất của BBC sau một cuộc thăm dò quy mô lớn ở Anh. Năm 2006, công chúng Nhật Bản đã xếp Nightingale ở vị trí thứ 17 trong Top 100 nhân vật lịch sử ở Nhật Bản.
Một số nhà thờ Cộng đồng Anh giáo tưởng niệm Nightingale với một ngày lễ trong lịch phụng vụ. Nhà thờ Tin Lành Lutheran ở Mỹ tưởng nhớ bà cùng với Clara Maass trong vai trò Nhà cải cách xã hội vào ngày 13 Tháng Tám.
Nhà thờ Quốc gia Washington kỷ niệm những thành tựu của Nightingale với một cửa sổ kính màu hình mũi mác kép thể hiện sáu cảnh tượng trong cuộc đời cô, được thiết kế bởi nghệ sĩ Joseph G. Reynolds và được lắp đặt vào năm 1983.
Tàu của Hải quân Hoa Kỳ được đưa vào hoạt động năm 1942. Bắt đầu từ năm 1968, Không quân Hoa Kỳ vận hành một phi đội 20 chiếc máy bay giải cứu y tế C-9A "Nightingale", dựa trên nền tảng chiếc McDonnell Douglas DC-9. Chiếc cuối cùng trong đội máy bay này ngừng hoạt động vào năm 2005.
Năm 1981, tiểu hành tinh 3122 Florence được đặt theo tên Nightingale. Một máy bay McDonnell-Douglas MD-11 của KLM Hà Lan (đăng ký PH-KCD) cũng được đặt tên để vinh danh bà. Nightingale đã xuất hiện trên nhiều mẫu tem bưu chính quốc tế, bao gồm Vương quốc Anh, Alderney, Úc, Bỉ, Dominica, Hungary và Đức.
Florence Nightingale được tưởng nhớ tại Nhà thờ Anh với lễ tưởng niệm vào ngày 13 tháng 8. Các hoạt động kỷ niệm 200 năm ngày sinh của bà vào năm 2020 không thể tiến hành được do dịch bệnh Covid-19, nhưng các bệnh viện dã chiến NHS Nightingale trong đại dịch đã được đặt theo tên bà.
Tác phẩm
Privately printed by Nightingale in 1860.
The Family, a critical essay in Fraser's Magazine (1870)
Note: First few pages missing. Title page is present.
. See also 2005 publication by Diggory Press, |
"Florence" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem Florence (định hướng).
Firenze ( hay còn phổ biến với tên gọi Florence trong tiếng Anh và tiếng Pháp) là thủ phủ của vùng Toscana, miền Trung nước Ý. Đây là thành phố đông dân thứ tám quốc gia và lớn nhất Toscana, với dân số khoảng 360.843 người, đồng thời là cốt lõi trung tâm của Thành phố đô thị Firenze cũng như là trái tim của vùng đô thị mở rộng Firenze-Prato-Pistoia với hơn 1,5 triệu dân.
Được thành lập vào năm 59 TCN để làm khu định cư cho các cựu chiến binh La Mã dưới thời Julius Caesar, trải qua nhiều thế kỷ, Firenze trở thành trung tâm của tuyến giao thương và tài chính quan trọng bậc nhất của châu Âu thời Trung Cổ, và là một trong những thành bang giàu có nhất và tiến bộ nhất thời kỳ bấy giờ. Nơi đây được các học giả nhận định là cái nôi khai sinh của phong trào văn hóa Phục Hưng và được gọi với biệt danh "Thành Athens thời Trung Cổ". Lịch sử chính trị đầy thăng trầm và biến động của nó bao gồm các thời kỳ cai trị của gia tộc Medici quyền lực cũng như nhiều cuộc cách mạng tôn giáo và cộng hòa, cùng sức mạnh tài chính và giao thương đi kèm những thành tựu vượt bậc trong mọi lĩnh vực văn hóa, chính trị, nghệ thuật đã khiến thành phố trở thành bước ngoặc lớn trong lịch sử Ý và châu Âu, tạo ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lịch sử nhân loại. Từ năm 1865 đến 1871, thành phố đóng vai trò là kinh đô lâm thời của Vương quốc Ý còn non trẻ. Phương ngữ Firenze tạo nên nền tảng tiêu chuẩn của tiếng Ý và trở thành ngôn ngữ phổ thông chính thức trên khắp chiều dài lãnh thổ nước Ý thống nhất nhờ vào uy tín từ những tác phẩm xuất chúng của Dante Alighieri, Petrarca, Giovanni Boccaccio, Niccolò Machiavelli và Francesco Guicciardini.
Thành phố được công nhận toàn cầu là một trong những cái nôi của nghệ thuật và kiến trúc do bề dày văn hóa và di sản Phục Hưng. Tiêu biểu nhất trong số đó bao gồm Vương cung thánh đường Đức Bà Phồn Hoa, Thánh đường Thánh Giá, Phòng trưng bày Uffizi, cầu Ponte Vecchio, Quảng trường Signoria, Palazzo Vecchio và Palazzo Pitti. Những cống hiến nghệ thuật và khoa học của những bậc thầy thiên tài và các vĩ nhân Phục Hưng như Brunelleschi, Michelangelo, Giotto, Botticelli, Leonardo da Vinci, Donatello, Lorenzo de' Medici, Galileo Galilei là vô giá, kiến tạo nên Trung tâm lịch sử Firenze trở thành một trong số ít khu vực có mật độ tập trung dày đặc nhiều kiệt tác nhất trên thế giới, thu hút hàng triệu lượt khách du lịch mỗi năm và được trao tặng danh hiệu Di sản UNESCO của nhân loại vào năm 1982 cũng như được lựa chọn là một trong những Thủ đô Văn hóa tiên phong đầu tiên của châu Âu. Sự phong phú và đồ sộ của các di sản lịch sử, nghệ thuật, khoa học, thiên nhiên và cảnh quan làm cho trung tâm của thành phố và các ngọn đồi xung quanh trở thành một "bảo tàng sống" thực thụ vĩ đại, mà từ đó Forbes đã xếp hạng Firenze là một trong những thành phố đẹp nhất trên thế giới.
Firenze còn được xem là một trong những cái nôi âm nhạc thế giới khi đây là nơi khai sinh của opera, loại hình nghệ thuật biểu diễn vang danh toàn cầu đóng vai trò quan trọng trong âm nhạc cổ điển. Ngoài ra, dương cầm (tức đàn piano), một trong những nhạc cụ chủ lực và nổi tiếng nhất của âm nhạc cũng được phát minh tại thành phố này. Firenze giữ vị thế đáng kể trong ngành thời trang Ý, và được xếp hạng thứ 13 trong top những kinh đô thời trang hàng đầu thế giới; ngoài ra, Firenze còn là trung tâm công nghiệp – kinh tế trọng điểm quốc gia. Đội thể thao nổi tiếng nhất của thành phố là câu lạc bộ ACF Fiorentina, từng hai lần vô địch Giải bóng đá vô địch quốc gia Ý Serie A.
Tên gọi
Phương ngữ Toscana thời Trung Cổ có nhiều phiên bản tên gọi khác nhau dành cho Firenze, mà tiêu biểu thành văn nhất trong số đó là "Fiorenza", và cái tên này cũng là dẫn xuất trực tiếp từ tên gốc trong tiếng Latinh, tức "Florentia". Truyền thuyết cho rằng nguồn gốc tên gọi Florentia là từ Florio – một người lính đồng đội La Mã tử trận tại khu vực này, hoặc chỉ trực tiếp đến các loài hoa, hoặc Flora – nữ thần của mùa xuân và muôn hoa trong thần thoại La Mã, vì thành phố được thành lập vào khoảng thời gian Floralia – mùa lễ hội thực hành tôn giáo La Mã cổ đại để vinh danh vị thần này.
Bản thân Florentia là một cái tên mang ý nghĩa tốt lành, nét đẹp hoa mỹ và dùng để truyền đạt sự may mắn, "chúc tụng cuộc sống nở rộ", "sự phồn hoa, hưng thịnh" (tiếng Latinh: florentes, tiếng Ý: fiorente, tiếng Anh: flourishing) và cách lý giải nguồn gốc từ thiên nhiên này gần đây đã được xác nhận bởi Accademia della Crusca – viện nghiên cứu ngôn ngữ có thẩm quyền chính thức đối với tiếng Ý. Một giả thuyết khác cho rằng thành phố này vốn có tên là Fluentia, do nó được xây dựng trên vùng đất lầy giữa các con sông, rồi về sau mới được đổi thành Florentia để ám chỉ các loài hoa mọc trong khu vực. Không rõ cái tên Etrusca thời kỳ tiền La Mã của khu định cư Florentia là gì.
Giống như cách mà flos-floris dần biến thành "flower" trong tiếng Anh, thì danh từ riêng Florentia cũng đã trải qua quá trình biến đổi ngữ âm trên thực tế, dần dần định hình thành Fiorenza. Tuy nhiên, cái tên "Firenze" trong tiếng Ý hiện đại lại có nguồn gốc từ thể ngữ pháp sở hữu cách/vị trí cách tiếng Latinh của Florentia là Florentiae, rồi dần trở thành Fiorenze và sau cùng nguyên âm đôi io rút ngắn thành âm /i/ để tạo ra Firenze như hiện nay, do vị trí trước âm tiết nhấn của nó. Trong khi đó, các ngôn ngữ châu Âu khác vẫn bảo tồn ít nhiều đặc điểm ngữ âm của tiếng Latinh gốc, ví dụ như Florence trong tiếng Anh và tiếng Pháp, Florencia trong tiếng Tây Ban Nha, Florenz trong tiếng Đức hoặc Florenţia trong tiếng Romania. Tuy vậy, thể tính từ fiorentino/fiorentina/fiorentini của cái tên Fiorenza (bắt nguồn từ thể tính từ florentinus/florentina/florentini của Florentia trong tiếng Latinh) vẫn được bảo tồn và sử dụng chính thức trong tiếng Ý để gọi tên cư dân của Firenze hoặc trong các địa danh, văn hóa, ẩm thực, đội bóng.
Huy hiệu
Kể từ thế kỷ 11, biểu tượng của Firenze là hình hoa huệ tây (tức hoa loa kèn, hoa lily), được xem là loài hoa vương giả và là nữ hoàng của các loài hoa. Ban đầu đóa huệ Firenze (tiếng Ý: Giglio di Firenze) là hoa trắng bạc trên nền đỏ, nhưng vào thế kỷ 13, những người Guelfi – phái ủng hộ Giáo hoàng đã chọn sử dụng hoa màu đỏ trên nền trắng để phân biệt danh tính của họ với đối thủ chính trị là những người Ghibellini – phe ủng độ Hoàng đế La Mã Thần thánh. Vào năm 1251, khi đảng phái ủng hộ Giáo hội thắng thế và tổng cổ được phe Thánh chế La Mã ra khỏi Firenze, thì biểu tượng huệ đỏ nền trắng trở thành huy hiệu của thành phố cho đến tận ngày nay. Năm 1809, Napoléon ra lệnh bãi bỏ huy hiệu của thành cổ này và thay thế bằng nền bạc, hoa huệ trên cỏ xanh, sọc đỏ trên đỉnh và ba con ong vàng (tượng trưng cho vị Hoàng đế Pháp). Dân chúng thành Firenze không hài lòng với sự thay đổi này và đã thể hiện bất tuân dân sự đối với sắc lệnh trên.
Hoa huệ Firenze là đóa huệ có nút thắt (vì các cánh hoa xuyên qua nút), nó là biểu tượng được sử dụng trong huy hiệu để chỉ đóa hoa đã nở rộ. Biểu tượng Firenze vẽ bởi năm cánh hoa phía trên (ba cánh chính và hai nhị hoa mỏng hơn, hình nụ) và các nhánh phía dưới, tất cả được sắp xếp đối xứng. Người ta cho rằng đây là sự cách điệu của hoa diên vĩ (chứ không phải của hoa loa kèn) do thực tế là loài Iris germanica chủng florentina (hoa diên vĩ trắng) mọc rất nhiều và phát triển mạnh trong môi trường dọc bờ sông Arno xung quanh Firenze.
Lịch sử
Firenze khởi nguồn là một khu trại thành của người La Mã, và sau một thời gian dài nó trở thành một thành trì hưng thịnh phát đạt về ngành thương mại và ngân hàng, từ đó là nền tảng để khai sinh ra nền Phục hưng Ý. Đây là một trong những thành phố quan trọng nhất về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa ở châu Âu và thế giới từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16.
Thứ tiếng sử dụng trong thành phố từ thế kỷ 14 được tiếp nhận trở thành hình mẫu cho ngôn ngữ phổ thông toàn quốc sau này. Đặc biệt nhờ vào các tác phẩm phương ngữ Toscana của Dante, Petrarca, Boccaccio mà tiếng Firenze đã trở nên nổi bật hơn cả các phương ngữ ở những vùng miền khác, và được sử dụng làm nền tảng cho ngôn ngữ văn học thống nhất toàn nước Ý.
Bắt đầu từ cuối thời Trung Cổ, tiền tệ Firenze – dưới dạng đồng tiền vàng florin – đã hỗ trợ tài chính cho sự phát triển công nghiệp trên khắp châu Âu, từ Anh đến Brugge, từ Lyon đến Hungary. Các chủ ngân hàng Firenze đã tài trợ cho các vị vua Anh trong Chiến tranh Trăm Năm. Tương tự như vậy, họ đã tài trợ cho triều đại Giáo hoàng, bao gồm cả việc xây dựng thủ đô tạm thời Avignon của và sau khi chế độ Giáo hoàng trở về Roma, là việc tái thiết và tôn tạo cố đô La Mã thời Phục Hưng.
Firenze là trụ xứ của đại gia tộc Medici, một trong những gia đình quý tộc có tầm ảnh quan trọng nhất trong lịch sử châu Âu. Lorenzo de' Medici được coi là bậc thầy chính trị và văn hóa của Ý vào cuối thế kỷ 15. Bốn thành viên của gia tộc này trở thành Giáo hoàng vào thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17: Lêô X, Clêmentê VII, Piô IV và Lêô XI. Caterina de' Medici kết hôn với quốc vương Henri II của Pháp và sau khi ông qua đời năm 1559, bà lên làm nhiếp chính ở Pháp và là mẹ của 3 đời vua Pháp kế tiếp nhau: François II, Charles IX và Henri III. Maria de' Medici kết hôn với Henri IV của Pháp và sinh ra vị vua tương lai là Louis XIII. Nhà Medici tại Firenze trị vì với tư cách là Đại công tước xứ Toscana, bắt đầu với Cosimo I de' Medici năm 1569 và kết thúc với cái chết của Gian Gastone de' Medici năm 1737.
Vương quốc Ý, được tuyên bố thành lập vào năm 1861, đã chuyển kinh đô từ Torino đến Firenze vào năm 1865 và sau đó chính thức chuyển về thành Roma vào năm 1871.
Khởi nguồn
Khu vực đồng bằng thung lũng Firenze bao bọc bởi các ngọn đồi xung quanh phát hiện các dấu tích khảo cổ có con người sinh sống từ thời kỳ đồng đá. Khu dân cư ổn định đầu tiên là một ngôi làng các nhà chòi, được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 TCN bởi người Etrusca vào thời kỳ văn hóa Villanova gần một khúc cạn trên sông Arno, ngay giữa trung tâm của một đồng bằng đầm lầy màu mỡ. Khoảng năm 150 TCN, người Etruscan ở Fiesole nằm ở vị trí cao trên đồi gần đó thành lập nên một "thành phố vệ tinh" dọc sông Arno, để khai thác sự hiện diện của đường thủy nơi đây và xây dựng một cây cầu gỗ đầu tiên qua sông.
Lịch sử thành văn chính thức của Firenze theo truyền thống bắt đầu vào năm 59 TCN, khi người La Mã thành lập khu định cư theo kiểu doanh trại quân đội (tiếng Latinh: castrum, tức trại thành) dành cho các cựu quân nhân và cung hiến nó cho Mars – vị thần chiến tranh trong thần thoại La Mã. Tương truyền, trại thành Firenze được lập nên trong khoảng thời gian lễ hội mùa xuân Floralia vinh danh một trong những vị thần cổ xưa nhất của tôn giáo La Mã là Flora, bắt đầu vào khoảng 28 tháng 4 theo lịch Julius.
Firenze cũng được thành lập vì những lý do chính trị và chiến lược trọng yếu, khi vào năm 62 TCN, Fiesole là một khu đồn trú của quân Lucius Sergius Catilina, và Caesar muốn có một tiền đồn gần đó để giám sát các con đường và thông tin liên lạc. Người La Mã sau đó đã xây dựng các cảng trên sông Arno và Mugnone để tạo ra các vị trí giao thông thuận lợi. Firenze nằm ở đoạn giữa tuyến đường La Mã Via Cassia nối thành Roma với phương Bắc, tạo thành một cái nêm kiểm soát phần thung lũng Arno từ dãy núi Appennini mở ra vùng đồng bằng dẫn ra biển theo hướng Pisa. Các tòa nhà bắt đầu mọc xung quanh doanh trại quân đội La Mã, bao gồm cầu dẫn nước, một công trường, spa và nhà tắm, rạp hát La Mã và đấu trường vòng cung của Firenze, từ đó dần mở rộng đô thị hóa tỏa ra theo hướng ly tâm. Một cảng sông gần đó cho phép giao thương đến tận Pisa xuôi theo dòng Arno. Biên giới của thành Florentia xưa của người La Mã vẫn có thể nhận ra trong bản đồ quy hoạch của thành phố, đặc biệt là các bức tường thành Firenze.
Vào năm 285, Hoàng đế Diocletianus thiết lập một đầu não chỉ huy tại Firenze, chịu trách nhiệm cho toàn bộ vùng Tuscia (Toscana ngày nay). Bởi vì Firenze phát triển nhanh chóng trong vài thế kỷ tiếp theo thời Trung Cổ, nên ngày nay, rất ít di tích La Mã cổ đại còn hiện diện tại Firenze. Một số di tích còn lại bao gồm khu phức hợp nhiệt được phát hiện ở Quảng trường Signoria, và đấu trường vòng cung Firenze (ít nhất được thể hiện thông qua cấu trúc đường phố trên bản đồ).
Sơ kỳ Trung Cổ
Tòa giám mục thành Firenze bắt đầu từ khoảng đầu thế kỷ thứ 4, thành phố lúc bấy giờ được cai trị thay phiên nhau bởi các thế lực Ostrogoth và Byzantine khi hai cường quốc chiến đấu với nhau để giành quyền kiểm soát thành phố. Thành phố thường bị vây hãm rồi sẽ lại rơi vào tay một trong hai bên. Vào thế kỷ thứ 6 tức giai đoạn cuối của thời kỳ không ổn định này, dân số Firenze giảm xuống mức thấp nhất có thể là 1.000 người.
Hòa bình trở lại dưới sự cai trị của người Lombard vào thế kỷ thứ 6, sau đó bị chinh phục bởi Charlemagne vào năm 774, Firenze trở thành một phần của Phiên bá quốc Toscana, có thủ đô đặt tại Lucca. Dân số Firenze bắt đầu tăng trở lại và ngành giao thương buôn bán bắt đầu phát triển và trở nên thịnh vượng. Phiên địa bá tước Hugo xứ Toscana đã chọn Firenze làm nơi cư trú thay vì Lucca vào khoảng năm 1000. Thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật Firenze bắt đầu vào khoảng thời gian này. Vào thế kỷ 12, người dân Firenze nổi dậy chống lại Phiên bá quốc sau cái chết của Matilda xứ Toscana để lập nên nền Cộng hòa, và Firenze trở thành một thành bang phát triển. Nhưng thời kỳ phát triển ấy đã bị gián đoạn do cuộc xung đột nội bộ vào thế kỷ 13 giữa người Ghibellini ủng hộ Hoàng đế Đức và Guelfi phe ủng hộ Giáo hoàng. Phe Guelfi giành chiến thắng và lại nhanh chóng chia rẽ thành các phe "Trắng" và "Đen" đầy thù địch do Vieri de' Cerchi và Corso Donati lãnh đạo, ban đầu chia theo dòng tộc, nhưng dần trở thành sự khác biệt về tư tưởng nảy sinh dựa trên quan điểm đối lập về vai trò của Giáo hoàng trong các vấn đề của Firenze, với phe Đen ủng hộ Giáo hoàng và phe Trắng muốn nhận được sự tự chủ nhiều hơn khỏi Roma. Những cuộc đấu tranh này cuối cùng đã dẫn đến sự lưu đày của những người Guelfi trắng, một trong số đó chính là nhà thơ Dante Alighieri khiến ông phải lưu vong và tha hương đến cuối đời.
Nguồn tài nguyên chính của thành phố là sông Arno, cung cấp động lực và khả năng tiếp cận cho ngành công nghiệp (chủ yếu là ngành dệt may) và tiếp cận Địa Trung Hải cho thương mại quốc tế, giúp phát triển cộng đồng thương nhân cần cù bản xứ. Các kỹ năng ngân hàng của các thương nhân Firenze đã được công nhận khắp châu Âu sau khi họ mang lại sự đổi mới có tính quyết định trong ngành tài chính (ví dụ: hối phiếu, hệ thống ghi sổ kép) cho các hội chợ giao thương thời Trung Cổ. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự tàn lụi của Pisa, đối thủ hùng mạnh trước đây của Firenze. Quyền lực ngày càng tăng của tầng lớp thương gia lên đến đỉnh điểm trong cuộc nổi dậy chống lại giới quý tộc, do Giano della Bella lãnh đạo tạo ra Pháp lệnh Công Lý củng cố quyền lực của các bang hội ưu tú cho đến khi nền Cộng hòa Firenze kết thúc.
Nhà Medici và thời Phục Hưng
Ở đỉnh điểm của việc mở rộng dân số vào khoảng năm 1325, dân số Firenze có thể lên tới 120.000 người và dân số nông thôn xung quanh thành phố có thể lên tới gần 300.000 người. Đại dịch Cái Chết Đen xảy ra đã lấy đi sinh mạng hơn một nửa dân chúng. Vào năm 1345, Firenze diễn ra nỗ lực đình công của những người thợ chải len (ciompi) và sau đó năm 1378 trở thành Cuộc nổi dậy Ciompi đấu tranh chống lại chế độ đầu sỏ. Sau khi họ bị đàn áp, Firenze nằm dưới sự thống trị của gia đình Albizzi có đối thủ gay gắt là Nhà Medici, đã nổi lên nắm quyền không lâu sau đó.
Vào thế kỷ 15, Firenze là một trong những thành phố lớn nhất ở châu Âu, với dân số 60.000 người, được xem là giàu có và thành công về kinh tế. Cosimo de' Medici là thành viên gia tộc Medici đầu tiên kiểm soát thành phố từ đằng sau hậu trường. Mặc dù trên lý thuyết Firenze là một nền dân chủ, quyền lực của Cosimo đến từ một mạng lưới bảo trợ rộng lớn cùng liên minh với những người nhập cư mới, gente nuova. Việc nhà Medici trở thành chủ ngân hàng của Giáo hoàng cũng góp phần vào uy thế của họ. Cosimo được kế vị bởi con trai của ông là Piero và tiếp đến là con trai của Piero tức Lorenzo kế vị vào năm 1469. Lorenzo de' Medici là người bảo trợ mạnh mẽ nhiệt thành nhất cho nghệ thuật và đặt hàng các tác phẩm của Michelangelo, Leonardo da Vinci và Botticelli. Ông cũng là một nhà thơ và nhạc sĩ tài năng và đã đưa các nhạc sĩ và ca sĩ đến Firenze, bao gồm Alexander Agricola, Johannes Ghiselin và Heinrich Isaac. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, Lorenzo là người nắm giữ trọng tâm cán cân quyền lực Liên minh các quốc gia Ý, đem lại giai đoạn hòa bình và phát triển kinh tế cho khu vực dựa trên sự ổn định tình hình chính trị trên bán đảo này trong nhiều thập kỷ, và cuộc đời của ông trùng khớp với giai đoạn chín muồi của nền Phục hưng Ý và Thời đại hoàng kim của Firenze. Người dân Firenze lúc bấy giờ và kể từ đó gọi ông với cái tên "Lorenzo Đấng Vĩ Đại" (Lorenzo il Magnifico). Sau cái chết của Lorenzo de' Medici vào năm 1492, con trai ông là Piero II tiếp tục kế vị. Khi vua Charles VIII của Pháp xâm lược miền bắc nước Ý, Piero II đã chọn cách chống lại với quân đội của mình. Nhưng khi nhận ra quy mô của quân đội Pháp tại cổng thành Pisa, ông phải chấp nhận những điều kiện nhục nhã quy hàng trước vị vua Pháp. Điều đó khiến dân chúng Firenze nổi loạn và họ đã trục xuất Piero II. Với việc ông bị lưu đày vào năm 1494, thời kỳ cai trị đầu tiên của gia tộc Medici kết thúc với việc khôi phục chính phủ cộng hòa.
Trong thời kỳ này, tu sĩ dòng Đa Minh Girolamo Savonarola đã trở thành người đứng đầu tu viện San Marco vào năm 1490. Ông nổi tiếng với những bài giảng sám hối, chỉ trích những gì ông coi là băng hoại đạo đức và lối sống của cải vật chất thực dụng. Ông ca ngợi việc lưu đày Medici là công việc của Chúa Trời đã trừng phạt họ vì sự suy đồi tham lam. Ông đã nắm bắt cơ hội thực hiện các cải cách chính trị dẫn đến một chế độ dân chủ hơn. Nhưng khi Savonarola công khai cáo buộc Giáo hoàng Alexanđê VI tham ô, ông đã bị cấm phát biểu trước đám đông và khi ông vi phạm lệnh cấm này, Savonarola đã bị vạ tuyệt thông. Dân chúng thành Firenze đã mệt mỏi chán ngán với những lời giáo huấn của Savonarola nên nổi dậy chống lại và bắt giữ ông ta. Ông bị kết tội dị giáo, bị treo cổ và thiêu sống trên cọc ở Quảng trường Signoria vào ngày 23 tháng 5 năm 1498. Một nhân vật Firenze lừng anh danh khác trong thời kỳ này là Niccolò Machiavelli – nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất, nổi tiếng với cuốn sổ tay chính trị Il Principe hay Quân vương, viết về thuật cai trị và thực thi quyền lực, kể cả các thủ đoạn chính trị. Machiavelli cũng được ủy quyền bởi Nhà Medici để viết nên quyển Istorie fiorentine, cuốn biên niên sử của thành phố.
Năm 1512, Nhà Medici giành lại quyền kiểm soát Firenze với sự giúp đỡ của quân đội Tây Ban Nha và Giáo hoàng. Họ được lãnh đạo bởi hai người anh em họ là Giovanni và Giulio de' Medici, cả hai sau này đều trở thành Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo (tức Lêô X và Clêmentê VII tương ứng). Cả hai đều là những người bảo trợ hào phóng cho nghệ thuật, ủy quyền cho Michelangelo xây dựng các công trình như Thư viện Laurenziana và Nhà nguyện Medici ở Firenze. Giáo triều của hai vị Giáo hoàng trùng với khoảng thời gian biến động chính trị ở Ý, và do đó vào năm 1527, người dân Firenze đã tống cổ người nhà Medici lần thứ hai và tái lập một nước cộng hòa thần quyền vào ngày 16 tháng 5 năm 1527, với Chúa Giêsu Kitô được phong là Vua của Firenze. Nhà Medici trở lại nắm quyền Firenze vào năm 1530 bằng quân đội của Hoàng đế La Mã Thần thánh Karl V kèm sự ban phước của Giáo hoàng Clêmentê VII.
Firenze chính thức trở thành một nhà nước phong kiến vào năm 1531, khi Karl V và Giáo hoàng Clêmentê VII sắc phong Alessandro de' Medici làm Công tước của Cộng hòa Firenze. Chế độ phong kiến của gia tộc Medici sẽ kéo dài hơn hai thế kỷ. Người kế vị của Alessandro là Cosimo I de' Medici được phong làm Đại công tước xứ Toscana vào năm 1569; trong toàn bộ vùng Toscana, chỉ có Cộng hòa Lucca (sau này là Công quốc) và Công quốc Piombino là độc lập với Firenze.
Cận đại
Sự diệt vong của triều đại Medici và sự lên ngôi vào năm 1737 của Franz I của Thánh chế La Mã, Công tước xứ Lorraine – phu quân của Maria Theresa của Áo, dẫn đến việc xứ Toscana tạm thời được đưa vào lãnh thổ của Đại công quốc Áo. Nó đã trở thành nhánh phụ của triều đại Habsburg-Lorraine, sau đó bị phế truất và quyền lực rơi vào tay Nhà Bourbon-Parma vào năm 1801. Từ năm 1801 đến 1807, Firenze là thủ đô của Vương quốc Etruria, quốc gia chư hầu của Napoléon. Nhà Bourbon-Parma bị phế truất vào tháng 12 năm 1807 khi Toscana bị Pháp sáp nhập. Firenze trở thành lỵ sở của tỉnh Arno thuộc Pháp từ năm 1808 cho đến khi Napoléon thất thế vào năm 1814. Triều đại Habsburg-Lorraine được khôi phục ngôi vị Toscana tại Đại hội Viên nhưng cuối cùng bị phế truất vào năm 1859. Toscana chính thức trở thành một vùng của chính thể Vương quốc Ý mới khai sinh vào năm 1861.
Firenze đã thay thế Torino trở thành thủ đô lâm thời của Ý vào năm 1865 và trong nỗ lực hiện đại hóa thành phố, khu chợ cũ ở quảng trường Piazza del Mercato Vecchio và nhiều ngôi nhà thời Trung Cổ đã bị dỡ bỏ và thay thế bằng quy hoạch đường phố khang trang hơn với những ngôi nhà mới hơn. Quảng trường Vittorio Emanuele II (hiện nay là Quảng trường Cộng Hòa) đã được mở rộng đáng kể và một khải hoàn môn lớn được xây dựng ở đầu phía tây. 6 năm sau, kinh đô của Ý chính thức được chuyển về Roma sau khi quân Pháp bảo hộ Giáo hoàng được huy động rút lui để tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ 1870, tạo điều kiện cho quân Ý sáp nhập Roma thành công vào nước Ý mới sinh hoàn toàn thống nhất.
Hiện đại
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Firenze trải qua sự chiếm đóng kéo dài một năm của Đức (1943–1944), thuộc chính thể Cộng hòa Xã hội Ý. Vào ngày 25 tháng 9 năm 1943, máy bay ném bom của quân Đồng Minh nhắm vào trung tâm Firenze, phá hủy nhiều tòa nhà và giết chết 215 dân thường. Hitler tuyên bố đây là một thành phố mở vào ngày 3 tháng 7 năm 1944 khi binh lính Tập đoàn quân số 8 của Anh tiến vào. Vào đầu tháng 8, quân Đức đang rút lui đã quyết định phá bỏ tất cả các cây cầu dọc theo sông Arno nối phường Oltrarno với phần còn lại của thành phố, gây khó khăn cho quân của quân Đồng Minh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng Charles Steinhauslin lúc đó là lãnh sự của 26 quốc gia ở Firenze, đã thuyết phục được tướng Đức ở Ý không phá hủy cây cầu Ponte Vecchio do giá trị lịch sử của nó. Tuy nhiên, một khu vực di sản không kém giá trị lịch sử là các đường phố ngay đầu phía nam của cây cầu, bao gồm cả một phần của chuỗi Hành lang Vasari, đã bị phá hủy bằng mìn. Sau này những cây cầu đã được khôi phục về hình dạng ban đầu dựa trên những gì còn sót lại, nhưng các tòa nhà xung quanh Ponte Vecchio đã được xây dựng lại theo phong cách kết hợp giữa thiết kế cũ và hiện đại. Không lâu trước khi rời Firenze và biết rằng họ sẽ sớm phải rút lui, quân Đức đã hành quyết công khai nhiều người đấu tranh cho tự do và các đối thủ chính trị, trên các đường phố và quảng trường bao gồm cả Piazza Santo Spirito. Firenze được giải phóng bởi quân đội New Zealand, Nam Phi và Anh vào ngày 4 tháng 8 năm 1944 cùng với những người yêu nước từ Ủy ban Giải phóng Quốc gia Toscana. Những người lính Đồng minh đã chết khi đánh đuổi quân Đức khỏi Toscana được chôn cất tại các nghĩa trang bên ngoài thành phố. Vào cuối Thế chiến thứ hai tháng 5 năm 1945, Chi bộ Thông tin và Giáo dục của Quân đội Hoa Kỳ được lệnh thành lập một khuôn viên đại học ở nước ngoài dành cho nam và nữ quân nhân Hoa Kỳ đã xuất ngũ ở Firenze. Đại học đầu tiên của Mỹ dành cho quân nhân được thành lập vào tháng 6 năm 1945 tại Trường Hàng không. Khoảng 7.500 sinh viên quân nhân đã tham gia học tập trong bốn kỳ học với mỗi kỳ học kéo dài một tháng.
Vào tháng 11 năm 1966, nước sông Arno dâng cao làm ngập lụt các khu vực của trung tâm, đã gây ra các thiệt hại về người và của, tạo ra sự tàn phá to lớn, xâm chiếm các nhà thờ, cung điện và viện bảo tàng, đồng thời phá hủy các kho lưu trữ, tác phẩm nghệ thuật và nhiều tập sách quý giá không thể hồi lại được. Thảm kịch to lớn này tạo ra một phong trào đoàn kết quốc tế đáng kinh ngạc, với sự ra đời của những thiên thần bùn (angeli del fango) nổi tiếng, những người trẻ tuổi đến từ khắp nơi trên thế giới đã tham gia tình nguyện giải cứu khôi phục các kho tàng nghệ thuật bị hư hại. Sau trận lũ, các kỹ thuật bảo tồn và phục hồi di sản văn hóa đã được phát triển ở Firenze, từ đó biến nó thành một trung tâm xuất sắc trong lĩnh vực có tầm quan trọng toàn cầu này. Năm mươi năm sau, vẫn còn nhiều công trình và tác phẩm chờ được phục hồi.
Từ năm 1968 đến năm 1985, một chuỗi vụ giết người hàng do "Quái vật thành Firenze" (tiếng Ý: Mostro di Firenze, tiếng Anh: Monster of Florence) gây ra. Mười sáu người đã bị giết hại trong những kỳ trăng non bởi một kẻ giết người hàng loạt mà cho đến ngày nay vẫn chưa tìm ra hung thủ là ai. Vào ngày 28 tháng 5 năm 1993, một quả bom xe cực mạnh đã phát nổ trên phố Geoorgofili, phía sau bảo tàng Uffizi, giết chết 5 người và làm bị thương nhiều người khác, làm hư hại nghiêm trọng tháp cổ Pulci và các gian bộ phận trong bộ sưu tập quan trọng của bảo táng. Vụ nổ bom được quy trách nhiệm cho mafia.
Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên của các Bộ trưởng Bộ Văn hóa các quốc gia G7 được tổ chức theo sáng kiến của Ý, đã diễn ra tại Firenze vào ngày 30 và 31 tháng 3 năm 2017.
Địa lý
Vị trí
Firenze tọa lạc tại một vị thế tuyệt đẹp, ở trung tâm của một thung lũng lòng chảo lớn hình bầu dục theo hướng tây bắc–đông nam, bao quanh bởi những ngọn đồi xung quanh là Careggi (hướng bắc), Fiesole (đông bắc), Settignano (đông), Arcetri, Poggio Imperiale và Bellosguardo (hướng nam). Sông Arno, cùng với ba con sông nhỏ khác (Mignone, Ema và Greve) và một số dòng chảy đi qua trung tâm thành phố. Các khu vực bằng phẳng của khu vực đô thị tạo thành một môi trường nhân văn hóa cao với sự hiện diện của các khu công nghiệp và thương mại lớn, nơi không gian thiên nhiên bị hạn chế. Các khu vực đồi núi phụ cận bao quanh đã phát triển nghề nông nghiệp với dân cư sinh sống trong nhiều thế kỷ, với rừng nguyên sinh đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt là ở các khu vực phía nam và phía đông của thành phố. Ở đồng bằng có các vùng đất ngập nước chưa đô thị hóa chủ yếu nằm ở khu vực phía tây thành phố dọc theo sông Arno.
Khí hậu
Firenze có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Cfa), thiên về kiểu khí hậu Địa Trung Hải (Csa). Nơi đây có mùa hè nóng với lượng mưa vừa phải hoặc nhẹ và mùa đông mát mẻ, ẩm ướt. Vì Firenze không có gió thịnh hành nên nhiệt độ mùa hè cao hơn so với so với các thành phố duyên hải. Lượng mưa vào mùa hè là mưa đối lưu, trong khi mưa địa hình chiếm ưu thế vào mùa đông. Các trận mưa tuyết hầu như xảy ra hàng năm, nhưng thường không tích tụ lại. Nhiệt độ cao nhất được ghi nhận chính thức là 42,6 °C (108,7 °F) vào ngày 26 tháng 7 năm 1983 và thấp nhất là −23,2 °C (−9,8 °F) vào ngày 12 tháng 1 năm 1985.
Danh thắng và cảnh quan thành phố
Firenze được công nhận toàn cầu là "cái nôi của thời kỳ Phục Hưng" (tiếng Ý: la culla del Rinascimento, tiếng Anh: cradle of the Renaissance) và là một thành phố nghệ thuật với những di sản vô giá về công trình kiến trúc, tác phẩm hội họa, điêu khắc, ký ức lịch sử và khoa học, tạo thành mạng lưới kết cấu của thành phố, giống như một bảo tàng mở khổng lồ. Địa điểm nổi tiếng nhất của Firenze là Vương cung thánh đường Đức Bà Phồn Hoa hay còn được gọi là Nhà thờ chính tòa Firenze (Duomo di Firenze), có mái vòm khổng lồ được xây dựng bởi Filippo Brunelleschi và sau 600 năm kể từ khi hoàn thành, đây vẫn giữ kỷ lục là mái vòm được xây bằng gạch và vữa lớn nhất trên thế giới cho đến tận ngày nay. Năm 1982, Trung tâm lịch sử Firenze được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Trung tâm thành phố nằm trong những bức tường thành Trung Cổ được xây dựng vào thế kỷ 14 với mục đích phòng vệ.
Bố cục và cấu trúc của Firenze theo nhiều cách gợi nhớ đến thời kỳ La Mã cổ đại, khi nó được thiết kế như một khu định cư. Tuy nhiên, phần lớn đô thị được xây dựng trong thời kỳ Phục Hưng. Bất chấp sự hiện diện mạnh mẽ của kiến trúc Phục Hưng trong thành phố, người ta vẫn có thể tìm thấy dấu vết của kiến trúc thời Trung Cổ, hay những công trình của các giai đoạn Baroque, Tân cổ điển và hiện đại.
Con sông Arno xuôi dòng đi qua khu vực trung tâm cốt lõi của thành phố, là chứng nhân lịch sử quan trọng của Firenze cũng như nhiều con người đã sống ở đó. Trong suốt chiều dài thời gian, người dân địa phương có mối quan hệ yêu–ghét với Arno khi con sông vừa nuôi dưỡng thành phố bằng nguồn sống và thương mại nhưng cũng vừa phá hủy nó bằng những trận lũ lụt cuồng nộ. Cây cầu đặc biệt nổi bật nhất bắc ngang qua Arno chính là Ponte Vecchio (Cầu Cũ), với đặc điểm trang trí bởi rất nhiều cửa hàng dọc theo hai cạnh bên của cây cầu và được giữ bằng những cây cột chống. Cây cầu mang theo hành lang tầng lầu tiếp tục của chuỗi Hàng lang Vasari nối bảo tàng Uffizi với dinh thự của gia tộc Medici gần đó (Cung điện Pitti). Mặc dù cây cầu nguyên thủy được xây dựng bởi người Etrusca, cây cầu hiện tại là phiên bản xây dựng vào thế kỷ 14. Đây là cây cầu duy nhất trong thành phố vẫn còn nguyên vẹn sau Thế chiến thứ hai và là ví dụ đầu tiên trong thế giới phương Tây khi mà một cây cầu được xây dựng bằng cách sử dụng các vòm phân đoạn, nghĩa là các vòm nhỏ hơn hình bán nguyệt, để giảm cả tỷ lệ nhịp trên chiều cao và số lượng trụ để cho phép giảm bớt lực cản trong lòng sông.
Phòng trưng bày Uffizi, một trong những bảo tàng nghệ thuật đẹp nhất thế giới – được thành lập theo di nguyện thỉnh cầu từ thành viên cuối cùng của gia tộc Medici. Uffizi nằm ở góc của Quảng trường Signoria, trái tim trung tâm của đời sống dân sự và chính quyền Firenze trong suốt nhiều thế kỷ, cùng với Cung điện Signoria hay còn gọi là Palazzo Vecchio. Nhiều giai đoạn quan trọng trong lịch sử nghệ thuật và những thay đổi chính trị đã diễn ra và lưu dấu nơi đây:
Năm 1301, Dante Alighieri bị lưu đày khỏi Firenze (được tưởng niệm bằng một tấm bảng trên một trong những bức tường của Uffizi).
Vào ngày 26 tháng 4 năm 1478, Jacopo de' Pazzi và những thuộc hạ của ông đã cố gắng lôi kéo cả thành phố chống lại Nhà Medici sau một kế hoạch được gọi là La congiura dei Pazzi (Âm mưu của Pazzi), giết hại Giuliano di Piero de' Medici và làm bị thương anh trai Lorenzo. Tất cả các thành viên có liên quan đến âm mưu đều bị người dân Firenze bắt giữ và treo cổ trên cửa sổ của cung điện.
Năm 1497, đây là địa điểm diễn ra phong trào "Ngọn lửa phù phiếm" do tu sĩ và nhà thuyết giáo dòng Đa Minh Girolamo Savonarola khởi xướng, và ngày 23 tháng 5 năm 1498, cũng là nơi mà Savonarola bị treo cột và thiêu sống (hiện có một tấm bia tròn trên mặt đất đánh dấu nơi ông bị treo cổ).
Năm 1504, bức tượng David của Michelangelo được làm lễ vén màn ngay phía trước Cung điện Signoria (hiện đã được thay thế bằng một bản sao, vì bản gốc đã được chuyển đến Nhà triễn lãm Học viện Galleria dell'Accademia vào năm 1873)<ref>{{chú thích sách|author=A. Victor Coonin|title=From Marble to Flesh: The Biography of Michelangelo’s David|location=Florence|publisher=The Florentine Press|year=2014|ISBN=9788897696025|p=90–94|lang=en}}</ref>
Sảnh đường Loggia dei Lanzi ở một góc của Quảng trưởng Signoria là nơi đặt một số bức tượng của các nhà điêu khắc khác như Donatello, Giambologna, Ammannati và Cellini, mặc dù một số đã được thay thế bằng các bản sao để bảo tồn bản gốc.
Palazzo Vecchio hiện nay vẫn đóng vai trò là trụ sở của chính quyền thành phố tức Tòa thị chính Firenze, đây là một trong hai tòa nhà thống trị quang cảnh đường chân trời của thành phố cùng với mái vòm Đức Bà Phồn Hoa.
Công trình tôn giáo
Vương cung thánh đường Đức Bà Phồn Hoa (Santa Maria del Fiore) được xây dựng từ năm 1296 và hoàn thành vào năm 1436 là công trình nhà thờ lớn thứ năm ở châu Âu, dài 153 mét với phần đế đường kính của mái vòm Brunelleschi rộng 90 mét, và tòa mái vòm nổi tiếng này có thể được nhìn thấy từ khắp mọi nơi tại thành phố. Xây dựng theo phong cách Gothic và bao phủ hoàn toàn bằng đá cẩm thạch nhiều màu, đây là nhà thờ chính tòa của Tổng giáo phận Firenze, đồng thời là một kho tàng các tác phẩm nghệ thuật quý giá, bao gồm cả vòng bích họa lớn nhất thế giới, bao phủ toàn bộ bức tường trần bên trong của mái vòm. Tháp chuông nhà thờ được thiết kế một phần bởi Giotto và Nhà rửa tội Firenze ở phía đối diện được trang trí bởi nhiều nghệ sĩ (đáng chú ý là Lorenzo Ghiberti với cánh cửa bằng đồng ngoạn mục mang tên Cổng Thiên đường Porta del Paradiso) cũng là những địa điểm nổi bật.
Vương cung thánh đường Thánh Giá (Santa Croce) – nhà thờ dòng Phan Sinh lớn nhất thế giới và là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của kiến trúc Gothic ở Ý hài hòa cùng kiến trúc Phục Hưng với Nhà nguyện Pazzi của Brunelleschi; đây là nơi chôn cất người nổi tiếng nó đã trở thành "Ngôi đền các vĩ nhân Ý vinh quang" (tiếng Ý: Tempio dell'Itale Glorie, tiếng Anh: Temple of the Italian Glories), là "đền thờ" của những danh nhân vĩ đại như Michelangelo, Galileo Galilei, Niccolò Machiavelli, Luigi Cherubini, Gioachino Rossini, Ugo Foscolo, Guglielmo Marconi, Enrico Fermi và nhiều người khác.
Quần thể nhà thờ Thánh Lôrensô (San Lorenzo) là nhà thờ của gia tộc Medic với dãy Nhà nguyện Medici nổi tiếng (Cappelle Medicee). Từ những thành tựu vang danh đầu tiên của triều đại cho đến khi tuyệt tự, Nhà Medici đã không ngừng tô điểm San Lorenzo bằng những kiệt tác của các kiến trúc sư, họa sĩ và nhà điêu khắc giỏi nhất thành Firenze (bao gồm Filippo Brunelleschi, Donatello và Michelangelo Buonarroti); một phần của Nhà nguyện Principi trong quần thể này là nơi chôn cất của hầu hết các thành viên trong gia tộc.Harold Acton (1980). The Last Medici. Macmillan. pp. 309–310
Vương cung thánh đường Đức Bà Tân Hoa (Santa Maria Novella) là một trong những nhà thờ tu viện quan trọng nhất trong thành phố và nằm trên quảng trường cùng tên và bên cạnh nhà ga trung tâm; nơi đây lưu giữ các tác phẩm nghệ thuật vô giá, chẳng hạn như các bức bích họa của Masaccio, Paolo Uccello, Domenico Ghirlandaio và Filippino Lippi; phần trên của mặt tiền và cổng là kiệt tác kiến trúc Phục Hưng của sự hài hòa và duy lý do Leone Battista Alberti tạo nên.
Vô số các công trình nhà thờ nổi tiếng khác tại Firenze cùng những kiệt tác nghệ thuật có thể kể đến như nhà thờ Toàn Thánh (Ognissanti) – một trong những ví dụ đầu tiên của kiến trúc Baroque tại thành phố; Đức Mẹ núi Camêlô (Santa Maria del Carmine) nơi tọa lạc nhà nguyện Cappella dei Brancacci chứa những bức bích họa Phục Hưng nổi bật của Masaccio và Masolino da Panicale và về sau được hoàn thiện bởi Filippino Lippi; nhà thờ Tin Mừng Cực Thánh (Santissima Annunziata), nhà thờ Ba Ngôi Hiển Thánh (Santa Trinita); San Marco; Santa Felicita; Badia Fiorentina; San Gaetano; San Miniato al Monte; Tu viện Firenze (Certosa di Firenze), vân vân.
Đền đài, cung điện và dinh thự
Firenze có nhiều cung điện và các tòa nhà từ các thời đại khác nhau. Palazzo Vecchio (Cung điện Cũ) là tòa thị chính của thành phố đồng thời cũng là một bảo tàng nghệ thuật. Cung điện–pháo đài có mái vòm theo phong cách La Mã đồ sộ này nhìn ra Quảng trường trung tâm Signoria với bản sao bức tượng David của Michelangelo cũng như sảnh trưng bày các bức tượng điêu khắc (Loggia dei Lanzi) liền kề. Ban đầu được gọi là Cung điện Signoria, theo tên của cơ quan cầm quyền của Cộng hòa Firenze, và cũng mang một số tên khác như Điện Nhân Dân (Palazzo del Popolo), Điện Giáo Trưởng (Palazzo dei Priori) và Điện Công Tước (Palazzo Ducale), tương ứng với các công năng của cung điện trong từng giai đoạn lịch sử của nó. Tòa nhà có tên như hiện tại là do Công tước Medici chuyển đến cung điện mới hơn là Palazzo Pitti ở phía bên kia của dòng sông Arno. Palazzo Vecchio được liên kết với Uffizi và Palazzo Pitti thông qua dãy Hành lang Vasari và Ponte Vecchio.
Cung điện Medici tên đầy đủ là Palazzo Medici Riccardi, do Michelozzo di Bartolomeo thiết kế cho Cosimo de' Medici, là một công trình lớn khác và được xây dựng từ năm 1445 đến 1460. Nó là tòa nhà nổi tiếng xây bằng đá bao gồm gạch mộc và gỗ tần bì. Ngày nay, nó là trụ sở chính của Thành phố đô thị Firenze và là nơi chứa các bảo tàng và cũng như Thư viện Riccardiana. Cung điện Strozzi là một ví dụ về kiến trúc dân dụng mộc mạc bằng đá lấy cảm hứng từ Cung điện Medici, nhưng với tỷ lệ hài hòa hơn. Ngày nay, cung điện được sử dụng cho các cuộc triển lãm quốc tế như triển lãm đồ cổ hàng năm (được thành lập với tên Biennale dell'Antiquariato năm 1959), trình diễn thời trang và các sự kiện văn hóa nghệ thuật khác. Đây cũng là trụ sở của Viện quốc gia về Phục Hưng (Istituto Nazionale del Rinascimento) và thư viện Gabinetto Vieusseux nổi tiếng.Richard Goldthwaite, The building of the Strozzi palace: the construction industry in Renaissance Florence Studies in Medieval and Renaissance History Volume 10 (1973) pp. 99–135.
Các cung điện đáng chú ý khác bao gồm Palazzo Rucellai, được thiết kế bởi Leone Battista Alberti trong khoảng thời gian từ 1446 đến 1451 và một phần do Bernardo Rossellino; Palazzo Davanzati, nơi có bảo tàng nhà cổ Firenze; Cung điện Bảo hiểm Generali (Palazzo delle Assicurazioni Generali), được thiết kế theo phong cách Tân Phục Hưng vào năm 1871; Palazzo Spini Feroni ở Quảng trường Ba Ngôi Hiển Thánh Santa Trinita là một cung điện lịch sử thuộc tư nhân có từ thế kỷ 13, và là sở hữu của nhà thiết kế giày Salvatore Ferragamo từ những năm 1920; cũng như nhiều công trình khác, bao gồm Palazzo Borghese, Palazzo di Bianca Cappello, Palazzo Antinori, và tòa nhà Hoàng gia Santa Maria Novella.
Trên những ngọn đồi và vùng ngoại ô xung quanh Firenze có một số dinh thự và khu vườn lịch sử của Nhà Medici và được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Chúng là những biệt thự nằm trong khu vực đô thị của Firenze, một số thường xuyên mở cửa cho công chúng tham quan trong khi những biệt thự khác thuộc sở hữu tư nhân.
Bảo tàng và phòng trưng bày
Firenze có nhiều viện bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật, nơi trưng bày một số tác phẩm nghệ thuật quan trọng nhất của thế giới. Thành phố này là một trong những trung tâm nghệ thuật và kiến trúc Phục Hưng được bảo tồn tốt nhất trên thế giới và có mức độ tập trung rất cao về nghệ thuật, kiến trúc và văn hóa. Trong danh sách xếp hạng 15 bảo tàng nghệ thuật Ý được ghé thăm nhiều nhất, 1/3 trong số đó có sự góp mặt của các bảo tàng tại Firenze. Uffizi là bảo tàng nghệ thuật thời kỳ Phục Hưng danh giá nhất của nước Ý, đồng thời là bảo tàng nghệ thuật được viếng thăm nhiều nhất tại quốc gia này. Nơi đây bao gồm bộ sưu tập đồ sộ về nghệ thuật Firenze lẫn quốc tế. Phòng trưng bày được khớp nối trong nhiều hội trường, được phân loại theo các trường phái và thứ tự thời gian. Ra đời từ các bộ sưu tập nghệ thuật của gia tộc Medici tích lũy qua nhiều thế kỷ, Uffizi lưu giữ các tác phẩm nghệ thuật của nhiều nghệ sĩ vĩ đại như Giotto, Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raffaello, Tiziano, Caravaggio, và nhiều họa sĩ nổi tiếng khác. Hành lang Vasari là một phòng trưng bày khác, là chuỗi phòng đi bộ treo có hành trình dài 1 km được xây dựng nối Palazzo Vecchio tới Cung điện Pitti đi ngang qua Uffizi và băng qua cầu Ponte Vecchio.
Nhà triển lãm Học viện Galleria dell'Accademia lưu giữ bộ sưu tập của Michelangelo, bao gồm cả bức tượng gốc David. Đây là bảo tàng nghệ thuật được viếng thăm nhiều thứ hai của Ý chỉ sau Uffizi. Các bảo tàng và phòng trưng bày khác bao gồm Bargello, nơi tập trung các tác phẩm điêu khắc của các nghệ sĩ bao gồm Donatello, Giambologna và Michelangelo.; Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia lưu giữ các vật phẩm bao gồm các đồ tạo tác của Ai Cập cổ đại, Etrusca và La Mã.
Cung điện Pitti chứa một phần bộ sưu tập tư nhân trước đây của gia tộc Medici. Ngoài bộ sưu tập Medici, các phòng trưng bày của cung điện còn chứa nhiều tác phẩm thời Phục Hưng, bao gồm một số tác phẩm của Raffaello và Tiziano, các bộ sưu tập lớn về trang phục, xe ngựa nghi lễ, đồ bạc, đồ sứ và một phòng trưng bày nghệ thuật hiện đại có niên đại từ thế kỷ 18. Hậu viên của cung điện là Vườn Boboli, được thiết kế cảnh quan công phu và có nhiều tác phẩm điêu khắc.
Tường thành và cổng thành
Tường thành Firenze là tuyến phòng thủ cổ xưa vây quanh địa giới thành phố. Nó được tạo ra cùng với chính bản thân thành phố và đã có tới sáu bố cục thay đổi khác nhau, phiên bản cuối cùng có từ giữa thế kỷ 14 cho đến nay. Những bức tường thành La Mã đầu tiên bao bọc Florentia cổ đại tồn tại suốt gần một thiên niên kỷ, sau đó những bức tường thành mới nối tiếp nhau mở rộng với khoảng thời gian ngày càng ngắn hơn, chứng kiến sự tăng trưởng dân số theo cấp số nhân của Firenze trong sự bùng nổ toàn diện về kinh tế và xã hội. Từ vòng tường thành Caroling (870), nó tiếp tục được mở rộng dưới thời của Matilda xứ Toscana sau hai thế kỷ (1078), rồi chỉ sau một thế kỷ, tường thành thành bang thứ nhất năm 1172 và chỉ sau hơn một trăm năm, tường thành thành bang thứ hai vào năm 1284. Gắn liền phức hợp với hệ thống tường thành là các cổng thành và các tòa tháp quân sự.
Tường thành Firenze ở phần phía bắc sông Arno đã bị phá bỏ trong thế kỷ 19 để tạo ra tuyến đại lộ Circonvallazione phục vụ giao thông hiện đại, chỉ còn lại các cổng thành chính, trong khi phần tường thành phía nam bờ sông chẳng hạn như trong khu vực phường Oltrarno vẫn còn nhìn thấy được và bảo quản tốt.
Quảng trường, đường phố và không gian xanh
Không gian đô thị Firenze có nhiều quảng trường lớn (piazze). Quảng trường Cộng Hòa (Piazza della Repubblica) là một quảng trường ở trung tâm thành phố, nơi tọa lạc của các quán cà phê văn hóa và cung điện tư nhân. Trong số các quán cà phê của quảng trường (như Caffè Gilli, Paszkowski hay Hard Rock Cafè), quán cà phê Giubbe Rosse từ lâu đã là nơi gặp gỡ của các nghệ sĩ và nhà văn, đặc biệt là những người theo chủ nghĩa vị lai. Quảng trường Thánh Giá (Piazza Santa Croce) là một quảng trường nổi tiếng khác và là nơi tọa lạc của Vương cung thánh đường Thánh Giá – ngôi đền của những vĩ nhân kiệt xuất lịch sử Ý, đây là một quảng trường hình chữ nhật ở trung tâm thành phố, nơi diễn ra giải môn thể thao Calcio Fiorentino hàng năm. Các quảng trường nổi tiếng khác bao gồm Piazza Santa Trinita, Piazza San Marco, Piazza Santa Maria Novella, Piazza Beccaria và Piazza della Libertà. Đặc biệt Đại quảng trường Michelangelo (Piazzale Michelangelo) tọa lạc trên địa thế ngọn đồi ngay phía Nam dòng sông Arno là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất của Firenze, nơi nhìn ra toàn cảnh thơ mộng của thành phố. Ở giữa đại quảng trường còn có đặt một bản sao bức tượng đồng David của vị bậc thầy đại vĩ nhân Phục Hưng.
Len lỏi và kết nối bên trong bảo tàng sống Firenze chính là các đại lộ và những con phố lịch sử nổi tiếng. Chẳng hạn như Via Camillo Cavour, một trong những con đường chính của khu vực phía bắc trong thành cổ Firenze; Via Ghibellina, một ví dụ điển hình trong những con phố dài nhất ở trung tâm Firenze; Via dei Calzaiuoli, một trong những tuyến phố trung tâm nhất trong thành cổ nối Quảng trường Nhà thờ chính tòa (Piazza del Duomo) đến Quảng trường Tòa thị chính (Piazza della Signoria), uốn lượn song song với Phố Roma và Quảng trường Cộng Hòa; Via de' Tornabuoni, một con phố sang trọng ở trung tâm thành phố đặc trưng bởi sự hiện diện của các cửa hàng thời trang cao cấp; tuyến đại lộ sáu làn xe Viali di Circonvallazione bao quanh phần phía bắc của trung tâm lịch sử; một số đại lộ và tuyến phố nổi tiếng quan trọng khác ở Firenze có thể kể đến như Via Roma, Via degli Speziali, Via de' Cerretani, và Viale dei Colli.
Firenze còn được điểm xuyết bởi một số không gian xanh đô thị, và nổi tiếng nhất trong số đó là Vườn Boboli – hậu viên của Cung điện Pitti. Với diện tích 45 ha, đây là một trong những ví dụ tiêu biểu nhất về khu vườn lịch sử ở Ý. Vườn Boboli kết nối cung điện Palazzo Pitti với pháo dài Forte Belvedere, là một địa điểm nổi tiếng khác. Năm 2022, khu vườn chào đón gần 1,2 triệu du khách, nổi tiếng không chỉ vì giá trị lịch sử và danh lam thắng cảnh mà còn vì bộ sưu tập các tác phẩm điêu khắc, từ thời cổ đại La Mã đến thế kỷ 16 và 17. Nổi tiếng thứ hai là Công viên Cascine (Parco delle Cascine) với 160 ha, đây là công viên công cộng lớn nhất ở Firenze, được phân định tự nhiên bởi sông Arno, sông Mugnone và kênh Macinante. Nơi đây là một địa điểm thể thao công cộng rất nổi tiếng, với nhiều cơ sở thể thao bao gồm sân quần vợt, sân bóng đá, sân đua xe đạp, phòng tập bắn súng, trường bắn cung, chuồng ngựa, bể bơi và hai đường đua. Ngoài các câu lạc bộ và vũ trường, nơi đây còn có tượng đài của hoàng tử Ấn Độ Rajaram Chuttraputti, bức tượng đồng của Vua Vittorio Emanuele II trên lưng ngựa, Kim tự tháp Cascine, giảng đường và Trường Quân sự Hàng không Giulio Douhet. Một số công viên và không gian xanh nổi tiếng khác có thể kể đến là Vườn hoa hồng Firenze (Giardino delle Rose), Vườn Diên Vĩ (Giardino dell'Iris), Vườn Bardini (Giardino Bardini), vân vân.
Nhân khẩu học
Năm 1200, Firenze là nơi sinh sống của 50.000 người. Đến năm 1300, dân số của thành phố là 120.000 người, với thêm 300.000 người sống ở các vùng phụ cận. Giữa năm 1500 và 1650 dân số là khoảng 70.000.
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, dân số của thành phố là 360.841 người, trong khi Eurostat ước tính có 696.767 người sống ở khu vực đô thị của Firenze. Vùng đô thị Firenze, Prato và Pistoia, được thành lập vào năm 2000 trên diện tích khoảng 4.800 kilômét vuông (1.850 dặm vuông Anh), là nơi sinh sống của 1,5 triệu người. Tại Firenze, 46,8% dân số là nam giới vào năm 2007 và 53,2% là nữ giới. Người chưa thành niên (trẻ em từ 18 tuổi trở xuống) chiếm tổng cộng 14,10% dân số so với người về hưu chiếm 25,95%. Con số này so với mức trung bình của Ý là 18,06% (trẻ vị thành niên) và 19,94% (người trên tuổi hưu). Độ tuổi trung bình của cư dân Firenze là 49 so với tuổi trung bình của người Ý là 42. Trong 5 năm từ 2002 đến 2007, dân số Firenze tăng 3,22%, trong khi toàn nước Ý tăng 3,56%. Năm 2021, tỷ lệ sinh của Firenze là 6,4 ca sinh trên 1.000 dân so với mức trung bình của Ý là 6,8 ca sinh.
Giống như phần còn lại của Ý, hầu hết người dân ở Firenze theo Công giáo Rôma, với hơn 90% dân số thuộc Tổng giáo phận Firenze.
Nhóm thiểu số và dân nhập cư
Từ nửa sau của thế kỷ 19 khi Firenze trở thành kinh đô lâm thời của Ý khi đó, đã xuất hiện cộng đồng người Anh tại thành phố, và vẫn hiện diện tích cực cho đến ngày nay.
Theo dữ liệu của ISTAT vào ngày 31 tháng 12 năm 2019, khoảng 84,3% cư dân của Firenze là công dân Ý. Dân số ngoại quốc thường trú lên tới 59 567 người, chiếm 15,7% dân số. Nhóm người nhập cư lớn nhất đến từ các nước châu Âu khác (chủ yếu là người Romania và người Albania) chiếm 3,52%, Đông Á (chủ yếu là người Trung Quốc và người Philippines) chiếm 2,17%, người đến từ cả hai lục địa châu Mỹ chiếm 1,41% và Bắc Phi (chủ yếu là người Maroc) chiếm tỷ lệ 0,9%.
Văn hóa
Nghệ thuật
Firenze là mái nhà sản sinh ra nghệ thuật Thượng Phục Hưng, kéo dài từ năm 1450 đến năm 1527. Trong khi nghệ thuật Trung Cổ tập trung cơ bản vào việc kể chuyện Kinh Thánh, thì nghệ thuật Phục Hưng lại tập trung vào chủ nghĩa tự nhiên và cảm xúc con người. Nghệ thuật thời Trung Cổ trừu tượng, theo khuôn khổ công thức và phần lớn được tạo ra bởi các giáo sĩ tu hành thì nghệ thuật thời Phục Hưng mang tính duy lý, toán học, tư tưởng cá nhân, bao gồm phối cảnh tuyến tính và đổ bóng (Chiaroscuro) và được tạo ra bởi các chuyên gia nghệ thuật như Leonardo da Vinci, Donatello, Michelangelo và Raffaello. Tôn giáo vẫn đóng vai trò rất quan trọng, nhưng cùng với thời đại mới này đi kèm sự nhân tính hóa các nhân vật tôn giáo trong nghệ thuật, chẳng hạn như các tác phẩm Trục xuất khỏi Vườn Địa đàng (Cacciata dei progenitori dall'Eden), Ecce Homo, và Madonna Della Seggiola. Con người thời đại này bắt đầu hiểu mình là con người, và điều này được phản ánh trong nghệ thuật. Thời kỳ Phục Hưng đánh dấu sự tái sinh của các giá trị cổ điển trong nghệ thuật và xã hội khi người ta nghiên cứu các bậc thầy cổ đại của thế giới Hy Lạp–La Mã. Nghệ thuật bắt đầu tập trung vào chủ nghĩa hiện thực trái ngược với chủ nghĩa duy tâm.
Cimabue và Giotto, những ông tổ của ngành hội họa Ý, cũng như Arnolfo và Andrea Pisano, những người tạo nên làn sóng đổi mới kiến trúc và điêu khắc; Brunelleschi, Donatello và Masaccio, các bậc trưởng phụ của thời kỳ Phục Hưng, Ghiberti và các thành viên gia tộc Della Robbia, Filippo Lippi và Beato Angelico; Botticelli, Piero della Francesca, Paolo Uccello, Giorgio Vasari, hay những bậc thiên tài hoàn vũ và kỳ nhân dị sĩ như Leonardo da Vinci và Michelangelo cho đến "Thánh hội họa" Raffaello, đều là những con người đã từng sống và hoạt động tại Firenze. Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác bao gồm Pietro Perugino, Benvenuto Cellini, Pinturicchio, Andrea del Sarto, Benozzo Gozzoli, Domenico Ghirlandaio, Filippo Lippi, Bernardo Buontalenti, Orcagna, Pollaiuolo, Verrocchio, Bronzino, Desiderio da Settignano, Michelozzo, Cosimo Rosselli, Giuliano da Sangallo, Pontormo, Giambologna, Il Sodoma và Peter Paul Rubens.
Các tác phẩm của họ, cùng với tác phẩm của nhiều thế hệ nghệ sĩ khác, được tập trung dày đặc tại một số bảo tàng trung tâm thành phố: như Phòng trưng bày Uffizi, Phòng tranh Palatina trong Cung điện Pitti với các bức tranh của "Thời kỳ Hoàng kim Firenze", Bảo tàng cung điện Bargello – bảo tàng quốc gia đầu tiên của nước Ý với các tác phẩm điêu khắc của Phục Hưng, bảo tàng San Marco với các tác phẩm của Angelico, nhà triễn lãm Học viện, chuỗi nhà nguyện của các thành viên gia tộc Medici. Ngôi nhà Casa Buonarroti với các tác phẩm điêu khắc của Michelangelo, cùng các bảo tàng nổi tiếng khác như Bardini, Horne, Stibbert, Romano, Corsini, Phòng trưng bày Nghệ thuật Hiện đại, Bảo tàng Nhà thờ chính tòa, bảo tàng Đồ bạc và bảo tàng Đá quý. Một số di tích công trình nổi tiếng khác tọa lạc tại Firenze như Nhà rửa tội Firenze với những bức tranh khảm; Nhà thờ chính tòa với các tượng điêu khắc tô điểm của nó, các nhà thờ thời Trung Cổ với các dải bích họa; các cung điện công lẫn tư nhân như: Palazzo Vecchio, Palazzo Pitti, Palazzo Medici Riccardi, Palazzo Davanzati; các tự viện, tu viện, nhà dòng đều là những ngọc bảo đặc sắc quý báu của thành phố. Trong bảo tàng khảo cổ học bao gồm các tài liệu cổ xưa của nền văn minh Etrusca. Trên thực tế, thành phố tràn ngập bầu không khí nghệ thuật đến nỗi một số người trải nghiệm hội chứng Stendhal hay còn gọi là "hội chứng Florence" (tiếng Anh: Florence Syndrome) khi lần đầu tiên họ đặt chân đến Firenze, mà gần đây vào năm 2018 là một du khách bị nhồi máu cơ tim khi đang thưởng thức tác phẩm Sự ra đời của thần Vệ nữ. Các nhân viên y tế tại Firenze đã khá quen ứng phó với những tình huống du khách bị chóng mặt và mất phương hướng sau khi chiêm ngưỡng bức tượng David, những kiệt tác của Phòng trưng bày Uffizi và những bảo vật khác tại thành phố.
Các kiến trúc sư người Firenze như Filippo Brunelleschi (1377–1466) và Leone Battista Alberti (1404–1472) được xem những tổ phụ của cả kiến trúc Phục Hưng lẫn kiến trúc Tân cổ điển.
Công trình Nhà thờ chính tòa Đức Bà Phồn Hoa có trên đỉnh là mái vòm của Brunelleschi đã thống trị đường chân trời Firenze. Người dân đã quyết định bắt đầu khởi công xây dựng nó vào cuối thế kỷ 13, và lúc bấy giờ chưa có thiết kế mái vòm. Dự án do Brunelleschi đề xuất vào thế kỷ 14 là dự án lớn nhất từng được xây dựng vào thời điểm đó và là mái vòm khổng lồ đầu tiên được xây dựng ở châu Âu kể từ hai mái vòm La Mã vĩ đại – Đền Pantheon ở Roma và Hagia Sophia ở Constantinopolis. Mái vòm Santa Maria del Fiore hiện vẫn là tòa mái vòm xây dựng bằng gạch lớn nhất trên thế giới. Trước mặt thánh đường là Nhà rửa tội Thánh Gioan Tẩy Giả thời Trung Cổ. Giao diện trang trí bên ngoài của 2 tòa nhà kết hợp hài hòa thể hiện quá trình chuyển giao từ thời Trung Cổ sang thời Phục Hưng. Trong những năm gần đây, hầu hết các tác phẩm nghệ thuật quan trọng từ Nhà thờ chính tòa, Nhà rửa tội và Tháp chuông Giotto ngay bên cạnh, đã được di dời và thay thế bằng các bản sao, trong khi các bản gốc hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Nhà thờ chính tòa, phần phía đông của nhà thờ. Firenze còn sở hữu một số lượng lớn các thánh đường đầy tầm vóc nghệ thuật, chẳng hạn như San Miniato al Monte, San Lorenzo, Santa Maria Novella, Santa Trinita, Santa Maria del Carmine, Santa Croce, Santo Spirito, Santissima Annunziata, Ognissanti và nhiều nhà thờ khác.
Phòng trưng bày hội họa nổi tiếng nhất ở Firenze bao gồm Uffizi và Cung điện Pitti. Hai bộ sưu tập điêu khắc tuyệt vời nằm ở Cung điện Bargello và Bảo tàng Nhà thờ chính tòa. Chúng chứa đầy những tác phẩm của Donatello, Verrochio, Desiderio da Settignano, Michelangelo và những người khác. Nhà triễn lãm Học viện Galleria dell'Accademia có bức tượng gốc David của Michelangelo được xem là tác phẩm điêu khắc nghệ thuật nổi tiếng toàn cầu, cộng với những bức tượng chưa hoàn thành về những người nô lệ mà Michelangelo đã tạo ra cho lăng mộ của Giáo hoàng Giuliô II. Các điểm tham quan nghệ thuật khác bao gồm Tòa thị chính thời Trung Cổ Palazzo Vecchio, Bảo tàng Khảo cổ học, Bảo tàng Lịch sử Khoa học, Cung điện Davanzatti, Bảo tàng Stibbert, Nhà thờ Santa Croce, Bảo tàng Tu viện Santa Maria Novella, Bảo tàng Động vật học La Specola, Bardini và Museo Horne. Ngoài ra còn có một bộ sưu tập các tác phẩm của nhà điêu khắc hiện đại của Marino Marini nằm trong một bảo tàng mang tên ông. Cung điện Strozzi là nơi thường diễn ra những triển lãm đặc biệt.
Ngôn ngữ
Tiếng địa phương Firenze (tiếng Ý: dialetto fiorentino), được nói bởi cư dân Firenze và các vùng lân cận, là phương ngữ vùng Toscana và là ngôn ngữ mẹ đẻ trực tiếp của tiếng Ý hiện đại.
Mặc dù từ vựng và cách phát âm của nó phần lớn giống với tiếng Ý chuẩn nhưng vẫn có một vài sự khác biệt đại đồng tiểu dị, từ điển tiếng Firenze đương đại (Vocabolario del fiorentino contemporaneo) cho thấy xuất hiện sự khác biệt về từ vựng ở các khía cạnh xã hội. Người dân Firenze sở hữu giọng rất dễ nhận biết về mặt ngữ âm bằng tính chất được gọi là "cổ họng vùng Toscana" (gorgia toscana): "c cứng" /k/ giữa hai nguyên âm được phát âm như một âm bật hơi trong họng [h] tương tự như h trong tiếng Việt, ví dụ dico 'Tôi nói' theo phiên âm IPA là [ˈdiːho] thay vì [ˈdiːko] như tiếng Ý, i cani 'những chú chó' sẽ là [iˈhaːni]. Tương tự, t giữa các nguyên âm được phát âm là [θ] như trong "th" trong tiếng Việt, và p giữa các nguyên âm trở thành ma sát hai môi [ɸ]. Các đặc điểm khác bao gồm cách phát âm rút gọn của mạo từ xác định, [i] thay vì "il", làm tăng gấp đôi phụ âm theo sau, do đó, chẳng hạn như il cane 'con chó' được phát âm là [ikˈkaːne] thay vì [il ˈkaːne] trong tiếng Ý.
Dante, Petrarca, và Boccaccio là những người tiên phong trong việc sử dụng thổ ngữ thay vì tiếng Latinh được sử dụng cho hầu hết các tác phẩm văn học vào thời điểm đó.
Văn học
Mặc dù tiếng Latinh lúc bấy giờ là lingua franca của châu Âu và Giáo hội Công giáo trong thời Trung Cổ, các nhà văn như Dante Alighieri và nhiều người khác đã sử dụng ngôn ngữ bản địa của họ là tiếng địa phương Firenze có nguồn gốc từ tiếng Latinh, để sáng tác các tác phẩm vĩ đại nhất của họ. Các tác phẩm văn học lâu đời nhất được viết ở Firenze đã có từ thế kỷ 13. Văn học Firenze nở rộ vào thế kỷ 14, khi không chỉ Dante với tuyệt phẩm Thần khúc Divina Comedia (1306–1321) hay Petrarca, mà cả các nhà thơ như Guido Cavalcanti và Lapo Gianni cũng sáng tác những tác phẩm quan trọng nhất của họ. Trường ca Thần khúc của Dante chủ yếu mô tả chính nhà thơ tham gia một chuyến du hành ngụ ngôn và đạo đức tới Hỏa ngục (Inferno), Luyện ngục (Purgatorio) và Thiên đường (Paradiso), trong thời gian đó, ông gặp nhiều nhân vật thần thoại và những nhân vật có thật trong thời đại của ông hoặc trước đó. Ở trường khúc đầu tiên ông được hướng dẫn bởi nhà thơ La Mã Vergilius, người có niềm tin ngoại đạo phi Kitô giáo đã khiến bản thân bị đày xuống Hỏa ngục, và ở phân đoạn cuối cùng, ông được tham gia cùng với nàng thơ Beatrice Portinari và nàng hướng ông đến Thiên đường.
Vào thế kỷ 14, Francesco Petrarca và Giovanni Boccaccio đã lãnh đạo nền văn học ở Firenze sau cái chết của Dante vào năm 1321. Petrarca là một nhà văn toàn diện, một tác gia và một nhà thơ, đặc biệt được biết đến với tác phẩm Il Canzoniere, hay 'Cuốn sách của những Bài ca', nơi ông gửi gắm tình yêu khôn nguôi của mình dành cho nàng Laura. Phong cách viết của ông từ đó được gọi là "Chủ nghĩa Petrarca". Boccaccio được biết đến nhiều hơn với tác phẩm Mười ngày (Decameron), một câu chuyện hơi nghiệt ngã về Firenze trong trận dịch hạch những năm 1350, tức Cái Chết Đen, khi một số người chạy trốn khỏi thành phố đang bị tàn phá để đến một dinh thự ở vùng nông thôn biệt lập, và dành thời gian ở đó để kể lại những câu chuyện và tiểu thuyết lấy chất liệu từ truyền thống trung đại và đương đại lúc bấy giờ.
Vào thế kỷ 16 trong thời kỳ Phục Hưng, Firenze là thành phố quê hương của nhà văn chính trị và triết gia Niccolò Machiavelli, người có những ý tưởng bàn về thuật trị quốc và quản lý đất nước, được trình bày chi tiết trong tác phẩm Il Principe tức "Quân Vương", lan truyền khắp các tòa án châu Âu và được yêu thích mến mộ trong suốt nhiều thế kỷ, hình thành nên những nguyên tắc chính trị "Chủ nghĩa Machiavelli" nổi tiếng. Ông thường được xem là cha đẻ của triết học chính trị hiện đại và ngành khoa học chính trị.
Âm nhạc
Firenze đã trở thành một trung tâm âm nhạc trong thời Trung Cổ và âm nhạc cũng như nghệ thuật biểu diễn vẫn là một phần quan trọng trong văn hóa của thành phố. Sự phát triển của các thành phố Bắc Ý trong những năm 1500 đã góp phần ảnh hưởng cho sự nổi bật của Firenze. Trong thời kỳ Phục Hưng, có bốn loại hình bảo trợ âm nhạc trong thành phố đối với cả âm nhạc thiêng liêng và âm nhạc thế tục: chính quyền, tổ chức, giáo hội và tư nhân. Chính tại đây, nhóm nhân văn Camerata Fiorentina đã triệu tập vào giữa thế kỷ 16 và thử nghiệm lồng các câu chuyện thần thoại Hy Lạp vào âm nhạc và dàn dựng biên kịch, hay nói cách khác chính là các vở opera đầu tiên, tạo nền móng và đà lăn bánh không chỉ cho sự phát triển hơn nữa của hình thức opera, mà còn cho sự phát triển sau này của các hình thức "nhạc cổ điển" riêng biệt như giao hưởng và concerto. Sau năm 1600, xu hướng tiếng Ý thịnh hành khắp châu Âu, đến năm 1750, đây là ngôn ngữ chủ đạo của âm nhạc. Nguồn gốc thể loại Madrigal ra đời ở Firenze và Roma đã trở nên phổ biến ở Anh và nhiều nơi khác. Một số thành phố của Ý trở nên "lớn hơn trên bản đồ âm nhạc" so với kích thước thực của chúng, chứng tỏ về sức thu hút và độ phổ biến ở châu Âu lúc bấy giờ. Trong số đó, Firenze trải qua thời kỳ tuyệt vời vào đầu thế kỷ 17 trong làn sóng cách tân âm nhạc–sân khấu, bao gồm cả sự khởi đầu và phát triển rực rỡ của opera.
Opera được phát minh ở Firenze vào cuối thế kỷ 16 khi vở opera Dafne của Jacopo Peri theo phong cách monodia được trình diễn lần đầu tiên. Opera lan rộng từ Firenze tỏa ra khắp Ý và cuối cùng là cả châu Âu. Thanh nhạc trong bối cảnh dàn hợp xướng cũng đã có bản sắc mới vào thời điểm này. Vào đầu thế kỷ 17, hai phương pháp viết nhạc đã được sáng tạo ra, là phương pháp phức điệu thời kỳ Phục Hưng hay còn gọi là Stile antico/Prima prattica và phương pháp đẩy nhanh tốc độ thay đổi phong cách, tiến tới những vinh quang của thời kỳ Baroque hay Stile moderno/Seconda prattica. Stile antico phổ biến hơn ở Bắc Âu và Stile moderno được các nhà soạn nhạc Ý thời bấy giờ thực hành nhiều hơn. Dương cầm tức đàn piano được phát minh tại Firenze vào năm 1709 bởi Bartolomeo Cristofori. Các nhà soạn nhạc và nhạc sĩ từng sống ở Firenze bao gồm Piero Strozzi (1550 – sau 1608), Giulio Caccini (1551–1618) và Mike Francis (1961–2009). Cuốn sách Le Nuove Musiche của Giulio Caccini có ý nghĩa quan trọng trong việc hướng dẫn kỹ thuật thực hành biểu diễn vào thời điểm đó. Cuốn sách đã chỉ định một thuật ngữ mới, được sử dụng vào những năm 1630, được gọi là monodia chỉ sự kết hợp giữa giọng nói và giọng bè đệm basso continuo, đồng thời bao hàm việc thực hành phát âm văn bản theo cách tự do, trữ tình nhưng giống như lời nói. Điều này sẽ xảy ra khi một nhạc cụ, thường là loại bàn phím chẳng hạn như đàn harpsichord, chơi và giữ các hợp âm trong khi ca sĩ nói và hát dòng đơn âm.
Ẩm thực
Nền ẩm thực Firenze phát triển từ truyền thống ăn uống bình dân hơn là nền ẩm thực hạng sang. Phần lớn các món ăn được chế biến từ thịt. Theo truyền thống, toàn bộ các phần của con vật sẽ được tiêu thụ; lòng (trippa) và dạ dày (lampredotto) từng rất thường xuyên có trong thực đơn và hiện vẫn được bày bán tại các tiệm và các xe bán dạo khắp đường phố. Món khai vị (antipasti) bao gồm crostini toscani, bánh mì cắt lát tròn phủ pa tê làm từ gan gà và thịt thái lát (chủ yếu là prosciutto và salame, thường ăn kèm với dưa gang khi vào mùa). Bánh mì thiếu muối vùng Toscana điển hình được làm từ men levain tự nhiên, thường có trong các món ăn Firenze, đặc biệt là trong các loại súp như ribollita và pappa al pomodoro, hoặc trong món salad bánh mì và rau tươi gọi là panzanella được phục vụ vào mùa hè.
Món ăn nổi tiếng nhất của Firenze chính là bít tết kiểu Firenze (bistecca alla fiorentina) là loại lớn (kích thước thông thường nên nặng khoảng 1,2 đến 1,5 kg) – là món bít tết sườn chữ T của thịt bò Chianina nấu trên than nóng và phục vụ rất tái, với phiên bản có nguồn gốc gần đây là tagliata, thịt bò chín tái thái lát được phục vụ trên một lớp rau cải lông (rucola), thường có những lát pho mát Parmesan bên trên. Hầu hết các món ăn này thường được phục vụ với dầu ô liu siêu nguyên chất (olio di oliva extravergine) tại địa phương, cũng là một sản phẩm hàng đầu nổi tiếng trên toàn thế giới.
Trong số các món tráng miệng, schiacciata alla fiorentina – một loại bánh mì dẹt màu trắng, là một trong những món phổ biến nhất; nó là một loại bánh rất mềm, được chế biến từ những nguyên liệu cực kỳ đơn giản, đặc trưng của ẩm thực Firenze và đặc biệt được ăn trong Lễ hội hóa trang Carnival của địa phương.
Và thành phần cuối cùng trong nền ẩm thực Firenze không thể thiếu chính là rượu vang địa phương, và nổi tiếng nhất chính là Chianti có từ thế kỷ 14, khi nghề trồng nho phát triển mạnh ở các "ngọn đồi Chianti" xung quanh Firenze. Ngoài Chianti thì các dòng rượu vang khác từ vùng Toscana nơi mà Firenze là thủ phủ trung tâm, cũng rất được ưa chuộng và nổi tiếng trên bản đồ rượu vang toàn cầu.
Thời trang
Đến năm 1300, Firenze đã trở thành một trung tâm sản xuất dệt may lớn ở châu Âu. Nhiều gia đình giàu có ở Firenze thời Phục Hưng là những khách hàng rất quan trọng đối với những sản phẩm quần áo cao cấp được sản xuất tại địa phương. Thành phố còn là nơi tọa lạc viện bảo tàng quốc gia đầu tiên của Ý dành riêng cho thời trang và lịch sử của ngành: Bảo tàng Thời trang và Trang phục (Museo della Moda e del Costume), theo dòng lịch sử chi tiết của các kiểu thời trang nối tiếp nhau theo từng thời kỳ với bộ sưu tập lên tới hơn 6000 đồ tạo tác, trong số đó có quần áo cổ, phụ kiện, trang phục sân khấu và điện ảnh có tầm quan trọng lớn đối với khảo cứu tài liệu, và nhiều ví dụ hiện diện uy tín của các nhà tạo mẫu người Ý và nước ngoài như Giorgio Armani, Valentino, Versace. Firenze có thể được xem là nơi khai sinh và là trung tâm sớm nhất của ngành công nghiệp thời trang hiện đại (hậu Thế chiến thứ hai) ở Ý. Các "soirées" Firenze vào đầu những năm 1950 do Giovanni Battista Giorgini tổ chức là chuỗi sự kiện mà một số nhà thiết kế người Ý tham gia trong các buổi trình diễn tập thể và lần đầu tiên thu hút được sự chú ý của quốc tế.
Thương hiệu nổi tiếng toàn cầu Gucci được sáng lập tại Firenze vào năm 1921 và vẫn đặt trụ sở tại thành phố cho đến ngày nay. Firenze cũng là nơi đặt trụ sở các thương hiệu Ý nổi tiếng như Salvatore Ferragamo, Roberto Cavalli và Emilio Pucci. Những thương hiệu hạng sang khác trong ngành thời trang như Prada và Chanel cũng đặt văn phòng và cửa hàng lớn của mình ở Firenze hoặc vùng ngoại ô của thành phố. Phố mua sắm cao cấp chính của Firenze là Via de' Tornabuoni, nơi có các cửa hàng thời trang và nhãn hiệu trang sức lớn đắt tiền, chẳng hạn như Armani và Bulgari. Via del Parione và Via Roma là những con phố khác cũng nổi tiếng với các cửa hàng thời trang cao cấp.
Lễ hội và truyền thống dân gian
Những lễ hội và truyền thống dân gian nổi tiếng nhất tại Florence là:Scoppio del Carro ("Nổ tung cỗ xe") là lễ kỷ niệm cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất. Trong ngày lễ Phục Sinh, một cỗ xe đẩy mà người dân Firenze gọi là Brindellone được kéo bởi bốn con bò trắng và đưa đến quảng trường Nhà thờ chính tòa (Piazza del Duomo) đối diện với Nhà rửa tội Thành Gioan Tẩy Giả (Battistero di San Giovanni). Cỗ xe được nối bằng một sợi dây vào bên trong nhà thờ, gần đó có một mô hình chim bồ câu, theo truyền thuyết, là biểu tượng của sự may mắn cho thành phố: vào cuối lễ Phục sinh, chim bồ câu xuất hiện từ gian giữa của Nhà thờ chính tòa và khai hỏa cho pháo hoa bên trong cỗ xe.Calcio Storico Fiorentino ("Bóng đá cổ xưa Firenze"), đôi khi được gọi là Calcio in costume ("Bóng đá mặc trang phục"), là một môn thể thao truyền thống, được coi là tiền thân của bóng đá, mặc dù cách chơi thực tế gần giống với bóng bầu dục nhất. Sự kiện này bắt nguồn từ thời Trung Cổ, khi các quý tộc quan trọng nhất Firenze vui chơi khi mặc trang phục sáng màu. Trận đấu quan trọng nhất diễn ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1530, trong cuộc vây hãm thành Firenze. Ngày hôm đó, quân đội của Giáo hoàng bao vây thành phố trong khi người dân Firenze với sự khinh thường kẻ thù, đã quyết định chơi trò chơi này bất chấp tình hình thực tế bên ngoài. Trò chơi được chơi ở Quảng trường Santa Croce. Một nhà thi đấu tạm thời được xây dựng với khán đài và sân chơi phủ đầy cát. Một loạt các trận đấu được tổ chức vào cuối tháng Sáu và đầu tháng Bảy giữa bốn đội đại diện cho mỗi quartiere (phường) của Firenze. Có bốn đội: Azzurri (xanh trời), Bianchi (trắng), Rossi (đỏ) và Verdi (xanh lá). Azzurri đến từ phường Santa Croce, Bianchi đến từ Santo Spirito, Verdi đến từ San Giovanni và Rossi đến từ Santa Maria Novella.
Phim ảnh, truyền thông và văn hóa đại chúng
Với bề dày lịch sử và tầm ảnh hưởng văn hóa quan trọng trong văn hóa phương Tây, Firenze xuất hiện trong nhiều tác phẩm hư cấu và phim ảnh, bao gồm cả tiểu thuyết và phim ảnh liên quan như Light in the Piazza, The Girl Who Can't Say No, Calmi Cuori Appassionati, A Room with a View, Tea with Mussolini, Virgin Territory. Sự kiện đời thật sát thủ hàng loạt Quái vật thành Firenze đã trở thành nguồn cảm hứng cho cuốn tiểu thuyết Hannibal năm 1991 của nhà văn Thomas Harris, từ đó Firenze trở thành bối cảnh chính trong Hannibal: Kẻ ăn thịt người (2001), phần tiếp theo của bộ phim kinh điển The Silence of the Lambs (1991) cũng như loạt phim truyền hình Hannibal (2013–2015), nơi mà kẻ giết người hàng loạt Bác sĩ Hannibal Lecter (do Anthony Hopkins và Mads Mikkelsen thủ vai) đến cư ngụ và có lòng mến mộ thành phố nghệ thuật Phục Hưng này và xem nó như là nhà của ông. Firenze còn là bối cảnh trong Hỏa ngục (2016) – phần tiếp theo của Mật mã Da Vinci (2006) và Thiên thần và ác quỷ (2009) dựa theo những cuốn tiểu thuyết của nhà văn Dan Brown; Gia tộc Gucci (2021) cũng như loạt phim ăn khách Phi vụ triệu đô của Netflix.
Firenze xuất hiện thành một địa điểm trong các trò chơi điện tử như Assassin's Creed II. Chính thể Cộng hòa Firenze cũng xuất hiện như một quốc gia có thể chơi được trong trò chơi đại chiến lược Europa Universalis IV của hãng Paradox Interactive. Firenze thế kỷ 16 là bối cảnh của bộ truyện tranh manga và phim hoạt hình anime Nhật Bản Arte.
Các tài tử diễn viên nổi tiếng người Ý, chẳng hạn như Roberto Benigni, Leonardo Pieraccioni và Vittoria Puccini là những người tiêu biểu xuất thân từ Firenze.
Giáo dục
Đại học và giáo dục bậc cao
Đại học Firenze được thành lập vào năm 1321 và được Giáo hoàng Clêmentê VI công nhận vào năm 1349. Năm 2022, có khoảng 51.000 sinh viên theo học tại đây. Viện Đại học Châu Âu (European University Institute) có trụ sở tại vùng ngoại ô Fiesole từ năm 1976, là một tổ chức quốc tế và cơ quan độc lập của Liên minh châu Âu, được thành lập bởi các quốc gia thành viên để đóng góp cho sự phát triển văn hóa và khoa học trong khoa học xã hội. Một số đại học Mỹ cũng đặt cơ sở tại Firenze. Bao gồm Đại học New York, Marist College, Đại học Pepperdine, Đại học Stanford, Đại học Bang Florida (Florida State University), Đại học Georgetown và Đại học James Madison. Trung tâm Nghiên cứu Phục Hưng Ý thuộc Đại học Harvard có trụ sở tại Villa I Tatti. Trung tâm nghiên cứu nâng cao về nghệ thuật và nhân văn đã được đặt tại ngoại ô Firenze, Fiesole và Settignano từ năm 1961. Có hơn 8.000 sinh viên Hoa Kỳ đăng ký học tại Firenze, mặc dù hầu hết họ đang theo học các chương trình cấp bằng tại Hoa Kỳ. Firenze được xem là khuôn viên đại học Hoa Kỳ lớn nhất trên thế giới bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ.
Khám phá và nghiên cứu khoa học
Firenze từ lâu đã là một trung tâm khoa học quan trọng trong nhiều thế kỷ, đặc biệt là trong thời kỳ Phục Hưng với các nhà bác học như Leonardo da Vinci và Galileo Galilei. Họ được xem là những người đi tiên phong trong việc nghiên cứu quang học, đạn đạo, thiên văn học, giải phẫu học và các ngành khoa học khác. Pico della Mirandola, Leonardo Bruni, Machiavelli và nhiều người khác đã đặt nền móng cho sự hiểu biết khoa học hiện đại.
Người dân Firenze là một trong những nguồn động lực lớn thúc đẩy cho Thời đại Khám phá. Các chủ ngân hàng Firenze đã tài trợ cho Henrique Nhà hàng hải và các nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha đi tiên phong trong tuyến đường vòng quanh châu Phi đến Ấn Độ và Viễn Đông cũng như châu Mỹ sau này. Tấm bản đồ do Paolo dal Pozzo Toscanelli người Firenze vẽ (một học trò của Brunelleschi) mà từ đó Cristoforo Colombo dùng để bán "ý tưởng" của mình cho các quân chủ Công giáo Tây Ban Nha và cũng là tấm bản đồ mà Colombo đã sử dụng trong chuyến hành trình đầu tiên của mình. Amerigo Vespucci người Firenze đã phát hiện ra rằng lục địa bên kia Đại Tây Dương mở rộng về phía nam hơn là những kiến thức người châu Âu đã biết, khiến ông tin rằng vùng đất này là một lục địa mới, một luận điểm táo bạo lúc bấy giờ khi các nhà thám hiểm châu Âu vượt qua Đại Tây Dương đều cho rằng họ đã tới được châu Á (hay Ấn Độ theo cách gọi của người thời đó), và cuối cùng "Tân Thế giới" chính thức được đặt theo tên của Vespucci là America thay vì tên của Colombo. Phép chiếu bản đồ Mercator là một phiên bản cải tiến của Toscanelli, có bao gồm đến châu Mỹ.
Hiện nay, các viện nghiên cứu và các khoa bộ môn của đại học nằm trong khu vực Firenze và trong hai cơ sở tại Polo di Novoli và Polo Scientifico di Sesto Fiorentino cũng như trong khu vực của Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia (Consiglio Nazionale delle Ricerche). Thành phố cũng là nơi tọa lạc các tổ chức văn hóa uy tín, làm phong phú thêm di sản văn hóa Firenze. Trong đó, Accademia della Crusca (Học viện Cám) là viện nghiên cứu ngôn ngữ Ý quan trọng nhất và là học viện ngôn ngữ học lâu đời nhất trên thế giới. Thư viện Trung tâm Quốc gia tại Firenze (Biblioteca Nazionale Centrale di Firenze) là thư viện lớn nhất tại Ý và là một trong những thư viện quan trọng bậc nhất ở châu Âu. Đây là một trong hai thư viện trung tâm của Ý, bên cạnh Thư viện Trung tâm Quốc gia tại thủ đô Roma.
Thể thao
ACF Fiorentina hay còn gọi là Fiorentina là đội bóng đá đại diện cho Firenze thi đấu ở Serie A, giải vô địch hàng đầu của hệ thống giải đấu Ý. Fiorentina đã giành được hai chức vô địch Ý, vào năm 1956 và 1969, cùng 6 cúp quốc gia Ý, kể từ khi thành lập vào năm 1926. Họ thi đấu tại Sân vận động Artemio Franchi, với sức chứa 47.282 khán giả. Đội nữ của Fiorentina đã vô địch Giải vô địch bóng đá nữ Ý mùa giải 2016–17.
Firenze là nơi tọa lạc của Centro Tecnico Federale di Coverciano ở khu vực Coverciano, sân tập chính của Đội tuyển bóng đá quốc gia Ý và bộ phận kỹ thuật của Liên đoàn bóng đá Ý.
Firenze là một trong những thành phố đăng cai tổ chức Giải vô địch thế giới đường trường UCI 2013 của bộ môn đua xe đạp. Thành phố cũng đã tổ chức các màn đua của Giro d'Italia, gần đây nhất là vào năm 2017.
Kể từ năm 2017, Firenze cũng có đại diện tại Eccellenza, giải đấu hàng đầu của hệ thống liên đoàn bóng bầu dục liên hiệp ở Ý, bởi câu lạc bộ I Medicei được thành lập vào năm 2015 bằng sự hợp nhất của các đội cấp cao của I Cavalieri (khu Prato) và Firenze Rugby 1931. I Medicei đã giành chức vô địch Serie A mùa giải 2016–17 và được thăng hạng lên Eccellenza trong mùa giải 2017–18.Rari Nantes Florentia là một câu lạc bộ bóng nước thành công có trụ sở tại Firenze; cả đội nam và nữ của họ đều đã giành được một số chức vô địch Ý và đội nữ cũng đã giành được các danh hiệu châu Âu trong tầm tay.
Tổ chức hành chính và chính quyền
Chính quyền các cấp
Tương tự với nhiều thành phố khác ở Ý, Firenze được quản lý bởi định chế một hội đồng và một ủy ban. Hội đồng thành phố (Consiglio comunale) đóng vai trò là cơ quan lập pháp, bao gồm 36 ủy viên hội đồng được bầu 5 năm một lần theo hệ thống tỷ lệ song song với cuộc bầu cử thị trưởng. Cơ quan điều hành là Ủy ban thành phố (Giunta comunale) gồm 7 thẩm định viên, được đề cử và lãnh đạo bởi một thị trưởng được bầu trực tiếp. Cựu Thủ tướng Ý (2014–2016) Matteo Renzi từng là Thị trưởng Firenze từ năm 2009 đến 2014. Thị trưởng hiện tại là Dario Nardella, thuộc Đảng Dân chủ Ý.
Hội đồng thành phố và Ủy ban thành phố Firenze có trụ sở đặt tại Cung điện Signoria (Palazzo della Signoria) – hay còn phổ biến hơn với tên gọi Palazzo Vecchio (Cung điện Cũ), nằm tại Quảng trường Signoria (Piazza della Signoria) trung tâm phố cổ của Firenze.
Thành phố Firenze (Città di Firenze) là tỉnh lỵ của một đơn vị hành chính cấp cao hơn – Thành phố đô thị Firenze (Città metropolitana di Firenze) được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2015 và là một trong 14 thành phố đô thị của Ý – đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh, thay thế cho đơn vị hành chính cũ trước đó là tỉnh Firenze (Provincia di Firenze). Thành phố đô thị này có diện tích 3.514 km² và dân số khoảng 1 triệu người, với tổng cộng 41 huyện bao gồm cả tỉnh lỵ Firenze. Trụ sở hành chính Thành phố đô thị Firenze đặt tại Cung điện Medici.
Firenze đồng thời là thủ phủ của vùng Toscana, một trong 20 vùng hành chính của Ý. Chính quyền vùng Toscana đặt trụ sở tại Cung điện Palazzo Guadagni Strozzi Sacrati ở Quảng trường Nhà thờ chính tòa (Piazza del Duomo).
Phân chia hành chính
Thành phố Firenze hiện tại được chia thành năm Quận hành chính (Quartieri), sau khi thực hiện cải cách thay đổi lớn từ con số 14 quận trước đó vào năm 1990. Mỗi quận được điều hành bởi một Hội đồng quận (Consiglio) và một Quận trưởng, được bầu đồng thời với Thị trưởng thành phố. Sự thành lập, tổ chức, phân chia quận được quản lý bởi Hiến pháp Ý (điều 114). Các quận có quyền cố vấn cho Thị trưởng với các ý kiến không ràng buộc về nhiều chủ đề (như môi trường, xây dựng, sức khỏe cộng đồng, thị trường địa phương) và thực hiện các chức năng nhiệm vụ được Hội đồng thành phố giao cho họ; ngoài ra, các quận được phân bổ nguồn ngân sách tự chủ để chi trả và tài trợ cho các hoạt động ở từng địa phương. 5 quận hành chính hiện tại của Firenze là:
Kinh tế
Cho đến nay, du lịch là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong tất cả các ngành và phần lớn nền kinh tế Firenze phụ thuộc vào nguồn tiền do du khách và sinh viên quốc tế học tập tại thành phố tạo ra. Tuy nhiên, sản xuất và thương mại vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế địa phương.
Firenze là thành phố đón nhận khách du lịch hằng năm nhiều thứ 4 của Ý, xếp sau thủ đô Roma, Venezia và Milano. Tổng giá trị du lịch của thành phố đạt khoảng 2,5 tỷ euro vào năm 2015 và số lượng du khách đã tăng 5,5% so với năm trước. Năm 2013, Firenze được tạp chí Condé Nast Traveler liệt kê ở vị trí thứ hai trong top những điểm đến du lịch tuyệt vời nhất trên thế giới.
Năm 2021, Firenze cũng là thành phố đứng thứ 7 của Ý xét về thu nhập trung bình của người lao động, với con số là €16.686, xếp sau Reggio Emilia và đứng trên Modena.
Công nghiệp, thương mại và dịch vụ
Firenze là một trong những trung tâm sản xuất và thương mại lớn ở Ý, nơi có các khu liên hợp công nghiệp ở ngoại ô sản xuất đủ loại hàng hóa, từ đồ nội thất, hàng cao su, hóa chất và thực phẩm. Tuy nhiên, các sản phẩm truyền thống và địa phương, chẳng hạn như đồ cổ, đồ thủ công mỹ nghệ, đồ thủy tinh, hàng da, đồ tái tạo nghệ thuật, đồ trang sức, đồ lưu niệm, đồ kim loại và đồ sắt tinh xảo, giày dép, phụ kiện và quần áo thời trang cao cấp cũng chiếm ưu thế trong cấu trúc kinh tế của Firenze. Thu nhập của thành phố phụ thuộc một phần vào các dịch vụ và lợi ích thương mại và văn hóa, chẳng hạn như hội chợ hàng năm, các ấn phẩm sân khấu và nhạc kịch, triển lãm nghệ thuật, lễ hội và trình diễn thời trang. Công nghiệp nặng và máy móc cũng góp phần mang lại thu nhập. Ở Nuovo Pignone, vẫn còn nhiều nhà máy và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ chiếm ưu thế. Các quận và khu vực đô thị công nghiệp Firenze-Prato-Pistoia được gọi là 'Nước Ý thứ ba' vào những năm 1990, do xuất khẩu hàng hóa và ô tô chất lượng cao (đặc biệt là xe Vespa) cũng như sự thịnh vượng và năng suất của các doanh nhân Firenze. Một số ngành công nghiệp này thậm chí còn sánh ngang với các khu công nghiệp truyền thống ở Emilia-Romagna và Veneto do lợi nhuận và năng suất cao.
Trong quý 4 năm 2015, ngành chế tạo tăng 2,4% và xuất khẩu tăng 7,2%. Các lĩnh vực hàng đầu bao gồm kỹ thuật cơ khí, thời trang, dược phẩm, thực phẩm và rượu vang. Trong năm 2015, các hợp đồng lao động dài hạn đã tăng 48,8%, được thúc đẩy bởi việc giảm thuế trên toàn quốc.
Du lịch
Du lịch là mảng ngành quan trọng nhất của thành phố, đặc biệt là khu vực trung tâm. Từ khoảng tháng 4 đến tháng 10 hằng năm thường là mùa du lịch cao điểm khi mà lượng du khách còn đông hơn dân số địa phương. Vé vào cửa các bảo tàng như Uffizi và Nhà triễn lãm Học viện thường xuyên cháy vé và các đoàn nhóm lớn thường xuyên xếp hàng dài tại vương cung thánh đường Santa Croce và Santa Maria Novella, cả hai nơi đều thu phí vào cửa. Vé vào Uffizi và Nhà triễn lãm Học viện có thể được mua trực tuyến trước khi đến thăm. Năm 2015, độc giả của Condé Nast Travel đã bình chọn Firenze là thành phố du lịch tốt nhất tại châu Âu. Năm 2017, độc giả của tạp chí Travel + Leisure đã xếp thành phố này là điểm đến đứng vị trí thứ nhất trong danh sách các địa điểm du lịch yêu thích của họ. Các nghiên cứu của Euromonitor International đã kết luận rằng du lịch thiên hướng khám phá văn hóa lịch sử đang tạo ra sự gia tăng đáng kể chi tiêu trên khắp châu Âu, và Firenze luôn thuộc nhóm đứng đầu bảng trong khía cạnh này.
Firenze được xem là nơi có mật độ tập trung nhiều nghệ thuật nhất trên thế giới (tương ứng với quy mô của nó). Do đó, du lịch văn hóa đặc biệt phát triển mạnh, với các bảo tàng danh giá thế giới như Uffizi đã đón nhận hơn 4 triệu lượt khách tham quan vào năm 2022. Các cơ sở trung tâm hội nghị của thành phố đã được tái cấu trúc trong những năm 1990 và thường xuyên tổ chức các cuộc triển lãm, hội nghị, cuộc họp, diễn đàn xã hội, buổi hòa nhạc và các sự kiện khác quanh năm.
Năm 2016, Firenze có 20.588 phòng khách sạn tại 570 cơ sở. Khách quốc tế sử dụng 75% số phòng; khoảng 18% trong số đó đến từ Mỹ. Năm 2014, thành phố có 8,5 triệu lượt lưu trú qua đêm. Báo cáo của Euromonitor vào năm 2022 cho thấy rằng thành phố được xếp hạng thứ 21 trong top 30 thành phố được ghé thăm nhiều nhất trên thế giới, với hơn 5 triệu lượt khách trong năm.
Du lịch mang lại nguồn doanh thu lớn cho Firenze, nhưng cũng tạo ra một số vấn đề nhất định. Ponte Vecchio, khu chợ San Lorenzo và Santa Maria Novella là nơi thường xuyên xảy ra nạn móc túi. Toàn Thành phố đô thị Firenze đón khoảng 13 triệu du khách mỗi năm và vào mùa cao điểm, hệ quả là các địa điểm nổi tiếng có thể trở nên quá đông đúc. Năm 2015, Thị trưởng Dario Nardella bày tỏ lo ngại về việc du khách đến bằng xe buýt và chỉ lưu lại vài giờ, tiêu ít tiền nhưng góp phần đáng kể vào tình trạng quá tải. "Không hề có chuyến thăm bảo tàng nào, đến chỉ để chụp vài bức ảnh ở quảng trường, quay lại lên xe buýt và sau đó đến Venezia... Chúng tôi không muốn những khách du lịch như vậy", ông nói.
Theo Nardella, một số khách du lịch thiếu tôn trọng di sản văn hóa của thành phố. Vào tháng 6 năm 2017, ông cho thiết lập một chương trình phun nước vào các bậc thang của các thánh đường để ngăn khách du lịch chiếm dụng những khu vực đó làm điểm dã ngoại. Trong khi đánh giá cao lợi ích của du lịch, ông tuyên bố rằng đã có "sự gia tăng trong số những người ngồi xuống bậc thềm các nhà thờ, ăn thức ăn của họ và để rác vương vãi xuống đất", ông giải thích. Để thúc đẩy việc bán các món ăn truyền thống, thị trưởng đã ban hành luật năm 2016 yêu cầu các nhà hàng sử dụng các sản phẩm đặc trưng của vùng Toscana và từ chối đơn xin mở một cửa tiệm của McDonald's tại Quảng trường Nhà thờ chính tòa.
Vào tháng 10 năm 2021, Firenze lọt vào danh sách cho giải thưởng Thủ đô Du lịch Thông minh của Ủy ban châu Âu năm 2022 cùng với Bordeaux, Copenhagen, Dublin, Ljubljana, Palma de Mallorca và Valencia.
Sản xuất ẩm thực và rượu vang
Ẩm thực và rượu vang Ý từ lâu đã là một mặt hàng chủ lực quan trọng của nền kinh tế Firenze. Vùng vang Chianti nằm ngay phía nam thành phố và giống nho Sangiovese của địa phương nổi tiếng thế giới không chỉ trong các loại rượu vang Chianti Classico mà còn trong nhiều hỗn hợp Supertuscan được phát triển gần đây. Trong vòng 32 km (20 dặm) về phía tây là khu vực vang Carmignano, cũng là nơi sinh trưởng của giống nho đỏ có nguồn gốc sangiovese đầy hương vị. Vùng vang Chianti Rufina nổi tiếng, tách biệt về mặt địa lý và lịch sử với vùng Chianti chính, cũng cách Firenze vài km về phía đông. Thời gian gần đây, vùng vang Bolgheri (cách Firenze khoảng 150 km hay 93 dặm về phía tây nam) đã trở nên nổi tiếng với dòng vang đỏ "Super Tuscan" như Sassicaia và Ornellaia.
Trong vùng đô thị Firenze, ngành nông nghiệp chiếm 6,4% GDP của khu vực với hơn 7.000 công ty hoạt động trong lĩnh vực nông sản thực phẩm. Tính đến quý 3 năm 2019, có hơn 400 doanh nghiệp trẻ hoạt động trong lĩnh vực này, chiếm 6,8% tổng số trên địa bàn đô thị.
Giao thông
Đường bộ
Firenze là một trong những ngã ba đường quan trọng của quốc gia, nhờ vào vị trí lịch sử chiến lược từ thời Cộng hòa La Mã – nằm ở giữa tuyến đường nối thành Roma với vùng phương Bắc. Nơi đây được kết nối bởi một số cao tốc trọng điểm, mà quan trọng nhất là Autostrada A1 – đường cao tốc lâu đời nhất của châu Âu và dài nhất ở Ý kết nối thủ phủ của 2 miền Bắc Nam là Milano và Napoli cùng thủ đô Roma. A11 là tuyến cao tốc quốc gia chạy từ Firenze về phía tây dọc theo sông Arno để đến Pisa – và từ đó kết nối với vùng duyên hải tây bắc của đất nước.
Trong nội ô Firenze, khu trung tâm lịch sử Firenze không cho xe cộ qua lại, mặc dù xe buýt, taxi và cư dân có giấy phép phù hợp vẫn được phép đi vào. Khu vực này thường được gọi là ZTL (Zona Traffico Limitato), được chia thành nhiều tiểu khu. Do đó, cư dân của một khu vực sẽ chỉ có thể lái xe trong khu vực của họ và có lẽ một số khu vực lân cận. Ô tô không có giấy phép được phép vào sau 7:30 tối hoặc trước 7:30 sáng. Các quy tắc này thay đổi trong mùa hè là thời điểm đông khách du lịch, đặt ra nhiều hạn chế hơn về những chỗ mà người ta có thể ra vào.
Đường sắtFirenze Santa Maria Novella là nhà ga đường sắt quốc gia và quốc tế chính ở Firenze và có khoảng 59 triệu lượt hành khách sử dụng mỗi năm. Tòa nhà do Giovanni Michelucci thiết kế, được xây dựng theo phong cách chủ nghĩa duy lý Ý và là một trong những tòa nhà theo trường phái duy lý lớn ở Ý. Nó nằm ở Quảng trường Nhà ga (Piazza della Stazione), gần pháo đài Fortezza da Basso, một kiệt tác của kiến trúc quân sự thời Phục Hưng, và tuyến đại lộ Viali di Circonvallazione, và phía trước Vương cung thánh đường Đức Bà Tân Hoa Santa Maria Novella – nguồn gốc mà nhà ga này được đặt tên. Cũng như nhiều chuyến tàu cao tốc đến các thành phố lớn của Ý, Firenze được phục vụ bởi các chuyến tàu dịch vụ ngủ qua đêm quốc tế để đến Munich và Viên do hãng đường sắt của Áo ÖBB khai thác.
Vé tàu phải được xác nhận trước khi lên tàu. Bến xe buýt chính nằm cạnh nhà ga Santa Maria Novella. Công ty đường sắt quốc gia Ý Trenitalia điều hành các chuyến tàu giữa các nhà ga trong thành phố và đến các thành phố khác trên khắp nước Ý và châu Âu. Ga trung tâm Santa Maria Novella nằm cách quảng trường Piazza del Duomo và Nhà thờ chính tòa Đức Bà Phồn Hoa khoảng 500 m (1.600 ft) về phía tây bắc. Bên cạnh đó thành phố còn có 2 nhà ga quan trọng khác là Firenze Campo di Marte và Firenze Rifredi. Hầu hết các tuyến tàu lân cận phổ biến nhất là Firenze–Pisa, Firenze–Viareggio và Firenze–Arezzo (dọc theo tuyến chính đến Roma). Các tuyến đường sắt địa phương khác kết nối Firenze với Borgo San Lorenzo ở khu vực Mugello (đường sắt Faentina) và Siena.
Một nhà ga đường sắt cao tốc mới đang được xây dựng và được ký hợp đồng đưa vào hoạt động vào năm 2015. Nó được lên kế hoạch kết nối với sân bay Vespucci, ga trung tâm Santa Maria Novella và với trung tâm thành cổ bằng tuyến thứ hai của Tramvia. Công ty kiến trúc Foster + Partners và Lancietti Passaleva Giordo & Associati đã thiết kế nhà ga xe lửa mới này.
Hàng không
Sân bay Peretola (IATA: FLR, ICAO: LIRQ, tiếng Ý: Aeroporto di Firenze-Peretola) hay tên chính thức là Sân bay Amerigo Vespucci – đặt tên theo nhà hàng hải thám hiểm nổi tiếng người Firenze, là sân bay quốc tế của thành phố và là một trong hai sân bay chính của vùng Toscana. Mặc dù là thủ phủ của vùng tuy nhiên sân bay tại Firenze lại không được sử dụng rộng rãi bởi các hãng hàng không phổ biến. Do vậy đây là sân bay Toscana bận rộn thứ hai về lượng hành khách xếp sau Sân bay quốc tế Galileo Galilei ở Pisa.
Tuyến đường xe đạp và thuê xe
Firenze là thành phố khá thân thiện dành cho người đi xe đạp. Các con đường và làn đường dành cho xe đạp ôm lấy khu vực xung quanh trung tâm lịch sử Firenze với một số nhánh thường không được liên tục với nhau. Tuyến đường hiện tại dài khoảng 90 km, mặc dù tình hình không ngừng được thay đổi và cải thiện. Khu vực Quận 2 Campo di Marte được quy hoạch đặc biệt tốt. Tất cả các khu vực dành cho người đi bộ rộng lớn trên các phố trung tâm đều có thể đi qua bằng xe đạp, kết nối với các đường dành riêng cho xe đạp qua phố Via Cavour, cũng như các công viên chính của thành phố.
Trong thành phố có nhiều dịch vụ cho thuê xe hơi và xe đạp công cộng như các app Car sharing, Car2go, SharenGo, Enjoy, Bike Sharing, Gobee Bike, Mobike, Taxi.
Phương tiện công cộng
ATAF (Azienda Trasporti dell'Area Fiorentina) là công ty công cộng điều hành mạng lưới giao thông công cộng chính trong thành phố. Vé cá nhân, hoặc thẻ gọi là Carta Agile với nhiều chuyến đi, được mua trước và phải được xác thực một lần khi tham gia phương tiện công cộng. Những vé này có thể được sử dụng trên xe buýt, tàu điện nổi mặt phố và tàu hỏa địa phương di chuyển giữa các nhà ga đường sắt trong địa giới thành phố.
Kể từ ngày 1 tháng 11 năm 2021, phương tiện giao thông công cộng địa phương tại Firenze chuyển giao do Autolinee Toscane vận hành – công ty tư nhân quản lý các tuyến xe buýt ở các thành phố và vùng ngoại ô ở Toscana với mạng lưới giao thông 24.527 km và hơn 110 triệu km hành trình di chuyển hàng năm. Hiện tại đây cũng là nhà điều hành duy nhất trong lĩnh vực giao thông công cộng của toàn bộ vùng Toscana, và vì vậy vé phương tiện công cộng chung đơn nhất của Autolinee Toscanee tại Firenze có thể dùng để tham gia phương tiện công cộng ở những thành phố khác thuộc Toscana chẳng hạn như Pisa.
Bốn tuyến xe buýt điện lưu thông trên các tuyến phố hạn chế trong khu vực trung tâm phố cổ lịch sử. Di chuyển bên trong khu vực này bị hạn chế rất nhiều do không có phương tiện giao thông công cộng bổ sung, buộc du khách phải thường xuyên đi bộ một quãng đường dài.
Trong nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm không khí và lưu lượng xe hơi trong thành phố, một mạng lưới tàu điện nổi nhiều tuyến có tên là Tramvia đang được xây dựng. Tuyến đầu tiên bắt đầu hoạt động vào ngày 14 tháng 2 năm 2010 và kết nối nhà ga trung tâm Santa Maria Novella với vùng ngoại ô phía tây nam là phường Scandicci, dài 7,4 km và có 14 điểm dừng. Sau đó vào năm 2018 tuyến trạm này đã mở rộng đến khu vực Careggi – bệnh viện đại học quan trọng nhất của Firenze. Việc xây dựng tuyến thứ hai bắt đầu vào ngày 5 tháng 11 năm 2011, việc xây dựng đã bị dừng lại do khó khăn của các nhà thầu và được khởi động lại vào năm 2014 với tuyến mới khai trương vào ngày 11 tháng 2 năm 2019. Tuyến thứ hai này kết nối sân bay Amerigo Vespucci với trung tâm thành phố. Việc mở rộng tuyến 2 và các dự án tuyến tương lai khác đang được phát triển và đưa mạng lưới tram này lên tới khoảng 40 km cơ sở hạ tầng, với dự kiến khoảng là 86 triệu hành khách. Theo kế hoạch của chính quyền thành phố Firenze, việc xây dựng hoàn chỉnh và đưa vào vận hành dự kiến vào năm 2030.
Lượng thời gian trung bình mà mọi người dành để đi lại bằng phương tiện công cộng ở Firenze, chẳng hạn như đến và đi từ nơi làm việc, vào một ngày trong tuần là 59 phút. 13% người sử dụng phương tiện công cộng tham gia vào hệ thống trung bình 2 tiếng mỗi ngày. Khoảng thời gian trung bình mà mọi người đợi tại một điểm dừng hoặc nhà ga dành cho phương tiện công cộng là 14 phút, trong khi trung bình 22% hành khách chờ hơn 20 phút mỗi ngày. Khoảng cách trung bình mọi người thường đi trong một chuyến đi bằng phương tiện công cộng là 4,1 km, trong khi 3% số hành khách di chuyển hơn 12 km theo một hướng.
Quan hệ quốc tế
Cơ quan ngoại giao và tổ chức quốc tế
Hiện có 63 cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Firenze, trong đó bao gồm 3 tổng lãnh sự quán (Consolato Generale, của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Peru), 9 tổng lãnh sự quán danh dự (Consolato Generale Onorario) và 51 lãnh sự quán danh dự (Consolato Onorario) thuộc các nước.
Trung tâm Nghiên cứu Innocenti có trụ sở tại Firenze là cơ quan nghiên cứu chính của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc UNICEF trong lĩnh vực chăm sóc trẻ em, được thành lập với mục đích phổ biến các khảo sát, số liệu thống kê và các phương pháp hay nhất cho các văn phòng của UNICEF.
Thành phố kết nghĩa
Firenze đã chính thức kết nghĩa với những thành phố sau:
Bethlehem, Palestine
Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ
Reims, Pháp từ 1954 (3 tháng 7)
Kassel, Đức từ 1958
Fes, Morocco từ 1961 (7 tháng 9)
Edinburgh, Scotland, Vương quốc Anh từ 1965 (28 tháng 5)
Kyoto, Nhật Bản từ 1965 (22 tháng 9)
Kyiv, Ukraina từ 1967 (27 tháng 7)
Dresden, Đức từ 1978 (30 tháng 5)
Nam Kinh, Trung Quốc từ 1980 (22 tháng 2)
Salvador, Brazil từ 1991 (30 tháng 5)
Sydney, Úc từ 1991 (3 tháng 8)
Thành phố Kuwait, Kuwait từ 1991 (29 tháng 11)
Turku, Phần Lan từ 1992 (12 tháng 2)
Nazareth, Israel từ 1996 (25 tháng 3)
Isfahan, Iran từ 1998 (29 tháng 5)
Riga, Latvia từ 2000 (5 tháng 9)
Tirana, Albania từ 2001 (10 tháng 1)
Puebla, Mexico từ 2005 (19 tháng 9)
Valladolid, Tây Ban Nha từ 2007 (21 tháng 1)
Budapest, Hungary từ 2008 (17 tháng 5)
Pozzallo, Ý từ 2019 (25 tháng 3)
Quan hệ đối tác
Arequipa, Peru
Tallinn, Estonia
Ninh Ba, Trung Quốc
Mauthausen, Áo
Gifu, Nhật Bản từ 1978
Kraków, Ba Lan từ 1985
Malmö, Thụy Điển từ 1989
Cannes, Pháp từ 1991
Providence, Rhode Island, Hoa Kỳ từ 1998
Porto-Vecchio, Pháp từ 2007
Danh nhân văn hóa Firenze
Thành Firenze nói riêng hay vùng đất Toscana nói chung được nhận định là chốn địa linh nhân kiệt trong lịch sử Ý, là nơi xuất thân của rất nhiều con người có tầm ảnh hưởng to lớn đến dòng chảy cuộc sống văn hóa, chính trị, nghệ thuật của châu Âu và tiến trình lịch sử thế giới. Sau đây là danh sách một số danh nhân lịch sử, nhân vật nổi tiếng có xuất thân, sinh sống hoặc đã từng hoạt động và làm việc tại Firenze:
Antonia thành Firenze (1401–1472), một vị thánh Công giáo
Agnes xứ Montepulciano (1268–1317), một vị thánh
Harold Acton (1904–1994), tác gia, học giả
John Argyropoulos (1415–1487), học giả, triết gia, nhà nhân văn
Leone Battista Alberti (1404–1472), nhà bác học
Dante Alighieri (1265–1321), nhà thơ, cha đẻ của tiếng Ý
Giovanni Boccaccio (1313–1375), nhà thơ
Baldassarre Bonaiuti (1336–1385), nhà biên niên sử thế kỷ 14
Sandro Botticelli (1445–1510), họa sĩ
Egisto Bracci (1830–1909), kiến trúc sư
Aureliano Brandolini (1927–2008), nhà nông học và học giả hợp tác phát triển
Robert Browning và Elizabeth Barrett Browning, những nhà thơ Anh thế kỷ 19
Filippo Brunelleschi (1377–1446), kiến trúc sư
Michelangelo Buonarroti (1475–1564), nhà điêu khắc, họa sĩ, một trong ba bậc thầy đại vĩ nhân thời Phục Hưng, tác giả của Trần nhà nguyện Sistina và tượng David Francesco Casagrande (sinh 1970), vận động viên đua xe đạp
Roberto Cavalli (sinh 1940), nhà thiết kế thời trang
Carlo Collodi (1826–1890), nhà văn
Enrico Coveri (1952–1990), nhà thiết kế thời trang
Donatello (1386–1466), nhà điêu khắc
Oriana Fallaci (1929–2006), nhà báo và tác gia
Salvatore Ferragamo (1898–1960), nhà thiết kế thời trang và nhà làm giày
Mike Francis (tên khai sinh Francesco Puccioni, 1961–2009), ca sĩ và nhạc sĩ
Silpa Bhirasri (tên khai sinh Corrado Feroci, 1892–1962), nhà điêu khắc, được xem là nhân vật trung tâm của nghệ thuật hiện đại ở Thái Lan.
Gia tộc Frescobaldi, chủ ngân hàng và người sản xuất rượu nổi tiếng
Galileo Galilei (1564–1642), nhà vật lý học, nhà thiên văn học và nhà triết học
Giotto (1267–1337), họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến trúc sư đầu thế kỷ 14
Lorenzo Ghiberti (1378–1455), nhà điêu khắc
Guccio Gucci (1881–1953), người sáng lập thương hiệu Gucci
Pauline von Hügel (1858–1901), nam tước phu nhân, nhà văn, nhà từ thiện
Bruno Innocenti (1906–1986), nhà điêu khắc
Robert Lowell (1917–1977), nhà thơ
Niccolò Machiavelli (1469–1527), nhà thơ, nhà triết học và nhà tư tưởng chính trị, tác giả của quyển Quân Vương và Discourses on Livy Masaccio (1401–1428), họa sĩ
Rose McGowan (sinh 1973), nữ diễn viên người Mỹ sinh tại Firenze
Nhà Medici, gia tộc quyền lực thành Firenze thời Trung Cổ
Girolamo Mei (1519–1594), nhà sử học và nhà nhân văn học
Antonio Meucci (1808–1889), người phát minh điện thoại
Pirrho Musefili (1546 – 1557), nhà mật mã học và nhà phân tích mật mã
Florence Nightingale (1820–1910), nhà tiên phong trong ngành điều dưỡng hiện đại, và nhà thống kê
Virginia Oldoini (1837–1899), Nữ bá tước Castiglione, nghệ sĩ nhiếp ảnh thời kỳ đầu, mật vụ và kỹ nữ
Valerio Profondavalle (1533–1600), họa sĩ người Vlaanderen
Giulio Racah (1909–1965), nhà toán học và vật lý học người Ý gốc Do Thái; Quyền Hiệu trưởng Đại học Do Thái Jerusalem
Raffaello (1483–1520), họa sĩ, thành viên trong bộ ba bậc thầy đại vĩ nhân thời Phục Hưng
Girolamo Savonarola (1452–1498), tu sĩ, nhà cải cách
Adriana Seroni (1922–1984), chính trị gia
Giovanni Spadolini (1925–1994), chính trị gia
Antonio Squarcialupi (1416–1480), nghệ nhân đàn ống và nhà soạn nhạc
Andrei Tarkovsky (1932–1986), đạo diễn phim, sống tại Firenze khi ông bị lưu đày.
Evangelista Torricelli (1608–1647), nhà toán học và vật lý học
Anna Tonelli (1763–1846), họa sĩ sinh ra tại Firenze
Giorgio Vasari (1511–1574) , họa sĩ, kiến trúc sư, và nhà sử học
Amerigo Vespucci (1451–1512), nhà thám hiểm và người vẽ bản đồ, tên ông được đặt cho châu Mỹ
Coriolano Vighi, (1846–1905), họa sĩ phong cảnh
Leonardo da Vinci (1452–1519), nhà bác học thiên tài, một trong ba bậc thầy đại vĩ nhân thời Phục Hưng
Lisa del Giocondo (1479–1542), người mẫu của bức họa Mona Lisa'' nổi tiếng
Giorgio Antonucci (1933–2017), bác sĩ, nhà phân tâm học và có tiếng nói quốc tế trong giới tâm thần học
Chú thích |
Trại tập trung là một khu khá lớn được rào lại và dùng làm chỗ giam giữ hay cai quản một số đông người. Trại tập trung khác trại tù vì những người bị đưa vào trại tập trung thường không có án kết, không qua một cuộc xử lý thực sự tại toà án. Họ bị bắt và đưa vào trại chỉ vì họ có những tính chất chung mà chính quyền lúc bấy giờ nhân thấy cần quản chế chặt chẽ.
Những trại tập trung trong lịch sử:
Những trại tập trung do Đức Quốc xã dựng lên và tiêu diệt dân Do Thái trong thời kỳ 1938 - 1945.
Những trại tập trung dân Nhật Bản tại Hoa Kỳ và Canada trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Những trại tập trung Ấp Chiến lược để cô lập dân và ngăn họ liên lạc với những người cộng sản miền Nam trong Chiến tranh Việt Nam.
Những trại tập trung Học tập cải tạo dành cho cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa sau năm 1975.
Trại cải tạo lao động của Liên Xô |
Florence là tên tiếng Anh của Firenze, vùng Toscana, Ý; ngoài ra còn có các địa danh khác có tên này:
Canada:
Sainte-Florence, Quebec
Pháp:
Sainte-Florence, Gironde, một thị trấn ở tỉnh Gironde
Sainte-Florence, Vendée, một thị trấn của tỉnh Vendée
Hoa Kỳ:
Florence, Alabama
Florence, Arizona
Florence-Graham, California
Florence, Colorado
Florence, Illinois
Florence, Indiana
Florence, Kansas
Florence, Kentucky
Florence, Massachusetts
Florence, Minnesota
Florence, Mississippi
Florence, Missouri
Florence, Montana
Florence, Nam Carolina
Florence, Nam Dakota
Florence, Nebraska
Florence, New Jersey
Florence, New York
Florence, Oregon
Florence, Texas
Florence, Vermont
Florence, Wisconsin |
An Nhơn là một thị xã thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam.
Địa lý
Thị xã An Nhơn có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Tuy Phước
Phía tây giáp huyện Tây Sơn
Phía nam giáp huyện Vân Canh
Phía bắc giáp huyện Phù Cát.
Theo thống kê năm 2019, thị xã có diện tích 242,7 km², dân số là 175.709 người, mật độ dân số đạt 724 người/km².
Trung tâm hành chính của thị xã đặt tại phường Bình Định (thị trấn Bình Định trước đây).
An Nhơn là một thị xã đồng bằng, phát triển theo hướng công nghiệp và đô thị hóa. Thị xã nằm dọc theo trục đường Quốc lộ 1, cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 17 km về hướng tây bắc. Có các tuyến đường chính là Quốc lộ 1, quốc lộ 19, Quốc lộ 19B và đường sắt Bắc Nam, cách sân bay Phù Cát 8 km.
Là đô thị vệ tinh của thành phố Quy Nhơn và là trung tâm giao lưu kinh tế - văn hóa xã hội trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Định.
Hành chính
Thị xã An Nhơn có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 5 phường: Bình Định, Đập Đá, Nhơn Hòa, Nhơn Hưng, Nhơn Thành và 10 xã: Nhơn An, Nhơn Hạnh, Nhơn Hậu, Nhơn Khánh, Nhơn Lộc, Nhơn Mỹ, Nhơn Phong, Nhơn Phúc, Nhơn Tân, Nhơn Thọ.
Lịch sử
Từ kết quả nghiên cứu khảo cổ học của Viện khảo cổ học và theo Đại Nam nhất thống chí, Bình Định nói chung và An Nhơn nói riêng thuộc đất Việt Thường Thị được hình thành sớm, tương đương với thời Tam Hoàng, Ngũ Đế của Trung Hoa.
Vào đời Tần, đất An Nhơn thuộc Tượng quận, đời Hán đặt huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, đời Tùy đổi thành quận Lâm Ấp.
Năm 803, An Nhơn là đất của hai thành Chà Bàn và Thị Nại thuộc nước Chiêm Thành.
Năm 938 đến năm 1470, An Nhơn là vùng trung tâm của Vương quốc Chăm Pa cổ đại, với thủ đô là thành Đồ Bàn (nay thuộc xã Nhơn Hậu) tồn tại 5 thế kỷ, từ thế kỷ XI đến XV.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tháng 4 chiếm thành Đồ Bàn, tháng 7 lập phủ Hoài Nhơn lệ vào Thừa tuyên Quảng Nam. Phủ Hoài Nhơn khi đó có ba huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. An Nhơn thuộc huyện Tuy Viễn.
Năm 1602, Chúa Nguyễn Hoàng đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn. Phủ thành Quy Nhơn đóng tại thôn Châu Thành (phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn ngày nay).
Năm 1778, sau khi giải phóng các vùng đất từ Quảng Nam đến Ninh Thuận, nhà Tây Sơn định đô ở An Nhơn, cải tạo và mở rộng thành Đồ Bàn, xây dựng thành Hoàng Đế. An Nhơn trở thành trung tâm chính trị của nhà Tây Sơn khi vua Thái Đức - Nguyễn Nhạc xây dựng thành Hoàng Đế.
Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm thành Hoàng Đế, đổi tên thành là Bình Định. Vua Gia Long lấy thành Bình Định làm trị sở của dinh Bình Định.
Năm 1832, vua Minh Mạng lập phủ An Nhơn gồm các huyện Tuy Phước và Tuy Viễn, phủ lỵ An Nhơn đặt tại thôn Hòa Cư, xã Nhơn Hưng, đến năm 1852 phủ lỵ dời về An Thái - Nhơn Phúc.
Qua nhiều lần điều chỉnh địa giới và đơn vị hành chính, đến năm 1865, phủ An Nhơn có 4 tổng: Mỹ Đức (19 làng), An Ngãi (26 làng), Nhơn Nghĩa (28 làng), Háo Đức (35 làng). Năm 1939, phủ An Nhơn lập thêm 2 tổng mới, tách tổng Nhơn Nghĩa thành Nhơn Nghĩa Thượng và Nhơn Nghĩa Hạ, tách tổng Háo Đức thành Háo Đức Thượng và Háo Đức Hạ, phủ lỵ An Nhơn chuyển về phường Bình Định ngày nay.
Trong suốt giai đoạn phong kiến, đất An Nhơn là nơi chứng kiến, ghi dấu ấn sâu sắc của nhiều sự kiện lịch sử, văn hóa lớn của đất nước nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng đổi tên phủ An Nhơn thành phủ Nguyễn Trọng Trì.
Đến tháng 2 năm 1946, đổi phủ thành huyện, bỏ cấp tổng, sáp nhập 108 làng chia thành 31 xã.
Đến tháng 4 năm 1947, huyện An Nhơn được sắp xếp lại thành 12 xã.
Năm 1950, tách một phần phía Đông Bắc xã Nhơn Hậu thành lập thêm một đơn vị hành chính là xã Đập Đá.
Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đổi huyện An Nhơn thành quận An Nhơn có 13 đơn vị hành chính gồm các xã: Đập Đá, Nhơn An, Nhơn Hạnh, Nhơn Phong, Nhơn Hậu, Nhơn Hoà, Nhơn Hưng, Nhơn Khánh, Nhơn Phúc, Nhơn Lộc, Nhơn Mỹ, Nhơn Thành, Nhơn Thọ.
Năm 1972, tách xã Phước Hưng thuộc quận Tuy Phước nhập vào quận An Nhơn, đổi tên là xã Nhơn Tân.
Sau năm 1975, tỉnh Nghĩa Bình được thành lập từ 2 tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi, quận An Nhơn được đổi thành huyện An Nhơn có 13 xã, tách xã Nhơn Tân trả về huyện Tuy Phước với tên cũ là Phước Hưng.
Ngày 24 tháng 3 năm 1979, Chính phủ ban hành Quyết định số 127-CP thành lập thị trấn Bình Định trên cơ sở tách một phần diện tích xã Nhơn Hưng.
Ngày 19 tháng 2 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 15-HĐBT thành lập xã Nhơn Tân trên cơ sở một phần diện tích của xã Nhơn Thọ và một phần diện tích của xã Nhơn Lộc.
Năm 1989, huyện An Nhơn thuộc tỉnh Bình Định vừa được tái lập.
Ngày 26 tháng 12 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 118/1997/NĐ-CP thành lập thị trấn Đập Đá trên cơ sở xã Đập Đá.
Ngày 30 tháng 12 năm 2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1175/QĐ-BXD công nhận thị trấn Bình Định mở rộng là đô thị loại IV trực thuộc tỉnh Bình Định.
Cuối năm 2010, huyện An Nhơn có 2 thị trấn: Bình Định (huyện lỵ), Đập Đá và 13 xã: Nhơn An, Nhơn Hạnh, Nhơn Phong, Nhơn Hậu, Nhơn Hòa, Nhơn Hưng, Nhơn Khánh, Nhơn Phúc, Nhơn Lộc, Nhơn Mỹ, Nhơn Tân, Nhơn Thành, Nhơn Thọ.
Ngày 28 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 101/NQ-CP thành lập thị xã An Nhơn trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện An Nhơn; đồng thời chuyển 2 thị trấn: Bình Định, Đập Đá và 3 xã: Nhơn Hòa, Nhơn Hưng, Nhơn Thành thành 5 phường có tên tương ứng.
Thị xã An Nhơn có 24.264,36 ha diện tích tự nhiên, 187.817 nhân khẩu với 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 5 phường: Bình Định, Đập Đá, Nhơn Hòa, Nhơn Hưng, Nhơn Thành và 10 xã: Nhơn An, Nhơn Phong, Nhơn Hạnh, Nhơn Hậu, Nhơn Mỹ, Nhơn Khánh, Nhơn Phúc, Nhơn Lộc, Nhơn Tân, Nhơn Thọ.
Ngày 2 tháng 3 năm 2021, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 219/QĐ-BXD công nhận thị xã An Nhơn là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Bình Định.
Kinh tế
Các khu, cụm công nghiệp
Khu công nghiệp Nhơn Hòa
Cụm công nghiệp: Gò Đá Trắng, Phường Bình Định, Nhơn Phong, Thanh Liêm, Tân Đức, An Trường, Đồi Hỏa Sơn, Thắng Công, Nhơn Tân, An Mơ.
Văn hóa - du lịch
Làng nghề
Làng nghề Tiện gỗ mỹ nghệ Nhơn Hậu
Làng nghề Gốm Vân Sơn
Làng nghề Bún tươi Ngãi Chánh
Làng nghề Rèn Tây Phương Danh
Làng nghề Đúc kim loại Bằng Châu
Làng nghề Rượu Bàu Đá
Làng nghề Nón lá Gò Găng
Làng nghề Bánh tráng Trường Cửu
Làng nghề Bún khô, Bánh tráng An Thái
Làng nghề Đậu khuôn Vạn Thuận
Làng nghề Cốm nếp An Lợi
Làng nghề Bánh ướt, Bánh hỏi Nhơn Thuận
Làng nghề Tăm nhang Bả Canh
Làng nghề Đan tre Đông Lâm
Làng nghề Đan tre Đại Bình
Làng nghề Nón lá Nghĩa Hòa
Làng nghề Nón lá Đại An
Làng nghề Nón lá Tân Nghi
Làng nghề Nón lá Thuận Đức
Làng Mai cảnh Háo Đức
Làng Mai cảnh Thanh Liêm
Làng Mai cảnh Nhơn Phong
Di tích - Danh Thắng
I. Các di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia
Thành Hoàng Đế
Tháp Cánh Tiên
Chùa Thập Tháp
Tháp Phú Lốc
Lò gốm cổ Gò Sành
Chùa Nhạn Sơn
Thành Cha
II. Các di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh
Nơi thành lập Chi bộ Hồng Lĩnh
Vụ thảm sát Kim Tài
Mộ tập thể chiến sĩ Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao Vàng
Cột cờ Thành Bình Định
Miếu Bà
Văn Miếu
Khu căn cứ cách mạng An Trường
Đền thờ Võ Duy Dương
Phủ thành Quy Nhơn
Gò Chàm – Nhơn Hưng
Bầu Sấu – Kỳ Đồng
Nơi ở và dạy học Thầy Trương Văn Hiến
III. Các di tích lịch sử – văn hóa đang đề nghị xếp hạng
Trường thi Bình Định
Văn chỉ An Bình
Đền thờ hai Bà Châu Trần nhị thị
Mộ danh nhân Tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo
Mộ Tướng quân Nguyễn Văn Vệ
IV. Các di tích lịch sử – văn hóa đang đề nghị nâng hạng cấp quốc gia
Mộ tập thể chiến sĩ Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao vàng
Khu di tích Chi bộ Hồng Lĩnh
V. Công trình kiến trúc tiêu biểu có giá trị lịch sử
Nhà thờ Kim Châu
VI. Danh thắng
Hồ Núi Một
Giao thông
Thị xã An Nhơn có hệ thống giao thông kinh tế rất thuận lợi: có Quốc lộ 1, Quốc lộ 19, Quốc lộ 19B, Cao tốc Bắc - Nam phía Đông (CT.01) và Đường sắt Bắc - Nam đi qua, cách Sân bay Phù Cát 8km tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa trong và ngoài tỉnh.
Chú thích |
Nguyễn Hữu Chỉnh (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu Quận Bằng (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây Sơn. Ông là người hiến kế cho Tây Sơn tiến quân ra Bắc, tiêu diệt chúa Trịnh, trả nước cho vua Lê. Năm 1787-1788, ông được Lê Chiêu Thống phong làm Đại tư đồ Bình chương quân quốc trọng sự, nắm thực quyền cai quản miền bắc Đại Việt (Bắc Hà/Đàng Ngoài), sau vì có ý đồ chống lại nhà Tây Sơn nên bị đánh bại và giết chết.
Nguyễn Hữu Chỉnh sinh ở trấn Nghệ An dưới thời Lê-Trịnh, trong một gia đình giàu có. Nguyễn Hữu Chỉnh từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, đa tài, được các đại thần Hoàng Ngũ Phúc, Hoàng Đình Bảo thu dụng. Ông từng chỉ huy quân dân đánh giặc biển ở các trấn Sơn Nam, Nghệ An và được ca tụng là nhà vô địch trong ngành thủy chiến. Năm 1782, Hoàng Đình Bảo bị chúa Trịnh Khải giết. Nguyễn Hữu Chỉnh cùng gia quyến bỏ vào Nam theo Tây Sơn. Năm 1786, ông thuyết phục vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Huệ đem quân đánh Thuận Hóa, miền đất biên viễn phía Nam của Lê Trịnh. Ông còn viết thư ly gián các tướng Trịnh ở Thuận Hóa giúp Nguyễn Huệ đánh bại họ. Tiếp đó, Nguyễn Hữu Chỉnh cùng Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa "phò Lê diệt Trịnh" thúc quân tràn ra Thăng Long, đánh bại quân Bắc Hà, chúa Trịnh Khải tự sát. Ông bày Nguyễn Huệ chầu vua Lê Hiển Tông và dàn xếp hôn nhân giữa Nguyễn Huệ với con gái Hiển Tông là công chúa Ngọc Hân.
Nguyễn Nhạc không muốn Nguyễn Huệ chiếm Bắc Hà nên thân hành ra gọi em về. Anh em Tây Sơn nghi kỹ Nguyễn Hữu Chỉnh nên lập kế đột ngột rút quân về nam, bỏ ông lại cho người Bắc Hà giết. Nguyễn Hữu Chỉnh phát hiện bèn vội vã chạy theo, Nguyễn Huệ đành sai ông trấn thủ Nghệ An. Cuối năm 1786, vua Lê là Chiêu Thống bị Trịnh Bồng nổi lên ức hiếp, phải gửi mật chỉ gọi Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp. Nguyễn Hữu Chỉnh đem 1 vạn quân ra bắc, quét sạch mọi đạo quân Trịnh ngáng đường ông. Trịnh Bồng chạy khỏi Thăng Long. Lê Chiêu Thống phong Nguyễn Hữu Chỉnh chức Đại tư đồ Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Bằng công (鵬公). Ông xử lý mọi việc chính sự, phong quan chức cho những người thân tín và đập tan các phe đối kháng của Dương Trọng Tế, Hoàng Phùng Cơ, Đinh Tích Nhưỡng.
Khoảng năm 1787, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ xích mích ở phương Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh muốn thừa cơ lập thế lực riêng ở miền Bắc như chúa Trịnh trước đây, và đòi Tây Sơn trả đất Nghệ An. Nguyễn Huệ không chịu, sai tiết chế Vũ Văn Nhậm trẩy quân ra Bắc Hà. Quân Tây Sơn mau lẹ chiếm Thanh Hóa, giết các bộ tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là Lê Duật, Nguyễn Như Thái, khiến ông phải đích thân đem quân ra chặn ở sông Thanh Quyết. Tại đây ông bại trận thảm hại, phải lui về Thăng Long rồi phò vua Lê chạy lên Bắc Giang. Quân Tây Sơn đuổi kịp, đánh bại Nguyễn Hữu Chỉnh trận cuối rồi bắt ông về Thăng Long xử tử.
Thân thế và giáo dục
Nguyễn Hữu Chỉnh là người huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, Trấn Nghệ An; nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, Việt Nam. Cha ông là một thương gia giàu có. Nguyễn Hữu Chỉnh sinh ra trong thời kỳ Đại Việt bị chia làm hai nước. Từ sông Gianh (Quảng Bình) trở ra Bắc là nhà nước do vua Lê, chúa Trịnh cai trị, gọi là Đàng Ngoài hay Bắc Hà. Từ sông Gianh vào Nam là nhà nước Đàng Trong của các chúa Nguyễn, gọi là Đàng Trong hay Nam Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh là dân Đàng Ngoài, sống dưới chế độ Lê-Trịnh.
Trong bộ Hoàng Lê nhất thống chí do nhóm Ngô gia văn phái soạn vào cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ 19, Nguyễn Hữu Chỉnh được mô tả có dung mạo khôi ngô, trí thông minh phi thường. Thuở nhỏ, ông học về Nho giáo, đã nghiên cứu rất nhiều kinh sử. Năm 16 tuổi, ông thi đỗ Hương cống (Cử nhân) nên còn gọi là Cống Chỉnh (貢整). Năm 18 tuổi, ông dự khoa thi võ (Tạo sĩ), đỗ hạng Tam trường.
Cha Nguyễn Hữu Chỉnh làm môn hạ cho quận Việp Hoàng Ngũ Phúc, thường dắt ông vào gặp quận Việp. Quận Việp nhìn nhận ông là người giỏi, nên nhận vào làm việc dưới trướng. Tại kinh đô Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh sống rất phong lưu, không bó buộc phép tắc, giao thiệp rất rộng. Trong nhà ông thường mời hàng chục tân khách tới cùng uống rượu, làm thơ. Ông còn nuôi hơn 10 con hát, vũ nữ và tự soạn bài hát, phổ vào đàn sáo, ngày đêm cho họ ca múa giúp vui.
Nguyễn Hữu Chỉnh còn nổi tiếng về tài thơ văn quốc âm. Tương truyền mới 9 tuổi ông đã ứng khẩu làm bài thơ Vịnh cái pháo. Khi ở kinh sư, ông vì mến phục sự nghiệp của Phần Dương quận vương Quách Tử Nghi đời Đường, nên có bài Quách Lệnh công phú được truyền tụng rộng rãi.
Võ quan Đàng Ngoài
Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ ở Quy Nhơn (Đàng Trong), nhiều lần đánh được quân chúa Nguyễn. Nhân cơ hội này, năm 1774 chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm sai quận Việp Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng, đem quân vào Nam đánh Thuận Hóa, diệt họ Nguyễn. Nguyễn Hữu Chỉnh đi theo làm thư ký tại quân doanh của quận Việp. Quân Lê-Trịnh đánh như cuốn chiếu, lấy hết đất Thuận Hóa, rồi ập xuống Quảng Nam đánh bại quân Tây Sơn ở trận Cẩm Sa. Thủ lĩnh Tây Sơn Nguyễn Nhạc bị quân Lê-Trịnh và quân Nguyễn đánh kẹp từ 2 đầu Quảng Nam và Phú Yên, nên sai Phan Văn Tuế đem vàng lụa đến đầu hàng Lê-Trịnh và xin làm tiền khu đánh Nguyễn. Quận Việp dâng tờ biểu xin chúa phong Nguyễn Nhạc làm tiền phong tướng quân, rồi sai Nguyễn Hữu Chỉnh mang sắc, ấn, cờ và kiếm ban cho Nguyễn Nhạc. Theo các sách Hoàng Lê nhất thống chí và Khâm định Việt sử thông giám cương mục (bộ chính sử soạn vào thời Nguyễn Dực Tông 1847-83) soạn, Nguyễn Hữu Chỉnh ăn nói trôi chảy nên rất được Nguyễn Nhạc nể trọng.
Cuối năm 1775, quận Việp thu quân về Bắc, giao cho Nguyễn Nhạc diệt chúa Nguyễn. Không lâu sau, quận Việp chết. Nguyễn Hữu Chỉnh tiếp tục làm thủ hạ cho cháu quận Việp là quận Huy Hoàng Đình Bảo. Khi ấy có người tố cáo ông trước đây từng biển thủ vàng bạc của công. Việc này dây dưa đến cả quận Huy. Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giam vào ngục và bị tra tấn gần chết, nhưng một mực không thú tội. Cuối cùng ông và quận Huy đều được vô tội. Từ sau vụ này quận Huy càng coi trọng ông hơn.
Quận Huy vào trấn thủ Nghệ An, cử Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu tham quân, đảm trách việc huấn luyện thủy quân đánh giặc biển. Ông đi đánh giặc biển, liên tiếp giành chiến thắng. Sách Hoàng Lê nhất thống chí thuật lại: "Chẳng bao lâu Chỉnh trở thành vô địch trong nghề thủy chiến. Ngoài biển, mọi người thường gọi Chỉnh là "con hải ưng"". Khi quận Huy được đổi làm trấn thủ Sơn Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh thêo thân chủ ra Sơn Nam, làm quản lãnh đội Tuần hải, thường đem quân đi tuần mặt biển. Sau ông trở lại trấn Nghệ An làm quản lãnh cơ Tiền ninh.
Năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm chết, truyền ngôi con thứ 5 tuổi là Điện Đô vương Trịnh Cán. Hoàng Đình Bảo được giao làm phụ chính, quyết định mọi việc trong triều.
Phục vụ Tây Sơn
Giai đoạn đầu
Năm Nhâm Dần (1782), phe người con lớn của Trịnh Sâm là Trịnh Tông làm binh biến lật đổ Trịnh Cán, giết quận Huy Hoàng Đình Bảo. Nguyễn Hữu Chỉnh có người tâm phúc là Hoàng Viết Tuyển dũng cảm, có mưu lược, từng được Nguyễn Hữu Chỉnh tiến cử với quận Việp và được quận Việp cho coi trung đội của đạo Hậu kiên đóng ở trấn Sơn Nam. Sau vụ đảo chính của Trịnh Tông và cái chết của Hoàng Đình Bảo, Hoàng Viết Tuyển vượt biển vào Nghệ An đem tin này báo cho Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh sợ liên lụy, bèn thuyết phục trấn thủ Nghệ An là Dao Trung hầu Vũ Tá Dao (em rể Hoàng Đình Bảo) chiếm giữ trấn Nghệ An, đặt quân đội riêng, liên kết với các tướng Thuận Hóa ly khai khỏi triều đình.
Vũ Tá Dao không nghe theo, muốn bỏ trấn mà đi cho an toàn, nhưng vẫn dùng dằng chưa biết đi đâu. Nguyễn Hữu Chỉnh bèn về nhà, cùng tướng tâm phúc là Hoàng Viết Tuyển dẫn gia quyến vào Nam theo Tây Sơn. Lúc này Tây Sơn đã diệt Nguyễn và Nguyễn Nhạc xưng làm Thiên vương, đặt niên hiệu Thái Đức. Triều đình Lê-Trịnh biết chuyện này nhưng cũng không hỏi tới. Nguyễn Nhạc đang muốn thôn tính Thuận Hóa, nên thấy Nguyễn Hữu Chỉnh thì rất mừng, đối đãi ông như thượng khách. Tuy nhiên, Nguyễn Hữu Chỉnh thấy Nguyễn Nhạc chưa tin mình lắm, bèn tình nguyện gửi vợ con làm con tin, nương tựa vào Tây Sơn. Ông còn bày kế cho Nguyễn Nhạc chinh phạt Chiêm Thành, Xiêm La và Bồn Man. Trong các chiến dịch này, ông đều hăng hái dẫn quân đi tiên phong, xông xáo ở những trận địa nguy hiểm, lần lượt đánh bại các nước địch. Do đó Nguyễn Nhạc ngày càng tin tưởng ông hơn.
Hiến kế diệt Trịnh
Theo Hoàng Lê nhất thống chí, từ khi Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ nước, triều đình Lê-Trịnh rất lo âu, thường hay kêu gọi ai chiêu dụ ông trở về sẽ được trọng thưởng.
Tháng 3 năm 1786, dân Bắc Hà bị nạn đói, giá gạo tăng vọt, thây chết nằm liền nhau. Nhận thấy thời cơ đánh Bắc Hà, Nguyễn Huệ đề nghị Nguyễn Nhạc đánh ra bắc nhưng Nguyễn Nhạc ngần ngại chưa quyết.
Sang tháng 4 năm 1786, chủ tướng thành Phú Xuân Phạm Ngô Cầu sai sứ là Nguyễn Phú Như - người em rể của ông nhận việc đó, vào Nam gọi ông về. Nguyễn Hữu Chỉnh không nghe theo mà còn vặn lại hỏi dò tình hình Thuận Hóa. Biết quân Đàng Ngoài chểnh mảng, Hữu Chỉnh bèn xin Nguyễn Nhạc ra quân đánh Thuận Hóa. Nguyễn Nhạc chấp thuận, sai em là Nguyễn Huệ (tên khác: Nguyễn Quang Bình) làm Long Nhương tướng quân chỉ huy quân thủy bộ,Nguyễn Đình Đắc làm phó Tướng quân bộ binh, cùng Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân chia quân vượt đèo Hải Vân nhằm thẳng Thuận Hóa.
Nguyễn Hữu Chỉnh lập kế ly gián giữa chủ tướng thành Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu và phó tướng là Hoàng Đình Thể. Chỉnh vờ viết thư dụ hàng phó tướng Hoàng Đình Thể, nhưng lại cố ý gửi nhầm cho Cầu khiến Cầu nghi Thể và có ý hàng Tây Sơn. Quả nhiên khi quân Tây Sơn tập kích thành Phú Xuân, Cầu bỏ mặc Thể đánh nhau với quân Tây Sơn, không tiếp ứng. Thể chết trận. Cầu đầu hàng quân Tây Sơn nhưng cũng bị giết.
Trong lúc khí thế quân Tây Sơn đang hăng, Nguyễn Hữu Chỉnh hiến kế cho Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà diệt chúa Trịnh, lấy danh nghĩa "phù Lê". Sự việc này đã được kể lại dưới bút pháp của các tác giả Hoàng Lê nhất chí:
Khi Nguyễn Huệ ngần ngại vì chưa có mệnh lệnh của Nguyễn Nhạc, ông thuyết phục rằng:
Trong kinh Xuân Thu có nói: "Thay đổi nhỏ mà công lao lớn, ấy là có công!" Như thế thì thay đổi cũng có ngại gì đâu? Huống hồ, ngài há chẳng nghe nói câu "tướng ở ngoài, mệnh vua có khi không cần phải theo" đấy ư?"
Nguyễn Huệ nghe theo, bèn nói giả là nhận lệnh Nguyễn Nhạc, rồi tự ý mang quân bắc tiến. Nguyễn Hữu Chỉnh đem đội quân tuyển phong tiến ra cửa biển Vị Hải, vào cửa biển Đại An, đi thẳng ra Vị Hoàng tập kích kho lương. Khi đi ngang qua các trấn Nghệ An, Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Chỉnh tổ chức nhiều toán du binh, mỗi toán vài trăm lính, chia nhau đánh các đồn để gây dựng thanh thế. Trấn thủ Nghệ An là Đương trung hầu Bùi Thế Toại, trấn thủ Thanh Hóa là Thùy trung hầu Tạ Danh Thùy đều bỏ thành chạy trốn. Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1786, Nguyễn Hữu Chỉnh đánh Vị Hoàng. Quân Trịnh mới thấy bóng quân Tây Sơn đã tháo chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh chiếm hơn một trăm vạn hộc lương ở đây rồi đốt lửa báo tin cho Nguyễn Huệ dẫn đại quân thủy bộ tiến phát. Tới Vị Hoàng, Nguyễn Huệ hội quân với Nguyễn Hữu Chỉnh, rồi đánh như gió cuốn ra bắc. Quân thủy bộ Bắc Hà liên tục thua trận. Chỉ sau 1 tháng, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Trịnh Tông bỏ chạy không thoát bèn tự sát.
Mai mối hôn nhân giữa Nguyễn Huệ với công chúa Ngọc Hân
Tháng 7 âm lịch năm 1786, sau khi đánh đổ chúa Trịnh, Nguyễn Huệ đến điện Vạn Thọ yết kiến hoàng đế Lê Hiển Tông, ngỏ ý thần phục hoàng triều Lê.
Lúc ấy các quan đều đã trốn tránh, chỉ còn vài người chầu chực trong nội điện ra. Nguyễn Hữu Chỉnh xin nhà vua hạ chiếu tuyên triệu các đại thần Phan Lê Phiên, Uông Sĩ Điển, Trần Công Xán và bầy tôi hơn mười người.
Nguyễn Huệ vào triều yết, xin ngày cử hành nghi lễ đại triều, dâng sổ sách binh và dân để tỏ rõ ý nghĩa nhà vua nhất thống và Nguyễn Huệ tôn phò. Sau khi Nguyễn Huệ nhận sách phong của vua Lê, Nguyễn Hữu Chỉnh biết ý Nguyễn Huệ không mãn nguyện, bèn bí mật khuyên nhà vua đem công chúa Lê Ngọc Hân gả cho Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ rất bằng lòng.
Về việc này, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục phê rằng:
"Chống hùm cửa trước, rước sói cửa sau", ôi cũng nguy hiểm lắm! Trịnh Doanh lập Hiển Tông để nương nhờ vào phúc đức, mà Hiển Tông từ trước đến sau, nhất thiết việc gì cũng do ở người khác. Nhiều lần gặp tai họa bất trắc xảy ra, chỉ vì không vướng vít với thất tình, mà được trọn đời an toàn, cũng là may mà thôi.
Ngày 17 tháng 7 âm lịch năm 1786, vua Lê Hiển Tông mất. Nguyễn Huệ mặc áo tang, đi đến bến sông đưa tiễn, rồi sai nội quan Trần Văn Kỷ cùng hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh mặc đồ trắng hộ tống linh cữu về Thanh Hóa.
Vào trấn Nghệ An
Trước đây vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa nhưng chưa có ý chiếm Bắc Hà. Sau khi thu được Thuận Hóa, Nguyễn Huệ đưa thư xin Nguyễn Nhạc cho đánh luôn Thăng Long nhưng Nhạc không đồng ý. Nguyễn Nhạc nhận được tin Nguyễn Huệ ra bắc diệt Trịnh rất lo, dẫn 500 lính tiến gấp ra Thăng Long.
Lúc Nguyễn Nhạc vào Thăng Long, quân tướng Tây Sơn đóng giữ nơi xa đã lâu ngày nên muốn trở về, tả quân Vũ Văn Nhậm cũng hiềm khích với Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhân đó, Nguyễn Nhạc giục Nguyễn Huệ bí mật rút quân về Nam, bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà để thí ông cho người Bắc giết.
Sau khi hội kiến với tân hoàng đế Lê Chiêu Thống, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ ngầm sai người từ biệt vua Lê rồi âm thầm rút hết quân thủy bộ về. Sáng hôm sau, Nguyễn Hữu Chỉnh mới biết tin quân Tây Sơn rút lui. Ông cùng một số thuộc hạ vội vã giành lấy một chiếc thuyền buôn đuổi theo quân Tây Sơn. Cư dân Thăng Long thấy ông liền đua nhau ném gạch ngói, khiến ông phải rút kiếm đâm vài người để chạy thoát. Ông đuổi kịp quân Tây Sơn tới Nghệ An (vùng đất giáp ranh giữa nhà Lê và Tây Sơn) rồi yết kiến Nguyễn Nhạc. Vua Tây Sơn dùng lời lẽ xoa dịu, vỗ về ông, rồi cử ông cùng tướng Nguyễn Duệ trấn thủ châu thành Nghệ An, lo việc huấn luyện quân sĩ, tích trữ lương thực. Sau đó Nguyễn Nhạc đưa quân về Quy Nhơn..
Nắm quyền ở Bắc Hà
Dẹp Án Đô vương
Sau khi Tây Sơn rút, vua Lê Chiêu Thống triệu tập quần thần bàn luận rằng: "Giặc để lại cho ta một nước trống rỗng, nếu có sự nguy cấp, thì chống đỡ bằng cách nào?". Triều đình bèn gửi thư hiệu triệu các quan lại và thế gia cũ đem quân vào bảo vệ kinh thành. Ở nhiều nơi, các hào mục mượn cớ "bảo vệ" để chiêu tập binh mã, chiếm giữ châu quận, đánh giết lẫn nhau, trong nước rất rối ren. Lợi dụng tình hình này, các tướng ủng hộ họ Trịnh như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ và thiêm đô ngự sử Dương Trọng Tế nổi dậy, dựng Trịnh Bồng làm chúa mới, ép Lê Chiêu Thống phong Bồng làm Nguyên soái, Tổng quốc chính, Án Đô vương.
Vua Lê nghe theo lời các văn thần, liền sai người vào Nghệ An mời Nguyễn Hữu Chỉnh dẹp họ Trịnh. Được danh chính là lời gọi của vua Lê, ông chiêu tập hơn 1 vạn quân, bắc tiến như chẻ tre. Tại xã Hoa Lâm, ông đánh tan quân của tướng Bùi Thế Toại. Quân Trịnh do Lê Trung Nghĩa, Phan Huy Ích được cử đi đánh bị bại. Nghĩa bị giết. Ích bị Chỉnh bắt sống. Sau đó quân Chỉnh đánh thốc ra Thăng Long. Các tướng Trịnh thua trận bỏ chạy. Án Đô vương Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Chiêu Thống sai đốt phủ chúa. Họ Trịnh từ đó không quay lại ngôi vị được nữa.
Dẹp được chúa Trịnh, Nguyễn Hữu Chỉnh được Chiêu Thống phong là Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ, tước Bằng Trung công (鵬忠公).
Các tướng họ Trịnh cũ vẫn hoạt động chống lại nhà Lê. Nguyễn Hữu Chỉnh với sự giúp sức của những tướng thuộc hạ có tài như Nguyễn Như Thái, Hoàng Viết Tuyển đã lần lượt đánh bại Đinh Tích Nhưỡng, Dương Trọng Tế và Hoàng Phùng Cơ. Dương Trọng Tế và Hoàng Phùng Cơ bị bắt xử tử. Cả Bắc Hà khi đó không còn đối thủ, Nguyễn Hữu Chỉnh cậy quyền thế lại coi thường lấn át vua Lê.
Thất bại
Sau đó, biết tin anh em Tây Sơn bất hoà, Hữu Chỉnh có ý chống đối lại Tây Sơn, mưu lập thế lực riêng như chúa Trịnh trước đây. Muốn mở rộng ảnh hưởng vào Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh thông đồng với Nguyễn Duệ chiếm đất Nghệ An, sửa lũy Hoành Sơn, lấy Linh Giang (tức sông Gianh) làm giới hạn với Thuận Hóa. Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm (con rể Nguyễn Nhạc) hay được, bèn gửi thư cáo biến với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Vì vậy ý định của Hữu Chỉnh không thành. Từ khi đó, Văn Nhậm là người được cử ra Nghệ An để tăng cường lực lượng của Tây Sơn.
Nguyễn Hữu Chỉnh lại sai Trần Công Xán vào Nam đòi Tây Sơn đất Nghệ An do Nguyễn Văn Duệ, Vũ Văn Dũng đang trấn thủ. Vì thế, Nguyễn Huệ cử Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân mang quân ra Nghệ An, hợp sức cùng Vũ Văn Nhậm tiến ra Bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh.
Cuối năm 1787, quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tiến ra bắc. Hữu Chỉnh có phần chủ quan, bị Vũ Văn Nhậm đánh bại nhanh chóng. Tháng 11, Vũ Văn Nhậm đánh ra Thanh Hóa. Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn sợ Vũ Văn Nhậm, và vì vợ con ông còn ở lại bên Tây Sơn, nên muốn liệu chiều để đi đến chỗ nghị hòa, nhưng còn do dự, chưa quyết định.
Ông mang 3 vạn quân đi chống cự ở sông Thanh Quyết, lại sai Nguyễn Hữu Du đem hơn 50 chiếc chiến thuyền chở hết các chiến cụ như đại pháo và hỏa khí đỗ ở cửa sông đối diện với quân Tây Sơn trên cùng một con sông. Hữu Du không hề lo phòng bị. Ban đêm, quân Tây Sơn, ngầm bơi sang, dùng thừng chão dài buộc thuyền của Hữu Du kéo qua bờ phía nam. Quân Bắc Hà sợ hãi chạy trốn. Bao nhiêu đại pháo trong thuyền đều lọt vào tay quân Tây Sơn.
Quân Bắc Hà thua chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh nửa đêm trốn từ Thanh Quyết về Thăng Long, thu gom được vài ngàn quân, hộ tống Lê Chiêu Thống chạy sang Kinh Bắc. Trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước hàng Tây Sơn, không đón rước vua Lê nên ông phải mang Chiêu Thống qua đò sông Đáy chạy đi huyện Yên Dũng (Bắc Giang).
Khi Lê Chiêu Thống và Hữu Chỉnh đến Mục Sơn thì quân Tây Sơn đuổi kịp. Bộ tướng của Vũ Văn Nhậm là Nguyễn Văn Hòa chia quân đánh mặt trước, rồi bí mật điều một cánh quân vòng phía sau núi đánh úp. Quân Hữu Chỉnh rối loạn, tự tan vỡ. Hữu Chỉnh thua chạy, vì ngựa què nên bị quân Tây Sơn bắt được.
Nguyễn Văn Hòa đưa Nguyễn Hữu Chỉnh về Thăng Long. Vũ Văn Nhậm kể tội ông là bất trung rồi sai xé xác ông ở cửa thành.
Tác phẩm
Ông là tác giả tập thơ Nôm "Cung Oán Thi", mấy bài phú Nôm như "Quách Tử Nghi Phú", "Trương Lưu Hầu Phú" và tập thơ Ngôn Ẩn Thi Tập bằng chữ Hán.
Đây là bài phú tên "Trương Lưu Hầu":
Trương Lưu Hầu! Trương Lưu Hầu!
Ngao cực gây thiêng;
Hồ tinh cấu sáng.
Vằng vặc mi thanh mục tú, kỳ sĩ phong tư;
Nhơn nhơn thức viễn tài cao, danh nho khí tượng.
Y bát theo một mối cầm thư;
Chung đỉnh dõi năm đời khanh tướng.
Trời đất thuở cát vàng, bụi tía, áng công danh không uốn lưỡi Nghi, Tần;
Nước nhà khi bể biếc, dâu xanh, mưu báo phục há kém tay Kha, Nhượng.
Rải ngàn vàng tìm khách thiếu niên;
Nâng chiếc dép tôn người lão trượng.
Bác Lãng một chuỳ tiết nghĩa, trợt vẩy Tổ Long;
Trần Lưu ba quyển lược thao, mở lòng đình trưởng.
...
Ngôi đế sư nảy chốn phúc tâm;
Việc trù sách vận trong duy trướng.
Bóng cờ phất thập thò trên đỉnh Khoái, sơn hà trăm hai lẻ, một khắc hoá tan tành;
Tiếng tiêu đưa rủ rỉ trốn thành Cai, tử đệ tám nghìn dư, nửa đêm xuôi khảng tảng.
Việc năm năm đưa tấc lưỡi còn thừa;
Cơ nghìn dặm quyết trong màn một nhoáng.
Cung Tần rót một liều thuốc đắng, bệnh phú ông tỉnh lại lúc tê mê;
Cửa Hồng khuyên ba chén rượu nồng, hồn quý phụ xiêu về cơn chếnh choáng.
Cho dượng Phàn ương mắt tại quân trung;
Dìu ông Bái rảo chân về Bá Thượng.
Áo gấm ví von xui miệng trẻ, giục Trùng Đồng xót dạ lại cồn cồn;
Chén châu giả mẽ ghẹo gan già, làm Ngu Lão tức mình gieo choảng choảng.
Bao Quận tiễn đưa xe ngựa Hán, dập dìu xui đốt nẻo về đông;
Huỳnh Dương lẩn quẩn nước non Hàn, dong ruổi rắp gây nền thụ đảng.
...
Đổ mồ hôi nghe lời khách vừa xong;
Sa nước mắt nghĩ việc nhà lai láng,
Chí ngùi ngùi khôn chiếm đất trung nguyên;
Lòng ngài ngại phải chăng miền tây hướng.
Ý nhiệm bán gươm ba thứ, lòng quốc sĩ như soi;
Mưu sâu vạch đũa tám điều, mặt hủ nho mới hoảng.
Việc quyên Quan chia Tín, Bố dương quyền;
Chước hoãn chiến máy Tề, Lương phản trạng.
Gương trung nghĩa treo tranh Tề Cảnh, Kỷ tướng quân khi gấp khúc phải liều;
Máy hiểm thâm đánh mái sơn cương, Phàn tráng sĩ lúc nguy nghi phải gượng.
Bài gián Sở giục chàng Nhụ Tử, tuốt xương, bẻ cánh chước càng ghê;
Việc vương Tề chiều kẻ vương tôn, bấm gót, rỉ tai lời phải khoảng.
Lừa Vũ đưa một bức khiêm cung;
Ngăn Sở giục ba người cưu tráng.
Hồng Câu thuở chia sông một giải, nuôi hùm vào lỏng máy tiêm cừu;
Cố Lăng khi cắt đất hai phân, đuổi khỉ những êm bài ngự tướng.
Ngắm thiên văn hay phá Sở cơ mầu;
Xem địa lý biết hưng Lưu khí vượng.
...
Đứa điền phu trỏ vời miền trạch tả, ai hay chăng ấy chước cao thâm;
Thuyền trưởng ông dòng đợi bến Ô Giang, ai biết chẳng là mưu liệu lượng.
...
Lũ trăm Tham nào đọ sức kinh luân;
Trong tam kiệt dễ so công chiến xướng.
Phấp phới lá cờ trước gió, huân lao sá kể thứ Phàn, Đằng;
Vẫy vùng cán việt lên đàn, công tích không so phường Giáng, Quán.
Đế sư cao một bậc, trọng đức tôn danh;
Hầu tước hậu ba muôn, luận công hành thưởng.
Đường báo quốc nhờ lưng Xích Đế, tiệc Nam Cung đà vẹn tiếng vin rồng;
Chước bảo thân mượn dấu Hoàng Công, miền Bắc Thành tìm nơi ấp phượng.
...
Giá đã cao, nên dùng đỉnh công hầu;
Mình được nhẹ, nên tiêu dao ngày tháng.
Rỡ rỡ thư son khoán sắt, lời Nãi Ông dù trỏ núi thề sông;
Thênh thênh non đá am thông, thuyền tiên tử đã quen mây mến ráng.
Trót phải duyên cùng họ Hán mà theo;
Nên làm dấu lấy chữ Lưu kẻo đãng.
Đạo ấy, sá bàn chân với nguỵ, đấng cao minh chi vướng sự hữu vô;
Lòng này, ai biết Hán hay Hàn, phải biện bạch kẻo thẹn cùng phủ ngưỡng.
...
Trần hiêu chẳng bận ấy thần tiên;
Thanh tĩnh góp dần nên đạo dưỡng.
Ngao ngán chè thông, rượu cúc, lọ chắt chiu hồ ngọc đầy vơi;
Thảnh thơi quạt gió, đèn trăng, mảy hiu hắt đan sa nấu nướng.
Bầu tiên, chén thánh mặc khề khà;
Khoá lợi, giàm danh nào dính dáng.
Tưởng lại lúc hươu lồng, khỉ tắm, dã trống Hàm Quan, lại chuỳ Cửu Lý, giận anh hùng từ đấy sạch lâng lâng;
Trông về khi trâu mỏi, ngựa già, kìa xe Vân Mộng, nọ án Thượng Lâm, lòng du tử ngẫm thay cười sang sảng.
Hà, Tham vị thứ, bọt nước lênh đênh;
Tín, Việt công danh, áng mây thấp thoáng.
Thua được thừa điều Hán, Sở, túi Xích Tùng đủng đỉnh mái thanh sơn;
Nhục vinh gác truyện Tiêu, Hàn, buồm Phạm Lãi nghênh ngang dòng bích lãng.
...
Ở giang hồ thì danh sĩ phong lưu;
Vào lăng miếu lại đại thần thể dạng.
Nghe văng vẳng chốn sa trung rục rịch, bảng lảng lừa then, rút máy, giải chúng tâm nâng một kẻ oán thù;
Thấy hiu hiu khi quốc bản lung lay, khoan thai rút cánh, kên lông, yên trừ vị vẫy bốn người dật khoáng.
Hay dùng nào hết chước huyền vi;
Khó giấu dễ hao cơ bí tạng.
Đi lại tha hương, cố quốc, lưới anh hùng khôn dò chốn thiểm thâm;
Ra vào đế tử, tiên ông, lồng trí thuật dễ ngự trong lai vãng.
Nghĩa thủy chung biện bạch cũng êm;
Đường tiến thoái thong dong chẳng vướng.
Một lần mộng dọc ngang trong tám cõi, đủ phê pha công Hán, nợ Hàn;
Ba tấc lưỡi đưa đẩy ngoại năm năm, vừa chọn vẹn thù Tần oán Hạng.
Ngẫm từ trên Trọng Liên, Phạm Lãi nào hơn;
So xuống dưới dẫu Lý Tĩnh, Khổng Minh chưa đáng.
Ngôi đế sư mà danh cao sĩ, ngoại vật há còn trong bụng, nghìn thu chữ thắm chẳng vàng phai;
Nền nho giả mà giá danh thần, chẳng tiên nhưng cũng khác phàm, muôn kiếp sử xanh còn để sáng.
Nay độc danh thần truyện, xem thượng hữu thiên;
Trách ai thượng hữu cổ nhân, sao chẳng nguyện hy Tử Phòng, mà lại nguyện hy Gia Cát Lượng.
Bài thứ 8 "Tự biết mình" trong tập thơ Ngôn Ẩn Thi Tập:
Ai có hay chăng là chẳng hay?
Lòng này vốn đã dạy thân này.
Kẻo lầm kẻo lỡ người yêu ghét,
Đà tỏ đà tường kẻ thảo ngay.
Xem nỗi thế thời, xem đã nhạt,
Bén mùi đạo lý, bén càng say.
Phải cơ, mới biết cơ trời nhiệm,
Có rủi, bằng dường lại có may.
Trong văn hoá đại chúng |
Giáo sư Phong Lê, tên thật là Lê Phong Sừ, sinh ngày 10 tháng 11 năm 1938 ở Sơn Trà, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam hiện đại, nguyên Viện trưởng Viện Văn học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Ông được phong học hàm Phó giáo sư năm 1984 và Giáo sư năm 1991.
Quá trình công tác
Sau khi tốt nghiệp khoa ngữ văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1959, ông trở về công tác tại Viện Văn học từ những ngày đầu tiên Viện chính thức tách ra từ Ban nghiên cứu Văn, Sử Địa và mang tên như ngày nay. Ông lần lượt trải qua các chức vụ: biên tập viên tòa soạn Tạp chí Văn học của Viện (1960); Nghiên cứu viên, trưởng phòng Phòng văn học Việt Nam hiện đại (1965-1987); Ủy viên Hội đồng khoa học Viện Văn học (từ 1968); Viện trưởng Viện Văn học kiêm Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Nghiên cứu viên cao cấp, Ủy viên Hội đồng khoa học Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (1988-1995).
Tác phẩm đã xuất bản
Phong Lê đã viết riêng và chủ biên khoảng 30 công trình lý luận và nghiên cứu về văn học Việt Nam thế kỷ 20, trong đó đáng chú ý là những công trình:
In riêng
Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945-1970 (1972)
Văn và người (1976)
Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa (1980)
Văn học Việt Nam hiện đại – Lịch sử và lý luận (1980 - 1987, 7 tập)
Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn học Việt Nam hiện đại (1986)
Văn học và công cuộc đổi mới (1994)
Nam Cao - Phác thảo sự nghiệp và chân dung (1997)
Văn học trên hành trình của thế kỷ XX (1997)
Một số gương mặt văn chương học thuật Việt Nam hiện đại (2001)
Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (2001)
Người trong văn (2006)
In chung
Tác gia văn xuôi Việt Nam hiện đại (1976)
Nhà thơ Việt Nam hiện đại (1984)
Văn học về đề tài công nhân, tập 1 năm 1983 và tập 2 năm 1985
Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam (1988)
Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học 1945-1954, 3 tập (1987-1995)
Nghĩ tiếp về Nam Cao (1992).
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - Tư tưởng và sự nghiệp văn học (Viết chung với GS Hà Minh Đức, GS Nguyễn Đăng Mạnh; Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản năm 2005)
Giải thưởng
Ông được giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2005. |
Chi Trinh đằng (danh pháp khoa học: Parthenocissus, từ đồng nghĩa: Landukia) là một chi chứa một số loài dây leo trong họ Nho (Vitaceae). Nó chứa khoảng 10 loài, có mặt ở châu Á và Bắc Mỹ. Tuy nhiên, một số danh pháp hiện vẫn chưa rõ ràng và có thể là các từ đồng nghĩa hay từ gốc đồng nghĩa của các chi khác như Vitis (nho), Ampelopsis (chè dây). Một vài loài được trồng làm cây cảnh hay làm thuốc trong Đông y. Tên gọi chung của chúng trong tiếng Trung là 爬山虎, phiên âm ba sơn hổ.
Các loài Parthenocissus bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hại, chẳng hạn Euproctis chrysorrhoea và Naenia typica.
Một số loài
Parthenocissus austro-orientalis, trinh đằng đông nam, đông nam ba sơn hổ- có ở Trung Quốc
Parthenocissus chinensis trinh đằng Trung Quốc- Tứ Xuyên, Trung Quốc
Parthenocissus henryana, từ Trung Quốc
Parthenocissus heptaphylla, trinh đằng bảy lá - có ở Texas và México
Parthenocissus heterophylla, trinh đằng khác lá, dị diệp ba sơn hổ - có ở Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Indonesia
Parthenocissus himalayana, trinh đằng ba lá, trinh đằng Himalaya, tam diệp ba sơn hổ - có ở Himalaya, miền nam Trung Quốc và Đài Loan
Parthenocissus pedata, trinh đằng chân - Đông Dương
Parthenocissus quinquefolia = Vitis hederacea, gọi là dây leo Virginia, miền đông Bắc Mỹ
Parthenocissus semicordata, có ở Himalaya
Parthenocissus tricuspidata, dây leo Nhật Bản hoặc thường xuân Boston, có ở miền đông châu Á
Parthenocissus thomsonii, trinh đằng lá phấn, phấn diệp ba sơn hổ - có ở Trung Quốc
Parthenocissus vitacea, dây leo cây bụi, thân gỗ hay nho thân gỗ, có ở miền tây và miền bắc Bắc Mỹ
Lưu ý
Hình ảnh |
Bệnh viện hay nhà thương là một tổ chức chăm sóc sức khỏe cung cấp điều trị bệnh nhân với các nhân viên y tế và điều dưỡng chuyên ngành và thiết bị y tế. Loại bệnh viện được biết đến nhiều nhất là bệnh viện đa khoa, thường có khoa cấp cứu để điều trị các vấn đề sức khỏe khẩn cấp, từ nạn nhân hỏa hoạn và tai nạn cho đến một căn bệnh bất ngờ. Một bệnh viện huyện thường là cơ sở chăm sóc sức khỏe lớn trong khu vực của nó, với một số lượng lớn giường dành cho chăm sóc đặc biệt và giường bổ sung cho những bệnh nhân cần chăm sóc dài hạn. Các bệnh viện chuyên khoa bao gồm trung tâm chấn thương, bệnh viện phục hồi chức năng, bệnh viện trẻ em, bệnh viện (người cao tuổi) và bệnh viện để giải quyết các nhu cầu y tế cụ thể như điều trị tâm thần (xem bệnh viện tâm thần) và một số loại bệnh. Bệnh viện chuyên khoa có thể giúp giảm chi phí chăm sóc sức khỏe so với bệnh viện đa khoa. Bệnh viện được phân loại là chung, chuyên khoa hoặc chính phủ tùy thuộc vào các nguồn thu nhập nhận được.
Một bệnh viện giảng dạy kết hợp hỗ trợ cho những người giảng dạy cho sinh viên y khoa và y tá. Các cơ sở y tế nhỏ hơn một bệnh viện thường được gọi là một phòng khám. Các bệnh viện có một loạt các khoa (ví dụ như phẫu thuật và chăm sóc khẩn cấp) và các đơn vị chuyên khoa như tim mạch. Một số bệnh viện có khoa ngoại trú và một số có đơn vị điều trị mãn tính. Các đơn vị hỗ trợ phổ biến bao gồm nhà thuốc, bệnh lý và X quang.
Các bệnh viện thường được tài chính công tài trợ, các tổ chức y tế (vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận), các công ty bảo hiểm y tế hoặc các tổ chức từ thiện, bao gồm các khoản đóng góp từ thiện trực tiếp. Trong lịch sử, các bệnh viện thường được các tổ chức tôn giáo hoặc các cá nhân và nhà lãnh đạo từ thiện thành lập và tài trợ.
Hiện nay, các bệnh viện chủ yếu là nhân viên của các bác sĩ chuyên nghiệp, bác sĩ phẫu thuật, y tá, trong khi trước đây, công việc này thường được thực hiện bởi các thành viên của các tổ chức tôn giáo hoặc tình nguyện viên. Tuy nhiên, có nhiều tổ chức tôn giáo Công giáo khác nhau, chẳng hạn như Alexians và Bon Secours vẫn tập trung vào mục vụ bệnh viện vào cuối những năm 1990, cũng như một số giáo phái Kitô giáo khác, bao gồm các Phương pháp và Luther, điều hành các bệnh viện. Theo nghĩa gốc của từ này, các bệnh viện ban đầu là "nơi tiếp đãi" và ý nghĩa này vẫn được giữ nguyên trong tên của một số tổ chức như Bệnh viện Hoàng gia Chelsea, được thành lập năm 1681 với tư cách là một viện hưu trí và điều dưỡng cho các cựu binh.
Lịch sử
Vào thời cổ, y học và tôn giáo được gắn liền. Như ở Ai Cập người bệnh được đưa vào các nơi thờ cúng để cầu chữa trị. "Thánh sống" Aslepius ở Hy Lạp cho bệnh nhân vào nhà mình và ông ta nằm mộng để gặp Thượng đế lấy chỉ dẫn. Dân La Mã tôn thờ ông này và lập riêng cho ông một nhà thờ tại một hòn đảo trên sông Tiber để ông trị bệnh.
Tại Ấn Độ, vua Ashoka lập 18 nhà thương vào khoảng năm 230 TCN. Những nơi này có bác sĩ và phụ tá chăm sóc cho người mắc các loại bệnh và mọi chi phí do triều đình đài thọ.
Bệnh viện giáo dục y học đầu tiên thành lập tại Hàn lâm viện Gundishapur Ba Tư. Học sinh được đào tạo chuyên nghiệp về y học và thực hành chẩn đoán lâm sàng với bệnh nhân trong bệnh viện. Một nhà nghiên cứu cho rằng hệ thống giáo dục y học và thiết bị bệnh viện ngày nay khởi thủy từ Ba Tư.
Người La Mã thiết lập các bệnh xá (tiếng Ý: valetudinaria) để chăm sóc bệnh cho nô lệ, võ sĩ giác đấu và binh sĩ khoảng năm 100 TCN. Sau khi chấp nhận Thiên chúa giáo là tôn giáo quốc gia, dân La Mã thành lập những bệnh viện cho công chúng, không chỉ để chăm sóc cho người bệnh mà cả cho người nghèo, khuyết tật, người già, cô quả và cả người khác xứ vô gia cư. Đế quốc La Mã ra lệnh xây nhà thương tại tất cả các tỉnh thành có nhà thờ, tu viện. Một trong các kiến trúc nhà thương đầu tiên được dựng lên là bệnh viện ở Constantinopolis do Saint Sampson xây. Tu viện của giáo hoàng Basil of Caesarea được cải tiến để có thêm khu vực dùng làm nơi nương trú cho bệnh nhân và có khu dành riêng cho bệnh nhân bị phong cùi.
Thời Trung cổ, các bệnh viện ở châu Âu cũng theo hệ thống này, dưới điều hành của các tu sĩ thuộc giáo hội (từ tiếng Pháp hôtel-Dieu mang ý nghĩa "khách sạn của Thượng đế"). Ngoài những bệnh viện nằm trong kiến trúc của nhà thờ, một số được xây riêng biệt. Nhiều bệnh viện tạo tài chính qua viện trợ từ chính phủ hay các đòng góp tùy hỷ. Vài bệnh viện có nhiều dịch vụ khác nhau. Một số chỉ dành cho người bị cùi. Một số khác cho dân tỵ nạn hay nghèo khổ.
Nhà thương của Hồi giáo được thành lập với trình độ cao trong thế kỷ 8 - 12. Bệnh viện tại Bagdad có trên dưới 25 y sĩ và có phòng riêng cho mỗi dạng bệnh, tạo nền tảng cho thiết kế kiến trúc hệ thống nhà thương ngày nay.
Trung Quốc cũng có nhà thương công cộng trong thiên kỷ đầu tiên.
Phân loại
Bệnh viện đa khoa
Bệnh viện đa khoa là những bệnh viện lớn, có thể xét nghiệm và chữa trị hầu hết các loại chứng bệnh. Tại đây bác sĩ chuyên khoa mỗi ngành làm việc tại một khu riêng của ngành mình nhưng vẫn có thể liên lạc với những bác sĩ của ngành khác để cộng tác chữa trị công hiệu - nhất là nghiên cứu những bệnh khó chẩn đoán hay chữa trị. Các bệnh viện này thường có phòng cấp cứu (tiếng Anh: Emergency Room), phòng xét nghiệm máu (Pathology) và quang tuyến (Medical Imaging) và phòng điều trị tăng cường (Intensive Care Unit).
Bệnh viện chuyên khoa
Bệnh viện chuyên khoa là một bệnh viện chuyên ngành được thành lập vì nhu cầu điều trị đặc biệt. Ví dụ: bệnh viện nhi khoa, bệnh viện mắt, bệnh viện lão.
Bệnh viện hạt nhân - Bệnh viện vệ tinh
Bệnh viện hạt nhân - Bệnh viện vệ tinh là một mô hình xây dựng và phát triển mạng lưới dịch vụ y tế chuyên sâu, nơi các bệnh viện chuyên khoa hoặc các bệnh viện đa khoa có một hoặc nhiều đơn vị chuyên sâu có đủ năng lực và uy tín (gọi là Bệnh viện hạt nhân) chuyển giao các kỹ thuật y khoa chuyên sâu cho các bệnh viện liên kết (có thể là bệnh viện công lập tuyến dưới hoặc bệnh viện tư nhân liên kết, gọi là Bệnh viện vệ tinh). Theo đó, mô hình này gồm 2 thành phần là bệnh viện hạt nhân (bao gồm các đơn vị chuyên sâu) và bệnh viện vệ tinh (bao gồm các đơn vị vệ tinh) được định nghĩa:
Bệnh viện hạt nhân là bệnh viện tuyến trên có đủ năng lực, được giao nhiệm vụ xây dựng và phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh để giúp bệnh viện tuyến dưới nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh.
Bệnh viện vệ tinh là bệnh viện tuyến tỉnh hoặc tuyến huyện có một hay nhiều đơn vị vệ tinh.
Đơn vị vệ tinh là khoa (hoặc trung tâm) thuộc bệnh viện tuyến tỉnh hoặc bệnh viện tuyến huyện được bệnh viện hạt nhân lựa chọn đỡ đầu, hỗ trợ đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, tư vấn để hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị, năng lực và khả năng cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo mô hình bệnh viện hạt nhân.
Bệnh viện đại học
Bệnh viện đại học (tiếng Anh: University hospital hoặc University medical center) hoặc Bệnh viện giảng dạy (tiếng Anh: Teaching hospital) là một bệnh viện hoặc trung tâm y tế cung cấp giáo dục y tế và đào tạo về tương lai và hiện tại các chuyên gia sức khỏe. Nhiều bệnh viện trong số này tiến hành nghiên cứu y tế, cũng như cung cấp dịch vụ chăm sóc cho người nghèo và người không có bảo hiểm. Các bệnh viện giảng dạy hầu như luôn luôn liên kết với một hoặc nhiều trường đại học và thường nằm chung với các trường y khoa hoặc trường đại học, viện đại học.
Các bệnh viện giảng dạy sử dụng chương trình nội trú để đào tạo các bác sĩ có trình độ, bác sĩ chuyên khoa nhi , nha sĩ và dược sĩ đang được đào tạo sau khi đạt được bằng MD , DPM , DDS , DMD, PharmD , DO , BDS , BDent , MBBS, MBChB hoặc BMed. Những người theo học tại bệnh viện hoặc phòng khám giảng dạy sẽ hành nghề ydưới sự giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của bác sĩ lâm sàng y tế cao cấp đã đăng ký trong chuyên ngành đó, chẳng hạn như bác sĩ chăm sóc hoặc chuyên gia tư vấn . Mục đích của các chương trình nội trú này là tạo ra một môi trường nơi các bác sĩ mới có thể học cách thực hành y học trong một môi trường an toàn được giám sát bởi các bác sĩ cung cấp cả giám sát và giáo dục.
Phòng khám
Phòng khám (tiếng Anh: Clinic) là một cơ sở y tế có nhiều phòng để bác sĩ khám bệnh. Khác với phòng mạch là nơi chẩn bệnh riêng của từng bác sĩ, phòng khám mang tính công cộng hơn và thường có nhiều hỗ trợ y tế hơn như y tá, chuyên viên vật lý trị liệu, y sĩ nhãn khoa v.v. Vì phòng khám thường không có phòng và giường cho bệnh nhân ngủ lại, trên lý thuyết không thuộc vào loại bệnh viện.
Bệnh xá
Bệnh xá hay trạm xá là nơi chẩn đoán và chữa trị tạm thời người bệnh địa phương thường do y tá quản lý. Nếu bệnh trầm trọng sẽ được gửi lên bệnh viện lớn.
Bệnh viện cấp 3
Ở Úc, một số bệnh viện rất lớn được sắp hạng cấp 3 (tertiary hospital). Đây là những bệnh viện có khả năng tiếp nhận tất cả những ca bệnh khó chữa, hiểm nghèo trong toàn vùng hay tiểu bang. Bệnh viện cấp 3 có bác sĩ cao cấp, nhiều kinh nghiệm và phòng ốc trang bị máy móc y tế hiện đại. Khi bác sĩ tại các bệnh viện trong vùng gặp khó khăn trong vấn để chẩn đoán hay chữa trị, họ có thể chuyển bệnh nhân lên bệnh viện cấp 3.
Viện nghiên cứu y học
Sinh viên y khoa học tập và thực tập tại các bệnh viện thường dưới sự giảng dạy của các giáo sư và các nhà nghiên cứu khoa học y khoa. Đa số các bệnh viện lớn có viện nghiên cứu y học nghiên cứu về các ngành chuyên khoa.
Tư và công cộng
Bệnh nhân vào bệnh viện tư phải đóng lệ phí bằng tiến túi hoặc do hãng bảo hiểm tài trợ. Bệnh viện công do nhà nước quản lý và thường là miễn phí. Ngoài khác biệt về tài chính, tại một số nước, bệnh viện tư có thể có khả năng phục vụ tốt hơn vì nhân viên được tuyển chọn khắt khe hơn; trong khi bệnh viện công phần lớn nhân viên mới ra trường hoặc có tinh thần làm việc kiểu "công chức".
Tiêu chuẩn
Tại Úc, tất cả bệnh viện phải theo định kỳ thông qua tiêu chuẩn của "Australian Council on Healthcare Standards" trước khi tiếp tục phục vụ công chúng. (Xem ví dụ điển hình về tiêu chuẩn của bệnh viện nhi đồng Westmead tại Sydney).
Chú thích |
Trong toán học, mặt Riemann (hay còn gọi là diện Riemann), đặt tên theo nhà toán học Bernhard Riemann, là đa tạp phức một chiều. Mặt Riemann có thể được xem là những bản uốn cong của mặt phẳng phức: ở lân cận mỗi điểm chúng giống nhau là một mảnh trên mặt phẳng phức, nhưng tô pô toàn cục có thể khác. Ví dụ, chúng có thể giống mặt cầu hoặc mặt xuyến hoặc một số tấm dán lại với nhau.
Định nghĩa
Một mặt Riemann là một không gian tô pô Hausdorff X, với một át-lát vào C sao cho các phép biến đổi bản đồ là các hàm song chỉnh hình. Tức là X có một phủ mở (Ui) gồm các tập mở đồng phôi với các tập mở của C sao cho các ánh xạ đồng phôi thỏa mãn là một hàm song chỉnh hình.
Mặt cầu Riemann
Xét . Gán cho nó hai hệ tọa độ (hay hai bản đồ) phức và . Hàm đổi hệ tọa độ là hàm , là một hàm song chỉnh hình. Đây được gọi là mặt cầu Riemann (dựa theo phép đồng phôi giữa mặt cầu với compắc hóa Alexandroff của mặt phẳng phức).
Mặt xuyến phức
Mặt xuyến phức thường được định nghĩa là thương số của dưới tác động của một lưới với một số phức có phần ảo lớn hơn .
Các mặt Riemann ứng với một hàm số
Xét một hàm số . Không phải lúc nào cũng tồn tại một hàm ngược của . Tuy nhiên có thể được định nghĩa như một hàm trên một mặt Riemann tương ứng với nó. Sau đây là các mặt Riemann ứng với lần lượt bằng (và các hàm ngược tương ứng ).
Hàm chỉnh hình
Một hàm số phức trên một mặt Riemann được gọi là một hàm chỉnh hình nếu là một hàm chỉnh hình với mọi bản đồ của . Tương tự, một hàm số phức bộ phận được gọi là một hàm phân hình nếu là một hàm phân hình với mọi bản đồ của .
Cấu trúc vi phân
Một mặt Riemann có một cấu trúc vi phân cảm sinh từ cấu trúc vi phân của mặt phẳng phức, là một đa tạp vi phân hai chiều. |
Ban Ki-moon (, ; sinh 13 tháng 6 năm 1944 tại Chungju, Hàn Quốc) là Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc thứ 8 từ năm 2007 đến cuối năm 2016. Trước khi giữ chức Tổng thư ký, ông từng là Bộ trưởng Ngoại giao của Hàn Quốc, một vị trí ông nắm từ tháng 1 năm 2004. Vào ngày 13 tháng 10 năm 2006, ông được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bầu làm Tổng Thư ký kế nhiệm Kofi Annan.
Giáo dục
Ban nhận bằng cử nhân về ngành quan hệ quốc tế từ Đại học Quốc gia Seoul vào năm 1970 và bằng Thạc sĩ Quản lý công (Master of Public Administration) từ Trường Quản lý Nhà nước Kennedy tại Viện Đại học Harvard vào năm 1985.
Cá nhân
Ban đã lập gia đình và có một con trai và hai con gái. Ông tự nhận mình là tín hữu Cơ Đốc Liên phái (thuộc viên của các giáo đoàn không liên kết với một giáo hội nào - non-denominational Christian). Ông là thành viên của Phong trào "Phi Giáo phái" (Mukyōkai), được thành lập bởi Uchimura Kanzo, lan tỏa đến Hàn Quốc trong những năm 1920. Các thành viên của phong trào, chủ yếu là thành phần trí thức, xem Kinh Thánh là nguồn cảm hứng cho đời sống cá nhân và cộng đồng của họ.
Là một học sinh trung học trong những năm đầu của thập kỉ 1960, Ban gặp Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy ở Washington D.C. sau khi thắng một cuộc thi tiếng Anh tổ chức bởi Hội Chữ thập đỏ Mỹ, sau đó ông quyết tâm trở thành một nhà ngoại giao. Thêm vào tiếng Hàn là tiếng mẹ đẻ, Ban thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp.
Cuối tháng 10/2015 các báo mạng tại Việt Nam đưa tin, ngày 23 tháng 5 năm 2015, trong một hoạt động cá nhân ông Ban Ki-moon cùng phu nhân đã đến dâng hương tại nhà thờ dòng họ Phan Huy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, Việt Nam. Trong lưu bút ông nói rằng ông "là một người con của dòng họ Phan" và ghi tên ông bằng chữ Hán là 潘基文 (âm Hán Việt: Phan Cơ Văn), song không nói rõ là thành viên họ Phan Hàn Quốc, hay họ Phan Việt Nam (thậm chí dòng họ Phan Huy). Sự kiện và ý tứ trong lưu bút dẫn đến suy diễn cho rằng, ông là hậu duệ của nhà bác học Phan Huy Chú. Giáo sư Phan Huy Lê nói 'Tuy tôi không có mặt ở đó, không trực tiếp đón tiếp ông ấy nhưng tôi biết rất rõ về việc này. Tôi khẳng định những bức ảnh ông Ban Ki-moon thăm nhà thờ họ Phan Huy ở Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Nội), thắp hương, gặp con cháu họ Phan Huy, bút tích lưu niệm là thật, tuyệt đối không có gì phải hoài nghi hay cần xác minh.Trong bút tích lưu niệm, ông Ban Ki-moon viết rõ ông là thành viên của họ Phan. Ông kính cẩn thắp hương trước bàn thờ Phan Huy Chú và tổ tiên họ Phan Huy. Trong trao đổi ông nói là hậu duệ của họ Phan Huy và cụ thể hơn là hậu duệ của Phan Huy Chú.' ". Tuy nhiên những người liên quan đều thận trọng về "tính chất cá nhân" của sự kiện, và dòng họ Phan Huy hiện không tìm thấy tư liệu trong gia phả về các nhánh di cư. Họ Phan là một họ của người Á Đông, có ở Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam, và "Hội đồng họ Phan Quốc tế" đã từng tổ chức họp mặt giao lưu ở Trung Quốc.
Theo nhà ngoại giao Hàn Quốc từng nhiều năm làm việc với ông Ban Ki Moon cho hay: "Dòng lưu bút đó không có nghĩa ông Ban là con cháu họ Phan ở Việt Nam".
Là một nhà ngoại giao kỳ cựu, ông Ban Ki Moon đã rất tinh tế khi sử dụng chữ Hán (mà không phải chữ Hàn hoặc chữ Việt Nam). Bởi họ Phan (Việt Nam) và họ Ban (Hàn Quốc) có cùng cách viết trong tiếng Hán. Điều này hàm ý họ Phan trên toàn thế giới, vào một thời điểm xa xưa có cùng gốc tích. Chuyến thăm của ông Tổng thư ký LHQ là một động thái mang ý nghĩa ngoại giao khéo léo, bày tỏ sự tương đồng của người họ Phan hai nước.
Sự nghiệp
Vị trí đầu tiên ở nước ngoài của Ban sau khi tham gia ngành ngoại giao Hàn Quốc là đến New Delhi. Sau khi làm việc trong Vụ Liên Hợp Quốc tại Bộ ngoại giao, ông phục vụ như là Bí thư thứ nhất tại Phái đoàn quan sát thường trực của Hàn Quốc tại Liên hiệp quốc ở New York City. Theo sau đó ông nắm chức Vụ trưởng Vụ Liên hiệp quốc. Ông đã nhận nhiệm vụ hai lần tại tòa Đại sứ Hàn Quốc ở Washington D.C.. Giữa hai nhiệm vụ này ông là Tổng Giám đốc cho Vụ quan hệ Hoa Kỳ trong năm 1990-1992. Ông được thăng lên chức Thứ trưởng về Hoạch định chính sách và các Tổ chức Quốc tế năm 1995. Sau đó ông được bổ nhiệm Cố vấn an ninh quốc gia cho Tổng thống vào năm 1996, và nhận chức Thứ trưởng vào năm 2000. Vị trí gần đây nhất của ông là Cố vấn về các vấn đề ngoại giao cho Tổng thống Roh Moo-hyun.
Trong khi là Đại sứ ở Áo, Ban được bầu là Chủ tịch của Ủy ban trù bị cho Tổ chức Hiệp định cấm thử vũ khí hạt nhân hoàn toàn (Comprehensive Nuclear-Test-Ban Treaty Organization, CTBTO PrepCom) trong năm 1999. Trong quá trình Hàn Quốc chủ tọa phiên họp thứ 56 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào năm 2001, ông là chủ tịch Đoàn chủ tịch Hội đồng.
Ban đã tích cực tham gia các vấn đề liên quan đến quan hện giữa hai miền Triều Tiên. Vào năm 1992, ông là Phó chủ tịch của Ủy ban hỗn hợp về kiểm soát hạt nhân Nam-Bắc Triều Tiên, theo sau sự ký kết của Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên về Bản Thông cáo chung của việc Phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên. Vào tháng 9 năm 2005, với nhiệm vụ Bộ trưởng ngoại giao, ông giữ vai trò lãnh đạo trong những cố gắng về ngoại giao để ký kết bản thỏa thuận chung giải quyết các vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên tại Vòng thứ nhất Đàm phán 6 bên tổ chức ở Bắc Kinh.
Ứng cử viên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
Vào tháng 2 năm 2006, Ban tuyên bố ứng cử thay thế Kofi Annan làm Tổng thư ký Liên hiệp quốc vào cuối năm 2006. Đây là lần đầu tiên một người Hàn Quốc tranh cử chức Tổng thư ký.
Ban dẫn đầu trong bốn lần bầu cử sơ khởi do Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc tổ chức vào 24 tháng 7, 14 tháng 9, 28 tháng 9 và 2 tháng 10.
Vào lần bỏ phiếu không chính thức ngày 2 tháng 10, Ban nhận 14 phiếu thuận và 1 "không ý kiến" từ 15 thành viên Hội đồng bảo an, đoàn Nhật Bản là quốc gia duy nhất không đồng ý hoàn toàn. Quan trọng hơn, Ban là người duy nhất thoát một phiếu chống, trong khi mỗi trong 5 người còn lại đều nhận ít nhất là một phiếu chống từ 5 năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an — Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Pháp, Nga, Anh và Hoa Kỳ. Sau khi bỏ phiếu, Shashi Tharoor, người thứ hai, rút lui và Đại diện thường trực của Trung Quốc tại LHQ nói với các phóng viên là "khá rõ từ kết quả bỏ phiếu hôm nay là Bộ trưởng Ban Ki-moon là ứng cử viên mà Hội đồng bảo an sẽ đề nghị lên Đại hội đồng (General Assembly)."
Vào 9 tháng 10, Hội đồng Bảo an chính thức chọn Ban như là người được đề cử. Vào 13 tháng 10, Tổng Hội đồng gồm 192 thành viên đã thông qua một nghị quyết, bằng biểu quyết, bổ nhiệm Ban làm Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
Khen thưởng
Ban đã hai lần được Nhà nước Hàn Quốc tặng thưởng Huân chương Phụng sự vào các năm 1975 và 1986. Để biểu dương các thành quả của ông với vai trò đại sứ, ông được Cộng hòa Áo trao Huân chương Danh dự vào năm 2001. Một năm sau đó, nhà nước Brasil trao tặng ông Huân chương Rio Branco. Vào tháng 9 năm 2005, Hiệp hội Hàn Quốc ở New York vinh danh ông với giải thưởng Van Fleet Award vì những đóng góp của ông vào tình hữu nghị Hoa Kỳ - Hàn Quốc.
Quyền làm người là không thể vi phạm
Ngày 23/9, 2009, Ban thách thức các nhà lãnh đạo thế giới hãy loại các vũ khí hạt nhân khỏi địa cầu, đối phó với mối đe dọa về thay đổi khí hậu có tiềm năng gây thảm họa và chống lại tình trạng nghèo khổ đang gia tăng vì cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới. Ban cảnh cáo các tổng thống, thủ tướng và các nhà ngoại giao từ 192 nước thành viên của LHQ rằng "không có quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, có thể vi phạm quyền làm người của các công dân của họ mà không bị trừng phạt."
Ông kêu gọi có các nỗ lực lớn lao hơn để thành đạt hòa bình ở Darfur và Somalia. Ông thúc giục hồi sinh những cuộc thương lượng để đi tới một nền hòa bình ở Trung Đông, với Israel và Palestine sống bên cạnh nhau trong hòa bình. "Giữa nhiều cuộc khủng hoảng - về thực phẩm, năng lượng, suy thoái và đại dịch cúm, ảnh hưởng cùng lúc tới tất cả mọi người - thế giới nhìn vào chúng ta để tìm những giải đáp," Ban nói trong bài diễn văn khai mạc đọc trước phiên họp cấp bộ trưởng lần thứ 64 của Đại Hội đồng LHQ. "Nếu có một thời điểm để hành động trong một tinh thần đa phương mới mẻ, một thời điểm để kiến tạo một tổ chức Liên Hợp Quốc có hành động tập thể chính đáng, thời điểm đó là lúc này."
Một loạt những khuôn mặt mới sẽ theo chân Ban bước lên bục diễn đàn tại phiên họp bộ trưởng cuối cùng của Đại Hội đồng tại trụ sở lịch sử của Liên Hợp Quốc, trước khi nó đóng cửa để sửa sang vào mùa thu 2009 - trong số đó có Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, cựu Tổng thống Nga Dmitry Medvedev và tân Thủ tướng Yukio Hatoyama của Nhật. Một ngày sau khi khoảng 100 vị nguyên thủ quốc gia và chính phủ, trong cuộc họp thượng đỉnh lớn nhất từ trước tới lúc này về tình trạng địa cầu nóng dần, trao đổi các quan điểm về vấn đề làm thế nào để đạt tới một thỏa thuận toàn cầu mới nhằm chống lại sự thay đổi khí hậu, một lần nữa Ban lại hô hào các nhà lãnh đạo hãy đương đầu với "thách đố lớn nhất mà chúng ta gặp phải với tính cách một gia đình nhân loại."
Tổng thống Obama chủ tọa một cuộc họp cao cấp của Hội Đồng Bảo An LHQ vào ngày 24/9, 2009 về vấn đề giải trừ vũ khí và những nỗ lực nhằm ngăn chặn việc phổ biến các vũ khí hạt nhân. Các nhà lãnh đạo của bốn cường quốc hạt nhân khác trong hội đồng cũng sẽ lên tiếng. Người ta trông đợi hội đồng sẽ chấp thuận một nghị quyết kêu gọi gia tốc các nỗ lực giải trừ vũ khí và một chiến dịch toàn cầu tích cực hơn để giảm bớt các nguy cơ hạt nhân và những đe dọa của sự phổ biến vũ khí. Nghị quyết không nêu tên bất cứ nước nào nhưng dự thảo có đề cập tới các nghị quyết trước đây của hội đồng đã áp đặt các chế tài lên Iran và Triều Tiên vì các chương trình hạt nhân của họ.
Chú thích |
Họ Nho, tên khoa học Vitaceae (hay Vitidaceae) là danh pháp khoa học của một họ thực vật hai lá mầm, bao gồm các loài nho (bồ đào) và một số loài khác như trinh đằng. Danh pháp này có được là từ danh pháp khoa học của chi chứa các loài nho là Vitis.
Quan hệ của họ Vitaceae với các họ, bộ khác hiện nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Trong hệ thống Cronquist, họ này được đặt trong bộ Rhamnales (trong các tài liệu về thực vật bằng tiếng Việt gọi bộ này là bộ Táo/bộ Táo ta). Còn theo Angiosperm Phylogeny Group (APG) thì họ này nằm trong nhánh hoa Hồng (rosids), nhưng không được đặt vào bộ đã có nào. Trên trang web của Angiosperm Phylogeny Group thì người ta đặt họ Vitaceae là họ duy nhất của bộ Vitales (bộ Nho).
Chi Leea đôi khi được tách ra thành một họ riêng là Leeaceae, nhưng theo APG thì nó thuộc họ Vitaceae.
Phân loại
Họ Nho Vitaceae
Phân họ Vitoideae (Durande, 1782 cũ Juss., 1789) Eaton, 1836:
Cissus L., 1753
Cyphostemma (Planch.) Alston trong Trimen, 1931
Acareosperma Gagnepain, 1919
Ampelocissus Planch., 1884, nom. cons.
Parthenocissus Planchon, trong Alph. de Candolle & A.C. de Candolle, 1887, nom. cons.
Ampelopsis A.Michaux, 1803
Clematicissus Planch., in Alph. de Candolle & A.C. de Candolle, 1887
Tetrastigma (Miquel) Planch., in Alph. de Candolle & A.C. de Candolle, 1887
Rhoicissus Planch., in Alph. de Candolle & A.C. de Candolle, 1887
Pterocissus Urban & Ekman, 1926
VitisYua C.L.Li, 1990
Phân họ Leeoideae (DC., 1824)Burmeist., 1837Leea D.van Royen ex Linnaeus, 1767, nom. cons.''
Hình ảnh
Chú thích |
Gaius Julius Caesar là tên được dùng cho các thành viên nam của gia đình Julii Caesares thị tộc Julia. Đây là tên ba phần (tria nomina) của quan độc tài La Mã Julius Caesar, đồng thời là tên của các đời tổ tiên của ông thời Cộng Hòa La Mã cũng như hậu duệ của ông từ Augustus. Gaius là một trong những praenomina (tên riêng) phổ biến của nhà Julii Caesares, cùng với Lucius và Sextus.
Gaius Julius Caesar I
Livius nhắc đến Gaius Julius, một nguyên lão, người vào khoảng năm 143 TCN đã viết về lịch sử La Mã bằng tiếng Hy Lạp. Người khác phỏng đoán người này có thể là con của Sextus Julius Caesar, quan bảo dân quân đội, và là em ruột của Sextus Julius Caesar, quan chấp chính năm 157 TCN. Ông này có thể là cha của Gaius Julius Caesar đã cưới Marcia.
Gaius Julius Caesar II
Gaius Julius Caesar là cha của Gaius Julius Caesar Già, người cha của quan độc tài La Mã Julius Caesar. Không có bất kỳ thông tin nào được sáng tỏ về sự nghiệp của Gaius Julius Caesar II, ngoài việc ông có thể là cùng một người với viên pháp quan đã chết đột ngột ở Roma, tuy nhiên Lucius Julius, một pháp quan thành thị 166 TCN, là một người khác phù hợp với giả thuyết này, theo Plinius.
Gaius Julius Caesar II cưới Marcia Regia, một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc Marcii Reges, một cuộc hôn nhân được sắp xếp bởi cha ông. Ông lại sắp xếp cho con trai mình Gaius kết hôn với Aurelia Cotta, con gái của nhà Cotta dòng họ Aurelia. Nhà Aurelii Cottae vốn đã là quý tộc xuất thân thường dân (nobiles) từ giữa thế kỷ thứ 3 TCN, khi hai tổ tiên của gia đình đạt đến vị trí quan chấp chính. Con gái ông Julia kết hôn với một người từng là quan bảo dân của người bình dân từ một gia đình ít tên tuổi, Gaius Marius, sau này là một novus homo ("người mới") và bảy lần làm quan chấp chính.
Gaius Julius Caesar Strabo Vopiscus
Gaius Julius Caesar Strabo Vopiscus (khoảng 130–87 TCN), con của Lucius Julius Caesar II và Poppilia, em trai của Lucius Julius Caesar III.
Gaius Julius Caesar III
Gaius Julius Caesar III, cũng gọi Gaius Julius Caesar Lớn để phân biệt với con trai ông, là cha của quan độc tài La Mã Julius Caesar. Ông kết hôn với Aurelia Cotta, và có với bà ba người con, hai người con gái lớn Julia Caesaris và một con trai là Gaius Julius Caesar. Gaius Julius Caesar III duy trì mối quan hệ với người anh rể Marius. Vào năm 103 hoặc 100 TCN, ông thực thi phận sự phân phối đất, chủ yếu cho cựu binh từng phục vụ Marius. Ông là pháp quan khoảng năm 92 TCN, và là quan tổng đốc tỉnh Asia khoảng hai năm hoặc lâu hơn, nhưng có thể đã rời đi trước khi chiến tranh Mithridates nổ ra. Ông quyết định không tranh cử chức quan chấp chính và sống giản dị ở ngoại thành Roma, qua đời năm 85 TCN ở Pisa.
Julius Caesar
Gaius Julius Caesar IV (100 – 44 TCN), thường được gọi ngắn gọn là Julius Caesar (dù thực chất Julius chỉ là tên tộc của ông), thống soái, chấp chính, quan độc tài và tác gia La Mã, người mà sự nghiệp của ông cho đến lúc bị ám sát vào ngày 15 tháng 3 (lịch La Mã cổ) năm 44 TCN, đóng vai trò quan trọng trong sự lụi tàn của nền Cộng hòa và mở ra thời kỳ Đế quốc của La Mã.
Augustus
Gaius Julius Caesar V (Octavianus) (63 TCN – CN 14), hoàng đế (princeps) đầu tiên của La Mã, thường được biết đến với tên gọi Octavianus (Anh hoá: Octavian) hoặc Augustus. Là con nuôi thừa kế của Julius Caesar, Octavianus, về sau gọi là Augustus, thắt chặt mối quan hệ với quan độc tài La Mã bị ám sát qua tên của mình, một thông tục được những người thừa kế chính thống hoặc tiềm năng của các hoàng đế triều đại Julio-Claudian tiếp nối về sau.
Gaius Caesar
Gaius Julius Caesar VI (Agrippa) (20 TCN – CN 4), con của Marcus Vipsanius Agrippa, về sau được ông ngoại Augustus nhận nuôi và chỉ định làm người kế vị;
Caligula
Gaius Julius Caesar VII Germanicus, thường được biết đến với biệt danh Caligula (CN 12–41), con trai của Germanicus, trị vì 37–41 AD.
Cũng xem
Julii Caesares
Julius Caesar (định hướng)
Gia phả Julio-Claudian
Gaius Julius Caesar (tên), về cái tên và nguồn gốc của nó
Gaius Iulius Iullus, kết hợp cùng praenomen và nomen gentilicium, với cognomen cổ xưa hơn Iullus |
Nội các Hoa Kỳ là cơ quan tối cao ngành hành pháp của Chính phủ Hoa Kỳ; bao gồm Phó Tổng thống, Bí thư (hay Bộ trưởng) của các Bộ, các quan chức cao cấp tương đương Bộ trưởng. Tuy là một trong những cơ quan có quyền hành nhất trong Chính phủ Hoa Kỳ hiện nay, Nội các không được nhắc đến trong hiến pháp. Nhiệm vụ của Nội các là cố vấn, tham mưu cho Tổng thống.
Thành viên Nội các
Thông thường các bộ được liệt kê theo tiêu chuẩn các chức vụ Bộ trưởng tương đương theo thứ tự kế vị Tổng thống:
Cơ quan ngang bộ |
Nguyễn Quang Bật (chữ Hán: 阮光弼; 1463–1505) tên thật Nguyễn Quang Hiếu, là người đỗ trạng nguyên năm 1484 dưới triều vua Lê Thánh Tông.
Tiểu sử
Ông là người huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, có ý chí "nhân định thắng thiên", không tin vào số mệnh. Tương truyền trước khoa thi ông nằm mơ thấy Thần hiện về báo mộng ông sẽ không đoạt giải cao; thế nhưng ông tin rằng "Thần đâu biết được việc người; phen này ta đỗ, đỗ thời trạng nguyên" và càng ra sức học. Đến kì thi Đình ông đã đoạt được ngôi vị đầu bảng, giành lấy chức vị trạng nguyên. Làm quan Hàn lâm Hiệu lý. Ông là thành viên nhóm Tao đàn Nhị thập bát Tú. Vì trái ý của Lê Uy Mục nên bị giáng xuống Thừa Tuyên, Quảng Nam. Vua sai người mật dìm chết ở sông Phúc Giang. Tương Dực Đế biết ông chết oan, bèn truy phong tước Bá, và tặng lá cờ thêu 3 chữ" Trung Trạng nguyên". Vua còn cho dân địa phương lập miếu thờ làm thành hoàng. |
Vú sữa (danh pháp hai phần: Chrysophyllum cainito), thuộc họ Hồng xiêm (Sapotaceae) (trước đây vú sữa được coi là thuộc bộ Thị: Ebenales). Cây vú sữa có nguồn gốc ở đảo Antilles và châu Mỹ nhiệt đới. Đây là loại cây trồng lớn nhanh, thân dẻo, tán lá rộng, chiều cao lên tới từ 10 - 15 mét. Trái vú sữa to khoảng một nắm tay, da màu xanh, khi chín chuyển sang màu hồng nhạt, ăn rất ngon. Cây vú sữa còn được đưa vào danh mục cây trồng làm cảnh trong khu nhà biệt thự của các thành phố.
Tại Việt Nam, cây vú sữa có 2 loại chính là vú sữa da xanh và vú sữa da tím than, tuy khác nhau về màu sắc nhưng vị ngọt, mùi thơm gần giống nhau.
Đặc điểm
Hình thái
Lá của vú sữa là thường xanh, mọc so le, hình ôvan đơn, mép liền, dài 5–15 cm; mặt dưới bóng như màu vàng khi nhìn từ xa. Các hoa nhỏ màu trắng ánh tía và có mùi thơm ngát. Cây vú sữa là loại cây lưỡng tính (tự thụ phấn).
Quả của vú sữa tròn, có lớp vỏ màu tía, vàng ươm tự nhiên (vú sữa hoàng kim Đài Loan) hoặc nâu ánh lục khi chín, thường có màu xanh lục xung quanh đài hoa, với kiểu hình sao trong cùi thịt. Có một vài giống cho quả màu trắng ánh xanh lục. Vỏ nhiều latex (nhựa mủ) và không ăn được. Các hạt dẹt có màu nâu nhạt và cứng. Nó ra quả quanh năm sau khi đạt đến 7 năm tuổi trở lên.
Lớp cùi thịt của quả ăn được và rất ngon, dùng làm các món tráng miệng. Vú sữa có vị ngọt, hay được phục vụ dưới dạng tươi hoặc làm lạnh (khoảng 10-15 °C). Lá của vú sữa được dùng ở một số khu vực làm dạng như chè và người ta coi nó có tác dụng chống các bệnh đái đường và thấp khớp. Vỏ cây được coi là có chứa chất bổ và có tác dụng kích thích, nước sắc vỏ cây được dùng để chống ho. Loại quả vỏ màu tía có lớp vỏ dày hơn và cùi thịt đặc hơn còn loại quả vỏ màu nâu-lục có vỏ mỏng và nhiều cùi thịt nhão.
Vú sữa Đài Loan về hình dáng bên ngoài của chúng không tròn đều mà còn có một chóp nhọn bên dưới, vỏ rất mỏng, thịt quả dày và có vị ngọt thanh. Đặc biệt, mỗi quả chỉ có một hạt bên trong và không có nhựa dính vào miệng khi ăn như vú sữa Việt Nam.
Đặc điểm sinh lý, sinh thái
Cây vú sữa có tốc độ sinh trưởng nhanh. Phù hợp với: điều kiện nhiệt đới nhiệt độ 22-34 độ C, chỉ ra hoa tốt trong điều kiện có hai mùa mưa nắng phân biệt và không chịu được gió to do cây có tán lá dày và rễ nông, đất phù sa ven sông, đất thịt nhẹ, thoát nước tốt, ít chua, pH 5,5-6,5, cao độ không quá 400m.
Cây vú sữa được trồng bằng cách chiết nhánh hoặc tháp cây. Khi được chăm bón cẩn thận thì khoảng sau 3 năm sau có thể thu hoạch được. Cây vú sữa khi đậu trái đến khi thu hoạch mất khoảng thời gian từ 180 - 200 ngày. Mùa thu hoạch vú sữa từ tháng 2 - 3 dương lịch hàng năm.
Cây vú sữa ở Việt Nam
Vú sữa là loại trái cây được người Việt Nam sử dụng từ hàng trăm năm trước. Loại trái cây này hiện có rất nhiều giống như vú sữa Lò Rèn, vú sữa nâu tím, vú sữa vàng. Trong đó giống vú sữa Lò Rèn đặc biệt được trồng nhiều nhất, bởi trái có vỏ mỏng, sáng bóng rất đẹp, thịt trái nhiều, hương vị thơm ngọt, nhiều chất dinh dưỡng, được nhều người ưa chuộng.
Tại châu Á, cây vú sữa không biết đầu tiên đã được trồng ở nước nào, chỉ biết rằng tại Việt Nam, cây vú sữa được trồng nhiều ở miền Nam, nhất là ở các tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Cần Thơ, Cà Mau... và nhiều tỉnh thành ở miền Trung, miền Bắc.
Tỉnh Tiền Giang là tỉnh trồng nhiều vú sữa nhất, tính riêng ở huyện Châu Thành đã có diện tích cây trồng là 2.300 ha. Dự kiến đến năm 2015, toàn tỉnh Tiền Giang sẽ có 5.000 ha đất trồng cây vú sữa.
Xuất khẩu
Hiện nay, Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới chọn trái vú sữa làm hàng hóa xuất khẩu. Các nước khác như Campuchia, Philippines, Ấn Độ, Thái Lan, tiểu bang Northern Territory (Australia) đều có trồng cây vú sữa nhưng họ không chọn làm hàng hóa để xuất khẩu mà chỉ tiêu thụ nội địa.
Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam (SOFRI) và Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam (VietKings) đã chính thức đề xuất đến Tổ chức Kỷ lục châu Á và Tổ chức Kỷ lục Thế giới xác lập kỷ lục "Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới xuất khẩu trái vú sữa, Với mong muốn quảng bá hình ảnh và khẳng định giá trị của trái cây Việt Nam trên thế giới.
Để xuất khẩu ra nước ngoài, vú sữa Việt Nam phải đạt tiêu chuẩn Global GAP (tức là tiêu chuẩn Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu). Điều này đã được Hợp tác xã Vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim (Tiền Giang) thực hiện thành công. Hàng năm, Hợp tác xã Vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim xuất khẩu sang các nước Anh, Canada một số lượng vú sữa trên 10 tấn.
Cùng với vú sữa Lò Rèn, hai loại vú sữa Bơ cơm vàng (Đồng Tháp) và Bơ hồng (Bến Tre) cũng đang được xuất khẩu ra nước ngoài).
Một vài hình ảnh về cây vú sữa
Sự tích dân gian
Theo sự tích dân gian Việt Nam, sự ra đời của cây vú sữa bắt nguồn từ một câu chuyện về hai mẹ con. Người mẹ vì nuông chiều con mà con trở nên hư hỏng không nghe lời mẹ, cậu bỏ nhà ra đi theo bạn bè xấu. Đến khi đói khát, nhớ nhà thì quay về tìm mẹ thì cậu không còn thấy mẹ đâu nữa. Chỉ thấy một cây lạ mọc ở trong vườn, cây cho quả thơm ngọt như dòng sữa mẹ. Cây đó chính là hiện thân của người mẹ mỏi mòn đợi con về. Về sau, loại trái cây thơm ngon đó mới được người dân yêu thích đặt tên là cây vú sữa và đem giống đi gieo trồng ở khắp nơi. |
Bộ Thị, danh pháp khoa học: Ebenales là một tên gọi của một bộ thực vật có hoa. Tên gọi này được sử dụng trong một vài hệ thống phân loại thực vật, chẳng hạn hệ thống Bentham & Hooker hay hệ thống Engler, mặc dù hệ thống Wettstein lại thích dùng tên gọi Diospyrales hơn. Trong phiên bản năm 1981 của hệ thống Cronquist nó là một bộ được đặt trong phân lớp Dilleniidae với giới hạn định nghĩa như sau:
Bộ Ebenales
Họ Ebenaceae - Họ Thị
Họ Sapotaceae - Họ Hồng xiêm
Họ Styracaceae - Họ Bồ đề
Họ Symplocaceae - Họ Dung
Trong hệ thống APG II tất cả các họ này đều được đưa vào trong bộ được mở rộng là bộ Ericales.
Chú thích |
Symplocos là danh pháp khoa học của một họ thực vật có hoa thuộc bộ Ericales, chỉ có một chi là Symplocos, với khoảng 250-320 loài, có nguồn gốc châu Á, Australia, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Tên gọi trong tiếng Việt của nó là họ Dung. Các loài trong họ này thường là cây gỗ hay cây bụi, với các lá có khía răng cưa, thiếu lá kèm, thường có màu hơi vàng. Hoa mọc thành cụm với các hoa nhỏ. Cánh hoa hợp sinh tại gốc và bầu nhụy nhỏ. Quả là loại quả hạch.
Một số loài
S. adenophylla - dung chè, cây gỗ nhỏ, Đông Dương
S. chapaensis - dung Sa pa, cây gỗ nhỏ, Đông Dương
S. cochinchinensis - dung nam, cây gỗ nhỏ, Việt Nam
S. coreana - cây bụi, lá sớm rụng, cao tới 5m; Nhật Bản, Triều Tiên
S. ferruginea: Kháo
S. glauca - cây gỗ, thường xanh, cao tới 15m; Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Đông Dương
S. lancifolia - cây gỗ, thường xanh, cao tới 5m; Nhật Bản
S. lucida - Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Á, Malesia
S. myrtacea - cây gỗ, thường xanh, cao tới 10m; Nhật Bản
S. paniculata - cây bụi, lá sớm rụng, cao tới 8m; Nhật Bản, Hàn Quốc; phổ biến như một loại cây cảnh.
S. poilanei - dung sạn, gỗ nhỏ
S. prunifolia - cây gỗ, thường xanh, cao tới 10m; Nhật Bản, Triều Tiên
S. racemosa - Trung Quốc, Nam Á
S. sordida - dung úa, gỗ nhỏ
S. tanakae - cây gỗ, thường xanh; Nhật Bản
S. theophrastaefolia - cây gỗ, thường xanh, cao tới 15m; Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc
Lưu ý
Hình ảnh
Thực vật châu Á |
Họ Thị (danh pháp khoa học: Ebenaceae) là một họ thực vật có hoa, nó bao gồm các loài cây như hồng, thị, cậy, mun. Họ này có khoảng 548-768 loài cây gỗ và cây bụi thuộc các chi là Diospyros, Euclea, Lissocarpa và Royena. Các loài phần lớn là cây thường xanh và có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới hay cận nhiệt đới, với chỉ một ít các loài cây lá sớm rụng có nguồn gốc ở khu vực ôn đới. Chi Diospyros chứa khoảng 450-500 loài và có sự phân bố rộng khắp vùng nhiệt đới, với sự đa dạng lớn nhất về các loài trong khu vực Indomalaya. Chi Euclea chứa 20 loài, có nguồn gốc ở châu Phi, quần đảo Comoro, khu vực bán đảo Ả Rập. Đài hoa bền vững trên quả là đặc trưng của họ này.
Theo APG, họ này có thể chia ra làm 2 phân họ là Lissocarpoideae (gồm 1 chi Lissocarpa và 8-18 loài ở khu vực nhiệt đới Nam Mỹ) và Ebenoideae chứa 3 chi và 540 loài còn lại.
Tên gọi
Tên gọi của họ Ebenaceae dựa theo tên chi Ebenus, được Otto Kuntze công bố năm 1891. Nó là tên đồng âm muộn của Ebenus L., 1753, một chi đã được đặt tên trong họ Fabaceae, vì thế Ebenus Kuntze, 1891 là nomen illegitimum (tên gọi phi pháp). Các loài mà Kuntze đã xếp vào chi Ebenus sau đó chuyển sang chi Maba, mà chi này đến lượt mình cũng bị gộp vào chi Diospyros.
Do tên gọi Ebenaceae đã được nhắc đến nhiều, được sử dụng trong các nguồn hàn lâm về thực vật học như Genera Plantarum của Bentham & Hooker, Natürlichen Pflanzenfamilien của Engler và Prantl, Families of Flowering Plants của Hutchinson nên nó là tên gọi được bảo toàn và vì thế là tên gọi hợp pháp.
Các chi
Diospyros (bao gồm cả Cargillia, Cavanillea, Ebenus, Embryopteris, Guaiacana, Idesia, Maba, Mabola, Macreightia, Noltia, Paralea, Pimia, Rhaphidanthe, Ropourea, Tetraclis)
Euclea
Royena
Lissocarpa
Chi Brachynema trước đây từng được đặt trong họ này nhưng hiện nay đã được chuyển sang họ Olacaceae.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài dưới đây vẽ theo Duangjai et al. (2006)
Hình ảnh
Ghi chú |
Danh mục sách đỏ động vật Việt Nam bao gồm các loài động vật có trong Sách đỏ Việt Nam dưới các mức độ đe dọa khác nhau. Trong số đó là các loài động vật chỉ tìm thấy duy nhất trên lãnh thổ Việt Nam, không tìm thấy ở nơi khác trên thế giới như: Gà lôi lam đuôi trắng (Lophura hatinhensis), Gà lôi lam mào trắng (Lophura edwardsi), Gà tiền mặt đỏ (Polyplectron germaini), Trĩ sao (Rheinardia ocellata), Gà so cổ hung (Arborophila davidi), Voọc mũi hếch Bắc Bộ (Rhinopithecus avunculus), Voọc ngũ sắc (Trachipithecus phayrei) và các loài lần đầu phát hiện trên thế giới tại Việt Nam, hiện tại chưa thấy hoặc ít thấy chúng ở các nước khác: Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis), Mang lớn, Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Bò rừng xoăn...
Danh mục
Hình ảnh
Chú thích |
Rừng núi đá vôi nói ở đây bao gồm các kiểu phụ thuộc kiểu rừng kín thường xanh và nửa rụng lá phân bố ở vành đai nhiệt đới trong điều kiện đặc biệt đất đá vôi.
Đặc điểm chung
Rừng thường có 2 tầng gỗ, tầng trên không liên tục, cao 15–20 m, có khi đến 25 m. Cây rừng mọc tương đối chậm, có rễ phơi trần ôm các tầng đá lớn và ăn sâu vào các khe nứt, thường gặp trên các sườn đá dốc đứng, các thung đá vôi có lớp đất mỏng.
Tổ thành rừng
Các ưu hợp thường gặp:
Ưu hợp: nghiến + trai lý.
Ưu hợp: nghiến + lòng mang + chò nhai + mạy tèo + ô rô.
Ưu hợp: nghiến + heo.
Ưu hợp: nghiến + hoàng đàn + kim giao.
Tham gia tầng trên của các ưu hợp này có thể là đinh thối, vàng kiểng, gội nếp, sấu, sâng, lát hoa, chò chỉ, chò đãi,...
Tầng dưới là mạy tèo, teo nông
Phân bố
Loại hình rừng này phân bố tập trung ở các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa và một số đảo trong vịnh Bắc bộ: Cát Bà, Hạ Long. |
David Michael Bautista (sinh ngày 18 tháng 1 năm 1969), anh được biết đến với tên võ đài Batista, là một đô vật chuyên nghiệp đã nghỉ hưu, võ sĩ kiêm diễn viên người Mỹ gốc PhilippinesHy Lạp. Với tư cách đô vật chuyên nghiệp, anh từng thi đấu cho World Wrestling Entertainment (WWE) từ năm 2002 đến năm 2010, trong năm 2014 và từ năm 2018 đến 2019. Ngoài đấu vật chuyên nghiệp, anh còn được biết đến với sự nghiệp diễn xuất, đáng chú ý nhất là nhân vật Drax the Destroyer trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel.
Bautista bắt đầu sự nghiệp đô vật của mình vào năm 1999, và vào năm 2000, anh ký hợp đồng với World Wrestling Federation lúc bấy giờ (WWF, đổi tên thành WWE vào năm 2002). Từ năm 2002 đến 2010, anh nổi tiếng với biệt danh danh Batista và trở thành nhà vô địch thế giới sáu lần khi vô địch hạng nặng thế giới bốn lần và hai lần vô địch WWE. Triều đại đầu tiên của anh với chức vô địch hạng nặng thế giới là triều đại dài nhất cho danh hiệu đó với 282 ngày. Anh ấy cũng đã ba lần tổ chức chức vô địch World Tag Team (hai lần với Ric Flair và một lần với John Cena) và chức vô địch WWE Tag Teammột lần (với Rey Mysterio). Anh là người chiến thắng trong trận đấu Royal Rumble năm 2005 và tiếp tục giành chức vô địch WrestleMania 21, một trong năm sự kiện trả tiền cho mỗi lần xem có doanh thu cao nhất trong lịch sử đấu vật chuyên nghiệp. Sau khi rời WWE vào năm 2010, anh ấy tái ký hợp đồng vào tháng 12 năm 2013, xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 1 năm 2014 và giành chiến thắng trong trận đấu Royal Rumble năm đó. Anh ấy đã đặt tiêu đề WrestleMania XXX trước khi một lần nữa khởi hành vào tháng 6 năm đó. Vào tháng 10 năm 2018, Bautista đã trở lại WWE lần thứ hai và đối mặt với Triple H tại WrestleMania 35 vào tháng 4 năm 2019, trước khi từ giã sự nghiệp đấu vật.
Bautista bắt đầu diễn xuất vào năm 2006 và đã đóng vai chính trong The Man with the Iron Fists (2012), Riddick (2013), phim James Bond Spectre (2015), Blade Runner 2049 (2017), Army of the Dead và Dune (cùng năm 2021). Trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel, anh đã đóng vai Drax the Destroyer trong các phim Guardians of the Galaxy (2014), Guardians of the Galaxy Vol. 2 (2017), Avengers: Infinity War (2018) và Avengers: Endgame (2019). Anh cũng đã xuất hiện trong một số bộ phim direct-to-video kể từ năm 2009.
Vào tháng 8 năm 2012, Bautista ký hợp đồng với Classic Entertainment & Sports để chiến đấu trong các môn võ tổng hợp (MMA). Anh ấy đã giành chiến thắng trong cuộc đấu MMA duy nhất của mình vào ngày 6 tháng 10 năm 2012, đánh bại Vince Lucero bằng loại trực tiếp kỹ thuật ở vòng đầu tiên.
Sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp
Khởi đầu sự nghiệp
Batista từng cố gắng để được thi đấu tại WCW Power Plant nhưng Sgt. Buddy Lee Parker khẳng định rằng anh không có khả năng để theo đuổi môn đấu vật. Sau đó anh hợp tác với Afa Anoai và thi đấu cho WXW dưới tên Kahn.
Năm 2000 anh bắt đầu thi đấu tại Ohio Valley Wrestling và lập nhóm với Synn. Trong quá trình tại OVW anh được gọi là Leviathan. Khi còn là thành viên trong nhóm Disciples of Synn anh được mệnh danh là người bất khả chiến bại đến khi bị đánh bại từ Christmas Chaos bởi Kane (với sự giúp đỡ của Stone Cold Steve Austin). Sau đó anh thắng trận tranh đai vô địch hạng nặng OVW (OVW Heavyweight Championship) giữa Doug Basham. Sau khi thua trận giữa The Prototype, Synn cảm thấy Batista luôn tách rời trong nhóm và "bán rẻ" anh cho Reverend D-Von. Từ đó Batista bắt đầu sự nghiệp WWE (khi đó còn mang tên WWF) của mình.
World Wrestling Entertainment
Anh khởi đầu sự nghiệp WWE vào ngày 9 tháng 5 năm 2002, tại SmackDown! dưới tên Deacon Bautista. Trận đấu đầu tiên của anh tại WWE là trận cặp đôi với D-Von giữa Randy Orton và Faarooq, kết quả là Batista đánh bại Orton bằng đòn kết thúc spinebuster. Vài tuần sau, Orton cố gắng đánh bại D-Von và Batista với những đô vật khác nhưng đều thất bại. Sau khi đánh bại D-Von bằng đòn kết thúc Batista Bomb, anh thi đấu cho thể loại RAW và đổi tên thành Dave Batista (hoặc Batista).
2003–2006
Tháng 1 năm 2003, Batista gia nhập nhóm Evolution cùng với Triple H, Ric Flair và Randy Orton. Nhóm Evolution đã bảo vệ Triple H giành chiến thắng trong những trận bảo vệ đai trước các đối thủ Scott Steiner,Goldberg, Kane... bằng những cách đánh xấu. Sau khi Randy Orton đánh bại Chris Benoit để giành đai World HeavyWeight Championship, Triple H, Batista và Ric Flair trong lúc chúc mừng Orton đã tấn công Orton bằng cách đánh hội đồng. Sau đó, Evolution turn heel, Randy Orton turn face, và anh ta rời nhóm. Triple H thách đấu với Randy Orton để tranh World HeavyWeight Championship, và Batista là người đã bảo vệ Triple H trong những lần tấn công của Randy Orton. Tại PPV Royal Rumble 2005, anh và John Cena thắng trận Royal Rumble cùng một lúc, và đã có trận đấu lại, Batista đã giành chiến thắng. Sau đó, anh phát hiện ra rằng Triple H và Ric Flair đang có ý định đẩy anh sang SmackDown! để tranh đai WWE Championship bên hãng đó với mục đích để Batista không có ý định chọn Triple H là đối thủ để tranh đai World HeavyWeight Championship tại Wrestlemania 21. Trong 1 show Raw, Triple H đã tổ chức 1 buổi lễ để Batista quyết định sẽ ở lại Raw hoặc sang SmackDown!, ban đầu anh định ký bên SmackDown!, nhưng phút cuối anh đã tấn công Triple H và Ric Flair, chính thức rời nhóm, turn face, và chọn Triple H làm đối thủ tại Wrestlemania 21. Sau đó anh đã ký lại hợp đồng với bên Raw. Tại Wrestlemania 21, anh đã đánh bại Triple H để lần đấu tiên giành đai World HeavyWeight Championship. Sau đó, Triple H đã đòi tranh đai lại liên tục, nhưng Batista đã xuất sắc giữ được đai ở các kì WWE Backlash, WWE Vengeance (trận kì này là Hell In A Cell Match). Sau đó, anh bị chấn thương, phải từ bỏ đai và rời WWE một thời gian. Vào năm 2006, anh đã trở lại và muốn tranh đai với đương kim World HeavyWeight Champion lúc bấy giờ là King Booker. Vào ngày 26 tháng 11 năm 2006, anh đã giành chiến thắng trước King Booker, lần thứ hai giành được đai World HeavyWeight Championship
2007
Vào ngày 1 tháng 4, ở trận Wrestlemania lần thứ 23, Batista đã để mất chức vô địch World Heavyweight Champion vào tay The Undertaker sau khi Undertaker dùng đòn Tombstone Piledriver. Đây là lần đầu Batista mất đai thực sự(lần mất đai trước là do anh bị chấn thương)và lần đầu tiên Undertaker có được danh hiệu World Heavyweight Championship. Sau đó, tại một buổi tối SmackDown!, anh có cơ hội tranh lại đai với Undertaker trong trận Steel Cage Match nhưng một lần nữa anh lại không lấy được đai, mặc dù anh và Undertaker thoát khỏi lồng cùng một lúc. Sau trận, Mark Henry lên tấn công Undertaker, và Edge dùng cặp tiền Money In The Bank để được tranh đai với Undertaker, và Edge đã chiến thắng. Batista muốn tranh đai với Edge. Tại PPV Judgmentday 2007, anh đã thua Edge do Edge đã pinfall anh. Tại One Night Stand, anh cũng thua Edge trong trận Steel Cage Match do Edge đã nhanh chân thoát khỏi lồng trước. Sau đó, anh có vẻ đã từ bỏ cơ hội tiếp tục theo đuổi đai World HeavyWeight Championship, anh chuyển qua thù với The Great Khali. Trong khi đó thì Kane đang nhắm tới đai World HeavyWeight Championship, liên tục hù dọa Edge, điều đó làm Edge sợ, phải từ bỏ đai để chạy trốn khỏi Kane. Nhưng thực ra Edge đã bị chấn thương, nên phải rời WWE, tương tự như Batista đã bị vào năm 2005. Vì chiếc đai bấy giờ vô chủ, ban quản lý SmackDown! đã tổ chức một trận Royal Rumble, với sự tham gia của tất cả các ss SmackDown!, trong đó có 3 đối thủ nặng ký là Batista, Kane, The Great Khali. Và cuối cùng Khali đã lấy được đai, sau khi loại 2 người cuối cùng là Kane và Batista. Cũng trong tối hôm đó, anh đấu với Kane để xác định người vào đấu với The Great Khali để tranh đai World HeavyWeight Championship tại WWE Great American Bash 2007. Trận đấu đã kết thúc với kết quả hòa khi Khali lên phá, Batista và Kane đã tấn công Khali. Với kết quả đó, sẽ có trận Triple Threat Match giữa anh, Kane và Khali để tranh đai World HeavyWeight Championship. Nhưng một lần nữa anh không thể thắng được, Khali vẫn giữ đai. Tại Summer Slam 2007, anh đấu với The Great Khali, anh lại thua Khali. Trong kì Summer Slam 2007, bạn thân anh là Rey Mysterio đã trở lại, và sau đó có cơ hội tranh đai với Khali khi đã thắng trận cuối cùng với Batista trong loạt trận chọn người vào đấu với Khali, nhưng sau đó Teddy Long lại thông báo sẽ có trận Triple Threat Match giữa anh, Rey Mysterio và Khali để tranh đai tại PPV Unforgiven. Trong những phút cuối, anh đã Batista Bomb Rey Mysterio lên người Khali, sau đó Spinebuster lên Khali, sau đó pin và anh đã lấy được đai World HeavyWeight Championship lần thứ 3. Khali đòi tranh đai lại tại PPV No Mercy, và trận đấu sẽ là trận sở trường của Khali, trận Punjabi Prison Match. Trong trận này, Batista đã có cú bay người từ bên lồng này qua lồng khác, và anh đã tuột xuống thay vì leo, và vẫn giữ được đai. Undertaker đã trở lại, và muốn tranh đai với anh tại Cyber Sunday, trọng tài là Stone Cold Steve Austin. Batista phải dùng tới 2 Batista Bomb mới hạ được Undertaker, anh vẫn giữ được đai. Tại PPV Survivor Series, anh đấu lại với Undertaker trong trận Hell In A Cell Match. Trong trận này, Undertaker cũng phải dùng tới 2 chiêu Tombstone Piledriver lên anh. Nhưng may mắn là anh vẫn giữ được đai vì Edge đã âm thầm trở lại, giả dạng làm thợ quay phim và lúc Undertaker đang pin Batista, Edge đã dùng máy quay và tấn công Undertaker. Việc Edge trở lại, đồng nghĩa với anh ta muốn tham gia tranh đai với Batista và Undertaker, dẫn đến trận Triple Threat Match giữa anh, Undertaker và Edge để tranh World HeavyWeight Championship. Trong trận, Edge đã thuê Curt Hawkins & Zack Ryder giả dạng thành Edge để phụ anh ta đánh Batista và Undertaker. Khi Undertaker đang pin Batista sau chiêu Tombstone Piledriver, Edge đã dùng ghế đánh Undertaker và chạy lại pin Batista, Edge trở thành new World HeavyWeight Champion
2008–2010
Anh đã tham gia trận Royal Rumble nhưng bị loại bởi Triple H và John Cena. Anh cũng đã tham gia trận Elemination Chamber Match, nhưng đã bị The Undertaker cho 1 chiêu Tomstone.Tại Wrestlemania, anh đấu với Umaga trong trận Raw vs SmackDown!, anh đã chiến thắng khi Batista Bomb lên Umaga.Trong 1 show của RAW, anh đã được chuyển sang thi đấu cho RAW. Anh cũng đã từng giành đai World Tag Team Championship với John Cena. Nhưng đúng 1 tuần sau, cả hai đã thua Cody Rhodes và Ted DiBiase. Quá tức giận, cả hai đã nhảy vào đánh nhau. Tại WWE SummerSlam 2008, John Cena đấu với anh. Và kết quả Batista đã cho Cena 2 cú Batista Bomb và khiến Cena bị chấn thương sau đó. Tại WWE Survivor Series. Đội của anh đã thua đội của Randy Orton sau khi anh nhận được 1 cú RKO. Trong 1 show của RAW anh đã bị Randy Orton sút vào đầu và phải nghỉ thi đấu 4 tháng. Vào tháng 4 anh đã trở lại cùng Triple H và Shane McMahon tấn công Legacy
Tại WWE Judment Day, anh đấu cùng Randy Orton tranh đai WWE Championship, anh đã thắng bằng DQ nhưng không giành được đai. Ngay sau trận Ric Flair xuất hiện và cùng anh tấn công Legacy. Tại WWE Extreme Rules, anh đã thắng Randy trong trận Steel Cage Match và giành được đai. Đây là lần đầu tiên Batista giành được đai này. Nhưng đúng 1 ngày sau, Randy Orton và Legacy tấn công Anh làm anh bị chấn thương khá nặng ở bắp tay. Trong chương trình của RAW ngày 29 tháng 6 năm 2009, Batista đã trở lại, nhưng trong vai trò là một vị khách mời đặc biệt(vai trò khách mời đặc biệt cũng giống như General Manager, nhưng mỗi tuần lại có 1 vị khách đặc biệt)
Tại house show RAW được tổ chức vào ngày 14/09/2009 anh đã quay lại và đã có một chiến thắng trước Randy Orton
Sau khi đánh thắng Randy Orton, Batista chuyển sang thi đấu cho Smack Down. Anh đã trở lại một cách ấn tượng khi lần lượt đánh bại Chris Jericho và Big Show. Táo bạo hơn, anh đã hợp tác với bạn mình là Rey Mysterio để thách đấu với Chris Jericho và Big Show để giành đai Unifed Tag Team Champion. Nhưng họ đã thất bại. Ở chương trình Bragging Rights, Batista đấu với World Heavy Weight Champion -Undertaker, CM Punk và Rey Mysterio để giành đai World Heavy Weight Champion. Khi anh sử dụng chiêu Batista Bomb và đang pin The Undertaker, Rey đã nhảy vào cản anh và pin ké, khiến Batista rất tức giận. Sau khi The Undertaker giành chiến thắng và vẫn giữ được đai, Rey đã đến nâng Batista dậy, nhưng anh không hài lòng vì Rey nhảy vào cản.Batista chính thức chuyển thành vai xấu (Heel), Và anh đã tấn công Rey rất dữ dội với hai cú đạp khủng khiếp, mặc cho Rey xin tha. Ở show SmackDown, anh tuyên bố không còn xem Rey là bạn thân nhất nữa, và 2 người sẽ trở thành kẻ thù. Anh cũng đã tấn công 1 superstar khác là Matt Hardy cũng giống với khi làm với Rey. Batista và Rey Mysterio có một trận đấu tại WWE Survivor Series. Do anh to con hơn Rey nên dễ dàng chiếm ưu thế phần lớn thời gian thi đấu. Ở những phút cuối, anh đã sử dụng 1 chiêu Spear, 1 chiêu Spinebuster, và kinh khủng hơn là 3 lần dùng chiêu cuối Batista Bomb. Và trước khi rời võ đài, anh đã Spinebuster Rey 1 lần nữa lên ghế, và hậu quả là Rey phải vào viện. Tại show Raw sau Survivor Series, khi anh đang nói chuyện với khán giả, Kane đi ra và thách đấu với anh. 2 người có 1 trận #1 Contender Match for World Title Match, và anh đã thắng bằng cách lừa đảo khi khi cầm ghế đập Kane sau tường chắn khán giả mà trọng tài không thể thấy (nếu thấy Batista có thể sẽ bị thua bằng cách DQ(Disqualication) và Kane sẽ nghiễm nhiên thắng). Tại WWE TLC, anh sẽ đấu với The Undertaker trong trận Chair Match. Tại WWE TLC, lợi dụng lúc trọng tài bị Undertaker ép vào góc võ đài, anh đã sử dụng chiêu Dirty (chơi xấu) với Undertaker, làm Undertaker bị đau và Batista cầm ghế phang mạnh vào đầu ông. Batista thắng nhưng chủ tịch SmackDown!, Theodore Long, đi ra và thông báo ông không đồng ý cách chơi xấu đó của Batista, và trận đấu sẽ được tiếp tục. Batista phản đối nhưng anh vẫn buộc phải lên võ đài và chiến đấu tiếp. Undertaker đã tức giận và cầm ghế phang nhiều lần vào Batista, và kết liễu anh sau đòn Tombstone. Undertaker vẫn giữ đai. Tại show SmackDown! kế tiếp, Batista đấu lại với đối thủ 1 thời là bạn thân của anh, Rey Mysterio, để giành suất vào đấu tranh đai với Undertaker trong show kế tiếp. Nhưng anh đã thua. Gần đây nhất trong show Smackdown beat the clock. Anh có một trận đấu với R-truth. Khi anh định pin truth, Rey đã kéo trọng tài và làm trận đấu hết giờ. Lúc sau, Vickie Guerero đi ra và nói rằng rey bắt buộc phải chơi xấu Dave. Vickie cũng công bố sẽ có 1 trận #1 Contender Match của anh với Rey để xem ai sẽ tham gia đánh với the undertaker trong royal rumble. Trong sự kiện Elimination Chamber anh đã giành được đai wwe champion từ tay của jonh cena sau khi spear và batista bomb lên john cena. Tại PPV Wrestlemania 26, anh sẽ tái đấu với John Cena để tranh đai WWE Championship. Tại Wrestlemania 26, anh đã dính chiêu FU của John Cena nhưng không thua. Nhưng anh đã thua do bị Cena dùng chiêu khóa STF, và anh đã tap out, đồng nghĩa với việc anh mất đai WWE Championship. Sau đó, anh đã tấn công John Cena và tuyên bố muốn giành lại đai với anh ta tại PPV Extreme Rules, và trận đấu sẽ là Last Man Standing Match. Nhưng cuối cùng vẫn thất bại dưới tay John Cena. Trong trận Over The Limit John CeNa đã dùng chiêu FU lên Batista từ trên xe hơi rơi xuống nền gỗ khiến anh bị chấn thương. Đồng nghĩa với việc anh bị thất bại. Và Batista đã kết thúc sự nghiệp đô vật, nhưng theo một số thông tin thì anh sẽ quay lại trong năm 2013.
2014
Ngày 20/1/2014, Batista trở lại Raw sau 4 năm vắng bóng, anh đã cắt ngang cuộc đàm thoại giữa Triple H và Stephanie McMahon với Randy Orton. Anh thách đấu với Randy để giành giấy chiếc đai World Heavyweight Champion. Ngay trong show Raw 20/1/2014, Batista tấn công Alberto Del Rio bằng chiêu Spinebuster và kết thúc bằng đòn Batista Bomb nổi tiếng.
Ngày 26/1/2014, tại Royal Rumble 2014, Batista xuất phát ở vị trí số 28, đặc biệt vào năm 2005, anh cũng xuất phát ở vị trí số 28. Sau khi loại Sheamus và Roman Reigns, Batista giành chiến thắng và đoạt chiếc vé cho WWE World Heavyweight Championship với Randy Orton tại Wrestle Mania XXX, nhưng bất ngờ khi loại Roman Reigns thì anh bị khán giả phản đối (boo) dữ dội. Tại RAW và Smackdown, Batista sinh mối thù với Daniel Bryan, Randy Orton và The Authority. Anh liên tục xen vào các trận đấu hay buổi nói chuyện của họ. Anh bị thua trước Sheamus sau khi dùng ghế tấn công. Batista có mặt trong trận đấu 3 tranh đai vô địch nhưng lại thua Daniel Bryan sau khi dính Yes Lock.Sau đó anh trở thành đồng đội với Randy Orton và có trận đấu với The Usos và trận đấu kết thúc mà không có đội thắng. Sau đó họ lại có trận đấu với Usos và bị cắt ngang không rõ lý do của The Shield. Từ đó Evolution lại tái hợp. Anh đã có nhiều trận liên quan giữa mối thù với Shield và liên tục bị thua. Sau khi thua trận đấu tại No Hold Barred, Batista muốn Triple H chấm dứt mối thù với The Shield để tiến tới những mục đích tốt hơn cho anh nhưng HHH không nghe và anh quyết bỏ việc tại WWE. Theo thông tin cho biết anh về Holywood đóng phim Vệ binh dải Ngân Hà sắp chuẩn bị công chiếu.
Sự nghiệp diễn xuất
Bautista đã diễn xuất và đóng vai khách mời trong một số chương trình truyền hình với tư cách là chính anh và nhân vật Batista. Anh đóng vai khách mời trong tập thứ tám của mùa 6 của bộ phim truyền hình hành động / phiêu lưu truyền hình Smallville của Mỹ; anh đóng vai một người ngoài trái đất tên là Aldar trốn thoát khỏi Phantom Zone, người hút xương của mọi người để nuôi dưỡng. Vào tháng 6 năm 2009, Bautista xuất hiện với tư cách là chính mình trong một tập của vở opera xà phòng Neighbours của Úc. Năm 2010, anh xuất hiện trong một tập phim của Chuck. Anh ấy cũng đã xuất hiện trong Relative Strangers. Bautista đã làm việc cùng với Rob Van Dam, Marrese Crump và Ja Rule trong bộ phim hành động năm 2010 Wrong Side of Town.
Bautista xuất hiện với vai phản diện Brass Body trong bộ phim The Man with the Iron Fists của Universal Studios. Anh đóng vai Drax the Destroyer trong bộ phim Guardians of the Galaxy năm 2014 của Marvel Studios, đây là một thành công về mặt thương mại và phê bình. Anh đóng vai Mr. Hinx trong phim James Bond, Spectre (2015), và đóng vai phản diện Tong Po trong phần khởi động lại của bộ phim võ thuật Kickboxer năm 1989, cùng với Georges St-Pierre. Bautista đóng một vai nhỏ trong bộ phim khoa học viễn tưởng Blade Runner 2049, được phát hành vào năm 2017 với lời khen ngợi từ giới phê bình. Anh đóng lại vai Drax trong Guardians of the Galaxy Vol. 2, phát hành vào tháng 5 năm 2017, Avengers: Infinity War, phát hành vào tháng 4 năm 2018 và Avengers: Endgame, phát hành vào tháng 4 năm 2019.
Vào năm 2018, Bautista đã cùng các đồng nghiệp của mình ủng hộ đạo diễn James Gunn của Guardians of the Galaxy sau khi bị sa thải vì những dòng tweet cũ nói đùa về nạn ấu dâm và cưỡng hiếp. Bautista tuyên bố rằng nếu Disney (công ty mẹ của Marvel Studios) không sử dụng kịch bản của Gunn cho Guardians of the Galaxy Vol. 3, anh ấy sẽ yêu cầu được đúc lại, gọi cách bắn của Gunn là "buồn nôn". Cuối cùng, Gunn đã được phục hồi làm đạo diễn của bộ phim vào tháng 3 năm 2019. Vào ngày 24 tháng 5 năm 2021, trong lần xuất hiện trên The Ellen DeGeneres Show, ngôi sao đã xác nhận rằng Guardians of the Galaxy Vol. 3 sắp tới sẽ là lần xuất hiện cuối cùng của anh ấy với tư cách là nhân vật.
Bautista đóng vai chính trong Army of the Dead của Zack Snyder. Anh xuất hiện trong một vai phản diện trong Dune, một bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Frank Herbert. Được phát hành vào tháng 10 năm 2021, Dune nhận được nhiều đánh giá tích cực. Bautista sẽ xuất hiện trong phần tiếp theo của Knives Out cùng với Daniel Craig. Bautista sẽ đóng vai chính trong bộ phim phiêu lưu giả tưởng In the Lost Lands với Milla Jovovich, do Paul W.S. Anderson đạo diễn. Vào ngày 6 tháng 12 năm 2021, anh được chọn tham gia Knock At The Cabin do M. Night Shyamalan viết kịch bản và đạo diễn bởi M. Night Shyamalan.
Phim đã tham gia
Điện ảnh
Truyền hình
Trò chơi điện tử
Trong đấu vật
Đòn cuối và các tuyệt chiêu
Batista Bomb / Demon Bombs (Sitout powerbomb)batista bite
Spinebuster
Spear
Repeated turnbuckle thrusts
Running front powerslam
Running clothesline
Short-arm clothesline
Spinning side slam
Diving shoulder block
Quản lý
Synn
Reverend D-Von
Ric Flair
Biệt danh
"The Demon" - với tư cách là Leviathan
"The Demon of the Deep" - với tư cách là Leviathan
"Guardian of The Gates of Hell" - với tư cách là Leviathan
"The Animal"
Nhạc xuất hiện
"Line In The Sand" của Motörhead - với tư cách là thành viên của Evolution
"I Walk Alone", bản phối khí mới của Saliva
Batista đã chiếu đấu với Rey Mysterio và thế là Rey đã thua và năm 2011 Rey đã giành được đai wwe chapion
Các chức vô địch và danh hiệu
Ohio Valley Wrestling
OVW Heavyweight Championship (1 lần)
Pro Wrestling Illustrated
PWI xếp anh # 1 trong danh sách 500 đô vật hay nhất năm PWI 500 vào 2005.
PWI Most Improved Wrestler of the Year (Đô vật tiến bộ nhất) vào 2005
PWI Wrestler of the Year(Đô vật của năm) vào năm 2005
World Wrestling Entertainment
WWE Tag Team Championship (1 lần) - với Rey Mysterio
World Heavyweight Championship (List of WWE World Heavyweight Championsip 4 lần)
Championship (WWE)|WWE Championship (2 lần)
World Tag Team Championship (2 lần) - với Ric Flair
Royal Rumble (2005)
Wrestling Observer Newsletter
Feud of the Year (Mối thù của năm) vào 2005 - vs Triple H
Feud of the Year (Mối thù của năm) vào 2007 - vs The Undertaker
Most Overrated Wrestler vào 2006 |
Hội Tin học Việt Nam (tên giao dịch tiếng Anh là Vietnam Association for Information Processing, viết tắt VAIP) là tổ chức xã hội - nghề nghiệp tự nguyện của những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, quản lý, kinh doanh, phổ biến và ứng dụng công nghệ thông tin- truyền thông.
Mục tiêu của VAIP là tập hợp lực lượng để góp phần đẩy mạnh các hoạt động về công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và khoa học công nghệ tại Việt Nam.
Hình thành
VAIP được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) Việt Nam ra quyết định thành lập số 312QĐ/HĐBT ngày 17/12/1988. VAIP là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp phi chính phủ, là thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, thành viên của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Công nghệ Thông tin, thành viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Từ năm 2003, VAIP là thành viên chính thức của Liên minh Công nghệ Thông tin - truyền thông châu Á (Asia ICT Confederation - AIC).
Thông tin về Hội Tin học Việt Nam
Phương châm hoạt động: "Đoàn kết - Hợp tác vì sự phát triển CNTT-TT Việt Nam"
Người sáng lập và chủ tịch đầu tiên: Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đình Diệu.
Chủ tịch hiện nay: Tiến sĩ Bùi Mạnh Hải, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.
Cơ quan ngôn luận của Hội Tin học Việt Nam là: Tạp chí Tin học và Đời sống
Ngoài ra còn có: Chuyên san Tin học và Nhà trường; Tạp chí Tin học - Chỉ dẫn và Tìm kiếm.
Hoạt động
Tổ chức Tuần lễ Tin học Việt Nam cùng với triển lãm CNTT-TT
Tổ chức Olympic Tin học Sinh viên Việt Nam
Tổ chức kỳ thi lập trình quốc tế ACM/ICPC khu vực châu Á
Phối hợp tổ chức hội thi Tin học Trẻ
Tổ chức Hội nghị các Hội Tin học thành viên
Đồng tổ chức hội thảo Hợp tác Phát triển CNTT-TT Việt Nam.
Chủ trì Giải CUP vàng CNTT-TT Việt Nam cho các lĩnh vực CNTT-TT.
Đồng tổ chức Giải thưởng "ICT-Thắng sáng niềm tin" cho người tàn tật.
Phát triển và hỗ trợ đào tạo, phổ cập kiến thức tin học cho toàn xã hội
Xuất bản tạp chí Tin học & Đời sống, chuyên san Tin học & Nhà trường, Tin học Chỉ dẫn & Tìm kiếm
Chủ trì và duy trì các trang thông tin hoạt động hội www.vaip.org.vn và trang hoạt động www.itweek.org.vn
Phối hợp với Ban Chuyên đề Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng thường kỳ chuyên đề ứng dụng CNTT-TT trên các kênh VTV.
Tham gia tư vấn, phản biện và giám định xã hội các chính sách, dự án CNTT.
Tham gia đại diện trong các hoạt động và đóng góp ý kiến cho các chủ chương, chính sách quan trọng về định hướng phát triển CNTT-TT Việt Nam.
Thực hiện báo cáo đánh giá mức độ sẵn sàng cho ứng dụng CNTT-TT qua Việt Nam ICT index hàng năm.
Chủ trì các chương trình xúc tiến thương mại Quốc gia cho cộng đồng doanh nghiệp CNTT-TT.
Các hoạt động phối hợp với các Cơ quan, tổ chức CNTT-TT Việt Nam và Quốc tế, các hoạt động phối hợp giữa các Hội, hiệp hội xã hội nghề nghiệp có uy tín tại Việt Nam. Các hoạt động phối hợp với các Hội Tin học thành viên.
Lãnh đạo qua các thời kỳ
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Phan Đình Diệu: Chủ tịch sáng lập
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Bạch Hưng Khang: Chủ tịch khóa 2.
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Đình Ngọc: phó Chủ tịch.
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Quang A: Chủ tịch khóa 3
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lãm: phó chủ tịch
Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ: Chủ tịch;
Tiến sĩ Bùi Mạnh Hải: Chủ tịch hiện nay |
Olympic Tin học Sinh viên Việt Nam là kì thi tin học lớn nhất dành cho sinh viên hiện nay. Mục đích của cuộc thi nhằm khuyến khích phong trào học tập, rèn luyện, nghiên cứu sáng tạo CNTT-TT của sinh viên trong các trường Đại học, cao đẳng. Theo thông lệ, Olympic Tin học được tổ chức vào tháng 10 - tháng 11 hàng năm. Thời điểm này đã được coi như những ngày Hội của sinh viên yêu thích CNTT-TT được tuyển chọn qua các kỳ thi từ các trường Đại học và Cao đẳng, những người có ý chí rèn luyện, tự tin bước vào một cuộc đấu trí hấp dẫn, đòi hỏi sự thông minh, sáng tạo. Cũng qua các kỳ OLP, các lớp sinh viên có dịp tự khẳng định mình, đồng thời tự đánh giá trình độ của mình trên bước đường sự nghiệp.
Khối thi
Khối cá nhân chuyên Tin học
Khối cá nhân không chuyên Tin học
Khối Cao đẳng |
Olympic tin học có thể là một trong các kỳ thi sau:
Olympic Tin học Quốc tế
Olympic Tin học Sinh viên Việt Nam |
Nói lắp hay cà lăm là một chứng tật về khả năng nói khá phổ thông. Người mắc tật này mặc dù biết rõ mình muốn nói câu gì nhưng khi phát âm thường phải lặp lại các âm nhiều lần hay kéo dài một âm lâu trước khi phát ra tiếng kế tiếp. Hiện tượng nói lắp thường hay gặp phải đối với những người nói nhanh hay bị vấp và có thể sửa được khi còn nhỏ.
Nói lắp có nhiều dạng - có thể xảy ra cùng lúc trong một câu:
Ngập ngừng im lặng hồi lâu trước khi bắt đầu câu nói
Câu nói bị đứt quãng nhiều lần ("Tôi... tên... là Nguyễn Văn.... X")
Lặp lại một chữ nhiều lần ("Tôi tên-tên-tên-tên là Nguyễn Văn-Văn X"
Kéo dài một âm lâu như để chờ chuẩn bị âm kế tiếp ("Tôi tê-ê-ê-ê-ê-ê-ên là Nguyễn Văn X")
Xảy ra cùng lúc ("........ Tô-ô-ô-ô-ô-ô-ôi.... tê-ê-ê-ê-ê-ê-ê-ên..... là-là-là-là-là-là.... Nguyễ-ễ-ễ-ễn.... Văn-Văn-Văn-Văn.... X-X-X...")
Ở một số người, nói lắp đi kèm theo những động tác tự động như ngoẹo cổ, liếm môi, chắt lưỡi, dậm chân hay chớp mắt liên tục.
Trẻ em khi mới bắt đầu học nói có thể nói "lúng búng" vì không kịp nghĩ ra từ ngữ thích hợp - hiện tượng này không phải là nói lắp như định nghĩa.
Dịch tễ học
Tuổi bắt đầu từ 2-5
Xảy ra trong mọi ngôn ngữ, tầng lớp xã hội và chủng tộc nhưng có thể do di truyền.Trẻ em nói lắp thường có cha hay mẹ cũng nói lắp (ngay cả trường hợp cha mẹ chỉ nói lắp khi còn bé)
5% trẻ em bị tật nói lắp nhưng chỉ 1% tiếp tục nói lắp khi lớn lên.
Số nam bị nói lắp gấp 3 lần nữ
Một số trẻ lắp có thể sẽ tránh nói và bị đoán nhầm là mắc chứng câm.
Nói lắp không có liên hệ đến phát triển tính thông minh. Tuy vậy nhiều trẻ nói lắp bị la rầy, chê cười hay bêu riếu sẽ có những triệu chứng tâm thần như mắc cỡ, né sợ, lơ đãng, hoặc trở nên khó chịu, thô bạo, giận dữ, v.v....
Người nói lắp thường không bị lắp khi nói thầm hay khi hát.
Những yếu tố quan hệ
Trẻ em bị tật nói lắp sẽ nói lắp hơn khi bị lo sợ, căng thẳng như khi phải phát biểu trước cả lớp hay chỗ lạ, khi giận tức, khi bị thúc hối, hay đang tranh cãi với người khác. Đôi khi trẻ muốn nói điều gì với cô giáo nhưng không tranh nói kịp bè bạn sẽ lắp bắp nhiều hơn - kết quả nhiều trẻ sẽ "bỏ cuộc", trở nên ít nói và từ đó bị thua thiệt trong lớp.
Phần lớn (65%) trẻ nói lắp sẽ từ từ biết nói chậm lại và khi có đủ tự tin sẽ dần dần bớt bị lắp. Nhưng nếu 12 tháng sau khi bắt đầu nói lắp mà vẫn không bớt thì cha mẹ nên cho đi bác sĩ để trị chữa vì nếu bị lâu như vậy tật sẽ không thuyên giảm. Nếu không chữa sớm (trước 5 tuổi - tốt nhất là độ 2 tuổi rưỡi), trẻ sẽ tìm cách tự giải quyết bằng những phương cách không đúng (như dùng chữ tương tự, đồng nghĩa, nói quá chậm, dùng sai chữ, dùng chữ tổng quát như "cái ấy", "gì gì đó") và quen tật này luôn và sẽ rất khó sửa chữa.
Nguyên nhân
Tuy đã có nhiều nghiên cứu về chứng tật nói lắp, chưa có nghiên cứu nào thực sự chứng minh hay giải thích được nguyên nhân của chứng này. Một số khái niệm về nguyên nhân của nói lắp được đưa ra như sau:
Trong thời kỳ phát triển: Khi trẻ em bắt đầu nói sẽ lắp bắp tìm chữ và thường tự thúc hối nói cho nhanh những gì mình đang nghĩ ra mà chữ thì không có sẵn. Hiện tượng này thường tự biến giải khi trẻ lớn đủ. Trong những trường hợp nói lắp kéo dài sau 12 tháng, có thể là do sự phát triển không bình thường của não bộ. Gần đây có nhiều nghiên cứu liên hệ tật nói lắp với người nam thuận tay trái .
Thần kinh hệ: Nói lắp có thể do một khúc mắc nào đó giữa trung tâm ngôn ngữ trong não bộ và hệ cơ của môi lưỡi và hộp phát âm. Do đó có sự trục trặc điều hành sắp xếp câu cú. Người lớn tuổi bị tai biến mạch máu não có thể bị nói lắp.
Rất ít trường hợp là do tật nói quá nhanh, suy nghĩ chậm, logic kém hay tâm thần bấn loạn.
Chữa trị
Tuy hiện nay chưa có cách trị dứt tật cà lăm, chuyên viên y tế về giọng nói (tiếng Anh: Speech Pathologist) có nhiều cách chẩn đoán và giúp trẻ em tập nói cho câu cú trôi chảy hơn.
Chú ý: Khoảng cuối thập niên 60 có giả thuyết cho rằng nói lắp là do tâm lý khúc mắc gây nên. Theo những bác sĩ này thì nếu trẻ bị làm nhục nhã xấu hổ quá độ sẽ tự động sửa chữa mà hết nói lắp . Đây là giả thuyết hoàn toàn không có căn cớ và nên tránh vì sẽ không có hiệu quả mà chỉ gây tổn thương tinh thần và tâm lý trẻ em.
Cha mẹ nên:
Tạo hoàn cảnh thư giãn trong gia đình để trẻ không có cảm tưởng bị hối thúc khi muốn nói điều gì
Nói chuyện với trẻ chậm rãi. Trẻ sẽ học cách nói này và dễ tìm ra từ ngữ trước khi phát âm
Tránh nói giùm cho hết câu - kiên nhẫn chờ cho trẻ tìm ra chữ và khen ngợi sau đó
Tránh đòi hỏi trẻ "biểu diễn nói" với người khác.
Tránh làm trẻ bị xấu hổ
Tránh la rầy hay chê cười
Chịu khó chăm chú nghe trẻ nói
Nếu trẻ bị lắp nên bàn thật lòng về vấn đề - đừng tránh né sự thật.
Những người nổi tiếng
Nhiều người bị nói lắp nhưng tập được khả năng chuyển cách phát câu thành một hình thức "phát biểu" hay "biểu diễn giọng" để cho câu trôi chảy. Những nhân vật nổi tiếng sau đây là những ngươì bị lắp nhưng có thể nói luông tuồng trước công chúng hay máy quay phim mà không bị vấp váp: tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ Joe Biden, thủ tướng Anh Winston Churchill, tài tử Marilyn Monroe, tài tử James Earl Jones, tài tử Bruce Willis, tài tử Jimmy Stewart, ca sĩ Carly Simon, ca sĩ Mel Tillis.
Chú thích
Thần kinh học
Chẩn đoán tâm thần |
Hầu đồng, hay còn gọi là hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian và tôn giáo thờ nữ thần mẹ Đạo Mẫu dòng Shaman giáo của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. |
Nguyễn Hữu Dật (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều cuộc Nam tiến của chúa Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong, được phong chức Chiêu Vũ hầu. Sau khi mất, ông được nhân dân ở Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá Xạ.
Dòng tộc
Theo phả hệ họ Nguyễn, Nguyễn Hữu Dật là cháu 18 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà Đinh, và là cháu 7 đời của công thần Nguyễn Công Duẩn Nhà Lê sơ. Cũng theo phả hệ này thì chi của Nguyễn Hữu Dật và chi chúa Nguyễn (Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng) đều là con cháu Nguyễn Công Duẩn, nhưng chi của ông Dật là chi trên.
Tiểu sử
Nguyễn Hữu Dật quê ở Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá (nay là làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá). Cha ông là Nguyễn Triều Văn, tước Triều Văn hầu, theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa từ năm 1609 và chính thức định cư tại huyện Phong Lộc tỉnh Quảng Bình.
Từ nhỏ, Nguyễn Hữu Dật đã tỏ ra là người thông minh lanh lợi. Được dạy dỗ từ nhỏ, năm 16 tuổi Hữu Dật đã sớm bộc lộ tài năng cả văn lẫn võ, thi đỗ khoá thi Hoa văn do chúa Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức, rồi được bổ vào chức Tham cơ vụ. Nguyễn Hữu Dật cũng tỏ ra là người nhiều cơ mưu, đã dâng nhiều mẹo hay cho chúa Nguyễn đánh lui các đợt tấn công của quân Trịnh.
Năm 1627, chúa Trịnh Tráng mang quân Nam tiến lần thứ nhất. Nguyễn Hữu Dật được làm chức Giám chiến, cùng tướng Phúc Vệ mang quân ra đóng ở nam sông Gianh. Khi hai bên đang giằng co, ông sai người phao tin phía bắc Trịnh Gia, Trịnh Nhạc sắp dấy loạn. Trịnh Tráng nghi ngờ trong họ sinh biến nên hạ lệnh rút quân về.
Năm 1631, ông theo Đào Duy Từ đắp lũy Nhật Lệ (tục gọi là lũy Thầy), một chiến lũy quan trọng giúp quân Nguyễn, vốn có lực lượng mỏng hơn, cầm cự được với quân Trịnh trong các cuộc giao tranh. Năm 1634, Đào Duy Từ mất, Nguyễn Hữu Dật tiếp tục trùng tu lũy Thầy và lũy Trường Dục. Ông xây lũy Trường Sa (1633), An Náu (1660) Trấn Ninh (1662) và Sa Phụ (1662) để củng cố tuyến phòng thủ.
Trận đánh nổi tiếng nhất của Nguyễn Hữu Dật là năm 1648, cả cha con ông cùng ra quân. Nguyễn Triều Văn lĩnh quân thủy, Hữu Dật lĩnh quân bộ, đánh thắng quân Trịnh một trận lớn. Ông được chúa Nguyễn thăng chức cai cơ, làm Ký lục dinh Bố Chính.
Tương truyền mỗi lần được chúa Nguyễn ban thưởng, ông thường chia cho cấp dưới, nhất là những người nghèo khó, hoặc xét theo hoàn cảnh mà ban thưởng. Bởi vậy ông rất được lòng tướng sĩ và nhân dân. Không những thế, đối với tù binh, ông cũng đối xử rất nhân hậu.
Năm 1650, Nguyễn Hữu Dật định dùng kế trá hàng chúa Trịnh, viết thư hẹn về hàng Bắc Hà. Tôn Thất Tráng liền tâu chúa Hiền rằng ông muốn theo chúa Trịnh. Nguyễn Phúc Tần liền bắt giam ông. Trong ngục, ông viết tập thơ ‘‘'Hoa Văn cáo thị'’’, tỏ nỗi oan khuất. Chúa Hiền lại tha ông ra, sai làm tướng.
Năm 1661, ông được thăng làm chưởng cơ, trấn thủ dinh Bố Chính. Cuối năm đó con chúa Trịnh Tạc là Trịnh Căn mang quân vào đánh. Ông dùng kế "vườn không nhà trống", sai dồn hết dân vào trong lũy nên ít bị tổn hại. Sang năm 1662, ông cùng Nguyễn Hữu Tiến lại đắp thêm lũy Trấn Ninh và lũy Sa Phụ, làm thế ỷ dốc cứu ứng lẫn nhau cả đường thủy và đường bộ. Năm 1664, Hữu Tiến bị bệnh, ông được cử làm Chưởng dinh kiêm Tiết chế đạo Lưu Đồn.
Năm 1672, chúa Trịnh Tạc tấn công lũy Trấn Ninh hàng tháng không hạ được, đành rút quân về bắc. Từ đó hai bên đình chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới.
Năm 1681, Nguyễn Hữu Dật mất tại đạo Lưu Đồn, thọ 78 tuổi. Chúa Nguyễn thương tiếc truy tặng ông là Chiêu quận công, thụy là Cần Tiết. Nhân dân quanh vùng cảm đức độ đã lập đền thờ ông ở xóm Bến, Vạn Xuân (huyện Phong Lộc), gọi là đền Tĩnh Quốc công.
Từ đó đến nay, tên của ông được đặt tên cho một số con đường và trường học tại Việt Nam.
Các con
Nguyễn Hữu Dật có nhiều con, nổi tiếng nhất là Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Kính (tức Nguyễn Hữu Cảnh), cùng nối chí ông làm võ tướng phò chúa Nguyễn. Cả ba người đều có công mở mang đất Nam Trung Bộ và Nam Bộ nước Đại Việt.
Chú thích |
Thant (; ; ; 22 tháng 1 năm 190925 tháng 11 năm 1974), gọi kính trọng là U Thant () là một nhà ngoại giao người Myanmar và là Tổng Thư ký thứ ba của Liên Hợp Quốc từ năm 1961 đến năm 1971; là người châu Á đầu tiên giữ chức vụ này.
Thant có quê tại Pantanaw, ông theo học tại Trường trung học Quốc gia và tại Đại học Rangoon. Trong thời gian tình hình chính trị tại Miến Điện trở nên căng thẳng, ông giữ quan điểm ôn hòa và đặt bản thân giữa chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành và chủ nghĩa trung thành với Anh. Ông là một người bạn thân của thủ tướng đầu tiên của Miến Điện U Nu, và giữ một số chức vụ trong nội các của Nu từ năm 1948 đến năm 1961. Thant có thái độ bình tĩnh và khiêm tốn, giúp ông được các đồng sự kính trọng.
Ông được bổ nhiệm làm Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc vào năm 1961 sau khi người tiền nhiệm là Dag Hammarskjöld thiệt mạng trong một vụ rơi máy bay. Trong nhiệm kỳ đầu của mình, Thant tạo thuận lợi cho đàm phán giữa Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikita Khrushchev trong Khủng hoảng tên lửa Cuba. Tháng 12 năm 1962, Thant ra lệnh tiến hành Chiến dịch Grand Slam, kết thúc nổi loạn ly khai tại Congo. Ông được tái bổ nhiệm làm Tổng thư ký vào ngày 2 tháng 12 năm 1966. Trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, Thant nổi tiếng vì công khai chỉ trích hành vi của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam. Ông giám sát quá trình gia nhập Liên Hợp Quốc của một số quốc gia mới độc lập tại châu Phi và châu Á. Thant từ chối phục vụ nhiệm kỳ thứ ba và nghỉ hưu vào năm 1971, sau đó qua đời do ung thư phổi vào năm 1974.
Là một tín đồ Phật giáo nhiệt thành và là nhà ngoại giao Miến Điện đầu tiên phục vụ trên trường quốc tế, Thant được dân cư Miến Điện ngưỡng mộ rộng khắp và hết sức kính trọng. Khi chính phủ quân sự từ chối vinh danh ông, bạo loạn bùng phát tại Rangoon. Tuy nhiên, chính phủ đã tiến hành trấn áp mãnh liệt khiến hàng chục người tử vong.
Tiểu sử ban đầu
Thant là con cả trong bốn anh em, ông sinh tại Pantanaw, Miến Điện thuộc Anh trong một gia đình địa chủ và buôn gạo tương đối giàu có. Cha của ông là Po Hnit từng theo học tại Calcutta, Po Hnit là người duy nhất trong thị trấn có thể giao thiệp tốt bằng tiếng Anh. Po Hnit là thành viên sáng lập của Hội Nghiên cứu Miến Điện, và giúp thành lập báo The Sun (Thuriya) tại Rangoon. Mặc dù các thành viên trong gia đình ông thuộc dân tộc Miến và tôn sùng Phật giáo, song cha của Thant, theo lời Thant Myint-U (cháu ngoại của U Thant), có tổ tiên xa là "những người đến từ cả Ấn Độ và Trung Quốc, tín đồ Phật giáo và Hồi giáo, cũng như người Shan và người Mon". Po Hnit hy vọng rằng cả bốn người con trai của mình đều có bằng đại học. Những người con trai khác là Khant, Thaung, và Tin Maung trở thành các chính trị gia và học giả.
Po Hnit thu thập được một thư viện cá nhân gồm nhiều sách của Mỹ và Anh, và tạo thói quen đọc sách cho các con. Do đó, Thant trở thành một người mê đọc sách và bạn cùng trường gán biệt danh cho ông là "nhà triết học". Ngoài đọc sách, ông còn tham gia nhiều môn thể thao như đi bộ đường dài, bơi, và chơi Chinlone. Ông theo học tại Trường trung học Quốc gia tại Pantanaw. Năm 11 tuổi, Thant tham gia bãi khóa chống Đạo luật Đại học 1920. Ông có ước muốn trở thành một ký giả và khiến gia đình ngạc nhiên khi viết một bài cho tạp chí Union of Burma Boy Scouts (Liên hiệp nam hướng đạo sinh Miến Điện). Năm ông 14 tuổi, cha ông qua đời và một loạt tranh chấp thừa kế khiến cho mẹ của Thant là Nan Thaung cùng bốn người con lâm vào thời kỳ khó khăn về tài chính.
Sau khi cha qua đời, Thant tin rằng bản thân không thể lấy bằng cử nhân bốn năm và thay vào đó ông theo học hai năm lấy chứng chỉ sư phạm tại Đại học Rangoon vào năm 1926. Do là con cả, ông phải hoàn thành các nghĩa vụ làm con của mình và chịu trách nhiệm với gia đình. Tại đại học, Thant cùng với thủ tướng tương lai là Nu theo học lịch sử do D. G. E. Hall giảng dạy. Nu được một người họ hàng xa của cả hai nhờ chăm sóc cho Thant, và hai người sớm trở thành bạn thân. Thant được bầu làm đồng thư ký của Hiệp hội triết học tại đại học và thư ký của Hội Văn chương và Tranh luận. Tại Rangoon, Thant gặp J.S. Furnivall, người thành lập Câu lạc bộ Sách Miến Điện và tạp chí The World of Books- nơi Thant thường xuyên đóng góp. Furnivall thuyết phục Thant hoàn thành khóa đại học bốn năm và tham gia phục vụ công vụ song Thant từ chối. Sau khi có chứng chỉ, ông trở lại Pantanaw để giảng dạy tại Trường trung học Quốc gia với thân phận giáo viên cấp cao vào năm 1928. Ông thường xuyên tiếp xúc với Furnivall và Nu, viết bài và tham gia các cuộc thi dịch thuật của The World of Books.
Năm 1931, Thant giành giải nhất kỳ Khảo thí giáo viên toàn Miến Điện và trở thành hiệu trưởng ở tuổi 25. Thant thường xuyên đóng góp cho một số báo chí dưới bút danh "Thilawa" và dịch một số sách, trong đó có một cuốn về Hội Quốc Liên. Những người có ảnh hưởng lớn đến ông là chính trị gia Công đảng Anh Stafford Cripps, Tôn Trung Sơn và Mahatma Gandhi. Trong thời gian căng thẳng chính trị tại Miến Điện, Thant giữ quan điểm ôn hòa giữa chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành và trung thành với Anh.
Công chức
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản chiếm đóng Miến Điện từ năm 1942 đến 1945. Người Nhật đưa Thant đến Rangoon để lãnh đạo Ủy ban Tái tổ chức Giáo dục. Tuy nhiên, Thant không có bất kỳ thực quyền nào và trở lại Pantanaw. Khi người Nhật ra lệnh cưỡng bách học tiếng Nhật trong các trường trung học tại Pantanaw, Thant bất chấp lệnh và hợp tác với phong trào kháng Nhật đang phát triển.
Năm 1948, Miến Điện giành độc lập từ Anh. Nu trở thành thủ tướng của Miến Điện độc lập, người này bổ nhiệm Thant làm giám đốc truyền thông vào năm 1948. Đến lúc này, nội chiến bùng phát tại Miến Điện, người Karen bắt đầu khởi nghĩa và Thant liều mạng đến các trại của người Karen nhằm đàm phán về hòa bình. Đàm phán đổ vỡ, và đến năm 1949 phiến quân đốt cháy quê ông, trong đó có cả nhà ông. Phiến quân từng đẩy tiền tuyến đến nơi chỉ cách thủ đô Rangoon bốn dặm Anh (~6,4 km) song bị đánh lui. Sang năm sau, Thant được bổ nhiệm làm thư ký của chính phủ Miến Điện trong Bộ Thông tin. Từ năm 1951 đến năm 1957, Thant là thư ký của thủ tướng, viết các bài phát biểu cho U Nu, dàn xếp các chuyến đi ngoại quốc của ông ta, và gặp các khách ngoại quốc. Trong toàn thời kỳ này, ông là bạn tâm giao và cố vấn thân cận nhất của U Nu.
Ông cũng tham gia một số hội nghị quốc tế và là thư ký của Hội nghị thượng định Á-Phi lần thứ nhất vào năm 1955 tại Bandung, Indonesia, là sự kiện khai sinh Phong trào Không liên kết. Từ năm 1957 đến năm 1961, ông là đại biểu thường trực của Miến Điện tại Liên Hợp Quốc và trở nên tích cực tham gia trong các cuộc đàm phán về Ageria độc lập. Năm 1961, Thant được bổ nhiệm làm chủ tịch của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Congo. Chính phủ Miến Điện trao cho ông huân chương Maha Thray Sithu.
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
Tháng 9 năm 1961, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Dag Hammarskjöld thiệt mạng trong một tai nạn máy bay trên đường đến Congo. Hội đồng Bảo an gấp rút tìm kiếm một tổng thư ký mới, song lâm vào bế tắc trong vòng vài tuần sau đó, nguyên nhân là Hoa Kỳ và Liên Xô không thể đồng thuận về bất kỳ ứng cử viên nào do các thành viên khác đề xuất. Các siêu cường không còn phản đối khi các đại biểu từ các quốc gia nhỏ và Phong trào Không liên kết đề cử Thant tiếp tục nhiệm kỳ còn lại của Hammarskjöld. Ngày 3 tháng 11 năm 1961, Thant được Đại hội đồng nhất trí bầu làm quyền tổng thư ký, theo tiến cử của Hội đồng Bảo an trong Nghị quyết 168. Ngày 30 tháng 11 năm 1962, Đại hội đồng nhất trí bổ nhiệm ông làm tổng thư ký trong một nhiệm kỳ sẽ kết thúc vào ngày 3 tháng 11 năm 1966. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông giành được uy tín rộng rãi do vai trò của mình trong tháo ngòi nổ Khủng hoảng tên lửa Cuba và kết thúc Nội chiến Congo. Ông cũng phát biểu rằng mình muốn làm dịu căng thẳng giữa các đại cường trong khi phục vụ tại Liên Hợp Quốc.
Nhiệm kỳ thứ nhất
Chưa đầy một năm trên cương vị Tổng thư ký, Thant phải đối diện với một thách thức nguy cấp là tháo ngòi nổ Khủng hoảng tên lửa Cuba, thời khắc thế giới tiến gần nhất đến chiến tranh hạt nhân. Ngày 20 tháng 10 năm 1962, hai ngày trước khi tuyên bố công khai, Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy trưng cho Thant các ảnh trinh sát trên không của máy bay U-2 về các căn cứ tên lửa của Liên Xô tại Cuba. Tổng thống Hoa Kỳ sau đó ra lệnh "cách ly" hải quân nhằm loại bỏ toàn bộ vũ khí tấn công từ các tàu của Liên Xô đi hướng về Cuba. Trong khi đó, các tàu của Liên Xô tiếp cận khu vực cách ly. Để tránh đối đầu hải quân, Thant đề xuất rằng Hoa Kỳ sẽ đảm bảo không xâm chiếm Cuba để đổi lấy việc Liên Xô rút tên lửa. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Khrushchev hoan nghênh đề xuất, nó tạo cơ sở cho các đàm phán tiếp theo. Khrushchev còn chấp thuận đình chỉ vận chuyển tên lửa trong khi đang diễn ra đàm phán. Tuy nhiên, ngày 27 tháng 10 năm 1962, một máy bay U-2 bị bắn hạ trên không phận Cuba, khiến khủng hoảng thêm sâu sắc. Kennedy chịu áp lực mãnh liệt từ Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và Ủy ban Hành pháp là phải xâm chiếm Cuba, song ông ta hy vọng Thant đóng vai trò trung gian và sau đó đáp lại hai cơ quan này, "Mặt khác chúng ta có U Thant, và chúng ta không muốn đánh đắm một chiếc tàu...ngay giữa khi U Thant được cho là đang thu xếp để người Nga ở ngoài."
Các cuộc đàm phán tiếp tục, Hoa Kỳ chấp thuận tháo dỡ các tên lửa tại Thổ Nhĩ Kỳ và đảm bảo không bao giờ xâm chiếm Cuba để đổi lấy việc loại bỏ các tên lửa Liên Xô tại Cuba. Thant đi máy bay đến Cuba và thảo luận cùng Fidel Castro để cho phép các thanh sát viên tên lửa Liên Hợp Quốc giám sát và trao trả thi thể phi công U-2 bị bắn hạ. Fidel Castro tức giận trước việc Liên Xô chấp thuận loại bỏ tên lửa mà không cho ông biết, do vậy thẳng thừng bác bỏ bất kỳ thanh sát viên Liên Hợp Quốc nào, song trao trả thi thể phi công, Hoạt động thanh sát được phi cơ và chiến hạm Hoa Kỳ thực hiện trên biển. Khủng hoảng được giải quyết và một cuộc chiến giữa các siêu cường bị ngăn chặn.
Mặc dù thể hiện là một người theo chủ nghĩa hòa bình và một tín đồ Phật giáo sùng đạo, ông không lưỡng lự sử dụng vũ lực khi cần thiết. Trong Nội chiến Congo năm 1962, quân ly khai dưới quyền Moise Tshombe liên tục tấn công lực lượng của Liên Hợp Quốc tại Congo. Trong tháng 12 năm 1962, sau khi lực lượng Liên Hợp Quốc phải chịu một cuộc tấn công liên tục kéo dài bốn ngày tại Katanga, Thant ra lệnh tiến hành "Chiến dịch Grand Slam" nhằm mục tiêu để lực lượng Liên Hợp Quốc hoạt động hoàn toàn tự do trên toàn Katanga. Chiến dịch tỏ ra kiên quyết và kết thúc nổi loạn ly khai. Đến tháng 1 năm 1963, thủ đô của quân ly khai là Elizabethville rơi vào tay lực lượng Liên Hợp Quốc.
Do vai trò của ông trong việc tháo ngòi nổ khủng hoảng Cuba và các nỗ lực duy trì hòa bình khác, đại biểu thường trực của Na Uy tại Liên hiệp Quốc truyền tin cho Thant rằng ông sẽ được trao giải Nobel Hòa bình 1965. Ông khiêm tốn đáp lại "Chẳng phải Tổng thư ký chỉ làm công việc của mình khi hành động vì hòa bình sao?" Trên phương diện khác, Chủ tịch Gunnar Jahn của ủy ban giải Nobel Hòa bình vận động mãnh liệt chống lại việc trao giải cho Thant, và cuối cùng giải được trao cho UNICEF. Bất đồng kéo dài trong ba năm và không có giải Nobel hòa bình nào được trao vào năm 1966 và 1967, khi Gunnar Jahn phủ quyết hữu hiệu việc trao giải cho Thant. Một thuộc cấp của Thant, và cũng từng được trao giải Nobel là Ralph Bunche phê bình quyết định của Gunnar Jahn là "bất công thô bạo đối với U Thant."
Đêm trước Giáng Sinh năm 1963, xung đột liên cộng đồng bùng phát tại Síp. Người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ rút vào các khu tách biệt của họ, khiến chính phủ trung ương hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của người Síp gốc Hy Lạp. Một "lực lượng kiến tạo hòa bình" được lập ra dưới quyền chỉ huy của Anh song không thể kết thúc chiến đấu, và một hội nghị về Síp được tổ chức tại Luân Đôn trong tháng 1 năm 1964 kết thúc trong bất đồng. Ngày 4 tháng 3 năm 1964, giữa nguy cơ thù địch gia tăng về quy mô, Hội đồng Bảo an nhất trí cấp quyền cho Thant lập một lực lượng duy trì hòa bình tại Síp, với ủy thác giới hạn trong ba tháng nhằm ngăn chặn tái diễn giao tranh và khôi phục trật tự. Hội đồng còn yêu cầu tổng thư ký bổ nhiệm một nhà trung gian nhằm tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn dề Síp. Thant bổ nhiệm Galo Plaza Lasso làm trung gian song người này từ chức khi báo cáo của ông ta bị Thổ Nhĩ Kỳ bác bỏ trong tháng 3 năm 1965, và trách nhiệm người dàn xếp hết hiệu lực.
Tháng 4 năm 1964, Thant chấp thuận để Tòa Thánh làm quan sát viên thường trực. Dường như không có sự tham gia của Hội đồng Bảo an hay Đại hội đồng trong quyết định này.
Nhiệm kỳ thứ hai
Thant được Đại hội đồng tái bổ nhiệm làm Tổng thư ký Liên Hợp Quốc vào ngày 2 tháng 12 năm 1966, theo tiến cử nhất trí của Hội đồng Bảo an. Nhiệm kỳ của ông tiếp tục đến khi ông nghỉ hưu vào ngày 31 tháng 12 năm 1971. Trong nhiệm kỳ này, ông giám sát quá trình hàng chục quốc gia mới tại châu Á và châu Phi gia nhập Liên Hợp Quốc và là một đối thủ kiên quyết của apartheid tại Nam phi. Ông cũng cho lập nhiều cơ quan, quỹ và chương trình phát triển và môi trường của Liên Hợp Quốc, như Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Đại học Liên Hợp Quốc, Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển, Viện Liên Hợp Quốc về Đào tạo và Nghiên cứu (UNITAR), và Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc. Chiến tranh Sáu Ngày giữa các quốc gia Ả Rập và Israel, Mùa xuân Praha và sau đó là Liên Xô xâm chiếm Tiệp Khắc, và Chiến tranh Ấn Độ–Pakistan 1971 kéo theo khai sinh Bangladesh đều diễn ra trong nhiệm kỳ thứ hai của ông trong vai trò tổng thư ký.
Ông bị chỉ trích tại Hoa Kỳ và Israel vì chấp thuận rút lực lượng Liên Hợp Quốc khỏi Sinai vào năm 1967 theo yêu cầu từ Tổng thống Ai Cập Nasser. Đại biểu thường trực của Ai Cập thông báo cho Thant rằng chính phủ Ai Cập quyết định kết thúc sự hiện diện của lực lượng Liên Hợp Quốc tại Sinai và Dải Gaza, và yêu cầu các bước rút quân càng sớm càng tốt. Thant không có lựa chọn nào khác ngoài chấp thuận. Liên Hợp Quốc sau đó phát biểu "Do Israel từ chối chấp thuận UNEF trên lãnh thổ của họ, lực lượng chỉ được triển khai bên phía Ai Cập của biên giới, và do đó nhiệm vụ của họ hoàn toàn tùy thuộc sự thỏa thuận của Ai Cập với tư cách quốc gia chủ nhà. Một khi sự thỏa thuận là triệt thoái, hoạt động của họ không còn được duy trì."
Khủng hoảng Síp lại nổi lên vào tháng 11 năm 1967, song đe dọa can thiệp quân sự của Thổ Nhĩ Kỳ được ngăn chặn, phần lớn là do Hoa Kỳ phản đối. Các cuộc đàm phán được tiến hành giữa Cyrus Vance đại diện cho hoa Kỳ và José Rolz-Bennett nhân danh tổng thư ký nhằm tìm một giải pháp. Thương thảo liên cộng đồng bắt đầu trong tháng 6 năm 1968, thông qua các quan chức của tổng thư ký, nằm trong quá trình tìm giải pháp. Thương thảo bế tắc, song Thant đề xuất một công thức để tái kích hoạt chúng dưới bảo trợ của đại diện đặc biệt của ông là B.F. Osorio-Tafall, và chúng khôi phục vào năm 1972, sau khi Thant rời chức vụ.
Mối quan hệ từng hữu hảo với chính phủ Hoa Kỳ của ông nhanh chóng xấu đi khi ông công khai chỉ trích hành vi của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam. Các nỗ lực của ông về đàm phán hòa bình trực tiếp giữa Hoa Kỳ và miền Bắc Việt Nam cuối cùng bị chính phủ Johnson bác bỏ.
Nghỉ hưu
Ngày 23 tháng 1 năm 1971, Thant dứt khoát tuyên bố rằng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng không sẵn sàng cho một nhiệm kỳ tổng thư kỳ thứ ba. Trong nhiều tuần lễ, Hội đồng Bảo an bế tắc trong tìm kiếm một người kế nhiệm trước quyết định cuối cùng là để Kurt Waldheim làm tổng thư ký tiếp theo vào ngày 21 tháng 12 năm 1971, chỉ mười ngày trước khi nhiệm kỳ thứ hai của Thant kết thúc.
Không giống như hai người tiền nhiệm, Thant nghỉ hưu sau mười năm giao thiệp với toàn bộ các đại cường quốc. Năm 1961, khi ông lần đầu được bổ nhiệm, Liên Xô nỗ lực kiên quyết về công thức nhóm ba tổng thư ký, mỗi người đại diện cho mỗi khối trong Chiến tranh Lạnh, nhằm duy trì tính bình đẳng trong Liên Hợp Quốc giữa các siêu cường. Đến năm 1966, khi Thant được tái bổ nhiệm, toàn bộ các đại cường quốc, trong cuộc bỏ phiếu nhất trí của Hội đồng Bảo an, xác nhận tầm quan trọng của chức vụ tổng thư ký cùng các chức vụ dưới quyền, một đóng góp hiển nhiên của Thant.
Trong diễn văn tạm biệt trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Tổng thư ký Thant phát biểu rằng ông cảm thấy rất nhẹ nhõm khi thoát khỏi gánh nặng của chức vụ. Trong một bài xã luận xuất bản khoảng ngày 27 tháng 12 năm 1971, tán dương Thant, The New York Times viết rằng "những lời khuyên khôn ngoan của người đàn ông tận tụy cho hòa mình này sẽ vẫn cần thiết sau khi ông nghỉ hưu". Bài xã luận có tiêu đề "The Liberation of U Thant" (Sự giải phóng của U Thant).
Sau khi nghỉ hưu, Thant được bổ nhiệm làm một thành viên cấp cao trong Học viện Adlai Stevenson về sự vụ quốc tế. Ông dành những năm cuối đời để viết sách và và ủng hộ sự phát triển của một cộng đồng toàn cầu thực sự và các chủ đề chung khác mà ông từng nỗ lực xúc tiến trong thời gian giữ chức tổng thư ký. Trong thời gian tại nhiệm tổng thư ký, Thant sống tại Riverdale, Bronx, trong một bất động sản rộng gần đường 232, giữa các đại lộ Palisade và Douglas.
Qua đời và di sản
Thant qua đời do ung thư phổi tại New York vào ngày 25 tháng 11 năm 1974. Đương thời, Miến Điện do chính phủ quân sự cai trị, họ từ chối vinh danh ông. Tổng thống Miến Điện đương thời là Ne Win đố kỵ với tầm vóc quốc tế của Thant và sự kính trọng của dân chúng Miến Điện dành cho ông. Ne Win cũng oán giận liên hệ thân thiết của Thant với chính phủ dân chủ của U Nu, tức chính quyền mà Ne Win lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự vào ngày 2 tháng 3 năm 1962. Ne Win ra lệnh không công chức nào được tham dự hay kỷ niệm an táng Thant.
Từ trụ sở Liên Hợp Quốc tại New York, thi thể của Thant được đưa về Rangoon, song không có đội quân danh dự hay các quan chức cấp cao hiện diện tại sân bay khi quan tài đến ngoại trừ Thứ trưởng giáo dục U Aung Tun, nhân vật này sau đó bị cách chức. Ngày an táng Thant 5 tháng 12 năm 1974, hàng chục nghìn người xếp hàng trên đường phố Rangoon để biểu thị lòng kính trọng của họ. Quan tài của Thant được đặt tại trường đua Kyaikasan tại Rangoon trong vài giờ trước khi được an táng theo kế hoạch. Quan tài của Thant sau đó bị một nhóm sinh viên lấy đi ngay trước khi được đưa đi an táng theo kế hoạch trong một nghĩa trang bình thường tại Rangoon. Các sinh viên an táng Thant trong khuôn viên cũ của Hiệp hội sinh viên Đại học Rangoon (RUSU), là nơi Ne Win cho phá hủy vào ngày 8 tháng 7 năm 1962.
Trong thời gian từ 5-11 tháng 12, các sinh viên cũng xây dựng một bảo tàng tạm thời về Thant trên khuôn viên của RUSU và có các diễn văn chống chính phủ. Trong những giờ đầu buổi sáng ngày 11 tháng 12 năm 1974, binh sĩ chính phủ xông vào trường, giết một số sinh viên đang bảo vệ bảo tàng tạm thời, đem quan tài Thant đi an táng tại chân chùa Shwedagon. Hay tin binh sĩ đột kích Đại học Rangoon và dời quan tài của Thant, nhiều người làm loạn trên các đường phố tại Rangoon. Thiết quân luật được công bố tại Rangoon và khu vực xung quanh. Các sự kiện được gọi là khủng hoảng U Thant—các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo trước cách đối xử tệ của chính phủ với Thant song bị trấn áp.
Sinh hoạt cá nhân
Thant có ba em trai là Khant, Thaung, và Tin Maung. Ông kết hôn với Daw Thein Tin. Thant có hai con trai song đều mất sớm; Maung Bo mất khi còn sơ sinh, còn Tin Maung Thant ngã từ xe buýt khi thăm Yangon. Đám tang của Tin Maung Thant có sự tham gia của những quan chức cấp cao, và lớn hơn quốc tang của Phó Đề đốc Than Pe, một thành viên trong Hội đồng Cách mạng gồm 17 người và là bộ trưởng y tế và giáo dục. Thant còn lại một con gái, một con trai nuôi, năm cháu ruột, và năm chắt ruột. Cháu trai ruột duy nhất của ông là Thant Myint-U trở thành một sử gia và là cựu quan chức cấp cao của Cơ quan Liên Hợp Quốc về chính vụ và là tác giả của The River of Lost Footsteps, một phần tiểu sử của Thant.
Trong nhiệm kỳ tổng thư ký của mình, Thant theo đuổi các báo cáo về UFO với một số quan tâm; năm 1967, ông sắp xếp cho nhà vật lý khí quyển người Mỹ James E. McDonald phát biểu trước Nhóm sự vụ ngoại không gian của Liên Hợp Quốc về đề tài UFO.
Giải thưởng, vinh dự
Thant thường miễn cưỡng nhận các giải thưởng và danh dự do bản tính khiên tốn cũng như liên hệ công khai với chúng. Ông từ chối vinh dự cao thứ nhì của Miến Điện mà chính phủ U Nu trao cho ông vào năm 1961. Khi ông được thông báo rằng giải Nobel Hòa bình 1965 sẽ được trao cho UNICEF do Chủ tịch Gunnar Jahn phủ quyết, theo lời Walter Dorn thì Thant cảm thấy vui lòng. Tuy nhiên, ông nhận giải Jawaharlal Nehru về Thông cảm quốc tế vào năm 1965, giải Hòa bình Gandhi vào năm 1972, và hàng chục bằng danh dự khác.
Thant nhận bằng luật danh dự (LL.D) của Đại học Carleton, Học viện Williams, Đại học Princeton, Học viện Mount Holyoke, Đại học Harvard, Học viện Dartmouth, Đại học California tại Berkeley, Đại học Denver, Học viện Swarthmore, Đại học New York, Đại học Moskva, Đại học Queen's, Học viện Colby, Đại học Yale, Đại học Windsor, Học viện Hamilton, Đại học Fordham, Học viện Manhattan, Đại học Michigan, Đại học Delhi, Đại học Leeds, Đại học Louvain, Đại học Alberta, Đại học Boston, Đại học Rutgers, Đại học Dublin (trường Ba Ngôi), Đại học Laval, Đại học Columbia, Đại học Philippines, và Đại học Syracuse. Ông cũng nhận bằng tiến sĩ thần học danh dự từ Giáo hội First Universal; tiến sĩ luật quốc tế từ Đại học Quốc tế Florida; tiến sĩ luật từ Đại học Hartford; tiến sĩ luật dân sự danh dự từ Đại học Colgate; tiến sĩ nhân văn từ Đại học Duke.
Giải thưởng hòa bình U Thant do Nhóm Trầm tư Liên Hợp Quốc lập ra để công nhận và vinh danh các cá nhân hoặc tổ chức có thành tựu xuất sắc hướng đến hòa bình thế giới. Nhóm này cũng đặt tên một đảo nhỏ tại East River đối diện trụ sở Liên Hợp Quốc là đảo U Thant. Jalan U-Thant (đường U-Thant) và thị trấn Taman U-Thant tại Kuala Lumpur, Malaysia cũng được đặt tên nhằm vinh danh ông.
Tháng 12 năm 2013, nhờ nỗ lực của con gái Aye Aye Thant và cháu trai Thant Myint-U, nhà của Thant tại Yangon được chuyển thành một bảo tàng với các ảnh, tác phẩm và đồ dùng cá nhân của ông. |
Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh là một tổ chức quần chúng tự nguyện của những cá nhân và đơn vị làm công nghệ thông tin (CNTT) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh là thành viên trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, và là thành viên chuyên môn của Hội Tin Học Việt Nam. Mục đích của hội nhằm tập hợp những đơn vị và những cá nhân hoạt động trong lĩnh vực CNTT trên địa bàn thành phố và các địa phương khác nhằm tăng cường đoàn kết, hợp tác trao đổi thông tin, kinh nghiệm, phổ biến kiến thức, phát triển và xây dựng ngành CNTT, tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Hội thành lập năm 1988 . Trụ sở Hội đặt tại địa chỉ số 79 Trương Định, p. Bến Thành, Quận 1. Văn phòng Giao dịch của Hội đặt tại Tầng 9, Tòa nhà Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật TP.HCM, số 224 Điện Biên Phủ, Phường 7, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoạt động
Tập hợp và đoàn kết các hội viên nhằm trao đổi kinh nghiệm, nâng cao kiến thức, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong công tác chuyên môn
Thực hiện chức năng tư vấn, và phản biện xã hội của một tổ chức Hội về khoa học và công nghệ trong lãnh vực CNTT theo quy định của Nhà nước.
Tổ chức các hoạt động nhằm phổ biến kiến thức về CNTT.
Tham gia thực hiện chương trình quốc gia và các chương trình địa phương về CNTT, đưa nhanh việc ứng dụng CNTT vào các hoạt động dịch vụ sản xuất và quản lý, góp phần tích cực vào việc phát triển ngành CNTT ở Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước.
Phối hợp, tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho ngành CNTT.
Đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của hội viên, kiến nghị với Nhà nước về những vấn đề thuộc lĩnh vực CNTT.
Tham gia với các cơ quan chức năng trong việc bảo vệ sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực CNTT.
Được xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành CNTT và tổ chức các dịch vụ CNTT theo quy định của nhà nước. |
Vườn quốc gia ở Thái Lan (Thái Lan: อุทยานแห่งชาติ ทาง บก) được định nghĩa là một khu vực có chứa tài nguyên thiên nhiên có tầm quan trọng về sinh thái, mang vẻ đẹp độc đáo, hoặc hệ động thực vật đặc biệt quan trọng. Hiện nay có 102 vườn quốc gia (trong đó có 21 khu bảo tồn biển quốc gia, อุทยานแห่งชาติ ทาง ทะเล). Các vườn quốc gia tại Thái Lan thường là các lâm viên (วนอุทยาน ใน) được quản lý như là một vườn quốc gia.
Các vườn quốc gia này được quản lý bởi cơ quan quản lý Vườn quốc gia, Khu bảo tồn động thực vật hoang dã (DNP), là một phần của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bộ phận này mới được thành lập năm 2002, và trước đây, các vườn quốc gia được quản lý bởi Cục Lâm nghiệp Hoàng gia của Bộ Nông nghiệp.
Vườn quốc gia đầu tiên là Khao Yai được thành lập vào năm 1961, khi Luật Vườn quốc gia BE 2504 đã được thông qua. Còn vườn quốc gia biển đầu tiên là Khao Sam Roi Yot, được thành lập vào năm 1966. Năm 1993, chính quyền trong ban quản lý vườn quốc gia được chia thành hai bộ phận, một bộ phận quản lý các Vườn quốc gia trên đất liền và một cho các Vườn quốc gia biển (MNPD).
Trong tương lai sẽ có thêm 33 vườn quốc gia và 3 khu bảo tồn biển dự kiến sẽ được thành lập.
Danh sách
Vườn quốc gia đất liền
Vườn quốc gia biển
Chưa công bố |
Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (viết tắt theo tiếng Anh: VINASA, tên cũ: Hiệp hội Doanh nghiệp Phần mềm Việt Nam) là một tổ chức được thành lập với mục đích kiến tạo nền công nghiệp mới của quốc gia - nền công nghiệp phần mềm, phát huy truyền thống sáng tạo và cần cù của dân tộc, biến Việt Nam trở thành thung lũng phần mềm của thế giới, góp phần vào thành công của các thành viên và sự phồn vinh của đất nước.
Văn phòng Hiệp hội đặt tại địa chỉ Tầng 11, tòa nhà Cung Trí thức thành phố, số 01 Tôn Thất Thuyết, quận Cầu Giấy, Hà Nội .
Lĩnh vực
Giải pháp phần mềm phục vụ quản lý doanh nghiệp
Giải pháp phần mềm phục vụ quản lý hành chính nhà nước
Giải pháp phần mềm phục vụ ứng dụng Web và thương mại điện tử
Giải pháp phần mềm phục vụ cho xây dựng - thiết kế
Giải pháp phần mềm phục vụ cho giáo dục và đào tạo
Các giải pháp phần mềm chuyên dụng khác
Giải thưởng trực thuộc
Giải thưởng Sao Khuê
Vietgames
Giải thưởng Thành phố thông minh Việt Nam
Top 10 Doanh nghiệp CNTT Việt Nam |
Cuộc thi Lập trình Quốc tế dành cho Sinh viên Đại học (, viết tắt ICPC) là cuộc thi lập trình quốc tế lâu đời và danh giá nhất dành cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng trên toàn cầu. Đây là một cơ hội cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng thể hiện và rèn luyện các kỹ năng giải quyết vấn đề và lập trình. Sau khi các trải qua các vòng chung kết khu vực, các đội tuyển xuất sắc nhất khắp các châu lục sẽ được chọn ra để tham dự vòng chung kết toàn cầu ICPC World Final, nhằm mục đích tìm ra đội tuyển vô địch thế giới. Từ 1977 đến 2017, cuộc thi mang tên ACM-ICPC dưới sự bảo trợ của ACM.
Cách thức tham dự
Mỗi đội bao gồm 3 sinh viên cùng một trường và thỏa mãn các điều kiện thí sinh dự thi trên trang chủ của ACM
Có một giảng viên cùng trường làm huấn luyện viên cho đội và làm người đại diện của đội với ban tổ chức
Đăng ký tại website của cuộc thi và được chấp thuận bởi giám đốc khu vực
Hoàn tất lệ phí đăng ký dự thi
Các đội đứng đầu khu vực phải có khả năng tham gia vào vòng chung kết toàn cầu
Mỗi thí sinh không tham dự quá 4 vòng chung kết khu vực hoặc 2 vòng chung kết toàn cầu |
Danh sách vườn quốc gia Malaysia:
Khu vực Malaysia bán đảo
Vườn quốc gia Taman Negara
Vườn quốc gia Endau Rompin
Vườn Bang Gunung Stong
Vườn Bang Royal Belum
Khu bảo tồn cuộc sống hoang dã Krau
Khu vực Johor
Vườn quốc gia Endau-Rompin Johor
Vườn quốc gia Gunung Ledang Johor
Vườn quốc gia Tanjung Piai Johor
Vườn quốc gia Pulau Kukup Johor
Vườn quốc gia Islands off Mersing Johor
Penang
Vườn quốc gia Penang
Perlis
Vườn Bang Perlis
Khu Bảo tồn Wang Pinang
Selangor
Vườn Di sản Selangor Heritage
Khu Bảo tồn đời sống hoang dã Sungai Dusun
Vườn Templer's
Đảo Sarawak
Bako National Park
Gunung Mulu National Park
Niah National Park
Lambir National Park
Vườn Quốc gia Similajau
Gunung Gading
Vườn Quốc gia Kubah
Vườn Quốc gia Batang Ai
Vườn Quốc gia Loagan Bunut
Vườn Quốc gia Tanjung Datu
Vườn Quốc gia Talang Satang
Vườn Quốc gia Bukit Tiban
Vườn Quốc gia Maludam
Vườn Quốc gia Rajang Mangroves
Vườn Quốc gia Gunung Buda
Vườn Quốc gia Pulong Tau
Vườn Quốc gia Kuching Wetlands
Khu bảo tồn Hang Wind
Khu bảo tồn động vật hoang dã Samunsam
Khu bảo tồn Stutung
Khu vực Sabah
Vườn quốc gia Kinabalu
Vườn quốc gia Tunku Abdul Rahman
Vườn quốc gia Đảo Rùa biển
Vườn quốc gia Pulau Tiga
Vườn quốc gia Tawau Hills
Vườn quốc gia Crocker Range |
Nhân tài Đất Việt là cuộc thi thường niên được tổ chức bởi tập đoàn bưu chính viễn thông phối hợp với Bộ Khoa Học Công nghệ, nhằm tìm kiếm và tôn vinh những nhân tài trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và Truyền thông, đã sáng tạo ra các sản phẩm hoàn chỉnh, có khả năng ứng dụng và hiệu quả cao, góp phần tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nước nhà. Nhân Tài Đất Việt là cuộc thi có tầm ảnh hưởng và uy tín.
Đánh giá
Tính hiệu quả Khuyến khích các sản phẩm giúp nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu và nhân lực.
Tính ứng dụng Khuyến khích các sản phẩm có thể áp dụng rộng rãi, đem lại giá trị kinh tế, chính trị cho xã hội và cho cộng đồng, đồng thời đơn giản trong sử dụng và dễ dàng triển khai.
Tính sáng tạo và khoa học Khuyến khích các bài dự thi là các sản phẩm áp dụng công nghệ mới, tiên tiến của thế giới, lần đầu tiên ứng dụng tại Việt Nam, các sản phẩm có sự sáng tạo phù hợp với điều kiện triển khai, ứng dụng của Việt Nam.
Tính hoàn thiện Khuyến khích các bài dự thi là những sản phẩm hoàn thiện, đầy đủ các tính năng, có thể đưa vào áp dụng được ngay trong thực tế. Sản phẩm có đầy đủ tài liệu mô tả, tài liệu hướng dẫn sử dụng thuận tiện.
Phân loại
Loại thứ 1 Các sản phẩm đã có thời gian kiểm chứng, sử dụng lâu dài. Đã được ứng dụng rộng rãi trên thực tế. Mức độ ứng dụng trên thực tế được thể hiện bằng những hợp đồng kinh tế ký kết với các khách hàng đang sử dụng sản phẩm dự thi. Đối với những sản phẩm ứng dụng nội bộ không có hợp đồng kinh tế phải được đảm bảo bằng xác nhận của đơn vị chủ quản.
Loại thứ 2 Các sản phẩm ở dạng có tiềm năng ứng dụng, mới thử nghiệm trên quy mô nhỏ hẹp. |
Oganesson là một nguyên tố tổng hợp siêu nặng trong bảng tuần hoàn có ký hiệu hóa học là Og và có số nguyên tử là 118. Oganesson được tổng hợp lần đầu tiên vào năm 2002 tại Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna (JINR) ở Dubna, gần Moskva, Nga, bởi một nhóm các nhà khoa học Nga và Mỹ. Oganesson được đặt tên chính thức vào ngày 28 tháng 11 năm 2016. Đầu tiên, các nhà khoa học cho rằng nguyên tố này chắc chắn có các đặc tính của nhóm khí hiếm (nhóm 18), giống radon về các đặc tính hóa học; vì thế, một số tài liệu nghiên cứu đã gọi nó là eka-radon. Tuy nhiên, người ta phát hiện ra rằng không phải nó mà là ununquadi (tên mới là flerovi) mới có các đặc tính giống các nguyên tố khác trong nhóm 18. Nếu phải thì oganesson là nguyên tố thể khí phóng xạ thứ hai và khí bán dẫn đầu tiên dưới điều kiện chuẩn.
Trừ ra tính không ổn định do có lẽ phóng xạ, các nhà khoa học dự đoán là oganesson sẽ phản ứng hơn xenon và radon. Nó chắc có thể tạo thành oxit ổn định (OgO3 v.v.) cùng với các muối chloride và fluoride.
Phát hiện
Vào ngày 16 tháng 10 năm 2006, các nhà nghiên cứu làm việc tại Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna (JINR) tại Dubna, Nga thông báo trong Physical Review rằng họ đã gián tiếp phát hiện ra tổng cộng ba hạt nhân của ununocti-294 (một vào năm 2002 và hai vào năm 2005) được tạo ra thông qua các va chạm của các nguyên tử californi-249 và các ion calci-48:
+ → + 3 .
Do xác suất rất nhỏ của phản ứng tổng hợp (tổng hợp tiết diện là 0,5 pb = 5×10−41 m²) nên phải trên 4×1019 ion calci cần được bắn phá vào californi để có được chỉ 3 phản ứng tổng hợp.
Nhóm nghiên cứu bao gồm các nhà khoa học từ JINR và Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore ở California, Hoa Kỳ. Các sản phẩm phân rã của 3 nguyên tử ununocti, chứ không phải chính các nguyên tử, đã được quan sát tại Dubna. Chu kỳ bán rã 0,89 ms cũng đã được quan sát: 294Og phân rã thành 290Lv theo phân rã alpha. Do chỉ có 3 hạt nhân nên chu kỳ bán rã đã được lấy theo thời gian tồn tại quan sát được và do vậy nó có độ tin cậy không cao: 0,89-0,31+1,07 ms.
Sự nhận dạng ra các hạt nhân 294Og đã được kiểm tra bởi sự tạo ra một cách tách biệt của hạt nhân con được giả định là của 290Lv bằng cách bắn phá 245Cm bằng các ion của 48Ca.
+ → + 3 ,
và kiểm tra rằng phân rã của 290Lv phù hợp với chuỗi phân rã của hạt nhân 294Og.
Hạt nhân con 290Lv là cực kỳ không ổn định, nó phân rã với chu kỳ bán rã 14 mili giây thành 286Fl, và nó có thể phân rã tự phát hay phân rã alpha thành 282Cn, và hạt nhân này sẽ phân rã tự phát.
Lịch sử
Năm 1999, các nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Lawrence Berkeley đã thông báo về phát hiện ra các nguyên tố số 116 và 118, trong bài báo đăng trên Physical Review Letters.
Các nhà nghiên cứu này tuyên bố rằng họ đã thực hiện phản ứng:
+ → + .
Năm sau, họ lại công bố lời rút lại sau khi các nhà nghiên cứu khác không thể lặp lại các kết quả.
Vào tháng 6 năm 2002, viện trưởng phòng thí nghiệm này thông báo rằng tuyên bố ban đầu về phát hiện ra hai nguyên tố này đã dựa trên các dữ liệu bị giả mạo bởi trưởng nhóm Victor Ninov.
Nhóm các nhà nghiên cứu Mỹ đã có ý định đặt tên cho nó là ghiorsium theo tên của Albert Ghiorso trước khi phải rút lại tuyên bố của mình.
Tên gọi
Cho đến thập niên 1960, ununocti được gọi là eka-emanation (emanation là tên gọi cũ để chỉ radon). Năm 1979, IUPAC đưa ra các đề nghị gọi nguyên tố này là ununocti, tên hệ thống nguyên tố, một tên tạm thời cho đến khi phát hiện ra nguyên tố này và IUPAC quyết định đặt tên.
Trước năm 2002, các nhà nghiên cứu ở Berkeley đã đặt tên nguyên tố này là ghiorsi (Gh) theo tên của Albert Ghiorso (thành viên của nhóm nghiên cứu).
Những nhà khoa học người Nga đã báo cáo về sự tổng hợp ra nguyên tố này của họ vào năm 2006. Năm 2007, người đứng đầu viện nghiên cứu Nga nói rằng nhóm đã đưa ra hai tên gọi cho nguyên tố mới là Flyori theo tên của Georgy Flyorov, người sáng lập ra phòng nghiên cứu ở Dubna; và moskovi, theo tên của tỉnh Moskva, nơi đặt phòng thí nghiệm Dubna. Ông cũng chỉ ra rằng mặc dù nguyên tố được phát hiện trong sự hợp tác nghiên cứu với Mỹ, phía này đã cung cấp nguyên tố californi (Cf), nguyên tố này nên được đặt theo tên danh dự của Nga từ khi phòng thí nghiệm phản ứng hạt nhân Flerov ở JINR là cơ sở duy nhất trên thế giới có thể làm được kết quả như thế.
Vào ngày 2 tháng 12 năm 2016, IUPAC đã công bố chính thức tên của nguyên tố này là Oganesson cùng với 3 nguyên tố khác là nihoni, moscovi và tennessine. |
Táo tàu hay là đại táo, hồng táo (táo đỏ), toan táo (táo chua) (tiếng Trung giản thể: 枣, phồn thể: 棗 (táo); 大枣, 红枣, 酸枣), (tiếng Triều Tiên: 대추), tiếng Nhật: 棗 natsume) (danh pháp khoa học: Ziziphus jujuba) là một loài cây thân gỗ nhỏ hay cây bụi với lá sớm rụng, thuộc họ Rhamnaceae (họ Táo). Người ta cho rằng nó có nguồn gốc từ miền bắc và miền đông Trung Quốc cũng như bán đảo Triều Tiên, là khu vực nó đã được trồng trên 4.000 năm nhưng hiện nay đã du nhập rộng khắp vào khu vực tây nam Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Á, Trung Đông, Nam Âu, Bắc Phi, Caribe, miền nam Bắc Mỹ và miền bắc Nam Mỹ.
Lịch sử tên khoa học
Tên gọi khoa học hai phần có một lịch sử danh pháp kỳ lạ, do sự kết hợp của các quy định đặt tên thực vật và các biến thể trong chính tả. Lần đầu tiên nó được Carl Linnaeus đặt danh pháp hai phần là Rhamnus zizyphus, trong Species Plantarum (1753). Philip Miller, trong Gardener's Dictionary (Từ điển Người làm vườn) của ông cho rằng táo tàu và các họ hàng của nó đủ khác biệt với Rhamnus để được xếp vào một chi riêng biệt (như đã được Joseph Pitton de Tournefort thực hiện trước Linnaeus vào năm 1700), và trong ấn bản năm 1768, ông đã đặt cho nó danh pháp Ziziphus jujuba (sử dụng cách viết của Tournefort cho tên chi). Đối với tính từ định danh loài, ông đã sử dụng từ khác, do các từ tự lặp lại (lặp lại chính xác như nhau trong tên chi và trong tên loài) là không được phép trong đặt tên thực vật. Tuy nhiên, do cách viết hơi khác của Miller, sự kết hợp của tính từ chỉ tên loài zizyphus từ Linnaeus trước đó với tên chi mới Ziziphus của Miller thành Ziziphus zizyphus không phải là một từ tự lặp lại, và do đó nó được phép dùng làm tên gọi thực vật. Sự kết hợp này được Hermann Karsten thực hiện vào năm 1882. Năm 2006, một đề xuất được đưa ra nhằm bỏ việc sử dụng tên gọi Ziziphus zizyphus để ưu tiên sử dụng tên gọi Ziziphus jujuba, và đề xuất này đã được chấp nhận vào năm 2011. Như thế, hiện nay Ziziphus jujuba là tên khoa học chính xác và chính thức của loài này.
Mô tả
Cây táo tàu có thể cao khoảng 5–12 m, với các lá xanh bóng, và đôi khi có gai. Các hoa nhỏ, màu trắng hoặc ánh lục, khó thấy, quả hình trứng, kích cỡ tự quả ô liu, thuộc loại quả hạch. Quả non có màu xanh lục, vỏ trơn bóng, có mùi vị tương tự như quả táo tây, nhưng khi nó già hơn thì vỏ trở nên sẫm màu hơn để trở thành màu đỏ hay đen ánh tía và vỏ nhăn nheo, trông tương tự như quả chà là nhỏ. Vì thế trong một số ngôn ngữ nước ngoài, như tiếng Anh có tên gọi Chinese date (chà là Trung Quốc). Trong quả có một hạt cứng. Trong ẩm thực Ba Tư, các quả hạch khô của táo tàu gọi là annab.
Táo tàu có thể chịu được một khoảng rộng nhiệt độ, mặc dù nó cần phải có mùa hè nóng bức để tạo ra quả. Không giống như phần lớn các loài khác trong chi này, nó chịu được mùa đông khá lạnh và có thể sống ở nhiệt độ xuống tới -15 °C. Điều này cho phép táo tàu sống được trong các khu vực sa mạc.
Nhiều cây táo tàu có thể cũng được tìm thấy ở các khu vực miền trung và miền nam Israel, đặc biệt là trong thung lũng Arava, và tại đó nó là loài cây phổ biến thứ hai. Một cây táo tàu gần Ein Hatzeva trong thung lũng Arava được ước tính là trên 300 năm tuổi.
Sử dụng
Y học
Quả của táo tàu được sử dụng trong y học truyền thống của người Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam. Ziziphin, một hợp chất có trong lá táo tàu, có khả năng ngăn cản cảm giác nhận ra vị ngọt ở người. Quả của táo tàu là một loại quả chứa chất nhầy, có tính chất làm dịu cổ họng và nước sắc táo tàu thường được dùng trong việc điều trị chứng đau họng.
Ẩm thực
Ngoài việc sử dụng trong y học, táo tàu cũng được dùng để làm mứt táo hoặc làm chè táo. Chúng có thể có màu đỏ hay đen (gọi là hồng táo hay hắc táo trong tiếng Trung), loại thứ hai là loại được hun khói để làm tăng hương vị. Tại Malaysia, Singapore, Trung Quốc và Đài Loan, xi rô trà ngâm đường chứa táo tàu được chứa trong các chai lọ thủy tinh, còn trà táo đóng hộp hay đóng túi giấy cũng có sẵn. Mặc dù không phổ biến, nhưng nước táo tàu cũng được sản xuất. Tại Trung Quốc và Đài Loan, loại rượu vang sản xuất từ táo tàu được gọi là 红枣酒 (hồng táo tửu). Táo tàu đôi khi cũng được bảo quản bằng cách cho vào lọ với bạch tửu (rượu trắng), điều này cho phép giữ táo tàu giữ được hương vị lâu hơn, đặc biệt là trong mùa đông. Kiểu bảo quản táo tàu này được gọi là tửu táo (酒枣; nghĩa là "táo ngâm rượu").
Sử dụng khác
Trong khu vực Himalaya và Karakoram, người ta cho rằng hương vị ngọt của táo tàu làm cho đối tượng của mình phải yêu mình. Do đó, các thanh niên trong khu vực này thường mang theo một cành hoa táo tàu hoặc đặt chúng trên mũ để quyến rũ đối tác.
Tại Nhật Bản, natsume (táo) là một tên gọi của một kiểu hộp chè được sử dụng trong trà đạo Nhật Bản.
Thư viện ảnh |
Oscar cờ vua là một giải thưởng quốc tế hàng năm dành cho kỳ thủ cờ vua xuất sắc nhất. Người chiến thắng được bình chọn từ các chuyên gia cờ vua, kể cả các đại kiện tướng cờ vua trên toàn thế giới. Giải thưởng là một bức tượng đồng mang tên "kẻ lang thang hấp dẫn".
Giải thưởng này được tổ chức liên tục từ năm 1967 đến 1988, nguyên thủy do các phóng viên, cán bộ, huấn luyện viên thuộc Association Internationale de la Presse Echiqueene (AIPE) (Hiệp hội thông tấn cờ vua quốc tế) bình chọn. Sau một thời gian gián đoạn, giải thưởng Oscar cờ vua tái hoạt động vào năm 1995 nhờ tài trợ của tạp chí cờ vua Nga mang tên 64 và được FIDE hỗ trợ.
Giải thưởng này được đánh giá cao trong cộng đồng cờ vua.
Các kì thủ đoạt giải
Thống kê giải thưởng
Theo kỳ thủ
{| class="sortable wikitable"
!Kỳ thủ !!Quốc gia !!Số giải
|-
| || , sau là || 11
|-
| || || 9
|-
| || || 6
|-
| || || 5
|-
| || || 3
|-
| || || 2
|-
| || || 2
|-
| || || 1
|-
| || || 1
|-
| || || 1
|}
Theo quốc gia
{| class="sortable wikitable"
!Quốc gia !!Số giải
|-
| || 17
|-
| || 7
|-
| || 6
|-
||| 5
|-
| || 3
|-
| || 1
|-
| || 1
|-
| || 1
|}
Chú thích |
Người thuận tay trái là người dùng tay trái để làm những công việc chính như ném, vất, hái lượm đồ vật, sử dụng dụng cụ như viết, cầm, cắt xén,... khi leo trèo hoặc đấm đá thì người thuận tay trái sử dụng tay trái hay chân trái trước. Có một số người tuy thuận tay trái nhưng vì lý do xã hội hoặc truyền thống văn hoá nên được hướng dẫn cầm viết bằng tay phải từ nhỏ. Do vậy, tay cầm viết không hẳn là tay thuận của mỗi người.
Thống kê
Khoảng 8 – 15% người lớn thuận tay trái. Số nam giới thuận tay trái nhiều hơn nữ giới. So với người khác, những cặp sinh đôi giống nhau thuận tay trái nhiều hơn. Bệnh nhân mắc phải bệnh động kinh, hội chứng Down, tự kỷ, chậm phát triển tâm thần, chứng khó đọc,... có tỉ số thuận tay trái cao hơn.
Nguyên nhân
Một số nguyên nhân của việc thuận tay trái:
Tay thuận có từ hồi còn trong bào thai, thường thấy khi thử nghiệm siêu âm thai là tay được liếm hay để gần miệng.
Gen LRRTM1 làm tăng cơ hội thuận tay trái.
Chất testosterone lên cao trong máu người mẹ có khả năng làm thai nhi thuận tay trái. Theo bác sĩ thần kinh Norman Geschwind, chất testosterone làm giảm phát triển của nửa não trái, đưa nhiều neuron sang nửa não phải, tăng khả năng thuận bên trái – đồng thời tăng nguy cơ bị các chứng thường gặp khi nửa não phải phát triển quá độ như chứng khó học, khó đọc, nói lắp, nhưng bù lại, khả năng nhận thức môi trường không gian lại khá hơn người thuận bên phải.
Song sinh đối chiếu.
Ấn tượng và bất công trong xã hội
Ngôn ngữ
Nhiều người thuận tay trái phản đối những bất công xã hội vì coi trọng bên phải hơn bên trái. Trong tiếng Việt, từ "phải" đồng nghĩa với "đúng", "trúng", "thuận", "đồng ý", còn từ "trái" có nghĩa là "sai", "ngược ý", "trật". Những ngôn ngữ khác cũng thế: tiếng Anh "right", tiếng Đức, tiếng Hà Lan "recht",... có nghĩa là "đúng"; tiếng Pháp "droit" có nghĩa "phải", "quyền lợi"; tiếng Tây Ban Nha "diestro" có nghĩa "phải", "rành nghề", "khéo tay",...Từ "sinister" trong tiếng Anh có nghĩa là "ác, nham hiểm, xui", có gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là "tay trái".
Trong tiếng Hoa, từ "tả" (左) có nghĩa "không đúng đắn", "gian tà", ví dụ như "tả đạo" (左道). Cho đến nay, vẫn có những gia đình đánh đập con cái bắt phải đổi thuận tay trái sang tay phải.
Trong tiếng Thụy Điển, cụm từ "venstrehåndsarbeid" có nghĩa đen là "việc làm bằng tay trái" nhưng có nghĩa bóng là "công việc làm cẩu thả không ra gì".
Từ tiếng Anh "ambidexterity" có nghĩa là "thuận cả hai tay", và từ này được lấy từ tiếng Latinh có nghĩa là "hai bên đều là tay phải" ("dexter" có nghĩa là "phải").
Trong tiếng Việt, các cụm từ như "làm nghề tay trái" chỉ công việc phụ, không đúng chuyên môn; "ngang trái", "trái khoáy", "lề trái" chỉ tính chất ngược với thông lệ.
Dụng cụ
Người thuận tay trái gặp nhiều trở ngại với một số dụng cụ – ví dụ điển hình là:
Kéo: người thuận tay trái không thấy đường cắt khi dùng kéo, lỗ tay cầm (để thò ngón cái vào) thường làm đau.
Dao: một số loại dao làm bếp (nhất là của Nhật để làm cá của món sushi) có lưỡi thuận cho tay phải hơn tay trái.
Viết: trong phần lớn các văn hóa, chữ viết từ trái sang phải, người thuận tay trái thường làm lem giấy hay phải tìm cách viết đặc biệt. Nhiều trẻ em học sinh bị buộc phải viết tay phải.
Trong thể thao: gậy chơi golf, hockey cần phải đặt làm riêng cho người tay trái và thường đắt tiền hơn loại phổ thông dành cho người thuận tay phải.
Những "khác biệt" về người thuận tay trái
Trí thông minh
Một giả thuyết phổ biến cho rằng người thuận tay trái thông minh và sáng tạo hơn người thuận tay phải. Trong khi cộng đồng khoa học vẫn còn bàn cãi về cách làm thế nào để suy diễn cả hai mặt trí thông minh và sức sáng tạo, một số nghiên cứu đã cho thấy một liên hệ nhỏ giữa việc thuận tay trái và thông minh, sáng tạo.
Trong cuốn Right-Hand, Left-Hand, Chris McManus thuộc University College London, biện bạch rằng tỉ lệ người thuận tay trái đang tăng và là nhóm người có tỉ lệ thành đạt cao. Ông ta cho rằng bộ não của người thuận tay trái được cấu trúc khác hơn giúp rộng giới hạn của các năng lực và các gen xác định việc thuận tay trái cũng quản lý sự phát triển của các trung tâm ngôn ngữ của não bộ.
Ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, hiện có khoảng 11% nam giới và nữ giới trong độ tuổi 15–24 thuận tay trái, trong khi số này chỉ có 3% ở độ tuổi 55–64. McManus nêu lên một số các nhân tố có thể điều hợp việc việc thuận tay trái tăng lên:
Những người thuận tay trái đã bị kì thị mãnh liệt trong suốt thế kỉ 18 và 19 và thường bị "thua thiệt" với mọi người.
Người thuận tay trái thường bị xã hội xa lánh, kết quả là họ ít lập gia đình và sinh sản ít hơn.
Do việc kì thị giảm trong thế kỉ 20, số người tự nhiên thuận tay trái mà vẫn giữ bản năng đó đã tăng.
Đối với lứa tuổi làm mẹ, theo thống kê, thì những người mẹ lớn tuổi hơn sẽ có chiều hướng sinh các đứa trẻ thuận tay trái.
McManus cho rằng việc tăng này sẽ có thể dẫn tới việc phát triển trong giới trí tuệ và là một bước nhảy vọt trong thiên tài về toán, thể thao hay nghệ thuật.
Thật là không may, người thuận tay trái có xu hướng quá biểu trưng ở hai thái cực của trí tuệ, một số lớn liệt vào loại "thiên tài"; một số khác nằm vào cực thiếu thông minh vì khuyết tật. Đã có nhiều nghiên cứu dẫn chứng các liên hệ giữa sự thuận tay trái và các khuyết tật loạn năng đọc, cà lăm và chứng tự kỷ cũng như một số khuyết tật khác.
Năm 2006, các nhà nghiên cứu ở Cao đẳng Lafayette và Đại học Johns Hopkins đã tìm thấy rằng các nam giới thuận tay trái có 15% giàu hơn những người nam giới thuận tay phải trong giới đang theo học cao đẳng, và con số này tăng lên 26% trong giới đã tốt nghiệp. Sự khác nhau về mức thu nhập này vẫn chưa thể giải thích được và dường như không áp dụng cho nữ giới.
Cùng với lợi thế về trí thông minh, việc thuận tay trái cũng có một số lợi ích khác bao gồm:
Sự phân chia bán cầu não của công việc: điều trước tiên của lý thuyết này là vì việc nói và hoạt động đòi hỏi các kĩ năng năng động tốt; có một bán cầu não thực hiện cả hai sẽ hiệu quả hơn là phân chia chúng ra.
Lợi thế trong thi đấu: người thuận tay trái có một yếu tố "bất ngờ" trong tranh đấu, bởi vì đa số đều thuận tay phải.
Tuổi thọ thấp?
Thống kê chỉ ra rằng người già dường như ít thuận tay trái hơn là giới trẻ. Tỉ lệ người cao tuổi thuận tay trái giảm mạnh so với sự tăng của lứa tuổi. Tại Mỹ, người thuận tay trái ở lứa tuổi 20 là 12% trong khi ở lứa tuổi 50 chỉ có 5% cho lứa tuổi 80 chỉ còn lại 1%.
Các nhà nghiên cứu ngày nay hầu như cho rằng sự khác nhau trên giữa các nhóm tuổi là do việc người cao tuổi hơn dường như có kinh qua áp lực trong việc thay đổi tay thuận, nhân tố này ảnh hưởng tới nhiều thế hệ trẻ. Điều này được hỗ trợ bởi sự thật rằng nhiều nữ giới chuyển tay thuận hơn nam giới và nữ lại có tuổi thọ cao hơn nam. Tuy vậy, lập luận này không thể giải thích được mọi thứ khác và vấn đề "sự biến mất của những người thuận tay trái" thì vẫn là một điều bí ẩn.
Một lý thuyết khác cho rằng một số người thuận tay trái chuyển tay thuận sau này trong đời, do các áp lực về sự thuận tiện của thao tác, hay do "mệnh lệnh sinh học". Thuyết này cũng cho rằng tỉ lệ trẻ em sinh ra thuận tay trái có thể đã đang tăng theo thời gian.
Giao tiếp
Những người thuận tay trái, trong bữa ăn, thường là phải ngồi đầu nồi, giáp với nồi cơm về tay trái vì thường bị vướng tay những người thuận tay phải ngồi ăn bên trái họ. Những người thuận tay trái cũng phải tập thói quen bắt tay phải.
Một số người thuận tay trái có khả năng giao tiếp, thuyết trình vượt trội như hoàng đế Julius Caesar, Napoleon Bonaparte, các tổng thống Mỹ như Bill Clinton, Barack Obama, chủ tịch Cuba Fidel Castro,... được cho là do: ở người thuận tay trái, bán cầu phải hoạt động mạnh hơn. 40% người trong số họ có trung tâm ngôn ngữ ở não phải. Ở 60% còn lại, trung tâm ngôn ngữ nằm ở não trái hoặc cả hai bên. Hai bán cầu não có những đường dẫn truyền nối liên thông với nhau. Như vậy, một số người thuận tay trái được cả hai bán cầu não chỉ huy trung tâm ngôn ngữ và tư duy, có thể vượt trội hơn người khác.
Bên trái
Giao thông
Có sự bàn cãi về sự đóng góp của người thuận tay trái. Hoàng đế Napoléon Bonaparte cho dòng giao thông chạy bên phải của con lộ trong thời hậu Cách mạng Pháp. Lý do ẩn giấu trong việc này là vì Napoléon phải chiến đấu trong các trận đánh bằng thanh kiếm trong tay trái và do đó ông đã đảo lộn quân đội để chiến đấu theo cùng một cách. Điều này dẫn tới việc quân kỵ mã Pháp ngày đó tiếp cận đối phương từ phía bên phải của họ.
Con người
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc thuận tay trái không nhất thiết tương hợp với "thuận bên trái" (chẳng hạn dùng chân trái để đá). Cùng một kết luận cho việc thuận mắt.
Các hiệu ứng có thể ảnh hưởng đến tư duy con người
Có nhiều lý thuyết về việc tay trái ảnh hưởng tới cách nghĩ của một cá nhân. Một lý thuyết phân chia những người tư duy thuận tay trái và thuận tay phải thành hai khối: đồng thời và tuần tự.
Theo lý thuyết này, những người thuận tay phải xử lý thông tin bằng cách dùng một phương pháp "tuần tự" trong đó một tác vụ phải được hoàn tất quá trình của nó trước khi thao tác kế có thể bắt đầu.
Những người thuận tay trái xử lý thông tin bằng cách dùng phương pháp "đồng thời" trong đó nhiều tác vụ có thể được xử lý cùng lúc. Một cách khác để nhìn nhận vấn đề này: chẳng hạn như có hàng ngàn viên đá màu trắng và chỉ có một viên trong chúng được tô màu hồng. Người thuận tay phải dùng cách xử lý tuần tự, sẽ nhìn từng viên một cho tới khi họ tìm thấy viên màu hồng. Người thuận tay trái, sẽ nhìn lên nhiều viên cùng một lúc để tìm ra viên màu hồng. Hiệu ứng phụ của các cách thức xử lý này là những người thuận tay phải cần phải kết thúc một thao tác trước khi có thể bắt đầu thao tác kế. Ngược lại, người thuận tay trái có khả năng và thoải mái chuyển đổi xử lý giữa các thao tác đang thực hiện song song. Nói cách khác, người thuận tay trái có khả năng dể thực thi nhiều nhiệm vụ cùng lúc.
Lý thuyết này cũng cho rằng người thuận tay mặt thiên về xử lý thông tin kiểu "phân tích", tức là phương pháp giải quyết vấn đề bằng cách bẻ nhỏ chúng thành nhiều phần và phân tích từng phần một; còn người thuận tay trái thiên về xử lý thông tin kiểu "tổng hợp", tức là phương pháp giải quyết vấn đề bằng cách nhìn vào tổng thể. Dĩ nhiên cả hai cách xử lý đều có thể được kết hợp ở mỗi người theo tỷ lệ khác nhau.
Động vật
Hầu hết các loài linh trưởng cũng dùng một tay nhiều hơn tay kia, mặc dù đa số chúng không dùng tay phải.
Có một truyền thuyết là hầu hết gấu bắc cực đều thuận tay trái.
Chú thích |
Frank Lentini (1889 – 22 tháng 9 năm 1966) được sinh ra ở Siracusa, Sicilia trong một gia đình lớn có mười hai người con. Ông được sinh ra có ba cái chân, có ba cái bình thường và một ngón chân nữa mọc ra từ đầu gối của cái chân thứ ba. Như vậy, ông có tất cả ba cẳng chân, 3 bàn chân, 16 ngón chân và 2 bộ phận sinh dục có chức năng hoàn chỉnh. Bố mẹ ông đã từ chối ông và ông đã được một bà cô nhận nuôi nhưng sau đó, ông đã bị gửi đến một trại tế bần chuyên cho các trẻ em khuyết tật.
Khi còn trẻ, Lentini thường dùng chân thứ ba của mình để đá bóng và ông được mọi người biết đến với cái tên cầu thủ đá bóng ba chân. Có điều thú vị hơn là cái chân thứ ba này của ông thì ngắn hơn hai cái chân kia một vài inch, còn hai cái chân chính cũng không bằng nhau. Ông thường phàn nàn rằng, thậm chí ông có tới 3 chân mà vẫn chẳng thể có được một đôi chân theo đúng nghĩa.
Lúc lên 9 tuổi, ông chuyển tới Mỹ và tham dự một show diễn thương mại có tên là Lentini vĩ đại. Ông đã trở thành công dân Mỹ vào năm 30 tuổi và đã cưới Theresa Murray. Họ có 4 đứa con.
Frank Lentini mất ở Florida vào năm 1966. |
Lina Vanessa Medina (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1933 ở Paurange, Peru) đã sinh một đứa con khi mới 5 tuổi, 7 tháng và 21 ngày và hiện nay là người có độ tuổi làm mẹ trẻ nhất trong lịch sử y học. Kỷ lục thế giới này rất gần với một trường hợp tương tự ở Nga.
Lina Medina sinh ở Ticrapo, tỉnh Castrovirreyna, Peru, cha là thợ bạc Tiburcio Medina và mẹ là Victoria Loza.
Lina được bố mẹ đưa đến bệnh viện do sự gia tăng kích cỡ của bụng. Ban đầu, người ta nghĩ rằng cô có một khối u, nhưng về sau, các bác sĩ đã xác định được rằng cô đang mang thai đến tháng thứ 7. Bác sĩ Gerardo Lozada đã đưa cô tới Lima, thủ đô của Peru, trước khi thực hiện phẫu thuật, để các chuyên gia khác khẳng định lại rằng Lina thật sự có thai. Một tháng rưỡi sau, vào ngày 14 tháng 5 năm 1939, cô đã sinh ra một bé trai bằng thủ thuật Xê-da vì khung xương chậu của cô vẫn còn nhỏ. Cuộc phẫu thuật do hai bác sĩ Lozada và Busalleu đảm nhiệm còn bác sĩ Colretta thì gây tê. Trường hợp của cô đã được bác sĩ Edmundo Escomel ghi nhận tại La Presse Medicale, theo đó, còn có các chi tiết khác như kinh nguyệt của cô đã có bắt đầu từ lúc 8 tháng tuổi, và ngực phát triển khi lên 4 tuổi. Khi 5 tuổi hệ xương chậu của cô bắt đầu phát triển.
Con trai của cô khi sinh nặng 2,7 kg và được đặt tên là Gerardo theo tên người bác sĩ. Gerardo lớn lên và nghĩ rằng mình là em trai của Lina, nhưng khi lên mười tuổi, bị bạn bè trêu chọc thì anh đã phát hiện ra rằng Lina chính là người mẹ của mình. Anh đã lớn lên khỏe mạnh nhưng đã chết vào năm 1979 ở độ tuổi 40 vì căn bệnh về viêm tủy xương.
Không có bằng chứng nào cho thấy việc Lina Medina mang thai là do nguyên nhân khác với thông thường. Tuy nhiên, Lina Medina không tiết lộ cha của đứa bé là ai, cũng như về quá trình thụ thai của mình. Vào năm 2002 cô đã từ chối cuộc phỏng vấn với Reuters. Medina đã cưới Raúl Jurado, người là cha đứa con thứ hai của cô vào năm 1972. Hai người sống trong một quận nghèo ở Lima tên là Chicago Chico ("Tiểu Chicago").
Có hai bức ảnh được công bố làm tài liệu về trường hợp này. Bức ảnh đầu tiên có chất lượng thấp, được chụp vào khoảng đầu tháng 4 năm 1939, khi Medina có thai được 7 tháng rưỡi. Bức ảnh thứ hai được chụp với chất lượng tốt hơn, trong ảnh cô đứng cạnh bác sĩ Gerardo Lozada còn cậu con trai Gerardo 11 tháng thì nằm trong xe nôi. |
Nho là một loại quả mọng lấy từ các loài cây thân leo thuộc chi Nho (Vitis). Quả nho mọc thành chùm từ 6 đến 300 quả, chúng có màu đen, lam, vàng, lục, đỏ-tía hay trắng. Khi chín, quả nho có thể ăn tươi hoặc được sấy khô để làm nho khô, cũng như được dùng để sản xuất các loại rượu vang, thạch nho, nước quả, mật nho, dầu hạt nho. Trong tiếng Trung, nó được gọi là bồ đào (葡萄) và khi người ta nói đến rượu bồ đào tức là rượu sản xuất từ quả nho. Tuy nhiên, các loài nho dại lại bị coi là một loại cỏ dại gây nhiều phiền toái, do chúng che phủ các loài thực vật khác với tốc độ tăng trưởng rất nhanh của mình. Nho bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hại - xem thêm tại Danh sách các loài cánh vẩy phá hại nho.
Lịch sử
Việc trồng nho thuần hóa đã bắt đầu vào 6.000–8.000 năm trước ở Cận Đông. Bằng chứng khảo cổ xa xưa nhất về vị trí làm rượu vang của con người cách nay 8.000 năm trước ở Gruzia.
Nấm men, một trong những vi sinh vật được thuần hóa sớm nhất, xuất hiện trong tự nhiên trên vỏ nho, đã dẫn đến sự đổi mới các thức uống có cồn như rượu vang. Việc sản xuất rượu vang sớm nhất đã được biết đến vào khoảng 8.000 năm trước thuộc lãnh thổ của Gruzia. Trong một dự án lập bản đồ gen mở rộng, các nhà khảo cổ học đã phân tích di sản của hơn 100 giống nho hiện đại, và thu hẹp nguồn gốc của chúng vào vùng Gruzia, nơi dư lượng rượu vang cũng đã được phát hiện trên bề mặt bên trong của bình gốm lưu trữ 8.000 tuổi. Các nhà máy rượu vang lâu đời nhất được tìm thấy ở Armenia, có niên đại khoảng 4000 trước Công nguyên. Vào thế kỷ thứ 9 thành phố Shiraz đã được biết đến đã sản xuất một số loại rượu vang tốt nhất ở Trung Đông. Do đó, người ta cho rằng rượu vang đỏ Syrah được đặt tên theo Shiraz, một thành phố ở Ba Tư nơi nho đã được sử dụng để làm rượu Shirazi. Chữ viết tượng hình Ai Cập cổ đại đã ghi lại việc trồng nho tím, và lịch sử minh chứng rằng người Hy Lạp, Phoenicia và La Mã cổ đại đã trồng nho tím để ăn và sản xuất rượu vang. Việc trồng nho sau đó lan sang các khu vực khác ở châu Âu, cũng như Bắc Phi, và cuối cùng ở Bắc Mỹ.
Ở Bắc Mỹ, có nhiều loài nho bản địa thuộc chi Vitis sinh sống trong tự nhiên trên khắp lục địa, và là một phần trong khẩu phần ăn của người Mỹ bản địa. Thực dân châu Âu nhận thấy chúng không phù hợp để sản xuất rượu vang, nên đã nhập giống nho Vitis vinifera để phục vụ cho sản xuất rượu.
Các giống nho
Nho mọc thành từng chùm có khoảng 15 đến 300 quả, và có nhiều màu sắc khác nhau như đen, xanh thẫm, vàng, lục, cam và tím. Nho "trắng" thực chất là có màu lục, và có nguồn gốc tiến hóa từ nho tía. Đột biến ở hai gen quy định của nho trắng làm mất sự sản xuất anthocyanin, một chất tạo màu tía của nho. Anthocyanin và các chất tạo màu khác trong họ polyphenol tạo màu tía giúp tạo ra sắc tía trong rượu vang đỏ.
Phần lớn nho được thu hoạch từ loài được trồng là Vitis vinifera, loài làm rượu vang châu Âu bản địa của vùng Địa Trung Hải và Trung Á. Một lượng nhỏ trái và rượu có nguồn gốc từ các loài châu Mỹ và châu Á như:
Vitis labrusca, loài nho làm rượu châu Mỹ, bản địa của miền Đông Hoa Kỳ và Canada.
Vitis riparia, loài nho hoang của Bắc Mỹ, đôi khi dùng làm mứt và rượu vang. Đây là loài bản địa của đông Hoa Kỳ và Bắc Quebec.
Vitis rotundifolia, được dùng làm mứt và rượu, là loài bản địa của đông nam Hoa Kỳ từ Delaware đến vịnh Mexico.
Vitis amurensis loài nho quan trọng của châu Á.
Diện tích trồng
Theo số liệu của FAO, 75.866 km² trên thế giới được dùng để trồng nho. Khoảng 71% sản lượng nho được dùng sản xuất rượu vang, 27% để ăn dưới dạng quả tươi và 2% làm nho khô.
Danh sách dưới đây liệt kê 11 quốc gia sản xuất rượu vang nho hàng đầu thế giới với diện tích trồng nho tương ứng cho việc sản xuất rượu vang vào năm 2007:
Tây Ban Nha 11.750 km²
Pháp 8.640 km²
Ý 8.270 km²
Thổ Nhĩ Kỳ 8.120 km²
Hoa Kỳ 4.150 km²
Iran 2.860 km²
România 2.480 km²
Bồ Đào Nha 2.160 km²
Argentina 2.080 km²
Trung Quốc 1.780 km²
Australia 1.642 km²
Rượu vang đỏ
Các nhà nghiên cứu, chẳng hạn như Marty Mayo, đã so sánh khẩu phần dinh dưỡng ở các quốc gia phương Tây và đã phát hiện ra rằng mặc dù người Pháp có xu hướng ăn nhiều chất béo động vật hơn, nhưng tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người Pháp lại khá thấp. Họ gọi hiện tượng này là nghịch lý Pháp. Nhiều người cho rằng nguyên nhân là người Pháp tiêu thụ nhiều rượu vang đỏ hơn. Các chất có trong quả nho đã làm nồng độ cholesterol trong cơ thể thấp hơn và vì thế làm chậm lại quá trình tích lũy trong động mạch. Các hợp chất như resveratrol (chất chống oxy hóa polyphenol) đã được tìm thấy có trong nho và chúng có liên quan đến việc phòng chống ung thư, các bệnh tim mạch, làm suy hóa các bệnh liên quan đến thần kinh và các bệnh tật khác. Các bác sĩ không khuyến cáo dùng nhiều rượu vang đỏ, nhưng việc sử dụng từ 3-4 cốc trong một tuần là có lợi cho sức khỏe và được khuyến khích .
Mặc dù nhiều người nhận thức một cách sai lầm rằng các loại nho đỏ là có lợi hơn cho sức khỏe, trên thực tế tất cả các loại nho có màu khác cũng đem lại các lợi ích đáng kể. Tuy nhiên, rượu vang đỏ đem lại một số lợi ích cho sức khỏe mà không thấy có ở rượu vang trắng, do nhiều chất có lợi cho sức khỏe được tìm thấy ở lớp vỏ quả nho, mà chỉ có vang đỏ mới được lên men bằng cả vỏ quả.
Một nhận thức sai lầm khác là người ta cho rằng rượu vang trắng được sản xuất từ các giống nho có vỏ màu xanh. Trên thực tế, nó có thể được sản xuất từ bất kỳ giống nho nào. Vang đỏ được sản xuất từ các giống nho vỏ đỏ, nhưng sự tạo màu là kết quả của việc thêm cả vỏ vào trong quá trình ngâm ủ (lên men).
Các loại nho khô
Nho khô là bất kỳ loại quả nho được làm khô nào. Nho khô Zante (currant) hay còn gọi là nho Hy Lạp, là nho khô của vùng Zakynthos, tên gọi này là sự sửa đổi sai lạc của từ trong tiếng Pháp raisin de Corinthe (nho Corinth). Nho sultana (nho xuntan) nguyên thủy là nho khô sản xuất từ một giống nho không hạt có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng hiện nay nó được dùng để chỉ bất kỳ thứ nho khô nào được xử lý bằng hóa chất để giống như nho sultana truyền thống.
Chất chiết từ hạt nho
Hạt nho có chứa các procyanidolic oligomer, viết tắt là PCO. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra kết luận là các PCO củng cố các mạch máu và cải thiện sự lưu thông máu. Các chất chiết từ hạt nho có thể giúp chống lão hóa, giảm các bệnh tim mạch, cản trở các tế bào ung thư, giảm bớt các triệu chứng dị ứng và trạng thái căng thẳng của mắt cũng như giúp phòng chống một số bệnh da liễu. Trong các nghiên cứu gần đây, các chất chiết từ hạt nho cũng có chức năng giảm bớt xellulit (một chứng bệnh do mỡ lồi ra hạ bì, tạo thành các vệt lồi lõm trên da) và hạ thấp mức cholesterol và huyết áp. Các chất chiết từ hạt nho có ở ba dạng sau: lỏng, viên nén và viên nang.
Nho không hạt
Nho không hạt là một đặc điểm được đánh giá cao khi đem dùng ở dạng quả tươi và các giống không hạt hiện nay đã chiếm một tỷ lệ áp đảo trong số các giống nho trồng để ăn quả tươi. Do việc trồng nho có thể bằng các cành giâm, cho nên việc không có hạt không tạo ra vấn đề cho việc tái sinh sản nho. Tuy nhiên, nó là vấn đề cho những người nhân giống, họ hoặc phải sử dụng các giống có hạt làm cây mẹ hoặc lấy ra các phôi mầm từ sớm trong quá trình phát triển bằng các kỹ thuật nuôi cấy mô.
Hình ảnh |
Drosera spatulata là danh pháp khoa học của một loài bắt ruồi lá hình thìa, các tên gọi khác có thể là mao cao lá hình thìa hay thi diệp mao cao (phiên âm từ tiếng Trung).
Đặc điểm
Đây là một loài cây thân thảo với các lá hình cái thìa và mọc thành hình một cái nơ, đường kính 12–25 mm. Rễ là loại rễ chùm, đường kính mỗi sợi rễ tới 0,2 mm. Cuống lá phẳng và hẹp, dài 5–12 mm, rộng 2–3 mm. Mặt dưới của lá có các lông áp ép. Lá kèm có 3 thùy, thùy trung tâm hình tam giác, dài tới 1 mm. Các thùy bên hình tam giác hẹp, dài tới 3 mm. Hoa mọc thành chùm với 3-20 hoa nhỏ, cuống hoa dài khoảng 2–30 cm, phủ đầy lông dài khoảng 0,04–1 mm. Các cánh hoa màu tím hồng. Hạt hình elip-trụ hoặc elip-trứng, màu từ nâu sẫm đến đen, dài 0,4 mm, đường kính 0,06-0,12 mm.
Phổ biến
Loài bắt ruồi này khá phổ biến ở châu Á, từ miền bắc Nhật Bản, tới Úc và New Zealand.
Hình ảnh |
Warszawa (; phiên âm thường dùng là Vác-xa-va hoặc Vác-sa-va, một số sách báo tiếng Việt ghi là Vacsava; tên đầy đủ: Thủ đô Warszawa, tên tiếng Anh: Warsaw, tiếng Ba Lan: Miasto Stołeczne Warszawa) là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Ba Lan. Thành phố đô thị của nó nằm bên bờ sông Vistula, đông trung bộ Ba Lan với dân số ước tính là 1,78 triệu người và toàn vùng đô thị là hơn 3,1 triệu người. khiến nó trở thành thành phố thủ đô đông dân thứ 8 trong Liên minh châu Âu. Giới hạn diện tích của thành phố là trong khi vùng đô thị là . Warszawa là thành phố toàn cầu loại Alpha, một điểm du lịch tầm quốc tế lớn, và là một trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế quan trọng. Phố cổ Warszawa đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Từng được mệnh danh là "Paris của phương Bắc", Warszawa được cho là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới cho đến khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai xảy ra. Bị Đức ném bom trong Chiến dịch Ba Lan năm 1939 với Cuộc bao vây Warszawa mà sau đó đã được trao tặng huân chương quân sự cao quý nhất Ba Lan cho chủ nghĩa anh hùng, Virtuti Militari.
Lịch sử
Trước khi trở thành thủ đô
Có các ghi chép từ thế kỷ 9 về dân cư và hoạt động kinh tế tại khu vực mà ngày nay là Warszawa, nhưng mãi đến thế kỷ 13 thì Warszawa mới chính thức được thành lập bởi các công tước của Mazovia. Trong khi phát triển như một trung tâm hành chính và kinh tế, Warszawa ở địa vị phụ thuộc Płock trong Mazovia cho đến thế kỷ 15, và là không phải là đối thủ cạnh tranh vị trí thủ đô của cố đô Kraków. Tuy nhiên, thành phố đã đạt được tầm quan trọng ngày càng tăng do sức mạnh kinh tế của mình và vị trí trung tâm chiến lược quan trọng ở Ba Lan, củng cố khi Sejm Ba Lan (Viện quý tộc) tái định cư vĩnh viễn trong thế kỷ 16, và nó đã trở thành địa điểm của cuộc bầu cử của hoàng gia.
Là thành phố thủ đô của Ba Lan
Cho đến năm 1596, khi Warszawa trở thành thủ đô trên thực tế của đất nước khi vua Sigismund Vasa III, quyết định vĩnh viễn nơi ở Lâu đài Hoàng gia ở Warszawa. Thành phố bắt đầu phát triển nhanh chóng vượt ra ngoài những gì bây giờ là Phố Cổ và Phố Mới, một số thương nhân bắt đầu di chuyển vào và xây dựng lâu đài và cung điện xung quanh thị trấn. Vào thế kỷ 17, Praga (ở phía bên hữu ngạn của sông Vistula) được thành lập như một thị trấn riêng biệt (đến thế kỷ 19 mới trở thành một phần của Warszawa).
Trong khi bị tàn phá bởi chiến tranh và thiên tai như nhiều thành phố khác ở châu Âu trong giai đoạn này, Warszawa tiếp tục phát triển và hiện đại hóa, với nhà ở baroque, bao gồm Wilanów được xây dựng vào thế kỷ 17, và các vị vua Saxon bắt đầu các dự án quy hoạch đô thị quy mô lớn đầu tiên trong đầu những năm 1700. Vị vua cuối cùng của độc lập Ba Lan, Stanisław August Poniatowski, đã tiếp tục hiện đại hóa thành phố theo những lý tưởng của trào lưu Khai sáng trong nửa sau của thế kỷ 18.
Vào cuối thế kỷ 18, Cộng hòa Ba Lan suy yếu đã bị phân chia, thông qua một khoảng thời gian ngoại giao cưỡng bức, hành động quân sự và cuộc nổi dậy, và Warszawa đầu tiên rơi vào tay cai trị của Phổ, mất hầu hết tầm quan trọng của nó. Khi hoàng đế Pháp Napoleon hành quân về phía đông với quân đội của mình, ông tái lập một quốc gia Ba Lan nhỏ được gọi là Lãnh địa Warszawa, sau khi thủ đô cùng tên của nó, nhưng nó đã được tồn tại trong thời gian ngắn và bị thôn tín bởi các đế chế Nga vào năm 1815, sau khi thất bại của Napoleon.
Dưới sự cai trị của Nga
Warszawa thực sự vẫn là một thành phố thủ đô dưới sự cai trị của Nga, khi Vương quốc Ba Lan được tái lập, mặc dù thuộc quyền của Nga hoàng và không có nhiều độc lập chính trị. Warszawa lúc đó là phía tây của thành phố lớn của đế quốc Nga và do đó sự tăng trưởng kinh tế như một trung tâm thương mại và công nghiệp. Trong khi cuộc nổi dậy lặp đi lặp lại và cố gắng để giành lại độc lập thất bại, Warszawa vẫn làm giàu với việc tạo ra nhiều tổ chức văn hóa, giáo dục, nhiều người còn sống sót đến ngày nay.
Sự tăng trưởng của Warszawa bị kiềm chế bởi một tuyến đôi pháo đài quân sự, bảo vệ tiền đồn quan trọng chiến lược của Nga, mà vào nửa cuối của thế kỷ 19 đã khiến Warszawa trở thành một trong những thành phố đông đúc nhất và mật độ dân cư cao nhất vào thời đó. Để hỗ trợ vệ sinh khiếm khuyết, các nhà chức trách bắt đầu cho xây dựng nhà máy nước tiên phong Warszawa (thiết kế bởi William Lindley), và hệ thống sưởi ấm đầu tiên và cài đặt nước ấm đã được lắp đặt.
Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, Warszawa đã được điện khí hóa, có được nhà máy điện đầu tiên điện và xe điện mặt đất đầu tiên, cũng như một mạng điện thoại. Khi bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, Warszawa đã nhộn nhịp; thành phố hiện đại có gần 1 triệu người, đầy rẫy những kiến trúc sang trọng, belle-epoque thích nghi với mật độ của nó.
Giữa thế chiến
Khi Ba Lan giành được độc lập, Warszawa trở thành thủ đô của một quốc gia độc lập. Thành phố không chỉ phải chịu đựng tổn thất nặng nề trong chiến tranh, mà còn sớm bị đe dọa bởi các lực lượng quân Liên Xô đang tiến tới, đội quân chỉ bị đẩy lùi tại biên giới trong những năm 1920 trong trận Warszawa. Trong khi bất ổn chính trị và đấu tranh xảy ra sau đó, Ba Lan đạt mức tăng trưởng kinh tế, lạc quan và quan tâm đúng quy hoạch và đô thị trong thời gian đó, và Warszawa được hưởng lợi từ đó rất nhiều, đặc biệt là dưới thời Tổng thống giữa hai cuộc chiến cuối cùng của nó, Stefan Starzyński.
Warszawa đã có được một sân bay tối tân ở Okęcie, tuyến đường sắt trung tâm thông qua trạm kết nối tất cả các liên kết đường sắt lớn mà trước đây đã trải qua hoặc chấm dứt trong thành phố, và thậm chí cả một trạm phát sóng truyền hình thử nghiệm. Khu dân cư quy hoạch hiện đại và hấp dẫn được tạo ra bên ngoài của tuyến pháo đài lịch sử, đặc biệt là về phía bắc trong Żoliborz và Bielany. Warszawa tiếp tục trộn các tòa nhà hiện đại mới và cũ và nhiều điền vào khoảng trống giữa hoặc thay thế các tòa nhà cũ khắp thành phố, cung cấp cho chiết trung nhìn Warszawa được biết đến với cả ngày nay.
Sự phát triển của thời điểm đó, trong khi sau đó bị phá hủy phần lớn trong Chiến tranh thế giới thứ hai, là những công cụ để định hình Warszawa như ngày nay. Hầu hết đã được xây dựng lại hoặc đúng nguyên văn hoặc trong một hình thức tương tự và địa điểm, trong khi một số người sống sót.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Phần lớn thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, Warszawa bị chiếm đóng bởi Đức Quốc xã, nhưng không đầu hàng mà không có các cuộc chiến đấu lớn mà gây ảnh hưởng thành phố - hơn 10% các tòa nhà đã bị phá hủy, trong khi nhiều người khác và cơ sở hạ tầng bị hư hại. Các nhà chức trách Đức xem Warszawa có thể bị phá hủy và có những kế hoạch lớn của cuối cùng hoàn toàn xây dựng lại nó như một thành phố kế hoạch, với Đức Quốc xã và biểu tượng thay thế tất cả các di sản Ba Lan. Điều này đã không trở thành hiện thực dưới mọi hình thức, nhưng giải thích trong khi người ta ít chú ý giữ gìn thành phố, bị định kỳ đánh bom của lực lượng Liên Xô sau năm 1941.
Đó là một thời kỳ đặc biệt bi kịch cho dân Do Thái ở Warszawa, vốn đã là một bộ phận lớn và quan trọng của cộng đồng dân cư nói chung trong phần lớn lịch sử Warszawa. Các lực lượng Đức Quốc xã đã lệnh cho người Do Thái chỉ giới hạn ở Warsaw Ghetto, vươn ra phần lớn quận Wola, và tiếp tục với kế hoạch của họ để tiêu diệt họ. Điều này cuối cùng dẫn đến sự cuộc nổi dậy Warsaw Ghetto năm 1943.
Trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh, kịch tính và bi thảm cuộc nổi dậy Warszawa đã diễn ra vào năm 1944 trong bối cảnh của sự thất bại của Đức và quân Liên Xô tiến vào Warszawa. Điều này cuối cùng đã dẫn đến sự phá hủy của hầu hết các tòa nhà còn lại ở Warszawa và tiếp tục giảm đáng kinh ngạc của mạng sống, trong khi không đạt được mục tiêu của giải phóng Warszawa khỏi các lực lượng Đức trước khi quân Liên Xô sẽ tiến vào. Hồng quân Liên Xô sau đó chiếm được thành phố đã tê liệt và bị san bằng thắt chặt số phận của Ba Lan là một quốc gia vệ tinh cộng sản của Liên Xô.
Điều quan trọng cần lưu ý là cuộc nổi dậy Warsaw Ghetto năm 1943 và nổi dậy Warszawa năm 1944 là sự kiện lịch sử hoàn toàn riêng biệt.
Sau Thế chiến II - xây dựng lại thành phố
Năm 1945, Warszawa gần như bị phá hủy hoàn toàn. Người ta ước tính rằng hơn 80% của thành phố như bị phá hủy, bao gồm gần như toàn bộ trung tâm thành phố và các tòa nhà lịch sử nhất và quan trọng. Trong số gần 1,4 triệu người, một nửa đã chết trong chiến tranh (bao gồm cả gần như đại đa số dân Do Thái), những người khác bị buộc phải rời bỏ hoặc bỏ chạy một cách tự nguyện, và chỉ có khoảng 10% dân số ban đầu sống ở những tàn tích của thành phố.
Do vậy, việc xây dựng lại thành phố là một nhiệm vụ vô cùng to lớn, nhưng người ta không do dự vì thực tế là nó đã được thực hiện. Một ủy ban đặc biệt gồm kiến trúc sư và nhà quy hoạch đô thị được nỗ lực tiến hành. Mô hình thành phố của họ hình thành phố đã định hình thành phố như ngày nay. Một mặt, người ta tỉ mỉ khôi phục lại các tòa nhà lịch sử lâu đời nhất và quan trọng nhất sử dụng tài liệu còn tồn tại, mà còn hình ảnh cũ và thậm chí cả tranh. Mặt khác, ý thức hệ cộng sản chạy rất nhiều so với các nhân vật thời tiền chiến Warszawa, và lý do thực tế và cơ hội quy hoạch đô thị quyết định lập kế hoạch trên quy mô lớn hơn, dự tính một mở rộng, nhiều thành phố có mật độ thấp hơn.
Khí hậu
Hành chính
Hình ảnh
Kinh tế
Năm 2003, có 268.307 công ty được thành lập ở Warszawa. Thành phố tạo ra 15% thu nhập của Ba Lan. GDP (PPP) đầu người năm 2005 là 28.000 USD. Tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất Ba Lan, không vượt quá 6%.
Giao thông
Warsszawa có 3 sân bay sân bay Warsaw Chopin, sân bay Warsaw–Modlin Mazovia, sân bay Warsaw Babice, tàu điện ngầm.
Ghi chú
Thủ đô châu Âu
Huyện thành phố Ba Lan
Di sản thế giới tại Ba Lan
Thành phố và thị trấn ở Mazowieckie
Địa điểm Holocaust ở Ba Lan
Huyện thành phố của Ba Lan |
Russell có thể nói đến:
Bertrand Russell - Nhà triết học và toán học người Anh
Nghịch lý Russell
Russell Crowe - Diễn viên điện ảnh Mỹ |
Amsterdam (đọc là Am-xtéc-đam) () là thủ đô chính thức của Hà Lan, nằm trên các bờ vịnh IJmeer và sông Amstel. Thành phố được thành lập vào thế kỷ 12 từ một làng chài nhỏ bên bờ sông Amstel. Ngày nay, đây là thành phố lớn nhất Hà Lan, là trung tâm chính trị, kinh tế, Thành phố nằm ở tỉnh Noord-Holland ở phía tây của quốc gia này. Thành phố có dân số (bao gồm cả vùng ngoại ô) có 1.360.000 dân tại thời điểm ngày 01 tháng 1 năm 2008, bao gồm phần phía bắc của Randstad, là vùng đô thị lớn thứ 5 châu Âu, với dân số khoảng 6.700.000 người.
Tên của thành phố có nguồn gốc từ Amstellerdam, chỉ xuất xứ của thành phố: một đập trong sông Amstel. Là một khu vực định cư như của một làng chài nhỏ ở cuối thế kỷ 12, Amsterdam đã trở thành một trong những cảng quan trọng nhất trên thế giới trong thời kỳ hoàng kim của Hà Lan, một kết quả của sự phát triển sáng tạo của mình trong thương mại. Trong thời gian đó, thành phố là trung tâm tài chính và kim cương hàng đầu thế giới. Trong thế kỷ 19 và 20, thành phố mở rộng, và nhiều khu vực lân cận và các vùng ngoại ô mới được thành lập. Các kênh đào thế kỷ 17 của Amsterdam và Tuyến phòng thủ thế kỷ 19–20 của Amsterdam nằm trong Danh sách Di sản Thế giới của UNESCO. Sloten, được sáp nhập vào năm 1921 bởi đô thị Amsterdam; là phần cổ nhất của thành phố, có niên đại từ thế kỷ thứ 9.
Các điểm tham quan chính của Amsterdam bao gồm các kênh lịch sử, Bảo tàng Rijksmuseum, Bảo tàng Van Gogh, Bảo tàng Stedelijk, Hermitage Amsterdam, Concertgebouw, Nhà Anne Frank, Bảo tàng Scheepvaartmuseum, Bảo tàng Amsterdam, Trải nghiệm Heineken, Cung điện Hoàng gia Amsterdam, Natura Artis Magistra, Hortus Botanicus Amsterdam, NEMO, khu đèn đỏ và nhiều quán cà phê. Nó đã thu hút hơn 5 triệu lượt khách quốc tế vào năm 2014. Thành phố cũng nổi tiếng với cuộc sống về đêm và hoạt động lễ hội; với một số câu lạc bộ đêm (Melkweg, Paradiso) nổi tiếng nhất thế giới. Chủ yếu được biết đến với di sản nghệ thuật, hệ thống kênh đào phức tạp và những ngôi nhà hẹp với mặt tiền có đầu hồi; Các di sản được bảo tồn tốt của Thời kỳ Hoàng kim thế kỷ 17 của thành phố. Những đặc điểm này được cho là nguyên nhân thu hút hàng triệu du khách của Amsterdam hàng năm. Đạp xe là chìa khóa tạo nên nét đặc trưng của thành phố, và có rất nhiều con đường dành cho xe đạp.
Thị trường chứng khoán Amsterdam được coi là sàn giao dịch chứng khoán "hiện đại" lâu đời nhất trên thế giới. Là thủ đô thương mại của Hà Lan và là một trong những trung tâm tài chính hàng đầu ở châu Âu, Amsterdam được nhóm nghiên cứu Toàn cầu hóa và Các thành phố Thế giới (GaWC) coi là một thành phố thế giới alpha. Thành phố cũng là thủ đô văn hóa của Hà Lan. Nhiều tổ chức lớn của Hà Lan có trụ sở chính tại thành phố, bao gồm: tập đoàn Philips, AkzoNobel, Booking.com, TomTom và ING. Nhiều công ty lớn nhất thế giới có trụ sở tại Amsterdam hoặc đã thành lập trụ sở châu Âu tại thành phố này, chẳng hạn như các công ty công nghệ hàng đầu Uber, Netflix và Tesla. Năm 2012, Amsterdam được Đơn vị tình báo kinh tế (EIU) xếp hạng là thành phố tốt thứ hai để sinh sống và thứ 12 trên toàn cầu về chất lượng sống cho môi trường và cơ sở hạ tầng bởi Mercer. Thành phố được xếp hạng thứ 4 trên toàn cầu với tư cách là trung tâm công nghệ hàng đầu trong báo cáo Savills Tech Cities 2019 (thứ 2 ở Châu Âu), và thứ 3 về đổi mới bởi cơ quan đổi mới của Úc 2thinknow trong Chỉ số các thành phố đổi mới của họ năm 2009. Cảng Amsterdam là cảng lớn thứ năm ở Châu Âu. Trung tâm KLM và sân bay chính của Amsterdam: Schiphol, là sân bay bận rộn nhất của Hà Lan cũng như bận rộn thứ ba ở châu Âu và sân bay bận rộn thứ 11 trên thế giới. Thủ đô Hà Lan được coi là một trong những thành phố đa văn hóa nhất trên thế giới, với ít nhất 177 quốc tịch đại diện.
Một số cư dân đáng chú ý của Amsterdam trong suốt lịch sử bao gồm: họa sĩ Rembrandt và Van Gogh, nữ sĩ Anne Frank, và nhà triết học Baruch Spinoza.
Từ nguyên
Sau trận lụt năm 1170 và 1173, người dân địa phương gần sông Amstel đã xây dựng một cây cầu bắc qua sông, một con đập bắc qua nó và người dân nơi đây đặt tên cho ngôi làng là "Aemstelredamme". Việc sử dụng tên đó đã được ghi chép lại sớm nhất là trong một tài liệu ngày 27 tháng 10 năm 1275, trong đó có việc người dân trong làng được miễn trả phí qua cầu cho Bá tước Floris V. Điều này cho phép cư dân của làng Aemstelredamme có thể đi lại tự do qua vùng Holland mà không cần phải trả phí qua đường, cầu khóa và đập. Giấy chứng nhận đã mô tả cư dân là homine manentes apud Amestellingamme (người cư trú gần Amestellingamme). Đến năm 1327, tên đã phát triển thành Aemsterdam.
Lịch sử
Thành lập và thời kỳ Trung Cổ
Amsterdam trẻ hơn nhiều so với các thành phố Hà Lan như Nijmegen, Rotterdam và Utrecht. Vào tháng 10 năm 2008, nhà địa lý lịch sử Chris de Bont cho rằng vùng đất xung quanh Amsterdam sẽ được khai hoang sớm nhất là vào cuối thế kỷ 10. Điều này không nhất thiết có nghĩa là khi đó đã có một khu định cư, vì việc cải tạo đất có thể không phải để trồng trọt - nó có thể là than bùn, để sử dụng làm nhiên liệu.
Amsterdam được cấp quyền thành phố vào năm 1300 hoặc 1306. Từ thế kỷ 14 trở đi, Amsterdam phát triển mạnh mẽ, phần lớn là nhờ giao thương với Liên đoàn Hanseatic. Vào năm 1345, một phép lạ Thánh Thể được cho là ở Kalverstraat đã biến thành phố trở thành một địa điểm hành hương quan trọng cho đến khi tín ngưỡng Tin lành được chấp nhận. Sự sùng kính Phép màu đã đi vào lòng đất nhưng vẫn được duy trì. Vào thế kỷ 19, đặc biệt là sau Năm Thánh 1845, lòng sùng kính đã được hồi sinh và trở thành điểm tham chiếu quan trọng của quốc gia đối với người Công giáo Hà Lan. Stille Omgang —một cuộc đi bộ hoặc đám rước trong trang phục dân sự — là biểu hiện của cuộc hành hương ở Hà Lan theo đạo Tin lành kể từ cuối thế kỷ 19. Vào thời kỳ hoàng kim của Con đường im lặng, có tới 90.000 người hành hương đến Amsterdam. Trong thế kỷ 21, con số này đã giảm xuống còn khoảng 5000.
Mâu thuẫn với Tây Ban Nha
Vào thế kỷ 16, người Hà Lan nổi dậy chống lại Philip II của Tây Ban Nha và những người kế vị ông. Các lý do chính của cuộc nổi dậy là việc áp đặt các loại thuế mới, xu thứ mười, và cuộc đàn áp tôn giáo đối với những người theo đạo Tin lành bởi Tòa án Dị giáo mới được đưa ra. Cuộc nổi dậy leo thang thành Chiến tranh 80 năm, cuối cùng dẫn đến nền độc lập của Hà Lan. Được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lãnh đạo Cuộc nổi dậy Hà Lan William the Silent, Cộng hòa Hà Lan được biết đến với sự khoan dung tôn giáo tương đối của mình. Người Do Thái từ bán đảo Iberia, người Huguenot từ Pháp, các thương gia thịnh vượng và thợ in từ vùng Flanders, và những người tị nạn kinh tế và tôn giáo từ các vùng do Tây Ban Nha kiểm soát của các Nước Thấp đã tìm thấy sự an toàn ở Amsterdam. Sự gia tăng của các máy in Flemish và sự khoan dung về trí tuệ của thành phố đã khiến Amsterdam trở thành trung tâm báo chí tự do của châu Âu.
Trung tâm của thời kỳ hoàng kim Hà Lan
Thế kỷ 17 được coi là thời kỳ hoàng kim, trong thời gian này Amsterdam đã trở thành thành phố giàu có sung túc nhất trên thế giới. Tàu khởi hành từ Amsterdam đến biển Baltic, Bắc Mỹ., Và châu Phi, cũng như ngày nay là Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka, và Brazil, tạo thành cơ sở của một mạng lưới kinh doanh trên toàn thế giới. Các thương nhân của Amsterdam đã là các cổ đông lớn nhất trong cả hai Công ty Đông Ấn Hà Lan và Công ty Tây Ấn Hà Lan. Các công ty này mua lại tài sản ở nước ngoài mà sau này trở thành thuộc địa Hà Lan.
Amsterdam là điểm quan trọng nhất của châu Âu đối với việc vận chuyển hàng hóa và là trung tâm tài chính hàng đầu của thế giới phương Tây. Năm 1602, văn phòng Amsterdam của Công ty Đông Ấn Hà Lan giao dịch quốc tế trở thành sàn giao dịch chứng khoán đầu tiên trên thế giới bằng cách giao dịch cổ phiếu của chính mình. Ngân hàng Amsterdam bắt đầu hoạt động vào năm 1609, hoạt động như một ngân hàng dịch vụ đầy đủ cho các chủ ngân hàng thương gia Hà Lan và như một ngân hàng dự trữ.
Thoái trào và hiện đại hóa
Sự thịnh vượng của Amsterdam suy giảm trong thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Các cuộc chiến tranh của Cộng hòa Hà Lan với Anh và Pháp đã ảnh hưởng đến Amsterdam. Trong các cuộc Chiến tranh Napoléon, tầm quan trọng của Amsterdam đạt đến điểm thấp nhất, với việc Hà Lan bị hấp thụ vào Đế chế Pháp. Tuy nhiên, sự thành lập sau đó của Vương quốc Hà Lan vào năm 1815 đã đánh dấu một bước ngoặt.
Cuối thế kỷ 19 đôi khi được gọi là Kỷ nguyên vàng thứ hai của Amsterdam. Các bảo tàng mới, một nhà ga, và Concertgebouw được xây dựng; đồng thời, cuộc Cách mạng Công nghiệp đã đến thành phố. Kênh Amsterdam-Rhine được đào để cho Amsterdam kết nối trực tiếp với sông Rhine và Kênh Biển Bắc được đào để giúp cảng có kết nối ngắn hơn với Biển Bắc. Cả hai dự án đều cải thiện đáng kể thương mại với phần còn lại của châu Âu và thế giới. Năm 1906, Joseph Conrad đã mô tả ngắn gọn về Amsterdam khi nhìn từ bên bờ biển, trong The Mirror of the Sea.
Amsterdam mất hơn 10% dân số của nó do bệnh dịch hạch giai đoạn các năm 1623-1625, và một lần nữa năm 1635-1636, 1655, và 1664. Tuy nhiên, dân số của Amsterdam tăng trong thế kỷ 17 (phần lớn thông qua nhập cư) từ 50.000 đến 200.000.
Vị thế thương nghiệp dồi dào của Amsterdam suy yếu vào thế kỷ 18 và sang đầu thế kỷ 19 phần vì thiệt hại chiến cuộc qua những trận giao tranh với các nước Anh và Pháp trong Chiến tranh Anh-Hà Lan và cuộc xâm lăng của Napoleon. Đó là thời điểm sa sút nhất của Amsterdam khi Hà Lan bị sáp nhập vào Đế quốc Pháp thứ nhất. Năm 1815 đánh dấu thời kỳ mới cho Amsterdam phụ thuộc Vương quốc Hà Lan thống nhất.
Thế kỷ 20 - nay
Không lâu trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thành phố bắt đầu mở rộng trở lại, và các vùng ngoại ô mới được xây dựng. Mặc dù Hà Lan vẫn giữ thái độ trung lập trong cuộc chiến này, Amsterdam vẫn bị thiếu lương thực, và nhiên liệu sưởi ấm trở nên khan hiếm. Tình trạng thiếu hụt đã gây ra bạo loạn, trong đó một số người đã thiệt mạng. Những cuộc bạo loạn này được gọi là Aardappeloproer (Cuộc nổi dậy của người khoai tây). Mọi người bắt đầu cướp phá các cửa hàng và nhà kho để lấy nguồn cung cấp, chủ yếu là thực phẩm.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1921, sau trận lụt năm 1916, các thành phố tự trị đã cạn kiệt như Durgerdam, Holysloot, Zunderdorp và Schellingwoude, tất cả đều nằm ở phía bắc Amsterdam, theo yêu cầu riêng của họ, được sáp nhập vào thành phố. Giữa các cuộc chiến tranh, thành phố tiếp tục được mở rộng, đặc biệt là về phía tây của quận Jordaan trong Frederik Hendrikbuurt và các vùng lân cận.
Đức Quốc xã xâm lược Hà Lan vào ngày 10 tháng 5 năm 1940 và nắm quyền kiểm soát đất nước. Một số công dân Amsterdam đã che chở cho người Do Thái, do đó khiến bản thân và gia đình của họ có nguy cơ cao bị bỏ tù hoặc đưa đến các trại tập trung. Hơn 100.000 người Do Thái Hà Lan đã bị trục xuất đến các trại tập trung của Đức Quốc xã, trong đó có khoảng 60.000 người sống ở Amsterdam. Đáp lại, Đảng Cộng sản Hà Lan đã tổ chức cuộc đình công vào tháng Hai với sự tham dự của 300.000 người để phản đối các cuộc đột kích. Có lẽ người bị trục xuất nổi tiếng nhất là cô gái trẻ Do Thái Anne Frank, người đã chết trong trại tập trung Bergen-Belsen. Vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, liên lạc với phần còn lại của đất nước bị phá vỡ, lương thực và nhiên liệu trở nên khan hiếm. Nhiều công dân đã đến vùng nông thôn để kiếm ăn. Chó, mèo, củ cải đường thô và củ hoa tulip — nấu thành bột giấy — đã được tiêu thụ để sống sót. Nhiều cây cối ở Amsterdam đã bị chặt để làm nhiên liệu, và gỗ được lấy từ các ngôi nhà, căn hộ và các tòa nhà khác của những người Do Thái bị trục xuất.
Nhiều vùng ngoại ô mới, chẳng hạn như Osdorp, Slotervaart, Slotermeer và Geuzenveld, được xây dựng trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Những vùng ngoại ô này có nhiều công viên công cộng và không gian rộng mở, và các tòa nhà mới đã cải thiện điều kiện nhà ở với các phòng, khu vườn và ban công lớn hơn và sáng hơn. Vì chiến tranh và các sự kiện khác của thế kỷ 20, gần như toàn bộ trung tâm thành phố đã rơi vào cảnh hoang tàn. Khi xã hội đang thay đổi, chính trị gia và những nhân vật có ảnh hưởng khác đã lên kế hoạch thiết kế lại các phần lớn của nó. Nhu cầu ngày càng tăng đối với các tòa nhà văn phòng và cả những con đường mới, khi hầu hết mọi người đều có thể sử dụng ô tô. Một tàu điện ngầm bắt đầu hoạt động vào năm 1977 giữa vùng ngoại ô mới của Bijlmermeer trong vùng Zuidoost (đông nam) của thành phố và trung tâm Amsterdam. Các kế hoạch tiếp theo là xây dựng một đường cao tốc mới phía trên tàu điện ngầm để kết nối Amsterdam Centraal và trung tâm thành phố với các khu vực khác của thành phố.
Việc phá dỡ quy mô lớn được yêu cầu bắt đầu ở khu phố Do Thái trước đây của Amsterdam. Các đường phố nhỏ hơn, chẳng hạn như Jodenbreestraat và Weesperstraat, được mở rộng và hầu như tất cả các ngôi nhà và tòa nhà đã bị phá bỏ. Ở đỉnh điểm của cuộc phá hủy, Nieuwmarktrellen (Cuộc nổi loạn Nieuwmarkt) nổ ra; những người nổi loạn bày tỏ sự giận dữ của họ về sự phá hủy do tái cấu trúc thành phố.
Kết quả là, việc phá dỡ bị dừng lại và đường cao tốc vào trung tâm thành phố không bao giờ được xây dựng hoàn chỉnh; chỉ có tàu điện ngầm được hoàn thành. Chỉ một số đường phố vẫn được mở rộng. Tòa thị chính mới được xây dựng trên Waterlooplein gần như bị phá hủy hoàn toàn. Trong khi đó, các tổ chức tư nhân lớn, chẳng hạn như Stadsherstel Amsterdam, được thành lập để khôi phục toàn bộ trung tâm thành phố. Mặc dù ngày nay, thành công của cuộc đấu tranh này có thể nhìn thấy được, nhưng những nỗ lực để khôi phục thêm vẫn đang tiếp tục. Toàn bộ trung tâm thành phố đã khôi phục lại vẻ đẹp lộng lẫy trước đây và nói chung, giờ đây là một khu vực được bảo vệ. Nhiều tòa nhà của nó đã trở thành di tích, vào tháng 7 năm 2010, Grachtengordel (ba kênh đào đồng tâm: Herengracht, Keizersgracht và Prinsengracht) đã được thêm vào Danh sách Di sản Thế giới của UNESCO.
Trong những năm đầu của thế kỷ 21, trung tâm thành phố Amsterdam đã thu hút một lượng lớn khách du lịch: từ năm 2012 đến 2015, số lượng du khách hàng năm tăng từ 10 lên 17 triệu. Giá bất động sản tăng cao và các cửa hàng địa phương đang nhường chỗ cho những cửa hàng hướng đến khách du lịch, khiến trung tâm không có khả năng chi trả cho người dân thành phố. Những phát triển này đã gợi lên sự so sánh với Venice, một thành phố được cho là bị quá tải bởi dòng khách du lịch.
Việc xây dựng một tuyến tàu điện ngầm nối một phần của thành phố phía bắc sông (hoặc hồ) IJ với trung tâm được bắt đầu vào năm 2003. Dự án đã gây tranh cãi vì chi phí của nó đã vượt quá ngân sách hệ số ba vào năm 2008, vì lo ngại thiệt hại cho các tòa nhà ở trung tâm, và vì việc xây dựng phải tạm dừng và khởi động lại nhiều lần. Tuyến tàu điện ngầm được hoàn thành vào năm 2018.
Kể từ năm 2014, trọng tâm đổi mới đã được dành cho việc tái tạo và đổi mới đô thị, đặc biệt là ở những khu vực giáp ranh trực tiếp với trung tâm thành phố, chẳng hạn như Frederik Hendrikbuurt. Việc đổi mới đô thị và mở rộng trung tâm truyền thống của thành phố — với việc xây dựng trên các đảo nhân tạo của khu vực lân cận phía đông IJburg mới — là một phần của sáng kiến Tầm nhìn Cấu trúc Amsterdam 2040.
Địa lý
Amsterdam nằm ở phía Tây Hà Lan, thuộc tỉnh Bắc Hà Lan, có thủ đô không phải là Amsterdam, mà là Haarlem. Sông Amstel kết thúc ở trung tâm thành phố và kết nối với một số lượng lớn các kênh đào cuối cùng kết thúc trong IJ. Amsterdam thấp hơn mực nước biển khoảng . Vùng đất xung quanh bằng phẳng vì nó được hình thành từ các lớp sơn lớn. Một khu rừng nhân tạo, Amsterdamse Bos, nằm ở phía tây nam. Amsterdam được kết nối với Biển Bắc thông qua Kênh đào Biển Bắc khá dài.
Amsterdam được đô thị hóa mạnh mẽ, vùng đô thị Amsterdam bao quanh thành phố cũng vậy. Bao gồm đất, thành phố thích hợp có 4.457 người trên mỗi km 2 và 2.275 nhà mỗi km 2. Các công viên và khu bảo tồn thiên nhiên chiếm 12% diện tích đất của Amsterdam.
Khí hậu |
Đại số phổ dụng thường gọi tắt là đại số là một cấu trúc đại số tổng quát nhất. Khái niệm đại số phổ dụng bao gồm tất cả các cấu trúc đại số đã biết như nhóm, nửa nhóm, vành, trường,...
Khái niệm cơ bản
Đại số
Một đại số phổ dụng, gọi tắt là đại số là một cặp , trong đó A là một tập hợp không rỗng, được gọi là tập nền và là tập hợp (hữu hạn hoặc vô hạn) các phép toán trên A.
Phép toán
Phép toán n ngôi trên A với n 1, n là ánh xạ:
Trong đó, ký hiệu thay cho là viết theo ký pháp Ba Lan. Để ký hiệu là phép toán n-ngôi ta viết
Ta cũng gọi là phép toán không ngôi là phép chọn một phần tử cố định trong A, kết quả phép chọn được ký hiệu là 1
Kiểu của đại số
Cho là đại số với hữu hạn phép toán . Dãy các ngôi của các phép toán đó được gọi là kiểu của đại số A.
Đại số con
Tích trực tiếp
Đồng cấu đại số
Đa tạp -đại số
Đại số tự do |
Oslo ( hay , phiên âm: Ốt-xlô) là một khu tự quản, thủ đô và cũng là thành phố đông dân nhất Na Uy. Oslo trở thành khu tự quản (formannskapsdistrikt) vào ngày 1 tháng 1, 1838. Tuy nhiên thành phố đã được Vua Harald III của Na Uy thành lập từ năm 1048, thành phố từng bị phá hủy nghiêm trọng do hỏa hoạn vào năm 1624. Thành phố sau đó nằm dưới vương quyền của Vua Christian IV của Đan Mạch-Na Uy. Thành phố được tái thiết tới vị trí gần hơn với Pháo đài Akershus, và được gọi là Christiania (trong một thời gian ngắn cũng gọi là Kristiania). Năm 1925, thành phố lấy lại tên gốc bằng tiếng Na Uy là Oslo.
Oslo là trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học và kinh tế của Na Uy. Thành phố cũng là trung tâm của các hoạt động thương mại, ngân hàng, công nghiệp và ngư nghiệp trong cả nước. Oslo là một trung tâm quan trọng của các ngành kinh tế biển và thương mại hàng hải tại châu Âu. Thành phố là nơi đặt trụ sở của nhiều công ty trong lĩnh vực hàng hải, một vài trong số đó nằm trong số các công ty tàu thuyền, môi giới vận chuyển hàng hóa và bảo hiểm lớn nhất thế giới. Oslo là một thành phố đi đầu trong chương trình các thành phố đa dạng văn hóa của Hội đồng châu Âu và Ủy ban châu Âu.
Oslo được coi là thành phố toàn cầu và được xếp hạng "Beta" trong các nghiên cứu năm 2008. Nó được xếp hạng nhất về chất lượng sống trong các thành phố lớn của châu Âu theo báo cáo Thành phố Châu Âu của Tương lai 2012 theo tạp chí fDi. Trong một vài năm, Oslo từng được liệt trong danh sách các thành phố đắt đỏ nhất thế giới cùng với các thành phố toàn cầu khác như Zurich, Genève, Copenhagen, Paris, và Tokyo. Năm 2009, Oslo đã trở lại vị trí thành phố đắt đỏ nhất thế giới. Theo cuộc điều tra của ECA International năm 2011 thì Oslo đã bị đẩy xuống vị trí thứ hai sau Tokyo.
Tính đến ngày 1 tháng 7 năm 2017, khu tự quản Oslo có dân số 672.061 người, còn dân số của khu đô thị thành phố là 942.084. Vùng đô thị có dân số ước tính là 1,71 triệu người. Dân số thành phố tăng với tốc độ kỷ từ đầu những năm 2000, giúp nó trở thành thành phố lớn tại châu Âu có tốc độ tăng dân số nhanh nhất vào thời gian đó.
Sự tăng trưởng này bắt nguồn phần lớn từ nhập cư quốc tế và tỷ lệ sinh cao, nhưng cũng có liên quan đến di cư trong nước. Dân số dân nhập cư trong thành phố có phần tăng nhanh hơn dân số người Na Uy, Chỉ tính riêng thành phố Oslo, người nhập cư hiện chiếm hơn 25% tổng dân số.
Vùng đô thị
Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2016, khi tự quản Oslo có dân số 658.390 người. Vùng đô thị mở rộng bên ngoài ranh giới khu tự quản đến hạt Akershus lân cận (gồm khu tự quản Asker, Bærum, Røyken, Rælingen, Lørenskog, Nittedal, Skedsmo, Ski, Sørum, Gjerdrum, Oppegård); tổng dân số của chùm đô thị này là 942.084. Trung tâm thành phố nằm ở cuối Oslofjord, từ đó thành phố trải rộng ra trong ba "hành lang" khác nhau—về phía đông bắc và phía nam dọc theo cả hai bên của vịnh hẹp—giúp khu vực đô thị có hình dáng giống với chữ "Y" nghiêng ngược (trên bản đồ, ảnh vệ tinh, hoặc ảnh chụp từ trên cao).
Về phía bắc và phía đông, đồi rừng (Marka) mọc lên tạo ra hình dáng một giảng đường khổng đồ cho khu vực. Vùng đô thị khu tự quản (bykommune) của Oslo và hạt [fylke] Oslo là hai phần của cùng một thực thể, khiến Oslo là thành phố duy nhất ở Na Uy có hai cấp hành chính được tích hợp. Trong tổng diện tích của Oslo, được đô thị hóa và là đất nông nghiệp. Phần không xây dựng trong khi vực đô thị hóa có diện tích .
Thành phố Oslo được thành lập là một khu tự quản vào ngày 3 tháng 1 năm 1838 (xem formannskapsdistrikt). Nó được tách ra khỏi hạt Akershus để trở thành một hạt vào năm 1842. Hạt nông thôn Aker được nhập vào Oslo vào ngày 1 tháng 1 năm 1948 (và đồng thời được chuyển từ hạt Akershus đến hạt Oslo). Ngoài ra, Oslo chia sẻ một số chức năng quan trọng với hạt Akershus.
Các quận
Như được định nghĩa vào tháng 1 năm 2004 bởi hội đồng thành phố
Lịch sử
Theo saga của Na Uy, Oslo được thành lập khoảng năm 1049 bởi Harald Hardrada. Tuy nhiên nghiên cứu khảo cổ học cần đây khám phá mộ của Christian cho thấy nó có niên đại từ năm 1000 TCN, là bằng chứng có khu định cư. Do vậy có lễ kỷ niệm 1000 năm Oslo vào năm 2000.
Nó đã được coi là thủ đô từ triều đại Haakon V của Na Uy (1299–1319), vị vua đầu tiên sinh sống lâu dài tại thành phố này. Ông ấy cũng bắt đầu việc xây dựng pháo đài Akershus và Kongsgård của Oslo. Một thế kỷ sau, Na Uy là phần yếu hơn của một liên minh cá nhân với Đan Mạch, và vai trò của Oslo bị giảm xuống là trung tâm hành chính tỉnh, còn vua chúa định cư tại Copenhagen.
Oslo bị phá hủy một vài lần bởi hỏa hoạn, và sau những thiên tai trong thế kỷ 14, năm 1624, Christian IV của Đan Mạch và Na Uy ra lệnh xây dựng lại thành phố tại địa điểm mới dọc theo vinh, gần lâu đài Akershus và đặt tên thành phố là Christiania.
Trước đó, Christiania đã bắt đầu thiết lập tầm vóc của nó như một trung tâm thương mại và văn hoá ở Na Uy. Một phần của thành phố được xây dựng từ năm 1624 và bây giờ thường được gọi là Kvadraturen vì cách bố trí trực giao của nó trong các khối vuông thông thường. Cái Chết Đen lần trước xảy ra tại Oslo vào năm 1654. Năm 1814 Christiania trở thành thủ đô thực sự một lần nữa khi liên minh với Đan Mạch bị giải tán.
Nhiều công trình được xây vào thế kỷ thứ 19, bao gồm Cung điện Hoàng gia (1825–1848), tòa nhà Storting (nhà Quốc hội) (1861–1866), Đại học Oslo, Nhà hát Quốc gia và Phòng giao dịch chứng khoán. Những nghệ sĩ nổi tiếng sống ở đây thời gian này là Henrik Ibsen và Knut Hamsun (ông được nhận giải Nodel văn học). Năm 1850, Christiania vượt qua Bergen và trở thành thành phố đông dân nhất quốc gia. Năm 1877 thành phố này được đổi tên là Kristiania. Tên gốc Oslo được dùng lại năm 1925.
1000–1600
Dưới triều cua Olaf III của Na Uy, Oslo trở thành một trung tâm văn hóa của Đông Na Uy. Hallvard Vebjørnsson trở thành thánh quan thầy của thành phố và được phác họa trên biểu tượng của thành phố.
Năm 1174, tu viện Hovedøya được xây dựng. Các nhà thờ và tu viện trở thành những chủ sở hữu lớn của những vùng đất rộng lớn, điều này được chứng tỏ là quan trọng cho sự phát triển kinh tế của thành phố, đặc biệt là trước Cái Chết Đen.
Vào ngày 25 tháng 7 năm 1197, Sverre của Na Uy và quân của ông tấn công Oslo từ Hovedøya.
Trong thời Trung Cổ, Oslo đạt đến đỉnh cao dưới triều đại của Haakon V của Na Uy. Ông bắt cho xây pháo đài Akershus và cũng là vị vua đầu tiên định cư lâu dài tại thành phố ngày, khiến nó trở thành thủ đô của Na Uy.
Cuối thế kỷ 12, những thương nhân của Liên minh Hanse từ Rostock chuyển đến thành phố này và được tẩm ảnh hưởng lớn trong thành phố. Cái Chết Đen tới Na Uy năm 1349 và giống như các thành phố khác tại châu Âu, thành phố chịu tổn thất lớn. Thu nhập từ nhà thờ cũng giảm xuống đáng kể đến nỗi các thương nhân Hanse thống trị thương mại với nước ngoài của thành phố trong thế kỷ 15.
Thế kỷ 17
Thời gian trôi qua, những đám cháy nhiều lần phá hủy các phần quan trọng của thành phố, vì nhiều tòa nhà trong thành phố được xây hoàn toàn bằng gỗ. Sau đám cháy cuối cùng kéo dài 3 ngày năm 1624, Christian IV của Đan Mạch quyết định không nên xây lại thành phố cũ. Người của ông ấy xây một hệ thống đường ở khu Akershagen gần lâu đài Akershus. Ông yêu cầu tất cả công dân chuyển nơi buôn bán và làm việc của họ đến thành phố Christiania mới xây.
Việc chuyển đổi của thành phố diễn ra chậm trong vài trăm năm đầu. Bên ngoài thành phố, gần Vaterland và Grønland gần Phố Cổ, Oslo, một khu vực mới, không được quản lý của thành phố phát triển với rất nhiều công dân tầng lớp thấp sinh sống.
Thế kỷ 18
Trong thế kỷ 18, sau Đại chiến Bắc Âu, nền kinh tế của thành phố bùng nổ với ngành đóng tàu và thương mại. Nền kinh tế mạnh đã biến Christiania thành một cảng thương mại.
Thế kỷ 19
Năm 1814, thị trấn cấp tỉnh cũ Christiania trở thành thủ đô của Vương quốc Na Uy độc lập, trong một liên minh cá nhân với Thụy Điển. Một vài trụ sở quốc gia được thành lập và thành phố này với chức năng là thủ đô bắt đầu một quãng thời gian dân số tăng nhanh chóng. Chính phủ của quốc gia mới này cần những tòa nhà để mở rộng quản lý và các trụ sở. Một số tòa nhà được xây dựng – Ngân hàng Na Uy (1828), Cung điện Hoàng gia (1848), và Storting (1866). Những khu vực rộng lớn được sáp nhập vào năm 1839, 1859 và 1878. Dân số thành phố tăng từ khảong 10.000 năm 1814 đến 230.000 năm 1900. Christiania mở rộng về công nghiệp từ năm 1840, quan trọng nhất là xung quanh khu Akerselva. Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 19 đã có một sự bùng nổ của tòa nhà nổi bật, với nhiều chung cư mới và sự đổi mới của trung tâm thành phố, nhưng sự bùng nổ đã sụp đổ vào năm 1899.
1900–đến nay
Khu tự quản này phát triển những khu vực mới như là Ullevål Hageby (1918–1926) và Torshov (1917–1925). Tòa thị chính Oslo được xây dựng trong vùng ổ chuột Vika trước đây, từ năm 1931 đến năm 1950. Khu tự quản Aker được sáp nhập vào Oslo năm 1948, các phần ngoại ô được phát triển, như là Lambertseter (từ năm 1951). Aker Brygge được xây dựng tại xưởng đóng tàu Akers Mekaniske Verksted trước đây, từ năm 1982 đến năm 1998.
Trong Vụ tấn công khủng bố Na Uy 2011, Oslo bị tấn công bởi một quả bom tại khu hành chính, gây thiệt hại đến một số tòa nhà bao gồm tòa nhà có Văn phòng Thủ tướng. Tám người chết trong vụ tấn công này.
Địa lý
Oslo sở hữu một vòng cung đất ở cực bắc của Oslofjord. Vịnh hẹp ngày gần như bị chia đôi bởi bán đảo Nesodden nằm ở phía nam, đối diện Oslo; về tất cả các hướng khác Oslo bị bao quanh bởi đồi núi. Có 40 đảo trong giới hạn của thành phố, đảo lớn nhất là Malmøya (). Oslo có 343 hồ, hồ lớn nhất là Maridalsvannet (). Đây cũng là nguồn nước uống chính cho nhiều phần của Oslo.
Mặc dù Đông Na Uy có một số sông, không có sông nào đổ ra biển tại Oslo. Thay vào đó Oslo có hai sông nhỏ hơn: Akerselva và Alna. Những thác nước tại Akerselva tạo ra năng lương cho một số ngành công nghiệp hiện đại đầu tiên tại Na Uy trong thập niên 1840. Cuối thế kỷ đó, con sông trở thành biểu tựng của sự bền vững và ổn định của nền kinh tế và xã hội, nó còn chia thành phố thành bên đông và bên tây; các vùng định cư của người lao động nằm ở cả hai bên bờ sông, và sự phân chia thực tế là dọc theo đường Uelands, một chút xa hơn về phía tây. Sông Alna chảy qua Groruddalen, khu ngoại ô và công nghiệp chính của Oslo. Điểm cao nhất là Kirkeberget, . Mặc dù dân số của thành phố này nhỏ hơn so với hầu hết các thủ đô của châu Âu, nó chiếm một diện tích đất rộng bất thường, trong đó 2/3 diện tích là khu bảo tồn thiên nhiên gồm rừng, đồi và hồ.
Khí hậu
Oslo có khí hậu lục địa ẩm (Dfb). Vì thành phố nằm ở vĩ tuyến bắc, ánh sáng ban ngày có sự thay đổi lớn, từ hơn 18 giờ vào mùa hè, khi nó không bao giờ tối hoàn toàn vào ban đêm (no darker than chạng vạng hàng hải), đến chỉ khoảng 6 giờ một ngày vào mùa đông.
Oslo có mùa hè khá ấm với hai phần ba số ngày trong tháng 7 có nhiệt lớn hơn 20 °C và trung bình một phần tư số ngày trên 25 °C. Nhiệt độ cao kỷ lục đực đo tại Blindern là 34,2 °C vào ngày 3 tháng 8 năm 1982. Tại "đài quan sát" trung tâm Oslo nhiệt độ 35 °C được đo vào ngày 21 tháng 7 năm 1901. Vào tháng 1, ba phần tư số ngày nhiệt độ dưới nhiệt độ đóng băng (0 °C), trung bình một phần tư số ngày lạnh hơn −10 °C. Nhiệt độ lạnh kỷ lục là -29,6 °C, vào ngày 21 tháng 1 năm 1841, trong khi nhiệt độ lạnh kỷ lục tại Blindern là -26 °C vào tháng 1 năm 1941.
Tháng 7 năm 1901 là tháng ấm kỷ lục với nhiệt độ trung bình 24-giờ mỗi tháng là 22,7 °C °C. Bảng khí hậu sau đo trong khoảng thời gian 1981–2010.
Thông tin chung
Địa danh học
Nguồn gốc của cái tên Oslo là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Nó chắc chắn được bắt nguồn từ tiếng Na Uy cổ và, với tất cả các xác suất, ban đầu nó là tên của một trang trại lớn ở Bjørvika, nhưng ý nghĩa của tên đó bị tranh cãi. Các nhà ngôn ngữ học hiện đại thường giải thích bản gốc Óslo hoặc Áslo là "Bãi cỏ ở chân đồi" hoặc "Bãi cỏ được hiến dân cho Thần linh", với xác suất ngang nhau.
Một cách không chính xác, mọi người từng cho rằng "Oslo" nghĩa là "Cửa sông Lo", một tên được cho là tên trước đây của sông Alna. Tuy nhiên, không chỉ không có bằng chứng nào về sông "Lo" trước nghiên cứu của Peder Claussøn Friis là nơi đầu tiên cái tên này được đưa ra, mà tên này còn sai ngữ pháp trong tiếng Na Uy: dạng đúng của từ phải là Loaros (cf. Nidaros). Tên Lo bây giờ được tên là gốc của một từ dài hơn theo giải thích của Friis để ủng hộ cho [ý tưởng của mình về] từ nguyên của Oslo.
Con dấu thành phố
Oslo là một trong số ít các thành phố tại, cùng với Bergen và Tønsberg, không có phù hiệu áo giáo, mà sử dụng con dấu thành phố thay vào đó. Con dấu của Oslo có hình thánh quan thầy của thành phố, Thán Hallvard, với các vật dụng của ông, cối giã và mũi tên, với người phụ nữ khỏa thân ở dưới chân ông. Ông ngồi trên ngai với trang trí sư tử, cách trang trí cũng được sử dụng phổ biến bởi các vua Na Uy.
Cảnh quan thành phố
Cảnh quan thành phố Oslo được phát triển thành một thành phố hiện đại, với một hệ thống tàu điện ngầm rộng, một quận tài chính mới và một trung tâm văn hóa. Năm 2008, một triển lãm được tổ chức ở Luân Đôn trưng bày về nhà hát opera Oslo, chính sách tái tạo khu đô thị bờ biển của Oslo, Munch/Stenersen và thư viện mới Deichman. Hầu hết những tòa nhà trong thành phố và trong những khu dân cư xung quanh có chiều cao thấp và chỉ có Plaza, Postgirobygget là những tòa nhà được coi là cao hơn.
Kiến trúc
Kiến trúc Oslo rất đa dạng. Kiến trúc sư Carl Frederik Stanley (1769–1805), người được đào tạo tại Copenhagen, đã dành một vài năm tại Na Uy vào cuối thế kỷ 18. Ông đã làm các tác phẩm nhỏ cho những ông chủ giàu có ở trong và ngoài Oslo, nhưng thành tựu lớn của ông là việc cải tạo Trường Nhà thờ lớn Oslo, được hoàn thành năm 1800. Ông đã thêm một cổng cổ điển vào phía trước của một công trình cũ hơn, và một giảng đường hình bán nguyệt đã bị tịch thu tạm thời bởi Quốc hội năm 1814 để làm nơi tập hợp, bây giờ được bảo tồn tại Bảo tàng Lịch sử Văn hóa Na Uy như một công trình quốc gia.
Khi Christiania được chọn làm thủ đô của Na Uy năm 1814, thực tế không có tòa nhà nào thích hợp cho nhiều cơ quan chính phủ mới. Một chương trình xây dựng đầy tham vọng đã được khởi xướng, nhưng thực hiện rất chậm do những khó khăn về kinh tế. v Cung điện Hoàng gia, được thiết kế bởi Hans Linstow và được xây từ năm 1824 đến năm 1848. Linstow cũng dự kiến xây cổng Karl Johans, đại lộ nối Cung điện và thành phố, với một quảng trường tưởng niệm một nửa bị bao quanh bởi những tòa nhà của đại học Oslo, the Nhà quốc hội (Storting) và các cơ quan khác. Chỉ có các tòa nhà trường đại học được thực hiện theo kế hoạch này. Christian Heinrich Grosch, một trong những kiến trúc sư đầu tiên được đào tạo hoàn toàn tại Nauy, đã thiết kế tòa nhà ban đầu cho Sở Giao dịch Chứng khoán Oslo (1826–1828), chi nhánh địa phương của Ngân hàng Na Uy (1828), Nhà hát Christiania (1836–1837), và khuôn viên trường đầu tiên của Đại học Oslo (1841–1856). Đối với các tòa nhà của trường đại học, ông đã tìm kiếm sự trợ giúp của kiến trúc sư nổi tiếng người Đức Karl Friedrich Schinkel. Ảnh hưởng kiến trúc Đức tiếp tục tồn tại ở Na Uy, và nhiều tòa nhà bằng gỗ được xây theo các nguyên tắc của thuyết tân cổ điển. Tại Oslo, kiến trúc sư người Đức Alexis de Chateauneuf thiết kế Trefoldighetskirken, nhà thờ neo-gothic đầu tiên, được hoàn thiện bởi von Hanno năm 1858.
Có một số tòa nhà điểm nhấn, đặc biệt là ở Oslo, được xây theo phong cách thuyết chức năng, tòa nhà đầu tiên là nhà hàng Skansen (1925–1927) bởi Lars Backer, bị phá hủy năm 1970. Backer cũng thiết kế nhà hàng tại Ekeberg, được mở cửa năm 1929. Phòng trưng bày nghệ thuật Kunstnernes Hus bởi Gudolf Blakstad và Herman Munthe-Kaas (1930) vẫn cho thấy ảnh hưởng của xu hướng cổ điển trước đây của những năm 1920. Việc phát triển lại sân bay Oslo (bởi tập đoàn tài chính Aviaplan) tại Gardermoen, được mở cửa năm 1998, là dự án xây dựng lớn nhất của Na Uy cho đến nay.
Địa điểm tham quan chính
Pháo đài và Lâu đài Akershus
Norsk Folkemuseum, Bảo tàng lịch sử văn hóa ngoài trời
Bảo tàng Lực lượng vũ trang
Tòa thị chính Oslo, nơi lễ Giải Nobel hàng năm được tổ chức
Bảo tàng lịch sử Oslo
Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại
Holmenkollen ski jump
Bảo tàng trượt tuyết Holmenkollen, Holmenkollen
Bảo tàng Kon-Tiki, Bygdøy
Bảo tàng Munch, Tøyen
Sông Akerselva
Bảo tàng thành phố Oslo, tại Frogner Manor
Cung Hoàng gia
Trung tâm Mỹ thuật Henie-Onstad, Høvikodden tại Bærum
Nhà thờ lớn Oslo
Tryvannstårnet
Nhà hát opera Oslo
Chính trị và chính quyền
Oslo là thủ đô của Na Uy, và do đó nó là trụ sở của chính phủ Na Uy. Hầu hết cơ quan chính phủ, bao gồm của thủ tướng, tập trung tại Regjeringskvartalet, một nhóm những tòa nhà gần Nhà quốc hội, Storting.
Tạo thành cả một khu tự quản và một hạt của Na Uy, thành phố Oslo được đại diện trong Storting bởi 19 thành viên của quốc hội. Công đảng và đảng Bảo thủ mỗi đảng có 6 ghế, đảng Tiến bộ và đảng Tự do mỗi đảng có hai ghế; đảng Xã hội chủ nghĩa Cánh trái, đảng Công giáo Dân chủ và đảng Xanh mỗi đảng có một ghế.
Kinh tế
Oslo có nền kinh tế đa dạng và mạnh mẽ và được xếp hạng nhất trong số các thành phố lớn của châu Âu về tiềm năng kinh tế trong báo cáo Tạp chí fDi về Các thành phố châu Âu của tương lai năm 2012. Nó được xếp hạng thứ 2 về độ thân thiện với kinh doanh, đứng sau Amsterdam.
Oslo là một trung tâm kiến thức hàng hải quan trọng ở châu Âu và có khoảng năm 1980 công ty và 8.500 nhân viên trong ngành hàng hải. Một số trong đó là các công ty vận tải biển lớn nhất thế giới, các công ty môi giới hàng hải và môi giới bảo hiểm. Det Norske Veritas, có trụ sở tại Høvik phía ngoài Oslo, là một trong ba hội xếp hạng tàu chính của thế giới, với 16,5% lượng tàu thế giới xếp hạng bởi nó. Cảng của thành phố là cảng hàng tổng hợp lớn nhất trong nước và là cửa ngõ hàng đầu đón hành khách. Gần 6.000 tàu cập bến Cảng Oslo mỗi năm với tổng cộng 6 triệu tấn hàng hóa và hơn năm triệu hành khách.
Tổng sản phẩm quốc nội của Oslo đạt 268,047 tỷ NOK năm 2003, chiếm 17% GDP quốc gia. Con số này năm 165,915 tỷ NOK năm 1995. Khu trung tâm, Moss và Drammen, đóng góp 25% GDP quốc gia năm 2003 và hơn 1/4 tổng tiền thu thuế. Trong khi đó, tổng tiền thu thuế từ ngành công nghiệp dầu khí tại thềm lục địa Na Uy đóng góp 16%.
Oslo là một trong những thành phố đắt nhất trên thế giới. , nó xếp hạng 10 theo khảo sát chi phí sống thế giới cung cấp bởi Mercer Human Resource Consulting và thứ nhất theo Economist Intelligence Unit. Lý do của sự khác biệt này là EIU bỏ qua một số yếu tố nhất định trong việc tính toán chỉ số cuối cùng của nó, nhất là nhà ở. Trong cập nhật năm 2015 của khảo sát chi phí sống thế giới của EIU, Oslo xếp thứ ba về thành phố đắt nhất thế giới.
Mặc dù Oslo có thị trường bất động sản đắt đỏ nhất Na Uy, nhưng nó rẻ hơn đáng kể so với các thành phố khác trong danh sách về vấn đề này. Trong khi đó, giá cả hàng hoá và dịch vụ vẫn là một trong những nơi cao nhất so với bất kỳ thành phố nào. Oslo là nơi có 2654 công ty lớn nhất Na Uy. Trong bảng xếp hạng các thành phố lớn nhất châu Âu được sắp xếp theo số lượng công ty, Oslo đứng ở vị trí thứ năm. Rất nhiều công ty dầu khí nằm ở Oslo.
Theo một báo cáo được biên soạn bởi ngân hàng Thụy Sĩ UBS vào tháng 8 năm 2006, Oslo và Luân Đôn là những thành phố đắt đỏ nhất thế giới.
Môi trường
Oslo là một đô thị nhỏ gọn. Có thể dễ dàng di chuyển quanh thành phố bằng phương tiện giao thông công cộng và có thể thuê xe đạp ở khắp thành phố. Năm 2003, Oslo được nhận giải Thành phố Đáng sống của Châu Âu và năm 2007 Reader's Digest xếp Oslo là thành phố xanh, đáng sống thứ hai thế giới.
Giáo dục
Các học viện và trường đại học
Đại học Oslo (Universitetet i Oslo)
Đại học College Khoa học Ứng dụng Oslo và Akershus (Høgskolen i Oslo og Akershus (HiOA)), trước đây là Đại học College Oslo: tập trung vào những chương trình 3-4 năm.
Trường quản lý Na Uy (Handelshøyskolen BI)
Trường Công nghệ Thông tin Na Uy (Norges Informasjonsteknologiske Høyskole)
Trường Kiến trúc và Thiết kế Oslo (Arkitektur- og designhøgskolen i Oslo)
Đại học Thể thao và Giáo dục thể chất Na Uy (Norges idrettshøgskole)
Học viện Âm nhạc Na Uy (Norges musikkhøgskole)
Trường Thần học Lutheran Na Uy (Det teologiske Menighetsfakultet - MF)
Học viện Nghệ thuật quốc gia Oslo (Kunsthøgskolen i Oslo KHIO)
Học viện Quân sự Na Uy (Krigsskolen)
Trường Khoa học Thú y Na Uy (Norges Veterinærhøgskole)
Mức độ giáo dục và năng suất lao động ở Na Uy cao. Gần một nửa số người có trình độ học vấn cao ở Nauy sống ở vùng Oslo, khiến nóng đứng trong tốp ba vùng về giáo dục ở châu Âu.
Năm 2008, tổng số lao động trong khu vực đại Oslo (5 hạt) là 1.020.000 người. Vùng đại Oslo có một số học viện bậc cao học và có hơn 73.000 học sinh. Trường Đại học Oslo là học viện lớn nhất về cao học tại Na Uy với tổng cộng 27.400 học sinh và 7.028 nhân viên.
Văn hóa
Đồ ăn
Oslo có một số nhà hàng, tiệm bánh và quán cà phê. several restaurants, bakeries, and cafe. Khu ăn uống Mathallen là chợ thực phẩm trong nhà với hơn 30 quầy bao gồm cửa hàng đặc sản, quán cà phê và quán ăn.
Bảo tàng, phòng tranh
Oslo có một số bảo tàng và phòng tranh lớn. Bảo tàng Munch có bức tranh The Scream và các công trình khác của Edvard Munch, người đóng góp tất cả những công trình của ông ấy cho thành phố sau khi ông mất. Hội đồng thành phố hiện đang dự kiến mở một bảo tàng Munch mới mà nhiều khả năng nhất sẽ được xây tại Bjørvika, phía đông nam thành phố. Bảo tàng này sẽ được đặt tên là Munch/Stenersen. Có 50 bảo tàng khác nhau khắp thành phố.
Folkemuseet nằm trên bán đảo Bygdøy và được dùng để trưng bày nghệ thuật dân gian, trang phục dân gian, văn hóa Sami và văn hóa viking. Bảo tàng ngoài trời này sở hữu 155 ngôi nhà cổ chính hiệu từ nhiều vùng của Na Uy, bao gồm nhà thờ Stave.
Bảo tàng Vigeland nằm ở Công viên Frogner rộng lớn, nó cho phép vào cửa miễn phí và chưa 212 bức tượng điêu khắc bởi Gustav Vigeland bao gồm một đài tưởng niệm và Wheel of Life.
Một tác phẩm điêu khắc phổ biến là Sinnataggen, một đứa bé dậm chân một cách giận dữ. Bức tượng này được biết đến một cách rất phổ biến là biểu tượng của thành phố. Cũng có một khu công viên phong cảnh tượng điêu khắc mới hơn, công viên điêu khắc Ekebergparken, với những công trình bởi các nghệ sĩ Na Uy và quốc tế như là Salvador Dalí.
Bảo tàng tàu Viking trưng bày ba tàu Viking được tìm thấy tại Oseberg, Gokstad và Tune và một số vật phẩm độc nhất khác được tìm thấy từ thời Viking.
Bảo tàng thành phố Oslo trưng bày một triển lãm vĩnh viễn về người dân tại Oslo và lịch sử của thành phố.
Bảo tàng Kon-Tiki chứa Kontiki và Ra2 của Thor Heyerdahl.
Bảo tàng quốc gia gìn giữ, trưng bày và quảng bá với quần chúng về một sưu tập nghệ thuật lớn nhất Na Uy. Bảo tàng này trưng bày triển lãm vĩnh viễn về những công trình của chính nó và cũng trưng bày ngắn hạn một số công trình thuê từ một nơi khác. Những trung tâm triển lãm Quốc gia gồm có Phòng tranh Quốc gia, Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại, Bảo tàng Quốc gia, Bảo tàng Nghệ thuật Trang trí và Bảo tàng Kiến trúc Quốc gia. Một bảo tàng quốc gia mới sẽ được mở năm 2020 nằm ở Vestbanen phía sau Trung tâm Hòa bình Nobel.
Trung tâm Hòa bình Nobel là một tổ chức độc lập được mở cửa vào ngày 11 tháng 6 năm 2005 bởi Vua Harald V là một phần của lễ kỷ niệm một trăm năm độc lập của Na Uy. Tòa nhà này có một phòng trưng bày vĩnh viễn, được mở rộng mỗi năm khi một người thắng Giải Nobel Hòa bình được thông báo, chứa thông tin về mỗi người đoạt giải trong lịch sử. Tòa nhà này được sử dụng chính làm trung tâm truyền thông.
Âm nhạc và sự kiện
Rất nhiều lễ hội được tổ chức tại Oslo, như là lễ hội Jazz Oslo, một lễ hội nhạc jazz kéo dài 6 ngày được tổ chức hàng năm vào tháng 8 trong vòng 25 năm qua. Lễ hội rock lớn nhất Oslo là Øyafestivalen hay viết đơn giản là "Øya". Nó thu hút khoảng 60.000 người đến Công viên Trung cổ phía đông Oslo và kéo dài trong bốn ngày.
Lễ hội Nhạc nhà thờ Quốc tế Oslo đã được tổ chức hàng năm từ năm 2000. Lễ hội Nhạc Quốc tế Oslo giới thiệu những người là ngôi sao trong quốc gia của họ nhưng là người lạ ở Na Uy. Lễ hội nhạc thính phòng Oslo được tổ chức vào tháng 8 mỗi năm và những nghệ sĩ thế giới tập trung tại Oslo để biểu diễn tại lễ hội này. Lễ hội Nhạc rock Gỗ Na Uy được tổ chức hàng năm vào tháng 6 tại Oslo.
Lễ kỷ niệm giải Nobel Hòa bình được tổ chức bởi Viện Nobel Na Uy; lễ trao giải được tổ chức hàng năm tại tòa thị chính vào ngày 10 tháng 12. Mặc dù vùng đất của người Sami rất xa thủ đô, Bảo tàng Lịch sử Văn hóa Na Uy kỷ niệm Ngày Quốc khánh Sami với một chuỗi các hoạt động và chương trình giải trí.
Nghệ thuật trình diễn
Oslo có hơn 20 nhà hát, ví dụ như Nhà hát Na Uy và Nhà hát Quốc gia ở đường Karl Johan. Nhà hát Quốc gia là nhà hát lớn nhất tại Na Uy, nó nằm giữa cung điện hoàng gia và nhà quốc hội Stortinget.
Tên của Ludvig Holberg, Henrik Ibsen và Bjørnstjerne Bjørnson được khắp ở mặt tiền tòa nhà ở lối vào chính.
Nhà hát này là nơi biểu diễn của những diễn viên và người viết kịch còn nhạc sĩ, ca sĩ và vũ công biểu diễn lại Nhà hát opera Oslo mới xây, nằm ở Bjørvika. Nhà hát Opera được mở cửa năm 2008 và trở thành một danh thắng quốc gia, được thiết kế bởi công ty kiến trúc Na Uy Snøhetta. Nó có hai tòa nhà, tổng cộng có hơn 2000 chỗ ngồi. Chi phí xây dựng là 500 triệu euro, họ xây nó trong hơn 5 năm và nó là Nhà hát opera đầu tiên trên thế giới cho phép mọi người đi lại trên mái tòa nhà. Phòng tiền sảnh và mái nhà cũng được sử dụng cho các buổi hòa nhạc cũng như ba sân khấu.
Văn học
Hầu hết những tác giải lớn của Na Uy đều đã sống ở Oslo một khoảng thời gian trong cuộc đời họ. Ví dụ, tác giải đoạt giải Nobel-Sigrid Undset lớn lên tại Oslo, và miêu tả cuộc sống của cô ấy trong tiểu thuyết tự truyện Elleve år (1934; dịch là Những năm dài nhất; New York 1971).
Nhà viết kịch Henrik Ibsen có lẽ là tác giả người Na Uy nổi tiếng nhất. Ibsen đã viết những vở dịch như Hedda Gabler, Peer Gynt, A Doll's House và Người đàn bà từ biển cả. Dự án trích dẫn Ibsen được hoàn thành năm 2008 là một công trình nghệ thuật bao gồm 69 trích dẫn của Ibsen bằng chữ in bằng thép không rỉ được đặt vào các vỉa hè lát đá granit ở đường phố trung tâm của thành phố.
Trong những năm gần đây, các tiểu thuyết gia như Lars Saabye Christensen, Tove Nilsen, Jo Nesbø và Roy Jacobsen đã mô tả thành phố và người dân trong tiểu thuyết của họ. Văn học đầu thế kỷ 20 từ Oslo gồm có các nhà thơ Rudolf Nilsen và André Bjerke.
Truyền thông
Những tờ báo Aftenposten, Dagbladet, Verdens Gang, Dagens Næringsliv, Finansavisen, Dagsavisen, Morgenbladet, Vårt Land, Nationen và Klassekampen đều được xuất bản tại Oslo. Văn phòng chính của công ty phát sóng truyền hình quốc gia NRK được đặt ở Marienlyst tại Oslo, gần Majorstuen, và NRK có các dịch vụ vùng thông qua phát thanh và truyền hình. TVNorge (TVNorway) cũng nằm ở Oslo, trong khi TV 2 (có trụ sở tại Bergen) và TV3 (có trụ sở tại London) vận hành những văn phòng chi nhánh tại trung tâm Oslo. Ngoài ra còn có nhiều ấn phẩm đặc biệt và các công ty truyền thông nhỏ hơn. Một số tạp chí cũng được sản xuất ở Oslo. Hai công ty lớn nhất là Aller Media và Hjemmet Mortensen AB.
Thể thao
Oslo là nơi có Đấu trường Quốc gia Holmenkollen và Holmenkollbakken, địa điểm tổ chức hai môn phối hợp và trượt tuyết Bắc Âu chính của Na Uy. Nó là nơi tổ chức các giải đấu tranh cúp quốc tế, bao gồm Lễ hội trượt tuyết Holmenkollen. Oslo là chủ nhà tổ chức Giải vô địch Hai môn phối hợp Thế giới năm 1986, 1990, 2000, 2002 và 2016. Giải vô địch Trượt tuyết Bắc Âu Thế giới FIS đã được tổ chức tại đâu vào năm 1930, 1966, 1982 và 2011, cũng như Thế vận hội Mùa đông 1952.
Oslo là quê hương của một số câu lạc bộ bóng đá trong Hệ thống giải đấu bóng đá Na Uy. Vålerenga, Lyn và Skeid đã thắng cả giải và cúp, trong khi Mercantile và Frigg đã giành được cúp.
Ullevål Stadion là sân nhà của Đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy và chung kết cúp bóng đá Na Uy. Sân vận động này trước đây đã tổ chức chung kết Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu năm 1987 và 1997, và Giải vô địch bóng đá UEFA U-19 châu Âu 2002. Røa IL là đội duy nhất của Oslo trong giải Toppserien của nữ. Hàng năm, giải đấu bóng đá trẻ quốc tế Cúp Na Uy được tổ chức tại Ekebergsletta và các địa điểm khác trong thành phố.
Do khí hậu lạnh và gần các khu rừng chính giáp với thành phố, trượt tuyết là hoạt động giải trí phổ biến ở Oslo. Khu nghỉ mát trượt tuyết Tryvann là khu nghỉ mát trượt tuyết được sử dụng nhiều nhất Na Uy. Đội khúc côn cầu trên băng thành công nhất tại Na Uy, Vålerenga Ishockey, có trụ sở tại Oslo. Manglerud Star là một đội Oslo khác chơi trong giải đấu cấp cao.
Tội phạm
Theo Cảnh sát Oslo, họ nhận được hơn 15.000 báo cáo các vụ trộm cắp vặt mỗi năm. Ít hơn một phần một trăm vụ được giải quyết.
Vào ngày 22 tháng 7 năm 2011, Oslo là nơi xảy ra hai vụ tấn công khủng bố: vụ đánh bom các văn phòng chính phủ Oslo.
Vận tải
Oslo có hệ thống vận tải công cộng lớn nhất Na Uy, được quản lý bởi Ruter. Nó bao gồm 6 đường Metro Oslo, hệ thống metro lớn nhất thế giới theo đầu người, và 6 đường tàu điện Oslo và 8 đường Tàu hỏa vé tháng Oslo. Đường tàu điện vận hành ở khu vực gần trung tâm thành phố, còn metro đi ngầm dưới đất vận hành tới những vùng ngoại ô xa hơn; nó bao gồm hai đường tới Bærum, và Đường Vành đai đi vòng tới phía bắc của trung tâm. Oslo cũng có hệ thống xe buýt gồm 32 tuyến nội đô, cũng như những tuyến xe buýt vùng đi đến hạt lân cận Akershus.
Ga Trung tâm Oslo là trung tâm vận hành, và cung cấp dịch vụ đường sắt đến hầu hết các thành phố lớn tại nam Na Uy cũng như Stockholm và Gothenburg tại Thụy Điển. Tàu cao tốc sân bay vận hành dọc theo đường tàu Gardermoen. Đường tàu Drammen chạy ngầm dưới trung tâm thành phố trong Đường hầm Oslo. Một số đảo của thành phố và của khu tự quản Nesodden bên cạnh được kết nối bằng phà. Dịch vụ phà du lịch hàng ngày vận hành tới Copenhagen và Frederikshavn tại Đan Mạch, và tới Kiel tại Đức.
Nhiều xa lộ chạy qua trung tâm và các phần khác của thành phố trong các đường hầm. Việc xây dựng đường được hỗ trợ một phần bằng cách thu phí. Các xa lộ lớn qua Oslo là đường Châu Âu E6 và E18. Có ba đường vành đai, vòng trong cùng là đường bình thường và vòng ngoài cùng - Vành đai 3 là đường cao tốc.
Sân bay chính của thành phố là sân bay Gardermoen, nằm ở Ullensaker, từ trung tâm tành phố Oslo. Nó có chức năng là cửa ngõ quốc tế chính tới Na Uy, và là sân bay nội địa lớn thứ 6 châu Âu. Gardermoen là trụ sở của Scandinavian Airlines, Norwegian Air Shuttle và Widerøe. Oslo cũng có một sân bay phụ, để một số hãng hàng không giá rẻ vận hành tại đây, như là Ryanair: Sân bay Torp, từ thành phố.
Nhân khẩu học
Dân số của Oslo cho tới năm 2010 tăng với tỷ lệ 2% mỗi năm (17% trong vòng 15 năm qua), nên nó là thủ đô Scandinavia tăng dân số nhanh nhất. Năm 2015, theo báo cáo hàng năm của Cục thống kê Na Uy, có 647.676 cư dân thường trú tại khu tự quản Oslo, trong đó 628.719 người định cư tại trung tâm thành phố. Có 942.084 người sở vùng đô thị của thành phố và ước tính 1,71 triệu người ở vùng Đại Oslo, trong vòng từ trung tâm thành phố.
Theo cuộc thống kê dân số gần đây nhất có 432.000 cư dân Oslo (70,4% tổng dân số) là người sắc tộc Na Uy, tăng 6% từ năm 2002 (409.000). Oslo có số người nhập cư và con cái của người nhập cư đông nhất Na Uy, cả số liệu tương đối và dữ liệu thật. Trong số 624.000 cư dân của Oslo, 189.400 người là người nhập cư hoặc con cái họ, chiếm 30,4 phần trăm tổng dân số thủ đô. Tất cả các vùng ngoại ô đều có tỷ lệ lớn hơn trung bình quốc gia 14,1 phần trăm. Vùng ngoại ô với số lượng người nhập cư đông nhất là Søndre Nordstrand, Stovner og Alna, nơi họ chiếm 50% dân số.
Người Pakistan là dân tộc thiểu số lớn nhất tại Na Uy, theo sau bởi người Thụy Sĩ, người Somalia, và người Ba Lan. Các nhóm người nhập cư lớn khác là người Sri Lanka, Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ, Maroc, Iraq và Iran.
Năm 2013, 40% học sinh tiểu học của Oslo được đăng ký có tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Na Uy hoặc Sami.
Phần phía tây của thành phố phần lớn là người Na Uy, với một số trường có ít hơn 5% số học sinh có nguồn gốc nhập cư. Phần phía đông của Oslo hỗn hợp hơn, với một số trường học có tới 97% người nhập cư. Các trường học cũng ngày càng phân chia theo sắc tộc, với cuộc di cư Da Trắng xuất hiện tại một số vùng ngoại ô phía đông bắc của thành phố. Ví dụ ở quận Groruddalen năm 2008, dân số sắc tộc na Uy giảm đi 1.500 người, trong khi dân số nhập cư tăng 1.600 người.
Oslo có nhiều cộng đồng tôn giáo. Năm 2016, 51,6% dân số là thành viên của Giáo hội Na Uy, ít hơn so với trung bình của quốc gia là 71,5%. Các giáo phái Kitô giáo khác chiếm 8,8% dân số. Theo sau là đạo Hồi với 9,1% và Phật giáo là 0,6% dân số. Các tôn giáo khác chiếm 0,9% dân số. Các cộng đồng về cuộc sống, chủ yếu là Hiệp hội Nhân văn Na Uy, được thể hiện bởi 2,8% dân số. 26,2% dân số Oslo không liên quan đến bất cứ tôn giáo hoặc cộng đồng về cuộc sống nào.
Cư dân nổi bật
Nico & Vinz (2009–nay), ca sĩ
Mats Zuccarello (s. 1987), cầu thủ khúc côn cầu chuyên nghiệp
Joshua King (s. 1992), cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp
Quan hệ quốc tế
Thành phố kết nghĩa
Oslo có thỏa thuận hợp tác với các thành phố/khu vực sau:
Gothenburg, Thụy Điển
Mbombela, Nam Phi
Saint Petersburg, Nga
Schleswig-Holstein, Đức
Thượng Hải, Trung Quốc
Vilnius, Litva
Warsaw, Ba Lan
Oslo từng kết nghĩa với Madison, Wisconsin, Tel Aviv và Vilnius, nhưng đã bỏ kết nghĩa.
Cây thông Giáng sinh làm quà tặng
Oslo có truyền thống gửi một Cây Giáng sinh mỗi năm tới các thành phố Washington, D.C.; New York; Luân Đôn; Edinburgh; Rotterdam; Antwerp và Reykjavík. Từ năm 1947, Oslo đã gửi một cây vân sam Na Uy cao , 50 đến 100-tuổi, để bài tỏ lòng biết ơn đến Anh Quốc vì đã hỗ trợ Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Hình ảnh |
Các thành phố Hà Lan xếp theo tỉnh:
Drenthe
Assen
Coevorden
Emmen
Hoogeveen
Meppel
Flevoland
Almere
Dronten
Emmeloord (mun. Noordoostpolder)
Lelystad
Urk
Friesland
Drachten (mun. Smallingerland)
Harlingen
Heerenveen
Leeuwarden
Sneek
Gelderland
Apeldoorn (làng > 100.000 dân)
Arnhem
Buren
Culemborg
Doetinchem
Ede (làng > 100.000 dân)
Groenlo
Harderwijk
Hattem
Huissen
Nijkerk
Nijmegen
Tiel
Wageningen
Winterswijk
Zaltbommel
Zutphen
Groningen
Appingedam
Delfzijl
Groningen
Limburg
Geleen
Heerlen
Kerkrade
Maastricht
Roermond
Sittard
Valkenburg aan de Geul
Venlo
Weert
Noord-Brabant
Bergen op Zoom
Breda
's-Hertogenbosch
Eindhoven
Geertruidenberg
Grave
Helmond
Heusden
Oosterhout
Oss
Ravenstein
Roosendaal
Tilburg
Waalwijk
Noord-Holland
Alkmaar
Amstelveen
Amsterdam
Den Helder
Edam
Enkhuizen
Haarlem
Hilversum
Hoofddorp (mun. Haarlemmermeer)
Hoorn
Overijssel
Almelo
Deventer
Enschede
Hengelo
Oldenzaal
Zwolle
Zuid-Holland
Zoetermeer
Delft
Dordrecht
Gorinchem
Gouda
Leiden
Rotterdam
Den Haag (tên khác: 's-Gravenhage; trong tiếng Pháp là La Hay)
Alphen aan den Rijn
Utrecht
Amersfoort
Nieuwegein
Utrecht
Woerden
Zeist
Zeeland
Flushing (Vlissingen)
Middelburg
Terneuzen |
Giải thuật tham lam (tiếng Anh: Greedy algorithm) là một thuật toán giải quyết một bài toán theo kiểu metaheuristic để tìm kiếm lựa chọn tối ưu địa phương ở mỗi bước đi với hy vọng tìm được tối ưu toàn cục. Chẳng hạn áp dụng giải thuật tham lam với bài toán hành trình của người bán hàng ta có giải thuật sau: "Ở mỗi bước hãy đi đến thành phố gần thành phố hiện tại nhất".
Nói chung, giải thuật tham lam có năm thành phần:
Một tập hợp các ứng viên (candidate), để từ đó tạo ra lời giải
Một hàm lựa chọn, để theo đó lựa chọn ứng viên tốt nhất để bổ sung vào lời giải
Một hàm khả thi (feasibility), dùng để quyết định nếu một ứng viên có thể được dùng để xây dựng lời giải
Một hàm mục tiêu, ấn định giá trị của lời giải hoặc một lời giải chưa hoàn chỉnh
Một hàm đánh giá, chỉ ra khi nào ta tìm ra một lời giải hoàn chỉnh.
Có hai thành phần quyết định nhất tới quyết định tham lam:
Tính chất lựa chọn tham lam
Chúng ta có thể lựa chọn giải pháp nào được cho là tốt nhất ở thời điểm hiện tại và sau đó giải bài toán con nảy sinh từ việc thực hiện lựa chọn vừa rồi. Lựa chọn của thuật toán tham lam có thể phụ thuộc vào các lựa chọn trước đó. Nhưng nó không thể phụ thuộc vào một lựa chọn nào trong tương lai hay phụ thuộc vào lời giải của các bài toán con. Thuật toán tiến triển theo kiểu thực hiện các chọn lựa theo một vòng lặp, cùng lúc đó thu nhỏ bài toán đã cho về một bài toán con nhỏ hơn. Đấy là khác biệt giữa thuật toán này và giải thuật quy hoạch động. Giải thuật quy hoạch động duyệt hết và luôn đảm bảo tìm thấy lời giải. Tại mỗi bước của thuật toán, quy hoạch động đưa ra quyết định dựa trên các quyết định của bước trước, và có thể xét lại đường đi của bước trước hướng tới lời giải. Giải thuật tham lam quyết định sớm và thay đổi đường đi thuật toán theo quyết định đó, và không bao giờ xét lại các quyết định cũ. Đối với một số bài toán, đây có thể là một thuật toán không chính xác.
Cấu trúc con tối ưu
Một bài toán được gọi là "có cấu trúc tối ưu", nếu một lời giải tối ưu của bài toán con chứa lời giải tối ưu của bài toán lớn hơn.
Áp dụng
Đối với nhiều bài toán, giải thuật tham lam hầu như không cho ra lời giải tối ưu toàn cục (nhưng không phải luôn như vậy), vì chúng thường không chạy trên tất cả các trường hợp. Chúng có thể bám chặt lấy một số lựa chọn nhất định một cách quá sớm, điều này dẫn đến hậu quả là trong giai đoạn sau, các thuật toán này không thể tìm ra các lời giải toàn cục tốt nhất. Ví dụ, đối với bài toán tô màu đồ thị và tất cả các bài toán NP-đầy đủ khác, không một thuật toán tham lam đã được biết nào đảm bảo tìm thấy các lời giải tối ưu. Tuy nhiên, các thuật toán này vẫn hữu ích vì chúng dễ thiết kế và cho ra các ước lượng tốt về lời giải tối ưu.
Nếu có thể chứng minh rằng một thuật toán tham lam cho ra kết quả tối ưu toàn cục cho một lớp bài toán nào đó, thì thuật toán thường sẽ trở thành phương pháp được chọn lựa, vì nó chạy nhanh hơn các phương pháp tối ưu hóa khác như quy hoạch động. Các ví dụ cho giải thuật loại này là thuật toán Kruskal và thuật toán Prim dành cho bài toán cây bao trùm nhỏ nhất, thuật toán Dijkstra dành cho bài toán đường đi ngắn nhất nguồn đơn, và thuật toán tìm cây Huffman tối ưu. |
Fenerbahçe Spor Kulübü () là một câu lạc bộ thể thao đa môn có trụ sở tại Kadiköy, thành phố Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ).
Bóng đá
Vô địch Thổ Nhĩ Kỳ: 19
1959, 1961, 1964, 1965, 1968, 1970, 1974, 1975, 1978, 1983
1985, 1989, 1996, 2001, 2004, 2005, 2007, 2011, 2014
Cúp bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ: 6
1968, 1974, 1979, 1983, 2012, 2013
Siêu Cúp bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ: 9
1968, 1973, 1975, 1984, 1985, 1990, 2007, 2009, 2014
Bóng rổ
Nam
Vô địch Thổ Nhĩ Kỳ: 4
1957, 1959, 1965, 1991
Cúp Liên đoàn bóng rổ Thổ Nhĩ Kỳ: 6
1954, 1958, 1959, 1960, 1961, 1967
Siêu cúp bóng rổ Thổ Nhĩ Kỳ: 3
1990, 1991, 1994
Nữ
Vô địch Thổ Nhĩ Kỳ: 4
1999, 2002, 2004, 2006
Cúp Liên đoàn bóng rổ Thổ Nhĩ Kỳ: 6
1999, 2000, 2001, 2004, 2005, 2006
Siêu cúp bóng rổ Thổ Nhĩ Kỳ: 5
1999, 2000, 2001, 2004, 2005
Bóng chuyền
Nam
Vô địch Istanbul: 5
Nữ
Vô địch Thổ Nhĩ Kỳ: 8
Vô địch Istanbul: 9 |
Nguyễn Khoa Chiêm (阮科占, Kỷ Hợi 1659–Bính Thìn 1736) tự Bảng Trung (榜中), tước Bảng Trung Hầu, là công thần trải hai triều chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả bộ sách Nam triều công nghiệp diễn chí, được soạn vào năm Kỷ Hợi (1719).
Dòng tộc
Trong bộ Quý hương tiên nguyên dã sử của làng Triệu Tường, tỉnh Thanh Hóa có đoạn chép về dòng họ Nguyễn Khoa như sau:
Ông Nguyễn Ư Kỳ, nguyên thái phó triều Lê và là cậu ruột của tướng Nguyễn Hoàng. Năm Mậu Ngọ 1557 ông Ư Kỳ theo Nguyễn Hoàng vào trấn miền Nam. Khi đi ông có dẫn theo một người con nuôi mới lên sáu tuổi, tên là Nguyễn Đình Thân (1553-1633), vốn là người ở làng Trạm Bạc, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là tỉnh Hải Dương).
Ông Thân làm tướng trải hai triều chúa là Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên. Kể từ đó, con cháu ông thay nhau làm quan cho các chúa Nguyễn:
Nguyễn Đình Khôi (1594-1678) con ông Thân, tước Thuần Mỹ nam. Năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ chúa từ vùng Bắc Thuận Hóa về làng Kim Long (huyện Hương Trà, Thừa Thiên), ông Khôi cũng đến nhập tịch ở huyện ấy và được phép chúa Nguyễn cho đổi thành họ Nguyễn KhoaNguyễn Khoa Danh (1632-1697), con ông Khôi, tước Cảnh Lộc bá.
Và Nguyễn Khoa Chiêm chính là người con duy nhất của ông Danh và bà Lê Thị Am.
Sự nghiệp
Sách Đại Nam liệt truyện Tiền biên chép:
Nguyễn Khoa Chiêm, tiên tổ người Hải Dương...Chiêm ban đầu làm Thủ hạp. Năm Tân Tỵ (1701), tức năm thứ 10 đời Hiển Tông Hoàng đế (tức chúa Nguyễn Phúc Chu), mùa xuân, Chiêm cùng Văn chức Trần Đình Khánh các viên Cai cơ ngoại tả Tôn Thất Diệu và Nội hữu Tổng Phúc Tài đi Quảng Bình để đốc suất các quân đắp chính lũy. Canh Dần năm thứ 19 (1710) thăng (Chiêm) làm Cai hạp kiêm tri bạ.
Trần Đình Ân (sau này là cha vợ ông Chiêm) từng nói trước mặt chúa rằng Chiêm là người có tài. Chúa bèn tin dùng. Giáp Ngọ năm thứ 23 (1714), Chiêm cùng Ký lục Nguyễn Đăng Đệ bàn việc chuyên chở bằng thuyền và định múc thu tô thuế hàng năm để sung việc chi dùng của nhà nước. Ất Mùi năm thứ 24 (1715) thăng chức Câu kê kiêm Tri bạ, được dự bàn việc quân cơ. Mậu Tuất năm thứ 27 (1718) thăng chức Cai bạ phó đoán sự. Giáp Thìn năm thứ 33 (1724) thăng chức Tham chính Chánh đoán sự.
Đến khi tuổi già, Chiêm về trí sĩ ở quê nhà. Một hôm tắm gội, mặc triều phục trông về phía cửa khuyết (phủ chúa) lạy hai lạy rồi lên giường nằm mà mất (năm 1736, thời chúa Nguyễn Phúc Chú)...Sau khi mất, được tặng hàm Đại lý Thượng khanh, được ban tên thụy là Thuần Hậu.
Tác phẩm chính
Năm thứ 22 đời chúa Nguyễn Phúc Chu (Kỷ Hợi 1719), Nguyễn Khoa Chiêm soạn Nam triều công nghiệp diễn chí (còn gọi là Trịnh Nguyễn diễn chí, Việt Nam khai quốc chí truyện, Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí, Nam Việt chí, và Công nghiệp diễn chí). Bộ sách có Dương Thận Trai đề tựa, Nguyễn Giản viết lời bạt và Dương Công Tòng nhuận chính.
Sách gồm 2 tập, mỗi tập 8 quyển, gồm 30 hồi. Nội dung thuật lại sự nghiệp khai phá Đàng Trong của các chúa Nguyễn khởi từ Đoan quốc công Nguyễn Hoàng đem quân vào Thuận Hóa vào năm Mậu Ngọ (1558) và kết thúc khi chúa Nguyễn Phúc Trăn mất vào năm Tân Mùi (1691).
Thê tử và gia quyến
Nguyễn Khoa Chiêm lấy Trần Thị Mận (1670- 1743) là con gái Cai bạ Trần Đình Ân làm vợ. Ông bà có cả thảy 12 người con, gồm 8 trai và 4 gái.
Trong số đó có người con trai thứ ba tên Nguyễn Khoa Đăng là viên quan giỏi, bởi tài xử kiện cáo, đủ trí xét ngay gian, cho nên được người đời gọi là "Bao công". Công lao nổi bật của ông là đã diệt được bọn cướp hung tợn ở truông Nhà Hồ và trừ được sóng dữ ở phá Tam Giang.
Mộ phần
Mộ Nguyễn Khoa Chiêm nằm kề bên mộ vợ (song táng), tọa lạc tại đất nội táng (vườn giữa) của dòng họ Nguyễn Khoa, thuộc thôn Tứ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế.
Mộ ông hình chữ nhật, quay về hướng Nam, xung quanh la thành và phần mộ xây bằng gạch vồ, nguyên liệu xây dựng chủ yếu bằng vôi, mật mía, keo da trâu tạo thành một hợp chất như xi măng. La thành mộ dài 7,17m; rộng 4,80m; chỗ cao nhất cao 1,40m, giữa thành thấp nhất cao 0,94m.
Cách mộ ông khoảng 18m là mộ cải táng của Nguyễn Khoa Đăng.
Toàn thể khu mộ này đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích theo quyết định số 57/VH-QĐ ngày 18 tháng 1 năm 1993.
Chú thích |
Delft () là một thành phố ở tỉnh Zuid-Holland (Nam Hà Lan), Hà Lan, nằm giữa 2 thành phố Rotterdam và Den Haag. Delft được coi là một thành phố Hà Lan đặc trưng, nổi tiếng với các con kênh, đồ gốm Xanh Delft (Delfts Blauw), trường Đại học Công nghệ Delft (TU Delft) danh tiếng và nơi yên nghỉ của Hoàng gia Hà Lan.
Lịch sử
Vụ nổ Delft
Điểm du lịch
Du khách đến Delft có thể thưởng ngoạn quang cảnh khu phố cổ khi đi trên du thuyền dọc theo những con kênh.
Để tới Delft, có thể đi tàu điện và dừng tại ga Delft hoặc Delft-Zuid (Nam Delft). Ga Delft gần với ga Den Haag, với khoảng cách chỉ 5 phút theo đường tàu điện.
Văn hóa
Giáo dục
Ở Delft có hai cơ sở đào tạo, nghiên cứu nổi tiếng là:
Trường Đại học công nghệ Delft (Technische Universiteit Delft hay TU Delft) là trường đại học kỹ thuật lớn nhất và nổi tiếng nhất Hà Lan cũng như ở châu Âu. Trường được Nhà vua William II thành lập năm 1842. Ngày nay, có khoảng 13000 sinh viên đang theo học tại đây.
Viện Giáo dục về Thủy lợi (UNESCO-IHE) (UNESCO-IHE Institute for Water Education) là nơi đào tạo về khoa học quản lý nước và kỹ thuật thủy lợi cho các sinh viên sau đại học của các quốc gia đang phát triển.
Nhân vật nổi tiếng
Hugo de Groot (hay Hugo Grotius) (1583-1645), luật sư, người đặt nền móng cho luật quốc tế. Có một bức tượng của Hugo Grotius đặt tại quảng trường trước Nhà thờ Mới.
Maarten van den Hove (1605-1639), nhà thiên văn học và toán học.
Stien Baas-Kaiser (hay Stien Kaiser) (1938-), vô địch Olympic 1972 môn trượt băng tốc độ.
Antony van Leeuwenhoek (1632-1723), cha đẻ ngành vi sinh và người cải tiến kính hiển vi.
Johannes Vermeer (1632-1675), họa sĩ; một bức vẽ nổi tiếng của ông là "Cô gái với đôi khuyên ngọc trai". |
Gia Luật Sở Tài (Chữ Hán: 耶律楚材, 1190–1243), tự Tấn Khanh (晉卿), hiệu Trạm Nhiên cư sĩ (湛然居士), còn có hiệu khác là Ngọc Tuyền lão nhân (玉泉老人), là tướng lĩnh, đại thần Mông Cổ dưới thời Thành Cát Tư Hãn. Ông sinh tại Yên Kinh (nay là Bắc Kinh). Tên của ông được đặt dựa vào một câu viết trong Tả Truyện và người đời sau còn gọi ông là Gia Luật Sở Tài, có nghĩa là người có tài của nước Sở nhưng được nước Tần tin dùng.
Tiểu sử
Ông là cháu tám đời của quốc vương nước Đông Đan là Gia Luật Bội. Năm ông lên 3 tuổi thì cha mất, ông được mẹ là Dương thị chăm sóc, dạy dỗ thành người. Ông học hành chăm chỉ nên đã đỗ Giáp khoa Tiến sĩ. Nước Kim bị quân Mông Cổ tấn công, vua Kim chạy về phía nam, Gia Luật bị chấn động, thất vọng và tìm đường đến với đạo Phật, ông đã từng trú ở chùa Báo Ân ba năm khi Bắc Kinh có hỗn loạn xảy ra, quan quân lộn xộn. Lúc đó, chùa Báo Ân do Thiền sư Vạn Tùng Hành Tú (tông Tào Động) trụ trì, ông từng học phật pháp và tham Thiền với vị này và ngộ đạo, được ngài ấn khả. Trong cuốn Thiền Quan Sách Tấn (tác giả: Thiền sư Hư Vân, hòa thượng Thích Thanh Từ dịch) có kể lại câu chuyện ngộ đạo của ông như sau: Thừa tướng Di Thích Sở Tài đến tham học với Vạn Tùng Lão nhân. Ông bỏ hết việc nhà bế cửa thất không tiếp khách. Dù những khi giá lạnh, nóng bức, không ngày nào ông dừng nghỉ tham cứu. Đêm đến, ông thắp đèn sáng kế tiếp mặt trời để bỏ ngủ. Ban ngày thì ông quên ăn. Như vậy, suốt ba năm, ông mới được ấn chứng.Sau khi rời khỏi chùa, ông viết tám chữ:" Lấy Nho trị nước, lấy Phật trị tâm ".
Binh nghiệp
Vào năm 1214, Thành Cát Tư Hãn đang tìm cách để thu phục nhân tài và có nghe người ta nói về Gia Luật Sở Tài. Gia Luật Sở Tài nguyên là dòng dõi hoàng tộc Khiết Đan nhà Liêu, có học thức uyên bác, học được tri thức Nho, Đạo, Phật của người Hán. Thành Cát Tư Hãn ra lệnh cho quân sĩ mời bằng được Gia Luật về triều kiến và sau khi đi hàng ngàn dặm đường, tháng 6 năm 1218, Gia Luật đã đến tiếp kiến Thành Cát Tư Hãn. Gia Luật đã sớm nhận biết được dân tộc Mông Cổ đang trên đà phát triển nên ông quyết tâm qua Mông Cổ để thực hiện lý tưởng của mình. Sự gặp mặt này đã có ảnh hưởng lớn đến công cuộc xây dựng triều đại Mông - Nguyên.
Khi gặp mặt Gia Luật, thấy ông có dáng người cao, tai vuông, mắt sáng ngời, tiếng sang sảng, râu dài đến ngực, Thành Cát Tư Hãn đã đặt ngay tên cho ông là "Ông râu dài". Sau khi đàm đạo với Gia Luật khá lâu, Thành Cát Tư Hãn đã bộc bạch, ý rằng muốn đánh đuổi vua Kim Tuyên Tông để chiếm trọn thành Bắc Kinh để báo thù cho người Khiết Đan. Nhưng Gia Luật thành thực trả lời rằng cha ông và ông đều làm quan cho vua Kim, lẽ nào Gia Luật lại dám phản nghịch thù địch lại cha và vua. Nghe câu này, Thành Cát Tư Hãn không khó chịu mà còn đánh giá ông là người có nghĩa, trung thực, mà lại đang có lòng hướng về Mông Cổ với mình nên Thành Cát Tư Hãn đã quyết định giữ Gia Luật lại làm mưu sĩ.
Gia Luật đã đi theo đại hãn hầu cận, nhưng do Thành Cát Tư Hãn vẫn đang có ý cảnh giác, đề phòng những thuộc hạ không phải người Mông Cổ nên trên đường đi chinh phạt phía Tây, Gia Luật mới chỉ như một người làm thơ và thầy bói chiêm tinh. Điều làm ông cảm thấy thất vọng là ông không có cách nào để ngăn cản những hành động tàn bạo dã man trái với tư tưởng nhân nghĩa Nho gia và địa vị đại hãn xếp cho ông vẫn chưa xứng với tài năng.
Nhưng sau một thời gian dài và nhiều lần thăm dò, Thành Cát Tư Hãn đã tin tưởng hơn vào Gia Luật, nên đã để ông làm Tể phụ cho con trai thứ ba của mình. Căn cứ vào chiến tích, người con thứ ba đã lên ngôi thay Thành Cát Tư Hãn khi ông này chết. Oa Khoát Đài, vị đại hãn mới này khác cha, 13 năm trên ngôi đại hãn không chỉ đi chinh phạt mà còn có ý thức xây dựng một xã hội thái bình, yên ổn.
Năm 1232, một đại tướng Mông Cổ tấn công kinh đô Biện Kinh của triều Kim và quân Mông Cổ đã bị người Kim chống trả ác liệt, khiến tướng sĩ Mông Cổ chết nhiều, vị đại tướng này đã đề nghị Nguyên Thái Tông (tức Oa Khoát Đài) làm cỏ kinh thành Biện Kinh để trả thù cho quân sĩ. Thái Tông ban đầu cũng đồng tình theo ý của viên tướng này nhưng Gia Luật đã dùng lý lẽ can gián liên tiếp và Thái Tông nghe ra, cuối cùng chỉ cho giết những người là tay chân của vua Kim. Sự can gián của Gia Luật đã cứu sống hơn một triệu rưỡi dân vô tội trong thành Biện Kinh.
Vào thời Oa khoát đài, Gia Luật đã được đại hãn tín nhiệm, ông đem hết tài trí báo đáp. Thành tựu mà Oa khoát đài có được đã vượt qua những nhà thống trị mà không phải là người Hán khác. Oa khoát đài làm đại hãn được 13 năm thì qua đời. Hãn Đại phi thoát liệt ca na lên nắm quyền, tin vào một tên thương gia người Tây Vực là Ahmad Fanakati cấp cho hắn một giấy khống chỉ. Gia Luật can gián và hoàng hậu hạ lệnh: Ai dám can sẽ bị chặt tay. Nhưng ông nhất định không chấp thuận ...Tôi chết thì chết cũng không sợ, huống chi chặt cánh tay... thoát liệt ca na không dám động thủ. Lúc bấy giờ Gia Luật tuổi cũng đã cao, mang nhiều bệnh, phu nhân mới qua đời, việc nước việc nhà càng làm ông phiền muộn hơn. Năm 1244, Gia Luật Sở Tài đã ôm hận qua đời, hưởng thọ 55 tuổi.
Năm 1330, thời vua Nguyên Văn Tông, triều đình Mông Cổ truy phong ông làm Thái Sư, Thượng trụ quốc, Quảng Ninh Vương, thụy Văn Chính.
Tiểu thuyết hoá
Gia Luật Sở Tài được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ của Kim Dung.
Trong truyện Anh hùng xạ điêu ông chỉ xuất hiện một đoạn rất ngắn khi làm phiên dịch cho Khưu Xử Cơ và Thành Cát Tư Hãn, còn trong Thần điêu hiệp lữ là khi ông đến Nam Tống gặp con trai mình là Gia Luật Tề và bị Hoàn Nhan Bình tấn công. |
Anh hùng xạ điêu (; Hán Việt: Xạ điêu anh hùng truyện) là một trong những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung được đánh giá cao, được Hương Cảng Thương Báo xuất bản năm 1957. Đây là tiểu thuyết đầu tiên của Xạ Điêu Tam Bộ Khúc. Kim Dung đã chỉnh sửa tất cả các tác phẩm của mình bao gồm tiểu thuyết này vào những năm 1970 và một lần nữa vào những năm 2000.
Hồi
Anh hùng xạ điêu có tổng cộng 40 hồi. Tựa đề mỗi hồi được viết trong 4 chữ:
風雪驚變 Phong tuyết kinh biến (Tai họa bất ngờ)
江南七怪 Giang Nam thất quái
大漠風沙 Đại mạc phong sa (Gió cát sa mạc)
黑風雙煞 Hắc Phong song sát
彎弓射鵰 Loan cung xạ điêu (Cung loan bắn điêu)
崖頂疑陣 Nhai đỉnh nghi trận (Nghi trận đầu non)
比武招親 Tỷ võ chiêu thân
各顯神通 Các hiển thần thông (Cùng tỏ bản lĩnh)
鐵槍破犁 Thiết thương phá lê (Thương sắt cày hư)
冤家聚頭 Oan gia tụ đầu (Oan gia gặp gỡ)
長春服輸 Trường Xuân phục du (Trường Xuân nhận thua)
亢龍有悔 Kháng long hữu hối
五湖廢人 Ngũ Hồ phế nhân
桃花島主 Đào Hoa đảo chủ
神龍擺尾 Thần long bãi vĩ
九陰真經 Cửu âm chân kinh
雙手互搏 Song thủ hỗ bác
三道試題 Tam đạo thí đề (Ba cái đề thi)
洪濤群鯊 Hồng đào quần sa (Sóng to cá mập)
竄改經文 Thoán cải kinh văn (Lén sửa kinh văn)
千鈞巨岩 Thiên quân cự nham (Đá nặng ngàn cân)
騎鯊遨遊 Kị sa ngao du (Cưỡi cá ngao du)
大鬧禁宮 Đại náo cấm cung
密室療傷 Mật thất liệu thương (Mật thất trị thương)
荒村野店 Hoang thôn dã điếm (Quán nhỏ hoang thôn)
新盟舊約 Tân minh cựu ước (Thề mới hẹn cũ)
軒轅台前 Hiên Viên đài tiền (Trước đài Hiên Viên)
鐵掌峰頂 Thiết Chưởng phong đính (Trên ngọn Thiết Chưởng)
黑沼隱女 Hắc chiểu ẩn nữ (Gái ẩn đầm tối)
一燈大師 Nhất Đăng đại sư
鴛鴦錦帕 Uyên ương cẩm mạt (Khăn gấm uyên ương)
湍江險灘 Thoan giang hiểm than (Sóng to thác hiểm)
來日大難 Lai nhật đại nạn (Nạn lớn ngày sau)
島上巨變 Đảo thượng cự biến (Biến cố trên đảo)
鐵槍廟中 Thiết Thương miếu trung (Trong miếu Thiết Thương)
大軍西征 Đại quân tây chinh
從天而降 Tòng thiên nhi giáng (Trên trời rơi xuống)
錦囊密令 Cẩm nang mật lệnh (Mật lệnh cẩm nang)
是非善惡 Thị phi thiện ác
華山論劍 Hoa Sơn luận kiếm
Cốt truyện
Truyện xảy ra vào thời nhà Tống (960-1279) khi người người Nữ Chân bắt đầu tấn công bắc Trung Quốc. Phần đầu của tiểu thuyết xoay quanh tình bạn giữa Dương Thiết Tâm và Quách Khiếu Thiên, hai vị hiệp sĩ đã anh dũng chiến đấu chống lại sự tàn bạo của quân Kim. Mối quan hệ của hai gia đình khăng khít đến nỗi họ thề ước là khi con họ lớn lên, chúng sẽ kết nghĩa huynh đệ, kết thành tỷ muội hoặc kết thành phu thê.
Phần hai của câu chuyện tập trung vào những gian nan đau khổ mà cả hai phải trải qua. Quách Tĩnh, con của Quách Khiếu Thiên lớn lên ở Mông Cổ, dưới sự bảo vệ của Thành Cát Tư Hãn. Dương Khang mặt khác lớn lên là hoàng thân của nhà Kim.
Nguyện ước của hai họ Dương - Quách ===
Dương Thiết Tâm đang sống êm đềm với vợ hiền là Bao Tích Nhược và Quách Khiếu Thiên với Lý Bình, thì một hôm, họ tình cờ gặp được đạo sĩ Toàn Chân phái là Khưu Xứ Cơ. Khưu vừa giết và xách thủ cấp tên gian thần Vương Đạo Càn nên bị quan quân triều đình truy đuổi ráo riết. Khưu Xứ Cơ tại nhà của Quách Dương hai người ở thôn Ngưu Gia phủ Lâm An đã một mình đánh tan truy binh, khiến Quách Khiếu Thiên và Dương Thiết Tâm vô cùng khâm phục. Khưu Xứ Cơ đã đề nghị đặt tên cho hai đứa con của họ khi ấy còn trong bụng mẹ, con của Quách Khiếu Thiên đặt tên là Quách Tĩnh, con của Dương Thiết Tâm đặt tên là Dương Khang. Tĩnh Khang là niên hiệu của vua Tống Khâm Tông, cùng với vua Tống Huy Tông đã bị lính Kim bắt đi, kết thúc triều đại Bắc Tống. Khưu Xứ Cơ muốn những đứa trẻ nhớ nỗi nhục quốc này và mong chúng sẽ khôi phục vinh quang và đánh bại giặc Kim khi lớn lên. Những cái tên đó tượng trưng cho lòng yêu nước của Tĩnh và Khang. Hai anh em nguyện ước với nhau, khi con của hai người lớn lên, nếu đều là con trai thì cho kết làm huynh đệ, nếu đều là con gái thì cho kết làm tỉ muội, nếu là một trai một gái thì cho kết làm vợ chồng.
Tai họa chia ly
Trong số quan quân truy đuổi Khưu Xứ Cơ có Hoàn Nhan Hồng Liệt, lục vương tử của nhà Kim. Hoàn Nhan Hồng Liệt bị trúng một mũi tên của Khưu Xứ Cơ, tình cờ gặp vợ của Dương Thiết Tâm là Bao Tích Nhược. Với bản tính nhân hậu (nàng nuôi rất nhiều con vật bị thương sau nhà và thả chúng đi khi chúng lành lặn) nàng cứu chữa cho hắn. Say đắm trước vẻ đẹp mặn mà nhất là nữ tình hiền từ, dịu dàng và nhân hậu của Bao Tích Nhược, Hoàn Nhan Hồng Liệt đã đem vàng bạc đút lót cho Đoàn Thiên Đức, bảo y mang quân tới đánh thôn Ngưu Gia, sát hại hai gia đình Quách-Dương. Quách Khiếu Thiên bị quân Kim giết chết, còn Dương Thiết Tâm bị thương nặng và thất lạc vợ con.
Bao Tích Nhược bị lừa dối là chồng nàng đã chết, được Hoàn Nhan Hồng Liệt cứu rồi đưa về kinh đô nhà Kim. Để giữ đứa trẻ đang mang trong bụng (tức Dương Khang) sắp sinh nở, nàng đồng ý cưới hắn nhưng không sống trong cung mà sống một mình trong túp lều nhỏ được dựng lên y như thuở còn tại thôn trang. Dương Khang lớn lên trong cung và được Hoàn Nhan Hồng Liệt đối xử như con ruột của mình.
Ước hẹn tỷ võ
Khưu Xứ Cơ được tin hai nhà Quách-Dương bị hại, vô cùng căm phẫn, quyết định truy tìm Đoàn Thiên Đức để trả thù cho hai người bạn tri giao. Trong khi đó, sau cái chết của chồng, Lý Bình bị Đoàn Thiên Đức bắt giữ, lại bị Khưu Xứ Cơ truy đuổi chạy đến chùa Vân Thê của Tiêu Mộc thiền sư, Khưu Xứ Cơ truy đuổi tới đây và thấy Lý Bình trong chùa, tưởng là Tiêu Mộc giấu người nên đã giao đấu một trận kịch liệt với Tiêu Mộc cùng với nhóm bạn 7 người của ông gọi là Giang Nam thất quái, Tiêu Mộc cuối cùng bị trọng thương và tự sát để hai bên Khưu và phe Giang Nam thất quái khỏi tranh chiến.
Khưu Xứ Cơ sau khi biết được đầu đuôi câu chuyện đã vô cùng hối hận vì đã hiểu lầm Tiêu Mộc và Giang Nam thất quái. Chưa hết thỏa mãn lòng háo thắng Khưu Xứ Cơ cùng Giang Nam thất quái đánh cuộc với nhau. Khưu Xứ Cơ sẽ đi tìm mẹ con Bao Tích Nhược còn Giang Nam thất quái đi tìm mẹ con Lý Bình, hai bên sẽ nhận Dương Khang và Quách Tĩnh làm đồ đệ, truyền thụ võ công và để cho chúng tỉ thí khi 18 tuổi tại lầu Túy Tiên, phủ Gia Hưng.
Sau cùng Lý Bình được mục dân Mông Cổ cứu và đưa về đất Mông Cổ. Quách Tĩnh đã được sinh ra và nuôi dưỡng trong sự khắc nghiệt của sa mạc Mông Cổ.
Anh em kết nghĩa
Khi còn là cậu bé lớn lên trên thảo nguyên Mông Cổ, Quách Tĩnh đã cứu Triết Biệt, một vị tướng giỏi của Thành Cát Tư Hãn. Sự việc này dẫn tới sự dạy dỗ về sau của Triết Biệt cho Quách Tĩnh và sự thân thiết của Quách Tĩnh với các con của Hãn. Bạn khi nhỏ của Quách Tĩnh là Đà Lôi và Hoa Tranh. Giang Nam thất quái sau sáu năm tìm kiếm cũng gặp được mẹ con Quách Tĩnh trên sa mạc.
Đêm hôm đó, trong một hang núi, Mai Siêu Phong "Thiết Thi", bị Giang Nam thất quái phát hiện luyện tập Cửu âm bạch cốt trảo. Trước đó thị đã tung ám khí làm mù Kha Trấn Ác và giết chết anh trai của ông này. Khi Giang Nam thất quái đánh với Mai Siêu Phong, thị đã gọi chồng là Trần Huyền Phong "Đồng Thi" tới hỗ trợ. Trần Huyền Phong tung chiêu Tồi tâm chưởng về phía Trương A Sinh của Giang Nam thất quái, khiến Trương A Sinh bị trọng thương mà chết. Trần Huyền Phong đã nắm lấy Quách Tĩnh để đe dọa Giang Nam thất quái nhưng không ngờ Quách Tĩnh rút dao găm có khắc tên Dương Khang, đâm chết.
Quách Tĩnh trở thành đồ đệ của Giang Nam thất quái, được Giang Nam thất quái truyền thụ võ công. Tuy nhiên, do Quách Tĩnh bẩm sinh chất phát, chậm chạp, và không lanh lẹ nên không thể học hết võ công mà các sư phụ truyền dạy. Thật ra tầm mức võ công của Giang Nam Thất Quái, so với giới cao thủ võ lâm (những nhân vật mạnh nhất và đệ tử của họ) chỉ là những món công phu thuộc loại xoàng (móc túi, đầu độc, kiếm pháp, nội công, kình lực, kỵ pháp), cho nên suốt 10 năm tập luyện võ công của Quách Tĩnh dậm chân tại chỗ và không mấy tiến bộ. Một hôm nọ tình cờ một con chim ưng làm rơi tổ bên vách núi, Quách Tình trèo lên và tình cờ biết được cao thủ Mã Ngọc của phái Toàn Chân và được Mã Ngọc truyền cho phép nội công của phái Toàn Chân trong hai năm nên nội công tiến bộ dần.
Dương Khang, ngược lại, lớn lên trong cuộc sống xa hoa, sung sướng trong hoàng cung nhà Kim. Dưỡng phụ mà hắn gọi là phụ hoàng, Hoàn Nhan Hồng Liệt vì yêu Bao Tích Nhược nên rất nuông chiều nàng. Sau nhiều năm tìm kiếm cuối cùng Khưu Xứ Cơ cũng lùng ra được Dương Khang và được Hoàn Nhan Hồng Liệt cho phép truyền võ công. Bên cạnh đó Dương Khang cũng bí mật có thêm một sư phụ nữa là Mai Siêu Phong.
Mặc dù Khưu Xứ Cơ là một người yêu nước, việc ông dạy dỗ Dương Khang đã bị chi phối bởi lòng ganh đua hiếu thắng. Khang có trình độ võ thuật hơn người nhưng là một kẻ xảo quyệt y như dưỡng phụ Hoàn Nhan Hồng Liệt, thêm vào đó là lòng ham muốn vinh hoa phú quý khiến cho Dương Khang trở thành một trong những nhân vật thủ đoạn và nham hiểm nhất trong những nhân vật phản diện của Xạ Điêu Tam Bộ Khúc.
Mai Siêu Phong bị mù trong trận chiến, đã quyết tâm trả thù, nhưng thị đã nhầm Quách Tĩnh với Dương Khang. Thị lưu lạc tới Triệu vương phủ và trở thành sư phụ thứ hai của Dương Khang. Khưu Xứ Cơ và Hoàn Nhan Hồng Liệt cũng không biết điều này. Sau đó Mai Siêu Phong quay trở lại Mông Cổ trả thù, Mã Ngọc cùng với Giang Nam lục quái phải giả làm Toàn Chân thất tử khiến cho Mai Siêu Phong sợ hãi bỏ đi.
Trong lúc đó, cuộc tranh giành thế lực giữa các Hãn Mông Cổ diễn ra với việc Thiết Mộc Chân tiêu diệt được Vương Hãn và Trát Mộc Hợp, được các bộ tộc Mông Cổ suy tôn làm Thành Cát Tư Hãn. Quách Tĩnh vì lập được công lớn nên được Thành Cát Tư Hãn gả con gái là Hoa Tranh và phong làm Kim đao phò mã. Quách Tĩnh vâng lệnh đại hãn xuống phương Nam thăm dò tin tức Hoàn Nhan Hồng Liệt, Giang Nam lục quái cũng đi theo Quách Tĩnh để chuẩn bị cho kỳ tỷ võ ở Gia Hưng với đồ đệ của Khưu Xứ Cơ là Dương Khang.
Khi đến Trương Gia Khẩu, Quách Tĩnh đã tình cờ gặp được Hoàng Dung, con gái của Đông Tà Hoàng Dược Sư. Hoàng Dung vì cha trách mắng nên đã trốn khỏi Đào Hoa đảo và cải trang thành ăn mày. Hai người vừa gặp nhau đã kết thành tri kỷ. Hoàng Dung thích Quách Tĩnh vì tính tình ngây ngô của chàng và nhất là mối chân tình dành cho Hoàng Dung. Ngược lại, Quách Tĩnh thích Hoàng Dung vì Hoàng Dung tuy rất hồn nhiên nhưng cũng rất thông minh, mẫn tiệp, và nhìn thấy những thủ đoạn của kẻ khác mà chàng không nhìn thấy. Sự kết hợp của Quách Tĩnh và Hoàng Dung với tính tình trái ngược nhau, nhưng bổ sung cho nhau, đã trở thành một đôi anh hùng nữ kiệt lý tưởng.
Kén chồng
Dương Thiết Tâm thực ra vẫn sống sót sau cuộc tàn sát của Hoàn Nhan Hồng Liệt và giả danh là người biểu diễn võ thuật dưới cái tên Mục Dịch. Con nuôi của ông là Mục Niệm Từ cùng đi theo. Chính tại đất kinh thành nhà Kim mà ông gặp lại vợ cũ và con trai (mặc dù họ không biết). Dương Khang lúc đó được gọi là Hoàn Nhan Khang.
Mục Dịch muốn gả con cho bất cứ ai đánh thắng con gái ông. Dương Khang tới tham dự và đã đánh bại Mục Niệm Từ nhưng từ chối cưới nàng, chỉ lấy đi một chiếc giày như là món thưởng. Quách Tĩnh chứng kiến sự việc đã ra tay lấy lại chiếc giày và danh dự của Mục Niệm Từ. Kết quả là một trận đánh diễn ra giữa cả hai. Mục Niệm Từ từ đó đã yêu Dương Khang.
Trận đánh chỉ kết thúc khi mẹ Dương Khang tới và Dương Khang vẫn từ chối trả giày. Mục Dịch lập tức nhận ra mẹ của Dương Khang chính là người vợ xưa của ông. Đúng lúc đó Vương Xứ Nhất của phái Toàn Chân xuất hiện và cứu Quách Tĩnh ra khỏi vòng chiến.
Quách Tĩnh và Vương Xứ Nhất nhận lời mời của Dương Khang tới Triệu vương phủ phó yến. Hai người bị nhiều cao thủ trong Triệu vương phủ như Sa Thông Thiên, Hầu Thông Hải, Bành Liên Hổ, Linh Trí thượng nhân... bao vây và tấn công khiến Vương Xứ Nhất bị trọng thương. Quách Tĩnh cõng Vương Xứ Nhất chạy thoát khỏi Triệu vương phủ. Do Vương Xứ Nhất bị trúng độc nên Quách Tĩnh và Hoàng Dung phải lẻn vào Triệu vương phủ ăn trộm thuốc nhưng không thành công. Quách Tĩnh bị rắn độc của Lương Tử Ông tấn công, trong lúc cấp bách Quách Tĩnh đã hút hết máu rắn nhờ đó công lực tăng lên đáng kể. Sau đó Quách Tĩnh bị Lương Tử Ông truy sát nên phải chạy vào một hang đất và gặp được Mai Siêu Phong. Hoàng Dung bịa chuyện cha nàng đã tới để khích Mai Siêu Phong đấu với các cao thủ trong Triệu vương phủ, còn nàng và Quách Tĩnh có thể thừa cơ chạy trốn. Đúng lúc đó Giang Nam thất quái xuất hiện và cứu Quách Tĩnh chạy thoát.
Trong khi đó, Dương Khang bỏ tù Mục Niệm Từ để trị bệnh cho Mục Dịch, vì ông đã bị Dương Khang vô tình đánh trọng thương. Bao Tích Nhược tới phóng thích họ và sau đó Mục Dịch đã tới thăm để bộc lộ chân tướng. Dương Khang chạy vào trong và Bao Tích Nhược đã nói rằng Dương Thiết Tâm mới chính là cha đẻ nhưng hắn không tin vào điều đó.
Hoàn Nhan Hồng Liệt phát hiện cuộc gặp mặt này và Bao Tích Nhược định chạy thoát cùng người chồng cũ và đã bị quân lính truy đuổi. Hắn quỳ xuống muốn nàng ở lại nhưng nàng đã từ chối. Nàng muốn Dương Khang lúc đấy đã chấp nhận cha thật và đang yêu Mục Niệm Từ đi theo, nhưng Dương Khang đã ở lại với cha dượng, Dương Thiết Tâm và Bao Tích Nhược đã tự sát.
Sau cái chết của cha mẹ Dương Khang, vì tức giận trước việc Dương Khang không chịu nhận cha ruột và nhận Hoàn Nhan Hồng Liệt làm cha, nên Khưu Xứ Cơ đành nhận thua trước Giang Nam thất quái. Khưu Xứ Cơ muốn Quách Tĩnh lấy Mục Niệm Từ theo di nguyện của Dương Thiết Tâm trước khi chết, còn Giang Nam thất quái thì muốn Quách Tĩnh cưới Hoa Tranh theo hôn ước đã định với Thành Cát Tư Hãn, nhưng trong lòng Quách Tĩnh đã có Hoàng Dung. Giang Nam thất quái rất tức giận trước việc Quách Tĩnh muốn lấy Hoàng Dung do cha nàng, Hoàng Dược Sư, là sư phụ của Hắc Phong song sát, kẻ thù của Giang Nam thất quái. Đúng lúc đó Hoàng Dung xuất hiện đưa Quách Tĩnh đi, hai người cùng nhau chu du thiên hạ.
Đi theo Hoàng Dung
Trên đường du lãm giang hồ, Quách Tĩnh và Hoàng Dung đã gặp được Bắc Cái Hồng Thất Công. Hoàng Dung nấu rất nhiều món ăn ngon cho Hồng Thất Công, đổi lại Hồng Thất Công dạy Giáng long thập bát chưởng cho Quách Tĩnh và dạy quyền pháp Tiêu dao du cho Hoàng Dung, nhưng ông không cho phép hai người gọi ông là sư phụ. Hoàng Dung còn được Hồng Thất Công truyền thụ thủ pháp Mãn thiên hoa vũ để đối phó với đàn độc xà của Âu Dương Khắc, cháu của Tây Độc Âu Dương Phong.
Sau cuộc tỷ võ chiêu thân ở Bắc Kinh, Mục Niệm Từ đã yêu Dương Khang và muốn lấy Dương Khang làm chồng; nhưng Hoàng Dung lại tưởng nàng muốn lấy Quách Tĩnh nên đã bắt Mục Niệm Từ thề là không được lấy Quách Tĩnh. Dương Khang lúc đầu không muốn cưới Mục Niệm Từ nhưng sau đó thấy được chân tình của nàng đối với mình thì hết sức cảm động, và hứa sẽ lấy nàng làm vợ.
Quách Tĩnh cùng Hoàng Dung đi dạo chơi Thái Hồ, hai người đến Quy Vân trang của Lục Thừa Phong và được đón tiếp trọng hậu. Lục Thừa Phong là thủ lĩnh quần hùng ở Thái Hồ, một hôm đoàn Khâm sứ nước Kim do Dương Khang và Âu Dương Khắc chỉ huy đi qua đây đã bị bắt sống. Mục Niệm Từ tìm đến muốn cứu Dương Khang, Dương Khang nhờ nàng đi báo tin cho sư phụ là Mai Siêu Phong biết. Sau đó Cừu Thiên Nhận (thực chất là Cừu Thiên Trượng giả dạng), Giang Nam thất quái và Mai Siêu Phong lần lượt đến Quy Vân trang. Mai Siêu Phong vì muốn trả thù cho chồng (Trần Huyền Phong) nên đã đánh nhau với Quách Tĩnh và Giang Nam thất quái. Hoàng Dược Sư trên đường tìm kiếm con gái sau đó cũng đến Quy Vân trang, ông gặp lại các đệ tử năm xưa. Hoàng Dược Sư không còn giận nữa mà truyền cho Lục Thừa Phong cách chữa chân và cho phép truyền dạy võ cho con trai. Riêng với Mai Siêu Phong, Hoàng Dược Sư tạm thời tha chết để làm ba việc: một là tìm những sư huynh đệ khác: Khúc Linh Phong, Vũ Thiên Phong, Phùng Mặc Phong về Quy Vân trang để Lục Thừa Phong truyền lại cách chữa chân. Hai là tìm lại Cửu âm chân kinh không hiểu vì sao thất lạc (lúc này Mai Siêu Phong nghi do Chu Thông lấy, sau này Chu Thông giao miếng da có ghi chép Cửu âm chân kinh lại cho Quách Tĩnh. Sau này Quách Tĩnh lên Đào Hoa đảo và được Chu Bá Thông chỉ dạy toàn bộ võ công này) và giết hết những người từng đọc. Ba là tự phế võ công. Hoàng Dược Sư muốn giết Quách Tĩnh để trả thù cho Trần Huyền Phong, Quách Tĩnh hẹn với Hoàng Dược Sư sau một tháng sẽ đến Đào Hoa đảo chịu chết.
Đoàn Thiên Đức bị quần hùng Thái Hồ bắt được, bị Dương Khang giết chết, trả thù cho Dương Thiết Tâm và Quách Khiếu Thiên. Quách Tĩnh và Dương Khang kết nghĩa làm anh em, cùng nhau lên phía Bắc mưu giết Hoàn Nhan Hồng Liệt. Trên đường đi, Quách Tĩnh gặp lại Hoàng Dung, hai người cùng với Lê Sinh, Dư Triệu Hưng và Hồng Thất Công cứu thoát Trình Dao Gia khỏi tay Âu Dương Khắc. Hồng Thất Công chính thức nhận Quách Tĩnh và Hoàng Dung làm đệ tử và truyền thụ toàn bộ Giáng long thập bát chưởng cho Quách Tĩnh.
Lúc này Thành Cát Tư Hãn mang quân tấn công nước Kim, phái Đà Lôi làm sứ giả sang kết minh với Nam Tống để cùng nhau đánh Kim. Dương Khang tuy biết được thân thế của mình nhưng do quá ham phú quý nên đã không chịu giết Hoàn Nhan Hồng Liệt để trả thù cho Dương Thiết Tâm mà ngược lại vẫn tiếp tục nhận Hoàn Nhan Hồng Liệt làm cha, bảo vệ y khỏi sự truy sát của Quách Tĩnh và Hoàng Dung. Điều này khiến Mục Niệm Từ vô cùng đau lòng vì cảm thấy đã đặt tình yêu nhầm chỗ.
Trên Đào Hoa đảo
Đến kỳ hẹn với Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh cùng Hoàng Dung đến Đào Hoa đảo. Trên đảo, Quách Tĩnh đã gặp được Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông, lúc này đang bị Hoàng Dược Sư giam cầm ở đây, muốn Chu Bá Thông giao lại Cửu Âm Chân Kinh. Khi xưa, vâng lệnh đại ca Vương Trùng Dương, Chu Bá Thông mang Cửu Âm Chân Kinh đi giấu. Giữa đường gặp vợ chồng Hoàng Dược Sư, Phùng Thị. Chu Bá Thông bị vợ chồng Hoàng Dược Sư lừa lấy mất Cửu Âm Chân Kinh, tuy nhiên đó chỉ là quyển hạ. Sau này, Hắc Phong Song Sát đã lấy trộm quyện hạ Cửu Âm Chân Kinh của sư phụ và trốn đi, Phùng Thị chết vì cố nhớ lại Cửu Âm Chân Kinh để chép ra cho chồng, cộng thêm sinh nở khó khăn. Khi biết sự thật, Chu Bá Thông tìm tới đảo Đào Hoa thì bị Hoàng Dược Sư giam cầm, yêu cầu giao ra Cửu Âm Chân Kinh để tế người vợ đã mất của mình. Chu Bá Thông thông hiểu Cửu Âm Chân Kinh, nhưng không tập vì khi xưa đại ca của mình dặn không được tập, bộ võ công này chỉ mang họa cho thiên hạ. Tuy nhiên bản tính say mê võ học, Chu Bá Thông không kiềm chế nổi, đã tập luyện.
Chu Bá Thông kết nghĩa anh em với Quách Tĩnh, truyền thụ cho Quách Tĩnh 72 lộ Không minh quyền, thuật Song thủ hỗ bác và võ học tối thượng Cửu âm chân kinh. Bắt phải học thuộc lòng.
Lúc này Âu Dương Phong tới Đào Hoa đảo để cầu hôn Hoàng Dung cho con y là Âu Dương Khắc. Hồng Thất Công cũng đến Đào Hoa đảo để cầu hôn Hoàng Dung cho Quách Tĩnh. Hoàng Dược Sư ra ba đề thi cho Quách Tĩnh và Âu Dương Khắc, ai thắng thì ông sẽ nhận người ấy làm con rể. Phần thì võ công và trí nhớ Quách Tĩnh thắng, bởi thứ mà Hoàng Dược Sư bắt đọc một lần và nhớ lại chính là Cửu Âm Chân Kinh quyển hạ, thi âm luật thì Âu Dương Khắc thắng. Cuối cùng Quách Tĩnh thắng cuộc, nhưng sau khi Hoàng Dược Sư biết được Quách Tĩnh đã học được công phu tối thượng Cửu âm chân kinh (Chu Bá Thông nói dối rằng đây là Bất Thông chân kinh để Quách Tĩnh chịu học và khi gặp mặt mọi người Chu Bá Thông đã không giải thích rõ ràng để Hoàng Dược Sư hiểu lầm) đã vô cùng tức giận và đuổi Quách Tĩnh đi.
Hoàng Dược Sư tận mắt thấy Chu Bá Thông đã xé hoàn toàn Cửu Âm Chân Kinh, lao vào tấn công. Chu Bá Thông trước đó tự trói tay mình lại vì sợ hễ đánh nhau là sẽ dùng đến Cửu Âm Chân Kinh, giao chiêu với Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông thua. Hoàng Dược Sư cũng đồng ý cho Chu Bá Thông được rời khỏi đảo, vì lúc này Cửu Âm Chân Kinh không còn nữa. Quách Tĩnh, Hồng Thất Công và Chu Bá Thông đi chung một thuyền, chú cháu Âu Dương Phong lên một thuyền, cùng nhau rời khỏi Đào Hoa đảo.
Sóng gió giang hồ
Không may chiếc thuyền mà Quách Tĩnh, Hồng Thất Công và Chu Bá Thông lên bị đắm, ba người phải vật lộn với sóng gió đồng thời phải chống chọi với lũ cá mập hung dữ trên biển cả mênh mông. Sau đó ba người được thuyền của Âu Dương Phong cứu thoát. Âu Dương Phong và Chu Bá Thông đánh cược. Do tưởng mình thua và Chu Bá Thông không muốn thực hiện yêu cầu của Âu Dương Phong nên y đã nhảy xuống biển theo lời đánh cược. Hồng Thất Công nghĩ ra kế, bảo Quách Tĩnh viết kinh văn chỗ thật chỗ giả đưa cho Âu Dương Phong. Đúng lúc đó Hoàng Dung bơi thuyền tới cứu thầy trò Quách Tĩnh, hai bên giao đấu kịch liệt, cuối cùng chiếc thuyền vỡ tan, Hồng Thất Công bị Âu Dương Phong lén thả rắn cắn trọng thương, mọi người trôi dạt vào một hòn đảo hoang.
Trên đảo, Hồng Thất Công tự biết mình bị trọng thương khó qua khỏi nên đã truyền lại chức bang chủ Cái Bang và Đả cẩu bổng pháp cho Hoàng Dung. Thấy chú cháu Âu Dương quá lợi hại, lại vốn rất ghét Âu Dương Khắc, Hoàng Dung nghĩ ra kế lăn đá đè gãy chân của Âu Dương Khắc. Quách Tĩnh và Hoàng Dung dồn sức đấu trí đấu lực với Âu Dương Phong, cuối cùng cả hai bên đều sống sót rời khỏi đảo. Âu Dương Phong và Âu Dương Khắc được thuyền của Hoàn Nhan Hồng Liệt cứu (Lúc này Hoàn Nhan Hồng Liệt cùng các cao thủ võ lâm âm mưu đột nhập vào hoàng cung của triều Tống ở Lâm An để ăn cắp bộ Vũ Mục di thư của Nhạc Phi nên cần Âu Dương Phong giúp sức). Quách Tĩnh, Hoàng Dung cùng Hồng Thất Công lênh đênh trên biển thì gặp thuyền của Hoàn Nhan Hồng Liệt. Âu Dương Phong muốn bắt Quách Tĩnh phải chỉ yếu quyết trong Cửu âm chân kinh để trị thương cho Âu Dương Khắc. Họ gặp lại Chu Bá Thông đang cưỡi cá mập ngao du trên biển cả đến giải vây. Như vậy vụ cá cược trước đó Chu Bá Thông đã thắng, Âu Dương Phong đồng ý để bọn họ đi. Còn Hoàng Dược Sư trên đường tìm con gái cũng gặp thuyền của Hoàn Nhan Hồng Liệt, nhưng chậm chân, bị Linh Trí thượng nhân lừa bịp, tưởng rằng Hoàng Dung đã chết trên biển nên rắp tâm tìm giết Quách Tĩnh và Giang Nam thất quái để trả thù.
Lục Quán Anh, con trai của Lục Thừa Phong, vì muốn dàn xếp chuyện bất hòa giữa Hoàng Dược Sư và Quách Tĩnh đã đến Ngưu Gia thôn tìm tung tích Quách Tĩnh. Tại đây Lục Quán Anh đã gặp hai người phái Toàn Chân là Trình Dao Gia và sư phụ Tôn Bất Nhị. Hoàng Dược Sư trên đường truy tìm Quách Tĩnh và Giang Nam thất quái đã gặp được Lục Quán Anh và Trình Dao Gia rồi tác hợp cho hai người thành vợ chồng. Hoàng Dược Sư cũng thu nhận cô ngốc làm đồ đệ (khi biết cô là con gái ruột của Khúc Linh Phong)
Quách Tĩnh, Hoàng Dung cùng Hồng Thất Công và Chu Bá Thông đến Lâm An. Quách Tĩnh hướng dẫn cho Hồng Thất Công nhiều bài của Cửu Âm Chân Kinh để ông tự trị thương, sau đó ông rủ Chu Bá Thông ban đêm lẻn vào hoàng cung để trộm yến tiệc, bồi bổ sức khỏe. Quách Tĩnh và Hoàng Dung cũng đi cùng vào hoàng cung, ngăn cản không cho phe Hoàn Nhan Hồng Liệt và Âu Dương Phong lấy trộm Vũ Mục di thư của Nhạc Phi. Trong hoàng cung, Quách Tĩnh đánh trả Âu Dương Phong và bị Dương Khang đâm trọng thương, Hoàng Dung phải cõng Quách Tĩnh về mật thất trong quán rượu Khúc Tam Tửu Quán ở Ngưu Gia thôn dưỡng thương. Phe Hoàn Nhan Hồng Liệt tìm mãi nhưng cuối cùng vẫn không lấy được Vũ Mục di thư của Nhạc Phi.
Mục Niệm Từ vì tận mắt chứng kiến Dương Khang đâm lén Quách Tĩnh nên vô cùng chán nản nên tự vẫn nhưng được cứu sống. Dương Khang về Ngưu Gia thôn tìm cô. Tại đây Dương Khang gặp lại Mục Niệm Từ và Toàn Chân thất tử. Dương Khang phao tin Quách Tĩnh bị Hoàng Dược Sư giết chết, Cừu Thiên Nhận (thực chất là Cừu Thiên Trượng) lại nói dối rằng Chu Bá Thông cũng bị Hoàng Dược Sư giết chết để Toàn Chân thất tử tìm Hoàng Dược Sư trả thù. Toàn Chân thất tử tưởng Chu Bá Thông và Quách Tĩnh chết thật liền bày Thiên cang Bắc đẩu trận đánh nhau với Mai Siêu Phong và Hoàng Dược Sư. Âu Dương Phong xuất hiện đánh lén cả hai bên. Cuối cùng Đàm Xứ Đoan bị Âu Dương Phong giết chết, Mai Siêu Phong vì cứu sư phụ nên cũng bị trúng chưởng của Âu Dương Phong mà chết.
Âu Dương Khắc lừa Lục Quán Anh và Trình Dao Gia cứu mình rồi muốn sàm sỡ Trình Dao Gia. Đúng lúc ấy, cô ngốc xuất hiện làm lộ mật thất mà Quách Tĩnh, Hoàng Dung đang trị thương. Hoàng Dung đánh lui được Âu Dương Khắc nhưng làm rớt Đả cẩu bổng ra ngoài. Dương Khang vì muốn Âu Dương Phong nhận mình làm đệ tử nên đã sát hại Âu Dương Khắc rồi đổ lỗi cho Quách Tĩnh và vô tình nhặt được Đả cẩu bổng.
Tại Ngưu Gia thôn, Hoàng Dược Sư định giết Giang Nam thất quái trả thù cho con gái cũng như hỏi tung tích Quách Tĩnh. Trong tình thế nguy cấp, Quách Tĩnh tuy đang trị thương cũng phải từ mật thất lao ra ngăn cản. Hoàng Dược Sư rất vui mừng vì thấy con gái không bị chết. Ông trị thương cho Quách Tĩnh, cũng như kết thông gia với Giang Nam thất quái đồng ý hôn sự của Quách Tĩnh và Hoàng Dung.
Quách Tĩnh, Hoàng Dung cùng Hoàng Dược Sư đánh một kẻ mạo danh Cừu Thiên Nhận (thực chất là Cừu Thiên Trượng), giải cứu cho bốn người Đà Lôi, Hoa Tranh, Triết Biệt và Bác Nhĩ Truật. Hoàng Dược Sư sau khi biết được chuyện hôn ước giữa Quách Tĩnh với Hoa Tranh đã vô cùng nổi giận, muốn giết Hoa Tranh, nhưng vì Hoàng Dung đã thương yêu Quách Tĩnh thật lòng nên đã ngăn cản không cho cha mình làm việc đó. Quách Tĩnh tuy thật lòng yêu Hoàng Dung nhưng vì tín nghĩa quyết không thể bỏ, nên quyết định kết hôn với Hoa Tranh chứ không thể lấy Hoàng Dung. Hoàng Dược Sư tức giận bỏ đi
Quách Tĩnh và Hoàng Dung tới Nhạc Châu dự đại hội Cái Bang ở núi Quân Sơn trong hồ Động Đình. Tại đây Hoàng Dung đã dùng Đả cẩu bổng pháp đánh bại Dương Khang và bốn vị trưởng lão, giành được địa vị bang chủ Cái Bang.
Sau đó Quách-Hoàng đến đỉnh núi Thiết Chưởng của Thiết chưởng bang với hy vọng lấy được bộ Vũ Mục di thư của Nhạc Phi ở đây. Do Cừu Thiên Nhận và Cừu Thiên Trượng quá giống nhau, Hoàng Dung không phân biệt được nên đã bị thiết chưởng của Cừu Thiên Nhận đánh trọng thương. Hai người chạy trốn vào cấm địa của Thiết chưởng bang và tìm được Vũ Mục di thư của Nhạc Phi.
Dương Khang sau khi thất bại tại đại hội Cái Bang tại Quân Sơn liền dắt Mục Niệm Từ chạy theo Cừu Thiên Nhận tới núi Thiết Chưởng. Tại đây Dương Khang đã thành hôn và động phòng với Mục Niệm Từ, tuy nhiên sau đêm tân hôn Mục Niệm Từ vô tình nghe thấy Dương Khang vẫn đang âm mưu bán đứng Đại Tống, cấu kết người Kim và vẫn không chịu hối cải, cô liền chán nản bỏ đi.
Quách Tĩnh cõng Hoàng Dung chạy vào một đầm tối, ở đây hai người gặp được Anh Cô, Lưu quý phi năm xưa của nước Đại Lý. Anh Cô vì muốn trả thù Nhất Đăng đại sư nên chỉ đường cho Quách Hoàng hai người tới chỗ Nhất Đăng đại sư nhờ chữa thương. Đại sư dùng Nhất dương chỉ và Tiên thiên công đả thông kỳ kinh bát mạch cho Hoàng Dung, Anh Cô nhân lúc đại sư bị hao tổn công lực liền tìm lên núi để trả thù. 4 đệ tử Ngư Tiều Canh Độc của Nhất Đăng đại sư ra sức ngăn cản nhưng không được. Anh Cô không hạ thủ được do Quách Tĩnh cải trang thành Nhất Đăng đại sư nên cuối cùng đành bỏ đi.
Hoàng Dung được chữa khỏi nội thương, cùng Quách Tĩnh trở lại Ngưu Gia thôn, gặp lại Chu Bá Thông và Hồng Thất Công. Quách Tĩnh và Hoàng Dung truyền lại khẩu quyết trong Cửu âm chân kinh mà sư đệ của Nhất Đăng đại sư dịch ra từ tiếng Phạn cho Hồng Thất Công, để Hồng Thất Công theo đó trị thương. Sau đó Quách Tĩnh và Hoàng Dung trở về Đào Hoa đảo.
Dương Khang và Âu Dương Phong lên Đào Hoa đảo, cải trang thành Hoàng Dược Sư giết chết năm người trong Giang Nam thất quái rồi đổ tội cho Hoàng Dược Sư. Quách Tĩnh thấy tình cảnh năm vị sư phụ chết thảm, vô cùng đau đớn và phẫn hận, tin chắc thủ phạm không ai khác ngoài Hoàng Dược Sư, liền cưỡi thuyền rời đảo đi tìm Hoàng Dược Sư để trả thù. Cũng vì vậy mà tình cảm giữa Quách Tĩnh và Hoàng Dung ngày càng cách xa. Hoàng Dung cảm thấy rất đau lòng và nàng quyết tâm điều tra chân tướng sự thật.
Quách Tĩnh đến lầu Yên Vũ (phủ Gia Hưng), đúng lúc đó Toàn Chân lục tử cùng Kha Trấn Ác bày Thiên cang Bắc đẩu trận vây công Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh thấy vậy cũng xông vào. Quách Tĩnh và Kha Trấn Ác muốn trả thù cho năm người trong Giang Nam thất quái, còn Toàn Chân lục tử là muốn trả thù cho Đàm Xứ Đoan và Chu Bá Thông. Nhưng sau khi biết Chu Bá Thông vẫn còn sống, Đàm Xứ Đoan là do Âu Dương Phong giết chết, Toàn Chân lục tử liền chuyển sang đấu với Âu Dương Phong.
Hai bên đánh nhau kịch liệt, sau đó Sa Thông Thiên, Bành Liên Hổ, Cừu Thiên Nhận, Chu Bá Thông... cũng đều tham chiến. Cuối cùng tất cả bị lọt vào xà trận của Âu Dương Phong nên phải bỏ chạy. Quách Tĩnh và Hoàng Dược Sư lạc mất Hoàng Dung.
Hoàng Dung đưa Kha Trấn Ác vào miếu Thiết Thương, tại đây Hoàng Dung đã gặp Âu Dương Phong và Dương Khang. Khi không có Quách Tĩnh ở bên bao che, Hoàng Dung liều lĩnh vạch trần thủ phạm giết chết Giang Nam ngũ quái chính là Âu Dương Phong và Dương Khang, kẻ giết Âu Dương Khắc không ai khác cũng chính là Dương Khang. Kha Trấn Ác biết được sự thật, vô cùng hối hận vì đã nghi oan cho cha con Hoàng Dược Sư. Dương Khang bị Hoàng Dung vạch trần chân tướng, muốn bit đầu mối, giáng một chưởng trúng vai Hoàng Dung, tấm Nhuyễn vị giáp trên người nàng lại có chất kịch độc của con quái xà của Âu Dương Phong, kết quả Dương Khang trúng độc, chết thảm trong miếu. Âu Dương Phong bắt ép Hoàng Dung đi theo để giải thích Cửu âm chân kinh cho y.
Gặp lại Hoàng Dung
Quách Tĩnh sau khi biết được sự thật từ Kha Trấn Ác cảm thấy vô cùng hối hận vì đã làm Hoàng Dung đau lòng, chàng đi khắp nơi để tìm nàng nhưng đều không gặp. Sau đó Quách Tĩnh trở lại Mông Cổ, theo Thành Cát Tư Hãn Tây chinh, tấn công Hoa Thích Tử Mô.
Ở Tây Vực, Quách Tĩnh gặp lại Âu Dương Phong, hai bên giao ước với nhau rằng nếu Quách Tĩnh bắt được Âu Dương Phong thì sẽ tha cho y ba lần. Sau đó Quách Tĩnh gặp lại Hoàng Dung, hai người cùng tính kế đối phó với Âu Dương Phong, quả nhiên hai người ba lần bắt được Âu Dương Phong, cả ba lần đều tha cho y thoát. Hoàng Dung dùng kế giúp Quách Tĩnh phá được thành Tán Ma Nhĩ Hãn của Hoa Thích Tử Mô, bắt sống được Hoàn Nhan Hồng Liệt nước Kim.
Quách Tĩnh lập được đại công, Hoàng Dung muốn Quách Tĩnh xin Thành Cát Tư Hãn cho từ hôn với Hoa Tranh. Nhưng khi Quách Tĩnh chứng kiến tình cảnh quân Mông Cổ lấy máu rửa thành liền xin Thành Cát Tư Hãn đừng giết hại bách tính, khiến đại hãn vô cùng nổi giận. Lúc đó Khưu Xứ Cơ cùng 18 đệ tử phái Toàn Chân cũng đã đến Tây Vực yết kiến Thành Cát Tư Hãn.
Hoàng Dung thấy Quách Tĩnh không chịu xin đại hãn cho từ hôn với Hoa Tranh, tưởng chàng thay lòng đổi dạ liền đau lòng bỏ đi. Quách Tĩnh vô cùng hoảng sợ, vội đuổi theo tìm nàng nhưng đều không gặp, tưởng nàng đã chết trên sa mạc. Quách Tĩnh gặp phải Âu Dương Phong, hai người dọc đường đấu trí đấu lực kịch liệt. Vừa lúc đó Chu Bá Thông truy đuổi Cừu Thiên Nhận tới tận Tây Vực, bốn người đánh nhau trong căn nhà tối om, không ai phân biệt được ai. Cuối cùng Quách Tĩnh cũng đuổi kịp đại quân Mông Cổ khi đó đang kéo về Đông.
Thành Cát Tư Hãn ban mật lệnh cho Quách Tĩnh, sau khi tiêu diệt nước Kim xong phải đánh xuống Lâm An để tiêu diệt nhà Tống, nhưng Quách Tĩnh thà chết chứ không chịu phản bội đất nước. Thành Cát Tư Hãn ra lệnh bức Lý Bình phải khuyên giải Quách Tĩnh nghe theo mật lệnh, Lý Bình liền tự sát để giữ tròn khí tiết. Quách Tĩnh ôm xác mẹ bỏ trốn, sau khi chôn cất cho mẹ xong được Triết Biệt và Đà Lôi tiễn lên đường về Nam.
Trên đường về Quách Tĩnh gặp lại Khưu Xứ Cơ, hai người cùng nhau lên Hoa Sơn tìm Chu Bá Thông. Âu Dương Phong bắt Hoàng Dung lên Hoa Sơn giải thích Cửu âm chân kinh cho y, Quách Tĩnh gặp lại được Hoàng Dung. Ở Hoa Sơn, Lương Tử Ông muốn nhân lúc Quách Tĩnh sơ hở hút máu vì nghĩ rằng máu của con rắn mình nuôi được hoà vào trong máu Quách Tĩnh nhưng bị đẩy xuống vực sâu vạn trượng, bốn người Sa Thông Thiên, Bành Liên Hổ, Hầu Thông Hải và Linh Trí thượng nhân bị Chu Bá Thông bắt sống, giao cho Khưu Xứ Cơ mang về giam lại tại cung Trùng Dương núi Chung Nam, Cừu Thiên Nhận được Hồng Thất Công điểm hóa rồi theo Nhất Đăng đại sư quy y tam bảo.
Trong lần Hoa Sơn luận kiếm lần thứ hai, Âu Dương Phong do tu tập Cửu âm chân kinh giả của Quách Tĩnh, lại bị Hoàng Dung chỉ dẫn sai đường nên bị tẩu hỏa nhập ma, kinh mạch hỗn loạn, nhưng cũng vì thế mà võ công của y tăng tiến vượt bậc, cùng lúc khiến ba bậc thượng thừa võ học Hoàng Dược Sư, Quách Tĩnh và Hồng Thất Công phải hợp lực chống đỡ, hổ thẹn mà nhận thua. Sau đó Âu Dương Phong bị Hoàng Dung làm cho phát điên, thần trí hồ đồ, không nhớ ra được mình là ai, cuối cùng bỏ chạy xuống núi một cách thảm hại. Lần Hoa Sơn luận kiếm này không bầu ra ngũ tuyệt, tuy nhiên võ công cao nhất đương thời là Chu Bá Thông và Âu Dương Phong.
Quách Tĩnh, Hoàng Dung và Hoàng Dược Sư lên đường về Đào Hoa đảo để hoàn tất hôn sự của Quách Tĩnh và Hoàng Dung. Trên đường đi, hai người cứu được Mục Niệm Từ khỏi tay Bành trưởng lão, sau đó mới biết Mục Niệm Từ đã có một đứa con trai với Dương Khang sau cái đêm trên núi Thiết Chưởng. Quách Tĩnh đặt tên đứa bé là Dương Quá, tự là Cải Chi, ý muốn sau này đứa bé lớn lên sẽ sửa lại các sai lầm của cha. Đây là nhân vật chính trong bộ Thần điêu hiệp lữ, bộ thứ hai trong Xạ Điêu tam bộ khúc. Giữa đường được tin quân Mông Cổ do Đà Lôi chỉ huy tập kích Tương Dương, Quách Tĩnh và Hoàng Dung vội đến Tương Dương giúp An phủ sứ Lữ Văn Đức thủ thành. Rất may Thành Cát Tư Hãn bị bệnh nặng, Đà Lôi phải rút quân về. Quách Hoàng hai người cùng Đà Lôi về Tây Vực vĩnh biệt đại hãn. Sau đó Quách Tĩnh và Hoàng Dung trở về Đào Hoa đảo, Hoàng Dược Sư và Kha Trấn Ác chủ trì lễ thành hôn cho hai người.
Nhân vật
Nhân vật chính
Dương Khang - anh em kết nghĩa với Quách Tĩnh, con của Dương Thiết Tâm và Bao Tích Nhược. Mẹ hắn tái giá với vương gia nhà Kim nên hắn xuất hiện lần đầu trong truyện với vị thế một tiểu vương gia. Được nuông chiều trong nhung lụa nên tính cách của hắn càng trở nên đen tối và xấu xa. Hắn khát khao sức mạnh, phản bội bạn bè và chính sư phụ. Hắn là đồ đệ của Khâu Xứ Cơ và là đồ đệ bí mật của Mai Siêu Phong. Dương Khang cuối cùng có một kết cục bi thảm khi cố giết Hoàng Dung để che giấu chuyện hắn giết hại 5 vị sư phụ của Quách Tĩnh. Dương Khang đánh phải miếng giáp ở áo của Hoàng Dung đã bị dính thuốc độc rắn của Âu Dương Phong. Âu Dương Phong từ chối cứu bởi vì Dương Khang đã giết con của hắn là Âu Dương Khắc.
Mục Niệm Từ - hiền từ và tốt bụng, nàng là người mà Dương Khang yêu. Là con nuôi của Dương Thiết Tâm, cha của Dương Khang. Dương Thiết Tâm đã dạy một ít võ công cho nàng sau đó nàng được Hồng Thất Công chỉ dạy về võ công trong 3 ngày. Lúc đầu giữa nàng và Hoàng Dung có chút bất đồng vì Hoàng Dung tưởng nàng thích Quách Tĩnh.
Nhân vật phụ
Quách Khiếu Thiên - Cha của Quách Tĩnh, người chết dưới tay của Hoàn Nhan Hồng Liệt - một hoàng thân của triều Kim
Lý Bình - Mẹ của Quách Tĩnh và vợ của Quách Khiếu Thiên. Sau khi Quách Khiếu Thiên mất, nàng quyết định chạy trốn và được quân Mông Cổ cứu.
Dương Thiết Tâm - Cha của Dương Khang và là anh em kết nghĩa của Quách Khiếu Thiên.
Bao Tích Nhược - Mẹ của Dương Khang. Nàng tưởng rằng Dương Thiết Tâm đã chết và đồng ý lấy Hoàn Nhan Hồng Liệt để nuôi dưỡng Dương Khang.
Hoàn Nhan Hồng Liệt - là một vương gia của nhà Kim và là cha dượng của Dương Khang. Được mẹ của Dương Khang cứu 1 lần và do say mê vẻ đẹp của mẹ Dương Khang, hắn đã nhẫn tâm sai quân tới giết chết cả nhà Quách và Dương để hắn trở thành người hùng cứu Bao Tích Nhược. Được coi là người kế tiếp trở thành vua nước Kim, hắn cho người truy tìm Võ Mục Di Thư của Nhạc Phi để thống nhất thiên hạ.
Châu Bá Thông (Chu Bá Thông), là sư đệ của Vương Trùng Dương phái Toàn Chân Giáo, tính tình giống trẻ con nên có biệt hiệu "Lão Ngoan Đồng". Sau khi Vương Thần Thông qua đời, Chu bá Thông mang bí kíp "Cửu âm chân kinh" mang đi giấu nhưng bị vợ chồng Hoàng Dược Sư lừa lấy mất và bị nhốt trên đảo Đào Hoa. Do vợ trẻ của Hoàng Dược Sư mất sớm nên ông đau buồn và quay ra oán ghét Lão ngoan đồng vì hay trù ẻo vợ ông nên đã đánh gãy chân Chu. Chu sống trên đảo suốt 15 năm và nghĩ ra nhiều bộ môn võ công quái dị nhưng cũng tập luyện được bản lĩnh vô cùng cao thâm. Khi Quách Tĩnh lên đảo, Chu vô tình có được Cửu Âm Chân Kinh nên đã nên võ công đã vượt qua cả Đông tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái.
Âu Dương Khắc - là cháu và là đệ tử của "Tây Độc" Âu Dương Phong. Hắn không biết cha ruột của mình chính là Âu Dương Phong và mình là kết quả của mối tình giữa ông ta với người chị dâu. Âu Dương Khắc được biết đến vì đã bắt cóc và hãm hiếp nhiều cô gái trẻ. Hắn say mê Hoàng Dung nên đã đến Đào Hoa Đảo để xin cưới nhưng thất bại. Sau này bị Dương Khang giết vì định giở trò với Mục Niệm Từ.
Cừu Thiên Nhận - là bang chủ Thiết Chưởng Bang, người được coi chỉ đứng sau Thiên hạ ngũ tuyệt trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm lần đầu tiên. Hắn là người rất giỏi khinh công, có thể đi trên nước. Chính vì vậy giới gian hồ còn gọi là Thủy thượng phiêu
Cừu Thiên Trượng - là anh sinh đôi của Cừu Thiên Nhận. Bởi vì rất giống Cừu Thiên Nhận nên hắn hay đi giả danh lừa gạt thiên hạ, hắn chỉ biết một chút võ công bình thường (dễ dàng bị Quách Tĩnh phát hiện khi đấu chiêu). Cuối cùng hắn bị chết khi xâm nhập vào cấm động của Thiết Chưởng Bang sau đó bám vào chân chim điêu của Hoàng Dung và bị hất xuống vực núi.
Trần Huyền Phong - đồ đệ của Hoàng Dược Sư. Hắn yêu sư muội của mình là Mai Siêu Phong và cùng bỏ trốn sau khi ăn cắp quyển hạ của Cửu âm chân kinh. Chính vì không biết các lý thuyết luyện nội công của quyển thượng nên hắn và Mai Siêu Phong phải tự dùng các phương pháp của mình, điều đó khiến cho chúng trở nên độc ác, đen tối. Trong trận đánh với Giang Nam thất quái, Trần Huyền Phong đã bị Quách Tĩnh đâm chết. Trước khi chết, hắn đã bảo Mai Siêu Phong lột da ở bụng của hắn, nơi lưu giữ quyển hạ của bí kíp võ công Cửu âm chân kinh.
Mai Siêu Phong - đồ đệ phản bội của Hoàng Dược Sư trốn đi cùng với Trần Huyền Phong. Trong phần đầu của truyện đã bị Kha Trấn Ác làm cho mù. Giới giang hồ còn gọi Mai Siêu Phong là Thiết Thi, cùng với chồng được gọi là Hắc Phong Song Sát. Sau này trở thành sư phụ của Dương Khang. Mai Siêu Phong có mối thù rất lớn với Quách Tĩnh và Giang Nam thất quái, thị quyết trả thù Quách Tĩnh và Giang Nam thất quái vì đã giết chồng mình. Luôn mong muốn được sư phụ mình là Hoàng Dược Sư tha thứ cho hành động năm xưa của mình. Cuối cùng Mai Siêu Phong đã đỡ một chưởng từ Âu Dương Phong để bảo vệ sư phụ Hoàng Dược Sư.
Võ Lâm Ngũ Bá
Võ Lâm Ngũ Bá là năm người có võ công giỏi nhất trong thời Quách Tĩnh
Vương Trùng Dương - hay còn được gọi là Trung Thần Thông. Ông là người có võ nghệ giỏi nhất trong năm người và đã chiến thắng trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm lần đầu và đoạt được cuốn Cửu Âm chân kinh. Ông chia Cửu âm chân kinh thành hai quyển, quyển đầu tiên là về tu dưỡng nội công, quyển hai là về các kỹ thuật từ nội năng. Ông định tiêu hủy hai quyển đấy nhưng cảm thấy tiếc nên đã bảo Chu Bá Thông giấu đi để gìn giữ cho đời sau. Trước khi thành lập Toàn Chân giáo, ông chiến đấu chống lại quân Nhà Kim, nhưng không thành, bỏ lên núi sáng lập phái Toàn Chân. Trước khi mất, ng biết Âu Dương Phong luôn có dã tâm chiếm lấy Cửu âm chân kinh đã giả chết để dụ Âu Dương Phong mắc bẫy, dùng Nhất Dương Chỉ phế bỏ Hà Mô Công của Âu Dương Phong khi hắn tìm đến cướp chân kinh.
Hoàng Dược Sư - hay còn được gọi là Đông Tà, Hoàng Lão Tà. Ông được biết đến như là một người kì dị, không tuân theo các luật của giới giang hồ. Ông là đảo chủ đảo Đào Hoa. Vũ khí ông hay dùng là cây sáo cùng với chiêu thức Bích Hải Triều Sinh, ông có thể làm cho mọi người bị choáng. Vợ ông đã đánh lừa Chu Bá Thông để có thể đọc được quyển Cửu âm chân kinh. Vợ ông đã nhớ tất cả nội dung và viết lại toàn bộ quyển đầu tiên của Cửu âm chân kinh nhưng sau đó lại bị Mai Siêu Phong đánh cắp đi, vợ ông đành phải viết lại cuốn Cửu âm chân kinh khác trong khi mang thai Hoàng Dung. Bà đã chết khi sinh ra nàng. Cảm thấy tội lỗi với vợ ông quyết học y thuật làm sống lại vợ mình và cấm tuyệt không cho ai được học Cửu âm chân kinh.
Âu Dương Phong - hay còn được gọi là Tây Độc. Hắn bị ám ảnh bởi Cửu âm chân kinh, lúc nào cũng đi tìm cho bằng được. Âu Dương Khắc, cháu hắn, thực ra chính là con của hắn với chị dâu. Cuối truyện, hắn bị tẩu hỏa nhập ma do bị Quách Tĩnh và Hoàng Dung đọc sai đi nội dung của cuốn Cửu âm chân kinh nhưng lại trở thành người có võ công cao nhất thiên hạ tại Hoa Sơn luận kiếm lần thứ 2. Cuối cùng hắn cố giết cái bóng của chính mình và luôn bị hoảng loạn, điên khùng, mất trí.
Đoàn Trí Hưng - hay còn được gọi là Nam Đế. Ông là hoàng đế của Đại Lý, một nước độc lập ở phía Nam nước Tống trước khi trở thành hòa thượng. Nhất Dương chỉ (tuyệt học võ công của vương triều họ Đoàn nước Đại Lý) của ông đều có ứng dụng trong y thuật cũng nhưng trong võ thuật. Ông có bốn đồ đệ là Ngư, Tiều, Canh, Độc (vốn là 4 đại thần trong triều) và ẩn cư trên núi cùng với một hòa thượng Ấn Độ am hiểu trị thuốc độc. Vì cảm thây tội lỗi với đứa con của Chu Bá Thông ông đã thoái vị và xuất gia làm hòa thượng với pháp danh là 'Nhất Đăng'.
Hồng Thất Công - hay còn được gọi là Bắc Cái. Ông là Bang chủ đời thứ 18 của Cái Bang và là một người thích rượu và món ăn ngon. Công phu nổi tiếng của ông là Hàng long thập bát chưởng và Đả cẩu bổng pháp. Ông đã chặt ngón tay trỏ phải vì trong một lần ham ăn đã làm chết đệ tử Cái Bang. Chính vì thế giới giang hồ còn gọi ông là Cửu chỉ thần cái. Hoàng Dung đã lợi dùng tính ham ăn để dụ ông dạy Hàng long thập bát chưởng cho Quách Tĩnh.
Chuyển thể
Hầu hết các tác phẩm của Kim Dung đã được chuyển thể thành phim và các thể loại khác.
Phim truyền hình |
Trong kinh tế học, có các Mô hình tăng trưởng kinh tế sau đây:
Mô hình tăng trưởng Solow, còn gọi là mô hình tăng trưởng tân cổ điển hoặc mô hình tăng trưởng ngoại sinh.
Mô hình tăng trưởng nội sinh
Mô hình Harrod-Domar |
Đức Trọng là một huyện thuộc tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Đức Trọng nằm ở trung tâm tỉnh Lâm Đồng, cách thành phố Đà Lạt 30 km về phía nam, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Đơn Dương và huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận
Phía tây giáp huyện Lâm Hà và huyện Di Linh
Phía nam giáp huyện Bắc Bình và huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận
Phía bắc giáp thành phố Đà Lạt.
Điều kiện tự nhiên
Đức Trọng là huyện nằm ở vùng giữa của Lâm Đồng - tỉnh miền núi phía nam Tây Nguyên, có độ cao từ 600 – 1000 m so với mực nước biển.
Địa hình chủ yếu là bình sơn nguyên, núi cao và dốc hình thành những thung lũng ven sông khi là vùng đất tiếp giáp giữa cao nguyên Lang Biang và cao nguyên Di Linh; tạo nên những nét khác biệt và những cảnh quan kỳ thú cho Đức Trọng với những thác nước nổi tiếng như Liên Khương, Gougah, Pongour rất hấp dẫn đối với du khách. Hồ Nam Sơn được quy hoạch sẽ là điểm du lịch và hoạt động văn hoá - thể thao.
Trung tâm huyện cách thành phố Đà Lạt 26 km về hướng nam. Nằm ở vị trí đầu mối giao thông đi Đà Lạt, Tp Hồ Chí Minh, Buôn Ma Thuột, Phan Rang, nên Đức Trọng có điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu với bên ngoài, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hướng ngoại với cả ba thế mạnh: "Nông, lâm nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ". Đẩy mạnh phát triển kinh tế mà đặc biệt là phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đức Trọng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng của Lâm Đồng.
Địa hình
Huyện thuộc cao nguyên Di Linh và nằm ở cuối phần cao nguyên Di Linh.
Huyện Đức Trọng có 3 dạng địa hình chính: Núi dốc, đồi thấp và thung lũng ven sông.
Dạng địa hình núi dốc: Diện tích chiếm 54% tổng diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía bắc và phía đông, đông nam của huyện. Khu vực phía bắc (các xã Hiệp An, Liên Hiệp, Hiệp Thạnh) độ cao phổ biến so với mực nước biển từ 1.200-1.400m, cao nhất 1.754 m (Núi Voi), khu vực phía đông từ 1.100–1300 m, cao nhất 1.828m (Núi Yan Doane), khu vực phía đông nam (các xã vùng Loan) từ 950 - 1.050 m, cao nhất 1.341 m. Độ dốc phổ biến trên 200. Địa hình bị chia cắt, riêng khu vực phía đông nam khá hiểm trở, không thích hợp với phát triển nông nghiệp.
Dạng địa hình đồi thấp: Diện tích chiếm khoảng 30,8% tổng diện tích toàn huyện, phân bố tập trung ở khu vực phía tây và tây nam của huyện. Độ cao phổ biến so với mực nước biển ở khu vực phía bắc sông Đa Nhim từ 850 - 900m, độ dốc phổ biến từ 3-80, hầu hết diện tích trong dạng địa hình này là các thành tạo từ bazan, rất thích hợp với phát triển cây lâu năm. Độ cao phổ biến khu vực phía nam sông Đa Nhim (Ninh Gia) từ 900-1.000 m, độ dốc phổ biến từ 8-150, có thể phát triển nông nghiệp nhưng cần đặc biệt chú trọng các biện pháp bảo vệ đất.
Dạng địa hình thung lũng: Diện tích chiếm 14,2% tổng diện tích toàn huyện, phân bố ven các sông, suối lớn. Độ cao phổ biến so với mực nước biển từ 850 – 900 m, độ dốc phổ biến từ dưới 80, hầu hết diện tích trong dạng địa hình này là các loại đất phù sa và dốc tụ, nguồn nước mặt khá dồi dào nhưng trên 30% diện tích thường bị ngập úng trong các tháng mưa lớn, khá thích hợp với phát triển lúa nước và các loại rau - màu ngắn ngày.
Khí hậu
Huyện Đức Trọng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở độ cao trên 900m nên khí hậu có những nét độc đáo, với những đặc trưng cơ bản như sau:
Nhiệt độ trung bình thấp, ôn hòa, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm lớn, nắng nhiều, ẩm độ không khí thấp thích hợp với tập đoàn cây á nhiệt đới và nhiều loại cây trồng vùng ôn đới, tiềm năng năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt.
Mưa khá điều hòa giữa các tháng trong mùa mưa, riêng tháng 8 lượng mưa giảm và có các đợt hạn ngắn nên khá thuận lợi cho thu hoạch vụ hè thu. Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, tuy có dài hơn so với khu vực Bảo Lộc nhưng mức độ mất cân đối về độ ẩm ít gay gắt hơn và lượng nước tưới thấp hơn so với Đơn Dương, Buôn Ma Thuột và các tỉnh Miền Đông.
Tài nguyên nước
Nước mặt: Nguồn nước mặt chủ yếu của huyện là hệ thống sông Đa Nhim, ngoài ra còn có thể tận dụng nguồn nước của hệ thống sông Đa Dâng cho khu vực phía tây nam của huyện.
Hệ thống sông Đa Nhim bao gồm sông chính là sông Đa Nhim và hai nhánh Đa Tam, Đa Queyon. Mật độ sông suối khá dày(0,52-1,1 km/km²), lưu lượng dòng chảy khá (trung bình dao động từ 23-28 lít/s/km²), có sự phân hóa theo mùa, mùa mưa chiếm tới 80% tổng lượng nước năm, mùa khô chỉ còn 20%. Lưu lượng dòng chảy mùa kiệt rất thấp (từ 0,25-9,1 lít/s/km²), kiệt nhất vào tháng 3. Để sử dụng nguồn nước mặt cho sản xuất cần phải tập trung xây dựng các hồ chứa. Nếu chỉ giữ được 30% lượng nước trong mùa mưa thì có thể đủ nước tưới cho toàn bộ diện tích đất nông nghiệp hiện có của Đức Trọng.
Địa hình ở đây cho phép xây dựng nhiều hồ chứa, nhưng việc sử dụng nước hồ cho tưới tự chảy lại bị hạn chế bởi mức độ chia cắt của địa hình. Vì vậy, phải kết hợp hài hòa nhiều biện pháp công trình như hồ chứa, đập dâng, trạm bơm, đào giếng mới có thể mở rộng diện tích tưới, đặc biệt là tưới cho cà phê, rau, lúa nước.
Tài nguyên nước ngầm: Nước ngầm trong phạm vi huyện Đức Trọng khá đa dạng, được chứa trong tất cả các loại đất, đá với trữ lượng và độ tinh khiết khác nhau, được chia thành 3 địa tầng chứa nước như sau:
+ Tầng chứa nước lỗ hổng: Bề dày không quá 10m, nằm ở ven sông suối, lưu lượng từ 0,1-0,14 lít/s, thành phần hóa học thuộc kiểu Bicarbonnát Chloride, độ khoáng hóa từ 0,07-0,33 g/lít.
+ Tầng chứa nước lỗ hổng khe nứt: Nước ngầm ở tầng này trên đất bazan của Đức Trọng tương đối khá với bề dày chứa nước từ 10-100m, lưu lượng trung bình từ 0,1-1,0 lít/s, chủ yếu là nước không áp, thuộc loại nước nhạt (mức độ khoáng hóa từ 0,01-0,1 g/lít), có thể sử dụng tốt cho sinh hoạt, riêng về khả năng khai thác cho sản xuất được đánh giá ở mức độ trung bình. Hiện đã được khai thác để tưới cho cà phê, rau với mức độ khá phổ biến.
+ Tầng chứa nước khe nứt: Tầng chứa nước khe nứt được phân ra nhiều loại, nhưng nhìn chung lưu lượng thuộc loại nghèo, khả năng khai thác cho sản xuất hạn chế.
Tài nguyên đất
Phân loại đất
Nhóm đất phù sa: Diện tích nhóm đất phù sa: 4.549 ha, chiếm 5,04% DTTN toàn huyện. Đất phù sa hình thành trên mẫu chất bồi đắp của các sông Đa Nhim, Đa Dâng, Đạ Tam, Đạ Lé, Đạ Queyon
Nhóm đất xám bạc màu: Diện tích 2.222 ha, chiếm 2,46% DTTN huyện.
Nhóm đất đen: Nhóm đất này có diện tích 2.607 ha chiếm 2,88% DTTN huyện
Nhóm đất đỏ vàng: Diện tích 52.040 ha chiếm 57,68% DTTN phân bố ở xã Ninh Loan và xã N’Thol Hạ, Ninh Gia, Tân Thành, Đà Loan.
Nhóm đất thung lũng do dốc tụ: Đất thung lũng do dốc tụ, có diện tích 1.236 ha, chiếm 1,38% DTTN huyện, phân bố ở hầu hết các xã. Đất được hình thành và phát triển do quá trình tích đọng các sản phẩm cuốn trôi từ các vùng đồi núi xung quanh xuống. Do đó đất dốc tụ thường phân bố dưới các thung lũng hẹp và bằng phẳng ven chân đồi núi, hạn chế lớn nhất là bị ngập nước trong mùa mưa. Đất thích hợp cho trồng lúa nước, màu, dâu tằm.
Nhóm đất mùn đỏ vàng: Diện tích 19.889 ha chiếm 22,06% DTTN, phân bố ở các xã vùng Loan, các xã phía Bắc. Đất được hình thành từ các loại đá mẹ như andezit, granite và cát sét kết, phân bố từ cao độ tuyệt đối 1.000 m trở lên và hiện trạng là rừng thứ sinh khá tốt. Ở bản đồ đất tỷ lệ 1/25.000, loại đất này được chia thành 4 đơn vị chú dẫn bản đồ: Đất mùn nâu vàng trên đá andezit (Hn); Đất mùn vàng đỏ trên đá granít (Ha), Đất mùn đỏ vàng trên đá sét (Hs), Đất mùn vàng nhạt trên đá cát(Hq). Hầu hết có độ dốc trên 250, hiện tại là rừng thứ sinh, vì vậy cần duy trì và bảo vệ rừng.
Tài nguyên khoáng sản
Trong phạm vi của huyện có mỏ vàng ở xã Tà Năng với trữ lượng lớn, hiện đang được nhà nước tổ chức khai thác, sản lượng bình quân 40–50 kg/năm.
Mỏ điatônít (làm vật liệu nhẹ và bột khoan) phân bố từ chân đèo Pren đến nhà máy cơ khí tỉnh, trữ lượng 25 triệu tấn.
Ngoài ra còn có mỏ nước khoáng ở Phú Hội, lưu lượng 0,45 lít/s, chất lượng tốt có thể khai thác để chế biến nước khoáng và kết hợp với du lịch.
Tài nguyên rừng
Đất lâm nghiệp toàn huyện 45,049ha chiếm 50% diện tích tự nhiên, trong đó đất rừng sản xuất chiếm 24,4% diện tích, rừng phòng hộ chiếm đến 75,6% diện tích. Diện tích đất rừng tuy nhiều nhưng mức độ đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương còn hạn chế do hầu hết là rừng đặc dụng. UBND tỉnh Lâm Đồng đang chỉ đạo các Ban ngành liên quan điều chỉnh ba loại rừng trong phạm vi toàn Tỉnh (trong đó huyện Đức Trọng), nhằm sử dụng tài nguyên rừng một cách hiệu quả. Tổng trữ lượng rừng: 5,1 triệu m3 gỗ, 2,5 triệu cây lồ ô và tre nứa. Rừng ở Đức Trọng có tiềm năng khai thác lớn, thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến hàng mộc dân dụng, chế biến gỗ, chế biến bột giấy,...
Trong những năm qua, huyện đã thực hiện có hiệu quả các giải pháp về lâm sinh như khai thác, khoanh nuôi, trồng mới và bảo vệ rừng, tăng diện tích và độ che phủ rừng từ 47% năm 2000 lên 50% năm 2005 và trên 55% vào năm 2009.
Tài nguyên nhân văn và cảnh quan môi trường
Với 27 dân tộc chung sống trên địa bàn, Đức Trọng trở thành nơi hội tụ củ nhiều nền văn hoá khác nhau tạo nên nét đặc trưng trong đa dạng, mang lại những bản sắc rất riêng so với những vùng đất khác.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho nơi này nhiều cảnh quan ngoạn mục, kỳ thú, trong đó có nhiều ngọn thác nổi tiếng có tiềm năng phát triển du lịch như: thác Pongour, thác Gouga, thác Liên Khương, cùng các công trình: hồ sinh thái Nam Sơn, công trình thủy điện Đại Ninh... đã, đang và sẽ trở thành những điểm du lịch thu hút du khách trong và ngoài nước đến với Đức Trọng.
Hành chính
Huyện Đức Trọng có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Liên Nghĩa và 14 xã: Bình Thạnh, Đà Loan, Đa Quyn, Hiệp An, Hiệp Thạnh, Liên Hiệp, Ninh Gia, Ninh Loan, N'Thol Hạ, Phú Hội, Tà Hine, Tà Năng, Tân Hội, Tân Thành.
Lịch sử
Sau năm 1975, huyện Đức Trọng thuộc tỉnh Lâm Đồng, bao gồm 16 xã: Bình Thạnh, Đạ Đờn, Đạ Long, Đạ M'rông, Đạ Tông, Đinh Văn, Hiệp Thạnh, Lát, Liên Hiệp, N'Thol Hạ, Phi Tô, Phú Hội, Phú Sơn, Tân Hội, Tân Văn và Tùng Nghĩa.
Ngày 10 tháng 3 năm 1977, sáp nhập xã Lát vào thành phố Đà Lạt.
Ngày 14 tháng 3 năm 1979, chuyển 3 xã: Đạ Long, Đạ M'rông và Đạ Tông về huyện Lạc Dương mới thành lập.
Ngày 19 tháng 9 năm 1981, thành lập thị trấn Nông trường Nam Ban tại khu kinh tế mới của Hà Nội tại Lâm Đồng.
Ngày 6 tháng 3 năm 1984, chuyển xã Tùng Nghĩa thành thị trấn Liên Nghĩa (thị trấn huyện lỵ của huyện Đức Trọng).
Cuối năm 1986, huyện Đức Trọng bao gồm 2 thị trấn: Liên Nghĩa, Nam Ban và 11 xã: Bình Thạnh, Đạ Đờn, Đinh Văn, Hiệp Thạnh, Liên Hiệp, N'Thol Hạ, Phi Tô, Phú Hội, Phú Sơn, Tân Hội, Tân Văn.
Ngày 24 tháng 10 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 157-HĐBT. Theo đó:
Chuyển xã Ninh Gia thuộc huyện Di Linh và 4 xã: Đà Loan, Ninh Loan, Tà Hine, Tà Năng thuộc huyện Đơn Dương về huyện Đức Trọng quản lý
Thành lập 10 xã: Rô Men, Liêng Srônh, Phi Liêng, Phúc Thọ, Tân Thanh, Hoài Đức, Đan Phượng, Tân Hà, Gia Lâm và Đông Thanh
Chia thị trấn Nông trường Nam Ban thành 2 đơn vị hành chính: thị trấn Nam Ban và xã Mê Linh
Chuyển xã Đinh Văn thành thị trấn Đinh Văn
Tách 2 thị trấn: Đinh Văn, Nam Ban và 15 xã: Đạ Đờn, Đan Phượng, Đông Thanh, Gia Lâm, Hoài Đức, Liêng Srônh, Mê Linh, Phi Liêng, Phi Tô, Phú Sơn, Phúc Thọ, Rô Men, Tân Hà, Tân Thanh, Tân Văn thuộc huyện Đức Trọng để thành lập huyện Lâm Hà.
Sau khi điều chỉnh, huyện Đức Trọng bao gồm thị trấn Liên Nghĩa và 11 xã: Bình Thạnh, Đà Loan, Hiệp Thạnh, Phú Hội, Liên Hiệp, Ninh Gia, Ninh Loan, N’Thôn Hạ, Tà Hine, Tà Năng, Tân Hội.
Ngày 18 tháng 6 năm 1999, thành lập xã Hiệp An trên cơ sở 5.400 ha diện tích tự nhiên và 6.100 nhân khẩu của xã Hiệp Thạnh.
Ngày 30 tháng 10 năm 2000, thành lập xã Tân Thành trên cơ sở 2.270 ha diện tích tự nhiên và 5.326 nhân khẩu của xã Tân Hội.
Ngày 6 tháng 3 năm 2009, thành lập xã Đa Quyn trên cơ sở điều chỉnh 17.152,98 ha diện tích tự nhiên và 3.212 nhân khẩu của xã Tà Năng.
Ngày 30 tháng 6 năm 2009, thị trấn Liên Nghĩa được công nhận là đô thị loại IV.
Huyện Đức Trọng có 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay.
Kinh tế - xã hội
Huyện có diện tích tự nhiên 90.180 ha, chiếm 9,23% diện tích tự nhiên toàn tỉnh Lâm Đồng. Tổng dân số 178.100 người (2017), chiếm 14% dân số toàn tỉnh, dân số đứng thứ nhì sau TP. Đà Lạt. Mật độ dân số bình quân 182 người/km², xếp vào hàng thứ 3 so với 12 đơn vị hành chánh cấp huyện của tỉnh Lâm Đồng.
Huyện Đức Trọng có diện tích tự nhiên 901,79 km² và dân số năm 2019 là 186.974 người.
Huyện Đức Trọng có diện tích 903,13 km², dân số năm 2022 là 192.180 người, mật độ dân số đạt 213 người/km².
Giao thông
Huyện nằm ở vị trí đầu mối giao thông đường bộ giữa Quốc lộ 20 (Đà Lạt – Thành phố Hồ Chí Minh) và Quốc lộ 27 (Đà Lạt – Buôn Ma Thuột). Quốc lộ 20 và Quốc lộ 27 đi Ninh Thuận – Nha Trang và đường nối Quốc lộ 20 với Quốc lộ 28 ở đoạn Ninh Gia – Bắc Bình (Bình Thuận). Ngoài ra còn có đường cao tốc Dầu Giây – Đà Lạt (phân đoạn Liên Khương – Prenn) đi qua. |
Petr Čech (; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1982) là cựu cầu thủ bóng đá người Cộng hòa Séc từng thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Chelsea và Arsenal. Anh từng thi đấu cho các câu lạc bộ Viktoria Plzeň, Chmel Blšany, AC Sparta Praha, và Rennes trước khi gia nhập Chelsea vào tháng 7 năm 2004. Anh được đưa vào đội hình tiêu biểu của Euro 2004 sau khi đưa Cộng hòa Séc vào bán kết Euro 2004. Čech còn được bầu chọn là thủ môn xuất sắc nhất thế giới vào năm 2005. Anh từng là thành viên của đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc, khoác áo đội tuyển quốc gia từ năm 2002 đến năm 2016. Ngày 30 tháng 5 năm 2019, Petr Čech giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 20 năm thi đấu chuyên nghiệp. Anh hiện là giám đốc thể thao cho Chelsea. HIện anh đang là thủ môn khúc côn cầu trên băng bán chuyên nghiệp.
Sự nghiệp thi đấu câu lạc bộ
Sparta Praha và Rennes
Čech bắt đầu thi đấu bóng đá ở vị trí tiền đạo cho đội trẻ của câu lạc bộ quê nhà FC Viktoria Plzeň tại Plzen. Tuy nhiên vào năm anh 10 tuổi, 1 chấn thương nặng làm anh gãy chân khiến anh phải chuyển xuống chơi ở vị trí thủ môn, từ đó anh nhanh chóng thích và gắn bó với vị trí này.
Năm 17 tuổi (1999), Čech chuyển sang thi đấu cho câu lạc bộ FK Chmel Blšany và anh gắn bó với câu lạc bộ này đến năm 2001.
Mùa giải 2001—2002, thủ môn trẻ tài năng này chuyển sang thi đấu cho câu lạc bộ hàng đầu ở Cộng hòa Séc AC Sparta Praha với phí chuyển nhượng 700 000 €. Tại đây anh đã lập kỷ lục giữ sạch lưới trong 855 phút thi đấu và tại UEFA Champions League năm đó, anh đã khiến các chân sút FC Bayern München phải nản lòng và chỉ thủng lưới bàn đầu tiên lại lượt đấu thứ 5.
Tài năng của Čech nhanh chóng được các nhà tuyển trạch viên của các câu lạc bộ lớn khác tại châu Âu dòm ngó. Sau đúng 1 mùa giải thi đấu cho Sparta Praha, Čech gia nhập câu lạc bộ Pháp Stade Rennais FC vào tháng 7 2002 với phí chuyển nhượng là 5 triệu €. Phong độ của thủ môn này đưa Rennes vào đến tận bán kết Cúp bóng đá Pháp năm 2003 và cán đích ở vị trí thứ 9 tại Ligue 1 ở mùa giải 2003/2004.
Chelsea
Giai đoạn đầu tại Chelsea
Huấn luyện viên Claudio Ranieri là người đã đưa Čech về Chelsea FC với ý định thay thế Carlo Cudicini. Rennes cuối cùng đã đồng ý để Čech gia nhập Chelsea vào tháng 2 năm 2004 với phí chuyển nhượng là 7 triệu £ (10.3 triệu €) tức là hơn gấp đôi số tiền Rennes bỏ ra để có được anh. Čech ký với Chelsea một bản hợp đồng có thời hạn 5 năm và anh sẽ chính thức thi đấu cho Chelsea vào tháng 7 2004, sau khi Euro 2004 kết thúc.
Khi Čech chính thức thi đấu cho Chelsea cũng là lúc huấn luyện viên Jose Mourinho chính thức dẫn dắt câu lạc bộ này sau khi cùng Porto giành chức vô địch UEFA Champions League 2003-04. Huấn luyện viên người Bồ Đào Nha này nhanh chóng giao vị trí thủ môn chính thức cho Cech và trận đấu đầu tiên của anh cho Chelsea là trận gặp Manchester United vào ngày 15 tháng 8 2004 tại Premier League. Cech đã giữ sạch lưới thành công trong trận đấu đó và chung cuộc Chelsea thắng 1-0.
Ngay mùa giải đầu tiên thi đấu cho Chelsea, Čech đã lập kỷ lục giữ sạch mành lưới trong 1025 phút thi đấu tại Premier League và kỉ lục này chỉ bị phá bởi thủ môn người Hà Lan Edwin van der Sar của Manchester United vào ngày 27 tháng 1 năm 2009. Anh được nhận một phần thưởng đặc biệt của FA vì thành tích trên và nhận luôn danh hiệu Găng tay vàng ở cuối mùa giải vì đã có 25 trận không thủng lưới và cả mùa giải anh chỉ để lọt lưới 15 bàn. Tuy nhiên thành công lớn nhất của Čech và các đồng đội tại Chelsea năm đó là chức vô địch Premier League sau 50 năm của Chelsea. Còn tại UEFA Champions League, Čech đã thi đấu vô cùng xuất sắc trong trận đấu ở vòng 1/16 gặp Barcelona và vòng tứ kết gặp Bayern Munich, góp phần đưa Chelsea vào bán kết gặp Liverpool nhưng Chelsea cuối cùng đã thất bại. Thành tích trên giúp anh có mặt trong 50 cầu thủ bóng đá được đề cử cho danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu.
Ngày 1 tháng 2 2006, Čech gia hạn hợp đồng với Chelsea đến 2010.. Mùa giải Premier League 2005/2006, Čech tiếp tục cùng Chelsea giành danh hiệu vô địch Premier League lần thứ 2 liên tiếp và mùa giải này anh để thủng lưới 22 bàn sau 38 trận đấu.
Chấn thương đầu nghiêm trọng
Ngày 14 tháng 10 năm 2006, trong trận gặp Reading tại sân Madejski, ngay phút thứ 1 Čech và tiền vệ Stephen Hunt của Reading đã có 1 pha va chạm rất mạnh khiến anh phải rời sân ngay lập tức được đưa đến một bệnh viện địa phương là Royal Berkshire. Nhưng sau đó, do tính nghiêm trọng của chấn thương ở đầu, Cech được chuyển đến khoa chấn thương sọ não của bệnh viện Oxford’s Radcliffe lớn hơn và phải trải qua cuộc phẫu thuật ở đây. Ca mổ được thực hiện thành công nhưng thời gian để có thể trở lại thi đấu của Čech là vô định. Cũng trong trận đấu trên, thủ môn dự bị cho Čech là Carlo Cudicini cũng chấn thương trong lúc va chạm khiến Chelsea phải sử dụng thủ môn số 3 Henrique Hilário cho trận đấu gặp Barcelona tại UEFA Champions League.
Huấn luyện viên José Mourinho đã giận dữ nói "Anh ấy còn sống là 1 điều may mắn". và ban lãnh đạo Chelsea FC đã có những động thái nhằm gây sức ép lên FA yêu cầu có những hình thức kỷ luật nặng với Stephen Hunt vì pha va chạm trên.
Čech trở về nhà từ bệnh viện vào ngày 24 tháng 10 2006 và Chelsea tuyên bố anh chỉ có thể thi đấu trở lại sau 3 tháng. Về phần Čech, thủ môn này nói rằng anh không hề nhớ gì về pha va chạm và cảm ơn mọi người đã ủng hộ anh vượt qua khó khăn..
Sự trở lại của Čech
Čech có trận đấu trở lại sau chấn thương trong trận gặp Liverpool vào ngày 20 tháng 1 2007 với 1 chiếc mũ bảo hộ đặc biệt dành cho môn bóng bầu dục ở trên đầu. Chiếc nón này được làm theo đơn đặt hàng đặc biệt từ công ty Canterbury của New Zealand. Việc anh đội chiếc mũ này cũng gây ra va chạm giữa anh và nhà tài trợ của Chelsea Adidas vì họ không muốn thấy 1 cầu thủ Chelsea mang nhãn hiệu của 1 hãng thể thao khác nhưng cuối cùng mâu thuẫn đã được hòa giải. Kể từ đó cho đến khi giải nghệ, người ta vẫn thường thấy Čech đội chiếc mũ này khi ra sân thi đấu, mặc dù anh đã qua khỏi chấn thương từ rất lâu trước đó.
Tuy Chelsea thua Liverpool 2-0 trong trận đấu đó nhưng một thời gian ngắn sau, Čech lại có 810 phút không để thủng lưới tại Premier League. Ngày 11 tháng 4 2007, Čech được nhận danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất trong tháng của FA Premier League. Thành tích này kết thúc khi Carlos Tévez ghi bàn trong trận Chelsea thắng West Ham United 4-1 vào ngày 18 tháng 4 2007.
Mùa giải 2006/2007 khép lại với chiến thắng 1-0 của Chelsea FC trước Manchester United tại chung kết cúp FA. Đây cũng là danh hiệu FA Cup đầu tiên Čech có được kể từ khi gia nhập Chelsea. Còn tại Giải bóng đá ngoại hạng Anh 2006-07, Chelsea chỉ xếp thứ 2 sau MU và thất bại trước Liverpool tại bán kết UEFA Champions League 2006-07.
Mùa giải 2007–08
Trong buổi lễ bốc thăm chia bảng vòng đấu bảng UEFA Champions League 2007-08, Čech nhận danh hiệu Thủ môn xuất sắc nhất UEFA Champion League 2006/2007. Ngày 7 tháng 11 2007, Čech đã phải rời sân nhường vị trí cho Carlo Cudicini ngay sau giờ nghỉ giải lao trong trận đấu giữa Chelsea FC và Schalke 04 tại UEFA Champions League 2007-08 trên sân Veltins-Arena. Kết quả buổi chụp cắp lớp đã xác nhận bắp chân phải của anh đã bị rách.. Khi anh vào sân trở lại đã mắc phải sai lầm trong lúc lao ra tranh cướp bóng dẫn đến bàn thua duy nhất trong trận Arsenal thắng Chelsea 1-0 vào ngày 17 tháng 12. Ngay sau đó anh đã gửi lời xin lỗi đến các cổ động viên Chelsea vì sai lầm trên của anh đã khiến Arsenal bỏ xa Chelsea đến 6 điểm trong bảng xếp hạng Premier League..
Tại trận chung kết League Cup gặp Tottenham Hotspur, Čech đã có pha đấm bóng giải nguy trúng đầu trung vệ Jonathan Woodgate đi luôn vào lưới đem về chức vô địch cho Tottenham Hotspur. Vận rủi tiếp tục đeo bám anh khi 1 chấn thương trong lúc tập luyện không cho phép anh dự trận đấu với Arsenal tại Premier League 2007-08 và 2 trận tứ kết UEFA Champions League 2007-08 gặp Fenerbahce.
Ngày 7 tháng 4, anh tiếp tục gặp chấn thương nặng ở vùng mặt, sau tình huống va chạm với đồng đội Tal Ben Haim. Ngay khi xảy ra sự việc, nhiều cầu thủ Chelsea lo lắng về tình trạng của Cech bởi anh từng phải tham gia phẫu thuật sọ não. Petr Cech lập tức được chuyển vào bệnh viện Saint John-Saint Elizabeth gần đó để tiến hành khâu những vết rách ở mặt. Các bác sĩ cho biết, họ đã khâu 30 mũi ở dưới cằm và 20 mũi khác trên mặt,. Tuy nhiên 1 tuần sau đó anh đã trở lại trong trận gặp Wigan vào ngày 14 tháng 4 và trận đấu kết thúc với tỉ số 1-1.
Trận đấu quan trọng nhất trong mùa giải của Chelsea và Čech là trận chung kết UEFA Champion League 2007/2008 gặp Manchester United vào ngày 21 tháng 5. Trong hiệp 1 trận đấu, tuy để Cristiano Ronaldo ghi bàn mở tỉ số nhưng Čech đã thi đấu xuất sắc, đặc biệt là tình huống cản phá cú sút của Michael Carrick. Trong loạt sút luân lưu khi trận đấu có tỉ số 1-1 sau 120 phút thi đấu, Čech đã đỡ được cú sút của Ronaldo nhưng sau đó 2 cú sút hỏng ăn của John Terry và Nicolas Anelka sau đó đã đem về danh hiệu vô địch UEFA Champions League 2007-08 về cho Manchester United.
Mùa giải 2008–09
Čech ký hợp đồng mới có thời hạn 5 năm vào tháng 7 năm 2008 để giữ anh ở lại Chelsea cho đến năm 2013. Chelsea bắt đầu mùa giải 2008–09 với phong độ tốt, chỉ để thủng lưới 7 bàn sau 17 trận và giữ sạch lưới 11 trận, 10 trong số đó có Čech in khung thành. [ cần dẫn nguồn ]
Vào tháng 11 năm 2008, Chelsea đánh bại Sunderland với tỷ số 5–0 trên sân nhà Stamford Bridge , trận đấu đánh dấu trận thứ 100 Čech chơi cho Chelsea mà không để thủng lưới bàn nào. Chelsea đã có chiến thắng 1–0 trước Juventus tại Champions League trong lần ra sân thứ 200 cho câu lạc bộ, và anh cũng góp mặt trong chiến thắng 1–0 trên sân khách tại Villa Park trước Aston Villa , nhờ công của Gabriel Agbonlahor và Gareth Barry . Tuần sau, Čech đã giúp Chelsea tiến lên vị trí thứ hai trong giải đấu bằng cách cứu thua từ Paul Scharnertrong hiệp một trước Wigan Athletic tại Stamford Bridge, nơi Chelsea giành chiến thắng 2-1. Ech giữ sạch lưới liên tiếp trong các chiến thắng của Chelsea trước Portsmouth và Coventry City giúp đội bóng của anh ấy củng cố vị trí của họ ở Premier League trong khi tiến vào bán kết FA Cup . Čech cũng đã thực hiện các pha cứu thua từ Dirk Kuyt và Xabi Alonso khi Chelsea đánh bại Liverpool 3–1 tại Anfield trong trận lượt đi tứ kết Champions League. [ cần dẫn nguồn ]
Trong trận đấu quan trọng tại Premier League vào tháng 4 năm 2009, khi Chelsea dẫn trước Bolton Wanderers 4-0 , huấn luyện viên của Chelsea, Guus Hiddink đã loại cả Didier Drogba và Frank Lampard chỉ để Bolton ghi ba bàn thắng muộn. Čech. Tuy nhiên, Čech đã đáp trả khi cản phá một quả phạt đền từ Mark Noble trong chiến thắng 1–0 của Chelsea tại Boleyn Ground trước West Ham. Anh cũng giữ sạch lưới trong trận đấu tiếp theo với Barcelona trong trận bán kết lượt đi Champions League. Sau chiến thắng 3–2 trước Sunderland tại Sân vận động Ánh sáng, Čech và Chelsea đã kết thúc mùa giải với hàng thủ chặt chẽ nhất ở Premier League cùng với Manchester United, chỉ để thủng lưới 24 bàn trong cả mùa giải. Mặc dù để thủng lưới bàn thắng nhanh nhất trong lịch sử các trận chung kết FA Cup , Čech đã giúp Chelsea giành chiến thắng trong trận Chung kết FA Cup 2009 trước Everton . Chelsea giành chiến thắng 2-1, mang về cho Séc chiếc cúp thứ bảy tại câu lạc bộ.
Cựu huấn luyện viên của Chelsea, Luiz Felipe Scolari đã cáo buộc Čech, Michael Ballack và Drogba là nguyên nhân gây ra việc sa thải ông, nói rằng họ "không chấp nhận phương pháp huấn luyện hoặc yêu cầu của tôi". Scolari cũng nói rằng nó xuất phát từ một cuộc tranh cãi giữa anh và thủ môn người CH Séc về việc người này bị cáo buộc đòi được trao cho một huấn luyện viên cá nhân. Čech phủ nhận những cáo buộc nói rằng anh ấy "thất vọng với [Scolari] vì chưa bao giờ trong đời tôi có một huấn luyện viên thủ môn riêng".
Mùa giải 2011–12: Chức vô địch UEFA Champions League trong mùa giải đầy bão tố
Čech bắt đầu trận mở màn Premier League mùa giải 2011–12 của Chelsea trên sân khách trước Stoke City, kết thúc với tỷ số 0–0. Vào ngày 18 tháng 8 năm 2011, Čech đã phải nghỉ thi đấu tới 4 tuần sau khi anh ấy dính chấn thương đầu gối trong quá trình luyện tập. Anh ấy trở lại ba tuần sau gặp Sunderland, trong đó Chelsea thắng 2-1. Anh ấy đã giữ sạch lưới trong trận đấu đầu tiên của mùa giải Champions League của Chelsea trong chiến thắng 2–0 trước Bayer Leverkusen. Vào ngày 27 tháng 2, Čech được công bố là Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2011 của CH Séc, lần thứ năm giành được giải thưởng này. Vào ngày 24 tháng 3, Čech chơi trận thứ 250 tại giải đấu cho Chelsea trước Tottenham Hotspur trong trận hòa 0–0 tại Stamford Bridge. Čech đã cản phá một quả phạt đền trong hiệp phụ trước đồng đội cũ Arjen Robben, và hai quả phạt đền trong loạt sút luân lưu sau đó, trong trận chung kết Champions League 2012 với Bayern Munich , dẫn đến chiến thắng Champions League đầu tiên cho Chelsea. Čech được mệnh danh là Người hâm mộ của trận đấu sau màn trình diễn anh hùng của anh ấy trong bàn thắng cho The Blues. Với chức vô địch Champions League, Čech trở thành người Séc thứ tư vô địch giải đấu này. Anh kết thúc mùa giải bằng việc ký hợp đồng mới 4 năm với Chelsea vào tháng 5, giữ anh ở lại câu lạc bộ cho đến cuối mùa giải 2015–16.
Arsenal
2015–16: Găng tay vàng thứ 4, á quân Ngoại hạng Anh
Ngày 29 tháng 6 năm 2015, Petr Čech chính thức chuyển đến Arsenal thi đấu theo một bản hợp đồng trị giá khoảng 11 triệu £ cùng mức lương 100.000 £ một tuần. Tại Arsenal Čech sẽ khoác lên mình chiếc áo số 33. Sự ra đi của Wojciech Szczęsny tới Roma dưới dạng cho mượn khiến Čech được ưu tiên lựa chọn trước David Ospina. Bản thân anh đã bị dọa giết sau khi gia nhập đội. Vào ngày 2 tháng 8, Čech đã giành được danh hiệu đầu tiên với Arsenal sau khi đánh bại đội bóng cũ Chelsea 1–0 tại FA Community Shield 2015. Một tuần sau, anh có trận ra mắt tại Ngoại hạng Anh cho Arsenal trong trận thua 2–0 trên sân nhà trước West Ham. Vào ngày 20 tháng 10, anh có trận đấu đầu tiên tại Champions League cho Arsenal trong chiến thắng 2–0 trước Bayern Munich.
Čech có trận giữ sạch lưới thứ 170 trong chiến thắng 2–0 trước AFC Bournemouth vào ngày 28 tháng 12 năm 2015, trở thành thủ môn giữ sạch lưới nhiều nhất trong lịch sử Premier League. Cụ thể, Čech có 170 trận không cho đối phương ghi bàn, nhiều hơn kỷ lục cũ của David James 1 trận. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2016, anh phải ngồi ngoài vì chấn thương bắp chân trong trận đấu với Swansea. Vào ngày 2 tháng 4, anh dự bị trong trận gặp Watford và trở lại sân vào ngày 17 tháng 4 trước Crystal Palace trong trận hòa 1-1 và dẫn dắt Arsenal giành chiến thắng thứ 500 tại Ngoại hạng Anh vào ngày 21 tháng 4 trước West Brom. Khi kết thúc mùa giải đầu tiên với Arsenal, anh được bầu chọn là Thủ môn của mùa giải vì đã giành được Găng tay vàng với một hàng phòng ngự kém hiệu quả.
2016–17: Vô địch FA Cup
Čech đã được trao băng đội trưởng cho Arsenal trong trận thua 4–3 trên sân nhà trước Liverpool. Vào tháng 9 năm 2016, anh ra sân trọn vẹn trong chiến thắng 3–0 trước đội bóng cũ Chelsea tại Emirates. Trong mùa giải này, Cech đã nhận được những lời chỉ trích từ các cổ động viên Arsenal vì không thể chơi bóng bằng chân nhưng trong khi đó anh ấy lại có số lần cản phá nhiều thứ ba trong số tất cả các thủ môn ở Premier League, anh ấy đã biến anh ấy thành một "thủ môn quét". Čech một lần nữa được giữ băng đội trưởng vào ngày 10 tháng 5 năm 2017 trong chiến thắng 2–0 trước Southampton tại Sân vận động St Mary. Čech phải ngồi ngoài cho trận Chung kết FA Cup do chấn thương, nhưng Arsenal đã đánh bại Chelsea 2-1. Čech đã giành được FA Cup lần thứ 5, và Arsenal trở thành câu lạc bộ thành công nhất trong lịch sử giải đấu với 13 lần vô địch.
2017–19: Phá kỷ lục và giải nghệ
Čech bắt chính trong trận siêu cup Anh 2017 với đội bóng cũ Chelsea; sau khi hòa 1-1 sau thời gian chính, Arsenal thắng 4–1 trong loạt sút luân lưu. Čech sau đó đã giữ chiếc băng đội trưởng Arsenal trong chiến thắng 4–3 ngày khai mạc trên sân nhà trước Leicester City.
Vào ngày 11 tháng 3 năm 2018, Čech trở thành thủ môn đầu tiên có 200 trận giữ sạch lưới sau trận đấu với Watford, trong đó anh cản phá một quả phạt đền từ Troy Deeney.
Čech bắt đầu mùa giải 2018-19 với tư cách là sự lựa chọn hàng đầu cho tân HLV Unai Emery, nhưng sau đó đã mất vị trí vào tay tân binh Bernd Leno sau khi dính chấn thương gân khoeo trong trận đấu với Watford. Vào ngày 15 tháng 1 năm 2019, Čech thông báo qua Twitter rằng anh sẽ giải nghệ vào cuối mùa giải. Anh có trận đấu cuối cùng trong sự nghiệp của mình trong trận thua 4–1 trước đội bóng cũ Chelsea vào ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại chung kết UEFA Europa League 2018–19.
Sự nghiệp quốc tế
Čech được gọi vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc từ năm 2002. Anh có được vị trí thủ môn chính thức từ vòng loại Euro 2004 cho đến nay. Euro 2004 tổ chức tại Bồ Đào Nha là giải đấu lớn đầu tiên trong sự nghiệp nhưng anh đã thi đấu xuất sắc và cùng đội tuyển Cộng hòa Séc vào đến bán kết và thua Hy Lạp 1-0 bằng luật bàn thắng bạc. Anh được đưa vào đội hình tiêu biểu của giải đấu nhờ thành tích trên. Năm 2005, anh được bầu chọn là cầu thủ Cộng hòa Séc xuất sắc nhất trong năm.
Čech tiếp tục góp mặt cùng đội tuyển Cộng hòa Séc tại World Cup 2006 tổ chức tại Đức. Tại đây, Cộng hòa Séc đã thắng đội tuyển Mỹ 3-0 rồi để thua Ghana và Ý với cùng tỉ số 2-0 nên chung cuộc chỉ xếp hạng 3 trong bảng và bị loại ngay sau vòng đấu bảng World Cup 2006.
Ngày 21 tháng 8 2007, Petr Cech được bầu là cầu thủ Cộng hòa Séc xuất sắc nhất năm 2007 và đó cũng là lần thứ 3 liên tiếp thủ môn này nhận được danh hiệu cao quý trên. Ngày 17 tháng 10 2007, Čech trở thành đội trưởng đội tuyển quốc gia trong trận đấu gặp đội tuyển Đức tại vòng loại Euro 2008. Trận đấu đó Séc đã thắng Đức 3-0 và giành quyền tham dự Euro 2008 tại Áo và Thụy Sĩ.
Tại Euro 2008, ngày 7 tháng 6, Čech thi đấu xuất sắc trong trận khai mạc gặp chủ nhà Thụy Sĩ với nhiều pha cứu nguy xuất sắc để bảo toàn khoảng cách 1 bàn mong manh, giúp Séc thắng 1-0. Nhưng trong trận đấu cuối cùng của Cộng hòa Séc tại vòng bảng gặp Thổ Nhĩ Kỳ, 1 sai lầm đáng trách của anh trong lúc lao ra bắt bóng đã tạo điều kiện cho tiền đạo người Thổ Nhĩ Kỳ Nihat Kahveci san bằng tỉ số 2-2 và chỉ vài phút sau đó Nihat đã ghi bàn thắng ấn định tỉ số 3-2. Với kết quả này, Čech và đội tuyển Cộng hòa Séc đành ngậm ngùi chia tay Euro 2008.
Tại Euro 2012, Čech thi đấu đầy đủ cả ba trận của bảng A để kết thúc với vị trí đầu bảng với 6 điểm, tuy nhiên anh và các đồng đội đã phải dừng bước ở tứ kết sau khi để thua Bồ Đào Nha với tỉ số 0-1 bằng bàn thắng duy nhất của tiền đạo Cristiano Ronaldo của tuyển Bồ Đào Nha.
Sau kì Euro 2016 không thành công của đội tuyển Cộng hòa Séc (xếp cuối bảng D với chỉ vỏn vẹn 1 điểm, hòa 1 và thua 2, chỉ ghi được 2 bàn thắng và bị thủng lưới 5 bàn), Petr Čech tuyên bố giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế ở đội tuyển quốc gia sau 14 năm gắn bó.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
Giữ sạch lưới
(G.S.L. = Giữ Sạch Lưới (số trận))
Thống kê tất cả các trận trong một mùa giải. Cập nhật đến mùa giải 2020–21.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Chelsea
Premier League: 2004–05, 2005–06, 2009–10, 2014–15
FA Cup: 2006–07, 2008–09, 2009–10, 2011–12
EFL Cup: 2004–05, 2006–07, 2014–15
FA Community Shield: 2005, 2009
UEFA Champions League: 2011–12, á quân 2007-08
UEFA Europa League: 2012–13
Arsenal
FA Cup: 2016–17
FA Community Shield: 2015, 2017
UEFA Europa League: á quân 2018–19
U21 Cộng hòa Séc
Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu: 2002
Cá nhân
Thủ môn xuất sắc nhất thế giới: 2005
Thủ môn xuất sắc nhất châu Âu: 2005, 2007
Thủ môn xuất sắc nhất UEFA Champions League: 2005, 2007
Cầu thủ xuất sắc nhất trong tháng của Premier League: Tháng 3 năm 2007
Cầu thủ Cộng hòa Séc xuất sắc nhất trong năm: 2005, 2006, 2007
Găng tay vàng Barclays: 2005, 2010
Kỷ lục
Giữ sạch lưới trong 855 phút tại giải vô địch quốc gia Cộng hòa Séc.
Giữ sạch lưới trong 1025 phút tại Premier League.
25 trận giữ sạch lưới tại Premier League 2004–05 cũng như chỉ để lọt lưới 15 bàn trong suốt mùa giải năm đó.
Chú thích |
Slinky là một đồ chơi có hình thù lò xo, do kỹ sư cơ khí Richard James sáng chế tại Philadelphia, Pennsylvania (Hoa Kỳ). Nhiều cỡ Slinky có sẵn, nhưng ít khi nó lớn hơn nắm tay của người lớn. Nó có hình xoắn ốc đơn giản, hoặc hình cuộn, làm bằng chất bền, mới đầu bằng thép nhưng ngày nay thường là bằng chất dẻo. Slinky nổi tiếng vì có thể "bước" xuống cầu thang do các cuộn căng ra và rút lại trong khi lực hấp dẫn kéo nó xuống mỗi nấc. Slinky được sản xuất bởi James Industries tại Hollidaysburg, Pennsylvania.
Có thể sử dụng một, hai Slinky cùng lúc để xây ăngten phát thanh làn sóng ngắn. Đôi khi nó cũng được những người hoạt động radio không chuyên làm nó thành ăngten truyền thanh. Thường hơn, có thể sử dụng Slinky để giải thích một số hiện tượng vật lý. Chẳng hạn có thể ép lại và thả ra một đầu, có thể làm sóng nén.
Lịch sử
Slinky (có nghĩa là "uyển chuyển") được phát minh và phát triển bởi kỹ sư cơ khí hải quân Richard T. James vào năm 1943 và đã trình diễn tại cửa hàng bách hóa Gimbels ở Philadelphia vào tháng 11 năm 1945. Đồ chơi này đã bán rất chạy, bán toàn bộ hàng 400 chiếc trong 90 phút. Với khoản vay ban đầu 500 USD, James và vợ Betty đã thành lập James Industries tại Clifton Heights, Pennsylvania để sản xuất Slinky và một số đồ chơi liên quan như Slinky Dog (có hình dạng chó) và Suzie, Slinky Worm (sâu). Mỗi chiếc Slinky có chiều cao 2 inch, và bao gồm 98 vòng thép Thụy Điển màu xanh đen cao cấp.
Năm 1960, vợ của James, Betty trở thành chủ tịch của James Industries, và, năm 1964, chuyển hoạt động trở lại Hollidaysburg, Pennsylvania. Năm 1998, Betty James đã bán công ty cho Poof Products, Inc.
Slinky ban đầu có giá 1 đô la, nhưng sau này tăng giá từ từ do giá thép lò xo gia tăng trên khắp tiểu bang Pennsylvania; tuy nhiên, nó vẫn có giá khiêm tốn trong suốt lịch sử của nó do mối quan tâm của Betty James về khả năng chi trả của đồ chơi cho khách hàng nghèo. Năm 1996, giá dao động từ 1,89 đô la đến 2,69 đô la và vào năm 2008, Slinky có giá từ 4 đến 5 đô la và Slinky Dog khoảng 20 đô la. Trong 2 năm đầu tiên, James Industries đã bán 100 triệu Slinky (với giá 1 đô la, tương đương với 6 tỷ đô la, được điều chỉnh theo lạm phát, trong tổng doanh thu trong 5 năm đó). Năm 1995, Betty James đã giải thích thành công của món đồ chơi với Associated Press bằng cách nói: "Đó là vì sự đơn giản của nó".
Slinky cũng đã được sử dụng khác hơn là một món đồ chơi; nó đã xuất hiện trong lớp học như một công cụ giảng dạy, trong thời chiến như một ăng-ten radio và trong các thí nghiệm vật lý với NASA. Slinky được giới thiệu vào Đại sảnh đồ chơi quốc gia (National Toy Hall of Fame) của The Strong (là một tổ chức giáo dục dựa trên bộ sưu tập, tương tác) ở Rochester, New York năm 2000. Năm 2003, Slinky được nêu tên trong "Danh sách thế kỷ đồ chơi" (Century of Toys List) của Hiệp hội đồ chơi Toy Industry Association. Trong 60 năm đầu tiên cho đến năm 2005, Slinky đã bán được 300 triệu chiếc. |
Tuấn Khanh (tên thật Nguyễn Tuấn Khanh; sinh ngày 1 tháng 10 năm 1968), là một nhạc sĩ Việt Nam. Anh làm việc về báo chí, âm nhạc và kiêm quản lý dự án. Tên tuổi của anh gắn liền với nhóm nhạc MTV và Trio666.
Tiểu sử
Từ khi 15 tuổi, Tuấn Khanh bắt đầu chơi nhạc cho nhiều ban nhạc trẻ Sài Gòn. Anh học tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, bộ môn flute và sáng tác nhạc từ năm 17 tuổi.
Đến năm 1987, anh tổ chức thành lập nhóm nhạc riêng mang tên Gió Phương Nam, chủ yếu biểu diễn những sáng tác của anh. Năm 20 tuổi, anh học thêm các ngành luật, báo, tiếng Anh.
Vào đầu thập niên 1990, anh tham gia viết báo và trở thành phóng viên báo Tuổi trẻ, báo Thanh Niên, báo Người Lao động... Anh đã từng được đài truyền hình RAI International của Ý trao tặng giải thưởng cho các tác phẩm của mình và tác giả dàn dựng cho các nhóm nhạc của ông trên nền tảng alternative rock và modern rock. Vào năm 2001, anh được bình chọn là một trong 10 nhân vật trẻ của Đông Nam Á có ảnh hưởng đến cộng đồng chung, do tạp chí East Magazine tổ chức. Năm 2003, Tuấn Khanh được mời tham dự chương trình Sao Mai điểm hẹn và là thành phần trong ban giám khảo của cuộc thi này. Năm 2005, anh được Đài Truyền hình Việt Nam mời tham gia với vai trò commander của trò chơi truyền hình mang tên Trò chơi âm nhạc.
Vào năm 2007, anh là thành viên Ban giám khảo chương trình Việt Nam Idol. Anh mới tuyên bố từ nay sẽ không tập trung vào khuynh hướng sáng tác những ca khúc tình ca thông thường mà chuyển qua những đề tài xã hội và đặc biệt hơn, anh sẽ không xin phép kiểm duyệt các đĩa nhạc của mình mà tự phát hành trên mạng.
Năm 2008, anh sáng tác nhạc phẩm Thế là người Việt Nam (Em có là người Việt Nam) dành riêng cho kênh VTC9 - Let's Viet.
Năm 2009, toàn bộ nhạc phim của bộ phim Gia đình phép thuật đều do anh sáng tác.
Một số tác phẩm
Áo xanh
Rêu phong
Hẹn lòng đi nhé
Những giấc mơ dịu dàng
Sóng tình
Radio buồn
Như là tình yêu
Bay trên những giấc mơ
Football No.1
Kính vạn hoa (OST cho bộ phim chuyển thể cùng tên)
Khi người con gái khóc
Buồn ơi, ngủ yên
Trái tim Việt Nam
Thế là người Việt Nam (Em có là người Việt Nam)
47.8
Trả nợ tình xa
Gánh xiếc to trên quê hương bé nhỏ
Hãy gấp trang báo hãy tắt TV
Dối trá
Thế giới loài người
Thế giới xa xôi
Thế giới trẻ thơ |
Chứng khó đọc (tiếng Anh: Dyslexia) đặc trưng cho vấn đề gặp rắc rối về đọc hiểu và đánh vần dù trí tuệ bình thường. Các vấn đề có thể bao gồm khó khăn trong việc đánh vần các từ, đọc nhanh, viết chữ, "phát âm" các từ trong đầu, phát âm từ khi đọc to và nghe hiểu người khác đọc. Thông thường những khó khăn này được nhận thấy đầu tiên khi đi học ở trường. Khi một người mất khả năng đọc trước đây của bản thân, nó được gọi là alexia.
Chứng khó đọc được cho là do cả yếu tố di truyền lẫn môi trường. Một số trường hợp là đặc điểm chung của gia đình. Nó thường xảy ra với những người gặp rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) và liên hệ giống với chứng khó học toán. Nó cũng có thể bắt đầu ở tuổi trưởng thành là kết quả sau một chấn thương sọ não, đột quỵ, hoặc mất trí nhớ. Chứng khó đọc được chẩn đoán thông qua một loạt các bài kiểm tra bộ nhớ, lỗi chính tả, thị lực, và kỹ năng đọc. Cơ chế cơ bản của chứng khó đọc là những vấn đề trong quá trình xử lý ngôn ngữ của não. Chứng khó đọc được phân chia thành những khó khăn trong việc đọc hiểu do vấn đề thính giác, thị giác hoặc do thiếu sót trong quá trình dạy học đọc.
Khoảng 2–8% trẻ em học cấp 1 bị ít nhiều chứng khó đọc. Chứng này không phải do mắt kém mà là do bất thường tại tầng lớp trên của vỏ não - làm trẻ mất khả năng ghi nhận và hiểu đường nét của chữ và ký hiệu. Trẻ bị chứng này có thể không hiểu vần điệu khi nghe câu ca dao hay bài thơ, nhiều trẻ kém khả năng phân tách các âm thanh trong câu nói. Những khả năng này rất quan trọng trong quá trình học hỏi của trẻ em - do đó trẻ mắc chứng khó đọc thường bị thua kém bè bạn trong lớp.
Bước đầu của việc học đọc là nhận ra được các từ, bằng cách phân biệt ra các âm riêng trong mỗi từ và sau đó liên hệ các âm đó với mẫu tự. Bước kế tiếp là liên kết các từ vào nhau để hiểu ra câu.
Phần lớn trẻ em bị chứng khó đọc có sức thông minh bình thường; có em có sức thông minh cao hơn trung bình. Chứng khó đọc là do một khúc mắc trong liên hệ thần kinh não, không dính líu gì đến khả năng suy nghĩ hay thông hiểu các khái niệm cao cấp.
Trẻ em bị chứng khó đọc còn có thể biểu một số chứng tật phát triển khác như kém hay không có khả năng viết và tính toán số. Những khả năng này đòi hỏi ký ức thuyên chuyển từ ký hiệu sang ý nghĩa.
Trước khi kết luận một trẻ em bị chứng khó đọc, cần phải loại trừ những nguyên nhân khác có thể gây cản trở học đọc, học viết và học nghe như thiếu học (mù chữ, thầy cô giảng dạy thiếu kinh nghiệm), có vấn đề tâm lý, chậm phát triển tâm thần, và các bệnh về tai, mắt, hoặc não (thí dụ SIDA) .
Một số người nổi tiếng trên thế giới bị mắc bệnh này như Thomas Edison, Anthony Hopkins, Guy Ritchie, Ozzy Osbourne, Tom Cruise, Cher,...
Định nghĩa
Rối loạn đặc hiệu về đọc hay rối loạn đọc tuổi phát triển là khó khăn rõ rệt về phát triển các kỹ năng đọc và đọc hiểu mà không thể quy cho chậm phát triển tâm thần, học lực không thích hợp, độ tuổi, thiếu sót thị giác thính giác hay thần kinh. Khó khăn về đọc khá nặng gây trở ngại cho kết quả học tập và các hoạt động đòi hỏi kỹ năng đọc. Khó học đọc thường kết hợp với khó học chính tả, chỉ chẩn đoán rối loạn đọc ở trẻ có trí tuệ phát triển bình thường và trên 7 tuổi vì trước độ tuổi này, hiện tượng đọc nhầm rất thường gặp.
Người ta tin rằng chứng khó đọc có thể ảnh hưởng từ 5 đến 10 phần trăm dân số được mặc dù chưa có nghiên cứu để có một tỷ lệ phần trăm chính xác.
Người lớn mắc bệnh này có thể đọc và hiểu tốt, nhưng họ có xu hướng đọc chậm hơn so với người không dyslexia, có thể thực hiện kém hơn trong việc đọc lời vô nghĩa (một thước đo của nhận thức âm vị học), viết chính tả.
Nguyên nhân
Các lý thuyết sau đây không nên được xem là cạnh tranh, nhưng xem như là lý thuyết cố gắng giải thích những nguyên nhân cơ bản của một tập hợp các triệu chứng tương tự từ nhiều quan điểm nghiên cứu
Lý thuyết tiểu não
Lý thuyết khẳng định rằng có một rối loạn nhẹ tiểu não có thể gây ra chứng khó đọc. Tiểu não góp phần điều khiển động cơ trong cách phát âm của lời nói. Lý thuyết đề xuất rằng các vấn đề phát âm có thể đóng góp vào sự thâm hụt xử lý âm vị học có thể gây ra chứng khó đọc.
Lý thuyết thâm hụt âm vị học
Các nhà khoa học của lý thuyết này đề xuất rằng những người bị chứng khó đọc có một thao tác suy giảm âm thanh cụ thể, ảnh hưởng đến trí nhớ thính giác, nhớ từ, và kỹ năng kết hợp âm thanh khi tạo ra lời nói.
Lý thuyết xử lý thính giác nhanh chóng
Xác định rằng thâm hụt chủ yếu nằm trong nhận thức về âm thanh ngắn hoặc nhanh khác nhau.
Lý thuyết thị giác
Lý thuyết thị giác đại diện cho một quan điểm truyền thống của chứng khó đọc, như là kết quả của sự suy giảm thị lực tạo ra vấn đề khi xử lý thông tin từ các chữ cái và chữ từ một văn bản. Lý thuyết này không phủ nhận khả năng nguyên nhân khác của chứng khó đọc
Các rối loạn đi kèm
Một số khuyết tật học tập thường xảy ra với chứng khó đọc tuy nhiên chưa xác định được chúng có cùng nguyên nhân về não bộ với chứng khó đọc hay không:
Dysgraphia —một rối loạn thể hiện chủ yếu thông qua việc tự văn bản hoặc đánh máy
Dyscalculia —một tình trạng thần kinh được đặc trưng bởi vấn đề với ý thức cơ bản về số lượng và sự kiện toán học. Thường những người có tình trạng này có thể hiểu được khái niệm toán học rất phức tạp và các nguyên tắc, nhưng có khó khăn khi lấy dữ kiện liên quan đến toán học cơ bản cộng và trừ.
Attention Deficit Disorder - ADHD: rối loạn tăng động giảm chú ý.
Cluttering - Nói lắp - lời nói bất thường cả về tốc độ và nhịp điệu, hiệu quả nói kém.
Triệu chứng
Các triệu chứng của chứng khó đọc khác nhau tùy theo mức độ nghiêm trọng của chứng rối loạn cũng như tuổi của từng cá nhân.:
Trẻ trong độ tuổi mẫu giáo
Rất khó để có được một chẩn đoán chứng khó đọc trước khi đứa trẻ bắt đầu đi học, nhưng trẻ sẽ có những biểu hiện:
Sự chậm chạp trong lời nói.
Chậm học của các từ mới
Không tiếp nhận dữ liệu
Khó khăn khi thể hiện giọng điệu, nhịp điệu.
Ít kiến thức
Viết chữ đảo ngược.
Đầu tiểu học
Khó học bảng chữ cái hoặc thứ tự chữ cái
Gặp khó khăn khi kết hợp với các chữ cái và cách phát âm chữ cái đó.
Khó xác định hoặc tạo ra những từ có vần điệu.
Khó khăn để hiểu chữ viết
Khó đọc: đọc sót chữ (đắng – đắn), sót từ (cái ca – cái), đọc thêm chữ cái (cái ca – cái can), đọc thêm từ (cái – cái ca), đọc chệch từ (quả cam – quả com), đọc thiếu chữ cái (con – chon), đọc đảo lộn chữ cái (con – non, chí – híc)...
Cuối tiểu học
Chậm hoặc đọc không chính xác (mặc dù những người này có thể đọc đến một mức độ).
Đánh vần từ vựng rất yếu
Khó đọc thành tiếng, đọc chữ theo thứ tự sai, bỏ qua lời nói
Khó khăn khi hiểu ý nghĩa của từ riêng lẻ.
Trẻ em bị chứng khó đọc có thể không nhìn thấy (hoặc không nghe thấy) sự giống và khác nhau trong các chữ cái và các từ, có thể không nhận ra khoảng cách giữa các âm trong tiếng, tiếng trong từ.
Tuổi trung học và trưởng thành
Một số người bị chứng khó đọc có thể che giấu những điểm yếu của họ và thường ở mức độ có thể chấp nhận được hoặc có thể cải thiện tốt hơn nữa khi đến 16 tuổi). Nhiều học sinh cố gắng ở mức tối đa để khắc phục điểm yếu của mình.
Một quan niệm sai lầm phổ biến về chứng khó đọc là người có chứng khó đọc sẽ viết chữ ngược. Trong thực tế, điều này chỉ xảy ra trong một nhóm nhỏ người mắc chứng khó đọc. Quan sát để đánh giá trí tuệ với người có chứng khó đọc thì tốt nhất là nên yêu cầu họ làm một bài viết.
Người mắc chứng này hay nhẫm lẫn các từ gần giống nhau ví dụ hoa – hao, oanh – hoanh….
Chú thích |
Trên máy tính, tổng hợp giọng nói là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này còn được gọi là văn bản-sang-tiếng nói (text-to-speech, TTS); tuy rằng không phải hệ thống tổng hợp giọng nói nào cũng có đầu vào là văn bản (nhiều hệ thống thu nhận mã hóa cách phát âm, ví dụ mã IPA, như đầu vào). Hệ thống thực hiện việc này còn gọi là máy tổng hợp giọng nói (text to speech engine), có thể là hệ thống phần mềm hoặc phần cứng.
Ứng dụng
Các hệ thống này có nhiều ứng dụng. Ví dụ như hệ thống này có thể giúp người có thị lực kém (hoặc khiếm thị) nghe được máy đọc ra văn bản; đặc biệt là các văn bản có thể xử lý trên máy tính. Hệ thống như vậy có thể lắp đặt trong phần mềm xử lý văn bản hay trình duyệt mạng.
Tổng quan
Một máy tổng hợp giọng nói bao gồm hai phần: ngoại diện và hậu trường. Phần ngoại diện nhận đầu vào ở dạng văn bản rồi cho đầu ra là thể hiện biểu tượng ngôn ngữ của văn bản (tức là một cách mã hóa cách phát âm văn bản). Phần hậu trường nhận lấy thể hiện biểu tượng ngôn ngữ như đầu vào và cho ra giọng nói tổng hợp ở dạng sóng âm thanh. Phần ngoại diện có hai nhiệm vụ chính. Trước tiên, nó nhận văn bản và chuyển đổi các ký tự như các chữ số hay cách viết tắt thành dạng viết đầy đủ. Quá trình này gọi là chuẩn hóa văn bản, hay tiền xử lý. Sau đó nó cho ra mã phát âm ứng với từng từ, rồi phân chia và đánh dấu văn bản thành từng đoạn văn, nhóm từ, mệnh đề, hay câu văn. Quá trình chuyển văn bản sang mã phát âm được gọi là văn bản-sang-âm vị. Kết hợp mã phát âm và thông tin đoạn văn tạo nên đầu ra cuối cùng thể hiện biểu tượng ngôn ngữ. Phần hậu trường, nhận lấy thể hiện biểu tượng ngôn ngữ rồi chuyển nó thành âm thanh. Phần này thường được gọi là máy tổng hợp. Có nhiều kỹ thuật tổng hợp, được mô tả bên dưới.
Lịch sử
Từ lâu trước khi kỹ thuật xử lý tín hiệu bằng thiết bị điện tử hiện đại ra đời, các nhà nghiên cứu giọng nói đã cố gắng xây dựng các máy móc bắt chước giọng nói của người. Các ví dụ đầu tiên của các máy này được chế tạo bởi Gerbert ở Aurillac (1003), Albertus Magnus (1198–1280), và Roger Bacon (1214–1294).
Năm 1779, nhà khoa học người Đan Mạch Christian Kratzenstein, lúc đó làm việc tại Viện Hàn lâm Khoa học Nga, xây dựng một mô hình có thể bắt chước giọng nói người với năm nguyên âm ([a], [e], [I], [o] và [u]). Máy này sau đó được cải tiến thành 'Máy Phát âm Cơ khí-Âm học' của Wolfgang von Kempelen ở Viên, Áo, được mô tả trong bài báo năm 1791 mang tựa đề Mechanismus der menschlichen Sprache nebst der Beschreibung seiner sprechenden Maschine ("phương pháp tạo giọng nói và mô tả máy thực hiện việc này," J. B. Degen, Wien). Máy này tạo ra mô hình của lưỡi và môi, cho phép tạo ra phụ âm thêm vào cho nguyên âm. Năm 1837 Charles Wheatstone tạo ra 'máy nói' dựa trên thiết kế của von Kempelen, và đến năm 1857 M. Faber chế tạo máy 'Euphonia'. Máy của Wheatstone lại được cải tiến năm 1923 bởi Paget.
Những năm 1930, Phòng thí nghiệm Bell tạo ra máy VOCODER, một máy phân tích và tổng hợp giọng nói điều khiển bằng bàn phím, được mô tả là phát âm rõ ràng. Homer Dudley cải tiến cỗ máy này thành VODER, và trưng bày nó tại Triển lãm Thế giới New York 1939.
Các máy tổng hợp giọng nói bằng kỹ thuật điện tử, trong giai đoạn này, có giọng nói không tự nhiên và khó nghe. Tuy nhiên, chất lượng tổng hợp giọng nói ngày càng được cải tiến, cho đến ngày nay giọng phát âm của nhiều hệ thống có chất lượng tương đương giọng nói của người thật.
Các hệ thống tổng hợp giọng nói đầu tiên được tạo ra vào những năm 1950 và hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên ra đời vào năm 1968.
Năm 1961, nhà vật lý học John Larry Kelly, Jr dùng máy tính IBM 704 để tổng hợp giọng nói, đây là sự kiện đáng nhớ trong lịch sử của phòng thí nghiệm Bell. Máy ghi âm và tổng hợp giọng nói của Kelly tạo ra bài hát Daisy Bell, với âm nhạc phụ họa bởi Max Mathews. Vào lúc trình diễn, Arthur C. Clarke đang thăm bạn và đồng nghiệp John Pierce ở khu thí nghiệm Bell ở Murray Hill. Clarke đã bị ấn tượng mạnh bởi trình diễn của máy phát âm và đã dùng hình ảnh này trong tiểu thuyết và kịch bản phim của ông 2001: A Space Odyssey, trong đó máy tính HAL 9000 hát cùng bài hát khi nó sắp bị nhà du hành vũ trụ Dave Bowman đặt vào trạng thái ngủ.
Công nghệ tổng hợp giọng nói đã tiến hóa nhanh kể từ đó. Hiện nay có hàng trăm hệ thống tổng hợp giọng nói, thương mại cũng như tự do (xem liên kết ngoài).
Tuy đã đạt được thành tựu trong tổng hợp giọng nói bằng kỹ thuật điện tử, các nghiên cứu vẫn đang được tiến hành để tạo ra bộ tổng hợp giọng nói cơ học, mô phỏng thanh quản của người, dùng trong robot dạng người. Các bộ tổng hợp giọng nói điện tử bị giới hạn bởi chất lượng của loa, bộ phận cuối cùng tạo ra âm thanh, dù tín hiệu điện tử có hoàn hảo. Có hy vọng rằng bộ thanh quản cơ khí có thể tạo ra giọng nói chuẩn hơn loa thông thường.
Công nghệ tổng hợp giọng nói
Hai tính chất quan trọng của chất lượng hệ thống tổng hợp giọng nói là mức độ tự nhiên và mức độ dễ nghe. Mức độ tự nhiên của giọng nói tổng hợp chỉ đến sự giống nhau giữa giọng tổng hợp và giọng nói tự nhiên của người thật. Mức độ dễ nghe chỉ đến việc câu phát âm có thể hiểu được dễ dàng không. Một máy tổng hợp giọng nói lý tưởng cần vừa tự nhiên vừa dễ nghe, và mục tiêu xây dựng máy tổng hợp giọng nói là làm gia tăng đến mức tối đa hai tính chất này. Một số hệ thống thiên về mức độ dễ nghe hơn, hoặc mức độ tự nhiên hơn; tùy thuộc vào mục đích mà công nghệ được lựa chọn. Có hai công nghệ chính được dùng là tổng hợp ghép nối và tổng hợp cộng hưởng tần số; ngoài ra cũng có một số công nghệ khác.
Tổng hợp ghép nối
Tổng hợp ghép nối dựa trên việc nối vào nhau các đoạn của một giọng nói đã được ghi âm. Thông thường, tổng hợp ghép nối tạo ra giọng nói tương đối tự nhiên. Tuy nhiên, giọng nói tự nhiên được ghi âm có sự thay đổi từ lần phát âm này sang lần phát âm khác, và công nghệ tự động hóa việc ghép nối các đoạn của sóng âm thỉnh thoảng tạo ra những tiếng cọ xát không tự nhiên ở phần ghép nối. Có ba kiểu tổng hợp ghép nối.
Tổng hợp chọn đơn vị
Tổng hợp chọn đơn vị dùng một cơ sở dữ liệu lớn các giọng nói ghi âm (thông thường dài hơn 1 giờ đồng hồ ghi âm). Trong lúc ghi âm, mỗi câu phát biểu được tách ra thành các đơn vị khác như: các âm tỏ lời đơn lẻ, âm tiết, hình vị, từ, nhóm từ, và câu văn. Thông thường, việc tách ra như vậy cần một máy nhận dạng tiếng nói được đặt ở chế độ khớp với văn bản viết tương ứng với đoạn ghi âm, và dùng đến hiển thị sóng âm và phổ âm thanh. Một bảng tra các đơn vị được lập ra dựa trên các phần đã tách và các thông số âm học như tần số cơ bản, thời lượng, vị trí của âm tiết, và âm tỏ lời gần đó. Khi chạy, các câu phát biểu được tạo ra bằng cách xác định chuỗi đơn vị phù hợp nhất từ cơ sở dữ liệu. Quá trình này được gọi là chọn đơn vị, và thường cần dùng đến cây quyết định để thực hiện.
Kỹ thuật chọn đơn vị tạo ra độ tự nhiên cao do không áp dụng các kỹ thuật xử lý tín hiệu số lên các đoạn giọng nói đã ghi âm, tuy rằng một số hệ thống có thể áp dụng xử lý tín hiệu tại các đoạn nối giữa các đơn vị để làm liền mạch kết quả sau khi ghép nối. Thực tế, các hệ thống chọn đơn vị có thể tạo ra giọng nói không thể phân biệt được với người thật. Tuy nhiên, để đạt độ tự nhiên cao, thường cần một cơ sở dữ liệu lớn chứa các đơn vị để lựa chọn; có thể lên tới vài gigabyte, tương đương với hàng chục giờ ghi âm.
Tổng hợp âm kép
Tổng hợp âm kép dùng một cơ sở dữ liệu giọng nói nhỏ chứa tất cả các âm kép (chuyển tiếp âm thanh) xuất hiện trong ngôn ngữ đang xét. Số lượng âm kép phụ thuộc vào đặc tính ghép âm học của ngôn ngữ: tiếng Tây Ban Nha có 800 âm kép, tiếng Đức có 2500. Trong tổng hợp âm kép, chỉ có một ví dụ của âm kép được chứa trong cơ sở dữ liệu. Khi chạy, lời văn được chồng lên các đơn vị này bằng kỹ thuật xử lý tín hiệu số như mã tiên đoán tuyến tính, PSOLA hay MBROLA.
Chất lượng của âm thanh tổng hợp theo cách này thường không cao bằng phương pháp chọn đơn vị nhưng tự nhiên hơn tổng hợp cộng hưởng tần số. Tổng hợp âm kép tạo ra các tiếng cọ xát ở phần ghép nối và đôi khi giọng nói kiểu robot do các kỹ thuật xử lý tín hiệu số gây ra. Lợi thế của phương pháp này là kích thước cơ sở dữ liệu nhỏ. Các ứng dụng thương mại của phương pháp này đang ít dần, tuy nhiên có nhiều hệ thống như thế này được phân phát tự do, và phục vụ cho nghiên cứu.
Tổng hợp chuyên ngành
Tổng hợp chuyên biệt ghép nối các từ và đoạn văn đã được ghi âm để tạo ra lời phát biểu. Nó được dùng trong các ứng dụng có các văn bản chuyên biệt cho một chuyên ngành, sử dụng lượng từ vựng hạn chế, như các thông báo chuyến bay hay dự báo thời tiết.
Công nghệ này rất đơn giản, và đã được thương mại hóa từ lâu, đã đi vào các đồ vật như đồng hồ biết nói hay máy tính bỏ túi biết nói. Mức độ tự nhiên của các hệ thống này có thể rất cao vì số lượng các câu nói không nhiều và khớp với lời văn và âm điệu của giọng nói ghi âm. Tuy nhiên các hệ thống này bị hạn chế bởi cơ sở dữ liệu chuyên ngành, không phục vụ mọi mục đích mà chỉ hoạt động với các câu nói mà chúng đã được lập trình sẵn.
Tổng hợp cộng hưởng tần số
Tổng hợp cộng hưởng tần số không sử dụng bất cứ mẫu giọng thật nào khi chạy. Thay vào đó, tín hiệu âm thanh cho ra dựa trên một mô hình âm thanh. Các thông số như tần số cơ bản, sự phát âm, và mức độ tiếng ồn được thay đổi theo thời gian để tạo ra dạng sóng cho giọng nói nhân tạo. Phương pháp này đôi khi còn được gọi là tổng hợp dựa trên quy tắc, dù cho nhiều hệ thống ghép nối mẫu âm thanh thật cũng có dùng các thành phần dựa trên quy tắc.
Nhiều hệ thống dựa trên tổng hợp cộng hưởng tần số tạo ra giọng nói nhân tạo, như giọng rôbốt, không tự nhiên, và phân biệt rõ ràng với giọng người thật. Tuy nhiên độ tự nhiên cao không phải lúc nào cũng là mục đích của hệ thống và hệ thống này cũng có các ưu điểm riêng của nó.
Hệ thống này nói khá dễ nghe, ngay cả ở tốc độ cao, không có tiếng cọ xát do ghép âm tạo ra. các hệ thống này hoạt động ở tốc độ cao, có thể hướng dẫn người khiếm thị nhanh chóng dò dẫm trên máy tính, bằng cách đọc to những gì hiện ra trên màn hình. Các hệ thống này cũng nhỏ gọn hơn các hệ thống ghép nối âm, vì không phải chứa cơ sở dữ liệu mẫu âm thanh lớn. Nó có thể dùng trong các hệ thống nhúng khi bộ nhớ và tốc độ xử lý có hạn. Hệ thống này cũng có khả năng điều khiển mọi khía cạnh của tín hiệu âm thanh đi ra, no cho ra một dải rộng các lời văn và ngữ điệu, và không chỉ thể hiện được câu nói thường hay câu hỏi, mà cả các trạng thái tình cảm thông qua âm điệu của giọng nói.
Các ví dụ về các hệ thống cho ra ngữ điệu chính xác (nhưng không cho ra ngay lập tức sau khi nhận đầu vào) là các công trình cuối những năm 1970 của đồ chơi Speak & Spell của Texas Instruments, và các trò chơi video của SEGA đầu những năm 1980 như: Astro Blaster, Zektor, Space Fury, và Star Trek. Hiện vẫn chưa có hệ thống cho ra intonation chính xác ngay sau khi nhận văn bản đầu vào.
Tổng hợp mô phỏng phát âm
Tổng hợp mô phỏng phát âm là các kỹ thuật tổng hợp giọng nói dựa trên mô hình máy tính của cơ quan phát âm của người và quá trình phát âm xảy ra tại đó. Hệ thống tổng hợp mô phỏng phát âm đầu tiên là ASY, thường được dùng cho các thí nghiệm trong nghiên cứu, được phát triển ở phòng thí nghiệm Haskins vào giữa những năm 1970 bởi Philip Rubin, Tom Baer, và Paul Mermelstein. ASY dựa trên mô hình cơ quan phát âm đã được tạo ra bởi phòng thí nghiệm Bell vào những năm 1960 và 1970 bởi Paul Mermelstein, Cecil Coker, và các đồng nghiệp khác. Tổng hợp mô phỏng phát âm đã từng chỉ là hệ thống dành cho nghiên cứu khoa học cho mãi đến những năm gần đây. Lý do là rất ít mô hình tạo ra âm thanh chất lượng đủ cao hoặc có thể chạy hiệu quả trên các ứng dụng thương mại. Một ngoại lệ là hệ thống dựa trên NeXT; vốn được phát triển và thương mại hóa bởi Trillium Sound Research Inc, ở Calgary, Alberta, Canada. Đây là một công ty tách ra từ Đại học Calgary nơi các nghiên cứu ban đầu đã được thực hiện. Theo sau các vụ chuyển nhượng các từng phần của NeXT (bắt đầu từ Steve Jobs vào cuối những năm 1980 và việc hợp nhất với Apple năm 1997), phần mềm của Trillium được phân phát với giấy phéo tự do GPL. Dự án gnuspeech, một dự án của GNU, tiếp tục phát triển phần mềm này. Phần mềm gốc NeXT và các chuyển đổi sang cho Mac OS/X và GNUstep trong GNU/Linux có thể tìm thấy tại trang GNU savannah; chúng đều kèm theo tài liệu hướng dẫn trực tuyến và các bài viết liên quan đến lý thuyết nền tảng của công trình. Hệ thống, vốn được thương mại hóa lần đầu vào năm 1994, tạo ra một máy tổng hợp giọng nói dựa trên mô phỏng phát âm hoàn chỉnh, dựa trên mô hình ống dẫn sóng tương đương với cơ quan phát âm của người. Nó được điều khiển bởi Mô hình Phần Riêng biệt của Carré; bản thân mô hình này lại dựa trên công trình của Gunnar Fant và các người khác ở Phòng thí nghiệm Công nghệ Giọng nói Stockholm thuộc Viện Cộng nghệ Hoàng gia Thụy Điển về tổng hợp giọng nói cộng hưởng tần số. Công trình này cho thấy các cộng hưởng tần số trong ống cộng hưởng có thể được điều khiển bằng cách thay đổi tám tham số tương đồng với các cách phát âm tự nhiên của cơ quan phát âm của người. Hệ thống bao gồm một từ điển phát âm cùng với các quy tắc phát âm tùy thuộc ngữ cảnh để giúp ghép nối âm điệu và tạo ra các tham số phát âm; mô phỏng theo nhịp điệu và ngữ điệu thu được từ các kết quả nghiên cứu ngữ âm học.
Tổng hợp lai
Các hệ thống tổng hợp lai kết hợp các yếu tố của tổng hợp cộng hưởng tần số với tổng hợp ghép nối để giảm thiểu các tiếng cọ xát khi ghép nối các đoạn âm thanh.
Một ví dụ là RecSimCat, phát triển bởi Shakti Singh Parmar có thể tạo ra giọng dễ nghe và tự nhiên.
Tổng hợp dựa trên HMM
Tổng hợp dựa trên HMM là một phương pháp dựa vào mô hình Markov ẩn (HMM, viết tắt cho thuật ngữ tiếng Anh Hidden Markov model). Trong hệ thống này, phổ tần số của giọng nói, tần số cơ bản, và thời lượng đều được mô phỏng cùng lúc bởi HMM. Dạng sóng của giọng nói được tạo từ mô hình Markov ẩn dựa trên tiêu chí khả thực cực đại.
Kỹ thuật ngoại diện
Chuẩn hóa văn bản
Quá trình chuẩn hóa văn bản thường không đơn giản. Lý do là các văn bản thường chứa nhiều từ đồng tự, số và từ viết tắt đòi hỏi hiểu để diễn đạt lại trong văn bản đầy đủ.
Trong một số ngôn ngữ, các từ có thể được phát âm khác nhau tùy theo ngữ cảnh. Đa số hệ thống tổng hợp giọng nói không tạo ra thể hiện văn phạm cho văn bản, vì quá trình này hiện chưa có công nghệ đáng tin cậy. Thay vào đó, nhiều cách lần mò được dùng để phân biệt các cách phát âm, như tìm các từ kế cận hay dùng thống kê về tần số xuất hiện.
Việc chọn cách phát âm số cũng là một vấn đề. Lý do là cũng có nhiều cách phất âm số tùy theo văn cảnh. Như 1325 có thể đọc "một nghìn ba trăm hai mươi nhăm" nếu nó là một số tự nhiên, nhưng cũng có thể là "một ba hai năm" nếu nó là bốn số mật mã ngân khoản. Thường hệ thống tổng hợp giọng nói có thể đoán văn cảnh bằng việc quan sát các từ kế cận, các số hay dấu câu bên cạnh, hoặc dùng trường hợp mặc định khi không thể phân định.
Tương tự, các cách viết tắt cũng có thể mang nhiều nghĩa, tùy thuộc quy ước của người viết.
Văn bản sang âm vị
Các hệ thống tổng hợp giọng nói dùng hai cách cơ bản để xác định cách phát âm cho một từ, một quá trình còn được gọi là chuyển đổi văn bản-sang-âm vị hay tự vị-sang-âm vị, vì âm vị là thuật ngữ dùng bởi các nhà ngôn ngữ học để mô tả các âm khác nhau trong ngôn ngữ.
Cách thứ nhất, và đơn giản nhất, là dựa vào từ điển, sử dụng một từ điển lớn chứa tất cả các từ của một ngôn ngữ và chứa cách phát âm đúng tương ứng cho từng từ, lưu trong máy tính. Việc xác định cách phát âm đúng cho một từ chỉ đơn giản là tra trong từ điển và thay đoạn văn bản bằng mã phát âm đã ghi trong từ điển.
Cách thứ hai là dựa trên quy tắc, sử dụng các quy tắc phát âm để tìm ra cách phát âm tương ứng cho mỗi từ phù hợp với quy tắc.
Mỗi cách đều có ưu điểm và nhược điểm. cách dựa trên từ điển nhanh và chính xác, nhưng sẽ không hoạt động nếu từ cần phát âm không có trong từ điển và lượng từ vựng cần lưu là lớn. Cách dùng quy tắc hoạt động với mọi văn bản (miễn là phù hợp với quy tắc) nhưng độ phức tạp của các quy tắc có thể tăng cao nếu ngôn ngữ có nhiều trường hợp bất quy tắc trong phát âm. Hầu hết các hệ thống tổng hợp giọng nói đều dùng kết hợp cả hai cách.
Một số ngôn ngữ, như tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Việt, có hệ thống viết dựa trên cách phát âm một cách rất có quy tắc, và việc tiên đoán cách phát âm từ cách viết thường có tỷ lệ thành công cao. Các hệ thống tổng hợp giọng nói cho các ngôn ngữ này thường dùng chủ yếu cách dựa trên quy tắc, chỉ tra từ điển một vài từ đặc biệt như tên vay mượn từ nước ngoài.
Một số ngôn ngữ khác, như tiếng Anh, có hệ thống phát âm rất bất quy tắc, thường cần hệ thống tổng hợp giọng nói dựa chủ yếu trên từ điển và dùng các quy tắc cho những từ không có trong từ điển.
Ngôn ngữ đánh dấu cho tổng hợp giọng nói
Có nhiều ngôn ngữ đánh dấu đã được hình thành cho việc tạo giọng nói từ văn bản, phù hợp với chuẩn XML. Một ví dụ cho ngôn ngữ kiểu này là SSML được W3C đề xuất. Các ngôn ngữ đánh dấu cũ hơn có SABLE và JSML. Các ngôn ngữ này đều được đề xuất là chuẩn chung, nhưng chưa có ngôn ngữ nào được dùng đủ rộng rãi để thiết lập thành chuẩn chung.
Một tập con của CSS 2 chứa ACSS cũng phục vụ mục đích tổng hợp giọng nói.
Ngôn ngữ đánh dấu tổng hợp giọng nói khác với ngôn ngữ đánh dấu đàm thoại (như VoiceXML). Các ngôn ngữ đánh dấu đàm thoại, ngoài chứa các thông tin chuyển văn bản sang giọng nói, còn có các thẻ cho phép nhận dạng giọng nói, quản lý đàm thoại và thông tin về quay số điện thoại bằng âm thanh.
Các hệ điều hành có tổng hợp giọng nói
Mac OS và Mac OS X
Hệ thống tổng hợp giọng nói đầu tiên được tích hợp vào trong một hệ điều hành là Macintalk trên máy tính Macintosh của hãng Apple Inc. năm 1984. Apple Inc. là một trong những nhà sản xuất đầu tiên đưa hệ thống tổng hợp giọng nói vào các hệ điều hành thương mại. Trong những năm 1990, các giọng nói của Apple được tổng hợp từ các mẫu tự nhiên. Tuy nhiên gần đây, Apple đã thêm các mẫu giọng nói tổng hợp, là Vicki và Bruce - đặt tên theo giáo sư và nghiên cứu sinh tại khoa ngôn ngữ học UCLA, những người đã cung cấp các mô hình giọng nói này. Các phần mềm đầu tiên chỉ có ý định gây sự tò mò cho khách hàng và không được Apple hỗ trợ trực tiếp; tuy nhiên hệ thống tổng hợp giọng nói của máy tính Macintosh đã tiến hóa thành một chương trình được hỗ trợ đầy đủ cho người khiếm thị.
AmigaOS
Hệ điều hành thứ hai trên thị trường tích hợp hệ thống tổng hợp giọng nói là AmigaOS năm 1985. Hệ thống này được cấp phép cho Commodore International từ một bên thứ ba là một hãng phần mềm (Don't Ask Software, nay là Softvoice, Inc.) và nó có một hệ thống mô phỏng giọng người hoàn chỉnh, có cả giọng nam và giọng nữ với các âm sắc khác nhau, dùng các tính năng nâng cao của các chip điện tử trong phần cứng Amiga. Nó được chia làm hai phần: phần đọc bình luận và một thư viện dịch thuật. Phần mềm Speak Handler của Amiga có phần dịch thuật văn bản sang tiếng nói, dùng hệ thống tổng hợp âm vị ARPAbet. AmigaOS coi hệ thống tổng hợp giọng nói như một thiết bị phần cứng ảo, nên người dùng có thể chuyển tín hiệu ra từ phần mềm khác đến nó giống như đến máy in hay màn hình. Một số phần mềm trong Amiga, như trình soạn thảo văn bản, dùng nhiều hệ thống này.
VOCALOID
Vocaloid là một phần mềm tổng hợp giọng hát. Phần xử lý tín hiệu của nó được phát triển thông qua một dự án nghiên cứu chung do Kenmochi Hideki đứng đầu tại Đại học Pompeu Fabra ở Barcelona, Tây Ban Nha, vào năm 2000 và ban đầu không được dự định là một dự án thương mại đầy đủ. Được hỗ trợ bởi tập đoàn Yamaha, nó đã phát triển phần mềm thành sản phẩm thương mại "Vocaloid". Phần mềm cho phép người dùng tổng hợp "ca hát" bằng cách gõ vào lời bài hát và giai điệu. Nó sử dụng công nghệ tổng hợp với giọng hát được ghi lại đặc biệt của các diễn viên lồng tiếng hoặc ca sĩ. Để tạo một bài hát, người dùng phải nhập giai điệu và lời bài hát. Một giao diện kiểu cuộn piano được sử dụng để nhập giai điệu và lời bài hát có thể được nhập trên mỗi ghi chú. Phần mềm có thể thay đổi sự căng thẳng của cách phát âm, thêm hiệu ứng như rung, hoặc thay đổi động lực và giai điệu của giọng nói.
Nhiều ngân hàng giọng (voicebank) đã được phát hành để sử dụng với công nghệ tổng hợp Vocaloid. Mỗi phần mềm của một Vocaloid là "một ca sĩ trong một chiếc hộp" được thiết kế để hoạt động như một sự thay thế cho một ca sĩ thực sự. Như vậy, chúng được giải phóng dưới hình thức nhân học moe. Những avatar này cũng được gọi là Vocaloid, và thường được bán dưới dạng thần tượng ảo; một số đã tiếp tục biểu diễn tại các buổi hòa nhạc trực tiếp dưới dạng chiếu Hologram trên sân khấu. Phần mềm ban đầu chỉ có các giọng hát bằng Tiếng Anh và Tiếng Nhật, sau đó tới chương trình Vocaloid 3 trở đi, nó đã có Tiếng Trung, Tiếng Tây Ban Nha và Tiếng Triều Tiên.
UTAU
UTAU là một ứng dụng tổng hợp tiếng Nhật được tạo ra bởi Ameya / Ayame. Chương trình này tương tự như phần mềm Vocaloid, với sự khác biệt là phần mềm chia sẻ thay vì được phát hành theo giấy phép của bên thứ ba. Vào tháng 3 năm 2008, Ameya / Ayame đã phát hành UTAU, một phần mềm chia sẻ công cụ hỗ trợ miễn phí, nâng cao được thực hiện miễn phí để tải xuống từ trang web chính của nó. UTAU, có nghĩa là "hát" bằng tiếng Nhật, có nguồn gốc từ hoạt động của "Jinriki Bōkaroido" (人力ボーカロイド, Manual Vocaloid), nơi người ta chỉnh sửa một ca khúc hiện có, trích âm, điều chỉnh, và ráp lại chúng để tạo ra một Vocaloid giọng hát tuyệt vời. UTAU ban đầu được tạo ra để hỗ trợ quá trình này bằng cách sử dụng tổng hợp ghép nối. UTAU có khả năng sử dụng các tệp sóng do người dùng cung cấp, để giọng hát có thể được tổng hợp bằng cách giới thiệu lời bài hát và giai điệu. Nó đi kèm với bộ tổng hợp giọng nói của AQUEST "AquesTalk" để tổng hợp các mẫu giọng nói của voicebank mặc định, Utane Uta (cũng có biệt danh là Defoko) trong lần ra mắt đầu tiên của UTAU (sau đó máy phát tự xóa). Tiếng nói cho chương trình UTAU được chính thức gọi là "UTAU" nhưng thường được gọi là "UTAUloids", tham chiếu đến "Vocaloids". Chúng cũng được gọi là "voicebanks" (phổ biến hơn trong các khu vực nói tiếng Anh) và "(voice) libraries" ở Nhật Bản. Vô số voicebanks đã được phát triển bởi người dùng độc lập. Các khẩu lệnh này thường được phân phối trực tiếp từ người sáng tạo của họ thông qua tải xuống qua internet.
UTAU chủ yếu là một chương trình tiếng Nhật và do đó nhiều tiếng nói được tạo ra đặc biệt cho tiếng Nhật. Tuy nhiên, các ngôn ngữ đã được mở rộng và có nhiều UTAUloids song ngữ, chủ yếu là hát bằng tiếng Nhật và tiếng Anh. Trong khi có một số lượng lớn UTAU song ngữ, UTAU đa ngôn ngữ cũng đã được thực hiện có thể hát bằng ba hoặc nhiều ngôn ngữ (hiện đã có một số UTAU Tiếng Việt được phát hành và được mở rộng bởi người Việt Nam). Bất kể ngôn ngữ, các menu phần mềm vẫn còn bằng tiếng Nhật và máy tính của người dùng phải ở trong miền địa phương của Nhật Bản hoặc sử dụng AppLocale để chạy phần mềm. Hầu hết tài liệu của nó là bằng tiếng Nhật, nhưng tài liệu hướng dẫn sử dụng của nó đã được dịch sang tiếng Anh. Gần đây, chương trình đã được người dùng dịch sang tiếng Anh và các bản dịch khác vẫn đang chờ xử lý. Tuy nhiên, ngay cả với bản dịch, chương trình vẫn yêu cầu hỗ trợ cho văn bản tiếng Nhật.
Các tệp dự án của UTAU được lưu trong phần mở rộng ".ust" (Utau Sequence Text). Các tệp này có thể được phân phối tự do, cho phép UTAU khác nhau hát cùng một phần. Điều quan trọng cần lưu ý là các nguyên tắc mà người sáng tạo UST đã cung cấp về phân phối và sử dụng.ust. Các nhà sản xuất đã phát triển một số phương pháp sản xuất các ngân hàng âm thanh của họ và kết quả cho voicebanks khác nhau vì điều này.
Không giống như Vocaloid, các tệp UTAU không bị hạn chế vì nó không phải là một giấy phép dựa trên độc quyền. Do đó, có thể sử dụng các sản phẩm giấy phép nguồn mở với phần mềm UTAU, chẳng hạn như các sản phẩm được sản xuất cho loạt Macne (Mac 音 シ リ ー ズ), được phát hành cho các chương trình Lý do 4 và GarageBand. Những sản phẩm này đã được Act2 bán và bằng cách chuyển đổi định dạng tệp của họ, cũng có thể làm việc với chương trình UTAU. Sau đó, các gói Macne Whisper ☆ Thiên thần Sasayaki, Macne Nana 2S và Macne Petit 2S đi kèm với voicebanks UTAU dựng sẵn.
Voicebank mặc định "Defoko" (Uta Utane) vay mượn giọng nói của cô từ phần mềm AquesTalk, đặc biệt là giọng nói "AquesTalk Female-1" được sản xuất bởi A-quest. Giấy phép đã được cấp cho bản phân phối của cô miễn phí với phần mềm. Koe Utane, "chị em" của Uta, cũng mượn giọng nói của cô từ phần mềm AquesTalk. Namine Ritsu (波音 リ ツ), một giọng hát ban đầu được xây dựng cho UTAU, sau đó được thêm vào một phần mềm khác có tên "Sinsy" là "Namine Ritsu S".
Do thỏa thuận bản quyền của phần mềm, phần mềm giấy phép không mở như VOCALOID không được phép nhập vào phần mềm UTAU.Một số plug-in cho phần mềm cũng đã được phát triển bởi người dùng phần mềm bổ sung và nâng cao giọng hát của phần mềm.
Phần mềm "Sugarcape", dựa trên cùng một ý tưởng phần mềm miễn phí như UTAU, đã bước vào giai đoạn beta. Hiện tại có một phiên bản Mac chính thức của UTAU, có tên là UTAU-Synth. Nó có các tính năng tương tự như phiên bản Windows. Phiên bản UTAU-Synth có thể nhập cả giọng nói và bài hát được tạo bằng phiên bản Windows, nhưng các tệp dự án và cấu hình voicebank của nó không hoàn toàn tương thích với phiên bản Windows.
Vào cuối năm 2017, Plogue Art et Technologie, Inc. đã có một bản chuyển hướng chuyển hướng làm việc để làm cho giọng hát của UTAU xuất hiện trong engine Alter / Ego.
Microsoft Windows
Các hệ điều hành Windows hiện đại dùng các hệ thống tổng hợp giọng nói dựa trên SAPI4 và SAPI5, kèm theo máy nhận dạng giọng nói. SAPI 4.0 có mặt trên các hệ điều hành như Windows 9x.
Nhiều phần mềm, như mIRC, dùng nhiều chức năng trong SAPI 4.0 hay SAPI 5.0. Windows XP có phần mềm Narrator. Hầu hết các phần mềm tương thích với Windows như Notepad, Office hay Adobe Acrobat có thể dùng các tính năng tổng hợp giọng nói; tùy theo lựa chọn trên trình đơn sau khi đã cài đặt. Chúng cung cấp hỗ trợ cho người khiếm thị.
Một ví dụ về việc SAPI 5 cho phép một phần mềm kết hợp công nghệ của Microsoft thành một màn hình nền có tính tương tác cao là Talking desktop. Phần mềm này kết hợp chức năng nhận dạng giọng nói với các phát âm của SAPI 5.
Microsoft Speech Server là một gói hoàn chỉnh để tổng hợp và nhận dạng giọng nói, và có thể ứng dụng cho các hệ thống liên lạc điện thoại có máy tính dùng Windows.
GNU/Linux
Có rất nhiều hệ thống tổng hợp giọng nói cho GNU/Linux và đều có mã nguồn mở. Ví dụ bao gồm Festival, của Đại học Edinburgh, hay gnuspeech, của Tổ chức Phần mềm Tự do.
TI-99/4 và TI-99/4A
TI-99/4 (1979) và TI-99/4A (1981) có thể đọc văn bản ở chế độ đọc từng chữ và đọc cả đoạn.
Trong máy TI Extended BASIC, lệnh CALL SAY có thể được dùng. Ví dụ, CALL SAY("I AM A TEXAS INSTRUMENTS T I 99 4 A HOME COMPUTER") sẽ khiến nó nói về bản thân với giọng Texas. Trong hệ thống này, ở chế độ đọc cả từ, các từ lạ sẽ được phát âm bằng cách đọc từng chữ cái. Ở chế độ đọc từng chữ cái, chất lượng giảm hẳn, dù hệ thống sẽ đọc bất cứ văn bản nào gửi đến nó.
TI-99/4 (1979) và TI-99/4A (1981) chứa các bộ vi xử lý 16-bit.
Alter/Ego
Alter / Ego (Al ル タ ー ・ エ) là một phần mềm tổng hợp giọng hát thời gian thực được tạo ra bởi Plogue.
Alter/ Ego tổng hợp văn bản thành giọng nói nhằm tạo ra nhiều giọng hát hiện đại hơn, làm việc để đăng các nghiên cứu năm 1990. Nó được cung cấp như một plug-in miễn phí và được sử dụng để làm nhạc để tạo ra giọng hát. Nó hoạt động theo cách tương tự với Chipspeech. Giọng hát được cắt sạch mặc dù âm thanh robot và phần mềm lý tưởng cho thử nghiệm giọng hát. Nó có khả năng chạy các công cụ phát biểu khác nhau.
Hiện tại chỉ có 1 bản phát hành cho phần mềm, nhưng nhiều hơn là do được phát hành theo các phong cách khác nhau. Các giọng hát phát hành được mua riêng. Các giọng hát đến như các tập tin cần phải được trích xuất khi họ thiếu trình cài đặt. Theo thời gian, Plogue đã nhận được nhiều yêu cầu thanh nhạc từ các cá nhân kể từ khi phát hành phần mềm, tuy nhiên chúng bị giới hạn bởi nhóm phát triển nhỏ và bận rộn. Theo ghi nhận của BPB, Alter / Ego được ca ngợi là một công cụ mạnh mẽ theo tiêu chuẩn của phần mềm tự do. Tuy nhiên, nó có một đường cong học tập dốc, mặc dù được đánh dấu là dễ dàng như thế nào để có được bộ tổng hợp để hát lời bài hát, gọi sản phẩm là "vui" để làm việc với general.Later vào tháng 12 năm đó, phần mềm được trao giải nhì 50 danh sách dụng cụ miễn phí
Tạp chí âm nhạc máy tính (Computer Music magazine) cũng đã giới thiệu bộ tổng hợp vào tháng 12 năm 2015.
Vào tháng 1 năm 2016, đã có thông báo rằng có 6 giọng hát mới trong sản xuất. Không có nhiều giọng hát là do sau khi Leora và Marie Orks cuối cùng hai bản cập nhật thanh nhạc. Plogue có kể từ đó chuyển sang các thích ứng khác của động cơ. Một sự thích ứng như vậy là khả năng cho động cơ phát hiện tiếng nói chuyển văn bản thành giọng nói của Microsoft và tải chúng vào động cơ. UTAU cũng đã được thử nghiệm. Plogue lưu ý rằng động cơ được thiết kế để có người dùng thực hiện hỗ trợ giọng hát ngay từ đầu, mặc dù điều này vẫn chưa được thực hiện do thiếu sự hỗ trợ cho điều này.
Cantor
Cantor là một phần mềm tổng hợp giọng hát được phát hành bốn tháng sau khi phát hành ban đầu của Vocaloid bởi công ty VirSyn, và được dựa trên ý tưởng tương tự của synethesizing tiếng nói của con người. VirSyn phát hành phiên bản tiếng Anh và tiếng Đức của phần mềm này. Cantor 2 khoe khoang nhiều giọng nói từ những âm thanh gần như thực tế đến giọng hát biểu cảm cao và giọng nói robot.
Cantor không dựa trên các mẫu ca hát, và kết quả của nó được tái tạo bằng một công cụ tổng hợp phụ gia biến hình có nguồn gốc từ bộ tổng hợp phần mềm Cube của VirSyn. Nó được sử dụng để tạo ra 39 âm vị mà VirSyn sử dụng để tái tạo giọng nói hay ca hát tiếng Anh. Mỗi âm vị được tạo ra bằng cách truyền đi một nguồn âm thanh cộng thêm thông qua một bộ lọc formant, nó biến đổi giữa trạng thái bắt đầu và trạng thái kết thúc. Các đáp ứng bộ lọc này có thể chỉnh sửa được: Có thể xác định tối đa sáu đỉnh và ba đáy trong phản ứng bộ lọc formant là các điểm morph. Cantor 2 cung cấp 20 giọng hát sẵn sàng để sử dụng bằng tiếng Anh và tiếng Đức và thêm nhiều tiếng nói mới trên phần mềm Cantor gốc, nâng tổng cộng lên 50 giọng nói.
Máy phát âm thanh được sử dụng kết hợp tổng hợp phụ gia và điêu khắc tiếng ồn mà nó sử dụng đặc biệt cho 50 âm thanh lồng tiếng được cung cấp bởi phần mềm như được đặt làm bộ hoàn chỉnh cho âm thanh chưa được phát âm. Khái niệm về âm thanh được lồng tiếng và không rõ ràng là phức tạp nhưng đã được sử dụng để mô tả cách Cantor có thể nắm vững khả năng ngôn ngữ của nó trong lời nói của con người. Đối với âm thanh lồng tiếng, synth phụ gia điều khiển thành phần âm thanh của âm thanh (dây thanh âm), trong khi tiếng ồn synth kiểm soát thành phần hơi thở (thì thầm). Nó kiểm soát lên đến 256 partials. Khi người dùng tăng cao hơn vào quãng tám, những người này trở thành nhóm được kiểm soát. Đối với những người đã sử dụng phần mềm khác của VirSyn, Cantor là những cơ sở quen thuộc và có nhiều điểm chung với những bộ vi xử lý trước đây mà VirSyn đã sản xuất.
Vì thiết kế của nó, nó giống như một nhạc cụ ảo hơn là một ca sĩ ảo. Nó không bao giờ tuyên bố bắt chước một giọng ca sĩ thực sự và được dự định hoàn toàn cho các hiệu ứng đặc biệt. Mặc dù nó là phức tạp, Cantor được coi là một thiết kế đơn giản tổng thể và tương đối dễ sử dụng cho mục đích của nó.
Nó lưu trữ các khả năng của VST, AU và RTAS. Bởi bản phát hành của Cantor 2, định dạng tệp midi hoàn toàn có chức năng. Nó có thể hoạt động như một phần mềm độc lập hoặc như một plugin; có sự khác biệt nhỏ giữa phần mềm cho cả hai. Nó hoạt động như một phần mềm độc lập hoặc plug-in và hỗ trợ ReWire. Mặc dù nó được phát hành bằng tiếng Đức và tiếng Anh, với sự điều chỉnh của âm thanh đầu ra nó đã có thể tái tạo các ngôn ngữ giọng hát ngoài này và bắt chước các ngôn ngữ khác.
Cantor được phát hành sau khi động cơ Vocaloid gốc và được coi là một phần mềm phù hợp để cạnh tranh với động cơ Vocaloid của Yamaha, sau đó chỉ được biết đến ở bán cầu tây bởi Vocaloids 'Leon', 'Lola' và 'Miriam'. Cantor đạt đến một mức độ tổng hợp giọng hát mà chưa đạt được.
Một bản demo của phần mềm đã được phát hành. Nó yêu cầu mua một dongle elicence để tải về bản demo, cũng như các phần mềm đầy đủ nếu nó được mua điện tử. [1] Phiên bản cuối cùng, Cantor 2.1 được phát hành vào ngày 6 tháng 2 năm 2007. Mặc dù các bản cập nhật đã ngừng hoạt động, phần mềm này chưa bao giờ bị xóa khỏi bán hàng. Album Light + Shade của Mike Oldfield có cả ca khúc Vocaloid 'Miriam' cùng với phần mềm Cantor trong bài hát "Tears of a Angel" (nước mắt Thiên thần). Mặc dù là một chương trình đối thủ với Vocaloid, nó có thể được mua trên trang web của Crypton Future Media.
CeVIO
CeVIO là tên tập thể của một loạt các dự án phần mềm máy tính, bao gồm Vision (digital signage) và Creative Studio (phần mềm tạo âm thanh). CeVIO được tạo ra để hỗ trợ việc tạo nội dung do người dùng tạo. Nó hoạt động thông qua phương pháp chuyển văn bản thành giọng nói. Nó cho phép phần mềm tạo âm thanh để tổng hợp giọng nói và giọng nói. Bài phát biểu và bài hát là các tính năng chính của chương trình này. Phần Speech cung cấp một từ điển lớn các từ mà Sato Sasara, Suzuki Tsudumi và Takahashi nói và chính xác bằng tiếng Nhật, mặc dù bạn có tùy chọn tự chỉnh sửa nó nếu cần thiết. Phần Speech được tạo ra với sự trợ giúp của phương pháp HTS, phương pháp này nổi tiếng trong cơ sở người hâm mộ VOCALOID vì phương pháp này tạo ra các bộ tổng hợp trực tuyến Sinsy, Open J-Talk, Renoid Player, và nhiều hơn nữa. Phần Speech cung cấp các loại giọng nói khác nhau cho mỗi nhân vật.
Ngữ điệu giọng nói của CeVIO Creative Studio có thể được điều khiển bằng ba thông số: vui vẻ, tức giận và buồn. Những thứ khác cũng có thể được kiểm soát, chẳng hạn như âm lượng và tốc độ của phụ âm và nguyên âm.
Phần mềm ban đầu được phát hành là "CeVIO Creative Studio FREE" với Sato Sasara là giọng nói duy nhất. Một là miễn phí để tạo ra các bài hát, chèn lời bài hát, và thêm hơi thở vào cuối các ghi chú, nhưng ngay cả sau đó những người sẽ bị cuốn vào cuối của cô đã tự động thiết lập hơi thở. Bất cứ điều gì khác sẽ yêu cầu phần mềm bên ngoài nhưng không thực sự ngăn chặn sự xáo trộn của quá trình chuyển đổi nguyên âm của cô. Sau khi phát hành "CeVIO Creative Studio S" vào ngày 14 tháng 11 năm 2014, phiên bản MIỄN PHÍ đã được thay thế bằng bản dùng thử miễn phí một tháng của phiên bản đầy đủ. Phiên bản demo miễn phí không còn có sẵn kể từ ngày 19 tháng 11 năm 2014.
Trong phiên bản đầy đủ, nhiều tùy chọn để tinh chỉnh trở nên khả dụng. Fine-Tune Amplitude Timing, cho phép chỉnh sửa choppiness. Quảng cáo chiêu hàng có thể được điều chỉnh như trước đây, nhưng giờ đây cũng có thể chỉnh sửa âm thanh nổi, cùng với thời gian rung và rung cũng có thể chỉnh sửa được. Quan trọng nhất, khối lượng và động lực có thể được chỉnh sửa. Yếu tố giới tính cũng có sẵn, điều này làm cho giọng nói kém hoặc trưởng thành hơn. Tùy chọn để nhập MIDI và.xml vẫn tồn tại. Phần mở rộng của tệp cũng đã thay đổi từ ".ccs" thành ".csv" của phiên bản miễn phí.
Chipspeech
Chipspeech là một phần mềm tổng hợp giọng hát được tạo ra bởi Plogue với mục tiêu tái tạo các bộ tổng hợp năm 1980.
Phần mềm này được sử dụng để tạo giọng hát để sử dụng trong âm nhạc. Chipspeech được thiết kế để sản xuất giọng hát kiểu cổ điển từ các bộ tổng hợp được sử dụng bởi ngành công nghiệp âm nhạc trong những năm 1980. Do đó, giọng hát không có ý nghĩa thực tế và phù hợp hơn cho thử nghiệm âm thanh. Nó hoạt động như một phương pháp Text-to-speech. Người dùng gõ lời bài hát vào và nhận kết quả phát ngay lập tức, đó là một khả năng vượt ra ngoài soundchips gốc mà giọng hát phần mềm được dựa trên. Phần mềm đơn giản như Vocaloid. Mặc dù tiếng Anh và tiếng Nhật đến như là tiêu chuẩn, các ngôn ngữ khác có thể được tạo ra bằng cách nhập trực tiếp các âm tiết. Mặc dù giọng hát giống như con người có thể đạt được, kết quả luôn luôn là máy hơn là giống như con người. Nó có khả năng các phương pháp tổng hợp khác nhau hoặc tái lấy mẫu. Ngoài phiên bản 1.032 của phần mềm, chương trình "Nói và Chính tả" mới được thêm vào tạo tính năng uốn mạch.
Bản thân Chipspeech được tạo ra như là kết quả của nghiên cứu cho Chipsounds bởi Plogue trong những năm 2000. Bản thân David Viens thường xuyên thu thập Soundchips ngay cả khi không cần chúng. Sự ám ảnh này cuối cùng dẫn đến các sự kiện tiếp theo đã tạo ra phần mềm Chipspeech sau khi ông đã trải qua nhiều năm hack, chế tạo protoboard, thăm dò và kỹ thuật đảo ngược của các chip thoại. Ông lưu ý rằng mục tiêu chính của phần mềm là trở thành một trình mô phỏng ca hát chứ không phải là phần mềm chuyển văn bản thành giọng nói. Dữ liệu nguồn của mỗi giọng hát là 8 kHz hoặc 10 kHz. Mặc dù tất cả nỗ lực của họ, dự án đã dừng lại. Hubert Lamontagne đến với công ty Plogue với kiến thức về ngữ âm, Hubert đã quan tâm đến việc tạo ra một bộ tổng hợp âm thanh cổ điển, ông đã thiết kế bộ tổng hợp để làm việc ngoài việc trở thành một thư viện âm thanh.
Ban đầu nó xuất hiện với 7 "ký tự" khi mua, nhiều giọng hát đã được thêm vào từ đó và tiếp tục được thêm vào. Những nhân vật đi kèm với cốt truyện của riêng mình và được dựa trên một bộ tổng hợp âm thanh. Giải trí của những tiếng nói đã được thực hiện với sự cho phép từ người có giấy phép tương ứng của họ. Bản thân Plogue đã giành được quyền đối với dữ liệu bài phát biểu từ ba trò chơi TI-99 / 4A (Alpiner, Parsec và Moon Mine) và từ vựng nội bộ của Thiết bị nói tiếng TI. Quá trình giành quyền cho giọng hát đã mất hơn 10 năm, vì công ty không muốn coi thường chủ bản quyền ngay cả khi gặp các vấn đề như chủ giấy phép đã phá sản. Và mặc dù công nghệ này dễ thi đua, nhưng dữ liệu cần thiết cho mô phỏng thì không.
Vào tháng 1 năm 2016, Plogue thông báo rằng Hubert Lamontagne đã tìm ra cách để cải thiện chất lượng. Vào ngày 9 tháng 2, Vers. 1.066 đã được phát hành. Lỗi cố định này với Deeklatt và Otto Mozer. Những cải tiến về giọng nói cho Dandy 704 và Bert Gotrax đã được lên kế hoạch cho bản phát hành tiếp theo và được cập nhật trong 1.072. Một số giọng hát như Dandy 704 bị hạn chế bởi cách xa chúng có thể được cải thiện. Ngoài ra, Chipspeech sẽ nhận được khả năng nói chuyện cũng như hát trong bản cập nhật lớn tiếp theo của nó. Chipspeech cũng đã được xuất khẩu sang Nhật Bản trong tháng 6 năm 2016.
Việc tiếp nhận phần mềm chủ yếu là tích cực. Nó đã giành được 3 giải thưởng Âm nhạc máy tính; Lựa chọn, hiệu suất và sự đổi mới của biên tập viên. Phần mềm này được mô tả như một sản phẩm được đánh bóng tại buổi đánh giá MusicRadar của họ và được ghi nhận là "rất nhiều niềm vui để sử dụng".
AskAudio trong bài "Voice of the Machines" của họ tập trung vào thực tế là với việc nâng cao phần mềm Autotuning, con người luôn được yêu cầu. Chipspeech cho phép một cách tiếp cận hoài cổ để tổng hợp giọng hát với giọng hát của nó đến hoàn toàn từ một máy tính. Nó liệt kê các mặt tích cực của phần mềm là "Cực kỳ độc đáo, khá dễ sử dụng, âm thanh tuyệt vời, giá cả phải chăng" nhưng lưu ý là điểm yếu chính của nó là làm thế nào phần mềm căng thẳng CPU.
CDM, người đã được cấp quyền truy cập sớm độc quyền vào phần mềm, cũng nhấn mạnh cách các nhà tổng hợp hiện đại "nhàm chán" đã trở thành và tập trung vào "niềm vui" mà phần mềm cung cấp. Một trong những thành tích nổi bật của phần mềm này là làm thế nào hiếm một số chip lịch sử mà nó nhằm mục đích tái tạo đã trở thành.
Vào tháng 8 năm 2016, Chipspeech đứng đầu top 25 bảng xếp hạng nhạc cụ ảo tại Sonicwire, thuộc sở hữu của Crypton Future Media, đánh bại các sản phẩm Vocaloid của họ như Hatsune Miku mà thường thống trị bảng xếp hạng của họ.
Phiên bản 1.5 đã được phát hành vào ngày 16 tháng 9 năm 2016, thêm khả năng nói chuyện, điều chỉnh nâng cao và hai giọng hát mới "Rotten.ST" và "CiderTalk'84" dựa trên giọng hát của 16 giai đoạn cắn.
Vào năm 2017, Voder và Software Automatic Mouth đã được thông báo đến với phần mềm vào năm 2017.
LaLaVoice
LaLaVoice (ラ ラ ボ イ ス) là một bộ tổng hợp giọng hát được thiết kế cho tiếng Nhật.
Phiên bản cuối cùng của phần mềm có tiêu đề "LaLaVoice2001". Phần mềm này chỉ được phát hành bằng tiếng Nhật và một hệ điều hành tiếng Nhật là cần thiết cho phần mềm.
LaLaVoice có một số khả năng, mà nó chủ yếu đạt được từ đầu vào text-to-speech cơ bản, mặc dù nó cũng có thể nhập các âm thanh bằng cách sử dụng một micro. Cũng như đọc văn bản đơn giản, nó có khả năng tạo ra giọng ca hát ("LaLaSong") và đọc các khung trang web cụ thể. Giọng hát đã vang lên khi chơi. Bản thân giọng hát được dựa trên một họ các nhân vật từ các thành viên thực tế hơn của gia đình (như bà, gái, trai, ông, vv) cho những người dự định là linh hồn dựa trên robot.
Phần mềm này cũng hỗ trợ Microsoft Office và có thể được sử dụng với Excel hoặc Word và thậm chí có thể đọc e-mail.
Chức năng cuối cùng của phần mềm là một chế độ mà một con thỏ được gọi là "SuPaamimi" ("す ぅ ぱ ぁ み み") sẽ hoạt động như một chương trình quản lý lịch biểu. SuPaamimi cài đặt với một liên kết trên máy tính để bàn và sẽ đọc các cuộc hẹn ra.
NIAONiao Virtual Singer
NIAONiao Virtual Singer (Tiếng Trung: 袅袅 虚拟 歌手, bính âm: Niǎoniǎo xūnǐ gēshǒu), là một ứng dụng tổng hợp giọng hát miễn phí được xây dựng cho tiếng Trung và là trình tổng hợp giọng hát đầu tiên được sản xuất tại Trung Quốc. Phần mềm này hoạt động tương tự như phần mềm Vocaloid của Yamaha và một phần mềm chia sẻ miễn phí khác được gọi là UTAU.
Các voicebank mặc định được đặt tên là Yu Niaoniao (余 袅袅), tuy nhiên các voicebanks bổ sung có thể được thực hiện thủ công để tạo ra giọng hát mới và các ngôn ngữ bổ sung là có thể. Trang web cho phần mềm cung cấp một số giọng hát khác để tải xuống.
Các mẫu chính được đóng gói trong một tệp lớn duy nhất. NIAONiao có thể có phụ âm cuối cùng trong một giọng nói, vì nó được xây dựng cho ngôn ngữ Trung Quốc. Có một bảng điều khiển ở phía dưới để kiểm soát các thông số, pitchbends và vibrato.
NIAONiao có thể nhập các tệp MIDI, tệp VSQX và tệp UST, xuất các bản nhạc ở định dạng tệp "Niao" (*.nn) và có thể hiển thị trực tiếp các bản nhạc thanh âm dưới dạng tệp WAV, MP3 hoặc MIDI.
Sharpkey
Sharpkey là một chương trình tổng hợp giọng nói được phát triển và phát hành bởi Boxstar vào năm 2016. Sharpkey là một hit trong cộng đồng VOCALOID hiện tại và dẫn đến sự sáng tạo và tham gia của các nhà sản xuất, bài hát và thậm chí cả hàng hóa.
Mặc dù tồn tại ngắn của Sharpkey, nó tạo ra 6 giọng nói riêng lẻ như Huan Xiao Yi, Kiana, Yuan Xiao, và nhiều hơn nữa. Nó cũng bắt đầu dự án Sharpkey Galaxy liên quan đến người hâm mộ trong việc tạo ra tiếng nói mới và hỗ trợ trong việc nêu rõ niềm tin của Sharpkey rằng âm nhạc nên được miễn phí cho tất cả mọi người.
Realivox
Realivox là một bộ tổng hợp giọng nói. Phần mềm cho phép chỉnh sửa và điều chỉnh âm thanh tinh tế. Phần mềm này có hai dạng, mặc dù cả hai đều nhắm đến mục tiêu tương tự. Nó cũng có thể làm việc với Kompakt.
Realivox Ladies: Đây là một phiên bản nhiều gói với 5 giọng nữ với mỗi giọng hát khác nhau - Cheryl (giọng hát thoáng mát được thiết kế cho các bộ phim), Teresa (ca sĩ opera soprano), Patty (nhạc pop và nhạc dân tộc), Julie (full phạm vi) và Toni (RnB). Không giống như Blue, Ladies tập trung vào 32 mẫu âm thanh chính đơn giản như "ah". Do mỗi trường hợp sử dụng tùy chọn lựa chọn giọng nói, có thể xây dựng giọng hát để tạo ra một dàn hợp xướng âm thanh bằng cách sử dụng năm giọng hát. Các gói đến như là một phiên bản "lite" hoặc "đầy đủ", với sự khác biệt là Teresa vắng mặt trong phiên bản lite. Gói này cũng đã được cập nhật lên phiên bản 2 kể từ khi phát hành ban đầu. Phiên bản cập nhật chứa gấp đôi số lượng khớp nối như bản gốc. Bản nâng cấp được cung cấp cho những người đã mua phiên bản đầu tiên miễn phí. Bản cập nhật được thực hiện với các bản ghi âm mới từ các ca sĩ gốc.
Realivox - Blue: Đây là một ca khúc phong cách cổ điển với một ca sĩ nữ solo. Trái ngược với sản phẩm "Realivox Ladies", Blue là một gói phức tạp hơn với các tính năng nâng cao. Giọng hát của cô phức tạp với 12.000 mẫu với 32 mẫu âm thanh bao gồm hai và một nửa quãng tám của kết quả hát, trong khi phụ âm đóng có 192 mẫu cho một số âm thanh như "t". Tất cả sáu nguyên âm chứa kết quả legato, điều này cũng được bao gồm cho âm thanh ồn ào âm thanh như "mm". Cô cũng có khả năng đa âm. Cô được thiết kế để trở thành một giọng hát giữa giọng hát và có tông màu trung thực. Các mẫu được kết hợp để xây dựng từ, với sự chuyển tiếp giữa các âm thanh gần như vô hình. Cô được phát hành vào ngày 26 tháng 5 năm 2014.
VOCALINA
VOCALINA (보카 리나) là một bộ tổng hợp giọng nói "văn bản thành giọng nói", đó là công nghệ tổng hợp giọng nói đầu tiên (Ca hát TTS Technology) được phát triển tập trung vào tiếng Hàn và tập trung vào ca hát. Nó được thiết kế để dễ sử dụng và tạo ra kết quả hát chất lượng cao. Nó được sử dụng và ca hát bằng tiếng Hàn, và có chức năng tương tự như của động cơ tổng hợp Vocaloid. Sử dụng trình soạn thảo người dùng có thể thay đổi độ cao giọng hát (Pitch), động lực (Dynamics), Vibe khẩu phần (Rung), Reverb (REV) và Echo (ECO) để có kết quả tốt hơn. Vì nó là một Studio, người ta có thể kết hợp các giọng hát ngay lập tức, nhập khẩu BGM là có thể.
Nó được cập nhật lần cuối vào tháng 9 năm 2013 lên phiên bản 2.2.0. Nó bổ sung thêm các chức năng mới như tăng cường khả năng cân bằng và khả năng sử dụng plug-in VST, bộ trộn track cũng được cải thiện. Chất lượng chung đã được cải thiện và âm thanh grating đã được gỡ bỏ, âm thanh tổng thể tổng thể đã được cải thiện rất nhiều trong khi chỉnh sửa và hiệu suất được tăng cường. Một công cụ tìm lời mới và đoạn cắt ngắn đã được thêm vào và hỗ trợ cho các tệp vorbis ogg đã được giới thiệu.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 2016, nó cập nhật thành 2.3 chức năng mới.
Dịch vụ của Vocalina được cho là sẽ chấm dứt vào ngày 1/10/2017. Thỏa thuận này hiện đã được gia hạn thêm 1 năm nữa và dịch vụ sẽ kết thúc vào ngày 1 tháng 10 năm 2018 thay vào đó, với Vocalina là dịch vụ miễn phí cho đến lúc đó.
SynthV
SynthV là phần mềm tổng hợp giọng hát được tạo bởi Dreamtonic. Nó hỗ trợ một số ngôn ngữ khác nhau, như tiếng Anh, tiếng Nhật và tiếng Trung. SynthV tiếng Anh có Eleanor Forte là một giọng nữ tiếng Anh. Cô là một trong những giọng nói đầu tiên được giới thiệu cho phần mềm và là giọng nói đầu tiên được phát hành.
Tên đầu tiên của cô, Eleanor, có nghĩa là "ánh sáng" và là một tên cao quý, họ của cô, Forte, có nghĩa là "sức mạnh", và tham chiếu đến năng động âm nhạc f (forte).
Các SynthV tiếng Trung bao gồm MAN-M1, MAN-F1, AiKO (艾可), Xích Vũ (赤羽), Shian (诗岸), Thương Khung (苍穹) và Hải Y (海伊). SynthV tiếng Nhật gồm JA-F1, Yamine Renri (闇音レンリ) và Genbu (ゲンブ).
Các phần mềm của bên thứ ba
Các hệ thống phát triển bởi bên thứ ba có thể được tích hợp vào trong các hệ điều hành (trừ SAPI) là Lernout & Hauspie (LH) TTS 3000, 1st Read It Aloud!, Total Speech, PCVoz, TextAloud, Read Genius, Speech RealSpeak, IBM ViaVoice và Dolphin Orpheus .
Balabolka: đáng chú ý ở khả năng mở trực tiếp nhiều định dạng tập tin doc, dox, txt, pdf, epub, odt nhanh chóng. Nó cũng có thể chuyển đổi các tập tin sang định dạng mp3, dễ dàng để nghe một tài liệu trên điện thoại hoặc máy nghe nhạc MP3. Thậm chí chuyển đổi hàng loạt tạo ra nhiều tập tin âm thanh của nhiều tài liệu.
TypeIt ReadIt: với giao diện đơn giản và khả năng xuất văn bản của bạn vào một tập tin txt hoặc wav, đây là một phần mềm miễn phí tuyệt vời đơn giản để đọc một cách nhanh chóng. Dán (paste) bất kỳ văn bản (chữ) nào vào cửa sổ của nó, hoặc mở một tập tin txt trực tiếp. Phần mềm sử dụng giọng nói đi kèm với Windows.
Natural Reader Free: Phiên bản miễn phí không thể xuất ra file mp3, nhưng có một giao diện đơn giản để dán và nghe đọc văn bản bằng cách nhấn vào nút play rõ ràng nhìn thấy được.
eSpeak: phần mềm chứa nhiều giọng đọc hoàn toàn khác với những giọng có sẵn trong Microsoft Windows. Chương trình này sử dụng động cơ, bộ máy (engine) của mình. Chương trình có thể mở các tập tin txt và xuất sang định dạng wav. Nó cũng có đôi môi đáng sợ di chuyển. Đó chủ yếu là một chương trình Linux, nhưng cũng được phát triển trên các phiên bản Windows với giao diện không kém phần độc đáo. |
Trần Sâm (1918 - 2009) là một Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam , hàm Thượng tướng , một nhà quản lý khoa học kỹ thuật của Quân đội. Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam kiêm Phó chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch nhà nước nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Vật tư, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật và Tổng cục Kinh tế Quân đội nhân dân Việt Nam<ref
name="tdbkqs1006">Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam 2004 - Trần Sâm (tr. 1006)</ref>, Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV. Huân chương Hồ Chí Minh
Tiểu sử
Thượng tướng Trần Sâm sinh ngày 5/4/1918. Ông quê ở làng Duân Kinh, xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Tên khai sinh là Trần Hầu
Bí danh là Trần Bá, Đinh Vu.
Ông tham gia cách mạng từ năm 1938 và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939.
Tháng 8/1945, ông tham gia lãnh đạo khởi nghĩa và giành chính quyền ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Tháng 9 năm đó, ông được bầu làm Ủy viên Ủy ban tỉnh Quảng Trị.
Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ năm 1946, ông gia nhập Vệ quốc đoàn và trưởng thành từ chính trị viên Chi đội Thiện Thuật, đến Trung đoàn trưởng Trung đoàn 101 (Trung đoàn Trần Cao Vân - Trung đoàn chủ lực của Trị Thiên Huế).
Ngày 18/5/950, ông được cử vào Bộ Tư lệnh Liên khu 4.
Từ năm 1950 đến 1953, ông là Phó chỉ huy trưởng Phân khu Bình Trị Thiên rồi Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 4, Quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1953 đến năm 1957, ông là Cục trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu.
Năm 1954, ông là Ủy viên Đảng ủy tiếp quản Thủ đô, là một trong số 11 uỷ viên do ông Trần Quốc Hoàn làm Bí thư.
Từ năm 1957 đến 1960, ông giữ chức Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1959 ông được phong quân hàm Thiếu tướng, giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, kiêm Viện trưởng Viện Kỹ thuật Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng (từ năm 1960, Viện Kỹ thuật Quân sự trực thuộc Tổng cục Hậu cần - Bộ Quốc phòng được thành lập trên cơ sở Viện Nghiên cứu Quân giới), ông đã được cử làm Viện trưởng đầu tiên, từ năm 1960 đến năm 1963.
Từ năm 1963 đến năm 1965, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần.
2 giai đoạn (1965 -1974 và 1975 -1976), Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
1974 - 1975, Khi Tổng cục Kỹ thuật mới được thành lập, để đảm bảo cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy xuân 1975, Quân uỷ Trung ương đã phân công ông làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật trong thời gian ngắn, giúp cho Chủ nhiệm tổng cục khi đó là Đinh Đức Thiện.
1976 - 1982, Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Chính phủ thành lập mới Bộ Vật tư, ông được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng đầu tiên Bộ Vật tư.
Từ năm 1982 - 1987, ông bàn giao lại chức Bộ trưởng cho ông Hoàng Đức Nghi và trở lại Bộ Quốc phòng giữ chức thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng Kinh tế, hàm Thượng tướng
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IV (nhiệm kỳ 1976- 1982)
Đại biểu Quốc hội các khoá III, V, VII
Ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác.
Thượng tướng Trần Sâm là người quyết định đưa máy tính điện tử vào ứng dụng trong Quân đội và đã đề nghị Nhà nước nhập chiếc máy tính đầu tiên là Minsk-32 cho Quân đội nhân dân Việt Nam
Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 2009
Lịch sử thụ phong quân hàm
Phần thưởng cao quý
Ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng:
Huân chương Hồ Chí Minh.
2 Huân chương Quân công hạng nhất.
2 Huân chương Chiến công hạng nhất.
Huân chương Chiến thắng hạng nhất.
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất.
Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
Chú thích
Người Quảng Trị
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam
Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự
Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương Kháng chiến
Huân chương Chiến công
Huân chương Quân công
Huy chương Chiến thắng
Tư lệnh Quân khu 4, Quân đội nhân dân Việt Nam
Chính ủy Quân khu 4, Quân đội nhân dân Việt Nam
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 1980
Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam |
Kinh Vệ-đà, hay Phệ-đà (tiếng Phạn: वेद; tiếng Anh: Veda) xem như là cỗi gốc của giới Bà La Môn và là suối nguồn của nền văn minh Ấn Độ. Véda có nghĩa là "tri thức". Trong kinh có những bản tụng ca để ca ngợi các vị thần, như thần lửa, thần núi, thần sông... Phần lớn ca tụng những vẻ đẹp huy hoàng, tưng bừng và mầu nhiệm của cuộc sống trong vũ trụ.
Toàn thể bộ kinh được hợp lại từ nhiều phần gọi là sambitâ, gồm bốn tạng:
Rig Véda: thi tụng cái biết, bao gồm gần mười quyển, với 1028 tụng ca mà bài cổ nhất có từ thế kỷ 15 trước Công nguyên và những bài gần nhất cũng khoảng thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Những vị thần được ca tụng nhiều nhất là Indra, Varuna và Agni.
Sâma Véda: ca vịnh thần chú, gồm 585 khổ thơ, tương ứng với các giai điệu được dùng trong những tụng ca hiến tế (hymmes des sacrifices).
Yayur Véda: là một chuỗi các công thức hàm chứa những nghi lễ khác nhau (nghi lễ dâng trăng tròn, trăng mới, nghi lễ dâng các vong nhân, dâng thần lửa, dâng bốn mùa..)
Atharva Véda: triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia - gồm các bài thuyết giáo, có nội dung thiết thực và triết học. Các bài thuyết giáo chứa đựng thông điệp tâm linh căn bản của Ấn Độ giáo . Atharva Véda được lấy tên từ các vị tư tế xưa chuyên lo việc cúng thần lửa, gọi là các Atharvan, gồm những câu phù chú ma thuật và những phù chú trừ ma yểm quỷ.
Trong phần Rig Véda, người ta nhắc đến những con người tự coi là "vượt lên trên cõi trần" (được gọi là các yogin, du-già sư). Khi uống một thứ nước gây say là soma, họ khổ luyện và tự thôi miên và gây nên trạng thái xuất thần và lên đồng. Khi đó, họ tự coi là những người thần thánh nhập vào họ và họ tin rằng mình được ban cho những quyền lực thiên nhiên.
Tư tưởng chủ yếu của Vệ Đà được biến đổi từ Đa thần qua Nhất thần, từ Nhất thần sang lãnh vực Triết học ngang qua ba thời đại: Vệ Đà Thiên Thư (Veda), Phạm thư (Brahman) và Áo nghĩa thư (Upanishad).
Thời đại Vệ Đà kéo dài từ khoảng thời gian 1200 năm trước CN đến 800 năm sau CN, là một thời gian dài phát triển và có nhiều đổi thay. Xã hội của người Aryan, một bộ tộc Âu-Ấn xuống đến tiểu lục địa Ấn Độ vào thời gian đầu và hình thành một nền tảng xã hội dựa trên tôn giáo, mà tầng lớp lãnh đạo trên hết là giới tu sĩ, còn được gọi là Bà La Môn .
Chú thích
Kinh Vệ-đà |
ECW có thể là:
ECW (WWE), một chương trình của World Wrestling Entertainment từ năm 2006 đến năm 2010 |
Nhà vắng chủ là nhà có chủ sở hữu nhưng chủ sở hữu không có mặt tại nhà, không có gia đình của chủ sở hữu ở trong nhà hoặc không có người ủy quyền hợp pháp để quản lý nhà hoặc không có thân nhân ở trong nhà hoặc trông nom nhà.
Ở Việt Nam do hoàn cảnh chiến tranh người dân phải rời bỏ nhà ở để đi sơ tán, do hoàn cảnh gia đình neo đơn, do có nhiều chỗ ở, do các công cuộc Cải cách ruộng đất, Cải tạo xã hội chủ nghĩa hoặc do đi tập kết hoặc vào nam sinh sống chờ tổng tuyển cử, di tản sau năm 1975 và còn do các yếu tố khác thuần túy cá nhân cũng như các cách chọn lựa khác thuộc nội bộ gia đình, dòng họ nên trước và sau năm 1945 có hiện tượng nhà vắng chủ ở cả hai miền.
Quyền sở hữu nhà ở vắng chủ theo hiến pháp 1946
Theo Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946 có hiệu lực đến ngày 31 tháng 12 năm 1959 công nhận ở mục B Quyền lợi:
Điều thứ 6: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá.
Điều thứ 10: Công dân Việt Nam có quyền:- Tự do ngôn luận- Tự do xuất bản- Tự do tổ chức và hội họp- Tự do tín ngưỡng- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Điều thứ 12: Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm.
Như vậy các chủ sở hữu nhà vắng chủ thuộc mọi thành phần, giai cấp đều được nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bảo hộ quyền tư hữu tài sản theo Hiến pháp.
Quyền sở hữu nhà ở vắng chủ ở miền Bắc theo hiến pháp 1960
Theo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do quốc hội ban hành ngày 31 tháng 12 năm 1959 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 01 năm 1960 hết lực vào ngày 19 tháng 12 năm 1980.
Điều 11: Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.
Điều 16: Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc.
Điều 18: Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác.
Điều 19: Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân.
Như vậy trong thời gian từ đầu năm 1960 đến cuối năm 1980 ở miền bắc và sau đó là cả nước Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ theo Hiến pháp quyền tư hữu đất đai, nhà ở của cá nhân kể cả của giai cấp tư sản dân tộc trong đó có nhà vắng chủ.
Ở miền nam Việt Nam sau chiến tranh
Nhà đất vắng chủ ở miền Nam Việt Nam là nhà đất sau Chiến tranh Việt Nam, mà người đứng tên sở hữu không có mặt ở địa phương.
Lý do ra đời khái niệm diện nhà vắng chủ
Chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà đất ở các đô thị ở các tỉnh phía Nam Việt Nam ban hành theo Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 111/CP ngày 14 tháng 4 năm 1977 có một số quy định đối với nhà đất vắng chủ. Trong quá trình thực hiện việc vận dụng chính sách này các cơ quan chức năng gặp một số khó khăn trong việc xác định thế nào là nhà đất vắng chủ.
Định nghĩa diện nhà vắng chủ
Sau khi làm việc với Ban Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh Trung ương, Bộ Xây dựng quy định các đối tượng thuộc diện nhà vắng chủ như sau:(trích nguyên văn mục I Thông tư số 201/BXD –NĐ ngày 23 tháng 06 năm 1978)
Nhà đất vắng chủ ở miền Nam là nhà đất từ khi giải phóng miền Nam, người đứng tên sở hữu không có mặt ở địa phương không có lý do chính đáng và cũng không đăng ký cư trú tại một nơi nào trên lãnh thổ nước Việt Nam như:
Nhà đất của những người di tản ra nước ngoài trước và trong những ngày giải phóng miền Nam.
Nhà đất của những người ra nước ngoài làm ăn sinh sống học tập, chữa bệnh thăm viếng bà con... từ trước ngày miền Nam giải phóng, không có uỷ quyền cho ai quản lý hoặc uỷ quyền không hợp pháp.
Nhà đất của những người không rõ tung tích, không biết rõ còn sống hay chết. Nhà đất như trên là nhà đất vắng chủ.
Nhà đất của ngoại kiều xuất cảnh không giao lại cho chính quyền ta, không uỷ quyền hợp lệ, hợp pháp cho ai quản lý cũng gọi là nhà đất vắng chủ của ngoại kiều.
Các trường hợp không xem là diện nhà vắng chủ: (trích nguyên văn)
Nhà đất của những người tập kết ra miền Bắc, đi tham gia cách mạng, đi kháng chiến chưa kịp trở về.
Nhà đất của những người tham gia xây dựng kinh tế mới chưa giải quyết xong việc mua bán chuyển nhượng.
Điều chỉnh
Nhà nước Việt Nam quản lý nhà đất vắng chủ theo chính sách quy định trong mục II Quyết định 111/CP ngày 14 tháng 4 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư 31/BXD ngày 18 tháng 10 năm 1977 của Bộ Xây dựng.
Mục II Quyết định 111/CP (trích nguyên văn)
1. Tất cả những nhà, đất và tài sản vắng chủ của người Việt Nam và ngoại kiều đều do Nhà nước trực tiếp quản lý. Khi người chủ về, Nhà nước sẽ giải quyết với họ. Không ai được chiếm dụng, tự ý chuyển nhượng, mua bán nhà cửa, tài sản vắng chủ khi không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ cho thuê theo chính sách cải tạo nhà cho thuê.
3. Nhà nước quản lý sử dụng những nhà, đất và tài sản vắng chủ của những người đã ra nước ngoài làm ăn buôn bán, hành nghề từ trước ngày giải phóng, khi họ trở về sẽ tuỳ từng trường hợp mà nghiên cứu giải quyết sau.
Riêng đối với những người sau đây, khi họ trở về, Nhà nước sẽ xét từng trường hợp cụ thể mà trả lại nhà cửa, tài sản cho họ:
a. Những người làm ăn lương thiện đi chữa bệnh, đi thăm viếng bà con, đi học ở nước ngoài.
b. Những người đi tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến.
c. Những người là nhân dân lao động vì hoang mang sợ hãi bỏ chạy đi các nơi trước và trong những ngày giải phóng.
4. Những nhà, đất và tài sản mà trước khi vắng, chủ nhà đã uỷ quyền hợp pháp cho những người là con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của mình quản lý thì những người ấy được tiếp tục quản lý và phải chấp hành những chính sách quản lý nhà, đất của Nhà nước; trường hợp chưa kịp uỷ quyền hợp pháp thì Nhà nước cho phép những người là cha mẹ, con đẻ, vợ hoặc chồng hợp pháp của họ trước đây đã ở trong những nhà ấy, nay được tiếp tục ở nhưng không được bán, chuyển dịch bất động sản.
Đối với thân nhân không phải là cha mẹ, vợ chống, con của các chủ vắng mặt mà trước đây cùng ở chung với chủ nhà, nếu nay còn ở lại thì sẽ được thu xếp cho ở một chỗ trong nhà hoặc xếp ở nơi khác.
5. Những trường hợp xin thừa kế, xin hiến nhà, đất và tài sản vắng chủ sẽ được nghiên cứu giải quyết từng trường hợp cụ thể theo chính sách.
6. Uỷ ban nhân dân thành phố, tỉnh thống nhất quản lý những nhà đất và tài sản vắng chủ tại địa phương.
Cơ quan quản lý nhà đất và cơ quan tài chính chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng, kiểm kê định giá, xử lý và thanh toán với chủ nhà khi họ trở về theo đúng các chính sách chế độ và thống nhất quản lý nhà đất và tài sản vắng chủ của Nhà nước.
Số lượng nhà đất vắng chủ
Không thấy chính quyền Việt Nam công bố con số diện tích nhà đất vắng chủ. Phần lớn nhà đất vắng chủ đã trở thành nhà công vụ, được phân hoặc hóa giá nhà cho cán bộ theo nghị định 61/CP. |
Nguyệt Chi (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay Đại Nguyệt Chi (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên gọi trong tiếng Trung để chỉ những người Trung Á cổ đại. Người ta cho rằng họ chính là (hoặc có quan hệ họ hàng gần gũi với) người Tochari (Τοχάριοι-Thổ Hỏa La) theo cách gọi của người Hy Lạp cổ. Ban đầu họ định cư trong các vùng đồng cỏ khô cằn thuộc miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này có lẽ thuộc Tân Cương, Cam Túc và có thể là cả Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc, trước khi họ di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và sau đó là miền bắc Ấn Độ, là nơi mà họ lập ra Vương triều Quý Sương.
Người ta cho rằng trong tên gọi "Nguyệt Chi" thì chữ nguyệt 月, có nghĩa là "Mặt Trăng", có nguồn gốc từ nhục 肉, có nghĩa là "thịt". Trên thực tế, chữ nguyệt là tương tự như bề ngoài của dạng cơ bản của chữ nhục. "Nhục Chi" 肉(⺼)氏 có lẽ có nghĩa văn chương là "bộ lạc ăn thịt", nghĩa là những người ăn thịt.
Nguồn gốc
Những ghi chép đầu tiên về người Nguyệt Chi có từ năm 645 TCN trong Quản tử (管子) của tác giả Trung Quốc Quản Trọng. Ông miêu tả người Ngu Chi (禺氏,) hay Ngưu Chi (牛氏,) là những người từ miền tây bắc đã cung cấp ngọc bích cho người Hán từ những dãy núi gần đó của nước Ngu Chi 禺氏 tại Cam Túc. Việc cung cấp ngọc bích từ lòng chảo Tarim trong thời cổ đại đã dược chứng minh khá rõ ràng bằng các tài liệu khảo cổ học: "Một điều rất rõ ràng là các vị vua Trung Quốc cổ đại rất thích ngọc bích. Tất cả các đồ bằng ngọc bích khai quật được tại khu lăng mộ của Phụ Hảo nhà Thương, chứa trên 750 miếng, tất cả đều từ Vu Điền (nay là Hòa Điền hay Khotan) thuộc Tân Cương ngày nay. Từ rất sớm, khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên thì người Nguyệt Chi đã tham gia vào việc buôn bán ngọc bích, trong đó những người tiêu dùng chủ yếu là các vị vua của nước Trung Hoa nông nghiệp".
Người Nguyệt Chi cũng được đề cập chi tiết trong các sử sách Trung Hoa, cụ thể là trong "Sử Ký" (thế kỷ 2-1 TCN) của Tư Mã Thiên. Theo các tài liệu này, "người Nguyệt Chi ban đầu sống trong khu vực giữa Kỳ Liên Sơn (hoặc Thiên Sơn) và Đôn Hoàng" (Sử Ký, 123), tương ứng với nửa phía đông của lòng chảo Tarim và phần phía bắc của Cam Túc.
Người Nguyệt Chi có thể là những người thuộc đại chủng Kavkaz, như được chỉ ra bởi các chân dung của các vị vua trên các đồng tiền họ đã đúc ra sau khi di cư tới Transoxiana (thế kỷ 2-thế kỷ 1 TCN), và đặc biệt là các đồng tiền họ đúc tại Ấn Độ khi cai trị vương triều Quý Sương (thế kỷ 1-thế kỷ 3). Tuy nhiên, không có các ghi chép trực tiếp nào về tên gọi của các vị vua Nguyệt Chi, và các chân dung trên những đồng tiền đầu tiên của họ có thể không chính xác.
Các nguồn tư liệu của người Trung Hoa cổ đại đã miêu tả sự tồn tại của "người da trắng với tóc dài" (Người Bạch trong Sơn Hải Kinh) bên ngoài biên giới phía tây bắc của họ, và các xác ướp Tarim được bảo quản khá tốt với các đặc trưng của người Kavkaz, thường với tóc hung vàng hoặc nâu đỏ, hiện nay được trưng bày tại viện bảo tàng Ürümqi (Ô Lỗ Mộc Tề) và có niên đại khoảng thế kỷ 3 TCN, đã được tìm thấy trong cùng một khu vực của lòng chảo Tarim.
Các ngôn ngữ Tochari Ấn-Âu cũng đã được chứng thực trong cùng một khu vực địa lý. Mặc dù chứng cứ chữ khắc đầu tiên hiện đã biết chỉ có niên đại vào khoảng thế kỷ 6, nhưng mức độ phân hóa giữa tiếng Tochari A và Tochari B cũng như sự thiếu vắng các dấu tích của tiếng Tochari bên ngoài khu vực này đều có xu hướng chỉ ra rằng tiếng Tochari chung đã từng tồn tại trong cùng khu vực định cư của người Nguyệt Chi trong nửa sau của thiên niên kỷ 1 TCN.
Theo một giả thuyết, người Nguyệt Chi có lẽ là một phần của nhóm lớn những người di cư nói các thứ tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, đã từng định cư ở miền đông khu vực Trung Á (có thể xa tới tận Cam Túc) vào thời gian đó. Một ví dụ khác là các xác ướp của người Kavkaz tại Pazyryk, có lẽ có nguồn gốc là người Scythia, nằm cách khu vực của người Nguyệt Chi khoảng 1.500 km về phía tây bắc và có niên đại khoảng thế kỷ 3 TCN.
Theo các tài liệu thời nhà Hán, người Nguyệt Chi "đã rất phồn thịnh" trong thời gian trị vì của vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần, nhưng họ thường xuyên có mâu thuẫn với bộ lạc láng giềng là người Hung Nô ở phía đông bắc.
Di cư của người Nguyệt Chi
Người Nguyệt Chi đôi khi cũng thực hiện việc trao đổi con tin với người Hung Nô, và từng có thời cầm giữ Mặc Đốn (冒頓), con trai của vị thủ lĩnh Hung Nô. Mặc Đốn đã lấy trộm một con ngựa và bỏ trốn khi người Nguyệt Chi định giết ông để trả đũa cho cuộc tấn công của cha ông này. Mặc Đốn sau này trở thành vua Hung Nô sau khi giết cha mình.
Vào khoảng năm 177 TCN, được một thủ lĩnh một bộ lạc của Mặc Đốn chỉ huy thì người Hung Nô đã đánh vào lãnh thổ của người Nguyệt Chi tại khu vực Cam Túc và đã giành được một thắng lợi quan trọng. Mặc Đốn khoe khoang trong một bức thư gửi cho hoàng đế nhà Hán rằng, do "sự tuyệt vời của các chiến binh, và sức mạnh của bầy ngựa của mình, ông đã giành thắng lợi trong việc tiêu diệt người Nguyệt Chi, tàn sát hoặc ép phục tùng toàn bộ bộ lạc này". Con trai của Mặc Đốn, Kê Chúc, sau đó đã sát hại vua của người Nguyệt Chi và theo truyền thống của những bộ lạc du cư, "đã làm chiếc cốc uống từ đầu lâu ông này".
Theo các sử liệu Trung Quốc, một phần lớn người Nguyệt Chi vì thế đã nằm dưới sự thống trị của người Hung Nô, và họ có thể là tổ tiên của những người nói tiếng Tochari đã được chứng thực vào thế kỷ 6. Một nhóm rất nhỏ người Nguyệt Chi chạy về phía nam tới lãnh thổ của người Khương, và được người Trung Quốc biết đến như là "Tiểu Nguyệt Chi". Theo Hán thư, họ chỉ có khoảng 150 gia đình.
Cuối cùng, một nhóm lớn người Nguyệt Chi đã chạy khỏi khu vực lòng chảo Tarim/ Cam Túc về phía tây bắc, đầu tiên định cư tại thung lũng Sông Y Lê, ngay phía bắc dãy núi Thiên Sơn, tại đó họ phải đương đầu và đánh bại người Sai (Sakas hay người Scythia): "Người Nguyệt Chi tấn công vua của người Sai, người đã di chuyển một khoảng cách đáng kể về phía nam và người Nguyệt Chi sau đó đã chiếm đất của ông ta" (Hán Thư 61 4B). Người Sai cũng phải di cư, và họ đã tới Kashmir, sau khi vượt qua "chỗ vượt lơ lửng" (có lẽ là đèo Khunjerab giữa Tân Cương và miền bắc Pakistan ngày nay). Người Sakas cuối cùng đã thành lập ra vương quốc Ấn Độ-Scythia ở miền bắc Ấn Độ ngày nay.
Sau năm 155 TCN, người Ô Tôn, liên kết với người Hung Nô và để trả thù cho các mâu thuẫn trước đây, đã xua đuổi người Nguyệt Chi và ép họ phải chạy về phía nam. Người Nguyệt Chi đã vượt qua khu vực văn minh đô thị láng giềng là Đại Uyên tại Ferghana, và định cư trên bờ phía bắc của sông Oxus, trong khu vực của Transoxiana, ngày nay thuộc Tajikistan và Uzbekistan, chỉ ngay phía bắc của Vương quốc Hy Lạp-Bactria. Thành phố Alexandria trên sông Oxus của người Hy Lạp dường như đã bị người Nguyệt Chi đốt cháy hoàn toàn vào khoảng năm 145 TCN.
Định cư tại Transoxiana
Một phái bộ Trung Quốc, do Trương Khiên chỉ huy đã đến nơi ở của người Nguyệt Chi vào năm 126 TCN, với mục đích tìm kiếm một liên minh với người Nguyệt Chi để chống lại mối đe dọa từ người Hung Nô ở phía bắc. Mặc dù đề nghị lập liên minh đã bị con trai của vị vua Nguyệt Chi (bị giết trước kia) từ chối, ông này mong muốn duy trì hòa bình tại Transoxiana hơn là trả thù, nhưng Trương Khiên đã lập được bản báo cáo chi tiết (được ghi nhận trong Sử Ký), tạo điều kiện cho người ta hiểu rõ hơn tình hình ở Trung Á vào thời gian đó.
Trương Khiên, người đã lưu lại Nguyệt Chi và Đại Hạ trong một năm, thuật lại rằng "Đại Nguyệt Chi sống cách Đại Uyên (Fergana) khoảng 2.000 hoặc 3.000 lý (1.000-1.500 km) về phía tây, về phía bắc của sông Gui (Oxus). Họ có biên giới phía nam với Đại Hạ (Bactria), về phía tây với An Tức (Parthia), và về phía bắc với Khang Cư (Hazrat-e Turkestan - thuộc trung Jaxartes). Họ là các bộ lạc du cư, đi từ nơi này tới nơi khác thành đoàn, và tập quán của họ là tương tự như của người Hung Nô. Họ có khoảng 100.000 hay 200.000 cung thủ".
Mặc dù họ vẫn luôn ở phía bắc sông Oxus, nhưng dường như họ đã có được sự phục tùng từ phía Vương quốc Hy Lạp-Bactria ở phía nam sông Oxus. Người Nguyệt Chi tổ chức thành 5 bộ lạc chính, mỗi bộ lạc do một yabgu đứng đầu, và được người Trung Quốc gọi là Hưu Mật (休密) ở Tây Wakhān và Zibak, Quý Sương (貴霜) ở Badakhshan và các lãnh thổ cận kề ven sông Oxus, Song Mĩ (雙靡) trong khu vực Shughnan, Hật Đốn (肸頓) trong khu vực Balk, và Đô Mật (都密) trong khu vực Termez.
Miêu tả về vương quốc Đại Hạ (Hy Lạp-Bactria) của Trương Khiên sau khi vương quốc này bị người Nguyệt Chi xâm chiếm:
"Đại Hạ nằm cách Đại Uyên trên 2.000 lý về phía tây nam, phía nam sông Gui (Oxus). Người dân quốc gia này canh tác đất và có các thành phố và nhà cửa. Tập quán của họ là tương tự như của Đại Uyên. Họ không có người cai trị vĩ đại mà chỉ có các thủ lĩnh nhỏ cai quản các thành phố khác nhau. Người dân là kém cỏi trong việc sử dụng vũ khí và sợ đánh trận, nhưng họ lại thông minh trong buôn bán. Sau khi người Đại Nguyệt Chi chuyển về phía tây và tấn công các vùng đất, thì toàn bộ quốc gia này nằm dưới sự thống trị của họ. Dân số của nước này khá lớn, ước khoảng 1.000.000 hoặc hơn. Kinh đô của họ là thành phố Lanshi (Bactra) và có chợ mà ở đó mọi thứ hàng hóa được mua và bán". ("Sử Ký", Tư Mã Thiên, phần về Trương Khiên)
Trong phân tích sâu hơn nữa về các đặc điểm tự nhiên và văn hóa của Trung Á mà ông đã ghé thăm năm 126 TCN, Trương Khiên thông báo rằng "mặc dù các quốc gia từ Đại Uyên về phía tây tới An Tức (Parthia), nói các thứ tiếng khác nhau, nhưng tập quán của họ nói chung lại khá tương đồng và các ngôn ngữ của họ lại có thể hiểu được nhau. Những người đàn ông có hai mắt sâu hoắm và có nhiều râu và lông".
Xâm chiếm Đại Hạ (Bactria)
Năm 124 TCN người Nguyệt Chi dường như đã tham dự vào cuộc chiến chống lại người Parthia, trong đó vua Parthia Artabanus I đã bị thương và chết:
"Trong cuộc chiến chống lại người Tokhari, ông (Artabanus) đã bị thương vào tay và chết ngay lập tức" (Justin, Epitomes, XLII,2,2: "Bello Tochariis inlato, in bracchio vulneratus statim decedit").
Một thời gian sau năm 124 TCN, có lẽ bị rối loạn bởi sự xâm nhập của các kẻ thù từ phương bắc, và dường như bị vua Parthia, người kế nghiệp của vua Artabanus, Mithridates II đánh bại nên người Nguyệt Chi đã di chuyển xuống phía nam tới Bactria. Bactria đã bị những người Macedonia dưới sự chỉ huy của Alexandros Đại Đế xâm chiếm vào năm 330 TCN và kể từ đó vùng này đã được những người thuộc Vương quốc Seleukos và vương quốc Hy Lạp-Bactria thuộc nền văn minh Hy Lạp định cư trong hai thế kỷ.
Sự kiện này được ghi chép trong các nguồn sử liệu Hy Lạp cổ điển, khi Strabo gọi họ là bộ lạc người Scythia, và giải thích rằng người Tokhari—cùng với người Assianis, Passianis và Sakaraulis—đã cùng nhau phá huỷ vương quốc Hy Lạp-Bactria trong nửa sau của thế kỷ 2 TCN:
"Phần lớn người Scythia, bắt đầu từ biển Caspi, được gọi là Dahae Scythae, và những người sống xa hơn về phía đông là người Massagetae và người Sacae; phần còn lại có tên gọi chung là người Scythia, nhưng mỗi bộ lạc riêng rẽ đều có tên riêng biệt. Tất cả, hoặc phần lớn trong số họ, là những người du cư. Những bộ lạc được biết đến nhiều nhất là những người đã lấy đi Bactria của người Hy Lạp, đó là người Asii, Pasiani, Tochari, và Sacarauli, những người đã đến đây từ quốc gia ở phía bên kia sông Jaxartes, đối diện với Sacae và Sogdian." (Strabo, 11-8-1)
Vị vua cuối cùng của vương quốc Hy Lạp-Bactria là Heliocles I đã phải rút lui và chuyển kinh đô của mình tới thung lũng Kabul. Phần phía đông của Bactria đã bị người Pashtun xâm chiếm.
Do họ bắt đầu định cư tại Bactria vào khoảng năm 125 TCN, nên người Nguyệt Chi bắt đầu bị Hy Lạp hóa ở một mức độ nào đó, chẳng hạn việc chấp nhận các chữ cái Hy Lạp và việc sử dụng đồng tiền, được đúc theo kiểu của các vua Hy Lạp-Bactria, với các chữ viết trên đó bằng tiếng Hy Lạp. Khu vực của Bactria mà họ định cư trở thành Tokharistan, do người Nguyệt Chi được người Hy Lạp gọi là "người Tochari".
Các quan hệ thương mại với Trung Quốc cũng đã rất phồn thịnh, nhiều phái bộ Trung Quốc đã được gửi đi trong suốt thế kỷ 1 TCN: "Lớn nhất trong số các đoàn sứ giả ra ngoại quốc có số lượng lên tới vài trăm người, trong khi thậm chí các nhóm nhỏ hơn cũng có trên 100 thành viên... Trong cả năm từ bất kỳ nơi nào đó cũng có từ 5 tới 6 hay tới trên 10 nhóm đã được gửi đi". (Sử Ký).
Hậu Hán Thư cũng ghi lại cuộc viếng thăm của phái đoàn người Nguyệt Chi tới kinh đô của Trung Quốc vào năm 2 TCN, những người này đã giảng dạy bằng miệng về các kinh của Phật giáo cho nhiều người Hán, điều này nêu ra giả thuyết là một số người Nguyệt Chi đã theo các niềm tin của Phật giáo từ thế kỷ 1 TCN (Baldev Kumar (1973)).
Bản chú giải của Zhang Shoujie sau này trong thế kỷ 7, trích dẫn từ Nanzhouzhi (văn bản từ thế kỷ 3, hiện đã mất) miêu tả người Quý Sương như là những người sống trong cùng một khu vực chung ở miền bắc Ấn Độ, trong các thành thị kiểu La Mã-Hy Lạp, và với nghề thủ công tinh xảo. Người Trung Quốc chưa bao giờ chấp nhận thuật ngữ "Quý Sương", và vẫn tiếp tục gọi họ là "người Nguyệt Chi":
"Đại Nguyệt Chi nằm ở khoảng 7 ngàn lý (2.500-3.000 km) về phía bắc Ấn Độ. Đất đai của họ nằm ở các cao độ lớn; khí hậu khô; khu vực này hoang vắng. Vua của nước này tự xưng là "con trời". Tại nước này có nhiều ngựa để cưỡi với số lượng thường là đạt tới vài trăm ngàn. Bề ngoài các thành thị và cung điện là hoàn toàn tương tự như của Đại Tần (tên gọi cổ của người Trung Quốc để chỉ đế chế La Mã và Cận Đông). Da của những người này là trắng hồng. Những người này giỏi bắn cung và cưỡi ngựa. Các sản phẩm địa phương, sản vật hiếm, châu báu, quần áo và màn thảm là rất tốt, và thậm chí cả Ấn Độ cũng không thể so sánh với họ".
Bành trướng vào Hindu-Kush
Khu vực Hindu-Kush (Paropamisadae) đã được các vị vua người Ấn Độ-Hy Lạp miền tây cai trị cho đến khi có sự trị vì của Hermaeus (trị vì từ khoảng 90 TCN–70 TCN). Sau thời gian này, không còn vị vua người Ấn Độ-Hy Lạp nào được biết đến nữa trong khu vực, có lẽ là do sự chiếm đóng của người Nguyệt Chi láng giềng, những người đã có quan hệ với người Hy Lạp trong một thời gian dài. Theo Bopearachchi, không có dấu vết nào của sự cư ngụ của người Ấn Độ-Scythia (không có các đồng tiền của các vị vua chính của người Ấn Độ-Scythia, chẳng hạn như Maues hoặc Azes I) được tìm thấy trong khu vực Paropamisadae và miền tây Gandhara.
Giống như họ đã làm ở Bactria với việc sao chép các đồng tiền Hy Lạp-Bactria, người Nguyệt Chi cũng đã sao chép các đồng tiền của Hermeaus ở mức độ lớn, tới khoảng năm 40, khi kiểu thiết kế pha trộn thành đồng tiền của vua Quý Sương Kujula Kadphises.
Hoàng thân đầu tiên của người Nguyệt Chi được ghi chép là Sapadbizes (có lẽ là hoàng thân của yabgu trong liên minh Nguyệt Chi), người trị vì khoảng năm 20 TCN, và được đúc hình trên các đồng tiền với các chữ Hy Lạp, cùng một kiểu như các vị vua Ấn -Hy Lạp miền tây.
Thành lập vương triều Quý Sương
Vào cuối thế kỷ 1 TCN, một trong năm bộ lạc của người Nguyệt Chi, người Quý Sương (貴霜), đã nắm quyền kiểm soát liên minh Nguyệt Chi. Theo một số giả thuyết, người Quý Sương có thể không giống như người Nguyệt Chi, có lẽ là có nguồn gốc từ người Saka. Từ thời điểm này, người Nguyệt Chi mở rộng sự kiểm soát của họ ra các lãnh thổ miền tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ, thành lập ra Đế chế Quý Sương, đã cai trị khu vực này trong vài thế kỷ. Người Nguyệt Chi được các nền văn minh phương Tây biết đến như là người Quý Sương, tuy nhiên, người Trung Quốc vẫn gọi họ là người Nguyệt Chi trong các văn kiện sử sách của họ trong một giai đoạn vài thế kỷ.
Người Nguyệt Chi/ Quý Sương mở rộng về phía đông trong thế kỷ 1, để thành lập đế chế Quý Sương. Vị vua đầu tiên của Quý Sương là Kujula Kadphises đã gắn liền bề ngoài của chính ông với Hermaeus trên các đồng tiền của mình, gợi ý rằng ông là một trong số các hậu duệ của ông này thông qua hôn nhân, hoặc ít nhất là muốn thông báo về quyền hợp pháp của mình.
Sự thống nhất của các bộ lạc Nguyệt Chi và sự lớn mạnh của Quý Sương được ghi chép trong sử sách Trung Quốc như Hậu Hán Thư:
"Hơn một trăm năm sau, hấp hậu (翕候, "hoàng thân liên minh") của Quý Sương (Badakhshan và các lãnh thổ cận kề ở phía bắc sông Oxus), tên là Khâu Tựu Khước (丘就卻- tức Kujula Kadphises) đã tấn công và tiêu diệt bốn hấp hậu khác. Ông tự mình làm vua của vương quốc gọi là Quý Sương (Kushan). Ông xâm chiếm An Tức (Parthia) và chiếm khu vực Cao Phụ (高附- tức Kabul). Ông cũng đánh bại toàn bộ các vương quốc Puta (Parthuaia, 55) và Kế Tân (罽賓, Kapisa-Peshawar). Khâu Tựu Khước (Kujula Kadphises) đã ngoài 80 tuổi khi chết.
Con trai ông, Diêm Cao Trân (閻高珍) (Vima Takto), trở thành vua tại cung điện của ông. Ông đã trở lại và đánh bại Thiên Trúc (天竺-Tây bắc Ấn Độ) và lập ra chức Tổng trấn để kiểm soát và lãnh đạo nó. Người Nguyệt Chi sau đó trở nên rất giàu. Tất cả các vương quốc gọi [vua của họ] là vua Quý Sương (Kushan), nhưng nhà Hán gọi họ theo tên nguyên thủy của họ là Đại Nguyệt Chi". (Hậu Hán Thư,).
Người Nguyệt Chi/Quý Sương đã kết hợp Phật giáo vào trong các đền thờ của nhiều vị thần, họ trở thành những người khởi xướng chính của Phật giáo Đại thừa, và các ảnh hưởng tương tác của họ với nền văn minh Hy Lạp đã giúp cho nền văn hóa Gandhara và Hy Lạp-Phật giáo thịnh vượng.
Trong thế kỷ 1 và 2, Vương triều Quý Sương đã mở rộng các chiến dịch quân sự về phía bắc và chiếm đóng các phần của lòng chảo Tarim, vùng đất ban đầu của họ, đặt nó vào trung tâm của thương mại Trung Á đang sinh lợi với Đế chế La Mã. Họ có liên quan đến việc liên kết quân sự với người Trung Quốc để chống lại sự xâm nhập của các bộ lạc du cư, cụ thể là khi họ liên kết với tướng Trung Quốc là Ban Siêu để chống lại người Sogdian năm 84, khi những người này cố gắng ủng hộ cuộc nổi dậy của vua Kashgar. Khoảng năm 85, họ cũng hỗ trợ người Trung Quốc trong cuộc tấn công Thổ Phồn, ở miền đông lòng chảo Tarim.
Để đòi hỏi sự ghi nhận việc ủng hộ của mình với người Trung Quốc, người Quý Sương đã đòi hỏi (nhưng bị từ chối) các công chúa người Hán, ngay sau khi họ gửi các tặng phẩm cho triều đình Trung Quốc. Để trả thù, họ đã tấn công Ban Siêu năm 86 bằng một lực lượng tới 70.000 quân, nhưng, bị mệt mỏi do cuộc hành quân, cuối cùng họ đã bị lực lượng Trung Quốc ít người hơn đánh bại. Người Quý Sương phải rút lui và cống nộp cho hoàng đế Trung Hoa trong thời gian trị vì của Hán Hòa Đế (89-106).
Sau này, người Nguyệt Chi/Quý Sương đã thành lập một vương quốc đóng đô ở Kashgar vào khoảng năm 120, giới thiệu văn tự Brahmi, tiếng Prakrit của người Ấn Độ để quản lý, và nghệ thuật Hy Lạp-Phật giáo đã phát triển thành nghệ thuật Serindia.
Thu được lợi từ việc mở rộng lãnh thổ, người Nguyệt Chi/Quý Sương đã nằm trong số những người đầu tiên đưa Phật giáo vào miền bắc và đông bắc châu Á, bằng các cố gắng truyền giáo trực tiếp cũng như việc dịch các kinh sách của Phật giáo sang tiếng Trung. Các nhà truyền giáo và dịch giả lớn như Lokaksema (Chi Lâu Già Sấm) và Dharmaraksa (Trúc Pháp Hộ), là những người đã tới Trung Quốc và lập ra các cụm dịch thuật, bằng cách đó nằm ở trung tâm của Con đường tơ lụa trong chuyển giao của Phật giáo.
Người Trung Quốc giữ việc gọi người Quý Sương như là người Đại Nguyệt Chi trong nhiều thế kỷ. Trong Tam Quốc Chí (三國志, chương 3), người ta ghi chép rằng năm 229 "Vua Đại Nguyệt Chi, Ba Điều (波調 - Vasudeva I), đã gửi phái bộ của mình đến nộp cống phẩm, và Bệ hạ (Hoàng đế Tào Duệ- tức Ngụy Minh Đế) đã ban cho ông ta tước hiệu "Vua Đại Nguyệt Chi Thân thiết với nước Ngụy (魏)."
Các vị vua
Sapadbizes (khoảng 20 TCN)
Agesiles (khoảng 20 TCN)
Ghi chú |
Trường đại học, học viện và viện hàn lâm là các cơ sở giáo dục bậc cao đào tạo các bậc đại học và sau đại học, mang tính mở. Chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, danh giá với nhà tuyển dụng, phạm vi ảnh hưởng của trường và thành tích cựu sinh viên tạo nên danh tiếng của trường đại học. Trường đại học đầu tiên tại Việt Nam (đào tạo Nho học) được thành lập từ năm 1076 mang tên Quốc tử giám, tuy vậy, đại học theo thiết chế hiện đại đầu tiên của Việt Nam được thành lập từ năm 1907, mang tên Viện Đại học Đông Dương (Đại học Quốc gia Hà Nội ngày nay).
Mô hình đại học tại Việt Nam nổi bật với các trường đại học chuyên ngành, đa ngành độc lập. Mô hình đại học đa thành viên tập hợp nhiều trường đại học thành viên ít được phát triển hơn tại Việt Nam. Đối với các trường đại học công lập có hai cơ chế hoạt động chính đó là nhà nước kiểm soát và tự chủ. Với cơ chế tự chủ các trường đại học sẽ được quyền chủ động về vấn đề nhân sự, chương trình đào tạo, hoạt động nghiên cứu khoa học và tài chính vì vậy nhà nước giảm ngân sách cấp cho nhóm trường này.
Học viện hay viện hàn lâm là mô hình giáo dục được phát triển từ đại học, ra đời sau này. So với đại học, học viện và viện hàn lâm chú trọng nghiên cứu hơn. Viện hàn lâm là cơ sở giáo dục bậc cao cấp cao nhất, thành viên của viện hàn lâm thường bao gồm những cá nhân xuất chúng trong những lĩnh vực có liên quan, những người được các thành viên khác bầu chọn, hoặc được chính phủ bổ nhiệm, chỉ đào tạo bậc sau đại học. Giá trị văn bằng được cấp bởi đại học và học viện là tương đương nhau.
Danh sách các trường đại học công lập
Các trường đại học trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội
Các trường đại học trực thuộc các Bộ, Ban, Ngành
Danh sách học viện
Danh sách các trường đại học ngoài công lập
Danh sách các trường cao đẳng
Trường Cao đẳng Thực hành FPT (Quận Nam Từ Liêm)
Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp (Quận Cầu Giấy)
Trường Cao đẳng Y Dược Tuệ Tĩnh Hà Nội (Quận Bắc Từ Liêm)
Trường Cao đẳng Công nghiệp In (Quận Bắc Từ Liêm)
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế (Huyện Sóc Sơn)
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Bách Khoa (Quận Hai Bà Trưng)
Trường Cao đẳng Y Hà Nội (Quận Nam Từ Liêm)
Trường Cao đẳng Đại Việt (Quận Nam Từ Liêm)
Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao (Quận Nam Từ Liêm)
Trường Cao đẳng nghề Phú Châu (Quận Thanh Xuân)
Trường Cao đẳng Cộng đồng (Quận Cầu Giấy)
Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây (Huyện Chương Mỹ)
Trường Cao đẳng Du lịch (Quận Bắc Từ Liêm)
Trường Cao đẳng Điện tử - Điện lạnh (Quận Cầu Giấy)
Trường Cao đẳng Nghệ thuật (Quận Hoàn Kiếm)
Trường Cao đẳng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Bộ (Huyện Chương Mỹ)
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương (Quận Cầu Giấy)
Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây (Huyện Thường Tín)
Trường Cao đẳng Y tế (Quận Đống Đa)
Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông (Quận Hà Đông)
Trường Cao đẳng Y tế Bạch Mai (Quận Đống Đa)
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật (Quận Cầu Giấy)
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thương mại (Quận Hà Đông)
Trường Cao đẳng nghề cơ điện (Quận Cầu Giấy)
Trường Cao đẳng Thương mại và du lịch (Quận Cầu Giấy)
Trường Cao đẳng Công nghệ (Quận Bắc Từ Liêm)
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Trung ương (Huyện Gia Lâm)
Trường Cao đẳng Xây dựng Công trình Đô thị (Huyện Gia Lâm)
Trường Cao đẳng Xây dựng số 1 (Quận Nam Từ Liêm)
Trường Cao đẳng Y dược Yersin
Trường Cao đẳng Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Trường Cao đẳng nghề Long Biên (Quận Long Biên)
Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội (Quận Đống Đa)
Trường Cao đẳng Truyền hình, Đài Truyền hình Việt Nam (Huyện Thường Tín)
Trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình I, Đài Tiếng nói Việt Nam (Quận Hai Bà Trưng) |
Toàn Chân thất tử (全真七子) hay Bắc Thất Chân (北七真) là 7 đạo sĩ của Toàn Chân đạo, đệ tử của Vương Trùng Dương. Con số bảy người được Vương Trùng Dương chọn nhằm luyện tập Thiên Cang Bắc Đẩu trận, một trận pháp dựa theo vị thế của chòm sao Bắc Đẩu Thất tinh:
Đan Dương tử Mã Ngọc (1122-1184) sáng lập Ngộ Tiên phái (遇仙派)
Trường Chân tử Đàm Xứ Đoan (1123-1185) sáng lập Nam Vô phái (南无派)
Trường Sinh tử Lưu Xứ Huyền (1147-1203) sáng lập Tùy Sơn phái (随山派)
Trường Xuân tử Khâu Xứ Cơ (1148-1227) sáng lập Long Môn phái (龙门派)
Ngọc Dương tử Vương Xứ Nhất (1142-1217) sáng lập Du Sơn phái (嵛山派)
Quảng Ninh tử Hác Đại Thông (1140-1212) sáng lập Hoa Sơn phái (华山派)
Thanh Tịnh tản nhân Tôn Bất Nhị (1119-1182) sáng lập Thanh Tịnh phái (清静派)
Kiếm hiệp Kim Dung
Trong tác phẩm Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ, Kim Dung đã xây dựng Toàn Chân thất tử là đệ tử của người đứng đâu Võ lâm ngũ bá, Trung Thần Thông Vương Trùng Dương, tổ sư Toàn Chân giáo dựa trên những dữ kiện lịch sử và có thêm các tình tiết hư cấu. Trong đó thứ tự của Toàn Chân thất tử có sự khác biệt:
Đan Dương tử Mã Ngọc là chưởng giáo thứ hai của Toàn Chân giáo
Trường Xuân tử Khưu Xứ Cơ là chưởng môn. Trong Thần Điêu Hiệp Lữ ông tiếp quản nhiệm vụ chưởng giáo thay cho Mã Ngọc mất vì bệnh tật.
Ngọc Dương tử Vương Xứ Nhất
Trường Chân tử Đàm Xứ Đoan
Trường Sinh tử Lưu Xứ Huyền
Quảng Ninh tử Hác Đại Thông
Thanh Tịnh tản nhân Tôn Bất Nhị
7 người đến gần cuối bộ Thần Điêu Hiệp Lữ chỉ còn 5. Quyền chưởng môn giao lại tạm thời cho Chân Chí Bình, đệ tử của Khưu Xứ Cơ đảm nhận.
Phim ảnh
Anh hùng xạ điêu
Thần điêu hiệp lữ |
Maurice Jarre (13 tháng 9 năm 1924 – 28 tháng 3 năm 2009) là một nhà soạn nhạc cho phim. Ông sáng tác và soạn nhạc cho nhiều phim – nhất là những phim do David Lean đạo diễn như: Lawrence of Arabia (1962), Bác sĩ Zhivago (1965), và A Passage to India (1984). Cả ba công trình nhạc này được lãnh giải Oscar và được xem như là tuyệt tác của ông.
Maurice Jarre cũng sáng tác nhạc đệm cho những phim sau: |
Khu hành chính đặc biệt (Đặc khu Hành chính) là một vùng đất có thể vẫn còn đang nằm trong vòng tranh chấp hoặc nằm gọn trong một quốc gia nào đó nhưng có sự phát triển vượt bậc về kinh tế.
Hồng Kông là một ví dụ, vùng này trước đây là nhượng địa của nhà Thanh cho Đế quốc Anh và đã được trao trả lại cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau thời hạn 100 năm.
Danh sách các đặc khu hành chính trên thế giới
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Hồng Kông
Ma Cao
Bắc Triều Tiên
Sinŭiju
Kumgangsan
Kaesong
Indonesia
Aceh, vùng đặc biệt với tên Nanggroe Aceh Darussalam (Đặc khu hành chính Aceh)
Đông Timor (bây giờ là một quốc gia độc lập)
Yogyakarta, Đặc khu hành chính Yogyakarta (đây là tỉnh duy nhất ở Indonesia với có người đứng đầu là một tiểu vương)
Papua (đã được đề nghị, bây giờ là một tỉnh)
Philippines
Đặc khu hành chính Cordillera (bắt đầu từ năm 1987) |
Cây đỏ đen (tiếng Anh: red-black tree) là một dạng cây tìm kiếm nhị phân tự cân bằng, một cấu trúc dữ liệu được sử dụng trong khoa học máy tính. Cấu trúc ban đầu của nó được đưa ra vào năm 1972 bởi Rudolf Bayer. Ông gọi chúng là các "B-cây cân bằng" còn tên hiện nay được đưa ra từ 1978 bởi Leo J. Guibas và Robert Sedgewick. Nó là cấu trúc phức tạp nhưng cho kết quả tốt về thời gian trong trường hợp xấu nhất. Các phép toán trên chúng như tìm kiếm (search), chèn (insert), và xóa (delete) trong thời gian O (log n), trong đó n là số các phần tử của cây.
Thuật ngữ
Một cây đỏ-đen là một cây nhị phân, là một cấu trúc dữ liệu trong khoa học máy tính để tổ chức các thành phần dữ liệu có thể so sánh, chẳng hạn các số. Trong cây nhị phân các thành phần dữ liệu được đưa vào các nút (node). Trong các nút có một nút nằm ở vị trí khởi đầu không là con của nút nào được gọi là gốc. Các nút khác đều là con của một nút nào đó và có không quá hai con. Từ nút gốc có một đường đi duy nhất đến mỗi nút khác trên cây.
Các nút không có con được gọi là lá (leaf node). Trong cây đỏ đen, các lá được gán giả là null; nghĩa là chúng không chứa bất kỳ dữ liệu nào.
Các cây tìm kiếm nhị phân, bao gồm cả cây đỏ-đen, thỏa mãn tính chất: mỗi nút được gán một giá trị sao cho giá trị trên mỗi nút nhỏ hơn hoặc bằng tất cả các giá trị trên các nút thuộc cây con phải và lớn hơn các giá trị nằm trên cây con trái. Điều đó làm cho quá trình tìm kiếm nhanh hơn.
Thuận lợi khi sử dụng
Các cây đỏ đen cùng với các cây AVL, thường đảm bảo một thời gian tốt nhất trong trường hợp xấu nhất cho các phép toán chèn (insertion), xóa (deletion),và tìm kiếm (search)..
Các cây đỏ-đen là một đồng cấu của các cây 2-3-4. Ngược lại, cho một cây 2-3-4, có ít nhất một cây đỏ-đen với các thầnh phần dữ liệu theo đúng thứ tự ấy. Các phép chèn và xóa trên cây 2-3-4 cũng tương đương với đổi màu và quay trong cây đỏ đen. Điều này làm cho các cây 2-3-4 có một công cụ quan trọng tương đương lôgic với cây đỏ-đen. Do đó các giải thuật trên các cây 2-3-4 tuy có trước cây đỏ-đen nhưng thường ít được dùng hơn cây đỏ đen.
Các tính chất
Mỗi nút của cây đỏ-đen có thuộc tính "màu" nhận một trong hai giá trị "đỏ" hoặc "đen". Ngoài ra:
Một nút hoặc là đỏ hoặc là đen.
Gốc là đen.
Tất cả các lá (NULL) là đen.
Cả hai con của mọi nút đỏ là đen. (và suy ra mọi nút đỏ có nút cha là đen)
Tất cả các đường đi từ một nút bất kỳ tới các lá có số nút đen bằng nhau.
Tính chất 5 còn được gọi là tính chất "cân bằng đen". Số các nút đen trên một đường đi từ gốc tới mỗi lá được gọi là độ dài đen của đường đi đó. Trong bài này chỉ xét các đường đi từ gốc tới các lá nên ta sẽ gọi tắt các đường đi như vậy là đường đi.
Sức mạnh của cây đỏ đen nằm trong các tính chất trên. Từ các tính chất này suy ra trong các đường đi từ gốc tới các lá đường đi dài nhất không vượt quá hai lần đường đi ngắn nhất. Do đó cây đỏ đen là gần cân bằng. Vì các thuật toán chèn, xóa, tìm kiếm trong trường hợp xấu nhất đều tỷ lệ với chiều cao của cây nên cây đỏ đen rất hiệu quả trong các trường hợp xấu nhất,không giống như cây tìm kiếm nhị phân thông thường.
Để thấy rõ sức mạnh này, ta chú ý rằng không có đường đi nào từ gôc tới một lá chứa hai nút đỏ liền nhau (theo tính chất 4). Do đó trên mỗi đường số nút đỏ không nhiều hơn số nút đen. Đường đi ngắn nhất là đường đi chỉ có nút đen, đường đi dài nhất có thể là đường đi xen kẽ giữa các nút đỏ và đen. Theo tính chất 5, số các nút đen trên hai đường đi đó bằng nhau, và do đó đường đi dài nhất không vượt quá hai lần đường đi ngắn nhất.
Trong nhiều biểu diễn của dữ liệu cây, có thể có các nút chỉ có một con và có các lá có chứa dữ liệu. Tuy nhiên có thể biểu diễn cây đỏ đen ta có một chút thay đổi mà không làm thay đổi tính chất cơ bản của cây và độ phức tạp của các thuật toán. Với mục đích này, ta đưa thêm các lá null vào làm con phải hoặc con trái hoặc cả hai của những nút không có chúng, các lá này không chứa dữ liệu mà chỉ làm nhiệm vụ thông báo rằng tại đây cây đã kết thúc, như hình vẽ ở trên. Việc thêm các nút này làm cho tất cả các nút trong của cây đều chứa dữ liệu và có hai con, hay khác đi cây đỏ đen cùng với các lá null là cây nhị phân đầy dủ. Khi đó số các "lá null" nhiều hơn số các nút chứa dữ liệu của cây một lá.
Một số người định nghĩa cây đỏ đen bằng cách gán màu đỏ đen cho các cạnh chứ không phải các nút. Tuy nhiên điều đó không tạo nên sự khác biệt. Khi ấy màu của mỗi nút tương ứng với màu của cạnh nối nó với nút cha.
Các phép toán trên cây đỏ đen
Có thể áp dụng ngay các phép chèn, xóa trong cây tìm kiếm nhị phân vào cây đỏ đen mà không cần sửa chữa gì vì cây đỏ đen là trường hợp riêng của cây tìm kiếm nhị phân. Tuy nhiên, khi đó có thể có một số tính chất trong định nghĩa của cây đỏ đen sẽ bị vi phạm. Việc khôi phục các tính chất đỏ đen sẽ cần một số nhỏ cỡ O(log n) hoặc trung bình chỉ O(1) các phép đổi màu (tốn rất ít thời gian) và không quá ba phép quay cho phép xóa, hai cho phép chèn. Toàn bộ các giải thuật chèn và xóa có độ phức tạp thời gian cỡ O(log n).
Phép chèn
Phép chèn bắt đầu bằng việc bổ sung một nút như trong cây tìm kiếm nhị phân bình thường và gán cho nó màu đỏ. Ta xem xét để bảo toàn tính chất đỏ đen từ các nút lân cận với nút mới bổ sung. Thuật ngữ nút chú bác sẽ dùng để chỉ nút anh (hoặc em) với nút cha của nút đó như trong cây phả hệ. Chú ý rằng:
Tính chất 3 (Tất cả các lá -là các nút null là đen) giữ nguyên.
Tính chất 4 (Cả hai con của nút đỏ là đen) nếu bị thay đổi chỉ bởi việc thêm một nút đỏ có thể sửa bằng cách gán màu đen cho một nút đỏ hoặc một phép quay.
Tính chất 5 (Tất cả các đường đi từ gôc tới các lá có cùng một số nút đen) nếu bị thay đổi chỉ bởi việc thêm một nút đỏ có thể sửa bằng cách gán màu đen cho một nút đỏ hoặc một phép quay.
Chú ý: Nhãn N sẽ dùng để chỉ nút đang chèn vào, P chỉ nút cha của N, G chỉ ông của N, và U chỉ chú bác của N. Nhớ rằng,giữa các trường hợp, vai trò và nhãn của các nút có thể thay đổi còn trong cùng một trường hợp thì không.
Mỗi trường hợp được giới thiệu bằng một đoạn mã C. Nút chú bác và nút ông dễ dàng xác định nhờ các hàm sau:
struct node *grandparent(struct node *n) {
return n->parent->parent;
}
struct node *uncle(struct node *n) {
if (n->parent == grandparent(n)->left)
return grandparent(n)->right;
else
return grandparent(n)->left;
}
Trường hợp 1: Nút mới thêm N ở tại gốc. Trong trường hợp này, gán lại màu đen cho N, để bảo toàn tính chất 2 (Gốc là đen). Vì mới chỉ bổ sung một nút, Tính chất 5 được bảo đảm vì mọi đường đi chỉ có một nút.
void insert_case1(struct node *n) {
if (n->parent == NULL)
n->color = BLACK;
else
insert_case2(n);
}
Trường hợp 2: Nút cha P của nút mới thêm là đen, khi đó Tính chất 4 (Cả hai nút con của nút đỏ là đen) không bị vi phạm vì nút mới thêm có hai con là "null' là đen. Tính chất 5 cũng không vi phạm vì nút mới thêm là đỏ không ẩnh hưởng tới số nút đen trên tất cả đường đi.
void insert_case2(struct node *n) {
if (n->parent->color == BLACK)
return; /* Tree is still valid */
else
insert_case3(n);
}
Chú ý: Trong trường hợp tiếp theo nếu N có ông là nút G, vì nếu cha P là đỏ và P không ở gốc thì G là đen. Như vậy, N cũng có chú bác là U, although it may be a leaf in cases 4 and 5.
void insert_case3(struct node *n) {
if (uncle(n)!= NULL && uncle(n)->color == RED) {
n->parent->color = BLACK;
uncle(n)->color = BLACK;
grandparent(n)->color = RED;
insert_case1(grandparent(n));
}
else
insert_case4(n);
}
Chú ý: Trong các trường hợp tiếp theo, giả sử rằng nút cha P là con trái của cha của nó. Nếu nó là con phải, left và right đổi chỗ cho nhau trong cases 4 and 5.
void insert_case4(struct node *n) {
if (n = = n->parent->right && n->parent = = grandparent(n)->left) {
rotate_left(n->parent);
n = n->left;
} else if (n = = n->parent->left && n->parent = = grandparent(n)->right) {
rotate_right(n->parent);
n = n->right;
}
insert_case5(n);
}
void insert_case5(struct node *n) {
n->parent->color = BLACK;
grandparent(n)->color = RED;
if (n == n->parent->left && n->parent == grandparent(n)->left) {
rotate_right(grandparent(n));
} else {
/* Here, n == n->parent->right && n->parent == grandparent(n)->right */
rotate_left(grandparent(n));
}
}
Phép xóa
Trong cây tìm kiếm nhị phân bình thường khi xóa một nút có cả hai con (không là lá null), ta tìm phần tử lớn nhất trong cây con trái hoặc phần tử nhỏ nhất trong cây con phải, chuyển giá trị của nó vào nút đang muốn xóa (xem Cây tìm kiếm nhị phân). Khi đó chúng ta xóa đi nút đã được copy giá trị, nút này có ít hơn hai con (không là lá null). Vì việc copy giá trị không làm mất tính chất đỏ đen nên không cần phải sửa chữa gì cho thao tác này. Việc này chỉ đặt ra khi xóa các nút có nhiều nhất một con (không là lá null).
Chúng ta sẽ thảo luận về việc xóa một nút có nhiều nhất một con (không là lá null).
Nếu ta xóa một nút đỏ, ta có thể chắc chắn rằng con của nó là nút đen. Tất cả các đường đi đi qua nút bị xóa chỉ đơn giản bớt đi một nút đỏ do đó tính chất 5 không thay đổi. Ngoài ra, cả nút cha và nút con của nút bị xóa đều là nút đen, do đó tính chất 3 và 4 vẫn giữa nguyên..
Một trường hợp đơn giản khác là khi xóa một nút đen chỉ có một con là nút đỏ. Khi xóa nút đó các tính chất 4 và 5 bị phá vỡ, nhưng nếu gán lại màu cho nút con là đen thì chúng lại được khôi phục.
Trường hợp phức tạp xảy ra khi cả nút bị xóa và nút con của nó đều là đen. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc thay nút bị xóa bằng nút con của nó. Chúng ta sẽ gọi nút con này (trong vị trí mới của nó là N, và anh em với nó (con khác của nút cha mới) là S.
Tiếp theo ta vẫn dùng P chỉ cha mới của N, SL chỉ con trái của S, và SR chỉ con phải của S (chúng tồn tại vì S không thể là lá).
Chú ý: Giữa các trường hợp khác nhau, vai trò và nhãn của các nút có thể thay đổi, nhưng trong một trường hợp mọi nhãn giữ vai trò không thay đổi. Trong hình vẽ các màu đỏ đen được thể hiện khi màu của nút đã rõ ràng, màu trắng biểu thị một màu chưa rõ (hoặc đỏ hoặc đen).
Chúng ta sẽ sử dụng hàm sau tìm người anh em của N:
struct node *sibling(struct node *n) {
if (n = = n->parent->left)
return n->parent->right;
else
return n->parent->left;
}
Chú ý: Tất nhiên, chúng ta cần hoàn chỉnh các lá null sau mọi phép thay đổi. Nếu nút bị xóa không có con N khác "lá null", dễ dàng thấy rằng các tính chất được thỏa mãn. Còn nếu N là một "lá nulll", có thể sửa chữa lược đồ (hoặc code) để trong tất cảc các trường hợp các tính chất được thỏa mãn.
Trước mỗi bước ta có thể dùng hàm (function) replace_node thay thế nút con child vào vị trí của nút bị xóa trên cây. Để thuận tiện các đoạn code trong mục này quy ước rằng các "lá null" được biểu diễn bằng các đối tượng nút thực sự khác biệt một chút với NULL (code trong phép chèn có biểu diễn không nư vậy).
void delete_one_child(struct node *n) {
/* Giả thiết: n có ít nhất một nút con null */
struct node *child = is_leaf(n->right) ? n->left: n->right;
replace_node(n, child);
if (n->color == BLACK) {
if (child->color == RED)
child->color = BLACK;
else
delete_case1(child);
}
free(n);
}
Ghi chú: Nếu N là "lá nul" và ta khong muốn biểu diễn các "lá null" bằng các đối tượng nút thực, ta có thể sửa giải thuật bằng cách trước hết gọi delete_case1() trên cha của nó (nghĩa là nút bị xóa n trong đoạn code trên) rồi sau đó mới xóa nó. Ta có thể làm như vậy vì cha của nó là đen, do đó có diễn biến như với "lá null" (một số người gọi là "lá ảo", "lá ma"). Ta cũng có thể xóa nó khỏi cuối của n và sẽ khôi phục lại sau tất cả các phép toán.
Nếu cả N và gốc ban đầu của nó là đen thì sau khi xóa các đường qua "N" giảm bớt một nút đen. Do đó vi phạm Tính chất 5, cây cần phải cân bằng lại. Có các trường hợp sau:
Trường hợp 1 Trường hợp 1: N là gốc mới. Trong trường hợp này chúng ta dừng lại. Ta đã giải phóng một nút đen khỏi mọi đường đi và gôc mới lại là đen. Không tính chất nào bị vi phạm.
void delete_case1(struct node *n) {
if (n->parent == NULL)
return;
else
delete_case2(n);
}
Chú ý: Trong các trường hợp 2, 5, và 6, ta quy ước N là con trái của cha P'''. Nếu no là con phải, left và right'' sẽ tráo đổi cho nhau. Tuy nhiên code ví dụ làm cho cả hai trường hợp.
void delete_case2(struct node *n) {
if (sibling(n)->color == RED) {
n->parent->color = RED;
sibling(n)->color = BLACK;
if (n == n->parent->left)
rotate_left(n->parent);
else
rotate_right(n->parent);
}
delete_case3(n);
}
void delete_case3(struct node *n) {
if (n->parent->color == BLACK &&
sibling(n)->color == BLACK &&
sibling(n)->left->color == BLACK &&
sibling(n)->right->color == BLACK)
{
sibling(n)->color = RED;
delete_case1(n->parent);
}
else
delete_case4(n);
}
void delete_case4(struct node *n) {
if (n->parent->color == RED &&
sibling(n)->color == BLACK &&
sibling(n)->left->color == BLACK &&
sibling(n)->right->color == BLACK)
{
sibling(n)->color = RED;
n->parent->color = BLACK;
}
else
delete_case5(n);
}
void delete_case5(struct node *n) {
if (n == n->parent->left &&
sibling(n)->color == BLACK &&
sibling(n)->left->color == RED &&
sibling(n)->right->color == BLACK)
{
sibling(n)->color = RED;
sibling(n)->left->color = BLACK;
rotate_right(sibling(n));
}
else if (n == n->parent->right &&
sibling(n)->color == BLACK &&
sibling(n)->right->color == RED &&
sibling(n)->left->color == BLACK)
{
sibling(n)->color = RED;
sibling(n)->right->color = BLACK;
rotate_left(sibling(n));
}
delete_case6(n);
}
void delete_case6(struct node *n) {
sibling(n)->color = n->parent->color;
n->parent->color = BLACK;
if (n == n->parent->left) {
/* Here, sibling(n)->right->color == RED */
sibling(n)->right->color = BLACK;
rotate_left(n->parent);
}
else
{
/* Here, sibling(n)->left->color == RED */
sibling(n)->left->color = BLACK;
rotate_right(n->parent);
}
}
Nhắc lại rằng các hàm này có lời gọi đệ quy. Thêm nữa lời gọi không đệ quy sẽ được goi sau một phép quay, do đó số lần thực hiện các phép quay là không đổi (không quá 3). |
Ernest Rutherford (1871 - 1937) là một nhà vật lý người New Zealand hoạt động trong lĩnh vực phóng xạ và cấu tạo nguyên tử. Ông được coi là "cha đẻ" của vật lý hạt nhân; sau khi đưa ra mô hình hành tinh nguyên tử để giải thích thí nghiệm trên lá vàng
Ông khám phá ra rằng nguyên tử có điện tích dương tập trung trong hạt nhân rất bé,
và từ đó đi đầu cho việc phát triển mẫu Rutherford, còn gọi là mẫu hành tinh của nguyên tử. Nhờ phát hiện của mình và làm sáng tỏ hiện tượng tán xạ Rutherford trong thí nghiệm với lá vàng mà ông được giải Nobel hóa học vào năm 1908. Ông được mọi người công nhận trong việc phân chia nguyên tử vào năm 1917 và đứng đầu thí nghiệm "tách hạt nhân" đầu tiên với hai sinh viên mà ông hướng dẫn, John Cockcroft và Ernest Walton vào năm 1932.
Trong thời gian đầu, Rutherford đã phát hiện ra khái niệm về chu kỳ bán rã phóng xạ, radon nguyên tố phóng xạ, và bức xạ alpha và beta khác biệt và được đặt tên. Công việc này được thực hiện tại Đại học McGill ở Montreal, Quebec, Canada. Nó là cơ sở cho giải thưởng Nobel về hóa học mà ông đã được trao vào năm 1908 "vì những nghiên cứu về sự tan rã của các nguyên tố và hóa học của các chất phóng xạ", mà ông là người đầu tiên đoạt giải Nobel của châu Đại Dương.
Rutherford chuyển đến năm 1907 đến Đại học Victoria của Manchester (ngày nay là Đại học Manchester) ở Anh, nơi ông và Thomas Royds đã chứng minh rằng bức xạ alpha là hạt nhân helium. Rutherford đã thực hiện tác phẩm nổi tiếng nhất của mình sau khi ông trở thành người được giải thưởng Nobel. Vào năm 1911, mặc dù ông không thể chứng minh rằng đó là tích cực hay tiêu cực, ông đưa ra giả thuyết rằng các nguyên tử tập trung vào một hạt nhân rất nhỏ, và do đó đã đi tiên phong trong mô hình nguyên tử của Rutherford, thông qua khám phá và giải thích tán xạ Rutherford bằng thí nghiệm lá vàng của Hans Geiger và Ernest Marsden. Ông đã thực hiện phản ứng hạt nhân nhân tạo đầu tiên vào năm 1917 trong các thí nghiệm trong đó hạt nhân nitơ bị bắn phá bằng các hạt alpha. Kết quả là, ông đã phát hiện ra sự phát xạ của một hạt hạ nguyên tử, vào năm 1919, ông gọi là "nguyên tử hydro", nhưng vào năm 1920, ông đặt tên chính xác hơn là proton.
Rutherford trở thành Giám đốc Phòng thí nghiệm Cavendish tại Đại học Cambridge năm 1919. Dưới sự lãnh đạo của ông, neutron đã được James Chadwick phát hiện vào năm 1932 và cùng năm đó, thí nghiệm đầu tiên phân tách hạt nhân theo cách được kiểm soát hoàn toàn được thực hiện bởi các sinh viên làm việc dưới sự chỉ đạo của ông, John Cockcroft và Ernest Walton. Sau khi qua đời vào năm 1937, ông được chôn cất tại Tu viện Westminster gần lăng mộ của ngài Isaac Newton. Nguyên tố hóa học rutherfordi (nguyên tố 104) được đặt theo tên ông vào năm 1997.
Tiểu sử
Ernest Rutherford sinh ngày 30 tháng 8 năm 1871 ở Nelson, New Zealand. Ernest Rutherford là con trai của James Rutherford, một nông dân, và vợ của ông là Martha Thompson, quê quán ở Hornchurch, Essex, Anh Quốc. James là dân nhập cư từ Perth, Scotland, "để nuôi trồng cây đanh và các con". Ernest sinh ra ở Spring Grove (bây giờ là Brightwater), gần Nelson, New Zealand. Tên gọi của ông bị đánh vần sai thành Earnest khi đi làm giấy khai sinh.
Ông học tại trường Havelock và sau đó là Cao đẳng Nelson và giành được học bổng để học tại Canterbury College, Đại học New Zealand, nơi ông tham gia vào xã hội tranh luận và chơi bóng bầu dục. Sau khi có được B.A, M.A và BSc của mình, và thực hiện hai năm nghiên cứu, trong đó ông đã phát minh ra một hình thức thu sóng vô tuyến mới, vào năm 1895, Rutherford đã được trao học bổng nghiên cứu năm 1851 từ Ủy ban Triển lãm Hoàng gia năm 1851, để đi du lịch đến Anh để học sau đại học tại Phòng thí nghiệm Cavendish, Đại học Cambridge. Ông là một trong những "người ngoài hành tinh" đầu tiên (những người không có bằng Cambridge) được phép nghiên cứu tại trường đại học, dưới sự lãnh đạo của Joseph J. Thomson, làm dấy lên sự ghen tị từ các thành viên bảo thủ hơn của hội huynh đệ Cavendish. Với sự khuyến khích của Thomson, anh đã phát hiện ra sóng vô tuyến ở khoảng cách nửa dặm và giữ kỷ lục thế giới về khoảng cách mà sóng điện từ có thể được phát hiện, mặc dù khi ông trình bày kết quả của mình tại cuộc họp của Hiệp hội Anh năm 1896, ông phát hiện ra mình đã bị Guglielmo Marconi, người cũng đang trình bày tại hội nghị, vượt qua.
Năm 1898, Thomson đề nghị Rutherford giữ một vị trí tại Đại học McGill ở Montreal, Canada. Ông được thay thế Hugh Longbourne Callendar, người giữ ghế của Giáo sư vật lý Macdonald và sẽ đến Cambridge. Rutherford được chấp nhận, điều đó có nghĩa là vào năm 1900, anh ta có thể cưới Mary Georgina Newton (1876-1954) mà anh ta đã đính hôn trước khi rời New Zealand; họ kết hôn tại nhà thờ Anh giáo St Paul, Papanui ở thành phố Christchurch, họ có một con gái, Eileen Mary (1901-1930), người kết hôn với nhà vật lý Ralph Fowler. Năm 1901, Rutherford có bằng DSc từ Đại học New Zealand. Năm 1907, ông trở về Anh để đảm nhận vị trí chủ tịch vật lý tại Đại học Victoria của Manchester.
Những năm sau này và tấm bằng danh dự
Rutherford được phong tước hiệp sĩ năm 1914. Trong Thế chiến I, ông đã làm việc trong một dự án tối mật để giải quyết các vấn đề thực tế về phát hiện tàu ngầm bằng sonar. Năm 1916, ông được trao Huân chương Tưởng niệm Hector. Năm 1919, ông trở lại Cavendish kế vị JJ Thomson với tư cách là giáo sư và giám đốc Cavendish. Theo ông, giải thưởng Nobel đã được trao cho James Chadwick vì đã khám phá ra neutron (năm 1932), John Cockcroft và Ernest Walton cho một thí nghiệm được biết đến như là tách nguyên tử bằng máy gia tốc hạt và Edward Appleton để chứng minh sự tồn tại của tầng điện ly. Năm 1925, Rutherford đã thúc đẩy các cuộc gọi tới Chính phủ New Zealand để hỗ trợ giáo dục và nghiên cứu, dẫn đến sự hình thành của Bộ nghiên cứu khoa học và công nghiệp (DSIR) vào năm sau. Từ năm 1925 đến 1930, ông là Chủ tịch Hội Hoàng gia, và sau đó là chủ tịch Hội đồng Hỗ trợ Học thuật đã giúp đỡ gần 1.000 người tị nạn đại học từ Đức. Ông được bổ nhiệm vào Huân chương Năm 1925 và được nâng lên ngang hàng với tư cách là Nam tước Rutherford của Nelson, của Cambridge ở Quận Cambridge năm 1931, một danh hiệu bị tuyệt chủng sau cái chết bất ngờ của ông năm 1937 Năm 1933, Rutherford là một trong hai người nhận được Huân chương TK Sidey, được Hiệp hội Hoàng gia New Zealand thành lập như một giải thưởng cho nghiên cứu khoa học xuất sắc.
Trong một thời gian trước khi chết, Rutherford bị thoát vị nhỏ, mà ông đã bỏ qua việc chữa, và nó bị siết lại, khiến ông bị ốm nặng. Mặc dù phải phẫu thuật khẩn cấp ở London, anh ta đã chết bốn ngày sau khi các bác sĩ gọi là "tê liệt đường ruột", tại Cambridge. Sau khi hỏa táng tại Nhà hỏa táng Golders Green, ông được vinh dự chôn cất tại Tu viện Westminster, gần Isaac Newton và các nhà khoa học lừng lẫy khác của Anh.
Nghiên cứu khoa học
Tại Cambridge, Rutherford bắt đầu làm việc với JJ Thomson về tác động dẫn của tia X đối với chất khí, công việc dẫn đến việc phát hiện ra electron mà Thomson trình bày với thế giới vào năm 1897. Nghe về trải nghiệm của Becquerel với uranium, Rutherford bắt đầu khám phá tính phóng xạ của nó, khám phá ra hai loại khác với tia X trong khả năng xuyên thấu của chúng. Tiếp tục nghiên cứu của mình ở Canada, ông đã đặt ra thuật ngữ tia alpha và tia beta vào năm 1899 để mô tả hai loại bức xạ riêng biệt. Sau đó, ông phát hiện ra rằng thorium tạo ra một loại khí tự tạo ra chất phóng xạ và sẽ bao phủ các chất khác. Ông phát hiện ra rằng một mẫu vật liệu phóng xạ có kích thước bất kỳ luôn luôn mất cùng một lượng thời gian để một nửa mẫu phân rã - " thời gian bán hủy " của nó (11½ phút trong trường hợp này).
Từ năm 1900 đến năm 1903, ông được nhà hóa học trẻ Frederick Soddy (Giải thưởng Nobel về hóa học năm 1921) tham gia tại McGill, người mà ông đặt ra vấn đề xác định các phát xạ thorium. Khi đã loại bỏ tất cả các phản ứng hóa học thông thường, Soddy cho rằng đó phải là một trong những khí trơ mà họ đặt tên là thoron (sau này được tìm thấy là đồng vị của radon). Họ cũng tìm thấy một loại thorium khác mà họ gọi là Thorium X, và tiếp tục tìm thấy dấu vết của helium. Họ cũng đã làm việc với các mẫu "Uranium X" từ William Crookes và radium từ Marie Curie.
Năm 1903, họ đã xuất bản "Luật thay đổi phóng xạ" để giải thích cho tất cả các thí nghiệm của họ. Cho đến lúc đó, các nguyên tử được coi là cơ sở không thể phá hủy của mọi vật chất và mặc dù Curie đã cho rằng phóng xạ là một hiện tượng nguyên tử, ý tưởng về các nguyên tử của các chất phóng xạ vỡ ra là một ý tưởng hoàn toàn mới. Rutherford và Soddy đã chứng minh rằng phóng xạ liên quan đến sự phân rã tự phát của các nguyên tử thành các vật chất khác, chưa được xác định. Giải thưởng Nobel về hóa học 1908 đã được trao cho Ernest Rutherford "vì những nghiên cứu của ông về sự tan rã của các nguyên tố và hóa học của các chất phóng xạ".
Năm 1903, Rutherford đã xem xét một loại bức xạ được phát hiện (nhưng không được đặt tên) bởi nhà hóa học người Pháp Paul Villard vào năm 1900, như một phát xạ từ radium, và nhận ra rằng quan sát này phải thể hiện một cái gì đó khác với tia alpha và beta của chính ông, do chính nó sức mạnh thâm nhập lớn hơn nhiều. Do đó, Rutherford đã cho loại bức xạ thứ ba này là tên của tia gamma. Tất cả ba thuật ngữ của Rutherford đều được sử dụng tiêu chuẩn ngày nay - các loại phân rã phóng xạ khác đã được phát hiện, nhưng ba loại của Rutherford là một trong những loại phổ biến nhất.
Ở Manchester, ông tiếp tục làm việc với bức xạ alpha. Kết hợp với Hans Geiger, ông đã phát triển các sàng lọc kẽm sulfide và buồng ion hóa để đếm bảng chữ cái. Bằng cách chia tổng số điện tích mà chúng tạo ra cho số lượng được tính, Rutherford quyết định rằng điện tích trên alpha là hai. Vào cuối năm 1907, Ernest Rutherford và Thomas Royds cho phép các bảng chữ cái xuyên qua một cửa sổ rất mỏng vào một ống di tản. Khi họ châm ngòi cho ống phóng điện, quang phổ thu được từ nó thay đổi, khi các chữ cái được tích lũy trong ống. Cuối cùng, quang phổ rõ ràng của khí heli xuất hiện, chứng minh rằng hạt alpha ít nhất là các nguyên tử helium bị ion hóa, và có lẽ là hạt nhân helium.
Một huyền thoại đã tồn tại từ lâu, ít nhất là vào đầu năm 1948, chạy ít nhất đến năm 2017, rằng Rutherford là nhà khoa học đầu tiên quan sát và báo cáo sự biến đổi nhân tạo của một nguyên tố ổn định thành một nguyên tố khác: nitơ thành oxy. Nhiều người cho rằng đó là một trong những thành tựu lớn nhất của Rutherford. Chính phủ New Zealand thậm chí đã phát hành một con tem kỷ niệm với niềm tin rằng phát hiện nitơ-oxy thuộc về Rutherford. Bắt đầu từ năm 2017, nhiều tổ chức khoa học đã sửa các phiên bản lịch sử của họ để chỉ ra rằng tín dụng khám phá cho phản ứng thuộc về Patrick Blackett. Rutherford đã phát hiện ra proton bị đẩy ra vào năm 1919 và giải thích nó là bằng chứng cho sự tan rã của hạt nhân nitơ (thành hạt nhân nhẹ hơn). Năm 1925, Blackett cho thấy sản phẩm thực tế là oxy và xác định phản ứng thực sự là 14 N + α → 17 O + p. Do đó, Rutherford nhận ra rằng "hạt nhân có thể tăng chứ không giảm dần về khối lượng do va chạm trong đó proton bị đẩy ra ngoài."
Thí nghiệm lá vàng
Rutherford đã thực hiện tác phẩm nổi tiếng nhất của mình sau khi nhận giải thưởng Nobel năm 1908. Cùng với Hans Geiger và Ernest Marsden vào năm 1909, ông đã thực hiện thí nghiệm GeigerTHER Marsden, chứng minh bản chất hạt nhân của các nguyên tử bằng cách làm chệch hướng các hạt alpha đi qua một lá vàng mỏng. Rutherford được truyền cảm hứng để yêu cầu Geiger và Marsden trong thí nghiệm này tìm kiếm các hạt alpha có góc lệch rất cao, một loại không được mong đợi từ bất kỳ lý thuyết vật chất nào vào thời điểm đó. Các độ võng như vậy, mặc dù hiếm, đã được tìm thấy, và được chứng minh là một hàm trơn tru nhưng có thứ tự cao của góc lệch. Chính sự giải thích về dữ liệu này của Rutherford đã khiến ông xây dựng mô hình nguyên tử của Rutherford vào năm 1911 rằng một rất nhỏ hạt nhân tích điện, bao gồm phần lớn khối lượng của nguyên tử, được electron khối lượng thấp quay quanh.
Vào năm 1919, 191920, Rutherford đã phát hiện ra rằng nitơ và các nguyên tố ánh sáng khác đã phóng ra một proton, mà ông gọi là "nguyên tử hydro", khi va chạm với các hạt α (alpha). Kết quả này cho thấy Rutherford rằng hạt nhân hydro là một phần của hạt nhân nitơ (và theo suy luận, có lẽ là các hạt nhân khác). Việc xây dựng như vậy đã bị nghi ngờ trong nhiều năm trên cơ sở trọng lượng nguyên tử là toàn bộ số lượng của hydro; xem giả thuyết của Prout. Hydrogen được biết đến là nguyên tố nhẹ nhất và hạt nhân của nó có lẽ là hạt nhân nhẹ nhất. Bây giờ, vì tất cả những cân nhắc này, Rutherford đã quyết định rằng hạt nhân hydro có thể là một khối xây dựng cơ bản của tất cả các hạt nhân, và cũng có thể là một hạt cơ bản mới, vì không có gì được biết từ hạt nhân nhẹ hơn. Do đó, xác nhận và mở rộng công trình của Wilhelm Wien, người vào năm 1898 đã phát hiện ra proton trong các luồng khí ion hóa, Rutherford đã cho rằng hạt nhân hydro là một hạt mới vào năm 1920, mà ông gọi là proton
Năm 1921, khi làm việc với Niels Bohr (người đã tuyên bố rằng các electron chuyển động theo quỹ đạo cụ thể), Rutherford đã đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của neutron, (mà ông đã đặt tên trong Bài giảng Bakerian năm 1920), bằng cách nào đó có thể bù đắp cho hiệu ứng đẩy lùi của dương điện tích của các proton bằng cách gây ra một lực hạt nhân hấp dẫn và do đó giữ cho các hạt nhân không bị tách ra khỏi lực đẩy giữa các proton. Sự thay thế duy nhất cho neutron là sự tồn tại của "electron hạt nhân" sẽ chống lại một số điện tích proton trong hạt nhân, từ đó người ta đã biết rằng hạt nhân có khối lượng gấp đôi khối lượng có thể được tính nếu chúng được lắp ráp đơn giản từ hydro hạt nhân (proton). Nhưng làm thế nào những electron hạt nhân này có thể bị giữ lại trong hạt nhân, là một bí ẩn.
Thuyết neutron của Rutherford đã được cộng sự James Chadwick chứng minh vào năm 1932, và Chadwick đã nhận ra neutron ngay lập tức khi chúng được các nhà khoa học khác tạo ra; và sau đó là chính ông tạo ra khi bắn phá beryllium bằng các hạt alpha. Năm 1935, Chadwick đã được trao giải thưởng Nobel về Vật lý cho khám phá này.
Di sản
Rutherford được coi là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử. Tại phiên khai mạc của Đại hội Khoa học Ấn Độ năm 1938, mà Ruthherford dự kiến sẽ chủ trì trước khi chết, nhà vật lý thiên văn James Jeans đã nói tại chỗ và coi ông là "một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại", nói:
Vật lý nguyên tử
Nghiên cứu của Rutherford, và công việc được thực hiện dưới thời ông là giám đốc phòng thí nghiệm, đã thiết lập cấu trúc hạt nhân của nguyên tử và bản chất cơ bản của sự phân rã phóng xạ là một quá trình hạt nhân. Patrick Blackett, một nhà nghiên cứu làm việc dưới quyền của Rutherford, sử dụng các hạt alpha tự nhiên, đã chứng minh sự biến đổi hạt nhân gây ra. Nhóm của Rutherford sau đó, sử dụng các proton từ máy gia tốc, đã chứng minh các phản ứng hạt nhân và biến đổi nhân tạo. Ông được biết đến như là cha đẻ của vật lý hạt nhân. Rutherford chết quá sớm để thấy ý tưởng về các phản ứng dây chuyền hạt nhân có kiểm soát của Leó Szilárd ra đời. Tuy nhiên, một bài phát biểu của Rutherford về sự chuyển nhân tạo gây ra của mình trong lithium, in trong số ra ngày 12 tháng 9 năm 1933 của The Times, đã được báo cáo bởi Szilárd như đã được cảm hứng của mình cho suy nghĩ về khả năng của một năng lượng sản xuất kiểm soát phản ứng dây chuyền hạt nhân. Szilard đã có ý tưởng này khi đi bộ ở London, cùng ngày.
Bài phát biểu của Rutherford đã chạm đến công trình năm 1932 của các sinh viên John Cockcroft và Ernest Walton trong việc "tách" lithium thành các hạt alpha bằng cách bắn phá bằng các proton từ máy gia tốc hạt mà họ đã chế tạo. Rutherford nhận ra rằng năng lượng được giải phóng từ các nguyên tử lithium phân tách là rất lớn, nhưng ông cũng nhận ra rằng năng lượng cần thiết cho máy gia tốc, và sự không hiệu quả thiết yếu của nó trong việc phân tách các nguyên tử theo cách này, khiến dự án trở thành một nguồn năng lượng thực tế (máy gia tốc phân hạch do các yếu tố ánh sáng gây ra vẫn còn quá kém hiệu quả để được sử dụng theo cách này, ngay cả ngày nay). Bài phát biểu của Rutherford một phần nói rằng:
Các sản phẩm được đặt tên để vinh danh cuộc sống và thành tựu của Rutherford
Khám phá khoa học
Nguyên tố rutherfordium, Rf, Z = 104. (1997)
Rutherford (Rd), một đơn vị phóng xạ lỗi thời tương đương với một megabecquerel.
Viện khoa học
Phòng thí nghiệm Rutherford Appleton, một phòng thí nghiệm nghiên cứu khoa học gần Didcot, Oxfordshire.
Cao đẳng Rutherford, Auckland, một trường học ở Auckland, New Zealand
Cao đẳng Rutherford, Kent, một trường cao đẳng tại Đại học Kent ở Canterbury, Anh
Viện đổi mới Rutherford tại Đại học Cambridge
Trường trung cấp Rutherford, Wanganui, New Zealand
Hội trường Rutherford, một hội trường cư trú tại Đại học Loughborough
Ghi nhận
Ngoài giải thưởng Nobel hóa học, Ernest Rutherford đã được nhận nhiều vinh danh khác. Ông đã được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm giáo hoàng về Khoa học và viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (nay là Viện hàn lâm Khoa học Liên bang Nga). |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.