text
stringlengths
0
512k
Trương Lăng (chữ Hán: 張陵; 34 – 156 sau Công Nguyên), biểu tự Phụ Hán (輔漢), được xem là người đã sáng lập ra giáo phái Ngũ Đấu Mễ Đạo cùng Chính Nhất Đạo trong Đạo giáo Trung Quốc. Trong Đạo giáo, Trương Lăng cũng được gọi là Trương Đạo Lăng (張道陵), Tổ Thiên Sư (祖天師), Trương Đạo Lăng Thiên sư (张道陵天師) hoặc Chính Nhất chân nhân (正一真人). Tương truyền ông dùng hổ để cưỡi, lại được lưu truyền cùng với Cát Huyền, Hứa Tốn cùng Tát Thủ Kiên hợp gọi 「Tứ đại Thiên sư; 四大天師」. Tiểu sử Ông là người quận Phái (沛郡), quê đất Phong (丰; nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô). Ông được tương truyền là cháu 7 đời của Trương Lương, một trong "Tam Kiệt nhà Hán" trứ danh của lịch sử Trung Quốc. Trương Lăng xuất thân từ một gia đình Nho giáo nhiều đời. Thuở nhỏ ông đã tinh nghiên Đạo Đức Kinh, thiên văn, địa lý, Hà Đồ, Lạc Thư, cũng thông đạt Ngũ kinh. Đời Hán Minh Đế (khoảng từ năm 58 đến năm 75), ông làm quan Huyện lệnh ở Giang Châu (江州) thuộc Ba Quận (巴郡; nay là thành phố Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên). Cho rằng Nho học vô ích, ông bèn học đạo trường sinh bất tử, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn (北邙山). Triều đình phong chức Bác sĩ quan (博士官) cho ông nhưng ông thác bệnh và từ chối. Đến thời Hán Hoà Đế, triều đình đã ba lần ra chiếu phong ông làm quan Thái phó nhưng ông vẫn từ chối. Sang đời Hán Thuận Đế, Trương Lăng vào Ba Thục, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn (鶴鳴山; cũng gọi "Cốc Minh Sơn" 鵠鳴山), tự xưng đã được Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy (正一盟威), nên xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân (三天法師正一真人), ông còn nói Lão Quân phong ông làm "Thiên Sư", nên đương thời hay gọi ông là Tổ Thiên Sư (祖天师). Năm Vĩnh Hòa thứ 6 (141), ông sáng tác đạo kinh, tôn Lão Tử làm giáo chủ. Trước tiên ông trị bệnh để thu hút quần chúng và sau đó là truyền đạo. Khi quy tụ được đông đảo quần chúng, Trương Lăng - bấy giờ bắt đầu gọi là Trương Đạo Lăng - đã đứng ra tổ chức 24 điểm truyền đạo gọi là 24 Trị (治), trong đó ba trung tâm lớn là Dương Bình Trị (陽平治), Lộc Đường Trị (鹿堂治) và Hạc Minh Trị (鶴鳴治). Người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo (gọi là "Tín mễ" 信米), do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (五斗米道; có nghĩa là "Đạo 5 đấu gạo"), cũng gọi là "Mễ Vu" (米巫) bởi vì đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của Vu giáo của dân tộc thiểu số tại Ba Thục. Một cách giải thích khác: Ngũ Đấu Mễ là Ngũ Đẩu Mẫu (五斗姆), tức là Bắc Đẩu Mẫu (北斗姆) trong Ngũ Phương Tinh Đẩu (五方星斗), đứng đầu trong các sao. Hai cách giải thích này đều thông hành; có thể lúc lập giáo, Trương Lăng đã có chủ ý như vậy. Và cho phù hợp với Nhị Thập Bát Tú (28 sao), sau này 24 Trị phát triển thành 28 Trị. Khoảng những năm Hán Hoàn Đế, chừng năm 156 công nguyên, Trương Lăng qua đời tại núi Thanh Thành, thọ chừng 123 tuổi. Sau khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành (張衡) kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương Lỗ (張魯) kế vị. Cả 3 đời ông cháu được người đời gọi là "Tam Trương", nhưng trong nội bộ phải gọi là "Tam Sư": trong khi Trương Lăng là Thiên Sư, Trương Hành là Tự Sư (嗣師) và Trương Lỗ là Hệ Sư (系師). Hình vẽ về Trương Lăng
Nam Đàn là thị trấn huyện lỵ của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Địa lý Thị trấn Nam Đàn nằm trên quốc lộ 46, cách thành phố Vinh khoảng 20 km và nằm gần chân đê tả sông Lam, có con sông Đào chảy qua, có vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Xuân Hòa Phía tây giáp huyện Thanh Chương và xã Nam Thái Phía nam giáp xã Thượng Tân Lộc với ranh giới là sông Lam Phía bắc giáp xã Nam Nghĩa và xã Nam Thanh. Thị trấn Nam Đàn có diện tích 18,70 km², dân số năm 2018 là 20.600 người, mật độ dân số đạt 1.102 người/km². Lịch sử Nam Đàn từng là kinh đô Vạn An của Việt Nam thời vua Mai Hắc Đế. Ngày nay vẫn còn vết tích thành Vạn An. Địa bàn thị trấn Nam Đàn hiện nay trước đây vốn là thị trấn Nam Đàn, xã Vân Diên và một phần xã Nam Thượng. Ngày 9 tháng 7 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 105-HĐBT. Theo đó, sáp nhập 29,15 ha diện tích tự nhiên và 269 người của xã Vân Diên (gồm xóm Hà Long); 88,21 ha diện tích tự nhiên và 874 người của xã Xuân Hòa (gồm các xóm Tây Hồ, Quang Trung) vào thị trấn Nam Đàn. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị trấn Nam Đàn có 183,30 ha diện tích tự nhiên và 6.783 người. Đến năm 2018, thị trấn Nam Đàn có diện tích 1,90 km², dân số là 6.900 người, mật độ dân số đạt 3.632 người/km², gồm các khối phố: Mai Hắc Đế, Lam Sơn, Xuân Khoa, Sa Nam, Yên Khánh, Đan Nhiệm, Quang Trung, Phan Bội Châu (tên cũ là khối Tây Hồ), Ba Hà. Xã Vân Diên có diện tích 13,60 km², dân số là 13.000 người, mật độ dân số đạt 956 người/km², gồm 19 xóm: Trung Đông, Quy Chinh 1, Quy Chính 2, Bắc Sơn, Bắc Thung, Đông Tiến, Đụn Sơn,Hà Long, Hồ Sơn, Nam Bình, Nam Thung, Nam Sơn, Hùng Lĩnh, Trường Long, Sư Phạm, Nhật Đông, Nhật Quang, Vạn An, Vệ Nông. Xã Nam Thượng có diện tích 7,30 km², dân số là 1.900 người, mật độ dân số đạt 260 người/km². Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 831/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Nghệ An (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Vân Diên; toàn bộ 3,20 km² diện tích tự nhiên và 700 người thuộc 2 xóm: 4, 5 của xã Nam Thượng vào thị trấn Nam Đàn. Đặc sản Đặc sản truyền thống là Tương Nam Đàn "Nhút Thanh Chương, Tương Nam Đàn" Dầu lạc Đan Nhiệm Miến Quy Chính Dê Cầu Đòn. Di tích Thành Vạn An, nằm trên núi Đụn thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn. Năm 722, Mai Thúc Loan dựng cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Đường. Ông xây dựng thành Vạn An làm đại bản doanh. Từ đây ông đã chỉ huy nghĩa quân đánh tan quân nhà Đường ở Hoan Châu rồi tiến quân ra Bắc đánh chiếm thành Tống Bình giải phóng đất nước. Nhà lưu niệm và nhà trưng bày về Phan Bội Châu.
Trần Đại Nghĩa (là ông rất thông minh tên do Bác Hồ đặt) sinh năm13 tháng 9 năm 1913 – 9 tháng 8 năm 1997) là một giáo sư, kỹ sư quân sự, nhà bác học, Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lao động, người đã đặt nền móng xây dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng Việt Nam.Nguyên Cục trưởng Cục Quân giới - Bộ Quốc phòng (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) kiêm Giám đốc Nha nghiên cứu Quân giới - Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự). Ông cũng là hiệu trưởng đầu tiên của trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Tuổi trẻ Ông tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913 trong một gia đình nhà giáo nghèo tại xã Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Mồ côi cha lúc 6 tuổi, ông được mẹ và chị gái đã tần tảo nuôi dưỡng cho ăn học. Giữa 1933, Phạm Quang Lễ đã thi đỗ đầu hai bằng tú tài: Tú tài Việt và Tú tài Tây. Nhưng vì nhà nghèo, không có tiền đi Hà Nội để học tiếp, Phạm Quang Lễ quyết định đi làm giúp mẹ, giúp chị và nuôi chí vươn lên, chờ thời cơ. Sau 2 năm làm việc tại các Đại sứ quán Mỹ, ông đã gặp nhà báo Dương Quang Ngưu người đã giúp ông có được một học bổng Chasseloup-Laubat du học tại Paris. Năm 1935, ông đi du học Pháp và tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân toán học tại các trường: trường Bách khoa Paris (École Polytechnique), Đại học Mỏ (École nationale supérieure des mines de Paris), Đại học Điện, Đại học Sorbonne, Đại học Cầu đường Paris. Sau đó ông ở lại Pháp làm việc tại Trường Quốc gia Hàng không và Vũ trụ (École nationale supérieure de l'aéronautique et de l'espace). Năm 1942, ông sang Đức làm việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện nghiên cứu vũ khí. Về nước tham gia chính quyền cách mạng Tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua Pháp thương thuyết với Bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet. Ông cùng với kỹ sư luyện kim Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước theo Hồ Chủ tịch về nước, tham gia tổ chức, chế tạo vũ khí cho quân đội tại núi Việt Bắc. Ngày 5 tháng 12 năm đó, Hồ Chí Minh đặt tên mới cho ông là Trần Đại Nghĩa và trực tiếp giao cho ông làm Cục trưởng Cục Quân giới (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam), năm 1948 phong quân hàm Thiếu tướng , Giám đốc Nha nghiên cứu Quân giới (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự), Bộ Tổng tư lệnh Quân đội. Trong quân đội ông từng giữ các chức vụ: Cục trưởng Cục pháo binh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1966), Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật. Vào thời đó, quân đội Việt Nam rất thiếu thốn vũ khí, quân ta phải dùng vũ khí cảm tử như bom ba càng để đánh xe tăng Pháp. Với kiến thức tích lũy trong 11 năm học tập ở nước ngoài, tháng 11 năm 1946, Trần Đại Nghĩa cùng các cộng sự bắt tay nghiên cứu chế tạo súng và đạn chống tăng Bazooka để bộ đội Việt Nam có vũ khí chống xe tăng và lô cốt Pháp. Sản phẩm hoàn toàn đạt yêu cầu, tương đương tính năng súng Bazooka cỡ 60mm của Mỹ. Bazooka Việt Nam bắt đầu chiến đấu vào ngày 5 tháng 3 năm 1947, 10 quả đạn và 3 khẩu súng chuyển về Trung đoàn Thủ đô (do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy) đã bắn cháy 2 xe tăng Pháp tại chùa Trầm, Quốc Oai (Hà Nội). Đến tháng 4 năm 1947, súng Bazooka bắt đầu sản xuất hàng loạt gửi đi các chiến trường. Sau đó, ông tiếp tục nghiên cứu chế tạo súng không giật (SKZ) cỡ 60mm. Súng SKZ 60 là loại vũ khí công đồn nặng khoảng 26 kg, có thể tháo rời để mang vác, đầu đạn nặng khoảng 9kg, có thể xuyên thủng bê tông dày trên 60cm. SKZ 60 lần đầu lập chiến công phá tan boong ke kiên cố của Pháp trong chiến thắng phố Ràng, phố Lu của Trung đoàn Thủ Đô - Đại đoàn 308 trong Chiến dịch Lê Hồng Phong cuối năm 1949. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc ông được chuyển sang lĩnh vực dân sự giữ chức vụ: Thứ trưởng Bộ Công thương, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng , Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhà nước , Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước,, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam (1975), Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam (nhiệm kỳ 1983-1988), Đại biểu Quốc hội khoá II, III. Ông được phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt đầu tiên năm 1948. Ông đã được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng Lao động (tại đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc đầu tiên năm 1952). Năm 1956, trường Đại học Bách Khoa Hà Nội được thành lập, Giáo sư Trần Đại Nghĩa là hiệu trưởng đầu tiên, người đặt nền móng cho trường đại học khoa học, kỹ thuật và công nghệ đầu tiên của Việt Nam - chiếc nôi nuôi dưỡng một lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý phục vụ công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước sau này. Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về Cụm công trình nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo vũ khí (Bazooka, súng không giật, bom bay) trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954. Các công trình nghiên cứu của ông được quốc tế đánh giá cao, được ứng dụng rộng rãi trong Quân đội nhân dân Việt Nam và là nỗi kinh hoàng của quân đội đối phương. Trong tác phẩm Street Without Joy của Bernard B. Fall ở trang 237 có viết về súng SKZ của ông như sau "...and the feared Viet-Minh SKZ recoilless cannon opened up at minimum range upon the "soft" vehicles...". Năm 1966, ông được bầu làm Viện sĩ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Khi được hỏi tại sao ông lại tình nguyện rời bỏ cuộc sống đầy đủ tại Pháp để về nước tham gia kháng chiến, chấp nhận cuộc sống khó khăn gian khổ, ông từng nói: "Bạn bè của tôi ở lại bên Pháp, họ đều sung sướng, đầy đủ hơn tôi rất nhiều. Nhưng về khía cạnh phụng sự Tổ quốc, họ chẳng có gì cả." Ngày đất nước hoàn toàn giải phóng 30/4/1975, Trần Đại Nghĩa có ghi vào cuốn sổ tay của mình: “Ngày 30/4/1975, nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành, vì hoài bão của tôi hồi nhỏ, sứ mạng của tôi rất đơn giản là tham gia về mặt khoa học, kỹ thuật vũ khí trong cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng để giải phóng đất nước, và nay đất nước đã được giải phóng, tôi không muốn gì hơn nữa, vì một đời người không thể làm hơn” Những năm cuối đời, ông cùng gia đình trở về quê hương miền Nam, sinh sống tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất vào 16 giờ 20 phút ngày 9 tháng 8 năm 1997, hưởng thọ 83 tuổi. Vinh danh Tên đường phố Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tên ông được đặt cho một con đường tại quận Bình Tân, đi từ Quốc lộ 1 (gần vòng xoay An Lạc) vào khu công nghiệp Lê Minh Xuân. Cuối tháng 8 năm 2007, tại Hà Nội, tên của ông cũng được đặt cho một con đường nối đường Đại Cồ Việt cắt ngang qua phố Lê Thanh Nghị, đường Đại La đến khu tập thể Thành ủy Hà Nội (đầu sông Sét), song song với phố Tạ Quang Bửu (trên cơ sở đoạn phía bắc của sông Sét đã được cống hóa). Con đường đi qua ba trường đại học lớn và quan trọng lần lượt là Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Xây dựng Hà Nội và Đại học Kinh tế Quốc dân để nhắc nhở cho các thế hệ sinh viên về lòng yêu Tổ quốc, yêu dân tộc. Tại TP Đà Nẵng cũng có con đường mang tên ông nối liền từ Núi Ngũ Hành Sơn (cuối đường Lê Văn Hiến) đến địa phận tỉnh Quảng Nam (đường vào Phố cổ Hội An. Năm 2009 con đường này đang được mở rộng 48m. Tại TP Nam Định, tỉnh Nam Định cũng có con phố mang tên ông thuộc Khu Đô thị Hòa Vượng, dài 400m Tại TP Quảng Ngãi, năm 2023 ông được đặt cho một con đường thuộc phường Trương Quang Trọng, dài 800m Tên Trường đại học và phổ thông Ngày 23 tháng 12 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2345/QĐ-TTg thành lập Trường Đại học Trần Đại Nghĩa trên cơ sở nâng cấp Trường Sĩ quan Kỹ thuật quân sự (Vin-hem-Pích) có trụ sở chính tại 189 Nguyễn Oanh, phường 10, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra tên của ông còn được đặt cho một số trường học trên cả nước, trong đó có Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Trung học phổ thông Trần Đại Nghĩa ở huyện Tam Bình,Trường Trung học phổ thông Trần Đại Nghĩa ở huyện Quế Sơn,tỉnh Quảng Nam,Trường Trung học phổ thông Trần Đại Nghĩa ở Thành phố Cần Thơ... Tên tàu biển Ngày 10 tháng 10 năm 2010, công ty đóng tàu Sông Thu – Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng cũng hạ thủy tàu khảo sát đầu tiên của Việt Nam có ký hiệu HSV-6613 mang tên Trần Đại Nghĩa sau hơn 2 năm đóng theo đặt hàng của Đoàn đo đạc biên vẽ hải đồ và nghiên cứu biển (thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam), chuyên dụng đáp ứng yêu cầu của công tác khảo sát, đo đạc biển. Khu lưu niệm Giáo sư – Viện sĩ Trần Đại Nghĩa Ngày 24 tháng 11 năm 2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long tổ chức khởi công xây dựng Khu lưu niệm Giáo sư – Viện sĩ Trần Đại Nghĩa tại ấp Mỹ Phú 1, xã Tường Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Khu lưu niệm được xây dựng trên diện tích khoảng 16.000 m², gồm các hạng mục chính như: Nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, phòng hội thảo, chiếu phim, sinh hoạt truyền thống, quảng trường, các hạng mục phụ trợ và cảnh quan. Có tổng kinh phí là 2,6 tỷ đồng và thu nhập hơn 868 tài liệu, tư liệu của Trần Đại Nghĩa. Theo báo cáo của ban quản lý khu lưu niệm, từ sau ngày khánh thành (tức 18 tháng 5 năm 2015) đến nay, khu lưu niệm đã đón 28,377 khách tham quan trong và ngoài tỉnh cùng nhiều khách nước ngoài. Tên giải thưởng Ngày 16 tháng 11 năm 2015, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam ra Quyết định số 1883/QĐ-VHL về việc Ban hành Quy chế Giải thưởng Trần Đại Nghĩa nhằm tôn vinh tác giả của các công trình nghiên cứu có giá trị khoa học xuất sắc và đã trực tiếp tổ chức triển khai ứng dụng để đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Giải thưởng được trao lần đầu tiên vào năm 2016
Binh chủng Đặc công là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý và chỉ đạo. Binh chủng Đặc công có nhiệm vụ tập trung nghiên cứu, tham mưu cho Bộ Quốc phòng Việt Nam xây dựng và phát triển các lực lượng Đặc công theo hướng tinh - gọn - chất lượng cao. Đây là một lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, quân nhân được tổ chức, trang bị và huấn luyện đặc biệt, có phương pháp tác chiến linh hoạt, táo bạo, bất ngờ, thường dùng để tập kích bất ngờ vào các mục tiêu hiểm yếu nằm sâu trong đội hình chiến đấu, bố trí chiến dịch và hậu phương của địch. Lịch sử hình thành Ngày thành lập (Ngày truyền thống binh chủng): 19 tháng 3 năm 1967. Tổ chức lực lượng lúc mới thành lập: 9 tiểu đoàn đặc công; Trường bổ túc cán bộ và 3 cơ quan. Tuy ngày thành lập chính thức là năm 1967, nhưng từ Chiến tranh Đông Dương (1946 - 1954), cách đánh "công đồn đặc biệt" ở chiến trường Nam Bộ, cách đánh và tổ chức đặc công đã phát triển nhanh chóng, hình thành ba loại lực lượng: Đặc công bộ. Đặc công nước. Đặc công biệt động. Đặc công bộ Trong Chiến tranh Đông Dương, từ sau cuộc tiến công lên Việt Bắc bị thất bại, Đệ Tứ Cộng hòa Pháp xây dựng hàng loạt đồn bót bao vây chiến khu. Trước tình hình mới, bộ đội Việt Nam không thể dừng lại ở những trận tập kích, phục kích tiêu hao, quấy rối, mà phải tiến lên tiêu diệt các cứ điểm nhỏ này. Nhưng để đánh được cứ điểm thì phải dùng cách đánh bất ngờ (kỳ tập). Nếu quân Pháp phòng thủ mạnh thì phải có pháo hạng nặng (cường tập), mà bộ đội thì pháo quá ít, đạn pháo khan hiếm. Cuối cùng một cách đánh mới được đề xuất: bí mật đột nhập đánh bất ngờ, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh bằng hỏa lực mạnh. Với cách đánh kỳ tập kết hợp với cường tập, từ thu-đông 1948 đến đầu 1950, trên chiến trường Bắc Bộ, quân Việt Nam đã tiêu diệt hàng loạt đồn bốt, cứ điểm quân Pháp. Ở chiến trường Nam Bộ, Pháp tăng quân, xây dựng hệ thống bót Delatour là sản phẩm của tướng Delatour Desmer, Tư lệnh Quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ. Hàng loạt đồn bót dựng lên xung quanh thị xã, thành phố và trên các đường giao thông quan trọng, nhằm bao vây, chia cắt, ngăn chặn lực lượng vũ trang Việt Minh. Phong trào du kích phát triển khắp nông thôn, thành thị, nhưng Việt Minh gặp khó khăn do chưa có chiến thuật hữu hiệu và loại vũ khí có đủ sức công phá tường dày của tháp canh. Qua nhiều lần thử nghiệm thắng lợi, đặc biệt là trận đánh đêm 18 rạng 19 tháng 3 năm 1948 tiêu diệt đồn cầu Bà Kiên, đã mở ra một khả năng mới đánh địch trong vị trí cố thủ vũng chắc. Từ thực tế đánh tháp canh, Việt Minh đúc kết được kinh nghiệm thực tiễn, làm tiền đề cho chiến thuật đặc công ra đời. Đặc công bộ hiện nay có Lữ đoàn Đặc công 113 (3 lần được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân các năm 1975, 1979, 2000), Lữ đoàn Đặc công 198 (thành lập năm 1974, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1976), Lữ đoàn Đặc công 429. Đặc công nước Đặc công nước là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, được huấn luyện để tiến công các mục tiêu thủy của đối phương như: bến cảng, tàu thủy,... và các mục tiêu chỉ có thể xâm nhập qua đường thủy: căn cứ biệt lập, căn cứ thủy quân... Nếu đặc công bộ có lối đánh đặc biệt thì đặc công nước càng đặc biệt, vì đánh dưới nước khó khăn hơn nhiều so với trên bộ, trang bị vũ khí cũng khác biệt hơn. Đặc công nước (còn gọi là đặc công thủy) ra đời do yêu cầu đánh vào đối tượng hải quân của Pháp và những mục tiêu vùng sông nước, do đó xuất hiện gần như song song với đặc công bộ. Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương, các hoạt động trên sông nước của quân Pháp chiếm một phần quan trọng trên chiến trường. Lợi dụng lãnh thổ Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, có vùng sông ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí một lực lượng hải quân khá mạnh. Hải quân Pháp tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu: Dùng tàu thuyền chiến đấu hỗ trợ cho bộ binh đi càn quét. Đánh phá căn cứ, ngăn chặn tiếp tế, vận chuyển của Việt Minh. Dùng đường thủy để tiếp hậu cần cho quân Pháp trên đất liền. Vì thế việc đánh Pháp trên mặt trận sông biển có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Ở miền Bắc Việt Nam, các vùng ven sông, ven biển khẩn trương xây dựng các đội săn tàu Pháp, sẵn sàng đánh quân Pháp trên mặt trận sông nước. Trong Chiến dịch Hà Nam Ninh (tháng 6 năm 1951), tổ đặc công nước do Nguyễn Quang Vinh (thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ khí của quân Pháp . Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến trên chiến trường Bắc Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đặc công đánh các mục tiêu tên sông, biển. Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi tự tạo đánh chìm tàu Glycin trên sông Sài Thượng, diệt hàng trăm quân đối phương . Ở vùng Rừng Sác, vào tháng 9 năm 1950, các đội đặc công được hình thành từ Trung đoàn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp. Lực lượng này chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được gọi là "quân cảm tử", diệt nhiều chỉ huy Pháp và tay sai. Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh của đặc công bộ, cách đánh của đặc công thủy cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những tiến bộ của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã tổ chức được một lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền bằng cách đánh đặc công. Trong thành tích của lực lượng đặc công rừng Sác, nổi bật là việc đánh chìm tàu vận tải cỡ lớn USS Baton Rouge Victory giãn nước 10.000 tấn vào sáng ngày 23 tháng 8 năm 1966. Con tàu đã bị đánh chìm trên sông Ngã Bảy bởi hai quả thủy lôi, trọng lượng 1.075 kg/quả. Muốn gài thủy lôi thì phải có tàu vận chuyển lớn, sử dụng cần cẩu để thả thủy lôi, đặc công rừng Sác không có những trang bị đó nên đã sáng tạo ra chiến thuật: vận chuyển thủy lôi bằng ghe gỗ loại nhỏ, được ngụy trang giống như ngư dân đi buôn, khi đến nơi sẽ nhận chìm ghe để thả thủy lôi. Vụ đánh chìm USS Baton Rouge Victory đã giết chết 7 thủy thủ Mỹ, nhấn chìm hàng nghìn tấn vũ khí, hàng hóa mà con tàu chở theo. Ngày 13 tháng 4 năm 1966, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra quyết định thành lập Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công mang phiên hiệu Đoàn 126 trực thuộc Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam và Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam. Đoàn trưởng được giao cho Hoàng Đắc Cót và Phạm Điệng là Chính ủy. Tháng 5 năm 1966, Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức Đoàn 126 thành cơ quan đoàn bộ và 12 đội chiến đấu, Lực lượng Đặc nhiệm hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã hình thành. Cuối 1966, một lực lượng lớn của Đoàn 126 được đưa vào chiến trường Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn và Nam Bộ thâm nhập thực tế chiến đấu. Ngày 10 tháng 3 năm 1967, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 (Mặt trận Trị - Thiên) giao nhiệm vụ cho Đoàn 126 tiêu diệt tàu địch ở cảng và sông từ Cửa Việt tới Đông Hà. Tàu cuốc 70 tấn của Hàn Quốc bị ốp mìn nổ tung. Ngày 9/5/1967, tàu cuốc Hayda dài 71m, rộng 12m bị đánh chìm xuống sông Cửa Việt, tàu LST trọng tải lớn 5.000 tấn chở xe thiết giáp và vũ khí hạng nặng cũng bị đánh chìm xuống sông. Ngày 15/5/1967, 1 tàu LCU bị đánh chìm tại chỗ nằm vắt ngang sông Cửa Việt. Chỉ trong vòng 5 tháng chiến đấu, từ tháng 4 đến 9 năm 1967, riêng Đội 1 của Đoàn 126 đã tham chiến 6 trận, đánh chìm 10 tàu địch, làm hư hỏng 2 tàu khác, phá hủy nhiều phương tiện vũ khí Trong 10 ngày hoạt động ở Thị trấn Cửa Việt (19 đến 29-1-1968), Đoàn 126 đã thả được 13 quả thủy lôi xuống dòng sông Cửa Việt, đánh chìm 8 tàu, phá hủy hàng nghìn tấn hàng hóa và phương tiện chiến tranh của địch, làm gián đoạn giao thông của địch ở cảng Cửa Việt nhiều ngày liền. Từ 28/2 tới 1/3/1968, trong Trận Bạch Đằng trên sông Hiếu, Đoàn 126 đánh chìm 7 tàu tiếp viện, đánh hỏng nặng 5 tàu khác của Hải quân Hoa Kỳ, tuyến tiếp viện hậu cần bằng đường thủy từ Cửa Việt – Đông Hà của quân đội Mỹ bị tắc nghẽn trong nhiều ngày. Cuối tháng 5 đầu tháng 6/1968, Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 đánh chìm 3 tàu gồm: 1 tàu LST 5000 tấn, 1 tàu LCU 360 tấn và 1 tàu tuần tiễu, khiến địch buộc phải thay đổi phương thức vận tải, các tàu trọng tải lớn trên 4.000 tấn phải neo đậu ngoài biển, cách bờ từ 1 - 5 hải lý, không được vào cảng. Tối ngày 6/9/1969, tại điểm xuất phát ở (thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị), Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 cử tổ chiến đấu 3 người lặn tới đánh mìn tàu địch. Mỗi người mang theo ống thở, khí tài lặn, hai thủ pháo, hai lựu đạn, dao găm… riêng 2 người nhận thêm hai quả mìn rùa nặng 6,8 kg do Liên Xô sản xuất. Đây là loại vũ khí lợi hại của đặc công nước, có ghép 48 mảnh nam châm hình móng ngựa, có sức hút 100 kg. Khi mìn đã áp vào sườn tàu, rút chốt an toàn, đúng giờ sẽ nổ, nếu chưa đến giờ nổ mà bị tháo gỡ mìn cũng sẽ tự phát nổ bởi nó có ngòi chống tháo. Sau 2 ngày ẩn nấp, tổ chiến đấu đã tiếp cận tàu Mỹ, gắn mìn rùa rồi rút lui. Vài giờ sau mìn nổ, chiếc tàu vận tải USS Noxubee trọng tải 4.000 tấn bị hư hại nặng. Trong 7 năm, từ năm 1966-1973, Đoàn 126 trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt - Đông Hà - Quảng Trị, chiến đấu gần 400 trận, đánh chìm, đánh hỏng 372 tàu xuồng các loại của địch, nhấn chìm hàng chục vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, tiêu diệt hàng ngàn binh lính địch Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5 được thành lập ngày 25-2-1971 tại Trà Bồng (Quảng Ngãi); sau đó chuyển ra hoạt động ở cánh Bắc Hòa Vang, thuộc Mặt trận 4 Quảng Đà, làm nhiệm vụ đánh phá các mục tiêu cố định của quân Mỹ - ngụy. Trong vòng 5 năm (4/1971-4/1975), Tiểu đoàn đã đánh 41 trận (29 trận dưới nước, 12 trận trên cạn), tiêu diệt 800 tên địch (trong đó có một số lính Mỹ), đánh chìm 10 tàu vận tải quân sự (bao gồm 1 tàu chở dầu, 1 pháo hạm) trọng tải 8-10 nghìn tấn, 1 hải thuyền, 1 cầu cảng Tiên Sa. Trong chiến tranh chống Mỹ, Hải quân Việt Nam đã huấn luyện, đào tạo, bổ sung cho các chiến trường miền Nam hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ đặc công nước. Trong 7 năm chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt – Đông Hà, đặc công Hải quân đã đánh 300 trận; đánh chìm, đánh hỏng 336 tàu xuồng chiến đấu, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Góp phần cùng các lực lượng trên khắp chiến trường miền Nam đánh chìm, đánh hỏng 4.473 tàu thuyền, đánh sập hàng trăm cầu cống, vật chất phục vụ chiến tranh, góp phần cùng quân dân miền Nam đánh bại kẻ thù. Đặc công nước hiện nay gồm Lữ đoàn Đặc công 5 trực thuộc Binh chủng Đặc công, Quân đội nhân dân Việt Nam, Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam và một số đơn vị thuộc các quân khu và quân đoàn. Đặc công biệt động Do tính chất của cuộc kháng chiến lâu dài và để phù hợp với phương châm, phương thức hoạt động tác chiến ở thành phố, bên cạnh các lực lượng vũ trang đô thị như Tự vệ thành, Thanh niên xung phong, Quốc gia tự vệ cuộc, Công đoàn xung phong... các tổ chức quân sự chuyên trách lần lượt ra đời. Lực lượng này hơi khác với đặc công bộ thông thường mặc dù trong tổ chức có rất nhiều điểm tương đồng. Biệt động hầu như chỉ hoạt động vào ban ngày và rút lui về đêm. Ở Sài Gòn, 10 ban công tác thành hoạt động mạnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu trưởng Nguyễn Bình. Ở nhiều thành phố khác như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, các đội công tác đặc biệt và biệt động cũng khẩn trương thành lập làm nhiệm vụ tiêu diệt những phần tử đối phương nguy hiểm và phá hoại cơ sở kinh tế của đối phương. Các tổ, đội vũ trang biệt động hoạt động ngay trong lòng đối phương, từ đánh nhỏ, lẻ, tiến lên đánh biệt động đặc công táo bạo, linh hoạt. Nổi lên trong các hoạt động tại Sài Gòn là nữ sinh trường Quân chính Nguyễn Thị Lan (Lan Mê Linh) 17 tuổi đã dùng súng ngắn ám sát chủ bút báo "Phục Hưng" là Hiền Sỹ tháng 3 năm 1946 . Đặc biệt ngày 8 tháng 6 năm 1946 ban công tác thanh đánh kho đạn của Pháp, thiêu hủy 400 tấn đạn dược, thuốc nổ, làm chết 40 lính Pháp. Đạn nổ liên lục 3 ngày đêm . Đầu năm 1947, lực lượng biệt động Hải Phòng phối hợp với bộ đội địa phương tập kích sân bay Cát Bi, diệt một trung đội lính Âu Phi. Năm 1948 biệt động Đà Nẵng cùng với bộ đội địa phương, công an xung phong đột nhập, tiêu diệt, trấn áp tay sai của Pháp. Tại Hà Nội, đêm 18 tháng 1 năm 1950, Tiểu đoàn 108 tập kích sân bay Bạch Mai, phá hủy 20 máy bay, 32 tấn vũ khí, 600.000 lít xăng dầu... Không chỉ ở những thành phố lớn, đặc công biệt động phát triển ở hầu hết thành phố, thị xã, vùng Pháp kiểm soát, trở thành một lực lượng thường xuyên đe doạ trực tiếp ngay tại cơ sở đối phương, đồng thời phối hợp với hoạt động chính trị gây cho đối phương nhiều hoang mang. Đặc công biệt động trong các đô thị tại miền nam trước 1975 là lực lượng gần giống với "bộ đội địa phương" tại thành phố, nhưng có trình độ tác chiến đô thị tốt hơn. Họ phải tác chiến độc lập vì thiếu phối hợp từ các đơn vị bạn, đồng thời phải luôn nương nhờ vào hậu cần của người dân trong thành phố, nếu không có người dân hỗ trợ thì mạng lưới sẽ bị phá. Chiến công nổi bật của đặc công biệt động là việc đánh chìm tàu USNS Card (vốn là tàu sân bay hộ tống giãn nước 15.000 tấn) vào ngày 2 tháng 5 năm 1964. Chiến sĩ đặc công Lâm Sơn Náo thuộc lực lượng đặc công Sài Gòn-Gia Định đã bí mật lặn tới tàu, đặt 2 khối chất nổ, mỗi khối gồm 40 kg TNT và 2 kg C4. Hai khối thuốc nổ được đặt cách nhau 10m, áp chặt lườn tàu làm nổ tung hông tàu. USS Card bị đắm ở độ sâu 15 m nước (độ sâu sông Sài Gòn tại cầu cảng). Về cuối cuộc chiến, đặc công biệt động tách hẳn làm 2 thành phần: những tân binh thiếu kinh nghiệm (chiếm quá nửa là nữ) tham gia dẫn đường cho bộ đội chủ lực chiếm giữ nội đô; còn những người dày dạn kinh nghiệm được huy động về căn cứ để huấn luyện bộ binh trở thành đặc công. Trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975, đặc công biệt động đã đánh chiếm, giữ vững nhiều cầu và căn cứ quan trọng, bảo đảm cho các binh đoàn chủ lực tiến công, giành thắng lợi nhanh chóng và trọn vẹn. Đặc công biệt động hiện nay có Lữ đoàn Đặc công Biệt động 1, trước đóng ở Gia Lâm. Trong Kháng chiến chống Mỹ Trong Kháng chiến chống Mỹ, bộ đội đặc công trên các chiến trường đã đánh hàng chục nghìn trận; loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm nghìn quân đối phương (gồm cả Mỹ và đồng minh); tiêu diệt và đánh thiệt hại hàng trăm sở chỉ huy các cấp; phá hủy và phá hỏng hàng nghìn máy bay các loại, 1600 khẩu pháo, 30 giàn tên lửa, 9000 xe quân sự, 2,7 triệu tấn bom đạn, 600 triệu lít xăng dầu; đánh chìm, đánh hỏng 400 tàu xuồng chiến đấu. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, bộ đội đặc công đã đánh đồng loạt vào những mục tiêu hiểm yếu, quan trọng của đối phương ở hầu khắp các thành phố, thị xã miền Nam, góp phần làm suy sụp tinh thần nước Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định của chiến tranh. Trong chiến dịch này, lực lượng Biệt động Sài Gòn bị tổn thất khá nặng nề. Thứ nhất là mất nhiều cán bộ có trình độ am hiểu chiến trường và có bản lĩnh chiến đấu; số người bị tử trận, bị bắt ở các mũi tiến công khá lớn. Tổn thất thứ hai là các cơ sở nuôi giấu cán bộ tại chỗ vốn được dày công xây dựng đã bị lộ hàng loạt, quân đội Mỹ và Sài Gòn đã sát hại nhiều cộng sự thân tín của lực lượng Biệt động và gây hệ lụy cho những người liên quan trong gia đình họ. Trong cuộc chiến tranh chống mỹ, đặc công tiến hành các cuộc tấn công vào các sân bay, căn cứ quân sự, của Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa tại miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, đặc công Việt Nam còn tiến hành các cuộc tấn công vào các căn cứ, sân bay quân sự của Hoa Kỳ tại Lào, Campuchia, Thái Lan: Vào đêm ngày 21-22 tháng 1 năm 1971, Đội đặc công 25 và Tiểu đoàn 7 đặc công Phước Long, do đoàn trưởng Tống Viết Dương chỉ huy đã tiến hành một cuộc tập kích ngoạn mục vào căn cứ không quân Pochentong (Campuchia) của quân Lon Nol thân Mỹ. Khoảng 50 lính gác Campuchia tử trận và khoảng 300 bị thương, nhiều xe cơ giới, 69 máy bay (52 chiếc của không quân Lon Nol và 17 chiếc của Không quân Sài Gòn) bị phá hủy hoặc hư hại nặng trong trận này, trong khi phía Việt Nam chỉ tổn thất 3 người tử trận. Tổng cộng phía Hoa Kỳ ghi nhận có 5 cuộc tấn công vào các sân bay quân sự Mỹ tại Thái Lan là Udorn, Ubon (3 lần) và Utapao. Theo phía Hoa Kỳ cho biết, cuộc tấn công vào Udorn gây hư hỏng nặng cho một C-141, hư hại trung bình một F-4, hư hại nhẹ cho một trực thăng HH-43. Cuộc tấn công vào Ubon phá hủy 2 máy bay C-47 và một xe tải. Tại Utapao, một B-52 bị hư hại trung bình và hai chiếc B-52 khác bị hư hại nhẹ. Đầu tháng 3/1968, 30 đặc công Việt Nam cùng 9 lính công binh bắt đầu đợt tấn công căn cứ radar Lima 85 của Mỹ đặt tại Lào. Căn cứ được đặt trên độ cao 1.700 mét, được bao quanh bởi các vách đá, chỉ có một con đường dốc xuống tới một bãi đáp dài 700m. Các đặc công được trang bị súng trường AK-47, súng SKS, thuốc nổ, lựu đạn và 3 ống phóng lựu. 6 giờ tối ngày 11/3, 1 đợt pháo kích hỗ trợ cho nhóm đặc công dọn mìn và mở đường đến căn cứ. Đến 9 giờ tối, các đặc công Việt Nam bắt đầu trèo lên vách đá, chia làm 5 nhóm để đồng thời tấn công từ nhiều phía. Các đặc công Việt Nam đã vào vị trí vào lúc 3 giờ sáng, tiêu diệt lính gác và trạm radar TSQ-81 bằng các ống phóng lựu. Chỉ huy căn cứ là thiếu tá Clarence Barton và nhiều nhân viên kỹ thuật của không lực Mỹ khi chạy ra đã bị đặc công Việt Nam tiêu diệt. Nhóm đặc công chỉ tổn thất 1 người trong khi đã phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh giá trị và tiêu diệt ít nhất 42 quân địch, bao gồm lực lượng Thái Lan, người Mông và các nhân viên quân sự Mỹ. Chỉ có 6 trong 18 nhân viên CIA và phi công Mỹ tại căn cứ là sống sót, sự kiện này được Mỹ giấu kín trong suốt 3 thập kỷ. Từ năm 1965 đến 30-4-1975, bộ đội đặc công Rừng Sác đã đánh 595 trận, diệt 6.200 quân địch; đánh chìm hoặc bắn cháy 365 tàu, xuồng chiến đấu; đánh đắm 133 tàu vận tải từ 800 đến 13.000 tấn và bắn cháy 145 tàu vận tải khác; bắn rơi 29 máy bay trực thăng; phá hủy 200 triệu lít xăng và khí đốt. Đêm ngày 2 rạng ngày 3/12/1973, Đặc công rừng Sác đã có một trận đánh gây tiếng vang lớn trên thế giới với việc phá hủy tổng kho xăng dầu Nhà Bè, thiêu trụi gần 250 triệu lít nhiên liệu, 12 bồn chứa cỡ lớn, một tàu dầu của Hà Lan có trọng tải 12.000 tấn, một cơ sở lọc dầu, một cơ sở trộn nhớt và một khu chứa lương thực cũng bị phá hủy hoàn toàn, thiệt hại tổng cộng 20 triệu USD theo thời giá lúc đó. Trong 15 năm chiến đấu, tổng số hơn 1.000 chiến sĩ đặc công rừng Sác thì có đến 860 đã hy sinh (trong đó 767 người hy sinh từ năm 1966 tới 1975), trong đó có 542 chiến sĩ đến nay vẫn chưa tìm thấy xác. Ngày 23/9/1973, Đoàn 10 - Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tổng kho Long Bình khi đó là kho dự trữ chiến lược lớn nhất ngoài nước Mỹ của quân đội Hoa Kỳ, xây dựng từ giữa năm 1965 với mục đích phục vụ cho cuộc chiến ở Việt Nam, là nơi chứa hàng trăm nghìn tấn bom, đạn, vũ khí, quân trang... của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Kho được tổ chức phòng thủ chặt chẽ, xung quanh có từ 7 đến 12 lớp hàng rào kết hợp với việc gài mìn, có nhiều lô cốt cách nhau 30–40 m nằm cách lớp rào cuối cùng từ 40 đến 50 m, cây xanh trong khu vực bị phá sạch để không có chỗ ẩn nấp, và thường xuyên có 2.000 sĩ quan, binh lính bảo vệ ở đây. Tuy nhiên, đặc công quân Giải phóng vẫn tấn công thành công nhiều lần, gây cho địch nhiều tổn thất lớn. Tiêu biểu các trận đánh: Ngày 23/6/1966, đặc công gài mìn phá hủy kho chứa 40.000 quả đạn pháo các loại. Đây là trận đánh đặc công đầu tiên của đặc công Biên Hòa. 3 tháng cuối năm 1966, bộ đội đặc công U1 đã 3 lần tấn công Tổng kho, phá hủy 353.000 đạn pháo và các loại bom. Đêm 3/2/1967, bộ đội đặc công U1 đột nhập đặt mìn hẹn giờ, làm nổ tung 40 dãy kho, phá hủy 800.000 quả đạn pháo. Cùng ngày, một tổ đặc công khác từ đột nhập vào sân bay quân sự Biên Hòa, đặt mìn làm nổ tung kho chứa nhiên liệu, đốt cháy 10 triệu lít xăng dầu. Ngày 13/8/1972, đoàn đặc công 113 đánh khu kho 53 Long Bình. Hàng chục chiến sĩ chia làm ba mũi đột nhập đặt 108 khối thuốc nổ hẹn giờ. Vào lúc 4h sáng ngày 14/8/1972, các khối thuốc nổ nổ tung, phá huỷ 200 kho, 17 dãy nhà, thiêu huỷ 15.000 tấn bom đạn, xăng dầu. Ngày 14/12/1972, đoàn đặc công 113 đột nhập vào bãi để xe ở cao điểm 50 của Tổng kho Long Bình, gài 61 quả mìn tiêu huỷ gần 200 xe quân sự. Lãnh đạo hiện nay Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Minh Sơn Chính ủy: Đại tá Nguyễn Quốc Duẩn Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng: Đại tá Phạm Ngọc Vũ Phó Tư lệnh:Đại tá Nguyễn Văn Thuỷ Phó Chính ủyː Đại tá Hoàng Ngọc Thanh Cơ quan trực thuộc Văn phòng Thanh tra Phòng Tài chính Phòng Khoa học Quân sự Phòng Thông tin Khoa học quân sự Phòng Điều tra hình sự Phòng Cứu hộ cứu nạn Phòng Kinh tế Bộ Tham mưu Cục Chính trị Cục Hậu cần Cục Kỹ thuật Đơn vị cơ sở trực thuộc Trường Sĩ quan Đặc công đóng ở Hà Nội Tiểu đoàn 1 (Huấn luyện) Tiểu đoàn 2 (Huấn luyện) Tiểu đoàn 3 (Huấn luyện) Tiểu đoàn 4 (Huấn luyện) Đại đội Mẫu 18 Đại đội Quân y Trung đội Vận tải Trung đội Vệ binh Lữ đoàn Đặc công biệt động 1 (Đoàn M1) đóng ở Hà Nội Đội Biệt động 10 Đội Biệt động 54 (Dự bị) Đội Chống khủng bố 7 Đội Chống khủng bố 74 (Dự bị) Đội Thông tin 18 Đại đội Quân y Trung đội Vận tải Trung đội Vệ binh Đội Phản ứng nhanh (chỉ hoạt động khi có tình huống chiến đấu) Lữ đoàn Đặc công nước 5 đóng ở Ninh Thuận Liên đội Đặc công Nước 1 Liên đội Đặc công Nước 2 Liên đội Đặc công Nhái 3 Liên đội Đặc công Nước 7 (Huấn luyện) Đội Chống khủng bố 12 Đội Thông tin 14 Đội Trinh sát 15 Trung đội Hoả lực 16 Đại đội Quân y 18 Đại đội Vận tải Hải đội Trung đội Vệ binh Đội Phản ứng nhanh (chỉ hoạt động khi có tình huống chiến đấu) Lữ đoàn Đặc công bộ 113 đóng ở Vĩnh Phúc Liên đội Đặc công 27 Liên đội Đặc công 9 (Dự bị) Liên đội Đặc công 45 (Huấn luyện) Đội Chống khủng bố 12 Đội Trinh sát 53 Đội Thông tin 54 Trung đội Hoả lực 55 Đội Quân y 57 Đại đội Vận tải 56 Trung đội Vệ binh Đội Phản ứng nhanh (chỉ hoạt động khi có tình huống chiến đấu) Lữ đoàn Đặc công bộ 198 đóng ở Đắk Lắk Liên đội Đặc công 20 (Huấn luyện) Liên đội Đặc công 37 Liên đội Đặc công 35 (Dự bị) Đại đội Chống khủng bố 10 Đội Trinh sát 11 Đội Thông tin 14 Trung đội Hoả lực Đại đội Quân y Đại đội Vận tải Trung đội Vệ binh Đội Phản ứng nhanh (chỉ hoạt động khi có tình huống chiến đấu) Lữ đoàn Đặc công bộ 429 đóng ở Bình Dương Liên đội Đặc công 7 (Huấn luyện) Liên đội Đặc công 8 Liên đội Đặc công 9 Đội Chống khủng bố 10 Đội Trinh sát 21 Đại đội Thông tin 20 Trung đội Hoả lực 23 Đại đội Quân y 22 Đại đội Vận tải 24 Trung đội Vệ binh Đội Phản ứng nhanh (chỉ hoạt động khi có tình huống chiến đấu) Tư lệnh qua các thời kỳ 1967-1976: Nguyễn Chí Điềm, Đại tá (1973) 1977-1980: Nguyễn Đức Trúng, Đại tá 1980-1982: Nguyễn Chi, Đại tá 1983-1985: Nguyễn Anh Đệ, Trung tướng (1984) 1985-1992: Nguyễn Cụ (1985-1992), Thiếu tướng (1985) 1993-1996: Mai Năng, Thiếu tướng (1992) 1997-2005: Trần Thanh Phương, Thiếu tướng (2000), Nguyên phó Chánh thanh tra Bộ Quốc phòng 2005-2010: Phạm Hữu Chính, Thiếu tướng (2006) 2010-2014: Trần Xuân Hòe, Thiếu tướng (2010) 2014-2019: Đổ Bình, Thiếu tướng (2014) 2019-2022, Phan Thế Ba, Thiếu tướng (2019) 2022-nay, Hoàng Minh Sơn, Thiếu tướng. Chính ủy-Phó Tư lệnh chính trị qua các thời kỳ 1967-1977 Vũ Chí Đạo, Thiếu tướng (1984) 1978-1980 Trần Nhật Độ, Đại tá 1980-1983 Bạch Ngọc Liễn, Thiếu tướng 1985-1993, Lê Toàn, Thiếu tướng (1990) 1993-1998, Phạm Xuân Trường, Đại tá 1998-2004, Phùng Truyền (sinh 1944), Thiếu tướng (2002) 2004-2011, Đào Văn Quân, Thiếu tướng (2006), AHLLVTND 2011-2015, Trịnh Xuân Chuyền, Thiếu tướng (2012) 2015-2019, Lê Thanh Hà, Thiếu tướng (2015), sau Phó Chính ủy Tổng cục Kỹ thuật 2019-nay, Vũ Hồng Quang, Thiếu tướng (2019) Phó Tư lệnh Binh chủng qua các thời kỳ 1967-1975, Cao Pha, Thiếu tướng 1972-1975, Bùi Thúc Dưỡng, Thiếu tướng 1979-1989, Đào Ngọc Tú, Đại tá 1982-1991, Đỗ Văn Ninh, Đại tá, AHLLVTND 1984-1988, Hoàng Xuân Quang, Đại tá 1986-1989 Trần Duy Thị, Đại tá 1994-1999, Nguyễn Văn Tình, Đại tá, Phó Đô đốc (2004), Chính ủy Quân chủng Hải quân, AHLLVTND 1996-2003, Nguyễn Huy Liệu, Đại tá 2003-, Phạm Ngọc Toanh, Đại tá Danh hiệu truyền thống "Đặc biệt tinh nhuệ, Anh dũng tuyệt vời, Mưu trí táo bạo, Đánh hiểm thắng lớn". Tặng thưởng Đơn vị "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" (3/06/1976). 1 Huân chương Hồ Chí Minh (12-1979), 2 Huân chương Quân công hạng Nhất (3-1970 và 12-1984), 1 giải thưởng cấp Nhà nước về nghiên cứu khoa học công nghệ (2000), 1 Huân chương Sao vàng (1-2007). Chú thích
Harry Potter và hội Phượng hoàng (tiếng Anh: Harry Potter and the Order of the Phoenix) là quyển thứ 5 trong bộ sách Harry Potter của nhà văn J. K. Rowling. Quyển này được đồng loạt xuất bản vào ngày 21 tháng 6 năm 2003 tại Anh, Hoa Kỳ, Canada, Úc và một vài quốc gia khác. Trong ngày đầu tiên xuất bản, nó đã bán được gần 7 triệu cuốn riêng tại Hoa Kỳ và Anh. Nguyên bản tiếng Anh dài 38 chương và gồm khoảng 255.000 chữ. Bản dịch chính thức đầu tiên là tiếng Việt, được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản từ bản dịch của nhà văn Lý Lan từ ngày 21 tháng 7 đến 15 tháng 12 năm 2003. Bản dịch được chia ra 22 tập, và được in thành sách vào tháng 9 năm 2004. Một số tập ban đầu dùng tựa Harry Potter và mệnh lệnh phượng hoàng. Bộ phim phỏng theo quyển này được sản xuất bởi hãng Warner Bros và được trình chiếu từ ngày 13 tháng 7 năm 2007. Cốt truyện Sau năm học thứ 4, Harry trở về gia đình Dursley để nghỉ hè. Trong một lần xung đột với Dudley và đám bạn của cậu ta ở công viên, cả bọn bất ngờ bị lũ Giám Ngục truy đuổi. Chúng tấn công Dudley, khiến Harry phải dùng Bùa Hộ Mệnh để cứu anh họ của mình. Arabella Figg xuất hiện và đưa hai đứa về nhà. Bà cũng cho biết mình được cụ Dumbledore cắt cử theo dõi Harry. Tối hôm đó, Harry nhận được thư từ Bộ Pháp Thuật, nói rằng cậu đã bị đuổi học vì đã dùng pháp thuật trước mặt Muggle, và phải giải trình trước tòa. Nhưng đến đêm, một số thành viên của Hội Phượng Hoàng xuất hiện, báo với Harry rằng cụ Dumbledore đã xin đình chỉ lệnh đuổi học Harry, và đưa cậu đến căn cứ của Hội tại số 12 Quảng trường Grimmauld, cũng là nhà của gia đình Black. Cậu gặp lại những người bạn của mình, cả gia đình Weasley, chú Sirius và thầy Lupin. Ron và Hermione cho biết họ không thể gửi thư cho Harry theo lệnh của cụ Dumbledore. Tại đây, Harry biết về sự tồn tại của Hội Phượng Hoàng – tổ chức do cụ Dumbledore lập ra trong Chiến tranh Phù thủy lần thứ nhất như một đối trọng với đám Tử thần Thực tử. Hôm sau, Harry đến tòa án tại Bộ Pháp Thuật để giải trình. Bà Figg với tư cách là nhân chứng đã bảo vệ Harry, rằng cậu đã bị lũ Giám Ngục tấn công. Cụ Dumbledore cũng đứng ra bào chữa, rằng pháp thuật có thể được sử dụng trong trường hợp nguy hiểm đến tính mạng. Cụ cũng nhấn mạnh lại việc Voldemort đã trở lại, và sẽ chẳng có ích gì nếu cứ chối bỏ sự thật đó và đuổi học Harry. Nhưng bộ trưởng Conelius Fudge kiên quyết phủ nhận với gương mặt sợ hãi. Cuối cùng, Bộ phải chấp nhận không đuổi học Harry. Trở lại Hogwarts, cụ Dumbledore thông báo về sự thay đổi trong bộ máy giáo viên. Dolores Umbridge, thư ký cấp cao của Bộ Pháp Thuật là giáo viên mới của môn Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám. Khi trở về phòng sinh hoạt chung, tất cả học sinh chất vấn Harry về việc cậu luôn khẳng định Voldemort đã trở lại, khiến Ron phải đứng ra hòa giải. Lớp học Phòng chống Nghệ thuật Hắc ám do Umbridge đảm nhiệm diễn ra còn khủng khiếp hơn năm trước. Bà ta giới thiệu với cả lớp kỳ thi mới, và nói rằng các học sinh sẽ được an toàn, và không việc gì phải thực hành bùa chú. Bà ta cũng cấm học sinh chơi đùa và thực hành thần chú như trước, đánh giá việc giảng dạy của các giáo viên, ra hàng đống quy định hà khắc và vô lý với tư cách là thẩm tra viên của Bộ Pháp Thuật. Đỉnh điểm là khi bà ta đòi sa thải giáo sư Trelawney, người đã giảng dạy 16 năm tại Hogwarts, khiến cụ Dumbledore phải ra mặt bảo vệ. Tối hôm đó, Sirius liên lạc với Harry. Ông nói Bộ Pháp Thuật đang cho rằng cụ Dumbledore đang chống lại họ bằng thông tin Voldemort trở lại, còn bản thân Voldemort đang lên kế hoạch chiếm lấy Bộ và thu nạp thêm tay sai. Trước sự lớn mạnh của Voldemort và sự thối nát của Bộ, Harry lập ra “Đội quân Dumbledore” và kêu gọi học sinh của ba Nhà Gryffindor, Ravenclaw và Hufflepuff tham gia, vì Nhà Slytherin đã đứng về phía Umbridge, lập ra đội Sao Đỏ cùng với giám thị Filch thay mặt bà ta giám sát các học sinh. Trong một lần tình cờ, Neville tìm thấy Phòng Yêu Cầu, một căn phòng ẩn cung cấp mọi vật dụng cần thiết. Các thành viên của Đội quân Dumbledore tận dụng căn phòng để thực hành pháp thuật, và chỉ định Harry làm giáo viên của họ. Cậu cũng bắt đầu mối quan hệ tình cảm với Cho Chang, khi cô đã nguôi ngoai phần nào sau cái chết của Cedric. Cậu cũng làm thân với cô bé có tính cách lập dị đến từ Nhà Ravenclaw là Luna Lovegood, khi hai người có điểm chung là có thể nhìn thấy Vong Mã, sinh vật mà chỉ những người mất người thân từ nhỏ mới có thể nhìn thấy. Một đêm nọ, Harry mơ phải một cơn ác mộng, rồi rơi vào trạng thái hoảng loạn. Cậu chất vấn cụ Dumbledore, nhưng cụ chỉ bình tĩnh giao Harry cho Snape, nhờ ông dạy cho cậu Bế quan Bí thuật – pháp thuật cao cấp giúp người dùng ngăn kẻ khác xâm nhập vào tâm trí của mình, vì lo rằng tâm trí cậu có kết nối với Voldemort. Nhưng trong một lần luyện tập, Harry nhìn thấy những ký ức của Snape, thấy cha mình, chú Sirius và thầy Lupin liên tục bắt nạt ông. Snape giận dữ vì sự xâm nhập bất ngờ này, từ chối tiếp tục luyện tập với Harry và đuổi cậu đi. Về phía Umbridge, bà ta cũng đã nghe loáng thoáng về Đội quân Dumbledore, nên đã ra thêm rất nhiều điều luật hà khắc. Vận may cũng mỉm cười với bà ta, khi lão Filch cùng đội Sao Đỏ tìm thấy Phòng Yêu Cầu và bắt quả tang Harry cùng bạn bè. Umbridge cùng bộ trưởng Fudge và các quan chức của Bộ đến bắt giữ cụ Dumbledore, vì suy cho cùng, nhóm của Harry được gọi là “Đội quân Dumbledore” nhưng cụ đã nhanh tay thoát đi trước. Việc Đội quân Dumbledore bị bắt quả tang là do một người bạn thân của Cho Chang khai ra. Harry rất giận dữ vì điều này, và chia tay cô ngay lập tức. Năm học lại trở về trạng thái kinh khủng như trước, khi Umbridge lúc này đã có quyền hành không khác gì hiệu trưởng. Nhưng trong kỳ thi, Fred và George nổi dậy làm loạn, xóa bỏ những điều luật và nổ pháo hoa trong sự hân hoan của tất cả học sinh và cả một số giáo viên, trong đó có giáo sư McGonagall, bởi chính bà cũng chẳng ưa gì Umbridge, thậm chí còn từng sai Peeves, con ma lâu đời nhất Hogwarts thường xuyên làm trò phá đám mụ ta. Một ngày nọ, Harry với tâm trí kết nối với Voldemort nhìn thấy người cha đỡ đầu Sirius của mình bị hắn hành hạ trong Sở Bảo Mật. Dù Hermione cảnh báo rằng Voldemort chỉ đang lừa cậu, Harry vẫn kiên quyết đến Sở Bảo Mật. Ba đứa chạy đến phòng của Umbridge để thông báo với Hội Phượng Hoàng thông qua mạng Flour, nhưng bị mụ ta phát hiện. Mụ ta yêu cầu Snape dùng Chân Dược để moi móc thông tin từ Harry, nhưng Snape nói dối rằng mụ ta đã dùng hết Chân Dược sẵn có rồi. Umbridge lại định dùng lời nguyền Hành Hạ lên Harry, nhưng Hermione nhanh trí nói rằng “vũ khí bí mật của Dumbledore” đang được giấu trong Rừng Cấm. Tại đây, Umbridge bị các Nhân Mã tóm đi vì mụ ta dám xúc phạm và còn tấn công họ. Trở về từ Rừng Cấm, Harry, Ron, Hermione, Ginny, Luna và Neville cùng đến Sở Bảo Mật để cứu Sirius. Tại đây, cả bọn thấy được lời tiên tri về Harry và Voldemort. Đúng lúc này, một nhóm Tử thần Thực tử bao gồm Lucius Malfoy và Antonin Dolohov xuất hiện tấn công. Dù chiến đấu ngang cơ với bọn chúng, cuối cùng đám học sinh vẫn bị khống chế. Đúng lúc đó, một nhóm Thần Sáng xuất hiện cùng Sirius đến giải cứu đám trẻ. Nhưng Bellatrix Lestrange từ đâu xuất hiện và găm lời nguyền Chết Chóc lên Sirius. Chứng kiến người cha đỡ đầu bị giết ngay trước mắt, Harry không giữ được bình tĩnh, tấn công Bellatrix bằng lời nguyền Hành Hạ, khiến mụ ta giãy giụa trong đau đớn. Đúng lúc đó, một giọng nói vang lên trong đầu Harry, xúi giục cậu hãy giết Bellatrix bằng lòng hận thù. Nhưng cậu nhận ra đó là giọng nói của Voldemort đang dẫn cậu vào con đường tà đạo nên đã không làm vậy. Voldemort liền xuất hiện và tấn công Harry, tạo thời cơ cho Bellatrix trốn thoát. Nhưng cụ Dumbledore kịp thời xuất hiện, giải cứu Harry và khiến Voldemort phải chùn bước. Hắn dùng Chiết Tâm Bí Thuật – pháp thuật trái ngược với Bế quan Bí thuật, giúp người dùng thâm nhập và điều khiển tâm trí kẻ khác - để điều khiển Harry. Nhưng Harry đã thành công ngăn Voldemort thao túng tâm trí cậu. Các quan chức của Bộ cũng chạy đến. Dù Voldemort nhanh chóng thoát đi trước, bộ trưởng Fudge vẫn kịp nhìn thấy hắn. Ông ta sau đó phải thừa nhận Chúa tể Hắc ám đã trở lại, và phải từ chức trong sự ô nhục. Cụ Dumbledore được phục hồi cương vị Hiệu trưởng, Lucius Malfoy bị tống vào Azkaban, và Umbridge bị sa thải khỏi Hogwarts. Khi mọi thứ yên ổn trở lại, Harry đến gặp cụ Dumbledore để hỏi về lời tiên tri giữa cậu và Voldemort. Cụ giải thích rằng lời tiên tri đó ám chỉ một đứa bé sinh vào cuối tháng 7, có cha mẹ là những người đã thách thức Voldemort ba lần sẽ là người đánh bại Chúa tể Hắc ám một lần và mãi mãi. Đứa bé đó có thể là cậu hoặc Neville, vì Neville chỉ sinh trước Harry đúng 1 ngày. Voldemort đã chọn thủ tiêu Harry trước vào đúng cái đêm định mệnh đó để trừ hậu họa. Nhưng tình yêu của mẹ Lily đã bảo vệ cậu và khiến hắn tan thành mây khói. Một năm học kinh khủng kết thúc bằng sự lạc quan. Dù Voldemort đã chính thức trở lại, Harry vẫn cảm thấy tự tin vì cậu luôn có bạn bè ở bên. Phim
Tiền vỏ ốc là loại tiền tệ được sử dụng từ thời xa xưa.Ở rất nhiều nơi trên thế giới người ta đã tìm thấy những di chỉ khảo cổ khẳng định người xưa đã dùng vỏ ốc làm tiền. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã thống nhất ý kiến cho rằng: loại tiền được sử dụng sớm nhất của loài người chính là tiền vỏ ốc. Tiền vỏ ốc trên thế giới Ốc dùng làm tiền có hơn 150 loại. Mỗi vùng dùng quen một loại riêng. Người Anh-điêng ở Alaska và California dùng loại Dentilium Pretiosum. Người châu Á dùng loài ốc Cypraea annulus. Thông dụng nhất là loài Cypraea moneta. Tiền ốc ở Việt nam Ở Việt Nam, dấu vết của đồng tiền nguyên thủy đầu tiên được tìm thấy cũng là vỏ ốc. Cũng giống như nhiều nơi khác ở châu á, ốc được dùng làm tiền ở Việt Nam cũng là loài Cypraea. (Đỗ Văn Ninh - Tiền cổ Việt Nam, nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1992). Tại sao vỏ ốc lại được dùng làm tiền Ngày nay chúng ta có thể thấy khó mà tin được rằng vỏ ốc lại có thể được dùng làm tiền. Chúng ta có thể nghĩ rằng vỏ ốc rất nhiều, nếu dùng vỏ ốc làm tiền thì ai cũng có thể kiếm được rất nhiều tiền và như vậy thì tiền ấy còn có giá trị nữa không? Tuy nhiên, thực tế đúng là vỏ ốc đã được dùng làm tiền trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Yếu tố khách quan của thời đại Thời kỳ sơ khai, con người sống thành những bộ tộc tách biệt nhau, việc lưu thông hàng hoá giữa các bộ tộc rất khó khăn. Đối với những bộ tộc sống xa biển thì việc kiếm được vỏ ốc là không hề dễ dàng. Trong khi đó, những bộ tộc này lại rất quý vỏ ốc vì vỏ ốc là một trong những loại đồ trang sức đầu tiên của con người, một thứ đồ dùng xa xỉ. Và vì vậy người ta hoàn toàn có thể dùng các đồ trang sức bằng vỏ ốc để đổi lấy các hàng hoá khác. Yếu tố chủ quan của vỏ ốc Một đặc điểm thuận tiện của vỏ ốc là những đồ trang sức này thường được sâu chuỗi từ rất nhiều con ốc nhỏ, vì vậy khi trao đổi người ta có thể chia nhỏ những chiếc vòng tay, vòng cổ ra thành nhiều con ốc nhỏ đẻ đổi lấy những món hàng có giá trị thấp. Rồi lại hoàn toàn có thể làm ngược lại, sâu những vỏ ốc nhỏ lại thành những chiếc vòng đẹp mắt. Vỏ ốc là vật liệu có thể dùng làm tiền thời cổ Vỏ ốc cũng có thể cất trữ rất lâu mà không bị ảnh hưởng nhiều tới giá trị nên người ta hoàn toàn có thể tích trữ tiền vỏ ốc. Nghĩa là vỏ ốc đã được chấp nhận làm tiền ở nhiều nơi không chỉ vì nó có giá trị mà còn vì nó có nhiều tính chất thích hợp để làm tiền.Vật liệu dùng làm tiền cần phải có những tính chất như: Tính được chấp nhận. Tính dễ nhận biết. Tính có thể chia nhỏ được. Tính lâu bền. Dễ vận chuyển. Tính khan hiếm. Tính đồng nhất. Ngày nay chúng ta không còn sử dụng tiền ốc nữa Vỏ ốc và một số vật liệu khác (như đá chẳng hạn) đã được dùng làm tiền vì nó có một số tính chất thoả mãn điều kiện. Tuy nhiên, sử dụng vỏ ốc cũng có nhiều hạn chế, và đặc biệt là khi xã hội loài người phát triển, vỏ ốc không còn khan hiếm nữa, đồng thời người ta tìm thấy những vật liệu có tính ưu việt hơn thì vỏ ốc đã không được dùng làm tiền nữa. Vỏ ốc và các vật liệu cổ xưa khác đã phải nhường chỗ cho một vật liệu tìm ra sau nhưng có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của loài người, đó là kim loại. Kim loại đã được sử dụng làm tiền ở hầu hết mọi nơi trên thế giới trong một giai đoạn lịch sử rất dài.
Tam cương ngọc bối là bài quyền của võ phái Lam Sơn căn bản-một võ phái cổ truyền ở Thanh Hóa-Việt Nam Các thế trong bản thảo Song mã dong cương Trảo lực trọng điểm Mã hầu tọa điểm Tọa địa thế truy ô Phi cước thượng lâm Thôi sơn tiễn khách Kim ô long vũ Áp ngọc truy đăng Hồi cước truy đăng Tả dực khai sơn Tiều phu phát mộc Nghịch cước truy tâm Áp ngọc phạt cương Mãnh hổ nhập động Phân thế
Bát lộ quyền là một bản quyền của môn phái Lam Sơn căn bản, gồm 182 động tác Các thế trong bài Phần I Song chưởng vô biên Áp đỉnh thôi sơn Nhất đạo hồi sinh Song ngư phân thủy Tướng quân phiến mã Mãn thiên hoa vũ Phong vũ bình tâm Tý ngọ diệp chưởng độc long Hiện hổ tàng long Phần II Phần III Phần IV
Giồng Riềng là một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Địa lý Huyện Giồng Riềng nằm ở phía đông của tỉnh Kiên Giang, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Cờ Đỏ và huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ và huyện Châu Thành A, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang Phía tây giáp huyện Châu Thành Phía nam giáp huyện Gò Quao và thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang Phía bắc giáp huyện Tân Hiệp. Huyện Giồng Riềng có diện tích là 639,35 km², dân số năm 2020 là 225.369 người, mật độ dân số đạt 353 người/km². Hành chính Huyện Giồng Riềng có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Giồng Riềng (huyện lỵ) và 18 xã: Bàn Tân Định, Bàn Thạch, Hòa An, Hòa Hưng, Hòa Lợi, Hòa Thuận, Long Thạnh, Ngọc Chúc, Ngọc Hòa, Ngọc Thành, Ngọc Thuận, Thạnh Bình, Thạnh Hòa, Thạnh Hưng, Thạnh Lộc, Thạnh Phước, Vĩnh Phú, Vĩnh Thạnh. Lịch sử Thời Pháp thuộc Ngày 20 tháng 5 năm 1920, thực dân Pháp thành lập quận Giồng Riềng, thuộc tỉnh Rạch Giá, gồm có tổng Giang Ninh với 7 làng là: Hòa Hưng, Ngọc Hòa, Vị Thanh, Hòa Thuận, Thạnh Hòa, Ngọc Chúc, Thạnh Hưng. Quận lỵ đặt tại làng Thạnh Hòa. Ngày 7 tháng 8 năm 1952, quận Giồng Riềng bao gồm tổng Giang Ninh với các làng: Hòa Hưng, Hòa Thuận, Ngọc Hòa, Thạnh Hòa, Thạnh Hưng, Thạnh Lợi, Vị Thanh, Bàn Tân Định, Long Thạnh, Vĩnh Thanh. Giai đoạn 1956-1976 Sau năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên quận Giồng Riềng thành quận Kiên Bình thuộc tỉnh Kiên Giang vừa mới thành lập. Sau đó, lại bàn giao một số xã của quận Kiên Bình cho quận Đức Long của tỉnh Chương Thiện. Về phía chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam), tên huyện Giồng Riềng thuộc tỉnh Rạch Giá cùng với sự phân chia, địa giới hành chính của huyện vẫn được duy trì cho tới năm 1975. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Giồng Riềng là một vùng đất ác liệt với nhiều di tích lịch sử. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Giồng Riềng thuộc tỉnh Rạch Giá cho đến đầu năm 1976. Từ năm 1976 đến nay Từ tháng 2 năm 1976, Giồng Riềng trở thành huyện của tỉnh Kiên Giang, gồm có thị trấn Giồng Riềng và 8 xã: Bàn Tân Định, Hòa Hưng, Long Thạnh, Ngọc Chúc, Thạnh Hòa, Thạnh Hưng, Thuận Hòa, Vĩnh Thạnh. Ngày 10 tháng 10 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 109-HĐBT về việc: Chia xã Ngọc Chúc thành 3 xã: Ngọc Chúc, Tân Bình Thành và Vĩnh Thuận Lợi Chia xã Thạnh Hưng thành 4 xã: Thạnh Phước, Tân Nguyên, Hiệp Lộc và Thạnh Hưng Chia xã Thuận Hoà thành 3 xã: Thành Lợi, Hoà Thuận và Ngọc Hoà Chia xã Hoà Hưng thành 3 xã: Hoà An, Hoà Hưng và Hoà Lợi. Ngày 27 tháng 9 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 107-HĐBT về việc: Chia xã Long Thạnh thành 2 xã: Long Thạnh và Long An Chia xã Thạnh Hoà thành 2 xã: Thạnh Hoà và Thạnh Bình Chia xã Bàn Tân Định thành 2 xã: Bàn Tân Định và Bàn Thạnh Chia xã Vĩnh Thạnh thành 3 xã: Vĩnh Thạnh, Vĩnh An Phú và Vĩnh Phước Hoà. Ngày 31 tháng 5 năm 1991, Ban Tổ chức Chính phủ ban hành Quyết định số 288-TCCP về việc: Sáp nhập hai xã Tân Bình Thành và Vĩnh Thuận Lợi vào xã Ngọc Chúc Sáp nhập ba xã Thạnh Phước, Tân Nguyên và Hiệp Lộc vào xã Thạnh Hưng Sáp nhập hai xã Thành Lợi và Ngọc Hòa vào xã Hòa Thuận Sáp nhập hai xã Hòa An và Hòa Lợi vào xã Hòa Hưng Sáp nhập xã Long An vào xã Long Thạnh Sáp nhập xã Bàn Thạch vào xã Bàn Tân Định Sáp nhập hai xã Vĩnh An Phú và Vĩnh Phước Hòa vào xã Vĩnh Thạnh. Huyện Giồng Riềng lúc này bao gồm thị trấn Giồng Riềng và 8 xã: Bàn Tân Định, Hòa Hưng, Hòa Thuận, Long Thạnh, Ngọc Chúc, Thạnh Hòa, Thạnh Hưng, Vĩnh Thạnh. Ngày 18 tháng 3 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 23-CP về việc: Thành lập xã Thạnh Phước trên cơ sở 4.483 ha diện tích tự nhiên và 8.980 nhân khẩu của xã Thạnh Hưng Thành lập xã Thạnh Lộc trên cơ sở 4.673 ha diện tích tự nhiên và 9.576 nhân khẩu của xã Thạnh Hưng Thành lập xã Hòa Lợi trên cơ sở 4.020 ha diện tích tự nhiên và 6.951 nhân khẩu của xã Hòa Hưng Thành lập xã Hòa An trên cơ sở 3.010 ha diện tích tự nhiên và 7.658 nhân khẩu của xã Hòa Hưng. Ngày 14 tháng 11 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 84/2001/NĐ-CP về việc: Thành lập xã Ngọc Thành trên cơ sở 2.397 ha diện tích tự nhiên và 8.039 nhân khẩu của xã Ngọc Chúc Thành lập xã Ngọc Thuận trên cơ sở 3.739 ha diện tích tự nhiên và 8.540 nhân khẩu của xã Ngọc Chúc Thành lập xã Bàn Thạch trên cơ sở 2.106,4 ha diện tích tự nhiên và 9.663 nhân khẩu của xã Bàn Tân Định. Cuối năm 2003, huyện Giồng Riềng bao gồm thị trấn Giồng Riềng và 15 xã: Thạnh Hưng, Thạnh Phước, Thạnh Lộc, Thạnh Hòa, Bàn Tân Định, Ngọc Chúc, Hòa Hưng, Hòa Lợi, Hòa An, Long Thạnh, Vĩnh Thạnh, Hòa Thuận, Ngọc Thành, Ngọc Thuận, Bàn Thạch. Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2005/NĐ-CP về việc: Thành lập xã Ngọc Hòa trên cơ sở 3.009,68 ha diện tích tự nhiên và 11.170 nhân khẩu của xã Hòa Thuận Thành lập xã Vĩnh Phú trên cơ sở 2.730 ha diện tích tự nhiên và 4.968 nhân khẩu của xã Vĩnh Thạnh. Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 29/NQ-CP về việc thành lập xã Thạnh Bình trên cơ sở 1.918,08 ha diện tích tự nhiên và 7.596 nhân khẩu của xã Thạnh Hòa. Huyện Giồng Riềng có 63.938,84 ha diện tích tự nhiên và 219.690 nhân khẩu, có 19 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 18 xã: Thạnh Hưng, Thạnh Phước, Thạnh Lộc, Thạnh Hòa, Thạnh Bình, Bàn Tân Định, Bàn Thạch, Long Thạnh, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Phú, Ngọc Chúc, Ngọc Thành, Ngọc Thuận, Ngọc Hòa, Hòa Thuận, Hòa An, Hòa Hưng, Hòa Lợi và thị trấn Giồng Riềng. Kinh tế - xã hội Kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp. Giồng Riềng là một trong những địa phương sản xuất lúa lớn của tỉnh Kiên Giang. Ngoài ra trồng hoa màu khác như: khoai lang, bí đỏ, dưa hấu, đặc biệt dưa trồng gần như quanh năm. Lao động chính của huyện là nghề nông, công nhân. Giáo dục Huyện có 6 trường Trung học phổ thông: Giồng Riềng, Long Thạnh, Bàn Tân Định, Hòa Thuận, Hòa Hưng, Thạnh Lộc. Người nổi tiếng Mai Thị Hồng Hạnh (Mai Thị Nương - tên một người nữ thuộc phía cách mạng Việt Nam lâm thời đã bị mất trong chiến trường miền Nam Việt Nam). Chị là một liệt sĩ, bị địch bắt, tra tấn dã man đến chết nhưng vẫn không khuất phục được chị. Anh hùng lực lượng vũ trang Trần Thị Mẫn, người phụ nữ được mệnh danh là Hoa Mộc Lan thời hiện đại, giả trai đi đánh giặc với tên là Trần Quang Mẫn - người đã vết nên câu chuyện huyền thoại về người phụ nữ giàu lòng yêu nước thời hiện đại, một huyền thoại sống, là nguyên mẫu của nhân vật chị sáu Mẫn trong tác phẩm điện ảnh Chị Sáu Kiên Giang. quê ở xã Vĩnh Thạnh, huyện Giồng Riềng. Anh hùng lực lượng vũ trang Lê Quang Tuân, quê ở xã Hòa Thuận, huyện Giồng Riềng. Chú thích
Hằng Nga (chữ Hán: 姮娥), cũng gọi Thường Nga (chữ Hán: 嫦娥 hay 常娥), người Việt Nam hay gọi Chị Hằng. Trong nghệ thuật Đông Á, Hằng Nga thường xuyên là đề tài của nhiều tác phẩm hội họa, ca kịch cổ tích trong truyền thuyết Trung Hoa. Phần lớn truyền thuyết đều hình dung nàng có một dung mạo xinh đẹp phi phàm và đều gắn liền với tình duyên cùng Hậu Nghệ, một vị anh hùng huyền thoại thời cổ, người được cho là đã bắn rụng 9 mặt trời để giúp dân chúng. Về sau nàng được Tây Vương Mẫu tặng thuốc trường sinh, song do hiệu lực của thuốc quá lớn khiến nàng bay lên trời và đến Mặt Trăng, về sau truyền thuyết này được gọi là Hằng Nga bôn nguyệt (姮娥奔月). Trong văn hóa Việt Nam, Chị Hằng thường được trẻ em Việt Nam nhắc đến như một người bạn của chú Cuội, dựa theo cổ tích Cây đa và Chú Cuội rất nổi tiếng, gắn liền với Tết trung thu, nên hình tượng Chị Hằng và Chú Cuội đa phần rất được yêu mến bởi trẻ em. Không giống như các vị thần Mặt Trăng đã được nhân cách hóa của các nền văn minh khác, Hằng Nga chỉ sống trên Mặt Trăng. Như là "người phụ nữ trên Mặt Trăng", Hằng Nga có thể coi là sự bổ sung cho khái niệm người đàn ông trên Mặt Trăng của người phương Tây. Miệng núi lửa trên Mặt Trăng có tên Chang-O là phiên âm của tên Thường Nga, do Hiệp hội Thiên văn Quốc tế IAU đặt. Hằng Nga bôn nguyệt Có rất nhiều câu chuyện về Hằng Nga, nhưng sách Hoài Nam Tử, phần Lãm minh huấn (覽冥訓) có lẽ là ghi chép đầu tiên và sớm nhất có hệ thống về câu chuyện của Hằng Nga. Xưa kia, Hằng Nga và chồng của mình là Hậu Nghệ đã từng là những vị thần bất tử sống trên thượng giới. Một ngày kia, mười người con trai của Ngọc Hoàng biến thành mười mặt trời, làm cho mặt đất trở nên nóng bỏng và khô cằn. Thất bại trong việc ra lệnh cho các con mình ngừng phá hủy mặt đất, Ngọc Hoàng triệu Hậu Nghệ đến cứu giúp. Hậu Nghệ, bằng tài bắn cung của mình, đã bắn hạ chín mặt trời, chỉ để lại một người con trai của Ngọc Hoàng làm mặt trời. Ngọc Hoàng rõ ràng là không vui mừng gì với giải pháp của Hậu Nghệ trong việc cứu mặt đất và các sinh linh trên đó: chín con trai của ông đã chết. Như là một sự trừng phạt, Ngọc Hoàng đày Hậu Nghệ và Hằng Nga xuống hạ giới để sống cuộc sống của con người. Cảm nhận thấy là Hằng Nga rất đau khổ vì bị mất khả năng bất tử, Hậu Nghệ quyết định lên đường đi tìm thuốc trường sinh trong một cuộc hành trình dài và đầy gian khổ, nguy hiểm để hai người có thể trở lại cuộc sống bất tử. Vào cuối cuộc hành trình, Hậu Nghệ đã gặp được Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu đồng ý cho Hậu Nghệ một viên thuốc, nhưng dặn rằng mỗi người chỉ cần nửa viên để trở thành bất tử. Hậu Nghệ mang viên thuốc về nhà và cất nó trong một cái hộp. Hậu Nghệ dặn Hằng Nga không được mở chiếc hộp và sau đó rời khỏi nhà trong một khoảng thời gian. Giống như Pandora trong thần thoại Hy Lạp, Hằng Nga trở thành người tò mò, Nàng mở chiếc hộp và nhìn thấy viên thuốc ngay khi Hậu Nghệ quay lại nhà. Sợ rằng Hậu Nghệ có thể nhìn thấy mình đang lục lọi chiếc hộp, nên vô tình Hằng Nga đã nuốt chửng viên thuốc. Ngay lập tức Hằng Nga bay lên trời do thuốc quá mạnh. Mặc dù Hậu Nghệ muốn bắn Hằng Nga để tránh không cho nàng bị lơ lửng trên bầu trời, nhưng chàng không thể nhằm mũi tên vào nàng. Hằng Nga cứ bay lên mãi cho đến khi hạ xuống được Mặt Trăng. Đây được gọi là truyền thuyết Hằng Nga bôn nguyệt (姮娥奔月). Trên cung trăng, Hằng Nga kết bạn với một con thỏ ngọc đang chế thuốc trường sinh, cũng đang sống trên cung trăng. Một người bạn khác là người thợ đốn củi Ngô Cương (hay cũng chính là Chú Cuội xuất hiện trong thần thoại dân gian Việt Nam). Người thợ đốn củi này trước đó đã có một người vợ,do vấp ngã nên mắc chứng hay quên. Người vợ hay quên lời chồng dặn nên đã tưới cây bằng nước bẩn, cây bứt gốc bay lên, chú cuội đu theo và bay về trời .Từ đó, cứ mỗi năm người ta lại thấy có bóng một người trên cung trăng( người ta nói rằng đó chính là Chú Cuội ). Các truyền thuyết dị bản Với Hậu Nghệ Có truyền thuyết khác, Hằng Nga là một cô gái trẻ sống trong cung điện của Ngọc Hoàng trên thiên giới, nơi chỉ có các vị thần tiên bất tử sống. Một ngày, nàng vô tình đánh vỡ một chiếc bình sứ quý báu. Vô cùng bực tức, Ngọc Hoàng đày nàng xuống trần, nơi con người sinh sống. Nàng chỉ có thể trở về trời nếu như làm được những việc có ích khi sống tại mặt đất. Tại hạ giới, có 10 con kim ô đậu ở cây Phù Tang giữa biển đông, mỗi ngày một con bay từ Đông sang Tây, tạo ra ánh sáng cho hạ giới. Các con quạ vàng này chính là các mặt trời. Nhưng một ngày kia cây Phù Tang bị đổ, mười con Quạ Vàng bay khắp bầu trời, tạo thành mười Mặt Trời thiêu đốt thế giới khiến cây cối chết hết. Khi đó một chàng trai có tài bắn cung giỏi nhất là Hậu Nghệ đã giương cung bắn rơi chín con quạ, và định bắn nốt con thứ mười thì Hằng Nga xuất hiện và ngăn lại, để lại một Mặt Trời cho thế gian. Người dân tôn Hậu Nghệ làm vua, chàng cưới Hằng Nga, con nhà bần nông nhưng xinh đẹp tuyệt trần làm vợ, đúng như lời Nguyệt Lão se duyên. Nhưng Hậu Nghệ nhanh chóng trở thành một bạo chúa. Hậu Nghệ tìm kiếm sự bất tử bằng cách ra lệnh chế thuốc trường sinh để kéo dài cuộc sống của mình. Thuốc trường sinh dưới dạng một viên thuốc gần như đã sẵn sàng khi Hằng Nga nhìn thấy nó. Nàng đã nuốt viên thuốc này, hoặc là vô tình hoặc là có chủ ý. Việc này làm Hậu Nghệ, tức giận. Cố gắng bỏ chạy, Hằng Nga đã nhảy qua cửa sổ của căn phòng ở tầng trên của cung điện, và thay vì bị rơi xuống thì nàng lại bay lên được về hướng Mặt Trăng. Hậu Nghệ cố gắng bắn hạ nàng nhưng không thành. Bạn đồng hành của Hằng Nga trên cung trăng là một con thỏ ngọc đang nghiền thuốc trường sinh trong một chiếc cối giã lớn. Trên cung trăng còn có một người thợ đốn củi đang cố gắng đốn hạ cây quế, nguồn tạo ra cuộc sống. Nhưng chàng càng đốn nhanh bao nhiêu thì thân cây lại liền lại nhanh bấy nhiêu và chàng không bao giờ đạt được mục đích của mình. Người Trung Quốc sử dụng hình ảnh cây quế để giải thích sự sống có sinh có tử trên Trái Đất - các cành cây luôn luôn bị chặt - đó là cái chết, nhưng các chồi mới cũng luôn luôn sinh ra - đó là sự sống. Người phàm Truyền thuyết ở Việt Nam cũng lưu giữ một vài dị bản về Hằng Nga. Nguyên Hằng Nga là một cô gái trẻ sống trong cung điện của Ngọc Hoàng trên thiên giới, nơi chỉ có các vị thần tiên bất tử sống. Trong một lần xuống trần gian du ngoạn cùng con gái Ngọc Hoàng là Liễu Hạnh công chúa thì Hằng Nga đã phải lòng một người phàm tên là Nghệ. Được sự chấp thuận của Liễu Hạnh, nên Hằng Nga-Nghệ đã lấy nhau và sống vô cùng hạnh phúc. Nhưng thời gian trôi qua thì Nghệ ngày càng già đi trong khi Hằng Nga vẫn trẻ mãi. Nghệ rất sợ một ngày nào đó Hằng Nga sẽ chê mình quá già rồi bỏ đi hoặc nếu không thì cái chết cũng sẽ chia lìa hai người nên Nghệ đã nhờ Hằng Nga lên thiên giới đánh cắp viên thuốc trường sinh bất lão cho mình. Vì tình yêu nên nàng đành nghe theo nhưng đã bị Ngọc Hoàng Thượng đế phát hiện. Ông rất tức giận bèn giết chết Nghệ và đày Hằng Nga ở trên cung trăng mãi mãi. Vị vua hung ác Nhiều năm sau khi đã trở thành thần Mặt Trăng, Hằng Nga nhìn xuống mặt đất và thấy có một tên vua hung ác ngồi trên ngai vàng. Để giúp đỡ mọi người, Hằng Nga đã tái sinh thành một người và xuống mặt đất. Các thành viên khác trong gia đình nàng đã bị tên vua này giết chết hoặc bắt làm nô lệ, nhưng Hằng Nga đã trốn thoát về vùng nông thôn. Trong thời gian ấy, tên vua hung ác đã có tuổi và bị ám ảnh bởi ý nghĩ tìm kiếm thuốc trường sinh. Hắn bắt mọi người đến để tra hỏi cách tìm ra thuốc trường sinh; lẽ dĩ nhiên là không ai biết, nhưng tên vua này không chấp nhận các câu trả lời và hành hình tất cả những người không có câu trả lời hoặc có câu trả lời mà ông ta không thỏa mãn. Ở nông thôn, Hằng Nga gặp Quan Âm, và Quan Âm đã đưa cho Hằng Nga một viên thuốc "trường sinh" nhỏ. Hằng Nga đem viên thuốc tới cho tên vua. Tên vua đa nghi này ngờ là thuốc độc nên đã ra lệnh cho Hằng Nga thử trước. Sau khi nàng thử và không có biểu hiện ngộ độc nào thì tên vua kia uống viên thuốc và chết ngay lập tức. Sau đó, Hằng Nga cũng rời khỏi thế giới con người. Do nếm ít nên tác động của viên thuốc chỉ là làm chậm lại cái chết của nàng. Tuy nhiên, thay vì hấp hối, nàng đã kịp thời quay lại Mặt Trăng để biến thành nữ thần của cung trăng. Đạo giáo Trong Đạo giáo, Hằng Nga được coi là vị thần Mặt Trăng, gọi là Thái Âm tinh quân (太陰星君). Tôn xưng đầy đủ của nàng là Nguyệt Cung Hoàng Hoa Tố Diệu Nguyên Tinh Thánh Hậu Thái Âm Nguyên Quân (月宮黃華素曜元精聖后太陰元君), hoặc là Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Quân Hiếu Đạo Minh Vương (月宮太陰皇君孝道明王).
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng và phát triển Quy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capita Income, PCI). Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính). Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng. Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ. Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn. Đo lường tăng trưởng kinh tế Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn. Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức: y = dY/Y × 100(%), trong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình kinh tế. Mô hình David Ricardo (1772-1823) với luận điểm cơ bản là đất đai sản xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Nhưng đất sản xuất lại có giới hạn do đó người sản xuất phải mở rộng diện tích trên đất xấu hơn để sản xuất, lợi nhuận của chủ đất thu được ngày càng giảm dẫn đến chí phí sản xuất lương thực, thực phẩm cao, giá bán hàng hóa nông phẩm tăng, tiền lương danh nghĩa tăng và lợi nhuận của nhà tư bản công nghiệp giảm. Mà lợi nhuận là nguồn tích lũy để mở rộng đầu tư dẫn đến tăng trưởng. Như vậy, do giới hạn đất nông nghiệp dẫn đến xu hướng giảm lợi nhuận của cả người sản xuất nông nghiệp và công nghiệp và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nhưng thực tế mức tăng trưởng ngày càng tăng cho thấy mô hình này không giải thích được nguồn gốc của tăng trưởng. Mô hình hai khu vực tăng trưởng kinh tế dựa vào sự tăng trưởng hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp trong đó chú trọng yếu tố chính là lao động (L labor), yếu tố tăng năng suất do đầu tư và khoa học kỹ thuật tác động lên hai khu vực kinh tế. Tiêu biểu cho mô hình hai khu vực là mô hình Lewis, Tân cổ điển và Harry T. Oshima. Mô hình Harrod-Domar nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Mô hình Robert Solow (1956) với luận điểm cơ bản là việc tăng vốn sản xuất chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà không ảnh hưởng trong dài hạn, tăng trưởng sẽ đạt trạng thái dừng. Một nền kinh tế có mức tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (tăng trưởng kinh tế bằng không (0)). Mô hình Kaldor tăng trưởng kinh tế phụ thuộc phát triển kỹ thuật hoặc trình độ công nghệ. Mô hình Sung Sang Parknguồn gốc tăng trưởng là tăng cường vốn đầu tư quốc gia cho đầu tư con người. Mô hình Tân cổ điển nguồn gốc của tăng trưởng tùy thuộc vào cách thức kết hợp hai yếu tố đầu vào vốn(K) và lao động (L). Trước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế). Trong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng. Các nhân tố của tăng trưởng doanh thu Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng. Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến." Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô. Tích lũy tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp. Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi.... Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng. Hạch toán tăng trưởng kinh tế Hạn chế của các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước đo trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành mục tiêu phấn đấu của một chính phủ vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính phủ. Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.
Bão Xangsane (theo tiếng Lào có nghĩa là "con voi lớn", còn được gọi là Milenyo tại Philippines) hoặc bão 18W hay Bão số 6 là một cơn bão rất mạnh được hình thành từ vùng biển phía đông quần đảo Philippines vào cuối tháng 9 năm 2006. Bão đã ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, mà nhất là các tỉnh miền Trung. Thông tin Vào lúc 21:00 UTC ngày 30 tháng 9 năm 2006 (04:00 giờ ngày 1 tháng 10 tại Việt Nam), JMA thông báo tâm bão Xangsane ở gần 16,1° vĩ bắc, 109,2° kinh đông, với tốc độ gió tối đa khoảng 150 km/h (80 hải lý/h, 90 dặm/h). Áp suất tại khu vực tâm bão là 955 hPa và di chuyển về hướng tây với vận tốc khoảng 17 km/h (9 hải lý/h). Hồi 18:00 UTC, JTWC thông báo bão 18W (Xangsane) cách Huế, Việt Nam khoảng 230 km (125 hải lý, 145 dặm) về phía đông đông nam, với sức gió tối đa kéo dài 10 phút vào khoảng 165 km/h (90 hải lý/h, 105 dặm/h), gió giật tới 205 km/h (110 hải lý/h, 125 mph). Theo vietnamnet.vn, cập nhật lúc 06:38 ngày 01 tháng 10 năm 2006 (GMT+7) thì hồi 4:00, vị trí tâm bão ở vào khoảng 16,0° vĩ bắc; 109,1° kinh đông, cách bờ biển Đà Nẵng đến Quảng Ngãi khoảng 70 km về phía đông. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần tâm bão mạnh cấp 13 (tức là từ 134 đến 149 km/h), giật trên cấp 13 (thực chất thì sức gió của nó đạt cấp 15, cấp 16 bởi khi trước khi đổ bộ vào Đà Nẵng, mắt bão Xangsane rất rõ ràng và tròn xoay). Vào lúc 0:00 UTC ngày 1 tháng 10 năm 2006 (07:00 giờ tại Việt Nam), JMA thông báo tâm bão Xangsane ở gần 16,1° vĩ bắc, 108,6° kinh đông, với tốc độ gió tối đa khoảng 150 km/h (80 hải lý/h, 90 dặm/h). Áp suất tại khu vực tâm bão là 955 hPa và di chuyển về hướng tây với vận tốc khoảng 18,5 km/h (10 hải lý/h). Hồi 0:00 UTC, JTWC thông báo bão 18W (Xangsane) cách Đà Nẵng, Việt Nam khoảng 10 km (60 hải lý, 69 dặm) về phía đông đông nam, với sức gió tối đa kéo dài 10 phút vào khoảng 165 km/h (90 hải lý/h, 105 dặm/h), gió giật tới 205 km/h (110 hải lý/h, 125 dặm/h). Sóng cao nhất đạt 7 m (23 ft). Ảnh hưởng của cơn bão Tại Philippines Theo tin từ BBC, bão Xangsane là cơn bão thứ 13 tấn công Philippines từ đầu năm đến nay. Có nhiều tin khác nhau về số người chết ở Philippines, trong đó con số ít nhất là 16, nhưng có hãng tin nói 48 người đã chết tính đến chiều thứ Sáu, ngày 29 tháng 9 năm 2006. Thủ đô Manila bị thiệt hại nặng vì bão, ngày 28 và 29 tháng 9 là hai ngày liên tục mà các văn phòng, trường học phải đóng cửa. Tại Việt Nam Lần đầu tiên trong lịch sử ngành dự báo khí tượng thủy văn Việt Nam, rút kinh nghiệm từ bài học của cơn bão Chanchu, cơ quan chức năng đã sử dụng khái niệm cấp 13 và trên cấp 13 trong thang sức gió Beaufort. Nhận thức được độ nguy hiểm của cơn bão này, Chính phủ Việt Nam đã gấp rút chuẩn bị công tác phòng chống bão . Tại miền Trung đã thực hiện cuộc "di dân kỷ lục" với khoảng 180.000 người dân (có tin khác là 300.000 dân ) để tránh bão mặc dù trước đó có nhận định "Không dễ thực hiện sơ tán hơn 18 vạn dân tránh bão số 6 chỉ trong 17 giờ." Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, tính đến ngày 4 tháng 10, đã có 59 người bị chết, 7 người mất tích do trận bão khủng khiếp này cũng như các trận lũ sau đó. Ngoài ra, khoảng 527 người bị thương, gần 16.000 nhà sập, hơn 77.000 nhà tốc mái và 52.000 nhà bị ngập trong nước, gần 579 tàu thuyền hư hại. Ước tính tổng số thiệt hại hơn 10.000 tỷ đồng . Tại Đà Nẵng Đà Nẵng ghi nhận 9.906 căn nhà bị sập và 25.000 căn nhà bị tốc mái. Vì khu vực này có gió bão cấp 13 và giật cấp 14 nên mới có hậu quả như vậy. Bão kéo lùi sự phát triển của TP này lên tới 10 năm. Tại Huế Huế ghi nhận 422 nhà sập và 14.661 căn bị tốc mái. Gần 17.000 căn nhà bị ngập trong nước. Tại Huế có sức gió mạnh cấp 10 giật trên cấp 11. Tại Quảng Nam Quảng Nam có 3.099 căn nhà bị sập và hơn 10.000 căn bị tốc mái. Tỉnh còn ghi nhận mưa lớn lên tơi 100 mm. Riêng TP Tam Kỳ có sức gió cấp 10 - 11. Giật trên cấp 12. Sau bão Xangsane, lũ đã về đến mức kỷ lục kể từ năm 1995 ở thượng nguồn sông Đà, sông Thao, lũ còn cuốn trôi 150m bờ kè sông Vu Gia, phá thành một cửa sông mới rồi chảy vào khu vực Đồng Miếu dẫn ra sông Quảng Huế. Khoảng 1.370 hộ dân ven sông hai xã Đại Cường, Đại Hoà thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam bị đe doạ tính mạng, tài sản. Thành phố Đà Nẵng có thể khủng hoảng nguồn nước sinh hoạt trong mùa khô do Nhà máy nước Cầu Đỏ của Đà Nẵng sẽ bị thiếu nguồn cung cấp vì sự nhiễm mặn nguồn nước sinh hoạt... nhất là trong mùa khô. Hỗ trợ khắc phục bão Xangsane Tổng hợp thiệt hại Cơn bão số 6 (Xangsane) đổ bộ vào Đà Nẵng, một phần Quảng Ngãi, Quảng Nam và Thừa Thiên Huế đã gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh này. Sau bão, mưa lũ khiến nước dâng cao cũng khiến các tỉnh miền Trung khác bị ảnh hưởng. Bão số 6 và mưa lũ đã làm 71 người thiệt mạng, hơn 500 người bị thương, thiệt hại trên 10 tỷ đồng. Bồi thường thiệt hại Riêng Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), tính đến hết ngày 4 tháng 10 năm 2006, gần 70 khách hàng đã được Bảo Việt giám định thiệt hại tại hiện trường. Mức độ tổn thất bước đầu được Bảo Việt thống kê khoảng trên 100 tỷ đồng và sẽ được chi trả tới các nạn nhân. Chính phủ Việt Nam Ngay sau khi tổng hợp thiệt hại do bão, mưa lũ gây ra tại các tỉnh miền Trung, Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương của Việt Nam đã kiến nghị Chính phủ Việt Nam hỗ trợ gấp các tỉnh 150 tỷ đồng. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định 1323/QĐ-TTg hỗ trợ 161 tỷ đồng cho các địa phương để khắc phục hậu quả do bão số 6 và mưa lũ do bão gây ra. Trong đó, Đà Nẵng là địa phương bị thiệt hại nặng nề nhất được hỗ trợ 40 tỷ đồng; tiếp sau đó đến Thừa Thiên Huế 30 tỷ đồng, Quảng Nam 30 tỷ đồng. Đối với các tỉnh bị thiệt hại do lũ sau bão gây ra, Chính phủ quyết định hỗ trợ mỗi tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ngãi 10 tỷ đồng. Tỉnh Bình Định được hỗ trợ 3 tỷ đồng, Phú Yên 2 tỷ đồng và Kon Tum 6 tỷ đồng. Các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam từ ngày 29 tháng 9 đến 3 tháng 10 năm 2006, ngày 2 tháng 10 Tổng thống Cộng hòa Séc Vaclav Klaus đã thông báo về quyết định của Chính phủ và nhân dân Cộng hòa Séc viện trợ khẩn cấp 100 000 USD cho nhân dân Việt Nam vùng bị thiệt hại nặng nề do cơn bão Xangsane. Ngày 6-10, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội ra thông cáo cho biết, Mỹ sẽ viện trợ khẩn cấp 100.000 USD cho nhân dân Việt Nam để đáp ứng các nhu cầu nhân đạo sau những thiệt hại do bão Xangsane (Bão số 6) gây ra. Tổ chức, đoàn thể, tôn giáo, kiều bào và người dân trong nước Thành phố Hà Nội hỗ trợ 2 tỷ cho người dân Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, thành phố Đà Nẵng, mỗi địa phương 400 triệu đồng. Ngân hàng Đầu tư-Phát triển VN vừa chi 900 triệu đồng từ quỹ thu nhập và tiền lương của CB-CNV để hỗ trợ đồng bào bị nạn trong bão số 6.
Tạ Thu Thâu (chữ Hán: 謝秋收; 5 tháng 5 năm 1906–1945) là một nhà cách mạng chủ nghĩa Marx người Việt đầu thế kỷ 20, một lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ thời sơ khai của các phong trào cộng sản tại Đông Dương. Tiểu sử Tạ Thu Thâu sinh tại làng Tân Bình, tổng An Phú, quận Thốt Nốt (sau này tách ra thành lập quận Lấp Vò), tỉnh Long Xuyên (ngày nay thuộc thị trấn Lấp Vò, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), là con thứ tư trong một gia đình đông con và nghèo khó. Cha ông là Tạ Văn Sóc làm nghề thợ mộc kiêm nghề bốc thuốc. Từ năm 11 tuổi, sau khi mẹ qua đời, ông đậu bằng tiểu học và trúng tuyển nhập học trường trung học Chasseloup Laubat. Sau khi đậu bằng tú tài Bản xứ (Baccalauréat Franco-Indigène) ông dạy học ở trường tư thục Nguyễn Xích Hồng, Sài Gòn và tham gia những tổ nhóm thanh niên yêu nước, trong đó có đảng An Nam trẻ (Jeune Annam) năm 1925. Sau đó hội đoàn này bị nhà cầm quyền thuộc địa giải tán. Tạ Thu Thâu coi giai đoạn này trong đời ông là "giấc mộng liều mạng của tuổi trẻ". Năm 1926, Tạ Thu Thâu tham gia nhiều cuộc biểu tình phản đối chính phủ Pháp, đòi các quyền tự do, dân chủ cho dân Việt. Qua Pháp tháng 7 năm 1927 khi 21 tuổi, học Khoa học tại Đại học Paris, ông gia nhập An Nam Độc lập Đảng (tiếng Pháp: Parti Annamite de l'Indépendance, PAI) của Nguyễn Thế Truyền và đảm nhiệm điều khiển đảng này năm 1928 sau khi Nguyễn Thế Truyền về nước. Ông đứng tên cùng với Huỳnh Văn Phương xuất bản tờ La Résurrection chống chính phủ Thuộc địa. Chỉ được ít lâu báo bị đình bản và đảng Độc lập bị giải tán. Năm 1929, ông tham gia hội nghị Liên đoàn Phản Đế (Liên hiệp Chống Chủ nghĩa Đế quốc) ở Frankfurt, Đức. Cùng năm đó, ông bắt đầu tiếp xúc với các nhóm cánh tả, chống chủ nghĩa thực dân tại Paris, như Felicien Challey, Francis Jourdain và nhà văn, nhà sử học Daniel Guérin. Ông được Alfred Rosmer - một người bạn, người đồng chí, học trò của Trotsky - giới thiệu vào tổ chức Trốt-kít tại Pháp. Từ đó, ông trở thành một lãnh tụ Trốt-kít Việt Nam đầu tiên. Ngày 20 tháng 5 năm 1930, Tạ Thu Thâu cùng một số kiều dân Việt ở Pháp tham gia cuộc biểu tình trước điện Elysée phản đối việc xử tử Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí Việt Nam Quốc dân đảng ở Yên Bái. Vì vậy, ông bị bắt cùng 18 thành viên Tổng hội Sinh viên Đông Dương (Association Générale des Etudiants Indochinois) trong đó có Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Giàu) và bị trục xuất về Việt Nam vào cuối tháng 5. Về nước, Tạ Thu Thâu là một lãnh tụ ái quốc nổi bật. Là người tổ chức và lãnh đạo phong trào Tả Đối lập Trốt-kít (L'Opposition de Gauche), ông hoạt động cách mạng bằng nhiều phương tiện. Về báo chí, ông xuất bản tờ Vô sản (tháng 5 năm 1932), làm báo Pháp ngữ La Lutte (Tranh đấu; tháng 4 năm 1933); nhóm trí thức làm báo này được gọi là "Les Lutteurs" (nhóm Tranh đấu) theo tên tờ báo. Có tên trong đó còn có Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch và Dương Bạch Mai. Vì những hoạt động này Tạ Thu Thâu bị kết án hai năm tù treo. Đầu năm 1937, ông và các nhân vật trong nhóm Tranh đấu ứng cử vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn nhân danh Sổ lao động cùng với Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Phan Văn Hùm đắc cử vẻ vang. Tuy vậy Tạ Thu Thâu bị bắt giam, mãi đến năm 1939 ông mới được thả. Năm 1939, ông cùng nhóm Tranh đấu ứng cử vào Hội đồng Quản hạt (Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ). Cho rằng cuộc bầu cử tổ chức gian lận, ông phản đối với Toàn quyền Đông Dương và Quốc hội Pháp. Trong khi đó có nhiều cuộc biểu tình chống bầu cử gian lận. Pháp bắt hết cả liên danh đưa ra tòa với tội "phá rối trị an". Từ năm 1932 đến 1940, Tạ Thu Thâu 6 lần bị bắt và 5 lần bị kết án. Nếu cộng hết các án ông lãnh, ông bị tất cả 13 năm tù và 10 năm biệt xứ. Cuối năm 1944, sau khi được phóng thích từ tù Côn Đảo, ông dự định thành lập đảng Xã hội Thợ thuyền. Ông ra Bắc bắt liên lạc với một số đồng chí nhằm xuất bản tờ báo Chiến Đấu, để làm cơ quan ngôn luận của đảng Xã hội Thợ thuyền miền Bắc. Ông cũng tham gia nhiều cuộc mít tinh của thợ mỏ tại Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương. Đánh giá Nhà văn, nhà phê bình Thiếu Sơn viết: Không ai phủ nhận được tấm lòng yêu nước của ông, chẳng những yêu nước mà còn hy sinh cho nước. Chỉ có điều khác là nói tới nước, ông liền nghĩ tới dân, thứ nhất là dân vô sản. Còn những ông XY thì chỉ nói tới giang sơn gấm vóc, để nghĩ ngay đến những gấm vóc che phủ nơi nhà các ông, mà không cần biết tới những kẻ khố rách, áo ôm là đa số đồng bào ruột thịt của mình... Tưởng niệm Từ ngày 22 tháng 3 năm 1955, tại quận Nhì (quận 2) của Sài Gòn (nay đã nhập chung vào quận 1 thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) có một đường phố được đặt tên là đường Tạ Thu Thâu; đến ngày 14 tháng 8 năm 1975, Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định đổi tên thành đường Lưu Văn Lang cho đến nay. Ngoài ra có một số tỉnh lỵ, thị xã ở miền Nam cũng có tên đường Tạ Thu Thâu vào trước năm 1975 như Sa Đéc (nay là đường Đinh Tiên Hoàng), Cần Thơ (nay là một phần đường Mậu Thân đoạn từ đường 30 tháng 4 đến đường 3 tháng 2), Long Xuyên (nay là đường Nguyễn Thanh Sơn chạy dọc Kinh Đào) Trước đây ở thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang có một con đường mang tên ông ở phường 8 nhưng hiện nay đã đổi thành đường Nguyễn Văn Nguyễn . Hiện tại tên ông được đặt cho một con đường ở quận 9 (nay đã sáp nhập với quận 2 và quận Thủ Đức thành Thành phố Thủ Đức),Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1989, nhân dịp kỷ niệm 200 năm cách mạng Pháp, "Ủy ban nước Pháp của di dân, nước Pháp của tự do" (France Des Immigrés, France Des Libertés) chọn đăng ảnh và tiểu sử họ Tạ trong một cuộc triển lãm tại Grande Arche tại khu La Défense, Paris. Hiện nay tên của ông được đặt làm tên đường ở thị trấn Cái Bè và thị trấn Chợ Mới. Việc bị sát hại Tới nay, tuy không có tranh cãi về việc mặt trận Việt Minh sát hại Tạ Thu Thâu, vẫn còn nghi vấn về lệnh giết từ đâu đến. Nhà sử học Daniel Hémery cho rằng Việt Minh đã ám sát ông. Trong buổi phỏng vấn ngày 25 tháng 6 năm 1946, Hồ Chí Minh đã trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như sau: Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés (Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị "đứt gãy". Nhóm Đệ Tứ Việt Nam cho rằng Tạ Thu Thâu bị Việt Minh bắt theo lệnh Trần Văn Giàu và bị giết theo lệnh của Giàu và Hồ Chí Minh. Chú thích
Trong địa lý tự nhiên Đông Âu và Trung Á, thảo nguyên châu Âu hay còn gọi là steppe, chỉ đến các đồng cỏ gần như không có cây gỗ (trừ các vùng gần sông và hồ) nằm trên lục địa Á-Âu; nó giống như các kiểu đồng cỏ khác, nhưng đồng cỏ thường có cỏ cao, trong khi thường có cỏ thấp ở thảo nguyên. Nó có thể có khí hậu nửa sa mạc, hay có cỏ hay cây bụi, hoặc có cả hai, tùy mùa và vĩ độ. Kiểu đồng cỏ này không có tại Việt Nam và tên gọi của nó trong một số ngôn ngữ Slav là степь (Nga) hay степ (Bulgaria, Ukraina), được vay mượn sang một số ngôn ngữ Tây Âu thành steppe (Đức, Pháp, Anh) hay Esteppa/Steppa (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italy) v.v Thuật ngữ này cũng có thể để nói tới khí hậu ở những miền quá khô để thể hỗ trợ rừng, nhưng không đủ khô để được gọi là sa mạc. Nó thường gặp ở những miền không nhiều mưa. Đất ở thảo nguyên thường cũng ẩm hơn ở sa mạc nhưng quá khô để hỗ trợ rừng. Thảo nguyên nóng vào mùa hè và lạnh vào mùa đông, mưa trung bình 250–500 mm mỗi năm. Cây cối thường cao hơn 30 cm, thí dụ cỏ grama xanh và cỏ trâu, cây xương rồng, ngải đắng, speargrass, và những thực vật nhỏ giống cây hướng dương. Các động vật bao gồm cáo Corsac, chuột Mông Cổ (Meriones unguiculatus), linh dương Saiga, linh miêu, và chim ưng Saker (Falco cherrug). Khu vực thảo nguyên lớn nhất thế giới, thường được gọi là "Đại Thảo nguyên", nằm ở miền trung Nga và các quốc gia lân cận thuộc Trung Á. Thảo nguyên Hắc Hải kéo dài từ Ukraina ở phía tây tới dãy núi Ural và biển Caspi ở phía đông. Về phía đông của biển Caspi, thảo nguyên mở rộng qua Turkmenistan, Uzbekistan và Kazakhstan tới các dãy núi Altai, Koppet Dag và Thiên Sơn. Về phía bắc, ở phía đông của dãy Ural là các cánh rừng taiga thuộc đồng bằng Tây Siberi, kéo dài gần như là tới ven bờ Bắc Băng Dương. Một khu vực thảo nguyên lớn khác nằm ở miền trung Hoa Kỳ và miền tây Canada. Thảo nguyên Bình nguyên Cao (High Plains) (Hoa Kỳ) là phần xa nhất về phía tây của khu vực Đại Bình nguyên (Great Plains). Một thảo nguyên quan trọng, đáng chú ý vì không được xếp loại trong số các sa mạc, là Sertão ở đông bắc Brasil. Một số thảo nguyên cũng được thấy ở các khu vực chuyển tiếp từ khu vực có khí hậu Địa Trung Hải sang khu vực sa mạc, chẳng hạn Tijuana, Baja California và tại các khu vực bị thiếu độ ẩm do các hiệu ứng chắn mưa, chẳng hạn như ở Zaragoza, Tây Ban Nha.
Chim hói đầu là tên gọi chung trong tiếng Việt của một họ (Picathartidae) có một chi (Picathartes) với hai loài chim thuộc bộ Sẻ (Passeriformes), được tìm thấy trong các rừng mưa của khu vực nhiệt đới thuộc Tây và Trung Phi. Đầu của chúng không có lông, thức ăn của chúng là các loài côn trùng và động vật thân mềm mà chúng nhặt được từ các khu vực núi đá ẩm ướt. Cả hai loài nói chung đều là các loài chim không di trú, do chúng lệ thuộc vào môi trường sống là rừng nhiệt đới núi đá đặc biệt. Chúng là các loài chim gầy và cao lêu nghêu với mỏ giống mỏ quạ, cổ; đuôi và chân dài. Hai chân khỏe thích hợp với việc kiếm ăn trên mặt đất. Về bề ngoài và kích thước, chúng gần giống như các loài gà lôi đuôi dài dù không có quan hệ họ hàng gì (chi Geococcyx), nhưng chúng nhảy lò cò chứ không đi. Chúng có chiếc đầu hói sáng màu. Chim hói đầu sinh sản theo bầy. Tổ được làm từ bùn được gắn vào trần hang hoặc treo trên các vách núi đá. Chim mái đẻ hai trứng. Chim hói đầu cổ trắng được tìm thấy trong các khu vực rừng núi đá ở các độ cao lớn, từ Sierra Leone tới Togo. Chúng có phần lưng và hông màu xám, phần bụng màu trắng, đầu màu vàng với các vệt màu đen ở hai bên. Chim hói đầu cổ xám sinh sống trong các khu vực thuộc miền nam Cameroon, miền bắc Nigeria và các khu vực lân cận thuộc Trung Phi. Chúng có phần lưng, hông, cổ màu xám, phần bụng màu vàng nhạt, đầu màu tím ở phía trước, đỏ ở phía sau và với các vệt màu đen ở hai bên. Các loài Picathartes gymnocephalus: Chim hói đầu cổ trắng Picathartes oreas: Chim hói đầu cổ xám Chú thích
Hoài Ân là một huyện thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam. Địa lý Huyện Hoài Ân nằm ở phía bắc của tỉnh Bình Định, có vị trí địa lý: Phía đông giáp thị xã Hoài Nhơn và huyện Phù Mỹ Phía tây giáp huyện Vĩnh Thạnh Phía nam giáp huyện Phù Cát Phía bắc giáp huyện An Lão. Theo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 744,1 km², dân số là 85.700 người, mật độ dân số đạt 115 người/km². Trong đó có 5 xã có người dân tộc Ba Na, H're sinh sống, đó là Bok Tới, Dak Mang, Ân Sơn, Ân Tường Đông và Ân Mỹ. Ngoài ra có các dân tộc thiểu số khác sống xen kẽ với người kinh như Xơ Đăng: 8 người, Ê Đê: 6 người, Mường: 6 người, Chăm: 5 người, Gia Rai: 5 người, Tày: 4 người, Thái: 4 người, Hoa: 4 người, Dao 4 người, Khơ me: 2 người, Nùng: 2 người, Cơ Tu, Co mỗi dân tộc 1 người (theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2010). Hành chính Huyện Hoài Ân có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Tăng Bạt Hổ (huyện lỵ) và 14 xã: Ân Đức, Ân Hảo Đông, Ân Hảo Tây, Ân Hữu, Ân Mỹ, Ân Nghĩa, Ân Phong, Ân Sơn, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Tường Đông, Ân Tường Tây, Bok Tới, Dak Mang. Lịch sử Ngày 24 tháng 8 năm 1981, huyện Hoài Ân thuộc tỉnh Nghĩa Bình được tái lập, bao gồm 11 xã: Ân Đức, Ân Hảo, Ân Hữu, Ân Nghĩa, Ân Phong, Ân Sơn, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Tường, Đắk Mang và Bok Tới. Ngày 7 tháng 11 năm 1986, thành lập thị trấn Tăng Bạt Hổ, thị trấn huyện lỵ huyện Hoài Ân trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và nhân khẩu của các xã Ân Thạnh, Ân Đức, Ân Phong; chia xã Ân Tín thành 2 xã: Ân Tín và Ân Mỹ. Năm 1989, huyện Hoài Ân thuộc tỉnh Bình Định vừa tái lập. Ngày 4 tháng 9 năm 1998, chia xã Ân Tường thành 2 xã: Ân Tường Đông và Ân Tường Tây. Ngày 11 tháng 4 năm 2007, chia xã Ân Hảo thành 2 xã: Ân Hảo Đông và Ân Hảo Tây. Huyện Hoài Ân có 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay. Giao thông Hoài Ân không có quốc lộ chạy qua, phía bắc có tỉnh lộ 629 nối với Quốc lộ 1 tại Bồng Sơn, Hoài Nhơn, chạy qua địa phận 2 xã Ân Mỹ, Ân Hảo Đông lên tới huyện lỵ An Lão và đi Ba Tơ, Quảng Ngãi; phía nam có tỉnh lộ 630 nối với Quốc lộ 1 tại cầu Dợi, Hoài Đức, Hoài Nhơn, chạy qua thị trấn Tăng Bạt Hổ, xã Ân Đức, xã Ân Tường Tây, xã Ân Nghĩa, lên huyện Kbang, Gia Lai nối với tỉnh lộ 637 qua huyện lỵ Vĩnh Thạnh và nối với quốc lộ 19 tại vườn Xoài, Tây Thuận, Tây Sơn. Ngoài ra còn có tỉnh lộ 631 nối với Quốc lộ 1 tại đèo Nhông, Mỹ Trinh, Phù Mỹ chạy qua địa phận xã Ân Tường Đông tới Gò Loi, Tân Thạnh, Ân Tường Tây giáp với tỉnh lộ 630. Trong tương lai gần (theo kế hoạch cơ bản thông toàn tuyến vào năm 2020) có đường bộ cao tốc bắc nam chạy qua địa phận xã Ân Thạnh, thị trấn Tăng Bạt Hổ, xã Ân Phong, xã Ân Tường Đông huyện Hoài Ân(cuối tháng 4 năm 2011 đã khảo sát cắm mốc trên địa bàn huyện). Du lịch Thác Đổ, thác Trà Lan (Trà Cơi) (Nghĩa Điền-Ân Nghĩa, Bók Tới - Ân Nghĩa) là những ngọn thác đẹp. Tại đây, đặc biệt là vào dịp lễ Tết có rất nhiều người đến tham quan ngắm cảnh. Hồ Thạch Khê (Ân Tường Đông) là một hồ chứa nước lớn đầu tiên ở huyện phục vụ công tác tưới tiêu cho nông nghiệp. Hồ Vạn Hội (thôn Vạn Hội, Ân Tín) là một hồ chứa nước lớn nhất huyện (tính đến năm 2007) phục vụ công tác tưới tiêu cho nông nghiệp. Thác Đổ (Tân Xuân-Ân Hảo),Thác Đá Dàn (Bình Hòa-Ân Hảo):là những ngọn thác đẹp vv... Giáo dục Hoài Ân có 4 trường trung học phổ thông: Trường PTTH Nguyễn Bỉnh Khiêm, PTTH Hoài Ân ở thị trấn Tăng Bạt Hổ, PTTH Võ Giữ ở xã Ân Mỹ và PTTH Trần Quang Diệu ở xã Ân Tường Tây. Có 11 trường THCS (theo xã, thị trấn): Ân Nghĩa, Ân Hữu, Phổ thông Dân tộc nội trú (xã Ân Hữu), Ân Tường Tây, Ân Tường Đông, Ân Đức, Tăng Bạt Hổ, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Hảo, Ân Mỹ. Có 19 trường Tiểu học (theo xã, thị trấn): BokToi, Đakmang, Số 1 Ân Nghĩa, Số 2 Ân Nghĩa, Ân Hữu, Số 1 Ân Tường Tây, Số 2 Ân Tường Tây, Ân Tường Đông, Số 1 Ân Đức, Số 2 Ân Đức, Tăng Bạt Hổ, Ân Phong, Ân Thạnh, Tăng Doãn Văn (xã Ân Thạnh), Số 1 Ân Tín, Số 2 Ân Tín, Ân Mỹ, Ân Hảo Tây, Ân Hảo Đông. Có 10 trường Mẫu giáo: Vùng cao (Làng T2, xã BokToi, thu nhận trẻ Mẫu giáo của 3 xã: BokToi, Đakmang, Ân Sơn), Ân Hữu, Ân Tường Đông, Ân Tường Tây, Ân Phong, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Mỹ, Ân Hảo Đông, Ân Hảo Tây. Có 4 trường Mầm non: Ân Nghĩa, 19-4 (Thị trấn Tăng Bạt Hổ), Tăng Bạt Hổ, Ân Đức. Có 01 cơ sở Mầm non tư thục Hồng Nhung (Thị trấn Tăng Bạt Hổ). Tại thời điểm tháng 4 năm 2011 các trường học đã được kết nối mạng Internet đến điểm trường chính. Riêng 3 trường Mẫu giáo Vùng cao, Tiểu học BokToi, Tiểu học Đakmang phải dùng mạng không dây di động ở nơi khác vì điểm chính chưa đủ điều kiện.
Kiatisuk Senamuang (tiếng Thái: เกียรติศักดิ์ เสนาเมือง; sinh ngày 11 tháng 8 năm 1973) là một huấn luyện viên và cựu tiền đạo bóng đá người Thái Lan. Hiện tại ông là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Hoàng Anh Gia Lai ở giải V-League 1. Ông còn được người hâm mộ mệnh danh là "Zico Thái". Được xem như là cầu thủ xuất sắc nhất Đông Nam Á trong lịch sử, Kiatisak đã ghi được 251 bàn thắng trong tổng số 339 trận thi đấu trong suốt sự nghiệp 18 năm của mình (từ 1989-2007). Ông từng chơi cho câu lạc bộ ở Malaysia, Singapore, Anh và Việt Nam cũng như các câu lạc bộ tại quê hương mình. Kiatisuk cũng đã khoác áo đội tuyển Thái Lan 131 lần, ghi được 70 bàn thắng cho đội nhà từ năm 1992 đến năm 2007. Năm 1996, khi chơi cho câu lạc bộ Raj Pracha FC, ông ghi được tổng cộng 127 bàn thắng trong 71 trận, đạt kỷ lục cầu thủ ghi bàn nhiều nhất trong một năm (kỉ lục này không được công nhận chính thức). Kiatisuk từng là huấn luyện viên trưởng của đội tuyển U-23 Thái Lan, cũng như là huấn luyện viên trưởng của đội tuyển Thái Lan khi đưa tuyển Thái Lan vô địch SEA Games 2013, vào đến bán kết ASIAD 2014, vô địch AFF Cup 2014 và AFF Cup 2016. Cho đến nay, ông là người đầu tiên và duy nhất vô địch AFF Cup ở cả 2 cương vị cầu thủ và huấn luyện viên. Sự nghiệp cầu thủ Câu lạc bộ Xuất thân từ một sĩ quan cảnh sát, Kiatisuk đã bỏ nghề để trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp. Sau một thời gian chơi bóng cho các câu lạc bộ trong nước, ông sang Malaysia thi đấu cho Perlis FA, sau đó sang Anh khoác áo câu lạc bộ Huddersfield Town năm 1999. Tuy nhiên sau một mùa bóng không thường xuyên xuất hiện trong đội hình chính của Huddersfield Town, Kiatisuk trở về nước đá cho Rajpracha Sports Club. Năm 2001, ông sang Singapore thi đấu cho đội Quân đội Singapore. Chỉ trong 30 trận đấu, ông đã ghi được tới 15 bàn thắng. Năm 2002, khi còn là một đội bóng ở hạng Nhất của Việt Nam, Hoàng Anh Gia Lai đã gây bất ngờ trong giới bóng đá Việt Nam khi ký hợp đồng với Kiatisuk vào tháng 3. Ông đã có đóng góp lớn cho Hoàng Anh Gia Lai khi cùng câu lạc bộ 2 lần vô địch quốc gia năm 2003 (ngay khi vừa mới lên hạng) và 2004. Sau 5 năm khoác áo Hoàng Anh Gia Lai (2002 – 2006), thời gian cuối vừa là cầu thủ vừa là huấn luyện viên trưởng câu lạc bộ, Kiatisuk đã được nhận giải thưởng thành tựu của câu lạc bộ khi chia tay, chiếc áo số 13 ở HAGL cũng được treo vĩnh viễn. Sau khi rời Hoàng Anh Gia Lai và cũng giải nghệ sự nghiệp câu lạc bộ, ông còn thi đấu vài trận cho đội tuyển quốc gia. Đội tuyển quốc gia Ở cấp độ đội tuyển, theo thống kê chính thức của FIFA, Kiatisuk Senamuang khoác áo đội tuyển 130 trận và ghi được 65 bàn thắng. Hai thành tích này đều là kỉ lục quốc gia của Thái Lan. Tuy nhiên con số này theo thống kê của Thái Lan còn cao hơn, vì một số trận đấu không được FIFA công nhận chính thức. Sự nghiệp huấn luyện viên Hoàng Anh Gia Lai Sau khi giải nghệ, Kiatisuk về tiếp quản đội bóng Hoàng Anh Gia Lai ở V-League năm 2007. Trở lại Thái Lan Năm 2008, Kiatisuk trở lại Thái Lan dẫn dắt Chula United. Năm 2009, Kiatisuk trở thành huấn luyện viên trưởng của Chonburi F.C. và dẫn dắt câu lạc bộ giành được Cúp Hoàng gia Kor năm 2009. Kiatisuk dẫn dắt đội kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 2, với số điểm cao nhất mà câu lạc bộ từng đạt được. Tuy nhiên, sau khi không đạt được chức vô địch quốc nội, ông từ chức. Trở lại Hoàng Anh Gia Lai lần 1 Kiatisuk lại sang Việt Nam để quản lý CLB cũ Hoàng Anh Gia Lai. CLB kết thúc mùa giải ở V-League ở vị trí thứ 7. Kiatisuk dẫn dắt Hoàng Anh Gia Lai vào chung kết Cúp quốc gia 2010 nhưng để thua 0-1 trước Sông Lam Nghệ An tại sân vận động Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh. Trở lại Thái Lan lần 2 Vào tháng 12 năm 2010, Kiatisuk trở lại Thái Lan làm huấn luyện viên trưởng của Chula United ở Thai League 2. Kiatisuk đưa câu lạc bộ lên vị trí thứ 3 vào cuối mùa giải, dẫn đến việc thăng hạng lên Giải bóng đá vô địch quốc gia Thái Lan 2012. Sau 10 trận, Kiatisuk từ chức vì kết quả kém cỏi: 1 thắng, 4 hòa và 5 thua. Một tháng sau, Kiatisuk quyết định gia nhập Bangkok F.C. tại giải VĐQG Thái Lan năm 2012 để giúp câu lạc bộ tránh xuống hạng. Bangkok trụ lại Thai League 2 sau khi kết thúc ở vị trí thứ 10. Huấn luyện các đội tuyển bóng đá Thái Lan Tháng 1 năm 2013, Kiatisuk được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng U-23 Thái Lan. Ông còn nắm giữ luôn cương vị HLV trưởng đội tuyển quốc gia Thái Lan vào tháng 6 cùng năm.. Trận đấu đầu tiên của ông trong vai trò huấn luyện viên trưởng là trận giao hữu với đội tuyển Trung Quốc vào ngày 15 tháng 6 năm 2013, khi đó Thái Lan thắng 5-1. Tại SEA Games 27 trên đất Myanmar năm 2013, Kiatisuk đã dẫn dắt U23 trở lại với ngôi vương sau nhiều năm thi đấu không thành công. Sau đó, ông tiếp tục dẫn dắt đội tuyển U23 Thái Lan lọt vàn bán kết ASIAD 2014. Từ năm 2014 đến năm 2016, ông dẫn dắt đội tuyển quốc gia và giúp đội tuyển quốc gia nước này giành hai chức vô địch AFF Cup 2014 và AFF Cup 2016, cũng như lọt vào vòng chung kết Giải vô địch bóng đá U-23 châu Á 2016. Vào năm 2015, tại vòng loại thứ 2 FIFA World Cup 2018 khu vực châu Á, Thái Lan nằm cùng bảng với Iraq, Việt Nam và Đài Bắc Trung Hoa, đội kết thúc vòng loại thứ 2 với tư cách là đội nhất bảng với 14 điểm sau 6 trận để tiến vào vòng loại thứ 3 Ngày 31 tháng 3 năm 2017, do thành tích yếu kém của đội tuyển Thái Lan tại vòng loại thứ 3 World Cup 2018 (xếp bét bảng với 1 điểm, chỉ ghi được 3 bàn thắng và bị thủng lưới 19 bàn), sau trận thua 0-4 trước Nhật Bản tại sân vận động Saitama 2002 vào ngày 28 tháng 3, Kiatisuk quyết định chia tay đội tuyển Thái Lan sau 4 năm gắn bó, Kiatisak khẳng định lãnh đạo FAT "ảo tưởng" khi cho rằng Thái Lan có thể chơi tốt ở vòng loại cuối: "Mục tiêu ấy quá cao, quá khó để thực hiện. Tôi từ chức để mở đường cho một người khác có thể làm được việc này. Trong bóng đá, chúng ta không thể lúc nào cũng thắng. Đó là điều mà Chủ tịch FAT và Ban điều hành Liên đoàn đã bỏ qua khi đánh giá về tôi" . Sau đó đến ngày 23 tháng 6 năm 2017, Kiatisak quyết định nhận lời mời làm HLV trưởng cho CLB Port FC. Ngày 20 tháng 9 năm 2017, sau khi Port FC thất bại 1-3 trước Chonburi FC ngay trên sân nhà, như lời tuyên bố trước trận, Kiatisak đã chính thức nói lời chia tay Port FC chỉ sau 3 tháng dẫn dắt. Trở lại Hoàng Anh Gia Lai lần 2 Ngày 20 tháng 11 năm 2020, sau khi từ chối dẫn dắt CLB bóng đá Thành phố Hồ Chí Minh FC ở V.League, HLV Kiatisuk Senamuang đã nhận lời mời của bầu Đức để quay trở lại dẫn dắt Hoàng Anh Gia Lai cũng là đội bóng ở V.League và giúp cho đội bóng này xây dựng một lối chơi khởi sắc, đạt được thành tích tốt vào đầu mùa giải, tuy nhiên HAGL không được công nhận vô địch khi V-League hủy bỏ do ảnh hưởng của dịch COVID-19 cũng như lịch trình tập trung của đội tuyển quốc gia, dù sau 12 vòng đấu, HAGL vững vàng dẫn đầu V-League 2021 với 29 điểm, trong đó có mạch 11 trận liên tiếp bất bại với 7 chiến thắng, 2 trận hòa, hiệu số bàn thắng ấn tượng +14, cao gấp đôi đội nhì bảng Viettel trong cảnh giải chỉ còn 6 trận, tức chỉ còn 1/3 chặng đường. Kiatisak sau đó cam kết trên Facebook cá nhân sẽ tiếp tục dẫn dắt Hoàng Anh Gia Lai. Mở ra ý tưởng thành lập Học viện bóng đá Học viện Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai - JMG Năm 2006, sau khi rời Hoàng Anh Gia Lai lần thứ nhất - Kiatisuk nhận lời làm trưởng văn phòng đại diện đồ gỗ Hoàng Anh Gia Lai chi nhánh tại Bangkok, "Zico Thái" đã lái xe đưa bầu Đức đến tham quan CLB Muangthong United và mô hình đào tạo của Arsenal JMG và khuyên bầu Đức đầu tư vào công tác đào tạo trẻ. Từ đó, Học viện bóng đá Hoàng Anh Gia Lai Arsenal JMG đã ra đời. Bình luận về bóng đá Việt Nam Trước cuộc bốc thăm AFF Cup 2018 vào ngày 2/5, ông chia sẻ: “Người Thái đang mơ dự World Cup. Nhưng người Việt lại chỉ muốn thắng được Thái Lan. Bóng đá Việt Nam rất mạnh ở các giải đấu trẻ. Thế nhưng ở cấp đội tuyển quốc gia, tôi nghĩ phải mất khoảng 10 năm nữa Việt Nam mới thắng nổi Thái Lan. Sự thật là Thái Lan vẫn mạnh hơn Việt Nam ở thời điểm này, bởi chúng tôi đã vươn tầm châu Á”. khiến cho người hâm mộ cảm thấy bức xúc. Tuy nhiên sau khi chứng kiến sự thành công vượt bậc của bóng đá Việt Nam năm 2018, ông đã phải sớm lên tiếng rút lại phát biểu bị xem xúc phạm bóng đá Việt Nam. Kiatisak đã thay đổi cách nghĩ: “Trước đây tôi từng nói rằng phải mất 10 năm nữa Việt Nam mới có thể theo kịp Thái Lan, nhưng bây giờ tôi xin rút lại câu nói đó. Hai nền bóng đá của hai quốc gia giờ đã ngang hàng nhau rồi, một chín một mười. Tôi kỳ vọng sẽ được chứng kiến màn trình diễn của cả hai đội bóng tại AFF Suzuki Cup sắp tới”. Đầu năm 2021, Kiatisuk lên tiếng đính chính rằng: "Đó là cách truyền đạt của tôi với cầu thủ. Tôi muốn nói rằng họ 22 tuổi thì phải cố gắng để trong 10 năm phát triển sự nghiệp, chứ không phải nói về bóng đá Thái Lan và Việt Nam. Đó có thể là hiểu lầm thôi. Tôi muốn nói rằng nếu anh em cố gắng thì trong vòng 10 năm nữa, không đội nào có thể đá lại. Chứ tôi yêu Việt Nam lắm, các bạn có niềm đam mê bóng đá cuồng nhiệt." Đời tư Kiatisuk là một Phật tử sinh ra ở Udon Thani. Trước khi trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, Kiatisuk từng làm cảnh sát, nhưng luôn dành tình yêu cho bóng đá. Ông được bạn bè đặt biệt danh Zico để vinh danh thần tượng bóng đá Brazil mà ông yêu thích Zico. Kiatisuk đã học tiếng Việt và nói thành thạo tiếng Việt chỉ sau 1-2 năm làm việc tại Việt Nam. Ông đã có 3 cô con gái, họ lần lượt có biệt danh là Perth, Proud và Pearl. Vào năm 2021, Kiatisuk đấu giá chiếc áo có chữ ký của mình. Tổng số tiền thu về được thông báo là 210 triệu đồng. Theo đó, với số tiền đấu giá 130 triệu đồng, một người hâm mộ đã trở thành chủ nhân của chiếc áo đấu này. Riêng cá nhân huấn luyện viên Kiatisak cũng đóng góp 10 triệu đồng vào quỹ vaccine COVID-19. Trước đó, cũng từ việc bán đấu giá chiếc áo đấu có chữ ký của mình, "Zico Thái" đã quyên góp cho Quỹ phòng chống dịch bệnh Thái Lan số tiền gần 200 triệu đồng. Thành tích và danh hiệu Thống kê sự nghiệp huấn luyện Tính đến hết ngày 29 tháng 4 năm 2021 Bàn thắng quốc tế Danh hiệu Cầu thủ Đội tuyển Thái Lan Vô địch Tiger Cup: 1996, 2000, 2002 HCV SEA Games: 1993, 1995, 1997, 1999 Hạng tư Asian Games: 1998, 2002 Cúp Nhà vua: 1994, 2000, 2006 Indonesian Independence Cup: 1994 Krung Thai Bank Kor Royal Cup: 1989 Khǒr Royal Cup: 1993 Singapore Armed Forces S-League: 2002 Hoàng Anh Gia Lai V-League: 2003, 2004 Siêu cúp Quốc gia: 2003, 2004 Cá nhân Cầu thủ xuất sắc nhất AFF Cup: 2000 Huấn luyện viên Đội tuyển Thái Lan AFF Cup: 2014, 2016 U23 Thái Lan Huy chương Vàng SEA Games: 2013 Asian Games: Hạng tư 2014 Chonburi Kor Royal Cup: 2009 Cá nhân Huấn luyện viên xuất sắc nhất AFF: 2015, 2017 Hoàng Anh Gia Lai Vô địch Cup Hoàng đế Quang Trung: 2022
Tên gọi Chanchu là một tên gọi do Ma Cao đề xuất dùng để đặt tên gọi quốc tế cho các cơn bão trong khu vực tây bắc Thái Bình Dương kể từ mùa bão năm 2000. Tên gọi "Chanchu" là từ Latinh hóa trong tiếng Ma Cao để chỉ trân châu (珍珠). "Chanchu" cũng có nghĩa là trân châu trong tiếng Quảng Đông. Tên gọi này chỉ được sử dụng để gọi hai xoáy thuận nhiệt đới tại khu vực tây bắc Thái Bình Dương. Đó là: Bão Chanchu (2000) - được hình thành từ phần còn sót lại của bão nhiệt đới Upana và bị đổi tên một cách nhầm lẫn thành Chanchu, nhưng nó đã không đe dọa tới khu vực đất liền. Siêu bão Chanchu thuộc mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương (2006), đã đổ bộ vào miền đông Trung Quốc, là cơn bão mạnh nhất từ trước đến thời điểm tháng 5 năm 2006 tại khu vực biển Đông. Năm 2007, cái tên "Chanchu" đã bị khai tử và thay thế bằng tên "Sanba". Bão
Trong toán học, tập xác định (còn gọi là miền xác định, hay miền) của một hàm số là tập hợp các giá trị của biến số làm cho hàm số đó có nghĩa. Như vậy hàm số sẽ cho một giá trị kết quả cho mọi biến số nằm trong miền xác định này.
Cá chìa vôi trong tiếng Việt có thể là: Tên gọi chung của một số loài cá trong bộ Cá chìa vôi (Syngnathiformes), cụ thể gồm: Họ Cá chìa vôi (Syngnathidae). Họ Cá chìa vôi ma (Solenostomidae). Tên gọi của loài cá chìa vôi biển (Proteracanthus sarissophorus) thuộc họ Ephippidae. Xẹm thêm Chìa vôi
Lenovo Group Ltd. là tập đoàn đa quốc gia về công nghệ máy tính có trụ sở chính ở Bắc Kinh, Trung Quốc và Morrisville, Bắc Carolina, Mỹ. Tập đoàn thiết kế, phát triển, sản xuất và bán các sản phẩm như máy tính cá nhân, máy tính bảng, smartphone, các trạm máy tính, server, thiết bị lưu trữ điện tử, phần mềm quản trị IT và ti vi thông minh. Năm 2013, Lenovo được các đơn vị bán hàng bình chọn là nhà cung cấp máy tính lớn nhất thế giới. Tập đoàn tiếp thị cho dòng laptop ThinkPad và dòng máy tính để bàn ThinkCentre. Lenovo hoạt động tại hơn 60 quốc gia và kinh doanh các sản phẩm của mình trong khoảng 160 quốc gia. Các cơ sở chính của Lenovo tại Bắc Kinh, Morrisville và Singapore cùng với việc đặt các trung tâm nghiên cứu tại đó cũng như ở Thượng Hải, Thâm Quyến, Hạ Môn, và Thành Đô tại Trung Quốc, và Yamato ở quận Kanagawa, Nhật Bản. Ngoài ra còn có công ty liên doanh với EMC, LenovoEMC để bán các giải pháp lưu trữ có kết nối mạng. Tập đoàn cũng liên doanh với NEC, Lenovo NEC Holdings nhằm sản xuất máy tính cá nhân cho thị trường Nhật Bản. Lenovo được thành lập tại Bắc Kinh năm 1984 với tên Legend và sáp nhập tại Hồng Kông năm 1988. Lenovo mua lại thị phần kinh doanh máy tính của IBM năm 2005 và đồng ý mua lại lĩnh vực kinh doanh máy chủ của Intel năm 2014. Lenovo gia nhập thị trường năm 2012 và đến năm 2014 trở thành nhà cung cấp điện thoại thông minh lớn nhất tại Trung Quốc Đại lục. Tháng 1 năm 2014, Lenovo đồng ý mua lại hãng sản xuất điện thoại di động cầm tay Motorola Mobility của Google và đến tháng 10 năm 2014 hợp đồng mua bán đã hoàn thành. Lenovo đang được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Hong Kong Stock Exchange và là một phần của Hang Seng China-Affiliated Corporations Index, được biết đến với tên gọi "Red Chips." Lịch sử 1984–1993: Những năm đầu thành lập Liễu Truyền Chí cùng với một nhóm 10 kỹ sư giàu kinh nghiệm, chính thức thành lập Lenovo tại Bắc Kinh vào ngày 1 tháng 11 năm 1984 với 200.000 Nhân dân tệ.  Chính phủ Trung Quốc đã phê duyệt việc thành lập Lenovo cùng ngày. Jia Xufu, một trong những người đồng sáng lập đã chỉ ra rằng cuộc họp đầu tiên để chuẩn bị cho việc thành lập công ty được tổ chức vào ngày 17/10 cùng năm. Toàn bộ 11 nhân viên ban đầu đã tham dự. Mỗi người sáng lập là một thành viên của Viện Công nghệ Máy tính thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS). Tên của công ty được thỏa thuận tại cuộc họp này là Viện Nghiên cứu Công nghệ Máy tính Trung Quốc Công ty Phát triển Công nghệ Mới. Cơ cấu tổ chức của công ty được thành lập vào năm 1985. Nó bao gồm một bộ phận công nghệ, kỹ thuật, hành chính và văn phòng.  Nhóm lần đầu tiên cố gắng nhập khẩu TV nhưng không thành công. Sau đó tự xây dựng lại như một công ty kiểm tra chất lượng trên máy tính. Công ty cũng đã cố gắng và thất bại trong việc tiếp thị một chiếc đồng hồ kỹ thuật số. Năm 1990, Lenovo bắt đầu sản xuất và tiếp thị máy tính bằng thương hiệu của riêng mình. Vào tháng 5 năm 1988, Lenovo đã đặt quảng cáo tuyển dụng đầu tiên trên trang nhất của China Youth News. Những quảng cáo như vậy khá hiếm ở Trung Quốc vào thời điểm đó. Trong số 500 người được yêu cầu có 280 người được chọn để tham gia một kỳ thi tuyển dụng, 120 trong số các ứng cử viên này đã được phỏng vấn trực tiếp. Các nhân viên mới bao gồm 18 người có bằng tốt nghiệp, 37 người có bằng đại học và 3 người không có trình độ đại học. Độ tuổi trung bình của họ là 26. Dương Nguyên Khánh, chủ tịch và CEO hiện tại của Lenovo, nằm trong nhóm đó. Liễu Truyền Chí đã nhận được sự cho phép của chính phủ để thành lập một công ty con ở Hồng Kông và chuyển đến đó cùng với 5 nhân viên khác vào năm 1988. Để tiết kiệm tiền trong thời gian này, ông và các đồng nghiệp đã đi bộ thay vì đi phương tiện giao thông công cộng. Để duy trì sự xuất hiện, họ thuê phòng khách sạn cho các cuộc họp. Một số thành công ban đầu của công ty bao gồm máy tính lớn KT8920. Công ty cũng phát triển một bảng mạch cho phép các máy tính cá nhân tương thích với IBM xử lý các ký tự Trung Quốc. 1994–1998: Ra mắt cổ phiếu và trái phiếu Lenovo (được biết đến vào thời điểm đó là Legend) đã được giao dịch công khai sau khi niêm yết thị trường chứng khoán ở Hồng Kông năm 1994, đã huy động được gần 30 triệu USD.  Trước đó, nhiều nhà phân tích đã lạc quan về Lenovo. Vào ngày giao dịch đầu tiên, giá cổ phiếu của công ty đạt mức cao 2,07 đô la Hồng Kông và đóng cửa ở mức 2 đô la Hồng Kông. Số tiền thu được từ việc cung cấp đã được sử dụng để tài trợ cho các văn phòng bán hàng ở châu Âu, Bắc Mỹ và Úc để mở rộng và cải thiện sản xuất và nghiên cứu và phát triển và để tăng vốn lưu động. Đến năm 1996, Lenovo là công cụ dẫn đầu thị trường ở Trung Quốc và bắt đầu bán máy tính xách tay (Laptop) của riêng mình. Năm 1998, công ty đã nắm giữ 43% thị phần máy tính trong nước với khoảng 1 triệu máy tính được bán ra. Lenovo đã phát hành máy tính Thiên Tây (天禧) vào năm 1998, được thiết kế để giúp người tiêu dùng Trung Quốc thiếu kinh nghiệm dễ dàng sử dụng máy tính và truy cập internet. Một trong những tính năng quan trọng nhất của nó là nút kết nối ngay lập tức người dùng với internet và mở trình duyệt Web. Nó được đồng thương hiệu với China Telecom và được đi kèm với một năm dịch vụ Internet. Đó là kết quả của 2 năm nghiên cứu và phát triển. Tính đến năm 2000, Thiên Tây là máy tính bán chạy nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nó đã bán được hơn 1.000.000 chiếc chỉ riêng trong năm 2000. 1999–2010: Mua lại IBM và kinh doanh mảng điện thoại thông minh Để tạo đà cho sự tăng trưởng liên tục của mình, Lenovo đã phát hành một đợt chào bán thứ cấp 50 triệu cổ phiếu trên thị trường Hồng Kông vào tháng 3 năm 2000 và huy động được khoảng 212 triệu đô la Mỹ. Công ty cũng đổi tên thành Lenovo vào năm 2003 và bắt đầu mua lại để mở rộng công ty. Lenovo đã mua lại mảng kinh doanh máy tính cá nhân của IBM vào năm 2005, bao gồm các dòng máy tính xách tay và máy tính bảng ThinkPad. Việc Lenovo mua lại bộ phận máy tính cá nhân của IBM đã tăng tốc độ tiếp cận thị trường nước ngoài trong khi cải thiện cả thương hiệu và công nghệ của Lenovo. Công ty đã trả 1,25 tỷ USD cho hoạt động kinh doanh máy tính của IBM và đảm nhận thêm 500 triệu USD nợ của IBM. Việc mua lại này đã khiến Lenovo trở thành nhà sản xuất máy tính lớn thứ 3 trên toàn thế giới về khối lượng. Việc Lenovo mua dòng Think từ IBM cũng dẫn đến việc tạo ra quan hệ đối tác IBM / Lenovo hoạt động cùng nhau trong việc tạo ra think-line của các sản phẩm được bán bởi Lenovo. Về việc mua bộ phận máy tính cá nhân của IBM, ông Liễu Truyền Chí cho biết vào năm 2012: "Chúng tôi được hưởng lợi theo ba cách từ việc mua lại IBM. Chúng tôi có thương hiệu ThinkPad, công nghệ sản xuất PC tiên tiến hơn của IBM và các nguồn lực quốc tế của công ty, chẳng hạn như các kênh bán hàng toàn cầu và đội ngũ vận hành. Ba yếu tố này đã củng cố doanh thu bán hàng của chúng tôi trong vài năm qua". Các nhân viên của nhiều bộ phận, bao gồm cả những người phát triển máy tính xách tay ThinkPad và máy tính để bàn Think Centre đã trở thành nhân viên của Lenovo. Mặc dù Lenovo mua lại thương hiệu "Think" từ IBM nhưng IBM vẫn đóng một vai trò gián tiếp, nền tảng quan trọng trong việc thiết kế và sản xuất dòng sản phẩm Think. IBM ngày nay chịu trách nhiệm giám sát các trung tâm dịch vụ và sửa chữa và được coi là nhà phân phối và tân trang lại dòng sản phẩm Think do Lenovo sản xuất. IBM cũng đã mua lại 50% cổ phần của Lenovo vào năm 2005 như một phần trong việc Lenovo mua bộ phận máy tính cá nhân của IBM. Mary Ma, giám đốc tài chính của Lenovo từ năm 1990 đến năm 2007, phụ trách quan hệ nhà đầu tư. Dưới sự lãnh đạo của bà, Lenovo đã tích hợp thành công trách nhiệm giải trình theo phong cách phương Tây vào văn hóa doanh nghiệp của mình. Sự nhấn mạnh của Lenovo về tính minh bạch đã mang lại cho nó danh tiếng về quản trị doanh nghiệp tốt nhất trong số các công ty Trung Quốc đại lục. Tất cả các vấn đề lớn liên quan đến hội đồng quản trị, quản lý, chuyển nhượng cổ phần lớn, và sáp nhập và mua lại đã được báo cáo công bằng và chính xác. Trong khi các công ty niêm yết tại Hồng Kông chỉ được yêu cầu phát hành báo cáo tài chính 2 lần mỗi năm, Lenovo tuân theo tiêu chuẩn quốc tế về phát hành báo cáo hàng quý. Lenovo đã thành lập một ủy ban kiểm toán và một ủy ban bồi thường với các giám đốc không quản lý. Lenovo đã bắt đầu kinh doanh bộ phận điện thoại thông minh (Smartphone) và máy tính bảng (Tablet) của mình vào năm 2008 với giá 100 triệu USD để tập trung vào máy tính cá nhân và sau đó trả 200 triệu USD để mua lại vào tháng 11 năm 2009. Tính đến năm 2009, bộ phận di động đứng thứ 3 về thị phần đơn vị trong thị trường điện thoại di động của Trung Quốc. Lenovo đã đầu tư 100 triệu ¥ vào một quỹ dành riêng để cung cấp tài trợ hạt giống cho phát triển ứng dụng di động cho cửa hàng ứng dụng trực tuyến LeGarden. Tính đến năm 2010, LeGarden đã có hơn 1.000 chương trình có sẵn cho LePhone. 2011–2013: Tái gia nhập thị trường điện thoại thông minh và các dự án khác Vào ngày 27/1/2011, Lenovo đã thành lập một liên doanh để sản xuất máy tính cá nhân với công ty điện tử Nhật Bản NEC. Các công ty cho biết trong một tuyên bố rằng họ sẽ thành lập một công ty mới có tên Lenovo NEC Holdings, được đăng ký tại Hà Lan. NEC đã nhận được 175 triệu USD cổ phiếu Lenovo. Lenovo sẽ sở hữu 51% cổ phần trong liên doanh, trong khi NEC sẽ có 49%. Lenovo có một lựa chọn 5 năm để mở rộng cổ phần của mình trong liên doanh. Liên doanh này nhằm mục đích thúc đẩy doanh số bán hàng trên toàn thế giới của Lenovo bằng cách mở rộng sự hiện diện của mình tại Nhật Bản, một thị trường quan trọng cho máy tính cá nhân. NEC tách hoạt động kinh doanh máy tính cá nhân của mình thành liên doanh. Tính đến năm 2010, NEC kiểm soát khoảng 20% thị trường máy tính cá nhân của Nhật Bản trong khi Lenovo chiếm 5% thị phần. Lenovo và NEC cũng đồng ý khám phá hợp tác trong các lĩnh vực khác như máy chủ và máy tính bảng. Vào tháng 6 năm 2011, Lenovo tuyên bố rằng họ có kế hoạch mua lại quyền kiểm soát Medion, một công ty sản xuất điện tử của Đức. Lenovo cho biết việc mua lại sẽ tăng gấp đôi thị phần của mình trên thị trường máy tính Đức, khiến nó trở thành nhà cung cấp lớn thứ 3 về doanh số (sau Acer và Hewlett-Packard). Thỏa thuận này kết thúc vào quý 3 cùng năm, được tờ New York Times tuyên bố là "lần đầu tiên một công ty Trung Quốc mua lại một công ty nổi tiếng của Đức". Tháng 9 năm 2012, Lenovo đã đồng ý mua lại công ty điện tử Digibras có trụ sở tại Brazil, bán các sản phẩm dưới thương hiệu CCE với giá cơ bản là 300 triệu real (148 triệu USD) kết hợp giữa cổ phiếu và tiền mặt. Một khoản thanh toán bổ sung 400 triệu reals đã được thực hiện phụ thuộc vào các tiêu chuẩn hiệu suất. Lenovo đã thành lập một nhà máy trị giá 30 triệu đô la ở Brazil, nhưng ban lãnh đạo Lenovo đã cảm thấy rằng họ cần một đối tác địa phương để tối đa hóa tăng trưởng khu vực. Lenovo trích dẫn mong muốn tận dụng lợi thế của doanh số bán hàng tăng do World Cup 2014 sẽ được tổ chức bởi Brazil và Thế vận hội Mùa hè 2016.  Sau khi mua lại, Lenovo tuyên bố rằng các thương vụ mua lại tiếp theo của họ sẽ tập trung vào phần mềm và dịch vụ. Following the acquisition, Lenovo announced that its subsequent acquisitions would be concentrated in software and services. Lenovo đã trở lại thị trường điện thoại thông minh vào năm 2012 và nhanh chóng trở thành nhà cung cấp điện thoại thông minh lớn nhất ở Trung Quốc đại lục. Gia nhập thị trường điện thoại thông minh được kết hợp với sự thay đổi chiến lược từ "một kích thước phù hợp với tất cả" sang "một danh mục thiết bị đa dạng". Những thay đổi này được thúc đẩy bởi sự phổ biến của iPhone của Apple và mong muốn của Lenovo để tăng thị phần tại Trung Quốc đại lục. Lenovo đã vượt qua Apple Inc để trở thành nhà cung cấp điện thoại thông minh số 2 tại thị trường nội địa Trung Quốc vào năm 2012. Tuy nhiên, do có khoảng 100 thương hiệu điện thoại thông minh được bán tại Trung Quốc, vị trí này chỉ tương đương với 10,4% thị phần. Vào tháng 5 năm 2012, Lenovo đã công bố khoản đầu tư 793 triệu USD vào việc xây dựng một cơ sở sản xuất điện thoại di động và R&D ở Vũ Hán, Hồ Bắc. Năm 2013, Lenovo đã thành lập một liên doanh với EMC có tên LenovoEMC.  Liên doanh đã tiếp quản hoạt động kinh doanh của Iomega và đổi thương hiệu tất cả các sản phẩm của Iomega dưới thương hiệu LenovoEMC và thiết kế các sản phẩm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ khả năng lưu trữ dữ liệu cấp doanh nghiệp. 2014–nay: Mua các dòng máy chủ IBM và các thương vụ mua lại khác IBM đã bán các dòng máy chủ dựa trên x86 của mình, bao gồm IBM System X và IBM BladeCenter cho Lenovo vào năm 2014. Lenovo cho biết họ sẽ tiếp cận được nhiều khách hàng doanh nghiệp hơn, cải thiện tỷ suất lợi nhuận và phát triển mối quan hệ chặt chẽ hơn với Intel, nhà sản xuất hầu hết các bộ xử lý máy chủ thông qua việc mua lại mảng kinh doanh máy chủ dựa trên x86 của IBM. Vào ngày 1/10/2014, Lenovo đã hoàn tất việc mua lại bộ phận máy chủ của IBM, với mức giá cuối cùng được đưa ra là 2,1 tỷ đô la. Lenovo cho biết việc mua lại này có giá thấp hơn so với 2,3 tỷ đô la được công bố trước đó một phần do sự thay đổi về giá trị hàng tồn kho của IBM. Thỏa thuận này đã được châu Âu, Trung Quốc và Mỹ chấp thuận. Ủy ban Đầu tư Nước ngoài của Bộ Tài chính Hoa Kỳ (CFIUS) được cho là rào cản cuối cùng đối với Lenovo, vì Hoa Kỳ có các chính sách nghiêm ngặt nhất. Theo Timothy Prickett-Morgan từ Enterprise Tech, thỏa thuận này vẫn đang chờ "sự chấp thuận của các nhà quản lý ở Trung Quốc, Ủy ban châu Âu và Canada". Vào ngày 29 tháng 1 năm 2014, Google tuyên bố bán Motorola Mobility cho Lenovo với giá 2,91 tỷ USD. Tính đến tháng 2 năm 2014, Google sở hữu khoảng 5,94% cổ phần của Lenovo. Thỏa thuận này bao gồm các dòng điện thoại thông minh như Moto X, Moto G, Droid Turbo và lộ trình sản phẩm Motorola Mobility trong tương lai, trong khi Google vẫn giữ lại đơn vị Công nghệ & Dự án Tiên tiến và tất cả trừ 2.000 bằng sáng chế của công ty.. Lenovo đã nhận được giấy phép miễn phí bản quyền cho tất cả các bằng sáng chế do Google giữ lại.  nhận được sự chấp thuận từ Liên minh châu Âu cho việc mua lại Motorola vào tháng 6 năm 2014. Thương vụ được hoàn thành vào ngày 30/10/2014. Motorola Mobility vẫn có trụ sở tại Chicago và tiếp tục sử dụng thương hiệu Motorola, nhưng Liu Jun, chủ tịch kinh doanh thiết bị di động của Lenovo đã trở thành người đứng đầu công ty. Vào tháng 5 năm 2015, Lenovo đã tiết lộ một logo mới tại Lenovo Tech World ở Bắc Kinh, với khẩu hiệu "Đổi mới không bao giờ đứng yên" (tiếng Trung: 创新无止境). Logo mới của Lenovo, được tạo ra bởi Saatchi, có thể được thay đổi bởi các công ty quảng cáo và đối tác bán hàng của mình, trong các hạn chế, để phù hợp với bối cảnh. Nó có một "e" nằm dài và được bao quanh bởi một hộp có thể được thay đổi để sử dụng một cảnh có liên quan, màu sắc rắn, hoặc hình ảnh. Giám đốc tiếp thị của Lenovo David Roman cho biết: "Khi chúng tôi lần đầu tiên bắt đầu xem xét nó, nó không chỉ là về một sự thay đổi trong kiểu chữ hoặc giao diện của logo. Chúng tôi đã hỏi 'Nếu chúng tôi thực sự là một công ty tập trung vào khách hàng, logo sẽ trông như thế nào?' Chúng tôi đã nảy ra ý tưởng về một logo kỹ thuật số đầu tiên [...] được thiết kế để sử dụng trên internet và thích nghi với bối cảnh."" Đầu tháng 6/2015, Lenovo công bố kế hoạch bán tới 650 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 5 năm bằng đồng nhân dân tệ của Trung Quốc. Trái phiếu đã được bán tại Hồng Kông với phiếu giảm giá dao động từ 4,95% đến 5,05%. Đây là lần bán trái phiếu thứ hai trong lịch sử Lenovo. Các nhà bình luận tài chính lưu ý rằng Lenovo đã trả một khoản phí bảo hiểm để niêm yết trái phiếu bằng đồng nhân dân tệ với chi phí tương đối thấp để vay bằng đô la Mỹ. Vào tháng 3 năm 2017, Lenovo tuyên bố họ đang hợp tác với công ty ảo hóa lưu trữ phần mềm DataCore có trụ sở tại Fort Lauderdale, Florida để thêm phần mềm xử lý I / O song song của DataCore vào các thiết bị lưu trữ của Lenovo.  máy chủ được cho là được thiết kế để vượt trội so với các mảng SAN của Storage Area Network (SAN). Cũng trong năm 2017, Lenovo đã thành lập một liên doanh với Fujitsu và Ngân hàng Phát triển Nhật Bản (DBJ). Theo đó, Fujitsu sẽ bán cho lenovo 51% cổ phần của Fujitsu Client Computing Limited và DBJ sẽ mua lại 5% cổ phần. Vào tháng 9 năm 2018, Lenovo và NetApp đã công bố về quan hệ đối tác chiến lược và liên doanh tại Trung Quốc. Cùng năm, Lenovo trở thành nhà cung cấp siêu máy tính TOP500 lớn nhất thế giới. Năm 2020, Lenovo đã trở thành nhà cung cấp đổi mới trung tâm dữ liệu ưa thích cho DreamWorks Animation bắt đầu với Trolls World Tour. Sản phẩm và dịch vụ Máy tính cá nhân Lenovo đã cho ra mắt ThinkPad, IdeaPad, Legion là các dòng máy tính xách tay, cũng như các dòng IdeaCentre và ThinkCentre của máy tính để bàn. Được mở rộng đáng kể vào năm 2005 thông qua việc mua lại mảng kinh doanh máy tính cá nhân của IBM, bao gồm các dòng ThinkPad và ThinkCentre. Tính đến tháng 1 năm 2013, các lô hàng máy tính mang thương hiệu THINK đã tăng gấp đôi kể từ khi Lenovo tiếp quản thương hiệu, với tỷ suất lợi nhuận được cho là trên 5%.  cực mở rộng thương hiệu THINK ra khỏi các máy tính xách tay truyền thống để ủng hộ máy tính bảng và thiết bị lai như ThinkPad Tablet 2, ThinkPad Yoga, ThinkPad 8, ThinkPad Helix và ThinkPad Twist; sự thay đổi này là một phản ứng đối với sự phổ biến ngày càng tăng của các thiết bị di động và việc phát hành Windows 8 vào tháng 10 năm 2012. Lenovo đã đạt được thành công đáng kể với chiến lược có giá trị cao này và trong năm 2013 đã kiểm soát hơn 40% thị trường máy tính Windows có giá trên 900 USD tại Hoa Kỳ. Điện thoại thông minh Tính đến tháng 1 năm 2013, Lenovo chỉ sản xuất điện thoại sử dụng hệ điều hành Android từ Google. Vào tháng 5, giám đốc điều hành Lenovo Dương Nguyên Khánh chỉ ra rằng công ty đã nhắm đến việc phát hành điện thoại thông minh tại Hoa Kỳ trong năm tới. Cuối tháng 10, Lenovo đã bày tỏ sự quan tâm đến việc mua lại nhà sản xuất điện thoại thông minh BlackBerry của Canada. Tuy nhiên, nỗ lực của họ đã bị Chính phủ Canada ngăn chặn, với lý do lo ngại về an ninh do việc sử dụng các thiết bị BlackBerry của các thành viên nổi bật của chính phủ. Một quan chức nói rằng "chúng tôi đã khá nhất quán rằng thông điệp là Canada dành cho đầu tư và đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc nói riêng nhưng không phải với cái giá ảnh hưởng đến an ninh quốc gia". Vào tháng 1 năm 2014, Lenovo đã công bố một thỏa thuận được đề xuất để mua lại Motorola Mobility để củng cố kế hoạch của mình cho thị trường Mỹ. Microsoft chính thức tuyên bố rằng Lenovo đã trở thành đối tác phần cứng của nền tảng Windows Phone tại Mobile World Congress 2014. Vào tháng  năm 2016, Lenovo tuyên bố tại CES rằng công ty sẽ sản xuất điện thoại Project Tango đầu tiên. TV thông minh Tháng 11 năm 2011, Lenovo cho biết họ sẽ sớm tiết lộ một sản phẩm truyền hình thông minh có tên LeTV, dự kiến phát hành vào quý đầu tiên của năm 2012. "Các ngành công nghiệp PC, truyền thông và truyền hình hiện đang trải qua một sự chuyển đổi 'thông minh'. Trong tương lai, người dùng sẽ có nhiều thiết bị thông minh và mong muốn có trải nghiệm tích hợp về phần cứng, phần mềm và dịch vụ đám mây". Liu Jun, chủ tịch bộ phận di động-Internet và kỹ thuật số gia đình của Lenovo phát biểu. Vào tháng 6 năm 2013 Lenovo tuyên bố hợp tác với Sharp để sản xuất TV thông minh. Vào tháng 3 năm 2014, Lenovo tuyên bố rằng họ dự kiến doanh số tv thông minh sẽ vượt qua 1 triệu chiếc trong năm 2014. Cùng tháng đó, Lenovo đã phát hành smart TV S9 đầu tiên của mình. Thiết bị đeo thông minh Thiết bị đeo đầu tiên được sản xuất mang nhãn hiệu "Smartband", có thời lượng pin là 7 ngày. Nó có một màn hình nhịp tim quang học và có thể được sử dụng để theo dõi khoảng cách, thời gian chạy và lượng calo bị đốt cháy. Nó cũng có thể thông báo cho người dùng về các cuộc gọi và tin nhắn đến, hoặc có thể mở khóa máy tính mà không cần sử dụng mật khẩu. Smartband được bán ra vào tháng 10 năm 2014. Lenovo bắt đầu cung cấp thiết bị để bán trên trang web của mình mà không có thông báo sản phẩm chính thức. IoT / nhà thông minh Năm 2015, Lenovo đã đưa ra một hợp tác chiến lược với IngDan (硬蛋), một công ty con của công ty thương mại điện tử Trung Quốc Cogobuy Group, để thâm nhập vào lĩnh vực phần cứng thông minh. Lenovo muốn mua phần cứng Công nghệ cao trong nền kinh tế Internet of Things (IoT) mới nổi  và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Cogobuy, trong đó trước đây họ chủ yếu mua các thành phần IC. Chuỗi cung ứng Cogobuy đã được Lenovo sử dụng để mua sắm các thiết bị tiêu dùng và thu hẹp khoảng cách trong phát triển phần cứng và phần mềm độc quyền của họ. Lenovo Connect Tại Đại hội Thế giới Di động năm 2016, Lenovo đã giới thiệu Lenovo Connect, một dịch vụ chuyển vùng không dây. Dịch vụ này hoạt động trên các thiết bị, mạng và biên giới cho khách hàng ở Trung Quốc và EMEA (Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi). Lenovo Connect loại bỏ sự cần thiết phải mua thẻ SIM mới khi vượt qua biên giới. Lenovo Connect bắt đầu dịch vụ cho điện thoại và chọn máy tính xách tay ThinkPad tại Trung Quốc vào tháng 2 năm 2016. Bê bối Cài sẵn adware Vào tháng 2/2015, nhiều người dùng phát hiện trong laptop Lenovo của họ có cài sẵn một adware mang tên Superfish. Sau đó Lenovo đã tung ra công cụ gỡ bỏ adware nói trên. Lượng laptop bị nhiễm adware Superfish nằm trong giai đoạn 2014-2015. Tuy nhiên, hãng vẫn phải đối mặt với một cuộc tranh luận kéo dài 2 năm rưỡi với Ủy ban Thương mại Mỹ (FTC) do vi phạm và hãng đã bị phạt 3,5 triệu USD vì cài đặt sẵn adware nói trên. Adware trên tự động chèn quảng cáo trái phép vào các kết quả tìm kiếm trên Google. Superfish tác động đến 2 trình duyệt là Internet Explorer và Google Chrome trên máy tính Lenovo, riêng trình duyệt Mozilla Firefox do sử dụng hệ thống chứng nhận riêng nên không bị nhiễm loại adware này. Tự động cài đặt phần mềm Vào tháng 8/2015, Lenovo lại "dính phốt" khi bị người dùng tố cáo sử dụng firmware có khả năng tự động tải và cài các phần mềm của mình lên máy tính người dùng mà không hề báo trước.
là một tập đoàn đa quốc gia công nghệ cao có trụ sở chính tại Tokyo, Nhật Bản. Sản phẩm và dịch vụ của tập đoàn này bao gồm Công nghệ Thông tin, Thiết bị và hệ thống liên lạc, cơ sở hạ tầng cho công nghiệp và xã hội, dụng cụ điện dùng trong nhà, thiết bị y tế, thiết bị văn phòng. Toshiba được thành lập vào năm 1939 dưới tên Tokyo Shibaura Electric K.K. qua sự hợp nhất của Shibaura Seisaku-sho (thành lập năm 1875) và Tokyo Denki (thành lập năm 1890). Tên tập đoàn đã được chình thức thay đổi sang Toshiba Corporation vào năm 1978. Toshiba được tổ chức thành bốn nhóm thương mại chính: Nhóm Sản Phẩm Số, Nhóm Thiết Bị Điện Tử, Nhóm Đồ Dùng Gia Dụng và Nhóm Cơ Sở Hạ Tầng Xã hội. Vào năm 2010, Toshiba là công ty máy tính cá nhân lớn thứ năm thế giới về doanh thu (xếp phía sau Hewlett-Packard, Dell, Acer và Lenovo). Vào cùng năm, nó cũng là công ty sản xuất chất bán dẫn lớn thứ tư thế giới về doanh thu (xếp phía sau Intel Corporation, Samsung và Texas Instruments). Lịch sử Tosbiba được thành lập vào năm 1939 bởi sự hợp Nhất của Shibaura Seisaku-sho và Tokyo Denki. Shibaura Seisakusho được thành lập dưới tên Tanaka Seisakusho bởi Hisashige Tanaka là công ty Nhật đầu tiên làm thiết bị điện báo, vào năm 1904, nó đã được đổi tên thành Shibaura Seisakusho, Suốt nửa đầu thế kỷ 20, Shibaura Seisakusho trở thành một công ty lớn sản xuất máy móc điện tử nặng trong khi Nhật Bản, được hiện đại hóa vào thời kỳ Minh Trị (Meiji Tennō), trở thành một cường quốc thế giới về công nghiệp. Tokyo Denki, mới đầu gọi Hakunetsusha, được thành lập vào năm 1890 và là công ty Nhật đầu tiên sản xuất bóng đèn nóng sáng. Công ty này đa dạng hóa và bắt đầu làm những sản xuất tiêu dùng, và năm 1899 nó đổi tên thành Tokyo Denki (東京電器, Đông Kinh Điện khí, "Điện tử Tokyo"). Shibaura Seisakusho và Tokyo Denki hợp nhất vào năm 1939, trở thành công ty mới dưới tên Tōkyō Shibaura Denki. Nó được tên hiệu Toshiba không lâu, nhưng công ty không đổi tên chính thức thành Công ty Toshiba đến khi năm 1978. Toshiba đã chế tạo nhiều loại thiết bị đầu tiên của Nhật Bản, bao gồm radar (1942), máy tính số TAC (1954), máy thu hình bán dẫn và lò vi sóng (1959), điện thoại hình màu (1971), máy xử lý chữ Nhật (1978), hệ thống MRI (1982), Máy tính xách tay (1986), NAND EEPROM (1991), Đĩa DVD (1995) và đĩa HD DVD (2005) Hoạt động Toshiba có trụ sở chính tại Minato-ku, Tokyo, Nhật Bản và có hoạt động trên toàn cầu. Nó có khoảng 210.000 nhân viên. Toshiba dược tổ chức thành bốn nhóm thương mại chính: Nhóm Sản Phẩm Số, Nhóm Thiết Bị Điện Tử, Nhóm Đồ Dùng Gia Dụng và Nhóm Cơ Sở Hạ Tầng Xã hội. Trong năm tài chính tới ngày 31 tháng 3 năm 2012, Toshiba có tổng doanh thu lên đến , trong đó 25,2% là từ Nhóm Sản Phẩm Số, 24,5% từ Nhóm Thiết Bị Điện Tử, 8,7% từ Nhóm Đồ Dùng Gia Dụng, 36,6% từ Nhóm Cơ Sở Hạ Tầng Xã hội và 5% từ các hoạt động khác. Toshiba có 39 cơ sở nghiên cứu và phát triển trên khắp thế giới với khoảng 4.180 nhân viên. Toshiba đầu tư tổng cộng vào nghiên cứu và phát triển trong năm tài chính tới ngày 31 tháng 3 năm 2012. Toshiba đã đăng ký tổng cộng 2.483 bằng sáng chế ở Mỹ trong năm 2011, đứng thứ 5 trong số những công ty có nhiều bằng sáng chế nhất (xếp sau IBM, Samsung Electronics, Canon and Panasonic). Sản phẩm, dịch vụ và tiêu chuẩn Toshiba có rất nhiều sản phẩm và dịch vụ, bao gồm máy điều hòa, đồ điện tử gia dụng, hệ thống kiểm soát, thang máy, dịch vụ IT, ánh sáng, chất liệu và thành phần điện tử, thiết bị y tế, thiết bị văn phòng, máy tính cá nhân, chất bán dẫn, hệ thống năng lượng. Máy thu hình 3D Vào tháng 10 năm 2010, Toshiba đã cho ra mắt máy thu hình LCD 3D không cần kính Toshiba Regza GL1 21" LED backlit tại CEATEC 2010. sản phẩm này bắt đầu được bán vào tháng 12 năm 2010.
Tên Xangsane được sử dụng để chỉ đến hai xoáy thuận nhiệt đới tại phía tây bắc Thái Bình Dương. Tên này được Lào đưa ra và theo tiếng Lào có nghĩa con voi lớn. Bão Xangsane vào mùa bão năm 2000 có ảnh hướng đến Philippines và Đài Loan. Bão Xangsane vào mùa bão năm 2006 có ảnh hướng đến Philippines, biển Đông, và Việt Nam. Xangsane Bão
Áp suất chất lỏng tại một điểm bất kì trong lòng chất lỏng là giá trị áp lực lên một đơn vị diện tích đặt tại điểm đó. Công thức tính áp suất: p = d.h Trong đó: + h: độ cao của cột chất lỏng, tính từ điểm tính tới mặt thoáng chất lỏng, đơn vị m + d:trọng lượng riêng của chất lỏng, đơn vị N/m³ Ký hiệu: p Đơn vị: N/m², Pa (Pascal) Áp suất tuyệt đối Áp suất tuyệt đối là tổng áp suất gây ra bởi cả khí quyển và cột chất lỏng tác dụng lên điểm trong lòng chất lỏng. Ký hiệu: pa Công thức: trong đó: p0 là áp suất khí quyển là trọng lượng riêng của chất lỏng h là độ sâu thẳng đứng từ mặt thoáng chất lỏng đến điểm được xét Áp suất tương đối Áp suất tương đối, còn gọi là áp suất dư là áp suất gây ra chỉ do trọng lượng của cột chất lỏng. Ngoài ra áp suất tương đối là hiệu giữa áp suất tuyệt đối và áp suất khí quyển. Nếu áp suất tuyệt đối nhỏ hơn áp suất khí quyển thì ta được áp suất chân không. Ký hiệu: ptđ, pdư Công thức: .
Dapa có thế là Pascal (đơn vị) Dapa, một đô thị ở Philippines
Hoàng Anh Gia Lai có thể đề cập đến: Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai Câu lạc bộ bóng đá Hoàng Anh Gia Lai
Huy chương Fields là giải thưởng được trao cho tối đa 4 nhà toán học không quá 40 tuổi tại mỗi kỳ Đại hội quốc tế (ICM) của Hiệp hội Toán học quốc tế (IMU), được tổ chức 4 năm/lần. Giải thưởng được sáng lập bởi nhà toán học Canada John Charles Fields, lần đầu được trao vào năm 1936, đã bị gián đoạn trong suốt thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và từ năm 1950 được trao đều đặn. Mục đích của giải thưởng là sự công nhận và hỗ trợ cho các nhà toán học trẻ tuổi đã có những đóng góp quan trọng có tính đột phá cho ngành toán học. Huy chương có đường kính 63,5mm làm bằng vàng 14 carat được trao cùng với số tiền thưởng cổ vũ tượng trưng là 5.500 đôla Canada. Huy chương Fields thường được coi là "Giải Nobel dành cho Toán học". Sự so sánh này là không thật sự chính xác, bởi vì giới hạn tuổi của giải Fields được áp dụng nghiêm ngặt. Hơn nữa, huy chương Fields thường được trao cho các nhà toán học có nhiều công trình nghiên cứu hơn là chỉ có 1 nghiên cứu quan trọng. Các nhà toán học đã nhận giải 2022: Hugo Duminil-Copin (Pháp), June Huh (Mỹ), James Maynard (Anh), Maryna Viazovska (Ukraina) 2018: Caucher Birkar (Anh), Alessio Figalli (Thụy Sĩ), Peter Scholze (Đức), Akshay Venkatesh (Mỹ) 2014: Artur Avila (Brasil), Manjul Bhargava (Mỹ), Martin Hairer (Áo), Maryam Mirzakhani (Iran) 2010: Elon Lindenstrauss (Israel), Ngô Bảo Châu (Việt Nam/Pháp), Stanislav Smirnov, (Nga), Cédric Villani (Pháp) 2006: Terence Tao (Đào Triết Hiên) (Úc/Mỹ), Grigori Perelman (Nga), Andrei Okounkov (Nga/Mỹ), Wendelin Werner (Pháp) 2002: Laurent Lafforgue (Pháp), Vladimir Voevodsky (Nga/Mỹ) 1998: Richard Ewen Borcherds (Anh), William Timothy Gowers (Anh), Maxim Kontsevich (Nga), Curtis T. McMullen (Mỹ) 1994: Efim Isakovich Zelmanov (Nga), Pierre-Louis Lions (Pháp), Jean Bourgain (Bỉ), Jean-Christophe Yoccoz (Pháp) 1990: Vladimir Drinfeld (Liên Xô), Vaughan Frederick Randal Jones (New Zealand), Mori Shigefumi (Nhật Bản), Edward Witten (Mỹ) 1986: Simon Donaldson (Anh), Gerd Faltings (Tây Đức), Michael Freedman (Mỹ) 1982: Alain Connes (Pháp), William Thurston (Mỹ), Khâu Thành Đồng (Mỹ) 1978: Pierre Deligne (Bỉ), Charles Fefferman (Mỹ), Grigory Margulis (Liên Xô), Daniel Quillen (Mỹ) 1974: Enrico Bombieri (Ý), David Mumford (Mỹ) 1970: Alan Baker (Anh), Heisuke Hironaka (Nhật Bản), Sergei Petrovich Novikov (Liên Xô), John Griggs Thompson (Anh) 1966: Michael Atiyah (Anh), Paul Joseph Cohen (Mỹ), Alexander Grothendieck (Pháp), Stephen Smale (Mỹ) 1962: Lars Hörmander (Thụy Điển), John Milnor (Mỹ) 1958: Klaus Roth (Anh), René Thom (Pháp) 1954: Kunihiko Kodaira (Nhật Bản), Jean-Pierre Serre (Pháp) 1950: Laurent Schwartz (Pháp), Atle Selberg (Na Uy) 1936: Lars Ahlfors (Phần Lan), Jesse Douglas (Mỹ) Danh sách các quốc gia tính theo số huy chương Fields Các sự kiện đặc biệt Năm 1954, Jean-Pierre Serre trở thành người trẻ nhất từng đạt Huy chương Fields: 28 tuổi. Đến nay, ông vẫn giữ kỉ lục này. Năm 1966, Alexander Grothendieck tẩy chay lễ trao giải Fields cho mình, tổ chức tại Moskva, để phản đối các hoạt động của quân đội Liên Xô ở Đông Âu. Năm 1970, Sergei Petrovich Novikov, vì sự quản thúc của Chính phủ Liên Xô, đã không thể tới Nice để nhận huy chương. Hironaka Heisuke - người Nhật Bản thứ 2 được nhận Huy chương Fields trước kia đã từng thi trượt trường đại học tại Hiroshima. Năm 1978, Gregori Margulis do bị Chính phủ Liên Xô hạn chế di chuyển nên đã không thể tới tham gia đại hội tại Helsinki để nhận giải thưởng. Jacques Tits đã thay mặt ông nhận giải và đã có bài diễn văn: Năm 1982, đại hội được tổ chức tại Warszawa, Ba Lan nhưng cuối cùng đã phải chuyển sang năm sau vì tình hình chính trị không ổn định. Giải Fields được công bố vào kì họp thứ 9 của IMU vào đầu năm và được trao vào năm 1983 tại đại hội Warszawa. Năm 1998, tai đại hội ICM ở Berlin, Andrew Wiles được chủ tịch hội đồng giám khảo giải Fields là Yuri Manin trao huy chương bạc IMU đầu tiên để công nhận thành quả của ông trong việc chứng minh định lý Fermat cuối cùng, vì ông đã quá tuổi quy định là 40 để nhận huy chương vàng. Wiles được học tại Merton College, Oxford (BA, 1974), và Clare College, Cambridge (Tiến sĩ, 1980). Sau một học bổng nghiên cứu trẻ tuổi ở Cambridge (1977-1980), Wiles là trợ lý giáo sư tại Đại học Harvard. Năm 1982 ông chuyển tới Đại học Princeton làm giáo sư. Wiles đã nghiên cứu một số vấn đề nổi bật của lý thuyết số: phỏng đoán Birch và Swinnerton - Dyer, những phỏng đoán chủ yếu của lý thuyết Iwasawa, định lý Shimura - Taniyama. Năm 1994, Wiles là một trong những ứng viên sáng giá của giải thưởng, vì từ năm 1993, ông đã đưa ra cách chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat - một trong những câu đố toán học nổi tiếng nhất, vốn vẫn chưa được giải quyết trong hơn 350 năm. Tuy nhiên, một thời gian ngắn sau đó, các đồng nghiệp đã tìm thấy một khoảng trống trong bằng chứng, mà về sau Wiles đã sửa được sai sót trong chứng minh. Do đó ông đã bỏ lỡ giải Fields vào năm 1994 . Don Zagier đã miêu tả tấm thẻ IMU là "giải Fields trá hình". Năm 1990, Mori Shigefumi là người Nhật Bản thứ ba được nhận huy chương Fields. Ông đã nhận tại Kyoto, nơi mà ông đã từng học Đại học và công tác lâu năm. Năm 2006, lần đầu tiên giải thưởng Fields bị từ chối nhận. Người từ chối là Grigori Perelman. Năm 2010, Ngô Bảo Châu, nhà toán học mang hai quốc tịch Việt Nam và Pháp, người Việt Nam đầu tiên và cũng là người thứ tư của châu Á đã chính thức ghi tên mình vào danh sách những người nhận giải thường Fields với việc chứng minh thành công bổ đề cơ bản trong Chương trình Langlands. Đây cũng là lần đầu tiên, một quốc gia đang phát triển có người giành được giải thưởng này. Năm 2014, Huy chương Fields được trao tại Seoul, Hàn Quốc. Đây là lần đầu tiên một quốc gia hồi giáo tại Tây Á có người đạt huy chương FIELDS: Maryam Mirzakhani, người Iran được nhận giải thưởng này khi bà mới 37 tuổi. Giải Fields trong văn hóa đại chúng Vào năm 1997 trong bộ phim Good Will Hunting, giáo sư MIT hư cấu Gerald Lambeau (Stellan Skarsgård đóng) được miêu tả là đã được nhận giải Fields cho công trình nghiên cứu về tổ hợp toán học. Trong bộ phim A Beautiful Mind, John Forbes Nash (Russell Crowe đóng) than phiền về việc không được nhận giải Fields.
Liverpool là thành phố và là khu tự quản vùng đô thị nằm ở bờ đông cửa sông Mersey, thuộc vùng Tây Bắc Anh, với dân số ước tính khoảng 494.800 người. Thành phố nằm trong vùng đại đô thị lớn thứ năm ở Anh Quốc nếu tính theo dân số, với khoảng 2,24 triệu người. Chính quyền địa phương là Hội đồng thành phố Liverpool. Liverpool trở thành khu tự quản vào năm 1207, rồi được công nhận là thành phố vào năm 1880. Vào thế kỷ 19, Liverpool phát triển mạnh mẽ và vươn lên trở thành hải cảng lớn của nước Anh, song song với Cách mạng Công nghiệp. Liverpool là cảng khởi đầu của dòng người nhập cư từ Anh và Ireland đến Bắc Mỹ, và là cảng chính của một số con tàu viễn dương nổi tiếng như RMS Titanic, RMS Lusitania, RMS Queen Mary, and RMS Olympic. Liverpool có số lượng viện bảo tàng quốc gia và nhà trưng bày nhiều thứ nhì nước Anh, chỉ đứng sau London. Thành phố có nhiều đặc trưng riêng về nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc. Sự nổi danh của ban nhạc The Beatles (ban nhạc tạo nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử) và nhiều nhóm nhạc khác trong thời kỳ nhạc beat giúp Liverpool trở thành điểm đến ưa thích của khách du lịch. Các nhạc sĩ của thành phố đã đóng góp 56 đĩa đơn hạng nhất, nhiều hơn bất kỳ thành phố nào khác trên thế giới. Liverpool đồng thời là quê hương của nhiều diễn viên, nghệ sĩ, danh hài, nhà báo, nhà văn, nhà thơ và nhà hoạt động thể thao trứ danh. Thành phố cũng có hai câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng thế giới là Liverpool và Everton. Trung tâm lịch sử của thành phố được UNESCO vinh danh là di sản thế giới vào năm 2004, bởi giá trị của một thành phố hải cảng lâu đời, với những tòa nhà thương mại, tòa nhà hành chính, hệ thống kênh rạch, hải cảng, các khu phố lịch sử và các tượng đài văn hóa. Thành phố kỷ niệm sinh nhật lần thứ 800 của mình vào năm 2007, và được trao tặng danh hiệu Thủ đô văn hóa Châu Âu năm 2008. Vì là thành phố cửa ngõ, nơi đây có sự tập trung đa dạng về dân cư, văn hóa và tôn giáo, đặc biệt từ Ireland và xứ Wales. Thành phố cũng có cộng đồng người da màu lâu đời nhất nước Anh. Người dân thành phố Liverpool được gọi là "Liverpudlians", hoặc "Scousers", liên quan đến "scouse", vốn là tên một món thịt hầm. Từ "Scouse" cũng đã trở thành từ đồng nghĩa với phương ngữ và giọng nói Liverpool. Nguồn gốc tên gọi Tên thành phố có nguồn gốc từ sự kết hợp của hai từ tiếng Anh cổ là lifer, nghĩa là độ sâu lớn hoặc nước phù sa, và pōl nghĩa là hồ hoặc vũng, tạo nên tên gọi Liuerpul, lần đầu được ghi nhận vào năm 1190. Dựa theo Từ điển Cambridge về Địa danh nước Anh, "nguồn gốc tên ám chỉ chỉ một hồ hoặc vũng lớn mà hiện nay được hai con sông hợp lưu tạo thành". Ngoài ra, một tên gọi khác là Leyrpole, xuất hiện trong ghi chép hành chính vào năm 1418. Cũng có một số đề xuất khác về nguồn gốc tên gọi như elverpool, ám chỉ một số lượng lớn cá chình (tiếng Anh là eels) sinh sống ở sông Mersey, hoặc từ tiếng tiếng Wales llyvr pwl, nghĩa là "sự mở rộng và hợp nhất của hai con sông tại hồ nước". Tính từ Liverpudlian (thuộc về Liverpool) lần đầu được ghi nhận vào năm 1833. Lịch sử Thời kỳ đầu Giấy chứng nhận đặc quyền của vua John năm 1207 đã thông báo việc thành lập khu tự quản Liverpool và đến giữa thế kỷ 16 dân số của nó vẫn dao động xung quanh con số 500. Vào thế kỷ 17 đã có tiến triển hơn trong việc tăng trưởng dân số và mậu dịch. Các cuộc chiến bảo vệ thành phố đã xảy ra trong thời kỳ Nội chiến Anh, bao gồm một cuộc bao vây 18 ngày năm 1644. Năm 1699, Liverpool đã được chuyển thành một giáo khu theo Sắc luật Quốc hội, cùng năm đó chuyến tàu chuyên chở nô lệ đầu tiên của Liverpool có tên Liverpool Merchant đã rời bên đi châu Phi. Khi mậu dịch từ Tây Ấn vượt qua Ireland và châu Âu, Liverpool bắt đầu phát triển. Ụ tàu ướt đầu tiên ở Anh Quốc đã được xây ở Liverpool vào năm 1715. Thế kỷ 19 Đến đầu thế kỷ 19, 40% mậu dịch thế giới là thông qua Liverpool và việc xây dựng các tòa nhà lớn đã phản ánh sự thịnh vượng này. Năm 1830, Liverpool và Manchester đã trở thành các thành phố đầu tiên có đường sắt liên thành phố, thông qua Đường sắt Liverpool và Manchester. Dân số tiếp tục tăng nhanh, đặc biệt thập niên 1840 khi hàng trăm ngàn người di cư từ Ireland bắt đầu đến do nạn đói lớn. Đến năm 1851, khoảng 25% dân số thành phố là người sinh ra tại Ireland. Thế kỷ 20 Ở nước Anh, thời hậu thế chiến thứ nhất được đánh dấu bởi bất ổn xã hội, trong đó có việc giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động thanh niên do tổn thất chiến tranh, cũng như cố gắng tạo điều kiện để cựu binh tham gia vào nền kinh tế. Các nghiệp đoàn được thành lập và bãi công diễn ra ở nhiều nơi. Các vấn đề với người nhập cư cũng xảy ra ở Liverpool. Những người nhập cư sinh sống ở cảng, trong đó có người Thụy Điển, đã cạnh tranh về việc làm và nhà ở với người địa phương. Tháng 6 năm 1919, binh lính và thủy thủ người Châu Phi và Ấn Độ định cư đã bị người da trắng địa phương tấn công bằng bạo lực. Xung đột chủng tộc cũng xảy ra ở nhiều thành phố của Anh như Cardiff, Newport, London. Nó xảy ra cả ở bên kia đại dương, vươn khắp nước Mỹ. Luật nhà ở năm 1919 dẫn đến kết quả một số lượng lớn nhà ở xã hội mọc lên khắp Liverpool trong thập niên 1920 và 1930. Hàng ngàn hộ gia đình được tái định cư ra vùng ngoại ô, với niềm tin rằng việc này sẽ giúp nâng cao chất lượng sống, dù chưa có đánh giá khách quan về việc này. Nhiều nhà ở tư nhân cũng được xây dựng trong giai đoạn này. Trong đợt Đại khủng hoảng cuối thập niên 1930, số lượng người thất nghiệp của thành phố đạt đỉnh điểm, ở mức 30%. Trong Thế chiến thứ hai, tầm quan trọng chiến lược của Liverpool được nhận ra bởi cả Hitler và Churchill. Thành phố trở thành mục tiêu bị không quân Đức oanh tạc, gây thiệt hại nặng nề chỉ sau London. Có tổng cộng 80 đợt oanh tạc ở Merseyside, cướp đi 2.500 sinh mạng, và gây hư hại gần một nửa số căn nhà của thành phố. Kể từ năm 1952, Liverpool đã kết nghĩa với Köln, Đức, một thành phố cùng chung cảnh ngộ bị bom oanh tạc. Sau chiến tranh thành phố đã được tái thiết lớn, bao gồm nhiều dự án nhà cửa và vũng tàu Seaforth, dự án vũng tàu lớn nhất ở Anh Quốc.. Trong thập niên 1960, Liverpool trở thành trung tâm của dòng nhạc beat hay "Merseybeat", nó trở thành tên gọi chung cho ban nhạc The Beatles và các ban nhạc rock khác đến từ Liverpool. Vào thời kỳ đầu, dòng nhạc này chịu ảnh hưởng của nhịp điệu Mỹ, blues và rock. Sau đó, nó tác động ngược lại mạnh mẽ tới nền âm nhạc Mỹ trong nhiều năm và trở nên phổ biến trên toàn cầu. Năm 1964, The Beatles trở thành ngôi sao nổi tiếng thế giới, mở đầu cho giai đoạn chiếm lĩnh thị trường Mỹ của các nghệ sĩ Anh. Dù đã tan rã vào năm 1970, The Beatles vẫn là ban nhạc thành công nhất về mặt thương mại và tạo nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử âm nhạc đại chúng. Để vinh danh John Lennon, người sáng lập và là thủ lĩnh The Beatles, sân bay Liverpool được đổi theo tên ông vào năm 2002. Địa lý Liverpool được mô tả như là "thành phố sở hữu vị trí đẹp bậc nhất trong các thành phố Châu Âu". Thành phố tọa lạc trên vịnh Liverpool, nằm cách 283 km về phía Tây Bắc của London, được xây dựng dọc theo dải đồi sa thạch với đỉnh cao nhất tại đồi Everton, cao khoảng 70 m so với mực nước biển. Nằm về phía bắc của dải đồi là đồng bằng duyên hải phía tây nam hạt Lancashire. Thành phố tiếp giáp với khu tự quản Sefton ở phía bắc và khu tự quản Knowsley ở phía đông. Cửa sông Mersey ngăn cách thành phố với bán đảo Wirral về phía tây. Liverpool là đô thị lớn nhất trong vùng đô thị Liverpool, khu thành thị lớn thứ sáu ở Anh Quốc. Tên gọi Liverpool mặc dù về chính thức chỉ áp dụng cho một thành phố hay huyện đô thị, song cũng thường được dùng để gọi chung Liverpool và 8 đô thị lân cận, tạo thành vùng đô thị Liverpool. Khí hậu Liverpool có khí hậu đại dương ôn hòa, giống như quần đảo Anh với mùa hè dịu, mùa đông mát và lượng mưa thấp đều đặn quanh năm. Nhiệt độ ban ngày cao nhất vào mùa hè thường xuyên là 20 °C. Trong những năm gần đây, nhiệt độ có thể đạt trên 30 °C trong một số đợt. Vào mùa đông, nhiệt độ hiếm khi xuống dưới mức đóng băng. Tuyết thường rơi ít trong giai đoạn giữa tháng 11 và tháng 3 nhưng đôi khi rơi sớm hoặc trễ hơn, và hiếm khi rơi dày. Lượng mưa trung bình hàng năm của thành phố là 836.6 mm, trong khi mức trung bình của Anh Quốc là 1.125 mm, và số ngày mưa trung bình là 144,3 ngày mỗi năm, trong khi mức bình quân của Anh Quốc là 154,4. Giông lốc rất hiếm khi xảy ra và thường là yếu. Nhân khẩu Dân số Liverpool vào năm 2011 là 466.415 người, tăng 6,1% so với 439.473 người vào năm 2001. Trong quá khứ, dân số thành phố từng đạt tới đỉnh điểm là 846,101 người vào năm 1931. Sau đó, do nhiều nguyên nhân mà thành phố trải qua đợt suy giảm dân số kéo dài, đỉnh điểm là khoảng 100.000 người rời bỏ thành phố trong giai đoạn 1971-1981. Dân số Liverpool trẻ hơn so với mức bình quân của nước Anh với 42,5% người dưới 30 tuổi, trong khi cả nước là 37,7%. Có khoảng 66% dân số trong độ tuổi làm việc. Là thành phố cảng lớn và lâu đời của Anh, Liverpool có thành phần dân cư rất đa dạng. Thành phần chủng tộc của thành phố là 88,8% da trắng, 4,1% gốc châu Á, 2,6% gốc châu Phi, 2,5% người lai và 1,8% chủng tộc khác như Arab. Theo khảo sát vào năm 2001, có 79,5% dân số thành phố theo Kitô giáo, 1,4% Hồi giáo, 0,6% Do Thái giáo, 0,3% Phật giáo và 0,1% theo tôn giáo khác, 9,7% tự nhận vô thần và 8,1% không tiết lộ tôn giáo. Thành phố kết nghĩa Liverpool có 8 thành phố kết nghĩa, được ấn định bởi Hội những Thành phố Kết nghĩa Quốc tế: Birmingham, Alabama, Hoa Kỳ Köln, Đức Dublin, Ireland Johor Bahru, Malaysia Medan, Indonesia Penang, Malaysia Rio de Janeiro, Brazil Thượng Hải, Trung Quốc Chú thích Khởi đầu năm 1207 Di sản thế giới tại Anh Thành phố cảng biển Ireland
Andrey Nikolaevich Kolmogorov (tiếng Nga: Андре́й Никола́евич Колмого́ров; 25 tháng 4 năm 1903 – 20 tháng 10 năm 1987) là một nhà toán học Liên Xô đã có nhiều đóng góp lớn trong lý thuyết xác suất và tô pô. Sinh ra trong một gia đình người Nga ở Tambov, Nga, ban đầu của sự nghiệp ông làm về logic, và chuỗi Fourier. Ông cũng làm về chuyển động hỗn loạn, cơ học cổ điển, và tin học. Tuy nhiên, công trình quan trọng nhất của ông là các đóng góp trong lý thuyết xác suất, các biến ngẫu nhiên, và quá trình ngẫu nhiên và đặt chúng lên một nền tảng toán học vững chắc. Một phương trình quan trọng ông phát triển trong các quá trình ngẫu nhiên gọi là phương trình Chapman-Kolmogorov, với sự quan trọng trong ngành này tương tự như là phương trình E = mc2 trong vật lý. Kolmogorov làm việc tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên M. V. Lomonosov. Ông nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Nikolai Luzin, lấy được bằng Tiến sĩ Khoa học vào năm 1929. Vào năm 1931 ông trở thành giáo sư tại đại học này. Vào năm 1939 ông nhận danh hiệu Viện sĩ của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Ông là người sáng lập ra lý thuyết độ phức tạp của thuật toán mà thường được nhắc đến đơn thuần là độ phức tạp Kolmogorov. Ông qua đời ở Moskva vào năm 1987. Câu nói nổi tiếng: "Lý thuyết xác suất như là một ngành của toán học có thể và nên được phát triển từ các tiên đề trong một cách thức chính xác như là Hình học và Đại số."
Họ Bồ câu (Columbidae) là họ duy nhất trong Bộ Bồ câu (Columbiformes). Tên gọi phổ biến của các loài trong họ này là bồ câu, cu, cưu và gầm ghì. Đây là những loài chim mập mạp có cổ ngắn và mỏ dài mảnh khảnh. Chúng chủ yếu ăn hạt, trái cây và thực vật. Có thể thấy rằng, các loài trong họ này phổ biến rộng khắp thế giới, ngoại trừ sa mạc Sahara và châu Nam Cực, nhưng có sự đa dạng lớn nhất tại các khu vực sinh thái Indomalaya và Australasia. Họ này chứa 344 loài được chia thành 49 chi. 13 loài đã bị tuyệt chủng. Chim bồ câu xây những cái tổ tương đối mỏng manh, thường sử dụng gậy và các mảnh vụn khác, có thể được đặt trên những cành cây, trên các gờ hoặc trên mặt đất, tùy theo loài. Chúng đẻ một hoặc (thường) hai quả trứng trắng cùng một lúc, và cả bố và mẹ đều chăm sóc con non. Chúng rời tổ sau 25 ngày đến 32 ngày. Chim bồ câu không lông thường có thể bay được khi chúng được 5 tuần tuổi. Không giống như đa số các loài chim, cả hai giới của chim bồ câu đều sản xuất "sữa cây" để nuôi con non, được tiết ra bằng cách làm bong các tế bào chứa đầy chất lỏng từ lớp lót của chúng. Đặc điểm sinh học Cấu tạo ngoài Thân nhiệt chim bồ câu ổn định trong điều kiện nhiệt độ môi trường thay đổi; chim bồ câu là động vật hằng nhiệt. Thân chim hình thoi làm giảm sức cản không khí khi bay. Da khô phủ lông vũ. Lông vũ bao phủ toàn thân là lông ống, có phiến lông rộng tạo thành cánh, đuôi chim (vai trò bánh lái). Lông vũ mọc áp sát vào thân là lông tơ. Lông tơ chỉ có chùm sợi lông mảnh tạo thành lớp xốp giữ nhiệt và làm thân chim nhẹ. Cánh chim khi xòe ra tạo thành một diện tích rộng quạt gió, khi cụp lại thì gọn áp vào thân. Chi sau có bàn chân dài ba ngón trước, một ngón sau, đều có vuốt, giúp chim bám chặt vào cành cây khi chim đậu hoặc duỗi thẳng, xòe rộng ngón khi chim hạ cánh. Mỏ sừng bao bọc hàm không có răng, làm đầu chim nhẹ. Cổ dài, đầu chim linh hoạt, phát huy được tác dụng của giác quan (mắt, tai), thuận lợi khi bắt mồi, rỉa lông. Tuyến phao câu tiết chất nhờn khi chim rỉa lông làm lông mịn, không thấm nước. Di chuyển Chim bồ câu cũng như nhiều loài chim khác chỉ có kiểu bay vỗ cánh như chim sẻ, chim ri, chim khuyên, gà... a) Khi chim cất cánh chân chim khuỵu xuống, cánh chim dang rộng đưa lên cao, tiếp theo cánh chim đập mạnh xuống, cổ chim vươn ra, chân chim duỗi thẳng đập mạnh vào giá thể làm chim bật cao lên. b) Khi chim hạ cánh, cánh chim dang rộng để cản không khí, chân chim duỗi thẳng chuẩn bị cho sự hạ cánh được dễ dàng. Các tư thế bay vỗ cánh của chim bồ câu Khi chim bay thân nằm xiên, đuôi xòe ngang, cổ vươn thẳng về phía trước, chân duỗi thẳng áp sát vào thân, cánh mở rộng đập liên tục từ trên xuống dưới, từ trước về sau. Sau đó chim nâng cánh bằng cách gập cánh lại, rồi nâng lên làm giảm sức cản của không khí. Khi chim đập cánh, phía ngoài cánh hạ thấp hơn phía trong thì cánh không những được không khí nâng lên mà chim còn được đẩy về phía trước. Hệ thống phân loại và tiến hóa Danh sách dưới đây liệt kê các chi, phân loại theo nhóm và tên khoa học. Họ Columbidae Các chi chứa các loài hóa thạch: Chi †Arenicolumba Chi †Rupephaps Phân họ Columbinae – bồ câu điển hình Tông Zenaidini Chi Geotrygon – bồ câu cút (10 loài) Chi Leptotrygon Chi Leptotila (11 loài) Chi Zenaida (7 loài) Chi Zentrygon (8 loài) Tông Columbini Chi Patagioenas – bồ câu Mỹ (17 loài) † Chi Ectopistes – bồ câu viễn khách (tuyệt chủng; 1914) Chi Reinwardtoena (3 loài) Chi Turacoena (3 loài) Chi Macropygia (15 loài) Chi Streptopelia – chim cu, cu sen, cu ngói, cu cườm v.v (13 loài) † Chi Dysmoropelia – bồ câu Saint Helena (tuyệt chủng) Chi Columba – bồ câu Cựu thế giới (35 loài, trong đó có 2 loài mới tuyệt chủng gần đây) Chi Spilopelia (2 loài) Chi Nesoenas (3 loài) Phân họ Claravinae – cu đất Mỹ Chi Claravis – cu đất xanh Chi Paraclaravis (2 loài) Chi Uropelia – cu đất đuôi dài Chi Metriopelia (4 loài) Chi Columbina (9 loài) Phân họ Raphinae Tông Phabini Chi Henicophaps (2 loài) Chi Gallicolumba (7 loài) Chi Pampusana (13 loài, 3 loài tuyệt chủng gần đây) Chi Ocyphaps – bồ câu mào Chi Petrophassa – bồ câu đá (2 loài) Chi Leucosarcia – bồ câu Wonga Chi Geopelia (5 loài) Chi Phaps (3 loài) Chi Geophaps (3 loài) Tông Raphini ?† Chi Natunaornis – bồ câu lớn Viti Levu (Hậu Kỷ Đệ Tứ) Chi Trugon – cu đất mỏ dày † Chi Microgoura – bồ câu mào Choiseul (tuyệt chủng; đầu thế kỷ 20) Chi Otidiphaps – bồ câu gà lôi Chi Goura (3 loài) Chi Didunculus – bồ câu mỏ răng ?† Chi Deliaphaps Chi Caloenas – bồ câu Nicobar † Chi Raphus – chim Dodo (tuyệt chủng; cuối thế kỷ 17) † Chi Pezophaps – đô đô Rodrigues (tuyệt chủng; khoảng năm 1730) Tông Turturini Chi Phapitreron – bồ câu nâu (3 loài) Chi Oena – bồ câu Namaqua (đặt vào đây không chắc chắn) Chi Turtur – bồ câu rừng châu Phi (5 loài; đặt vào đây không chắc chắn) Chi Chalcophaps – cu luồng (2 loài) Tông Treronini Chi Treron – chim cu xanh (23 loài) Tông Ptilinopini – gầm ghì và bồ câu lục, bồ câu ăn quả Chi Ducula – gầm ghì (36 loài) Chi Ptilinopus – bồ câu ăn quả (khoảng 50 loài còn sinh tồn, 1-2 loài mới tuyệt chủng) Chi Drepanoptila – bồ câu lông chẻ Chi Alectroenas – bồ câu lam (3 loài sinh tồn) Chi Hemiphaga (2 loài) Chi Lopholaimus – bồ câu Topknot Chi Cryptophaps – bồ câu Sombre Chi Gymnophaps – bồ câu núi (3 loài) ?† Chi Tongoenas – bồ câu lớn Tonga (Hậu Kỷ Đệ Tứ) Phân họ Starnoenadinae Chi Starnoenas – bồ câu Cuba đầu lam Biểu tượng Do Thái giáo và Kitô giáo Trong Do Thái giáo và Kitô giáo, con chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình bởi vì theo Kinh Thánh, nó đã đem cành ô liu báo hiệu cho con tàu Nô-ê rằng Thiên Chúa đã thôi cơn thịnh nộ. Bên cạnh đó, Tân Ước cũng ghi nhận chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh thần, xuất hiện như một biểu tượng cơ bản của sự trong sáng, sự chất phác, sự hòa thuận, sự hy vọng. Ngoài ra, bồ câu còn biểu thị cho sự thăng hoa của bản năng và đặc biệt là sự thăng hoa của ái tình (éros). Tôn giáo đa thần Trong nhãn quan của tôn giáo đa thần, với sự định giá một cách khác khái niệm trong trắng, không đối lập nó mà hòa nhập nó với tình yêu xác thịt, bồ câu con chim của nữ thần Aphrodite, biểu thị cho ái ân trọn vẹn mà người yêu thường tặng cho đối tượng của mình. Nhưng quan niệm thực ra chỉ khác nhau về bề ngoài ấy đã làm cho bồ câu nhiều khi trở thành biểu tượng cho cái không thể tử vong trong con người, tức là bản nguyên của sự sống, linh hồn. Với tư cách ấy trên một số vại chôn cất của người Hi Lạp, bồ câu được họa hình uống từ một cái bình tượng trưng cho nước nguồn của trí nhớ. Hình ảnh này được tiếp nhận vào trong hệ hình tượng của đạo Kitô, ví dụ như trong truyện tử vì đạo của thánh Polycarpe, một con chim bồ câu đã bay ra từ thi hài của vị thánh này. Tất cả những biểu trưng ấy xuất phát hiển nhiên từ vẻ đẹp và sự duyên dáng của con chim này, từ màu trắng tinh khiết và tiếng gù êm ái của nó. Cái đó giải thích vì sao trong ngôn ngữ thông thường nhất cũng như cao siêu nhất, trong lối nói lóng của dân Paris cũng như trong Tuyệt diệu ca, từ bồ câu có mặt trong số những ẩn dụ phổ biến nhất ngợi ca người phụ nữ. "Linh hồn càng tiến gần tới ánh sáng bao nhiêu", Jean Daniélou viết, dẫn lời thánh Grégoire ở Nysse, "nó càng trở nên đẹp bấy nhiêu và trong ánh sáng đó sẽ tiếp nhận hình bồ câu". Thế nhưng chẳng phải người đang yêu đương say đắm vẫn gọi người mình yêu là "linh hồn của anh ơi" cuối cùng xin ghi chú rằng chim bồ câu là một con chim đặc biệt dễ gần, là điều làm gia tăng giá trị luôn luôn chính diện của biểu tượng này. Văn hóa quốc gia Ở Trung Hoa cổ, theo nhịp cơ bản của các mùa, âm và dương nối tiếp nhau, con chim bồ cắt biến thành bồ câu và bồ câu biến thành chim bồ cắt, do đó chim bồ câu được xem là biểu tượng của mùa xuân vì nó xuất hiện trở lại vào tiết xuân phân tháng tư. Phải chăng đó là nguồn gốc của cái tên "bồ câu - bồ cắt" gán cho nhà trinh thám? Ở xứ Kabylie, những con chim bồ câu vây quanh ngôi mộ của ông thánh đạo Hồi là thành hoàng của làng; nhưng ở nhiều nơi khác, chim bồ câu được xem là giống chim báo điều gở vì tiếng gù của chim là lời kêu than của những linh hồn đau khổ. Quốc tế Một điều hiển nhiên trong quan niệm thế giới ngày nay, con chim bồ câu là biểu tượng cho sự hòa bình, yên vui và hạnh phúc, và hình tượng đó ăn sâu vào tiềm thức của tất cả mọi người, qua từng thế hệ và qua từng cuộc chiến tranh, tuy rằng hình tượng chim bồ câu chỉ mới chính thức trở thành biểu tượng hòa bình sau Chiến tranh thế giới II. Trong các sự kiệm phản chiến hay đấu tranh vì tự do, hòa bình thì chúng ta không lạ khi thấy những con chim bồ câu được trang trí trên những biểu ngữ, cờ và áo... nó tượng trưng cho một sự nỗ lực vì hòa bình của nhân loại.
Tam Kỳ có thể là: Thành phố Tam Kỳ, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam Xã Tam Kỳ, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương Sông Tam Kỳ, một con sông ngắn chảy qua địa bàn thành phố Tam Kỳ và huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam Huyện cũ Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nay tương ứng với địa bàn thành phố Tam Kỳ và các huyện Núi Thành, Phú Ninh thuộc tỉnh Quảng Nam.
Thu Bồn, tên thật là Hà Đức Trọng (1 tháng 12 năm 1935 tại Quảng Nam – 17 tháng 6 năm 2003), là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam Tiểu sử Thu Bồn sinh tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, vào bộ đội năm mười một tuổi và là thiếu sinh quân ở đơn vị biệt động chiến đấu. Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, ông làm phóng viên chiến trường Liên khu V sau đó về làm việc tại Tạp chí Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Thu Bồn là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ miền Trung Trung Bộ và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV. Ngoài bút danh đặt theo tên dòng sông Thu Bồn quê hương, ông còn có các bút danh khác là Hà Đức Trọng, Bờ Lốc. Ngoài thơ, Thu Bồn còn viết tiểu thuyết, nhưng ông được biết đến nhiều với những bài trường ca, trong đó Bài ca chim Chơ Rao vẫn được coi là thành công có tính định hướng cho phong cách tiêu biểu của ông và "không những là tác phẩm từ miền Nam gửi ra khá sớm, mà còn là bản trường ca đầu tiên của văn học giải phóng" . Đây là khúc ca ca ngợi lòng yêu tự do, ý chí bất khuất của những con người Tây Nguyên trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ được giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam. Tác phẩm chính Tạm biệt Huế (thơ, 1983) Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962), Tre xanh (thơ, 1965), Mặt đất không quên (thơ, 1970), Chớp trắng (tiểu thuyết, 1970), Hòn đảo chân ren (tiểu thuyết, 1972), Dòng sông tuổi thơ (tiểu thuyết, 1973), Những đám mây màu cánh vạc (tiểu thuyết 2 tập, 1975), Badan khát (trường ca, 1976), Cămpuchia hy vọng (trường ca, 1978), Oran 76 ngọn (trường ca, 1979), Em bé trong rừng thốt nốt (truyện, 1979), Đỉnh núi (tiểu thuyết, 1980) Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985), Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985), Mắt bồ câu và rừng phi tiễn (tiểu thuyết, 1986), Vùng pháo sáng (tiểu thuyết, 1986), Cửa ngõ miền Tây (tiểu thuyết, 1986), Em bé vào hang cọp (tiểu thuyết, 2 tập, 1986), Dưới tro (tập truyện ngắn, 1986), Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992), Tôi nhớ mưa nguồn (thơ, 1999), Trường ca tuyển tập (1999), Tuyển thơ Thu Bồn (2015)... Giải thưởng Giải văn học Nguyễn Đình Chiểu Giải thưởng văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973) Giải thưởng báo Hà Nội Mới (1969) Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001 Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2017 cho các tác phẩm: các tiểu thuyết "Chớp trắng", "Vùng pháo sáng" và tập truyện ngắn "Dưới tro".
Trong cơ học chất lưu, số Reynolds là một giá trị không thứ nguyên biểu thị độ lớn tương đối giữa ảnh hưởng gây bởi lực quán tính và lực ma sát trong (tính nhớt) lên dòng chảy. Nó được sử dụng rộng rãi trong nhiều ứng dụng khác nhau, từ dòng chảy chất lỏng trong một ống dẫn đến sự di chuyển của không khí qua cánh máy bay. Khái niệm này đã được giới thiệu bởi George Gabriel Stokes vào năm 1851, nhưng số Reynolds đã được đặt tên bởi Arnold Sommerfeld vào năm 1908 sau khi Osborne Reynolds (1842-1912) phổ biến việc sử dụng nó vào năm 1883 Định nghĩa Số Reynolds thường được ký hiệu là Re và được tính theo công thức: trong đó: là mật độ vật chất của môi trường đang xét (đơn vị kg/) u là vận tốc đặc trưng của dòng chảy (m/s) l là quy mô tuyến tính (độ dài) đặc trưng của dòng chảy (m) là độ nhớt động lực học của môi trường là độ nhớt động học của môi trường Đặc trưng Đặc trưng cho tỉ lệ giữa lực quán tính và lực ma sát trong của môi trường Nếu viết lại công thức tính số Re về dạng ta sẽ thấy rằng số Re đặc trưng cho tỉ lệ công của lực quán tính đối với công của lực nhớt của môi trường chất lỏng. Khi lực quán tính lớn hơn rất nhiều so với lực nhớt thì khi đó dòng chảy sẽ chuyển sang rối. Theo đó mà số Re được dùng để phân loại dòng chảy. Tiêu chí phân loại dòng chảy theo độ rối của nó Số Reynolds có thể sử dụng như một tiêu chí để phân loại dòng chảy, tùy theo các dạng dòng chảy mà ta có các giới hạn khác nhau của số Re, đối với dạng dòng chảy trong ống trụ ta có: Dòng chảy có Re ≤ 2300 là dòng chảy tầng Dòng chảy có 104 > Re > 2300 là dòng chảy chuyển tiếp từ chảy tầng sang chảy rối hay còn gọi là chảy quá độ Dòng chảy có Re ≥ 104 là dòng chảy rối; Đối với ống dẫn mặt cắt hình tròn đường kính d thì công thức được viết thành: hay Và nếu l (m) là chiều dài, d (m) là đường kính của ống dẫn thì chúng ta có bảng thực nghiệm sau: Lưu ý: Trong các ngôn ngữ khác như tiếng Anh, tiếng Nga, ngoài Độ nhớt động học - kinematic viscosity (Ký hiệu ν như công thức trên), còn xây dựng thêm khái niệm Độ nhớt động lực học - dynamic viscosity, ký hiệu: μ. Trong đó ν = μ / ρ (m²/s) với ρ - khối lượng riêng của chất lỏng (hoặc khí). Dòng chảy trong ống dẫn Với dòng chảy trong một ống dẫn số Reynolds được định nghĩa bằng phương trình: trong đó: là đường kính thủy lực của ống (đường kính bên trong nếu ống tròn) (m). là lưu lượng dòng chảy (m³/s). là diện tích tiết diện ống (m²). là vận tốc trung bình của chất lỏng (m/s). là độ nhớt động lực học của chất lỏng (Pa·s = N·s/m² = kg/(m*s)). (nu) là độ nhớt động học () (m²/s). là khối lượng riêng của chất lỏng (kg/m³). Với các hình dạng như vuông, chữ nhật hoặc ống hình vòng mà có chênh lệch chiều dài chiều rộng đáng kể, thứ nguyên đặc trưng của dòng chảy bên trong được đưa về đường kính thủy lực, , định nghĩa bởi phương trình: trong đó là diện tích tiết diện và là chu vi ướt. Chu vi ướt của một máng là tổng chu vi của tất cả phần thành máng mà tiếp xúc với dòng chảy. Nghĩa là phần của máng tiếp xúc với không khi không được bao gồm trong chu vi ướt. Với ống tròn, đường kính thủy lực bằng với đường kính bên trong ống, là: Với ống hình vòng, ví dụ như máng ngoài của thiết bị trao đổi nhiệt ống-trong-ống, đường kính thủy lực có thể tối giản thành: trong đó là đường kính bên trong của ống bên ngoài là đường kính bên ngoài của ống bên trong Với tính toán liên quan đến các ống không tròn, đường kính thủy lực có thể thay thế có đường kính ống, với độ chính xác tương đối, nếu tỉ lệ AR của mặt cắt nằm trong phạm vi < AR < 4. Dòng chảy trong ống rộng Với dòng chảy giữa hai mặt phẳng song song—nơi mà có chiều rộng lớn hơn nhiều khoảng cách giữa hai mặt—thứ nguyên đặc trưng bằng với khoảng cách giữa hai mặt. Dòng chảy trong máng mở Với dòng chảy ở một bề mặt mở, bán kính thủy lực phải được xác định. Đây là khu vực tiết diện của máng được chia ra bởi chu vi ướt. Với một máng hình bán nguyệt, nó là nửa bán kính. Với máng hình chữ nhật, bán kính thủy lực là khu vực tiết diện bị chia bởi chu vi ướt. Có tài liệu sử dụng thứ nguyên đặc trưng là bốn lần bán kính thủy lực, vì nó sẽ cho giá trị Re của sự xâm nhập của sự rối giống với dòng chảy trong ống, trong khi một số tài liệu sử dụng bán kính thủy lực là thang độ dài đặc trưng với kết quả là có giá trị khác với giá trị của dòng chảy rối.
Bút Tre (1911–1987), tên thật Đặng Văn Đăng, là một nhà thơ theo trường phái dân gian của Việt Nam thời hiện đại. Với phong cách thơ độc đáo, sáng tạo và giàu sức lan tỏa, từ bút danh của một nhà thơ, Bút Tre đã trở thành một trường phái sáng tạo thơ dân gian vui vẻ rất thịnh hành ở Việt Nam cho đến tận ngày nay. Tiểu sử Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, còn gọi là Đặng Văn Quang, quê xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Ông sinh năm 1911, mất năm 1987. Ông lấy bút danh là Bút Tre. Ông đỗ tú tài triết học dưới thời Pháp thuộc, viết báo dưới thời đó với bút danh Lục Y Lang. Ông từng làm công tác ngoại giao với chức danh bí thư thứ hai sứ quán Việt Nam tại Rumani. Sau đó ông về làm Trưởng ty (bây giờ gọi là Giám đốc sở) Văn hoá Phú Thọ. Tác phẩm Rừng cọ đồi chè, Phú Thọ lớn lên, Sông Chảy, Đồng Tâm thắm thịt tươi da, Một ngày của Phú Thọ, Quê hương Phú Thọ... Giải thưởng Nhận xét về Giải thưởng nhà nước về Văn Học - Nghệ Thuật năm 2016 (trao giải hôm 20-5-2017, sau 3 lần hoãn), Trần Nhương cho rằng Bút Tre xứng đáng được trao giải thưởng này. Ảnh hưởng
Tấn trò đời (tiếng Pháp: La Comédie humaine) là tập hợp loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, kỳ ảo và tiểu luận được xuất bản từ năm 1829-1850 của đại văn hào Honoré de Balzac. Tấn trò đời được xem là "một trong những công trình bát ngát mênh mông nhất mà một con người dám đơn độc cấu tứ". Tấn trò đời gồm 137 tác phẩm trong đó có 87 tác phẩm đã hoàn thiện (tiểu thuyết, tiểu luận, khảo cứu), 49 tác phẩm còn bỏ ngỏ (trong đó có một số tác phẩm chỉ có tên tựa đề) và một cuốn được gộp chung với cuốn khác. 137 tác phẩm này được Balzac gộp lại vào năm 1842 chia thành 3 phần: nghiên cứu về thói quen, nghiên cứu triết học và nghiên cứu bản chất. Những tác phẩm trong Tấn trò đời vừa gắn kết với nhau, vừa có thể tồn tại độc lập. Người ta có thể hiểu một tác phẩm mà không cần đọc các tác phẩm còn lại. Những câu chuyện hoàn toàn khác nhau, chỉ có nhân vật được lặp lại, xuất hiện nhiều lần. Ví dụ trong chuyện này, nhân vật A có thể là nhân vật chính, nhưng trong chuyện khác anh ta lại là nhân vật phụ, là một người có liên quan đến nhân vật chính. Balzac quan niệm xã hội là một chỉnh thể, tất cả các sự kiện đều tác động, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau một cách hết sức chặt chẽ như trong giới tự nhiên. Tất cả những đặc điểm ấy gây cho độc giả ấn tượng như đang sống trong một xã hội có thực. Tuy nhiên, những tác phẩm trong Tấn trò đời là một khối thống nhất vì tất cả cùng vẽ nên bức tranh xã hội Pháp nửa đầu thế kỷ 19. Tựa đề "Tấn trò đời" được Balzac đặt theo tên tác phẩm Thần khúc (Divina commedia) của Dante Alighieri (1265-1321). Balzac muốn cho thấy ý định của ông khi viết các tác phẩm trong "Tấn trò đời": tả về cái địa ngục ngay giữa xã hội con người. Nhà văn có dụng ý chọn cái tên đối lập với tên tác phẩm nổi tiếng của Dante có thiên đường và địa ngục. Balzac đã có ý định tập hợp các tác phẩm từ rất sớm. Năm 1830, ông đã cho in 6 tác phẩm vào một quyển sách chung với nhan đề Cảnh đời tư. Hai năm sau Cảnh đời tư được bổ sung thêm hai tác phẩm nữa. Năm 1834 sự tập hợp mở rộng thêm một bước, nhiều tác phẩm được sắp xếp dưới một nhan đề chung là Khảo luận phong tục, chia làm 6 cảnh, đồng thời nhà văn còn dự kiến có thêm các phần Khảo luận triết học và Khảo luận phân tích. Năm 1842, ý định tập hợp và sắp xếp các tác phẩm thành hệ thống của Balzac mới thực hiện được đầy đủ. Nhan đề dự kiến trước đó Khảo luận xã hội được thay bằng Tấn trò đời. Do ông mất khi mới 51 tuổi nên nhiều tiểu thuyết chỉ có tên chứ chưa có nội dung và các tác phẩm chữ nghiêng là các tác phẩm chưa viết xong. Dưới đây là danh mục Tấn trò đời do Balzac sắp xếp năm 1845, các tác phẩm Bà chị họ Bette, Ông anh họ Pons, Một tay làm ăn kinh doanh, Gaudissart II và Những phiền hà vặt vãnh của đời sống vợ chồng chưa có tên trong danh mục: Phần 1: Khảo luận phong tục Những cảnh đời tư: 1. Những đứa trẻ; 2. Một ký túc xá nữ; 3. Bên trong trường trung học; 4. Cửa hiệu Mèo-chơi-bóng; 5. Vũ hội ở Sceaux; 6. Hồi ký của hai người vợ trẻ; 7. Túi tiền; 8. Modeste Mignon; 9. Một bước khởi đầu trong cuộc đời; 10. Albert Savarus; 11. Thù truyền kiếp; 12. Một gia đình kép; 13. Yên ấm gia đình; 14. Phu nhân Firmiani; 15. Khảo luận về phụ nữ; 16. Cô nhân tình hờ; 17. Một người con gái của Eve; 18. Đại tá Chabert; 19. Lời truyền đạt; 20. Thạch lựu trang; 21. Người đàn bà bị bỏ rơi; 22. Honorine; 23. Béatrix; 24. Gobseck; 25. Người đàn bà tuổi ba mươi; 26. Lão Goriot; 27. Pierre Grassou; 28. Lễ cầu hồn của kẻ vô thần; 29. Luật Đình chỉ; 30. Khế ước hôn nhân; 31. Chàng rể và mẹ vợ; 32. Khảo luận khác về phụ nữ. Những cảnh đời tỉnh lẻ: 33. Bông huệ trong thung; 34. Ursule Mirouet; 35. Eugenige Grandet; -Những người độc thân: 36. Pierrette; 37. Cha xứ ở Tours; 38. Cô gái xua cá; -Người Paris ở tỉnh lẻ: 39. Gaudissart trứ danh; 40. Những người nhăn nheo; 41. Nàng thơ của quận; 42. Một nữ diễn viên trên đường du hành; 43. Người phụ nữ ưu việt; -Những sự đối địch: 44. Kẻ độc đáo; 45. Những người thừa kế họ Boirouge; 46. Cô gái già; -Người tỉnh lẻ ở Paris: 47. Phòng cổ vật; 48. Jacques de Metz; 49. Ảo tưởng tiêu tan: Phần 1. Hai chàng thi sĩ, Phần 2. Một vĩ nhân tỉnh lẻ ở Paris, Phần 3. Những đau khổ của nhà phát minh. Những cảnh đời Paris: Truyện mười ba người: 50. Ferragus (đoạn thứ nhất); 51. Nữ công tước De Langeais (đoạn thứ hai); 52. Cô gái mắt vàng (đoạn thứ ba); 53. Những viên chức; 54. Sarrasine; 55. Câu chuyện hưng vong của César Birotteau; 56. Nhà ngân hàng Nucingen; 57. Facino Cane; 58. Bí mật của nữ vương tước De Cadignan; 59. Bước thăng trầm của kỹ nữ; 60. Hóa thân cuối cùng của Vautrin(1); 61. Các bậc quyền quý, bệnh viện và dân chúng; 62. Một ông hoàng của giới lưu đãng; 63. Những diễn viên không tự biết; 64. Mẫu trò chuyện Pháp; 65. Cảnh tòa án; 66. Những người tiểu tư sản; 67. Giữa các nhà thông thái; 68. Hiện trạng kịch trường; 69. Mặt trái của lịch sử hiện đại. Những cảnh đời chính trị: 70. Một mẩu chuyện dưới thời Khủng bố; 71. Lịch sử và tiểu thuyết; 72. Một vụ mờ ám; 73. Hai kẻ tham vọng; 74. Tùy viên sứ quán; 75. Tạo ra một Nội các như thế nào; 76. Nghị viên miền Arcis; 77. Z. Marcas. Những cảnh đời binh nghiệp: 78. Những người lính của nền Cộng hòa; 79. Bước vào chiến dịch; 80. Người xứ Vandée; 81. Những người Chouan; Người Pháp ở Ai Cập: 82. Nhà tiên tri (đoạn một); 83. Quan tổng đốc (đoạn hai); 84. Một mối đam mê nơi sa mạc (đoạn ba); 85. Đạo quân lưu động; 86. Tổng tài vệ binh; 87. Thời Vienne: Một trận đánh (Phần một), Đạo quân bị bao vây (Phần hai), Đồng bằng Wagram (Phần ba); 88. Chủ quán; 89. Người Anh ở Tây Ban Nha; 90. Mạc Tư Khoa; 91. Giao chiến ở Dresde; 92. Những người rớt lại phía sau; 93. Những người ủng hộ; 94. Một chuyến tuần tra; 95. Cầu nổi; 96. Chiến dịch Pháp; 97. Chiến trường cuối cùng; 98. Tù trưởng; 99. Pénissière; 100. Tên cướp biển người Algérie. Những cảnh đời thôn dã: 101. Nông dân; 102. Thầy thuốc nông thôn; 103. Thẩm phán hòa giải; 104. Cha xứ làng quê; 105. Vùng phụ cận Paris. Phần 2: Khảo luận triết học: 106. Phédon thời nay; 107. Miếng da lừa; 108. Jésus-Christ ở Flandre; 109. Melmoth quy thiện; 110. Massimila Doni; 111. Kiệt tác không người biết; 112. Gambara; 113. Đi tìm tuyệt đối; 114. Chủ tịch Fritot; 115. Nhà bác ái; 116. Đứa con bị nguyền rủa; 117. Vĩnh biệt; 118. Họ Marana; 119. Người trưng binh; 120. El Verdugo; 121. Thảm kịch bên bờ biển; 122. Tiên sinh Cornélius; 123. Quán đỏ; 124. Người tuẫn nạn thuộc giáo phái Calvin(2); 125. Lời bộc bạch của anh em Ruggieri(3); 126. Hai giấc mộng(4); 127. Chàng Abeilard mới; 128. Thuốc trường sinh; 129. Cuộc đời và sự phiêu lưu của một tư tưởng; 130. Những kẻ bị lưu đày; 131. Louis Lambert; 132. Séraphita. Phần 3: Khảo luận phân tích: 133. Giải phẫu học giáo giới; 134. Sinh lý học hôn nhân; 135. Bệnh lý học đời sống xã hội; 136. Chuyên luận về đức hạnh; 137. Đàm thoại triết học và chính trị về những điều hoàn thiện của thế kỷ XIX. Chú thích Sau này được gộp chung và trở thành phần 4 trong Bước thăng trầm của kỹ nữ. Phần 1 của tiểu thuyết Về Catherine de Médicis. Phần 2 của tiểu thuyết Về Catherine de Médicis. Phần 3 của tiểu thuyết Về Catherine de Médicis.
Thu Bồn trong tiếng Việt có thể là: Sông Thu Bồn ở tỉnh Quảng Nam, Việt Nam Nhà thơ Thu Bồn (1935-2003)
Lôgic toán là một ngành con của toán học có liên hệ gần gũi với cơ sở toán học, khoa học máy tính lý thuyết, logic triết học. Ngành này bao gồm cả hai phần: Nghiên cứu toán học về logic và những ứng dụng của logic hình thức trong các ngành khác của toán học. Các chủ đề thống nhất trong logic toán học bao gồm các nghiên cứu về sức mạnh ý nghĩa của các hệ thống hình thức và sức mạnh suy diễn của hệ thống chứng minh chính thức. Ngành này thường được chia thành các lĩnh vực con như lý thuyết mô hình (model theory), lý thuyết chứng minh (proof theory), lý thuyết tập hợp và lý thuyết đệ quy (recursion theory). Nghiên cứu về lôgic toán thường đóng vai trò quan trọng trong ngành cơ sở toán học (foundations of mathematics). Các tên gọi cũ của lôgic toán là lôgic ký hiệu (để đối lập với lôgic triết học) hay mêta toán học. Lôgic toán không phải là lôgic của toán học mà là toán học của lôgic. Ngành này bao gồm những phần của lôgic mà có thể được mô hình hóa và nghiên cứu bằng toán học. Nó cũng bao gồm những lĩnh vực thuần túy toán học như lý thuyết mô hình và lý thuyết đệ quy, trong đó, khả năng định nghĩa là trung tâm của vấn đề được quan tâm. Logic toán học thể hiện ở cách làm bài. Một bài toán được coi là lôgic thì phải đảm bảo sự chặt chẽ, cách lập luận hợp lý và tuân thủ theo từng bước của bài toán.
Tam giác vuông là một tam giác có một góc là góc vuông (góc 90 độ). Mối quan hệ giữa các cạnh và góc của một tam giác vuông là nền tảng cơ bản của lượng giác học. Thuật ngữ Cạnh đối diện với góc vuông gọi là cạnh huyền. Hai cạnh kề với góc vuông là cạnh bên (hay còn gọi là cạnh góc vuông). Cạnh a có thể xem là kề với góc B và đối góc A, trong khi cạnh b kề góc A và đối góc B. Nếu chiều dài của ba cạnh là các số nguyên, tam giác được gọi là tam giác Pythagore và chiều dài ba cạnh của nó được gọi chung là Bộ ba số Pythagore. Các định lý Góc Trong tam giác vuông, 2 góc nhọn phụ nhau. Đường cao Nếu một đường cao được vẽ từ đỉnh góc vuông cho tới cạnh huyền thì tam giác vuông được chia thành hai tam giác nhỏ hơn đồng dạng với tam giác gốc và đồng dạng với nhau. Từ đó: Chiều cao là trung bình nhân của hai đoạn cạnh huyền. Mỗi cạnh của tam giác vuông là trung bình nhân của cạnh huyền và hai đoạn của cạnh huyền kề với cạnh bên. Công thức được viết là: (Đôi khi được gọi là Định lý đường cao tam giác vuông) Trong đó, a, b, c, d, e, f được thể hiện như trong biểu đồ. Do đó: Hơn nữa, chiều cao với cạnh huyền còn có liên quan tới các cạnh bên của tam giác vuông bằng Diện tích Với bất cứ tam giác nào, diện tích đều bằng một nửa chiều dài đáy nhân với chiều cao tương ứng. Trong một tam giác vuông, nếu một cạnh góc vuông được coi là đáy thì cạnh góc vuông còn lại được xem là chiều cao, diện tích của tam giác vuông khi đó sẽ bằng một nửa tích của hai cạnh góc vuông. Công thức diện tích của tam giác là: Trong đó a và b là 2 cạnh góc vuông của tam giác, c là cạnh huyền và h là đường cao của tam giác Nếu đường tròn nội tiếp tiếp tuyến cạnh huyền AB tại điểm P, coi bán chu vi (a + b + c) / 2 là s, chúng ta có và và diện tích sẽ là: Công thức này chỉ áp dụng với các tam giác vuông. Đường trung tuyến trong tam giác vuông Trong tam giác vuông, đường trung tuyến ứng với cạnh huyền bằng nửa cạnh huyền. Định lý Pytago Định lý Pytago phát biểu rằng: Tổng diện tích của hai hình vuông vẽ trên cạnh kề của một tam giác vuông bằng diện tích hình vuông vẽ trên cạnh huyền của tam giác này. (xem hình 3) Nó được thể hiện bằng phương trình trong đó, c là chiều dài của cạnh huyền và a và b là chiều dài của hai cạnh còn lại. Bán kính đường tròn nội tiếp và bán kính đường tròn ngoại tiếp Bán kính của đường tròn nội tiếp của một tam giác vuông với hai cạnh bên a và b và cạnh huyền c là: Bán kính của đường tròn ngoại tiếp bằng chiều dài một nửa cạnh huyền Tỷ số lượng giác của góc nhọn Trong tam giác vuông có góc nhọn thì = cạnh đối/cạnh huyền = cạnh kề/cạnh huyền = cạnh đối/cạnh kề = cạnh kề/cạnh đối . Có một bài thơ giúp ta nhớ được: "Sin đi học / Cos không hư / Tan đoàn kết / Cot kết đoàn''. Dấu hiệu nhận biết tam giác vuông
Trong hình học, tam giác đều là tam giác có ba cạnh bằng nhau hoặc tương đương ba góc bằng nhau, và bằng 60°. Nó là một đa giác đều với số cạnh bằng 3. Chứng minh tam giác đều có 3 góc bằng 60 độ: Giả sử tam giác ABC là tam giác đều. Do mỗi góc trong tam giác đều là bằng nhau. > Gọi ba góc A,B,C x Mà tổng ba góc trong một tam giác bằng 180 độ. <=> x+x+x=180 độ. <=> 3x=180 độ. <=> x=180/3 độ. <=> x=60 độ. <=> A=B=C=60 độ. Vậy ba góc của tam giác đều bằng nhau và cùng bằng 60 độ. Tính chất Giả sử độ dài ba cạnh tam giác đều bằng , dùng định lý Pytago chứng minh được: Diện tích: Chu vi: Bán kính đường tròn ngoại tiếp Bán kính đường tròn nội tiếp Trọng tâm của tam giác cũng là trực tâm và tâm của đường tròn nội tiếp và ngoại tiếp Chiều cao của tam giác đều . Với một điểm P bất kỳ trong mặt phẳng tam giác, khoảng cách từ nó đến các đỉnh A, B, và C lần lượt là p, q, và t ta có: . Với một điểm P bất kỳ nằm bên trong tam giác, khoảng cách từ nó đến các cạnh tam giác là d, e, và f, thì d+e+f = chiều cao của tam giác, không phụ thuộc vào vị trí P. Với điểm P nằm trên đường tròn ngoại tiếp, các khoảng cách từ nó đến các đỉnh của tam giác là p, q, và t, thì và . Nếu P nằm trên cung nhỏ BC của đường tròn ngoại tiếp, với khoảng cách đến các đỉnh A, B, và C lần lượt là p, q, và t, ta có: và hơn nữa nếu D là giao điểm của BC và PA, DA có độ dài z và PD có độ dài y, thì và cũng bằng nếu t ≠ q; và Dấu hiệu nhận biết Tam giác có 3 cạnh bằng nhau là tam giác đều. Tam giác có 3 góc bằng nhau là tam giác đều. Tam giác cân có một góc bằng 60° là tam giác đều. Tam giác có 2 góc bằng 60 độ là tam giác đều. Tam giác có đường cao bằng nhau hoặc 3 đường phân giác bằng nhau hoặc 3 đường trung tuyến bằng nhau thì tam giác đó là tam giác đều. Tam giác có 2 trong 4 điểm (trọng tâm, trực tâm, tâm đường tròn nội tiếp, tâm đường tròn ngoại tiếp) trùng nhau thì tam giác đó là tam giác đều
Tam giác vuông cân là tam giác vuông có hai cạnh góc vuông bằng nhau. Tính chất Tính chất 1: Mỗi góc nhọn của tam giác vuông cân bằng nhau và bằng 45°. Tính chất 2: Các đường đồng quy như đường cao, đường trung tuyến, đường phân giác kẻ từ đỉnh góc vuông của tam giác vuông cân trùng nhau và bằng 1 nửa cạnh huyền. Diện tích Áp dụng công thức tính diện tích tam giác vuông cho diện tích tam giác vuông cân với chiều cao và cạnh đáy bằng nhau, ta có công thức: SABC =1/2 x a2 Cách chứng minh Để chứng minh tam giác vuông cân, ta có những cách sau: + Tam giác vuông có hai cạnh góc vuông bằng nhau. + Tam giác vuông có một góc bằng 45 độ. + Tam giác cân có một góc ở đáy bằng 45 độ. + Tam giác vuông có 2 trong 4 đường đồng quy trùng nhau Công thức tính đường trung tuyến trong tam giác vuông cân Tam giác vuông cân là một tam giác có một góc vuông với hai cạnh góc vuông bằng nhau và bằng a. Do đó, trung tuyến trong tam giác vuông cân mà nối từ góc vuông đến cạnh đối diện sẽ là một đoạn thẳng vuông góc với cạnh huyền và bằng một phần hai nó. Tam giác
Sergei Lvovich Sobolev (tiếng Nga: Сергей Львович Соболев; 6 tháng 10 năm 1908 – 3 tháng 1 năm 1989) là một nhà toán học người Nga, làm việc trong ngành giải tích và phương trình đạo hàm riêng. Ông sinh ra ở Sankt-Peterburg, và mất ở Moskva. Sobolev giới thiệu một số khái niệm bây giờ là cơ sở cho một số lãnh vực khác nhau của toán học. Không gian Sobolev có thể được định nghĩa bằng điều kiện tăng dần của biến đổi Fourier; chúng và các định lý nhúng (embedding theorem) là một chủ đề quan trọng trong giải tích hàm. Hàm số tổng quát (sau này được gọi là phân bố), được giới thiệu bởi Sobolev lần đầu tiên vào năm 1935 cho các nghiệm yếu, và được phát triển thêm bởi Laurent Schwartz; họ định nghĩa lại khái niệm đạo hàm. Cả hai phát triển này phát sinh trực tiếp từ các công trình của ông về phương trình đạo hàm riêng. Sobolev tốt nghiệp từ Đại học Leningrad vào năm 1929, nơi ông là học sinh của Vladimir Smirnov. Ông làm việc ở Leningrad từ năm 1932, và tại Viện Toán học Steklov tại Moskva từ năm 1934. Ông là người lãnh đạo viện khi nó được sơ tán về Kazan trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là giáo sư tại Đại học Quốc gia Moskva từ năm 1935 đến 1957 và cũng là viện phó của Viện Năng lượng Nguyên tử từ 1943-57. Vào năm 1956 Sobolev tham gia một nhóm các khoa học gia trong việc thiết lập hệ thống khoa học và giáo dục ở tầm mức lớn cho phần phía Đông của Liên Xô, kết quả là sự thành lập của Chi nhánh Siberia của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Ông là người thành lập và là viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học ở Novosibirsk, sau này mang tên ông, và đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập và phát triển Đại học Quốc gia Novosibirsk.
Trung học cơ sở (THCS hay cấp 2) là một bậc học trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam, sau Tiểu học (cấp 1) và trước Trung học phổ thông (cấp 3). Trung học cơ sở kéo dài 4 năm (từ lớp 6 đến lớp 9). Độ tuổi học sinh ở trường trung học cơ sở là từ 11 tuổi đến 15 tuổi. Sau khi học hết bậc Trung học cơ sở, học sinh sẽ được xét công nhận tốt nghiệp Trung học cơ sở. Trường Trung học cơ sở được bố trí tại từng xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn có một số xã không có trường Trung học cơ sở. Đó thường là các xã ở vùng sâu, vùng xa hoặc hải đảo. Theo quy định trong Luật Ngân sách Nhà nước, đầu tư xây dựng trường Trung học cơ sở cũng như trường Tiểu học thuộc trách nhiệm của chính quyền cấp quận, huyện. Ngày 15 tháng 9 năm 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT về Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học chính thức có hiệu lực từ 01/11/2020. Trường trung học cơ sở và trường phổ thông có nhiều cấp học có cấp học cao nhất là trung học cơ sở do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập, Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý. Các môn học cấp THCS Chương trình cũ Toán Vật lí Hóa học (đối với lớp 8 và lớp 9) Sinh học Ngữ văn Lịch sử Địa lí Ngoại ngữ - Tiếng Anh Giáo dục công dân Công nghệ Thể dục Âm nhạc và Mỹ thuật Tin học Chương trình mới Ngữ văn Toán Ngoại ngữ 1 - Tiếng Anh Giáo dục công dân Giáo dục thể chất Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp Nội dung giáo dục của địa phương Công nghệ Tin học Khoa học tự nhiên Lịch sử và Địa lí Nghệ Thuật (Âm nhạc và Mỹ thuật)
Trúc hóa long (danh pháp hai phần: Phyllostachys aurea), là một loài cây thuộc phân họ Tre (Bambusoideae) trong họ Hòa thảo (Poaceae). Loài trúc này thân cao 5–12 m, đường kính 2–5 cm, khoảng cách các đốt 15–30 cm. Các đốt ở phía gốc bị co ngắn lại và phồng lên, đan chéo nhau tạo cho cây một dáng vẻ hấp dẫn tuyệt vời, nhìn tựa con rồng đang bay lên, màu sắc vỏ cũng rất đẹp. Tại Trung Quốc P. aurea có mặt ở các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang với tên gọi 人面竹 (nhân diện trúc) và cũng được đưa vào Bắc Mỹ hay châu Âu. Tại Việt Nam, loài cây này hiện phân bố rất hẹp, chủ yếu ở một vài vùng ở miền núi phía Bắc như ở Bắc Kạn, hiện tại đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Cần được bảo tồn nguồn gen. Loài cây này được dùng chủ yếu làm cây cảnh. Hình ảnh Chú thích
Trúc vuông có tên khoa học là Chimonobambusa quadrangularis (Fenzi) Makino (Mabb, OHRN, Wang), thuộc tông Bambuseae, họ Hòa thảo (Poaceae). Đây là loài trúc có thân nhỏ vuông hoặc gần vuông, những đốt phía dưới thường có rễ biến thành gai ngắn. Phân bố Loài có phân bố ở phía nam Trung Quốc, còn ở Việt Nam thì trúc vuông chỉ thấy ở đèo Gió, xã Lùng Tráng, Ngân Sơn, Bắc Kạn hoặc Bạch Thông, Bắc Kạn. Đây là loài duy nhất có thân vuông ở Việt Nam và là loài trúc đặc biệt quý hiếm, có phạm vi phân bố quá hẹp, chưa được gây trồng, lại bị khai thác thường xuyên. Do vậy, loài này cần có chính sách bảo vệ và nghiên cứu gây trồng nếu không có thể nó sẽ biến mất ở Việt Nam. Danh pháp đồng nghĩa Dưới đây liệt kê một số danh pháp khoa học đồng nghĩa: Arundinaria angulata (Munro) Porterf. (GRIN) Arundinaria quadrangularis (Fenzi) Mak. (Wang) Bambusa angulata Munro Bambusa quadrangularis Franceschi (GRIN) Bambusa quadrangularis Fenzi. (Wang) Chimonobambusa quadrangularis (Keng) Makino (Bykov) Chimonobambusa quadrangularis (Franceschi) Makino (GRIN) Phyllostachys quadrangularis (Fenzi) Rendle (GRIN) Tetragonocalamus angulatus (Munro) Nakai Tetragonocalamus quadrangularis (Fenzi) Nakai Hình ảnh Chú thích
Trong ngành khoa học máy tính, tương tranh là một tính chất của các hệ thống bao gồm các tính toán được thực thi trùng nhau về mặt thời gian, trong đó các tính toán chạy đồng thời có thể chia sẻ các tài nguyên dùng chung. Hoặc theo lời của Edsger Dijkstra: "Tương tranh xảy ra khi nhiều hơn một luồng thực thi có thể chạy đồng thời." Việc cùng sử dụng các tài nguyên dùng chung, chẳng hạn bộ nhớ hay file dữ liệu trên đĩa cứng, là nguồn gốc của nhiều khó khăn. Các tranh đoạt điều khiển (race condition) liên quan đến các tài nguyên dùng chung có thể dẫn đến ứng xử không đoán trước được của hệ thống. Việc sử dụng cơ chế loại trừ lẫn nhau (mutual exclusion) có thể ngăn chặn các tình huống chạy đua, nhưng có thể dẫn đến các vấn đề như tình trạng bế tắc (deadlock) và đói tài nguyên (resource starvation). Thiết kế của các hệ thống tương tranh thường là kết quả của việc tìm kiếm các kĩ thuật đáng tin cậy cho việc phối hợp hoạt động của thực thi, trao đổi dữ liệu, cấp phát bộ nhớ và lập lịch thực thi để giảm tối thiểu thời gian phản ứng (response time) và tăng tối đa thông lượng (throughput).
Phân họ Bèo tấm (danh pháp khoa học: Lemnoideae) là một phân họ trong họ Ráy (Araceae). Các phân loại trước thế kỷ 21 có xu hướng phân loại nhóm này như một họ tách biệt với danh pháp Lemnaceae. Đặc điểm Các loài thực vật này rất đơn giản, chúng thiếu thân hoặc lá, nhưng bao gồm cấu trúc nhỏ giống như lưỡi lam trôi nổi trên hoặc chỉ ngay dưới bề mặt nước, có hoặc không có các rễ con đơn giản. Sự sinh sản của chúng diễn ra chủ yếu là vô tính, nhờ nảy chồi, nhưng thỉnh thoảng thì hoa, bao gồm 2 nhị hoa và một nhụy hoa (đôi khi gọi nó là cụm hoa gồm 3 hoa đơn tính) cũng được sinh ra. Quả là loại túi nhỏ, một cái túi chứa không khí và hạt, nhằm mục đích có thể nổi được. Hoa của chi Wolffia là nhỏ nhất trong thế giới các loài hoa, nó chỉ dài 0,3 mm. Bèo tấm là nguồn thức ăn quan trọng cho các loại chim nước, cũng như được người sử dụng, ở một vài nơi trong khu vực Đông Nam Á dưới tên gọi khai-nam?. Một số loài bèo tấm được nuôi trồng trong các bể cảnh nước ngọt và ao hồ và chúng phát triển khá nhanh, mặc dù trong các ao hồ lớn có thể là rất khó loại trừ một khi chúng đã có mặt. Bèo tấm có vai trò quan trọng trong việc khắc phục tình trạng dư thừa các chất dinh dưỡng dạng khoáng chất dư thừa trong các ao hồ bằng biện pháp sinh học do chúng phát triển nhanh và hấp thụ phần lớn các chất này, cụ thể là các nitrat và phosphat. Nó cũng làm giảm tỷ lệ bay hơi của nước. Phân loại Họ Bèo tấm được phần lớn các hệ thống phân loại thực vật công nhận, nhưng lại không được hệ thống APG II công nhận: trong hệ thống này người ta đưa chúng vào họ Araceae (các loài ráy, khoai nước v.v). Các chi trong phân họ bao gồm: Spirodela: bèo tấm tía Landoltia Lemna: bèo tấm Wolffiella Wolffia: bèo cám Phát sinh loài Từ năm 1876 người ta đã ngờ rằng nhóm này có quan hệ với họ Araceae nhưng trước khi phát sinh loài phân tử ra đời thì người ta khó có thể kiểm tra giả thuyết này. Các nghiên cứu bắt đầu từ năm 1995 đã xác nhận vị trí của nó trong họ Araceae avà phần lớn các nhà hệ thống học kể từ đó đã coi chúng là một phần của họ này. Vị trí của nhóm này trong họ Ráy được một số nghiên cứu gần đây đặt như trong biểu đồ dưới đây. Chúng không có quan hệ gần với bèo cái (Pistia stratiotes), cũng là một loài thực vật thủy sinh trong họ Araceae. Hình ảnh
Tổng Công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội, tên giao dịch HABECO (Hanoi Beer-Alcohol-Beverage Joint Stock Corporation) là một doanh nghiệp cổ phần có trụ sở ở Hà Nội, Việt Nam. Đây là công ty bia lớn thứ ba tại Việt Nam và là chủ sở hữu của các thương hiệu Bia Hà Nội và Bia Trúc Bạch. Nó thuộc quyền sở hữu và thẩm quyền của Bộ Công Thương, Việt Nam và có quan hệ đối tác chiến lược với Tập đoàn Carlsberg, công ty sở hữu hơn 10% cổ phần của công ty tính đến tháng 11 năm 2012. Habeco sản xuất 422,4 triệu lít bia và tiêu thụ 413,5 triệu lít trong năm 2011, tăng 4% và 2,3% so với năm 2010 Lịch sử Năm 1890, thực dân Pháp đã xây dựng nhà máy bia tại Hà Nội chủ yếu là để phục vụ họ và những công chức Việt Nam tại một số thành phố lớn ở miền Bắc. Nhà máy bia ban đầu mang tên một người Pháp là Hommel, sản xuất chỉ 150 lít/ngày do 30 người lao động do Pháp đào tạo. Năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam được giải phóng nhà máy bia được đổi tên là nhà máy bia Hà Nội nay là Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội. Năm 1958 loại bia chai Trúc Bạch được sản xuất. Năm 1960 nhà máy sản xuất được 15 triệu lít/năm, năm 1970 nâng lên 20 triệu lít/năm. Năm 1978 nhà máy được Đông Đức giúp đỡ cải tạo nhà nấu và năm 1983 nhà nấu liên hợp được đưa vào sử dụng, nâng công suất lên 30 triệu lít/năm. Cũng trong năm này nhà máy bia Hà Nội đổi tên thành Công ty Bia Hà Nội. Năm 1989 luận chứng kinh tế kỹ thuật đầu tư, mở rộng sản xuất từ 30 lên 50 triệu lít của nhà máy đã được phê duyệt và được thực thi. Năm 2003, Tổng Công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội được thành lập trên cơ sở sắp xếp lại Công ty Bia Hà Nội và một số đơn vị thành viên Tổng Công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam. Từ ngày 1 tháng 7 năm 2008 thành Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội (HABECO). Đến nay, tổng công ty đã đầu tư đổi mới công nghệ, mua hầu hết các thiết bị máy móc hiện đại của Tây Âu. Vào năm 2004, dự án đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, nâng công suất lên đến 100 triệu lít/năm đã hoàn tất và đưa vào sử dụng. Hiện tại bia HÀ NỘI đã mở rất nhiều nhà máy sản xuất tại Mê Linh, Hưng Yên. Tháng 5 năm 2019, Logo nhận diện mới HABECO Slogan: Sức bật Việt Nam. Logo mới với chữ HABECO được viết in đậm gắn với giá trị cốt lõi của Habeco: H: Hội nhập nhưng vẫn riêng một bản sắc A: Am hiểu nhưng không ngừng nghiên cứu B: Bền bỉ nhưng sẵn sàng bứt phá E: Ép nỗ lực để không ngừng phát triển C: Chung ước mơ để cùng nhau đi tới O: Ôm chí lớn cho một tầm cao mới Các sản phẩm loại bia và nước đóng chai Bia lon Hà Nội duy nhất Bia chai Hà Nội Bia lon Hà Nội Bia Hà Nội Premium Bia lon Hà Nội Premium Bia hơi Hà Nội Bia Trúc Bạch Bia lon Trúc Bạch Bia Hà Nội xanh Bia lon Hà Nội xanh Bia chai Hà Nội Bold & Light Nước uống đóng chai UniAqua Ngành nghề kinh doanh Ngành nghề chủ yếu của Tổng công ty gồm: Sản xuất, kinh doanh Bia - Rượu - Nước giải khát và Bao bì; Xuất nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, thiết bị, phụ tùng, phụ liệu, hoá chất; Dịch vụ khoa học công nghệ, tư vấn đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư, tổ chức vùng nguyên liệu, kinh doanh bất động sản, các dịch vụ và ngành nghề khác theo luật định. Năm 2012 Tổng công ty đạt sản lượng 612 triệu lít bia các loại. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong những năm gần đây bình quân là 20%. Doanh thu bình quân tăng mỗi năm 30%. Nộp ngân sách cho nhà nước bình quân tăng hơn 20%. Lợi nhuận tăng bình quân mỗi năm 12%. Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội đến năm 2010, Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội sẽ xây dựng thành một trong những Tổng công ty mạnh, giữ vai trò chủ đạo trong ngành Công nghiệp sản xuất Bia, Rượu, Nước giải khát, tiếp tục có những đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Thành tích - Huân chương Lao động hạng Ba (1960 – 1962)- Huân chương Lao động hạng nhì (1960 – 1962)- Huân chương chiến công hạng Ba (1997)- Huân chương Lao động hạng Nhất (2000)- Huân chương Độc lập hạng Ba (2006)- Chính phủ tặng cờ luân lưu (1992, 1993, 1996, 1998, 1999, 2000, 2002, 2003)- Bộ công nghiệp tặng cờ thi đua (1998, 1999, 2000, 2002, 2003). Năm 2005, 2006 được nhận Cờ thi đua của chính phủ.- Đảng Bộ Tổng Công ty 14 năm liên tục (1990 – 2003) được Thành ủy và Đảng Bộ Khối Công nghiệp khen tặng cờ thi đua và công nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.- Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam tặng cờ thi đua Công đoàn cơ sở vững mạnh xuất sắc (1999, 2000, 2003 - 2006) và nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tháng 6/2007.- 5 năm liên tục (1998 – 2002), Đoàn thanh niên Tổng Công ty được Thành đoàn và Trung ương đoàn tặng bằng khen.- 10 năm liên tục (1988 – 1998), đại đội tự vệ liên tục giữ cờ thi đua luân lưu của Quân khu Thủ đô tặng đơn vị tiên tiến xuất sắc, dẫn đầu phong trào dân quân, tự vệ trong toàn quân và Quân khu.- Ngoài ra, Tổng Công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội đón nhận nhiều bằng khen, giấy khen của các ngành, các cấp - Tháng 6/2002, hệ thống quản lý chất lượng của Tổng Công ty được tổ chức TUV NORD của CHLB Đức chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2000.- Năm 2005, HABECO được chấp nhận áp dụng hệ thống quản lý môi trường đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14000:2004.- Năm 2006, HABECO xây dựng và áp dụng hiệu quả hệ thống quản lý an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn ISO 22000:2005- Đạt Cúp Vàng chất lượng Việt Nam năm 2002, 2005.- Topten Thương hiệu mạnh Việt Nam năm 2005.- Cúp Sao Vàng Đất Việt năm 2003, 2005, 2007- Cúp vàng Thương hiệu nổi tiếng năm 2004 tại Madrid.- Giải thưởng Vàng châu Âu về chất lượng và uy tín thương hiệu năm 2005 tại Bỉ.- Giải thưởng chất lượng quốc tế Châu Á Thái Bình Dương (IAPQA) năm 2006.
Hoa hậu Thế giới (tiếng Anh: Miss World) là tên cuộc thi sắc đẹp quốc tế được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là cuộc thi có có quy mô lớn nhất trên thế giới và có lịch sử truyền hình dài nhất mọi thời đại. Cùng với Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Trái Đất, Hoa hậu Thế giới là một trong bốn cuộc thi sắc đẹp lớn nhất hành tinh, gọi chung là Tứ đại Hoa hậu (Big 4). Cuộc thi được tổ chức lần đầu tiên bởi Eric Morley vào năm 1951. Năm 2000 khi ông qua đời thì vợ của ông là Julia Morley đã thay ông lên nắm quyền điều hành cuộc thi. Người đoạt vương miện Hoa hậu Thế giới sẽ đại diện cho Tổ chức Hoa hậu Thế giới (Miss World Orgnization - MWO) tham gia những hoạt động từ thiện trên khắp thế giới. Đây là cuộc thi sắc đẹp coi trọng mục đích thiện nguyện với số tiền quyên góp từ thiện cho các nước nghèo đã đạt 1 tỷ USD tính đến năm 2022. Đương kim Hoa hậu Thế giới là cô Karolina Bielawska đến từ Ba Lan, được trao vương miện vào ngày 16 tháng 3 năm 2022 bởi người tiền nhiệm là Hoa hậu Thế giới 2019 người Jamaica Toni-Ann Singh tại San Juan, Puerto Rico. Lịch sử Thế kỉ 20 Cuộc thi Hoa hậu Thế giới được bắt đầu từ cuộc thi áo tắm ở Anh vào năm 1951 chỉ với mục đích quảng bá các mốt áo tắm mới nhất lúc đó, nhưng được gọi là Hoa hậu Thế giới bởi các phương tiện truyền thông. Eric Morley, người khởi xướng cuộc thi áo tắm đó đã dự định sẽ chỉ tổ chức cuộc thi này một lần duy nhất nhưng khi nghe tin cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ sẽ được tổ chức tại Hoa Kỳ vào năm 1952, ông đã quyết định biến Hoa hậu Thế giới thành một cuộc thi sắc đẹp thường niên. Cuộc thi Hoa hậu Thế giới đầu tiên được phát sóng là vào năm 1959 bởi đài BBC. Vào thập niên 1980, cuộc thi quyết định thay đổi khẩu hiệu thành Beauty with a purpose (Sắc đẹp vì mục đích cao cả). Cuộc thi chú trọng hơn tới trí tuệ và nhân cách của những người đẹp tham gia cuộc thi. Từ thập niên 1990, cuộc thi đã thu hút hơn 2 tỉ người xem trên thế giới. Thế kỉ 21 Eric Morley đã qua đời. Vợ ông, bà Julia Morley, đã thay ông trở thành chủ tịch của cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Năm đầu tiên của thế kỉ 21 chứng kiến cô gái châu Phi da đen đầu tiên đăng quang danh hiệu Hoa hậu Thế giới, Agbani Darego. Trong quá trình thay đổi của mình, cuộc thi đã nêu khẩu hiệu "Bạn quyết định" (You decide) để tăng cường vai trò của khán giả trên khắp toàn cầu có cơ hội được chọn ra hoa hậu thế giới. Các phần thi phụ Hoa hậu Bãi biển, Hoa hậu Thể thao, Hoa hậu Tài năng và Hoa hậu Nhân ái được tổ chức trong khuôn khổ cuộc thi này. Năm 2002, cuộc thi quyết định chọn địa điểm đăng cai là Abuja, thủ đô của Nigeria, đất nước của người đẹp vừa đăng quang năm trước Agbani Darego. Tại Nigeria, cuộc thi đã bị chỉ trích mạnh mẽ vì Nigeria là một quốc gia theo đạo Hồi. Những cuộc bạo động đã nổ ra để phản đối cuộc thi Hoa hậu Thế giới khiến hàng trăm người chết và bị thương. Cuộc thi đã phải ngay lập tức dời về quê nhà Anh. Đây được coi là sự cố đáng tiếc nhất trong lịch sử cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Năm 2013, ban tổ chức cuộc thi đã bỏ phần thi bikini trước sức ép của người dân Đạo hồi ở nước chủ nhà Indonesia. Hội đồng Hồi giáo Indonesia, cho rằng màn trình diễn bikini cần phải bị hủy bỏ vì nó thúc đẩy "chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tiêu dùng," và rằng "thi bikini chỉ là một cái cớ để khoe mẽ các bộ phận cơ thể của phụ nữ vốn cần phải kín đáo" Thay vào đó, các thí sinh sẽ trình diễn những bộ sarong đi biển do Indonesia sản xuất ở phần thi này. Việc loại bỏ phần thi bikini ở Hoa hậu Thế giới 2013 xảy ra nhiều tranh cãi khen chê, tuy nhiên nhiều người nhìn nhận ở góc độ khác, việc bỏ phần thi bikini sẽ mang đến cơ hội dự thi cho các cô gái nước Đạo hồi. Sau đó, trong khuôn khổ Hoa hậu Thế giới 2014 diễn ra tại Anh đã không còn phần trình diễn trang phục bikini trong đêm thi chung kết. Đồng thời, bà Julia Morley - chủ tịch cuộc thi Hoa hậu Thế giới thông báo phần thi bikini chính thức bị loại bỏ khỏi đấu trường nhan sắc lớn nhất thế giới này kể từ năm 2015. Bà cho rằng phần thi bikini không còn cần thiết và muốn các thí sinh cạnh tranh nhau ở vẻ đẹp trí tuệ, cách ứng xử, lòng nhân ái... hơn là vẻ đẹp hình thể, và đó mới là phương châm "vẻ đẹp có mục đích" mà cuộc thi theo đuổi Bà Julia Morley thể hiện quan điểm rằng bà không muốn nhìn những cô gái diễu qua lại trên sân khấu trong những bộ áo tắm: “Nó không có tác dụng gì với phụ nữ và cũng không có bất cứ tác dụng nào với bất cứ ai trong chúng ta". Thay vào đó, Miss World sẽ tập trung vào trí tuệ, sự nhân hậu và tinh thần mạnh mẽ của các cô gái. Quyết định của bà Morley được đánh giá là bước đi tiên phong, tạo bước chuyển về bản chất của các cuộc thi sắc đẹp, để các thí sinh không còn bị đánh giá chỉ bởi vẻ bề ngoài cũng như phải hứng chịu những bình luận khiếm nhã về cơ thể họ. Năm 2021, cuộc thi diễn ra ở San Juan, Puerto Rico. Đây là lần đầu tiên một quốc gia Mỹ Latinh đăng cai cuộc thi. Phần thi áo tắm sẽ trở lại cuộc thi sau 5 năm vắng bóng. Thoái trào ở các nước phát triển Trên thế giới đầu thế kỷ 21, chỉ còn một số nước chậm phát triển nhưng "cuồng" hoa hậu tại Nam Mỹ và Đông Nam Á như Venezuela, Philippines, Colombia, Việt Nam... là tích cực tổ chức thi hoa hậu nhằm thỏa mãn ham muốn dùng sắc đẹp để kiếm danh tiếng hoặc lấy chồng giàu có của các cô gái, tâm lý thích "hư danh" của công chúng. Còn ở các nước phát triển, những cuộc thi Hoa hậu chẳng còn được khán giả thế giới chú ý nhiều, đặc biệt là tại các nước phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Khi hiểu biết về quyền phụ nữ được nâng cao, người dân các nước này đã nhận ra rằng thi Hoa hậu thực chất là việc hạ thấp phẩm giá phụ nữ, vì các cuộc thi này xem cơ thể phụ nữ giống như vật trưng bày di động để chấm điểm, buộc phụ nữ phải mặc áo tắm trình diễn hở hang chỉ để mọi người bình phẩm, kiếm lợi cho ban tổ chức. Một xã hội văn minh thì sẽ không chấp nhận việc cơ thể người khác (dù xấu hay đẹp) bị đem ra bình phẩm một cách công khai; và một người phụ nữ giàu lòng tự trọng cũng sẽ không dùng cơ thể mình làm vật trưng bày để người khác chấm điểm. Do vậy, những người đẹp ở các nước phát triển không còn muốn thi Hoa hậu nữa, danh hiệu Hoa hậu tại các nước này chỉ còn là "hữu danh vô thực", chẳng có mấy ai quan tâm hoặc nhớ đến những người từng đoạt giải Các tổ chức đấu tranh vì quyền bình đẳng phụ nữ trên thế giới từ lâu đã phê phán các cuộc thi sắc đẹp, nơi mà người khác có quyền được buông ra những lời nhận xét (dù vô tình hay cố ý) có thể làm tổn thương đến phụ nữ. Năm 1970, khi cuộc thi Hoa hậu Thế giới được tổ chức tại Anh, nhiều tổ chức bảo vệ nữ quyền đã tổ chức biểu tình, giơ những biểu ngữ như "Phụ nữ cũng là con người", "Chấm dứt trưng bày cơ thể phụ nữ"... khiến các kênh truyền hình Anh phải từ chối phát sóng cuộc thi. Các cuộc thi hoa hậu đang ngày càng bị công chúng ở các nước phát triển xem thường vì đã bị thương mại hóa, những "ông bầu" tổ chức thi hoa hậu chỉ để bán danh hiệu thu tiền, hoặc "tuyển gái đẹp cho đại gia", nhiều thí sinh tham dự đã bị xúc phạm phẩm giá nặng nề. Hoa hậu Thế giới 2015, Mireia Lalaguna, khi trở về Tây Ban Nha sau đăng quang đã chẳng có khán giả nào đến sân bay để chào đón. Tại Hoa Kỳ, số người xem tivi tường thuật các cuộc thi Hoa hậu đã giảm mạnh, năm 2006 chỉ còn bằng 1/3 so với năm 1980. Tại Mỹ và châu Âu, công chúng tại những nước này đã không còn quan tâm đến các cuộc thi nhan sắc. Hoa hậu Thế giới ngày nay đã không còn được truyền hình trực tiếp tại Anh, đất nước khai sinh ra cuộc thi. Trong một bài khảo sát đăng tải trên The Guardian, nhiều người Anh thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của cuộc thi này. Tổ chức cuộc thi Tổ chức Hoa hậu Thế giới sở hữu cuộc thi Hoa hậu Thế giới và tổ chức sự kiện này mỗi năm một lần. Kể từ khi bắt đầu hoạt động vào năm 1951, tổ chức Hoa hậu Thế giới đã quyên góp được 250 triệu bảng Anh cho các tổ chức từ thiện vì trẻ em. Tổ chức Hoa hậu Thế giới ký kết các bản quyền thương mại tới hơn 100 quốc gia. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hoa hậu Thế giới là một công ty tư nhân, do đó các số liệu, các khoản thu nhập và chi phí đóng góp cho các quỹ từ thiện không cần công khai. Ngoài quyên góp hàng triệu bảng Anh cho các tổ chức từ thiện, tổ chức Hoa hậu Thế giới ra tiêu chí "Hoa hậu có tấm lòng nhân ái" và sau này cuộc thi có một giải thưởng riêng cho thí sinh có những đóng góp xuất sắc trong công việc từ thiện tại quê nhà. Theo yêu cầu của tổ chức Hoa hậu Thế giới (MWO), trước khi tham dự cuộc thi, các ứng cử viên của cuộc thi phải thắng trong một cuộc thi cấp quốc gia tại quê nhà để lấy được quyền đại diện cho quốc gia của mình tại Hoa hậu Thế giới. Các thí sinh chiến thắng sẽ được cấp giấy phép tham dự cuộc thi từ những nhà đăng ký chuyển nhượng bản quyền của cuộc thi ở quốc gia của họ. Và cuối cùng là đến tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới với một số chương trình phúc khảo, tham gia các hoạt động ngoài trời, giao lưu với cư dân bản địa, tham gia các sự kiện truyền hình và cuối cùng xuất hiện trong đêm chung kết để công bố các giải thưởng, các danh hiệu và công bố tên của Hoa hậu Thế giới. Cuộc thi thường được tổ chức vào khoảng thời gian cuối năm, tháng 11 hoặc 12. Sau này vì tình hình dịch bệnh, thời gian tổ chức cuộc thi thay đổi liên tục. Cuộc hành trình đến chiếc vương miện vô cùng khó khăn. Đầu tiên, thí sinh tham dự cuộc thi này phải là người đã chiến thắng tại cuộc thi hoa hậu quốc gia. Đến cuộc thi, các thí sinh sẽ tham dự vào các sự kiện được tổ chức trong cuộc thi, các gala, những buổi dạ hội và các hoạt động trước khi ban giám khảo chọn ra những người xuất sắc nhất. Cuộc thi sẽ chọn ra Top bán kết, top 5->6 (hoặc 7) và cuối cùng là Hoa hậu thế giới và 2 Á hậu. Người chiến thắng sẽ được chính đương kim Hoa hậu đeo dải băng Miss World, trao lại vương miện và ngồi trên chiếc ghế đặt ở chính giữa sân khấu còn 2 Á hậu sẽ đứng ở bên cạnh. Là cuộc thi có nhiều thí sinh tham gia nhất trên thế giới (trên dưới 100 nước mỗi năm), số lượng thí sinh trong Top bán kết có sự thay đổi nhỏ qua mỗi năm, thông thường nằm trong khoảng từ 15-20, những năm gần đây con số thí sinh vào Bán kết mở rộng ra 30-40 vì số lượng thí sinh ngày càng đông. Kể từ năm 2003, để sự lựa chọn được kỹ lưỡng và chính xác, các phần thi phụ được tổ chức một cách bài bản. Các thí sinh dự thi phải trải qua các phần thi Hoa hậu Bãi biển, Hoa hậu Thể thao, Hoa hậu Tài năng, Hoa hậu mặc trang phục dân tộc đẹp nhất. Các thí sinh chiến thắng các phần thi phụ này sẽ được đặc cách vào thẳng Bán kết. Hoa hậu Bãi biển (Beach Beauty): Chọn ra những thí sinh có hình thể đẹp nhất. Trong phần thi này, vóc dáng, vẻ đẹp hình thể và các chỉ số 3 vòng là tiêu chí để chấm điểm. Ngoài danh hiệu, phần thi này còn chọn ra top 10, top 5. Hoa hậu Thể thao (Miss Sport): Là phần thi mà các thí sinh sẽ phải trải qua các hoạt động thể thao như chạy, bơi lội, bóng chuyền... để bộc lộ khả năng chơi thể thao và rèn luyện sức khỏe, thể hình của mình. Các phần thi thường được tổ chức theo nhóm ứng với mỗi khu vực. Hoa hậu Tài năng (Talent Show): Là phần thi mà các thí sinh có cơ hội thể hiện tài năng, năng khiếu, sở trường của mình. Mỗi thí sinh có thể đăng ký một tiết mục trình diễn trên sân khấu. Thông thường, phần thi tài năng các thí sinh Miss World thường lựa chọn là hát, múa, chơi đàn, thổi sáo, diễn kịch, kể chuyện... Hoa hậu Thời trang, hoặc Trang phục Dân tộc, (Top Model): Là phần thi mà thí sinh sẽ trình diễn các mẫu thiết kế thời trang hoặc trang phục truyền thống của dân tộc mình. Đây là phần thi mà khán giả sẽ phải choáng ngợp bởi rất nhiều bộ trang phục rực rỡ, nhiều màu sắc được trình diễn bởi các người đẹp. Phần thi cũng công bố top 10, top 5. Ngoài ra, ở Miss World còn có thêm giải phụ Hoa hậu Nhân ái (Beauty with a Purpose). Đây là giải thưởng dành cho hoa hậu trước khi đến với cuộc thi đã có những hoạt động xã hội có ý nghĩa cao cả. Giải thưởng này có cách trao khá giống với giải thưởng Sắc đẹp vì một mục tiêu (Beauty for a Cause) của cuộc thi Hoa hậu Trái Đất. Những việc làm đó sẽ phải được minh chứng bằng một video clip ghi lại hoạt động của thí sinh gửi cho Ban tổ chức. Giải thưởng này được công bố trong đêm chung kết. Đây là một giải thưởng phụ quan trọng và có ý nghĩa quyết định vị trí của thí sinh trong đêm chung kết. Ngoài ra, cuộc thi cũng có giải thưởng "Hoa hậu Thân thiện" nhưng hiện tại giải thưởng này đã được lược bỏ. Tuy nhiên, đôi khi người ta hay nhầm lẫn giữa "Hoa hậu Nhân ái" với "Hoa hậu Thân thiện". Đêm chung kết cuộc thi, mở đầu đồng loạt các thí sinh sẽ có màn trình diễn váy và áo tắm, sau đó từng nhóm thí sinh (theo từng khu vực) được xướng tên quốc gia sẽ lần lượt ra mắt khán giả. Từ năm 2016 thì màn trình diễn áo tắm được bãi bỏ. Sau đó tất cả các thí sinh, trong trang phục dạ hội, sẽ được tập hợp lại để chuẩn bị nghe công bố kết quả. Mở đầu là màn xuất hiện của 4 thí sinh được đặc cách do đoạt các danh hiệu Hoa hậu Bãi biển, Hoa hậu Thể thao, Hoa hậu Mặc trang phục dân tộc đẹp nhất), sau đó Ban giám khảo công bố thí sinh đoạt danh hiệu Hoa hậu nhân ái. Tất cả các thí sinh đoạt các giải phụ này đều được đặc cách thẳng vào top Bán kết. Tiếp đến, MC sẽ công bố những người còn lại lọt vào top bán kết. Các thí sinh còn lại này được ban giám khảo lựa chọn ngẫu nhiên (không tính yếu tố vùng miền) hoặc lựa chọn theo vùng miền (mỗi khu vực thường có khoảng 2 đại diện). Sau đó chọn tiếp top 5 (hoặc 6) và cuối cùng, lần lượt Á hậu 2, Á hậu 1 và Hoa hậu Thế giới sẽ được trưởng Ban tổ chức, bà Julia Morley công bố (trừ năm 2018, cuộc thi chỉ chọn ra một Á hậu duy nhất và Hoa hậu). Các giải thưởng được công bố liên tục vào cuối đêm chung kết. Hiện cuộc thi đã bỏ màn trình diễn áo tắm và trang phục dạ hội riêng của Top bán kết như ba cuộc thi còn lại. Từ năm 2009, trong đêm chung kết có thêm phần trình diễn Dances of the World (Các điệu nhảy của thế giới). Đây là một phần trình diễn không tính điểm. Phần trình diễn luôn luôn được chờ đợi trong mỗi đêm chung kết và là một trong số những đặc sắc của cuộc thi. Cùng với đó, phần trình diễn trang phục áo tắm mở màn của đêm chung kết cũng dần được tối giản và bỏ hẳn khỏi nội dung đêm chung kết. Những năm gần đây, cuộc thi có thêm phần Bình chọn thí sinh qua trang web chính thức cuộc thi (www.missworld.tv) và ứng dụng Mobstar. Kết quả bình chọn có năm chỉ là một căn cứ hỗ trợ cho sự đánh giá tính điểm của Ban giám khảo, có năm giải thưởng Bình chọn nhiều nhất được đặc cách thẳng vào bán kết. Các hoa hậu thế giới chiến thắng phần thi phụ 4 Hoa hậu Thế giới đã đoạt giải Hoa hậu Siêu mẫu: Trương Tử Lâm (Trung Quốc, 2007), Ksenia Sukhinova (Nga, 2008), Megan Young (Philippines, 2013) và Mireia Lalaguna (Tây Ban Nha, 2015). 4 Hoa hậu Thế giới đã đoạt giải Hoa hậu Ảnh: Astrid Carolina Herrera (Venezuela, 1984), Aishwarya Rai (Ấn Độ, 1994), Jacqueline Aguilera (Venezuela, 1995) và Diana Hayden (Ấn Độ, 1997). 2 Hoa hậu Thế giới đã đoạt giải Hoa hậu Bãi biển: Rosanna Davison (Ireland, 2003) và Kaianne Aldorino (Gibraltar, 2009). 2 Hoa hậu Thế giới đã đoạt giải Hoa hậu Tài năng: Vu Văn Hà (Trung Quốc, 2012) và Toni-Ann Singh (Jamaica, 2019). 1 Hoa hậu Thế giới đã chiến thắng giải Sắc đẹp vì một mục đích: Manushi Chhillar (Ấn Độ, 2017). Giải thưởng bên lề Kể từ năm 2003 cuộc thi Hoa hậu Thế giới bắt đầu xuất hiện các phần thi phụ. Người chiến thắng tại các vòng thi phụ sẽ được vào thẳng Bán kết. Các sự kiện bên lề được áp dụng từ năm 2003 là: Hoa hậu Bãi biển: từ năm 2003 - 2015 Hoa hậu Tài năng: từ năm 2003 - nay Hoa hậu Thể thao: từ năm 2003 - nay Hoa hậu Nhân ái: từ năm 2005 - nay Hoa hậu Người mẫu: 2004, 2007 - nay Giải thưởng do khán giả bình chọn (2003, 2006, 2008, 2015, 2016) Hoa hậu Cá tính (2003) Hoa hậu do các thí sinh bình chọn (2004) Thử thách đối đầu: từ năm 2017 - nay Các thí sinh chiến thắng Kiki Håkansson từ Thụy Điển, Hoa hậu Thế giới 1951 là Hoa hậu Thế giới đầu tiên đến từ châu Âu đăng quang và cũng là người duy nhất đăng quang trong trang phục bikini. Antigone Costanda từ Ai Cập, Hoa hậu Thế giới 1954 là người châu Phi đầu tiên đăng quang. Susana Duijm từ Venezuela, Hoa hậu Thế giới 1955 là người Mỹ Latin đầu tiên và cũng là người đầu tiên đến từ châu Mỹ đăng quang Người châu Phi da đen đầu tiên đoạt ngôi Hoa hậu thế giới là Agbani Darego từ Nigeria tại cuộc thi năm 2001 ở Sun City, Nam Phi. Hoa hậu thế giới người Đông Á đầu tiên là Hoa hậu Thế giới 2007 Trương Tử Lâm từ Trung Quốc. Hoa hậu thế giới người Đông Nam Á đầu tiên là Hoa hậu Thế giới 2013 Megan Young từ Philippines. Thí sinh lọt vào bán kết Hoa hậu Hoàn vũ và sau đó trở thành Hoa hậu Thế giới là: Susana Duijm (Top 15; 1955), Corinne Rottschafer (Top 15; 1958), Rosemarie Frankland (Á hậu 1; 1961), Madeline Hartog-Bel (Top 15; 1966), Eva Rueber-Staier (Top 15; 1969), Helen Morgan (Á hậu 1; 1974); Gina Swainson (Á hậu 1; 1979), Agbani Darego (Top 10; 2001). Các kỉ lục Thời gian giữ vương miện lâu nhất Kiki Håkansson từ Thụy Điển, Hoa hậu Thế giới 1951 là người có nhiệm kỳ giữ vương miện lâu nhất trong lịch sử: 1 năm, 3 tháng, 16 ngày từ khi đoạt vương miện ngày 29 tháng 7 năm 1951 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh. Thời gian giữ vương miện ngắn nhất Ivian Sarcos từ Venezuela, Hoa hậu Thế giới 2011 giữ vương miện trong thời gian ngắn nhất: chỉ có 9 tháng, 12 ngày tới khi trao vương miện cho Vu Văn Hà của Trung Quốc vào ngày 18 tháng 8 năm 2012. Có 3 lần ngôi Hoa hậu thế giới do thí sinh của cùng 1 quốc gia đoạt 2 năm liên tiếp: May Louise Flodin của Thụy Điển, Hoa hậu Thế giới 1952 được Hoa hậu Thế giới 1951 Kicki Håkansson, cũng là người Thụy Điển, trao lại vương miện. Lesley Langley của Anh, Hoa hậu Thế giới 1965 được Hoa hậu Thế giới 1964 Ann Sydney cũng của Anh trao lại vương miện. Priyanka Chopra của Ấn Độ, Hoa hậu Thế giới 2000 được Hoa hậu Thế giới 1999 Yukta Mookhey, cũng người Ấn Độ, trao lại vương miện. Khoảng thời gian dài nhất cho một quốc gia lặp lại chiến thắng trong cuộc thi Hoa hậu là Puerto Rico: Wilnelia Merced đoạt giải năm 1975 và 41 năm sau, Stephanie Del Velle trở thành người tiếp theo của quốc gia này đoạt giải. Quốc gia có khoảng thời gian ngắn nhất lặp lại chiến thắng là Ấn Độ (1997-1999, không tính những lần đoạt giải liên tiếp như Thụy Điển, Vương quốc Anh và Ấn Độ kể trên). Các vị trí Xem danh sách đầy đủ: Danh sách Hoa hậu Thế giới. 6 người đoạt vương miện Hoa hậu Thế giới tại quê nhà: 1961: Rosemarie Frankland (Vương quốc Anh) đăng quang tại Luân Đôn, Vương quốc Anh. 1964: Ann Sydney (Vương quốc Anh) đăng quang tại Luân Đôn, Vương quốc Anh. 1965: Lesley Langley (Vương quốc Anh) đăng quang tại Luân Đôn, Vương quốc Anh. 1974: Helen Morgan (Vương quốc Anh) đăng quang tại Luân Đôn, Vương quốc Anh. (Tuy nhiên đã bị truất ngôi) 1983: Sarah-Jane Hutt (Vương quốc Anh) đăng quang tại Luân Đôn, Vương quốc Anh. 2007: Trương Tử Lâm (Trung Quốc) đăng quang tại Tam Á, Trung Quốc, 2012: Vu Văn Hà (Trung Quốc) đăng quang tại Nội Mông, Trung Quốc. 5 Hoa hậu Thế giới đã trao vương miện tại quê nhà: 1961: Rosemarie Frankland (Vương quốc Anh) trao vương miện cho 1962: Catharina Lodders (Hà Lan) ở Luân Đôn, Anh. 1964: Ann Sydney (Vương quốc Anh) trao vương miện cho 1965: Lesley Langley (Vương quốc Anh) in Luân Đôn, Anh. 1965: Lesley Langley (Vương quốc Anh) trao vương miện cho 1966: Reita Faria (Ấn Độ) in Luân Đôn, Anh. 1983: Sarah-Jane Hutt (Vương quốc Anh) trao vương miện cho 1984: Astrid Carolina Herrera (Venezuela) in Luân Đôn, Anh. 1990: Gina Tolleson (Hoa Kỳ) trao vương miện cho 1991: Ninibeth Leal (Venezuela) tại bang Georgia, Hoa Kỳ. Ngoài Anh, Nam Phi và Trung Quốc là quốc gia đăng cai nhiều cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Đó là: Nam Phi: Thành phố Mặt trời (1992, 1993, 1994, 1995, 2001), Johannesburg (2008, 2009) Trung Quốc: Tam Á (2003, 2004, 2005, 2017, 2007,2018), Nội Mông (2012) Ngoài Vương quốc Anh và Nam Phi, đây là các quốc gia từng đăng cai cuộc thi hơn 1 lần: Seychelles: Mahé (1997, 1998) Danh sách các người đẹp từng biểu diễn tại phần trình diễn Dances of the World Các Hoa hậu Thế giới gần đây Số lần chiến thắng của các quốc gia/lãnh thổ ®: Thay thế ©: Truất ngôi Các nữ hoàng sắc đẹp châu lục Ngoài những giải thưởng phụ và danh hiệu cao nhất, cuộc thi còn chọn ra các Nữ hoàng sắc đẹp châu lục cho từng khu vực. Nữ hoàng sắc đẹp theo quốc gia Có thể bạn chưa biết Cuộc thi Hoa hậu Thế giới từng gây ra nhiều tranh cãi từ khi ra đời. Năm 1970, người biểu tình đã ném bom bột mì để phản đối trong suốt quá trình truyền hình trực tiếp tại Royal Albert Hall ở Luân Đôn. Danh hài Bob Hope đã nói đùa rằng " Đây có phải bản sao của Việt Nam không?" (Việt Nam đang trong thời kỳ chiến tranh lúc bấy giờ.) Năm 1973, Marjorie Wallace, người Mỹ đầu tiên chiến thắng trong cuộc thi đã không hoàn thành nhiệm vụ và chỉ giữ được vương miện có 104 ngày. Ban tổ chức thông báo Wallace "đã không hoàn thành các nhiệm vụ cơ bản được giao." Trách nhiệm của công việc từ thiện được chuyển sang cho Á hậu 1 Evangeline Pascual đến từ Philippines. Tuy nhiên, Ban tổ chức cuộc thi vẫn ghi nhận Wallace là Hoa hậu Thế giới 1973 chứ không phải Pascual. Helen Morgan đại diện cho Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chiến thắng năm 1974 đã từ bỏ ngôi vị sau 4 ngày giữ vương miện khi bị phát hiện là bà mẹ đơn thân. Năm 1976, một số quốc gia tẩy chay cuộc thi, bởi vì có một người da trắng và một người da đen đại diện cho Nam Phi. Để chống lại tình trang phân biệt chủng tộc khủng khiếp ở quốc gia của mình, Nam Phi đã ngừng tham dự cuộc thi từ năm 1977, trước khi tiếp tục tham dự trở lại vào năm 1991 vì vấn đề chính trị đã thay đổi. Gabriella Brum từ Tây Đức chiến thắng năm 1980 bỏ ngôi sau một ngày giữ vương miện, thông tin ban đầu là do bạn trai của cô không đồng ý. Một vài ngày sau bắt đầu xuất hiện thông tin cô từng chụp hình khoả thân cho các tạp chí. Năm 1996, một cuộc chống đối với quy mô lớn diễn ra tại Bangalore, Ấn Độ. Phần thi áo tắm được chuyển đến quần đảo Seychelles, và được bảo vệ nghiêm ngặt. Bất chấp hỗn loạn, buổi truyền hình trực tiếp chung kết của cuộc thi vẫn suôn sẻ. Từ năm 2000 trở đi, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tách ra làm bốn quốc gia ở cuộc thi là Anh, Bắc Ireland, Scotland và Wales. Chỉ vài ngày sau khi chiến thắng trong năm 1998, Linor Abargil từ Israel cho biết cô đã bị cưỡng hiếp chỉ hai tháng trước khi cuộc thi này diễn ra. Người đàn ông cưỡng hiếp cô đã chịu sự trừng phạt của pháp luật. Cuộc thi Hoa hậu Thế giới 1983 có thí sinh Unnur Steinsson từ Iceland đã mang thai ba tháng khi tham gia cuộc thi (chung kết diễn ra ngày 17/11/1983) đã vi phạm các nguyên tắc cấm là không được kết hôn hoặc có thai. Tuy nhiên, điều đó đã không được phát hiện khi bà tham dự cuộc thi mặc dù bà lọt vào chung kết và là người Iceland đầu tiên lọt vào Top 7. Con gái bà, sinh ngày 25/05/1984 và có tên là Unnur Birna Vilhjálmsdóttir, 22 năm sau đã đăng quang Hoa hậu Thế giới 2005. Steinsson cũng tham dự cuộc thi Hoa hậu Trẻ Quốc tế 1980 tổ chức tại Manila. Bà cũng tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 1983. Cả hai mẹ con bà đều là diễn viên. Hình ảnh của các hoa hậu Danh sách đại diện Việt Nam Chú thích Chiến thắng Á hậu Lọt vào chung kết hoặc bán kết Chú thích
John Felix Anthony Cena Jr. (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1977) là đô vật chuyên nghiệp, rapper, diễn viên và người dẫn chương trình truyền hình người Mỹ. Anh hiện đang ký hợp đồng với WWE nơi anh là đô vật bán thời gian. Anh cũng là người dẫn chương trình hiện tại của Are You Smarter Than a Fifth Grader trên Nickelodeon và đã đóng vai chính trong nhiều bộ phim khác nhau. Sinh ra và lớn lên ở West Newbury, Massachusetts. Cena chuyển đến California vào năm 1998 để theo đuổi sự nghiệp vận động viên thể hình. John Cena bắt đầu sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp của mình năm 1998, tham gia thi đấu cho Ultimate Pro Wrestling (UPW), anh đã từng giữ đai UPW Heavyweight Championship. Năm 2001, Cena ký hợp đồng với World Wrestling Federation (WWF) và được gửi tới Ohio Valley Wrestling (OVW), nơi mà anh giữ đai OVW Heavyweight Championship và đai OVW Southern Tag Team Championship (với Rico Constantino). Ngoài thời gian đấu vật, Cena còn cho ra mắt album You Can't See Me, đứng ở vị trí thứ 15 của Billboard 200, và anh bắt đầu tham gia đóng phim trong The Marine (năm 2006) và 12 Rounds (năm 2009). Cena còn xuất hiện trong các chương trình truyền hình như Manhunt, Deal or No Deal, MADtv, Saturday Night Live và Punk'd. Cena còn tham gia giải Fast Cars and Superstars: The Gillette Young Guns Celebrity Race, nơi mà anh đi tới vòng chung kết trước khi bị loại, và đứng vị trí thứ ba chung cuộc. Trong sự nghiệp đấu vật ở WWE, Cena đã giành tổng cộng 25 đai vô địch các loại, 16 lần giữ đai hạng nặng thế giới (13 lần đai WWE Championship và 3 lần đai World Heavyweight Championship) ngang bằng với thành tích của cựu đô vật Ric Flair. Cena đã 5 lần giữ đai United States Championship và 4 lần giữ đai vô địch Tag Team (2 lần đai World Tag Team và 2 lần đai WWE Tag Team). Ngoài ra Cena còn thắng trận đấu Money in the Bank Ladder match năm 2012 và 2 lần chiến thắng Royal Rumble (2008 và 2013). Sinh ra và lớn lên John được sinh ra vào ngày 23 tháng 4 năm 1977 ở West Newbury, tiểu bang Massachusetts, Mỹ. Anh là người anh trai lớn tuổi thứ hai trong số năm anh em: Dan, Matt, Steve và Sean. Sau khi tốt nghiệp trường Cushing Academy, Cena học tại trường Springfield College ở Springfield, tiểu bang Massachusetts, Mỹ. Tại đây anh tham gia đội bóng bầu dục của trường, mặc áo số 54. anh tốt nghiệp trường năm 1998 với một bằng cấp. Sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp Luyện tập Cena bắt đầu luyện tập để trở thành đô vật chuyên nghiệp năm 2000 bởi Ultimate Pro Wrestling (UPW). Từ đó, Cena bắt đầu sử dụng cái tên The Prototype. Một số đoạn về sự nghiệp đấu vật của anh được chiếu trên kênh Discovery Channel trong chương trình Inside Pro Wrestling School. Trong khi ở UPW, Cena đã từng giữ đai UPW Heavyweight Championship trong vòng khoảng một tháng. Trong năm 2001, WWE đã ký một hợp đồng phát triển và được chuyển tới Ohio Valley Wrestling (OVW). Trong thời gian ở đây, Cena thi đấu dưới hai cái tên The Prototype và Mr. P, và giữ đai OVW Heavyweight Championship trong ba tháng và đai OVW Southern Tag Team Championship (với Rico Constantino) trong hai tháng. World Wrestling Entertainment (2002 đến nay) 2002-2003 Cena xuất hiện lần đầu trên truyền hình, khi anh đấu với Kurt Angle. Cena kiểm soát trận đấu,anh đã phá được đòn Angle Slam và Ankle lock nhưng thua bởi 1 đòn pin. Từ đó trở đi, Cena được khán giả yêu thích và bắt đầu mối thù với Chris Jericho. Trong tháng 10, anh cùng Billy Kidman tham gia giải thi đấu để tranh đai WWE Tag Team Championship, nhưng bị thua ở vòng một. Tuần kế tiếp, Cena tấn công Bily và đổ lỗi cho anh ta làm cho đội thua trận. Trong tháng 3 năm 2003, John Cena đã đấu Tag-Team 1 trận với Brock Lésnar đấu với The Undertaker và Kurt Angle. Vì tình cờ thay John Cena đang thù với Kủrt Angle, còn Undertaker đang thù với Brock Lésnar vì ông đã thua Brock Lésnar tại Royal Rumble vừa diễn ra vào tháng 1 năm đó. Tuy nhiên, nhóm của Cena đã thua. Trong khoảng sáu tháng đầu năm 2003, anh bắt đầu thù với Brock Lesnar, và rồi thách đấu anh ta. Trong thời gian thù nhau, Cena tạo ra một chiêu mới F-U và thực hiện lần đầu tiên lên Rikisi. Cena giành chiến thắng trong giải đấu tìm ra người đấu với Lesnar ở Backlash. Tuy nhiên, Cena chịu thua trước Lesnar. Đến cuối năm, anh lại được khán giả ưa thích, khi anh vào đội của Kurt Angle với tư cách là một thành viên tham gia Survivor Series. 2004-2005 Đầu năm 2004, Cena tham gia trận Royal Rumble ở WWE Royal Rumble 2004. Anh là một trong số sáu người còn lại trên sàn đấu trước khi bị Big Show loại. Kể từ đó, Cena thù với Big Show. Trong trận đấu tại WrestleMania XX tranh đai WWE United States Championship, anh đã đánh bại Big Show. Cena giữ đai trong 4 tháng. Cena giành lại được đai này sau khi đánh bại Booker T ở No Mercy. Sau đó, anh lại để mất đai vào tay Carlito Caribbean Cool tuần sau đó. Sau trận thua đó, anh bắt đầu thù với Carlito. Một lần, Cena bị chấn thương làm cho anh phải xa sàn đấu trong một tháng, trong lúc anh đi đóng phim The Marine. Ngay trong ngày trở lại vào tháng 11, Cena đã lấy lại được chiếc đai WWE United States Championship và lại tạo ra chiếc đai có thê xoay được ở phần giữa. Cena tham gia trận Royal Rumble năm 2005, và là một trong hai người còn lại trên sân, nhưng cả hai người đều rơi ra khỏi sân cùng một lúc. Vince McMahon tạo ra một trận đấu lại theo kiểu luật sudden death. Và Batista đã loại Cena. Tháng sau đó, Cena thắng Kurt Angle để có một trận đấu tâm điểm của SmackDown! tại WrestleMania 21. Và John Cena bắt đầu thù với WWE Champion lúc đó là JBL. Trong một trận đấu, Cena đã để mất chiếc đai US Title vào tay của Orlando Jordan, người mà sau đó đã cho nỗ tung chiếc đai. Cena thắng JBL trong trận đấu tại WrestleMania 21 và được đai WWE Championship. Đó là chiếc đai vô địch thê giới đầu tiên của Cena. Sau đó, Cena đã cho ra mắt chiếc đai WWE Championship mới có hình chữ W có thể xoay được, trong khi JBL cầm chiếc đai WWE Championship cũ và cho rằng anh ta vẫn là WWE Champion, cho tới khi Cena thắng JBL một lần nữa trong trận "I Quit" match ở Judgment Day. Cena được chuyển sang thi đấu cho RAW vào ngày 6 tháng 6 năm 2005,là sự lựa chọn đầu tiên của RAW General Manager hồi đó là Eric Bischoff trong WWE Draft 2005. Cena ngay lúc đó thò với Bischoff, sau khi tham gia trong một trận đấu gặp các đô vật của ECW ở One Night Stand. Mối thù tiếp theo của Cena là với Kurt Angle. Anh giữ đai và có trận đấu với Kurt và đã thua anh bằng disqualification. Nhưng tất nhiên Cena vẫn giữ được đai WWE Championship do luật ở WWE Unforgiven. Sau đó tại WWE Survivor Series, Cena pin Kurt để tiếp tục cầm đai. Mối thù với Kurt làm anh còn nghĩ ra thêm một chiêu chủ chốt khác ngoài F-U. Đó là STFU (về sau chỉ gọi đơn giản là STF) khi mà anh được tham gia trận đấu Triple Threat Submissions Only trong chương trình ngày 28 tháng 11 của RAW. 2006-2007 Cena mất đai WWE Championship ở New Year's Revolution, nhưng không phải trong trận Elimination Chamber match mà anh đã tham gia trước đó. Anh đã thắng trận Elimination Chamber match và giữ được đai. Nhưng ngay sau trận đấu đó, Edge xuất hiện, sử dụng chiếc va li Money In The Bank để có một trận đấu với Cena. Edge đã hai lần húc vào người của Cena làm anh gục, sau đó pin và được đai. Ba tuần sau tại WWE Royal Rumble, Cena đã đòi lại được chiếc đai sau khi thắng Edge. Sau khi giành lại được đai, Cena lại bắt đầu thù với Triple H. Tại WrestleMania 22, anh đã thắng Triple H sau đòn F-U. Nhưng tại ECW One Night Stand, Cena lại để mất đai vào tay của Rob Van Dam khi RVD có sự giúp đỡ của Edge. Đến tháng 7, Edge thắng trận Triple Threat match để được đai WWE Championship từ RVD, trong đó có cả Cena. Tại WWE Unforgiven, Edge gặp lại Cena trong trận Tables, Ladders, and Chairs match (Bàn, Cầu thang và Ghế - TLC Match). Mặc dù có sự giúp đỡ của Lita, nhưng Cena vẫn thắng trận sau cú F-U qua hai cái bàn. Cena đã vô cùng xuất sắc khi giữ đai tròng vòng hơn một năm. Năm 2006 khép lại với Cena cùng mối thù với Umaga. Trong chương trình đầu tiên của RAW trong năm 2007, anh thua trước Kevin Federline (Kevin với sự giúp đỡ của Umaga). Cena đã chấm dứt chuỗi trận bất bại của Umaga tại New Year's Revolution. Đến Royal Rumble, Cena tiếp tục thắng Umaga trong trận Last Man Standing match để giữ đai. Một ngày sau Royal Rumble, anh cùng Shawn Michaels được đai World Tag Team Championship. Trong chương trình ngày 2 tháng 4 của RAW, sau khi thua Cena trong trận tranh đai WWE Championship ở WrestleMania 23, Michaels bắt đầu phản bội Cena. Kể từ đó, Cena thù với Michaels, Edge, Orton cho tới khi The Great Khali bắt đầu chú ý tới chiếc đai của Cena. Hai tháng liên tiếp, Cena thù với Khali, tại WWE Judgment Day, anh là người đầu tiien đánh bại Khali bằng submission và pinfall ở One Night Stand. Cuối mùa hè năm đó, Randy Orton được chọn là ứng cử viên số một cho chức vô địch của Cena. Trong trận đấu với Mr. Kennedy vào ngày 1 tháng 10 năm 2007, anh đã gặp phải chấn thương và sau đó lại bị Randy Orton tấn công bằng một cú RKO lên chiếc bàn bình luận viên. Và Cena phải đi phẫu thuật và mất chức vô địch vào tay Orton. Mặc dù bị chấn thương, anh vẫn xuất hiện trong chương trình WWE Tribute to the Troops được tổ chức tại Iraq. 2008-2010 John Cena bất ngờ trở lại trong trận Royal Rumble vào đầu năm 2008, xuất phát ở vị trí cuối cùng và loại Triple H để thắng trận. Tại No Way Out 2008, WrestleMania 24 và Backlash 2008 John Cena vẫn không thể giành lại được đai (nhà vô địch lúc đó là Randy Orton). Sau đó, Cena bắt đầu lại mối thù với JBL. Anh thắng JBl 2 lần tại Judgment Day và One Night Stand, nhưng lại thua trước JBL trong trận New York City Parking Lot Brawl. Trong một show Raw, anh đã vô tình đánh vào mặt Batista, hai người mất bình tĩnh và thế là xông vào đánh nhau. Và từ đó Cena đã có mối thù mới là Batista. Vào ngày 4 tháng 8, Cena lần thứ hai trở thành World Tag Team Champion, lần này là với Batista, sau trận thắng trước Cody Rhodes và Ted DiBiase. Nhưng chỉ một tuần sau, hai người đã để mất đai. Tại SummerSlam 2008, Cena đã thất bại trước Batista. Cena bị chấn thương cổ và không tham gia thi đấu từ sau SummerSlam. Anh trở lại tại Survivor Series 2008, giành chiến thắng trước Chris Jericho để lần đầu tiên được đai World Heavyweight Championship. John Cena giữ đai cho đến No Way Out 2009, anh bị mất đai vào tay của Edge (người thay thế cho Kofi Kingston do Kofi bị Edge tấn công và bị chấn thương). Tuy nhiên, trong WRESTLEMANIA 25 John Cena có trận đấu Triple Theat match với Edge và Big Show, anh đã lấy lại được chức vô địch World Heavyweight Championship. Nhưng chỉ sau 3 tuần tại Backlash 2009, Cena lại để mất đai vào tay Edge trong trận Last Man Standing Match, sau khi anh bị Big Show ném xuyên qua một cái đèn to 7000W. Tại Jugdment Day và Extreme Rules, Cena đã hai lần chiến thắng trước Big Show. Và tại The Bash Cena đã chiến thắng trước The Miz. Tại Night Of Champions, Cena không thể giành được đai WWE Championshi trong trận Triple Threat Match với Triple H và Randy Orton. Anh vẫn thất bại trước Randy Orton trong SummerSlam 2009. Nhưng tại Breaking Point 2009, Cena cuối cùng cũng đã giành được đai trước Randy Orton trong trận I Quit Match. Cho đến Hell in a cell 2009, anh lại để mất đai vào tay của Randy Orton trong trận Hell In A Cell match, nhưng đến Bragging Rights một lần nữa thắng Orton để đòi lại đai. Đó là trận tranh đai cuối cùng giữa 2 người, Orton sẽ không bao giờ nhận được một trận tranh đai lại từ Cena. Survivor Series 2009, Cena có trận đấu Triple Threat Match với Triple H và Shawn Michaels, và Cena đã thắng. Nhưng trong trận Tables Match với Sheamus tại TLC 2009 Cena lại thất bại và mất chức vô địch WWE Championshi. 24h sau, tại show Raw, Cena đã giành được danh hiệu WWE Superstar Of The Year, sau khi đánh bại Randy Orton trong trận chung kết (Tournament gồm có Orton, Cena, CM Punk, The Undertaker). Và anh hứa với mọi người rằng anh sẽ không bao giờ thua một trận đấu nào cho tới khi anh giành lại đai WWE Championshi. Và tại Royal Rumble 2010 anh lại thất bại khi bị Edge loại. Tại Elimination Chamber, Cena giành chiến thắng trong trận Elimination Chamber Match for the WWE Championship, nhưng Mr.McMahon lại bắt Cena phải đấu một trận đấu tranh đai với Batista, và Batista thắng Cena, lúc đó Cena là một trong những người giữ đai WWE Championshi trong thời gian ngắn nhất. Sau đó tại WrestleMania 26, Cena đã giành lại đai WWE Championshi và tại Extreme Rules 2010 và Over The Limit 2010 trong trận Last Man Standing Match và I Quit Match, anh đã hạ gục Batista. Đó cũng chính là trận tranh chức vô địch WWE Championshi cuối cùng giữa hai người. Tại Fatal 4 Way, Cena bị mất đai vào tay của Sheamus, sau trận Fatal 4 Way cùng với Randy Orton, Edge và Sheamus. Tại Money In The Bank, Cena sẽ đấu với Sheamus trong trận Steel Cage Match để tranh đai WWE Championshi. Tuy nhiên anh đã không thể chiến thắng khi cuối trận đấu, The Nexus đã can thiệp vào trận đấu, giữ anh lại không cho anh trèo ra khỏi Steel Cage và đã vô tình giúp Sheamus retain WWE Championshi. Ngay sau đêm đó, tại show RAW, John Cena đã thách đấu The Nexus trong 1 trận 7 on 7 Tag Team Match ở SummerSlam vào ngày 15/8 sắp tới. Team của anh bao gồm anh cùng với R-Truth, John Morrison, The Great Khali,Edge, Chris Jericho và WWE Hall of Farmer Bret Hart. 1 tuần sau đó, trận đấu đó được quyết định là 1 trận 7 on 7 Elimination Tag Team match. Không may cho anh, do những mâu thuẫn từ trước, Edge và Chris Jericho đã rời khỏi Team RAW. Sự thiếu vắng 2 SuperStar này có thể xem như 1 mất mát cho John Cena & Team RAW khi mà kinh nghiệm của họ là điều rất cần thiết để có thể đánh bại The Nexus ở SummerSlam. Tình hình còn nghiêm trọng hơn khi The Great Khali bị The Nexus tấn công khiến Khali bị chấn thương chân. Nhưng cuối cùng Edge và Chris Jericho cũng đã quay lại Team RAW. Và SummerSlam, The Nexus đã rất bất ngờ khi thành viên thứ 7 của Team RAW là NXT Rookie: Daniel Bryan. Cuối cùng Team RAW đã thắng The Nexus sau khi Cena khiến cho Wade Barett đầu hàng bằng chiêu khóa STF. John Cena đã thanh toán sòng phẳng món nợ với The Nexus sau những gì họ gây ra cho anh. Và tại Night of Champions 2010 trong trận Six Pack Elimination Challenge match gồm anh, Randy Orton, Edge, Chris Jericho, Wade Barrett (đội trưởng The Nexus) và WWE champion Sheamus, anh đã thất bại khi bị loại bởi Wade Barrett. The Nexus Tại Hell In A Cell 2010 được tổ chức vào 3/10/10 John Cena đã có một trận đấu với Wade Barrett, John Cena đã thua trước Wade Barrett và phải gia nhập The Nexus như đã thỏa thuận. Cũng tại show Raw kế tiếp, Cena đã giúp Wade Barrett có 1 trận tranh đai WWE Champion với Randy Orton tại Bragging Rights 2010. Bragging Rights 2010 được tổ chức vào ngày 24/10/2010, và John Cena đã cùng với David Otunga giành được đai WWE Tag Team Championship sau khi đánh bại Cody Rhodes và Drew McIntyre. Và trước trận đấu, Wade Barrett đã đưa ra thỏa thuận là nếu Wade Barrett thua thì anh sẽ bị sa thải ra khỏi WWE và kết quả là Cena đã giúp Wade Barrett thắng bằng DQ (Randy Orton vẫn giữ đai). Tại show RAW ngày 25 tháng 10 năm 2010 tức là 1 ngày sau khi John Cena giành được đai, trưởng nhóm The Nexus là Wade Barrett đã ra lệnh cho David Otunga phải chịu mất đai trước Heath Slater và Justin Gabriel (cũng là 2 thành viên của The Nexus), John Cena và David Otunga đã trở thành những nhà vô địch giữ danh hiệu WWE Tag Team Championship ngắn nhất khi chỉ giữ được danh hiệu trong 1 ngày. Tại Survivor Series 2010 John Cena sẽ làm trọng tài cho trận bảo vệ danh hiệu WWE Championship, nếu Wade Barrett thắng và giành được chức vô địch WWE Championship thì John Cena sẽ được thoát khỏi The Nexus, còn nếu Wade Barrett thua thì John Cena sẽ bị sa thải khỏi WWE. Và thế là tại Survivor Series Randy đã tặng cho Wade Barrett một đòn chí mạng. Thế là Randy Orton là WWE Champion sau ba tiếng đếm của John Cena. Như Wade Barrett đã nói nếu anh không thắng và không giành được đai WWE Championship thì John Cena sẽ bị sa thải khỏi WWE. Dù bị đuổi khỏi WWE nhưng Cena vẫn làm khách của RAW và cứ mỗi show RAW, anh lại bí mật hạ gục từng thành viên của The Nexus. Tại TLC 2010, anh sẽ gặp lại Wade Barrett trong trận Chairs Match. Trong trận đấu tại TLC, John Cena đã giành chiến thắng trước Wade Barrett. Và chính thức ở lại với WWE. Hiện tại John Cena giành được WWE championship nhưng lại bị CM Punk đánh bại. Sau đó Cena không giành lại được WWE Championship và CM Punk giữ đai WWE Championship khá lâu (2011-2013). Năm 2012, anh đã ký kết một trận đấu với Brock Lesnar trong Extreme Rules. John Cena đã bị mất lợi thế hơn so vơi Brock nhưng cuối cùng, anh đã dùng chiếc dây xích đấm vào mặt Brock Lesnar. Cena lập tức làm một quả AA lên chiếc bệ sắt và pin thành công. Năm 2013, John Cena bắt đầu mối thù với The Rock. Tại WrestleMania 28, khi đang bắt chước đòn đánh People Elbows của The Rock thì bỗng nhiên The Rock bật dậy và thực hiện Rock Bottom. Anh bị The Rock đánh bại. Nhưng sau đó, tại WrestleMania 29, John Cena lại có thêm một trận đấu với The Rock. Lần này, khi anh cũng đang chuẩn bị cú People Elbows thì The Rock lại bật dậy. Nhưng lần này, The Rock đã bị mắc lừa và bị trúng cú AA và thua cuộc. Một lần nữa John Cena lại giành lại đai WWE Champion. Sau trận đấu, The Rock tạm thời nghỉ làm ở WWE và đi đóng phim. John Cena ở lại giữ đai và chống chọi nhóm quyền lực. Tại Royal Rumble 2013 Cena thắng trận đấu, còn CM Punk bị The Rock đánh bại và mất WWE Championship vào tay The Rock. Tại Wrestlemania 29, John Cena đánh bại The Rock và lấy được WWE Championship. Daniel Bryan lúc này là một đô vật mới nổi dần dần được khán giả hâm mộ. Daniel Bryan đánh bại John Cena tại Summer Slam 2013 (Triple H làm trọng tài) và lấy WWE Championship. Sau trận này Daniel Bryan bị Triple H đánh gục và Randy Orton dùng va li tiền để có trận tranh đai với Daniel Bryan và lấy được WWE Championship. John Cena sau Summer Slam bị chấn thương ở tay trái nên tạm nghỉ thi đấu. Sau đó John Cena trở lại và đánh bại Alberto Delrio giành được World Heavyweight Championship. Tại TLC 2013, John Cena bị Randy Orton đánh bại và Randy trở thành WWE World Heavyweight Champion (thống nhất WWE Championship và World Heavyweight Championship). John Cena không chấp nhận thất bại và anh tranh đai với Randy Orton tại Royal Rumble 2014. Gần cuối trận, the Wyatt Family lên sàn đấu thu hút chú ý của Cena khiến Orton làm RKO Cena và giữ được đai. Tại Wrestlemania 30 anh đã đánh bại Bray Wyatt bằng một Attitude Adjustment.Nhưng tại Extreme Rules,Cena đã thất bại trước Bray trong lồng sắt ngay cả khi đã khiến cả nhà Wyatt nằm sàn. Cena bị mất tập trung bởi 1 cậu bé hát:He got the whole world....in his han. Tận dụng thời cơ, Bray làm Síster Abigail và chiến thắng.Tại Payback,John Cena đã giành chiến thắng trước Bray trong một trận đấu Last Man Standing sau 3 lần AA,Cena cũng phải chịu 2 lần Sister Abigail. Sau đó anh tiến vào võ đài phê phán sự điều hành của Stephanie McMahon và buộc phải có một trận đấu với Kane. Theo luật chống phạm quy Cena chiến thắng. Kane định dùng đòn Tombstone Piledriver nhưng Cena thoát và dùng thang bậc ném vào đối thủ. Sau này, trước sự phản bội của Seth Rollins, The Shield đã hợp tác với Cena để đối mặt với Evolution. Và Cena cùng với The Shield đã giành chiến thắng trước Wyatt Family. Không lâu sau anh tham gia trận đấu 3 chấp 4 cùng với Sheamus và Roman Reigns vs Randy Orton, Alberto Del Rio, Cesaro và Bray Wyatt. Đội anh đã giành chiến thắng. Tại một show Raw, khi mà 2 chiếc đai WWE World Heavyweight Championship vô chủ, Triple H đã sắp xếp cho anh có một trận đâu tranh suất vào trận WHC Title tại Money in the Bank với Kane theo thể thức đẩy cán. John Cena đã chiến đấu hết mình nhưng rồi giữa trận thì Randy Orton và Seth Rollins ra tấn công Cena, Dean Ambrose lập tức lao ra giải nguy cho anh và rồi bị Kane cho ăn Chokeslam, Cena đã tặng cho Kane cú AA lên cán rồi đẩy Kane qua vạch vôi, anh giành chiến thắng và có một suất vào tranh đai WHC với 6 super star khác. Tại show Money In the Bank, John Cena đã lấy được 2 đai WWE World Heavyweight Championship sau khi đánh bại 6 đối thủ (Randy Orton, Kane, Bray Wyatt, Roman Reigns, Cesaro,Alberto Del Rio). Đây là lần thứ 15 Cena vô địch WWE World Heavyweight Championship (12 lần WWC, 3 lần WHC) và là người vô địch WHC nhiều nhất trong lịch sử WWE, phá vỡ kỷ lục 14 lần do chính anh lập nên. Sau khi trở thành nhà vô địch, Nhóm Quyền Lực của WWE không hài lòng nên dùng Kane tấn công anh tại một show Raw bằng cú Tombstone và cho người thắng Money in the Bank 2014 là Seth Rollins lên để pin anh tuy nhiên Seth lại bị đồng đội cũ là Dean Ambrose cho ăn đòn và Roman lên tặng cho Kane cú Spear để giải thoát cho Cena. Chưa dừng lại ở đó Triple H còn sắp xếp cho anh có một trận đấu Fale 4 ways tại Battelground với Kane, Orton và Roman Reings. Tại Battleground John Cena và Roman đã hoàn toàn áp đảo Kane và Orton, Roman đang pin Kane thì Orton lên phá pin và tặng cho Roman cú RKO, John Cena cũng tung AA Orton lên Kane và pin thành công. Anh đã bảo vệ thành công danh hiệu vô địch WWE World Heavyweight Championship. Triple H vẫn độc tài và ông muốn 2 chiếc đai thuộc về nhóm Quyền Lực nên đã để cho Paul Heyman dùng plan C là cho Brock Lesnar trở lại WWE và sẽ có trận đối đầu với Cena tại Summer Slams 2014. Một Show Raw kỷ niệm sinh nhật 61 tuổi của Hulk Hogan, khi mọi người đang vui vẻ thì Brock Lesnar xuất hiện và có thái độ bất kính thách thức các vị cựu đô vật. John Cena xuất hiện kịp thời và giải nguy. Brock chấp nhận ra về. Tại Summer Slam 2014, Brock Lesnar đã hoàn toàn áp đảo Cena từ đầu trận đến cuối trận, Cena phải liên tiếp chịu những cú đấm và Suplex của Brock. Cena chỉ kịp tung vài cú đấm, 1 AA, 1 đòn khóa STF nhưng hầu như không thể khiến cho Brock khuất phục. Brock đã tung ra 16 cú suplex vào Cena trong trận đấu này. Brock đã mong muốn Cena chịu thua, sớm nhường đai nhưng Cena không chịu. Brock đã tung cú F5 và pin. Brock Lesnar chính thức lấy mất và trở thành tân WWE World Heavywieght Champion. Cena đã hoàn toàn đuối sức trước một mãnh thú thật sự. Sau trận đấu, John Cena đã dùng điều khoản lấy lại đai của WWE. Anh đã ký kết để đánh trận Night Of Champion và đòi lại đai World Heavyweight Champion. Trận đấu sẽ được diễn ra vào ngày 21 tháng 9. Ngày 21 tháng 9, John Cena đã có trận đấu với Brock Lesnar tại Night Of Champions. Anh đã thực hiện 4 cú AA lên Brock nhưng vẫn chưa thể dành chiến thắng. Anh khi đang trong trận đấu thì bỗng nhiên Seth Rollins xuất hiện và đánh anh. Theo luật thì John Cena thắng vì đã bị đánh do có can thiệp nhưng trong luật thì anh chỉ có thể thắng bởi pin hoặc đòn khóa nên Brock Lesnar vẫn được cầm đai. Sau trận đấu, Brock tiếp tục Làm cú F5 lên John Cena. Tại Hell In A Cell vào ngày 26 tháng 9, John Cena giành chiến thắng Randy Orton. Nhờ đó, tại PPV, John Cena sẽ tranh đai với Brock. Ở Survivor Series ngày 23 tháng 11, nhóm anh gồm có anh, Big Show, Erick Rowan, Dolph Ziggler và Ryback đã đánh bại nhóm quyền lực gồm có Rusev, Luke Harper, Mark Henry, Seth Rolinns và Kane qua đó khiến cho Triple H và Stephanie McMahon mất đi quyền lực của mình. Sau đó tại Suvivor Seirie Cena sẽ chạm trán Seth Rollins trong trận tables match với điều kiện nếu thắng Cena vẫn giữ number một contender vs Brock Lesnar tại Royal Rumble. Còn ngược lại nếu thua Cena sẽ mất quyền tham dự trận Royal Rumble. Cena bước vào trận đấu rất tự tin và anh nắm quyền chủ động trong trận đấu. Cena đã AA Rollins qua cái bàn nhưng lúc đó trọng tài không thấy nên trận đấu vẫn được tiếp tục. Cena đặt hai cái bàn sau võ đài và bất ngờ đã xảy ra khi Cena và Rollins đều ngã xuống bàn và bất phân thắng bại. Sau đó,trọng tài đã cho trận đấu dược rematch.và Big Show vào can thiệp và đúng lúc đó Roman Reigns returns và spear Big Show vào cái bàn và Cena nắm bắt thời cơ và AA Rollins vào cái bàn và Cena won và still number1 conterder và Paul Heyman không hài lòng về kết quả đó. Sau đó tại sự kiện Royal Rumble 2015, anh được xếp trận tranh đai cùng Brock Lesnar và Seth Rollins cũng được nhóm quyền lực xếp chung trận nhưng anh không thể thắng được quái vật Brock Lesnar. Brock vẫn giữ được đai. Sau đó anh có mối thù mới với Rusev do tên này có lời lẽ xúc phạm Hoa Kỳ. Tại Wrestlemania 31 anh được trao cơ hội tranh đai với Rusev và anh đã chiến thắng, qua đó trở thành nhà tân vô địch nước Mĩ. Tại Extreme Rules 2015, anh và Rusev có trận tranh đai bởi đấu xích kiểu Nga. Sau gần 20 phút chiến đấu và 2 đòn AA anh đã có chiến thắng qua đó giữ vững chiếc đai vô địch. Tại Payback, trong trận "i quit", sau khi dùng dây thừng khóa cổ Rusev trong thế STF anh dành chiến thắng và bảo vệ danh hiệu của mình. Tại Elimination Chamber, anh đã để thua Kevin Owens trong trận Champion vs Champion. Tại trận tái đấu Money in the bank anh đã đánh bại Kevin Owens và cũng làm được điều đó trong trận tranh đai nước Mĩ tại Battleground. Tại Summer Slam năm nay, do có mối thù bị Seth Rollins làm cho gãy mũi nên sẽ có một trận tranh Đai giữa US Champion của anh và WHC của Seth Rollins. Tại Summer Slam, Cena mất đai vô địch Mỹ vào tay Seth Rollins do có sự trở giúp của Jon Stewart. Anh đã giành lại đai trong trận tái đấu ở Night Of Champions. Kể từ sau Night of Champions, Cena không có mối thù với ai. Tại Hell in a Cell 2015, đã có sự bất ngờ khi Cena mất đai vào tay Alberto del Rio, cựu WWE Champions. Sau Hell in a Cell 2015, Cena đã xin nghỉ một thời gian và dự kiến Cena sẽ trở lại vào ngày 26/12/2015 tại Madison Square Garden. Tại Raw 28/12/2015, Jonh Cena trở lại và có trận tranh đai US Champion với Del Rio. Tuy nhiên khi anh vừa AA Del Rio thì đồng đội Del Rio là Sheamus và Rusev lên tấn công anh. The Usos lên cứu anh nhưng cũng bị ăn đánh. Phải đến khi Roman Reigns lên thì anh và Usos mới được cứu. Tại RAW tuần sau, anh giới thiệu Kalisto lên đánh Del Rio và Kalisto thắng. Sau đó thì anh nghỉ một thời gian. Tại Wrestle Mania 32, anh bất ngờ trở lại và cùng The Rock hạ nhà Wyatt. Tại RAW 30/5/2016, Cena trở lại nhưng bị The Club và Aj Styles đánh nhừ tử. Tại RAW ngày 6/6/2016,Cena cùng với The New Day đánh nhau với The Club và AJ Styles. Ở RAW ngày 13/6, John Cena và AJ Styles ký hợp đồng cho trận đấu ở Money in the Bank, nhưng sau đó anh đã thua Aj Styles. Tại WWE Draft, anh được draft sang Smackdown Live. Tại Battleground, anh liên minh với Enzo & Cass đánh bại The Club. Cena và AJ Styles tiếp tục đấu với nhau 1 trận nữa nhưng anh đã thua sau khi dính 2 Styles Clash và 2 Phenomenal Forearm. Anh trở lại và góp mặt trong trận tay ba tranh Chức vô địch Thế giới WWE với AJ Styles (champ) và Dean Ambrose (cựu thành viên của Shield. Trước khi đến ngày tranh chức vô địch, anh đã bị Dean Ambrose đánh bại tại WWE SmackDown ngày 20/9/2016. Anh bị AJ đập ghế vào lưng và thua. Sau đó anh lại vắng mặt và không có mặt tại TLC. Tại Royal Rumble 2017, anh đã có chiến thắng ngoạn mục trước AJ Styles và trở thành tân WWE Champion,từ đó kỷ lục 16 lần World Heavyweight Champion của Ric Flair đã ngang hàng với John Cena. Sau đó, anh đánh cặp với Luke Harper để chống lại The Wyatt Family ở show Smackdown tiếp theo,trong lúc còn chú ý đến Bray,anh đã bị Randy cho RKO và thua trận, sau đó show Smackdown cuối cùng trước Elimination Chamber thông báo anh sẽ phải bảo vệ đai của mình trước năm cái tên khác và những cái tên đó đã lộ diện gồm: AJ Styles, Bray Wyatt, Dean Ambrose, Baron Corbin và The Miz, cũng trong đêm đó, anh đã trả thù thành công Randy sau khi Luke Harper lên phá lúc trọng tài phải nằm ngoài, kết quả là do không chú ý đến đối thủ của mình, Randy đã bị Cena tặng cho AA và thua trận, tại Elimination Chamber, trong trận đấu 6 người trong chiếc lồng cùng tên, Cena bị Bray hạ gục bằng đòn Sister Abigail. Bray sau đó hạ AJ kết thúc trận đấu, chính thức giành danh hiệu. Sự nghiệp diễn xuất Điện ảnh WWE Studios, cơ quan của WWE, đã sản xuất bộ phim đầu tiên của Cena: The Marine bắt đầu từ ngày 13 tháng 10 năm 2006. Trong tuần đầu tiên ra mắt, bô phim đã thu về xấp xỉ 7 triệu Dollar ở nước Mỹ. Sau mười tuần được chiếu trên rạp, bộ phim đã đem lại 18,7 triệu Dollar. Một lần, bộ phim được thu trên DVD, tạo thu nhập lớn hơn, thu về 30 triệu Dollar trong mười hai tuần đầu Bộ phim thứ hai của Cena, cũng do WWE Studios sản xuất là 12 Rounds (12 vòng sinh tử). Bộ phim bắt đầu vào ngày 28 tháng 2 năm 2008, và được trình chiếu vào ngày 27 tháng 3 năm 2009. trong chương trình của RAW ngày 13 tháng 7 năm 2009, người ta công bố rằng bộ phim 12 Rounds của Cena đã đứng đầu trong số các đĩa DVD hàng đầu tại Mỹ. Anh còn đóng vai bố của Fred Figglehorn trong bộ phim Fred: The Movie, một bộ phim dựa trên một series được trình chiếu trên Youtube. Theo kế hoạch, bộ phim sẽ được ra mắt ngày 2 tháng 4 năm 2010. Cena sẽ ra mắt bộ phim thứ ba: Legendary trong ngày 10 tháng 9 sắp đến. Ngoài ra, Cena từng là khách mời đặc biệt trong phim truyền hình Hannah Montana Forever tập Love that let's go với vai trò là người dạy cho nhân vật Jackson một bài học nhớ đời về đọc sách. Khách mời đặc biệt Trước khi xuất hiện lần đầu tại WWE, Cena xuất hiện trong show Go Sick trên Internet năm 2001. Trong khi đang thi đấu cho WWE, Cena cũng đã tham gia chương trình Jimmy Kimmel Live! ba lần. Ngoài ra, Cena còn xuất hiện trong các chương trình radio buổi sáng bao gồm chương trình Opie and Anthony của CBS và XM vào ngày 10 tháng 10 năm 2006. Các lần xuất hiện khác là vào các chương trình: Late Night with Conan O'Brien, Fuse's Celebrity Playlist, The Best Damn Sports Show Period của Fox Sports Net, MADtv, G4's Training Camp (cùng với Shelton Benjamin), hai lần xuất hiện trong Punk'd của MTV (Tháng 8 năm 2006 và Tháng 5 năm 2007). Cena còn tham gia với Hulk Hogan tại Teen Choice Awards năm 2005, là khách mời của Nashville Star năm 2006, và xuất hiện tại Nickelodeon UK Kids Choice Awards năm 2007. Trong tháng 1 năm 2007, Cena, Batista và Ashley Massaro đại diện cho WWE xuất hiện tại một chương trình của Extreme Makeover: Home Edition. Hai tháng sau, Cena và Bobby Lashley xuất hiện trong chương trình trò chơi truyền hình của NBC: Deal Or No Deal, Edge và Randy Orton cũng tham gia show đó. Ngày 9 tháng 4 năm 2008, Cena cùng Triple H và Chris Jericho xuất hiện trong chương trình Idol Gives Back. Trong tháng 3 năm 2009, Cena xuất hiện trong chương trình Saturday Night Live lúc mở đầu. Ngày 7 tháng 3 năm 2009, Cena là vị khách của chương trình Wait Wait... Don't Tell Me! của kênh NPR. Truyền hình Năm 2001, trong khi luyện tập tại Ultimate Pro Wrestling và Ohio Valley Wrestling, Cena tham gia chương trình thực tế reality show Manhunt khi Cena đóng vai Big Tim Kingman Cena còn tham gia chương trình của kênh ABC Fast Cars and Superstars: The Gillette Young Guns Celebrity Race, vào tháng 6 năm 2007, và lọt vào vong chung kết trước khi bị loại vào ngày 24 tháng 6, và đứng thứ ba chung cuộc. Trong năm 2007, Cena còn tham gia phỏng vấn trong chuyên mục CNN Special Investigations Unit của CNN: Death Grip: Inside Pro Wrestling. Cena là người dẫn chương trình của Nickelodeon Kids Choice Awards ở Melbourne, Australia vào ngày 11 tháng 10 năm 2008 cùng với Natalie Bassingthwaighte Năm 2008, Cena đóng một phim quảng cáo, một phần của chiến dịch NASCAR Gillette's "Young Guns". Năm 2009, anh mở rộng quan hệ với Gillette bằng cách giới thiệu một chiến dịch mới trên mạng có tên gọi "Be a superstar" (làm một ngôi sao) Ngày 27 tháng 1 năm 2010, Cena đã tham gia vào series chương trình Psych của kênh USA Network, anh đóng vai Ewan O'Hara, anh trai của Juliet O'Hara. Sự nghiệp âm nhạc Ngoài thời gian thi đấu, Cena còn là một ca sĩ nhạc hip hop. Chính Cena biểu diễn bài hát theme song "Basic Thugonomics" thứ năm của WWE và nó được thu trên album soundtrack của WWE Originals. Anh còn thu bài hát Untouchables cho album soundtrack thứ hai của công ty WWE ThemeAddict: The Music, Vol. 6. Anh còn biểu diễn bài H-U-S-T-L-E remix cùng với MURS, E-40 và Chingo Bling Album đầu tay của Cena, You Can't See Me được ghi âm cùng với anh họ Tha Trademarc. Nó bao gồm hầu hết các bài hát khác của Cena. Và cả bài hát nhạc nền khi Cena đi ra thi đấu: The Times Is Now và bài Bad, Bad Man, bao gồm cả chương trình truyền hình The A-Team. Một video khác: Right Now, được ra mắt vào ngày 8 tháng 8 trong RAW. Cena và Tha Trademarc sau đó còn cho ra mắt một track bởi The Perceptionists với tên gọi "Champion Scratch". Album You Can't See Me Ngày phát hành: 10 tháng 5 năm 2005 Vị trí trên bảng: 15 U.S. Billboard 200, 10 U.S. Top R&B/Hip-Hop Albums, 3 U.S. Rap, 103 UK Albums Chart Album đơn: "The Time Is Now", "Bad Bad Man" (với Bumpy Knuckles), "Right Now". Chiêu thi đấu Double Attitude Adjustment Tornado DDT Springboard Stunner Flying shoulder block Side slam Five Knuckle Shuffle Fisherman suplex One-handed bulldog Sunset Flip Powerbomb STF Lightning Fist Các đai vô địch và danh hiệu Ohio Valley Wrestling OVW Heavyweight Championship (1 lần) OVW Southern Tag Team Championship (1 lần) - với Rico Constantino Pro Wrestling Illustrated Mối thù hay nhất trong năm (2006) với Edge Mối thù hay nhất năm (2011) với CM Punk Trận đấu của năm (2007) với Shawn Michaels vào ngày 23 tháng 4 Đô vật tiến bộ nhất trong năm (2003) Đô vật được yêu thích nhất trong năm (2004, 2005, 2007) Đô vật của năm (2006, 2007) Bầu chọn đứng thứ 1 trong PWI 500 đôi vật năm 2006, 2007 và 2013 Trận đấu của năm (2011) với CM Punk vào Money In The Bank 2011 Trận đấu của năm (2013) với Daniel Bryan vào SummerSlam Đô vật nổi tiếng nhất năm (2004, 2005, 2007, 2012) Ultimate Pro Wrestling UPW Heavyweight Championship (1 lần) World Wrestling Entertainment WWE Championship (16 lần) World Heavyweight Championship (3 lần) WWE United States Championship (5 lần) World Tag Team Championship (2 lần) - 1 lần với Shawn Michaels, 1 lần với Batista Thắng trận Royal Rumble năm 2008, 2013 WWE Tag Team Championship (2 lần) 1 lần với David Otunga và 1 lần với Miz Money in the bank (2012) Giải Slammy Award cho siêu sao của năm (2009, 2010, 2012) Giải Slammy Award cho Holy $#!+ Move của năm (2010) khi ra đòn Attitude Adjustment làm Batista rơi xuống sàn Giải Slammy Award cho nụ hôn của năm (2012) với AJ Lee Giải Slammy Award cho trận đấu của năm (2013) với Rock tại Wrestle Mania XXIX, (201)4 - Đội Cena vs Nhóm Quyền lực tại Survivor Series Giải Slammy Award cho người thay đổi trận đấu của năm (2011) với Rock Giải Slammy Award cho sự sỉ nhục của năm (2012) đối với Vickie Guerrero và Dolph Ziggler Giải Slammy Award cho anh hùng của tất cả chúng ta (2015) Wrestling Observer Newsletter Đô vật của năm (2006, 2007) Best Box Office Draw (2007) Best on Interviews (2007) Most Charismatic (2006–2008) Best Gimmick (2003) Super Star of the year (2008) Super Star of the year (2009) Super Star of the year (2010) Super Star and Wrestler in year(2007, 2010) Mối thù của năm (2011) với CM Punk Wrestling Observer Newsletter Hall of Fame (2012) Trận đấu tồi tệ nhất của năm (2012) với John Lảurinaitis tại Over The Limit Mối thù tồi tệ nhất năm (2012) với Kane Đô vật hấp dẫn nhất năm (2006-2010) Đô vật hấp dân nhất thiên niên kỉ (2000-2009) Chú thích
Tinh vân Mắt Mèo (NGC 6543) là một tinh vân hành tinh trong chòm sao Thiên Long. Về mặt cấu trúc, nó là một trong những tinh vân phức tạp nhất đã được quan sát, với các ảnh chụp từ Kính viễn vọng Không gian Hubble cho thấy các cấu trúc như các nút thắt, các tia phụt ra hay các đường cung. Nó được khám phá bởi William Herschel ngày 15 tháng 2 năm 1786, và là tinh vân hành tinh đầu tiên có quang phổ được nghiên cứu, bởi nhà thiên văn nghiệp dư người Anh William Huggins vào năm 1864. Các nghiên cứu hiện đại cho thấy nhiều điều bí hiểm về tinh vân này. Độ phức tạp của cấu trúc có thể là do các vật chất bị phụt ra từ một sao đôi trung tâm, tuy nhiên, chưa có một bằng chứng trực tiếp về sự hiện diện của sao đi kèm với sao trung tâm. Ngoài ra, việc đo đạc nồng độ các chất hóa học cho thấy sự khác biệt lớn giữa kết quả đo bằng hai phương pháp khác nhau; một sự khác biệt vẫn chưa được giải thích. Thông tin chung NGC 6543 là một tinh vân hành tinh được nghiên cứu nhiều. Nó khá sáng, với cấp sao biểu kiến 8.1, và cũng có độ sáng bề mặt lớn. Nó nằm tại xích kinh 17h 58.6m và xích vĩ +66°38'. Xích vĩ cao của nó cho phép nó có thể được quan sát dễ dàng từ bắc bán cầu Trái Đất, nơi mà đa số các kính thiên văn trước đây được lắp đặt. NGC 6543 nằm gần như trùng với hướng đến Cực bắc hoàng đạo. Phần tinh vân sáng phía trong khá nhỏ, với đường kính 20 arcsec, nó có quầng hào quang lớn, chứa các vật chất do ngôi sao trung tâm phóng ra trong giai đoạn nó còn là sao đổ khổng lồ. Quầng hào quang này có đường kính 386 arcsec (6,4 arcmin). Các quan sát cho thấy phần trung tâm của tinh vân có mật độ 5.000 hạt/cm³ và nhiệt độ khoảng 8.000 K. Quầng hào quang bên ngoài có nhiệt độ cao hơn, vào cỡ 15.000 K và mật độ thấp hơn nhiều. Sao trung tâm của NGC 6543 là một sao loại O, có nhiệt độ bề mặt khoảng 80.000 K. Nó sáng gấp 10.000 lần Mặt Trời, trong khi bán kính của nó chỉ bằng 0,65 lần Mặt Trời. các nghiên cứu quang phổ học cho thấy ngôi sao này đang mất dần khối lượng do phóng ra gió sao với tốc độ 3,2×10−7 khối lượng Mặt Trời mỗi năm - tức khoảng 20 nghìn tỷ tấn mỗi giây. Tốc độ của gió này là 1900km/s. Các tính toán cho thấy sao trung tâm có khối lượng chỉ hơn Mặt Trời chút xíu, tuy nhiên lần ngược về quá khứ, nó có khối lượng ban đầu khoảng 5 lần Mặt Trời. Quan sát Tinh vân này được William Herschel tìm thấy ngày 15 tháng 2 năm 1786, và là tinh vân hành tinh đầu tiên được quan sát với phổ kế, bởi William Huggins năm 1864. Quan sát của Huggins là dấu hiệu đầu tiên cho thấy tinh vân hành tinh này chứa các khí có mật độ rất thấp (rất loãng). Từ những quan sát đầu tiên này, NGC 6543 đã được nghiên cứu kỹ lưỡng trong toàn dải phổ điện từ. Quan sát hồng ngoại Quan sát NGC 6543 ở các bước sóng hồng ngoại cho thấy sự hiện diện của bụi nằm bao bọc quanh tinh vân ở nhiệt độ thấp. Bụi được cho là hình thành ở giai đoạn cuối của vòng tiến hóa của sao trung tâm. Các hạt bụi hấp thụ ánh sáng của sao trung tâm và tỏa ra bức xạ vật đen có cực đại ở vùng hồng ngoại. Phổ phát xạ của các hạt bụi cho thấy nhiệt độ của chúng vào cỡ 70 K. Bức xạ hồng ngoại cũng cho thấy sự có mặt của các vật chất chưa bị ion hóa như phân tử hiđrô (H2). Trong nhiều tinh vân hành tinh, bức xạ của các phân tử mạnh hơn ở khoảng cách xa sao hơn, khi có nhiều vật chất chưa bị ion hóa hơn. Tuy nhiên bức xạ của phân tử hiđrô ở NGC 6543 lại sáng hơn ở phần trong. Lý do có thể là các phân tử hiđrô bị kích thích bởi sóng sốc do các vật chất phóng ra từ sao trung tâm chuyển động với tốc độ khác nhau và va vào nhau. Quan sát quang học và tử ngoại NGC 6543 được quan sát rất nhiều trong vùng tử ngoại và quang phổ. Các quan sát phổ học tại các bước sóng này cho phép xác định thành phần hóa học của tinh vân, đồng thời cho thấy cấu trúc phức tạp của nó. Kính viễn vọng Không gian Hubble trình bày trong phần này dùng màu giả, để cho thấy rõ các vùng bị ion hóa nhiều hay ít. Nó được ghép lại từ ba ảnh chụp riêng rẽ, lọc ra bước sóng của hiđrô bị ion hóa một lần (656,3 nm), nitơ bị ion hóa một lần (658,4 nm) và oxy bị ion hóa hai lần (500,7 nm). Các ảnh này khi được ghép lại dùng kênh đỏ, xanh lục và xanh lam, dù rằng màu thực của chúng là đỏ, đỏ và xanh lục. Ảnh này cho thấy hai cùng vật chất ít bị ion hóa ở rìa tinh vân. Quang sát tia X Các quan sát trong vùng tia X được thực hiện gần đây bởi Đài quan sát tia X Chandra. Chúng cho thấy sự có mặt của các khí rất nóng nằm trong NGC 6543. Ảnh chụp nằm trên đầu bài viết này là tổng hợ từ ảnh quang học của Kính viễn vọng Không gian Hubble với ảnh chụp bởi Đài quan sát tia X Chandra. Có thể các chất khí nóng là keest quả của tương tác rất dữ dội giữa dòng gió sao chuyển động nhanh với các vật chất bị phóng ra từ trước đó. Tương tác này làm cho vùng bên trong của tinh vân bị rỗng. Ảnh chụp của Đài quan sát tia X Chandra cũng cho thấy các tia X được phóng ra từ một tâm điểm nằm đúng vị trí của sao trung tâm. Các lý thuyết không hề tiên đoán rằng sao trung tâm phát ra nhiều tia X, do đó đây là một điều bí ẩn. Điều này có thể gợi ý về swuj có mặt của một đĩa bồi đắp trong hệ sao đôi. Khoảng cách Thường khoảng cách đến các tinh vân hành tinh khó có thể xác định chính xác. Có nhiều phương pháp để ước lượng khoảng cách tới các tinh vân hành tinh dựa trên các giả thuyết tổng quát, và có thể không chính xác đối với từng đối tượng cụ thể. Những năm gần đây, quan sát bởi Kính viễn vọng Không gian Hubble cho phép áp dụng phương pháp mới. Hầu hết các tinh vân hành tinh đều đang giãn nở, các quan sát cách nhau nhiều năm với độ phân giải góc lớn co thể giúp đo khoảng cách góc giãn nở. Thông thường đường kính của các tinh vân hành tinh chỉ tăng thêm vài miliarcsec mỗi năm. Quan sát quang phổ học giúp xác định vận tốc của các phần giãn nở trong tinh vân, dọc theo phương quan sát, sử dụng hiệu ứng Doppler. So sánh khoảng cách góc giãn nở với vận tốc giãn nở, khoảng cách đến tinh vân có thể được tìm ra. Các quan sát của Kính viễn vọng Không gian Hubble về NGC 6543 trong nhiều năm đã cho thấy tinh vân này đang nở ra với tốc độ 10 miliarcsec mỗi năm. Các quan sát quang phổ học với tinh vân này vận tốc giãn nở tuyệt đối dọc theo phương quan sát là 16,4 km/s. Các kết quả này cho thấy NGC 6543 đang ở khoảng cách 1000 parsec (3×1019 m) so với Trái Đất. Tuổi Độ giãn nở trong kích thước góc của tinh vân cũng có thể được dùng để ước lượng tuổi của tinh vân. Nếu giả thiết rằng tinh vân luôn giãn nở với tốc độ không đổi, thì để đạt kích thước góc 20 arcsec với tốc độ 10 miliarcsec mỗi năm; nó đã phải giãn nở như vậy trong vòng 1000 năm qua. Đây có thể là giới hạn trên cho tuổi của tinh vân, do các vật chất được phóng ra sẽ đi chậm dần lại do van chạm với các vật chất đã bị phóng ra từ trước trong các gia đoạn sớm hơn trong vòng đời của sao trung tâm, cũng như va chạm với không gian liên sao. Thành phần hóa học Giống như đa số các thiên thể, NGC 6543 chứa chủ yếu là hiđrô và heli, và lượng nhỏ các nguyên tố hóa học nặng hơn. Thành phần hóa học chính xác có thể được xác định bởi nghiên cứu quang phổ của tinh vân. Nồng độ các chất thường được so sánh với hiđrô, nguyên tố chiếm đa số. Các nghiên cứu khác nhau thường cho các kết quả đo hơi khác nhau. Lý do là các quang phổ kế đi kèm với các kính viễn vọng thường không thu thập hết mọi ánh sáng từ thiên thể mà chỉ thu ánh sáng từ một phần của nó, qua các khe hẹp. Điều này nghĩa là, các quan sát khác nhau do lấy mẫu các phần khác nhau của tinh vân. Tuy nhiên, kết quả đo với NGC 6543 thường cho thấy, so với hiđrô, nồng độ heli là 0,12, cácbon và nitơ là 3×10−4, oxy là 7×10−4. Đây là các giá trị gần với các kết quả thu được trên các tinh vân hành tinh khác, trong đó cácbon, nitơ và oxy đều nhiều hơn so với Mặt Trời. Lý do là quá trình tổng hợp hạt nhân đã kéo dài trong suốt vòng đời của sao trung tâm, lâu hơn so với Mặt Trời, đã làm vật chất trong sao giàu các nguyên tố này hơn trước khi chúng được phóng ra thành tinh vân hành tinh ở giai đoạn cuối của sao. Các nghiên cứ chi tiết về phổ của NGC 6543 cho thấy tinh vân này chứa các phần vật chất nhỏ rất giàu các nguyên tố nặng; các nghiên cứu này được bàn đến bên dưới. Động học và cấu trúc Tinh vân Mắt Mèo có cấu trúc phức tạp, và cơ chế tạo nên những cấu trúc này vẫn chưa được hiểu rõ. Cấu trúc phần sáng của tinh vân được sinh ra do tương tác giữa dòng gió sao chuyển động nhanh, phát ra từ sao trung tâm với các vật chất bị phóng ra trong giai đoạn trước đó của sao. Tương tác này tạo ra vùng có nhiệt độ cao và bức xạ tia X như nhắc đến bên trên. Trong tương tác này, gió sao đã quét rỗng vùng bên trong của tinh vân. Cũng có bằng chứng cho thấy phần trung tâm của tinh vân là hệ sao đôi. Hệ này co stheer tạo ra đĩa bồi đắp làm vật chất chuyển từ sao này sang sao kia và tạo ra dòng phụt vật chất từ vùng cực của đĩa. Dòng phụt này sẽ tương tác dữ dội với các vật chất đã phóng ra trước đó, bức xạ ra tia X. Theo thời gian, hướng phun vật chất từ đĩa bồi đắp sẽ thay đổi theo sự tiến động của trục đĩa. Bên ngoài vùng sang trung tâm của tinh vân, có các vòng đồng tâm, có thể là đã được phóng ra trước khi tinh vân hình thành, khi sao trung tâm còn ở giai đoạn sao đỏ khổng lồ trên biểu đồ Hertzsprung-Russell. Các vòng này cách đều nhau, cho thấy cơ chế phóng vật chất ra dao động đều đặn, với các khoảng cách thời gian và tốc độ phóng vật chất bằng nhau. Bên ngoài cùng, một hào quang mờ mở rộng ra tới những khoảng cách lớn. Hào quang này cũng được tạo ra từ lâu trước khi tinh vân chính được hình thành. Những điều cần giải đáp Dù cho đã được nghiên cứu nhiều, Tinh vân Mắt Mèo vẫn có nhiều điều bí hiểm. Các vòng đồng tâm có vẻ như được phóng ra ở các khoảng cách thời gian là vài trăm năm, đây là hiện tượng khó giải thích với mô hình hiện nay về tiến hóa của sao. Sự dao động nhiệt, được cho là khởi đầu quá trình tạo ra tinh vân, có chu kỳ cỡ mười nghìn năm, trong khi các dao động bề mặt được cho là diễn ra theo chu kỳ vài năm đến vài thập kỷ. Chưa có cơ chế nào được biết có khả năng giải thích các vòng đồng tâm của Tinh vân Mắt Mèo. Phổ của tinh vân chứa các vạch phổ phát xạ chồng lên nền bức xạ liên tục. Các vạch phổ phát xạ có thể được tạo ra do kích thích va chạm giữa các ion trong tinh vân, hay bởi sự tái hấp thụ electron vào với ion. Các vạch phổ do kích thích va chạm thường sáng hơn nhiều các vạch do tái hập thụ electron, và thường được dùng để xác định nồng độ các chất hóa học trong tinh vân. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây tìm nồng độ các chất hóa học từ các vạch phổ tái hấp thụ của NGC 6543 cho kết quả cao gấp khoảng ba lần kết quả truyền thống, thu từ vạch phổ do kích thích va chạm. Chưa có kết luận dứt khoát về nguyên nhân của sai khác này. Cách giải thích hiện có bao gồm: sự có mặt của một bộ phận vật chất giàu nguyên tố nặng, hay sự dao động mạnh về nhiệt độ giữa các phần của tinh vân. Chú thích
Chàng Lía (1760 - 1779), là một thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân ở Đàng Trong thời Chúa Nguyễn vào thế kỉ 18, được biết đến nhiều qua miếng võ "cú nhảy cá lóc". Khi khởi nghĩa chống chúa Nguyễn thất bại, chàng Lía đã phẫn uất mà tự sát. Truyền thuyết Cú nhảy cá lóc Lúc nhỏ, Lía vì nhà nghèo nên phải đi chăn trâu thuê cho địa chủ trong vùng. Lía thường tổ chức chơi trò đánh trận với các trẻ em chăn trâu. Một lần, tình cờ trông thấy một chú cá lóc vọt phốc từ dưới nước lên qua một bờ đất cao, Lía nảy ý muốn học thế nhảy này. Hàng ngày, Lía đào một cái hố, rồi đứng dưới hố bắt chước theo thế nhảy của cá lóc nhảy vọt lên. Do khổ luyện nên khả năng của Lía mỗi ngày một tăng. Theo truyền thuyết, sau khi tập luyện thành công cú nhảy cá lóc, Lía có thể tung người nhảy vọt qua khỏi nóc nhà. Cũng nhờ cú nhảy cá lóc, Lía đã nhiều lần thoát thân khi đi cướp của người giàu chia cho dân nghèo hay những lúc đánh nhau với quân lính. Lía tuy giỏi võ, nhưng Lía từng có một lần phải chịu thất bại thảm hại khi đánh nhau với một người phụ nữ. Người phụ nữ này chính là mụ Mẫn, người bán thịt heo cũng thuộc dạng giàu có. Đêm đó Lía đến để cướp nhưng đã bị mụ Mẫn đánh bại. Lía đánh không lại đành phải dùng cú nhảy cá lóc vọt qua tường rào để chạy thoát thân. Nguyên nhân khởi nghĩa Giữa thế kỷ 18, chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong suy yếu dần. Việc mua quan chức phổ biến. Số quan lại ngày càng tăng, nhất là quan thu thuế. Có nơi một xã có 20 xã trưởng và hàng chục nhân viên thu thuế (gọi là tướng thần). Quan lại, cường hào kết thành bè cánh đàn áp bóc lột nhân dân thậm tệ, đua nhau ăn chơi xa xỉ. Trương Phúc Loan nắm hết quyền hành, tự xưng "quốc phó", khét tiếng tham nhũng ở triều đình Phú Xuân.Quan tham nhũng ở khắp nơi, vàng bạc đầy nhà Nông dân bị địa chủ cường hào lấn chiếm ruộng đất. Nhân dân đồng bằng phải nộp nhiều thứ thuế, nhân dân miền núi phải nộp lâm thổ sản. Cuộc sống nhân dân ngày càng khổ cực. Nỗi bất bình oán giận cua các tầng lớp xã hội đối với chính quyền họ Nguyễn ngày càng dâng cao. Cuộc khởi nghĩa chàng Lía đã bùng lên trong hoàn cảnh đó. Diễn biến Căn cứ khởi nghĩa của chàng Lía là Truông Mây, ngày nay thuộc địa phận xóm Ba, thôn Phú Thuận, xã Ân Đức, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, cách huyện lỵ khoảng 3 km. Lía xuất thân từ một gia đình nghèo khổ. Vì bất bình cảnh quan lại hà hiếp và bóc lột người dân, Lía đã phất cờ khởi nghĩa và nhận được sự giúp đỡ ủng hộ nhiệt tình của nhiều nông dân nghèo. Sau khi được đông đảo nhân dân ủng hộ Lía lập căn cứ vững chắc ở Truông Mây. Nghĩa quân Lía hoạt động với chủ trương "cướp của người giàu chia cho người nghèo". Lía đã từng thử đi thi tuyển nhưng thấy cảnh quan lại ăn hối lộ nên Lía tức mình đem quân đi giết các quan phủ hối lộ. Quân Nguyễn đã cố gắng đàn áp nghĩa quân sau nhưng vẫn không tài nào diệt được Lía. Biết không thể dùng vũ lực nên quân triều đình bày mưu hãm hại Lía. Các quan tuần phủ cố gắng tìm gia đình vợ Lía và thuyết phục nàng phản bội Lía. Một hôm, trong một bữa tiệc, vợ Lía dụ binh sĩ của Lía uống say, vì thế quân triều đình đã đến dễ dàng diệt gọn nghĩa quân chàng Lía. Cuối cùng, chỉ còn mình Lía trốn thoát bỏ lên núi, uất hận mà tự sát. Nhân vật lịch sử Mặc dù thông tin cụ thể chưa xác định được, song có giả thuyết cho rằng chàng Lía vốn tên thật là Võ Văn Doan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn (huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định ngày nay). Lía xuất thân trong 1 gia đình nghèo khổ. Là người có khí khái, giỏi võ nghệ, Lía tập hợp dân nghèo nổi dậy, chọn Truông Mây (Hoài Ân, Bình Định) làm căn cứ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Trong văn học Truyện Chàng Lía được ghi lại trong văn học Việt Nam qua vở thơ tuồng với tựa Văn Doan diễn ca hay Văn Doan diễn hí. Khác với truyện thơ lục bát, thơ tuồng thêm những đoạn văn xuôi thuộc thể hát tuồng. Bản nôm cổ nhất rõ niên đại còn lưu lại là bản in năm 1896. Ngoài ra văn học truyền khẩu cũng ghi lại vài câu về Chàng Lía. Ca dao Ai vào Bình Định mà nghe Nghe thơ chàng Lía, hát vè Quảng Nam. Chiều chiều én liệng Truông Mây, Cảm thương chú Lía bị vây trong thành. Bài vè ...Lên yên thẳng xuống trùng trùng rinh rang, Lâu la kén đủ thăm ngàn, Thình lình cướp trại đánh ngang quân triều. Quân binh đang lúc bao vây, Chợt đâu bị đánh, xiết bao hãi hùng... Chú thích
Bách vàng hay còn gọi là bách vàng Việt Nam, hoàng đàn vàng Việt Nam, trắc bách Quản Bạ hoặc cây ché ,(có danh pháp khoa học là Callitropsis vietnamensis) là một loài cây thân gỗ trong họ Hoàng đàn (Cupressaceae), có nguồn gốc tại khu vực huyện Quản Bạ thuộc tỉnh Hà Giang, Miền bắc Việt Nam. Nó được tìm thấy vào tháng 10 năm 1999, và khi đó đã được mô tả như là một chi mới và có danh pháp khoa học là Xanthocyparis vietnamensis, có quan hệ họ hàng rất gần với bách Nootka (Callitropsis nootkatensis), là loài sau đó cũng được chuyển sang chi mới này (Farjon & Hiệp N.T và những người khác, năm 2002). Sau đó, Little và những người khác (năm 2004) chỉ ra rằng tên chi ban đầu Callitropsis đã được lấy theo danh pháp khoa học của loài bách Nootka, vì thế họ lại chuyển cây bách vàng về chi này. Hiện chỉ còn khoảng 100 cây còn sống. Đặc điểm Trên cùng một cây có hai dạng lá khác nhau rõ rệt. Các cành có dạng vảy, dẹt, nhọn, sắc, mọc xen lẫn với các cành có lá kim dài, dẹt, xếp thành vòng gồm 4 lá. Nón quả trông tương tự như loài hoàng đàn giả nhưng lại chỉ có 4 vảy mọc từ gốc cành lá chứ không phải từ đỉnh cành như những loài hoàng đàn có lá vảy dẹt. Mọc ở khu vực vùng núi đá vôi trên độ cao 700 đến 1.500 m, nhiều nắng và mưa. Sử dụng Loài này có gỗ tốt, thơm, không bị mối mọt. Người dân địa phương dùng gỗ hoàng đàn vàng làm quan tài. Họ cho rằng mùi hương của thứ gỗ này có thể giữ được xác không bị hư hỏng. Vì vậy, những cây lớn sống ở cao độ thấp hầu như đã bị đốn hạ hoàn toàn, chỉ còn lại những cây nhỏ, cong queo, cây lớn nhất đường kính khoảng 40 cm. Trên hiện trường thực tế, hoàng đàn vàng có ra nón và kết hạt nhưng không tìm thấy cây con tái sinh. Như vậy cho dù khoanh vùng bảo vệ tốt, loài này vẫn đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Theo tiêu chuẩn của IUCN thì hiện trạng của loài này được xếp ở cấp CR (Critically Endangered – Cực kỳ nguy cấp). Chú thích
Khối 8406 là tên gọi của một tổ chức chính trị, kêu gọi dân chủ đa nguyên tại Việt Nam. Tên "Khối 8406" xuất phát từ tuyên ngôn công bố ngày 8 tháng 4 năm 2006 của nhóm. Chính phủ Việt Nam cho rằng hoạt động của nhóm này vi phạm pháp luật Việt Nam và đã kết án một số thành viên, trong đó có Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân. Tuyên ngôn Tổ chức này chính thức đưa ra Bản Tuyên ngôn tự do dân chủ 2006, với nội dung chủ yếu bao gồm: Xét rằng các quyền tự do cơ bản của người dân tại Việt Nam đã "bị chà đạp". Nên họ kêu gọi thiết lập lại các quyền cơ bản bao gồm: Quyền tự do thông tin, ngôn luận theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, và Việt Nam ký và thông qua vào ngày 24 tháng 09 năm 1982. Quyền tự do hội họp, lập hội, lập đảng và bầu cử theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 21. Quyền tự do hoạt động Công đoàn độc lập và quyền đình công chính đáng theo Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc biểu quyết ngày 16 tháng 12 năm 1966 (điều 7 và 8), và Việt Nam phê chuẩn ngày 24 tháng 09 năm 1982. Quyền tự do tôn giáo theo Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, điều 18. Kêu gọi đấu tranh hòa bình, bất bạo động. Diễn biến Ban đầu, Khối 8406 chỉ có 118 thành viên, là người Việt trong nước. Theo danh sách chi tiết gần đây nhất, lần thứ 10, do Khối 8406 công bố ngày 22 tháng 8 năm 2006, số thành viên công khai đã lên đến 1951 thành viên là người Việt trong nước. Ngoài ra, Khối 8406 cũng công bố là đã có 3881 thành viên công khai là người Việt đang sinh sống ở nước ngoài, cùng với 139 chính khách quốc tế bao gồm đại diện các tổ chức, 50 nhân sĩ thuộc Hiến chương 77 Tiệp Khắc và 50 dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các thành viên của tổ chức này cho rằng họ có "đến hàng vạn người ủng hộ". Ngày 22 tháng 8 năm 2006, Khối 8406 công khai đưa ra đề nghị bốn bước dân chủ hóa Việt Nam, bao gồm: việc đòi hỏi tái lập các dân quyền tự do, thiết lập các đảng phái chính trị, soạn thảo hiến pháp và tổ chức bầu đại biểu quốc hội mới, có nhiệm vụ chọn lựa quốc hiệu, quốc kỳ và quốc ca. Khối này cũng nhấn mạnh đến "mục tiêu cao nhất là thay đổi triệt để hệ thống chính trị Việt Nam" (trích nguyên văn tuyên bố), không chấp nhận đổi mới hoặc cải cách của chính quyền hiện tại. Tuyên bố cũng chứa đựng các nội dung rất cứng rắn mà theo chính quyền Việt Nam hiện tại là không thể chấp nhận được như: cáo buộc Đảng Cộng sản Việt Nam "tráo trở", "bạo lực và khủng bố", "bóng ma". Do vậy chính quyền Việt Nam ngờ vực rằng khối này lợi dụng tự do ngôn luận, quyết tâm lật đổ chính phủ như tuyên bố của khối, trong khi đó vẫn kêu gọi đấu tranh hòa bình. Từ khi thành lập đến nay, nhiều thành viên là công dân trong nước Việt Nam đã bị công an mời thẩm vấn, và bắt giam vì đã có những hành động vi phạm pháp luật Việt Nam, vốn cấm những hoạt động chính trị đối kháng với chính quyền. Theo như tuyên bố của tổ chức này thì khối cũng đã được sự công khai công ủng hộ của các tổ chức hay cá nhân nước ngoài và các nhóm hoạt động nhân quyền. Lần gần đây nhất vào khoảng tháng 7 năm 2009, đã xảy ra vụ tạm giam cựu trung tá quân đội Trần Anh Kim vì đã tham gia phong trào đấu tranh chống đảng nhà nước Việt Nam còn gọi là khối 8406 như ông đã soạn thảo và phát tán nhiều bài viết trên mạng để chống chính quyền. Giáo sư Nguyễn Chính Kết đã được đài BBC phỏng vấn, theo quan điểm của ông thì ông Trần Anh Kim hoàn toàn không có tội, và ông đã phát biểu một câu nói: "Luật pháp Việt Nam đâu có cấm lập đảng, đâu có cấm tham gia đảng phái nào đó." Bắt giữ Trong vài tháng đầu năm 2007, một số thành viên của nhóm này đã bị giam giữ. Ngày 30 tháng 3 năm 2007, tại Huế, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế đã mở phiên tòa xét xử linh mục Nguyễn Văn Lý và bốn người khác là Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành, Hoàng Thị Anh Đào và Lê Thị Lệ Hằng về tội "tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam" thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia. Linh mục Nguyễn Văn Lý bị phạt 8 năm tù, bốn người còn lại chịu các mức án từ 18 tháng đến 6 năm. Chú thích
Adobe Atmosphere (thường được gọi tắt là Atmo bởi những người dùng) là một phần mềm đồ họa 3D và thực tế ảo đầu tiên do Attitude Software phát triển. Tháng 11 năm 1999, hãng Adobe Systems mua phần mềm này. Adobe phát hành phiên bản cuối của Atmosphere, tức là phiên bản 1.0 build 216, vào tháng 2 năm 2004, rồi hủy bỏ phần mềm vào tháng 12 năm 2004. Atmosphere qua phần lớn thời gian trong quá trình thử phần mềm (beta-testing). Chức năng Có vài lý do Atmosphere khác với những công nghệ đi trước như VRML và ActiveWorlds. Không giống VRML chỉ hiển thị những "mô hình" 3D, Atmosphere chuyên môn về những "thế giới" rộng rãi để thám hiểm (tiếng Anh: world; sau được gọi chính thức environment, "môi trường"), các thế giới được nối với nhau dùng "cổng", giống siêu liên kết của World Wide Web. Những cổng này được vẽ như ba hình vuông màu đỏ, xanh lá cây, và xanh lam mà bay lên và quay trung quanh nhau. Những cổng tỏ ra ý định của nhóm phát triển Atmosphere để phản ánh những khả năng của trang web. Tuy một thế giới coi riêng được định ra trong tập tin .aer (hay .atmo), các hình ảnh và âm thanh được giữ riêng, thường trong dạng GIF, WAV, hay MP3. Các đối tượng trong thế giới có thể được điều khiển dùng định dạng JavaScript chuyên biệt, để cho tác giả của thế giới làm môi trường giống thật hơn, và có thể làm máy tính tư động tạo ra thế giới dùng PHP. Dùng JavaScript, tác giả cũng có thể nối một đối tượng với trang web, làm vậy thì người dùng có thể chẳng hạn tới trang web bằng cách bấm chuột vào một bảng quảng cáo trong thế giới (Ctrl+Shift+Click trong các phiên bản cũ hơn). Khi phiên bản 1.0 được phát hành, Atmosphere đã cũng hỗ trợ hoạt hình Macromedia Flash và video WMP trong thế giới. Các thế giới Atmosphere phần lớn là nguyên thủy tham số (parametric primative) như là sàn, tường, hình nón. Những nguyên thủy này có thể được sơn đồng màu, gắn hình chất liệu (texture map), hay bật lên "hình thức trừ" (subtractive). Những nguyên thủy "hình thức trừ" không thấy được có thể sử dụng để "thủng lỗ" vào nguyên thủy khác, để xây những hình dạng nâng cao hơn. Nhiều thế giới cũng có mắt lưới hình đa giác (polygon mesh) hoạt hình do Atmosphere chạy như một thành phần phụ dựa trên Viewpoint Media Player của Viewpoint Corporation. Viewpoint đã ngừng hỗ trợ thành phần phụ này lâu khi Atmosphere bị hủy bỏ. Không giống cấu trúc trung ương của ActiveWorlds, trong đó những môi trường thường được xây dựng trong AlphaWorld, các thế giới Atmosphere trải qua khắp Internet, thường chạy trên website của tác giả trong tập tin .aer. (Về sau, định dạng .aer chỉ sử dụng trong bộ Builder, khi định dạng .atmo nhị phân được phát triển.) Giống trong ActiveWorlds, người dùng dẫn lái ảnh thế thân (avatar); trong những phiên bản về sau, cũng có tùy chọn để cho người dùng coi ảnh thế thân của mình khi thám hiểm thế giới. Một chức năng tếu trong những phiên bản đầu tiên hiển thị những người dùng có ảnh thế thân chưa nạp xong là hình trụ xéo có nhiều màu, và dùng tiếng keo của đèn chống muỗi để báo có người mới đến thế giới. Trong khi ActiveWorlds chỉ để người dùng nói chuyện với những người trong phạm vi cách 200 mét, những người dùng Atmosphere có thể nói chuyện với mỗi người dùng trong thế giới đó. Kiểu này hợp hơn cho Atmosphere, tại vì phần nhiều thế giới Atmosphere thường nhỏ hơn thế giới trong ActiveWorlds. Nói đúng thì người dùng có thể nói chuyện với mỗi người cùng đài YACP, nhắc đến giao thức IRC (xem ở dưới). Hạn chế này xảy ra khi một thế giới được quá nhiều người đến thăm, giống thường xảy ra ở HomeWorld (thế giới mặc định khi chạy phần mềm): thế giới sẽ sao lại (clone) thành hai ba đài riêng cho thế giới đó, làm những người dùng ngạc nhiên. Để làm thế giới giống thật hơn, một số người phát triển thế giới viết văn lệnh để hạn chế giao thông chỉ được nói chuyện với những người sát gần. Động cơ vật lý Havok, kết xuất tỉ mỉ, và kết xuất ánh sáng đồng thời cũng giúp làm các thế giới Atmosphere nhìn giống thật. Nhiều tác giả thế giới muốn xây thế giới rất lớn, chẳng hạn để xây dựng thành phố hiện thực hơn, nhưng làm thế giới lớn quá thì trình duyệt web sẽ tốn quá nhiều thời gian để tải nó xuống, nhất là nếu họ đang sử dụng một kết nối quay số chậm hơn. Để giảm bớt vấn đề này, Atmosphere hỗ trợ tải lên thế giới từng phần một, những phần này được gọi subworld (thế giới phụ) hay model (mô hình); vì thế, có thể tải xuống một thành phố từng khúc một khi cần, thay vì cùng một lúc. Tuy nhiên, một trong những điều khó khăn của Atmosphere là vấn đề sử dụng quá nhiều bộ nhớ, điều này bị tăng lên trong nhiều thế giới nhúng vào những chức năng nâng cao như là mô hình và hoạt hình Flash. Console chat của Atmosphere sử dụng bộ ký tự Windows-1252. Vì thế, nó không hỗ trợ nhiều ngôn ngữ ở ngoài châu Âu. Lịch sử Adobe Atmosphere ban đầu là 3D Anarchy ("Hỗn loạn 3D") bởi Attitude Software. Nó mới đầu dựa trên IRC để cung cấp chức năng trò chat. Giao diện đầu tiên của nó hơi kỳ cục, có hai cầu mắt trong cửa sổ lâu lâu nháy. Các phiên bản về sau sử dụng giao diện thường hơn không có cầu mắt, nhưng một trong những ảnh thế thân có sẵn trong phần mềm bắt nguồn từ hai cầu mắt đó. Atmosphere bao gồm hai chương trình riêng: Builder (Trình Xây), được sử dụng để xây dựng "thế giới" chạy trên Internet, và Player (Trình Chơi), để người dùng thám hiểm các thế giới này. (Trong 3D Anarchy, hai chương trình này được gọi Editor [Trình Soạn thảo] và Chat.) Cùng với hai chương trình này, Adobe cung cấp plugin để thám hiểm những thế giới này trong trình duyệt web, và trình phục vụ chat mã nguồn mở gọi Adobe Community Server (Trình phục vụ Cộng đồng Adobe), nó chạy trên giao thức giống IRC có tên Yet Another Chat Protocol (YACP). Trước khi Adobe phát hành phiên bản 1.0, các thành phần của Atmosphere có sẵn miễn phí. Vào tháng 8 năm 2002, Adobe bắt đầu hủy bỏ Player riêng, thay vào đó họ muốn dành thêm tài nguyên để phát triển Atmosphere Plugin, hồi đó trục trặc hơn Player. Nhiều người nghĩ là công ty chỉ để ý vào Plugin để cạnh tranh với Macromedia Flash. Phần nhiều Plugin chỉ hoạt động trên Microsoft Internet Explorer và Windows, tuy cộng đồng thường xin công ty cũng hỗ trợ họ trình duyệt Mozilla và các hệ điều hành Linux và Mac OS. Có một người dùng có thể chạy Player riêng trên Linux dùng Wine, nhưng nó không hoạt động tốt lắm. Khi Atmosphere 1.0 được phát hành vào tháng 2 năm 2004, Adobe cuối cùng bắt đầu đòi tiền cho Atmosphere Builder và đổi tên của nó thành Atmosphere, trong khi họ tiếp tục cung cấp Plugin và Server miễn phí. Sau khi chương trình thử phần mềm kết thúc, Adobe gửi Builder miễn phí cho những người thử phần mềm đã đăng ký vào cuối 2003 và đầu 2004 bằng Airborne Express và DHL. Để giúp làm các công ty để ý vào Atmosphere, Adobe để người ta nhúng thế giới Atmosphere vào tập tin PDF để mở trong Acrobat Reader. Tuy nhiên, sau một thời gian lâu không nghe nhóm phát triển nói gì, Adobe tuyên bố vào tháng 12 năm 2004 rằng họ sẽ ngừng phát triển phần mềm này. Adobe phát hành một tài liệu FAQ về quyết định này: "The decision to discontinue Atmosphere 1.0 was based on market conditions, customer feedback and research done by Adobe." Adobe vẫn giữ bản quyền của Atmosphere và không cấp phép cho ai quyền được phân phối phần mềm này, cho nên quyết định ngừng bán Builder đại khái cũng ngừng sự xây dựng thế giới mới. Vẫn có thể tải xuống plugin của Atmosphere miễn phí từ máy phục vụ FTP của công ty. Adobe vẫn cung cấp chức năng 3D trong phần mềm Acrobat của họ, nhưng chức năng này dựa trên công nghệ của công ty Right Hemisphere ở New Zealand, thay vì sử dụng Atmosphere. Gần hết nhóm phát triển Atmosphere qua làm việc cho Adobe Acrobat. Thành phần duy nhất của Atmosphere vẫn còn sử dụng tại Adobe là mô hình văn lệnh; các thành phần khác, như là scene graph và cơ động vật lý chỉ được sử dụng với phép của công ty khác. Cộng đồng Atmosphere có cộng đồng tận tụy thử phần mềm, những người này xây dựng rất nhiều thế giới và ảnh thế thân, quảng bá phần mềm bằng lời nói, và tổ chức nhiều hoạt động, như là cuộc đi dạo thế giới và thi xây dựng thế giới. Cuộc thi lớn nhất là Star Wars 3D, dự án lớn để tạo ra bộ thế giới và ảnh thế thân đầy đủ dựa trên bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao. Các tác phẩm được khởi đầu ngày 4 tháng 7 năm 2003 và cộng đồng tổ chức chính thức đến ngày 6 tháng 7. Một dự án lớn nữa dựa trên bộ sách Chúa tể của những chiếc nhẫn. Những thành viên cộng đồng cũng tổ chức và có mặt ở những chương trình như World Tours, mỗi tuần đi dạo nhiều thế giới có tính sáng kiến, và TechTalks, một hội nghị ảo hằng tháng để người phát triển thế giới và ảnh thế thân nói chuyện về cộng nghệ. Ban đầu cộng đồng phần nhiều thảo luận hoặc trong các thế giới hoặc tại diễn đàn User-to-User của Adobe. Về sau, để bổ sung website và diễn đàn chính thức của Atmosphere, cộng đồng tạo ra nhiều website có tài nguyên về phần mềm, một số website này được liệt kê ở dưới. Những người thử phần mềm đặt tên hiệu cho những người phát triển Atmosphere là những zombie (người dở sống dở chết), để công nhận các nhân viên Adobe hình như tốn nhiều giờ phát triển phần mềm. Nhóm phát triển thường nói giễu rằng, thay vì ăn não như thường, các zombie của Atmosphere ăn cầu mắt, do tính thị giác của phần mềm. Chuyện đùa này được phản chiếu trong giao diện đầu tiên của phần mềm (xem ở trên). Cộng đồng thử phần mềm hăm hở chờ đợi nhóm phát triển phát hành những phiên bản mới; nhóm phát triển luôn trả lời rằng phải chờ "khoảng hai tuần" nữa, một cách nói "khi nào xong". Tuy Atmosphere có tính không tập trung và những cuộc thi xây thế giới rất phổ biến, nhưng cộng đồng Atmosphere vẫn thích tụ họp tại những thế giới do Adobe và công ty quan hệ DigitalSpace tạo ra, nhất là tại HomeWorld của Adobe và Atmospherians Community của DigitalSpace. Tại vì HomeWorld là nơi xuất phát chính của những người dùng mới đến, cộng đồng thấy dễ hơn tụ họp đám vui vẻ ở đấy. Khi Adobe đóng cửa HomeWorld, cùng với một số thế giới khác có Adobe làm chủ, nhiều người cố gắng bắt chước sự thành công của HomeWorld bằng cách xây những nơi xuất phát riêng, nhưng vì không có dòng người mới của HomeWorld, phần nhiều của những cố gắng này chỉ hấp dẫn một vài người quen. Chú thích
Phần mềm mã nguồn mở và miễn phí Phần mềm thương mại giá thấp (< $5.000) Phần mềm thương mại giá cao (> $15.000)
Biển Nhật Lệ nằm cạnh đường Trương Pháp, ngay cửa sông Nhật Lệ, cách trung tâm thành phố Đồng Hới chỉ khoảng 1 km. Biển Nhật Lệ được thiên nhiên ưu ái ban tặng bãi cát trắng và nước biển trong xanh với vẻ đẹp còn hoang sơ, chưa bị tác động của con người. Quả thật Biển Nhật Lệ là một nơi lí tưởng cho việc nghỉ dưỡng, điểm đến không thể bỏ qua nếu du lịch Quảng Bình. Thời điểm đẹp nhất để du lịch biển Nhật Lệ là vào mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9. Bãi tắm nơi đây thoai thoải và rất an toàn bởi vậy bạn có thể thỏa sức đắm mình vào làn nước trong xanh hay dạo chơi trên bờ cát trắng mịn. Cảm nhận làn gió biển thổi qua những phi lao, hòa cùng tiếng sóng vỗ rì rào, tận hưởng không khí mát mẻ trong lành thật sự là những trải nghiệm thú vị. Bên cạnh đó bạn có thể vui chơi những hoạt động thể thao như bóng đá, bóng chuyền, bóng ném…Bãi biển Nhật Lệ có bãi cát trắng và nước trong xanh vẫn còn hoang sơ, chưa bị tác động của con người Du khách đến đây, ngoài việc thỏa sức tắm mát vẫy vùng cùng sóng biển, còn có dịp thưởng thức nhiều hải sản tươi ngon và đậm đà của vùng biển Quảng Bình, từ Hàu, Nghêu, sò Huyết, sò Lụa, sò Điệp, Ghẹ, tôm Hùm, Mực… đến các loại cá Mú, cá Hồ, cá Chim, cá Bả trầu, cá Hồng, cá Chình, cá Hanh… được các nhà hàng dọc con đường ven biển chế biến theo phong cách đậm chất Quảng Bình. Nếu không quá cầu kỳ, du khách cũng có thể thưởng thức ngay tại bãi biển bởi những quán bình dân. Với một bếp than nhỏ, vẫn có thể mang tới những món nướng, hấp hay xào đầy hấp dẫn. Và nếu có cơ hội đến với bãi biển Nhật Lệ, đừng bỏ lỡ khoảnh khắc được ngắm bình minh trên biển hay chiêm ngưỡng cảnh hoàng hôn buông xuống. Khi đêm đến, cửa biển dáng dấp những chiếc tàu thuyền với ánh đèn bắt cá, tôm, mực…một vẻ đẹp Nhật Lệ tráng lệ, rực rỡ và lung linh dưới ánh đèn. Khi đi Du lịch Quảng Bình, ngoài bãi biển Nhật Lệ còn có các danh thắng nổi tiếng như vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, biển Đá Nhảy, Vũng Chùa Đảo Yến… tha hồ khám phá.
Bãi Sau là tên một bãi biển thuộc thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam. Bãi Sau tọa lạc tại bờ biển phía đông của Vũng Tàu, kéo dài từ chân Núi Nhỏ đầu ngã 3 đường Thùy Vân và Phan Chu Trinh đến khu vực Chí Linh và là bãi tắm chính của Vũng Tàu do Bãi Trước bị ô nhiễm, bờ biển ngắn; Bãi Dâu có địa hình đáy biển lởm chởm đá, sóng không ổn định. Dọc theo Bãi Sau là con đường du lịch Thùy Vân với nhiều cơ sở dịch vụ du lịch. Bãi Sau có nhiều ưu điểm so với nhiều bãi biển khác ở Việt Nam: quanh năm nhiệt độ ổn định, ít chênh lệch; sóng vừa phải; nước biển trong. Trong tương lai, khi con đường du lịch ven biển từ Vũng Tàu đi Long Hải được hoàn thành, Bãi Sau có chiều dài khoảng 15 km, đi qua khu nghỉ mát Saigon Atlantis có vốn đầu tư 300 triệu USD của nhà đầu tư Hoa Kỳ. Bãi Sau Vũng Tàu nằm ở địa chỉ cụ thể là đường Thùy Vân, Phường 2, Vũng Tàu, Bà Rịa – Vũng Tàu
Bách Nootka (danh pháp hai phần: Callitropsis nootkatensis), trước đây gọi là Cupressus nootkatensis, Xanthocyparis nootkatensis hay Chamaecyparis nootkatensis, là một loài bách thuộc họ Hoàng đàn (Cupressaceae) với lịch sử phân loại và đặt tên khoa học đầy sóng gió. Lịch sử phân loại Lần đầu tiên nó được đặt vào chi Cupressus với tên gọi Cupressus nootkatensis vào năm 1824, sau đó bị chuyển sang chi Chamaecyparis vào năm 1841 trên cơ sở hình thái học của bộ lá có dạng cành phẳng, giống như các loài khác trong chi Chamaecyparis, chứ không giống với phần lớn (mặc dù không phải là tất cả) các loài Cupressus khác. Tuy nhiên, việc sắp đặt này không phù hợp với hình thái học và vật hậu học của quả nón của nó, do nó lại giống với Cupressus hơn, chẳng hạn các quả nón này chín vào năm thứ hai, chứ không phải một năm như ở Chamaecyparis. Các chứng cứ di truyền học, do Gadek và những người khác công bố năm 2000, ủng hộ mạnh mẽ việc đưa nó trở lại chi Cupressus và loại khỏi chi Chamaecyparis. Gần đây hơn nữa, Farjon và những người khác (năm 2002) chuyển nó sang chi mới là Xanthocyparis, cùng với loài bách vàng Việt Nam mới được phát hiện (Callitropsis vietnamensis); loài này là tương tự như bách Nootka và việc sắp đặt này có nhiều luận cứ ủng hộ, do chúng không có quan hệ với Chamaecyparis mà cũng chẳng phù hợp hoàn toàn với Cupressus mặc dù có nhiều điểm tương đồng. Little và những người khác (năm 2004), trong khi vẫn xác nhận mối quan hệ trên đây với các chứng cứ mới, đã chỉ ra rằng tổ hợp danh pháp có sớm hơn trong chi Callitropsis đã tồn tại, là Callitropsis nootkatensis (D.Don) Oerst., công bố vào năm 1864 nhưng đã bị các tác giả khác hoặc là bỏ qua hoặc là không nhận ra. Little và những người khác vì thế đã coi Xanthocyparis là đồng nghĩa của Callitropsis, tên gọi chính xác cho các loài này theo quy tắc của ICBN khi xử lý một chi khác biệt. Tên gọi Xanthocyparis hiện nay đã được đề xuất để bảo lưu, nhưng điều này chỉ được quyết định tại Đại hội Thực vật học quốc tế năm 2011, cho đến thời gian này thì tên gọi chính xác cần phải là Callitropsis theo nguyên tắc đặt trước. Mặc dù việc chấp nhận sự phân loại sửa đổi này đã được chấp nhận rộng rãi trong giới các nhà thực vật học, nhưng quán tính trong các ngành làm vườn và lâm nghiệp (cả hai nói chung rất chậm chạp trong việc chấp nhận các kết quả nghiên cứu thực vật học) đã giúp cho tên gọi Chamaecyparis nootkatensis còn được tiếp tục liệt kê trong nhiều tình huống. Loài này có nhiều tên gọi trong tiếng Anh, như Nootka cypress (bách Nootka), Yellow cypress (bách vàng), hay Alaska cypress (bách Alaska). Mặc dù nó không phải là tuyết tùng, nhưng nó cũng hay bị gọi một cách nhầm lẫn là Nootka cedar (tuyết tùng Nootka), Yellow cedar (tuyết tùng vàng), Alaska cedar (tuyết tùng Alaska) hay Alaska yellow cedar (tuyết tùng vàng Alaska). Tên gọi Nootka có nguồn gốc từ việc phát hiện ra nó trên các vùng đất của Dân tộc đầu tiên của Canada, người Nuu-chah-nulth trên đảo Vancouver, British Columbia, trước đây được gọi là người Nootka. Bách Nootka có nguồn gốc ở bờ biển phía tây Bắc Mỹ, từ bán đảo Kenai ở Alaska, kéo dài về phía nam tới phần phía bắc của California, thường có mặt trong các khu vực miền núi ẩm ướt, nhưng đôi khi cũng xuất hiện ở các cao độ thấp. Đặc điểm Nó là loài cây thân gỗ thường xanh, cao tới 40 m, nói chung có các cành rủ xuống. Bộ lá hình kim phẳng, có màu lục sẫm, các lá-vảy dài 3–5 mm. Quả nón có 4 (đôi khi 6) vảy bắc, tương tự như quả nón của bách Mexico (Cupressus lusitanica) hay các loài bách khác trong chi Cupressus với các bộ lá kim phẳng) có quan hệ họ hàng gần, ngoại trừ vảy của nó nhỏ hơn, thường chỉ khoảng 10–14 mm theo đường kính; mỗi vảy bắc có lá bắc hình tam giác nhọn đầu, dài khoảng 1,5–2 mm, rất giống với các loài Cupressus và không giống với các lá bắc hình lưỡi liềm, không nhọn đầu của quả nón trong chi Chamaecyparis. Dãy núi Caren ở bờ biển phía tây British Columbia là quê hương của các cây bách Nootka già nhất trên thế giới, với một cây đã phát hiện là có từ năm 1834 (Gymnosperm DataBase). Nó là cha (hoặc mẹ) của một giống cây lai (bách Leyland). Do loài cây để lai ghép còn lại là bách Monterey (Cupressus macrocarpa), thuộc về chi Cupressus, nên việc hình thành ra giống cây lai ghép này là một trong số các chứng cứ cho việc sắp đặt bách Nootka gần hơn với chi Cupressus. Sử dụng Xây dựng Các tính chất cơ lý khác nhau của gỗ bách Nootka làm cho nó trở thành vật liệu hấp dẫn cho việc xây dựng và làm thuyền. Do nó phát triển khá chậm nên cũng giống như các loài bách khác, gỗ của nó có độ cứng và độ bền cao; tạo sự ổn định cao về hình dáng và kích thước, có khả năng chống chịu thời tiết và côn trùng hay sự tiếp xúc với đất ẩm. Gỗ của nó cũng dễ gia công bằng tay hay máy móc; sự uốn cong hay chạm khắc là rất tốt. Nó cũng có thể được dán bằng keo, đinh vít v.v. Vân gỗ, màu sắc đồng nhất của bách Nootka làm cho vật được làm từ nó có bề mặt đẹp. Do giá thành khá đắt, nên nó chủ yếu được dùng làm các đồ cần độ bền cao như thuyền. Các công dụng điển hình là làm ván lót bên ngoài, ván lợp, sàn thuyền, sống neo v.v. Trong công tác bảo tồn bảo tàng các di tích lịch sử, nó có thể được dùng để thay thế cho gỗ của trắc bá (chi Thuja) hay gỗ bụt mọc (chi Taxodium), do các khó khăn trong việc có được gỗ chất lượng cao của các loài này vì các e ngại liên quan đến môi trường cũng như sự khai thác kiệt quệ trong quá khứ (dù điều này cũng là vấn đề với bách Nootka). Sử dụng khác của bách Nootka là vách ốp trong các nhà tắm hơi hay làm thùng chứa ắc quy do nó chịu được nhiều axít. Trong lịch sử thì các loại mái chèo (cho thuyền), mặt nạ gỗ, bát hay đĩa gỗ cũng được làm từ gỗ bách Nootka. Cảnh quan Các cành rủ xuống làm cho loài cây này có dáng vẻ kiều diễm. Vì thế, nó được trồng trong các công viên và các khu vực có không gian thoáng đãng. Nó cũng được coi là hàng rào cao trong làm vườn. Nó có thể phát triển được trong các khu vực có độ khắc nghiệt theo USDA từ 5 tới 9, nhưng có thể rất khó phát triển. Nó phát triển tốt nhất trên các loại đất nhẹ hay nặng nhưng cần thông thoát nước tốt và khí hậu có mùa hè mát. Điều kiện về ánh sáng là từ bán râm tới nhiều nắng. Bách Nootka cũng được dùng làm cây cảnh trong nghệ thuật bonsai. Chú thích
Bakersfield là một thành phố thuộc quận Kern, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Theo Thống kê Dân số năm 2000, thành phố này có 247.057 người. Nó là quận lỵ của quận Kern. Theo thống kê năm 2000, dân số của thành phố là 247.057. Nền kinh tế của Bakersfield dựa vào nông nghiệp, khai thác và chế biến dầu khí. Thành phố này là một trong những thành phố tăng phát triển nhanh của Hoa Kỳ. Dân số năm 2006 của thành phố Bakersfield là 312.000, lớn thứ 11 tại California và xếp thứ 59 trong các thành phố tại Hoa Kỳ. Vùng đô thị Bakersfield có số dân lên đến 451.800, là thành phố trong lục địa lớn thứ 3 sau Fresno và Sacramento. Ngành nông nghiệp của Bakersfield sản xuất: bông vải, cà rốt, nho, hạnh, hồ trăn, chanh cam quýt, lúa mỳ, tỏi và khoai tây. Các mỏ dầu tại đây gồm: Mỏ Sông Kern 100 năm tuổi, Mỏ Midway-Sunset, Khu dự trữ hải quân lại các đồi Elk, Mỏ Kern Front và Mỏ Belridge. Địa lý Bakersfield nằm gần cuối "móng ngựa" của Thung lũng San Joaquin, với mũi phía nam của Sierra Nevada nằm ở phía đông. Giới hạn thành phố kéo dài đến rừng quốc gia Sequoia, tại chân của dãy núi Greenhorn nơi lối vào vực núi Kern. Ở phía nam, dãy núi Tehachapi có rặng Tejon lịch sử. Về phía tây là dãy Temblor, sau nó là Đài tưởng niệm quốc gia đồng bằng Carrizo và phay San Andreas. Dãy núi Temblor có cự ly khoảng so với Bakersfield quan sàn thung lũng. Bakersfield có tọa độ tại (35,357276, −119,031661). Theo Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, thành phố này có tổng diện tích là 296,3 km² (114,4 dặm vuông). Trong đó, 292,9 km² (113,1 sq.mi.) là đất và 3,4 km² (1,3 sq.mi.) là mặt nước. Diện tích mặt nước chiếm 1,14% tổng diện tích. Dân tộc Theo thống kê dân số năm 2000, thành phố này có 247.057 người, 83.441 hộ, và 60.995 gia đình. Mật độ dân số là 843,4 người/km² (2.184,4 người/sq.mi.). Có 88.262 nhà ở, mật độ trung bình là 301,3 nhà/km² (780,4 nhà/sq.mi.). Trong thành phố này, có 61,87% là người da trắng, 9,16% là người da đen hay Mỹ gốc Phi, 1,40% là người Mỹ da đỏ, 4,33% là người Á Châu, 0,12% là người dân đảo Thái Bình Dương, 18,68% là người thuộc một chủng tộc khác, và 4,43% là người lai. 32,45% của dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào đó. Có 83.441 hộ, trong đó 42,5% có trẻ em nhỏ hơn 18 tuổi ở trong nhà, 52,1% là đôi vợ chồng ở với nhau, 15,5% có đàn bà đơn thân làm chủ hộ, và 26,9% hộ không phải là hộ gia đình. Có 21,5% hộ chỉ có một người, còn 7,2% hộ chỉ có một người 65 tuổi trở lên ở một mình. Cỡ hộ trung bình là 2,92 người, còn cỡ gia đình trung bình là 3,41 người. Trong thành phố này, 32,7% dân số chưa đến 18 tuổi, 10,1% dân số từ 18 đến 24 tuổi, 29,9% dân số từ 25 đến 44 tuổi, 18,6% dân số từ 45 đến 64 tuổi, và 8,8% dân số đã 65 tuổi trở lên. Tuổi trung bình của dân số thành phố này là 30. Cho mỗi 100 nữ có 94,6 nam, cho mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, có 90,8 nam. Thu nhập trung bình hàng năm của hộ ở thành phố này là 39.982 đô la, và thu nhập trung bình hàng năm của gia đình là 45.556 đô la. Thu nhập trung bình hàng năm của nam giới là 38.834 đô la, của nữ giới là 27.148 đô la. Thu nhập trên đầu người hàng năm của thành phố là 17.678 đô la. Có 14,6% người và 18,0% gia đình có thu nhập dưới mức sống tối thiểu. Trong tất cả dân cư, 24,4% của những người chưa đến 18 tuổi và 8,4% của những người đã 65 tuổi trở lên đang dưới mức sống tối thiểu.
Chi Bách vàng (danh pháp khoa học: Callitropsis, đồng nghĩa Xanthocyparis) là một chi hiện chỉ có hai loài bách trong họ Cupressaceae, một loài có nguồn gốc ở khu vực miền tây Bắc Mỹ, loài kia có nguồn gốc ở Việt Nam trong khu vực đông nam châu Á. Danh pháp khoa học của hai loài này là: Callitropsis nootkatensis – Bách Nootka (vị trí của nó xem tại phần Xem thêm và bài Bách Nootka) Callitropsis vietnamensis – Bách vàng Việt Nam Farjon và những người khác (năm 2002) đã miêu tả một chi mới gọi là Xanthocyparis, chứa hai loài, gồm loài mới phát hiện là bách vàng Việt Nam (Xanthocyparis vietnamensis) và bách Nootka (Xanthocyparis nootkatensis); việc xử lý này có nhiều luận cứ ủng hộ, do cả hai loài đều không có quan hệ gì với chi Chamaecyparis, mà cũng không phù hợp khi xếp vào chi Cupressus, mặc dù có nhiều điểm chung. Little và những người khác (năm 2004), trong khi vẫn xác nhận mối quan hệ trên đây, nhưng với các chứng cứ mới, đã chỉ ra rằng tổ hợp danh pháp có sớm hơn trong chi Callitropsis đã tồn tại, là Callitropsis nootkatensis (D.Don) Oerst., công bố vào năm 1864 nhưng đã bị các tác giả khác hoặc là bỏ qua hoặc là không nhận ra. Little và những người khác vì thế đã coi Xanthocyparis là đồng nghĩa của Callitropsis, tên gọi chính xác cho các loài này theo quy tắc của ICBN khi xử lý một chi khác biệt. Tên gọi Xanthocyparis hiện nay đã được đề xuất để bảo lưu, nhưng điều này chỉ được quyết định tại Đại hội Thực vật học quốc tế năm 2011, cho đến thời gian này thì tên gọi chính xác cần phải là Callitropsis theo nguyên tắc đặt trước.
Nguyễn Hữu Thọ (10 tháng 7 năm 1910 – 24 tháng 12 năm 1996) là một luật sư, chính khách Việt Nam. Ông là Phó Chủ tịch nước Việt Nam sau đó là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1976 đến năm 1992 trong giai đoạn này ông làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam từ năm 1981 đến năm 1987, sau đó ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1988 đến năm 1994. Ông từng là Quyền Chủ tịch nước Việt Nam từ ngày 30 tháng 3 năm 1980 đến ngày 4 tháng 7 năm 1981 sau khi ông Tôn Đức Thắng qua đời. Trong Chiến tranh Việt Nam, ông là Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chủ tịch Hội đồng cố vấn của Cộng hòa miền Nam Việt Nam chức vụ tương đương với Chủ tịch nước. Tiểu sử Ông sinh ra ở làng Long Phú, tổng Long Hưng Hạ, quận Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn (nay là thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Năm 1930, ông học luật ở Pháp và trở về nước năm 1933. Hành nghề luật sư khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, ông luôn bảo vệ công lý, bênh vực người dân vô tội trước tòa án thực dân. Năm 1947, ông vận động hàng trăm luật sư, kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ, nhà giáo, nhà báo,... ký tên vào bản Tuyên ngôn của trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn đòi Chính phủ Pháp đàm phán với Chính phủ Việt Nam do Việt Minh lãnh đạo. Năm 1948, ông tham gia Hội Liên Việt và ngày 16 tháng 10 năm 1949 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sự nghiệp chính trị Hoạt động Cách mạng Ông hoạt động trong phong trào trí thức và bị Pháp bắt tháng 6 năm 1950, bị giam ở Lai Châu rồi Sơn Tây cho đến tháng 11 năm 1952. Sau đó ông lại tham gia phong trào đấu tranh hợp pháp, đòi hòa bình ở Sài Gòn - Chợ Lớn, là Phó chủ tịch Phong trào hòa bình Sài Gòn-Chợ Lớn. Năm 1954, ông bị chính quyền Quốc gia Việt Nam của Thủ tướng Ngô Đình Diệm bắt giam ở Phú Yên. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cuối tháng 11 năm 1961 ông Thọ về đến bắc Tây Ninh, tháng 2 năm 1962 Đại hội lần thứ I Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức và ông được bầu làm Chủ tịch. Khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thành lập vào tháng 6 năm 1969, ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng cố vấn (tương đương với Chủ tịch nước) nhưng thực tế thì không có quá nhiều quyền lực lên nhà nước.Quyền lực thực tế nằm trong tay Chủ tịch Chính Phủ Huỳnh Tấn Phát Sự nghiệp chính trị sau năm 1975 Năm 1976 ông được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam thống nhất. Tháng 4 năm 1980 ông làm Quyền Chủ tịch nước đến tháng 7 năm 1981 sau khi Chủ tịch nước Việt Nam Tôn Đức Thắng qua đời. Năm 1981 ông là Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đến năm 1987, rồi là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tại đại hội năm 1988. Ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước khóa VII, VIII. Ông được thưởng Huân chương Sao vàng năm 1993. Qua đời và vinh danh Qua đời Ông qua đời lúc 20h40 tối ngày 24 tháng 12 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh, và được an táng ở Nghĩa trang TP.HCM. Vinh danh Tên của ông được đặt cho các đường phố ở Việt Nam, gồm có: Hà Nội (nối Giải Phóng với đường Linh Đường), Thành phố Hồ Chí Minh (nối Khánh Hội - cầu Bà Chiêm), Đà Nẵng (nối Nguyễn Tri Phương đến Võ Chí Công), Điện Biên Phủ (quốc lộ 12 đến điểm cắt Bế Văn Đàn),... Tên của ông được đặt cho ngôi trường lớn ở quê hương ông (Bến Lức) THPT Nguyễn Hữu Thọ gần nhà văn hóa Bến Lức, ở quận 7 trường THCS Nguyễn Hữu Thọ trên đường Lâm Văn Bền và ở quận 4 ngày 12/03/2010 tên ông được đặt cho trường THPT Nguyễn Hữu Thọ, gần Bến Nhà Rồng tọa lạc địa chỉ số 02 Bến Vân Đồn phường 12 quận 4. Ngoài ra, Đền thờ Nguyễn Hữu Thọ đã được xây dựng ở quê hương ông nằm giữa nhà văn hóa huyện và ngôi trường mang tên ông. Tác phẩm "Gắn bó với dân tộc, với nhân dân, với cách mạng". Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
Hoa hậu Thế giới năm 2006 là cuộc thi Hoa hậu Thế giới lần thứ 56 được tổ chức tại Tháp Văn hóa và Khoa học ở thủ đô Warszawa của Ba Lan. Cuộc thi có tất cả 104 thí sinh tham gia. Đêm chung kết của cuộc thi diễn ra vào ngày 30 tháng 9 năm 2006 với vương miện thuộc về người đẹp Taťána Kuchařová, đến từ Cộng hòa Séc. Tổng cộng có 104 quốc gia tham gia cuộc thi, số lượng lớn thứ 12 sau 2013 (127) 2014 (121), 2012 (116), 2010 (115), 2015 (114), 2011 (113), 2009 (112), 2008 (109), 2004 (107), và 2007 và 2003 (cả 106). Tất cả các thí sinh được chia thành sáu nhóm khu vực: Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á Thái Bình Dương, Caribe, Bắc Âu và Nam Âu. Các kết quả Các danh hiệu cao nhất Các nữ hoàng sắc đẹp khu vực Các giải phụ Hoa hậu Bãi biển Alexandra Federica Guzmán Diamante - Venezuela: Hoa hậu Bãi biển Tatana Kucharova - Cộng hòa Séc: Á hậu 1 Natasha Suri - Ấn Độ: Á hậu 2 Hoa hậu Thể thao Malgorzata Majewska - Canada: Hoa hậu Thể thao Thebyam Carrion Alvarez - Puerto Rico: Á hậu 1 Liga Meinarte - Latvia: Á hậu 2 Hoa hậu Tài năng Catherine Jean Milligan - Bắc Ireland: Hoa hậu Tài năng Elizaveta Migatcheva - Ý: Á hậu 1 Lorraine Tsoanele Maphala - Zimbabwe: Á hậu 2 Hoa hậu Nhân ái Lamisi Mbillah - Ghana: Hoa hậu Nhân ái Giải thưởng nhà thiết kế tài năng - Ivana Ergic. *Top 5 chung kết: Hà Lan, Ấn Độ, Kenya, Ireland và Croatia. *Top 20 bán kết: Cộng hòa Séc, Ba Lan, Liban, Romania, Ý, Aruba, Barbados, Cộng hòa Dominica, Trung Quốc, Colombia, Mỹ, Venezuela, Angola, Mauritius, và Việt Nam. Thí sinh Có tất cả 104 thí sinh tham dự cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2006 Châu Á – Thái Bình Dương Bắc Âu Nam Âu Vùng biển Caribê Châu Mỹ Châu Phi
Taťána Kuchařová (sinh năm 1987 tại Trnava, Tiệp Khắc, nay là Slovakia) là Hoa hậu Thế giới 2006. Cô đã trở thành cô gái Cộng hòa Séc đầu tiên đăng quang Hoa hậu thế giới. Tháng 4 năm 2006, Taťána Kuchařová đã đăng quang danh hiệu Hoa hậu Cộng hòa Séc 2006. Với danh hiệu này, cô đã được phép có mặt tại Ba Lan vào tháng 10 để tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Taťána Kuchařová nhận được sự ủng hộ rất lớn từ phía khán giả trong suốt thời gian cuộc thi diễn ra. Trong đêm chung kết, cô được khán giả bầu chọn nhiều nhất ở khu vực Bắc Âu và cùng với hoa hậu Scotland và Bắc Ireland bước vào bán kết của khu vực Bắc Âu. Tiếp đó, cô đoạt danh hiệu Hoa hậu Thế giới Bắc Âu, tiếp tục lọt vào top 6 chung kết. Cuối cùng, cô đã đăng quang Hoa hậu Thế giới 2006. Taťána Kuchařová có chiều cao 1,77 m. Cô sinh ra ở Trnava (Slovakia) nhưng lớn lên ở Opocno, Cộng hòa Séc. Hiện cô vẫn là một học sinh trung học. Cô mong muốn sau khi tốt nghiệp đại học sẽ trở thành một người mẫu để đi khắp thế giới. Tatana thích chơi tennis, cưỡi ngựa. Cô cũng là người rất yêu động vật. Phương châm sống của cô là "Luôn luôn là người lạc quan".
Trong ngành khoa học máy tính, các phương pháp hình thức là các kỹ thuật toán học cho việc đặc tả, phát triển và kiểm định các hệ thống phần mềm và phần cứng. Cách tiếp cận này đặc biệt quan trọng đối với các hệ thống cần có tính toàn vẹn cao, chẳng hạn hệ thống điều khiển lò phản ứng hạt nhân hay điều khiển tên lửa, khi an toàn hay an ninh có vai trò quan trọng, để góp phần đảm bảo rằng quá trình phát triển hệ thống sẽ không có lỗi. Các phương pháp hình thức đặc biệt hiệu quả tại giai đoạn đầu của quá trình phát triển (tại các mức yêu cầu và đặc tả hệ thống), nhưng cũng có thể được sử dụng cho một quá trình phát triển hoàn chỉnh của một hệ thống. Phân loại Các phương pháp hình thức có thể được sử dụng tại nhiều mức: Mức 0: Đặc tả hình thức có thể được thực hiện và rồi một chương trình được phát triển từ đặc tả này một cách không hình thức. Trong nhiều trường hợp, cách này có thể là lựa chọn hiệu quả nhất về mặt chi phí. Mức 1: Sử dụng phát triển và kiểm định hình thức để tạo một chương trình theo một quy trình hình thức hơn. Ví dụ, có thể thực hiện các chứng minh về các tính chất hoặc quá trình tinh chỉnh (refinement) từ đặc tả hình thức tới một chương trình. Đây có thể là lựa chọn phù hợp nhất đối với các hệ thống yêu cầu tính toàn vẹn cao với các tiêu chí về an toàn và an ninh. Mức 2: Sử dụng các bộ chứng minh định lý (theorem prover) để thực hiện các chứng minh hình thức hoàn toàn và được kiểm chứng bằng máy móc. Việc này có thể đòi hỏi chi phí rất cao và chỉ đáng lựa chọn trong thực tiễn nếu phí tồn cho các lỗi sai là cực kỳ cao (ví dụ, trong các phần quan trọng của thiết kế bộ vi xử lý). Cùng với ngành con Ngữ nghĩa hình thức của ngôn ngữ lập trình, các phương pháp hình thức có thể được phân loại tương đối như sau: Ngữ nghĩa ký hiệu (Denotational semantics), trong đó ý nghĩa của một hệ thống được biểu diễn bằng lý thuyết toán học về miền xác định. Lợi điểm của những phương pháp này phụ thuộc vào bản chất được hiểu rõ của các miền xác định để từ đó đem lại ý nghĩa cho hệ thống; các phê phán chỉ ra rằng không phải hệ thống nào cũng có thể được nhìn một cách tự nhiên hoặc trực quan dưới dạng một hàm số. Ngữ nghĩ hoạt động (Operational semantics), trong đó, ý nghĩa của một hệ thống được biểu diễn bằng một chuỗi các hành động của một mô hình tính toán (giả thiết là) đơn giản hơn. Lợi điểm của phương pháp này là tính đơn giản của các mô hình tạo nên sự trong sáng của biểu diễn; nhược điểm là phương pháp này đã trì hoãn các vấn đề của ngữ nghĩa (ai định nghĩa ngữ nghĩa của các mô hình đơn giản hơn?) Ngữ nghĩa tiên đề (Axiomatic semantics), trong đó ý nghĩa của hệ thống được biểu diễn theo các tiền điều kiện (precondition) và hậu điều kiện (postcondition), đây lần lượt là các điều kiện phải được thỏa mãn tại các thời điểm trước và sau khi hệ thống thực hiện một nhiệm vụ. Những người ủng hộ phương pháp này nói đến mối quan hệ của nó với lôgic kinh điển; những người phê phán nói rằng những ngữ nghĩa thuộc dạng này không thực sự mô tả xem hệ thống làm cái gì (chỉ là cái gì đúng trước đó và sau đó). Sử dụng Các phương pháp hình thức có thể được áp dụng tại nhiều điểm khác nhau trong cả quá trình phát triển phần mềm. (Tuy có thể nói đến một quá trình phát triển bất kỳ, để thuận tiện, ta sẽ dùng các thuật ngữ của mô hình thác nước). Đặc tả Các phương pháp hình thức có thể được sử dụng để mô tả về hệ thống cần phát triển, tại bất kỳ mức độ chi tiết nào mà ta muốn. Mô tả hình thức này có thể được sử dụng để hướng dẫn các hoạt động phát triển tiếp theo (xem các mục dưới); ngoài ra, nó có thể được sử dụng để kiểm định xem các yêu cầu cho hệ thống đang được phát triển đã được đặc tả một cách đầy đủ và chính xác hay chưa. Nhu cầu về các hệ thống đặc tả hình thức đã được nói đến từ nhiều năm. Trong Báo cáo ALGOL 60, John Backus đã trình bày một hệ thống ký hiệu hình thức để mô tả cú pháp ngôn ngữ lập trình (sau này được đặc tên là Backus normal form hay Backus-Naur form (BNF) (Dạng chuẩn tắc Backus)); Phát triển Khi một đặc tả hình thức đã được phát triển xong, đặc tả đó có thể được sử dụng làm một hướng dẫn trong quá trình hệ thống thực được phát triển (nghĩa là được hiện thực hóa trong phần mềm và/hoặc phần cứng). Ví dụ: Nếu đặc tả hình thức là một ngữ nghĩa hoạt động, hành vi được quan sát của hệ thống thực sẽ có thể được so sánh với hành vi trong đặc tả (chính đặc tả cũng nên chạy được hoặc giả lập được). Thêm vào đó, các lệnh hoạt động của đặc tả có thể thích hợp cho việc dịch thẳng mã chạy được. Nếu đặc tả hình thức là một ngữ nghĩa tiên đề, các tiền điều kiện và hậu điều kiện của đặc tả có thể trở thành các assertion If the formal specification is in an axiomatic semantics, the preconditions and postconditions of the specification may become khẳng định (assertion') trong mã chạy được. Kiểm định Khi một đặc tả hình thức đã được phát triển, đặc tả này có thể được dùng làm cơ sở cho việc chứng minh các tính chất của đặc tả. Chứng minh của con người Đôi khi, động cơ cho việc chứng minh tính đúng đắn của một hệ thống không phải là nhu cầu đảm bảo tính đúng đắn của hệ thống mà là mong muốn hiểu rõ hơn về hệ thống. Do đó, một số chứng minh được thực hiện dưới hình thức chứng minh toán học: viết tay hoặc đánh máy nội dung bằng ngôn ngữ tự nhiên, với mức độ phi hình thức như các chứng minh toán học thông thường mà con người vẫn thực hiện. Một chứng minh "tốt" là một chứng minh mà những người khác có thể đọc được và hiểu được. Các phê phán đối với cách tiếp cận này nói rằng tính đa nghĩa cố hữu trong ngôn ngữ tự nhiên cho phép các lỗi sai trong các chứng minh đó có thể không bị phát hiện; nhiều khi, những lỗi tinh vi có thể xuất hiện trong các chi tiết mức thấp mà thường không được để ý đến bởi những chứng minh thuộc kiểu này. Ngoài ra, việc tạo ra các chứng minh tốt đòi hỏi trình độ toán học cao. Chứng minh tự động Ngược lại, ngày càng có nhiều quan tâm đến các chứng minh về tính đúng đắn của hệ thống bằng các phương tiện tự động. Các kỹ thuật tự động được phân thành hai loại chính: Chứng minh định lý tự động, trong đó, khi cho trước một mô tả về hệ thống, một tập các tiên đề lôgic và một tập các quy tắc suy luận, một hệ thống sẽ cố gắng tự xây dựng một chứng minh hình thức từ đầu. Kiểm tra mô hình, trong đó, một hệ thống kiểm định các tính chất nhất định bằng cách duyệt trong toàn bộ tất cả các trạng thái mà trong thời gian chạy, hệ thống có thể vào trạng thái đó. Cả hai kỹ thuật trên đều hoạt động mà không cần đến sự hỗ trợ của con người. Các bộ chứng minh định lý tự động thường yêu cầu định hướng xem các tính chất nào là đáng quan tâm; các bộ kiểm tra mô hình có thể nhanh chóng sa lầy vào việc kiểm tra hàng triệu trạng thái không đáng quan tâm nếu không được cho trước một mô hình đủ trừu tượng. Những người ủng hộ các hệ thống này cho rằng các kết quả của chúng có độ xác tính toán học cao hơn các chứng minh của con người, do tất cả các chi tiết buồn tẻ đã được kiểm định một cách có thuật toán. Việc huấn luyện cần thiết để có thể sử dụng được các hệ thống này cũng ít hơn đòi hỏi cần thiết cho việc tạo ra các chứng minh toán học tốt bằng tay. Nhờ đó, các kỹ thuật này có thể dùng được cho nhiều người hơn. Những người phê phán cho rằng các hệ thống kiểu này giống như máy sấm truyền: chúng đưa ra các tuyên bố về sự thật nhưng lại không đưa ra giải thích nào về sự thực đó. Còn có cả vấn đề "kiểm định hệ kiểm định"; nếu chính chương trình tham gia công tác kiểm định không được chứng minh là đúng, thì có thể có lý do để nghi ngờ tính đúng đắn của các kết quả được tạo ra. Phê phán Bên cạnh các phê phán nội bộ nói trên, còn có các phê phán dành cho toàn bộ ngành các phương pháp hình thức. Với tầm phát triển hiện nay, các chứng minh về tính đúng đắn, bằng tay hoặc bằng máy tính, đòi hỏi nhiều thời gian (và do đó cả tiền bạc) để được tạo ra, với lợi ích hạn chế ngoài việc đảm bảo tính đúng đắn. Điều đó làm cho các phương pháp hình thức thường chỉ được dùng trong các lĩnh vực thu được lợi ích từ việc có được các chứng minh đó, hoặc sẽ gặp nguy hiểm nếu có các lỗi không được phát hiện. Ví dụ, trong kỹ thuật hàng không, các lỗi không được phát hiện có thể gây chết chóc, do đó các phương pháp hình thức được dùng rộng rãi trong ngành này hơn trong các lĩnh vực ứng dụng khác. Các phương pháp hình thức và hệ thống ký hiệu Abstract State Machines (ASMs) Alloy B-Method Process calculi CSP π-calculus Actor model Esterel Lustre Petri nets RAISE VDM Z notation Xem thêm Chứng minh định lý tự động Kiểm tra mô hình (Model checking) Kỹ nghệ phần mềm Các thảm họa kỹ nghệ phần mềm Tham khảo Sten Agerholm and Peter G. Larsen, "A Lightweight Approach to Formal Methods" , In Proceedings of the International Workshop on Current Trends in Applied Formal Methods, Boppard, Germany, Springer-Verlag, tháng 10 năm 1998 Richard Denney, Succeeding with Use Cases: Working Smart to Deliver Quality, Addison-Wesley Professional Publishing, 2005, ISBN 0-321-31643-6. Vinu George and Rayford Vaughn, "Application of Lightweight Formal Methods in Requirement Engineering" , Crosstalk: The Journal of Defense Software Engineering, tháng 1 năm 2003 Daniel Jackson, "Alloy: A Lightweight Object Modelling Notation", ACM Transactions on Software Engineering and Methodology (TOSEM), Volume 11, Issue 2 (tháng 4 năm 2002), pp. 256–290 Daniel Jackson and Jeannette Wing, "Lightweight Formal Methods", IEEE Computer'', tháng 4 năm 1996
Wayne Mark Rooney (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1985) là một cựu cầu thủ bóng đá và hiện là huấn luyện viên bóng đá cho câu lạc bộ EFL Championship Birmingham City. Anh thường chơi ở vị trí tiền đạo, đôi khi anh cũng được sử dụng ở vị trí tiền vệ. Được đánh giá là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất thế hệ của anh, Rooney là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho Manchester United và từng ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển bóng đá quốc gia Anh từ năm 2015 đến 2023. Rooney gia nhập đội trẻ Everton khi mới 9 tuổi và có trận ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ vào năm 2002 ở tuổi 16. Anh đã có hai mùa giải thi đấu cho đội bóng vùng Merseyside, trước khi chuyển đến Manchester United với giá 25,6 triệu bảng vào mùa hè năm 2004. tại đây anh giành được 16 danh hiệu và trở thành cầu thủ người Anh duy nhất, cùng với đồng đội Michael Carrick, vô địch Premier League, FA Cup, UEFA Champions League, League Cup, UEFA Europa League và FIFA Club World Cup. Anh đã ghi 253 bàn thắng cho Man United trên mọi đấu trường và trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của câu lạc bộ, với 183 bàn thắng ở Premier League. Và với 208 bàn thắng của Rooney tại Premier League, anh trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai mọi thời đại. Anh cũng có số đường kiến ​​tạo nhiều thứ ba ở Premier League, với 103 pha kiến tạo. Rooney đã có trận đấu quốc tế đầu tiên cho đội tuyển Anh vào tháng 2 năm 2003 ở tuổi 17 và là cầu thủ ghi bàn trẻ nhất của đội tuyển Anh. Anh góp mặt tại UEFA Euro 2004 và ghi được bốn bàn thắng, trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất trong lịch sử giải vô địch châu Âu. Rooney cũng đã góp mặt tại các kỳ World Cup 2006, 2010, 2014 và được nhiều người đánh giá là cầu thủ xuất sắc nhất của đất nước quê hương anh. Anh đã 4 lần giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Anh, vào các năm 2008, 2009, 2014 và 2015. Với 53 bàn thắng sau 120 lần khoác áo đội tuyển quốc gia, Rooney là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của Anh và là cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều thứ hai sau Peter Shilton. Tuổi thơ Rooney sinh ra ở khu vực ngoại ô phía Đông thành phố Liverpool có tên là Croxteth, trong một gia đình lao động nghèo khó hâm mộ câu lạc bộ Everton. Bố của cậu là Thomas Wayne, mẹ là Jeanette Marie Rooney; cậu có hai người em trai là John và Graeme. Rooney học tại trường tiểu học Our Lady & St Swithin's RC và trung học De La Salle. Giống như bố mẹ, Rooney là một người Anh gốc Ai-len và cũng là một người hâm mộ đội bóng Everton, cầu thủ mà cậu yêu thích nhất của đội bóng này là Duncan Ferguson. Ngoài bóng đá, Rooney còn đam mê môn quyền anh từ nhỏ, cậu chơi xen lẫn cả hai bộ môn hàng tối. Nhưng đến năm 15 tuổi, khi Rooney gia nhập câu lạc bộ Everton thì các huấn luyện viên ở đó đã bắt buộc cậu phải lựa chọn bởi việc chơi quyền anh sẽ lấy đi rất nhiều sức lực cũng như dễ dẫn tới những chấn thương và Rooney đã quyết định chọn bóng đá. Sự nghiệp cấp câu lạc bộ Bắt đầu chơi bóng Rooney bắt đầu chơi bóng cho đội bóng trường Liverpool Schoolboys và anh đã lập được kỷ lục 72 bàn thắng trong một mùa giải ở nơi đây, kỷ lục anh sau đó đã bị phá vỡ vào tháng 5 năm 2010 bởi cậu bé 11 tuổi học cùng trường. Chín tuổi, Rooney chơi cho câu lạc bộ địa phương Copplehouse vùng Walton thi đấu ở giải trung học Kirkdale, anh ghi được 99 bàn trong mùa giải thi đấu cuối cùng trước khi được phát hiện bởi trinh sát viên đội bóng Everton. Trong mùa giải 1995-96, anh đã ghi 114 bàn thắng trong 29 trận thi đấu cho hai đội U-10 và U-11 Everton, và khi mới 15 tuổi anh đã được đôn lên chơi cho đội U-19. Anh đã ghi tổng cộng 8 bàn thắng trong 8 trận đấu của Everton ở giải FA Youth Cup (Cúp FA dành cho các cầu thủ trẻ) năm 2002. Khi vào đến chung kết gặp Aston Villa, đội bóng anh đã bại trận và sau khi ghi một bàn thắng trong trận đấu đó, anh đã khoe chiếc áo thun có dòng chữ: "Once a Blue, always a Blue" (Một khi là màu xanh, mãi mãi là màu xanh). Rooney đã được cho lên đội một của Everton trong chuyến du đấu tại Áo mùa hè năm 2002 và đã ghi được bàn đầu tiên trong trận đấu giao hữu trước SC Weiz (thắng 3–1) vào ngày 15 tháng 7. Everton Rooney có lần ra mắt đầu tiên trong trận đấu trước Southampton vào tháng 4 năm 2002, trận đấu mà anh chỉ xuất hiện trên băng ghế dự bị mà không được vào sân. Ngày 17 tháng 8 năm 2002, Rooney có trận đấu chính thức đầu tiên ở đội một Everton trong trận hòa 2–2 với Tottenham Hotspur. Ngày 1 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Everton sau khi lập được một cú đúp trong chiến thắng 3–0 trước Wrexham tại Cúp Liên Đoàn. Năm ngày trước sinh nhật lần thứ 17 của mình, anh đã ghi được một bàn thắng đẹp mắt vào đúng phút 90 trong chiến thắng 2–1 trước đội đương kim vô địch Arsenal tại sân Goodison Park. Bàn thắng này khiến cho kỷ lục 30 trận liên tiếp bất bại, và 24 trận không thua trên sân khách của Arsenal bị chấm dứt, còn riêng cá nhân anh lúc đó chỉ mới 16 tuổi 361 ngày và bàn thắng đó đã giúp Rooney lập kỉ lục trở thành Cầu thủ Ghi bàn Trẻ nhất tại Giải ngoại hạng Anh (Tiếng Anh: Premier League), nhưng kỉ lục này kể từ đó đã bị phá vỡ hai lần; đầu tiên của James Milner cho Leeds (16 tuổi 357 ngày) và sau đó bởi người đồng đội của anh James Vaughan cho Everton (16 tuổi 271 ngày). Sau đó, anh tiếp tục ghi bàn trong trận thắng 1–0 trước Leeds United. Trong tháng 12 năm 2002, anh được BBC bầu chọn là Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm. Sáu ngày sau khi nhận giải, anh ghi bàn giúp Everton lội ngược dòng và thắng Blackburn Rovers với tỉ số chung cuộc 2–1. Vào ngày 26 tháng 12 (ngày tặng quà) trong trận đấu với Birmingham City, anh bị phạt chiếc thẻ đỏ đầu tiên trong sự nghiệp sau pha vào bóng ác ý với Steve Vickers. Cũng trong tháng này, Rooney đã ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên của mình và điều đó giúp anh trở thành một trong những cầu thủ trẻ được trả lương cao nhất thế giới. Ngày 23 tháng 3, anh ghi bàn thắng danh dự trong trận thua 2–1 trước Arsenal và đó cũng là bàn thắng đầu tiên trong năm 2003 của Rooney. Vào tháng 4, anh lập công trong chiến thắng 2–1 trước Newcastle United, và sau đó tiếp tục ghi một bàn thắng ở phút 90 trong trận thắng cùng kết quả trước Aston Villa. Anh kết thúc mùa bóng đầu tiên của mình với 8 bàn thắng trong 37 lần ra sân ở mọi giải đấu cho các The Toffees. Rooney ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2002-03 ở trận hòa 2–2 với Charlton vào ngày 26 tháng 8 năm 2003. Từ đó, anh đã trải qua thời gian dài không ghi bàn cho đến tháng 12 khi anh lập công trong chiến thắng 2–1 trước Portsmouth, và 3–2 trước Leicester City. Bàn thắng cuối cùng của anh trong năm 2003 được ghi trong lần ra sân thứ 50 của anh tại giải đấu, khi Everton đánh bại Birmingham với tỉ số 1–0 bằng bàn thắng duy nhất của anh vào ngày 28 tháng 12. Ngày 21 tháng 2 năm 2004, Rooney ghi cú đúp đầu tiên tại giải ngoại hạng trong trận hòa 3–3 với Southampton. Anh tiếp tục ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Portsmouth vào ngày 13 tháng 3, trước khi ghi bàn trong trận hòa 1–1 với Leicester City một tuần sau đó. Bàn thắng cuối cùng của Rooney trong mùa giải được ghi ở trận hòa 1–1 với Leeds United vào ngày 13 tháng 4. Đầu năm 2004 ban lãnh đạo đội bóng yêu cầu một hợp đồng 3 năm cùng mức lương 12.000 bảng/tuần với Rooney nhưng đã bị người đại diện của anh từ chối, và điều đó tạo cơ hội cho Newcastle và Manchester United bắt đầu đàm phán để có chữ ký của anh. Trong đó, Everton đã từ chối mức giá 20 triệu £ từ Newcastle và Manchester là người chiến thắng với khoản tiền đưa ra là 25.6 triệu £. Đó cũng là số tiền lớn nhất một đội bóng từng trả cho một cầu thủ dưới 20 tuổi trong lịch sử (lúc đó Rooney 18 tuổi). Manchester United Giai đoạn 2004-2006 Sau khi Rooney đồng ý ký hợp đồng với Manchester United, huấn luyện viên trưởng của M.U. Alex Ferguson đã tự tin phát biểu: "Tôi rất vui mừng, tôi nghĩ rằng chúng tôi đã có được cầu thủ trẻ xuất sắc nhất nước Anh trong 30 năm qua". Ở M.U., Rooney được mặc chiếc áo số 8 (trước đây là của cựu tiền vệ Nicky Butt) và làm vai trò hộ công cho Van Nistelrooy. Sau một thời gian ngồi ngoài vì chấn thương mà anh dính phải tại Euro 2004, Rooney có trận đấu ra mắt thành công cho M.U. vào ngày 28 tháng 9 năm 2004 trong chiến thắng 6–2 trước Fenerbahçe ở UEFA Champions League với việc anh ghi được một hat-trick cùng với một pha kiến tạo. Ngày 24 tháng 10 trong trận đấu với Arsenal tại sân nhà Old Trafford, Rooney chính là người kiếm quả phạt đền cho Van Nistelrooy mở tỷ số, và đích thân anh ghi bàn ấn định chiến thắng 2–0 cho United. Đó cũng là bàn thắng đầu tiên của anh tại Premier League và bàn thắng đó đã góp phần vào việc chấm dứt chuỗi 49 trận bất bại của Pháo thủ ở giải Ngoại hạng Anh. Ngày 15 tháng 1 năm 2005, anh tiếp tục lập công với một bàn thắng duy nhất, giúp United đánh bại Liverpool ngay tại sân Anfield. 14 ngày sau trong chiến thắng 3–0 trước Middlesbrough anh tiếp tục nổ súng với hai bàn thắng. Ngày 24 tháng 4 trong trận thắng 2–1 trước Newcastle, Rooney là người ghi bàn gỡ hòa cho M.U. với cú bắt "vô lê" từ cự ly hơn 30m làm bó tay thủ môn Given. Tuy nhiên, mùa giải đầu tiên của Rooney tại Old Trafford đã khép lại mà M.U. không có danh hiệu nào. Họ kết thúc ở vị trí thứ ba tại Premier League và không vào được tứ kết Champions League. Ở hai giải đấu cúp quốc nội, họ bị loại khỏi Cúp Liên Đoàn sau khi thua Chelsea ở bán kết, đội bóng đã giành danh hiệu Premier League mùa giải đó, và thất bại trên chấm luân lưu đầy may rủi trước Arsenal ở trận chung kết Cúp FA 2005 đã khép lại một mùa giải thất vọng của Manchester United cũng như cá nhân Rooney. Cuối mùa giải đó anh là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho câu lạc bộ với 11 bàn thắng, và đã được Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh (Professional Footballers' Association) bầu chọn là Cầu thủ Trẻ Xuất sắc nhất Năm. Tháng 9 năm 2005, Rooney bị đuổi khỏi sân trong trận đấu tại UEFA Champions League với Villareal của Tây Ban Nha (kết thúc là một trận hòa không bàn thắng) do vỗ tay châm biếm trọng tài, người đã thổi phạt anh trong một pha phạm lỗi không có chủ ý vào cầu thủ đối phương. Hành động này sau đó còn khiến anh bị Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) cấm thi đấu 2 trận tiếp theo với S.L. Benfica và Lille. Danh hiệu đầu tiên của anh với Manchester United là Cúp Liên Đoàn vào năm 2006. Rooney còn được bình chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất nhất trận đấu chung kết với Wigan Athletic sau khi ghi hai bàn thắng trong chiến thắng 4–0 của Quỷ đỏ. Ngày 10 tháng 4, Rooney tỏa sáng với một bàn thắng ở phút 54 và giúp M.U. hạ gục Arsenal với tỉ số 2–0. Hy vọng giành được chiếc Cúp Ngoại Hạng Anh đầu tiên của Rooney đã không xảy ra khi M.U. để thua 3–0 trên sân Stamford Bridge trước Chelsea ở vòng 37 và phải kết thúc mùa giải ở vị trí thứ hai. Khâu ghi bàn của Rooney tiến bộ hơn trong mùa giải 2005-06, khi anh có 16 bàn trong 36 trận tại Premier League. Giai đoạn 2006-2009 Rooney bị đuổi khỏi sân trong trận đấu đầu tiên ở Cúp Amsterdam với Porto (M.U. thắng 3–1) ngày 4 tháng 8 năm 2006 sau khi đánh nguội hậu vệ Pepe của đội bạn bằng khuỷu tay, đồng đội của anh Scholes cũng bị đuổi sau khi phạm lỗi từ phía sau với Quaresma. Sau đó, anh cùng với Scholes đã bị phạt bằng lệnh cấm thi đấu ba trận của Liên đoàn bóng đá Anh. Rooney đã viết một bức thư phản đối tới FA, nói rằng họ đã từng "nhẹ tay" với các cầu thủ khác, những người cũng đã bị đuổi ra trong một trận đấu giao hữu nên anh cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Anh cũng đe dọa sẽ rút lại sự cho phép FA quyền sử dụng hình ảnh của mình nếu họ không thu hồi lệnh cấm, nhưng FA cuối cùng vẫn giữ nguyên hình phạt. Trong nửa đầu của mùa giải 2006-07, Rooney đã kết thúc chuỗi mười trận không ghi bàn với một cú hat-trick vào lưới Bolton, và anh gia hạn hợp đồng thêm hai năm với M.U. vào tháng tiếp theo, giúp anh tiếp tục gắn bó với câu lạc bộ đến năm 2012. Ngày 28 tháng 1 năm 2007 trong trận đấu ở vòng 4 Cúp FA giữa M.U. và Portsmouth, Wayne Rooney đã tỏa sáng với hai pha lập công và giúp United giành chiến thắng 2–1. Ngày 27 tháng 3, Rooney có bàn thắng thứ 50 cho MU và lại vào lưới của Bolton. Trận đó, M.U. thắng 4–1 và anh lập được cú đúp. Đến cuối tháng 4, hai cú đúp liên tiếp trong trận tứ kết Champions League thắng Roma 7–1 và trong trận bán kết lượt đi thắng 3–2 trước AC Milan đã đưa tổng số bàn thắng của Rooney lên con số 23, trong đó có 14 bàn ở Premier League. Ngày 28 tháng 4 Rooney đóng góp một bàn trong chiến thắng 4–2 trước đội bóng cũ Everton và chiến thắng này đã giúp United chạm một tay vào chức vô địch Premiership. Cuối cùng vào ngày 14 tháng 5, sau trận đấu với West Ham Rooney đã đoạt được chiếc Cúp Ngoại hạng Anh đầu tiên trong sự nghiệp của mình và cũng là chiếc cúp đầu tiên sau bốn năm chờ đợi của United. Nhưng Rooney không thể tiếp tục giành Cúp FA để hoàn tất cú đúp danh hiệu cùng Manchester United khi anh cùng các đồng đội đã để thua 1–0 trong trận chung kết Cúp FA 2007 trước Chelsea và không thể ăn mừng danh hiệu Premier League trong niềm vui trọn vẹn. Rooney đã giới thiệu số áo mới của mình là số 10 (số áo được bỏ trống của Van Nistelrooy, người đã chuyển qua chơi cho Real Madrid một năm trước đó), trong một cuộc họp báo ngày 28 tháng 6 năm 2007 trước cựu tiền đạo M.U. là Denis Law, người cũng từng đeo áo số 10 khi chơi ở United trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Ngày 12 tháng 8 năm 2007, Rooney bị gãy xương bàn chân trái của mình trong trận đấu không bàn thắng với Reading vào ngày khai mạc sau khi va chạm với trung vệ Michael Duberry ở phút 37. Anh cũng đã từng bị một chấn thương tương tự với chân phải vào năm 2004. Sau khi phải ngồi ngoài trong vòng sáu tuần, anh trở lại và ghi bàn thắng duy nhất giúp cho M.U. có được thắng lợi 1–0 trước Roma tại vòng bảng Champions League ngày 2 tháng 10. Ngày 27 tháng 10 năm 2007, Rooney giúp United hạ Middlesbrough với tỉ số 4–1 mà trong đó anh là người chơi hay nhất với 1 bàn thắng từ chấm penalty và thực hiện hai đường chuyền mẫu mực cho người đồng đội Tévez ghi bàn. Tuy nhiên, khi vừa mới trở lại được một tháng, Rooney lại bị dính chấn thương mắt cá chân trong một buổi tập ngày 9 tháng 11, và phải nghỉ thi đấu hai tuần. Trận đấu đầu tiên của anh là trận thắng Fulham vào ngày 3 tháng 12, trong đó anh đã chơi được 70 phút. Ngày 27 tháng 12, Rooney chấm dứt cơn khát bàn thắng của anh ở Giải ngoại hạng kéo dài từ cuối tháng 10 với việc đóng góp một bàn vào chiến thắng đậm đà 4–0 trước Sunderland. Kết thúc mùa giải 2007-08, Rooney bỏ lỡ tổng cộng mười trận đấu và chỉ ghi được 18 bàn thắng (12 trong số này là tại giải quốc nội). Tuy nhiên trong năm này, Manchester United lại giành cả Premier League lẫn UEFA Champions League, trong đó họ đánh bại đối thủ trực tiếp Chelsea trên loạt sút luân lưu trong trận chung kết toàn Anh. Ngày 1 tháng 10 năm 2008, Rooney ghi bàn thắng mở tỉ số trong chiến thắng 3–0 của United trước Aalborg ở đấu trường Champions League. Ba ngày sau, trong trận thắng Blackburn Rovers tại Giải Ngoại hạng, Rooney trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử giải đấu có 200 lần ra sân. Ngày 27 tháng 10, trong trận đấu với câu lạc bộ cũ Everton trên sân Goodison Park, sau một tình huống phạm lỗi thô bạo với Mikel Arteta, Rooney đã bị trọng tài phạt thẻ vàng. Thấy cổ động viên Everton huýt sáo trêu chọc anh đã hôn phù hiệu của M.U. trên áo sau đó giơ ngón tay trỏ của mình lên (muốn nói rằng trong tim anh chỉ có United) và khiến khán giả đội chủ nhà phẫn nộ. Nhưng sau đó anh đã không bị Liên đoàn bóng đá Anh phạt. Ngày 30 tháng 11, Rooney ghi bàn thắng duy nhất, đem về thắng lợi quan trọng 1–0 của M.U. trên sân của đối thủ cùng thành phố Manchester City tại Premier League. Trong trận đấu ở lượt trận cuối cùng vòng bảng Champions League với Aalborg, Rooney đã ghi bàn thắng gỡ hòa ở phút 52, giúp United kết thúc trận đấu với 1 điểm và đứng ở vị trí đầu bảng E. Nhưng ngoài bàn thắng ghi được, anh còn để lại hình ảnh xấu về mình khi có một hành vi "phi thể thao" với cầu thủ đối phương ở phút thứ 41 sau khi cố tình đạp lên ngực của Kasper Risgard. Nhưng sau khi xem lại băng ghi hình UEFA đã không đưa ra bất cứ án phạt nào đối với Rooney đồng thời cũng không lý giải tại sao. Ngày 21 tháng 12, anh là tác giả bàn thắng duy nhất ở phút 73 cho M.U. trong trận chung kết Cúp các câu lạc bộ thế giới diễn ra tại Nhật Bản với đại diện của Ecuador, LDU Quito và thêm vào bộ sưu tập của mình một chiếc cúp nữa. Trong giải đấu đó, Rooney cũng được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất giải. Ngày 14 tháng 1 năm 2009, sau khi ghi được bàn thắng giúp United dẫn trước Wigan và cũng là tỉ số chung cuộc của trận đấu ngay ở phút đầu tiên, Rooney đã phải rời sân với chấn thương gân kheo 8 phút sau đó. Rooney đã được ra sân thi đấu sau khi kết thúc ba tuần nghỉ dưỡng thương, trong đó anh bỏ lỡ một trận đấu ở Cúp Liên Đoàn và 4 trận tại Giải Ngoại hạng. Ngày 21 tháng 3 năm 2009, Manchester United bị thất thủ 2–0 trên sân Craven Cottage của Fulham, và Rooney bị phạt thẻ đỏ chừng 1 phút trước khi trận đấu kết thúc do hằng học ném bóng về phía trọng tài. Tâm lý ức chế, anh đã lao vào chửi ông trọng tài rồi sau đó đấm vào lá cờ có hình hiệu đội chủ nhà tại một điểm đá phạt góc với vẻ đầy tức tối. May mắn cho Rooney, anh đã thoát án phạt cấm thi đấu ba trận từ FA và chỉ bị phạt cấm thi đấu một trận. Ngày 25 tháng 4 năm 2009, Rooney giúp M.U. có được trận thắng trước Tottenham. Đội bóng của anh đã ghi được 5 bàn thắng trong hiệp hai để từ bị dẫn 2–0 rồi thắng ngược 5–2 trong một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục. Rooney ghi được hai bàn thắng, kiến tạo hai và có một đường chuyền đã dẫn đến quả phạt đền cho bàn thắng đầu tiên của United. Anh kết thúc mùa bóng với 20 bàn thắng trên tất cả các mặt trận và là chân sút hàng đầu cho Manchester United (cùng với Cristiano Ronald - cầu thủ ghi được 18 bàn). Mùa giải Champion League năm đó, Rooney cùng các đồng đội đã có mặt ở trận chung kết với đối thủ Barcelona nhưng cuối cùng đã để thua 2–0 và United không thể lập được kỉ lục đội bóng có 2 năm liên tiếp đoạt chức vô địch danh giá này. Mùa giải 2009-2010 Sau khi Carlos Tévez và Cristiano Ronaldo, hai người đối tác ăn ý với Rooney trên hàng tấn công lần lượt rời M.U. để đến với Manchester City và Real Madrid, Rooney bắt đầu mùa giải mới với nhiệm vụ người ghi bàn hàng đầu cho đội bóng. Và cũng chính Wayne đã tự tin phát biểu trên tờ The Sun rằng anh hoàn toàn có thể ghi được số bàn thắng của cả Ronaldo và Tévez cộng lại. Anh ghi một bàn thắng ở phút 90 trong trận chung kết tranh Siêu cúp Anh 2009 với Chelsea, tuy nhiên United đã để thua Chelsea ở loạt sút luân lưu. Sau đó, cũng chính anh ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu mở màn Premier League mùa giải 2009-10 trước Birmingham, nâng tổng số bàn thắng trong sự nghiệp của anh lên con số 99. Nhưng anh đã không ghi bàn trong trận đấu tiếp theo, một thất bại lịch sử (1–0) trước đội bóng mới được thăng hạng Burnley tại sân Turf Moor. Ngày 22 tháng 8 năm 2009, anh trở thành cầu thủ thứ 20 của Manchester United đã ghi hơn 100 bàn thắng cho câu lạc bộ bằng một cú đúp trong chiến thắng 5–0 trước Wigan trên sân DW. Ngày 29 tháng 8 năm 2009, United đã thắng Arsenal tại Old Trafford. Rooney ghi bàn gỡ hòa từ chấm phạt đền sau khi Andrei Arshavin đã đưa Arsenal dẫn trước. Trận đấu đã kết thúc với tỉ số 2–1 cho Manchester United sau khi Abou Diaby đánh đầu phản lưới nhà. Năm ngày sau, Rooney nhận xét về pha ngã trong vòng cấm ở trận gặp Arsenal:"Mọi người khi xem tôi thi đấu đều biết tôi là cầu thủ trung thực. Tôi luôn thi đấu một cách đứng đắn hết mức có thể. Còn khi trọng tài cho hưởng phạt đền, bạn không thể làm gì khác. Chẳng lẽ lại từ chối". Vào ngày 28 tháng 11, Rooney ghi bàn và lập hat-trick đầu tiên của anh sau ba năm ở trận thắng 4–1 trước Portsmouth ở vòng 14 Giải Ngoại hạng, với hai trong số đó là trên chấm 11m. Ngày 27 tháng 12, anh được trao giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu với Hull city. Anh đã tham gia vào tất cả các bàn thắng trong trận đấu, đánh đầu mở tỉ số nhưng sau đó lại vô tình chuyền bóng cho cầu thủ đội bạn cân bằng tỉ số. Ngay sau đó, anh buộc Andy Dawson phải đá phản lưới nhà trước khi kiến thiết cho Dimitar Berbatov ghi bàn thắng thứ ba cho United và giúp M.U. thắng 3–1. Vào ngày 30 tháng 12, ba ngày sau chiến thắng trước Hull, anh lại ghi một bàn giúp United thắng Wigan 5–0 trong trận đấu cuối cùng của năm 2009. Ngày 23 tháng 1 năm 2010, Rooney đã ghi cả bốn bàn thắng trong chiến thắng 4–0 của Manchester United với Hull City; ba trong số các bàn thắng đã đến trong vòng 10 phút cuối của trận đấu. Đây là lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình anh ghi được bốn bàn thắng trong một trận đấu. Vào ngày 27 tháng 1, anh tiếp tục thể hiện khả năng chạy chỗ và dứt điểm tuyệt vời của mình bằng cách đánh đầu ghi bàn trong một tình huống cố định ở phút thứ hai của thời gian bù giờ giúp M.U. chiến thắng trong trận derby với Manchester City và đưa nửa đỏ thành Manchester tiến vào trận chung kết (tổng tỉ số sau hai lượt đi-về là 4–3), đó là cơ hội giành được chiếc Cúp Liên đoàn đầu tiên kể từ năm 2006 của Wayne. Ngày 31 tháng 1 năm 2010, Rooney tiếp tục ghi thêm một bàn trong chiến thắng 3 - 1 trước Arsenal. Đây là bàn thắng đầu tiên Rooney ghi được tại sân Emirates, đáng chú ý là bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp của anh cũng là vào lưới đội bóng nhiều duyên nợ này. Ngày 16 tháng 2, Rooney ghi được hai bàn thắng đều bằng đầu trong chiến thắng 3 -2 ở trận lượt đi vòng 1/16 UEFA Champions League trước AC Milan tại San Siro. Ngày 28 tháng 2, anh vào sân thay cho Michael Owen bị chấn thương và lập tức ghi được một bàn thắng bằng đầu từ đường chuyền của Valencia để giúp M.U. hạ Aston Villa và giành Cúp Liên đoàn với tỉ số 2–1. Ở trận lượt về Champions League, Rooney lập một cú đúp Manchester trong chiến thắng vang dội 4–0 của đội chủ nhà trước AC Milan, nâng tổng số bàn thắng của anh tại mùa giải lên con số 30. Sau đó, anh lại có thêm một cú đúp nữa chỉ 5 ngày sau đó tại Old Trafford, trong trận thắng 3–0 trước Fulham. Sáu ngày sau, Rooney tiếp tục ghi bàn từ chấm 11m trong trận thắng 2–1 của M.U trước Liverpool tại sân nhà Old Trafford và giúp United tái chiếm ngôi đầu từ tay Arsenal. Ngày 30 tháng 3, trong khi M.U. nhận thất bại 2–1 trước Bayern Munich tại trận đấu lượt đi thuộc vòng tứ kết Champions League (tại sân Allianz Arena của Munich), Rooney phải tập tễnh rời sân khi anh bị chấn thương ở mắt cá chân của mình vào phút cuối cùng. Có những lo ngại rằng anh đã bị chấn thương dây chằng nghiêm trọng hoặc thậm chí là một mắt cá bị hỏng, nhưng vết thương của Rooney sau đó đã được thông báo rằng chỉ là do dây chằng tổn thương nhẹ, và rằng anh sẽ được ra sân trong vòng 2-3 tuần, tức là anh sẽ không thi đấu trận Manchester United-Chelsea và trận tái đấu Bayern Munich vào tuần tới. Nhưng trận đấu lượt về tứ kết Champions League, Rooney đã bất ngờ có mặt trong đội hình xuất phát của United. Mặc dù M.U. dẫn trước 3–0 chỉ trong 41 phút, nhưng đội bóng nước Đức sau đó đã có 2 bàn thắng (United buộc phải thi đấu với 10 người sau khi Rafael đã bị đuổi khỏi sân) để tổng tỉ số sau hai lượt đi-về là 3–3 và United phải bị loại do luật bàn thắng sân khách. Rooney còn bị thay ra sau khi lại tái phát chấn thương mắt cá chân của mình. Vào ngày 25 tháng 4, Rooney đạt được danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA, Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FWA. và Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Barclays để hoàn tất "cú ăn ba" danh hiệu ở mùa giải này. Cuối mùa giải Rooney có tới 26 bàn thắng ở giải Ngoại hạng trong tổng số 32 bàn, số lượng bàn thắng cao nhất của anh từ trước đến giờ nhưng cũng không đủ để giúp M.U. đăng quang (Chelsea sau đó đã giành được danh hiệu Ngoại Hạng Anh sau ba năm trắng tay) đồng thời anh cũng chỉ đứng thứ hai trong danh sách Vua phá lưới của Giải Ngoại hạng sau Didier Drogba. Mùa giải 2010-2011 Trận đấu đầu tiên trong mùa giải 2010-2011 của Rooney là chiến thắng 3–1 trước đương kim vô địch Chelsea tại trận tranh Siêu cúp nước Anh. Trận đấu này Rooney chỉ chơi hết hiệp một sau đó được thay ra ở phút 46 thế nhưng anh vẫn thi đấu xông xáo như thường lệ và là người đã thực hiện đường căng ngang như đặt cho Valencia ghi bàn thắng thứ nhất. Anh có trận đấu đầu tiên tại Premier League tiếp đón Newcastle trên sân nhà vào ngày 16 tháng 8 năm 2010, nhưng chưa thể ghi bàn thắng đầu tiên của mùa giải cho riêng mình. Trận đấu sáu ngày sau đó trên sân Craven Cottage của Fulham, anh không thể ra sân thi đấu vì bị đau dạ dày do mắc phải một loại virus. Nhưng Rooney nhanh chóng khỏi bệnh, ra sân trong trận đấu tiếp theo trước West Ham và ghi bàn thắng đầu tiên của anh trong mùa giải chấm dứt 13 trận với 1113 phút tịt ngòi liên tiếp từ màu áo câu lạc bộ đến đội tuyển quốc gia. Ngày 14 tháng 8, người đại diện của Rooney đã thông báo cho Manchester United về việc Wayne Rooney từ chối gia hạn hợp đồng với đội chủ sân Old Trafford và muốn rời khỏi M.U.. Huấn luyện viên M.U., Sir Alex Ferguson đã nói tại một cuộc họp báo rằng việc này được Rooney quyết định sau một khoảng thời gian dài anh phải vật lộn với chấn thương mắt cá, nhưng Rooney thì lại đưa ra lý do vì anh không được thi đấu và bị huấn luyện viên cho lên băng ghế dự bị quá nhiều. Sau một vài tin đồn, Wayne và đại diện của mình đã đính chính rằng việc muốn rời khỏi câu lạc bộ không phải vì tiền mà vì tham vọng chinh phục các danh hiệu, thứ mà M.U. không đáp ứng được. Nhưng một ngày sau tuyên bố này, Rooney đã đồng ý ký một hợp đồng 5 năm mới tại Manchester United cho đến tận tháng 6 năm 2015 và khẳng định tình yêu của anh luôn dành cho United. Rooney đã trở lại thi đấu trận đầu tiên cho đội bóng sau khi vào sân thay người trong chiến thắng 2–0 trước Wigan vào ngày 20 tháng 11. Bốn ngày sau, anh ghi bàn thắng duy nhất trên chấm phạt đền giúp M.U. thắng Ranger 1–0 tại Champions League và đưa đội bóng của mình giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp với Valencia. Anh đã bỏ lỡ một quả phạt đền trong chiến thắng 1–0 của Arsenal vào ngày 13 tháng 12. Bàn thắng đầu tiên của Rooney trong năm 2011 đến vào ngày 1 tháng 1 trong trận làm khách trước West Bromwich Albion. Ngày 1 tháng 2 trong chiến thắng 3–1 trước Aston Villa trên sân nhà, Rooney ghi hai bàn và kiến tạo một bàn cho đội trưởng Nemanja Vidić. Ngày 12 tháng 2, Rooney đã thực hiện một cú ngả người móc bóng trên không hoàn hảo ở phút 78 của trận derby Manchester, giúp đội bóng của anh giành chiến thắng 2–1 trước Manchester City. Sau trận đấu, Rooney cho biết trong các bàn thắng anh từng ghi thì đây là bàn thắng đẹp mắt nhất trong sự nghiệp, còn Sir Alex Ferguson khen ngợi đó là bàn thắng tuyệt vời nhất ông từng chứng kiến tại Old Trafford. Hai tuần sau anh ghi bàn thắng thứ 3 giúp M.U. thắng 4–0 trước Wigan, sau đó ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng 2–1 trước Chelsea vào ngày 1 tháng 3. Ngày 12 tháng 3, Rooney ghi bàn ấn định tỉ số 2–0 trong trận đấu với Arsenal tại Cúp FA và giúp United tiến thẳng vào bán kết. Ngày 2 tháng 4, sau khi M.U. bị West Ham dẫn trước hai bàn, Rooney đã lập hat-trick đầu tiên của mùa giải và giúp United giành thắng lợi chung cuộc với tỉ số 4–2. Đây là hat-trick thứ năm Rooney ghi được cho Manchester United, trong khi pha lập công thứ hai trong trận đấu là bàn thắng thứ 100 của anh ghi được cho M.U. ở giải ngoại hạng và anh cũng là cầu thủ thứ ba ghi được 100 bàn cho đội bóng tính riêng tại Premier League sau Ryan Giggs và Paul Scholes. Ngày 6 tháng 4, Rooney có pha lập công duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Chelsea tại lượt đi tứ kết Champions League và giúp United phá dớp không thắng trên sân Stamford Bridge của đối phương. Những ngày sau, Hiệp hội bóng đá (Football Association - FA) bất ngờ công bố sẽ phạt Rooney vì anh đã chửi thề vào một máy ảnh ngoài đường pitch trong khi ăn mừng ở trận đấu với West Ham trước đó gồm các hình thức là phạt tiền và cấm thi đấu hai trận do sử dụng ngôn ngữ xúc phạm. Rooney chấp nhận bị phạt tiền, nhưng anh không đồng ý với mức án treo giò và gọi đó là hình phạt "quá đáng". Nhưng cuối cùng FA vẫn giữ nguyên án phạt và anh đã vắng mặt hai trận, một trong đó là thất bại trước Manchester City tại vòng bán kết (bị loại khỏi Cúp FA) vào ngày 16 tháng 4. Trong các trận đấu tiếp theo anh đã không ghi bàn và mãi cho đến Anh nổ súng trong trận bán kết lượt đi gặp Schalke 04 của Đức vào ngày 26 tháng 4 và là người đã ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 2–0 đó. Đây là lần đầu tiên Rooney trở lại sân Veltins-Arena ở thành phố Gelsenkirchen kể từ trận đấu mà anh bị đuổi khỏi sân trước Bồ Đào Nha tại World Cup 2006. Ngày 14 tháng 5 năm 2011, anh thực hiện thành công quả phạt đền cho United để cân bằng tỉ số và giúp đội bóng anh có trận hòa 1–1 trước Blackburn Rovers tại sân Ewood Park trong trận đấu áp chót của Premier League mùa giải này. Trận hòa đó là đủ để United đăng quan ngôi vô địch cũng như lập kỷ lục đội bóng có số lần đoạt danh hiệu nhiều nhất với chiếc cúp thứ 19 (vượt qua thành tích 18 lần của Liverpool) và cho Rooney danh hiệu Premier League thứ 4 trong sự nghiệp. Ngày 29 tháng 5 anh cùng các đồng đội bước vào trận chung kết Champions League trên sân Wembley gặp Barcelona, đội bóng từng đánh bại họ hai năm về trước cũng tại chung kết cúp C1. Nhưng một lần nữa, M.U. lại để thua với tỉ số 3–1 trong đó Rooney là người ghi bàn thắng duy nhất cho United. Mùa giải 2011-2012 Rooney mở màn vòng 1 Ngoại Hạng Anh với bàn thắng vào lưới đội chủ nhà Wesst Brom trong chiến thắng 2–1 cho Bầy quỷ. Anh tiếp tục có bàn thắng thứ hai khi đánh đầu ghi bàn trong trận thắng Tottenham 3–0 từ đường chuyền của Ryan Giggs. Cuối tháng 8, Rooney lập kỉ lục ghi 150 bàn cho bầy quỷ trong trận Manchester United hủy diệt Arsenal 8–2 trên sân Old Trafford, trong trận cầu đó anh lập hat-trick từ hai siêu phẩm đá phạt trực tiếp, một quả penalty và một đường kiến tạo cho Nani và trở thành cầu thủ hay nhất trận. Ngày 10 tháng 9 năm 2011, Rooney lại lập tiếp hat-trick trong trận thắng đậm Bolton 5–0 trên sân khách, anh trở thành cầu thủ thứ 4 ghi được hat-trick trong 2 trận liên tiếp. Sau sự kiện Rooney bị truất quyền thi đấu trong trận gặp Montenegro ở vòng loại Euro 2012, anh bị gạt khỏi đội hình xuất phát trong trận tiếp Liverpool vào ngày 15 tháng 10 năm 2011. Rooney trở lại và lập cú đúp ở vòng bảng UEFA Champions League khi đối đầu với câu lạc bộ Oțelul Galați và vượt qua đồng đội Paul Scholes trở thành cầu thủ người anh ghi nhiều bàn thắng nhất trên đấu trường UEFA Champions League. Ngày 10 tháng 12 năm 2011, Rooney kết thúc chuỗi 8 trận liên tiếp khô hạn bàn thắng bằng cú đúp trong chiến thắng 4–1 trước Wolves tại Old Trafford. Rooney tiếp tục ghi bàn mở tỉ số bằng tình huống đánh đầu từ đường chuyền của Antonio Valencia trước Queen Park Rangers vào ngày 18 tháng 12 năm 2011 và đó là bàn thắng nhanh nhất của Man United khi trận đấu mới bước vào giây thứ 52. Ngày 21 tháng 12 năm 2011 anh có bàn thắng thứ 130 tại Premier League trong trận thứ 300 tại Premier League bằng cú sút xa trong chiến thắng 5–0 trước Fulham tại sân Craven Cottage. Ngày 8 tháng 1 năm 2012, anh ghi hai bàn trong trận thắng Manchester City 3–2 ở sân Etihad tại khuôn khổ vòng 3 FA Cup, anh chính thức vượt qua huyền thoại Man United là Mark Hughes và vươn lên vị trí thứ bảy với 164 bàn thắng cho câu lạc bộ. Ngày 14 tháng 1 năm 2012, Rooney góp công lớn trong trận thắng Bolton 3–0, anh kiến tạo cả hai bàn cho Paul Scholes và Danny Welbeck. Ngày 5 tháng 2, Rooney lập cú đúp từ chấm phạt đền giúp Manchester United gỡ hòa 3–3 trước Chelsea sau khi họ bị đội chủ sân Stamford Bridge dẫn trước 3–0. Ngày 11 tháng 2 anh đánh dấu trận thứ 500 trong sự nghiệp cầu thủ bằng cú đúp trong chiến thắng 2–1 tước kình địch Liverpool trên sân nhà. Đây cũng chính là trận thứ 350 của anh cho Quỷ Đỏ trên mọi đấu trường. Ngày 4 tháng 3 Rooney mở tỉ số trong trận thắng Tottenham Hospur 3–1 trên sân White Hart Land, anh cũng vượt qua huyền thoại Manchester United Joe Spence, vươn lên vị tí thứ 6 với 169 bàn thắng cho câu lạc bộ. Anh sau đó ghi hai bàn khi đối đầu với Atletico Bilbao trong khuôn khổ Europa League. Ngày 11 tháng 3, Rooney lập cú đúp trong trận thắng West Brom 2–0 trên sân nhà. Ngày 15 tháng 3, anh ghi bàn trên sân của Atletico Bilbao ở lượt về Europa League nhưng Manchester United thua với tỉ số 2–1 và chung cuộc thua 5–3 và bị loại khỏi cuộc chơi. Ngày 26 tháng 3, Rooney ghi bàn thắng duy nhất giúp Manchester United vượt qua Fulham với tỉ số 1–0. Ngày 18 tháng 4, United vượt qua Queen Park Rangers với tỉ số 2–0 mà Rooney mở điểm bằng quả penalty. Ngày 15 tháng 4 anh góp công vào chiến thắng 4–0 trước Aston Villa bằng một cú đúp. Ngày 22 tháng 4, Rooney ghi hai bàn trong trận Manchester United hòa 4–4 một cách khó hiểu trước Everton khi mà họ đã dẫn trước 4–0. Trận hòa đó khiến đội bóng của anh hụt hơi trong cuộc đua vô địch với gã hàng xóm Manchester City. Ngày 13 tháng 5 Manchester United thắng sát nút Sunderland 1–0 trên sân khách với pha đánh đầu cận thành của Rooney tại vòng 38, Quỷ Đỏ đã gần như chạm tay vào chiếc cúp tuy nhiên tong trận đấu song song diễn ra, Manchester City cũng đã vượt qua Queen Park Rangers 3–2 bằng bàn thắng vào giây cuối cùng của Sergio Aguero. Mặc dù Manchester United cùng điểm số với Man City sau trận thắng đó (89 điểm) nhưng họ lại thua xa về hiệu số bàn thắng bại (56+ so với 64+), Quỷ đỏ và Rooney đành cay đắng ngậm ngùi nhìn Manchester City nâng cúp vô địch Ngoại hạng Anh. Rooney kết thúc mùa giải với 26 bàn thắng tại Premier League, đứng thứ hai trong danh sách ghi bàn. Và anh có tổng cộng 34 bàn thắng trên mọi đấu trường. Mùa giải 2012-2013 Mặc dù có sự góp mặt của Robin van Pesie, người được Sir Alex chiêu mộ từ Arsenal nhưng Wayne Rooney vẫn chơi năng nổ. Anh được ngồi dự bị trận Man utd gặp Everton ở lượt đi. Sau đó anh đá trận gặp Fullham. Nhưng Rooney bị một chấn thương đùi khá nặng khi va chạm với Hugo Rodallega của Fullham và phải nghỉ thi đấu gần 4 tuần. Trở lại sau chấn thương, Wayne Rooney lập một chuỗi thành tích khá đẹp. Anh kiến tạo cho Shinji Kagawa ghi bàn vào phút 68 trong trận thua 2–3 trước Tottenham. 3 ngày sau, anh kiến tạo cho Van Persie 1 bàn vào lưới CFR Cluj tại Champions League. Anh có bàn thắng đầu tiên vào lưới Stoke City trong chiến thắng 4–2 của Man Utd, đây cũng là bàn thắng thứ 200 cho câu lạc bộ Ngày 7 tháng 11, anh ghi bàn thắng UEFA Champions League đầu tiên của mùa giải, ghi được một quả penalty trong chiến thắng 3–1 trước SC Braga. Anh lập cú đúp vào lưới Reading trong chiến thắng 4–3 trên sân của Reading và Manchester City tại sân vận động Etihad trong trận Derby Manchester ngày 09 tháng 12 năm 2012 mà United thắng 3–2. Ngày 30 tháng 1 năm 2013, Rooney ghi hai bàn trong trận gặp Southamton, trận đó MU thắng 2–1. Ngày 8 tháng 5 năm 2013, Sir Alex tuyên bố giã từ sự nghiệp cầm quân. Ngày 12 tháng 5, trong trận cuối cùng của Ferguson trên sân nhà, Rooney đã kiến tạo 1 bàn. Anh không xuất hiện trong trận gặp West Brom, trận đấu thứ 1500 và trận đấu chia tay Sir Alex. Mùa giải 2013-2014 Ngày 5 tháng 7 năm 2013, tân huấn luện viên của Manchester United David Moyes thông báo rằng Rooney không phải để bán sau khi tiền đạo này được sự quan tâm đặc biệt từ phía Chelsea, Arsenal, Real Madrid, Paris Saint Germain. Ngày 17 tháng 7 năm 2013, phía Chelsea đã xác nhận rằng họ đã theo đuổi thương vụ chuyển nhượng Rooney ít ngày trước đó, huấn luyện viên của Chelsea José Mourinho rất muốn đưa Rooney về sân Stamford Bridge, số tiền mà The Blues đặt ra là khoảng 20 triệu bảng tuy nhiên phía Quỷ đỏ đã từ chối thẳng thừng. Anh có trận đấu khai mạc mùa giải khi vào sân thay Ryan Giggs và có hai đường kiến tạo trong trận Man United thắng Swansea 4–1 trên sân nhà. Ngày 7 tháng 7 năm 2013, Rooney bị chấn thương ở vùng đầu khi cố tranh chấp bóng với trung vệ Phil Jones trong lúc tập luyện, chấn thương này khiến anh bỏ lỡ trận gặp Liverpool. Rooney có bàn thắng đầu tiên trong một tình huống đá phạt trược tiếp nâng tỉ số chung cuộc lên 2–0 mà Manchester United thắng Crystal Palace, Rooney đã vui sướng bật khóc sau bàn thắng ấy và coi đó như một bước tiến đầu trong mùa giải mới. Ngày 17 tháng 9 anh lập cú đúp trong trận thắng Bayer Leverkusen 4–2 tại Champions League, qua đó xác lập kỉ lục có 200 bàn thắng cho câu lạc bộ trên mọi mặt trận. Ngày 22 tháng 9 trong trận Derby Manchester, Rooney lập một siêu phẩm đá phạt ở phút 89 để gỡ lại một bàn danh dự cho quỷ đỏ trong trận thua tan tác trước gã hàng xóm ồn ào Man City 4–1 tại Etihad. Anh lại lập tiếp cú đúp bàn thắng trong trận hòa 2–2 trước Tottenham tại White Hart Land ngày 1 tháng 12 năm 2014. Rooney lập kỉ lục ghi bàn thứ 150 tại Preimer League khi anh có bàn gỡ hòa hai đều bằng cú volley tuyệt đẹp và kiến tạo một bàn nữa cho đồng đội-trận ấy Manchester United lội ngược dòng kịch tính thắng 3–2 trước Hull City mặc dù trước đó họ bị dẫn hai bàn từ rất sớm. Ngày 21 tháng 2 năm 2014, anh chính thức gia hạn hợp đồng với câu lạc bộ đến năm 2019 và hưởng mức lương cao ngất ngưởng 300.000 £ đối với một cầu thủ. Trở lại Champions League, Rooney có pha kiến tạo cho Robin van Persie ghi bàn mở tỉ số khi Manchester United thắng một cách đầy ngoạn mục 3–0 tại Old Traford trước đối thủ Hy Lạp Olympiakos ở lượt về mà trước đó họ bị thua trắng 0–2 trên sân khách và tưởng chừng không thể vượt qua, chung cuộc Quỷ đỏ lách qua khe cửa hẹp giành tấm vé vào tứ kết với tổng tỉ số là 3–2 sau hai lượt trận nhưng bị hùm xám Bayern Munich hạ gục 2–4 chung cuộc và dừng chân ở tứ kết. Ngày 22 tháng 3 năm 2014, anh ghi hai bàn trong trận thắng West Ham United 0–2 mà một trong hai bàn thắng là cú sút đầy ngẫu hứng từ giữa sân vào lưới thủ môn đối phương. Gã Shrek (biệt danh của Rooney) xác lập kỉ lục là cầu thủ thứ ba ghi được nhiều bàn thắng nhất trong câu lạc bộ với 212 bàn, kỉ lục này vẫn đang thuộc về cựu cầu thủ Sir Bobby Charlton với 249 bàn thắng. Rooney kết thúc mùa giải với tư cách là người ghi bàn nhiều nhất đội (17 bàn) và người kiến tạo nhiều nhất đội (10 pha), và riêng tại đấu trường Champions Leauge, tiền đạo người Anh là cầu thủ có số pha kiến tạo nhiều nhất với 8 pha, Ángel Di María (Real Madrid) xếp thứ hai với 6 pha kiến tạo. Mùa giải 2014-2015 Sau khi đội trưởng Nemanja Vidić rời câu lạc bộ vào tháng 7 năm 2014, Rooney được tân huấn luyên viên Louis van Gaal chọn là người đeo băng thủ quân trong suốt mùa giải 2014–1015. Ngày 16 tháng 8 năm 2014, Rooney có bàn thắng đầu tiên trong ngày khai mạc Ngoại Hạng Anh bằng cú xe đẹp chổng ngược từ tình huống đá phạt góc, nhưng chung cuộc Man United thua 1–2 trước Swansea. Ngày 27 tháng 9 năm 2014, Rooney vươn lên trở thành cầu thủ thứ ba ghi nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử Premier League, vượt qua Thierry Henry của Arsenal với 17 bàn trong trận thắng 2–1 West Ham United. Cũng trong trận đấu đó anh bị truất quyền thi đấu vì phạm lỗi phía sau với Steward Downing và bị treo giò ba trận trong đó có trận đấu quan trọng với Chelsea. Ngày 22 tháng 11 năm 2014 anh ghi bàn nâng tỉ số lên 1–2 trong trận thắng Arsenal trên sân Emirates, đó cũng là chiến thắng đầu tiên trên sân khách của Qủy Đỏ. Anh tiếp tục ghi bàn trong trận Manchester United thắng Hull City 3–0. Ngày 14 thắng 12 năm 2014, Rooney mở tỉ số trong trận thắng kình địch Liverpool 3–0. Ngày 26 tháng 12 năm 2014, anh lập cú đúp giúp đội nhà thắng 3–1 khi tiếp Newcastle United, Manchester United lập kỉ lục lần thứ 50 thắng trong ngày Boxing Day. Với màn trình diễn ấn tượng Rooney được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất CLB tháng 12. Trong suốt mùa giải anh thường được Van Gaal xếp đá ở vai trò tiền vệ. Ngày 16 tháng 1 năm 2015, trong khuôn khổ FA Cup, dù Manchester United thắng Preston 3–1, Rooney là tâm điểm của sự chỉ trích vì hành vi cố ý ngã vờ trong vòng cấm, băng ghi hình cho thấy chưa hề có sự tác động nào giữa anh với thủ môn phía Preston. Nhưng huấn luyện viên Roy Hodgson đã lên tiếng bảo vệ Rooney khi cho rằng anh ta phải buộc mình ngã trong tình huống ấy. Rooney sau đó xin trước báo giới về hành vi của mình, anh nói rằng: " Đó là cơ hội để tôi có penalty, tôi phải tận dụng nó". Quả penalty đó cũng là bàn thắng đầu tiên trong năm 2015 của Rooney, kết thúc chuỗi khô hạn bàn thắng của tiền đạo người Anh. Ngày 28 tháng 2 năm 2015 Rooney ghi liên tiếp 2 bàn trong đó có một pha xoay người bắt volley tuyệt đẹp giúp Man United thắng Sunderland 2–0. Nhờ cú đúp ấy, anh trở thành cầu thủ đầu tiên ghi nhiều hơn 10 bàn trong 11 mùa giải liên tiếp. Ngày 15 tháng 3 năm 2015, anh có pha solo và nâng tỉ số lên 3–0 trong chiến thắng trước gà trống Tottenham Hotspur. Kết thúc mùa giải Rooney là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho câu lạc bộ với 14 bàn trên mọi mặt trận, nhưng đó cũng là con số thấp nhất cho một tiền đạo của Manchester United, lần cuối họ có thành tích buồn đó là vào năm 1982. Man United kết thúc mùa giải với 62 bàn, thành tích tệ thứ hai của họ trong kỉ nguyên Premier League. Mùa giải 2015-2016 Ngày 26 tháng 8 năm 2015 Rooney chấm dứt cơn cơn khát bàn thắng sau 878 phút bàn cú hat-trick trong chiến thắng 4–0 (tổng tỷ số: 7–1) trước Câu lạc bộ Club Brugge tại vòng play-off Champions League. Đây cũng là lần thứ 2 anh ghi ba bàn trong một trận đấu tại cúp châu Âu sau kỳ tích ra mắt trước Fenerbahçe năm 2004. Ngày 17 tháng 10 năm 2015 tại Premier League Rooney ghi bàn quyết định nâng tỷ số lên 3–0 trước Everton, với bàn thắng đấy Rooney cũng tạo cho mình kỷ lục riêng vơi 187 bàn thắng tại Ngoại Hạng Anh, chia sẻ vị trí thứ hai với Andy Cole và đứng sau duy nhất Alan Shearer. Ngày 19 tháng 12 năm 2015 Rooney trở lại đội hình xuất phát sau khoảng thời gian chấn thương trong trận thua 2–1 Norwich City và lập thành tích chơi 500 trận trong màu áo quỷ đỏ. Ngày 2 tháng 1 năm 2016 bằng một siêu phẩm đánh gót tinh tế đầy ngẫu hứng sau đừng căng ngang của Anthony Martial Rooney ấn định tỷ số 2–1 cho Manchester United trước Swansea City, bàn thắng cũng đưa anh vượt qua Andy Cole với danh nghĩa cầu thủ ghi bàn nhiều thứ hai trong lịch sử Premier League (188 bàn) và vượt qua tiền bối Denis Law để vươn lên vị trí thứ hai trong top ghi bàn nhiều nhất cho Manchester United với 238 bàn trân mọi mặt trận, chỉ đứng sau huyền thoại Sir Bobby Charlton. 15 ngày sau đó anh ghi bàn thắng duy nhất khi Man United đối đầu với Liverpool tại Anfield, Rooney chính thức vượt qua Thierry Henry trở thành cầu thủ số một ghi nhiều bàn nhất trong một giải đấu quốc nội cho một câu lạc bộ với 176 bàn. Ngày 13 tháng 1 năm 2016, Rooney bị thay ra do một chấn thương ở đầu gối và trở lại đội hình chính trong chiến thắng 1–0 tại sân nhà trước Aston Villa ngày 16 tháng 4 năm 2016. Ngày 21 tháng 5 năm 2016 Wayne Rooney có trận đấu lịch sử khi Manchester United đối đầu với Crystal Palace tại chung kết cúp FA. Anh chơi suốt 120 phút, phút 78 Jason Puncheon mở tỷ số sau một pha sút ở góc hẹp, những tưởng Quỷ Đỏ sẽ gục gã, phút 81 Rooney lên đồng đi bóng đột phá vào hàng thủ của Crystal Palace và căng ngang cho Fellaini đánh đầu bóng đập đất và Mata không bỏ lỡ cơ hội đưa trận đấu về vạch xuất phát, nhưng bi kịch lại đến ngay phút 105 trong khoảng thời gian hiệp phụ thứ nhất khi Chris Smalling buộc phạm lỗi với Yannick Bolasie để ngăng một pha phản công và nhận ngay thẻ vàng thứ hai, những phút sau đó hàng thủ Man United luôn được đặt trong tình huống báo động và giây phút vỡ òa ngay phút 110 khi tài năng trẻ Jesse Lingard với cú ra chân như sấm sét ấn định tỷ số 2–1 cho bầy quỷ qua đó Rooney lần đầu tiên được vinh dự nâng chiếc cúp danh giá FA sau 12 năm chờ đợi. Mùa giải 2016-2017 Ngày 7 tháng 8 năm 2016, Rooney có pha kiến tạo cho Jesse Lingard ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2–1 của Manchester United trước đượng kim vô địch Ngoại hạng Anh là Leicester City tại khuôn khổ FA Community Shield. Ngày 6 tháng 11 năm 2016 Rooney tạo nên một dấu son mới khi trở thàng cầu thủ thứ ba có 100 pha kiến tạo tại Premier League khi anh có hai đường chuyền dọn cỗ cho tiền đạo Ibrahimovic ghi bàn và trận đó Man United đã vượt qua Swansea City với tỉ số 3–1. Ngày 24 tháng 11 năm 2016 anh mở tỷ số tại Europa League trong trận thắng 4–0 khi đối đầu với Câu lạc bộ Feyenoord và vượt qua huyền thoại Ruud Van Nistelrooy để trở thành cầu thủ có số lần lập công nhiều nhất cho một câu lạc bộ tại cúp Châu Âu với 39 bàn. Vào ngày 7 tháng 1 năm 2017, Rooney chọc thủng lưới Reading tại cúp FA qua đó cân bằng với Sir Bobby Charlton về kỷ lục ghi bàn nhiều nhất cho Manchester United với 249 bàn trên mọi đấu trường. Rooney chỉ mất 543 trận để có thành tích này trong khi Charlton cần đến 758 trận. Ngày 21 tháng 1 năm 2017, Wayne Rooney vào sân từ ghế dự bị ở phút 67 và chính thức đi vào lịch sử câu lạc bộ với 250 bàn cho Quỷ đỏ, vượt qua Charlton bằng một siêu phẩm đa phạt phút cuối trận giúp đội khách hòa kịch tính Stoke City 1–1 tại sân vận động Bet365. Tám ngày sau đó trước chiến thắng 4–0 Wigan Athletic tại vòng bốn cúp FA, Rooney được trao kỷ niệm chương Golden Boot - Danh hiệu cầu thủ có số bàn nhiều nhất cho một câu lạc bộ - và người trao nó là Sir Bobby Charlton, ông đã thừa nhận kỷ lục vô tiền khoáng hậu của Rooney. Vào ngày 14 tháng 5 năm 2017, trong trận thua 2-1 trước Tottenham Hotspur tại vòng 37, Rooney đã ghi bàn thắng cuối cùng tại sân vận động White Hart Lane của Spurs. Trong trận đấu cuối cùng cho Manchester United, Rooney vào sân thay thế khi United đánh bại Ajax với tỷ số 2–0 để giành chức vô địch UEFA Europa League. Rooney kết thúc sự nghiệp của mình ở Manchester United với tư cách là cầu thủ ghi bàn hàng đầu mọi thời đại cho câu lạc bộ với 253 bàn thắng, giành được 5 chức vô địch Premier League và Champions League, Europa League và FA Cup. Trở lại Everton Mùa giải 2017-2018 Sau nhiều đồn đoán, vào ngày 9 tháng 7 năm 2017 Rooney trở lại với câu lạc bộ cũ Everton theo một hợp đồng có thời hạn hai năm. Anh có trận đấu chính thức đầu tiên khi Everton thắng MFK Ružomberok 1–0 tại lượt đi vòng loại thứ 3 UEFA Europa League 2017-18. Tiếp đó anh ghi dấu ấn với bàn thắng đầu tiên tại vòng 1 Premier League với một pha chạy chỗ đánh đầu giúp Everton đánh bại Stoke City tại Goodison Park ngày 12 tháng 9 năm 2017. Ngày 21 tháng 8 năm 2017 Rooney lập kỷ lục tròn 200 bàn tại Premier League bằng pha đệm bóng hạ gục thủ thành Ederson Moraes để mở tỷ số, chung cuộc Everton hòa Manchester City 1–1 tại sân Etihad. Rooney lập hat-trick trong chiến thắng 4-0 trước West Ham, trong đó, đáng chú ý là siêu phẩm sút xa ở phút 66. Hart băng ra phá bóng nên bóng trống khung thành, Rooney thực hiện cú sút từ cự ly 64m làm tung lưới West Ham. Trong chiến thắng 3–1 trước Swansea City vào ngày 18 tháng 12, Rooney đã ghi một quả phạt đền và kiến ​​tạo cho Gylfi Sigurðsson ghi bàn, giúp anh vượt lên trên Frank Lampard với tư cách là cầu thủ có số đường kiến ​​tạo cao thứ ba tại Premier League với 103 lần. Rooney xuất hiện trên Monday Night Football cho Sky Sports với tư cách là một chuyên gia vào tháng 2 năm 2018, nhận được lời khen ngợi từ cây bút Sachin Nakrani của The Guardian vì "rõ ràng, thông minh, sâu sắc và trung thực". Trong chương trình, anh cho hay Anfield, sân nhà của Liverpool, là bài kiểm tra khó khăn nhất của anh ấy, với Rooney nói rằng "Tôi chưa bao giờ thích chơi ở đó". DC United Vào ngày 28 tháng 6 năm 2018, Rooney ký hợp đồng 3,5 năm với D.C. United thuộc Major League Soccer, và được trao chiếc áo số 9. Anh chính thức hoàn thành việc chuyển đến đội bóng có trụ sở tại Washington khi kỳ chuyển nhượng giữa mùa của Hoa Kỳ mở cửa vào ngày 10 tháng 7. Vào ngày 14 tháng 7, Rooney đã có trận ra mắt cho United trong chiến thắng 3-1 trước Vancouver Whitecaps khi vào sân thay cho Darren Mattocks ở phút thứ 59, và có đường kiến ​​tạo cho Paul Arriola. Màn ra mắt của Rooney diễn ra khi ra mắt sân vận động Audi Field, sân nhà mới của D.C. United. Rooney được HLV Ben Olsen chỉ định làm đội trưởng sau 3 trận, với sự đồng ý của cựu đội trưởng Steve Birnbaum. Bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ đến vào ngày 28 tháng 7 trong trận đấu đầu tiên làm đội trưởng, vượt qua người đồng đội cũ ở Manchester United, thủ môn Tim Howard, giành chiến thắng 2-1 trước Colorado Rapids tại Audi Field; anh rời trận đấu với một cái mũi gãy sau một pha va chạm bằng đầu với Axel Sjöberg. Trong trận đấu gặp Orlando City, Wayne Rooney đã ghi bàn thắng duy nhất với một siêu phẩm từ sân nhà. Anh đã tạo nên một siêu phẩm từ tình huống sút xa ngay bên phần sân nhà trong tình huống phản công, và không cho thủ thành Brian Rowe bất cứ cơ hội nào để cản phá, giúp đội giành chiến thắng 3-2 trước Orlando City ở phút 90+6 và giành vé play-off, anh được vinh danh là "Cầu thủ xuất sắc nhất MLS Tháng 10". DC United đã lọt vào Playoffs MLS Cup 2018 nhưng bị loại trên sân nhà trước Columbus Crew SC ở vòng 1, trong đó Rooney đá hỏng sút luân lưu. Vào cuối chiến dịch, anh được vinh danh là MVP và người chiến thắng chiếc giày vàng của D.C. United, ghi 12 bàn sau 21 trận. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2019, Rooney lập hat-trick đầu tiên & đóng góp 1 pha kiến ​​tạo cho DC United trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Real Salt Lake, và sau đó anh ghi bàn thắng thứ 300 trong sự nghiệp ở cấp câu lạc bộ trong thất bại 2-1 trên sân khách trước Houston Dynamo. Vào ngày 27 tháng 6, Rooney ghi bàn từ bên sân nhà lần thứ 3 trong sự nghiệp với một pha lập công ấn định chiến thắng từ cự ly hơn 10 mét sau đường biên ngang để lốp bóng thủ môn Brian Rowe của Orlando City. Anh chơi trận đấu cuối cùng của mình cho câu lạc bộ vào ngày 19 tháng 10, trong trận thua 5–1 trước Toronto FC, ở vòng 1 của vòng loại trực tiếp. Anh đã kết thúc thời gian ở MLS với 23 bàn thắng và 15 đường kiến ​​tạo trong 48 lần ra sân thường xuyên trong mùa giải. Anh ấy đã có tổng cộng 25 bàn thắng sau 52 lần ra sân (mọi giải đấu) cho D.C. United. Derby County & giải nghệ Vào ngày 6 tháng 8 năm 2019, với hai năm còn lại trong hợp đồng với D.C. United, Rooney đã đồng ý một thỏa thuận để trở lại Anh với tư cách là cầu thủ kiêm huấn luyện viên với đội bóng EFL Championship Derby County vào tháng 1 năm 2020. Rooney ngay lập tức được bổ nhiệm làm đội trưởng và ra mắt vào ngày 2  tháng 1 khi anh ở trong đội hình xuất phát và kiến tạo bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 2-1 trước Barnsley F.C.. Rooney đã ghi sáu bàn sau 24 lần ra sân, bao gồm các bàn thắng quyết định trong chiến thắng 2-1 trước Reading và chiến thắng 1–0 trước Preston North End, khi Derby kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 10. Bàn thắng đầu tiên của Rooney trong mùa giải 2020–21 tại trận đấu vòng bốn khi anh thực hiện quả đá phạt ở phút 87 ấn định chiến thắng 1–0 trước Norwich City. Đây là trận thắng đầu tiên trong mùa giải của Derby và đưa câu lạc bộ thoát khỏi nhóm ba đội cuối bảng sau ba trận thua liên tiếp. Tuy nhiên, kết quả không được cải thiện khi HLV Phillip Cocu ra đi theo sự đồng ý của cả hai sau trận thua 1–0 trên sân nhà trước Queens Park Rangers. Rooney bị chỉ trích nặng nề vì màn trình diễn của anh trong giai đoạn đầu mùa. Vào ngày 26 tháng 11 rằng Rooney trở thành huấn luyện viên tạm thời thay thế Cocu dẫn dắt đội bóng trong trận đấu sắp tới với Wycombe Wanderers và đã tự loại mình khỏi đội hình thi đấu. Vào ngày 15 tháng 1 năm 2021, anh chính thức giải nghệ. Sự nghiệp quốc tế Rooney đã trở thành cầu thủ trẻ nhất chơi cho đội tuyển Anh lúc 17 tuổi 111 ngày khi anh giành được cơ hội đầu tiên của mình trong một trận giao hữu với đội tuyển Úc vào ngày 12 tháng 2 năm 2003 tại sân Upton Park. Sau này, cầu thủ trẻ của Arsenal là Theo Walcott đã phá vỡ kỷ lục của Rooney khi xuất hiện trong màu áo đội tuyển Anh vào ngày 30 tháng 6 năm 2006. Euro 2004 Rooney có trận ra mắt đội tuyển bóng đá quốc gia Anh vào ngày 2 tháng 4 năm 2003 trong chiến thắng 2–0 trước Thổ Nhĩ Kỳ ở vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004. Ngày 6 tháng 9, anh tiếp tục phá kỷ lục là cầu thủ trẻ nhất ghi bàn cho đội tuyển quốc gia với bàn thắng gỡ hòa trong trận thắng 2–1 trước Macedonia, lúc 17 tuổi 317 ngày. 3 ngày sau đó, anh có bàn thắng thứ hai tại vòng loại trong trận thắng Liechtenstein 2–0 tại Old Trafford. Ngày 17 tháng 6 năm 2004, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ghi bàn ở một kỳ Giải vô địch bóng đá châu Âu với cú đúp vào lưới đội tuyển Thụy Sĩ, khi anh mới 18 tuổi, 7 tháng và 24 ngày, phá kỉ lục trước đó của cầu thủ người Nam Tư Dragan Stojkovic lập tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1984. Tuy nhiên, kỷ lục này của Rooney đã bị tiền đạo của đội tuyển Thụy Sĩ Johan Vonlanthen phá vỡ chỉ bốn ngày sau đó. Trong trận tứ kết gặp Bồ Đào Nha, Rooney bị chấn thương và phải rời sân ở phút 27 của trận đấu. Đội tuyển Anh sau đó đã bị loại khi thua 6–5 ở loạt sút luân lưu. World Cup 2006 Sau một chấn thương bàn chân trong một trận đấu vào tháng 4 năm 2006 ở giải Premier League, Rooney phải đối mặt với một cuộc chạy đua trong phòng tập thể lực để kịp lành lặn cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Anh đã cố gắng để đẩy nhanh việc hồi phục thể lực của mình bằng cách sử dụng phương pháp điều trị rất lạ mắt là tập luyện trong lều oxy, cho phép Rooney kịp tham gia trận đấu thứ hai tại vòng bảng với Trinidad & Tobago và trận đấu tiếp theo với Thụy Điển. Tuy nhiên, anh không bao giờ có thể trở lại đúng phong độ như trước và đã không ghi bàn trong hai trận này. Trận tứ kết gặp Bồ Đào Nha quả thực là một trong những trận đấu đáng quên nhất trong sự nghiệp thi đấu của Rooney. Phút 62, anh bị thổi phạt do tranh bóng quá quyết liệt (đạp vào háng) với hậu vệ Ricardo Carvalho. Sự việc xảy ra ngay trước mặt trọng tài Horacio Elizondo và cầu thủ Cristiano Ronaldo của Bồ Đào Nha đã "thêm dầu vào lửa" khi chính anh cũng lao vào gây áp lực với trong tài để phạt thẻ Rooney. Quá bất bình vì hành động của người đồng đội ở M.U., Rooney đã xô cầu thủ chạy cánh người Bồ Đào Nha này ra và định nói chuyện phải quấy. Rất may các cầu thủ trên sân đã can ngăn hai cái đầu nóng này còn Rooney đã bị trọng tài người Argentina rút thẻ đỏ đuổi khỏi sân ngay lập tức. Sau khi Rooney rời khỏi sân, Ronaldo đã nháy mắt về phía ban huấn luyện Bồ Đào Nha với vẻ đầy đắc ý, hành động này của anh đã bị dư luận phản ứng dữ dội và đa số là ở các cầu thủ và người hâm mộ đội tuyển Anh. Sau đó, Rooney đã bị Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) treo giò hai trận cùng khoản tiền phạt 5.000 Franc Thụy Sĩ (4.084 USD) đối với sự cố trên còn đội tuyển Anh thì bị loại bởi đối thủ nhiều duyên nợ Bồ Đào Nha, một lần nữa lại là trên chấm phạt đền với tỉ số là 3–1. Euro 2008 Ngày 13 tháng 10 năm 2007, Rooney đã ghi bàn vào lưới Estonia trong chiến thắng 3–0 của đội tuyển Anh trong khuôn khổ Vòng loại Euro 2008. Bàn thắng này cũng đã giúp anh giải tỏa cơn khát bàn thắng bàn thắng cho đội tuyển kéo dài từ Euro 2004. Bàn thắng thứ hai của anh tại vòng loại đến trong trận thua Nga 2–1. Tuy nhiên cuối cùng Rooney và đội tuyển Anh đã không thể vượt qua được vòng loại để có mặt tại Euro 2008 sau khi để thua Croatia 2–3 ở lượt trận cuối cùng. World Cup 2010 Tại lượt đấu thứ hai của Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2010 khu vực châu Âu với Croatia, Rooney đã chấm dứt cơn khát bàn thắng kéo dài 11 tháng của mình với pha ghi bàn nâng tỉ số trận đấu lên 3–0. Sau đó anh lần lượt lập được các cú đúp trong chiến thắng 5–1 trước Kazakhstan ngày 12 tháng 10 năm 2008 và chiến thắng 3–1 trước Belarus ba ngày sau đó. Ngày 6 tháng 6 năm 2009, Rooney tiếp tục lập công trong chiến thắng 4–0 trước Kazakhstan, chiến thắng thứ sáu liên tiếp của đội tuyển Anh tại vòng loại với bàn thắng tuyệt đẹp từ một cú xoay người đẳng cấp cao. Bốn ngày sau đó là cú đúp vào lưới Andorra trong chiến thắng 6–0. Ngày 9 tháng 9 năm 2009, anh đã ghi bàn thắng ấn định tỉ số 5–1 trong trận đấu với Croatia, qua đó không những giúp đội tuyển Anh trả được món nợ cách đây hai năm mà còn chính thức giành tấm vé tới Nam Phi dự Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 trước hai lượt trận đấu. Rooney đã kết thúc vòng loại với 9 bàn thắng cả thảy. Tuy nhiên, Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 là một giải đấu đáng thất vọng với đội tuyển Anh nói chung và Rooney nói riêng khi anh không thể ghi được một bàn thắng nào trên đất Nam Phi. Ngoài ra, anh còn làm mất lòng các cổ động viên nhà trong trận đấu không bàn thắng với Algérie tại vòng bảng. Trong trận đấu đó, các cổ động viên đội tuyển Anh đã la ó Rooney vì anh thi đấu quá mờ nhạt. Khi trận đấu kết thúc, Rooney tình cờ đi ngang qua một chiếc máy quay truyền hình và trút hết bực bội vào ống kính: "Thật quá hay khi thấy cổ động viên đội nhà la ó cầu thủ của mình. Trung thành kiểu quái gì thế không biết". Sau khi nhận được làn sóng phản đối của người dân nước Anh về hành động này, Rooney đã xin lỗi các cổ động viên trong một cuộc họp báo của FA. Còn đội tuyển Anh thì sau đó thi đấu chật vật và bị loại đầy cay đắng với tỉ số 4–1 trong trận đấu ở vòng 1/8 với đội tuyển Đức. Euro 2012 Ngày 13 tháng 10 năm 2011, Rooney đã phải nhận án treo giò 3 trận vì anh đã có pha phạm lỗi thô bạo với hậu vệ Miodrag Dzudovic trong trận đấu với Montenegro. Nhưng may cho anh là anh đã được ban lãnh đạo UEFA giảm án phạt xuống còn 2 trận. Trong trận đấu cuối vòng bảng Euro 2012, chính anh là người ghi bàn duy nhất cho đội tuyển Anh vào lưới của Ukraine và tự ghi tên đội mình vào vòng tứ kết. Trong trận đấu này, mặc dù anh đã sút penalty thành công trong loạt đá luân lưu với Ý nhưng lại không thể đưa đội tuyển Anh vào vòng bán kết. World Cup 2014 Ngày 12 tháng 10 năm 2012, Rooney lọt vào top 5 cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho Đội Tuyển bóng đá Anh khi anh ghi bàn thắng thứ 30 và thứ 31 ở lượt trận vòng loại World Cup 2014 trước San Marino cũng trong trận đấu ấy Rooney lần đầu tiên được chơi với tư cách là một thủ quân (đội trưởng) của đội. Ngày 6 tháng 2 năm 2013, Rooney góp công một bàn trong chiến thắng 2–1 trước đội từng 5 lần vô địch World Cup Brazil tại một trận đấu giao hữu. Vào tháng 3 Rooney ghi bàn đều đặn trước các đội bóng San Mario, Montenegro tại vòng loại World Cup 2014 trước khi ghi bàn trong trận hòa 2–2 Brazil tại sân vận động Maracanã. Ngày 11 tháng 10 năm 2013, anh ghi bàn trong thắng lợi 4–1 trước Montenegro. Rooney kết thúc chiến dịch vòng loại World Cup 2014 với 7 bàn thắng, nhiều nhất trong đội tuyển. Tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2014, anh cùng đội tuyển đối đầu với tuyển Ý và có pha kiến tạo cho Daniel Sturridge ghi bàn gỡ hòa nhưng kết thúc lại là một trận thua 2–1. Trận tranh tài thứ hai với tuyển Uruguay tại sân Arena Corinthians, Rooney có bàn đầu tiên tại các vòng chung kết World Cup tính từ lúc anh tham dự vòng chung kết World Cup 2006, với bàn san bằng tỷ số ở phút 75 trước khi Luis Suarez ấn định tỷ số 2–1 cho Uruguay ở phút 84. Lượt cuối vòng bảng Tuyển Anh hòa thất vọng 0–0 Costa Rica qua đó kết thúc với vị trí chót bảng và ngậm ngùi rời cuộc chơi, Rooney mặc dù đóng góp nhiều bàn thắng cho Tam Sư tại chiến dịch lần này nhưng anh vẫn không thoát khỏi những phát ngôn, ngòi bút chỉ trích từ các chuyên gia, họ cho rằng chung quy lại anh đã có một màn trình diễn tội tệ tại giải đấu năm nay. Euro 2016 Sau khi Steven Gerrard tuyên bố giải nghệ sau World Cup 2014, huấn luyện viên Roy Hodgson chỉ định Wayne Rooney sẽ là tân đội trưởng. Ngày 03/09/2014, trong trận giao hữu với Na Uy Rooney ghi bàn trên chấm penalty mang về chiến thắng 1–0 cho đội bóng. Cũng trong tháng 9/2014 anh đã nhanh chóng thể hiện phẩm chất lãnh đạo khi tổ chức một cuộc meeting với các đồng đội khác. Về việc này Rooney giải thích: "Dĩ nhiên huấn luyện viên đã đề ra chiến thuật trận đấu cho đội nhưng các cầu thủ chúng tôi lại không giành nhiều thời gian cho nhau nên để kết nối tình đoàn kết giữa các đồng đội để họ có được sự tự tin và biết rõ vai trò của mình, tôi đã lập ra cuộc họp này với mục đích để các cầu thủ bày tỏ quan điểm ý kiến cá nhân, những đều mà họ không thể hoặc ngại nói khi huấn luyện viên ở đó". Ngày 15/11/2014, Rooney có trận đấu thứ 100 cho đội tuyển khi đối đầu Slovenia tại vòng loại Euro 2016 anh có bàn gỡ hòa trên chấm 11 mét và kết thúc với thắng lợi 3–1 cho tuyển Anh. Khi đụng Slovenia tại lượt về ngày 14/06/2015, Rooney ghi bàn những phút cuối giúp Anh có thắng lợi kịch tính 3–2, đây cũng là bàn thắng thứ 48 trong màu áo tam sư và nó giúp anh vươn lên vị trí thứ hai chia sẻ thành tích với cựu cầu thủ Gary Lineker và kém Bobby Charlton đúng một bàn. Trong lần xuất hiện thứ 106, Rooney cân bằng số bàn thắng với Charlton với 49 bàn khi thực hiện thành công quả penalty khi đụng nhược tiểu San Marino ngày 5 tháng 9 năm 2015. Ngày 8 tháng 9 năm 2015, với pha đá phạt đền thành công vào lưới Thụy Sĩ tại Wembley, Rooney phá kỷ lục của tiền bối Bobby Charlton với 50 bàn và chơi 107 trận cho Tam sư, bằng với số trận Andy Cole và đứng thứ 5 trong số các cầu thủ có số trận nhiều nhất cho đội tuyển và đây cũng là bàn thứ 300 trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của anh tính từ câu lạc bộ quốc nội đến tuyển quốc gia. Tại vòng bảng Euro 2016, tuyển Anh gặp Nga trên Sân vận động Vélodrome tại Marseille vào ngày 11 tháng 6, Rooney được xếp đá tiền vệ trung tâm ngay từ đầu trận và được đài BBC bầu là cầu thủ xuất sắc nhất trận sau trận hòa 1–1. Ngày 27 tháng 6, anh mở tỷ số trên chấm phạt đền trong trận thua ngược Iceland 2–1, qua đó Anh đừng chân tại vòng 16 đội. Một thành tích đáng thất vọng nữa của bóng đá Anh từ sau ám kịch World Cup 2014. World Cup 2018 Ngày 4 tháng 9, Rooney có trận thứ 116 khi Anh đánh bại Slovakia tại vòng loại World Cup 2018, trận đấu đó giúp Rooney đứng thứ 2 về số lần ra sân nhiều nhất tuyển Anh, hiện Peter Shilton vẫn là người nắm giữ vị trí độc tôn với 125 lần ra sân. Phong cách thi đấu Wayne Rooney là một trong những tiền đạo toàn diện nhất thế giới hiện nay. Anh tuyệt vời ở cả khả năng di chuyển với bóng và không bóng, nhãn quan chiến thuật tinh tường cùng lối chơi vô cùng xông xáo, Không đề cao kĩ thuật, Rooney là mẫu tiền đạo thuần chất Anh, lối đá rất đơn giản gọn gàng và luôn đặt hiệu quả lên hàng đầu. Chiều cao tương đối thua thiệt so với một tiền đạo (1m76) nhưng bù lại anh có nền tảng thể lực, sự lì bóng và sức càng lướt rất tốt, điều này không khó hiểu khi anh đã từng tập quyền anh. Rooney thường ghi rất nhiều bàn thắng đẹp từ ngoài vòng cấm nhờ khả năng dứt điểm căng, tinh tế, chuẩn xác. Điều này đã giúp anh chiếm được lòng tin của huấn luyện viên Alex Ferguson để lãnh trách nhiệm đá phạt cho M.U. kể từ sau khi Ronaldo ra đi. Điểm hạn chế của Rooney là tính khí nóng nảy bất thường đã bị nhiều đồng đội cũng như các huấn luyện viên nhắc nhở. Trong trận đá tập giữa đội tuyển Anh với câu lạc bộ Platinum Stars của Nam Phi trước thềm World Cup 2010, anh đã văng tục với trọng tài bắt chính trận đấu ông Jeff Selogilwe. Sau đó, anh còn quát với cổ động viên của mình trong trận hòa đáng thất vọng trước Algérie. Đó không phải là lần đầu tiên Rooney bộc lộ sự yếu kém về mặt kiềm chế, ở World Cup 2006 Rooney từng bị đuổi khỏi sân sau khi đạp vào háng Carvalho. Còn tại Premier League, anh có tới hơn 60 lần bị phạt thẻ (bao gồm cả thẻ vàng và thẻ đỏ), một con số thẻ phạt quá nhiều đối với một tiền đạo, người hiếm khi phải phạm lỗi. Một điểm đặc biệt nữa là anh có thể chơi mọi vị trí trên hàng tiền đạo. Chính vì sự đa năng này nên anh không bao giờ vắng mặt trong các cuộc gọi lên tuyển Anh. Có tài năng nhưng những thành công trong màu áo đội tuyển Anh vẫn né tránh Rooney. Với hai kỳ World Cup 2006 và 2010 bết bát cùng 1 vòng loại Euro 2008 không thể tồi tệ hơn, Rooney đang thực sự bị đặt nhiều dấu hỏi cho sự cống hiến hạn chế ở đội tuyển Anh. Thi đấu cho United tốt như thế, nhưng khi khoác trên mình chiếc áo màu trắng của "Tam Sư" thì Rooney lại không thể hiện được những gì mà mình có tại câu lạc bộ. Chính Darren Fletcher, một đồng đội của anh tại câu lạc bộ đã khẳng định rằng "Rooney thi đấu cho M.U. tốt hơn ở tuyển Anh" còn Rooney cũng đã từng lý giải rằng do lịch thi đấu dày đặc ở Premier League, đặc biệt là giai đoạn giáng sinh đã vắt kiệt thể lực của anh cùng các đồng đội. Nhận xét {{cquote|Với tôi, Rooney là cầu thủ nước Anh vĩ đại nhất trong thế hệ của mình. Những gì mà Rooney làm được trên sân cỏ là vô cùng đặc biệt. Messi bất ngờ nói về Rooney: Rooney là một trong số ít cầu thủ hiện tại đủ sức khoác áo bất kỳ CLB lớn nào ở châu Âu".| | |Lionel Messi}} Đời tư Gia đình Anh gặp Coleen Rooney (tên thời thiếu nữ: Coleen Mary McLoughlin) khi cả hai đều ở trong năm cuối của trường trung học và họ đã kết hôn vào ngày 12 tháng 6 năm 2008 sau 6 năm hẹn hò. Đám cưới của Rooney và Coleen được tổ chức tại Ý và Coleen đã mời ban nhạc Stereophonics mà chồng yêu thích tới biểu diễn vào ngày cưới. Đám cưới này đã gây ra một số tranh cãi với Giáo hội Công giáo Roma. Mặc dù văn phòng giám mục địa phương phản đối lại kế hoạch và cảnh báo rằng La Cervara là nơi hoàn tục và không thích hợp cho một đám cưới ồn ào, họ đề nghị một nhà thờ khác cách đó 5 dặm. Tuy nhiên, cặp vợ chồng trẻ đã bỏ qua lời can ngăn và đám cưới vẫn được diễn ra như kế hoạch và sau đó cặp vợ chồng này đã có kỳ trăng mật ở Las Vegas, Mỹ. Vợ của Rooney, Coleen công bố vào ngày 12 tháng 4 năm 2010 rằng cặp vợ chồng đã có em bé trai đầu lòng của họ, Kai Wayne Rooney. Mặc dù thực tế cậu bé đã ra đời từ ngày 2 tháng 11 năm 2009. Rooney cư trú tại một biệt thự trị giá 4.250.000 bảng ở làng Prestbury, Cheshire, được xây dựng bởi một công ty thuộc sở hữu của Dawn Ward, vợ của cựu tiền đạo Sheffield United là Ashley Ward. Anh cũng sở hữu tài sản ở Port Charlotte, Florida. Ngoài bóng đá, Rooney còn có sở thích sưu tập xe hơi, cho tới nay anh đã có hơn 15 chiếc siêu xe. Em trai của anh, John Rooney, cũng là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và đang thi đấu ở giải Major League Soccer của Mỹ cho đội New York Red Bulls sau khi được đội bóng này tuyển chọn qua sự kiện MLS SuperDraft. Tai tiếng Vào tháng 4 năm 2006, Rooney đã kiện hai tờ báo lá cải ở Anh là The Sun và News of the World vì đăng đàn thêu dệt rằng anh đã hành hung Coleen trong một hộp đêm. Sau đó, Rooney được bồi thường 100,000 £ và anh đã tặng số tiền đó cho hội từ thiện. Năm 2004 khi còn ở Everton, nhiều nguồn phương tiện truyền thông tiết lộ rằng Rooney đã lần lượt quan hệ tình dục với hai gái mại dâm là Charlotte Glover và sau đó là một người phụ nữ đáng tuổi mẹ anh (48 tuổi) tại thành phố Liverpool. Sau đó, anh đã phải công khai xin lỗi người hâm mộ và báo giới. Ngày 5 tháng 9 năm 2010, báo chí tiếp tục rộ lên thông tin rằng Rooney đã có quan hệ tình dục với cô gái bán hoa Jenny Thompson nhiều lần kể cả khi người vợ của anh đang mang thai vào năm 2009. Lợi ích thương mại Ngày 9 tháng 3 năm 2006, Rooney đã ký một hợp đồng xuất bản cuốn sách thể thao với Harper Collins, người đã cấp cho anh một khoản tiền ứng trước là 5 triệu bảng cộng với tiền nhuận bút cho tối thiểu là 5 cuốn sách được xuất bản trong khoảng thời gian 12 năm. Cuốn sách đầu tiên, My Story So Far, một cuốn tự truyện được trợ giúp bởi Hunter Davies đã được xuất bản sau World Cup. Nội dung cuốn sách đã khiến cho mối quan hệ giữa Wayne và người thầy cũ ở Everton là David Moyes trở nên sứt mẻ. Trong cuốn sách của mình Rooney nói rằng do sự độc đoán của Moyes đã ép buộc anh phải rời Everton dù trong lòng anh không hề muốn vậy, anh cũng tiết lộ rằng mình đã nói chuyện với ông Moyes về ý định muốn rời khỏi Everton sau khi bị báo chí phanh phui những hoạt động ăn chơi, trác táng của mình và buộc tội huấn luyện viên này tiết lộ chuyện đời sống riêng tư của anh với tờ Liverpool Echo. Sau khi quyển tự truyện này tới tay David Moyes, ông đã đâm đơn kiện học trò cũ vì những lời lẽ "vô căn cứ" mà Rooney sử dụng trong cuốn sách. Vụ ồn ào đã được giải quyết tại tòa án vào ngày 3 tháng 6 năm 2008 và kết quả là Rooney bị phạt 500.000 bảng, sau đó anh đã gửi lời xin lỗi tới Moyes cho việc "tuyên bố sai sự thật" mà anh đã thực hiện trong cuốn sách và về các vấn đề khác. Rooney tiếp tục xuất bản thêm cuốn sách thứ hai, The Official Wayne Rooney Annual, nhắm vào thị trường thanh thiếu niên là chính và được biên tập bởi nhà báo bóng đá Chris Hunt. Trong tháng 7 năm 2006, luật sư của Rooney đã đi đến Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (Tiếng Anh: World Intellectual Property Organization – WIPO) của Liên Hợp Quốc để đạt được quyền sở hữu tên miền của hai trang web là waynerooney.com và waynerooney.co.uk, cả hai đều do diễn viên người Wales Huw Marshall đăng ký trong năm 2002. Ba tháng sau đó, WIPO đã trao cho Rooney quyền để sở hữu trang waynerooney.com''. Rooney đã ký hợp đồng quảng cáo các với công ty Nike, Nokia, Ford, Asda, Coca-Cola và bia Tiger. Anh đã xuất hiện trên bìa quảng cáo của loạt game FIFA phiên bản ở Vương quốc Anh từ FIFA 06 (2005) tới FIFA 10 (2009). Năm 2010, Wayne Rooney đầu tư một khoảng kinh phí lớn là 100.000 bảng để sản xuất bộ phim 3D Avatar và đã thu được lợi nhuận khá cao. Thống kê sự nghiệp Đội tuyển quốc gia |- |2003||9||3 |- |2004||11||6 |- |2005||8||2 |- |2006||8||1 |- |2007||4||2 |- |2008||8||5 |- |2009||9||6 |- |2010||11||1 |- |2011||5||2 |- |2012||5||4 |- |2013||10||6 |- |2014||13||8 |- |2015||8||5 |- |2016||10||2 |- |2017||0||0 |- |2018||1||0 |- |Tổng cộng||120||53 |} Sự nghiệp huấn luyện viên Danh hiệu Cấp câu lạc bộ Manchester United Premier League (5): 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010-2011, 2012-2013 FA Community shield (4): 2007, 2010, 2011, 2016 Cúp Liên đoàn bóng đá Anh (3): 2005–06, 2009–10, 2016-17 UEFA Champions League (1): 2007–08 UEFA Europa League: 2016–17 FIFA Club World Cup (1): 2008 Emirates FA cup (1): 2015-16 Cá nhân Bàn thắng đẹp nhất trong 20 năm Giải ngoại hạng Anh: 1992-2012 Bàn thắng đẹp nhất mùa giải (2): 2004-05, 2006-07 Bàn thắng đẹp nhất tháng (5): 10/2003, 1/2005, 4/2005, 1/2007, 3/2007 Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA (1): 2009-10 Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của PFA (2): 2004-05, 2005-06 Cầu thủ được hâm mộ nhất năm của PFA (2): 2005-06, 2009-10 Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của BBC Sport (1): 2002 Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FWA (1): 2009-10 Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của FIFPro World (1): 2004-05 Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của giải Ngoại hạng Anh (5): 2/2005, 12/2005, 3/2006, 10/2007, 1/2010, 11/2010 Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Barclays (1): 2009-10 Cầu thủ xuất sắc nhất FIFA Club World Cup (1): 2008 Cầu thủ Anh xuất sắc nhất năm (2): 2008, 2009, 2014, 2015 Danh sách cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu (1): 2009-10 Đội hình Giải Ngoại hạng Anh xuất sắc nhất năm của PFA (2): 2005-06, 2009-10 Đội hình xuất sắc nhất giải đấu của UEFA Euro 2004 Giải thưởng Bravo (Tôn vinh) (1): 2003 Giải thưởng của Sir Matt Busby (2): 2005-06, 2009-10 Cậu bé vàng (Golden Boy) (1): 2004
Andrew Z. Fire (sinh tháng 4 năm 1959) là người đoạt giải Nobel về Sinh lý học hay Y khoa người Mỹ, cùng với Craig C. Mello, cho sự khám phá ra sự can thiệp của RNA. Nghiên cứu này được tiến hành tại Viện Carnegie tại Washington và xuất bản năm 1998. Fire hiện là giáo sư về dịch tễ và di truyền học tại Trường Y khoa của Đại học Stanford, mà ông tham gia từ 2003. Giải Nobel Năm 2006, Mello và Fire nhận giải Nobel cho những công trình bắt đầu vào năm 1998, khi Mello và Fire cùng với các đồng sự của họ (SiQun Xu, Mary Montgomery, Stephen Kostas, Sam Driver) xuất bản một bài báo trong tạp chí Nature (Tự nhiên) làm thế nào những mẩu nhỏ của RNA đánh lừa tế bào tiêu diệt những thể truyền tin của gene RNA (mRNA) trước khi nó có thể sản xuất ra một protein - làm ngưng hoạt động những gen riêng biệt một cách hiệu quả. Trích dẫn về giải Nobel, đưa ra bởi Viện Karolinska của Thụy Điển, nói rằng: "Những người đoạt giải Nobel năm nay đã khám phá ra một cơ chế cơ sở cho việc điều khiển luồng thông tin di truyền." Các nghiên cứu của Mello và Fire, tiến hành tại Viện Carnegie, đã cho thấy rằng thực ra RNA đóng một vai trò quan trọng trong việc điều khiển gene. Sự kiện công trình được công nhận bởi hội đồng giải Nobel chỉ tám năm sau khi nó được công bố đã chứng tỏ tầm quan trọng của nó là như thế nào. Trước đây người ta nghĩ rằng RNA đóng vai trò rất nhỏ trong việc điều khiển gene - thật ra một số người cho rằng nó không hơn gì là một sản phẩm phụ. Ngoài Giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 2006, ông còn đoạt Giải Sinh học phân tử của Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ năm 2003, Giải Wiley năm 2003 và Giải Passano năm 2003.
Surayud Chulanont (tiếng Thái: สุรยุทธ จุลานนท์, phiên âm: Xu-ra-dút Chu-la-non, sinh ngày 28 tháng 8 năm 1943) là Thủ tướng thứ 24 của Thái Lan từ 1 tháng 10 năm 2006 đến 29 tháng 1 năm 2008. Ông từng là sĩ quan Quân đội Hoàng gia Thái Lan, Tư lệnh tối cao Quân đội, Tư lệnh Lục quân, hàm Đại tướng Lục quân (พลเอก, Phon Ek), Cố vấn riêng cho Vua Bhumibol Adulyadej. Ông được bổ nhiệm vào chức Thủ tướng vào ngày 1 tháng 10 năm 2006 bởi Sonthi Boonyaratkalin, người đứng đầu của nhóm quân đội đã đảo chính và lật đổ chính phủ dân cử của Thaksin Shinawatra khoảng 2 tuần trước đó. Ông hiện là Ủy viên Tư pháp cho đương kim Quốc vương Vajiralongkorn. Chú thích
Magnus Gustaf (Gösta) Mittag-Leffler (16 tháng 3 1846 – 7 tháng 7 1927) là một nhà toán học người Thụy Điển. Gösta Mittag-Leffler được sinh ra ở Stockholm, là con của hiệu trưởng một trường học John Olof Leffler và Gustava Wilhelmina Mittag; sau này ông thêm họ mẹ vào họ của cha trong tên ông. Chị của ông là nhà văn Anne Charlotte Leffler. Ông tốt nghiệp Đại học Uppsala vào năm 1865, hoàn thành Ph.D. năm 1872 và trở thành docent tại đại học đó trong cùng năm. Ông cũng là curator (chủ tịch) của Stockholm Nation 1872–1873. Sau đó ông đến Paris, Göttingen và Berlin trước khi nhận vị trí giáo sư toán tại Đại học Helsinki 1877–1881 và sau đó là giáo sư toán đầu tiên tại Cao đẳng Stockholm (sau này là Đại học Stockholm); ông là hiệu trưởng của trường trong năm học 1891-1892 và xin nghỉ hưu vào năm 1911. Mittag-Leffler vào thương trường và trở thành một thương gia thành công nhưng đổ vỡ về kinh tế ở châu Âu làm ông phá sản vào năm 1922. Ông là thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển (1883), Hiệp hội Khoa học và Văn học Phần Lan (1878, sau đó là thành viên danh dự), the Royal Physiographic Society in Lund (1906) và khoảng 30 hiệp hội nước ngoài khác, kể cả Hiệp hội Hoàng gia của London (1896) và Académie des sciences ở Paris. Ông có bằng tiến sĩ danh dự từ Đại học Oxford và một số đại học khác. Mittag-Leffler thành lập tạp chí toán học Acta Mathematica (1882), một phần là từ tài trợ của tài sản của vợ ông là Signe Lindfors, một gia đình Phần Lan rất giàu có, và sưu tầm một thư viện toán lớn trong tòa biệt thự của ông ở ngoại vi Stockholm vùng Djursholm. Căn nhà và tất cả tài sản được tặng cho Viện Hàn lâm khoa học như là Viện Mittag-Leffler. Câu chuyện rằng Alfred Nobel từ chối đặt ra giải thưởng trong Toán bởi vì mối tình không thành với Signe Lindfors hầu như là không có thật. Đóng góp vào toán Hàm số Mittag-Leffler Định lý Mittag-Leffler
Trong tiếng Việt, từ số thường được hiểu theo các nghĩa sau: Số: một khái niệm trong toán học sơ cấp Số phát sóng (tập phim) của một bộ phim hay chương trình truyền hình Số, viết tắt của từ số phận, số mệnh trong tử vi, dùng để ám chỉ những yếu tố tiền định trong cuộc sống của mỗi người theo tín ngưỡng của người phương Đông
Jeffrey Nero "Jeff" Hardy (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1977) là một đô vật chuyên nghiệp, nhạc sĩ, ca sĩ, họa sĩ người Mỹ, hiện anh đang thi đấu cho World Wrestling Entertainment (WWE) dưới tên Jeff Hardy hay biệt danh "The Charismatic Enigma". Anh là em trai của Matt Hardy. Anh còn nổi tiếng với thời gian thi đấu ở Total Nonstop Action Wrestling (TNA, giờ là Impact Wrestling) dưới cái tên Willow, Brother Nero và tên thật của mình. Trước khi nổi lên ở WWE, Hardy cùng anh trai là Matt Hardy lập nên 1 công ty đô vật có tên Organization of Modern Extreme Grappling Arts (OMEGA). Sau khi ký hợp đồng với WWE, hai anh em làm việc dưới dạng "jobber". Rồi hai người nổi lên trong việc làm tag team, nổi tiếng với những trận Tables, Ladders, and Chairs. Với sự cộng tác của Lita, họ lập thành Team Xtreme và bắt đầu trở nên nổi tiếng ở WWE. Cùng với anh trai, Jeff đã có được 8 danh hiệu Tag Team ở WWF/WWE bao gồm 7 World Tag Team Championship và 1 WCW Tag Team Championship. Ngoài ra Jeff còn rất thành công trong sự nghiệp đấu đơn. Jeff có 6 lần là nhà vô địch thế giới bao gồm 1 WWE Championship, 2 World Heavyweight Championship và 3 TNA World Heavyweight Championship. Jeff chính là nhà vô địch Intercontinental trẻ nhất trong lịch sử WWE. Tính ở cả WWE, TNA và ROH, anh đã có tổng cộng 25 danh hiệu vô địch. Anh nhận được cú push lên hàng cao nhất vào khoảng cuối năm 2007. Kết thúc với việc anh một lần giành được WWE Championship và 2 lần giành World Heavyweight Championship và rời WWE vào giữa năm 2009. Jeff Hardy cũng hiện đang là thành viên của nhóm nhạc PeroxWhy?gen. Cuộc đời Hardy là con trai của Gilbert và Ruby Moore Hardy, và là em trai của Matt Hardy. Mẹ của họ chết vì bệnh ung thư não vào năm 1986, khi Jeff 9 tuổi. Anh bộc lộ rõ tài năng đua mô tô của mình khi 12 tuổi và có chiếc xe đầu tiên - Yamaha YZ-80 - vào năm 13 tuổi. Anh có cuộc đua đầu tiên khi học lớp 9. Jeff từng tham gia chơi bóng chày nhưng vì 1 lần tai nạn khi đua xe, anh đã bị chấn thương tay và ngừng chơi bóng chày. Anh đã ngừng chơi thể thao sau khi anh chỉ được chọn một trong 2 thứ: thể thao và đấu vật - và anh đã chọn đấu vật. Môn học ưa thích của anh là Lịch sử và Mỹ thuật, những môn mà anh luôn luôn đạt điểm xuất sắc. World Wrestling Entertainment (2006-2009) Vào ngày 4 tháng 8 năm 2006, WWE đã thông báo rằng Jeff Hardy đã ký kết lại với công ty. Trong tuần lễ đó, Jeff Hardy đã hâm nóng không khí buồn tẻ bằng sự trở lại của mình vào ngày 21 tháng 8, 2006 trong chương trình RAW. Trong chương trình đó, anh đã đánh bại Edge bằng DisQualification. Sau nhiều lần thua trong những trận giành đai Intercontinental Championship từ tay Johnny Nitro trong vài tuần sau đó, bao gồm cả trận đấu tại Unforgiven 2006, Jeff Hardy cuối cùng cũng đã đánh bại Nitro và lấy được đai Intercontinental Championship vào ngày 2 tháng 10, 2006 trong chương trình RAW. Vào show RAW ngày 6 tháng 11, 2006 Hardy đã để mất đai Intercontinental Championship vào tay Johnny Nitro, sau khi Nitro dùng đai Intercontinental Championship để tấn công anh. Chỉ ngay tuần sau khi mất đai, anh đã giành lại được tại show RAW vào ngày 13 tháng 11, 2006 sau 3 tiếng đếm của trọng tài. Đánh dấu lần thứ 3 Hardy trở thành Intercontinental Champion. Nhưng khoảng 2 tháng sau đó, anh đã bị Umaga Người bất bại lấy đai Intercontinental Championship do Vince McMahon sắp đặt. Vì Umaga là người Vince McMahon chọn để đấu với Bobby Lashley (người do Donald Trump chọn để đấu với Umaga trong trận Battle of The Billionairs và ai (Vince McMahon hay Donald Trump) thua sẽ bị người kia cạo đầu. Nhưng vào ngày 2 tháng 4 Jeff Hardy cùng với người anh la Matt Hardy, giành được WWE World Tag Team Champion lần thứ sáu từ John Cena và Shawn Micheals. Tuy vậy họ bị Cade và Murdoch lấy đai vào ngày 4 tháng 6 trong 1 chương trình RAW. Họ có cơ hội lấy đai tại WWE Vengeance nhưng thất bại. Vào ngày 3 tháng 9 năm 2007 anh đã đánh bại Umaga để lần thứ 4 lấy được đai Intercontinental Champion. Cuối cùng anh đã để mất Intercontinental Champion vào tay Y2J Chris Jericho Sau đó anh được chuyển qua Smackdown và bắt đầu tranh đai với Triple H nhưng không thành. Sau nhiêu lần anh ta bi thua Triple H nhưng Edge đã lấy được đai WWE Champion sau đó Edge đánh một trận giành đai Triple H VS Jeff Hardy VS Edge va Hardy chiến thắng và trở thành WWE Champion. Nhưng sự may mắn không ở lại lâu với anh, ở Royal Rumble, anh đã phải đấu với Edge một trận No DQ để giữ đai WWE Championship của mình và anh đã thua do bị anh trai của mình là Matt Hardy lên và cho anh ta một cái đánh của chiếc ghế sắt vào đầu và bị pin bởi Edge nhưng anh ta vẫn còn cơ hội. Ở No Way Out, anh đã được chọn vào ván đấu Elimination Chamber (một trận đấu lồng sắt với 6 người trong đó) để lấy đai WWE Championship cùng với Vladimir Cozlov, Big Show, The Undertaker, Edge và Triple H nhưng anh đã bị loại do dính tuyệt chiêu cuối của The Undertaker là Tombstone. Anh vẫn không bỏ cuộc nên anh vẫn tiếp tục theo đuổi đai WWE Championship và điều đó bắt đầu ở việc là anh đã cố gắng thắng Shelton Benjamin trong trận Money In The Bank Qualilfing Match tại Smackdown nhung anh vẫn không thuận lợi vì anh đã tiếp tục thua do anh trai mình Matt Hardy một lần nữa. Bây giờ anh đãcó một trận để đấu với anh trai mình là Matt Hardy tại The 25th Anniversary of WretleMania. Tại WrestleMania 25, trong trận đấu Extreme Rules với người anh trai Matt Hardy, anh đã để thua. Tại Backlash, anh đã thắng được Matt Hardy. Tại Judgment Day, anh đã tham gia trận tranh đai World Heavyweight Championship với Edge, nhưng cũng đã bị thua. Vào một show SmackDown, anh tham gia trận Fatal Four Way để giành một suất tranh đai World Heavyweight Championship với Edge tại Extreme Rules, và đã thắng Rey Mysterio, Kane và Chris Jericho để gặp Edge tại Extreme Rules. Ở đây, anh đã thắngEdgevà giành đai World heavyweightvà sau đó, CM Punk mang money in the banklên. Đòi tranh đai của anh, Cm punk choi choi chiêu cuối nhưng anh vẫn không chịu thua. Anh đã pinCm Punknhưng không thành công. Cuối cùng Cm Punk đã chơi lại chiêu đó một lần nữa và anh đã thua vì bị hao tổn sức khỏe nhiều rồi.Hai người bắt đầu mối thù từ đây Trong một show smackdown, anh và Edge đã đánh nhau. Edge cố tình đẩy anh vào Cm Punk, Cm Punk đã lao lên võ đài đánh Edge và anh đã bị thua. Sau đó, chủ tịch quản lý smackdown đã có quyết định một trận tranh đai world heavyweight championship Edge vs Jeef Hardy andCm punk. Nhưng sau nghi anh swantond lên edge thi` CM Punk đã lôi chân hardy xuống và pin edge và Cm punk một lần nữa giành chiến thắng. Đến WWE The Bash, anh lại đấu với CM Punk để tranh đai. Nhưng CM Punk lại bi đau mắt và sau đó cố tình đá vào lưng trọng tài để thua bằng DQ nhưng vẫn giữ được đai của mình Tới WWE Night Of Champions, anh đã sử dụng chiêu Swanton Bomb với CM Punk và đã giành được chiến thắng sau 3 tiếng đếm của trọng tài và lần đầu tiên đoạt được danh hiệu World Heavy Championship Tại PPV Summer Slam anh đã để mất danh hiệu World Heavy Weight Championship vào tay CM Punk tại thể loại Table, Ladder, Chair Match. Tại show Smack Down sau đó 1 tuần anh đã thua CM Punk tại World HeavyWeight Chapionship trong thể loại Steel Cage Match và không còn cách nào khác, anh phải rời khỏi WWE nhưng thực tế là anh đã mắc phải một chấn thương ở cổ và vùng lưng và vẫn trong giai đoạn điều trị do Swaton Bomb vào CM Punk trên một chiếc thang tại PPV Summer Slam. Để người hâm mộ không nóng lòng, anh trai Jeff, Matt Hardy, đã tuyên bố trên trang Twitter rằng Jeff sẽ trở lại trong thời gian sớm nhất vào năm 2010. Đến tháng 1 năm 2010, Jeff đã đến TNA, trái ngược với những tin đồn do các fan của anh đưa ra trên You Tube và Twitter. Hợp đồng mới của anh tại TNA có thời hạn trong vòng 1 năm, Jeff vẫn đang do dự có nên ký hợp đồng mới với TNA hay không, nhưng nếu anh hợp tác với TNA, anh sẽ không thể trở lại tại Wrestlermania 27 (tức năm 2011). World Wrestling Entertainment (2017) Ở Wrestlemania 33 (2017), anh cùng với anh trai là Matt Hardy trở lại ở trận ladder match. Anh ở trên một cái thang cao và dùng chiêu Swanton Bomb lên Cecaro, Matt dùng chiêu Twist Of Face lên Karl Anderson ở trên một chiếc thang. Matt đã lấy được hai cái đai và trở thành Raw Tag Team Champion. Các lĩnh vực khác Jeff xuất hiện trên truyền hình lần đầu tiên vào ngày 7/2/1999 vào tập "That Wrestling Show" của chương trình That '70s Show - cùng với anh trai Matt - xuất hiện như 1 đô vật vô dạnh. Hai anh em còn xuất hiện ở WWE Tough Enough 2001 để nói chuyện và tham gia đấu với những thí sinh. Jeff xuất hiện vào ngày 25/2/2002 ở chương trình Fear Actor, đấu với 5 siêu sao khác của WWE nhưng đã bị loại ngay từ vòng đầu. Anh còn tham gia vào chương trình The Hardy Show, 1 chương trình trực tuyến trên web với sự tham gia của The Hardys, Shannon Moore và một số người bạn của họ. Vào tháng 9 năm 2009, anh ký hợp đồng với Fox 21 để tham gia vào 1 chương trình truyền hình trực tuyến. Năm 2001, Jeff, Matt và Lita tham gia vào  Rolling Stone magazine's 2001 Sports Hall of Fame. Vào năm 2003, anh em Jeff & Matt, với sự giúp đỡ của Michael Krugman, họ viết và ra lò cuốn tự truyện "The Hardy Boyz: Exist 2 Inspire" Ở WWE, anh xuất hiện ở một số DVD, The Hardy Boyz: Leap of Faith (2001) và The Ladder Match (2007). Anh còn xuất hiện ở DVD của TNA, Enigma: The Best of Jeff Hardy (2005) và Pro Wrestling's Ultimate Insiders: Hardy Boys – From the Backyard to the Big Time (2005). Năm 2008, WWE cho ra DVD "Twist of Fate: The Matt and Jeff Hardy Story", đề cập đến sự nghiệp của 2 người. Vào tháng 12/2009, WWE cho ra DVD của riêng Jeff, Jeff Hardy: My Life, My Rules. Danh sách album nhạc Jeff Hardy cho ra lò album đầu tiên cùng với nhóm nhạc của mình là Peroxwhy?gen thông qua TNA Music vào ngày 13/12/2012. Sau đó là album thứ 2, Plurality Of Worlds vào ngày 7/11/2013. Similar Creatures (2012) Plurality of Worlds (2013) Within The Cygnus Rift (2015) Trong sự nghiệp đô vật Đòn quyết định Reverse of Fate - WWE/TNA Swanton Bomb / The Swanton Spine Line (TNA) Event Omega (WWE - cùng với Matt Hardy) Sharpshooter (WWE/TNA) Twist of Fate / Twist of Hate (WWF/E / TNA) Đòn thường sử dụng Alley Oop Facebuster Baseball Slide Diving Clothesline Double leg drop Hardyac Arrest Drop Kick Diving Crossbody German Suplex Overhead Belly To Belly Suplex Arm Drag Mule Kick Omega Event Poetry in Motion một người Sitout Inverted Suplex Slam Sitout Jawbreaker Split leg pin Plancha Enzuigiri Spinning Heel Kick Poetry in Motion Diving Leg Drop Whisper in the Wind  Người huấn luyện Gangrel Michael Hayes Lita Trish Stratus Terri Biệt danh The Charismatic/Extreme Enigma (WWE / TNA) The Legend Thriller (WWE) The Rainbow–Haired Warrior (WWE) The Anti-Christ of Professional Wrestling (TNA) The Best Wrestler on Planet Earth (TNA) The Artist (TNA) "Brother Nero" (TNA, gọi bởi Matt Hardy) Theme Songs WWF/E "Loaded" bởi Zack Tempest (1999 – 2003, 2006 – 2008, 2009) "No More Words" bởi EndeverafteR (2008 – 8/2009) TNA "Modest" bởi Peroxwhy?gen (2004 – 2006) "Modest" (2010 Remix) bởi Peroxwhy?gen (2010; 2011) "Another Me" bởi Jeff Hardy và Dale Oliver (2010 – 2011) "Immortal Theme" bởi Dale Oliver (as part of Immortal, 2010 - 2011) "Resurrected" bởi Jeff Hardy và Dale Oliver (2011 – 2012) "Similar Creatures" bởi Peroxwhy?gen và sửa đổi bởi Dale Oliver (2012 – 2013) "Time & Fate" bởi Jeff Hardy và Dale Oliver (20/10/2013 – 21/11/2013) " Placate " bởi Jeff Hardy và Dale Oliver (10/4/2015 - giờ) "Willow's Way" bởi Jeff Hardy và Dale Oliver (as Willow, 9/3/2014 – 10/7/2014) "Reptillian" bởi Peroxwhy?gen (The Hardys, ngày 31 tháng 7 năm 2014 - 25/9/2014; với Creatures Intro, 2/10/2014 – 23/9/2015) ROH "Tourniquet" bởi Marilyn Manson (2003) OMEGA "Dead And Bloated" bởi Stone Temple Pilots (1997 – 1998) Các chức vô địch và danh hiệu National Championship Wrestling NCW Light Heavyweight Championship (2 lần)[7] New Dimension Wrestling NDW Light Heavyweight Championship (1 lần)[1] NDW Tag Team Championship (1 lần)1[298] – với Matt Hardy New Frontier Wrestling Association NFWA Heavyweight Championship (1 lần)[1] North East Wrestling NEW Junior Heavyweight Championship (1 lần)[1] NWA 2000 NWA 2000 Tag Team Championship (1 lần) – với Matt Hardy Organization of Modern Extreme Grappling Arts OMEGA New Frontiers Championship (1 lần) OMEGA Heavyweight Championship (1 lần) - đang giữ đai OMEGA Tag Team Championship (1 lần) – với Matt Hardy Pro Wrestling Illustrated PWI Sự trở lại của năm (2007, 2012) PWI Trận đấu của năm (2000) với Matt Hardy vs. The Dudley Boyz và Edge & Christian trong 1 trận Triangle Ladder match ở WrestleMania 2000 PWI Trận đấu của năm (2001) với Matt Hardy vs. The Dudley Boyz và Edge & Christian trong 1 trận Tables, Ladders, and Chairs match ở WrestleMania X-Seven PWI Tag Team of the Year (2000) với Matt Hardy PWI xếp Hardy ở vị trí #7 ở PWI 500 năm 2013 Total Nonstop Action Wrestling TNA World Heavyweight Championship (3 lần) Bound for Glory Series (2012) TNA World Tag Team Championship #1 Contenders Tournament (2014) – với Matt Hardy Đô vật của năm (2012) Universal Wrestling Association UWA World Middleweight Championship (1 lần) World Wrestling Federation / World Wrestling Entertainment World Heavyweight Championship (2 lần) WWE Championship (1 lần) WWF/E Intercontinental Championship (4 lần) WWF Hardcore Championship (3 lần) WWF Light Heavyweight Championship (1 lần) WWE European Championship (1 lần) World Tag Team Championship (7 lần) – với Matt Hardy WCW Tag Team Championship (1 lần) – với Matt Hardy Terri Invitational Tournament – với Matt Hardy Grand Slam Champion thứ 11 Triple Crown Champion thứ 18 Slammy Award cho Extreme Moment of the Year (2008) Swanton Bomb lên Randy Orton từ trên titantron (Raw, 14/1/2008)  Slammy Award cho Extreme Moment of the Year (2009) Swanton Bomb từ thang lên CM Punk ở SummerSlam Wrestling Observer Newsletter' High-flyer của năm(2000) Mối thù của năm (2009) vs. CM Punk Trận đấu tệ nhất năm (2011) vs. Sting ở Victory Road 2011
Dwayne Johnson tên đầy đủ là Dwayne Douglas Johnson, còn được biết đến với nghệ danh là The Rock (sinh ngày 2 tháng 5 năm 1972) là một đô vật chuyên nghiệp đã nghỉ hưu, diễn viên điện ảnh và nhà sản xuất người Mỹ. Johnson từng tham gia đội bóng bầu dục tại Đại học Miami, và cũng tại đây anh đã giành chức vô địch quốc gia cho đội bóng bầu dục Miami Hurricanes 1991. Sau khi bị loại khỏi đội Calgary Stampeders của Canadian Football League 2 tháng sau khi mùa giải 1995 bắt đầu, anh bắt đầu quá trình luyện tập cho sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp, nối tiếp nhiều thành viên trong gia đình, trong đó có ông ngoại Peter Maivia và cha của anh, Rocky Johnson. Được công nhận rộng rãi là một trong những đô vật chuyên nghiệp vĩ đại nhất trong làng đô vật thế giới, Johnson bắt đầu có được nhiều danh tiếng nhờ tham gia Liên đoàn Đấu vật Thế giới WWF (nay là WWE) từ năm 1996 tới năm 2004 và là đô vật thế hệ thứ ba đầu tiên trong lịch sử công ty. Anh trở lại tham gia WWE bán thời gian từ năm 2011–2013. Johnson từng tám lần vô địch giải WWF/WWE Championship,hai lần vô địch giải WCW/World Heavyweight Championship, hai lần vô địch giải WWE Intercontinental Championship và năm lần vô địch giải World Tag Team Championship. Anh là người thứ sáu đạt danh hiệu Triple Crown ở giải WWE và giành chiến thắng ở sự kiện Royal Rumble 2000. Cuốn tự truyện The Rock Says...của anh ra mắt ở vị trí quán quân trên danh sách bán chạy của tạp chí The New York Times năm 2000. Vai diễn chính đầu tiên của Johnson là trong phim điện ảnh Vua Bọ cạp năm 2002. Với vai diễn này, anh được trả 5,5 triệu USD, một kỷ lục mới đối với vai chính đầu tiên của một diễn viên. Một vai diễn khác đáng chú ý của anh là Luke Hobbs trong thương hiệu Fast & Furious. Anh cũng tham gia sản xuất và dẫn chương trình The Hero, một cuộc thi truyền hình thực tế và kể từ đó vẫn tiếp tục sản xuất các chương trình truyền hình và phim điện ảnh thông qua công ty sản xuất riêng là Seven Bucks Productions. Năm 2013, Forbes xếp Johnson vào vị trí thứ 25 trong danh sách Top 100 ngôi sao quyền lực nhất và kể từ đó mỗi năm anh luôn lọt vào trong top 20. Ngoài ra anh còn là diễn viên có mức thù lao cao nhất năm 2016. Năm 2021, Dwayne Johnson tuyên bố rằng anh muốn trở thành diễn viên James Bond tiếp theo. Tiểu sử Sinh ra ở Hayward, California và lớn lên ở Hawaii, Johnson còn nổi tiếng với biệt danh "The Rock", là con trai của Rocky Johnson, vô địch đô vật người Mỹ gốc Phi đầu tiên và ông ngoại của anh là tù trưởng Peter Maivia, người Samoa đầu tiên chơi đô vật. Khi còn là học sinh, nhờ ngoại hình cao to mà anh là một hậu vệ cừ khôi trong môn bóng bầu dục, được học bổng toàn phần của Đại học Miami chỉ để chơi bóng. Năm 1995 đánh dấu bước ngoặt với tên tuổi The Rock khi thay vì chọn giải bóng bầu dục NFL, anh lại quyết định theo đuổi WWE - Liên đoàn Đấu vật Thế giới. Johnson đã 7 lần đoạt chức vô địch WWF/E Championship, hơn kỷ lục cũ của Hulk Hogan và Bret Hart. Anh được xem là một trong những đô vật nổi tiếng nhất trong lịch sử. Trong lĩnh vực điện ảnh, một trong những bộ phim nổi tiếng mà Johnson tham gia là bộ phim bom tấn Xác ướp trở lại của đạo diễn Stephen Sommers, với doanh thu hơn 450 triệu đô La trên toàn thế giới. Tiếp sau đó là bộ phim nổi tiếng Vua Bọ cạp, với kỷ lục về doanh thu bán vé cao nhất tuần đầu ra mắt. Johnson sau đó tham gia một số bộ phim đáng chú ý như Điệp viên 86: Nhiệm vụ bất khả thi, Cuộc đua đến núi phù thủy, Planet 51, Chàng tiên răng và Siêu cớm tranh tài. Năm 2008, Entertainment Weekly đưa Johnson vào danh sách những diễn viên hạng A của Hollywood cùng với Robert Downey, Jr., Ellen Page, James McAvoy và Amy Adams. Ngoài ra, Johnson còn tham gia sản xuất một số bộ phim như Journey 2: Hòn đảo huyền bí và Héc-quyn. Năm 2011, anh tham gia Fast & Furious 5: Phi vụ Rio với tổng doanh thu lên tới 626 triệu USD. Bộ phim Journey 2: Hòn đảo huyền bí mà Johnson tham gia năm 2012 là một trong những bộ phim có doanh thu bán vé cao kỷ lục với hơn 325 triệu USD trên toàn thế giới. Năm 2013, Johnson liên tiếp xuất hiện trong một loạt phim điện ảnh gồm Snitch, G.I. Joe: Báo thù, Empire State và Pain & Gain. The Rock đã quay lại WWE 2 năm trước và giành thêm chức vô địch WWE một lần nữa khi anh đánh bại CM Punk tại Royal Rumble 2013. Sau đó anh bị mất danh hiệu vô địch WWE tại Wrestlemania XXIX khi đối đầu với John Cena. Tháng 6 năm 2013, Johnson xuất hiện trong chương trình truyền hình The Hero với vai trò là người cố vấn khích lệ những vận động viên hàng tuần khi họ đối mặt với những thử thách. Danh sách phim Điện ảnh Truyền hình Danh sách đĩa nhạc Chiêu thi đấu (WWE) Rock Bottom (Đòn kết liễu) Jumping Clothesline Neckbreaker Punch Combo Belly To Belly Suplex Snap DDT Spinebuster Samoan Drop Sharpshoote People's Elbow Chú thích
Omar Sivori (, ; 2 tháng 10 năm 1935 – 17 tháng 2 năm 2005) là một cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá Ý-Argentina chơi ở vị trí tiền đạo. Sivori chơi trận đầu tiên trong sự nghiệp cầu thủ nhà nghề dưới màu áo CLB River Plate vào năm 1952, khi ông mới 17 tuổi. Năm năm thi đấu tại quê nhà, ông đã cùng River đạt khá nhiều danh hiệu trước sự hập hực của các đối thủ truyền kiếp ở Buenos Aires. Tuy nhiên, giai đoạn thành công nhất trong sự nghiệp của ông phải kể đến quãng thời gian chơi bóng tại quê hương thư 2 - Italia - từ năm 1957 đến 1965 trước khi ông giã từ sân cỏ tại Naples. Ông từng giành Quả Bóng Vàng năm 1961. Trong danh sách 125 cầu thủ xuất sắc nhất thế giới mọi thời đại do FIFA công bố theo sự lựa chọn của Pele (một trong những hoạt động được tổ chức chào mừng kỷ niệm 100 năm thành lập FIFA 1904-2004), Sivori là một trong 10 cầu thủ Argentina có mặt. Điều đó là sự khẳng định một lần nữa tài năng và những đóng góp của Sivori cho bóng đá thế giới và Juventus khi trước đó, ông đã được tạp chí France Football trao giải Quả Bóng Vàng. Ông được nhớ tới như là một món Cocktail pha trộn giữa tài năng, kì dị và tinh quái. Sivori có trận đấu đầu tiên ở giải vô địch Argentina trong màu áo River Plate vào năm 1954 và đạt hai cúp ở giải vô địch cùng với CLB. Ông chơi 18 trận đấu cho ĐTQG Argentina, và toả sáng trong màu áo này vào năm 1957 khi giúp Argentina giành chiến thắng Copa America 1957 tại Peru. Một năm sau ông chuyển tới Juventus, và ở đây ông giành được 3 Scudetto vào những năm 1958, 60 và 61 và Italia cúp những năm 59 và 60. Cũng thời gian ở đây ông đã được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất châu âu vào năm 1961. Ông cũng đã có 9 lần tham gia đội tuyển Italia và ghi được 8 bàn thắng và cùng ĐTQG Italia thi đấu ở World Cup 1962 tại Chile. Ông kết thúc sự nghiệp thi đấu của mình tại Napoli, ghi được 12 bàn thắng trong 60 trận, trước khi từ giã sân cỏ năm 1968. Ông quay trở lại Argentina làm huấn luyện viên cho Rosario Central và River Plate sau đó được lựa chọn làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia tại vòng loại WC 1974 nhưng đã từ chức trước vòng chung kết sau khi bất đồng quan điểm với AFA. Có thể nói giai đoạn không thể quên của Omar Sivori gắn liền với màu áo Bianconeri. Nơi ông đã cùng với John Charles lập thành bộ đôi tấn công huỷ diệt và giúp "Bà đầm già" thống trị Serie A những năm cuối thập kỉ 50 đầu 60 ở thể kỉ trước. Đối với những tifosi thành Torino, người ta gọi ông âu yếm với biệt danh 'Thiên thần với bộ mặt xấu xí' (angeli dalla faccia sporca). Bởi dù không được điển trai, nhưng lối chơi của ông, tài năng của ông đã khiến những tifosi phát cuồng vào giai đoạn ấy. Chính Ông là người làm cho các nhà vật lý thời ấy phải kiểm ta lại vài định luật. Cầu thủ người Argentina có thể đi bóng lướt qua mặt cỏ, để lại đằng sau đối phương xoay tròn như chong chóng. Những tifosi thế hệ sau này ví ông là Maradona ở thời điểm đó. Họ không được tận mắt chứng kiến những điều vĩ đại mà ông đã làm được trong bóng đá, nhưng qua những băng video, những câu chuyện "cổ tích" ở thành phố Turin, ông vẫn có một vị trí trong trái tim họ... Ở Juventus, người ta nhớ tới ông như là một trong những huyền thoại vĩ đại. Người ta sẽ vẫn nhớ như in trận đấu đầu tiên của ông với Juve ở Serie A ngày 8/9/1957 (Juve thắng Verona 3-2), trận đấu đầu tiên ở châu Âu ngày 24/9/1958 (Juve- Wiener S.K 3-1). Hay một kỷ niệm không thể nào quên tại cúp C1 châu Âu khi lần đầu tiên Juventus đối mặt Real Madrid. Đó là vào mùa bóng 1961-1962, khi ấy nhà vô địch Italia đối đầu với quán quân Tây Ban Nha ở vòng tứ kết Cup C1. Vào thời điểm này, Real đang là đội bóng hùng mạnh của châu Âu với 5 lần liên tiếp đứng lên bậc cao nhất, cùng dàn sao rực sáng dẫn đầu là Di Stefano. Trong khi đó, dù chỉ là "anh chàng học việc" nhưng Juventus cũng tự hào sở hữu thủ lĩnh Omar Sivori - Quả bóng vàng châu Âu năm 1961. Trận lượt đi tại Turin đã diễn ra cực kỳ căng thẳng và chỉ có duy nhất một bàn thắng do công của Di Stefano. Tưởng như với lợi thế đó, Real sẽ biến Bernabeu trở thành "địa ngục" với đối thủ ở lượt về. Nhưng bất ngờ đã diễn ra. Sivori vô lê tuyệt đẹp ghi bàn thắng duy nhất giúp Juventus "báo thù" thành công, cân bằng tỷ số 1-1 cho hai lượt đấu. Tuy nhiên, trong trận đá lại một tuần sau đó trên sân trung lập, dù Sivori vẫn khai hỏa nhưng Juve đành chia tay cuộc chơi với 3 lần thủng lưới sau các bàn của Felo, Del Sole, Tejera. Real đi tiếp và vào tới chung kết (thua Benfica 3-5). Là người đầu tiên của Juve giành quả bóng vàng châu Âu, tổng số bàn thắng của ông ghi được cho Juventus cũng chỉ kém ít người trong suốt chiều dài lịch sử của CLB (135 bàn). Ông không còn tồn tại trên đời, nhưng với những gì ông đã làm được cho bóng đá thì tên ông sẽ gắn liền với dòng lịch sử bất tận của môn bóng tròn. Như nhận xét của một đồng đội - Antonio Luliano, cựu cầu thủ Napoli: " Anh ấy là Maradona những năm 60, một thiên tài. Anh ấy là một người hướng ngoại và rất quân tử". Sau khi giải nghệ Sívori giải nghệ cầu thủ năm 1969. Tuy trở lại quê hương Argentina khi đã giàu có, tình yêu bóng đá của Sívori vẫn nguyên vẹn, và ông tiếp tục gắn bó với bóng đá với vai trò huấn luyện viên. Ông lần lượt huấn luyện các câu lạc bộ Argentina: River Plate, Rosario Central, Estudiantes de La Plata, Racing Club và Vélez Sársfield. Từ 1972 đến 1974, Sívori dẫn dắt đội tuyển Argentina. Ông giúp đội bóng vượt qua vòng loại World Cup 1974. Sívori là người đã gọi Ubaldo Fillol vào đội tuyển quốc gia. Về sau Fillol trở thành ột trong những thủ môn xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá Argentina. Sau khi thôi dẫn dắt Argentina, Sívori làm người phát hiện cầu thủ ở Nam Mỹ cho câu lạc bộ Juventus. Tháng 3 năm 2004, ông được Pelé chọn vào danh sách 125 cầu thủ còn sống xuất sắc nhất. Tháng 2 năm sau (2005), Sívori mất tại quê nhà San Nicolás ở tuổi 69 vì ung thư tuyến tuỵ. Thành tích 2 chức vô địch Argentina: 1955, 1956 3 Scudetto: 1958, 1960, 1961 2 Cúp nước Ý: 1959, 1960 2 Copa America (với Argentina): 1955, 1957 Vua phá lưới Serie A: 1960 Quả bóng vàng châu Âu: 1961
Mambo (còn có tên khác là Mambo Open Source hoặc MOS) là một hệ quản trị nội dung mã nguồn mở cho phép tạo và quản lý các website thông qua một giao diện web đơn giản. Nó cuốn hút được nhiều người dùng nhờ khả năng dễ dàng sử dụng. Mambo cũng bao gồm những đặc tính tiên tiến như kỹ thuật chuyển đổi giao diện, và kỹ thuật API mạnh mẽ, nó cũng tự động hóa nhiều tác vụ như lập chỉ mục, cung cấp RSS feed, phiên bản dành cho in ấn, tin nhanh, blog, diễn đàn, bình chọn, lịch biểu, tìm kiếm, hỗ trợ đa ngôn ngữ và những khả năng khác. Mambo được phát hành theo giấy phép GPL Mambo và Joomla Ngày 17 tháng 8 năm 2005, do bất đồng về quan điểm, toàn bộ 20 thành viên của nhóm phát triển nòng cốt đã rời khỏi dự án và thành lập một nhánh mới của Mambo và lấy tên là Joomla. Tuy nhiên với sự hỗ trợ của Quỹ tài trợ Mambo (Mambo Foundation) Mambo vẫn tiếp tục phát triển và duy trì cho đến năm 2013. Đóng cửa Đến cuối năm 2014, hầu hết các website của dự án đã đóng cửa và không còn hoạt động. Bản phát hành cuối cùng của Mambo được lưu trữ tại Sourceforge là ngày 16/04/2013 Về Mambo Foundation Mambo Foundation là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập vào tháng 8 năm 2005. Mục đích của tổ chức này là hỗ trợ và bảo vệ sự phát triển của hệ thống phần mềm Mambo. Tổ chức này có mô hình giống như Eclipse Foundation và GNOME Foundation. Giải thưởng Tháng 3 năm 2006, Giải pháp phần mềm mã nguồn mở tốt nhất tại triển lãm LinuxWorld ở Úc. Năm 2005, Giải pháp phần mềm mã nguồn mở tốt nhất tại triển lãm LinuxWorld ở Boston và San Francisco
Joshua Abraham Norton (tự xưng là Hoàng đế Norton I; khoảng 1815 – 8 tháng 1 năm 1880) là người dân nổi tiếng của San Francisco, đã tuyên bố vào năm 1859 rằng ông là "Hoàng đế Hoa Kỳ" và về sau là "Quan nhiếp chính México" năm 1859. Được sinh ở Luân Đôn (Anh), Norton qua phần lớn tuổi trẻ ở Cộng hòa Nam Phi; ông di cư qua San Francisco năm 1849 sau khi nhận $40.000 từ di sản của bố. Norton mới đầu kiếm sống làm nhà kinh doanh, nhưng ông mất cả tiền khi đầu tư vào lúa Peru. Sau khi thua vụ kiện được Norton mở để làm cho hợp đồng lúa mất hiệu lực, Norton bỏ San Francisco. Ông trở lại vài năm sau với diện mạo kỳ cục và hình như là điên, tự xưng là hoàng đế Hoa Kỳ. Tuy không có một quyền lực chính trị nào và chỉ ảnh hưởng trong phạm vi những người xung quanh, ông rất được tôn kính tại San Francisco, và những tiệm mà ông hay tới cũng nhận tiền có tên ông. Norton gửi thư cho Nữ hoàng Victoria, và ông được người dân địa phương cũng như các bài báo đăng tin cái chết của ông gọi là Tâu Hoàng đế. Tuy bị coi là người điên, hoặc ít nhất là người rất lập dị, dân San Francisco ca ngợi sự hiện diện, tính hài hước, và những kỳ công của ông – một trong những kỳ công nổi tiếng nhất là "lệnh" đòi giải tán bằng vũ lực đối với Quốc hội Hoa Kỳ (Quốc hội và Quân đội Hoa Kỳ bỏ qua lệnh này), và cũng nổi tiếng về nhiều sắc lệnh (có người cho là tiên tri) kêu gọi đòi xây cầu băng qua và đường hầm dưới vịnh San Francisco. Ngày 8 tháng 1 năm 1880, Norton ngã tại gốc đường và chết trước khi cứu thương có thể tới ông. Ngày sau, gần 30.000 người ra đường San Francisco để tôn kính Norton. Norton sống mãi do những nhà văn như Mark Twain và Robert Louis Stevenson; chẳng hạn Mark Twain cũng từng ở San Francisco trong thời Hoàng đế Norton, và nhân vật Vua trong Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn được cho là phỏng theo Norton. Tháng 12 năm 2004, chính quyền San Francisco thông qua một nghị quyết để đặt tên Cầu San Francisco-Vịnh Oakland theo Norton, nhưng ý niệm này không được tiến hành tiếp. Chú thích Văn học dân gian Mỹ Thuyết bất hòa Hội viên Tam điểm Mỹ San Francisco Người California Người Luân Đôn Người Nam Phi Văn hóa dân gian Mỹ Người San Francisco Sinh thập niên 1810 Mất năm 1880 Lịch sử San Francisco
nhỏ|313x313px|Thánh chỉ Thánh (chữ Hán: 聖) là từ ngữ thể hiện sự thiêng liêng, cao cả, tôn kính, thường dùng để miêu tả phẩm chất của các vị thần thánh, thiên sứ, tiên nhân hoặc các thánh nhân. Ngoài ra Thánh có thể đề cập tới: Wali, Thánh nhân trong Hồi giáo. Thánh vương có hai nghĩa đó là danh xưng chỉ quân chủ và trong tôn giáo. Bậc đã đạt được một phần giải thoát trong Phật giáo (xem tam thừa). Những người tử vì đạo được phong Thánh. Trong văn học cổ và trong giới Nho học, danh xưng tôn kính Khổng Tử (Đức Thánh Khổng) và những người đức cao vọng trọng như thánh hiền. Nhân vật lịch sử được tôn làm Thánh nhân. Ví dụ: Thánh Gióng, Đức Thánh Trần, Đức Thánh Nguyễn, Thánh Tam Giang, Võ Thánh Quan Công... Để gọi người đáng kính trọng như "Thánh Gandhi" Thánh sư (Tiên sư hay Nghệ sư) tức là ông Tổ một nghề, người đã truyền dạy nghề đó cho đời sau. Người có học thức hoặc tài nghệ đã đạt tới mức cao thâm, như là "thi thánh Đỗ Phủ". Diễn Thánh Công là tước vị phong cho con cháu Đức Khổng Tử. Dùng để tôn xưng thụy hiệu, miếu hiệu các nhân vật thời quân chủ: Thánh Tổ, Thánh Thần Đế, Đại Thánh Đế, Thánh đế, Thánh Văn Đế, Thánh Tông, Thánh hoàng hậu, Thánh công, Văn Thánh vương. Thánh cung có 2 nghĩa là nơi thờ vị Thánh hoặc chỉ Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu Những từ cổ liên quan đến vua thời quân chủ như: Thánh Chỉ, Thánh Dụ, Thánh Huấn, Thánh Thượng, Thánh Tài, Thánh minh, Thánh Ân, Thánh Mệnh, Thánh Nộ, Thánh Lệnh, Thánh triều. Những từ Thánh gắn liền tôn giáo và tín ngưỡng như Thánh sống, Thánh phả, Thánh Giáo (Thánh đạo), Thánh nhập, Thánh pháp, Thánh thai, Thánh đức, Thánh Chiến, Thánh Triết, Thánh đề, Thánh hiến, Thánh tính, Thánh giả, Thánh khiết, Thánh đường, Thánh cảnh, Thánh hóa, Thánh cha, Thánh hữu, Thánh Nhan, nước Thánh, đất Thánh, kiếm Thánh, dầu Thánh, dấu Thánh... Kitô giáo: Thánh giá, Thánh quan thầy, Thánh Thể, Thánh ý, Thánh thư, Thánh Vịnh, Thánh luật, Thánh Công Hội (Anh giáo), Thánh ca, Thánh kinh, Thánh truyền, Thánh lễ, Thánh tâm, Thánh Gia, Thánh mẫu học, Thánh nữ, Thánh thần, Tòa Thánh, Tên thánh, Tiệc Thánh, Tiến sĩ Hội Thánh, chén Thánh, Nước thánh, Thánh đản, Thánh giới, Thánh đàng, Thánh tịnh. Phật giáo: Thánh Tích (Thánh Điển), Thánh tăng, Thánh hạnh Cao Đài: Thánh một bậc trong Ngũ chi Đại Đạo. Danh xưng thánh trong tôn giáo và tín ngưỡng: Thánh Mẫu (Thánh bà), Thánh ông (Thánh Hoàng), Thánh Chúng, Thánh Cậu, Thánh Thông Công, Thánh chầu. Thánh Chúa danh hiệu của một người hoặc tên một ngôi chùa. Thánh Bản mệnh là vị thần đứng đầu trong tín ngưỡng thờ mẫu. Các bậc Thánh như: Tiểu Thánh, Trung Thánh (Á Thánh), Đại Thánh. Công trình tôn giáo như: Đại Thánh đường Hồi giáo, Vương cung thánh đường, Thánh thất, Thánh đường Hồi giáo. Các từ ghép liên quan đến Thánh như: diện Thánh, văn Thánh, Cầm Thánh. Thánh địa (Thánh điện) dùng để gọi những địa điểm thiêng liêng gồm có Mỹ Sơn, Mecca, Thánh Mẫu địa khu... Thánh Thiên: gồm 2 nghĩa là Thánh Thiên tên một người phụ nữ trong lịch sử Việt Nam và Thánh Thiên trong Phật giáo. Thánh chế La Mã Các từ khác như: Thánh thiện, Thánh tướng, kỳ thánh. Tác phẩm như: Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thánh Tông di thảo. Từ Thánh còn xuất hiện trong danh hiệu như: Dòng Mến Thánh Giá, Hiệp sỹ dòng Thánh, Chân Thánh nữ vương. Một vài từ khác có chữ thánh: Hoành thánh, Đền Quán Thánh, Phố Quán Thánh, Thánh liễu
D-Generation X (được biết như DX) là một cặp đô vật hoạt động ở RAW và được coi là một trong những nhóm nổi tiếng nhất trong lịch sử đô vật chuyên nghiệp. DX chính thức được thành lập năm 1997 đến 2002. Tháng 6, 2006, DX hoạt động trở lại và hiện nay có hai thành viên gồm Triple H và Shawn Michaels. Thành viên hiện nay: Shawn Michaels, triple H. Thành viên cũ: Chyna, Rick Rude, Billy Gunn, Road Dogg, X-Pac, Tori. Những thành viên khác: Jim Neidhart, Harvey Wippleman, Mike Tyson, Jason Sensation, Mankind (Mick Foley), Kane, Stephanie McMahon. D-Generation X được thành lập năm 1997. Khi đó WWE Monday night RAW vẫn còn là WWE RAW IS WAR. DX giải thể đầu năm 2007 sau khi Triple H bị chấn thương, đến tháng 11 năm 2007 DX đã hoạt động lại như cũ sau trận đấu tag team với Randy Orton và Umaga. DX hiện giờ gần như đã ngưng hoạt động khi lần gần nhất D-Generation xuất hiện là trước giải No Mercy 2008 khi đánh cặp Chirs Jericho và Lande Cade. Kế hoạch lập lại nhóm từng lừng lẫy một thời (2009) Tuy nhóm đã bị tan rã vào năm 2008, quan trọng hơn Shawn Michael đã nghỉ hưu lo gia đình năm 2009 nhưng Triple H đã tìm Shawn và đã thuyết anh trở lại nhóm. Shawn đồng ý với Triple H và nhóm D-Generation-X sẽ trở lại để chống lại nhóm Legacy tại Summer Slam 2009.DX bây giờ đang giữ đai tag team. Vf có 1 thành viên mới là honswollge.DX đã chấp nhận người lùn này sau khi Hons đã một mình đánh tag team Jeri-Show vào đêm noel. Hiện tại nhóm đã tan rã khi Shawn Michaels quyết định rời nhóm.
Carlos (Carly) Colón, Jr. (thường được gọi Carlito; sinh ngày 21 tháng 2 năm 1979) là một đô vật chuyên nghiệp Mỹ, gốc người Puerto Rico. Trong đô vật Finishing moves Back Cracker[2] / Back Stabber[3] (Double knee backbreaker)[2] Figure four leglock[2] – OVW; used as a regular move in WWE Inverted facelock spun out into a DDT – 2005–2006 Overdrive[2] – 2004 Carlito executing a dropkick against "EZE" Eric Cairnie Signature moves Backflip off the top rope over a standing opponent, sometimes while springboarding[98] Dropkick,[99] sometimes from the top rope[100] or while springboarding[101] Fireman's carry flapjack[102] Flowing DDT[2] Hurricanrana[103] Japanese arm drag[98] Lifting reverse STO[104] Monkey flip[105] Running knee lift followed by a running clothesline[99] Snap swinging neckbreaker Springboard back elbow[99] Springboard moonsault,[99] sometimes while performing a double jump[106] Springboard senton bomb,[107] sometimes while performing a double springboard[108][109] Sitout spinebuster[110] Spitting apple pieces into an opponent's face[111] Managers Trish Stratus Torrie Wilson The Bella Twins Brie Bella Rosa Mendes Nicknames "The Caribbean Bad Apple" Entrance themes "El que lo hereda no lo hurta" by Los Hijos de los Celebres & Apollo Sound (1999-2003; WWC) "Tony's Theme" by Giorgio Moroder (2004; WWC) "Cool" by Jim Johnston (2004–nay; WWE/WWC) "Burn It To The Ground" by Nickelback (2010; LLUSA) Các chức vô địch và danh hiệu Family Wrestling Entertainment FWE Heavyweight Championship (1 time) First Wrestling Society 1WS World Heavyweight Championship (1 time, current)[112] Funking Conservatory FC Television Championship (1 time)[113] Magnum Pro Wrestling Magnum Heavyweight Championship (1 time)[114] Millennium Wrestling Federation MWF Undisputed Championship (1 time, Current) Pro Wrestling Illustrated PWI ranked him #27 of the 500 best singles wrestlers of the year in the PWI 500 in 2006[115] Puerto Rico Wrestling Tag Team of the Year (2008) - with Primo[116] Wrestling Alliance Revolution WAR World Heavyweight Championship (1 time) World Wrestling Council WWC Puerto Rico Heavyweight Championship (1 time) WWC Universal Heavyweight Championship (15 times)[5] WWC World Tag Team Championship (2 times) – with Eddie Colón (1) and Konnan (1)[117] World Wrestling Entertainment World Tag Team Championship (1 time) – with Primo[118] WWE Intercontinental Championship (1 time)[119] WWE Tag Team Championship (1 time) – with Primo[120] WWE United States Championship (1 time)
Randall Keith "Randy" Orton (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1980) là một đô vật chuyên nghiệp,diễn viên người Mỹ đã bắt tay làm việc với WWE từ năm 2001. Anh hiện đang thi đấu cho thương hiệu Raw dưới cái tên Randy Orton, nơi anh là cựu WWE Champion. Orton là một đô vật chuyên nghiệp thế hệ thứ ba; ông nội của anh Bob Orton, Sr., và cha của anh "Cowboy" Bob Orton,cũng như chú của anh Barry Orton đã cạnh tranh trong kinh doanh đấu vật chuyên nghiệp.Trước khi được thăng chức World chính Wrestling Federation (WWF, tại WWE) danh sách này, Orton đào tạo và thi đấu cho Hội nghị trung tâm-Missouri Wrestling Association-Southern Illinois Wrestling trong một tháng. Anh sau đó đã được gửi tới Ohio Valley Wrestling (OVW), nơi anh đã tổ chức giải vô địch OVW Hardcore hai lần. Orton đã trở thành một thành viên của Evolution ổn định ngay sau khi ra mắt WWE của mình, sau đó nhanh chóng vô địch Intercontinental Championship, danh hiệu đầu tiên của mình với công ty.Anh cũng đã mua lại biệt danh "The Legend Killer" trong một cốt truyện nơi anh bắt đầu coi thường và sau đó đấm đá vào WWE Hall of Famer và các cựu chiến binh đấu vật [2]. ở tuổi 24, anh đã trở thành người trẻ tuổi nhất từng giữ đai World Heavyweight Championship. Với chiến thắng này, anh rời Evolution và một mối thù cũ của mình với stablemates chính thức bắt đầu. Trong năm 2006, Orton đã gia nhập lực lượng với Edge trong một tag team gọi là Rated-RKO. Cùng nhau, họ đã tổ chức World Tag Team Championship. Sau khi Rated-RKO giải tán vào giữa năm 2007, Orton đã đạt được hai WWE Championship ngự trị trong một đêm. Anh đã thành lập nhóm The Legacy với Cody Rhodes và Ted DiBiase trong năm 2008. Nó đã tan rã vào năm 2010 và Orton trở lại thi đấu đơn.Từ năm 2013 đến năm 2015,Orton đã được liên kết với Cơ quan, người gọi ông là "bộ mặt của WWE". Nhìn chung, anh đã giành được tổng số 14 giải vô địch WWE. Anh cũng là người chiến thắng trong các trận Royal Rumble 2009 và 2017 và đã được quảng cáo rầm rộ nhiều sự kiện pay-per-view cho tổ chức,bao gồm Wrestlemania XXV và XXX. Thời trẻ Orton sinh ngày 1 tháng 4 năm 1980, tại Knoxville, Tennessee. Con trai của Elaine và "Cowboy" Bob Orton, anh có hai anh chị em ruột-Becky và Nathan. Hiểu biết từ kinh nghiệm gian khổ của cuộc sống một đô vật chuyên nghiệp, cha mẹ anh đã cố gắng thuyết phục anh ở lại kinh doanh, và cha của anh đã cảnh báo anh rằng cuộc sống trên võ đài có nghĩa là một cuộc sống trên đường, xa gia đình. Orton tham dự Hazelwood Central High School, nơi anh là một đô vật nghiệp dư. Sau khi tốt nghiệp Hazelwood vào năm 1998, Orton nhập ngũ với Hoa Kỳ Thủy quân Lục chiến. Ở đó, anh đã nhận được một tiến hành xả xấu một năm sau đó sau khi đi AWOL hai lần riêng biệt và không tuân theo lệnh từ một sĩ quan chỉ huy. Theo luật thống nhất của Tư pháp quân sự, Orton đã bị kết án bởi một tòa án đặc biệt - và được đưa vào một nhà tù quân sự cho ba mươi tám ngày bị giam giữ. Sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp Đào tạo Orton ra mắt vào năm 2000 tại Mid-Missouri Wrestling Association-Southern Illinois Conference Wrestling (MMWA-SICW) tại St Louis, Missouri, Sam Muchnick. Ở đó, anh được đào tạo bởi chương trình khuyến mãi và cả cha của anh, "Cowboy" Bob Orton. Anh đã vật lộn để thúc đẩy cho một tháng, thực hiện với đô vật Ace Strange và Mark Bland. Orton cũng là trọng tài một vài trận đấu với World Organized Wrestling, nơi chú của anh Barry Orton làm việc. Trong năm 2001, Orton đã ký một thỏa thuận với World Wrestling Entertainment (WWE) và được gửi đến Ohio Valley Wrestling (OVW) ở Louisville, Kentucky, nơi anh tiếp tục đào tạo mình. Trong thời gian ở OVW, Orton thích kiểu đấu vật của Rico và The Prototype và hợp tác với Bobby Eaton trong trận tag team Tournament. Anh giành OVW Hardcore Championship hai lần riêng biệt bằng cách đánh bại Mr.Black ngày 14 Tháng 2 năm 2001, và Flash Flanagan ngày 05 Tháng Năm 2001. World Wrestling Entertainment Evolution (2002 - 2005) Trận đấu đầu tiên của Orton trên truyền hình WWE là trận đấu chống lại Hardcore Holly tại SmackDown! vào ngày 25 Tháng Tư năm 2002. Ngay sau đó, Orton đã trở thành một đô vật yêu thích của fan hâm mộ và được đặt trong một loạt các trận đấu với Holly. Trong tháng 9 năm 2002, Orton đã được chuyển đến Raw, nơi anh đã đánh bại Stevie Richards trong trận đầu tại Raw. Trong tuần đầu tiên của mình tại Raw, Orton phải chịu một chấn thương vai, nên anh phải ngồi ngoài nhiều tháng. Trong khi hồi phục, Orton vẫn xuất hiện trên Raw trong chương trình của riêng anh: Randy News Network, anh nói về tình trạng của anh. Việc hiển thị các phân đoạn khác bị gián đoạn Raw, để Orton từ từ chuyển mình thành một nhân vật trung tâm và là nhân vật phản diện. Sau khi chữa lành chấn thương, Orton tham gia Evolution, trong đó bao gồm Ric Flair, Triple H, và thân nhân mới, Dave Batista. Nhóm này đã được chuyển về Raw năm 2003-2004,Anh đã tham dự trận tranh đai World Heavyweight Champions elimination chamber match, chủ yếu là để bảo vệ cái đai của Triple H và bị loại bởi Goldberg Sau đó, anh tự xưng là "Legend Killer", một tài năng trẻ, người rất tài năng mà anh cho mình là tương lai của đấu vật chuyên nghiệp. Anh bắt tay vào mối hận thù với nhiều đô vật "huyền thoại" và đã đạt được ô danh là trở thành Heel. Với sự giúp đỡ của người thầy của mình và Ric Flair, anh đánh bại Shawn Michaels tại Unforgiven trong nhiều trận đấu được quảng cáo là "Legend so với Legend Killer". Orton sau đó nhổ vào mặt của Harley Race vào ngày 26 tháng 4 năm 2004 tại Raw. Trong thời gian này, Orton bắt đầu sử dụng những di chuyển mà có thể trở thành các chiêu kết thúc của anh, RKO. Tại Survivor Series, Team Bischoff do Orton đứng đầu đánh bại team Austin dưới sự chỉ huy của Shawn Michaels với sự giúp đỡ của Batista. Trong trận đấu đó, anh đã loại Rob Van Dam. Tại Armageddon 2003, anh đánh bại RVD để trở thành tân vô địch Liên lục địa(Intercontinental Champions). Anh nắm giữ danh hiệu trong bảy tháng. Orton tiếp tục thiết lập mình như là một "Legend Killer" trong suốt năm 2004, thách thức đô vật bán nghỉ hưu Mick Foley. Mick Foley(tên năm 2004 là Cactus Jack) nổi tiếng với nhiều trận đấu hardcore match và khả năng xử lý đau đớn. Tại WrestleMania 20, Evolution đánh bại Foley và Rock.Sau đó, Orton thách đấu Foley trong trận Hardcore Foley sẽ đặt trận này là "Legend so với Legend Killer" nếu Orton chịu đặt Intercontinental Championship của anh ra trận đấu này. Backlash, trong một trận đấu đẫm máu có sử dụng đinh bấm và dây thép gai, Orton đánh bại Foley. Trong tháng bảy, tại Vengeance, Edge đã đánh bại Orton để giành chiến thắng trong giải vô địch Intercontinental Champion, kết thúc bảy tháng cầm đai của Orton. Sau khi mất chức vô địch Intercontinental Champion, Orton đã trở thành #1 contender cho World Heavyweight Championship vào ngày 26 tháng 7. Tại SummerSlam, Orton đã đánh bại Chris Benoit cho chức vô địch. Orton trở thành người trẻ nhất từng nắm giữ danh hiệu cao nhất trong lịch sử WWE ở tuổi 24. Benoit chúc mừng Orton sau trận đấu, lắc tay cho thấy anh đã "trở thành đàn ông" thực sự. Đêm sau, Evolution mời Orton tham gia một lễ kỷ niệm giả, chỉ để lộ ra rằng họ không hài lòng với chiến thắng mới của anh. Trong khi Batista đã cho Orton tựa trên vai của mình trong sự phấn khởi, Triple H đưa ngón tay cái lên và sau đó đột ngột thay đổi nó xuống, Batista thả rơi Orton xuống sàn. Ric Flair và Batista tấn công Orton trên sàn như cho thấy Triple H thấy ghen tị cho danh hiệu mới của Orton. Triple H ra lệnh cho Orton bàn giao chức vô địch, nhưng anh từ chối, khạc nhổ vào mặt của Triple H và đánh anh ta với chiếc đai vô địch. Orton rời Evolution và đã bắt đầu một cốt truyện mới cho thấy anh ta là một đô vật yêu thích của đám đông khi anh vẫn tiếp tục mối thù với nhóm cũ của mình. Một tháng sau, Orton đã mất chức vô địch của mình tại Unforgiven. Tìm kiếm trả thù, Orton đánh các thành viên Evolution, bắt họ trong thời gian quảng cáo giữa show diễn bằng cách cho họ một chiếc bánh lớn làm cho món quà vào mặt, sau đó anh ra khỏi phòng chờ để đánh đập và nhục mạ nhóm. Sau đó, Orton trở thành Tổng Quản lý(Genegal Manager) của thương hiệu Raw để một tuần sau sắp trận đấu ở Survivor Series. Anh tiếp tục mối thù với Triple H, bằng cách sử dụng quyền lực của mình để đặt các đối thủ của mình vào thế bất lợi nghiêm trọng. Orton đã được cấp một cơ hội khác tại giải vô địch trong tháng 1 năm 2005, nhưng bị thua trong trận six-man Elimination Chamber với Triple H ở New year's Revolution. Ngày 10 tháng 1 của Raw, Orton đánh bại Batista để kiếm được một trận gặp Triple H tại Royal Rumble cho danh hiệu Wolrd Heavyweight Championship. Tại Royal Rumble, Triple H đã đánh bại Orton để giữ lại đai vô địch thế giới. Cạnh tranh đấu đơn (2005-2006) Orton đã bắt đầu một mối quan hệ trên màn hình với Stacy Keibler và một thời gian ngắn có thù với Christian trong tháng 2 năm 2005. Ngày 28 tháng 2 tại Raw, "Superstar" Billy Graham đã xuất hiện, trong đó ông khuyên Orton để "hãy đi nơi không có đô vật trước ". Orton sau đó sản xuất một bản sao của tạp chí SmackDown! trong đó có đặc trưng The Undertaker trên trang bìa. Nghe lời khuyên của Graham, Orton tuyên bố rằng anh sẽ đặt mình ngoài việc tất cả các đô vật khác bằng cách kết thúc kỉ lục bất khả chiến bại của Undertaker tại WrestleMania. Trong suốt tháng 3 năm 2005, Orton chế giễu The Undertaker, tuyên bố anh không sợ The Undertaker. 21 tháng 3 của Raw, Orton trở thành nhân vật phản diện một lần nữa sau khi anh ra đòn RKO của mình trên bạn gái, Stacy Keibler, khiến cô bất tỉnh. Orton quảng cáo, anh ngay lập tức sẽ chạy khòi võ đài khi có dấu hiệu của Undertaker xuất hiện gần đó(có sét, bóng tối, hoặc khói). Khi huyền thoại đô vật Jake Roberts khuyên Orton không đánh giá thấp The Undertaker, Orton thực hiện một RKO ngay trên Roberts. Trong những tuần dẫn đến WrestleMania, Orton đã thách thức nhiều hơn với The Undertaker, hành hung anh ta trên võ đài cùng cha mình, "Cowboy" Bob Orton. Tại WrestleMania 21 Orton không thành công, khi anh bị thua mặc dù cha anh đã có sự can thiệp. The Legacy và chia rẽ Ngày 11 Tháng 1 năm 2010 tại Raw, Orton đã giành một trận đấu Triple Threat Match, với sự giúp đỡ của Cody Rhodes và Ted DiBiase, thách thức Sheamus tại Royal Rumble cho Giải vô địch WWE. Tại Royal Rumble, Orton thất bại để giành chức vô địch khi Rhodes can thiệp, gây ra một nguyên nhân. Sau trận đấu, Orton tấn công Rhodes và DiBiase. Vào ngày 15 Tháng 2 tại Raw, Orton đã một lần nữa bị loại trong một rematch sau khi Rhodes và DiBiase can thiệp. Orton và DiBiase cùng cạnh tranh trong giải vô địch WWE Eliminatiom Chamber pay-per-view, và DiBiase loại bỏ Orton sau khi đánh anh bằng một ống mà Rhodes đã truyền cho anh ta. Các đêm tiếp theo trên Raw, trong six-man tag team match, Orton tấn công Rhodes và DiBiase để trả thù. Tại WrestleMania XXVI, Orton đánh bại Rhodes và DiBiase trong trận đấu Triple Threat. Quay trở lại đấu đơn (2010 đến nay) 2010 Sau khi rời Legacy, Orton phải đối mặt với Jack Swagger cho danh hiệu vô địch thế giới tại Extreme Rules trong tháng tư, tuy nhiên, anh đã không thành công trong việc đánh bại Swagger. Sau khi bị spear bởi Edge mà kết quả Orton mất đi #1 contender cho trận đấu giành WWE Championship vào ngày 26 tháng 4 tại Raw, anh phải đối mặt với Edge tại Over the limit pay-per-view, mặc dù Orton đã bỏ vai phải của mình xuống nhưng trận đấu kết thúc với một double countout. Tại Fatal 4-Way trong tháng sáu, Orton thi đấu trong trận đấu Fatal 4-way cho chức vô địch WWE với John Cena, Sheamus và Edge, nhưng đã thua trận. Tại Money in the bank ppv, anh cũng thất bại khi để The Miz chiến thắng trong trận Raw Money in the bank ladder match. Sau đó, Orton tiếp tục cạnh tranh với Sheamus cho chức vô địch WWE tại SummerSlam ngày 15/8/2010, anh và Sheamus đã đấu ngang sức với nhau, nhưng rốt cuộc, gần về cuối trận, Sheamus đã chơi xấu dùng ghế định tấn công Randy và trọng tài đã cho trận đấu dừng lại, Sheamus vẫn tiếp tục được giữ đai. Dù trận đấu đã kết thúc nhưng Sheamus vẫn tấn công Randy bằng chiếc ghế trước đó, nhưng Randy đã né được và chơi xấu lại Sheamus, chưa thỏa mãn Randy đã tung ra chiêu RKO về phía Sheamus trên bàn bình luận viên. Tại Night of Champions ngày 19/9/2010, Orton đã lần thứ 10 vô địch WWE Champion khi đánh bại John Cena, Wade Barrett, Edge, Chris Jericho và Sheamus trong trận Six-Pack Elimination Challenge Match. Sau đó, randy orton chuyển sang thù địch Sheamus, tại hell in a cell, orton đã có 1 chiến thắng ko thể thuyết phục hơn trước Sheamus. Tại show RAW, song song voi việc Orton bảo vệ đai thành công thì John Cena vì thua Wade Barrett nên đã trở thành 1 thành viên của The Nexus, Cena đã giúp Barrett trở thành #1 contender và sẽ giành đai vs orton tại WWE Bragging Rights. Tại Bragging Rights, Barrett nói nếu hắn thua trận này, Cena sẽ bị sa thải. Do đó Cena đã Professional wretling throws trên Barrett để giúp hắn thắng bởi disqualification, như vậy theo luật đấu vật thì Orton dù thua vẫn giữ dc đai. Tại show RAW tiếp theo, Cena đã thắng Orton nhờ disqualification, nên Barrett chọn Cena làm trọng tài cho trận tranh đai giữa hắn vs orton. Và nếu hắn không có được WWE title ở WWE Survivor Series, Cena sẽ bị sa thải. Ở trận đấu gặp The Miz, vừa bước ra ring thì Randy đã bị hội đồng bởi The Nexus và bị thương ở chân. The Miz và Alex Riley bước ra cùng vali Money In The Bank, The Miz đã cash in Randy Orton. Khi Randy định làm RKO The Miz thì bị Miz làm Skull Crusin'-Finale (Double underhook facebuster) và The Miz trở thành WWE Champion. Và vào WWE TLC Randy đã có trận đấu với The Miz để tranh chức vô địch WWE Championship trong Tables match (Nếu ai bị hạ trên bàn thì thua). Và trong trận đấu đó Randy đã dùng chiêu RKO lên Alex Riley trên bàn. Sau đó The Miz lên sàn đấu hạ gục Orton nhưng không phải trên bàn. Nhưng Miz đã đặt Orton lên cái bàn đã bị gãy. Rồi Miz nói với trọng tài rằng Randy đã bị hạ trên bàn nhưng trọng tài không công nhận. Miz phải tái đấu với Orton ngay và Miz đã giàng chiến thắng khi Orton bị rơi xuống bàn để bên ngoài sàn đấu. 2011 Đầu năm 2011, anh có mối thù với CM Punk khi Punk và The New Nexus ngăn cản chiến thắng của anh trước The Miz tại WWE Royal Rumble trong trận đấu tranh đai WWE Champion. Sau đó, Orton quyết loại Punk tại trận Raw Elimination Chamber. Nhưng cuối cùng kế hoạch không thành công. Tại WrestleMania XXVII anh đã đấu với CM punk - thủ lĩnh của The New Nexus, và đã chiến thắng bằng chiêu RKO (các thành viên còn lại trong Nexus đều bị Orton tấn công bằng chiêu Punt kick trước khi sự kiện WrestleMania diễn ra). Gần đây, tại WWE Draft, anh được chọn sang WWE Smack Down. Tại WWE Extreme Rules, anh đã đánh bại CM Punk ở trận Last Man Standing,bằng cách tung ra 3 đòn RKO. Smackdown,anh đã được Teddy Long chọn làm #1 Contender cho chức vô địch World Heavyweight Championship và anh đã đánh bại Christian để lấy đai WHC lần thứ 2. Tại Over The Limit, anh đánh bại Christian để bảo vệ chiếc đai vô địch và Christian với Randy đã bắt tay làm hòa. Nhưng rồi trong trận đấu với Sheamus mà Christian làm trọng tài, khi đưa đai cho anh, Christian đã đánh vào đầu Randy bằng chiếc đai trước sự bất ngờ của vô số khán giả. Đó được coi như 1 lời thách thức và Randy đã chấp nhận. Tại WWE Capitol Punishment anh đã đánh bại Christian để bảo vệ chiếc đai này. Sắp tới tại WWE Money In The Bank, Orton sẽ có 1 trận tái đấu với Christian để tranh đai WHC (nếu anh thắng do disqualification hoặc trọng tài một lần nữa xử sai, anh sẽ mất chiếc đai vô địch).Và tại PPV Money in the bank anh đã đá vào chỗ hiểm của Christian và anh thua vì phạm luật. Tức giận, anh đã RKO Christian 2 lần trên bàn bình luận viên. Triple H đã tạo ra cơ hội thứ hai của anh để lấy lại World Heavyweight Champion từ Christian tại WWE Summerslam.Ngay sau đó tại Night of Champion Randy Orton đã bị Mark Henry hạ gục và bị mất đai World Heavyweight Champion. Sau đó, Randy đã có 1 trận tái đấu với Mark Henry tại Hell in a cell, nhưng anh đã không thành công do bị defeat bới 2 world strongest slam. Tuy nhiên, sau đó Henry lấy ghế kẹp vào chân Randy, lại tính chơi skill nhảy xuống như đã làm với Big Show và Kane, thì anh đã né được, và dùng ghế tấn công lại, Mark Henry chạy thục mạng, sau đó đạp được vào bụng Randy một cái rồi chạy vào hậu trường.. Một tuần sau Smackdown Orton đã nhận được một shot chống lại Henry sau khi giành chiến thắng 41 người đàn ông trận chiến hoàng gia, and đã thành công trong chiến thắng trong trận đấu 41.Nhưng trận đấu đả bị ngưng lại khi có sự can thiệp Cody Rhodes. Anh đã đánh bại Rhodes tại Vengeance, và tập 4 tháng 11 Smackdown trong một trận Street Fight. Orton sẽ tái khơi dậy mối thù với Wade Barrett sau khi cả hai siêu sao được đặt tên là trưởng nhóm cho một 5 ngày 5 Series Survivor loại bỏ trận đấu. Vào ngày 11 tháng 11 của Smackdown, Orton đã đánh bại của Barrett trong một trận đấu đơn, tuy nhiên trong tập 14 tháng 11 của RAW, Orton đã thắng trong trận tái đấu của truất quyền thi đấu. Nhóm của anh đã bị đánh bại tại Survivor Series (2011) với Wade Barrett và Cody Rhodes là những người sống sót duy nhất. Đêm sau trên RAW, Orton tiếp tục mối thù với Barrett khi Orton phân tâm Wade trong trận đấu với Kofi Kingston. Một vài tuần sau, Orton và Barrett tiếp tục mối thù của họ Smackdown khi cả hai thi đấu trong một thời gian để đánh bại thách thức. Người chiến thắng để lựa chọn nếu họ muốn sử dụng bàn, thang hoặc ghế tại TLC. Cả hai Barrett và Orton đã giành được trận đấu của họ, tuy nhiên Orton đã hoàn thành 2 giây trước đó và giành được trận đấu sau khi ông thực hiện RKO Dolph Ziggler. Orton sau đó vào một cuộc chiến với Barrett sau khi anh đã giành được, và Orton ném Ziggler vào một bàn báo hiệu rằng anh đã chọn trận đấu của họ là Table match. Anh đã đánh bại Barrett tại TLC, 1 cú RKO khi Barett nhảy từ trên xuống và té xuống bàn. Đầu 2012 đến nay Tại SmackDown!, Randy đã bị chấn thương vài tuần do bị Wade Barrett xô té cầu thang tại trận Falls count anywhere. Ngày 27 tháng 1 năm 2012 and đã quay trở lại và tấn công Wade, nhưng sau đó bị ngăn cản bởi 5 đô vật khác. Wade thoát được, Randy đã hù Wade bằng cách làm 5 cú RKO lên 5 đô vật. Ngày 3 tháng 2 tai Smack Down, anh đã đánh bại Wade Barrett tại trận No Disqualification bằng 2 đòn RKO. Ngày 19 tháng 2 năm 2012, anh được đề cử vào làm một trong 6 đô vật(Daniel Bryan, Wade Barrett, Big Show, Cody Rhodes, The Great Khali, Randy Orton) tham gia giải Elimination Chamber để giành đai World Heavyweight Championship nhưng vào ngày 13-2, trong một trận đấu với Big Show tại RAW Randy bị Daniel Bryan cầm đai World Heavyweight đập vào đầu khiến anh không thể tham gia Elimination Chamber. Sau đó Randy được thay thế bởi Santino Marella vì Santino là người chiến thắng trong một trận Wild Card Battle Royal của Smackdown!. Nhưng Santino đã không hoàn thành được nhiệm vụ khi Daniel Bryan giành chiến thắng và vẫn giữ được đai World Heavyweight Champion. Sau đó, anh quay lại và sẽ trả mối thù tại 1 trận đấu giữa anh và Daniel Bryan ở Smackdown! nhưng đã thất bại do bị Kane cắt ngang và thực hiện chokeslam. Ngay sau đó, anh đã trả thù Kane bằng cách ra 3 đòn RKO trong các show Smackdown kế tiếp (trong khi Kane đánh với R-Truth, Big Show, và 1 lần khi Kane đang leo lên ring). Randy Orton và Kane đã đụng nhau tại Wrestlemania 28. Randy đã không thua ở đòn Chokeslam thứ nhất của Kane, nhưng đòn chokeslam thứ 2 thực hiện từ trên cột đài rơi xuống, điều đó làm anh không giành được chiến thắng tại Wrestlemania 28. Tại show Smackdown sau đó, Randy Orton đã trả được thù bằng cách đánh bại Kane tại trận No Diqualifications. Mối hận thù giữa 2 người lại tiếp tục khi trong trận đấu giữa Randy Orton và Mark Henry, Kane đã xuất hiện trên màn hình lớn và cho Randy thấy Kane đã hạ gục cha của Randy - tức huyền thoại "Cowboy" Bob Orton - bên cạnh bằng 1 cây sắt tại chương trình Raw SuperShow. Và tại chương trình SmackDown sau đó, khi Kane đang nói chuyện trên sân khấu thì Randy xuất hiện trên màn hình lớn và bảo rằng không ai đụng đến gia đình của anh mà được yên và cho Kane thấy Paul Bear -cha của Kane- bị thương bên cạnh. 2 người sau đó đã có 1 trận đấu tại trận Falls Count Anywhere Match tại Extreme Rules và Randy đã hạ gục Kane bằng đòn RKO lên ghế sắt.Sau đó, anh và Sheamus đấu với Chris Jerricho và Alberto Del Rio trong trận đấu Tag Team. Cuối trận, sau khi Randy đưa đòn RKO lên Alberto, Sheamus định sử dụng đòn Brogue Kick lên Chris thì vô tình trúng Randy làm cho đội thua.Randy sau đó được xếp vào trận đấu Fatal-4 Way(đấu 4 người) để tranh đai World Heavyweight Championship gồm: Sheamus, Alberto Del Rio, Chris jericho và Randy Orton tại giải Over The Limit. Và anh đã thất bại trước chiến binh Celtic Sheamus. Sau đó anh đã bị đình chỉ thi đấu 60 ngày vì sử dụng chất cấm. Anh đã return vào ngày 30/7/2012 và đánh bại Heat Slater để đánh dấu sự quay lại của mình. Show Smackdown sau đó, mặc dù không phân thắng bại do DQ trong trận đấu với Alberto Del Rio, nhưng sau đó nhờ Sheamus, Randy đã thực hiện 1 đòn RKO lên Alberto. Năm 2013,anh giành được money in the bank và cash in thành công khi trận Daniel Bryan vs Cena kết thúc,HHH là người giúp Randy khi cho Daniel một Pedigree,từ đó,Randy gia nhập nhóm quyền lực và giữ đai khá lâu,tới Tlc,anh và Cena có trận đấu wwe champion vs world hevyweight champion,anh đã thắng khi kéo Cena từ trên thang xuống một chiếc bàn.Orton mất đai tại WM 30 trong trận đấu 3 người Daniel vs Randy vs Batista Khoảng đầu năm 2014,nhóm Evolution tái hợp và thách thức Shield,Evolution thua Sheild tại payback,và tại Show raw sau đó Seth phản trong trận Sheild với chiếc ghế trên tay,từ đó Seth được xem như con cưng của Nhóm quyền lực,khi Seth giành được Money in the bank 2014 cũng là lúc Randy không còn giữ được bình tĩnh,anh đòi một trận với Seth và đỉnh điểm là khi Randy bị HHH quay mặt và để Seth xử Randy Sau đó Randy đi return và giả vờ tuân lệnh Seth để chờ cơ hội đòi nợ,cơ hội đến,trong trận Hanicap match giữa Randy và Seth vs Reigns,anh đã mặt kệ Seth đang bị ăn hành mà chỉ đứng xem,khi trận đấu kết thúc Randy hủy diệt Seth và có màn báo thì thành công Tại WM,anh đánh bại Seth,trong đêm đó,Seth cash in thành công,vì thế nên Randy đồi một trận đấu tranh đai tại Ex,anh thua Seth trong trận steel cage và một lần nữa thua tại Payback,anh thử xức tại money in the bank nhưng để thua vào tay Sheamus,anh bắt đầu feud với anh này và có trận thắng tại Battle Round nhưng lại thua tại SummerSlam 2015,hiện chưa có bất cứ thông tin gì về việc anh có trận đấu tại Night of Champion 2015 Vào kì PPV BATTLE GROUND 2016 Randy Orton trỏ lại trong chương trình Hightlight Reel của Chis Jericho và cho anh này 1 cú RKO, và đồng thời đối thủ của anh tại kì PPV Summer Slam 2016 sẽ là Brock Lesnar Tranh cãi Trong khi tại Raw, Orton đã bị buộc tội quấy rối nhân viên WWE Amy Weber và Rochelle Loewen. Loewen, người đã gọi là Orton "đồ thú vật" tuyên bố rằng anh phá hoại tài sản của mình và bắt cô để quấy rối. Christy Hemme- thí sinh chiến thắng WWE Diva Search đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn với The Sun rằng cô ấy không tin rằng Orton sách nhiễu với Loewen Weber. Ngày 19 tháng 3 năm 2007, Sports Illustrated đăng một bài viết trên trang web như là một phần của loạt bài điều tra tiếp tục của steroid, cho rằng một số vận động viên chuyên nghiệp trong một số môn thể thao có sử dụng HGH. Đó là một số bài viết đề cập hiện tại và cựu đô vật WWE, bao gồm Orton người đã bị cáo buộc đã thu được clomiphene citrate, anastrozole và các steroid stanozolol, nandrolone, oxandrolone, và testosterone. WWE có kể từ khi thực hiện một tuyên bố về tình hình này, trước cáo buộc các chương trình Talent Wellness WWE tung ra trong tháng 2 năm 2006. Ngày 13 tháng 1 năm 2010, nó đã được báo cáo rằng một khiếu nại của cuộc tấn công đã được nộp chống lại Orton bằng đơn kiện từ một fan mười lăm tuổi tại Saugus, Massachusetts. Fan này cho rằng Orton đã nhổ kẹo cao su của anh vào mặt mình và gọi mình bằng một từ xúc phạm. Cuộc sống đời thường Trong tháng 11 năm 2005, Orton đã thông báo đính hôn cùng bạn gái Samantha Speno. Họ cưới nhau vào ngày 21 Tháng 9 2007. Trong tháng 12 năm 2007, Orton thông báo rằng anh và vợ đã mong chờ đứa con đầu tiên của họ, một con gái. Orton và vợ hoan nghênh Alanna Marie Orton vào ngày 12 tháng 7 năm 2008. Đến năm 2012, Orton sống riêng và đã li hôn với Samntha Speno vào năm 2013. Quyền được nuôi con được giao cho Speno. Tháng 7 năm 2015, anh tuyên bố đính hôn với bạn gái Kimberly Marie Kessler và đã kết hôn vào ngày 14 tháng 11 vừa rồi. Anh có một hình xăm trên cánh tay trái của mình là "Thủy quân Lục chiến" cho Hải quân Hoa Kỳ nhưng đã xăm bao phủ lên nó sau khi nhận được tiến hành xả xấu từ dịch vụ. Anh đã được gửi về nhà sau khi phục vụ ba mươi tám ngày trong nhà tù quân sự tại Camp Pendleton ở California. Orton bị thương xương đòn. Sau khi được y khoa kiểm tra, họ nói anh vỡ xương đòn của mình trong trận Last Man Standing tại One Night Stand với Triple H, Orton bị thương xương đòn của mình lại trong một tai nạn xe gắn máy. Trong đấu vật Đòn cuối RKO - 2003 đến nay Running punt kick - 2007 - 2012 Diving Crossbody - 2002 Super RKO (Elevated jumping cutter) - 2007 - 2012 O-Zone (Overdrive) - 2002 Wheelbarrow suplex - sử dụng trong thời gian ở OVW Các chiêu thường Randy Orton Stomp (Multiple stomps while circling a fallen opponent) Inverted headlock backbreaker Wrenching chinlock Full Nelson Headlock Knee drop European uppercut Standing dropkick Body scissors Scoop powerslam Rapid forearm shots to head and chest of a seated opponent Elevated DDT Quản lý Ric Flair (2003 - 2004) "Cowboy" Bob Orton (2004 - 2005) Biệt danh "The Legend Killer": Kẻ 'giết' những huyền thoại (2003 - 2008) "The Viper": Rắn độc (2008 - nay) "WWE's Apex Predator": Mãnh thú săn mồi thượng hạng (2010 - nay) Nhạc ra sàn đấu "Line in the Sand" thể hiệnMotörhead (dùng khi là một thành viên của Evolution) (2003 - 2004; 2014) "Burn in My Light" thể hiện Mercy Drive (2004 - 2008) "This Fire Burns" thể hiện Killswitch Engage (dùng một lần, sau đó trở thành nhạc của CM Punk) (2006) "Voices" thể hiện Rev Theory (2008 - nay) Legends Defeated - Với biệt danh Legend Killer, Orton đã "thắng" những đô vật huyền thoại sau trong trận đấu riêng lẻ hoặc đấu đôi: The Fabulous Moolah - RAW, 15 tháng 9 2003 Stone Cold Steve Austin - Survivor Series 2003 Shawn Michaels - Unforgiven 2003 Rock 'n' Sock Connection (The Rock và Mick Foley) - WrestleMania XX Cactus Jack (Mick Foley) - Backlash 2004 Chris Benoit - SummerSlam 2004 Ric Flair - Taboo Tuesday 2004 Jake "The Snake" Roberts - RAW, March 14 2005 The Undertaker - SummerSlam 2005 Jerry "The King" Lawler - RAW, August 7 2006 D-Generation X - Cyber Sunday Rob Van Dam - One Night Stand 2007 Sgt. Slaughter - RAW, 30 tháng 7 2007 Dusty Rhodes - The Great American Bash 2007 Triple H - No Mercy 2007 Jeff Hardy - Royal Rumble 2008 John Cena - PPV Hell in a Cell 2009 Batista - Raw Foul Away CM Punk - Extreme Rules 2011 == Các chức vô địch và danh hiệu == Ohio Valley Wrestling OVW Hardcore Championship (2 lần) Pro Wrestling Illustrated Mối thù của năm (2009) với Triple H Most Hated Wrestler of the Year (2007, 2009) Most Improved Wrestler of the Year (2004) Most Popular Wrestler of the Year (2010) Rookie of the Year (2001) Wrestler of the Year (2009, 2010) PWI xếp hạng 1 trong số 500 đô vật xuất sắc nhất năm 2008 World Wrestling Entertainment/WWE WWE World Champion (13 lần) gồm 9 lần vô địch WWE Championship và 4 lần vô địch World Heavyweight Championship. Nhà vô địch trẻ nhất, cũng là cuối cùng cho danh hiệu World Heavyweight Championship WWE Smackdown Tag Team Championship (1 lần) với Bray Wyatt WWE Intercontinental Championship (1 lần) World Tag Team Championship (1 lần) với Edge Royal Rumble (2009, 2017) Money in the Bank (2013 – WWE Championship contract - RAW) Wrestling Observer Newsletter'' Most Improved (2004)[335] Most Overrated (2013)
Vincent Kennedy McMahon (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1945) là người sáng lập đô vật Mỹ, từng là đô vật chuyên nghiệp và xướng ngôn viên đài phát thanh. Ông là Chủ tịch Hội đồng quản trị (Chairman) kiêm CEO, đồng sáng lập viên (co-founder) và là người giữ phần lớn cổ phần của World Wrestling Entertainment, Inc. (WWE),ông được gọi là già Vince Trong WWE, ông trong vai một đô vật cực kì khó tính và thâm độc. Đô vật này mang tên Mr. McMahon (dựa theo tên thật của ông). Đô vật này nắm quyền hành cao nhất, có thể điều khiển các đô vật khác theo ý mình. Mr. McMahon cũng từng nắm giữ 2 đai vô địch lớn nhất: Đai vô địch WWF và Đai vô địch hạng nặng thế giới ECW. Ông là người chiến thắng giải Royal Rumble năm 1999. Cuộc đời Vincent Kennedy McMahon sinh vào ngày 24 tháng 8 năm 1945 tại Pinehurst, North Carolina. Vince dành phần lớn thời gian tuổi thơ của mình sống chung với mẹ và dưới sự ràng buộc của cha dượng. Trong cuộc phỏng vấn của tờ Playboy, ông than trách người cha dượng của mình, Leo Lupton, thường đánh mẹ mình và sẽ đánh cả ông nếu cố bảo vệ mẹ. Ông nói, "Thật không may rằng hắn đã chết trước khi tôi có thể giết hắn. Tôi sẽ làm điều đó." Cha đẻ của ông, Vincent J. McMahon, là một đô vật chuyên nghiệp cho Capitol Wrestling Co., nhưng ông đã li hôn trong khi Vince mới chỉ là một đứa trẻ. Vince không gặp cha đẻ mình đến khi 12 tuổi, đây chính là bước ngoặt trong cuộc đời ông. Vincent đã đưa Vince nhiều lần đến Madison Square Garden, nơi mà ngày nay Vince thường chọn để tổ chức các show PPV lớn như Royal Rumble, WrestleMania, SummerSlam, Survivor Series. Sự nghiệp Có thể nói, công lao của Vince dành cho sự nghiệp đô vật là rất lớn. Ông là người cứu cánh cho ngành đô vật đang xuống cấp những năm 80 thế kỉ 20, gây dựng một WWE trở thành một trong những công ty đô vật lớn nhất thế giới hiện nay. McMahon đã mua lại World Wrestling Federation (nay là WWE) từ cha Vincent J. McMahon vào năm 1983. Là một thành viên của WWF, công ty The Titans Sports Inc đã được thành lập, mà ông là chủ tịch. Bắt đầu từ ngày đó, McMahon đã thay đổi từ một công ty thể thao thành một công ty giải trí, chủ yếu tập trung vào Wrestling, mà đã rất phổ biến từ những năm đầu thế kỷ 20 ở cấp khu vực, để mở rộng thêm yếu tố show giải trí. Với khẩu hiệu "Rock 'n' Wrestling" và hợp đồng với các siêu sao sau đó như Hulk Hogan hay Bret Hart, McMahon đã thành công để làm đô vật Wrestling phổ biến hơn và được các phương tiện truyền thông chú ý và quảng bá. Các giải đấu đô vật khác cũng dần theo công thức của McMahon, thêm yếu tố show và giải trí vào các trận đấu. Các chức vô địch và danh hiệu Professional Wrestling Hall of Fame and Museum Class of 2011[120] Pro Wrestling Illustrated Feud of the Year (1996) vs. Eric Bischoff[121] Feud of the Year (1998, 1999) vs. Stone Cold Steve Austin[121] Feud of the Year (2001) vs. Shane McMahon[121] Match of the Year (2006) vs. Shawn Michaels in a No Holds Barred match at WrestleMania 22[122] World Wrestling Federation/World Wrestling Entertainment ECW World Championship (1 time)[123] WWF Championship (1 time)[124] Royal Rumble (1999)[125] Wrestling Observer Newsletter awards Best Booker (1987, 1998, 1999) Best Promoter (1988, 1998–2000) Best Non-Wrestler (1999, 2000) Feud of the Year (1998, 1999) vs. Stone Cold Steve Austin Most Obnoxious (1983–1986, 1990, 1993)[126] Worst Feud of the Year (2006) with Shane McMahon vs. D-Generation X (Shawn Michaels and Triple H) Wrestling Observer Newsletter Hall of Fame (Class of 1996) Other awards and honors Boys and Girls Club of America Hall of Fame (class of 2015)[127] Guinness World Records – Oldest WWE Champion (September 1999)[128] Honorary Doctor of Humane Letters degree from Sacred Heart University[129][130] Star on the Hollywood Walk of Fame.
Trong sinh học phân tử và di truyền học, phiên mã là quá trình tổng hợp RNA từ mạch khuôn của gen. Trong quá trình này, trình tự các đêôxyribônuclêôtit ở mạch khuôn của gen (bản chất là DNA) được chuyển đổi (phiên) thành trình tự các ribônuclêôtit của RNA theo nguyên tắc bổ sung. Thuật ngữ này dịch từ nguyên gốc tiếng Anh: transcription (phát âm IPA: /træn'skrɪpʃən/, tiếng Việt: t'ran-crip-sân), trước kia (khoảng trước 2004) ở Việt Nam dịch là giải mã, nay đã thống nhất toàn quốc dịch là phiên mã. Vì có nhiều loại RNA khác nhau (như mRNA, tRNA, rRNA, snRNA, tmRNA v.v), nhưng chỉ có mRNA (RNA thông tin) là bản phiên mã dùng làm khuôn để dịch mã di truyền thành trình tự các amino acid trong chuỗi pôlypeptit, từ đó tạo ra sản phẩm quan trọng nhất là prôtêin, nên - theo nghĩa hẹp và thường dùng - thì phiên mã là quá trình tổng hợp mRNA. Quá trình này chỉ diễn ra khi có vai trò tham gia của các nhân tố phiên mã, trong có vai trò chủ chốt thuộc về enzym phiên mã,tạo thành nhóm enzym gọi là RNA-pôlymêraza. Thành phần tham gia Quá trình phiên mã rất phức tạp, nhưng đã được nghiên cứu tường tận và hiểu biết chi tiết, nhất là ở đối tượng là trực khuẩn E. coli. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học đã thực hiện phiên mã ngoài tế bào sống, tức là phiên mã in vitro trong phòng thí nghiệm. Ở đó, quá trình phiên mã cần tối thiểu những thành phần sau. Nguyên vật liệu: các NTP (nucleoside triphosphate) chính là các ribônuclêôtit A, U, G và X (hay C tức cytosine) đã được hoạt hoá, gồm: ATP, UTP, GTP và CTP. Enzym ARN pôlymêraza. ADN mạch khuôn. Ngoài ra, bắt buộc phải có: Nước cất làm dung môi với các thành phần trên ở tỉ lệ thích hợp. Diethyl pyrocarbonate (DEPC) hay diethyl dicarbonate (tên theo IUPAC) để khử hoạt tính RNase (enzym ribônuclêôtiđaza) trong dung dịch và xử lí các dụng cụ thí nghiệm. pH và nhiệt độ ủ thích hợp (thường là 37oC). Diễn biến Tổng quan Một mạch đơn gen (mạch đối nghĩa) - Sinh học phổ thông Việt Nam gọi là mạch gốc - gồm các đêôxyribônuclêôtit, sẽ được RNA-pôlymêraza dùng làm khuôn, để tổng hợp nên các ribônuclêôtit theo nguyên tắc bổ sung. Trong quá trình này, chuỗi trình tự đêôxyribônuclêôtit được chuyển đổi thành chuỗi trình tự các ribônuclêôtit, ví dụ: A-T-G-X tạo nên U-A-X-G. Do đó gọi là phiên, chứ không phải là chép hoặc dịch. Chuỗi ribônuclêôtit bổ sung cho mã gốc vốn là mạch đối nghĩa, nên trực tiếp mang mã di truyền (bản mã phiên). Sau khi được tổng hợp hợp xong, bản mã phiên sẽ tách khỏi mã gốc, ra khỏi vùng nhân để tRNA giải mã thành bản dịch là chuỗi pôlypeptit. Các bước chính Ở tế bào nhân sơ (như vi khuẩn), quá trình phiên mã gồm 3 giai đoạn sau, khi đã qua giai đoạn chuẩn bị. Chuẩn bị: Hệ enzym tháo xoắn DNA (Tôpôizômêraza và Hêlicaza) gỡ xoắn và tách DNA khuôn ở đoạn có gen cần phiên. Sau đó phiên mã mới có thể tiến hành. Khởi đầu – Enzim RNA-pôlymeraza bám vào đoạn khởi đầu ở vùng điều hòa của gen, chọn mạch khuôn rồi bắt đầu trượt dọc theo mạch này theo chiều 3’- 5’ để sẵn sàng tổng hợp RNA. Kéo dài – RNA-pôlymeraza vừa trượt dọc trên mạch khuôn gen theo chiều 3’- 5’, vừa lắp các ribônuclêôtit tự do vào mạch khuôn theo nguyên tắc bổ sung, rồi sử dụng ATP để gắn các ribônuclêôtit vừa được lắp trên mạch khuôn với nhau bằng liên kết phôtphođieste, tạo nên chuỗi pôlyribônuclêôtit mới theo hướng 5’-3’. Đoạn nào trên gen đã phiên mã xong đóng xoắn lại ngay. Ở bước này, chuỗi pôlyribônuclêôtit được dài dần ra, nên được gọi là giai đoạn kéo dài (elongation), cũng là giai đoạn lâu nhất trong toàn bộ quá trình. Kết thúc – Khi RNA-pôlymeraza trượt tới tín hiệu kết thúc trên gen thì dừng phiên mã và tách khỏi gen, phân tử RNA vừa tạo thành được giải phóng, đồng thời đoạn gen bị tách "khép" lại rồi trở thành cấu trúc xoắn kép như trước. Vì sự "lắp ráp" các nguyên liệu là ribônuclêôtit tự do (A, U, G và X) vào mạch khuôn diễn ra theo nguyên tắc bổ sung (A-U, G-X, T-A và X-G), nên bản phiên sẽ mang mã di truyền trực tiếp quy định vị trí mỗi amino acid theo đúng các bộ ba (codon) mà nó có. Phiên mã ở sinh vật nhân thực và nhân sơ về cơ bản là giống nhau theo các giai đoạn vừa trình bày. Những điểm khác nhau về phiên mã giữa nhân thực và nhân sơ rất nhiều, nhưng tóm tắt như sau. • Phiên mã ở nhân sơ nói chung, chỉ cần một loại enzym RNA-pôlymeraza xúc tác, kể cả phiên ra mRNA hay tRNA hoặc rRNA. Nhưng ở nhân thực có nhiều loại enzim khác nhau cùng tham gia: mỗi loại RNA (mRNA, tRNA và rRNA) khi phiên mã được xúc tác bởi một loại RNA-pôlymeraza riêng. • Do vi khuẩn (nhân sơ) không có màng nhân, nên bản phiên mã mRNA ngay cả khi chưa được tổng hợp xong đã có thể được làm khuôn dịch mã ngay, nghĩa là phiên mã và dịch mã coi như là có thể cùng lúc, do đó phiên mã xong thì có thể dịch mã cũng hoàn tất. • Ngay sau khi RNA được tạo thành xong, thì ở nhân sơ, RNA này được sử dụng ngay trong tế bào. Nhưng ở nhân thực, thì chuỗi pôlyribônuclêôtit mới chỉ là phân tử RNA sơ khai, phải qua quá trình chế biến, thì mới tạo ra mRNA trưởng thành, rồi mRNA trưởng thành này đi qua lỗ trên màng nhân mà vào mạng lưới nội chất để làm khuôn dịch mã. Trong quá trình này, phân tử mRNA sơ khai phải được cắt bỏ các intrôn (không có cođon), rồi nối các êxôn (có các cođon) còn lại với nhau. Quá trình này gọi là chế biến hay xử lý RNA (RNA processing) khá phức tạp, không giới thiệu ở đây, mà trình bày chi tiết ở trang Phiên mã nhân thực (Eukaryotic transcription).
Thấu kính hấp dẫn là một hiện tượng thiên văn, xảy ra khi ánh sáng (và sóng điện từ nói chung) phát ra từ một vật thể bị lệch hướng trên đường đi dưới tác dụng của lực hấp dẫn khi qua gần các thiên thể khác. Sự bẻ cong đường đi của ánh sáng bởi lực hấp dẫn đã được lý thuyết tương đối rộng tiên đoán và được kiểm chứng lần đầu vào lần nhật thực năm 1919. Ánh sáng càng bị bẻ cong khi đi gần các vật thể có mật độ khối lượng càng lớn. Do đó hiện tượng này được quan sát rõ hơn nếu ánh sáng đi qua gần các hố đen hay các thiên hà. Lúc đó hình ảnh của các ngôi sao hay nguồn phát sáng bị thay đổi, chia làm nhiều phần hay được hội tụ, làm cường độ sáng tăng lên, cho phép quan sát vật ở xa. Sự tăng cường độ sáng hay thay đổi hình dạng đột ngột của một thiên thể ở xa cũng là dấu hiệu cho thấy giữa nguồn sáng và người quan sát có vật thể khối lượng lớn bay qua; đây là một trong các phương pháp thực nghiệm để phát hiện hố đen.
Lâm sản hay lâm thổ sản là một từ có nguồn gốc Hán Việt dùng để chỉ các sản vật từ rừng và lâm nghiệp cho tiêu dùng trực tiếp hoặc sử dụng thương mại, chẳng hạn như gỗ, giấy, hoặc thức ăn cho gia súc. Cho đến nay thì gỗ luôn là lâm sản phổ biến nhất, được sử dụng cho nhiều mục đích như: nhiên liệu gỗ (ví dụ như trong hình thức than), các vật liệu cấu trúc thành phẩm dùng cho xây dựng các tòa nhà, hoặc làm nguyên liệu thô (bột giấy, ván dăm,...). Tất cả các sản phẩm ngoài gỗ khác có nguồn gốc từ các nguồn tài nguyên rừng, bao gồm một loạt các lâm sản khác được gọi chung là lâm sản ngoài gỗ. Kể từ năm 1947, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) đã công bố một kỷ yếu hàng năm về lâm sản. The FAO Yearbook of Forest Products là một tài liệu chứa các dữ liệu thống kê về lâm sản cơ bản cho tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nó bao gồm hàng loạt các dữ liệu hàng năm về khối lượng sản xuất và khối lượng tiêu thụ và giá trị thương mại lâm sản. Thông tin thống kê trong niên giám thống chủ yếu dựa trên dữ liệu được cung cấp cho FAO bởi các quốc gia thông qua các câu hỏi hay ấn phẩm chính thức. Trong trường hợp không có số liệu chính thức, FAO làm cho một ước tính dựa trên các thông tin tốt nhất có sẵn. FAO cũng xuất bản các cuộc khảo sát hàng năm về công suất bột giấy và sản xuất giấy trên thế giới. Các cuộc điều tra trình bày các thống kê về sản lượng giấy và bột giấy sản xuất theo quốc gia. Các thống kê dựa trên thông tin do phóng viên trên toàn thế giới, hầu hết trong số họ hoạt động trong các Hiệp hội giấy và bột giấy, và đại diện cho 85% sản lượng giấy của thế giới.
Thí nghiệm ảo là tập hợp các tài nguyên số đa phương tiện dưới hình thức đối tượng học tập, nhằm mục đích mô phỏng các hiện tượng vật lý, hóa học, sinh học...xảy ra trong tự nhiên hay trong phòng thí nghiệm, có đặc điểm là có tính năng tượng tác cao, giao diện thân thiện với người sử dụng và có thể mô phỏng những quá trình, điều kiện tới hạn khó xảy ra trong tư nhiện hay khó thu được trong phòng thí nghiệm. Thí nghiệm ảo giúp giảm thiểu việc học chay, dậy chay thường gặp do thiếu phương tiện, điều kiện thí nghiệm giúp người học chủ động học tập phù hợp với tinh thần người học là trung tâm của giáo dục hiện đại. Theo quan điểm giáo dục hiện đại, không có sự phân biệt giữa một đơn vị học tập điện tử (đối tượng học tập – Learning Object) với một thí nghiệm ảo, hay một đơn vị kiểm tra đánh giá. Thực chất các đơn vị này đều có tính năng tương tác người học, khả năng đánh giá tiến độ người học theo mức độ đáp ứng các yêu cầu đề ra. Cũng trên quan điểm như vậy, thí nghiệm ảo về thực chất không khác một trò chơi giáo dục. Tuy nhiên để làm được điều này cần đảm bảo tính chất độc lập, hay mỗi thí nghiệm ảo phải có khả năng hoạt động độc lập như một đối tượng học tập, được thiết kế để giải quyết một hay một số mục tiêu (nhiệm vụ học tập cụ thể). Trò chơi giáo dục giúp tăng hiệu quả học tập qua việc khuyếnh khích người học chủ động học tập thể hiện tinh thần "học mà chơi, chơi mà học". Quan hệ với bài giảng điện tử Thí nghiệm ảo và bài giảng điện tử gắn bó chặt chẽ với nhau. Thí nghiệm ảo giúp tăng hiệu quả giáo dục, huấn luyện của bài giảng điện tử qua tính năng tương tác cao với người tiến hành thí nghiệm, với hệ thống. Trong khi đó, bài giảng điện tử giúp xâu chuỗi các thí nghiệm ảo theo một trình tự logic, mang tính giáo dục. Thí nghiệm ảo cùng với bài giảng điện tử giúp áp dụng được cả ba yếu tố giáo dục hiện đại trong phần mềm dạy học là "học + thực hành + kiểm tra đánh giá", cần thiết hiệu quả học tập đạt được cao. Thí nghiệm ảo có các ưu điểm giống với bài giảng điện tử, ngoài ra, chúng có thể giả lập những tình huống, điều kiện tới hạn, khó xảy ra trong thế giới thực giúp người học nắm được bản chất của vấn đề. Tuy nhiên, thí nghiệm ảo không thể thay thế được kinh nghiệm thực tiễn. Phi công sẽ không lái được máy bay hạ cánh khi chỉ toàn thực tập trên mô hình ảo; bác sĩ sẽ không phẫu thuật tim được khi chỉ có kinh nghiệm với dao mổ ảo trên máy tính. thí nghiệm ảo là thí nghiệm trên môi trường ảo (môi trường số hoá) gồm mô hình ảo, phân tích băng hình, mô phỏng,.... nó có vai trò là phương tiện dạy học trong quá trình dạy học, đáp ứng được đầy đủ các bước, các quá trình của bài giảng. Khi soạn giáo án điện tử ta có thể kết hợp cả thí nghiệm thực và thí nghiệm ảo, sao cho phù hợp với các quá trình nhận thức và trật tự logic cua bài học
Rich Dad, Poor Dad (Cha giàu, Cha nghèo) là cuốn sách bán chạy nhất của Robert Kiyosaki. Trong đó, ông bày tỏ thái độ ủng hộ cho sự độc lập về tài chính nhờ đầu tư, bất động sản, kinh doanh và sử dụng tài chính hợp lý. Rich Dad, Poor Dad được viết theo lối kể những câu chuyện của chính tác giả nhằm làm người đọc thấy vấn đề tài chính thật thú vị. Vấn đề chính mà Kiyosaki muốn nói là làm chủ một hệ thống kinh doanh còn tốt hơn làm một nhân viên làm thuê cho người khác. Tóm tắt Cuốn sách là một câu chuyện, chủ yếu nói về sự giáo dục mà Kiyosaki đã nhận được tại Hawaii. Người cha nghèo trong câu chuyện là cha ruột của Kiyosaki, có bằng PhD, tốt nghiệp từ Đại học Stanford, California và đại học Northwestern, với tất cả sự uyên thâm đó, ông trở thành người đứng đầu ngành giáo dục bang Hawaii. Theo cuốn sách, ông được mọi người rất tôn trọng cho tới khi, giai đoạn cuối sự nghiệp, ông quyết định chống lại thống đốc bang Hawaii. Điều đó trực tiếp khiến người cha nghèo mất việc, và không bao giờ còn khả năng tìm lại được công việc có vị trí như vậy nữa. Bởi vì ông chưa bao giờ được học về cách tự do về tài chính, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào trợ cấp chính phủ (một người làm thuê), ông chìm trong nợ nần chồng chất và cuối cùng ông đã qua đời một cách vô cùng cay đắng. Đối lập với nhân vật đó là người cha giàu, ba của người bạn thân nhất, Michael. Người cha giàu bỏ học từ lớp 8, nhưng lại trở thành một triệu phú. Ông dạy Kiyosaki và Michael rất nhiều bài học về tài chính, và luôn nói rằng các cậu phải học để tiền làm việc cho họ chứ đừng tiêu hết tiền kiếm được cho cuộc sống hàng ngày, giống như những nhân công của người cha giàu, cũng như người cha nghèo, và hầu hết mọi người trên thế giới. Cuốn sách đã nêu bật vị trí khác nhau của đồng tiền, sự nghiệp và cuộc đời hai người đàn ông, và họ đã làm thế nào để thay đổi các quyết định trong cuộc đời của Kiyosaki. Các chủ đề Một vài chủ đề trong cuốn sách: Tầm quan trọng của trí thông minh tài chính Học cách kiếm tiền Kiyosaki nói rằng người giàu có cách nghĩ khác khi họ định nghĩa những từ đơn giản như tài sản và giàu, và họ cảm thấy giàu có là thế nào. Tác giả giải thích rằng ông định nghĩa một tài sản như những thứ có thể đem lại thu nhập (chẳng hạn tài sản cho thuê: cổ phần hay phiếu ghi nợ), còn một tiêu sản là thứ đem lại tổn phí (chẳng hạn chiếc xe riêng). Người giàu biết cách mua "tài sản" thực sự. Kiyosaki cho rằng người nghèo mua "tiêu sản" mà họ cứ nghĩ đó là "tài sản", do đó không thể đem lại cho họ chút tiền hay giá trị kinh tế nào. Theo Kiyosaki, sự giàu có được đo bằng số ngày mà tài sản của bạn đem lại thu nhập duy trì cuộc sống bạn nếu bạn không làm việc nữa, và trí thông minh tài chính đạt được khi thu nhập hàng tháng từ tài sản vượt quá chi tiêu hàng tháng. Lời mô tả về hai người cha Kiyosaki viết trong lời giới thiệu cuốn sách: "Tôi có hai người cha, một giàu và một nghèo. Một người có học vấn và trí thông minh rất cao; ông ta có bằng Tiến sĩ và hoàn thành bốn năm cao học chỉ mất chưa tới hai năm. Thế rồi ông ta đi tới đại học Stanford, đại học Chicago, và đại học Northwestern để tiếp tục học cao hơn. Người cha kia chưa tốt nghiệp lớp tám Cả hai người cha đều thành công trong sự nghiệp của họ, làm việc cật lực suốt đời. Song đó là một cuộc đấu tranh về tài chính suốt cả cuộc đời họ. Người cha kia trở thành một trong những người giàu nhất ở Hawaii. Người bỏ ra mười triệu dollar Mỹ cho gia đình, làm từ thiện và cho nhà thờ. Người kia chìm sâu trong nợ nần." Những lời trích dẫn "Giàu sang thực sự là phần thưởng cho đầu tư và phát triển tài sản." "Cách duy nhất để thoát khỏi "vòng chuột" (Rat Race) là chứng tỏ khả năng của bạn trong lĩnh vực kế toán và đầu tư". "Tôi đã nói rằng trí thông minh tài chính là sự phối hợp giữa khả năng kế toán, đầu tư, marketing và kiến thức pháp luật. Kết hợp bốn kỹ năng đó thì tiền sẽ kiếm tiền ngày càng dễ hơn ". Hầu hết mọi người nghèo vì phải phụ thuộc tài chính hoàn toàn vào người chủ của họ mà không biết tự đầu tư, thế giới đầy những chú gà nhỏ chạy quanh và kêu la "trời sắp sập, trời sắp sập." Nhiều thanh niên có thẻ tín dụng trước khi tốt nghiệp, nhưng họ chưa bao giờ có một khóa học về tiền bạc hay làm thế nào để đầu tư nó." Các chương sách Chương Một - Cha giàu, cha nghèo Chương Hai - Người giàu không làm việc vì tiền Chương Ba - Tại sao phải học cách đọc báo cáo tài chính Chương Bốn - Hình dung về doanh nghiệp của riêng bạn Chương Năm - Nguồn gốc của thuế và sức mạnh của tập đoàn Chương Sáu - Người giàu đầu tư tiền Chương Bảy - Làm việc để học - Đừng làm việc vì tiền Chương Tám - Vượt qua trở ngại Chương Chín - Bắt đầu Chương Mười - Vẫn còn chưa đủ? Những lời chỉ trích Cha giàu, cha nghèo đã bị chỉ trích mãnh liệt vì không có lời khuyên nào cụ thể và có quá nhiều bài học vặt vãnh. Người đọc hết cuốn sách thấy mình có lòng khao khát mãnh liệt và bắt đầu "thoát ra khỏi vòng chuột", để rồi thấy rằng họ chẳng thu được ý tưởng nào để thực hiện điều đó. Một vài lời khuyên trong cuốn sách dành cho người nghèo thì lại thậm chí nguy hiểm với các nhà đầu tư khác. Ví dụ Kiyosaki tập trung "đầu tư tốt" hơn là đa dạng hóa. Ông cũng hạ thấp tầm quan trọng của ngành giáo dục truyền thống. John T. Reed thẳng thắn phê bình Robert Kiyosaki, Reed cho rằng:" "Cha giàu, cha nghèo" chứa rất nhiều lời khuyên sai lầm, một số còn nguy hiểm và gần như không hề có lời khuyên nào tốt cả". Một trong những lý luận của Kiyosaki trong Cha giàu, cha nghèo về thành công của ông bị cường điệu quá mức, bịa đặt hoặc dẫn chứng sai sự thật. Mọi người không biết về "người cha giàu" của ông liệu có tồn tại thật không, bởi lẽ người đàn ông giàu có như vậy, như Kiyosaki mô tả là "người giàu có nhất trên đảo", rất nổi tiếng ở bang Hawaii. Trên tạp chí SmartMoney năm 2006, Kiyosaki phủ nhận tuyên bố trước kia rằng "người cha giàu" của ông có thật: "Harry Potter có thật không? Đương nhiên là không có thật rồi. Vậy thì tại sao không để người cha giàu tồn tại như một huyền thoại, giống như Harry Potter?" Tuy nhiên, dưới góc nhìn đa chiều, cuốn sách Cha giàu, cha nghèo thực sự là cuốn sách hay, bổ ích và rất đáng để đọc; từ động lực trong cuốn sách và biết cách tiếp cận thông tin giá trị từ nhiều cuốn sách của tác giả khác, người đọc sẽ tìm ra được phương pháp, hướng đi hợp lý và đúng nhất cho mình. Thông tin từ một phía thì thường thiếu chứ không đủ.
VSpeech là một sản phẩm phần mềm cho phép người dùng điểu khiển hầu hết các hoạt động của máy tính bằng giọng nói như mở chương trình, lướt web, soạn thảo văn bản... Chương trình hỗ trợ cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt và được tích hợp với hầu hết các ứng dụng phổ biến như: Microsoft Windows, Microsoft Office... Phần mềm được phân phối với giấy phép GPL. Tính năng Các chức năng chính của sản phẩm Menu chương trình Lệnh chương trình Lệnh hệ thống Duyệt web Từ điển tự chọn Đọc chính tả tiếng Anh Đọc chính tả tiếng Việt (chưa hoàn thành)
Hung Nô () là các bộ lạc du cư ở khu vực Trung Á, nói chung sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ ngày nay. Từ thế kỷ III TCN họ đã kiểm soát một đế chế rộng lớn trên thảo nguyên, kéo dài về phía tây tới khu vực Kavkaz (Caucasus). Các hoạt động của họ diễn ra chủ yếu tại các khu vực thuộc miền nam Siberi, miền tây Mãn Châu và các tỉnh, khu tự trị ngày nay của Trung Quốc là Nội Mông Cổ, Cam Túc và Tân Cương. Các tài liệu lịch sử rất cổ của người Trung Quốc (có lẽ là truyền thuyết) cho rằng người Hung Nô là các hậu duệ của con trai của vua Kiệt (桀) - vị vua cuối cùng của nhà Hạ (夏朝) - triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, mà các dấu vết còn lại của họ được người Trung Quốc thời Xuân Thu-Chiến Quốc cho là người của nước Kỷ (杞). Tuy nhiên, do các khác biệt và xung đột nội bộ nên người Hung Nô đã chạy lên phía bắc và tây bắc. Quan hệ giữa người Hán và người Hung Nô rất phức tạp và bao gồm các xung đột quân sự, các trao đổi cống phẩm và thương mại, cũng như các thỏa ước về hôn nhân. Đa số thông tin về người Hung Nô chỉ có được từ các sử liệu Trung Quốc, nên không có cách nào để khôi phục lại các phần quan trọng nhất của tiếng Hung Nô. Chỉ có một ít các tên gọi và tước vị của họ có được từ các bản dịch ra tiếng Trung. Theo các sử liệu Trung Quốc như Sử ký, Hán thư thì đến thời Đông Hán, người Hung Nô bị phân ra thành hai bộ phận cơ bản là: Nam Hung Nô: Sau bị Hán hóa. Bắc Hung Nô: Di dời về phương Tây vào khoảng thế kỷ IV, có lẽ trở thành người Hung (Huns). Ngoài ra còn một bộ phận nữa gọi là Tây Hung Nô, nhưng gần như không có thông tin gì về nhóm này. Nguồn gốc và lịch sử sơ kỳ Khu vực địa lý ban đầu của người Hung Nô nói chung được coi là khu vực Ordos. Theo Tư Mã Thiên trong Sử ký-phần Hung Nô liệt truyện, người Hung Nô là các hậu duệ của Thuần Duy (淳維), có thể là con trai của vua Kiệt, vị vua cuối cùng của nhà Hạ. Tuy nhiên, trong khi không có chứng cứ trực tiếp để bác bỏ giả thuyết này thì cũng không có chứng cứ trực tiếp để hỗ trợ nó. Thời nhà Chu, không có nhiều tư liệu viết về họ, ngoài các cụm từ như rợ (nhung) Địch, rợ Hồ đều sống ở vùng sa mạc miền tây bắc Trung Quốc, có lẽ là để chỉ các nhóm người này. Liên minh dưới trướng Mặc Đốn Năm 209 TCN, tức là chỉ khoảng 3 năm trước khi nhà Hán ra đời, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của một thiền vu (单于) mới có tên gọi là thiền vu Mặc Đốn (冒顿, khoảng 209 TCN-174 TCN). Sự thống nhất về mặt chính trị của người Hung Nô đã làm cho họ trở thành một địch thủ đáng gờm, do họ có khả năng tập trung các lực lượng quân sự lớn và thực hiện tốt hơn việc phối hợp chiến lược. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến sự liên minh này vẫn chưa rõ ràng. Người ta cho rằng sự thống nhất Trung Quốc đã thúc đẩy các bộ lạc du cư tập hợp lại xung quanh một trung tâm chính trị nhằm củng cố vị thế của họ.. Một giả thuyết khác là sự tái cơ cấu này là cách thức phản ứng của họ đối với khủng hoảng chính trị đã diễn ra đối với họ khi vào năm 215 TCN, khi quân đội nhà Tần do Mông Điềm chỉ huy đã xua đuổi họ ra khỏi các đồng cỏ bên sông Hoàng Hà. Sau khi hoàn thành việc thống nhất nội bộ, Mặc Đốn mở rộng đế chế của mình ra các phía. Về phía bắc, ông đã chinh phục hàng loạt các bộ tộc du cư, bao gồm cả người Đinh Linh (Sắc Lặc) ở miền nam Siberia. Ông cũng đè bẹp sự kháng cự của người Đông Hồ ở miền đông Mông Cổ và Mãn Châu, cũng như của người Nguyệt Chi trong hành lang Cam Túc. Ngoài ra, ông cũng đã có khả năng khôi phục lại tất cả các vùng đất đã bị tướng của nhà Tần là Mông Điềm đánh chiếm. Trước khi Mặc Đốn chết vào năm 174 TCN thì người Hung Nô đã xua đuổi hoàn toàn người Nguyệt Chi ra khỏi hành lang Cam Túc và khẳng định sự có mặt của họ tại Tây Vực, thuộc Tân Cương ngày nay. Bản chất nhà nước Hung Nô Dưới thời Mặc Đốn, một hệ thống nhị nguyên của thể chế chính trị đã được hình thành. Các nhánh tả và hữu (tức là tả bộ và hữu bộ) của người Hung Nô được phân chia trên cơ sở lãnh thổ địa phương. Người đứng đầu các bộ này là tả hiền vương và hữu hiền vương. Thiền vu - người trị vì tối cao, tương đương với "Thiên tử" của người Hán, thực hiện uy quyền trực tiếp trên vùng lãnh thổ trung ương. Long Thành (蘢城), gần Koshu-Tsaidam ở Mông Cổ, đã được thiết lập như là nơi họp mặt hàng năm và là kinh đô trên thực tế (de facto). Hệ thống thỏa ước hôn nhân Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán. Hàn vương Tín đầu hàng. Vào mùa đông năm 200 TCN, sau khi vây hãm Thái Nguyên (太原), Hán Cao Tổ Lưu Bang đích thân chỉ huy một chiến dịch quân sự chống lại Mặc Đốn. Tại trận Bạch Đăng (白登, ngày nay là Đại Đồng, Sơn Tây), quân Hán đã bị khoảng 300.000 kỵ binh Hung Nô bao vây. Vị hoàng đế này đã bị cắt nguồn tiếp tế và cứu trợ trong 7 ngày, chỉ có may mắn mới thoát được. Sau thất bại tại Bình Thành, Lưu Bang từ bỏ giải pháp quân sự đối với mối đe dọa từ phía người Hung Nô. Thay vì thế, năm 198 TCN, một cận thần là Lưu Kính (劉敬) đã được cử đi đàm phán. Giải pháp hòa bình cuối cùng đã đạt được giữa hai bên, bao gồm việc các công chúa nhà Hán sẽ lấy các thiền vu (gọi là hòa thân 和親); các món quà tặng theo chu kỳ cho người Hung Nô, bao gồm tơ lụa, rượu và gạo; địa vị bình đẳng giữa hai quốc gia và Vạn Lý Trường Thành là biên giới chung. Thỏa thuận đầu tiên này đã trở thành kiểu mẫu cho quan hệ giữa nhà Hán và nhà nước của người Hung Nô trong khoảng 60 năm. Cho tới năm 135 TCN, thì thỏa thuận này đã được thay đổi không dưới 9 lần, với sự gia tăng của các món "quà tặng" sau mỗi lần thỏa thuận kế tiếp. Năm 192 TCN, Mặc Đốn thậm chí còn đề nghị được cưới Lã Thái hậu. Con trai ông ta và là người kế nghiệp, một người mạnh mẽ tên là Kê Chúc (稽粥, khoảng 174 TCN-160 TCN), còn được biết đến như là Lão Thượng thiền vu (老上單于), vẫn tiếp tục thực hiện các chính sách bành trướng của cha mình. Lão Thượng đã thành công trong việc đàm phán với Hán Văn Đế các điều kiện để duy trì một hệ thống chợ được chính quyền hỗ trợ ở mức độ lớn. Trong khi người Hung Nô thu được nhiều lợi lộc thì về phía người Hán các thỏa thuận hôn nhân là đắt đỏ và không hiệu quả. Lão Thượng đã cho thấy là ông ta không hề có ý định nghiêm chỉnh thực hiện thỏa thuận. Thỉnh thoảng, những điệp viên của ông ta đã xâm nhập tới tận Trường An. Năm 166 TCN đích thân ông ta dẫn 140.000 kỵ binh xâm lấn An Định, tiến gần tới nơi nghỉ ngơi của hoàng đế tại đất Úng (雍). Năm 158 TCN, người kế nghiệp ông là thiền vu Quân Thần (khoảng 160 TCN-127 TCN) đã đem 30.000 kỵ binh tấn công Thượng Quận (上郡- thuộc Thiểm Tây ngày nay) và 30.000 quân tấn công Vân Trung (雲中-thuộc Nội Mông Cổ ngày nay). Chiến tranh với nhà Hán Nhà Hán đã chuẩn bị cho việc đối đầu quân sự từ thời kỳ trị vì của vua Hán Văn Đế (trị vì từ 180 TCN đến 157 TCN). Sự tuyệt giao diễn ra năm 133 TCN, ngay sau khi có một âm mưu bất thành nhằm đánh úp thiền vu Quân Thần tại Mã Ấp (馬邑). Vào thời điểm này, đế chế Trung Hoa đã trở nên vững chắc về các mặt chính trị, quân sự, tài chính, cũng như phe ủng hộ chiến tranh đang thắng thế tại triều đình. Tuy nhiên, cũng trong năm đó thì Hán Vũ Đế (trị vì từ năm 141 TCN đến năm 87 TCN) đã đảo ngược lệnh mà ông đã đưa ra vào năm trước đó để phục hồi lại thỏa thuận hòa bình. Mức độ đầy đủ nhất của chiến tranh đã diễn ra vào mùa thu năm 129 TCN, khi 40.000 kỵ binh Trung Quốc đột ngột tấn công người Hung Nô tại các chợ biên giới. Năm 127 TCN, tướng nhà Hán là Vệ Thanh (衛青) tái chiếm Ordos. Năm 121 TCN, người Hung Nô lại phải gánh thêm một thất bại nữa khi Hoắc Khứ Bệnh (霍去病) chỉ huy một đội kỵ binh nhẹ tiến về phía tây của Lũng Tây và trong vòng 6 ngày đã mở đường xuyên qua 5 tiểu quốc của Hung Nô. Năm 119 TCN cả Hoắc Khứ Bệnh và Vệ Thanh, mỗi người chỉ huy khoảng 50.000 kỵ binh và 100.000 bộ binh, và tiến quân theo hai hướng tây-đông, đã ép buộc được thiền vu Y Trĩ Tà (伊稚斜) và toàn bộ triều đình của ông ta chạy về phía bắc của sa mạc Gobi, hữu hiền vương đầu hàng cùng với 40.000 người.. Hoắc Khứ Bệnh tiến quân theo hướng tây, đuổi người Hung Nô tới tận Lang Cư Tư Sơn, còn Vệ Thanh theo hướng đông đánh vào triều đình Hung Nô. Tại phía đông, nhà Hán liên minh với người Ô Hoàn còn tại phía tây vẫn thực hiện chính sách hòa thân. Năm 73 TCN, nhà Hán cùng người Ô Hoàn đem 200.000 quân tấn công Hung Nô. Năm 57 TCN, triều đình Hung Nô chia rẽ, Chí (Chất?) Chi (郅支) (?-36 TCN) rút chạy về mạc bắc (tức sa mạc Gobi), năm 51 TCN Hô Hàn Tà (Da?) (呼韓邪) (58 TCN-31 TCN) về đầu hàng nhà Hán. Sau này Chí Chi đem dân chúng rút lui về khu vực ven biển Aral và hồ Balkhash (ngày nay thuộc về Afghanistan, Uzbekistan và Kazakhstan). Hô Hàn Tà chiếm lại vương triều tại mạc bắc. Các khó khăn cơ bản đã hạn chế thời gian và sự kéo dài các chiến dịch này là các vấn đề tự nhiên. Theo phân tích của Nghiêm Vưu (嚴尤), các khó khăn này có hai điểm chính. Thứ nhất là vấn đề tiếp tế lương thực, thực phẩm với một khoảng cách lớn. Thứ hai, thời tiết ở các vùng đất miền bắc của người Hung Nô là một rào cản cho các binh sĩ người Hán, những người không bao giờ có đủ sức lực do không hợp thủy thổ.. Theo các báo cáo chính thức, phía Hung Nô mất khoảng từ 80.000 đến 90.000 người, còn trong số 140.000 ngựa mà người Hán đưa tới vùng sa mạc, chỉ còn ít hơn 30.000 quay trở lại tới Trung Quốc. Kết quả của các trận chiến này là người Hán đã kiểm soát được khu vực chiến lược từ sa mạc Ordos và hành lang Cam Túc tới Lop Nor (La Bố Bạc). Họ đã thành công trong việc chia cắt người Hung Nô ra khỏi người Khương (羌族) ở phía nam, cũng như có được đường đi trực tiếp tới Tây Vực. Tranh giành quyền lực Khi đế chế Hung Nô đã mở rộng, một điều trở nên rõ ràng là cấu trúc lãnh đạo ban đầu của người Hung Nô thiếu sự mềm dẻo và không thể duy trì sự cố kết có hiệu quả. Truyền thống kế vị của con trai trưởng ngày càng trở nên không có hiệu quả trong thời gian chiến tranh thuộc thế kỷ I TCN. Đối lại với các vấn đề của quyền kế vị, thiền vu Hô Hàn Tà sau đó đã đề ra quy tắc là kể từ người kế nghiệp ông, mọi thiền vu phải chuyển ngai vàng cho em trai mình. Kiểu kế vị mang tính anh em này trên thực tế đã trở thành tiêu chuẩn. Sự gia tăng của chủ nghĩa cục bộ địa phương ngày càng rõ ràng vào thời kỳ này, khi các vị vua của các tiểu quốc từ chối không tham dự các cuộc họp mặt hàng năm tại cung điện của thiền vu. Trong thời kỳ này, các thiền vu buộc phải xây dựng lực lượng trên lãnh thổ riêng của mình để bảo đảm giữ được ngai vàng. Trong giai đoạn từ năm 114 TCN đến năm 60 TCN, người Hung Nô đã dựng lên cả thảy là 7 thiền vu. Hai trong số này, Chanshilu và Hồ Diễn Đề (壺衍鞮) đã gánh vác trọng trách khi chỉ là những đứa trẻ. Năm 60 TCN, Tuqitang, trở thành thiền vu Ác Diễn Cú Đề (握衍朐鞮, Wuyanjuti). Không bao lâu sau khi ông trở thành thiền vu, thì ông bị những người ở tả bộ hất cẳng khỏi quyền lực. Năm 58 TCN giới quý tộc trong tả bộ đưa Hô Hàn Tà lên làm thiền vu của họ. Năm 57 TCN là sự tranh giành quyền bính giữa 5 nhóm cục bộ, mỗi nhóm lập ra một thiền vu của riêng mình. Năm 54 TCN Hô Hàn Tà rời bỏ kinh đô ở phía bắc sau khi bị người em của mình là thiền vu Chí Chi đánh bại. Quan hệ triều cống với nhà Hán Năm 53 TCN Hô Hàn Tà quyết định chấp nhận việc triều cống cho nhà Hán. Các điều kiện ban đầu mà triều đình nhà Hán đòi hỏi là: thứ nhất là thiền vu hoặc sứ giả của ông ta phải tới kinh đô của nhà Hán để tỏ lòng thần phục; thứ hai là thiền vu phải đưa con trai đến làm con tin; và thứ ba là thiền vu phải cống nộp cho hoàng đế nhà Hán. Địa vị chính trị của Hung Nô trong trật tự thế giới của người Hán đã bị hạ từ "quốc gia anh em" xuống thành "ngoại thần" (外臣). Tuy nhiên, trong thời kỳ này thì người Hung Nô vẫn duy trì được chủ quyền chính trị và độc lập hoàn toàn về lãnh thổ. Vạn Lý Trường Thành vẫn tiếp tục là đường ranh giới giữa nhà Hán và nhà nước Hung Nô. Hô Hàn Tà đã gửi con trai của mình, Shuloujutang, tới triều đình nhà Hán làm con tin. Năm 51 TCN đích thân ông tới Trường An để tỏ lòng thần phục hoàng đế nhà Hán nhân dịp Tết Nguyên Đán. Về mặt tài chính, Hô Hàn Tà đã được ban tặng nhiều vàng, tiền, quần áo, tơ lụa, ngựa và lương thực. Hô Hàn Tà còn hai lần nữa tới Trường An, vào năm 49 TCN và năm 33 TCN, dưới thời Tuyên Đế và Nguyên Đế; với mỗi lần này thì đồ ban thưởng của hoàng đế lại tăng lên. Lần cuối cùng, Hô Hàn Tà đã nhân cơ hội đề nghị được làm con rể hoàng đế. Như là dấu hiệu của sự suy tàn địa vị chính trị của người Hung Nô, Hán Nguyên Đế đã từ chối, thay vì thế đã ban cho ông này 5 tì thiếp của mình. Một trong số này là Vương Chiêu Quân (王昭君), một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa trong các câu chuyện dân gian của người Trung Quốc. Khi Chí Chi biết được sự khuất phục của anh trai mình, ông ta cũng gửi con trai tới triều đình nhà Hán làm con tin vào năm 53 TCN. Sau đó, hai lần vào các năm 51 TCN và 50 TCN, ông cũng đã gửi các phái đoàn tới triều đình nhà Hán cùng cống phẩm. Nhưng vì không chịu tự đến thần phục nên ông đã không được chấp nhận cho triều cống. Năm 36 TCN, một viên tướng trẻ là Trần Thang (陈汤), với sự hỗ trợ của Cam Duyên Thọ (甘延壽), quan tổng nhiếp chính ở Tây Vực, đã chỉ huy một lực lượng viễn chinh đánh bại Chí Chi tại trận Taraz và gửi đầu ông này về Trường An làm chiến lợi phẩm. Quan hệ triều cống đã bị gián đoạn trong thời gian cai trị của Hô Đô Nhi Thi (18-48), tương ứng với thời gian chính biến của nhà Tân tại Trung Quốc. Người Hung Nô nắm lấy cơ hội để giành lại sự kiểm soát đối với Tây Vực, cũng như đối với các bộ lạc láng giềng, chẳng hạn đối với người Ô Hoàn. Năm 24, Hô Đô Nhi Thi thậm chí còn nhắc đến vấn đề đảo ngược lại hệ thống triều cống. Bắc và Nam Hung Nô Quyền lực mới của người Hung Nô là trùng hợp với chính sách xoa dịu của Hán Quang Vũ Đế (5 TCN-57, cầm quyền từ năm 25 đến năm 57). Khi ở đỉnh cao nhất của quyền lực, Hô Đô Nhi Thi thậm chí còn so sánh mình với ông tổ nổi tiếng là Mặc Đốn. Tuy nhiên, do chủ nghĩa cục bộ địa phương lại gia tăng giữa những người Hung Nô nên Hô Đô Nhi Thi đã không bao giờ có thể thiết lập uy quyền ở mức không bị tranh cãi. Khi ông chỉ định con trai mình làm người kế vị (trái với quy tắc truyền ngôi cho anh em do Hô Hàn Tà đề ra) thì Bỉ, khi ấy là hữu hiền vương, đã từ chối tham dự cuộc họp mặt hàng năm tại cung điện của thiền vu. Là con trai lớn của thiền vu trước đó, Bỉ có quyền đòi hỏi sự kế vị. Năm 48, hai năm sau khi con trai của Hô Đô Nhi Thi là Bồ Nô lên ngai vàng, tám bộ lạc Hung Nô trong khu vực căn cứ của Bỉ tại miền nam, với lực lượng khoảng 40.000 đến 50.000 người, đã tôn Bỉ làm thiền vu của họ. Trong suốt thời Đông Hán, hai nhóm này được gọi là nam Hung Nô và bắc Hung Nô. Bị người Hung Nô miền bắc chèn ép mạnh và bị tổn thất bởi thiên tai, Bỉ đã đưa người Hung Nô miền nam trở lại quan hệ triều cống với Trung Quốc của nhà Hán vào năm 50. Hệ thống triều cống đã được thắt chặt đáng kể để giữ người Hung Nô miền nam dưới sự giám sát của nhà Hán. Thiền vu được lệnh phải đặt kinh đô tại huyện Meiji của quận Tây Hà. Người Hung Nô miền nam đã được tái định cư tại 8 quận vùng biên giới. Cùng thời gian đó, một lượng lớn người Hán đã bị ép buộc phải di cư tới các quận này, tại đây các khu định cư hỗn tạp bắt đầu xuất hiện. Về mặt kinh tế, người Hung Nô miền nam gần như dựa hoàn toàn vào sự hỗ trợ của nhà Hán. Các quan hệ căng thẳng là hiển nhiên giữa những người Hán định cư và những người có cuộc sống du cư. Vì thế, năm 94 thiền vu An Quốc (安國) đã hợp nhất các lực lượng với người Hung Nô mới bị nô dịch hóa từ phía bắc để bắt đầu một cuộc nổi dậy lớn chống lại nhà Hán. Vào cuối thời Đông Hán, người Hung Nô miền nam đã tham gia vào nhiều cuộc nổi dậy khi đó đang gây ra nhiều phiền toái cho nhà Hán. Năm 188, thiền vu Khương Cừ (羌渠) bị một số thần dân của mình ám sát vì đã đồng ý gửi quân đội đến giúp nhà Hán dẹp loạn tại Hà Bắc – nhiều người Hung Nô e ngại rằng điều này có thể trở thành tiền lệ cho sự phục vụ quân đội không có điểm kết thúc cho nhà Hán. Con trai của thiền vu bị sát hại này lên kế vị, nhưng ông này sau đó cũng đã bị những người nổi loạn này lật đổ vào năm 189. Ông ta chạy tới Lạc Dương để tìm kiếm sự trợ giúp của nhà Hán, nhưng vào thời gian đó thì triều đình nhà Hán cũng đang rối loạn do mâu thuẫn giữa các phe cánh của Hà Tiến và các hoạn quan, cũng như sau đó là sự chuyên quyền của Đổng Trác. Thiền vu này tên là Ư Phù La (於扶羅), với tước hiệu là Đặc Chí Thi Trục Hầu (特至尸逐侯), đã không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc cùng những người đi theo ở lại Bình Dương, một thành phố thuộc Sơn Tây, Trung Quốc ngày nay. Năm 195, ông ta chết và người em ông ta tên là Hô Trù Tuyền (呼廚泉) đã kế nghiệp. Năm 216, Tào Tháo đã cầm giữ Hô Trù Tuyền tại Nghiệp Thành (鄴城) và chia những người đi theo ông ta tới Sơn Tây thành 5 bộ: tả, hữu, nam, bắc và trung. Điều này nhằm ngăn cản những người Hung Nô lưu vong tại Sơn Tây dính líu vào các cuộc nổi loạn, cũng như cho phép Tào Tháo sử dụng người Hung Nô làm các lực lượng bổ trợ cho đội quân kỵ binh của mình. Cuối cùng, tầng lớp quý tộc Hung Nô tại Sơn Tây đã đổi họ của mình từ Loan Thì (欒提) thành Lưu vì các lý do uy tín và thanh thế, khi họ cho rằng mình có quan hệ họ hàng với hoàng tộc nhà Hán, thông qua chính sách liên minh hôn nhân từ thời trước. Hung Nô sau thời Hán Sau thời Hô Trù Tuyền (呼廚泉), người Hung Nô bị chia nhỏ thành 5 bộ lạc địa phương. Tình trạng dân tộc phức tạp của các khu định cư hỗn tạp tại khu vực biên giới bắt đầu từ thời Đông Hán đã tạo ra các hậu quả nghiêm trọng, đã không được chính quyền Trung Quốc nắm rõ cho đến tận cuối thế kỷ III. Vào năm 260, Lưu Khứ Ti (劉去卑) đã tổ chức liên minh Thiết Phất (鐵弗) ở miền đông bắc và vào năm 290, Lưu Nguyên Hải (刘元海) đã làm thủ lĩnh của một nhóm nhỏ tại miền tây nam. Vào thời gian này, sự náo động của những người không phải là người Hán đã đạt tới quy mô đáng báo động dọc theo toàn biên giới của nhà Tây Tấn. Lưu Uyên và nước Hán (304-318) Năm 304, Lưu Uyên (劉淵) (?-310), người cháu nội đã Hán hóa của Ư Phù La (vốn có tên là Lưu Bang, Uyên chỉ là tên tự, nhưng vì trùng với tên húy của Hán Cao Tổ nên sử sách chỉ dùng tên tự), khuấy động các hậu duệ của người Hung Nô miền nam nổi lên làm loạn tại Sơn Tây, nhân nhà Tây Tấn suy yếu vì loạn bát vương (Bát vương chi loạn). Lưu Uyên nổi lên và sau đó đã hoành hành quanh kinh đô nhà Tây Tấn là Lạc Dương. Quân Lưu Uyên được nhiều người Hán vùng biên giới đi theo và được gọi là Bắc Hán. Lưu Uyên sử dụng từ 'Hán' làm quốc hiệu, hy vọng có được sự ủng hộ của những người còn luyến tiếc quá khứ huy hoàng của nhà Hán và lập kinh đô tại Bình Dương (平阳, ngày nay là Lâm Phần (臨汾)). Người Hung Nô sử dụng một lượng lớn kỵ binh nặng với áo giáp sắt cho cả người và ngựa, làm cho họ có ưu thế quyết định so với quân đội nhà Tấn đã bị suy yếu và nản lòng vì ba năm nội chiến. Năm 311, quân Hán chiếm được Lạc Dương, bắt vua nhà Tấn là Tư Mã Sí (司馬熾-tức Tấn Hoài Đế). Năm 316, vị hoàng đế tiếp theo của nhà Tấn là Tấn Mẫn Đế (晉愍帝) cũng bị bắt tại Trường An và toàn bộ miền bắc Trung Quốc nằm dưới sự thống trị của người Hung Nô trong khi những người còn lại của hoàng tộc nhà Tấn chạy xuống phía nam (các nhà sử học gọi là nhà Đông Tấn). Lưu Diệu và nước Triệu (318-329) Năm 318, sau cuộc đảo chính cung đình tại triều đình nước Hán của người Hung Nô (trong đó cả vua Hán (Hán Triệu) và phần lớn các quan lại đều bị thảm sát), một hoàng tử của người Hung Nô là Lưu Diệu (劉曜) (con nuôi của Lưu Uyên) đã dời kinh đô từ Bình Dương tới Trường An và đổi tên nước thành Triệu (趙), vì thế các nhà sử học gọi chung tiểu quốc này là Hán Triệu). Tuy nhiên, khu vực phía đông của miền bắc Trung Quốc đã nằm dưới sự kiểm soát của một viên tướng nước Hán Triệu này là Thạch Lặc (石勒), thuộc nhóm người Yết (羯- có lẽ có tổ tiên gốc Enisei). Lưu Diệu và Thạch Lặc đã đem quân đánh lẫn nhau cho tới tận năm 329, khi Lưu Diệu bị bắt sống tại trận và sau đó bị hành hình. Trường An ngay sau đó bị rơi vào tay Thạch Lặc, và triều đại của người Hung Nô bị xóa bỏ. Miền bắc Trung Quốc đã nằm dưới sự trị vì của Thạch Lặc (nước Hậu Triệu) trong vòng 20 năm sau. Tuy nhiên, người Hung Nô mang họ "Lưu" vẫn còn hoạt động ở miền bắc trong ít nhất là một thế kỷ nữa. Thiết Phất và nước Hạ (260-431) Nhánh Thiết Phất (鐵弗) ở miền bắc của người Hung Nô đã giành được sự kiểm soát khu vực Nội Mông Cổ trong vòng 10 năm từ 376 - 386. Năm 376, nước Đại của người Thác Bạt (một nhánh của người Tiên Ti) bị nước Tiền Tần chinh phục và sau đó phục hồi vào năm 386 đổi tên là Bắc Ngụy. Sau năm 386, người Thiết Phất dần dần bị Thác Bạt bộ Tiên Ty tiêu diệt hoặc bức hàng. Những người Thiết Phất chịu quy phục được gọi là người Độc Cô (獨孤). Lưu Bột Bột (劉勃勃), một hoàng tử sống sót của người Thiết Phất chạy tới khu vực Ordos (vùng Hà Sáo, cao nguyên Hoàng Thổ), thành lập ra một tiểu quốc gọi là nước Hạ (gọi như vậy là do tổ tiên của người Hung Nô được coi là có từ triều đại nhà Hạ) và đổi họ thành Hách Liên (赫連 - tiếng Hung Nô nghĩa là Trời). Nhà nước Hạ của họ Hách Liên sau đó đã bị Bắc Ngụy của người Tiên Ty chinh phục vào năm 431. Người Hung Nô kể từ đây trở đi bị giảm vai trò trong lịch sử Trung Quốc, dần dà bị đồng hóa thành người Tiên Ti và người Hán. Truyền thuyết của người H’Mông Người H'Mông tại Trung Quốc tin rằng người Hung Nô cổ đại trên thực tế là một nhóm người H'Mông, vào thời gian đó được những người khôn ngoan nhất của bộ tộc lãnh đạo. Theo giả thuyết này, người H'Mông đã từng sinh sống trong khu vực gần Mãn Châu vào khoảng 5.000 năm trước. Cuối cùng thì sau thất bại tại trận Trác Lộc huyền thoại và cái chết của người thủ lĩnh là Xi Vưu, họ đã chạy về phương nam xuyên qua Trung Quốc để tới Đông Nam Á, mặc dù một số người vẫn ở lại và tập hợp lại với nhau thành người Hung Nô. Ở đây có sự suy đoán là tên gọi "Hung" có nghĩa là "người trị vì" hoặc "người vĩ đại". Trong tiếng H'Mông, từ Nô (có thể được phát âm với giọng cao) có nghĩa là "công việc". Điều đó có nghĩa là Hung Nô trong tiếng H'Mông mang nghĩa công việc của người trị vì. Sắc tộc ngôn học của người Hung Nô Cái tên Hung Nô (phiên âm Hán Việt) là một từ miệt thị được đặt bởi người Hán, hai chữ 匈奴 có nghĩa đen là "nô lệ hung dữ". Có nhiều giả thuyết về danh tính dân tộc ngôn học (ethnolinguistic, ngành khoa học phân loại dân tộc dựa trên ngôn ngữ) của người Hung Nô. Người Hung Cách phát âm tiếng Hán thượng cổ của chữ đầu tiên (匈) được tái tạo là (âm tự theo IPA). Cách phát âm này có nhiều tương đồng với từ "Hun" (người Hung) trong các ngôn ngữ châu Âu. Chữ thứ hai (奴) có nghĩa là nô lệ và không có từ nguyên tương đương trong các ngôn ngữ phương Tây. Ta không biết liệu cách phát âm giống nhau của từ thứ nhất là quan hệ họ hàng hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu chúng thực sự có liên quan thì một trong ba giả thuyết sau đây sẽ đúng: rằng người Hung là hậu duệ của Hung Nô phương Bắc di cư về phía tây, hoặc người Hung dùng cái tên họ vay mượn từ Hung Nô phương Bắc, hoặc người Hung Nô là một bộ phận của liên minh các tộc người Hung. Giả thuyết Hung Nô-Hung từng được đề xuất bởi nhà sử học người Pháp Joseph de Guignes vào thế kỷ 18. Ông nhận thấy rằng các sử gia Trung Quốc cổ đại gọi các bộ lạc có liên hệ với người Hung Nô bằng những cái tên tương tự như "Hung", mặc dù được viết bằng các ký tự khác nhau. Étienne de la Vaissière phát hiện ra rằng trong bảng chữ Sogdia được viết trên "Các lá thư cổ Sogdia", người Hung Nô và người Hung đều được gọi là γwn (xwn), cho thấy rằng hai cái tên này đồng nghĩa. Mặc dù giả thuyết người Hung Nô là tổ tiên của người Hung được nhiều học giả chấp nhận, quan điểm này vẫn chưa thực sự được công nhận một cách chính thức. Giả thuyết này có lẽ không hẳn đúng hoặc nó đơn giản hóa quá mức một vấn đề phức tạp hơn. Giả thuyết ngữ chi Iran Nhà ngôn học Harold Walter Bailey cho rằng người Hung Nô nói một thứ tiếng có gốc Iran dựa trên các tên gọi từ thế kỷ thứ 2 TCN. Học thuyết này được ủng hộ bởi nhà ngôn học chuyên về các ngôn ngữ Tuốc Henryk Jankowski.[10] Học giả Trung Á Christopher I. Beckwith lưu ý rằng tên Xiongnu có lẽ là một từ chung gốc (cognate) với các từ Scythia, Saka và Sogdia, có nguồn gốc từ nhóm ngôn ngữ Đông Iran. Theo Beckwith, liên minh Hung Nô hầu hết là người gốc từ Iran khi mới thành lập nhưng nhiều khả năng là trước thời điểm đó, họ từng là chư hầu của người Iran và thừa kế mô hình du mục của dân Iran cổ. Trong cuốn History of Civilizations of Central Asia do UNESCO xuất bản năm 1994, biên tập bởi János Harmatta tuyên bố rằng các bộ lạc hoàng tộc và các vị vua của người Hung Nô đều mang tên gốc Iran, rằng vốn từ Hung Nô mà người Trung Quốc ghi nhận có lẽ là từ một ngôn ngữ Scythia nào đó và phần lớn các bộ lạc Hung Nô nói một ngôn ngữ Đông Iran. Giả thuyết ngữ hệ Mongol Người Mông Cổ và nhiều học giả khác cho rằng người Hung Nô nói một ngôn ngữ trong ngữ hệ Mông Cổ. Các nhà khảo cổ học Mông Cổ cho rằng những dân cư của Văn hóa Mộ phiến (Slab Grave culture) là tổ tiên của người Hung Nô, và một số học giả cho rằng người Hung Nô có lẽ là tổ tiên của người Mông Cổ. Nikita Bichurin coi người Hung Nô và Tiên Ti là hai phân nhóm (hoặc vương triều) của cùng một dân tộc. GŽrard Chaliand và R. Bin Wong, sau khi xem xét Sử ký Tư Mã Thiên và các thư tịch cổ khác, kết luận rằng "Mặc dù biên niên sử Trung Quốc mô tả người Hung Nô là người Mông Cổ, chúng mô tả các chiến binh có mái tóc vàng và mắt xanh, tôn thờ một vị thần bầu trời tên là Tengri và được các pháp sư làm cầu nối". Theo "Tống Sử", người Nhu Nhiên (cuốn Ngụy thư xác định họ là hậu duệ của người Đông Hồ mà các học giả hiện đại cho rằng nói một thứ tiếng Proto-Mông Cổ) còn có các tên khác là 大檀 (Bính âm: Dàtán, Hán-Việt: Đại Đàn) "Tatar" và/hoặc 檀檀 (Bính âm: Tántán, Hán-Việt: Đàn Đàn) "Tartar". Theo Lương Thư, "họ tạo thành một nhánh riêng của Hung Nô". Nhà thơ thời Tống Tô Thức từng viết "Xích nhiêm bích nhãn lão Tiên Ti" (nghĩa là "ông lão Tiên Ti râu đỏ mắt xanh") trong bài thơ "Viết về [bức tranh] Hai con ngựa của Hàn Can" (Thư Hàn Can Nhị Mã); và Cựu Đường thư đề cập đến người Thất Vy đầu vàng (Hán tự: 黃頭室韋, Bính âm: Huángtóu Shìwéi, Hán-Việt: Hoàng đầu Thất vy) trong số 20 bộ lạc Thất Vy, mà các nguồn của Trung Quốc (Tùy thư, Cựu Đường Thư, Tân Đường thư) cho rằng có quan hệ với người Khiết Đan. Cũng theo sử liệu Trung Quốc, người Khiết Đan chính là hậu duệ của người Tiên Ti và có liên hệ với người Hung Nô. Các dân tộc Tiên Ti, Khiết Đan và Thất Vy được cho là những người nói ngữ hệ Mông Cổ và Cận-Mông Cổ. Thế mà, người Tiên Ti lại được chép là có nguồn gốc từ người Đông Hồ, sắc tộc khác hẳn với người Hung Nô và từng bị chinh phạt bởi Thiền vu Mặc Đốn. Ngoài ra, các nhà viết sử Trung Quốc thường quy nguồn gốc của người Hung Nô cho các nhóm du mục không liên quan: ví dụ, tổ tiên của Hung Nô được coi là người Kumo Xi nói thứ tiếng thuộc ngữ hệ Cận-Mông Cổ, và đồng thời là tổ tiên của người Göktürk và người Thiết Lặc nói các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Turk. Thành Cát Tư Hãn từng viết "thời kỳ xa xôi của Thiền vu chúng ta" để chỉ thời đại Mặc Đốn trong một bức thư ông gửi cho Đạo sĩ Khâu Xứ Cơ. Biểu tượng mặt trời và mặt trăng của Hung Nô mà các nhà khảo cổ học phát hiện gần giống với biểu tượng Soyombo của người Mông Cổ. Giả thuyết ngữ hệ Turk Những nhà nghiên cứu ủng hộ học thuyết tiếng Hung Nô thuộc ngữ hệ Turk bao gồm E.H. Parker, Jean-Pierre Abel-Rémusat, Julius Klaproth, Kurakichi Shiratori, Gustaf John Ramstedt, Annemarie von Gabain và Omeljan Pritsak. Một số nguồn khẳng định rằng giai cấp thống trị Hung Nô nói tiếng proto-Turk. Craig Benjamin coi Hung Nô là dân tộc nói tiếng proto-Turk hoặc proto-Mông Cổ, có lẽ liên quan đến tiếng nói của người Đinh Linh. Các sử liệu Trung Quốc liên kết người Thiết Lặc và người A Sử Na (Ashina) với Hung Nô. Theo Chu thư và Bắc sử, tộc A Sử Na là thành viên của liên minh Hung Nô. Các khả hãn người Duy Ngô Nhĩ tự xưng là có nguồn gốc Hung Nô (theo Ngụy thư, người sáng lập hãn quốc Duy Ngô Nhĩ là hậu duệ của một thiền vu Hung Nô). Cả Bắc Sử và Chu thư, và một bản khắc cổ bằng tiếng Sogdia, chép rằng người Göktürk là một phân nhóm của người Hung Nô. Giả thuyết ngữ hệ Enisei Lajos Ligeti là học giả tiên phong cho học thuyết tiếng Hung Nô thuộc ngữ hệ Enisei. Vào đầu những năm 1960, Edwin Pulleyblank mở rộng ý tưởng này với nhiều bằng chứng đáng tin cậy. Năm 2000, Alexander Vovin xem xét lại các lý thuyết của Pulleyblank và tìm ra nhiều bằng chứng bổ sung dựa trên bản phục dựng gần đây nhất của âm vị học tiếng Hán thượng cổ của các tác giả Starostin và Baxter, cùng một bản phiên âm tiếng Trung duy nhất còn sót lại của một câu được viết trong ngôn ngữ của người Yết, một dân tộc thành viên của Liên minh Hung Nô. Các cách giải thích trước đây bằng ngữ hệ Turk không khớp với bản dịch tiếng Trung của câu này, nhưng khi áp dụng ngữ pháp Enisei thì lại ăn khớp hoàn toàn. Pulleybank và D. N. Keightley khẳng định rằng các tước danh Hung Nô "ban đầu là các từ của tiếng Siberia nhưng sau này được các dân tộc nối tiếng Turk và Mông Cổ vay mượn". Tiếng của người Hung Nô đã ảnh hường đến ngôn ngữ của các Đế quốc người Turk và Mông Cổ sau này; một số từ văn hóa quan trọng được vay mượn bao gồm: tängri trong tiếng Turk, tenggeri trong tiếng Mông Cổ, ban đầu đọc là chengli trong tiếng Hung Nô, đều có nghĩa là "thiên đường". Các tước danh như tarqan, tegin và kaghan cũng được kế thừa từ ngôn ngữ Hung Nô và có lẽ bắt nguồn từ ngữ hệ Enisei. Ví dụ, từ "thiên đường" trong tiếng Hung Nô được suy đoán là bắt nguồn từ tiếng Proto-Yenisei (Enisei nguyên thủy) là tɨŋVr. Theo Edwin G. Pulleyblank, sự tồn tại của các phụ âm đầu r và l, cùng các cụm phát âm đầu trong tiếng Hung Nô chứng tỏ nó không thuộc vùng ngôn ngữ sprachbund Altai, và vốn từ của tiếng Hung Nô rất giống tiếng Enisei. Cách đơn giản nhất để giải thích điều này đó chính là: Tiếng Hung Nô là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Enisei, còn các tiếng Turk và Mông Cổ bị ảnh hưởng bởi tiếng Hung Nô. Haplogroup Q được tìm thấy ở người Hung Nô và xuất hiện ở khoảng 94% dân số người Ket. Nhiều từ Hung Nô dường như chung gốc với nhiều từ trong ngôn ngữ Enisei, chẳng hạn: "sakdak" trong tiếng Hung Nô và "saagdi" trong tiếng Ket đều mang nghĩa là 'ủng', kʷala trong tiếng Hung Nô nghĩa là 'con trai' và qalek trong tiếng Ket nghĩa là 'cháu trai'. Theo Vovin (2007) người Hung Nô có lẽ đã nói một thứ tiếng Enisei. Có lẽ thuộc nhánh phương nam của ngữ hệ Enisei. Từ "ket" đã được đối chiếu với tiếng phục dựng Proto-Enisei "keʔt", nghĩa là 'người' Niên biểu Hung Nô
Nhà công vụ là nhà được phân cho người đang làm việc công (thường là người có chức quyền hoặc cán bộ công nhân viên chức hoặc người có nhiệm vụ đặc thù), dùng để ở, tiếp khách hoặc các chức năng khác nhằm mục đích phục vụ việc công tương xứng với nhiệm vụ được giao để tạo điều kiện, môi trường làm việc, sinh hoạt thuận lợi, tiện ích, sang trọng tương ứng với thể diện cần phải có của chức vụ cũng như điều kiện bảo đảm an ninh, giao tiếp, giữ khoảng cách với người nước ngoài, các đồng nhiệm, bạn đồng liêu, cấp dưới, dân hoặc khách cần liên hệ trong mức độ cho phép của ngân sách, nguồn quỹ công sản cũng như quan niệm của Chính phủ hiện tại về nhu cầu của chức vụ. Sự cần thiết Các quan chức, viên chức của nhà nước, chính phủ, cơ quan doanh nghiệp, tổ chức chính trị, xã hội khi được giao nhiệm vụ cần có môi trường sinh hoạt, làm việc tương xứng phù hợp với nhiệm vụ được giao nhưng không phải ai cũng có điều kiện nhà ở tương xứng gần nơi nhận nhiệm vụ nên các nhà nước luôn dành ra một quỹ nhà ở tập thể hoặc cá nhân làm nhà công vụ từ nguồn quỹ công sản. Nhà công vụ ở Việt Nam Ở Việt Nam, khái niệm nhà công vụ không được rõ ràng và không có quy định cụ thể về nhà sở hữu nhà nước và nhà công vụ, trước khi Luật nhà ở số 56/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 ban hành ngày 09 tháng 12 năm 2005 có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2006. Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước ở Việt Nam Nhà ở thuộc sở hữu nhà nước đã có từ lâu, từ thời Pháp thuộc đã có công thự dành cho công chức. Sau năm 1954 ở miền Bắc đã có rất nhiều khu nhà tập thể thuộc sở hữu nhà nước được phân cho cán bộ công nhân viên chức nhà nước và tập thể, tổ chức chính trị, xã hội nhưng ít có số liệu thống kê cụ thể từng cơ quan, địa phương. Quỹ nhà ở thuộc sở hữu nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương có nhà sở hữu nhà nước thuộc loại nhiều nhất nước. Sau năm 1975, Thành phố Hồ Chí Minh xác lập sở hữu nhà nước gần 100.000 căn nhà, xưởng. Trong số đó có khoảng 34.000 nhà ở, gồm nhà chung cư, cư xá, nhà biệt thự, nhà phố. Số còn lại là các cơ quan, nhà xưởng,... và sau này được chuyển giao cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước.Năm 1992, Thủ tướng ban hành quyết định 118, chấm dứt tình trạng bao cấp nhà ở. Quyết định này cũng đưa chế độ tiền nhà ở vào tiền lương bằng các mức phụ cấp khác nhau. Thành phố Hà Nội: Đến năm 1994 Hà Nội có 155.128 căn nhà thuộc sở hữu nhà nước. Về chính sách bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nướcNgày 5 tháng 7 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 61/CP về mua bán và kinh doanh nhà ở, trong đó quy định về việc bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê. Trong quá trình triển khai thực hiện, để phù hợp với tình hình thực tế, ngày 16 tháng 4 năm 1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 21/CP về việc sửa đổi Điều 5 và Điều 7 của Nghị định số 61/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở.Tiếp đó, Nhà nước ban hành một số chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho người mua nhà, đặc biệt là người có công với cách mạng thông qua việc miễn, giảm tiền sử dụng đất, giảm tiền nhà khi mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo Nghị định số 61/CP. Theo điều 5 nghị định 61/CP thì Nhà nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê phần diện tích đang được thuê để người mua nhà ở có điều kiện cải thiện chỗ ở, trừ các loại nhà ở sau đây: Nhà ở thuộc khu vực quy hoạch xây dựng các công trình khác hoặc cải tạo thành nhà ở mới. Nhà chuyên dùng đang bố trí tạm làm nhà ở (khách sạn, nhà nghỉ, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, kho tàng và các loại nhà chuyên dùng khác); Biệt thự các loại có kế hoạch dùng làm công thự hoặc dùng vào các mục đích khác. Thực tế triển khai bán nhà thuộc sở hữu nhà nước và sử dụng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước ở Việt Nam Việc triển khai chính sách bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê trong gần 12 năm từ 1994 đến 2006 theo Chính phủ Việt Nam đã góp phần cải thiện rõ rệt điều kiện về chỗ ở cho hàng vạn hộ gia đình. Nhưng việc bán nhà ở còn rất chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra của Chính phủ, bình quân đạt khoảng 45% trong đó thành phố Hà Nội đã bán 82.000 căn, Thành phố Hồ Chí Minh đã bán 54.963 căn, thành phố Hải Phòng đã bán 10.000 căn, thành phố Đà Nẵng đã bán 3.530 căn…. Những địa phương có nhiều nhà ở thuộc sở hữu nhà nước đều chưa hoàn thành việc bán nhà ở theo thời hạn mà Chính phủ đã quy định tại Nghị quyết số 06/2004/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2004 về một số giải pháp phát triển lành mạnh thị trường bất động sản. Thực tế các địa phương đã đề nghị bán cả công thự, biệt thự kể cả loại đặc biệt sai với điều 5 của nghị định 61/CP. Chỉ riêng 4 quận (Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa) Hà Nội đã có tới 379 biệt thự bị "đề nghị bán", trong đó có 42 biệt thự "đề nghị bán đợt đầu". Trong đó có biệt thự 12 Nguyễn Chế Nghĩa không những không phải là "nhà gạch 2 tầng", mà còn là một trong số 198 biệt thự công tại Hà Nội có giá trị đặc biệt. Tình hình thực hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh: Năm 1994, Chính phủ ban hành nghị định 61/CP, trong đó cho phép bán hóa giá nhà sở hữu nhà nước đối với người đang thuê. Đến năm 2001, Thủ tướng tiếp tục ban hành quyết định 80 về việc xử lý, sắp xếp nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Quyết định này cho phép hóa giá nhà ở đã bố trí cho cán bộ, công nhân viên từ trước năm 1995, nếu phù hợp với quy hoạch của Thành phố Hồ Chí Minh. Kể từ năm 1994 khi nghị định 61/CP có hiệu lực, cán bộ không được thuê nhà sở hữu nhà nước. Nhưng do Thành phố Hồ Chí Minh chưa có quy định về nhà công vụ, nhiều người thuộc diện chính sách chưa có nhà ở nên Ủy ban nhân dân thành phố có xem xét, giải quyết từng trường hợp cụ thể và phải thông qua Thường trực Ủy ban nhân dân thành phố quyết định. Đến năm 2006, trong việc bán nhà sở hữu nhà nước thực hiện theo nghị định 61/CP thì giá đất đang được tính theo quyết định 05 của Ủy ban nhân dân thành phố ban hành năm 1995 (mức giá này tối đa chỉ bằng 20% giá thị trường). Từ năm 2005, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành giá đất mới. Tuy nhiên, để đẩy nhanh tiến độ bán nhà sở hữu nhà nước, Ủy ban nhân dân thành phố đã kiến nghị cho áp dụng giá theo quyết định 05 đến cuối năm 2006 và được Chính phủ chấp thuận. Theo số liệu từ Sở Xây dựng thành phố, Thành phố Hồ Chí Minh đã hóa giá khoảng 24.000 căn nhà sở hữu nhà nước. Hơn 9.000 căn còn lại đang tiếp tục tháo gỡ vướng mắc, xem xét hóa giá. Theo quy định của Chính phủ, cuối năm 2006 phải hóa giá xong nhà sở hữu nhà nước. Nếu thực hiện theo quy định này thì thành phố Hồ Chí Minh không còn nhà ở thuộc sở hữu nhà nước. Tình hình thực hiện ở Thành phố Hà Nội: Sau 12 năm thực hiện công tác bán nhà theo Nghị định 61/CP, tới ngày 08 tháng 09 năm 2006, Hà Nội mới bán được 81.298 căn hộ, còn lại 73.830 căn hộ - nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước. Theo bà Nguyễn Hồng Ánh, Trưởng ban 61/CP, ban chuyên trách thẩm định và duyệt hồ sơ xin mua nhà theo Nghị định 61/CP (Sở Tài nguyên Môi trường - Nhà đất Hà Nội) từ đầu năm 2006 đến đầu tháng 9 năm 2006 Ban 61/CP mới bán được khoảng 6.000 căn hộ và hiện đang nắm khoảng 21.500 hồ sơ xin mua nhà nhưng mới duyệt được khoảng 11.000 bộ. Trong số này, Ban đã mời tất cả lên để hoàn tất việc mua nhà song chỉ có 7.000 trường hợp có mặt trao đổi và đồng ý mua. Số còn lại đều tìm lý do từ chối hoàn tất việc mua nhà. Như vậy, khối lượng nhà 61/CP cần giải quyết của thành phố còn rất lớn khoảng 20.000 căn hộ chưa nộp hồ sơ xin mua (có thể là không có ý định mua) và khoảng 14.000 trường hợp đã nộp hồ sơ nhưng chưa hoàn tất việc mua nhà. Theo kế hoạch, đến cuối năm, Công ty Quản lý phát triển nhà thành phố phải bán 40.000 căn hộ nữa. Để đẩy nhanh tốc độ bán nhà, Ban đã chỉ đạo tất cả các đầu mối bán nhà theo Nghị định 61/CP phải giải thích rõ về chính sách và giá ngay khi nhận hồ sơ của người dân. Trước đây, chỉ bán diện tích trong hợp đồng nên không hấp dẫn được người mua. Nên thành phố đã cho bán cả diện tích liền kề đã sử dụng ổn định, không xảy ra tranh chấp. Các hộ mua nhà chỉ cần có xác nhận của ủy ban nhân dân phường, xã. Thực tế ở Hà Nội cũng như nhiều địa phương khác đều tồn tại tình trạng khâu phối hợp của các ban ngành chưa chặt chẽ, nhiều nơi thủ tục hành chính còn phức tạp, việc chuyển giao nhà từ các cơ quan tự quản sang cơ quan quản lý nhà đất của địa phương còn bất cập, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho người mua còn chậm. Điều đó khiến nhiều người dân nản lòng khi quyết định mua nhà theo Nghị định 61/CP. Biện pháp đẩy nhanh tiến độ bán nhà Nguyên nhân của tình hình không thực hiện đúng kế hoạch bán nhà sở hữu nhà nước theo Chính phủ là do việc chuyển giao nhà ở từ các cơ quan tự quản sang cơ quan quản lý nhà đất của địa phương còn chậm; sự phối hợp của các ban, ngành chưa chặt chẽ; nhiều nơi thủ tục hành chính còn phức tạp; việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho người mua còn chậm; một số quy định về thu tiền nhà khi bán nhà cấp IV tự quản đã xây dựng lại, phương thức trả dần tiền mua nhà ở quy ra vàng chưa phù hợp với thực tế. Để đẩy nhanh tiến độ bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê nhằm giải quyết những bức xúc cho người mua nhà, tạo điều kiện thực hiện các quy định của Luật Nhà ở đã được Quốc hội Việt Nam thông qua, góp phần chấn chỉnh công tác quản lý đối với quỹ nhà ở thuộc sở hữu nhà nước, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7 năm 2006, Chính phủ Việt Nam thống nhất một số giải pháp theo nghị quyết số 23/2006/NQ-CP ngày 07 tháng 09 năm 2006: Các cơ quan, đơn vị đang quản lý quỹ nhà ở thuộc sở hữu nhà nước có trách nhiệm chuyển giao toàn bộ quỹ nhà ở về Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tiếp nhận nguyên trạng để triển khai công tác quản lý theo quy định thống nhất về quản lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước về việc bán nhà ở cho người đang thuê trên địa bàn. Việc chuyển giao phải hoàn thành trước ngày 30 tháng 12 năm 2006. Đối với nhà ở thuộc sở hữu nhà nước mà không xác định được cơ quan, đơn vị quản lý thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiến hành thủ tục quản lý mà không cần có văn bản thỏa thuận của cơ quan, đơn vị quản lý. Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện nghiêm chỉnh việc chuyển giao nhà ở tự quản để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý. Nếu Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị không thực hiện chuyển giao thì Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các thiệt hại do nhà ở bị hư hỏng hoặc do buông lỏng quản lý gây ra thất thoát, tiêu cực. Về thu tiền sử dụng đất, tiền nhà khi bán nhà ở cho người đang thuê: Giá đất khi bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê được thực hiện theo giá mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã áp dụng tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004. Mức thu tiền sử dụng đất khi bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước thực hiện theo quy định tại Nghị định số 61/CP và Nghị định số 21/CP; Đối với phần diện tích đất mở rộng liền kề với nhà ở thuộc sở hữu nhà nước nếu phù hợp với quy hoạch xây dựng thì người mua nhà phải nộp tiền sử dụng đất đối với diện tích mở rộng đó theo quy định tại Nghị định số 61/CP; Nhà ở công vụ Theo Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 6/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở thì Nhà ở công vụ là nhà ở do Nhà nước đầu tư xây dựng cho một số đối tượng quy định tại Điều 60 của Luật Nhà ở thuê trong thời gian đảm nhiệm công tác theo cơ chế do Nhà nước quy định. Các đối tượng được thuê nhà ở công vụ theo luật là: Cán bộ, công chức thuộc các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội được điều động, luân chuyển theo yêu cầu công tác mà chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình tại địa phương nơi đến công tác. Sĩ quan chuyên nghiệp thuộc lực lượng vũ trang nhân dân được điều động, phục vụ theo yêu cầu quốc phòng, an ninh. Cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước thuộc diện ở nhà ở công vụ trong thời gian đảm nhận chức vụ. Quan niệm về chức vụ Quan niệm về điều kiện cần có của chức vụ đại diện nhà nước, tổ chức, cơ quan thay đổi theo thời gian, theo ý thức của người dân cũng như ý chí của nhà nước tuỳ theo khả năng của nền kinh tế và nguồn quỹ công sản. Quan niệm về bảo đảm thể diện, an toàn của gia đình người giữ chức đứng đầu quốc hội, toà án, nhà nước, chính quyền ở trung ương hoặc ở địa phương. Một số nước xem việc này là rất quan trọng nhưng một số nước theo thể chế dân chủ đã lâu, nhất là các nước Bắc Âu, các vị đứng đầu nhà nước như vua hoặc đứng đầu chính phủ như thủ tướng rất ngại chi xài tiền dân một cách vô lối, họ sẵng sàng ở nhà riêng, đi làm bằng xe đạp, xe bus hoặc thăm viếng nước ngoài bằng máy bay thương mại cho dù có vì vậy mà không được an toàn bằng dùng công sản. Quan niệm về hình ảnh cao quý cần phải có: nhà công vụ còn nhằm tôn vinh giá trị của người có chức vụ có mức lương không thật cao so với bạn đồng liêu, cấp dưới hoặc giúp giữ hình ảnh cao quý trong mắt người dân như nhà công vụ dành cho các hiệu trưởng, viện trưởng. Ngày nay quan niệm về sự cao quý của người thầy có giảm và nhu cầu về nhà công vụ dành riêng cho các hiệu trưởng gần như không còn thấy. Quan niệm về khoảng cách cần có chức vụ: để tạo một khoảng cách với người thân, bạn bè về mặt không gian cũng như tâm lý, hoặc đơn thuần để bảo đảm an ninh cho gia đình để an tâm công tác một số chức vụ được xem không thể tuỳ tiện tiếp xúc như các quan chánh án, thẩm phán, công an, hải quan, thanh tra nhà nước, thanh tra giáo dục, giám khảo, thầy giáo chấm thi cũng được cấp nhà công vụ. Quan niệm về thuận lợi công tác, đối ngoại và sự tương xứng chức vụ của người đứng đầu các cơ quan tổ chức như các hiệu trưởng các trường, giám đốc các bệnh viện, học viện, sở, ban, ngành, sân bay, doanh nghiệp nhà nước hoặc ngay cả những nhân viên, công chức được biệt phái đi xa, hoặc có hoàn cảnh khó khăn chỗ ở do công sở ở nơi xa xôi, hẻo lánh như các giáo viên, nhân viên trạm hải đăng, thuế vụ,biên phòng, hải quan, khí tượng, y tế cũng được phân nhà công vụ. Quan niệm về nhu cầu công việc bắt buộc phải có thường xuyên trong ngày như nhà công vụ của gia đình cai trường, bảo vệ bệnh viện, lái xe, người phục vụ cho yếu nhân ở trong khuôn viên công sở hoặc công thự, gia đình họ thường đi ngõ sau để ra vào cơ quan. Sử dụng nhà công vụ Sử dụng nhà công vụ ở các nước Nhà công vụ được quy định theo từng cấp độ chức vụ, thường chức càng cao, nhu cầu đối ngoại càng lớn, hoặc các ngành được xem là cao quý đối với người dân thì nhà công vụ càng lớn, đẹp, sang trọng và riêng biệt, nhà công vụ thường được bố trí gần công sở, có khi trong khuôn viên công sở như trường học, bệnh viện... Người sử dụng nhà công vụ không phải mất tiền, về nguyên tắc chỉ phải trả chi phí điện, nước, gas, điện thoại, cáp mạng... dùng riêng cho gia đình. Chi phí duy tu bảo dưỡng nhà công vụ do nhà nước chi trả. Sau khi rời khỏi chức vụ thì nhà công vụ được trả lại cho nhà nước và thường được phân cho gia đình người kế nhiệm ở, hoặc sử dụng đúng mục đích đã định trước hoặc làm nguồn dự phòng. Nói chung nhà công vụ thường gắn liền với từng chức vụ được giao một thời gian dài và ổn định cho đến khi nguồn quỹ công sản thay đổi. Người có chức vụ có khi bị bắt buộc phải ở nhà công vụ, cũng có khi không cần phải ở nhà công vụ tuỳ theo quy định của từng nước và thời kỳ. Sử dụng nhà công vụ hiện nay ở Việt Nam Số lượng nhà công vụ ở Việt Nam không được công khai và minh bạch như các nước về tiêu chuẩn được phân nhà, loại nhà công vụ, thủ tục nhận nhà, hoạt động duy tu, bảo dưỡng nhà công vụ. Sau khi Nghị định 61/CP ban hành năm 1994 thì đó là thời điểm kết thúc việc phân phối, bao cấp nhà ở. Tất cả nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước trước đây được bán lại cho người đang thuê sử dụng theo quy định. Sau thời điểm này, chỉ còn nhà kinh doanh. Nhưng hàng loạt công thự ở vị trí rất đẹp có giá trị lớn đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đề xuất hóa giá theo nghị định 61/CP sau năm 1994 mặc dù chủ trương hóa giá nhà 61/CP chỉ giải quyết đối với cán bộ lão thành cách mạng, không có chủ trương đối với các cán bộ đương chức. Biến thành nhà riêng: nhà công vụ được hóa giá theo nghị định 61/CP, sau khi về hưu hoặc chuyển công tác có thể trở thành nhà riêng thông qua hóa giá và không tính hết giá trị đất cũng như diện tích đất được cấp có thể quá lớn so với tiêu chuẩn chức vụ. Tại 4 quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa có tới 379 biệt thự bị "đề nghị bán", trong đó có 42 biệt thự "đề nghị bán đợt đầu". Sử dụng sai mục đích: Chỉ tính riêng địa bàn thành phố Hà Nội đã có hàng triệu mét vuông nhà đất công sử dụng sai mục đích. Ở thành phố Hồ Chí Minh cũng xảy ra tình trạng tương tự. Các sai phạm chủ yếu là không kê khai, cho thuê lại kiếm tiền, dùng sai mục đích, bỏ hoang, bị lấn chiếm trái phép. Bán nhà công vụ: Đến năm 2007 số biệt thự thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã được bố trí sử dụng, cho thuê gần 2.000 căn, phần lớn bố trí cho cán bộ, người có công... Trong đó biệt thự có diện tích khuôn viên trên 1.000m² là hơn 220 căn, biệt thự diện tích lớn hơn 500m² đến dưới 1.000m² hơn 440 căn... Đã bán trên 1.700 căn biệt thự công vụ. Hiện Công ty Quản lý kinh doanh nhà thành phố chỉ còn quản lý khoảng 160 căn biệt thự, trong đó biệt thự có diện tích trên 1.000m² chỉ còn 50 căn, biệt thự từ 500-1.000m² hơn 60 căn... Các biệt thự công vụ này tập trung nhiều ở khu vực quận 1, 3. Cho thuê Nhà công vụ Quốc hội có giá thuê từ 600.000-700.000 đồng một tháng mỗi căn hộ, chưa kể điện nước và các chi phí khác vào tháng 8 năm 2014 (theo ông Nguyễn Hạnh Phúc, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. Hiện nay (2017.6), Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý bất động sản Tây Đô đang là đơn vị quản lí vận hành nhà ở công vụ. Nhà công vụ Quốc hội ở địa chỉ số 2 Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Bán nhà công vụ theo nghị định 61/CP Chất vấn của Quốc hội Quốc hội Việt Nam khóa 10 đã chất vấn Chính phủ theo yêu cầu của cử tri về tình hình quản lý, sử dụng nhà công vụ, công khai các trường hợp sai phạm và kết quả xử lý cho nhân dân biết song Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh cũng không biết việc có nhiều cán bộ đã mua nhà công vụ theo Nghi định 61/CP ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và Bộ Tài chính cũng không có số liệu. Theo Chủ tịch quốc hội Nguyễn Phú Trọng phần trả lời của Bộ trưởng Tài chính về nhà công vụ không được các đại biểu Quốc hội hài lòng. Tình hình bán nhà công vụ Chưa có hiện tượng bán nhà công vụ Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh cho rằng, đến nay 25 tháng 11 năm 2006, theo ông nắm được thì chưa có trường hợp nào bán nhà công vụ, mà chỉ có Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là được phép bán biệt thự. Đã có bán nhà công vụ Trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội Lê Quang Bình khẳng định có hàng nghìn, hàng vạn trường hợp bán nhà công vụ tương tự các trường hợp báo chí đã phát hiện trong năm 2006. Không phải chỉ Hà Nội mà Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu cũng có tình trạng hóa giá những biệt thự hàng nghìn cây vàng với giá bán rẻ như bùn Do có phản ứng của một số cán bộ, đảng viên mà một số địa phương gặp phải khó khăn trong việc thu hồi nhà công vụ của cán bộ về hưu đã phải bán nhà công vụ rẻ hàng tỷ đồng căn hộ. Số liệu nhà công vụ Nhà công vụ có nhiều nguồn gốc tạo lập, số liệu không công khai thường gộp chung vào nhà công sản, nhà sở hữu nhà nước.Hiện các cơ quan chức năng Việt Nam cũng chưa có số liệu về nhà công vụ. Nhưng việc quản lý công sản là thông điệp thể hiện chính sách công bằng của Nhà nước nên đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc đã cật vấn và được Bộ trưởng Tài chính cho biết sẽ công khai số liệu nhà công, biệt thư công, việc bán nhà công vụ khi có số liệu, vì đó không phải là bí mật quốc gia. Thuận tiện của nhà công vụ Nhà công vụ có nhiều thuận tiện trong công tác, thường gần công sở, đủ tiện nghi cần thiết, thông tin liên lạc, điện nước được bảo đảm ổn định, an ninh trật tự tốt. Các người ở xa mới nhận nhiệm sở có nhà công vụ sẽ mau chóng ổn định sinh hoạt gia đình và yên tâm công tác. Nhà công vụ giúp tăng cao thể diện của người có chức vụ cho dù mức thu nhập thực tế và hoàn cảnh gia đình thế nào cũng bảo đảm một mức bên ngoài tương xứng với chức vụ. Bất tiện Việc phải ở nhà công vụ có nhiều bất tiện với một số người như chi phí duy trì nhà cũ đã có, nhà công vụ không phù hợp với mức sống của người có chức đặc biệt là người giàu có sẵn, việc sinh hoạt của gia đình bị bó buộc trong chuẩn mực đạo đức xã hội áp đặt cũng như các quy định mà các người thân, nhất là trẻ em phải tuân theo trong việc tiếp bạn, khách hoặc việc tiếp cận phương tiện công như điện thoại hoặc tài liệu, thông tin... ngoài vòng kiểm soát của người có chức vụ. Một số nhà công vụ nổi tiếng Ở Hoa Kỳ: Nhà Trắng vừa là nơi làm việc của Tổng thống vừa là nhà công vụ dành cho gia đình Tổng thống đương nhiệm Ở Anh: Nhà số 10 phố Downing của các Thủ tướng Anh. Dinh Độc Lập vừa là nơi làm việc của Tổng thống, nội các vừa là nhà công vụ dành cho gia đình Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Quản lý nhà công vụ Quản lý nhà công vụ ở các nước Quản lý nhà công vụ ở Việt Nam Ở Việt Nam khái niệm nhà công vụ đã có từ lâu đời. Thời phong kiến các cung vua, cung thái tử, hoàng hậu các hành cung là các loại nhà công vụ. Đình làng cũng là nơi thực hiện chức năng nhà công vụ khi cần thiết. Thời phong kiến các chức quan không lớn nhưng đáng kính cũng có nhà công vụ như trong khuôn viên Quốc tử giám có nhà công vụ dành cho Tế tửu tức quan hiệu trưởng. Thời Pháp thuộc nhà công vụ rất nhiều và phổ biến, phần vì các quan lại, viên chức nhà nước bảo hộ hay luân chuyển và theo nguyên tắc hồi tỵ tức không được là dân địa phương, phần vì quan điểm coi dân như con nên các quan thường được trọng vọng và ở nhà sang trọng cho xứng tầm. Theo Điều 61 Luật Nhà ở số 56/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì Nguyên tắc quản lý quỹ nhà ở công vụ như sau: Nhà ở công vụ phải được sử dụng đúng mục đích và đúng đối tượng. Khi hết tiêu chuẩn thuê nhà ở công vụ hoặc chuyển đến nơi khác hoặc nghỉ công tác thì người thuê nhà ở công vụ có trách nhiệm trả lại nhà ở công vụ. Trường hợp trả lại nhà ở công vụ mà người thuê nhà ở công vụ có khó khăn về nhà ở thì cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi người đó sinh sống căn cứ vào tình hình cụ thể để giải quyết cho họ được thuê hoặc thuê mua nhà ở xã hội. Hiện nay (2006)cũng có nhà công vụ do Cục công sản Bộ Tài chính và cục Quản lý nhà Bộ Xây dựng quản lý. Nhưng việc quản lý nhà công vụ còn nhiều thiếu sót, bất cập, một số nhà công vụ bị chuyển thành nhà riêng với giá rẻ. Một số nhà công vụ bị đem cho thuê kiếm lợi trong khi cán bộ, công nhân viên thiếu nhà công vụ để ở. Các Sở Tài nguyên môi trường cũng không nắm được số lượng công sản do các đơn vị né tránh kê khai, một số lớn là cho thuê lại kiếm tiền, một số khác sử dụng sai mục đích hoặc bỏ hoang hay quản lý lỏng lẻo. Phát triển nhà ở công vụ tại Việt Nam Nhà công vụ, nhà sở hữu nhà nước cho thuê trên địa bàn các thành phố ở Việt Nam cho đến tháng 9 năm 2006 vẫn còn nhập nhằng, chưa được quy định rõ ràng. Ngành quản lý nhà cho rằng do các thành phố chưa có quỹ nhà công vụ nên phải sử dụng chung với nhà sở hữu nhà nước. Vài năm gần đây, khi quỹ nhà còn rất ít, Ủy ban nhân dân các thành phố mới tính đến việc xây dựng nhà công vụ. Vốn đầu tư dự án phát triển nhà công vụ Quỹ nhà ở công vụ bố trí cho cán bộ, công chức của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách của địa phương. Quỹ nhà ở công vụ bố trí cho cán bộ, công chức của các cơ quan trung ương được sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách trung ương. Trên cơ sở nhu cầu nhà ở công vụ của các cơ quan trung ương trên địa bàn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập kế hoạch vốn gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Đối với các dự án phát triển nhà ở công vụ theo yêu cầu đặc biệt thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư lập kế hoạch vốn trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Đất xây dựng nhà ở công vụ Quỹ đất để xây dựng nhà ở công vụ khi tổ chức lập, phê duyệt quy hoạch xây dựng đô thị, điểm dân cư nông thôn phải được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác định trước. Đất được giao để thực hiện các dự án phát triển nhà ở công vụ được miễn tiền sử dụng đất. Tiêu chuẩn nhà ở công vụ Việt Nam Bộ Xây dựng quy định và hướng dẫn việc thiết kế nhà ở công vụ triển khai thống nhất trên phạm vi cả nước: Nhà ở công vụ có tiêu chuẩn diện tích, chất lượng và loại nhà phù hợp với các đối tượng sử dụng, đảm bảo cho cán bộ, công chức có điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cán bộ, công chức đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng và tương đương trở lên thuộc đối tượng ở nhà công vụ sẽ được bố trí nhà ở biệt thự. Các đối tượng khác được bố trí nhà chung cư hoặc nhà ở thấp tầng đối với khu vực chưa phát triển nhà chung cư. Căn hộ trong nhà chung cư xây dựng mới có diện tích sàn sử dụng không nhỏ hơn 45m² và không lớn hơn 150 m². Tiêu chuẩn diện tích nhà ở công vụ được điều chỉnh phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội. Tai tiếng vì nhà công vụ Một số người do tham lam mà tìm cách mua nhà công vụ với giá rẻ đã gặp phải tai tiếng như Thống đốc Ngân hàng nhà nước Lê Đức Thuý với nhà số 6 Lý Thái Tổ, Hoàng Văn Nghiên nguyên chủ tịch thành phố Hà Nội với biệt thự 12 Nguyễn Chế Nghĩa, Phan Văn Vượng nguyên phó chủ tịch Thành phố Hà Nội với căn hộ 52 Tuệ Tĩnh.
Phân biệt với phương trình sóng Trong chuyển động sóng nói chung, các hàm sóng là các hàm số của thời gian và không gian thể hiện các đặc trưng của sóng, như li độ, biến đổi trong không thời gian, thỏa mãn các phương trình sóng hoặc các phương trình vi phân riêng phần và các ràng buộc khác (như điều kiện ban đầu, điều kiện biên). Trong điện từ học, các hàm sóng, là nghiệm của một số hệ quả của các phương trình Maxwell, chính là các hàm số thể hiện sự phụ thuộc của điện trường và từ trường vào vị trí và thời gian, mô tả sự lan truyền của sóng điện từ. Bình phương giá trị tuyệt đối của các hàm sóng này tại một vị trí và tại một thời điểm tỷ lệ với xác suất tìm thấy hạt photon tại vị trí và thời điểm đó. Tuy nhiên khái niệm hàm sóng được sử dụng chủ yếu trong cơ học lượng tử. Trong cơ học lượng tử, hàm sóng, nghiệm của phương trình Schrodinger, mô tả trạng thái của sóng vật chất của một hệ vật lý bất kì. Đó là một hàm số phụ thuộc vào không gian và thời gian, biểu diễn các trạng thái khả dĩ của hệ bằng các số phức. Các định luật của cơ học lượng tử (phương trình Schrodinger) mô tả hàm sóng tiến triển như thế nào theo thời gian. Bình phương giá trị tuyệt đối của các hàm sóng này xác định phân bố xác suất mà hệ sẽ tồn tại trong một trạng thái. Hàm sóng chứa tất cả các thông tin mà ta có thể biết được về trạng thái của hệ như vị trí, vận tốc, xung lượng, mô men xung lượng, năng lượng,... của hạt và mật độ xác suất hoặc xác suất để đo được các kết quả cho một đại lượng vật lý hay biến động lực nào đó của hạt. Để thu được các thông tin về hệ người ta dùng các toán tử tác dụng lên hàm sóng. Cơ học Newton Quan sát dao động của lò xo cho thấy mọi dao động đều có thể biểu diễn bằng một phương trình sóng dao động ở trạng thái cân bằng có nghiệm là một hàm số sóng như sau Phương trình sóng dao động Hay Hàm số sóng dao động Cơ học điện Quan sát dao động của mạch điện LC nối tiếp cho thấy mọi Dao động đều có thể biểu diễn bằng một Phương trình Sóng Dao Động ở trạng thái cân bằng có nghiệm là một Hàm số Sóng như sau Phương trình sóng dao động Hay Hàm số sóng dao động Với Cơ học điện từ Quan sát dao động của điện trường và từ trường cho thấy mọi dao động đều có thể biểu diễn bằng một phương trình sóng dao động ở trạng thái cân bằng có nghiệm là một hàm số sóng như sau Phương trình Maxwell mô tả sóng dao động điện từ trong không khí Hàm số sóng dao động Cơ học lượng tử Tiên đề Trong cơ học lượng tử, khái niệm hàm sóng được thừa nhận như một tiên đề không thể chứng minh được và cũng không thể suy ra từ bất cứ một tiên đề nào khác. Tiên đề này được phát biểu như sau: "Trạng thái của một hệ được mô tả một cách đầy đủ bởi một hàm số gọi là hàm sóng hay hàm trạng thái của hệ". Trong phát biểu này, r là tọa độ không gian của các hạt cấu thành nên hệ còn t là thời gian. Hàm số (chữ Hi Lạp Psi viết hoa) đóng vai trò trung tâm trong cơ học lượng tử, và được gọi là hàm sóng phụ thuộc thời gian của hệ. Khi chúng ta không quan tâm đến việc hệ thay đổi như thế nào theo thời gian chúng ta sẽ ký hiệu hàm sóng này bằng một chữ psi thường và gọi là hàm sóng không phụ thuộc thời gian. Trạng thái của hệ cũng có thể phụ thuộc vào một biến nội tại nào đó của các hạt chẳng hạn trạng thái spin của chúng. Chúng ta dùng từ "mô tả" ở đây với ý nghĩa là hàm sóng chứa đựng thông tin về tất cả các tính chất của hệ mà có thể xác định được bằng thực nghiệm. Ý nghĩa Hàm sóng là một hàm phức do đó bản thân nó hoàn toàn không có một ý nghĩa vật lý nào. Tuy nhiên trong cơ học lượng tử một quy luật ảo vẫn có thể chi phối và quyết định các hiện tượng thực. Theo cách giải thích của Max Born thì xác suất để một hạt được tìm thấy trong nguyên tố thể tích dτ tại điểm có tọa độ r tỷ lệ với trong đó nguyên tố thể tích dτ trong một chiều là dx, trong hai chiều là dxdy và trong ba chiều là dxdydz. Từ cách giải thích này chúng ta hiểu rằng là một hàm mật độ xác suất, với ý nghĩa là khi nhân nó với thể tích của một vùng không gian vô cùng nhỏ ở lân cận điểm r thì ta được xác suất tìm thấy hạt trong vùng không gian đó. Bản thân hàm sóng còn được gọi là một hàm biên độ xác suất. Chú ý rằng trong khi biên độ xác suất (hàm sóng) có thể là một số phức và có thể âm thì mật độ xác suất (bình phương module của số phức) là thực và không bao giờ âm. Theo cách giải thích này, xác suất để tìm thấy hạt trong một thể tích có thể được tính theo công thức tích phân như sau: Chuẩn hóa Hàm sóng khác Ví dụ Với sóng chuyển động trên một chiều không gian x, các hàm sóng tổng quát có thể được tìm từ phương trình sóng dựa theo nguyên lý Duhamel, gồm: (chuyển động theo chiều dương trục x) (chuyển động theo chiều âm trục x) hay tổng quát hơn, theo công thức d'Alembert: Chúng đều thỏa mãn phương trình sóng:
Xuân Thủy (1912–1985) là một nhà cách mạng, chính khách, nhà ngoại giao, nhà thơ và nhà báo Việt Nam. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris (1968-1973). Thân thế Ông tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh ngày 2 tháng 9 năm 1912 tại thôn Hòe Thị, tổng Phương Canh, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Phương Canh, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội). Ông là người cùng làng và sinh cùng năm với Bác sĩ Trần Duy Hưng, một nhà cách mạng khác của Việt Nam. Xuất thân trong một gia đình truyền thống Nho giáo, nhưng từ nhỏ ông được giáo dục trong môi trường văn hóa Công giáo tại quê nhà, sau đó được đưa lên Hà Nội học. Tham gia báo chí cách mạng Thời gian học tại Hà Nội, ông bắt đầu tham gia sinh hoạt trong một số tổ chức yêu nước, chủ trương chống thực dân. Ông bắt đầu làm ký giả từ thập niên 1930 và hoạt động cách mạng từ năm 1932 thông qua báo chí. Bút danh Xuân Thủy của ông ra đời trong thời kỳ này và trở thành tên gọi của ông suốt nhiều năm cho đến khi ông qua đời. Hoạt động của ông sớm bị chính quyền thực dân Pháp chú ý. Từ năm 1938 đến 1943, ông nhiều lần bị bắt giam, bị đưa đi lưu đày, nhưng ông vẫn tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực báo chí cách mạng chống thực dân. Ngay trong thời kỳ bị giam tại nhà tù Sơn La, ông cùng Trần Huy Liệu vẫn ra một tờ báo bí mật hai tháng một kỳ có tên gọi là Suối Reo. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1941. Đầu năm 1944, ông được trả tự do. Tuy nhiên, ông trở lại hoạt động cách mạng trong phòng trào Việt Minh, làm Chủ nhiệm tờ Cứu Quốc, tờ báo của Tổng bộ Việt Minh từ thời kỳ bí mật khi tờ báo còn đặt ở Núi Thầy (1944). Lúc này ông phụ trách tờ báo trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Tổng bí thư Trường Chinh. Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tờ báo Cứu Quốc ra công khai, phát hành hàng ngày. Ông vẫn tiếp tục tích cực tham gia hoạt động cho tờ báo lúc này có trụ sở ở Bờ Hồ (trụ sở tờ Hà Nội mới ngày này). Ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I đầu năm 1946, đại biểu tỉnh Hà Đông. Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông lại theo tờ báo Cứu Quốc lên chiến khu Việt Bắc. Năm 1948, ông được bầu làm Ủy viên thường trực Thường vụ Tổng bộ Việt Minh và giữ cương vị này cho đến năm 1950. Năm 1949, ông tổ chức lớp đào tạo cán bộ làm báo mang tên Huỳnh Thúc Kháng, được xem như người đặt nền móng trong việc đào tạo lớp nhà báo đầu tiêu cho Kháng chiến. Năm 1950, ông được bầu làm Chủ tịch Hội những người viết báo Việt Nam khóa I. Năm 1951, ông được bầu làm Trưởng ban Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt. Hoạt động chính trị - ngoại giao Năm 1955, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản quyền kiểm soát hoàn toàn miền Bắc Việt Nam. Ông rời báo Cứu Quốc và được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Ông từng làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1963–1965) và là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1968-1973) tại Hội nghị Paris. Nhà ngoại giao, nhà hoạt động chính trị Ông chuyển sang công tác ngoại giao từ năm 1963 và giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ năm tháng 4 năm 1963 đến tháng 4 năm 1965. Ông là người góp phần tích cực vào thành công của Hiệp định Hòa bình Paris với vai trò là Trưởng đoàn đàm phán của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ông giữ vai trò này từ năm 1968 cho đến khi hiệp định được ký kết năm 1973 với hàm Bộ trưởng) tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam. Các chức vụ trong Nhà nước, Đảng, Quốc hội, đoàn thể Ông liên tục là Đại biểu Quốc hội từ khóa I (1946) đến khóa VIII (1987, nhưng mất năm 1985) và giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội từ khoá II đến khoá VI (1960-1981). Ông là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Tổng Thư ký năm 1981-1982. Năm 1981, ông là Phó Chủ tịch Quốc hội khoá VII. Ông là cán bộ chủ chốt của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam từ năm 1945 đến khi mất: Trưởng ban Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Liên Việt, sau đổi thành Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1951-1963); Bí thư Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, liên tục là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Năm 1955, Xuân Thủy được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và là Ủy viên Chính thức từ năm 1960 đến năm 1982. Năm 1968 được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng và giữ cương vị này đến năm 1982. Ngoài chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1963-1965) và là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1968-1973) tại Hội nghị Paris ông còn giữ các chức vụ: Phụ trách Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam (1952); Phụ trách Uỷ ban đoàn kết Á-Phi của Việt Nam (1957); Uỷ viên Hội đồng Hoà bình thế giới (1954) Chủ tịch Hội những người viết báo Việt Nam khoá I (1950), khoá II (1959) và là uỷ viên Ban chấp hành Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ) Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt-Xô (1980);Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Trung (1960) Phó trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Genève về Lào (1961) Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968 - 1973) Ngoài ra, trong thời gian từ 1968 đến 1982 ông còn đảm nhiệm những chức vụ: Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Trưởng ban Cán sự Đảng ngoài nước Trưởng ban hoạt động quốc tế của Trung ương Đảng Trưởng ban công tác miền Tây Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương Ông mất ngày 18 tháng 6 năm 1985 tại nhà riêng 36 Lý Thường Kiệt (nay là trụ sở của Bảo tàng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam), hưởng thọ 73 tuổi và an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. Phong tặng Ông được tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Tác phẩm Xuân Thủy là nhà báo Việt Nam tham gia vào Ban Chấp hành của Tổ chức Nhà báo Quốc tế OIJ. Bản thân ông đã nhận được phần thưởng từ tổ chức này. Xuân Thủy còn là một nhà thơ và ông cũng dịch nhiều thơ. Ông là người đã dịch bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh ra tiếng Việt với tên gọi là Rằm tháng Giêng. Các bài thơ của ông được trích giảng trong các nhà trường phổ thông và đại học trong nước và có trong Tuyển tập Xuân Thủy. Tác phẩm cuối cùng của ông là tập hồi ký Những chặng đường báo Cứu quốc. Ông còn có bút danh Chu Lang, nhưng ít sử dụng. Tác phẩm chính "Thơ Xuân Thủy" (tập thơ-1974) "Đường xuân" (tập thơ-1979) Hình ảnh công cộng Hiện nay tên ông được đặt cho một tuyến đường lớn ở Hà Nội. Đường Xuân Thủy, giao cắt với các con đường lớn như đường Phạm Văn Đồng, Hồ Tùng Mậu và Phạm Hùng. Đường Xuân Thủy cũng là nơi có trường đại học lớn nhất Việt Nam: Đại học Quốc gia Hà Nội, cùng với một số trường đại học có truyền thống lâu đời: Đại học Sư phạm Hà Nội và Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tên ông cũng được đặt cho một tuyến đường chính trong khu Thảo Điền ở Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Maamme (hay tiếng Thụy Điển là: Vårt land dịch sang tiếng Việt có nghĩa là Vùng đất của chúng ta) là quốc ca của Phần Lan. Paavo Cajander được cho là tác giả của lời bài hát. Giai điệu của quốc ca Phần Lan cũng được sử dụng làm phần nhạc cho bài thánh ca "Việt Nam ca" Lời gốc Lời 1, thường được sử dụng Oi maamme, Suomi, synnyinmaa, soi, sana kultainen! Ei laaksoa, ei kukkulaa, ei vettä, rantaa rakkaampaa, kuin kotimaa tää pohjoinen, maa kallis isien. Lời 2 On maamme köyhä, siksi jää, jos kultaa kaivannet. Sen vieras kyllä hylkäjää, mut meille kallein maa on tää, sen salot, saaret, manteret ne meist on kultaiset. Lời 3 Ovatpa meille rakkahat koskemme kuohuineen, ikuisten honkain huminat, täht´yömme, kesät kirkkahat, kaikk´kuvineen ja lauluineen mi painui sydämeen. Lời 4 Täss auroin, miekoin, miettehin isämme sotivat, kum päivä piili pilvihin tai loisti onnen paistehin, täss Suomen kansan vaikeimmat he vaivat kokivat. Lời 5 Tään kansan taistelut ken voi ne kertoella, ken? Kun sota laaksoissamme soi, ja halla näläntuskan toi, ken mittasi sen hurmehen ja kärsimykset sen? Lời 6 Täss on sen veri virrannut hyväksi meidänkin, täss iloaan on nauttinut ja murheitansa huokaillut se kansa, jolle muinaisin kuormamme pantihin. Lời 7 Tääll´olo meill on verraton ja kaikki suotuisaa, vaikk onni mikä tulkohon, maa isänmaa se meillä on. Mi maailmass on armaampaa ja mikä kallimpaa? Lời 8 Ja tässä, täss´ on tämä maa, sen näkee silmämme. me kättä voimme ojentaa ja vettä rantaa osoittaa ja sanoa: kas tuoss´ on se, maa armas isäimme. Lời 9 Jos loistoon meitä saatettais vaikk´ kultapilvihin, mis itkien ei huoattais, vaan tärkein riemun sielu sais, ois tähän köyhään kotihin haluamme kuitenkin. Lời 10 Totuuden, runon kotimaa maa tuhatjärvinen miss´ elämämme suojan saa, sa muistojen, sa toivon maa, ain ollos, onnees tyytyen, vapaa ja iloinen. Lời 11 Sun kukoistukses kuorestaan se kerran puhkeaa, viel lempemme saa hehkullaan sun toivos, riemus nousemaan, ja kerran, laulus synnyinmaa korkeemman kaiun saa. Lược dịch tiếng Việt Ôi Phần Lan - Tổ quốc ta Tên gọi thiêng liêng, tự hào biết bao Không một ngọn đồi, không một thung lũng nào Không một bờ biển, không một dòng sông nào Thân thương hơn mảnh đất phương Bắc của chúng ta Thân thương hơn quê cha đất tổ của chúng ta Lời 11 Ngày huy hoàng của Người rồi sẽ đến Và tỏa sáng muôn nơi Niềm hân hoan và hy vọng của Người Sẽ đong đầy trong tình yêu của chúng ta Và bài ca của Người, Đất Mẹ hỡi Sẽ vang mãi khắp thế gian
Bài giảng điện tử (hoặc bài giảng e-Learning) là một hình thức giảng dạy có cấu trúc và trải nghiệm được cung cấp qua phương tiện điện. Chỉ cần có mạng internet và thiết bị điện tử, người học có thể tham gia học trực tuyến mọi lúc, mọi nơi. Mô tả thiết kế bài giảng điện tử Bài giảng điện tử có thể được cung cấp dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm trang tài liệu trực tuyến chỉ chứa văn bản, trang trình chiếu, bản ghi, hoặc các nội dung video được quay hình và các bài giảng tương tác tuân theo chuẩn e-Learning. Bài giảng điện tử được tạo ra nhờ dùng thiết bị ghi âm, ghi hình có sự giúp đỡ của phần mềm chuyên dùng, như Adobe Presenter, Captivate, Articulate, Camtasia. Mỗi bài giảng thường có âm thanh lời giảng, hình ảnh, video, được sắp xếp theo logic giúp người học thu được những kĩ năng, kiến thức nhất định. Người học tự định thời gian học và nơi ngồi học, chỉ cần có kết nối Internet bằng máy tính hay bằng điện thoại thông minh. Các định dạng số hoá bài giảng tốt nhất Bài giảng điện tử đang ngày càng phổ biến nhờ tốc độ truyền tải qua mạng Internet tăng lên nhanh. Các khóa học có thể cung cấp trọn gói bằng tập hợp các bài giảng loại này và được gọi là khóa học trực tuyến. Để việc bài giảng điện tử phát huy tối đa chất lượng và hiệu quả, cần phải lựa chọn định dạng số hoá bài giảng thích hợp Định dạng Animation Trong số hoá bài giảng, animation là phương tiện giúp truyền đạt nội dung đào tạo bằng các video hoạt họa. Với định dạng này, các khái niệm phức tạp sẽ được giải thích một cách trực quan và đơn giản hơn, thúc đẩy tương tác giữa người học và bài giảng. Định dạng Motion Graphics Đây là định dạng kết hợp giữa âm thanh, các hình ảnh động, văn bản cũng như các hiệu ứng đặc biệt để minh hoạ cho những nội dung gặp khó khăn trong việc diễn đạt bằng từ ngữ. Với định dạng này, các yếu tố đồ hoạ như text, vector hay các hình khối,… sẽ được kết hợp với các âm thanh thú vị hay chuyển động độc đáo giúp tạo ra một bài giảng điện tử trực quan, sinh động. Định dạng Gamification Với Gamification, các yếu tố của trò chơi sẽ được lồng ghép vào quá trình học tập và đào tạo để đem lại những trải nghiệm học tập thú vị hơn cho các học viên. Định dạng Slideshow Slideshow là định dạng trình chiếu một chuỗi các hình ảnh hay trang nội dung học tập với sự kết hợp cùng chuyển động, tương tác hai chiều thông qua màn hình. Các phần mềm trình chiếu thường dùng để thiết kế định dạng này là PowerPoint, Keynote, Google Slides,… và có thể chứa cả hình ảnh, văn bản, âm thanh và video. Định dạng Video stock Trong e-Learning, video stock thường được sử dụng để cung cấp các video chất lượng cao và mới mẻ cho các bài giảng điện tử với mục đích giải thích các khái niệm, minh hoạ quá trình hoạt động hay giới thiệu sản phẩm,... Giảng viên chỉ cần chọn video phù hợp với bài giảng của mình để tải về. Định dạng Quay hình minh hoạ giảng viên Đây là một trong những định dạng phổ biến nhất trong e-Learning, đặc biệt là đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo. Thông thường, các bài giảng liên quan đến hướng dẫn hoặc kỹ năng với mục đích truyền cảm hứng cho người học sẽ áp dụng định dạng này. Định dạng Quay hình doanh nghiệp Định dạng quay hình doanh nghiệp sẽ được thực hiện bởi một đội ngũ chuyên nghiệp với kinh phí rất lớn thông qua việc sử dụng các thiết bị, công nghệ hiện đại để sản xuất được các video chất lượng cao. Đây là một định dạng cực kì phù hợp đối với các nội dung liên quan đến tiêu chuẩn dịch vụ, quy tắc, tác phong, ứng xử hay truyền thông văn hóa trong mỗi doanh nghiệp.
Luật số lớn được đưa ra vào thế kỷ XVII. Luật số lớn chỉ ra rằng, khi ta chọn ngẫu nhiên các giá trị (mẫu thử) trong một dãy các giá trị (quần thể), kích thước dãy mẫu thử càng lớn thì các đặc trưng thống kê (trung bình, phương sai,...) của mẫu thử càng "gần" với các đặc trưng thống kê của quần thể Các nhà toán học phân biệt 2 phát biểu khác nhau của luật số lớn, là luật số lớn yếu và luật số lớn mạnh. Luật số lớn yếu Luật số lớn yếu còn được gọi là định lý Khintchine. Xét n biến ngẫu nhiên X_1, X_2,..., X_n độc lập, cùng phân phối với kỳ vọng E(X), luật số lớn yếu phát biểu rằng, với mọi số thực dương, xác suất để khoảng cách giữa trung bình tích lũy và kỳ vọng E(X) lớn hơn là tiến về 0 khi n tiến về vô cực. Phát biểu được chứng minh bằng cách sử dụng bất đẳng thức Bienaymé-Tchebychev sau đây của Tchebychev: Ta có biến ngẫu nhiên có kỳ vọng và phương sai từ bất đẳng thức Bienaymé-Tchebychev, ta có: Vế phải tiến về 0 khi n tiến về vô cực, định lý được chứng minh. Theo định nghĩa hội tụ của biến ngẫu nhiên thì hội tụ theo xác suất về E(X). Luật số lớn mạnh Xét n biến ngẫu nhiên độc lập cùng phân phối xác suất, khả tích (nghĩa là ). Luật số lớn mạnh phát biểu rằng trung bình tích lũy hội tụ hầu như chắc chắn về E(X). Nghĩa là: .
Lĩnh Nam chích quái (chữ Hán: 嶺南摭怪; có nghĩa là "Chọn lựa những chuyện quái dị ở đất Lĩnh Nam"), là một tập hợp các truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam được biên soạn vào khoảng cuối đời nhà Trần. Tác giả Tương truyền Trần Thế Pháp (? - ?), một danh sĩ đời nhà Trần, là tác giả bộ sách Lĩnh Nam chích quái. Thông tin này đã được ghi trong các sách: Vịnh sử thi tập của Đặng Minh Khiêm, Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn và Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Tiến sĩ Vũ Quỳnh, trong bài "Tựa" của ông, cho biết ông đã tìm được sách Lĩnh Nam chích quái và tiến hành nhuận chính vào năm Hồng Đức thứ 23 (Nhâm Tý, 1492). Tuy nhiên, trong bài Tựa không có câu nào nói về tác giả . Cùng thời gian đó, tiến sĩ Kiều Phú (1447-?) cũng nhuận chính cho sách, có điều là mức độ sửa chữa theo quan điểm của ông nhiều hơn, so với bản của Vũ Quỳnh. Việc làm này đã được ông nói rõ trong bài Hậu tự đề năm Hồng Đức thứ 24 (Quý Sửu, 1493). Tuy nhiên, trong bài cũng không có câu nào nói về tác giả . Có tài liệu nói Vũ Quỳnh và Kiều Phú cùng hợp tác để làm việc nhuận chính, nhưng xem hai bài Tựa của hai người thì không thấy nói gì đến sự cộng tác đó. Sau đó (có lẽ khoảng năm 1679), một người khác là Nguyễn Nam Kim đã làm thêm phần Tục biên gồm 4 truyện. Năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), Vũ Đình Quyền phụng chỉ soạn thêm 2 truyện. Năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757), Vũ Khâm Lân cũng có tham gia soạn thêm, vì ở truyện Trành quỷ hiển linh truyện có chua rõ là do Vũ Khâm Lân ghi lại. Đến đời nhà Mạc, có một nho sinh tên là Đoàn Vĩnh Phúc (từng làm việc ở Cục tú lâm, thuộc Viện hàn lâm) cũng tham gia bổ sung cho bộ sách. Đề cập đến việc làm này, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí viết:...Hai quyển trước là sách cổ truyền, một quyển sau là do người họ Đoàn thời Ngụy Mạc, lấy ở U linh tập mà theo ý mình cắn xén để phụ vào sau. Văn bản Tóm tắt đặc điểm bốn bản Lĩnh Nam chích quái hiện có ở Thư viện Khoa học Xã hội (Hà Nội): Bản A. 33: Là bản chính đã dùng để phiên dịch sách Lĩnh Nam chích quái xuất bản năm 1960. Bản này chép lại từ một bản cũ đề năm Chính Hòa thứ 18 (1697), có 2 quyển, gồm 22 truyện. Ghi các tên người: Trần Thế Pháp (biên tập), Vũ Quỳnh (hiệu đính), Kiều Phú (soạn dịch). Bản A. 1200: Theo mục lục có 45 truyện, nhưng thiếu mất 10 truyện (từ truyện Lý Phục Man [truyện 35] đến truyện Huyền Quang [truyện 45]). Bản A. 1300: Mất hẳn phần đầu sách, chỉ còn từ nửa đầu truyện Kim Quy (truyện 13). Bản này có mấy đặc điểm: -Sách có 3 quyển, chứ không phải 2 quyển như các bản khác. Trong sách có bài Hậu tự của Kiều Phú đề năm Quý Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493). -Sau Mục lục, có dòng chua rõ phần Tục bổ (4 truyện) là của Nguyễn Nam Kim. -Ở phần Tăng bổ có 2 truyện ghi tên tác giả là Vũ Đình Quyền phụng chỉ vua Lê Hiển Tông làm năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749). -Ở phần Tục bổ, nơi truyện Trành quỷ hiển linh truyện có chua rõ là do Vũ Khâm Lân ghi lại vào năm Cảnh Hưng thứ 18 (1757). Bản A. 2107: Bản này ghi tên sách là Lĩnh Nam chích quái truyện, có ghi rõ là do Kiều Phú làm, nhưng trong sách không có bài Tựa của ông mà chỉ có bài Tựa của Kiều Phú. Một số tên truyện trong tập này có sửa đổi (thêm một hai chữ ở đằng trước) như: Chưng bính truyện, đổi là Lang Liêu chưng bính truyện, Tân lang truyện đổi là Cao Thị Tân lang truyện, Tây qua truyện đổi là Mai thị Tây qua truyện... Ngoài ra, PGS. TS Nguyễn Đăng Na còn cho biết ở Viện Sử học (Việt Nam) còn có bản Lĩnh Nam chích quái mang ký hiệu HV 486. Vì lẽ ấy, theo nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp, Lĩnh Nam chích quái không hẳn là sách của một hai tác giả nào, mà là một bộ sưu tập truyền thuyết, truyện cổ tích, do nhiều người nối tiếp nhau sưu tập, cải biên. Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh, Kiều Phú chỉ là những người đầu tiên làm việc đó. Trong số này, Trần Thế Pháp chỉ là lời "tương truyền", văn bản không có gì chứng minh . Nội dung Trong Lĩnh Nam chích quái (bản cổ, gồm 22 truyện) có những truyện thần thoại thời thái cổ như Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Tản Viên, Truyện Đổng Thiên Vương...; có những truyện là sự tích thời Bắc thuộc như Truyện Việt tỉnh (Giếng Việt), Truyện Nam Chiếu...; có những truyện là thần tích thời Lý-Trần như Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Truyện Hà Ô Lôi... Lại có truyện hoặc gắn với nguồn gốc dân tộc Việt như Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Ngư tinh, Truyện Hồ tinh, Truyện Mộc tinh...; hoặc có liên quan với những phong tục tập quán lâu đời của dân tộc Việt như Truyện bánh chưng, Truyện trầu cau...; hoặc có liên quan với những di tích văn hóa cổ đại của dân tộc Việt như Truyện rùa vàng, Truyện hai thần Long Nhãn và Như Nguyệt...; hoặc có liên quan với những nhân vật lịch sử như Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Truyện Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải,... Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, Lĩnh Nam chích quái chủ yếu có nguồn gốc ở Việt Nam, nhưng do ảnh hưởng của sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, nên có một số truyện có nguồn gốc hoặc chịu ảnh hưởng từ nước ngoài. Như Truyện Giếng Việt chịu ảnh hưởng của truyện Trung Quốc, Truyện Dạ Xoa Vương chịu ảnh hưởng của văn hóa Chiêm Thành... Mặc dù vậy, tác phẩm vẫn có một ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng ý thức quốc gia dân tộc Việt. Đặc biệt, Lĩnh Nam chích quái có nhiều truyện mang những tư tưởng, tình cảm rất phóng khoáng. Quả đây là tấm gương phản chiếu đời sống tinh thần ở một thời kỳ mà mối quan hệ đạo lý giữa người với người còn cởi mở, chưa bị những khuôn sáo, tín điều gò bó quá chặt chẽ. Lại có những truyện chịu sự hạn chế của ý thức hệ phong kiến, nhất là các truyện do các soạn giả đời sau thêm vào. Song nhìn chung, toàn bộ tập truyện vẫn thấm nhuần một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa của văn học dân gian. Có thể ít nhiều thấy được ở đó thái độ yêu ghét của nhân dân: yêu chính nghĩa, ghét phi nghĩa, yêu điều thiện, ghét điều ác, đề cao những mối quan hệ tốt đẹp thủy chung giữa người và người. Mục lục Dưới đây là mục lục tác phẩm Lĩnh Nam chích quái (bản HV 486 của Viện Sử học Việt Nam, gồm 22 truyện). Quyển 1: Hồng Bàng Thị truyện (鴻龐氏傳), chuyện về họ Hồng Bàng thời cổ. Ngư tinh truyện (魚精傳), chuyện về Ngư tinh do Lạc Long Quân tiêu diệt. Hồ tinh truyện (狐精傳), chuyện về một hồ ly tinh do Lạc Long Quân tiêu diệt. Mộc tinh truyện (木精傳), chuyện một loại yêu quái có hình dạng và đặc tính cây từ thời cổ bị tiêu diệt thời Đinh Tiên Hoàng. Đổng Thiên vương truyện (董天王傳), câu chuyện về Phù Đổng Thiên Vương. Tân Lang truyện (檳榔傳), còn gọi là Sự tích trầu cau, giải thích ý nghĩa người Việt dùng trầu cau làm sính lễ khi cưới hỏi. Nhất dạ trạch truyện (一夜澤傳), câu chuyện về đầm Nhất Dạ giữa Chử Đồng Tử và Tiên Dung mị nương. Chưng bính truyện (蒸餅傳), là truyền thuyết về Lang Liêu làm ra Bánh chưng, mô phỏng tâm kế muốn đoạt ngôi trong xã hội Hùng vương thần thoại. Tây qua truyện (西瓜傳), chuyện về sự tích quả Dưa hấu. Bạch trĩ truyện (白雉傳), nói về sự kiện Việt Thường Thị cống chim trĩ trắng thời Chu Công. Quyển 2: Lý Ông Trọng truyện (李翁仲傳), câu chuyện về Lý Ông Trọng. Việt tỉnh truyện (越井傳), câu chuyện cái giếng Việt vào khoảng thời Triệu Đà, hình thành cố sự về Ân vương thành (殷王城). Kim Quy truyện (金龜傳), câu chuyện về Rùa thần Kim Quy. Nhị Trưng phu nhân truyện (二徵夫人傳), câu chuyện thần thoại về Hai Bà Trưng theo nhãn quan thời Lý Trần. Man Nương truyện (蠻娘傳), câu chuyện về Phật Mẫu Man Nương. Nam Chiếu truyện (南詔傳), vắn tắt về nước Nam Chiếu. Tô Lịch giang truyện' (蘇瀝江傳), chuyện về Sông Tô Lịch. Tản Viên sơn truyện (傘圓山傳), câu chuyện về thần núi Tản Viên. Long Nhãn Như Nguyệt nhị thần truyện (龍眼如月二神傳), câu chuyện về hai vị thần của hai sông Long Nhãn và Như Nguyệt. Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không truyện (徐道行、阮明空傳), câu chuyện đầy sự thần bí về Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không. Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải truyện (楊空路、阮覺海傳), câu chuyện về Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải. Hà Ô Lôi truyện (何烏雷傳), câu chuyện đầy tính kỳ bí về Hà Ô Lôi. Dạ Xoa vương truyện (夜叉王傳), giảng giải về vương quốc Hồ Tôn Tinh trong truyền thuyết.
Salvador Felipe Jacinto Dalí Domènech hay Salvador Felip Jacint Dalí Domènech (11 tháng 5 năm 1904 – 23 tháng 1 năm 1989), thường được biết đến bằng cái tên Salvador Dalí, là nghệ sĩ sinh ra tại Figueres, xứ Catalonia, Tây Ban Nha. Ông được coi như một trong những họa sĩ có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20 với phong cách siêu thực. Dalí là một họa sĩ lành nghề, nổi tiếng với những hình ảnh ấn tượng và kỳ lạ trong các tác phẩm siêu thực của mình. Kỹ năng hội họa của ông thường được cho là do ảnh hưởng của các bậc thầy thời kỳ Phục hưng. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, The Persistence of Memory, được hoàn thành vào tháng 8 năm 1931. Dalí giải thích "tình yêu của tôi với tất cả mọi thứ có ánh vàng, sự cực đoan, niềm đam mê của tôi với sự sang trọng và quần áo phương Đông" đến từ một "dòng dõi Ả Rập", tuyên bố rằng tổ tiên của ông là hậu duệ của người Moor. Ông rất giàu trí tưởng tượng, và cũng rất thích đắm mình trong các hành vi bất thường và kỳ vĩ. Sự lập dị và hoạt động công cộng của ông nhằm gây chú ý đôi khi còn thu hút công chúng nhiều hơn so với các tác phẩm nghệ thuật của ông. Điều này làm những người yêu thích các tác phẩm của ông khó chịu, và làm cho các nhà phê bình bực bội. Bên cạnh hội họa, ông còn được biết đến như một nhà điêu khắc, nhiếp ảnh, sản xuất phim... Ông đã đoạt giải Oscar dành cho phim hoạt hình ngắn với bộ phim hợp tác cùng Walt Disney mang tên Destino. Ngoài ra, ông còn được Hoàng gia Tây Ban Nha trao tặng huân chương Isabelle. Tiểu sử Thời niên thiếu Salvador Domingo Felipe Jacinto Dalí i Domènech sinh ngày 11 tháng 5, 1904, lúc 8:45 am GMT ở thị trấn Figueres, vùng Empordà, gần biên giới với Pháp ở Catalonia, Tây Ban Nha. Anh của Dalí cũng mang tên Salvador (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1901), đã chết do viêm dạ dày chín tháng trước đó ngày 01 tháng 8 năm 1903. Cha ông, Salvador Dalí i Cusí, là một luật sư và công chứng viên thuộc tầng lớp trung lưu, theo đánh giá của vợ ông là bà Felipa Domenech Ferrés thì ông là người có phương pháp kỷ luật rất nghiêm ngặt. Bà đã làm giảm đi sự nghiêm khắc của chồng đồng thời động viên những nỗ lực của con trai. Khi lên 5, Dalí được đưa đến mộ của anh trai mình và được cha mẹ bảo rằng ông chính là anh trai của mình tái sinh, và ông đã tin vào ý niệm này. Dalí nói rằng, "...[chúng tôi] giống nhau như hai giọt nước, nhưng khác nhau về suy nghĩ." "Anh tôi có lẽ là phiên bản đầu của tôi nhưng đã bị ảnh hưởng quá nhiều từ quan điểm tuyệt đối." Các hình ảnh của người anh quá cố cũng đã xuất hiện trong các tác phẩm sau này của ông, như Portrait of My Dead Brother (1963). Dalí cũng có một em gái nhỏ hơn 3 tuổi là Ana María. Năm 1949, bà đã xuất bản một quyển sách về anh của bà, Dalí As Seen By His Sister. Dalí vào học trường mỹ thuật. Năm 1916, Dalí đã khám phá thể loại tranh hiện đại trong một chuyến nghỉ hè ở Cadaqués cùng với gia đình của Ramon Pichot, một họa sĩ thường xuyên đến Paris. Năm sau đó, cha của Dalí tổ chức một buổi triển lãm những bức vẽ than của ông tại nhà của họ. Ông có cuộc triển lãm rộng rãi tại Nhà hát thành phố ở Figueres năm 1919. Tháng 2, 1921, mẹ của Dalí qua đời do ung thư vú lúc Dalí 16 tuổi. Sau này, ông nói về sự qua đời của mẹ mình "là cú đòn lớn nhất mà tôi phải chịu đựng trong đời tôi. Tôi tôn thờ mẹ... Tôi không thể chịu đựng sự mất mát một con người mà tôi đã dựa vào để khỏa lấp những nhược điểm không thể che giấu của tâm hồn tôi." Sau khi bà chết, cha ông kết hôn với em gái của vợ ông. Dalí đã không phản đối cuộc hôn nhân này vì ông yêu quý và tôn trọng người dì của mình. Tại Madrid và Paris Năm 1922, Dalí chuyển vào Residencia de Estudiantes (khu nội trú) tại Madrid và học tại Real Academia de Bellas Artes de San Fernando. Cao 1,72 m (5 ft. 7¾ in.) Dalí đã thu hút sự chú ý như một người lập dị và kỳ quái. Ông để tóc và tóc mai đều dài, mặc áo, vớ, và quần ống túm theo phong cách của người Anh cuối thế kỷ 19. Tại Residencia, ông trở thành bạn thân với Pepin Bello, Luis Buñuel và Federico García Lorca. Quan hệ bạn bè của ông với Lorca đã có xu hướng đam mê tình dục mạnh mẽ, nhưng Dalí từ chối tình ý của nhà thơ này. Tuy nhiên các bức tranh của ông, trong đó ông đã thử nghiệm phong cách Lập thể, mới là những gì ông giành được sự chú ý nhiều nhất từ bạn bè sinh viên của mình. Kiến thức duy nhất của ông về nghệ thuật lập thể đến từ các bài báo tạp chí và một danh sách các tác phẩm do Pichot đưa cho xem, vì không có nghệ sĩ lập thể nào ở Madrid vào thời điểm đó. Vào năm 1924, một Salvador Dalí vẫn chưa được biết đến vẽ minh họa một cuốn sách lần đầu tiên. Đó là một ấn bản của bài thơ Catalan Les bruixes de Llers ("The Witches of Llers") do bạn bè và bạn học của ông, nhà thơ Carles Fages de Climent xuất bản. Dalí cũng thử nghiệm với Dada, và điều này đã ảnh hưởng đến các tác phẩm trong suốt cuộc đời của ông. Dalí đã bị trục xuất khỏi học viện vào năm 1926, ngay trước khi kỳ thi cuối cùng của ông vì bị cáo buộc đã gây bạo loạn. Các kỹ năng vẽ tranh xuất sắc tại thời điểm đó của ông đã được chứng minh bằng tác phẩm Giỏ Bánh mì, vẽ năm 1926. Cùng năm đó, ông đã thực hiện chuyến thăm đầu tiên của mình đến Paris, nơi ông gặp Pablo Picasso, người mà cậu trai trẻ Dalí hằng ngưỡng mộ. Picasso đã nghe các nhận xét tốt về Dalí từ Joan Miró, một người bạn Catalan đã giới thiệu ông với nhiều bạn bè phong cách siêu thực. Trước khi Dalí tập trung phát triển phong cách riêng của mình trong vài năm sau đó, Dalí đã thực hiện một số tác phẩm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Picasso và Miró. Chú thích
Phan Thu Ngân (có tài liệu ghi là Phan Thị Thu Ngân; sinh năm 1980) đạt danh hiệu Hoa hậu báo Tiền phong năm 2000 khi đang là sinh viên khoa Kinh tế thương mại của Đại học Văn Lang. Cô đã từ bỏ quyền tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2001 và kết hôn. Tiểu sử Phan Thu Ngân sinh năm 1980, trong một gia đình lao động nghèo tại Đồng Nai có 2 chị gái và 1 em trai. Mẹ cô là người Cần Thơ, bố người Bình Định. Cả hai bươn chải lên Sài Gòn và sống bằng gánh bánh canh bán ngoài chợ. Trước khi bước chân tới cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2000, cô hàng ngày vẫn ra chợ Phú Nhuận để phụ mẹ bán bánh canh mưu sinh qua ngày. Sự nghiệp Phan Thu Ngân từng tham gia hoạt động thời trang ở sân khấu Hoa Học Đường rồi thân thiết và có tình cảm với người mẫu Phan Tuấn Đạt. Họ cùng mở ra nhãn hiệu thời trang mang tên TND (ghép tên của hai người lại). Được một thời gian, do không còn thấy phù hợp nên Phan Thu Ngân từ bỏ nhãn hiệu TND, cùng chị gái mở ra nhãn hiệu thời trang riêng mang chính tên cô (PTN). Nhãn hiệu tương đối phát triển nhờ hoa hậu cũng có năng khiếu về kinh doanh, thêm việc hiểu được thị trường thời trang, môi trường mà Thu Ngân đã từng tham gia, PTN có hệ thống cửa hàng lớn tại TP HCM lên đến 6 showroom. Cùng với đó, Thu Ngân rất thích đi du lịch, cùng bạn bè dành nhiều thời gian đi khám phá những vùng miền ngay trong nước. Hôn nhân Đám cưới của Phan Thu Ngân và thiếu gia Mai Thanh Hải tổ chức tại 2 nơi là khách sạn OMNI Saigon (TP HCM) vào ngày 12 tháng 9 năm 2002 và tại khách sạn Melia (Hà Nội) vào ngày 22 tháng 9 năm 2002. Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Viện KSND Tối cao đã có Cáo trạng số 09/VKSTC-V2 truy tố Mai Thanh Hải, con trai nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại Mai Văn Dâu về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản tại Điểm a, Khoản 4, Điều 139 BLHS và tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trước đó, Mai Thanh Hải bị tạm giam từ ngày 30 tháng 9 năm 2004 và đã được Cơ quan An ninh điều tra hủy bỏ biện pháp tạm giam và cho tại ngoại ngày 31 tháng 8 năm 2005. Khi Mai Thanh Hải được tại ngoại, Hoa hậu Phan Thu Ngân lập tức cùng chồng từ TP. HCM ra Hà Nội để thực hiện lệnh "cấm đi khỏi nơi cư trú" của cơ quan điều tra. Hai vợ chồng về ngôi nhà tại 35, phố Liên Trì, Hà Nội sống rất kín đáo cùng với mẹ chồng là bà Nguyễn Diên Hồng và em trai.
Hà Kiều Anh (sinh ngày 27 tháng 2 năm 1976) là doanh nhân, người mẫu và diễn viên Việt Nam. Cô cũng từng đoạt danh hiệu Hoa hậu Việt Nam năm 1992 khi mới 16 tuổi. Tiểu sử Hà Kiều Anh sinh ra tại Hà Nội nhưng quê gốc ở Thừa Thiên Huế. Hà Kiều Anh là cháu ngoại của ông Vương Quốc Mỹ, nguyên thứ trưởng Bộ Xây dựng, cháu nội Đại tá Hà Văn Lâu, nguyên đại sứ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc. Cha cô là kỹ sư điện tử Hà Tăng Lâm, con trai của nhà ngoại giao nổi tiếng Hà Văn Lâu. Mẹ cô là nữ doanh nhân Vương Kiều Oanh, Tổng giám đốc Công ty TNHH Vương Anh. Bà Vương Kiều Oanh tốt nghiệp khoa Vô tuyến Điện của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 1977. Năm 1981, khi 5 tuổi cha mẹ cô ly hôn, bà Vương Kiều Oanh đưa con vào Tp. Hồ Chí Minh sống. Mẹ cô xin vào dạy ở trường Đại học Kiến trúc, sau đó một thời gian thì chuyển sang làm ở Bưu điện. Đăng quang Cô đăng quang danh hiệu hoa hậu toàn quốc báo Tiền Phong lần thứ 3 vào ngày 20 tháng 9 năm 1992 tại nhà thi đấu Phan Đình Phùng, Thành phố Hồ Chí Minh. Cô là hoa hậu đăng quang ở độ tuổi trẻ nhất từ trước đến nay của cuộc thi Hoa hậu báo Tiền Phong (tiền thân của cuộc thi Hoa hậu Việt Nam). Khi đó, Hà Kiều Anh 16 tuổi, đang là sinh viên trung cấp thanh nhạc năm thứ nhất của Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, cô được cử làm đại diện Việt Nam dự thi Hoa hậu Sinh viên Thế giới 1993 tổ chức tại Hàn Quốc và xuất sắc lọt vào Top 5 chung cuộc. Sau khi đoạt danh hiệu hoa hậu, cô đã tham gia đóng một số phim, gần đây là phim Lối sống sai lầm . Sự cố và tranh cãi Năm 2003, cô được nhắc đến nhiều trên báo chí vì liên quan đến vụ án buôn lậu điện thoại di động của công ty Đồng Nam của người chồng lúc đó - Nguyễn Gia Thiều. Năm 2004, cô kiện khách sạn Sài Gòn - Phú Quốc làm mất của cô số tiền 20.000 USD Bị chụp ảnh hở ngực khi đóng phim Lục Vân Tiên cùng diễn viên Mỹ Uyên. Năm 2021, Hà Kiều Anh tuyên bố mình là công chúa đời thứ 7 triều Nguyễn, điều này gây nên tranh cãi. Sau đó Hà Kiều Anh đã xin lỗi và nói cô chỉ là hậu duệ bên ngoại đời thứ 6 của Tuy Lý Vương, con trai Minh Mạng. Phim Người tình trong mơ (1992): trước khi cô đăng quang hoa hậu. Một trích đoạn trong phim sau này bi quăng lên mạng như một đoạn phim tươi mát. Lục Vân Tiên (2003) Đẻ mướn (2005) Áo lụa Hà Đông (2006) Ván cờ tình yêu (2007) Hạnh phúc có thật (2009) Đại gia đình (2009-2010) Lối sống sai lầm (2010) Con gái vị thẩm phán (2014) Đời tư Hà Kiều Anh từng kết hôn với đại gia Nguyễn Gia Thiều. Năm 2007, cô đã kết hôn với một doanh nhân tên Huỳnh Trung Nam là thành viên Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Khách sạn và Dịch vụ Đại Dương (OCH), đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Lạc Việt và sống ở Sài Gòn. Ông còn là Lãnh sự danh dự nước Cộng hòa Malta từ ngày 21 tháng 9 năm 2001. Huỳnh Trung Nam từng có một đời vợ và con trai riêng. Tính đến nay, cô đã có với ông Nam hai con trai và một con gái. Bé trai cả tên Vương Khang, bé thứ hai là Vương Khôi và con gái út của cô tên Huỳnh Viann (sinh tháng 10 năm 2015). Con trai riêng của chồng cô tên Huỳnh Nhật Minh (sinh 1992). Mẹ và em trai cô đã sang định cư bên Mỹ trong khi bản thân cô và chồng con sinh sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Giancarlo Fisichella (; sinh ngày 14 tháng 1 năm 1973) còn được gọi là Fisico, Giano hoặc Fisi, là một tay đua chuyên nghiệp người Ý và là người đứng đầu đội bóng đá Nazionale Piloti (đội này bao gồm các tay đua). Ông đã đua cho Minardi, Jordan, Benetton, Sauber, Renault, Force India và Ferrari ở Công thức 1. Sau đó, ông ấy đã lái chiếc Ferrari 458 GTE của đội AF Corse tại nhiều sự kiện đua xe thể thao khác nhau và hai lần trở thành người chiến thắng hạng Le Mans 24 Giờ và là người chiến thắng hạng GT của giải đua Petit Le Mans tại trường đua Road Atlanta. Sự nghiệp Sự nghiệp Công thức 1 (1996-2009) Minardi (1996) Năm 1996, ông bắt đầu sự nghiệp Công thức 1 với Minardi sau khi trở thành tay đua lái thử chính thức của đội vào mùa giải trước. Tuy nhiên, ông đã không hoàn thành toàn bộ mùa giải vì Minardi yêu cầu một tay đua có thể mang lại tiền cho đội và do đó, Fisichella đã được thay thế bởi người đồng hương Giovanni Lavaggi.
Jordan Grand Prix là đội đua xe ô tô Công thức 1 thi đấu trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2005. Tên đội đua được đặt theo tên của người sáng lập, một doanh nhân người Ireland, ông Eddie Jordan. Đội có trụ sở tại Silverstone, Vương quốc Anh nhưng chạy đua với giấy phép của Ireland. Có rất nhiều tay đua Công thức 1 tên tuổi đã từng là thành viên đội đua này như Rubens Barrichello, Giancarlo Fisichella, Ralf Schumacher, và đặc biệt là huyền thoại Công thức 1 người Đức Michael Schumacher. Đầu năm 2005, đội được bán cho công ty Midland Group và sau đó thi đấu với tên gọi Midland F1. Lịch sử Nguồn gốc Eddie Jordan đã là tay đua Công thức 1 vào cuối những năm 1970 trong một thời gian ngắn trước khi thành lập đội đua Eddie Jordan Racing vào đầu những năm 1980. Đội lần đầu tiên trở nên nổi bật trong giải đua Công thức 3 nước Anh năm 1983 với cuộc đọ sức giữa tay đua thử nghiệm một lần của Jordan Ayrton Senna và tay đua Jordan-Ralt Martin Brundle. Brundle đã bị tay đua người Brasil vượt qua ở vòng cuối cùng của giải vô địch. Đội đã giành được chức vô địch ở giải đua Công thức Quốc tế 3000 vào năm 1988 và giành chiến thắng ở chặng đua đầu tiên ở hạng mục này với Johnny Herbert. Năm 1989, Jordan giành chức vô địch của giải F3000 với ngôi sao Công thức 1 trong tương lai Jean Alesi. Nhóm cũng đã điều hành các tay đua Công thức 1 trong tương lai như Martin Donnelly và Eddie Irvine trong F3000. 1991: Mùa giải đầu tiên thành công của đội Đối với mùa giải 1991, đội Jordan tham gia Công thức 1 và nhanh chóng nhận được hỗ trợ tài chính từ Fujifilm, nhà sản xuất đồ uống 7 Up và công ty quảng cáo du lịch Ireland. Jordan 191 là chiếc xe đua đầu tiên mà đội tự thiết kế cho mùa giải này. Công việc phát triển phần lớn do kỹ sư Gary Anderson thực hiện. Chiếc xe này đã sử dụng động cơ tám xi-lanh của Cosworth. Tuy nhiên, không giống như các đội đua khách hàng khác của Cosworth, nó không phải là động cơ DFR tương đối yếu, mà là động cơ từ thế hệ HB được Benetton sử dụng độc quyền vào năm 1990. Các tay đua chính của đội là Andrea de Cesaris, người đã mang về cho đội thêm tiền tài trợ từ Marlboro Italia, và Bertrand Gachot. Khi Gachot bị buộc tội hành hung một tài xế taxi ở Luân Đôn vào cuối mùa hè năm 1991, ông ta đã bị kết án tù. Do vậy đội đã thay thế ông ta bằng tay đua người Đức Michael Schumacher trước thềm giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ. Thế nhưng, ngay tại cuộc đua tiếp theo, Schumacher đã chuyển sang Benetton và Jordan đã trao chỗ lái còn trống của Gachot lần lượt cho Roberto Moreno và Alessandro Zanardi trong các chặng đua còn lại của mùa giải. Mùa giải đầu tiên là một thành công: Đội là đội mới thành công nhất trong mười năm qua. De Cesaris đã hoàn thành năm cuộc đua ở vị trí tính điểm, Gachot ba lần. Ngoài ra, Gachot đã lập vòng đua nhanh nhất ở giải đua ô tô Công thức 1 Hungary. Cuộc đua của Michael Schumacher với đội đã gây chấn động: Schumacher vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ bảy mặc dù ông ta đã khá bất ngờ với vị trí đó. Tuy nhiên, trong cuộc đua, ông ta đã không thể hoàn thành một vòng đua nào vì lỗi máy móc. Jordan đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các tay đua với 13 điểm. 1992: Mùa giải yếu kém với động cơ Yamaha Trong mùa giải thứ hai của đội, đội Jordan đã đạt được một số thành công. Jordan đã thay đổi nhiều thiết bị kỹ thuật vào đầu mùa giải và hiện sử dụng động cơ mười hai xi-lanh của Yamaha thay vì động cơ Cosworth. Sự thay đổi chủ yếu là vì lý do tài chính: đội đang gặp khó khăn về tài chính do chi phí của mùa giải đầu tiên và do vậy đã nhận được động cơ miễn phí Yamaha ít được săn đón. Gary Anderson đã điều chỉnh khung gầm hiện có cho động cơ mới và chiếc xe đua của đội trong mùa giải này tên là Jordan 192. Tay đua chính của đội là Stefano Modena và Maurício Gugelmin. Kết quả cuộc đua mà đội Sasol Jordan Yamaha đạt được trong năm thứ hai là một sự thất vọng so với năm đầu tiên của họ. Các nhà quan sát đánh giá diễn biến của mùa giải 1992 là một "thảm họa". Tại chặng đua mở màn ở Nam Phi, Modena không vượt qua được vòng phân hạng và cũng không làm được như vậy ở các chặng đua ở Monaco, Hungary và Bồ Đào Nha. Theo Gary Anderson, việc không đủ tiêu chuẩn đã khiến Modena mất tinh thần: "Vì tính khí nóng nảy, Modena đã không thể vượt qua các vấn đề tâm lý. Chúng tích tụ và ngày càng làm suy yếu động lực của ông.” Tổng cộng, Modena chỉ về đích bốn lần trong mùa giải này. Tại chặng đua cuối cùng của mùa giải, Modena đã về thứ 6 và ghi điểm duy nhất trong năm của Jordan. Gugelmin vượt qua ở tất cả các vòng phân hạng, nhưng không ghi được điểm nào cả. Kết quả tốt nhất của ông là vị trí thứ 7 tại giải đua ô tô Công thức 1 San Marino. 1993-1994: Sử dụng động cơ Hart Năm 1993 chứng kiến ​​những thay đổi tiếp theo khi đội một lần nữa thay đổi nhà cung cấp động cơ và lần này đội đã chọn Hart là nhà cung cấp động cơ. Một lần nữa, mùa giải bắt đầu với hai tay đua mới Ivan Capelli và tân binh người Brasil Rubens Barrichello. Capelli rời đi chỉ sau hai cuộc đua và Barrichello chứng kiến ​​năm tay đua khác trở thành đồng đội của mình trong suốt mùa giải 1993. Jordan chỉ cải thiện vừa phải và chỉ ghi được ba điểm. Các dấu hiệu ổn định bắt đầu xuất hiện vào gần cuối mùa giải khi Barrichello đua cùng Eddie Irvine, một cựu tay đua của Jordan trong giải đua F3000. Irvine về thứ sáu và giành được một điểm trong cuộc đua Công thức 1 đầu tiên của mình tại Suzuka. Nó còn đáng nhớ hơn nữa vì Irvine đã vượt một vòng trước Ayrton Senna của McLaren để vượt qua Damon Hill. Sau khi cuộc đua kết thúc, Senna đã đấm vào mặt Irvine sau khi Irvine đẩy ông ta vào một cuộc thảo luận nóng nảy. Barrichello và Irvine trở lại trong mùa giải 1994 và tiếp tục sử dụng động cơ Hart nhưng Irvine đã có một khởi đầu mùa giải tệ hại khi bị cấm thi đấu ở ba cuộc đua vì đua nguy hiểm liều lĩnh. Barrichello đã giúp đội về đích đầu tiên trong vị trí top 3 tại giải đua ô tô Công thức 1 Thái Bình Dưong nhưng gần thiệt mạng trong chặng đua tiếp theo ở San Marino sau một vụ va chạm kinh hoàng ở vòng phân hạng. Đội đã vượt qua những khó khăn này và trở lại phong độ ban đầu khi họ đứng thứ 5 trong bảng xếp hạng các đội đua. Barrichello đã giành được vị trí pole đầu tiên cho Jordan sau một vòng phân hạng ẩm ướt ở Bỉ và đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng các tay đua với 19 điểm. Thành tích này đã khiến các đội lớn của Công thức 1 phải sửng sốt vì một đội có kinh phí thấp như vậy với động cơ do Hart Engineering thiết kế và chế tạo đã giành được vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các đội đua với 28 điểm. 1995-1997: Sử dụng động cơ Peugeot Sau hai năm, Jordan đã thay thế nhà cung cấp động cơ. Từ năm 1995 cho đến 1997, đội đã sử dụng động cơ mười xi-lanh của Peugeot bởi vì Eddie Jordan muốn phát triển cơ sở hạ tầng của đội tốt hơn và mức độ phát triển cao hơn từ Peugeot so với Hart. Jordan ban đầu có thể duy trì phong độ với sự hỗ trợ của Peugeot. Trong mùa giải 1995, các tay đua Barrichello và Irvine lấy điểm thường xuyên và thỉnh thoảng lên bục vinh quang. Đối với mùa giải 1996, đội được tài trợ bởi nhãn hiệu thuốc lá Benson & Hedges cho đến năm 2002. Tuy nhiên, Irvine đã rời Jordan để tham gia Ferrari và tay đua thay thế Martin Brundle - người mà Eddie Jordan đã từng làm việc cùng nhau ở giải Công thức 3 - không thành công mặc dù có kinh nghiệm trong khi thành tích của Barrichello ổn định hơn rất nhiều. Đó là mùa giải Công thức 1 cuối cùng của Brundle và tay đua Barrichello đầy tham vọng đã chuyển sang đội Stewart mới thành lập của cựu vô địch Công thức 1 Jackie Stewart vào năm 1997. Vào mùa giải 1997, Jordan một lần nữa sử dụng bộ đôi tay đua mới. Em trai của Michael Schumacher, Ralf, đã ra mắt với đội với tư cách là tay đua tân binh. Cùng với tay đua người Ý Giancarlo Fisichella từ Minardi, ông đã tái lập thành tích của mùa giải thành công nhất cho đội có trụ sở Silverstone cho đến nay. Vị trí thứ ba của Schumacher tại giải đua ô tô Công thức 1 Argentina ở Buenos Aires đánh dấu lần đầu tiên ông lên bục vinh quang trong chặng đua thứ 100 của đội, thế nhưng Fisichella phải bỏ cuộc sau một pha va chạm với đồng đội Schumacher. Tuy nhiên, vào cuối mùa giải, Fisichella là tay đua thành công hơn. Ông đạt vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng các tay đua với tổng cộng 20 điểm và đánh bại được Schumacher. Tuy nhiên, Fisichella đã quyết định rời đội và Jordan đã thay thế ông với Damon Hill, nhà vô địch Công thức 1 năm 1996. 1998-1999: Những năm thành công cuối cùng Năm 1998, đội đã ký hợp đồng lớn nhất với cựu vô địch thế giới Damon Hill để thay thế Fisichella. Đội cũng đã thay thế nhà cung cấp động cơ Peugeot bằng động cơ Mugen Honda. Cho đến nửa đầu mùa giải, Jordan đã không ghi được một điểm nào do vấn đề về độ bền bỉ của động cơ. Vào thời điểm đó, họ đã ký hợp đồng với kỹ sư Mike Gascoyne từ đội Tyrrell để củng cố đội ngũ kỹ thuật sau khi giám đốc kỹ thuật lâu năm Gary Anderson đã từ chức vài tháng sau đó. Với sự giúp đỡ của Gascoyne, mọi thứ đã được cải thiện đáng kể vào nửa sau mùa giải. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ kịch tính và ẩm ướt năm đó, Hill đã mang về cho đội chiến thắng Công thức 1 đầu tiên sau khi chỉ có mỗi sáu tay đua hoàn thành cuộc đua đó. Ralf Schumacher về đích ở vị trí thứ nhì và giúp đội về đích ở hai vị trí dẫn đầu của cuộc đua đó. Tuy nhiên, đội đã khuyên Schumacher không được phép vượt Hill. Tức giận vì điều này, anh trai Michael của ông nói với đội rằng Ralf sẽ không bao giờ chạy đua cho đội nữa và mua lại hợp đồng của anh trai mình với giá 2 triệu bảng. Sau mùa giải, Hill đứng thứ 6 trong bảng xếp hạng các tay đua và Ralf đứng thứ 10. Đội đã kết thúc mùa giải này ở vị trí thứ 4 với 34 điểm. Trong mùa giải này, hai tay đua người Đức Heinz-Harald Frentzen và Ralf Schumacher đổi đội cho năm 1999 (Frentzen chuyển sang Jordan và Ralf chuyển sang Williams) và Hill tiếp tục ở lại đội. Mùa giải của Frentzen đã thành công rực rỡ sau khi ông giành được hai chiến thắng và một vị trí pole. Trong một thời gian ngắn, Frentzen đã là ứng cử viên giành chức vô địch Công thức 1 nhưng sự kém may mắn và các đội đua mạnh hơn là McLaren và Ferrari đã chấm dứt hy vọng giành chức vô địch của ông. Frentzen về thứ ba trong bảng xếp hạng các tay đua và đội cũng về thứ ba trong bảng xếp hạng các tay đua với 61 điểm. Năm 1999 là mùa giải tốt nhất của đội. Thống kê thành tích Chú thích cho bảng điểm trên:
Quốc hội là cơ quan lập pháp của một quốc gia. Quốc hội được người dân bầu cử và có nhiệm vụ thông qua hiến pháp và các bộ luật và thường được thiết kế theo hình thức Nghị viện. Các loại quốc hội Đơn viện Quốc hội chỉ bao gồm một viện duy nhất. Ví dụ: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,... Lưỡng viện Quốc hội bao gồm hai viện Thượng nghị viện Hạ nghị viện Ví dụ: Hoa Kỳ, Canada, Nga (Liên Xô cũ cũng có cơ chế lưỡng viện cho Xô viết tối cao), Anh, Pháp, Campuchia... Đại biểu quốc hội tại hạ nghị viện thường là do người dân trực tiếp bầu, nên còn gọi là dân biểu. Trong khi đại biểu quốc hội tại thượng nghị viện thường được gọi là nghị sĩ, hay là thượng nghị sĩ. Trên bản đồ bên cạnh, chúng ta thấy những quốc gia đánh dấu màu xanh lá là những quốc gia trung viện, tức là vừa có quốc hội, thượng viện và hạ viện, nhưng nó chưa được chú thích Quyền lực của Quốc hội Quyền lực của quốc hội là một trong ba quyền quan trọng nhất (tam quyền phân lập) trong hệ thống chính trị của các quốc gia trên thế giới: quyền lập pháp. Quyền lực của quốc hội được thể hiện khác nhau tại mỗi quốc gia.
Thượng viện, thượng nghị viện hay tham nghị viện là một trong hai viện của nghị viện hay quốc hội lưỡng viện lập pháp (viện còn lại là hạ viện hay thường được gọi là viện dân biểu). Thành viên của Thượng viện được gọi là Thượng nghị sĩ, hoặc đôi khi ngắn gọn là Nghị sĩ khi mà thành viên của Hạ viện gọi là Dân biểu. Đối với quốc hội chỉ bao gồm một viện (và do đó không có thượng viện hay hạ viện) được mô tả là đơn phương hay gọi là đơn viện lập pháp. Nguồn gốc Tại một số quốc gia, Thượng viện có tên là Viện nguyên lão (Senate), bắt nguồn từ tên gọi của Viện nguyên lão La Mã cổ đại. Việc sử dụng đầu tiên của thuật ngữ senate để chỉ định thượng viện bắt nguồn từ Hiến pháp Hoa Kỳ, sau đó được bắt chước bởi nhiều nước khác trên toàn thế giới. Đặc điểm của thượng nghị viện Nhìn chung Thượng nghị viện có vài điểm sau khác với hạ viện: Thượng viện có những quyền lực riêng mà hạ viện không có, và ngược lại, điều này thay đổi tuỳ thuộc vào hiến pháp từng quốc gia. Có quyền xem xét các vấn đề được đưa ra bởi hạ viện nhưng ở một số nước, thượng nghị sĩ không có vai trò khởi xướng hay phủ quyết lập pháp, riêng ở Hoa Kỳ, thượng nghị sĩ có quyền đề xướng luật, nhưng luật chi tiêu và đánh thuế phải xuất phát từ hạ viện. Có quyền đặt vấn đề với nhánh hành pháp, sau khi các nghị quyết được thông qua bởi hạ viện. Ở nhiều nước, các thành viên thường không phải được bầu đại chúng mà quyền thành viên có thể do kế thừa hoặc do bổ nhiệm. Các thành viên đại diện cho các đơn vị hành chính của một liên bang. Trong trường hợp này, Thượng nghị viện còn được gọi là Viện bang biểu, các thành viên được chỉ định bởi các bang và đại diện cho quyền lợi các tiểu bang của một liên bang. Thượng viện có ít ghế hơn hạ viện. Nhiệm kỳ thành viên dài hơn của hạ viện, thậm chí cả đời. Các thành viên được bầu theo từng phần, tức là mỗi năm một phần trong thượng viện sẽ được bầu lại, chứ không phải cả viện. Tuy nhiên, điều này thay đổi tùy thuộc vào các quốc gia khác nhau. Thượng viện tại một số quốc gia Vương quốc Anh Thượng Nghị viện Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland được gọi là Viện Quý tộc bao gồm các nghị viên Tinh thần và nghị viên Thế tục. Hoa Kỳ Thượng viện Hoa Kỳ do dân cử, gồm 100 thành viên, mỗi bang sẽ có 2 thượng nghị sĩ đại diện bất chấp là quy mô dân số hay kinh tế của bang đó như thế nào. Chủ tịch thượng viện Hoa Kỳ theo hiến pháp quy định là Phó Tổng thống Hoa Kỳ. Thượng viện có vai trò quan trọng trong việc cân bằng cán cân quyền lực ngành lập pháp, thậm chí là hành pháp và tư pháp của chính quyền liên bang. Mọi sự bổ nhiệm của tổng thống cho các chức danh cao cấp luôn luôn phải thông qua sự phê chuẩn của thượng viện. Thượng viện là cơ quan duy nhất có quyền xét xử tổng thống Hoa Kỳ. Canada Thành viên của thượng viện Canada do thủ tướng chỉ định và do Toàn quyền bổ nhiệm, nhiệm kỳ kéo dài đến năm họ 75 tuổi. Đức Thượng nghị sĩ Hội đồng Liên bang Đức do Thủ hiến và Hội đồng các bang chỉ định, họ được giao và có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào. Nhật Tham Nghị viện là Thượng viện của Nhật Bản. Campuchia Thượng viện Campuchia