text
stringlengths
0
512k
Hoắc Nguyên Giáp (霍元甲, 1868-1910), tự Tuấn Khanh (俊卿) là một danh gia võ thuật Trung Quốc. Ông là người đã sáng lập ra Tinh Võ Thể dục Hội, một tổ chức võ thuật nhằm hệ thống hóa và phổ biến rộng rãi võ thuật truyền thống Trung Quốc. Thân thế Hoắc Nguyên Giáp sinh ngày 18 tháng 1 năm 1868 tại huyện Tĩnh Hải, Thiên Tân, Trung Quốc, là người con thứ 4 trong 10 người con của một gia đình nghèo tại Tảo Viên lý. Cha ông, Hoắc Ân Đệ, vốn là người huyện Đông Quang, tỉnh Hà Bắc, di cư đến huyện Tĩnh Hải, tỉnh Trực Lệ (nay là thành phố Thiên Tân). Dù sinh kế chính là nghề nông, tuy nhiên thời trẻ Hoắc Ân Đệ từng có thời gian luyện tập Mê Tung quyền, nên thỉnh thoảng ông cũng nhận lời tham gia bảo tiêu các chuyến buôn hàng đến Mãn Châu Lý và ngược lại. Mặc dù sinh ra trong một gia đình có truyền thống võ nghệ, nhưng từ thuở ấu niên Hoắc Nguyên Giáp thân thể yếu nhược, bệnh tật liên miên. Điều này có thể đã ảnh hưởng đến sức khỏe và tuổi thọ ngắn ngủi của ông sau này. Nhất đại tôn sư Do uy tín từ nghề bảo tiêu, Hoắc Ân Đệ về sau mở võ đường dạy võ cho con em trong làng, truyền dạy Mê Tung quyền. Do lo ngại ông có thể chất kém (Hoắc Nguyên Giáp bị bệnh hen suyễn mãn tính và sốt vàng da) và cho rằng ông không có được thiên chất võ thuật, nên cha Hoắc Nguyên Giáp thường hạn chế ông tập luyện võ thuật. Mặc dù vậy, bản tính đam mê võ thuật, Hoắc vẫn thường xuyên bí mật theo dõi các buổi dạy của cha mình và kiên trì khổ luyện một mình, bất chấp thể tạng bệnh tật đau yếu. Năm 1890, một võ sĩ từ Hà Nam đến Hoắc gia và tỉ thí với một người anh của Hoắc. Người này dễ dàng đánh bại anh trai Hoắc, và trước sự ngạc nhiên của gia đình, Hoắc xin được ra thi đấu. Mọi người bất ngờ khi thấy Hoắc lại dễ dàng đánh bại võ sĩ Hà Nam. Với chiến thắng này, Hoắc chứng tỏ được với cha là ông hoàn toàn có thiên tư về võ thuật. Cha ông cuối cùng cũng đồng ý cho Hoắc tham gia tập luyện như một môn sinh chân truyền. Danh tiếng của Hoắc ngày càng vang xa khi ông đả bại toàn bộ các võ sư khắp nơi đến tỉ thí khi còn rất trẻ. Cũng như cha mình, Hoắc cũng bắt đầu tham gia vào nghề bảo tiêu và càng nổi danh hơn khi nhiều lần đánh bại các toán cướp hàng. Hoắc bắt đầu có một nguồn thu nhập khá, đủ để ông chuyển đến sống ở thành phố Thiên Tân năm 1896 và sống ở đó cho đến cuối đời. Trong những năm cuối thế kỷ 19, ngoài việc Trung Quốc bị các cường quốc qua phân, các võ sĩ phương Tây và Nhật Bản cũng thừa dịp đứng ra thách đấu với các võ sư người Hoa và đa số giành chiến thắng trước những võ sư Trung Quốc. Trong số những kẻ đứng ra khiêu chiến giới võ thuật Trung Hoa có người đã đề tặng bốn chữ "Đông Á bệnh phu" (Người bệnh Đông Á) mang đầy ý nghĩa chế nhạo lẫn khiêu khích các võ sĩ người Hoa khiến họ cảm thấy rất nhục nhã. Qua việc võ sư Hoắc Nguyên Giáp chiến thắng trong một số trận đấu tiêu biểu với người nước ngoài, võ lâm Trung Hoa dần dần lấy lại danh dự và ông được tôn là người giỏi nhất Thiên Tân. Hoắc nhanh chóng trở thành một huyền thoại trong giới võ thuật Trung Quốc. Nhiều giai thoại được gán cho ông như một biểu hiện của lòng tự hào dân tộc của người Trung Quốc trong thời kỳ Thanh mạt. Thành lập Tinh Võ thể dục Hội Hoắc liên kết với một số võ sư người Hoa yêu nước thành lập Hội Võ thuật Tinh Võ (Tinh Võ Môn 精武門) vào năm 1909 với mục đích rèn luyện sức khỏe và võ thuật tự vệ cho mọi người và được thanh thiếu niên Trung Hoa nhiệt tình hưởng ứng. Vượt thoát khỏi sự ràng buộc của nghi lễ, sự tầm sư học đạo rất khó khăn trong các môn quyền thuật trước đây, Tinh Võ Thể dục Hội đã lần đầu tiên trong lịch sử võ thuật Trung Hoa phổ biến võ thuật tới đại chúng. Cái chết Theo các tài liệu đáng tin cậy, trong những năm cuối đời, ngoài bệnh hen suyễn mãn tính và sốt vàng da, Hoắc còn mắc bệnh lao, một chứng bệnh nan y thời bấy giờ. Theo Trần Công Triết, một đệ tử của Hoắc, thì chỉ sau vài tháng thành lập Hội Tinh Võ, Hoắc bắt đầu ho ra máu. Các thầy thuốc Trung y đã kê cho ông nhiều toa thuốc khác nhau, nhưng sức khỏe của Hoắc tiếp tục xấu đi. Dù cuối cùng ông vẫn phải vào Bệnh viện Chữ thập đỏ Thượng Hải để chữa trị, nhưng ông vẫn không thể qua khỏi và qua đời hai tuần sau đó. Việc Hoắc bất ngờ qua đời ngày 9 tháng 8 năm 1910 đã làm phát sinh nhiều giai thoại cho rằng ông bị hạ độc thủ bởi sự ganh ghét của các võ sư nước ngoài. Một trong những giai thoại phổ biến nhất căn cứ vào sự kiện trước khi chết, Hoắc từng tham gia thi đấu với các võ sĩ Judo Nhật Bản và có đả thương vài người trong số họ. Về sau, khi chính Hoắc bị ho ra máu, chính giáo đầu của các võ sĩ này lại giới thiệu Hoắc đến khám tại một bác sĩ Nhật Bản nhưng ông đã từ chối. Năm 1989, Hoắc được cải táng. Một số thông tin cho rằng đã phát hiện các dấu tích của việc nhiễm độc thạch tín trên hài cốt. Tuy nhiên, điều này cũng không thể khẳng định được cái chết của ông là do ám sát bằng cách đầu độc. Đơn giản là Arsenic trioxide trong Trung y cũng được xem như một thành phần trong các bài thuốc Trung y cổ truyền mà rất có thể Hoắc đã sử dụng trong một thời gian rất dài để điều trị các chứng bệnh của mình. Di sản Hoắc Nguyên Giáp mất đi lúc ông chỉ mới ở tuổi 42, nhưng các đệ tử của ông vẫn kế thừa và phát huy sức mạnh cũng như tinh thần võ học vốn có của phái Tinh Võ, họ luôn ghi nhớ lời dạy của thầy: "Học võ là học đạo, trước tiên là đạo làm người, học võ còn để rèn luyện thân thể, lấy "dục thể, dục trí, dục đức" làm mục đích phấn đấu, bất luận trong mọi hoàn cảnh tinh thần thượng võ phải được tôn trọng. Người biết võ nên đóng góp công sức vào những việc ích nước lợi dân. Người giỏi võ mà kém trí đức chỉ là hạng võ biền hại người hại mình."..
Phân lớp Cá sụn hóa xương (Chondrostei) là các loài cá sụn với một số đặc điểm hóa xương. Khi hiểu theo nghĩa rộng thì bộ này có khoảng 52 loài còn sinh tồn được chia thành hai bộ, là bộ Acipenseriformes (bao gồm các loài cá tầm và cá tầm thìa) và bộ Polypteriformes (các loài cá nhiều vây). Người ta cho rằng tổ tiên của cá sụn hóa xương là cá xương nhưng khả năng này đã bị mất đi vào cuối sự phát triển tiến hóa, kết quả tạo ra là bộ xương nhẹ hơn. Các loài cá sụn hóa xương già cho thấy có sự xương hóa của bộ xương, điều này đặt ra một giả thuyết cho rằng quá trình này bị làm chậm lại chứ không phải bị mất đi ở các loài cá này. Nhóm này đã có thời được phân loại cùng nhóm với cá mập: các đặc điểm tương tự là rõ ràng, không chỉ vì các loài cá sụn hóa xương này phần lớn không có chất xương, mà còn vì cấu trúc của quai hàm là gần giống với quai hàm của cá mập hơn là giống các loài cá xương khác, cũng như cả hai đều thiếu vảy (ngoại trừ cá tầm). Tuy nhiên, các mẫu hóa thạch cho rằng các loài cá này có nhiều đặc điểm chung với Teleostei hơn là các gợi ý có được từ biểu hiện bề ngoài của chúng. Ngoài ra, các đặc điểm chia sẻ bổ sung còn có các lỗ thở và ở cá tầm là đuôi dị hình (xương sống kéo dài thành thùy lớn hơn của vây đuôi). Chondrostei có lẽ là một nhóm cận ngành, có nghĩa là phân lớp này không bao gồm tất cả các hậu duệ từ cùng một tổ tiên chung; cho nên việc phân loại lại phân lớp này cũng không nằm ngoài câu hỏi. Tên gọi chung Chondrostei có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp chondros nghĩa là chất sụn và osteo nghĩa là xương. Phân loại Khi hiểu theo nghĩa hẹp (đơn ngành) thì Chondrostei bao gồm các bộ và họ sau: † Saurichthyiformes † Birgeriidae Acipenseriformes Còn khi hiểu theo nghĩa rộng (cận ngành ?) nó còn bao gồm các nhóm, bộ và họ sau: † Phanerorhynchiformes (có thể) † Luganoiiformes (có thể) † Haplolepiformes (có thể) † Ptycholepiformes † Amblypteridae † Redfieldiidae Cladistia † Guildayichthyiformes Polypteriformes † Platysomoidei
Phụng Hiệp là một huyện thuộc tỉnh Hậu Giang, Việt Nam. Địa lý Huyện Phụng Hiệp nằm ở phía đông của tỉnh Hậu Giang, nằm cách thành phố Vị Thanh khoảng 37 km về phía Đông, cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 36 km về phía Nam, có vị trí địa lý: Phía đông giáp thành phố Ngã Bảy, huyện Châu Thành và huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng Phía tây giáp thị xã Long Mỹ và huyện Vị Thủy Phía nam giáp huyện Mỹ Tú và huyện Châu Thành thuộc tỉnh Sóc Trăng Phía bắc giáp huyện Châu Thành A. Địa hình, địa mạo Địa hình của huyện nhìn chung khá bằng phẳng, cao độ có xu thế thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam, từ Đông và Tây thì thấp dần vào giữa huyện, đã tạo thành các khu vực có địa hình cao thấp khác nhau: vùng gò đồi có cao trình trên 1,2m (Hòa An), vùng ven Quốc lộ 61 cao trình biến đổi từ 0,9 – 1,2m, vùng trung tâm huyện từ 0,6 – 0,9m, vùng Quốc lộ 1 và Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng dưới 0,6m. Khí hậu, thời tiết Phụng Hiệp nói riêng và Hậu Giang nói chung nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang đặc trưng của vùng Tây Nam Bộ với nền nhiệt cao và ổn định, các chế độ quang năng, vũ lượng, gió, bốc hơi, ẩm độ không khí,... phân hóa thành hai mùa rõ rệt, với những đặc trưng sau: Nhiệt độ không khí Nhiệt độ không khí trung bình cả năm 27,7°C, mức chênh lệch giữa các tháng trong năm không lớn (khoảng 2,5 – 4°C), nhưng mức chênh lệch trong ngày khá lớn, trong các tháng mùa khô dao động từ 24 – 35°C và trong các tháng mùa mưa dao động từ 22 – 32°C. Tổng tích ôn lớn (9.750°C - 9.850°C/năm), thời gian chiếu sáng bình quân năm lớn (2.507,4 giờ/năm), nhưng phân bố không đều, trong đó các tháng mùa khô có thời gian chiếu sáng từ 250 - 275 giờ/tháng và các tháng trong mùa mưa có thời gian chiếu sáng khoảng 170-180 giờ/tháng. Chế độ mưa Chế độ mưa phân bố theo mùa rõ rệt, trong đó mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và chấm dứt vào cuối tháng 11 dương lịch, với lượng mưa chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình năm khá lớn, khoảng 1.800 – 1.900 mm, số ngày mưa trung bình 189 ngày/năm. Đặc điểm đáng chú ý là trong mùa mưa, do lượng mưa tập trung lớn cộng với nước lũ sông Mekong tràn về (tháng 8 và 10) không kịp tiêu thoát đã gây ra ngập úng trên phạm vi lớn. Trong những năm gần đây, do tình hình biến đổi khí hậu đã có hiện tượng lũ lụt nặng ở một số khu vực trên địa bàn huyện (Hòa Mỹ, Phương Bình, Phương Phú), gây thiệt hại không nhỏ đến sản xuất, ảnh hưởng các công trình xây dựng và đời sống nhân dân. Độ ẩm không khí Độ ẩm không khí trung bình của các tháng trong năm 82,4%, cao nhất 94%, thấp nhất 62,2%, chênh lệch độ ẩm giữa các tháng không lớn. Lượng bốc hơi bình quân 644 mm, bằng 25-30% lượng mưa, các tháng mùa khô lượng bốc hơi trên 50 mm, tháng có lượng bốc hơi nhỏ nhất là tháng 11 dương lịch. Chế độ gió Tốc độ gió trung bình trong năm 3,5m/s với 3 hướng gió thịnh hành, bao gồm: Từ tháng 11 – 12: gió Đông - Bắc gây khô và mát Từ tháng 2 – 6: gió Đông - Nam gây khô và nóng, nhiệt độ không khí tăng, độ ẩm giảm Từ tháng 6 – 11: gió Tây - Nam thổi từ biển vào mang nhiều hơi nước nên mưa nhiều trong thời gian này. Thủy văn Chế độ thủy văn Hệ thống kênh rạch huyện Phụng Hiệp chịu tác động mạnh bởi chế độ thủy triều biển Đông và biển Tây, chế độ dòng chảy chính của sông rạch, chế độ mưa tại chỗ và địa hình. Thủy triều biển Đông: Là chế độ bán nhật triều với 2 kỳ triều cường (1 và 15 âm lịch) và 2 kỳ triều kém (7 và 23 âm lịch) trong mỗi tháng, thời gian mỗi kỳ kéo dài 2-3 ngày, đồng thời có 2 đỉnh và 2 chân trong mỗi ngày. Triều biển Đông theo sông Hậu và kênh rạch tác động vào địa bàn khá mạnh ở khu vực ven sông và kênh chính, yếu dần khi vào sâu nội đồng (5-10km), biên độ triều chênh lệch khá lớn, có tác dụng tốt cho việc tưới tiêu, nhất là với các xã phía Bắc huyện. Thủy triều biển Tây: Là chế độ nhật triều có pha bán nhật triều nhưng không rõ nét. Triều biển Tây theo hệ thống sông Cái Lớn tác động vào khu vực phía Tây Nam của Phụng Hiệp, do biên độ triều nhỏ (tại trạm Vị Thanh 25 - 68cm), nên tiêu thoát nước chậm. Dưới tác động của triều biển Đông và triều biển Tây, khu vực giữa huyện (phía Nam kênh Lái Hiếu và phía bắc kênh Nàng Mau) nằm trong vùng giáp nước nên khả năng tiêu thoát nước của khu vực này khó khăn, đặc biệt là các tháng mưa lũ. Độ sâu ngập và thời gian ngập So với các tỉnh khác thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, lũ ở Phụng Hiệp thường đến chậm, thông thường từ tháng 8 đến tháng 10 lũ từ sông Hậu theo các kênh chính đổ vào Phụng Hiệp rồi tiêu thoát theo hướng biển Tây. Tài nguyên đất Huyện có 3 nhóm đất, được phân thành 6 loại đất sau: Nhóm đất phù sa: Diện tích 13.837,59 ha chiếm 28,56% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố rải rác ở tất cả các xã, trên địa hình cao đến trung bình. Đây là nhóm đất tốt nhất trong các nhóm đất có trên địa bàn huyện, trong đó được phân thành 2 loại đất sau: Đất phù sa gley: diện tích 11.613,69 ha chiếm 23,97% diện tích tự nhiên. Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng: diện tích 2.223,90 ha chiếm 4,59% diện tích tự nhiên. Nhóm đất phèn: Diện tích 27.999,80 ha, chiếm 57,79% diện tích tự nhiên toàn huyện. Nhóm đất này khá giàu dinh dưỡng và chất hữu cơ, nhưng bị hạn chế bởi độc tố phèn ở các mức độ khác nhau và được chia thành 3 loại đất sau: Đất phèn tiềm tàng sâu: diện tích 2.756,86 ha chiếm 5,69% diện tích tự nhiên. Đất phèn hoạt động nông: diện tích 7.083,53 ha chiếm 14,62% diện tích tự nhiên Đất phèn hoạt động sâu: diện tích 18.164,26 ha chiếm 37,49% diện tích tự nhiên. Nhóm đất nhân tác (đất phi nông nghiệp): Diện tích 4.074,72 ha (chiếm 8,41% diện tích tự nhiên). Tài nguyên nước Nguồn nước mặt: Nước dùng trong sản xuất và sinh hoạt ở Phụng Hiệp hiện nay chủ yếu là nước mặt. Tài nguyên nước mặt của huyện khá dồi dào, được cung cấp từ hai nguồn chính là nước mưa tại chỗ và nước sông Mêkông qua nhánh sông Hậu. Nguồn nước ngầm: Theo tài liệu công bố của Liên đoàn VIII Địa chất Thủy văn và Xí nghiệp Khai thác Nước ngầm số 5 cho thấy nước ngầm ở Hậu Giang nói chung và Phụng Hiệp nói riêng có 4 tầng: Holoxen, Pleistoxen, Plioxen và Mioxen. Tài nguyên rừng Hiện tại đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở khu vực trũng phèn và ngập nước tại phía Tây của huyện, thuộc địa giới của xã Phương Bình, Hiệp Hưng và Tân Phước Hưng, gồm đất rừng của Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng và Trung tâm nông nghiệp Mùa Xuân. Theo thống kê của ngành Tài nguyên và Môi trường, diện tích đất lâm nghiệp toàn huyện 3.234,56 ha, trong đó: đất rừng sản xuất 485,21 ha (Trung tâm nông nghiệp Mùa Xuân), đất rừng đặc dụng 2.749,35 ha (Khu Bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng). Theo Quyết định số 121/QĐ-UBND ngày 22 tháng 1 năm 2021 của UBND tỉnh Hậu Giang về việc công bố hiện trạng rừng tỉnh Hậu Giang năm 2021, diện tích rừng đặc dụng quy hoạch cho lâm nghiệp 2.805 ha (Khu Bảo tồn Lung Ngọc Hoàng), đất rừng sản xuất 1.222,06 ha (Trung tâm nông nghiệp Mùa Xuân). Diện tích có rừng của huyện Phụng Hiệp 2.813,25 ha, đất rừng đặc dụng 1.482,7 ha, rừng sản xuất 1.330,55 ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 4,75% (cao nhất tỉnh). Hành chính Huyện Phụng Hiệp có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 3 thị trấn: Cây Dương (huyện lỵ), Búng Tàu, Kinh Cùng và 12 xã: Bình Thành, Hiệp Hưng, Hòa An, Hòa Mỹ, Long Thạnh, Phụng Hiệp, Phương Bình, Phương Phú, Tân Bình, Tân Long, Tân Phước Hưng, Thạnh Hòa với 128 ấp. Lịch sử Thời Pháp thuộc Nguồn gốc Ban đầu, địa danh Phụng Hiệp chỉ là tên một làng thuộc tổng Định Phước, tỉnh Cần Thơ. Sau này, thực dân Pháp thành lập quận và đặt tên là quận Phụng Hiệp do lấy theo tên gọi làng Phụng Hiệp vốn là nơi đặt quận lỵ. Năm 1917, thực dân Pháp thành lập quận Phụng Hiệp thuộc tỉnh Cần Thơ. Quận lỵ đặt tại làng Phụng Hiệp. Quận Phụng Hiệp gồm 3 tổng, 21 làng: Tổng Định An gồm 6 làng: Đông Phú, Hậu Thạnh, Long Hưng, Phú Hữu, Phú Mỹ Đông, Phú Thứ; Tổng Định Hòa gồm 8 làng: Hòa Mỹ, Mỹ Phước, Tân Bình, Tân Hưng, Tân Lập, Thạnh Hưng, Thạnh Xuân, Trung Hưng; Tổng Định Phước gồm 7 làng: Đông Sơn, Long Mỹ, Như Lăng, Phụng Hiệp, Song Mỹ, Thượng Phước, Trường Thạnh Sơn Sau này chính quyền thực dân Pháp tiến hành một nhất một số làng và lấy tên làng mới như: Tân Phước Hưng (hợp nhất Tân Lập, Mỹ Phước và Tân Hưng), Long Thạnh (hợp nhất Long Mỹ và Trường Thạnh Sơn), Đông Phước (hợp nhất Đông Sơn, Thường Phước và Như Lăng). Riêng ba làng nằm trên địa phận cù lao Mây là Hậu Thạnh, Phú Mỹ Đông và Long Hưng được hợp nhất lại thành một làng mới tên là làng Thạnh Mỹ Hưng, sau này làng này cũng như cù lao Mây được giao về cho quận Trà Ôn lúc bấy giờ thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý (ngày nay cù lao Mây thuộc huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long). Ngày 31 tháng 12 năm 1943, thay đổi địa giới hành chính của quận Phụng Hiệp. Theo đó, tổng Định Phước chỉ còn lại 3 làng: Phụng Hiệp, Hiệp Hưng, Tân Phước Hưng. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Huyện Phụng Hiệp khi đó vẫn thuộc tỉnh Cần Thơ. Đồng thời, chính quyền Việt Minh cũng quyết định tách một phần đất đai xã Tân Phước Hưng giao về cho huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng quản lý. Năm 1946, chính quyền kháng chiến cũng quyết định giao các xã Phú Thứ, Phú Hữu và Đông Phú cho huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cần Thơ quản lý. Năm 1948, Ủy ban Hành chánh kháng chiến tỉnh Cần Thơ quyết định tách đất xã Phụng Hiệp để thành lập mới xã Đại Thành. Đại Thành vốn là tên ghép của hai liệt sĩ: Nguyễn Văn Đại, trưởng công an xã đã hy sinh trên đường đi công tác và Nguyễn Văn Thành, nhân viên công an xã bị giặc bắt và giết chết. Đến năm 1954, chính quyền Việt Minh lại giải thể xã Đại Thành và sáp nhập trở lại vào xã Phụng Hiệp. Năm 1954, đông đảo đồng bào miền Bắc, phần lớn là theo đạo Thiên chúa đã di cư vào miền Nam và đến làng Phụng Hiệp (sau năm 1956 gọi là xã Phụng Hiệp) lập nghiệp, sinh sống cho đến ngày nay. Đặc biệt, làng Phụng Hiệp cũng là nơi đặt trụ sở Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ vào năm 1954. Giai đoạn 1956-1975 Việt Nam Cộng hòa Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Quận Phụng Hiệp thuộc tỉnh Phong Dinh cho đến năm 1975. Năm 1964, quận Phụng Hiệp có 2 tổng với 6 xã trực thuộc: Tổng Định Phước có 4 xã: Hiệp Hưng, Hòa Mỹ, Phụng Hiệp, Tân Phước Hưng; Tổng Định Hòa có 2 xã: Đông Phước, Long Thạnh. Sau năm 1965, giải thế cấp tổng, các xã trực thuộc quận. Cho tới năm 1975, theo sự phân chia hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, quận Phụng Hiệp gồm 6 xã: Phụng Hiệp, Tân Phước Hưng, Hiệp Hưng, Hòa Mỹ, Long Thạnh, Đông Phước. Quận lỵ đặt tại xã Phụng Hiệp. Địa bàn xã Phụng Hiệp khi đó gồm 13 ấp trực thuộc: Sóc Trăng, Phó Đường, Mỹ Thạnh, Lái Hiếu, Sậy Nếu, Xẻo Môn, Láng Sen, Xẻo Vông, Ba Ngàn, Sơn Phú, Đông An, Mái Dầm, Mang Cá. Chính quyền Cách mạng Còn về phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, sau năm 1956 huyện Phụng Hiệp vẫn thuộc tỉnh Cần Thơ như cũ cho đến năm 1976. Năm 1964, chính quyền Cách mạng tái lập xã Đại Thành trên cơ sở tách đất từ xã Phụng Hiệp như trước đó. Năm 1966, bàn giao 3 xã Hòa An, Phương Bình, Phương Phú của huyện Long Mỹ cho huyện Phụng Hiệp quản lý (chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn đặt 3 xã này thuộc các quận Long Mỹ và Đức Long của tỉnh Chương Thiện cho đến năm 1975). Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam của tỉnh Cần Thơ lúc bấy giờ vẫn đặt huyện Phụng Hiệp thuộc tỉnh Cần Thơ như trước. Huyện lỵ là thị trấn Phụng Hiệp, được thành lập trên cơ sở tách đất từ xã Phụng Hiệp. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng có sự điều chỉnh các xã thuộc quận Phụng Hiệp cũ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa như sau: Giao xã Đông Phước trước đó thuộc quận Phụng Hiệp về cho huyện Châu Thành quản lý. Giao các xã Thạnh Hòa, Tân Bình (thời Việt Nam Cộng hòa thuộc quận Thuận Nhơn) về cho huyện Phụng Hiệp quản lý. Đồng thời, tách một phần đất của xã Thạnh Hòa để thành lập xã Thạnh Xuân trực thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ. Tách đất xã Phụng Hiệp để thành lập thị trấn Phụng Hiệp và xã Đại Thành. Từ năm 1976 đến nay Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới: tinh Hậu Giang. Lúc này, Phụng Hiệp là huyện của tỉnh Hậu Giang, ban đầu bao gồm thị trấn Phụng Hiệp (huyện lỵ) và 11 xã: Đại Thành, Hiệp Hưng, Hòa An, Hòa Mỹ, Long Thạnh, Phụng Hiệp, Phương Bình, Phương Phú, Tân Bình, Tân Phước Hưng, Thạnh Hòa. Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số xã thuộc huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang như sau: Chia xã Hòa An thành 3 xã: Hòa An, Hòa Lợi và Hòa Lộc. Chia xã Tân Bình thành 3 xã: Tân Bình, Bình Chánh và Bình Thành. Chia xã Hiệp Hưng thành 2 xã: Hiệp Hưng và Hưng Điền. Ngày 16 tháng 9 năm 1989, huyện Phụng Hiệp được xác định các đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Phụng Hiệp (huyện lỵ) và 14 xã: Bình Thành, Đại Thành, Hòa An, Hòa Mỹ, Hiệp Hưng, Hưng Điền, Long Thạnh, Phụng Hiệp, Phương Bình, Phương Phú, Tân Bình, Tân Long, Tân Phước Hưng, Thạnh Hòa. Ngày 7 tháng 12 năm 1990, giải thể 3 xã Tân Long, Bình Thành và Hưng Điền. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Huyện Phụng Hiệp thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1993, huyện Phụng Hiệp trở lại gồm thị trấn Phụng Hiệp (huyện lỵ) và 11 xã: Đại Thành, Hiệp Hưng, Hòa An, Hòa Mỹ, Long Thạnh, Phụng Hiệp, Phương Bình, Phương Phú, Tân Bình, Tân Phước Hưng, Thạnh Hòa. Ngày 24 tháng 8 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 80/1999/NĐ-CP về việc thành lập các xã thuộc các huyện Thốt Nốt và Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Theo đó, thành lập xã Tân Long trên cơ sở 2.172 ha diện tích tự nhiên và 15.799 nhân khẩu của xã Long Thạnh. Ngày 4 tháng 8 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 28/2000/NĐ-CP về việc thành lập thị trấn thuộc các huyện Thốt Nốt, Ô Môn và Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Theo đó: Thành lập thị trấn Cây Dương trên cơ sở 1.512 ha diện tích tự nhiên và 7.981 nhân khẩu của xã Hiệp Hưng Thành lập thị trấn Kinh Cùng trên cơ sở 1.300 ha diện tích tự nhiên và 10.288 nhân khẩu của xã Hoà An. Ngày 19 tháng 4 năm 2002, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 47/2002/NĐ-CP về việc thành lập các xã thuộc các huyện Ô Môn, Phụng Hiệp và Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ. Theo đó, thành lập xã Bình Thành trên cơ sở 2.392,97 ha diện tích tự nhiên và 9.497 nhân khẩu của xã Tân Bình. Ngày 12 tháng 5 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 48/2003/NĐ-CP về việc thành lập các xã, phường, thị trấn thuộc các huyện Châu Thành A, Ô Môn, Phụng Hiệp và thị xã Vị Thanh, tỉnh Cần Thơ. Theo đó, thành lập xã Tân Thành trên cơ sở 1.481,1 ha diện tích tự nhiên và 6.924 nhân khẩu của xã Đại Thành. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang. Huyện Phụng Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang, bao gồm 3 thị trấn: Phụng Hiệp (huyện lỵ), Cây Dương, Kinh Cùng và 14 xã: Đại Thành, Phụng Hiệp, Tân Long, Tân Thành, Bình Thành, Long Thạnh, Thạnh Hoà, Tân Bình, Hoà An, Hoà Mỹ, Hiệp Hưng, Phương Bình, Phương Phú, Tân Phước Hưng. Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 98/2005/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Tân Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang. Theo đó, thành lập thị xã Tân Hiệp (nay là thành phố Ngã Bảy) trên cơ sở điều chỉnh toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Phụng Hiệp, xã Đại Thành, xã Tân Thành, 1.932,76 ha diện tích tự nhiên và 11.482 nhân khẩu của xã Phụng Hiệp, 220 ha diện tích tự nhiên và 1.170 nhân khẩu của xã Tân Phước Hưng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Phụng Hiệp còn lại 48.481,05 ha diện tích tự nhiên và 205.460 người, có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 12 xã: Phụng Hiệp, Tân Phước Hưng, Tân Bình, Hoà An, Phương Bình, Phương Phú, Hoà Mỹ, Hiệp Hưng, Thạnh Hoà, Bình Thành, Tân Long, Long Thạnh và các thị trấn Cây Dương, Kinh Cùng. Huyện lị được dời về thị trấn Cây Dương. Ngày 24 tháng 1 năm 2011, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP về việc thành lập thị trấn Búng Tàu trên cơ sở điều chỉnh 1.518,5 ha diện tích tự nhiên và 7.413 nhân khẩu của xã Tân Phước Hưng. Huyện Phụng Hiệp có 48.555 ha diện tích tự nhiên và 210.089 nhân khẩu; có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 12 xã: Phương Bình, Phương Phú, Bình Thành, Tân Long, Tân Bình, Long Thạnh, Thạnh Hòa, Hòa An, Hòa Mỹ, Phụng Hiệp, Hiệp Hưng, Tân Phước Hưng và 3 thị trấn: Cây Dương, Kinh Cùng, Búng Tàu. Kinh tế - xã hội Tổng giá trị sản xuất (giá so sánh 2010) năm 2020 đạt 7.643 tỷ đồng. Trong đó, lĩnh vực nông - lâm - thủy sản 3.607 tỷ đồng, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng 2.511 tỷ đồng, lĩnh vực thương mại- dịch vụ 1.525 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt 3,12%/năm, trong đó: nông - lâm - thủy sản tăng 0,59%/năm, công nghiệp - xây dựng tăng 6,45%/năm, thương mại- dịch vụ 3,68%/năm. Cơ cấu giá trị sản xuất chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ. Cụ thể: nông lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 47,51% năm 2015 xuống còn 41,88% năm 2020, công nghiệp – xây dựng tăng mạnh từ 29,88% năm 2015 lên 34,94% năm 2020, thương mại – dịch vụ tăng từ 22,61% lên 23,18%. Thu - chi ngân sách nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn: 933.463 triệu đồng, đạt 130,91% chỉ tiêu (trong đó thu nội địa: 78.736 triệu đồng, đạt 110,35% chỉ tiêu). Tổng chi ngân sách địa phương: 917.727 triệu đồng, đạt 129,19% chỉ tiêu. Nông nghiệp Giá trị sản xuất năm 2020 (giá hiện hành) đạt 4.905 tỷ đồng, tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân (giá so sánh 2010) đạt 0,59%/năm. Cây lúa: diện tích gieo trồng năm 2020 đạt 48.363,3 ha, đạt 101,6% kế hoạch, đã thu hoạch dứt điểm, năng suất 6,8 tấn/ha (tăng so với cùng kỳ năm trước 0,26 tấn/ha), sản lượng 328.674 tấn, đạt 105,2% kế hoạch, lợi nhuận bình quân từ 18 - 25 triệu đồng/ha. Diện tích mía năm 2020 có diện tích 4.898,37 ha, đạt 97,97% kế hoạch. Dự kiến đến cuối năm thu hoạch dứt điểm, ước năng suất 105 tấn/ha, sản lượng 514.328 tấn, đạt 102,87% kế hoạch. Cây lâu năm: với các cây trồng chủ lực là xoài, cam, quýt, dừa,... diện tích năm 2020 có diện tích 9.852ha, đạt 100,5% kế hoạch. Trong đó: Cây có múi là 5.107,8 ha, xoài 670,1, nhãn 141,7 ha, mít 429,8 ha, mãng cầu 318,7 ha, dừa 584,2 ha, khóm 45 ha và cây ăn trái khác 2.511,7 ha. Diện tích cho sản phẩm 7.005 ha, sản lượng 88.291 tấn, đạt 104%. Rau màu và rẫy dây các loại: Có diện tích 5.688ha, đạt 103% kế hoạch, chủ yếu được trồng xen với cây mía, cây ăn quả, góp phần tăng thêm thu nhập cho nông dân, sản lượng 78.000 tấn, đạt 109% kế hoạch. Chăn nuôi: Đàn trâu 86 con, đạt 43% kế hoạch; đàn bò 857 con, đạt 72,63% kế hoạch; đàn heo 26.458 con, đạt 132% kế hoạch; đàn gia cầm 784.858 con, đạt 104% kế hoạch. Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng 10.172 tấn, đạt 122,5% kế hoạch. Nuôi trồng thủy sản có diện tích thả nuôi 4.806,39 ha, đạt 106,8% kế hoạch (Trong đó: cá ao thả nuôi 1.610,39 ha; cá ruộng thả nuôi 3.196 ha), sản lượng 28.800 tấn, đạt 106% kế hoạch. Có nhiều mô hình nuôi cá lóc, cá rô đồng, thát lát, các loại cá trắng trên ruộng lúa hiệu quả kinh tế cao. Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện hiệu quả, góp phần cải thiện bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân. Tổng nguồn vốn đầu tư trên 1.314 tỷ đồng, trong đó huy động từ các tổ chức, doanh nghiệp và Nhân dân đóng góp 119,5 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 9,09%). Toàn huyện có 6/12 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm tỷ lệ 50%, các xã còn lại đạt từ 10 - 17 tiêu chí. Công nghiệp – xây dựng Tổng số cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn huyện là 925 cơ sở, trong đó: sản xuất chế biến thực phẩm 160 cơ sở, sản xuất đồ uống 286 cơ sở, chết biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ 42 cơ sở, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy 19 cơ sở, sản xuất sản phẩm từ kinh loại đúc sẵn 138 cơ sở. Tổng giá trị sản xuất đạt 7.263 tỷ đồng, tăng bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt 6,45%/năm. Cơ cấu các thành phần kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung đa số ở loại hình kinh tế ngoài nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp. Thế mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện tập trung ở các ngành nghề chế biến và chế tạo. Trong đó, ngành sản xuất chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng cao, trên 80% tổng giá trị sản xuất. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có quy mô sản xuất tương đối đều, tập trung trên các tuyến quốc lộ, các tuyến kênh lớn để thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá. Một số cơ sở sản xuất chính trên địa bàn như: Công ty TNHH MTV chế biến nông sản Tiến Thịnh, nhà máy được đặt tại ấp Mỹ Phú, xã Tân Phước Hưng Công ty TNHH Một thành viên Phân hữu cơ Ân Thịnh Điền, ấp Mỹ Phú, xã Tân Phước Hưng Công ty Cổ phần thực phẩm Trí Thành, tại ấp Trường Khánh 2, xã Long Thạnh. Dịch vụ Giá trị sản xuất đạt năm 2020 đạt 2.184 tỷ đồng, tăng bình quân 3,68%/năm. Thu hút được một số nhà đầu tư xây dựng các Khu dân cư - Trung tâm thương mại trên địa bàn. Hoạt động hộ kinh doanh cá thể tiếp tục phát triển, với 1.359 hộ đăng ký kinh doanh, tổng vốn 174 tỷ đồng, nâng tổng số toàn huyện có 7.997 cơ sở kinh doanh. Mạng lưới chợ nông thôn tiếp tục được nâng cấp, mở rộng, đáp ứng nhu cầu mua bán của người dân. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đạt 23.414 tỷ đồng, tăng bình quân 4,88%/năm. Trong giai đoạn qua đã xây dựng và phát triển được 14 chợ (trong đó, có 1 chợ hạng II và 13 chợ hạng III), 6 khu dân cư và trung tâm thương mại và 109 doanh nghiệp, hợp tác xã. Ngoài ra, có 2 cửa hàng bách hóa xanh, 2 cửa hàng điện máy xanh được đầu tư với quy mô tương đối lớn, cung cấp kênh bán hàng hiện đại và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dung ở địa phương. Lao động Năm 2020, tổng số lao động trong độ tuổi toàn huyện 122.959 người (chiếm 65,47% tổng dân số), trong đó đang làm việc trong các ngành kinh tế 114.352 người, chiếm 93,0% lao động trong độ tuổi. Cơ cấu lao động trong giai đoạn 2016 - 2020 chuyển đổi theo hướng tích cực, cụ thể: Nông - lâm - ngư nghiệp giảm từ 55,68% năm 2016 xuống còn 51,9% năm 2020. Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng từ 20,15% năm 2016 lên 21,87% năm 2020. Thương mai - dịch vụ tăng từ 24,17% năm 2016 lên 26,24% năm 2020. Tỷ lệ lao động được đào tạo trên tổng lao động đạt 31,76%, số lao động được giải quyết việc làm giai đoạn 2016 – 2020 đạt 14.723 lao động. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo đang có xu hướng giảm, lao động có chuyên môn kỹ thuật có xu hướng tăng tuy nhiên chủ yếu có trình độ chuyên môn còn ở mức hạn chế. Giáo dục Toàn huyện hiện có 64 trường trực thuộc với 160 điểm học (Mẫu giáo 17 trường với 65 điểm học, tiểu học có 34 trường với 78 điểm học và THCS có 17 điểm học); tổng số có 1.039 phòng học (trong đó 400 phòng kiên cố, 592 phòng bán kiên cố, 47 phòng tiền chế) và 254 phòng quản trị, phòng phục vụ học tập. Ngoài ra, còn có 4 trường THPT (THPT Cây Dương, THPT Hòa An, THPT Lương Thế Vinh, THPT Tân Long) và 1 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên. Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 51/64 trường, đạt tỷ lệ 79,68%, trong đó: Mẫu giáo: 16/17 trường đạt chuẩn, chiếm tỷ lệ: 94,47%: MG Sơn Ca, MG Cây Dương, MG Long Thạnh, MG Tân Bình 1; MG Hiệp Hưng; MG Hòa Mỹ; MG Hòa An; MG Hoa Hồng; MG Tân Bình 2, MG Khu CCTU Cần Thơ, MG Bình Thành; MG Hương Sen; MG Phụng Hiệp và MG Phương Phú, MG Tân Long, MG Tân Phước Hưng (đang chờ UBND tỉnh ra quyết định công nhận). Tiểu học: 25/34 trường đạt chuẩn, đạt 73,52%, gồm: TH Cây Dương 1, 2; TH Tân Bình 1, 2, 3; TH Phương Bình 1, 2; TH Phương Phú 1,2; TH Thạnh Hòa 1, 2, 3, TH Phụng Hiệp, TH Long Thạnh 2, 3; TH Hòa An 1, 2, 3, 4; TH Búng Tàu; TH Tân Long 1; TH Bình Thành, TH TT Kinh Cùng; TH Tân Phước Hưng và TH Hiệp Hưng 2. Trung học cơ sở: 10/13 trường đạt chuẩn, đạt 76,92%, gồm: THCS Thạnh Hòa, THCS Tân Bình; THCS Tây Đô, THCS Phương Phú, THCS Kinh Cùng, THCS Hiệp Hưng, THCS Long Thạnh, THCS Tân Long; THCS Búng Tàu và THCS Bình Thành. Y tế Hoạt động y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, y tế dự phòng được chú trọng, kịp thời ngăn chặn, phòng chống hiệu quả dịch bệnh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cơ sở được quan tâm đầu tư, đảm bảo yêu cầu chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Thực hiện tốt công tác quản lý hành nghề y dược tư nhân. Tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân đạt 3,72 bác sĩ; số giường bệnh trên 10.000 dân đạt 9,57 giường. Vận động 170.826 người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm tỷ lệ 90% dân số. Dân số Huyện Phụng Hiệp là huyện có diện tích lớn nhất và dân số đông nhất tỉnh Hậu Giang. Huyện Phụng Hiệp có diện tích 485 km², dân số là 195.355 người, mật độ dân số đạt 388 người/km². Huyện Phụng Hiệp có tổng diện tích tự nhiên 48.450,4 ha (kết quả kiểm kê đất đai năm 2019), dân số 186.502 người (Niên giám thống kê năm 2020), chiếm 29,88% diện tích và 25,66% dân số của tỉnh, mật độ dân số 385 người/km². Dân số thành thị 21.364 người, chiếm 11,57% dân số huyện, dân số nông thôn 165.138 người, chiếm 88,43% dân số huyện. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2020 là 5,87‰/năm, mức sinh giảm bình quân 0,05‰/năm. Mặc dù hiện nay trên địa bàn huyện có 3 thị trấn (Cây Dương, Kinh Cùng, Búng Tàu) nhưng tỷ lệ đô thị hoá trên địa bàn huyện rất thấp (11,57%). Dân số hiện nay sinh sống chủ yếu tập trung vào các thị trấn, các xã vùng ven Quốc lộ 1, Quốc lộ 61, ĐT.927, ĐT.928 và các tuyến kênh rạch lớn. Văn hóa - du lịch Tiềm năng phát triển du lịch của huyện tương đối phong phú, với nhiều địa điểm nổi bật như: Khu di tích Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ tại xã Phương Bình Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng tại xã Phương Bình Địa điểm thành lập tiểu đoàn Tây Đô Khu du lịch Mùa Xuân tại xã Tân Phước Hưng Cây Lộc Vừng 300 năm tuổi tại xã Long Thạnh Khu du lịch sinh thái Tây Đô tại xã Tân Bình Khu du lịch Chày Đạp tại xã Thạnh Hòa Khu du lịch tượng đài Tây Đô tại xã Phương Bình. Giao thông Giao thông đường bộ Tuyến quốc lộ: hiện đang sử dụng 3 tuyến: Quốc lộ 1, Quốc lộ 61, Quản Lộ - Phụng Hiệp tổng chiều dài khoảng 26 km, mặt đường trung bình 10 - 12m, được trải nhựa, mặt chất lượng tốt. Các tuyến đường tỉnh: gồm 4 tuyến: ĐT.927, ĐT.927B, ĐT.928, ĐT.928B, tổng chiều dài 42,8 km, rộng từ 3,5 – 5,5m, nền đường 6,5 – 9m. Các tuyến đường huyện: gồm 8 tuyến, tổng chiều dài 23,8 km, mặt 3,5 – 5m, được trải nhựa hoặc cấp phối. Giao thông nông thôn: mặt rộng từ 1,5 – 3m, hàng năm đều được nâng cấp, sửa chữa. Đây cũng là địa phương có hai dự án đường cao tốc Cần Thơ – Cà Mau và đường cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng đi qua đang được xây dựng. Giao thông thủy Đóng vai trò khá quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của huyện, các tuyến chính: kênh Quản lộ - Phụng Hiệp, kênh Lái Hiếu, kênh Ngang, kênh Bún Tàu, ngoài ra còn có hàng trăm tuyến kênh, rạch nhỏ khá thuận lợi cho lưu thông hàng hóa. Chú thích
Đường cong Phillips là một mô hình kinh tế, được đặt tên theo nhà kinh tế học Alban William Phillips – người đưa ra giả thuyết về mối tương quan giữa việc giảm tỉ lệ thất nghiệp và tăng tỉ lệ mức lương trong nền kinh tế. Mặc dù chính bản thân Phillips không nêu rõ mối quan hệ liên kết giữa việc làm và lạm phát, nhưng đây là một suy luận nhỏ so với những phát hiện thống kê của ông. Paul Samuelson và Robert Solow đã đưa ra mối liên hệ rõ ràng, và sau đó Milton Friedman và Edmund Phelps đã đặt cấu trúc lý thuyết vào đúng vị trí. Khi làm như vậy, Friedman đã dự đoán thành công sự sụp đổ sắp xảy ra của mối tương quan lý thuyết của Phillips. Mặc dù có một sự đánh đổi ngắn hạn giữa thất nghiệp và lạm phát, nhưng nó đã không được quan sát trong dài hạn. Vào những năm 1967 và 1968, Friedman và Phelps đã khẳng định rằng đường cong Phillips chỉ phù hợp trong ngắn hạn, và về lâu dài, các chính sách lạm phát sẽ không làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Friedman khi đó dự đoán chính xác rằng trong cuộc suy thoái 1973 – 1975, cả lạm phát và thất nghiệp sẽ tăng lên. Đường cong Phillips dài hạn hiện được coi là một đường thẳng đứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, trong đó tỷ lệ lạm phát không ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp. Trong thập niên 2010 độ dốc của đường cong Phillips dường như đã giảm và đã có tranh cãi về tính hữu ích của đường cong Phillips trong việc dự đoán lạm phát. Một nghiên cứu năm 2022 cho thấy độ dốc của đường cong Phillips nhỏ và rất nhỏ ngay cả trong những năm đầu thập niên 1980. Tuy nhiên, đường cong Phillips vẫn là khuôn khổ chính để hiểu và dự báo lạm phát được sử dụng trong các ngân hàng trung ương. Lịch sử Alban William Phillips, một nhà kinh tế học sinh ra ở New Zealand, đã viết một bài báo vào năm 1958 có tựa đề về Mối quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thay đổi của mức lương ở Vương quốc Liên hiệp Anh trong những năm 1861 – 1957, được xuất bản trên tạp chí hàng quý Economica. Trong bài báo, Phillips mô tả cách ông quan sát mối quan hệ nghịch đảo giữa sự thay đổi tiền lương và tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn được kiểm tra. Các mô hình tương tự cũng được tìm thấy ở các quốc gia khác, và vào năm 1960, Paul Samuelson và Robert Solow đã thực hiện công trình của Phillips và làm rõ mối liên hệ giữa lạm phát và thất nghiệp: khi lạm phát cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp và ngược lại. Trong những năm 1920, nhà kinh tế học người Mỹ Irving Fisher đã lưu ý đến loại quan hệ này của đường cong Phillips. Tuy nhiên, nguyên bản đường cong Phillips là mô tả hành vi của tiền lương. Những năm sau bài báo năm 1958 của Phillips, nhiều nhà kinh tế ở các nước công nghiệp tiên tiến tin rằng kết quả của ông cho thấy mối quan hệ ổn định vĩnh viễn giữa lạm phát và thất nghiệp. Hàm ý của điều này đối với chính sách của chính phủ là chính phủ có thể kiểm soát thất nghiệp và lạm phát bằng chính sách Keynes. Họ có thể chịu được tỷ lệ lạm phát cao hợp lý vì điều này sẽ dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn – nhờ có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Ví dụ, chính sách tiền tệ hoặc chính sách tài khóa có thể được sử dụng để kích thích nền kinh tế, tăng tổng sản phẩm quốc nội và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Di chuyển dọc theo đường cong Phillips, điều này sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao hơn, là phí tổn để có được tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn. Nhà kinh tế học James Forder lập luận rằng quan điểm này về mặt lịch sử là sai lầm và không chỉ các nhà kinh tế học mà cả các chính phủ cũng đều không chấp nhận quan điểm đó và “huyền thoại đường cong Phillips” là một sáng tác của thập niên 1970. Kể từ năm 1974, bảy giải thưởng Nobel đã được trao cho các nhà kinh tế học, trong số đó có công trình quan trọng đối với một số biến thể của đường cong Phillips. Một số phê bình đánh giá này dựa trên kinh nghiệm của Mỹ trong thập niên 1970, nơi có thời kì mà tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát cao cùng một lúc. Các tác giả nhận được những giải thưởng đó bao gồm Thomas Sargent, Christopher Sims, Edmund Phelps, Edward Prescott, Robert A. Mundell, Robert E. Lucas, Milton Friedman và F.A. Hayek. Đình lạm Trong thập niên 1970, nhiều quốc gia đã trải qua mức độ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp cao - còn được gọi là tình trạng lạm phát đình trệ. Các lý thuyết dựa trên đường cong Phillips cho thấy rằng điều này không thể xảy ra, và đường cong này đã bị một nhóm các nhà kinh tế học do Milton Friedman đứng đầu phối hợp tấn công. Friedman lập luận rằng mối quan hệ của đường cong Phillips chỉ là một hiện tượng ngắn hạn. Trong đó, ông đã tiếp nối tám năm sau Samuelson và Solow (1960), những người đã viết “tất cả trong thảo luận của chúng ta được diễn giải trong ngắn hạn, đối phó với những gì có thể xảy ra trong vài năm tới. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng menu trong Hình số 2 của chúng ta liên quan đến giá cả có thể đạt được và hành vi thất nghiệp sẽ được duy trì hình dạng tương tự trong dài hạn. Những gì chúng ta thực hiện trong đường lối chính sách trong vài năm tới có thể khiến nó thay đổi theo một cách thức xác định.” Giống như Samuel và Solow đã lập luận vào 8 năm trước đó, ông cho rằng về lâu dài, người lao động và người sử dụng lao động sẽ tính đến lạm phát, dẫn đến các hợp đồng lao động sẽ tăng lương với mức giá gần lạm phát dự kiến. Sau đó thất nghiệp sẽ bắt đầu tăng trở lại với mức trước đó, nhưng hiện nay với tỷ lệ lạm phát cao hơn. Kết quả này ngụ ý rằng trong dài hạn không có bất kỳ sự đánh đổi nào giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Hàm ý này có ý nghĩa đối với các lý do thực tế vì nó ngụ ý rằng các ngân hàng trung ương không nên đặt mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tự nhiên. Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng có sự đánh đổi vừa phải giữa lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp. Công trình nghiên cứu của George Akerlof, William Dickens và George Perry ngụ ý rằng nếu lạm phát giảm từ 2% xuống còn 0%, tỷ lệ thất nghiệp sẽ vĩnh viễn tăng 1,5%. Điều này là do người lao động thường có khả năng chịu cắt giảm lương thực tế cao hơn so với mức lương danh nghĩa. Ví dụ, một công nhân sẽ có nhiều khả năng chấp nhận tăng lương 2% trong khi tỷ lệ lạm phát là 3%, hơn là việc cắt giảm 1% lương khi tỷ lệ lạm phát bằng 0. Ngày nay Hầu hết các nhà kinh tế học không còn sử dụng đường cong Phillips ở dạng ban đầu vì nó được chứng minh là quá đơn giản. Điều này có thể thấy được trong một phân tích ngắn gọn về dữ liệu lạm phát và thất nghiệp của Mỹ giai đoạn năm 1953 – 1992. Không có đường cong đơn lẻ nào phù hợp với các dữ liệu, nhưng có 3 tổ hợp thô – 1955-71, 1974-84 và 1985 – 92 – mỗi trong số đó cho thấy một đường dốc tổng thể với độ dốc hướng xuống, nhưng ở ba mức khác nhau với sự thay đổi xảy ra rất đột ngột. Dữ liệu cho các năm 1953 – 1954 và 1972 – 1973 không dễ dàng gộp nhóm và một phân tích chính thức hơn đưa ra tới 5 nhóm/đường cong trong giai đoạn này. Tuy nhiên, cho tới nay thì các dạng sửa đổi của đường cong Phillips có tính đến các kỳ vọng lạm phát vẫn còn ảnh hưởng. Lý thuyết được đưa ra dưới nhiều tên gọi, với một số thay đổi trong các chi tiết của nó, nhưng tất cả các phiên bản hiện đại đều tách biệt giữa tác động ngắn hạn và dài hạn đối với tỷ lệ thất nghiệp. Các mô hình đường cong Phillips hiện đại bao gồm cả đường cong Phillips ngắn hạn và đường cong Phillips dài hạn. Điều này là do trong ngắn hạn, nhìn chung có mối quan hệ nghịch đảo giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp; như được minh họa trong đường cong Phillips ngắn hạn dốc xuống. Trong dài hạn, mối quan hệ đó bị phá vỡ và cuối cùng nền kinh tế trở lại tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên bất kể tỷ lệ lạm phát nào. Edmund Phelps và Milton Friedman lập luận rằng “đường cong Phillips ngắn hạn” còn được gọi là “đường cong Phillips kỳ vọng – tăng cường” vì nó dịch chuyển lên khi kỳ vọng về lạm phát tăng lên. Trong dài hạn, điều này có nghĩa rằng chính sách tiền tệ không thể tác động đến tỷ lệ thất nghiệp, nó sẽ điều chỉnh trở lại “tỷ lệ tự nhiên” của mình, còn được gọi là “NAIRU”. Trong sách giáo khoa phổ biến của Blanchard đưa ra phần trình bày về đường cong Phillips kỳ vọng – tăng cường. Một phương trình giống như đường cong Phillips kỳ vọng – tăng cường cũng xuất hiện trong nhiều mô hình cân bằng tổng thể ngẫu nhiên động Keynes mới gần đây. Như Keynes đã đề cập: “tuy nhiên, chính phủ cần phải nhớ rằng ngay cả khi thuế không có tính chất ngăn cấm thì nó có thể vẫn là không có lợi, và việc áp thuế ở mức vừa phải thay vì mức tột cùng sẽ mang lại lợi ích lớn nhất”. Trong các mô hình kinh tế vĩ mô với giá cả cố định, có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tỷ lệ lạm phát và mức độ nhu cầu, và do đó có mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Mối quan hệ này thường gọi là “đường cong Phillips Keynes mới”. Giống như đường cong Phillips kỳ vọng – tăng cường, đường cong Phillips Keynes mới có nghĩa là lạm phát cao có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp tạm thời nhưng không thể giảm vĩnh viễn. Hai bài báo có sức ảnh hưởng kết hợp đường cong Phillips Keynes mới là của Clarida, Galí và Gertler (1999), và Blanchard và Galí (2007). Toán học Có ít nhất hai dẫn xuất toán học khác nhau của đường cong Phillips. Đầu tiên, phiên bản truyền thống hoặc phiên bản Keynes. Sau đó, phiên bản cổ điển mới liên quan đến Robert E.Lucas Jr.. Đường cong Phillips truyền thống Tài liệu về đường cong Phillips ban đầu không dựa trên việc áp dụng lý thuyết kinh tế một cách đơn giản. Thay vào đó, nó dựa trên những khái quát hóa theo kinh nghiệm. Sau đó, các nhà kinh tế đã cố gắng phát triển các lý thuyết phù hợp với dữ liệu. Xác định tiền lương Đường cong Phillips truyền thống bắt đầu từ đường cong Phillips tiền lương, thuộc loại được mô tả bởi chính Phillips. Điều này mô tả tốc độ tăng trưởng của tiền lương (gW). Từ đây trở đi, toán tử g tương đương với “tỷ lệ phần trăm tăng trưởng của” biến theo sau: “Tỷ lệ tiền lương” (W) là viết tắt cho tổng chi phí tiền lương cho mỗi nhân viên sản xuất, bao gồm các khoản phúc lợi và thuế thu nhập cá nhân. Trọng tâm chỉ là tiền lương của nhân viên sản xuất bởi vì (như được thảo luận dưới đây) các chi phí này rất quan trọng đối với các quyết định về giá của các doanh nghiệp. Phương trình này cho chúng ta biết sự tăng trưởng của tiền lương tăng theo xu hướng tỷ lệ tăng trưởng tiền lương (được biểu thị bằng chỉ số trên T) và giảm theo tỷ lệ thất nghiệp (U). Hàm f được giả thiết là tăng đơn điệu theo U, sao cho sự giảm bớt của sự gia tăng tiền lương vì thất nghiệp được thể hiện bằng dấu âm trong phương trình trên. Có một số vấn đề có thể xảy ra đằng sau phương trình này. Một vấn đề chính là tiền lương được ấn định bởi các cuộc đàm phán song phương dưới sự độc quyền song phương một phần: khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, khi tất cả những thứ khác giữ nguyên (ceteris paribus) thì khả năng thương lượng của người lao động giảm xuống, do đó người lao động ít có khả năng tăng tiền lương khi đối mặt với sự phản đối của người sử dụng lao động. Trong thập niên 1970, câu chuyện này đã phải sửa đổi, vì người lao động cố gắng theo kịp lạm phát (như nhà kinh tế học Abba Lerner đề xuất vào thập niên 1940). Kể từ thập niên 1970, phương trình này đã được thay đổi để thêm vào vai trò của các kỳ vọng lạm phát (hoặc tỷ lệ lạm phát kỳ vọng, gPex). Điều này tạo ra các đường cong Phillips lương kỳ vọng – tăng cường. Việc đưa các kỳ vọng lạm phát vào phương trình ngụ ý rằng lạm phát thực tế có thể phản hồi thành các kỳ vọng lạm phát và do đó có thể gây ra lạm phát thêm nữa. Nhà kinh tế học James Tobin gọi thuật ngữ cuối cùng này là “quán tính lạm phát”, vì trong giai đoạn hiện tại thì sự tồn tại của lạm phát thể hiện cho xung lực lạm phát sót lại từ quá khứ. Nó cũng bao hàm nhiều hơn là các kỳ vọng, bao gồm cả vòng xoáy giá cả - tiền lương. Trong vòng xoáy này, những người sử dụng lao động cố gắng bảo vệ lợi nhuận bằng cách tăng giá của họ và người lao động của họ cố gắng bắt kịp lạm phát để bảo vệ mức lương thực tế của họ. Quá trình này có thể tự nuôi sống chính nó, trở thành một lời tiên tri tự hoàn thành. Tham số λ (được cho là không đổi trong bất kỳ khoảng thời gian nào) thể hiện mức độ mà người lao động có thể thu được mức gia tăng tiền lương để bắt kịp với lạm phát dự kiến, ngăn chặn sự sụt giảm tiền lương thực tế dự kiến. Người ta thường giả định rằng tham số này bằng 1 trong dài hạn. Ngoài ra, hàm số f() đã được sửa đổi để được đưa ra ý tưởng về tỷ lệ thất nghiệp không làm lạm phát tăng tốc (NAIRU) hoặc đôi khi được gọi là tỷ lệ thất nghiệp “tự nhiên” hay tỷ lệ thất nghiệp ngưỡng lạm phát. Ở đây, U* là NAIRU. Như thảo luận dưới đây, nếu U < U*, lạm phát có xu hướng tăng nhanh. Tương tự, nếu U > U*, lạm phát có hướng chậm lại. Giả thiết rằng f(0) = 0, do đó khi U = U*, hạng tử f có thể bỏ ra khỏi phương trình. Trong phương trình (), vai trò của gWT và gPex dường như là dư thừa, do có vai trò giống nhau. Tuy nhiên, giả sử rằng λ bằng 1, có thể thấy rằng nó không còn dư thừa. Nếu xu hướng của tốc độ tăng trưởng tiền lương bằng 0, thì trường hợp U bằng U* ngụ ý rằng gW bằng lạm phát kỳ vọng. Nghĩa là, mức lương thực tế dự kiến là không đổi. Tuy nhiên, trong bất kỳ nền kinh tế hợp lý nào, việc có mức lương thực tế kỳ vọng không đổi chỉ có thể phù hợp với mức lương thực tế không đổi trong thời gian dài. Điều này không phù hợp với những gì kinh tế ở Mỹ hoặc bất kỳ quốc gia công nghiệp lớn nào khác đã trải qua. Mặc dù tiền lương thực tế không tăng nhiều trong những năm gần đây, nhưng đã có những mức tăng quan trọng trong nhiều thập kỷ. Một phương án khác là giả định rằng xu hướng của tốc độ tăng trưởng tiền lương tương đương với xu hướng của tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trung bình (Z). Khi đó là: Theo giả định (), khi U bằng U* và λ bằng 1, tiền lương thực tế kỳ vọng sẽ tăng theo năng suất lao động. Điều này sẽ phù hợp với một nền kinh tế trong đó tiền lương thực tế tăng theo năng suất lao động. Sự chệch hướng của xu hướng tiền lương thực tế so với năng suất lao động có thể được giải thích bằng cách tham chiếu đến các biến khác trong mô hình. Quyết định về giá Tiếp theo, về hành vi giá cả. Giả định tiêu chuẩn là thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, trong đó hầu hết các doanh nghiệp có quyền định giá. Vì vậy, mô hình giả định rằng doanh nghiệp trung bình đặt đơn giá (P) như một khoản cộng dồn lãi vào giá vốn (M) so với chi phí lao động đơn vị trong sản xuất được tính ở tỷ lệ sử dụng công suất tiêu chuẩn (chẳng hạn như ở mức sử dụng nhà máy và thiết bị là 90%) và sau đó cộng vào chi phí nguyên vật liệu đơn vị. Việc tiêu chuẩn hóa liên quan đến việc bỏ qua những sai lệch sau này so với xu hướng của năng suất lao động. Ví dụ, giả sử rằng sự tăng năng suất lao động giống như tăng trưởng trong xu hướng và năng suất hiện tại bằng giá trị xu hướng của nó. gZ = gZT and Z = ZT Khoản cộng dồn lãi vào giá vốn phản ánh cả mức độ quyền lực thị trường của doanh nghiệp và mức độ phải trả chi phí chung. Nói cách khác, khi tất cả những thứ khác đều tương đương, M tăng theo khả năng định giá của doanh nghiệp hoặc với sự gia tăng của chi phí chung so với tổng chi phí. Vì thế, việc định giá tuân theo phương trình sau: P = M × (chi phí lao động đơn vị) + (chi phí nguyên vật liệu đơn vị) = M × (tổng chi phí việc lao động sản xuất)/(sản lượng đầu ra) + UMC. UMC là chi phí nguyên vật liệu đơn vị (= tổng chi phí nguyên vật liệu chia cho tổng sản lượng). Vì vậy, phương trình có thể được viết lại như sau: P = M × (chi phí sử dụng lao động sản xuất trên mỗi công nhân)/(sản lượng trên mỗi lao động sản xuất) + UMC. Phương trình có thể được phát biểu lại là: P = M×(tiền lương trung bình)/(năng suất lao động sản xuất) + UMC = M×(W/Z) + UMC. Bây giờ, giả sử rằng giá cả trung bình/cộng dồn lãi vào giá vốn (M) và UMC đều không đổi. Mặt khác, năng suất lao động tăng lên như trước đây. Do đó, phương trình xác định tỷ lệ lạm phát giá (gP) là: gP = gW − gZT. Giá cả Sau đó, kết hợp với đường cong Phillips lương (phương trình 1) và giả định được đưa ra ở trên về hành vi xu hướng của tiền lương (phương trình 2), phương trình giá – lạm phát này cho chúng ta một đường cong Phillips giá kỳ vọng – tăng cường đơn giản. gP = −f(U − U*) + λ·gPex Một số giả định cho rằng chúng ta có thể chỉ cần thêm gUMC, tốc độ tăng trưởng của UMC, để thể hiện vai trò của sốc cung (loại đã diễn ra tại Mỹ trong thập niên 1970). Điều này tạo ra một đường cong Phillips ngắn hạn tiêu chuẩn: gP = −f(U − U*) + λ·gPex + gUMC Nhà kinh tế học Robert J. Gordon gọi đây là “Mô hình Tam giác” vì nó giải thích hành vi lạm phát ngắn hạn theo ba yếu tố: lạm phát do cầu kéo (do tỷ lệ thất nghiệp thấp), lạm phát do sốc cung (gUMC) và các kỳ vọng lạm phát hay lạm phát quán tính. Trong dài hạn, giả định rằng lạm phát kỳ vọng bắt kịp và bằng với lạm phát thực tế để gP = gPex. Điều này thể hiện trạng thái cân bằng dài hạn của việc điều chỉnh các kỳ vọng. Một phần của sự điều chỉnh này có thể liên quan đến sự thích ứng của các kỳ vọng với trải nghiệm lạm phát thực tế. Phần khác có thể liên quan đến các dự đoán của những người trong nền kinh tế dựa trên các bằng chứng khác (Ý tưởng sau đã cho chúng ta khái niệm về cái gọi là các kỳ vọng hợp lý). Điểm cân bằng kỳ vọng cho chúng ta đường cong Phillips dài hạn. Đầu tiên, với λ nhỏ hơn 1: gP = [1/(1 − λ)]·(−f(U − U*) + gUMC) Đây là một phiên bản dốc hơn của đường cong Phillips ngắn hạn ở trên. Lạm phát tăng khi tỷ lệ thất nghiệp giảm, trong khi mối liên hệ này mạnh mẽ hơn. Có nghĩa là, tỷ lệ thất nghiệp thấp (nhỏ hơn U*) sẽ gắn với tỷ lệ lạm phát trong dài hạn cao hơn trong ngắn hạn. Điều này xảy ra bởi vì tình hình lạm phát thực tế cao hơn được thấy trong ngắn hạn sẽ phản hồi làm tăng các kỳ vọng lạm phát, từ đó làm tăng tỷ lệ lạm phát hơn nữa. Tương tự, ở tỷ lệ thất nghiệp cao (lớn hơn U*) dẫn đến các tỷ lệ lạm phát thấp. Tới lượt mình, chúng khuyến khích các kỳ vọng lạm phát thấp hơn, do đó, lạm phát tiếp tục giảm xuống. Logic này đi xa hơn nếu λ bằng 1, tức là, nếu người lao động có thể bảo vệ hoàn toàn tiền lương của họ khỏi lạm phát kỳ vọng, ngay cả trong ngắn hạn. Bây giờ, phương trình Mô hình Tam giác trở thành: - f(U − U*) = gUMC Nếu chúng ta tiếp tục giả định (có vẻ hợp lý) rằng không có sốc cung dài hạn, điều này có thể được đơn giản hóa thành: −f(U − U*) = 0 ngụ ý rằng U = U*. Tất cả các giả định ngụ ý rằng trong dài hạn, chỉ có một tỷ lệ thất nghiệp có thể xảy ra, U* tại bất cứ thời điểm nào. Tính duy nhất này giải thích tại sao một số người gọi tỷ lệ thất nghiệp này là “tự nhiên”. Để thực sự hiểu và đánh giá tính duy nhất của U*, cần có một mô hình tinh vi và thực tế hơn. Ví dụ, chúng ta có thể đưa ra ý tưởng rằng những người lao động trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy tăng lương danh nghĩa tương tự như những người lao động trong các lĩnh vực khác. Hoặc chúng ta có thể làm cho mô hình thậm chí còn thực tế hơn. Một điểm quan trọng cần xem xét là sự xác định của mức cộng gộp lãi vào vốn, M. Phiên bản cổ điển mới Phương trình đường cong Phillips có thể được suy ra từ hàm tổng cung Lucas (ngắn hạn). Cách tiếp cận của Lucas rất khác so với cách tiếp cận truyền thống. Thay vì bắt đầu với dữ liệu thực nghiệm, ông bắt đầu với mô hình kinh tế cổ điển tuân theo các nguyên tắc kinh tế rất đơn giản. Bắt đầu với hàm tổng cung: Trong đó, Y là giá trị log của sản lượng thực tế, là giá trị log của mức sản lượng tự nhiên, là hằng số dương, là giá trị log của mức giá thực tế, và là giá trị log của mức giá dự kiến. Lucas giả định rằng có một giá trị duy nhất. Lưu ý rằng phương trình này chỉ ra rằng khi các kỳ vọng về lạm phát trong tương lai (hay nói đúng hơn là mức giá trong tương lai) là hoàn toàn chính xác, thì hạng tử cuối cùng có thể loại bỏ, do đó sản lượng thực tế bằng với mức được gọi là “tự nhiên” của GDP thực. Điều này có nghĩa là trong đường cong tổng cung Lucas, lý do duy nhất khiến GDP thực tế chệch khỏi GDP tiềm năng – và tỷ lệ thất nghiệp thực tế chệch khỏi tỷ lệ thất nghiệp “tự nhiên” – là do các kỳ vọng không chính xác về những gì sẽ xảy ra với giá cả tương lai (Ý tưởng này đã được trình bày trong Keynes, Lý thuyết tổng quát, chương 20 phần III đoạn 4). Điều này khác với các quan điểm khác của đường cong Phillips, trong đó việc không đạt được mức sản lượng “tự nhiên” có thể là do sự không hoàn hảo hoặc không hoàn chỉnh của thị trường, giá cả cứng nhắc và các yếu tố tương tự. Trong các quan điểm phi-Lucas, các kỳ vọng không chính xác có thể góp phần vào sự thất bại của tổng cầu, nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất. Đối với những người theo chủ nghĩa “Cổ điển mới” của Lucas, thị trường được cho là hoàn hảo và luôn đạt được trạng thái cân bằng (với các kỳ vọng lạm phát). Phương trình được sắp xếp lại thành: Tiếp theo, chúng ta thêm các sốc ngoại sinh bất ngờ với cung toàn cầu : Trừ các mức giá của năm trước sẽ cho chúng ta tỷ lệ lạm phát, bởi vì: Và Trong đó, và lần lượt là lạm phát và lạm phát kỳ vọng. Ngoài ra còn có mối quan hệ nghịch biến giữa sản lượng và tỷ lệ thất nghiệp (như được thể hiện bởi định luật Okun). Do đó, sử dụng: Trong đó là hằng số dương, là tỷ lệ thất nghiệp và là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên hoặc NAIRU, chúng ta đến với dạng cuối cùng của đường cong Phillips ngắn hạn: Phương trình này, vẽ biểu đồ tỷ lệ lạm phát so với tỷ lệ thất nghiệp tạo ra đường cong dốc xuống trong biểu đồ đặc trưng cho đường cong Phillips. Phiên bản mới Keynes Đường cong Phillips mới Keynes ban đầu được Robert đưa vào sử dụng vào năm 1995, và kể từ đó được sử dụng trong hầu hết các mô hình DSGE mới hiện đại như một mô hình của Clarida, Galí và Gertler (2000). Trong đó Các kỳ vọng hiện tại về lạm phát của kỳ tiếp theo được kết hợp thành . NAIRU và các kỳ vọng hợp lý Trong thập niên 1970, các lý thuyết mới, như kỳ vọng hợp lý và NAIRU (tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên) đã phát sinh để giải thích làm thế nào lạm phát đình trệ có thể xảy ra. Lý thuyết thứ hai, còn được gọi là “tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên”, tách biệt giữa đường cong Phillips “ngắn hạn” và “dài hạn”. Đường cong Phillips ngắn hạn trông giống như đường cong Phillips bình thường nhưng thay đổi trong dài hạn khi kỳ vọng thay đổi. Trong dài hạn, chỉ có một tỷ lệ thất nghiệp duy nhất (NAIRU hoặc tỷ lệ “tự nhiên”) phù hợp với tỷ lệ lạm phát ổn định. Do đó, đường cong Phillips dài hạn là một đường thẳng đứng, vì vậy không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Milton Friedman năm 1976 và Edmund Phelps năm 2006 đã giành giải thưởng Nobel trong kinh tế học một phần là do công trình này. Tuy nhiên, lập cứ về các kỳ vọng trên thực tế đã được hiểu rất rộng rãi (mặc dù không chính thức) trước khi Friedman và Phelps nghiên cứu về nó. Trong biểu đồ, đường cong Phillips dài hạn là đường thẳng đứng màu đỏ. Lý thuyết NAIRU nói rằng khi thất nghiệp ở mức được xác định bởi đường này, lạm phát sẽ ổn định. Tuy nhiên, trong ngắn hạn các nhà hoạch định chính sách sẽ phải đối mặt với sự đánh đổi giữa lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp – được đánh dấu bởi “đường cong Phillips ngắn hạn ban đầu” trong đồ thị. Do đó, các nhà hoạch định chính sách có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp tạm thời, chuyển từ điểm A sang điểm B thông qua chính sách mở rộng. Tuy nhiên, theo NAIRU, việc khai thác sự đánh đổi ngắn hạn này sẽ làm tăng các kỳ vọng lạm phát, dịch chuyển đường cong ngắn hạn sang bên phải thành “đường cong Phillips ngắn hạn mới” và di chuyển điểm cân bằng từ B đến C. Do đó tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống dưới “Tỷ lệ Tự nhiên” sẽ chỉ là tạm thời và chỉ dẫn đến lạm phát cao hơn trong dài hạn. Vì đường cong ngắn hạn chuyển ra ngoài do nỗ lực giảm tỷ lệ thất nghiệp, chính sách mở rộng cuối cùng làm xấu đi sự đánh đổi có thể khai thác giữa thất nghiệp và lạm phát. Nghĩa là, điều đó dẫn đến lạm phát cao hơn ở mỗi tỷ lệ thất nghiệp ngắn hạn. Tên “NAIRU” phát sinh bởi vì với tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn nó, lạm phát tăng nhanh, trong khi với tỷ lệ thất nghiệp ở trên nó, lạm phát giảm xuống. Với tỷ lệ thực tế bằng với nó, lạm phát ổn định, không tăng cũng không giảm. Một ứng dụng thực tế của mô hình này là để giải thích tình trạng đình lạm, điều làm nhiễu đường cong Phillips truyền thống. Lý thuyết kỳ vọng hợp lý nói rằng các kỳ vọng lạm phát bằng với những gì thực sự đã xảy ra, với một số sai sót nhỏ và tạm thời. Ngược lại, điều này cho thấy rằng thời gian ngắn hạn quá ngắn đến mức nó không tồn tại, bất kỳ nỗ lực nào để giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới NAIRU, chẳng hạn, sẽ ngay lập tức khiến các kỳ vọng lạm phát tăng lên và do đó có nghĩa rằng chính sách sẽ thất bại. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ không bao giờ lệch khỏi NAIRU ngoại trừ do những sai lầm ngẫu nhiên và nhất thời trong việc phát triển các kỳ vọng về tỷ lệ lạm phát trong tương lai. Trong quan điểm này, bất kỳ sai lệch nào của tỷ lệ thất nghiệp thực tế từ NAIRU là ảo ảnh. Tuy nhiên, trong thập niên 1990 ở Mỹ, ngày càng rõ ràng rằng NAIRU không có trạng thái cân bằng duy nhất và có thể thay đổi theo những cách không thể đoán trước. Vào cuối thập niên 1990, tỷ lệ thất nghiệp thực tế giảm xuống dưới 4% lực lượng lao động, thấp hơn nhiều so với hầu hết các ước tính của NAIRU. Nhưng lạm phát vẫn giữ ở mức rất vừa phải thay vì tăng lên. Vì vậy, giống như đường cong Phillips, NAIRU cũng trở thành một chủ đề tranh luận. Hơn nữa, khái niệm về kỳ vọng hợp lý đã trở thành đối tượng bị nghi ngờ khi rõ ràng rằng giả định chính của các mô hình dựa trên nó là tồn tại một trạng thái cân bằng độc nhất (duy nhất) trong nền kinh tế được thiết lập trước thời hạn, được xác định độc lập với các điều kiện của cầu. Kinh nghiệm của thập niên 1990 cho thấy rằng giả định này không thể được duy trì. Các câu hỏi lý thuyết Đường cong Phillips bắt đầu như một quan sát thực nghiệm để tìm kiếm một lời giải thích lý thuyết. Cụ thể, đường cong Phillips đã cố gắng xác định xem liệu mối liên hệ giữa lạm phát – thất nghiệp là quan hệ nhân quả hay chỉ đơn giản là tương quan. Có một số giải thích chính về tính hợp thức của đường cong Phillips ngắn hạn. Đối với Milton Friedman, có mối tương quan ngắn hạn giữa sốc lạm phát và việc làm. Khi lạm phát bất ngờ xảy ra, người lao động bị đánh lừa để chấp nhận trả lương thấp hơn vì họ không thể thấy mức lương thực tế giảm ngay lập tức. Các doanh nghiệp thuê họ bởi vì họ thấy lạm phát cho phép lợi nhuận cao hơn với mức lương danh nghĩa nhất định. Đây là sự di chuyển dọc theo đường cong Phillips khi thay đổi A. Cuối cùng, những người lao động phát hiện ra rằng tiền lương thực tế đã giảm, vì vậy họ thúc đẩy mức lương cao hơn. Điều này làm cho đường cong Phillips dịch chuyển lên trên và sang phải, như với B. Một số nghiên cứu nhấn mạnh rằng một số giả định ngầm và nghiêm trọng thực sự nằm trên nền tảng đường cong Phillips Friedmanian. Sự bất cân xứng thông tin này và một mô hình đặc biệt về tính linh hoạt của giá cả và tiền lương đều cần thiết nếu người ta muốn duy trì cơ chế mà Friedman nói. Tuy nhiên, như đã lập luận, những giả định này vẫn hoàn toàn chấp nhận và lý thuyết của Friedman vẫn không có căn cứ. Các nhà kinh tế như Edmund Phelps bác bỏ lý thuyết này vì nó ngụ ý rằng người lao động mắc chứng ảo tưởng về tiền bạc. Theo họ, những người lao động có lý trí sẽ chỉ phản ứng với tiền lương thực tế, nghĩa là tiền lương được điều chỉnh theo lạm phát. Tuy nhiên, một trong những đặc điểm của một nền kinh tế công nghiệp hiện đại là người lao động không gặp phải người sử dụng lao động của họ trong một thị trường hoàn hảo và nguyên tử hóa. Họ hoạt động trong sự kết hợp phức tạp của các thị trường không hoàn hảo, các công ty độc quyền, các tổ chức độc quyền, công đoàn lao động và các tổ chức khác. Trong nhiều trường hợp, họ có thể thiếu khả năng thương lượng để hành động theo mong đợi của họ, bất kể họ có lý trí như thế nào, hay nhận thức của họ đến đâu, bất kể họ có ảo tưởng về tiền bạc như thế nào. Không phải lạm phát cao gây ra thất nghiệp thấp (như lý thuyết của Milton Friedman) mà ngược lại: tỷ lệ thất nghiệp thấp làm tăng khả năng thương lượng của người lao động, cho phép họ thúc đẩy thành công mức lương danh nghĩa cao hơn. Để bảo vệ lợi ích, những người sử dụng lao động tăng giá. Tương tự, lạm phát vốn có không chỉ đơn giản là vấn đề chủ quan của “lạm phát kỳ vọng” mà còn phản ánh thực tế rằng lạm phát cao có thể tạo ra động lực và tiếp tục vượt qua thời điểm bắt đầu, do vòng xoáy giá cả/ tiền lương khách quan. Tuy nhiên, các nhà kinh tế học khác, như Jeffrey Herbener, cho rằng giá cả là do thị trường quyết định và các công ty cạnh tranh không thể chỉ đơn giản là tăng giá. họ bác bỏ hoàn toàn đường cong Phillips, tóm lại rằng ảnh hưởng của thất nghiệp chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh lạm phát lớn hơn nhiều, điều đó bao gồm giá nguyên vật liệu thô, hàng hóa trung gian, chi phí huy động vốn, năng suất lao động, đất đai và các yếu tố khác. Mô hình tam giác của Gordon Robert J. Gordon từ Đại học Northwestern đã phân tích đường cong Phillips để tạo ra cái mà ông gọi là mô hình tam giác, trong đó tỷ lệ lạm phát thực tế được xác định bởi tổng số của: Lạm phát đường cong Phillips ngắn hạn; Lạm phát chi phí đẩy hoặc sốc cung; và Lạm phát nội tại Lạm phát nội tại phản ánh các kỳ vọng lạm phát và vòng xoáy giá/tiền lương. Các sốc cung và thay đổi lạm phát nội tại là các yếu tố chính dịch chuyển đường cong Phillips ngắn hạn và thay đổi sự đánh đổi. Theo lý thuyết này, không chỉ các kỳ vọng lạm phát có thể gây ra đình lạm. Ví dụ, việc giá dầu leo thang trong thập niên 1970 có thể dẫn đến kết quả này. Những thay đổi trong lạm phát nội tại tuân theo logic điều chỉnh từng phần đứng phía sau hầu hết các lý thuyết của NAIRU: Tỷ lệ thất nghiệp thấp khuyến khích lạm phát cao, như với đường cong Phillips đơn giản. Nhưng nếu tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức thấp và lạm phát vẫn ở mức cao trong một thời gian dài, như vào cuối thập niên 1960 ở Mỹ, thì cả các kỳ vọng lạm phát và vòng xoáy giá/tiền lương đều tăng tốc. Điều này làm dịch chuyển đường cong Phillips ngắn hạn lên trên và sang phải, do đó, lạm phát được nhìn thấy nhiều hơn ở bất kỳ tỷ lệ thất nghiệp nào (Điều này là với sự thay đổi B trong sơ đồ). Tỷ lệ thất nghiệp cao khuyến khích lạm phát thấp, một lần nữa như với đường cong Phillips đơn giản. Nhưng nếu tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao và lạm phát vẫn ở mức thấp trong một thời gian dài, như vào đầu thập niên 1980 ở Mỹ, thì cả các kỳ vọng lạm phát và vòng xoáy giá cả/mức lương đều giảm tốc. Điều này làm dịch chuyển đường cong Phillips ngắn hạn xuống dưới và sang trái, do đó tỷ lệ lạm phát thấp hơn ở mỗi tỷ lệ thất nghiệp. Ở giữa hai đường này là NAIRU, nơi đường cong Phillips không có xu hướng nội tại nào để thay đổi, do đó tỷ lệ lạm phát ổn định. Tuy nhiên, dường như có một khoảng ở giữa giữa "cao" và "thấp" trong đó lạm phát nội tại vẫn ổn định. Các kết thúc của "khoảng các tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên” này thay đổi theo thời gian. Lý luận của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp Kinh tế Mỹ thập niên 1960 có hiện tượng tỷ lệ lạm phát khá cao mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP cũng cao. Để giải thích hiện tượng đó, các nhà kinh tế của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp đã sử dụng kết quả nghiên cứu của Phillips và dựng lên đường cong Phillips dốc xuống phía phải trên một đồ thị hai chiều với trục hoành là các mức tỷ lệ thất nghiệp và trục tung là các mức tỷ lệ lạm phát. Trên đường này là các kết hợp giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Dọc theo đường cong Phillips, hễ tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống thì tỷ lệ lạm phát sẽ tăng lên; và ngược lại. Từ đó, trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp lý luận rằng để giảm tỷ lệ thất nghiệp chính phủ đã sử dụng chính sách quản lý tổng cầu, song do tỷ lệ thất nghiệp có quan hệ ngược chiều bền vững với tỷ lệ lạm phát, nên tăng trưởng kinh tế cao đương nhiên gây ra lạm phát. Lạm phát là cái giá phải trả để giảm tỷ lệ thất nghiệp. Lý luận của chủ nghĩa tiền tệ Chủ nghĩa tiền tệ đã bác bỏ lý luận nói trên của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp. Họ cho rằng đường cong Phillips như trên chỉ là đường cong Phillips ngắn hạn. Friedman đã đưa ra khái niệm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, theo đó khi thị trường lao động ở trạng thái cân bằng vẫn có thất nghiệp. Đây là dạng thất nghiệp tự nguyện. Vì thế, ở trạng thái cân bằng, tỷ lệ thất nghiệp vẫn là một số dương. Và khi nền kinh tế cân bằng, thì lạm phát không xảy ra. Đường cong Phillips ngắn hạn dốc xuống phía phải và cắt trục hoành ở giá trị của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Hễ chính phủ áp dụng các biện pháp nhằm đưa tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức này, thì giá cả sẽ tăng lên (lạm phát), và có sự dịch chuyển lên phía trái dọc theo đường cong Phillips ngắn hạn. Sau khi lạm phát tăng tốc, cá nhân với hành vi kinh tế điển hình (hành vi duy lý) sẽ dự tính lạm phát tiếp tục tăng tốc. Trong khi tiền công danh nghĩa không đổi, lạm phát tăng nghĩa là tiền công thực tế trả cho họ giảm đi. Họ sẽ giảm cung cấp lao động, thậm chí tự nguyện thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên đến mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát vẫn giữ ở mức cao. Nếu nhà nước vẫn cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tự nhiên, cơ chế như trên lại xảy ra. Hậu quả là, trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức tự nhiên mà tỷ lệ lạm phát lại bị nâng lên liên tục. Chính sách của nhà nước như vậy là chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, còn về dài hạn là thất bại. Tập hợp các điểm tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và các mức tỷ lệ lạm phát liên tục bị đẩy lên cao tạo thành một đường thẳng đứng. Đường này được gọi là đường Phillips dài hạn. Chú thích và Tham khảo Xem Phillips Alban W. (1958), "The relationship between unemployment and the rate of change of money wages in the UK 1861-1957," Economica.
Ngô Bảo Châu (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1972 tại Hà Nội), giáo sư tại Khoa Toán, Đại học Chicago, là một nhà toán học Pháp-Việt nổi tiếng với chứng minh bổ đề cơ bản cho các dạng tự đẳng cấu. Nhờ chứng minh này mà ông đạt Huy chương Fields năm 2010. Ông là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất tính đến thời điểm hiện tại đạt được thành tựu này. Ông cũng là một trong số ít người Việt Nam hai lần đoạt huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế (Australia năm 1988 và Cộng hòa Liên bang Đức năm 1989). Tính đến năm 2010, ông là nhà khoa học trẻ nhất Việt Nam được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước Việt Nam đặc cách phong học hàm giáo sư. Ông cũng được biết đến như một người phát ngôn chính kiến về các vấn đề giáo dục, chính trị, văn hóa, xã hội ở Việt Nam. Tiểu sử Ngô Bảo Châu sinh ngày 28 tháng 6 năm 1972 tại Hà Nội. Thời niên thiếu, ông là học sinh Trường Tiểu học Thực nghiệm, Trường THCS Trưng Vương, và sau đó học tại Khối chuyên Toán thuộc Khoa Toán - Cơ - Tin học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), nay là Trường Trung học Phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Là sinh viên Trường Đại học Paris VI (nay là Đại học Sorbonne) và Trường Sư phạm Paris (École normale supérieure Paris, ENS Paris; một số ít người Việt Nam từng học tại trường này bao gồm Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Thiêm, Trần Đức Thảo) từ năm 1992 đến năm 1994, rồi sau đó là sinh viên cao học và nghiên cứu sinh của Trường Đại học Paris XI (Université Paris-Sud 11) dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Gérard Laumon, Ngô Bảo Châu bảo vệ Luận án tiến sĩ năm 1997, trở thành nghiên cứu viên của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) từ năm 1998, lấy bằng Habilitation à Diriger les Recherches (HDR) năm 2003 và sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư toán học tại Trường Đại học Paris XI năm 2004. Năm 2007, ông đồng thời làm việc tại Trường Đại học Paris XI, Orsay, Pháp và Viện Nghiên cứu Cao cấp Princeton, New Jersey, Hoa Kỳ. Trong năm 2008, ông công bố chứng minh Bổ đề cơ bản cho các đại số Lie hay còn gọi là Bổ đề cơ bản Langlands. Năm 2010, khi biết tin sắp nhận giải Fields, ông đã tranh thủ nhập quốc tịch thứ hai với hy vọng giải thưởng cũng sẽ đem lại vinh dự cho các nhà toán học Pháp. Kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2010, ông là giáo sư tại Khoa Toán, Đại học Chicago. Ngày 9/3/2011, Phó Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố Quyết định thành lập Viện Nghiên cứu Cao cấp về Toán (Vietnam Institute for Advanced Study in Mathematics) và quyết định bổ nhiệm ông Ngô Bảo Châu làm giám đốc khoa học của Viện. Cùng với nhà giáo Phạm Toàn, và giáo sư toán học Vũ Hà Văn, GS Ngô Bảo Châu mở một trang mạng giáo dục với tên là Học thế nào chính thức hoạt động vào ngày 1 tháng 5 năm 2013 với kỳ vọng đóng góp vào việc tìm ra phương hướng giải quyết các vấn đề của giáo dục Việt Nam. Tháng 10 năm 2013, ông là Chủ tịch danh dự của Câu lạc bộ Nhà khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội theo lời mời của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội - PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ. Năm 2020, ông giữ ghế giáo sư Formes automorphes ở Collège de France. Gia đình Ngô Bảo Châu sinh ra trong một gia đình trí thức truyền thống. Ông là con trai của Tiến sĩ khoa học ngành cơ học chất lỏng Ngô Huy Cẩn, hiện đang làm việc tại Viện Cơ học Việt Nam. Mẹ của ông là Phó Giáo sư, Tiến sĩ dược Trần Lưu Vân Hiền, công tác tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương, Việt Nam. Ông là cháu họ của Ngô Thúc Lanh, một Giáo sư toán viết cuốn sách Đại số đầu tiên. Năm 22 tuổi (1994), sau khi học xong thạc sĩ ở Pháp, Ngô Bảo Châu lập gia đình với Nguyễn Bảo Thanh, người bạn gái học chuyên Toán cùng ông tại Trường THCS Trưng Vương, Hà Nội. Đến tháng 8 năm 2010, hai người có với nhau ba người con gái: Ngô Thanh Hiên (sinh năm 1995), Ngô Thanh Nguyên (sinh năm 2000) và Ngô Hiền An (sinh năm 2003). Thành tích nổi bật Ông đã hai lần đoạt huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế tại Australia năm 1988 và Cộng hòa Liên bang Đức năm 1989, và cũng là người Việt Nam đầu tiên giành 2 huy chương vàng Olympic Toán học Quốc tế. Năm 2004, ông được trao tặng giải Nghiên cứu Clay của Viện Toán học Clay cùng với Giáo sư Gérard Laumon vì đã chứng minh được Bổ đề cơ bản cho các nhóm Unita. Năm 2005, khi được 33 tuổi, Ngô Bảo Châu được nhà nước Việt Nam phong đặc cách hàm giáo sư. Cuối năm 2009, công trình Bổ đề cơ bản cho các đại số Lie của ông đã được tạp chí Time bình chọn là một trong 10 phát minh khoa học tiêu biểu của năm 2009. Với các công trình khoa học của mình, Giáo sư Ngô Bảo Châu được mời đọc báo cáo trong phiên họp toàn thể của Hội nghị toán học thế giới 2010 tổ chức ở Ấn Độ vào ngày 19 tháng 8 năm 2010. Tại lễ khai mạc, giáo sư đã được tặng thưởng Huy chương Fields. Ngày 29 tháng 8 năm 2010, một buổi lễ chào mừng ông nhận giải Fields đã được tổ chức tại TT Hội nghị Quốc gia, Mỹ Đình, Hà Nội. Nhằm khuyến khích nền khoa học nước nhà, Chính phủ Việt Nam đã trao tặng Ngô Bảo Châu một căn hộ công vụ trị giá 12 tỷ VNĐ ở tòa nhà Vincom, Hà Nội. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc nhận căn hộ nhưng ông khẳng định giải thưởng này là xứng đáng, và đã nhận căn nhà 160 m² này đầu tháng 11 năm 2010. Trước đó, ngày 4/9/2010, Hội đồng Thi đua khen thưởng thành phố Hà Nội (trong chương trình Đại hội Thi đua yêu nước giai đoạn 2010 - 2015 của thành phố) đã lựa chọn thêm Ngô Bảo Châu vào danh sách Công dân Thủ đô ưu tú lần thứ nhất, năm 2010. Tháng 4 năm 2011, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy quyết định trao tặng ông Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh của nhà nước Pháp và ông đã chính thức sang Pháp nhận giải này vào ngày 27 tháng 1 năm 2012 tại điện Élysée. Một tháng sau, Ngô Bảo Châu cùng với năm người khác đã được Viện Đại học Chicago trao tặng danh hiệu giáo sư đã có những thành tựu xuất sắc (distinguished service professorships). Năm 2012, ông được bầu làm Ủy viên danh dự (Honorary Fellow) của Hội Toán học Hoa Kỳ. Ngày 12 tháng 12 năm 2018, ông được trao Giải thưởng toán học Maurice Audin tại Viện nghiên cứu Henri Poincaré, Paris, Pháp. Ngày 2 tháng 7 năm 2021, ông được bầu làm Thành viên danh dự (Honorary Member) của Hội Toán học Luân Đôn. Sự nghiệp Nghiên cứu khoa học Cùng với Gérard Laumon, ông chứng minh bổ đề cơ bản cho các nhóm unita. Chiến lược chung của họ là nghiên cứu các orbital integrals xuất hiện trong bổ đề cơ bản thông qua các thớ Springer afin đến từ thành thớ Hitchin. Điều này cho phép họ sử dụng các công cụ của lý thuyết biểu diễn hình học, tức là lý thuyết của các bó pervese, để nghiên cứu một vấn đề vốn là một vấn đề tổ hợp với bản chất lý thuyết số. Năm 2008, ông thành công trong việc chứng minh bổ đề cơ bản cho các đại số Lie. Cùng với các kết quả đã có của Jean-Loup Waldspurger (Jean-Loup đã chứng minh trước đó rằng kết quả trên về các đại số Lie sẽ ngụ ý những dạng mạnh hơn của bổ đề cơ bản), điều này hoàn thiện một chứng minh cho bổ đề cơ bản trong trường hợp tổng quát. Năm 2010, Ngô Bảo Châu nhận giải thưởng Fields cho chứng minh của bổ đề cơ bản. Giảng dạy Tại Viện Đại học Chicago, ông được phong làm Giáo sư Xuất sắc Francis and Rose (Francis and Rose Yuen Distinguished Service Professor) và hoạt động giảng dạy của ông xoay quanh các chủ đề: lý thuyết số, lý thuyết số đại số, thành thớ Hitchin, automorphic form. Tháng 8 năm 2019, website phiên bản tiếng Anh của Đại học Công nghiệp Cáp Nhĩ Tân đăng tin Ngô Bảo Châu được bổ nhiệm làm giảng viên của đại học này. Trước đó ông từng tuyên bố sẽ không giảng dạy tại Trung Quốc vì không muốn "bạn bè, đồng nghiệp có cảm giác là mình quay lưng với đất nước.". Trả lời báo Tuổi Trẻ ngày 24 tháng 1 năm 2022, ông phủ nhận việc này và khẳng định rằng "Tôi không có ý định đi làm việc lâu dài ở bất kỳ chỗ nào ở Trung Quốc mà chỉ đi thỉnh giảng, hợp tác khoa học". Thực tế thì trong danh sách nhân sự của Đại học Công nghiệp Cáp Nhĩ Tân cũng chỉ ghi Ngô Bảo Châu là giáo sư thỉnh giảng dài hạn (long-term visiting professor). Một số bài báo chọn lọc T. H. Chen, B. C. Ngô, On the Hitchin morphism for higher-dimensional varieties, Duke Mathematical Journal, 169 (2020), no. 10, 1971–2004. A. Bouthier, B. C. Ngô, Y. Sakellaridis, On the formal arc space of a reductive monoid, American Journal of Mathematics, 138 (2016), 81-108. J. Heinloth, B. C. Ngô, Z. Yun, Kloosterman sheaves for reductive groups, Annals of Mathematics, 177 (2013), 241–310. B. C. Ngo, Le lemme fondamental pour les algèbres de Lie, Publications mathématiques de l'IHÉS, No. 111 (2010), 1–169. L. Gerard, B. C. Ngo, Le lemme fondamental pour les groupes unitaires, Annals of Mathematics, 168 (2008), 477–573. B. C. Ngo, D. T. Ngo, Comptage de G-chtoucas: la partie régulière ellitique, Journal of the Institute of Mathematics of Jussieu, 7 (2008), 181-203. B. C. Ngo, Fibration de Hitchin et endoscopie, Inventiones mathematicae, 164 (2006), 399–453. T. Haines, B. C. Ngô, Alcoves Associated to Special Fibers of Local Models, American Journal of Mathematics, 124 (2002), 1125-1152. T. Haines, B. C. Ngô, Nearby Cycles for Local Models of Some Shimura Varieties, Compositio Mathematica, 133 (2002), 117–150. Bài giảng B. C. Ngo, Endoscopy Theory of Automorphic Forms, Proceedings of the International Congress of Mathematicians. Hyderabad, India, 2010 Sách văn học "Ai và Ky ở xứ sở những con số tàng hình" hợp tác cùng với Nguyễn Phương Văn bắt đầu viết tháng 4 năm 2011 và phát hành 19 tháng 3 năm 2012. Quan điểm cá nhân Quan điểm làm việc Trên báo Thanh Niên số đặc biệt Tết 2010 (sau khi tạp chí Times xếp công trình của ông vào nhóm 10 công trình tiêu biểu của năm 2009, và trước khi ông nhận giải Fields), trả lời câu hỏi về những thách thức gặp phải khi chứng minh bổ đề cơ bản và cách vượt qua, ông nói "...tôi mất rất nhiều thời gian để học nhiều thứ toán học của nhân loại trước khi quay lại vật lộn với Bổ đề cơ bản. [...] Đến một lúc nào đó, bạn làm toán vì bạn thích chứ không phải để chứng tỏ một cái gì nữa". Quan điểm giáo dục Ngày 11 tháng 5 năm 2014, trong một bài viết trên báo Tuổi trẻ, GS Ngô Bảo Châu nhận xét: "Tại sao phải dùng ngân sách để làm ra những quyển sách mà người dân vẫn phải mua, vẫn bắt buộc phải mua hằng năm với một số lượng lớn. Vốn là một người làm toán, người làm toán thích những suy nghĩ đơn giản và ngây thơ, tôi thấy có một phương án đơn giản, ngây thơ để giải quyết sự bất công kể trên: đó là công bố hoàn toàn nội dung sách giáo khoa lên mạng." Ông đề nghị sử dụng mô hình wikipedia như mô hình mẫu cho việc này. Đầu năm 2015, GS Ngô Bảo Châu nhận xét: "trong năm qua, điều hơi tiếc là trọng tâm cải cách giáo dục đáng ra giáo dục đại học là khâu yếu nhất lại không ai đả động gì. Rõ ràng đây mấu chốt cần giải quyết vì giáo dục đại học quyết định sự phát triển đất nước trong đào tạo nhân lực cho xã hội". Trong hội thảo Thử nghiệm ước mơ nghề nghiệp tổ chức tại trường Phổ thông liên cấp Olympia (Hà Nội) ngày 3/5/2017, ông cho rằng việc hướng nghiệp cho học sinh nên được thực hiện vào cuối cấp hai, đầu cấp ba. Ngày 21/4/2020, trong buổi nói chuyện trực tuyến với sinh viên, về vai trò của người thầy, ông bày tỏ suy nghĩ: "Người thầy vĩ đại là người biết cách đặt ra những câu hỏi hay, thôi thúc chúng ta đi tìm chân lý". Trả lời câu hỏi, "làm thế nào để có phát kiến mới?", ông nói: "Tôi nghĩ không thể nào phát kiến tự nảy ra trong đầu chúng ta. Thực ra, tất cả phát kiến là do chúng ta có kinh nghiệm. Khi chưa đi làm thì kinh nghiệm này có thể đến từ việc giải quyết nhiều tình huống trong học tập" Quan điểm chính trị Theo BBC Vietnamese, GS Ngô Bảo Châu cho biết ông đã gửi một bức thư kiến nghị về dự án Bauxit ở Tây Nguyên vào ngày 29 tháng 5 năm 2009 nhưng tới thời điểm phỏng vấn là ngày 13 tháng 12 năm 2009, ông vẫn chưa nhận được hồi âm. Nội dung của lá thư theo ông cho biết là đề cập đến chính sách thực dân mới của chính quyền Trung Quốc về khai thác khoáng sản trên toàn cầu và đặc biệt là tại Tây Nguyên, ông cũng đưa ra cảnh báo: "phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh.". Đồng thời trong cuộc phỏng vấn này, ông cũng cho hay ông có theo dõi sự kiện Viện nghiên cứu Phát triển (IDS), một Viện nghiên cứu và phản biện chiến lược tư nhân do Giáo sư Hoàng Tụy và Tiến sĩ khoa học Nguyễn Quang A đứng đầu, đã giải thể sau khi Viện này cho rằng một quyết định quản lý khoa học của Chính phủ ban hành năm 2009 là bất hợp lý. Và ông đã cho biết quan điểm của mình về vụ này như sau: "Tôi có theo dõi tuy không chi tiết như giới nhà báo. Nhưng một xã hội mà không biết lắng nghe các ý kiến phản biện là một chuyện tương đối dở". Trong vụ án Cù Huy Hà Vũ, Ngô Bảo Châu nói ông "vốn không đặc biệt hâm mộ" ông Cù Huy Hà Vũ, nhưng cho rằng ông Vũ là "một con người không tầm thường. Như Hector người thành Troy, như Turnus người Rutuli hay như Kinh Kha người nước Vệ, ông Vũ không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số phận của mình"..." đồng thời cũng chỉ trích chính quyền và tòa án rằng họ đã "cố tình làm mất thể diện quốc gia" khi "bắt ông (Vũ) bằng hai bao cao su đã qua sử dụng", xử "nửa công khai, nửa bí mật", và "từ chối thực hiện thủ tục tố tụng". Ông cho là: ""Không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ." Sau vụ bình luận gây nhiều tranh cãi này, vào ngày 11 tháng 4 năm 2011, blog cá nhân của GS. Ngô Bảo Châu có tên Thích học toán đã tạm đóng cửa và đặt ở chế độ cá nhân. Ngày 12/9/2015, trong chương trình giao lưu ra mắt sách "Kẻ trăn trở" của TS Lương Hoài Nam, GS Ngô Bảo Châu nhận xét: "Người biết phẫn nộ, biết trăn trở chính là người tạo ra động lực thay đổi trong xã hội, làm giảm bớt sự đau khổ của con người, giúp cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn". Quan điểm xã hội Năm 2010, sau khi nhận giải thưởng Fields, ông có đăng trên blog cá nhân một câu trả lời cho những thắc mắc về quan điểm của ông trong vấn đề "lề đường báo chí" như sau: "Xin thưa, bám theo lề là việc của con cừu, không phải việc của con người tự do". Phát ngôn này của ông gây nhiều tranh cãi và sau đó đã trở nên rất nổi tiếng. Quan điểm môi trường Trong buổi nói chuyện trực tuyến với sinh viên ngày 21 tháng 4 năm 2020, giáo sư Ngô Bảo Châu bày tỏ suy nghĩ của mình về dịch bệnh COVID-19, và hy vọng con người sẽ thân thiện hơn với thiên nhiên. Ông nói: "[...] tôi hy vọng sẽ có những sự thay đổi trong tổ chức cuộc sống, sống nhịp nhàng và đơn giản hơn, con người thân thiện hơn với thiên nhiên." Quan điểm tôn giáo Ngô Bảo Châu trưởng thành trong 1 gia đình theo Phật giáo. Mặc dù khẳng định triết lý và văn hóa Phật giáo đã thấm sâu vào con người ông như nhiều người Việt Nam khác, tuy nhiên ông xác định mình không phải là Phật tử "theo nghĩa toàn vẹn nhất" của từ này. Khi được hỏi về quan điểm đối với giáo lý Phật giáo, ông cho rằng "Triết lý Phật giáo cho con người một nhân sinh quan rộng rãi, giải phóng nhiều định kiến. Đấy là một tố chất cơ bản của nhà khoa học". Ngày 19 tháng 5 năm 2016, nhân ngày sinh nhật lần thứ 126 của Hồ Chí Minh, Ngô Bảo Châu viết trên Facebook cá nhân của mình: “Có quý mến ai thì mong họ thoát khỏi vòng luân hồi, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Chú thích
Trương Tam Phong (Hán văn phồn thể: 張三豐, giản thể: 张三丰, 1246–1396) tên thật là Trương Quân Bảo (張君寶), là một đạo sĩ trong Đạo giáo, người sáng lập Võ Đang - môn phái võ thuật lớn ở Trung Quốc, ông được cho là người đã sáng tạo ra Thái Cực quyền và Thái Cực kiếm. Ông còn được gọi dưới nhiều tên khác: Trần Thái Hoa Trương Thông Trương Toàn Nhất Huyền Huyền Tử (tên hiệu) Trương Công Thạch Trương Thảo Trương Lạp Thác tức Trương bẩn thỉu do ông ăn mặc đơn giản, dù nóng hay lạnh, chỉ mặc một áo nạp và một nón mê (theo Minh sử, Phương Kỹ truyện). Truyền thuyết Theo ghi nhận của cổ thư Trung Hoa thì Trương Tam Phong là một người có hình dung cổ quái, tóc dài, râu rậm, mặt đỏ, môi thắm, ăn khỏe như cọp, đi nhanh như gió cuốn. Tên còn gọi khác + Trương Công Thạch + Trương Thảo Trong các môn phái Võ thuật ở Trung Quốc thì hai phái nổi tiếng nhất là Võ Đang và Thiếu Lâm. Một phái ở miền Nam, một phái ở miền Bắc. Một phái thuộc Đạo gia, một phái thuộc Phật gia. Nói đến Thiếu Lâm quyền không thể không nói đến Đạt Ma Tổ Sư. Nói đến Võ Đang Nội Gia Quyền không thể không nói đến Trương Tam Phong với hành trang thần bí. Kỳ thực địa vị Trương Tam Phong trong lịch sử Đạo giáo còn rực rỡ hơn lịch sử sáng lập phái Võ Đang nữa. Đạo giáo bắt đầu từ đời Kim và Nguyên, dần dần chia ra làm hai nhánh lớn là Chính Nhất Giáo và Toàn Chân Giáo, một ở phương Nam, một ở phương Bắc, đại để họ lấy vùng Nam Bắc sông Giang - sông Hoài làm ranh giới. Chính Nhất Giáo là tên gọi tắt các phái sùng bái quỷ thần, vẽ bùa niệm chú, đuổi ma trừ tà; còn Toàn Chân Giáo chú trọng vào đạo đức tự thân và tu dưỡng hành công. Đến thời cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, hai phái lại có xu thế giao lưu dung hợp với nhau nhờ sự vận động của Trương Tam Phong. Vị "ẩn tiên" tiêu diêu tự tại Trương Tam Phong là người hành tung vô định và là một đạo sĩ có phần thần bí. Đã có đến 20 loại giả thuyết về tên tuổi, tự hiệu và quê quán của ông. So sánh những giả thiết phổ biến, chúng ta có thể biết ông có các tên Trương Thông, Trương Toàn Nhất tên tự là Quân Thực (hay Quân Bảo), hiệu là Huyền Huyền Tử, ở Ý Châu, Liêu Đông giữa đời Nguyên, Minh. Trương Tam Phong có phong tư khôi vĩ, mắt lớn tai to, râu dài tới rốn. Bất cứ thời tiết nóng hay lạnh, ông chỉ mặc một áo nạp và một nón mê, có khi ăn nhiều hết mấy đấu cơm, nhưng cũng có khi một ngày chỉ ăn một lần, hoặc mấy tháng không cần ăn. Vì không chú ý về ăn mặc nên ông được người ta gọi là "Trương lạp thác". (lạp thác: bẩn thỉu). Theo truyền thuyết của Đạo giáo, Trương Tam Phong từng là thuộc viên của Thái thú Hoa Châu. Một lần nọ, ông cùng Thái thú đến Hoa Sơn bái yết một Đạo sĩ tên Trần Đoàn. Trần Đoàn mời họ ngồi, bày trà và đặt một chỗ ngồi cao quý như có ý chờ đợi ai đó. Một lúc sau, quả nhiên có một vị Đạo sỹ đến với áo bào lam, nón vải, thái độ ngạo nhiên. Trần Đoàn hết sức cung kính với vị Đạo sỹ ấy, hai người nói chuyện một hồi. Thái thú thấy mình bị đối xử lạnh nhạt có phần không vui. Vị đạo sỹ nọ rút từ ống tay áo ra ba hột táo, một đỏ, một trắng, một xanh và nói: "Tôi đến đây vội quá không mang theo vật gì, chỉ có ba hột táo này, chúng ta chia nhau cùng ăn nhé". Rồi tự ăn một hột màu đỏ, hột trắng chia cho Trần Đoàn, hột xanh cho viên Thái thú. Thái thú cho rằng Đạo Nhân khinh mình nên trao hột xanh ấy cho Trương Tam Phong. Trương Tam Phong ăn liền và lập tức thấy tinh thần như đổi khác, thân thể nhẹ nhàng, khỏe mạnh hẳn lên. Đạo nhân cười lớn bái biệt rồi đi mất dạng. Thái thú lấy làm lạ bèn hỏi nguyên do, Trần Đoàn đáp: "Đạo nhân ấy là tiên ông Lã Động Tân đó. Ba hột táo kia là táo tiên chia ra làm ba loại thượng, trung, hạ. Đại nhân còn tục cốt nên chỉ ăn hột xanh. Đạo tu thân không thể một bước lên trời được mà phải tiến theo tuần tự, dục tốc bất đạt mà". Thái thú nghe xong lấy làm ân hận vì mình đã bỏ mất cơ duyên. Sau khi ăn được táo tiên, Trương Tam Phong đã thành người tiên đắc đạo bèn đi lãng du giang hồ, hành tung không định. Có lúc ông hồn nhiên tự tại cười nói giữa chợ, cầu đảo trừ họa cho người, có lúc lại làm nông dân, được mọi người gọi là "Chân tiên". Sau đó, Trương Lạp Thác đến núi Võ Đang ở Hồ Bắc, vào núi tu luyện, lập am ở trước Ngọc Hư Cung dưới cây cao gò sâu, luyện thành "Cửu chuyển kim đan". Trương Tam Phong thường nói với người bản địa: "Núi này ngày sau đại hiển đấy". Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương rất hâm mộ ông, sai người đi tìm nhưng không gặp. Sau Minh thành tổ Chu Đệ nhiều lần sai người đi tìm nhưng đều không gặp. Tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 10 (Tây lịch 1404), Minh Thành Tổ Chu Đệ gửi cho Trương Tam Phong bức thư: "Hoàng Đế kính dâng thư lên chân tiên Trương Tam Phong: Trẫm ngưỡng mộ chân tiên đã lâu, mong cầu được thân đón bậc nghi phàm, từng sai sứ bầy hương án viết thi đi tìm hết danh sơn để mời đón. Đạo Đức chân tiên cao cả, cao hơn vạn hữu, thể hợp với tự nhiên, thần diệu không lường. Tài chất của Trẫm kém cỏi, đức hạnh mỏng manh, mà chỉ có lòng chí thành mong gặp, suốt đêm ngày không quên. Lại kính cẩn sai sứ dâng thư cẩn rọng mời, mong chờ xe mây giá lâm để thỏa lòng kính mộ mong mỏi của Trẫm. Ngày 6 tháng 2. " Lòng chí thành cung kính của một vị thiên tử với một "đạo sỹ bẩn thỉu" như thế cũng là tột cùng rồi! Sau này Thành tổ Chu Đệ phong cho Trương Tam Phong là "Lão Sư", "chân tiên". Minh thế tông Chu Hậu tổng lại gia phong thêm tên hiệu "Thanh Hư nguyên diệu chân quân". Trương Tam Phong rất được người đời tôn sùng. Trước tượng của Trương Tam Phong ở Chân Tiên điện, viên gạch xanh ở dưới đất bị lõm sâu xuống bởi người ta dập đầu bái lạy. Phương Pháp sống của Trương Tam Phong - Cuối cùng ý nghĩa sống của con người là gì? - Đời người đi tìm cái gì là tối cao? Đó là những câu hỏi mà nhân loại đã đi tìm lời giải đáp suốt mấy ngàn năm qua. Nói cho cùng, bất luận là Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo hay Cơ Đốc giáo, Hồi giáo cũng chỉ là tìm câu giải đáp về "kiếp người" ấy thôi. Đạo gia Trương Tam Phong cũng có câu giải đáp của riêng mình! Sinh hoạt vật chất của Trương Tam Phong thấp đến độ cuối cùng, một năm bốn mùa ông chỉ có một áo nạp, một nón mê, mặc không đủ ấm, ăn không đủ no, bẩn thỉu như một "tiên sinh ăn mày". Trong con mắt người đời, Trương lạp thác như vậy là khổ lắm, nhưng trong lòng ông cảm thấy vô cùng khoái hoạt, vô cùng tự tại, và nhờ vậy vô cùng trường thọ! Chỉ cần ông gặp Thái tổ hoặc Thành tổ một lần thì đã có đủ hết vinh hoa phú quý, nhưng Trương Tam Phong coi quyền thế như cỏ rác, tiền của như đất cát, ông từ chối không gặp, mặc lời mời khẩn khoản của Hoàng đế. Trương Tam Phong chủ trương cuộc đời là sống theo ý thích của mình, không bị câu thúc bởi bất kỳ cái gì. Thậm chí ông còn chẳng để ý đến các giới luật của đạo môn nữa. Ông chỉ cầu được tiêu diêu tự tại, điều ấy phản ánh khá nhiều trong bài thơ tương truyền của ông như: Khoái Khoái Khoái, hồng trần ngoại Nhàn nhàn nhàn, tự vân gian Diệu diệu diệu, tùng nhai nhất thanh khiểu Lai lai lai, bồng lai đảo hoa khai. Tạm dịch: Khoái Khoái Khoái, ngoài cõi trần Nhàn nhàn nhàn, giữa mây vần Diệu diệu diệu, hú một tiếng non vào núi Đến đến đến, đảo bồng lai hoa xuân. Sáng tạo đạo phái Võ Đang và Nội gia quyền Võ Đang ở Hồ Bắc có khí thế hùng vĩ, từ xưa đã được xưng tụng là "Thái Nhạc" và "Thiên hạ danh sơn", trở thành một thánh địa của Đạo giáo với những đạo gia nổi tiếng như đời nhà Chu có Doãn Hỷ, đời nhà Hán có Âm Trường Sinh, đời nhà Tấn có Tạ Sung, đời nhà Đường có Lã Đồng Tân, đời nhà Tống có Trần Đoàn, đời nhà Nguyên có Trương Tông Thanh đều tu luyện ở đó. Từ đời Đường, nơi bắt đầu xây dựng đạo quán. Đời Tống, đời Nguyên đều xây dựng thêm. Đến cuối đời Nguyên, các đạo quán ấy đa số bị hủy hoại bởi binh loạn liên miên. Đến đời Minh, Thành tổ mới cho xây dựng lại quy mô các quần thể cung khán khiến nơi đây thành danh sơn đạo giáo do Minh Thành Tổ quá sùng bái Trương Tam Phong. Núi Võ Đang là đại bản doanh của Trương Tam Phong tu luyện và truyền đạo, ông vào núi Võ Đang rồi nhưng chưa công khai tự lập môn phái, chỉ lấy danh nghĩa là đạo gia du phương tự nhận đệ tử. Sau niên hiệu Vĩnh Lạc, các đạo sỹ ở núi Võ Đang đều thờ Trương Tam Phong là tổ sư phái Võ Đang. Võ đang phái của Trương Tam Phong có nhiều điểm khác biệt. Một là thờ bái Chân Võ Đại Đế, coi Chân Võ Đại Đế là tổ sư. Hai là coi trọng tu luyện "nội đan". Phái Võ Đang thuộc phái thanh tu, coi trọng tu luyện nội đan, đối lập với "ngoại đan". Ngoại đan là điều chế dược thảo bằng lô đỉnh để chế tạo thành thuốc "trường sinh bất từ" (tức kim đan). Sau các đạo sỹ dùng phương thuật ấy phát triển thêm, đem thân thể chính mình ra làm "lô đỉnh" (lò nấu), dùng thể chất "tinh" và "khí" của mình làm dược liệu, họ gọi là khiến cho "tinh, khí, thần" ngưng tụ kết thành "Thánh Thai", đó gọi là "Nội đan". Ba là tập luyện kỹ thuật Nội Gia Quyền của Võ Đang. Bốn là chủ trương tam giáo hợp nhất. Không ít sách vở đã chép, Nội gia quyền là do Trương Tam Phong sáng lập, theo truyền thuyết là do đêm ông nằm mộng thấy Chân Vũ Đại Đế truyền dạy cho môn quyền pháp ấy rồi sáng tạo ra Võ Đang phái Nội gia quyền, chuyên về nội công. Cuối đời Minh có Hoàng Tông Hy viết "Vương Trưng Nam mộ chí minh" nói rằng: "Sở dĩ gọi là Nội gia vì lấy tĩnh chế động, kẻ sử dụng ứng theo tay mà phát ra để phân biệt với nội gia của Thiếu Lâm, đó bắt đấu từ Trương Tam Phong". Các triết gia Trung Quốc trong vòng hơn 2000 năm không ngừng tìm hiểu sự khởi nguyên của trời đất, họ đã đề xuất ra quan niệm vạn vật nhất thể và mọi biến hóa của trời đất đều do hai khí "Âm" và "Dương" kết hợp, họ cho rằng thiên biến vạn hóa do hai quẻ "Càn" và "Khôn" mà ra. Trương Tam Phong kế thừa quan điểm ấy, ngay đến tên "Tam Phong" của ông theo tự hình cùng liên quan tới "Càn" và "Khôn". Trong "Thái Cực quyền luận" ông cũng kết hợp các triết lý Âm Dương, Ngũ Hành, Bát Quái. Trương Tam Phong cho rằng tập luyện Nội gia quyền trước hết là để dưỡng tâm định tính, tụ khí thu thần. Cũng giống như Thiếu Lâm quyền, Nội gia Quyền không truyền cho người ngoài môn phái, đến nay truyền thống ấy vẫn còn. Võ đang do Trương Tam Phong sáng lập, sau này dần dần được sáp nhập vào Toàn Chân đạo, người đời sau thu thập các tác phẩm của ông thành bộ "Trương Tam Phong toàn tập". Hình ảnh trong văn học kiếm hiệp Sách Taichichuan (Ohara) tả: Trương Tam Phong vẻ người khôi vĩ, anh tuấn, dáng như rùa, vóc như hạc, tai to mắt sáng, trang phục bình dị mà trang nghiêm nhuốm màu tiên phong đạo cốt, duy bộ râu có vẻ hơi phi phàm, lãng tử... Ông còn là nhân vật xuất hiện trong hai bộ tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung "Thần điêu hiệp lữ" và "Ỷ Thiên Đồ Long Ký". Trong "Thần điêu hiệp lữ", lúc đó ông mới có 14 tuổi, là tục gia đệ tử của chùa Thiếu Lâm. Ông cùng sư phụ mình là Giác Viễn đại sư đuổi theo Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây vì hai tên này đã lẻn vào Tàng Kinh Các Thiếu Lâm ăn cắp bộ sách "Cửu Dương Chân Kinh". Đuổi nhau đến núi Hoa Sơn thì gặp đôi vợ chồng Quách Tĩnh-Hoàng Dung, Dương Quá-Tiểu Long Nữ, và rất nhiều cao thủ võ lâm khác như Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đại sư, Anh Cô... và cả Quách nhị cô nương Quách Tương vừa ở trên Hoa Sơn viếng mộ Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đi xuống. Quân Bảo và Giác Viễn đại sư liền kể về việc kinh thư bị trộm cho mấy người kia nghe. Thấy không ổn, Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử dùng gian kế nhét kinh thư vào bụng của một con vượn trắng to để nhằm hòng chối tội. Nên Giác Viễn đại sư và Quân Bảo đành phải quay trở về Thiếu Lâm chịu tội làm mất kinh thư. Trong "Ỷ Thiên Đồ Long Ký", ông xuất hiện cả ở thời niên thiếu lẫn cả lúc về già. Khi ông gặp lại Quách Tương ở thời điểm hai, năm 16 tuổi, hai năm sau "Thần điêu đại hiệp", Quách cô nương liền hỏi vì sao mà Giác Viễn thiền sư lại bị xích chân tay như vậy. Quân Bảo liền kể lại vì làm mất kinh thư nên sư phụ Giác Viễn bị phương trượng bắt gánh nước bổ củi, xích tay xích chân, lại cấm không cho được nói chuyện với người khác. Quân Bảo vốn cùng tuổi với Quách Tương nên cô rất quý cậu ta bèn tặng ngay đôi La Hán bằng sắt mà Vô Sắc thiền sư (bạn thân của Dương Quá đại hiệp) tặng cho mình mấy năm trước (khoảng gần cuối "Thần điêu đại hiệp"). Quách Tương vốn tính ngang bướng thấy vậy liền lên chùa Thiếu Lâm đòi tìm phương trượng và Vô Sắc thiền sư (để xin tha tội cho đại sư Giác Viễn. Giữa lúc Quách Tương đang cãi cọ với các nhà sư Thiếu Lâm thì từ đâu xuất hiện một cao thủ võ công vô cùng lợi hại có biệt danh "Côn Lôn Tam Thánh" tên là Hà Túc Đạo tới gây rối, đòi gặp mạt Giác Viễn đại sư để tỉ thí. Giác Viễn đại sư liền giao đấu với y, đến lúc tưởng thua tới nơi thì đột nhiên Quân Bảo ra chiêu "Tứ Thông Bát Đạt" được Dương Quá chỉ dạy cho trước đó, khiến cho Hà Túc Đạo thua Giác Viễn đại sư. Y tức mình liền đấu võ với Quân Bảo nhưng đánh tới tận hiệp thứ mười mà gã vẫn không thể đánh ngã nổi cậu. Hà Túc Đạo liền nhận thua và trước khi đi y nói Doãn Khắc Tây muốn chuyển tới Giác Viễn đại sư lời xin lỗi vì đã ăn cắp Cửu Dương chân kinh và y còn nói: "Sách ở trong hầu nhưng Hà Túc Đạo lại nghe ra là Sách ở trong dầu (đầu). Đơn giản vì Doãn Khắc Tây vốn là người Tây Vực nên giọng nói đã rất khó nghe, lại là lời nói trước lúc chết nên Hà Túc Đạo nghe nhầm cũng là lẽ đương nhiên. Sau khi Hà Túc Đạo đi rồi, phương tượng Thiếu Lâm liền sai người bắt Quân Bảo vì tội học võ công mà chưa được phép. Giác Viễn đại sư vốn yêu thương Quân Bảo như con đẻ, sợ nếu như cậu mà chịu hình phạt của chùa thì sẽ khó bảo toàn tính mạng nên ông đã liều chết cứu Quân Bảo và Quách Tương cho vào hai thùng nước rỗng, sau đó ông chạy khỏi chùa Thiếu Lâm. Khi tới chân núi, thoát khỏi sự truy đuổi của tăng nhân, Giác Viễn đại sư do đã bị trọng thương lúc giao đấu với Hà Túc Đạo nên đã kiệt sức và viên tịch. Trước lúc mất ông đã đọc lại toàn bộ Cửu Dương chân kinh cho Quách Tương và Quân Bảo nghe. Quách Tương nghe xong nhớ khoảng ba phần, còn Quân Bảo do vốn đã biết một nửa Cửu Dương chân kinh nay lại biết thêm hai phần nữa do Giác Viễn đại sư nên anh đã biết được sáu, bảy phần của bộ kinh này. Sau khi chôn xong Giác Viễn sư phụ, anh liền chia tay Quách Tương. Anh liền lên núi Võ Đang kiếm một cái hang luyện tập chăm chỉ Cửu Dương thần công mà Giác Viễn để lại, trong mười năm sau nội lực đã tiến bộ vượt bậc. Về sau lại học Đạo Tạng, tâm đắc phép luyện khí của Đạo gia. Rồi có một ngày, ông bỗng nhận ra cái lẽ âm dương hỗ trợ trong võ học, sung sướng quá liền ngửa mặt lên trời cười một hồi dài. Chính tiếng cười đó đã khai sinh ra một vị đại tông sư trước không có ai mà sau thì cũng không ai theo kịp. Về sau ông đi du ngoạn nhìn thấy ba ngọn núi hùng vĩ vươn lên đâm vào mây, lại ngộ ra sở học võ công nên đã tự đặt cho mình tên hiệu Tam Phong. Sau đó ông sáng lập ra Võ Đang phái danh trấn thiên hạ với "Võ Đang Thất Hiệp" gồm Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Tòng Khê, Trương Thuý Sơn, Ân Lê Đình, Mạc Thanh Cốc. Nếu như nói Quách Tương vì buồn tủi mối tình đơn phương với Dương Quá mà lập nên phái Nga My thì Trương Tam Phong lại vì mối tình thầm kín với Quách Tương mà sáng lập phái Võ Đang. Tình tiết từ bộ truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký có đề cập rằng: "Trương Tam Phong về sau sống trên trăm tuổi, dù trở thành bậc bắc đẩu trên võ lâm nhưng lòng vẫn luôn dành những tình cảm đặc biệt và không bao giờ nguôi nhớ về Quách Tương". Lý do sáng lập ra Võ Đang phái của Trương Tam Phong khác biệt hoàn toàn với Quách Tương. Nhưng không giống với nỗi hận trong Quách Tương, chữ tình của Trương Tam Phong lại nhẹ nhàng và đơn giản hơn rất nhiều, thậm chí còn có thể coi là một tình yêu đơn phương đúng nghĩa. Khi sáng lập nên phái Võ Đang, ông tập trung nhiều vào mục đích phát dương quang đại hai bộ võ công Thái Cực Kiếm và Thái cực quyền, đối với nữ nhân chưa bao giờ có chuyện cấm đoán khi muốn gia nhập phái, đối với nam nhân chưa bao giờ ngừng khuyến khích đệ tử xuống núi lấy vợ, yên bề gia thất. Trong tiểu thuyết Kim Dung, Trương Tam Phong sinh năm 1247, đến khi kết thúc bộ Ỷ Thiên Đồ Long ký thì ông đã khoảng 114 tuổi. Kim Dung không ghi rõ ông sống thọ tới bao nhiêu tuối, nhưng chắc chắn ông là người sống thọ nhất trong các nhân vật tiểu thuyết Kim Dung. Chuyển thể Phim Bộ phim kiếm hiệp Thái Cực Trương Tam Phong Võ Đang Trương Tam Phong phát hành năm 1996, do Quan Lễ Kiệt, Bào Phương, Lạc Ứng Quân, Tăng Vỹ Quyền, Lương Bội Linh, La Lạc Lâm đóng. Phim truyền hình Ỷ Thiên Đồ Long ký Thái Cực Trương Tam Phong (Tai Chi Master), ATV sản xuất năm 1979, Vạn Tử Lương, Mễ Tuyết, Lương Tiểu Long, Dương Trạch Lâm, Cao Hùng, La Liệt đóng và Thái Cực Trương Tam Phong II năm 1981 Thái Cực Trương Tam Phong năm 1993 (Tai Chi Master) do Lý Liên Kiệt và Dương Tử Quỳnh thủ vai Thiếu niên Trương Tam Phong, năm 1990, do Hà Gia Kính đóng Thiếu niên Trương Tam Phong, năm 2001, do Trương Vệ Kiện vai Trương Tam Phong, Tô Hữu Bằng vai Dịch Thiên Hành, Lý Băng Băng vai Tần Tư Dung, Lý Tiểu Lộ vai Minh Đạo Hồng, Lâm Tâm Như vai Băng Tâm, Trương Thiết Lâm vai Phi Long tướng quân, Vương Diễm vai Triệu Ngọc Nhi, Nghiêm Khoan vai Dịch Kế Phong, Vương Đức Thuận vai Dịch Vân, Hồ Tịnh vai Lăng Tuyết Nhạn, Tae vai Trương Thúy Sơn Một biến tấu nữa trong đó Trương Quân Bảo cùng thời với Chu Nguyên Chương trong bộ phim Võ Đang năm 2003, có sự tham gia của diễn viên Lý Nhược Đồng, Tiêu Ân Tuấn, Nghiêm Khoan, Võ Đang II năm 2005 Tân Ỷ Thiên Đồ Long Ký năm 2009, do Vu Thừa Huệ thủ vai Trương Tam Phong. Đây là phiên bản thành công nhất của vai Trương Tam Phong khi về già đến nỗi khi Vu Thừa Huệ mất, báo giới đã đưa tin rằng "Trương Tam Phong của màn ảnh đã qua đời" chứ không nói tên thật của ông. Tân Ỷ Thiên Đồ Long Ký năm 2019, do Tăng Thuấn Hy (vai chính) - Lư Triển Tường (thiếu niên) - Hàn Hạo Lâm (nhỏ) thủ vai. Là một bộ phim được Tencent sản xuất năm 2019. Bộ phim truyền hình được đầu tư công phu với 140 ngày quay phim và gần 2 năm chỉnh sửa kỹ xảo.
Bánh tráng là một dạng bánh sử dụng nguyên liệu chính là tinh bột tráng mỏng phơi khô, khi ăn có thể nướng giòn (miền Bắc Việt Nam gọi là bánh đa nem, miền Trung gọi là bánh tráng nhúng, miền Nam gọi là bánh tráng ) hoặc nhúng qua nước để làm nem cuốn miền nam gọi là gỏi cuốn. Nó còn là nguyên liệu để làm một món ăn khác là nem (chả giò). Tên gọi Tên gọi bánh tráng có xuất xứ từ miền Nam, gọi là bánh tráng vì công đoạn chủ yếu khi làm bánh là phải tráng mỏng. Đôi khi được gọi là bánh đa. Tại một số vùng ở Thanh Hóa, người ta dùng cả hai từ bánh tráng và bánh đa, ngoài ra còn dùng từ bánh khô, để chỉ loại bánh tráng dùng để nướng và ăn trực tiếp. Loại bánh tráng dùng để gói nem (bánh đa nem) thì được gọi là bánh chả, do món nem rán ở đây gọi là chả. Ở miền Bắc trước đây cũng gọi là bánh tráng do cách làm là bánh được tráng mỏng, đến thời chúa Trịnh Tráng ở đàng Ngoài thì phải đổi gọi là bánh đa để kiêng húy chúa Trịnh Tráng. Ở đàng Trong không chịu ảnh hưởng của các chúa Trịnh nên tiếp tục gọi loại bánh này là bánh tráng. Ở miền Trung, có bánh tráng Đại Lộc nổi tiếng với món bánh tráng cuốn thịt heo. Nổi tiếng nhất là làng nghề làm bánh tráng Đại Lộc. Người dân xứ Quảng ăn bánh tráng quanh năm, nhà nào cũng để sẵn bánh tráng trong nhà và món bánh tráng cuốn là đặc sản đất Quảng Nam mỗi khi có khách đến chơi. Bánh tráng Đại Lộc đã tạo nên hương vị riêng cho các món cuốn dân dã của xứ Quảng và trở thành món ăn không thể bỏ qua mỗi khi có dịp đến với Quảng Nam. Nguyên liệu Nguyên liệu chính thường là bột gạo (nhiều nơi dùng sắn, ngô, đậu xanh... hoặc pha trộn chung) pha lỏng vừa phải với nước. Có cho vào đó một ít bột sắn với một tỷ lệ hợp lý để bánh có thêm độ dẻo, ít bị bể và dễ tráng mỏng, nếu pha nhiều bột sắn (khoai mì) sẽ làm cho bánh có vị chua. Ngoài ra còn có các phụ gia khác như mè, muối, tiêu, tỏi, dừa, hành, đường... tùy loại bánh tráng các miền. Cách làm Dùng một cái gáo múc bột đổ lên trên một tấm vải được căng sẵn trên một cái miệng nồi to có nước đang sôi bên trong. Sau đó dùng gáo dừa trải đều một lớp bột thật mỏng theo hình tròn (tráng bánh), động tác này phải khéo léo, nhanh nhẹn diễn ra chỉ trong vài giây (có thể rắc thêm mè lên trên). Bánh chín, dùng một nan tre mỏng hoặc một chiếc ống luồn dưới bánh gỡ ra, trải trên một cái vỉ được đan bằng tre rồi đem phơi nắng. Độ dày, mỏng của bánh được quy định tùy theo cách sử dụng. Nếu để nướng sẽ dày nhất, cuốn ướt thì dày vửa và làm nem thì phải mỏng như tờ giấy. Chính vì lý do này mà trong tiếng Anh bánh tráng được gọi là rice paper (giấy gạo). Thưởng thức Sau khi phơi khô, khi sử dụng, tùy cách ăn có thể đem bánh đi nướng giòn trên than hồng hay nhúng qua nước cho mềm (có thể sau khi nướng hoặc không nướng), cuốn nem rán (chả giò). Bánh tráng nướng giòn có thể ăn kèm cùi dừa rất ngon. Bánh tráng có thể được ăn kèm với nhiều món ăn như: mắm ruốc, gỏi... không nhất thiết phải qua công đoạn nướng giòn. Các loại bánh đa nổi tiếng Bánh đa Kế: xã Dĩnh Kế, huyện Lạng Giang, Bắc Giang Bánh đa Đô Lương: xã Đà Sơn, thị trấn Đô Lương, xã Tràng Sơn, Đông Sơn, huyện Đô Lương Bánh đa làng chòm: xã Thiệu Châu, Thiệu Hóa, Thanh Hóa Bánh đa Triêu Dương : xã Triêu Dương , Tĩnh Gia, Thanh Hóa Bánh tráng Hòa Đa, Phú Yên Bài chi tiết: Bánh tráng Hòa Đa Bánh tráng phơi sương Trảng Bàng: Tây Ninh Bánh tráng Đại Lộc: xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam Bánh tráng Mỹ Lồng Các biến thể Bánh tráng trộn Bánh tráng trộn là một món ăn nhẹ có xuất xứ từ Tây Ninh (Việt Nam). Món ăn này là một trong những món ăn vặt phổ biến của giới học sinh, sinh viên. Món ăn này có thành phần chính là bánh tráng cắt sợi, thông thường, món bánh tráng trộn ở khắp nơi ăn phổ biến chủ yếu là ăn chung với muối tôm, chanh tắc, bò khô, trứng cút, rau lá,... trộn với tôm khô chiên mỡ, các thành phần còn lại thay đổi theo người bán, các thành phần thường thấy là phổi bò cháy, rau răm, đu đủ chua sợi, sốt tương, đậu phộng,... Chúng thường được đóng gói và bán trong từng túi ni lông nhỏ với giá rẻ. Bánh tráng nướng Bánh tráng nướng là một món ăn nhẹ có xuất xứ từ Phan Rang (Ninh Thuận), sau đó rộng rãi ở Đà Lạt, Phan Thiết và phổ biến tại Sài Gòn. Nó được làm từ loại bánh tráng mỏng nướng giòn với phần nhân bánh phong phú như xúc xích, gà xé, thập cẩm, hải sản, khô bò, phô mai, trứng gà..., tương tự như kiểu bánh pizza của Ý và rưới kèm nước sốt (tương ớt và sốt me). Bánh tráng nướng thường hay ăn chung với các món ăn vặt như bạch tuộc nướng, hồ lô nướng và trà chanh. Bánh tráng xoài Bánh tráng xoài là một món ăn đặc sản khá nổi tiếng của huyện Cam Lâm và một số địa phương lân cận của tỉnh Khánh Hòa. Bánh được làm chủ yếu từ trái xoài chín và mạch nha. Bánh tráng xoài còn có tên gọi là bánh xoài Nha Trang bởi phần lớn sản phẩm được tiêu thụ ở thành phố Nha Trang. Hiện có rất nhiều hộ gia đình chế biến tự phát tại khu vực Cam Lâm, Cam Ranh nên sản lượng bánh xoài hàng năm sản xuất rất lớn. Bánh tráng xoài được làm từ những trái xoài chín cây (loại xoài này chỉ trồng hiệu quả tại Cam Lâm, Cam Ranh), loại xoài chín hoàn toàn tự nhiên. Xoài chín được gọt vỏ, sau đó cho vào máy xay thành dạng lỏng nhưng không quá nát. Dung dịch này được nấu trên bếp than trong khoảng 2 đến 3 giờ tùy theo thời tiết và chất lượng xoài nguyên liệu. Đây cũng là khâu quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm cũng như bí quyết của mỗi người thợ. Sau đó người làm bánh thực hiện công đoạn tráng bánh thành từng lớp mỏng trên bề mặt nilon được lót sẵn trên một khuôn thép, cách mặt đất 100–120 cm. Bánh sau khi tráng được phơi dưới ánh nắng tự nhiên. Bánh xoài sau 1 ngày trên khung kim loại sẽ khô đều, vàng óng. Bánh được thu gom và đưa vào khu vực đóng gói.
Bảo Ninh có thể là: Nhà văn Bảo Ninh Xã Bảo Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam
Vị Hoàng (sông Hoàng) là tên một con sông đào chảy qua đất Vị Hoàng tỉnh Nam Định. Con sông này ngày nay không còn nữa. Theo sử cũ, sông Vị Hoàng được đào vào đời Trần, nối sông Đáy với sông Vĩnh Tế (Vĩnh Giang) chảy quanh co quanh phủ Thiên Trường xưa. Năm 1832, do sông Vị Hoàng chảy xiết, làm bờ sông ngày càng xói lở và khu phố buôn bán phía Đông Bắc thành Vị Hoàng có nguy cơ bị mất. Theo nguyện vọng của địa phương, vua Minh Mạng cho đào một con sông mới, được gọi là sông Đào, để chia sẻ dòng nước từ kênh Phù Long đến bến đò Lương Xá, tách làng Vị Hoàng thành hai làng: Vị Hoàng và Vị Khê. Từ đây, nước sông Hồng không còn đổ nhiều vào sông Vị Hoàng, sông chảy chậm và bị phù sa lắng đọng, bồi lấp dần. Khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sông Vị Hoàng đã bị lấp dần nên còn được gọi là sông Lấp. Ngày nay, hầu như không còn vết tích của sông Vị Hoàng. Sông Vị Hoàng đã được nhắc đến trong hai bài thơ của Trần Tế Xương: Thương vợ và Sông Lấp. Sách Việt sử thông giám cương mục viết rằng: "Việc đào sông Vị Hoàng đã chặn mất long mạch nên nhà Trần mất ngôi".
Lễ hội tháng Mười (tiếng Đức: Oktoberfest, phát âm tiếng Đức: [ɔkˈtoːbɐˌfɛst]) được tổ chức trên khu đồng cỏ Theresienwiese tại München, Bayern, Đức là một trong những lễ hội lớn nhất thế giới trong khoảng 16 đến 18 ngày bắt đầu từ giữa hoặc cuối tháng 9 đến cuối tuần đầu tiên của tháng 10, hằng năm có trên 6 triệu người đến tham dự. Tại địa phương, nó thường được gọi là Wiesn. Lễ hội tháng Mười là một phần quan trọng của văn hóa Bayern, nó đã được tổ chức từ năm 1810. Các thành phố khác trên thế giới cũng tổ chức lễ kỷ niệm Oktoberfest được mô hình hóa sau sự kiện ở Munich. Các hãng bia ở München sản xuất một loại bia đặc biệt với thành phần mạch nha và hoa bia nhiều hơn (vì thế mà nồng độ cồn cũng cao hơn) cho lễ hội này. Trong sự kiện này, số lượng lớn bia Oktoberfest được tiêu thụ trong suốt lễ hội kéo dài 16 ngày vào năm 2013 là 7,7 triệu lít. Du khách cũng có thể tận hưởng nhiều điểm tham quan, chẳng hạn như các hoạt động vui chơi giải trí, trò chơi ngoài trời và trò chơi trong nhà. Ngoài ra còn có một loạt các loại thực phẩm truyền thống. Lễ hội tháng Mười ở Munich diễn ra trong khoảng thời gian 16 ngày. Năm 1994, lịch trình áp dụng cho lâu dài này đã được sửa đổi để đáp ứng với nhu cầu của du khách. Nếu ngày chủ nhật đầu tiên vào tháng 10 rơi vào ngày 1 hoặc ngày 2, thì lễ hội sẽ kéo dài đến ngày 3 tháng 10 (Ngày đoàn kết của Đức). Vì vậy, lễ hội bây giờ diễn ra trong 17 ngày khi Chủ nhật đầu tiên là ngày 2 tháng 10 và 18 ngày khi đó là ngày 1 tháng 10. Trong năm 2010, lễ hội kéo dài cho đến thứ Hai đầu tiên trong tháng Mười (4 tháng Mười), để đánh dấu năm thứ 200 của sự kiện này. Lịch sử Kronprinz Ludwig (1786–1868), sau đó là vua Ludwig I (trị vì: 1825–1848), kết hôn với công chúa Therese xứ Sachsen-Hildburghausen ngày 12 tháng 10 năm 1810. Công dân Munich được mời tham dự lễ hội được tổ chức trên cánh đồng trước cổng thành phố để kỷ niệm sự kiện hoàng gia. Các cánh đồng được đặt tên là Theresienwiese ("Theresa's Meadow") để tôn vinh vương phi, và đã giữ tên đó từ đó, mặc dù người dân địa phương đã viết tắt thành "Wiesn". Cuộc đua ngựa, theo truyền thống vào thế kỷ 15 gọi là Scharlachrennen (Scarlet Race tại Karlstor), đã được tổ chức vào ngày 18 tháng 10 để tôn vinh các cặp đôi mới cưới. Andreas Michael Dall'Armi, một Thiếu tá trong Vệ binh Quốc gia, đã đề xuất ý tưởng này. Tuy nhiên, nguồn gốc của các cuộc đua ngựa và Oktoberfest, có thể xuất phát từ các đề xuất được đề ra bởi Franz Baumgartner, một huấn luyện viên và Trung sĩ trong Vệ binh Quốc gia. Nguồn gốc chính xác của lễ hội và cuộc đua ngựa vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi, tuy nhiên, quyết định lặp lại các cuộc đua ngựa, cảnh tượng và lễ kỷ niệm năm 1811 đưa ra những gì bây giờ là truyền thống Oktoberfest hàng năm. Ngọn đồi Sendlinger (ngày nay là Theresienhohe) đã được sử dụng như một khán đài cho 40.000 người. Các buổi nếm thử "Traiteurs" và các loại rượu vang và bia khác đã diễn trên ngọn đồi. Trước khi cuộc đua bắt đầu, một buổi biểu diễn được tổ chức để tỏ lòng tôn kính chú rể và gia đình hoàng gia dưới hình thức một đoàn 16 cặp trẻ em mặc trang phục Wittelsbach và trang phục từ chín thị trấn Bayern và các vùng khác. Tiếp theo là cuộc đua của 30 con ngựa trên một đường đua dài 3.400 mét và kết thúc là phần ca hát của một ca đoàn sinh viên. Con ngựa đầu tiên vượt qua vạch đích thuộc về Franz Baumgartner. Nhà vô địch đua ngựa và Bộ trưởng Nhà nước Maximilian von Montgelas đã giới thiệu chiếc huy chương vàng của mình. Biến thành một lễ hội công cộng Nhân dịp Thế Vận Hội tại Athens năm 2004, tờ báo Süddeutsche Zeitung đã tường thuật rằng chính Thế Vận Hội thời Cổ đại đã gây cảm hướng trực tiếp cho ý tưởng tổ chức lễ hội này. Hoàng thái tử Ludwig vốn có xu hướng ưa thích văn hóa Hy Lạp (Philhellenism) được một trong những cận thần đưa ra ý tưởng tổ chức lễ hội theo phong cách của các cuộc thi đấu thời Cổ đại. Vì thế Lễ hội tháng Mười trong những năm đầu tiên mang nhiều phong cách thể thao. Bên cạnh đua ngựa và chạy đua, nhiều hình thức thi đấu khác cũng được tổ chức. Do đó Lễ hội tháng Mười được xem như là tiền thân của Thế Vận Hội thời đại mới. Pierre de Coubertin tiếp tục phát triển ý tưởng này và thành lập Ủy ban Thế vận hội Quốc tế (IOC). Năm 1813 Lễ hội tháng Mười bị hủy bỏ vì Bayern liên lụy đến các cuộc chinh chiến của Napoléon. Năm 1816, trò chơi xổ số bắt đầu có mặt ở lễ hội. Các giải chính bao gồm bạc, đồ sứ và nữ trang. Bắt đầu từ năm 1819 hội đồng thành phố München nắm quyền tổ chức lễ hội và quyết định năm nào cũng sẽ tổ chức lễ hội. Sau đấy thời gian tổ chức được kéo dài ra thêm và đồng thời lễ hội cũng được tổ chức sớm hơn trong năm. Nguyên nhân là vì vào cuối tháng 9 vùng Oberbayern (Thượng Bayern) hay có thời tiết tốt. Nhiệt độ cao nhất trong tuần đầu tiên của Lễ hội tháng Mười có thể tăng lên đến 30 °C lại càng làm cho khách đến lễ hội thêm khát nước. Nhưng ngày nay tuần lễ cuối cùng của lễ hội cũng nằm trong tháng Mười. Từ 1859 tượng nữ thần Bavaria được đặt trên cánh đồng tổ chức lễ hội. Lúc đầu, bức tượng nữ thần bảo hộ Bayern do Leo von Klenze phác thảo theo Phong cách Cổ điển. Ludwig Michael Schwanthaler nghiên về Phong cách Lãng mạn thay đổi và "German hóa" phác thảo của Klenze. Bức tượng được Johann Baptist Stiglmaier và Ferdinand von Miller đúc. Tòa nhà Danh nhân (Ruhmeshalle) bao bọc chung quanh bức tượng được xây xong năm 1853. Năm 1854 lễ hội không được tổ chức vì 3.000 người dân München chết vì dịch tả. Trong năm 1866 cũng không có Lễ hội tháng Mười vì Bayern tham gia vào cuộc Chiến tranh Phổ-Áo. Năm 1879 Chiến tranh Pháp-Phổ là nguyên nhân không tổ chức lễ hội. Năm 1873 Lễ hội tháng Mười lại bị hủy bỏ vì dịch tả tái xuất hiện. Năm 1880 hội đồng thành phố bắt đầu cho phép bán bia. Ánh sáng điện đã tràn ngập trong hơn 400 quán và lều. Năm 1892 bia lần đầu tiên được bán trong vại bằng thủy tinh. Vào cuối thế kỷ 19 có thay đổi lớn. Cho đến thời gian đó trong các quán bán bia đều có thể chơi bowling và có diện tích khiêu vũ rộng lớn, thế nhưng giờ đây chúng biến mất khỏi các quán bia trong lễ hội. Người ta muốn có nhiều chỗ cho khách và dàn nhạc hơn. Những quán này chỉ còn thuần túy là quán bán bia. Năm 1910 Lễ hội tháng Mười kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100. 1.200.000 lít bia đã được bán trong dịp này. Năm 1913 Bräursol, lều bán bia lớn nhất từ trước đến nay, có chỗ cho 12.000 người khách. Chiếc lều lớn nhất ngày nay là Hofbräu-Festhalle với 10.000 chỗ. Trong thời gian của Chiến tranh thế giới thứ nhất từ 1914 cho đến 1918 Lễ hội tháng Mười không được tổ chức. Trong hai năm 1919 và 1920 sau chiến tranh người dân München chỉ tổ chức "Lễ hội mùa Thu". Năm 1923 và 1924 nạn lạm phát khiến lễ hội bị hủy bỏ. Từ năm 1933 lá cờ trắng-xanh của Bayern ở lễ hội bị thay thế bằng một lá cờ chữ thập ngoặc đồng nhất của Đức Quốc xã. Từ 1939 đến 1945 vì Chiến tranh thế giới thứ hai nên Lễ hội tháng Mười lại không được tổ chức. Từ 1946 đến 1948 người dân München cũng chỉ tổ chức "Lễ hội mùa Thu" sau chiến tranh, loại bia đặc biệt của Lễ hội tháng Mười không được phép bán. Du khách phải uống một loại bia loãng, chỉ có vào nồng độ cồn vào khoảng 2%. Từ khi được tổ chức lần đầu tiên lễ hội đã bị hủy bỏ tổng cộng 24 lần vì bệnh dịch, chiến tranh và các nguyên nhân khác. Truyền thống khai mạc lễ hội có từ năm 1950: Lễ hội tháng Mười được khai mạc bằng 12 phát súng chào và sau khi thị trưởng đương nhiệm đóng vòi khui thùng bia đầu tiên. Người thị trưởng đầu tiên khui thùng bia là Thomas Wimmer. Lễ hội bắt đầu phát triển trở thành một lễ hội quần chúng thế giới từ những năm của thập niên 1960. Người Nhật, Mỹ và New Zealand đầu tiên "khám phá" lễ hội tháng mường và "chạm vại bia" với người dân Bayern. Nhờ vào những người này mà danh tiếng của thành phố được lan truyền đi khắp trên thế giới. Một vấn nạn hằng năm là số lượng thanh niên đông đảo đã tự đánh giá khả năng của họ quá cao và uống quá nhiều rượu. Rất nhiều người trong số này đã say xỉn không còn biết gì (được gọi trong tiếng Đức là các "xác chết bia"). Họ được nhân viên cứu thương mang đến phòng của Hội Chữ Thập Đỏ trong trung tâm Dịch vụ. Tại đây những người này được theo dõi, chữa trị hay đợi cho tỉnh rượu. Trong trường hợp cần thiết họ có thể được chuyển đến các bệnh viện lân cận. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người cao niên và gia đình đến vui chơi trong Lễ hội tháng Mười và đặc biệt là trong các lều, bắt đầu từ năm 2005 một phương án tổ chức lễ hội yên tĩnh hơn được phát triển. Các chủ lều cam kết trong thời gian cho đến 18 giờ trong ngày chỉ chơi nhạc "êm dịu". Chỉ sau đó mới được phép phát các loại nhạc khác như nhạc Pop. Thêm vào đó, cường độ âm nhạc vào buổi chiếu tối được giới hạn ở 85 dB. Với các biện pháp này, ban tổ chức Lễ hội tháng Mười hy vọng sẽ bảo tồn được bầu không khí lễ hội bia truyền thống. Một ngày bi thảm trong lịch sử của Lễ hội tháng Mười là ngày 26 tháng 9 năm 1980. Vào ngày này, lúc 22 giờ 19 phút, một quả bom nổ ngay tại cổng chính của lễ hội. Quả bom là một quả đạn súng cối rỗng, được nhét đầy trở lại với 1,39 kg TNT và được dấu trong một bình cứu hỏa. 13 người đã thiệt mạng và trên 200 người bị thương, trong đó là 68 người mang thương tích trầm trọng. Theo điều tra chính thức cho biết chính Gundolf Köhler tại Donaueschingen, một người cực hữu sống cô lập về mặt xã hội đã tiến hành việc nổ bom này. Kết quả của cuộc điều tra bị nghi ngờ từ nhiều phía khác nhau. Tiến trình Diễu hành của các chủ lều bán bia Lần diễu hành đầu tiên của các chủ lều và người phục vụ trong Lễ hội tháng Mười là vào năm 1887. Họ được các đoàn nhạc công trong các lều tháp tùng, diễu hành xuyên qua thành phố và về đến Cánh đồng Therese vào lúc 12 giờ. Buổi diễu hành bao giờ cũng được tiến hành vào ngày thứ Bảy đầu tiên của Lễ hội, chính thức mở đầu Lễ hội tháng Mười. Sau khi các chủ lều về đến nơi, thị trưởng thành phố sẽ khui thùng bia đầu tiên vào lúc 12 giờ trong lều Schottenhamel (xem O’zapft is!), chính thức khai mạc lễ hội. Truyền thống khui thùng bia đầu tiên có từ năm 1950. Ngày nay, hằng năm khách lễ hội đều hồi hộp chờ xem người thị trưởng phải cần bao nhiêu nhát búa gỗ để khui được thùng bia đầu tiên. Nhiều người còn tham gia đánh cá độ việc này. Thành tích tốt nhất cho đến nay là hai nhát búa (2005), nhưng cũng có lúc đã cần đến 19 nhát búa (1950) để khui thùng bia đầu tiên. Diễu hành lễ phục truyền thống Để kỷ niệm đám cưới bạc của vua Ludwig I của Bayern và Therese của Bayern, lần diễu hành lễ phục truyền thống đầu tiên được tiến hành trong năm 1835. Từ năm 1950 việc này được tổ chức hằng năm. Thời gian gần đây, cuộc diễu hành lễ phục truyền thống này là một trong những đỉnh cao của Lễ hội tháng Mười và là một trong những cuộc diễu hành lớn nhất trên thế giới theo thể thức này. Vào ngày Chủ Nhật đầu tiên, khoảng 9000 người mang lễ phục truyền thống đi từ Maximilianeum qua đoạn đường dài 7 km xuyên qua nội thành München đến nơi tổ chức lễ hội. Dẫn đầu đoàn diễu hành là một người mang trang phục tương tự như hình ảnh nhà tu trên biểu trưng của thành phố München, tiếp theo đó là thành viên của các hiệp hội lễ phục (Trachtenverein), hiệp hội của môn thể thao bắn súng, đoàn nhạc, người cầm cờ vào khoảng 40 cỗ xe ngựa được trang hoàng lộng lẫy. Các hiệp hội và nhóm người này phần đông đến từ bang Bayern nhưng cũng có nhiều hội đến từ các bang khác hay từ Áo, Thụy Sĩ, Bắc Ý, Ba Lan và ngay cả từ Na Uy. Số liệu Lễ hội tháng Mười thường được gọi là Lễ hội quần chúng lớn nhất trên thế giới. Hằng năm có vào khoảng 6 triệu người đến tham dự lễ hội trên Cánh đồng Therese rộng 42 ha. Khoảng 70% khách tham dự đến từ Bayer nhưng cũng có nhiều khách thường xuyên đến từ các nước châu Âu khác, từ Nhật và ngay cả từ Úc. Vì thời tiết tương đối lạnh nên Lễ hội tháng Mười bắt đầu vào tháng Chín kể từ năm 1872. Lễ hội bao giờ cũng được khai mạc vào một ngày Thứ Bảy. Theo truyền thống, Lễ hội kết thúc vào ngày Chúa Nhật đầu tiên trong tháng Mười. Từ năm 2000, nếu như ngày Chúa Nhật đấy là ngày 1 hay 2 tháng Mười thì lễ hội sẽ được kéo dài cho đến ngày 3 tháng 10 (Ngày Thống Nhất Đức tức Quốc Khánh Đức). Vì thế thông thường lễ hội kéo dài 16 ngày, năm 2005 là 17 ngày và 2006 là 18 ngày. Các lều trong lễ hội mở cửa từ lúc 9 giờ vào ngày Thứ Bảy đầu tiên, tuy vậy bia chỉ được bán bắt đầu từ 12 giờ sau khi khui thùng bia đầu tiên. Trong hai tuần kế tiếp các lều mở cửa từ Thứ Hai đế Thứ Năm từ 19 giờ đấn 23 giờ 30, vào ngày Thứ Sáu từ 10 giờ đến 24 fiờ, vào ngày Thứ Bảy từ 9 giờ đến 24 giờ vào Chúa Nhật từ 9 giờ đến 23 giờ 30. Một vài con số 30% tổng sản lượng bia của các nhà máy bia lớn của München được tiêu thụ trong hai tuần của Lễ hội tháng Mười. 12.000 người làm việc cho lễ hội, trong đó là 1.600 người nữ phục vụ Có chỗ ngồi cho 100.000 người 6 nhà máy bia được phép bán cho lễ hội (Spaten-Franziskaner-Bräu, Augustiner, Paulaner, Hacker-Pschorr, Hofbräu, Löwenbräu) đã bán tổng cộng 6,0 triệu vại bia (một vại bia – Maßkrug hay Maß - là 1,069l) trong năm 2005 (2004 là 5,5 triệu) Các lều trong lễ hội Đọc bài chính về Lều trong Lễ hội tháng Mười Các lều lớn trong lễ hội Thời gian tổ chức Thời gian biểu từ năm 2000 - 2015 Bayerisches Zentral-Landwirtschaftsfest (Lễ hội nông nghiệp toàn bang Bayern) Điểm thu hút Bên cạnh các lều bán bia Lễ hội tháng Mười có vào khoảng 200 trò chơi khác nhau. Phần lớn các trò chơi này đã có mặt trên Cánh đồng Therese từ thế kỷ 19. Cộng thêm vào các trò chơi cũ vẫn còn được ưa thích, năm nào cũng có thêm trò chơi mới với kỹ thuật hiện đại nhất. Bánh xe khổng lồ Bánh xe khổng lồ đã được lắp đặt từ năm 1880 và tại thời điểm này có chiều cao là 12 m. Ngày nay bánh xe khổng lồ với chiều cao 50 m là một trong những điểm thu hút được biết đến nhiều nhất, khách đi xe có thể nhìn thấy bao quát cả cánh đồng lễ hội. Tàu lượn siêu tốc Tàu lượn siêu tốc (roller coaster) Olympia Looping là giàn tàu lượn siêu tốc di động lớn nhất thế giới với năm vòng lượng trên đoạn đường dài 1.250 m. Euro-Star là tàu lượn siêu tốc lộn ngược (inverted coaster) với các toa được gắn ở phía dưới đường ray. Bức tường tử thần Pitt Bức tường tử thần Pitt về cơ bản là một ống tròn lớn bằng gỗ có đường kính vào khoảng 8 m và chiều cao cũng vào khoảng 8 m dành để chạy biểu diễm mô tô. Do các mô tô hiện đại không thích hợp nên người ta dùng các mô tô của những năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Doanh nghiệp đã có mặt tại Lễ hội tháng Mười từ năm 1932. Quản lý và hạ tầng cơ sở 18 trạm biến thế cùng với 43 km đường dây điện cung cấp năng lượng cho lễ hội. Lượng tiêu thụ điện của Lễ hội tháng Mười ở vào khoảng 2,9 triệu kWh, tương đương với 13% nhu cầu năng lượng hằng ngày của thành phố München. Để cùng cấp khí đốt cho các lều trong lễ hội, một mạng lưới khí đốt dài tổng cộng 4 km đã được lắp đặt. Lượng tiêu thụ khí đốt ở vào khoảng 180.000 mét khối cho các bếp nấu và 20.000 m³ dùng để sưởi ấm. Năm 2004 một tòa nhà mới được đưa vào sử dụng, dành cho lực lượng cảnh sát, cứu hỏa và Hội Chữ Thập Đỏ. Vì số lượng khách đông nên cường độ hoạt động của Hội Chữ Thập Đỏ tương đương với ở một thành phố trung bình. Thư gửi tại các thùng thư trong Lễ hội tháng Mười sẽ được đóng dấu đặc biệt của bưu điện. Chúng là những vật sưu tập được ưa thích. Chuyện linh tinh Người giúp việc nổi tiếng nhất cho Lễ hội tháng Mười chắc hẳn là Albert Einstein: nguyên là người học nghề của một doanh nghiệp điện, ông đã từng lắp đặt bóng đèn cho Lều Schottenhammel. Buổi hòa nhạc dành cho nhạc cụ thổi lớn nhất thế giới diễn ra hằng năm vào ngày Chúa Nhật thứ hai của Lễ hội tháng mười. Vào khoảng 300 nhạc công của các dàn nhạc tất cả các lều tập trung và trình diễn trước tượng Bavaria.
Thiên Hoàng Thị (chữ Hán: 天皇氏) là vị vua đầu tiên trong truyền thuyết của Trung Quốc sau thời đại Bàn Cổ. Theo Nghệ văn loại tụ (藝文類聚), ông là người đầu tiên trong Tam Hoàng. Theo Thế bản (世本), Thiên Hoàng chính là Phục Hi. Thân thế Theo Sử ký (史記), phần bổ Tam Hoàng bản kỷ do Tư Mã Trinh đời nhà Đường đưa vào thì Thiên Hoàng chính là hậu duệ của Bàn Cổ. Sau khi Bàn Cổ khai phá trời đất lịch sử bước qua giai đoạn lâu dài, các nhà thần thoại học xác định thời điểm Bàn Cổ khai thiên lập địa cách kỷ nguyên 2.760.480 năm. Họ lấy khoảng thời gian từ đó đến năm 480 tr.CN để chia làm 10 kỷ lấy mỗi kỷ 276.000 năm, 10 kỷ đó lần lượt như sau: Kỷ Cửu Long Kỷ Ngũ Long Kỷ Nhiếp Đề Kỷ Hợp Lạc Kỷ Liên Thông Kỷ Tự Mệnh Kỷ Tuần Phi Kỷ Nhân Đề Kỷ Thiền Thông Kỷ Lưu Hất Khoảng 550.000 năm sau thời đại Bàn Cổ lịch sử bước sang kỷ Nhiếp Đề thì xuất hiện Thiên Hoàng người có mười hai đầu, hóa phép cho nước bao phủ Trái Đất. Sống đến 18000 tuổi.
ISO 31-11 là một phần của các tiêu chuẩn quốc tế ISO 31 định nghĩa các ký hiệu toán học sử dụng trong vật lý và kỹ thuật. Nội dung ISO 31-11 Logíc toán Tập hợp Các ký hiệu khác Các phép toán Các hàm Hàm mũ và hàm lôgarit Các hàm đường tròn và hyperbol Các số phức Matrận Các hệ toạ độ Vec-tơ và ten-xơ Soát xét ISO 31-11 Năm 2009, ISO 31-11 đã được thay thế bởi tiêu chuẩn ISO 80000-2. Tiêu chuẩn này đã được nhiều nước chấp nhận thành tiêu chuẩn quốc gia, tại Việt Nam là TCVN 7870-2:2010 (ISO 80000-2:2009) ''Đại lượng và đơn vị - Phần 2: Dấu và ký hiệu toán học dùng trong khoa học tự nhiên và công nghệ.
Đỗ Kiến Nhiễu (1931-1996), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ bị Liên quân do Quân đội Quốc gia dưới sự hỗ trợ và cố vấn của Quân đội Pháp mở ra ở nam Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Ra trường ông được chọn về đơn vị Bộ binh. Tuy nhiên, thời gian sau này ông được chuyển sang nhiệm vụ Văn phòng và Hành chính Quân sự. Tiểu sử & Binh nghiệp Ông sinh vào tháng 8 năm 1931 trong một gia đình trung lưu tại Tân An, Long An, miền Nam Việt Nam. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Sài Gòn với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Quân đội Quốc gia Việt Nam Giữa tháng 3 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/121.084. Theo học khóa 4 Lý Thường Kiệt tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 4 năm 1951. Ngày 1 tháng 12 năm 1951 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được phân bổ về Tiểu đoàn 510 Khinh quân giữ chức vụ Trung đội trưởng. Giữa năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy và được cử chỉ huy một Đại đội trong Tiểu đoàn 510. Quân đội Việt Nam Cộng hòa Cuối năm 1955, sau khi đơn vị của ông sáp nhập vào Quân đội Việt Nam Cộng hòa (danh xưng mới được đổi tên từ Quân đội Quốc gia Việt Nam), ông được thăng cấp Đại úy giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 510, đồn trú tại Phân khu Vĩnh Long. Đầu năm 1958, ông được chuyển sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 61 Khinh quân. Cuối năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Tháng 4 năm 1960, chuyển sang lĩnh vực Hành chính, ông được bổ nhiệm chức vụ Quận trưởng quận Đức Hòa thuộc tỉnh Long An. Đến cuối năm 1961, ông nhận lệnh bàn giao quận Đức Hòa lại cho Đại úy Lê Văn Thành để về phục vụ trong Bộ Tư lệnh Hành quân tại Bộ Tổng tham mưu. Giữa năm 1963, ông được thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức Chánh văn phòng của Trung tướng Dương Văn Minh. Đầu tháng 11 cùng năm, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11), ông được cử làm Đổng lý Văn phòng cho tướng Minh. Tháng 2 năm 1964 sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 của tướng Nguyễn Khánh, cuối tháng 3 ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Định Tường thay thế Trung tá Nguyễn Khắc Bình. Cuối năm 1965, bàn giao chức Tỉnh trưởng Định Tường lại cho Trung tá Trịnh Viết Hiến (nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm Quản trị Tiếp vận Tiểu khu Định Tường), sau đó chuyển về Trung ương giữ chức vụ Chánh văn phòng cho Trung tướng Nguyễn Hữu Có Tổng trưởng Quốc phòng. Tháng 2 năm 1967, ông được thăng cấp Đại tá, sau đó thuyên chuyển ra Quân khu 1 giữ chức vụ Phụ tá Tư lệnh Quân đoàn I do Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm làm Tư lệnh. Tháng 3 cùng năm, ông chuyển sang làm Chánh thanh tra Quân đoàn I, vãn do tướng Lãm làm Tư lệnh. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được chuyển về Biệt khu Thủ đô và được bổ nhiệm chức vụ Đô trưởng Đô thành Sài Gòn thay thế Đại tá Văn Văn Của. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. 1975 Ngày 20 tháng 4, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Đô Trưởng lại cho Đại tá Quách Huỳnh Hà. Sau đó về phục vụ tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô giữ chức Phụ tá Tư lệnh. Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đinh di tản ra khỏi Việt Nam. Sau đó sang định cư tại San Jose, Tiểu bang California, Hoa Kỳ. Năm 4/11/1996, ông từ trần tại Union City, Tiểu bang California, Hoa Kỳ. Hưởng dương 65 tuổi. Gia đình Bào đệ: Đỗ Kiến Nâu. Nguyên là Trung tá Quân lực VNCH, sau 1975 chết ở trại tù Nam Hà tại miền Bắc. Bằng cấp dân sự -Diplomé Education Secondaire-BA degree San Francisco State University (1980)-MBA degree San Francisco State University (1983) Chú thích
Lên men là quá trình nuôi cấy vi sinh vật để tạo ra sinh khối (tăng sinh) hoặc thúc đẩy vi sinh vật tạo ra sản phẩm trao đổi chất (các hợp chất sinh hóa), như chuyển đổi đường thành sản phẩm như: axit, khí hoặc rượu...của nấm men hoặc vi khuẩn, hoặc trong trường hợp lên men axit lactic trong tế bào cơ ở điều kiện thiếu khí oxy. Lên men cũng được sử dụng rộng rãi hơn trong sự tăng sinh khối của vi sinh vật trên môi trường sinh trưởng, sự tích lũy các sản phẩm trao đổi chất hữu ích cho con người trong quá trình nuôi cấy vi sinh vật. Nhà sinh vật học người Pháp Louis Pasteur được ghi nhớ như là người hiểu rõ sự lên men và nguyên nhân vi sinh vật của nó. Khoa học của sự lên men được biết như "zymology" Quá trình lên men trong cơ thể diễn ra trong điều kiện thiếu oxy (khi chuỗi vận chuyển electron không thể diễn ra) và trở thành phương tiện chủ yếu của tế bào để sản xuất ATP (năng lượng). Nó chuyển NADH và pyruvate được sản sinh trong bước thủy phân Glucose thành NAD+ và những phân tử nhỏ hơn(xem ví dụ bên dưới). Khi có mặt của O2, NADH và pyruvate được dùng cho hô hấp; đó là sự oxy hóa phosphoryl hóa, nó sinh ra nhiều ATP hơn, vì lý do đó, các tế bào thường tránh quá trình lên men nếu có sự hiện diện của oxy. Ngoại lệ bao gồm VSV kỵ khí bắt buộc, nó không chịu được oxy. Bước đầu tiên, thủy phân glucose, chung cho tất cả các con đường lên men: C6H12O6 + 2 NAD+ + 2 ADP + 2 Pi → 2 CH3COCOO− + 2 NADH + 2 ATP + 2 H2O + 2H+ Pyruvate là CH3COCOO−. Pi là phosphate. Hai phân tử ADP và hai Pi được chuyển đổi thành 2 phân tử ATP và hai phân tử nước thông qua sự phosphoryl hóa mức độ cơ chất. Hai phân tử của NAD+ được khử thành NADH  Trong quá trình oxy hóa phósphoryl hóa, năng lượng cho sự tạo thành ATP được bắt nguồn từ gradient proton điện hóa được tạo ra qua màng ty thể trong (hoặc, trong trường hợp vi khuẩn, màng tế bào) thông qua chuỗi vận chuyển điện tử. Thủy phân glucozo quá trình phosphoryl hóa ở mức độ cơ chất (ATP sinh ra trực tiếp từ phản ứng này) Quá trình lên men đã được con người sử dụng cho sản xuất thực phẩm hoặc nước giải khát ở thời kỳ đồ đá. Ví dụ, lên men được dùng để bảo quản trong quá trình lên men acid lactic được tìm thấy trong thực phẩm muối chua như là dưa muối, kim chi và sữa chua, cũng như trong quá trình sản xuất thức uống có cồn như rượu và bia. Quá trình lên men thậm chí diễn ra trong dạ dày của động vật, cũng như ruột người. Hội chứng nhà máy bia là hội chứng y khoa hiếm gặp khi bao tử chứa nấm men bia, phân giải tinh bột thành cồn, thứ có thể đi vào trong máu. Lịch sử của việc lên men Khoảng 20.000 năm trước công nguyên (TCN), có sự thay đổi đáng kể về thời tiết và khí hậu, nhiệt độ của trái đất tăng lên một ít. Sự biến đổi này ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện tự nhiên: khí hậu ấm áp hơn làm các loại thực vật và động vật phát triển tốt hơn, phong phú hơn. Tập tính của con người cũng dần thay đổi, con người bắt đầu hình thức sống quần cư, tập trung thành nhóm người. Từ săn bắn và hái lượm đã chuyển sang trồng trọt bằng cách thuần hóa các loại thực vật hoang dã. Các công trình khảo cổ cho thấy nông nghiệp ra đời khoảng 10.000 năm TCN hay trước đó một ít ở vùng Fertile Crescent (Sừng Á Phi) với việc canh tác một vài loại hạt thuộc nhóm ngũ cốc. Và đến khoảng 9500 năm TCN, các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của sự canh tác tám loại cây trông cơ bản (gồm các loại hạt cốc, đậu và cây đay. Dựa vào một số nguồn tài liệu tương đối chính xác, người ta cho rằng con người ở khu vực này khám phá ra quá trình lên men rượu (từ ngũ cốc) trong khoảng thời gian sau đó một ít Khoảng 7000 năm TCN, nho bắt đầu được trồng, và sau đó, rượu vang bắt đầu được sản xuất. Bằng các kỹ thuật phân tích hiện đại, người ta tìm thấy các dấu vết của rượu trên các bình bằng gốm có niên đại 7000 và 6500 năm TCN. Các nhà khảo cổ cũng tịm được một số dụng cụ mà họ cho là dùng để sản xuất rượu có niên đại 6000 đến 5000 năm TCN ở Georgia và Iran. Người ta cũng cho rằng khoảng 5000 năm TCN, người ta bắt đầu biết sản xuất bia từ nấm men dựa trên phân tích các dấu vết trên các lọ bằng gốm ở Ai Cập. Các chứng cứ rõ ràng hơn được dựa vào các hình vẽ trên vách có niên đại 4500 năm TCN và người ta cũng tìm thấy các dấu vết của nho nghiền vào khoảng thời gian này Khoảng 7000 năm TCN, người ta đã thuần hóa được một số loài động vật như chó, mèo, bò, cừu, dê,.. và vì thế người ta cũng sử dụng các sản phẩm từ chúng, đặc biệt là sữa. Lên men sữa để sản xuất sữa chua (lên men lactic) xuất hiện ở Babylon vào khoảng 3500 năm TCN. Bánh, một sản phẩm được làm từ bột ngũ cốc nghiền nhỏ, trộn với nước để hình thành bột nhào, định hình và sau đó đem nướng cũng đã xuất hiện từ rất lâu (10.000 – 8000 năm TCN). Tuy vậy, việc sử dụng nấm men để lên men bột nhào chỉ bắt đầu khoảng 3000 năm TCN. Người Ai Cập cũng bắt đầu sử dụng giấm trong khoảng thời gian này, Trong khoảng từ năm 200 TCN đến năm 200, thêm nhiều sản phẩm lên men ra đời: rau muối chua, phô mai, tương và một số sản phẩm từ đậu nành như tempeh, miso,... Đầu thế kỷ 17, Johan Baptist van Helmont quan sát thấy rằng cặn của rượu vang cũng có thể dùng để lên men rượu được và ông gọi chất cặn này là "fermentum". Thuật ngữ này có xuất xứ La tinh, có thể là "fervere" nghĩa lá sôi, cũng có thể là "ferveo" nghĩa là sủi bọt (Vì khi lên men rượu, bề mặt của dịch lên men xuất hiện rất nhiều bọt như sôi). Ông cũng nhận xét rằng chất khí thoát ra trên bề mặt dịch lên men cũng chính là chất khí tạo ra khi đốt than. Vào đầu thế kỷ 17, một dụng cụ mới ra đời và tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sinh học, đó là kính hiển vi quang học. Nhờ dụng cụ này ta có thể tìm hiểu cấu trúc của sinh vật một cách cặn kẽ hơn. Một trong những nhân vật có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực này là Antonie Philips van Leeuwenhoek. Ông là một người chuyên mài tinh chế các thấu kính dùng để chế tạo kính hiển vi và cũng là một người chế tạo kính hiển vi. Ông cũng có thói quen ghi chép những gì quan sát được và tìm cách giải thích chúng. Bằng cách này ông ta trở thành một nhà nghên cứu khoa học nghiệp dư. Tuy vậy các công trình này cũng rất có giá trị và được các nhà nghên cứu khác coi trọng và khối lượng cũng rất đáng kể (560 báo cáo được ghi nhận). Năm 1675, Leeuwenhoek, đã quan sát được vi sinh vật và các hoạt động của chúng. Năm 1836, Theodore Schwann, đã khám phá ra nguyên nhân của lên men rượu là do sinh vật đơn bào sử dụng đường, mà ông gọi tên là nấm đường (Saccharomyces). Sau đó, Charles Caignard de Latour xác định loại sinh vật đơn bào này là nấm men, sử dụng đường để sinh ra rượu và CO2, sinh sản bằng cách nẩy chồi. Năm 1854, Louis Pasteur, tìm ra mối liên hệ giữa lên men và nấm men. Ông kết luận rằng loại vi sinh vật này đã sử dụng cơ chất là đường có sẵn trong nho để chuyển hóa thành rượu và trong điều kiện kỵ khí. Từ đó thuật ngữ fermentation còn có một nghĩa khác là sự hô hấp trong điều kiện kỵ khí. Pasteur cũng nhận thấy rằng nếu sau khi đã lên men đạt yêu cầu, ta đun nóng thì rượu vang sẽ bảo quản được lâu hơn nhiều. Kỹ thuật xử lý nhiệt này sau đó được mang tên ông: pasteurization (thanh trùng). Công nghệ sinh học đã bắt đầu với ngành sản xuất bia. Vào thời đó, Đức là một quốc gia tiêu thụ rất nhiều bia. Sản xuất loại thức uống có cồn này là một ngành có lợi nhuận lớn, mặt khác thuể đánh trên mặt hàng này cũng đóng góp phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Điều này đã thúc đẩy các nghiên cứu có chiều sâu về quá trình lên men bia và tìm cách ứng dụng vào công nghiêp. Trung tâm nghiên cứu nổi tiếng nhất về lĩnh vực này là Carlsberg Institute đã tìm ra nhiều quy trình rất đặc biệt để nấu bia. Năm 1897, Eduard Buchner đã khám phá ra nguyên nhân sâu xa hơn của sự lên men. Bằng cách dùng các chất chiết từ nấm men, ông đã tạo ra sự chuyển hóa từ đường ra rượu mà không cần sử dụng đến nấm men. Ông đi đến kết luận là sự chuyển hóa này có bản chất hóa học mà không phải là sinh học. Buchner cũng khám phá ra rằng chất do nấm men tiết ra để chuyển đường thành rượu có bản chất là protein và ông gọi đó là "zymase" và từ đó tiếp vĩ ngữ "ase" được dùng để chỉ enzyme. Trong thế chiến thứ nhất, do chiến tranh và sự cấm vận mà sự cung cấp các nhu yếu phẩm cho con người cũng như nguyên liệu cho công nghiệp bị giảm sút. Các nhà khoa học đã tham gia để giải quyết vấn đề này và công nghệ sinh học bắt đầu phát triển mạnh. Đức đã sử dụng sinh khối từ quá trình lên men để thay thế 60% thức ăn gia súc mà trước đó họ phải nhập khẩu, sản xuất axit lactic, aceton, butanol,... Năm 1917 James Currie khám phá ra rằng một số chủng nấm mốc Aspergillus niger có khả năng tạo axit citric rất tốt và ngay lập tức công ty Pfizer đã sản xuất axit này ở quy mô công nghiệp bằng phương pháp nuôi cấy bề mặt. Năm 1919, thuật ngữ công nghệ sinh học, "biotechnology", bắt đầu được sử dụng bởi Károly Ereky trong tác phẩm "Biotechnologie der Fleisch-, Fett-, und Milcherzeugung im landwirtschaftlichen Grossbetriebe: für naturwissenschaftlich gebildete Landwirte verfasst" (Công nghệ sinh học trong sản xuất thịt, chất béo và sữa tại các trang trại quy mô lớn). Năm 1928, Alexander Fleming khám phá rằng các chất tiết ra từ mốc Penicillium có khả năng tiêu diệt một số vi sinh vật gây bệnh rất hiệu quả. Đến 1940, peniniciline, chất kháng sinh đầu tiên được sản xuất ở quy mô công nghiệp bằng phương pháp lên men và được ứng dụng rất hiệu quả trong y học. Điều này mở ra hướng ứng dụng lên men để sản xuất các loại kháng sinh và hàng loạt các chất khác như steroid, vitamin Năm 1957, bột ngọt (monosodium glutamat) được Ajinomoto đưa vào sản xuất ở quy mô lớn bằng phương pháp lên men. Từ những năm 1960, cùng với sự phát triển của sinh học phân tử, của kỹ thuật gen, người ta có thể tạo ra các chủng vi sinh vật có những tính chất công nghệ tốt, thì kỹ thuật lên men càng phát triển mạnh, ứng dụng của lên men được mở rộng và sản phẩm của lên men trở nên rất đa dạng. Từ nguyên Thuật ngữ lên men trong các ngôn ngữ châu Âu có gốc từ tiếng La Tinh "fervere", có nghĩa là "làm chín", dùng để diễn tả hoạt động của nấm men trong dịch chiết trái cây hay dịch đường hóa ngũ cốc. Louis Pasteur đã gọi sự lên men là "sự sống thiếu không khí" ("kị khí", "thiếu ôxi"). Tuy nhiên, thuật ngữ lên men đến nay được hiểu là tất cả các quá trình biến đổi do vi sinh vật thực hiện trong điều kiện yếm khí (thiếu oxi) hay hiếu khí. Quá trình lên men Quy mô phòng thí nghiệm Ở quy mô phòng thí nghiệm, lên men là quá trình nhằm mục đích khảo sát chất lượng vi sinh vật thực hiện quá trình lên men. Bao gồm các công đoạn: Nuôi cấy chủng vi sinh vật Bao gồm phân lập, tạo dòng để tạo ra nguồn giống chính xác và cần thiết về số lượng phục vụ cho quá trình lên men. Tạo môi trường dinh dưỡng Dựa theo sự đặc hiệu về nhu cầu dinh dưỡng của bản thân vi sinh vật, người ta tạo ra các môi trường nuôi cấy trong các dụng cụ chứa. Bước này đóng góp nguồn dinh dưỡng sống còn cho chủng vi sinh vật lên men (lên men lấy sản phẩm), đồng thời là bước chuẩn bị để loại bỏ các phế phẩm cần được lên men (lên men loại phế phẩm). Thanh trùng Khử những vi sinh vật vốn đang tồn tại trong môi trường, nhằm tối ưu hóa điều kiện sống cho vi sinh vật giống. Vì những vi sinh vật ngoại lai có thể cạnh tranh nguồn dinh dưỡng, tạo sản phẩm phụ hoặc tạo sản phẩm trao đổi chất gây ức chế giống lên men. Lên men Nuôi ủ giống trong môi trường trong điều kiện đặt sẵn về pH, nhiệt độ, độ ẩm, thời gian, hàm lượng oxy... Đôi khi cần bổ sung phụ gia lên men. Quá trình lên men là chờ đợi vi sinh vật sử dụng môi trường để trao đổi chất. Qua quá trình trao đổi chất, vi sinh vật phát triển về số lượng và kích thước, đồng thời tiết ra các sản phẩm trao đổi chất. Dựa vào điều kiện sống của giống và mục đích lên men mà người ta tối ưu quá trình lên men theo những cách khác nhau, như lên men lỏng, lên men rắn, lên men mẻ, lên men liên tục, lên men bán liên tục... Thu sản phẩm - Đối với lên men lấy sản phẩm: thu sản phẩm là các dịch tiết trao đổi chất của vi sinh vật, hoặc chính sinh khối của vi sinh vật đó - Đối với lên men khử phế phẩm: không có sản phẩm lên men. Quá trình lên men nhằm mục đích loại bỏ phế phẩm, ví dụ như lên men Penicillium pinophilum để loại bỏ thành phần lignin trong rác thải thành phần gỗ.
Quýt hồng là một giống quýt đặc sản được trồng chủ yếu tại huyện Lai Vung, Đồng Tháp, Việt Nam. Quýt hồng là một trong những đặc sản trái cây nổi tiếng ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Với những đặc điểm riêng biệt về hương vị, màu sắc cũng như các đặc tính của quả, khiến cho quýt hồng ngày nay trở nên nổi tiếng khắp toàn quốc và xuất khẩu sang một số quốc gia. Hiện tại, quýt hồng đã được Cục Sở hữu trí tuệ, thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, công nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký độc quyền. Ngoài giá trị là trái cây chứa nhiều dinh dưỡng, quýt hồng còn có nhiều giá trị về mặt du lịch, văn hóa, kinh tế - thương mại, được đưa vào nghệ thuật thi ca. Tên gọi và lịch sử Quýt hồng được trồng ở đất Lai Vung vào đầu thế kỷ XX. Từ một loại quýt bình thường nhưng khi được trồng đã thích hợp với thổ nhưỡng ở đất Lai Vung và trở nên đặc biệt. Ban đầu, quả quýt tại Lai Vung còn có tên dân gian là quýt “tiêu son” do người dân địa phương dùng để gọi một loại quýt ngọt, vỏ khi chín căng bóng, màu cam đỏ, có thể bày biện cúng đẹp, bảo quản lâu trong điều kiện tự nhiên. Về sau, giới thương lái gọi thành quýt hồng và từ đó tên gọi này nhanh chóng trở thành một thương hiệu nổi tiếng. Phân bố Dọc bờ sông Hậu, huyện Lai Vung, Đồng Tháp, đã trở thành vùng chuyên canh cây quýt hồng và được mệnh danh là "vương quốc quýt hồng". Dù cho cùng một giống quýt hồng, cùng một kỹ thuật canh tác, nhưng khi trồng ở vùng khác, chủ yếu quanh khu vực châu thổ sông Cửu Long lại cho năng suất không cao, trái quýt cũng không ngon ngọt, đẹp, năng suất cao như ở Lai Vung. Trồng tập trung tại ba xã là Tân Phước (376 ha), Long Hậu (306 ha), Tân Thành (90 ha), chiếm hơn 95% diện tích và sản lượng. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian bị dịch bệnh cùng ngập lũ đã gây thiệt hại lớn cho những vườn cây, làm giảm diện tích trồng loại cây đặc sản này. Toàn huyện hiện còn gần 300 ha canh tác cây quýt hồng. Ủy ban nhân dân huyện Lai Vung đã triển khai "Đề án Bảo tồn vườn quýt hồng Lai Vung giai đoạn 2020 - 2024" giúp các vườn quýt phục hồi tốt, tăng diện tích trồng trên địa bàn trở lại khoảng 800 ha. Hiện tại, toàn huyện có diện tích trồng trên 2.000 ha. Hằng năm, sản lượng quýt hồng đạt trên dưới 25.000 tấn. Đặc điểm Cây quýt hồng cao nhất khoảng 5 m, tuổi đời lên đến hơn 30 năm. Lá lớn xanh đậm, đuôi lá hơi vểnh lên. Trái quýt có dáng hình cầu, hai đầu dẹp, hơi lõm, dẹt hơn các loại quýt khác, phía dưới quả có một nốt lồi giống như cái rốn đặc trưng. Lớp vỏ mỏng, căng bóng, có màu cam vàng, xen kẽ sắc xanh khi chín, mùi thơm dễ chịu như tinh dầu. Quả quýt hồng có ít hoặc không hạt, khi chín có vị ngọt thanh pha chút chua nhẹ, múi mọng nước, thơm dịu và nước quả có màu vàng cam. Chùm quýt chín 4-6 quả đạt trọng lượng một ký. Giống quýt này không chịu được đất phèn và nước đọng gốc. Do đó, nơi nào đất quá thấp không thể trồng được. Mùa nước ngập, nước rút chậm sẽ khiến rễ thối, cây chết. Quýt hồng thích hợp trồng tại vùng đất có nguồn nước ngọt dồi dào, dễ rút nước, ảnh hưởng khí hậu cùng điều kiện thổ nhưỡng đặc biệt là đất mỡ gà, đất màu mỡ lại khô ráo. Trồng trọt Chọn giống cây trồng Trồng cây con là phương pháp gây giống hữu tính, tạo cây từ hạt. Cây con sẽ mang đặc tính di truyền từ cây mẹ nên chỉ chọn cây quýt cho quả tốt rồi lấy hạt đem ươm. Cách này có thể nhân ra nhiều cây giống cùng lúc nhưng phải chờ cây con lớn, thường khoảng từ một năm mới có thể trồng. Có hai cách trồng cây con: trồng nguyên cây con hoặc chiết nhánh. Chiết nhánh là phương pháp tương đối dễ, trồng nhanh và dễ đậu quả hơn trồng cây con nhưng cũng hạn chế về số lượng. Nhánh chiết phải lựa giống cây tốt và nhánh tốt. Nếu chọn nhánh chiết từ cây mẹ, nguyên là cây con, trong khoảng từ 3 đến 5 năm tuổi thì nhánh đó sẽ phát triển mạnh hơn. Nhưng lại ra quả trễ hơn nhánh chiết từ cây mẹ nguyên là nhánh chiết. Ghép cây là tìm một gốc cây có quan hệ họ hàng về mặt thực vật rễ phát triển bền tốt như chanh, cam, bưởi,.. để ghép quýt hồng vào. Cách thức này có mục đích là chống các dạng bệnh chết cây trên quýt. Gốc ghép phải đạt yêu cầu: sức sinh trường tương đương cành ghép; rễ sinh trường mạnh, đâm chồi nhiều và sinh nhiều rễ phụ; dễ thích ứng và chịu đựng tốt với điều kiện thời tiết như mưa, nắng, ngập nước,... . Thường thì người trồng dùng chanh làm gốc ghép. Phương pháp này còn khó khăn và chậm, cần thời gian chuẩn bị cây trồng và kỹ thuật ghép cao mới đủ số lượng trồng nhiều. Tuy nhiên, cách này rất đảm bảo cây phát triển và mang lại nhiều lợi ích khác như: không cần xây bờ quá cao tốt kém, không bị úng thủy hay ngập nước. Ươm và giâm cây giống: muốn trồng cây mới ít hao, dù là cây con hay nhánh chiết, người trồng giâm ở vườn ươm một thời gian cho cây tươi tốt, đến khi thời tiết thuận lợi thì mang ra vườn trồng, cây sẽ không bị héo và nhanh phát triển. Có hai loại cây giâm: Giâm cây con mọc lên từ hạt khi cao từ 10 cm trở lên. Sau một năm tuổi, người trồng có thể mang nguyên cây hoặc chiết ngang gốc để trồng. Giâm nhánh chiết hoặc cây con chiết ngang: Giâm tạm: Khi cắt một bầu chiết đã ra rễ nên giâm tạm bằng cách để các bầu sát vào nhau ở nơi mát hoặc có mái che và đắp vào rễ ít bùn đất. Sau 15 ngày, rễ sẽ mọc dài thêm nhiều, khi đó trồng nhánh sẽ không mất sức. Giâm thực thụ có thời gian từ một năm. Khi chưa chuẩn bị vườn xong mà muốn cây mau thu hoạch, cần chuẩn bị cây giống và giâm trước. Cách này giúp rút ngắn thời gian thu hoạch tùy giâm lâu hay nhanh nhưng không quá hai năm, vì cây lớn quá sẽ khó nhổ. Cây giâm thực thụ phải thưa để phát triển. Khoảng cách giữa hai cây có thể từ 5 tấc đến 1 thước. Đây là cách dự phòng để thay cây chết trong vườn mỗi khi cần. Kỹ thuật trồng Đất trồng đạt tiêu chuẩn: tơi xốp, thông thoáng, thoát nước tốt, pH khoảng 5,5-7, hàm lượng hữu cơ >3%. Vườn trồng phải có đê bao chống lũ triệt để. Đắp mô trước khi trồng từ 2-4 tuần, chiều cao mô 40–60 cm, đường kính mô 80–100 cm. Đào hố trên mô để trồng, nên chú ý xử lý mô trước khi đặt cây con như bón vôi 0,5–1 kg, lân 200-300 g và phân hữu cơ 5–10 kg. Chọn cây con thẳng, vũng chắc, có chiều cao 60–80 cm. Đặt cây con xuống giữa hố, sao cho mặt bầu ngang mặt mô, ém đất xung quanh gốc, cắm cọc giữ cho cây không bị gió lung lai và tưới đủ nước. Cây con trồng từ nhánh chiết có thể đặt thẳng hay nghiêng. Nếu cây con có cành phân bố đều thì nên đặt thẳng vì cây sẽ tạo được tán bình thường. Nếu nhánh chiết có ít cành bên thì có thể đặt nghiêng để cây con dễ tạo các cành bên sau này. Thông thường có thể trồng với khoảng cách 4-4,5m × 4-4,5m tương đương với mật độ 500-625 cây/ha. Tạo tán: Sau khi trồng, cây cần được tưới nước đầy đủ để phục hồi sinh trưởng. Khi cây xuất hiện tược non đầu tiên thì tiến hành bấm ngọn. Từ gốc lên khoảng 60–80 cm (đối với nhánh chiết) hoặc từ vị trí mắt ghép lên khoảng 40–60 cm (trên gốc ghép) thì bấm bỏ phần ngọn, mục đích để các mầm ngủ và cành bên phát triển. Chọn 3 cành khỏe, thẳng mọc từ thân chính phát triển theo 3 hướng làm cành cấp 1. Dùng tre cột giữ cành cấp 1 tạo với thân chính một góc 35-40°. Cành cấp 1 phát triển dài khoảng 50–80 cm thì cắt đọt để phát triển cành cấp 2, chỉ giữ lại 2-3 cành. Các cành cấp 2 cách nhau khoảng 15–20 cm và tạo với cành cấp 1 một góc 30-35°. Cắt đọt cành cấp 2 như cách làm ở cành cấp 1, từ cành cấp 2 sẽ hình thành cành cấp 3. Cành cấp 3 không hạn chế về số lượng và chiều dài nhưng cần loại bỏ các chỗ cành mọc quá dày hoặc quá yếu. Tỉa cành hàng năm. Sau khi thu hoạch cần loại bỏ: cành bị sâu bệnh, ốm yếu, cành nằm bên trong tán không có khả năng cho trái, cành đan chéo nhau, cành vượt trong thời kỳ cây đang mang trái nhằm hạn chế cạnh tranh dinh dưỡng. Chăm sóc Đắp bùn, chắn gió, che mát, cỏ dại, tưới nước: Vét bùn khoảng tháng 2-3 dương lịch, lớp bùn dày khoảng 2 cm là tốt nhất. Không bồi bùn lấp kín mặt gốc cây vì bộ rễ cây vẫn cần không khí để hô hấp trong thời gian xử lý ra hoa. Lưu ý chỉ bồi bùn, không bồi đất dưới sâu sẽ bị ngộ độc phèn. Xây dựng hàng cây chắn gió là yêu cầu cấp thiết, nhằm ngăn sâu bệnh di chuyển theo gió xâm nhập vào vườn, tạo vùng tiểu khí hậu thích hợp cho vườn, hạn chế gió bão gây thiệt hại. Các loại cây thường trồng để chắn gió là dâm bụt, bạch đàn,... Quýt hồng thích hợp với ánh sáng tán xạ vì vậy nên trồng cây che mát xen giữa hai hàng cây hoặc trồng dọc theo mương các loại cây như: cóc, mãng cầu, tràm, so đũa,... Cần phủ gốc bằng cỏ rơm rạ, cách gốc khoảng 20 cm nhằm giữ ẩm trong mùa nắng, hạn chế cỏ dại, đồng thời khi rơm rạ phân hủy sẽ tạo ra dưỡng chất cho cây. Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản nên trồng hoa màu để hạn chế đất bị xói mòn. Trong thời kỳ khai thác thì xu hướng hiện nay là quản lý cỏ dại trong vườn chứ không làm sạch nhằm giũ ẩm cho đất trong mùa nắng và chống xói mòn trong mùa mưa. Tưới nước 2 lần/ngày vào mùa nắng và thoát nước kịp thời trong mùa mưa để tránh ngập úng. Giữ ổn định mực nước luôn cách mặt liếp từ 60 – 80 cm. Quản lý phân bón: - Thời kỳ kiến thiết cơ bản (cây từ 1-3 năm tuổi): phân bón được chia thành nhiều đợt (4-5 đợt) để bón cây. Sau khi trồng nên dùng phân ure và phân lân với liều lượng 40 g hòa cùng 10 lít nước để tưới cho cây khoảng 2 tháng/lần. Khi cây đạt 1 năm tuổi cần bón phân gốc để giúp cây phát triển mạnh. Hàng năm bón phân hữu cơ hoại mục từ 5–10 kg/cây và cung cấp kali cho cây. - Thời kỳ khai thác: Tùy đất, tình hình sinh trưởng của cây, năng suất thu hoạch của vụ trước mà quyết định lượng phân bón thích hợp. CT/1000m2 như sau: Lần 1 (sau thu hoạch từ 1-3 ngày): DAP 20 kg + lân 50 kg + phân hữu cơ hoại mục (10–20 kg phân hữu cơ/gốc) + Trico 1 kg. Lần 2 (sau thu hoạch 10 ngày, để hỗ trợ tạo mầm hoa): phun phân bón lá 10-60-10 (10 kg). Lần 3 (1-2 ngày sau tưới): 20 kg DAP. Lần 4 (7-10 ngày sau tưới): 20 kg NPK (20-20-15). Lần 5 (35-40 ngày sau tưới): 10 kg NPK (12-11-18). Lần 6 (60 ngày sau tưới): 10 kg NPK (15-5-20). Lần 7 (100 ngày sau tưới): 10 kg NPK (20-20-15). Lần 8 (130 ngày sau tưới): 10 kg NPK (15-5-20). Lần 9 (bón nuôi sau trái lũ): 20 kg NPK (15-15-15). Lần 10 (trước thu hoạch 1 tháng): 10–15 kg Kcl. Cách bón phân: Cuốc rảnh xung quanh gốc theo hình chiếu tán cây, rãnh sâu 10–15 cm, rộng 10–20 cm cho phân vào, lấp đất và tưới nước. Ngoài bón phân hóa học, phân hữu cơ, hằng năm cần bón thêm vôi để tăng pH cho đất, bổ sung canxi cho cây để hạn chế nứt quả. Liều lượng bón khoảng 1 kg/cây/năm và bón trước mùa mưa lũ. Xử lý ra hoa Sau khi thu hoạch xong sẽ tiến hành bón phân cho cây phục hồi, khoảng 30 ngày sau sẽ tiến hành vệ sinh vườn: loại bỏ cành già, phu thuốc phòng trừ bệnh. Không cắt tỉa cành sớm vì khi cây ra đọt non sẽ ảnh hưởng đến xử lý ra hoa sau này. Bón phân lần hai và tưới nước vừa đủ ẩm trước khi tiến hành xử lý ra hoa. Sau khi ngưng tưới khoảng 15-20 ngày (khi cây có biểu hiện héo) thì bắt đầu tưới nước trở lại, tưới liên tục ba ngày và mỗi ngày từ 2-3 lần. Từ ngày thứ tư trở về sau tưới 1 lần/ngày. Từ 7-15 ngày sau khi tưới đợt đầu tiên cây sẽ ra hoa, giai đoạn này sẽ tưới và nghỉ xen kẽ từng ngày. Từ 10-15 ngày sau khi trổ hoa, hoa sẽ rụng cánh và đậu quả. Thu hoạch và bảo quản Mỗi năm, vụ mùa quýt hồng kéo dài khoảng 10 tháng, thường được chăm bón vào khoảng tháng 2 âm lịch nhưng chỉ cho ra quả vào cuối năm nên thu hoạch lúc giáp Tết. Thời gian cây vừa ra quả cho đến lúc chín có thể thu hoạch vào khoảng một tháng rưỡi. Sau khi hái quả sẽ rửa bằng dung dịch chlorine 100-200 ppm (1-2g chlorine + 10 lít nước), dùng vải mềm lau để vỏ sáng bóng hơn, loại bỏ bớt một số vi sinh vật gây hại, rồi rửa lại bằng nước sạch và để khô. Để giữ quýt hồng tươi, đủ chất lượng nên bảo quản và vận chuyển ở nhiệt độ 8 °C sẽ trữ được khoảng 11 tuần, ở 15 °C sẽ trữ được khoảng 7 tuần. Ngoài ra nếu chứa quýt hồng bằng bao bì PE đục ba lỗ, mỗi lỗ có đường kính 1mm, có thể bảo quản trái được 5 tuần ở nhiệt độ phòng, tuy nhiên tỷ lệ bệnh khá cao. Nếu kết hợp bao bì PE ở khoảng 15 °C thì có thể bảo quản kéo dài đến 9 tuần. Giá trị dinh dưỡng Quả quýt hồng chứa hàm lượng: calo 47, vitamin C 23.5 mg, kali 146 mg, carbohydrate  12 gr, đường  8 gr, canxi 33 mg, chất xơ 1.5 gr, magie 11 mg và một số dưỡng chất vitamin A, B2, B3, B6, đồng... Trung bình, một quả quýt có khả năng cung cấp cho cơ thể hơn 1/5 lượng vitamin C cần có hằng ngày. Trong quýt hồng có chứa nhiều vitamin, đặc biệt là vitamin C, vitamin A, beta carotene, kali, canxi, magie,... giúp tăng cường hệ miễn dịch, sáng mắt, phòng ngừa và cải thiện các bệnh thoái hoá điểm vàng, đau mỏi mắt, quáng gà, góp phần giúp xương thêm chắc khỏe. Tỷ lệ đường đạt 74% cũng như lượng nước và chất xơ đáng kể, giúp ức chế cảm giác thèm ăn, gây cảm giác no lâu, hỗ trợ giảm cân. Chất xơ và carbohydrate trong quýt hỗ trợ đường tiêu hoá khoẻ mạnh, ngăn ngừa các bệnh về đường ruột. Sâu bệnh Các loài côn trùng như: sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citrella), rầy chổng cánh (Diaphorina citri), nhện, ngài chích hút trái (Othreis fullonia)... thường đục khoét, gây hại chồi lá non. Chúng khiến lá bị khô rụng, biến dạng, làm cây bị nhiễm bệnh, quả bị hỏng biểu bì, gây hiện tượng da lu, da cám. Loài ngài bướm hút dịch quả chín hoặc sắp chín dễ bị thối rụng do bội nhiễm vi sinh vật khác. Để chống côn trùng gây hại, người trồng thường dùng các loài thiên địch tự nhiên như ong ký sinh, tỉa cành, bón phân, tưới nước hợp lý, vệ sinh vườn như loại bỏ quả rụng, treo bẫy mồi, dùng một số loại dầu khoáng và thuốc hóa học diệt trừ,... Các loại bệnh mà quýt hồng thường gặp như: ghẻ lõm, vàng lá gân xanh, tristeza, loét cây, vàng lá - thối rễ,... do các loại nấm (như Fusarium solani,...), vi khuẩn (như Xanthomonas campestris,...), vi rút gây nên. Nhiễm bệnh khiến cây bị mất sức sống, phát triển kém, lá bị vàng, quả xuất hiện những vết chấm gây mất thẩm mỹ. Để quản lý dịch bệnh, người trồng thường vệ sinh vườn, cắt bỏ cành lá quả bị bệnh và tiêu hủy, dùng chế phẩm sinh học, phun thuốc trừ bệnh, bón thêm vôi, kali, lân, hữu cơ. Khi trồng phải chọn cây giống tốt, rõ xuất xứ, tạo điều kiện cho đất tơi xốp thoáng khí. Văn hóa và du lịch Từ ngày 05 đến 08/01/2023, Lễ hội Quýt hồng huyện Lai Vung lần thứ I, với chủ đề “Khát vọng vươn lên”, do Báo Nông nghiệp Việt Nam (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và Uỷ ban nhân dân huyện Lai Vung đồng tổ chức. Lễ hội Quýt hồng mang mục đích tôn vinh, giới thiệu, quảng bá hình ảnh quýt hồng, cũng như giá trị văn hóa, kinh tế cho các sản phẩm từ quýt. Qua đó góp phần phát triển du lịch, tạo dựng hình ảnh địa phương huyện Lai Vung. Lễ hội diễn ra với rất nhiều hoạt động phong phú, hấp dẫn như: hoạt động trải nghiệm không gian sản xuất quýt hồng, hội thảo “Bảo tồn và phát huy tiềm năng, giá trị quýt hồng”, toạ đàm “Quýt hồng - Tiềm năng của địa phương và cơ hội cho mọi khách hàng”, hội thi “Vườn quýt hồng kiểu mẫu”, hội thi “Cây quýt hồng đẹp” v.v... Đến ngày bế mạc, lễ hội đã thu hút trên 40.000 lượt khách đến tham quan, trải nghiệm và mua sắm.
Hàm băm (tiếng Anh: hash function) là giải thuật nhằm sinh ra các giá trị băm tương ứng với mỗi khối dữ liệu (có thể là một chuỗi ký tự, một đối tượng trong lập trình hướng đối tượng, v.v...). Giá trị băm đóng vai gần như một khóa để phân biệt các khối dữ liệu, tuy nhiên, người ta chấp nhận hiện tượng trùng khóa hay còn gọi là đụng độ và cố gắng cải thiện giải thuật để giảm thiểu sự đụng độ đó. Hàm băm thường được dùng trong bảng băm nhằm giảm chi phí tính toán khi tìm một khối dữ liệu trong một tập hợp (nhờ việc so sánh các giá trị băm nhanh hơn việc so sánh những khối dữ liệu có kích thước lớn). Vì tính thông dụng của bảng băm, ngày nay, đa số ngôn ngữ lập trình đều cung cấp thư viện ứng dụng bảng băm, thường gọi là thư viện collection trong đó có các vấn đề như: tập hợp (collection), danh sách (list), bảng(table), ánh xạ (mapping), từ điển (dictionary)). Thông thường, các lập trình viên chỉ cần viết hàm băm cho các đối tượng nhằm tích hợp với thư viện bảng băm đã được xây dựng sẵn. Một hàm băm tốt phải thỏa mãn các điều kiện sau: Tính toán nhanh. Các khoá được phân bố đều trong bảng. Ít xảy ra đụng độ. Xử lý được các loại khóa có kiểu dữ liệu khác nhau. Ứng dụng Các hàm băm được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, chúng thường được thiết kế phù hợp với từng ứng dụng. Ví dụ, các hàm băm mật mã học giả thiết sự tồn tại của một đối phương - người có thể cố tình tìm các dữ liệu vào với cùng một giá trị băm. Một hàm băm tốt là một phép biến đổi "một chiều", nghĩa là không có một phương pháp thực tiễn để tính toán được dữ liệu vào nào đó tương ứng với giá trị băm mong muốn, khi đó việc giả mạo sẽ rất khó khăn. Một hàm một chiều mật mã học điển hình không có tính chất hàm đơn ánh và tạo nên một hàm băm hiệu quả; một hàm trapdoor mật mã học điển hình là hàm đơn ánh và tạo nên một hàm ngẫu nhiên hiệu quả. Bảng băm, một ứng dụng quan trọng của các hàm băm, cho phép tra cứu nhanh một bản ghi dữ liệu nếu cho trước khóa của bản ghi đó (Lưu ý: các khóa này thường không bí mật như trong mật mã học, nhưng cả hai đều được dùng để "mở khóa" hoặc để truy nhập thông tin.) Ví dụ, các khóa trong một từ điển điện tử Anh-Anh có thể là các từ tiếng Anh, các bản ghi tương ứng với chúng chứa các định nghĩa. Trong trường hợp này, hàm băm phải ánh xạ các xâu chữ cái tới các chỉ mục của mảng nội bộ của bảng băm. Các hàm băm dành cho việc phát hiện và sửa lỗi tập trung phân biệt các trường hợp mà dữ liệu đã bị làm nhiễu bởi các quá trình ngẫu nhiên. Khi các hàm băm được dùng cho các giá trị tổng kiểm, giá trị băm tương đối nhỏ có thể được dùng để kiểm chứng rằng một file dữ liệu có kích thước tùy ý chưa bị sửa đổi. Hàm băm được dùng để phát hiện lỗi truyền dữ liệu. Tại nơi gửi, hàm băm được tính cho dữ liệu được gửi, giá trị băm này được gửi cùng dữ liệu. Tại đầu nhận, hàm băm lại được tính lần nữa, nếu các giá trị băm không trùng nhau thì lỗi đã xảy ra ở đâu đó trong quá trình truyền. Việc này được gọi là kiểm tra dư (redundancy check). Các hàm băm còn được ứng dụng trong việc nhận dạng âm thanh, chẳng hạn như xác định xem một file MP3 có khớp với một file trong danh sách một loại các file khác hay không. Thuật toán tìm kiếm xâu Rabin-Karp là một thuật toán tìm kiếm xâu ký tự tương đối nhanh, với thời gian chạy trung bình O(n). Thuật toán này dựa trên việc sử dụng băm để so sánh xâu.
Cảng hàng không Tuy Hòa (tên gọi cũ là Sân bay Đông Tác) (TBB;VVTH) là một sân bay tọa lạc tại phường Phú Thạnh, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Cảng hàng không Tuy Hòa thuộc Tổng công ty Cảng hàng không Miền Trung, từ 30 tháng 9 năm 2011, sân bay này thuộc Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam. Ngày 08 tháng 2 năm 2012, Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam đã ra Quyết định số 238/QĐ-BGTVT hợp nhất ba Tổng công ty Cảng hàng không Miền Bắc, Miền Trung và Miền Nam thành Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam. Hiện nay các chuyến bay này đều sử dụng loại máy bay tầm thấp do ATR (Âu Châu) sản xuất là ATR 72 và máy bay Airbus A320 và Airbus A321 Trước năm 1975, đây là căn cứ không quân quan trọng của Không lực Hoa Kỳ. Sân bay có 3 đường cất hạ cánh (2835 m, 844 m và 2900 m). Các tuyến bay và các hãng hàng không hoạt động
Giải thưởng Hồ Chí Minh là giải thưởng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng những công trình nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, những công trình giáo dục và văn học, nghệ thuật đặc biệt xuất sắc, có giá trị rất cao về khoa học, văn học, nghệ thuật, về nội dung tư tưởng, có tác dụng lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng, có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân, khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật. Đây được xem là giải thưởng danh giá nhất hiện nay tại Việt Nam. Giải thưởng Hồ Chí Minh được xét và công bố 5 năm/lần vào dịp Quốc khánh 2/9. Các đợt trao giải Cho đến nay đã có sáu đợt trao giải thưởng Hồ Chí Minh. Đợt 1 vào năm 1996 Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký Quyết định số 991 KT/CTN ngày 10 tháng 9 năm 1996 trao giải đợt 1 cho 33 công trình, cụm công trình khoa học công nghệ và 44 cụm tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học-nghệ thuật. Đợt 2 vào năm 2000 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký Quyết định số 392 KT/CTN ngày 1 tháng 9 năm 2000 trao giải đợt 2 cho 21 công trình, cụm công trình khoa học công nghệ và 40 cụm tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học-nghệ thuật. Đợt 3 vào năm 2005 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký Quyết định số 971/2005/QĐ-CTN ngày 30 tháng 8 năm 2005 trao giải đợt 3 cho 12 công trình, cụm công trình khoa học công nghệ. Trong đợt này không xét giải thưởng về Văn học nghệ thuật. Mãi đến ngày 13 tháng 2 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết mới ký Quyết định số 179/2007/QĐ-CTN trao giải đợt 3 cho 5 công trình, cụm công trình văn học nghệ thuật. Đợt 4 vào năm 2012 Ngày 20 tháng 1 năm 2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ký Quyết định về việc tặng Giải thưởng cho 32 công trình, cụm công trình thuộc 5 lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, Khoa học tự nhiên, Khoa học kỹ thuật, Khoa học nông nghiệp và Khoa học Y-dược. Trong đó có 12 công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và 20 công trình, cụm công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước. Ngày 27 tháng 4 năm 2012, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 534 tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 12 tác phẩm, cụm tác phẩm, công trình, cụm công trình về văn học, nghệ thuật; và Quyết định số 535 tặng Giải thưởng Nhà nước cho 128 tác phẩm, cụm tác phẩm, công trình, cụm công trình về văn học, nghệ thuật. Đợt 5 vào năm 2017 Ngày 22 tháng 2 năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký Quyết định về việc tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 9 công trình, cụm công trình khoa học công nghệ và hơn 40 cụm tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật. Đợt 6 vào năm 2022 Ngày 1 tháng 12 năm 2022, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định về việc tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 29 công trình, cụm công trình khoa học công nghệ và hơn 60 cụm tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Học viện Quốc phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là Học viện huấn luyện và đào tạo tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp, cán bộ khoa học nghệ thuật quân sự đầu ngành của Quân đội nhân dân Việt Nam; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và đoàn thể. Hầu hết các tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam đều phải qua học viện này. Học viện được thành lập ngày 21 tháng 2 năm 1976 theo quyết định số 38/QP của Bộ Quốc phòng Việt Nam. Từ năm 1994 trực thuộc Chính phủ và Chính phủ giao cho Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý. Lịch sử Ngày 25 tháng 7 năm 1975, Quân ủy Trung ương họp tại Đà Lạt đã ra nghị quyết về việc thành lập Học viện Quân sự Cao cấp. Chấp hành Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, ngày 21 tháng 2 năm 1976, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 38/QĐ–BQP thành lập Học viện Quân sự Cao cấp do Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Thứ trưởng ký. Ngày 25 tháng 2 năm 1976, Tổng Tham mưu trưởng ra Quyết định số 28/QĐ–TM lâm thời quy định về cơ cấu tổ chức, biên chế Học viện Quân sự Cao cấp gồm 6 cơ quan và 16 khoa giảng viên với quân số 234 người. Ngày 24 tháng 5 năm 1976, Liên chi ủy cơ quan đã họp ra nghị quyết lãnh đạo việc kiện toàn biên chế tổ chức của Học viện. Ngày 25 tháng 6 năm 1976, Tổng Tham mưu trưởng ra Quyết định số 146/QĐ–TM ban hành biên chế chính thức cho Học viện Quân sự Cao cấp gồm Ban Giám đốc, 6 cơ quan, 16 khoa giảng viên, bổ sung các khung Học viên, tổng biên chế 400 người. Để hoàn chỉnh hệ thống tổ chức đảng ngang tầm với nhiệm vụ, ngày 16 tháng 10 năm 1976, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 55/QĐ–QUTW thành lập Đảng ủy Học viện Quân sự Cao cấp đặt dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương. Ngày 20 tháng 10 năm 1976, Đảng ủy Học viện tiến hành hội nghị đầu tiên dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Trọng Tấn, Bí thư Đảng ủy, ra nghị quyết lãnh đạo xây dựng Học viện và tích cực chuẩn bị mọi mặt cho khóa học đầu tiên theo quyết định của Bộ Quốc phòng. Ngày 3 tháng 1 năm 1977, Học viện Quân sự Cao cấp đã tổ chức trọng thể Lễ khai giảng khóa đầu tiên gồm 94 học viên. Đây là khóa học bổ túc cán bộ cao cấp toàn quân đầu tiên trong 10 tháng. Ngày 20 tháng 10 năm 1977, Viện trưởng Học viện Quân sự Cao cấp ra quyết định thành lập lớp nghiên cứu sinh tại Học viện và tổ chức thành nhiều đợt. Ngày 20 tháng 2 năm 1978, Học viện tổ chức trọng thể Lễ Khai giảng khóa 2, có 121 học viên trong đó có 9 đồng chí là Thiếu tướng.Tháng 8 năm 1978, để tiếp tục kiện toàn tổ chức các học viện, viện nghiên cứu, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 297/QĐ–QUTW hợp nhất Học viện Quân sự Cao cấp và Viện Khoa học quân sự. Ngày 15 tháng 9 năm 1978, Học viện tổ chức trọng thể Lễ Khai giảng khóa 1, với mục tiêu đào tạo Sư đoàn trưởng binh chủng hợp thành, khóa học có 90 học viên, thời gian 2 năm. Ngày 4 tháng 12 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết định điều động Cục Điều lệnh thuộc Học viện Quân sự Cao cấp về trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1980, thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương, Học viện đã xây dựng đề án cải cách giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu từ 10 đến 15 năm. Được sự ủy quyền của Bộ, ngày 18 tháng 10 năm 1980, Học viện tổ chức Hội nghị khoa học kỹ thuật quân sự toàn quân lần thứ nhất. Ngày 28 tháng 5 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 172/QĐ–BQP thành lập Viện Lịch sử quân sự Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, trên cơ sở Ban Tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và Phân viện Lịch sử thuộc Học viện Quân sự Cao cấp. Tổ chức của Học viện thường xuyên thay đổiː Năm 1978, hợp nhất với Viện Khoa học quân sự; cuối năm 1979 điều Cục Điều lệnh về Bộ Tổng Tham mưu và thành lập thêm Khoa Chiến lược, Khoa Lịch sử chiến tranh nghệ thuật quân sự, Ban nghiên cứu quân sự nước ngoài. Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 7 năm 1981, Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện tổ chức lần thứ 2. Ngày 26 tháng 12 năm 1981, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ra quyết định đổi tên Học viện Quân sự Cao cấp thành Học viện Quân sự Cấp cao trực thuộc Bộ Quốc phòng. Ngày 16 tháng 2 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ký tên gọi và bậc học thuộc hệ thống các học viện, trường sĩ quan, trường đại học, cao đẳng quân sự trong quân đội; nhiệm vụ của Học viện Quân sự Cấp cao là đào tạo sĩ quan chỉ huy – tham mưu cấp chiến dịch, chiến lược. Cũng từ thời gian này trở đi, tổ chức của Học viện có biến động lớn, Học viện được nâng cấp ngang hàng tương đương với Quân khu, Tổng cục; các cơ quan, các Khoa trực thuộc Học viện được nâng thành cấp Cục trực thuộc Học viện. Ngày 9 tháng 4 năm 1982, Học viện bàn giao Phân viện Thông tin khoa học quân sự thuộc Học viện về Trung tâm Thông tin khoa học và kỹ thuật quân sự trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu và ngày 29 tháng 6 năm 1982, Học viện bàn giao Phòng Thuật ngữ quân sự về Cục Khoa học quân sự thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Cùng thời gian này, Học viện gửi logo mẫu biểu trưng phù hiệu của Học viện lên Bộ Quốc phòng và được phê duyệt vào ngày 26 tháng 6 năm 1982. Ngày 1 tháng 3 năm 1983, Học viện khai giảng lớp Đào tạo Chỉ huy – tham mưu chiến dịch chiến lược Khóa 5, thời gian 2 năm rưỡi. Ngày 30 tháng 8 năm 1983, Học viện đã báo cáo lên Bộ thực hiện việc rút gọn biên chế tổ chức của Học viện từ 18 khoa xuống còn 12 khoa, các Cục rút xuống còn cấp Phòng. Ngày 10 tháng 11 năm 1983, Viện trưởng Học viện quyết định thành lập bộ phận biên soạn tài liệu Chiến dịch phòng ngự chiến lược và Chiến dịch phản công chiến lược. Ngày 1 tháng 8 năm 1985, Tổng Tham mưu trưởng ra Quyết định điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Học viện Quân sự Cấp cao. Tách Khoa Quân chủng thành 3 khoa (gồm Khoa Không quân, Khoa Phòng không, Khoa Hải quân); tách Khoa Binh chủng thành 4 khoa (gồm Khoa Pháo binh, Khoa Công binh, Khoa Hóa học, Khoa Thông tin); tách Khoa Nghệ thuật Chiến dịch thành 3 khoa (gồm Khoa Nghệ thuật Chiến dịch, Khoa Chiến thuật, Khoa TTG). Như vậy, cơ cấu của Học viện có 19 Khoa và Bộ môn. Ngày 26 tháng 8 năm 1985, thành lập Đảng ủy Học viện Quân sự Cấp cao và chỉ định 11 đồng chí vào Đảng ủy Học viện. Tháng 3 năm 1987, Học viện mở lớp đào tạo nghiên cứu sinh khoa học quân sự. Ngày 23 tháng 1 năm 1990, Viện trưởng quyết định thành lập Hội đồng xét đề nghị Nhà nước tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Hội đồng gồm 13 thành viên. Đến ngày 7 tháng 12 năm 1990, Học viện cũng thành lập Hội đồng xét chức danh khoa học giáo sư, Phó Giáo sư của Học viện gồm 23 thành viên. Ngày 15 tháng 5 năm 1992, tổ chức Học viện cụ thể gồmː Ban Giám đốc, 5 phòng, 3 ban, 18 khoa, 3 hệ học viên, tổng quân số là 555 người. Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định về việc thành lập Học viện Quốc phòng trên cơ sở Học viện Quân sự Cấp cao. Ngày 7 tháng 11 năm 1995, Thủ trưởng Võ Văn Kiệt ký và ban hành Quyết định về Quy chế tổ chức và hoạt động của Học viện Quốc phòng. Quy chế gồm 6 chương, 18 điều. Ngày 19 tháng 10 năm 1999, Bộ Tổng Tham mưu ký quyết định về việc giải thể Khoa Phương pháp Tâm lý, Bộ môn Tâm lý thuộc Khoa Công tác đảng, Bộ môn Phương phấp thuộc Viện Khoa học; sáp nhập Khoa Chiến thuật vào Khoa Nghệ thuật chiến dịch thành Khoa Nghệ thuật chiến dịch; hợp nhất Khoa Phòng không và Khoa Không quân thành Khoa Phòng không – Không quân; thành lập Khoa Chỉ huy – Tham mưu, Khoa Tin học Ngoại ngữ. Ngày 18 tháng 7 năm 2003, Tổng Tham mưu trưởng Phùng Quang Thanh ký Quyết định về tổ chức biên chế của Học viện Quốc phòng. Như vậy tổ chức Học viện gồmː Ban Giám đốc, 9 cơ quan trực thuộc, 10 khoa giảng viên, 4 hệ quản lý. Chức năng, nhiệm vụ Đào tạo bồi dưỡng sĩ quan chỉ huy, tham mưu cao cấp, chiến dịch, chiến lược quân sự; quân sự địa phương; cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự; đào tạo cao học, nghiên cứu sinh về khoa học quân sự theo quy chế văn bằng của Nhà nước Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và tương đương, cán bộ lãnh đạo thuộc các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể Trung ương; Nghiên cứu khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự; Hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp quân sự. Tên gọi qua các thời kỳ 1976–1981: Học viện Quân sự cao cấp; 1981–1994: Học viện Quân sự cấp cao; Từ tháng 12 năm 1994: Học viện Quốc phòng. Ban Giám đốc Giám đốcː Thượng tướng Trần Việt Khoa, Ủy viên Trung ương Đảng Chính ủyː Phó Giám đốc: Trung tướng Nguyễn Anh Tuấn Phó Giám đốc: Thiếu tướng Ngô Trọng Cường Phó Giám đốc: Thiếu tướng Vũ Kim Hà Phó Giám đốc: Trung tướng Đào Tuấn Anh Phó Chính ủy: Trung tướng Bùi Huy Biết Tổ chức chính quyền Khen thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất (1984) Huân chương Độc lập hạng Nhất (2001, 2016) Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba (2005, 2010, 2011) Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới (2007) Huân chương Hồ Chí Minh (2011) Giám đốc qua các thời kỳ 1976–1977: Lê Trọng Tấn, Trung tướng (1974), Đại tướng (1984), Tổng tham mưu trưởng (1978–1986). 1977–1989: Hoàng Minh Thảo, Thượng tướng (1984), Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân. 1989–1991: Đỗ Trình, Trung tướng (1982), Giáo sư, Tiến sĩ. 1991–1995: Nguyễn Hữu An, Thượng tướng (1986), Phó Giáo sư. 1995–1997: Nguyễn Hải Bằng, Trung tướng, Quyền Giám đốc, Phó Giáo sư, Tiến sĩ. 1997–2007: Nguyễn Thế Trị, Thượng tướng (2004), Phó Giáo sư, Tiến sĩ. 2007–2008: Phạm Xuân Hùng, Trung tướng (2006), Thượng tướng (2014), Phó Tổng Tham mưu trưởng (2008–2016). 2008–2010: Nguyễn Như Hoạt, Trung tướng (2002), Phó Giáo sư, Tiến sĩ. 2010–2016: Võ Tiến Trung, Thượng tướng (2014), Phó Giáo sư, Tiến sĩ. 2016–nay: Trần Việt Khoa, Thiếu tướng (2013), Trung tướng (2017), Thượng tướng (2021), Phó Giáo sư, Tiến sĩ. Chính ủy qua các thời kỳ 1976–1990: Lê Tự Đồng, Trung tướng, Phó Viện trưởng về Chính trị. 1980–1991: Lê Linh, Trung tướng, Phó Viện trưởng về Chính trị. 1992–1993: Dương Minh Ngọ, Thiếu tướng, Phó Giám đốc về Chính trị. 1994–1997: Lê Văn Dương, Thiếu tướng, Phó Giám đốc về Chính trị, Phó Giáo sư. 1997–2000: Trịnh Đình Thắng, Thiếu tướng, Phó Giám đốc về Chính trị. 2000–2005: Phạm Ngọc Nghinh, Thiếu tướng, Phó Giám đốc Chính trị. 2005–2009: Nguyễn Tiến Bình, Trung tướng (2007), Chính uỷ, Phó Giáo sư, Tiến sĩ. 2009–2014: Đỗ Đức Tuệ, Trung tướng (2011). 2014–2018: Bùi Văn Tâm, Trung tướng (2014). 2018–nay: Lương Đình Hồng, Thiếu tướng (2014), Trung tướng (2018), Thượng tướng (2022). Phó Giám đốc qua các thời kỳ Phó Chính ủy qua các thời kỳ 2007–2010, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Lê Anh Chiến, Thiếu tướng (2007) 2010–2011, Nguyễn Thành Công, Thiếu tướng (2008) 2012–2014, Bùi Văn Tâm, Thiếu tướng (2010), Trung tướng (2014), Chính ủy Học viện Quốc phòng (2014–2018) 2015–6.2020, Nguyễn Ngọc Tương, Thiếu tướng (2013), Trung tướng (2017), nguyên Phó Chính ủy Quân chủng Hải quân 6.2020– nay, Bùi Huy Biết, Thiếu tướng (2018), nguyên Chính ủy Quân đoàn 3 Các tướng lĩnh khác 1977–1989, Dũng Mã, Thiếu tướng (1984), nguyên Cục trưởng Cục Huấn luyện Đào tạo 1993–2000, Nguyễn Tức, Thiếu tướng (1994), nguyên Trưởng khoa Trinh sát quân sự nước ngoài Phạm Ngọc Hùng, Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên Cục trưởng Cục Huấn luyện–Đào tạo Nguyễn Văn Hãnh, Thiếu tướng, nguyên Cục trưởng Cục Huấn luyện–Đào tạo Hà Quốc Hưu, TS, Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chiến dịch Hoàng Quốc Trình, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thiếu tướng, Chủ nhiệm Khoa Quân chủng Đậu Văn Minh, Thiếu tướng, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Nghệ thuật quân sự Phạm Văn Hòe, Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chiến dịch Đinh Tích Quân, Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Mác–Lênin Bùi Thanh Sơn, Thiếu tướng (2006), nguyên Trưởng khoa Chiến lược HVQP. Phạm Thanh Sơn, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Mác–Lênin Thiếu tướng, Nhà giáo Ưu tú Lê Đình Mộng, nguyên Phó Trưởng khoa Chiến dịch,  Lương Xuân Lãm , TS, Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chiến dịch Nguyễn Đức Nam, TS, Thiếu tướng, Chủ nhiệm Khoa Chiến dịch Mạch Quang Lợi, Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Vũ Văn Tài, Thiếu tướng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chiến lược Vũ Văn Nhiên, Thiếu tướng, Chủ nhiệm Khoa Mác–Lênin Nguyễn Văn Hải, Thiéu tướng, nguyên Chủ nhiệm Khoa CH–TM Nguyễn Hữu Tập, Thiếu tướng, Chủ nhiệm Khoa CTĐ, CTCT Lê Văn Hải Thiếu tướng TS Chủ nhiệm Chính trị. Nguyễn Văn Đông Thiếu tướng Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Cục trưởng Cục HLĐT. Ngô Trọng Cường Thiếu tướng Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Chủ nhiệm Khoa Chiến lược.
Cồn Hến là một cồn nhỏ được phù sa bồi lấp ở giữa sông Hương, thuộc địa bàn phường Vỹ Dạ, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cồn nằm ở phía bên trái Kinh thành Huế. Thời xưa, hai khe nước giữa cồn được phù sa sông Hương bồi đắp nên cạn dần, nên có thời cồn Hến được gọi là "xứ cồn cạn". Được biết như là người đầu tiên đến làm nghề cào hến là ông Huỳnh Tương (người xã Diên Đại, Phú Vang). Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725 - 1738) xây dựng phủ chúa ở Phú Xuân, ông đến dựng chòi gần đầu múi cồn phía trên. Đến đầu niên hiệu Gia Long (1802 - 1820), phường Giang Hến ra đời trên đất "xứ cồn cạn", từ đó nó được gọi là xứ cồn Hến. Qua thời gian, từ một cồn nhỏ được phù sa bồi lấp, cồn Hến ngày nay thành một vùng đất cao với diện tích gần 33 ha, là khu vực dân cư của các tổ 16, 17, 18, 19, 20 thuộc khu vực 6 phường Vỹ Dạ. Đảo cồn Hến ngày nay là một khu dân cư đông đúc trù phú với nhiều công trình nhà cửa, trường học, đền chùa khang trang. Cồn Hến còn được coi là "đảo ẩm thực Huế" với những quán: cơm hến, chè bắp cồn... và là một trong các địa điểm du lịch của Huế. Các nhà phong thủy xưa về cồn Hến và cồn Dã Viên giữa lòng sông Hương như sau: Tả thanh long, hữu bạch hổ Với ý nghĩa cồn Hến là rồng xanh; cồn Dã Viên là hổ trắng, đôi hổ chầu hai bên tả hữu Kinh thành.
Kỷ Trias (phiên tiếng Việt: Triat) hay kỷ Tam Điệp là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 200 đến 251 triệu năm trước. Là kỷ đầu tiên của Đại Trung Sinh, kỷ Trias kế tiếp kỷ Permi và kế tiếp nó là kỷ Jura. Cả sự mở đầu lẫn sự kết thúc của kỷ Trias đều được đánh dấu bằng các sự kiện tuyệt chủng lớn. Sự kiện tuyệt chủng kết thúc kỷ Trias gần đây đã được xác định niên đại chính xác hơn, nhưng cũng giống như các kỷ địa chất cổ khác, các tầng đá để xác định sự bắt đầu và kết thúc dù đã được xác định khá tốt nhưng niên đại chính xác của kỷ này vẫn là điều không chắc chắn với sai số vài triệu năm. Trong kỷ Trias, cả sự sống trong đại dương lẫn trên đất liền đã thể hiện sự bức xạ thích ứng bắt đầu từ sinh quyển đã bị kiệt quệ rõ ràng từ sự tuyệt chủng kỷ Permi – Trias. Các loại san hô từ nhóm Hexacorallia đã lần đầu tiên xuất hiện. Các loài thực vật hạt kín đầu tiên có thể đã tiến hóa trong kỷ Trias, cũng như những động vật có xương sống biết bay đầu tiên, nhóm các bò sát Pterosauria. Tên gọi Tên gọi Trias lần đầu tiên được Friedrich Von Alberti gọi năm 1834 từ ba tầng đá khác biệt rõ ràng (tiếng Latinh trias có nghĩa là nhóm (bộ) ba) – là các tầng đá đỏ, phía trên là tầng đá phấn, tiếp theo là đá phiến sét màu đen - được tìm thấy ở nhiều nơi tại Đức và khu vực tây bắc châu Âu. Niên đại và các phân kỷ Kỷ Trias thông thường được chia thành ba phân kỷ là Trias sớm, Trias giữa và Trias muộn, và các tầng đá tương ứng được gọi là Hạ, Trung và Thượng Trias. Các tầng động vật từ trẻ đến già nhất là: Cổ địa lý học Trong kỷ Trias, gần như toàn bộ phần đất liền của Trái Đất đã hội tụ thành một siêu lục địa duy nhất có trung tâm ở gần khu vực xích đạo, gọi là Pangea ("tất cả các khối đất"). Nó có dạng của một "Pac-Man" khổng lồ với "miệng" quay về phía đông, tạo thành biển Tethys, một vịnh biển rộng mênh mông được mở rộng về phía tây vào giữa kỷ Trias, do sự co rút lại của đại dương Paleo-Tethys, một đại dương đã tồn tại trong Đại Cổ Sinh. Phần còn lại là một đại dương được biết dưới tên gọi Panthalassa ("tất cả biển"). Tất cả các trầm tích sâu dưới đáy biển đã trầm lắng xuống trong kỷ Trias đã biến mất do sự sụt xuống của các địa tầng đại dương; vì thế, người ta biết rất ít về sự sống trong các đại dương thuộc kỷ Trias. Siêu lục địa Pangaea bị rạn nứt trong kỷ Trias, đặc biệt là vào cuối kỷ, nhưng vẫn chưa bị tách ra; các trầm tích biển đầu tiên trong vết nứt sớm nhất, là vết nứt đã chia tách New Jersey ra khỏi Maroc ngày nay, có nguồn gốc vào cuối kỷ Trias. Do đường bờ biển hữu hạn của một khối siêu lục địa duy nhất nên các trầm tích đại dương kỷ Trias là tương đối khan hiếm, ngoại trừ sự đa dạng tại Tây Âu, là nơi mà người ta nghiên cứu kỷ Trias lần đầu tiên. Chẳng hạn, tại Bắc Mỹ, các trầm tích đại dương chỉ có một số ít tại miền tây. Vì thế địa tầng học kỷ Trias chủ yếu dựa trên các sinh vật sống trong các phá và các môi trường siêu mặn, chẳng hạn các loài giáp xácEstheria. Khí hậu Khí hậu đầu kỷ Trias nói chung là khô và nóng, tạo ra các tầng đá đỏ điển hình gồm sa thạch và evaporit. Không có chứng cứ cho thấy có sự tồn tại của sông băng tại hay gần các cực; trên thực tế, các khu vực miền địa cực dường như là ẩm ướt và mát mẻ, một khí hậu thích hợp cho các sinh vật dạng bò sát. Kích thước lớn của Pangea đã hạn chế hiệu ứng làm dịu của đại dương; khí hậu lục địa của nó có tính phân chia theo mùa rõ ràng, với mùa hè rất nóng và mùa đông lạnh giá (Stanley, 452-3). Rất có thể là nó có gió mùa mạnh và xuyên qua xích đạo (Stanley, 452-3). Các dạng sự sống Trong kỷ Trias, ba loại hình chính của sinh vật có thể được phân chia như sau: những sinh vật còn sót lại từ sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias, một vài nhóm mới đã phát triển nhanh chóng nhưng ngắn ngủi và các nhóm mới đã thống lĩnh thế giới trong đại Trung sinh. Động vật biển Trong các môi trường đại dương thì các kiểu san hô mới và hiện đại đã xuất hiện vào thời kỳ Trias sớm, tạo thành các mảng đá ngầm có kích thước khiêm tốn hơn so với các hệ thống san hô lớn của kỷ Devon hay của đá ngầm ngày nay. Các động vật chân đầu (lớp Cephalopoda) có vỏ, gọi chung là con cúc (phân lớp Ammonoidea) đã phục hồi, đa dạng hóa từ một nhánh duy nhất còn sống sót sau sự kiện tuyệt chủng cuối kỷ Permi. Các loài cá khá đồng nhất, phản ánh một thực tế là còn rất ít các họ cá sống sót sau sự kiện tuyệt chủng này. Khi đó cũng tồn tại nhiều dạng bò sát sinh sống trong các đại dương. Chúng bao gồm các nhóm thằn lằn chân chèo (siêu bộ Sauropterygia), bao gồm các phân bộ Pachypleurosauria và Nothosauria (cả hai nhóm này đều phổ biến ở thời Trung Trias, đặc biệt là trong khu vực biển Tethys), các loài bò sát thuộc các bộ Placodontia và Plesiosauria đầu tiên; các loài bò sát giống như lươn thuộc bộ Thalattosauria (chi Askeptosaurus); và thằn lằn cá (bộ Ichthyosauria) khá thành công, đã xuất hiện trong các vùng biển thời Trias sớm và đa dạng hóa khá sớm, một số cuối cùng đã phát triển với kích thước khổng lồ vào cuối kỷ Trias. Thực vật trên cạn Trên đất liền, những loại thực vật còn sống sót là ngành Lycopodiophyta (thạch tùng, thông đất), thống lĩnh là tuế (ngành Cycadophyta), ngành Ginkgophyta (đại diện ngày nay là bạch quả (Ginkgo biloba)) và dương xỉ có hạt. Thực vật có hạt thống lĩnh mặt đất. Ở bán cầu bắc, các loài thông là chủ yếu. Glossopteris (dương xỉ có hạt) đã thống trị bán cầu nam vào đầu kỷ Trias. Động vật trên cạn Động vật lưỡng cư bộ Temnospondyli thuộc nhóm các sinh vật sống sót sau sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-Trias, một số nòi giống (ví dụ cận bộ Trematosauria) đã thịnh vượng trong một thời gian ngắn thời Trias sớm, trong khi các nhóm khác (ví dụ siêu họ Capitosauroidea) vẫn duy trì được thành công trong toàn kỷ, hoặc chỉ phát triển mạnh vào thời Trias muộn(ví dụ các siêu họ Plagiosauroidea, Metoposauroidea). Đối với các nhóm lưỡng cư khác, các loài thuộc phân lớp Lissamphibia đầu tiên được biết đến từ thời Trias sớm, nhưng nhóm này về tổng thể chưa phổ biến cho tới tận kỷ Jura, khi các lưỡng cư Temnospondyli đã trở nên rất hiếm. Các loài bò sát trông tựa như cá sấu thuộc cận lớp Archosauromorpha – đặc biệt là nhóm Archosauria – đã thay thế mạnh mẽ cho các loài bò sát giống thú thuộc lớp Cung thú (Synapsida) đã thống trị trong kỷ Permi. Mặc dù bò sát răng chó (chi Cynognathus) đã từng là động vật ăn thịt hàng đầu vào thời kỳ đầu kỷ Trias (Olenekia và Anisia) tại Gondwana, và cả các loài bò sát hai răng chó (họ Kannemeyeriidae thuộc cận bộ Dicynodontia) lẫn bò sát một răng chó (gomphodont thuộc cận bộ Cynodontia) vẫn là các động vật ăn cỏ quan trọng trong phần lớn thời gian của kỷ này, nhưng vào cuối kỷ Trias thì các bò sát giống thú này chỉ đóng vai trò không đáng kể. Trong khoảng thời kỳ Carnia (phần đầu của Trias muộn), một số Cynodontia còn ưu thế đã tiến hóa thành các động vật có vú đầu tiên. Cùng thời gian đó thì các bò sát cổ chim (nhóm Ornithodira), cho đến lúc đó vẫn còn ít và không có ảnh hưởng đáng kể, đã tiến hóa thành thằn lằn có cánh (bộ Pterosauria) và các chủng loại khủng long (siêu bộ Dinosauria). Bò sát mắt cá chân chéo (nhóm Crurotarsi) là một nhánh quan trọng khác của Archosauria, và trong thời kỳ Trias muộn chúng cũng đạt tới đỉnh cao của sự đa dạng, với các nhóm khác biệt, bao gồm các bộ Phytosauria, Aetosauria, một vài nòi giống riêng biệt của bộ Rauisuchia, và các bò sát dạng cá sấu (bộ Crocodylia) đầu tiên (nhánh Sphenosuchia). Trong lúc ấy thì các loài bò sát hai cung (bộ Rhynchosauria) ăn cỏ to lớn và các loài bò sát thuộc bộ Prolacertiformes ăn côn trùng hay ăn cá có kích thước từ nhỏ đến trung bình đã là các nhóm bò sát Archosauromorpha cơ sở quan trọng trong phần lớn kỷ Trias. Trong số các bò sát khác, các loài rùa biển sớm nhất thuộc siêu họ Chelonioidae, như các chi Proganochelys và Proterochersis, đã xuất hiện trong thời kỳ Noria (thời kỳ giữa của Trias muộn). Bò sát thuộc cận lớp Lepidosauromorpha - đặc biệt là bộ Sphenodontia, lần đầu tiên được biết tới trong các mẫu hóa thạch có niên đại sớm hơn một chút (trong thời kỳ Carnia). Procolophonidae là một nhóm quan trọng các động vật ăn cỏ kích thước nhỏ giống như thằn lằn. Nhóm Archosauria ban đầu hiếm hơn so với các Therapsida vốn đã thống trị hệ sinh thái kỷ Permi trên mặt đất, nhưng nhóm này bắt đầu lấn át therapsida vào giữa kỷ. Điều này có thể đã đóng góp cho quá trình tiến hóa của động vật có vú bằng cách buộc các therapsida còn sống sót và các nhóm dạng thú có vú của nó phải thu nhỏ kích thước, chủ yếu ăn côn trùng và sống về đêm. Cuộc sống vào ban đêm có thể đã khiến các dạng thú có vú phải phát triển lông và có cường độ trao đổi chất cao hơn (máu nóng). Lagerstätten Lagerstätte Monte San Giorgio, hiện nay nằm trong khu vực hồ Lugano ở miền bắc Italy và Thụy Sĩ, vào thời kỳ kỷ Trias là một phá biển nằm sau các dải đá ngầm với lớp đáy thiếu oxy, vì thế đã không có các sinh vật ăn xác thối và ít sự hỗn loạn trong quá trình hóa thạch. Các tàn tích của cá, và nhiều loại bò sát sống ở biển, bao gồm các bò sát thuộc phân bộ Pachypleurosauria phổ biến là chi Neusticosaurus và Archosauromorpha cổ dài kỳ quái (chi Tanystropheus), cùng với một vài dạng bò sát sống trên đất liền như các chi Ticinosuchus và Macrocnemus, đã được phát hiện tại khu vực này. Tất cả các hóa thạch này có niên đại vào giai đoạn chuyển tiếp Anisia/Ladinia (khoảng 237 triệu năm trước). Sự kiện tuyệt chủng cuối kỷ Trias Bài chính: Sự kiện tuyệt chủng kỷ Trias-Jura. Kỷ Trias kết thúc với sự tuyệt chủng hàng loạt, đặc biệt nghiêm trọng trong các đại dương; các loài động vật có xương sống với răng nón thuộc lớp Conodonta đã biến mất, cũng giống như là gần như toàn bộ các loài bò sát biển, ngoại trừ thằn lằn cá (Ichthyosauria) và thằn lằn chân chèo (Plesiosauria). Các động vật không xương sống như ngành Tay cuốn (Brachiopoda), lớp Chân bụng (Gastropoda) thuộc ngành thân mềm (Mollusca) bị ảnh hưởng nặng nhất. Trong lòng đại dương, 22 % các họ động vật biển và có lẽ khoảng một nửa các chi đã biến mất, theo như nhà cổ sinh vật học Jack Sepkoski từ Đại học Chicago. Tuy vậy sự kiện tuyệt chủng kết thúc kỷ Trias đã tàn phá không đồng đều ở mọi nơi các hệ sinh thái trên đất liền (xem dưới đây), một vài nhánh quan trọng các bò sát Crurotarsi (bò sát Archosauria lớn trước đó đã được nhóm cùng nhau như là Thecodontia) đã biến mất, giống như phần lớn các động vật lưỡng cư nhóm Labyrinthodontia to lớn, một số các nhóm bò sát kích thước nhỏ và một vài loài bò sát nhóm Synapsida (ngoại trừ các loài tiền-động vật có vú). Một số các khủng long nguyên thủy thời kỳ đầu cũng bị tuyệt chủng, nhưng các nhóm khủng long khác, dễ thích nghi hơn thì đã sống sót để tiến hóa trong kỷ Jura. Các loài thực vật sống sót để thống lĩnh thế giới trong Đại Trung Sinh có các loài thông, tùng, bách hiện đại và thực vật dạng tuế. Người ta vẫn chưa chắc chắn điều gì đã gây ra sự tuyệt chủng Trias muộn này, được kèm theo nó là các phun trào núi lửa lớn vào khoảng 208-213 triệu năm trước, sự kiện phun trào núi lửa lớn nhất được ghi nhận lại kể từ khi Trái Đất đã nguội đi và ổn định, do siêu lục địa Pangaea bắt đầu tách ra. Các nguyên nhân có thể là sự lạnh đi toàn cầu hoặc thậm chí là va chạm của sao băng, mà miệng hố va chạm còn được thấy gần hồ chứa nước Manicouagan, Quebec, Canada. Tuy nhiên, tại miệng hố va chạm Manicouagan, nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các loại đá nóng chảy do va chạm trong miệng hố có niên đại khoảng 214±1 Ma trong khi niên đại của ranh giới Trias-Jura cũng đã được xác định chính xác hơn trong thời gian gần đây là khoảng 202±1 Ma. Cả hai niên đại này đều thu được độ chính xác bằng cách sử dụng các dạng chính xác hơn của phương pháp xác định niên đại bằng phóng xạ, cụ thể là sự phân rã của urani thành chì trong ziriconi được hình thành do va chạm. Vì thế chứng cứ này gợi ý là va chạm Manicouagan đã xảy ra trước sự kết thúc của kỷ Trias khoảng 12±2 Ma. Vì vậy nó khó có thể là nguyên nhân trực tiếp của sự tuyệt chủng hàng loạt đã quan sát được (Hodych & Dunning, 1992). Số lượng các đợt tuyệt chủng Trias muộn còn gây tranh cãi. Một số nghiên cứu cho rằng khi đó có ít nhất hai chu kỳ tuyệt chủng về phía kết thúc của kỷ Trias, cách nhau khoảng 12 đến 17 triệu năm. Nhưng chứng cứ phản bác lại điều này chính là nghiên cứu gần đây về hệ động vật Bắc Mỹ. Tại Công viên quốc gia rừng hóa đá (Petrified Forest National Park) ở đông bắc Arizona có một chuỗi duy nhất các trầm tích trên đất liền thời kỳ cuối Carnia-đầu Noria. Phân tích năm 2002 ( ) đã không tìm thấy sự thay đổi đáng kể nào trong cổ môi trường. Các hóa thạch của bò sát thuộc bộ Phytosauria, phổ biến nhất tại đây, chỉ chịu sự thay đổi ở cấp độ chi, và hàng loạt các loài vẫn được duy trì như cũ. Một số loài bò sát thuộc bộ Aetosauria, động vật bốn chân phổ biến thứ hai và các khủng long thời kỳ đầu đã không thấy có thay đổi gì. Tuy nhiên, cả Phytosauria và Aetosauria đều nằm trong nhóm các bò sát Archosauria bị xóa sổ hoàn toàn vào thời gian của sự kiện tuyệt chủng kết thúc kỷ Trias. Dường như khi đó đã có một vài kiểu cách tuyệt chủng cuối thời Carnia, khi một vài nhóm bò sát dạng Archosauromorpha ăn cỏ bị tiêu diệt, trong khi các loài bò sát Therapsida lớn hơn và ăn cỏ— như các loài bò sát hai răng chó họ Kannemeyeriidae và bò sát một răng chó họ Traversodontidae— đã bị suy giảm nhiều ở nửa phía bắc của Pangaea (Laurasia). Các đợt tuyệt chủng trong phạm vi kỷ Trias vào thời điểm kết thúc của nó đã cho phép khủng long mở rộng tầm ảnh hưởng của chúng tới nhiều khu vực còn bỏ trống. Khủng long có lẽ đã là thống trị, đa dạng và phổ biến ngày càng tăng và chúng còn duy trì được điều này trong 150 triệu năm tiếp theo. "Kỷ nguyên Khủng long" thực sự là kỷ Jura và kỷ Phấn trắng (Cretaceous), chứ không phải kỷ Trias.
"14 điều răn của Phật" hay "14 điều dạy của Phật" là tên của một bản văn được truyền tụng không có nguồn gốc rõ ràng, nhưng nội dung của bản văn này được nhiều người xem như đã được trích ra từ những ý tưởng trong kinh Phật. Nguồn gốc Theo Thượng tọa Thích Nhật Từ, 14 điều này vốn được lưu truyền tại chùa Thiếu Lâm, Trung Quốc. Không có bài kinh nào trong các bộ Kinh tạng Pa-li, A-hàm kinh và kinh Đại Thừa chứa đủ 14 điều này. Tác giả có thể là các nhà sư chùa Thiếu Lâm và họ đã biên tập, trích dẫn ý tưởng từ các bản kinh, và tập hợp lại theo trật tự mình đặt ra. Việc truy tìm lại nguyên gốc các câu riêng lẻ từ kinh Phật là điều rất khó. Các bản dịch tiếng Việt đã có một số điểm lệch so với nguyên tác. Ví dụ, "điều răn" là cách dịch không chính xác từ giới (nguyên ngữ Śīla trong tiếng Phạn với nghĩa "giới" của Phật giáo, hay "điều khoản đạo đức"). Trong nhiều bản in "14 điều răn của Phật" được phổ biến tại Việt Nam có chữ ký của hòa thượng Kim Cương Tử ở dưới như là người phát hiện và sưu tầm. Nội dung Một bản dịch ra tiếng Việt: Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu Đáng thương lớn nhất của đời người là tự ti Đáng khâm phục nhất của đời người là vươn lên sau khi ngã Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng Tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe, trí tuệ Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm Lễ vật lớn nhất của đời người là sự khoan dung Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là kém hiểu biết An ủi lớn nhất của đời người là bố thí Về nội dung Ngoài những vấn đề liên quan đến nguồn gốc kinh Phật đã được nhắc bên trên—và "Phật" ở đây được hiểu sát nghĩa là Phật Thích-ca Mâu-ni, một con người đã từng sống và du hóa 45 năm trên thế gian này—14 lời nói trên cũng có những vấn đề về mặt hành văn và logic. Cụ thể là: Chúng chỉ đơn thuần là những lời tuyên bố, hoàn toàn không đưa ra lời giải thích vì sao. Khác với cách dạy của Phật . Câu nào cũng dùng cấp tối cao, dùng chữ "nhất". Có những điểm mâu thuẫn hiển nhiên với giáo lý của Phật, được xác định trong những bài kinh thẩm quyền còn lưu lại: Lời 2: Ngu dốt lớn nhất của loài người không phải là dối trá, mà là không biết là mình đang bị tấm màn vô minh vây phủ, và vô minh chính là mắt xích đầu tiên của chuỗi Duyên khởi với 12 thành phần ("Thập nhị nhân duyên"). Lời 6: Tội lỗi lớn nhất của con người, trong ý nghĩa hành vi những gì mang lại những kết quả đáng sợ nhất, ngay lập tức cho chính người làm, có lẽ không phải là "bất hiếu", mà là Năm tội lớn. Ngoài điểm thứ 14 ra (mặc dù từ "an ủi" ở đây không nói rõ là an ủi dành cho người bố thí, hay người được (nhận vật) bố thí), nội dung của 14 điều răn (với cách dùng cấp tối cao của người biên tập) có vẻ như muốn cho người ta biết là Phật đi sâu vào những chi tiết của cuộc sống thường ngày của thế gian, khác với tính chất phổ quát (tức luôn luôn có giá trị) và tất yếu của những lời dạy được thể hiện trong hầu hết tất cả các bài kinh được tìm thấy trong các Đại tạng kinh. Nội dung của những lời Phật dạy chung quy không rời chủ đề quan trọng nhất đã được nhắc đến trong Tứ diệu đế, là Khổ và mục đích cứu cánh là Diệt khổ, hoặc nói cách khác, giải thoát ra bể khổ luân hồi, vòng sinh tử, với ví dụ điển hình trong Vô vấn tự thuyết (zh. 自說, pi. udāna) như sau: "Như biển lớn chỉ có một vị duy nhất, này các Tỉ-khâu, vị mặn của muối, cũng như thế, giáo pháp và giới luật của ta cũng chỉ có một vị duy nhất, đó là vị của giải thoát." "Seyyathāpi, bhikkhave, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso; evameva kho, bhikkhave, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso..." (Udāna, 5. Soṇavaggo, 5. Uposathasuttaṃ). Chú thích Giáo dục Phật giáo
Kiểm tra tính nguyên tố (tiếng Anh: primality test) là bài toán kiểm tra xem một số tự nhiên có phải là số nguyên tố hay không. Bài toán này đặc biệt trở nên quan trọng khi các hệ mật mã khoá công khai ra đời. Các phương pháp thô sơ Phương pháp đơn giản nhất để kiểm tra một số có là số nguyên tố không là kiểm tra xem nó có chia hết cho các số nằm trong khoảng 2 đến hay không. Nếu chia hết cho một số nào đó thì là hợp số (composite), ngược lại là số nguyên tố. Thực ra việc kiểm tra với từ 2 đến là không cần thiết, mà chỉ cần kiểm tra đến . Đó là vì nếu là hợp số thì nó chắc chắn có ước số không vượt quá . Chúng ta cũng có thể bỏ qua việc kiểm tra trường hợp bằng cách chỉ xét các số lẻ. Đi xa hơn một chút, ta chỉ cần xét các số dạng và bỏ qua việc kiểm tra 2 trường hợp và . Đó là vì tất cả các số nguyên tố đều có dạng với nào đó và ; mà trong đó , , chia hết cho 2, còn thì chia hết cho 3. Tiếp tục với các nhận xét đó, ta có thể tổng quát hóa thành thuật toán sàng Eratosthenes. Kiểm tra theo xác suất Các phép kiểm tra tính nguyên tố hay dùng nhất là các thuật toán ngẫu nhiên. Giả sử có một mệnh đề Q(p,a) nào đó đúng với mọi số nguyên tố p và một số tự nhiên a <= p. Nếu n là một số tự nhiên lẻ và mệnh đề Q(n,a) đúng với một a<= n được lấy ngẫu nhiên, khi đó a có khả năng là một số nguyên tố. Ta đưa ra một thuật toán, kết luận rằng n là số nguyên tố. Nó là một thuật toán ngẫu nhiên hay thuật toán xác suất. Trong các thuật toán loại này, dùng một kiểm tra ngẫu nhiên không bao giờ kết luận một số nguyên tố là hợp số nhưng có thể kết luận một hợp số là số nguyên tố. Xác suất sai của phép kiểm tra có thể giảm xuống nhờ việc chọn một dãy độc lập các số a; nếu với mỗi số a xác suất để thuật toán kết luận một hợp số là số nguyên tố là nhỏ hơn một nửa thì sau k lần thử độc lập, xác suất sai là nhỏ hơn 2−k, độ tin cậy của thuật toán sẽ tăng lên theo k. Cấu trúc cơ bản của một phép kiểm tra ngẫu nhiên là: Chọn một số ngẫu nhiên a. Kiểm tra một hệ thức nào đó giữa số a và số n đã cho. Nếu hệ thức sai thì chắc chắn n là một hợp số (số a là "bằng chứng" chứng tỏ n là hợp số) và dừng thuật toán. Lặp lại bước 1 cho đến khi đạt được số lần đã định hoặc gặp bước 2. Sau một loạt lần kiểm tra, nếu không tìm được bằng chứng chứng tỏ n là hợp số thì ta kết luận n là số nguyên tố. Các phép kiểm tra tính nguyên tố ngẫu nhiên là Phép kiểm tra tính nguyên tố của Fermat (kiểm tra Fermat. Đây là phép thử heuristic; tuy nhiên ít người sử dung phép thử này Được sử dụng nhiều hơn là Kiểm tra Miller-Rabin và Kiểm tra Solovay-Strassen. Với mỗi hợp số n, ít nhất 3/4 (với kiểm tra Miller-Rabin) hoặc 1/2 (Với kiểm tra Solovay-Strassen) các số a là bằng chứng chứng tỏ n là hợp số). Các phép kiểm tra tất định Vào năm 2002, Manindra Agrawal, Nitin Saxena và Neeraj Kayal đề xuất một giải thuật tất định kiểm tra tính nguyên tố, là kiểm tra AKS, có khả năng chạy trong O((log n)12). Trên thực tế thuật toán này chạy chậm hơn các phương pháp xác suất. Độ phức tạp Trong lý thuyết độ phức tạp, bài toán về tính nguyên tố được gọi đơn giản là bài toán nguyên tố. Dễ thấy rằng nó là coNP: bài toán ngược của nó, bài toán hợp số là NP. Năm 1975, Vaughan Pratt nhận thấy rằng tồn tại các thuật toán kiểm tra tính nguyên tố trong thời gian đa thức, và như vậy PRIMES là NP, và do đó thuộc về NP ∩ coNP. Vào năm 2002, Manindra Agrawal, Nitin Saxena và Neeraj Kayal đề xuất một giải thuật tất định kiểm tra tính nguyên tố, là kiểm tra AKS, có khả năng chạy trong O((log n)12). Thế cho nên PRIMES là P. Các phương pháp lý thuyết số Có một vài phương pháp khác trong lý thuyết số để kiểm tra tính nguyên tố như kiểm tra Lucas-Lehmer và kiểm tra Proth. Chúng thường dựa vào việc phân tích n + 1, n − 1, hoặc những số khác. Tuy nhiên các phương pháp này không dừng cho các số tự nhiên n bất kỳ mã chỉ cho các số có một dạng đặc biệt nào đó Kiểm tra Lucas-Lehmer dựa trên tính chất: bậc (multiplicative order) của một số a modulo n là n − 1 với n là số nguyên tố và a là căn nguyên thủy (primitive root) modulo n. Nếu ta có thể biểu diễn a chỉ theo n, ta có thể thấy n là nguyên tố.
Kết cấu xây dựng là cơ kết cấu của các cấu kiện xây dựng. Kết tiếng Hán (結) có nghĩa là thắt nút, liên kết và cấu (構) có nghĩa là làm ra, tạo ra hay tác phẩm. Kết cấu hoặc tĩnh học (tiếng Anh là statics, tiếng Đức là Statik) trong tiếng Hy Lạp cổ là statike (techne) có nghĩa (nghệ thuật của) cân bằng, hoặc statikos là mang lại trạng thái cân bằng. Kết cấu xây dựng phục vụ việc tính toán và thiết kế công trình trong ngành xây dựng. Đó là một công cụ cho việc thiết kế xây dựng và cùng với lý thuyết mô hình hóa và lý thuyết cấu kiện, nó hình thành nên lý thuyết công trình. Nội dung của nó bao gồm việc tính toán các lực đỡ, nội lực và biến dạng do tác động của ngoại lực lên một hệ chịu lực của công trình xây dựng. Bên cạnh tĩnh lực còn có các tác động khác: thay đổi nhiệt độ, co ngót ẩm, từ biến, biến dạng gối. Lý thuyết độ bền vật liệu (ví dụ lý thiết đàn hồi - elasticity, lý thuyết chảy - plasticity) cũng thuộc về kết cấu xây dựng. Kết cấu xây dựng là cơ sở cho việc thiết kế công trình trong trạng thới giới hạn độ bền (ultra limit states - ULS) và trạng thái giới hạn làm việc (serviceability limit states - SLS) Giới hạn và các khái niệm Khái niệm Tĩnh học, Cơ học hoặc Cơ kết cấu thường được dùng lẫn lộn và gắn với mặt toán học, vật lý học lý thuyết, trong khi Kết cấu xây dựng hoặc Cơ kết cấu xây dựng có mục đích ứng dụng Cơ học hoặc cơ kết cấu vào trong ngành xây dựng. Vì vậy việc kiến tạo hệ chịu lực công trình và thiết kế cấu kiện (xác định kích thước yêu cầu, mặt cắt, lượng cốt thép, v.v.) được đặt lên hàng đầu. Nhà kết cấu xây dựng hoặc nhà thiết kế xây dựng - thường là Kỹ sư xây dựng hơn là Kiến trúc sư - đảm nhiệm công việc thiết kế xây dựng. Nhiệm vụ Kết quả cuối cùng của việc thiết kế xây dựng là các bản tính kết cấu và thuyết minh chứng tỏ hệ chịu lực đã chọn thỏa mãn các tiêu chuẩn xây dựng bắt buộc. Yêu cầu cơ bản quan trọng nhất của kết cấu xây dựng cũng như cơ kết cấu là hệ chịu lực phải nằm trong trạng thái cân bằng ổn định. Một phần quan trọng trong kết cấu xây dựng là mô hình hóa hệ chịu lực mẫu từ công trình xây dựng phức tạp (ngôn ngữ trong ngành còn gọi là "bổ kết cấu") làm sao để làm sao tính toán được trong giới hạn công sức hợp lý kinh tế. Quá trình tính toán kết cấu xây dựng tiếp tục với việc xác định ngoại lực tác động (Chú thích: tác giả dùng từ [ngoại tác] thay cho tải trọng hoặc ngoại lực vì ngoài tác nhân lực - trọng lực, gió, động đất, v.v. - ra còn có thể có các tác nhân không phải là lực khác là nhiệt, biến dạng cưỡng bức, v.v.). Từ đó có thể tính được các nội lực trong các cấu kiện. Lực tác động sẽ được truyền qua các cấu kiện xuống đến nền móng công trình. Hệ chịu lực - Kết cấu xây dựng chia làm hai nhóm Hệ chịu lực Hệ thanh và Hệ giàn (Thanh, Dầm, Cột, Khung) Hệ chịu lực mặt, bao gồm Bản, Tấm, Vỏ cứng và Màng Ngoại tác (ngoại lực, tải trọng)của một hệ chịu lực trong kết cấu xây dựng phải chú ý đến bao gồm: Trọng lực Lực giao thông Lực gió Lực sử dụng Lực nước Lực đất Động đất Nhiệt Cưỡng bức v.v. Các lực động (va chạm, rung, dao động, động đất, v.v.) thường được tính quy chuyển sang một lực tĩnh trước khi dùng để tính toán cho công trình xây dựng. Tính toán kết cấu xây dựng Lý thuyết tính Các lý thuyết tính toán cho kết cấu dựa trên các giả thuyết gần đúng, trong đó quan trọng phải kể đến lý thuyết bậc I, bậc II, bậc III: Lý thuyết bậc I: tính toán các lực trên một hệ chịu lực không biến dạng. Điều này có nghĩa là các biến đổi hình học của hệ chịu lực do tải trọng tác động bị bỏ qua. Việc này chỉ được chấp nhận khi biến dạng nhỏ không làm ảnh hưởng đến kết quả tính toán. Khi việc ổn định của hệ chịu lực có nguy cơ bị ảnh hưởng thì việc tính toán thay đổi hình học của hệ chịu lực biến dạng phải được chú trọng. Ngoài ra nhìn chung các sai lệch không mong muốn của hệ chịu lực so với hình học thiết kế (ví dụ độ lệch xiên của cột) và các tiền biến dạng của cấu kiện (ví dụ độ cong của các thanh chịu nén) cần phải được chú ý. Lý thuyết bậc II: việc quay của một cấu kiện nhỏ đủ bỏ qua. Từ giả thiết này có thể tính gần đúng sin φ = φ và cos φ = 1. Lý thuyết bậc III: tính toán xét đến độ quay của hệ chịu lực. Khi ổn định của hệ chịu lực (ví dụ do gãy (!?) phồng (!?), đặc biệt khi tính toán cho vật liệu mảnh như thép, nhôm, v.v.]) thì người tính phải tính toán cho các tiêu chuẩn đặc biệt cho loại biến dạng phá hoại này. Phương pháp tính Các phương pháp tính toán cơ bản: Phương pháp lực Phương pháp chuyển vị Phương pháp chuyển vị cổ điển Phương pháp tính máy (Phần tử hữu hạn - FEM) Phân loại Kết cấu xây dựng Kết cấu xây dựng có thể được phân loại theo Vật liệu xây dựng qua đó cũng có phương pháp tính toán và quy trình thiết kế khác nhau: Xây dựng khối: Bê tông, Bê tông cốt thép, Bê tông dự ứng lực, Gạch Xây dựng thép: Thép và các kim loại khác, đặc biệt là Nhôm Xây dựng liên kết: Bê tông và thép Xây dựng gỗ: Gỗ Xây dựng chất dẻo: Chất dẻo Xây dựng nền móng: đất, đá Thủy tinh v.v. Ngoài ra kết cấu xây dựng có thể phân loại theo dạng công trình: Kết cấu xây dựng cao tầng: nhà thấp tầng, nhà cao tầng, nhà công nghiệp, v.v. Kết cấu cầu: cầu giản đơn, cầu dây văng, cầu treo, v.v. Kết cấu hầm: hầm đi bộ, hầm qua núi, mêtrô, v.v.
James Augustine Aloysius Joyce (2 tháng 2 năm 1882 – 13 tháng 1 năm 1941) là một tiểu thuyết gia, nhà văn viết truyện ngắn, nhà thơ và nhà phê bình văn học người Ireland, được đánh giá là một trong những nhà văn có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ông nổi tiếng nhất với tiểu thuyết bước ngoặt Ulysses (1922). Các tác phẩm chính khác của ông là tập truyện ngắn Dubliners (1914), các tiểu thuyết A Portrait of the Artist as a Young Man (1916) và Finnegans Wake (1939). Joyce còn là tác giả của các tập thơ Nhạc thính phòng (Chamber Music, 1907), Thơ một xu một bài (Poems Pennyeach, 1927), Colleted Poems, 1936. Dù số lượng không nhiều nhưng thơ của James Joyce có sự ảnh hưởng rất lớn đến các nhà thơ Anh phái Hình tượng. Giới phê bình ngày nay đặt Joyce ở vị trí hàng đầu chủ nghĩa hiện đại Anglo-Saxon, cùng với T. S. Eliot, Virginia Woolf và Ezra Pound. James Joyce sinh ra trong một gia đình trung lưu tại Dublin. Thuở nhỏ, Joyce được giáo dục theo tinh thần Công giáo trong trường học nhưng về sau bội đạo. Tại Đại học Cao đẳng Dublin, Joyce học ngôn ngữ và văn học Anh cũng như các thứ tiếng khác. Năm 1902, Joyce đến Paris học y khoa nhưng sớm từ bỏ rồi quay lại Dublin. Năm 1904, Joyce gặp Nora Barnacle, sống chung và có 3 người con nhưng phải đến năm 1931 mới kết hôn. Cặp đôi sống xa Ireland trong gần 35 năm tại Trieste, Zürich và Paris. Joyce từng đi dạy tiếng Anh, gia sư hay viết bài đăng báo để kiếm sống. Sự nghiệp văn chương liên tục bị cản trở do những thiếu thốn vật chất, bệnh khiếm thị và hay chứng tâm thần của người con gái Lucia. Với phong cách tự truyện rõ rệt, văn xuôi của Joyce in hằn thế giới Ireland, đặc biệt là Dublin, nơi ông sống thuở nhỏ và trưởng thành. A Portrait of the Artist as a Young Man khắc họa những xung đột nội tâm trong bản ngã khác của nhà văn, từ bỏ tôn giáo để đến với văn chương. Được coi là kiệt tác văn học Anh, tiểu thuyết Ulysses miêu tả một ngày trong đời nhân vật Leopold Bloom qua hình ảnh Dublin đồng nhất với ý thức chính tác giả. Ông tiếp tục đẩy thử nghiệm nghệ thuật của mình lên cực độ trong tiểu thuyết Finnegans Wake, một tác phẩm chất đầy mã hóa, nơi ý nghĩa ẩn giấu khó hiểu sau ngôn từ và phong cách độc đáo. Khi được hỏi vì sao lại chọn phong cách khó khăn như vậy, ông trả lời "để làm các nhà phê bình bận rộn trong 300 năm tới". James Joyce được cộng đồng nói tiếng Anh tưởng niệm thường niên vào ngày 16 tháng 6 (Bloomsday) là ngày diễn biến trong tiểu thuyết Ulysses. Tác phẩm của Joyce ảnh hưởng đến Samuel Beckett (học trò ông), William Faulkner, Eugene O'Neill, Djuna Barnes, Jorge Luis Borges và Umberto Eco. Tiểu sử Hoàn cảnh và giáo dục Chính trị xã hội James Joyce sinh ra gần 30 năm sau Nạn đói lớn ở Ireland, một bi kịch thay đổi cả văn hóa chính trị đất nước, khiến Ireland sụt giảm ước tính 20-25% dân số. Từ năm 1801, Ireland bị sáp nhập vào Vương quốc Anh trở thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland (hoặc thường gọi là Đế quốc Anh). Đó là thời điểm đế quốc thuộc địa đạt đến đỉnh cao vào thời Victoria của Anh (1837–1901). Bị người Anh cai trị và áp đặt văn hóa, người Ireland nung nấu tâm lý phản kháng, ra sức cổ vũ cho phong trào Huynh đệ Fenian, một hình thức chủ nghĩa dân tộc ra đời năm 1858. Dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, người Fenian mơ về nước cộng hòa Ireland độc lập và thậm chí chấp nhận giải pháp bạo lực. Bầu không khí chính trị căng thẳng chuyển biến thành chủ nghĩa khủng bố cực đoan. Ví dụ như năm 1882 xảy ra vụ sát hại tân Thư ký trưởng Ireland bằng dao hay vụ thảm sát một gia đình họ Joyce. Một loại chủ nghĩa dân tộc khác ít cực đoan hơn, không chủ trương bạo lực được hình thành quanh Charles Stewart Parnell. Xã hội những năm đầu đời của James Joyce đầy dẫy các chi phối chính trị như phong trào Fenian, học thuyết Parnell, đôi lúc cả hai trào lưu cùng song song tồn tại đồng thời. Cha của Joyce lúc trẻ bị cuốn vào với Fenian, còn về sau lại tôn thờ Parnell. Những cuộc trò chuyện thường xuyên của người cha với bạn bè về chính trị gia này cũng như số phận Ireland thấm nhuần phần đầu tiên trong tiểu thuyết đầu tay của Joyce A Portrait of the Artist as a Young Man. Khi bị ốm, nhân vật chính Stephen dấy lên nỗi sợ chết đan xen với hình ảnh đau thương trong ký ức trẻ thơ về đám tang Parnell. Hay tại tiệc Giáng sinh, tuyệt vọng trước bối cảnh chính trị hỗn loạn, Stephen bước lên trưởng thành hơn. Tuy nhiên, huyền thoại Parnell vẫn là biểu tượng ghi dấu sâu đậm cho thời thơ ấu được Joyce lý tưởng hóa, mà ông gọi là "những ngày tháng Tám" trong Finnegans Wake (Finnegan thức tỉnh). Theo William Butler Yeats, văn học Ireland hiện đại bắt đầu ngay sau đó, khi hình tượng Parnell sụp đổ, xã hội "vỡ mộng và đau buồn" quay lưng lại với chính trị, toàn tâm dành cho văn hóa. Cha mẹ Cha của James là John Stanislaus Joyce (1849–1931) quê ở Cork, có họ hàng với chính trị gia nổi tiếng Daniel O'Connell "The Librator" (người giải phóng). Theo Richard Ellmann, "Joyce" xuất phát từ joyeux (hạnh phúc) trong tiếng Pháp hoặc jocax trong tiếng Latinh, giống như tiền định cho nhà văn coi văn học là "thánh thần hoan lạc". Tính tình phóng khoáng, vui vẻ và thích phiêu lưu, John Stanislaus Joyce đã có một cuộc sống đầy màu sắc. Năm 1859, ông được cha mẹ đăng ký theo học tại Cao đẳng Công giáo St. Colman tại Fermoy. Sau gần một năm, ông bỏ học phần vì đời sống khắc khổ cũng như sức khỏe yếu nên chỉ ham mê thể dục thể thao. Về sau, James thừa hưởng được niềm đam mê điền kinh và cricket từ cha. Khi còn thiếu niên, John từng làm việc trên thuyền hoa tiêu ở cảng Cork. Tại đó, ông học được nhiều tiếng lóng của thủy thủ khi thường uống rượu với bạn bè. John học y trong ba năm (1867–1870) tại Queen's College, Cork, nhưng không tốt nghiệp được do lối sống bừa bãi, chạy theo khoái lạc. Ngoài ra, John còn yêu thích diễn xuất và thể thao. Năm 1874 hoặc 1875, John chuyển đến Dublin làm thư ký tại một nhà máy chưng cất rượu, và tham gia nhiều hoạt động khác như săn bắn hay opera. Ca sĩ Barton McGuckin nổi tiếng thời bấy giờ đã gọi John là "giọng tenor hay nhất Ireland". Đa tài nhưng không tập trung lĩnh vực nào cụ thể, luôn cho rằng mình là nạn nhân của thời cuộc, đắm chìm trong lý tưởng chính trị, trong những cuộc trò chuyện bất tận và các thú vui phù phiếm như uống rượu hay ca hát, cha của James Joyce là hình mẫu gợi cảm hứng cho con mình với hình ảnh tràn trề sinh lực. Cách diễn đạt của cha được James khắc họa trong chương Cyclops của tiểu thuyết Ulysses, ví dụ like a shot off a shovel ("như một cái hất xẻng" ý là "nhanh") hay Twixt you and me, Caddereesh (Giữa anh và tôi, Caddereesh); hoặc như trong Finnegans Wake nhắc đến hình ảnh người lính Ireland Buckley do dự chĩa súng vào viên tướng Nga nằm trên trận địa Krym với chiếc quần tụt xuống, qua đó bày tỏ lòng trắc ẩn với những người dễ bị tổn thương. James dựng nên một số nhân vật quan trọng dựa theo hình mẫu cha mình như Simon Dedalus (A Portrait of the Artist as a Young Man, Ulysses), Humphrey Chimpden Earwicker (Finnegans Wake) hoặc Leopold Bloom (Ulysses). Trong A Portrait of the Artist as a Young Man, nhân vật Stephen Dedalus chính là hình ảnh bản thân James Joyce đã mô tả cha mình như sau: Ngày 5 tháng 5 năm 1880, John Stanislaus Joyce kết hôn với Mary Jane ("May") Murray. Sinh năm 1859 tại Longford, May lớn lên và được dạy dỗ ở trường Miss Flynn tại Dublin, trường cũng do hai bác gái của bà điều hành. Tại đây, May học thanh nhạc, dương cầm, khiêu vũ cũng như nghệ thuật giao thiệp. Có cha mẹ cảm thụ âm nhạc sâu sắc như vậy, ngay từ khi còn nhỏ James Joyce đã hòa mình trong bầu không khí đầy giai điệu và được khơi dậy niềm đam mê với tính nhạc trong ngôn ngữ. Mẹ James là tín đồ Công giáo mộ đạo, nên các biểu tượng lòng sùng kính như thánh giá, nến thánh, tràng hạt tràn ngập trong góc nhìn bé thơ của nhà văn thuở nhỏ. Nhưng cha James lại tỏ thái độ chống Công giáo và hàng giáo phẩm, giống như đa số người Ireland khi ấy tin rằng Giáo hội Công giáo có thể thỏa hiệp bất lợi với giới Kháng Cách Anh. Thời thơ ấu (1882–1888) James Joyce sinh ngày 2 tháng 2 năm 1882, đúng vào Lễ Đức Mẹ thanh tẩy. James là con thứ hai của John Stanislaus Joyce và Mary Jane Murray. Trước đó, Mary Jane sinh non con đầu lòng vào ngày 23 tháng 11 năm 1880 nhưng đứa bé chỉ sống được tám tuần. Mary Jane mang bầu cả thảy 17 lần (hoặc 15), nhưng chỉ 10 lần vượt cạn thành công. Với gia đình đông con như vậy, họ mướn một bà con xa của John là Elizabeth Conway đến giúp. Joyce được rửa tội ngày 5 tháng 2 năm 1882 tại Nhà nguyện đường gần (chapel of ease) Thánh Giuse ở Roundtown (nay là Terenure ngoại ô Dublin). Trong giấy khai sinh, tên đệm bị ghi sai thành Augusta thay vì Augustine. Tên gọi âu yếm lúc nhỏ ở nhà là Sunny Jim, thể hiện mong ước của cha mẹ muốn con mình có cuộc đời sóng yên bể lặng. Lúc đầu, gia đình Joyce sống ở Dublin's Rathgar, 41 Brighton Square West. Cha James được thăng tiến vị trí trong xã hội, năm 1884 gia đình chuyển đến 23 Đại lộ Castlewood, rồi năm 1887 tới tòa nhà bên bờ biển thị trấn Bray, cách Dublin 20 km. Bạn bè John Stanislaus thường ghé thăm vào cuối tuần, một vài trong số đó đã gây cảm hứng cho nhân vật trong các tác phẩm của Joyce về sau. Ví dụ, người họ hàng bên nội William O'Connell chính là hình mẫu cho nhân vật "bác Charles" trong A Portrait of the Artist as a Young Man. Trong cùng tác phẩm còn có nhân vật "cô Dante" hiện thân của nữ gia sư Elizabeth Conway, người có ảnh hưởng nhất đến Joyce chỉ sau cha mẹ. Cô Dante rất nghiêm túc quan tâm đến việc giáo dục James Joyce, dạy cậu biết đọc, biết viết, cả số học và địa lý. Cô cố gắng nhồi cho cậu bé những tư tưởng dân tộc và tôn giáo của mình, nhưng chính những mệnh lệnh của cô đã tác động xấu đến tính thơ ngây non nớt của đứa trẻ. Trong Portrait, cô Dante hăm dọa cậu bé Stephen rằng "nếu không xin lỗi thì chim đại bàng sẽ lao xuống và móc mắt cậu ấy", giống như lời nguyền nghiệt ngã, Joyce lớn lên gặp vấn đề về thị lực. Những bài học tôn giáo của cô đầy dẫy hình ảnh ngày tận thế, in hằn trong Joyce nỗi sợ hãi sấm sét đầy phi lý về cơn thịnh nộ của Chúa. Joyce không bao giờ thoát khỏi nỗi sợ ám ảnh từ thuở nhỏ này, đến mức một người bạn hỏi vì sao ông lại sợ sét, nhà văn trả lời "Anh không được lớn lên tại Ireland Công Giáo đó". Trong Finnegans Wake, Joyce gọi Thiên Chúa là "Đấng giáng sấm sét từ trên cao" còn trong A Portrait of the Artist as a Young Man, nhân vật ăn năn trước quyền năng thiên thượng và tự hỏi "Sao Chúa không đánh chết cậu?". Ông còn một nỗi ám ảnh thường trực khác là chứng sợ chó, cũng hình thành từ thuở nhỏ, sau khi bị một con chó săn Ireland tấn công trên bãi biển Bray. James Joyce vào học trường mẫu giáo của cô Raynor và mẹ tại Bray. Cậu kết thân với cô bé hàng xóm Eleanor (Eileen) Vance. Vì nhà Eileen theo Tin Lành nên cô Dante ngăn cản hai đứa chơi với nhau, cô đe James rằng nếu làm bạn với những ai không theo Công Giáo thì sẽ bị đày xuống hỏa ngục. Lời này phản tác dụng và có lẽ cũng muốn làm ngược lại, hai đứa trẻ lập ra bối cảnh "địa ngục" để chơi với nhau, James đóng vai ác quỷ còn cô bé là "nạn nhân" nằm dưới xe cút kít bị lật, tạo ra những tiếng động đáng sợ. James cũng làm một vở kịch nhỏ về nguyên tội, tự mình vào vai con rắn còn hai đứa em Stannie và Margaret Alice diễn Adam và Eva. Trùng hợp là nhiều năm sau, nhà văn bị bà chủ nhà ở Zürich đặt biệt danh là Ngài Satan vì lúc nào cũng để râu cằm nhọn, dáng đi mạnh mẽ cùng quần áo chỉnh tề. Clongowes Wood (1888–1891) Tháng 9 năm 1888, James Joyce nhập trường Clongowes Wood tại thị trấn Sallins (gần thành phố Clane), hạt Kildare. Là trường Công Giáo nội trú do Dòng Tên thành lập năm 1814, với danh tiếng tại Ireland, Clongowes Wood có vẻ là lựa chọn hoàn hảo mà cha mẹ James muốn biến con trai mình thành một quý ông thực thụ. Học phí 25 bảng một năm nằm trong khả năng gia đình chi trả một cách dễ dàng. Ở trường, James được học tiếng Anh, toán, tiếng Latinh và tôn giáo, Cách học cơ bản là học thuộc lòng qua sách giáo lý dưới dạng vấn đáp. Cấu trúc giáo lý vấn đáp chính là khung sườn chương Ithaca trong tiểu thuyết Ulysses. Với trí nhớ phi thường, Joyce nhanh chóng đứng đầu lớp, gây ấn tượng với hiệu trưởng là Cha Conmee. Bạn học thì không hiểu được trí thông minh của Joyce và chỉ thấy cậu lầm lì, yếu đuối. Thực ra Joyce bị lũ bạn học là con cái giới thượng lưu dọa nạt. Để không bị khinh thường, trong A Portrait of the Artist as a Young Man, nhân vật Stephan Dedalus nói dối rằng cha mình là quý ông thượng lưu còn chú bác mình là thẩm phán và tướng quân. Ngày 21 tháng 4 năm 1889, cậu bé lần đầu tiên dự Tiệc Thánh, sự kiện quan trọng đối với đời sống tâm linh người Công Giáo. Giáo dục tôn giáo được tăng cường bằng cách thường xuyên dự lễ cũng như phải kỷ luật nghiêm ngặt trong trường. Có "Sách trừng phạt" để ghi lại lỗi học trò như quên sách vở, đi giày bẩn và nói tục là điều khiến Joyce có vẻ rất thích thú. Năm 10 tuổi, Joyce lấy tên Thánh Aloysius Gonzaga (Thánh bảo trợ giới trẻ và quý tộc) làm tên đệm nhưng không bao giờ dùng tới. Tại Clongowes Wood, James Joyce cảm thấy xa lạ và cô đơn, như những trang đầu của cuốn tự truyện Portrait: Trong các môn thể thao, cậu chỉ thích chạy và cricket, đến tận khi trưởng thành, Joyce vẫn còn thích cricket. Trong các kỳ lễ của trường, Joyce tham gia diễn nhiều vở kịch khác nhau. Qua sách giáo khoa, Joyce được tiếp xúc với lịch sử cổ đại, thần thoại Hi Lạp-La Mã (lần đầu tiên biết về Ulysses) và những tác phẩm như Bá tước Monte Cristo hay thơ Byron. Có lần bị Cha Daly trừng phạt không công bằng trước cả lớp vì làm vỡ kính không cho học nữa, Joyce trở thành anh hùng trong mắt các bạn khi can đảm kể hết cho hiệu trưởng Cha Conmee. Cậu không được tận hưởng việc này lâu vì phải thôi học vào mùa thu năm 1891 do cha mẹ gặp khó khăn tài chính nên không thể trả nổi học phí, và cũng có thể do sức khỏe cậu không tốt. Tự học (1891–1893) Liên quan đến bê bối ngoại tình và bị Giáo hội Công Giáo cùng xã hội Ireland tẩy chay, Charles Stewart Parnell qua đời vào ngày 6 tháng 10 năm 1891. Khi ấy, cậu bé James Joyce mới 9 tuổi đã sáng tác một bài thơ Et Tu, Healy (Còn ngươi, Healy) để tố cáo Timothy Healy, kẻ đã phản bội Parnell. John Stanislaus ấn tượng với bài thơ của con trai đến mức đã cho in, phát cho bạn bè, thậm chí còn gửi cho cả Thư viện Vatican nhưng hiện nay không còn giữ được bản sao nào của tác phẩm "đầu tay" này. Sự sụp đổ của Parnell không chỉ làm John chìm vào thất vọng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp của ông. Tên ông xuất hiện trong danh sách những con nợ phá sản trên tờ Stubbs Weekly Gazette và Perry's Gazette. Ông bị mất chức và buộc phải nghỉ hưu sớm. Buông thả theo số phận, ông ngày càng nghiện rượu, bộc phát bạo lực trước mặt vợ (thậm chí có lần định bóp cổ vợ) và các con. Gia đình Joyce buộc phải chuyển đến Blackrock (ngoại ô Dublin) và đổi nhà liên tục trong thời gian rất ngắn, cuối cùng về lại thủ đô. Chi tiết về giai đoạn này của James không rõ ràng. James tự học ở nhà trong khi các em vẫn tiếp tục đến trường. Cậu làm thơ và bắt đầu viết tiểu thuyết với bạn hàng xóm. Thường xuyên dạo chơi trên đường phố Dublin, ghi nhớ toàn bộ kiến trúc thành phố, quan sát cuộc sống đa dạng của mọi người, Joyce có được nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác mai sau. "Tượng đài" quan trọng nhất của thành phố là dòng sông Liffey thường được thần thánh hóa trong văn của Joyce và trở thành nét chủ đạo trong tiểu thuyết Finnegans Wake. Từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1893, James và Stannie theo học trường O'Connell ở North Richmond dành cho các gia đình có hoàn cảnh khó khăn, về sau nhà văn cố gắng xóa bỏ chi tiết này trong tiểu sử mình. Cha của James bất ngờ gặp lại Cha Conmee chuyển từ Clongowes Wood tới Dublin, James Joyce được học miễn phí tại trường Belvedere College mới của Dòng Tên. Belvedere College (1893–1898) Belvedere College không phải trường nội trú nên học sinh hoàn toàn tự do vào buổi chiều và buổi tối. Chương trình học dành riêng cho giáo dục Công Giáo. Ngoài tôn giáo, toán học, ba ngoại ngữ (tiếng Latinh, tiếng Pháp, tiếng Ý), Joyce còn thích học tiếng Anh và văn học Anh, thầy George Dempsey sớm nhận thấy cậu học trò này là "cậu bé với vô số ý tưởng trong đầu". Môn ngữ văn tại Belvedere College không chỉ chú trọng từ nguyên học hoặc ngữ pháp, mà còn phát triển kỹ thuật dịch, chuyển ngữ trung thành với văn bản ngoại ngữ gốc. Kevin Sullivan nêu bật vai trò kỷ luật Dòng Tên trong việc hình thành nghệ sĩ ngôn từ trong Joyce, nhà văn bị cuốn hút, thậm chí ám ảnh về khả năng biến đổi của động từ. Là học sinh ưu tú gương mẫu, James Joyce nhận học bổng và được bầu làm nhóm trưởng Hội tương tế Đức Mẹ Đồng Trinh Maria (Sodality of the Blessed Virgin Mary) trong trường. Chịu ảnh hưởng đặc biệt từ thơ Byron, Ferguson và Yeats, Joyce đã viết loạt phác thảo Silhouettes (Hình bóng) và tập thơ Moods (Tâm trạng). Theo Costello, đọc Lịch sử Florence của Machiavelli đã đưa Joyce đến nhìn ra bản chất bản sắc văn hóa thành phố quê hương Dublin. Tuy nhiên, ở mặt bí mật của tuổi đang lớn, cậu thiếu niên có những ham muốn xác thịt. Cậu tán tỉnh một cô hầu gái trẻ và quan hệ lăng nhăng với gái làng chơi. Mặc cảm tội lỗi được khắc họa qua cuộc trốn chạy ban đêm trong tiểu thuyết A Portrait of the Artist as a Young Man. Joyce hối hận, cảm thấy mình đã phản bội lý tưởng Công Giáo. Bài giảng nóng cháy của hiệu trưởng về cuộc đời Thánh Phanxicô Xaviê một lần nữa làm dấy lên trong chàng thanh niên nỗi sợ hãi sự đoán phạt của Thượng Đế. Trong vài tháng, James Joyce nỗ lực không mệt mỏi để lấy lại lòng yêu kính đối với Kitô giáo. Về sau, ông đã gọi một cách hài hước mỗi hành động sùng bái của mình khi ấy đều là một giao dịch thiên thượng: Dù cố gắng ngoan đạo, việc xa rời học thuyết Công Giáo là không thể đảo ngược, Joyce coi tín ngưỡng mới của mình là nghệ thuật, nơi ông cống hiến cả phần đời còn lại. Trong A Portrait of the Artist as a Young Man, Stephen Dedalus đã nhìn thấy một thị kiến (hay "epiphany - hiển linh" như lời nhà văn) trên bãi biển Dollymount Strand với hình ảnh cô gái đẹp chết người, tóc đen dài nữ tính chơi đùa trong làn nước. Hình ảnh lôi cuốn, khêu gợi như đối lập với sự dịu dàng thuần khiết của Đức Mẹ Đồng Trinh, trở thành biểu tượng kêu gọi đến với nghệ thuật. Lời của Stephen "Sống, phạm sai lầm, vấp ngã, chiến thắng và làm lại cuộc đời!" dường như là phát ngôn của một James Joyce trưởng thành. Những năm đại học (1898–1902) Mùa thu năm 1898, James Joyce vào Đại học Cao đẳng Dublin (University College Dublin - UCD), tập trung học các ngôn ngữ hiện đại (tiếng Anh, Pháp, Ý). Năm nhất đại học, Joyce đọc các tác phẩm của Carlyle, Macaulay, Ruskin, d'Annunzio, Sudermann, Dante, Zola, Blake và Turgenev. Thích sân khấu, Joyce sáng tác vài vở kịch (nay không còn) trong đó có My Brilliant Career (Sự nghiệp rực rỡ của tôi) và coi đó là "tác phẩm thực sự đầu tiên trong đời tôi". Tuy nhiên, tác phẩm nói trên cùng tập thơ Shine and Dark (Sáng tối) bị nhà phê bình William Archer từ chối không được xuất bản. Mặc dù nhìn ra tài năng tuyệt vời của chàng sinh viên trẻ, Archer khuyên Joyce chưa vội ra mắt. Một ảnh hưởng đáng chú ý với Joyce đến từ nhà viết kịch người Na Uy Henrik Ibsen, người dung hòa các trào lưu văn học đương thời là chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tượng trưng qua các tác phẩm của mình. Năm 1900, Joyce viết cho tạp chí Fortnightly Review bài đánh giá khen ngợi vở kịch Når vi døde vaagner (Khi kẻ chết chúng ta thức tỉnh) của Ibsen. Ấn tượng về bài phê bình, Ibsen bày tỏ lòng ngưỡng mộ khi gửi cho chàng sinh viên 19 tuổi một lá thư tiếng Na Uy. Joyce cũng phúc đáp cảm ơn lại. Joyce viết nhiều bài báo phê bình văn học-nghệ thuật, thường qua đó bày tỏ thái độ bất đồng chính kiến của mình. Từ bức tranh Ecce Homo của Mihály Munkácsy, Joyce tố cáo xã hội giả hình, rập khuôn tôn giáo và thấp hèn vì đã tẩy chay Parnell giống như dân Do Thái khước từ Chúa Giêsu. Joyce ủng hộ Yeats khi vở kịch The Countess Cathleen (Nữ bá tước Cathleen) bị cáo buộc là dị giáo. Bạn học thời sinh viên của Joyce về sau trở thành những trí thức nổi bật có thể kể đến như John Francis Byrne, Thomas Kettle, Constantine Curran, Francis Skeffington và George Clancy, những người trở thành hình mẫu cho các nhân vật trong tác phẩm của Joyce. Tham gia Hiệp hội Văn học và Lịch sử (Literary and Historical Society) ở Dublin, tại đó Joyce có chuyên luận Drama and Life (Kịch và đời) thành công rực rỡ ngày 20 tháng 1 năm 1900. Càng ngày càng đam mê nghệ thuật và viết lách khiến Joyce không tập trung học được rồi nhận điểm thi kém. Trong khoảng thời gian đó, gia đình Joyce gặp cảnh thiếu thốn trầm trọng, nguồn thu nhập duy nhất là tiền trợ cấp của John Stanislaus. James Joyce chỉ về nhà vào ban đêm, thường sẽ ngồi lại Thư viện Quốc gia cho đến 10 giờ tối. Thomas Kettle nhớ lại về Joyce "ương bướng, khó tính, mê đắm nghịch lý elf... thể hiện tinh thần văn học". Trưởng thành và sự nghiệp Khởi đầu xuất ngoại (1902–1904) Ra trường với điểm số trung bình nên không thể kiếm được việc liên quan, Joyce quyết định theo học ngành khác là y khoa nhưng không phải ở Dublin mà là Paris. Lady Gregory trả tiền cho Joyce sang Paris, bà là nhà viết kịch, nghiên cứu văn hóa dân gian và bảo trợ nhiệt thành cho văn hóa Ireland. Cũng trong năm 1902, Joyce gặp gỡ hai nhân vật văn chương quan trọng: nhà huyền bí học George Russell và nhà thơ William Butler Yeats. Ấn tượng với khả năng thiên tài của chàng trai trẻ, cả Lady Gregory lẫn Russell hay Yeats đều cố gắng bỏ qua cách cư xử thô lỗ và thái độ kiêu ngạo thái quá của Joyce. Russell nói Joyce "cao ngạo như Lucifer". Bạn của Yeats là nhà thơ Arthur Symons miêu tả ông là "sự tổng hợp kỳ dị giữa thiên tài nham hiểm và tài năng bất ổn". Ở Paris, Joyce phải chịu thiếu thốn đủ điều về vật chất, bị đói, chịu rét và thiếu mặc. Ông nghỉ học một thời gian ngắn và làm gia sư tiếng Anh để tự trang trải cuộc sống. Ông thường xuyên đến Thư viện Quốc gia Pháp và Thư viện Sainte-Geneviève. Tiểu thuyết Les Lauriers sont coupés (Cây nguyệt quế bị cắt) của Édouard Dujardin giúp ông khám phá kỹ thuật văn học mới độc thoại nội tâm, về sau được hoàn thiện trong các tác phẩm thông qua dòng ý thức và giúp Joyce nổi tiếng. Đồng thời, Joyce viết truyện về những khải thị mà các nhân vật chính nhận được (epiphany - hiển linh), qua đó bày tỏ cách nhìn nhận bản thân và thế giới hoàn toàn mới, đây là những mở đầu cho tập truyện Dubliners. Ngày 10 tháng 4 năm 1903, nhận được tin mẹ sắp qua đời, ông trở về Dublin. Bị xơ gan nặng (hoặc ung thư như quan điểm một số nhà tiểu sử), Mary Jane Joyce bất động đợi con mình về. Bà khuyên con trai quay về nhà thờ xưng tội, hiệp thông trở lại nhưng Joyce từ chối. Ngày 13 tháng 8 năm 1903, bà qua đời sau vài giờ hôn mê, cả gia đình quỳ quanh bà để cầu nguyện, ngoại trừ hai anh em James và Stannie là những người đã bỏ đạo. Dù thể hiện là mình theo chủ nghĩa khắc kỷ, cái chết của người mẹ đã tác động lớn đến nhà văn. Khoảng thời gian kế tiếp ở Dublin, Joyce đến với rượu như cha mình, hoàn toàn chìm đắm trong các quán rượu say xỉn cùng với Oliver Gogarty. Một lần say rượu, ông bị một người lính đánh cho nhừ tử do hiểu lầm ở St Stephen's Green Park, may được người quen của cha là Alfred H. Hunter đưa về trị thương. Hunter bị cả Dublin đồn đại là người Do Thái có cô vợ lăng loàn, trở nên hình mẫu cho nhân vật Leopold Bloom trong Ulysses. Còn bản thân Gogarty trở thành Buck Mulligan qua cách thức hư cấu gợi lại tình tiết đáng xấu hổ: Tháng 1 năm 1904, được em trai Stannie gợi ý, Joyce thử gửi tự truyện ngắn với tựa đề A Portrait of the Artist (Chân dung nghệ sĩ) cho tạp chí Dana. Tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành cây bút lại bị tòa soạn từ chối, ông quyết định dùng nó để viết tiểu thuyết Stephen Hero. Tuy nhiên, bản thảo gần nghìn trang này cũng bị bỏ lại và chỉ được xuất bản sau khi Joyce qua đời, còn nội dung chính được chuyển tải thành tiểu thuyết A Portrait of the Artist as a Young Man năm 1916. Ngày 10 tháng 6 năm 1904, Joyce gặp vợ tương lai là Nora Barnacle đang giúp việc tại khách sạn Finn. Ngày 16 tháng 6, họ lần đầu hẹn hò, ngày này về sau đi vào lịch sử văn học, trở thành ngày kỷ niệm Bloomsday của tác phẩm Ulysses. Cuộc sống những tháng cuối cùng ở Dublin trở nên khó khăn hơn, ông phải vay mượn bạn bè và làm thầy giáo bán thời gian tại một trường tư thục. Với chất giọng nam cao thiên phú, Joyce thậm chí còn ghi danh tham dự lễ hội âm nhạc Ireland Feis Ceoil, nhưng kết quả chỉ dành được huy chương đồng do không thể (và từ chối) đối mặt với thử thách "hát theo nốt nhạc". Cảnh nhà lộn xộn túng thiếu vì người cha say xỉn, Joyce chuyển ra thuê nhà của gia đình McKernan. Ngày 9 tháng 9, Joyce đến sống cùng Oliver Gogarty và Dermot Chenevix Trench trong tháp pháo đài ở Sandycove ven sông Dublin. Vào lúc nửa đêm sáu ngày sau, Joyce đột ngột chạy khỏi tháp, đoạn tuyệt với Gogarty mãi mãi. Ông tuyên bố Gogarty và Trench đã dàn dựng để chơi khăm mình khi dùng súng bắn lung tung trong phòng vào con báo do họ tưởng tượng ra, khiến kệ sách cùng xoong nồi đổ xuống người Joyce. Quá sốc trước màn náo động này nên ông mới bỏ đi vào giờ khuya đó. Ngày 8 tháng 10, Joyce rời Ireland lần thứ hai cùng với bạn gái Nora. Gia đình vẫn chưa biết gì về mối quan hệ của hai người nên trong khi Joyce tạm biệt người nhà tại bến tầu North Wall Quay thì Nora tẽ riêng lên tàu để tránh thu hút sự chú ý từ John Stanislaus. Bên bờ Adriatic (1904–1909) Ngày 11 tháng 10 năm 1904, James Joyce đến Zürich theo thư xác nhận được nhận vào dạy tiếng tại trường Berlitz. Hóa ra chỉ là nhầm lẫn nhưng giám đốc Zürich giới thiệu cho Joyce vị trí tương tự còn trống ở Trieste. Nhưng cũng bị từ chối ở đó, Joyce cuối cùng có được công việc ở trường Berlitz mới thành lập tại Pula trên bán đảo Istria. Cả Trieste (nay thuộc Ý) lẫn Pula (nay thuộc Croatia) khi ấy đều thuộc Đế quốc Áo-Hung, cư dân chủ yếu là người Ý, người Croat và người Sloven. Joyce cảm thấy Pula thật buồn tẻ trì trệ, mô tả nó "Siberia hẻo lánh [...] toàn thủy thủ quân phục bạc phếch", đầy dẫy "những người Slav ngu dốt đội mũ đỏ bé tí và mặc quần chẽn rộng thùng thình". Phương ngữ Ý tại đây gây khó cho nhà văn vốn chỉ quen với ngôn ngữ văn học kinh điển của Dante. Cú sốc văn hóa với Nora còn mạnh mẽ hơn vì không thích ứng được lối sống Địa Trung Hải. Tháng 3 năm 1905 xảy ra vụ bê bối gián điệp khiến chính quyền trục xuất tất cả người nước ngoài khỏi thành phố. Joyce đến Trieste, tiếp tục dạy tiếng Anh. Trước đó, ông chủ yếu dạy cho tầng lớp sĩ quan Áo-Hung thì giờ đây có thể có các sinh viên riêng hay cá nhân dân sự. Học trò nổi tiếng của Joyce có thể nhắc đến Ettore Schmitz người Do Thái (bút danh Italo Svevo) là nhà văn Ý hiện đại; hai người gặp nhau năm 1907 và trở thành bạn bè. Svevo giới thiệu văn hóa Do Thái cho Joyce và cô vợ anh Livia tóc dài chính là hình mẫu cho nhân vật Anna Livia Plurabelle trong Finnegans Wake. Philippe Soupault xác định "giai đoạn Trieste" là quan trọng nhất với cuộc đời Joyce, bản thân nhà văn cũng gọi thành phố mới này là "La nostra bella Trieste" (Trieste xinh đẹp của chúng ta). Khi ấy, Trieste có nhiều nét chung với Dublin như đều là cảng do nước ngoài nắm giữ, văn hóa sôi nổi sống động, âm nhạc, kịch hát và chuyện hài hước phong phú. Joyce thường ghé nhà hát Teatro Verdi thưởng thức các tác phẩm của Verdi, Bellini, Donizetti hay kịch Sudermann, Roberto Bracco, Strindberg và Ibsen. Ban đêm, ông thường lui tới các quán bar, nơi tiếp xúc đồng hóa những ý tưởng Chủ nghĩa xã hội liên quan đến tự do kinh tế, chủ nghĩa hòa bình và tránh xung đột chủ nghĩa dân tộc. Dù theo thuyết bất khả tri, ông vẫn thường đi lễ nhà thờ Chính thống giáo và Công giáo ở Trieste. Môi trường giao lưu nhiều nền văn hóa ảnh hưởng lớn đến cách viết của nhà văn. Joyce bị không khí bí ẩn kỳ lạ của phương Đông thu hút từ các vùng như Hy Lạp, Palestine, Ả Rập hoặc Tây Ban Nha, càng đậm nét tại cảng Địa Trung Hải này, như được phản ánh qua hoài niệm thơ ấu ở Gibraltar của nhân vật Molly Bloom trong Ulysses: Đồng thời, Joyce học phương ngữ Triestino bản địa kết hợp nhiều yếu tố từ các ngôn ngữ thiểu số tại đó như tiếng Armenia, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Sicilia, tiếng Đức, tiếng Croatia, tiếng Slovene, tiếng Séc và tiếng Hy Lạp. Sự pha trộn ngôn ngữ này là cảm hứng cho ông thử nghiệm bằng tiếng Anh trong Finnegans Wake mà John McCourt coi là sự nâng cao phóng đại của phương ngữ nói ở Trieste. Ví dụ, gió Bora được mô tả độc đáo qua một loạt hỗn hợp từ ngữ gợi hình ảnh ngày tận thế tham chiếu ngôn ngữ, văn học và thần thoại. Khi ấy, Nora đang mang thai lại phải chịu đựng khí hậu nóng bức và món ăn Ý nên mệt mỏi, thường chỉ nằm cả ngày trên giường. Mối quan hệ "gia đình" được Joyce đưa ngay vào trong tác phẩm Dubliners, những cặp đôi bất hạnh, phản bội, không hiểu nhau là chủ đề gắn kết cả tập truyện. Ngày 27 tháng 7 năm 1905, Nora sinh con trai đầu lòng Giorgio, hai người tuyên bố đã kết hôn để con sinh ra là hợp pháp. Ông cố thuyết phục em trai Stannie cùng chuyển đến Trieste, hứa hẹn về cuộc sống đủ đầy khi làm giáo viên tại trường Berlitz. Trên thực tế, ông chỉ muốn lợi dụng em trai để có thể giúp đỡ thêm cho đời sống nghệ sĩ phóng túng của mình được dễ dàng hơn. Quan hệ với Stannie lúc ở Trieste ngày càng căng thẳng, đặc biệt là do lối sống hoang phí và phù phiếm của Joyce. Ngày 30 tháng 7 năm 1906, James cùng Nora rời Trieste đến Roma sống, Joyce làm việc tại ngân hàng. Công việc mới mệt mỏi mà không có nhiều tiền nên cả hai quay lại bờ biển Adriatic vào tháng 3 năm 1907 với bộ dạng "gần như ốm yếu và nghèo khổ như những người nhập cư Ý". Hè 1907, Joyce bị sốt thấp khớp, phải nằm viện một tháng và thêm ba tháng ở nhà để bình phục. Đứa con thứ hai Lucia chào đời ngày 27 tháng 7 năm 1907 trong nhà đỡ cho người nghèo, "gần như nằm trên đường phố". Dần từ bỏ chủ nghĩa xã hội, Joyce tiếp nhận chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phục hồi lãnh thổ, nghiên cứu về đất nước mình cũng như đăng các bài viết về Ireland trên tờ Il Piccolo della Sera. Tháng 5, ông ra mắt tập thơ đầu tay Chamber Music (Nhạc thính phòng) do Elkin Mathews xuất bản. Một giai thoại nổi tiếng cho rằng tiêu đề tập thơ như vậy là do Joyce nghe tiếng động lớn người ta đi tiểu vào bô (chamber pot). Cùng năm, ông hoàn thành tập truyện Dubliners nhưng phải đến năm 1914 mới được xuất bản, trải qua hơn 20 lần bị 15 nhà xuất bản từ chối. Tháng 11 năm 1907, Stannie ghi lại ý định của anh trai mình mở rộng một câu chuyện được viết ở Roma cho đồ sộ hơn, giống như kiểu Peer Gynt cho Dublin, cùng với ảnh hưởng từ Hamlet và Faust. Đó chính là tác phẩm Ulysses chúng ta biết ngày nay. Qua lại Trieste và Dublin (1909–1915) Tháng 8 năm 1909, Joyce về Dublin để xem xét khả năng xuất bản Dubliners tại quê nhà. Nora ở lại Trieste, chỉ có Joyce mang con trai về gặp ông nội. Lần này, nhà văn lại là nạn nhân của trò đùa dở khóc dở cười do những người bạn là Cosgrave và Gogarty gây ra, họ khiến Joyce cho rằng Nora không chung thủy thậm chí đến mức nghi ngờ Giorgio không phải con mình. Trò đùa tác động lớn đến Joyce chỉ khi người bạn John Francis Byrne một mực phủ nhận, cũng như em trai Stannie và chính Nora xác nhận mới khôi phục lại được niềm tin của nhà văn vào vợ mình. Joyce đưa em gái mình là Eva cùng về Trieste nhằm thoát khỏi không khí gia đình u ám tại Ireland. Thích thú những rạp chiếu phim Ý, Eva đã gợi ý cho anh trai mở rạp chiếu phim đầu tiên ở Dublin. Ngày 20 tháng 12 năm 1909, Joyce cùng các cộng sự Ý mở Cinematograph Volta, thoạt đầu có vẻ thành công. Nhưng dấu hiệu bệnh về mắt khiến ông một lần nữa rời Dublin cùng với cô em gái khác là Eileen vào ngày 2 tháng 1 năm 1910. Nằm trong tay các đối tác, Volta chịu lỗ lớn, dẫn đến bị bán đi ngày 14 tháng 6 năm 1910. James Joyce thất vọng về các đối tác vì không kiếm được gì từ 10% như được hứa hẹn, không có khả năng quản lý và kiếm tiền có lẽ di truyền từ người cha. Tuy nhiên, từ chuyến kinh doanh phiêu lưu này, ông đã đưa niềm yêu thích điện ảnh vào Ulysses: các đề mục Aeolus làm giống như tựa phim của cảnh mới hay với kỹ thuật "góc quay" chuyển lấy nét từ điểm này sang điểm khác trong Wandering Rocks để giống như đoạn phim ngắn về Dublin. Volta thất bại đặt dấu chấm hết cho những tham vọng kinh doanh khác của Joyce, ví như ý định mang vải tuýt Ireland bán vào Trieste. Tình hình vật chất vẫn không ổn định, có thể thấy qua những bài giảng tại Đại học Popolare: "Ireland, Island of Saints and Sages" (Ireland, đảo các thánh và hiền triết) ngày 27 tháng 4 năm 1907 và hai bài "Realism and idealism in English literature" (Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa duy tâm trong văn học Anh) tháng 3 năm 1912. Với văn học Anh, ông tập trung chủ yếu vào hai tác gia Daniel Defoe và William Blake tương ứng với nhân vật mà người Ireland coi là đặc trưng Anh Robinson Crusoe hay nhân loại nói chung Albion. Cuối tháng 8 năm 1910, nhà Joyce cùng các em gái chuyển đến căn hộ mới trên đường Via della Barriera Vecchia, ở đó cho đến tháng 9 năm 1912, họ cũng thuê quản gia Maria Kirn. Eileen nhớ lại một kỷ niệm suýt thay đổi thảm khốc sự nghiệp văn học của Joyce. Khi ấy, bị Nora trách chỉ tốn thời gian viết lách, Joyce tức giận đến mức ném bản thảo A Portrait of the Artist as a Young Man vào lửa; may là Eileen và Maria Kirn ngay lập tức lao vào lấy lại được. Tháng 4 năm 1912, ông đến Padua tham gia thi khảo hạch trình độ giáo viên Ý. Dù đạt được điểm số xuất sắc 421/450, ông vẫn không được tuyển dụng vì bộ máy quan liêu cứng nhắc không thừa nhận bằng cấp tương đương của ông tại Ireland. Hè năm 1912, Nora cùng con gái Lucia đi thăm họ hàng ở Galway, để James Joyce lại Trieste. Nhớ nhung chờ đợi, nhà văn quyết định đến thăm rồi mang Giorgio về Dublin ngày 12 tháng 7. Khi biết Giorgio đã 7 tuổi mà chưa được rửa tội, họ ngoại nhà Joyce đã bí mật tiến hành lễ rửa tội trong nhà tắm. Joyce tận dụng chuyến về quê này để thương lượng lại việc xuất bản Dubliners. Ông sẵn sàng chiều theo ý nhà xuất bản George Roberts bỏ đi truyện An Encounter (Một cuộc gặp) khắc họa nhân vật đồng tính. Nhưng khi phải xác định nghĩa vụ tài chính trong trường hợp xảy ra kiện tụng do việc xuất bản tập truyện, Joyce một lần nữa đành phải từ bỏ dự định in ấn này. Vận rủi chưa hết, cuối tháng 7, chủ nhà gửi giấy không cho ở nữa vì nợ quá nhiều. Joyce đang ở Dublin nên Stannie tìm giúp qua địa chỉ mới tại số 4 via Donato Bramante. Tháng 9, Joyce trở lại Trieste. Đó là chuyến trở về Ireland cuối cùng của Joyce, về sau ngay cả khi cha mình hoặc Yeats mời gọi, ông cũng kiên quyết không trở lại "hòn đảo của các thánh và hiền triết". Từ năm 1913, Joyce làm giáo viên tại trường trung học Scuola Superiore di Commercio Revoltella đồng thời vẫn dạy gia sư riêng. Trong số học sinh có Amalia Popper được Joyce dành cho tình yêu thuần khiết những năm cuối ở Trieste, cũng là nguồn cảm hứng chính cho nhân vật cô gái trẻ bí ẩn trong tự truyện "thơ tình" bằng văn xuôi Giacomo Joyce. Một số nhà viết tiểu sử còn coi Amalia Popper là nguyên mẫu của nhân vật Molly Bloom. Thủ pháp dòng ý thức được Joyce thể hiện đầu tiên trong A Portrait of the Artist as a Young Man, nhấn mạnh trong Giacomo Joyce và đạt đến toàn mỹ với Ulysses năm 1915. Giữa năm 1914-1915, ông viết kịch Exiles (Tha hương) về mối tình tay ba, lấy cảm hứng từ quan hệ với Nora Barnacle. Vận mệnh văn chương James Joyce thay đổi vào cuối năm 1913, khi một lá thư bất ngờ từ nhà thơ Mỹ Ezra Pound gửi đến mời ông xuất bản tác phẩm trên hai tạp chí bằng "quan hệ không chính thức" là The Egoist và The Cerebralist. Dựa trên thông tin ban đầu từ William Butler Yeats, đến khi nhận được bản thảo A Portrait of the Artist as a Young Man và Dubliners, Pound coi Joyce là nhà văn hiện đại sánh ngang với Henry James, William Henry Hudson hay Joseph Conrad. Ngày 2 tháng 2 năm 1914, A Portrait of the Artist as a Young Man bắt đầu được đăng nhiều kỳ trên tạp chí The Egoist dưới sự bảo trợ của Pound. Cùng năm, cuốn Dubliners được Grant Richards Ltd. ấn hành. Hai ấn phẩm đặt ông vào vị trí trung tâm của làng văn: Arthur Symons ngưỡng mộ chủ nghĩa hiện thực Pháp thể hiện theo nguyên bản kiểu Ireland còn Gerald Gould coi Joyce là "thiên tài". Có một số báo chí như tờ The Times Literary Supplement bất bình với các chủ đề trong Dubliners nhưng hầu hết đều là các đánh giá tích cực. Những thành công ban đầu này của nhà văn sớm bị lu mờ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ năm 1914. Giao thông giữa London và Trieste bị chặn lại, các chương cuối Portrait bị trì hoãn xuất bản cho đến tận ngày ngày 1 tháng 9 năm 1915. Ngày 9 tháng 1 năm 1915, em trai Stannie bị Áo-Hung bắt giam suốt cuộc chiến vì quan điểm phục hồi lãnh thổ. Ngày 15 tháng 9 năm 1914, do cảnh sát mật can thiệp, James Joyce bị đình chỉ công việc tại Scuola Revoltella. Ông quyết định lưu vong một lần nữa, lần này là tới Thụy Sĩ. Ở Zürich (1915–1920) Ngày 30 tháng 6 năm 1915, James Joyce cùng vợ con chuyển đến Zürich. Hơn bốn năm tại Zürich, gia đình đã bảy lần chuyển địa chỉ. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, đây là nơi tập trung nhiều người tị nạn và lãnh tụ cách mạng như Tristan Tzara, Marcel Iancu, Carl Jung, Lenin. Ở Zürich, ông kết bạn với Ottocaro Weiss và Frank Budgen Rudolf Goldschmidt. Có được được danh tiếng nhờ những tác phẩm mới xuất bản nhưng cuộc sống vật chất của Joyce vẫn không thay đổi. Ông dạy gia sư tiếng Anh và được Pound, Yeats, Wells hỗ trợ tài chính lẫn tinh thần, đặc biệt biên tập viên The Egoist Harriet Shaw Weaver đã cho tới 23.000 bảng Anh năm 1930. Hơn nữa, ông còn thường xuyên được những người hâm mộ ẩn danh gửi tới 1.500 franc mỗi tháng. Trong khi đó, B. W. Huebsch cho xuất bản A Portrait of the Artist as a Young Man lần đầu tiên tại Hoa Kỳ ngày 29 tháng 12 năm 1916. Không lâu sau, Weaver lập nên nhà xuất bản Egoist Press để cho ra ấn bản tại Anh, khi mà dường như tất cả các nhà xuất bản khác đều đã từ chối. Đầu năm 1917, Joyce bị tăng nhãn áp nghiêm trọng, ngay giữa phố mà không nhìn thấy gì, khó khăn lắm mới về được đến nhà. Mắt được chẩn đoán bị nhiều vấn đề như kích ứng, tăng nhãn áp, đục thủy tinh thể hay dính mống mắt khiến ông phải thực hiện phẫu thuật không dưới 25 lần từ năm 1917 đến 1930. Joyce thường phải đeo kính tròng tối màu để bảo vệ mắt khỏi ánh sáng chói, thậm chí có những lúc như bị mù hẳn. Theo lời khuyên của thầy thuốc, ông dành khoảng thời gian cuối năm 1917 tại thành phố Locarno. Tại đó, Joyce phải lòng yêu nữ bác sĩ Đông Phổ 26 tuổi Gertrude Kaempffer, ông còn viết cho cô về ham muốn tình dục đầu tiên của mình khi 14 tuổi. Gertrude xé thư, không trả lời. Trở thành nhân vật Gerty MacDowell trong Ulysses, cô gái trẻ có vị trí trung tâm ở chương Nausicaa, cùng với những xung động tình dục của nhân vật chính giảm xuống thành thị dâm. Trong năm 1917, ông cũng gửi Nora sách của Sacher-Masoch mà cả hai cùng thích, đây là tác giả về sau được gán tên cho hình thức khổ dâm (masochism). Ngày nay, có những bức thư tình Joyce gửi Nora cuối năm 1909 với lời lẽ đầy nhục dục được phát hiện và phổ biến tới độc giả. Quá ảnh hưởng do chiến tranh, Joyce tập trung cho tiểu thuyết mới Ulysses, kết hợp các kỹ thuật văn học thời bấy giờ. Ông chia sẻ ý tưởng của mình cho người bạn Frank Budgen (về sau trở thành người viết tiểu sử Joyce) rằng: Muốn tác phẩm có tính cách mạng về ngôn ngữ, nhà văn cố gắng phá bỏ một cách hệ thống và phát minh lại từ vựng, cú pháp tiếng Anh, như nói với Stefan Zweig: Nỗ lực táo bạo này nhằm xây dựng một ngôn ngữ phổ quát được nhà văn khởi đầu trong Ulysses và tiếp tục mở rộng đến mức cường điệu không thể dịch nổi trong Finnegans Wake. Việc lựa chọn hình tượng Ulysses huyền thoại cũng không phải ngẫu nhiên. Nhân vật là con trai của Laertes, cha của Telemachus, chồng của Penelope và người tình của tiên nữ Calypso, Joyce coi vua Ithaca đã thể hiện tất cả những nhược điểm của nhân loại nên mới là "con người hoàn chỉnh", tiêu biểu hơn cả Hamlet hay Faust. Ulysses cũng giống tác giả ở số phận ngao du, thích âm nhạc (Ulysses buộc mình vào cột buồm để nghe tiếng hát nàng tiên cá) và tính hài hước thể hiện qua câu thoại với Cyclops "Tên tôi là Outis (Không ai cả)". Theo các bản thảo hiện có, ông hoàn tất ba chương đầu Telemahiada vào cuối năm 1917 tại Locarno; chương 4-12 (từ Calypso đến Cyclops) được viết ở Zürich vào năm 1918-1919; Nausicaa và Boii Soarelui được hoàn thành ở Trieste từ tháng 11 năm 1919 đến tháng 6 năm 1920; bốn chương cuối được viết chủ yếu ở Paris cho đến tháng 12 năm 1921. Tháng 3 năm 1918, Ezra Pound hỗ trợ xuất bản tiểu thuyết này dưới dạng nhiều kỳ (giống như Portrait) trên tạp chí The Little Review tại New York. Khi đọc những câu đầu tiên chương Proteus, nhà sáng lập The Little Review Margaret Anderson đã phải thốt lên: “Đây là điều đẹp nhất mà chúng ta từng có. Chúng ta sẽ in nó ngay cả khi đó là nỗ lực cuối đời." Tuy nhiên, một số độc giả bảo thủ coi tác phẩm là thô tục, có tính phá hoại. Do đó, The Little Review bị New York Society for the Suppression of Vice (Hiệp hội chống đồi bại New York) theo dõi sát sao và tác động đến Bưu điện Hoa Kỳ tịch thu, thiêu hủy các số tạp chí: số tháng 1 năm 1919 đăng phần đầu Lestrigonii, số tháng 5 năm 1919 đăng phần cuối chương Scila và Caribda. Hè năm ấy, một phần của chương Nausicaa đầy tai tiếng bị gửi nhầm cho con gái của một luật sư ở New York, là nguyên cớ dấy lên sự đối đấu công khai giữa Thanh giáo truyền thống và chủ nghĩa hiện đại tân thời. Margaret Anderson cùng đồng nghiệp Jane Heap bị liên đới pháp lý về tội phát tán Ulysses có ngôn từ bẩn thỉu. Tại Anh là nơi ít khoan dung hơn cả Hoa Kỳ, Miss Weaver và The Egoist chỉ xuất bản những chương 2, 3, 6, 10 không tai tiếng trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 12 năm 1919. Niềm yêu thích sân khấu của Joyce càng được nâng cao nhờ môi trường văn hóa Zürich, qua một loạt biến cố, nơi đây đã trở thành trung tâm nghệ thuật kịch vào năm 1917. Cùng với nam diễn viên người Anh Claud Sykes, ông thành lập công ty kịch nghệ The English Players ở Zürich với mục đích quảng bá kịch Anh tại Thụy Sĩ. Tháng 5 năm 1918, Grant Richards (London) và Huebsch (New York) cuối cùng cũng xuất bản vở kịch Exiles. Năm 1919, theo đề xuất của Stefan Zweig, vở kịch được diễn ra mắt tại München. Năm 1918, diễn viên nghiệp dư là cựu quân nhân Henry Carr kêu ca đòi Joyce phải trả thêm tiền cho việc diễn trên sân khấu The English Players. Carr đe dọa "vặn cổ" Joyce dẫn ra hai vụ kiện cáo nhau trước tòa. Nhà văn đa tình còn vướng vào tình cảm với cô gái trẻ Marthe Fleischmann sống trong căn hộ bên kia đường. Quan hệ giữa hai người thể hiện qua những bức thư tình và bưu thiếp ký tên "Odysseus" gửi "Nausikaa". Nhưng hình ảnh Marthe sẽ được Joyce dùng làm nguyên mẫu cho các nhân vật của mình, giống như Nora, Amalia Popper hay Gertrude Kaempffer. Ngày 11 tháng 11 năm 1918, Thế chiến I kết thúc, hai tháng sau Chiến tranh giành độc lập Ireland bùng nổ. Khi được Budgen hỏi tại sao không trở về quê nhà, Joyce nêu lý do: "Vì tôi là một kẻ hèn nhát và sợ bị bắn", nỗi sợ khá chính đáng vì nhà văn bị coi là kẻ ủng hộ chính sách của Anh. Ông trở lại Trieste vài tháng nhưng chỉ còn thấy bầu không khí thù hận, thành phố hoang vắng không còn khơi dậy hứng thú lửa nhiệt tình như trước. Tháng 6 năm 1920, hai người khổng lồ của chủ nghĩa hiện đại Anh, James Joyce lần đầu tiên gặp Ezra Pound tại Sirmione. Pound gợi ý đến Paris sống, còn Joyce thấy trước khả năng dịch Portrait và Dubliners sang tiếng Pháp nên đã chấp nhận, tạo ra thay đổi mang tính quyết định cho hai mươi năm tiếp theo cuộc đời nhà văn. Paris và tác động của Ulysses (1920–1924) Ngày 8 tháng 7 năm 1920, gia đình Joyce đến Gare de Lyon, Paris, đánh dấu bước lùi trong sự phát triển tự nhiên của hai con trẻ, chúng không quen tiếng Pháp và khó khăn để thích nghi. Giorgio 15 tuổi muốn học ngành y nhưng buộc phải chọn nghề nhân viên nhà băng do rào cản ngôn ngữ. Lucia 13 tuổi bị khiêu vũ hiện đại thu hút, cô thường xuyên tập luyện với những nhân vật nổi tiếng như Raymond Duncan (anh trai của Isadora Duncan) và Lubov Egorova. Ở Paris, Joyce áp dụng lối sống tỉnh thức và chậm rãi hơn, từ bỏ cách sống phóng túng lúc trước. Ông thay đổi chỗ ở 19 lần, lâu nhất là tại số 2 Square Robiac (tháng 6 năm 1925 - tháng 3 năm 1931) và số 7 phố Edmond Valentin (tháng 7 năm 1934 - tháng 4 năm 1939). Joyce dễ dàng hòa nhập vào giới văn học Paris do tình bạn với hai nhân vật văn hóa quan trọng là Sylvia Beach và Adrienne Monnier. Monnier giới thiệu với Joyce các nhà văn André Gide và Paul Valéry. Joyce cũng quen với một người hâm mộ Ulysses cuồng nhiệt tên là Valery Larbaud; ông đánh giá nó là cuốn tiểu thuyết "vĩ đại, toàn diện và nhân văn như Rabelais". Nhà văn và phê bình nghệ thuật gốc Dublin Arthur Power đã mô tả tình bạn vài năm với Joyce trong cuốn sách của mình với tựa đề Conversations With James Joyce (Trò chuyện với James Joyce). Trong số những người Mỹ định cư tại Paris, Joyce tiếp xúc với các nhà thơ E. E. Cummings và William Carlos Williams, nhà soạn nhạc tiên phong George Antheil hay nhà văn Gertrude Stein ghen ghét vì chiếm mất vị trí đi đầu của chủ nghĩ hiện đại đáng ra thuộc về mình. Ngày 15 tháng 8 năm 1920, Joyce cùng với Giorgio đến ăn tối với T. S. Eliot, tại đó ông lần đầu gặp họa sĩ người Anh Wyndham Lewis. Lewis mỉa mai nhớ lại: "Tôi thấy con người kỳ cục đi giày da thuộc, đeo kính to dày, để ria như bánh gừng, liến thoắng tiếng Ý với cậu học sinh cau có: vào vai gã Ireland hơi quá nhưng kỹ thuật vui nhộn". Joyce gặp cả Marcel Proust năm 1922, khi Stephen Hudson mời hai người đến dự tiệc. Nhưng lần gặp duy nhất của hai bậc thầy văn xuôi theo chủ nghĩa hiện đại không mang tính văn học chút nào: theo các giai thoại, cả hai nói chuyện về nấm cục, nữ công tước hay gái hầu phòng. Cùng năm, nhà văn Djuna Barnes phỏng vấn ông để đăng trên trên tạp chí Vanity Fair. Bà và bạn là Mina Loy mỗi người phác thảo chân dung của nhà văn. Hai bản ký họa nổi tiếng khác ra đời năm 1929 dự định dùng cho cuốn Tales Told of Shem and Shaun là phần trích từ Finnegans Wake. Bức đầu tiên bị nhà xuất bản từ chối coi là tầm thường nhưng bức thứ hai trở thành "biểu tượng của James Joyce" chỉ với hình xoắc ốc cùng các đoạn thẳng. Năm 1926, để chứng minh với bạn của ông, Myron C. Nutting, rằng thị lực của mình đã được cải thiện, Joyce thực hiện một bức vẽ nhỏ trên giấy về Leopold Bloom. Dù được luật sư John Quinn ra sức bảo vệ trường phái hiện đại trước tòa, The Little Review vẫn thua kiện, Anderson và Heap bị phạt, không được quyền xuất bản Ulysses ở Hoa Kỳ nữa. Trong bối cảnh ấy, người sáng lập hiệu sách Shakespeare and Company Sylvia Beach đề nghị in tiểu thuyết này ở Paris, dù bà chưa bao giờ xuất bản sách cả. Joyce hoàn thành chương cuối vào năm 1921 nhưng quá trình xuất bản luôn gặp phải vấn đề. Ngày 8 tháng 4, thợ đánh máy Harrison hốt hoảng thông báo rằng chồng mình đọc được bản thảo chương Circe và đốt hết vì kinh tởm. Joyce buộc phải viết lại chương cuối này dựa trên bản thảo trước đó John Quinn còn giữ được. Nhà văn cảm thấy kiệt quệ và trống rỗng khi gấp rút hoàn tất cuốn tiểu thuyết: Dưới nỗ lực của Sylvia Beach, Ulysses xuất hiện tại Paris ngày 2 tháng 2 năm 1922. Chỉ vài tuần trước đó, Beach đã chuẩn bị cho những độc giả tiềm năng đăng ký sách: các nhà văn Léon-Paul Fargue, Ernest Hemingway, Ezra Pound, Robert McAlmon, Yeats và André Gide, rổi cả Winston Churchill, cháu họ của Béla Kun là giám mục Anh giáo và lãnh đạo của phong trào cách mạng Ireland, những người quan tâm, trong đó Valery Larbaud tiên đoán về tác phẩm "sự trở lại văn học châu Âu cao cấp của Ireland một cách náo động". George Bernard Shaw từ chối đăng ký, xếp Ulysses vào loại "ghi chép nổi loạn về giai đoạn kinh tởm của nền văn minh nhưng chính xác". Chính Joyce chọn màu sắc cho ấn bản đầu tiên là xanh lam, trắng gợi nhớ đến quốc kỳ và địa lý Hy Lạp đặc trưng những hòn đảo trắng rải rác trên nền lam Biển Aegea. Các tiểu thuyết nhắm trở thành "sử thi của hai dân tộc Do Thái và Ireland" đặc trưng bởi ba nhân vật: nhà văn trẻ Stephen Dedalus, Leopold Bloom (người Do Thái làm việc trong lĩnh vực quảng cáo), Molly Bloom (ca sĩ opera). Ulysses tạo ra một loạt phản ứng từ công chúng. Yeats ghi nhận tác phẩm là sự sáng tạo phi thường "không phải những gì mắt thấy tai nghe mà là tâm trí suy tưởng lang thang từ nơi này sang nơi khác". T. S. Eliot viết: Trên tờ The New Republic, Edmund Wilson gọi cuốn tiểu thuyết "có lẽ là tấm phim X quang chính xác nhất từng chụp về ý thức con người hàng ngày". Trong một bức thư, Hemingway đơn giản gọi nó là "cuốn sách tuyệt vời chết tiệt nhất" (a most goddamn wonderful book). D. H. Lawrence thấy Ulysses "kinh tởm hơn Casanova". Còn Virginia Woolf ghi nhật ký rằng "bối rối, buồn chán, cáu kỉnh và vỡ mộng" khi đọc Ulysses; trước ngôn ngữ thô tục, bà tự hỏi "Nếu có thịt chín, tại sao mọi người lại muốn ăn thịt sống?". Trên tạp chí Dublin Review, Shane Leslie mô tả cuốn tiểu thuyết bằng những từ ngữ xúc phạm như "chủ nghĩa Bolshevik viễn tưởng", "chống Cơ Đốc giáo", "đa tình" và "không thể đọc nổi",... Do tính chất gây tranh cãi, Ulysses vẫn là cuốn sách bị cấm ở các nước nói tiếng Anh cho đến thập niên 1930. Hoa Kỳ trở thành quốc gia nói tiếng Anh đầu tiên (sau Ireland) cho phép tiểu thuyết của Joyce được tự do xuất bản năm 1934, nhờ vào phán quyết của Thẩm phán Liên bang John M. Woolsey bác bỏ cáo buộc về sự thô tục trong vụ United States v. One Book Called Ulysses. Trong số người hâm mộ tác phẩm không có Nora Barnacle, được cho là chưa bao giờ đọc Ulysses hoặc cố đọc nhưng không thích nên đã dừng "ở trang 27, bao gồm cả trang bìa". Hơn nữa, mối quan hệ nhân tình nhân ngãi lại căng thẳng trên thực tế, nên mặc cho ông khuyên ngăn, Nora đưa con về Ireland vào năm 1923. Nội chiến Ireland cũng làm bi kịch hóa bối cảnh, khi chuyến xe lửa Galway-Dublin bị đạn pháo tấn công khiến Nora và Lucia hoảng sợ nằm rạp xuống sàn tàu. Sức khỏe Joyce cũng không tốt: răng đau nhức nhối nên phải nhổ bớt đi. Ngày 28 tháng 4 năm 1923, bác sĩ Joyce Louis Borsch làm thủ thuật mở cơ thắt mắt trái cho ông, làm rộng đồng tử bằng cách loại bỏ một phần mống mắt. Joyce được giảm đau bằng chườm đá và đỉa vào mắt rồi được kê đơn Ethylmorphine gốc morphin. Nhà văn có thể đã dùng cả cocaine, thời ấy cũng lan truyền đồn đại ông bị phụ thuộc vào ma túy. Nhà văn dành hè 1923 ở Luân Đôn và nghỉ mát bên bờ biển Bognor, nơi bắt đầu nghiêm túc sáng tác Finnegans Wake. Trên thực tế, hai trang tác phẩm này như Joyce từng khoe "đã được viết ra ngay sau khi phần Da của Ulysses hoàn tất" từ tháng 3, miêu tả vua Ireland Roderick O'Connor. Đến lượt nó có lẽ cũng là phác thảo đầu tiên dựa trên Tristan và Iseult, viết dành riêng cho Nora khi gặp vấn đề về thị lực. Năm 1924, Joyce quảng bá cho cuốn tiểu thuyết La coscienza di Zeno (Lời tuyên xưng của Zeno) của người bạn cũ Italo Svevo nhằm khơi dậy sự quan tâm của công chúng tới kiệt tác văn học chủ nghĩa hiện đại dường như không còn tiếng tăm. Work in Progress (1924–1932) Joyce say mê sáng tác tiểu thuyết tiếp theo Finnegans Wake, mỗi ngày cả buổi sáng từ 8 giờ sáng đến 12 rưỡi trưa, nghỉ trưa rồi lại ngồi từ 2 đến 8 giờ tối. Tiêu đề tác phẩm không được tiết lộ cho đến khi xuất bản năm 1939 mà thường được gọi bằng cái tên chung là Work in Progress (tác phẩm đang viết). Nếu Ulysses nắm bắt dòng ý thức con người ban ngày, thì Finnegans Wake là câu chuyện về đêm, nơi tiềm thức và giấc mơ xáo trộn quy ước tường thuật. Harriet Weaver là người trao đổi thư từ nhiều với Joyce khi ấy, viết rằng cuốn tiểu thuyết mới không có "chủ đề theo đúng nghĩa của từ này" mà có "cấu trúc phức tạp mờ ám xuất hiện và tái tạo một cách ngẫu nhiên". Phần đầu tiên của tác phẩm phức tạp này được xuất bản trên The Transatlantic Review ngày 1 tháng 4 năm 1924. Các phần khác tiếp tục xuất hiện trên Transition, tạp chí văn học của nhà văn Eugene Jolas cùng vợ là Maria Jolas. Hai người cổ vũ, khuyến khích nhà văn trong bối cảnh phản ứng công chúng khá tiêu cực cũng như The Dial từ chối xuất bản, khiến ông thấy mình như "cô gái 19 tuổi lần đầu vào đời". Nội dung Finnegans Wake xoay quanh một gia đình điển hình: người cha Humphrey Chimpden Earwicker (HCE) làm nghề pha chế rượu gốc Scandinavia nhân cách hóa cho thành phố Dublin (do người Viking lập ra); người mẹ Anna Livia Plurabelle (ALP), hiện thân cho dòng nước chảy, tiêu biểu là sông Liffey; hai con trai là nhà văn Shem và người đưa thư Shaun mâu thuẫn nhau như huyền thoại Cain và Abel; con gái út Issy (Isolde) bị HCE có tình cảm loạn luân, được xây dựng theo tính cách Lucia Joyce. Bên cạnh đó là nhân vật tập thể không phân biệt Mamalujo gợi lên Biên niên sử Tứ chúa Ireland Trung cổ, bốn tác giả Tin Mừng (bằng tiếng Anh là Matthew, Mark, Luke, John) hoặc bốn tỉnh của Ireland. Bản chất tuần hoàn của tác phẩm bắt đầu và dừng lại ở cùng một cụm từ (Harriet Weaver so sánh nó với Ouroboros) lấy cảm hứng từ lý thuyết lịch sử lặp lại của Giambattista Vico trong La Scienza Nuova. Một nguồn cảm hứng khác là Phúc Âm Kells. Một số nhà phê bình đương thời đó đã so sánh kỹ thuật ngôn ngữ mà Joyce sử dụng với tác phẩm của Lewis Carroll, đặc biệt là bài thơ vô nghĩa của Jabberwocky trong Alice ở xứ sở gương soi. Ông nói rằng mình không đọc Carroll, nhưng sự ảnh hưởng này có thể là do khi học opera bằng tiếng Anh. Văn phong dày đặc, tối nghĩa của tiểu thuyết mới thu hút rất nhiều chỉ trích, ngay cả những người vốn ngưỡng mộ các tác phẩm trước đây như Ezra Pound và Stanislaus Joyce. Wyndham Lewis giờ đây cũng không ngừng chỉ trích Joyce với những ngôn từ như "mất trí", "nói lắp" và "không bền". Ngay cả người cung cấp tài chính cho nhà văn, bà Weaver cũng đầy những cảm xúc trái chiều với thử nghiệm mới này: dù rất thích đoạn độc thoại của Anna Livia Plurabelle (I.8) nhưng về tổng thể thì coi tác phẩm chỉ là "sự tò mò lớn về văn học". Đa số những lời này đã xúc phạm khiến Joyce bị suy nhược trong vài tháng. Coi Weaver là độc giả yêu thích của mình, Joyce gửi lại manh mối ý nghĩa của tác phẩm và đánh bóng những từ ngữ khó hiểu đã dùng. Ngày 27 tháng 5 năm 1929, mười hai nhà văn và bạn thân của ông cùng ký vào tập tiểu luận để xuất bản nhằm xua tan vẻ mập mờ văn chương bất thường của Work in Progress. Tựa đề nhại hài hước của tuyển tập này do chính Joyce chọn là Our Exagmination Round His Factification For Incamination Of Work In Progress. Dù thị lực kém, ông không từ bỏ những thú vui trí tuệ nho nhỏ. Không thể đọc quá nhiều, Joyce mua một chiếc máy hát cùng một số đĩa nhạc hoặc nhờ bạn bè như Mary Colum, Sylvia Beach,... đọc giúp. Ông học tiếng Flemish và tiếng Tây Ban Nha qua các bản ghi âm. Joyce liên tục áp dụng lộng ngữ, chơi chữ và thử nghiệm ngôn ngữ cho Finnegans Wake đến mức trở thành nỗi ám ảnh hàng ngày, khiến cho người bạn Frank O’Connor tin rằng ông đã mắc "hội chứng liên kết" (association mania). Tháng 11 năm 1924 và tháng 8 năm 1929, Joyce ghi âm lại giọng mình đọc các đoạn trích chương Aeolus (Ulysses), Anna Livia Plurabelle (Finnegans Wake). Bản ghi âm năm 1929 được thực hiện trong phòng thu của nhà ngôn ngữ học Charles Kay Ogden, Harold Nicolson nhận xét "Anh ấy có giọng tuyệt vời nhất mà tôi từng biết - nhẹ nhàng tinh tế như lời thì thầm dưới nước." Ngoài việc suy giảm thị lực và thái độ không ủng hộ của độc giả, một loạt các sự kiện khó chịu đã ảnh hưởng đến nhịp độ sáng tác Finnegans Wake cuối thập niên. Tạp chí Two Worlds và Two Worlds Monthly của Samuel Roth đã in lậu Ulysses cùng các phần Finnegans Wake mà không tôn trọng quyền tác giả của Joyce. Joyce liền kêu gọi quốc tế ngăn chặn sự bất công bằng cách thu thập được 167 chữ ký từ những nhân vật quan trọng như Albert Einstein, Benedetto Croce, Giovanni Gentile, Hugo von Hofmannsthal, Luigi Pirandello, các nhà phê bình Virginia Woolf, Wyndham Lewis, D. H. Lawrence. Vụ này không được tòa xử cho đến cuối năm 1928. Mùa xuân năm 1927, kỳ nghỉ ngắn ngày trên bờ biển Hà Lan bị thời tiết xấu phá hỏng và trở nên ác mộng khi ông bị chó tấn công giống như thuở nhỏ. Cùng năm đó, tập thơ thứ hai Pomes Penyeach ra đời nhưng các nhà phê bình thờ ơ đón nhận. Tháng 11 năm 1926, chồng Eileen là Frantisek Schaurek tự sát vì vấn đề tài chính. Tháng 9 năm 1928, Italo Svevo qua đời vì một cơn đau tim. Cũng trong năm 1928, Nora Barnacle phải nhập viện phẫu thuật vì nghi ngờ mắc ung thư. Nhưng tồi tệ nhất chắc chắn là cái chết của người cha ngày 29 tháng 12 năm 1931, Joyce cảm giác tội lỗi nặng nề vì đã gần 20 năm không hề thăm ông. Trong sự trầm uất lạ lùng, Joyce đặt tên cho các ngày trong tuần theo cách rất bi thương: Monday (thứ Hai) thành Moansday (ngày than khóc), Tuesday (thứ Ba) thành Tearsday (ngày nước mắt), Wednesday (thứ Tư) thành Wailsday (ngày kêu khóc), Thursday (thứ Năm) thành Thumpsday (ngày thổn thức), Friday (thứ Sáu) thành Frightday (ngày hãi hùng), Saturday (thứ Bảy) thành Shatterday (ngày vỡ nát). Giữa những xáo trộn và trở ngại đó, ông cho rằng mình sẽ không bao giờ hoàn thành nổi Work in Progress, thậm chí còn có ý định giao tác phẩm cho nhà văn James Stephens mà chỉ quen biết mơ hồ. Cách thức này dường như dựa trên một số trùng hợp "ngẫu nhiên": tên James Stephens dường như hợp nhất với Stephen Dedalus do nhà văn sáng tạo ra, ông còn nhầm tưởng Stephens cũng sinh ngày 2 tháng 2. Cuối cùng điều này cũng không xảy ra. Vì "lý do thừa kế" đảm bảo quyền lợi hợp pháp của con cái, Joyce chính thức kết hôn với Nora Barnacle tại một văn phòng đăng ký hộ tịch ở Luân Đôn ngày 4 tháng 7 năm 1931. Dù dự định định cư lâu dài tại thủ đô nước Anh vào đầu hè, nhưng ông lại rời Kensington khi thu đến, vì Paris cuốn hút. Ngày 10 tháng 12 năm 1930, Giorgio cưới Helen Kastor Fleischman người Mỹ gốc Do Thái từng ly hôn. Ngày 15 tháng 2 năm 1932, họ sinh con đầu (và duy nhất) tên là Stephen James Joyce. Nhà văn ghi lại hai dấu mốc quan trọng đời mình - cha chết và cháu chào đời - thành những câu thơ bất tử Ecce Puer (1932): Câu này trùng hợp với lời sau cuối của John Stanislaus "Jim không bao giờ quên tôi". Trong khi đó, Lucia Joyce luôn phải chịu áp lực phải bước ra khỏi cái bóng của người cha nổi tiếng khi đến tuổi trưởng thành. Năm 1929, sau một tháng "khóc", Lucia quyết định từ bỏ nhảy múa dù đã có thành công ban đầu khi chiến thắng cuộc thi Bal Bullier. Đam mê nghệ thuật thị giác, Lucia tham gia các lớp học vẽ, nhờ đó sau này trang trí chữ cái viết tắt cách điệu cho tập thơ A Chaucer ABC của Geoffrey Chaucer và Poems Penyeach. Bị chàng trai trẻ Samuel Beckett thu hút đầy ám ảnh, hai người bắt đầu hẹn hò vào năm 1930, nhưng hành vi kỳ lạ, lo lắng, bất an của Lucia cũng như sự can thiệp của Nora đã đẩy Beckett ra xa. Beckett nói rõ rằng mình quan tâm đến Lucia chủ yếu vẫn là do cha cô, khiến Lucia cảm thấy bị từ chối. Lucia dồn nén nỗi tức giận với người cha khổng lồ và người mẹ khắt khe. Ngày 2 tháng 2 năm 1932, nhằm sinh nhật Joyce, Lucia bộc phát thịnh nộ ném cả chiếc ghế vào mẹ mình, biểu hiện bệnh lý tâm thần. Trong ba năm tiếp theo, Lucia liên tục phải chuyển từ nhà đến các phòng khám và điều dưỡng khác nhau ở Pháp, Thụy Sĩ, với chẩn đoán bị tâm thần phân liệt thể thanh xuân (hebephrenia) hay tâm thần phân liệt (schizophrenia). Cô hai lần bị ngất nơi công cộng tại Gare de Nord và Zürich Bahnhof bị giảm trương lực kéo dài vài ngày cũng như nhiều khoảnh khắc cuồng loạn hoặc trầm cảm, cách điều trị thời bấy giờ (buộc phải bất động bằng áo khoác bó) càng làm trầm trọng rối loạn tâm lý của Lucia. Cô sống một thời gian ở Luân Đôn với Harriet Weaver, rồi ở Ireland cùng người thân, hay có những hành vi lệch lạc như đốt phá, tự sát hay chạy trốn khiến phải nhờ cảnh sát can thiệp. Năm 1934, cô trở thành bệnh nhân của Carl Jung, người sau khi đọc tiểu thuyết Ulysses đã kết luận rằng chính Joyce cũng bị bệnh tâm thần phân liệt. Jung ví hai cha con đều đang rơi xuống đáy sông, nhưng trong khi cô con gái tuyệt vọng chìm nghỉm thì người cha thể hiện khả năng lặn sâu chuyên nghiệp. Joyce đã cố gắng vô ích trong việc tái hòa nhập Lucia vào xã hội, sắp đặt đính hôn với một ông Alex Ponisovsky nào đó hoặc cố gắng biến niềm đam mê chữ cái của cô thành một nghề kiếm sống. Cuối cùng, tháng 4 năm 1936, người thân coi là bệnh không thể phục hồi, Lucia bị giam lại trong Ivry-sur-Seine Asylum gần 15 năm. Năm 1951, mười năm sau khi James Joyce qua đời, Lucia được chuyển đến St Andrew's, Northampton, Samuel Beckett có đến thăm một lần. Bệnh tâm thần của Lucia Joyce đến giờ vẫn là một chủ đề nhạy cảm và gây tranh cãi, đặc biệt nhà viết tiểu sử Carol Loeb Shloss đã có những diễn giải mới trong Lucia Joyce: To Dance in the Wake năm 2003. Shloss nhấn mạnh Lucia có tài thực sự, được sinh ra trong chủ nghĩa hiện đại, giống như Icarus đã đến quá gần mặt trời , là nghệ sĩ "Dionysian", hoàn toàn không bị tâm thần phân liệt. Sách đề cập việc Lucia ghi chép Finnegans Wake cho cha mình, còn người họ hàng Bozena Schaurek nhìn thấy cô đang lặng lẽ nhảy múa trong phòng nơi Joyce chỉnh sửa bản thảo. Hai cha con dường như đã trao đổi sâu sắc song song giữa nghệ thuật, khiêu vũ và viết lách, từ đó mang lại cảm hứng cho Joyce sáng tác tiểu thuyết cuối cùng. Shloss cho rằng sự trừu tượng và mật mã trong Finnegans Wake đến từ "bảng chữ cái không thể diễn đạt được" dành riêng cho cử điệu khiêu vũ. Ngay cả lúc giãy giụa giữa nơi điều trị, Lucia cũng đang chật vật tìm nguồn cảm hứng mới cho cha. . Shloss kết luận "Nơi cô ấy [Lucia] gặp cha mình không phải ở ý thức, mà là ở nơi nguyên thủy hơn nhiều của tiền ý thức". Chính một người viết tiểu sử khác là Brenda Maddox cũng phóng đại mối quan hệ cha con nhà Joyce này là "một trong những chuyện tình vĩ đại của thế kỷ 20". Hơn thế nữa, Shloss lần lượt cáo buộc hai nhà viết tiểu sử Richard Ellmann, Brenda Maddox và cả Nora Barnacle khăng khăng khẳng định Lucia bị điên. Họ cùng những người thân, bạn bè khác của Joyce muốn xóa đi bất kỳ dấu vết nào của Lucia lập dị, bị coi là vết nhơ trong tiểu sử James Joyce. Năm 1988, Stephen James Joyce đã hủy bộ sưu tập gần ngàn lá thư Lucia gửi cha hoặc Samuel Beckett gửi Lucia. Năm sau đó, Stephen cũng đứng ra xóa bỏ đoạn kết dành riêng cho Lucia trong cuốn Nora: The Real Life of Molly Bloom (Nora: cuộc đời thực của Molly Bloom) của Brenda Maddox. Cuối đời (1932–1941) Tháng 10 năm 1932, Joyce từ chối lời mời của Yeats tham gia Viện Hàn lâm Văn học Ireland mới thành lập nhằm bảo vệ quyền các nhà văn khỏi sự kiểm duyệt ngày càng gắt gao của Nhà nước tự do Ireland bảo thủ và định hướng Công giáo. Lý do từ chối khá khó hiểu chỉ gói gọn rằng mình đã rời quê hương gần 30 năm trước nên hoàn toàn không hề có ý định sống ở Ireland nữa. Do Lucia tâm lý bất ổn, năm 1933 thật sự khó khăn với James Joyce, sức khỏe ông tiếp tục xấu đi. Vào tháng 5, ông đến Zürich để gặp bác sĩ nhãn khoa riêng cũng như tìm cách điều trị cho con gái. ông ở lại vài ngày tại khu nghỉ dưỡng Évian-les-Bains nhưng không thoát khỏi cơn đau dạ dày sẽ hành hạ ông đến tận cuối đời. Được chẩn đoán "đau dạ dày do dây thần kinh" nhưng thực sự đây là bệnh viêm loét dạ dày tá tràng có thể gây tử vong. Gia đình nảy sinh biến cố mới, vợ của Giorgio là Helen cũng bị trầm cảm và tâm thần, phải nhập viện điều trị tại nhiều viện điều dưỡng khác nhau, chịu số phận giống như Lucia. Không còn mẹ, đứa bé Stephen được ông bà nội chăm sóc. Ngày 18 tháng 12 năm 1940, trước lễ Giáng sinh cuối đời Joyce, hai ông cháu mạo hiểm Zürich đầy tuyết trắng để tìm kiếm ấn bản sử thi Hy Lạp bằng tiếng Pháp. Chống lại chủ nghĩa chuyên chế, Joyce không tin rằng những nhà độc tài như Mussolini hay Hitler sẽ thành công, còn các vấn đề chính trị Nội chiến Tây Ban Nha làm ông ngán ngẩm. Năm 1938, sau khi Đức Quốc Xã sáp nhập Áo, Joyce tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ cho khoảng 15, 16 người Do Thái đến Anh và Mỹ. Người nổi tiếng nhận giúp đỡ trong việc này chính là nhà văn thành Viên Hermann Broch. Chủ yếu do hiểu lầm về vấn đề tài chính quanh tác phẩm Ulysses mà mối quan hệ với Sylvia Beach và Adrienne Monnier không thể hàn gắn được, Joyce buộc phải kiếm người bảo trợ kiêm quản lý mới, đó là Paul Léon, một người Nga nhập cư giàu có gốc Do Thái. Ông tập hợp xung quanh một loạt những người như Beckett, Budgen, Gilbert,... để giải thích tác phẩm theo đúng ý mình cho công chúng, trong khi hình ảnh thực thì không được tiết lộ, trở nên bí ẩn với những người không quen biết. Ông cũng khéo léo kiểm soát người viết tiểu sử cho mình Herbert Gorman để bỏ đi những đoạn không mong muốn. Joyce coi cả những sự cố nhỏ vô ý cũng là hành vi cố tình chống lại mình, ví dụ năm 1931, ông khởi kiện (nhưng không thành công) tờ Frankfurter Zeitung vì đăng bài người khác nhưng lại lấy tên mình. Dù phản đối việc kiểm duyệt Ulysses, nhà văn rất quan tâm đến việc dịch các tác phẩm của mình sang thứ tiếng khác. Bản tiếng Pháp của chương Anna Livia Plurabelle (Nouvelle Revue Française ngày 1 tháng 5 năm 1931) do chính Joyce cộng tác cùng với bảy nhà văn khác, được ông coi là "một trong những kiệt tác dịch thuật", chứng minh "không có gì là không thể dịch được". Bản dịch tiếng Ý năm 1937 của Nino Frank bị ông ngạc nhiên cho rằng ngôn ngữ nhẹ nhàng đã phản bội lại nguyên tác. Ulysses được dỡ bỏ lệnh cấm tại Hoa Kỳ (tháng 12 năm 1933) và Vương quốc Anh (1936), các ấn bản đầu tiên Bennett Cerf, Random House xuất bản tại Hoa Kỳ và Bodley Head của Allen Lane cho ra mắt tại Anh. Joyce lại tập trung vào Work in Progress bắt đầu từ năm 1922, tự ép bản thân làm cho nó "thật hơn cả thực tế". Bằng nỗ lực bền bỉ của cả nhà văn lẫn nhóm giúp cho Finnegans Wake ra mắt ngày 4 tháng 5 năm 1939. Trực giác Paul Léon mách bảo trước bối cảnh chiến tranh sắp xảy đến, tác phẩm sẽ khó liên hệ thời cuộc và khó hiểu với độc giả bình thường, nhưng cũng khẳng định: Phản ứng độc giả đối với Finnegans Wake năm 1939 trải từ bối rối đến khinh thường ra mặt. Sunday Times cho rằng nó "không liên quan đến văn học" (literary irrelevant) còn người bạn cũ Oliver Gogarty lại coi là "tác phẩm văn học khổng lồ nhất kể từ Ossian của Macpherson đến nay". Mặc dù cho đến cuối tháng 6 đã bán được 4.000 cuốn ở Hoa Kỳ nhưng bản thân Joyce lại coi đây là một "thất bại". Chiến tranh bùng nổ, Đức chiếm đóng Pháp khiến Joyce phải tìm đường trở lại Thụy Sĩ. Thủ tục hành chính (xin giấy phép rời Pháp cũng như thị thực vào Thụy Sĩ, cũng như gia hạn hộ chiếu Anh) rất khó khăn, nhưng đến ngày 14 tháng 12 năm 1940, ngoại trừ Lucia, cả nhà Joyce đã được rời Pháp qua ngả Saint-Germain-des-Fossés (gần Vichy). Joyce nỗ lực đưa Lucia ra khỏi môi trường hỗn loạn này đã thất bại; cuối tháng 11, khi dường như đã xong mọi thủ tục thì Đức Quốc xã thu hồi giấy phép và Lucia phải ở lại viện điều dưỡng tại Pháp. Ông mong muốn chuyển con gái đến Zürich cho an toàn, nhưng việc ông đột ngột qua đời tháng sau đó đã chấm dứt mọi dự định. Nora và Giorgio thì có vẻ không quan tâm đến số phận Lucia. Hồi 4:40 sáng ngày 10 tháng 1 năm 1941, cơn đau dạ dày hành hạ khiến Joyce tỉnh dậy. Ảnh chụp X-quang cho thấy có vết loét thủng, chảy máu bên trong. Ngày 11 tháng 1, bác sĩ tiến hành phẫu thuật, lúc đầu dường như có vẻ thành công hồi phục nhưng sau vài giờ, Joyce rơi vào hôn mê và được truyền máu. Hồi 1 giờ sáng ngày 13 tháng 1, ông tỉnh lại, kêu y tá gọi Nora và Giorgio, nhưng đã tử vong trước khi hai người có mặt. Khám nghiệm tử thi xác định nguyên nhân cái chết là do viêm phúc mạc. Nhà điêu khắc Paul Speck được yêu cầu tạo hình mặt nạ từ xác Joyce, ghi lại trung thực hình ảnh sầu khổ, mất hết sức lực. Ngày 15 tháng 1, Joyce được an táng tại nghĩa trang Fluntern ở Zürich. Khi được hỏi có thể tổ chức tang lễ theo nghi thức Công giáo, Nora trả lời "Tôi không thể làm điều như vậy với anh ấy". Về sau, Nora muốn cải táng cho Joyce về Ireland nhưng bị hàng ngũ giáo phẩm Công giáo phản đối. Như để trả thù, bà không nhượng lại bản thảo Finnegans Wake cho Thư viện quốc gia Dublin mà chấp thuận với Harriet Weaver chuyển nó về Thư viện Anh. Ngày 10 tháng 4 năm 1951, Nora Barnacle qua đời và được chôn cất cùng nghĩa trang với James Joyce. Năm 1966, cả hai cùng được cải táng, đưa về chung một "mộ vinh danh", phía trên đặt tượng James Joyce. Sáng tác Danh sách Stephen Hero (Người hùng Stephen, 1904 - 1946), tiểu thuyết xuất bản 1944 Chamber Music (Nhạc thính phòng, 1907), tập thơ Giacomo Joyce (1907), tập thơ Dubliners (1914), tập truyện ngắn A Portrait of the Artist as a Young Man (1916), tiểu thuyết Exiles (1918), kịch Ulysses (1922), tiểu thuyết Pomes Penyeach (Thơ một xu một bài, 1927), tập thơ Collected Poems (Tuyển tập thơ, 1936), tập thơ Finnegans Wake (1939), tiểu thuyết The Cat and the Devil (Con mèo và ác quỷ, 1965), tập truyện ngắn The Cats of Copenhagen (Những con mèo Copenhagen, 2012), tập truyện ngắn Tác phẩm tiêu biểu Dubliners Dubliners là tuyển tập 15 truyện ngắn xuất bản lần đầu năm 1914, mô tả theo chủ nghĩa tự nhiên đời sống của tầng lớp trung lưu Ireland trong thành phố Dublin và vùng phụ cận đầu thế kỷ 20. Các truyện ngắn này được viết khi chủ nghĩa dân tộc Ireland cũng như quá trình tìm kiếm bản sắc dân tộc đang ở đỉnh cao. Joyce khắc họa bản sắc đó như bước đầu tiên trong công cuộc giải phóng tâm linh ở Ireland. Các truyện tập trung tư tưởng của Joyce vào sự thấu tỏ: khoảnh khắc khi nhân vật trải nghiệm được tự thân thấu cảm hoặc được soi sáng về thay đổi cuộc đời. Nhiều nhân vật trong Dubliners về sau tiếp tục xuất hiện là các vai phụ trong Ulysses. Những truyện đầu tiên được kể qua lời đứa trẻ nhân vật chính. Các truyện tiếp theo đề cập đến cuộc sống và mối quan tâm của những người đã trưởng thành già dặn hơn. Điều này phù hơp với việc tác giả chia tuyển tập thành ba phần tương ứng với thời thơ ấu, thanh thiếu niên và trưởng thành. A Portrait of the Artist as a Young Man A Portrait of the Artist as a Young Man xuất bản năm 1916 là bản thu gọn của tiểu thuyết Stephen Hero đã bị bỏ dở. Đây là một tác phẩm thuộc thể loại Künstlerroman, miêu tả thời thơ ấu và thiếu niên của nhân vật chính Stephen Dedalus cũng như sự trưởng thành từng bước về tự ý thức nghệ thuật. Tác phẩm vừa là tự truyện của tác giả đồng thời là chuyện đời của nhân vật chính hư cấu. Tác phẩm này gợi lên các kỹ thuật mà Joyce sử dụng trong các tác phẩm về sau như dòng ý thức, độc thoại nội tâm hay chú trọng phần tâm linh bên trong hơn là khai thác vẻ bên ngoài của nhân vật. Exiles và thơ ca Dù lúc ban đầu rất yêu thích sân khấu, Joyce chỉ xuất bản một vở kịch với tựa đề Exiles vào năm 1918. Vở kịch đề cập đến mối quan hệ vợ chồng, là cầu nối từ The Dead (truyện cuối trong Dubliners) và chuyển tiếp tới Ulysses được Joyce khởi bút trong thời gian đang viết kịch. Joyce xuất bản cả thảy ba thi phẩm. Tập thơ đầu tiên là Chamber Music (1907) gồm 36 bài, về sau được đưa vào Imagist Anthology do Ezra Pound biên tập. Các tác phẩm thơ khác mà thi sĩ xuất bản khi còn sống là Gas from a Burner (1912), Pomes Penyeach (1927) và Ecce Puer (1932). Những tác phẩm này đều được nhà xuất bản Black Sun Press đưa vào tuyển tập Collected Poems (1936). Ulysses Nội dung Ulysses bắt đầu lúc 8 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1904 và kết thúc khoảng sau 2 giờ sáng hôm sau. Diễn biến đa phần nằm trong tâm trí nhân vật, thông qua các hình thức như độc thoại nội tâm, đối thoại cho đến soliloquy. Tiểu thuyết gồm 18 chương, mỗi chương ứng với một tiếng đồng hồ trong ngày, bằng phong cách văn chương độc đáo. Joyce cấu trúc mỗi chương tương ứng với một phần riêng biệt trong Odyssey của Homeros cũng như một màu sắc, một ngành nghệ thuật hay khoa học cụ thể, một bộ phận trên cơ thể. Cấu trúc chương hồi này không có trong nguyên bản nhưng khoảng năm 1921, nhà văn đã đưa ra hai phiên bản cấu trúc tác phẩm cho Ulysses, gọi là Lược đồ Linati và Lược đồ Gilbert. Ulysses đặt nhân vật và diễn biến vào bối cảnh Dublin năm 1904, đại diện Odysseus, Penelope, Telemachus bằng Leopold Bloom và vợ Molly Bloom cùng Stephen Dedalus. Nó sử dụng tính hài hước, như nhại lại, châm biếm và hài kịch để đối lập nhân vật trong tiểu thuyết với hình mẫu của Homeros. Tác giả hạ yếu tố thần thoại xuống bằng cách bỏ hết tiêu đề chương để có thể đọc tác phẩm độc lập với cấu trúc sử thi Homeros. Ulysses có thể coi là tác phẩm nghiên cứu Dublin năm 1904, khám phá các khía cạnh khác nhau của đời sống thành phố kể cả sự nghèo đói và đơn điệu ẩn chứa trong đó. Joyce từng nói nếu Dublin biến mất thì có thể dùng nó làm hình mẫu để dựng lại. Nhằm đạt được đến mức ấy, ông dựa vào trí nhớ của mình cũng như thu nhận từ người khác để tạo ra chi tiết thật tỉ mỉ. Nhà văn thường tham khảo Danh mục Thom ấn bản năm 1904 — liệt kê toàn bộ chủ sở hữu, người thuê nhà các khu dân cư và bất động sản của Dublin — để đảm bảo chính xác khi viết ra. Lối kết hợp cách viết đa sắc, dựa vào lược đồ chính thức để cấu trúc câu chuyện và chăm chút tinh tế đến từng chi tiết của tác phẩm đã đóng góp cho sự phát triển văn học hiện đại thế kỷ 20. Finnegans Wake Finnegans Wake là tiểu thuyết thử nghiệm đẩy dòng ý thức và ám chỉ văn học đến cực điểm. Mặc dù có thể đọc tác phẩm từ đầu đến cuối, Joyce dùng lối chơi chữ để biến đổi những ý tưởng, cốt truyện truyền thống cùng sự phát triển nhân vật, cho phép đọc không theo trình tự. Cách chơi chữ thể hiện bằng thứ tiếng Anh đặc biệt khó hiểu và phức tạp. Cách tiếp cận này có phần giống nhưng cao hơn nhiều so với Jabberwocky của Lewis Carroll, dựa trên nhiều loại ngôn ngữ. Tính chất liên tưởng của ngôn ngữ cấu thành khiến tác phẩm được hiểu là câu chuyện về giấc mơ. Siêu hình học Giordano Bruno mà Joyce đọc lúc trẻ đóng vai trò quan trọng trong Finnegans Wake vì đưa ra khuôn khổ để các nhận dạng nhân vật tương tác và được chuyển hóa. Quan điểm Giambattista Vico về chu kỳ lịch sử đã cấu trúc nên câu chuyện của tác phẩm, thể hiện bằng lời mở đầu và lời kết. Nói cách khác, tác phẩm kết thúc bằng vế đầu của một câu và bắt đầu bằng vế cuối chính câu đó, biến câu chuyện thành một chu trình đồ sộ lặp đi lặp lại. Chủ đề Theo Harry Levin, tác phẩm của Joyce xoay quanh hai chủ đề ám ảnh: nghệ sĩ và thành phố. Đô thị hiện đại kiểu mẫu Dublin thiếu hẳn vẻ đẹp, còn người nghệ sĩ truyền bá thẩm mỹ thì bị dư luận phẫn nộ coi là tà giáo, không thể hòa nhập được. Giải pháp duy nhất là cứ lưu vong tha hương. Nghệ sĩ: Chủ đề thẩm mỹ Lý thuyết quan trọng nhất của Joyce về nghệ thuật, thẩm mỹ, nghệ sĩ xuất hiện trong chương thứ năm của A Portrait of the Artist as a Young Man cho đến Proteus, Scylla và Caribda của Ulysses. Các quan điểm được thể hiện trong Portrait gắn chặt với học thuyết Tôma Aquinô và Aristoteles về trật tự và hệ thống (cosmos), dường như mâu thuẫn với văn xuôi Joyce về sau được chuyển sang vô trật tự hỗn mang (chaos). Trong Finnegans Wake, nhà văn ghép chaos với cosmos lại thành chaosmos để tổ hợp các mặt đối lập đặc trưng cho tác phẩm của mình. Umberto Eco tuyên bố "Portrait không phải là tuyên ngôn thẩm mỹ của Joyce, mà là bức chân dung nhà văn không còn tồn tại khi hoàn thành phác thảo tự truyện và bắt đầu sáng tác Ulysses." A Portrait of the Artist as a Young Man Bất chấp việc bỏ đạo, nghệ sĩ đối với Joyce vẫn là "một thầy tu với khả năng sáng tạo không giới hạn, chuyển đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống sinh nhai hằng ngày vào trong một cơ thể lộng lẫy của cuộc sống bất diệt". Sự biến đổi hiện thực thông qua nghệ thuật do đó được so sánh với quá trình chuyển hóa thánh thể; ông thế tục hóa các hoạt động tôn giáo, chỉ giữ quy định nghi lễ và kỷ luật Dòng Tên. Theo Stephen Dedalus, ba giới luật do Tôma Aquinô đưa ra được dùng làm nền tảng cho sự sáng tạo thẩm mỹ: integritas (toàn vẹn), consonantia (hài hòa) và claritas (sáng lên). Integritas có nghĩa là tách biệt nghệ thuật ra khỏi thế giới và coi nó là một chỉnh thể. Consonantia nghĩa là nhận thức được độ phức tạp và khả năng phân chia của chủ thể, trong đó các yếu tố cấu thành kết hợp hài hòa với nhau. Claritas được Dedalus liên kết với khái niệm học thuật khác quidditas (bản thể) để chỉ khoảnh khắc tối thượng của sự mạc khải nghệ thuật. Nhà văn dùng thuật ngữ epifanie (hiển linh) để chỉ về trải nghiệm nghệ thuật theo cách gọi là "bắt giữ được thẩm mỹ", Joseph Campbell đặc biệt đề cao khái niệm này, hay còn gọi là stasis (trạng thái). Nhân vật chính phân biệt hai loại nghệ thuật: chuẩn tắc và bất quy tắc. Nghệ thuật bất quy tắc khơi dậy cảm xúc "động" (ham muốn hoặc từ chối), trong khi nghệ thuật chuẩn tắc là sự mặc khải "tĩnh" về cái đẹp, nỗi bi thương (thương xót hoặc kính sợ): Vì vậy, nghệ sĩ là người khám phá ra ý nghĩa sâu xa của thế giới trong khoảnh khắc xuất thần (epifanie) rồi bày tỏ nó thông qua văn thơ, tái xác định thực tế bằng lời văn. Ulysses Trong chương Proteus, Stephen Dedalus tiếp tục suy ngẫm về nghệ thuật trên Bãi biển Sandymount. Khởi nguồn từ luận thuyết Aristoteles De sensu et sensili (Cảm nhận và giác quan) và De Anima (Về linh hồn) cho rằng kiến thức con người thu được thông qua nhận thức (giác quan), nhân vật giả định rằng mắt người không thể nhận ra được bản chất sự vật, mà chỉ nắm được sắc màu ảo tưởng bề ngoài của vũ trụ đang biến đổi không ngừng. Nhận thức của con người bị giới hạn và sai lệch, đồng thời: Nhân vật Dedalus cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Laokoon oder über die Grenzen der Mahlerey und Poesie (Laocoon hay về giới hạn của hội họa và thơ ca) của Lessing, trong đó phân biệt thẩm mỹ rạch ròi giữa nghệ thuật thị giác (hội họa, điêu khắc,...) với văn chương, nên không thể bắt chước hay sao chép nhau. Hội họa là nghệ thuật mang tính không gian khơi dậy cảm xúc khi sắp xếp các yếu tố cạnh nhau (nebeneinander) còn văn học lại có tính thời gian khi liên kết các phần nối tiếp với nhau (nacheinander) như âm nhạc. Proteus trở thành chương quan trọng trong toàn bộ Ulysses ở chỗ khởi đầu từ những nguyên tắc triết học truyền thống, nó tạo ra bước nhảy vọt theo chủ nghĩa hiện đại, phá vỡ quy ước nghệ thuật cũ một cách ngoạm mục. Nếu hai chương trước đề cập đến nền tảng triết học thì Proteus là sự tự do thử nghiệm. Theo Umberto Eco, chương này đã làm tan biến "triết học Aristotle trong nhạc biển rì rào" bằng kỹ thuật độc thoại nội tâm. Do đó, vị thần Proteus có khả năng biến hình là biểu tượng của sự đổi mới nghệ thuật và tư tưởng, chuyển thực tại thô sơ lên các hình thức cao hơn. Tuy nhiên Ulysses vẫn giống như thần Janus hai mặt, kết hợp truyền thống (chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa hiện thực) với hiện đại. Dị giáo: Chủ đề tôn giáo James Joyce không bao giờ phủ nhận rằng linh hồn mình "vấn vương với học phái Aquinas" nhưng văn chương thu hút hơn sự kêu gọi thiên thượng. Đối với ông, nghệ thuật trên hết có nghĩa là tự do suy nghĩ và nổi loạn chống lại những khuôn mẫu sẵn có, thể hiện ra cái tôi cá nhân mà giáo hội lúc trước từng kết tội là dị giáo và sa ngã. Tự ví mình với "kẻ dị giáo" nổi tiếng Giordano Bruno bị giáo hội kết án, ông thậm chí còn lấy tên đó thành bút danh kiểu Anh cho mình là Gordon Brown. Tuy vậy, nhà văn vẫn gắn mình với một số biểu tượng Kitô giáo, ví dụ ông so sánh sự hy sinh của Chúa Giêsu với cách Parnell bị các đồng minh chính trị phản bội bỏ rơi, hay Đức Trinh Nữ Maria luôn là biểu tượng nữ tính. Umberto Eco so sánh Joyce với các giáo sĩ tự do thời Trung Cổ đã khước từ giáo luật nhưng vẫn giữ lại khuôn mẫu văn hóa giáo hội trong tư tưởng. Thái độ rõ ràng của người nghệ sĩ được Stephen Dedalus thể hiện qua lời nói: "Tớ sẽ không phục vụ cái gì tớ không còn tin tưởng nữa, dù cái đó là gia đình, tổ quốc hay tôn giáo của tớ." Tôn giáo thất bại là chủ đề chính của hai truyện ngắn Sisters (Chị em gái) và Grace (Ân sủng) trong tập Dubliners. Trong Sisters, việc Cha Flynn không thể cầm chén thánh trong tay đánh dấu sự mất niềm tin và tâm linh lạc bước. Truyện Araby lấy lại biểu tượng chiếc chén để mô tả bí mật sự hấp dẫn tính dục đầu tiên cũng là mất đi tính thơ ngây con trẻ: "Tôi tưởng tượng mình đang ôm chặt một ly rượu thánh vượt qua tầng tầng lớp lớp kẻ thù." Đối với Hélène Cixous, chiếc chén trên tay đứa trẻ còn có ý nghĩa hơn thế, nó là biểu tượng Ngôi Lời cùng những giá trị nghệ thuật không giới hạn. Không giống với chén thánh tôn giáo "khô cạn" là những lời cầu nguyện vô ích đến Deus otiosus (Chúa vắng mặt), chén thánh nghệ thuật luôn đầy tràn ý nghĩa như "cái sừng sung túc". Truyện Grace nhại lại chủ đề cứu chuộc và cảnh báo rằng giáo lý tôn giáo không được người thường đón nhận đúng đắn: có thể bị chế giễu hoặc làm theo như mê tín dị đoan; như vợ nhân vật chính là Kernan được mô tả "Đức tin tôn giáo gần đây với chị ta cũng trở thành một thói quen,[...] nếu có thể, chị ta cũng sẽ tin vào thần banshee và Chúa Thánh thần." Như là dấu hiệu chống lại quá khứ Công giáo, Joyce đưa một loạt yếu tố báng bổ, dị giáo hoặc ngoại giáo vào tác phẩm của mình. Trong chương Telemah, nhân vật Buck Mulligan bắt đầu "nghi thức" cạo râu bằng cách tụng Introibo ad altare Dei, rồi chia trứng tráng thành ba (cho anh ta, Stephen và Haines) và cầu In nomine Patris et Filii et Spiritus Sancti. Chúa bị Buck Mulligan coi là "kẻ thu thập dương bì" còn Stephen Dadelus gọi là "Người sói! Kẻ nhai thuốc độc!". Toàn bộ chương Circe thể hiện rõ ràng sự đảo ngược các chuẩn mực tôn giáo, đạo đức, lý trí hoặc hành vi, là cú đột phá của phân tâm học vào những vùng tối nhất trong tiềm thức. Joyce sử dụng các yếu tố tân ngoại giáo gắn liền với phong trào văn hóa Phục hưng Celtic ở Ireland đầu thế kỷ 20 cùng với triết học Nietzsche. Đô thị: Chủ đề xã hội Khi khắc họa thành phố hiện đại, James Joyce từ chối tô vẽ lên một hiện thực trần trụi và ngột ngạt: tập truyện Dubliners tập trung vào các mảnh đời bất hạnh bị những gì tầm thường đề bẹp. Khi bàn về một số tác phẩm Ireland bị tô vẽ lý tưởng hóa, ông cảm thấy ghê tởm coi đó là lời dối trá trắng trợn. Dubliners phản ánh các vấn đề như nghiện rượu, bạo lực gia đình, phản bội lừa đối, cô đơn... Các chủ đề nghiêm trọng hơn không được nhắc đến trực tiếp nhưng vẫn thể hiện ra như buôn thần bán thánh hay ấu dâm. Cixous so sánh tập truyện với tầng địa ngục thứ tám của Dante, với nhận xét rằng tập truyện bắt đầu với một cái chết và kết thúc bằng truyện có tựa đề The Dead (Người chết), đó là dấu hiệu đời sống Ireland luôn bị một thế giới quá khứ đã mất ám ảnh. Ý tưởng này được nhắc lại trong Ulysses, khi hồn ma mẹ Stephen hiện lên "với khuôn mặt thối rữa xanh lè và mất mũi" giống như banshee. Song trên tất cả, nội dung chính của Dubliners là sự bất lực đến tê liệt, được hiểu theo nghĩa đen trong Sisters và bóng gió bằng nỗi sợ, miễn cưỡng, thụ động trong các truyện khác. Chính Joyce từng tuyên bố trong thư rằng "Tôi kêu gọi loạt truyện Dubliners để phản lại sự bại liệt phân nửa hoặc hoàn toàn từ cốt tủy của một thành phố". Các nhân vật trong tập truyện đều ít nhiều đi ngược lại nhân tính thông thường, dường như cam chịu tê liệt ngay cả trong những khoảnh khắc đáng lẽ ra có thể nhận được hạnh phúc. Trong Eveline, nữ chính chỉ nhìn bạn trai vô định bất lực, không biết nên cùng đi Mỹ hay ở lại với gia đình tại Ireland, sự do dự đến mức sững sờ tê liệt không đáp lại nổi lời kêu gọi của người yêu: Tương tự như vậy trong các truyện khác, tiêu biểu với The Dead, Gabriel kể giai thoại con ngựa chuyên kéo đi vòng tròn nên không thể đi theo hướng khác được nữa. Đó là cách Joyce dùng biểu tượng để lên án sự thụ động của người Ireland. Frank Budgen đánh giá cao việc xây dựng tính cách nhân vật bình dị tầm thường của nhà văn, cho rằng nhờ đó mà có sức lan tỏa phổ biến, Ulyssess chỉ diễn ra một ngày tại một thành phố xác định nhưng hành trình của xác thể nào đang sống động và suy nghĩ thì khắp mọi nơi đều hiểu được, giống như âm nhạc hay hội họa vậy. Harold Bloom cho rằng chủ đề của Ulysses thực ra rất đơn giản: lòng tốt vô điều kiện chiến thắng bạo lực và quyền lực thấp hèn. Từ góc độ này, tiểu thuyết có thể được coi là bản tuyên ngôn chống lại chủ nghĩa sô vanh tàn bạo. Gia đình là một chủ đề quan trọng khác trong các tác phẩm của Joyce. Theo Hélène Cixous, thoạt đầu gia đình được xem như mô hình thu nhỏ của Dublin, mô phỏng tất cả các mối quan hệ xã hội của thành phố ở tầm cỡ nhỏ hơn. A Portrait of the Artist as a Young Man tập trung vào xung đột giữa người con trai nổi loạn với cha mẹ, Stephen ghét bỏ mẹ mình vì tôn giáo của bà và khinh thường cuộc đời người cha đầy thất bại. Đến Finnegans Wake, mỗi cá nhân thành viên trong gia đình trở nên ít quan trọng hơn, gia đình không còn được coi cấu trúc cho xã hội, mà tồn tại hoàn toàn độc lập. Cixous thấy rằng từ Finnegans Wake, gia đình không còn là thể thống nhất trong thế giới của Joyce, chỉ còn là "sự sắp xếp hỗn loạn xoay quanh người cha" Hình tượng người cha trong Portrait, Udyssess hay Dubliners thường hiện ra không có uy tín: nghiện rượu cùng bạo lực, nghèo đói cùng thất bại, hoặc là một "kẻ bị cắm sừng" dễ mến nhưng bất lực. Trong Scylla and Caribda, Stephen Dedalus nói rằng "Quan hệ cha con có thể là một hư cấu hợp pháp", từ đó đặt câu hỏi về tính xác thực của gia đình, "người cha" chỉ còn là sản phẩm của trí tưởng tượng mà không có tính thực tế tự nhiên. Phong cách và ngôn ngữ Rất khó để đóng khung tác phẩm của James Joyce vào một khuôn khổ nhất định, đa số tương ứng với chủ nghĩa hiện đại (với kiệt tác Ulysses), nhưng cũng có cả trào lưu như chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên (đặc biệt là các truyện trong tập Dubliners). Christopher Buttler cho rằng các tác phẩm từ Stephen Hero đến Finnegans Wake đánh dấu những bước phát triển văn học quan trọng từ thời đại Tượng trưng sang chủ nghĩa hậu hiện đại. Harry Levin nhận xét A Portrait of the Artist as a Young Man thuộc về chủ nghĩa tự nhiên còn Finnegans Wake là thử nghiệm chủ nghĩa tượng trưng. Stuart Gilbert so sánh phong cách của Joyce có sự tương đồng với trường phái Điểm họa của các họa sĩ như Seurat trong đó có kết hợp giữa chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng và sự chính xác nhìn thấy được. Trên hết, có nguồn gốc từ Ibsen, chủ nghĩa hiện thực của Joyce vẽ ra sự hủy diệt ảo vọng và lý tưởng con người khi đối mặt với thực tế tàn khốc. Nhu cầu trình bày hiện thực này trực tiếp đưa Joyce đến những hình thức biểu đạt mới giúp xác định lại mối liên hệ giữa ngôn từ và nội dung. Ngôn ngữ trong Chân dung người nghệ sĩ thời trẻ phát triển song song với sự trưởng thành của nhân vật chính. Chương đầu tiên mang đến cái nhìn con trẻ thông qua vốn từ vựng ngây thơ, rồi dần mở rộng phát triển thành cách nói của người lớn, có liên quan chặt chẽ với nhau nhưng không lẫn vào nhau được. Hélène Cixous phân tích rằng khung cảnh là một loạt hình ảnh "tinh nguyên" in hằn lên tâm trí đứa trẻ trước khi đủ lớn để mà hiểu rõ. Truyện Sisters sử dụng những từ khó hiểu của người lớn như paralysis (tê liệt) hay simony (buôn thần bán thánh) đầy bí ẩn để tiên báo tuổi thơ ngây trong trắng mất đi do thực tại hư hoại và trống vắng khi trưởng thành. Khi Stephen Dedalus đã lớn, ngôn ngữ trong Portrait vay mượn nhiều thuật ngữ triết học hơn và tự nội tâm hóa bản thân, không còn nhạy bén với kích thích bên ngoài mà trở nên trầm lắng, báo hiệu một tâm lý độc lập nhưng cũng lạ lùng so với trước đó. Từ thời thơ ấu, Stephen Dedalus đã thấy ngôn ngữ không hề hoàn thiện, có sự phân biệt như "God" hay "Dieu" đều chỉ về một Thiên Chúa. Tiếp sau trong Scylla and Charybdis, ngôn từ được đơn giản hóa và nghĩa mơ hồ hơn. Có lẽ chân dung tự họa này của Joyce đang cố gắng tìm kiếm một ngôn ngữ mới, để rồi tạo ra một thứ tiếng mới thực sự trong Finnegans Wake được Robert McAlmon gọi là "Quốc tế ngữ trong tiềm thức". John P. Anderson nói về Finnegans Wake "Giống như Tháp Babel. Hơn nữa, nếu trong mơ ai đó nói tiếng Na Uy với anh, anh cũng không hề ngạc nhiên vì vẫn hiểu được". Tương tự như Portrait, mỗi chương của Ulysses thể hiện một ngôn ngữ biểu đạt phát triển ở mức hoàn hảo, nhưng độc giả không chỉ bắt gặp một ý thức duy nhất mà là của cả một nhóm nhân vật. Chủ nghĩa nhiều quan điểm (pluriperspectivism) đặt ba nhân vật chính (Stephen Dedalus, Leopold Bloom, Molly) vào trung tâm, cùng các nhân vật phụ mang tính hỗ trợ. Joyce chuộng phương pháp tâm lý độc thoại nội tâm (dòng ý thức) để nhân vật bộc lộ suy nghĩ trực tiếp, hoặc phong cách tự do gián tiếp khi quan điểm chủ quan của nhân vật chính kết hợp và hòa vào với người kể chuyện ở ngôi thứ ba. Nhiều lần, đặc biệt trong phần hai, Ulysses tránh khỏi quan điểm của một nhân vật cụ thể để khám phá ý thức tập thể của cả thành phố hoặc văn hóa nói chung. Katie Wales coi cả Stephen Dedalus lẫn Leopold Bloom đại diện bách khoa cho văn hóa nhân loại: Stephen hiện thân cho cao tầng (triết học, biện chứng,...) còn Bloom tiêu biểu cho bình dân đại chúng. Niềm yêu thích của nhà văn với sự phát triển văn hóa được thể hiện chủ yếu bằng vòng lặp trong văn chương, tích hợp và bắt chước các phong cách sáng tác, phương thức giao tiếp, dùng cả tiếng lóng cho đến những thuật ngữ chuyên ngành khô khan. Ví dụ rõ nét có thể thấy ở chương Oxen of the Sun, tác giả tán dương và nhại lại mọi phong cách văn học Anh từ Trung cổ đến thế kỷ 19, đối chiếu giữa quá trình tiến hóa bào thai trong bụng mẹ tương ứng với sự phát triển ngôn ngữ văn chương. Chương này có thể là sự tôn vinh nhưng đồng thời cũng tạo nên khoảng cách với truyền thống trong quá khứ, như T. S. Eliot nói Oxen đã phơi ra "tính không hiệu quả của tất cả các phong cách Anh ngữ". Chương Aeolus khái lược tất cả các biện pháp tu từ, ở đó có ẩn dụ, hoán dụ, prolepsa, epiphora, epimona, chiasmus, diaeresis, từ tượng thanh, điệp âm, antanaclase, epizeuxis,... Chương Sirens đầy dẫy những từ tượng thanh giản lược, các đoạn lặp lại dưới dạng leitmotif, câu văn tạo nên chủ đề khác thường, gợi nhắc Stuart Gilbert về tẩu pháp trong âm nhạc. Chương Cyclops là câu chuyện mang quan điểm hạn chế và độc đáo, được một người kể lại đầy xúc, cố tình gian xảo cắt gọt thực tế bằng thứ ngôn ngữ chế giễu, khoa trương cùng tư duy đầy thành kiến. Thường bị những đoạn nhấn mạnh ngắt quãng được trích từ sổ ký lục, sử thi, báo chí, tình tiết giật gân hoặc cảm xúc, Cyclops phát triển phong cách cường điệu "khổng lồ" và "chủ nghĩa Gargantua", cuối cùng là nhại lại sự ích kỷ hẹp hòi. Chương Nausicaa thoạt đầu tạo ra thế giới công chính của Gerty MacDowell theo phong cách tình cảm lấy từ tạp chí phụ nữ đương thời hay hình ảnh hôn nhân Công giáo lôi cuốn, nhưng khi chuyển sang độc thoại nội tâm của Leopold Bloom, lời văn trở nên thu hút, mang nhiệt huyết lên đến đỉnh điểm cao trào. Chương Circe là vở kịch dàn dựng theo chủ nghĩa biểu hiện, ngôn từ có sức mạnh mới, tạo ra được thực tế và khải tượng song song với nhau. Ngôn ngữ chương Eumaeus tự cao, sung mãn nhưng sáo rỗng, dùng những cụm từ dài và ngoắt ngoéo, thường là ám chỉ văn chương mà không có giải thích. Bên cạnh bầu không khí quá u ám và tinh thần mệt mỏi của các nhân vật, chương truyện dài quá mức có thể là sự lên án những điển cố xưa từ văn hóa Alexandria. Karen Lawrence coi Eumaeus là sự phá hoại có chủ đích của Joyce nhằm chống lại nguyên tắc cao trào của tiểu thuyết. Ngôn ngữ văn xuôi ở đây kìm hết lại phát biểu của nhân vật, đảo ngược kỹ thuật các chương trước, trong khi ý thức nhân vật chính ngược lại làm xáo trộn cấu trúc nội dung. Có những đoạn văn mà việc nắm bắt ý nghĩa bằng từ ngữ là dường như vô ích, Karen Lawrence nhận thấy đó là các tiến trình cảm xúc và tâm lý chứ không phải đang diễn đạt điều gì đó. Tiến trình giải thể nhân cách được tiếp tục và tăng cường trong chương Ithaca, nơi các nhân vật dường như chìm vào đại dương ngập tràn chi tiết. Theo Wolfgang Iser, cấu trúc chương gồm một loạt câu hỏi cùng câu trả lời chính xác bằng ngôn ngữ kỹ thuật khô cứng gợi nên ý tưởng rằng câu trả lời không làm phong phú kiến thức thu nhận mà chỉ ra mức độ hạn chế cũng như khó khăn dường nào để nắm bắt chân lý. Joyce nói Ulysses kết thúc tại chương Ithaca vì chương cuối Penelope không có mở đầu hay kết thúc mà lặp lại không ngừng thành chu kỳ. Được cấu trúc trong tám câu quá dài mà không hề chấm câu, Wolfgang Iser nhận xét đoạn Molly Bloom độc thoại trong Penelopexóa bỏ hoàn toàn thuyết viễn tưởng hay thuyết định mệnh mà quá khứ vẫn được tiếp tục tái tạo liên hồi đến vô tận. Theo Harry Levin, Ulysses đã bỏ qua thủ tục kể chuyện thông thường mà mời gọi độc giả chia sẻ dòng trải nghiệm không khác biệt, xóa nhòa đối tượng và từ ngữ dùng để mô tả đối tượng đó. Anthony Burgess nhận xét trong các tác phẩm của Joyce, ngôn từ và chủ đề đã trở thành một thể thống nhất không thể tách rời. Mấu chốt của Odysseus nằm ở chỗ linh hồn ở mỗi giai đoạn đều có một ngôn ngữ riêng. Liên văn bản. Ám chỉ văn học và thần thoại Tiểu thuyết Ulysses là một trong những ví dụ phức tạp nhất về liên văn bản trong lịch sử văn học, nó sao chép Odyssey của Homeros rồi liên tục tiến hành chỉnh sửa. Việc Telemachus đi tìm cha cũng giống như Stephen cố gắng xác định cha mẹ thuộc linh nơi Leopold Bloom. Hải trình của Odysseus tương tự như Bloom lang thang ở Dublin, "đại dương vật chất" bị một Poseidon tàn nhẫn cai trị. Hơn nữa, vai người chồng của nhân vật chính bị hàng loạt "kẻ cầu hôn" đe dọa, những người khao khát có được yêu Penelope - Molly Bloom. Giống như Penelope, Molly chỉ sống trong bầu không khí gia đình nhỏ bé, cách xa thế giới "nghiêm trọng" và căng thẳng của nam giới, thậm chí còn nói: "Tôi không thể chịu nổi những chuyện về chính trị". Cũng dệt và cắt những sợi dây tình ái nhưng khác với nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, Molly không thể khuất phục trước những tiến bộ thời đại về tình dục. Trong bản gốc Odyssey, Penelope giúp chồng chiến thắng những kẻ cầu hôn nhưng trong tiểu thuyết Ulysses của Joyce, thông qua dòng ý thức, chiến thắng này là về mặt tinh thần khi Molly gạt Boylan ra khỏi đầu để quay lại với Bloom. Tính liên văn bản kết nối ở mức chi tiết: trong chương Cyclops, điếu thuốc trên tay Bloom gợi nhớ lại khúc gỗ đang cháy Odysseus dùng chọc mù Polyphemus; trong Circe, tú bà Bella Cohen bị ví như một mụ phù thủy biến đàn ông thành lợn. Nhà văn cũng rất quan tâm đến từ nguyên của những cái tên trong sử thi Hy Lạp. Từ "Telemachus" ghép từ tele (xa) với machos (trận chiến) nghĩa là "chiến đấu từ xa", gợi ra số phận Stephen Dedalus quyết định cô lập chính mình trong tháp ngà nghệ thuật, tránh xa những đam mê vụn vặt và sự dữ vô nghĩa của thế gian. Ông còn nghĩ ra từ nguyên khá khó hiểu "Outis + Zeus", trong đó "Outis" ("không ai cả") là cái tên Odysseus xưng ra với Cyclops, từ đó dường như nhằm phủ nhận thần tính nhân vật tối cao đỉnh Olympia. Do đó, Ulysses vẽ ra một vị thần từ bỏ bản tính mà rơi vào cám dỗ vật chất, thậm chí ông liên kết chủ đề này ngay với sự hy sinh của Chúa Giêsu. Ám chỉ thần thoại rõ ràng nhất của Joyce chính là tên nhân vật Stephen Dedalus, tương ứng kiến trúc sư huyền thoại Daedalus, gợi lên vận mệnh nghệ thuật, đồng thời là mê cung không lối ra hay nguy cơ bị hủy diệt khi bay tới mặt trời. Ngoài thần thoại Hy Lạp, Joyce cũng sử dụng nhiều hình ảnh lấy từ truyện dân gian Ireland, Kinh Thánh và văn học cổ điển,... Trong chương Telemachus, việc bà vú già xuất hiện trước cửa nhà Dedalus và Mulligan sáng ngày 16 tháng 6 tương ứng với câu chuyện nữ thần Athena biến thành bà già đến viếng thăm Telemachus đoạn đầu Odyssey. Nhưng ở khía cạnh khác, bà có thể được so sánh với biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc Ireland Kathleen Ní Houlihan già cả nghèo nàn nhưng đã kêu gọi thanh niên chiến đấu giải phóng Ireland. Nhân vật Do Thái Leopold Bloom có xu hướng được liên kết với những hình tượng trong Kinh Thánh. Chương Eumeus mô tả Bloom giống như người Samari nhân lành khi bước ra từ nhà chứa của Bella Cohen "ông phủi hết rác bụi trên quần áo Stephen, đồng thời đưa cho mũ và gậy, động viên anh ấy." Với chương Scylla and Caribda, Buck Mulligan so sánh Bloom với người Do Thái lang thang, nhưng cũng ví với hình ảnh người thủy thủ già của Coleridge. Ở cuối chương Cyclops, Bloom rời khỏi hiện trường theo cách siêu thực, bay lên trời trong một cỗ xe lửa giống như Elijah, tái xác nhận nguồn gốc Do Thái của mình trước kẻ thù (chống Do Thái). Con trai Bloom là Rudy chết ngay sau khi sinh được coi như con chiên hiến tế theo truyền thống Abraham. Xác được bọc trong "áo lông cừu", đến chương Circe, Bloom ảo giác nhìn thấy con mình giống như "chiên con". Một ám chỉ mới về Do Thái là hình ảnh cậu bé cầm sách đọc từ phải sang trái. Liên tục là các ám chỉ về hiến sinh: chương Ithaca nói Rudy sinh ngày 29 tháng 12 ngay sau Lễ kỷ niệm tàn sát hài nhi. Theo một truyền thuyết tiền Homerus, Odysseus toan giết con trẻ mình là Telemachus để phát điên, rồi không phải tham gia Chiến tranh thành Troia vì ông không muốn phải ra tay làm đổ huyết vô tội. Chủ nghĩa hòa bình của Odysseus được đồng nhất với Leopold Bloom ở chỗ cần phải giết một sinh tế vô tội để trả giá. Theo José Lanters, cả Stephen Dedalus và Rudy đều là những vị cách của Telemachus, tạo ra thế lưỡng nan cho Ulysses: Stephen là Telemachus thoát chết, còn Rudy lại là sinh tế trong truyện thần thoại. Trong Finnegans Wake, Joyce đặt ra bản ballad Ireland kể về Tim Finnegan, một thợ nề chết do ngã cầu thang. Finnegan sống lại nhờ bạn bè vô tình đổ rượu whisky lên xác, vì rượu whisky là "uisce beatha" (nước sự sống trong tiếng Ireland). Câu chuyện dường như nhắm vào cách giải thích thơ ngây về đức tin Kitô giáo quan niệm cái chết và phục sinh, được tác giả dùng làm cớ diễn đạt tính chu kỳ lịch sử. Nguồn cảm hứng khác là Quyển sách của cái chết cùng thần thoại Ai Cập nói về sự phục sinh của Osiris. Frank Budgen đã phát hiện sự tương đồng của tác phẩm với thi ca cổ Bắc Âu, đặc biệt là Edda mô tả ngày hủy diệt Ragnarök lại kéo theo quá trình sáng tạo mới. Ám chỉ văn học trong tác phẩm của Joyce cũng nhiều như thần thoại vậy. Giống như trong Thần khúc, Dante cùng Vergilius đi từ địa ngục lên thiên đàng, Bloom và Stephen tại chương Ithaca cùng chiêm ngưỡng "cây thiên đường đầy trái ướt". Chương Circe được so sánh với cảnh Đêm Valpurgia trong Faust, hay với tiểu thuyết Venus im Pelz của Sacher-Masoch hoặc La Tentation de Saint Antoine của Flaubert. Trong Finnegans Wake, Joyce viết lại truyện ngụ ngôn Aesop Kiến và cào cào dưới tựa đề The Ondt and the Gracehoper, một kiểu chơi chữ cho tựa đề Anh ngữ The Ant and the Grasshopper, trong đó ondt xuất phát từ tiếng Đan Mạch có nghĩa là ma quỷ hoặc xấu xa (hoặc đơn giản là nói lái của don't nghĩa là không được hay cấm) còn gracehoper là người khao khát ân điển. Umberto Eco giải thích nhà văn Shem là cào cào, "người nghệ sĩ nhìn tới tương lai, tăng trưởng và phát triển"; còn người đưa thư Shaun là con kiến, bị neo vào chủ nghĩa truyền thống trì trệ. Nhà phê bình România Sandulescu liệt kê hàng trăm ám chỉ văn học từ Finnegans Wake, liên kết với Shakespeare (Hamlet, Macbeth, Othello, Julius Caesar, A Midsummer Night's Dream,...), Ibsen, Dante, Rabelais hoặc Swift. Diễn giải Tác phẩm của James Joyce là đối tượng để các hệ thống triết học hoặc tâm lý học thế kỷ 20 nhắm đến phân tích lý giải, chẳng hạn như cấu trúc luận, hậu cấu trúc và giải cấu trúc, phân tâm học, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa hậu thực dân. Thêm vào đó là những diễn giải quan điểm tác giả về các vấn đề như chủ nghĩa dân tộc hoặc Công giáo. Nơi thu hút những tranh luận chính là tạp chí học thuật James Joyce Quarterly do Đại học Tulsa phát hành từ năm 1963. Một đóng góp quan trọng đến từ tạp chí tiên phong tiếng Pháp Tel Quel đã đưa chú giải cấu trúc luận đầu tiên về những tác phẩm của Joyce. Do sự phức tạp của những tác phẩm như Finnegans Wake hay Ulysses, hiện vẫn chưa có ý kiến thống nhất về thông điệp truyền tải, ngữ nghĩa của từ hay thậm chí nhận dạng các nhân vật. Như Richard Ellmann viết ngay ở phần đầu tiểu sử "Chúng ta vẫn đang học hỏi để trở thành người cùng thời với James Joyce." Cấu trúc luận Cấu trúc luận tìm cách liên hệ tác phẩm của Joyce với các lĩnh vực rộng hơn như ngôn ngữ học cấu trúc do Ferdinand de Saussure phát triển và nhân học cấu trúc của Claude Lévi-Strauss. Hai chuyên ngành đều giả định rằng các hiện tượng ngôn ngữ, tinh thần và xã hội được tổ chức dựa trên những quy luật tiềm thức, do đó "cấu trúc" như ngôn ngữ, nghi lễ tôn giáo, giao tiếp, quan hệ trong gia đình có trước mỗi cá nhân; đa phần là quan hệ đẳng cấu. Chủ nghĩa cấu trúc bắt đầu từ tiền đề rằng đằng sau văn chương dường như hỗn loạn ẩn giấu một "cấu trúc" phức tạp tham chiếu, tham khảo về văn hóa và ngôn ngữ. Các quy luật chi phối cấu trúc này quan trọng hơn là nội dung văn bản hay bất cứ yếu tố riêng lẻ tách biệt khỏi bối cảnh. Clive Hart trong Structure and Motif in Finnegans Wake (Cấu trúc và mô típ trong Finnegans Wake) viết "Không thể coi mô hình cấu trúc trong Finnegans Wake theo con mắt thẩm mỹ chỉ hữu dụng cho tác giả mà không liên quan đến độc giả, vì mô hình này hỗ trợ phần lớn ý nghĩa tác phẩm." Trong Le Poetiche di Joyce, Umberto Eco nhận thấy rằng từ chương Proteus, Ulysses mang đến khả năng "hình thức giữ vai trò chủ đạo và tách biệt rõ ràng khỏi nội dung". Beckett viết về Work in Progress "Ở đây, hình thức là nội dung, nội dung là hình thức... Tác phẩm không viết về cái gì đó mà tự thân chính là cái đó." Margot Norris coi việc Joyce sử dụng nhiều phong cách văn học khác nhau, cuối cùng là để "tấn công vào quan niệm truyền thống về cấu trúc". Áp dụng điêu luyện nhiều mô hình cấu trúc, nhà văn chứng tỏ rằng không thể chỉ bám vào một cấu trúc ổn định. Robert Scholes coi Joyce là một nhà cấu trúc học avant la lettre (chưa hoàn bị) vì đã bỏ đi tính vị kỷ của mình: dù trong tự truyện, Leopold Bloom và Humphrey Earwicker thấm nhuần cá tính của những người khác hoặc hình tượng văn học hơn là của Joyce. Sự phổ quát hóa bản ngã này là đặc điểm cần thiết cho tư duy cấu trúc luận vốn bác bỏ chủ nghĩa nhân văn châu Âu. Scholes diễn giải rằng cách mạng cấu trúc luận "đã đặt một loại Thiên Chúa trở lại vũ trụ, nhưng không phải là Thiên Chúa giống con người đầy tính ích kỷ, cứ giận dữ khi ý Chúa bị nghịch lại, đó là Thiên Chúa không thể bị châm chọc vì Ngài là nền tảng vũ trụ, là hệ thống tối cao đặt ra khuôn mẫu cho vạn vật". Hậu cấu trúc và giải cấu trúc Jacques Derrida bác bỏ cấu trúc luận là thần bí siêu hình cũng như triết học châu Âu truyền thống vì chúng áp đặt lên thế giới quan cụ thể và độc đáo. Derrida lấy nhiều ví dụ từ Platon và Rousseau để chứng minh rằng tư tưởng triết học được xây dựng xung quanh phép siêu hình về hiện diện, trong đó nguyên lý nhị phân đối lập thể hiện ở chỗ nếu một yếu tố là "hiện diện" siêu việt thì yếu tố kia chính là "vắng mặt" của nó. Derrida thường chứng tỏ rằng những lý thuýt đó thường bị đảo ngược ngay cả khi độc giả đi theo cách giải cấu trúc, vì ngôn ngữ có tính mơ hồ, một yếu tố trước đây vốn bị xem thường coi nhẹ lại trở nên sáng rõ về sau. Đối với Derrida, Joyce cố gắng tránh khỏi phép siêu hình học về hiện diện bằng cách triệt để áp dụng tính mơ hồ đó, như vậy văn chương có thể được thoải mái diễn giải mà không ủng hộ lập trường nhất định nào. Nhà triết học này coi Edmund Husserl và James Joyce là "hai hình mẫu vĩ đại, hai mô hình tư tưởng, cũng là [...] mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lịch sử". Trong khi Husserl chọn một ngôn ngữ đơn nghĩa (univocity) hoàn toàn, có tính khoa học thuần túy, không thể giải cấu trúc, thì Joyce lại chọn lối diễn đạt lập lờ (equivocation) "chồng chất ẩn dụ, mơ hồ và nhiều lớp ngữ nghĩa". Derrida coi tác phẩm của Joyce là "đề án" "xuất phát từ điểm chống lại thuyết lịch sử quyết định với mong muốn thoát ra khỏi cơn ác mộng lịch sử, làm chủ được nó và quay ngược được hiện tại". Một số nhà phê bình phê phán Derrida giải thích về Joyce theo cách rất tài tử; Derrida hiếm khi trực tiếp sử dụng văn bản tác phẩm của Joyce mà lại bắt đầu từ những ấn tượng thông thường hay các nguồn thứ cấp. Phân tâm học Dù chính Joyce phản đối các kỹ thuật phân tâm học, gọi đó là "một dạng tống tiền, không hơn không kém" nhưng một số nhà phê bình vẫn thử tiếp cận theo chiều hướng này. Jean Kimball giải mã trong Portrait và Ulysses có những dấu hiệu về nỗi ám ảnh khôn nguôi của Stephen đối với hình bóng mẹ mình, Stephen cố giải quyết nỗi ám ảnh này trong Circe. Nhân vật thậm chí còn tuyên bố "amor matris" (tình yêu tử cung) là điều duy nhất có thật trong đời. Theo Kimball, một biểu tượng thú vị là hình ảnh đại bàng (biểu trưng của Roma, gắn với giáo hội Công giáo) trong Portrait được cô Dante mang ra dọa "móc mắt" bọn trẻ không vâng lời, chính là nói về sự áp đặt tình dục của giáo hội, đồng thời nhắc lại hình phạt một số nhân vật ngoại giáo như Prometheus hay Oedipus phải gánh chịu. Margot Norris cho rằng trong Finnegans Wake, mối quan hệ nhân quả của những sự kiện trong tường thuật tiểu thuyết được thay thế bằng các liên tưởng gần kề theo trình tự liên tưởng tự do phân tâm học. Xem xét các chủ đề như huynh đệ tương tàn, mâu thuẫn cha con, loạn luân, tình tay ba, cho thấy gia đình Humphrey Chimpden Earwicker là một hình mẫu về phức cảm Oedipus, bị các nguyên tắc gia trưởng chế ngự, tan nát vì những dằn vặt tội lỗi sâu sắc (nguyên tội hoặc tội loạn luân và sát phụ theo Freud). Derek Attridge nói rằng cốt truyện tiểu thuyết mở ra "giống như giấc mộng" cùng với "sự bùng nổ của thế giới vô trật tự đầy những thú vui thơ ấu và ham muốn tiềm thức". Nhà văn đã dùng tất cả các ví dụ về "giấc mơ điển hình" được Freud mô tả trong Die Traumdeutung (Diễn giải giấc mơ) thành động lực cho Finnegans Wake, phát minh lại ngôn ngữ để tái tạo cơ chế, cô đọng và thay thế giống như trong mơ. Norris cũng nhận thấy dấu hiệu của sự thay thế ngôn ngữ như malapropism, từ ngữ mang nghĩa kép và portmanteau (kết hợp hai từ thành một từ chính). Barbara MacMahon cho rằng ngôn ngữ ngông cuồng của Joyce thực chất là "sự lỡ lời của tiềm thức" (Fehlleistungen) mà Sigmund Freud đề cập, nó vượt qua kiểm soát bản thân, thế giới bị kìm nén của tiềm thức tự vô tình bộc lộ ra ngoài. Cùng Theo ý tưởng này, Colin MacCabe tuyên bố Finnegans Wake là "sự lỡ lời liên tục". Đề xuất của MacMahon có cơ sở từ những lý thuyết do Jacques Lacan và Julia Kristeva đề ra; theo đó, thông qua ngôn ngữ cách tân, chủ nghĩa hiện đại văn học nói chung bày tỏ sự xáo trộn "Thứ tự biểu trưng" (Symbolic Order), là sự xâm lấn của tiềm thức. Tuy nhiên, cách diễn giải bằng phân tâm học nổi tiếng nhất thuộc về Jacques Lacan, người đã dành riêng hội thảo Le sinthome về Joyce năm 1975-1976. Lacan cho rằng đối với Joyce, văn bản có chức năng ngăn ngừa sự hình thành rối loạn tâm thần, là “nút thắt thêm vào" kết nối ba lớp phân tâm học (Thực tồn, Tưởng tượng, Biểu trưng) trong một gút Boromean. Một sinthome như vậy dùng để giải quyết khi "Nom-du-Père" vốn cần thiết cho bất kỳ hoạt động tâm thần bình thường nào lại bị thiếu vắng hoặc thất bại. Jean Guy Godin xác định tập bán tự truyện Portrait đã mô tả cuộc khủng hoảng thơ ấu của nhà văn: nhân vật Stephen cảm thấy buồn chán, ghê tởm trước người cha thất bại, không còn là hình mẫu phù hợp cho anh nữa. Chủ nghĩa nữ quyền Đọc tác phẩm của Joyce theo lăng kính chủ nghĩa nữ quyền cố gắng thiết lập vai trò nữ nhân vật như Molly Bloom, Issy hay Anna Livia Plurabelle trong thế giới nhà văn. Mặc dù có sự thông cảm và hài hước, Joyce thường bị chỉ trích vì mô tả phụ nữ giới hạn trong hình thể, bị ám ảnh tình dục còn trí tuệ luôn thua kém hơn nam giới. Molly Bloom cho thấy sự thiếu hụt về tri thức so với chồng mình khi hỏi "luân hồi" là gì trong Calypso, thậm chí còn có khuynh hướng phản trí tuệ trong Penelope với lời nói đối lập hoàn toàn với bản độc thoại đầy tri thức của Stephen Dedalus trong Proteus. Sự hiện diện của những nhân vật nữ trí thức (Molly Ivors trong The Dead) là rất mờ nhạt, chỉ thoáng qua ngoài lề. Khởi đầu từ mối quan hệ giữa Gabriel Conroy với Molly Ivors, Marian Eide trực cảm được nỗi sợ của nhân vật nam khi bị trí tuệ nữ giới thay thế cũng như soán ngôi nam tính. Do đó, sự kỳ thị nữ giới (được gán cho Joyce) tác động tới việc mở rộng nữ quyền cũng như xác định lại vai trò trong bình đẳng giới. Khi đề cập đến một số chỉ trích của Gertrude Stein, ông nói "Tôi ghét phụ nữ trí thức", dù những người như Sylvia Beach, Harriet Shaw Weaver, Margaret Anderson, Maria Jolas đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự nghiệp văn chương của ông. Nữ quyền với tiềm năng soán ngôi của nam tính là chủ đề dường như được lặp lại trong Ulysses. Dưới sự quản lý của Bella Cohen, Leopold Bloom biến thành phụ nữ giống như Teiresias (Circe) trong thần thoại; Molly Bloom trong cơn mê khao khát đã tự vấn chính mình: "Mình sẽ không nói không nếu được làm đàn ông một lần còn hơn là một phụ nữ xinh đẹp" (Penelope). Đối vưới trường hợp này, Joseph Campbell nhấn mạnh hơn về khía cạnh bí truyền: Circe là nghi lễ khai tâm để Bloom quay trở lại giai đoạn song tính (Androgyny) ban sơ. Bằng cách tiếp cận thần thoại tương tự, Nor Hall thử liên kết Anna Livia Plurabelle với những nữ thần tiền Cơ Đốc như Demeter, Hecate hoặc Artemis. Theo Margot Norris, gia đình trong Finnegans Wake có cấu trúc thứ bậc, người cha ở trên cùng đại diện cho luật lệ và truyền lại thẩm quyền cho con trai. Norris nhận thấy Anna Livia Plurabelle không gì khác hơn là mẫu phụ nữ hiện lên trong tâm trí đàn ông khi mơ. Trong tác phẩm của Joyce, nhân vật nữ thường chỉ là những công cụ đơn thuần hoặc gắn bó chặt chẽ trong mối liên hệ với các nhân vật nam: là tiên nữ muse hay nymph đến trợ giúp, hoặc mẹ, vợ, con gái, bồi bàn hay gái điếm. Florence Howe tin rằng văn xuôi của Joyce tiếp tục đặt phụ nữ "khác lạ" giống như toàn bộ truyền thống văn học vẫn xoay quanh nam giới. Carolyn Heilburn phê phán nhà văn không có khả năng tưởng tượng ra "một người phụ nữ nằm ngoài các quy tắc truyền thống" hay cao hơn để "phụ nữ như hình mẫu của nhân loại". Mary Ellmann nhận định chương Penelope bao hàm một khuôn mẫu cũ kỹ khi gán nữ tính với thuyết phi lý, rằng Molly Bloom không thể kiểm soát tư tưởng mình giống như không thể tác động vào kinh nguyệt vậy. Trên thực tế, một số độc giả nữ nhạy cảm có thể thấy bị xúc phạm khi đọc cách Molly tự do thể hiện những ảo tưởng tình dục của cô. Mary Collum mô tả đoạn độc thoại nội tâm ấy là sự "bày tỏ tâm trí kỳ quặc, tạo nên từ con khỉ cái đã hư hỏng do tiếp xúc với con người", "chương này không dành cho người thường mà giống như phòng thí nghiệm". Mặt khác, Hélène Cixous coi chương này là sự kết tinh của đam mê và trí tưởng tượng đa hình, một minh chứng thực sự về "văn chương nữ tính" (écriture féminine) chống lại lối diễn ngôn gia trưởng phụ quyền. Theo cách hiểu này, Molly Bloom không còn là một phụ nữ đa tình tục tĩu nữa mà chính là đang từ chối khuôn sáo gia trưởng về đức hạnh và trong trắng. Maud Ellmann cho rằng khác truyền thống văn học luôn gán đàn ông với trí tuệ, phụ nữ với xác thịt, Ulysses đảo ngược điều đó khi miêu tả Leopold Bloom ở tất cả phạm trù xác thịt như ăn uống, vệ sinh hay thủ dâm, còn Molly lại hiện ra "qua suy nghĩ trong sáng, không phụ thuộc vào người dẫn truyện". Di sản Các tác phẩm của Joyce vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn hóa đương đại. Ulysses là hình mẫu cho các tiểu thuyết gia, đặc biệt về sự khám phá sức mạnh của ngôn ngữ. Sự nhấn mạnh vào chi tiết cuộc sống thường ngày mở ra khả năng biểu đạt mới cho các tác giả, họa sĩ và nhà làm phim. Ulysses luôn có vị trí trong lòng độc giả khi thường giữ thứ hạng cao trong danh sách 'Sách hay'. Những đổi mới của Joyce vượt ra ngoài văn học Anh: văn của ông là nguồn cảm hứng cho các nhà văn Mỹ Latinh, Finnegans Wake trở thành một trong những tác phẩm then chốt cho chủ nghĩa hậu cấu trúc tại Pháp. Nhà vật lý Murray Gell-Mann cũng lấy từ quark trong cụm Three Quarks for Muster Mark của Finnegans Wake để đặt tên cho một trong những hạt cơ bản. Tác phẩm của Joyce có kết thúc mở tạo ra khả năng diễn giải lại liên tục. Chúng truyền cảm hứng cho ngày càng nhiều các nhà phê bình văn học toàn cầu. Số lượng tác phẩm không lớn (ba tiểu thuyết, một tập truyện ngắn, một vở kịch, hai tập thơ nhỏ) nhưng những nghiên cứu về Joyce đã tạo ra hơn 15.000 bài báo, sách chuyên khảo, luận án, bản dịch và ấn bản. Trong văn hóa đại chúng, cuộc đời và tác phẩm của Joyce được tưởng niệm vào Bloomsday (ngày Blooms) 16 tháng 6 hàng năm tại Dublin cùng nhiều thành phố khác trên thế giới. Bảo tàng và trung tâm nghiên cứu Thư viện Quốc gia Ireland hiện giữ bộ sưu tập lớn những tài liệu liên quan đến Joyce như bản thảo và sổ ghi chép, đa phần được số hóa đưa lên mạng trực tuyến. Thư viện liên doanh với Đại học Cao đẳng Dublin lập nên Bảo tàng Văn học Ireland (Museum of Literature Ireland - MoLI liên hệ với nhân vật Molly Bloom), triển lãm chủ yếu về Joyce và tác phẩm, có riêng một bộ sưu tập nhỏ cố định những thứ liên quan đến Joyce, đồng thời còn mượn từ vật phẩm từ hai bên, trong đó có "Bản sao số 1" tiểu thuyết Ulyssess. Các trung tâm dành riêng về Joyce ở Dublin gồm Trung tâm James Joyce ở Phố North Great George, Tháp James Joyce và Bảo tàng ở Sandycove (tháp Martello là nơi nhà văn từng sống, cũng như bối cảnh mở đầu trong Ulysses), Bảo tàng văn sĩ Dublin. Ghi chú
Trong nhiệt học, dẫn nhiệt (hay tán xạ nhiệt, khuếch tán nhiệt) là việc truyền năng lượng nhiệt giữa các phân tử lân cận trong một chất, do một chênh lệch nhiệt độ. Nó luôn luôn diễn ra từ vùng nhiệt độ cao hơn tới vùng nhiệt độ thấp hơn, theo định luật hai của nhiệt động học, và giúp cân bằng lại sự khác biệt nhiệt độ. Theo định luật bảo toàn năng lượng, nếu nhiệt năng không bị chuyển thành dạng khác, thì trong suốt quá trình này, nhiệt năng sẽ không bị mất đi. Đại lượng đo lường sự dẫn nhiệt trong một vật chất nhất định nào đó là độ dẫn nhiệt. Khác với đối lưu, trong dẫn nhiệt, sự trao đổi nhiệt năng không kèm theo bất kỳ sự chuyển động với số lượng lớn các phân tử vật chất. Dẫn nhiệt diễn ra trong tất cả các dạng của vật chất, tức chất rắn, chất lỏng, khí và plasma. Trong các chất rắn, đó là do sự kết hợp của dao động của các phân tử trong cấu trúc tinh thể và vận chuyển năng lượng của điện tử tự do. Trong các chất khí và chất lỏng, dẫn nhiệt là do sự va chạm và khuếch tán của các phân tử trong chuyển động ngẫu nhiên của chúng. Ngoài dẫn nhiệt và đối lưu, nhiệt năng cũng có thể được trao đổi bởi bức xạ, và thường là nhiều hơn một trong những quá trình này xảy ra trong một tình huống trao đổi nhiệt nhất định. Tổng quan Trên một quy mô nhỏ, dẫn nhiệt xảy ra khi các phân tử, nguyên tử hay các hạt nhỏ hơn (như electron) ở vùng nóng (dao động nhanh) tương tác với các hạt lân cận (ở vùng lạnh hơn, dao đông chậm hơn), chuyển giao một số động năng của dao động nhiệt từ hạt dao động nhanh sang những hạt dao động chậm. Nói cách khác, sức nóng được trao đổi giữa các nguyên tử hay phân tử lân cận khi chúng dao động và va chạm với nhau (trong hầu hết vật chất, trao đổi này còn được coi như sự dịch chuyển của dòng proton), hoặc là bởi electron dao động nhanh di chuyển từ một nguyên tử khác (trong kim loại). Dẫn nhiệt đóng góp lớn vào truyền nhiệt trong một chất rắn hoặc giữa các vật thể rắn khi chúng tiếp xúc nhau. Trong chất rắn, sự dẫn nhiệt xảy ra mạnh vì mạng lưới các nguyên tử nằm ở vị trí tương đối cố định và gần nhau, giúp việc trao đổi năng lượng giữa chúng thông qua dao động được dễ dàng. Khi mật độ các hạt giảm, tức là khoảng cách giữa các hạt trở nên xa hơn, dẫn nhiệt giảm theo. Điều này là do khoảng cách lớn giữa các nguyên tử gây ra việc có ít va chạm giữa các nguyên tử có nghĩa là chúng ít trao đổi nhiệt hơn. Do đó, chất lỏng và đặc biệt là các loại khí ít dẫn nhiệt. Với các chất khí, khi nhiệt độ hay áp suất tăng, các nguyên tử có xác suất va chạm nhau nhiều hơn, và do đó độ dẫn nhiệt cũng tăng theo. Tính chất dẫn nhiệt trong lòng vật liệu có thể khác với tính dẫn nhiệt ở bề mặt, nơi có thể tiếp xúc với vật liệu khác. Kim loại (ví dụ như đồng, platinum, vàng,...) thường là các vật liệu dẫn nhiệt tốt. Điều này là do các điện tử tự do có thể chuyển nhiệt năng nhanh chóng trong lòng kim loại. Các "chất lỏng điện tử" của một vật kim loại rắn tiến hành gần như tất cả các dòng nhiệt qua vật rắn này. Proton mang ít hơn 1% năng lượng nhiệt. Điện tử cũng chuyên chở dòng điện chạy qua các chất rắn dẫn điện, dẫn đến độ dẫn nhiệt và độ dẫn điện của hầu hết các kim loại có cùng một tỷ lệ. Một dây dẫn điện tốt, chẳng hạn như đồng, thông thường cũng dẫn nhiệt tốt. Các hiệu ứng Peltier-Seebeck (hiệu ứng nhiệt điện) có nguồn gốc từ sự dẫn nhiệt của điện tử trong các chất dẫn điện. Dẫn nhiệt trong một vật rắn tương tự như khuếch tán của các hạt trong chất lỏng, khi không có dòng chảy chất lỏng. Định luật Fourier Định luật Fourier là định luật cơ bản cho hiện tượng dẫn nhiệt, nói rằng: Mật độ dòng nhiệt chảy qua một vật liệu trong một đơn vị thời gian tỷ lệ thuận với trái dấu của gradien nhiệt độ theo chiều dòng nhiệt và với diện tích vuông góc với dòng nhiệt Có thể biểu diễn toán học cho định luật này ở dạng tích phân hoặc dạng vi phân. Dạng vi phân Trong biểu diễn ở dạng vi phân, thông lượng nhiệt (nhiệt năng chảy qua một đơn vị diện tích bề mặt vuông góc với dòng chảy, trong một đơn vị thời gian) địa phương, , bằng với tích của độ dẫn nhiệt, , và trái dấu của gradien nhiệt độ, : với (trong hệ đo lường SI) là thông lượng nhiệt địa phương, đo bằng W·m−2 là độ dẫn nhiệt của vật liệu, đo bằng W·m−1·K−1, là gradien nhiệt độ, đo bằng K·m−1. Độ dẫn nhiệt, , thường được coi là hằng số, nhưng thực tế nó có thể thay đổi nhỏ theo nhiệt độ và các yếu tố khác. Trong vật liệu không đẳng hướng, độ dẫn nhiệt có thể thay đổi theo hướng; và có thể được biểu diễn bằng tensor bậc hai. Trong vật liệu không đồng nhất, thay đổi theo vị trí. Dạng tích phân Tích phân phương trình ứng với dạng vi phân của định luật Fourier, trên diện tích bề mặt của vật liệu , thu được dạng tích phân của định luật này: với (trong hệ đo lường SI) là nhiệt năng được truyền tải trong một đơn vị thời gian(W) và là vectơ đơn vị diện tích (in m²) Định luật này là cơ sở để xây dựng phương trình nhiệt. Định luật Ohm là dạng tương ứng của định luật Fourier cho trường hợp dẫn điện.
Độ dẫn nhiệt là một đại lượng vật lý đặc trưng cho khả năng dẫn nhiệt của vật liệu. Trong phương trình của định luật Fourier (phương trình mô tả hiện tượng dẫn nhiệt trong vật liệu), độ dẫn nhiệt xuất hiện dưới dạng một hệ số đặc trưng cho vật liệu. Độ dẫn nhiệt được xác định bằng nhiệt lượng truyền qua một đơn vị diện tích vật liệu trong một đơn vị thời gian, dưới gradient của nhiệt độ. Thứ nguyên của độ dẫn nhiệt là [năng lượng].[diện tích]^-1.[thời gian]^-1.[nhiệt độ]^-1.[chiều dài] Ví dụ Một vài ví dụ về giá trị tính của độ dẫn nhiệt cho Vật liệu xây dựng, các vật rắn khác, chất lỏng (ở nhiệt độ phòng) và khí (ở 0 °C). Độ dẫn nhiệt lớn đồng nghĩa với việc truyền nhiệt tốt hơn (nhanh hơn). Chân không Trong chân không không diễn ra sự dẫn nhiệt, sự vận nhiệt chỉ xảy ra do quá trình bức xạ nhiệt. Điều này được dùng trong chai nhiệt, để hạn chế tối đa việc vận nhiệt. Để việc vận lượng (vận chuyển năng lượng) do bức xạ nhiệt giảm tối thiểu thì bề mặt các lớp sắt và kính phải hướng về chân không phản chiếu rất tốt.
Hỗ trợ Phát triển Chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay. Số liệu năm 2004 của OECD cho biết lượng vốn ODA cung cấp bởi một số nước phát triển: Ưu điểm của ODA Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0.25%năm) Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm) Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA. Bất lợi khi nhận ODA Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ: Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới). Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất. Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần. Nguồn vốn ODA tại Việt Nam Trong quá trình Việt Nam thoát khỏi mức thu nhập thấp và trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình, các khoản vay ưu đãi sẽ giảm dần và thay vào đó là khoản vay kém ưu đãi hơn. Điều này phụ thuộc hoàn toàn sự thay đổi theo các chính sách mới trong Diễn đàn Phát triển Việt Nam. Chú thích
Đảng Lập hiến Đông Dương (tiếng Pháp: Parti Constitutionaliste Indochinois) là một chính đảng hoạt động ở Nam Kỳ trong thập niên 1910 đến 1930. Đảng này do Bùi Quang Chiêu, một kỹ sư canh nông, có quốc tịch Pháp, cũng là hội trưởng Hội Trí Tri và chủ bút tờ La Tribune Indochinoise thành lập. Người sáng lập Bùi Quang Chiêu xuất thân từ gia đình nhà nho nhưng hoàn toàn theo Tây học; năm 21 tuổi (năm 1893) ông đi du học sang Algérie rồi sang Pháp học ở trường kỹ sư canh nông Institut National Agronomique. Trở về nước ông làm công chức cho chính quyền thuộc địa Pháp với cương vị kỹ sư nông nghiệp. Năm 1917, Nguyễn Phú Khai cùng Bùi Quang Chiêu tổ chức xuất bản tờ báo Tribune Indigène (Diễn đàn Bản xứ). Ngày 17/4/1919, trên manchette tờ báo xuất hiện dòng chữ “cơ quan ngôn luận của Đảng Lập hiến” (Organe du Parti Constitutionaliste). Đến năm 1925, Bùi Quang Chiêu sang Pháp cùng với Dương Văn Giáo vận động cải cách ở Đông Dương và xin phép thành lập Đảng Lập hiến chính thức theo Đạo luật 1901 của nước Pháp. Đến ngày 20/10/1926, Đảng Lập hiến được cấp phép hoạt động chính thức ở Pháp. Tờ Tribune Indigène (Diễn đàn Bản xứ) đổi thành tờ Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương) có phụ bản ở châu Âu. Tuy gọi là Đảng nhưng những Đảng Lập hiến lại tổ chức giống như một câu lạc bộ chính trị của giới điền chủ, nghiệp chủ, công chức người Việt ở Nam kì. Lực lượng Đảng Lập Hiến có lực lượng tham gia chủ yếu là người Việt thuộc thành phần giai cấp tư sản dân tộc, đại địa chủ, tri thức tiểu tư sản, một số là binh lính phục vụ trong hàng ngũ quân đội thực dân Pháp. Đảng này hoạt động chủ yếu ở Nam Kỳ. Một số nhân vật tiêu biểu của Đảng Lập hiến ở Nam kì là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Trương Văn Bền, Dương Văn Giáo, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Thinh, Trần Văn Khá... Trong năm 1930 đã diễn ra một trận bút chiến giữa tờ Đuốc nhà Nam của Nguyễn Phan Long và cây bút Phan Khôi của Trung lập báo. Qua cuộc bút chiến này, đặc biệt là trong loạt bài về Đảng Lập hiến đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự vận động thành lập và cơ chế hoạt động của đảng này: “Ông Bùi Quang Chiêu cùng ông Dương Văn Giáo đứng dựng nên đảng Lập hiến tại bên Pháp, có đem điều lệ của đảng trình tại dinh quận Seine. Đến khi trở về bên này, ông Bùi có đem điều lệ ấy đến trình ở chánh phủ Nam kì, Từ lúc đó đến giờ (1930-TG) không thấy chánh phủ trả lời cho ông về sự đó sao hết. Nhơn vì chánh phủ chưa tuyên bố rằng đã nhận được điều lệ của đảng, chưa nhìn nhận đảng nên đảng Lập hiến như là chưa thành lập một cách chính thức. Đó là vì còn thiếu cái điều khoản quan hệ ấy mà đảng Lập hiến không có đủ danh nghĩa đặng họp hội đồng, lựa đảng viên…”. Qua đó thể thấy Đảng Lập hiến dù gọi là Đảng nhưng thật chất chỉ là một nhóm chính trị gồm các điền chủ, nghiệp chủ, trí thức… có địa vị trong xã hội Nam kì dưới sự cổ động của các tờ báo do nhóm này lập ra như La Tribune Indegènè, L’Écho Annamite, Đuốc nhà Nam,... Chủ trương Chủ trương của Lập hiến Đảng là đấu tranh ôn hòa, thỏa hiệp với thực dân Pháp vào đầu thập kỷ 20 của thế kỷ 20 nhằm giành quyền lợi về kinh tế cho người Việt, chủ trương dành độc lập dân tộc thông qua việc duy tân, thu nhập và phát triển văn hóa mới theo phương Tây. Khi Alexandre Varenne qua Đông Dương chấp nhiệm làm toàn quyền năm 1925 thì đảng Lập hiến soạn "Le cahier des vœux" 50 trang đưa ra một số nguyện vọng về cải cách thủ tục nhập tịch công dân Pháp, phép cai trị, nền giáo dục, lệ quân dịch, và tự do báo chí, đại để đều nằm trong khuôn khổ hạn chế chứ không thách thức gì chính quyền. Varenne hứa hẹn sẽ xét cải tổ một số điểm về ngạch công chức cho người Việt và mở thêm trường sở nhưng giữ nguyên lập trường hạn chế đám đông tập họp và kiểm duyệt với báo chí tiếng Việt. Cơ quan ngôn luận Tribune Indigène là tờ báo tiếng Pháp đầu tiên của người Việt, ra đời tháng 8 năm 1917 ở Nam Kỳ nguyên do Nguyễn Phú Khai thành lập nhưng kinh phí do chính phủ Liên bang Đông Dương đài thọ. Ông có lập trường bài Hoa, thường dùng báo cổ động đấu tranh kinh tế với Hoa kiều. Ông cũng là người Việt đầu tiên mở nhà máy gạo năm 1915 cạnh tranh với người Hoa ở Mỹ Tho. Sau khi Đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu ra đời thì báo Tribune Indigène được dùng làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Hai tờ L'Echo Annamite và Đuốc Nhà Nam cũng thuộc Đảng cùng phát động rầm rộ chiến dịch tẩy chay hàng hóa người Hoa năm 1919 và ủng hộ việc tham gia các hoạt động tài chính, ngân hàng trong nền kinh tế của người Việt vào giữa thập niên 1920. Các báo này sau dùng để chuyển đạt đòi hỏi bình quyền giữa người Việt và người Pháp nên tháng 2 năm 1925 tờ Tribune Indigène bị chính phủ Thuộc địa ép phải đình bản. Sang năm sau, 1926 tờ Tribune Indochinoise mới ra đời (F H Schneider đứng tên) phục hoạt làm tiếng nói của Đảng. Báo này hoạt động đến năm 1942 thì chấm dứt. Tờ Lục tỉnh Tân văn của Nguyễn Văn Của và Lê Quang Liêm cũng được dùng làm cơ quan ngôn luận của Đảng Lập hiến. Uy tín và hoạt động Dưới sự phát động và kiên trì đấu tranh của Đảng Lập hiến, các phong trào tẩy chay khách trú (1919), chống độc quyền cảng Sài Gòn (1923) đã mang lại những chuyển biến tích cực và tạo dấu ấn trong đời sống chính trị - xã hội thuộc địa. Từ những thành công này, Đảng Lập hiến đã đấu tranh để mở rộng số lượng thành viên người Việt trong Hội đồng quản hạt và cử tri đoàn người Việt vào năm 1922. Nguyễn Phan Long đại diện cho Đảng Lập hiến đã giành được ghế Phó Chủ tịch Hội đồng quản hạt. Vào năm 1926, trong số 10 ghế dành cho người bản xứ trong Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ thì đảng viên Đảng Lập Hiến đắc cử cả 10. Toàn quyền Alexandre Varenne cũng tỏ ra muốn lắng nghe nguyện vọng của Đảng Lập Hiến nhưng ngoài việc cách chức viên thống đốc Nam Kỳ bảo thủ là Maurice Cognacq, Varenne chỉ hứa hẹn cứu xét chứ không đáp ứng được mấy nguyện vọng tự do xã hội của người Việt. Cao điểm của Đảng là vào thập niên 1930 khi Bùi Quang Chiêu làm đại diện Nam Kỳ tại Thượng Hội đồng Thuộc địa ở thủ đô chính quốc Paris trong khi Nguyễn Phan Long và những đảng viên khác đắc cử trong Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ và Hội đồng thành phố Sài Gòn. Một sự kiện khá đặc biệt đối với Bùi Quang Chiêu và những người Lập hiến ở Nam kì là chuyến đi đến Calcutta dự Đại hội lần thứ 43 của Đảng Quốc đại Ấn Độ (1929) của Bùi Quang Chiêu và Dương Văn Giáo. Chuyến đi có rất có ý nghĩa với Bùi Quang Chiêu vì đây là đầu tiên Bùi Quang Chiêu được đi sang một xứ thuộc địa phương Tây khác ngoài Pháp và dự đại hội của một đảng theo đường lối đấu tranh ôn hòa của Ấn Độ, cùng một khuynh hướng mà Chiêu và Đảng Lập hiến đang theo đuổi. Bùi Quang Chiêu xem sự kiện này là hành động đầu tiên trong đời sống quốc tế của người Annam ở Viễn Đông. Bùi Quang Chiêu và Dương Văn Giáo đã gặp các lãnh đạo chủ chốt của Đảng Quốc đại Ấn Độ trong suốt thời gian ở Calcutta. Và cũng nhân chuyến đi, Bùi Quang Chiêu và Dương Văn Giáo đã mời nhà thơ Rabindranath Tagore đến Việt Nam trong năm 1929. Đường lối của Diệp Văn Kì đưa ra vẫn được những người lãnh đạo Đảng Lập hiến kiên trì thực hiện. Trong phiên nhóm họp Hội đồng quản hạt Nam kì ngày 11/9/1935, Bùi Quang Chiêu đã đưa một đề nghị người Việt được ứng cử chức Nghị trưởng Hội đồng quản hạt: “Người Nam chúng tôi ngày nay đã tấn hóa nhiều, đến nỗi giữa các hội nghị ở đây hoặc ở chỗ khác người Nam đã từng chung lưng đấu cật đề huề làm việc với người Pháp ngang hàng đồng tài đồng sức, chúng tôi lấy làm vui mừng ngày nay được nhập tịch vào cái gia đình người Pháp bởi cái tình luyến ái mà nước Pháp đã đối đãi với chúng ta nhiền lần vậy. Theo sự tấn hóa ấy thiết tưởng cái đạo luật 1922 ngày nay không hợp thời hợp lẽ nữa. Vậy chúng tôi định xin chính phủ hủy bỏ cái đạo luật bất công bằng ấy đi.” Đề nghị của Bùi Quang Chiêu đã làm dư luận ở Pháp cũng như Việt Nam sôi nổi . Trước yêu sách này của Bùi Quang Chiêu, năm 1936, Tổng Thống Pháp Albert Leburn đã ra nghị định cho phép người Annam cũng được cử làm Nghị trưởng Hội đồng quản hạt. Nhóm nghị viên Pháp và Việt trong Hội đồng quản hạt Nam kì đã thỏa thuận sẽ luân phiên chức nghị trưởng giữa người Pháp và người Việt theo từng năm . Sau hai năm liên tiếp người Pháp làm nghị trưởng, trong phiên khai mạc kì họp Hội đồng quản hạt ngày 01/9/1938, Bùi Quang Chiêu được đa số thành viên hội đồng bầu làm nghị trưởng Hội đồng quản hạt. Đến tháng 6/1939, Thượng Công Thuận cũng được bầu giữ chức ấy[].  Dù vậy Đảng Lập Hiến không mấy chú tâm vào việc vận động quần chúng lao động mà chỉ trông vào giới trung lưu người Việt. Ưu tiên của Đảng là thỏa hiệp với chính quyền thuộc địa để đạt được tiến bộ xã hội và bình đẳng với người Pháp rồi tiến đến tự trị. Trong khi đó chính quyền thực dân địa phương thì giữ mãi thái độ trì hoãn và không thực tâm cải cách để duy trì quyền lực nên Đảng Lập Hiến bị chính quyền chi phối. Chính trường bên chính quốc Pháp cũng trở về với đường lối bảo thủ khiến Đảng Lập Hiến không đạt được cải cách gì dù là biện pháp khiêm tốn. Ngoài ra các đảng viên phần đông vì là công chức lệ thuộc vào nhà cầm quyền nên không dám thoát ly hẳn với chính sách thuộc địa. Do vậy sự đấu tranh chính trị của họ bị hạn chế, không phát triển rộng khắp nơi để đi sâu vào tầng lớp bị trị. Do tổ chức lỏng lẻo và phụ thuộc vào một vài cá nhân tiêu biểu, nội bộ Đảng Lập hiến thường diễn ra mâu thuẫn. Nguyễn Phan Long dần ngả hoạt động với giáo phái Cao Đài, làm giảm lực lượng của nhóm Lập hiến. Năm 1937 thì Nguyễn Văn Thinh lập ra Đảng Dân chủ Đông Dương, thu hút một số không nhỏ giới chuyên môn người Việt khiến ảnh hưởng của Đảng Lập hiến càng suy giảm. Trong cuộc bầu cử năm 1939, cả ba ứng cử viên của Đảng Lập hiến đều thất cử, đánh dấu thời kỳ suy thoái và mất bóng trên chính trường.
Đảng Lập hiến có thể là: Đảng Lập hiến Đông Dương Đảng Lập hiến Hoa Kỳ (Constitution Party)
Hiệp ước München, hoặc Hiệp ước Munich, là bản hiệp ước được ký kết tại München vào rạng sáng ngày 30 tháng 9 (song ghi ngày 29), 1938 giữa bốn cường quốc: Anh, Pháp, Đức Quốc Xã, và Ý. Hiệp ước cho phép Đức sáp nhập những phần đất ở Tiệp Khắc, nơi đa số dân Đức ở vào nước mình, gọi đó là vùng đất "Sudetenland". Thỏa hiệp được đàm phán tại một hội nghị tổ chức ở München, Đức, giữa những cường quốc ở Âu Châu, ngoại trừ Liên Xô và Tiệp Khắc. Ngày nay, nó được đa số xem là một việc làm nhân nhượng cho Đức thất bại. Mục đích của hội nghị là để bàn cãi về tương lai của Sudetenland theo đòi hỏi của Adolf Hitler. Sudetenland có một địa thế chiến lược rất quan trọng cho Tiệp Khắc, bởi vì hầu hết những phòng thủ biên giới nằm ở vùng này và cả những khu vực kỹ nghệ nặng cũng nằm ở đó. Bởi vì Tiệp Khắc không được mời tới hội nghị, nước này đã cho là mình đã bị phản bội bởi Vương quốc Anh và Pháp, cho nên người Séc và người Slovak gọi đó là bức chế München (; ). Từ "phản bội München" (; ) cũng được dùng bởi vì liên minh quân sự của Tiệp Khắc với Pháp và Vương quốc Anh không mang lại lợi ích gì cả. Khủng hoảng Sudetenland gây ra tình trạng chính trị không ổn định ở Đức, với một cuộc họp mật xảy ra vào ngày 20 tháng 9 năm 1938 điều hành bởi tướng Hans Oster, và những nhân vật đứng đầu trong quân đội Đức mà phản đối chính quyền vì thái độ của nó, có thể đưa nước Đức tới một cuộc chiến mà họ tin tưởng là chưa chuẩn bị để chiến đấu. Họ thảo luận lật đổ Hitler và chế độ quốc Xã để nắm quyền kiểm soát chính phủ, mà sẽ bắt giam hay ám sát Hitler, và hầu hết các thành viên trong buổi họp đồng ý là họ sẽ ủng hộ lập lại chế độ quân chủ của hoàng đế Wilhelm II. Bối cảnh lịch sử Nước Cộng hòa Tiệp Khắc được thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất từ các hòa ước mà người Đức rất căm ghét. Được tách ra từ Đế quốc Habsburg cũ, Tiệp Khắc phát triển thành một nước dân chủ và phồn thịnh nhất Trung Âu. Nhưng vì có nhiều dân tộc khác nhau, ngay từ lúc đầu Tiệp Khắc bị giằng co bởi những vấn nạn nội bộ mà suốt 20 năm vẫn chưa thể giải quyết được. Đấy là vấn nạn của những dân tộc thiểu số. Có 1 triệu người Hungary, nửa triệu người Ruthenian, và 3 triệu rưởi người Đức ở Sudeten. Các dân tộc này tha thiết với "đất mẹ" của họ, lần lượt là Hungary, Nga và Đức; tuy rằng người Đức ở Sudetenland chưa bao giờ thuộc về Đế chế Đức (ngoại trừ trước nữa là một phần của Đế chế La Mã Thần thánh) nhưng chỉ thuộc về Áo. Nói chung, các dân tộc này đòi hỏi có thêm quyền tự trị. So với những dân tộc thiểu số ở phương Tây, ngay cả ở Mỹ, những dân tộc thiểu số ở Tiệp Khắc không bị kém cỏi. Họ có quyền dân chủ và tự do cá nhân trọn vẹn – ngay cả quyền được bầu cử – và có thêm ít quyền được lập trường học riêng và duy trì cơ sở văn hóa của riêng họ. Lãnh tụ các dân tộc thiểu số thường là bộ trưởng trong chính phủ trung ương. Tuy nhiên, người Séc không thể giải quyết những vấn đề của người thiểu số. Họ thường có tư tưởng ái quốc cực đoan và thiếu khôn khéo. Điều mỉa mai là người Đức Sudeten có vị thế khá trong nước Tiệp Khắc – chắc chắn khá hơn bất kỳ dân tộc thiểu số nào khác trong nước, và khá hơn những dân tộc thiểu số Đức ở Ba Lan hoặc ở nước Phát xít Ý. Nhưng họ bất mãn với tính hà khắc vụn vặt của quan chức địa phương người Séc và thái độ kỳ thị đôi lúc xảy ra ở thủ đô Praha. Sống trong các vùng tây-bắc và tây-nam công nghiệp hóa, họ giàu có lên và dần dà trở nên hòa thuận với người Séc, vẫn tiếp tục đòi hỏi thêm quyền tự trị và sự tôn trọng đối với các quyền về ngôn ngữ và văn hóa. Trước khi Hitler nổi lên, không có phong trào chính trị nghiêm túc nào đòi hỏi hơn thế. Thế rồi, khi Hitler nắm quyền Thủ tướng Đức năm 1933, cơn bão Quốc xã tràn đến người Đức Sudeten. Năm này, một giáo viên môn thể dục dụng cụ tên Konrad Henlein thành lập Đảng người Đức Sudeten (SDP). Bộ Ngoại giao Đức bí mật hỗ trợ tài chính đảng cho đến năm 1935. Trong vòng vài năm, đảng này đã chiếm đa số trong cộng đồng người Đức Sudeten. Vào lúc Áo bị sáp nhập vào Đức, đảng SDP đã sẵn sàng để nghe theo lệnh của Hitler. Để nhận lệnh, Henlein đi đến Berlin, và ngày 28 tháng 3 năm 1938 vào ngồi họp với Hitler trong ba tiếng đồng hồ. Chỉ thị của Hitler là "Đảng SDP phải ra những đòi hỏi mà chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận." Như chính Henlein tóm tắt quan điểm của Hitler: "Ta phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ hài lòng." Vì thế, hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc đối với Hitler chỉ là cái cớ để quấy động, khuynh đảo, tung hỏa mù và gây hiểu lầm giữa những bạn hữu của Tiệp Khắc, và che giấu mục đích thực sự của ông: để hạ gục Tiệp Khắc và chiếm lấy lãnh thổ cùng dân cư cho Đế chế thứ Ba. Các nhà lãnh đạo Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra điều này. Suốt mùa xuân và mùa hè, thật ra cho đến lúc cuối, Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain và Thủ tướng Pháp Édouard Daladier cùng với đa số thế giới còn lại hiển nhiên vẫn còn thật sự tin rằng Hitler chỉ mong muốn sự bình đẳng cho người Đức ở Tiệp Khắc. Khủng hoảng đầu tiên Ngày Thứ Sáu 20 tháng 5 năm 1938 bắt đầu một cuộc khủng hoảng mà sau này được gọi là "Khủng hoảng tháng Năm." Trong 48 giờ đầu, các chính phủ Anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên Xô trở nên hốt hoảng tin rằng châu Âu ở gần bờ vực chiến tranh. Đây có lẽ chủ yếu là do kế hoạch của Đức tấn công Tiệp Khắc bị rò rỉ. Vì tin như thế mà Tiệp Khắc bắt đầu động binh, còn Anh, Pháp và Liên Xô biểu lộ sự cứng rắn và hợp nhất để đối phó với mối đe dọa của Đức. Hitler cảm thấy bẽ mặt nặng nề vì hành động của Tiệp Khắc, và cũng vì sự ủng hộ của Anh, Pháp và ngay cả Liên Xô dành cho Tiệp Khắc. Hitler càng phẫn nộ hơn vì bị cáo buộc – đúng tội nhưng quá sớm – về hành động gây hấn mà chính ông định sẽ thực hiện. Hitler ra lệnh cho Quân đội Đức soạn thảo những kế hoạch cuối cùng để sẵn sàng tấn công Tiệp Khắc ngày 1/10/1938. Ngày 12/9, Hitler phát biểu trước một đám đông cuồng tín lấp đầy một sân vận động khổng lồ ở Nürnberg trong buổi bế mạc Đại hội Đảng Quốc xã, đòi hỏi chính phủ Tiệp Khắc tạo "bình đẳng" cho người Đức Sudeten. Nếu không, Đức sẽ có biện pháp để đạt điều này. Ngôn từ của Hitler gây xao động đáng kể. Ở Sudetenland, một cuộc nổi loạn xảy ra. Sau hai ngày xô xát cuồng loạn, chính phủ Tiệp Khắc kiểm soát được tình hình bằng cách đưa quân đội đến và ra lệnh thiết quân luật. Henlein lẻn qua biên giới đến Đức, tuyên bố rằng giải pháp duy nhất bây giờ là nhượng vùng Sudetenland cho Đức. Đấy là giải pháp mà Anh đang ủng hộ, nhưng cần đạt sự thỏa thuận của Pháp trước khi thúc đẩy thêm. Một ngày sau bài diễn văn của Hitler, nội các Pháp họp suốt ngày, vẫn chia rẽ nhau về việc liệu có nên tôn trọng nghĩa vụ giúp Tiệp Khắc trong trường hợp Đức tấn công, mà họ biết sắp diễn ra. Thủ tướng Daladier kêu gọi Chamberlain cố thương thuyết với Hitler. Tối cùng ngày, Chamberlain gửi điện khẩn cho Hitler: Xét qua tình hình càng lúc càng khẩn trương, tôi đề nghị đi đến gặp ông để cố gắng tìm một giải pháp hòa bình. Tôi đề nghị đi bằng máy bay và sẵn sàng lên đường ngày mai. Chamberlain tại Berchtesgaden Hitler vô cùng kinh ngạc nhưng rất vui sướng khi biết người nắm vận mệnh của Đế quốc Anh hùng mạnh sẽ đi đến kêu nài với ông, và cảm thấy hãnh diện rằng một người đã 69 tuổi và chưa từng đi máy bay lại đi chuyến bay dài 7 tiếng đồng hồ để đến Berchtesgaden ở phần xa nhất của nước Đức. Hitler đã không màng chiếu cố để đề nghị nơi gặp gỡ bên sông Rhine, vốn có thể giảm đường bay còn một nửa. Hitler tin chắc chuyến đi của Chamberlain là thêm sự đảm bảo rằng Anh và Pháp sẽ không can thiệp – như ông vẫn tin tưởng từ lâu. Chamberlain đáp xuống sân bay München ngày 15 tháng 9 năm 1938, một chiếc ô tô mui trần đưa ông đến nhà ga, rồi ông đi trên một chuyến tàu đặc biệt mất 3 giờ để đến Berchtesgaden. Ông thấy từng toa xe tiếp nối chở đầy binh sĩ Đức và pháo trên đường ray đối diện. Hitler không ra đón ông tại Berchtesgaden, mà đứng chờ ở những bậc thềm trên cùng của biệt thự Berghof. Bây giờ là 4 giờ chiều, và Chamberlain đã phải di chuyển từ sáng sớm. Giống như mỗi khi phát biểu, Hitler bắt đầu với lời lẽ dông dài về những gì ông đã làm cho dân tộc Đức, cho hòa bình, cho mối quan hệ Anh-Đức. Bây giờ có một vấn nạn mà ông chủ định giải quyết "bằng cách này hoặc cách khác." Người Đức Sudeten lúc trước thuộc về Áo, chưa bao giờ thuộc Đức. Ba triệu người Đức ở Tiệp Khắc phải "trở về" Đế chế. Cả trong buổi gặp gỡ này với Hitler và trong báo cáo với Nghị viện, Chamberlain, với vốn kiến thức về lịch sử Đức không có vẻ sâu lắm, chấp nhận việc sử dụng sai lạc từ ngữ "trở về". Là người cực kỳ nhẫn nại, Chamberlain khó chen vào được câu nào, nhưng có giới hạn. Đến đây, ông ngắt lời để hỏi: Nếu Lãnh tụ nhất định giải quyết vấn đề này bằng vũ lực mà không chờ hai bên thảo luận, thế thì tại sao để cho tôi đến đây? Tôi đã uổng phí thời giờ của tôi. Nhà độc tài không có thói quen bị ngắt lời – cho đến lúc này chưa từng có người Đức nào dám ngắt lời ông – vì thế câu trả đũa của Chamberlain xem dường có hiệu quả. Hitler dịu xuống, ông nghĩ họ có thể "đi vào vấn đề liệu có thể đạt một thỏa thuận hòa bình được không." Và rồi ông đi ngay vào đòi hỏi: Liệu nước Anh đồng ý với việc nhượng vùng Sudeten, hay không đồng ý?... Nhượng trên cơ sở quyền tự quyết? Chamberlain trả lời rằng ông không thể tự mình quyết định, mà phải tham khảo với nội các của ông và với người Pháp, và thêm: cá nhân ông có thể nói rằng ông công nhận nguyên tắc của việc tách ra vùng Sudeten... Ông muốn trở về Anh để báo cáo với Chính phủ và xin họ chấp thuận quan điểm của cá nhân ông. Từ thái độ đầu hàng này tại Berchtesgaden, mọi chuyện khác đều tiếp diễn theo. Trong khi đó, Đức vẫn tiếp tục với các kế hoạch quân sự và chính trị cho cuộc xâm lăng Tiệp Khắc. Anh và Pháp cố xoa dịu Hitler Khi trở về Anh, Chamberlain triệu tập nội các để ông trình bày yêu sách của Hitler. Thủ tướng Pháp Daladier và Ngoại trưởng Pháp Bonnet đến London để tham khảo với nội các Anh. Cả hai bên Anh và Pháp đều muốn tránh chiến tranh nên nhanh chóng đồng ý về những đề xuất chung mà Tiệp Khắc phải chấp nhận: giao cho Đức mọi lãnh thổ có trên phân nửa là người Đức Sudeten để đảm bảo "duy trì hòa bình và an ninh của những quyền lợi sống còn của Tiệp Khắc." Để đáp lại, Anh và Pháp sẽ tham gia vào "sự đảm bảo quốc tế của những đường biên giới mới..." Sự đảm bảo này sẽ thay thế những hiệp ước mà Tiệp Khắc ký kết với Pháp và Liên Xô. Đây là lối thoát dễ dàng cho Pháp: không còn bị ràng buộc với hiệp ước hiện hữu. Tiệp Khắc từ khước các đề xuất qua công hàm có lòng tự trọng, với lời giải thích – và cũng là lời tiên tri – rằng chấp nhận những đề xuất ấy sẽ khiến cho Tiệp Khắc "không chóng thì chầy sẽ nằm hoàn toàn dưới sự thống trị của Đức." Nhưng cả Anh vẫn gia tăng sức ép lên Tiệp Khắc, cho biết nếu không chấp nhận các đề xuất Anh-Pháp, Anh sẽ không còn liên can gì đến số phận của Tiệp Khắc, và nước này sẽ không còn trông mong Anh hoặc Pháp giúp đỡ nữa. Vào lúc này, Tổng thống Tiệp Khắc Eduard Beneš nhận ra là bạn hữu của ông đã bỏ rơi ông. Ông kêu gọi đến Pháp, nhưng Pháp lại yêu cầu ông rút lại công hàm từ khước, chấp nhận các đề xuất Anh-Pháp, nếu không Tiệp Khắc sẽ phải một mình chống lại Đức. Suốt ngày kế, đau nhức vì mệt mỏi, vì mất ngủ và vì bị phản bội, Beneš vẫn hội ý với nội các, các nhà lãnh đạo đảng và quân đội. Họ tỏ rõ lòng quả cảm trước sự đe dọa của kẻ thù, nhưng bắt đầu suy sụp vì bạn hữu và đồng minh đã bỏ rơi họ. Còn Liên Xô lặp lại cam kết là Liên Xô sẽ tôn trọng hiệp ước đã ký với Tiệp Khắc. Nhưng người Tiệp nhận ra rằng hiệp ước với Liên Xô quy định Liên Xô sẽ đến hỗ trợ với điều kiện Pháp cũng phải hỗ trợ. Và Pháp đã nuốt lời. Xế chiều ngày 21 tháng 9, chính phủ Tiệp Khắc đành chịu thua, chấp nhận kế hoạch Anh-Pháp. Bản thông cáo giải thích một cách cay đắng: "Chúng tôi không có chọn lựa nào khác, vì chúng tôi bị bỏ rơi một mình." Trong riêng tư, Beneš nói một cách súc tích: "Chúng tôi đã bị phản bội từ cơ bản." Ngày kế, nội các từ chức. Tướng Tổng Thanh tra Quân đội Jan Sirovy được cử đứng đầu "chính phủ tập trung quốc gia." Chamberlain tại Godesberg Chamberlain mang đến cho Hitler mọi nhượng bộ theo yêu sách ở Berchtesgaden. Lần này, ít nhất là lúc khởi đầu, Chamberlain chủ động phát biểu trong hơn một giờ, giải thích những việc ông đã làm để thuyết phục cả hai nội các Anh và Pháp lẫn Tiệp Khắc. Ông chấp nhận ý kiến giao Sudetenland cho Đức mà không cần trưng cầu dân ý. Tương lai của những vùng pha trộn nhiều chủng tộc sẽ do một ủy hội gồm ba thành viên giải quyết: một Đức, một Tiệp Khắc, một trung lập. Một đảm bảo quốc tế sẽ thay thế các hiệp ước giữa Tiệp Khắc với Pháp và Liên Xô – mà Hitler có ác cảm. Tất cả đều có vẻ rất đơn giản, rất hợp tình hợp lý đối với một Thủ tướng Anh gốc doanh nhân Anh yêu hòa bình. Ông ngưng nói với vẻ tự mãn, đợi chờ phản ứng của Hitler. Hitler hỏi: "Có đúng là theo tôi hiểu rằng các chính phủ Anh, Pháp và Tiệp Khắc đồng ý chuyển giao Sudetenland từ Tiệp Khắc cho Đức?" Hitler cảm thấy kinh ngạc vì các nhượng bộ cho ông đi xa như thế và đến nhanh như thế. Ông biết Tiệp Khắc đã chấp nhận đề xuất Anh-Pháp. Tuy nhiên, có thể là Hitler không biết rõ chi tiết các điều khoản của kế hoạch Anh-Pháp cho đến khi Chamberlain giải thích. Thủ tướng Anh mỉm cười đáp: "Phải." Hitler nói: "Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng sau những sự việc trong những ngày qua, kế hoạch này không còn ích lợi gì nữa." Chamberlain đứng bật dậy, gương mặt lộ vẻ kinh ngạc và tức giận. Ông Chamberlain thấy bao nhiêu công khó nhọc của ông bị tiêu tán. Theo ghi chú của TS. Schmidt, Chamberlain nói với Hitler là ông cảm thấy vừa thất vọng vừa hoang mang. Ông có thể nói một cách đúng lý rằng Lãnh tụ đã nhận được tất cả từ ông đối với những gì đã đòi hỏi trước đây. Để đạt được điều này, ông đã đánh đố cả sự nghiệp chính trị của ông... Ông đang bị kết án ở Anh là đã bán đứng và phản bội Tiệp Khắc, đã nhượng bộ các nhà độc tài, và khi rời nước Anh sáng nay ông bị la ó chế nhạo. Nhưng Hitler không tỏ ra xúc động với hoàn cảnh tội nghiệp của vị Thủ tướng Anh. Ông đòi hỏi Đức được chiếm đóng vùng Sudetenland ngay lập tức. Phải "giải quyết toàn vẹn và rốt ráo vấn đề chậm nhất là vào ngày 1 tháng 10." Ông có sẵn một bản đồ chỉ ra phải chuyển giao lập tức những lãnh thổ nào. Tối ấy, Chamberlain hội ý qua điện thoại với nội các của ông và với chính phủ Pháp. Tình hình dường như không có triển vọng lắm, đến nỗi Anh và Pháp đồng ý nên thông báo cho Tiệp Khắc ngày kế rằng hai nước không thể "tiếp tục nhận trách nhiệm khuyên họ không nên động binh." Nhưng Tiệp Khắc bắt đầu động binh lúc 10:30 giờ tối ngày 23 tháng 9. Chamberlain cho Hitler biết ông sẽ đề nghị với Tiệp Khắc là, vì các bên đã bằng lòng giao Sudetenland cho Đức, người Đức Sudeten sẽ lo duy trì an ninh trật tự ở Sudetenland cho đến khi giao vùng đất này cho Đức. Hitler không chấp nhận giải pháp dung hòa này, trả lời ông không muốn dung hòa, và kết luận rằng bây giờ có lẽ sẽ có chiến tranh. Chamberlain chỉ trả lời ngắn gọn là yêu cầu Hitler ghi ra giấy những đòi hỏi mới, "cùng với một bản đồ" và sẽ làm nhiệm vụ "như người trung gian" để gửi qua Praha. Chamberlain trở lại để có buổi hội đàm cuối cùng với Hitler bắt đầu lúc 10:30 giờ tối 23 tháng 9, Hitler trình bày những đòi hỏi trong một bản ghi nhớ cùng với một bản đồ. Chamberlain bị đối mặt với một thời hạn mới. Bên Tiệp phải bắt đầu rút ra khỏi lãnh thổ sẽ chuyển giao bắt đầu từ ngày 26 tháng 9 và xong xuôi ngày 28 tháng 9. Chamberlain thốt lên: "Nhưng cái này không khác gì tối hậu thư!" Hitler đáp trả: "Không phải... Xem đây, văn kiện có tựa là ‘Bản ghi nhớ’." Vừa lúc ấy, một tùy viên mang vào một tin khẩn cấp cho Lãnh tụ. Ông xem qua và trao cho Schmidt để thông dịch: "Đọc cho ông Chamberlain nghe." Schmidt đọc: "Beneš vừa tuyên cáo trên đài truyền thanh lệnh tổng động viên ở Tiệp Khắc." Hitler nói: "Bây giờ, dĩ nhiên là mọi việc đều đã an bài. Người Tiệp sẽ không muốn nhượng lãnh thổ nào cho Đức." Chamberlain không đồng ý. Tiếp theo là cuộc tranh cãi dữ dội. Hitler nói người Tiệp đã động binh trước. Chamberlain nói ý khác: Đức đã động binh trước. Hitler phủ nhận Đức đã điều quân... Thế là, cuộc tranh cãi kéo dài đến khuya. Cuối cùng, Chamberlain hỏi liệu bản ghi nhớ của Đức "có phải đúng là thực sự những lời cuối cùng của ông ấy hay không," Hitler trả lời rằng đúng, và Chamberlain nói không còn có ích gì phải thảo luận tiếp. Ông đã làm mọi việc; tất cả nỗ lực của ông đã thất bại. Ông trở về với con tim nặng trĩu, vì hy vọng mà ông mang theo khi đến Đức đã tắt lịm. Nhưng nhà độc tài Đức vẫn chưa để cho ông yên. Ông có một "nhượng bộ." Hitler nói một cách hớn hở: Ông là một trong số ít người mà tôi từng làm như thế này. Tôi sẵn sàng định ra một ngày duy nhất cho việc rút lui của Tiệp Khắc – ngày 1 tháng 10 – để tạo thuận lợi cho công việc của ông. Sau khi nói thế, Hitler rút một cây bút chì và tự tay đổi ngày. Dĩ nhiên đấy không phải là nhượng bộ. Ngay từ đầu, Hitler đã định 1 tháng 10 là Ngày tấn công Tiệp Khắc. Bản ghi nhớ đòi hỏi mọi lực lượng của Tiệp Khắc, kể cả cảnh sát, rút ra khỏi những vùng tô màu đỏ trên bản đồ. Một cuộc trưng cầu dân ý sẽ quyết định tương lai của những vùng tô màu lục. Phải để lại nguyên trạng mọi cơ sở quân sự trong vùng đã rút lui. Phải chuyển giao nguyên trạng cho bên Đức mọi vật liệu thương mại và giao thông, "đặc biệt là những cấu phần di động". Không được mang theo lương thực, hàng hóa, bò, nguyên vật liệu... Hàng trăm nghìn người Tiệp không được mang theo vật dụng nội thất hoặc bò của gia đình. Anh-Pháp gây thêm áp lực Trở về nước, Chamberlain cố thuyết phục nội các Anh chấp thuận yêu sách mới của Quốc xã. Ông còn cảnh cáo Tổng thống Beneš rằng Đức sẽ vượt biên giới Tiệp Khắc nếu nước này không chấp nhận những điều kiện của Đức. Ông trách móc là Quân đội Đức sẽ tràn ngập Böhmen mà không cường quốc nào có thể làm gì được để cứu Tiệp Khắc khỏi số phận này. Và đấy là sự thật cho dù kết quả của chiến tranh thế giới sẽ ra sao. Thế là, Chamberlain đặt trách nhiệm về hòa bình hoặc chiến tranh lên Beneš chứ không phải Hitler. Trước khi Beneš có thời giờ để trả lời, Chamberlain gửi tiếp bức điện thứ hai, đề nghị Tiệp Khắc chấp nhận cho Đức chiếm đóng một phần vào ngày 1 tháng 10 rồi một uỷ ban biên giới Đức-Tiệp-Anh sẽ xác định những phần lãnh thổ khác sẽ giao cho Đức. Chamberlain phát biểu trên sóng phát thanh ở Anh: Dù cho chúng ta có thể thông cảm với một quốc gia nhỏ đối mặt với một nước láng giềng lớn và hùng mạnh, trong mọi trường hợp chúng ta không thể lôi cả Đế quốc Anh can dự vào một cuộc chiến. Nếu chúng ta phải chiến đấu, thì nên chiến đấu cho những vấn đề lớn hơn thế nữa... Với việc Pháp ủng hộ những đề nghị mới nhất, Tiệp Khắc bị các nước bè bạn cảnh cáo: cho dù họ và các đồng minh có thắng Đức, họ vẫn phải trao Sudetenland cho Đức. Câu suy diễn là rõ ràng: tại sao phải nhấn chìm châu Âu vào chiến tranh, vì bề nào cũng mất Sudetenland? Để khuyến dụ Hitler nên bỏ ngỏ cơ hội, Chamberlain viết một thư riêng cho Hitler và gửi hỏa tốc bằng một chuyến bay đặc biệt do Ngài Horace John Wilson (trợ lý đặc biệt cho Chamberlain) mang đi. Bức thư nói chính phủ Tiệp Khắc đã thông báo cho biết tối hậu thư Godesberg là "hoàn toàn không thể chấp nhận được." Khi nghe dịch bức thư, thình lình Hitler nhảy dựng lên, la hét: "Không có lý do gì phải đàm phán thêm!" rồi đi ra khỏi cửa. Rồi Hitler trở lại ngồi phệt trên ghế, nhiều lần ngắt ngang lời người thông dịch bằng cách hét lên: Người Đức đang bị đối xử như là da đen... Ngày 1 tháng 10 tôi sẽ chiếm Tiệp Khắc. Nếu Pháp và Anh muốn đánh, cứ để cho họ đánh... Chamberlain đã đề nghị các đại diện của Tiệp Khắc và Đức nên gặp nhau lập tức để dàn xếp "cách thức chuyển giao lãnh thổ," còn Anh sẵn lòng cử đại diện ngồi vào buổi họp. Hitler trả lời rằng ông chỉ thương thuyết chi tiết nếu Tiệp Khắc chấp nhận trước tối hậu thư Godesberg (mà họ đã bác bỏ). Và họ phải trả lời trong vòng 48 tiếng đồng hồ – lúc 2 giờ chiều ngày 28 tháng 9. Ngày 26 tháng 9, Hitler đọc diễn văn tại sân vận động Sportpalast ở Berlin đông kín người, la lối và gào thét trong cơn điên loạn. Hitler lăng mạ cá nhân Beneš, tuyên bố rằng vấn đề chiến tranh hoặc hòa bình bây giờ tùy thuộc vào tổng thống Beneš, và rằng dù sao chăng nữa, ông sẽ chiếm Sudetenland vào ngày 1 tháng 10. Ông thốt lên một cách khinh bỉ: "Chúng tôi không muốn người Tiệp!" Ngày kế, 27 tháng 9, Hitler trở lại tư thái bình thường để tiếp kiến Ngài Horace Wilson lần thứ hai. Ông bảo không có lời gì nhắn gửi Chamberlain. Bây giờ là tùy người Tiệp. Họ có thể chấp nhận hoặc từ khước những yêu cầu của ông. Nếu họ từ khước, ông giận dữ thét lên: "Tôi sẽ tiêu diệt Tiệp Khắc." Ông lặp lại câu đe dọa này nhiều lần với vẻ thích thú. Như thế là quá mức ngay cả đối với Wilson vốn hay nhượng bộ. Ông này đứng lên và nói: Trong trường hợp này, tôi được Thủ tướng tôi ủy quyền để có lời tuyên bố sau: "Nếu vì làm tròn nghĩa vụ hiệp ước mà Pháp can dự tích cực vào hành động thù địch với Đức, Vương quốc Anh sẽ bắt buộc phải ủng hộ Pháp". Hitler trả lời với thái độ gây hấn: "Điều này có nghĩa nếu Pháp muốn tấn công Đức, Anh sẽ bắt buộc cũng phải tấn công Đức." Khi Ngài Horace trả lời rằng ông không nói thế, rằng rốt cuộc thì tùy nơi Hitler để có hòa bình hoặc chiến tranh, Hitler lớn tiếng: "Nếu Pháp và Anh muốn đánh, thì cứ đánh! Tôi hoàn toàn không màng. Hôm nay là Thứ Ba; vào ngày Thứ Hai tới chúng ta sẽ lâm chiến." Wilson nói riêng với Hitler khi kết thúc: "Tôi sẽ cố làm cho người Tiệp biết điều," và Hitler trả lời ông "hoan nghênh việc này." Có lẽ Hitler nghĩ rằng vẫn có thể vỗ về Chamberlain để ông này làm cho người Tiệp "biết điều." Đêm ấy, ông đọc cho thuộc hạ viết một bức thư gửi Chamberlain với ngôn từ khôn khéo. Lá thư của Hitler được gửi khẩn bằng điện tín đến London tối 27 tháng 9 năm 1938. Đấy là tia hy vọng mỏng manh mà Thủ tướng Anh vội vàng nắm bắt. Ông trả lời sẵn sàng đích thân đi Đức lập tức. Sự đầu hàng ở München Vào lúc 12:30 giờ xế chiều ngày 29 tháng 9 năm 1938, Adolf Hitler với vị thế như là người chuyên đi thôn tính tiếp đón nguyên thủ của các chính phủ Anh, Pháp và Ý. Các cuộc thảo luận chỉ có tính thủ tục nhằm thực hiện chính xác những gì Hitler muốn vào thời điểm ông muốn. Công việc tiến hành một cách xuề xòa, và xét theo biên bản buổi họp được tịch thu sau chiến tranh, Thủ tướng Anh và Thủ tướng Pháp khá sẵn lòng đồng ý với Hitler. Hội nghị bắt đầu công việc thật sự khi Mussolini, người phát biểu thứ ba – Daladier được để sau cùng – nói "nhằm mang đến một giải pháp thực tế cho vấn đề," ông đã mang theo một đề xuất ghi trên giấy. Nguồn gốc văn bản này là đáng để ý, và cho đến khi qua đời Chamberlain vẫn không biết. Từ hồi ký của François-Poncet và Henderson, rõ ràng là họ cũng không biết. Thật ra, câu chuyện chỉ được đưa ra ánh sáng một thời gian lâu sau khi hai nhà độc tài qua đời. Cái mà Mussolini mang ra như là kế hoạch dung hòa của chính ông đã được vội vã soạn thảo ngày hôm trước tại Bộ Ngoại giao Đức. Các tác giả là Göring, Neurath và Weizsäcker làm việc sau lưng Ribbentrop, vì ba người không tin tưởng nơi phán xét của ông này. Göring mang bản văn đến trình Hitler, ông này chấp nhận, rồi TS. Schmidt vội vã dịch bản văn sang Pháp văn. Bản văn được trao cho Đại sứ Ý Attolico, và người này đọc nội dung qua điện thoại cho Mussolini nắm bắt ở Rome ngay trước khi ông lên đường đi München. Vì các bên đều hoan nghênh "đề xuất Ý," chỉ cần thảo luận các chi tiết thi hành. Chamberlain – nguyên là doanh nhân và cựu Bộ trưởng Tài chính – muốn biết ai sẽ đền bù cho tài sản công được chuyển giao cho Đức. Có vẻ mệt nhọc và cũng bực dọc vì không thể theo dõi các câu trao đổi bằng tiếng Pháp và Anh, Hitler trả lời ngay là không có đền bù gì cả. Khi Chamberlain phản đối điều khoản quy định người Tiệp không được mang theo bò khi rút đi khỏi Sudetenland, Hitler lớn tiếng: "Không nên phí thời giờ quý báu của chúng ta vào chuyện vụn vặt như thế!" Vị Thủ tướng Anh bỏ qua vấn đề. Nhưng ông đòi hỏi phải có mặt đại diện của Tiệp Khắc. Ông nói nước ông "không thể đảm bảo người Tiệp sẽ rút lui xong xuôi vào ngày 1/10 nếu Chính phủ Tiệp Khắc không cam kết việc này." Daladier tỏ ý ủng hộ tuy không nhiệt tình lắm. Nhưng Hitler vẫn khăng khăng. Ông sẽ không cho phép người Tiệp đến với sự hiện diện của ông. Daladier ngoan ngoãn chịu thua, nhưng Chamberlain cuối cùng đạt được một ít nhượng bộ. Hội nghị đồng ý rằng một đại diện của Tiệp Khắc có thể chờ đợi "trong phòng bên cạnh" như Chamberlain đề nghị. Và đúng thế: buổi xế chiều đi đến hai đại diện của Tiệp Khắc: TS. Voltech Mastny, Công sứ Tiệp Khắc tại Đức và TS. Hubert Masarik của Bộ Ngoại giao Tiệp Khắc. Họ được lạnh lùng đưa vào một căn phòng bên. Sau khi chờ đợi mỏi mòn từ 2 giờ chiều cho đến 7 giờ tối, họ được Frank Ashton-Gwatkin trong đoàn Anh báo tin chẳng lành. Hội nghị đã đi đến nhất trí chung, ông không thể cho biết chi tiết, nhưng còn "khắc nghiệt" hơn là đề xuất của Pháp-Anh. Lúc 10:00 giờ tối, hai nhân vật Tiệp Khắc được đưa vào gặp Ngài Horace Wilson, cố vấn của Thủ tướng Anh. Thay mặt Thủ tướng, Wilson thông báo cho hai người về những điểm chính và trao cho họ tấm bản đồ theo đấy người Tiệp phải rút đi lập tức. Khi hai nhân vật Tiệp Khắc định lên tiếng phản đối, Wilson ngắt lời họ. Ông bảo không còn gì để nói, và lập tức bước ra khỏi phòng. Hai nhân vật Tiệp Khắc phản đối với Ashton-Gwatkin lúc này vẫn còn ở bên cạnh họ, nhưng vô vọng. Ông nói với hai người: Nếu các ông không chấp nhận, các ông sẽ phải giải quyết chuyện của các ông với người Đức mà không có chúng tôi. Có lẽ người Pháp sẽ nói với các ông điều này một cách nhỏ nhẹ hơn, nhưng các ông nên tin tôi là họ cùng quan điểm với chúng tôi. Họ không quan tâm. Đấy là sự thật, dù là nghe phũ phàng đối với hai đại diện của Tiệp Khắc. Khoảng sau 1 giờ sáng ngày 30 tháng 9 năm 1938, tuần tự Hitler, Chamberlain, Mussolini và Daladier ký vào bản Hiệp ước München quy định Quân đội Đức sẽ bắt đầu tiến vào Tiệp Khắc ngày 1 tháng 10, và hoàn tất việc chiếm đóng Sudetenland ngày 10/1. Hitler đã đạt được kết quả đúng như yêu sách đã bị từ chối tại Godesberg. Thật ra, Hiệp ước đề ngày 29 tháng 9. Các điều khoản chính quy định Đức sẽ tiến vào chiếm đóng trong bốn giai đoạn từ ngày 1 đến 7 tháng 10. Đức sẽ chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại ngày 10 tháng 10, sau khi "Ủy hội Quốc tế" vạch đường ranh giới. Ủy hội sẽ gồm đại diện của Anh, Pháp, Đức, Ý và Tiệp Khắc. "Ủy hội Quốc tế" sẽ tổ chức trưng cầu dân ý "chậm nhất là cuối tháng 11" ở những vùng không rõ tỷ lệ của các dân tộc, và sẽ định đường ranh giới. Cam kết về trưng cầu dân ý không bao giờ được thực hiện. Cả Đức lẫn Ý không bao giờ đảm bảo cho Tiệp Khắc chống lại sự xâm lấn, ngay cả sau khi các vấn đề dân tộc thiểu số Ba Lan và Hungari đã được giải quyết, còn Anh và Pháp từ chối việc đảm bảo của họ. Đối với Tổng thống Tiệp Khắc Beneš, không có chọn lựa nào khác hơn là phải chấp nhận. Anh và Pháp không những bỏ rơi đất nước ông, mà bây giờ còn ủng hộ Hitler sử dụng vũ lực nếu ông bác bỏ bản hiệp ước. Tiệp Khắc nhượng bộ "dưới sự phản đối với thế giới," theo lời bản công bố chính thức. Tướng Sirovy, tân Thủ tướng, nói với người dân Tiệp Khắc trên sóng phát thanh: "Chúng ta đã bị bỏ rơi. Chúng ta chỉ có một mình." Anh và Pháp gây áp lực đến cùng trên đất nước mà họ đã dẫn dụ và phản bội. Đại sứ Pháp cố nói lên lời chia buồn, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Krofta ngắt lời: "Chúng tôi đã bị thúc ép mà lâm vào hoàn cảnh này; bây giờ mọi việc đều chấm dứt; hôm nay đến phiên chúng tôi, ngày mai sẽ đến phiên những người khác"... Ngày 5 tháng 10 năm, do áp lực của Đức Tổng thống Tiệp Khắc Beneš từ chức và, khi biết tính mạng mình bị lâm nguy, bay đi lánh nạn ở Anh. Tướng Sirovy làm Tổng thống lâm thời. "Ủy hội Quốc tế" được vội vã thành lập gồm các đại sứ Ý, Anh và Pháp, thêm công sứ Tiệp Khắc tại Đức và Thứ trưởng Ngoại giao Đức von Weizsäcker. Hitler và Quân lực Đức gây áp lực để mọi sự tranh cãi về các lãnh thổ được dàn xếp có lợi cho Đức. Cuối cùng, ngày 13/10 Ủy hội Quốc tế biểu quyết để bãi bỏ cuộc trưng cầu dân ý mà Hiệp ước München quy định cho những vùng đang bị tranh chấp. Giống như những con kên kên, bây giờ Ba Lan và Hungari xông vào để xâu xé lãnh thổ của Tiệp Khắc. Ba Lan chiếm gần 1.700 km² chung quanh Teschen có 228.000 dân, trong số này có 133.000 người Séc. Hungari chiếm hơn 19.000 km², với 500.000 người sắc tộc Magyar và 272.000 người Séc. Thêm nữa, đất nước đã bị cắt manh mún và mất vị thế phòng thủ bây giờ lại bị Đức ép buộc lập một chính phủ thân Đức. Rõ ràng là từ lúc này, nước Tiệp Khắc mới chỉ biết trông cậy vào lòng khoan dung của nhà Lãnh tụ Đế chế thứ Ba. Hậu quả Hiệp ước München trao cho Hitler những gì mà ông đòi hỏi ở Godesberg, và "Ủy hội Quốc tế" vì những hù dọa của ông mà phải cho thêm. Cuối cùng, đến ngày 20 tháng 11 năm 1938, Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 30.000 km² lãnh thổ, trên đó có 2.800.000 người Đức Sudeten và 800.000 người Séc sinh sống. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp. Nhưng không chỉ có thế. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ, điện thoại và điện tín của Tiệp Khắc đều bị xáo trộn. Theo số liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hóa chất, xi măng; trên dưới 70% than đá, sắt, thép, điện năng; và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản. Liệu Anh và Pháp có cần thiết phải nhượng bộ ở München không? Liệu Adolf Hitler có chơi nước bài tháu cáy hay không? Bây giờ người ta biết rằng câu trả lời – một cách nghịch lý đối với cả hai câu hỏi – là: Không. Tất cả tướng lĩnh thân cận với Hitler và sống sót sau chiến tranh đều đồng ý là nếu không có Hiệp ước München, Hitler hẳn đã tấn công Tiệp Khắc ngày 1/10/1938, và họ nghĩ rằng dù lúc đầu có lưỡng lự, cuối cùng Anh, Pháp và Liên Xô sẽ bị cuốn hút vào chiến tranh. Và điều quan trọng nhất cho lịch sử ở điểm này: các tướng lĩnh Đức đều nhất trí với nhau rằng Đức sẽ bại trận, và bại trận nhanh chóng. Còn người ủng hộ Chamberlain và Daladier – họ chiếm đa số lúc này – lập luận rằng Hiệp ước München không phải giúp phương Tây tránh chiến tranh, mà giúp cho họ tránh tàn phá trong chiến tranh, nhân thể tránh cho London và Paris bị không quân Đức san bằng. Luận cứ này bị những người biết rõ nhất phản bác: chính là các tướng lĩnh thân cận với Hitler và ủng hộ ông từ đầu đến cuối. Người đứng đầu nhóm này là Thống chế Wilhelm Keitel (Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Đức), trong Tòa án Nürnberg, khi được hỏi về phản ứng của tướng lĩnh Đức đối với Hiệp ước München, Keitel trả lời: Chúng tôi rất đỗi vui mừng là việc này không dẫn đến chiến dịch quân sự bởi vì... chúng tôi luôn nghĩ rằng chúng tôi không có đủ phương tiện để đánh phá những công sự phòng thủ vùng biên giới của Tiệp Khắc. Những chuyên gia quân sự Đồng minh luôn cho rằng Quân đội Đức đã có thể xuyên thủng Tiệp Khắc. Nhưng ngoài lời khai của Keitel rằng không phải như thế, còn có thêm ý kiến của Thống chế Erich von Manstein, một trong những tư lệnh mặt trận tài giỏi nhất của Đức. Khi khai ở Nürnberg về vị thế của Đức vào thời điểm Hiệp ước München, ông giải thích: Nếu chiến tranh bùng nổ, chúng tôi không thể bảo vệ biên giới phía Tây lẫn biên giới Ba Lan, và rõ ràng là chúng tôi hẳn đã bị các công sự phòng thủ của Tiệp Khắc chặn đứng, bởi vì chúng tôi không có khả năng để xuyên phá. Đại tướng Alfred Jodl (Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Đức) khai trước Tòa án Nürnberg: Không thể nào năm sư đoàn tác chiến và bảy sư đoàn dự bị ở miền Tây... chống chọi được 100 sư đoàn của Pháp. Về mặt quân sự, việc này là không thể được. Trong giai đoạn ấy, ở Berlin người ta công nhận rằng Anh và Pháp có khả năng quân báo khá tốt. Rất khó mà tin rằng các nhà lãnh đạo quân sự Anh và Pháp không biết gì về những điểm yếu hiển nhiên của Quân đội Đức trong việc tham dự cuộc chiến ở cả hai mặt trận. Dù là con người rất cẩn trọng, Thống chế Gamelin, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Pháp, còn e ngại gì khi ông có đến 100 sư đoàn đối mặt với 5 sư đoàn tác chiến và 7 sư đoàn dự bị của Đức? Nhiều luận cứ cho rằng một lý do khiến cho Anh quốc nhượng bộ là họ sợ không quân Đức sẽ san bằng London, và chắc hẳn người Pháp cũng run sợ trước viễn cảnh kinh khiếp là thủ đô hoa mỹ của họ cũng bị tàn phá. Nhưng khi được biết về sức mạnh của không quân Đức lúc bấy giờ, dân chúng London và Paris cũng như hai vị Thủ tướng không cần phải lo sợ quá đáng. Không quân Đức, giống như Lục quân Đức, đang tập trung chống lại Tiệp Khắc, vì thế không có khả năng đe dọa phương Tây. Ngay cả nếu vài máy bay thả bom của Đức có thể được tách ra để tấn công London và Paris, họ hẳn đã khó bay được đến các mục tiêu. Đức không có khả năng cung cấp máy bay chiến đấu để bảo vệ các máy bay thả bom của họ. Các sân bay quân sự của Đức ở khoảng cách quá xa. Cũng đã có lập luận – nhất là từ hai đại sứ Pháp và Anh – rằng Hiệp ước München cho Pháp và Anh có được gần một năm để bắt kịp cuộc tái vũ trang của Đức. Sự kiện đi ngược lại lập luận này. Như Churchill, được mọi sử gia quân sự Đồng minh ủng hộ, đã viết: Thời gian một năm ‘có thêm’ do Hiệp ước München khiến cho Anh và Pháp sau đấy ở vị thế còn tệ hại hơn so với thời điểm ký Hiệp ước. Khi soát xét lại sự việc và với thông tin bây giờ người ta có được từ tài liệu mật của Đức cùng lời khai của chính người Đức, có thể đúc kết như sau: Đức không đủ mạnh để tham chiến ngày 1 tháng 10 năm 1938 chống lại Tiệp Khắc và Anh-Pháp, chưa kể đến Liên Xô. Nếu Đức gây hấn, Đức sẽ chiến bại một cách nhanh chóng và dễ dàng, và đây sẽ là dấu chấm hết cho Hitler và Đế chế thứ Ba. Thái độ ương ngạnh, cuồng tín của Chamberlain trong việc đáp ứng những gì Hitler đòi hỏi, và ba chuyến đi đến Đức đã cứu nguy cho Hitler, củng cố vị thế của ông này đối với châu Âu, dân Đức và Quân đội Đức vượt quá những gì có thể tưởng tượng được vài tuần trước đấy. Việc này cũng tiếp sức mạnh vô hạn cho Đế chế thứ Ba so với các nền dân chủ phương Tây và Liên Xô. Đối với Pháp, Hiệp ước München là thảm họa: vị thế quân sự của Pháp bị suy sụp. Vì lý do quân đội Pháp không bằng phân nửa quân đội Đức khi Đức đã động viên tổng lực và cũng vì khả năng sản xuất vũ khí yếu kém, Pháp đã khổ công gây dựng những mối liên minh với các nước nhỏ hơn bên cạnh sườn của Đức – và của Ý. Những nước này là Tiệp Khắc, Ba Lan, Nam Tư và Rumani. Hợp lại, họ có tiềm năng quân sự ngang bằng một cường quốc châu Âu. Bây giờ, Pháp mất đi sự yểm trợ của 35 sư đoàn Tiệp Khắc được huấn luyện nhuần nhuyễn, được trang bị hùng hậu, trấn giữ những pháo đài kiên cố vùng đồi núi và có khả năng chống trả một lực lượng Đức lớn hơn. Nhưng không chỉ có thế. Sau Hiệp ước München, những nước liên minh với Pháp còn lại ở Tây Âu không còn tin tưởng nơi lời hứa hẹn trên giấy tờ của Pháp. Họ cố chen lấn nhau để tìm cách thỏa hiệp với Quốc xã trong khi còn có thời giờ. Nếu không chen lấn, thì Moskva cũng cựa mình. Dù Liên Xô lập liên minh quân sự với cả Tiệp Khắc và Pháp, chính phủ Pháp đã về hùa với Đức và Anh mà loại Liên Xô ra khỏi hội nghị München. Josef Stalin sẽ không bao giờ quên hành động khinh rẻ này và sẽ khiến cho hai nước phương Tây trả giá đắt về sau. Chung cục Ít ngày sau khi ký Hiệp ước München, Hitler bắt đầu khởi động kế hoạch để đạt đến giải pháp toàn diện. Lúc 6 giờ sáng ngày 15 tháng 3 năm 1939, quân Đức tràn vào Böhmen và Mähren. Họ không gặp sự kháng cự nào, và đến buổi tối Hitler có thể tiến bước như người chiến thắng vào Praha. Trước khi rời Berlin, Hitler ra một tuyên cáo hùng hồn một cách hãnh diện: "Tiệp Khắc đã bị xóa sổ!"
Tập đoàn Intel (Integrated Electronics) được thành lập vào ngày 18 tháng 7 năm 1968 tại Santa Clara, California, Hoa Kỳ, là một trong những nhà sản xuất bán dẫn lớn nhất thế giới về doanh thu, và là một trong những nhà phát triển của chuỗi bộ lệnh x86 được tìm thấy ở hầu hết máy tính cá nhân (PC). Intel cung cấp vi xử lý cho các nhà sản xuất hệ thống máy tính như Acer, Lenovo, HP và Dell. Intel cũng sản xuất các bo mạch chủ, ổ nhớ flash, card mạng. Intel được thành lập bởi các nhà tiên phong bán dẫn như Gordon Moore (tác giả luật Moore), Robert Noyce, Arthur Rock (nhà đầu tư mạo hiểm) và liên kết với sự lãnh đạo điều hành và tầm nhìn của Andrew Grove. Intel là một yếu tố then chốt trong sự trỗi dậy của Silicon Valley như một trung tâm công nghệ cao. Noyce là một trong những nhà phát minh chính của mạch tích hợp (microchip). Ban đầu, Intel là nhà sản xuất bộ nhớ SRAM và DRAM và đây là sự kiện tiêu biểu đầu tiên cho các nhà sản xuất chip bộ nhớ sau này. Dù Intel đã tạo ra chip vi xử lý thương mại đầu tiên trên thế giới vào năm 1971, nhưng cho đến khi thành công của máy tính cá nhân (PC) thì sản phẩm này mới trở thành mảng kinh doanh chính của hãng. Trong thập niên 1990, Intel đầu tư mạnh mẽ vào thiết kế vi xử lý mới, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp máy tính. Trong giai đoạn này, Intel trở thành nhà cung cấp chủ yếu cho các vi xử lý PC và được biết đến với các chiến lược gây tranh cãi và không công bằng trong việc bảo vệ vị thế thị trường của mình, đặc biệt đối với AMD, cũng như cuộc đấu tranh với Microsoft về kiểm soát ngành công nghiệp máy tính. Trung tâm Công nghệ mã nguồn mở tại Intel là nơi đăng cai các dự án PowerTOP và LatencyTOP và hỗ trợ các dự án mã nguồn mở khác như Wayland, Mesa, Threading Building Blocks (TBB) và Xen. Hoạt động hiện tại Khách hàng Trong năm 2020, Dell đã đóng góp khoảng 17% vào tổng doanh thu của Intel, trong khi Lenovo và HP Inc. lần lượt chiếm 12% và 10% tổng doanh thu. Đến tháng 8 năm 2021, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cũng trở thành một trong những khách hàng lớn của Intel. Thị phần Theo IDC, mặc dù Intel đã chiếm lĩnh thị phần lớn nhất trên toàn cầu trong cả thị trường vi xử lý máy tính cá nhân (73.3%) và thị trường vi xử lý máy tính cá nhân di động (80.4%) vào quý hai năm 2011, nhưng các con số này đã giảm 1.5% và 1.9% so với quý một năm 2011. Thị phần của Intel đã giảm đáng kể trong thị trường người dùng cuồng nhiệt từ năm 2019, và họ đã gặp phải sự chậm trễ trong việc ra mắt sản phẩm 10 nm của mình. Theo Bob Swan, nguyên CEO của Intel, nguyên nhân chính của sự chậm trễ này là do chiến lược chuyển đổi quá mạnh mẽ của công ty đến node tiếp theo. Trong thập kỷ 1980, Intel đã góp mặt trong top 10 nhà sản xuất bán dẫn hàng đầu thế giới (đứng thứ 10 vào năm 1987). Cùng với hệ điều hành Microsoft Windows, Intel đã cùng nhau tạo nên sự thống trị của máy tính cá nhân dòng “Wintel” trong suốt thập kỷ 1990 và đầu thập kỷ 2000. Vào năm 1992, Intel đã trở thành nhà sản xuất chip có doanh thu lớn nhất và đã giữ vững vị trí này cho đến năm 2018, khi Samsung đã vượt lên dẫn đầu. Tuy nhiên, Intel đã quay trở lại vị trí số một vào năm tiếp theo. Các công ty bán dẫn lớn khác bao gồm TSMC, GlobalFoundries, Samsung, Texas Instruments, Toshiba, STMicroelectronics, United Microelectronics Corporation (UMC), Micron, SK Hynix, Kioxia và SMIC. Đối thủ chính Trong lĩnh vực chipset máy tính cá nhân, Intel đối mặt với sự cạnh tranh từ AMD, VIA Technologies, Silicon Integrated Systems và Nvidia. Trong lĩnh vực mạng, Intel cạnh tranh với NXP Semiconductors, Infineon, Broadcom Limited, Marvell Technology Group và Applied Micro Circuits Corporation. Trong khi đó, trong lĩnh vực bộ nhớ flash, Intel phải đối mặt với Spansion, Samsung Electronics, Qimonda, Kioxia, STMicroelectronics, Micron và SK Hynix. Đối thủ duy nhất chính trong thị trường vi xử lý x86 là AMD. Intel và AMD đã có các thỏa thuận cấp phép chéo toàn diện từ năm 1976, cho phép mỗi bên sử dụng các phát minh công nghệ được cấp bằng sáng chế của đối tác mà không phải trả phí sau một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, thỏa thuận cấp phép chéo này sẽ bị hủy bỏ trong trường hợp AMD phá sản hoặc bị tiếp quản. Một số đối thủ nhỏ hơn như VIA Technologies chuyên sản xuất các vi xử lý x86 tiết kiệm năng lượng cho các máy tính kích thước nhỏ và thiết bị di động. Tuy nhiên, sự ra đời của các thiết bị điện toán di động, đặc biệt là điện thoại thông minh, đã khiến doanh số máy tính cá nhân giảm trong những năm gần đây. Do hơn 95% điện thoại thông minh trên thế giới hiện tại sử dụng lõi vi xử lý do Arm thiết kế, với bộ lệnh của Arm, Arm đã trở thành một đối thủ lớn cho thị trường vi xử lý của Intel. Arm cũng đang lên kế hoạch mở rộng vào thị trường máy tính cá nhân và máy chủ, với Ampere và IBM mỗi công ty đều thiết kế CPU cho máy chủ và siêu máy tính. Đối thủ duy nhất khác lớn trong bộ lệnh vi xử lý là RISC-V, là một bộ lệnh CPU mã nguồn mở. Với Huawei, nhà sản xuất điện thoại và viễn thông hàng đầu, đã phát hành chip dựa trên bộ lệnh RISC do các biện pháp trừng phạt của Mỹ. Intel đã tham gia vào một số tranh chấp liên quan đến vi phạm luật chống độc quyền. Khí thải carbon Intel đã công bố tổng lượng khí thải CO2e (bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp) cho khoảng thời gian mười hai tháng kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, đạt 2,882 Kt (tăng 94 Kt, tương đương với mức tăng 3.4% so với cùng kỳ năm trước). Intel đang lên kế hoạch giảm lượng khí thải carbon 10% vào năm 2030, dựa trên số liệu của năm cơ sở 2020. Lịch sử Nguồn gốc Intel được thành lập tại Mountain View, California, vào ngày 18 tháng 7 năm 1968 bởi Gordon E. Moore (người nổi tiếng với “Định luật Moore”), một nhà hóa học, Robert Noyce, một nhà vật lý và đồng sáng chế của mạch tích hợp, cùng với Arthur Rock, một nhà đầu tư và nhà quản lý vốn mạo hiểm. Moore và Noyce đã rời Fairchild Semiconductor và là một phần của “tám kẻ phản bội”. Ban đầu có 500.000 cổ phiếu được phát hành trong đó Tiến sĩ Noyce mua 245.000 cổ phiếu, Tiến sĩ Moore 245.000 cổ phiếu, và ông Rock 10.000 cổ phiếu; tất cả đều với giá $1 mỗi cổ phiếu. Rock đã cung cấp $2,500,000 trái phiếu chuyển đổi cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư tư nhân (tương đương với $21 triệu vào năm 2022), có thể chuyển đổi với giá $5 mỗi cổ phiếu. Chỉ sau 2 năm, Intel đã trở thành công ty công khai thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), thu về $6.8 triệu ($23.50 mỗi cổ phiếu). Nhân viên thứ ba của Intel là Andy Grove, một kỹ sư hóa học, người sau này đã điều hành công ty trong suốt phần lớn thập kỷ 1980 và thập kỷ tăng trưởng cao vào những năm 1990. Khi lựa chọn tên, Moore và Noyce đã nhanh chóng loại bỏ “Moore Noyce”, gần như là từ đồng âm cho “more noise” (nghĩa là “thêm tiếng ồn”) - một cái tên không thích hợp cho một công ty điện tử, vì tiếng ồn trong điện tử thường không được mong muốn và thường được liên kết với sự can thiệp xấu. Thay vào đó, họ đã thành lập công ty với tên NM Electronics (hoặc MN Electronics) vào ngày 18 tháng 7 năm 1968, nhưng chỉ sau ít hơn một tháng, họ đã đổi tên thành Intel, tên viết tắt của Integrated Electronics. Tuy nhiên, vì “Intel” đã được đăng ký thương hiệu bởi chuỗi khách sạn Intelco, họ đã phải mua quyền sử dụng tên này. Những năm đầu Khi mới thành lập, Intel đã nổi bật nhờ khả năng tạo ra các mạch logic sử dụng các thiết bị bán dẫn. Mục tiêu của các nhà sáng lập là thị trường bộ nhớ bán dẫn, được dự đoán sẽ thay thế cho bộ nhớ từ hạt từ. Sản phẩm đầu tiên của họ, ra mắt vào năm 1969, là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên tĩnh (SRAM) 64 bit 3101 Schottky TTL hai cực, với tốc độ gần như gấp đôi so với các phiên bản diode Schottky trước đó của Fairchild và Phòng thí nghiệm Điện tử ở Tsukuba, Nhật Bản. Trong cùng năm đó, Intel cũng đã sản xuất ra bộ nhớ chỉ đọc (ROM) 1024 bit hai cực Schottky 3301 và chip SRAM silicon gate MOSFET (transistor hiệu ứng trường bán dẫn kim loại-oxit) thương mại đầu tiên, là chip 256 bit 1101. Mặc dù 1101 là một bước tiến đáng kể, nhưng cấu trúc cell tĩnh phức tạp của nó đã khiến nó trở nên quá chậm và tốn kém cho bộ nhớ máy chủ. Vấn đề này đã được giải quyết bằng cấu trúc cell ba transistor được áp dụng trong bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động (DRAM) thương mại đầu tiên, 1103, ra mắt vào năm 1970. 1103 đã trở thành chip bộ nhớ bán dẫn bán chạy nhất trên thế giới vào năm 1972, khi nó thay thế bộ nhớ từ hạt từ trong nhiều ứng dụng. Trong suốt thập kỷ 1970, Intel đã phát triển mạnh mẽ khi mở rộng và cải thiện quy trình sản xuất của mình, đồng thời sản xuất ra một loạt các sản phẩm đa dạng, với sự thống trị của các thiết bị bộ nhớ. Intel đã tạo ra vi xử lý thương mại đầu tiên (Intel 4004) vào năm 1971. Vi xử lý này đã mang lại một bước tiến đáng kể trong công nghệ mạch tích hợp, khi nó thu nhỏ được đơn vị xử lý trung tâm của máy tính, điều này đã tạo điều kiện cho các máy móc nhỏ có thể thực hiện các phép tính mà trước đây chỉ có các máy móc lớn mới có thể làm được. Trước khi vi xử lý có thể trở thành cơ sở của cái được biết đầu tiên là “máy tính mini” và sau đó được biết đến là “máy tính cá nhân”, cần phải có sự đổi mới công nghệ đáng kể. Intel cũng đã tạo ra một trong những máy vi tính đầu tiên vào năm 1973. Intel đã mở cơ sở sản xuất quốc tế đầu tiên của mình vào năm 1972, tại Malaysia, trước khi mở các cơ sở lắp ráp và nhà máy bán dẫn tại Singapore và Jerusalem vào đầu những năm 1980, cũng như các trung tâm sản xuất và phát triển tại Trung Quốc, Ấn Độ, và Costa Rica trong thập kỷ 90. Đến đầu thập kỷ 80, hoạt động kinh doanh chính của Intel là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên động (DRAM). Tuy nhiên, sự cạnh tranh gia tăng từ các nhà sản xuất bán dẫn Nhật Bản đã làm giảm đáng kể lợi nhuận từ thị trường này vào năm 1983. Sự thành công ngày càng tăng của máy tính cá nhân IBM, dựa trên vi xử lý Intel, đã thuyết phục CEO Gordon Moore (từ năm 1975) chuyển hướng công ty sang vi xử lý và thay đổi các khía cạnh cơ bản của mô hình kinh doanh. Quyết định của Moore về việc chỉ sử dụng chip 386 của Intel đã góp phần vào sự thành công liên tục của công ty. Thách thức sự thống trị (thập kỷ 2000) Sau năm 2000, nhu cầu tăng trưởng đối với vi xử lý cao cấp đã chậm lại. Các đối thủ, đặc biệt là AMD (là đối thủ lớn nhất của Intel trong thị trường kiến trúc x86 chính của mình), đã chiếm được thị phần đáng kể, ban đầu trong các vi xử lý phạm vi thấp và trung bình nhưng cuối cùng là trên toàn bộ phạm vi sản phẩm, và vị trị thống trị của Intel trong thị trường cốt lõi của mình đã bị giảm đi rất nhiều, chủ yếu do kiến trúc micro NetBurst gây tranh cãi. Vào đầu những năm 2000, CEO Craig Barrett đã cố gắng mở rộng hoạt động kinh doanh của Intel ra khỏi lĩnh vực bán dẫn, nhưng chỉ có một số ít trong số các hoạt động này cuối cùng đã thành công. Kiện tụng Intel, một công ty nổi tiếng trong ngành công nghệ, đã phải đối mặt với nhiều vụ kiện tụng kéo dài trong nhiều năm. Ban đầu, luật pháp Hoa Kỳ không công nhận quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến cấu trúc mạch vi xử lý. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi sau khi Đạo luật Bảo vệ Chip Bán dẫn được thông qua vào năm 1984 - một đạo luật mà Intel và Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn (SIA) đã đẩy mạnh. Sau khi đạo luật này được thông qua, vào cuối thập kỷ 80 và 90, Intel đã kiện các công ty khác cố gắng tạo ra các chip cạnh tranh với CPU 80386 của họ. Những vụ kiện này đã tạo ra gánh nặng tài chính lớn cho các công ty cạnh tranh, ngay cả khi Intel không thắng kiện. Bên cạnh đó, từ đầu thập kỷ 90, Intel cũng đã phải đối mặt với các cáo buộc vi phạm luật chống độc quyền. Điều này đã dẫn đến một vụ kiện chống lại Intel vào năm 1991. Vào năm 2004 và 2005, AMD - một đối thủ lớn của Intel - đã tiếp tục đưa ra các yêu cầu chống lại Intel liên quan đến hành vi cạnh tranh không công bằng. Tái tổ chức và thành công với Intel Core (2005–2015) Trong năm 2005, Giám đốc điều hành Paul Otellini đã thực hiện tái cấu trúc công ty, nhằm định hướng lại sự chú trọng vào việc phát triển lõi vi xử lý và kinh doanh chipset dựa trên các nền tảng chính (doanh nghiệp, nhà số hóa, sức khỏe số hóa và di động). Vào ngày 6 tháng 6 năm 2005, Steve Jobs, người khi đó đang giữ chức CEO của Apple, đã công bố rằng Apple sẽ sử dụng bộ vi xử lý x86 của Intel cho dòng máy tính Macintosh của họ, thay vì sử dụng kiến trúc PowerPC do liên minh AIM phát triển. Đây được xem là một chiến thắng đáng kể cho Intel; Tuy nhiên, một nhà phân tích đã đánh giá rằng quyết định này của Apple là “mạo hiểm” và “không khôn ngoan”, bởi vào thời điểm đó, các sản phẩm của Intel được cho là kém cạnh so với AMD và IBM. Năm 2006, Intel đã ra mắt kiến trúc vi xử lý Core của mình, nhận được sự hoan nghênh nồng nhiệt từ giới phê bình. Dòng sản phẩm này được đánh giá là một bước nhảy vọt trong hiệu suất vi xử lý, giúp Intel nhanh chóng khôi phục lại vị thế dẫn đầu trong ngành. Năm 2008, Intel tiếp tục có thêm một “bước tiến” khi giới thiệu kiến trúc vi xử lý Penryn, được chế tạo bằng quy trình 45 nm. Cuối năm đó, Intel đã tung ra thị trường một bộ vi xử lý với kiến trúc Nehalem và nhận được phản hồi tích cực từ thị trường. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2006, Intel đã công bố việc bán tài sản XScale của mình. Intel đã đồng ý để Marvell Technology Group mua lại phần kinh doanh vi xử lý XScale với giá dự kiến là 600 triệu đô la Mỹ, đồng thời chấp nhận một số nghĩa vụ không rõ ràng. Động thái này được thực hiện với mục đích cho phép Intel tập trung nguồn lực vào lĩnh vực kinh doanh chính của mình là x86 và máy chủ. Việc mua lại đã được hoàn tất vào ngày 9 tháng 11 năm 2006. Năm 2008, Intel đã tách ra một số tài sản quan trọng từ dự án khởi nghiệp về năng lượng mặt trời để thành lập một công ty độc lập mang tên SpectraWatt Inc. Tuy nhiên, vào năm 2011, SpectraWatt đã phải nộp đơn xin phá sản. Vào tháng 2 năm 2011, Intel đã khởi công xây dựng một nhà máy sản xuất vi xử lý mới tại Chandler, Arizona. Dự án này đã hoàn thành vào năm 2013 với tổng chi phí là 5 tỷ đô la. Hiện tại, toà nhà này là nhà máy Fab 42 đã được chứng nhận tiêu chuẩn 10 nm và được kết nối với các nhà máy khác (12, 22, 32) tại Khuôn viên Ocotillo thông qua một cây cầu kín được gọi là Link. Intel sản xuất ba phần tư sản phẩm của mình tại Hoa Kỳ, mặc dù ba phần tư doanh thu của họ đến từ các thị trường quốc tế. Liên minh cho Internet giá rẻ (A4AI) đã chính thức ra mắt vào tháng 10 năm 2013. Intel là một trong số các tổ chức công và tư tham gia liên minh này, bên cạnh Facebook, Google và Microsoft. Dưới sự lãnh đạo của Sir Tim Berners-Lee, A4AI đặt mục tiêu làm cho việc truy cập Internet trở nên giá rẻ hơn, nhằm mở rộng việc truy cập Internet ở các nước đang phát triển, nơi chỉ có 31% dân số có khả năng truy cập Internet. Google sẽ hỗ trợ giảm giá truy cập Internet để chúng thấp hơn mục tiêu toàn cầu của Ủy ban Băng thông của Liên Hợp Quốc là chi phí không vượt quá 5% thu nhập hàng tháng. Nỗ lực thâm nhập vào thị trường điện thoại thông minh Vào tháng 4 năm 2011, Intel đã bắt đầu một dự án thử nghiệm với Tập đoàn ZTE để sản xuất điện thoại thông minh sử dụng bộ vi xử lý Intel Atom cho thị trường nội địa Trung Quốc. Vào tháng 12 năm 2011, Intel thông báo rằng họ đã tái tổ chức một số đơn vị kinh doanh của mình thành một nhóm mới về di động và truyền thông, sẽ chịu trách nhiệm cho các hoạt động liên quan đến điện thoại thông minh, máy tính bảng và không dây của công ty. Intel dự định giới thiệu Medfield - một bộ vi xử lý dành cho máy tính bảng và điện thoại thông minh - ra thị trường vào năm 2012, như một nỗ lực cạnh tranh với Arm. Là một bộ vi xử lý 32 nanomet, Medfield được thiết kế để tiết kiệm năng lượng, đây là một trong những tính năng cốt lõi trong các chip của Arm. Tại Hội nghị Nhà phát triển Intel (IDF) 2011 tại San Francisco, mối quan hệ đối tác giữa Intel và Google đã được công bố. Vào tháng 1 năm 2012, Google thông báo Android 2.3, hỗ trợ bộ vi xử lý Atom của Intel. Năm 2013, Kirk Skaugen của Intel cho biết rằng việc Intel chỉ tập trung độc quyền vào các nền tảng của Microsoft là điều đã qua và họ sẽ hỗ trợ tất cả các “hệ điều hành hàng đầu” như Linux, Android, iOS và Chrome. Năm 2014, Intel đã cắt giảm hàng ngàn nhân viên để đáp ứng “xu hướng thị trường đang thay đổi”, và đề nghị hỗ trợ các nhà sản xuất cho các chi phí phát sinh khi sử dụng chip Intel trong máy tính bảng của họ. Vào tháng 4 năm 2016, Intel đã hủy bỏ nền tảng SoFIA và Broxton Atom SoC cho điện thoại thông minh, từ đó hiệu quả rời khỏi thị trường điện thoại thông minh. Khi nhận thấy rằng công suất nhà máy dư thừa đáng kể sau khi Ultrabook không thể tạo được sức hút trên thị trường và doanh số PC giảm, vào năm 2013, Intel đã ký kết một thỏa thuận với Altera để sản xuất chip sử dụng quy trình 14nm. Sunit Rikhi, Giám đốc điều hành của bộ phận nhà máy tùy chỉnh của Intel, đã chỉ ra rằng Intel sẽ tiếp tục tìm kiếm thêm các thỏa thuận tương tự trong tương lai. Điều này diễn ra sau khi doanh số bán hàng yếu kém của các sản phẩm phần cứng Windows 8 đã gây ra sự co lại lớn cho hầu hết các nhà sản xuất bán dẫn lớn, trừ Qualcomm, người vẫn tiếp tục nhận được đơn đặt hàng mạnh mẽ từ khách hàng lớn nhất của mình là Apple. Đến tháng 7 năm 2013, có năm công ty đang sử dụng các nhà máy sản xuất của Intel thông qua bộ phận Intel Custom Foundry, bao gồm: Achronix, Tabula, Netronome, Microsemi và Panasonic. Phần lớn trong số này là các nhà sản xuất cổng mảng lập trình trường (FPGA), nhưng Netronome lại chuyên về việc thiết kế vi xử lý mạng. Chỉ Achronix là công ty bắt đầu giao hàng các chip do Intel sản xuất sử dụng quy trình Tri-Gate 22nm. Còn một số khách hàng khác cũng tồn tại nhưng không được công bố vào thời điểm đó. Tuy nhiên, vào năm 2018, hoạt động kinh doanh nhà máy đã bị đóng cửa do các vấn đề liên quan đến quá trình sản xuất của Intel. Thách thức về bảo mật và sản xuất (2016–2021) Intel đã tiếp tục mô hình tick-tock của mình, với sự thay đổi microarchitecture sau đó là một quy trình thu nhỏ, cho đến khi ra mắt gia đình Core thế hệ thứ 6 dựa trên microarchitecture Skylake. Tuy nhiên, mô hình này đã bị từ bỏ vào năm 2016, khi Intel phát hành gia đình Core thế hệ thứ bảy (có tên mã là Kaby Lake), mở ra mô hình quy trình - kiến trúc - tối ưu hóa. Trong quá trình Intel cố gắng thu nhỏ nút quy trình của mình từ 14 nm xuống 10 nm, sự phát triển vi xử lý đã chậm lại và công ty tiếp tục sử dụng microarchitecture Skylake cho đến năm 2020, dù đã có các tối ưu hóa. Trong khi Intel ban đầu đã lên kế hoạch ra mắt các sản phẩm 10 nm vào năm 2016, sau này đã rõ ràng rằng có những vấn đề trong quá trình sản xuất tại nút quy trình này. Vi xử lý đầu tiên thuộc nút quy trình này, Cannon Lake (được quảng cáo như Core thế hệ thứ 8), đã được phát hành trong số lượng nhỏ vào năm 2018. Công ty đã hoãn sản xuất hàng loạt các sản phẩm 10 nm của họ cho đến năm 2017. Họ sau đó đã hoãn lại việc sản xuất hàng loạt cho đến năm 2018, và sau đó là năm 2019. Mặc dù có tin đồn rằng quy trình này đã bị hủy bỏ, Intel cuối cùng đã giới thiệu các vi xử lý di động Intel Core thế hệ thứ 10 sản xuất hàng loạt 10 nm (mã tên “Ice Lake”) vào tháng 9 năm 2019. Intel sau đó đã công nhận rằng chiến lược thu nhỏ xuống 10 nm của họ đã quá tham vọng. Trong khi các nhà máy khác đã sử dụng tới bốn bước trong quy trình 10 nm hoặc 7 nm, quy trình 10 nm của Intel lại đòi hỏi tới năm hoặc sáu bước đa mẫu. Thêm vào đó, quy trình 10 nm của Intel lại dày đặc hơn so với các quy trình tương đương từ các nhà máy khác. Do việc phát triển kiến trúc vi xử lý và nút quy trình của Intel được kết hợp, sự phát triển vi xử lý đã bị chậm lại. Lỗ hổng bảo mật Vào đầu tháng 1 năm 2018, đã có thông tin rằng tất cả các bộ vi xử lý Intel sản xuất từ năm 1995, ngoại trừ Intel Itanium và các bộ vi xử lý Intel Atom trước năm 2013, đã phải đối mặt với hai lỗ hổng bảo mật được gọi là Meltdown và Spectre. Người ta tin rằng “hàng trăm triệu” hệ thống có thể bị ảnh hưởng bởi những lỗ hổng này. Thêm nhiều lỗ hổng bảo mật khác đã được tiết lộ vào ngày 3 tháng 5 năm 2018, ngày 14 tháng 8 năm 2018, ngày 18 tháng 1 năm 2019 và ngày 5 tháng 3 năm 2020. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2018, Intel đã thông báo rằng họ sẽ thiết kế lại CPU của mình để bảo vệ chống lại lỗ hổng bảo mật Spectre, các bộ vi xử lý được thiết kế lại đã được bán sau trong năm 2018. Các chip hiện tại dễ bị tổn thương do Meltdown và Spectre có thể được sửa chữa với một bản vá phần mềm với chi phí là hiệu suất. Cạnh tranh gia tăng và các phát triển khác (2018–nay) Do những khó khăn của Intel với nút quy trình 10 nm và sự chậm trễ trong việc phát triển vi xử lý, công ty hiện đang đối mặt với một thị trường cạnh tranh gay gắt. Đối thủ chính của công ty, AMD, đã giới thiệu kiến trúc vi xử lý Zen và một thiết kế mới dựa trên chiplet, nhận được nhiều lời khen ngợi. Kể từ khi ra mắt, AMD, từng không thể cạnh tranh với Intel trên thị trường CPU cao cấp, đã trải qua một giai đoạn hồi sinh mạnh mẽ, khiến sự thống trị và thị phần của Intel giảm đi đáng kể. Thêm vào đó, Apple đã bắt đầu chuyển đổi từ kiến trúc x86 và bộ vi xử lý Intel sang chip silicon của riêng họ cho dòng máy tính Macintosh của họ vào năm 2020. Sự chuyển đổi này dự kiến sẽ chỉ ảnh hưởng tối thiểu đến Intel; tuy nhiên, nó có thể khuyến khích các nhà sản xuất PC khác xem xét lại sự phụ thuộc vào Intel và kiến trúc x86. Chiến lược ‘IDM 2.0’ Vào ngày 23 tháng 3 năm 2021, CEO Pat Gelsinger đã công bố một loạt kế hoạch mới cho Intel. Trọng tâm là chiến lược IDM 2.0, bao gồm việc đầu tư vào các nhà máy sản xuất, sử dụng cả nhà máy sản xuất nội bộ và bên ngoài. Một phần của chiến lược này là việc thành lập Intel Foundry Services (IFS), một đơn vị kinh doanh hoàn toàn mới và độc lập. Khác với Intel Custom Foundry, IFS sẽ cung cấp một sự kết hợp giữa công nghệ đóng gói và quy trình sản xuất, cùng với danh mục sở hữu trí tuệ của Intel, bao gồm các lõi x86. Ngoài ra, Intel cũng dự định hợp tác với IBM và tổ chức một sự kiện mới mang tên “Intel ON” dành cho các nhà phát triển và kỹ sư. CEO Pat Gelsinger cũng xác nhận rằng quy trình sản xuất 7 nm của Intel đang tiến triển đúng kế hoạch. Các sản phẩm đầu tiên sử dụng quy trình này (còn được gọi là Intel 4) là Ponte Vecchio và Meteor Lake. Vào tháng 1 năm 2022, Intel đã quyết định chọn New Albany, Ohio, gần Columbus, Ohio, làm địa điểm xây dựng một nhà máy sản xuất lớn mới. Dự án này sẽ tốn ít nhất 20 tỷ đô la và công ty dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất chip tại đây vào năm 2025. Cùng năm đó, Intel cũng đã chọn Magdeburg, Đức, làm địa điểm cho hai nhà máy sản xuất chip siêu lớn mới với tổng vốn đầu tư là 17 tỷ euro, vượt qua số vốn mà Tesla đã đầu tư vào Brandenburg. Việc khởi công dự kiến sẽ diễn ra vào năm 2023 và dự kiến sẽ bắt đầu sản xuất vào năm 2027. Khi hoàn thành, cả hai dự án này sẽ tạo ra 10.000 việc làm mới, bao gồm cả việc làm từ các nhà thầu phụ. Vào tháng 8 năm 2022, Intel đã ký một thỏa thuận hợp tác trị giá 30 tỷ đô la với Brookfield Asset Management. Thỏa thuận này nhằm hỗ trợ cho việc mở rộng nhà máy gần đây của Intel. Theo thỏa thuận, Intel sẽ chi trả 51% chi phí xây dựng các cơ sở sản xuất chip mới tại Chandler, do đó sở hữu cổ phần chi phối. Brookfield sẽ nắm giữ 49% cổ phần còn lại và hai công ty sẽ chia sẻ doanh thu từ những cơ sở này. Đến ngày 31 tháng 1 năm 2023, trong khuôn khổ việc cắt giảm chi phí lên đến 3 tỷ đô la, Intel đã thông báo về việc giảm lương cho các nhân viên từ trung cấp trở lên, với mức giảm từ 5% trở lên. Đồng thời, Intel đã tạm dừng việc trả tiền thưởng và tăng lương dựa trên thành tích, cũng như giảm việc đóng góp phù hợp vào kế hoạch nghỉ hưu. Những biện pháp tiết kiệm này được tiến hành sau khi Intel thông báo về việc sa thải vào mùa thu năm 2022. Lịch sử sản phẩm và thị trường Bộ vi xử lý x86 ban đầu và PC IBM Mặc dù vi xử lý có tầm quan trọng cuối cùng, nhưng 4004 và các sản phẩm kế nhiệm của nó là 8008 và 8080 không bao giờ là những nguồn thu lớn tại Intel. Khi bộ xử lý tiếp theo, 8086 (và biến thể của nó là 8088) được hoàn thành vào năm 1978, Intel đã bắt đầu một chiến dịch tiếp thị và bán hàng lớn cho chip này có biệt danh là “Operation Crush”, và có ý định giành được càng nhiều khách hàng cho bộ xử lý càng tốt. Một thiết kế chiến thắng là phân nhánh IBM PC mới được tạo ra, mặc dù tầm quan trọng của điều này không được nhận biết đầy đủ vào thời điểm đó. IBM đã giới thiệu máy tính cá nhân của mình vào năm 1981, và nó đã thành công nhanh chóng. Vào năm 1982, Intel đã tạo ra vi xử lý 80286, hai năm sau, nó được sử dụng trong IBM PC/AT. Compaq, nhà sản xuất “clone” IBM PC đầu tiên, đã sản xuất một hệ thống máy tính để bàn dựa trên vi xử lý 80286 nhanh hơn vào năm 1985 và vào năm 1986 nhanh chóng tiếp theo với hệ thống đầu tiên dựa trên 80386, đánh bại IBM và thiết lập một thị trường cạnh tranh cho các hệ thống tương thích với PC và thiết lập Intel là một nhà cung cấp thành phần chính. Vào năm 1975, công ty đã bắt đầu một dự án để phát triển một vi xử lý 32 bit rất tiên tiến, cuối cùng được phát hành vào năm 1981 dưới tên Intel iAPX 432. Dự án này quá tham vọng và vi xử lý không bao giờ đạt được các mục tiêu hiệu suất của nó, và nó đã thất bại trên thị trường. Intel đã mở rộng kiến trúc x86 lên 32 bit thay vì điều đó. 486, Pentium và Itanium Intel đã giới thiệu vi xử lý 486 vào năm 1989, và vào năm 1990 đã thành lập một nhóm thiết kế thứ hai, thiết kế các bộ xử lý có mã là “P5” và “P6” song song và cam kết sẽ có một bộ xử lý mới lớn mỗi hai năm, so với bốn năm hoặc nhiều hơn như những thiết kế trước đây. Các kỹ sư Vinod Dham và Rajeev Chandrasekhar (Thành viên Quốc hội Ấn Độ) là những nhân vật chính trong nhóm cốt lõi đã phát minh ra chip 486 và sau đó, chip Pentium đặc trưng của Intel. Dự án P5 được biết đến trước đây với tên gọi “Operation Bicycle”, chỉ số chu kỳ của bộ xử lý qua hai pipeline thực thi song song. P5 được giới thiệu vào năm 1993 dưới tên Intel Pentium, thay thế tên thương hiệu đã đăng ký cho số phần trước đó (số, như 486, không thể được đăng ký hợp pháp là thương hiệu tại Hoa Kỳ). P6 tiếp theo vào năm 1995 dưới dạng Pentium Pro và được cải tiến thành Pentium II vào năm 1997. Các kiến trúc mới được phát triển luân phiên tại Santa Clara, California và Hillsboro, Oregon. Nhóm thiết kế tại Santa Clara đã khởi động vào năm 1993 một dự án kế thừa cho kiến trúc x86, có tên mã là “P7”. Dự án đầu tiên đã bị hủy sau một năm nhưng nhanh chóng được hồi sinh trong một chương trình hợp tác với các kỹ sư của Hewlett-Packard. Tuy nhiên, Intel sớm tiếp quản trách nhiệm thiết kế chính. Kết quả là việc triển khai kiến trúc 64 bit IA-64 đã tạo ra Itanium, cuối cùng được giới thiệu vào tháng 6 năm 2001. Hiệu suất của Itanium khi chạy mã x86 cũ không đạt được kỳ vọng, và nó không thể cạnh tranh hiệu quả với x86-64, đó là phần mở rộng 64 bit của kiến trúc x86 32 bit của AMD (Intel sử dụng tên Intel 64, trước đây là EM64T). Vào năm 2017, Intel thông báo rằng dòng Itanium 9700 series (Kittson) sẽ là những chip Itanium cuối cùng được sản xuất. Nhóm Hillsboro đã thiết kế các bộ xử lý Willamette (ban đầu có tên mã là P68), được tiếp thị dưới tên Pentium 4. Trong giai đoạn này, Intel đã thực hiện hai chiến dịch quảng cáo hỗ trợ chính. Chiến dịch đầu tiên, chiến dịch tiếp thị và xây dựng thương hiệu “Intel Inside” vào năm 1991, đã trở nên nổi tiếng và gắn liền với chính Intel. Ý tưởng về “thương hiệu thành phần” là mới vào thời điểm đó, chỉ có NutraSweet và một số thương hiệu khác cố gắng làm điều này. Một trong những kiến trúc sư chính của nhóm tiếp thị là người đứng đầu bộ phận vi xử lý, David House. Ông đã tạo ra khẩu hiệu “Intel Inside”. Chiến dịch này đã giúp Intel, từ một nhà cung cấp thành phần ít được biết đến ngoài ngành công nghiệp máy tính cá nhân, trở thành một tên tuổi quen thuộc trong các hộ gia đình. Chiến dịch thứ hai, Nhóm Hệ thống của Intel, bắt đầu vào đầu những năm 1990, tập trung vào việc sản xuất bo mạch chủ máy tính cá nhân - thành phần chính của bo mạch chủ máy tính cá nhân, nơi mà bộ xử lý (CPU) và chip bộ nhớ (RAM) được cắm vào. Chiến dịch Nhóm Hệ thống ít được biết đến hơn so với chiến dịch Intel Inside. Không lâu sau đó, Intel bắt đầu sản xuất hệ thống “hộp trắng” hoàn toàn được cấu hình cho hàng chục công ty clone PC mọc lên nhanh chóng. Tại thời điểm cao điểm vào giữa những năm 1990, Intel sản xuất hơn 15% tất cả các PC, làm cho nó trở thành nhà cung cấp lớn thứ ba vào thời điểm đó. Trong suốt thập kỷ 1990, Intel Architecture Labs (IAL) chịu trách nhiệm cho nhiều sự đổi mới phần cứng cho PC, bao gồm PCI Bus, PCI Express (PCIe) bus, và Universal Serial Bus (USB). Các nỗ lực phần mềm của IAL gặp phải số phận khá phức tạp; phần mềm video và đồ họa của nó đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển video số phần mềm, nhưng sau đó các nỗ lực của nó phần lớn bị lu mờ bởi sự cạnh tranh từ Microsoft. Sự cạnh tranh giữa Intel và Microsoft đã được tiết lộ trong lời khai của Phó Chủ tịch IAL Steven McGeady tại phiên tòa chống độc quyền của Microsoft (Hoa Kỳ kiện Microsoft Corp.). Lỗ hổng Pentium Vào tháng 6 năm 1994, các kỹ sư của Intel đã phát hiện ra một lỗi trong phần con toán học dấu chấm động của vi xử lý P5 Pentium. Trong một số điều kiện phụ thuộc vào dữ liệu, các bit thấp nhất của kết quả của một phép chia dấu chấm động sẽ không chính xác. Lỗi này có thể gây ra lỗi phức tạp trong các phép tính tiếp theo. Intel đã sửa lỗi trong một phiên bản chip sau, và dưới áp lực công khai, nó đã tiến hành thu hồi toàn bộ và thay thế các CPU Pentium bị lỗi (chỉ giới hạn ở một số mô hình 60, 66, 75, 90 và 100 MHz) theo yêu cầu của khách hàng. Lỗi này đã được phát hiện độc lập vào tháng 10 năm 1994 bởi Thomas Nicely, Giáo sư Toán học tại Đại học Lynchburg. Ông đã liên hệ với Intel nhưng không nhận được phản hồi. Vào ngày 30 tháng 10, ông đã đăng một thông điệp về phát hiện của mình trên Internet. Tin về lỗi nhanh chóng lan rộng và đạt được báo chí ngành công nghiệp. Lỗi rất dễ tái tạo; người dùng có thể nhập số cụ thể vào máy tính trên hệ điều hành. Do đó, nhiều người dùng không chấp nhận các tuyên bố của Intel rằng lỗi là nhỏ và “thậm chí không phải là lỗi”. Trong kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn, vào năm 1994, The New York Times đã đăng một bài viết của nhà báo John Markoff tập trung vào lỗi. Intel đã thay đổi lập trường của mình và đề nghị thay thế mọi chip, nhanh chóng đặt ra một tổ chức hỗ trợ người dùng cuối lớn. Điều này dẫn đến một khoản chi phí 475 triệu đô la so với doanh thu của Intel năm 1994. Tiến sĩ Nicely sau này biết rằng Intel đã phát hiện ra lỗi FDIV trong quá trình kiểm tra của chính họ vài tháng trước anh (nhưng đã quyết định không thông báo cho khách hàng). Sự cố “lỗi Pentium”, cách Intel đối phó với nó, cùng với sự bao phủ của phương tiện truyền thông đã đẩy Intel từ một nhà cung cấp công nghệ chủ yếu không được biết đến bởi hầu hết người dùng máy tính trở thành một thương hiệu quen thuộc trong các hộ gia đình. Kết hợp với sự gia tăng của chiến dịch “Intel Inside”, sự cố này được coi là một sự kiện tích cực cho Intel, khiến công ty thay đổi một số thực hành kinh doanh của mình để tập trung nhiều hơn vào người dùng cuối và tạo ra sự nhận thức rộng rãi trong công chúng, đồng thời tránh được ấn tượng tiêu cực kéo dài. Intel Core Dòng Intel Core xuất phát từ thương hiệu Core gốc, với việc ra mắt CPU Yonah 32-bit, bộ xử lý di động hai nhân đầu tiên của Intel. Được phát triển từ Pentium M, dòng bộ xử lý này sử dụng phiên bản nâng cấp của kiến trúc vi xử lý P6. Người kế nhiệm của nó, dòng Core 2, được ra mắt vào ngày 27 tháng 7 năm 2006. Dựa trên kiến trúc vi xử lý Intel Core, đây là một thiết kế 64 bit. Thay vì tập trung vào tăng tốc độ xung nhịp, kiến trúc vi xử lý Core nhấn mạnh hiệu quả năng lượng và quay lại với tốc độ xung nhịp thấp hơn. Nó cũng cung cấp các giai đoạn giải mã hiệu quả hơn, các đơn vị thực thi, bộ nhớ cache và bus, giảm tiêu thụ năng lượng của các CPU mang thương hiệu Core 2 trong khi tăng khả năng xử lý của chúng. Vào tháng 11 năm 2008, Intel đã phát hành dòng bộ xử lý Core thế hệ đầu tiên dựa trên kiến trúc vi xử lý Nehalem. Intel cũng đã giới thiệu một hệ thống đặt tên mới, với ba biến thể hiện được đặt tên là Core i3, i5 và i7 (cũng như i9 từ thế hệ thứ 7 trở đi). Khác với hệ thống đặt tên trước đó, những tên này không còn tương ứng với các tính năng kỹ thuật cụ thể. Nó đã được kế nhiệm bởi kiến trúc vi xử lý Westmere vào năm 2010, với một coi chừng chết co lại thành 32 nm và bao gồm Intel HD Graphics. Vào năm 2011, Intel đã phát hành dòng bộ xử lý Core thế hệ thứ 2 dựa trên Sandy Bridge. Thế hệ này có một sự tăng hiệu suất 11% so với Nehalem. Nó đã được kế nhiệm bởi Core thế hệ thứ 3 dựa trên Ivy Bridge, được giới thiệu tại Diễn đàn Phát triển Intel 2012. Ivy Bridge có một coi chừng chết co lại thành 22 nm, và hỗ trợ cả bộ nhớ DDR3 và chip DDR3L. Intel đã tiếp tục mô hình tick-tock của một thay đổi kiến trúc vi xử lý theo sau là một coi chừng chết co lại cho đến gia đình Core thế hệ thứ 6 dựa trên kiến trúc vi xử lý Skylake. Mô hình này đã bị loại bỏ vào năm 2016, với việc phát hành gia đình Core thế hệ thứ bảy dựa trên Kaby Lake, đưa vào mô hình quy trình - kiến trúc - tối ưu hóa. Từ năm 2016 đến 2021, Intel sau đó đã phát hành thêm nhiều tối ưu hóa trên kiến trúc vi xử lý Skylake với Kaby Lake R, Amber Lake, Whiskey Lake, Coffee Lake, Coffee Lake R và Comet Lake. Intel đã gặp khó khăn trong việc thu nhỏ nút quy trình của họ từ 14 nm xuống 10 nm, với kiến trúc vi xử lý đầu tiên dưới nút đó, Cannon Lake (được tiếp thị như Core thế hệ thứ 8), chỉ được phát hành trong số lượng nhỏ vào năm 2018. Vào năm 2019, Intel đã phát hành thế hệ thứ 10 của dòng bộ xử lý Core, có tên mã là “Amber Lake”, “Comet Lake” và “Ice Lake”. Ice Lake, dựa trên kiến trúc vi xử lý Sunny Cove, được sản xuất trên quy trình 10 nm và bị giới hạn chỉ dùng cho các bộ xử lý di động tiết kiệm năng lượng. Cả Amber Lake và Comet Lake đều dựa trên một nút 14 nm được cải tiến, với cái sau được sử dụng cho sản phẩm máy tính để bàn và di động hiệu suất cao và cái trước được sử dụng cho sản phẩm di động tiết kiệm năng lượng. Vào tháng 9 năm 2020, Intel đã giới thiệu dòng chip di động Core thế hệ 11, được biết đến với tên mã là Tiger Lake.Tiger Lake được xây dựng trên kiến trúc Willow Cove và sử dụng công nghệ 10 nm được cải tiến. Sau đó, Intel đã phát hành bộ vi xử lý máy tính để bàn Core thế hệ thứ 11 (có tên mã “Rocket Lake”), được chế tạo bằng quy trình 14 nm của Intel và dựa trên kiến trúc vi mô Cypress Cove, vào ngày 30 tháng 3 năm 2021. Dòng chip này đã thay thế cho dòng chip Comet Lake trước đó dành cho máy tính để bàn. Tất cả các chip Core thế hệ 11 đều tích hợp đồ họa mới dựa trên kiến trúc Intel Xe. Cả hai dòng sản phẩm máy tính để bàn và di động đều được thống nhất dưới một quy trình sản xuất duy nhất với việc ra mắt dòng chip Intel Core thế hệ 12 (tên mã “Alder Lake”) vào cuối năm 2021. Thế hệ này sẽ được sản xuất bằng công nghệ 7 nm của Intel, gọi là Intel 7, cho cả chip máy tính để bàn và di động. Alder Lake sử dụng kiến trúc lai với sự kết hợp giữa các lõi Golden Cove có hiệu suất cao và các lõi Gracemont (Atom) có hiệu quả cao. Meltdown, Spectre và các lỗ hổng bảo mật khác Vào đầu tháng 1 năm 2018, đã được báo cáo rằng tất cả các bộ vi xử lý Intel sản xuất từ năm 1995 (ngoại trừ Intel Itanium và Intel Atom trước năm 2013) đều bị ảnh hưởng bởi hai lỗ hổng bảo mật được gọi là Meltdown và Spectre. Ảnh hưởng đến hiệu suất do các bản vá phần mềm là “phụ thuộc vào công việc”. Đã có một số thủ tục được công bố để giúp bảo vệ máy tính gia đình và các thiết bị liên quan khỏi các lỗ hổng bảo mật Spectre và Meltdown. Các bản vá Spectre đã được báo cáo là làm giảm đáng kể hiệu suất, đặc biệt là trên các máy tính cũ hơn; trên các nền tảng Core thế hệ thứ 8 mới hơn, đã đo được sự giảm hiệu suất từ 2–14 phần trăm. Các bản vá Meltdown cũng có thể gây mất hiệu suất. Người ta tin rằng “hàng trăm triệu” hệ thống có thể bị ảnh hưởng bởi những lỗi này. Vào ngày 15 tháng 3 năm 2018, Intel đã báo cáo rằng họ sẽ thiết kế lại CPU của mình (mất hiệu suất sẽ được xác định) để bảo vệ khỏi lỗ hổng bảo mật Spectre, và dự kiến sẽ phát hành các bộ vi xử lý được thiết kế lại vào cuối năm 2018. Ngày 3 tháng 5 năm 2018, đã có thêm tám lỗi thuộc loại Spectre được báo cáo. Intel cho biết họ đang chuẩn bị các bản vá mới để giảm thiểu những lỗi này. Vào ngày 14 tháng 8 năm 2018, Intel tiết lộ thêm ba lỗi chip được gọi là L1 Terminal Fault (L1TF). Họ cho biết rằng các bản cập nhật microcode đã phát hành trước đó, cùng với các bản cập nhật microcode mới chưa phát hành có thể được sử dụng để giảm thiểu những lỗi này. Vào ngày 18/1/2019, Intel tiết lộ ba lỗ hổng mới ảnh hưởng đến tất cả các CPU Intel, được gọi là “Fallout”, “RIDL”, và “ZombieLoad”. Các lỗ hổng này cho phép một chương trình đọc thông tin vừa được viết, đọc dữ liệu trong các bộ đệm và cổng tải, và rò rỉ thông tin từ các quy trình và máy ảo khác. Các CPU thuộc dòng Coffeelake còn dễ bị tổn thương hơn, do các biện pháp giảm thiểu phần cứng cho Spectre.. Cuối cùng, vào ngày 5/3/2020, các chuyên gia bảo mật máy tính đã báo cáo về một lỗ hổng bảo mật chip Intel khác, ngoài các lỗ hổng Meltdown và Spectre, với tên hệ thống là (hoặc, “Intel CSME Bug”). Lỗ hổng mới này không thể sửa chữa được bằng một bản cập nhật firmware, và ảnh hưởng đến gần như “tất cả các chip Intel phát hành trong vòng năm năm qua”. Sử dụng sản phẩm Intel của Apple Inc. (2005–2019) Vào ngày 6 tháng 6 năm 2005, Steve Jobs, khi đó là CEO của Apple, đã thông báo rằng Apple sẽ chuyển đổi Macintosh từ kiến trúc PowerPC ưa thích lâu dài sang kiến trúc Intel x86 vì lộ trình PowerPC trong tương lai không thể đáp ứng nhu cầu của Apple. Đây được coi là một chiến thắng cho Intel, mặc dù một nhà phân tích đã gọi động thái này là "mạo hiểm" và "ngu ngốc", vì các sản phẩm hiện tại của Intel tại thời điểm đó được coi là kém hơn so với AMD và IBM. Những chiếc máy tính Mac đầu tiên có CPU Intel được công bố vào ngày 10 tháng 1 năm 2006 và Apple đã có toàn bộ dòng máy Mac dành cho người tiêu dùng chạy trên bộ vi xử lý Intel vào đầu tháng 8 năm 2006. Máy chủ Apple Xserve đã được cập nhật lên bộ vi xử lý Intel Xeon từ tháng 11 năm 2006 và được cung cấp trong cấu hình tương tự như Mac Pro của Apple. Mặc dù Apple sử dụng sản phẩm Intel, nhưng mối quan hệ giữa hai công ty đôi khi cũng căng thẳng. Những tin đồn về việc Apple chuyển từ bộ vi xử lý Intel sang thiết kế riêng của họ bắt đầu lưu hành từ năm 2011. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2020, trong sự kiện WWDC thường niên của Apple, Tim Cook, CEO của Apple, đã thông báo rằng công ty sẽ chuyển đổi toàn bộ dòng máy Mac từ CPU Intel sang bộ vi xử lý do Apple thiết kế riêng dựa trên kiến trúc Arm trong vòng hai năm tới. Trong ngắn hạn, quá trình chuyển đổi này được ước tính là có tác động tối thiểu đến Intel, vì Apple chỉ chiếm khoảng 2% đến 4% doanh thu của hãng. Tuy nhiên, việc Apple chuyển sang sử dụng chip của riêng mình có thể khiến các nhà sản xuất PC khác phải xem xét lại việc phụ thuộc vào Intel và kiến trúc x86. Đến tháng 11 năm 2020, Apple đã ra mắt M1, bộ vi xử lý do công ty thiết kế riêng cho Mac. Ổ cứng thể rắn (SSD) Vào năm 2008, Intel bắt đầu vận chuyển ổ cứng thể rắn (SSD) chính thống với dung lượng lưu trữ lên đến 160 GB. Cũng giống như CPU của mình, Intel phát triển chip SSD sử dụng quy trình nanometer ngày càng nhỏ. Các SSD này sử dụng các tiêu chuẩn công nghiệp như NAND flash, mSATA, PCIe và NVMe. Năm 2017, Intel đã giới thiệu các SSD dựa trên công nghệ 3D XPoint dưới thương hiệu Optane. Vào năm 2021, SK Hynix đã mua lại hầu hết mảng kinh doanh bộ nhớ NAND của Intel với giá 7 tỷ USD, với giao dịch trị giá 2 tỷ USD còn lại dự kiến ​​diễn ra vào năm 2025. Intel cũng ngừng sản xuất các sản phẩm Optane dành cho người tiêu dùng vào năm 2021. Vào tháng 7 năm 2022, Intel đã tiết lộ trong báo cáo thu nhập quý 2 rằng họ sẽ ngừng phát triển sản phẩm trong tương lai trong mảng kinh doanh Optane, do đó, về cơ bản đã ngừng phát triển 3D XPoint nói chung. Siêu máy tính Bộ phận Máy tính Khoa học Intel được thành lập vào năm 1984 bởi Justin Rattner, với mục đích thiết kế và sản xuất các máy tính song song dựa trên bộ vi xử lý Intel được kết nối trong cấu trúc mạng hình lập phương. Năm 1992, tên của bộ phận được đổi thành Bộ phận Hệ thống Siêu máy tính Intel và việc phát triển kiến trúc iWarp cũng được sáp nhập. Bộ phận này đã thiết kế một số hệ thống siêu máy tính, bao gồm Intel iPSC/1, iPSC/2, iPSC/860, Paragon và ASCI Red. Vào tháng 11 năm 2014, Intel tuyên bố rằng họ đang có kế hoạch sử dụng cáp quang để cải thiện mạng lưới bên trong các siêu máy tính. Điện toán sương mù Vào ngày 19 tháng 11 năm 2015, Intel, cùng với Arm, Dell, Cisco Systems, Microsoft và Đại học Princeton, đã thành lập Liên minh OpenFog để thúc đẩy lợi ích và phát triển điện toán sương mù. Giám đốc chiến lược về IoT Strategy and Technology Office của Intel, Jeff Fedders, trở thành chủ tịch đầu tiên của liên minh. Ô tô tự lái Intel là một trong những bên liên quan lớn nhất trong ngành công nghiệp ô tô tự lái, tham gia vào cuộc đua vào giữa năm 2017 sau khi hợp tác với Mobileye. Công ty cũng là một trong những công ty đầu tiên trong lĩnh vực này nghiên cứu mức độ chấp nhận của người tiêu dùng, sau khi một báo cáo của AAA cho biết tỷ lệ không chấp nhận công nghệ này ở Mỹ lên tới 78%. Mức độ an toàn của công nghệ lái xe tự động, suy nghĩ về việc từ bỏ quyền kiểm soát cho máy móc và sự thoải mái về mặt tâm lý của hành khách trong những tình huống như vậy là những chủ đề thảo luận chính ban đầu. Người đi xe cũng nói rằng họ không muốn nhìn thấy mọi thứ mà chiếc xe đang làm. Điều này chủ yếu ám chỉ đến vô lăng tự lái mà không có ai ngồi ở ghế lái. Intel cũng biết rằng bộ điều chỉnh điều khiển bằng giọng nói là rất quan trọng và giao diện giữa con người và máy móc giúp giảm bớt tình trạng khó chịu và mang lại cảm giác kiểm soát. Điều quan trọng cần đề cập là Intel chỉ bao gồm 10 người trong nghiên cứu này, điều này làm cho nghiên cứu ít đáng tin cậy hơn. Trong một video được đăng trên YouTube, Intel đã thừa nhận thực tế này và kêu gọi thực hiện thêm các cuộc thử nghiệm. Thiết bị lập trình Intel đã thành lập một đơn vị kinh doanh mới gọi là Programmable Solutions Group (PSG) khi hoàn tất việc mua lại Altera. Kể từ đó, Intel đã bán các FPGA Stratix, Arria và Cyclone. Năm 2019, Intel đã phát hành FPGA Agilex: các chip dành cho trung tâm dữ liệu, ứng dụng 5G và các công dụng khác. Vào tháng 10 năm 2023, Intel thông báo rằng họ sẽ tách PSG thành một công ty riêng biệt vào đầu năm 2024, đồng thời duy trì quyền sở hữu đa số. Cạnh tranh, chống độc quyền và gián điệp Đến cuối những năm 1990, hiệu năng của bộ vi xử lý đã vượt xa nhu cầu phần mềm đối với sức mạnh CPU đó. Ngoài các hệ thống và phần mềm máy chủ cao cấp, có nhu cầu giảm với sự kết thúc của "bong bóng dot-com", các hệ thống dành cho người tiêu dùng chạy hiệu quả trên các hệ thống ngày càng có giá thành thấp sau năm 2000. Chiến lược của Intel là phát triển các bộ vi xử lý có hiệu năng tốt hơn trong thời gian ngắn, từ lúc xuất hiện của bộ vi xử lý này đến bộ vi xử lý khác, như có thể thấy với sự xuất hiện của Pentium II vào tháng 5 năm 1997, Pentium III vào tháng 2 năm 1999 và Pentium 4 vào mùa thu năm 2000, khiến chiến lược này trở nên không hiệu quả vì người tiêu dùng không coi sự đổi mới là điều cần thiết, và tạo cơ hội cho các đối thủ cạnh tranh, đáng chú ý là AMD, phát triển nhanh chóng. Điều này, đến lượt nó, đã làm giảm lợi nhuận của dòng sản phẩm bộ vi xử lý và chấm dứt kỷ nguyên thống trị phần cứng PC chưa từng có của Intel. Vị thế thống lĩnh của Intel trong thị trường bộ vi xử lý x86 đã dẫn đến nhiều cáo buộc vi phạm luật chống độc quyền trong những năm qua, bao gồm các cuộc điều tra của FTC vào cuối những năm 1980 và năm 1999, cũng như các vụ kiện dân sự như vụ kiện năm 1997 của Digital Equipment Corporation (DEC) và vụ kiện bằng sáng chế của Intergraph. Vị thế thống lĩnh thị trường của Intel (từng có thời điểm kiểm soát hơn 85% thị trường bộ vi xử lý x86 32 bit) kết hợp với các chiến thuật pháp lý cứng rắn của Intel (chẳng hạn như vụ kiện bằng sáng chế 338 nổi tiếng của Intel đối với các nhà sản xuất PC) đã biến Intel trở thành mục tiêu hấp dẫn cho các vụ kiện, đỉnh điểm là Intel đồng ý trả cho AMD 1,25 tỷ USD và cấp cho họ giấy phép chéo bằng sáng chế vĩnh viễn vào năm 2009 cũng như một số phán quyết chống độc quyền ở Châu Âu, Hàn Quốc và Nhật Bản. Một trường hợp gián điệp công nghiệp phát sinh vào năm 1995 có liên quan đến cả Intel và AMD. Bill Gaede, một người Argentina từng làm việc cho cả AMD và nhà máy của Intel ở Arizona, đã bị bắt vì cố gắng bán thiết kế i486 và P5 Pentium cho AMD và một số cường quốc nước ngoài vào năm 1993. Gaede đã ghi lại dữ liệu từ màn hình máy tính của mình tại Intel và gửi nó cho AMD, công ty đã ngay lập tức cảnh báo Intel và authorities, dẫn đến việc Gaede bị bắt. Gaede đã bị kết tội và bị tuyên án 33 tháng tù vào tháng 6 năm 1996. Logo Logo Intel đầu tiên có tên công ty được cách điệu bằng chữ thường, với chữ e được đặt dưới các chữ cái khác. Logo Intel thứ hai được lấy cảm hứng từ chiến dịch "Intel Inside", với hình ảnh xoáy quanh tên thương hiệu Intel. Logo Intel thứ ba, được giới thiệu vào năm 2020, được lấy cảm hứng từ các logo trước đó. Nó loại bỏ hình ảnh xoáy cũng như màu xanh cổ điển ở hầu hết các phần của logo, ngoại trừ dấu chấm trong chữ "i". Tranh chấp và kiện tụng Vụ kiện vi phạm bằng sáng chế (2006–2007) Vào tháng 10 năm 2006, Transmeta đã đệ đơn kiện Intel vì vi phạm bằng sáng chế về kiến trúc máy tính và công nghệ tiết kiệm điện năng. Vụ kiện được giải quyết vào tháng 10 năm 2007, với việc Intel đồng ý trả 150 triệu đô la Mỹ ban đầu và 20 triệu đô la Mỹ mỗi năm trong 5 năm tiếp theo. Cả hai công ty đều đồng ý hủy bỏ các vụ kiện chống lại nhau, trong khi Intel được cấp giấy phép không độc quyền vĩnh viễn để sử dụng công nghệ Transmeta được cấp bằng sáng chế hiện tại và tương lai trong chip của mình trong 10 năm. Các cáo buộc và kiện tụng chống độc quyền (2005–2009) Vào tháng 9 năm 2005, Intel đã đệ đơn trả lời vụ kiện của AMD, bác bỏ các tuyên bố của AMD và khẳng định rằng các hoạt động kinh doanh của Intel là công bằng và hợp pháp. Trong một phản bác, Intel đã phân tích chi tiết chiến lược tấn công của AMD và lập luận rằng AMD gặp khó khăn chủ yếu là do các quyết định kinh doanh tồi tệ của chính mình, bao gồm đầu tư dưới mức cần thiết cho năng lực sản xuất thiết yếu và phụ thuộc quá nhiều vào việc ký hợp đồng với các nhà máy sản xuất chip. Các nhà phân tích pháp lý dự đoán rằng vụ kiện sẽ kéo dài trong một số năm, vì phản ứng ban đầu của Intel cho thấy rằng công ty không sẵn sàng dàn xếp với AMD. Vào năm 2008, cuối cùng một ngày ra tòa đã được ấn định. Vào ngày 12 tháng 11 năm 2009, AMD đã đồng ý hủy bỏ vụ kiện chống độc quyền đối với Intel để đổi lấy 1,25 tỷ USD. Một thông cáo báo chí chung được công bố bởi hai nhà sản xuất chip nêu rõ: "Mặc dù mối quan hệ giữa hai công ty đã gặp khó khăn trong quá khứ, nhưng thỏa thuận này chấm dứt các tranh chấp pháp lý và cho phép các công ty tập trung tất cả nỗ lực của mình vào đổi mới và phát triển sản phẩm." Một vụ kiện chống độc quyền và một vụ kiện tập thể liên quan đến việc gọi điện mời chào nhân viên của các công ty khác đã được dàn xếp. Những cáo buộc của Liên minh Châu Âu (2007–2008) Vào tháng 7 năm 2007, Ủy ban Châu Âu đã cáo buộc Intel về hành vi chống cạnh tranh, chủ yếu là chống lại AMD. Các cáo buộc, bắt đầu từ năm 2003, bao gồm đưa ra mức giá ưu đãi cho các nhà sản xuất máy tính mua hầu hết hoặc tất cả chip của họ từ Intel, trả tiền cho các nhà sản xuất máy tính để trì hoãn hoặc hủy bỏ việc ra mắt các sản phẩm sử dụng chip AMD và cung cấp chip với giá thấp hơn chi phí tiêu chuẩn cho chính phủ và các cơ sở giáo dục. Intel đã đáp lại rằng các cáo buộc là vô căn cứ và thay vào đó coi hành vi thị trường của mình là thân thiện với người tiêu dùng. Tổng cố vấn Bruce Sewell cho biết ủy ban đã hiểu sai một số giả định thực tế liên quan đến giá cả và chi phí sản xuất. Vào tháng 2 năm 2008, Intel bị cơ quan quản lý của Liên minh Châu Âu đột kích văn phòng ở Munich. Intel hợp tác với các nhà điều tra. Intel có thể bị phạt tới 10% doanh thu hàng năm nếu bị phát hiện vi phạm luật cạnh tranh. Sau đó, AMD ra mắt trang web quảng cáo cáo buộc Intel. Vào tháng 6 năm 2008, EU đệ trình cáo buộc mới chống lại Intel. Vào tháng 5 năm 2009, EU phạt Intel 1,06 tỷ euro (1,44 tỷ USD) vì vi phạm luật cạnh tranh. Intel bị phát hiện trả tiền cho các công ty, bao gồm Acer, Dell, HP, Lenovo và NEC, để độc quyền sử dụng chip Intel trong các sản phẩm của họ. Hành động này gây hại cho các công ty khác, ít thành công hơn bao gồm AMD. EU cho biết Intel cố tình loại bỏ đối thủ cạnh tranh khỏi thị trường chip máy tính. Intel bị yêu cầu chấm dứt mọi hoạt động bất hợp pháp và chấp nhận mức phạt. Intel kháng cáo phán quyết của EU. Vào tháng 6 năm 2014, Tòa án sơ thẩm bác bỏ kháng cáo.. Những cáo buộc của cơ quan quản lý ở Hoa Kỳ (2008–2010) Vào tháng 1 năm 2008, New York bắt đầu điều tra Intel về hành vi chống cạnh tranh. Intel bị nghi ngờ đã lạm dụng vị trí thống lĩnh của mình trên thị trường bộ vi xử lý máy tính để định giá cao hơn và hạn chế cạnh tranh. Vào tháng 6 năm 2008, FTC cũng bắt đầu điều tra Intel. FTC đã thu thập bằng chứng về các hành vi chống cạnh tranh của Intel, chẳng hạn như trả tiền cho các nhà sản xuất máy tính để sử dụng độc quyền bộ vi xử lý của Intel.. Vào tháng 12 năm 2009, FTC thông báo sẽ khởi xướng thủ tục hành chính chống lại Intel. FTC có thể buộc Intel phải chấm dứt các hành vi chống cạnh tranh và trả tiền bồi thường cho các nạn nhân. Vào tháng 11 năm 2009, Tổng chưởng lý New York Andrew Cuomo đã kiện Intel vì hành vi hối lộ và cưỡng ép. Cuomo cáo buộc Intel đã trả tiền cho các nhà sản xuất máy tính để mua nhiều chip Intel hơn chip của đối thủ cạnh tranh. Intel cũng đe dọa sẽ rút lại các khoản thanh toán này nếu các nhà sản xuất máy tính làm việc quá chặt chẽ với đối thủ cạnh tranh của Intel. Vào ngày 22 tháng 7 năm 2010, Dell đã đồng ý dàn xếp với SEC để trả 100 triệu đô la tiền phạt. SEC cáo buộc Dell đã không tiết lộ chính xác thông tin kế toán về các khoản chiết khấu mà Dell nhận được từ Intel từ năm 2002 đến năm 2006. Những khoản chiết khấu này được Intel trao cho Dell để đổi lấy việc Dell không sử dụng chip của AMD. Dell đã không tiết lộ các khoản chiết khấu này cho các nhà đầu tư, nhưng đã sử dụng chúng để giúp đáp ứng kỳ vọng của nhà đầu tư về hiệu suất tài chính của Dell. Vào năm 2006, Dell đã bắt đầu sử dụng chip của AMD. Intel sau đó đã ngừng các khoản chiết khấu của mình, khiến hiệu suất tài chính của Dell giảm xuống. Tranh chấp thuế ở Ấn Độ Vào tháng 8 năm 2016, các quan chức Ấn Độ thuộc Bruhat Bengaluru Mahanagara Palike (BBMP) đã cho đậu xe rác tại trụ sở của Intel và đe dọa sẽ đổ rác vì công ty này trốn thuế tài sản từ năm 2007 đến 2008, lên tới 340 triệu rupee (5,3 triệu USD). Intel được cho là đã đóng thuế với tư cách là một văn phòng không có máy điều hòa không khí, trong khi trụ sở của công ty thực tế có máy điều hòa không khí trung tâm. Các yếu tố khác, chẳng hạn như việc mua lại đất và cải thiện xây dựng, đã góp phần làm tăng gánh nặng thuế. Trước đó, Intel đã kháng cáo yêu cầu này tại tòa án tối cao Karnataka vào tháng 7, trong đó tòa án đã ra lệnh cho Intel phải trả cho BBMP một nửa số tiền nợ 170 triệu rupee (2,7 triệu USD) cộng với tiền lãi chậm trả trước ngày 28 tháng 8 năm đó. Ghi chú Chú thích
Vướng mắc lượng tử hay liên đới lượng tử là một hiệu ứng trong cơ học lượng tử trong đó trạng thái lượng tử của hai hay nhiều vật thể có liên hệ với nhau, dù chúng cách xa tới mức nào, thậm chí là tới khoảng cách lên tới cả nhiều năm ánh sáng. Ví dụ, có thể tạo ra hai vật thể sao cho nếu quan sát thấy spin của vật thứ nhất quay xuống dưới, thì spin của vật kia sẽ phải quay lên trên, hoặc ngược lại; dù cho cơ học lượng tử không tiên đoán trước kết quả phép đo trên vật thứ nhất. Điều này nghĩa là phép đo thực hiện trên vật thể này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái lượng tử trên vật thể vướng víu lượng tử với nó. Rối lượng tử là hiệu ứng được ứng dụng trong các công nghệ như tính toán lượng tử, mật mã lượng tử, viễn tải lượng tử. Hiệu ứng này, được khẳng định bởi quan sát thực nghiệm, cũng gây ra sự thay đổi nhận thức rằng thông tin về một vật thể chỉ có thể thay đổi bằng tương tác với các vật ngay gần nó. Ví dụ Ví dụ: Có 2 photon sao cho spin của cặp photon này là 0 (zero), khi photon thứ nhất quay theo chiều kim đồng hồ thì bằng 1 cách nào đó photon thứ 2 sẽ quay ngược chiều kim đồng hồ sao cho tổng spin của chúng bằng 0 (zero) bất chấp khoảng cách của chúng là bao xa hoặc trong bất kỳ trường hợp nào mà không cần bất kể lực tác động nào khác. Điều nay vi phạm tất cả các quy tắc vật lý thông thường. Nó được xem như phương thức liên lạc của tương lai khi tốc độ của nó gần như ngay lập tức bất chấp đang ở không-thời-gian nào (kể cả trong hoặc phía bên kia Hố Đen), thay thế phương thức truyền tín hiệu trong vũ trụ hiện nay của con người là dùng sóng vô tuyến có tốc độ bằng với tốc độ ánh sáng, và không thể sử dụng trong nhiều trường hợp đặc biệt. Rối lượng tử thường được mô tả với hai photon có sự liên hệ với nhau, trạng thái của photon này quyết định trạng thái của photon kia. Nếu đo được trạng thái của một photon thì ngay lập tức sẽ biết được trạng thái của photon có liên hệ với nó. Điều này cũng có nghĩa là nếu ta buộc photon này có một trạng thái nào đó thì lập tức photon kia cũng có trạng thái tương ứng. Sự liên hệ trạng thái giữa 2 photon chứng tỏ rằng giữa chúng có một quan hệ tương tác nào đó tuy nhiên tương tác này không phải là một trong bốn tương tác cơ bản như ta đã biết; mà là một hệ quả của các định luật cơ học lượng tử. Ứng dụng Viễn tải lượng tử Rối lượng tử được ứng dụng vào công nghệ viễn tải lượng tử, dùng để vận chuyển thông tin cũng như vật chất. Trong kỹ thuật này, người ta tạo ra hai vật thể ở cách xa nhau và có vướng víu lượng tử với nhau. Sau đó thông tin về trạng thái lượng tử của vật thứ nhất được cố định, qua phép đo; dẫn đến thông tin này được truyền tải đến vật thứ hai. Phương pháp này không cho phép thông tin, ở dạng kèm theo vật chất, được di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng.
Gạch chịu lửa có thể là: Gạch chịu lửa - một loại vật liệu chịu lửa định hình trong xây dựng. Gạch chịu lửa - tên một ban nhạc Rock của Việt Nam.
Đình lạm (), trong kinh tế học, chỉ hiện tượng nền kinh tế đình đốn trong khi lạm phát cao. Theo lý luận về đường cong Phillips của kinh tế học Keynes, có sự đánh đổi giữa tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp (hoặc giữa tỷ lệ lạm phát với tốc độ tăng trưởng GDP thực tế). Điều này hàm ý, nếu kinh tế đình đốn thì cũng không thể có lạm phát cao. Tuy nhiên, kinh tế Anh thập niên 1960 và 1970, kinh tế Mỹ đầu thập niên 1970 cho thấy trong khi kinh tế đình đốn, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, mà tỷ lệ lạm phát lại không hề hạ xuống. Các chính sách quản lý tổng cầu dựa trên các lý luận của kinh tế học Keynes không thể giải quyết được tình trạng đình lạm. Nếu nới lỏng tài chính hay nới lỏng tiền tệ để kích cầu và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng cao hơn, thì lạm phát sẽ gia tốc. Còn nếu thắt chặt tài chính hay thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát, thì kinh tế lại có thể thu hẹp thêm. Thực tiễn này góp phần làm cho lý luận của kinh tế học Keynes bị mất uy tín và góp phần nâng cao danh tiếng của chủ nghĩa tiền tệ, kinh tế học vĩ mô cổ điển mới và kinh tế học trọng cung.
Hồ Quỳnh Hương (sinh 16 tháng 10 năm 1980, tại Hạ Long, Quảng Ninh) là một ca sĩ, nhạc sĩ và giảng viên thanh nhạc người Việt Nam, từng nhận được 2 đề cử, 1 giải Cống hiến và 1 giải MAMA. Hồ Quỳnh Hương là một tên tuổi lớn, cô được biết đến với danh hiệu "Cô gái của những giải thưởng" nhờ sở hữu nhiều giải thưởng trong sự nghiệp ca hát. Hồ Quỳnh Hương là một trong các ca sĩ hàng đầu Việt Nam hiện nay cô đang làm giám khảo chính của nhiều cuộc thi. Với thành tích học tập xuất sắc và nhiều kinh nghiệm trong hoạt động nghệ thuật, ca sĩ Hồ Quỳnh Hương đã được mời làm giảng viên tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, giảng dạy ở khoa Nhạc nhẹ. Hồ Quỳnh Hương từng là giảng viên lớp tài năng đặc biệt của Trường đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Được mệnh danh là một “Cô gái giải thưởng” nhờ những bộ sưu tập giải thưởng đồ sộ trong suốt quãng đường sự nghiệp ca hát, Hồ Quỳnh Hương đã khởi đầu sự nghiệp cùng với một loạt các thành tích đáng nể phục: Giải Tài năng trẻ Liên hoan Tiếng hát Truyền hình toàn quốc 1999, HCV Tiếng hát Sinh viên toàn quốc 2000, HCV Tiếng hát các trường nghệ thuật chuyên nghiệp 2000, giải nhất Tiếng hát Truyền hình Hà Nội 2002, Giải Ca sĩ trẻ xuất sắc nhất do Hội đồng Giám khảo trao tặng trong VTV – Bài hát tôi yêu 2003… Ngoài ca hát, Hồ Quỳnh Hương còn là nhà sáng lập thương hiệu thuần chay Loving Vegan Food, kinh doanh ở một số lĩnh vực như bất động sản, ẩm thực… Tiểu sử Hồ Quỳnh Hương sinh ngày 16 tháng 10 năm 1980 tại Hạ Long, Quảng Ninh, Việt Nam. Là cô ca sĩ đến từ “vùng than” Quảng Ninh, được xem như là con cưng của những người dân nơi đây khi cô đã được phong danh hiệu là “Nghệ sĩ vùng mỏ”. Hồ Quỳnh Hương tốt nghiệp thủ khoa Thanh nhạc trường Cao đẳng nghệ thuật quân đội năm 2002. Ngoài ra, nữ nghệ sĩ còn có đam mê với âm nhạc cổ điển. Hồ Quỳnh Hương bắt đầu được biết đến khi tham gia cuộc thi Liên hoan tiếng hát truyền hình năm 1999 và giành luôn giải ca sĩ trẻ triển vọng. Nhờ bước đệm đó, cô đã được nhạc sĩ An Thuyên phát hiện tài năng và được đặc cách vào học tại trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội và được hát trên các sân khấu lớn, nhỏ tại thủ đô. Hồ Quỳnh Hương cũng là một ca sĩ Việt Nam đặc biệt được biết đến với hai lần tốt nghiệp xuất sắc (danh hiệu thủ khoa) chuyên ngành thanh nhạc trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội (một lần vào năm 2002 khi trường còn là trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Quân đội và lần thứ hai vào năm 2013 sau khi trường đã đổi tên thành Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội). Khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp, giọng ca Hoang mang lại bất ngờ lánh xa ánh hào quang showbiz mà lui về cuộc sống kinh doanh, thiền tịnh riêng. Tuy nhiên, tên tuổi của cô vẫn có sức ảnh hưởng lớn đối với công chúng. Năm 2018, Với thành tích học tập xuất sắc và nhiều kinh nghiệm trong hoạt động nghệ thuật, ca sĩ Hồ Quỳnh Hương đã được mời làm giảng viên tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, giảng dạy ở khoa Nhạc nhẹ. Hồ Quỳnh Hương từng là giảng viên lớp tài năng đặc biệt của Trường đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Hoạt động Hồ Quỳnh Hương được biết đến là giọng ca nữ xuất sắc, có chất giọng đặc biệt hết sức truyền cảm làm hay động nhiều khán giả yêu nhạc. Cô có nhiều bài hit được yêu mến như: Ước mơ trong đời, Có nhau trọn đời, Với anh em vẫn là cô bé, Hoang mang, Anh, Căn phòng mưa rơi… Hồ Quỳnh Hương còn sáng tác được một số bài hát được khán giả trẻ yêu mến như Ánh sáng thiên thần, Căn phòng mưa rơi, Đến bên em, Hãy quay về khi còn yêu nhau, Muốn nói yêu anh, Nỗi nhớ mùa đông… Vào những năm 1990, các đài truyền hình và truyền thông Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc thi ca hát chuyên nghiệp. Âm nhạc Việt Nam lúc này bắt đầu bước sang thời kỳ hoàng kim, cùng hòa nhập với các ca khúc hải ngoại. Tên tuổi của Hồ Quỳnh Hương đã xuất hiện trên các tờ báo lớn; các ca khúc của Hồ Quỳnh Hương liên tục được phát trên các kênh radio; các phương tiện truyền thông lớn. Những màn trình diễn của cô gái đến từ vùng đất mỏ này trở nên rất nổi tiếng và được khán giả khắp Việt Nam đón nhận. Có vô số giải thưởng được trao cho Hồ Quỳnh Hương từ Đảng, nhà nước và nhiều đơn vị tổ chức sự kiện khác. Tên tuổi của cô ca sĩ mới Hồ Quỳnh Hương nổi lên rất nhanh, chủ yếu là do cô có trình độ chuyên môn về âm nhạc, phong cách biểu diễn chuyên nghiệp, đầy nhiệt huyết và nhờ sự ủng hộ của khán giả cô. Hồ Quỳnh Hương đã đạt đến đỉnh cao của cuộc đời khi cô còn trẻ, và cô nhận ra rằng tất cả những gì cô có hiện tại không phải là những gì cô muốn. Dưới ánh đèn sân khấu, cô vẫn thường cảm thấy cô đơn, dần dần Hồ Quỳnh Hương thường xuyên bị mất ngủ. May mắn thay, cô đã theo học giáo lý của Ngài Thanh Hải Vô Thượng Sư để tìm kiếm chân lý. Hồ Quỳnh Hương bắt đầu tu thiền theo lời dạy của Ngài Thanh Hải Vô Thượng Sư, và thay đổi bản thân bằng cách ăn chay và sống chậm lại. Sau khi tìm ra chân lý cuộc đời, tên tuổi của Hồ Quỳnh Hương đã dần vắng bóng trong làng âm nhạc. Tóm tắt hoạt động sự nghiệp: Năm 1999: Hồ Quỳnh Hương nhận Giải thưởng giọng ca tài năng trẻ triển vọng tại Cuộc thi tiếng hát Truyền hình Toàn quốc. Chính là do cuộc thi này đã giúp cho Hồ Quỳnh Hương đã được đặc cách vào học ở trường Cao đẳng Nghệ thuật Quân Đội. Năm 2000: Hồ Quỳnh tiếp tục đạt Giải nhất của cuộc thi Giọng hát hay Sinh viên Toàn quốc. Và Giải nhất ở các trường Nghệ thuật Chuyên nghiệp Toàn quốc. Năm 2001: Cô vinh dự đạt Giải nhất trong Liên hoan giọng hát khu vực ở đồng bằng sông Hồng. Năm 2002: Cô tiếp tục gặt hái được thành công khi đạt Giải nhất trong cuộc thi Tiếng hát Truyền Hình Hà Nội. Năm 2003: Hồ Quỳnh Hương là Giọng ca trẻ xuất sắc do Hội nhạc sĩ đã bình chọn trong chương trình VTV Bài hát tôi yêu lần 2 cho video clip Hoài niệm, là một ca khúc của Hà Dũng. Năm 2004: Hồ Quỳnh Hương đạt giải video clip được yêu thích nhất do Hội đồng Nghệ thuật và Khán giả bình chọn. Giải thưởng được tổ chức bởi Đài Truyền hình Việt Nam - Giải VTV Bài hát tôi yêu. Nữ ca sĩ nhạc Pop được yêu thích nhất do báo Người Lao động bình chọn (Giải Mai Vàng). Ca sĩ triển vọng giải thưởng âm nhạc Làn Sóng Xanh 2003 - 2004 Được trao tặng bằng khen của Bộ Văn hóa. Năm 2005: Cô đạt Huy chương vàng giọng hát hay chuyên nghiệp toàn quốc. Ca sĩ được yêu thích nhất do khán giả bình chọn của Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (Giải Làn Sóng Xanh). Giải thưởng Cống Hiến của báo Thể thao & Văn hóa. Được trao tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Giải video clip do khán giả bình chọn và giải video clip do Hội đồng nghệ thuật bình chọn với ca khúc "Tôi tìm thấy tôi" của nhạc sĩ Đức Trí trong VTV Bài hát tôi yêu lần 3. Năm 2006: Hồ Quỳnh Hương tổ chức Liveshow Tôi là sinh viên dưới sự bảo trợ của Diamond Noir Entertainment và hãng phim Phương Nam tại Trung tâm ca nhạc Lan Anh với số đông khán giả là sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, phát hành dưới định dạng CD, VCD, DVD và Karaoke. Được mời tham gia trình diễn tại Liên hoan nhạc Pop châu Á tại Hàn Quốc. Nữ ca sĩ nhạc Pop được yêu thích nhất do báo Người Lao động bình chọn (Giải Mai Vàng). Ca sĩ được yêu thích nhất do khán giả bình chọn của Đài tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (Giải Làn Sóng Xanh). Đạt giải thưởng Ca sĩ có album được yêu thích nhất năm với Liveshow Tôi là sinh viên. Phong tặng danh hiệu DIVA Thế hệ mới do báo Điện ảnh Kịch Trường tổ chức. Năm 2007: Cô đạt giải Ca sĩ được yêu thích nhất do khán giả bình chọn của Đài tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (Giải Làn Sóng Xanh). Nữ ca sĩ nhạc Pop được yêu thích nhất do báo Người Lao động bình chọn (Giải Mai Vàng). Đạt Giải thưởng Ca sĩ có album được yêu thích nhất năm với CD Non-Stop. Ca sĩ được yêu thích nhất trong khuôn khổ 10 năm Làn Sóng Xanh của Đài tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008: Hồ Quỳnh Hương là ca sĩ Việt Nam duy nhất được mời tham dự liên hoan nhạc Pop Châu Á lần thứ hai tại Hàn Quốc, tham gia biểu diễn tại Asian Night (Bắc Kinh, Trung Quốc). Năm 2009: Hồ Quỳnh Hương ra mắt CD và DVD Năng lượng gây được tiếng vang lớn trên thị trường âm nhạc trong nước và quốc tế, một số giải thưởng đang nằm trong tầm ngắm của cô ca sĩ tài năng này. Tuy nhiên, đến năm 2009, Hồ Quỳnh Hương dường như tạm ngưng mọi hoạt động âm nhạc của mình, điều này khiến fan hâm mộ vô cùng tiếc nuối. Năm 2010: Cô cho ra mắt album CD + DVD Anh với các bài hits Anh, Tình Yêu mãi mãi và Quỳnh gây chấn động các Bảng Xếp Hạng. Album Giáng Sinh An Lành cũng được phát hành như một món quà Giáng Sinh cho các fans. Giải thưởng 10 ca sĩ được yêu thích nhất Làn Sóng Xanh các năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011. Năm 2011: Hồ Quỳnh Hương tổ chức liveshow Sắc Màu Hồ Quỳnh Hương, được đánh giá là một liveshow tầm cỡ thể hiện đẳng cấp của Hồ Quỳnh Hương với nhiều dòng nhạc khác nhau bao gồm pop, ballad, jazz, rock và tâm linh. Năm 2012: Cô được Đề cử Cống Hiến Ca sĩ Của Năm. Ra mắt dự án: Rạng Rỡ Việt Nam Project: Quảng Ngãi Nhớ Thương. Hồ Quỳnh Hương đã song ca cùng hai thành viên nhóm Davichi thể hiện giọt hát ngọt ngào, nội lực với ca khúc Hoang mang tại đêm nhạc đánh dấu 20 năm hữu nghị Việt Nam - Hàn Quốc. Màn biểu diễn đến nay vẫn được xem là một trong những màn biểu diễn thành công nhất với sự kết hợp của ca sĩ Vpop và Kpop, được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Năm 2013: Hồ Quỳnh cho ra mắt album vol. 8 Tĩnh lặng, đánh dấu sự trở lại chính thức của Hồ Quỳnh Hương. Khác với những album trước đây, Tĩnh lặng không chỉ gồm những bài hát về tình yêu đôi lứa mà còn có các bài hát viết về tình yêu cuộc sống, con người và xã hội. Năm 2014: Hồ Quỳnh Hương làm giám khảo cuộc thi Nhân tố bí ẩn và nhận được vô cùng nhiều lời khen ngợi. Ra mắt MV "Nụ Hôn cuối cùng" nhận được sự ủng hộ từ khán giả. Nhận giải MAMA cho hạng mục "Nghệ sĩ châu Á của năm". Năm 2016: Đánh dấu sự trở lại mạnh mẽ của Hồ Quỳnh Hương. Ra mắt MV và single "Chỉ là anh thôi" là ca khúc chủ đề của phim Gái già lắm chiêu. Ca khúc này nhanh chóng trở thành hit lớn. Nhận lời ngồi ghế nóng của chương trình Nhân tố bí ẩn mùa thứ hai và giúp cho cô học trò 17 tuổi Minh Như bước lên ngôi vị quán quân. Cuối tháng 10, Hồ Quỳnh Hương ra mắt Album "Hương Xưa 1". Lần đầu thử sức cùng dòng nhạc Bolero, ca sĩ Hồ Quỳnh Hương gửi gắm tâm tư cảm xúc của mình vào Album Hương Xưa với 11 ca khúc trữ tình. Dòng nhạc hoài niệm bất hủ này một lần nữa sẽ đem đến cho khán giả những trải nghiệm mới lạ qua tiếng hát của Hồ Quỳnh Hương. Album nhận được nhiều phản hồi tích cực và đạt được nhiều thành công. Năm 2022: Đêm nhạc Quỳnh 2022 của Hồ Quỳnh Hương được tổ chức để đánh dấu sự quay trở lại của nữ ca sĩ sau 11 năm ở ẩn. Trong 2 tiếng với 20 bài hát, nữ ca sĩ mang đến cho khán giả bữa tiệc âm nhạc đỉnh chưa từng có. Trong đêm nhạc, cô cũng tiết lộ rằng mình không hề ở ẩn mà chỉ muốn tạm ngưng hát một thời gian. Sau nhiều sóng gió, cô không tìm được phương hướng và niềm vui cho mình. Đến khi không thể chịu đựng được thì Hồ Quỳnh Hương chọn cách buông bỏ để tự cứu lấy mình. Năm 2023-nay: Hiện nay, chuyện kinh doanh và cuộc sống ổn định, Hồ Quỳnh Hương quyết định trở lại với khán giả và fan hâm mộ. Hồ Quỳnh Hương liên tục ngồi ghế nóng ở nhiều cuộc thi đồng thời thi thoảng cô vẫn cho ra mắt một số sản phẩm âm nhạc như MV, Single trên kênh Youtube cá nhân. Cô vẫn tiếp tục đảm nhiệm vị trí giảng viên thanh nhạc tại trường ĐH văn hóa nghệ thuật Quân Đội. Giọng hát Ngoài những thành tích vô cùng đáng nể trong cuộc đời sự nghiệp ca hát của mình, Hồ Quỳnh Hương còn được nhiều biết đến cùng với một giọng hát cao. Quãng giọng của cô trải dài từ Eb3 – F6 (supported range: A3 - A4/Bb4) điều này đã cho phép Hương Hồ có được khả năng biến tấu, phá cách và thể hiện nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Hồ Quỳnh Hương có dấu hiệu mất giọng từ năm 2017. Danh sách đĩa nhạc Tiêu biểu: Album phòng thu Vào đời (2003) (Vol 1) Ngày dịu dàng (2004) (Vol 2) Sao tình yêu (2005) (Vol 3) 14M - 2222 (2005) (Vol 4) Non-Stop (2007) (Vol 5) Năng lượng (2009) (Vol 6) Anh (2010) (Vol 7) Tĩnh lặng (2013) (Vol 8) Giáng sinh an lành (2014) (Vol 9) Hương xưa (2016) (Vol 10) Đĩa đơn / EP Diamond Noir (2007) - với Minh Hà Giáng Sinh an lành (2010) Quảng Ngãi nhớ thương (2012) Và em chờ anh (2013) Quỳnh (2013) Câu chuyện đầu năm (2016) Hương xưa I (2016) Tháng năm bên nhau (2017) Em không cần anh đâu (2017) Take it easy (2018) Studio Session (2022) … Ca khúc sáng tác Ánh sáng thiên thần Căn phòng mưa rơi Đến bên em Hãy quay về khi còn yêu nhau Muốn nói yêu anh Nỗi nhớ mùa đông … OST Hãy mở cửa nhé! Tình yêu (OST Cầu vồng tình yêu) (2012) Anh có hay (OST Chạy đi rồi tính) (2016) Chỉ là anh thôi (OST Gái già lắm chiêu) (2016) Hãy về đây bên em (OST Tuổi thanh xuân 2) (2016) Đóa tóc hương say (OST Phượng Khấu) (2020) Nơi giấc mơ bắt đầu (OST Tháng năm dữ dội) (2020) Hạnh phúc máu (OST Hạnh phúc máu) (2023) Bài hit tiêu biểu Anh Hoang mang Ước mơ trong đời Có nhau trọn đời Với anh em vẫn là cô bé Căn phòng mưa rơi Em nhớ anh vô cùng Bức thư tình thứ hai Vũ điệu hoang dã Với anh em vẫn là cô bé Và em chờ anh Tôi đã biết yêu Nụ hôn cuối cùng Honey Honey 2 Mưa tình yêu Nuối tiếc Tình yêu mãi mãi Nỗi nhớ anh mùa đông Lời ru cỏ non Bèo dạt mây trôi Hãy mở cửa nhé tình yêu Khát vọng Khúc hát người Hà Nội Quỳnh Giấc mơ màu tím (cùng Đan Trường) Chuyến tàu hoàng hôn Tự nguyện Ta mãi thuộc về nhau Sao chưa thấy hồi âm Tôi tìm thấy tôi Cánh buồm phiêu du … Liveshow Tôi là sinh viên (2006) Nontop & Diamondnoir (2007) Sắc màu Hồ Quỳnh Hương (2011) Minishow We (2013) Quỳnh (2015) Quỳnh 2 (2022) Truyền hình Phim Bản Hợp Đồng vai nhân viên Interpol Chương trình truyền hình Và nhiều chương trình khác Giải thưởng và thành tích Tiêu biểu: 1999: Giải Giọng ca tài năng trẻ triển vọng trong cuộc thi tiếng hát Truyền hình Toàn quốc. 2000: Huy chương vàng Tiếng hát Sinh viên toàn quốc 2000: Huy chương vàng Tiếng hát các trường nghệ thuật chuyên nghiệp 2000: Giải nhất cuộc thi Giọng hát hay Sinh viên Toàn quốc. Giải nhất các trường Nghệ thuật Chuyên nghiệp Toàn quốc. 2001: Giải nhất Liên hoan giọng hát khu vực đồng bằng sông Hồng. 2002: Giải nhất cuộc thi Tiếng hát Truyền hình Hà Nội 2003: Giọng ca trẻ xuất sắc do Hội nhạc sĩ bình chọn trong chương trình VTV – Bài hát tôi yêu lần thứ 2 cho video clip Hoài niệm - sáng tác Hà Dũng 2004: Giải thưởng của Hội đồng nghệ thuật trong chương trình VTV – Bài hát tôi yêu lần thứ 3, cho video ca khúc Tôi tìm thấy tôi sáng tác của Đức Trí 2004: Huy Chương Vàng Liên hoan âm nhạc Mùa xuân Bình Nhưỡng với ca khúc Vào đời (sáng tác NS Hà Dũng) và bài Niềm tự hào Triều Tiên - ca ngợi công lao của Chủ tịch Kim Nhật Thành 2004: Giải Mai Vàng cho nữ ca sĩ nhạc nhẹ qua bài hát Lời nguyện cầu 2006: Giải Mai Vàng cho Nữ ca sĩ nhạc nhẹ qua bài hát Với anh em vẫn là cô bé 2006: Giải Cống hiến cho Ca sĩ của năm 2007: Giải Mai Vàng cho nữ ca sĩ nhạc nhẹ qua bài hát Honey 2013: Người phụ nữ ăn chay quyến rũ nhất châu Á 2013 do PETA Asia-Pacific tổ chức bình chọn 2013: Top 5 nghệ sĩ của năm tại Zing music awards 2014: Đại diện cho Việt Nam nhận giải thưởng Ca sĩ của năm tại Việt Nam của MAMA 2016: Top 10 nghệ sĩ của năm tải giải thưởng Làn sóng xanh 2016: Top 3 Album của năm tại Zing music awards 2017: Ca sĩ được yêu thích nhất trong Năm - Bảng Vàng (Top Gold) 2020: Kỷ lục Thế giới và kỷ niệm chương từ Viện nội dung Kỷ lục thế giới – WRCA “Nữ ca sĩ, Kỷ lục gia đầu tiên của Việt Nam sáng lập chuỗi thương hiệu mang tên Loving Vegan, giúp mọi người hướng tới cuộc sống tâm hồn an bình, phục vụ sức khỏe cho cộng đồng xã hội” Học trò Tiêu biểu: Myra Trần (Lady Mây) Phạm Đình Thái Ngân Tino Chí Thành Scandal Bị Thanh Lam chỉ tay và mắng là “Láo” Cách đây 6 năm ở chương trình “Nhân tố bí ẩn” khép lại với những tranh cãi xung quanh việc Hồ Quỳnh Hương – Tùng Dương – Thanh Lam – Dương Khắc Linh cãi nhau trên ghế nóng. Mọi chuyện xảy ra khi thí sinh Trần Minh Như chọn ca khúc “Không quan tâm” làm bài thi cho mình. Nhưng Tùng Dương không chấp nhận vì đây là ca khúc không nhận được sự chú ý của mọi người xung quanh ca khúc thể hiện sự suy nghĩ lệch lạc của giới trẻ. Tuy nhiên, nữ ca sĩ Hồ Quỳnh Hương liền bênh vực thí sinh. Sau đó, Thanh Lam chỉ tay mắng Hồ Quỳnh Hương là "láo" trên sóng trực tiếp, và ám chỉ Hồ Quỳnh Hương giả tạo, toàn đóng kịch chưa kịp lắng xuống thì nữ diva lại tiếp tục đăng đàn giải thích nguyên nhân vì sao mình có hành động như vậy. Theo Thanh Lam, việc Hồ Quỳnh Hương có ý nói cô và Tùng Dương tự ái vơ lời bài hát vào mình một cách công khai trên sóng bằng cách hát lại và thêm vào đó từ huấn luyện viên, là sự xúc phạm tới cam kết trách nhiệm và quan điểm huấn luyện, xúc phạm tới công sức và thiện tâm của cả hai. Đó là lý do khiến nữ diva lên tiếng: "Việc một đồng nghiệp khác ám chỉ chúng tôi tự ái vơ lời bài hát vào mình (công khai trên sóng khi hát lại lời bài hát và thêm vào đó từ huấn luyện viên) là sự xúc phạm tới cam kết trách nhiệm và quan điểm huấn luyện của chúng tôi, xúc phạm tới công sức và thiện tâm của chúng tôi. Và đó là lý do tôi phải lên tiếng. Tôi không áp đặt, không ngạo mạn như một số bạn bình luận. Nhưng tôi có trách nhiệm với cam kết của bản thân mình và với các em". Cô cũng chia sẻ, nhiều khi người ngoài cuộc không thấy và hiểu hết những gì diễn ra bên ngoài so với trên TV. Trước đó, ở liveshow 5 của X-Factor 2016, khi Minh Như của đội Hồ Quỳnh Hương trình bày ca khúc Không quan tâm của nhạc sĩ Dương Khắc Linh, Tùng Dương cho rằng thông điệp của bài hát có thể gây nguy hiểm cho giới trẻ. Anh cảm thấy bị xúc phạm khi nghe bài hát vì "nếu cứ hát là không quan tâm, không để ý thì ý kiến của bốn giám khảo ở đây có nghĩa gì. Một tuyên ngôn của đứa trẻ như vậy là không chấp nhận được". Đáp lại, Hồ Quỳnh Hương bênh vực: "Em ấy có nói là tôi ngông cuồng với huấn luyện viên đâu". Thanh Lam quay sang chỉ vào mặt Hồ Quỳnh Hương mắng: "Tại sao em lại nói thế? Em nói thế là láo đấy". Hồ Quỳnh Hương tỏ ra bị sốc và ngỡ ngàng trước phát ngôn của đàn chị. Thanh Lam đã bức xúc chia sẻ suy nghĩ trên trang cá nhân. Chị viết: “Một cô bé non nớt mới có chút khả năng chưa học hành 1 nốt nhạc nào mà thổi phồng em lên thật tội nghiệp”. Cô bé hét lên thất thanh: “Giờ thì tôi chẳng quan tâm ai nói gì. Chẳng quan tâm ai nghĩ gì. Who cares? Who minds?“. Ta nói gì gửi gắm gì tuyên ngôn như vậy với lớp trẻ? “Cô huấn luyện viên hàng ngày đóng kịch với chính mình. Cô quên mất hôm nay dạy học trò cái văn hóa vốn có nơi cô. Đã bao giờ nhìn mình thật chưa. Mọi thứ đều giả“. Scandal này khiến Hồ Quỳnh Hương bị đồn không “nhìn mặt Thanh Lam“, tuy nhiên cô lại chia sẻ: “Tôi không biết chị Lam có nhìn mặt tôi không chứ tôi vẫn vậy, vẫn tôn trọng và yêu quý chị như bình thường. Còn chuyện trên ghế nóng đôi khi đó là công việc, đôi khi đó là cảm xúc, là sự bộc phát, không sao cả. Nếu mình cứ nhìn vào đó thì khó vô cùng. Tôi thì vẫn bình thường“. Rời vị trí giám khảo của Be a star - Bạn là ngôi sao vì vị trí ghế ngồi với Hari Won Ngoài scandal với Thanh Lam, khi tham gia ngồi ghế giám khảo cuộc thi "Be a star - Bạn là ngôi sao", Hồ Quỳnh Hương cũng xảy ra sự cố vào năm 2017. Cụ thể, BTC cuộc thi thông báo nữ ca sĩ – giám khảo Hồ Quỳnh Hương đã quyết định rút khỏi vai trò giám khảo không tiếp tục đồng hành cùng chương trình ở liveshow 9 và chung kết của cuộc thi vì vì không hài lòng khi thấy Hari Won, giám khảo khách mời, lại được ngồi vào chiếc ghế chính giữa trong ban giám khảo? Phía BTC tìm hiểu nguyên nhân thì được biết, ca sĩ Hồ Quỳnh Hương từng muốn ngồi ở vị trí chính giữa của ghế "nóng" bởi Hồ Quỳnh Hương và Dương Khắc Linh là hai giám khảo xuyên suốt trong chương trình. Tuy nhiên, do một số liveshow có cả sự xuất hiện của Hồ Ngọc Hà, Hari Won, Touliver,... nên Hồ Quỳnh Hương thoải mái ngồi ở phía bên và để giám khảo là nhạc sĩ Dương Khắc Linh ngồi xen giữa 2 giám khảo còn lại. Tuy nhiên trong liveshow 8, Hồ Quỳnh Hương vắng mặt vì bận việc riêng, và giám khảo khách mời là Hari Won (giám khảo nữ duy nhất) được ngồi vào vị trí chính giữa, hai bên là nhạc sĩ Dương Khắc Linh và đạo diễn Nguyễn Quang Dũng, khiến Hồ Quỳnh Hương khó chịu và quyết định hủy hợp đồng. Sau scandal này, Hồ Quỳnh Hương lại càng kín tiếng hơn. Cô không xuất hiện nhiều trong các gameshow hay hoạt động âm nhạc nào. Giọng ca đất Mỏ chỉ chuyên tâm kinh doanh và luyện thiền. Xây dựng khu du lịch trái phép tại Bà Rịa - Vũng Tàu Theo thông tin từ UBND xã Bình Châu, trước đây, ca sĩ Hồ Quỳnh Hương có mua mảnh đất rộng 2ha. Theo quy hoạch, khu đất này là khu dân cư. Tuy nhiên, ca sĩ Hồ Quỳnh Hương đã cho xây dựng thành khu du lịch với nhiều hạng mục đã được xây dựng xong với tổng diện tích khoảng 3.000m2 gồm: sân khấu, khu ngồi xem ca nhạc, tường rào xung quanh kiên cố… Ông Đặng Thanh Minh - chủ tịch UBND huyện Xuyên Mộc cho biết, khu đất của ca sĩ Hồ Quỳnh Hương muốn làm du lịch thì phải chuyển đổi mục đích sử dụng cũng như phải điều chỉnh quy hoạch và xin phép xây dựng. Nhưng ca sĩ này đã không làm các thủ tục trên mà đã tiến hành xây dựng khu du lịch. Ngày 5/4/2018, một lãnh đạo Sở Xây dựng tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu cho biết, sở này đã có quyết định xử phạt bà Hồ Quỳnh Hương (ca sĩ, chủ Khu du lịch Đình Bảo tại xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) 20 triệu đồng về hành vi xây dựng trái phép, không phép.
Đình trệ kinh tế chỉ hiện tượng tốc độ tăng trưởng GDP thực tế thấp suốt một thời kỳ dài. Tuy nhiên, thế nào là tăng trưởng thấp thì các nhà kinh tế học không đưa ra định nghĩa rõ ràng. Một số cho rằng, tốc độ tăng trưởng 2-3 phần trăm một năm là tăng trưởng thấp. Một số khác cho rằng, tốc độ thấp hơn tốc độ tăng trưởng tiềm năng là thấp. Thời kỳ Đại khủng hoảng (1929-1933), là một giai đoạn đình trệ kinh tế điển hình. Tình trạng kinh tế Nhật Bản trong thập niên 1990 và đầu thập niên 2000 cũng là tình trạng đình trệ kinh tế. Ở cả hai trường hợp trên, đình trệ kinh tế đi cùng với giảm phát. Song ở Anh thập niên 1960, 1970 và ở Mỹ đầu thập niên 1970, người ta lại thấy đình trệ kinh tế đi cùng với lạm phát tạo thành cái gọi là đình lạm. Lưu ý là đình đốn kinh tế không nhất thiết nghĩa là suy thoái kinh tế.
Trình soạn thảo văn bản là một loại chương trình máy tính chỉnh sửa văn bản thuần túy. Các chương trình như vậy đôi khi được gọi là phần mềm " notepad ", theo tên của Microsoft Notepad. Trình soạn thảo văn bản được cung cấp hệ điều hành và gói phát triển phần mềm, đồng thời có thể được sử dụng để thay đổi các tệp như tệp cấu hình, tệp tài liệu và mã nguồn ngôn ngữ lập trình. Văn bản thuần túy (plain text) so với văn bản đa dạng thức (rich text) Có sự khác biệt quan trọng giữa văn bản thuần túy (được tạo và chỉnh sửa bởi trình soạn thảo văn bản) và văn bản đa dạng thức (chẳng hạn như văn bản được tạo bởi chương trình xử lý từ hoặc phần mềm xuất bản trên máy tính để bàn). Văn bản thuần túy chỉ bao gồm đại diện ký tự. Mỗi ký tự được biểu diễn bằng một chuỗi có độ dài cố định là một, hai hoặc bốn byte hoặc dưới dạng chuỗi có độ dài thay đổi từ một đến bốn byte, phù hợp với các quy ước mã hóa ký tự cụ thể, chẳng hạn như ASCII, ISO / IEC 2022, UTF-8 hoặc Unicode. Các quy ước này xác định nhiều ký tự có thể in được, nhưng cũng có các ký tự không in được kiểm soát luồng văn bản, chẳng hạn như dấu cách, ngắt dòng và ngắt trang. Văn bản thuần túy không chứa thông tin nào khác về chính văn bản, thậm chí không sử dụng quy ước mã hóa ký tự. Văn bản thuần túy được lưu trữ trong các tệp văn bản, mặc dù các tệp văn bản không chỉ lưu trữ văn bản thuần túy. Trong những ngày đầu của máy tính, văn bản thuần túy được hiển thị bằng cách sử dụng phông chữ đơn không gian, như vậy việc căn lề ngang và định dạng cột đôi khi được thực hiện bằng cách sử dụng các ký tự khoảng trắng. Vì lý do tương thích, truyền thống này không thay đổi. Mặt khác, văn bản đa dạng thức có thể chứa siêu dữ liệu, dữ liệu định dạng ký tự (ví dụ: kiểu chữ, kích thước, trọng lượng và kiểu), dữ liệu định dạng đoạn văn (ví dụ: thụt lề, căn lề, phân phối chữ và từ, và khoảng cách giữa các dòng hoặc các đoạn văn khác) và dữ liệu đặc tả trang (ví dụ: kích thước, lề và hướng đọc). Văn bản đa dạng thức có thể rất phức tạp. Văn bản đa dạng thức có thể được lưu ở định dạng nhị phân (ví dụ: DOC), các tệp văn bản tuân theo ngôn ngữ đánh dấu (ví dụ: RTF hoặc HTML), hoặc ở dạng kết hợp của cả hai (ví dụ: Office Open XML). Các trình soạn thảo văn bản nhằm mục đích mở và lưu các tệp văn bản có chứa văn bản thuần túy hoặc bất kỳ thứ gì có thể được hiểu là văn bản thuần túy, bao gồm đánh dấu cho văn bản có dạng thức hoặc đánh dấu cho một thứ khác (ví dụ: SVG).
Phú Xuyên là một huyện ngoại thành nằm ở phía nam thành phố Hà Nội, Việt Nam. Vị trí địa lý Huyện Phú Xuyên nằm ở phía nam của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 30 km, cách sân bay quốc tế Nội Bài khoảng 60 km, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 110 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Khoái Châu và huyện Kim Động thuộc tỉnh Hưng Yên Phía tây giáp huyện Ứng Hòa Phía nam giáp thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam Phía bắc giáp huyện Thường Tín và huyện Thanh Oai. Huyện Phú Xuyên có diện tích 170,8 km², dân số là 229.847 người. Trên địa bàn huyện có hai tôn giáo chính: Phật giáo và Thiên Chúa giáo. 14% dân số theo đạo Thiên Chúa. Lịch sử Đời Trần, huyện có tên là Phù Lưu. Thời Lê Sơ đổi thành Phù Vân, sau lại đổi thành Phù Nguyên. Đến đời nhà Mạc, vì kỵ húy vua Mạc Phúc Nguyên nên đã đổi thành Phú Xuyên. Năm 1831, vua Minh Mạng đặt ra cấp tỉnh, huyện Phú Xuyên thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội. Năm 1888, tỉnh Cầu Đơ (sau này là Hà Đông) được thành lập, huyện Phú Xuyên được cắt sang thuộc tỉnh Hà Đông. Khi Hà Đông sáp nhập với Sơn Tây, Phú Xuyên thành tỉnh Hà Tây, sau đó khi Hà Tây sáp nhập với Hòa Bình thì Phú Xuyên thuộc Hà Sơn Bình, khi Hà Sơn Bình tách ra thì Phú Xuyên lại thuộc tỉnh Hà Tây. Huyện Phú Xuyên khi đó gồm có 27 xã: Bạch Hạ, Châu Can, Chuyên Mỹ, Đại Thắng, Đại Xuyên, Hoàng Long, Hồng Minh, Hồng Thái, Khai Thái, Liên Hòa, Minh Tân, Nam Phong, Nam Triều, Phú Túc, Phú Yên, Phúc Tiến, Phượng Dực, Quang Lãng, Quang Trung, Sơn Hà, Tân Dân, Thụy Phú, Tri Thủy, Tri Trung, Văn Hoàng, Văn Nhân, Vân Từ. Ngày 6 tháng 9 năm 1986, chuyển xã Liên Hòa thành thị trấn Phú Xuyên, thị trấn huyện lỵ huyện Phú Xuyên; thành lập thị trấn Phú Minh từ một phần diện tích và dân số của xã Văn Nhân. Từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, giải thể toàn bộ tỉnh Hà Tây cũ. Theo đó, huyện Phú Xuyên thuộc thành phố Hà Nội. Ngày 1 tháng 3 năm 2020, sáp nhập xã Thụy Phú và xã Văn Nhân thành xã Nam Tiến. Huyện Phú Xuyên có 2 thị trấn và 25 xã như hiện nay. Điều kiện tự nhiên Với diện tích đất tự nhiên 17.104,6 ha; trong đó, đất canh tác trồng trọt là 11.329,9 ha chiếm 66,24%; đất ở 1.120,9 ha chiếm 6,95%; đất chuyên dùng chiếm 3.235,9 ha chiếm 18,92%; còn lại là đất chưa sử dụng. Phú Xuyên là huyện trũng nhất của Hà Nội, có sông Nhuệ chảy từ bắc xuống Nam. Trước đây Phú Xuyên là vùng đất trũng, có cốt đất thấp so với một số đơn vị lân cận, phía Đông cao hơn phía Tây, nên về mùa mưa bão hay bị ngập úng, lụt lội. Một số xã giáp sông Hồng có đất pha cát, còn gọi là đất màu, diện tích khoảng 2.000 ha. Trên địa bàn huyện có trên 30 km sông chảy qua đó là sông Hồng, sông Nhuệ, sông Duy Tiên, sông Lương, sông Vân Đình. Phú Xuyên cũng có hệ thống giao thông rất thuận lợi, có tuyến đường sắt Bắc - Nam dài gần 12 km chạy qua, tuyến đường thủy sông Hồng dài 17 km, tuyến đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ dài 7 km, điểm đầu đường Cầu Giẽ - Ninh Bình, đường Quốc lộ 1 dài 12 km trên địa bàn huyện, đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội của Phú Xuyên. Hành chính Huyện Phú Xuyên có 27 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Phú Xuyên (huyện lỵ), Phú Minh và 25 xã: Bạch Hạ, Châu Can, Chuyên Mỹ, Đại Thắng, Đại Xuyên, Hoàng Long, Hồng Minh, Hồng Thái, Khai Thái, Minh Tân, Nam Phong, Nam Tiến, Nam Triều, Phú Túc, Phú Yên, Phúc Tiến, Phượng Dực, Quang Lãng, Quang Trung, Sơn Hà, Tân Dân, Tri Thủy, Tri Trung, Văn Hoàng, Vân Từ Nghệ thuật Nét đẹp của vùng đất tổ nghề khảm Đất tổ của nghề này là làng Chuôn (Chuyên Mỹ), huyện Phú Xuyên. Từ xa xưa, người dân làng Chuôn đã biết dùng sơn màu, thuốc nước còn thợ thêu dùng chỉ màu làm chất liệu chính để sáng tác, tạo hình, còn người thợ khảm dùng nguyên liệu là gỗ loại tốt, sơn ta và vỏ trai ốc để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật hay các hàng thủ công mỹ nghệ. Nói là trai ốc nhưng cũng có nhiều loại: xà cừ là ốc biển, vỏ có vân ngũ sắc, xác là hến biển vỏ trắng như bông, có khi lại vàng như nghệ, cửu khổng là trai vỏ có chín lỗ, vân đẹp bảy sắc cầu vồng... Từ những chất liệu đó người thợ làm các công đoạn: vẽ mẫu, mài, cưa, đục mảnh, cham, hạ mặt, mài, đánh bóng... Hàng khảm có nhiều loại như: sập, tủ chè, ghế bành...; hàng mỹ nghệ như các bức tranh phong cảnh, chân dung; các đồ gia dụng như hộp đựng đồ khâu, đồ trang sức, khay... Nghề khảm đã làm cho các hàng đồ gỗ mỹ nghệ tăng giá trị lên nhiều qua đôi tay, sự sáng tạo, tìm tòi của con người làng Chuôn - mảnh đất tổ sinh ra nghề khảm. Kinh tế Kinh tế Phú Xuyên hiện tại chủ yếu vẫn là nông nghiệp, dịch vụ và công nghiệp đang phát triển, Phú Xuyên có nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp tiêu biểu như Xuân La (Phượng Dực) với làng nghề Tò he truyền thống, Chuyên Mỹ là làng nghề khảm trai truyền thống; thêu ren ở Sơn Hà, Dân Chủ (Phúc Tiến), Nam Tiến; nghề làm giấy ở Hồng Minh; nghề may mặc ở, Vân Từ; nghề đóng giày ở Phú Yên; nghề dệt lụa ở Quang Trung; nghề mây tre đan ở Phú Túc, Minh Tân; nghề mộc dân dụng ở Tân Dân,... Tiếp tục phát huy vốn nghề thủ công truyền thống, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện vẫn giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, đạt 252,03 tỷ đồng năm 2003, tăng 7,7% so với năm 2002. Trong đó, các ngành hàng đạt mức tăng trưởng cao là: may mặc 51%, hàng mây tre đan xuất khẩu 22,1%, khảm, sơn mài 24,5%, cơ khí và công nghiệp khác 43,4%,... Làng nghề Ngoài sản xuất nông nghiệp, huyện đặc biệt quan tâm đến việc duy trì, bảo tồn và phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp làng nghề. Ngoài các nghề truyền thống như: Guột tế Phú Túc, khảm trai Chuyên Mỹ, Giày da Phú Yên, May comlê Vân Từ, nghề mộc xã Tân Dân, Văn Nhân, Tò he - Xuân La xã Phượng Dực,… Các địa phương trong huyện còn phát triển thêm nghề mới như: May màn xuất khẩu Đại Thắng, Cơ kim khí Thị trấn Phú Minh, may túi xách Sơn Hà xã Thao Nội, giết mổ trâu bò Quang Lãng,… đã phát triển mạnh, đem lại thu nhập đáng kể cho người lao động, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, giảm tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới năm 2011 là 7%. Ngành nghề ở Phú Xuyên không chỉ phát triển mạnh ở các xã phía Tây, Trung tây của huyện mà đã và đang được nhân rộng, phát triển ở các xã phía Đông vốn trước đây độc canh cây lúa. Để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững, Phú Xuyên triển khai chương trình xây dựng và phát triển làng nghề truyền thống huyện giai đoạn 2011 - 2015. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 có 100% làng có nghề. Đây là cơ hội để ngành nghề Phú Xuyên phát triển. Vừa qua, UBND thành phố Hà nội đã có quyết định công nhận làng Dệt lưới chã thôn Văn Lãng, xã Quang Trung là làng nghề truyền thống. Như vậy, đến nay Phú Xuyên có 38 làng nghề truyền thống đã được thành phố công nhận. Tổng hợp các làng nghề ở Phú xuyên: Làng nghề giết mổ gia súc Sảo Hạ (Quang Lãng) Làng nghề mộc dân dụng Đồng Phố (Tân Dân) Làng nghề guột tế Nhị Khê (Hoàng Long) Làng nghề may comle Từ Thuận (Vân Từ) Làng nghề dệt lưới Văn Lãng (Quang Trung) Nghề mộc, cơ khí, thêu ở thị trấn Phú Xuyên Làng nghề giày da Thượng Yên (Phú Yên) Làng nghề mộc Đại Nghiệp (Tân Dân) Làng nghề sơn mài Bối Khê (Chuyên Mỹ) Làng nghề cỏ guột Lưu Thượng và cả xã Phú Túc Nghề nấu rượu Tân Độ (Hồng Minh) Nghề xây dựng Kim Long Thượng (Hoàng Long) Nghề đóng cối xay Đa Chất (Đại Xuyên) Túi xách, ví da, giả da, tơ lưới Thao Ngoại (Sơn Hà) Làng nghề mộc Thường Liễu (Tân Dân) Nghề truyền thống trồng rau ở Minh Tân Làng nghề cào bông Văn Hội (Đại Thắng) Giết mổ gia súc thôn Bái Đô (Tri Thủy) Làng nghề cơ khí công nghiệp Phú Gia (thị trấn Phú Minh) Mộc cao cấp Chanh Thôn (Nam Tiến) Làng nghề may thôn Chung (Vân Từ) Nghề làm giấy thôn An Cốc (Hồng Minh) Làng nghề giày da Giẽ Thượng (Phú Yên) Mây tre guột Kim Long Trung (Hoàng Long) Làng nghề dệt lưới chã An Mỹ (Đại Thắng) Ấp con giống gia cầm Đại Xuyên, Phú Yên Làng nghề làm hương Văn Trai Thượng (Văn Hoàng) Khảm trai làng Chuôn và cả xã (Chuyên Mỹ) Làm tò he, cào bông Xuân La (Phượng Dực) Làng nghề khảm trai Ứng Cử (Vân Từ) May màn, sách cũ Phú Đôi (Đại Thắng) Làng nghề guột tế Trung Lập (Tri Trung) Túi xách, ví, tơ lưới Thao Ngoại (Sơn Hà) Làng nghề mộc Đồng Cả (Tân Dân) Làng nghề bánh kẹo Cổ Hoàng (Hoàng Long) Làng nghề mộc cao cấp Nhân Vực (Nam Tiến) Làng nghề bún bánh Hòa Khê Hạ (Bạch Hạ) Làng nghề mộc Gia Phú (Tân Dân) Làng nghề giày da Giẽ Hạ (Phú Yên). Hạ tầng Có quốc lộ 1A, đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ, đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình, đường sắt Bắc Nam chạy qua. Các tuyến xe buýt đi qua và đi từ địa bàn huyện Phú Xuyên: 6A (Bến xe Giáp Bát - Cầu Giẽ), 6C (Bến xe Giáp Bát - Phú Minh), 6D (Bến xe Giáp Bát - Tân Dân), 6E (Bến xe Giáp Bát - Phú Túc), 91 (Bến xe Yên Nghĩa - Phú Túc), 101A (Bến xe Giáp Bát - Vân Đình), 101B (Bến xe Giáp Bát - Đại Cường (Ứng Hòa)), 108 (Bến xe Thường Tín - Minh Tân), 113 (Đại Thắng (Phú Xuyên) - Bến đò Vườn Chuối). Danh nhân Phú Xuyên còn là một trong những huyện có nhiều tướng nhất trong cả nước: Có tới 9 vị tướng trong một huyện. Đó là: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Trung tướng Nguyễn Phúc Thanh, Trung tướng Nguyễn Đức Soát, Trung tướng Nguyễn Đức Sơn, Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc, Thiếu tướng Hoàng Văn Hoặc, Thiếu tướng Mai Văn Lý, Thiếu tướng Phùng Thế Quảng Thiếu tướng Nguyễn Kim Cách. Cựu phó thủ tướng Vũ Khoan Ông tổ nghề báo Nguyễn Văn Vĩnh ở Phượng Dực. Tiến sĩ Tạ Đăng Vọng, thủy tổ họ tạ ở Nam Quất Ông Lê Bạch Hồng, cựu thứ trưởng, TGĐ bảo hiểm Việt Nam quê ở làng Đào Xá Nguyễn Hữu Thụ nguyên ủy viên Trung ương Đảng, chủ tịch UBND tỉnh Hà Tây, bí thư tỉnh ủy Hà Sơn Bình, chủ tịch ủy ban hành chính tỉnh Hà Đông, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, bộ trưởng Tổng thư ký Hội đồng Bộ trưởng, Phó Trưởng ban kinh tế Trung Ương Di tích lịch sử Di tích Quang Lãng ở Quang Lãng, Phú Xuyên Hà Nội gồm các đền, đình, miếu, lăng mộ ở các làng thuộc địa bàn xã Quang Lãng thờ Lục vị đại vương (6 anh em trai là Nguyễn Vật, Nguyễn Lôi, Nguyễn Quảng, Nguyễn Quán, Nguyễn Linh, Nguyễn Lặc có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Mễ ở xã Quang Lãng, Phú Xuyên Hà Nội thờ Lục vị đại vương, họ Nguyễn tên Vật, Lôi, Quảng, Quán, Linh, Lặc công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Mai Xá ở xã Quang Lãng, Phú Xuyên Hà Nội thờ Lục vị đại vương, họ Nguyễn tên Vật, Lôi, Quảng, Quán, Linh, Lặc công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Sảo Thượng ở xã Quang Lãng, Phú Xuyên Hà Nội thờ Nguyễn Vật - hiệu Hiển Vật đại vương có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Đặc biệt, Đạo quân của ông Nguyễn Vật đã tiến về Trường Châu đánh thắng sứ quân Trần Hồ. Đình Tri Chỉ ở xã Tri Trung thờ Đông Hải, Thủy Hải và thành hoàng làng là Linh Lang đại vương, đều có công giúp vua, giúp dân đánh giặc phương Bắc qua các giai đoạn từ Thời Lý đến Thời Lê. Chú thích
Đoàn Thanh Lam (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1969), thường được biết với nghệ danh Thanh Lam là nữ ca sĩ người Việt Nam. Cô sở hữu một giọng nữ trung-cận trầm ([[Mezzo-alto vocal) đầy nội lực, vang rền cùng với nền tảng kỹ thuật tốt, một âm sắc được giới chuyên môn đánh giá cao, và có sự đa dạng trong phong cách âm nhạc của mình. Thanh Lam được công nhận rộng rãi là một trong bốn diva Việt Nam, cùng với Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trần Thu Hà, và được mệnh danh là "Nữ hoàng nhạc nhẹ". Thanh Lam là một trong những ca sĩ mở đường, định hướng cho nền nhạc nhẹ Việt Nam từ đầu thập niên 1990 và tiên phong cho việc đẩy lùi phong trào nhạc Hoa lời Việt. Cô có ảnh hưởng đến những thế hệ ca sĩ thành danh sau này như Mỹ Linh, Trần Thu Hà, Tùng Dương, Đàm Vĩnh Hưng, Hoàng Quyên,... . Thanh Lam cũng là ca sĩ tự do đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Cô đã giành được 1 Giải Cống hiến và 13 đề cử, đứng thứ tư trong danh sách những người được đề cử nhiều nhất chỉ sau Tùng Dương, Mỹ Tâm và Hà Anh Tuấn. Tiểu sử và sự nghiệp Thanh Lam sinh ngày 19 tháng 6 năm 1969 tại Hà Nội trong một gia đình làm nghệ thuật tại Hà Nội. Cô có nguyên quán ở Quảng Nam, là con gái của nhạc sĩ Thuận Yến và nghệ sĩ nhạc dân tộc - NSƯT Thanh Hương. Từ lúc lên 3 tuổi, Thanh Lam đã được cha dạy hát và nghe đàn piano. 7 tuổi, mẹ dạy cho cô chơi đàn thập lục, tập hát các bài dân ca Việt Nam. Năm 9 tuổi (1978), Thanh Lam được tuyển chọn vào Nhạc viện Hà Nội theo học môn đàn tỳ bà hệ sơ cấp 11 năm, đồng thời tham gia ca hát trong đội "Chim sơn ca" của Đài Tiếng nói Việt Nam và đội Họa Mi Cung Văn hóa Thiếu nhi Hà Nội. Năm 1981 (12 tuổi), Thanh Lam một mình đi dự Festival thiếu nhi ở Đức. Nhạc sĩ Thuận Yến - cha của Thanh Lam từng chia sẻ về chuyến đi này: "Cháu đứng trên sân khấu vừa đánh đàn guitar vừa hát bài Mặt trời và ánh lửa của nhạc sĩ Trần Long Ẩn. Lam không học guitar mà vẫn chơi được". Năm 1984, Thanh Lam tham gia biểu diễn tại Festival Thanh niên Thế giới 1984. Năm 1985, Thanh Lam dừng việc học đàn tỳ bà, chuyển sang học khoa thanh nhạc, hệ Trung cấp tại Nhạc viện Hà Nội. Đây là một bước ngoặt quan trọng có tính chất quyết định cho con đường nghệ thuật của cô sau này. Song song việc học, Thanh Lam cùng với ca sĩ Thái Bảo thành lập nhóm nhạc Bồ câu trắng đi biểu diễn khắp nơi (từ năm 1985 đến năm 1987). Ngoài ra, khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1991, Thanh Lam là ca sĩ của Đoàn ca múa nhạc nhẹ Trung ương, cô đã cùng đoàn đi biểu diễn ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới như: Đức, Nga, Bulgaria, Trung Quốc, Cuba, Hà Lan, Hungary và Romania. Năm 1986, cô tham dự Liên hoan Ca khúc chính trị tại Berlin và với bài hát "Mặt trời và ánh lửa", Thanh Lam đã đoạt giải nhất, bài hát được ghi âm và phát hành ngay tại liên hoan. Năm 1989, Thanh Lam đoạt giải thưởng "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Festival Âm nhạc La Habana (Cuba). Năm 1991, Thanh Lam đoạt giải thưởng lớn cuộc thi Đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc lần 2 với thang điểm kỷ lục: 6 điểm 10 của 6 vị giám khảo. Đêm chung kết, cô thể hiện ca khúc Chia tay hoàng hôn và Giọt nắng bên thềm. Trong năm 1991, cô về sống chung với nhạc sĩ Quốc Trung. Cũng chính năm này, Quốc Trung thành lập ban nhạc Phương Đông và cùng Thanh Lam đi biểu diễn nhiều chương trình. Năm 1993, Ban nhạc Phương Đông (Thanh Lam là giọng hát chính) giành giải nhất cuộc thi Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc lần thứ nhất (và cũng là lần duy nhất cho tới hiện nay) được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng vào tháng 8. Năm 1994, Thanh Lam tham gia và để lại nhiều ấn tượng trong chương trình Nửa thế kỷ bài hát Việt Nam do Hội Nhạc sĩ tổ chức, một chương trình gây được tiếng vang trong thập niên 1990. Năm 1995, Thanh Lam cùng ban nhạc Phương Đông thực hiện chương trình "Thiện Thanh" tại Nhà hát lớn Hà Nội. Đây là show nhạc đầu tiên của nhạc sĩ Quốc Trung. Nhạc sĩ Dương Thụ từng chia sẻ về 1 bài hát ông ấn tượng trong đêm nhạc: "Trong chương trình "Thiện Thanh 1", Lam hát "Bài hát ru cho anh" trên phần phối của Quốc Trung, tôi thật sự xúc động. Lam đã hát được cái khao khát sống của tôi, đằm thắm, mãnh liệt, và đượm buồn." Năm 1996, Thanh Lam độc diễn chương trình Đêm huyền diệu kéo dài suốt 1 tuần lễ (diễn thêm cả ban ngày) ở Cung Hữu nghị. Theo nhạc sĩ Quốc Trung thì đây là liveshow đầu tiên anh làm cho Thanh Lam. Sự thành công của chương trình này là nguồn động lực lớn cho họ tổ chức 1 tour diễn xuyên Việt vào năm sau. Lúc đó, chưa có ca sĩ nào thực hiện việc này. Thanh Lam đã có hẳn cú "đạp đất" cực kỳ thành công tại sân khấu Lan Anh, giúp nơi đây mở ra thời hoàng kim suốt hàng chục năm trời. Cũng trong năm 1996 này, Thanh Lam được mời đi biểu diễn tại Liên hoan nhạc pop châu Á Fukuoka (Nhật Bản) vào tháng 5 và Liên hoan nhạc jazz tại Montreux (Thụy Sĩ) vào tháng 9. Ở Liên hoan nhạc pop châu Á Fukuoka, cô đã hát Giọt nắng bên thềm trong đêm duy nhất giữa 8.000 khán giả. Còn ở Liên hoan nhạc Jazz tại Montreux, cô đã hát Hò mái nhì trên nền phối nhạc Jazz của Quốc Trung. Cô còn song ca với ca sĩ nổi tiếng Thụy Sĩ Stefan Eicher một sáng tác của chính ca sĩ đó: Wake up (Dậy đi em). Liên tiếp các năm: 1997, 1998, 1999, 2000 và 2001, Thanh Lam đều nhận giải Top 10 Ca sĩ được yêu thích nhất của Làn sóng xanh – một chương trình của FM 99.9 Mhz (Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh). Các ca khúc từng lọt vào top và giúp cô nhận giải ca sĩ được yêu thích: Khát vọng, Cho em một ngày, Bên em là biển rộng, Giọt nắng bên thềm, Hoa tím ngoài sân, Em và tôi, Chia tay hoàng hôn, Một ngày mùa đông, Chiều xuân, Hoa cỏ mùa xuân, Hát với chú ve con, Ngồi hát ca bềnh bồng, Không thể và có thể, Đợi chờ, Đố tình,... Tháng 11 và 12 năm 1997, Thanh Lam tổ chức liveshow Cho em một ngày ở 3 thành phố: TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng với sự hỗ trợ của ban nhạc Phương Đông và 2 ca sĩ trẻ là Bằng Kiều và Trần Thu Hà. Đây được xem là tour diễn cá nhân đầu tiên của nhạc nhẹ Việt Nam. Liveshow còn được nhớ đến nhiều vì đã khai trương sân khấu ca nhạc Lan Anh ở TP.HCM. Ngoài ra, cô đã phát hành album Bài hát ru cho anh trong năm. Năm 1998, Thanh Lam đoạt giải Giọng hát Vàng tại Liên hoan Giọng hát vàng ASEAN 1998 tổ chức ở Hà Nội. Cô dự thi với 2 ca khúc: Không thể và có thể và Khát vọng. Trong năm 1998 này, cô đã phát hành album Em và tôi, album Khát vọng và VCD Cho em một ngày. Năm 1999, Thanh Lam thực hiện liveshow Em và tôi cùng với ban nhạc Phương Đông và phần hát bè của nhóm nhạc Tic Tic Tac. Đây là tour diễn xuyên Việt lần thứ hai của cô. Một sự kiện khác trong năm, Thanh Lam sang Pháp để thu âm 2 bài hát (Một thoáng Tây Hồ, Biển cười) trong album "Asian Sessions" của Niels Lan Doky – một nhạc sĩ Jazz nổi tiếng của Đan Mạch. Sau đó, cô cùng với Niels Lan Doky biểu diễn tại 30 thành phố ở Đan Mạch để quảng bá cho CD Asian Sessions. Ký giả Kjeld Frandsen đã viết trên tờ Berkingske Tidende tường thuật về chuyến lưu diễn Âu châu của Niels Lan Doky và Thanh Lam: "...và Thanh Lam phối hợp những yếu tố của nhạc Folk và Pop và nâng chúng lên trình độ cao hơn trong phong cách đầy duyên dáng bằng giọng hát cực kỳ quyến rũ... một nhạc phẩm mới với tựa đề Dạ khúc (Night Song), chất chứa những giai điệu tuyệt vời của Niels Lan Doky. Nhạc phẩm này có phần lời Việt và được Thanh Lam diễn đạt một cách nồng ấm, rõ ràng và đầy thi vị...". Ký giả Fyns Stitidence, cũng viết về các buổi trình diễn này: "Đó là một buổi tối khi toàn bộ xúc cảm được khơi động, từ sự tĩnh lặng sâu xa của bản độc tấu dương cầm của Doky, cho tới sự đam mê mãnh liệt qua những bài hát do Thanh Lam, một ca sĩ tuyệt đẹp trình bày..." Năm này, cô còn cho ra đời 2 album: Ru đời đi nhé và Nơi mùa thu bắt đầu. Năm 2000, cô cho phát hành album Tự sự. Album gồm 10 bài hát tình ca của nhạc sĩ Thuận Yến. Năm 2001, Thanh Lam phát hành album Mây trắng bay về. Album theo đuổi phong cách world music này được đánh giá là đỉnh cao mới trong sự nghiệp của Thanh Lam cũng là cột mốc cho sự kết thúc của cặp đôi (Quốc Trung – Thanh Lam). Nhạc sĩ Quốc Bảo từng nói rằng: "Đây là đĩa nhạc hay nhất Việt Nam". Các năm 2002, 2003, 2004, Thanh Lam tham gia chương trình VTV – Bài hát tôi yêu và đều nhận giải thưởng dành cho Top 5 video clip hay nhất do Hội đồng nghệ thuật bình chọn. Lần 1 cô tham gia với bài hát Đố tình (Quốc Trung), lần 2 là bài hát Em tôi (Thuận Yến), lần 3 là bài hát Người ở người về (Lê Minh Sơn). Năm 2002, Thanh Lam hát nhạc jazz trong sự kiện Festival jazz châu Âu diễn ra tại Việt Nam (từ 22 đến 30 tháng 11 tại Hà Nội và từ 23 tháng 11 đến 5 tháng 12 tại TP.HCM). Cô được mời trình diễn chung với nhóm nhạc nổi tiếng đến từ Đan Mạch. Tháng 6 năm 2003, cô cùng với NSND Đặng Thái Sơn và nghệ sĩ Niels Lan Doky thực hiện 1 chương trình nghệ thuật tại Cung Đại hội ở thành phố Saint-Malo (Pháp). Buổi hòa nhạc diễn ra thành công với sự tham dự của gần 1.200 khán giả. Nhiều vị thượng nghị sĩ, đại biểu quốc hội Pháp, thị trưởng thành phố và đại sứ nhiều nước đã đến xem chương trình này. Tháng 6 năm 2004, Thanh Lam và ban nhạc Bức Tường được lựa chọn đại diện Việt Nam biểu diễn tại Lễ trao giải Âm nhạc Hòa bình Thế giới (WPMA) tại sân vận động Mỹ Đình. Website chính thức của WMPA đã giới thiệu về Thanh Lam: "Thanh Lam là một nữ ca sĩ xinh đẹp và một giọng ca ấn tượng của Hà Nội. Hiện Thanh Lam là ngôi sao nhạc pop thành công nhất Việt Nam. Chị đã thu nhiều album trong đó có nhiều đĩa được phát hành tại châu Á và Mỹ. Thanh Lam được sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc ở Hà Nội, cha cô là nhạc sĩ Thuận Yến. Thanh Lam được biết đến với chất giọng khỏe, đặc trưng và phong cách độc đáo của một ca sĩ châu Á. Chị là một phụ nữ quyến rũ, xinh đẹp với một phong cách hoàn hảo". Ngày 18 tháng 7 năm 2004, Thanh Lam tổ chức liveshow trong chương trình Âm nhạc và những người bạn mang tên Nắng lên. Chương trình được phát sóng trực tiếp trên VTV3. Đến tháng 11 năm 2004, cô tiếp tục thực hiện chương trình độc diễn của riêng mình với liveshow chủ đề Ru mãi ngàn năm diễn ra 2 đêm ở TP.Hồ Chí Minh và 2 đêm ở Hà Nội. Hai liveshow trong năm của cô đều được giới báo chí ca ngợi nhiều, xứng đáng với kỳ vọng của người hâm mộ. Trong năm 2004, cô đã phát hành 3 album: Ru mãi ngàn năm, Nắng lên và 1 album chung với Hà Trần có tên là Thanh Lam – Hà Trần. Cả ba album đều rất thành công. Ru mãi ngàn năm nhận giải "Album của năm" (Giải Cống hiến), Nắng lên đứng thứ nhì "Album của năm" (Giải Cống hiến năm 2005), Thanh Lam – Hà Trần được độc giả VnExpress.net bình chọn đứng đầu album yêu thích nhất 2004. Từ ngày 9 đến 15/6/2005, Thanh Lam và nhóm Trio 666 được phía Pháp chủ động mời biểu diễn trong chương trình giao lưu âm nhạc Pháp - Việt. Thanh Lam đại diện cho dòng nhạc pop Việt, còn nhóm Trio 666 đại diện cho mảng rock alternative Việt. Họ đã cùng với ban nhạc rock Pháp La Souris Déglinguée thực hiện tour lưu diễn 4 tỉnh miền Nam Việt Nam trong sự kiện này. Năm này, cô phát hành được 2 album: Em và đêm và Này em có nhớ. Ngoài ra, cô còn tham gia chương trình Bài hát Việt với phần biểu diễn Hát một ngày mới. Ca khúc này sau đó giành được giải "Bài hát của tháng", còn cô nhận giải "Ca sĩ thể hiện hiệu quả" do Hội đồng Nghệ thuật bầu chọn. Trong tháng 6 và tháng 7, nhóm nghệ sĩ gồm: Niels Lan Doky, Quốc Trung, Thanh Lam, Tùng Dương và các nhạc công thực hiện một chương trình nghệ thuật mang tên Vọng nguyệt (Wishing upon the moon). Ngoài hai đêm diễn tại Hà Nội và TPHCM, Vọng Nguyệt còn được trình diễn tại Festival Âm nhạc quốc tế Roskilde ở Đan Mạch, một trong những Festival Âm nhạc lớn nhất thế giới. Cuối năm 2006, cô phát hành album Giọt Lam với 18 ca khúc gắn liền với tên tuổi được làm mới lại. Album này giành được 2 giải trong chương trình Album Vàng ("Album nghệ thuật xuất sắc nhất của tháng" và "Ca sĩ thể hiện thành công nhất"). Năm 2007, Thanh Lam tổ chức liveshow Lam xưa nhằm kỷ niệm 20 năm ca hát (dự định thực hiện năm 2005 nhưng đã dời lại) diễn ra ở Hà Nội (tháng 10) và TP. Hồ Chí Minh (tháng 11). Sự thành công của liveshow này cùng với 2 album ra mắt trong năm (Giọt Lam và Lam Blue ta), Thanh Lam được báo Vnmedia.vn bình chọn là ca sĩ ấn tượng nhất trong năm. Ngày 20/12/2007, cô vào TP. Hồ Chí Minh nhận giải thưởng "Ca sĩ được yêu thích nhất" (10 ca sĩ nhận giải này) của Làn sóng xanh tổng kết 10 năm. Thanh Lam đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 2007 do có nhiều đóng góp cho nền nhạc nhẹ Việt Nam. Cô là ca sĩ tự do đầu tiên nhận được danh hiệu này. Năm 2009, cô được mời đóng vai phụ trong series phim truyền hình 13 nữ tù do VFC sản xuất. Trước đó vào năm 2001, Thanh Lam cũng từng góp mặt vào hai bộ phim là Người hùng đá đỏ và Xích lô với hai vai phụ. Năm 2002, cô tiếp tục vào vai Thủy trong bộ phim Nắng ở trên đầu. Giọng hát Loại giọng: Lyric Mezzo-Soprano (Nữ trung trữ tình) Quãng giọng: C3 ~ Eb5 ~ G5 (2 quãng tám, 3 nốt và một bán âm) Giọng Thanh Lam phát triển ở quãng trầm. Cô có thể xuống được những nốt trầm sâu, dày, có sức nặng và tạo ra được chất cổ quái, huyền bí khi phiêu những ca khúc dân gian đương đại. Quãng trung của Thanh Lam mạnh, rất có lực và vang rền. Thanh Lam cũng thường belting và sở trường là những nốt G4, A4 (Sol, La quãng 4) được cô belt một cách thoải mái nhưng đầy kịch tính và vang vọng. Thanh Lam có thể xuống trầm tận C3 và beting lên đến Eb5 một cách tự nhiên mà không cần phải twang. Có thể nói, cô là một trong những nữ trung trầm đầu tiên tại Việt Nam làm được điều này. 11 năm học đàn tỳ bà giúp Thanh Lam tiếp thu được lối hát truyền thống của dân tộc, cụ thể là các cách nhả chữ, đổ hột, nảy chữ của chầu văn, ca trù, đều là những kĩ thuật hát rất khó. Và cô cũng từng áp dụng rất nhiều những kỹ thuật ấy vào nhạc nhẹ, vào một số màn thể hiện của mình. Thanh Lam cũng là người tiên phong trong việc kết hợp giữa cách hát truyền thống dân tộc (khép chữ - lấy độ vang ở sau chữ như hát ru, dân ca, ca trù, quan họ...) với lối hát mới bel canto ở Tây phương (lối hát mở - mở rộng âm thanh tạo ra những quãng âm vang, rộng nhưng vẫn tròn vành, rõ chữ). Đây là sự kết hợp khó vì Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết, mỗi tiếng, mỗi chữ chỉ có một vần, không dính kết vào nhau và không có nối âm như một số ngôn ngữ dạng hòa kết, tổng hợp như của phương Tây. Hơn nữa, kỹ thuật bel canto tốt nhưng đóng, mở "chữ" không hợp lý hoặc mở quá hát không rõ lời hoặc khép quá hát sẽ không có âm thanh, thành ra khô vụn, vận dụng cứng nhắc, máy móc, "tròn vành" nhưng không "rõ chữ". Vì vậy, Thanh Lam có thể hát theo lối nhạc nhẹ mà vẫn có thể giữ lại bản sắc ngữ âm Tiếng Việt (khởi - mở - đóng chữ, 6 thanh điệu trầm bổng). Quan điểm Đánh giá và nhận xét Danh sách đĩa nhạc Album phòng thu Em đi qua tôi (1989) Nếu điều đó xảy ra (1990) Tiếng hát Thanh Lam 92 (1992) Giọt nắng bên thềm (1991) (Tái bản năm 1993 với tên Gọi tên bốn mùa) Bài hát ru anh (1997) Lá thư (1998) Em và tôi (1998) Ru đời đi nhé (1999) Khát vọng (1999) Nơi mùa thu bắt đầu (1999) Chia tay hoàng hôn (2000) Tự sự (2000) Mây trắng bay về (2001) Ru mãi ngàn năm (2004) Nắng lên (2005) Này em có nhớ (2005) Em và đêm (2005) Nơi bình yên (2009) Thanh Lam Acoustic (2009) Giọt Lam: Thanh Lam Collection Vol. 1 (2006) Lam blue ta (2007) Lam xưa (2008) Nơi gặp gỡ tình yêu (2020) (dự án) (sản xuất bởi Quốc Trung) Đĩa hình VCD Cho em một ngày (1998) DVD Em và tôi (1999) DVD liveshow Lam xưa (2008) DVD live-concert Echo of love (2010) Đĩa đơn mở rộng "Đánh đố" - kết hợp với Tùng Dương và Hoàng Thùy Linh Album phòng thu kết hợp Album cá nhân góp giọng Liveshow Đêm huyền diệu (1996) Cho em một ngày (1997) Em và tôi (1999) Ru mãi ngàn năm (2004) Âm nhạc và Những người bạn (Nắng Lên) (2004) Em tôi (2006) Lam Xưa (2007) Echo of Love (2009) Tình yêu không lời (2009) Yêu (với Tùng Dương) (2010) Cầm tay mùa hè (2011, 2012, 2013) Đường xa mây trắng (2011) Thương (với Tùng Dương) (2012) Người đàn bà yêu (2013) Bản tình ca cha viết (2014) Đêm hè Lam (2017) Bình minh (2018) Mùa yêu (với Tùng Dương) (2019) Hẹn yêu (2021) Phim Giải thưởng và vinh danh Giải nhất liên hoan Ca khúc chính trị tại Berlin (1986). "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Festival âm nhạc La Habana – Cuba (1989). "Giải thưởng lớn" (giải cao nhất) cuộc thi Đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc lần 2 (1991). Giải nhất cuộc thi Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc cùng với ban nhạc Phương Đông (1993). "Giọng hát Vàng" tại Liên hoan Giọng hát vàng ASEAN (1998). Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú (2007). Các giải thưởng khác: Top 10 Làn Sóng Xanh (1997, 1998, 1999, 2000, 2001, Tổng kết 10 năm), VTV – Bài hát tôi yêu (2002, 2003, 2004), Album Vàng, Bài hát Việt (thể hiện hiệu quả nhất), Bài hát yêu thích,... 13 đề cử và 1 Giải thưởng Cống hiến Chú thích
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 25 tháng 11 năm 2005. Sau Nhã nhạc cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được nhận danh hiệu. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải dài trên 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ thể của không gian văn hóa này gồm nhiều dân tộc khác nhau: Ê đê, Jarai, Ba Na, Mạ, Lặc... Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...), v.v. Hiện tại, ở các vùng có cồng chiêng như ở Tây nguyên, Lễ hội Cồng chiêng được tổ chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản phẩm du lịch ăn khách. Thư viện ảnh Chú thích Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại tại Việt Nam Đắk Lắk Đắk Nông Gia Lai Kon Tum Lâm Đồng Văn hóa Tây Nguyên Sự kiện văn hóa Việt Nam Du lịch Đắk Lắk Du lịch Gia Lai Du lịch Kon Tum Du lịch Đắk Nông Du lịch Lâm Đồng Di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam
Đẻ đất đẻ nước (tiếng Mường: Te tấc te đác) là một bộ sử thi, tác phẩm văn học dân gian của người Mường ở Việt Nam. Đây là bộ sử thi lớn, hiện sưu tầm được 10 bản, bản trung bình 8 nghìn câu, bản dài nhất 16 nghìn câu, kể về gốc tích và công cuộc đấu tranh của người Mường ở thời đại rất xa xưa, chứa đựng những quan niệm người Mường cổ về việc hình thành trời đất, tạo lập thế giới. Tác phẩm này được bảo tồn và lưu truyền dưới hình thức truyền miệng, tập trung đầy đủ nhất dưới hình thức "mo" (hát cúng). Đẻ đất đẻ nước có giá trị về rất nhiều mặt: Văn học, dân tộc học, ngôn ngữ học, nghệ thuật dân gian... Nơi phát tích của sử thi Đẻ đất đẻ nước được cho là ở xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa, hiện còn dấu tích ở Đồi Chu. Năm 2008, tác phẩm này đã được diễn xướng và ghi thành đĩa DVD & cũng như biên tập và xuất bản thành sách.
Bài này nói về kiểm tra Lucas–Lehmer tính nguyên tố cho trường hợp tổng quát. Còn có Kiểm tra Lucas-Lehmer cho số Mersenne. Trong số học cho máy tính (hay số học thuật toán), kiểm tra Lucas–Lehmer là phép kiểm tra tính nguyên tố đối với số tự nhiên n; nó đòi hỏi rằng có một thừa số nguyên tố của n − 1 là đã biết. Nếu tồn tại số a nhỏ hơn n và lớn hơn 1 là số thoả mãn và với mọi ước nguyên tố qcủa n − 1, thì n là số nguyên tố. Nếu không tìm thấy số a như vậy thì n là hợp số. Chẳng hạn, với n = 71, n − 1 = 70 = (2)*(5)*(7). Lấy a = 11 trước hết: Điều này cho thấy bậc của 11 mod 71 là 70 vì ước của 70 chỉ có thể như trên. Nhưng kiểm tra với các ước của 70 ta có: Do đó bậc của 11 mod 71 là 70, và như vậy 71 là số nguyên tố.
Trong toán học, định lý Proth là một phương pháp kiểm tra tính nguyên tố dùng cho các số Proth. Cho p là một số Proth, dạng k2n + 1 với k lẻ và k < 2n, khi đó nếu có số nguyên a nào đó sao cho thì p là số nguyên tố Ví dụ Bảy số nguyên Proth đầu tiên là P0 = 21 + 1 = 3 P1 = 22 + 1 = 5 P2 = 23 + 1 = 9 P3 = 3 × 22 + 1 = 13 P4 = 24 + 1 = 17 P5 = 3 × 23 + 1 = 25 P6 = 25 + 1 = 33 Ta có: với p = 3,lấy a = 2 ta có 21 = 2 , nên 3 là số nguyên tố. với p = 5,lấy a = 3 ta có 32 = 9 , nên 5 là số nguyên tố. với p = 13,lấy a = 5 ta có 56 = 15626 , nên 13 là số nguyên tố. với p = 9, không có số a nào cho ta a4 , nên 9 không là số nguyên tố. Lịch sử François Proth (1852 - 1879) tìm ra định lý này khoảng vào năm 1878.
Lỗ Tấn (, 25 tháng 9 năm 1881 – 19 tháng 10 năm 1936) là một trí thức cánh tả nổi tiếng có ảnh hưởng lớn đến văn học Trung Quốc đương thời cũng như sau này. Tiểu sử Lỗ Tấn có nguyên danh là Chu Chương Thọ (周樟壽 - giản thể 周樟寿), tự Thụ Nhân (樹人), hiệu Dự Tài (豫才), Dự Sơn (豫山), Dự Đình (豫亭), sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881 tại huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang trong một gia đình quan lại đã sa sút. Cha ông là Chu Bá Nghi - 周伯宜 (1861–1896) đỗ tú tài nhưng không được ra làm quan, bị bệnh mất sớm. Mẹ của ông là Lỗ Thụy - 鲁瑞 (1858–1943). Bà đã sớm có ảnh hưởng đến khả năng văn chương của Lỗ Tấn qua việc bà kể cho ông nghe nhiều truyện cổ dân gian. Lỗ Tấn là bút danh ông lấy từ họ mẹ "Lỗ". Thuở nhỏ ông thường đi học muộn, ông đã tự tay cầm dao thích chữ Tấn trên mặt bàn học để nhắc nhở bản thân phải nhanh nhẹn khẩn trương. Chính vì vậy sau này khi viết văn ông đã lấy bút danh là Lỗ Tấn. Năm 1899, ông đến Nam Kinh theo học ở Thủy sư học đường (trường đào tạo nhân viên hàng hải). Hai năm sau, ông thi vào trường Khoáng lộ học đường (đào tạo kỹ sư mỏ địa chất). Năm 1902, Lỗ Tấn du học Nhật Bản, tại đây ông tham gia Quang Phục Hội, một tổ chức chính trị của người Hoa. Sau hai năm học tiếng Nhật, năm 1904, ông chính thức vào học ngành y ở trường Đại học Tiên Đài. Năm 1906, ông thôi học và bắt đầu hoạt động văn nghệ bằng việc dịch và viết một số tiểu luận giới thiệu các tác phẩm văn học châu Âu như thơ Puskin, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của Jules Verne. Năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình, Lỗ Tấn trở về Trung Quốc. Ông dạy ở trường trung học Thiệu Hưng và có làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng một thời gian. Từ 1920 đến 1925, Lỗ Tấn làm việc tại các trường Đại học Bắc Kinh, Cao đẳng Sư phạm Bắc Kinh và Đại học nữ Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1926, ông tới Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến) và làm việc tại trường Đại học Hạ Môn. Đầu năm 1927, Lỗ Tấn đến Quảng Châu, làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa văn của trường Đại học Trung Sơn. Tháng 10 năm 1927, ông rời Quảng Châu tới Thượng Hải. Ông mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Mặc dù là nhà văn cánh tả, Lỗ Tấn chưa bao giờ tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông xem Lỗ Tấn là "bậc vĩ nhân của cách mạng văn hóa Trung Quốc", lại nói: "Lỗ Tấn là thánh nhân của vô sản cũng như Khổng Tử là thánh nhân của phong kiến." Sự nghiệp Lỗ Tấn rất ưa thích các tác phẩm của Nikolai Gogol. Năm 1918, truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn là Nhật ký người điên được đăng lần đầu trên tờ Tân thanh niên, số tháng 5-1918, truyện được lấy tên dựa theo truyện ngắn Nhật ký của một người điên của Gogol. Từ 1918 đến 1927, Lỗ Tấn viết nhiều truyện ngắn và tạp văn. Về truyện ngắn có 2 tập: Gào thét (14 truyện) và Bàng hoàng (11 truyện). Về tạp văn có 7 tập. Giai đoạn từ 1928 đến khi mất, ông viết tập truyện ngắn Chuyện cũ viết lại (gồm 8 truyện) và 9 tập tạp văn. Ngoài ra, ông còn dịch nhiều tác phẩm văn học hải ngoại ra tiếng Hán. Một số tác phẩm tiêu biểu: Nhật ký người điên (1918), truyện ngắn AQ chính truyện (1921–1922), truyện vừa Gào thét (1922), tập truyện ngắn Cỏ dại (1924), tập tạp văn Bàng hoàng (1925), tập truyện ngắn Lược sử tiểu thuyết Trung Quốc (1925), nghiên cứu Kinh nghiệm sáng tác (1933), tập tạp văn Chuyện cũ viết lại (1935), tập truyện ngắn
Vi sinh vật học (tiếng Anh: microbiology, ) là ngành khoa học nghiên cứu về vi sinh vật, chúng có thể là đơn bào, đa bào hoặc vô bào. Vi sinh vật học có nhiều phân ngành bao gồm virus học, vi khuẩn học, nguyên sinh vật học, nấm học, miễn dịch học và ký sinh trùng học. Vi sinh vật nhân thực sở hữu những bào quan có màng, gồm nấm và sinh vật nguyên sinh, trong khi sinh vật nhân sơ —tất cả đều là vi sinh vật—được phân loại theo quy ước là các bào quan không màng, gồm vi khuẩn và cổ khuẩn. Theo truyền thống, các nhà vi sinh vật học dựa vào nuôi cấy, nhuộm và hiển vi học. Tuy nhiên, chưa tới 1% vi sinh vật có trong môi trường thông thường có thể được nuôi cấy phân lập bằng các phương tiện hiện tại. Các nhà vi sinh vật học thường dựa vào những công cụ sinh học phân tử như nhận dạng dựa trên trình tự DNA, ví dụ như trình tự gen 16S rRNA được sử dụng để nhận dạng vi khuẩn. Virus được phân loại biến dị thành sinh vật, vì chúng được xem là vi sinh vật rất đơn giản hay những phân tử rất phức tạp. Tuy nhiên, prion (vốn chưa bao giờ được xem là vi sinh vật) đã được các nhà virus học nghiên cứu vì tác động lâm sàng bắt nguồn từ chúng, ban đầu được cho là do nhiễm virus mãn tính và các nhà virus học tìm kiếm—phát hiện ra "protein lây nhiễm". Sự tồn tại của vi sinh vật được dự đoán từ nhiều thế kỷ trước khi chúng được quan sát lần đầu tiên, chẳng hạn như bởi tín đồ Kỳ Na giáo ở Ấn Độ và Marcus Terentius Varro ở La Mã cổ đại. Lần quan sát bằng kính hiển vi đầu tiên được ghi lại là lần quan sát thể quả của nấm mốc của Robert Hooke vào năm 1666, nhưng linh mục Dòng Tên Athanasius Kircher có thể xem là người đầu tiên nhìn thấy vi sinh vật, thứ mà ông nhắc đến khi quan sát trong sữa và đồ hỏng vào năm 1658. Antonie van Leeuwenhoek được xem là cha đẻ của vi sinh vật học khi ông quan sát và thí nghiệm các sinh vật cực nhỏ vào thập niên 1670 nhờ sử dụng kính hiển vi đơn giản do chính ông thiết kế. Ngành vi sinh khoa học được phát triển vào thế kỷ 19 thông qua công trình của Louis Pasteur và trong ngành vi sinh y học của Robert Koch. Lịch sử Con người đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của vi sinh vật trong nhiều thế kỷ trước khi thực sự phát hiện ra chúng. Các tín đồ Kỳ Na giáo đã mặc nhận sự tồn tại của sự sống vi sinh vô hình dựa trên những lời dạy của Mahavira vào đầu thế kỷ thứ 6 TCN (599 TCN - 527 TCN). Paul Dundas lưu ý rằng Mahavira khẳng định sự tồn tại của những sinh vật vi sinh vô hình sống trong đất, nước, không khí và lửa. Kinh thánh Jain mô tả nigoda là những sinh vật siêu nhỏ sống thành cụm lớn và có quãng đời rất ngắn, được cho là có mặt khắp mọi nơi trong vũ trụ, ngay cả trong mô thực vật và thịt của động vật. Học giả người La Mã Marcus Terentius Varro nhắc đến vi sinh vật khi ông cảnh báo không nên đặt nhà gần đầm lầy "vì có loài sinh vật rất nhỏ không thể thấy bằng mắt thường, chúng lơ lửng trong không khí và thâm nhập vào cơ thể qua đường mũi và miệng, gây nên các bệnh nghiêm trọng." Các nhà khoa học Ba Tư từng đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của vi sinh vật, chẳng hạn như Avicenna trong cuốn sách The Canon of Medicine; Ibn Zuhr (còn được gọi là Avenzoar) là người phát hiện ra bệnh ghẻ còn Al-Razi là người đưa ra mô tả sớm nhất về bệnh đậu mùa trong cuốn sách The Virtuity Life (al-Hawi). Năm 1546, Girolamo Fracastoro đề xuất rằng các bệnh dịch là do những thực thể dạng hạt gây ra, có thể lây nhiễm qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp, hay thậm chí không tiếp xúc trong khoảng cách xa. Năm 1676, Antonie van Leeuwenhoek (sống phần lớn cuộc đời ở Delft, Hà Lan) đã quan sát vi khuẩn và các vi sinh vật khác bằng kính hiển vi một thấu kính do chính ông thiết kế. Ông được xem là cha đẻ của vi sinh vật học khi ông sử dụng kính hiển vi một thấu kính đơn giản do chính ông thiết kế. Trong khi Van Leeuwenhoek thường được xem là người đầu tiên quan sát vi sinh vật, thì Robert Hooke tiến hành quan sát thể quả của nấm mốc bằng kính hiển vi đầu tiên của mình, được ghi chép vào năm 1665. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng một linh mục Dòng Tên có tên là Athanasius Kircher là người đầu tiên quan sát thấy vi sinh vật. Kircher là một trong những người đầu tiên thiết kế đèn lồng ảo thuật cho mục đích trình chiếu, vì vậy ông hẳn rất quen thuộc với các đặc tính của thấu kính. Ông ghi lại: "Liên quan đến cấu trúc tuyệt vời của sự vật trong tự nhiên, do Kính hiển vi nghiên cứu" vào năm 1646, cho rằng "liệu có ai tin rằng giấm và sữa chứa vô số giun." Ông còn lưu ý rằng đồ hỏng chứa vô số vi động vật trườn bò. Ông xuất bản tác phẩm Scrutinium Pestis (Quan sát dịch hạch) vào năm 1658, tuyên bố chắc nịch rằng căn bệnh này là do vi sinh vật gây ra, mặc dù những gì ông nhìn thấy rất có thể là các tế bào hồng cầu hoặc bạch cầu chứ không phải chính tác nhân gây bệnh dịch hạch. Sự ra đời của vi khuẩn học Chuyên ngành vi khuẩn học (về sau là một phân ngành của vi sinh vật học) được thành lập vào thế kỷ 19 bởi Ferdinand Cohn, một nhà thực vật học chuyên nghiên cứu về tảo và vi khuẩn quang hợp, giúp ông mô tả một số vi khuẩn gồm Bacillus và Beggiatoa. Cohn cũng là người đầu tiên xây dựng sơ đồ phân loại vi khuẩn và phát hiện ra nội bào tử. Louis Pasteur và Robert Koch (nhưng đồng nghiệp cùng thời với Cohn) lần lượt thường được xem là hai vị cha đẻ của vi sinh vật học và vi sinh y học hiện đại. Pasteur nổi tiếng nhất với loạt thí nghiệm được thiết kế để bác bỏ thuyết tự sinh được nhiều người áp dụng lúc bấy giờ, qua đó củng cố bản sắc của vi sinh vật học dưới dạng một ngành khoa học sinh học. Một trong những học trò của ông, Adrien Certes, được xem là người sáng lập ngành vi sinh vật biển. Pasteur còn thiết kế các phương pháp bảo quản thực phẩm (thanh trùng) và vắc-xin phòng một số bệnh như bệnh than, dịch tả gà và bệnh dại. Koch nổi danh nhất với những đóng góp của ông cho thuyết mầm bệnh, chứng minh rằng cụ thể các bệnh là do các vi sinh vật gây bệnh của từng bệnh gây ra. Ông phát triển một loạt tiêu chí được gọi là nguyên tắc Koch. Koch là một trong những nhà khoa học đầu tiên chú trọng phân lập vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy thuần túy, kết quả là ông đã mô tả một số vi khuẩn mới, gồm cả Mycobacterium tuberculosis, tác nhân gây bệnh lao. Trong khi Pasteur và Koch thường được coi là những vị sáng lập vi sinh vật học, công trình của họ lại không phản ánh chính xác tính đa dạng thật sự của thế giới vi sinh vật vì họ chỉ tập trung vào các vi sinh vật có liên quan trực tiếp đến y học. Mãi cho đến cuối thế kỷ 19 và nhờ có công trình của Martinus Beijerinck và Sergei Winogradsky, phạm vi thực sự của vi sinh học mới được tiết lộ. Beijerinck có hai đóng góp lớn cho ngành vi sinh vật học: phát hiện ra virus và phát triển các kỹ thuật nuôi cấy gia phú. Trong khi nghiên cứu của ông về virus khảm thuốc lá thiết lập nên những nguyên tắc cơ bản của virus học, thì chính sự phát triển nuôi cấy gia phú có tác động trực tiếp nhất đến vi sinh vật học bằng cách cho phép nuôi cấy nhiều loại vi khuẩn với các đặc điểm sinh lý cực kỳ đa dạng. Winogradsky là người đầu tiên phát triển khái niệm hóa vô cơ dưỡng và qua đó tiết lộ vai trò thiết yếu của vi sinh vật trong các quá trình địa hóa. Ông chịu trách nhiệm phân lập và mô tả đầu tiên cả vi khuẩn nitrat hóa và cố định đạm. Nhà vi sinh vật học người Canada-Pháp Felix d'Herelle vừa là người đồng phát hiện thể thực khuẩn vào năm 1917, vừa là một trong những nhà vi sinh vật học được ứng dụng sớm nhất. Joseph Lister là người đầu tiên sử dụng chất khử trùng phenol trên vết thương hở của bệnh nhân. Phân ngành Các phân ngành của vi sinh vật học có thể được phân loại thành khoa học ứng dụng, hoặc phân chia theo dạng phân loại, như trường hợp của vi khuẩn học, nấm học, nguyên sinh động vật học, virus học, tảo học và sinh thái vi sinh. Có sự chồng chéo đáng kể giữa phân ngành cụ thể của vi sinh vật học với nhau và với các phân ngành khác, những khía cạnh nhất định của các phân ngành này có thể vượt ra ngoài phạm vi truyền thống của vi sinh vật học. Một phân ngành vi sinh vật học nghiên cứu thuần túy được gọi là vi sinh tế bào. Ứng dụng Trong khi một số người sợ vi sinh vật do một số vi sinh vật liên quan đến nhiều bệnh ở người, thì nhiều vi sinh vật còn chịu trách nhiệm cho nhiều quá trình có lợi như lên men công nghiệp (ví dụ: sản xuất rượu, giấm và chế phẩm sữa), sản xuất kháng sinh và làm phương tiện phân tử để vận chuyển DNA đến các sinh vật phức tạp như thực vật và động vật. Các nhà khoa học cũng khai thác kiến thức của họ về vi sinh để tạo ra những enzym quan trọng về mặt công nghệ sinh học như Taq polymerase, gen chỉ thị để sử dụng trong những hệ thống di truyền khác và các kỹ thuật sinh học phân tử mới như hệ thống lai hai loại men.  Vi khuẩn có thể được sử dụng để sản xuất amino acid trong công nghiệp. Corynebacterium glutamicum là một trong những loài vi khuẩn quan trọng nhất với sản lượng hàng năm hơn hai triệu tấn amino acid, chủ yếu là L-glutamate và L-lysine. Vì một số vi khuẩn có thể tổng hợp kháng sinh nên chúng được sử dụng cho mục đích y học, chẳng hạn như Streptomyces để tạo ra kháng sinh aminoglycoside. Một loạt polyme sinh học chẳng hạn như polysaccharide, polyester và polyamide do vi sinh vật chế ra. Vi sinh vật được sử dụng để sản xuất polyme sinh học theo công nghệ sinh học với những đặc tính hạn chế phù hợp với ứng dụng y tế có giá trị cao như kỹ thuật mô và vận chuyển thuốc. Ví dụ, vi sinh vật được sử dụng để tổng hợp xanthan, alginate, cellulose, cyanophycin, poly (axit gamma-glutamic), levan, acid hyaluronic, acid hữu cơ, polysaccharide, oligosaccharide và polyhydroxyalkanoate. Vi sinh vật có lợi cho phân hủy sinh học hoặc xử lý sinh học đối với chất thải sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp và ô nhiễm dưới bề mặt trong đất, trầm tích và môi trường biển. Khả năng phân hủy chất thải độc hại của mỗi vi sinh vật phụ thuộc vào bản chất của từng loại ô nhiễm. Vì các nơi thường có nhiều loại chất gây ô nhiễm, nên cách tiếp cận hiệu quả nhất để phân hủy sinh học bằng vi sinh vật là sử dụng hỗn hợp các loài vi khuẩn và chủng nấm, mỗi loại dùng riêng để phân hủy sinh học một hoặc nhiều loại chất gây ô nhiễm. Quần xã vi sinh vật cộng sinh mang lại lợi ích cho sức khỏe của con người và động vật, gồm có hỗ trợ tiêu hóa, sản xuất các vitamin và amino acid có lợi, đồng thời ngăn chặn vi sinh gây bệnh. Một số lợi ích có thể đem lại bằng cách ăn thực phẩm lên men, men vi sinh (vi khuẩn có khả năng có lợi cho hệ tiêu hóa) hoặc tiền sinh (các chất được tiêu thụ để kích thích vi sinh vật phát triển). Cách mà hệ vi sinh vật ảnh hưởng đến sức khỏe con người và động vật, cũng như những phương pháp tác động đến hệ vi sinh vật là những lĩnh vực nghiên cứu thiết thực. Nghiên cứu đã đề xuất rằng vi sinh vật có thể hữu ích trong điều trị ung thư. Nhiều chủng clostridia không gây bệnh có thể xâm nhập và nhân lên trong các khối u rắn. Những vector clostridia có thể được sử dụng một cách an toàn và có thể cung cấp protein điều trị, đã được chứng minh trong nhiều mô hình tiền lâm sàng. Một vài vi khuẩn được sử dụng để nghiên cứu các cơ chế cơ bản. Một ví dụ về vi khuẩn mô hình được sử dụng để nghiên cứu tế bào di động hoặc quá trình sản xuất và phát triển polysaccharide là Myxococcus xanthus.
Kiểm tra Fermat là một thuật toán xác suất kiểm tra một số tự nhiên là hợp số hay là số nguyên tố. Khái niệm Định lý nhỏ Fermat phát biểu rằng nếu p là số nguyên tố và , thì . Nếu ta muốn kiểm tra số n có là nguyên tố không, ta lấy ngẫu nhiên các số a và kiểm tra xem đẳng thức trên có đúng không. Nếu nó không đúng với một giá trị a nào đó thì n là hợp số. Nếu đẳng thức đúng với nhiều giá trị của a, ta có thể nói rằng n là số nguyên tố với xác suất nào đó, hay là một số giả nguyên tố (pseudoprime). Có thể phép thử sẽ cho ta một kết quả sai. Số a mà trong khi n là hợp số được gọi là một giả Fermat. Còn nếu có số a mà thì a được xem như một bằng chứng Fermat chứng tỏ n là hợp số. Thuật toán và thời gian thi hành Thuật toán có thể viết như sau:Inputs: n: giá trị để kiểm tra tính nguyên tố; k: tham số tham gia vào quá trình kiểm traOutput''': hợp số nếu n là hợp số, nếu không nguyên tố xác suất repeat k times: lấy a ngẫu nhiên trong [1, n − 1] if an − 1 mod n ≠ 1 then return composite return probably prime Khi dùng thuật toán tính nhanh luỹ thừa theo mođun, thời gian thi hành của thuật toán là O(k × log3n), ở đó k là số lần kiểm tra với mỗi số a ngãu nhiên, và n là giá trị ta muốn kiểm tra. Khả năng vận dụng Có khá nhiều giá trị của n là các số Carmichael mà với tất cả các giá trị của a sao cho ƯCLN(a,n)=1 là giả Fermat. Mặc dù các số Carmichael là rất hiếm, nhưng phép thử Fermat rất ít được dùng so với các phương pháp khác như kiểm tra Miller-Rabin hay kiểm tra Solovay-Strassen. Nói chung, nếu n không là số Carmichael thì ít nhất một nửa các số là bằng chứng Fermat. Để chứng minh điều này, giả sử a là một bằng chứng Fermat và a1, a2,..., as là giả Fermat. Khi đó và do đó tất cả a × ai for i = 1, 2,..., s'' là bằng chứng Fermat.
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh (Tiếng Anh: Business cycle), là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng). Biến động chu kỳ kinh tế thường được đặc trưng bởi những biến động và suy thoái chung trong một loạt các biến số kinh tế vĩ mô. Các giai đoạn mở rộng / suy thoái riêng lẻ xảy ra với thời lượng và cường độ thay đổi theo thời gian. Thông thường, chu kỳ của chúng có phạm vi rộng từ khoảng 2 đến 10 năm (cụm từ kỹ thuật "chu kỳ ngẫu nhiên" thường được sử dụng trong thống kê để mô tả loại quá trình này.) Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chuyển động của chu kỳ kinh tế như sự thay đổi nhanh chóng và đáng kể của giá dầu hoặc sự thay đổi trong tâm lý người tiêu dùng ảnh hưởng đến chi tiêu tổng thể trong nền kinh tế vĩ mô và do đó đầu tư và lợi nhuận của các công ty. Thông thường những nguồn như vậy không thể dự đoán trước và có thể được xem như những "cú sốc" ngẫu nhiên theo mô hình chu kỳ, như đã xảy ra trong các cuộc khủng hoảng tài chính 2007–2008 hoặc đại dịch COVID-19 . Trong những thập kỷ qua, các nhà kinh tế và thống kê đã học được rất nhiều điều về sự biến động của chu kỳ kinh tế bằng cách nghiên cứu chủ đề này từ nhiều khía cạnh khác nhau. Lịch sử Học thuyết: Công trình đầu tiên có hệ thống về các cuộc khủng hoảng kinh tế , đối lập với lý thuyết hiện có về cân bằng kinh tế , là thuyết Nouveaux Principes d'économie politique năm 1819 của Jean Charles Léonard de Sismondi . Trước thời điểm đó, kinh tế học cổ điển đã phủ nhận sự tồn tại của các chu kỳ kinh tế, đổ lỗi cho chúng do các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là chiến tranh, hoặc chỉ nghiên cứu về dài hạn. Sismondi đã được minh oan trong Cuộc khủng hoảng năm 1825 , đây là cuộc khủng hoảng kinh tế quốc tế không thể chối cãi đầu tiên, xảy ra trong thời bình. Phân loại (theo thời kỳ): Năm 1860, nhà kinh tế học người Pháp Clément Juglar lần đầu tiên xác định các chu kỳ kinh tế dài từ 7 đến 11 năm, mặc dù ông thận trọng không tuyên bố bất kỳ sự đều đặn cứng nhắc nào.  Khoảng tuần hoàn này cũng phổ biến, như một phát hiện thực nghiệm, trong các mô hình chuỗi thời gian cho các chu kỳ ngẫu nhiên trong dữ liệu kinh tế. Về sau , nhà kinh tế học Joseph Schumpeter đã lập luận rằng một chu kỳ Juglar có bốn giai đoạn: Mở rộng (tăng sản lượng và giá cả, lãi suất thấp) Khủng hoảng (sàn giao dịch chứng khoán sụp đổ và nhiều công ty phá sản xảy ra) Suy thoái (giảm giá và sản lượng, lãi suất cao) Phục hồi (cổ phiếu phục hồi do giá cả và thu nhập giảm) Mô hình Juglar của Schumpeter liên kết sự phục hồi và thịnh vượng với sự gia tăng năng suất, niềm tin của người tiêu dùng , tổng cầu và giá cả. Vào thế kỷ 20, Schumpeter và những người khác đã đề xuất một kiểu định dạng các chu kỳ kinh tế theo tính tuần hoàn của chúng, để một số chu kỳ cụ thể được đặt theo tên của những người phát hiện hoặc đề xuất chúng: Chu kỳ kiểm kê Kitchin từ 3 đến 5 năm (sau Joseph Kitchin) Chu kỳ đầu tư cố định của Juglar từ 7 đến 11 năm (thường được xác định là "chu kỳ kinh tế"). Cần có nhiều khoảng thời gian thay vì một khoảng thời gian cố định để nắm bắt các biến động của chu kỳ kinh tế, có thể được thực hiện bằng cách sử dụng nguồn ngẫu nhiên hoặc không thường xuyên như trong khung kinh tế lượng hoặc thống kê Chu kỳ đầu tư cơ sở hạ tầng của Kuznets từ 15 đến 25 năm (theo tên của Simon Kuznets - còn được gọi là "chu kỳ xây dựng") Làn sóng Kondratiev hay chu kỳ công nghệ dài từ 45 đến 60 năm (theo tên nhà kinh tế học Liên Xô Nikolai Kondratiev ) Những lần chu kỳ kinh tế diễn ra trong lịch sử: Trong suốt giai đoạn từ 1870 đến 1890, đã có những sự gia tăng lớn về năng suất , sản xuất công nghiệp và sản phẩm bình quân đầu người thực tế, bao gồm cả cuộc Suy thoái kéo dài và hai cuộc suy thoái khác. Cũng có sự gia tăng đáng kể về năng suất trong những năm dẫn đến cuộc Đại suy thoái. Cả hai cuộc Suy thoái kéo dài và Đại khủng hoảng (Long and Great Depressions) đều được đặc trưng bởi tình trạng dư thừa công suất và sự bão hòa của thị trường. Trong suốt thời kỳ kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp, tiến bộ công nghệ đã có tác động lớn hơn nhiều đến nền kinh tế so với bất kỳ biến động nào về tín dụng hoặc nợ, ngoại lệ chính là cuộc Đại suy thoái, gây ra sự suy giảm kinh tế nhiều năm. Hệ quả của tiến bộ công nghệ có thể được nhìn thấy bằng sức mua của một giờ làm việc trung bình, đã tăng từ 3 đô la năm 1900 lên 22 đô la năm 1990, tính bằng đô la 2010. Đã có những cuộc khủng hoảng thường xuyên xảy ra ở châu Âu và châu Mỹ trong thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, cụ thể là giai đoạn 1815–1939. Thời kỳ này bắt đầu từ khi kết thúc cuộc chiến tranh Napoléon năm 1815, ngay sau đó là cuộc suy thoái Hậu Napoléon ở Vương quốc Anh (1815–1830), và đỉnh điểm là cuộc Đại suy thoái 1929–1939, dẫn đến Thế chiến thứ hai. Trong Thời kỳ Vàng của Chủ nghĩa Tư bản (những năm 1945 / 50–1970), và giai đoạn 1945–2008 không trải qua một cuộc suy thoái toàn cầu cho đến cuộc suy thoái Cuối những năm 2000. Chính sách ổn định kinh tế sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ dường như đã làm giảm bớt sự dư thừa tồi tệ nhất của chu kỳ kinh tế, và sự ổn định tự động do các khía cạnh ngân sách của chính phủ cũng giúp giảm thiểu chu kỳ ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách không có hành động tỉnh táo. Nhiều khu vực khác nhau đã trải qua những đợt suy thoái kéo dài , nghiêm trọng nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước Khối Đông Âu cũ sau khi Liên Xô kết thúc vào năm 1991. Đối với một số nước trong số này, giai đoạn 1989–2010 là giai đoạn suy thoái liên tục, với thu nhập thực tế vẫn thấp hơn trong 1989.  Điều này không được cho là do mô hình chu kỳ, mà là do sự chuyển đổi được quản lý sai từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường Các pha của chu kỳ kinh tế Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái. Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế. Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế. Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế đã sang pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là: Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút. Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái. Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái. Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại. Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Ở Việt Nam, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa nền kinh tế trở nên tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… hiếm khi xảy ra do những biện pháp can thiệp của chính phủ để giảm nhẹ hậu quả. Vì thế, một số lý thuyết mới chỉ nói về 3 pha là suy thoái-phục hồi-hưng thịnh. Toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh tế Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh tế của nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau. Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo, khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính sách đó sang thắt chặt. Hình 1 minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: tổng cầu dịch chuyển từ AD sang AD' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' và giá cả giảm từ P đến P' (lạm phát giảm). Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự can thiệp của chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng điều chỉnh sau các cú sốc cung, chính phủ không nên can thiệp gì cả. Hình 2 minh họa một trường hợp suy thoái do tổng cung giảm: vì lý do nào đó (ví dụ giá đầu vào tăng đột biến) tổng cung giảm từ AS xuống AS' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' nhưng giá cả lại tăng từ P lên P' (lạm phát tăng). Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là: Ngoại sinh và Nội sinh: Trong trường hợp đầu tiên, các cú sốc là ngẫu nhiên, trong trường hợp thứ hai, các cú sốc là hỗn loạn một cách xác định và gắn liền với hệ thống kinh tế. Lý thuyết tiền tệ: cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính sách tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman. Lý thuyết này tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Hoa Kỳ 1981-1982 khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát. Mô hình gia tốc - số nhân: do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng các biến động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu tư tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP. Lý thuyết chính trị: đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus, Michał Kalecki,... Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử. Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: với những đại diện như Robert Lucas, Jr., Robert Barro, Thomas Sargent...phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức cân bằng của thị trường lao động. Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: lập luận rằng những biến động tích cực hay tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và gây ra những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel năm 2004 Edward Prescott, Charles Prosser,... Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi. Ngày nay, quan sát các chu kỳ kinh tế ở các nền kinh tế công nghiệp phát triển, người ta phát hiện ra hiện tượng pha suy thoái càng ngày càng ngắn về thời gian và nhẹ về mức độ thu hẹp của GDP thực tế. Một trong những nguyên nhân quan trọng là chính phủ các nước này đã hiểu biết và vận dụng tốt hơn những hiểu biết về kinh tế vĩ mô. Bằng cách kết hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, nhà nước có thể ngăn chặn một cuộc suy thoái biến thành khủng hoảng. Chu kỳ kinh doanh khốc liệt tàn phá chủ nghĩa tư bản trong những thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản đã được giảm nhẹ hậu quả, dù không hoàn toàn triệt tiêu Giảm thiểu suy thoái kinh tế Nhiều chỉ số xã hội, chẳng hạn như sức khỏe tâm thần, tội phạm và tự tử, trở nên tồi tệ hơn trong thời kỳ suy thoái kinh tế (mặc dù tỷ lệ tử vong nói chung có xu hướng giảm, và nó đang mở rộng khi nó có xu hướng tăng lên). Do thời kỳ kinh tế đình trệ gây đau đớn cho nhiều người mất việc làm, nên các chính phủ thường có áp lực chính trị để giảm thiểu suy thoái. Kể từ những năm 1940, sau cuộc cách mạng Keynes , hầu hết các chính phủ của các quốc gia phát triển đã coi việc giảm thiểu chu kỳ kinh doanh là một phần trách nhiệm của chính phủ, theo tiêu chuẩn của chính sách ổn định. Vì theo quan điểm của Keynes, suy thoái là do tổng cầu không đủ, khi suy thoái xảy ra, chính phủ nên tăng lượng tổng cầu và đưa nền kinh tế trở lại trạng thái cân bằng. Điều này chính phủ có thể làm theo hai cách, thứ nhất bằng cách tăng cung tiền ( chính sách tiền tệ mở rộng ) và thứ hai bằng cách tăng chi tiêu của chính phủ hoặc cắt giảm thuế (chính sách tài khóa mở rộng). Ngược lại, một số nhà kinh tế, đặc biệt là nhà kinh tế Tân cổ điển Robert Lucas , cho rằng chi phí phúc lợi của các chu kỳ kinh doanh là rất nhỏ đến mức không đáng kể, và rằng các chính phủ nên tập trung vào tăng trưởng dài hạn thay vì ổn định. Tuy nhiên, ngay cả theo lý thuyết của Keynes , quản lý chính sách kinh tế để làm suôn sẻ chu kỳ là một nhiệm vụ khó khăn trong một xã hội có nền kinh tế phức tạp. Một số nhà lý thuyết, đặc biệt là những người tin vào kinh tế học Mác xít , tin rằng khó khăn này là không thể vượt qua. Karl Marx tuyên bố rằng các cuộc khủng hoảng chu kỳ kinh doanh tái diễn là kết quả tất yếu của các hoạt động của hệ thống tư bản . Theo quan điểm này, tất cả những gì chính phủ có thể làm là thay đổi thời gian của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Cuộc khủng hoảng cũng có thể biểu hiện dưới một hình thức khác , ví dụ như lạm phát nghiêm trọng hoặc gia tăng đều đặnthâm hụt của chính phủ . Tệ hơn nữa, bằng cách trì hoãn một cuộc khủng hoảng, chính sách của chính phủ được coi là làm cho nó trở nên kịch tính hơn và do đó trở nên đau đớn hơn. Ngoài ra, kể từ những năm 1960, các nhà kinh tế học tân cổ điển đã hạ thấp khả năng quản lý nền kinh tế của các chính sách Keynes. Kể từ những năm 1960, các nhà kinh tế học như Milton Friedman và Edmund Phelps từng đoạt giải Nobel đã đưa ra lập luận của họ rằng kỳ vọng lạm phát phủ định đường cong Phillips về lâu dài. Lạm phát đình trệ những năm 1970 đã hỗ trợ đáng kể cho các lý thuyết của họ trong khi chứng tỏ tình thế khó xử đối với các chính sách của Keynes, vốn dường như đòi hỏi cả các chính sách mở rộng để giảm thiểu suy thoái và các chính sách điều chỉnh để giảm lạm phát. Friedman đã đi xa đến mức lập luận rằng tất cả các ngân hàng trung ương của một quốc gia nên làm là tránh mắc phải những sai lầm lớn, như ông tin rằng họ đã làm bằng cách cắt giảm cung tiền rất nhanh khi đối mặt với cuộc khủng hoảng Phố Wall năm 1929 , trong đó họ đã biến điều mà lẽ ra là suy thoái thành cuộc Đại suy thoái . Dự báo chu kỳ kinh tế Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo những thay đổi trong nền kinh tế. Những mô hình đơn giản nhất dựa trên số liệu dễ thu thập như sản lượng một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép,...), khối lượng hàng hóa vận chuyển... rồi công thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số có tính chất dự báo. Dần dần, với sự phát triển của công nghệ thông tin, người ta đã xây dựng những mô hình kinh tế lượng phức tạp với hàng chục nghìn biến số cùng những hệ phương trình phức tạp để dự báo. Đi tiên phong trong sự phát triển công cụ dự báo là những nhà kinh tế học Jan Tinbergen (giải Nobel năm 1969), Lawrence Klein (giải Nobel năm 1980). Nhờ đó, dự báo biến động kinh tế vĩ mô đã có độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao khi có những thay đổi về những chính sách lớn. Các loại chu kỳ kinh tế khác Ngoài chu kỳ kinh tế như vừa trình bày, kinh tế học còn nói đến chu kỳ Juglar, chu kỳ Kuznets, chu kỳ Kondratiev và chu kỳ Kitchen. Tuy nhiên, ngày nay người ta hầu như không dùng các chu kỳ này để mô tả xu thế biến động kinh tế nữa do chúng không còn phù hợp với điều kiện hiện đại. Kinh tế chính trị Marx-Lenin cho rằng một chu kỳ kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa gồm bốn pha là: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
Kiểm tra Miller-Rabin là một thuật toán xác suất để kiểm tra tính nguyên tố cũng như các thuật toán kiểm tra tính nguyên tố: Kiểm tra Fermat và Kiểm tra Solovay-Strassen. Nó được đề xuất đầu tiên bởi Gary L. Miller như một thuật toán tất định, dựa trên giả thiết Riemann tổng quát; Michael O. Rabin đã sửa chữa nó thành một thuật toán xác suất. Khi sử dụng kiểm tra Miller-Rabin chúng ta căn cứ vào một mệnh đề Q(p, a) đúng với các số nguyên tố p và mọi số tự nhiên và kiểm tra xem chúng có đúng với số n muốn kiểm tra và một số được chọn ngẫu nhiên hay không. Nếu mệnh đề Q(n, a) không đúng, tất yếu n không phải là số nguyên tố, còn nếu Q(n, a) đúng, số n có thể là số nguyên tố với một xác suất nào đó. Khi tăng số lần thử, xác suất để n là số nguyên tố tăng lên. Tiêu chuẩn kiểm tra Q(n, a) Căn bậc hai của 1 trong Trước hết là một bổ đề về căn bậc hai của đơn vị trong trường hữu hạn , trong đó p là số nguyên tố. Chắc chắn rằng 1 và -1 luôn là các căn bậc hai của 1 theo module p. Chúng là hai căn bậc hai duy nhất của 1. Thật vậy, giả sử rằng x là một căn bậc hai của 1 theo module p. Khi đó: Từ đó, hoặc là chia hết cho p. Tiêu chuẩn Miller-Rabin Bây giờ giả sử p là một số nguyên tố lẻ, khi đó p - 1 là số chẵn và ta có thể viết p − 1 dưới dạng , trong đó s là một số tự nhiên >=1 và m là số lẻ - Điều này nghĩa là ta rút hết các thừa số 2 khỏi p − 1. Lấy số a bất kỳ trong tập . Xét dãy số với k=0,1,2,...,s. Khi đó , với k=1,2,...,s và Từ định lý Fermat nhỏ: hay hay . Do đó,hoặc hoặc . Nếu ta dừng lại, còn nếu ngược lại ta tiếp tục với . Sau một số hữu hạn bước hoặc ta có một chỉ số k, sao cho , hoặc tới k = 0 ta vẫn có . Ta có mệnh đề Q(p, a) như sau: Nếu p là số nguyên tố lẻ và thì : hoặc hoặc tồn tại k: sao cho . Số giả nguyên tố Theo định lý Fermat nhỏ, với số nguyên tố p ta có : Định nghĩa. Hợp số n thoả mãn với a nào đó được gọi là số giả nguyên tố Fermat cơ sở a. Số Carmichael: Hợp số n là số giả nguyên tố Fermat với mọi cơ sở , ƯCLN(a, n)=1 được gọi là số Carmichael. Định nghĩa: Hợp số n được gọi là số giả nguyên tố mạnh Fermat cơ sở a nếu nó thoả mãn mệnh đề Q(n, a). Giải thuật kiểm tra Miller-Rabin Xác suất trả lời sai Định lý: nếu n là hợp số dương lẻ thì trong các số tồn tại không quá cơ sở a để n là số giả nguyên tố mạnh Fermat. Gọi A là biến cố "Số n là hợp số", B là biến cố "Kiểm tra Miller-Rabin trả lời n là số nguyên tố". Khi đó xác suất sai của kiểm tra này là xác suất để số n là hợp số trong khi thuật toán cho câu trả lời TRUE, nghĩa là xác suất điều kiện P(A|B). Theo định lý trên nếu n là hợp số thì khả năng kiểm tra này trả lời TRUE xảy ra với xác suất không vượt quá , nghĩa là . Tuy nhiên để tính xác suất sai của kiểm tra Miller-Rabin cần tính xác suất diều kiện P(A|B). Dựa trên định lý về ước lượng số các số nguyên tố ta đưa ra ước lượng Theo định lý Bayes trong lý thuyết xác suất ta có công thức để tính xác suất sai của kiểm tra Miller-Rabin là: Trong công thức này P(A) đã biết ở trên, , còn vì khi n là số nguyên tố thì chắc chắn mệnh đề Q(n, a) là đúng và . Từ đó Kiểm tra Miller-Rabin lặp Theo công thức tính xác suất sai trên đây, với n lớn (cỡ 130 chữ số thập phân), nếu thực hiện phép thử Miller-Rabin chỉ một lần, xác suất sai là khá lớn, tới trên 90%. Để giảm xác suất sai, ta lặp lại phép thử k lần với k số ngẫu nhiên a khác nhau, nếu n vượt qua 50 lần thử thì , khi thay vào công thức với 50 lần thử nếu cả 50 lần, phép thử đều "dương tính" thì xác suất sai giảm xuống chỉ còn là một số rất nhỏ không vượt quá . Chú thích
Trong thủy văn học, tổng lượng dòng chảy của một con sông trong một thời đoạn là tổng thể tích nước chuyển qua mặt cắt sông trong thời đoạn đó. Công thức Giả sử có quá trình lưu lượng của sông là Q(t). Khi đó tổng lượng dòng chảy trong khoảng thời gian [t1, t2] là: Tổng lượng dòng chảy có thứ nguyên là [L3], đơn vị thường dùng là m3.
Độ thô thủy lực của hạt bùn cát là tốc độ rơi ổn định của hạt bùn cát đó trong nước tĩnh. Khi bắt đầu rơi trong nước, dưới tác dụng của trọng lực hạt bùn cát rơi nhanh dần, đồng thời lực ma sát của thể nước tác dụng lên hạt cũng tăng đần. Kết quả là gia tốc rơi của hạt giảm đi và dần đến trạng thái sa lắng với vận tốc ổn định, đó là độ thô thủy lực. Độ thô thủy lực là một đặc tính cơ-lý của bùn cát, nó phụ thuộc vào khối lượng riêng của bùn cát, hình dạng, đường kính hạt bùn cát. Ký hiệu: ws Thứ nguyên: [L2 T -1], cùng thứ nguyên với vận tốc Đơn vị thường dùng là cm/s, mm/s.
Áp lực (ký hiệu: vector N hoặc F) là lực ép vuông góc lên một mặt hoặc một diện tích tiếp xúc của đối tượng chịu lực. Định nghĩa Áp lực là lực ép tác động trên diện tích bề mặt của một vật theo phương vuông góc với bề mặt tiếp xúc. Lực ép vuông góc với diện tích bề mặt chịu lực. Theo nghĩa chung, cũng như khái niệm lực tổng quát, áp lực là đại lượng vector. Tuy nhiên vì đã xác định được phương (vuông góc với bề mặt chịu lực) và chiều (hướng vào mặt chịu lực) nên khi nói về áp lực, người ta có thể chỉ nói về độ lớn (cường độ). Đơn vị đo lường của áp lực là: Newton(N) Công thức tính áp lực Về mặt toán học: Trong đó: Fa Áp lực Lực (Newton; kí hiệu N) Diện tích bề mặt Đối với chất khí ta có thể sử dụng công thức sau: Trong đó: là áp suất, là lực ép lên diện tích chịu lực, là diện tích chịu lực. chuyển đổi 1kg = 10 N
Người Dơi (tiếng Anh: Batman) là một nhân vật hư cấu, một siêu anh hùng truyện tranh được tạo ra bởi họa sĩ Bob Kane và nhà văn Bill Finger. Batman xuất hiện lần đầu tiên trong Detective Comics #27 (tháng 5 năm 1939), và kể từ đó đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm xuất bản của DC Comics. Nguyên gốc được đặt tên là "The Bat-Man", anh còn được biết đến với các tên gọi như "The Caped Crusader", "The Dark Knight" (Kị sĩ bóng đêm), và "The World's Greatest Detective" (Thám tử vĩ đại nhất thế giới) Danh tính bí mật của Người dơi là Bruce Wayne, một tỷ phú người Mỹ, một tay chơi, một nhà công nghiệp, một nhà từ thiện và là chủ sở hữu của Wayne Enterprises. Chứng kiến cái chết của cha mẹ khi còn là một đứa trẻ, anh thề sẽ trả thù tội phạm và theo đuổi lý tưởng về công lý. Wayne đào tạo bản thân cả về thể chất và trí tuệ và mang trang phục chủ đề dơi để chống tội phạm và đã đạt đến giới hạn về thể lực cũng như sức chịu đựng của một con người. Batman hoạt động trong thành phố Gotham (một thành phố giả tưởng dựa trên thành phố New York, Mỹ), trợ giúp bởi các nhân vật khác nhau bao gồm cả cộng sự của anh - Robin, quản gia Alfred Pennyworth, Ủy viên cảnh sát James Gordon, và đôi khi là nữ anh hùng Batgirl. Kẻ thù truyền thống của Batman là Joker, ngoài ra anh còn phải chiến đấu với một tập hợp những nhân vật phản diện khác như Harley Quinn, Penguin, Two-Face, Poison Ivy hay Deathstroke. Không giống như hầu hết các siêu anh hùng, anh không hề có bất kỳ siêu năng lực nào mà thay vào đó sử dụng trí tuệ thiên tài, khả năng trinh thám, khoa học và công nghệ, sự giàu có, sức mạnh thể chất, kỹ năng võ thuật, một tinh thần bất khuất, sự đe dọa và anh cũng đã đạt đến giới hạn về thể lực của một con người trong cuộc chiến chống tội phạm. Trong một số trận chiến, Batman đã đánh bại cả những nhân vật có siêu năng lực hùng mạnh như Siêu nhân, Wonder Woman, Aquaman, Darkseid... đó là nhờ vào khả năng phân tích thông tin tuyệt vời, luôn nghiên cứu sẵn điểm yếu của các đối thủ (và kể cả đồng minh) để chuẩn bị kế hoạch đối phó. Batman đã trở thành một nhân vật rất phổ biến ngay sau lần giới thiệu của mình và đã có được tựa đề truyện tranh cho riêng mình, Batman, trong năm 1940. Qua nhiều thập kỷ, đã có các phong cách tạo dựng khác nhau về nhân vật. Loạt phim truyền hình Batman cuối những năm 1960 sử dụng phong cách camp đã khiến cho nó gắn bó với nhân vật nhiều năm sau ngay cả khi loạt phim kết thúc. Nhiều tác giả khác nhau đã cố gắng để đưa nhân vật trở về phong cách tăm tối ban đầu mà đỉnh cao là năm 1986 với Batman: The Dark Knight Returns của Frank Miller, cũng như Batman: The Killing Joke của Alan Moore và Arkham Asylum: A Serious House on Serious Earth. Sự thành công của phim Batman của Tim Burton năm 1989 và bản reboot Batman Begins của Christopher Nolan năm 2005 cũng đã giúp phổ biến lại nhân vật. Là một biểu tượng văn hóa, Batman đã được cấp phép và chuyển thể trong các phương tiện truyền thông, từ đài phát thanh tới truyền hình và phim ảnh, cũng như xuất hiện trên một loạt các loại hàng hóa bán ra trên toàn thế giới như đồ chơi và trò chơi điện tử. Nhân vật này cũng đã lôi cuốn các bác sĩ tâm lý với nhiều cố gắng để tìm hiểu tâm lý của nhân vật và cái tôi đích thực của anh trong xã hội. Trong tháng 5 năm 2011, Batman đứng thứ 2 trong "Top 100 Anh hùng truyện tranh của mọi thời đại" bởi IGN, tạp chí Empire cũng được liệt kê Batman đứng thứ 2 trong "Top 50 nhân vật truyện tranh của mọi thời đại", đều sau Siêu nhân. Vào năm 2015, FanSided xếp Batman đứng thứ nhất trong danh sách "Top 50 siêu anh hùng vĩ đại nhất lịch sử truyện tranh" Lịch sử xuất bản Sáng tạo Đầu năm 1939, sự thành công của Siêu nhân trong Action Comics khiến các biên tập viên ở bộ phận truyện tranh của National Publications (sau này là DC Comics) yêu cầu nhiều siêu anh hùng hơn cho các truyện của họ. Đáp lại, Bob Kane tạo ra "the Bat-Man." Cộng tác viên Bill Finger nhớ lại: "Kane có một ý tưởng về một nhân vật gọi là 'Batman', và ông ấy muốn tôi xem bản vẽ. Tôi tới chỗ Kane, ông ấy đã vẽ một nhân vật trông rất giống Siêu nhân, đại loại như... mặc quần tất màu đỏ, tôi tin là vậy, với giày... không có găng tay... đeo một mặt nạ domino nhỏ và đu trên một sợi dây thừng. Anh ta có đôi cánh cứng dang ra, trông như cánh dơi. Và bên dưới là một dấu hiệu lớn... BATMAN." Finger đã đề xuất cho nhân vật đội áo mũ trùm đầu thay vì một mặt nạ domino đơn giản, áo choàng thay vì cánh, thêm găng tay và loại bỏ phần màu đỏ từ trang phục ban đầu. Finger nói ông nghĩ ra tên Bruce Wayne cho danh tính bí mật của nhân vật: "Cái tên đầu Bruce Wayne đến từ Robert Bruce, một người Scotland yêu nước. Bruce, một tay chơi, là một người của tầng lớp quý tộc. Tôi tìm kiếm một cái họ mà sẽ gợi đến chủ nghĩa thực dân. Tôi đã thử dùng Adams, Hancock... rồi tôi nghĩ đến Mad Anthony Wayne." Ông sau đó đã cho biết đề xuất của ông ảnh hưởng bởi The Phantom của Lee Falk, một nhân vật truyện tranh trên báo mà Kane cũng rất quen thuộc. Ngoại hình, tính cách, phương pháp, và thiết bị của Batman được lấy cảm hứng từ nền văn hóa đương đại của những năm 1930, bao gồm phim ảnh, tạp chí, truyện tranh, tít báo, và thậm chí cả các chi tiết trong cuộc đời của chính Kane. Kane cũng thừa nhận rằng những bộ phim The Mark of Zorro (1920) và The Bat Whispers (1930) đã ảnh hưởng tới ông trong việc tạo ra các hình tượng gắn liền với nhân vật, trong khi Finger lấy cảm hứng từ các nhân vật văn học như Doc Savage, The Shadow và Sherlock Holmes để tạo ra một nhân vật thám tử bậc thầy và một nhà khoa học. Kane trong cuốn tự truyện năm 1989 của mình đã nói rõ thêm về đóng góp của Finger trong việc sáng tạo ra Batman: Kane đã ký quyền sở hữu của nhân vật để trao đổi, trong số tiền bồi thường khác, một đường vắng bắt buộc trên tất cả các truyện tranh Batman. Đường vắng này ban đầu không nói "Batman tạo ra bởi Bob Kane"; tên của ông chỉ đơn giản là viết trên trang tiêu đề của mỗi câu chuyện. Cái tên này biến mất từ truyện tranh vào giữa những năm 1960, thay thế bằng credits cho nhà văn và nghệ sĩ của mỗi câu chuyện. Trong cuối những năm 1970, khi Jerry Siegel và Joe Shuster bắt đầu nhận được credits "tạo ra" trên các tựa truyện Superman, cùng với William Moulton Marston được đưa đường vắn ra cho việc tạo ra Wonder Woman, các câu chuyện của Batman bắt đầu mang câu "Được tạo bởi Bob Kane" bên cạnh phần credits. Finger tuy nhiên lại không nhận được sự công nhận tương tự. Trong khi ông đã nhận được credits cho công việc của DC từ những năm 1940, thì bắt đầu vào những năm 1960 ông chỉ nhận được sự thừa nhận giới hạn cho các văn bản Batman của mình, như trong trang thư của Batman #169 (tháng 2 năm 1965), biên tập viên Julius Schwartz đề tên ông là tác giả của Riddler, một trong những nhân vật phản diện thường xuyên của Batman. Tuy nhiên, hợp đồng của Finger chỉ cho ông tỷ lệ trang viết của mình và không có đường vắng. Kane đã viết, "Bill đã thất vọng bởi sự thiếu thành tựu lớn trong sự nghiệp của mình. Ông cảm thấy rằng mình đã không được sử dụng tiềm năng sáng tạo của mình một cách đầy đủ và thành công đã vược qua ông." Vào thời điểm Finger chết năm 1974, DC đã không chính thức công nhân Finger là nhà đồng sáng lập Batman. Jerry Robinson, người cũng đã làm việc với Finger và Kane vào thời gian này, đã chỉ trích Kane vì không chia sẻ credits. Ông nhớ lại việc Finger nhường lại vị trí của mình trong một cuộc phỏng vấn năm 2005 với The Comics Journal: . Mặc dù ban đầu Kane bác bỏ tuyên bố về việc Finger trong việc tạo ra nhân vật trong một bức thư ngỏ năm 1965 đến người hâm mộ rằng "it seemed to me that Bill Finger has given out the impression that he and not myself created the ''Batman, t' [sic] as well as Robin and all the other leading villains and characters. This statement is fraudulent and entirely untrue". Chính Kane cũng nhận xét ​​về sự thiếu thốn của Finger trong credits như sau: "The trouble with being a 'ghost' writer or artist is that you must remain rather anonymously without 'credit'. However, if one wants the 'credit', then one has to cease being a 'ghost' or follower and become a leader or innovator." Năm 1989, Kane xem xét lại tình hình của Finger, nhắc lại trong một cuộc phỏng vấn, Những năm đầu Câu chuyện đầu tiên về Batman, "The Case of the Chemical Syndicate", được xuất bản trong Detective Comics #27 (tháng 5 năm 1939). Finger nói, "Batman ban đầu được viết theo phong cách của bột giấy," " và điều này được thể hiện rõ ràng khi Batman ít cảm thấy hối hận khi giết hoặc làm bị thương tội phạm. Batman đã chứng minh một nhân vật hit, và anh đã nhận được tựa truyện solo của riêng mình vào năm 1940, trong khi vẫn tiếp tục là ngôi sao trong Detective Comics. Trong khoảng thời gian này, National là nhà xuất bản bán chạy nhất và có ảnh hưởng nhất trong ngành công nghiệp; Batman và anh hùng chính của công ty, Superman, là nền tảng của sự thành công của công ty . Hai nhân vật này được cho thấy là side-by-side khi là ngôi sao của World's Finest Comics, cốn ban đầu có tên World's Best Comics khi nó ra mắt vào mùa thu năm 1940. Người sáng tạo bao gồm Jerry Robinson và Dick Sprang cũng đã làm việc trên dải truyện vào thời gian này. Trong suốt các dải truyện đầu tiên thì Batman đã được thêm vào một số yếu tố và miêu tả phát triển nghệ thuật. Kane lưu ý rằng trong vòng sáu số đầu tiên thì ông đã vẽ jawline của nhân vật rõ nét hơn, và kéo dài tai trên trang phục. "About a year later he was almost the full figure, my mature Batman," Kane nói . Thắt lưng tiện ích đặc trưng của Batman được giới thiệu trong Detective Comics #29 (tháng 7 năm 1939), nối tiếp bởi batarang giống boomerang và xe dựa trên chủ đề dơi, Batplane, trong #31 (tháng 9 năm 1939). Nguồn gốc của nhân vật được tiết lộ trong #33 (tháng 11 năm 1939), diễn ra trong một câu chuyện dài 2 trang thiết lập tính cách của Batman, một nhân vật được điều khiển bởi cái chết của cha mẹ. Viết bởi Finger, nó mô tả một cậu bé Bruce Wayne chứng kiến cái chết của cha mẹ trong bàn tay của một kẻ buôn lậu. Vài ngày sau đó, tại ngôi mộ của họ, cậu bé đã thề rằng "bởi linh hồn của cha mẹ [tôi sẽ] trả thù cho cái chết của họ bằng cách dành phần còn lại của cuộc đời mình chiến đấu chống lại tất cả các tội phạm." Tính cách ban đầu của Batman bắt đầu được mềm đi trong Detective Comics #38 (tháng 4 năm 1940) với sự giới thiệu của Robin, cậu bé trợ tá của Batman . Robin được giới thiệu dựa trên đề nghị của Finger là Batman cần một "Watson", người mà Batman có thể trò chuyện . Giá bán hàng tăng gần gấp đôi, bất chấp sở thích của Kane về một Batman solo và nó gây ra một sự gia tăng của "cậu bé trợ tá" . Tập đầu tiên của loạt truyện spin-off về Batman solo rất đáng chú ý vì không chỉ giới thiệu hai đối thủ dai dẳng nhất của Batman, Joker và Catwoman mà còn là một câu chuyện trong đó Batman bắn một số kẻ khổng lồ cho đến chết. Đây là câu chuyện đã thúc đẩy biên tập viên Whitney Ellsworth quyết định việc nhân vật không còn giết người hoặc sử dụng súng . Đến năm 1942, các nhà văn và nghệ sĩ đằng sau truyện tranh Batman đã thành lập hầu hết các yếu tố cơ bản của Batman . Trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ II, DC Comics "thông qua một hướng biên tập sau chiến tranh mà ngày càng nhấn mạnh trong bài bình luận về xã hội tưởng tượng vui vẻ của người vị thành niên". Tác động của phương pháp này là hiển nhiên trong biên tập truyện tranh Batman của thời kỳ hậu chiến, loại bỏ "thế giới ảm đạm và đe dọa" của các dải truyện đầu những năm 1940 mà thay vào đó Batman được miêu tả là một công dân đáng kính và một hình tượng trong một môi trường "tươi sáng và đầy màu sắc" . Năm 1950 và đầu những năm 1960 Batman là một trong những nhân vật siêu anh hùng vẫn được liên tục công bố khi sự quan tâm đến thể loại này suy yếu trong năm 1950. Trong câu chuyện "The Mightiest Team in the World" của Superman #76 (tháng 6 năm 1952), Batman lập nhóm với Superman lần đầu tiên và 2 người phát hiện ra danh tính bí mật của nhau . Sau thành công của câu chuyện này, World's Finest Comics đã được tân trang để nó nổi bật với sự tham gia cả hai siêu anh hùng với nhau, thay vì Batman và Superman đứng riêng như trước . Việc lập đội của các nhân vật là "một thành công tài chính trong một kỷ nguyên khi những người ít và xa giữa " ; một loạt các câu chuyện này vẫn tiếp tục diễn ra cho đến sự hủy bỏ của cuốn sách vào năm 1986. Truyện tranh Batman nằm trong số những truyện bị chỉ trích khi ngành công nghiệp truyện tranh nằm dưới sự giám sát với việc xuất bản cuốn sách Seduction of the Innocent của nhà tâm lý học Fredric Wertham vào năm 1954. Luận án của Wertham là trẻ em bắt chước tội ác trong truyện tranh, và rằng tác phẩm này đã làm hỏng đạo đức của thanh niên. Wertham chỉ trích truyện tranh Batman cho việc hỗ trợ ý tưởng đồng tính và lập luận rằng Batman và Robin được miêu tả giống như là người yêu . Những lời chỉ trích của ông đã tạo ra một sự phản đối công khai trong những năm 1950, cuối cùng dẫn đến việc thành lập Comics Code Authority. Xu hướng hướng tới một "sunnier Batman" trong những năm sau chiến tranh gia tăng sau lần giới thiệu của Bộ luật Truyện tranh . Điều này do đó đã dẫn đến việc các nhân vật Batwoman (năm 1956) và Barbara Gordon Bat-Girl (năm 1961) đã được giới thiệu như là một phần để bác bỏ cáo buộc rằng Batman và Robin là đồng tính, và những câu chuyện trên đã cảm thấy campier, nhẹ hơn . Trong cuối những năm 1950, câu chuyện về Batman dần dần đi theo định hướng khoa học viễn tưởng, một nỗ lực nhằm bắt chước sự thành công của các nhân vật DC khác trong thể loại này . Các nhân vật như Batwoman, Ace the Bat-Hound và Bat-Mite được giới thiệu. Cuộc phiêu lưu của Batman thường liên quan đến sự biến đổi hoặc người ngoài hành tinh kỳ lạ. Năm 1960, Batman đã trở thành một thành viên của Justice League of America trong The Brave and the Bold #28 (tháng 2 năm 1960) và khiến cho nhân vật bắt đầu xuất hiện trong loạt truyện tranh Justice League kể từ đó. "Cách nhìn mới" Batman và camp Năm 1964, doanh số bán hàng của tiêu đề Batman bắt đầu giảm mạnh. Bob Kane lưu ý rằng điều này đã dẫn đến việc DC bắt đầu "lập kế hoạch để giết Batman hoàn toàn." Để đối phó với điều này, biên tập viên Julius Schwartz đã được giao làm việc với tiêu đề Batman. Ông chủ trì sự thay đổi quyết liệt, bắt đầu từ năm 1964 với Detective Comics #327 (tháng 5 năm 1964), được quảng cáo là "Cách nhìn mới". Schwartz đã giới thiệu những thay đổi thiết kế để làm Batman hiện đại hơn, và cho anh ta trở về câu chuyện theo định hướng thám tử nhiều hơn. Ông cùng với nghệ sĩ Carmine Infantino sửa chữa nhân vật trên quy mô lớn. Batmobile được thiết kế lại và trang phục của Batman đã được sửa đổi để kết hợp một hình elip màu vàng phía sau phù hiệu dơi. Những người ngoài hành tinh không gian và các nhân vật của năm 1950 như Batwoman, Ace, và Bát-ve đã nghỉ hưu. Quản gia Alfred của Batman chết (mặc dù cái chết của ông đã nhanh chóng được đảo ngược do phản ứng của fan hâm mộ) trong khi một người họ hàng tương đối mới cho gia đình Wayne, dì Harriet đã đến sống với Bruce Wayne và Dick Grayson . Việc ra mắt của loạt phim truyền hình Batman năm 1966 đã có một ảnh hưởng sâu sắc đến nhân vật. Sự thành công của loạt phim đã giúp tăng doanh số bán hàng trong ngành công nghiệp truyện tranh và Batman đạt mức lưu hành gần 900.000 bản . Các yếu tố như nhân vật Batgirl và phong cách campy của chương trình đã được giới thiệu vào truyện tranh; loạt phim cũng khởi xướng cho sự trở lại của Alfred. Mặc dù cả truyện tranh và truyền hình đã thành công trong một thời gian, cách tiếp cận campy cuối cùng mỏng đi và chương trình đã bị hủy bỏ vào năm 1968. Kết quả là, truyện tranh Batman mất đi sự phổ biến một lần nữa. Như làà Julius Schwartz đã nói, "When the television show was a success, I was asked to be campy, and of course when the show faded, so did the comic books." Bắt đầu từ năm 1969, nhà văn Dennis O'Neil và nghệ sĩ Neal Adams đã thực hiện một nỗ lực để Batman rời xa phong cách campy của loạt phim truyền hình năm 1960 và trả lại nhân vật về với nguồn gốc của anh như là một "thần chết báo thù của bóng đêm." O'Neil cho biết ý tưởng của ông là "đơn giản là chỉ để mang nó trở lại nơi mà nó bắt đầu. Tôi đã đi đến thư viện DC và đọc một số những câu chuyện đầu tiên. Tôi đã cố gắng để có được cái cảm giác mà Kane và Finger đã theo đuổi." O'Neil và Adams lần đầu tiên hợp tác với câu chuyện "The Secret of the Waiting Graves" (Detective Comics #395, tháng 1 năm 1970). Rất ít câu chuyện được hợp tác thực sự giữa O'Neil, Adams, Schwartz, và Dick Giordano, và trong thực tế những người này được trộn lẫn và phù hợp với người sáng tạo khác nhau trong những năm 1970; tuy nhiên ảnh hưởng của công việc của họ là "to lớn" Giordano cho biết: "Chúng tôi đã quay lại một Batman khắc nghiệt, đen tối hơn, và tôi nghĩ đó là lý do tại sao những câu chuyện này cũng đã làm như vậy... Thậm chí ngày nay chúng ta vẫn còn sử dụng Batman của Neal với mũi chảy dài và tai nhọn" Trong khi công việc của O'Neil và Adams đã được phổ biến với người hâm mộ, các lời ca ngợi đã làm rất ít để giúp doanh số bán hàng giảm; cùng được tổ chức đúng với một loạt lời ca ngợi tương tự nổi tiếng của nhà văn Steve Englehart và Marshall Rogers trong Detective Comics #471-476 (tháng 8 năm 1977 – tháng 4 năm 1978), trong đó tiếp tục ảnh hưởng đến bộ phim Batman năm 1989 và được điều chỉnh cho Batman: The Animated Series, ra mắt vào năm 1992 . Bất chấp điều này, lưu thông của truyện Batman tiếp tục giảm qua các năm 1970 và 1980, đạt mức thấp nhất vào năm 1985 . The Dark Knight Returns và sau đó Loạt truyện giới hạn Batman: The Dark Knight Returns của Frank Miller (tháng 2-tháng 6 năm 1986), kể về câu chuyện của một Batman 55 tuổi trở lại hoạt động trong một tương lai có thể, hồi sinh lại nhân vật. The Dark Knight Returns là một thành công tài chính và từ đó đã trở thành một trong những truyện đáng chú ý nhất . Loạt truyện cũng tạo ra một sự hồi sinh quan trọng trong sự nổi tiếng của nhân vật . Năm đó Dennis O'Neil trở thành biên tập viên của tiêu đề Batman và thiết lập khuôn mẫu cho các miêu tả của Batman sau loạt truyện nhỏ của DC là Crisis on Infinite Earths. O'Neil hoạt động theo giả định rằng ông được thuê để tân trang lại nhân vật và kết quả là đã cố gắng để truyền một giai điệu khác với các truyện đi trước.. Kết quả của phương pháp mới này là câu truyện "Year One" trong Batman #404-407 (tháng 2-tháng 5 năm 1987), trong đó Frank Miller và nghệ sĩ David Mazzucchelli xác định lại nguồn gốc của nhân vật. Nhà văn Alan Moore và họa sĩ Brian Bolland tiếp tục xu hướng này với tập truyện 48 trang Batman: The Killing Joke năm 1988 mà trong đó Joker cố gắng khiến Ủy viên Gordon bị điên bằng cách làm tổn thương con gái của ông là Barbara và sau đó bắt cóc và tra tấn Ủy viên cả về thể chất và tâm lý. Truyện tranh Batman thu hút được sự chú ý lớn vào năm 1988 khi DC Comics đã tạo ra một số 900 để cho người đọc bỏ phiếu về việc liệu Jason Todd, Robin thứ hai, sống hay chết. Các cử tri đã quyết định ủng hộ cái chết của Jason với chênh lệch 28 phiếu (xem Batman: A Death in the Family) . Một năm sau đó cho thấy sự phát hành bộ phim Batman của Tim Burton, vốn đưa nhân vật trở lại sự chú ý của công chúng và đã thu được doanh thu hàng triệu đôla tại phòng vé và nhiều hơn trong việc bán hàng. Tuy nhiên, 3 phần tiếp theo là Batman Returns của Tim Burton và Batman Forever và Batman & Robin của Joel Schumacher đã không thành công tại các phòng vé. Thương hiệu phim về Batman sau đó được khởi động lại với Batman Begins năm 2005 và The Dark Knight năm 2008 của đạo diễn và đồng tác giả Christopher Nolan. Năm 1989, số đầu tiên của Legends of the Dark Knight, tiêu đề Batman mới đầu tiên dạng solo trong gần 50 năm, bán được gần 1 triệu bản . Năm 1993, câu chuyện "Knightfall" giới thiệu một nhân vật phản diện mới, Bane, người đã làm bị thương nghiêm trọng Bruce Wayne. Jean-Paul Valley, còn được gọi là Azrael, được giao nhiệm vụ mặc Batsuit trong thời gian nghỉ dưỡng của Wayne. Nhà văn Doug Moench, Chuck Dixon, và Alan Grant đã làm việc trên tiêu đề "Knightfall" và cũng góp phần trong các tiêu đề Batman tương tự suốt những năm 1990. Năm 1998, câu truyện "Cataclysm" phục vụ như là tiền thân cho "No Man's Land" năm 1999, một câu chuyện trải dài một năm qua tất cả các tiêu đề Batman liên quan đến việc đối phó với ảnh hưởng của một trận động đất tàn phá thành phố Gotham. Vào lúc kết thúc "No Man's Land", O'Neil rời khỏi vai trò biên tập và được thay thế bởi Bob Schreck. Một nhà văn khác nổi lên trên loạt truyện tranh Batman là Jeph Loeb. Cùng với cộng tác viên lâu năm Time Sale, họ đã viết hai loạt truyện ngắn ("The Long Halloween" và "Dark Victory") lấy bối cảnh vào đầu sự nghiệp của Batman chống lại toàn bộ nhân vật phản diện của anh (đặc biệt là Two-Face, với nguồn gốc được tái hình dung bởi Loeb) trong khi đối phó với những bí ẩn khác nhau liên quan đến kẻ giết người Holiday và Hangman, với Holiday là chủ đề gây tranh cãi căng thẳng và suy đoán giữa các fan của Batman. Năm 2003, Loeb hợp tác với nghệ sĩ Jim Lee để làm việc trên một chương bí ẩn: "Batman: Hush" cho cuốn sách Batman chính. Mười hai câu truyện này cho thấy Batman và Catwoman chống lại toàn bộ các nhân vật phản diện của Batman, bao gồm cả Jason Todd dường như sống lại, trong khi tìm kiếm danh tính của Hush bí ẩn. Trong khi nhân vật Hush không bắt kịp với các độc giả, chương truyện này là một trong các thành công bán hàng cho DC. Là truyện tranh đầu tiên của Jim Lee trong gần một thập kỷ, loạt truyện đã trở thành số 1 trên bảng xếp hạng doanh số bán hàng Diamond Comic Distributors lần đầu tiên kể từ Batman #500 (tháng 10 năm 1993) và sự xuất hiện Jason Todd đã đặt nền móng cho Judd Winic bắt đầu hoạt động như là nhà văn về Batman, với một sử thi nhiều tập, "Under the Hood", trải dài từ Batman #637-650. Trong năm 2005, DC phát hành All-Star Batman and Robin, một loạt truyện tranh độc lập thiết lập bên ngoài Vũ trụ DC hiện có. Viết bởi Frank Miller và vẽ bởi Jim Lee, loạt truyện này là một thành công thương mại cho DC Comics , mặc dù bị chỉ trích rộng rãi và gay gắt bởi các nhà phê bình về kịch bản . Bắt đầu từ năm 2006, nhà văn chuyên về Batman và Detective Comics là Grant Morrison và Paul Dini, với Grant Morrison đưa ra những yếu tố gây tranh cãi của truyền thuyết Batman (đáng chú ý nhất là cốt truyện theo chủ đề khoa học viễn tưởng của những truyện tranh Batman những năm 1950, trong đó Morrison viết việc Batman bị ảo giác dưới ảnh hưởng của khí ảo giác và đào tạo cảm giác rộng) vào nhân vật. Morrison tiến hành đến mức tột độ với "Batman R.I.P.", với Batman chống lại tổ chức phản diện "Black Glove" đang tìm cách hóa điên Batman. "Batman R.I.P." cuối cùng biến thành Final Crisis (cũng được viết bởi Morrison), chứng kiến cái chết của Batman bởi Darkseid. Trong loạt truyện ngắn năm 2009 là Batman: Battle for the Cowl, cựu trợ tá Dick Grayson của Wayne trở thành Batman mới, và con trai Damian của anh trở thành Robin mới . Trong tháng 6 năm 2009, Judd Winick trở lại viết Batman, trong khi Grant Morrison đưa ra loạt truyện của riêng mình, mang tên Batman and Robin . Năm 2010, câu chuyện Batman: The Return of Bruce Wayne cho thấy Bruce vược thời gian để cuối cùng trở về hiện tại. Mặc dù lấy lại danh tính Batman, anh vẫn cho phép Grayson làm Batman. Bruce quyết định đưa chiến tranh chống tội phạm của mình lên phạm vi toàn cầu, cuối cùng trở thành trọng tâm của Batman Incorporated. DC Comics sau đó thông báo rằng Grayson sẽ là nhân vật chính trong "Batman", "Detective Comics" và "Batman and Robin, trong khi Wayne sẽ là nhân vật chính trong Batman Incorporated. Ngoài ra, Bruce cũng xuất hiện trong loạt truyện đang diễn ra, Batman: The Dark Knight. 2011: Tái phát hành của The New 52 Trong tháng 9 năm 2011, toàn bộ loạt truyện siêu anh hùng của DC Comics, bao gồm cả thương hiệu "Batman" đều được hủy bỏ và bắt đầu lại với số #1 như là một phần của The New 52 khởi động lại. Bruce Wayne là nhân vật duy nhất được xác định là Batman và sẽ được đặc trưng trong "Batman", "Detective Comics", "Batman anh Robin" và "Batman: The Dark Knight". Dick Grayson trở lại làm Nightwing và xuất hiện lại trong loạt truyện đang diễn ra của mình. Trong khi lịch sử của nhiều được nhân vật thay đổi đáng kể để thu hút các độc giả trẻ, mới hơn, lịch sử của Batman vẫn chủ yếu được giữ nguyên. "Batman" Incorporated được bắt đầu lại vào năm 2012 để hoàn thành câu truyện "Leviathan". Năm 2015, DC Comics phát hành The Dark Knight III: The Master Race, phần tiếp theo của The Dark Knight Returns và The Dark Knight Strikes Again. Vào tháng 6 năm 2016, sự kiện DC Rebirth tái khởi động toàn bộ dòng truyện tranh của DC Comics. Batman đã được reboot lại với một chương mang tên Batman: Rebirth # 1 (tháng 8 năm 2016). Tiểu sử nhân vật hư cấu Lịch sử của Batman đã trải qua nhiều chỉnh sửa khác nhau, cả nhỏ và lớn. Một vài yếu tố lịch sử của nhân vật về cơ bản không bị thay đổi nhiều. Các học giả William Uricchio và Roberta E. Pearson lưu ý rằng trong những năm 1990, "Không giống như một số nhân vật hư cấu, Batman không có urtext chính thiết lập trong một khoảng thời gian cụ thể, nhưng lại tồn tại trong rất nhiều văn bản tương tự như nhau liên tục xuất hiện trong hơn năm thập kỷ" . Sự kiện cố định trung tâm trong những câu chuyện về Batman là câu chuyện gốc của nhân vật . Khi còn là một cậu bé, Bruce Wayne cảm thấy kinh hoàng và tổn thương khi chứng kiến cha mẹ của mình, bác sĩ Thomas Wayne và vợ là Martha bị sát hại bởi một tay buôn lậu ngay trước mặt của mình. Điều này khiến anh đứng lên chống lại tội phạm trong thành phố Gotham như là Batman. Pearson và Uricchio cũng lưu ý vượt ra ngoài câu chuyện nguồn gốc và sự kiện như vậy trong sự giới thiệu của Robin "Until recently, the fixed and accruing and hence, canonized, events have been few in number,", một tình huống được thay đổi bởi nỗ lực chỉnh sửa Batman ngay sau đó của biên tập viên như Dennis O'Neil để đảm bảo tính thống nhất và liên tục giữa các câu chuyện . Thời đại Vàng Trong lần xuất hiện đầu tiên của Batman trong Detective Comics #27, anh đã hoạt động như là một chiến sĩ chống tội phạm . Nguồn gốc của Batman lần đầu tiên được trình bày trong Detective Comics #33 (tháng 11 năm 1939), và sau đó được làm rõ hơn trong Batman #47. Khi đó, Bruce Wayne là con của bác sĩ Thomas Wayne và vợ là Martha, hai nhà từ thiện rất giàu có trong xã hội của thành phố Gotham. Bruce được nuôi dạy trong Biệt thự Wayne, với vẻ huy hoàng giàu có của nó và được dẫn dắt bởi hạnh phúc và đặc quyền cho đến khi anh 8 tuổi, khi cha mẹ bị giết bởi một tên tội phạm tên là Joe Chill trong khi họ trên đường về nhà từ một rạp chiếu phim. Bruce Wayne do đó thề sẽ giải phóng thành phố khỏi tội ác đã lấy đi mạng sống của cha mẹ mình. Anh tham gia trong việc đào tạo trí tuệ và thể chất cường độ cao nhưng sớm nhận ra rằng những kỹ năng này thôi là chưa đủ. "Tội phạm là một bọn hèn nhát mê tín dị đoan", Wayne nhận xét, "để ngụy trang tôi phải có khả năng tạo nỗi khiếp sợ vào trái tim của chúng. Tôi phải là một sinh vật của bóng đêm, đen, khủng khiếp...". Như thể đáp ứng mong muốn của anh, đột nhiên một con dơi bay qua cửa sổ, tạo cảm hứng cho Bruce đảm nhận nhân cách của Batman . Trong những dải truyện đầu tiên, sự nghiệp của Batman như là một quái hiệp đã nhận được sự khó chịu của cảnh sát. Trong thời gian này Wayne có một vị hôn thê tên là Julie Madison . Wayne nhận nuôi một cậu bé nhào lộn trong rạp xiếc bị mồ côi tên Dick Grayson, người trở thành trợ tá của anh, Robin. Batman cũng trở thành một thành viên sáng lập của Justice Society of America , mặc dù anh cũng giống như Superman là một thành viên danh dự và do đó chỉ thỉnh thoảng tham gia. Mối quan hệ của Batman với pháp luật được rã băng nhanh chóng và anh trở thành một thành viên danh dự của sở cảnh sát thành phố Gotham . Trong khoảng thời gian này, quản gia Alfred Pennyworth đến Biệt thự Wayne và sau khi suy luận ra bí mật của Dynamic Duo đã gia nhập nhóm của Batman . Thời đại Bạc Thời đại Bạc của Truyện tranh của DC Comics thỉnh thoảng bắt đầu vào năm 1956 khi nhà xuất bản giới thiệu Barry Allen, một phiên bản mới, nâng cấp của The Flash. Batman tuy vậy vẫn không bị thay đổi đáng kể vào cuối những năm 1950 cho dòng liên tục mà sau đó sẽ được gọi là Earth-One. Những truyện Batman giai điệu nhẹ đã thực hiện trong khoảng thời gian giữa Thời đại Vàng và Bạc đã dẫn đến những câu chuyện của cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960 thường có một số lượng lớn các yếu tố khoa học viễn tưởng và Batman cũng không thay đổi đáng kể theo cách của các nhân vật khác cho đến Detective Comics #327 (tháng 5 năm 1964), trong đó Batman trở lại gốc rễ thám tử của mình với hầu hết các yếu tố khoa học viễn tưởng đã được vứt bỏ từ bộ truyện. Sau khi giới thiệu đa vũ trụ của DC Comics trong những năm 1960, DC lập luận rằng những câu chuyện của Batman trong Thời đại Vàng là của nhân vật đến từ thế giới song song Earth-Two. Phiên bản này của Batman cộng tác và kết hôn với Earth-Two Catwoman được cảm hóa, Selina Kyle (như trong Superman Family# 211) và là cha của Helena Wayne, người với vai trò là Huntress trở thành (cùng với Dick Grayson, Robin của Earth-Two) người bảo vệ của Gotham khi Wayne nghỉ hưu để trở thành một ủy viên cảnh sát, một vị trí anh nắm giữ cho đến khi bị giết trong cuộc phiêu lưu cuối cùng như là Batman. Danh hiệu Batman tuy nhiên thường bị bỏ qua dẫn đến một phân biệt được thực hiện giữa Batmen trước và khi tân trang lại (vì không giống như The Flash hoặc Green Lantern, truyện tranh Batman được xuất bản mà không bị gián đoạn suốt những năm 1950) và sẽ làm tham chiếu đến những câu chuyện từ Thời đại Vàng . Tuy nhiên, các chi tiết lịch sử của Batman đã được thay đổi hoặc mở rộng qua nhiều thập kỷ. Bổ sung này bao gồm cuộc gặp gỡ với Superman tương lai, dược giáo dục bởi người chú Philip Wayne của mình (được giới thiệu trong Batman #208, tháng 1/tháng 2 năm 1969 sau cái chết của cha mẹ, và vẻ ngoài của cha Bruce và của chính anh là phiên bản nguyên mẫu của Batman và Robin . Năm 1980, biên tập viên Paul Levitz đưa loạt truyện hạn chế Untold Legend of the Batman để ghi chép nguồn gốc và lịch sử của Batman. Batman hay thường xuyên gặp gỡ và làm việc với các anh hùng khác trong Thời đại Bạc, đặc biệt là Superman, người mà anh bắt đầu làm việc thường xuyên cùng trong một loạt các loạt truyện lập nhóm trong World's Finest Comics, bắt đầu vào năm 1954 và vẫn tiếp tục diễn ra mặc cho sự hủy bỏ của loạt truyện vào năm 1986. Batman và Superman thường được mô tả như là những người bạn thân. Batman cũng trở thành một thành viên sáng lập của Justice League of America, xuất hiện trong câu chuyện lần đầu tiên vào năm 1960 và Brave and the Bold #28. Trong những năm 1970 và 1980, Brave and the Bold trở thành một tiêu đề Batman, trong đó Batman lập nhóm với các siêu anh hùng khác nhau của DC Universe mỗi tháng. Năm 1969, Dick Grayson theo học đại học như một phần nỗ lực của DC Comics nhằm rà soát lại các truyện tranh Batman. Ngoài ra, Batman cũng di chuyển từ dinh thự của mình, Biệt thự Wayne sang một căn hộ trên đỉnh tòa nhà Quỹ Wayne ở trung tâm Gotham, để được gần hơn với tội phạm của thành phố. Batman trong những năm 1970 và đầu những năm 1980 chủ yếu là làm việc solo, thỉnh thoảng lập nhóm với Robin và/hoặc Batgirl. Cuộc phiêu lưu của Batman cũng trở nên đen tối và ảm đạm hơn trong khoảng thời gian này, miêu tả tội phạm ngày càng bạo lực, bao gồm cả sự xuất hiện lần đầu tiên (kể từ đầu Thời đại Vàng) của Joker là một kẻ giết người tâm thần, và Ra's al Ghul, một kẻ khủng bố nhiều thế kỉ biết danh tính bí mật của Batman. Trong những năm 1980, Dick Grayson trở thành Nightwing . Trong số cuối cùng của Brave and the Bold vào năm 1983, Batman rời khỏi Justice League và thành lập một nhóm mới gọi là Outsiders. Anh do đó trở thành nhà lãnh đạo của nhóm cho đến Batman and the Outsiders #32 (1986) và bộ truyện sau đó thay đổi tiêu đề của nó. Batman hiện đại Sau loạt truyện hạn chế đang chéo 12 số là Crisis on Infinite Earths, DC Comics kết nối lại lịch sử của một số nhân vật chính trong một nỗ lực nhằm cập nhật họ cho khán giả đương đại. Frank Miller kể lại nguồn gốc của Batman trong câu chuyện "Year One" từ Batman #404-407, trong đó nhấn mạnh một giai điệu grittier của nhân vật . Mặc dù Batman của Earth-Two đã bị xóa khỏi lịch sử, nhiều câu chuyện sự nghiệp của Batman trong Thời đại Bạc/Earth-One (cùng với một số lượng của Thời đại Vàng) vẫn còn được coi là kinh điển trong vũ trụ sau Crisis, với nguồn gốc của anh vẫn tương tự trong bản chất, bất chấp sự thay đổi. Ví dụ, cảnh sát của Gotham chủ yếu là tham nhũng, do đó thiết lập thêm cho sự tồn tại của Batman. Trong khi quá khứ của Dick Grayson vẫn như cũ, lịch sử của Jason Todd, Robin thứ hai, bị thay đổi, biến cậu thành con trai mồ côi của một kẻ lừa đảo, người cố gắng ăn cắp lốp xe của Batmobile . Một sự loại bỏ khác là người giám hộ Phillip Wayne khiến Bruce Wayne được nuôi dạy bởi Alfred Pennyworth. Ngoài ra, Batman không còn là một thành viên sáng lập của Justice League of America, mặc dù anh trở thành lãnh đạo trong một thời gian ngắn của một hóa thân mới của nhóm ra mắt vào năm 1987. Để giúp điền vào cốt truyện được sửa đổi cho Batman sau Crisis, DC đưa ra một tiêu đề Batman mới được gọi là Legends of the Dark Knight vào năm 1989 và đã xuất bản loạt truyện ngắn và một câu chuyện nhỏ khác nhau mà phần lớn diễn ra trong thời gian "Year One". Những câu chuyện khác từ Jeph Loeb và Matt Wagner cũng lấy cảm hứng từ thời đại này. Năm 1988, câu truyện "Batman: A Death in the Family" từ Batman #426-429 nói về Jason Todd, Robin thứ hai, bị giết bởi Joker . Hậu quả là Batman bắt đầu hoạt động một cách thiếu thận trọng quá mức trong việc chống tội phạm, một kết quả của nỗi đau mất Jason Todd. Batman hoạt động một mình đến khi kết thúc của thập kỷ, khi Tim Drake trở thành Robin mới . Năm 2005, nhà văn hồi sinh lại nhân vật Jason Todd và khiến anh ta đọ sức chống lại người thầy cũ của mình như là quái hiệp giết người Red Hood. Nhiều câu truyện Batman lớn từ những năm 1990 đã được liên danh crossover chạy cho một số tập. Năm 1993, DC xuất bản hai câu truyện "Death of Superman" và "Knightfall". Trong giai đoạn đầu tiên của cốt truyện "Knightfall", nhân vật phản diện mới là Bane làm tê liệt Batman, buộc Wayne giao cho Azrael đảm nhận vai trò này. Sau khi kết thúc "Knightfall", những câu chuyện khác được chia theo 2 hướng, theo sau cuộc phiêu lưu của Azrael-Batman và nhiệm vụ của Bruce Wayne để trở thành Batman một lần nữa. Câu chuyện sau đó được tổ chức lại trong "KnightsEnd", với Azrael ngày càng trở nên bạo lực và bị đánh bại bởi Bruce Wayne được chữa khỏi. Wayne tạm thời chuyển giao chức danh Batman cho Dick Grayson (sau đó là Nightwing) trong một thời gian trong khi anh tập luyện để trở về vai trò . Năm 1994, bộ truyện Zero Hour thay đổi khía cạnh liên tục của DC một lần nữa, bao gồm cả Batman. Đáng chú ý trong số những thay đổi này là dân chúng nói chung và tội phạm đều xem xét Batman là một truyền thuyết đô thị chứ không phải là một lực lượng được biết đến. Tương tự như vậy, kẻ giết cha mẹ Waynes không bao giờ bị bắt hoặc xác định, có hiệu quả loại bỏ Joe Chill khiến câu chuyện như là một "Year Two" không kinh điển. Batman lại một lần nữa trở thành thành viên của Justice League vào năm 1996 bởi loạt truyện khởi động lại của Grant Morrison có tựa đề JLA. Trong khi Batman góp phần rất lớn đến sự thành công của nhóm, Justice League chủ yếu ít liên quan khi Batman và Gotham phải đối mặt với thảm họa trong chương kết thúc của thập kỷ. Trong cốt truyện "Cataclysm" năm 1998, thành phố Gotham bị tàn phá bởi một trận động đất và bị cắt đứt khỏi Chính phủ Hoa Kỳ sau đó. Bị tước đoạt nhiều nguồn lực công nghệ, Batman phải chiến đấu giành lại thành phố từ vô số các băng nhóm trong "No Man's Land" năm 1999. Trong khi đó, mối quan hệ của Batman với Cục Cảnh sát thành phố Gotham thay đổi một cách tồi tệ hơn với các sự kiện của "Batman: Officer Down" và "Batman: War Games/War Crimes"; đồng minh của Batman trong lực lượng thực thi pháp luật là Ủy viên Gordon và Harvey Bullock buộc phải rời khỏi sở cảnh sát trong "Officer Down", trong khi "War Games" và "War Crimes" cho thấy Batman trở thành một kẻ bị truy nã sau khi kế hoạch của anh nhằm làm vô hiệu hóa thế giới ngầm của tội phạm thành phố Gotham đã vô tình dẫn đến một cuộc chiến tranh băng đảng lớn kết thúc với Black Mask trở thành người cai trị không thể tranh cãi của các băng nhóm tội phạm trong thành phố. Một rắc rối khác đến với Batman là Lex Luthor (bí mật đứng đằng sau những sự kiện của "No Man's Land") đã tìm cách trả thù Bruce Wayne bằng cách hủy bỏ tất cả các hợp đồng chính phủ cho công ty của anh khi Luthor được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ. Luthor cũng đổ tội giết người cho Batman một lần nữa với cái chết người yêu Vesper (được giới thiệu vào giữa những năm 1990) trong câu chuyện "Bruce Wayne: Murderer?" và "Bruce Wayne: Fugitive". Mặc dù Batman thanh minh được cho mình, anh cũng mất đi một đồng minh là vệ sĩ Sasha, người được tuyển dụng vào tổ chức được gọi là "Checkmate", trong khi anh bị mắc kẹt trong nhà tù do sự từ chối của cô trong việc dùng bằng chứng quốc gia chống lại chủ của mình. Trong khi anh không thể chứng minh rằng Luthor đứng đằng sau cái chết của Vesper, Batman đã trả thù được với sự giúp đỡ từ Talia al Ghul trong Superman/Batman #1-6: không chỉ hạ bệ Lex Luthor khỏi ghế Tổng thống mà anh còn làm phá sản nhân vật phản diện này trong tiến trình. Trong loạt truyện hạn chế của DC năm 2005 là Identity Crisis cho thấy thành viên của JLA là Zatanna đã chỉnh sửa trí nhớ của Batman để ngăn chặn anh trong việc ngăn cản League phẫu thuật thùy não Dr. Light sau khi ông ta hãm hiếp Sue Dibny. Điều này tạo ra một sự mất lòng tin hoàn toàn của Batman với các đồng đội siêu anh hùng khác, được thể hiện bởi nhà văn Mark Waid trong câu truyện "Tower of Babel" của JLA, với Batman lưu giữ các tập tin về cách tiêu diệt các đồng đội siêu anh hùng. Batman sau đó tạo ra hệ thống giám sát vệ tinh Brother I để theo dõi và nếu cần, giết các siêu anh hùng khác. Hệ thống này cuối cùng được dùng bởi Maxwell Lord, người sau đó giết chết siêu anh hùng Blue Beetle để chặn anh ta cảnh báo Jutice League về sự tồn tại của sản phẩm giết người của Batman. Sự tiết lộ về sản phẩm của Batman và sự liên đới của anh cho cái chết của Blue Beetle đã trở thành một động lực cho sự xuất hiện của loạt truyện ngắn Infinite Crisis, vốn tái cơ cấu lại dòng liên tục của DC. Trong Infinite Crisis #7, Alexander Luthor, Jr. đề cập rằng trong lịch sử mới được viết lại của "New Earth", tạo ra trong số trước đó, kẻ giết Martha và Thomas Wayne - Joe Chill - đã bị bắt, do đó hoàn tác tạo lại các sự kiện sau Zero Hour. Batman và một nhóm siêu anh hùng phá hủy Brother Eye và OMACs, mặc dù vào phút cuối cùng Batman đạt đến điểm vi phạm nguyên tắc của chính mình khi Alexander Luthor, Jr làm bị thương Nightwing. Cầm lấy một khẩu súng, Batman suýt nữa bắn chết Luthor để trả thù cho trợ tá cũ của mình cho đến khi Wonder Woman thuyết phục anh không nên bóp cò súng. Tiếp sau Infinite Crisis, Bruce Wayne, Dick Grayson (phục hồi từ những vết thương của mình) và Tim Drake tạm thời rời thành phố Gotham, để "xây dựng lại Batman." Trong câu truyện Face the Face, Batman và Robin trở lại thành phố Gotham sau sự vắng mặt lâu năm của họ. Một phần của sự vắng mặt này dược thể hiện trong Tuần 30 của loạt 52, trong đó cho thấy Batman chiến đấu chống lại con quỷ trong nội tâm của mình . Sau đó trong 52, Batman được thể hiện trải qua một nghi lễ thiền định mãnh liệt trong Nanda Parbat. Điều này trở thành một phần quan trọng thường xuyên của tiêu đề Batman, trong đó tiết lộ rằng Batman tái sinh như một chiến binh chống tội phạm hiệu quả hơn trong khi trải qua nghi lễ này, do đã "săn lùng và ăn" các dấu vết cuối cùng của sự sợ hãi trong tâm trí của anh Batman #681. Vào cuối câu chuyện "Face the Face", Bruce chính thức nhận nuôi Tim (người mất cả cha mẹ của mình tại các điểm khác nhau trong lịch sử của nhân vật) là con trai mình . Trong câu chuyện tiếp theo, Batman & Son, giới thiệu Damian Wayne, con trai của Batman với Talia al Ghul. Batman, Superman và cùng với Wonder Woman, cải cách Justice League trong việc loạt truyện Justice League of America mới , và tiếp xúc với hiện thân mới nhất của Outsiders . Cốt truyện năm 2008 của Grant Morrison, Batman R.I.P., minh họa thể chất và tinh thần của Batman bị phá vỡ bởi tổ chức "Black Glove," bí ẩn, thu hút được nhiều tin tức trước khi kết luận đánh giá cao sự khuyến khích của nó, cho thấy cái chết của Bruce Wayne Adams, Guy. "Holy smoke, Batman! Are you dead?" ngày 28 tháng 11 năm 2008, The Independent. ngày 28 tháng 11 năm 2008.. Ý định ban đầu, trên thực tế, không phải cho Batman chết trong các trang của "R.I.P", nhưng là cho câu chuyện tiếp tục với sự kiện hiện tại của DC là Final Crisis và cái chết xảy ra ở đó. Như vậy, hai vấn đề của câu truyện được thiết kế gọi là "Last Rites" cho thấy Batman sống sót vụ tai nạn máy bay trực thăng đâm vào con sông của thành phố Gotham và quay trở lại Batcave, chỉ để được triệu tập đến Hall of Justice của JLA để giúp điều tra cái chết của Orion. Điều này dẫn đến các sự kiện của "Final Crisis" (vốn bắt đầu được công bố trong kết luận của "Batman R.I.P"), với Batman bị bắt cóc bởi Granny Goodness. "Last Rites" nói về câu chuyện về Batman được thăm dò tâm trí bởi tay sai của Darkseid là Mokkari và Simyon, trong một nỗ lực để lấy đặc điểm tính cách mà làm cho Batman là siêu anh hùng thành công để ghép chúng cho các bản sao vô tính. Kế hoạch này không thành công do các bản sao không thể xử lý được những căng thẳng và đau buồn của Batman nên đã tự sát hơn là chịu đựng một sự tồn tại bị tra tấn. Câu truyện kết thúc với một điểm quan trọng của cốt truyện "Final Crisis", vì nó tiết lộ rằng Batman giữ viên đạn được sử dụng để giết Orion trong thắt lưng tiện ích của mình . Cái chết thực sự của Batman xảy ra trong Final Crisis #6 khi anh đối mặt với Darkseid. Batman thông báo rằng anh sẽ phá vỡ quy tắc "không dùng súng" của mình trong khi phải đối mặt với nhân vật phản diện này. Sử dụng loại súng được tạo ra bởi Apokolips, Batman bắn vào ngực Darkseid với một viên đạn làm từ Radion (tương tự với viên đạn được sử dụng để giết Orion), cũng lúc Darkseid giải phóng Omega Sanction, hay "cái chết là cuộc sống" vào người của Batman . Tuy nhiên, Omega Saction không thực sự tiêu diệt mục tiêu của nó nhưng lại gửi ý thức của mục tiêu vào thế giới song song. Mặc dù xác chết của Batman cho thấy rằng anh đã chết, vào lúc kết thúc Final Crisis đã tiết lộ rằng Batman đã được gửi đến quá khứ xa xôi, nơi anh chứng kiến sự ra đi của Anthro . Loạt truyện ngắn 3 tập Battle for the Cowl ('cowl' đề cập đến mặt nạ của Batman) cho thấy những người gần gũi nhất với Wayne cạnh tranh "quyền" đảm nhận vai trò của Batman. Cuối cùng, Grayson miễn cưỡng giả định vai trò . Tim Drake sử dụng danh tính của Red Robin để tìm kiếm Bruce Wayne trên toàn thế giới, người mà anh tin rằng vẫn còn sống. Trong Blackest Night, nhân vật phản diện Black Hand được nhìn thấy là đào trộm cơ thể Bruce Wayne, trộm cắp hộp sọ của anh và tuyển mộ nó vào Black Lantern Corps . Deadman, người có cơ thể cũng trở thành một Black Lantern, chạy đến trợ giúp cho Batman và Robin mới cùng với Red Robin chống lại các nhân vật phản diện Gotham đã chết được hồi sinh như là Black Lantern, cũng như thành viên gia đình của riêng họ Hộp sọ của Bruce trong một khoảng thời gian ngắn dược tái tạo như một Black Lantern, xây dựng lại một cơ thể trong quá trình này bởi chúa tể của Black Hand, Nekron, để chống lại Justice League và Tên Titans. Sau khi Black Lantern Batman tạo ra nhiều nhẫn năng lượng màu đen để gắn vào và tiêu diệt phần lớn Justice League, hộp sọ bỗng trở lại bình thường sau khi Nekron giải thích mục đích của nó như là một sợi dây gắn kết tình cảm. Nekron cũng gọi hộp sọ là "Bruce Wayne", biết rằng cơ thể không phải là thực . Trong cốt truyện thứ ba của Batman and Robin, "Blackest Knight", đã tiết lộ rằng cơ thể bỏ lại phía sau vào kết thúc của Final Crisis #6 thực sự là một bản sao được tạo ra từ thất bại của Darkseid trong việc tạo ra một đội quân "Batmen". Bởi vì điều này, hộp sọ được sử dụng bởi Black Lantern Corps và tái dựng bởi Nekron là giả. Dick Grayson, nghĩ rằng đó là cơ thể thật của Bruce Wayne, đã cố gắng hồi sinh nó trong Lazarus Pit để chỉ được một chuyên gia chiến đấu bạo tàn, vô nhân tính. Anh do đó mới nhận ra sự thật về cơ thể này . Morrison tiếp tục cốt truyện với loạt truyện ngắn Batman: The Return of Bruce Wayne. Trong đó, Bruce đi ngược thời gian từ thời tiền sử để quay lại Gotham hiện tại. Tuy nhiên, Dark Knight phải vượt qua những trở ngại không lường trước được: Darkseid đã biến anh thành một vũ khí ngày tận thế khi hắn gửi anh đi ngược thời gian, buộc Batman phải liên minh để ngăn chặn Darkseid . Nhờ các đồng minh của mình, Batman có thể lật tẩy kế hoạch cuối cùng của Darkseid và trở về hiện tại. Sau khi Bruce trở về, anh trở lại với vai trò của mình là The Dark Knight trên quy mô toàn cầu, do đó cho phép Dick và Damian tiếp tục là Gotham Dynamic Duo. Điều này được thấy trong loạt truyện đang tiếp diễn Batman, Inc., với Batman sẽ thành lập một đội quân anh hùng sẽ phục vụ như là Batman trên tất cả các nước trên thế giới. Để kết thúc, Bruce Wayne công khai thông báo rằng Wayne Enterprises sẽ giúp Batman thực hiện sứ mệnh của mình, được gọi là "Batman, Incorporated". Ngoài ra, Batman sẽ là nhân vật chính trong tiêu đề mới là Batman: The Dark Knight, sẽ được viết và vẽ bởi David Finch. Tiêu đề này mới cũng sẽ cho thấy Batman còn ở lại Gotham để điều tra về sự biến mất của người bạn Dawn Golden, trong một môi trường thần bí và ma thuật. The New 52 Trong The New 52 của năm 2011, Bruce Wayne sẽ là nhân vật duy nhất được xác định là Batman trong khi Dick Grayson sẽ trở lại làm Nightwing. Damian sẽ tiếp tục là Robin dưới sự hướng dẫn của cha mình. Nhân vật đối kháng chủ yếu của Batman loạt truyện bắt đầu lại là Court of the Owls, một tổ chức bí mật đã cai trị Gotham trong nhiều thế kỷ. Khi Batman bắt đầu can thiệp vào ảnh hưởng của nhóm, họ bắt đầu chuyển sang tấn công, tiến hành nhiều vụ ám sát trên khắp Gotham trong sự kiện đang chéo Night of the Owls, với Batman và các đồng minh khác nhau của anh phải chạy đua để ngăn chặn. Đặc tính Đặc điểm chính của Batman có thể được tóm tắt như "tài sản; sức mạnh vật lý; khả năng suy luận và nỗi ám ảnh." Các chi tiết và giai điệu của truyện tranh Batman được thay đổi trong nhiều năm qua do các nhóm sáng tạo khác nhau. Dennis O'Neil lưu ý rằng tính nhất quán không phải là một mối quan tâm lớn trong chế độ biên tập lúc đầu: "Julie Schwartz làm một Batman trong Batman và Detective và Murray Boltinoff đã làm một Batman trong Brave and the Bold và ngoài trang phục ra thì họ mang rất ít sự tương đồng với nhau. Julie và Murray đã không phối hợp nỗ lực của họ, không giả vờ, không muốn làm, không yêu cầu. Tính liên tục không phải là quan trọng trong những ngày đó." Các động lực đằng sau nhân vật Batman là từ thời thơ ấu của anh. Bob Kane và Bill Finger thảo luận về lý lịch của Batman và quyết định rằng "không có gì chấn thương nhiều hơn là so với việc cha mẹ bị sát hại trước mắt bạn." Mặc cho chấn thương của mình, anh được định hướng đào tạo để trở thành một nhà khoa học xuất sắc BATMAN #1 Spring 1940,Bill Finger, Bob Kane và đào tạo cơ thể của mình vào một thể chất hoàn thiện tuyệt đối để chống lại tội phạm trong thành phố Gotham như là Batman, một ý tưởng lấy cảm hứng từ cái nhìn sâu sắc của Wayne vào tâm trí tội phạm . Một đặc tính khác của Batman là một quái hiệp; để ngăn chặn cái ác bắt đầu với cái chết của cha mẹ, đôi khi chính anh phải vi phạm pháp luật. Mặc dù được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau bởi các nghệ sĩ khác nhau, nó vẫn có các chi tiết và thành phần nguyên tố của nguồn gốc Batman không bao giờ bị thay đổi ở tất cả các sách truyện tranh, những "sự lặp lại của các sự kiện có nguồn gốc cơ bản được giữ lại với nhau nếu không được biểu hiện khác nhau" . Nguồn gốc là vấn đề của những đặc điểm và thuộc tính của nhân vật, vốn diễn ra trong nhiều cuộc phiêu lưu của nhân vật Batman thường được coi là quái hiệp bởi nhiều nhân vật khác trong câu chuyện của mình. Frank Miller xem nhân vật như "một hình tượng dionysian, một lực lượng cho tình trạng vô chính phủ áp đặt lên một cá nhân . Ăn mặc như một con dơi, Batman cố tình nuôi dưỡng một nhân cách đáng sợ để giúp anh trong cuộc chiến chống tội phạm , một nỗi sợ hãi bắt nguồn từ lương tâm tội lỗi của bọn tội phạm . Bruce Wayne Trong danh tính bí mật của mình, Batman là Bruce Wayne, một doanh nhân giàu có sống ở thành phố Gotham. Đối với thế giới bên ngoài, Bruce Wayne thường được xem là có bề ngoài của một tay chơi vô trách nhiệm, không sâu sắc, sống dựa trên tài sản cá nhân của gia đình (tích lũy được khi gia đình anh đầu tư vào bất động sản của Gotham trước khi thành phố trở thành một thành phố nhộn nhịp) và lợi nhuận của Wayne Enterprises, một công ty công nghệ tư nhân lớn mà anh thừa hưởng. Tuy nhiên, Wayne còn nổi tiếng với các đóng góp của anh cho từ thiện, đặc biệt là thông qua Wayne Foundation, một tổ chức từ thiện chuyên giúp đỡ các nạn nhân của tội phạm và ngăn chặn người trở thành tội phạm . Bruce tạo ra tính cách tay chơi đối với công chúng để hỗ trợ trong việc tránh bị nghi ngờ về danh tính bí mật của mình, thường hành động mờ nhạt và tự hấp thu để tiếp tục hành động . Một các biện pháp đáng chú ý mà anh sử dụng là giả vờ mình là một tay nghiện rượu nặng bằng cách tuyên bố rượu bia gừng là loại đồ uống mạnh mẽ; Bruce thực ra là một người kiêng rượu nghiêm ngặt để duy trì thể chất của mình và sự sắc sảo về tâm lý. Nhà văn của cả Batman và Superman đều có những câu chuyện thường được so sánh trong bối cảnh của 2 câu chuyện khác nhau, để có các kết luận khác nhau. Cũng giống như Superman, tính cách nổi bật của Batman là bản sắc kép thay đổi theo thời gian. Truyện tranh hiện đại có xu hướng miêu tả "Bruce Wayne" như vẻ ngoài, với "Batman" là đại diện thật hơn của nhân cách của anh (trong đối lập với Superman sau Crisis, người có tính cách "Clark Kent" là nhân cách 'thực tế', và "Superman" là 'mặt nạ') Superman vol. 2, #53. Trong Batman Unmasked, một phim tài liệu truyền hình về tâm lý của nhân vật, Phó Giáo sư Tâm lý học Xã hội tại Đại học California, Los Angeles và nhà khoa học hành vi tại Rand Corporation là Benjamin Karney đã lưu ý rằng tính cách của Batman là được dẫn dắt bởi nhân tính vốn có của Bruce Wayne; rằng "Batman, cho tất cả các lợi ích của nó và cho tất cả các thời gian Bruce Wayne dành cho nó, cuối cùng là một công cụ cho những nỗ lực của Bruce Wayne để làm cho thế giới tốt hơn ". Như đã nói trong cuốn sách của Will Brooker là Batman Unmasked, "sự xác nhận của danh dạng Batman sống với khán giả trẻ... anh không phải là Bruce Wayne; anh chỉ cần bộ đồ và dụng cụ, khả năng, và quan trọng nhất là đạo đức, nhân tính. Chỉ có một cảm giác về anh ấy. "họ tin tưởng anh ta... và họ sẽ không bao giờ sai" . Finger là người đề ra cái tên "Bruce Wayne" cho danh tính bí mật của Batman. Trong History of the Comics của Jim Steranko, vol. 1, Bill Finger tiết lộ, "tên thật của Bruce Wayne đến từ Robert Bruce, một người Scottish yêu nước. Wayne, một tay chơi, là một người của tầng lớp quý tộc. Tôi tìm kiếm cho một tên mà sẽ gợi ý đến chủ nghĩa thực dân.. Tôi đã cố gắng dùng Adams, Hancock... sau đó tôi nghĩ đến Mad Anthony Wayne. " Trong sách của T. James Musler là Unleashing the Superhero in Us All, ông khám phá mức độ quan trọng của tiền bạc trong đời sống của Bruce Wayne . Dick Grayson Trong khi Wayne đi ngược thời gian để trở về với hiện tại, Dick Grayson đã trở thành Batman mới. Đây là lần thứ hai anh đã sử dụng nhân dạng này trong sự vắng mặt của Bruce Wayne; lần đầu tiên là khi Wayne hồi phục trở lại với cái lưng bị gãy. Sau "cái chết" của Wayne, Dick nói rằng anh không có vấn đề khi trở thành Batman, nhưng Wayne đã ghi âm lại một tin nhắn khuyên anh tiếp tục chiến đấu với tội phạm như Nightwing với Robin ở bên cạnh. Nhận thấy rằng Gotham vẫn cần Dark Knight, Dick từ bỏ danh hiệu Nightwing của mình để trở thành Batman mới. Với sự trở lại của Wayne và kế hoạch để khởi động Batman trên toàn thế giới, Dick sẽ tiếp tục là Batman của thành phố Gotham. Sau các sự kiện của "Flashpoint", anh lại trở về làm Nightwing. Trong một cuộc phỏng vấn với IGN, Morrison chi tiết việc về việc để Grayson là Batman và Damian Wayne là Robin sẽ là một "đảo ngược" của hoạt động bình thường giữa Batman và Robin, với "Batman nhẹ nhàng và tự phát và một Robin mạnh mẽ, cau có,". Morrison giải thích ý định của mình cho đặc tính mới của Batman: "Dick Grayson là siêu anh hùng mặc trang phục. Anh chàng này đã là đối tác của Batman kể từ khi anh còn nhỏ, anh đã lãnh đạo Teen Titans, và anh ta được đào tạo với tất cả mọi người trong vũ trụ DC. Vì vậy, anh là một loại Batman rất khác biệt. Anh ta dễ dàng hơn nhiều;.. lỏng lẻo hơn và thoải mái hơn" . Kỹ năng, năng lực và tài nguyên Batman là người thường, không có siêu năng lực. Để bù đắp điều này, Batman dựa vào "kiến thức khoa học, kỹ năng thám tử, và sức mạnh thể thao của riêng mình." Trong những câu chuyện, Batman được coi là một trong những thám tử vĩ đại nhất của thế giới . Trong câu chuyện đầu tiên của Grant Morrison trong JLA, Superman mô tả Batman là "người đàn ông nguy hiểm nhất trên Trái Đất", dễ dàng đánh bại một nhóm người ngoài hành tinh mạnh hơn hẳn mình để giải cứu đồng đội bị bắt giữ . Anh dành một phần đáng kể cuộc sống của mình để đi du lịch thế giới và tiếp thu các kỹ năng cần thiết để hỗ trợ trong cuộc thập tự chinh chống tội phạm. Kiến thức và chuyên môn của anh trong hầu hết mọi lĩnh vực được coi là gần như là vô song so với các nhân vật khác trong vũ trụ DC . Anh cũng là một bậc thầy của ngụy trang, thường xuyên thu thập thông tin dưới danh tính của Matches Malone, một tên gangster khét tiếng. Ngoài ra, Batman nhiều lần được mô tả như là một trong những võ sĩ vĩ đại nhất trong vũ trụ DC, được đào tạo hoặc từng chiến đấu chống lại những người giỏi nhất bao gồm các danh nhân như Lady Shiva, Bronze Tiger và Richard Dragon. Bộ đồ của Batman cũng hỗ trợ anh trong khi chiến đấu chống lại kẻ thù, mang thuộc tính của cả kevlar và nomex. Nó bảo vệ anh khỏi đạn và những va chạm mạnh. Tuy nhiên, nét đặc trưng nhất của Batman là sự cam kết mạnh mẽ cho công lý và cố gắng tránh việc giết người, bất chấp mọi tình huống mà anh phải đối mặt. Sự ngay thẳng không nhượng bộ về đạo đức đã mang lại cho anh sự tôn trọng của những anh hùng khác trong vũ trụ DC, đặc biệt là Superman và Wonder Woman. Trang phục Trang phục của Batman sử dụng hình ảnh của một con dơi để tạo cảm giác lo sợ cho bọn tội phạm . Các chi tiết của trang phục Batman thay đổi liên tục thông qua các câu chuyện và phương tiện truyền thông khác nhau, nhưng các yếu tố cơ bản nhất vẫn còn được giữ lại: một áo thầy tơ choàng hình sọ điệp, một mũ trùm đầu che gần hết mặt với một đôi tai dơi, và biểu tượng con dơi cách điệu trên ngực với thắt lưng tiện ích luôn hiện diện. Màu sắc truyền thống của trang phục là màu xanh và màu xám , mặc dù được biến màu do phong cách nghệ thuật của truyện tranh màu . Finger và Kane cho Batman mặc átơ choàng và mũ trùm đầu màu đen và áo màu xám, nhưng thông thường là màu đen để cho nổi bật với màu xanh . Màu này được tuyên bố bởi Larry Ford trong Place, Power, Situation, and Spectacle: A Geography of Film là một sự đảo ngược biểu tượng mã hóa màu sắc thông thường, mà "kẻ xấu" sẽ thấy là màu tối . Găng tay của Batman thường có ba mép vỏ sò nhô ra từ găng tay dài, mặc dù trong lần xuất hiện đầu tiên của mình, anh đeo găng tay ngắn, đơn giản mà không có các mép. Một hình elip màu vàng xung quanh biểu tượng dơi trên ngực của nhân vật đã được thêm vào năm 1964, và trở thành biểu tượng thương hiệu của anh hùng này, giống như các biểu tượng chữ "S" màu đỏ và vàng của Superman . Nhìn tổng thể nhân vật, đặc biệt là chiều dài của tai và mũi thì rất khác nhau tùy thuộc vào các nghệ sĩ. Dennis O'Neil nói, "We now say that Batman has two hundred suits hanging in the Batcave so they don't have to look the same... Everybody loves to draw Batman, and everybody wants to put their own spin on it." Thiết bị Batman sử dụng một kho các dụng cụ chuyên ngành trong cuộc chiến chống tội phạm, được thiết kế với đường nét gợi nhắc đến loài dơi. Nhà sử học Batman là Les Daniels công nhận Gardner Fox trong việc tạo ra khái niệm về kho vũ khí của Batman với việc giới thiệu thắt lưng tiện ích trong Detective Comics #29 (tháng 7 năm 1939) và các vũ khí theo chủ đề dơi đầu tiên là batarang và "Batgyro" của Detective Comics #31 và #32 (tháng 9, tháng 10 năm 1939) . Phương tiện di chuyển chính của Batman là Batmobile, thường được miêu tả như là một chiếc xe màu đen với tailfin lớn tượng trưng cho đôi cánh của dơi. Các loại phương tiện di chuyển khác của Batman là Batplane (hay còn gọi là Batwing), Batboat, Bat-Sub và Batcycle. Trong thực tế, tiền tố "bat" (như trong Batmobile hoặc batarang) hiếm khi được sử dụng bởi chính Batman khi đề cập đến thiết bị của anh, đặc biệt là sau khi một số minh hoạ về nhân vật (chủ yếu là chương trình truyền hình Batman live-action năm 1960 và loạt phim hoạt hình Super Friends) chạy theo phong cách camp. Chương trình truyền hình Batman năm 1960 có một kho vũ khí có chữ "bat" bao gồm tên như bat-computer, bat-scanner, bat-radar, bat-cuffs, bat-pontoons, bat-drinking water dispenser, bat-camera with polarized bat-filter, bat-shark repellent bat-spray, và bat-rope. Batman giữ hầu hết các thiết bị của mình trong một thắt lưng hữu ích. Trong những năm sau, nó được hiển thị là chứa hầu như vô hạn các công cụ chống tội phạm. Các phiên bản khác nhau của thắt lưng có các dụng cụ này được lưu trữ trong túi hoặc xi-lanh cứng bằng đồng xung quanh thắt lưng. Một điển hình ngoại lệ đối với phạm vi các của thiết bị Batman là súng, được anh từ chối sử dụng dựa trên nguyên tắc xem xét rằng loại vũ khí này là công cụ đã giết chết cha mẹ anh. Miêu tả hiện đại của Batman cho anh thỏa hiệp với nguyên tắc này bằng cách cung cấp vũ khí cho phương tiện của Batman, chủ yếu cho mục đích loại bỏ chướng ngại vật hoặc vô hiệu hóa xe của kẻ thù. Bat-Signal Khi cần đến Batman, cảnh sát của thành phố Gotham kích hoạt một đèn tìm kiếm với phù hiệu hình con dơi trên ống kính được gọi là Bat-Signal (Dấu hiệu Dơi) nhằm tỏa sáng vào bầu trời đêm, tạo ra một biểu tượng con dơi trên một đám mây trôi qua mà có thể được nhìn thấy từ bất kỳ địa điểm nào trong Gotham. Nguồn gốc của tín hiệu là khác nhau, tùy thuộc vào tính liên tục. Trong những hiện thân khác nhau, đáng chú ý nhất là chương trình truyền hình những năm 1960, Ủy viên Gordon cũng có một đường dây điện thoại chuyên dụng được đặt tên là Bat-Phone, kết nối với một điện thoại màu đỏ (trong loạt phim truyền hình) nằm trên một cái bàn gỗ và có một chiếc bánh trong suốt che dậy lại. Đường dây kết nối trực tiếp đến nơi cư trú của Batman, Biệt thụ Wayne, cụ thể là một chiếc điện thoại tương tự nằm trên bàn của Bruce Wayne và điện thoại bổ sung trong Batcave. Batcave Batcave là trụ sở bí mật của Batman, bao gồm một loạt các hang động ngầm bên dưới ngôi biệt thự của Wayne. Nó phục vụ như trung tâm chỉ huy của Batman để giám sát cả địa phương và toàn cầu, cũng như nơi chứa phương tiện và thiết bị của anh cho cuộc chiến chống tội phạm. Nó cũng là một nhà kho cho các sự kiện đáng nhớ của Batman. Trong truyện tranh Batman: Shadow of the Bat (số #45) và bộ phim Batman Begins năm 2005, hang động được cho là một phần của đường sắt ngầm. Trong số những anh hùng và nhân vật phản diện từng nhìn thấy Batcave, rất ít người biết được vị trí thực sự của nó. Nhân vật hỗ trợ Batman tương tác với các nhân vật xung quanh mình, gồm cả anh hùng và nhân vật phản diện, giúp xác định nhân vật . Ủy viên James "Jim" Gordon, đồng minh của Batman ở sở cảnh sát Thành phố Gotham, ra mắt cùng với Batman trong Detective Comics #27 và luôn hiện diện kể từ đó. Sau đó, Batman có Alfred làm quản gia cho mình và Lucius Fox là người quản lý kinh doanh và trang bị thiết bị cho Batman. Tuy nhiên, nhân vật hỗ trợ quan trọng nhất của Batman là trợ tá Robin . Robin đầu tiên, Dick Grayson, cuối cùng rời khỏi người thầy của mình và trở thành anh hùng Nightwing, mặc dù anh và Batman vẫn tiếp tục làm việc cùng nhau. Robin thứ 2, Jason Todd, bị đánh đập và sau đó bị giết chết trong một vụ nổ sắp đặt bởi Joker, nhưng sau đó hồi sinh trong vai một kẻ thù, sử dụng tính cách cũ của Joker, Red Hood. Tim Drake, Robin thứ 3, lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1989 và trở thành một ngôi sao trong loạt truyện tranh của riêng mình. Alfred, quản gia trung thành và hình tượng người cha của Bruce Wayne và là một trong vài người biết được danh tính bí mật của anh, "[lends] a homey touch to Batman's environs and [is] ever ready to provide a steadying and reassuring hand" cho người anh hùng và trợ tá . Batman vào các thời điểm khác nhau là thành viên của các nhóm siêu anh hùng như Justice League of America và Outsiders. Batman thường được kết hợp trong cuộc phiêu lưu với đồng đội Superman của anh trong Justice League, đáng chú ý là sự đồng cộng tác trong World's Finest và loạt truyện Superman/Batman. Trong dòng liên tục trước Crisis, hai người được mô tả như là những người bạn thân, tuy nhiên, trong dòng liên tục hiện tại, họ có một mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau nhưng không thoải mái, được nhấn mạnh với sự khác nhau về quan điểm của họ trong việc chống tội phạm và công lý. Trong Superman/Batman #3 (tháng 12 năm 2003), Superman đã nhận xét rằng "Đôi khi, tôi thừa nhận, tôi nghĩ rằng Bruce là một người đàn ông trong trang phục. Sau đó, với một số dụng cụ từ thắt đai tiện ích của mình, anh ấy đã nhắc nhở tôi rằng anh ta có một tâm trí cực kỳ sáng tạo. Và thật may mắn làm sao khi mà tôi có thể kêu gọi được anh ta." Batman có nhiều mối quan hệ lãng mạn với nhiều phụ nữ trong rất nhiều hóa thân khác nhau của mình. Từ những người phụ nữ trong xã hội như Julie Madison, Vicki Vale và Silver St. Cloud, vcho đến các đồng minh như Wonder Woman và Sasha Bordeaux, thậm chí nữ phản diện như Catwoman và Talia al Ghul, những người sau này có một người con trai với anh là Damian và một người con gái là Helena (trên Earth-Two). Trong khi những mối quan hệ trên có xu hướng ngắn ngủi, sự hấp dẫn của Batman với Catwoman hiện diện gần như trong mọi phiên bản và mọi phương tiện truyền thông có nhân vật này xuất hiện. Các tác giả đã quay trở lại và ra trong những năm qua về việc làm thế nào mà Batman quản lý được khía cạnh 'tay chơi' của nhân cách Bruce Wayne, tại nhiều thời điểm khác nhau thì Batman là nắm lấy hoặc chạy trốn những người phụ nữ quan tâm đến "người có nhân cách thu hút nhất của Gotham". Các nhân vật hỗ trợ khác trong thế giới của Batman là cựu Batgirl Barbara Gordon, con gái của Ủy viên Gordon là người bị buộc phải đi xe lăn do Joker thì phục vụ cộng đồng siêu anh hùng với vai trò là tin tặc Oracle; Azrael, một sát thủ đảm nhận vị trí là người thay thế Bruce Wayne như là Batman trong một thời gian ngắn; Cassandra Cain, con gái một sát thủ là người trở thành Batgirl mới; Huntress, thành viên sống sót duy nhất của một gia đình du côn chuyển sang làm quái hiệp ở Gotham là người đã từng làm việc với Batman trong một dịp; Stephanie Brown, con gái của một tội phạm hoạt động với danh tính Spoiler và là một Robin tạm thời; Ace the Bat-Hound và Bat-Mite, một người thần tượng Batman đến từ chiều không gian thứ 4 . Kẻ thù Batman phải đối mặt với nhiều kẻ thù khác nhau, từ tội phạm thông thường đến siêu phản diện kỳ là. Nhiều người trong số họ phản ánh các khía cạnh của nhân vật và sự phát triển của Batman, thường có những câu chuyện nguồn gốc bi kịch đã dẫn họ đến cuộc sống tội phạm . "Kẻ thù không đội trời chung" của Batman là Joker, một tên tội phạm tâm thần ăn mặc giống như chú hề, một "nhân cách bất hợp lý" đại diện cho "tất cả mọi thứ mà Batman [chống lại]." Các nhân vật đối kháng định kỳ của Batman bao gồm Catwoman, Scarecrow, Bane, Two-Face, Riddler, Mr. Freeze, Poison Ivy và Ra's al Ghul, trong số nhiều người khác. Ảnh hưởng văn hóa Batman đã trở thành một biểu tượng trong văn hóa đại chúng, được công nhận trên toàn thế giới. Sự hiện diện của nhân vật được mở rộng vượt qua cả nguồn gốc truyện tranh của mình; các sự kiện như sự ra đời của phim Batman phiên bản năm 1989 và việc bán hàng kèm theo của nó đã "mang Batman đứng đầu ý thức của công chúng." Trong một bài viết tưởng niệm ngày kỷ niệm thứ sáu mươi của nhân vật, The Guardian đã viết, "Batman là một nhân vật bị mờ đi bởi sự tái tạo vô tận của nền văn hóa đại chúng hiện đại. Anh là một biểu tượng và hàng hóa: vật phẩm văn hóa hoàn hảo của thế kỷ 21." Ngoài ra, các phương tiện truyền thông thường sử dụng nhân vật trong các cuộc khảo sát thông thường và toàn diện - tạp chí Forbes ước tính Bruce Wayne là nhân vật hư cấu giàu nhất đứng thứ 9 với số tài sản 5,8 tỉ USD chỉ sau Iron Man là người đứng thứ 6 . BusinessWeek liệt kê nhân vật là một trong 10 siêu anh hùng thông minh nhất xuất hiện ở truyện tranh Mỹ . Entertainment Weekly xếp Batman là một trong 20 anh hùng tuyệt vời nhất trong nền văn hóa đại chúng . Anh cũng nằm trong AFI's 100 Years…100 Heroes and Villains từ phim Batman năm 1989 bởi Viện phim Mỹ . Trong các phương tiện truyền thông khác Nhân vật Batman đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông khác ngoài truyện tranh. Nhân vật này đã được phát triển như một phương tiện cho các tờ báo cung cấp dải truyện tranh, sách, phim truyền hình phát thanh, truyền hình, sân khấu và một số phim truyện. Chuyển thể đầu tiên của Batman là một tờ báo hàng ngày với dải truyện tranh được phát hành vào ngày 25 tháng 10 năm 1943 . Cũng trong năm đó nhân vật được chuyển thể trong 15 phim Batman nối tiếp, với Lewis Wilson trở thành diễn viên đầu tiên vào vai Batman trên màn hình. Trong khi Batman chưa bao giờ có một đài phát thanh của riêng mình, anh lại trở thành nhân vật khách mời thường xuyên trong The Adventures of Superman bắt đầu từ năm 1945 vào những dịp khi diễn viên lồng tiếng cho Superman là Bud Collyer cần nghỉ ngơi . Một bộ phim nối tiếp thứ hai, Batman and Robin trong năm 1949 với Robert Lowery trong vai Batman. Tiếp xúc được cung cấp bởi những chuyển này trong những năm 1940 "đã giúp làm cho Batman là một tên hộ gia đình cho hàng triệu người chưa bao giờ mua một cuốn truyện tranh." Trong ấn phẩm năm 1964 của bộ sưu tập các truyện ngắn "Come Back, Dr. Caligari" của Donald Barthelme, ông đã viết: "The Joker's Greatest Triumph." Batman được miêu tả cho mục đích của sự giả mạo là một người đàn ông khoe khoang giàu có nói tiếng Pháp . Phim truyền hình Batman, với sự tham gia của Adam West, được công chiếu lần đầu vào tháng 1 năm 1966 trên mạng lưới truyền hình ABC. Cho thấy một phong cách hài hước kiểu camp, chương trình đã trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng. Trong hồi ký của mình, Back to the Batcave, West ghi chú việc ông không thích thuật ngữ 'camp' khi nó đã được áp dụng cho loạt phim những năm 1960, bình luận rằng buổi biểu diễn thay vào đó nên là một trò hề hay viết văn chỉ trích và là một sự cố ý. Loạt chương trình kéo dài được 120 tập, kết thúc vào năm 1968. Ở giữa mùa đầu tiên và thứ hai của loạt truyền hình Batman, các diễn viên và đoàn làm phim phát hành Batman (1966) trên sân khấu. The Kinks biểu diễn bài hát chủ đề từ loạt Batman trên album năm 1967 của họ là Live at Kelvin Hall. Sự nổi tiếng của loạt truyền hình Batman cũng dẫn đến chuyển thể hoạt hình đầu tiên của Batman trong loạt The Batman/Superman Hour ; Phân đoạn Batman của loạt đã được đóng gói lại với tên gọi The Adventures of Batman và Batman with Robin the Boy Wonder dẫn đến việc sản xuất 33 tập phim giữa các năm 1968 và 1977. Từ năm 1973 đến năm 1986, Batman có một vai trò trong Super Friends của ABC, một phim hoạt hình của Hanna-Barbera. Olan Soule là người lồng tiếng của Batman trong tất cả các loạt phim, nhưng là cuối cùng được thay thế bởi Adam West, người lồng tiếng cho nhân vật trong The New Adventures of Batman của Filmation năm 1977. Năm 1989, Batman trở lại rạp chiếu phim với Batman của đạo diễn Tim Burton với sự tham gia của Michael Keaton là nhân vật chính. Bộ phim là một thành công lớn, không chỉ là bộ phim có doanh thu cao trong năm, nhưng vào thời điểm đó là bộ phim có doanh thu cao nhất đứng thứ 5 trong lịch sử . Bộ phim sau đó tạo ra 3 phần tiếp theo: Batman Returns (1992), Batman Forever (1995), Batman & Robin (1997), với 2 phần sau cùng được đạo diễn bởi Joel Schumacher thay vì Burton, và thay thế Keaton là Batman với Val Kilmer và George Clooney. Bộ phim thứ hai của Schumacher, trong khi là một thành công của phòng vé, đã không vược qua được bất kỳ người tiền nhiệm nào của nó và bị phê bình gay gắt, buộc Warner Bros hủy bỏ kế hoạch cho bộ phim thứ 5, Batman Triumphant, và khiến loạt phim bị gián đoạn một thời gian. Năm 1992, Batman trở lại với truyền hình trong Batman: The Animated Series, được sản xuất bởi Warner Bros và phát sóng trên mạng lưới truyền hình Fox. Chương trình thắng Giải Emmy này được ca ngợi cho mô tả đen tối và nghiêm trọng của nó so với một chương trình phim hoạt hình thông thường; tác giả Les Daniels tuyên bố loạt phim là "đến gần việc xác định cái nhìn nghệ thuật của Batman cho những năm 1990" trong sách Batman: The Complete History . Sự thành công của Batman: The Animated Series dẫn đến bộ phim spin-off Batman: Mask of the Phantasm (1993), cũng như các loạt phim hoạt hình khác nhau trong cùng một dòng liên tục, trong đó có The New Batman Adventures, Batman Beyond và Justice League và Justice League Unlimited. Tương tự như Batman: The Animated Series, các chương trình này đều có Kevin Conroy lồng tiếng cho Batman. Năm 2004, một loạt phim hoạt hình mới có tựa đề The Batman xuất hiện lần đầu với Rino Romano là nhân vật chính. Trong năm 2008, chương trình này đã được thay thế bởi một loạt phim hoạt hình khác, Batman: The Brave and the Bold với Diedrich Bader là Batman. Năm 2013, một phim CGI tên Beware the Batman được công chiếu. Năm 2014, một bộ phim truyền hình live-action tên là Gotham đuơc chiếu trên kênh Fox, với David Mazouz thủ vai Bruce Wayne khi 12 tuổi. Trong năm 2005, Batman Begins, được phát hành trên rạp như là khởi động lại của loạt phim về Batman; đạo diễn bởi Christopher Nolan và diễn viên Christian Bale là Batman. Phần tiếp theo của nó, The Dark Knight (2008)), thiết lập kỷ lục cho các phim chiếu mở đầu vào ngày cuối tuần có doanh thu cao nhất ở Mỹ, thu nhập khoảng 158 triệu đôla , và đã trở thành bộ phim đạt đến cột mốc 400.000.000$ nhanh nhất trong lịch sử rạp chiếu phim ở Mỹ (sau 18 ngày phát hành) . Những kỷ lục này đã cho thấy The Dark Knight được liệt kê như là bộ phim có doanh thu cao nhất đứng thứ ba của mọi thời đại với 533 triệu USD, bị đánh bại chỉ bởi Titanic và Avatar . Một tuyển tập phim hoạt hình thiết lập giữa những bộ phim của Nolan, Batman: Gotham Knight cũng được phát hành trong năm 2008. The Dark Knight Rises, bộ phim mới về nhân vật Batman, có sự tham gia của Christian Bale, Michael Caine,... do Christopher Nolan đạo diễn, đầu tư 250 triệu USD, đã được công chiếu giữa năm 2012. Đến năm 2016, tài tử Ben Affleck bắt đầu sắm vai Batman trong vũ trụ mở rộng DC (DCEU) với bộ phim mở màn là Batman v Superman: Dawn of Justice, do Zack Snyder làm đạo diễn . Affleck tiếp tục vai diễn của mình vào năm 2017 trong bộ phim Justice League và sẽ là vai chính trong một bộ phim riêng về Batman sắp tới , cũng nằm trong vũ trụ mở rộng DC . Batman cũng xuất hiện trong các trò chơi điện tử, hầu hết trong số đó là chuyển thể của các hóa thân khác nhau của nhân vật trong điện ảnh hoặc hoạt hình, thành công nhất trong số này là series Batman: Arkham. Phần đầu tiên Batman: Arkham Asylum được phát hành trong năm 2009 bởi Rocksteady Studios đã nhận được các đánh giá tích cực quan trọng; Metacritic báo cáo rằng trò chơi nhận được hơn 92% đánh giá tích cực . Trò chơi được nối tiếp bởi phần tiếp theo là Batman: Arkham City năm 2011, cũng nhận được các đánh giá tích cực tương tự với 94% từ Metacritic . Phần thứ ba là một prequel có tên là Batman: Arkham Origins (2013) đã được phát hành bởi WB Games Montréal . Phần thứ tư có tên là Batman: Arkham Knight (2015) cũng đã được phát hành bởi Rocksteady . Trong năm 2016, Telltale Games phát hành trò chơi phiêu lưu có tên Batman: The Telltale Series . Một phần tiếp theo, có tên là Batman: The Enemy Within, được phát hành vào năm 2017 . Giải thích về đồng tính luyến ái Tranh cãi đã phát sinh về các sự giải thích tình dục khác nhau trong nội dung của truyện tranh Batman của những thập kỷ đầu. Giải thích về đồng tính trở thành một phần của nghiên cứu học tập về Batman kể từ khi nhà tâm lý học Fredric Wertham khẳng định trong cuốn Seduction of the Innocent của ông vào năm 1954 rằng "Câu chuyện Batman là tâm lý tình dục đồng giới". Ông tuyên bố: "Dạng câu chuyện của Batman có thể kích thích trẻ em tưởng tượng về đồng tính luyến ái, của thiên nhiên mà họ có thể bất tỉnh." Wertham đã viết, "Chỉ có người không biết gì về các nguyên tắc cơ bản của tâm lý học và tâm Lý của quan hệ tình dục có thể không nhận ra một bầu không khí tinh tế của đồng tính tràn ngập trong những cuộc phiêu lưu của 'Batman' trưởng thành và người bạn trẻ của anh ta là 'Robin'." Andy Medhurst đã viết trong bài luận năm 1991 của ông là "Batman, Deviance, and Camp" rằng Batman là rất thú vị cho khán giả đồng tính bởi vì "anh là một trong những nhân vật hư cấu đầu tiên bị tấn công trên cơ sở đồng tính luyến ái coi là của mình", "phim truyền hình năm 1960 vẫn còn một chuẩn mực của camp", và "phân tích giá trị [anh] như là một xây dựng đặc biệt thành công của nam tính" . Những người sáng tạo có liên quan với nhân vật cũng bày tỏ ý kiến ​​của họ. Nhà văn Alan Grant đã tuyên bố, "Batman tôi đã viết trong 13 năm không phải là đồng tính. Batman của Denny O'Neil, Batman của Marv Wolfman, tất cả tác giả của Batman trở ngược lại đến Bob Kane... không ai trong số họ đã viết anh là một nhân vật đồng tính. Chỉ có Joel Schumacher có thể có một cái nhìn đối lập. " Nhà văn Devin Grayson đã nhận xét, "Nó phụ thuộc vào người bạn hỏi, phải không? Vì nếu bạn đang hỏi tôi, tôi sẽ nói là không, tôi không nghĩ anh ấy như vậy... Tôi chắc chắn vẫn hiểu các bạn đọc đồng tính." Trong khi Frank Miller mô tả mối quan hệ giữa Batman và Joker như một "cơn ác mộng đồng bóng" , ông xem nhân vật đã thăng hoa sự kêu gọi tình dục của mình vào chống tội phạm, kết luận, "Anh ấy muốn được lành mạnh hơn nhiều nếu anh ấy là đồng tính." Burt Ward, người đóng vai Robin trong chương trình truyền hình năm 1960, cũng đã nhận xét ​​khi giải thích vấn đề này trong cuốn tự truyện Boy Wonder: My Life in Tights; ông viết rằng mối quan hệ có thể được hiểu như là tình dục, với sự hiển thị 2 mặt và phong cách camp cũng có thể cung cấp một giải thích không rõ ràng . Giải thích đồng tính như vậy vẫn tiếp tục thu hút được sự chú ý. Một ví dụ đáng chú ý xảy ra năm 2000, khi DC Comics từ chối cho phép sự in lại bốn tấm (từ Batman #79, 92, 105 và 139) để minh họa cho bài viết của Christopher York là All in the Family: Homophobia and Batman Comics in the 1950s . Một sự kiện tương tự đã xảy ra trong mùa hè năm 2005, khi họa sĩ Mark Chamberlain hiển thị một số lượng tranh màu nước miêu tả Batman và Robin trong gợi ý về tình dục rõ ràng . DC do đó đe dọa cả nghệ sĩ và Thư viện Mỹ thuật Kathleen Cullen với hành động pháp lý nếu họ không cho ngừng bán tác phẩm và yêu cầu tất cả các ảnh nghệ thuật còn lại, cũng như bất kỳ lợi nhuận thu được từ chúng . Will Brooker lập luận trong Batman Unmasked: Analyzing a Cultural Icon, rằng đọc say sưa truyện "Batman" là một giải thích hợp lệ, và rằng các bạn đọc đồng tính sẽ tự rút ra cho lối sống được miêu tả bên trong, cho dù nhân vật của Bruce Wayne có là người đồng tính hay không. Ông cũng xác định một yếu tố đồng bóng với chính fan hâm mộ từ chối khả năng đọc đồng tính của nhân vật. Trong số tháng 4 năm 2012 của Playboy, nhà văn viết Batman lâu năm làGrant Morrison đã gọi Batman là "hoàn toàn đồng tính" và nói rằng "sự đồng tính đã được xây dựng vào nhân vật", trích dẫn mối quan hệ chiến đấu của nhân vật với phụ nữ và mối quan hệ chặt chẽ với Alfred và Robin làm bằng chứng . Dựa vào điều này, ​​một bài viết của Comics Alliance có tiêu đề The Gayness of Batman đã thảo luận các câu hỏi về đồng tính của nhân vật, gọi mối quan hệ của anh với Joker rực rỡ như "một sự biến dạng quái dị của cuộc xung đột giữa các tủ quần áo và cảnh." Ghi chú
Quân luật là một loại luật pháp sử dụng trong quân đội mà bất cứ quốc gia nào có lực lượng quân sự bảo vệ đều phải có. Bộ luật này tương đối đơn giản hơn so với luật dân sự; nhưng nó rất nguyên tắc và khép kín, đòi hỏi con người phải thực thi một cách hết sức cứng nhắc, khung hình phạt rất nặng. Bộ luật được bảo vệ bởi tòa án binh và xem như một phần của luật pháp quốc gia, nhưng chỉ áp dụng trong lực lượng quân sự. Mục đích Các luật này được thiết kế để phục vụ các mục đích: biện pháp hòng duy trì sự ổn định quân đội thực hiện nguyên tắc kiểm soát an ninh quân đội giữ cho lực lượng nguy hiểm này không xâm phạm lẫn nhau và xâm phạm trật tự xã hội cách ly khỏi xã hội và bảo đảm tính nghiêm minh trong quân ngũ, răn đe quân nhân theo một đường lối cứng nhắc, khắt khe tạo nên kỷ luật quân đội. Áp dụng Quân luật được áp dụng chủ yếu trong quân đội. Trong tình trạng khẩn cấp, người ta dùng nó như một bộ luật dân sự hòng dập tắt nổi loạn hoặc ổn định nhanh chóng các mâu thuẫn, xung đột gay gắt trong xã hội. Tuy nhiên, do tính chất khắt khe và cứng nhắc, bộ luật này dùng trong xã hội có thể như một con dao hai lưỡi, không những không thể ổn định mà còn gây xung đột, bất mãn trong dân, gây trì trệ kinh tế và khả năng nổi loạn kéo dài. Ngoài ra, khi tầng lớp quân nhân bất mãn chế độ và tự nổi loạn chống chính phủ, quân luật có thể được áp dụng ngay khi tiến hành đảo chính. Đây là hình thức gây áp lực buộc chính phủ nhanh chóng đầu hàng, đồng thời đe dọa các tầng lớp phản kháng và trói buộc nhân dân theo khuôn khổ mới trong thời loạn, tạo tiền đề dễ dàng hơn cho việc xây dựng và duy trì một chế độ mới sau xung đột.
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát với giảm phát. Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ 2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát. Biểu hiện Có những đặc trưng không thể định lượng nhưng giúp xác định thiểu phát, đó là: Khi giá giảm liên tục và tăng trưởng GDP ở mức âm, nền kinh tế mới rơi vào tình trạng thiểu phát. Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra lãi suất huy động tiết kiệm thấp - một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì trệ. Tỷ lệ lạm phát thấp làm cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt đi vay ngân hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi suất huy động tiết kiệm. Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực tế cao hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thời gian nghỉ ngơi (xem thêm lý luận về đường cung lao động uốn ngược). Mặt khác, giá cả sản phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất. Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái ngược với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế). Nguyên nhân Nguy cơ thứ nhất có thể xuất phát từ việc áp dụng các giải pháp chống lạm phát quá liều, chẳng hạn như thắt chặt tiền tệ, tài khóa và hạn chế cầu quá mức. Thứ hai có thể là việc sử dụng các biện pháp ngăn ngừa lạm phát một cách quá cứng nhắc như trực tiếp kiểm soát giá của một số mặt hàng. Nguy cơ thứ ba thường đến từ những sai lầm trong điều hành vĩ mô.. Hậu quả Hậu quả của thiểu phát nghiêm trọng không kém gì lạm phát. Ảnh hưởng tới lĩnh vực xuất khẩu vì các thị trường lớn đều tiết giảm nhu cầu. Sức tiêu thụ nội địa không tăng do luồng cung tiền tệ giảm, trong khi xuất khẩu kém. Nếu kịch bản xấu nhất xảy ra, hàng không thể xuất trong khi cầu nội địa giảm, hàng không tiêu thụ hết, giá cả sẽ giảm, sản xuất đình đốn. Một số tình huống thiểu phát ở Việt Nam Năm 2008 đánh dấu một năm lạm phát cao, song chỉ đến đầu quý 3, do các biện pháp kiềm chế lạm phát quá mức, bắt đầu có nỗi lo thiểu phát và "Nhiều người lo ngại Việt Nam cũng đối mặt với nguy cơ tương tự, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,19%. Đây là lần đầu tiên sau một năm rưỡi trở lại đây, CPI ở mức âm".
Khối các nước cộng sản Thập niên 1960 là thời kỳ nở rộ của khối Cộng sản và đã xuất hiện mầm mống chia rẽ giữa hai cường quốc hàng đầu trong khối là Liên Xô và Trung Quốc về các vấn đề tư tưởng, đường lối cách mạng. Nhất là từ khi Liên Xô rút hết các cố vấn khỏi Trung Quốc sau năm 1960. Liên Xô và Đông Âu Tại Liên Xô và Đông Âu, hình thức kinh tế tập trung và kế hoạch hoá đang phát huy các mặt tích cực của nó. Liên Xô tập trung mọi nguồn lực, bất chấp hậu quả sau này, cố đạt cho bằng được những chỉ tiêu kinh tế, chính trị được cho là ưu thế của hệ thống xã hội chủ nghĩa để tranh đua với Hoa Kỳ vai trò lãnh đạo thế giới. Việc phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người (Sputnik 1) và đưa người đầu tiên vào vũ trụ (Yuri Gagarin) là biểu tượng của một siêu cường đang thắng thế. Liên Xô và Hoa Kỳ - hai kẻ thù tư tưởng - sẵn sàng đối chọi nhau ở mọi vấn đề quốc tế. Và Việt Nam là nơi mà hai phe muốn phô trương sức mạnh của mình. Liên Xô tuy đã có vũ khí nguyên tử từ năm 1949 nhưng ưu thế quân sự của Hoa Kỳ vẫn áp đảo. Do đó Liên Xô vẫn e ngại sự quá căng thẳng với Hoa Kỳ và chỉ viện trợ cho miền Bắc Việt Nam ở mức đủ để xây dựng một "chủ nghĩa xã hội" cho đến thời điểm này. Trong thập niên 1960 quan điểm của Liên Xô về chiến tranh Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Từ quan điểm cùng chung sống hòa bình của Nikita Khrushchev trong chính trị quốc tế, nghĩa là phía Liên Xô muốn có sự chung sống giữa hai nhà nước Việt Nam và thống nhất thông qua trưng cầu dân ý với sự giúp đỡ quân sự hạn chế đến ủng hộ đấu tranh vũ trang làm cách mạng bằng bạo lực của Leonid Brezhnev với viện trợ quân sự to lớn cho miền Bắc Việt Nam. Khi Khrushchev bị hạ bệ, Leonid Brezhnev lên thay, ban đầu chính sách của Liên Xô vẫn giữ nguyên nhưng đến đầu năm 1965, tân thủ tướng Liên Xô, Aleksey Kosygin, thăm Bắc Kinh, Hà Nội, Bình Nhưỡng nhằm hai mục đích: hàn gắn quan hệ Xô – Trung và ngăn chặn hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Trong chuyến thăm Hà Nội, tháp tùng Kosygin có các chuyên viên tên lửa. Và ngày 10-2-1965, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp ước hỗ trợ kinh tế và quân sự Việt - Xô. Từ đây sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc ngày càng tăng và đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh Việt Nam. Đến thời điểm này, cách tiếp cận của họ đã khác: cung cấp cho miền Bắc Việt Nam nhiều hơn. Đây cũng là thời kỳ Quân đội Nhân dân Việt Nam được hiện đại hoá mạnh mẽ, trang bị lại với vũ khí mới kể cả các vũ khí hạng nặng, các binh chủng kỹ thuật ra đời để đáp ứng chiến tranh hiện đại: không quân, radar, tên lửa phòng không... Quân đội miền Bắc liên tiếp tiến hành các cuộc tập trận lớn với giả định đánh quân đổ bộ đường không và chống xe tăng Mỹ. Trung Quốc Đầu năm 1961, Tổng thống Kennedy gửi 400 cố vấn quân sự đến miền Nam Việt Nam. Điều này Trung Quốc lo ngại, Ban lãnh đạo Trung Quốc có hai quan điểm khác nhau. Mao Trạch Đông ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang của Việt Nam còn Chu Ân Lai thì muốn sử dụng biện pháp ngoại giao, chính trị cùng với chiến thuật du kích và hoạt động bí mật ở miền Nam. Thập niên này đang có tranh cãi trong phe xã hội chủ nghĩa về chủ nghĩa phe xét lại (Khrushchev và Liên Xô) và chủ nghĩa Marxist-Leninist chân chính (Mao Trạch Đông và Trung Quốc) và các biện pháp cách mạng ở thế giới thứ ba bằng hòa bình hay bằng bạo lực cách mạng. Trung Quốc, lúc đó đang cạnh tranh vai trò lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa với Liên Xô, cũng không muốn vai trò của mình kém hơn đối thủ cùng tư tưởng. Họ viện trợ cho miền Bắc, trong giai đoạn này, còn nhiều hơn Liên Xô. Họ khuyến khích miền Bắc chiến đấu giải phóng miền Nam mà không sợ quân đội Mỹ tham chiến ("Đế quốc Mỹ là con hổ giấy" – Mao Trạch Đông). Cả Liên Xô và Trung Quốc đảm bảo nếu Hoa Kỳ đánh ra miền Bắc thì họ sẽ can thiệp bảo vệ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mùa hè 1962, Trung Quốc gửi cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa súng đạn đủ để trang bị cho 200 tiểu đoàn. Trung Quốc đồng ý gửi tình nguyện quân vào Bắc Việt nếu quân Mỹ vượt qua vĩ tuyến 17. Tính từ 1956 đến 1963, Trung Quốc đã chuyển lượng vũ khí cho miền Bắc ở số lượng trị giá khoảng 320 triệu nhân dân tệ. Tháng 12 năm 1964, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc thăm Hà Nội và ký Hiệp ước hữu nghị hợp tác quân sự Việt -Trung. Lúc đầu Trung Quốc hứa gửi phi công sang miền Bắc Việt Nam, nhưng sau đó họ rút lại vì lo ngại ưu thế hơn hẳn của không quân Mỹ. Mao Trạch Đông sử dụng cuộc chiến Việt Nam khơi gợi tinh thần chống đế quốc trong nhân dân Trung Quốc để chống lại những người theo phe xét lại trong bộ máy và để bảo đảm vị trí của ông trong lịch sử. Đây là mục đích chính của chiến dịch "Ủng hộ Việt Nam và chống Mỹ" tại Trung Quốc. Khối các nước Tư bản Hoa Kỳ cũng quyết tâm không bỏ cuộc tại Nam Việt Nam. Năm 1964, Mỹ bắt đầu chuyển hướng sự chú ý từ miền Nam hướng ra miền Bắc và tuyên bố sẽ không chấp nhận việc tăng chuyển quân và vũ khí từ miền Bắc vào Nam. Hoa Kỳ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Việt Nam và tháng 2 năm 1965, không quân Mỹ bắt đầu oanh kích miền Bắc. Để đối phó với sự gia tăng chiến tranh của phe Cộng sản, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa tiến hành chiến tranh đặc biệt và tăng cường viện trợ kinh tế cũng như quân sự cho miền Nam Việt Nam.
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, "trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia". "Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam đến thời nhà Nguyễn thì Nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất". Cùng với không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO chính thức ghi danh. Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc - trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đình - xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên các bệ đá kê cột chùa thời Lý, thế kỉ XI-XII, đến lúc ông vua cuối cùng triều Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX. Về cơ bản, nhạc nghi thức trong âm nhạc cung đình Việt Nam, nhạc tế trong các đình làng cũng như loại nhạc nghi thức được chơi trong đám cưới hay đám tang, tất cả thường được chia thành hai nhóm chính: nhóm phe văn và nhóm phe võ. Việc phân chia của các nhóm nhạc cụ hòa tấu trong dàn nhạc cung đình ở Huế từ đầu thế kỷ XIX và nguồn gốc của nó đã được tìm thấy trong các quy luật của nhiều nghi thức cúng đình tại các làng xã của người Việt ở Bắc Bộ từ nhiều thế kỷ trước đây. Lịch sử Thế kỉ XVII - XVIII ở Phú Xuân và Đàng Trong: thời các chúa Nguyễn (1558 - 1777) Từ những năm 30 của thế kỉ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ(1572 - 1634) tương truyền là tác giả của một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ông tổ lớn nhất của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế đã tiếp thu nhạc [Đàng Ngoài] và đã giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623 - 1634) lập ra một hệ thống lễ nhạc, triều nhạc mới. Hòa thanh thự của các chúa là tổ chức âm nhạc cung đình lớn của [Đàng Trong] gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo (Đại Nam thực lục tiên biên). Cuối thế kỉ XVII - đầu thế kỉ XVIII, nhạc cung đình Đàng Trong đã khá hoàn chỉnh, phong phú, hấp dẫn, theo những ghi chép và đánh giá của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán, thượng khách của chúa Nguyễn Phúc Chu (1692 - 1725) sau chuyến đi thăm Đàng Trong và [Cố đô Huế|Phú Xuân] của ông. Được mời xem ca múa nhạc và hát bội tại phủ chúa, nhà sư cho biết điệu múa thời đó là điệu múa Thái liên diễn tả dáng dấp đài các, trang nhã, tình tứ của các cô " tiểu hầu " của đô thành Phú Xuân vừa chèo thuyền vừa tươi cười hái [sen]. Các ca nhi vũ nữ ấy " đội mão vàng, áo hoa xanh dài phết đất, thoa son dồi phấn rất mực diễm lệ, làm nao lòng người xem " (hồi ký Hải ngoại kỷ sự, bản dịch, 1963). Cuối thế kỉ XVIII: thời Tây Sơn (1788 - 1802) Năm 1790, tức một năm sau khi đại thắng Đống Đa ở Thăng Long, một vua Quang Trung (giả) cùng một đoàn ngoại giao sang triều đình nhà Thanh, cầu hòa và chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi. Càn Long ý phong cho vua Đại Việt là "An Nam quốc vương" và vui lòng thưởng thức đoàn "An Nam quốc nhạc" biểu diễn chúc thọ. Nhờ những ghi chép cụ thể của Đại Thanh hội điển sự lệ và tập văn kiện ngoại giao Đại Việt quốc thư mà âm nhạc cung đình thời Tây Sơn hiện ra khá rõ nét. Hội điển triều Thanh đã mô tả chính xác trang phục các nhạc công, ca công và vũ công người Việt. Nghệ nhân cung đình Tây Sơn chơi tám loại nhạc khí mà Hội điển triều Thanh đã ghi lại bằng chữ nôm: "một cái cổ (kai kou: trống), một cái phách (kai p'o), hai cái sáo (kai chao), một cái đàn huyền tử (kai t'an hien tse, có thể là đàn tam), một cái đàn hồ cầm (kai t'an hou k'in), một cái đàn song vận (kai t'an choang wen, có thể là đàn nguyệt) một cái đàn tỳ bà (kai t'an p'i p'a), một cái tam âm la (kai san in lo). Đó là phần nhạc khí. Về phần hát, Đại Việt quốc thư cho biết bổ sung như sau: nhân dịp lễ thượng thọ của Càn Long 80 tuổi, đoàn quốc nhạc của ta gồm 6 nhạc công và 6 ca công cung đình đã biểu diễn cho hoàng đế nhà Thanh nghe "nhạc phủ từ khúc thập điệu". Rất có thể đây là liên khúc 10 bản "Thập thủ liên hoàn" trong nhã nhạc cung đình Huế, cũng gọi là 10 bản Tấu, hay 10 bài Ngự, thậm chí có nghệ nhân gọi là mười bản Tàu(?) (mà khi được nghe chúng, người Trung Quốc chính hiệu đã cho rằng không có gì là "Tàu" cả). (Đại Thanh HĐSL, bản in 1908, Quyển 528, Thư viện Hội châu Á Paris; Đại Việt quốc thư, TT Học liệu (Bộ Giáo dục) xb., Sài gòn 1972). Thế kỉ XIX: Thời thịnh của triều Nguyễn (1802 - 1885) Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình Đại Việt - Việt Nam - Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau khi Gia Liều nhạc, Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc dcổ điển đất nước và con người thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuống cổ điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều nhà hát rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị đường trong hoàng thành, Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại đến 1975), v.v... 1802 - 1819: Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc cung đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ. 1820 - 1840: Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu đã phát triển tốt đẹp: " Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt (...) Khánh chuông ra lệnh xướng hòa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi (...) Trải mấy triều vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào (...) Giữa điện đình ca múa, tỏ điềm thái vận nước nhà; Trên lăng miếu xướng hòa, ngưỡng đức cao thâm biển núi... (bản dịch của Ưng Dự). 1841 - 1883: Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát bội cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng (1864) trong Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn (1845 - 1907) Thế kỉ XIX: Thời suy của triều Nguyễn (1885 - 1945) 1858 - 1885: Thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8 năm 1885 kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ. Các vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất hết quyền bính. Đời sống cung đình tẻ nhạt, âm nhạc cung đình ngày càng sa sút. 1889 - 1925: Thành Thái lập Võ can đội, rồi thêm một đội Đồng ấu (nghệ nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội). Tất cả đều hoạt động cầm chừng. 1914-1944: Tập san Những người bạn của Huế cổ kính (B.A.V.H.) (bằng tiếng Pháp) ra đời và sẽ xuất bản tổng cộng 120 tập (dày nhiều vạn trang) trong suốt 30 năm dưới sự điều khiển của nhà Việt Nam học lỗi lạc L.M. Léopold Cadière. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố trên tập san, nổi bật nhất là công trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919): Âm nhạc ở Huế, đàn nguyệt và tranh. 1925 - 1945: Dưới thời Bảo Đại, Võ can đội đổi thành Ba vũ đội gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ lễ Tế Nam giao (3 năm một lần) (theo lời kể của cụ Lữ Hữu Thi). Năm 1942 là năm cuối cùng triều Nguyễn cử hành lễ Tế Nam giao, cũng là lần cuối cùng Nhã nhạc cung đình Huế được biểu diễn trọng thể trước công chúng. Ngày 31 tháng 8 năm 1945, trên [Ngọ Môn], hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn vương quốc [Tên gọi Việt Nam#Đại Nam|Đại Nam] [thoái vị]. Nhã nhạc cung đình Huế tạm thời tan rã.
Trong đại số sơ cấp, phân tích nhân tử là một thuật ngữ toán học dùng để chỉ một cách viết một số nguyên, hay tổng quát là một vật thể toán học, thành một phép nhân của các số nguyên khác, hay tổng quát là các vật thể toán học khác. Các số nguyên, hay vật thể toán học, nằm trong phép nhân gọi là nhân tử. Ví dụ Phép tính nhân tử với số nguyên Ví dụ một phép phân tích nhân tử với số nguyên: Đa thức và phân tích nhân tử Các đa thức cũng có thể được phân tích thành tích của các đa thức khác. Ví dụ: Một số phương pháp phân tích đa thức thành nhân tử Phương pháp đặt nhân tử chung Nếu các hạng tử của đa thức đều có nhân tử chung thì ta có thể đặt nhân tử chung đó làm thừa số. VD: Áp dụng hằng đẳng thức Nếu đa thức là một vế của hằng đẳng thức đáng nhớ nào đó thì có thể dùng hằng đẳng thức đó để biểu diễn đa thức này thành tích các đa thức. VD: Những hằng đẳng thức đáng nhớ 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. Hệ thức liên quan 1. 2. 3. 4. 5. Tổng quát: Hằng đẳng thức mở rộng 8. 9. (n lẻ) Nhị thức Newton Với đa thức ta có: Ta nhận thấy khi khai triển ta được một đa thức chứa n+1 hạng tử, trong đó, hạng tử đầu là , hạng tử cuối là và các hạng tử còn lại chứa các nhân tử và . Vì vậy: Tam giác Pascal Nếu viết riêng các hệ số bên phải, ta được bảng sau: 1 1 1 1 2 1 1 3 3 1 1 4 6 4 1 ................................ Ta nhận thấy từ hàng thứ hai trở đi một số bất kì ở trong tam giác đúng bằng tổng của số cùng cột trên một hàng và số trước một cột trên một hàng, cụ thể: Phương pháp nhóm các hạng tử Nếu một đa thức có nhiều hạng tử, nhóm lại với nhau mà phân tích thành nhân tử chung được thì nhóm chúng lại theo từng nhóm thích hợp để phân tích đa thức đó thành nhân tử. VD: Phương pháp tách một hạng tử thành nhiều hạng tử Phương pháp dựa vào nghiệm tìm được của đa thức - Nếu đa thức có nghiệm là a thì đa thức đó phân tích được thành nhân tử mà một nhân tử là x-a. 1. Nhẩm nghiệm + Nếu đa thức f(x) có nghiệm nguyên thì đó phải là ước của hệ số tự do. + Nếu f(x) có tổng các hệ số bằng 0 thì f(x) có một nhân tử là x–1 + Nếu f(x) có tổng các hệ số của các hạng tử bậc chẵn bằng tổng các hệ số của các hạng tử bậc lẻ thì f(x) có một nhân tử là x+1 + Nếu a là nghiệm nguyên của f(x) và f(1);f(−1) khác 0 thì và đều là số nguyên. Để nhanh chóng loại trừ nghiệm là ước của hệ số tự do. Ta nhận thấy nghiệm của f(x) nếu có thì x = ±1;±2;±4, chỉ có f(2)=0 nên x=2 là nghiệm của f(x) nên f(x) có một nhân tử là x–2. Do đó ta tách f(x) thành các nhóm có xuất hiện một nhân tử là x–2. Tổng các hệ số của các hạng tử bậc chẵn bằng tổng các hệ số của các hạng tử bậc lẻ nên đa thức có một nhân tử là x+1. + Đa thức f(x) có nghiệm hữu tỉ thì có dạng trong đó p là ước của hệ số tự do, q là ước dương của hệ số cao nhất. + Tính chất: Nếu một đa thức có nghiệm thì đa thức sẽ được phân tích thành: trong đó . VD: PTĐT thành nhân tử: .Coi đa thức này là 1 đa thức có biến x, các biến còn lại là hệ số. Thay , ta có: là một nghiệm của đa thức có thể được tìm bằng cách dùng phép chia đa thức 1 biến đã sắp xếp hoặc sử dụng lược đồ Horner để xác định các hệ số của nó. VD: Phân tích đa thức thành nhân tử, biết x=3 là 1 nghiệm của P(x) Vì x=3 là nghiệm của đa thức nên đa thức có nhân tử là x-3. Để tìm nhân tử còn lại, ta có thể đặt phép chia như hình. Vậy Ngoài ra có thể xác định hệ số của nhân tử cần tìm bằng lược đồ Horner như sau: 2. Biệt số delta Δ (Áp dụng với các tam thức bậc hai) Xét tam thức bậc hai f(x) = ax2 + bx + c (a ≠ 0). Gọi Δ = b2 - 4ac Nếu Δ 0 thì đa thức có nghiệm: Δ 0 thì đa thức có 2 nghiệm phân biệt: và Khi đó đa thức Δ 0 thì đa thức có 1 nghiệm là . Khi đó Nếu Δ 0 thì đa thức vô nghiệm. Đa thức không thể phân tích thành nhân tử Ngoài ra để phân tích f(x) thành nhân tử, ta tách hệ số b như sau: ax2 + bx + c = ax2 + b­1x + b2x + c với Một số phương pháp tách hạng tử khác VD 1: PTĐT sau thành nhân tử:Ta có: Phương pháp thêm bớt hạng tử Các đa thức có dạng như: ; ; ; ; ;…đều có nhân tử chung là VD: Ở đây Thêm bớt hạng tử làm xuất hiện hiệu hai bình phương VD: Phương pháp đổi biến VD: PTĐT sau thành nhân tửA =A Đặt khi đó: A Trong bài toán trên ta đã đổi đa thức biến x trên thành đa thức biến y. Vì vậy, phương pháp trên được gọi là phương pháp đổi biến. Phương pháp xét giá trị riêng VD: PTĐT sau thành nhân tử: A = Thay x = y ta có: A = 0 Do đó: x = y là một nghiệm của đa thức trên hay đa thức trên chứa nhân tử x-y. Lại có x, y, z có vai trò bình đẳng nên A = Vì A là 1 đa thức bậc 3 đối với tập hợp các biến x, y, z và (x - y)(y - z)(z - x) là 1 đat thức bậc 3 đối với tập hợp các biến x, y, z nên a là 1 hằng số. Vì đúng với x, y, z nên ta gán cho x, y, z các giá trị riêng. Chẳng hạn x=1, y=0, z=-1 ta có: Vậy Phương pháp dùng các đẳng thức đặc biệt Với mọi x, y, z thực ta luôn có:1. (x + y + z)3 - x3 - y3 - z3 = 3(x + y)(y + z)(z + y)2. x3 + y3 + z3 - 3xyz = (x + y + z)(x2 + y2 + z2 + xy + yz + zx)Hệ quả: Nếu x + y + z = 0 hoặc x = y = z = 0 thì x3 + y3 + z3 = 3xyz Phương pháp hệ số bất định (Đồng nhất Hệ số) VD: PTĐT sau thành 2 tam thức có hệ số nguyên: A = Đặt A = Đồng nhất hệ số ta có: Vậy A =
Giảm phát hay súc phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm phát, do đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm. Cần phân biệt và tránh nhầm lẫn giảm phát với thiểu phát là sự chậm lại của tỷ lệ lạm phát (nghĩa là khi lạm phát sụt xuống các mức rất thấp). Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính thức, khi đề cập đến giảm phát, người ta vẫn đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy thoái hay đình đốn. Các nhà kinh tế học nói chung tin rằng giảm phát là một vấn đề lớn của kinh tế hiện đại do nó làm tăng giá trị thật của nợ, có thể làm trầm trọng thêm suy thoái và dẫn tới xoắn ốc giảm phát Nguyên nhân và tác hại Nguyên nhân chính của giảm phát là do tổng cầu giảm, Có thể dùng sơ đồ AD-AS để minh họa điều này. Ban đầu tổng cầu tương ứng với đường AD. Điểm cân bằng của nền kinh tế là điểm E tại giao điểm của hai đường AD và đường AS (đường tổng cung). Sau đó, tổng cầu giảm, đường AD dịch chuyển song song sang trái thành đường AD' cắt đường AS ở điểm E'. E' là điểm cân bằng mới của nền kinh tế và so với điểm cân bằng cũ E, sản lượng và mức giá chung đều giảm. Phòng và chống giảm phát Để thoát khỏi tình trạng giảm phát, cần thực hiện chính sách tái khuếch trương tiền tệ thông qua các biện pháp như tăng lượng cung tiền, giảm thuế, hay điều chỉnh lãi suất.
Trần Thu Hà (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1977 tại Hà Nội), nghệ danh Hà Trần, là một ca sĩ và nhà sản xuất nhạc người Việt Nam. Cô nổi lên vào năm 2000 với ca khúc Sắc Màu và sau đó là album Nhật thực. Cô là con gái của NSND Trần Hiếu và NGƯT Vũ Thúy Huyền. Hà Trần là nghệ sĩ đã giành được 9 đề cử, xuất hiện trong danh sách những người được đề cử nhiều nhất và chiến thắng ở 4 hạng mục tại giải Cống hiến. Cô cũng được biết đến là một nghệ sĩ có trường phái nghệ thuật đa dạng và nhiều màu sắc, luôn tìm tòi, sáng tạo và thử nghiệm những phong cách mới trong âm nhạc. Hà Trần được công nhận là một trong bốn diva Việt Nam bên cạnh Thanh Lam, Hồng Nhung và Mỹ Linh. Thời thơ ấu Trần Thu Hà sinh ngày 26 tháng 8 năm 1977 tại Hà Nội. Cô sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, cha cô là ca sĩ, nghệ sĩ nhân dân Trần Hiếu, mẹ là nhà giáo ưu tú Vũ Thúy Huyền, nguyên trưởng khoa Thanh nhạc Nhạc viện Hà Nội, chú là nhạc sĩ Trần Tiến, anh họ được mệnh danh là "tay chơi đàn hay nhất Việt Nam" nhà sản xuất âm nhạc Trần Thanh Phương, ngoài ra 3 cô cháu gái Trần Hoàng Hà, Trần Ngân Hà và Trần My Anh (Marzuz) cũng đi theo sự nghiệp ca hát. Anh trai cô tên Trần Vũ Hoàng, đi theo nghiệp hội họa, về sau là Trưởng khoa Mỹ thuật, Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội. Thuở nhỏ, Hà rất thân thiết với người mẹ của mình, trong khi bố cô, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Hiếu, lại thường xuyên vắng nhà và không thực sự gần gũi với cô. Hà Trần gọi bố cô là "một người đàn ông vụng về trong những cư xử gia đình, xã hội". Dù vậy, về sau, khi đi theo nghiệp ca hát giống cha mình, cô đã có sự đồng cảm và gắn bó với bố mình hơn. Năm Trần Thu Hà 14 tuổi, mẹ cô qua đời. Sự mất mát đi người mẹ thân thiết đã ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của cô, và cho đến sau này khi lấy chồng, sinh con, Hà Trần vẫn chưa thoát khỏi nỗi cô đơn do sự ra đi quá sớm của mẹ. Hà Trần cũng thân thiết và hợp với người chú của mình - nhạc sĩ Trần Tiến, và đã chịu ảnh hưởng từ những chuyến phiêu lưu trong những bài hát du ca của ông. Lúc còn nhỏ, Hà Trần yêu thích nhiều thứ như làm thơ, viết văn, hội họa và sau cùng mới đến ca hát. Tuy nhiên, cô không có chất giọng bẩm sinh xuất sắc. Giọng hát của Hà mỏng, thiếu cá tính, khó định hình, và hay hát phô, do đó nên bố cô không muốn cô theo nghiệp ca hát mà muốn cô trở thành một giảng viên thanh nhạc giống mẹ. Tuy nhiên sau đó chính nghệ sĩ Trần Hiếu cũng nhận ra cá tính mạnh của con gái mình không hợp với nghề giáo, và do đó khuyến khích cô tập luyện để khắc phục những nhược điểm trong giọng hát của mình. Cô học múa ở Cung thiếu nhi Hà Nội năm 6 tuổi. Năm 8 tuổi, Hà bắt đầu học piano. Cho đến khi 10 tuổi thì cô lại thi vào hệ sơ cấp thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội. Năm 1995, sau khi tốt nghiệp trung cấp thanh nhạc, cô lại tiếp tục theo học và tốt nghiệp hệ Đại học khoa thanh nhạc Nhạc viện Hà Nội vào năm 2000. Trải qua nhiều năm tập luyện và rèn giũa, giọng hát của Hà đã có nhiều tiến bộ. Cô bắt đầu nhận được những giải thưởng đầu tiên: Giải trẻ triển vọng cuộc thi Giọng hát hay Hà Nội 1993; Giải nhất cuộc thi tiếng hát học sinh, sinh viên toàn quốc 1994; Huy chương vàng cuộc thi đơn ca các trường nghệ thuật toàn quốc 1994; Giải ba cuộc thi tìm kiếm tài năng trẻ Tiếng hát Vàng Anh do công ty Horitro (Nhật Bản) tổ chức năm 1995; Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam cho ca sĩ thể hiện xuất sắc nhất tác phẩm âm nhạc của Hội năm 1996. Năm 1997, cô bắt đầu đi vào con đường ca hát chuyên nghiệp. Sự nghiệp 1998–2000: Em về tinh khôi và Bài tình cho giai nhân Album đầu tiên cô thực hiện mang tên Đánh thức tầm xuân, hát chung với Bằng Kiều do Hãng phim Trẻ phát hành vào năm 1998, bao gồm sáng tác của các nhạc sĩ Dương Thụ, Bảo Chấn, Trần Tiến, Ngọc Châu và đã tạo được ấn tượng tốt với công chúng, đồng thời trở thành một trong những album bán chạy vào thời điểm đó. Năm 1999, Hà Trần phát hành album phòng thu đầu tay mang tên Em về tinh khôi, do nhạc sĩ Quốc Bảo đảm nhiệm vai trò biên tập và được Hãng phim Trẻ phát hành. Nhiều bài hát trong album này đã được công chúng yêu thích gây được nhiều tiếng vang như: "Em về tinh khôi", "Lời ru cho con", "Tóc gió thôi bay" và "Ngày em đến". Ngoài hai album trên, cô còn góp giọng ở nhiều album, băng đĩa nhạc khác như Môi hồng đào, Mội hồng đào 2, Môi hồng đào 3, Nghe mưa, Nghe mưa 2, Tình khúc Thanh Tùng, Tình khúc Thanh Tùng 2, Vừa biết dấu yêu, các album của nhạc sĩ Quốc Bảo như Ngồi hát ca bềnh bồng, Vàng son, cùng nhiều album và băng video khác. Cô đã được bầu vào top 10 ca sĩ được yêu thích trên sóng FM Làn sóng xanh liên tiếp các năm 1998–2001. Ngoài ra, Hà Trần còn xuất hiện trong các chương trình Duyên dáng Việt Nam, Đồng vọng bốn mùa, Dòng thời gian, Giải Mai Vàng. Năm 2000, cô phát hành album phòng thu thứ hai mang tên Bài tình cho giai nhân. Cũng giống như Em về tinh khôi, Bài tình cho giai nhân vẫn là sự kết hợp giữa cô và nhạc sĩ Quốc Bảo, gồm có các sáng tác của Trung Kiên, Trịnh Công Sơn, Dương Thụ, Nguyễn Bình, Vũ Quang Trung, Bảo Phúc, Tường Văn và Quốc Bảo. Sau album này cô kết thúc hợp đồng với hãng phim Trẻ và từ đó cũng đánh dấu một bước tiến mới trong sự nghiệp của cô. Cũng trong năm 2000, cô ra mắt album chung với nhạc sĩ Trần Tiến mang tên Tự họa. Album đã được thực hiện trong khoảng thời gian gần 2 năm, trong đó tất cả các bài hát đều là những sáng tác của Trần Tiến và được trình bày bởi cả hai người. Tháng 11 năm 2000, cô tham gia liveshow Chiều Hà Nội của nhạc sĩ Vũ Quang Trung, một nhạc sĩ được đánh giá có nhiều bài hát dành cho "cá tính" của Hà Trần. Trước đó, cô từng tham gia album nhạc jazz Lời ru mắt em của Vũ Quang Trung và Trần Mạnh Tuấn năm 1992, tuy không gây tiếng vang vào thời điểm phát hành nhưng bất ngờ được khán giả tìm mua lại vào thời gian này. Ngoài ra, trong thời gian này, cô cũng thu âm bài hát chủ đề cho rất nhiều bộ phim truyền hình như "Giọt nước mắt giữa hai thế kỷ", "Thiên đường trên cao" và "Lời chưa nói" (ca khúc phim Phía trước là bầu trời). 2001–04: Nhật thực và các album hợp tác Hà Trần và nhạc sĩ Ngọc Đại dự kiến đồng tổ chức một chuyến lưu diễn xuyên Việt mang tên Nhật thực và đồng thời cũng cho ra mắt album phòng thu thứ ba lấy tên Nhật thực trong năm 2002. Chương trình gồm có các sáng tác của nhạc sĩ Ngọc Đại phổ thơ Vi Thùy Linh được thể hiện bởi giọng hát của Hà. Ekip của chương trình gồm có: nhạc sĩ phối khí Đỗ Bảo, ca sĩ Minh Anh - Minh Ánh (nhóm 2M), biên đạo múa Quỳnh Lan, đạo diễn hình ảnh Việt Tú và họa sĩ sân khấu Trần Vũ Hoàng (anh trai Trần Thu Hà). Tháng 12 năm 2001, dự án mới của Hà Trần và nhạc sĩ Ngọc Đại mang tên Nhật thực gặp phải rắc rối khi Cục Nghệ thuật Biểu diễn ra lệnh đình chỉ vì lý do ca từ "trần tục qua mức" và đã "phạm vào không gian văn hóa âm nhạc của người Việt Nam". Vì lẽ đó dự án đã bị hoãn lại để cắt bỏ bài hát và sửa đổi ca từ; 2 bài hát bị cắt bỏ, Tự Tình và Mơ, là những bài hát mở đầu trong một chỉnh thể album concept và được xem là những bài hát có giai điệu đẹp; 2 bài hát bị sửa đổi ca từ là Cây nữ tu và Đừng hát tình ca du mục nữa. Sau những rắc rối trên chương trình đã được ra mắt vào tháng 4 năm 2002, sau đó là album Nhật thực cũng được phát hành vào tháng 5. Album Nhật thực ban đầu dự kiến gồm 9 bài hát, tuy nhiên hai bài hát "Mơ" và "Tự tình" bị loại bỏ nên danh sách bài hát chính thức chỉ còn 7 bài, trong đó bài "Cây nữ tu" phải sửa lời và đổi tên thành "Ảo ảnh". Nhật thực là một concept album, có nội dung kết cấu xuyên suốt từ đầu đến cuối, với 7 bài hát giống như 7 câu chuyện kể qua lời tâm sự của một cô gái đang yêu, những nghi ngại, tiếc nuối, day dứt, ám ảnh... Kể từ khi ra mắt, Nhật thực đã gây được tiếng vang lớn bởi thứ âm nhạc mới lạ về cả ca từ, giai điệu, phong cách trình diễn lẫn phối khí. Chương trình đã trở thành một hiện tượng âm nhạc đặc biệt trong năm 2002, đánh dấu sự đổi mới trong phong cách âm nhạc và nghệ thuật trình diễn. Điểm đặc biệt là sự ra đời của Nhật thực đã định hướng khán thính giả biết quan tâm nhiều đến phối khí và đẩy mạnh việc phát triển ê kip âm nhạc ở Việt Nam. Nhật thực cũng đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp âm nhạc của Hà Trần và cũng là bước ngoặt trong phong cách của cô: cá tính hơn, đa dạng hơn, tinh quái hơn. Cũng kể từ Nhật thực, vị trí trong làng nhạc của Hà Trần đã lên tới hàng diva, ngang tầm với 3 đàn chị đi trước là Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh. Tuy nhiên, ngay sau khi tổ chức, thì những rắc rối lại nảy sinh giữa những người thực hiện, cụ thể là bộ ba Ngọc Đại - Trần Thu Hà - Vi Thuỳ Linh. Kết quả là sau Nhật thực 1, Trần Thu Hà tuyên bố rút lui hoàn toàn. Ngọc Đại đã tiếp tục tổ chức Nhật thực 2 vào năm 2003, không có sự tham gia của cô và Vi Thuỳ Linh, mà thay bằng một dàn ca sĩ nổi tiếng như Thanh Lam, Hồ Quỳnh Hương, Linh Dung, Tùng Dương, Khánh Linh, Ngọc Khuê.. Tuy nhiên, cả chương trình biểu diễn và album (với giá đặc biệt chỉ 6000 đồng) đã không đạt được hiệu quả như Nhật thực 1. Tháng 10 năm 2002, Hà Trần biểu diễn cùng Mỹ Linh tại San Jose, California, Mỹ. Chương trình do tổ chức từ thiện Vnhelp thực hiện với mục đích gây quỹ giúp các học sinh nghèo. Ngoài những bài hát đã gắn với tên tuổi cô thì Hà còn thể hiện một số bài hát tiền chiến, trữ tình như Yêu (Văn Phụng), Hương xưa (Cung Tiến)... Cũng trong thời gian này, ban nhạc Bức Tường đã mời đích danh và duy nhất Hà Trần tham gia liveshow của họ nhưng Hà Trần đã không thể tham gia. Tháng 11 năm 2002, cô biểu diễn cùng ca sĩ nhạc jazz nổi tiếng người Anh Ian Shaw trong chương trình do Hội đồng Anh tổ chức và được đánh giá cao. Cô có hát một số bài hát dân ca ngẫu hứng với phần đệm của Ian Shaw. Năm 2003, cô hát trong album Bình yên của Quốc Bảo với những bài hát: Bình yên, Gió, Tình ca, Là yêu chưa từng yêu, Tình ơi. Bài hát Bình yên song ca với bố cô - Trần Hiếu - được công chúng yêu thích và đón nhận. Phần thu âm bài hát "Là yêu chưa từng yêu" của cô được nhạc sĩ Nhật Makoto Katoba đưa vào album "Hotel Vietnam". Tháng 4 năm 2003, cô xuất hiện trong liveshow thứ hai của Bức Tường với bài hát "Khám phá" làm bất ngờ nhiều rockfan có mặt tại liveshow đó. Tháng 8 năm 2003, cô được mời làm giám khảo cuộc thi Sao Mai khi cô mới 26 tuổi, giám khảo trẻ tuổi nhất trong lịch sử cuộc thi hát quy mô quốc gia này. Tháng 10 năm 2003, cô tổ chức liveshow trong chương trình Âm nhạc và những người bạn mang tên Sắc màu. Chương trình do Đài truyền hình Việt Nam thực hiện, được phát sóng trực tiếp trên VTV3 và có sự tham gia của Trần Hiếu, Trần Tiến, Thanh Lam, Phương Thanh, Ngọc Anh, nhóm 5 Dòng Kẻ. Năm 2004, cô hợp tác cùng đàn chị Thanh Lam cho ra mắt album Thanh Lam - Hà Trần, được phối khí bởi DJ Trí Minh (em trai Thanh Lam) và Trần Thanh Phương, một album có chút màu acoustic cùng electronic. Thanh Lam tham gia viết lời và nhạc cho một số bài hát của album. Trần Thu Hà song ca cùng Thanh Lam trong Ngẫu nhiên (Trịnh Công Sơn), Ngày anh đến (Trí Minh và Thanh Lam), Hát cùng em (Niels Lan Doky) và Giấc mơ (Quốc Bảo); hát đơn Sao đổi ngôi (Kim Ngọc), Trái tim lang thang (Thuận Yến, Thanh Lam, Hà Minh Đức) và Chạy trốn (Lê Minh Sơn). Cũng trong năm này, Trần Thu Hà cũng thể hiện 2 bài hát Cho tình yêu bay lên bồng bềnh và Để em mơ trong album Nghiêng nghiêng rừng chiều của nhạc sĩ Nguyễn Cường. Tháng 10 năm 2004, cô xuất hiện trong album Lời của giòng sông - Trịnh Công Sơn và tây ban cầm. Album có 4 bài độc tấu guitar cổ điển, 1 bài song tấu và 8 bài đơn ca trên nền nhạc đệm chủ yếu là guitar, trong đó Hà Trần hát 4 bài Tình xa, Tình nhớ, Mưa hồng, Xin trả nợ người. Cô kết hôn vào năm 2004 với một người Mỹ gốc Việt. Sau đó cô đã cùng chồng sang Mỹ sinh sống. 2004–06: Hà Trần 98–03 và Đối thoại 06 Kể từ khi chuyển sang sống ở Mỹ, cô bắt đầu đi hát trung tâm Thúy Nga và biểu diễn trong một số chương trình Paris by Night. Cô cũng là ca sĩ hát ru Bắc bộ dùng làm nhạc cho bộ phim điện ảnh Hạt mưa rơi bao lâu. Năm 2005, cô cho ra mắt album Hà Trần 98–03. Album bao gồm những bài hát quen thuộc đã được phối khí làm mới lại như: Mùa xuân gọi, Phố nghèo, Dòng sông mùa thu, Sắc màu, Chuyện tình thảo nguyên (Trần Tiến), Lời chưa nói (Xuân Phương - nhạc phim Phía trước là bầu trời), Mưa tháng giêng (Việt Hùng - Nguyễn Việt Chiến), Tình ca, Em về tóc xanh, Em về tinh khôi (Quốc Bảo), Hoa gạo (Ngọc Đại - Phan Huyền Thư). Album cũng được phát hành ở Mỹ với tên gọi Sắc màu – Tình ca do Thúy Nga phát hành và thêm 1 bài là "Tiến thoái lưỡng nan". Tháng 7 năm 2005, cô biểu diễn trong chương trình Miss Vietnamese USA. Tháng 11 năm 2005, cô tham gia chương trình Đêm thần thoại tưởng niệm cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Hãng phim Phương Nam tổ chức. Tháng 9 năm 2006, cô phát hành album phòng thu thứ năm mang tên Đối thoại 06. Album là sản phẩm hoàn chỉnh đầu tiên của Hà Trần Productions, công ty riêng của cô thành lập năm 2005. Đội ngũ thực hiện album bao gồm Hà Trần và nhóm cộng sự: nhạc sĩ Trần Tiến, Nguyễn Xinh Xô, Thanh Phương, Ben Doan (chồng cô), một số cộng sự người Mỹ như 2 kĩ sư âm thanh John Vestman và Max Neutra. Album được thu tại phòng thu Sound Matrix, được Viết Tân Studio phát hành. Sau đó album cũng được phát hành ở Mỹ, và cũng xuất hiện trên một số trang web mua bán online như CDBaby. Cái tên Đối thoại 06 được hiểu là một cuộc đối thoại giữa âm nhạc Đông và Tây, giữa âm nhạc dân gian và nhạc điện tử, giữa hai thế hệ nhạc sĩ trẻ - Nguyễn Xinh Xô - và già - Trần Tiến. Hoà âm mang đậm chất ambient/triphop/electronic, được hát trên nền những bài hát của Trần Tiến (Ra ngõ mà yêu, Bình nguyên xa vắng, Mưa bay tháp cổ, Lữ khách sông Hồng và Quê nhà - bài hát acoustic duy nhất) và Nguyễn Xinh Xô (Giấc mơ lạ, Nước sâu). Album còn có ba bản hoà tấu: Tiếng gọi (Ben Doan & Hà Trần), Quê nhà (biểu diễn Thanh Phương), Without (Ben Doan & Ha Tran). Sau khi phát hành, album trở thành một trong những tâm điểm của nhạc Việt trong năm. Album cũng thu hút sự quan tâm của dư luận và cũng nhận được nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Hà Trần đã nhận được giải Album của năm trong chuỗi giải thưởng âm nhạc Cống Hiến (Báo Thể thao Văn Hoá). Ngoài việc phát hành album Đối thoại 06, cô cũng xuất hiện trong album Giao khúc biển cả và núi đồi của nhạc sĩ Văn Tuấn Anh. 2007–08: Tình ca qua thế kỷ và Trần Tiến Năm 2007, cô xuất hiện trong một số chương trình của Paris by Night như các chương trình số 90, 89, 88, 85, 84, 83, 82. Cô song ca với Bằng Kiều trong album thứ tư của anh, Vá lại tình tôi, trong hai nhạc phẩm "Bây giờ tháng mấy" và "Cho quên thu đau thương". Cô đã làm giám khảo trong cuộc thi PBN Talent Show. Hà còn xuất hiện trong album của ca sĩ trẻ Hòa Trần khi song ca bài hát "Lời ru cho con". Cô cùng Thanh Lam và Tùng Dương hát trong album của nhạc sĩ Trần Viết Tân có tựa đề Biệt. Tháng 7 năm 2007, cô và hãng Thúy Nga phát hành album Tình ca qua thế kỷ. Album gồm có những tình khúc trữ tình, tiền chiến của Từ Công Phụng, Ngọc Bích, Đức Huy, Tùng Giang, Trịnh Công Sơn, Đoàn Chuẩn, Ngô Thụy Miên, Nguyễn Ánh 9, được phối khí bởi các nhạc sĩ Thanh Phương, Nguyễn Xinh Xô, Nguyễn Nhân, Shane Barber. Album có sử dụng một số bản thu đã được thể hiện trong chương trình Paris by Night trước đó như: Liên khúc Tình khúc tháng 6 và Đường xa ướt mưa - hát chung với Bằng Kiều, Cô đơn - Nguyễn Ánh 9, Giọt lệ thiên thu - hát với Khánh Ly, guitar Thanh Phương. Bài hát "Cô đơn" được cô thể hiện rất thành công và được nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đánh giá là một trong những người thể hiện đúng nhất. Album chỉ được phát hành tại thị trường hải ngoại. Năm 2008, Hà Trần Production phát hành album tác giả đầu tiên mang tên Trần Tiến. Ngoài Hà Trần, album còn có sự tham gia của Tùng Dương, Hòa T. Trần và David Trần. Ngoài tư cách là nhà sản xuất cho album, album này đã đánh dấu độ chín của giọng hát Hà Trần, đầy đặn và tinh tế, đồng thời vẽ chân dung tác giả Trần Tiến chân thực và khác biệt. Hà Trần đã vận dụng giọng hát của mình một cách khéo léo, giọng của cô được sử dụng như một nhạc cụ với lối hát tự nhiên cân bằng, ít phô diễn kỹ thuật. Album Trần Tiến được sắp xếp với ý tưởng xuyên suốt với các mảng màu và đề tài khác nhau nhằm khắc họa rõ nét tính cách Trần Tiến, điều tưởng chừng khó thực hiện được với chỉ một album. Tháng 9 năm 2008, cô tiếp tục tham gia album riêng thứ hai của nhạc sĩ Đỗ Bảo Thời gian để yêu. Hai bài hát Bài ca tháng 6 và Câu trả lời tưởng chừng là 2 bài hát khó nghe nhưng lại gây hào hứng cho người nghe ngay sau khi phát hành. bài hát Bài ca tháng 6 được cô thể hiện rất thành công và được nhạc sĩ Đỗ Bảo gọi là sự đồng cảm giữa người hát và người sáng tác. Cuối năm 2008, cô xuất hiện trong PBN95 với bài hát Ra ngõ mà yêu. Cả hai album đều được đề cử ở hạng mục Album của năm của Giải Cống Hiến, Thời gian để yêu đã giành chiến thắng sát nút Trần Tiến với cách biệt vẻn vẹn 6 phiếu bầu. 2009–11: Vi sinh, Mầm hạt, Thập kỷ yêu và cuộc sống hôn nhân Năm 2009 là một năm khá yên ắng với Hà Trần nói riêng và âm nhạc Việt Nam nói chung. Hà vẫn tham gia các chương trình Thuý Nga Paris By Night có chọn lọc tại Mỹ và trở về Việt Nam thực hiện một vài chương trình ca nhạc lớn như Khúc giao mùa, Bóng ai qua thềm, Duyên dáng Việt Nam 21... Tháng 12, 2009 bài hát "Diệp lục", do Bình Đoàn, Ý Nhi và Hà Trần sáng tác, tham dự Bài hát Việt và giành giải Khán giả bình chọn. Đây là bài hát viết về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên và nằm trong album Vi sinh. Tháng 3 năm 2010, Hatranproduction phát hành album Vi sinh (Minimal Beast) tại Mỹ. Đây là album riêng của nhóm nhạc Whodat, trong đó Hà Trần có thể hiện 4 bài hát bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Năm 2011 Hà Trần mang thai con gái đầu lòng. Tuy nhiên, không hề có sự "im hơi lặng tiếng" nào. Tháng 8, cô về nước và phát hành cùng lúc bộ sản phẩm gồm 2 album Vi sinh (Minimal Beast) và Mầm hạt (Seedhead) cùng tập thơ Thập Kỷ Yêu. Về 2 album, cô tham gia với tư cách nhà sản xuất, chơi nhạc cụ, hát bè và hát một số Bài hát. Vi sinh mượn không gian âm nhạc điện tử để chia sẻ những trăn trở về một xã hội văn minh. Mầm hạt là hành trình của một con người tự giải đáp những phức tạp của đời sống nội tâm để có thể tái sinh và tạo nên những mầm hạt mới. Còn Thập kỷ yêu lại là tập thơ gồm những bài thơ cô đã sáng tác trong vòng 20 năm, thơ của Hà Trần mang hơi thở hiện đại, giàu nhạc điệu và không khuôn thước. Hà Trần chia sẻ không ra mắt tập thơ không phải để nhận thêm "danh hiệu" nhà thơ mà chỉ để chia sẻ với những khán giả yêu mến mình những tâm tư và suy nghĩ của cô trong thời gian qua. Ngoài những bài thơ của ca sĩ, tập thơ còn được trình bày bởi Dzũng Yoko với những bức hình minh họa ẩn dụ và độc đáo. Tháng 9 năm 2011, Hà Trần tham gia chương trình Không Gian Âm nhạc do Đạo diễn Việt Tú thực hiện. Liveshow Đốt Lên Thành Lửa kết hợp giữa Hà Trần và ban nhạc Ngũ Cung với hơn 30 bài hát dự định sẽ là một bữa tiệc âm nhạc với 3 đêm liên tiếp. Tuy nhiên, do Hà đang mang thai ở tháng thứ 7 cộng với việc di chuyển liên tục khi về Việt Nam ra mắt bộ sản phẩm trên, cô đã bị cảm. Đêm diễn đầu tiên Hà bị mất giọng và chỉ cố gắng hát được một nửa chương trình. Lần đầu tiên trong lịch sử showbiz Việt, ban tổ chức liveshow trả lại tiền vé cho khán giả và dời lịch diễn sang 1 tuần sau đó. Bất chấp việc không thành công ở đêm diễn đầu tiên và những bình luận đầy ác ý của một số trang mạng và báo chí trong nước, Hà Trần đã trở lại, bùng nổ và chinh phục khán giả hoàn toàn ở 2 đêm diễn sau. Tháng 10 năm 2011, cư dân mạng dấy lên nghi ngờ vì sự giống nhau giữa hai bài hát "Princess of China" của Coldplay và Rihanna (phát hành năm 2011) và "Ra ngõ tụng kinh" (phát hành năm 2008). Với Princess of China, bìa đĩa của Coldplay đã ghi rõ bài hát này có sử dụng một đoạn nhạc bài Takk của Sigur Ros, còn Ra ngõ thì không có ghi thông tin gì. Không những vậy, báo chí còn tìm ra được nhiều đoạn nhạc trong Ra ngõ tụng kinh có điểm tương đồng với Shake Ya Tail feather của Nelly, P. Diddy và Murphy Lee (phát hành năm 2003) cùng với đoạn nhạc Đốn củi của thổ dân Tomahawk (Tomahawk Chop). Nhạc sĩ Thanh Phương, người phối nhạc Ra ngõ tụng kinh, khẳng định "chưa hề nghe qua những đoạn nhạc kể trên". Sự việc trở nên căng thẳng khi nhiều báo chí nước ngoài cũng đã lên tiếng về vụ việc này. Trong nước, bên cạnh những ý kiến ủng hộ Hà Trần cũng không ít những ký kiến và quan điểm đầy ác ý cho rằng cô đang lợi dụng sự kiện này để lấy danh tiếng. Vấn đề trở nên rắc rối và khó xác định vì bài "Takk" mà Coldplay sử dụng chỉ có dính đến phần background của Princess of China trong khi đó việc tương đồng rõ ràng với Ra Ngõ Tụng Kinh lại là đoạn hook và hòa âm. Sau khi một số bài báo đã phân tích kỹ lưỡng cho thấy sự giống nhau giữa Ra Ngõ Tụng Kinh và Princess of China và sự khác biệt của 2 bài hát này với Shake Ya Tail Feather và Tomahawk Chop Song, vụ việc lắng dần. Về phía Hà Trần, cô chính thức lên tiếng tháng 11 năm 2011 trên kênh Nguoivietonline tại Hải Ngoại. Theo thông tin trả lời phỏng vấn của Hà Trần, đại diện của ban nhạc Coldplay là Dave Holmes đã liên lạc với cô và khẳng định họ không đạo nhạc, việc giống nhau giữa hai bài hát là ngẫu nhiên. Về phía Hà Trần, cô cũng đã trả lời Dave Holmes rằng chưa hề có ý định kiện tụng và đang chuẩn bị sinh con nên không muốn có những phiền phức từ câu chuyện này. Tháng 12 năm 2011, Hà Trần sinh con gái đầu lòng và đặt tên là Nala Yến Đoàn. Nala Yến Đoàn lấy tên đệm Yến kỷ niệm dì Yến - người thay bà ngoại nuôi dạy mẹ từ tấm bé. Cái tên Nala mang nguồn gốc châu Phi có rất nhiều ý nghĩa đẹp, là 'nữ hoàng', 'sự thành công', 'con gái yêu' hay 'hoà bình' tùy theo thổ ngữ từng nước. Trong tiếng Swahili, Nala là thể hoàn thành của động từ 'ăn', có nghĩa là 'tôi đã ăn rồi'. Nala cũng là tên nhân vật nữ hoàng hổ vợ vua Simba trong phim hoạt hình Lion King - bộ phim yêu thích của chị Cua (cháu gái Hà trần) lúc nhỏ. 2012–14: Chuyện của mặt trời – Chuyện của chúng ta và Tình ca qua thế kỷ, Vol 2 Tháng 4 năm 2012, Hà Trần về nước tham gia Chương trình Lung linh Sắc Việt tại Đà Nẵng và có một Minishow tại phòng trà WE. Ngày 11 và 12 tháng 8 năm 2012, cô cùng Tấn Minh, Đinh Mạnh Ninh và Tô Minh Đức tham gia Liveshow Trần Tiến: "Như chờ từng giấc mơ" trong chuỗi Chương trình In the Spotlight của công ty Mỹ Thanh tổ chức. Sự trở lại của Hà Trần là đáng giá và cũng xứng đáng cho những gì khán giả chờ đợi trong thời gian dài cô hoạt động tại hải ngoại. Trước thời điểm diễn 5 ngày, vé đã hoàn toàn bán hết đêm đầu và 2/3 đêm thứ 2, điều này được lý giải vì sự vắng mặt quá lâu của diva hải ngoại, cũng như tên tuổi quá lớn của nhạc sĩ Trần Tiến, điều đảm bảo tuyệt đối thu hút khán giả đến xem. Tháng 12 năm 2012, Hà Trần và Hòa Trần đã tổ chức chương trình Tự Họa tại Mỹ để tri ân khán giả ở nước ngoài. Cũng trong thời gian này, Hà Trần tiếp tục tham gia Chương trình Mùa đông Concert cùng Bằng Kiều, Hồng Nhung và Tùng Dương. Những bản song ca của Hà Trần với Tùng Dương và Bằng Kiều đã trở thành những điểm nhấn của chương trình. Tháng 1 năm 2013, Hà Trần giới thiệu bài hát "Đôi tay mẹ" do nhạc sĩ Thanh Phương sáng tác và bài hát được khán giả đón nhận nhiệt tình, do đó Hà đã tham gia chương trình Bài hát yêu thích để trình diễn bài hát này. Tháng 3 năm 2013, Hà Trần giới thiệu bài hát Mẹ Tôi do nhạc sĩ Trần Tiến sáng tác, bài hát gây xúc động mạnh và nhanh chóng được đón nhận. Bài hát này cũng được tiến cử là bài hát của năm trong khuôn khổ Giải thưởng Cống Hiến 2013. Cũng trong tháng này, Hà tham gia đêm nhạc Thanh Tùng - Chuyện Tình Của Biển do Công ty Mỹ Thanh thực hiện. Trong đêm nhạc còn có sự tham gia của ca sĩ Tấn Minh, Uyên Linh và Đông Hùng. Điểm nhấn của chương trình còn nằm ở những màn kết hợp đã tai, đã mắt: Uyên Linh - Hà Trần với Em và tôi, tứ ca Uyên Linh - Hà Trần - Tấn Minh - Đông Hùng khoe giọng với Giọt sương trên mí mắt, Ngôi sao cô đơn và Hà Trần - Tấn Minh với Hoa tím ngoài sân Tháng 5 năm 2013, Hà Trần cùng nhạc sĩ Quốc Trung và ca sĩ Thanh Lam thực hiện chương trình Cầm tay mùa hè. Có thể nói Cầm tay mùa hè là dịp hiếm có để Hà thể hiện sở trường về nhạc điện tử. Đêm nhạc Cầm tay mùa hè có thể gọi là đêm của Hà Trần. Hà đã tạo ra một sắc màu không thể trộn lẫn, giọng hát tung tẩy, nhưng góc cạnh, tràn trề năng lượng. Cũng trong thời gian này, Hà Trần cùng người bạn thân Đỗ Bảo thực hiện album chung Cánh cung 3 với tên gọi Chuyện của mặt trời – Chuyện của chúng ta. Album được phát hành vào ngày 15 tháng 8 năm 2013 với quá trình 18 tháng thu âm sản xuất và 10 ngày hậu kỳ. Mặc dù album không được tổ chức họp báo để ra mắt chính thức nhưng Chuyện của mặt trời – Chuyện của chúng ta vẫn có được thành công lớn chuyên môn cũng như thương mại.  Album giúp Đỗ Bảo lần thứ 2 có được cú đúp tại giải Cống hiến vào năm 2014 với danh hiệu "Nhạc sĩ của năm" và "Album của năm". Về album này, Hà Trần chia sẻ: "Vì chỉ có hai người làm nên cảm xúc xuyên suốt, tương đối mạch lạc trong tư duy và cách thể hiện, bài hát nhiều màu sắc đa dạng phong phú, trên hết là một thái độ âm nhạc bình thản nhưng có trọng lượng. Tôi cho rằng đó là một điều rất thiếu hiện nay, tức là tạo ra những sản phẩm chuẩn mực, có chiều sâu, có nghề qua một cách nói đơn giản, không dùng chiêu trò, không hù doạ, không tô vẽ thêm...". Tháng 9 năm 2013, Hà Trần và Hòa Trần tiếp tục thực hiện Tự Họa tại Houston để gây quỹ cho trẻ em tỵ nạn và mồ côi vùng Hy Mã Lạp Sơn. Ngày 8 tháng 12 năm 2013, Hà Trần về nước tham gia Liveshow Cánh cung – Đỗ Bảo – Live in Hanoi kỷ niệm 20 năm sáng tác của người bạn thân Đỗ Bảo tại Cung văn hóa Hữu nghị Hà Nội. Trong liveshow này, Hà Trần có hát các Bài hát: Cầu Vồng Đêm Mưa, Bài Ca Cây Đàn, Đôi Giầy Lười, Đỉnh Núi Lãng Quên, Câu Trả Lời, Chuyện Của Mặt Trời - Chuyện Của Chúng Ta...Một phần của chương trình được Hà Trần và Đỗ Bảo tái hiện không lâu sau tại phòng trà We thành phố Hồ Chí Minh. Nối tiếp thành công của Liveshow Cánh Cung, Liveshow Chuyện Của Mặt Trời - Chuyện Của Chúng Ta dự định được tiến hành năm 2014 nhưng vì cả hai đều quá bận rộn với công việc riêng nên dự án này hoãn lại. Hà tham gia đều đặn các chương trình âm nhạc tại Việt Nam như Hương Tết Việt, Ru tình... Tháng 8 năm 2014, Hà cùng Tùng Dương thực hiện show Gọi yêu. Đặc biệt khán giả yêu quý Hà Trần không chỉ thấy ở cô sự nổi loạn, ngẫu hứng mà còn là một con người dễ xúc động, chân thành và giản dị. Trong liveshow, cô 2 lần khóc khi nhắc tới mẹ và những người bạn thân thiết trong nghề. Tháng 9 năm 2014, Hà trình diễn bài hát Bài Ca Hy Vọng trong chương trình Giai điệu tự hào và lập tức nổ ra cuộc tranh luận về cách trình bày khác biệt của cô. Tháng 10 năm 2014 Hà tham gia Monsoon Music Festival, phần trình diễn của Hà Trần được báo chí gọi là phần trình diễn đốt cháy sân khấu. Ngày 12/12 năm 2014, Hà Trần tái hợp với Ngũ Cung trong liveshow Cao nguyên đá. Ngày 18/12 năm 2014, Hà Trần phát hành album Tình ca qua thế kỷ, Vol 2. Không còn sắc lạnh và quái tính, Hà Trần trở nên nồng nàn, lãng mạn với Tình ca qua thế kỷ 2 - album mới nhất với những tình khúc của Lam Phương, Y Vân, Từ Công Phụng, Nguyễn Ánh 9, Cung Tiến, Anh Bằng… Hoàn toàn không còn thấy một Hà Trần rocker cháy hết mình trên sân khấu rockstorm với Bản nguyên chỉ vài ngày trước đó, Hà Trần biến hóa khiến người nghe nhạc ngạc nhiên về sự thay đổi quá đỗi nhanh chóng của cô. 14 bài hát quen thuộc nhưng không hề tạo màu sắc cũ kỹ. Ngược lại toàn bộ các track nhạc được hoà âm mới theo cách phong cách đa dạng: jazz, latin, semiclassic, acoustic... tươi mới và tràn đầy năng lượng. Có mặt tại họp báo ca sĩ Thanh Lam cho biết: "Với âm nhạc, nói nhiều thế nào cũng không đủ, nên tôi chỉ chia sẻ ngắn gọn bằng một từ: Quá hay!". Ở góc độ nghề nghiệp, Thanh Lam cho biết, chị vẫn luôn tin tưởng và kỳ vọng Hà Trần sẽ dồi dào sức sáng tạo với âm nhạc, dẫn đầu xu hướng mà không bị xuôi theo thị hiếu. 2015–20: Bóng tối Jazz và Bản nguyên Tháng 1 năm 2015 Hà tham gia biểu diễn tại chuỗi chương trình ca nhạc Rock Storm tại Đà Nẵng, Biên Hòa và Hà Nội để giới thiệu dự án Bản nguyên. Đây là dự án nhạc rock điện tử do Hà Trần phối hợp với nhạc sĩ Thanh Phương và Quốc Trung thực hiện trên nền tảng những bài hát do Dominik và Hoàng Quân viết.Không giống như các album khác, Bản Nguyên khi đi từ phòng thu lên sân khấu mà lại làm ngược lại, "trình diễn live trước rồi mới thu âm". Nữ ca sĩ chia sẻ: "Album này nó bị thực hiện ngược. Với Bản nguyên, chúng tôi đã đi tour trước sau đó mới vào làm việc trong phòng thu. Chúng tôi được thử lửa qua chương trình Rock Storm và lần này vào phòng thu thì nó đã khác đi rất nhiều". Cũng trong tháng 1 năm 2015, Hà Trần xuất hiện trong chương trình Tình Bolero của Đài Truyền hình Vĩnh Long và lại tiếp tục gây tranh cãi khi trình diễn bài hát "Xin thời gian qua mau" của Lam Phương khác lạ hoàn toàn so với những ca sĩ trước đây. Đồng thời, Hà Trần cùng Thanh Lam và Tùng Dương diễn trong chương trình Yêu tại Hà Nội. Tháng 3, 2015, Hà Trần tham gia đêm nhạc Để nhớ một thời với Bằng Kiều, Tấn Minh và Mỹ Linh. Đồng thời, Hà Trần cũng là đại sứ cho chiến dịch HeforShe, góp phần khuyến khích nam giới lên tiếng chống lại những bất bình đẳng mà phụ nữ và trẻ em gái phải đối mặt hàng ngày. Ngày 16 tháng 10 năm 2015, Hà Trần tổ chức buổi họp báo ra mắt Bóng tối Jazz, một sản phẩm cộng tác giữa Hà và nghệ sĩ Giáng Son, cùng với sự góp giọng của nam ca sĩ Tùng Dương. Cô cũng tham gia hai buổi giao lưu và ký tặng album cùng Giáng Son ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội lần lượt vào hai ngày 13 và 14 tháng 11 năm 2015. Cũng trong ngày 16 tháng 10 năm 2015, Hà Trần tổ chức buổi ký tặng đĩa đơn Bản nguyên Single tại Thành phố Hồ Chí Minh, đĩa đơn mở đầu cho quá trình quảng bá cho album Bản nguyên sắp ra mắt. Ngày 1 tháng 9, nhóm phát triển game Việt GOYA Studio đã tham gia Bluebird Award 2015 với ứng dụng Bản Nguyên Journey Lite. Chất liệu chính cho game là album nhạc rock của nhóm Bản Nguyên, nhóm đã gây bất ngờ tại RockStorm7 khi xuất hiện với là Hà Trần. Trong trò chơi, người chơi không chỉ cảm nhận Bản Nguyên trong từng nhịp điệu mà còn được phiêu lưu vào thế giới thị giác huyền ảo đầy mê hoặc được hình tượng hoá từ ý tưởng của những bài hát trong album. Hơn thế, người chơi còn được bước vào hành trình tìm kiếm bản nguyên của Hà Trần qua những miền đất sáng tạo. Cùng năm đó, dự án Bản Nguyên của Hà Trần hợp tác với bộ đôi tác giả Dominik & Hoàng Quân nhận được giải thưởng Album Xuất Sắc Nhất năm tại giải thưởng Cống Hiến (do Báo Thể Thao & Văn Hóa tổ chức). Hai tác giả lên sân khấu nhận giải thưởng thay cho Hà Trần do cô đang ở Mỹ không về nhận giải được. 2021–nay: Những con sông ngón tay - La cà hát ca Ngày 31 tháng 1 năm 2021, trong chương trình Ký ức vui vẻ, Hà Trần tiết lộ cô đã sáng tác được nửa album nhạc mới, trong đó có một bài phổ theo lời bài thơ cô từng viết và ba bài hát là sáng tác mới. Ngày 9 tháng 2 năm 2021, Hà Trần khởi động dự án âm nhạc của năm 2021, đồng thời xác nhận tên album phòng thu thứ bảy của mình sẽ là Những con sông ngón tay. Cô cũng cho biết album mới dự kiến sẽ bao gồm 12 bài hát là các sáng tác của hai tác giả Trần Đức Minh và Phan Lê Hà. Ngày 19 tháng 3 cùng năm, Hà Trần xác nhận Những con sông ngón tay sẽ phát hành trong tháng 8 năm 2021, với đĩa đơn đầu tiên mang tên "Mộng" được phát hành trước đó vào tháng 4. Video âm nhạc của "Mộng" cũng được ghi hình vào đầu tháng 3 năm 2021. Năm 2023, cô tham chương trình truyền hình thực tế "La cà hát ca" tại Nghệ An và Hà Tĩnh cùng với Ngô Kiến Huy, [Trung Quân]], Jun Phạm, Myra Trần, Blacka. Giọng hát Loại giọng: Light Lirico Soprano (Nữ cao trữ tình sáng mảnh) Quãng giọng: B2 ~ C6 ~ D6 (3 quãng tám 1 nốt 1 bán âm) Consist range: F#3/G3 ~ C5/C#5 ~ F#5 Hà Trần là người khởi đầu với một giọng hát mỏng yếu, âm sắc nhạt nhoà, chính cô cũng từng thừa nhận điều này: "So về giọng hát thì giọng hát bẩm sinh của tôi không thể đặc biệt, trù phú được như ba chị Thanh Lam, Hồng Nhung và Mỹ Linh, cho nên tôi phải lấy nhiều thứ khác bù vào". Và qua nhiều năm nỗ lực phấn đấu, học hỏi với nền tảng là một gia đình nghệ thuật, có thể nói Hà Trần bây giờ là một trong những ca sĩ có kỹ thuật thanh nhạc tốt nhất nhạc nhẹ Việt Nam. Cô luôn biết vận dụng những kỹ thuật lắt léo vào những bài hát mình thể hiện một cách tinh tế, không bị phô trương mà nghe rất dễ chịu.Trong nhạc nhẹ Việt Nam, Hà Trần là giọng nữ cao hiếm hoi có thể hát đẹp, thoải mái trên quãng trầm, và xuống được những nốt rất trầm trong quãng giọng. Thành công này không đến từ khả năng bẩm sinh mà nằm ở chính sự khổ luyện bền bỉ của cô. Bởi vậy, Diva Hà Trần vẫn luôn xứng đáng là tấm gương sáng cho các thế hệ ca sĩ đàn em học hỏi. Giải thưởng Giải trẻ triển vọng cuộc thi Giọng hát hay Hà Nội 1993. Giải nhất cuộc thi tiếng hát học sinh, sinh viên toàn quốc 1994. Huy chương Vàng cuộc thi đơn ca các trường nghệ thuật toàn quốc 1994. Giải ba cuộc thi tìm kiếm tài năng trẻ Tiếng hát Vàng Anh do công ty Horitro (Nhật Bản) tổ chức năm 1995. Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam cho ca sĩ thể hiện xuất sắc nhất tác phẩm âm nhạc của Hội năm 1996. Lọt vào top 10 ca sĩ được yêu thích trên Làn sóng xanh các năm 1998-2001. Giải Mai Vàng Nữ ca sĩ yêu thích nhất với bài hát Sắc màu năm 2000 Album Nhật Thực thực hiện cùng Ngọc Đại, Đỗ Bảo và Vi Thùy Linh được bầu chọn là sự kiện văn hóa tiêu biểu của năm 2002. Clip ca nhạc yêu thích của VTV - Bài hát tôi yêu với bài hát Chuyện tình thảo nguyên năm 2003. Đề cử hạng mục Album của năm tại Giải thưởng Cống hiến 2004 cho Thanh Lam - Hà Trần. Giải Album của năm tại Giải thưởng Cống hiến 2006 cho Đối thoại 06. Đề cử hạng mục Album của năm tại Giải thưởng Cống hiến 2008 cho Trần Tiến với Trần Tiến, Trần Thu Hà, Tùng Dương, Trần Thái Hòa, David Trần, Thanh Phương và Tran's Gang. Giải Album của năm tại Giải thưởng Cống hiến 2013 cho Chuyện của mặt trời – Chuyện của chúng ta với Đỗ Bảo và đề cử hạng mục Ca sĩ của năm. Giải Album của năm tại Giải thưởng Cống hiến 2015 cho Bóng tối Jazz với Giáng Sol và Tùng Dương và đề cử hạng mục Ca sĩ của năm. Giải Album của năm tại Giải thưởng Cống hiến 2016 cho Bản nguyên và đề cử hạng mục Ca sĩ của năm. Á quân chương trình Ca sĩ mặt nạ (mùa 1) với mascot Phượng Hoàng Lửa Danh sách đĩa nhạc Album phòng thu Album biên tập Album hợp tác Lời của giòng sông (2004) (với Thu Phương) Lệ buồn nhớ mi (với Quang Dũng, Nguyên Khang và Elvis Phương) Chuyện lạ tình em (với Bằng Kiều) Một ngày mùa đông (với Bằng Kiều) Đánh thức tầm xuân (1998) (với Bằng Kiều) Giấc mơ tuyệt vời (tình khúc Bảo Chấn) (1999) (với Bằng Kiều) Bên đời hiu quạnh (2000) (với Bằng Kiều) Vàng son - Tình khúc Quốc Bảo (2001) (với Hồng Nhung và Thu Phương) Thanh Lam & Hà Trần (2004) (với Thanh Lam) Chuyện của mặt trời – Chuyện của chúng ta (2013) (với Đỗ Bảo) Bóng tối Jazz (2015) (với Tùng Dương) Tình khúc Vũ Thành An: Tình khúc thứ nhất (2016) (với Quang Dũng) Album tự sản xuất Trần Tiến (2008) Vi sinh (2010) Mầm hạt (2011) Album tuyển tập Giọt mưa lung linh - với Lam Trường, Bằng Kiều, Phương Thanh, Phi Thúy Hạnh và Nhật Hào (1999) Đĩa đơn "Đôi tay mẹ" (2013) "Giấc mơ đã qua" (2015) "Bản nguyên (Đêm + Mặt nạ)" (2015) "Thiên đường nơi ta" (2016) "Mộng" (2021) Các phần trình diễn trên sân khấu Trung tâm Thúy Nga Chương trình Paris By Night Liveshow Thúy Nga Music Box Chú thích
Tứ hoằng thệ nguyện, tứ hoằng thệ nguyện là bốn lời thề nguyền của những người tu hành theo Bồ tát đạo thuộc về các tông phái Đại thừa. Tùy theo cách dịch, lời lẽ và thứ tự sắp xếp của các đại nguyện này có ít sai biệt nhưng hầu hết xoáy quanh bốn câu sau đây: 眾生無邊誓願度 Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ—Tức là Nguyện giải thoát vô số chúng sinh. 煩惱無盡誓願斷 Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn —Tức là Nguyện đoạn tuyệt với vô vàn phiền não 法門無量誓願學 Pháp môn vô lượng thệ nguyện học —Tức là Nguyện tu học Phật pháp nhiều vô lượng 佛道無上誓願成 Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành —Tức là Nguyện đạt thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác Những lời thệ nguyện trên cho thấy tính cực của Đại thừa Phật giáo. Đây cũng là một phương pháp để những người tu học thăng tiến và chế ngự tâm. Các thệ nguyện này cũng được dùng để phân biệt giữa cách tu hành Đại thừa và Tiểu thưà. 佛道無上誓願成 低請如來總守護 慈悲開悟停錯誤 出過論回生極樂 隨佛的腳擺妙道。 Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành Cúi xin Như Lai luôn thủ hộ Từ bi khai ngộ dứt lầm mê Ra khỏi luân hồi sanh cực lạc Theo bước Thế Tôn hiển đạo mầu. Cách viết của sư Liên Trì Trong tác phẩm "Tây Phương Phát Nguyện Văn Giản Chú", đại sư Liên trì có viết về Tứ hoằng thệ như sau: Tùng ư kim nhật, lập thâm thệ nguyện: viễn ly ác pháp, thệ bất cánh tạo; cần tu thánh đạo, thệ bất thối đọa; thệ thành Chánh Giác; thệ độ chúng sanh. Lời dịch của Lý Viên Tịnh: Từ nay trở đi, lập thệ nguyện sâu: xa lìa ác pháp, thề chẳng tạo nữa; siêng tu thánh đạo, thề chẳng lui đọa; thề thành Chánh Giác; thề độ chúng sanh Vế đầu tiên đồng nghĩa với "phiền não vô biên thệ nguyện đoạn". Vế thứ nhì đồng nghĩa với "pháp môn vô lượng thệ nguyện học". Vế thứ ba đồng nghĩa với "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Vế thứ tư đồng nghĩa với "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ". Lời thề nguyện của Tịnh độ tông Ngoài bốn thệ nguyện bồ tát trên, Tịnh độ tông do đặc trưng của tông phái là nguyện vãn sinh Tịnh Độ nên có thêm một nguyện lớn là: Nguyện sinh Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Bản Tụng niệm của Gia đình Phật tử Nhằm cho các Đoàn sinh dễ hiểu, Tứ hoằng Thệ nguyện được Gia đình Phật tử biên soạn lại với tên gọi là Bốn lời nguyện (lớn), được đọc sau khi niệm hồng danh các vị Phật, Bồ Tát, trong Nghi thức Tụng niệm đầu buổi sinh hoạt hoặc ở các Lễ, Trại mạc của GĐPT. Chúng sanh không số lượng, thề nguyện đều độ khắp. Phiền não không cùng tận, thề nguyện đều dứt sạch. Pháp môn không kể siết, thề nguyện đều tu học. Phật đạo không gì hơn, thề nguyện được viên thành. Chú thích
Đặc trưng lưu lượng, hay còn gọi là mô đun lưu lượng của một mặt cắt lòng dẫn là đại lượng đặc trưng cho khả năng chuyển nước của lòng dẫn đó. Đặc trưng lưu lượng bằng lưu lượng của dòng chảy đều trong lòng dẫn đó ứng với độ dốc thủy lực bằng đơn vị. Công thức trong đó: K là đặc trưng lưu lượng Q là lưu lượng J là độ dốc thủy lực Thứ nguyên của K là [L3 T −1], cùng thứ nguyên với lưu lượng Đơn vị thường dùng: m³/s hoặc lit/s
Dòng chảy đều là dòng chuyển động của chất lỏng trong lòng dẫn lăng trụ với đặc trưng của dòng chảy không đổi dọc theo lòng dẫn. Theo đó tại hai vị trí bất kì (1 và 2) trên lòng dẫn, ta có: Lưu lượng chảy qua hai mặt cắt bằng nhau () Độ sâu dòng chảy bằng nhau () Vận tốc dòng chảy bằng nhau () Trong dòng chảy đều, đường mặt nước sẽ song song với đường đáy lòng dẫn. Điều đó có nghĩa là trọng lực của khối nước cân bằng với lực ma sát đáy. Nói cách khác, độ dốc đáy kênh (S0) và độ dốc ma sát (Sf) bằng nhau: Dòng chảy đều hoàn toàn không bao giờ xảy ra trong thực tế. Khi lưu lượng cung cấp là gần như không đổi và kênh dẫn đều đặn, có độ dốc thoải tương đối ổn định thì trong lòng kênh gần đạt được dòng chảy đều. Khi đó, việc giả thiết dòng chảy đều có lợi vì ta có thể dùng các phương trình đơn giản để tính toán. Xem chi tiết: Bài toán thiết kế kênh dẫn
Độ dốc thủy lực là đại lượng vật lý đặc trưng cho mức độ giảm sút năng lượng của dòng chảy dọc theo lòng dẫn, và được xác định bởi tỉ số giữa chênh lệch năng lượng dòng chảy ở hai đầu đoạn lòng dẫn và chiều dài đoạn lòng dẫn đó. Các lòng dẫn có độ nhám lớn, hoặc nhiều thay đổi về mặt cắt thì càng tiêu hao năng lượng dòng chảy và do đó có độ dốc thủy lực lớn. Công thức trong đó: J là độ dốc thủy lực dE = E2 - E1 là chênh lệch năng lượng của dòng chảy (tính theo chiều cao cột nước) giữa hai mặt cắt (mặt cắt cuối, số 2 và mặt cắt đầu, số 1). là chiều dài đoạn lòng dẫn giữa hai mặt cắt 1 và 2. Dấu trừ được đưa vào để đảm bảo J có giá trị dương do dE < 0 (năng lượng dòng chảy luôn bị tiêu hao). E và được tính theo cùng đơn vị và J là đại lượng không thứ nguyên.
LaTeX ( hoặc ), cách điệu trong hệ thống là là một hệ thống phần mềm để soạn thảo tài liệu. Khi viết, người viết sử dụng văn bản thuần túy thay vì văn bản có định dạng có trong các trình soạn thảo văn bản "What You See Is What You Get" như Microsoft Word, LibreOffice Writer và Apple Pages. Người viết sử dụng các quy ước gắn thẻ ngôn ngữ đánh dấu để xác định cấu trúc chung của tài liệu (chẳng hạn như bài báo, sách và thư), để cách điệu văn bản trong toàn bộ tài liệu (chẳng hạn như in đậm và in nghiêng) và thêm trích dẫn và tham chiếu chéo. Các bản phân phối của TeX như TeX Live hoặc MikTeX được sử dụng để tạo tệp đầu ra (chẳng hạn như PDF hoặc DVI) phù hợp để in hoặc phân phối kỹ thuật số . LaTeX được sử dụng rộng rãi trong học viện để truyền thông và xuất bản các tài liệu khoa học trong nhiều lĩnh vực, bao gồm toán học, thống kê, khoa học máy tính, kỹ thuật, vật lý, kinh tế học, ngôn ngữ học, tâm lý học định lượng, triết học và khoa học chính trị. Nó cũng có một vai trò nổi bật trong việc chuẩn bị và xuất bản các sách và bài báo chứa các tài liệu đa ngôn ngữ phức tạp, chẳng hạn như tiếng Phạn và tiếng Hy Lạp. LaTeX sử dụng chương trình sắp chữ TeX để định dạng đầu ra của nó và bản thân nó được viết bằng ngôn ngữ macro TeX. LaTeX có thể được sử dụng như một hệ thống chuẩn bị tài liệu độc lập hoặc như một định dạng trung gian. Ví dụ, ở vai trò thứ hai, nó đôi khi được sử dụng để dịch DocBook và các định dạng dựa trên XML khác sang PDF. Hệ thống sắp chữ cung cấp các tính năng xuất bản trên máy tính để bàn có thể lập trình và các phương tiện mở rộng để tự động hóa hầu hết các khía cạnh của việc sắp chữ và xuất bản trên máy tính để bàn, bao gồm đánh số và tham chiếu chéo các bảng và hình, tiêu đề chương và phần, bao gồm đồ họa, bố cục trang, lập chỉ mục và thư mục. Giống như TeX, LaTeX bắt đầu như một công cụ soạn thảo cho các nhà toán học và khoa học máy tính, nhưng ngay từ khi mới phát triển, nó cũng đã được các học giả sử dụng, những người cần viết các tài liệu bao gồm các biểu thức toán học phức tạp hoặc các chữ viết không phải Latinh, chẳng hạn như tiếng Ả Rập, Devanagari và tiếng Trung. LaTeX nhằm cung cấp một ngôn ngữ đánh dấu mô tả, cấp độ cao giúp tiếp cận giá trị của TeX theo cách dễ dàng hơn cho người viết. Về bản chất, TeX xử lý mặt bố cục, trong khi LaTeX xử lý mặt nội dung để xử lý tài liệu. LaTeX bao gồm một bộ sưu tập các macro TeX và một chương trình để xử lý tài liệu LaTeX và vì các lệnh định dạng TeX thuần túy là cơ bản, nó cung cấp cho tác giả các lệnh sẵn sàng cho các yêu cầu về định dạng và bố cục như tiêu đề chương, chú thích cuối trang, tham chiếu chéo và thư mục . LaTeX ban đầu được viết vào đầu những năm 1980 bởi Leslie Lamport tại SRI International. Phiên bản hiện tại là LaTeX2e (cách điệu là LaTeX2ε ). LaTeX là phần mềm miễn phí và được phân phối theo Giấy phép Công cộng Dự án LaTeX (LPPL). Ví dụ Ví dụ dưới đây cho thấy đầu vào LaTeX và đầu ra tương ứng: Lưu ý phương trình cho (được đánh dấu trong mã ví dụ) đã được sắp thẳng hàng dấu bằng bởi đánh dấu: E &= \frac{mc^2}{\sqrt{1-\frac{v^2}{c^2}}} trong đó căn bậc hai được biểu thị bằng "\sqrt{đối số}" và các phân số là "\frac{tử số}{mẫu số}". Phần mềm Trình soạn thảo Có thể soạn thảo và chỉnh sửa với bất kỳ trình soạn thảo nào và biên dịch bằng câu lệnh, tuy nhiên cũng có một số phần mềm chuyên dụng dành cho soạn thảo, bắt lỗi cú pháp, và biên dịch như: Texmaker, TeXworks, TeXstudio dành cho hầu hết các hệ điều hành GNOME LaTeX, Setzer, Kile dành cho GNU/Linux và BSD WinEdt, WinShell, TeXnicCenter dành cho hệ điều hành Windows Trình soạn thảo trực tuyến: Overleaf, CoCalc, Fidus Writer. Các tiện ích: AUCTeX dành cho Emacs, vim-latex dành cho Vim, LaTeX Workshop dành cho Visual Studio Code Soạn thảo tiếng Việt Hiện nay đa số các chương trình dịch đều hỗ trợ biên dịch đa ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt. Có thể sử dụng bảng mã Unicode cho định dạng tập tin soạn thảo. Biên dịch và xuất bản Các gói phân phối phần mềm như TeX Live, MacTeX và MiKTeX đều hỗ trợ biên dịch bằng các công cụ thông dụng hiện nay pdfTeX, LuaTeX, XeTeX. Cả ba công cụ này đều hỗ trợ Unicode và biên dịch các tập tin có chứa ngôn ngữ tiếng Việt. pdfTeX có thể biên dịch trực tiếp ra định dạng PDF. Tuy nhiên, pdfTeX đã ngưng phát triển và đang dần thay thế bởi LuaTeX hay XeTeX. LuaTeX hỗ trợ soạn thảo và thông dịch các câu lệnh viết bằng ngôn ngữ Lua. Tuy nhiên trình biên dịch này chậm hơn so với pdfTeX và XeTeX. XeTeX hỗ trợ soạn thảo và biên dịch trực tiếp bằng đa ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt. Trình biên dịch này có thể biên dịch ra định dạng PDF thông qua bước biên dịch trung gian dưới định dạng DVI bằng công cụ xdvipdfmx, hỗ trợ đa nền tảng.
Khái niệm dòng chảy ổn định được dùng để chỉ trạng thái chuyển động của một môi trường chất lưu mà trạng thái chuyển động của nó không thay đổi theo thời gian. Chúng ta thường gặp các thuật ngữ tương đương như dòng chảy tĩnh, dòng chảy dừng, dòng chảy đã được thiết lập. Đối với một hệ khí động lực học chẳng hạn, các thông số khí động là các hàm số chỉ phụ thuộc vào tọa độ không gian, mà không phụ thuộc vào thời gian. Gọi vecto là vecto các thông số đặc trưng của hệ. Khi đó đạo hàm riêng của theo thời gian sẽ bằng không: Đối với môi trường liên tục không nhớt, không nén được, hệ phương trình mô tả trạng thái thường là hệ phương trình Euler. Các thông số khí động thường sử dụng gồm có các thành phần vận tốc u, v, w, mật độ , áp suất p. Ở chế độ chảy ổn định các thông số khí động này là các hàm chỉ phụ thuộc vào tọa độ không gian (và có thể là các tham số khác), nhưng không phụ thuộc vào thời gian. Theo đó mà các đại lượng thứ sinh (thu được từ các đại lượng trên qua các hệ thức liên hệ) như nhiệt độ T, entropy S, enthalpy H,... cũng là các hàm không phụ thuộc thời gian. Trên thực tế rất ít khi gặp dòng chảy ổn định. Trong môi trường chất lưu các thông số của hệ luôn có những xung nhiễu nhất định. Chúng thường là ngẫu nhiên, không xác định và thay đổi theo thời gian. Hiện tượng chảy ổn định cũng chỉ là trường hợp hạn hữu. Đa phần các dòng chảy của chất lỏng, khí, plasma trong tự nhiên thường liên quan đến các hiện tượng chảy rối, xoáy, nhiễu,... Ví dụ Một hệ thống dòng chảy trong ống với lưu lượng nước cấp không đổi sẽ có trạng thái dòng chảy ổn định (lưu ý là trong trường hợp vận tốc chảy khá nhỏ). Trong sông ngòi, dòng chảy ổn định thường xảy ra trong mùa khô; về mùa mưa lũ nói chung không có dòng chảy ổn định. Dòng chảy ổn định và dòng chảy đều trong kênh Thực tế dòng chảy đều luôn bao hàm luôn cả tính ổn định. Vì vậy, một dòng chảy chỉ thuộc một trong ba loại sau: Dòng chảy đều (ổn định) Dòng chảy không đều, nhưng ổn định Dòng chảy không ổn định (không đều) Những nhân tố ảnh hưởng tới dòng chảy Có nhiều nhân tố ảnh hưởng: Độ dốc hoặc thẳng đứng: Nếu dòng chảy càng nghiêng nhiều từ 0o đến 900 dòng chảy của chất lỏng càng mạnh Chiều rộng: Nếu dòng chảy có chiều rộng quá lớn dòng chảy sẽ nhỏ nhưng nếu dòng chảy có chiều rộng nhỏ thì tốc độ dòng chảy càng nhanh Tốc độ dòng chảy: Nếu dòng chảy có tốc độ lớn (Số Reynolds cao), sự ổn định của dòng chảy bị phá vỡ Điều kiện biên: Nếu dòng chảy có tiếp xúc với các vật chắn là các mặt rắn, hoặc các mặt chất lỏng khác,... thì yếu tố chuyển động của dòng chảy cũng phụ thuộc nhiều vào những vật cản này
Chủ nghĩa kinh nghiệm hay chủ nghĩa duy nghiệm (tiếng Anh: Empiricism) là một khuynh hướng lý thuyết về tri thức triết học với đặc điểm nhấn mạnh vai trò của trải nghiệm. Trải nghiệm có thể được hiểu là bao gồm tất cả các nội dung của ý thức hoặc nó có thể được giới hạn trong dữ liệu của các giác quan mà thôi. Chủ nghĩa kinh nghiệm nhấn mạnh đến các khía cạnh của tri thức khoa học có quan hệ chặt chẽ với trải nghiệm, đặc biệt khi được tạo ra qua các sắp đặt thử nghiệm có chủ ý. Một yêu cầu căn bản của phương pháp khoa học là tất cả các giả thuyết và lý thuyết đều phải được kiểm nghiệm bằng các quan sát về thế giới tự nhiên thay vì chỉ dựa trên lập luận tiên nghiệm, trực giác, hay mặc khải. Do đó, về bản chất, khoa học được xem là theo lối kinh nghiệm một cách có phương pháp. Tổng quan về chủ nghĩa kinh nghiệm trong triết học Học thuyết đầu tiên về chủ nghĩa kinh nghiệm được phát biểu một cách tường minh bởi John Locke vào thế kỷ XVII. Locke cho rằng tâm thức là một tabula rasa (tấm bảng sạch) trước khi các trải nghiệm lưu dấu vết của mình lên đó. Chủ nghĩa kinh nghiệm như của Locke phủ nhận rằng con người có các ý niệm bẩm sinh hay cái gì đó nhận biết được mà không phải tham chiếu tới trải nghiệm. Chủ nghĩa kinh nghiệm không cho rằng ta có được các tri thức kinh nghiệm một cách tự động. Thay vào đó, theo quan điểm của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, để cho một tri thức bất kỳ có thể được suy luận hoặc suy diễn một cách đúng đắn, tri thức đó phải bắt nguồn từ trải nghiệm giác quan của ta. Về mặt lịch sử, chủ nghĩa kinh nghiệm triết học thường được đặt đối lập với trường phái tư tưởng được gọi là "chủ nghĩa duy lý", trường phái này khẳng định rằng nhiều tri thức có thể quy cho lý tính một cách độc lập với các giác quan. Tuy nhiên, ngày nay, sự đối lập này được xem là một sự đơn giản hóa quá mức về các vấn đề có liên quan, vì các nhà duy lý lục địa quan trọng (Descartes, Spinoza và Leibniz) cũng đã ủng hộ các "phương pháp khoa học" theo lối kinh nghiệm vào thời của họ. Hơn nữa, về phần mình, Locke cho rằng có một số tri thức (chẳng hạn tri thức về sự tồn tại của Chúa trời) chỉ có thể đạt được bằng trực giác và lập luận mà thôi. Một số triết gia quan trọng được cho là có quan hệ với chủ nghĩa kinh nghiệm bao gồm Aristotle, Thomas Aquinas, Francis Bacon, Thomas Hobbes, John Locke, George Berkeley, David Hume, và John Stuart Mill. Lịch sử Các hình thức sơ khởi của chủ nghĩa kinh nghiệm Các hình thức sơ khởi của chủ nghĩa kinh nghiệm bao gồm các công trình nghiên cứu về nhận thức luận của một số nhà triết học, trong đó có Aristotle, Thomas Aquinas và Roger Bacon. Có lẽ các nhà triết học kinh nghiệm đầu tiên của triết học phương Tây là các Sophist (Ngụy Biện Gia) (khoảng thế kỷ 2 trước CN), họ đã phủ nhận các suy đoán duy lý về bản chất của thế giới (mà đã rất phổ biến trong các vị tiền bối của họ) để tập trung vào "những thực thể tương đối cụ thể hơn chẳng hạn như con người và xã hội". Các Ngụy Biện Gia đã viện đến các luận cứ hoài nghi ngữ nghĩa, sử dụng các ví dụ mà người khác có thể dễ dàng thấy được để làm suy yếu các tuyên bố của lý tính thuần túy. Khoảng một thế kỷ sau đó, phản ứng chống lại cách tiếp cận duy lý và hết sức suy đoán của Plato (427–347 TCN), trong những năm cuối đời, Aristotle (384–322 TCN) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của những gì các giác quan thu nhận được, nghĩa là nhấn mạnh vào các quan sát hậu nghiệm. Aristotle dùng thuật ngữ triết học tự nhiên để gọi nhiệm vụ tìm hiểu thế giới tự nhiên, sử dụng cái mà sau này đã được biết với tên lập luận quy nạp (inductive reasoning) để đi đến các phạm trù và nguyên lý dựa trên dữ liệu giác quan. Cách tiếp cận này đã đối ngược sâu sắc với lý thuyết hình thức của Plato - lý thuyết phụ thuộc rất lớn vào các giả thuyết tiên nghiệm (xem chú thích trên). Trong các thời kỳ "giữa" và "sau" của mình, Aristotle ngày càng không đồng ý với các quan niệm của Plato và phát triển một sự kỳ vọng ngày càng chặt chẽ về các khẳng định tường minh bằng thực nghiệm cho tất cả các kết luận từ quy nạp. Aristotle còn khẳng định nguyên lý cốt lõi của chủ nghĩa kinh nghiệm rằng tri thức của con người về thực tại được đặt nền móng bằng trải nghiệm từ các giác quan. Một thế hệ sau Aristotle, cả các nhà triết học Khắc kỷ (Stoic) và Hưởng lạc (Epicurean) đều thiết lập các giải thích tường minh hơn theo kiểu kinh nghiệm về sự hình thành của các ý niệm và khái niệm. Đi trước Locke hàng nghìn năm, các nhà triết học khắc kỷ tuyên bố rằng tâm thức con người là một tấm bảng trắng trơn mà sau đó sẽ được xếp đầy các ý niệm từ các tri giác giác quan. Tuy nhiên, họ còn khẳng định rằng có một số "khái niệm chung" nhất định có sẵn trong tâm thức của tất cả mọi người một cách tiên nghiệm. Các nhà triết học theo thuyết hưởng lạc có một quan điểm hậu nghiệm kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa còn mạnh hơn nữa. Đối với họ, các khái niệm thần kinh là các hình ảnh ký ức hoặc các bản sao của các trải nghiệm giác quan trước đó, và các cảm giác luôn luôn là các bằng chứng tốt về các nguyên nhân của các cảm giác đó. Trong các nhà triết học kinh viện, Thomas Aquinas thu nhận từ Aristotle tiên đề triết học nổi tiếng: "Không có gì trong trí tuệ mà nó không đến đầu tiên từ các giác quan". Aquinas lý luận rằng sự tồn tại của Chúa trời có thể được chứng minh bằng lập luận từ dữ liệu giác quan. Ông sử dụng một biến thể của khái niệm của Aristotle về "trí tuệ chủ động" (active intellect) mà ông giải nghĩa là khả năng trừu tượng hóa ý nghĩa phổ quát từ dữ liệu kinh nghiệm cụ thể. Chủ nghĩa kinh nghiệm Anh Các khái niệm sơ khởi về sự tồn tại của "các ý niệm bẩm sinh" đã là chủ đề của cuộc tranh luận giữa các nhà duy lý lục địa và các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa Anh trong suốt thời gian từ thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 18. John Locke, George Berkeley, và David Hume đã là những người diễn giải chính của chủ nghĩa kinh nghiệm. Phản ứng lại "chủ nghĩa duy lý" lục địa mà người bảo vệ xuất chúng nhất là René Descartes (một cách tiếp cận triết học mà không nên nhầm lẫn với chủ nghĩa duy lý nói chung), John Locke (1632-1704), trong cuốn Luận về hiểu biết của con người (An Essay Concerning Human Understanding) năm 1689, đã đề xuất một quan điểm mới mẻ và có tầm ảnh hưởng rất lớn, trong đó nói rằng tri thức duy nhất mà con người có thể có là tri thức hậu nghiệm, nghĩa là dựa trên các trải nghiệm. Người ta ghi nhận Locke với khẳng định của ông rằng tâm thức con người là một tabula rasa, một "cái bảng trống trơn", trong lời của Locke là "trang giấy trắng," mà viết trên đó là các trải nghiệm rút ra từ các ấn tượng giác quan khi cuộc đời của một con người tiến triển. Có hai nguồn cho các ý niệm của chúng ta: cảm giác và suy tưởng. Trong cả hai trường hợp, ông phân biệt giữa các ý niệm đơn và các ý niệm phức. Các ý niệm đơn không thể phân tích được, và được phân ra thành các tính chất sơ cấp và thứ cấp. Các ý niệm phức là kết hợp của các ý niệm đơn giản hơn và được chia thành các chất, các dạng thức và các quan hệ. Theo Locke, tri thức của ta về sự vật là một tri giác về các ý niệm hợp nhau hay không hợp nhau, điều này rất khác với câu hỏi của Descartes về tính xác tín. Một thế hệ sau, giám mục người Ireland George Berkeley (1685-1753) xác định rằng quan niệm của Locke đã mở ngay một cánh cửa mà cuối cùng sẽ dẫn tới chủ nghĩa vô thần. Để phản ứng lại Locke, trong cuốn "Luận về các nguyên lý của tri thức con người" (Treatise Concerning the Principles of Human Knowledge) năm 1710, ông đã đề xuất một hình thức khác rất cực đoan của chủ nghĩa kinh nghiệm, trong đó sự vật chỉ tồn tại do chúng đang được tri giác hoặc bởi thực tế rằng chúng là các thực thể đang thực hiện việc tri giác. (Đối với Berkeley, Chúa trời thực hiện công việc tri giác giúp con người mỗi khi con người không ở quanh một sự vật để làm việc đó. Nhờ đó mà sự vật có thể tồn tại mà không cần lúc nào có người đang nhìn/nghe/ngửi/sờ thấy nó.) Trong tác phẩm Alciphron, Berkeley đã khẳng định rằng bất cứ trật tự nào mà con người có thể nhìn thấy trong thiên nhiên đều là ngôn ngữ hay chữ viết tay của Chúa trời. Sau này, cách tiếp cận của Berkeley đối với chủ nghĩa kinh nghiệm đã được gọi là chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Nhà triết học người Scotland David Hume (1711-1776) đã bổ sung vào quan điểm của chủ nghĩa kinh nghiệm một chủ nghĩa hoài nghi cực đoan mà ông đem đến để chống lại các luận cứ và phản luận đã được chất đống lại của các nhà triết học khác, trong đó có Descartes, Locke và Berkeley. Hume lý luận trên quan điểm gìn giữ quan niệm kinh nghiệm chủ nghĩa rằng mọi tri thức đều bắt nguồn từ trải nghiệm giác quan. Cụ thể, ông phân chia tất cả các tri thức của con người thành hai loại: các quan hệ của ý niệm và sự kiện thực tế. Các mệnh đề toán học và lôgic (chẳng hạn, "bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh góc vuông") là các ví dụ của các quan hệ của ý niệm, còn các mệnh đề có liên quan đến quan sát nào đó về thế giới (chẳng hạn, "ngày mai mặt trời sẽ mọc") là các ví dụ của sự kiện thực tế. Lần lượt, tất cả các "ý niệm" của một người được rút ra từ các "ấn tượng" của người đó. Đối với Hume, một "ấn tượng" gần như tương ứng với cái mà ta gọi là một cảm giác. Khi ghi nhớ hoặc hình dung các ấn tượng như vậy là khi ta có một "ý niệm". Do đó, ý niệm là bản sao mờ nhạt của cảm giác. Qua các luận cứ hoài nghi (các luận cứ này đã trở nên nổi tiếng bởi lôgic khó quên của chúng), Hume đã khẳng định rằng tất cả các tri thức, ngay cả các niềm tin cơ bản nhất về thế giới tự nhiên, không thể được thiết lập một cách chắc chắn bởi lý tính. Thay vào đó, ông khẳng định rằng, các niềm tin của ta chẳng qua là kết quả của các thói quen tích lũy, chúng được phát triển để đáp ứng với các trải nghiệm giác quan được tích lũy. Bên cạnh nhiều luận cứ của mình, Hume còn bổ sung một thiên kiến quan trọng cho cuộc tranh luận về phương pháp khoa học — đó là vấn đề quy nạp. Hume lý luận rằng ta cần đến lập luận quy nạp để đi đến các tiền đề cho nguyên lý của lập luận quy nạp, và do đó sự biện minh cho lập luận quy nạp là một luận cứ vòng tròn. Một trong các kết luận của Hume về vấn đề quy nạp là: không có sự chắc chắn rằng tương lai sẽ giống quá khứ. Do đó, một ví dụ của Hume, ta không thể dùng lập luận quy nạp để biết chắc chắn rằng mặt trời sẽ tiếp tục mọc ở phía Đông, mà thay vào đó, ta trông đợi nó sẽ như vậy bởi vì trong quá khứ nó đã liên tục như vậy. Hume kết luận rằng những thứ như niềm tin vào một thế giới bên ngoài và niềm tin vào sự tồn tại của bản thân không thể được chứng minh bằng lý luận. Theo Hume, những niềm tin này tuy vậy vẫn được chấp nhận vì chúng có cơ sở vững chắc trong trực quan và truyền thống. Tuy nhiên, di sản trường tồn của Hume là mối nghi ngờ mà các luận cứ hoài nghi của ông phủ lên tính hợp lệ của lập luận quy nạp, nó cho nhiều người hoài nghi sau ông mối nghi ngờ tương tự. Hiện tượng luận Đa số những người theo học thuyết của Hume đã không đồng ý với kết luận của ông rằng niềm tin vào một thế giới bên ngoài về mặt lý tính là không thể chứng minh được (rationally unjustifiable), họ khẳng định rằng các nguyên lý của chính Hume đã ngầm chứa đựng chứng minh hợp lý cho một niềm tin như thế, nghĩa là vượt ra khỏi sự hài lòng với việc để cho vấn đề dựa trên trực quan, thói quen và truyền thống của con người. Theo một học thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa cực đoan được gọi là Hiện tượng luận, được dọn đường bởi các luận cứ của cả Hume và George Berkeley, một đối tượng vật lý là một dạng cấu trúc tạo bởi các trải nghiệm của ta. Hiện tượng luận là quan niệm rằng các đối tượng, tính chất, sự kiện vật lý (bất cứ thứ gì vật lý) đều suy giản được về các đối tượng, tính chất, sự kiện tâm thần. Cuối cùng, chỉ có các đối tượng, tính chất, sự kiện tâm thần tồn tại — từ đó dẫn đến thuật ngữ có quan hệ chặt chẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Theo dòng tư duy hiện tượng luận, có một trải nghiệm hình ảnh về một vật vật lý có thật là có một trải nghiệm thuộc một kiểu nhóm trải nhiệm nhất định. Loại tập hợp các trải nghiệm này sở hữu một tính bất biến và gắn kết - tính chất mà tập các trải nghiệm, mà các ảo giác cũng nằm trong đó, không có. Như John Stuart Mill đã nói vào giữa thế kỷ 19, vật chất là "khả năng bền vững của cảm giác" (permanent possibility of sensation). Chủ nghĩa kinh nghiệm của Mill còn đi một bước quan trọng vượt qua Hume tại một khía cạnh khác: trong khẳng định rằng quy nạp là cần thiết cho mọi tri thức có nghĩa, trong đó có toán học. D.W. Hamlin đã tóm tắt: [Mill] cho rằng các chân lý toán học chẳng qua là các tổng quát hóa đã được khẳng định ở mức độ cao từ các trải nghiệm; Mill khẳng định rằng suy luận toán học, thường được hiểu là có bản chất suy diễn [và tiên nghiệm], có nền tảng là quy nạp. Do đó, trong triết học của Mill, không có vị trí thực sự cho các tri thức dựa trên các quan hệ của các ý niệm. Trong quan niệm của ông, các điều kiện cần về toán học và lôgic chỉ là các vấn đề tâm lý; chúng ta đơn giản là không thể nhận thức được bất cứ khả năng nào ngoài những gì mà các mệnh đề toán học và lôgic khẳng định. Đây có lẽ là phiên bản cực đoan nhất của chủ nghĩa kinh nghiệm mà ta được biết, nhưng nó chưa tìm được nhiều người ủng hộ. Do đó chủ nghĩa kinh nghiệm của Mill cho rằng tri thức thuộc bất kỳ dạng nào đều không phải được tạo từ trải nghiệm trực tiếp mà từ một suy luận quy nạp từ trải nghiệm trực tiếp. Các vấn đề nảy sinh đối với các nhà triết học khác về quan điểm của Mill xoay quanh các điểm sau: Trước hết, hệ thống của Mill gặp khó khăn khi nó mô tả trải nghiệm trực tiếp là cái gì bằng cách chỉ phân biệt giữa các cảm giác có thực và cảm giác có thể. Điều này bỏ qua một số bài cãi quan trọng về các điều kiện để cho các "nhóm gồm các khả năng bền vững của cảm giác" có thể tồn tại. Berkeley đã đặt Chúa trời vào khe hở đó; các nhà hiện tượng luận, trong đó có Mill, về bản chất đã bỏ ngỏ câu hỏi đó mà không trả lời. Cuối cùng, thiếu một sự thừa nhận về một khía cạnh của "thực tại" mà nó vượt ra ngoài "các khả năng của cảm giác", một quan điểm như vậy dẫn đến một phiên bản của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Các câu hỏi như làm thế nào mà các cây cột đỡ sàn vẫn tiếp tục đỡ sàn trong khi không ai quan sát nó, làm thế nào mà cây vẫn tiếp tục sinh trưởng trong khi con người không nhìn đến hay động đến nó, v.v.. không được trả lời, và có lẽ không thể trả lời được trong hệ thống này. Thứ hai, hệ thống của Mill để ngỏ khả năng không rõ ràng rằng các "thực thể lấp chỗ trống chỉ thuần túy là các khả năng mà không hề là những gì có thực". Thứ ba, khi cho rằng toán học là chỉ là một dạng khác của suy luận quy nạp, quan điểm của Mill đã giải nghĩa sai về toán học. Quan điểm này không xét toàn diện cấu trúc và phương pháp của toán học, các sản phẩm của toán học được đạt đến qua một tập hợp suy diễn nhất quán gồm các quy trình không hề nằm trong nghĩa quy nạp, ngay cả tại thời nay hay thời của Mill. Giai đoạn hiện tượng luận của chủ nghĩa kinh nghiệm hậu-Hume đã kết thúc vào những năm 1940, vì đến thời gian đó, người ta đã thấy rõ ràng rằng các phát biểu về các sự vật vật lý không thể được chuyển dịch thành các phát biểu về các dữ liệu giác quan thực tế và có thể. Nếu một phát biểu về một đối tượng vật lý có thể chuyển được thành một phát biểu dữ liệu giác quan, phát biểu đầu ít nhất phải suy ra được từ phát biểu sau. Nhưng người ta đã nhận ra rằng không tồn lại một tập hữu hạn gồm các phát biểu về dữ liệu cảm giác có thể và thực tế mà từ đó ta có thể suy ra thậm chỉ một phát biểu về đối tượng vật lý. Ghi nhớ rằng việc dịch và diễn đạt lại phát biểu phải được diễn đạt bằng các quan sát viên ở tình trạng bình thường trong các điều kiện quan sát bình thường. Tuy nhiên, không có một tập hợp hữu hạn gồm các phát biểu được diễn đạt theo kiểu thuần túy giác quan mà tập hợp này có thể thỏa mãn điều kiện về sự có mặt của một quan sát viên thường. Theo hiện tượng luận, để nói rằng có mặt một quan sát viên bình thường có nghĩa đặt một phát biểu giả thuyết rằng có một bác sĩ kiểm tra quan sát viên đó, và người bác sĩ thấy rằng quan sát viên đó ở tình trạng bình thường. Nhưng tất nhiên, chính người bác sĩ đó phải là một quan sát viên bình thường. Nếu ta cần chỉ rõ tình trạng bình thường của người bác sĩ này theo kiểu giác quan, ta phải viện đến một bác sĩ thứ hai, người kiểm tra các cơ quan cảm giác của bác sĩ thứ nhất, và bác sĩ thứ hai này cũng chính là một quan sát viên phải thỏa mãn điều kiện là đang ở tình trạng bình thường. Nghĩa là ta phải viện đến bác sĩ thứ ba, và cứ như vậy. Chủ nghĩa kinh nghiệm lôgic Vào đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa kinh nghiệm lôgic (còn gọi là chủ nghĩa thực chứng lôgic (logical positivism) hay chủ nghĩa chứng thực mới (neopositivism)) là một cố gắng để tổng hợp các tư tưởng cốt lỗi của chủ nghĩa kinh nghiệm Anh (ví dụ, nhấn mạnh vào trải nghiệm giác quan như là nền tảng của tri thức) với một số hiểu biết từ ngành lôgic toán học do Gottlob Frege và Ludwig Wittgenstein phát triển. Một số nhân vật quan trọng trong phong trào này là Otto Neurath, Moritz Schlick và những người còn lại của Vienna Circle, cùng với A.J. Ayer, Rudolf Carnap và Hans Reichenbach. Các nhà thực chứng mới có chung một quan niệm rằng triết học là sự làm trong sáng về khái niệm của các phương pháp, hiểu biết và các phát kiến của khoa học. Chú thích
Học viện Quân y ( – VMMU), tên dân sự là Trường Đại học Y Dược Lê Hữu Trác, là một trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, là đại học nghiên cứu và đào tạo bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng cho Quân đội nhân dân Việt Nam, hỗ trợ đào tạo bác sĩ Công an nhân dân Việt Nam và bác sĩ, dược sĩ cho Quân đội, Công an của hai nước bạn Lào và Campuchia theo diện liên kết. Hiện nay, trường chỉ tuyển sinh đại học ngành bác sĩ đa khoa quân y, không còn tuyển sinh đại học ngành các ngành hệ dân sự. Trường được thành lập ngày 10 tháng 3 năm 1949. Trụ sở chính: Số 160 đường Phùng Hưng, phường Phúc La, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội: Đào tạo bác sĩ đa khoa, dược sĩ, bác sĩ chuyên khoa các bậc đại học, sau đại học cho quân đội và dân sự. Phân hiệu phía Nam: Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Trang web chính thức: http://hocvienquany.vn Tên gọi qua các thời kỳ Trường Quân y sĩ Việt Nam: 1949 – 1957 Trường sĩ quan Quân y: 1957 – 1962 Viện nghiên cứu Y học Quân sự: 1962 - 1966 Đại học Quân y: 1966 – 1981 Học viện Quân y (tiếng Anh: Vietnam Military Medical University), 1981 đến nay Danh hiệu và thành tích Huân chương Sao vàng Huân chương Hồ Chí Minh (1989, 2019) Anh hùng LLVT Nhân dân trong thời kỳ Đổi mới (2005) Huân chương Độc lập hạng Nhất Huân chương Quân công hạng Nhất 20 Huân chương Chiến công, Huân chương Lao động, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc các loại Hai công trình khoa học được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (giải thưởng khoa học và công nghệ cao quý nhất của Việt Nam): Năm 1996, Cụm công trình "" của Giáo sư Đỗ Xuân Hợp được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1. Năm 2005, Cụm công trình ghép tạng (của các tác giả: GS.TS Phạm Gia Khánh, GS.TSKH Lê Thế Trung, GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng, GS.TS Đỗ Kim Sơn, PGS Tôn Thất Bách, PGS.TS Trương Văn Việt, TS Trần Ngọc Sinh, PGS.TS Phạm Như Thế, PGS.TS Nguyễn Thanh Liêm và các cộng sự) được Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh. 2 đề tài khoa học được tặng Giải thưởng sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTEC, 3 đề tài khoa học được tặng giải thưởng của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO). 2 đơn vị trực thuộc Học viện và 16 cán bộ từng công tác, học tập tại Học viện được phong danh hiệu Anh hùng; hàng trăm lượt đơn vị được tặng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công, Huân chương Lao động, Huân chương Bảo vệ Tổ Quốc... Từ 1996 - 2007 (13 năm liên tục) Học viện được Bộ giáo dục - Đào tạo tặng bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học. Các cán bộ tiêu biểu Thiếu tướng, Giáo sư Đỗ Xuân Hợp: nguyên Hiệu trưởng, Giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1 năm 1996; Thiếu tướng, Giáo sư Nguyễn Thúc Mậu: nguyên Hiệu trưởng (1979-1981), nguyên Giám đốc Học viện Quân y (1981 - 1986). Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Tăng Ấm: nguyên Hiệu phó, Thứ trưởng Bộ y tế, Thầy thuốc nhân dân; Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Thầy thuốc nhân dân, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Thế Trung: nguyên Giám đốc Học viện Quân y (1986 - 1995), Giải thưởng Hồ Chí Minh. Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Phạm Gia Khánh: nguyên Giám đốc Học viện Quân y (1995 - 2007), Giải thưởng Hồ Chí Minh. Trung tướng, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc nhân dân, Nguyễn Tiến Bình: nguyên Giám đốc Học viện Quân y (từ 2007 - 2014). Khoá học tiêu biểu Khoá 9 - Học viện Quân y (1974 - 1981): Khoá học có 7 vị tướng Vụ Việt Á Kết quả kiểm tra dấu hiệu vi phạm Tại kỳ họp thứ 12 của Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 2-4 tháng 3 năm 2022, cơ quan này đã xem xét kết quả kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân y các nhiệm kỳ 2015 - 2020, 2020 - 2025 và kết luận: Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân y đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc của cấp ủy; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để một số cán bộ, lãnh đạo Học viện vi phạm nghiêm trọng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong quá trình đề xuất, tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ cấp quốc gia nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xét nghiệm Covid-19 phục vụ công tác phòng chống dịch và việc mua sắm vật tư, kít xét nghiệm từ Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á. Các ông: Trung tướng Nguyễn Viết Lượng, Chính ủy Học viện; Trung tướng Đỗ Quyết, Giám đốc Học viện; Thiếu tướng Hoàng Văn Lương, Phó Giám đốc Học viện kiêm Giám đốc Viện Nghiên cứu Y Dược học quân sự; Thượng tá Hồ Anh Sơn, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Y Dược học quân sự, Chủ nhiệm đề tài; Đại tá Nguyễn Văn Hiệu, Trưởng phòng Trang bị, vật tư & lãnh đạo, cán bộ một số đơn vị thuộc Học viện cùng chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của Ban Thường vụ Đảng ủy Học viện Quân y; chịu trách nhiệm cá nhân về những vi phạm, khuyết điểm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Những vi phạm nêu trên đã gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát, lãng phí lớn ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng và Học viện Quân y, đến mức phải xem xét, xử lý kỷ luật. Những vi phạm nêu trên có trách nhiệm của Ban cán sự đảng, một số đồng chí lãnh đạo và tổ chức, cá nhân ở Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, đang được UBKT Trung ương tiếp tục kiểm tra, làm rõ. Nguồn: ubkttw.vn Loạt quân nhân bị xử lý hình sự Ngày 7 tháng 3 năm 2022, cơ quan điều tra đã bắt giữ đại tá Nguyễn Văn Hiệu, Trưởng phòng Trang bị, Vật tư để điều tra về những sai phạm trong việc nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xét nghiệm COVID-19 phục vụ công tác phòng chống dịch và việc mua sắm vật tư, kit xét nghiệm từ Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á. Trước đó, cơ quan điều tra cũng đã bắt giữ Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu chế tạo bộ sinh phẩm xét nghiệm COVID-19 là thượng tá Hồ Anh Sơn, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu Y Dược học quân sự. Lãnh đạo qua các thời kì Giám đốc 3.1949–8.1949, Đinh Văn Thắng, GS 9.1949–1.1951, Nguyễn Trinh Cơ, GS 1.1951–3.1979, Đỗ Xuân Hợp, GS , Thiếu tướng (1955) 3.1979–7.1986, Nguyễn Thúc Mậu, GS , Thiếu tướng (1983) 7.1986–6.1995, Lê Thế Trung, GS.TSKH, Thiếu tướng (1988), Giám đốc sáng lập Viện Bỏng Quốc gia 6.1995–12.2007,Phạm Gia Khánh, GS.TS, Trung tướng (2006) 12.2007–10.2014, Nguyễn Tiến Bình, GS.TS, Trung tướng (2010) 10.2014–05.2022, Đỗ Quyết, GS.TS , Trung tướng (2019) 05.2022-nay, Nguyễn Xuân Kiên, PGS.TS, Trung tướng (2023), Nguyên Giám đốc bệnh viện Quân y 87, Nguyên Cục trưởng Cục quân y Chính ủy 1957–1964, Chu Đạt Phát 1964–1970, Trần Huy 1970–1979, Nguyễn Trọng Hợp 1979–1980, Phạm Hữu Trí 1980–1989, Nguyễn Ngọc Diệp 1989–1995, Nguyễn Tụ 1995–2005, Hà Văn Tùy 2005–2008, Nguyễn Quang Phúc, Thiếu tướng 2008–2013, Vũ Đăng Khiên, Thiếu tướng (2008), Trung tướng (2012) 2013–4.2019, Nguyễn Trọng Chính, PGS.TS, Trung tướng (2018), nguyên Chính ủy Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 04.2019–2022, Nguyễn Viết Lượng, Trung tướng (2021) 05.2022-nay, Nghiêm Đức Thuận, Thiếu tướng (2021) Phó Giám đốc 1981–1985, Bùi Đại, kiêm Giám đốc Bệnh viện Quân y 103, Thiếu tướng (1985) 1992–1995, Nguyễn Hưng Phúc, Thiếu tướng (1990) 1995–2005: Nguyễn Văn Nguyên, GS.TS, Đại tá 2005–2009 Đặng Ngọc Hùng, Thiếu tướng (2006) kiêm Giám đốc Bệnh viện Quân y 103 2005–2009 Vũ Đức Mối, Thiếu tướng (2006) 2006–2010 Lê Bách Quang, Thiếu tướng (2006) 2006–2011 Hoàng Văn Hoặc (sinh 1951), Thiếu tướng (2007) 2009–2013 Vũ Huy Nùng, Thiếu tướng (2010), chồng Trung tướng Lê Thu Hà 2011–2016, Phạm Văn Mạnh, Thiếu tướng (2013), nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 2010–2017, Đồng Khắc Hưng, Thiếu tướng (2011) 2013–2022, Hoàng Văn Lương (sinh 1964), Thiếu tướng (2013) 2013–2022, Đỗ Quyết, GS.TS, Đại tá, Thiếu tướng (2014), sau là Giám đốc Học viện Quân y 2014–2022, Nguyễn Trường Giang, Thiếu tướng 2017–2022, Trần Minh Phong, Thiếu tướng (2017), nguyên Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2 2022-nay, Trần Ngọc Tuấn, Đại tá Phó Chính ủy Vũ Hữu Dũng, Thiếu tướng (2011) Nguyễn Viết Lượng, Đại tá, Thiếu tướng (2017) 2015–4.2020, Phạm Đức Thọ, Thiếu tướng 4.2020–05.2022, Nghiêm Đức Thuận, Thiếu tướng
nhỏ|Phá rừng ở New Zealand. nhỏ|Hình ảnh vệ tinh về nạn phá rừng đang diễn ra ở miền đông Bolivia. Trên toàn thế giới, 10% diện tích hoang dã đã biến mất từ ​​năm 1990 đến 2015. nhỏ|Nạn phá rừng hàng năm. nhỏ|Thay đổi diện tích rừng hàng năm. Phá rừng hay giải phóng mặt bằng rừng là việc loại bỏ một khu rừng hoặc cây cối khỏi đất mà sau đó được chuyển đổi sang mục đích sử dụng không phải là rừng. Phá rừng có thể liên quan đến việc chuyển đổi đất rừng thành trang trại hoặc sử dụng đô thị. Nạn phá rừng tập trung xảy ra nhất là ở các khu rừng mưa nhiệt đới. Khoảng 31% diện tích bề mặt Trái Đất hiện được bao phủ bởi rừng. Con số này thấp hơn một phần ba so với diện tích rừng trước khi mở rộng nông nghiệp, một nửa sự mất đi diện tích rừng này xảy ra trong thế kỷ trước. Từ 15 triệu đến 18 triệu ha rừng, diện tích tương đương với Bangladesh, bị phá hủy hàng năm. Trung bình mỗi phút có 2.400 cây bị đốn hạ. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc định nghĩa nạn phá rừng là việc chuyển đổi rừng sang các mục đích sử dụng đất khác (bất kể đó có phải là do con người gây ra hay không). Việc loại bỏ cây mà không tái trồng rừng đầy đủ đã dẫn đến thiệt hại về môi trường sống, mất đa dạng sinh học và khô hạn. Phá rừng gây ra sự tuyệt chủng, thay đổi điều kiện khí hậu, hoang mạc hóa, và sự thay đổi của các quần thể, như được quan sát bởi các điều kiện trong hiện tại và trong quá khứ thông qua hồ sơ hóa thạch. Phá rừng cũng làm giảm quá trình hấp thụ sinh học carbon dioxide trong khí quyển, làm tăng các chu kỳ phản hồi tiêu cực góp phần vào sự nóng lên toàn cầu. Sự nóng lên toàn cầu cũng làm gia tăng áp lực đối với các cộng đồng tìm kiếm an ninh lương thực bằng cách phá rừng để sử dụng cho mục đích nông nghiệp nói chung. Các vùng bị phá rừng thường phải chịu các tác động môi trường đáng kể khác như xói mòn đất và suy thoái thành đất hoang. Tác động tới môi trường Không khí Phá rừng vẫn đang tiếp diễn và đang làm thay đổi khí hậu và địa lý. Phá rừng là một nhân tố đóng góp cho sự nóng lên của Trái Đất, và được coi là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng hiệu ứng nhà kính. Rừng nhiệt đới bị phá hủy là tác nhân của 20% lượng khí nhà kính. Theo Ủy ban Liên chính phủ về Thay đổi Khí hậu, việc phá rừng, chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, đóng góp 1/3 lượng khí thải carbon dioxide do con người gây ra. Các tính toán gần đây cho thấy lượng carbon dioxide thải ra môi trường do phá rừng và suy thoái rừng chiếm 20% lượng khí thải carbon dioxide gây ra bởi con người. Cây và các loại thực vật hấp thụ carbon trong quá trình quang hợp và nhả lại oxy vào không khí. Sự phân hủy và đốt gỗ làm lượng carbon tích trữ trong cây bị thải lại vào không khí. Để rừng có thể hấp thụ carbon, gỗ phải được thu hoạch và biến thành các sản phẩm tiêu thụ và cây phải được trồng lại. Phá rừng làm lượng carbon trong đất thoát trở lại không khí. Ở các khu vực bị phá rừng, đất tăng nhiệt nhanh hơn và thời tiết trở nên nóng hơn, điều này kích thích quá trình bốc hơi nước của đất, từ đó hình thành các đám mây và dẫn đến lượng mưa sẽ gia tăng. Giảm lượng khí thải từ việc phá rừng ở các nước đang phát triển đang nổi lên như một phương thức bổ sung cho các chính sách khí hậu. Ý tưởng trong đó bao gồm việc cung cấp tài chính nhằm giảm lượng khí nhà kính từ phá rừng và suy thoái rừng. Rừng mưa được cho là đóng góp một lượng lớn oxy của thế giới. Mặc dù vậy, hiện nay các nhà khoa học cho rằng rừng mưa chỉ đóng góp một lượng oxy nhỏ vào không khí và phá rừng không có ảnh hưởng gì tới mức độ oxy của bầu khí quyển. Tuy nhiên việc đốt rừng thải ra một lượng lớn carbon dioxide, làm gia tăng sự ấm lên của Trái Đất. Các nhà khoa học cũng cho biết, phá rừng nhiệt đới làm 1,5 tỉ tấn carbon được thải vào không khí mỗi năm. Nước Vòng tuần hoàn nước cũng bị ảnh hưởng bởi phá rừng. Cây hút nước trong lòng đất và giải phóng vào không khí (vòng tuần hoàn không khí và nước). Khi rừng bị phá bỏ, cây không còn làm bay hơi lượng nước này, điều này khiến khí hậu trở nên khô hạn hơn rất nhiều (địa lý)- graphy. Phá rừng làm giảm lượng nước trong đất, lượng nước ngầm và độ ẩm của không khí. Phá rừng làm giảm độ kết dính của đất, từ đó dẫn tới xói mòn, lũ lụt, lở đất. Rừng làm tái bổ sung nước ở tầng ngậm nước ở vài nơi, nhưng rừng là nguồn hút nước chủ yếu của tầng ngậm nước. Phá rừng làm giảm khả năng giữ và bay hơi nước mưa của đất. Thay vì giữ nước mưa được thấm xuống tầng nước ngầm, phá rừng làm tăng quá trình rửa trôi nước bề mặt, sự di chuyển của nước bề mặt có thể dẫn đến lũ quét và gây nhiều lũ lụt hơn khi có rừng bảo vệ. Quá trình làm giảm thoát hơi nước, từ đó làm giảm độ ẩm không khí, trong một vài trường hợp có thể làm giảm lượng mưa theo hướng gió từ khu vực bị phá rừng, vì nước không được tuần hoàn trở lại rừng do bị mất trong quá trình rửa trôi và đổ thẳng ra biển. Cây và thực vật nhìn chung ảnh hưởng rất lớn tới vòng tuần hoàn của nước: Tán cây giữ lại lượng nước mưa và bốc hơi trở lại không khí; Thân cây, cọng lá làm chậm quá trình rửa trôi bề mặt; Rễ cây có các lỗ lớn - là các ống dẫn nước trong đất làm gia tăng sự thấm nước; Cỏ khô, lá rụng, các cặn bã hữu cơ làm thay đổi đặc tính của đất, từ đó ảnh hưởng tới khả năng giữ nước của đất; Lá cây điều hòa độ ẩm của không khí thông qua quá trình bay hơi. 99% lượng nước hấp thụ bởi rễ cây được chuyển lên lá và bay hơi. Sự tồn tại của cây cối và thực vật làm thay đổi lượng nước trên bề mặt, trong đất hay nước ngầm hoặc trong bầu không khí. Sự tồn tại hay không tồn tại của cây cối và thực vật làm thay đổi mức độ xói mòn và lượng nước cho các hoạt động của hệ sinh thái và của con người. Trong một vài trường hợp như mưa lớn thì rừng không có mấy tác động lên lũ lụt, bởi mưa lớn có thể vượt quá khả năng lưu giữ nước của đất rừng nếu đất rừng đã ở mức độ bão hòa hoặc gần bão hòa. Rừng nhiệt đới tạo ra 30% lượng nước ngọt trên Trái Đất. Đất Phá rừng làm tăng độ xói mòn của đất khi nó làm tăng độ rửa trôi và giảm độ bảo vệ đất của lá khô, lá rụng trong rừng. Hoạt động lâm nghiệp cũng có thể làm tăng độ xói mòn đất do phát triển đường sá và sử dụng dụng cụ cơ khí. Cao nguyên Loess của Trung Quốc bị mất rừng từ hàng nghìn năm trước, tạo ra các thung lũng xẻ rạch, hình thành nên trầm tích khiến nước sông Hoàng Hà có màu vàng và gây ra lũ lụt ở các nhánh sông thấp. Tuy nhiên, việc phá cây rừng không phải bao giờ cũng làm gia tăng mức độ xói mòn. Ở một vài vùng ở tây nam Hoa Kỳ, các cây bụi xâm thực lên đất cỏ. Các cây này làm giảm lượng cỏ. Khoảng trống giữa các tán cây bị xói mòn nghiêm trọng. Ủy ban về rừng của Hoa Kỳ đang nghiên cứu để phục hồi hệ sinh thái cũ, làm giảm xói mòn bằng cách chặt bớt cây. Rễ cây liên kết đất với nhau, khi đất nông vừa đủ thì rễ cây có tác dụng kết dính đất với tầng đá gốc. Việc chặt phá cây trên các sườn núi dốc có nền đất nông do đó làm tăng nguy cơ lở đất, có thể ảnh hưởng tới những người dân gần khu vực đó. Tuy vậy thì việc phá rừng chỉ chặt cây tới thân chứ không ảnh hưởng tới rễ nên nguy cơ lở đất cũng không phải quá lớn. Sinh thái Phá rừng làm giảm sự đa dạng sinh thái và làm môi trường bị suy thoái. Rừng cung cấp đa dạng sinh thái, là nơi trú ẩn của các loài động vật, rừng tạo ra các cây thuốc hữu ích cho cuộc sống của con người. Các biotope của rừng là nguồn không thể thay thế của nhiều loại thuốc mới(ví dụ taxol), việc phá rừng có thể hủy hoại sự biến đổi gen. Rừng nhiệt đới là hệ sinh thái đa dạng nhất thế giới, 80% đa dạng sinh học của thế giới được tìm thấy ở rừng nhiệt đới., sự phá hủy các khu vực rừng dẫn đến thoái hóa môi trường và giảm đa dạng sinh học. Ước tính chúng ta đang mất đi 137 loài thực vật, động vật và côn trùng mỗi ngày do phá rừng mưa, con số này tương đương với 50.000 loài mỗi năm. Có những tranh cãi cho rằng phá rừng đang đóng góp vào sự tuyệt diệt của các loài động thực vật. Tỉ lệ tuyệt chủng mà chúng ta biết do phá rừng là rất thấp, khoảng 1 loài đối với động vật có vú và các loài chim, suy ra từ đó là vào khoảng 23.000 cho tất cả các loài. Nhiều dự đoán cho rằng 40% các loài động, thực vật ở Đông Nam Á có thể bị xóa sổ hoàn toàn vào thế kỷ 21. Các suy đoán này được đưa ra vào năm 1995 khi các số liệu cho thấy rất nhiều rừng nguyên sinh ở khu vực này đã bị chuyển đổi sang các đồn điền, tuy nhiên các loài có nguy cơ bị ảnh hưởng và hệ thực vật ở đây hiện vẫn có mức bao phủ cao và ổn định. Hiểu biết của khoa học chưa đủ để đưa ra các dự đoán chính xác về tác động của phá rừng lên sự đa dạng sinh học. Phần lớn các dự đoán về suy giảm sự đa dạng sinh học được dựa trên các mẫu nơi sinh sống của các loài, với giả thuyết cho rằng rừng suy giảm cũng sẽ dẫn đến suy giảm sự đa dạng của hệ sinh thái. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu kiểu này đã được chứng minh là sai lầm và việc mất nơi sinh sống chưa hẳn đã dẫn đến sự suy giảm loài trên quy mô lớn. Các mẫu dựa trên khu vực sinh sống của các loài được cho là đã phóng đại con số các loài bị đe dọa trong các khu vực đó, nơi phá rừng vẫn đang diễn ra, các nghiên cứu này cũng phóng đại con số các loài bị đe dọa trong khi các loài này vẫn có số lượng đông và trải rộng. Tác động tới kinh tế Thiệt hại về rừng và các yếu tố khác của tự nhiên có thể làm tồi tệ thêm mức sống của người nghèo trên thế giới và làm giảm 7% GDP của thế giới tới năm 2050, đây là một báo cáo tổng kết trong Hội nghị về Đa dạng Sinh học tại Bonn. Trong lịch sử, việc sử dụng gỗ đóng vai trò then chốt trong xã hội loài người, vai trò của gỗ có thể so sánh với nước và đất trồng trọt. Ngày nay, tại các nước phát triển gỗ vẫn được sử dụng để xây nhà và bột gỗ để làm giấy. Tại các quốc gia đang phát triển, gần 3 tỉ người phải dựa vào gỗ để sưởi ấm và đun nấu thức ăn. Các sản phẩm từ rừng là một phần quan trọng của nền kinh tế ở tất cả các nước phát triển lẫn đang phát triển. Các lợi nhuận kinh tế ngắn hạn từ chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp, hay việc khai thác gỗ quá mức, thường dẫn đến những hậu quả kinh tế lâu dài, ảnh hưởng tới nguồn thu nhập lâu dài và sản lượng của rừng. Tây Phi, Madagascar, Đông Nam Á và nhiều vùng khác trên thế giới đã phải chịu những tổn thất thu nhập do suy giảm sản lượng gỗ. Sự khai khẩn trái phép làm nhiều nền kinh tế tổn thất hàng tỷ đô la mỗi năm. Các nền kinh tế tăng trưởng nhanh thường có ảnh hưởng tới sự phá rừng. Áp lực chủ yếu đến từ các quốc gia đang phát triển, những nơi mà cả dân số và kinh tế đều tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển là 6%, con số này cho các nước phát triển chỉ là 2%.". Khi dân số gia tăng, nhà cửa, đường sá, dân số đô thị mở rộng, khi phát triển thì cần có sự kết nối bằng việc xây dựng đường sá. Việc xây dựng đường sá ở nông thôn không chỉ kích thích phát triển kinh tế mà còn tạo điều kiện cho sự tàn phá rừng. Khoảng 90% rừng bị phá ở khu vực Amazon diễn ra trong phạm vi 100 kilômét so với đường.
Đại lộ Danh vọng Hollywood (tiếng Anh: Hollywood Walk of Fame) là một lề đường dọc đại lộ Hollywood và phố Vine ở Hollywood, California, Hoa Kỳ, gắn hơn 2.600 ngôi sao năm cánh (tính đến năm 2018) cách nhau có tên các nhân vật nổi tiếng được phòng thương mại Hollywood vinh danh vì những đóng góp của họ trong ngành công nghiệp giải trí. Ngôi sao đầu tiên, được tặng thưởng ngày 9 tháng 2 năm 1960 cho Joanne Woodward. Các đặc điểm Đại lộ Danh vọng chạy từ đông sang tây của Đại lộ Hollywood từ phố Gower đến La Brea Avenue, và từ phía bắc xuống nam trên phố Vine Street giữa phố Yucca và Đại lộ Sunset. Các vị trí của từng ngôi sao cụ thể là cố định, ngoại trừ lý do di dời do các công trình xây dựng gần đó và một số lý do khác. Mỗi ngôi sao gồm một viên đá lát bao gồm một ngôi sao năm cánh màu hồng có viền đồng và lát vào một viên than đá hình vuông. Phía trong ngôi sao hồng là tên của người được vinh danh được dát bằng đồng, dưới đó là biểu tượng tròn bằng đồng biểu thị danh mục ngành nghề của người được tặng. Các biểu tượng là: Máy quay phim cho những đóng góp cho ngành công nghiệp phim ảnh; Máy thu hình cho những đóng góp cho ngành công nghiệp truyền hình; Máy hát cho những đóng góp cho ngành công nghiệp thu âm; Micro cho những đóng góp cho ngành công nghiệp phát thanh; Mặt nạ đôi bi kịch/hài kịch cho những đóng góp trong kịch nghệ. Những đề cử phong tặng được gửi đến hàng năm vào ngày 31 tháng 5, và Ủy ban Đại lộ Danh vọng gặp gỡ vào các tháng sau đó để chọn ra nhóm những người được vinh danh. Nghi lễ gắn sao được trình diễn trước công chúng và được Johnny Grant, Thị trưởng danh dự của Hollywood điều khiển. Lịch sử Đại lộ Danh vọng được tạo ra năm 1958 bởi nghệ sĩ nam California Oliver Weismuller, ông đã được thành phố thuê để tạo ra một sự thay đổi bộ mặt của Hollywood. Rất nhiều những người được vinh danh nhận được nhiều ngôi sao trong thời kỳ đầu cho nhiều danh mục khác nhau; giai đoạn đầu tiên của việc xây dựng hạng mục cho các đóng góp riêng biệt; tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, trên thực tế, để tôn vinh những cá nhân không có đại diện, chỉ một số ít người được vinh danh đã được trao thêm nhiều ngôi sao. Năm 1978, Thành phố Los Angeles đã công nhận Đại lộ Danh vọng là một địa điểm Văn hóa/Lịch sử. Ban đầu, đại lộ Danh vọng có 2.500 ngôi sao trống. Đã có tổng số 1.558 ngôi được tặng thưởng trong mười sáu tháng đầu tiên. Từ đó, cứ một tháng lại có khoảng 2 ngôi sao được thêm vào. Vào năm 1994, có hơn 2.000 ngôi sao ban đầu được điền tên, và những ngôi sao thêm vào được mở rộng tới phía tây đại lộ qua Sycamore tới La Brea Avenue, kết thúc ở Silver Four Ladies of Hollywood Gazebo, (với những ngôi sao vinh danh The Beatles và Elvis Presley). Duy trì Đại lộ Danh vọng được duy trì bởi Hollywood Historic Trust, một tổ chức tự tìm nguồn tài chính. Để một người có được một ngôi sao trên đại lộ Danh vọng, họ phải đồng ý tham dự lễ giới thiệu trong vòng năm năm của thời điểm lựa chọn, và phải trả một khoản phí là $15.000 để chi phí cho các khoản như bảo đảm an ninh ở lễ gắn sao; một câu chuyện năm 2003 của hãng FOX News cho biết khoản phí này thường được các nhà tài trợ như các hãng phim và các công ty thu âm trả. Một số trường hợp khác là do các câu lạc bộ người hâm mộ trả. Tuy nhiên, có nhiều tranh cãi và bí mật xung quanh việc "Các ngôi sao" được trao, việc này đã được thảo luận năm 2001 trong một câu chuyện phỏng vấn của hãng ABC News với thị trưởng Hollywood Johnny Grant. Những ngôi sao bị đánh cắp Đã có bốn ngôi sao bị đánh cắp ở đại lộ Danh vọng. Ngôi sao của Jimmy Stewart và Kirk Douglas, bị di dời trong một dự án xây dựng và bị đánh cắp phía Phố Vine. Thủ phạm là một nhà thầu khoán sau đó đã bị bắt với hai ngôi sao bị hỏng và không sử dụng được (sau khi bị di dời). Một trong số những ngôi sao của Gene Autry cũng bị đánh cắp trong một dự án xây dựng khác. Ngôi sao này được tìm thấy ở Iowa. Ngày 27 tháng 11 năm 2005, những tên trộm cưa ngôi sao của Gregory Peck ở vỉa hè đường Gower, tháng 9 năm 2006 ngôi sao đã được thay thế nhưng tên trộm thì vẫn chưa được tìm thấy. Hiện nay, các máy quay camera đã được triển khai để canh phòng bắt trộm. Những thông tin khác Gene Autry là người duy nhất được vinh danh với đầy đủ năm ngôi sao, vì những đóng góp của ông trong cả năm lĩnh vực. Ngôi sao phim ảnh nằm ở số 6644 Hollywood Blvd., ngôi sao phát thanh nằm ở 6520 Hollywood Blvd., ngôi sao thu âm nằm ở 6384 Hollywood Blvd., ngôi sao truyền hình nằm ở 6667 Hollywood Blvd. và ngôi sao kịch nghệ nằm ở 7000 Hollywood Blvd. Ở Hollywood và Vine, một ngôi sao tròn đặc biệt ở mỗi phần của bốn góc tưởng nhớ các phi hành gia Appolo 11. Mỗi phi hành gia (Neil Armstrong, Michael Collins, và Edwin Aldrin) có một ngôi sao và có một ngôi sao chung cho cả phi hành đoàn Apollo 11 của NASA. Năm 2005, các công ty đã có thể được ghi danh trên các ngôi sao trên đại lộ; công ty đầu tiên được nhận là Disneyland, trong lần kỷ niệm lần thứ 50. Các giải thưởng cho công ty là tài sản riêng ở gần Đại lộ, nhưng không nằm trên Đại lộ. Các công ty phải có ảnh hưởng lớn ở Hollywood và có ít nhất năm mươi năm hoạt động trong lĩnh vực của mình để có thể được xét duyệt giải thưởng. Các ấn phẩm của ngành giải trí như Variety and The Hollywood Reporter là những nơi nằm trong dự định được tặng giải thưởng. Đại lộ Danh vọng xuất hiện rất ngắn trong các phim năm 2003 như The Italian Job, Stuart Saves His Family, My Girl và Pretty Woman. Có hai diễn viên tên là Harrison Ford được vinh danh. Diễn viên Harrison Ford thứ nhất, là diễn viên phim câm trong những năm 1910-1920, ngôi sao của ông nằm trước nhà hàng Musso & Frank restaurant ở 6665 Hollywood Blvd. Ngôi sao thứ hai là của Harrison Ford ngày nay, nằm ở trước Nhà hát Kodak ở 6801 Hollywood Blvd. Mary-Kate và Ashley Olsen đều ở tuổi mười bảy khi họ được tặng thưởng sao, là những người trẻ tuổi nhất và là cặp sinh đôi duy nhất nhận được sao. Họ được vinh danh vì những đóng góp cho lĩnh vực truyền hình. Run DMC là nhóm nhạc hip-hop đầu tiên nhận sao. Queen Latifah là nghệ sĩ hip-hop nữ đầu tiên nhận sao. Các nhân vật tưởng tượng được tặng sao gồm có Bugs Bunny, Mickey Mouse, Woody Woodpecker, Winnie the Pooh, Donald Duck, Godzilla, Pee-wee Herman, Kermit the Frog, C-3PO, Lassie, The Rugrats, The Simpsons và Nàng Bạch Tuyết. Tommy Bond, người với sự nghiệp hoạt động trong 65 năm với 72 phim; đóng vai "Butch" trong Little Rascals; và phóng viên mới vào nghề Jimmy Olsen trong phim "Superman" trong những năm 40, đã bị từ chối tặng sao năm 1998, nhưng trong cùng năm đó có ba người chơi jockey đĩa đã được nhận sao. Bond mất ngày 24 tháng 9 năm 2005, mà vẫn không được nhận sao. Cũng tương tự như vậy, cả người nhận giải thưởng Hàn lâm (Academy Award) Tim Robbins, và người nhận giải Oscar Ruth Gordon (đã đóng phim hơn 4 thập kỷ) đều không nhận được sao; tuy nhiên một người mới vào nghề như Ryan Seacrest lại được nhận sao. Trong tất cả các diễn viên đóng sêri chương trình Star Trek, chỉ có Walter Koenig (Pavel Chekov) là không có sao trên Đại lộ Danh vọng. Pat Sajak phát biểu trên chương trình Wheel of Fortune rằng ngôi sao của anh có biểu tượng không đúng với lĩnh vực hoạt động của mình. Biểu tượng đó là máy quay camera trong khi đáng ra nó phải là một chiếc TV. Anh châm biếm "một ai đó có thể quan tâm và bán nó trên eBay - nó có thể sưu tập được!" Susan Lucci của All My Children được nhận sao năm 2005, là người phụ nữ đầu tiên nhận sao cho vai diễn trong các phim truyền hình dài tập (soap opera). Nam diễn viên đầu tiên nhận sao trong lĩnh vực truyền hình về kiểu phim truyền hình dài tập là Macdonald Carey của Days of our Lives. Danh sách các ngôi sao
Tố nữ đồ (Hán tự: 素女圖) thuộc thể loại tranh Tứ Bình (gồm 4 bức tranh), thể hiện 4 thiếu nữ Việt Nam có trang phục xưa, vấn tóc đuôi gà, mặc áo ngũ thân thời Nguyễn và đều đang đứng với 4 cử chỉ khác nhau: cô thổi sáo, cô cầm sênh tiền, cô cầm quạt và cô gảy đàn nguyệt. Mỗi người một vẻ đẹp và mang nét mặt thể hiện tâm hồn thiếu nữ Việt Nam xưa. Trong đó, mỗi bức tranh kèm theo 1 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt viết bằng Hán tự. Có một dị bản của bộ tranh tứ bình này: cô thổi sáo, cô kéo nhị, cô gảy đàn tỳ bà và cô gảy đàn nguyệt. Dị bản đó có giả thiết cho rằng nó là dòng tranh Đông Hồ (EFEO - Viện Viễn đông Bác cổ Pháp). Cũng có dị bản khác, thể hiện 4 thiếu nữ Việt Nam có trang phục xưa, đội khăn mỏ quạ, mặc áo tứ thân và đều đang đứng với 4 cử chỉ khác nhau: cô gảy đàn, cô cầm quạt, cô mang nón quai thao và cô bưng cơi trầu. Bộ tranh này đậm nét văn hoá Việt Nam, là một trong những đề tài tiêu biểu của dòng tranh dân gian Hàng Trống. Mô tả Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ Đề tranh Tố Nữ: Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình Chị cũng xinh mà em cũng xinh Đôi lứa như in tờ giấy trắng Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh Xiếu mai chi dám tình trăng gió Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh Còn thú vui kia sao chẳng vẽ Trách người thợ vẽ khéo vô tình Nhà thơ Chế Lan Viên cũng có nhắc đến bức tranh này trong thơ của mình: Điệu lục bát và màu xanh nơi ruộng rẫy Bức tranh làng Hồ, cô tố nữ dáng quê hương... Phần chữ trong tranh Có giả thiết cho rằng "Tố nữ đồ" có xuất xứ từ tranh tứ đại mỹ nhân Trung Quốc. Trong dân gian có câu truyện Bích Câu kỳ ngộ liên quan đến Tố Nữ đồ. Truyện kể rằng vào đời Lê Thánh Tông, có một thư sinh tên là Trần Tú Uyên. Khi đi chơi chợ Cầu Đông, chàng đã mê mẩn bức Tố Nữ đồ và mua, đem về nhà treo ở thư phòng. Rồi cứ mỗi bữa ăn, chàng lại dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời Tố Nữ cùng ăn và thỉnh thoảng lại chuyện trò, đối đãi như người thực. Một hôm Tú Uyên ở trường học về, thấy mâm cơm đã dọn sẵn. Hôm sau chàng giả cách ra đi, nhưng lẻn về đứng rình một chỗ. Quả nhiên, thấy Tố Nữ trong tranh hiện ra thành người thực... Dưới đây là bản bằng chữ Hán, phiên tiếng Hán Việt và lược dịch tiếng Việt của bốn bài thơ trên: Ảnh hưởng Trong vở diễn thực cảnh "Tinh hoa Bắc Bộ" ở Sài Sơn - Hà Nội có phần phân cảnh Nhạc - Hoạ; lấy cảm hứng từ bài thơ "Tranh tố nữ" của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, trên nền mặt hồ tối, 4 bức tứ bình tố nữ xuất hiện mờ ảo. Phân cảnh này sử dụng hiệu ứng 3D Mapping để tạo nên hình ảnh chân thực nhất trên mặt hồ cũng chính là sân khấu của vở diễn. 4 cô gái thể hiện các loại nhạc cụ khác nhau trong âm nhạc truyền thống Việt Nam bao gồm: Sáo, đàn tỳ bà, đàn nhị và đàn nguyệt. Đây là phân cảnh đẹp nhất khi đàn tiên nữ ùa vào sân khấu và thể hiện những điệu múa uyển chuyển trên mặt nước, cùng với đó khắc hoạ những tinh tuý của làng nghề tranh dân gian Bắc Bộ. MV "Em tôi" của nhạc sĩ Thuận Yến được thể hiện bởi ca sĩ Thanh Lam trong chương trình "VTV bài hát tôi yêu" lấy bối cảnh từ một ngôi nhà cổ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nổi bật nhất chính là bốn bức tranh tố nữ xuất hiện trong đêm tối.
Kỷ Jura là một kỷ trong niên đại địa chất kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, khi kết thúc kỷ Tam điệp tới khoảng 146 triệu năm trước, khi bắt đầu kỷ Phấn trắng (Creta). Giống như các kỷ địa chất khác, các tầng đá xác định sự bắt đầu và kết thúc của kỷ này đã được xác định khá rõ ràng, nhưng niên đại chính xác thì vẫn là điều không chắc chắn trong phạm vi 5 - 10 triệu năm. Kỷ Jura tạo thành thời kỳ giữa của Đại Trung Sinh, còn được biết đến như là kỷ nguyên Khủng long. Sự bắt đầu của kỷ này được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn kỷ Trias-Jura. Tên gọi kỷ Jura do Alexandre Brogniart đặt cho các địa hình đá vôi có nguồn gốc biển lộ ra ở dãy núi Jura, trong khu vực giáp ranh giữa Đức, Pháp và Thụy Sĩ. Các phân kỷ Kỷ Jura thông thường được chia ra thành các phân kỷ Tiền, Trung và Hậu, còn được biết đến như là Lias, Dogger và Malm. Các thuật ngữ tương ứng cho các tầng đá là Hạ, Trung và Thượng Jura. Các tầng động vật từ trẻ nhất đến cổ nhất là: Cổ địa lý học Trong thời kỳ Jura sớm, siêu lục địa Pangea đã bị chia tách ra thành Bắc Mỹ, Eurasia và Gondwana. Đại Tây Dương khi đó còn tương đối hẹp. Vào thời kỳ Jura muộn thì lục địa phía nam, Gondwana, bắt đầu tách ra và biển Tethys đã khép lại, lòng chảo Neotethys đã xuất hiện. Khí hậu khi đó ấm áp, do không có chứng cứ cho thấy có sự tồn tại của sự đóng băng. Trong kỷ Trias, dường như đã không có các vùng đất gần hai địa cực cũng như các chỏm băng. Hồ sơ địa chất kỷ Jura là khá tốt ở miền tây châu Âu, tại đây các chuỗi trầm tích đại dương rộng lớn được tìm thấy dọc theo các bờ biển, bao gồm cả di sản thế giới bờ biển Jurassic nổi tiếng. Các tầng của kỷ này cũng được đặc trưng bởi các lagerstätte nổi tiếng như Holzmaden và Solnhofen. Ngược lại, các hồ sơ địa chất ở Bắc Mỹ thuộc kỷ Jura là nghèo nàn nhất trong Đại Trung Sinh, với chỉ một ít phần trồi lên bề mặt (xem bản đồ ). Mặc dù biển Sundance khá nông đã để lại các trầm tích tại một số nơi thuộc đồng bằng miền bắc Hoa Kỳ và Canada trong thời kỳ cuối kỷ Jura, nhưng phần lớn trầm tích trong giai đoạn này đều mang tính lục địa, chẳng hạn như các trầm tích phù sa của kiến tạo núi Morrison.Các khối đá batholith lớn đầu tiên đã xuất hiện ở miền bắc Cordillera bắt đầu vào giữa kỷ Jura, tạo ra sự hình thành núi ở Nevada (Monroe và Wicander 1997, tr. 607). Các phần lộ ra quan trọng thuộc kỷ Jura cũng được tìm thấy ở Nga, Ấn Độ, Nam Mỹ, Nhật Bản, Australasia và Vương quốc Anh hiện nay. Ở châu Phi, địa tầng Jurassic sớm được phân bố tương tự như nền Jura muộn, with more common outcrops in the south and less common fossil beds which are predominated by tracks to the north.[14] Giống như sự phát triển ở những nơi khác trong kỷ Jura, nhóm khủng long phổ biến và nhiều hơn cả đó là Sauropods và Ornithopods, đã phát triển mạnh mẽ ở Châu Phi.[14] Địa tầng Trung Jura không có đại diện tiêu biểu cũng không được nghiên cứu ở châu Phi.[14] Địa tầng Jura muộn chỉ có một số ít đại diện từ hệ động vật Tendeguru ở Tanzania.[14] Sự sống ở Jura muộn của Tendeguru rất giống với những gì được tìm thấy ở thành hệ Morrison phía tây Bắc MĨ. Động vật thủy sinh Trong kỷ Jura, các dạng "cao nhất" của sự sống đã sinh trưởng trong các đại dương là cá và các loài bò sát biển. Nhóm bò sát bao gồm thằn lằn cá (Ichthyosauria), thằn lằn cổ rắn chân chèo (Plesiosauria) và cá sấu biển (Crocodilia) thuộc các họ Teleosauridae và Metriorhynchidae. Trong thế giới động vật không xương sống thì một vài nhóm mới đã xuất hiện, chẳng hạn: Sinh vật phù du ngành Foraminifera và nhóm Calpionelid Động vật hai mảnh vỏ thuộc lớp Bivalvia Động vật thân mềm nhóm Belemnoidea và Động vật thuộc ngành Brachiopoda với các nhóm Terebratulid và Rinchonelid. Các con cúc thuộc phân lớp Ammonoidea (lớp Cephalopoda có vỏ) là phổ biến và khá đa dạng, tạo thành 62 sinh đới. Động vật đất liền Trên đất liền, các loài bò sát lớn thuộc nhóm Archosauria vẫn thống trị. Các loài khủng long hông thằn lằn lớn ăn cỏ (cận bộ Sauropoda) sinh sống trên các thảo nguyên và ăn dương xỉ và các loài tuế có hình dáng giống cây dừa cũng như nhóm Bennettitales. Chúng bị các khủng long thuộc cận bộ Theropodalớn (Ceratosaurs, Megalosaurs và Allosaurs) săn bắt. Tất cả các loài khủng long này đều thuộc nhóm 'hông thằn lằn' hay bộ Saurischia. Vào thời kỳ Jura muộn thì các loài chim đầu tiên đã tiến hóa từ khủng long nhỏ thuộc cận bộ Coelurosauria. Khủng long thuộc bộ Ornithischia ít chiếm ưu thế hơn so với khủng long bộ Saurischia, mặc dù một vài nhóm như chi Stegosaur và phân bộ Ornithopoda nhỏ đã đóng vai trò quan trọng như là các động vật ăn cỏ có kích thước từ nhỏ, trung bình tới lớn (nhưng không có kích thước như Sauropoda). Trong không gian, thằn lằn chim (Pterosauria) là phổ biến, thực hiện nhiều vai trò sinh thái như chim hiện nay. Thực vật Các điều kiện khô hạn đặc trưng cho phần lớn kỷ Trias dần dần giảm nhẹ trong kỷ Jura, đặc biệt là ở các độ cao lớn; khí hậu ấm và ẩm cho phép các cánh rừng nhiệt đới tươi tốt che phủ phần lớn diện tích đất (Haines, năm 2000). Thực vật có hoa vẫn chưa được tiến hóa thành và các loại thực vật quả nón ngự trị trên các vùng đất, giống như chúng đã từng tồn tại trong kỷ Trias. Trên thực tế chúng là nhóm thực vật đa dạng nhất và tạo thành phần chính yếu của các loài cây lớn thân gỗ. Các họ ngành Thông tồn tại ngày nay đã phát triển mạnh mẽ trong kỷ Jura là Araucariaceae, Cephalotaxaceae, Pinaceae, Podocarpaceae, Taxaceae và Taxodiaceae (Behrensmeyer & cộng sự 1992, tr. 349). Họ thực vật quả nón thuộc Đại Trung Sinh mà nay đã tuyệt chủng là Cheirolepidiaceae từng chiếm lĩnh thảm thực vật thuộc độ cao nhỏ, cũng giống như các loài cây bụi thuộc bộ Bennettitales (Behrensmeyer & cộng sự 1992, tr. 352). Các loài tuế (Cycadophyta) cũng rất phổ biến, cũng như các loài bạch quả và dương xỉ thân gỗ trong các cánh rừng. Các loài dương xỉ nhỏ hơn có lẽ đã là nhóm thống lĩnh ở tầng thấp. Dương xỉ có hạt nhóm Caytoniacea là một nhóm thực vật quan trọng khác trong thời kỳ này và có lẽ chúng có kích thước của cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ (Behrensmeyer & cộng sự 1992, tr. 353). Các loài thực vật tương tự như bạch quả là phổ biến ở các vĩ độ từ trung tới cao của nửa phía bắc. Tại Bán cầu nam, các loài kim giao đặc biệt phát triển (Haines, năm 2000), trong khi bạch quả và Czekanowskiales thì hiếm (Behrensmeyer & cộng sự 1992, tr. 352). Văn hóa Tên gọi của cuốn tiểu thuyết và bộ phim Công viên kỷ Jura đề cập tới kỷ Jura, mặc dù nhiều sinh vật được miêu tả trong tiểu thuyết cũng như phim thực ra là thuộc kỷ Phấn trắng. Có một ban nhạc hip hop có tên gọi là Jurassic 5.
Thực vật rừng hay cây rừng gồm tất cả các loài cây, loài dây leo, loài cỏ thuộc thực vật bậc cao có mạch phân bố trong rừng. Chúng là thành phần chính của hệ sinh thái rừng và là nguồn tài nguyên quan trọng mang lại nhiều lợi ích cho con người. Ở từng nơi, từng lúc thành phần thực vật rừng có thể thay đổi; đó là kết quả sinh trưởng phát triển của từng loài và sự thích ứng của chúng với những biến động của nhân tố ngoại cảnh. Vì vậy, thực vật rừng ở mỗi địa phương trong thời điểm nhất định không chỉ phản ánh hiện trạng tài nguyên, tính đa dạng sinh học mà còn phản ánh tình trạng môi trường rừng. Nơi lập địa khắc nghiệt thành phần thực vật thường đơn giản, chất lượng thấp; nơi lập địa tốt, ít bị tác động không những chất lượng rừng cao mà thành phần thực vật rừng cũng phong phú đa dạng. Vai trò thực vật rừng trong tự nhiên Thực vật nói chung và thực vật rừng nói riêng là loại sinh vật duy nhất trên trái đất có khả năng quang hợp tạo nên sinh chất nuôi sống mình và nuôi sống các sinh vật khác góp phần quan trọng vào chu trình tuần hoàn vật chất và năng lượng. Thực vật rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái tạo cung cấp cho loài người từ lương thực, thực phẩm đến các nguyên liệu, nhiên liệu dùng trong công nghiệp, các loại thuốc chữa bênh, và các vật liệu sử dụng hàng ngày. Quần thể thực vật rừng tạo nên môi trường sinh thái thích hợp là nơi cư trú cho nhiều loài sinh vật, nó cũng góp phần cải tạo môi trường không khí, đất và nước làm tăng vẻ đẹp nơi sống của con người. Thực vật rừng ở Việt Nam Việt Nam nằm trong vùng lục địa Đông Nam Á thuộc khu vực Cổ nhiệt đới, là các nôi của thực vật hạt kín lại là giao điểm của các luồng thực vật di cư từ các khu hệ thực vật lân cận (Hệ thực vật Malaixia-Indonesia, hệ thực vật Himalaya-Vân Nam Quý Châu, hệ thực vật Ấn Độ-Mianma) nên thành phần thực vật rất đa dạng và phong phú. Theo các tài liệu công bố gần đây, thực vật bậc cao có mạch ở Việt Nam có thể lên tới 12.000 loài. Tuy nhiên trong điều kiện hạn chế nên chúng ta mới chỉ ưu tiên quan tâm tới những loài cây gỗ, cây cỏ, dây leo bậc cao đang có nguy cơ bị tiêu diệt, cùng những loài cây có giá trị lâm sinh và kinh tế.
Năm điều răn của Hội Thánh (hay gọi tắt là Năm điều răn Hội Thánh) là những điều luật mà Hội Thánh Công Giáo để nhắc nhở những người Công Giáo chu toàn bổn phận thờ phượng Thiên Chúa và cộng tác xây dựng Hội Thánh. Trước đây, Giáo Hộ Công giáo liệt kê sáu điều, nhưng quyển sách Kinh Thánh Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo hiện tại tổng hợp còn năm điều. Cùng với Mười Điều Răn, đây là những điều luật quan trọng của người Công Giáo bắt buộc họ phải tuân giữ. Hội Thánh có năm điều răn: Thứ Nhất: Dự lễ và Kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc. Thứ Hai: Xưng tội trong một năm ít là một lần Thứ Ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh. Thứ Tư: Giữ chay và Kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc. Thứ Năm: Góp công,góp của xây dựng Hội Thánh tùy theo khả mình. Bản cũ Hội Thánh có sáu điều răn: Thứ Nhất: Dự lễ ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc. Thứ Hai: Chớ làm việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc Thứ Ba: Xưng tội trong một năm ít là một lần. Thứ Tư: Chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục Sinh. Thứ Năm: Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc. Thứ Sáu: Kiêng thịt ngày Thứ Sáu cùng những ngày khác Hội Thánh dạy.
Lễ ngày Chúa Nhật (hay còn gọi là Lễ Chúa Nhật) là ngày lễ của người Công giáo được cử hành vào đúng ngày Chủ nhật hằng tuần (trong trường hợp đặc biệt có thể cử hành vào chiều ngày thứ bảy trước đó). Lễ này rất quan trọng đối với người Công giáo và họ không được phép bỏ bất kỳ một ngày lễ nào nếu không vì lý do chính đáng.
Cây đàn sinh viên là tên ca khúc do nhạc sĩ Quốc An sáng tác năm 2001, phổ nhạc dựa theo bài văn xuôi của một sinh viên tên Thuận Thiên, người đã gửi email cho Quốc An với hy vọng gặp mặt anh để có thể giúp sáng tác thành một ca khúc. Cây đàn sinh viên được Sài Gòn Vafaco thu âm lần đầu tiên qua giọng hát của ca sĩ Mỹ Tâm và sau này một số ca sĩ khác trình bày lại như Việt Quang, nhóm 1088,... Sau khi bài hát được ra mắt, nó đã nhận được nhiều sự quan tâm từ khán giả, nhất là trong giới trẻ và sinh viên. Thành công của bài hát cũng bắt đầu làm cho tên tuổi của nhạc sĩ Quốc An và giọng ca Mỹ Tâm được nhiều người chú ý đến. Năm 2002, Mỹ Tâm với bài hát Cây đàn sinh viên đã nhận giải nữ ca sĩ được khán giả yêu thích nhất tại giải Mai Vàng lần thứ VII. Sau này, bài hát cùng với các ca khúc nổi tiếng khác như Hát với dòng sông, Hát cho người ở lại, Đêm cô đơn,... nhiều lần được tam ca KTX, bao gồm nhạc Quốc An, Hoài An và Công Tuấn biểu diễn để phục vụ sinh viên tại ký túc xá các trường đại học và được sinh viên ủng hộ nhiệt tình. Tháng 11 năm 2003, bài hát được dùng làm nhạc nền cho một đoạn quảng cáo được phát trên truyền hình do một công ty nước súc miệng Fatech thực hiện, nhưng điều làm sự việc gây chú ý là nó chưa được sự đồng ý của nhạc sĩ Quốc An, anh đã phải chuyển việc đòi lại tác quyền bài hát cho Trung tâm Bảo vệ Quyền Tác giả Âm nhạc Việt Nam, và sau hơn một năm sự việc mới được giải quyết. "Cây đàn sinh viên" là đĩa đơn đầu tiên do Mỹ Tâm thể hiện, được sản xuất và phát hành bởi Công ty cổ phần Văn hóa tổng hợp Bến Thành (Bến Thành Audio - Video). Phiên bản CD cùng tên nhưng có sự góp mặt của nam ca sĩ Việt Quang được phát hành bởi Sài Gòn Audio vào tháng 11 năm 2003. Danh sách bài hát Chú thích
Hùng Vương (chữ Hán: 雄王) hay vua Hùng là cách gọi dành cho các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt, tồn tại vào khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 2 trước công nguyên. Sử liệu Trong sử liệu Việt Nam, Hùng Vương được nhắc đến trong Lĩnh Nam chích quái (đời Lý-Trần) cùng truyền thuyết Âu Cơ-Lạc Long Quân. Đại Việt sử lược đời Trần cũng có ghi chép "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên-ND) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút.Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương (có bản dịch là Đối Vương, 碓王)." Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê chính thức đưa Hùng Vương làm quốc tổ. Trong sử liệu Trung Quốc, danh xưng "Hùng Vương" được ghi chép trong sách Thái Bình quảng ký, thế kỷ thứ X, dẫn Nam Việt chí khoảng thế kỷ V: "Vùng đất Giao Chỉ rất màu mỡ, di dân đến ở, thoạt đầu biết trồng cấy. Đất đen xốp. Khí đất hùng (mạnh). Vì vậy ruộng ấy gọi là ruộng Hùng, dân ấy là dân Hùng." Sử kí, quyển 113, Nam Việt liệt truyện, 53, Sách ẩn (thời Nhà Đường – Tư Mã Trinh soạn) dẫn Quảng châu kí chép: “Quận Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê. Cựu Đường thư (viết thời Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, năm 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam triều công nghiệp diễn chí (viết thời Lưu Tống, 420 – 479) chép: “Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu...". Đoạn này tương tự với miêu tả về Giao Chỉ trong Quảng Châu ký (thế kỷ IV) và Thủy Kinh chú (thế kỷ VI) trích Giao Châu ngoại vực ký thế kỷ IV. Tuy nhiên các sách này không ghi là "Hùng Vương" (雄王) mà ghi là "Lạc Vương" (雒王). Hai chữ này viết gần giống nhau nên có thể đã có sự nhầm lẫn khi ghi chép. Truyền thuyết Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ I là con trai của Lạc Long Quân, lên ngôi vào năm 2524 trước công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, truyền đời đến năm 258 trước công nguyên thì bị Thục Phán (An Dương Vương) của tộc Âu Việt chiếm mất nước. Truyền thuyết về Hùng Vương được ghi chép lại lần đầu tiên vào cuối đời Trần tại Hồng Bàng Thị truyện trong sách Lĩnh Nam Trích quái; sau đó được sử gia Ngô Sĩ Liên đưa vào Đại Việt Sử kí Toàn thư ở cuối thế kỉ XV. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Lộc Tục cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi (anh trai Lộc Tục) là con nối ngôi, cai quản phương Bắc là nước Xích Thần, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, các bộ tộc Bách Việt, gọi là nước Xích Quỷ. Kinh Dương Vương khi xuống Thủy phủ, đã lấy con gái Long Vương Động Đình Quân tên là Thần Long Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thay cha trị nước Xích Quỷ, còn Kinh Dương Vương không biết rõ đã đi đâu sau khi truyền vị. Đế Nghi truyền ngôi cho con trai là Đế Lai cai trị phương Bắc, Đế Lai nhân thiên hạ vô sự mà đi chu du khắp nơi, đi qua nước Xích Quỷ, thấy Lạc Long Quân đã về Thủy phủ, liền lưu con gái của mình là Âu Cơ ở lại đó. Lạc Long Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, liền biến hóa thành chàng trai phong tú mỹ lệ, Âu Cơ ưng theo, Lạc Long Quân liền rước nàng về núi Long Trang. Hai người ở với nhau một năm, sinh ra bọc trăm trứng, sinh ra trăm người con trai anh dũng phi thường. Lạc Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ, Âu Cơ vốn là người Bắc quốc, nhớ nhà liền gọi Long Quân trở về. Âu Cơ nói với Lạc Long Quân:Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với Quân, sinh được một trăm con trai mà không gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng, không vợ, một mình vò võ.Lạc Long Quân bảo rằng: Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc; nàng là giống Tiên, người trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp mà lại có con nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con về Thủy phủ, phân trị các xứ, năm mươi con theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau.Âu Cơ cùng năm mươi người con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người con trưởng lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, sử gia Ngô Sĩ Liên có lời bàn: Sự nghiệp Lãnh thổ của nước Văn Lang được xác định ở khu vực đồng bằng sông Hồng, phía đông bắc giáp với Âu Việt, phía tây bắc thuộc các tỉnh miền bắc Việt Nam và một phần đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay, phía đông giáp với biển Đông, phía tây tiếp giáp và chạy dọc theo dãy núi Hoàng Liên Sơn (thuộc Lào Cai, Sơn La ngày nay), phía nam giáp Hồ Tôn Tinh (hay Hồ Tôn), một quốc gia Champa cổ. Dân số của Văn Lang khoảng 40, 50 vạn người, chủ yếu phân bố ở khu vực trung du, hạ du sông Hồng và sông Mã. Hùng Vương sai các em trai phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, quan Hữu ty gọi là Bố Chính, thần bộc, nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền nhau cho đến hiệu là Hùng Vương không đổi. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép phần đầu tiên đặt tên là Kỷ Hồng Bàng thị, 3 tiểu mục là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Sách Lĩnh Nam chích quái đặt tên là Truyện Hồng Bàng. Theo sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục: Theo sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng chép. Giao Chỉ khi chưa đặt làm quận huyện, bấy giờ có ruộng Lạc, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, khai khẩn ruộng ấy là Lạc dân, thống trị dân ấy là Lạc Vương, người giúp việc là Lạc Tướng: đều dùng ấn đồng thao xanh. Nước gọi là Văn Lang. Phong tục thuần hậu, mộc mạc, chưa có chữ nghĩa, còn dùng lối thắt nút dây làm dấu ghi nhớ; truyền được mười tám chi. Có một số nguồn sử học viết về lãnh thổ của vua Hùng, phía tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), phía bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc), phía nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, là nhầm lẫn với nước Xích Quỷ trong truyền thuyết của người Bách Việt cổ. Nước Văn Lang thuộc tộc người Lạc Việt chỉ là một trong số những tộc người Bách Việt, và cũng là tổ tiên của người Kinh ngày nay. Lạc Việt cùng với Âu Việt là 2 tộc người Bách Việt sống tại vùng đất phía nam. Sau này An Dương Vương (tên thường gọi là Thục Phán), vua nước Âu Việt (nằm ở phía tây bắc nước Văn Lang), đánh bại vua Hùng của nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc. Dân số Âu Lạc thời đó cũng chỉ khoảng 70 vạn, 80 vạn người. Nếu lãnh thổ Văn Lang muốn giáp Ba Thục, Tứ Xuyên và Hồ Động Đình, Hồ Nam thì phải bao gồm cả các tỉnh Quý Châu (diện tích 176.167 km²) và Hồ Nam (diện tích 210.000 km²), phần lớn tỉnh Vân Nam (diện tích 394.000 km²), một phần tỉnh Quảng Tây (diện tích 236.700 km²) của Trung Quốc. Ngoại giao Theo truyền thuyết, năm 2557-2258 TCN, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Đường Nghiêu, Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần có lẽ hơn nghìn tuổi, mình rùa hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch (lịch rùa). Tuy nhiên đây chỉ là truyền thuyết chứ không có ghi chép chính sử xác nhận. Năm 1110 TCN, chính sử Trung Quốc ghi rằng có xứ Việt Thường sai sứ qua tặng Chu Thành vương một con chim trĩ trắng. Văn hóa Thời Lạc Long Quân trị vì, nhà vua dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về vua tôi, tôn ti, có luân thường về cha con, vợ chồng. Dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá, thường bị giao long làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo rằng: Ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn lấy mực xăm hình thủy quái ở thân thể, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của Bách Việt bắt đầu từ đây. Ban đầu do ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm; lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy, đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm. Gác cây làm nhà để tránh hổ báo; cắt ngắn đầu để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm, nhà có người chết thì giã cối gạo để cho hàng xóm nghe chạy đến giúp. Trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu để làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới tương thông. Lãnh thổ Lãnh thổ nước Văn Lang được sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam ngày nay.Hùng Vương chia nước Văn Lang làm 15 bộ là Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức, đóng đô ở bộ Văn Lang. Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái thì 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận. Mười lăm bộ theo sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép từ sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Túng:Sơn Nam (bây giờ là Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên) xưa là bộ Giao Chỉ. Sơn Tây xưa là bộ Chu Diên, bộ Phúc Lộc. Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh) xưa là bộ Vũ Ninh. Thuận Hóa (bây giờ là từ Hải Lăng thuộc Quảng Trị đến Điện Bàn thuộc Quảng Nam) xưa là bộ Việt Thường; An Bang (bây giờ là Quảng Yên) xưa là bộ Ninh Hải; Hải Dương xưa là bộ Dương Tuyền; Lạng Sơn xưa là bộ Lục Hải; Thái Nguyên, Cao Bằng xưa là bộ Vũ Định nội ngoại; Nghệ An xưa là bộ Hoài Hoan; Thanh Hóa xưa là bộ Cửu Chân; Hưng Hóa và Tuyên Quang xưa là bộ Tân Hưng; Còn hai bộ Bình Văn và Cửu Đức thì đều khuyết nghi. Nay khảo ở sách Tấn chí, quận Cửu Đức do nhà Ngô đặt, nay là đất Hà Tĩnh. Sử cũ chua tức là nước Chiêm Thành, bây giờ là đất Bình Định.Diệt vong Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, cuối thời Hùng Vương, vua có người con gái vô cùng xinh đẹp. Thục Vương nghe tiếng, liền sai người đến cầu hôn. Hùng hầu can rằng Thục vương chỉ lấy cớ hôn nhân để xâm lược mà thôi. Thục vương đem lòng oán giận. Về sau Hùng Vương gả con gái cho Sơn Tinh, Thục vương căm giận, căn dặn con cháu phải diệt nước Văn Lang. Cháu Thục vương là Thục Phán nối ngôi, có dũng lược, đem quân xâm lược Văn Lang. Hùng Vương có binh hùng tướng mạnh đánh bại Thục Phán. Hùng Vương bảo Thục Phán rằng: Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư?, rồi bỏ bê đất nước, chỉ lo ăn uống vui chơi. Khi quân Thục kéo sát đến nơi, vua còn say mềm chưa tỉnh. Tỉnh dậy, Hùng Vương cùng đường, thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính đầu hàng Thục Phán. Từ đây trong sử sách nước Việt bước sang kỷ mới gọi là Kỷ nhà Thục. Sử gia Ngô Sĩ Liên cho rằng chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh rất quái đản, chỉ tạm thuật lại để truyền lại sự nghi ngờ. Các đời vua Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính. Chú ý: "雄犧王" và "雄曦王" tuy đều đọc là "Hùng Hi Vương" nhưng chữ "hi" trong hai tên gọi này khác nhau về tự dạng và ý nghĩa. Nghi vấn Trong cuốn Việt Sử tiêu án viết năm 1775, tác giả Ngô Thì Sĩ tỏ ra băn khoăn: "Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều ấy càng không thể hiểu được?"Hùng Vương thứ I sinh năm 2879 trước công nguyên, Hùng Vương thứ XVIII lại mất năm 258 trước công nguyên. Nếu tính theo độ tuổi trung bình thì mỗi vị vua sống tới 145 năm (!?), quá chênh lệch so với hiện tại. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong "Thế thứ các triều vua Việt Nam" thì giải thích vấn đề này thuộc một trong hai quan điểm đang được các nhà sử học tạm chấp nhận: 18 vị vua Hùng không phải là 18 cá nhân cụ thể, mà là 18 chi (nhánh/ngành), mỗi chi này lại gồm có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là một số thiêng đối với người Việt. Cũng có những giả thuyết về một quốc gia cổ là Việt Thường. Cổ sử Trung Hoa có chép: vào thời Chu Thành Vương (1042-1021 TCN) có người ở Việt Thường đến dâng chim trĩ trắng. Khi sứ giả Việt Thường về nước, vì không biết đường nên Chu Công đã cho lấy năm cỗ xe bình xa (軿車, xe có màn che thời xưa) sửa thành xe chỉ nam rồi cấp cho sứ giả để giúp sứ giả xác định phương hướng. Có thể đặt ra giả thiết: hoặc Văn Lang là nhà nước kế tục Việt Thường, khi Văn Lang thay thế Việt Thường đã đặt tên Việt Thường làm một trong 15 bộ của mình; hoặc Việt Thường là một bộ lạc trong nhà nước Văn Lang. Cả Văn Lang và Việt Thường đều có thể xếp vào thời kỳ những vua Hùng, tên nước thì có thể đặt từ khi thành lập để gọi nhưng tên thời đại Hồng Bàng thì chắc chắn sau này các sử gia tự đặt cho dễ sắp xếp và theo dõi. Theo các nghiên cứu văn hóa đồng bằng sông Hồng của Liam C. Kelley, thì các vua Hùng là truyền thuyết do giới trí thức Nho học tại đồng bằng sông Hồng thời trung đại sử dụng như một minh chứng cho bản sắc riêng, tách biệt với các khái niệm thuộc di sản văn hóa mà người Trung Hoa du nhập vào Việt Nam. Và rồi chính họ đã dựa vào những văn bản xưa cổ để lấy chất liệu và cảm hứng nhằm kiến tạo một lịch sử cũng như một bản sắc bản địa cho bản thân mình, do đó đã đóng góp cho việc sáng tạo ra một bản sắc địa phương. Theo ông, truyền thuyết về vua Hùng vốn được bắt đầu bởi giới tinh hoa Hán hóa ở miền Bắc Việt Nam thời trung đại được người Việt Nam ngày nay dựa vào để phát triển trong suốt nửa thế kỉ qua. Dưới sự chi phối của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, những truyền thống được kiến tạo của giới tinh hoa thời trung đại này giờ đây đã trở thành những chân lí không thể thay đổi dù người ta bắt đầu xét lại lịch sử. Thờ cúng Vào thời nhà Nguyễn, miếu Lịch Đại Đế Vương được dựng từ năm Minh Mạng thứ 4 (1823) trên địa phận xã Dương Xuân, phía nam, ngoài kinh thành Huế, thờ nhiều nhân vật trong đó có Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương.Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tr 37, 2006 Giỗ Tổ Hùng Vương hay Lễ hội Đền Hùng là một ngày lễ của Việt Nam. Đây là ngày hội truyền thống của người Việt nhằm tưởng nhớ công lao dựng nước của các vua Hùng. Nghi lễ truyền thống được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ nhưng được dân Việt trong cũng như ngoài nước đều kỷ niệm. Năm 1954, Hồ Chí Minh có buổi gặp mặt với binh lính các Trung đoàn Thủ Đô, trung đoàn 36, trung đoàn Tu Vũ..., đã nói rằng: "Đền Hùng thờ các vua Hùng. Hùng Vương là người sáng lập ra nước ta, là Tổ tiên của dân tộc ta. Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều cơ sở thờ tự vua Hùng được bà con thành lập để thờ phượng như Đền thờ Hùng Vương tại hẻm 22/93 đường Trần Bình Trọng tại phường 1 ở quận 5 được xây dựng trước năm 1970, ngoài ra còn có Tổ đình Quốc Tổ Lạc Hồng tại số 94 đường Nguyễn Thái Sơn quận Gò Vấp, Đền Hùng Vương tại số 261/3 đường Cô Giang ở quận Phú Nhuận và Đền thờ Quốc tổ Hùng Vương tại số 166/3 đường Đoàn Văn Bơ ở Quận 4 Tên gọi "Hùng Vương" Tên Hùng Vương cũng được đặt cho các tên đường, phố, trường học ở Việt Nam. Đền thờ và lăng mộ Thư mục Đại Việt Sử ký Toàn thư, soạn giả Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên,... Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1993. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, soạn giả: Quốc sử quán triều Nguyễn, Nhà Xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1998. Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Soạn giả Phan Huy Chú, Nhà Xuất bản Giáo dục, 2006. An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, Nhà Xuất bản: Viện Đại học Huế; 1961.Việt Nam văn hóa sử cương'', soạn giả Đào Duy Anh, Nhà Xuất bản Nhã Nam, 2014. Lĩnh Nam chích quái, soạn giả Trần Thế Pháp, Nhà Xuất bản Hồng Bàng. Việt điện u linh, soạn giả Lý Tế Xuyên, Nhà Xuất bản Hồng Bàng. Đại Nam nhất thống chí, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tập 1, năm 2006.
Trong thủy văn học, mô-đun lưu lượng đỉnh lũ là đại lượng được xác định bằng tỉ số giữa lưu lượng đỉnh lũ và diện tích lưu vực. trong đó: M là mô-đun lưu lượng đỉnh lũ (đơn vị m³s−1km−2) Qmax là lưu lượng đỉnh lũ (m³/s) F là diện tích lưu vực (km²) Tính chất Giá trị mô-đun lưu lượng đỉnh lũ sẽ giảm xuống khi diện tích lưu vực tăng. Các lưu vực lớn hơn dĩ nhiên sẽ có lưu lượng đỉnh lũ lớn hơn, nhưng mức độ tăng của lưu lượng đỉnh lũ sẽ nhỏ hơn so với tỉ lệ tương ứng của diện tích lưu vực. Hai lưu vực 1 và 2 có F2 > F1 thì Qmax2 > Qmax1 nhưng do đó M2 < M1. Điều này thể hiện tính điều hòa dòng chảy lũ của các lưu vực lớn.
Trong cơ học chất lưu, đường dòng của một dòng chất lưu là các đường cong sao cho mỗi phần tử chất lưu nằm trên đường dòng nào đều có vec tơ lưu tốc tức thời có phương tiếp tuyến với đường dòng đó. Đường dòng cũng biểu thị quỹ đạo của phần tử chất lỏng chuyển động qua thể tích kiểm tra. Trong dòng chảy tầng, các đường dòng song song với nhau. Phương trình Trong dòng chảy hai chiều, đường dòng được coi là họ đường cong hàm số trong đó là hàm dòng được xác định sao cho các đạo hàm riêng của nó cho ra các thành phần của vec tơ lưu tốc: Ứng dụng Hệ thống các đường dòng, cùng với các đường đẳng thế tạo nên lưới thủy động có ứng dụng trong sơ đồ thấm và nghiên cứu chuyển động của nước dưới đất nói chung.
Liên lớp Cá xương (danh pháp khoa học: Osteichthyes) là một liên lớp trong phân loại học cho các loài cá, bao gồm cá vây tia (Actinopterygii) và cá vây thùy (Sarcopterygii) khi nhóm cá vây thùy không gộp cả Tetrapoda. Theo truyền thống nhóm cá xương được coi là một lớp của động vật có xương sống, với các lớp là Actinopterygii và Sarcopterygii, nhưng các sơ đồ mới nhất phân chia chúng thành vài lớp khác nhau. Siêu lớp này trong một số tài liệu về sinh vật học của Việt Nam vẫn gọi là lớp Cá xương cùng với lớp Cá sụn (Chondrichthyes) và một số nhóm cá không quai hàm khác hợp thành các loài cá nói chung. Tuy nhiên, các nghiên cứu phát sinh loài gần đây nhất chỉ ra rằng Osteichthyes là một nhóm cận ngành với các loài động vật có xương sống trên đất liền. Actinopterygii (cá vây tia) là nhóm đơn ngành, nhưng việc gộp cả Sarcopterygii vào trong Osteichthyes làm cho Osteichthyes trở thành cận ngành, do Sarcopterygii chỉ được coi là đơn ngành khi nó gộp cả Tetrapoda (động vật bốn chân). Do vậy, thuật ngữ Euteleostomi (động vật miệng hoàn hảo thật sự) được sử dụng để thay thế cho Osteichthyes, do nghĩa đen của Osteichthyes là "cá xương", trong khi việc coi động vật bốn chân cũng là "cá xương" là một điều khó chấp nhận khi hiểu theo nghĩa thông thường. Phần lớn cá xương thuộc về nhóm cá vây tia (Actinopterygii), chỉ có tám loài còn sinh tồn thuộc về nhóm cá vây thùy (Sarcopterygii), bao gồm cá phổi và cá vây tay, trong đó một số loài cá vây thùy có khớp xương. Osteichthyes là nhóm đa dạng nhất của động vật có xương sống, bao gồm trên 31.000 loài, điều này làm cho nó trở thành siêu lớp lớn nhất của động vật có xương sống mà hiện nay còn tồn tại. Đặc trưng Cá xương được đặc trưng bởi kiểu xương sọ khá ổn định, các răng có chân răng, chỗ bám trung bình của các cơ thuộc hàm dưới. Đầu và đai vai (vây ngực) được che phủ bằng các xương da lớn. Nhãn cầu được hỗ trợ bằng một vòng màng cứng gồm 4 xương nhỏ, nhưng đặc trưng này đã bị mất hoặc bị biến đổi ở nhiều loài hiện nay. Đường rối thuộc tai trong chứa các sỏi thính giác lớn. Vỏ não thông thường được chia thành các phần trước và sau, được ngăn cách bằng khe nứt. Cá xương hoặc là có bong bóng hoặc là có phổi. Chúng không có các gai vây, thay vì thế chúng hỗ trợ vây bằng các tia vây bằng xương (lepidotrichia). Chúng cũng có nắp mang cá, điều này giúp chúng có thể thở mà không cần bơi. Xương thay thế Một trong các sự cách tân đã biết đến của cá xương là sụn hóa xương hay xương "thay thế", nghĩa là chất xương được chuyển hóa từ bên trong, bằng cách thay thế chất sụn, cũng như thay thế màng sụn bằng "xương xốp". Ở động vật có xương sống nói chung thì có nhiều dạng cơ quan khác nhau có sự calci hóa (vôi hóa): ngà răng, men răng và xương, cộng với các biến đổi khác, được đặc trưng bởi sự phát triển cá thể, thành phần hóa học, hình dạng và vị trí của chúng. Nhưng hóa xương từ sụn là duy nhất vì nó bắt đầu sự sống như là chất sụn. Trong các nhóm động vật có xương sống cơ bản hơn, các cấu trúc chất sụn cũng có thể bị vôi hóa ở bề mặt ngoài. Tuy nhiên, ở nhóm cá xương thì hệ tuần hoàn tràn lan thể mẹ là chất sụn. Điều này cho phép các tế bào tạo xương (nguyên bào xương) cục bộ tiếp tục tạo xương trong sụn và cũng có được các nguyên bào xương tuần hoàn và bổ sung. Các tế bào khác dần dần tiêu hóa hết lớp sụn xung quanh. Kết quả cuối cùng là chất sụn được thay thế bằng một hệ thống xương có mạch có phần bất thường. Về mặt cấu trúc, hiệu ứng của nó là việc tạo ra lớp xương bên trong tương đối nhẹ, mềm và xốp, được bao quanh bằng màng xương dạng phiến dày. Kể từ đó lớp xương này được bao quanh bằng lớp xương khác, chứ không phải sụn, nó được nói đến như là màng bao xương chứ không phải màng bao sụn. Đây là kiểu xương hóa từ sụn duy nhất mà từ đó các loài cá xương có được tên gọi chung, cũng như nhiều ưu thế cấu trúc khác. Tuy nhiên xương hóa từ sụn có thể là có ích, nhưng nó nặng hơn và ít mềm dẻo hơn so với chất sụn. Vì vậy, nhiều nhóm cá xương hiện đại, bao gồm cả nhóm Teleostei cực kỳ thành công, đã tiến hóa xa ra khỏi sự sử dụng việc tích cực xương hóa từ chất sụn. Hóa thạch Hóa thạch sớm nhất đã biết của cá xương là Andreolepis hedei Gross, 1968, có niên đại khoảng 420 triệu năm trước (Trung Ludlow, Thượng Silur). Hóa thạch của nó được tìm thấy tại Nga, Thụy Điển, Estonia và Latvia. Ví dụ Cá thái dương đại dương (cá phiên xa) (Mola mola) là loài cá xương to và nặng nhất trên thế giới, nhưng không phải là dài nhất; vinh dự này dành cho Regalecus glesne). Các cá thể của cá thái dương đại dương đã được biết là dài tới 3,33 m (11 ft) và cân nặng 2.300 kg (5.070 pao). Một loài cá xương lớn khác là cá maclin xanh Đại Tây Dương với một số cá thể nặng trên 820 kg (1.807,4 pao), cá maclin đen và một số loài cá tầm.
Batman có thể là: Người Dơi, nhân vật hư cấu xuất hiện trong các truyện tranh và phim cùng tên Tỉnh Batman của Thổ Nhĩ Kỳ Thành phố Batman thuộc tỉnh Batman, Thổ Nhĩ Kỳ. Làng Batman, Tunceli thuộc tỉnh Tunceli, Thổ Nhĩ Kỳ Video game Batman: Arkham Truyện tranh Batman
Đồng thuận Washington là cụm từ xuất hiện từ đầu thập niên 1990 để mô tả một chương trình cải cách kinh tế bao gồm mười chính sách khác nhau được các tổ chức đóng trụ sở tại Washington (Mỹ) như IMF, Ngân hàng Thế giới, Bộ Tài chính Mỹ đề nghị áp dụng ở những nước trải qua khủng hoảng kinh tế. Mười chính sách cải cách kinh tế bao gồm: Kỷ luật trong thực thi chính sách tài chính; Chuyển hướng chi tiêu công cộng sang đầu tư cho giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng; Cải cách hệ thống thuế - Kéo giãn đường cong thuế: Giảm thuế suất đối với các nhóm thuế cao theo tỷ lệ (điển hình là thuế đánh vào mức thu nhập trên trung bình), tăng thuế suất đối với các nhóm thuế thấp theo tỷ lệ (điển hình là thuế đánh vào mức thu nhập dưới trung bình); giảm thuế suất biên; Để thị trường quy định lãi suất, song giữ sao cho lãi suất thực tế dương và ở mức thấp; Chế độ tỷ giá hối đoái cạnh tranh; Tự do hóa thương mại: thay thế các hạn chế định lượng bằng các loại thuế quan thống nhất và ở mức thấp; Mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài; Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước; Giải điều tiết: loại bỏ các quy chế ngăn cản xâm nhập thị trường và ngăn cản cạnh tranh, ngoại trừ những quy định chính đáng liên quan đến an toàn, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng; giám sát cẩn thận các thể chế tài chính; Củng cố khung pháp lý đảm bảo quyền sở hữu. Sau này, ý nghĩa của thuật ngữ trên đã được mở rộng hơn và phạm vi áp dụng cũng rộng hơn. Nó được dùng để chỉ tất cả những chính sách mà các nhà kinh tế chủ nghĩa tự do mới cổ vũ áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới nhằm cái mà họ cho là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, "Đồng thuận Washington" đề xuất hàng loạt chính sách cải cách kinh tế theo định hướng thị trường tự do để cho các nền kinh tế sẽ trở nên tự do hơn giống như các nền kinh tế ở Thế giới thứ nhất mà Mỹ là đại biểu. Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng "Đồng thuận Washington". Một số nước đã thu được những kết quả tích cực, và một số thì không. Cũng có nhiều nước được đề nghị áp dụng "Đồng thuận Washington", nhưng đã từ chối.
Trong ngành mạng máy tính, định tuyến (tiếng Anh: routing hay routeing) là quá trình chọn lựa các đường đi trên một mạng máy tính để gửi dữ liệu qua đó. Việc định tuyến được thực hiện cho nhiều loại mạng, trong đó có mạng điện thoại, liên mạng, Internet, mạng giao thông. Routing chỉ ra hướng, sự di chuyển của các gói (dữ liệu) được đánh địa chỉ từ mạng nguồn của chúng, hướng đến đích cuối thông qua các node trung gian; thiết bị phần cứng chuyên dùng được gọi là router (bộ định tuyến). Tiến trình định tuyến thường chỉ hướng đi dựa vào bảng định tuyến, đó là bảng chứa những lộ trình tốt nhất đến các đích khác nhau trên mạng. Vì vậy việc xây dựng bảng định tuyến, được tổ chức trong bộ nhớ của router, trở nên vô cùng quan trọng cho việc định tuyến hiệu quả. Routing khác với bridging (bắc cầu) ở chỗ trong nhiệm vụ của nó thì các cấu trúc địa chỉ gợi nên sự gần gũi của các địa chỉ tương tự trong mạng, qua đó cho phép nhập liệu một bảng định tuyến đơn để mô tả lộ trình đến một nhóm các địa chỉ. Vì thế, routing làm việc tốt hơn bridging trong những mạng lớn, và nó trở thành dạng chiếm ưu thế của việc tìm đường trên mạng Internet. Các mạng nhỏ có thể có các bảng định tuyến được cấu hình thủ công, còn những mạng lớn hơn có topo mạng phức tạp và thay đổi liên tục thì xây dựng thủ công các bảng định tuyến là vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, hầu hết mạng điện thoại chuyển mạch chung (public switched telephone network - PSTN) sử dụng bảng định tuyến được tính toán trước, với những tuyến dự trữ nếu các lộ trình trực tiếp đều bị nghẽn. Định tuyến động (dynamic routing) cố gắng giải quyết vấn đề này bằng việc xây dựng bảng định tuyến một cách tự động, dựa vào những thông tin được giao thức định tuyến cung cấp, và cho phép mạng hành động gần như tự trị trong việc ngăn chặn mạng bị lỗi và nghẽn. Định tuyến động chiếm ưu thế trên Internet. Tuy nhiên, việc cấu hình các giao thức định tuyến thường đòi hỏi nhiều kinh nghiệm; đừng nên nghĩ rằng kỹ thuật nối mạng đã phát triển đến mức hoàn thành tự động việc định tuyến. Cách tốt nhất là nên kết hợp giữa định tuyến thủ công và tự động. Những mạng trong đó các gói thông tin được vận chuyển, ví dụ như Internet, chia dữ liệu thành các gói, rồi dán nhãn với các đích đến cụ thể và mỗi gói được lập lộ trình riêng biệt. Các mạng xoay vòng, như mạng điện thoại, cũng thực hiện định tuyến để tìm đường cho các vòng (ví dụ như cuộc gọi điện thoại) để chúng có thể gửi lượng dữ liệu lớn mà không phải tiếp tục lặp lại địa chỉ đích. Định tuyến IP truyền thống vẫn còn tương đối đơn giản vì nó dùng cách định tuyến bước kế tiếp (next-hop routing), router chỉ xem xét nó sẽ gửi gói thông tin đến đâu, và không quan tâm đường đi sau đó của gói trên những bước truyền còn lại. Tuy nhiên, những chiến lược định tuyến phức tạp hơn có thể được, và thường được dùng trong những hệ thống như MPLS, ATM hay Frame Relay, những hệ thống này đôi khi được sử dụng như công nghệ bên dưới để hỗ trợ cho mạng IP. Các kiểu định tuyến Thuật toán vector (distance-vector routing protocols) Thuật toán này dùng thuật toán Bellman-Ford. Phương pháp này chỉ định một con số, gọi là chi phí (hay trọng số), cho mỗi một liên kết giữa các node trong mạng. Các node sẽ gửi thông tin từ điểm A đến điểm B qua đường đi mang lại tổng chi phí thấp nhất (là tổng các chi phí của các kết nối giữa các node được dùng). Thuật toán hoạt động với những hành động rất đơn giản. Khi một node khởi động lần đầu, nó chỉ biết các node kề trực tiếp với nó, và chi phí trực tiếp để đi đến đó (thông tin này, danh sách của các đích, tổng chi phí của từng node, và bước kế tiếp để gửi dữ liệu đến đó tạo nên bảng định tuyến, hay bảng khoảng cách). Mỗi node, trong một tiến trình, gửi đến từng "hàng xóm" tổng chi phí của nó để đi đến các đích mà nó biết. Các node "hàng xóm" phân tích thông tin này, và so sánh với những thông tin mà chúng đang "biết"; bất kỳ điều gì cải thiện được những thông tin chúng đang có sẽ được đưa vào các bảng định tuyến của những "hàng xóm" này. Đến khi kết thúc, tất cả node trên mạng sẽ tìm ra bước truyền kế tiếp tối ưu đến tất cả mọi đích, và tổng chi phí tốt nhất. Khi một trong các node gặp vấn đề, những node khác có sử dụng node hỏng này trong lộ trình của mình sẽ loại bỏ những lộ trình đó, và tạo nên thông tin mới của bảng định tuyến. Sau đó chúng chuyển thông tin này đến tất cả node gần kề và lặp lại quá trình trên. Cuối cùng, tất cả node trên mạng nhận được thông tin cập nhật, và sau đó sẽ tìm đường đi mới đến tất cả các đích mà chúng còn tới được. Thuật toán trạng thái kết nối (Link-state routing protocols) Khi áp dụng các thuật toán trạng thái kết nối, mỗi node sử dụng dữ liệu cơ sở của nó như là một bản đồ của mạng với dạng một đồ thị. Để làm điều này, mỗi node phát đi tới tổng thể mạng những thông tin về các node khác mà nó có thể kết nối được, và từng node góp thông tin một cách độc lập vào bản đồ. Sử dụng bản đồ này, mỗi router sau đó sẽ quyết định về tuyến đường tốt nhất từ nó đến mọi node khác. Thuật toán đã làm theo cách này là Dijkstra, bằng cách xây dựng cấu trúc dữ liệu khác, dạng cây, trong đó node hiện tại là gốc, và chứa mọi noded khác trong mạng. Bắt đầu với một cây ban đầu chỉ chứa chính nó. Sau đó lần lượt từ tập các node chưa được thêm vào cây, nó sẽ thêm node có chi phí thấp nhất để đến một node đã có trên cây. Tiếp tục quá trình đến khi mọi node đều được thêm. Cây này sau đó phục vụ để xây dựng bảng định tuyến, đưa ra bước truyền kế tiếp tốt ưu, … để từ một node đến bất kỳ node khác trên mạng. So sánh các thuật toán định tuyến Các giao thức định tuyến với thuật toán vector tỏ ra đơn giản và hiệu quả trong các mạng nhỏ, và đòi hỏi ít (nếu có) sự giám sát. Tuy nhiên, chúng không làm việc tốt, và có tài nguyên tập hợp ít ỏi, dẫn đến sự phát triển của các thuật toán trạng thái kết nối tuy phức tạp hơn nhưng tốt hơn để dùng trong các mạng lớn. Giao thức vector kém hơn với rắc rối về đếm đến vô tận. Ưu điểm chính của định tuyến bằng trạng thái kết nối là phản ứng nhanh nhạy hơn, và trong một khoảng thời gian có hạn, đối với sự thay đổi kết nối. Ngoài ra, những gói được gửi qua mạng trong định tuyến bằng trạng thái kết nối thì nhỏ hơn những gói dùng trong định tuyến bằng vector. Định tuyến bằng vector đòi hỏi bảng định tuyến đầy đủ phải được truyền đi, trong khi định tuyến bằng trạng thái kết nối thì chỉ có thông tin về "hàng xóm" của node được truyền đi. Vì vậy, các gói này dùng tài nguyên mạng ở mức không đáng kể. Khuyết điểm chính của định tuyến bằng trạng thái kết nối là nó đòi hỏi nhiều sự lưu trữ và tính toán để chạy hơn định tuyến bằng vector. Giao thức được định tuyến và giao thức định tuyến Sự nhầm lẫn thường xảy ra giữa "giao thức được định tuyến" và "giao thức định tuyến" ("routed protocols" và "routing protocols"). Giao thức được định tuyến (routed protocols hay routable protocols) Một giao thức đã được định tuyến là bất kỳ một giao thức mạng nào cung cấp đầy đủ thông tin trong địa chỉ tầng mạng của nó để cho phép một gói tin được truyền đi từ một máy chủ (host) đến máy chủ khác dựa trên sự sắp xếp về địa chỉ, không cần biết đến đường đi tổng thể từ nguồn đến đích. Giao thức đã được định tuyến định nghĩa khuôn dạng và mục đích của các trường có trong một gói. Các gói thông thường được vận chuyển từ hệ thống cuối đến một hệ thống cuối khác. Hầu như tất cả giao thức ở tầng 3 các giao thức khác ở các tầng trên đều có thể được định tuyến, IP là một ví dụ. Nghĩa là gói tin đã được định hướng (có địa chỉ rõ ràng)giống như lá thư đã được ghi địa chỉ rõ chỉ còn chờ routing (tìm đường đi đến địa chỉ đó) Các giao thức ở tầng 2 như Ethernet là những giao thức không định tuyến được, vì chúng chỉ chứa địa chỉ tầng liên kết, không đủ để định tuyến: một số giao thức ở tầng cao dựa trực tiếp vào đây mà không có thêm địa chỉ tầng mạng, như NetBIOS, cũng không định tuyến được. Giao thức định tuyến (routing protocols) Giao thức định tuyến được dùng trong khi thi hành thuật toán định tuyến để thuận tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các mạng, cho phép các router xây dựng bảng định tuyến một cách linh hoạt. Trong một số trường hợp, giao thức định tuyến có thể tự chạy đè lên giao thức đã được định tuyến: ví dụ, BGP chạy đè trên TCP: cần chú ý là trong quá trình thi hành hệ thống không tạo ra sự lệ thuộc giữa giao thức định tuyến và đã được định tuyến. Danh sách các giao thức định tuyến Giao thức định tuyến trong Router Information Protocol (RIP) Open Shortest Path First (OSPF) Intermediate System to Intermediate System (IS-IS) Hai giao thức sau đây thuộc sở hữu của Cisco, và được hỗ trợ bởi các router Cisco hay những router của những nhà cung cấp mà Cisco đã đăng ký công nghệ: Interior Gateway Routing Protocol (IGRP) Enhanced IGRP (EIGRP) Giao thức định tuyến ngoài Exterior Gateway Protocol (EGP) Border Gateway Protocol (BGP) Constrained Shortest Path First (CSPF) Thông số định tuyến (Routing metrics) Một thông số định tuyến bao gồm bất kỳ giá trị nào được dùng bởi thuật toán định tuyến để xác định một lộ trình có tốt hơn lộ trình khác hay không. Các thông số có thể là những thông tin như băng thông (bandwidth), độ trễ (delay), đếm bước truyền, chi phí đường đi, trọng số, kích thước tối đa gói tin (MTU - Maximum transmission unit), độ tin cậy, và chi phí truyền thông. Bảng định tuyến chỉ lưu trữ những tuyến tốt nhất có thể, trong khi cơ sở dữ liệu trạng thái kết nối hay topo có thể lưu trữ tất cả những thông tin khác. Router dùng tính năng phân loại mức tin cậy (administrative distance -AD) để chọn đường đi tốt nhất khi nó "biết" hai hay nhiều đường để đến cùng một đích theo các giao thức khác nhau. AD định ra độ tin cậy của một giao thức định tuyến. Mỗi giao thức định tuyến được ưu tiên trong thứ tự độ tin cậy từ cao đến thấp nhất có một giá trị AD. Một giao thức có giá trị AD thấp hơn thì được tin cậy hơn, ví dụ: OSPF có AD là 110 sẽ được chọn thay vì RIP có AD là 120. Bảng sau đây cho biết sự sắp xếp mức tin cậy được dùng trong các router Cisco Các lớp giao thức định tuyến Dựa vào quan hệ của các dòng router với các hệ thống tự trị, có nhiều lớp giao thức định tuyến như sau: Giao thức định tuyến trong mạng Ad-hoc xuất hiện ở những mạng không có hoặc ít phương tiện truyền dẫn. Interior Gateway Protocols (IGPs) trao đổi thông tin định tuyến trong một AS. Các ví dụ thường thấy là: IGRP (Interior Gateway Routing Protocol) EIGRP (Enhanced Interior Gateway Routing Protocol) OSPF (Open Shortest Path First) RIP (Routing Information Protocol) RSMLT IS-IS (Intermediate System to Intermediate System) Chú ý: theo nhiều tài liệu của Cisco, EIGRP không phân lớp như giao thức trạng thái kết nối. Exterior Gateway Protocols (EGPs) định tuyến giữa các AS. EGPs gồm: EGP (giao thức cũ để nối mạng Internet trước đây, bây giờ đã lỗi thời) BGP (Border Gateway Protocol: phiên bản hiện tại, BGPv4, có từ khoảng năm 1995)
Thái Can (1910- 1998), là bác sĩ và là nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Cuộc đời Thái Can sinh ngày 22 tháng 10 năm 1910 tại xã Đức Lâm, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông lần lượt theo học các trường: trường phủ Đức Thọ (Hà Tĩnh), trường Vinh (Nghệ An), Trường Trung học Bảo Hộ (tức Trường Bưởi, Hà Nội), trường thuốc Hà Nội (tức Trường Y- Dược Đông Dương). Lúc còn đi học, ông đã làm thơ. Buổi đầu, ông ký bút hiệu Th.C. Thơ ông phần nhiều đăng trên các báo: Phong hoá, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Văn học tạp chí. Năm 1934, Thái Can cho in tập thơ Những nét đan thanh, do Ngân Sơn tùng thư ở Huế xuất bản. Tập thơ này về sau, được ông bổ sung thêm, tự mình đề tựa rồi cho tái bản năm 1938. Năm 1995, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh cho tái bản lần nữa với tên mới là Thơ Thái Can. Năm 1940, ông tốt nghiệp bác sĩ y khoa. Tháng 8 năm 1941, ông được Hoài Thanh và Hoài Chân chọn để giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942). Cũng năm này, ông học thêm chữ Hán và làm thơ bằng chữ Hán. Sau Hiệp định Genève ông di cư vào Nam, mở phòng khám bệnh ở Đà Nẵng rồi sau năm 1975 thì tỵ nạn sang Hoa Kỳ định cư. Ngày 22 tháng 04 năm 1998, Thái Can qua đời tại California, Hoa Kỳ. Tác phẩm Những nét đan thanh (Ngân Sơn tùng thư xuất bản, Huế, 1934) Thơ Thái Can (gồm 33 bài thơ. Nhà xuất bản. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1995) Sự nghiệp văn chương Giới thiệu Thái Can, Hoài Thanh và Hoài Chân, viết: Trong sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển Hạ) có đoạn viết: {{cquote|Với Thái Can, mùa xuân cũng như mùa thu, đều chất chứa những gì tan tác: Một ngày là một đóa hoa tươiSớm với bình minh mỉm miệng cười. Theo bóng tà dương chiều đã tạ,Trong thời gian mãi lửng lo trôi...(Bên hồ) Một khía cạnh khác của Thái Can, đó là những mảnh đời của những ca nhi, vũ nữ đã chiếm nhiều hồn thơ của thi nhân, làm chuyển hẳn mạch thơ từ chỗ khách quan, thành cái nhìn vạn hữu như hư ảo, cái trò đời như bạc bẽo, đảo điên...Cho nên, nói đến thơ ông, ta không thể tách rời tính xã hội trong nét bút. Nói khác hơn, cuộc sống của những thân phận ấy xuất hiện trong thơ Thái Can như những tiếng uất ức, nghẹn nào…Và nó như muốn đạp đổ những gì bất công trong xã hội...}} Theo Từ điển Văn học'' (bộ mới), thì Thơ Thái Can Giới thiệu hai bài tiêu biểu: Chú thích Người Hà Tĩnh Người Mỹ gốc Việt Nhà thơ tiền chiến Nhà thơ Việt Nam
Lớp Cá mập gai (danh pháp khoa học: Acanthodii) là một lớp cá đã tuyệt chủng. Chúng có các đặc trưng của cả cá xương (siêu lớp Osteichthyes) lẫn cá sụn (lớp Chondrichthyes). Chúng xuất hiện vào cuối kỷ Ordovic, đầu kỷ Silur (khoảng 430-440 triệu năm trước) và kéo dài đến cuối kỷ Permi (khoảng 250 triệu năm trước). Các loài cá mập gai đầu tiên là cá biển, nhưng trong kỷ Devon, các loài cá mập nước ngọt là chủ yếu. Chúng được phân biệt trong hai khía cạnh: chúng là các động vật có xương sống và quai hàm đầu tiên, và chúng có các gai chắc khỏe để hỗ trợ các vây của chúng, được cố định tại chỗ và không chuyển động được (tương tự như vây lưng của cá mập ngày nay). Hiện người ta biết có ba bộ cá mập gai là: Climatiiformes, Ischnacanthiformes và Acanthodiformes. Bộ Climatiiformes có giáp ở vai và nhiều gai nhỏ và nhọn, bộ Ischnacathiformes có các răng hợp nhất với quai hàm, còn bộ Acanthodiformes là các loài cá kiếm ăn theo kiểu lọc nước, chúng không có răng mà có các lược mang cá dài. Gần như tất cả các loài cá này đều có kích thước rất nhỏ, mảnh khảnh và có các mắt to, đuôi dị hình, với phần cột sống thuộc phần đuôi hỗ trợ thùy trên của vây đuôi, tương tự như đuôi của cá mập ngày nay. Tất cả chúng đều có các cặp gai bằng chất xương dọc theo đường bụng ở đoạn giữa thân, thông thường hỗ trợ một mạng mô giữa gai và cơ thể, tạo thành vây. Vì thế mà có tên hiệu "cá mập gai". Các gai đặc biệt này là tiền đề để có tên gọi khoa học của lớp này, lấy theo tiếng Hy Lạp Akanthos. Vảy của cá mập gai là duy nhất và được sử dụng trong việc xác định niên đại tương đối của đá trầm tích. Các vảy này nhỏ, với phần gốc vảy có dạng củ hành, phần cổ và phần chóp có dạng hình thoi phẳng hay hơi cong. Hình ảnh Chú thích
Sào Phủ Hứa Do là tên một tích truyện cổ Trung Quốc, lấy tên hai nhân vật trong đó là Sào Phủ (chữ Hán: 巢父) và Hứa Do (許由). Hình tượng trong Truyền thuyết dân gian Theo truyền thuyết, hai nhân vật này sống đời vua Nghiêu. Câu chuyện như sau (lời đối thoại theo "Chuyện giải buồn" của Huỳnh Tịnh Của): Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi. Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai. Khi đó, Sào Phủ mới dắt trâu tới suối uống nước, thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi tại sao. Hứa Do trả lời: "Ông Nghiêu đòi tôi, biểu tôi thì làm vua." Sào Phủ bèn dắt trâu bỏ lên trên dòng nước cho uống. Hứa Do hỏi tại sao, Sào Phủ đáp: "Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm." Sào Phủ lại nói: "Anh đi đâu cho người ta biết vua mà muốn nhường ngôi vua cho anh, ấy là tại bụng anh vẫn còn danh lợi." Huỳnh Tịnh Của phê rằng, "Nghe mà rửa, chi bằng giữ vẹn đừng nghe." Hình tượng trong Văn học cổ điển Tích Sào Phủ Hứa Do trở thành một điển cố về lòng trong sạch và tính ẩn dật. Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm vô quán nước gặp một chủ quán có vẻ có tài, Vân Tiên khuyên ông ra làm quan. Ông trả lời: Quán rằng: Nghiêu Thuấn thủa xưaKhó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa 'Hứa Do Ý nói, ngay cả đời thịnh vượng thanh bình như thời vua Nghiêu vua Thuấn mà còn có người ẩn dật không ra làm quan. Ý nói rộng hơn: huống chi thời này!
Wilhem Maybach (9 tháng 2 năm 1846 - 29 tháng 12 năm 1929) là một nhà tư bản công nghiệp người Đức. Tiểu sử và sự nghiệp Sinh ra ở Heilbronn,Đức trong một gia đình có 6 anh chị em. Gia đình ông chuyển đến Stuttgart, khi mười tuổi, ông trở nên mồ côi cả cha lẫn mẹ. Đáp lại một lời kêu gọi trên tờ báo "Stuttgarter Anzeiger", một tổ chức từ thiện nhận chăm sóc ông. Wilheim Maybach gia nhập trường Reutlinger Bruderhaus, nơi Gustav Werner, người sáng lập và là giám đốc trường rất ấn tượng và luôn ủng hộ tài năng kỹ thuật của cậu bé Maybach. Năm 1865, Maybach gặp Gotlieb Daimler ở Reutlinger. Wilheim Maybach trở thành người cộng sự, người bạn thân thiết cho đến khi Daimler mất. Tháng 9 năm 1869, ông chuyển đến Karlsruhe cùng Daimler và tham gia vào công ty "Gasmotorenfabrik Deutz". Việc này cho phép ông nghiên cứu để thiết kế những động cơ đốt trong có tốc độ cao và trọng lượng nhẹ, thích hợp cả dưới nước và trên cạn. Năm 1882, Daimler rời Gasmotorenfabrik Deutz và cùng Maybach đến làm việc cho Cannstatt. Năm 1885, một động cơ mới được lắp vào một chiếc xe bằng gỗ, và một năm sau đó là chiếc xe ngựa. Wilheim Maybach nhanh chong nhận ra rằng ông không thể chỉ bằng lòng với việc lắp động cơ cho xe ngựa. Tại triển lãm World Exhibition tại Paris năm 1889, Maybach giới thiệu chiếc xe bánh sắt đầu tiên, và đó được coi là ngày sinh của nền công nghiệp ô tô Pháp. Tháng 11 năm 1890, khi Daimler thành lập Motoren-Gesellschaft cùng Duttenhofer và Lorenz, Maybach được mời làm kỹ sư trưởng. Tuy nhiên vì những bất đồng trong hợp đồng, ông rời công ty ngay tháng 2 năm 1891. Một năm rưỡi sau đó, Maybach tiếp tục nghiên cứu trong căn hộ của ông với sự trợ giúp tài chính của Daimler. Tháng 11 năm 1895, Maybach trở lại DMG với cương vị kỹ sư trưởng. Ông thiết kế bộ tản nhiệt hình ống với quạt, sau đó là bộ tản nhiệt tổ ong. Những hệ thống làm mát hiệu quả này được coi là mở ra con đường phát triển của ngành công nghiệp ô tô hiện đại. Từ đó, "Ông vua thiết kế" như người Pháp gọi ông, đi từ thành công này đến thành công khác. Ông đã thiết kế chiếc động cơ ô tô 4 xy lanh đầu tiên, và sau đó là một thế hệ 5 chiếc động cơ từ 6 đến 23 mã lực. Thành công lớn nhất của ông, chiếc Mercedes đầu tiên ra đời sau khi Daimler mất, đã gây ra một sự náo loạn tại triển lãm "Nice week" vào tháng 3 năm 1901. Đó là chiếc xe vượt hẳn lên mọi thứ đã từng được sản xuất ở DMG trước đó, là dấu chấm hết cho kỷ nguyên xe ngựa trong ngành công nghiệp ô tô. Phải nói thêm rằng chiếc xe này ra đời nhờ sự ủng hộ rất lớn của Emil Jellinek. Cái tên Mercedes được đặt theo tên con gái của Jellinek. Khi chiếc phi cơ Zeppelin LZ4 bị phá hủy trong một cơn bão ở Echterdingen tháng 8 năm 1908, Maybach được đề nghị thiết kế một động cơ mới tiên tiến hơn cho chiếc Count Zeppelin. Kết quả là cha con Maybach thành lập công ty "Luftfahrzeug-Motorenbau-GmbH Bissinger". Karl Maybach, con trai của Wilheim Maybach làm giám đốc kỹ thuật. Năm 1912, hãng đổi tên thành "Luftfahrzeug-Motoren-GmbH" và chuyển đến Friedrichshafen. Tuy cùng sở hữu 20% cổ phần, nhưng Maybach giao hết việc kinh doanh cho con trai. Sau năm 1922, những chiếc xe sang trọng liên tục ra đời tại Friedrichshafen. Một trong những điểm sáng trong thời kỳ này là chiếc Maybach 12DS 1929, chiếc xe đầu tiên gắn động cơ V12, và cùng với thành công của Zeppelin, đó được coi là câu trả lời cho Rolls-Royce của người Anh. Wilheim Maybach mất ngày 29 tháng 12 năm 1929.
Triệu Sơn là một huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Địa lý Huyện Triệu Sơn có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Đông Sơn Phía đông nam giáp huyện Nông Cống Phía nam giáp huyện Như Thanh Phía tây nam giáp huyện Thường Xuân Phía tây bắc giáp huyện Thọ Xuân Phía đông bắc giáp huyện Thiệu Hóa. Huyện Triệu Sơn có diện tích 290,05 km², dân số năm 2019 là 202.386 người, mật độ dân số đạt 698 người/km². Địa hình Triệu Sơn là một huyện bán sơn địa nhưng diện tích chủ yếu vẫn là đồng bằng, địa hình thấp dần về phía bắc, với vài con sông suối nhỏ chảy vào sông Chu ở hai huyện bên: Thọ Xuân và Thiệu Hóa, ở phía nam có một vài ngọn núi thấp với độ cao khoảng 250 – 300 m, như núi Nưa ở thị trấn Nưa. Tài nguyên Huyện Triệu Sơn có mỏ cromit Cổ Định tại thị trấn Nưa với trữ lượng lớn nhất Việt Nam. Lịch sử Huyện Triệu Sơn được thành lập vào ngày 25 tháng 2 năm 1965, trên cơ sở tách 13 xã: Thọ Ngọc, Thọ Tiến, Thọ Cường, Thọ Bình, Thọ Dân, Thọ Tân, Thọ Phú, Thọ Vực, Thọ Sơn, Thọ Thế, Xuân Thịnh, Xuân Thọ, Xuân Lộc thuộc huyện Thọ Xuân và 20 xã: Hợp Tiến, Hợp Thắng, Hợp Lý, Hợp Thành, Minh Châu, Minh Dân, Minh Sơn, Dân Lý, Dân Lực, Dân Quyền, An Nông, Vân Sơn, Nông Trường, Tiến Nông, Khuyến Nông, Thái Hòa, Tân Ninh, Đồng Tiến, Đồng Thắng, Đồng Lợi thuộc huyện Nông Cống. Khi mới thành lập, huyện gồm 33 xã: An Nông, Dân Lực, Dân Lý, Dân Quyền, Đồng Lợi, Đồng Thắng, Đồng Tiến, Hợp Lý, Hợp Thắng, Hợp Thành, Hợp Tiến, Khuyến Nông, Minh Châu, Minh Dân, Minh Sơn, Nông Trường, Tân Ninh, Thái Hòa, Thọ Bình, Thọ Cường, Thọ Dân, Thọ Ngọc, Thọ Phú, Thọ Sơn, Thọ Tân, Thọ Thế, Thọ Tiến, Thọ Vực, Tiến Nông, Vân Sơn, Xuân Lộc, Xuân Thịnh và Xuân Thọ. Ngày 5 tháng 1 năm 1987, thành lập xã Triệu Thành trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Hợp Thành. Ngày 3 tháng 6 năm 1988, thành lập thị trấn Triệu Sơn (thị trấn huyện lỵ huyện Triệu Sơn) trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của các xã Minh Châu, Minh Dân và Minh Sơn. Ngày 25 tháng 1 năm 1994, thành lập xã Bình Sơn trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của hai xã Thọ Bình và Thọ Sơn. Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 786/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thanh Hóa (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó: Thành lập thị trấn Nưa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Tân Ninh Sáp nhập các xã Minh Dân và Minh Châu vào thị trấn Triệu Sơn. Huyện Triệu Sơn có 2 thị trấn và 32 xã như hiện nay. Hành chính Huyện Triệu Sơn có 34 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Triệu Sơn (huyện lỵ), Nưa và 32 xã: An Nông, Bình Sơn, Dân Lực, Dân Lý, Dân Quyền, Đồng Lợi, Đồng Thắng, Đồng Tiến, Hợp Lý, Hợp Thắng, Hợp Thành, Hợp Tiến, Khuyến Nông, Minh Sơn, Nông Trường, Thái Hòa, Thọ Bình, Thọ Cường, Thọ Dân, Thọ Ngọc, Thọ Phú, Thọ Sơn, Thọ Tân, Thọ Thế, Thọ Tiến, Thọ Vực, Tiến Nông, Triệu Thành, Vân Sơn, Xuân Lộc, Xuân Thịnh, Xuân Thọ. Kinh tế Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 9,1%/năm, trong đó: nông - lâm nghiệp tăng: 5,5%; công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng: 24%; dịch vụ tăng: 12,5%. Cơ cấu kinh tế: nông - lâm nghiệp 55%; công nghiệp - xây dựng cơ bản 18%; dịch vụ 27%. Tại xã Dân Quyền đã có khu tập trung sản xuất với các nhà máy sản xuất tre, luồng, mì chính. Giáo dục Huyện có các trường trung học phổ thông gồm: THPT Triệu Sơn 1, THPT Triệu Sơn 2, THPT Triệu Sơn 3, THPT Triệu Sơn 4, THPT Triệu Sơn 5, trường Phổ thông Triệu Sơn và Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Triệu Sơn. Các xã đều có ít nhất một trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Trụ sở chính Trường Cao đẳng Nông nghiệp Thanh Hóa cũng nằm trên địa bàn huyện. Giao thông Huyện có đường quốc lộ 47 chạy qua theo hướng đông - tây, nối thành phố Thanh Hóa qua thị trấn huyện lỵ Triệu Sơn, tới thị trấn Lam Sơn (Thọ Xuân), thông tuyến với đường Hồ Chí Minh. Huyện có 2 tuyến xe buýt chạy qua: Tuyến số 4 nối từ thành phố Thanh Hóa đến thị trấn Thường Xuân (Thường Xuân), đi qua ngã ba cầu Thiều (xã Dân Lý), Giắt (thị trấn Triệu Sơn), ngã tư Dân Lực Tuyến số 17 nối từ thành phố Sầm Sơn đến Hợp Lý, đi qua Giắt (thị trấn Triệu Sơn), Sim (xã Hợp Tiến), Hợp Lý. Đây là địa phương có tuyến Đường cao tốc Mai Sơn – Quốc lộ 45 đi qua.
Sách Sáng Thế là sách mở đầu cho Cựu Ước nói riêng cũng như Kinh Thánh nói chung. Nội dung của Sách Sáng Thế nói về nguồn gốc của vũ trụ, nhân loại và đặc biệt là dân tộc Israel. Bố cục Phần một (gồm 11 chương đầu) Nguồn gốc vũ trụ và nhân loại (Khởi nguyên) với các sự kiện chính: Bài ca sáng thế: công cuộc sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa. "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Chúa bay lượn trên mặt nước." (St 1,1-2) Thiên Chúa tạo ra ánh sáng và bóng tối tượng trưng cho ngày và đêm, cái "vòm" mà Ngài tạo ra để phân rẽ khối nước thì gọi là "trời". Từ khối nước, ngài phân rẽ thành "đất" và "biển"; thực vật có mang hạt giống thì mọc trên khắp mặt đất. "Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi" (St 2,2) Người nam và người nữ: loài người cai quản công trình sáng tạo của Thiên Chúa. "Thiên Chúa phán: chúng ta sẽ làm ra con người theo hình ảnh của chúng ta…" (St 1,26). Thiên Chúa đặt con người trong Vườn Eden và cho phép ăn tất cả mọi loại trái cây trong đó, ngoại trừ cây biết điều thiện điều ác, "…vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết" (St 2,17). Thiên Chúa quyết định tạo ra cho con người một trợ tá, Ngài "…lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời…, hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế… Nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng." (St 2,19-20). Thế rồi, Thiên Chúa tạo ra người nữ từ cạnh sườn con người. "Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau" (St 2,25). Loài người sa ngã: nghe lời con rắn ăn trái của cây biết điều thiện điều ác, nhận ra mình trần truồng và trốn tránh Thiên Chúa. Con rắn nói với người nữ rằng sẽ không bị chết nếu ăn trái cây mà Thiên Chúa cấm ăn bởi vì "… ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ trở nên như những vị thần biết điều thiện điều ác" (St 3,5). Người nữ hái trái đó ăn và đưa cho người nam ăn. "Bấy giờ, mắt hai người mở ra và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân" (St 3,7.) Thiên Chúa nguyền rủa con rắn rằng: "mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi" (St 3,14); Ngài phán người nữ: "ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi và nó sẽ thống trị ngươi" (St 3,16) và với người nam: "ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất" (St 3,19). Con người đặt tên cho vợ là Eve, vì bà là mẹ của chúng sinh (St 3,20). Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Eden và nói: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ đừng để nó giơ tay hái cả hái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi" (St 3,20) và Ngài để các vị thần hộ giá canh giữ vườn Eden và đường đến cây trường sinh. Loài người sa đọa: tội ác loài người lan khắp mặt đất. Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất (St 6,6). Adam và Eva có hai con trai: Cain và Abel. Cain trồng hoa màu còn Abel chăn nuôi. Cả hai lấy sản phẩm của mình để dâng lên Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa chỉ chấp nhận của Abel, đó là "những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng" (St 4,4). Cain tức tối và giết chết em mình, khi Thiên Chúa hỏi về Abel, Cain trả lời rằng: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?" (St 4,9). Thiên Chúa nổi giận với Cain: "Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất" (St 4,12) và Ngài làm dấu trên Cain để ông khỏi bị giết. Cain đi xa về xứ Nod để khuất mặt Thiên Chúa. Dòng dõi Cain gồm: Enoch, Irad, Mehujael, Methushael, Lamech và Seth - được coi là dòng dõi thay thế cho Abel. Khi loài người càng đông đảo thì tội lỗi cũng sinh sôi khắp mặt đất và Thiên Chúa có ý định trừng phạt loài người. Lụt Đại hồng thủy: Thiên Chúa trừng phạt loài người, ngoại trừ gia đình người công chính Noah. Thiên Chúa đã chọn ông Noah, một người công chính trước mặt Ngài và ra lệnh cho ông làm một tàu lớn (Ark), mang theo cả gia đình và các loài thú đại diện vào trong đó. Thiên Chúa hủy diệt thế giới bằng trận lụt Hồng Thủy. Sau đó, Thiên Chúa lập giao ước với Noah cùng tất cả những gì đi ra từ con tàu rằng Ngài sẽ không để Hồng Thủy hủy diệt loài người một lần nữa. "Các con trai ông Noah ra khỏi tàu là: ông Shem, ông Ham và ông Japheth; ông Ham là cha của ông Canaan. Ba ông này là con trai ông Noah và con cháu họ phân tán ra khắp mặt đất" (St 9,18-19) Phần hai (chương 12 đến chương 50) Nguồn gốc dân tộc Israel với các tổ phụ lớn: Abraham: là một người du mục miền Lưỡng Hà, ông được coi là ông tổ của dân Israel. Ông sống vào khoảng thế kỷ 19 TCN. Đỉnh cao lòng tin của ông đối với Thiên Chúa là việc ông sẵn sàng dâng chính đứa con trai duy nhất của mình là Isaac làm của lễ cho Thiên Chúa. Terah là cháu mười đời của ông Noah. Ông Terah dẫn con trai là Abram, bà Sarai - vợ Abram cùng với đứa cháu nội là Lot - con của Haran, rời khỏi Ur của người Chaldees tiến theo hướng đất Canaan. Họ định cư tại thành Haran và Terah chết tại đây. Thiên Chúa phán với Abram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng và ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; ai nhục mạ ngươi, ta sẽ nguyền rủa. Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc." (St 12,1-3). Abram cùng đoàn người đi đến Canaan và Thiên Chúa phán: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi." (St 12,7) Isaac và Jacob: Isaac là con trai Abraham. Vai trò của ông trong Cựu Ước không rõ nét bằng cha ông và Jacob - con trai thứ của ông. Jacob là người khôn ngoan, Thiên Chúa lặp lại với ông lời giao ước đã từng ban cho Abraham. Joseph: một trong mười hai người con của Jacob. Là nhân vật chính của hơn mười chương cuối. Việc Joseph cùng gia đình di dân đến Ai Cập đã giải thích sự tồn tại của dân tộc Israel ở Ai Cập và biến cố Xuất hành.
VietSpace là một mạng xã hội ảo của Việt Nam cho phép tạo một mạng tương tác của các nhóm bạn bè, các blog cá nhân, các video, hình ảnh, nhạc... VietSpace từng có gần 20.000 thành viên lập web về nhiều lĩnh vực như web cá nhân, web gia đình, web ca nhạc, web thư viện, web cho cơ quan, web cho lớp... Mỗi ngày có khoảng 150 thành viên mới đăng ký. Trong bảng xếp hạng của Alexa, tên miền vietspace.net.vn từng đứng thứ 28.791. Theo thống kê của Alexa, mỗi ngày trong 1 triệu người có 20 người truy cập vào tên miền vietspace.net.vn, mỗi người xem khoảng 20 trang. Mục đích Hỗ trợ tạo lập trang website riêng, nhật ký, blog, diễn đàn, thư viện ảnh, video clip, videocast, tin tức, thương mại điện tử, đấu giá trực tuyến... Tạo một mạng xã hội ảo để giao lưu, kết bạn, chia sẻ kiến thức. Công nghệ Máy chủ của VietSpace chạy Microsoft-IIS 6.0 trên nền hệ điều hành Windows Server 2003. Phát triển dựa trên nền tảng DotNetNuke. Phát triển từ đầu nhiều module và skin mới như Danh sách Website, Thông tin cá nhân, Kết bạn, Nhạc số, MHTML/Text, Webmail, Bình luận... Chú thích Đọc thêm Làn sóng bùng nổ dotcom lần hai... Tạp chí Echip giới thiệu với bạn đọc về trang web VietSpace. Blog Việt Nam lập ngẫu hứng, viết cũng ngẫu hứng. Vnexpress viết VietSpace đồng hành cùng Blogger và 360Yahoo. Dự thi TTVN 2006: Cổng thông tin VietSpace
Nghĩa trang Mai Dịch là một nghĩa trang liệt sĩ nằm ở Hà Nội, Việt Nam. Được xây dựng vào năm 1956, đây là nơi an nghỉ của 1.228 liệt sĩ và 394 nhân vật nổi tiếng là cán bộ chính trị cấp cao là Ủy viên Trung ương Đảng trở lên bao gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, các Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Thứ trưởng và tương đương; nhà hoạt động xã hội, văn hoá, khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ tiêu biểu; các tướng lĩnh công an, quân đội; anh hùng lực lượng vũ trang. Mô tả Nghĩa trang được xây dựng từ năm 1956 với tổng diện tích là 5,9 hecta. Theo nghị định 105/2012/NĐ-CP ngày 17 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ Việt Nam quy định các thành phần cán bộ cao cấp đủ tiêu chuẩn an táng tại đây. Đó là các cán bộ thuộc Bộ Chính trị quản lý; lão thành cách mạng trước 1945 được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất trở lên; các nhà hoạt động xã hội, văn hóa, khoa học tiêu biểu được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất trở lên hoặc là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động. Các cán bộ cao cấp bao gồm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng mà tang lễ được cử hành theo nghi lễ Quốc tang hay cấp Nhà nước. Một số trường hợp đặc biệt như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch nước Trần Đại Quang hay Tổng Bí thư Đỗ Mười... được an táng ở quê nhà theo ý nguyện. Một số an táng tại Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh như Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Ngoài khu vực gồm 1.228 mộ liệt sĩ vô danh ở phía sau, thì 394 ngôi mộ của những người nổi tiếng được bố trí dọc theo hai bên tượng đài tổ quốc ghi công. Hàng phía ngoài hướng ra trục chính, hai bên mỗi bên 10 hố mộ. Bên phải, ô thứ nhất còn trống, từ ô thứ hai đến ô thứ 10 là mộ của Lê Duẩn, Phạm Hùng, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Lê Khả Phiêu, Lê Văn Lương, Đào Duy Tùng, Chu Huy Mân. Bên trái từ ô thứ 1 - 10 là phần mộ của Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Tố Hữu. Các phần mộ khác bố trí theo chiều ngang so với trục chính, trước mộ phần các liệt sĩ vô danh, riêng một hàng ngang nằm dọc theo phía trước cạnh hai hồ nhỏ. Bộ Xây dựng đề xuất lựa chọn hai vị trí cụ thể để xây dựng nghĩa trang Mai Dịch mới gồm: Vị trí tại khu vực nghĩa trang Yên Kỳ mở rộng về phía Nam, huyện Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội khoảng 60 km về phía Tây theo hướng Quốc lộ 32. Việc xây dựng nghĩa trang tại vị trí này sẽ tiết kiệm được chi phí ban đầu về đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Vị trí thứ hai được Bộ Xây dựng đề xuất là khu vực xã Yên Trung, huyện Thạch Thất, cách trung tâm Hà Nội khoảng 50 km về phía Tây theo hướng Đại lộ Thăng Long kéo dài nối với thành phố Hòa Bình. Mộ của những danh nhân Chính trị - Quân sự Tôn Đức Thắng Lê Duẩn Trường Chinh Phạm Văn Đồng Phạm Hùng Lê Quang Đạo Lê Khả Phiêu Hoàng Văn Thụ Phùng Chí Kiên Nguyễn Lương Bằng Lê Văn Lương Lê Thanh Nghị Trần Quốc Hoàn Nguyễn Duy Trinh Nguyễn Chí Thanh Hoàng Quốc Việt Chu Huy Mân Đào Duy Tùng Trần Xuân Bách Lê Trọng Tấn Văn Tiến Dũng Hoàng Văn Thái Hoàng Sâm Đoàn Khuê Bùi Phùng Giáp Văn Cương Nguyễn Cơ Thạch Vương Thừa Vũ Nguyễn Xiển Nguyễn Lam Nguyễn Hữu Mai Nguyễn Văn Tạo Trịnh Hồng Dương Đặng Vũ Hiệp Hồ Đức Việt Song Hào Lê Minh Hương Vũ Kỳ Nguyễn Sơn Ngô Bá Thành Hoàng Minh Thảo Đào Đình Luyện Lê Quảng Ba Hoàng Ngân Đặng Xuân Kỳ Trần Đình Hoan Xuân Thủy Đỗ Quốc Sam Hoàng Tùng Trần Quyết Viễn Chi Cư Hòa Vần Nguyễn Đức Tâm Nguyễn Khắc Nghiên Hồng Hà Trần Văn Quang Nguyễn Thị Quang Thái Võ Bẩm Nguyễn Nam Khánh Đào Trọng Lịch Vũ Khoan Văn hóa Văn Cao Huy Cận Nguyễn Phan Chánh Xuân Diệu Huy Du Tố Hữu Hà Xuân Trường Nguyễn Đình Thi Trần Lâm Trần Hoàn Đặng Thai Mai Học Phi Khoa học Tạ Quang Bửu Tôn Thất Tùng Ngụy Như Kontum Tôn Thất Bách Nguyễn Văn Đạo Vũ Tuyên Hoàng Đỗ Nguyên Phương Nguyễn Khắc Viện Lê Đình Thám Phạm Huy Thông Hoàng Đình Cầu Nguyễn Khánh Toàn Nguyễn Đình Tứ Đặng Văn Chung
Bộ Cá vây tay (danh pháp khoa học: Coelacanthiformes, nghĩa là 'gai rỗng' trong tiếng Hy Lạp cổ với coelia (κοιλιά) nghĩa là rỗng và acathos (άκανθος) nghĩa là gai) là tên gọi phổ biến trong tiếng Việt của một bộ cá bao gồm các loài cá có quai hàm cổ nhất còn sống đến ngày nay đã được biết đến. Cá vây tay có quan hệ họ hàng gần gũi với cá có phổi, được cho là đã tuyệt chủng vào cuối kỷ Phấn trắng cho đến tận năm 1938, khi người ta tìm thấy các cá thể còn sống ngoài khơi ven biển phía đông của Nam Phi, ngoài cửa sông Chalumna. Kể từ đó, chúng đã được tìm thấy ở Comoros, Sulawesi (Indonesia), Kenya, Tanzania, Mozambique, Madagascar và Vườn đất ẩm St. Lucia Lớn của Nam Phi. Các đặc trưng sinh học Cá vây tay là cá vây thùy với các vây ức và vây hậu môn mọc trên các cuống nhiều thịt được các xương hỗ trợ và vây đuôi chia thành ba thùy, thùy giữa là sự kéo dài của dây sống. Cá vây tay có vây dạng cosmoid đã biến đổi, nó mỏng hơn vảy dạng cosmoid thực sự, là dạng vảy chỉ tìm thấy ở một số loài cá đã tuyệt chủng. Cá vây tay cũng có một cơ quan cảm nhận điện từ đặc biệt gọi là cơ quan ở mõm ở phía trước của hộp sọ, có lẽ để giúp chúng phát hiện con mồi. Những con cá vây tay đầu tiên xuất hiện trong các mẫu hóa thạch thuộc giai đoạn giữa kỷ Devon, vào khoảng 410 triệu năm trước.. Các loài cá vây tay tiền sử sống trong nhiều môi trường nước vào cuối Đại Cổ Sinh và thời kỳ Đại Trung Sinh. Khối lượng trung bình của cá vây tay khoảng 80 kg (176 pao) và chúng có thể dài tới 2 m (6,5 ft). Các nhà khoa học tin rằng cá vây tay có thể sống tới 60 năm. Cá vây tay thường sống ở độ sâu khoảng 700m (2.296,5 ft) dưới mực nước biển. Nó là loài động vật còn sống duy nhất được biết là có khớp nối trong sọ có tác dụng, nó gần như tách rời hoàn toàn các nửa trước và sau của hộp sọ từ bên trong. Chỗ uốn cong ở khớp nối này có lẽ trợ giúp cá trong việc tiêu thụ những con mồi lớn. Cá vây tay cũng là loài cá nhớt; các vảy của chúng tiết ra chất nhầy và cơ thể của chúng liên tục ứa ra chất dầu. Chất dầu này là một chất nhuận tràng và gần như không thể ăn thịt chúng được, trừ khi được phơi khô và ướp muối. Vảy của chúng rất thô và được người dân khu vực Comoros dùng làm giấy nhám. Mắt cá vây tay rất nhạy cảm và có tapetum lucidum (lớp chất phản quang như ở mắt mèo). Cá vây tay gần như không thể bị bắt trong thời gian ban ngày hay những đêm có trăng tròn, do độ nhạy cảm cao của mắt chúng. Cá vây tay là những kẻ săn mồi cơ hội, chúng săn bắt các loài mực nang, mực ống, lươn dẽ giun, cá mập nhỏ và các khác được tìm thấy ở môi trường sinh sống của chúng cạnh các vách đá ngầm và dốc núi lửa ngầm. Cá vây tay còn được biết với kiểu bơi đầu cắm xuống, giật lùi và ngửa bụng để định vị con mồi của chúng có lẽ là để tận dụng tuyến trên mõm của chúng. Các nhà khoa học cho rằng một trong các lý do để chúng thành công như vậy là do chúng có thể giảm mạnh quá trình trao đổi chất vào bất kỳ lúc nào, chìm xuống các độ sâu mà chúng ít sinh sống hơn và giảm tối đa nhu cầu các chất dinh dưỡng theo kiểu ngủ đông. Các mẫu hóa thạch Mặc dầu hiện nay chỉ có hai loài còn tồn tại, nhưng như một nhóm tổng thể thì cá vây tay đã từng rất thành công với nhiều chi và loài, để lại nhiều mẫu hóa thạch từ kỷ Devon tới khi kết thúc kỷ Phấn trắng, từ thời điểm đó chúng dường như đã hứng chịu sự tuyệt chủng gần như hoàn toàn, và vượt qua thời điểm đó mà không có mẫu hóa thạch nào còn được biết đến. Thông thường người ta cho rằng cá vây tay đã không bị thay đổi gì trong nhiều triệu năm, nhưng trên thực tế thì các loài còn sống và thậm chí cả nguyên chi là không được tìm thấy trong các mẫu hóa thạch. Tuy nhiên, một số loài tuyệt chủng, cụ thể là các loài trong các hóa thạch cuối cùng mà người ta đã biết, chi Macropoma thuộc kỷ Phấn trắng, rất giống với các loài còn sống. Lý do có thể nhất cho lỗ hổng này có lẽ là các đơn vị phân loại này đã bị tuyệt chủng ở những vùng nước nông. Các hóa thạch thuộc vùng nước sâu ít khi được tìm thấy đến mức các nhà cổ sinh vật học có thể phục hồi được chúng, làm cho các đơn vị phân loại thuộc những vùng nước sâu nhất biến mất khỏi các mẫu hóa thạch. Tuy nhiên, trạng thái này vẫn còn đang được các nhà khoa học điều tra. Hình thái học bộ xương Xem hình ảnh chụp cắt lớp máy tính (CT) 3D của bộ xương cá vây tay, bao gồm cả các hình ảnh về khớp nối trong hộp sọ, tại Digimorph.org. Sinh sản Cá vây tay đẻ ra con thay vì đẻ trứng. Hành vi sinh sản của chúng vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng người ta tin rằng chúng không đạt đến độ trưởng thành về mặt sinh dục cho đến khi chúng trên 20 năm tuổi. Thời gian mang thai là 13 tháng, mỗi lần sinh từ 5 đến 25 cá con, chúng có khả năng tự sinh sống ngay sau khi sinh ra. Phát hiện Đầu tiên tại Nam Phi Chứng cứ đầu tiên mà các nhà khoa học phương Tây có được về các loài cá vây tay hiện đại, còn sống là khi Marjorie Courtenay-Latimer, người phụ trách của viện bảo tàng tại Đông London, Nam Phi, phát hiện ra một mẫu vật trong khi kiểm tra các mẫu cá biển bất thường tại địa phương bắt được năm 1938. Bà đã xem xét mẻ cá của thuyền đánh cá chuyên đánh bắt cá mập gần sông Chalumna và nhìn thấy bộ vây cá màu xanh kỳ dị trong mẻ cá. Bà đã lôi con cá đó ra khỏi đống cá và đưa nó tới viện bảo tàng nhằm tìm xem nó là loại cá nào. Thất bại trong việc tìm nó trong bất kỳ cuốn sách nào bà có, bà đã cố gắng liên lạc với bạn của mình, giáo sư James Leonard Brierley Smith (1897-1968), nhưng ông đang đi vắng. Không thể bảo quản con cá này, bà đã gửi nó tới người nhồi bông thú. Khi Smith trở về, ông ngay lập tức nhận ra nó là cá vây tay, khi đó chỉ được biết đến từ các mẫu hóa thạch. Loài này được đặt tên khoa học là Latimeria chalumnae để ghi công bà Marjorie Courtenay-Latimer và vùng nước mà nó được tìm thấy. Con cá này được nói đến như là "hóa thạch sống". Comoros Một công cuộc tìm kiếm trên toàn thế giới đã được đề ra để tìm kiếm thêm cá vây tay, với phần thưởng là 100 bảng Anh (một số tiền rất đáng kể cho một người đánh cá Nam Phi bình thường vào thời gian đó). Mười bốn năm sau, chúng đã được tìm thấy ở gần Comoros, đầu tiên chỉ là một mẫu vật duy nhất, nhưng sau đó hóa ra là loài cá này không hề xa lạ đối với kiến thức của người địa phương: những người dân Comoros, tại cảng Mutsamudu trên đảo Anjouan, đã bối rối là có người nào đó muốn trả một số tiền lớn cho những con cá mà người dân địa phương gọi là gombessa hay mame, một loại cá kém chất lượng (gần như không ăn được) mà thỉnh thoảng những ngư dân của họ vẫn vô tình đánh bắt được. Hiện nay họ đã có ý thức về tầm quan trọng của loài đang nguy cấp này và có chương trình để thả những con cá vây tay ngẫu nhiên đánh bắt được về biển cả, vì thế chúng có thể có cơ hội sống sót. Mẫu vật thứ hai, do ngư dân Comoros là Ahmed Hussain tìm thấy năm 1952, ban đầu được miêu tả như một loài khác, Malania anjounae (theo tên của Daniel François Malan, thủ tướng Nam Phi thời kỳ đó, người đã phái cả máy bay Dakota của SAAF để mang mẫu vật về), nhưng sau đó người ta phát hiện ra rằng việc thiếu vây lưng thứ nhất, là điều mà người ta tin rằng nó khác với loài Latimeria, đã là do thương tích của mẫu vật khi nó còn non. Trớ trêu thay, Malan lại là một nhà sáng tạo luận trung thành; khi nhìn thấy tổ tiên (được cho là như vậy) của mọi loài động vật trên đất liền đã được đặt theo tên ông, phản ứng của ông là giật mình, "Tại sao nó lại xấu xí như vậy! Đây có phải là chỗ chúng ta từ đó mà ra?" Smith đã viết các miêu tả của ông về cá vây tay trong cuốn sách Old Fourlegs ((Động vật) Bốn chân cổ), lần đầu tiên phát hành năm 1956. Cuốn sách của ông Sea Fishes of the Indian Ocean (Cá biển của Ấn Độ Dương), được minh họa và đồng tác giả với vợ ông, bà Margaret, vẫn còn là tham khảo ngư học tiêu chuẩn trong khu vực. Loài thứ hai tại Indonesia Năm 1997, Arnaz và Mark Erdmann đi hưởng tuần trăng mật tại Indonesia và nhìn thấy một con cá lạ khi đi chợ tại Manado Tua, trên đảo Sulawesi. Arnaz nhận ra nó là gombessa, mặc dù nó có màu nâu chứ không phải màu xanh lam. Vợ chồng Erdmann đã không nhận ra đây là một loài mới cho đến tận khi một chuyên gia để ý đến các hình ảnh họ đã chụp và đưa lên Internet. Thử nghiệm DNA phát hiện ra rằng loài này, được người dân Indonesia gọi là rajah laut ("Vua biển cả"), không có quan hệ họ hàng gì với quần thể ở Comoros. Nó được đặt tên khoa học là Latimeria menadoensis. Nghiên cứu phân tử gần đây ước tính thời gian rẽ ra giữa hai loài cá vây tay này là khoảng 40–30 Ma. Khu vực bảo hộ biển St. Lucia tại Nam Phi Tại Nam Phi, công việc nghiên cứu tìm kiếm vẫn duy trì trong nhiều năm. Một thợ lặn 46 tuổi là Riaan Bouwer, đã thiệt mạng khi thám hiểm cá vây tay tháng 6 năm 1998. Ngày 28 tháng 10 năm 2000, gần biên giới phía nam của Mozambique, tại vịnh Sodwana trong khu vực bảo hộ biển St. Lucia, ba thợ lặn nước sâu — Pieter Venter, Peter Timm và Etienne le Roux — đã lặn tới độ sâu 104 m và bất ngờ nhận ra một con cá vây tay. Gọi mình là "SA Coelacanth Expedition 2000" (Đoàn thám hiểm cá vây tay Nam Phi 2000), nhóm này đã quay trở lại, lần này cùng với thiết bị chụp ảnh và một vài thành viên bổ sung thêm. Vào ngày 27 tháng 11, sau lần lặn ban đầu không thành công của ngày hôm trước, bốn thành viên của nhóm — Pieter Venter, Gilbert Gunn, Christo Serfontein và Dennis Harding — đã tìm thấy ba con cá vây tay. Con lớn nhất dài khoảng 1,5 đến 1,8 m; hai con còn lại khoảng 1 đến 1,2 m. Những con cá này bơi với đầu cắm xuống và dường như tìm kiếm thức ăn từ các gờ đá ngầm của hang động lớn. Nhóm này đã trở lên bờ thành công với cảnh video và các bức ảnh cá vây tay. Tuy nhiên, trong cuộc lặn này, Serfontein bất ngờ bị bất tỉnh, và Dennis Harding 34 tuổi đã nổi lên mặt nước cùng ông trong trạng thái không được kiểm soát. Harding kêu đau cổ và đã chết do tắc mạch máu não khi ở trên thuyền. Serfontein đã phục hồi sau khi được đưa xuống nước để điều trị chứng giảm áp suất (DCS). Trong giai đoạn các tháng Ba-Tư năm 2002, tàu lặn Jago và đội lặn Fricke đã lặn tới độ sâu của vịnh Sodwana và quan sát được 15 con cá vây tay, trong đó có một con đang mang thai. Các mẫu mô đã được thu thập bằng cách phóng phi tiêu lấy mẫu. Phân loại Coelacanthimorpha (phân lớp Cá vây tay) là tên gọi đôi khi được sử dụng để định danh nhóm Sarcopterygii có chứa bộ Cá vây tay (Coelacanthiformes). Dưới đây là phân loại của các họ và chi cá vây tay mà người ta đã biết, lấy theo Long (1995), Cloutier & Ahlberg (1996) và Clement (2005): Lớp Sarcopterygii Phân lớp Coelacanthinimorpha ? Lochmocercus † ? Shoshonia † Họ Miguashaiidae † Gavinia Miguashaia Họ Diplocercidae † Dictyonosteus Diplocercides ? Euporosteus † ? Chagrinia † Họ Hadronectoridae † Allenypterus Hadronector Polyosteorhynchus Họ Rhabdodermatidae † Caridosuctor Dumfregia Rhabdoderma Synaptolus Spermatodus † Sassenia † Họ Laugiidae † Coccoderma Laugia Trachymetopon Bộ Coelacanthiformes Họ Coelacanthidae † Axelia Wimania Ticinepomis Coelacanthus Họ Whiteiidae † Piveteauia Whiteia Latimerioidei Granbergia Libys Macropomoides Megacoelacanthus Họ Mawsoniidae † Alcoveria Diplurus Chinlea Axelrodichthys Mawsonia Họ Latimeriidae Undina † Holophagus † Macropoma † Wenzia † Latimeria L. menadoensis (cá vây tay Indonesia) L. chalumnae (cá vây tay Tây Ấn Độ Dương hay cá vây tay Comoros)
Dịch thuật, phiên dịch hay chuyển ngữ là một hoạt động bao gồm việc luận giải ý nghĩa của một đoạn văn trong một ngôn ngữ nào đó - văn nguồn - và chuyển sang một ngôn ngữ khác thành một đoạn văn mới và tương đương - bản dịch. Trong khi phiên dịch - dịch miệng - đã tạo thuận lợi cho giao tiếp bằng miệng hoặc ngôn ngữ ký hiệu giữa người sử dụng các ngôn ngữ khác nhau, ra đời trước khi có chữ viết, biên dịch chỉ bắt đầu sau khi nền văn học được ghi lại bằng chữ viết đã phát triển. Bản dịch của cuốn Sử thi Gilgamesh của người Sumer sang các ngôn ngữ Tây Nam Á đã tồn tại vào thiên niên kỷ hai TCN. Người dịch luôn luôn có nguy cơ đưa thành ngữ và cách sử dụng chúng của ngôn ngữ nguồn sang bản dịch ngôn ngữ đích theo cách không thích hợp. Mặt khác, việc nhập khẩu thành ngữ như vậy đã nhập khẩu hữu ích các mã nguồn ngôn ngữ và cho phép việc vay mượn từ ngữ để làm phong phú thêm các ngôn ngữ đích. Xét cho cùng, dịch giả đã giúp rất nhiều việc định hình các ngôn ngữ mà họ đã dịch. Do nhu cầu dịch thuật của các tài liệu kinh doanh dẫn đến Cách mạng Công nghiệp bắt đầu vào giữa thế kỷ 18, một số chuyên ngành dịch thuật đã được chuẩn hóa, với các trường chuyên môn và các hiệp hội chuyên nghiệp. Do sự khó khăn của dịch thuật, kể từ những năm 1940, các kỹ sư đã tìm cách tự động hóa dịch thuật hoặc dùng máy tính trợ giúp cho người dịch. Sự gia tăng của Internet đã thúc đẩy một thị trường toàn cầu cho các dịch vụ dịch thuật và đã tạo điều kiện cho việc bản địa hóa ngôn ngữ. Từ nguyên "Dịch" (譯) có nghĩa là "giải thích", "giải nghĩa"; "phiên" (翻) có nghĩa là "chuyển từ cái này sang cái khác"; "thuật" (術) có nghĩa là "kỹ thuật", "học thuật", "phương pháp". Từ "dịch thuật" do vậy có nghĩa là "phương pháp giải nghĩa" từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Từ "phiên dịch" chỉ hoạt động dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác nói chung. Tuy nhiên từ "dịch thuật" mới là từ được sử dụng phổ biến hơn với nghĩa chỉ hoạt động dịch nói chung. Lý thuyết Lý thuyết phương Tây Các cuộc thảo luận về lý thuyết và thực hành dịch thuật đã có từ thời cổ đại và cho thấy sự liên tục đáng chú ý. Người Hy Lạp cổ đại phân biệt giữa metaphrase (dịch nghĩa đen) và paraphrase. Sự khác biệt này được chấp nhận bởi nhà thơ và dịch giả người Anh John Dryden (1631-1700), người đã mô tả dịch là sự pha trộn hợp lý của hai chế độ phrase này khi chọn, trong ngôn ngữ đích, "đối tác", hoặc tương đương, cho các cách diễn đạt được sử dụng trong ngôn ngữ nguồn: Tuy nhiên, Dryden cảnh báo chống lại việc "bắt chước", tức là bản dịch có sửa đổi phù hợp: "Khi một họa sĩ sao chép từ cuộc sống... anh ta không có đặc quyền để thay đổi các tính năng và trang trí... " Mặc dù có sự đa dạng lý thuyết, việc thực hành thực tế của dịch hầu như không thay đổi kể từ thời cổ đại. Ngoại trừ một số phép ẩn dụ cực đoan trong thời kỳ đầu Kitô giáo và thời Trung cổ, và các bộ điều hợp trong các thời kỳ khác nhau (đặc biệt là La Mã cổ điển và thế kỷ 18), các dịch giả thường thể hiện sự linh hoạt khôn ngoan trong việc tìm kiếm sự tương đương - " nghĩa đen " khi có thể, viết lại các đoạn văn khi cần thiết cho ý nghĩa ban đầu và các "giá trị" quan trọng khác (ví dụ: phong cách, hình thức thơ, sự phù hợp với nhạc đệm hoặc, trong các bộ phim, với các chuyển động phát âm của miệng) được xác định từ ngữ cảnh. Nói chung, các dịch giả đã tìm cách bảo tồn bối cảnh bằng cách tái tạo thứ tự ban đầu của các ngữ nghĩa, và do đó, trật tự từ cần thiết, giải thích lại cấu trúc ngữ pháp thực tế, ví dụ, bằng cách chuyển từ giọng nói chủ động sang giọng nói thụ động, hoặc ngược lại. Sự khác biệt về ngữ pháp giữa các ngôn ngữ "trật tự từ cố định" (ví dụ Các ngôn ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức) và "từ tự do" (ví dụ: tiếng Hy Lạp, tiếng Latin, tiếng Ba Lan, tiếng Nga) không gây trở ngại trong vấn đề này. Các đặc điểm cú pháp (cấu trúc câu) cụ thể của ngôn ngữ nguồn của văn bản được điều chỉnh theo yêu cầu cú pháp của ngôn ngữ đích. Khi một ngôn ngữ đích thiếu các thuật ngữ được tìm thấy trong ngôn ngữ nguồn, người dịch đã mượn các thuật ngữ đó, từ đó làm phong phú ngôn ngữ đích. Nhờ các biện pháp tuyệt vời để trao đổi calques và loan loan giữa các ngôn ngữ và nhập khẩu từ các ngôn ngữ khác, có một số khái niệm " không thể dịch được " trong số các ngôn ngữ châu Âu hiện đại. Tuy nhiên, một vấn đề lớn hơn là dịch các thuật ngữ liên quan đến các khái niệm văn hóa không có tương đương trong ngôn ngữ đích. Để hiểu đầy đủ, các tình huống như vậy đòi hỏi phải cung cấp một hướng dẫn giải thích. Nói chung, càng tiếp xúc và trao đổi đã tồn tại giữa hai ngôn ngữ, hoặc giữa những ngôn ngữ và một phần ba, tỷ lệ dịch ra bản văn để diễn giải có thể được sử dụng trong việc dịch trong số đó càng lớn. Tuy nhiên, do sự thay đổi trong các hốc sinh thái của các từ, một từ nguyên phổ biến đôi khi gây hiểu nhầm là một hướng dẫn về nghĩa hiện tại trong một hoặc ngôn ngữ khác. Ví dụ, từ tiếng Anh actual không nên nhầm lẫn với các từ cùng nguồn gốc Pháp ("hiện tại", "hiện tại"), tiếng Ba Lan ("có mặt", "hiện tại", "kịp thời", "khả thi"), aktuell tiếng Thụy Điển ("tại chỗ", "hiện nay có tầm quan trọng"), tiếng Nga (" Khẩn cấp", "chuyên đề") hoặc actueel Hà Lan ("hiện tại"). Vai trò của dịch giả là cầu nối cho các giá trị "mang lại" giữa các nền văn hóa đã được thảo luận ít nhất kể từ Terence, bộ chuyển đổi La Mã thế kỷ thứ hai của BCE về các vở hài kịch Hy Lạp. Tuy nhiên, vai trò của dịch giả không có nghĩa là thụ động, cơ học, và do đó cũng được so sánh với vai trò của một nghệ sĩ. Mặt bằng chính dường như là khái niệm sáng tạo song song được tìm thấy trong các nhà phê bình như Cicero. Dryden nhận xét rằng "Dịch thuật là một loại hình vẽ sau cuộc sống... " So sánh dịch giả với một nhạc sĩ hoặc diễn viên ít nhất trở lại nhận xét của Samuel Johnson về Alexander Pope chơi Homer trên một chiếc sáo, trong khi Homer sử dụng bassoon. Nếu dịch thuật là một nghệ thuật, nó không phải là một môn học dễ dàng. Vào thế kỷ 13, Roger Bacon đã viết rằng nếu một bản dịch là đúng, người dịch phải biết cả hai ngôn ngữ, cũng như khoa học mà anh ta sẽ dịch; và nhận thấy rằng rất ít dịch giả đã làm, ông muốn bỏ hoàn toàn việc dịch thuật. Người dịch Kinh thánh sang tiếng Đức, Martin Luther (1483-1546), được ghi nhận là người châu Âu đầu tiên cho rằng người ta chỉ dịch một cách thỏa đáng sang ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. LG Kelly tuyên bố rằng kể từ khi Johann Gottfried Herder vào thế kỷ 18, việc người ta chỉ nên dịch ra tiếng mẹ đẻ của mình đã trở thành tiên đề. Tổng hợp các yêu cầu đối với người dịch là thực tế rằng không có từ điển hay từ điển đồng nghĩa nào có thể là một hướng dẫn đầy đủ trong việc dịch. Nhà sử học người Scotland Alexander Tytler, trong Tiểu luận về Nguyên tắc dịch thuật (1790), đã nhấn mạnh rằng việc đọc sách chăm chỉ là một hướng dẫn toàn diện hơn về ngôn ngữ so với từ điển. Điểm giống nhau, nhưng cũng bao gồm cả việc nghe ngôn ngữ nói, trước đó, vào năm 1783, được thực hiện bởi nhà thơ và nhà ngữ pháp Ba Lan Onufry Kopczyński. Vai trò đặc biệt của dịch giả trong xã hội được mô tả trong một bài tiểu luận năm 1803 của "Ba Lan La Fontaine ", Linh trưởng Công giáo La Mã của Ba Lan, nhà thơ, nhà bách khoa, tác giả của tiểu thuyết Ba Lan đầu tiên, và dịch giả từ tiếng Pháp và tiếng Hy Lạp, Ignacy Krasicki:
Phân thứ ngành Cá không hàm (danh pháp khoa học: Agnatha) (từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là "không quai hàm") là một phân thứ ngành hay siêu lớp cận ngành gồm các loài cá không có hàm, thuộc phân ngành Động vật có xương sống, ngành Động vật có dây sống. Hiện nay còn hai nhóm cá không hàm đang tồn tại là Cephalaspidomorphi và Aspidomorphi với khoảng 60 loài. Ngoài việc không có hàm, nhóm Agnatha còn được đặc trưng bởi sự thiếu vắng các cặp vây; sự hiện diện của dây sống ở cả ấu trùng và cá trưởng thành; cũng như 7 hoặc nhiều hơn các cặp túi mang. Các vòm mang hỗ trợ các túi mang nằm gần với bề mặt cơ thể. Chúng có các cặp mắt hình quả thông nhạy sáng (tương tự như tuyến nội tiết trong não (tuyến quả thông) ở động vật có vú). Dạ dày không xác định rõ. Việc thụ tinh diễn ra bên ngoài. Nhóm Agnatha là động vật máu lạnh, với bộ xương được tạo thành từ chất sụn, tim có 2 ngăn và có mối quan hệ chị em với Gnathostomata. Mặc dù về bề ngoài chúng khá tương tự, nhưng phần nhiều các điểm tương tự này có lẽ đã được chia sẻ từ các đặc trưng nguyên thủy của động vật có xương sống cổ đại và các phân loại hiện đại có xu hướng chuyển các loài cá mút đá myxin thành vài nhóm tách biệt (Myxini hoặc Hyperotreti), với các loài cá mút đá (Hyperoartii) được cho là có quan hệ họ hàng gần gũi hơn với cá có quai hàm. Hóa thạch Mặc dù chỉ là một thành phần nhỏ của hệ động vật biển ngày nay, nhưng nhóm Agnatha là nổi tiếng trong số các loại cá đầu tiên trong thời kỳ đầu đại Cổ Sinh. Hai dạng động vật thời kỳ Tiền Cambridường như có các vây, hệ thống cơ-xương và mang được biết từ đầu kỷ Cambri tại đá phiến sét Mạo Thiên Sơn tại Trung Quốc: Haikouichthys và Myllokunmingia. Chúng được Janvier đưa vào nhóm Agnatha một cách không dứt khoát. Dạng thứ ba có thể cũng thuộc nhóm Agnatha từ cùng khu vực này là Haikouella. Một dạng Agnatha có thể khác nữa, vẫn chưa được miêu tả chính thức, đã được Simonetti thông báo có trong đá phiến sét Burgess ở British Columbia thuộc thời kỳ Trung Cambri. Nhiều loài cá không hàm thời kỳ kỷ Ordovic, Silur và Devon đã có áo giáp là các tấm xương nặng. Nhóm cá không hàm đầu tiên có bọc giáp là lớp Ostracodermi, tiền thân của cá xương và vì thế là của động vật bốn chân (siêu lớp Tetrapoda) (bao gồm cả loài người)—được biết đến từ giữa kỷ Ordovic và vào cuối kỷ Silur thì cá không hàm đã đạt tới đỉnh cao của sự tiến hóa của chúng. Cá không hàm bắt đầu suy giảm trong kỷ Devon và không bao giờ phục hồi được nữa. Các nhóm chính Cyclostomata: Cá miệng tròn Myxini: cá mút đá myxin Hyperoartia Petromyzontidae: cá mút đá † Ostracodermi: Cá giáp † Pteraspidomorphi † Anaspida: Lớp Cá không giáp † Thelodontomorphi † Thelodonti † Aspidomorphi † Cephalaspidomorphi: Cá giáp đầu † Galeaspida: Cá giáp mũ † Pituriaspida: Cá giáp Pituri † Osteostraci: Cá giáp xương Chú thích
Lớp Cá vây thùy (danh pháp khoa học: Sarcopterygii; ) (từ tiếng Hy Lạp sarx: mập mạp (nhiều thịt) và pteryx: vây) là một lớp cá có vây thùy theo truyền thống, bao gồm cá có phổi và cá vây tay. Chúng là các nhóm cá xương với các cặp vây tròn. Các cặp vây này, tương tự như các chi (chân), gợi ý rằng các loại cá này có thể là tổ tiên của động vật bốn chân trên đất liền. Phần lớn các nhà phân loại học mà tán thành cách tiếp cận kiểu miêu tả theo nhánh còn gộp trong phạm vi nhóm này cả siêu lớp Tetrapoda, là nhóm bao gồm tất cả các loài động vật có xương sống với bốn chân (tứ chi). Các vây-chi của cá vây thùy thể hiện sự tương tự rất lớn với các chi của các dạng tổ tiên (được cho là như thế) của động vật bốn chân, vì thế trong nhiều tài liệu khoa học về sinh vật người ta cho rằng chúng là tổ tiên trực tiếp của động vật bốn chân một cách rộng khắp. Đặc trưng Nhóm cá vây thùy đầu tiên - Crossopterygii - là cá xương với các vây dày thịt, phân thùy thành cặp đôi, kết nối với cơ thể bằng một xương duy nhất Các vây của Crossopterygii khác với vây của các loài cá khác ở chỗ mỗi vây được sinh ra trên một cuống dày cùi thịt, giống như thùy, có vảy, kéo dài ra từ thân. Các vây ngực và vây chậu có các khớp giống như khớp chân của Tetrapoda. Các vây này đã tiến hóa thành chân của các động vật bốn chân đầu tiên là Amphibia. Chúng cũng có 2 vây lưng với phần gốc tách biệt, khác với một vây lưng duy nhất của Actinopterygii (cá vây tia). Hộp sọ của Sarcoptergygii nguyên thủy có 1 đường khớp nối, nhưng nó đã mất đi ở Tetrapoda và cá phổi. Nhiều loài cá vây thùy đầu tiên có đuôi đối xứng. Tất cả các loài cá vây thùy đều có răng được men răng thật sự che phủ. Các nhà phân loại học nào đi theo cách tiếp cận của miêu tả theo nhánh học đều gộp nhóm Tetrapoda vào trong phạm vi nhóm cá vây thùy, mà tới lượt nó lại bao gồm toàn bộ các loài động vật có xương sống với 4 chân. Các vây dạng chi của các loài Sarcopterygii như cá vây tay (Coelacanthiformes) thể hiện sự tương tự rất mạnh khi so với dạng tổ tiên được dự kiến của các chi của Tetrapoda. Crossopterygii dường như đã phát triển theo hai nhánh khác biệt và tương ứng với điều đó được chia ra thành 2 phân lớp, là Rhipidistia (bao gồm cả Dipnoi hay cá phổi, và Tetrapodomorpha trong đó có Tetrapoda) và Actinistia (cá vây tay). Tiến hóa của cá vây thùy Cá vây thùy thuộc về nhóm cá xương (Osteichthyes), được đặc trưng bởi bộ xương được tạo ra từ chất xương thay vì chất sụn. Các loài cá vây thùy cổ nhất được tìm thấy trong tầng cao nhất của kỷ Silur. Những loài cá vây thùy đầu tiên trông tương tự như cá mập gai (Acanthodii). Các họ hàng gần nhất của cá vây thùy là cá vây tia (Actinopterygii). Cá vây thùy có lẽ đã tiến hóa trong các đại dương, nhưng sau này chúng đã di chuyển vào các môi trường sống nước ngọt để tránh các loài cá ăn thịt như Placodermi - khi đó đang thống trị trong các vùng biển thuộc thời kỳ Tiền - Trung Devon. Do đó cá vây thùy đã tiến hóa trong thời kỳ đầu kỷ Devon, đường phân tách chúng ra thành hai dòng dõi chính - Cá vây tay và Rhipidistia (cá có phổi và muộn hơn là động vật bốn chân). Nhóm cá vây tay xuất hiện vào đầu kỷ Devon và vẫn sống trong lòng đại dương, thời cực thịnh của cá vây tay là cuối kỷ Devon và kỷ Than đá do chúng là phổ biến hơn cả vào thời điểm này so với bất kỳ thời kỳ nào khác của Liên đại Hiển Sinh (Phanerozoic). Nhóm Rhipidistia xuất hiện vào khoảng cùng thời gian đó như cá vây tay, nhưng không giống như cá vây tay, nhóm Rhipidistia rời bỏ các đại dương và di cư vào môi trường sống nước ngọt, tổ tiên của chúng có lẽ sống ở các vùng biển gần cửa sông (vùng nước lợ). Rhipidistia lại được phân chia thành hai nhóm chính - cá có phổi và các loài có dạng của động vật bốn chân (nhóm Tetrapodomorpha). Sự đa dạng lớn nhất của cá có phổi diễn ra vào kỷ Trias, nhưng ngày nay chỉ còn ít hơn vài chục chi là tồn tại. Cá có phổi đã tiến hóa thành các dạng động vật có phổi nguyên thủy và chân nguyên thủy. Các loài cá có phổi, cổ đại cũng như hiện đại, sử dụng các vây ngắn và mập của chúng (chân nguyên thủy) để vượt qua mặt đất nếu vùng nước của chúng bị cạn kiệt, cũng như sử dụng phổi nguyên thủy để hít thở không khí nhằm lấy đủ lượng oxy cần thiết cho hành trình này. Dạng động vật bốn chân về mặt giải phẫu là hoàn toàn tương tự như cá có phổi, họ hàng gần gũi nhất của chúng, nhưng dường như các loài này còn sống trong nước lâu hơn một chút, cho đến cuối kỷ Devon. Nhóm Tetrapoda - động vật có xương sống với 4 chân là các hậu duệ của nhóm Tetrapodomorpha. Tetrapoda đã xuất hiện vào cuối kỷ Devon. Phân loại Phân loại dưới đây lấy theo Benton (2004), và sử dụng một tổng hợp của phân loại kiểu Linnaeus dựa trên cấp bậc, phản ánh các mối quan hệ tiến hóa. Benton đưa siêu lớp Tetrapoda vào trong phân lớp Sarcopterygii nhằm phản ánh mối quan hệ rằng cho rằng Tetrapoda là hậu duệ trực tiếp của cá vây thùy, mặc dù nhóm Tetrapoda được gán ở cấp bậc phân loại cao hơn Phân lớp Sarcopterygii Bộ Dipnoi Phân thứ lớp Crossopterygii Bộ † Porolepiformes Bộ † Onychodontida Bộ Actinistia Coelacanthimorpha - cá vây tay † Indocoelacanthus † Spermatodus Phân thứ lớp Tetrapodomorpha - dạng động vật bốn chân Bộ † Rhizodontida Siêu bộ † Osteolepidida Bộ † Osteolepiformes Bộ † Panderichthyida Siêu lớp Tetrapoda - động vật bốn chân Phát sinh chủng loài Biểu đồ phát sinh chủng loài trình bày dưới đây dựa theo các nghiên cứu do Philippe Janvier và ctv tiến hành cho Tree of Life Web Project Biểu đồ dưới đây lấy theo Ahlberg (1991), Cloutier & Ahlberg (1996), Zhu Yu & Janvier (1999) và Zhu Yu, Wang Zhao & Jia (2006)
Đại học Văn Lang (English: Van Lang University; Latin: Universitas Vanlangensis) là một trường đại học tư thục ở Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 71/TTg năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là trường đại học đa ngành, đào tạo theo định hướng ứng dụng. Đại học Văn Lang hiện trực thuộc Tập đoàn giáo dục Văn Lang. Cơ cấu tổ chức Hội đồng Trường Hội đồng Trường của Trường Đại học Văn Lang gồm 11 thành viên: Bà Bùi Thị Vân Anh - Chủ tịch Hội đồng Trường Bà Trần Thị Mỹ Diệu – Thành viên Hội đồng Trường, Hiệu trưởng Ông Võ Văn Tuấn – Thành viên Hội đồng Trường, Phó Hiệu trưởng thường trực Ông Hoàng Sơn Điền – Thành viên Hội đồng Trường, Giám đốc điều hành Bà Bùi Phạm Lan Phương – Thành viên Hội đồng Trường, Phó Hiệu trưởng Ông Nguyễn Cao Trí – Thành viên Hội đồng Trường Ông Lê Ngọc Sơn - Thành viên Hội đồng Trường Ông Vũ Viết Ngoạn - Thành viên Hội đồng Trường Ông Dương Trọng Dật – Thành viên Hội đồng Trường Bà Lê Thị Kim Oanh - Thành viên Hội đồng Trường Ông Nguyễn Đắc Anh Chương – Thành viên Hội đồng Trường Ban Giám hiệu các thời kỳ TS. Phạm Khắc Chi, Hiệu trưởng đầu tiên (3/1995 - 8/1997) PGS.TS. Lương Duyên Phu, Hiệu trưởng (8/1998 - 4/1999) GS.TSKH Nguyễn Ngọc Cẩn, Hiệu trưởng (4/1999 - 9/2001) TS. Nguyễn Dũng, Hiệu trưởng (9/2001 - 01/2016) PGS. TS. Trần Thị Mỹ Diệu, Hiệu trưởng (từ tháng 9/2016) Hội đồng Sáng lập TS. Nguyễn Đắc Tâm Cố KS. Bùi Quang Độ (1946-2021) Quy mô đào tạo Cho đến tháng 7/2018, Trường đã đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp cho 39.273 cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư và 77 thạc sĩ. Cơ sở vật chất Cơ sở 1 45 Nguyễn Khắc Nhu, phường Cô Giang, Quận 1, TP.HCM Cơ sở 2 233A Phan Văn Trị, phường 11, Quận Bình Thạnh, TP.HCM Trụ sở chính (Cơ sở 3) Cổng 1: 69/68 Đặng Thuỳ Trâm, phường 13, Quận Bình Thạnh, TP.HCM Cổng 2: 80/68 Dương Quảng Hàm, phường 5, Quận Gò Vấp, TP.HCM Bê bối Vụ việc thu hồi bằng tốt nghiệp do sai quy định về người ký bằng Năm 2016, nhiều sinh viên của trường phản ánh với Báo Tuổi Trẻ về việc văn bằng tốt nghiệp được ký bởi TS. Nguyễn Đắc Tâm, Hiệu trưởng tạm quyền của trường. Theo đó, sau khi được công nhận chuyển đổi mô hình từ "Đại học dân lập" sang "Đại học Tư thục" vào tháng 10/2015, Hội đồng Trường và Hội đồng Quản trị đã bầu ông Nguyễn Đắc Tâm, Tiến sĩ, Phó Hiệu trưởng nhà trường, giữ chức vụ Hiệu trưởng vào tháng 2/2016. Trong thời gian chờ đợi Quyết định công nhận chức vụ Hiệu trưởng của các cấp có thẩm quyền, Hội đồng Quản trị ra quyết định giao TS. Nguyễn Đắc Tâm giữ chức vụ "Quyền Hiệu trưởng" để thực hiện các nghĩa vụ với người học, bao gồm thẩm quyền ký tên văn bằng. Theo lý giải của lãnh đạo nhà trường, việc TS. Nguyễn Đắc Tâm ký tên văn bằng là hoàn toàn hợp lệ do ông Tâm hiện đang giữ chức vụ Phó Hiệu trưởng nhà trường, việc ghi chức danh "Q.Hiệu trưởng" trên văn bằng chỉ mang tính chất tượng trưng trong thời gian chờ đợi quyết định công nhận Hiệu trưởng. Tuy nhiên, phản hồi từ Vụ Pháp chế - Bộ GD&ĐT cho biết khi chưa có quyết định công nhận chức danh Hiệu trưởng/Quyền Hiệu trưởng từ các cấp có thẩm quyền, trong trường hợp của Trường ĐH Văn Lang là UBND TP.HCM và Bộ GD&ĐT, Phó Hiệu trưởng có thẩm quyền ký tên văn bằng với chức danh "KT.Hiệu trưởng - Phó Hiệu trưởng". Ngay sau đó, Bộ GD&ĐT đã yêu cầu trường phải có nghĩa vụ cấp lại văn bằng đúng với chức danh thực tế của TS. Nguyễn Đắc Tâm nhằm đảm bảo quyền lợi cho người học Vụ việc Chủ tịch Hội đồng trường bị tạm giam và khởi tố Ngày 15/1/2023, Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam ông Nguyễn Cao Trí, Tiến sĩ, Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Văn Lang, về tội lạm dụng tín nhiệm chiến đoạt tài sản. Nguyễn Cao Trí là Chủ tịch Tập đoàn Capella Holdings, đồng thời là Chủ tịch Tập đoàn Đầu tư & Quản lý Giáo dục Văn Lang, đơn vị chủ quản trường Đại học Văn Lang. Theo kết luận của Bộ Công an, ông Trí có liên quan đến vụ việc chiếm đoạn hơn 40 triệu USD của bà Trương Mỹ Lan, cựu Chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát. Sau khi có Quyết định Khởi tố từ Bộ Công an, đại diện trường Đại học Văn Lang cho biết Hội đồng trường đã tiến hành xem xét và miễn nhiệm tư cách Chủ tịch Hội đồng trường của TS. Nguyễn Cao Trí. Người giữ chức vụ này hiện tại là bà Bùi Thị Vân Anh, vợ ông Trí Vụ việc miễn nhiệm Trưởng khoa Du lịch Ngày 14/9/2023, Báo Tuổi Trẻ đưa tin Trường Đại học Văn Lang vừa ra quyết định miễn nhiệm chức vụ trưởng khoa Du lịch của ông Lê Minh Thành, Tiến sĩ. Quyết định này được đưa ra dựa trên đơn xin từ nhiệm chức vụ trưởng khoa của ông Thành, gửi đến Ban Giám hiệu trường vào ngày 31/8. Trước đó, trong nhóm Liêm Chính Khoa Học trên nền tảng Facebook xuất hiện thông tin tố TS. Lê Minh Thành, trưởng khoa Du lịch trường Đại học Văn Lang, sử dụng bằng Tiến sĩ do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp nhưng chưa được công nhận tại Việt Nam. Trong thông tin giảng viên, ông Thành kê khai mình được cấp bằng Thạc sĩ tại Đại học Melbourne (Úc) năm 2010 và bằng Tiến sĩ Quản trị tại trường SMC (Thuỵ Sĩ) vào năm 2017. Theo lý giải của ông Thành, đây là chương trình đào tạo thí điểm kết hợp cả trực tuyến và trực tiếp tại Mỹ hoặc Thuỵ Sĩ. Tuy nhiên, các thông tin trong cộng đồng Liêm Chính Khoa Học cho biết trường SMC là 1 trung tâm phân phối các khoá học đào tạo trực tuyến, các văn bằng của trường này cấp hầu như không được công nhận ở khu vực Châu Âu. Ngoài ra, nếu chiếu theo quy định hiện hành của Bộ GD&ĐT Việt Nam, các bằng được cấp do hình thức học từ xa, học trực tuyến sẽ không được công nhận. Mặc dù chưa thực hiện việc công nhận văn bằng do các cơ sở giáo dục nước ngoài cấp theo quy định của Việt Nam, tháng 8/2019, ông Thành về công tác tại Trường Đại học Văn Lang và được phân công giữ chức vụ Trưởng khoa Du lịch. Đồng thời, ông cũng đảm nhận 1 số học phần trong chương trình đào tạo Thạc sĩ Du lịch tại trường này. Thông tin từ lãnh đạo nhà trường cho biết, trường đã có công văn yêu cầu ông Thành thực hiện công nhận văn bằng nhưng được ông phản hồi là "đang tiến hành thủ tục công nhận". Tuy nhiên, theo phản hồi từ bà Trần Thị Ngọc Bích - giám đốc Trung tâm Công nhận văn bằng (Cục Quản lý chất lượng), ông Thành chưa 1 lần gửi hồ sơ hoặc trao đổi gì với trung tâm về đề nghị công nhận văn bằng của trường Thuỵ Sĩ cấp cho ông.
Chính sách tài khóa (fiscal policy) trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư công để tác động tới nền kinh tế. Chính sách tài khóa cùng với chính sách tiền tệ là các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng, nhằm ổn định và phát triển kinh tế. Tác dụng Chính sách tài khoá: Khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái, nhà nước có thể giảm thuế, tăng chi tiêu (đầu tư công) để chống lại. Chính sách tài chính như thế gọi là chính sách tài khóa mở rộng. Ngược lại, khi nền kinh tế ở tình trạng lạm phát và có hiện tượng nóng, thì nhà nước có thể tăng thuế và giảm chi tiêu của mình để ngăn cho nền kinh tế khỏi rơi vào tình trạng quá nóng dẫn tới đổ vỡ. Chính sách tài khóa như thế này gọi là chính sách tài khóa thắt chặt. Tranh luận về hiệu quả Hiệu quả của chính sách tài khóa qua phân tích IS-LM Xem bài chính về phân tích IS-LM Các trường phái kinh tế học Keynes cho rằng chính sách tài khóa có hiệu quả to lớn trong chống chu kỳ kinh tế. Họ sử dụng phân tích IS-LM để cho thấy chính sách tài khóa phát huy tác dụng thông qua sự dịch chuyển của đường IS thế nào. Bản thân John Maynard Keynes đề cao chính sách tài khóa thông qua công cụ chi tiêu chính phủ. Các công cụ của chính sách tài khóa bao gồm các công cụ về thuế, công cụ chi tiêu, và công cụ tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Có nhiều loại thuế khác nhau chẳng hạn như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bất động sản, v.v... nhưng tựu trung lại có thể chia ra làm hai loại thuế là thuế trực thu (direct taxes) và thuế gián thu (indirect taxes). Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp lên tài sản và/hoặc thu nhập của người dân, còn thuế gián thu là thuế đánh lên giá trị của hàng hóa, dịch vụ trong lưu thông thông qua các hành vi sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế. Các chính sách chi tiêu của chính phủ cũng hết sức đa dạng nhưng cũng có thể tạm chia thành hai phần chính là chi tiêu thường xuyên (chẳng hạn như chi lương cho công chức, chi cho các hoạt động giáo dục, y tế, khoa học-công nghệ, an ninh-quốc phòng) và chi đầu tư phát triển (chẳng hạn như chi xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội). Tuy nhiên, dựa vào phân tích IS-LM có thể thấy chính sách tài khóa phát huy tác dụng hoàn toàn khi đường IS dốc xuống phía phải cắt đường LM ở đoạn nằm ngang, và phát huy tác dụng không hoàn toàn khi đường IS cắt đường LM ở đoạn dốc lên phía phải. Còn khi đường IS cắt đường LM ở đoạn thẳng đứng, chính sách tài chính không hề có tác dụng. Giả dụ nhà nước thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng, đường IS sẽ dịch song song sang phía phải. Phân tích IS-LM cho thấy lãi suất thực tế sẽ tăng lên, gây khó khăn cho các hãng đi vay để đầu tư mở rộng sản xuất. Hiện tượng chính sách tài khóa không phát huy hiệu quả hay phát huy không đầy đủ như thế này gọi là hiện tượng hất ra. Hiệu quả trong nền kinh tế mở Trong nền kinh tế mở, hiệu quả của chính sách tài khóa phụ thuộc vào chế độ tỷ giá hối đoái. Nếu là chế độ tỷ giá hối đoái cố định, chính sách tài chính sẽ phát huy hiệu quả. Còn nếu là chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, chính sách tài chính(chính sách tài khóa) sẽ không có hiệu lực do những thay đổi tỷ giá gây ra bởi chính sách tài chính sẽ triệt tiêu hiệu quả của chính sách. Thuyết cân bằng Barro-Ricardo Xem bài chính về Cân bằng Ricard Nhà nước thực hiện chính sách tài chính nới lỏng bằng cách tăng chi tiêu chính phủ. Nhưng để có nguồn tài chính cho các khoản chi tiêu đó, nhà nước lại phát hành công trái và trái phiếu. Robert Barro khẳng định: người ta, với kỳ vọng hợp lý (rational expectations), sẽ hiểu rằng hôm nay nhà nước đi vay thì tương lai nhà nước sẽ tăng thuế để có tiền trả nợ, nên sẽ giảm tiêu dùng và tăng tiết kiệm hôm nay để tương lai có tiền nộp thuế. Như thế, tuy nhà nước tăng tiêu dùng của mình, nhưng lại làm giảm tiêu dùng cá nhân, nên hiệu quả của chính sách tài chính sẽ không cao như nhà nước mong đợi. Những trở ngại về chính trị Ở nhiều nước, chính phủ muốn tiến hành đầu tư (chi tiêu chính phủ) thường phải xin quốc hội phê duyệt. Khả năng bị quốc hội bác bỏ không phải là không có. Vì thế, không phải cứ muốn thực hiện chính sách tài chính nới lỏng thông qua tăng chi tiêu chính phủ là luôn có thể làm được. Mặt khác khi đã chi và tiến hành đầu tư rồi, mà lại muốn thực hiện chính sách tài chính thắt chặt lại cũng khó khăn vì không thể bỏ dở các công trình đầu tư đang triển khai được. Thực hiện chính sách tài chính nới lỏng thông qua giảm thuế thì dễ. Nhưng khi muốn thực hiện chính sách tài chính thắt chặt thông qua tăng thuế lại rất dễ bị người dân phản đối. Độ trễ trong phát huy hiệu quả của chính sách tài chính Chính phủ muốn thực hiện chính sách tài chính nới lỏng bằng cách tăng chi tiêu chính phủ. Giả sử được quốc hội thông qua thì cũng đã mất thời gian chờ đợi quốc hội xem xét thảo luận. Sau đó, để triển khai còn phải tiến hành các hoạt động như lập kế hoạch dự án, khảo sát-thiết kế để triển khai đầu tư. Những việc này cũng mất không ít thời gian. Chính vì vậy, có một độ trễ để chính sách tài chính nới lỏng bắt đầu phát huy tác dụng.
Triệu Sơn có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau: Huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa Thị trấn Triệu Sơn, huyện lỵ huyện Triệu Sơn Xã Triệu Sơn, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
Pơ mu (danh pháp khoa học: Fokienia) là một chi trong họ Hoàng đàn (Cupressaceae). là trung gian giữa hai chi Chamaecyparis và Calocedrus, nhưng về mặt di truyền học chi Fokienia gần gũi hơn với chi thứ nhất. Chi này chỉ có một loài còn sống là cây pơ mu (Fokienia hodginsii (Dunn) A.Henry & H.H.Thomas) trong các tài liệu bằng tiếng nước ngoài như tiếng Anh gọi là Fujian cypress (tạm dịch là bách Phúc Kiến), và một loài chỉ còn ở dạng hóa thạch là Fokienia ravenscragensis. Fokienia hodginsii có nguồn gốc từ miền Đông Nam Trung Quốc (các tỉnh Chiết Giang, Quý Châu, Vân Nam và Phúc Kiến) tới miền Bắc Việt Nam (các tỉnh Bắc Giang, Hà Giang, Hà Tĩnh, Hòa Bình, Sơn La, Nghệ An, Lào Cai, Lai Châu, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ), phía tây miền Trung Việt Nam (các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), và kéo dài về phía Tây tới miền Bắc Lào. Tên khoa học của loại thực vật này có nguồn gốc từ tên gọi La tinh hóa cũ của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, là nơi mà từ đó mẫu vật đầu tiên đã được người ta giới thiệu vào châu Âu, do Hodgins thu thập năm 1908. Đặc điểm Pơ mu là cây thân gỗ lá thường xanh, cao 25–30 m. Cây có vỏ màu ánh nâu-xám dễ bị tróc khi cây còn non. Ở những cây già hơn, trên vỏ có các vết nứt theo chiều dọc, có mùi thơm. Các lá được sắp xếp trong các hệ thống cành nhánh nhỏ bằng phẳng, với các nhánh cây nhỏ nằm trên một mặt phẳng. Lá trên các cây trưởng thành mọc thành các cặp chéo chữ thập đối, các cặp so le không cách nhau đều đặn vì thế chúng biểu hiện như là các vòng xoắn 4 trên cùng một mức; chúng hơi sắc, dài khoảng 2–5 mm, phía trên xanh sẫm với các dải khí khổng màu trắng phía dưới. Các lá ở phần bên có dạng hình trứng và bị nén, còn các lá mặt có dạng mác ngược với đỉnh tam giác. Trên các cây non thì các lá lớn hơn, dài tới 8–10 mm và rộng 6 mm. Các nón đực có hình trái xoan hoặc hình trụ, dài khoảng 2,5 mm, phần cuối trên chồi cây. Chúng có từ 3 đến 5 cặp vảy bắc. Các nón cái lớn hơn nhiều, dài 15–25 mm và rộng 14–22 mm, dạng hình cầu hay gần như hình cầu và chín vào năm thứ hai. Chúng có 5-8 cặp vảy bắc. Trên mỗi vảy bắc có 2 hạt có cánh. Các hạt dài khoảng 4 mm, có góc cạnh và đầu nhọn. Trên các mặt trên và dưới có 2 chỗ phồng lớn chứa nhựa. Các cánh ở hai bên và không đều nhau. Loài cây này không chịu được bóng râm, và cần có khí hậu mát mẻ, nhiều mưa. Nó mọc trên các loại đất ẩm trong các khu vực miền núi. Tại Việt Nam, nó mọc trên các địa hình đất đá vôi hay đất nguồn gốc granit từ độ cao 900 m trở lên. Loài hóa thạch Fokienia ravenscragensis đã được miêu tả là có từ thời kỳ đầu của thế Paleocen (60-65 Ma). Loài này có ở miền tây nam Saskatchewan và vùng phụ cận Alberta, Canada. Sử dụng Người Lào và người Dao dùng gỗ cây pơ mu để làm nóc nhà hay vách ngăn phòng. Trước đây, gỗ pơ mu còn được sử dụng để làm quan tài. Tại Việt Nam, pơ mu được coi là một loại gỗ quý do mùi thơm đặc trưng, vân gỗ đẹp cũng như trọng lượng khác thường và đặc tính không bị mối mọt phá hoại của nó; vì thế gỗ được sử dụng để làm các đồ tạo tác mĩ thuật, các loại đồ gia dụng. Nó là loài nguy cấp tại Việt Nam và được đưa vào Sách đỏ Việt Nam năm 1996. Sản phẩm chưng cất từ thân, lá và đặc biệt là từ rễ pơ mu, là tinh dầu được dùng trong hóa mỹ phẩm và y học. Tên gọi Các tên gọi khác của pơ mu trong tiếng Việt là đinh hương, tô hạp hương, mạy vạc (người thiểu số ở Lào Cai), mạy long lanh (người Thái ở miền Tây Bắc và Thanh Hóa), khơ mu (Hà Tĩnh), hòng he (người Ba Na ở Gia Lai và Kon Tum). Chú thích
Hóa Sơn (chữ Hán giản thể: 华山, phồn thể: 華山; phanh âm: Huà Shān) là một trong năm ngọn núi thuộc Ngũ Nhạc Danh Sơn của Trung Quốc. Ngọn núi mang trong mình một ý nghĩa lịch sử to lớn về tín ngưỡng. Năm 1990, Hóa Sơn được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Tên gọi Chữ Hán “华/華” có hai âm đọc là “hoa” và “hóa”. Trong tên gọi “华山/華山” của ngọn núi này chữ “华/華” phải đọc là “hóa” chứ không đọc là “hoa”. Địa lý và đặc điểm Hóa Sơn là một ngọn núi thuộc đoạn đông dãy Tần Lĩnh ở phía nam tỉnh Thiểm Tây, cách thành phố Tây An khoảng 100 km về phía đông. Hóa Sơn có năm đỉnh núi chính, trong đó đỉnh cao nhất Nam Phong (ở phía nam) có tên Lạc Nhạn ("落雁") cao 2.154,9 m. Ngọn núi bao bọc bởi toàn đá hoa cương, từ xa vọng về, hình núi dựng đứng như một bông hoa và vì vậy mà có tên là "Hoa Sơn" (trong chữ Hán cổ, "hoa" và "hóa" tương thông với nhau). Đỉnh chính cao 2.083m, gọi là Thái Hóa Sơn hoặc Tây Nhạc. Hóa Sơn nổi danh là nơi nguy hiểm, thử thách tài nghệ của những dũng sĩ leo núi. Được mệnh danh là đỉnh cao đạo giáo, bốn đỉnh chính của Hoa Sơn được bao bọc bởi những ngôi đền cổ, là địa điểm cầu nguyện và cúng bái từ ít nhất là thời Tần Thủy Hoàng vào những năm 200 trước Công nguyên. Những con đường mòn dẫn lên đỉnh núi thì dường như vẫn còn nguyên sơ như hàng ngàn năm trước. Con đường mòn nguy hiểm nhất thế giới Hóa Sơn nổi tiếng trên toàn thế giới với nhiều biệt danh như “Nấc thang lên thiên đường, địa ngục chỉ cách một bước”, “Đường mòn nguy hiểm nhất hành tinh”, “Con đường ván gỗ trên bầu trời”. Tất cả mọi người đều ấn tượng mạnh với những ván gỗ gồ ghề được ghim trực tiếp vào vách đá ở lưng chừng ngọn núi cao hơn 2.000 mét, không có bất kỳ hàng rào bảo vệ nào trong khi ngay bên dưới là vực thẳm. Mặc dù tất cả du khách đều được thắt dây an toàn trước khi leo qua vách núi, đồng thời có một dây xích được gắn chắc chắn để mọi người bám vào, thế nhưng nhiều người vẫn không hề dám thử. Cuộc sống trên Hóa Sơn Được cho là nơi ở một thời của Lão Tử - triết gia nổi tiếng bậc nhất Trung Quốc, Hóa Sơn có tầm quan trọng rất lớn đối với cộng đồng Đạo giáo của Trung Quốc với một số ngôi đền được gìn giữ từ rất nhiều đời nay. Trong khi đa số du khách hiện đại đến đây vì lý do du lịch thì đời sống tu viện vẫn còn tồn tại ở trên núi. Những người gác cổng chuyên chở thực phẩm và đồ dùng gia đình qua những cầu thang đá từ thị trấn bên dưới lên Hóa Sơn để cung cấp cho các tu viện cũng như các dịch vụ du lịch đã được xây dựng để phục vụ du khách. Ngay cả những người không tôn giáo cũng có thể nghỉ lại trong các nhà khách nhỏ cạnh một số đền thờ, nhưng nếu bạn không muốn trải nghiệm sự khổ hạnh thì có thể lựa chọn một số khách sạn tiêu chuẩn. Tuy nhiên, bất kể nghỉ lại đâu, bạn cũng nên mang theo đồ ăn nhẹ và nước uống để đảm bảo không phải trả rất nhiều tiền để mua ở trên núi. Tất cả hàng hóa ở trên đỉnh Hóa Sơn đều được đưa lên từ các thung lũng, việc những nhà hàng, khách sạn hoặc một số sạp hàng nhỏ đội giá lên trời là điều rất khó tránh khỏi. Trong Ngũ Nhạc Danh Sơn Dáng vẻ của năm ngọn núi nổi tiếng này cũng thật phong phú không giống nhau hay trùng lặp. Thái Sơn như tọa (ngồi), Hành Sơn như phi (bay), Tung Sơn như ngọa (nằm), Hằng Sơn như hành (đi), Hóa Sơn như lập (đứng). Hình ảnh Tiểu thuyết hoá Trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, đây là nơi ba lần diễn ra Hóa Sơn luận kiếm và có một môn phái võ công nổi tiếng ở trên ngọn núi này. Thắng cảnh Vũ Kiếm Thạch: tượng đá hình người con gái múa kiếm bên sườn núi. Hiếu Tử Thạch: tượng đá hình ngư ông câu cá bên bờ suối.