text
stringlengths 0
512k
|
---|
Phạm Văn Quyến (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1984) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam, hiện đang làm trợ lý huấn luyện viên của câu lạc bộ Sông Lam Nghệ An. Thời còn thi đấu, anh chơi ở vị trí tiền đạo cho các câu lạc bộ Sông Lam Nghệ An, Xi măng The Vissai Ninh Bình, Xuân Thành Sài Gòn và đội tuyển quốc gia Việt Nam.
Xuất thân từ lò đào tạo trẻ nổi tiếng của Sông Lam Nghệ An, Văn Quyến được coi là một trong những cầu thủ trẻ triển vọng nhất của bóng đá Việt Nam và là người kế vị xứng đáng cho huyền thoại Lê Huỳnh Đức. Anh được biết đến với tốc độ, khả năng rê dắt, sút bóng chính xác và cũng là một tay đá phạt chất lượng.
Về mặt chuyên môn, anh từng được coi là một trong những tài năng trẻ xuất sắc nhất lịch sử bóng đá Việt Nam; anh đã cùng đội tuyển U-23 Việt Nam vào đến chung kết môn bóng đá nam của hai kỳ SEA Games liên tiếp (2003 và 2005), từng ghi bàn thắng duy nhất vào lưới Hàn Quốc tại vòng loại Asian Cup 2004 để giúp cho đội tuyển quốc gia Việt Nam đánh bại đội hạng tư World Cup 2002 và tạo nên cơn địa chấn trên khắp châu Á thời điểm đó. Anh là chủ nhân của giải thưởng Quả bóng vàng Việt Nam năm 2003.
Văn Quyến cũng được biết đến vì đã tham gia dàn xếp tỷ số tại trận đấu với Myanmar ở vòng bảng SEA Games 23, bị kết án 2 năm tù năm 2007 nhưng được hưởng án treo và nhận án treo giò 4 năm.
Tháng 6 năm 2021, Phạm Văn Quyến được bổ nhiệm làm trợ lý huấn luyện viên của Sông Lam Nghệ An.
Đầu đời
Phạm Văn Quyến sinh ra tại xã Hưng Nghĩa, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Anh là con trai của bà Hồ Thị Niềm, một công nhân xây dựng thủy lợi và ông Phạm Văn Thập, một người lái thuyền ở huyện Diễn Châu. Từ khi mới lọt lòng, Quyến phải sống cùng mẹ và ông bà ngoại bởi cha anh đã bỏ đi lấy người vợ khác khi mẹ Quyến còn đang mang thai. Cuộc sống gia đình cơ cực khiến Quyến sớm phải phụ mẹ đi chăn trâu, cắt cỏ.
Văn Quyến được tiếp xúc với bóng đá từ những trái bóng nhựa mà mẹ dành cho anh sau những chuyến đi làm xa. Khi cùng những đứa trẻ trong làng chơi đá bóng, có lúc anh đã lấy cả vỏ bưởi để làm quả bóng. Từ những trái bóng ấy, Quyến đã bộc lộ niềm đam mê và tài năng bóng đá của bản thân sau này.
Sự nghiệp cầu thủ
Câu lạc bộ
1996–2000: Khởi đầu và thành công cùng Sông Lam Nghệ An
Năm 1996, đoàn bóng đá Sông Lam Nghệ An tuyển lớp bóng đá nghiệp dư. Bằng năng khiếu bẩm sinh, Văn Quyến được nhận vào tập luyện, ban đầu chơi với vai trò hậu vệ cánh. Tuy nhiên, huấn luyện viên Đinh Văn Dũng lại thấy rằng Quyến là mẫu cầu thủ lười chạy nhưng có kỹ thuật tốt, không đá hậu vệ cánh được nên quyết định đẩy anh lên vị trí tiền đạo.
Năm 1997, Văn Quyến vô địch Giải bóng đá thiếu niên toàn quốc sau khi Sông Lam Nghệ An thắng đối thủ Khánh Hòa với tỉ số 1-0. Cũng tại giải đấu này một năm sau đó, Sông Lam Nghệ An tiếp tục giành chức vô địch sau khi Quyến ghi 2 bàn góp phần vào chiến thắng giòn giã 4-0 trước đội bóng đến từ Thái Nguyên (năm đó Phan Như Thuật giành danh hiệu đồng vua phá lưới với 8 bàn, Phạm Văn Quyến ghi được 7 bàn).
Năm 1999, khi đội Sông Lam Nghệ An tham dự giải bóng đá U-16 toàn quốc và giành huy chương bạc, Phạm Văn Quyến trở thành cầu thủ xuất sắc nhất giải. Cùng năm đó, Quyến góp mặt trong đội hình U-18 Nghệ An tham dự giải đấu tại Hà Tĩnh và giành chiến thắng trong trận chung kết, nơi Quyến ghi cả 2 bàn thắng quyết định.
2000–2004: Tỏa sáng và vươn tới đỉnh cao sự nghiệp
Nhận thấy tài năng đặc biệt của Quyến, huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh đã quyết định đưa cầu thủ trẻ này lên đội một Sông Lam Nghệ An vào năm 2001 và trả cho mức lương ngang với các cầu thủ đàn anh tại đội bóng, khi đó anh mới chỉ 17 tuổi. Tháng 11 năm 2002, anh có lần đầu ra mắt người hâm mộ trong màu áo của đội một Sông Lam Nghệ An khi được thi đấu trong hiệp 2 trận tranh Siêu cúp Quốc gia gặp Cảng Sài Gòn. Văn Quyến đoạt danh hiệu Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất lần thứ hai trong đêm trao giải Quả bóng vàng Việt Nam năm 2002.
2003 là năm chứng kiến sự nghiệp thăng hoa của cầu thủ người Nghệ An. Sau hai trận giao hữu của anh trong màu áo U-23 Việt Nam trước câu lạc bộ Yokohama FC của Nhật Bản, anh nhận được lời đề nghị đến thi đấu cho đội hai của đội bóng này ngay trong mùa giải năm đó với mức lương 1.800 USD/tháng, cùng với lời hứa hẹn được thi đấu ở đội một thi đấu mùa bóng năm sau. Tuy nhiên, phía Sông Lam Nghệ An chỉ có thể cho Quyến ra đi trong khoảng thời gian không có V-League bởi đội bóng này vào thời điểm đó đang thiếu hụt lực lượng. Vì vậy mà thương vụ không thành công, và Văn Quyến tiếp tục ở lại với Sông Lam Nghệ An. Tại mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên của mình, anh ghi được 9 bàn cho đội bóng quê hương và có ba tháng liên tục được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong tháng.
2004–2005: Sa sút phong độ và vướng vào bê bối dàn xếp tỷ số
Sau thành công tại SEA Games 22, bước sang mùa giải 2004, phong độ và tinh thần thi đấu của Văn Quyến đã có những dấu hiệu sa sút rõ rệt. Việc phải liên tục bận rộn với những hợp đồng quảng cáo và các cổ động viên khiến cho cầu thủ này không tìm được sự tập trung để đạt phong độ cần thiết khi trở lại khoác áo câu lạc bộ. Chỉ tính riêng tại V-League 2004, suốt 18 vòng đấu đầu tiên anh mới có 7 lần làm tung lưới đối phương, bằng một nửa so với Amaobi (Nam Định) - người sau đó trở thành vua phá lưới của giải đấu. Cùng với việc Sông Lam Nghệ An tiến hành các biện pháp nhằm làm trong sạch đội sau những nghi ngờ về phong độ đi xuống và biểu hiện tiêu cực ở một số trận đấu V-League và nhất là trận thua ngược Thể Công 1−2 tại bán kết Cúp Quốc gia, Văn Quyến bị đề nghị cấm thi đấu ở mức 6 tháng - nhẹ nhất trong số sáu cầu thủ bị kỷ luật (Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) sau đó tăng mức án phạt lên cảnh cáo đối với cầu thủ này). Nhưng trong một mùa giải thi đấu dưới sức, Văn Quyến vẫn tạo nên những điểm sáng hiếm hoi, như pha bóng vượt qua 3 cầu thủ Hoàng Anh Gia Lai và làm tung lưới người đồng đội cũ Võ Văn Hạnh ở vòng 9 V-League và mang về chiến thắng cho đội chủ sân Vinh.
Mùa giải 2005, Văn Quyến tiếp tục thể hiện phong độ không tốt trong màu áo của đội bóng xứ Nghệ khi không ghi được một bàn thắng nào sau 10 vòng đấu đầu tiên tại V-League, thậm chí còn đối diện với nguy cơ bị cắt lương thưởng và phải xuống tập cùng đội trẻ. Chuỗi trận "tịt ngòi" của Văn Quyến chỉ kết thúc khi đối đầu với Thép Miền Nam Cảng Sài Gòn tại vòng 19 V-League 2005, nơi anh góp công bằng 1 bàn thắng từ chấm phạt đền trong chiến thắng 2−0 của đội nhà. Đến cuối mùa, anh ghi được 4 bàn nữa, trong đó có 2 bàn thắng trước đội mới lên ngôi vô địch Gạch Đồng Tâm Long An, giúp Sông Lam Nghệ An trụ hạng thành công. Tháng 12 năm 2005, với những bê bối liên quan đến việc nhận tiền để làm thay đổi kết quả trận đấu gặp Myanmar của U-23 Việt Nam tại vòng bảng SEA Games, Phạm Văn Quyến bị bắt và bị khởi tố. Ngày 26 tháng 1 năm 2007, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt Văn Quyến hai năm tù, nhưng cho hưởng án treo. VFF đã ra quyết định treo giò cầu thủ này trong tất cả các giải đấu do liên đoàn tổ chức trong 4 năm (tính từ ngày 20 tháng 3 năm 2007).
2009–2014: Trở lại sân cỏ và nỗ lực tìm lại đỉnh cao
Sau khi quyết định tiếp tục thi đấu trong màu áo Sông Lam Nghệ An với bản hợp đồng hai năm và được câu lạc bộ này đề nghị giảm án, ngày 23 tháng 1 năm 2009, VFF đã ra quyết định cho phép Văn Quyến thi đấu tại các giải đấu do liên đoàn tổ chức (trừ các giải quốc tế) và chịu một khoảng thời gian thử thách cho đến hết năm 2009. Ở mùa giải đầu tiên được thi đấu trở lại, Văn Quyến ghi được 8 bàn thắng tại V-League, trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho Sông Lam Nghệ An và một lần nhận giải cầu thủ xuất sắc nhất tháng của V-League. Anh nhận được sự quan tâm của The Vissai Ninh Bình lẫn câu lạc bộ hạng Nhất Cần Thơ, nhưng đều từ chối sau khi được câu lạc bộ chủ quản kịp đáp ứng khoản lót tay.
Sang mùa giải 2010, Văn Quyến không để lại nhiều ấn tượng vì vấn đề thể lực và chấn thương hồi đầu mùa. Hầu như cả mùa giải, anh chỉ được tung vào sân từ băng ghế dự bị (ngoại trừ một vài trận đá chính tại V-League và Cúp Quốc gia) và không ghi được bàn nào, mặc dù đã cùng đồng đội lên ngôi vô địch Cúp Quốc gia. Tháng 11 năm 2010, Quyến tiếp tục ký với Sông Lam Nghệ An hợp đồng có thời hạn 3 năm kèm theo rất nhiều điều khoản phụ, trong đó có việc anh sẽ gắn bó lâu dài với câu lạc bộ sau khi hợp đồng này kết thúc và có thể trở thành huấn luyện viên của đội.
Năm 2011, Văn Quyến gần như chỉ ngồi ngoài trên ghế dự bị của đội bóng trong suốt mùa giải nhưng vẫn có được chức vô địch V-League và Siêu cúp cùng Sông Lam Nghệ An.
Tháng 5 năm 2012, Văn Quyến đến thi đấu cho Xuân Thành Sài Gòn dưới dạng cho mượn và lại tiếp tục dự bị cả mùa. Dù vậy anh vẫn giành được Cúp Quốc gia sau khi Xuân Thành Sài Gòn chiến thắng ở trận chung kết. Cuối mùa, Quyến bị Sông Lam Nghệ An sa thải dù hợp đồng của anh với đội bóng còn 1 năm nữa mới kết thúc.
Mùa giải 2013, Văn Quyến đầu quân cho đội bóng đá Ninh Bình bằng bản hợp đồng có thời hạn 1 năm. Anh thi đấu nhạt nhòa ở V.League 1 trong nhiều trận đấu được tung vào sân với chỉ vài pha kiến tạo thành bàn, trở thành một trong những cái tên gây thất vọng nhất lượt đi V.League 2013. Tuy nhiên, đến Cúp Quốc gia, Văn Quyến lại thi đấu thăng hoa và góp công lớn trên hành trình vô địch của đội bóng cố đô. Ngày 10 tháng 7 năm 2013 chứng kiến sự trở lại của Văn Quyến với hai bàn thắng vào lưới Hoàng Anh Gia Lai giúp Ninh Bình vào bán kết Cúp Quốc gia. Anh tiếp tục ghi thêm một bàn thắng trong trận hòa 3−3 trước Đồng Tâm Long An, đưa Ninh Bình vào chung kết nhờ loạt đá luân lưu và giành chức vô địch sau đó. Ghi nhận những đóng góp của cầu thủ người Nghệ An cho đội bóng trong suốt mùa giải, câu lạc bộ đã quyết định gia hạn hợp đồng thêm 1 năm đối với Quyến.
Văn Quyến khởi đầu mùa giải 2014 bằng trận tranh Siêu cúp Quốc gia với Hà Nội T&T, nơi anh chỉ được đưa vào sân ở những phút bù giờ cuối cùng của hiệp 2. Anh đã sút hỏng quả phạt đền đầu tiên của đội trong loạt đá luân lưu, nhưng vẫn kịp giành danh hiệu siêu cúp đầu tiên cùng với câu lạc bộ. Quyến không được ra sân một phút nào tại V.League 2014 nhưng lại được huấn luyện viên Nguyễn Văn Sỹ sử dụng tại đấu trường AFC Cup. Anh được vào sân ở hiệp 2 trận gặp Kelantan (Malaysia) trên sân Ninh Bình và có một pha kiến tạo cho Văn Thắng ghi bàn nâng tỷ số lên 3−0 (trận này Ninh Bình thắng 4−0). Ngày 16 tháng 4 năm 2014, Phạm Văn Quyến bị triệu tập lên cơ quan điều tra để làm rõ một số vấn đề liên quan đến nghi án bán độ của các cầu thủ Xi măng The Vissai Ninh Bình ở AFC Cup 2014 và V.League 2014. Ba ngày sau đó, Văn Quyến tuyên bố giải nghệ và chuyển sang làm kinh doanh, nhưng rồi rút lại quyết định để tiếp tục thi đấu cho Ninh Bình tại AFC Cup. Trong trận đấu giữa Vissai Ninh Bình và Churchill Brothers (Ấn Độ), Văn Quyến đã lập cú đúp giúp đội nhà thắng 4−2 để tiến vào tứ kết. Trận đấu cuối cùng anh chơi cho Ninh Bình là trận gặp Kitchee của Hồng Kông ở tứ kết lượt về AFC Cup 2014. Tuy nhiên, đội bóng của anh không thể đi tiếp tại giải đấu dù đã giành chiến thắng 1−0 (Ninh Bình thua 2−4 ở lượt đi), và sau đó không lâu cũng quyết định giải thể.
Cuối năm 2014, Văn Quyến được ghi tên vào danh sách thi đấu V.League 2015 cho Câu lạc bộ Cần Thơ, nhưng đến phút chót Quyến từ chối gia nhập câu lạc bộ và chính thức giải nghệ.
Sự nghiệp quốc tế
Năm 2000, Phạm Văn Quyến được gọi vào đội tuyển U-16 quốc gia. Ở vòng chung kết U-16 châu Á được tổ chức tại Đà Nẵng, đội tuyển U-16 Việt Nam và cá nhân Văn Quyến đã thi đấu ấn tượng và chinh phục được người hâm mộ, trong đó có pha làm bàn của anh từ cú đá phạt hàng rào vào lưới U-16 Trung Quốc, giúp đội bóng từ thế bị dẫn 0−2 vươn lên lội ngược dòng 3−2 và lọt vào vòng bán kết. Kết thúc giải đấu, Văn Quyến ghi được ba bàn thắng - ít hơn nhiều so với các cầu thủ khác - nhưng vẫn được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất giải; anh là cầu thủ duy nhất của Việt Nam cho đến nay giành danh hiệu "cầu thủ xuất sắc nhất" ở một giải đấu cấp châu lục. Nhờ màn trình diễn xuất sắc tại giải đấu năm đó, Phạm Văn Quyến đã giành danh hiệu “Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất” của giải thưởng Quả bóng vàng Việt Nam. Tên tuổi của Văn Quyến từ giải đấu này cũng được giới chuyên môn và người hâm mộ biết đến rộng rãi.
Một năm sau, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất được huấn luyện viên người Brazil Dido điền tên vào danh sách đội tuyển U-23 để chuẩn bị cho SEA Games, nhưng sau đó không lâu đã bị loại vì vấn đề kỷ luật.
Đầu năm 2002, Văn Quyến cùng U-20 Việt Nam tham dự giải vô địch U-20 Đông Nam Á diễn ra tại Thái Lan và Campuchia. Anh ghi được tổng cộng 6 bàn thắng cho U-20 Việt Nam (2 bàn trận gặp Philippines, 3 bàn trận gặp Brunei, 1 bàn trận gặp Thái Lan) nhưng đây không phải là giải đấu thành công của toàn đội khi hai lần để thua U-20 Lào trong vòng bảng và trận tranh hạng ba. Sau đó, Văn Quyến được gọi vào đội tuyển U-20 quốc gia dự vòng loại U-20 châu Á và giành vé vào vòng chung kết tại Qatar. Tuy nhiên, các bàn thắng Quyến ghi được trước Trung Quốc (2) và Syria (1) không đủ để giúp Việt Nam vào vòng tứ kết. Cùng năm, anh có tên trong đội tuyển Olympic Việt Nam tham dự Á vận hội tại Busan, Hàn Quốc, giải đấu mà đội đã bị loại sớm khi thua cả 3 trận vòng bảng và không ghi được bàn nào. Sau vòng chung kết giải U-21 quốc gia cúp báo Thanh Niên năm 2002 tại Đà Nẵng, anh được huấn luyện viên Henrique Calisto triệu tập cho Tiger Cup, trở thành cầu thủ trẻ nhất khoác áo đội tuyển Việt Nam thời điểm đó khi được 18 tuổi 213 ngày (trước khi kỷ lục này bị phá vỡ bởi Phan Thanh Bình lúc 16 tuổi 331 ngày). Anh ra sân trong trận đấu chính thức đầu tiên của mình cho đội tuyển Việt Nam gặp Campuchia, nơi anh đã góp một bàn thắng vào trận thắng rất đậm 9−2 trước đối thủ láng giếng, góp phần giúp đội tuyển Việt Nam đoạt huy chương đồng sau đó.
Năm 2003, Văn Quyến ra sân tại vòng loại Thế vận hội Mùa hè 2004 và ghi bàn thắng duy nhất cho đội tuyển Olympic Việt Nam trong trận thua Olympic Iraq 1-3 ở lượt đi, trước khi cầm hòa 1-1 ở lượt về. Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2004, Liên đoàn bóng đá Việt Nam cử đội tuyển U-23 thi đấu với tư cách đội tuyển quốc gia để chuẩn bị cho SEA Games 22. Tại đây, Văn Quyến đã có bàn thắng để đời vào lưới đội tuyển quốc gia Hàn Quốc trong trận thắng lịch sử của đội tuyển Việt Nam tại Oman vào ngày 19 tháng 10 năm 2003. Chiến thắng đầy bất ngờ làm chấn động cả đất nước nói riêng và châu Á nói chung, bởi đây là lần đầu tiên đội tuyển Việt Nam đánh bại Hàn Quốc tại một giải đấu chính thức.
Sau đó, Văn Quyến tiếp tục có tên trong danh sách đội tuyển U-23 Việt Nam tham dự SEA Games 22. Ở giải đấu này, anh đã ghi được 4 bàn thắng, hầu hết đều là những bàn thắng quan trọng và trở thành cầu thủ được nhắc đến nhiều nhất trong và sau giải. Màn trình diễn này của Văn Quyến đã giúp anh đoạt danh hiệu Quả bóng vàng Việt Nam năm 2003 khi chỉ mới 19 tuổi 10 tháng và 3 ngày, trở thành cầu thủ trẻ nhất đoạt giải thưởng này tại thời điểm đó. Kỷ lục này đã bị phá một năm sau đó khi tiền đạo đồng hương Lê Công Vinh làm được điều tương tự lúc 19 tuổi, 3 tháng và 4 ngày.
Cùng với việc sa sút phong độ và tinh thần thi đấu tại mùa giải 2004 bởi những ảnh hưởng bên ngoài sân cỏ, Văn Quyến hai lần bị huấn luyện viên Edson Tavares gạch tên khỏi danh sách đội tuyển quốc gia, một lần trước trận gặp Hàn Quốc tại vòng loại World Cup 2006 và lần khác sau thất bại 0−3 trước Maldives - trận đấu mà anh chơi hết sức mờ nhạt. Gần 1 tháng sau đó, Quyến lại được điền tên trở lại trong danh sách đăng ký sơ bộ cho Tiger Cup 2004, trước khi một lần nữa bị loại khỏi danh sách chính thức của đội tuyển.
Năm 2005, Phạm Văn Quyến tiếp tục tham gia đội tuyển U-23 Việt Nam dự SEA Games 23 tại Philippines. Phong độ thi đấu của Quyến trong giải đấu này trở thành mục tiêu chỉ trích của báo chí. Với việc vướng vào vụ án dàn xếp tỷ số trong trận gặp U-23 Myanmar tại giải đấu, anh đã phải hứng chịu nhiều chỉ trích từ công luận và phải thi hành án treo giò khi về nước.
Năm 2010, anh được huấn luyện viên Henrique Calisto gọi trở lại đội tuyển quốc gia để chuẩn bị cho Cúp bóng đá 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, lần đầu tiên kể từ sau bê bối dàn xếp tỷ số tại Philippines. Nhưng chỉ sau hai buổi tập cùng đội tuyển, chấn thương cổ chân của Văn Quyến tái phát và được chẩn đoán phải mất 6 tháng để phục hồi, đồng nghĩa với việc lỡ cơ hội tham dự giải đấu này và AFF Cup 2010. Kể từ đó cho đến khi giải nghệ năm 2014, anh không còn được triệu tập lên đội tuyển quốc gia một lần nào nữa.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Sau khi giải nghệ, Văn Quyến tốt nghiệp bằng huấn luyện viên trưởng hạng C của Liên đoàn bóng đá châu Á và được giao nhiệm vụ huấn luyện các đội trẻ của Sông Lam Nghệ An.
Năm 2018, Quyến được bổ nhiệm chức danh trợ lý cho huấn luyện viên Phan Tiến Hoài của đội U-11 Sông Lam Nghệ An. Năm 2019, anh làm trợ lý cho người đồng đội cũ Phan Như Thuật, huấn luyện viên trưởng của U-15 Sông Lam Nghệ An. Năm 2020, anh cùng huấn luyện viên Lê Kỳ Phương dẫn dắt đội U-17 Sông Lam Nghệ An. Trong ba năm này, các đội trẻ của Sông Lam Nghệ An đều gặt hái thành công với những chức vô địch quốc gia.
Tháng 6 năm 2021, Văn Quyến trở thành trợ lý của huấn luyện viên trưởng Nguyễn Huy Hoàng dẫn dắt Sông Lam Nghệ An tại V.League 2021, giải đấu không lâu sau đó bị hủy vì lý do dịch bệnh.
Bên ngoài sân cỏ
Sau khi gặt hái thành công tại SEA Games 22 và giải thưởng Quả bóng vàng Việt Nam, Văn Quyến lao vào ký những hợp đồng quảng cáo với các thương hiệu, bao gồm các sản phẩm nước uống, thiết bị điện tử, xe máy và thu về được khoảng 670 triệu đồng. Tính cả các khoản lương thưởng tại câu lạc bộ Sông Lam Nghệ An và đội tuyển U-23, anh trở thành cầu thủ có thu nhập cao nhất Việt Nam tại thời điểm đó. Những kế hoạch quay phim quảng cáo, những buổi chụp hình và quảng bá sản phẩm được lên lịch nối tiếp nhau đã làm ảnh hưởng đến sự tập trung trong tập luyện và phong độ thi đấu của cầu thủ này. Ngay lần đầu tập trung đội tuyển cho Tiger Cup, anh lấy lý do "bận đóng phim quảng cáo" để viện cớ cho việc đến muộn.
Các công ty lớn cũng tận dụng tên tuổi, hình ảnh của Văn Quyến trong những chiến lược quảng cáo thương hiệu của họ. Điển hình vào năm 2004, hãng nước giải khát Pepsi đã cho hình ảnh Văn Quyến xuất hiện bên cạnh các siêu sao bóng đá thế giới như David Beckham, Raul, Roberto Carlos để quảng bá cho thương hiệu nước giải khát của mình tại thị trường Việt Nam. Nhiều nhân vật trong giới quảng cáo lúc đó đều nhận định Văn Quyến là “thương hiệu Beckham” trong ngành quảng cáo Việt Nam. Năm 2017, Văn Quyến là 1 trong 9 huyền thoại của Việt Nam xuất hiện trong tựa game thể thao FIFA Online 3.
Văn Quyến cũng trở thành chủ đề chính của một số tác phẩm. Năm 2006, cuốn sách Văn Quyến - Ngôi sao lầm lạc được nhà xuất bản Kim Đồng phát hành, bao gồm các bài viết của các nhà báo thể thao, nhà xã hội học... về những khía cạnh liên quan đến cầu thủ đã trở thành hiện tượng của bóng đá Việt Nam. Cuốn tự truyện Phút 89 của Lê Công Vinh (Trần Minh chấp bút), được xuất bản năm 2018, cũng dành một phần nội dung để nói về Văn Quyến.
Là cầu thủ tài năng trên sân cỏ, nhưng Văn Quyến cũng được biết đến như là một tay ăn chơi có tiếng. Thành công đến sớm đã vô tình tạo điều kiện để Quyến tự thưởng cho mình bằng những thú vui lạ lẫm. Công An Nhân Dân trong một bài báo đã miêu tả anh lúc đó để mái tóc vàng theo kiểu Hàn Quốc, dùng điện thoại di động theo kiểu hai tay ba chiếc và lả lướt trên những chiếc xe máy đắt tiền nơi vũ trường, quán bar. Các tác giả Duy Quang, Kim Yến của Tiền Phong viết rằng anh gần như luôn là người sở hữu đầu tiên của những mẫu điện thoại mới xuất hiện trên thị trường và liên tục thay sim điện thoại. Trong cuốn tự truyện Phút 89, Lê Công Vinh cũng đã tiết lộ về độ ăn chơi của người đàn anh, đặc biệt là việc sử dụng điện thoại di động; có lúc Quyến đã sở hữu cùng lúc hai chiếc điện thoại Nokia đời mới nhất. Văn Quyến còn được Công Vinh mô tả là “uống rượu vô địch thiên hạ, trình độ uống ngang ngửa với trình độ đá bóng", "hút thuốc không ít" và "thay người yêu như thay áo".
Đời tư
Gia đình, con cái và các mối quan hệ
Mối quan hệ với cha
Sinh ra mà không có sự chăm sóc của người bố ngay từ nhỏ, Văn Quyến không hề biết mặt và không có ý niệm gì về người cha của mình. Trong các hồ sơ lý lịch, Quyến chỉ ghi hai chữ “đã chết” ở phần khai báo tên cha, giống như những gì anh được mẹ và gia đình nói về cha. Anh cũng được họ hàng tiết lộ rằng bố còn sống nhưng lại không có ý định đi tìm.
Năm 2000, trong thời gian anh cùng Sông Lam Nghệ An chuẩn bị cho vòng chung kết U-16 quốc gia, ông Thập bất ngờ đến sân tập để tìm gặp Quyến và nói rằng mình là cha Quyến. Tối hôm đó, anh không gặp được bố như đã hẹn nhưng sau lần tới nhà cô dượng, anh mới biết được gốc gác của mình.
Đầu năm 2001, một số người quan tâm đã chủ động liên hệ với Quyến để giúp anh tìm lại cha. Nhờ một vài thông tin ít ỏi từ người thân, hai người đã gặp nhau tại Kiên Giang, nơi ông Thập sống với một người vợ khác cùng bốn người con gái. Tuy nhiên, suốt cả buổi gặp hôm đó, anh không hề nói một lời gì với người cha đã bỏ rơi mẹ con anh cho đến lúc ra về. Sau này, Quyến được báo tin cha mắc bệnh ung thư vòm họng và đã ngay lập tức thuê xe chở ông từ Kiên Giang ra Nghệ An để chăm sóc cho đến ngày ông qua đời.
Xây dựng gia đình
Tháng 7 năm 2014, Văn Quyến chính thức kết hôn với Nguyễn Thanh Hằng (sinh năm 1989, tốt nghiệp Đại học Vinh, chuyên kinh doanh thời trang). Hai người đã nảy sinh tình cảm khi tình cờ gặp nhau trong một quán cà phê trước đó 3 năm và đi đến quyết định tìm hiểu lẫn nhau. Hiện tại cả hai đã có chung hai người con gái.
Văn Quyến có một người em họ là Hồ Tuấn Tài, cũng là cựu tiền đạo của Sông Lam Nghệ An.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Sông Lam Nghệ An
V-League (3): 1999−00, 2000−01 và 2011
Cúp Quốc gia (2): 2001−02, 2010
Siêu cúp Quốc gia (4): 2000, 2001, 2002, 2011.
Sài Gòn Xuân Thành
Cúp Quốc gia (1): 2012
Xi măng The Vissai Ninh Bình
Cúp Quốc gia (1): 2013
Đội tuyển quốc gia
U-16 Việt Nam
Giải vô địch bóng đá U-16 châu Á
Hạng 4 (1): 2000
U-23 Việt Nam
Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Huy chương bạc (2): 2003, 2005
Đội tuyển Việt Nam
Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á:
Hạng 3 (1): 2002
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá U-16 châu Á 2000
Quả bóng vàng Việt Nam: 2003.
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất: 2000, 2002.
Vinh danh
Vận động viên tiêu biểu toàn quốc: 2000
10 gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quốc: 2003
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Đội tuyển quốc gia
Bàn thắng quốc tế
U-23 Việt Nam
Đội tuyển Việt Nam
Chú thích
Ghi chú |
Pali có thể đề cập đến:
Tiếng Pali, ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Arya Trung cổ
Kinh điển Pali, kinh điển viết bằng tiếng Pali
Páli, thị trấn ở Hungary |
Balzac là tên gọi tắt của nhà văn Pháp nổi tiếng Honoré de Balzac. Ngoài ra Balzac còn có thể là:
Jean-Louis Guez de Balzac: Nhà văn Pháp thế kỷ 16
Balzac: Một quận của Pháp thuộc tỉnh Charente, vùng Nouvelle-Aquitaine
Balzac: sê ri phim truyền hình gồm hai phần của Josée Dayan thực hiện năm 1999
Balzac: tên một máy bay quân sự của Dassault Aviation |
Tôi có một giấc mơ (tiếng Anh: I Have a Dream) có thể là:
Tôi có một giấc mơ, bài diễn văn nổi tiếng của Martin Luther King
I Have a Dream, một ca khúc của ban nhạc ABBA và được cover bởi nhiều nghệ sĩ khác sau đó
"I Have a Dream", bài hát của ban nhạc người Phần Lan L'Amourder (Sielun Veljet) |
Air Force One có thể là:
Air Force One: chuyên cơ riêng của Tổng thống Hoa Kỳ
Air Force One: bộ phim hành động năm 1997 của Wolfgang Petersen với sự tham gia diễn xuất của Harrison Ford
Giầy Air Force 1: một sản phẩm của hãng thể thao Nike
Air Force Ones: một bài hát năm 2002 của ca sĩ nhạc rap Nelly |
Nguyên Sa (1 tháng 3 năm 1932 – 18 tháng 4 năm 1998), tên thật là Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc. Ông là một nhà thơ lãng mạn Việt Nam nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi mười ba", "Tháng sáu trời mưa", "Hư ảo trăng".
Tiểu sử
Tổ tiên Nguyên Sa gốc ở xã Hóa Khuê, huyện Hòa Vang, thuộc Quảng Nam (nay thuộc Quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng), trải qua biến loạn năm Giáp Ngọ (Nhà Trịnh chiếm lấy Phú Xuân) thì di cư vào Gia Định rồi sau đó vào đầu đời Gia Long ra làm quan tại Thuận Hóa (Huế) đến hàm Công Bộ Thượng Thư. Ông cố ông làm quan đến chức Tri Phủ sau về hưu ở lại Hà Nội cùng con cháu lập nghiệp tại đó. (Một người em ông cố của Nguyên Sa là ngài Trần Trạm làm quan kinh qua các chức Phủ Doãn Thừa Thiên, Tham Tri Bộ Lại, Thượng Thư Bộ lại sau khi mất được ban tặng Hiệp Tá Đại Học Sỹ, Cáo thụ Vinh Lộc đại phu, thụy Văn Ý)
Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình ông tản cư đi Hà Đông. Tại đây, ông bị Việt Minh bắt giam khi mới 15 tuổi. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm 1949.
Năm 1953, ông đậu tú tài Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này.
Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước, sống tại Sài Gòn.
Năm 1975, ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ đó cho tới ngày qua đời.
Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.
Dạy học
Ở Sài Gòn, Nguyên Sa dạy triết tại trường Trung học Chu Văn An, đồng thời mở lớp tại nhà dạy triết cho học sinh chuẩn bị thi tú tài 2. Ông cũng có thời gian dạy triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Ông mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi.
Ngoài hai trường nhà, ông còn cộng tác với nhiều trường khác ở Sài Gòn như: Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền, Võ Trường Toản, Trường Nguyễn Văn Khuyên (Bồ Đề Sài Gòn) sau này là Đồng Khởi.
Báo chí
Tại Việt Nam, Nguyên Sa chủ trương tạp chí Hiện đại. Tạp chí này được xem là một trong ba tạp chí sáng tác hàng đầu của Việt Nam, cùng với Sáng Tạo và Thế Kỷ 20.
Qua Hoa Kỳ, Nguyên Sa chủ trương tạp chí Đời, trung tâm băng nhạc Đời và nhà xuất bản Đời.
Phong cách thơ
Về phương pháp làm thơ, Nguyên Sa có thuyết cho rằng vần thơ nếu luôn luôn thật sát thì sẽ nhàm chán. Vần không sát hẳn, thậm chí lạc vần, nếu sử dụng đúng cách, đúng chỗ, vẫn ra một bài thơ hay. Ông nói nhiều về thuyết này trong Nguyên Sa - Hồi Ký. (Trích: "Vần thơ có vần chỉnh, vần thông, vần cưỡng áp và lạc vận. Vần chỉnh không cần sự hỗ trợ, không cần sự phối âm, nhưng sự sử dụng những nền âm thanh khác biệt có khả năng làm cho vần thông trở thành vần chỉnh, vần cưỡng và ngày cả vần lạc cũng được nắm tay giữ được trong khoảng không gian giữa trời, giữa đất mênh mông.")
Thơ Nguyên Sa có một số bài được biết đến nhiều hơn qua những bài hát do nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc (Áo lụa Hà Đông, Tuổi mười ba, Paris có gì lạ không em...). Những nhạc sĩ khác có phổ nhạc vào thơ Nguyên Sa là Phạm Duy (Vết sâu), Phạm Đình Chương (Màu Kỷ Niệm), Anh Bằng (Mai Tôi Đi), Song Ngọc (Tiễn đưa) Hoàng Thanh Tâm (Tháng sáu trời mưa), Phạm Anh Dũng (Hư Ảo Trăng)...
Tác phẩm
Thơ
Thơ Nguyên Sa tập 1
Thơ Nguyên Sa tập 2
Thơ Nguyên Sa tập 3
Thơ Nguyên Sa tập 4
Thơ Nguyên Sa toàn tập
Truyện dài
Giấc mơ 1
Giấc mơ 2
Giấc mơ 3
Vài ngày làm việc ở Chung Sự Vụ
Truyện ngắn
Gõ đầu trẻ
Mây bay đi
Biên khảo triết học và văn học
Descartes nhìn từ phương Đông
Một mình một ngựa
Một bông hồng cho văn nghệ
Bút ký
Đông du ký
Hồi ký
Nguyên Sa - Hồi ký
Cuộc hành trình tên là lục bát
Sách giáo khoa
Luận lý học
Tâm lý học |
Công chúa Mai Hoa (Maria Flora), là một công chúa nhà Lê trung hưng, con gái của Hoàng đế Lê Anh Tông và là chị gái của Hoàng đế Lê Thế Tông của Đại Việt. Tương truyền là bề trên của Tu viện Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm đầu tiên tại Việt Nam, đã nhờ ảnh hưởng của bản thân khiến nhiều người nhập đạo trong giai đoạn đầu khi Công giáo truyền vào Việt Nam.
Tên gọi
Trước khi có tên thánh là Mai Hoa, công chúa còn có tên gọi là công chúa Chiêm ("công chúa Chiêm Thành") do bà là con gái một bà phi người Chiêm Thành được vua tuyển vào cung, hay công chúa Chè, vì bà giúp mở mang nghề trồng và khai thác chè tại địa phương.Vì sau này được đặt tên thánh là Maria, nên gọi là Mai Hoa (Maria Flora).
Cuộc đời
Bà là con của Hoàng đế Lê Anh Tông (1556-1573) và là chị gái của Hoàng đế Lê Thế Tông (1573-1599)'.
Khi vua cha chạy trốn vào Nghệ An và bị Trịnh Tùng đuổi theo bắt và giết chết, lúc 42 tuổi (1573), vua Lê Thế Tông là con lên ngôi. Vì vua em này lên ngôi lúc 7 tuổi, nên bà với thân phận chị gái, được cử làm nhiếp chính. Là người có nhiều thế lực nhưng công chúa cũng nổi tiếng đức độ, thùy mị và có lòng bác ái. Dù dưới sự kèm cặp của chúa Trịnh, công chúa hầu như không hề có quyền giải quyết việc nước, nhưng Mai Hoa vẫn được nhân dân ca ngợi.
Bà làm nhiếp chính cho đến khi vua Lê Thế Tông trưởng thành, chính thức tiếp nhận ngôi vị của triều Lê. Vì phải cáng đáng việc quốc gia đại sự, vì trách nhiệm với nhà Lê, nên đến ngoài 30 tuổi, công chúa vẫn chưa nghĩ đến hạnh phúc riêng của mình.
Bà là người rất yêu tôn giáo. Thời gian nhiếp chính, một trong những mong muốn của bà là chấn hưng tôn giáo.
Bị ảnh hưởng bởi cha mình là Hoàng đế Lê Anh Tông – một người rất có cảm tình với Công giáo, bà đã nhiều lần sai người mang thư sang tận Ấn Độ, Ma Cao mời các giáo sĩ vào truyền đạo tại nước này. Những giáo sĩ được công chúa mời sang Việt Nam là Alfonsa de Costa và Joao Gonsalvez de Sa, đều được công chúa đón tiếp nồng hậu, thậm chí cấp nhà riêng cho ở.
Chuyện tình của công chúa
Trong cuốn Cuộc chu du thiên hạ (Historia y vioje del mundo), giáo sĩ Pedro Ordonez de Cevallos kể chuyện được vua Lê tiếp đãi trọng thị tại triều đình.
Hoàn cảnh
Năm 1590, con tàu của giáo sĩ Pedro khi đi qua khu vực biển Đông thuộc Thái Bình Dương thì gặp một trận bão và dạt vào vùng biển phía Bắc. Giáo sĩ Pedro và những người đi trên tàu được đưa về kinh đô An Trường – Thanh Hóa để diện kiến Hoàng đế Lê Thế Tông.
Giáo sĩ Pedro sinh tại Jean, miền Andalouise, Tây Ban Nha. Khi còn bé đã có óc mạo hiểm. Lớn lên, ông đi làm linh mục và từng đi qua nhiều nước phương Tây, qua đất Thánh và những vùng Phi châu như Guinea, Congo rồi vòng sang Tân Thế giới.
Cuộc đời của cha Pedro đầy chất phiêu lưu mạo hiểm. Trong một lần đưa xác Đức Giám mục vùng Chili về Tây Ban Nha, qua Cuba, tàu bị đắm nhưng may mắn sống sót, cha Pedro lại qua Mexico để lấy tàu trở lại Nouvelle Grenade, nhưng giữa đường lại chẳng may gặp trận bão lớn, tàu lại dạt vào vùng Acenia. Năm 1590, cha Pedro đi qua Trung Hoa, Áo môn, vòng sang Nhật Bản rồi từ Nhật Bản đi Quảng Đông. Nhưng trên đường đi gặp bão, thuyền lại trôi dạt vào vùng cửa Bạng ngày nay.
Quân lính triều đình trấn giữ ở đó thấy thế liền bắt cả đoàn người trên thuyền, đưa tới quan sở tại trình diện. Gặp quan, tất cả những người trên tàu đều quỳ lạy, chỉ trừ cha Pedro. Ông chỉ ngả mũ cúi chào một cách lịch lãm.
Cha Pedro dáng người cao dáo, thanh thoát, gương mặt tuấn tú, cương nghị, dáng đi có vẻ của một quý tộc châu Âu. Với vẻ ngoài đó, cộng thêm với việc nhất quyết không chịu chào mệnh quan triều Lê của ông đã khiến các quan nghĩ cha Pedro có thể là hoàng tử của một nước châu Âu nào đó.
Gặp gỡ
Ngày cha Pedro yết kiến vua Lê Thế Tông đúng vào dịp 24/12/1590. Gặp Hoàng đế Đại Việt, cha Pedro cũng chỉ bái gối trái để kính chào. Vua Lê Thế Tông thấy thế không hề giận mà còn tiếp đón cha Pedro rất thân tình. Vua Lê có nói với cha Pedro: "Ngài hãy đi gặp công chúa Ngọc Hoa, chị gái ta. Công chúa rất thích nghe những sự tích tôn giáo. Công chúa ngọc Hoa là người ta yêu kính như mẹ. Vì vậy ngài đừng làm điều gì phật lòng công chúa, sẽ khiến ta nổi giận".
Công chúa tiếp cha Pedro vào ngày 28/12/1590 với nghi lễ trang trọng. Công chúa thấy giáo sĩ đẹp trai, ngỏ ý muốn kết tóc xe duyên nhưng Pedro trả lời rằng ông là linh mục Công giáo nên phải giữ luật độc thân.
Buổi gặp đầu tiên, cha Pedro đã kể cho công chúa nghe rất nhiều về sự ra đời của chúa Giesu, về Đức mẹ Maria. Trong khi cha Pedro tặng công chúa rất nhiều vật quý, thì công chúa hỏi thăm rất cặn kẽ về tuổi thơ, về cuộc đời và những chuyến vượt đại dương mạo hiểm của cha. Chỉ trong một buổi, công chúa đã coi cha Pedro là một người bạn thân tình. Khi chia tay, công chúa nói: "Mỗi ngày, cha hãy vào cung thăm ta một lần và trò chuyện với cha".
Tuy biết luật lệ tôn giáo là thế, nhưng sau một thời gian gặp gỡ, tình cảm của công chúa dành cho cha Pedro ngày càng lớn, khiến bà đã gạt bỏ mọi quy định thông thường của luật lệ phong kiến và luật lệ tôn giáo, ngỏ lời cầu hôn với cha Pedro:
"Thầy hãy ở lại đây kết bạn với tôi và truyền đạo ở xứ sở này, đừng về cố hương nữa. Thực tình tôi ngỏ ý cùng thầy, là vì tôi rất quý mến thầy ngay khi được gặp thầy, vì thầy tỏ ra lịch thiệp, thông minh, trang nhã. Tôi thực lòng muốn kết hôn cùng thầy. Tôi nhất định chọn thầy làm chồng tôi".
Không chỉ ngỏ lời với cha Pedro, công chúa còn ngỏ ý với vua Lê Thế Tông và nhờ vua tác thành. Rất yêu quý người chị gái của mình, vua Lê đã gọi cha Pedro vào và nói: "Ta rất muốn chúng ta sẽ trở thành một gia đình".
Việc công chúa ngỏ lời cầu hôn với cha Pedro khiến ông vô cùng khó xử. Nhưng cha Pedro vẫn quyết từ chối thịnh tình ấy. Cả ba lần được công chúa ngỏ lời, ông đều nói: "Tôi đã khấn luật linh mục sống cuộc đời độc thân. Xin công chúa hiểu cho điều đó". Có một số người đồng hành khuyên cha Pedro hãy chấp nhận lời cầu hôn của công chúa, để lợi dụng mối quan hệ này tạo điều kiện cho các giáo sĩ sau này vào truyền đạo. Nhưng cha Pedro không đồng ý. Ông không cho phép mình phá vỡ lời khấn nguyện của ông trước Chúa.
Tuy vẫn ngày ngày vào trò chuyện với công chúa, nhưng cha Pedro cũng làm cho công chúa hiểu được những quy tắc của một linh mục. Ông kể về Chúa cho công chúa nghe mỗi ngày và lấy ảnh tượng Chúa ra tặng công chúa. Dần dần, công chúa hiểu và không còn bắt ép cha Pedro cưới mình nữa.
Một ngày, bà gọi cha Pedro đến, nước mắt lưng tròng: "Tôi đã thưa ý định của tôi với thầy và tôi vẫn yêu thầy. Nhưng nếu thầy thấy luật Chúa đã dạy giáo sĩ không được lấy vợ thì thôi, ta không nên cưỡng luật Chúa. Thầy không thể kết bạn đời với tôi, nhưng tôi xin được kết bạn đạo với thầy và xin nhập đạo để cùng thờ phụng Chúa như thầy. Từ nay chúng ta không nói chuyện đời nữa, chỉ nói chuyện đạo mà thôi".
Chia ly
Quyết định theo đạo của công chúa đã đến tai chúa Trịnh. Chúa Trịnh rất giận dữ vì cho rằng đó là âm mưu của nhà Hậu Lê muốn lợi dụng các thế lực bên ngoài để lấy lại quyền lực. Bằng thủ đoạn của mình, chúa Trịnh đã tịch biên tài sản và yêu cầu trục xuất cha Pedro.
Biết mình sắp phải rời khỏi Việt Nam, cha Pedro đã nhanh chóng truyền đạo cho công chúa và những cung nữ trong cung. Cha đã rửa tội cho công chúa và đặt tên thánh cho công chúa là Maria. Từ đó người ta gọi công chúa là công chúa Mai Hoa. Lễ rửa tội cho công chúa diễn ra ngày 22 tháng 5 năm 1591Giáo phận Thanh Hóa.
Sau khi nhập đạo, công chúa Mai Hoa xin vua Lê một khu đất để xây tu viện. Ngày 26/7/1591, lễ khánh thành tu viện diễn ra và được đặt tên là Dòng Đức Bà vô nhiễm nguyên tội.
Cha Pedro chính là người cử thánh lễ đầu tiên ở đây, trước khi ông bị đưa ra cửa Bạng và trục xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam nửa tháng sau đó. Công chúa Mai Hoa sống trong tu viện đến cuối đời, vừa thờ phụng Chúa, vừa ấp ủ mối tình riêng không thành với vị giáo sĩ người Tây Ban Nha mà bà đã đem lòng thương nhớ.
Công quả
Công chúa Mai Hoa đã thiết lập tại kinh đô An Trường, Vạn Lai Sách (nay là xã Phúc Lập, bên bờ tả ngạn sông Chu, phía dưới đập Bái Thượng, Thanh Hóa) một nữ tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày 26 tháng 7 năm 1591, có 51 chị dòng, và làm bề trên tại đó cho đến chết. Ở khu đất cố đô An Trường này vẫn còn có những địa danh như Giếng Gia Tô, Xóm Gia Tô và một chỗ gọi là Nền Thờ, có lẽ để nhớ ơn công chúa. Tại đây cũng có ba miếu thờ bà mà các tín đồ thường chỉ cúng hoa chứ không cúng xôi thịt.
Nhờ ảnh hưởng tốt lành của công chúa Mai Hoa, khoảng 100 người trong hoàng tộc và phi tần cung nữ đã theo đạo. Cũng nhờ công chúa Mai Hoa, bà thân mẫu chúa Nguyễn, em trai, em gái của chúa Nguyễn, và cả bà Thái Hậu (mẹ của công chúa Mai Hoa) đều đã được linh mục Da Costa rửa tội.
Mai Hoa Công chúa được thờ ở Phủ Mai Hoa, thôn Bồ Vi, xã Khánh Thịnh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.
Nhân vật nghệ thuật
Cuộc đời Mai Hoa công chúa đã được đời sau xây dựng trong một số vở cải lương và kịch mang tên Công chúa Mai Hoa''.
Chú thích
Tín hữu Công giáo Việt Nam
Công chúa nhà Lê trung hưng |
Mai Hoa có thể là:
Con người
Công chúa Mai Hoa đời nhà Hậu Lê
Diễn viên Phạm Thị Mai Hoa nổi tiếng với phim Đời cát
Ca sĩ, NSƯT Trần Mai Phương (nghệ danh Mai Hoa) vợ nhạc sĩ Trọng Đài
Sự vật khác
Mai Hoa Dịch số, một hình thức bói toán được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch
Một tính từ để chỉ màu lốm đốm trắng.
Mai hoa quyền, tên một bài quyền nằm trong hệ thống những bài quyền được quy định là quốc võ của liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt nam.
Sinh vật
Chim mai hoa (Amandava amandava) |
Oan hồn (tựa tiếng Anh: Spirits) là tên của một cuốn phim thuộc thể loại tâm lý, kinh dị do Victor Vũ đạo diễn, được phát hành vào năm 2004. Báo chí Mỹ nói về tính Đông phương của phim này, còn Victor Vũ thú nhận chịu ảnh hưởng truyện ma kiểu truyện Liêu trai chí dị nghe kể trong gia đình.
Tóm tắt truyện phim
Lộc (Tuấn Cường đóng) là một nhà văn đi tìm chỗ thanh tịnh hoang vắng để sáng tác. Lộc tìm tới một căn nhà ba gian ở nhà quê, chỉ có người con gái chủ nhà tên Hoa (Kathy Uyên đóng). Lộc hỏi thuê phòng, rồi dọn vào nhà trọ mới. Được Hoa phục vụ tận tâm, Lộc đâm ra thích thú, và thấy Hoa đúng kiểu phụ nữ lý tưởng dưới hai mắt phong kiến của mình, Lộc bắt đầu quyến rũ Hoa. Cuộc tình mới chớm nở, thì một hôm Lộc bắt gặp Hoa nằm bất tỉnh giữa sàn, mình đầy vết roi, Lộc đã chăm sóc ân cần và hôm đó Lộc đã qua đêm với Hoa. Hôm sau, bắt gặp ông Huy (Đặng Hùng Sơn đóng) - bố của Hoa lảng vảng gần nhà, Lộc tố cáo ông hành hung con gái, thì ông này kể cho Lộc về Hoa, rằng do dính vào cờ bạc mà ông đã phải gả con gái cho chủ nợ để gán nợ. Một tháng gần đây mất tích nên ông ta đi tìm con gái. Lộc tìm hiểu và phát hiện Hoa đã bị chồng đánh chết và giấu xác còn hắn ta thì bỏ chốn.
Biết mình đã làm tình với ma, Lộc hốt hoảng ngã bệnh. Cô gái trẻ đẹp tên Linh (Kathleen Lương đóng) đến săn sóc cho Lộc và mời nhiều pháp sư đến trừ khử nhưng không được. Linh yêu Lộc, nhưng vẫn có những tâm sự thầm kín không tiết lộ được. Những oan hồn rồi ra chỉ được giải thoát khi chính Lộc tìm ra lý do tại sao oan hồn cứ lẩn vẩn quanh ngôi nhà ấy.
Diễn viên
Tuấn Cường vai Lộc
Kathleen Lương vai Linh
Kathy Uyên vai Hoa
Catherine Thúy Ái vai Bà Lan
Đặng Hùng Sơn vai Ông Huy
Becky B. Vũ vai Bà Kim
Michael Minh vai Bảo
Tại các đại hội điện ảnh
Phim được chọn tham gia tại nhiều đại hội điện ảnh (liên hoan phim) quốc tế trong đó có: Đại hội Điện ảnh Quốc tế Bangkok, Đại hội Điện ảnh Quốc tế Hawaii, Đại hội Điện ảnh Quốc tế Singapore, Đại hội Điện ảnh Quốc tế Fantasia tại Montréal, Canada.
Chuyện bên lề
Truyện phim diễn ra tại làng quê Việt Nam, nhưng được quay ở sân sau một căn nhà ở Santa Ana, California. Một căn nhà ba gian kiểu miền Bắc Việt Nam được dựng trong vườn sau nhà này.
Nhạc sĩ Christopher Wong cho tới nay đã viết nhạc phim cho cả ba cuốn phim của Victor Vũ và nhiều phim của nhiều đạo diễn người Mỹ gốc Việt khác.
Tài tử Đặng Hùng Sơn xuất hiện trong cả ba cuốn phim của Victor Vũ: Buổi sáng đầu năm, Oan hồn và Thế giới huyền bí, Tập 1: Tình yêu bất diệt (Mysterious World, Episode 1: Love Never Dies).
Đồng tác giả kịch bản Nguyễn Hoàng Nam là em ruột thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên.
Ý kiến / Phê bình
"Oan hồn" là một cuốn phim kinh dị nhẹ nhàng, không khiến ngưới xem run sợ bởi những cảnh ghê rợn thường có trong phim ma của Mỹ, cũng không bị giật thót hoảng loạn vì tiếng động bất thình lình của máy móc trong nhà, hay phải bò xuống gầm giường xem có ma trốn ở đó không. Ngược lại, phim "Oan hồn" giữ nhiều nét dân dã Việt Nam. Nó diễn đạt được một số nét văn hóa, phong tục cổ xưa của người Việt. Đạo diễn Victor Vũ lột tả "Oan hồn" qua ba chuyện ma khác nhau, trong cùng một bối cảnh (3 chuyện ma độc lập, nhưng vẫn có sự gắn kết với tổng thể vì nó thể hiện những khoảng thời gian và không gian sống khác nhau của nhân vật chính - nhà văn Lộc) để đưa đến một đoạn kết sâu xa: biểu tượng của nhân quả từ đời đời kiếp kiếp mà con người chúng ta sớm muộn sẽ phải trả. Theo Victor Vũ: "Chuyện ma Việt Nam không chỉ làm người ta sợ, mà còn gây xúc cảm và tạo một lối nhìn về triết học và tâm linh cho cuộc sống… Tôi muốn thực hiện một phim ma với những chuyện ma hoàn toàn Việt Nam, một cuốn phim hồi hộp và hấp dẫn như những chuyện ma được truyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ khác của người Việt chúng ta!" - Vân Trinh, Người Viễn Xứ 21/04/2005
Chú thích
Lê Thùy Lan, Đi xem phim "Oan hồn" , Vietnamese American Television, 21 tháng 11 năm 2004
Nữ diễn viên Kathleen Lương với "Oan hồn" Người Viễn Xứ 21/04/2005 |
Hình bình hành trong hình học Euclid là một hình tứ giác được tạo thành khi hai cặp đường thẳng song song cắt nhau. Nó là một dạng đặc biệt của hình thang gồm 4 góc và có những tính chất giống hình thang và hình chữ nhật
Trong không gian 3 chiều, khối tương đương với hình bình hành là hình khối lục diện.
Tính chất
Trong một hình bình hành có:
Các cạnh đối song song và bằng nhau.
Các góc đối bằng nhau.
Hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường.
Diện tích hình bình hành
-Diện tích hình bình hành bằng độ dài cạnh đáy nhân với độ dài chiều cao.
Gọi B là độ dài cạnh đáy, H là độ dài chiều cao và S là diện tích.
Ngoài ra, diện tích hình bình hành cũng được tính bằng tích độ dài 2 cạnh kề nhân với sin góc hợp bởi 2 cạnh
Gọi A và B lần lượt là độ dài 2 cạnh và là góc hợp bởi 2 cạnh
Chu vi hình bình hành
-Chu vi của một hình bình hành bằng 2 lần tổng một cặp cạnh kề nhau bất kỳ:
Dấu hiệu nhận biết hình bình hành
Hình bình hành là một tứ giác đặc biệt
Tứ giác có hai cặp cạnh đối song song là hình bình hành.
Tứ giác có hai cặp cạnh đối bằng nhau là hình bình hành
Tứ giác có một cặp cạnh đối diện vừa song song và vừa bằng nhau là hình bình hành.
Tứ giác có hai cặp góc đối bằng nhau là hình bình hành.
Tứ giác có hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường là hình bình hành.
Hình bình hành là hình thang
Hình thang có hai cạnh đáy bằng nhau là hình bình hành.
Hình thang có hai cạnh bên song song là hình bình hành
Tâm đối xứng
-Giao điểm hai đường chéo của hình bình hành là tâm đối xứng của hình bình hành đó. |
Hình thoi trong hình học Euclide là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau. Đây là hình bình hành có hai cạnh kề bằng nhau hay hình bình hành có hai đường chéo vuông góc với nhau.
Định nghĩa
Hình thoi là tứ giác có bốn cạnh bằng nhau.
Tính chất
Trong hình thoi:
Các góc đối nhau bằng nhau.
Hai đường chéo vuông góc với nhau và cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường.
Hai đường chéo là các đường phân giác của các góc của hình thoi.
Hình thoi có tất cả tính chất của hình bình hành.
Diện tích
Diện tích của hình thoi bằng một nửa tích độ dài của hai đường chéo:
Chu vi
Chu vi của hình thoi bằng độ dài một cạnh nhân với 4:
Dấu hiệu nhận biết
Hình tứ giác đặc biệt
Tứ giác có bốn cạnh bằng nhau là hình thoi.
Tứ giác có 2 đường chéo là đường trung trực của nhau là hình thoi.
Tứ giác có 2 đường chéo là đường phân giác của cả bốn góc là hình thoi.
Hình bình hành đặc biệt
Hình thoi là một dạng đặc biệt của một hình bình hành vì nó có đầy đủ tính chất của hình bình hành và còn có một số tính chất khác:
Hình bình hành có hai cạnh kề bằng nhau là hình thoi.
Hình bình hành có hai đường chéo vuông góc với nhau là hình thoi.
Hình bình hành có một đường chéo là đường phân giác của một góc là hình thoi. |
Trong hình học Euclid, hình thang cân là hình thang có hai góc kề một cạnh đáy bằng nhau. Hình thang cân là 1 trường hợp đặc biệt của hình thang.
Tổng quát, ta có:
là hình thang cân (đáy )
Tính chất
Hình thang cân có các tính chất sau:
Hai cạnh đáy song song với nhau.
Hai cạnh bên bằng nhau.
Hai góc kề cạnh một đáy bằng nhau.
Hai đường chéo bằng nhau.
Hình thang cân nội tiếp đường tròn.
Dấu hiệu nhận biết
Hình thang có hai góc kề một cạnh đáy bằng nhau là hình thang cân.
Hình thang có hai đường chéo bằng nhau là hình thang cân.
Hình thang nội tiếp đường tròn là hình thang cân.
Trục đối xứng của hình thang cân
Đường thẳng đi qua trung điểm 2 đáy của hình thang cân là trục đối xứng của hình thang cân đó |
Hình thang trong hình học Euclid là một tứ giác lồi có hai cạnh đối song song. Hai cạnh song song này được gọi là các cạnh đáy của hình thang. Hai cạnh còn lại gọi là hai cạnh bên.
Tổng quát, ta có:
là hình thang hoặc
Định nghĩa
Hình thang là tứ giác có hai cạnh đối song song.
Tính chất của hình thang
Tính chất về góc
Hai góc kề một cạnh bên của hình thang có tổng bằng 180° (hai góc nằm ở vị trí trong cùng phía của hai đoạn thẳng song song là 2 cạnh đáy).
Trong hình thang cân, hai góc kề một đáy bằng nhau.
Tính chất về cạnh
Nếu một hình thang có hai cạnh đáy bằng nhau thì hai cạnh bên song song và bằng nhau
Ngược lại, nếu một hình thang có hai cạnh bên song song thì chúng bằng nhau và hai cạnh đáy cũng bằng nhau
Trong hình thang cân, hai đường chéo bằng nhau.
Đường trung bình
Định nghĩa
Đường thẳng nối trung điểm hai cạnh bên của hình thang gọi là đường trung bình của hình thang.
Tính chất
Đường trung bình của hình thang thì có độ dài bằng nửa tổng độ dài hai cạnh đáy.
Các dạng đặc biệt của hình thang
Hình thang vuông là hình thang có một góc vuông.
Hình thang cân là hình thang có hai góc kề một đáy bằng nhau.
Hình bình hành là hình thang có 2 cạnh đáy bằng nhau và 2 cạnh bên song song và bằng nhau.
Hình chữ nhật là hình thang vừa vuông vừa cân.
Diện tích hình thang
Diện tích của hình thang bằng đường trung bình nhân với chiều cao:
Chu vi hình thang
Chu vi hình thang bằng tổng độ dài của hai đáy và hai cạnh bên (tất cả các cạnh của nó): |
VRSAP, viết tắt của Vietnamese River System and Plain, là một mô hình toán thủy lực một chiều, do phó giáo sư Nguyễn Như Khuê xây dựng vào cuối thập niên 1970. Mô hình VRSAP có thể được áp dụng cho hệ thống sông tự nhiên/kênh dẫn kết hợp với các ô ruộng hai bên bờ. Các số liệu đầu vào bao gồm:
sơ đồ hệ thống sông và ruộng
hình dạng mặt cắt và đặc trưng thủy lực của lòng sông
một số đặc trưng hình học của ruộng
các biên lưu lượng, biên mực nước, biên độ mặn
lượng mưa rơi trên mặt ruộng
Kết quả tính toán bao gồm:
quá trình mực nước và lưu lượng tại các vị trí khác nhau trên sông
diễn biến của mực nước trên các khu ruộng
lượng nước trao đổi giữa sông và ruộng
quá trình biến đổi độ mặn tại các vị trí khác nhau trên sông
Phần mềm
Phần mềm tính toán thủy lực đầu tiên trên cơ sở mô hình VRSAP được GS. Nguyễn Như Khuê viết bằng Fortran 77. Các file đầu vào và kết quả tính toán đều có dạng văn bản (text).
Trước đây phần mềm còn có tên là KRSAL.
Ứng dụng
Mô hình VRSAP trên thực tế đã được sử dụng tính toán xâm nhập mặn cho đồng bằng sông Cửu Long, thoát lũ cho hệ thống sông Hồng và một số hệ thống sông khác ở Việt Nam. |
VFP có thể là:
Visual FoxPro
VinFuture Prize |
Liên thông có thể là:
Một hình thức đào tạo đại học. Chi tiết xem Học liên thông lên đại học ở Việt Nam.
Trong toán học
Tính chất của một không gian tô pô. Chi tiết xem Tập hợp liên thông. Xem thêm Không gian đơn liên.
Tính chất của một đồ thị. Chi tiết xem Đồ thị liên thông. Xem thêm K-liên thông, Thành phần liên thông, Thành phần liên thông mạnh, Thuật toán tìm thành phần liên thông mạnh của Tarjan.
Một cách định nghĩa dịch chuyển song song trên một phân thớ tiếp tuyến. Chi tiết xem Liên kết (phân thớ véc tơ). |
Lê Hoàng (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1956 tại Hà Nội) là một đạo diễn điện ảnh của Việt Nam. Anh được biết đến từ thập niên 1990 trong vai trò đạo diễn của những bộ phim mang tính nghiêm túc như Lưỡi dao hay Ai xuôi vạn lý, nhưng chỉ trở nên thật sự nổi tiếng với bộ phim Gái nhảy, một bộ phim giải trí thuần túy. Anh cũng tham gia viết bài cho một số báo như Tuổi trẻ Cười, Thể thao & Văn hóa.... Các bài viết của anh thường ký bút danh Lê Thị Liên Hoan và viết theo phong cách phỏng vấn giả tưởng hoặc châm biếm.
Tiểu sử
Anh từng học tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội rồi chuyển sang trường Đại học Sân khấu Điện ảnh, ngành Quay phim Điện ảnh và tốt nghiệp năm 1982. Sau đó, anh chuyển từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và làm việc tại Hãng phim Giải Phóng.
Sự nghiệp
Trong thập niên 1980, anh viết một số vở kịch như Tôi chờ ông đạo diễn (1985), Ngụ ngôn năm 2000 (1986), Câu chuyện cổ tích (1986), Đi tìm những gì đã mất (1987). Đầu thập niên 1990, bộ phim Vị đắng tình yêu, do anh viết kịch bản, đoạt khá nhiều giải thưởng trong Liên hoan phim Việt Nam và được xem là một trong những bộ phim ăn khách của điện ảnh Việt Nam. Sau thành công này, anh viết tiếp kịch bản Vị đắng tình yêu 2 và tự làm đạo diễn. Anh tiếp tục làm đạo diễn một số phim khác như Lương tâm bé bỏng, Lưỡi dao, Ai xuôi vạn lý, Chiếc chìa khóa vàng..., đoạt nhiều giải thưởng trong và ngoài nước. Năm 2001, Lê Hoàng được Hãng phim Giải Phóng giao kịch bản phim Gái nhảy. Bộ phim này sau đó có doanh thu khoảng 12 tỷ đồng, một kỷ lục về doanh thu của điện ảnh Việt Nam tính từ khi đổi mới. Năm 2016, Lê Hoàng tham gia chương trình "Học viện danh hài" với tư cách là ban giám khảo.
Đời tư
Lê Hoàng kết hôn với Lê Thị Liên Hoan (sinh năm 1958) năm 1982 và có hai người con.
Phim đã đạo diễn
Vị đắng tình yêu 2 (1991)
Lương tâm bé bỏng (1993)
Trái tim chó sói (1993)
Lưỡi dao (1995)
Ai xuôi vạn lý (1996)
Chiếc chìa khóa vàng (2001)
Gái nhảy (2003)
Lọ Lem hè phố (2004)
Nữ tướng cướp (2004)
Trai nhảy (2007)
Thủ tướng (2008) (phim không ra rạp)
Những thiên thần áo trắng (2009)
Tối nay, 8 giờ! (2011)
Cát nóng (2012)
S.O.S Sói trắng (2017) |
Kiêu hãnh và định kiến (tiếng Anh: Pride and Prejudice) là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Anh Jane Austen. Tiểu thuyết được viết từ năm 1796 đến năm 1797 và xuất bản năm 1813.
Câu chuyện nói về tình yêu và hôn nhân của tầng lớp quý tộc nhỏ tại Anh vào đầu thế kỷ 19. Nhân vật chính là Elizabeth Bennet, một cô gái 20 tuổi xuất thân trong một gia đình trung lưu. Nội dung chính kể về sự đối đầu và sau này trở thành cuộc tình giữa Elizabeth và Fitzwilliam Darcy, thuộc tầng lớp địa chủ. Tựa truyện nói về sự kiêu hãnh và các định kiến của nhân vật này đối với nhân vật kia.
Cốt truyện
Cuốn sách bắt đầu bằng một trong những câu bất hủ nhất trong văn học Anh: It is a truth universally acknowledged, that a single man in possession of a good fortune, must be in want of a wife. (Có một sự thật mà ai cũng công nhận, đấy là: một người đàn ông có một tài sản khá hẳn sẽ muốn lấy vợ.). Tuy nhiên, đến cuối truyện lại là một sự thật hoàn toàn ngược lại. Không phải là các quý ông tìm kiếm một người vợ, mà là các cô gái, để đảm bảo cho mình một tương lai ổn định, phải chủ động kiếm một người chồng.
Ông bà Bennet có năm người con gái (Jane, Elizabeth, Mary, Kitty, Lydia) đã đến tuổi cập kê và bà Bennet đang ráo riết tìm chồng cho con. Cả làng đang xôn xao về anh Bingley, một địa chủ giàu có mới dọn đến vùng này. Bingley đem theo người bạn là Fitzwilliam Darcy. Người ta kháo nhau rằng Darcy rất giàu. Tuy nhiên, sau khi gặp Darcy ở buổi dạ vũ do Bingley tổ chức, nhiều người đã thấy rằng anh quá kiêu hãnh. Khi Bingley gợi ý Darcy khiêu vũ với Elizabeth, Darcy cho rằng cô không đủ tài sắc để quyến rũ anh. Elizabeth nghe lỏm được và có ác cảm với Darcy.
Elizabeth lại quen biết một sĩ quan tên Wickham đang đóng quân gần nhà. Wickham kể rằng anh đã bị Darcy cướp đi tài sản thừa kế, làm Elizabeth càng không ưa Darcy.
Vài ngày sau dạ hội, gia đình ông Bennet có khách là người bà con tên Collins, vốn đang muốn làm rể nhà Bennet. Đầu tiên Collins chọn cô chị cả, Jane, nhưng bà Bennet nói rằng Jane sắp được gả cho Bingley. Collins lại chọn Elizabeth, nhưng cô không ưa anh. Sau khi bị Elizabeth nhất mực từ chối, Collins cầu hôn Charlotte Lucas, bạn thân của Elizabeth. Charlotte bằng lòng ngay vì cô đã lớn tuổi (27 tuổi), chỉ muốn an phận. Bà Bennet rất bực vì Collins sau này sẽ thừa kế tài sản nhà Bennet và Charlotte sẽ thay thế bà, trong khi Elizabeth lại thất vọng vì nghĩ rằng cô bạn thân lấy chồng vì tiền.
Ít lâu sau, Bingley bất ngờ rời làng về Luân Đôn, làm Jane bị thất tình.
Charlotte mời Elizabeth đến thăm vợ chồng cô. Trong khi ở với họ, Elizabeth gặp Darcy (Darcy là cháu của Phu nhân Catherine, người bảo trợ anh Collins). Darcy bất ngờ tỏ tình và cầu hôn Elizabeth, nhưng lại hạ thấp gia cảnh cô. Cô còn khám phá ra rằng chính Darcy đã khuyên can Bingley đừng hỏi cưới Jane. Elizabeth bảo Darcy rằng cô sẽ không bao giờ chịu lấy anh. Sáng hôm sau, Darcy đưa cho Elizabeth một lá thư và bỏ đi. Trong thư Darcy biện hộ hành động của mình. Darcy nói rằng Jane chẳng những có địa vị thấp mà còn tỏ ra thờ ơ với Bingley. Darcy còn tiết lộ rằng Wickham là một gã Sở Khanh. Việc này đã khiến Elizabeth xét lại suy nghĩ về Darcy và dần dần các định kiến của cô đã được tháo gỡ.
Một thời gian sau, trong một lần du ngoạn, ông bà Gardiner (cậu mợ của Elizabeth) thuyết phục cô đến tham quan Pemberley, khu đất của Darcy. Cô đồng ý khi biết chủ nhà đã đi vắng. Nào ngờ Darcy đột ngột về thăm nhà và chạm mặt Elizabeth. Darcy tỏ ra thân thiện hơn, và làm cho Elizabeth thấy rằng dưới vẻ kiêu hãnh anh là một người hào phóng.
Cũng trong thời gian này, Elizabeth được tin cô em út Lydia đã trốn nhà theo Wickham. Wickham bị nợ nần vì đánh bạc và đã giải ngũ. Nghe tin, Darcy tìm Wickham và cho tiền để hắn cưới Lydia, nhưng lại giấu Elizabeth chuyện này. Elizabeth tình cờ biết được, cô rất xúc động và hoàn toàn thay đổi thái độ đối với Darcy.
Biết được tình cảm của Darcy đối với Elizabeth, Phu nhân Catherine rất tức giận vì bà đã định gả con gái cho Darcy. Bà đến nhà Bennet đòi Elizabeth phải bỏ Darcy, nhưng cô bảo bà không có quyền can thiệp vào chuyện riêng của cô. Nghe được chuyện này, Darcy hiểu tình cảm của Elizabeth đối với anh đã thay đổi. Darcy khuyến khích Bingley cầu hôn Jane và Darcy cầu hôn Elizabeth lần thứ hai. Lúc này thì sự kiêu hãnh và định kiến đã không còn, và Elizabeth nhận lời làm vợ Darcy.
{| class="toccolours collapsible collapsed" align=right width=330 style="margin: 1em;"
|-
! Bảng phả hệ
|-
Nhân vật chính
Elizabeth (Lizzy) Bennet: Là một cô gái 20 tuổi xuất thân trung lưu, Elizabeth xinh đẹp, thông minh, có khiếu hài hước châm biếm.
Fitzwilliam Darcy: Darcy xuất thân dòng dõi, anh sở hữu điền sản nguy nga ở Derbyshire, là một chàng trai điển trai, vóc người cao ráo đẹp đẽ, dáng điệu cao quý. Anh bị mọi người coi là kẻ kiêu kỳ, khó ưa nhất trên đời, nhưng thật ra anh là một chàng trai rất tốt, anh rất trân trọng bạn bè, thậm chí đối xử với bạn thân còn tốt hơn mình; anh luôn đặt gia đình lên trên hết và luôn bảo bọc cô em gái duy nhất. Sau này, vì yêu Elizabeth, anh đã âm thầm giúp đỡ gia đình cô tìm lại em gái bỏ trốn, và anh đã giúp hai người họ kết hôn với nhau, mà không hề nói cho bất kỳ ai biết.
Ông Bennet: Là một người đàn ông có sự pha trộn kỳ quặc của tinh tường, châm chọc, kiệm lời và khó đoán định. Trong số năm cô con gái, ông thương con gái thứ hai - Elizabeth nhất vì cô có tính cách giống ông, sau này khi Elizabeth đã lấy anh Darcy, tình cảm ông dành cho cô thường kéo ông ra khỏi nhà và đến nhà thăm cô vào những lúc ít ai có thể ngờ.
Bà Bennet: Bà là một người phụ nữ kém hiểu biết, ít học và đồng bóng. Hễ gặp chuyện không như ý, bà liền cho rằng thần kinh mình suy nhược. Trách nhiệm của đời bà là gả chồng cho con gái. Thú vui của đời bà là thăm viếng và hóng chuyện.
Jane Bennet: Jane là con gái cả của gia đình Bennet, với ngoại hình xinh đẹp, tính cách bao dung lúc nào cũng yêu quý mọi người xung quanh, có trí thông minh tinh tường. Cô được tất cả mọi người yêu mến.
Mary Bennet: Là cô gái duy nhất không có nhan sắc trong số năm chị em, Mary luôn cần mẫn trau dồi kiến thức và hoàn thiện bản thân, đồng thời luôn sốt sắng tìm cách thể hiện hết những gì mình đã học.
Catherine (Kitty) Bennet: Catherine thân thiết với cô em út Lydia nhất trong số các chị em, và với tính cách dễ bị sai khiến, cô luôn chịu ảnh hưởng xấu bởi Lydia. Nhưng sau này, khi không còn chịu ảnh hưởng từ cô em, thêm nữa là được hai chị cả quan tâm và chăm sóc đúng mực, cô đã bớt cáu kỉnh, đỡ dốt nát và nhạt nhẽo.
Lydia Bennet: Được miêu tả là một cô gái mười lăm tuổi cao to, mũm mĩm, có nước da sáng và khuôn mặt tươi vui. Vì là con gái được bà mẹ cưng chiều nhất, cô hành xử hết sức bản năng và luôn tỏ vẻ ta đây là kẻ quan trọng. Elizabeth đánh giá Lydia là một kẻ cợt nhả ở mức độ thảm hại và tầm thường nhất, không có sức hấp dẫn nào ngoài sự trẻ trung và một vóc dáng tàm tạm, vì sự dốt nát và đầu óc rỗng tuếch, hoàn toàn không thể đương đầu trước sự khinh miệt của mọi người do thói ưa được ngưỡng mộ. Lydia bỏ trốn cùng Wickham khi có một chuyến đi thăm các sĩ quan ở Brighton, ảo tưởng rằng anh ta sẽ lấy mình, trong khi không hề nhận thức được tính cách tệ hại của anh ta, cuối cùng khi nhờ có anh Darcy âm thầm giúp đỡ, Lydia mới có thể trở thành vợ của Wickham. Sau này khi lập gia đình, tính nết của cô và chồng vẫn không thay đổi.
Charles Bingley: Là một chàng trai xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Bắc nước Anh. Anh được miêu tả là ưa nhìn, phong nhã, nét mặt cởi mở. Tính cách dễ mến, thoải mái, hoạt bát, anh luôn đối xử thân thiện với mọi người.
George Wickham: Anh chàng với vẻ ngoài điển trai, phong thái hài hước, lịch sự và ở trong quân đội càng gây ấn tượng mạnh với các cô gái trẻ, thậm chí là với những người lớn tuổi lần đầu tiếp xúc với anh. Thế nhưng về bản chất, Wickham đúng chất là anh chàng "đào mỏ" và chuyên bịa chuyện. Anh vu khống và nói xấu về Darcy, con trai của gia đình có ơn với gia đình anh, anh quyến rũ Elizabeth và cuối cùng chấp nhận lấy em cô - Lydia chỉ vì Darcy đã đứng ra dàn xếp vụ việc sao cho có lợi cho Wickham. Một anh chàng đúng chất không thể "trông mặt mà bắt hình dong".
William Collins: Anh này là một thanh niên hai mươi lăm tuổi cao lớn, phục phịch. Collins không phải là một người biết phải trái, khiếm khuyết trong tư chất ấy cũng được giáo dục hay giao thiệp bù đắp, nhưng chỉ là một phần rất ít ỏi thôi. Khi cầu hôn Elizabeth và bị cô từ chối, anh ta đã quay sang cầu hôn Charlotte Lucas - bạn thân của Elizabeth.
Phu nhân Catherine de Bourgh: Dì của Darcy, là một người đàn bà cao to, nét mặt sắc sảo, có tính cách săm soi người khác. Bà ta đặc biệt kịch liệt phản đối cuộc hôn nhân của Darcy và Elizabeth vì luôn nghĩ rằng Darcy sẽ cưới người con gái của mình chứ không phải cô gái nào khác.
Caroline Bingley: Em gái của Charles Bingley, cô có ngoại hình khá xinh đẹp, hài hước nhưng có tính kiêu ngạo và tự cao. Do xuất thân danh giá, số gia tài được thừa kế, thói quen chi tiêu quá trớn, thích giao du với xã hội thượng lưu mà cô luôn nghĩ rằng bản thân tốt đẹp đủ bề còn thiên hạ thì chẳng có ai đáng trọng. Caroline có sự yêu mên giả tạo đối với Jane Bennet, khinh thường những người dân trong vùng nơi gia đình Bennet sinh sống, và cô căm ghét, đố kỵ với Elizabeth Bennet.
Các mối quan hệ
Chuyển thể
Tiểu thuyết đã được nhiều lần chuyển thể thành phim, truyền hình, và sân khấu.
Điện ảnh
1940: Pride and Prejudice với diễn viên Greer Garson và Laurence Olivier.
2001: Nhật ký tiểu thư Jones (Bridget Jones's Diary) có cùng đề tài với Kiêu hãnh và định kiến, và nhân vật Mark Darcy (diễn viên Colin Firth) được đặt tên theo nhân vật trong tiểu thuyết.
2003: Pride and Prejudice: A Latter-day Comedy.
2004: Pride and Prejudice, thể Bollywood, đạo diễn Gurinder Chadha với diễn viên Anupam Kher, Aishwarya Rai, và Naveen Andrews.
2005: Pride and Prejudice, diễn viên Keira Knightley và Matthew Macfadyen.
2016: Pride and Prejudice and zombie. Diễn viên Lily Jeams
Truyền hình
1952: (2 tháng 2 đến 8 tháng 3) Chiếu trên BBC, 5 tập với diễn viên Ann Baskett và Peter Cushing.
1980: Kiêu hãnh và định kiến, phim truyền hình với diễn viên Elizabeth Garvie và David Rintoul, chuyển thể bởi Fay Weldon.
1995: Kiêu hãnh và định kiến, phim truyền hình với diễn viên Jennifer Ehle và Colin Firth, do Andrew Davies chuyển thể.
Các phim truyền hình khác chiếu trên BBC trong những năm 1938, 1958, và 1967.
Sân khấu
"First Impressions", trên sân khấu Broadway |
Georg Friedrich Bernhard Riemann (phát âm như "ri manh" hay IPA ['ri:man]; 17 tháng 9 năm 1826 – 20 tháng 7 năm 1866) là một nhà toán học người Đức, người đã có nhiều đóng góp quan trọng vào ngành giải tích toán học và hình học vi phân, xây dựng nền tảng cho việc phát triển lý thuyết tương đối sau này.
Ảnh hưởng
Riemann là nhà toán học có ảnh hưởng lớn nhất ở khoảng giữa thế kỉ 19. Những công trình ông xuất bản không nhiều, nhưng mở ra những ngành nghiên cứu mới kết hợp giải tích và hình học, bao gồm lý thuyết của hình học Riemann, hình học đại số và lý thuyết về đa tạp phức. Những lý thuyết về mặt Riemann được mở rộng bởi Felix Klein và đặc biệt là Adolf Hurwitz. Lãnh vực này trong toán là những nền tảng trong tô pô, và trong thế kỉ 21 vẫn được áp dụng trong các cách thức mới vào toán vật lý.
Riemann làm việc trong giải tích thực, nơi mà ông là một nhân vật nổi bật. Ngoài việc định nghĩa tích phân Riemann, bằng phương tiện của các tổng Riemann, ông phát triển lý thuyết các chuỗi lượng giác không phải là chuỗi Fourier, bước đầu tiên trong lý thuyết hàm tổng quát và nghiên cứu vi tích phân Riemann-Liouville.
Ông đã có một số đóng góp nổi tiếng vào ngành số học giải tích hiện đại. Trong một bài báo ngắn (bài báo duy nhất và ông viết về đề tài số học), ông giới thiệu hàm số Riemann zeta và thiết lập sự quan trọng của nó trong việc hiểu được phân bố của số nguyên tố. Ông có một loạt các phỏng đoán về các tính chất của hàm số zeta, một trong đó là giả thuyết Riemann nổi tiếng.
Việc ông ứng dụng nguyên lý Dirichlet từ phép tính biến phân có hiệu quả lớn; điều này sau này được xem là heuristic (một giải pháp tối ưu), hơn là một phương pháp chặt chẽ, và những giải thích đó tốn tối thiểu cả một thế hệ. Các công trình của ông về monodromy và hàm số hypergeometric trong miền phức đã có nhiều ấn tượng lớn, và thiết lập một cách làm việc cơ sở với các hàm số, bằng cách "xét chỉ những điểm đặc biệt của chúng".
Tiểu sử
Thơ ấu
Riemann được sinh ra ở Breselenz vào 17 tháng 9 năm 1826, trong một làng gần Dannenberg trong Vương quốc Hanover mà bây giờ là ở trong nước Đức. Cha ông, Friedrich Bernhard Riemann, là một mục sư Lutheran nghèo ở Breselenz. Friedrich Riemann tham chiến trong Chiến tranh với Napoléon. Mẹ của Georg cũng qua đời trước khi các con của bà lớn lên. Bernhard là con thứ hai trong sáu người con. Anh là một cậu bé nhút nhát và chịu đựng nhiều chấn động về tinh thần. Từ lúc nhỏ tuổi, Riemann đã biểu lộ những tài năng khác thường, như là những khả năng tính toán phi thường, nhưng rất rụt rè và sợ nói trước đám đông.
Thanh niên
Thời trung học, Riemann nghiên cứu Kinh Thánh một cách sâu sắc. Nhưng đầu óc của anh thường trôi về lại toán và anh có lúc đã cố gắng chứng minh một cách toán học sự đúng đắn của cuốn Genesis. Thầy của anh rất ngạc nhiên với tài năng của anh và khả năng giải những bài toán hết sức phức tạp. Anh thường vượt qua kiến thức của thầy giáo. Vào năm 1840 Bernhard đến Hanover để sống với bà ngoại và thăm Lyceum. Sau khi bà anh qua đời vào năm 1842 anh đến Johanneum ở Lüneburg. Vào năm 1846, ở tuổi 19, anh bắt đầu nghiên cứu triết lý và thần học, để trở thành một thầy tu và giúp đỡ tài chính của gia đình.
Vào năm 1847 cha anh, sau khi dành dụm đủ tiền đã gửi Riemann vào trường đại học, cho phép ngưng học thần học và bắt đầu nghiên cứu toán học. Anh được gửi đến Đại học Göttingen nổi tiếng, nơi anh gặp Carl Friedrich Gauss, và tham dự bài giảng của ông về phương pháp bình phương tối thiểu.
Vào năm 1847 anh chuyển đến Berlin, nơi Jacobi, Dirichlet và Steiner đang giảng dạy. Anh ở lại Berlin trong hai năm trước khi quay lại Göttingen vào năm 1849.
Cuộc sống về sau
Riemann tổ chức các bài giảng đầu tiên vào năm 1854, không chỉ thành lập nên ngành hình học Riemann mà còn tạo nên những bước nền tảng cho thuyết tương đối rộng của Einstein sau này. Ông được thăng chức lên giáo sư đặc biệt ở Đại học Göttingen vào năm 1857 và trở thành giáo sư chính thức vào năm 1859 sau khi Dirichlet qua đời. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra lý thuyết các chiều không gian cao hơn, làm đơn giản hóa các định luật của vật lý. Vào năm 1862 ông thành hôn với Elise Koch.
Ông qua đời vì lao phổi trên chuyến du hành thứ ba của ông đến nước Ý ở Selasca (nay là một làng của Ghiffa trên hồ Maggiore).
Hình học Euclide và hình học Riemann
Gauss yêu cầu học sinh của mình là Riemann vào năm 1853 chuẩn bị một Habilitationsschrift (tiểu luận) về cơ sở của hình học. Trải qua nhiều tháng, Riemann phát triển lý thuyết của ông về các chiều không gian cao hơn. Khi cuối cùng ông đưa ra bài giảng vào năm 1854, cộng đồng toán học đón nhận với sự nhiệt tình.
Ngành học được thành lập bởi tác phẩm này là hình học Riemann. Riemann đã tìm ra một cách đúng đắn để mở rộng vào n chiều hình học vi phân của các mặt, mà chính Gauss đã chứng minh "theorema egregium" nổi tiếng. Đối tượng cơ sở là bây giờ được gọi là tenxơ độ cong Riemann. Đối với trường hợp các mặt, đại lượng này có thể rút xuống thành một số (vô hướng), dương, âm hay zero, trường hợp khác zero và hằng số được gọi là hình học phi Euclid.
Các chiều không gian cao hơn
Ý tưởng của Riemann là giới thiệu một bộ các số tại mỗi điểm trong không gian để mô tả là nó bị uốn hay cong đến mức nào. Riemann tìm thấy rằng trong không gian bốn chiều, người ta chỉ cần một bộ 10 số tại mỗi điểm để diễn tả tính chất của một đa tạp, không cần biết là nó bị bóp méo thế nào. Đây là tenxơ mêtric nổi tiếng. |
Trong toán học, vành là một trong những cấu trúc đại số cơ bản. Nhiều đối tượng toán học có thể được xem xét như là vành, ví dụ như vành các hàm số liên tục trên một không gian, vành các đa thức một ẩn với hệ số thực, vành các ma trận với hệ số thực, vân vân. Vành có nhiều thuộc tính hơn là nhóm, nhưng lại ít thuộc tính hơn trường, nên nó có một vị trí cân bằng đặc biệt giữa các ngành của toán học.
Một vành có thể là giao hoán hoặc không giao hoán, tùy thuộc xem phép nhân của nó có tính giao hoán hay không. Các vành giao hoán có một vị trí đặc biệt trong lý thuyết số và hình học đại số. Ngành nghiên cứu về các vành giao hoán và các i-đê-an trên vành giao hoán được gọi là đại số giao hoán.
Các vành (không giao hoán) là những đối tượng nghiên cứu quan trọng trong đại số trừu tượng.
Định nghĩa
Một tập hợp khác rỗng R được gọi là vành nếu trên đó có hai luật hợp thành trong R mà ta ký hiệu là "+" (phép cộng) và "×" (phép nhân) thoả mãn các điều kiện sau:
R là một nhóm giao hoán đối với phép cộng, nghĩa là:
Phép cộng có tính kết hợp:
Phép cộng có phần tử trung hòa, nghĩa là :
Mọi phần tử của R có phần tử nghịch đảo:
Phép cộng có tính giao hoán, nghĩa là:
Phép nhân có tính phân phối với phép cộng, nghĩa là
(phân phối phải)
(phân phối trái)
Phép nhân có tính kết hợp, nghĩa là
Phép nhân có phần tử đơn vị, nghĩa là
Tuy nhiên, có trường phái khác, định nghĩa một vành không có điều kiện phép nhân phải có phần tử đơn vị. Trong trường phái này, vành có phần tử đơn vị được gọi là vành có đơn vị.
Nhiều trường phái cho rằng vành không cần tính chất phần tử đơn vị và không cần tính chất kết hợp trong phép nhân. Thí dụ, các loại vành Lie được gọi là vành nhưng phép nhân không có tính chất kết hợp. Người theo trường phái này dùng chữ vành kết hợp để gọi một vành trong đó phép nhân có tính kết hợp và để phân biệt giữa hai vành kết hợp và vành không kết hợp.
Một số loại vành đặc biệt
Vành giao hoán là vành R trong đó phép nhân có tính chất giao hoán.
Vành trong đó phép nhân có phần tử đơn vị được gọi là vành có đơn vị.
Nếu trong vành R tồn tại hai phần tử sao cho ab = 0 thì các phần tử a, b được gọi là ước của 0 hay nói cách khác Vành giao hoán, có đơn vị, không có ước của 0 được gọi là vành nguyên hay miền nguyên.
Miền nguyên X gọi là vành chính nếu mọi ideal của nó đều là được sinh từ một phần tử (tức là mọi ideal của nó đều là ideal chính).
Miền nguyên A gọi là vành Euclid nếu có ánh xạ f: Ā→N (với Ā là tập các phần tử khác 0 của A) thoả mãn tính chất sau:
Nếu b là ước của a và a ≠ 0 thì f(b) ≤ f(a).
Với a, b là hai phần tử tuỳ ý của A và b ≠ 0 thì tồn tại duy nhất cặp phần tử q, r của A sao cho a = bq + r và f(b) ≥ f(r) nếu r ≠ 0. Có ví dụ như mọi vành đa thức là vành Ơclit.
Vành Noether: Vành giao hoán có đơn vị được gọi là vành Noether nếu mọi ideal của nó đều là hữu hạn sinh, tức là tồn tại một tập sinh hữu hạn phần tử.
Định lý - Một vành là Noether khi và chỉ khi nó thỏa mãn điều kiện dãy tăng.
Chứng minh - Giả sử một vành A thỏa mãn điều kiện dãy tăng. Giả sử tồn tại một i-đê-an không hữu hạn sinh. Thế thì tồn tại một dãy các phần tử thuộc sao cho . Dãy các i-đê-an là một dãy tăng ngặt các i-đê-an không ổn định, vô lý. Vậy mọi i-đê-an của đều hữu hạn sinh.
Ngược lại, giả sử vành mọi i-đê-an trong vành A đều là hữu hạn sinh. Xét một dãy tăng các i-đê-an . Đặt . là hữu hạn sinh, nên tồn tại sao cho . Mặt khác, với mọi , , do đó . Đặt thì dãy các i-đê-an ổn định từ . Do đó A thỏa mãn điều kiện dãy tăng.
Vành Gauss hay vành nhân tử hoá là một miền nguyên A mà mọi phần tử khác không và không khả nghịch đều được phân tích một cách duy nhất thành tích của hữu hạn phần tử bất khả quy nếu không tính đến thứ tự của các phần tử (duy nhất xê xích một hoán vị).
Ví dụ
Tập hợp các số nguyên với phép cộng và nhân thông thường là một vành.
Tập các ma trận vuông cùng cấp n với phép cộng và nhân ma trận là một vành.
Tập các đa thức với hệ số trên trường số thực là một vành.
Tập các số dạng , với là một vành.
Vành số nguyên với phép toán cộng và nhân thông thường là vành Euclid, vành chính,và vành Gauss.
Các vành chính, vành Euclid, vành đa thức trên một trường K là các vành Gauss.
Một số nguyên Gauss (hay số nguyên phức) là một số phức mà các phần thực và phần ảo của nó là các số nguyên. Các số nguyên Gauss, với phép toán cộng và phép toán nhân các số phức tạo thành một vành, gọi là vành số nguyên Gauss, thường ký hiệu là Z[i].
Trong vành số nguyên Gauss, ta cũng có thể xây dựng các khái niệm tương tự như trong vành số nguyên như: chia hết, số nguyên tố Gauss, đồng dư,... Khái niệm đóng vai trò quan trọng đối với các số nguyên Gauss là chuẩn của số nguyên Gauss được định nghĩa là: . Có những kết quả khá thú vị như: nếu là số nguyên tố thì Z là số nguyên tố Gauss.
Vành con
Định nghĩa
Tập con A của vành R được gọi là vành con của R nếu chính A là một vành với hai phép toán cộng và nhân trên R (bao gồm cả tính đóng của hai phép toán này trên A.
Các vành con đặc biệt:
Tập gồm một phần tử {0}, và chính R là vành con của R
Cho phần tử a R. Tập các phần tử dạng n.a, là vành con của R
Các điều kiện tương đương
Cho R là một vành, tập con A R. Các mệnh đề sau là tương đương:
A là vành con của R;
x,y A, x ± y A, x.y A, -x và -y A.
Giao của các vành con
Giao của họ bất kỳ các vành con của R là vành con của R
I-đê-an (Ideal)
Các khái niệm
Vành con A của vành R được gọi là ideal trái (hoặc phải) của R nếu (hoặc ) .
Vành con A vừa là ideal trái, vừa là ideal phải của R được gọi là ideal của R.
Giao của họ bất kỳ các ideal của R là ideal của R.
Cho tập con . Ideal nhỏ nhất của R chứa X được gọi là ideal sinh bởi X.
Giả sử A là vành giao hoán có đơn vị,một ideal XA gọi là ideal tối đại nếu có ideal của A chứa X thì ideal đó hoặc là X hoặc là A.
Ideal P của A gọi là ideal nguyên tố nếu và chỉ nếu tích uv thuộc P thì uP hoặc vP.
Mọi ideal là vành con, ngược lại chưa chắc đúng.
Một số kết quả
Nếu R là vành giao hoán, có đơn vị thì iđean sinh bởi tập con của R:
{a1,a2,...,ak}
là tập hợp các phần tử dạng:
a1.x1+a2.x2+...+ak.xk
trong đó x1,x2,...,xk R
Nếu R là vành có đơn vị của R và A là ideal của R chứa đơn vị thì A=R.
Tập ℕ, ℤ và các tập con của nó đều không phải là các ideal của tập số thực.
Vành thương
Cho A là một ideal của vành R và phần tử x R.Tập con của R gồm các phần tử dạng x+a với mọi a A được gọi là một lớp kề của A theo x.
Ký hiệu R/A là tập hợp tất cả các lớp kề của A với mọi x R:
được gọi là tập thương của R theo A.
Trên tập thương R/A có thể xác định hai phép toán cộng và nhân như sau:
(x+A)+(y+A)=(x+y)+A
(x+A).(y+A)=(x.y)+A
Khi đó có thể chứng minh R/A là một vành, vành này được gọi là vành thương của R theo A.
Ví dụ:
Cho n là số nguyên dương. Tập là ideal của . Vành thương / chính là vành các lớp đồng dư theo môđun n.
giả sử X là một vành giao hoán có đơn vị và A là một ideal của X khi đó
X/A là miền nguyên khi và chỉ khi A là ideal nguyên tố.
X/A là trường khi và chỉ khi Α là ideal tối đại.
Đồng cấu vành
Khái niệm
Cho R và R' là hai vành. Ánh xạ f: R R' được gọi là đồng cấu vành nếu f bảo toàn hai phép toán cộng và nhân trong R, nghĩa là với mọi a,b R:
f(a + b) =f(a) + f(b)
f(a.b) = f(a).f(b)
Nếu đồng cấu f là đơn ánh (hoặc toàn ánh) thì tương ứng f được gọi là đơn cấu vành(hoặc toàn cấu vành).
Nếu đồng cấu f là song ánh thì f được gọi là đẳng cấu vành.
Nếu R=R thì f được gọi là tự đồng cấu của vành R.
Nếu có đồng cấu (hoặc đẳng cấu)f từ vành R đến vành Rthì R được gọi là đồng cấu (hoặc đẳng cấu) với R.
Ví dụ
Ánh xạ không f: cho f(x) = 0 với mọi xR là đồng cấu vành.
Ánh xạ đồng nhất của R là một tự đồng cấu của R.
Cho A là vành con của R. Ánh xạ nhúng j: A R cho j(a)=a với mọi aA là một đơn cấu vành. Nó được gọi là đơn cấu chính tắc từ A vào R.
Cho A là ideal của R. Ánh xạ h: R R/A cho h(x)=x+A là một toàn cấu, nó được gọi là toàn cấu chính tắc.
Tích (ánh xạ) của hai đồng cấu là đồng cấu. Tích (ánh xạ) của hai đẳng cấu là đẳng cấu.
Ảnh và hạt nhân của đồng cấu
Khái niệm
Cho đồng cấu vành f: R R.
Tập con của R gồm các phần tử của R có ảnh là phần tử không của R' được gọi là hạt nhân của đồng cấu f, ký hiệu là Ker(f)
Ker(f)={x R| f(x)=0}
Tập f(R) được gọi là ảnh của đồng cấu f, ký hiệu là Im(f).
Tính chất Ker(f) là ideal của R và Im(f) là vành con của R'''.
Đồng cấu f là đơn cấu khi và chỉ khi Ker(f)={0}
Với mọi đồng cấu f:R R', Im(f) đẳng cấu với vành thương R/Ker(f).
Phạm trù các vành
Vành cùng với đồng cấu vành tạo thành phạm trù các vành, được ký hiệu là Ring (từ "vành" trong tiếng Anh). Ring là một phạm trù lớn, cụ thể.
Phạm trù các vành giao hoán được ký hiệu là CRing. CRing tương đương với phạm trù các lược đồ a-phin.
Đặc số của vành
Cho vành có đơn vị R. Nếu tồn tại số nguyên dương m sao cho m.1 = 0 thì số m nhỏ nhất có tính chất đó được gọi là đặc số' của R. Nếu không tồn tại m như vậy R được gọi là có đặc số 0.
Ví dụ: Vành số nguyên có đặc số 0, vành thương / có đặc số n''.
Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vành đại số
Những người góp công lớn trong việc nghiên cứu vành đại số và ideal là các nhà toán học Đức mà đại diện là: E. Kummer (1810-1893); R. Dedekin (1831-1936) và đặc biệt là nhà toán học nữ E. Noether (1882-1935). Khi chứng minh bài toán Fermat lớn, E. Kummer đã sử dụng phương pháp xuống thang trên tập số nguyên nhưng mọi cố gắng đều thất bại. Để khắc phục ông đã xét bài toán trong lớp vành thực sự chứa Z. Trên lớp vành này ông phải làm việc với các số ideal là mầm mống của khái niệm ideal sau này.người đưa khái niệm ideal là Dedekin và người có công lớn trong việc phát triển lý thuyết vành và ideal trừu tượng là E. Noether. |
Nhóm có thể đề cập đến:
Toán học
Nhóm (toán học): Tập hợp các phần tử cùng với phép toán hai ngôi kết hợp hai phần tử bất kỳ của tập hợp thành một phần tử thứ ba thỏa mãn bốn điều kiện tiên đề nhóm
Nhóm Galois: nhóm toán học liên quan đến việc mở rộng trường
Nhóm cơ bản
Nhóm con: nhóm là tập hợp con của một nhóm khác
Nhóm giao hoán: nhóm thỏa mãn điều kiện phép toán hai ngôi có tính giao hoán
Nhóm hữu hạn: nhóm có số phần tử hữu hạn
Nhóm lũy linh
Nhóm hoán vị
Nhóm Lie
Nhóm symplectic
Nhóm cyclic
Nửa nhóm: nhóm thỏa mãn phép toán hai ngôi có tính chất kết hợp
Vị nhóm: một nửa nhóm đi kèm theo một phần tử đơn vị
Hóa học
Nhóm chức: nhóm của một hoặc vài nguyên tử xuất hiện trong các hợp chất hữu cơ, quyết định tính chất hóa học đặc trưng của hợp chất hữu cơ đó.
Nhóm (bảng tuần hoàn): tập hợp các nguyên tố có cùng số Electron hóa trị và vì thế có cùng tính chất hóa học
Xã hội
Nhóm xã hội: nhóm những người liên kết với nhau bởi các dấu hiệu hình thức hoặc bản chất, chia sẻ cùng những mục tiêu và quy chuẩn.
Nhóm tộc người: tập hợp người liên kết với nhau bởi các đặc tính xã hội như di sản văn hóa, nguồn gốc chung, lịch sử, nơi ở, ngôn ngữ, phương ngữ, tôn giáo, thần thoại, nghi lễ, ẩm thực, phong cách trang phục, đặc điểm cơ thể.
Tổ chức: tập hợp người gắn kết nhau bởi một số quan hệ xã hội nhất định
Nhóm nhạc: tập hợp những người cùng phối hợp với nhau biểu diễn các tiết mục âm nhạc
Siêu nhóm nhạc: ban nhạc bao gồm những thành viên đã từng nổi tiếng trong vai trò solo hay ban nhạc
Nhóm lợi ích: tập hợp các cá nhân, tổ chức cùng chia sẻ một mối quan tâm chung và cùng nhau thúc đẩy các mục tiêu đó
Nhóm ngôn ngữ
Thiên văn học
Nhóm thiên hà
Nhóm Địa phương
Sinh học
Nhóm thân cây: nhóm cận ngành thể hiện các quá trình tiến hóa của các nhánh sinh vật
Nhóm chỏm cây: nhóm đơn ngành chứa tổ tiên chung gần nhất của tất cả các sinh vật còn tồn tại và được xem xét trong nhóm đó, cùng tất cả các hậu duệ của tổ tiên chung này.
Nhóm máu
Khác
Mạng máy tính: nhóm các máy tính kết nối với nhau thông qua các thiết bị kết nối
Nhóm Google
Nhóm Yahoo!
Nhóm (Facebook): tập hợp các người dùng mạng xã hội Facebook liên kết với nhau bởi các chủ đề, hình ảnh, quan hệ online
Nhóm (địa tầng): tạp hợp các thành hệ địa chất có các mối quan hệ với nhau.
Nhóm quân sự
Nhóm không lực
Tập đoàn: nhóm các công ty liên kết với nhau |
Thủy lực học là ngành kĩ thuật nghiên cứu về các vấn đề mang tính thực dụng bao gồm: lưu trữ, vận chuyển, kiểm soát, đo đạc nước và các chất lỏng khác.
Thủy lực có phương pháp nghiên cứu dựa trên nền tảng các định luật vật lý tác động lên thể nước (thể lỏng nói chung). Tuy nhiên, nó khác với ngành cơ học chất lỏng là đề cập nhiều hơn tới các kĩ thuật thực tế thay vì đơn thuần về lý thuyết.
Xét về mặt lý thuyết, thủy lực bao gồm các mảng kiến thức:
Thủy tĩnh học
Thủy động học
Thủy động lực học
Xét về mặt ứng dụng, thủy lực bao gồm:
Thủy lực đường ống
Thủy lực kênh hở
Thủy lực công trình |
Trong toán học, một trường là một tập hợp mà trên đó các phép cộng, trừ, nhân, chia được định nghĩa, và có tính chất như những phép tính trên số hữu tỉ và số thực. Một trường như vậy là một cấu trúc đại số cơ bản, được sử dụng rộng rãi trong đại số, lý thuyết số và nhiều ngành khác trong toán học.
Những trường thông dụng nhất là trường số hữu tỉ, trường số thực và trường số phức. Nhiều trường khác, như trường hàm phân thức, trường hàm đại số, trường số đại số, và trường p-adic cũng được sử dụng và nghiên cứu thường xuyên, cụ thể trong lý thuyết số và hình học đại số. Hầu hết giao thức mật mã dựa trên trường hữu hạn, tức là trường có hữu hạn phần tử.
Mối liên hệ giữa hai trường được thể hiện qua một mở rộng trường. Lý thuyết Galois, khởi xướng bởi Évariste Galois trong những năm 1830, nghiên cứu về sự đối xứng của các mở rộng trường. Trong số những kết quả khác, lý thuyết này chứng minh được rằng việc chia ba một góc và cầu phương hình tròn không thể thực hiện được chỉ bằng thước thẳng và compa. Ngoài ra, nó cũng chỉ ra rằng phương trình bậc năm không thể giải được về mặt đại số.
Trường đóng vai trò là một khái niệm nền tảng trong một số ngành của toán học, bao gồm các nhánh của giải tích, sử dụng trường với những cấu trúc phụ. Những định lý cơ bản của giải tích dựa trên tính chất của trường số thực. Quan trọng hơn cả, bất kì trường nào đều có thể dùng làm vô hướng cho một không gian vectơ, là những đối tượng chính của đại số tuyến tính. Trường số đại số, người anh em họ của trường số hữu tỉ, được nghiên cứu trong lý thuyết số.
Định nghĩa
Về căn bản, một trường là một tập hợp, cùng với hai phép toán được định nghĩa trên tập đó: một phép cộng được viết là , và một phép nhân được viết là , cả hai đều có tính chất như với số hữu tỉ và số thực, bao gồm cả sự tồn tại của một nghịch đảo phép cộng cho mọi phần tử , và một nghịch đảo phép nhân cho mọi phần tử khác 0. Điều này cho ta những phép toán nghịch đảo bao gồm phép trừ , và phép chia , bằng cách định nghĩa:
,
.
Định nghĩa cổ điển
Đầy đủ hơn, một trường là một tập cùng với hai phép toán (còn gọi là luật hợp thành trong) gọi là phép cộng và phép nhân. Một phép toán là một ánh xạ gán mỗi cặp phần tử trong tập hợp với một phần tử của nó. Kết quả của phép cộng và được gọi là tổng của và và ký hiệu là . Tương tự, kết quả của phép nhân và được gọi là tích của và , và ký hiệu bằng hoặc . Các phép toán này cần phai tuân thủ những tính chất sau, được gọi là các tiên đề trường. Trong những tiên đề dưới đây, và là những phần tử bất kỳ của trường .
Tính kết hợp của phép cộng và phép nhân: và .
Tính giao hoán của phép cộng và phép nhân: và .
Đơn vị cộng và đơn vị nhân: tồn tại hai phần tử khác nhau và thuộc sao cho và .
Nghịch đảo phép cộng: với mọi thuộc , tồn tại một phần tử thuộc , ký hiệu là , gọi là nghịch đảo phép cộng của a, sao cho .
Nghịch đảo phép nhân: với mọi thuộc , tồn tại một phần tử thuộc , ký hiệu là , , hoặc , gọi là nghịch đảo phép nhân của a, sao cho .
Tính phân phối của phép nhân đối với phép cộng: .
Ta có thể tóm tắt lại như sau: một trường có hai phép toán là phép cộng và phép nhân; nó là một nhóm giao hoán dưới phép cộng, với 0 là đơn vị cộng; những phần tử khác 0 tạo thành một nhóm giao hoán dưới phép nhân, với 1 là đơn vị nhân; phép nhân có tính phân phối đối với phép cộng.
Định nghĩa khác
Trường cũng có thể được định nghĩa theo những cách khác tương đương. Ta có thể định nghĩa trường bằng bốn phép toán hai ngôi (cộng, trừ, nhân, chia) và những tính chất của chúng. Chia cho không, theo định nghĩa, không được tính. Để tránh việc sử dụng lượng tử tồn tại, trường có thể được định nghĩa với hai phép toán hai ngôi (cộng và nhân), hai phép toán một ngôi (cho ra nghịch đảo phép cộng và phép nhân), và hai phép toán rỗng (các hằng số và ). Những phép toán này cần phải thỏa mãn những điều kiện trên. Tránh lượng tử tồn tại là một điều kiện quan trọng mang tính xây dựng và trong điện toán. Một cách tương đương, ta có thể định nghĩa một trường bằng hai phép toán hai ngôi cộng và nhân, một phép toán một ngôi (nghịch đảo phép nhân) và hai hằng số và , vì và .
Ví dụ
Số hữu tỉ
Số hữu tỉ được sử dụng rộng rãi từ lâu trước khi khái niệm trường được đưa ra và xem xét chi tiết. Chúng là những số có thể viết dưới dạng phân số , với và là các số nguyên, và . Nghịch đảo phép cộng của một phân số như vậy là , và nghịch đảo phép nhân là (với điều kiện ) là , do:
Những tiên đề trường trừu tượng trở thành các tính chất cơ bản của số hữu tỉ. Ví dụ, tính chất phân phối có thể được chứng minh như sau::
Số thực và phức
Tập số thực , cùng với các phép cộng và nhân, cũng tạo thành một trường. Tập số phức bao gồm các biểu thức
với thực,
trong đó là đơn vị ảo, tức là một số (không thực) thỏa . Phép cộng và phép nhân của số thực được định nghĩa sao cho những biểu thức dạng này cũng thỏa tất cả tiên đề trường và vẫn áp dụng cho . Ví dụ, tính phân phối cho ta
Rõ ràng biểu thức này cũng có dạng như trên, tức là số phức đóng dưới phép nhân. Tương tự ta có thể suy ra số phức tạo thành một trường. Số phức có thể được biểu diễn bằng hình học như các điểm trong mặt phẳng, với tọa độ Descartes là các số thực trong biểu thức của nó, hoặc sử dụng những mũi tên từ gốc tọa độ đến những điểm đó, xác định bởi độ dài và góc tạo bởi nó theo một hướng nhất định. Phép cộng khi ấy tương đương với kết hợp hai mũi tên theo hình bình hành (cộng các tọa độ Descartes), còn phép nhân tương đương với việc quay và phóng to hay thu nhỏ các mũi tên (cộng các góc và nhân chiều dài). Trường số thực và số phức được sử dụng trong cả toán học, vật lý, kỹ thuật, thống kê và nhiều lĩnh vực khoa học khác.
Số dựng được
Từ xưa, có nhiều bài toán hình học liên quan đến tính khả thi của việc dựng một số số chỉ bằng thước kẻ và compa. Ví dụ, người Hy Lạp không biết rằng không thể chia ba một góc bằng cách này. Những vấn đề này có thể được giải quyết sử dụng trường các số dựng được. Những số thực dựng được, theo định nghĩa, là độ dài của những đoạn thẳng có thể dựng được từ hai điểm 0 và 1 trong hữu hạn bước chỉ sử dụng thước kẻ và compa. Những số này, cùng với các phép toán của số thực trên chúng, tạo thành một trường, trong đó bao hàm trường số hữu tỉ . Hình minh họa cho thấy cách dựng căn bậc hai của số dựng được, không nhất thiết thuộc . Sử dụng ký hiệu như trong hình, dựng một các đoạn thẳng , , và một nửa đường tròn có đáy (tâm đặt tại trung điểm ), cắt đường thẳng qua vuông góc với tại điểm . Nếu độ dài của và lần lượt là và thì độ dài đoạn là .
Không phải tất cả số thực đều dựng được. Ta có thể chứng minh rằng không phải là một số dựng được, nghĩa là không thể dựng độ dài cạnh một hình lập phương có thể tích là 2 bằng thước kẻ và compa, một bài toán được đưa ra bởi người Hy Lạp cổ đại.
Một trường với bốn phần tử
Ngoài những tập số quen thuộc như số hữu tỉ hay số thực, có những ví dụ của trường khác ít hiển nhiên hơn của. Ví dụ sau là một trường gồm có bốn phần tử là , , , và . đóng vai trò là đơn vị cộng (ký hiệu là 0 trong hệ tiên đề trên), và I là đơn vị nhân (ký hiệu là 1 trong hệ tiên đề trên). Những tiên đề trên có thể được kiểm chứng bằng một số lý thuyết trường, hoặc bằng tính toán trực tiếp. Ví dụ,
, bằng với , như tính chất phân phối yêu cầu.
Trường này được gọi là trường hữu hạn với bốn phần tử, và được ký hiệu là hay . Tập con chứa và (màu đỏ ở bảng bên) cũng là một trường, gọi là trường nhị phân hay . Trong khoa học máy tính và đại số Boole, và thường lần lượt đại diện cho false và true, phép cộng khi ấy được ký hiệu là XOR (exclusive or), và phép nhân ký hiệu là AND. Nói cách khác, cấu trúc của trường nhị phân là cấu trúc cơ bản cho phép tính toán với bit.
Khái niệm cơ bản
Trong phần này, ký hiệu một trường tùy ý và là những phần tử bất kỳ của .
Hệ quả từ định nghĩa
Ta có và . Cụ thể, ta có thể suy ra nghịch đảo phép cộng của mọi phần tử ngay khi biết .
Nếu thì hoặc phải bằng 0. Thực vậy, nếu , thì
. Điều này nghĩa là mọi trường là một miền nguyên.
Nhóm cộng và nhóm nhân của một trường Hình thất giác đều không thể dựng được thước kẻ và compa; Điều này có thể chứng minh sử dụng trường của số dựng được.
Các tiên đề của một trường chỉ rằng nó là một nhóm giao hoán dưới phép cộng. Nhóm này được gọi là nhóm cộng của trường, và đôi khi được kí hiệu là .
Tương tự, các phần tử khác 0 của tạo thành một nhóm giao hoán dưới phép nhân, gọi là nhóm nhân, và thường ký hiệu là hoặc } hay .
Từ đó, một trường có thể được định nghĩa là một tập với hai phép toán cộng và nhân sao cho là nhóm giao hoán dưới phép cộng, } là nhóm giao hoán dưới phép nhân (với 0 là đơn vị cộng), và phép nhân có tính phân phối đối với phép cộng. Một số tính chất cơ bản của trường có thể được suy ra bằng những tính chất của nhóm. Ví dụ, nghịch đảo phép cộng và phép nhân và được xác định duy nhất bởi .
Từ đó ta suy ra , vì 1 là đơn vị của nhóm không chứa 0. Do đó, vành không, chỉ chứa một phần tử, không phải là một trường.
Tất cả nhóm con hữu hản của nhóm nhân của một trường đều là cyclic (xem ).
Tính chất
Ngoài phép nhân hai phần tử của , ta có thể định nghĩa tích của phần tử bất kỳ của với một số nguyên dương là tổng số hạng là
Nếu không tồn tại số nguyên dương nào sao cho
,
thì trường có đặc số 0. Ví dụ, trường số hữu tỉ có đặc số 0 vì không có số nguyên dương nào bằng 0. Nếu tồn tại một số nguyên dương thỏa mãn phương trình trên thì nghiệm nhỏ nhất phải là số nguyên tố. Số này thường được ký hiệu là và khi ấy ta nói trường có đặc số . Trong ví dụ ở trên, trường có đặc số 2 vì .
Nếu có đặc số , thì với mọi thuộc . Nghĩa
,
Do tất cả hệ số nhị thức xuất hiện trong khai triển nhị thức đều chia hết cho . Ở đây, ( nhân tử) là lũy thừa bậc của . Do đó, ánh
tương thích với phép cộng trong (và với phép nhân), do đó nó là một phép tự đồng cấu trường. Sự tồn tại của đồng cấu này khiến trường đặc số có nhiều điểm khác với trường đặc số 0.
Trường con và trường nguyên tố
Một trường con của trường là một tập con của và là một trường đối với các phép toán của . Nói cách khác, là tập con của chứa , và đóng dưới phép cộng, phép nhân, nghịch đảo phép cộng và nghịch đảo phép nhân của một phần tử khác 0. Điều này nghĩa là , với mọi thì cả và cũng thuộc , với mọi thuộc , thì và đều thuộc .
Phép đồng cấu trường là một ánh xạ giữa hai trường sao cho
,
trong đó và là những phần tử bất kỳ của . Tất cả đồng cấu trường đều là đơn ánh. Nếu cũng là toàn ánh, nó được gọi là phép đẳng cấu (hoặc trường và đẳng cấu).
Một trường được gọi là một trường nguyên tố nếu như nó không có trường con thực sự nào. Bất kỳ trường nào cũng chứa một trường nguyên tố, trường này là giao của tất cả trường con của . Nếu đặc số của là một số nguyên tố , trường nguyên tố đó đẳng cấu với trường hữu hạn ở dưới. Nếu không thì trường nguyên tố này đẳng cấu với .
Trường hữu hạn
Trường hữu hạn (còn gọi là trường Galois) là những trường có hữu hạn số phần tử, số này gọi là bậc của trường đó. Trong ví dụ ở trên trường có bốn phần tử. Trường colà trường nhỏ nhất, do theo định nghĩa trường phải có ít nhất hai phần tử phân biệt .
Trường hữu hạn đơn giản nhất, với bậc là số nguyên tố, có thể được xây dựng dựa trên số học mô đun. Với một số nguyên dương cho trước, số học "mô đun " nghĩa là làm việc với các số
Phép cộng và nhân trên tập này được thực hiện như trên tập số nguyên , chia cho rồi lấy số dư là kết quả cuối cùng. Ta nhận được một trường khi và chỉ khi là một số nguyên tố. Ví dụ, lấy số nguyên tố cho ta trường ở trên. Với , hay tổng quát hơn, với mọi hợp số (tức là số có thể biểu diễn dưới dạng tích của hai số nhỏ hơn), không phải là một trường: tích của hai phần tử khác 0 có thể bằng không, như trong , do đó như đã giải thích ở trên, khiến không phải là một trường. Trường gồm phần tử ( nguyên tố) được tạo theo cách này thường được kí hiệu là .
Mọi trường hữu hạn có phần tử, với là số nguyên tố và . Điều này có thể suy ra từ việc xem trường là một không gian vectơ trên trường nguyên tố của nó. Số chiều của không gian vectơ này là hữu hạn, giả sử là , từ đó suy ra biểu thức trên.
Một trường với phần tử có thể xây dựng từ trường phân rã của đa thức:
.
Một trường phân rã như thế là một mở rộng của trong đó đa thức có nghiệm. Điều này nghĩa là có nhiều nghiệm nhất có thể do bậc của là . Với , có thể kiểm tra bằng tính toán rằng cả bốn phần tử của thỏa mãn phương trình , vậy nên chúng đều là nghiệm của . Mặt khác, trong , chỉ có hai nghiệm (0 và 1), nên không phân tích ra thừa số bậc nhất trong trường này. Sử dụng những khái niệm khác trong lý thuyết trường, ta có thể chứng minh rằng hai trường hữu hạn có cùng bậc thì đẳng cấu. Vì thế đôi khi trường hữu hạn với phần tử được nói chung, ký hiệu là hay .
Lịch sử
Trong lịch sử, có ba lĩnh vực đại số chính đã dẫn đến khái niệm của một trường: câu hỏi về việc giải phương trình đa thức, lý thuyết số đại số và hình học đại số. Một bước tiến trong khái niệm về trường trong năm 1770 khi nhà toán học Joseph-Louis Lagrange để ý rằng hoán đổi các nghiệm của một đa thức bậc ba trong biểu thức
(với là nghiệm đơn vị cấp 3) chỉ cho ra hai kết quả. Từ đó, Lagrange đã có thể giải thích được phương pháp tìm nghiệm của Scipione del Ferro và François Viète, trong đó phương trình bậc ba theo ẩn được rút gọn thành phương trình bậc hai theo . Cùng với những quan sát tương tự cho phương trình bậc bốn, Lagrange đã liên kết được thứ mà sau này trở thành khái niệm trường và khái niệm nhóm. Cũng trong năm 1770, Vandermonde, và sâu rộng hơn, Carl Friedrich Gauss, trong tác phẩm Disquisitiones Arithmeticae (1801), nghiên cứu phương trình
với số nguyên tố và, sử dụng ngôn ngữ hiện đại, nhóm Galois cyclic tương ứng. Gauss chứng minh rằng một đa giác đều cạnh có thể dựng được nếu và chỉ nếu . Sử dụng các kết quả của Lagrange, Paolo Ruffini khẳng định (1799) rằng phương trình bậc năm không có nghiệm đại số, tuy nhiên lập luận của ông có lỗ hổng. Những lỗ hổng này được khắc phục bởi Niels Henrik Abel năm 1824. Évariste Galois, năm 1832, đưa ra điều kiện cần và đủ để một phương trình đa thức giải được bằng đại số, bắt đầu cho lý thuyết Galois. Cả Abel và Galois đều sử dụng cái ngày nay gọi là trường số đại số, nhưng không nhận ra rõ ràng khái niệm một trường hay một nhóm.
Năm 1871 Richard Dedekind đưa ra từ tiếng Đức Körper, nghĩa là "cơ thể" hay "vật thể", cho một tập các số thực hoặc phức đóng dưới bốn phép toán số học. Từ tiếng Anh "field" được giới thiệu bởi .
Năm 1881 Leopold Kronecker định nghĩa cái ông gọi là miền hữu tỉ, thực chất là trường các hàm phân thức theo hiện nay. Khái niệm của Kronecker không bao gồm trường các số đại số, nhưng mặt khác trừu tượng hơn định nghĩa của Dedekind do nó không giả sử gì về tính chất của các phần tử của một trường. Kronecker xem một trường như trừu tượng như trường hàm hữu tỉ . Trước đó, ví dụ của số siêu việt được biết từ công trình của Joseph Liouville năm 1844, đến khi Charles Hermite (1873) và Ferdinand von Lindemann (1882) lần lượt chứng minh sự siêu việt của và .
Định nghĩa rõ ràng đầu tiên của một trường do . Cụ thể, định nghĩa của Heinrich Martin Weber bao gồm trường Fp. Giuseppe Veronese (1891) nghiên cứu trường của chuỗi lũy thừa chính quy, dẫn đến đưa ra trường số p. tổng hợp những kiến thức về trường đã có. Ông nghiên cứu những tính chất của trường và định nghĩa nhiều khái niệm trong lý thuyết trường. Phần lớn các định lý trong phần Lý thuyết Galois, Xây dựng trường và Khái niệm cơ bản đều có thể được tìm thấy trong công trình của Steinitz. liên hệ khái niệm của thứ tự trong trường, một lĩnh vực của giải tích, với những tính chất thuần đại số. Emil Artin phát triển lại lý thuyết Galois từ năm 1928 đến năm 1942 mà không dựa vào định lý phần tử nguyên thủy.
Xây dựng trường
Xây dựng trường từ vành
Một vành giao hoán là một tập hợp, cùng với phép toán cộng và nhân, thỏa mãn tất cả tiên đề của trường, ngoại trừ việc tồn tại nghịch đảo phép nhân . Ví dụ, tập số nguyên tạo thành một vành giao hoán, nhưng không phải một trường: nghịch đảo của một số nguyên không phải là một số nguyên, trừ khi .
Trong hệ thống cấp bậc các cấu trúc đại số, trường có thể được coi là vành giao hoán mà trong đó bất kỳ phần tử khác 0 nào đều là một đơn vị (nghĩa là chúng khả nghịch). Tương tự, trường là vành giao hoán với đúng hai ideal (ideal), và . Trường cũng là vành giao hoán mà trong đó là ideal nguyên tố duy nhất.
Với một vành giao hoán , có hai cách để xây dựng một trường liên quan đến , hay hai cách để thay đổi sao cho mọi phần tử khác 0 đều khả nghịch: xây dựng trường các thương và xây dựng trường thặng dư. Trường các thương của là các số hữu tỉ , còn trường thặng dư của là các trường hữu hạn .
Trường các thương
Cho trước miền nguyên , trường các thương của nó được tạo từ thương số giữa hai phần tử của giống như Q được tạo từ các số nguyên. Chính xác hơn, phần tử của là phân số với và thuộc , trong đó . Hai phân số và bằng nhau khi và chỉ khi . Các phép toán trên phân số hoạt động giống hệt như số hữu tỉ. Ví dụ,
Không khó để chỉ ra rằng, nếu vành này là miền nguyên thì tập các thương tạo thành một trường.
Trường các hàm phân thức trên một trường (hay miền nguyên) là trường các phân thức của vành đa thức . Truòng của chuỗi Laurent
trên một trường là trường các phân thức của vành của chuỗi lũy thừa hình thức (trong đó ). Do bất kỳ chuỗi Laurent nào là một phân số của một chuỗi lũy thừa chia cho lũy thừa của (không như chuỗi lũy thừa bất kỳ), việc biểu diễn thành phân thức không quá quan trọng trong trường hợp này.
Trường thặng dư
Ngoài trường các thương, nhúng bằng một đơn ánh vào một trường field, một trường có thể nhận được từ vành giao hoán bằng một toàn ánh lên trường . Bất kỳ trường nào nhận được bằng cách này là một vành , trong đó là ideal cực đại của . Nếu chỉ có một ideal cực đại , trường này được gọi là trường thặng dư của .
Ideal sinh ra bởi một đa thức trong vành đa thức (trên trường ) là cực đại khi và chỉ khi bất khả quy trong , tức không thể biểu diễn thành tích của hai đa thức trong có bậc nhỏ hơn. Điều này cho ta trường
Trường này chứa phần tử (lớp thặng dư của ) thỏa mãn phương trình
.
Ví dụ, nhận được từ bằng cách thêm đơn vị ảo , thỏa mãn với . Thêm nữa, bất khả quy trên , nghĩa là ánh xạ biến một đa thức thành cho ta phép đẳng cấu
Xây dựng trường từ một trường lớn hơn
Trường có thể được dựng trong một trường cho trước lớn hơn. Giả sử trường chứa là trường con. Với mọi phần tử của , tồn tại một trường con nhỏ nhất của chứa và , gọi là trường con của tạo bởi và ký hiệu là . Việc chuyển từ sang được gọi là thêm một phần tử cho . Tổng quát, với một tập con , tồn tại một trường con nhỏ nhất của chứa và , ký hiệu là .
Compositum của hai trường con và của một trường là trường con nhỏ nhất chứa cả và . Compositum có thể dùng để dựng trường con lớn nhất của thỏa mãn một số tính chất nào đó, ví dụ như trường con lớn nhất của đại số trên .
Mở rộng trường
Khái niệm trường con cũng có thể được xem xét từ góc nhìn đối nghịch, bằng cách gọi là một mở rộng trường (hay chỉ mở rộng) của , ký hiệu bằng
,
đọc là " trên ".
Một thông tin cơ bản của một mở rộng trường là bậc của nó , tức là chiều của không gian vectơ trên . Nó thỏa mãn hệ thức
.
Mở rộng có bậc hữu hạn được gọi là mở rộng hữu hạn. Các mở rộng và có bậc là 2, còn là một mở rộng vô hạn.
Mở rộng đại số
Một khái niệm quan trọng trong việc nghiên cứu mở rộng trường là phần tử đại số. Một phần tử gọi là đại số trên nếu nó là nghiệm của một đa thức với hệ số thuộc , tức là nó thỏa mãn phương trình đa thức
,
với in , và . Ví dụ, đơn vị ảo trong là đại số trên , thậm chí là trên , do nó thỏa mãn phương trình
.
Một mở rộng trường mà trong đó mọi phần tử của đại số trên được gọi là mở rộng đại số. Bất kỳ mở rộng hữu hạn nào cũng là mở rộng đại số, có thể suy ra từ hệ thức bậc của mở rộng trường ở trên.
Trường con sinh ra bởi phần tử như trên, là một mở rộng đại số của khi và chỉ khi là một phần tử đại số. Có nghĩa là, nếu đại số, tất cả phần tử khác của cũng là đại số. Hơn nữa, bậc của mở rộng , bằng với số nhỏ nhất sao cho tồn tại một phương trình đa thức bậc nhận làm nghiệm. Khi ấy các phần tử của có dạng
Ví dụ, trường của số hữu tỉ Gauss là trường con của bao gồm tất cả các số có dạng trong đó both and are số hữu tỉ: những số hạng có dạng (và tương tự với số mũ cao hơn) không cần phải xem xét, do rút gọn thành .
Cơ sở siêu việt
Trường phân thức nói trên không là mở rộng đại số của do không tồn tại phương trình đa thức nào có hệ số thuộc mà có nghiệm là . Những phần tử không đại số, như , được gọi là siêu việt. Nói đơn giản, ẩn và lũy thừa của nó không tác động đến các phần tử của . Ta có thể xây dựng tương tự với nhiều ẩn, không chỉ một.
Một lần nữa, mở rộng trường xét trên là một ví dụ chính: nếu không đại số (tức không là nghiệm của một đa thức có hệ số thuộc ), thì đẳng cấu với . Đẳng cấu này được suy ra từ việc thay vào trong các phân thức.
Một tập con của trường là một cơ sở siêu việt nếu như nó độc lập đại số (không thỏa bất kỳ phương trình đa thức nào) trên và là mở rộng đại số của . Bất kỳ mở rộng trường nào cũng có một cơ sở siêu việt. Do đó, mở rộng trường có thể phân thành hai dạng: (mở rộng siêu việt) và mở rộng đại số.
Phép toán đóng
Một trường gọi là đóng đại số nếu như nó không có mở rộng đại số nào lớn hơn thực sự, hoặc tương đương, nếu bất kì phương trình đa thức
, với các hệ số ,
có nghiệm . Theo định lý cơ bản của đại số, là một trường đóng đại số, tức là bất kỳ phương trình đa thức với hệ số phức nào cũng có nghiệm phức. Số hữu tỉ và số thực không đóng đại số do phương trình
không có nghiệm hữu tỉ hay nghiệm thực. Một trường chứa gọi là một bao đóng đại số của nếu nó đại số trên (đại khái, không quá lớn so với ) và đóng đại số (đủ lớn để chứa nghiệm của tất cả phương trình đa thức).
Theo như trên, là một bao đóng đại số của . Trường hợp bao đóng đại số là một mở rộng hữu hạn của trường khá đặc biệt: theo định lý Artin-Schreier, bậc của mở rộng đó phải bằng 2, và tương đương cơ bản (elementary equivalence) với . Những trường như thế còn gọi là trường thực đóng.
Bất kỳ trường nào cũng có một bao đóng đại số, và nó là duy nhất theo phép đẳng cấu. Từ đó, bao đóng này thường được nhắc chung và ký hiệu là . Ví dụ, bao đóng đại số của số hữu tỉ gọi là trường số đại số. Sự tồn tại và duy nhất của bao đóng đại số có thể được chứng minh sử dụng định lý ideal nguyên tố Boole, một tiên đề trong lý thuyết tập hợp yếu hơn tiên đề chọn. Về mặt này, bao đóng đại số của là hợp của tất cả trường hữu hạn chứa (những trường có bậc ). Với trường đóng đại số đặc số 0, bao đóng đại số của trường của chuỗi Laurent là trường các chuỗi Puiseux, tạo bởi thêm các ghiệm của .
Trường với tính chất khác
Do sự phổ biến trong toán học, vài điều chỉnh trong khái niệm trường được đưa ra để phù hợp với nhu cầu của những ngành khác nhau.
Trường sắp thứ tự
Một trường được gọi là trường sắp thứ tự nếu bất kỳ hai phần tử nào cũng có thể được so sánh, sao cho và nếu và . Lấy ví dụ, các số thực tạo thành một trường sắp thứ tự, với quan hệ thứ tự . Định lý Artin-Schreier phát biểu rằng một trường có thể sắp thứ tự nếu và chỉ nếu nó là một trường thực hình thức, nghĩa là phương trình bậc hai
chỉ có nghiệm . Tập tất cả những quan hệ thứ tự khả dĩ trên một trường đẳng cấu với tập các đồng cấu vành từ vành Witt của các dạng toàn phương trên , đến .
Một trường Archimedes là một trường sắp thứ tự sao cho với mỗi phần tử tồn tại một biểu thức hữu hạn
có giá trị lớn hơn phần tử đó, nói cách khác, không có phần tử lớn vô hạn. Tương tự, trường đó không chứa vô cùng bé (phần tử bé hơn tất cả số hữu tỉ); hay, trường đó đẳng cấu với một trường con của .
Một trường sắp thứ tự gọi là đầy đủ Dedekind nếu mọi tập con bị chặn của phải có cận trên đúng. Bất kỳ trường đầy đủa nào cũng là trường Archimedes.
Do bất kỳ trường con thực sự nào của tập số thực cũng chứa "khoảng trống", là trường sắp thứ tự đầy đủ duy nhất, xét theo đẳng cấu. Một số kết quả quan trọng trong giải tích suy ra từ tính chất này của tập số thực.
Các số siêu thực tạo thành một trường sắp thứ tự nhưng không là Archimedes. Nó là mở rộng của trường số thực bằng cách thêm những số vô cùng lớn (lớn hơn mọi số thực) và vô cùng bé (bé hơn mọi số thực).
Trường tôpô
Một điều chỉnh khác trong khái niệm trường là một trường tôpô, trong đó tập là một không gian tôpô, sao cho tất cả phép toán của trường (cộng, nhân, các ánh xạ và ) là ánh xạ liên tục đối với tôpô của không gian.
Tôpô của tất cả những trường xét đến bên dưới được cảm sinh từ một mêtric, tức là hàm số
đo khoảng cách giữa hai phần tử của .
Hoàn chỉnh của là một trường khác mà trong đó, nói đại khái, những "khoảng trống" trong được lấp đầy. Ví dụ, bất kỳ số vô tỉ nào, như , là một "khoảng trống" trong các số hữu tỉ mà có thể được xấp xỉ gần tùy ý với số hữu tỉ , tức là khoảng cách giữa và là giá trị tuyệt đối có thể nhỏ tùy ý.
Bảng sau liệt kê một số ví dụ của việc xây dựng này. Cột thứ tư cho một ví dụ của dãy không, một dãy số có giới hạn (khi ) bằng 0.
Trường được dùng trong lý thuyết số và lý thuyết -adic. Bao đóng đại số tuy không đầy đủ, nhưng hoàn thành của nó là đóng đại số. Do có phần giống với các số phức, nó được gọi là trường số p-adic phức và ký hiệu là .
Trường địa phương
Những trường tôpô sau được gọi là trường địa phương:
Mở rộng hữu hạn của (trường địa phương có đặc số không)
Mỡ rộng hữu hạn của , trường các chuỗi Laurent trên (trường địa phương đặc số ).
Hai dạng trường địa phương này có chung một số tính chất cơ bản. Trong đó, phần tử và (gọi là uniformizer) tương ứng với nhau. Bằng chứng đầu tiên của sự tương quan ở mức độ phần tử: phần tử của cả hai trường có thể được biểu diễn thành chuỗi lũy thừa của uniformizer, với hệ số trong . (Tuy nhiên, do phép cộng trong sử dụng nhớ còn thì không, hai trường này không đẳng cấu). Sự tương quan này còn đi sâu hơn nữa. Ví dụ, bất kỳ mệnh đề bậc nhất đúng với hầu hết cũng đúng với hầu hết . Một ứng dụng là Định lý Ax–Kochen mô tả các nghiệm của đa thức thuần nhất trong .
Trường vi phân
Trường vi phân là những trường mà trên đó có phép lấy đạo hàm những phần tử trong trường. Ví dụ, trường , cùng với đạo hàm bình thường của đa thức tạo thành một trường vi phân. Những trường này là đối tượng chính của lý thuyết Galois vi phân, một nhánh của lý thuyết Galois nghiên cứu các phương trình vi phân tuyến tính.
Lý thuyết Galois
Lý thuyết Galois nghiên cứu mở rộng đại số của trường bằng cách xem xét sự đối xứng trong những phép toán cộng và nhân. Một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực này là mở rộng Galois hữu hạn , mà theo định nghĩa là tách được và chuẩn tắc. Định lý phần tử nguyên thủy chỉ ra rằng mở rộng hữu hạn tách được là đơn giản, tức là nó có dạng
,
trong đó là một đa thức bất khả quy. Với mở rộng như vậy, việc chuẩn tắc và tách được nghĩa là tất cả nghiệm của nằm trong và chỉ có nghiệm đơn giản. Điều kiện sau luôn được thỏa mãn nếu trường có đặc số 0.
Với một mở rộng Galois hữu hạn, nhóm Galois là nhóm của những phép tự đẳng cấu trường của mà tầm thường trên (tức là những song ánh giữ nguyên phép cộng và phép nhân và biến những phần tử của thành chính nó). Tầm quan trọng của nhóm này bắt nguồn từ định lý cơ bản của lý thuyết Galois, đã xây dựng một tương ứng một-một giữa tập các nhóm con của và tập những mở rộng trung gian của mở rộng . Bằng tương ứng này, những tính chất của nhóm biến thành những tính chất của trường. Ví dụ, nếu nhóm Galois của một mở rộng Galois trên không giải được (không thể xây dựng từ nhóm giao hoán), thì các nghiệm của không thể biểu diễn dưới dạng tổng, tích hay khai căn. Ví dụ, nhóm đối xứng không giải được với . Hệ quả là nghiệm của những phương trình sau không biểu diễn được thành tổng, tích hay căn. Với đa thức thứ hai, kết quả này được biết là định lý Abel–Ruffini:
(và ),
(trong đó là một đa thức trong , với các ẩn , là trường bất kỳ và ).
Tích tensor của trường thường không phải là một trường. Ví dụ, mở rộng hữu hạn với bậc là một mở rộng Galois khi và chỉ khi tồn tại một đẳng cấu của các đại số :
.
Kết quả này đã bắt đầu cho lý thuyết Galois của Grothendieck, một mở rộng của lý thuyết Galois có tầm ảnh lớn.
Bất biến của trường
Những bất biến cơ bản của trường bao gồm đặc số và bậc siêu việt (số phần tử tối đa của độc lập đại số trên trường nguyên tố) của trên trường nguyên tố. Hai trường đóng đại số và đẳng cấu khi và chỉ khi hai dữ kiện trên bằng nhau. Điều này nghĩa là hai trường đóng đại số không đếm được có cùng lực lượng và cùng đặc số thì đẳng cấu. Lấy ví dụ, và là đẳng cấu (nhưng không đẳng cấu như trường tôpô).
Lý thuyết mô hình của trường
Trong lý thuyết mô hình, một nhánh của logic toán, hai trường và được gọi là tương đương phần tử nếu mọi phát biểu toán học đúng với cũng đúng với và ngược lại. Những mệnh đề đó phải là những phát biểu bậc nhất (bao gồm 0, 1, phép nhân và phép cộng). Một ví dụ điển hình là
= "với mọi số nguyên dương , bất kỳ đa thức bậc trong cũng có nghiệm thuộc " (tương đương với việc đóng đại số).
Nguyên lý Lefschetz phát biểu rằng tương đương phần tử với bất kỳ trường đóng đại số đặc số không. Hơn nữa, bất kỳ phát biểu đúng trong khi và chỉ khi nó đúng trong mọi trường đóng đại số có đặc số đủ cao.
Nhóm Galois tuyệt đối
Với trường không đóng đại số, nhóm Galois tuyệt đối rất quan trọng: tổng quát trường hợp mở rộng Galois hữu hạn ở trên, nhóm này kiểm soát tất cả mở rộng hữu hạn tách được của . Bằng phương pháp sơ cấp, nhóm có thể được chứng minh là nhóm Prüfer, hoàn thành cận hữu hạn của . Phát biểu này bao hàm việc những mở rộng đại số duy nhất của là các trường với , và nhóm Galois của những mở rộng hữu hạn này được cho bởi
.
Biểu diễn của nhóm Galois và những nhóm liên quan như nhóm Weil có tầm quan trọng trong số học, ví dụ như chương trình Langlands. Nghiên cứu đối đồng điều của những biểu diễn đó sử dụng đối đồng điều Galois. Lấy ví dụ, nhóm Brauer, thường được định nghĩa là nhóm của -đại số trung tâm đơn giản, có thể được xem là một nhóm đối đồng điều Galois:
.
K-lý thuyết
K-lý thuyết Milnor được định nghĩa là
Định lý đẳng cấu thặng dư norm, chứng minh vào khoảng trước năm 2000 bởi Vladimir Voevodsky, liên hệ với đối đồng điều Galois bằng đẳng cấu
K-Lý thuyết đại số liên quan đến nhóm các ma trận khả nghịch với hệ số thuộc một trường nhất định. Ví dụ, quá trình lấy định thức của một ma trận khả nghịch cho ta đẳng cấu . Định lý Matsumoto chứng minh rằng bằng với . Ở những bậc cao hơn, K-lý thuyết khác với K-lý thuyết Milnor và nhìn chung khó để tính.
Ứng dụng
Đại số tuyến tính và đại số giao hoán
Nếu , thì phương trình
có nghiệm duy nhất thuộc , đó là . Hệ quả của định nghĩa của trường là một thành phần quan trọng để cho thấy bất kỳ không gian vectơ nào cũng có một cơ sở. Nói đơn giản, điều này cho phép ta chọn một hệ tọa độ trong một không gian vectơ bất kỳ, điều vô cùng quan trọng trong đại số tuyến tính về cả lý thuyết lẫn ứng dụng.
Môđun (khái niệm tương tự với không gian vectơ) trên hầu hết vành, bao gồm vành số nguyên , có cấu trúc phức tạp hơn. Một trường hợp đặc biệt nảy sinh khi một vành là một không gian vectơ trên trường . Những trường như thế được gọi là -đại số và được nghiên cứu kỹ càng trong đại số giao hoán. Ví dụ, bổ đề chuẩn hóa Noether khẳng định rằng bất kỳ -đại số hữu hạn sinh có liên hệ mật thiết (chính xác hơn, là một môđun sinh hữu hạn trên) một vành đa thức .
Trường hữu hạn: mật mã và lý thuyết mã hóa
Một thuật toán mã hóa được áp dụng rộng rãi dựa trên một sự thật cơ bản, đó là tính lũy thừa rời rạc
( thừa số, với số nguyên )
trong một trường hữu hạn (lớn) có thể được thực hiện nhanh hơn rất nhiều so với lôgarit rời rạc, tương đương với phép toán ngược lại, tức là xác định nghiệm của phương trình
.
Trong mật mã đường cong elliptic, phép nhân trong một trường hữu hạn được thay thế bằng phép cộng các điểm trên một đường cong elliptic, một đường cong định nghĩa bởi phương trình
.
Trường hữu hạn cũng được sử dụng trong lý thuyết mã hóa và tổ hợp.
Hình học: trường các hàm số
Hàm số trên một không gian tôpô thích hợp vào một trường có thể được cộng và nhân tại từng điểm, ví dụ, tích của hai hàm số được định nghĩa là tích từng giá trị của chúng trong tập xác định:
.
Điều này khiến những hàm này là một -đại số giao hoán.
Để có một trường các hàm số, cần phải xét những đại số của hàm là miền nguyên. Trong trường hợp này tỉ số của hai hàm số, có dạng
tạo thành một trường, gọi là trường các hàm số.
Nếu là một đa tạp phức, ta xét đại số của những hàm chỉnh hình, những hàm khả vi phức. Tỉ số của chúng tạo thành trường các hàm phân hình trên .
Trường hàm của một đa tạp đại số (một vật thể hình học gồm những nghiệm chung của các phương trình đa thức) gồm tỉ số của những hàm chính quy, tức tỉ số các hàm đa thức trên đa tạp. Trường hàm của không gian chiều trên một trường là . Trường hàm của bằng với trường hàm của một đa tạp con trù mật mở. Nói cách khác, trường hàm không thay đổi thi thay với một đa tạp con nhỏ hơn.
Lý thuyết số: trường toàn cục
Trường toàn cục là trung tâm của lý thuyết số đại số và hình học số học.
Theo định nghĩa, trường toàn cục là những trường số (mở rộng hữu hạn của ) hoặc trường hàm trên (mở rộng hữu hạn của ). Hai loại trường này có chung một số tính chất, mặc dù chúng có đặc số lần lượt là 0 và dương. Sự tương quan giữa hai trường này giúp hình thành các phỏng đoán toán học, thường là hiểu bản chất của trường các hàm trước rồi xét đến trường số. Ví dụ, giả thuyết Riemann liên quan đến các nghiệm của hàm zeta Riemann (chưa được chứng minh đến năm 2019) có thể được xem là tương quan với giả thuyết Weil (được chứng minh năm 1974 bởi Pierre Deligne).
Trường chia đường tròn là một trong những đối tượng được nghiên cứu nhiều nhất trong lý thuyết số. Chúng có dạng , trong đó là một nghiệm đơn vị nguyên thủy bậc , một số phức thỏa và với mọi . Trong trường hợp là một số nguyên tố chính quy, Kummer sử dụng trường chia đường tròn để chứng minh định lý lớn Fermat, khẳng định không tồn tại nghiệm nguyên khác không của phương trình
.
Trường địa phương là hoàn thành của trường toàn cục. Định lý Ostrowski khẳng định rằng những hoàn thành duy nhất của trường toàn cục là các trường địa phương và . Những câu hỏi số học trong trường toàn cục đôi khi được giải quyết bằng cách nhìn từ góc độ địa phương. Kỹ thuật này được gọi là nguyên lý địa phương-toàn cục. Ví dụ, định lý Hasse–Minkowski thu gọn bài toán tìm nghiệm hữu tỉ của phương trình bậc hai xuống còn giải những phương trình đó trong và , với nghiệm có thể được dễ dàng nghiên cứu.
Không như trường địa phương, nhóm Galois của trường toàn cục chưa được biết đến. Bài toán Galois nghịch đặt câu hỏi liệu mọi nhóm hữu hạn có phải là nhóm Galois của một trường số nào đó. Lý thuyết trường các lớp mô tả các mở rộng abel, những mở rộng với nhóm giao hoán Galois. Định lý Kronecker–Weber, mô tả những mở rộng abel cực đại của : trường
nhận được bằng cách thêm tất cả nghiệm đơn vị nguyên thủy cấp . Bài toán thứ mười hai của Hilbert yêu cầu một mô tả cụ thể của của một trường số nói chung. Với các trường bậc hai ảo, , , có thể mô tả sử dụng đường cong elliptic. Trong trường hợp trường số tổng quát, bài toán vẫn chưa được giải quyết.
Khái niệm liên quan
Ngoài những cấu trúc phụ thêm vào trường, có một số khái niệm khác liên quan đến trường. Do trong một trường , bất kỳ trường nào cũng có ít nhất hai phần tử. Tuy nhiên, có khái niệm trường có một phần tử, được đề nghị là giới hạn của những trường hữu hạn , khi tiến đến 1. Ngoài vành chia, còn một số cấu trúc đại số yếu hơn liên quan tới trường như tựa trường, gần-trường và nửa trường.
Vành chia
Bỏ một hoặc vài tiên đề trong định nghĩa của trường dẫn đến nhiều cấu trúc đại số khác. Như đã nói ở trên, vành giao hoán thỏa mãn tất cả tính chất của trường, ngoại trừ sự tồn tại của phần tử nghịch đảo phép nhân. Nếu ta bỏ điều kiện phép nhân có tính giao hoán thì dẫn đến khái niệm của một vành chia. Những vành chia duy nhất là -không gian vectơ hữu hạn chiều là chính , (một trường), những số quaternion (trong đó phép nhân không có tính giao hoán), và octonion (trong đó phép nhân không giao hoán và không kết hợp). Điều này được chứng minh sử dụng các phương pháp của tôpô đại số năm 1958 bởi Michel Kervaire, Raoul Bott, và John Milnor. Sự không tồn tại của một đai số chia có số chiều lẻ đã được biết từ trước đó và có thể được suy ra từ định lý quả bóng lông.
Ghi chú |
Từ lưu lượng có thể mang một trong những nghĩa như sau:
Lưu lượng dòng chảy trong lòng dẫn: là thể tích chất lỏng qua một mặt cắt lòng dẫn trong một đơn vị thời gian.
Lưu lượng giao thông là số lượng phương tiện tham gia giao thông tại một vị trí trên tuyến đường nhất định.
Trong công nghệ thông tin, lưu lượng thông tin (traffic) là khối lượng các thông báo gởi qua một mạng truyền thông. |
Về định nghĩa địa lý, ốc đảo là vùng đất biệt lập có thực vật trên sa mạc, thường hiện diện xung quanh một mạch nước hay nguồn nước tương tự. Ốc đảo là nơi ngụ cư của muông thú và con người nếu diện tích đủ rộng. Ốc đảo giữ vị trí cực kỳ quan trọng đối với các tuyến đường đi lại và buôn bán ở các vùng sa mạc. Các đoàn lữ khách hay hành hương đều phải đi ngang qua các ốc đảo để được bổ sung nước uống và thực phẩm. Do đó, việc kiểm soát các ốc đảo về chính trị hay quân sự trong nhiều trường hợp sẽ đồng nghĩa với việc nắm quyền kinh doanh tại một tuyến đường đặc biệt, chẳng hạn như các ốc đảo Awjila, Ghadames, và Kufra ở nước Libya đã nhiều lúc đóng vai trò sống còn đối với giao thương Bắc-Nam và Đông-Tây của Sa mạc Sahara.
Ốc đảo được hình thành từ các dòng sông ngầm hay từ các địa tầng ngậm nước, được phun lên mặt đất do áp lực tự nhiên hay do con người đào giếng chạm đến mạch. Những cơn giông ngắn tuy thi thoảng mới có cũng giúp duy trì nguồn nước ngầm của ốc đảo thiên nhiên như trường hợp của ốc đảo Tuat. Những lớp đá nền không thấm nước có thể giữ nước lại trong các hốc khe; hay những phay địa tầng dài dưới mặt đất hoặc các dãy đá mắc-ma của núi lửa có thể thu giữ nước rồi thẩm thấu ngược lên mặt đất. Và khi có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sự xuất hiện của nước, các loài chim thiên di sẽ bay đến, mang theo các hạt giống và các mép rìa của vùng nước sẽ mọc lên cây cối hình thành nên ốc đảo.
Trồng trọt
Những người sống trong ốc đảo phải quản lý đất đai và sử dụng nguồn nước cẩn thận; những nông trường cần tưới tiêu để trồng trọt những loại cây như mơ, chà là, sung và ô liu. Cây trồng quan trọng nhất tại ốc đảo là chà là, hình thành nên tầng tán phía trên. Những cây cọ tạo bóng mát cho những cây nhỏ hơn như đào, tạo thành những tán cây trung giữa. Bằng cách trồng nhiều loại cây theo từng tầng tán thích hợp, người nông dân có thể sử dụng tối ưu nguồn nước và đất. Trong ốc đảo, nhiều loại rau cũng được canh tác, và một số loại ngũ cốc như đại mạch, kê, lúa mỳ cũng được trồng tại những nơi có độ ẩm cao. |
Trường có thể chỉ đến:
Trường, một cơ sở giáo dục và đào tạo.
Trường, một khái niệm trong đại số
Trường, một khái niệm trong vật lý, ví dụ: từ trường.
Trường, một cột của bảng (table) trong cơ sở dữ liệu quan hệ, một thuộc tính của các bản ghi trong bảng.
Khái niệm vật lý |
Từ Huy, tên khai sinh là Tạ Từ Huy (15 tháng 10 năm 1948 – 10 tháng 9 năm 2006), quê ở Điện Bàn, Quảng Nam, là một nhạc sĩ Việt Nam.
Từ Huy vốn học Đại học Văn khoa Sài Gòn, Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Ông đã từng có những bài thơ yêu nước in trên các tạp chí Đối diện, Văn.... Sau năm 1975, Từ Huy đi vào sáng tác ca khúc. Ông là lớp nhạc sĩ đầu tiên trưởng thành sau 1975 .
Ngay từ những tác phẩm đầu tiên mang chất nhạc trẻ như Những lời em hát, Mùa xuân tình yêu... đã được giới thanh niên đón nhận. Những năm sau đó, ca khúc Từ Huy xuất hiện nhiều trên các sàn diễn như Chiều thứ bảy, Lời yêu thương, Một thoáng quê hương, Mong đợi ngậm ngùi, Ngày em đến...
Là một trong bảy nhạc sĩ thuộc nhóm Những người bạn, Từ Huy vừa sáng tác vừa tổ chức Câu lạc bộ Nhạc sĩ nhằm giới thiệu các tác phẩm mới của các nhạc sĩ trẻ và giới thiệu các ca sĩ trẻ.
Từ Huy đã xuất bản nhiều tuyển tập thơ, ca khúc và album tác giả. Ông từng là họa sĩ báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh và là thư ký toà soạn tờ Thế giới Âm nhạc của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.
Ông mất tại Bệnh viện Chợ Rẫy sau một thời gian lâm bệnh . Ông có một người con trai tên Tạ Nguyên Phúc, hiện là một biên đạo thời trang nổi tiếng, đã thực hiện nhiều show diễn thời trang.
Một số tác phẩm
Mong đợi ngậm ngùi
Một thoáng quê hương (viết chung với Thanh Tùng)
Ngày em đến
Quê hương tuổi thơ tôi
Hãy đàn lên
Những lời em hát
Ngày Tết quê em
Một vòng quanh
Mùa xuân tình yêu
Ngày tháng phiêu bồng
Cánh chim lang thang
Lá biếc
Mưa chiều kỷ niệm
Như cây với lá
Từ khi có em
Chín dòng sông hát
Ru em
Xuân thì
Ngôi sao ngày mới (viết khai mạc cuộc thi Sao Mai đầu tiên)
Lời chúc đêm giao thừa
Con gái Sài gòn
Album
Ngày em đến - với Thanh Lam và Hồng Nhung (1994)
Chú thích |
Trong toán học, bất đẳng thức Cauchy – Schwarz, còn được gọi là bất đẳng thức Schwarz, bất đẳng thức Cauchy, hoặc bằng cái tên khá dài là bất đẳng thức Cauchy – Bunyakovsky – Schwarz hay bất đẳng thức CBS, đặt theo tên của Augustin Louis Cauchy, Viktor Yakovlevich Bunyakovsky và Hermann Amandus Schwarz, là một bất đẳng thức thường được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của toán học, chẳng hạn trong đại số tuyến tính dùng cho các vector, trong giải tích dùng cho các chuỗi vô hạn và tích phân của các tích, trong lý thuyết xác suất dùng cho các phương sai và hiệp phương sai.
Bất đẳng thức này phát biểu rằng nếu x và y là các phần tử của không gian tích trong thực hay phức thì
Dấu đẳng thức xảy khi và chỉ khi x và y phụ thuộc tuyến tính (hay nói theo ý nghĩa hình học là chúng song song với nhau). Một trường hợp đặc biệt nữa của x và y là khi chúng trực giao (hay nói theo ý nghĩa hình học là vuông góc) nhau thì tích trong của chúng bằng 0.
Như vậy, có vẻ như bất đẳng thức này cho thấy có mối liên quan giữa khái niệm "góc của hai vector" với khái niệm tích trong, mặc dầu các khái niệm của hình học Euclide có thể không còn mang đầy đủ ý nghĩa trong trường hợp này, và ở mức độ nào đấy, nó cho thấy ý niệm các không gian tích trong là một sự tổng quát hoá của không gian Euclide.
Một hệ quả quan trọng của bất đẳng thức Cauchy – Schwarz: tích trong là một hàm liên tục.
Một dạng khác của bất đẳng thức Cauchy – Schwarz được phát biểu dưới đây bằng cách dùng ký hiệu chuẩn, với chuẩn ở đây được hiểu là chuẩn trên không gian định chuẩn
Năm 1821, Cauchy chứng minh bất đẳng thức này trong trường hợp các vector thực và hữu hạn chiều và đến năm 1859, học trò của Cauchy là Bunyakovsky nhận xét rằng khi chúng ta lấy giới hạn chúng ta có thể thu được dạng tích phân của bất đẳng thức này. Kết quả tổng quát trong trường hợp không gian tích trong được chứng minh bởi Schwarz vào năm 1888.
Chứng minh
Bất đẳng thức này rõ ràng đúng với y = 0, vì thế ta có thể giả sử <x, y> khác 0. Giả sử là một số phức bất kỳ. Khi đó, chúng ta có bất đẳng thức chắc chắn đúng như sau:
Chọn
chúng ta được
mà bất đẳng thức trên đúng khi và chỉ khi
hay tương đương:
(điều phải chứng minh)
Một số trường hợp đặc biệt đáng chú ý
Trong trường hợp không gian Euclide Rn, bất đẳng thức này trở thành
. Đặc biệt hơn, trong không gian Euclide với số chiều bằng 2 hay 3, nếu tích vô hướng được xác định theo góc giữa hai vector, khi đó bất đẳng thức này trở thành một bất đẳng thức dễ dàng chứng minh: . Hơn nữa, trong trường hợp này, bất đẳng thức Cauchy – Schwarz có thể suy ra từ đồng nhất thức Lagrange bằng cách bỏ qua một số hạng. Trong trường hợp số chiều n = 3, đồng nhất thức Lagrange có dạng:
Hệ quả của bất đẳng thức này là bất đẳng thức
Trong không gian tích trong của các hàm giá trị phức khả tích-bình phương, chúng ta có
Một dạng tổng quát của hai bất đẳng thức ở phần này là bất đẳng thức Holder.
Một hệ quả khác, đó là bất đẳng thức Schwarz hay cũng được nhiều tài liệu gọi là bất đẳng thức Cauchy – Schwarz dạng Engel
Một vài ứng dụng
Bất đẳng thức tam giác cho tích trong thường được xem là một hệ quả của bất đẳng thức Cauchy – Schwarz như sau: cho các vector x và y,
{|
| ||
|-
| ||
|-
| ||
|-
| ||
|-
| ||
|}
Lấy căn bậc hai hai vế ta được bất đẳng thức tam giác.
Một số dạng cơ bản
Bất đẳng thức Bunyakovsky dạng thông thường
(a² + b²)(c² + d²) ≥ (ac + bd)²
Chứng minh: (a² + b²)(c² + d²) ≥ (ac + bd)² ↔ (ac)² + (ad)² + (bc)² + (bd)² ≥ (ac)² + 2abcd + (bd)² ↔ (ad)² + (bc)² ≥ 2abcd ↔ (ad)² - 2abcd + (bc)² ≥ 0 ↔ (ad - bc)² ≥ 0
Dấu " = " xảy ra khi hay
Để dễ dàng chứng minh ta thường đưa về dạng hai vecto có tọa độ trong mặt phẳng Oxy rồi áp dụng công thức như trên.
Bất đẳng thức Bunyakovsky cho 2 bộ số
Với hai bộ số và ta có:
Dấu "=" xảy ra khi và chỉ khi với quy ước nếu một số nào đó (i = 1, 2, 3,..., n) bằng 0 thì tương ứng bằng 0. |
Quốc Oai là một huyện ngoại thành nằm ở phía tây thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Quốc Oai nằm ở phía tây ngoại thành của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 20 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp quận Hà Đông và huyện Hoài Đức
Phía tây giáp huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
Phía nam giáp huyện Chương Mỹ
Phía bắc giáp huyện Thạch Thất và huyện Phúc Thọ.
Dân số năm 2009 là 188.000 người. 2,8% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Quốc Oai là một huyện nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có hai tuyến giao thông trọng yếu chạy qua là đường Láng - Hòa Lạc và đường Hồ Chí Minh nên có nhiều lợi thế phát triển đô thị và công nghiệp.
Lịch sử
Trước đây là trấn, rồi phủ Quốc Oai, gồm các huyện Đan Phượng, Từ Liêm, Thạch Thất, Yên Sơn, Phúc Lộc (sau là Phúc Thọ).
Năm 1831, tách huyện Từ Liêm về Tỉnh Hà Nội dưới thời nhà Nguyễn.
Năm 1888, sau khi tách huyện Đan Phượng về phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Đông mới lập, phủ Quốc Oai chuyển thành huyện Quốc Oai thuộc tỉnh Sơn Tây.
Từ năm 1965 thuộc tỉnh Hà Tây.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975 thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, gồm 23 xã: Cấn Hữu, Cộng Hòa, Đại Thành, Đồng Quang, Đông Yên, Hiệp Thuận, Hòa Thạch, Hoàng Ngô, Liên Hiệp, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Tam Hiệp, Tân Hòa, Tân Phú, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, 7 xã của huyện Quốc Oai là Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận, Cộng Hòa, Tân Hòa, Tân Phú và Đại Thành nhập vào thủ đô Hà Nội, trong đó 4 xã (Cộng Hòa, Tân Hòa, Tân Phú, Đại Thành) nhập vào huyện Hoài Đức, 3 xã còn lại (Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận) nhập vào huyện Phúc Thọ, đều thuộc Hà Nội (Quyết định của Hội đồng Chính phủ ngày 17 tháng 2 năm 1979). Phần còn lại của huyện Quốc Oai vẫn ở lại tỉnh Hà Sơn Bình với tên gọi huyện Quốc Oai, gồm 16 xã: Cấn Hữu, Đồng Quang, Đông Yên, Hòa Thạch, Hoàng Ngô, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn.
Ngày 23 tháng 12 năm 1988, thành lập thị trấn Quốc Oai trên cơ sở giải thể xã Hoàng Ngô.
Từ ngày 12 tháng 8 năm 1991 huyện Quốc Oai lại trở về với tỉnh Hà Tây. Các xã trước kia thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội cũng chuyển về huyện Quốc Oai. Riêng 3 xã Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận vẫn thuộc huyện Phúc Thọ. Như vậy, huyện Quốc Oai có 20 đơn vị hành chính gồm thị trấn Quốc Oai và 19 xã: Cấn Hữu, Cộng Hòa, Đại Thành, Đồng Quang, Đông Yên, Hòa Thạch, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Tân Hòa, Tân Phú, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, giải thể tỉnh Hà Tây cũ, huyện Quốc Oai thuộc thành phố Hà Nội, và tiếp nhận thêm xã Đông Xuân từ huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình theo quyết định của HĐND Thành phố Hà Nội mới (mở rộng).
Ngày 8 tháng 5 năm 2009, toàn bộ xã Đông Xuân được chuyển vào huyện Quốc Oai. Như vậy, huyện Quốc Oai có 1 thị trấn và 20 xã.
Hành chính
Huyện Quốc Oai có 21 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Quốc Oai (huyện lỵ) và 20 xã: Cấn Hữu, Cộng Hòa, Đại Thành, Đồng Quang, Đông Yên, Hòa Thạch, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Tân Hòa, Tân Phú, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn, Đông Xuân
Di tích lịch sử
Di tích quốc gia đặc biệt Chùa Thầy
Đình So (Di tích quốc gia đặc biệt)
Giao thông
Đại lộ Thăng Long
Quốc lộ 21A cũ hay Đường Hồ Chí Minh
Tỉnh lộ 421B
Đường phố
17 tháng 8
Chùa Thầy
Đỗ Cảnh Thạc
Hoàng Xá
Phố Huyện
Kiều Phú
Phủ Quốc
Đường 419
Đường 421B
Đại lộ Thăng Long
Hạ tầng
Các tuyến xe buýt đi qua và đi từ địa bàn huyện Quốc Oai: 74 (Bến xe Mỹ Đình - Xuân Khanh), 87 (Bến xe Mỹ Đình - Quốc Oai - Xuân Mai), 88 (Bến xe Mỹ Đình - Hòa Lạc - Xuân Mai), 89 (Bến xe Yên Nghĩa - Thạch Thất - Bến xe Sơn Tây), 107 (Kim Mã - Làng văn hóa du lịch các dân tộc VN), 116 (Yên Trung (Thạch Thất) - KCN Phú Nghĩa), 117 (Hòa Lạc - Nhổn), 157 (Bến xe Mỹ Đình - Bến xe Sơn Tây), 163 (Bến xe Yên Nghĩa - Hoài Đức).
Làng nghề
Các làng nghề, ngành nghề, nhóm nghề phụ ở huyện Quốc Oai phát triển nhiều ở nhóm mây tre đan và chế biến lương thực, thực phẩm:
Nghề làm cót nan xã Nghĩa Hương
Làn cót nan thôn Trại Do (Tuyết Nghĩa)
Nghề mộc, sơ chế gỗ Ngô Sài (thị trấn Quốc Oai)
Đan lát, chẻ tăm hương Đồng Lư (Đồng Quang)
Nghề dệt len mút ở Cộng Hòa
Mây tre giang đan xã Liệp Tuyết
Nghề mộc dân dụng thôn Yên Quán (Tân Phú)
Chể biến lương thực, thực phẩm miến Tân Hòa
Một số có nghề sơ chế gỗ, lâm sản Nghĩa Hương
Nghề làm nón ở Ngọc Mỹ
Nghề đan cót nan thôn Muôn (Tuyết Nghĩa)
Chế biến tinh bột, làm miến Cộng Hòa
Nghề mộc thôn Ngọc Than (Ngọc Mỹ). |
Lục Tiểu Phụng (陆小凤, Lu Xiao Feng) là một nhân vật nổi tiếng trong những tiểu thuyết kiếm hiệp của Cổ Long với biệt hiệu "Tứ mi mao" - người có bốn hàng lông mày, bởi bộ ria mép của anh mảnh như lông mày vậy. Nhân vật này là một người chuyên làm việc nghĩa, tuy có võ công lợi hại là "Linh tê chỉ", song Cổ Long không chú trọng lắm về việc miêu tả võ công của anh, mà tập trung khai thác khả năng phá án ("Lục Tiểu Phụng hệ liệt" là truyện võ hiệp song mang tính trinh thám nhiều hơn). Tật xấu của nhân vật này là mê rượu và nữ nhân. Lục Tiểu Phụng còn có những "biệt hiệu" khác do các "hảo bằng hữu" đặt cho: Lục Ba Trứng, Lục Tiểu Kê...
Các tác phẩm trong hệ liệt
7 quyển:
Lục Tiểu Phụng truyền kỳ hay Kim Bằng vương triều, 陆小凤传奇 Liu Xiao Feng Chuan Ji (The Legend of Liu Xiao Feng) - 1976
Tú hoa đại đạo, 繡花大盜 Xiu Hua Da Dao (Embroidery Bandit) - 1976 (bản dịch cũ: Phượng gáy trời nam)
Quyết chiến tiền hậu, 決戰前後 Jue Zhan Qian Hou (Before and After the Duel) - 1976 (bản dịch cũ: Tiền chiến hậu chiến)
Ngân câu đổ phường, 银钩赌坊 Yin Gou Du Fang (The Silver Hook Gambling House) - 1977
U Linh sơn trang, 幽靈山莊 You Ling Shan Zhuang (Stealth Mountain Village) - 1977
Phụng vũ cửu thiên, 鳳舞九天 Feng Wu Jiu Tian (The Phoenix Dances of Nine Heavens) - 1978
Kiếm thần nhất tiếu, 劍神一笑 Jian Shen Yi Xiao (Laughter of the Sword God) - 1981
Chuyển thể
Phim truyền hình
Điện ảnh
Âm nhạc |
Charles Pierre Baudelaire (phát âm IPA: ; 9 tháng 4 năm 1821 – 31 tháng 8 năm 1867) là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở Pháp, trong thế kỷ 19, ông thuộc trường phái tượng trưng chủ nghĩa. Ông sinh năm 1821 tại Paris. Năm 1827, cha ông qua đời. Sau đó, mẹ ông tái hôn và gửi ông vào một trường nội trú. Ông cùng gia đình tới Ấn Độ vào năm 1841. Khoảng một năm sau đó, ông trở về paris, đối mặt với cuộc sống thiếu thốn và bắt đầu sáng tác. Ông có tham gia cuộc Cách mạng năm 1848 để kết thúc nền Quân chủ tháng Bảy. Trong thời kỳ này, ông gặp một phụ nữ đẹp tên là Jeanne Duval, và chính người này đã đem nhiều cảm xúc và thi hứng cho ông. Năm 1867, ông qua đời sau một thời gian ốm nặng.
Ông đã viết nhiều bài tiểu luận phê bình nghệ thuật, dịch thơ Edgar Allan Poe, xuất bản tập thơ Les Fleurs du Mal (đã xuất bản ở Việt Nam dưới tên "Những bông hoa ác")
Bao gồm những bài thơ sau:
(1. Abel và Caïn 17. Con tàu đẹp 33. Người đẹp
2. Ái tình và sọ người 18. Con thiên nga 34. Người tu sĩ xấu
3. Âm nhạc 19. Cuối ngày 35. Người và biển
4. Đoàn Bô-hê-miêng lên đường 20. Gửi người đi qua 36. Những bà già còm cõi
5. Bài ca buổi chiều 21. Gửi Théodore de Banville 37. Những con mèo
6. Bài thơ tình buồn (I) 22. Hối hận dưới mồ 38. Phúc trời
7. Buổi chiều tà của mặt trời lãng mạn 23. Hồn rượu 39. Phong cảnh
8. Cầu khẩn 24. Kẻ thù 40. Suối máu
9. Cái điếu 25. Khúc chiều tà 41. Ta tặng nàng những vần thơ này
10. Cái chết của người nghèo 26. Lời than thở của Icare 42. Tĩnh tâm
11. Cái chết của tình nhân 27. Lên cao 43. Tương ứng
12. Chán đời 28. Nỗi buồn của Mặt Trăng 44. Thu ca (I)
13. Chân dung 29. Nàng Thơ đánh đĩ 45. Thu ca (II)
14. Chim hải âu 30. Nàng Thơ nhuốm bệnh 46. Tiếng nói
15. Chuông rạn vỡ 31. Nói gì chiều nay 47. Vận xúi
16. Con mèo 32. Người ở gái có tâm hồn cao cả mà em vẫn ghen)
Sau cái chết của ông, một số tác phẩm như Journaux intimes (Nhật ký riêng tư) và Petits poefme en prose (Những bài thơ nhỏ viết theo thể văn xuôi) mới được xuất bản. |
Lão Xá (, 3 tháng 2 năm 1899 - 24 tháng 8 năm 1966), nguyên danh Thư Khánh Xuân (舒慶春), tự Xá Dư (舍予) là một văn sĩ Trung Hoa.
Tiểu sử
Lão Xá sinh ngày 3 tháng 2 năm 1899 tại Bắc Kinh trong một gia đình nghèo thuộc Mãn Châu Chính Hồng kỳ. Năm 1913, ông vào học tại trường học số 3 Bắc Kinh (nay là Trung học số 3 Bắc Kinh), nhưng vài tháng sau, do những khó khăn tài chính, ông đã phải bỏ trường này. Ông được nhận vào Học viện Sư phạm Bắc Kinh và tốt nghiệp 5 năm sau đó.
Trong khoảng thời gian từ năm 1918 đến 1924, ông làm giám thị và giáo viên tại một số trường tiểu học tại Bắc Kinh và Thiên Tân. Năm 1919, phong trào Ngũ Tứ của công nhân nổ ra, nó đã gây cho ông ấn tượng mạnh và ảnh hưởng tới quyết định theo đuổi việc viết văn của ông.
Từ năm 1924 đến 1929, ông làm giảng viên Hán ngữ tại khoa Đông phương học của trường Đại học London. Trong khoảng thời gian này, ông đọc nhiều tác phẩm văn học Anh và bắt đầu sáng tác. Cuốn tiểu thuyết mang tên Nhị Mã mà ông hoàn thành sau đó được dựa trên khoảng thời gian này.
Mùa hè năm 1929, ông rời Anh đi Singapore, tiếp tục làm công việc giảng dạy trong trường Trung học Hoa Kiều. Năm 1930, ông trở về Trung Quốc và từ đó đến năm 1937, ông giảng dạy tại nhiều trường đại học như Đại học Tề Lỗ và Đại học Sơn Đông. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Lão Xá tham gia lãnh đạo phong trào văn sĩ Trung Quốc kháng Nhật. Sau đó, khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, ông giữ chức phó chủ tịch Hội nhà văn Trung Quốc.
Trong thời Văn Cách, như nhiều trí thức khác, Lão Xá cũng phải trải qua nhiều hình thức ngược đãi về cả thể chất và tinh thần. Ngày 24 tháng 8 năm 1966, ông đã trầm mình tại hồ Thái Bình, để lại 4 người con, 1 trai và 3 gái.
Tác phẩm
Lão Xá viết nhiều tiểu thuyết về đề tài học sinh, trí thức và thị dân, nhất là về cuộc sống ở Bắc Kinh. Tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm các tiểu thuyết Lạc đà tường tử, Tứ đại đồng đường, Miêu thành ký và vở kịch Trà quán. |
Vũ Phạm Hàm (武范諴, 1864 - 1906) là Nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi triều nhà Nguyễn (lúc ông 29 tuổi). Trong lịch sử Việt Nam chỉ có vài Tam nguyên là Đệ nhất giáp, gồm có Phạm Đôn Lễ, Vũ Dương, Lê Quý Đôn (triều Lê) và ông.
Tiểu sử
Vũ Phạm Hàm sinh năm Giáp Tý (1864), quê ở làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội) tự Mộng Hải, Mộng Hồ, hiệu Thư Trì.
Năm 21 tuổi, ông đỗ đầu kì thi Hương (Giải nguyên) khoa thi Giáp Thân đời vua Kiến Phúc (1884). Đến khoa thi Hội năm Nhâm Thìn, Thành Thái thứ tư (1892) ông đỗ thủ khoa (Hội nguyên). Do vậy tờ Đồng văn nhật báo đã đăng: Vũ quân kỳ khôi tinh giáng thế, nghĩa là ông Vũ phải chăng là sao khôi giáng thế. Dự thi Đình cùng năm đó, ông lại đỗ thủ khoa (Đình nguyên), giành học vị Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh (tức Thám hoa) nên thường được gọi là Tam nguyên Thám hoa hay Thám Hàm. Khoa này dự vào hàng Tam khôi (Đệ nhất giáp) không có Bảng nhãn, chỉ có Thám hoa (nhà Nguyễn không lấy đỗ Trạng nguyên). Khoa thi này lấy đỗ 9 tiến sĩ, 7 phó bảng, trong đó có Nguyễn Thượng Hiền đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và Chu Mạnh Trinh đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân.
Vũ Phạm Hàm đỗ Đệ nhất giáp Tam nguyên lúc 29 tuổi. Triều nhà Nguyễn có ba Tam nguyên: Vị Xuyên Trần Bích San, Yên Đổ Nguyễn Khuyến và ông. Nhưng Vị Xuyên và Yên Đổ tiên sinh đỗ Đệ nhị giáp (Hoàng giáp). Toàn thể lịch sử Việt Nam chỉ có Vũ Phạm Hàm và Lê Quý Đôn (triều Lê) là đỗ Đệ nhất giáp Tam nguyên trong ba kỳ thi đó. Ông cũng là vị Tam khôi cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Ông làm Giáo thụ rồi thăng Đốc học Hà Nội sung Đồng văn quán (báo Đồng Văn), lên đến Án sát các tỉnh Hưng Hóa, Hải Dương, sau đó cáo quan về trí sĩ ở quê và dạy học cho đến lúc mất.
Khi ông qua đời (1906), khu mộ ông được đặt tại làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Tại phường Trung Hòa quận Cầu Giấy, Hà Nội có phố mang tên ông.
Đóng góp và được ghi danh
Thơ văn
Tác phẩm của ông chủ yếu được viết bằng chữ Hán, song cũng có nhiều tập văn thơ phú viết bằng chữ Nôm. Trong thư viện Khoa học Trung ương còn lưu trữ một số sách của ông, được thống kê như sau:
- Kinh Sử Thi Tập (văn, sử), ký hiệu A.133
- Tập Đường Thuật Hoài (văn), A.2354
- Thám Hoa Văn Tập (văn), A.528
- Hưng Hóa Phú (văn, sử), A.1055
- Thư Trì Thi Tập (văn), tập thơ chữ Hán còn bản chép tay
- Cầu Đơ Tỉnh nhân đinh phong tục tổng sách (địa), A.173
- Đề từ một số sách như: Quốc triều Khoa bảng lục (tự), A.37 và Lễ trai văn tập (tự), A.1020
Văn thơ của ông chưa được phổ biến và ngày càng có ít người biết vì sách được lưu giữ trong thư viện đều là chữ Nôm và chữ Hán. Những bài đã được phiên dịch ra hoặc phiên âm nhiều người biết như bài phú Hương Sơn phong cảnh, bài Vịnh con cua, bài Đề ở lăng Đinh Tiên Hoàng trên núi Mã Yên - Mã Yên Sơn Lăng và khoảng hơn một chục bài vịnh về Hồ Tây và Hà Nội chỉ là một phần rất nhỏ trong toàn tập thơ văn của ông.
Ông có đôi câu đối hào hùng khí phách đề trước cửa đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí
萬 劫 有 山 皆 劍 氣
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh
六 頭 無 水 不 秋 聲
Tạm dịch nghĩa là:
Núi Vạn Kiếp đâu đâu cũng có tiếng gươm đao
Sông Lục Đầu không ngọn sóng nào không có tiếng trống trận
Cũng có bản dịch là:
Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng
Lục Đầu vang dậy tiếng quân reo
hay
Vạn Kiếp núi cao hơi kiếm tỏa
Lục Đầu nước chảy tiếng thu vang
Chữ thu trong vế đối thứ hai của ông đã gây ra tranh luận từ nhiều năm sau này về ẩn ý của chữ đó, tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có giải đáp thỏa đáng.
Trong thời gian làm báo Đồng Văn (Đồng Văn Quán), bài phú Lê triều tiến sĩ đề danh bi của ông được các báo Trung Hoa thời đó ngợi khen là văn chương lỗi lạc và uyên bác.
Ghi danh
Tại Hà Nội, tên của ông đã từng được đặt cho một con phố trong giai đoạn 1945-1964 (thời Pháp thuộc gọi là Voie 104), thuộc Khu 1, gần Ngũ Xã, nay là phố Lạc Chính, Hà Nội. Tại Sài Gòn, từ thời Pháp thuộc đến năm 1975, tên của ông cũng được đặt cho một con phố nằm dọc Kênh Ngang số 3 nối từ Kênh Đôi sang Rạch Lò Gốm (thuộc quận 6), nay là phố Bình Đức, Tp. Hồ Chí Minh.
Ngày 14/7/2010, HĐND Hà Nội thông qua việc đổi tên phố và đặt tên phố mới ở một số quận, huyện. Trong đó, đáng lưu ý là việc thông qua đổi tên đường Trung Yên 1 (thuộc khu đô thị Trung Yên - do Ban quản lý khu đô thị tự đặt) thành đường Vũ Phạm Hàm. Đường Vũ Phạm Hàm (dài 750 mét, có hai đoạn bị cắt bởi ngã tư) vốn được đề xuất đặt tên gồm hai danh nhân là Nguyễn Trung Ngạn và Vũ Phạm Hàm.
Theo Nghị quyết số 08/2010/NQ-HĐND của HĐND Thành phố Hà Nội, đường Vũ Phạm Hàm kéo dài từ ngã tư giao với phố Nguyễn Khang, nối với cầu 361 ra đường Láng đến ngã tư giao với đường Trung Kính, nối với đường vào khu đô thị Nam Trung Yên đi ra Phạm Hùng, rộng 30m, dài 750m.
Bia Tiến sĩ khắc tên ông được đặt tại Văn Thánh, Huế.
Giai thoại
Thời ấy ở Hà Nam có một ông công sứ Pháp tuổi còn trẻ mà đã giỏi tiếng Việt, không chỉ giỏi tiếng Việt, ông ta còn đọc được cả bia chữ Hán, thơ văn chữ Hán. Vài năm một lần các quan chức Pháp sang cai trị ở ta đều phải dự một lần khảo hạch tiếng Việt, ai qua được thì được đặc cách lên lương sớm. Cái mẹo này khuyến khích người ta chịu khó học, nhiều ông đâm thua thiệt nhưng lắm ông mừng vì lương có cơ lên vùn vụt. Như viên công sứ Hà Nam chẳng hạn. Nhưng giỏi quá dễ kiêu, một hôm ông ta thở dài bảo, không biết năm nay tìm ai để khảo giám tôi đây. Vừa hay cũng là dịp có cụ Vũ Phạm Hàm từ bên Hải Dương thuyên chuyển về đất Hà Nam làm đốc học. Chuyện ấy đến tai ông cụ. Cuối năm ông cụ được mời đứng ra làm người hỏi thi tiếng Việt cho quan công sứ, gặp nhau ông cụ chỉ nói, quan lớn là người nổi tiếng, khắp Bắc kỳ này ai chả biết học lực tiếng Việt của quan lớn, bây giờ tôi không đòi quan lớn phải dùng đến bút mực làm gì, chúng ta chỉ cần nói chuyện, tôi sẽ hỏi quan lớn một câu ngắn, quan lớn cũng trả lời bằng một câu ngắn thế là đủ, mà tôi cấm quan lớn không được hỏi lại, hỏi lại là quan lớn trượt, quan lớn có bằng lòng không? Quan lớn nghe thế thì bằng lòng quá, ông già này xem ra rất biết điều. ông già dõng dạc hỏi, xin quan lớn cho biết trong tiếng Việt em gái mẹ gọi là gì? Thì trong tiếng Việt em gái mẹ gọi là dì. Ông công sứ trả lời tắp lự. Nhưng cũng vì là người giỏi tiếng Việt cho nên chỉ vừa thoáng thấy cụ Hàm cười là ông ta chợt vỡ lẽ, mình trượt mất rồi, ông già này bẫy mình mất rồi. Câu trả lời cũng có thể xem là một câu hỏi lại. Về tới dinh, nhìn thấy bà đầm thì ông hoảng thật sự, với ông miếng đòn này đâu có sá gì, nhưng với bà ấy thì lại là chuyện trời sập, còn ghê gớm hơn cả một cuộc chiến tranh.
Bà công sứ vội vã tìm đến nhà riêng cụ đốc học. Đợi bà lau nước mắt kể lể xong ông cụ mới chậm rãi bảo, phải để ông nhà hỏng thi tôi cũng lấy làm tiếc như bà, có một người Pháp yêu tiếng Việt như ông nhà sao tôi lại không quý. Giờ tôi ra cho bà một điều kiện nho nhỏ, bà làm được thì xem như ông nhà đỗ. Tôi về đây nghe dân tình xì xào là mỗi lần bà ra chợ, qua dãy hàng bún mắm tôm bà đều bịt mũi nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu, có phải vậy không? Vậy bà làm sao thì làm. Bà công sứ vui vẻ ra ngay chợ, vui vẻ sà vào hàng bún mắm tôm, chuyện trò rôm rả thân tình. Rồi bà yêu cầu ông chồng phải đến mời bằng được cụ đốc học tới thăm nhà mình một buổi. Ông cụ nhận lời. Vợ chồng công sứ hôm ấy mời ông cụ ở lại cùng họ dùng bữa trưa, chỉ có bún lá và mắm tôm. Suốt bữa bà đầm lấy làm sung sướng với món đặc sản đó. Năm ấy tai qua nạn khỏi, quan công sứ vẫn đỗ, vẫn lên lương như thường. Chẳng qua cũng chỉ là một sự nhắc nhở nhẹ nhau vậy thôi.
Khi ở Hải Dương, viên công sứ Pháp hồi ấy thích chơi hoành phi, câu đối, vốn biết ông là bậc danh nho mới xin một bức làm kỷ niệm. Ông cho hắn bốn chữ Ôn kỳ như ngọc. Chữ Kinh thi, thiên Tần phong: ngôn niệm quân tử ôn kỳ như ngọc. Ý nói: mến người quân tử ôn hòa như ngọc quý. Chủ tâm ông Thám cốt lấy điển Tần phong là thơ khen người rợ phương Tây để tặng công sứ người Pháp. Lập ý thật thâm thúy, ám chỉ Pháp chẳng qua là mọi rợ . Công sứ Pháp tất nhiên là chẳng hiểu gì, trịnh trọng treo bức hoành giữa nhà khách.
Chú giải |
Trịnh Cối (chữ Hán: 鄭檜, ? - 1584) là một nhà chính trị thời chiến tranh Lê-Mạc. Do là con cả của thượng tướng Trịnh Kiểm, ông được cha trao binh quyền trước khi chết. Người em cùng cha khác mẹ của ông - Trịnh Tùng, khởi binh chống lại. Trịnh Cối không kiểm soát được vua Lê, bị kẹp vào giữa quân Mạc và quân Trịnh Tùng, kết quả phải đầu hàng nhà Mạc.
Thân thế
Trịnh Cối là con trưởng của Trịnh Kiểm, anh cùng cha khác mẹ của Bình An vương Trịnh Tùng. Ông là con của Chính phi Thái vương phu nhân Lại Thị Ngọc Trân là người làng Long Phúc, xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An về đời Lê (nay là tỉnh Hà Tĩnh). Bà là em gái Thái tể Trang Quốc Công Lại Thế Vinh.
Cầm quyền
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, các sử quan gọi Trịnh Cối là Thế tử, ông xuất hiện trong bộ sử này vào năm 1563, 1565 với tư cách là người kế thừa sự nghiệp của Thượng tướng Thái quốc công Trịnh Kiểm, đi theo cha cùng em là Trịnh Tùng mang quân đi đánh lộ Sơn Nam. Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, vua Lê Anh Tông trao binh quyền cho Trịnh Cối, lúc ấy có tước là Tuấn Đức hầu. Bây giờ, Trịnh Cối buông thả mình trong tửu sắc, ngày càng rông rỡ kiêu ngạo, không thương gì đến quân lính. Các tướng dưới quyền đều có ý lìa bỏ, ai cũng nghĩ chuyện sinh biến, mầm họa hình thành.
Các tướng Nam triều là Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ, Văn Phong hầu Trịnh Vĩnh Thiệu, Vệ Dương hầu Trịnh Bách cùng bọn Lương quận công, Phổ quận công và Lai quận công Phan Công Tích đang đêm đem con em và binh lính tới chỗ Phúc Lương hầu Trịnh Tùng bàn định kế sách, ép Tùng phải hành động.Trịnh Tùng bất đắc dĩ phải cùng với Cập Đệ, Vĩnh Thiệu thu thập binh tướng, đang đêm chạy về hành tại Yên Trường. Hôm sau, đến dinh Kim Thành, ép Nghĩa quận công Đặng Huấn cùng đi đến cửa khuyết vào bái yết vua Lê. Họ cùng tâu với nhà vua rằng: Anh thần là Cối say đắm tửu sắc, mất lòng mọi người, sớm muộn thế nào cũng sinh loạn, lại đêm ngày mưu đoạt binh tượng và ấn báu của thần, nên bọn thần phải nửa đêm trốn vào cửa khuyết, đau xót báo tin, xin thánh thượng thương tình thu nạp!". Vua nói: "Khi thượng phụ còn sống không đến nỗi thế, làm thế nào bây giờ?" Phúc Lương hầu cùng Cập Đệ, Vĩnh Thiệu, Bách mật tâu vua dời hành tại vào trong cửa ải Vạn Lai, chia quân chiếm giữ cửa luỹ để phòng bị quân bên ngoài.
Hôm sau, Trịnh Cối tự mình đốc suất các tướng Phúc quận công Lại Thế Mỹ, An quận công Lại Thế Khanh, Lâm quận công Nguyễn Sư Doãn, Thạch quận công Vương Trân, Vị quận công Lê Khắc Thận, Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu, Hùng Trà hầu Phạm Văn Khoái, Hoành quận công (không rõ tên), và hơn 1 vạn quân, đuổi đến ngoài cửa quan, đóng dinh ở đấy. Trịnh Cối đóng quân vài ngày, các tướng ở trong cửa ải cũng đóng cửa giữ không ra. Hai bên sai người đưa thư qua lại, bên này nói xấu bên kia, lời lẽ rất ngạo mạn. Vua Lê sai sứ ra chiêu dụ các tướng ở ngoài cửa quan, bảo họ giảng hòa. Lại Thế Khanh nói: "Không ngờ ngày nay bọn chúng ta thành ra ở dưới người khác", rồi không chịu hòa, nói là đem quân đánh vào cửa khuyết, rồi bày chiến trận. Lại Thế Mỹ dùng giáo trỏ vào cửa quan: "Bao giờ bắt được người ở trong cửa quan thì việc mới hòa được". Vua Lê biết ý không hòa giải được, bèn sai các tướng đốc quân chống lại, suốt ngày đêm không nghỉ.
Trịnh Cối thấy đánh mãi không được, trong lòng ngần ngại, tự lui quân về dinh Biện Thượng, hội các tướng tá dưới quyền và nói: "Trong cửa quan có quân, ngoài cõi có giặc, ta ở quãng giữa, nếu có tai biến khẩn cấp thì khó mà chống đỡ được". Bèn hạ lệnh chia quân chiếm giữ những nơi xung yếu, Vũ Sư Thước thì giữ cửa biển Linh Trường và Hội Triều, Lại Thế Khanh giữ cửa biển Chi Long và Thần Phù, Nguyễn Sư Doãn giữ cửa biển Du Xuyên và Ngọc Giáp đề phòng quân Mạc vào đánh. Lại Thế Mỹ, Lê Khắc Thân, Nguyễn Hữu Liêu, Phạm Văn Khoái chỉnh đốn binh tượng, thuyền bè, khí giới, ngày đêm đóng đồn dọc bờ sông đề phòng các tướng trong cửa quan xông ra đánh. Lại sai Nguyên quận công Nguyễn Bá Quýnh trấn thủ Nghệ An để vỗ yên dân miền ấy.
Hàng nhà Mạc
Biết Nam triều có loạn, tháng 8 nǎm Canh Ngọ (1570), vua Mạc sai Mạc Kính Điển đem đại quân 10 vạn người và 700 chiến thuyền đánh vào Thanh Hóa. Quân Mạc tiến vào tận cửa Linh Trương, Chi Long, Hội Triều. Quân nhà Mạc đóng tại Hà Trung, hai bên bờ sông quân sĩ dàn ngang liên tiếp dài tới 10 dặm. Trịnh Cối lo sợ, đem vợ con và các thuộc tướng khoảng một vạn người đến hàng quân Mạc. Mạc Kính Điển chấp thuận, phong Cối làm Trung Lương hầu, các quan đi theo Cối thì được phong tước công. Vua Lê phong cho Trịnh Tùng làm trưởng quận công, tiết chế các quân thủy bộ để chống lại họ Mạc.
Cái chết
Tháng 9 nǎm Giáp Thân (1584) Trịnh Cối chết trên đất Bắc Triều. Trước đây, Cối đầu hàng họ Mạc, được ban tước Trung Lương hầu, sau được thăng lên Trung quận công. Đến đây chết. Họ Mạc sai người đến điếu tế; lại sai quân đưa linh cữu, cho người nhà, mẹ và vợ con đem về chôn. Tiết chế Trịnh Tùng cũng sai người đón tiếp linh cữu về quàn ở bên hữu núi Quân Yên, huyện Yên Định, đặt lễ cúng tế, dâng biểu tâu vua tha tội cho Cối, tặng thái phó Trung quốc công, cho con cái là Trịnh Sâm để tang (đừng nhầm lẫn với chúa Trịnh Sâm sau này). |
Bình phương hay mũ 2 là phép toán áp dụng cho mọi số thực hoặc số phức. Bình phương của một số là tích của số đó với chính bản thân nó 2 lần. Một cách tổng quát, bình phương chính là lũy thừa bậc 2 của một số, và phép toán ngược với nó là phép khai căn bậc 2.
Bảng bình phương
Tính chất
Bình phương của số thực luôn là số ≥0. Bình phương của một số nguyên gọi là số chính phương.
Tính chất của số chính phương
Số chính phương chỉ có thể tận cùng là: 0; 1; 4; 5; 6; 9. Số chính phương không thể tận cùng là: 2; 3; 7; 8.
Một số chính phương có tận cùng là 5 thì chữ số hàng chục là 2. Một số chính phương có tận cùng là 6 thì chữ số hàng chục là lẻ.
Chứng minh: Số chính phương có tận cùng là 5 suy ra có tận cùng là . Đặt . Ta có , có hai chữ số tận cùng là 25, do đó chữ số hàng chục là 2. Số chính phương có tận cùng là 6 suy ra có tận cùng là 4 hoặc 6. Xét và . Do đó chữ số hàng chục là số lẻ.
Khi phân tích một số chính phương ra thừa số nguyên tố thì các thừa số chỉ chứa số mũ chẵn.
Số lượng các ước của một số chính phương là một số lẻ.
N là số chính phương thì N chia hết cho một số nguyên tố khi và chỉ khi N chia hết cho bình phương của số nguyên tố đó (trừ trường hợp N=0; N=1).
Tích của nhiều số chính phương là một số chính phương.
Ví dụ: a2 × b2 × c2 = (a × b × c)2
Ký hiệu
Số mũ ² bên phải của số được bình phương.
Ví dụ
Số thực:
22 = 2 × 2 = 4
152 = 15 × 15 = 225
(- 0,5)2 = 0,25
Số phức:
Chú thích
Thư mục
Phan Đức Chính, Tôn Thân, Vũ Hữu Bình, Phạm Gia Đức, Trần Luận, 2011, Toán 6 (tập một) (tái bản lần thứ chín), Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
Đại số
Số học sơ cấp |
Trịnh Tùng (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu Thành Tổ Triết Vương (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới thời nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam.
Trịnh Tùng nguyên là con trai thứ hai của Trịnh Kiểm, người nắm quyền chấp chính của nhà Lê lưu vong tại Thanh Hóa đang đối đầu với nhà Mạc ở Thăng Long. Sau khi Trịnh Kiểm qua đời năm 1569, Trịnh Tùng nổi dậy đánh đuổi anh trai mình là Trịnh Cối, đoạt lấy toàn bộ quyền hành của Nam triều với chức Tiết chế Trường quốc công.
Trịnh Tùng được sử sách ghi nhận là nhà chỉ huy quân sự tài ba, người đã chặn được các cuộc tấn công của quân Mạc từ năm 1577 đến năm 1583. Năm 1592, Trịnh Tùng xuất quân bắc phạt, giành lại Đông Đô từ tay nhà Mạc, hoàn thành sự nghiệp trung hưng triều Lê. Sau đó, năm 1599 ông buộc nhà vua phải phong cho mình tước Bình An Vương (平安王) và lập phủ Chúa ngay bên cạnh triều đình vua Lê. Ông tự xét đoán hết công việc chính sự và lập con mình làm Thế tử, từ đây đến gần 200 năm tiếp theo, ngôi vua của nhà Lê chỉ còn là hư vị vì mọi quyền hành đã tập trung vào phủ Chúa, lịch sử gọi giai đoạn vua Lê - chúa Trịnh. Những năm tiếp theo, Trịnh Tùng lo việc thông hiếu với nước Minh, đối phó với dư đảng họ Mạc ở phía bắc và sự trỗi dậy của họ Nguyễn ở phương nam mà kết quả là cuộc Chiến tranh Trịnh - Nguyễn và nước Đại Việt bị chia cắt làm hai miền sau khi Trịnh Tùng qua đời.
Năm 1619, một âm mưu do vua Lê Kính Tông cùng con thứ của ông là Trịnh Xuân nhằm hãm hại Trịnh Tùng đã bị phát giác. Trịnh Tùng bèn giết vua rồi đưa cháu ngoại của mình là Lê Thần Tông lên nối ngôi. Bốn năm sau, khi Trịnh Tùng bị bệnh nặng; Trịnh Xuân lại nổi loạn, đốt phá cung phủ của ông khiến ông phải chạy trốn trong tình trạng hấp hối, song may mắn cho họ Trịnh là Trịnh Xuân đã bị đánh bại và giết chết chỉ ít ngày trước khi Trịnh Tùng qua đời. Ngôi Chúa được truyền cho con trai thứ hai của ông là Văn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng.
Ông được sử gia đánh giá là gian hùng khuynh đảo triều chính nhà Hậu Lê, đồng thời cũng nhà chính trị gia, nhà quân sự kiệt xuất, quyền thần tiêu biểu của nhà Hậu Lê trong thời kỳ Trung Hưng. Trong lịch sử Việt Nam ông là người giết nhiều vua nhất bao gồm hai vị vua Lê mà mình phò tá và hai vua Mạc.
Thân thế
Trịnh Tùng chào đời ở Thanh Hoa vào ngày 12 tháng 11 ÂL năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Bình thứ 2 (1550), tức 19 tháng 12 năm 1550 dưới triều Trung Tông nhà Lê, Tuyên Tông nhà Mạc.
Ông là con trai thứ 2 của Trịnh Kiểm, mẹ là bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo, con gái của Chiêu Huân Tĩnh công Nguyễn Kim - tức thủy tổ của triều đại nhà Nguyễn sau này. Trước kia Nguyễn Kim là người đi đầu trong việc trung hưng nhà Lê, sau khi Kim chết (1545), Trịnh Kiểm là con rể đã giành hết binh quyền, giết con cả của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và đẩy con thứ Nguyễn Hoàng ra Thuận Hóa. Từ đó chính sự trong nước về tay Trịnh Kiểm, đó là nền móng của chính quyền các chúa Trịnh về sau.
Ở trong gia đình, tuy Trịnh Tùng là cháu ngoại của Nguyễn Kim song phụ thân ông đã có chính thất là bà Lại Thị Ngọc Trân cũng là con nhà quan, còn bà Ngọc Bảo chỉ làm vợ lẽ. Bà Chính đã sinh ra công tử cả Trịnh Cối, vì thế ban đầu Tùng không được nhìn nhận là người kế nghiệp của họ Trịnh.
Tháng 4 năm 1565, Trịnh Tùng cùng anh trai là Trịnh Cối theo Trịnh Kiểm tiến đánh phủ Trường Yên của nhà Mạc. Trong trận này quân Lê - Trịnh giành được ưu thế ban đầu, nhưng sau đó Mạc Kính Điển dùng mưu lẻn vào đánh úp Thanh Hoa đang trống không khiến Trịnh Kiểm phải rút quân về.
Năm 18 tuổi (1568), Trịnh Tùng được nhận phong Phúc Lương hầu, đặc ân cho đeo ấn bình đông, mở phủ riêng. Ông là người tài đức, anh hùng nhất đời, có thể nối được chí cha, giúp nên nghiệp đế.
Lập thân thời loạn
Đuổi anh cướp quyền
Từ mùa đông năm 1569, Trịnh Kiểm già yếu, dâng biểu xin trí sĩ, Lê Anh Tông có chiếu cho con trưởng là Tuấn Đức hầu Trịnh Cối do bà Chính phu nhân Lại Thị Ngọc Trân sinh ra, giữ binh quyền. Ngày 24 tháng 3 năm 1570, Trịnh Kiểm bệnh nặng rồi mất, nhà vua đưa Trịnh Cối lên thay, quản lĩnh quân đội.
Ngày 6 tháng 5 năm đó, các tướng Lê Cập Đệ, Trịnh Vĩnh Thiệu, Phan Công Tích và Trịnh Bách cùng nhau chống lại Trịnh Cối, đang đêm dẫn thủ hạ tới đầu quân cho Trịnh Tùng. Tùng chớp được cơ hội, cùng bọn Cập Đệ đến chỗ vua Anh Tông ở An Trường, giữa đường gặp Nghĩa quận công Đặng Huấn cũng ép phải đi theo. Khi vào yết kiến, Tùng khóc nói rằng:
Rồi đưa hoàng đế vào phía trong cửa ải Vạn Lại, chia quân phòng giữ các nơi hiểm yếu. Ngày 7 tháng 5, Trịnh Cối cùng Lại Thế Mĩ, Lại Thế Khanh... đem quân tới đánh. Hai bên kình nhau mấy ngày không phân thắng bại. Lê Anh Tông sai sứ sang chiêu dụ hai bên giảng hòa nhưng không có kết quả. Lại Thế Mĩ đưa quân đánh vào Vạn Lại hòng bắt nhà vua. Hai bên đánh nhau mấy ngày, bản thân Trịnh Cối nhận thấy thất lợi, bèn lui Biện Dinh, bố trí các tướng chống giữ các nơi.
Ngày 15 tháng 9, Mạc Kính Điển, phụ chính của nhà Mạc được tin Nam triều có loạn, liền đem 10 vạn quân đánh xuống Thanh Hoa. Trịnh Cối không chống nổi, liền đem vợ con hàng họ Mạc. Ngày 20 tháng 9, vua Lê Anh Tông sắc phong Trịnh Tùng làm Trường quận công, tiết chế các dinh thủy bộ, cầm quân đánh giặc. Trịnh Tùng hội các tướng, lập lời thề rồi chia quân đóng giữ các cửa lũy, đào hào, dựng rào, đặt quân mai phục, giữ chỗ hiểm yếu để phòng ngừa quân Mạc. Mùa đông năm đó, Kính Điển thừa thắng tấn công vào An Trường, quan quân phải lui về thế thủ. Lê Cập Đệ cho xây thành giả để đánh lừa quân giặc. Kính Điển đốc thúc quân đánh gấp. Quân Nam triều thường nhân ban đêm tập kích khiến quân Mạc rơi vào thế bị động, sau đó thua liên tục đến cuối năm thì Kính Điển phải lui hẳn về bắc do thiếu lương thực.
Phế lập vua Lê, thâu tóm quyền hành
Mùa xuân năm 1571, vì công đánh đuổi quân Mạc, Trịnh Tùng được nhận phong Thái úy Trường quốc công, nắm giữ binh quyền Nam triều. Sau đó, vì Vi quận công Lê Khắc Thận chống lại Trịnh Tùng, vượt luỹ về hàng họ Mạc. Trịnh Tùng bèn cho bắt 3 người con của Khắc Thận đem giết chết.
Bấy giờ Thái phó Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ có ý khác, mưu giết Trịnh Tùng để đoạt đoạt quyền. Có lần Cập Đệ rủ Tả tướng ra sông để tìm cách giết, nhưng việc không thành. Trịnh Tùng biết Cập Đệ có ý chống lại mình, nhưng bề ngoài vẫn đối xử tử tế mà bên trong ngầm tính kế hoạch tiêu diệt ông ta. Ngày 25 tháng 12 năm 1572, nhân lúc Cập Đệ tới chỗ mình, Tùng bí mật sai đao phủ phục sẵn, đến đó thì xông ra giết chết; lại tru di cả họ của Cập Đệ, nói là do Cập Đệ mưu phản, nên nhà vua sai giết đi.
Lê Anh Tông trước kia có ý dựa vào Cập Đệ để chống Trịnh Tùng, đến đây bị mất đi chỗ dựa. Bọn Cảnh Hấp, Đình Ngạn nói với vua về việc chuyên quyền của Tùng. Nhà vua có ý nghi ngờ, đương đêm đem bốn hoàng tử Bách, Lựu, Ngạnh, Tùng chạy về Nghệ An. Trịnh Tùng bàn với các tướng rằng:
Trịnh Tùng bèn cho người đón hoàng tử thứ 5 là Lê Duy Đàm đang ở xã Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên về tôn làm vua, tức là Lê Thế Tông. Trịnh Tùng lại sai Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu ra Nghệ An đón Anh Tông. Anh Tông lánh ra ruộng mía, nhưng cũng bị bắt được, đưa về Thanh Hoa. Ngày 23 tháng 2 năm 1573, Bảng quận công Tống Đức Vị ngầm giết vua ở huyện Lôi Dương rồi phao tin rằng vua thắt cổ chết. Trịnh Tùng tự phong thêm cho mình làm Đô tướng tiết chế các doanh quân thủy quân bộ ở các xứ kiêm giữ việc quân việc nước quan trọng. Phàm các sự vụ cơ mật quốc gia đều tự Trịnh Tùng quyết định cả. Trịnh Tùng lại dùng Vũ Công Kỷ làm hữu tướng, bọn Hoàng Đình Ái, Vũ Sư Thước và Nguyễn Hữu Liêu làm thái phó, và phong tước quận công cho bọn Trịnh Đỗ, Phạm Văn Khoái và Hà Thọ Lộc.
Trước sự chuyên quyền của Trịnh Tùng, năm 1574, các tướng Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách và Lương quận công lại mưu làm đảo chính để giết ông, song việc bị phát giác, cả ba người đều bị nhốt vào tù. Bà Thái phi Ngọc Bảo (mẹ của Trịnh Tùng) ra sức kêu xin cho họ nên ba người được khỏi chết nhưng bị tước binh quyền.
Từ khi triều Lê trung hưng đã gần 50 năm chưa tổ chức một khoa thi Hội nào, vì bận việc chiến tranh. Đến năm 1580, triều đình mới cho mở khoa, lấy bọn Nguyễn Văn Giai (người phủ Lưu Trường, huyện Thiên Lộc) và Phùng Khắc Khoan sáu người được đỗ tiến sĩ xuất thân và tiến sĩ đồng xuất thân. Từ bấy giờ phục lại việc 3 năm một khoa thi Hội, còn việc thi Đình thì vẫn trì hoãn chưa tiến hành được.
Ngày 29 tháng 9 năm 1586, quân doanh của Trịnh Tùng ở An Trường gặp phải hỏa hoạn, lại gặp lúc gió lộng, cháy nhẹm tất cả trại quân phòng, dinh, công đường và phố xá đến vài nghìn nóc nhà, khói lửa mù mịt, từ giờ ngọ tới giờ thân mới dập tắt được. Mẫu thân của Trịnh Tùng tức bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo chết trong đám cháy, Trịnh Tùng phải lánh sang chỗ khác để cư tang, tôn bà Ngọc Bảo là Từ Nghi Vương thái phi.
Mùa hạ năm 1587, Thái phó Vệ Dương hầu Trịnh Bách là bà con họ Trịnh, âm mưu chống lại Trịnh Tùng. Nguyên trước đó Trịnh Bách đã từng đồng mưu với Lê Cập Đệ hãm hại Trịnh Tùng nên bị nhốt vào ngục, nhờ Thái phi Ngọc Bảo xin giúp nên được tha. Đến đây Bách lại nuôi kẻ đồng cốt làm thuật phép yêu quái và định táng mả cha vào nơi cấm địa, nên Tùng mới sai người thắt cổ giết chết Bách.
Chống giữ Thanh Nghệ (1571 - 1583)
Giai đoạn từ năm 1571 đến năm 1583 do việc nội bộ chưa yên nên Nam triều chủ yếu lo việc phòng thủ quân Mạc, còn nhà Mạc thì liên tiếp mở các cuộc tấn công xuống phía nam nhưng đều không thu được kết quả.
Tháng 8 năm 1571, Mạc Kính Điển dẫn quân đánh Nghệ An. Vì địa thế xa cách và quân Mạc đánh bất giờ khiến quân Lê - Trịnh từ Thanh Hoa ứng cứu không kịp, đất Nghệ An rơi vào tay nhà Mạc. Đến tháng 9 ÂL năm đó, nhà vua bàn với Trịnh Tùng chia quân cho Tấn quận công Trịnh Mô và Lai quận công Phan Công Tích phản công, chiếm lại Nghệ An; quân Mạc rút về.
Tháng 8 năm 1573, Mạc Kính Điển đưa vua Mạc Mậu Hợp nam phạt Thanh Hóa, đánh dinh An Trường. Trịnh Tùng cho quân cố thủ trong lũy để quân Mạc tưởng rằng mình yếu thế, sợ sệt. Hôm sau, quân Mạc lại đắp thêm luỹ, định qua đò Đoạn Trạch. Trịnh Tùng tung binh thuyền chia đánh, đại phá quân Mạc. Mạc Kính Điển đánh không được, đành đưa Mạc Mậu Hợp trở về Thăng Long.
Tháng 7 năm 1574, tướng nam đạo của Mạc là Nguyễn Quyện đem quân vượt biển đánh Nghệ An, nhanh chóng chiếm được vùng phía Bắc sông Cả. Tháng sau, Trịnh Tùng sai Thái phó Lai quốc công Phan Công Tích và Tấn quận công Trịnh Mô đem quân cứu Nghệ An, chống nhau với tướng Mạc Nguyễn Quyện đến vài tháng, cuối cùng Quyện hết lương thực và phải rút về.
Ngày 15 tháng 1 năm 1575 (mồng 6 Tết), hai cánh quân Mạc lại đánh xuống phía nam, Mạc Kính Điển đánh Thanh Hoa, Nguyễn Quyện xâm chiếm Nghệ An. Các cánh quân của Nam triều dần tan rã, không chống lại được. Đến tháng 8 năm đó, Trịnh Tùng sai thái phó Hoành Đình Ái thống suất các tướng Đỗ Diễn, Phan Văn Khoái đi cứu các huyện Lôi Dương, Nông Cống, Đông Sơn, đóng quân ở núi Tiên Mộc. Bản thân ông cầm cánh quân Trung dinh, lấy Vũ Sư Thước, Nguyễn Hữu Liêu làm tiên phong, cùng 4 đội Tả, Hữu, Hậu, đều tiến đến đóng quân ở núi Chiêu Sơn. Mạc Kính Điển đem đại binh đánh ở Đông Lý, Sư Thước và Hữu Liêu bèn đem kỵ binh ra đuổi, Kính Điển phải bỏ chạy. Về mặt Nghệ An, Trịnh Tùng sai Lại Thế Khanh, Trịnh Mô, Phan Công Tích đến giao tranh với Nguyễn Quyện, song bị mai phục của quân Mạc, Công Tích bị bắt sống. Nguyễn Quyện tuy chiếm ưu thế ở Nghệ An song Kính Điển đã thua nên cũng phải rút quân về. Trong những năm này, Nguyễn Quyện liên tục công đánh Nghệ An, các tướng Trịnh chống đỡ vô cùng vất vả.
Để đối phó với sự tấn công của họ Mạc, tháng 6 năm 1577, Trịnh Tùng hạ lệnh cho quan lại các xứ Thanh Hoa và Nghệ An đôn đốc dân các xã các huyện nhanh chóng cày cấy, thu hoạch lúa trong một tháng, phòng khi quân đi qua, ảnh hưởng tới nghề nông. Sau đó, ông lại lệnh cư dân các huyện dọc sông thu xếp của của gia súc vào lánh ở nơi hiểm yếu, vì nhận thấy quân Mạc đang điều động một lực lượng lớn sắp đánh Thanh Hoa. Ông còn hạ lệnh cho các cửa biển và điểm tuần các nơi dọc đường đều đặt pháo hiệu để kịp thời thông báo cho dân lánh đi chỗ khác nếu có quân giặc đến, và các nơi vùng chân núi các huyện nếu thấy dân xã ven sông đưa gia súc chạy loạn đến chỗ mình thì phải nghiêm ngặt tuần phòng, không được xảy ra nạn cướp bóc, nếu có thì địa phương ấy phải chia nhau mà đền.
Đúng như dự đoán của Trịnh Tùng, tháng 8 năm đó, Mạc Kính Điển đem quân đánh đến sông Đồng Cổ Mạc Kính Điển xâm phạm sông Đồng Cổ. Trịnh Tùng đích thân đem đại binh ra cửa luỹ Khoái Lạc chống lại. Tướng Mạc là Lại Thế Mỹ đem quân khiêu chiến ở ngoài cửa luỹ Khoái Lạc. Quân Lê - Trịnh dùng súng bắn chết Thế Mỹ khiến quân Mạc tan vỡ. Các tướng đem đầu của Thế Mỹ dâng trước cửa doanh Trịnh Tùng.
Mùa thu năm 1578, Trịnh Tùng lại đại thắng quân Mạc một lần nữa ở núi Phụng Công. Mùa thu năm sau (1579), Kính Điển lại thua một lần nữa ở Hà Trung và đây là trận chiến cuối cùng trong đời ông ta, bởi sau khi rút về kinh thì ông ta sinh bệnh và chết. Mà vua Mạc Mậu Hợp thì bỏ bê chính sự, từ đó thế lực Bắc triều ngày càng suy yếu..
Đến năm 1581, quan Phụ chính mới của nhà Mạc là Mạc Đôn Nhượng đem quân vượt biển vào địa phận huyện Quảng Xương, đóng binh ở núi Đường Năng. Trịnh Tùng cử Hoàng Đình Ái đem quân chống giữ, đánh thắng được Mạc Đôn Nhượng. Khi đó trong đám tù binh bắt về có Chấn quận công Nguyễn Công là cháu gọi Nguyễn Hữu Liêu bằng cậu nên Trịnh Tùng tha tội cho ông này và sau còn phong cho chức quận công. Các tù binh bị bắt còn lại đều được cấp cho cơm áo và thả về quê quán. Sau trận này, nhà Mạc không còn đủ sức mở một cuộc tấn công nào vào Thanh Hoa nữa, cư dân Thanh Hoa, Nghệ An mới được yên nghiệp làm ăn.
Tiến hành Bắc phạt (1583 - 1591)
Năm 1583, Trịnh Tùng nhận thấy quân mình cũng đã mạnh bèn kéo ra Sơn Nam, đánh các huyện Yên Mô, Yên Khang gặt lúa rồi lại kéo về. Sang mùa xuân năm 1584, Trịnh Tùng kéo quân ra Trường Yên, rồi lại tiến quân đi tuần ở Thiên Quan. Vì Ngô Cảnh Hựu rút quân về trước, nên Trịnh Tùng liền đó rút quân quay về, dâng biểu xin giáng chức Cảnh Hựu xuống hai tư.
Tháng 9 nǎm 1584, anh cả của Trịnh Tùng là Trịnh Cối chết trên đất Bắc Triều. Họ Mạc sai người đến điếu tế; lại sai quân đưa linh cữu cùng người nhà, mẹ và vợ con về xứ Thanh. Trịnh Tùng cũng sai người đón tiếp linh cữu về quàn ở bên hữu núi Quân Yên, huyện Yên Định, đặt lễ cúng tế, dâng biểu tâu vua tha tội cho Cối, tặng thái phó Trung quốc công.
Mùa xuân năm 1585, Trịnh Tùng chính mình đốc suất đại quân, kéo ra Thiên Quan, đánh phá các huyện Mỹ Lương, Thạch Thất và An Sơn, lược định mặt Tây đạo. Đóng quân ở Sài Sơn, để tì tướng là quận Chiêu đóng đồn ở Hoàng Xá. Quân Mạc truy kích quận Chiêu bị chết trận. Tùng thấy không lợi rút quân về.
Mùa đông năm đó, Trịnh Tùng kéo quân đánh phá Trường Yên và Thiên Quan tiến ra vùng tây nam, đến huyện Mỹ Lương. Nhà Mạc sai Mạc Ngọc Liễn dẫn quân từ huyện An Sơn; Nguyễn Quyện từ huyện Chương Đức vượt sông Do Lễ đến kháng cự, bố trí đặt mai phục ở miền sơn cước, và tìm cách cắt đường chuyển lương của quân Trịnh. Trịnh Tùng qua do thám biết được mưu đồ của kẻ thù, bèn sai đại tướng Hoàng Đình Ái cấp tốc đang đêm tiến lén về để giữ Thanh Hoa, Hà Thọ Lộc và Ngô Cảnh Hựu ở lại canh giữ binh lương ở phía sau. Lại cử Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Đỗ, từ đường phía tả, xuất quân đi cầm cự với Mạc Ngọc Liễn để phân tán thế lực của địch. Còn bản thân Trịnh Tùng đốc quân do đường bên phải kéo ra, tiến đánh Nguyễn Quyện. Quân của Quyện thua chạy, phục binh cũng tan vỡ nốt. Quan quân chém hơn 100 quân địch, truy kích đến nửa ngày mới thôi. Hôm sau, quân Nam triều tấn công các huyện An Sơn, Thạch Thất; tuy nhiên khi đó đã là cuối năm nên Trịnh Tùng rút quân về.. Kể từ đó Nguyễn Quyện khiếp sợ trước Trịnh Tùng, mỗi lần gặp quân của ông đều trốn tránh không dám xông lên nữa. Nhân đà thắng lợi, qua ngày hôm sau Trịnh Tùng đem đại quân tiến đóng Hoàng Sơn, và các huyện An Sơn, Thạch Thất, đều phá được cả. Tuy nhiên bấy giờ đã vào cuối năm nên Trịnh Tùng quyết định cho quân lui về Thanh Hóa. Nhà Mạc cũng cho đắp thêm lũy đất ngoài thành Đại La để ngăn chặn quân Lê - Trịnh.
Cuối năm 1588, Trịnh Tùng lại rầm rộ kéo quân ngoài cửa ải Trường Cát, đánh phá Trường Yên và Thiên Quan, vượt sông Chính Đại,. Đến trại Dương Vũ, ông đóng quân ở lại đến đến hơn một tuần. Quân Mạc cố thủ không ra đánh. Trịnh Tùng giả đò dùng kế đốt doanh trại rút quân về để nhử địch, nhưng kỳ thực đã đặt kỳ binh và voi ngựa mai phục ở phía sau. Khi quân Mạc từ trong lũy kéo ra truy kích thì gặp phải phục binh đánh úp, tổn thất vài trăm nhân mạng. Trịnh Tùng lại chuyển quân quay về núi Tam Điệp, hạ lệnh cho quân bố trí phòng thủ ở cửa biển Linh Trường để chặn thuyền giặc kéo tới..
Mùa đông năm 1589, Trịnh Tùng lại dẫn quân tấn công huyện Trường Yên. Nhà Mạc sai Mạc Đôn Nhượng đóng quân ở Yên Mô tiếp chiến. Trịnh Tùng bàn mưu với các tướng
Vào canh ba đêm đó, ông sai Nguyễn Hữu Liêu dẫn 15.000 quân tinh nhuệ và 200 khinh kỵ mai phục ở chân núi; Trịnh Đỗ, Trịnh Đồng (con Trịnh Kiểm, em Trịnh Tùng) nhử giặc vào ổ mai phục; và Ngô Cảnh Hựu giả bộ thu lượm lương thực và binh khí để lui binh. Quả nhiên quân Mạc tưởng quân Lê - Trịnh khiếp sợ mà lui, bèn tranh nhau đuổi theo. Bọn Đỗ và Đồng vừa đánh vừa lùi, nhử quân Mạc đến vùng sơn cước. Phục binh nghe tiếng pháo nổ, hàng loạt nổi dậy. Trịnh Tùng tung đại quân ra, bốn mặt cùng hăng hái đánh; chém hơn nghìn thủ cấp địch, bắt sống hơn 600 người. Quân Mạc tan chạy. Mạc Đôn Nhượng thu lượm quân tàn trốn về. Trịnh Tùng thắng trận, các tướng ai đều đem những tù binh mà mình đã bắt được đem dâng nộp. Trịnh Tùng đều sai cởi trói và vỗ về yên ủi, rồi cấp cho cơm áo, thả về quê. Xong việc, ông lại đưa quân về Thanh Hóa.
Trung hưng nhà Lê
Đánh Thăng Long, 1591
Ngày 3 tháng 12 năm 1591, Trịnh Tùng bàn việc ra quân bắc phạt với quy mô lớn; sai Diễn quận công Trịnh Văn Hải và Thái quận công Nguyễn Thất Lý, quản lãnh quân thủy, quân bộ, trấn thủ những nơi hiểm yếu ở các cửa biển; Quận Thọ Lê Hòa kiêm coi võ sĩ trong ngoài thuộc bốn vệ theo hầu vua Lê Thế Tông và hộ vệ ngự doanh. Ông điều động 5 vạn quân, phân làm năm lộ sai Nguyễn Hữu Liêu, Hoàng Đình Ái, Hà Thọ Lộc, Ngô Cảnh Hựu chia nhau quản lãnh. Bản thân Trịnh Tùng dẫn 2 vạn binh trung quân kéo ra Tây Đô, theo đường Quảng Bình qua huyện Thiên Quan, hơn mười hôm thì đến núi Mã Yên, rồi tiến ra huyện Ma Nghĩa. Các lộ An Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong đều nhanh chóng thất thủ; Trịnh Tùng đóng quân ở Tốt Lâm. Vua Mạc Mậu Hợp kinh hoàng, vội điều hết binh mã 4 vệ 5 phủ được khoảng 10 vạn, đích thân làm tướng tiến đến xã Phấn Thượng, kháng cự với vương sư. Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái ra đánh, giết được tướng Mạc là quận Khuông và quận Tân. Quan quân thừa thế đánh mạnh; Trịnh Tùng cũng đích thân ra đốc chiến. Hai bên đánh nhau ở bên sông Hát Gian. Quân họ Trịnh đánh rất hăng. Quân nhà Mạc chống không nổi, thua chạy qua sông, đảng lốt tranh thuyền, lăn xuống sông chết quá nửa. Mạc Hậu Hợp bỏ chạy. Tàn quân Mạc tranh nhau xuống thuyền, ngã xuống nước mà chết đến quá nửa. Quân Lê - Trịnh đuổi quân Mạc đến Giang Cao, chém hơn 1 vạn thủ cấp.
Trịnh Tùng đóng trại ở Hoàng Xá, sai quân vượt sông Cù, phá được nhiều thành lũy. Ông bàn với các tướng rằng
Quân giặc nhiều lần thất bại, ta nên nhân đà thắng này mau mau đánh lấy thì dễ dàng như cúi xuống nhặt lấy cái rác thôi.
Bèn sai Nguyễn Hữu Liêu quản lãnh quân và voi thẳng tiến đến cầu Cau ở phía tây nam kinh thành rồi phóng hỏa đốt nhà cửa. Người trong kinh thành chạy trốn lưu li, ngoài đường vang tiếng khóc; nhiều người tranh nhau vượt sông mà chạy, chết đuổi rất nhiều. Bấy giờ đã đến tết Nguyên đán; Trịnh Tùng cho quân nghỉ ngơi ăn tết, hẹn ngày thu phục kinh thành. Sau khi ăn tết, Trịnh Tùng lập đàn, tế cáo trời đất và tiên đế nhà Lê, đặt ra ba điều nghiêm cấm tướng sĩ, ai vi phạm thì chiếu theo quân pháp để trị
Không được vào nhà dân lấy lương thực và củi đuốc.
Không được cướp của cải và chặt cây cối.
Không được dâm hiếp đàn bà con gái, không được vị tư thù mà giết người.
Rồi tiến quân vào Đông Kinh. Quân đi đến đâu, nhân dân tranh nhau đem rượu và trâu bò đến đón. Khi quân Lê - Trịnh tiến đến chùa Thiên Xuân, Mạc Mậu Hợp đã bỏ chạy qua sông Nhị, đóng ở xã Thổ Khói. Mạc Mậu Hợp ở bờ bắc sông Nhị ra sức củng cố lực lượng, nội ứng ngoại hiệp với quân trong thành. Nguyễn Quyện đặt mai phục ở ô cầu Giền.. Ngày mồng 5 Tết, Trịnh Tùng kéo quân qua cầu Nhân Mục, sông Tô Lịch, đóng ở Sạ Đôi (gò tập bắn), để bày trận thế rồi truyền cho các tướng sĩ nội nhật phải lấy được thành Thăng Long và tướng nào vào được trong thành trước sẽ được trọng hưởng. Ông chia quân thành 5 đạo như sau
Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh làm đạo Tả dực với 10.000 quân và voi, đánh lấy cầu Gia Kiều, giáp chiến cùng Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên ở cửa tây.
Hoàng Đình Ái và Trịnh Đồng làm đạo Hữu dực với 10.550 quân và voi, đánh nhau với Nguyễn Quảng ở cửa Triền Kiều (Bạch Mai) và cửa Nam Giao, mặt nam kinh thành Thăng Long.
Trịnh Đỗ đốc suất tiền quân và trung quân.
Đích thân Trịnh Tùng cầm 25.000 quân hậu tập đóng ở phường Hồng Mai.
Thụy Trang hầu cầm 1200 quân tiên phong, lấy cầu Mộng Kiều và cửa Mộng Kiều ở mặt Nam kinh thành.
Bấy giờ Mậu Hợp tuy đã qua đò sang Bắc, nhưng vẫn cậy có sông dài hiểm trở, sai Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Nguyễn Quyện và Trần Bách Niên cố thủ thành Đại La, còn mình thì thống suất thủy quân, dàn hơn trăm chiếc thuyền thành thế trận, giữ sông Nhị Hà để làm thanh thế cứu viện cho quân trong thành. Hai quân giao chiến từ giờ Tị đến giờ Mùi; cuối cùng Trịnh Tùng đích thân đốc suất tướng sĩ trèo xuyên qua luỹ, trèo lên thành, các tướng sĩ đua nhau xông lên trước, đánh phá được ba lần cửa lũy ở ngoài thành. Quân Mạc tan vỡ, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên và Mạc Ngọc Liễn bỏ chạy; cánh của Hoàng Đình Ái lùi voi phá cầu; đánh bại phục binh của Nguyễn Quyện; giết hai con của Quyện và bắt sống được Quyện. Thây giặc chồng chất lên nhau, tổng cộng hơn 1000 người bị giết; Mạc Mậu Hợp thu thập tàn quân cố thủ dọc sông.
Trịnh Tùng thân hành cởi trói cho Quyện, đối đãi bằng lễ tiếp khách và yên ủi cho đến điều. Quyện hổ thẹn, vội phục xuống đất. Trịnh Tùng tuy đánh thắng liên tục nhưng do lực lượng chưa đủ nên đành lui về Thanh Hóa; lại hỏi kế của Nguyễn Quyện. Nguyễn Quyện tìm cách hoãn binh để giúp họ Mạc, nên khuyên sang phẳng lũy đất thành khiến cho nhà Mạc dù có quay về cũng không còn gì để làm căn cứ được nữa, ông nghe theo. Về sau Nguyễn Quyện lại mưu đồ theo về họ Mạc, việc bị phát giác nên bị giam vào ngục, rồi chết.
Hoàn thành công cuộc khôi phục
Mùa thu năm 1592, tướng Bùi Văn Khuê vì bị Mạc Mậu Hợp mưu giết nên đem quân thủy dưới trướng theo về với nhà Lê - Trịnh. Trịnh Tùng đang thiếu thủy quân, bỗng dưng được thêm lực lượng của Bùi Văn Khuê như một món quà trên trời rơi xuống, nên rất mừng, nói rằng
Văn Khuê đầu hàng, thế là trời giúp cho ta được chóng thành công. Đất đai bản triều có thể hẹn ngày khôi phục được.
Bèn sai Hoàng Đình Ái làm tiên phong, đến làng Bái và làng Đình hội quân với Bùi Văn Khuê. Đình Ái sai Văn Khuê tiến quân đóng giữ bến đò Đàm Giang. Quân Mạc bèn lui giữ sông Thiên Phái. Trịnh Tùng quản đốc đại quân kéo ra Trường Yên, tiếp đãi Bùi Văn Khuê phong tước quận công và sai cầm quân đánh họ Mạc. Quân Lê-Trịnh đến núi Kẽm Trống đóng trại, Tùng sai Văn Khuê lén dời binh thuyền ra cửa sông, rồi trên và dưới cùng đánh kẹp lại: quân Mạc tan vỡ, tướng Trần Bách Niên đầu hàng.
Tháng 11 ÂL, mùa đông, Trịnh Tùng tiến đóng Bình Lục, rồi kéo đến bãi Tinh Thần thuộc Thanh Oai, đóng dinh trại, ra chiếu dụ cho dân chúng miền tây nam đâu đấy cứ yên nghiệp làm ăn; sau đó tiến ra cửa sông Hát; đánh bại tướng Mạc Ngọc Liễn, Ngọc Liễn phải chạy qua Tam Đảo. Quan quân thừa thắng, ruỗi dài đến cửa Nam thành Thăng Long, đóng quân ở bến Cỏ, bắt được chiến thuyền của Mạc đến hàng nghìn chiếc, Mạc Mậu Hợp hốt hoảng chạy sang Kim Thành (Hải Dương). Trịnh Tùng phủ dụ quân dân, cấm quân sĩ xâm phạm dân chúng; các huyện Thuận An, Tam Đái, Thượng Hồng đều hàng phục cả. Lại sai quân đánh sang Kim Thành; Mạc Mậu Hợp bỏ trốn; quân Lê bắt được Thái hậu mẹ đích của vua Mạc đem về và thu được nhiều của cải, châu báu. Trên đường áp giải đi ngang sông Bồ Đề, Thái hậu nhảy xuống sông tự vẫn. Mạc Mậu Hợp bèn lập con là Mạc Toàn làm vua, bản thân tự làm tướng, quản đốc binh mã chống giữ.
Trịnh Tùng lại phá được Mạc Kính Chỉ ở Thanh Hà, các quan nhà Mạc lũ lượt ra hàng. Tùng tiến đóng quân doanh tại xã Tranh Giang huộc Vĩnh Lại; sai Phạm Văn Khoái thu phục các huyện Kinh Bắc. Mạc Mậu Hợp bỏ trốn vào chùa Mô Khuê ở hạt Phượng Nhỡn, giả làm nhà sư. Có người báo tin chỗ ẩn nấp của vua Mạc, Trịnh Tùng sai Trà quận công Nguyễn Đình Luận và Liêm quận công Lưu Chản đến chùa bắt sống Mậu Hợp giải đến doanh trại. Khi Mậu Hợp được áp giải tới, ông sai dàn binh mã uy nghiêm, rồi cho dẫn Mạc Mậu Hợp vào, bắt hành lễ quỳ lạy dập đầu như đối với thiên tử, rồi sai giam lại ở bên ngoài cửa quân. Các quan văn võ đề nghị rằng
{{Cquote|Chiếu điều luật, những kẻ phạm tội thoán thí (giết vua cướp ngôi), thì xử theo luật "lăng trì", để làm gương cho mọi người, và đúng phép nước; lại đem thủ cấp tế cáo nhà Tôn miếu, để rửa sỉ nhục của Tiên vương, và bớt cơn giận của thần nhân.}}
Trịnh Tùng không nỡ gia cực hình, truyền đem treo sống ba ngày rồi chém đầu ở Bồ Đề; rồi đem thủ cấp dâng cho nhà vua đang ở sách Vạn Lại, Thanh Hoa, sau đó đóng đinh vào hai mắt, bêu ở chợ.. Ông dời bản doanh về phía nam kinh đô. Không lâu sau, mùa xuân năm 1593, Mạc Kính Chỉ là con của Mạc Kính Điển tập hợp được 6, 7 vạn quân; lên ngôi ở xã Nam Giản, huyện Chí Linh, cải nguyên là Bảo Định; Mạc Toàn và nhiều bề tôi dẫn nhau đến quy phục. Trịnh Tùng được tin, sai Nguyễn Thất Lý, Bùi Văn Khuê và Ngô Đình Nga tiến đánh; bị bại trận, Thất Lý chết trận, Đình Nga bị thương nặng; các huyện ở Hải Dương và Kinh Bắc lại quy phục họ Mạc.
Trịnh Tùng sợ để lâu sinh biến, liền sai Hoàng Đình Ái dẫn lực lượng lớn đi tiễu phạt tiến đến Cẩm Giàng. Kính Chỉ dốc hết quân ra giữ Thanh Lâm, lấy một dãy Hàm Giang làm chỗ phân chia Nam, Bắc. Hai bên luôn luôn huy động quân đội để chống giữ; lâu ngày không phân thắng bại, đến nỗi không lúc nào dám cởi bỏ áo giáp. Ở Thanh Lâm, Kính Chỉ lại đắp thêm hào lũy theo dọc ven sông để cho sự phòng thủ được bền vững. Trước tình hình đó, Trịnh Tùng đích thân dẫn quân qua sông Nhị, đêm ngày đi gấp đường, đến Cẩm Giàng, cử Hoàng Đình Ái thống lãnh tướng sĩ các dinh, tiến đến Thanh Lâm để đánh vào phía hạ lưu; Trịnh Tùng thân đốc đại binh để đánh phía thượng lưu; Nguyễn Hữu Liêu thống suất quân thủy để bao vây và đón chặn đường đi cửa của quân Mạc. Quân Mạc tan vỡ, Kính Chỉ và thân thuộc trốn vào trong núi. Quân Lê - Trịnh đuổi theo Đông Triều, bắt được bọn An Sơn vương Kính Thành, Hoàng Lượng công Lý Hựu, đều giết chết. Lại lùng bắt và tóm được bọn Kính Chỉ cùng Kính Phu, Kính Thận, Kính Giản, Kính Tuân (đều là con của Mạc Kính Điển)... hơn 60 người tại Tân Manh; rồi giải về bến Cỏ đem xử giảo hình (treo cổ). Riêng Mạc Kính Chỉ bị chém đầu, lấy thủ cấp đem bêu ở Thanh Hóa. Nhà Mạc kể từ Thái Tổ Mạc Đăng Dung lên ngôi năm 1527 đến đây thì tan rã sau 67 năm.
Trịnh Tùng cho sửa sang cung điện trong kinh thành, một tháng thì hoàn thành; bèn sai Thái phó Dương quốc công Nguyễn Hữu Liêu đến Tây Đô đón xa giá về kinh. Mùa hạ năm đó, Lê Thế Tông đến kinh đô. Ngày 16 tháng 5, vua ngự ở tòa chính điện, nhận lễ mừng của bách quan, đại xá thiên hạ, gia phong cho những ai có công. Nhà Lê kể từ khi mất ngôi năm 1527 đến đây mới được trở về chốn xưa nhưng vị thế đã không còn được như trước nữa.
Đối phó dư đảng nhà Mạc
Năm 1593, tướng Mạc Ngọc Liễn lập con của Mạc Kính Điển là Đôn Hậu vương Mạc Kính Cung lên làm vua, cải nguyên Càn Thống. Dư đảng họ Mạc lục tục kéo về hưởng ứng, thế lực nhà Mạc lại mạnh lên, kiểm soát bờ bắc sông Nhị. Ngày 24 tháng 4, Trịnh Tùng đích thân dẫn quân chia quân đánh dẹp, đảng họ Mạc tan chạy. Hải Dương, Sơn Nam cũng dẹp yên dần. Trịnh Tùng sai các tướng đem quân chia giữ các phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng, Khoái Châu, Thuận An, Từ Sơn. Lại ra lệnh cho dân xiêu tán ở các huyện trở về nguyên quán yên nghiệp.
Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn đưa Mạc Kính Cung chạy ra huyện An Bắc; Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái tới đánh; Ngọc Liễn chạy sang Tư Minh xin xưng thần với nhà Minh. Hoàng Đình Ái đánh dẹp các vùng phía bắc sông Nhị, giết được nhiều tông thất nhà Mạc. Trong khi đó vào tháng 6, người xã Vũ Lăng, huyện Tiên Minh là Vũ Đăng dấy binh chiếm giữ huyện Siêu Loại, tụ tập bè đảng, tự xưng là La Bình hoàng đế; nhưng nhanh chóng bị bắt giết. Lúc đó Mạc Ngọc Liễn bệnh chết, có thư khuyên Mạc Kính Cung thà chịu lánh thân ở nước ngoài chứ đừng nên mời người Tàu sang hại dân hại nước nhưng con cháu nhà Mạc không chịu nghe theo. Năm 1596, Phan Ngạn đánh dẹp được Mạc Kính Chương, con cháu nhà Mạc lại tâu với vua Minh rằng chính quyền trong nước không phải con cháu họ Lê, vua Minh sai người sang điều tra và gây sức ép buộc nhà Lê phải trả Cao Bằng cho họ Mạc. Mùa xuân năm 1597, Thế Tông phải cùng các tướng đến ải Nam Quan theo đòi hỏi của vua Minh. Tuy vậy chiến tranh giữa hai bên vẫn thường xuyên xảy ra.
Tháng 8 năm 1598, tông thất nhà Mạc là Mạc Kính Dụng họp quân ở huyện An Bác, xưng là Uy vương, lại tìm mưu giết viên thổ quan là Phú Lương hầu để cướp lấy đất đai và dân chúng. Phú Lương hầu đoán nghe được, bèn dùng mẹo đánh lừa, sai vợ con ra đón hàng rồi dụ Kính Dụng vào ở trong một hang núi, bí mật giết hết những người thân thuộc đi theo ông ta, lại mật cho người báo tin về kinh cho Trịnh Tùng biết. Trịnh Tùng sai tướng đến bắt Kính Dụng giải về kinh sư, thắt cổ giết chết.. Cuối năm đó, tướng nhà Lê là Trần Phúc lại đánh lên Cao Bằng, Mạc Kính Cung bỏ chạy sang Long châu, quân triều đình bắt được con thứ của Cung năm đó lên 12 tuổi, giải về kinh thắt cổ đến chết. Mạc Kính Cung ở Long châu hối lộ cho viên thổ quan nhà Minh nhờ đệ lời tâu vua Minh cho Kính Cung được giữ đất Thái Nguyên và Cao Bằng, triều đình bất đắc dĩ phải nghe theo.
Mạc Kính Cung sau mấy lần thua trận, phải chạy lên Lạng Sơn. Sau khi tập hợp lại lực lượng, Kính Cung lại quấy phá Thái Nguyên. Năm 1609, chúa sai em là Trịnh Đỗ cùng Nguyễn Danh Thế đem quân tới kinh lý, Kính Cung thua chạy. Về sau, cháu Kính Cung là Kính Khoan lại tự xưng vương, đặt niên hiệu, quản lý vùng Vũ Nhai, Đại Từ. Mùa xuân năm 1618, Trịnh Tùng sai con là Trịnh Tráng, Trịnh Xuân, cùng bọn Nguyễn Cảnh Kiên, Nguyễn Văn Giai, Tạ Thế Thúc, Nguyễn Khải... tiến đánh, quân Mạc thua trận. Sau đó ông lại sang Trịnh Lâm và Trịnh Bảng đánh Vũ Nhai và cũng thắng lớn.. Tuy nhiên họ Mạc vẫn giữ được đất Cao Bằng nhờ vào sự bảo trợ của nhà Minh và sau này là nhà Thanh, mãi đến năm 1677 triều đình Lê - Trịnh mới hoàn toàn kiểm soát được Cao Bằng.
Trước sự trỗi dậy của họ Nguyễn
Trước kia Trịnh Kiểm nối giữ binh quyền từ tay Nguyễn Kim đã cho sát hại người con trưởng của Nguyễn Kim là Lãng quốc công Nguyễn Uông. Em của Uông là Nguyễn Hoàng nhờ được bà Ngọc Bảo tâu xin mới được chuẩn cho vào trấn giữ hai xứ Thuận, Quảng, sau dần phát triển thế lực. Mùa hạ năm 1593, nhân nhà Lê khôi phục Thăng Long, Nguyễn Hoàng vào chầu vua Lê, dâng nộp sổ sách hai xứ Thuận, Quảng; được phong làm Thái uý Đoan quốc công, lĩnh quân dẹp giặc cướp ở Sơn Nam, Hải Dương. Trong suốt 8 năm sau đó, Nguyễn Hoàng lập được rất nhiều chiến công, dần thăng tới chức Hữu tướng chỉ sau Trịnh Tùng. Vì thế Trịnh Tùng càng không muốn thả Nguyễn Hoàng về trấn vì e sợ "thả hổ về rừng"
Mùa hạ năm 1600, Nguyễn Hoàng xúi giục bọn tướng cũ của nhà Mạc gồm Kế quận công Phan Ngạn, Tráng quận công Ngô Đình Nga, Mỹ quận công Bùi Văn Khuê nổi lên chống lại nhà Lê, theo về họ Mạc. Nguyễn Hoàng xin được cầm quân đánh dẹp rồi bí mật đốt hết doanh trại, trốn về Thuận Hoá. Do cuộc nổi loạn của Phan Ngạn mà Trịnh Tùng phải đưa vua Lê rời khỏi Thăng Long hơn 1 năm, Nguyễn Hoàng do đó trốn về Thuận Quảng thành công. Đối với việc này, Trịnh Tùng vì bận đối phó với họ Mạc nên không rảnh lo đến. Vì thế ông sai Thiêm Đô ngự sử Gia Lộc tử là Lê Nghĩa Trạch cầm thư vào nam an ủi Nguyễn Hoàng, viết rằng
Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục thường phê phán Trịnh Tùng là một gian thần ức hiếp vua, và nhận xét về việc lập Lê Thế Tông năm 1573 của Trịnh Tùng:
Về công trung hưng nhà Lê cũng như tội tiếm quyền vua Lê của chúa Trịnh, Cương mục nhận định:
Tuy nhiên theo sử gia Nguyễn Khắc Thuần, Trịnh Tùng lấn quyền nhà Lê, nhưng nếu không có ông thì cơ nghiệp của họ Lê cũng chẳng thể nào khôi phục lại được:
Tiểu thuyết gia Nguyễn Khoa Chiêm trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của mình có đề bài thơ chê trách Bình An vương Trịnh Tùng làm nhiều điều tiếm vượt, lấn quyền và giết vua:
Thương xót Lê hoàng vận bĩ là!
Rồng thần thất thế gặp yêu xà.
Anh hùng ít kẻ giúp triều chính,
Tiếm loạn nhều tay rắp gian tà,
Trịnh Xuân ví thử mưu chắc thắng,
Định Đế nào đâu phải khóc la.
Kìa xem con bố tru diệt lẫn,
Mới biết lòng trời bỏ Trịnh gia
Gia quyến
Cha: Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm (1503 - 1570)
Mẹ đích: Thái Vương Chính phi Lại Thị Ngọc Trân (mẹ của Trịnh Cối)
Mẹ ruột: Từ Nghi Vương thái phi Nguyễn Thị Ngọc Bảo (? - 1586)
Anh chị em
Tuấn Đức hầu Trịnh Cối (1535 - 1584)
Dương Nghĩa công Trịnh Đỗ
Dịch Nghĩa công Trịnh Đồng
Trưởng thượng Quận Chúa Trịnh Thị Ngọc Xuân
Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Tôn
Vợ:
Chính thất: Chính phi Lại Thị Ngọc Nhu (賴氏玉柔), tên thụy là Từ Huệ, người làng Quang Lãng (huyện Tống Sơn) Thanh Hóa. Con gái tước Cẩn Lễ công Lại Thế Khanh. Mất ngày 19 tháng 9. Lăng ở làng Hải Lịch (huyện Lôi Dương). Sinh ra Trịnh Túc là con trưởng của Trịnh Tùng.
Á thất: Thái phi Đặng Thị Ngọc Dao (鄧氏玉瑤), thụy là Từ Huy, người làng Lương Xá (huyện Chương Đức), con gái tước Nghĩa quốc công, gia phong Hậu trạch công Đặng Huấn. Mất ngày 7 tháng giêng, lăng ở làng Phúc Địa (huyện Thụy Nguyên). Sống đến đời cháu, tôn phong làm Thái quốc Thái phi. Sinh ra Trịnh Tráng.
Chiêu dung Bùi thị, con gái Tiên quận công Bùi Bỉnh Uyên, sinh được 4 con trai đều phong tước công.
Bà phi Lương Thị Ngọc Quế – là mẫu thân Trịnh Trào. Bà mất sớm khi Trịnh Trào mới đầy 1 tuổi phải giao lại cho cung tần nuôi dưỡng.
Bà Mai Thị Ngọc Nho – Vương phi, người thôn Bảo Châu, xã Đông La huyện Đông Quan tỉnh Thái Bình.(Nguồn tư liệu từ nội dung hội thảo "Chúa Trịnh – Vị trí và vai trò lịch sử" của Nguyễn Hữu Tâm và Nguyễn Đức Nhuệ Viện Sử học. Mai Gia Thế phả thôn Bảo Châu 1794).
Cung phi Tô thị (? - 1614)
Phù Quang công chúa Nguyễn Thị Ngọc Đô (1572 - 1604), nguyên quán làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa. Tục gọi Bà chúa Đồn Trang.
Thứ phi Madalena
Con trai: Trịnh Tùng có 19 người con trai và 9 người con gái
Thư mục
Ghi chú
Chú thích nguồn
Danh sách nguồn
|
Thanh vương Trịnh Tráng (chữ Hán: 鄭梉, 6 tháng 8 năm 1577 – 28 tháng 5 năm 1657), thụy hiệu Văn Tổ Nghị vương (文祖誼王), là chúa Trịnh thứ 2 thời Lê Trung hưng chính thức xưng vương khi còn tại vị, nắm thực quyền cai trị miền Bắc nước Đại Việt từ năm 1623 đến 1657. Về chính trị, ông là người củng cố địa vị cai trị của chế độ "vua Lê chúa Trịnh"; về quân sự, thời kỳ ông cầm quyền là bước chuyển căn bản giữa hai cuộc xung đột Nam-Bắc triều và Trịnh-Nguyễn. Đồng thời ông là cậu ruột của vua Lê Thần Tông.
Thân thế và cuộc sống ban đầu
Trịnh Tráng là con trai thứ hai của Bình An vương Trịnh Tùng. Ông đã từng nhiều năm giúp cha thiết lập bộ máy cai trị của họ Trịnh sau khi tiếp quản kinh kỳ Thăng Long từ tay nhà Mạc. Ngay khi Trịnh Tráng chưa lên ngôi, mâu thuẫn giữa họ Trịnh và họ Nguyễn phía nam bắt đầu manh nha hình thành. Ông cậu Nguyễn Hoàng ở phía nam muốn giữ hòa khí với cha ông đã gả con gái là Nguyễn Thị Ngọc Tú cho ông, người mà theo quan hệ họ hàng là cô họ của ông.
Thời trẻ, Trịnh Tráng được nhận phong tước vị Bình quận công, sau đó là Thái phó Thanh quận công. Do người anh cả của ông là Trịnh Túc mất sớm, nên Trịnh Tráng trở thành vương thế tử, dự bị kế thừa ngôi chúa. Bấy giờ thế lực của họ Mạc ở vùng Cao Bằng vẫn còn rất mạnh. Cháu vua Mạc là Mạc Kính Khoan tự xưng hiệu Khánh vương, tập hợp bè đảng quấy phá các vùng Vũ Nhai, Đại Từ...Năm 1618, Trịnh Tráng theo lệnh của Trịnh Tùng, cùng với Thái bảo Trịnh Xuân, đốc suất các tướng Nguyễn Cảnh Kiên, Nguyễn Văn Giai, Tạ Thế Phúc, Nguyễn Khải, Nguyễn Thực, Hoàng Đình Phùng, Trịnh Thức, Nguyễn Duy Thời cùng đánh họ Mạc; thắng được một trận lớn, sau đó lui quân về.
Lên ngôi
Tháng 6 ÂL năm 1623, chúa Trịnh Tùng bị bệnh nặng bèn cho vương thế tử Trịnh Tráng nắm giữ binh quyền, lại lấy con thứ là Vạn quận công Trịnh Xuân phó giữ binh quyền. Trịnh Xuân từng có ý cướp ngôi dòng trưởng, vào năm 1619 đã cùng Lê Kính Tông mưu giết Trịnh Tùng không thành nhưng lại được tha.
Ngày 15 tháng 7, Xuân cùng quận Biện đem quân vào phủ cướp phá, đô thành đại loạn. Trịnh Tráng không biết tin tức gì về cha - vốn đã được Bùi Sĩ Lâm mang ra khỏi kinh, hôm sau ông sai em là Trịnh Giai rước Lê Thần Tông về Ninh Giang, còn mình tự lưu lại ở Nhân Mục (Vĩnh Lại), hội họp các quan văn võ cùng bàn bạc việc. Trịnh Đỗ sai con là quận Thạc đi đón Trịnh Tráng, ông bèn cùng quận Thạc ngồi chung voi đi, nhưng vì Lưu Đình Chất nghi ngờ Trịnh Đỗ, chạy ông khuyên không nên đi cùng quận Thạc. Trịnh Tráng bèn xuống voi tự mình về Ninh Giang. Sau đó Trịnh Tùng sai người dụ bắt và giết Trịnh Xuân.
Ngày 17 tháng 7, Trịnh Tùng được bọn Sĩ Lâm cáng võng đưa đi tìm thế tử, đi đến quán Thanh Xuân thì mất. Được tin báo của Sĩ Lâm, Trịnh Tráng trở về phát tang cha ngày 21 tháng 7 rồi lên thay làm chúa.
Phù Lê diệt Mạc
Tuy Trịnh Xuân đã chết nhưng đám loạn quân của ông ta vẫn đánh phá khắp thành Thăng Long. Trịnh Tráng phải đưa vua Lê về Thanh Hoa, đóng ở An Trường, có Trịnh Đỗ cũng đem quân bản doanh đi theo. Trịnh Tráng sai Nguyễn Danh Thế hòa giải hiềm nghi với Trịnh Đỗ để quan hệ 2 bên lại hòa hiếu như cũ. Nhà vua phong cho Trịnh Tráng làm Đô tướng tiết chế thủy bộ chư quân bình chương quân quốc trọng sự, Thái úy Thanh quốc công
Mùa thu năm đó, Mạc Kính Khoan nhân triều Lê có loạn, đem quân xuống Gia Lâm, lực lượng lên đến hơn vạn người. Ngày 28 tháng 8, Lê Thần Tông trao quyền cho Trịnh Tráng cầm quân đánh họ Mạc. Ông thống lĩnh quân thủy bộ, cùng Nguyễn Danh Thế, Đặng Thế Tài đánh về Gia Lâm. Quân Mạc thiệt hại nặng nề và phải lui về Cao Bằng. Trịnh Tráng bèn sai Lê Bật Tứ và Bùi Sĩ Lâm vào Thanh Hoa rước xa giá về kinh.
Tháng 11 ÂL, Trịnh Tráng tự tiến phong làm Nguyên soái tổng quốc chính, Thanh Đô vương. Mùa hạ tháng 5 ÂL năm 1625, ông hạ lệnh cho con trưởng là Trịnh Kiều lĩnh quân đánh họ Mạc ở Cao Bằng, bắt được vua Càn Thống Mạc Kính Cung và đồ đảng đưa về kinh sư giết đi. Mạc Kính Khoan cũng bị thua trận, dâng biểu xin hàng và được phong Thái úy Thông quốc công, hằng năm nộp cống, con cháu được ở đất Cao Bằng.
Đối nội
Ngày 24 tháng 1 năm 1629, Trịnh Tráng được lên tước vương một chữ, là Đại nguyên soái thống quốc chính thượng chúa Thanh vương. Mùa hạ tháng 5 ÂL năm 1630, chúa ép nhà vua lấy con gái mình là Trịnh Thị Ngọc Tú, vốn đã lấy bác họ của vua là Lê Duy Trụ và sinh được bốn con; vì Duy Trụ phạm tội bị bắt giam nên Trịnh Tráng mang con gái cho vua Lê. Thần Tông đành phải nhận lời.
Ngày 17 tháng 7 cùng năm, mưa to liền 4, 5 ngày, nước sông Hồng đầy tràn. Trịnh Tráng đích thân đi xem đắp đê, sai thu của quan tổng cán đê sông các xứ nhập vào quỹ công.
Mùa xuân năm 1638, Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng qua đời, con là Mạc Kính Vũ không thần phục, lại xưng niên hiệu. Trịnh Tráng đích thân thống lãnh binh sĩ đi đánh; tiên phong là quận Hạ bị bắt. Khi đó có tên quận Lâm vì sợ địch nên chúa lệnh chém rồi ra hiệu lệnh nghiêm ngặt, đốc suất các quân sĩ bốn mặt bao vây. Tuy nhiên do thời tiết nóng bức nên Trịnh Tráng quyết định dẫn quân về.
Cuối thu năm 1643, nhân một buổi vào chầu nhà vua, chúa gặp bà Tiệp dư họ Đặng tuổi vừa đôi mươi mà xinh đẹp như tiên giáng trần mới cầm tay và nói rằng:
Thiên hương quốc sắc như thế mà phải giam thân trong này ư.
Bà tiệp dư đáp rằng:
"Vương gia chớ có lỗi đạo thần tử như thế."
Chúa đáp: "Bổn vương hỏi đùa đó thôi, sao ngươi lại kiêu hãnh thế. Hoàng thượng của ngươi cũng ở trong tay bổn vương, chớ có lắm trò."
Tiệp dư đáp rằng: "Quyền nằm trong tay Vương thượng, Vương thượng muốn làm gì chẳng được. Thiếp đây chỉ là tiện nữ, biết tận trung mà thôi, không biết có quyền thế nào ngoài Hoàng thượng cả".
Việc này sau đồn ầm lên, chúa biết mình đã quá trớn, nên vào ngày 23 tháng 11 năm 1643, ép vua nhường ngôi cho thái tử Lê Duy Hựu, là Lê Chân Tông, tôn nhà vua làm Thái thượng hoàng ở cung riêng. Ngày 5 tháng 12 cùng năm, vua mới sai Nguyễn Danh Thế mang phù tiết bằng ngọc, và sách ấn vàng để gia tôn Trịnh Tráng làm Đại nguyên soái thống quốc chính thái thượng sư phụ Thanh vương. Đầu năm 1645, chúa sai vương tử Trịnh Tạc đem quân đánh Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng và thắng trận.
Năm 1632, Trịnh Tráng phong cho con trai trưởng của mình là Sùng quận công Trịnh Kiều làm Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, Phó chưởng quốc chính, Thái uý Sùng quốc công, mở phủ Hùng Uy để giúp Chúa coi quản việc nước. Với quyết định này, coi như xác nhận Trịnh Kiều là người sẽ nối ngôi Chúa trong tương lai. Tháng 9 năm 1742, Thế tử Kiều mất, thọ 42 tuổi. Đáng lẽ cháu đích con là Tông quận công Trịnh Hoành sẽ trở thành Thế tử theo nguyên tắc đích tôn thừa trọng của Việt Nam, song do Trịnh Hoành còn nhỏ nên việc này bị trù trừ chưa quyết.
Đầu năm 1645, Trịnh Tráng nhân danh vua Lê phong cho Vương tử thứ 2 là Tây quận công Trịnh Tạc làm Thái úy tả tướng tiết chế các doanh quân thủy, quân bộ các xứ, giữ quyền bính trong nước, tước Tây quốc công, mở phủ Khiêm Định. Thấy Trịnh Tạc được lập làm Thế tử, hai vương tử quận Hoa Trịnh Sầm và quận Phù Trịnh Lịch vô cùng thất vọng. Ngày 16 tháng 6, hai người nhân lúc chúa bị cảm mà cất quân nổi loạn. Chúa sai Trịnh Tạc đem quân đi đánh, bắt được hai người giải về kinh sư giết chết.
Mùa thu tháng 8 ÂL năm 1649, Lê Chân Tông qua đời, không có con nối. Trịnh Tráng sai Trịnh Tạc lại rước Thái thượng hoàng Thần Tông lên ngôi. Bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Minh đã tới hồi mạt vận, bị nhà Thanh đánh đuổi chạy dài. Vào mùa đông năm 1651, Quế vương nhà Minh chạy đến Nam Ninh, sai sứ dụ bảo Trịnh Tráng cấp cho binh lương giúp mình chống Thanh, đồng thời phong chúa làm An Nam phó Quốc vương. Tháng 8 ÂL năm 1652, Trịnh Tráng giật dây cho bầy tôi liên danh cầu xin nhà vua, rồi phong cho Trịnh Tạc làm Nguyên soái chưởng quốc chính Tây Định vương.
Quan hệ với phương Tây
Thời bấy giờ, chủ nghĩa tư bản ở phương Tây phát triển, các nhà tư bản đã nghĩ đến việc mở rộng thị trường sang vùng Đông Á và Đông Nam Á. Vào năm 1626, người Bồ Đào Nha mở rộng buôn bán ở Đàng Ngoài, tiếp đó là người Hà Lan. Chúa Trịnh và người Hà Lan có quan hệ tốt đẹp, ban đầu được họ tặng hai khẩu đại bác nên rất tín nhiệm họ. Chúa còn ép vua Lê Thần Tông phải viết thư cho toàn quyền Hà Lan ở Batavia (Indonesia) nhờ giúp đánh chúa Nguyễn. Năm 1637, Trịnh Tráng cho người Hà Lan đến mở cửa hàng ở phố Hiến (gần tỉnh lỵ Hưng Yên), về sau ở đấy có người Nhật Bản, người Trung Hoa, người Xiêm La, người Bồ Đào Nha đến buôn bán làm thành một nơi rất tấp nập. "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến" là một câu truyền tụng từ thời bấy giờ.
Năm 1644, nhân chiến dịch đánh chúa Nguyễn, người Hà Lan cũng đem ba chiến thuyền đóng ở ngoài biển gây thanh thế cho quân Trịnh, nhưng bị Nguyễn Phúc Tần đánh tan.
Bấy giờ tuy các chúa muốn mở rộng buôn bán với phương Tây nhưng lại cấm đạo. Vào năm 1630, Trịnh Tráng trục xuất giáo sĩ Alexandre de Rhodes rồi hạ lệnh cấm đạo năm 1643. Về nội thương, năm 1634, Trịnh Tráng cấm nhà quan trưởng hoặc các công sở không được phép cho người ra chợ uy hiếp lấy không hàng hóa hay đồ vật của khách thương mại. Nếu trái phép, Xá Nhân có quyền xét hỏi, lấy đủ chứng cứ và tang vật rồi đệ hồ sơ lên quan trên chung thẩm. Nếu xét quả thực, can phạm sẽ bị phạt nặng.
Cắt đất cầu phong cho nhà Minh
Trong Ức Trai di tập, các tác giả đã chép trong phần phụ lục về việc mất (6 đến 7)/10 châu thuộc phủ An Tây trấn Hưng Hóa rằng Thanh Đô Vương (Trịnh Tráng) sai sứ cầu phong nhà Minh (thời Minh mạt Chu Do Lang (nhiệm kỳ 1646-1662)). Người Minh cũng theo ý phong cho chức Phó Quốc vương. Khi người Minh bị thua người Thanh, phải chạy ra ở Long Châu, nhà Minh sai sứ xin các châu Hưng Hóa (khoảng năm 1646-1657). Chúa Trịnh Tráng đồng ý cắt cho nhà Minh (tức nhà Nam Minh). Thế là từ đó một nửa trong 10 châu Hưng Hóa, đóng thuế cho nhà Minh và bị nhập vào huyện Kiến Thủy thuộc phủ Lâm An tỉnh Vân Nam. Khi người Minh bị thua nhà Thanh, người Thanh cứ chiếm giữ lấy. Từ đấy Đại Việt mất những châu này. Theo các sách Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Đại Việt địa dư toàn biên (Nguyễn Văn Siêu) và Hưng Hóa kỷ lược (Phạm Thận Duật), thì các châu thuộc trấn Hưng Hóa mất về nhà Thanh, là: Hoàng Nham (黃岩), Khiêm Châu (謙州), Tung Lăng ((嵩陵, hay Cao Lăng (高陵)), Quảng Lăng (廣陵), Tuy Phụ (綏阜), Lê Tuyền (醴泉) và Hợp Phì (合淝).
Theo sách Địa chí tỉnh Lạng Sơn, thì các cuộc đi sứ Trung Quốc sau cuộc đi sứ khảng khái hy sinh bảo vệ độc lập dân tộc dân tộc của Giang Văn Minh năm 1637, đến khi nhà Thanh thực sự nắm quyền trên toàn cõi Trung Hoa là:
̈Năm 1637: Hai sứ thần Nguyễn Duy Hiểu, Giang Văn Minh sang cống nhà Minh.
Năm 1646: Nguyễn Nhân Chính đi đường biển sang Nam Minh cầu phong, lúc về đi đường bộ.
Năm 1647: sứ Nam Minh là Phan Kỳ và Lý Dụng Tiếp mang sắc thư, theo Nguyễn Nhân Chính tới Lạng Sơn sắc phong.
Năm 1663(?): Hồ Sỹ Dương, Nguyễn Danh Thực lên Lạng Sơn nhận sắc dụ của nhà (Nam Minh?) Nhà Thanh.
Xung đột với họ Nguyễn
Thời Trịnh Tráng, xung đột Trịnh-Nguyễn chính thức bùng phát. Từ năm 1625, chúa Nguyễn Phúc Nguyên không còn nộp thuế cho chính quyền Lê-Trịnh, lại theo kế của Đào Duy Từ, đắp luỹ ở bờ nam cửa bể Nhật Lệ để tự thủ. Năm 1627, chúa sai Nguyễn Hữu Bản đến Thuận Hóa đòi tô thuế từ năm Giáp Tí (1624) về trước. Chúa Nguyễn không chịu nộp thuế. Đến tháng 2 ÂL, Trịnh Tráng muốn vào đánh Thuận Hóa nhưng chưa có cớ gì, bèn sai Lê Đại Dụng phụng sắc mệnh nhà vua dụ bảo về việc cho con vào chầu, và đòi nộp 30 thớt voi, 30 chiếc thuyền đi biển, để cho đủ thể lệ cống nạp nhà Minh. Chúa Nguyễn lại thoái thác. Trịnh Tráng bèn hạ lệnh cho Nguyễn Khải, Nguyễn Danh Thế làm tiên phong đem 5000 quân đóng ở Hà Trung. Tráng tự thân đem đại binh kế tiếp xuất phát; lại mang nhà vua cùng đi, lấy cớ tuần du các địa phương; quân thủy, quân bộ tổng cộng hơn 200.000 cùng nhau đều tiến. Chúa Nguyễn sai Tôn Thất Vệ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Phúc Trung cùng nhau chống giữ ở bờ bắc sông Nhật Lệ. Quân Trịnh chủ động tấn công nhưng không chọc thủng được tuyến phòng thủ của quân Nguyễn. Phía Nguyễn có lợi thế là đại bác kiểu Bồ Đào Nha nên làm quân Trịnh sợ chạy dạt. Trong lúc hai bên tiếp tục giằng co thì Nguyễn Hữu Dật phao tin ở miền bắc, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc âm mưu làm phản. Trịnh Tráng nghi ngờ vội thu quân về bắc.
Năm 1633, con thứ ba của Chúa Nguyễn là Phúc Anh bất mãn không được làm thế tử, bèn viết thư hẹn làm nội ứng cho Trịnh Tráng. Trịnh Tráng khởi binh nam tiến lần thứ hai, đóng ở cửa Nhật Lệ. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến làm tướng ra đánh. Trịnh Tráng đang đợi suốt hơn 10 hôm không thấy hiệu làm nội ứng của Ánh thì bị quân Nguyễn đánh úp, quân Trịnh hoảng loạn tan vỡ bỏ chạy. Trịnh Tráng rút về bắc, để lại con rể là Nguyễn Khắc Liệt trấn thủ châu Bắc Bố Chính.
Năm 1635, chúa Nguyễn Phúc Nguyên mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối ngôi. Năm 1637, Phúc Lan sai Nguyễn Đình Hùng mang quân đánh úp chiếm Nam Bố Chính, giết tướng trấn thủ là Nguyễn Tịch. Năm 1640, Nguyễn Khắc Liệt mang quân đánh phá Nam Bố Chính rồi rút về. Chúa Nguyễn theo kế của Nguyễn Hữu Dật, viết thư cho Trịnh Tráng nói Liệt mưu thông đồng với chúa Nguyễn nên mặt ngoài gây chiến mà bên trong muốn hàng. Mặt khác, Nguyễn Phúc Lan thúc quân đánh Khắc Liệt. Khắc Liệt thua chạy, viết thư cầu cứu. Tin lời bên Nguyễn, Trịnh Tráng điều Trịnh Kiều mang quân vào bắt Liệt về xử tử. Quân Nguyễn nhân thời cơ đánh chiếm Bắc Bố Chính.
Về sự việc này, theo sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn, Khắc Liệt đã thông đồng với bên Nguyễn từ năm 1634, nhưng vài năm sau vẫn nấn ná chưa về hàng, lại có ý "làm cao" nên chủ động đánh vào đất Nguyễn để uy hiếp. Chúa Nguyễn sợ Liệt thay đổi ý định nên viết thư cho chúa Trịnh báo việc này.
Năm 1643, Trịnh Tráng sai bọn Trịnh Tạc và Trịnh Lệ làm tiên phong cùng Phạm Công Trứ, Nguyễn Danh Thọ kéo quân đánh Nam Bố Chính. Viên trấn thủ của chúa Nguyễn là Bùi Công Thắng tử trận. Nhân đó, ông đích thân thống suất đại quân, mang theo cả nhà vua đến châu Bắc Bố Chính, đóng tại An Bài, sai Trịnh Đảo đánh vào doanh lũy Trung Hòa. Quân Nguyễn ra sức chống cự. Lúc đó sắp vào hè, thời tiết nóng nực nên Trịnh Tráng phải rút quân về. Cử Lê Văn Hiểu, Lê Hữu Đức đóng giữ ở Hòa Trung, quận Mậu Phạm Tất Toàn giữ Bắc Bố Chính.
Năm 1648, Trịnh Tráng sai quận Tiến Lê Văn Hiểu khởi binh nam tiến lần thứ tư, dẫn bộ binh đánh Nam Bố Chính, còn thủy quân đánh cửa Nhật Lệ. Quân Trịnh vượt qua lũy Nhật Lệ, áp sát lũy Trường Dục, dùng đại bác bắn vỡ nhiều đoạn. Hai cha con tướng Nguyễn Trương Phúc Phấn cố thủ ở lũy Trường Dục, lại nhân đó tìm cách vá lũy, quân Trịnh đánh không hạ được. Thế tử Nguyễn Phúc Tần tiến quân đến xã An Đại, è sai phục quân ở sông Cẩm La chặn đường quân Trịnh chạy về; một mặt sai Nguyễn Hữu Tiến đem 100 con voi đến canh năm xông vào trại quân Trịnh, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quả nhiên quân Trịnh thua to chạy về Bắc, lại gặp quân thủy của họ Nguyễn đón đường đuổi đánh mãi đến sông Lam Giang mới thôi. Quân Trịnh thua, thiệt hại 3000 người. Trịnh Tráng lui binh, sai Lê Văn Hiểu giữ Hà Trung, Lê Hữu Đức đóng ở Hoành Sơn, Phạm Tất Toàn giữ Bắc Bố Chính.
Tháng 2 ÂL năm 1655, chúa Trịnh cử Lê Văn Hiểu đưa quân vào xâm lấn Nam Bố Chính. Chúa Nguyễn Phúc Tần hạ lệnh cho bọn Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật chặn đánh ở sông Gianh, phá tan được quân Trịnh, tướng Phạm Tất Toàn đem châu Bố Chính đầu hàng. Quân Nguyễn kéo đến Hoành Sơn, rồi đánh Hà Trung. Lê Văn Hiểu cùng bọn Hữu Đức chạy về An Trường; sau đó tiến quân đóng ở Đại Nại, chia quân ra chống cự phòng thủ.
Tháng 6 ÂL, chúa Trịnh triệu hồi Lê Văn Hiểu, Lê Hữu Đức, sai Trịnh Trượng giữ chức thống lĩnh, cùng Nguyễn Văn Trạc, Nguyễn Tính đốc suất binh kinh lý Nghệ An. Quân Nguyễn lui về phía bắc sông Gianh, Trịnh Trượng đóng quân ở Lạc Xuyên. Khi Nguyễn Hữu Tiến đem quân tới đánh, quân Trịnh bị thua; còn Nguyễn Hữu Dật thì đem thủy binh ra đánh cửa Kỳ La, đuổi chiến thuyền của họ Trịnh về cửa Châu Nhai; thừa thắng đánh vào Lạc Xuyên, quân Trịnh lui về An Trường. Thế là bảy huyện phía nam sông Lam Giang đều rơi cả vào tay họ Nguyễn.
Tháng 9 ÂL, Trịnh Tráng sai Trịnh Tạc làm Thống lĩnh, đến Nghệ An chỉ huy các đạo quân ở đó. Được ít lâu, vì trong nước xảy ra nhiều việc, chúa cho triệu Trịnh Tạc về, để Đào Quang Nhiêu ở lại giữ Nghệ An, thống lãnh các tướng đóng ở An Trường, cùng các tướng khác chia nhau phòng giữ. Sang năm 1656, quân Nguyễn đánh đồn Tiếp Vũ, tướng Trịnh bỏ chạy. Các đạo quân Nguyễn thừa thế truy kích, Đào Quang Nhiêu bại trận phải lui về giữ An Trường. Trịnh Tráng theo lời tiến cử, sai con út là Ninh quận công Trịnh Toàn ra thay thế. Mùa hạ tháng 5 ÂL, quân Nguyễn của Dương Trí đánh bại được quân họ Trịnh ở cửa biển Nam Giới. Trịnh Toàn dẫn quân đánh nhau với Tống Phúc Khang ở Đại Nại, nhưng bị viện quân của Nguyễn Hữu Tiến đánh bại, chạy thẳng về An Trường.
Ngày 28 tháng 5 năm 1657, Trịnh Tráng mất giữa lúc cuộc chiến Trịnh-Nguyễn vào thời kì khốc liệt nhất, thọ 81 tuổi, cầm quyền 34 năm (1623 - 1657). Thế tử Tây Định vương Trịnh Tạc lên nối ngôi Chúa, truy tôn Trịnh Tráng là Nghị vương, miếu hiệu Văn Tổ, tên thụy là Long Tự. Ba năm sau (1660), cháu nội ông là Trịnh Căn mới đẩy lùi được quân Nguyễn trở về nam sông Gianh.
Nhận định
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỉ tục biên quyển 21 của Phạm Công Trứ viết vào đời Lê-Trịnh đánh giá về Thanh vương Trịnh Tráng
Chúa tính trời hiếu thảo, thân ái mọi người, rộng lòng khoan thứ; khi mới cầm quyền, tuổi đã 47. Bình xong nội nạn, hòa hợp nhân dân, trong nước yên ổn, tín nhiệm nho thần, giảng cầu chính trị, chấn cử kỷ cương, mọi việc đều giao cho triều đường công luận, chúa cung kính khiêm nhường, cẩn thận giữ gìn pháp độ, ba lần đánh Thuận Hóa, chỉ dùng văn cáo để mở bảo, không muốn dụng binh đến cùng, lặn lội ở nơi xa. Tha Mạc Kính Khoan, cho đất Cao Bằng, khiến xưng thần, giữ chức cống. Cho nên cái phúc nuôi dưỡng yên ổn hòa bình thật là dày lắm. Võ liệt văn công đã làm sáng trưng đời trước, mở lối đời sau, xứng đáng được thiên triều sách phong làm Phó Quốc Vương. Chúa đông con cháu, tuổi đến thượng thọ. Sách nói rằng: "Người có đức lớn, ắt được ngôi vị, ắt được hưởng lộc, ắt được nổi danh, ắt được sống lâu". Câu ấy đáng tin thay!
Gia đình
Vợ:
Thái phi Trần Thị Ngọc Đài, tên thụy là Từ Huyên, người làng Đồng Đợi (huyện Thiên Bản) Nam Định, con gái ông Khải quận công. Sinh ra Hoằng tổ Dương vương Trịnh Tạc.
Chính phi Nguyễn Thị Ngọc Tú (? - 1631), tên thụy Từ Thuận, người làng Gia Miêu ngoại trang (huyện Tống Sơn), cháu Nguyễn Kim, con gái Đoan quốc công Nguyễn Hoàng. Sinh ra Sùng nghĩa vương Trịnh Kiều và hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc. Lăng ở xã Bồi Dương (huyện Tống Sơn).
Hiền phi Nguyễn Phúc Ngọc Súy, tên thụy là Từ Hiền, người làng Gia Miêu ngoại trang (huyện Tống Sơn), cháu đức Đoan quốc công Nguyễn Hoàng, con gái ông Lý Nhân công Nguyễn Hắc, Chính phi ở Đông Cung, mất 22 tháng 9 tôn lăng ở xã Bà Đông (huyện Tống Sơn).
Đệ nhị cung tần Trần Thị Ngọc Am, Bà tên thật là Trần Thị Cư, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580) tại làng Mụa, tổng Thiên Thi, phủ Khoái Châu xưa, nay thuộc thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Bà mất năm 1647, thọ 68 tuổi, nhân dân tôn Bà làm Thần và lập đền thờ ngay tại quê hương.
Tây cung phi Nguyễn Thị Ngọc Giao, tục gọi bà chúa Mía. Mất ngày 30 tháng Chạp.
Con:
Sùng Nghĩa vương Trịnh Kiều (1601 - 1642), mẹ là Chính phi Nguyễn thị. Ông là con trưởng, lĩnh mệnh tiết chế, mở phủ Sùng quốc song mất sớm.
Dực vận Tân trị Công thần Thân nghĩa công Trịnh Lưu, chết trước Sùng Nghĩa vương. Mẹ là Thái phi Trần thị.
Dực Vận Tân trị Công thần Thuần vĩ công Trịnh Trượng.
Đức Hoằng tổ Dương vương Trịnh Tạc (1606 - 1682), mẹ là Thái phi Trần thị.
Dực Vận Tân trị Công thần Bỉnh trung công Trịnh Quế. . Mẹ là Thái phi Trần thị.
Dực Vận Tân trị Công thần Quốc lão Tô quận công Trịnh Hàm.
Thái tể Bảng quận công Trịnh Biện.
Thái phó Khuê quận công Trịnh Lực
Thái tể Hoàng quận công Trịnh Lộc.
Thái phó Địch quận công Trịnh Tiến.
Dực vận tân trị công thần Hiệu quận công Trịnh Tấu.
Dực vận tân trị công thần An quận công Trịnh Thiện
Dực vận tân trị công thần Mỹ quận công Trịnh Hoàn.
Dực vận tân trị công thần Cảo quận công Trịnh Lệ.
Thái úy Ninh quốc công Trịnh Toàn (? - 1657), con út, tham gia chiến trường chống quân Nguyễn.
Hoa quận công Trịnh Sầm (? - 1645)
Phù quận công Trịnh Lịch (? - 1645)
Trịnh Thị Ngọc Trúc (1595 - 1660), trước lấy Cường quận công Lê Trụ, sau được gả cho vua Lê Thần Tông làm Hoàng hậu. |
Trịnh–Nguyễn phân tranh (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong), mở đầu khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627 và kết thúc vào năm 1777 khi chúa Nguyễn sụp đổ.
Ban đầu, cả thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn đều mang khẩu hiệu "phù Lê diệt Mạc" để lấy lòng thiên hạ và thề trung thành với triều Hậu Lê. Sau khi nhà Mạc đã bị đánh đổ, trên danh nghĩa, cả Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn đều là 2 vị bề tôi của nhà Hậu Lê, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều là lãnh thổ của nhà Lê. Nhưng trên thực tế thì cả hai tập đoàn phong kiến này đều tạo thế lực cát cứ cho riêng mình như 2 nước riêng biệt, vua nhà Hậu Lê đã không còn thực quyền nên không ngăn chặn được sự phân tranh giữa hai họ Trịnh–Nguyễn. Nước Đại Việt trong giai đoạn này bị chia cắt khoảng 150 năm.
Bối cảnh
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê lập ra nhà Mạc. Năm 1533, tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim lập con vua Lê Chiêu Tông lên ngôi, tức là Lê Trang Tông. Năm 1545, Nguyễn Kim bị sát hại, con rể là Trịnh Kiểm lên thay. Để nắm trọn binh quyền, Trịnh Kiểm đầu độc giết con cả của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông. Em của ông là Nguyễn Hoàng lo sợ bị anh rể hại, nên nghe theo lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, xin vào trấn thủ Thuận Hóa. Trịnh Kiểm cho rằng đất ấy là nơi xa xôi, hoang vu nên đồng ý cho đi, với hy vọng rằng khi đụng độ với quân nhà Mạc, Nguyễn Hoàng sẽ bị giết chết dưới tay chúng. Tuy nhiên, ngạc nhiên thay, Nguyễn Hoàng không những đánh bại được quân nhà Mạc, mà lại còn lấy được lòng dân Thuận Hóa nữa.
Mải đối phó với nhà Mạc ở phương bắc, Trịnh Kiểm cho Nguyễn Hoàng kiêm trấn thủ luôn Quảng Nam. Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, con cả là Trịnh Cối lên thay. Cối không màng chính sự, bị em là Trịnh Tùng đoạt quyền. Cối cùng đường đầu hàng nhà Mạc và chết già ở đất Bắc.
Trịnh Tùng nắm đại quyền, thao túng triều đình, cho người ám sát vua Lê Anh Tông lập vua nhỏ là Thế Tông. Năm 1592, Trịnh Tùng đánh chiếm được Thăng Long, đuổi họ Mạc chạy lên Cao Bằng. Khi rước được vua Lê về kinh thành, Trịnh Tùng bắt đầu tính tới người cậu Nguyễn Hoàng ở phuơng nam.
Chiến tranh ngầm
Cuộc chiến Trịnh–Nguyễn thực sự diễn ra từ năm 1627 nhưng đó là chỉ tính về mặt quân sự. Nếu tính cả trên mặt trận ngoại giao, xung đột giữa hai bên đã nổ ra từ nhiều năm trước.
Nguyễn Hoàng trốn về Nam
Năm 1593, Trịnh Tùng triệu Nguyễn Hoàng ra Bắc với lý do để cùng đánh tàn dư họ Mạc còn tản mát ở Bắc bộ. Hoàng vâng lệnh mang quân ra bắc, phá tan quân Mạc ở Hà Trung và Sơn Nam, sau đó được Tùng giao trách nhiệm trấn giữ Sơn Nam.
Nguyễn Hoàng đóng quân ở Sơn Nam được 8 năm cố tìm cách thoát về nam. Năm 1600, nhân họ Mạc nổi dậy, Hoàng ngầm xúi giục các hàng tướng Mạc cũ là Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga nổi loạn để lấy cớ đi dẹp. Trịnh Tùng mải đối phó họ Mạc ở Cao Bằng, họ Vũ ở Tuyên Quang (tức Chúa Bầu) nên đồng ý cho Nguyễn Hoàng đi dẹp. Hoàng nhân cơ hội đó chạy thẳng ra biển đi thoát về nam.
Thấy Nguyễn Hoàng trốn thoát, Trịnh Tùng sai người cầm thư vào nam dụ ra lần nữa nhưng Hoàng không ra, sau đó lại bỏ không nộp thuế đều đặn cho miền bắc. Để xoa dịu tình hình, Hoàng gả con gái là Ngọc Tú cho con Tùng là Tráng (tức là cháu lấy cô).
"Ta không nhận sắc"
Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, người con trai thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay, tức là Sãi vương (hay chúa Sãi). Năm 1623, Bình An Vương Trịnh Tùng qua đời, con là Trịnh Tráng lên thay, tức là Thanh Đô Vương.
Sử sách nhà Nguyễn chép rằng, năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên bỏ không nộp thuế cho vua Lê, Trịnh Tráng làm sắc đứng tên vua Lê gửi trách Nguyễn, đòi đích thân hoặc sai con tải thuế ra bắc. Theo kế của mưu sĩ Đào Duy Từ, Phúc Nguyên một mặt lo tăng cường phòng thủ, một mặt tìm cách trả lại sắc thư.
Theo giai thoại, vì lực lượng yếu không thể ra mặt trả sắc thư cho chúa Trịnh, chúa Nguyễn sai đúc mâm hai đáy, để sắc thư kèm theo một bài thơ do Đào Duy Từ viết, cho vào đáy dưới, bên trên để vàng bạc, rồi sai Văn Khuông mang ra bắc tạ với chúa Trịnh. Khuông dâng mâm lên chúa Trịnh rồi giả cách về công quán nghỉ, trốn luôn về nam. Phía Trịnh phát giác mâm hai đáy bèn mở ra, bên trong có tờ sắc thư và một bài thơ chữ Hán như sau:
Âm Hán-Việt:
Các bầy tôi dưới quyền chúa Trịnh không giải được nghĩa bài thơ. Mãi sau Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan mới giải được nghĩa rằng:
Câu đầu ý là chữ "mâu" (矛) bỏ nét phẩy. Chữ "mâu" không có nét phẩy thì thành ra chữ "dư" (予), nghĩa là "ta", "tôi".
Câu thứ hai ý là chữ "mịch" (覔) bỏ chữ "kiến" (見). Chữ "mịch" sau khi bỏ chữ "kiến" thì còn lại chữ "bất" (不), nghĩa là "không".
Câu thứ ba ý là chữ "ái" (愛) bỏ chữ "tâm" 心. Chữ "ái" không có chữ "tâm" thì thành ra chữ "thụ" (受), nghĩa là "nhận".
Câu cuối ý là chữ "lai"(來) ghép với chữ "lực" (力). Chữ "lai" đem ghép với chữ "lực" thì thành chữ "sắc" (勑).
Ẩn ý của bài thơ này là "dư bất thụ sắc" (予不受勑), nghĩa là "Ta không nhận sắc".
Theo sử sách nhà Nguyễn, sau khi hiểu được nghĩa bài thơ, nhận ra câu trả lời ngang ngạnh của Nguyễn Phúc Nguyên, Trịnh Tráng tức giận quyết định khởi đại binh vào nam. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng điều này không phải là sự thật. Trên thực tế, người giải được bài thơ của Đào Duy Từ là Phùng Khắc Khoan đã mất từ năm 1613, trước đó 14 năm rồi. Không những thế, trong chính cuốn sử biên niên Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn cũng chép rằng, sau khi Văn Khuông dâng mâm xong trốn về, tướng Nguyễn đóng ở biên giới đã chủ động đánh lấn sang đất Trịnh gây hấn trước, do đó Trịnh Tráng mới động binh vào nam, dẫn tới cuộc đại chiến đầu tiên giữa Trịnh và Nguyễn.
Sau này, các sử gia hiện đại tìm ra rằng chân tướng của sự việc này không giống những gì sử nhà Nguyễn chép. Chiếc mâm đồng hai đáy và bài thơ mà Đào Duy Từ dụng tâm khổ trí làm ra thì có thể có, nhưng thực ra phía Trịnh đã không phát giác ra cái mâm có hai đáy và do đó chúa Trịnh không phải tức giận về bài thơ này. Nhà Nguyễn muốn cha ông mình – chúa Sãi – đấm được họ Trịnh một cú đòn ngoại giao ngoạn mục, nhưng trên thực tế quả đấm đó "chỉ trúng vào không khí". Các sử gia nhà Nguyễn đã sơ hở khi ghi rằng Trạng Bùng làm người giải bài thơ của mưu sĩ họ Đào, nhưng lại quên rằng lúc đó Trạng Bùng đã qua đời từ lâu (ông qua đời năm 1613). Theo các nhà nghiên cứu, việc chúa Nguyễn tiếp tục không nộp thuế, cũng không ra nộp mình và cũng không sai con ra nhận sắc lệnh của vua Lê (chúa Trịnh nhân danh), rồi họ Nguyễn chủ động gây hấn mới là lý do để Trịnh Tráng khởi binh.
Chiến tranh 1627-1672
Cuộc chiến đầu tiên 1627
Tháng 3 năm 1627, Trịnh Tráng khởi 20 vạn đại quân thủy bộ vào nam, cùng các tướng Nguyễn Khải, Lê Khuê chia làm hai đạo tiến vào, hội binh ở cửa Nhật Lệ. Phía Nguyễn cử các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Vệ, Nguyễn Phúc Trung đón đánh.
Quân Trịnh chủ động tấn công nhưng không chọc thủng được tuyến phòng thủ của quân Nguyễn. Phía Nguyễn có lợi thế là đại bác kiểu Bồ Đào Nha nên làm quân Trịnh sợ chạy dạt. Hai tướng Trịnh là Nguyễn Khải và Lê Khuê đều thua chạy.
Trong lúc hai bên tiếp tục giằng co thì Nguyễn Hữu Dật phao tin ở miền bắc, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc âm mưu làm phản. Trịnh Tráng nghi ngờ vội thu quân về bắc.
Quân Trịnh rút về, Nguyễn Phúc Nguyên theo kế của Đào Duy Từ gấp rút xây lũy Trường Dục (Lũy Thầy) để phòng thủ.
Năm 1631, con trưởng chúa Nguyên là thế tử Kỳ chết, con thứ hai là Lan được lập làm thế tử, con thứ tư là Anh ra thay Kỳ trấn giữ Quảng Nam. Anh bất mãn không được làm thế tử, mưu thông đồng với chúa Trịnh, bèn viết thư hẹn làm nội ứng cho Trịnh Tráng.
Quân Trịnh Nam tiến lần thứ hai 1633
Năm 1633, Trịnh Tráng khởi binh nam tiến lần thứ hai, đóng ở cửa Nhật Lệ. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến làm tướng ra đánh. Trịnh Tráng đang đợi suốt hơn 10 hôm không thấy hiệu làm nội ứng của Anh thì bị quân Nguyễn đánh úp, quân Trịnh hoảng loạn tan vỡ bỏ chạy. Trịnh Tráng rút về bắc, để lại con rể là Nguyễn Khắc Liệt trấn thủ châu Bắc Bố Chính.
Chiến sự 1634-1642
Năm 1634, Đào Duy Từ chết, năm sau Nguyễn Phúc Nguyên chết, thế tử Lan lên thay, tức là Thượng vương.
Năm 1635, Tôn Thất Anh là em của Nguyễn Phúc Lan đang là Trấn thủ Quảng Nam, nghe tin anh lên ngôi liền bí mật đầu hàng chúa Trịnh, cho đắp lũy Cu Đê để cố thủ, bày thủy quân ở Đà Nẵng chống lại chúa. Chúa cho mời chú của mình là Tường Quận công Nguyễn Phúc Khê vào bàn. Ông Khê cứng rắn, quyết đánh không nhân nhượng, xin ông đặt phép nước lên tình nhà rồi cùng Nguyễn Phúc Yên kéo quân vào đánh, bắt được Anh rồi đem giết đi.
Năm 1637, Thượng vương Lan sai Nguyễn Đình Hùng mang quân đánh úp chiếm Nam Bố Chính, giết tướng trấn thủ là Nguyễn Tịch.
Quân Nguyễn đánh ra Bố Chính
Năm 1640, tướng Trịnh là Nguyễn Khắc Liệt mang quân đánh phá Nam Bố Chính rồi rút về. Chúa Nguyễn theo kế phản gián của Nguyễn Hữu Dật, viết thư cho Trịnh Tráng nói Liệt mưu thông đồng với chúa Nguyễn nên mặt ngoài gây chiến mà bên trong muốn hàng. Mặt khác, Nguyễn Phúc Lan thúc quân đánh Khắc Liệt. Khắc Liệt thua chạy, viết thư cầu cứu. Trịnh Tráng tin lời gièm của bên Nguyễn nên khi Liệt xin viện binh, Tráng điều Trịnh Kiều mang quân vào cứu, thực ra là để thay Liệt.
Kiều theo lệnh đến nơi nhưng không cứu Liệt mà chặn đường bắt Liệt mang về nộp chúa Trịnh, do đó quân Nguyễn nhân thời cơ đánh chiếm luôn Bắc Bố Chính vào tháng 6 năm 1640. Nguyễn Khắc Liệt bị Trịnh Tráng xử tử.
Quân Trịnh Nam tiến lần ba 1643
Tháng 2 năm 1643, Trịnh Tráng điều quân vào nam đánh Nam Bố Chính. Chúa Trịnh cử hai con là Tạc và Lệ đi tiên phong, cùng các tướng Phạm Công Trứ, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Quang Minh.
Quân Trịnh ồ ạt tiến công giết chết tướng Nguyễn là Bùi Công Thắng, chiếm lại Bắc Bố Chính, tiến lên đóng ở cửa Nhật Lệ. Sau khi hai con ra quân được một tháng, chúa Trịnh rước vua Lê Thần Tông cùng đi nam chinh. Tháng 4, chúa Trịnh sai Trịnh Đào đánh lũy Trung Hòa. Quân Nguyễn phòng thủ vững chắc, Trịnh Đào không hạ được lũy. Hai bên đối trận chưa phân thắng bại, gặp lúc mùa hè, khí hậu oi bức, quân Trịnh bị bệnh nhiều nên Trịnh Tráng đành ra lệnh lui quân.
Thủy chiến cảng Eo
Tháng 6 năm 1643, theo đề nghị của chúa Trịnh, ba tàu chiến Hà Lan (trước gọi là Hòa Lan) là Wojdenes (De Wijdeness), Waterhond và Vos tiến vào cửa Thuận An đánh chúa Nguyễn. Thế tử Nguyễn Phúc Tần chưa được lệnh của cha vẫn mang quân ra nghênh chiến, làm một tàu của Hà Lan bị va phải đá ngầm rồi chìm, chiếc chỉ huy bị quân Nguyễn vây chặt nên thuyền trưởng phải tự đốt tàu, chiếc còn lại chạy thoát được.
Nam tiến lần thứ tư 1648
Tháng 2 âm lịch năm 1648, Trịnh Tráng sai Lê Văn Hiểu khởi binh nam tiến lần thứ tư, dẫn bộ binh đánh Nam Bố Chính, còn thủy quân đánh cửa Nhật Lệ. Cha con Trương Phúc Phấn cố thủ ở lũy Trường Dục, quân Trịnh đánh không hạ được.
Thế tử Tần mang quân cứu viện ra Quảng Bình, chia quân thủy phục ở sông Cẩm La, sai Nguyễn Hữu Tiến mang quân đánh úp quân Trịnh lúc nửa đêm. Quân Trịnh thua lớn, bị thủy quân Nguyễn chặn đánh chạy đến tận sông Gianh.
Tháng 3 năm 1648, quân Nguyễn định vượt sông Gianh đánh ra Bắc Bố Chính thì nghe tin chúa Nguyễn ngã bệnh chết trên thuyền trên đường về Thuận Hóa nên phải lui binh. Con chúa Lan là Nguyễn Phúc Tần lên thay, tức là Hiền vương.
Trịnh Tráng lui binh, sai Lê Văn Hiểu giữ Hà Trung, Lê Hữu Đức đóng ở Hoành Sơn, Phạm Tất Toàn giữ Bắc Bố Chính.
Đại chiến 1655 – 1660: Giằng co ở Nghệ An
Cuộc chiến lần thứ năm là cuộc chiến dài nhất, lớn nhất trong cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn và là lần duy nhất quân Nguyễn chủ động đánh ra bắc.
Quân nam chiếm 7 huyện Nghệ An
Tháng 4 năm 1655, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật mang quân vượt sông Gianh đánh Bắc Bố Chính. Tướng Trịnh là Phạm Tất Toàn đầu hàng. Tiến và Dật thừa thắng tiến lên đánh Hoành Sơn, Lê Hữu Đức thua chạy. Tiến và Dật đánh luôn Hà Trung, Lê Văn Hiểu thua chạy nốt, cùng Đức lui về giữ An Trường (Nghệ An).
Trịnh Tráng thấy các tướng thua luôn, sai Trịnh Thượng làm thống lĩnh mang quân vào nam, triệu các tướng cũ về. Lê Văn Hiểu bị thương, nửa đường chết, còn Đức bị giáng chức.
Trịnh Thượng lãnh binh, tiến quân bộ vào huyện Kỳ Hoa, chia quân thủy tiến đến cửa Kỳ La. Hữu Tiến rút về nam sông Gianh. Trịnh Thượng thấy địch vô cớ rút, biết có mưu nhử nên không đuổi, đóng lại Lạc Xuyên, chia quân ra giữ Hà Trung. Hữu Tiến, Hữu Dật thấy địch không đuổi, liền chia quân thủy bộ đánh ra. Quân Trịnh hai cánh đều thua, quân thủy bỏ Kỳ La về Châu Nhai, quân bộ bỏ Lạc Xuyên về giữ An Trường. Thế là 7 huyện Nghệ An ở phía nam sông Lam là Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương về tay chúa Nguyễn.
Trịnh Toàn cầm quân
Trịnh Tráng giáng chức Thượng rồi cử con là Trịnh Tạc vào làm Thống lĩnh. Hữu Tiến thấy viện binh Trịnh bèn lui về giữ Hà Trung. Gặp lúc họ Mạc phía bắc quấy rối, Trịnh Tạc phải rút về bắc, để Đào Quang Nhiêu ở lại đóng ở An Trường, Vũ Văn Thiêm lãnh thủy quân đóng ở Khu Độc; Thân Văn Quang và Mẫn Văn Liên đóng ở Tiếp Vũ.
Năm 1656, Hữu Tiến đánh Tiếp Vũ, Quang và Liên bỏ chạy. Hữu Dật phá tan thủy quân của Văn Thiêm, Thiêm cũng chạy. Quân Nguyễn hợp lại đụng Đào Quang Nhiêu, Nhiêu bại trận chạy về giữ An Trường.
Trịnh Tráng bèn cử con út là Trịnh Toàn vào cứu viện. Toàn đốc quân tiến đến Thạch Hà, sai Nhiêu và Dương Hồ tiến lên đóng ở Đại Nại và Hương Bộc, Văn Thiêm tiến lên cửa Châu Nhai (cửa khẩu sông Lam). Hữu Dật sai Nguyễn Cửu Kiều một lần nữa đánh tan Văn Thiêm, Thiêm lại bỏ chạy. Dật sang bờ sông Lam hợp binh với Kiều kéo đến Đại Nại. Quân bộ của Hữu Tiến đánh Nhiêu ở Hương Bộc, Trịnh Toàn mang quân đến cứu, đánh bại quân Nguyễn. Sau đó Toàn lại sang đánh quân Nguyễn ở Đại Nại, giết chết Cửu Kiều, quân Nguyễn thua to, chạy về Hà Trung. Toàn và Nhiêu cùng đuổi đến Tam Lộng lại bị Tiến và Dật đánh bại, phải rút về An Trường.
Sách Việt Nam sử lược mô tả trận này hai bên có thắng có thua, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư của Lê - Trịnh mô tả trận này quân Trịnh thắng lớn, ngược lại sách Đại Nam thực lục tiền biên của nhà Nguyễn soạn sau này lại mô tả trận này quân Nguyễn thắng. Các nhà nghiên cứu thống nhất với Việt Nam sử lược rằng hai bên có thắng có thua: sau trận thắng đầu quân Trịnh bị thua, nếu không đang đà thắng lợi phải tiến lên chứ không thể lui về giữ An Trường.
Trịnh Tráng bệnh nặng, thế tử Trịnh Tạc cầm quyền điều hành. Thấy Trịnh Toàn rất có uy tín với quân sĩ, Trịnh Tạc lo lắng. Tạc sai con là Căn mang quân vào Nghệ An, tiếng là tăng viện nhưng để kìm chế Trịnh Toàn. Tháng 4 năm 1657, Trịnh Tráng chết, Tây Định vương Trịnh Tạc lên thay. Biết anh em chúa Trịnh bất hòa, chúa Nguyễn sai người đến dụ nhưng Toàn cự tuyệt. Chúa Trịnh cử Trịnh Căn thay Toàn làm Thống lĩnh, triệu Toàn về kinh. Thủ hạ của Toàn một số người sang với Trịnh Căn, một số hàng Nguyễn. Toàn về kinh, chúa Trịnh lấy cớ trách Toàn không chịu tang cha rồi giam vào ngục và giết đi.
Trịnh Căn lãnh binh
Tháng 6 năm 1657, Trịnh Căn chia quân sai Hoàng Thể Giao, Lê Thì Hiến và Trịnh Thế Công vượt sông Lam đánh tướng Nguyễn là Tống Hữu Đại ở huyện Thanh Chương. Do có người tiết lộ, Hữu Tiến biết trước phòng bị nên quân Trịnh bị thua rút về bờ bắc sông Lam.
Hai bên tạm hưu chiến cầm cự ở sông Lam, chỉ giao tranh những trận nhỏ. Tháng 6 năm 1658, tù trưởng Lang Công Chấn ở Quỳnh Lưu theo Nguyễn, mang quân đánh Trịnh, bị quân Trịnh đánh bại bắt được giải về Thăng Long. Tháng 7, quân Nguyễn vượt sông Lam thắng được Nguyễn Hữu Tá ở huyện Hưng Nguyên nhưng bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút về. Tháng 12, quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn. Tháng 8 năm 1660, quân Trịnh lại đánh Nghi Xuân bị bại trận.
Chiến tranh hậu phương
Trong khi ngoài mặt trận diễn ra các trận đánh lẻ tẻ thì phía trong mỗi bên đều lo củng cố hậu phương. Hữu Dật nhân lúc ngưng chiến tung gián điệp ra bắc dụ Phạm Hữu Lễ trấn thủ Sơn Tây, Văn Dũ trấn thủ Hải Dương làm phản Trịnh, lại hẹn họ Vũ ở Tuyên Quang và họ Mạc ở Cao Bằng cùng nổi dậy. Tuy nhiên do lực lượng các cánh này đều yếu, nhất là hai cánh Vũ, Mạc đều có ý đồ riêng. Tất cả có ý chờ quân Nguyễn vượt sông Lam, bắc tiến thật gấp mới ra mặt. Trong khi đó, quân Nguyễn cũng không hùng hậu, đi đánh xa lâu ngày đã mệt, cũng có ý chờ miền bắc có biến mới dám đánh lớn. Hai bên dùng dằng chờ nhau. Chúa Trịnh biết Hữu Lễ thông đồng với Nguyễn bèn dụ và giết chết. Ngoài biên cương, Trịnh Căn cũng cầm quân rất nghiêm, xử tử tướng Hoàng Nghĩa Chấn vì đố kỵ không tiếp ứng cho Đào Quang Nhiêu, sau đó lại giết Nguyễn Đức Dương vì bán trộm lương cho quân Nguyễn. Bên kia, Hữu Dật cũng giết hàng tướng Phạm Tất Toàn vì có ý về bắc.
Các tướng Nguyễn nảy sinh mâu thuẫn. Hữu Tiến và thuộc tướng ghét Hữu Dật vì Dật được chúa Nguyễn tin yêu hơn. Trịnh Căn nhân đó sai người mang vàng đến dụ nhưng Dật không nghe, báo hết cho chúa Nguyễn biết.
Trịnh Căn thu hồi đất cũ
Tháng 9 năm 1660, Trịnh Căn chia quân, sai Hoàng Nghĩa Giao và Lê Thì Hiến đang đêm vượt sông Lam đánh Lận Sơn. Cánh quân của Giao đến Lận Sơn bị Nguyễn Hữu Dật vây ngặt, mấy thuộc tướng tử trận. Trịnh Căn thấy vậy mang quân bộ đến cứu Giao, lại điều quân thủy tiến lên áp sát quân Nguyễn mà bắn, đánh tan Dật, Dật thua chạy về Khu Độc. Cánh quân của Thì Hiến và Mẫn Văn Liên đụng độ Nguyễn Hữu Tiến ở Tả Ao, tuy Liên bị tử trận nhưng quân Trịnh phá được lũy, đánh bại được Hữu Tiến. Tiến phải rút về Nghi Xuân.
Nguyễn Phúc Tần mang quân tiếp ứng, đóng ở Quảng Bình. Hữu Dật muốn khoe công với chúa bèn lẻn về ra mắt Tần, thuật chuyện các chiến công vừa lập ngoài mặt trận. Tần ban cho Dật thanh bảo kiếm và sai quay lại đánh tiếp. Tiến nghe tin đó càng ghét Dật. Nhân lúc quân mới hàng ở Nghệ An bỏ trốn nhiều, tướng sĩ Nguyễn đều ngã lòng, Tiến bàn rút lui, chỉ có Dật không nghe.
Chúa Trịnh tăng viện cho Trịnh Căn. Tháng 11 năm 1660, biết bên Nguyễn các tướng bất hòa, quân lại bỏ trốn, Trịnh Căn sai Lê Thì Hiến và Lê Sĩ Triệt đánh huyện Nghi Xuân, Hoàng Nghĩa Giao và Nguyễn Năng Thiệu đánh huyện Thiên Lộc, phá tan quân Nguyễn. Quân Trịnh lấy lại 7 huyện ở Nghệ An mất từ năm 1655.
Hữu Tiến thua trận buộc phải rút quân, nhưng vì ghét Dật nên giả cách hạ lệnh đánh An Trường và bí mật rút về Nam Bố Chính mà không báo cho Dật biết. Quân Trịnh đang đà thắng, sang sông đánh Khu Độc. Dật biết tin Tiến rút rồi, bèn làm nghi binh khiến quân Trịnh không dám đuổi gắt. Về đến Hoành Sơn, Dật gặp Tiến, vừa lúc Trịnh Căn thúc quân đuổi tới, hai bên giao tranh ác liệt và cùng thiệt hại lớn.
Hai bên bèn hưu chiến, Trịnh Căn lui về giữ Kỳ Hoa, Hữu Tiến giữ Nhật Lệ, Hữu Dật giữ Đông Cao. Trịnh Căn sai Đào Quang Nhiêu trấn thủ Nghệ An kiêm Bắc Bố Chính, còn mình rút về bắc.
Cuộc chiến thứ sáu 1661–1662
Sau 1 năm nghỉ binh, nhân vừa thắng quân Nguyễn, tháng 10 năm 1661, Trịnh Tạc mang vua Lê Thần Tông cử đại binh vào nam, cử Trịnh Căn làm thống lĩnh cùng các tướng Hoàng Thể Giao, Đào Quang Nhiêu, Lê Thì Hiến vượt sông Gianh.
Nguyễn Hữu Dật trấn thủ Nam Bố Chính chia quân đắp lũy thế thủ, quân Trịnh đánh mấy tháng không hạ được. Tháng 3 năm 1662, quân viễn chinh mệt mỏi, lương hết, chúa Trịnh bèn rút quân về bắc. Hữu Dật đuổi theo đến sông Gianh rồi rút về.
Cuộc chiến thứ bảy 1672
Vua Lê Thần Tông rồi Lê Huyền Tông qua đời, Lê Gia Tông lên ngôi. Sau khi dứt được họ Mạc ở Cao Bằng (1667), năm 1672, chúa Trịnh lại cử binh nam tiến, sai Trịnh Căn lĩnh thủy binh, Lê Thì Hiến lĩnh bộ binh.
Bên Nguyễn năm 1666, Nguyễn Hữu Tiến chết. Chúa Nguyễn cử em là Hiệp làm chủ tướng cùng Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức ra chống cự, tự chúa Nguyễn ra tiếp ứng. Quân Trịnh hăng hái đánh lũy Trấn Ninh mấy lần suýt hạ được nhưng Hữu Dật cố sức chống đỡ. Quân Trịnh đánh mãi không thắng phải rút về Bắc Bố Chính, Trịnh Căn lại bị ốm nên Trịnh Tạc rút đại quân về kinh, cử Lê Thì Hiến, Lê Sĩ Triệt ở lại trấn thủ.
Chia đôi đất nước
Trước sau trong 46 năm ròng rã, hai bên Trịnh–Nguyễn đánh nhau lớn 7 lần và một số lần đánh nhau quy mô nhỏ hơn. Chiến trường chủ yếu ở hai bờ sông Gianh, vùng Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay.
Hai bên đều có lợi thế và nhược điểm nên không thể tiêu diệt được nhau, tuy cùng mang khẩu hiệu "Phù Lê". Sau nhiều năm giao chiến, cả hai bên đều kiệt quệ về sức người sức của nên phải chấp nhận đình chiến, chia cắt lâu dài. Sông Gianh, sử sách hay gọi là Linh Giang, trở thành ranh giới chia nước Đại Việt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Họ Trịnh không thể tiến vào chiếm Thuận Hóa nên tập trung diệt tàn dư nhà Mạc ở Cao Bằng (1677), dứt họ Vũ ở Tuyên Quang (1699), củng cố địa bàn Bắc Bộ. Họ Nguyễn không thể ra Thăng Long nên dồn sức diệt Chiêm Thành, lấn sang Chân Lạp để mở mang bờ cõi vốn nhỏ hẹp về phía nam. Hai bên đều có những chúa cai trị giỏi nên ổn định được lãnh thổ suốt hơn 100 năm.
Cuộc chiến cuối cùng 1774-1775
Quân Trịnh lại nam tiến
100 năm sau khi đình chiến, có một biến cố lớn ở Đàng Trong làm xáo trộn cả Nam Hà lẫn Bắc Hà. Ba anh em Tây Sơn nổi dậy khởi nghĩa nhân lúc chính quyền họ Nguyễn lục đục rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Khi thủ lĩnh Tây Sơn là Nguyễn Nhạc làm chủ được Nam Trung Bộ thì họ Trịnh nhận thấy thời cơ tiêu diệt họ Nguyễn đã đến.
Đầu tiên dùng danh nghĩa đánh Tây Sơn giúp Chúa Nguyễn, tháng 9 âm lịch năm 1774, chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm cử lão tướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc (thường gọi là quận Việp) làm Bình nam thượng tướng quân, Bùi Thế Đạt làm phó tướng mang 36.000 quân nam tiến.
Quân Trịnh tiến tới địa giới Bắc Bố Chính, tướng Nguyễn là Trần Giai chạy sang đầu hàng, làm hướng đạo cho quân Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc vượt sông Gianh. Chúa Nguyễn biết ý Trịnh muốn đánh chiếm nên điều quân kháng cự.
Quận Việp đánh chiếm Phú Xuân
Được sứ giả họ Nguyễn là Kiêm Long gợi ý, Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể tiến đánh lũy Trấn Ninh. Các tướng Nguyễn làm nội ứng mở cửa đầu hàng. Quân Trịnh chiếm được Quảng Bình.
Tháng 11 năm 1774, Trịnh Sâm tự cầm thủy quân vào Nghệ An làm thanh viện cho quận Việp. Quận Việp đánh Lưu Đồn, thống suất bên Nguyễn là Tống Hữu Trường bỏ chạy. Quận Việp tiến đến Hồ Xá dùng chiêu bài khác, lấy cớ trừng phạt Trương Phúc Loan chuyên quyền để nam tiến tiếp.
Quân Nguyễn yếu thế không chống nổi, Định vương Nguyễn Phúc Thuần phải trói Trương Phúc Loan nộp quân Trịnh. Giết Loan rồi, Hoàng Ngũ Phúc lại dùng lý do giúp Nguyễn đánh Tây Sơn để tiến vào Phú Xuân hội binh. Chúa Nguyễn sai các tướng trá hàng để quấy rối Quảng Bình, Bố Chính sau lưng quân Trịnh, nhưng các cánh quân đó bị quân Trịnh nhanh chóng phá tan. Chúa Nguyễn điều Tôn Thất Chí, Nguyễn Văn Chính ra đánh đều bị quận Việp đánh bại. Quận Việp sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Nghĩa Phác theo đường núi qua thác Trầm Ma đánh tan quân Nguyễn, giết chết Chính.
Đầu năm 1775 quân Trịnh tiến vào Phú Xuân. Chúa Nguyễn không chống nổi phải bỏ chạy vào Quảng Nam. Quân Trịnh chiếm toàn bộ Thuận Hóa.
Tây Sơn tạm thời theo Trịnh
Nguyễn Nhạc nhân chúa Nguyễn bỏ chạy vào Quảng Nam bèn mang quân hai đường thủy bộ ra đánh. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định, để lại Nguyễn Phúc Dương.
Tháng 2 năm 1775, Trịnh Sâm từ Hà Trung trở về kinh, hạ lệnh cho quận Việp đánh Quảng Nam. Quân Tây Sơn cũng tiến ra, lùng bắt được Phúc Dương. Tháng 4, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, sai Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn.
Nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận, tướng Nguyễn là Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang đánh ra Phú Yên, quân Tây Sơn lại thua phải co về Quy Nhơn. Tình thế của Nguyễn Nhạc rất nguy ngập, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Quân Trịnh đi xa bấy giờ đã mệt mỏi, quân sĩ nhớ nhà, Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc hàng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc, ấn, cờ đến phong Nguyễn Nhạc làm "Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân".
Tuy thế, quận Việp lão luyện vẫn không lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, định chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Nhân lúc Tây Sơn mang quân vào đánh Phú Yên, quận Việp liền lấn tới đóng quân ở Chu Ổ thuộc Quảng Ngãi.
Thịnh quá hóa suy, suy quá lại thịnh
Tháng 7 năm 1775, nghe tin Nguyễn Huệ thắng quân Nguyễn chiếm lại Phú Yên, quận Việp án binh lại. Theo yêu cầu của Nguyễn Nhạc, quận Việp phong chức cho Nguyễn Huệ làm "Tây Sơn hiệu tiền tướng quân". Ít lâu sau, quân Trịnh bị bệnh dịch chết khá nhiều, quận Việp tuổi già sức yếu bèn bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân, sau đó giao lại thành này cho Bùi Thế Đạt, còn mình dẫn đại quân về bắc. Tháng 10 năm đó, quận Việp bị bệnh chết trên đường về.
Lần đầu tiên sau 150 năm nam chinh, họ Trịnh tiến tới Quảng Nam, mở cương thổ cho vua Lê thời trung hưng tới gần được như thời Lê Thánh Tông của Lê sơ trước đây. Cũng lần đầu tiên, họ Nguyễn mất toàn bộ đất căn bản Thuận - Quảng, bị dồn vào Nam Bộ, mảnh đất họ Nguyễn đã đặt bộ máy hành chính của mình chưa đầy 100 năm.
Cuộc nam tiến lần thứ 8 năm 1774 – 1775 của quân Trịnh cũng là trận chiến Trịnh–Nguyễn cuối cùng. Từ đây hai bên bị địa bàn của Tây Sơn ngăn cách và không còn tái chiến. Sau 8 cuộc chiến vẫn không bên nào diệt được bên nào, nhưng không lâu sau đó cả Trịnh và Nguyễn đều bại dưới tay Tây Sơn.
Sau trận 1774, lãnh thổ họ Trịnh quản lý phát triển đến cực thịnh. Nhưng sau khi quận Việp chết, phía Trịnh từ chúa đến quân đều có ý tận hưởng chiến thắng, lơ là phòng bị biên cương phía nam. Chỉ hơn 10 năm sau thắng lợi ở Phú Xuân, chính kinh thành Thăng Long của họ Trịnh bị thất thủ và họ Trịnh mất theo. Trong khi đó, sau khi bị đánh bật khỏi mảnh đất cuối cùng là Nam Bộ phải đi lưu vong, họ Nguyễn đã trở về và khôi phục lại lãnh thổ. Cuối cùng vì những biến cố có lợi, họ Nguyễn trở thành người cai trị cả nước.
Nhận định
Lợi thế, nhược điểm
Trong cuộc chiến 7 lần thế kỷ 17, tuy họ Trịnh có danh nghĩa vua Lê, có lực lượng mạnh hơn, lợi thế về nhân lực đông đảo, vật chất dồi dào hơn nhưng quân phải đi đánh đường xa thường mệt mỏi và lương thảo không vận kịp, mặt khác Bắc Hà luôn có mối lo các lực lượng cát cứ ở hậu phương nên không thể dốc toàn lực, toàn tâm vào cuộc chiến.
Phía họ Nguyễn dù lực lượng ít hơn nhưng được đánh tại đất nhà, có hai tướng giỏi là Hữu Tiến và Hữu Dật, lại có các chiến lũy kiên cố. Qua nhiều năm giao chiến khi tiến khi lui, cuối cùng họ Nguyễn từ Thuận Hóa lấn được ra tới sông Gianh, chiếm được Nam Bố Chính. Hơn nữa, ngoài đất đai, họ Nguyễn còn mang về được một lượng nhân lực khá lớn để khai khẩn những vùng đất mới khai thác phía nam. Điều đó cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển thế lực của họ Nguyễn lúc đó cũng như sau này.
Phía Trịnh trong giai đoạn đầu đã mắc sai lầm chủ quan, ỷ vào lợi thế của mình, đánh giá chưa đúng về thực lực của họ Nguyễn nên hay bị thua trận. Tuy nhiên, khi đánh ra Nghệ An, chính quân Nguyễn cũng bộc lộ nhược điểm của đạo quân phải đánh xa nhà nên không thể tự mình tiếp tục duy trì ưu thế bắc tiến. Ngay các danh tướng nhiều mưu mẹo như Hữu Dật, Hữu Tiến cũng lực bất tòng tâm, không thể có đủ lực lượng để dàn ra khắp mặt trận nhằm thực hiện tấn công tổng lực ra bắc mà có ý hoãn binh, trông chờ vào các lực lượng quấy rối ở hậu phương địch để chia sức quân Trịnh. Mặt khác, vì lực lượng có hạn, quân viễn chinh của Nguyễn không còn đủ sức đương đầu với phía Trịnh đông quân nhiều tướng, hết lớp này đến lớp khác (Lê Văn Hiểu đến Trịnh Thượng, rồi Trịnh Toàn, lại Trịnh Căn) được điều ra mặt trận. Khi họ Trịnh củng cố nhân sự, siết chặt lại đội ngũ thì ưu thế nhân lực vật lực được phát huy rõ hiệu quả.
Một nhân tố khác giúp hai bên đứng vững là các tướng ngoài mặt trận của hai bên, mặc dầu tài năng ở mức độ khác nhau nhưng nhìn chung đều là những người cần cù, trung thành. Trịnh Toàn bị dụ hàng ở thời điểm ngoài gặp địch mạnh, trong bị anh bức bách không khác gì Trịnh Cối trước đây, thủ hạ sợ vạ lây đều đã hàng Nguyễn, thế nhưng Toàn vẫn không hàng như Cối mà chấp nhận cái chết. Lê Văn Hiểu thua trận, thân bị thương, bị chúa gọi về trị tội cũng không nghe theo lời dụ của Hữu Dật. Nguyễn Hữu Dật cũng bị dụ khi vừa thua trận và bị các tướng ganh ghét, nhưng cũng không đổi dạ thay lòng. Những trường hợp sang đầu hàng bên kia không nhiều và không nắm trọng trách nên không gây ảnh hưởng quyết định tới kết quả cuộc chiến.
So sánh với chiến tranh Lê–Mạc
Lê–Mạc và Trịnh–Nguyễn đều là những cuộc nội chiến trường kỳ trong lịch sử Việt Nam, gây ra hậu quả chia đôi nước Đại Việt trong 250 năm. Tuy nhiên, so với Chiến tranh Lê–Mạc thời Nam Bắc triều, mức độ của Chiến tranh Trịnh–Nguyễn có phần bớt nghiêm trọng hơn vì những lý do sau:
Về tính đối kháng
Lê–Mạc là kẻ thù không đội trời chung. Nhà Mạc cướp ngôi Lê, Lê khôi phục rồi chống Mạc, họ Lê mang mối thù giết vua cướp ngôi với họ Mạc nên quyết không thể có chuyện nghị hòa. Lê và Mạc phải đánh nhau một mất một còn để chứng minh mình là "chính thống", nhất là nhà Minh dùng chiêu bài lập lờ, không dứt khoát công nhận ai. Chiến tranh Lê–Mạc vì vậy chỉ có thể kết thúc khi một bên bị tiêu diệt.
Giữa họ Trịnh và Nguyễn, xuất phát vốn là hai họ thông gia, ông tổ của 2 họ là người trong một nhà. Trịnh Kiểm lấy chị Nguyễn Hoàng là Ngọc Bảo, đến Trịnh Tráng lại lấy con gái Nguyễn Hoàng cũng là cô họ của mình là Ngọc Tú. Trước khi dùng "binh", Trịnh và Nguyễn đã dùng "lễ" trong thời gian khá dài vì cả hai trên danh nghĩa đều là quan của nhà Lê, đều lấy danh nghĩa "phò tá vua Lê" để cai trị nhân dân. Khi 2 bên thấy khó thắng được nhau thì cũng có thể quay sang bàn việc nghị hoà, không cần phải cố đánh liều chết với nhau. Và thực tế thì sau 7 lần xuất binh, cả hai bên đều chán nản nên đã nghị hòa với nhau và duy trì giới tuyến suốt cả một thế kỷ.
Thời gian, mật độ
Chỉ trừ lần đụng độ thứ năm kéo dài 5 năm (1655–1660), các cuộc đụng độ khác giữa Trịnh và Nguyễn đều kéo dài chỉ vài tháng, thậm chí trong chưa đầy một tháng; khoảng cách giữa các cuộc chiến cũng khá dài, thường là 5–7 năm, có khi dài tới hàng chục năm. Giữa các cuộc chiến có thời gian đình chiến giúp cả hai bên củng cố thực lực. Trong khi đó, cuộc Chiến tranh Lê–Mạc trong 60 năm diễn ra với mật độ liên tục, gần như chỉ một vài năm lại có một cuộc hành quân bắc tiến hoặc nam tiến của bên này hoặc bên kia.
Lực lượng của Lê và Mạc nhìn chung ngang nhau nên cả hai bên "ăn miếng trả miếng", lúc thủ lúc đánh. Còn khi đụng đầu với Trịnh, Nguyễn chủ yếu ở thế phòng thủ, dùng chiến lũy kiên cố, địa hình hiểm trở để cản đường nam tiến của Trịnh. Lúc đó Nguyễn chưa lấy được đất Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp nên lực lượng còn hạn chế, vì vậy sau cuộc chiến Nghệ An 1655–1660, Nguyễn không thể tái diễn một cuộc chiến dài hơi như vậy với Trịnh.
Địa bàn
Chiến tranh Trịnh–Nguyễn chỉ diễn ra ở phạm vi Trung Bộ, thuộc các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Chiến tranh Lê–Mạc trải khắp gần như toàn lãnh thổ Đại Việt khi đó, từ Bắc Bộ tới Thanh–Nghệ và có lần tới Thuận Hóa. Vì thế ảnh hưởng và thiệt hại của quân, dân hai bên trong chiến tranh Lê–Mạc lớn hơn so với chiến tranh Trịnh–Nguyễn.
Chính sách cai trị
Nhân tố quan trọng hơn cả giúp các chúa Trịnh và chúa Nguyễn ngồi vững và giữ được cơ nghiệp là chính sách cai trị phù hợp. Ngoài danh nghĩa "phù Lê", các chúa đều lấy được lòng dân tại khu vực mình cai quản để huy động nhân lực, vật lực vào cuộc chiến. Hơn nữa, các thế hệ đầu của chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều là những người có tài, có thể giải quyết nhanh chóng, dứt điểm những rạn nứt từ bên trong chính quyền mình, chủ yếu là những người trong cùng một nhà có ý đồ khác, không để những xung đột nội bộ lan rộng làm ảnh hưởng tới toàn cục.
Sử sách không chép rõ thiệt hại về người qua từng cuộc chiến là bao nhiêu nhưng chắc chắn con số thương vong của hai bên phải tới hàng vạn người. Ngoài ra, nhân dân trong vùng chiến sự bị thiệt hại nhiều hơn cả.
Hơn 100 năm sau, các lũy Trấn Ninh, Trường Dục vẫn vững chắc như xưa, nhân lực vật lực của Đàng Trong đã tăng thêm nhiều, bấy giờ không còn kém Đàng Ngoài nữa, lẽ ra cơ đồ của Chúa Nguyễn phải càng thêm vững. Nhưng cuối thời chúa Nguyễn, quyền thần làm loạn, sưu cao thuế nặng, chúa Nguyễn thì ham mê tửu sắc khiến lòng người Đàng Trong chia lìa bởi sự cai trị rối ren. Kết quả là lũy cao, đất hiểm không còn giúp được họ Nguyễn cản đường quân Trịnh nam tiến như 7 lần trước. Quân Trịnh đánh tới như cuốn chiếu, tướng của Chúa Nguyễn thi nhau hàng Trịnh, giúp quận Việp lập công.
Sau thành quả chiếm Phú Xuân, đến lượt Chúa Trịnh say sưa chiến thắng, tưởng như cơ nghiệp của mình đã vượt được cha ông. Đất đai rộng hơn, quân số và dân số đông thêm, của cải giàu lên, các mối lo cát cứ ở hậu phương không còn, lẽ ra cơ đồ của họ Trịnh phải hùng mạnh hơn trước. Thế nhưng, chính sự Chúa Trịnh cũng lại lâm vào cảnh rối ren, tướng lười quân kiêu, nhân dân chán ghét nhà Chúa; còn lấy việc mất Thuận Hóa (về tay Tây Sơn) làm may, bởi thế cơ đồ họ Trịnh lại bị mất mau chóng hơn cả nhà Mạc trước kia, dù họ Mạc vốn chỉ có vùng Bắc Bộ.
Như vậy, có thể thấy tài đức của người lãnh đạo có thu phục, đoàn kết được nhân dân hay không mới mang yếu tố quyết định sự mất còn của đất nước, còn quân đông đất rộng cũng chỉ là nhân tố thứ yếu.
Quân lực đôi bên
Quân số
Dân số hai bên chênh lệch nhiều khiến ảnh hưởng lớn tới việc tăng cường quân số. Tính về diện tích lãnh thổ Đàng Ngoài rộng gấp 2 đến 3 lần lãnh thổ Đàng Trong. Về dân số thì đầu thế kỷ XVII, từ năm 1600 đến 1650, dân số dưới sự cai trị của chúa Trịnh khoảng dưới 5 triệu người, trong khi dân số của chúa Nguyễn khoảng 500.000-1.000.000 người. Quân số của hai bên không được thống kê đầy đủ, thường xuyên bị phóng đại để nghi binh, những thống kê chủ yếu chỉ là con số ước đoán của những người đương thời bấy giờ:
Sử gia Phan Khoang trong Việt sử xứ Đàng Trong có thống kê quân số như sau:
Không nói rõ năm: Chúa Nguyễn có chừng 22.740 quân chính quy. Chúa Trịnh có chừng 50.000 quân đóng ở Thăng Long (khi đánh nhau sẽ huy động thêm dân binh, hương binh ở địa phương). Số quân này thường xuyên bị hai phe "nói phao" đôi lúc quân số bị phao từ 10 vạn lên 18 vạn (Trịnh); Nguyễn phóng đại lên 26 vạn. Quân số mỗi phe có thể có tối đa là 20 vạn chính quy và địa phương, và quân chúa Nguyễn lúc nào cũng ít hơn số quân Trịnh.
Thủy binh: quân Trịnh có ưu thế lớn với chừng 600 chiến thuyền to hơn tàu châu Âu và trên mỗi thuyền có 3 đại bác, 25 người chèo và binh sĩ. Trong khi chúa Nguyễn có 200 chiến thuyền.
Một giáo sĩ khác tên Bénigne Vachet: chúa Nguyễn có 40.000 lính: 15.000 thủ Bắc, 9.000 giữ phủ chúa, 6.000 bảo vệ hoàng thân và đại thần và 10.000 binh trấn giữ các khu vực tỉnh lỵ khác. Chiến thuyền 200. Quân bộ chúa Trịnh không có nói, nhưng quân thủy thì khẳng định gấp 3, 4 lần quân chúa Nguyễn. Một tu sĩ tên Choisy kể năm 1697, chúa Nguyễn có 131 chiếc thuyền (chưa tính chiến thuyền địa phương), có chừng 60 tay chèo, 2 pháo thủ, 3 sĩ quan chỉ huy, 2 trống trận.
Các lần chiến tranh
1627 không ghi quân số.
1633 không ghi quân số.
1643 như trên, nhưng có tàu châu Âu đến đòi giúp chúa Trịnh.
1648 không ghi, quân Nguyễn huy động 100 voi, quân Trịnh bị bắt là 3 vạn và hai tướng. Nguyễn Hữu Tiến di chuyển 3000 quân đóng ở Võ Xá để thủ. Các tướng Trịnh được tha, còn các binh sĩ Trịnh thì chia nhỏ ra cho đi khai hoang hết.
1655 và 1660 chúa Trịnh bố phòng 1 vạn rưỡi binh thủ nam Chúa Nguyễn không ghi rõ số quân.
1661 và 1662 không ghi.
1672 Chúa Trịnh có 10 vạn phóng đại lên 18 vạn, chúa Nguyễn thì không rõ thực bao nhiêu nhưng phóng đại lên 26 vạn.
Giáo sĩ Cristophoto Borri trong Xứ đàng trong năm 1621:
"Thế lực của chúa rất mạnh đến nỗi khi ngài muốn ngài có thể tuyển ngay được tám mươi ngàn quân binh chiến đấu. Với tất cả lực lượng này ngài vẫn sợ chúa Đàng Ngoài vốn có lực lượng lớn hơn gấp 4 lần"
Nguyễn Quang Ngọc trong sách Tiến trình lịch sử Việt Nam:
Chúa Trịnh có thể huy động ngay lập tức 200.000 quân, 600 thuyền chiến, 500 thuyền vận tải và 500 voi chiến.
Chúa Nguyễn chỉ có thể huy động tối đa 40.000 quân và 200 chiến thuyền nhưng bù lại có một hệ thống chiến lũy hết sức dày đặc và đường tiếp vận lương thực của chúa Trịnh vào rất khó khăn.
William Dampier, một nhà du hành từng đến Đàng Ngoài năm 1688 có ghi nhận là quân đội chúa Trịnh có chừng 70.000-80.000 quân thường trực, trong số đó hầu hết là bộ binh trang bị súng tay, ở kinh thành chúa có thường trực voi chiến 200 thớt, ngựa chiến 300 con, nuôi béo khỏe. Charles Maybon và Henri Russier ước tính quân đội Đàng Ngoài khoảng 100.000 người, 500 voi, 500 chiến thuyền lớn trang bị 3 súng thần công mỗi chiếc.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên ghi nhận thời Nam Bắc triều, quân Trịnh theo phò nhà Lê có lực lượng kỵ binh khá mạnh. Trịnh Tùng từng sử dụng 400 quân thiết kỵ làm trợ chiến để đẩy lùi cuộc xâm lấn của quân Bắc triều. Năm 1592, ông huy động tới 5000 kỵ binh nặng, trang bị giáp sắt cho cả ngựa để vây hãm Đông Kinh của nhà Mạc.
Một ghi chép của người phương Tây về lực lượng quân sự Đàng Ngoài dưới thời Thanh Đô vương Trịnh Tráng cho rằng vào năm 1640 ông này có trong tay hơn ba mươi vạn bộ binh, 2.000 thớt voi trận và 102 ngàn kỵ binh(!). Con số này là khá lớn, lại không ghi rõ cách tính ra sao (có tính cả quân địa phương và dân phu hay không) nên còn cần làm rõ.
Quân đội chúa Trịnh
Binh chia ra làm hai hạng: Ưu binh và Nhất binh. Ưu binh là lính mộ ở ba phủ thuộc tỉnh Thanh Hóa và bốn phủ thuộc tỉnh Nghệ An. Nhất binh là lính tuyển ở bốn trấn ngoài Bắc: Sơn Nam, Kinh Bắc (Bắc Ninh), Hải Dương, Sơn Tây cứ 5 xuất đinh bắt một người sung quân ngũ. Lính Ưu binh đóng ở Kinh đô, được nhiều đặc ân, đặc quyền như được cấp công điền và cả chức sắc.
Lính Nhất binh phục vụ tại các trấn, phục dịch các quan, có việc loạn ly và chiến tranh mới được gọi đến, không thì về làm ruộng.
Đến đời chúa Trịnh Doanh (1720–1767) có nhiều giặc giã ở nhiều nơi nên phải gọi lính tứ trấn, động viên cả thảy được 115.000 người hợp thành các đơn vị lớn nhỏ như sau:
Đội gồm có: 20 người.
Cơ gồm 20 đội có: 400 người.
Vệ gồm từ 5 đến 6 cơ: 2000 hay 2400 người (Bên Vệ có Tư là đơn vị có 100 người).
Quân đội chúa Nguyễn
Binh có hai loại đầu, cũng như ngoài Bắc được gọi đi quân dịch; những trai tráng khỏe mạnh sung thẳng vào quân ngũ và một số được gọi dần có tính cách trừ bị. Việc binh bị đối với các chúa miền Nam là một việc quan trọng nhất, gồm những đơn vị dưới đây:
Ở hạ tầng là Thuyền hay Tiểu đội, có từ 30 đến 50 người cùng làng hay thuộc làng lân cận. Đội có từ hai ba đến năm Thuyền do một Đội trưởng hay một Cai đội trông. Cơ gồm có nhiều đội thường có tới từ 6 đến 10 Thuyền, có cơ đặc biệt gồm có tới 60 thuyền. Quân số có từ 250 đến 600 người, do một cai cơ hay trưởng cơ chỉ huy.
Thời đó có 5 cơ: Trung cơ, Tả cơ, Hữu cơ, Hậu cơ và Tiền cơ.
Dinh gồm có một số quân ngang với cơ do một Trưởng dinh điều kiển. Dưới quyền Trưởng dinh có các Trưởng cơ (theo sự khảo cứu của các sử gia Pháp quân số của các đơn vị trong binh đội Nam Hà hay thay đổi về quân số, nghĩa là quân số khi thăng khi giảm không nhất định).
Các tướng tham chiến chủ yếu của hai bên
Quân Trịnh
Trịnh Tạc
Trịnh Toàn
Trịnh Căn
Đào Quang Nhiêu
Lê Thì Hiến
Lê Sĩ Triệt
Nguyễn Khắc Liệt
Lê Văn Hiểu
Hoàng Ngũ Phúc
Bùi Thế Đạt
Hoàng Phùng Cơ
Hoàng Đình Thể
Quân Nguyễn
Nguyễn Phúc Tần
Đào Duy Từ
Nguyễn Hữu Dật
Nguyễn Hữu Tiến
Trương Phúc Phấn
Tống Hữu Đại
Nguyễn Cửu Kiều
Tôn Thất Tráng
Kết luận
Trong vòng 45 năm (từ năm 1627 đến năm 1672), hai họ Trịnh–Nguyễn đánh nhau 7 lần với những trận chiến ác liệt, có khi kéo dài năm này qua năm khác. Cuộc chiến tranh đã làm hao tổn sức người sức của, triệt phá đồng ruộng, xóm làng. Cuộc chiến tranh cũng dẫn đến việc chia đôi lãnh thổ của nước Đại Việt thống nhất thành giang sơn riêng của hai dòng họ.
Chú giải
Chú thích |
Thời Nam-Bắc triều (chữ Hán: 南北朝;1533–1593) là khoảng thời gian nhà Mạc cầm quyền ở tại Thăng Long, gọi là Bắc triều và nhà Hậu Lê bắt đầu trung hưng, chiếm được vùng đất từ Thanh Hóa trở vào Nam, gọi là Nam triều. Thời Nam – Bắc triều kéo dài từ năm 1533 khi Nguyễn Kim mượn danh nghĩa phò vua Lê Trang Tông chiếm được Tây Giai (Thanh Hóa), cho tới năm 1593 khi nhà Mạc mất.
Tàn quân nhà Mạc chạy lên mạn Bắc và được nhà Minh can thiệp cho ở đất Cao Bằng.
Hình thành
Sang đầu thế kỷ 16, nhà Hậu Lê bắt đầu suy yếu. Tướng Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy bên ngoài, nắm lấy quyền hành triều Lê. Sau đó, ông đánh dẹp các lực lượng chống đối và đến năm 1527 thì được phong làm Thái sư An Hưng vương. Không lâu sau, ông phế truất Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc.
Các lực lượng thân nhà Lê chưa bị loại bỏ hết. Sau khi Trịnh Ngung và Trịnh Ngang cầu viện nhà Minh không thành và hoàng thân Lê Ý khởi binh thất bại năm 1531, Hữu vệ điện tiền tướng quân An Thanh hầu Nguyễn Kim tiếp tục tập hợp lực lượng chống Mạc.
Năm 1529, Nguyễn Kim bỏ chạy vào miền núi Thanh Hóa và sang Ai Lao (Lào). Năm 1533, Nguyễn Kim tìm lập một người dòng dõi nhà Lê là Lê Ninh đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông. Nhà vua lấy Nguyễn Kim làm Thái sư Hưng quốc công trông coi mọi việc trong nước.
Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc.
Sau nhiều lần tổ chức tấn công về Đại Việt không thành công, tới năm 1539, Thái sư Nguyễn Kim chiếm được huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa; sang năm sau tiến vào Nghệ An. Nhà Hậu Lê bắt đầu xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt.
Chiến tranh
Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là Đại tướng quân Dực quận công Trịnh Kiểm được Lê Trang Tông phong làm Thái sư Lượng quốc công, nắm quyền quân quốc trọng sự.
Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm Vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Bắc triều xảy ra biến loạn do bất đồng trong việc chọn người thừa kế nghiệp. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng Vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Mạc Kính Điển phải vất vả đối phó tới năm 1551 mới dẹp được.
Cùng lúc, do mâu thuẫn với sủng thần Phạm Dao, thái tể Lê Bá Ly cùng thông gia Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm một loạt tướng sĩ vào Thanh Hóa hàng nhà Lê. Nhà Mạc chỉ còn dựa vào một số tướng lĩnh trung thành như Mạc Kính Điển, Nguyễn Kính và trụ vững trước các đợt tấn công của Nam triều.
Nhân sự tổn thất lực lượng của Bắc triều, Nam triều chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1572, sau khi tướng Nam triều là Nguyễn Hoàng chiếm được Thuận Hóa, nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Sau đó Nam triều cũng xảy ra biến loạn. Trịnh Kiểm mất (1570), hai con Tuấn Đức hầu Trịnh Cối và Phúc Lương hầu Trịnh Tùng tranh ngôi. Trịnh Tùng khống chế được vua Lê Anh Tông; Trịnh Cối yếu thế sang hàng nhà Mạc. Vua Anh Tông phong Trịnh Tùng làm Thái uý Trường quốc công, quản lĩnh việc quân quốc của Nam triều.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co, chiến sự nổ ra chủ yếu tại Sơn Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa - Nghệ An. Hai bên khi được khi thua. Ngoài vai trò của người phụ chính như Mạc Kính Điển và cha con Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, cuộc chiến đã nổi lên tên tuổi các danh tướng Nguyễn Quyện phía Bắc triều và Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu phía Nam triều.
Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín. Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng thân phụ chính, không chú trọng việc chính sự. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.
Đầu năm 1592, Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công ra bắc. Quân Mạc đại bại, chết rất nhiều. Cuối năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Cha con Mạc Mậu Hợp và Mạc Toàn thua chạy rồi lần lượt bị bắt và bị hành hình.
Bắc triều chấm dứt. Nhà Hậu Lê chiếm lại được Thăng Long, việc trung hưng hoàn thành. Họ Mạc chạy lên Cao Bằng và cát cứ tới năm 1677.
Kinh tế
Xem thêm: Thủ công nghiệp Đại Việt thời Mạc, Thương mại Đại Việt thời Mạc, Nông nghiệp Đại Việt thời Mạc, Tiền tệ Đại Việt thời Nam Bắc triều
Ảnh hưởng từ cuộc chiến
Chiến tranh tàn khốc kéo dài 60 năm, kinh tế bị ảnh hưởng tiêu cực. Tình hình nông nghiệp khá ảm đạm. Ruộng đất công xã ngày càng thu hẹp lại, các triều đình bị chiến tranh chi phối không quản lý tốt được đất đai, do đó một phần không nhỏ đất chuyển sang sở hữu tư nhân. Sự biến đổi trong quan hệ ruộng đất ở nông thôn phần nào tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển tự do hơn. Điều đó tạo ra tác động tích cực đối với nền kinh tế hàng hóa theo chiều hướng mở rộng.
Cũng vì chiến tranh, nhà Mạc áp dụng chế độ lộc điền khác với thời Hậu Lê. Các vua Mạc ít dành lộc điền cho quan lại mà đối tượng được hưởng chủ yếu là binh lính để khuyến khích họ chiến đấu cho triều đình. Lộc điền chủ yếu lấy từ nguồn ruộng công ở các làng xã và ruộng chùa, diện tích khoảng vài chục vạn mẫu.
Phía nam, nền sản xuất nông nghiệp của Nam triều còn phải đối phó với nhiều thiên tai liên miên. Chính quyền Lê-Trịnh mới tạm dùng những biện pháp tình thế để khuyến khích khôi phục nghề nông nhằm phục vụ chiến tranh chứ chưa có điều kiện hoạch định những chính sách lớn có tác dụng thúc đẩy phát triển nông nghiệp lâu dài và bền vững.
Tư duy kinh tế
So với nhà Hậu Lê, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở hơn, trên nhiều lĩnh vực kinh tế. Trong nông nghiệp, chế độ tư hữu ruộng đất thời Mạc có điều kiện phát triển tự do. Việc mua bán đất đai tư nhân rất phổ biến và triều đình không đề ra biện pháp hạn chế hay cấm đoán nào.
Cách đối xử với thợ thủ công của nhà Mạc khác nhiều với nhà Lê: nhà Mạc có sự tôn trọng họ và do đó họ có vị trí nhất định trong xã hội. Dù chiến tranh Nam – Bắc triều kéo dài, các chợ chạm khắc đá vẫn di chuyển đến nhiều địa bàn hành nghề trên các vùng đất do nhà Mạc quản lý.
Tương tự với thương mại, nhà Mạc chủ trương không "ức thương" hay "bế quan tỏa cảng" như nhà Hậu Lê. Ngoại thương Bắc triều có những bước chuyển biến tích cực, các sản phẩm thủ công nghiệp đã vươn sang thị trường các quốc gia châu Á.
Văn học, giáo dục
Xem thêm: Văn học đời Mạc, Giáo dục khoa cử thời Mạc
Văn hoá Đại Việt thế kỷ 16 chia làm 2 bộ phận:
Những tác giả theo nhà Mạc và bộ phận văn học này đóng vai trò chủ đạo.
Những tác giả trung thành với nhà Lê, theo Lê chống Mạc hoặc chán thế sự và sống ẩn dật.
Có một bộ phận sĩ phu biểu hiện sự trăn trở giữa con đường theo phe nào trong cuộc nội chiến Lê Mạc, hoặc ẩn dật an nhàn. Những tác giả lớn thời kỳ này có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Dữ, Dương Văn An. Tác phẩm "Bạch Vân thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là tác phẩm chữ Hán quán xuyến từ đầu đến cuối tư tưởng an nhàn của nhà Nho trước vấn đề thời cuộc.
Trong giáo dục khoa cử, nhà Mạc cũng như nhà Hậu Lê, vẫn dùng Nho giáo làm tư tưởng chính thống trong việc thể chế hoá các chính sách cai trị và xây dựng bộ máy triều đình. Mặc dù chiến tranh xảy ra liên miên, Bắc triều vẫn duy trì việc thi cử đều đặn 3 năm một lần. Từ năm 1529 thời Mạc Thái Tổ đến năm 1592 thời Mạc Mậu Hợp, nhà Mạc đã tổ chức 22 khoa thi, lấy đỗ 485 tiến sĩ, trong đó có 13 trạng nguyên. Thậm chí kỳ thi cuối cùng của nhà Mạc năm 1592 diễn ra bên bờ bắc sông Hồng trong hoàn cảnh Thăng Long bị quân Nam triều uy hiếp dữ dội.
Trong khi đó, nhà Lê từ khi trung hưng mãi tới năm 1554 mới mở Chế khoa (do các khoa thi từ năm 1580 về trước có ban học vị như định lệ nhưng chưa thi Đình nên gọi là Chế khoa). Từ thời Lê Thế Tông, việc thi cử mới bắt đầu đi vào quy củ và tới năm 1580 các kỳ thi Hội mới được khôi phục theo lệ 3 năm một lần. Từ năm 1554 tới năm 1592 nhà Lê chỉ có 7 kỳ thi, lấy đỗ 5 tiến sĩ.
Tôn giáo, tín ngưỡng
Xem thêm: Tôn giáo tín ngưỡng thời Mạc
Không chỉ cởi mở về mặt kinh tế, nhà Mạc có sự cởi mở cả về mặt tư tưởng. Khác với sự độc tôn Nho giáo của nhà Hậu Lê, nhà Mạc tuy dùng Nho giáo làm tư tưởng cai trị nhưng không hạn chế Phật giáo và Đạo giáo. Nhiều chùa được Bắc triều xây cất và tu bổ.
Đạo Thiên chúa đã cố gắng rao giảng tôn giáo của mình vào Đại Việt thời Nam Bắc triều nhưng chưa thu được thành tựu. Các giáo sĩ phương Tây bắt đầu lén tiếp cận Đại Việt thực hiện truyền đạo vào các năm 1533 tại Giao Thủy (Nam Định) ở Bắc triều, năm 1580 tại Quảng Nam thuộc Nam triều. Tới năm 1583 dù được Mạc Mậu Hợp cho phép truyền giáo nhưng công việc của các giáo sĩ không đạt kết quả do bất đồng ngôn ngữ.
Vua Nam–Bắc triều
Nhà Lê trung hưng#Các vua nhà Lê trung hưng
Nhà Mạc#Thế phả vua Mạc |
Nội chiến Lê–Mạc (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là thời kỳ Phù Lê diệt Mạc.
Chiến tranh chia làm hai thời kỳ lớn:
Thời kỳ 1533–1592: tương đương với thời Nam – Bắc triều khi nhà Mạc làm chủ vùng Bắc Bộ Việt Nam, nhà Lê làm chủ khu vực từ Thanh Hóa trở vào
Thời kỳ 1593–1677: khi tàn dư họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng cát cứ.
Hoàn cảnh
Nhà Hậu Lê sau thời thịnh trị cuối thế kỷ 15 đã bắt đầu suy yếu từ thời Lê Uy Mục và Lê Tương Dực. Bên ngoài, các cuộc khởi nghĩa chống đối của nhân dân làm triều đình nghiêng ngả, điển hình là khởi nghĩa của Trần Cảo. Các tướng trong triều cũng chia bè phái đánh lẫn nhau. Một số tướng lĩnh lập ra vua khác để ly khai triều đình, hình thành các thế lực cát cứ như Trịnh Duy Đại, Trịnh Tuy.
Một võ tướng nhà Lê là Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy bên ngoài, nắm lấy quyền hành triều Lê. Vua Lê Chiêu Tông chạy trốn khỏi sự khống chế của Đăng Dung, kêu gọi các lực lượng quân phiệt khác "cần vương" nhưng cuối cùng đều bị Đăng Dung đánh bại. Vị vua cuối cùng của nhà Lê sơ là Lê Cung Hoàng – con bài chính trị được Đăng Dung dựng lên để chống Lê Chiêu Tông – bị phế truất năm 1527. Mạc Đăng Dung chính thức giành ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc.
Sau khi nhà Mạc lên nắm quyền, đã có một số hoạt động chống đối chính quyền như cầu viện nhà Minh nhưng đều không thành hoặc nổi dậy của hoàng thân Lê Ý nhưng thất bại nhanh chóng. Chỉ đến khi nhà Hậu Lê tái lập thì chiến tranh quy mô mới thực sự bắt đầu.
Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim không thần phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào), tập hợp lực lượng chống nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm một người tên là Lê Duy Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông.
Chiến tranh Lê – Mạc chính thức bùng nổ.
Nhà Hậu Lê về nước
Từ trước khi lập Trang Tông, Nguyễn Kim đã từng tự mình mang quân về mưu đánh chiếm Thanh Hóa. Đầu năm 1531, Nguyễn Kim từ Ai Lao mang quan về đánh Thanh Hoá. Mạc Thái Tông sai Tây quận công Nguyễn Kính vào đánh. Hai bên giao tranh, Nguyễn Kính bị thua hai trận. Nhưng tới tháng 9, trời đổ mưa nhiều làm nước sông dâng cao, Nguyễn Kính thừa cơ dùng thủy quân tiến đánh, quân Nguyễn Kim rối loạn phải rút về Ai Lao.
Lê Trang Tông là cháu xa đời của Lê Thánh Tông, mẹ là Phạm thị, tên húy là Ngọc Quỳnh, người sách Cao Trĩ, huyện Thụy Nguyên. Khi Đăng Dung cướp ngôi, tiếm hiệu, vua tránh về Thanh Hóa. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim sai người dò tìm, đón vua sang nước Ai Lao tôn lập.
Lê Trang Tông được Nguyễn Kim phong lên ngôi. Vua gặp vận phải đi lánh nạn, nhờ được bề tôi cũ tôn lập, bên ngoài liên kết với nước láng giềng, bên trong dùng được các tướng giỏi, cho nên mọi người đều vui lòng gắng sức, nền móng trung hưng bắt đầu từ đấy.
Từ khi Lê Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc, trong đó có một số tướng sĩ nhà Mạc cũng sang hàng Lê. Nhiều người từ Đại Việt qua Ai Lao để gia nhập đội quân của Nguyễn Kim.
Năm 1539, Nguyễn Kim chiếm được huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa; sang năm sau tiến quân vào Nghệ An, có nhiều người thần phục. Nhà Hậu Lê bắt đầu xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt và chính thức lập ra Nam triều.
Năm 1543, Lê Trang Tông đích thân đem quân đánh Bắc triều, Tổng trấn Thanh Hóa Trung hầu Dương Chấp Nhất dẫn quân ra giả hàng Trang Tông, Trang Tông lấy lại được Tây Đô.
Tháng 5 năm 1545 Trang Tông lại đích thân kéo quân ra Yên Mô - Ninh Bình, lúc này Dương Chấp Nhất lại phản lại Trang Tông, bỏ thuốc độc giết Nguyễn Kim rồi trở về với Mạc Phúc Hải. Đại tướng bị giết, Trang Tông phải lui binh. Thừa cơ Mạc Hiến Tông đuổi đánh Lê Trang Tông. Lúc này Trang Tông thăng Trịnh Kiểm lên chức Tiết chế được độc quyền nắm giữ quyền binh để chống lại nhà Mạc.
Chiến sự giằng co
Chiến sự 1551
Có lực lượng của Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến, nhà Lê tổ chức tấn công ra bắc. Tháng 6 năm 1551, Trịnh Kiểm làm tổng chỉ huy, sai Lê Bá Ly và Vũ Văn Mật ra quân tấn công Thăng Long.
Trịnh Kiểm qua đò sông Thao đến An Lạc, cùng Vũ Văn Mật tấn công núi Hy, đánh thắng Mạc Kính Điển vài trận rồi tiến tới Xuân Canh, Lâm Hạ. Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang và Vũ Văn Mật chia 3 đường tiến đánh. Mạc Tuyên Tông bèn chạy đi Kim Thành, ủy thác cho chú Mạc Kính Điển làm Đô tổng súy, ở lại cầm quân ở Bồ Đề bảo vệ kinh đô.
Từ Bồ Đề về phía bắc, Mạc Kính Điển đắp lũy đất, đặt thuyền chiến, quân thủy và quân bộ xen kẽ nhau, phòng thủ rất nghiêm ngặt. Quân Lê tiến vào dải tây nam gồm Thường Tín, Ứng Thiên, Quốc Oai và Quảng Oai. Các tướng Lê định rước vua Lê ra Thăng Long, nhưng Trịnh Kiểm cho rằng lực lượng nhà Mạc còn nhiều nên cùng Lê Bá Ly rút về Thanh Hóa, Vũ Văn Mật cũng trở về Tuyên Quang.
Quân Lê rút lui, Mạc Kính Điển chia quân đi chiếm lại những vùng bị mất, bộ binh đóng tại Yên Mô (Ninh Bình), thủy binh đóng ở cửa Thần Phù.
Chiến sự 1554
Năm 1554, Trịnh Kiểm lập hành dinh tại quê hương Biện Thượng, sau đó điều quân đánh Thuận Hóa.
Khi quân Lê tiến vào nam, các quan lại nhà Mạc và các hào trưởng địa phương phần lớn đi theo. Tướng Mạc ở Thuận Hóa là Hoàng Bôi mang quân ra đánh bị tử trận. Quân Mạc bị đánh tan, nhà Lê lấy lại được Thuận Hóa và Quảng Nam.
Toàn bộ lãnh thổ Đại Việt chính thức chia làm 2 nửa: từ Ninh Bình trở ra trong tay nhà Mạc, từ Thanh Hóa trở vào trong tay nhà Lê.
Chiến sự 1555
Sau khi ổn định tình hình, Mạc Kính Điển bắt đầu tổ chức tiến công vào Thanh Hóa.
Tháng 8 năm đó, Mạc Kính Điển sai Thọ quận công đem hơn 100 chiếc thuyền làm tiên phong, tiến đến cửa biển Thần Phù đóng dinh. Hôm sau, Kính Điển đem quân đến hội ở sông Đại Lại, sai Thọ quận công đốc suất quân bản bộ đi trước, đóng dinh ở núi Kim Sơn.
Trịnh Kiểm sai Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận cùng mai phục sẵn ở phía nam sông, còn Trịnh Kiểm đích thân đốc suất đại quân mai phục ở phía bắc sông, chọn 50 con voi phục ở chân núi Kim Sơn; sai Phạm Đốc đem thủy quân cùng Nguyễn Quyện đem hơn 10 chiếc thuyền chiến chiếm cứ mạn thượng lưu từ sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi.
Trưa hôm sau, thuyền quân Mạc qua Kim Sơn, đến chợ Ông Cung. Trịnh Kiểm lệnh các đạo quân mai phục đổ ra đánh. Quân Mạc thua chạy. Thọ quận công nhảy xuống sông trốn, bị tướng Lê là Vũ Sư Thước bắt sống và sau đó bị chém. Quân Mạc bị bắt rất nhiều, quân Lê thu được nhiều khí giới. Mạc Kính Điển rút quân quay về kinh thành.
Chiến sự 1557
Trận tháng 7
Năm 1556, Lê Trung Tông mất, Trịnh Kiểm định thay làm vua nhưng sau nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lập người trong họ Lê là Duy Bang lên ngôi, tức là vua Anh Tông.
Tháng 7 năm 1557, Mạc Tuyên Tông sai Mạc Kính Điển đem quân đánh Thanh Hóa, Phạm Quỳnh và Phạm Dao vào đánh Nghệ An.
Mạc Kính Điển chia ra đóng ở sông Thần Phù và vùng Tống Sơn, Nga Sơn, đốt phá cầu phao. Trịnh Kiểm sai Thanh quận công ra giữ Nga Sơn, Hà Thọ Tường giữ Tống Sơn, quân Mạc không tiến lên được.
Trịnh Kiểm lại đích thân chỉ huy tượng binh, ngầm tiến đến chân núi Yên Mô thẳng tới cửa biển, rồi chia làm 2 cánh đánh úp quân Mạc. Tướng Lê là Vũ Lăng hầu nhảy lên thuyền Mạc Kinh Điển, chém chết người cầm dù. Mạc Kính Điển trở tay không kịp, vội nhảy xuống sông trốn thoát. Quân Mạc đại bại, bỏ thuyền chạy trốn vào núi rừng. Mạc Kính Điển chạy trốn vào hang núi ẩn náu 3 ngày, ban đêm thấy cây chuối trôi qua cửa hang, liền ôm chuối trôi theo dòng để tìm đường về.
Trịnh Kiểm phá tan quân của Mạc Kính Điển, tước lấy chiến thuyền, giả làm quân Mạc kéo vào đánh quân Phạm Quỳnh, Phạm Dao ở Nghệ An. Phạm Quỳnh, Phạm Dao không đề phòng, bị quân Lê đánh bại phải rút về.
Trận tháng 9
Tháng 4 năm 1557, Lê Bá Ly qua đời. Tháng 9 năm đó, Nguyễn Thiến cũng qua đời. Hai con Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn trốn về với nhà Mạc. Mạc Tuyên Tông phong Nguyễn Quyện làm Văn Phái hầu, Nguyễn Miễn làm Phù Hưng hầu và gả con gái tông thất cho.
Trịnh Kiểm đem 5 vạn quân thủy bộ đánh ra Sơn Nam. Quân Lê qua sông Phụng Xí phá tan quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là Khánh quốc công. Sau đó Trịnh Kiểm tự mình chỉ huy bộ binh, sai Phạm Đốc chỉ huy thủy quân cùng tiến, sai Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ làm Tiền Thủy đội.
Mạc Tuyên Tông sai Nguyễn Quyện mang quân ra chống giữ ở sông Giao Thủy, đánh nhau to với Vũ Lăng hầu. Vũ Lăng hầu nhảy sang mui thuyền của Nguyễn Quyện. Nguyễn Quyện cầm gươm chém, Vũ Lăng hầu nhảy xuống sông lặn đi. Nguyễn Quyện lại nhảy sang thuyền của Vũ Lăng hầu, chém được đầu của người cầm dù rồi hô lớn:
Đầu Vũ Lăng hầu đây, lũ chúng mày địch sao nổi ta!
Quân Lê nghe nói sợ hãi, không kịp ngoảnh lại nhìn, nhảy cả xuống sông. Toàn quân Lê tan vỡ, bỏ thuyền nhảy lên bờ tháo chạy. Quân Mạc thừa thắng đuổi đánh. Nhân dân các huyện đều hưởng ứng theo quân Mạc. Trịnh Kiểm vội rút quân.
Mạc Kính Điển sai tướng đem quân chặn lối về của Trịnh Kiểm, giết rất nhiều quân Lê. Chiến tướng nhà Lê trung hưng bị giết đến vài chục viên, thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ hết. Trịnh Kiểm chạy thoát về chỉ còn non nửa số quân.
Chiến sự 1559-1562
Năm 1558, Trịnh Kiểm mang đại quân lại ra Sơn Nam đánh úp quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là Anh Nhuệ hầu đưa về Yên Trường và chém.
Tháng 9 năm đó, Trịnh Kiểm lại ra quân đánh Sơn Nam chiếm đất rồi để Nguyễn Khải Khang ở lại trấn thủ để chiêu tập nhân dân. Nhà Mạc sai thổ dân ở Mỹ Lương trá hàng Khải Khang để dụ, rồi lừa bắt Khải Khang mang về. Mạc Tuyên Tông sai dùng hình xé xác Khải Khang.
Tháng 9 năm 1559, Trịnh Kiểm để Trịnh Quang, Lê Chủng, Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh cùng đem tinh binh trấn giữ cửa biển để phòng quân Mạc, còn mình chỉ huy hơn 6 vạn đại quân đi đánh Mạc. Quân Lê từ Thiên Quan ra Sơn Tây, nhiều người ra hàng phục.
Khi đến Tuyên Quang, Hưng Hoá thì Vũ Văn Mật đem quân đến hội. Hai bên hợp binh vượt sông đánh vào Thái Nguyên, Lạng Sơn, Kinh Bắc. Sau một thời gian hai bên cầm cự, Trịnh Kiểm lên đóng ở núi Tiên Du. Cuối năm 1559 sang đầu năm 1560, Trịnh Kiểm chia quân đi đánh phá các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, các huyện Siêu Loại, Văn Giang, Nam Sách, Tiên Hưng đều giành thắng lợi.
Tháng 2 âm lịch năm 1560, Mạc Tuyên Tông sai tướng đem quân giữ thành Thăng Long. Quân Mạc đóng đồn một dải san sát với nhau từ dọc sông Nhị Hà về phía tây, trên từ Bạch Hạc, dưới đến Nam Xang, dinh trại thuyền ghe liền nhau liên tiếp, ban ngày thì phất cờ dóng trống báo nhau cho nhau, ban đêm thì đốt lửa làm hiệu cho nhau để liều chết chống giữ với quân Lê Trịnh.
Trịnh Kiểm không thể đánh hạ nổi bèn chia quân cho các tướng đi đánh các huyện phía đông bắc là Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, An Dương, đều lấy được. Mạc Tuyên Tông phải chạy ra ở huyện Thanh Đàm.
Nam triều đã làm chủ hầu hết đất đai bờ bắc sông Hồng. Tháng 3 năm 1560, Trịnh Kiểm sai Hoàng Đình Ái đem quân trấn giữ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận trấn giữ Thái Nguyên, Vũ Văn Mật trấn giữ Tuyên Quang, Đặng Định trấn giữ Hưng Hoá, chiêu tập dân cư 10 châu An Tây. Sang tháng 4, Trịnh Kiểm lại chia quân đi đánh phá các vùng Thanh Miện, Gia Phúc, Hồng Châu, Khoái Châu. Các huyện ở Hải Dương của nhà Mạc chấn động. Quân Mạc cầm cự qua năm sau, quân Lê vẫn không hạ được Thăng Long và Hải Dương.
Nhân lúc quân chủ lực Nam triều tập trung ngoài bắc, tháng 3 năm 1561, Mạc Kính Điển tập trung binh thuyền tấn công Thanh Hóa. Quân Lê bại trận, Vũ Sư Thước và Lại Thế Khanh đều bỏ dinh trại chạy về; Lê Chủng thì quân vỡ, tháo chạy, đem quân chạy vào Vạn Lại, Yên Trường.
Tháng 9 năm 1561, quân Mạc đánh vào cửa Yên Trường, đến Vạn Lại chuẩn bị chiếm kho nhà Lê. Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh hợp sức cố đánh, tung quân mai phục đánh thắng liền mấy trận, chém được hơn trăm thủ cấp quân Mạc. Quân Mạc tan vỡ tháo chạy. Quân Nam triều thừa thắng đuổi theo. Mạc Kính Điển phải rút quân về Thăng Long. Cùng lúc đó, Trịnh Kiểm nghe tin Thanh Hóa bị tấn công phải triệt thoái hết các cánh quân ở Bắc Bộ về. Quân Mạc tuy phải rút nhưng vùng Bắc Bộ của nhà Mạc và kinh thành Thăng Long được giải vây.
Đầu năm 1562, nhân lúc đại quân Lê đã về căn cứ, Mạc Tuyên Tông sai Nguyễn Phú Xuân và Giáp Trưng mang quân đánh Lạng Sơn vẫn còn trong tay nhà Lê. Tướng Lê là Hoàng Đình Ái không chống nổi, phải bỏ thành rút chạy. Lạng Sơn lại về tay nhà Mạc.
Chiến sự 1564-1565
Năm 1564, Mạc Tuyên Tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Việc chính sự đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.
Sau lần ra cướp lương thực ở Thanh Trì và Thượng Phúc năm 1563, Trịnh Kiểm lại mang quân ra phía bắc 3 lần trong năm 1564-1565, đánh phá các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang. Tháng 12 năm 1565, trong lúc Trịnh Kiểm tiến đánh Sơn Nam thì Mạc Kính Điển lại mang quân vào cửa biển Linh Trường đánh Thanh Hóa.
Vũ Sư Thước sai người cáo cấp với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm sai Lộc quận công đem quân về cứu Thanh Hóa. Quân Lê hợp lại làm một, giao chiến với quân Mạc ở Du Trường. Quân Mạc phục sẵn ở chỗ hiểm yếu, cho kỳ binh ra khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy. Vũ Sư Thước đem binh tượng đuổi theo. Mạc Kính Điển liền tung phục binh ra, bốn mặt cùng nổi dậy, đánh kẹp lại vây thành mấy lớp. Sư Thước, Thế Khanh bại trận, phải phá vòng vây, cố sức đánh thoát chạy vào rừng núi. Lộc quận công bị quân Mạc đâm chết trên lưng voi. Quân Lê bị chết hàng nghìn người. Mạc Kính Điển định đánh tiếp nhưng nghe tin Trịnh Kiểm đã rút quân về đến Thạch Thành, bèn đem quân về.
Chiến sự 1570
Từ năm 1566, chiến sự giữa hai bên chỉ có vài trận nhỏ. Trịnh Kiểm tuổi cao sức yếu, không thực hiện những chiến dịch lớn, còn Mạc Kính Điển cũng tập trung củng cố nội bộ.
Cuối năm 1569, Trịnh Kiểm ốm nặng, giao lại binh quyền cho con cả là Trịnh Cối. Tháng 3 năm 1570, Trịnh Kiểm chết, Trịnh Cối lên thay. Con thứ Kiểm là Trịnh Tùng tranh quyền với Cối. Hai bên dàn quân đánh nhau.
Nhân cơ hội đó, tháng 8 năm 1570, Mạc Kính Điển đem hơn 10 vạn quân, 700 chiếc thuyền chiến vào đánh Thanh Hóa. Ông chia quân sai em là Mạc Đôn Nhượng cùng Mạc Đình Khoa và phó tướng là Mậu quận công đem quân giữ cửa biển Thần Phù.
Mạc Kính Điển chia quân làm 6 mũi cùng tiến vào các cửa biển Linh Trường, Chi Long, Hội Triều, hội quân ở Bút Cương. Đến Hà Trung, quân Mạc đóng dinh ven sông.
Trịnh Cối bị kẹp giữa quân Mạc và Trịnh Tùng, tự liệu không chống nổi, liền đem các tướng Lại Thế Mỹ, Vũ Sư Doãn, Trương Quốc Hoa và vợ con đón hàng nhà Mạc. Mạc Kính Điển tiếp nhận, phong cho Trịnh Cối tước Trung Lương hầu và phong chức cho các tướng Lê về hàng, rồi sai các hàng tướng dẫn quân bản bộ tiếp tục tiến.
Trong số các tướng dưới quyền Trịnh Cối chỉ có Vũ Sư Thước định bỏ doanh trại vào cửa quan Yên Trường theo nhà Lê, nhưng quân lính muốn hàng nhà Mạc, không chịu theo. Sư Thước buộc phải về theo nhà Mạc, được phong tước Thủy quận công.
Vua Lê Anh Tông thấy Trịnh Cối hàng Mạc bèn trao binh quyền cho Trịnh Tùng làm Tiết chế các dinh thủy bộ. Trước thế mạnh của quân Mạc, Trịnh Tùng chủ trương phòng thủ chia quân chiếm giữ cửa luỹ các xứ, đào hào đắp luỹ, đặt phục binh giữ nơi hiểm yếu để phòng.
Ngày 25 tháng 8 âm lịch, Mạc Kính Điển mang quân cùng tiến, dọc sông Mã và sông Lam. Nhân dân Thanh Hóa bỏ chạy, nhà Mạc mang nhiều người và của cải lấy được ở Thanh Hóa ra bắc.
Quân Mạc ngày đêm tiến đánh luỹ Yên Trường. Quân Lê thế yếu, chỉ đắp luỹ cao, đào hào sâu, giữ chỗ hiểm để chờ thời. Tướng Lê là Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ dùng mẹo sai quân lính ban đêm dựng luỹ tầng ngoài kéo dài đến hơn 10 dặm, lấy nhiều vách nhà để che chắn, dùng bùn trát bên ngoài, trên thả chông tre, chỉ một đêm mà thành giả làm xong.
Hôm sau, Mạc Kính Điển trông thấy, cho là thành thật, kinh ngạc không dám đến gần và đốc suất tướng sĩ ngày đêm đánh gấp. Hai bên giao chiến ác liệt, bên trái sông từ Da Châu, Tàm Châu, bên phải sông từ đầu nguồn hai huyện Lôi Dương, Nông Cống đều là chiến trường, quân Mạc lần lượt đánh chiếm. Tướng Nam triều là Hà Khê hầu đem quân ra giữ luỹ Ai ở huyện Cẩm Thủy đầu hàng nhà Mạc.
Tháng 10 âm lịch năm 1570, hai bên giao chiến ở sông Bảo Lạc, Long Sùng. Quân Lê dùng chiến thuật ban ngày thì cố thủ, ban đêm thì đánh cướp doanh trại, quấy rối quân Mạc. Mạc Kính Điển thấy đánh mãi không được, liền lui giữ dinh Hà Trung.
Vũ Sư Thước đã hàng Mạc, lại muốn trở về hàng Lê. Nhờ Sư Thước làm nội ứng, quân Lê chia ra đánh chiếm lại các huyện Tống Sơn, Đông Sơn, Quảng Xương. Sư Thước đem 500 quân bản bộ nửa đêm bỏ trốn về hàng Lê. Mạc Kính Điển tiến đánh không được, lui về giữ dinh sông Bút Cương rồi đến tháng chạp thì rút đại quân về bắc.
Chiến sự 1571
Tháng 8 năm 1571, Mạc Kính Điển đốc suất quân lính vào đánh các huyện ở Nghệ An. Nghệ An xa bản dinh vua Lê nên không được ứng cứu, dân Nghệ An sợ uy quân Mạc từ nhiều năm, phần nhiều đầu hàng họ Mạc. Do đó từ sông Cả vào Nam đều trở về hàng nhà Mạc.
Tướng trấn thủ nhà Lê là Nguyễn Bá Quýnh nghe tin quân Mạc kéo đến sợ hãi bỏ chạy, còn lại Hoàng quận công chống nhau với Nguyễn Quyện nhưng không địch nổi, bỏ cả thuyền chạy vào Hoá Châu, cuối cùng bị quân Mạc bắt sống. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: "Từ đó, thế giặc (Mạc) lại mạnh, đi đến đâu, dân đều bỏ chạy".
Tháng 9 năm 1571, Trịnh Tùng sai Trịnh Mô (tức Nguyễn Cảnh Hoan)và Phan Công Tích đi cứu Nghệ An. Quân Mạc rút về bắc.
Chiến sự 1572
Từ năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm 1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam.
Năm 1572, Mạc Kính Điển lại mang quân vào đánh Thanh Hóa và Nghệ An, đồng thời sai Mạc Lập Bạo mang 70 chiến thuyền vào đánh Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng dùng kế giết được Mạc Lập Bạo. Từ đó nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Quân Mạc lại đánh phá Nghệ An, quân Lê không chống nổi. Thái phó Vi quận công nhà Lê là Lê Khắc Thận, vượt lũy về hàng nhà Mạc. Trịnh Tùng bèn bắt các con của Khắc Thận là Tuân, Khoái, Thầm mang giết hết.
Tháng 10 năm 1572, Lại Thế Khanh, Trịnh Mô, Phan Công Tích đem quân đi Nghệ An. Khi quân Lê đến nơi thì quân Mạc rút lui.
Chiến sự 1573-1574
Nội bộ nhà Lê trung hưng xảy ra mâu thuẫn. Lo sợ Trịnh Tùng thao túng quyền bính, Lê Anh Tông cùng Đoan Vũ hầu Lê Cập Đệ mưu giết Trịnh Tùng. Âm mưu bị bại lộ; Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng hại chết. Anh Tông cùng 4 người con lớn trốn ra ngoài, chạy vào Nghệ An. Trịnh Tùng lập con út của Anh Tông là Duy Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông. Sau đó Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đi đánh bắt được Lê Anh Tông và giết chết. Từ đó quyền hành nhà Lê trung hưng hoàn toàn trong tay Trịnh Tùng.
Tháng 8 năm 1573, Mạc Kính Điển lại tiến đánh Thanh Hóa, đánh dinh Yên Trường. Trịnh Tùng rút vào dinh cố thủ rồi bất ngờ chia quân ra đánh úp. Quân Mạc bị thua phải rút về.
Tháng 7 năm 1574, Mạc Mậu Hợp lại sai Nguyễn Quyện vào đánh Nghệ An. Từ sông Cả trở về Bắc lại theo nhà Mạc. Tướng nhà Lê là Hoàng quận công đánh nhau với Nguyễn Quyện nhiều lần bị thua. Quân Lê nhiều người bỏ trốn, Hoàng quận công bèn làm vòng sắt khoá chân quân lính vào thuyền. Quân Mạc đuổi đến, họ cũng không chịu đánh. Hoành quận công bèn bỏ thuyền lên chạy bộ. Đến châu Bố Chính thì Hoàng quận công bị Nguyễn Quyện bắt sống đem về Thăng Long giết chết.
Trịnh Tùng sai Phan Công Tích và Trịnh Mô đem quân cứu Nghệ An, chống nhau với Nguyễn Quyện đến vài tháng. Sau một thời gian Nguyễn Quyện đem quân về kinh, Công Tích cũng thu quân về Thanh Hoa.
Chiến sự 1575
Ngày mồng 6 tết âm lịch, Mạc Kính Điển lại đem quân đánh Thanh Hoa, Nguyễn Quyện đem quân đánh Nghệ An.
Thế quân Mạc mạnh, tiến đến đâu, mọi người đều không dám chống lại, trốn xa vào núi rừng. Mạc Kính Điển tự đem đại binh tiến đánh các sông ở Yên Định và Thuỵ Nguyên, chia quân cho bọn Mạc Ngọc Liễn tiến đánh các huyện Lôi Dương và Đông Sơn.
Tháng 8 năm 1575, Trịnh Tùng sai thái phó Hoàng Đình Ái cùng Đỗ Diễn, Thạch quận công và Phan Văn Khoái đem quân đi cứu các huyện Lôi Dương, Nông Cống, Đông Sơn, đóng quân ở núi Tiên Mộc. Trịnh Tùng tự dẫn đại quân Trung dinh, sai Vũ Sư Thước và Nguyễn Hữu Liêu làm tiên phong; phía sau có các tướng Trịnh Bách, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh, Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Đỗ, Tống Đức Vị, Hà Thọ Lộc tiến đến Chiêu Sơn đóng quân. Mạc Kính Điển đem đại binh đánh ở Đông Lý, huyện Yên Định. Vũ Sư Thước và Nguyễn Hữu Liêu mang quân ra đánh, quân Mạc bại trận rút về.
Tại chiến trường Nghệ An, Lại Thế Khanh, Trịnh Mô và Phan Công Tích đem quân vào cứu, đụng độ với Nguyễn Quyện. Nguyễn Quyện đem kỳ binh phục sẵn để đợi, đánh thắng liền mấy trận, bắt được Phan Công Tích đem về kinh.
Chiến sự 1576
Tháng 8 năm 1576, Mạc Kính Điển lại đem quân tấn công Thanh Hóa, tiến đánh sông Mã ở huyện Thuỵ Nguyên. Ông sai Mạc Ngọc Liễn đem quân tiến đánh sông Đồng Cổ ở huyện Yên Định. Mặt khác, Kính Điển vẫn chia quân cho Nguyễn Quyện đánh Nghệ An.
Nguyễn Quyện đánh nhau với Trịnh Mô vài tháng. Trịnh Mô nhiều lần đánh không được, trốn về Thanh Hoa, đến huyện Ngọc Sơn. Nguyễn Quyện tự đốc quân đuổi tới Ngọc Sơn, bắt được Trịnh Mô ở giữa đường đưa về Thăng Long.
Kể từ khi bắt được Mô, uy danh của Nguyễn Quyện ngày một lừng lẫy. Các tướng Nam triều đều cho là mình không bằng Nguyễn Quyện.
Chiến sự 1577
Nhân thế Nam triều suy yếu, Mạc Mậu Hợp muốn tập trung lực lượng đánh diệt Nam triều, bèn ra lệnh động binh thêm và quân lính phải dự trữ lương trong 3 tháng để chuẩn bị đánh vào Thanh-Nghệ.
Phía Nam triều cũng lo cố thủ chống quân Bắc triều. Trịnh Tùng lệnh cho các huyện dọc sông ở Thanh Hóa làm kế "vườn không nhà trống", giấu của cải gia súc vào núi để tránh quân Mạc và đặt súng ở các nơi canh phòng để bắn làm hiệu.
Tháng 9 năm 1577, Mạc Kính Điển lại mang quân đánh Thanh Hóa. Trịnh Tùng đích thân đem đại binh ra cửa luỹ Khoái Lạc chống lại. Quân Mạc đánh phá dinh Hội Thượng. Hoàng Đình Ái và Nguyễn Hữu Liêu đem quân ngăn chặn. Hai bên đánh nhau với ở Hà Đô.
Nguyễn Quyện đem quân phục ở phía ngoài đê chờ đợi, rồi sai Hoàng quận công tức Mạc Đăng Lượng cùng với Lại Thế Mỹ đem quân khiêu chiến, tiến đến ngoài cửa luỹ Khoái Lạc. Thế Mỹ nhảy lên ngựa trước đến đánh. Quân Lê dùng súng bắn chết Thế Mỹ. Quân Mạc tan vỡ rút chạy.
Mạc Kính Điển đem quân về Thăng Long, Trịnh Tùng cũng trở về dinh Yên Trường.
Chiến sự 1578-1579
Tháng 8 năm 1578, Mạc Kính Điển đem quân vào lấn các huyện ven sông xứ Thanh Hoa. Quân Mạc Tiến đến Giang Biểu, Trịnh Tùng sai Trịnh Bách đem quân vượt sông phục sẵn ở núi Phụng Công, đánh nhau to với quân Mạc ở cầu Phụng Công. Quân Lê tập trung súng bắn vào, quân Mạc chết rất nhiều. Mạc Kính Điển liền rút quân về Thăng Long.
Tháng 11 năm đó, Mạc Ngọc Liễn được lệnh đem quân đánh chúa Bầu các châu huyện ở Tuyên Quang và Hưng Hoá, đến châu Thu và châu Vật. Chúa Bầu Vũ Công Kỷ tung quân đánh, quân Mạc thất bại rút về.
Tháng 8 năm 1579, Mạc Kính Điển lại đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp phá vùng ven sông, đến sông Tống Sơn, phủ Hà Trung, đánh vào xã Chương Các. Trịnh Tùng sai Đặng Huấn đốc quân chống quân Mạc ở Thái Đường và Trịnh Văn Hải làm tiên phong đánh vào núi Kim Âu. Đặng Huấn thúc quân tiến ngầm đến địa phương Tống Sơn, ra Mục Sơn ở sông Bình Hoà, chặn phía sau quân Mạc. Quân Mạc thua to phải rút về.
Đây là lần nam tiến cuối cùng của Mạc Kính Điển.
Chiến sự 1580-1583
Tháng 8 năm 1580, Mạc Mậu Hợp sai Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn cùng Hoàng quận công Mạc Đăng Lượng đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp lấy tiền của, súc vật các huyện dọc sông rồi rút về.
Tháng 11 năm đó, Mạc Kính Điển qua đời. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín. Quyền phụ chính giao cho em út Kính Điển là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng.
Mùa thu năm 1581, Mạc Mậu Hợp sai Mạc Đôn Nhượng đi đánh các huyện ven sông ở Thanh Hóa. Đôn Nhượng đem quân vượt biển vào đến huyện Quảng Xương, đóng quân ở núi Đường Nang.
Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái thống lĩnh các tướng tiến quân chống giữ. Đình Ái chia thành ba đạo, cùng Nguyễn Hữu Liêu, Trịnh Bính, Hà Thọ Lộc làm tả đội chống quân Nguyễn Quyện, còn Trịnh Văn Hải chống quân Mạc Ngọc Liễn.
Hai bên đánh nhau to. Quân Lê chém hơn 600 quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là Nguyễn Công và Phù Bang hầu. Quân Mạc đại bại, tan vỡ tháo chạy. Mạc Đôn Nhượng và tướng sĩ thu nhặt tàn quân về Thăng Long.
Tháng 8 năm 1583, quân Mạc lại vào đánh Thanh Hóa, cướp phá các huyện ven sông. Trịnh Tùng sai quân đánh lớn ở ngoài cửa biển, quân Mạc rút chạy về.
Đây là lần nam tiến cuối cùng của Bắc triều.
Nam triều thắng thế
Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng thân phụ chính, không chú trọng việc chính sự. Sau khi Mạc Kính Điển qua đời, việc trong ngoài đều trông chờ vào Mạc Đôn Nhượng cùng các tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.
Chiến sự 1584-1585
Tháng giêng năm 1584, Trịnh Tùng ra quân đánh các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (Ninh Bình).
Tháng giêng năm 1585, Trịnh Tùng mang quân đi đánh phá các huyện Mỹ Lương, Thạch Thất, Yên Sơn. Quân Lê tiến tới núi Sài Sơn thì rút về, Trịnh Tùng để lại viên tỳ tướng là Chiêu quận công ở chợ Quảng Xá. Quân Mạc đuổi theo đánh, Chiêu quận công chết tại trận. Trịnh Tùng đem quân về nam.
Chiến sự 1587
Tháng 12 năm 1587, Trịnh Tùng mang quân ra bắc, đến huyện Mỹ Lương. Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đem quân ra huyện Ninh Sơn để đánh vào phía trái tả, Nguyễn Quyện đem quân ra huyện Chương Đức, vượt sông Do Lễ đánh vào bên phải. Nguyễn Quyện đến sông Do Lễ chia quân phục sẵn ở con đường nhỏ dưới chân núi để đợi quân Lê tới, định cắt đứt con đường chở lương của cánh quân Lê phía sau.
Trịnh Tùng đoán biết ý định quân Mạc, bèn chia quân để lại cho Hà Thọ Lộc, Ngô Cảnh Hựu bảo vệ quân chở lương ở phía sau; còn Hoàng Đình Ái đem quân ngầm rút nhanh về để giữ Thanh Hoa; Nguyễn Hữu Liêu, Trịnh Đỗ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đem quân ra cầm cự với quân của Mạc Ngọc Liễn. Trịnh Tùng tự mình cầm đại quân ra đánh Nguyễn Quyện.
Quân hai bên giao chiến, quân Lê thắng lớn. Nguyễn Quyện tự liệu không thể chống nổi, liền rút chạy; quân Mạc mai phục cũng vỡ chạy, tranh nhau qua sông, bị chết đuối rất nhiều, vài trăm người bị quân Lê giết chết.
Mạc Ngọc Liễn nghe tin cánh quân Nguyễn Quyện đã thua, cũng lui quân về. Quân Lê từ Đốn Thủy, tiến đóng ở Hoàng Sơn, lại tiến đánh Yên Sơn, và Thạch Thất. Sang đầu năm dương lịch 1588, Trịnh Tùng thu quân và hạ lệnh rút về Thanh Hóa.
Chiến sự 1588
Sau trận chiến năm 1587, kinh tế nhà Mạc bị tàn phá nghiêm trọng. Nhằm tính kế phòng thủ lâu dài, tháng 3 năm 1588, Mạc Mậu Hợp lệnh cho dân các huyện đắp thêm 3 tầng lũy ngoài thành Thăng Long, từ phường Nhật Chiêu qua Tây Hồ đến Cầu Dừa, Cầu Dền và Thanh Trì, giáp phía tây bắc sông Nhuệ. Lũy cao hơn thành Thăng Long vài trượng, đào 3 tầng hào, trồng che vài chục dặm để phòng bị.
Tháng 12 năm 1588, Trịnh Tùng đem đại binh ra đánh các huyện của phủ Trường Yên và Thiên Quan. Quân Lê tới Yên Mô, Yên Khang rồi đến luỹ trại Dương Vũ đóng quân. Sau một tuần, Trịnh Tùng giả cách rút quân về, để lại kỵ binh và voi ngựa mai phục ở sau dinh rồi đốt doanh trại để dụ quân Mạc. Tân quận công, Quỳnh quận công phía quân Mạc ra tiến lên, phục binh nổi dậy đánh úp, chém được mấy trăm quân Mạc. Tân quận công, Quỳnh quận công chạy thoát. Trịnh Tùng lại thu quân rút về Thanh Hóa.
Chiến sự 1589
Mùa thu năm 1589, Mạc Đôn Nhượng thống suất quân bốn trấn, định ngày cùng tiến đến Yên Mô, hẹn giao chiến với quân Nam triều.
Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đem 15.000 quân tinh nhuệ và 200 cỗ khinh kỵ đi ngầm trong đêm tối tới vùng chân núi tìm các hang động, khe suối và những nơi có lau sậy mà mai phục để đợi quân Mạc; Trịnh Đỗ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đem quân chặn hậu; Ngô Cảnh Hựu đem quân chở lương thực, thu nhặt rút trước vào núi Tam Điệp để lừa quân Mạc tưởng là lui quân về.
Mạc Đôn Nhượng không biết kế lừa, nhân có nhiều quân bèn thúc tiến đánh. Đến chỗ hiểm ở núi Tam Điệp, Trịnh Tùng tung đại quân đánh ra, chém được hơn 1.000 quân Mạc, bắt sống được hơn 600 người. Quân Mạc tan vỡ chạy về Thăng Long. Trịnh Tùng cũng đem quân về Thanh Hóa.
Chiến sự 1592-1593
Chiến trận giáp Tết
Tháng chạp năm Tân Mão (đầu năm dương lịch 1592), Trịnh Tùng khởi đại quân ra bắc. Quân chia làm 5 đạo:
Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh đem 1 vạn quân tinh nhuệ làm tiên phong
Hoàng Đình Ái, Trịnh Đồng và voi ngựa cùng 1 vạn quân
Trịnh Đỗ và 1 vạn giáp binh, voi, ngựa
Trịnh Tùng đích thân đốc suất 2 vạn quân
Hà Thọ Lộc và Ngô Cảnh Hựu cùng đốc suất quân chở lương làm hậu quân.
Ngoài ra, Trịnh Tùng sai Trịnh Văn Hải, Nguyễn Thất Lý đem quân thủy, bộ đi trấn giữ những nơi hiểm yếu ở các cửa biển, Lê Hoà kiêm coi võ sĩ trong ngoài bốn vệ bảo vệ vua Lê Thế Tông. Quân Nam triều từ Tây Đô đi ra theo đường tây bắc của huyện Thạch Thành, qua phủ Thiên quan, đi gấp hơn 10 ngày, đến núi Mã Yên thuộc huyện Quốc Oai thì đóng quân lại.
Quân Nam triều khí thế mạnh mẽ, trong 10 ngày tiến thẳng đến các huyện Yên Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong.
Ngày 21 tháng chạp, Mạc Mậu Hợp cử hết đại binh, tất cả hơn 10 vạn người, chia ra các đạo:
Mạc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đạo đi bên phải
Nguyễn Quyện đốc suất tướng sĩ binh mã Nam đạo đi bên trái
Ngạn quận công, Thủy quận công chỉ huy binh mã Đông đạo
Đương quận công, Xuyên quận công chỉ huy binh mã Bắc đạo
Khuông quận công, Tân quận công chỉ huy binh mã 4 vệ đi tiên phong.
Mạc Mậu Hợp đích thân đốc suất binh mã của chính dinh. Ngày 27 tháng chạp, quân Mạc chia đường cùng tiến. Đến địa phận xã Phấn Thượng, hai bên đối trận với nhau, dàn bày binh mã. Mạc Mậu Hợp đích thân đốc chiến.
Quân hai bên đón đánh nhau giáp lá cà suốt từ sáng sớm giờ Mão đến giờ Tỵ gần trưa, quân Nam triều chém được Khuông Định công và Tân quận công của Bắc triều tại trận. Quân Mạc không địch nổi, tan vỡ bỏ chạy. Quân Nam triều đuổi đến Giang Cao, chém được hơn 1 vạn quân Mạc, cướp được rất nhiều khí giới và ngựa. Mạc Mậu Hợp xuống thuyền vượt sông bỏ chạy về Thăng Long.
Ngày 30 tết âm lịch, Trịnh Tùng tiến quân đến chợ Hoàng Xá, hạ lệnh cho quân các dinh vượt sông Cù phá huỷ hào luỹ của quân Mạc, san thành đất bằng. Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đem 5000 quân tinh nhuệ và voi tiến đến đóng ở cầu Cao tại góc tây bắc thành Thăng Long, thiêu đốt nhà cửa. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn.
Chiến trận sau Tết
Ngày mồng 5 tết, Trịnh Tùng đốc quân vượt sông, Mạc Mậu Hợp vượt sông Nhị Hà đến bến Bồ Đề, ở tại Thổ Khối, để lại các đại tướng chia giữ các cửa trong thành.
Ngày mồng 6 tết, Trịnh Tùng đốc quân qua sông Tô Lịch đến cầu Nhân Mục, đóng quân ở núi Xạ Đôi dàn binh bố trận.
Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đại La; Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo. Mạc Mậu Hợp tự đốc suất thủy quân, dàn hơn 100 chiếc thuyền giữ sông Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hoả khí để phòng bị.
Trịnh Tùng ra lệnh tiến đánh. Hai bên giao chiến từ sáng giờ Tỵ đến giờ Mùi (qua trưa) chưa phân thắng bại. Sau đó Văn Khuê, Bách Niên tự liệu sức không chống nổi, quân tự tan vỡ tháo chạy. Mạc Ngọc Liễn thấy các cánh quân bị thua cũng bỏ chạy theo. Quân Nam triều đuổi tràn đến tận sông, phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành.
Sau đó Trịnh Tùng thúc voi ngựa và quân lính đánh phá cửa Cầu Dền. Quân Mạc tan vỡ, quân mai phục của Nguyễn Quyện chưa kịp nổi dậy, bị chết hết ở ngoài cửa Cầu Dền. Nguyễn Quyện cùng kế, định chạy trốn, nhưng không còn đường nào, trong ngoài đều bị vây và cửa luỹ lại bị lấp. Các con Nguyễn Quyện là Bảo Trung, Nghĩa Trạch và thủ hạ cố sức đánh, đều bị tử trận. Nguyễn Quyện kiệt sức chạy về bản dinh, bị quân Nam triều bắt sống.
Tổng số quân Mạc bị chết vài ngàn người, tướng Mạc bị chết đến mấy chục viên. Mạc Mậu Hợp thu nhặt tàn quân giữ sông Cái để cố thủ. Trịnh Tùng đem quân đến bờ sông, dừng lại đóng doanh trại.
Nguyễn Quyện bị bắt, trá hàng Trịnh Tùng, xui Tùng điều quân đi phá luỹ đất mà quân Bắc triều đã đắp thành Đại La năm trước để làm kế hoãn binh, kéo dài thời gian cho vua Mạc chuẩn bị lực lượng phòng thủ bên kia sông. Trịnh Tùng làm theo, ngày rằm tháng giêng sai quân Nam triều san luỹ đất, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh.
Tháng 3 âm lịch năm 1592, Trịnh Tùng tiến quân đến huyện Chương Đức, chia quân đi đánh các huyện Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên, tự mình đốc quân đánh dẹp các huyện Từ Liêm, Đan Phượng, Phúc Lộc, Tiên Phong, Ma Nghĩa, Yên Sơn, Thạch Thất.
Chiến trận tháng 10
Có sông Hồng ngăn trở, quân Nam triều chưa qua sông được. Mạc Mậu Hợp lại không lo phòng giữ, sa vào tửu sắc. Vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên có chị ruột là hoàng hậu của Mậu Hợp, thường ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên đẹp, liền ngầm mưu dụ giết Văn Khuê để cướp lấy vợ.
Bùi Văn Khuê biết chuyện, tháng 10 năm đó liền sai con là Bùi Văn Nguyên chạy đến xin hàng Lê. Trịnh Tùng nghe sai Hoàng Đình Ái đi trước cứu Văn Khuê. Mạc Mậu Hợp biết Văn Khuê đã đầu hàng, lại có quân đến cứu, liền lui về giữ sông Thiên Phái.
Ngày 28 tháng 10, Trịnh Tùng mang quân ra phủ Trường Yên. Mạc Mậu Hợp sai Nghĩa quốc công ra đóng quân ở sông Thiên Phái, đắp luỹ đất ở bờ sông chống cự, thả chông tre hai bên bờ sông. Trịnh Tùng sai Bùi Văn Khuê ngầm kéo theo thuyền ra cửa sông để đánh ở thượng lưu, sai bắn súng ở ven sông để đánh ở hạ lưu; sai voi ngựa, quân lính qua sông đánh mạnh vào trung lưu để thu lấy thuyền quân Mạc trên sông.
Nghĩa quốc công trở tay không kịp, bỏ thuyền chạy trốn, quân lính tan vỡ tháo chạy. Quân Nam triều thu được 70 chiếc thuyền. Nghĩa quốc công thu nhặt tàn quân trở về Thăng Long. Tướng Mạc là Trần Bách Niên đem quân tới hàng Lê.
Đoạn kết của Bắc triều
Ngày 14 tháng 11, quân Nam triều ra cửa sông Hát tiến theo cả hai đường thủy, bộ. Tướng Mạc là Mạc Ngọc Liễn dàn thuyền để chống cự, cắm cọc gỗ ở cửa sông Hát, đắp luỹ đất trên bờ sông làm thế hiểm vững. Quân Nam triều tiến đánh phá tan, Ngọc Liễn cùng quân lính bỏ thuyền lên bộ chạy đến chân núi Tam Đảo. Quân Nam triều đuổi đến tận cửa Nam thành Thăng Long, đóng quân ở bến Sa Thảo.
Đêm 14 tháng 11, Mạc Mậu Hợp cùng tông tộc trốn chạy về huyện Kim Thành, trấn Hải Dương. Các tướng Mạc nhiều người đến hàng Nam triều.
Ngày 25 tháng 11, Trịnh Tùng tiến quân đến Hải Dương. Mạc Mậu Hợp bỏ thành chạy trốn, các cánh quân không tiếp ứng được nhau, bỏ hết thuyền bè chạy trốn.
Mạc Mậu Hợp lập con là Mạc Toàn làm vua, tự mình làm tướng đốc quân.
Tháng chạp năm Nhâm Thìn (đầu năm 1593 dương lịch), Trịnh Tùng chia quân phá được tông thất nhà Mạc là Mạc Kính Chỉ ở xã Tân Mỹ, huyện Thanh Hà (Hải Dương).
Các cánh quân Mạc bị thua lớn, tan rã. Mạc Mậu Hợp bỏ thuyền đi bộ, đến một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhãn ẩn nấp, giả làm sư. Được 11 ngày, quân Nam triều truy kích đến nơi, có người trong thôn dẫn đường đưa vào chùa bắt được Mạc Mậu Hợp. Mậu Hợp bị đưa về dinh quân Trịnh Tùng, hành hình ở bến Bồ Đề.
Không lâu sau Vũ An Đế Mạc Toàn cũng bị quân Nam triều bắt và giết chết. Kể từ đó Bắc triều chấm dứt.
Tàn dư Bắc triều
Giằng co miền Bắc
Ngay từ khi Mạc Mậu Hợp bị thua lớn ở Thăng Long đầu năm 1592, nhiều hoàng thân nhà Mạc thuộc chi Mạc Kính Điển đã tìm cách lập nghiệp riêng để khôi phục.
Mạc Mậu Hợp thất thế, con trưởng Kính Điển là Mạc Kính Chỉ thu thập tàn quân chiếm cứ vùng Thanh Lâm và xưng vua ở Nam Giản thuộc Chí Linh, Hải Dương, lấy niên hiệu Bảo Định. Cũng ngay trong tháng 4 năm đó, Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn sau trận thua ở Tam Đảo đã chạy về phía bắc tìm dòng dõi nhà Mạc để lập làm vua. Ngọc Liễn tìm thấy con thứ của Kính Điển là Mạc Kính Cung ở Văn Châu, bèn lập Mạc Kính Cung làm vua mới.
Do sự ly khai của một số hoàng tộc, lực lượng của cha con Mạc Mậu Hợp, Mạc Toàn bị yếu đi. Sau khi Mạc Mậu Hợp bị giết, thế lực của nhà Mạc vẫn còn khá mạnh. Vũ An đế Mạc Toàn thế cô phải chạy sang theo Bảo Định Đế Kính Chỉ và chỉ xưng Vũ An vương.
Trong nhiều năm từ 1593 đến 1623, các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của các tôn thất Bắc triều như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Dụng, Mạc Kính Chương...
Lê Thế Tông được rước trở lại Thăng Long tháng 4 năm 1593, đánh dấu mốc nhà Lê trung hưng. Đồng thời, quyền lực của họ Trịnh cũng được xác lập lên hàng chúa và được thế tập. Tuy nhiên, trong vòng 30 năm đầu, do sự uy hiếp của lực lượng họ Mạc, các chúa Trịnh đã 2 lần phải rước vua Lê chạy vào Thanh Hóa (1600, 1623).
Cùng lúc đó, chúa Bầu Vũ Đức Cung ở Tuyên Quang lại không theo nhà Lê như thời Nam-Bắc triều nữa mà từ năm 1594 quay sang liên kết với họ Mạc để chống triều đình Lê Trịnh.
Tái chiếm kinh thành
Mạc Kính Chỉ có phụ chính cũ là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng giúp đỡ, chiếm cứ vùng Thanh Lâm và xưng vua ở Nam Giản thuộc Chí Linh, Hải Dương. Sang tháng 1 năm 1593, Kính Chỉ bị Trịnh Tùng đánh bại, cùng Vũ An vương Mạc Toàn và nhiều tông thất khác bị bắt và bị giết. Mạc Đôn Nhượng chạy lên Lạng Sơn rồi lâm bệnh qua đời.
Các thân vương khác tiếp tục chiếm cứ nhiều nơi ở Bắc Bộ. Theo kế dặn lại của Mạc Ngọc Liễn trước khi mất (1594), khi đại quân Lê Trịnh kéo đến, họ Mạc thường tránh, tản vào rừng núi hoặc chạy sang bên kia biên giới. Khi quân Lê Trịnh rút về, quân Mạc lại tụ tập. Đại Việt thông sử viết về chiến thuật này: "Quan quân tới đâu, quân giặc (tức quân Mạc) lập tức tản ra, quan quân đi thì chúng lại tụ lại, các huyện ở Thái Nguyên, Lạng Sơn khổ vì chúng". Chúa Trịnh điều những tướng giỏi như Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu, Nguyễn Hoàng, Trịnh Đỗ đi đánh trong nhiều năm nhưng chỉ một bộ phận quân Mạc bị bắt hoặc giết, bộ phận khác vẫn chạy trốn và triều đình Lê Trịnh không thể trừ diệt hết.
Năm 1596, tướng Phan Ngạn bắt được Trang vương Mạc Kính Chương (cháu nội Kính Điển) ở Yên Quảng, mang về kinh giết chết.
Năm 1598, Mạc Kính Dụng sau mấy năm trấn giữ Thái Nguyên bị thua trận, bỏ chạy lên An Bác. Thổ quan là Phú Lương hầu lừa dụ Kính Dụng trốn vào hang rồi sai người đi báo cho Trịnh Tùng. Trịnh Tùng điều quân tới bắt được Kính Dụng mang về kinh giết chết.
Vùng phía bắc Bắc Bộ chỉ còn lực lượng Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan là đáng kể.
Tháng 5 năm 1600, ba viên Quận công Phạm Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga chạy về hàng nhà Mạc. Nguyễn Hoàng nhân đó muốn về nam ly khai họ Trịnh, giả thác là đi đuổi bắt 3 viên tướng nhưng lại phóng hỏa đốt sạch doanh trại rồi xuống thuyền kéo quân vào Quảng Nam. Kinh thành rối loạn, lòng người dao động, Trịnh Tùng phải mang Lê Kính Tông rời bỏ kinh đô chạy vào Thanh Hoa.
Mẹ của Mạc Mậu Hợp nhân đó tự xưng Quốc mẫu, cùng tông thất nhà Mạc trở về Thăng Long và sai người đón Mạc Kính Cung. Tướng Ngô Đình Nga mang quân lại hàng. Lực lượng của Mạc Kính Cung lại mạnh lên, có vài vạn người.
Tháng 8 năm 1600, Trịnh Tùng mang quân ra bắc đánh Mạc Kính Cung. Kính Cung thua trận, chạy ra Kim Thành. Mẹ Mạc Mậu Hợp bị bắt và bị giết. Quân Lê Trịnh chiếm lại được Thăng Long.
Năm 1601, Trịnh Tùng lại ra quân đánh Mạc, sai Hoàng Đình Ái đánh Kim Thành, Mạc Kính Cung bỏ thành chạy lên Lạng Sơn, quân Lê Trịnh phá hủy doanh trại quân Mạc. Ít lâu sau, Mạc Kính Cung lại ra chiếm đóng Thái Nguyên và Tây Nông. Năm 1609, Trịnh Tùng lại sai Trịnh Đỗ đi đánh Mạc. Kính Cung rút chạy vào núi, quân Lê Trịnh không truy kích được phải rút về. Sau đó Kính Cung lại tiến về Cao Bằng và Kim Thành.
Tháng 11 năm 1621, Trịnh Tùng lại điều quân đánh Mạc. Kính Cung lại bỏ Kim Thành về Cao Bằng, xưng hiệu là Càn Thống. Cùng lúc, cháu gọi Kính Cung bằng chú là Kính Khoan cũng xưng hiệu Long Thái, không theo Kính Cung. Khi quân Lê Trịnh đánh đến Cao Bằng, cả Kính Cung và Kính Khoan đều bỏ chạy. Quân Lê Trịnh rút đi, Kính Cung lại trở về Cao Bằng.
Tháng 6 năm 1623, Trịnh Tùng ốm nặng, con thứ là Trịnh Xuân làm loạn muốn tranh ngôi. Thế tử Trịnh Tráng mang xa giá vua Lê Thần Tông chạy ra Ninh Giang. Trịnh Tùng sai em là Trịnh Đỗ dụ lừa Xuân đến và giết chết, không lâu sau cũng ốm chết ở Thanh Xuân. Trịnh Tráng lên thay ngôi chúa, thấy người theo Trịnh Xuân còn nhiều, bèn mang cả triều đình chạy vào Thanh Hóa lần nữa.
Nhân khi kinh thành lúc này bỏ trống, Mạc Kính Khoan đốc xuất binh mã tiến về Gia Lâm đóng đồn ở Thổ Khố, Châu Cầu. Nhân dân và các quần thần văn võ của triều Lê ở vùng này lại về với Mạc Kính Khoan, những người có lòng với triều Mạc cũng đi theo rất đông.
Tháng 8 năm 1623, Trịnh Tráng củng cố lực lượng đánh ra Thăng Long. Mạc Kính Khoan thua trận bỏ chạy lên Cao Bằng, nhiều thủ hạ theo hàng Trịnh Tráng.
Năm 1625, Trịnh Tráng đốc binh đánh nhà Mạc. Quân Lê Trịnh dùng kế hỏa cung đánh thắng quân Mạc, cuối cùng bắt được Mạc Kính Cung tại Cao Bằng, đem về giết tại kinh đô.
Cát cứ ở Cao Bằng
Sau khi Kính Cung bị bắt, Mạc Kính Khoan chạy vào lẩn trốn trong vùng người dân tộc Dao, tiếp tục tập hợp lực lượng. Sau đó Kính Khoan sai người dâng biểu về triều xin quy thuận. Chúa Trịnh cũng thấy không thể diệt ngay hết được nhà Mạc nên nhân danh Lê Thần Tông phong Mạc Kính Khoan chức Thống quốc công và giao trấn giữ vùng biên giới.
Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Việt Nam để có lợi cho Trung Quốc, nên đã can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Khi nhà Minh mất (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Từ Mạc Kính Khoan, họ Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm.
Năm 1638, Kính Khoan chết, con là Mạc Kính Vũ lại xưng hiệu là Thuận Đức, tiếp tục cát cứ tại đây chống triều đình Lê Trịnh. Đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ Mạc vẫn nhờ can thiệp của nhà Thanh để cát cứ ở đây. Lực lượng Lê Trịnh nhiều lần lên đánh đều không tiêu diệt được. Năm 1643, Kính Vũ nhân lúc Trịnh Tráng đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên ở Thuận Hóa đã đánh phá ra Thái Nguyên, Bắc Cạn. Khi chiến tranh với họ Nguyễn tạm ngưng, chúa Trịnh 3 lần điều quân lên Cao Bằng năm 1662, 1666 và 1667 nhưng Kính Vũ khi thua trận thường chạy sang Long châu (Trung Quốc), khi quân Trịnh lui thì Kính Vũ lại trở về Cao Bằng.
Tuy nhiên sau đó Mạc Kính Vũ lại giúp phản thần Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh nên không được ủng hộ nữa. Họ Trịnh nhân đó mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, chúa Trịnh sai Đinh Văn Tả đi đánh thắng được quân Mạc. Mạc Kính Vũ chạy sang Trung Quốc. Việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc lúc đó mới chấm dứt.
Những người họ Mạc bị đổi sang họ khác. Về sau, nhân khi chính sự Đàng Ngoài dưới thời Trịnh Giang rối ren, năm 1739, hậu duệ của họ Mạc là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển lại nổi dậy, mở đầu trong phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài chống Trịnh trong vài năm.
Hậu quả
Cả hai vương triều Mạc và Hậu Lê được dựng lên trong bối cảnh rất phức tạp và đầy biến động. Hai bên là hai thế lực không dung hòa, mục tiêu của cả hai bên trong cuộc chiến là tìm mọi biện pháp để loại trừ lẫn nhau. Do đó việc quan trọng hàng đầu của cả hai chính quyền Mạc-Lê là xây dựng và củng cố lực lượng quân sự mạnh để chiến thắng trên chiến trường.
Ngay sau khi xây dựng lên vương triều Mạc, Mạc Thái Tổ đã xây dựng Dương Kinh (Hải Dương) làm thế ỷ dốc cho Thăng Long, đồng thời cải tổ quân đội. Lực lượng của Bắc triều có 12 vạn người và tổ chức khá chặt chẽ. Nam triều tuy sở hữu đất đai hẹp hơn nhưng quân đội thường trực cũng thường xuyên có 6 vạn người.
Trong thời kỳ đầu khi nhà Mạc gặp mâu thuẫn nội bộ, Nam triều tổ chức tấn công ra bắc 11 lần, có những lần kéo dài tới 2 năm. Quân Mạc thời kỳ này chủ yếu là phòng thủ, chỉ 4 lần tổ chức đánh vào Thanh Hóa. Chiến trường chính là Sơn Nam và Thanh Hóa.
Từ năm 1570, Bắc triều ổn định trở lại và đứng vững thì Nam triều lại phát sinh mâu thuẫn. Tận dụng cơ hội này, Bắc triều chủ động tấn công. Nam triều phải co về phòng thủ và chiến trường chính diễn ra tại vùng sông Chu, sông Mã, sông Cả ở Thanh Hóa, Nghệ An.
Các nhà nghiên cứu tổng kết: trong 60 năm chiến tranh (1533–1592) giữa Lê và Mạc đã diễn ra 38 trận lớn nhỏ, cả hai bên đều huy động gần hết các lực lượng lao động chính trong xã hội vào cuộc chiến cùng những nhân tài, vật lực trong tay. Sau mỗi trận đánh, lực lượng mới lại được huy động để bù đắp cho lực lượng tổn thất trên chiến trường.
Cuộc chiến đã tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân lao động. Sản xuất bị đình trệ, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế toàn quốc. Không những nông dân, những người thợ thủ công cũng chịu mức thuế khóa nặng nề để cung ứng cho cuộc chiến.
Tại các khu vực chiến trận tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang. Dân gian còn lưu lại những câu ca dao nói về sự khổ cực của nhân dân trong việc lao dịch, quân ngũ vì chiến sự ở Cao Bằng:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng
Hoán đổi lực lượng hai bên
Chúa Bầu: Các chúa Bầu họ Vũ ở Tuyên Quang theo nhà Lê chống nhà Mạc thời Nam Bắc triều, nhưng tới khi nhà Lê chiếm được Thăng Long thì lại ngả theo họ Mạc ở Cao Bằng để chống vua Lê chúa Trịnh
Dương Chấp Nhất hàng Nam triều năm 1543, tới năm 1545 ám sát Nguyễn Kim rồi trở về Bắc triều
Lê Bá Ly, Nguyễn Thiến, Bùi Trụ: các nhà thông gia ly khai nhà Mạc, mang theo gia quyến theo nhà Hậu Lê năm 1551
Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn: hai người con Nguyễn Thiến vào Thanh Hóa năm 1551, trở về theo Bắc triều năm 1557
Trịnh Cối: con trưởng Trịnh Kiểm, bị em Trịnh Tùng tranh ngôi, theo hàng Bắc triều năm 1570 (mất 1584)
Lê Khắc Thận: con Lê Bá Ly, trở về Bắc triều năm 1572
Bùi Văn Khuê: bị Mạc Mậu Hợp cướp vợ, bỏ sang Nam triều năm 1592, tới năm 1600 lại bỏ Lê theo Mạc. |
SAP-VN, viết tắt cho Social Assistance Program for Vietnam, là một tổ chức cứu trợ nhân đạo, chú trọng nhiều nhất vào trẻ em mồ côi và tàn tật, trong các lãnh vực y tế, giáo dục và xã hội.
SAP-VN được thành lập năm 1992 ở Garden Grove, California. |
Trong toán học, vật lý và kỹ thuật, véctơ (tiếng Anh: vector hay Hán-Việt: hướng lượng) là một đoạn thẳng có hướng. Đoạn thẳng này biểu thị phương, chiều, độ lớn (chiều dài của vectơ). Ví dụ trong mặt phẳng cho hai điểm phân biệt A và B bất kì ta có thể xác định được vectơ .
Một vectơ là những gì cần thiết để "mang" điểm A đến điểm B; từ "vector" trong tiếng Latin có nghĩa là "người vận chuyển", lần đầu tiên được sử dụng bởi các nhà thiên văn học thế kỷ 18 trong cuộc cách mạng khảo sát các hành tinh quay quanh Mặt trời. Độ lớn của vectơ là khoảng cách giữa 2 điểm và hướng dịch chuyển từ điểm A đến điểm B. Nhiều phép toán đại số trên các số thực như cộng, trừ, nhân và phủ định có sự tương tự gần gũi với vectơ, phép toán tuân theo các quy luật đại số quen thuộc của giao hoán, kết hợp và phân phối. Mỗi vectơ là một phần tử trong không gian vectơ, được xác định bởi ba yếu tố: điểm đầu (hay điểm gốc), hướng (gồm phương và chiều) và độ lớn (hay độ dài). Ví dụ, đoạn thẳng AB có điểm gốc là A, hướng từ A đến B được gọi là vectơ AB, ký hiệu là . Vectơ được ký hiệu là hoặc , , , .
Trong giải tích, một vectơ trong không gian Euclid Rn là một bộ n số thực (x1, x2,..., xn).
Có thể hình dung một vectơ trong không gian Rn là đoạn thẳng có hướng (thường vẽ theo hình mũi tên), đuôi ở gốc tọa độ 0, mũi ở điểm (x1, x2,..., xn).
Vectơ đóng vai trò quan trọng trong ngành vật lý học: vận tốc, gia tốc của một vật và lực tác động lên nó có thể được biểu diễn bằng vectơ.
Lịch sử
Khái niệm về vectơ, như chúng ta biết ngày nay, đã phát triển dần dần trong khoảng thời gian hơn 200 năm. Khoảng một chục người đã bỏ nhiều công sức để đóng góp.
Giusto Bellavitis đã trừu tượng hóa ý tưởng cơ bản vào năm 1835 khi ông thiết lập khái niệm về sự trang bị. Làm việc trong một mặt phẳng Euclide, ông ta đã tạo ra bất kỳ cặp phân đoạn đường nào có cùng độ dài và hướng. Về cơ bản, ông nhận ra một mối quan hệ tương đương trên các cặp điểm (lưỡng cực) trong mặt phẳng và do đó dựng lên không gian đầu tiên của vectơ trong mặt phẳng.
Thuật ngữ vectơ được William Rowan Hamilton giới thiệu như là một phần của tứ phương, là tổng q = s + v của một số thực s (còn gọi là vô hướng) và vectơ 3 chiều. Giống như Bellavitis, Hamilton đã xem các vectơ là đại diện của các lớp phân khúc được định hướng trang bị. Khi các số phức sử dụng một đơn vị tưởng tượng (số ảo) để bổ sung cho phần số thực, Hamilton coi vectơ v là phần số ảo của một phần tư:
Phần số ảo, được xây dựng hình học bởi một đường thẳng hoặc vectơ bán kính, nói chung, đối với mỗi bậc bốn xác định (quaternion), chiều dài xác định và hướng xác định trong không gian, có thể được gọi là vectơ thành phần, hoặc đơn giản là vectơ tứ phương (quaternion).
Một số nhà toán học khác đã phát triển các hệ thống giống như vectơ vào giữa thế kỷ XIX, bao gồm Augustin Cauchy, Hermann Grassmann, August Möbius, Comte de Saint-Venant và Matthew O'Brien. Công trình năm 1840 của Grassmann Theorie der Ebbe und Flut (Lý thuyết về Ebb và Flow) là hệ thống phân tích không gian đầu tiên tương tự như hệ thống ngày nay và có ý tưởng tương ứng với tích có hướng, tích vô hướng và vectơ vi phân. Các nghiên cứu của Grassmann phần lớn bị bỏ quên cho đến những năm 1870.
Peter Guthrie Tait mang tiêu chuẩn bậc bốn sau Hamilton. Chuyên luận về Đệ tứ năm 1867 của ông bao gồm điều trị rộng rãi cho người điều hành nabla hoặc del ∇.
Năm 1878, yếu tố năng động được xuất bản bởi William Kingdon Clifford. Clifford đã đơn giản hóa nghiên cứu Quaternion bằng cách tách tích vô hướng và tích có hướng của hai vectơ từ phương trình Quaternion hoàn chỉnh. Cách tiếp cận này làm cho các tính toán véc tơ có sẵn cho các kỹ sư và những người làm việc theo không gian ba chiều và hoài nghi về không gian bốn chiều.
Josiah Willard Gibbs, ông đã được tiếp xúc với các nhóm tứ phương thông qua chuyên luận về điện và từ tính của James Clerk Maxwell, đã tách ra khỏi phần vectơ của họ để tính toán độc lập. Nửa đầu của Phân tích vectơ của Gibbs, xuất bản năm 1881, trình bày về cơ bản hệ thống phân tích vectơ hiện đại. Năm 1901, Edwin Bidwell Wilson đã xuất bản Phân tích Vectơ, phỏng theo các bài giảng của Gibb, trong đó đã loại bỏ vectơ tứ phương (Quaternion) trong việc phát triển phép tính vectơ.
Các khái niệm cơ bản
Độ lớn của vectơ trong hình học được đo bằng độ dài đoạn thẳng AB, ký hiệu giống như ký hiệu giá trị tuyệt đối: đọc là độ dài của vectơ AB
Vectơ đơn vị là vectơ có độ dài bằng 1, là vectơ quy ước để so sánh.
Ngoài ra, bạn cũng có thể dễ nhận thấy 1 tính chất cộng đơn giản khác của vectơ:
Vectơ-không là vectơ đặc biệt có điểm đầu trùng với điểm cuối. Ký hiệu là hoặc
2 vectơ cùng phương khi giá của chúng song song hoặc trùng nhau
2 vectơ bằng nhau là 2 vectơ cùng hướng (phương song song, cùng chiều) và độ lớn bằng nhau. Véctơ bằng véctơ được ký hiệu là .
2 vectơ đối nhau là 2 vectơ ngược hướng (phương song song, ngược chiều) và độ lớn bằng nhau. Vectơ đối của véctơ là , ta có
Vectơ tự do: vectơ có thể di chuyển tịnh tiến đến một điểm bất kì, thực chất là thay thế bởi một vectơ khác bằng với vectơ cũ
Vectơ buộc: vectơ có điểm đầu cố định, không di chuyển được. Trong vật lý, vectơ buộc được dùng để biểu thị các lực tác dụng vào điểm đặt lực.
Trong hệ tọa độ Descartes, vectơ có điểm đầu đặt tại gốc hệ tọa độ thì có thể xác định hoàn toàn bằng tọa độ của điểm cuối của nó, là một bộ số thực sắp thứ tự trong mặt phẳng và trong không gian. Trong không-thời gian bốn chiều, tọa độ đó được xác định bằng trong đó c là tốc độ ánh sáng, t là thời gian.
Góc giữa 2 vectơ
Cho 2 vectơ và . Từ điểm O vẽ và . Khi đó chính là góc giữa và . Ký hiệu
Quy ước trong hình học
Góc hợp bởi 2 vectơ cùng phương và cùng hướng là
Góc hợp bởi 2 vectơ cùng phương và ngược hướng là
Phép toán trên vectơ
Phép cộng hai vectơ
Quy tắc
Phép cộng hai vectơ: tổng của hai vectơ và là một vectơ được xác định theo quy tắc:
Quy tắc 3 điểm: di chuyển vectơ sao cho điểm đầu C của trùng với điểm cuối B của : . Khi đó vectơ có điểm gốc đặt tại điểm A, điểm cuối đặt tại D, chiều từ A đến D là vectơ tổng
Quy tắc hình bình hành: di chuyển vectơ đến vị trí trùng điểm gốc A của vectơ . Khi đó vectơ tổng có gốc đặt tại điểm A, có điểm cuối đặt tại góc đối diện trong hình bình hành tạo ra bởi hai vectơ thành phần và , chiều từ gốc A đến điểm cuối
Tính chất Vectơ
Tính chất giao hoán
Tính chất kết hợp
Tính chất của vectơ-không
Với 3 điểm A, B, C bất kỳ, ta có:
I là trung điểm đoạn thẳng AB
G là trọng tâm
Hiệu hai vectơ
Ta có:
Quy tắc trừ: Với 3 điểm A, B, C, ta có
Tích vectơ với một số
Quy tắc
Phép nhân vectơ với một số: tích của vectơ với một số thực là một vectơ có gốc và phương trùng với gốc và phương của , cùng chiều nếu và ngược chiều nếu , có độ dài bằng
Tính chất
Với hai vectơ bất kì, với mọi số h và k, ta có
Trung điểm của đoạn thẳng và trọng tâm của tam giác
Nếu K là trung điểm của đoạn thẳng AB thì với mọi điểm M ta có
Nếu G là trọng tâm của tam giác ABC thì với mọi điểm M ta có
Điều kiện để hai vectơ cùng phương
Điều kiện cần để hai vectơ và cùng phương là có một số k để
Nếu và cùng hướng thì
Nếu và ngược hướng thì
Tích vô hướng của hai vectơ
Quy tắc
Tích vô hướng () của hai vectơ a và b nhân với cosin của góc α giữa hai vectơ đó
Các tính chất của tích vô hướng
Tính chất giao hoán
Tính chất phân phối
Một số tính chất mở rộng
Biểu thức tọa độ của tích vô hướng
Trong mặt phẳng:
Trong không gian 3 chiều: |
Trong toán học, một phép toán hai ngôi có tính giao hoán khi thay đổi thứ tự của hai toán hạng không làm thay đổi giá trị kết quả. Nó là tính chất cơ bản của nhiều phép toán hai ngôi và nhiều chứng minh toán học dựa trên tính chất này. Các ví dụ dễ thấy của tính chất là hay . Lý do cần nhận biết tính giao hoán là bởi có những phép toán như phép chia và phép trừ không có nó (lấy ví dụ, ); các phép toán đó không có tính giao hoán, nên thường được gọi là phép toán không giao hoán. Bởi ý tưởng rằng các phép toán đơn giản như phép nhân và phép cộng của số thực luôn có tính giao hoán, tính giao hoán thường được mặc định trước trong rất nhiều năm. Do đó, phải tới thế kỷ 19 khi toán học đang được chuẩn hoá tính chất này mới có cái tên riêng. Có một tính chất tương tự dành cho quan hệ hai ngôi; một quan hệ hai ngôi được gọi là đối xứng nếu quan hệ đúng bất kể thứ tự toán hạng trong đó; ví dụ, quan hệ bằng nhau đối xứng là vì hai đối tượng toán học bằng nhau sẽ bằng nhau bất kể thứ tự của nó.
Định nghĩa
Phép toán hai ngôi trên tập S được gọi là giao hoán nếu
Phép toán không thoả mãn tính chất trên được gọi là phép toán không giao hoán.
Có thể nói giao hoán với hay và giao hoán dưới phép toán nếu
Nói cách khác, phép toán hai ngôi có tính giao hoán khi mọi cặp phần tử giao hoán dưới phép toán đó.
Lưu ý
Tính giao hoán chỉ cho phép thứ tự toán hạng có thể thay đổi trong một cặp phần tử đang tính. Ta chỉ được phép thay đổi tuỳ ý thứ tự các toán hạng trong các biểu thức có nhiều hơn hai toán hạng khi phép toán hai ngôi đang xét vừa có tính kết hợp vừa có tính giao hoán. Thật vậy, giả sử trong biểu thức a * b * c, ta muốn nhân a với c rồi mới nhân b. Thứ tự thực hiện phép toán như vậy không thể làm được bởi
và
Các ví dụ
Phép toán giao hoán
Phép cộng và phép nhân có tính giao hoán trong gần như mọi hệ thống số, cụ thể là trong số tự nhiên, số nguyên, số hữu tỉ, số thực và số phức. Tính chất này đúng trong tất cả các trường.
Phép cộng trong mọi không gian vectơ và trong mọi đại số.
Phép hợp và giao có tính giao hoán trên các tập hợp.
"Hội" và "tuyển" là hai phép toán logic có tính giao hoán.
Phép toán không giao hoán
Một số phép toán không giao hoán:
Phép chia, phép trừ và phép mũ
Phép chia không giao hoán, bởi .
Phép trừ không giao hoán bởi . Tuy nhiên ta có thể gọi nó có tính phản giao hoán, bởi .
Phép mũ không giao hoán bởi .
Hàm chân lý
Một số hàm chân lý không có tính giao hoán, bởi bảng chân lý cho các hàm đó thay đổi khi ta thay đổi thứ tự toán hạng. Lấy ví dụ, bảng chân lý cho và là
Hợp các hàm tuyến tính
Phép hợp các hàm tuyến tính từ các số thực sang số thực gần như luôn không giao hoán. Lấy ví dụ, đặt và . Khi đó
và
Điều này cũng cho các biển đổi tuyến tính và biến đổi affin từ một không gian vectơ tới chính nó (xem biểu diễn ma trận bên dưới).
Phép nhân ma trận
Phép nhân các ma trận vuông gần như luôn không giao hoán, lấy ví dụ:
Tích vectơ
Tích vectơ của hai vectơ trong không gian ba chiều có tính phản giao hoán; tức là b × a = −(a × b).
Lịch sử và từ nguyên học
Các bản ghi lại sử dụng tính giao hoán đã có từ thời cổ đại. Người Ai Cập sử dụng tính giao hoán của phép nhân để đơn giản hoá các tích trong tính toán. Euclid được biết đã mặc định tính chất giao hoán của phép nhân trong cuốn Elements của ông. Sử dụng tính chất này theo cách chuẩn tắc bất đầu vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, khi các nhà toán học bắt đầu nghiên cứu lý thuyết của các hàm số. Nay tính giao hoán được biết rộng rãi và được sử dụng trong đa số các nhánh của toán học.
Từ commutative (nghĩa là có giao hoán) được viết lần đầu trong hồi ký năm 1814 của François Servois, Bài viết sử dụng từ commutatives khi mô tả các hàm số có tính giao hoán. Từ này là kết hợp của từ commuter nghĩa là "để thay hoặc đổi" và hậu tố -ative nghĩa là "dẫn tới" nên toàn bộ từ có nghĩa "dẫn tới thay hoặc đổi". Thuật ngữ này xuất hiện trong tiếng Anh vào năm 1838 và trong mục của Duncan Farquharson Gregory với tiêu đề "Trên các tính chất tự nhiên của đại số ký hiệu", sau đó xuất bản vào năm 1840 trong các kỷ yếu của hiệp hội hoàng gia xứ Edinburgh.
Logic mệnh đề
Quy tắc thay
Trong logic mệnh đề, Giao hoán, hay tính giao hoán thường nhắc tới hai quy tắc thay hợp lệ. Hay quy tắc cho phép ta chuyển vị các biến mệnh đề trong các công thức mệnh đề trong bài chứng minh logic. Các quy tắc thay như sau
và
trong đó "" là ký hiệu metalogic biểu diễn "có thể thay trong bài chứng minh với".
Liên kết logic mệnh đề
Tính giao hoán là tính chất của một số liên kết logic của logic mệnh đề. Các tương đương logic sau là ví dụ của các liên kết có tính chất giao hoán.
Giao hoán của phép hội
Giao hoán của phép tuyển
Giao hoán của phép kéo theo (hay còn gọi là phép kéo theo, hoặc là luật hoán vị)
Giao hoán của tương đương (hay còn gọi là luật tương đương)
Lý thuyết tập hợp
Trong lý thuyết nhóm và lý thuyết tập hợp, nhiều cấu trúc đại số được gọi là giao hoán khi phép toán của nó thoả mãn tính chất giao hoán. Trong các nhánh cao hơn của toán học như giải tích hay đại số tuyến tính thì tính giao hoán của phép cộng và phép nhân trên tập số thực và số phức thường được mặc định trước không nhắc đến trong các bài chứng minh.
Giao hoán trong các cấu trúc toán học
Nửa nhóm giao hoán là tập đi kèm phép toán đóng, giao hoán và kết hợp.
Nếu nửa nhóm trên có thêm phần tử đơn vị, thì ta có monoid giao hoán
Nhóm Abel, hay nhóm giao hoán là nhóm mà phép toán nhóm có tính giao hoán.
Vành giao hoán là vành mà phép nhân có tính giao hoán. (phép cộng trong vành luôn có tính giao hoán.)
Trong trường, cả hai phép cộng và nhân đều có tính giao hoán.
Các tính chất có liên quan
Tính kết hợp
Tính kết hợp có quan hệ gần gũi với tính giao hoán. Tính kết hợp trong biểu thức chứa hai hay nhiều hơn lần xuất hiện của cùng một phép toán phát biểu rằng thứ tự thực hiện phép toán không thay đổi kết quả cuối miễn là thứ tự các toán hạng không thay đổi. Ngược lại tính giao hoán phát biểu rằng thay đổi thứ tự các toán hạng khi tính trên một cặp sẽ không làm thay đổi kết quả cuối.
Các phép toán giao hoán thường thì sẽ cũng có tính kết hợp. Song, tính giao hoán không suy ra tính kết hợp. Một ví dụ phản chứng là hàm số sau
Hàm số này giao hoán (đổi x và y không thay đổi kết quả), nhưng nó không có tính kết hợp (bởi lấy ví dụ như nhưng ). Nhiều các ví dụ khác có thể tìm thấy trong các magma giao hoán không kết hợp. Ngược lại, tính kết hợp cũng không suy ra tính giao hoán. Lấy ví dụ, phép nhân ma trận luôn kết hợp nhưng chưa chắc đã giao hoán.
Tính phân phối
Tính đối xứng
Một số dạng của đối xứng có thể liên hệ trực tiếp với tính giao hoán. Khi phép toán hai ngôi được viết thành hàm nhị phân thì hàm số đó được gọi là hàm đối xứng, và đồ thị của nó trong không gian ba chiều đối xứng qua mặt phẳng . Ví dụ nếu hàm định nghĩa là thì là hàm đối xứng.
Trong đại số quan hệ, quan hệ đối xứng tương tự với tính giao hoán, nghĩa là nếu quan hệ R đối xứng thì .
Các toán tử không giao hoán trong cơ học lượng tử
Trong phần cơ học lượng tử viết bởi Schrödinger, các biến vật lý được thay bằng các toán tử tuyến tính như (nghĩa là nhân bởi ), và . Hai toán tử này không giao hoán khi xem kết quả hợp của chúng và (cũng được gọi là tích các toán tử) trên hàm sóng một chiều :
Theo nguyên lý bất định của Heisenberg, nếu hai toán tử biểu diễn cặp phần tử không giao hoán nhau thì cặp hai phần tử đó bù nhau, nghĩa là chúng không thể đồng thời đo được hay biết được chính xác. Lấy ví dụ, vị trí và mô men tuyến tính trong hướng của một hạt được biểu diễn bởi và , tương ứng (trong đó là hằng số Planck đã rút gọn). Ví dụ này tương tự ví dụ ngay trên nhưng thay vào đó là , do đó các toán tử không giao hoán, vào theo vật lý thì có nghĩa là vị trí và mô men tuyến tính theo một hướng đã cho sẽ bù nhau. |
Thực vật hạt trần hay thực vật khỏa tử (Gymnospermatophyta) là một nhóm thực vật có hạt chứa các hạt trên các cấu trúc tương tự như hình nón (còn gọi là quả nón, mặc dù chúng không phải là quả thực thụ) chứ không phải bên trong quả như thực vật hạt kín. Thuật ngữ gymnospermae có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp gumnospermos, được dịch thành "các hạt trần". Tên gọi này chỉ ra rằng các hạt không được hình thành trong các noãn hay bên trong quả, như ở thực vật hạt kín, mà được tìm thấy trên các vảy bắc của quả nón hoặc các cấu trúc tương tự.
Việc sản xuất hạt phân biệt thực vật hạt trần (cùng với thực vật hạt kín) với các thành viên khác của nhóm thực vật có mạch. Vì thế cùng với thực vật hạt kín, chúng tạo ra phân nhóm thực vật có hạt trong thực vật có mạch.
Thực vật hạt trần là dị bào tử, chúng tạo ra các tiểu bào tử được phát triển thành các hạt phấn hoa và các đại bào tử được giữ lại trong noãn. Sau khi thụ phấn (kết hợp của tiểu bào tử và đại bào tử), thì phôi được tạo ra. Cùng với các tế bào khác đã cấu thành nên noãn, nó phát triển thành hạt. Hạt là thể bào tử ở trạng thái nghỉ.
Trong các hệ thống phân loại cũ, thực vật hạt trần (Gymnospermatophyta) được coi là một nhóm "tự nhiên". Tuy nhiên, các phát hiện hóa thạch đã chỉ ra rằng thực vật hạt kín đã tiến hóa từ tổ tiên là thực vật hạt trần, điều này làm cho thực vật hạt trần là một nhóm cận ngành nếu như tất cả các đơn vị phân loại đã tuyệt chủng được gộp chung vào. Các miêu tả phân nhánh học hiện đại chỉ chấp nhận các đơn vị phân loại là đơn ngành, có thể truy ngược được tổ tiên chung và bao gồm tất cả các hậu duệ của tổ tiên chung đó. Vì thế, trong khi thuật ngữ thực vật hạt trần vẫn còn được sử dụng rộng rãi cho các loài thực vật có hạt không phải là thực vật hạt kín, thì các loài thực vật đã từng được coi là thực vật hạt trần thông thường được sắp xếp lại trong 4 nhóm, mỗi nhóm này có cấp bậc tương đương với đơn vị ngành trong phạm vi giới thực vật. Các nhóm này là:
Pinophyta - Thông
Ginkgophyta - Bạch quả
Cycadophyta - Tuế
Gnetophyta - Gnetum (Dây gắm), Ephedra (Ma hoàng), Welwitschia (hai lá)
Liên quan đến các dạng thực vật hạt trần đang tồn tại, các nghiên cứu phát sinh loài ở cấp độ phân tử của các đơn vị phân loại đang tồn tại này chứa đựng sự mâu thuẫn với các bộ dữ liệu hình thái học liên quan tới việc chúng là nhóm đơn ngành hay cận ngành, trong mối tương quan với thực vật hạt kín. Vấn đề là nhóm dây gắm (Gnetophyta) có phải là một đơn vị phân loại có quan hệ chị-em với thực vật hạt kín hay không, hoặc chúng (các dạng dây gắm) có là đơn vị phân loại có quan hệ chị-em với (hoặc xếp lồng vào) các dạng thực vật hạt trần đang tồn tại khác hay không.
Vai trò
Cho gỗ tốt và thơm
Làm cảnh
Làm thực phẩm
Làm tinh dầu
Một số cây có ý nghĩa với khoa học
Trồng làm cảnh
Xuất khẩu
Đặc điểm
Đặc điểm chung là thực vật hạt trần cấp cao
Cơ quan sinh dưỡng phát triển: Thân gỗ cao, mọc tỏa nhiều cành, lá kim, cành con chứa từ 2-3 lá.
Trong thân có mạch dẫn hoàn thiện (Mạch Rây và Mạch Gỗ)
Sống ở nhiều môi trường
Cơ quan sinh sản là nón, nón đực: nhỏ màu vàng, mọc thành cụm, bé hơn nón cái, cấu tạo gồm trục nón, vay, túi phấn; Nón cái lớn hơn nón đực nhỏ màu xanh chín nâu, mọc riêng lẻ, cấu tạo gồm trục, vảy và tế bào sinh dục cái (Noãn)
Sinh sản bằng hạt trần nằm trên lá noãn dở. |
Kiểm tra không phá hủy hay kiểm tra không tổn hại (viết tắt theo tiếng Anh là NDT, Non-Destructive Testing), hay còn gọi là đánh giá không phá hủy (viết tắt theo tiếng Anh là NDA, Non-Destructive Evaluation), kiểm định không phá hủy (viết tắt theo tiếng Anh là NDI, Non-Destructive Inspection), hoặc dò khuyết tật là việc sử dụng các phương pháp vật lý để kiểm tra phát hiện các khuyết tật bên trong hoặc ở bề mặt vật kiểm mà không làm tổn hại đến khả năng sử dụng của chúng.
Kiểm tra không phá hủy dùng để phát hiện các khuyết tật như vết nứt, rỗ khí, ngậm xỉ, tách lớp, không ngấu, không thấu trong các mối hàn, kiểm tra ăm mòn của kim loại, tách lớp của vật liệu composite, đo độ cứng của vật liệu, kiểm tra độ ẩm của bê tông, đo bề dày vật liệu, xác định kích thước và định vị cốt thép trong bê tông v.v.
Kiểm tra không phá hủy cũng được dùng để xác định thành phần nguyên tố in-situ các khối vật liệu, ví dụ dùng kích hoạt neutron, mà không phải lấy mẫu như các phương pháp hóa.
Mục đích của dò khuyết tật
Mục đích của việc dò khuyết tật đối với công trình, thiết bị nhằm đánh giá tính chất vật liệu trước khi chúng bị hư hỏng, dựa vào các chỉ tiêu kỹ thuật quy định được công nhận hoặc biến dạng suy biến xác định qua nhiều năm, để bảo đảm đúng chất lượng sản phẩm và tính năng làm việc của công trình, thiết bị, và cũng nhằm khai thác hết khả năng của các kết cấu kỹ thuật. Hạn chế rủi ro hoặc các khuyết tật nhằm tăng cường tính toàn vẹn trong kinh doanh và tính an toàn trong xây lắp và tiết kiệm chi phí.
Phương pháp kiểm tra không phá hủy
Kiểm tra không phá hủy gồm rất nhiều phương pháp khác nhau, và thường được chia thành hai nhóm chính theo khả năng phát hiện khuyết tật của chúng, đó là:
Các phương pháp có khả năng phát hiện các khuyết tật nằm sâu bên trong (và trên bề mặt) của đối tượng kiểm tra:
Phương pháp chụp ảnh phóng xạ dùng film (Radiographic Testing - RT),
Phương pháp chụp ảnh phóng xạ kỹ thuật số (Digital Radiographic Testing - DR)
Phương pháp kiểm tra siêu âm (Ultrasonic Testing - UT).
Các phương pháp có khả năng phát hiện các khuyết tật bề mặt (và gần bề mặt)
Phương pháp kiểm tra thẩm thấu chất lỏng (Liquid Penetrant Testing - PT)
Phương pháp kiểm tra bột từ (Magnetic Particle Testing - MT)
Phương pháp kiểm tra dòng xoáy (Eddy Current Testing - ET)
Phương pháp chụp ảnh phóng xạ
Phương pháp chụp ảnh phóng xạ sử dụng ống phóng tia X (tương tự như đèn hình vô tuyến) hoặc nguồn phóng xạ phát ra chùm tia gamma chiếu qua vật cần kiểm tra. Khi đi qua vật, chùm tia phóng xạ bị suy yếu đi, mức độ suy giảm của chùm phụ thuộc vào loại vật liệu (nhẹ hay nặng) và chiều dày mà nó đi qua. Khi đi qua các vùng có khuyết tật, rỗ khí chẳng hạn, cường độ của chùm tia bị suy giảm ít hơn khi đi qua vùng không có khuyết tật. Nếu ta đặt tấm phim ở phía sau vật kiểm tra (tương tự như đặt phim X-quang sau lưng bệnh nhân khi chụp phổi) ta sẽ thấy trên ảnh chụp dược, có các vùng hình tròn đen sẫm hơn rất nhiều so với vùng xung quanh. Đó chính là hình chiếu của khuyết tật trên phim. Ta cũng có thể xác định được kích thước của khuyết tật qua ảnh chụp được.
Phương pháp chụp ảnh phóng xạ cho kết quả kiểm tra tin cậy, số liệu kiểm tra có thể lưu lại được. Tuy nhiên phương pháp này không cho ta biết về chiều sâu của khuyết tật. Phương pháp cũng có nguy cơ gây độc hại phóng xạ và khí thực hiện ở công trường thường làm giám đoạn công việc khác.
Phương pháp kiểm tra siêu âm
Phương pháp kiểm tra siêu âm sử dụng chùm sóng âm có tần số trên ngưỡng con người nghe được (siêu âm) đập vào vùng cần kiểm tra. Nếu không có khuyết tật, chùm siêu âm sẽ đi thẳng, còn nếu gặp khuyết tật, chùm siêu âm sẽ phản xạ trở lại, tương tự như tiếng vọng ta nghe được từ vách núi. Thiết bị siêu âm có thể giúp ta thấy được sóng âm phản hồi và từ đó có thể biết được khuyết tật năm ở đâu trong vật kiểm tra. Dựa vào mức độ mạnh yếu của chùm âm vọng, ta cũng có thể đánh giá được kích thước của khuyết tật.
Phương pháp siêu âm là một trong 5 phương pháp được ứng dụng rộng rãi để đo chiều dày vật liệu, đánh giá ăn mòn, phát hiện tách lớp và phát hiện khuyết tật trong mối hàn và các kết cấu kim loại và composite. Phương pháp cũng được sử dụng rộng rãi để đánh giá cường độ bê tông, khuyết tật (lỗ rồng, vết nứt trong bê tông. Ưu điểm nổi bật của phương pháp là nhanh, chính xác, thiết bị tương đối rẻ, và có thể cho ta biết cả chiều sâu của khuyết tật. Tuy nhiên, phương pháp cũng có nhiều hạn chế như bỏ sót nhiều khuyết tật có mặt phẳng định hướng song song với chùm siêu âm, kết quả kiểm tra phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng của kỹ thuật viên và số liệu không lưu trữ, kiểm chứng được.
Một kỹ thuật mới trong kiểm tra siêu âm là siêu âm phased array (hay PAUT), tạm dịch là siêu âm đầu dò dãy điều pha, siêu âm màu 3 chiều. Siêu âm phased array đã tạo nên cuộc cách mạng về chẩn đoán trong y học và giờ đây đang là một trong các phương pháp NDT được chấp nhận và sử dụng rông rãi ở các nước phát triển. Trong phương pháp kiểm tra siêu âm phased array thay vì sử dụng một đầu dò có một biến tử, góc và hình dạng chùm siêu âm phát ra được xác định bằng các nêm cố đinh, người ta sử dụng một đầu dò có tới hàng trăm biến tử nhỏ sắp xếp theo một dãy (array), các biến tử này phát ra các chùm siêu âm với các độ trễ (phased) theo một chương trình được định trước, các chùm siêu âm từ các biến tử giao thoa và tạo nên chùm siêu âm có các góc phát, tâm hội tụ, hình dáng, kiểu quét theo ý muốn. Như vậy trong kiểm tra siêu âm phased array, chùm siêu âm được điều khiểm bằng điện tử, chứ không phải bằng các nêm như phương pháp siêu âm thông thường. Kỹ thuật này sử dụng đầu dò gồm nhiều phần tử nhỏ độc lập với nhau đã mang lại cuộc cách mạng trong chẩn đoán siêu âm 3 chiều, 4 chiều trong y tế và giờ đây được sử dụng rộng rãi trong kiểm tra mối hàn và đánh giá ăn mòn. Kỹ thuật siêu âm Phased array cũng đang được coi là lựa chọn tốt để thay thế cho phương pháp chụp ảnh phóng xạ, nhờ khắc phục được các hạn chế của phương pháp chụp ảnh phóng xạ và siêu âm truyền thống, đặc biệt đối với các đường ống, bồn bể có chiều dày lớn (trên 50 mm).
Phương pháp thẩm thấu chất lỏng
Phương pháp thẩm thấu chất lỏng được dựa trên hiện tượng mao dẫn gồm các bước:
Làm sạch bề mặt vật kiểm, khi đó các chất bẩn sẽ được loại bỏ và không che lấp những khuyết tật hở ra bề mặt.
Xịt một lớp chất thẩm thấu lên bề mặt, lớp chất thẩm thấu này sẽ đi vào và nằm trong các khuyết tật hở bề mặt. Có hai loại chất thẩm thấu đó là chất thẩm thấu khả kiến (có màu nhìn thấy được dưới ánh sáng thường) và chất thẩm thấu huỳnh quang (chỉ nhìn thấy khi chiếu ánh sáng đen).
Chờ một thời gian để chất thẩm thấu đi sâu vào khuyết tật.
Làm sạch chất thấm dư trên bề mặt bằng chất tẩy rửa. Trong bước này không được xịt trực tiếp chất tẩy rửa lên bề mặt vật kiểm tránh trường hợp chất thẩm thấu trong khuyết tật cũng bị lau sạch.
Áp dụng chất hiện lên bề mặt vật kiểm. Chất hiện có tác dụng hút chất thẩm thấu đọng lại ở trong khuyết tật lên bề mặt vật kiểm nhờ hiện tượng mao dẫn ngược.
Dựa trên các hiển thị (nhuộm màu, hay dưới ánh sáng cực tím) thì người ta có thể phát hiện và đánh giá khuyết tật.
Sau khi đánh giá khuyết tật, ta sử dụng chất tẩy rửa làm sạch vật kiểm.
Phương pháp thẩm thấu lỏng chỉ có thể áp dụng để kiểm tra những khuyết tật thông ra bề mặt. Phương pháp có thể áp dụng cho tất cả các loại vật liệu trừ vật liệu xốp. Đây là một trong những phương pháp kiểm tra không phá hủy đơn giản, rẻ tiền và hiệu quả.
Phương pháp kiểm tra dòng xoáy
Phương pháp kiểm tra dòng xoáy (Eddy Current Testing - ET) được dựa trên hiệu ứng về cảm ứng điện từ. Nếu một vật dẫn điện đưa gần đến một cuộn dây có dòng điện xoay chiều chạy qua, bên trong vật dẫn này sẽ xuất hiện một dòng điện khép kín (eddy current), biến thiên. Dòng điện xoay chiều này mạnh hay yếu phụ thuộc vào vật dẫn kia có khuyết tật hay không có khuyết tật. Thiết bị dòng xoáy có thể đo được dòng điện xoay chiều này và từ đó cho ta biết trong vật kiểm tra có vết nứt hay không. Phương pháp này rất nhậy để phát hiện các vết nứt bề mặt và gần bề mặt trong các đối tượng làm bằng chất dẫn điện, như nhôm, đồng, titan vv. Phương pháp cũng có thể đánh giá được độ dẫn điện, đo được chiều dày lớp phủ, đánh giá ăn mòn. Phương pháp được ứng dụng rộng rãi trong ngành hàng không.
Trong các phương pháp NDT đã nêu trên, mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng, không phương pháp nào có thể thay thế được phương pháp nào. Ứng với mỗi trường hợp cụ thể mà ta lựa chọn những phương pháp kiểm tra phù hợp.
Ưu điểm của các phương pháp kiểm tra không phá hủy (NDT) so với các phương pháp phá hủy (DT).
NDT không làm ảnh hưởng đến khả năng sử dụng của vật kiểm sau này.
NDT có thể kiểm tra 100% vật kiểm, và đảm bảo 100% sản phẩm xuất xưởng đạt chất lượng.
Trong khi đó các phương pháp phá hủy lại có ưu điểm là cho kết quả trực tiếp, còn NDT chỉ cho được các kết quả gián tiếp (thông qua so sánh với mẫu chuẩn) mà thôi.
Trong chế tạo, khi áp dụng kiểm tra không phá hủy, ta có thể dễ dàng phát hiện những khuyết tật, từ đó có thể loại bổ các bán sản phẩm, tiệt kiệm chi phí, sửa chữa khắc phục sai sót.
Kiểm tra không phá hủy cũng được sử dụng rộng rãi để đánh giá độ toàn vẹn của các sản phẩm, công trình công nghiệp đang hoạt động. Nhờ sớm phát hiện được các hỏng hóc, kịp thời thay thế khắc phục, nên ta có tiết kiệm được chi phí sửa chữa, tránh được các thảm họa có thể xấy ra.
NDT còn là công cụ quan trọng trong nghiên cứa chế tạo vật liệu mới, tối ưu hóa các quy trình sản xuất, quy trình hàn thông quá các thử nghiệm, phát hiện các sai sót trong thiết kế, vật liệu, sảm phẩm.
Có thể nói, NDT là công cụ quan trọng để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp chế tạo, sản xuất. |
Trịnh Đình Dũng (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1956) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, XI, XII, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam (2016–2021). Ông cũng từng là Bộ trưởng Bộ Xây dựng (2011–2016), Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc (2004–2010).
Xuất thân
Ông sinh ngày 25 tháng 8 năm 1956, người làng Yên Nhân, xã Tiền Phong, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc, nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội.
Giáo dục
Từ năm 1970 đến 1973, học sinh Trường Phổ thông cấp 3 Thạnh Phú, huyện Mê Linh (nay là Trường Trung học Phổ thông Yên Lãng, Mê Linh).
1973 – 11 năm 1978: Sinh viên Trường Đại học Xây dựng.
Sự nghiệp
Tháng 12 năm 1978 – tháng 10 năm 1980: Tổ trưởng bộ môn tại Xí nghiệp Khảo sát Thiết kế xây dựng tỉnh Vĩnh Phú.
Tháng 11 năm 1980 – tháng 4 năm 1988: Xưởng trưởng thiết kế công trình, Xí nghiệp Khảo sát thiết kế xây dựng Vĩnh Phú.
Tháng 4 năm 1988 – tháng 10 năm 1992: Phó phòng rồi Trưởng phòng Tổ chức Lao động, Sở Xây dựng tỉnh Vĩnh Phú; học tiếng Nga tại trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và học lớp quản lý kinh tế Bộ Xây dựng.
Tháng 10 năm 1992 – tháng 12 năm 1996: Phó Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Vĩnh Phú.
Tháng 1 năm 1997 – tháng 11 năm 1999: Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh kiêm Chủ tịch Hội Kiến trúc sư tỉnh Vĩnh Phúc
Tháng 12 năm 1999 – tháng 9 năm 2001: Tỉnh ủy viên rồi Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Tháng 10 năm 2001 – 6 năm 2004: Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Đại biểu Quốc hội Khoá XI.
Tháng 7 năm 2004 – tháng 5 năm 2010: Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngày 25 tháng 4 năm 2006, Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; đại biểu Quốc hội Khoá XII, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Phúc.
Với quan điểm phát triển công nghiệp nhưng không làm bần cùng hoá nông dân, Vĩnh Phúc là tỉnh đầu tiên thực hiện chính sách cấp đất dịch vụ khi thu hồi đất để thực hiện dự án. Năm 2005, khi khảo sát việc thực hiện chính sách pháp luật về đất đai ở Vĩnh Phúc, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực đã khẳng định:" Áp dụng chính sách cấp đất cho dân làm dịch vụ khi thu hồi đất để phục vụ phát triển công nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc đã giúp cho Trung ương bài học giải phóng mặt bằng".
Hơn 13 năm giữ cương vị chủ chốt của tỉnh Vĩnh Phúc, ông Trịnh Đình Dũng đã đưa ra nhiều chính sách, quan điểm mới góp phần đưa Vĩnh Phúc từ một tỉnh nghèo trở thành một trong những tỉnh có tốc độ phát triển hàng đầu cả nước, đơn cử như:
– Giải quyết được các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và công bằng xã hội; Giữa phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân và phát triển công nghiệp, đô thị.
– Với quan điểm phải lấy công nghiệp làm nền tảng để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và dịch vụ; Giải quyết nhiều lao động để giảm lao động nông nghiệp và giảm nông dân. Tạo nguồn thu ngân sách lớn để đầu tư phát triển và hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Tháng 5 năm 2010 – tháng 8 năm 2011: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Ban cán sự đảng, Thứ trưởng Bộ Xây dựng
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1 năm 2011), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XIII (3 tháng 8 năm 2011) được Quốc hội phê chuẩn làm Bộ trưởng Bộ xây dựng
Ngày 26 tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông tiếp tục được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 12 nhiệm kì 2016–2021.
9 tháng 4 năm 2016: Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, ông được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ.
27 tháng 7 năm 2016, Tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa XIV, ông được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 7 tháng 4 năm 2021, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, ông được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ (2016 – 2021) theo đề nghị của Thủ tướng Phạm Minh Chính.
Ông có nhiệm vụ giúp Thủ tướng:
a) Giúp Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác:
– Công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thương mại
– Xuất nhập khẩu, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường.
– Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
– Chỉ đạo bảo đảm năng lượng và Tiết kiệm năng lượng.
– Các công trình trọng Điểm quốc gia, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản theo phân cấp của Luật đầu tư và Luật đầu tư công.
– Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất.
– Công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.
b) Giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
c) Làm nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các Dự án trọng Điểm về dầu khí; Trưởng Ban Chỉ đạo Tổ chức Điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng Điểm; Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản; Chủ tịch các Hội đồng quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo lĩnh vực liên quan.
d) Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ.
Quan điểm
Phát biểu với báo giới sau khi nhận chức:
"Có 3 nhiệm vụ trọng tâm mà tôi phải tập trung. Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư xây dựng nhằm sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực, đặc biệt là tài nguyên đất đai, vốn đầu tư xây dựng và nguồn nhân lực trong quá trình đầu tư xây dựng. Với trách nhiệm được giao, Bộ sẽ tập trung rà soát các quy định liên quan đến đầu tư xây dựng để trực tiếp hoặc phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Quốc hội trong việc soạn thảo, sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư xây dựng.Thứ hai, tập trung nhiều hơn đến lĩnh vực phát triển đô thị. Thứ ba, chú trọng vào lĩnh vực phát triển nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhà ở của người dân thuộc mọi đối tượng, chú trọng hướng tới các đối tượng ít có điều kiện tiếp cận với nhà ở giá cao".
"Thời gian tới chúng ta cần phát triển mạnh nhà ở xã hội. Đây là nhà dành cho những người không có điều kiện tiếp cận với nhà ở thị trường hàng hóa, như đội ngũ công chức, viên chức, người nghèo ở đô thị, công nhân các khu công nghiệp, sinh viên, người không có thu nhập. Nhà ở xã hội sẽ phân ra nhiều nhóm, gồm căn hộ chung cư bán giá rẻ, căn hộ cho thuê và trả góp giá rẻ, căn hộ cho thuê giá rẻ và nhà cho những người không có tiền để thuê (như người tàn tật, người cô đơn không nơi nương tựa, người mất sức lao động không có thu nhập…). Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có thu nhập trung bình là những đối tượng có thể mua hoặc thuê nhà giá rẻ".
Đánh giá về phát biểu của Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng với báo chí sau khi nhậm chức, trong chương trình "sự kiện bình luận" phát trực tiếp trên VTV1 ngày 20 tháng 8 năm 2011, GS.TS Trần Ngọc Đường – Viện nghiên cứu Lập pháp khẳng định: "Đó là người có tư duy mới".
Giữ lời hứa với dân và báo giới sau khi nhậm chức, Bộ trưởng đã dành trí lực vào việc soạn thảo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Từ đề xuất của Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược này bằng Quyết định số 2127 ngày 30 tháng 11 năm 2011. Đây là lần đầu tiên chúng ta có Chiến lược phát triển nhà ở kể từ khi đất nước giành được độc lập, là một bước cụ thể để hiện thực hóa đường lối của Đảng về phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó dùng phương tiện thị trường để thực hiện các mục tiêu xã hội chủ nghĩa – đó là mục tiêu vì con người, mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Một điểm mới nữa là Chiến lược đã minh bạch và cụ thể hoá chính sách cho từng nhóm đối tượng (8 nhóm) khó khăn về nhà ở cần được Nhà nước hỗ trợ. Ngoài Chiến lược phát triển nhà ở, Bộ trưởng còn đưa ra nhiều quan điểm mới góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển đúng quy luật cung – cầu, có sự kiểm soát của Nhà nước; ngăn chặn tình trạng phát triển đô thị thiếu quy hoạch, kế hoạch, tự phát, không đồng bộ, thiếu kết nối hạ tầng, lãng phí tài nguyên đất đai và vốn đầu tư của xã hội;...
Giới khoa học và chuyên gia kinh tế đánh giá cao những tư tưởng mới của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, còn báo chí thì bình chọn đó là chính sách gây ảnh hưởng lớn đến người dân.
Quan điểm xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Xây dựng dựa trên nguyên tắc: Tránh chống chéo, không bỏ trống, đúng đối tượng và tiết kiệm nguồn lực.
Các doanh nghiệp sử dụng lao động phải coi việc đầu tư nhà ở công nhân là nhân tố tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đảm bảo doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, phát triển bền vững và là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đồng thời sẽ có biện pháp để các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản tham gia mạnh mẽ vào phát triển nhà ở xã hội đặc biệt là nhà ở công nhân.
Phải có cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển nhà ở phi hàng hóa để giải quyết chỗ ở cho các nhóm đối tượng chính sách xã hội gặp khó khăn về chỗ ở nhưng không đủ khả năng thanh toán theo cơ chế thị trường, gồm: Người có công với cách mạng; hộ nghèo khu vực nông thôn; người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị; cán bộ, công chức, viên chức, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp; công nhân lao động tại các khu công nghiệp; sinh viên, học sinh các trường đại học,cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
Phát triển được loại hình nhà ở phi hàng hóa (nhà ở xã hội) là con đường gần nhất để đi đến mục tiêu mọi người dân đều có quyền có chỗ ở.
"Thẳng thắn nhìn nhận, cởi mởi trao đổi và chia sẻ, trước những câu hỏi của nhiều doanh nghiệp và báo chí" – đó là nhận xét của báo chí sau khi Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng hoàn thành việc trả lời trực tiếp gần 90 câu hỏi "chất vấn" của doanh nghiệp và báo chí tại Hội nghị doanh nghiệp ngành Xây dựng năm 2011.
Tập trung quản lý, kiểm soát, phát triển bền vững để người dân sống hạnh phúc hơn, yên tâm hơn.
Sửa Luật Xây dựng để kiểm soát, để giữ tiền cho Nhà nước, cho nhân dân. Luật Xây dựng không phải chỉ làm cho ngành xây dựng mà làm cho đất nước.
Luật Xây dựng (sửa đổi) với đổi mới căn bản là phân định các dự án sử dụng các nguồn vốn khác nhau thì có phương thức, nội dung và phạm vi quản lý khác nhau. Trong đó, đối với các dự án có sử dụng vốn nhà nước thì các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành sẽ quản lý chặt chẽ theo nguyên tắc "tiền kiểm" thông qua việc thẩm định dự án (mà nội dung trọng tâm, cốt lõi là thiết kế cơ sở), thẩm định thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công và dự toán xây dựng, cũng như thực hiện kiểm tra công tác nghiệm thu trước khi đưa công trình vào khai thác sử dụng, nhằm nâng cao chất lượng công trình, chống thất thoát, lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Luật Xây dựng (sửa đổi) cũng đưa ra các quy định để đổi mới mô hình tổ chức quản lý dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước, theo đó thay vì tổ chức các ban quản lý theo từng dự án đơn lẻ như hiện nay, thì sẽ thành lập những ban quản lý chuyên nghiệp theo khu vực hoặc theo chuyên ngành, thực hiện quản lý nhiều dự án, đây là một giải pháp nhằm nâng cao năng lực và tính chuyên nghiệp của ban quản lý, qua đó góp phần bảo đảm chất lượng, tiến độ và hiệu quả của dự án đầu tư.
Chú thích |
Sân bay quốc tế Cam Ranh là sân bay dân sự chính phục vụ cho tỉnh Khánh Hòa và các tỉnh Cực Nam Trung Bộ. Đến thời điểm năm 2012, sân bay này đã đạt lượng khách thông qua 1 triệu lượt/năm và 4.858.362 lượt khách vào năm 2016 và 8,5 triệu lượt khách năm 2018. Dự kiến sản lượng khách đạt 10 triệu lượt trong năm 2019 Sân bay có mã IATA: CXR (theo tên của thành phố Cam Ranh) và mã ICAO: VVCR
Đây là sân bay duy nhất tại Việt Nam có số lượng khách quốc tế cao hơn khách nội địa, năm 2018 có lượng khách quốc tế chiếm đến 70% tổng lượng khách thông qua Sân bay này có lượng khách thông qua nhiều thứ 4 tại Việt Nam.
Vị trí địa lý, thông số kỹ thuật
Sân bay Cam Ranh có tọa độ 11°59′53″N, 109°13′10″E, và tọa lạc cách Nha Trang 35 km.
Thông số kỹ thuật
Đường cất hạ cánh (Runway): sân bay có 2 đường băng để cất hạ cánh, dài: 3.048m, rộng 45m.
Đường băng số 1: 02L/20R
Đường băng số 2: 02R/20L (khai thác từ ngày 10/10/2019)
Sân đỗ tàu bay (Apron): 33 vị trí đỗ tàu bay.
Tiếp nhận các loại máy bay B787, B777, B767, B737, A350, A320, A321, ATR-72 và tương đương.
Cấp sân bay: 4E
Sân bay dùng chung quân sự và hàng không dân dụng.
Nhà ga hành khách (Passenger Terminal): Sân bay Quốc tế Cam Ranh có 2 nhà ga riêng biệt để phục vụ các chuyến bay nội địa và quốc tế (13.995m2).
Nhà ga T1: Ga nội địa
Nhà ga T2: Ga quốc tế (khai thác từ tháng 6/2018)
Lịch sử
Sân bay Cam Ranh do quân đội Hoa Kỳ xây dựng và được sử dụng là căn cứ Không quân Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh. Năm 1973, sau Hiệp Định Paris, Hoa Kỳ trao căn cứ này lại cho Không lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau 1975, sân bay Cam Ranh tiếp tục được sử dụng vào mục đích quân sự cho tới năm 2004. Ngày 19 tháng 5 năm 2004, sân bay Cam Ranh đón chuyến bay dân sự đầu tiên, bay từ Hà Nội thay thế cho sân bay Nha Trang nằm trong nội thị thành phố bị hạn chế về diện tích và vì lý do an toàn.
Ngày 16 tháng 8 năm 2007, Văn phòng chính phủ ra quyết định nâng cấp cảng hàng không Cam Ranh trở thành cảng hàng không Quốc tế. Tháng 12 năm 2009, bằng việc đưa vào sử dụng nhà ga hàng không mới, hiện đại, quy mô lớn bậc nhất miền Trung, sân bay Cam Ranh chính thức trở thành Cảng hàng không quốc tế thứ ba của khu vực này.. Ngay trong buổi sáng công bố quyết định trở thành cảng hàng không quốc tế, sân bay đã đón chuyến bay đầu tiên do Hãng Hàng không Silk Air Singapore thực hiện bay thẳng từ Singapore đến Việt Nam bằng máy bay Airbus A319.
Quy định về phòng chống Covid-19
Ngày 10 và 11/5/2021, sân bay phối hợp với Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Khánh Hòa, Trung tâm Y tế Cam Ranh tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho toàn thể cán bộ nhân viên, người lao động tại Cảng.
Ngày 24/6/2021, tỉnh Khánh Hoà yêu cầu mỗi hành khách di chuyển bằng đường hàng không phải thực hiện khai báo y tế riêng biệt, không chấp nhận tình trạng khai báo theo nhóm hoặc hộ gia đình. Bên cạnh đó, trường hợp khách được yêu cầu quay trở về địa phương nhưng tại thời điểm yêu cầu chưa có chuyến bay, trong trường hợp Cảng không bố trí được địa điểm cách ly tạm thời và hành khách chấp thuận, Trung tâm Kiểm dịch y tế sẽ tạo điều kiện cho khách cách ly tạm thời (từ 1-2 ngày) tại Trạm Kiểm dịch y tế quốc tế cho tới khi có chuyến bay lại.
Ngày 03/7/2021, người đến, về Khánh Hòa từ các tỉnh, thành phố đang có ca lây nhiễm trong cộng đồng theo hướng dẫn của Ngành Y tế (Trung tâm kiểm soát bệnh tật Khánh Hòa) phải có giấy xác nhận kết quả xét nghiệm RT-PCR âm tính từ 3-5 ngày trước khi đến Khánh Hòa.
Ngày 6/7/2021, người đến về Khánh Hoà phải có giấy xét nghiệm Covid-19 âm tính từ 3-5 ngày trước ngày khởi hành. Đồng thời. Từ 12h00 ngày 6/7/2021, tỉnh Khánh Hoà tiến hành áp dụng việc kiểm tra giấy xét nghiệm đối với tất cả hành khách đi từ sân bay Tân Sơn Nhất đến sân bay quốc tế Cam Ranh.
Ngày 4 và 6/8/2021, sân bay Cam Ranh phối hợp với Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Khánh Hòa, Trung tâm y tế thành phố Cam Ranh triển khai kế hoạch tiêm mũi 2 vaccine phòng Covid-19 cho hơn 360 cán bộ nhân viên, người lao động của Cảng.
Ngày 9/12/2021, Tổ chức Hội đồng sân bay quốc tế - Airports Council International (ACI) phê duyệt gia hạn chứng nhận Airport Health Accreditation (AHA) có giá trị 12 tháng, kể từ ngày 17/12/2021 đến ngày 17/12/2022.
Các tuyến bay và các hãng hàng không hoạt động
Các tuyến bay hiện tại
<noinclude>
Năng lực phục vụ
Năm 2007, sân bay này phục vụ khoảng 500.000 khách, xếp thứ 5 trong các sân bay tại Việt Nam. Từ tháng 6 năm 2008, sân bay có thể phục vụ các chuyến bay ban đêm .
Năm 2008, sân bay này đã phục vụ 683.000 lượt khách, vượt Sân bay Phú Bài để thành sân bay lớn thứ 8 Việt Nam tính theo số lượng khách thông qua. Tỷ lệ tăng của số lượt khách thông qua vào năm 2007 là 36,8%, của năm 2008 là 36,3% so với năm trước, là sân bay có tốc độ tăng trưởng lượng hành khách cao nhất tại Việt Nam.
Cuối năm 2009, nhà ga mới hoàn thành,có thể phục vụ 800 hành khách trong giờ cao điểm. Dự kiến sân bay này sẽ đạt 2,5 triệu lượt/năm vào năm 2015 .
Với diện tích đất 750 ha, Sân bay quốc tế Cam Ranh có diện tích rộng hơn Sân bay quốc tế Nội Bài.
Năm 2012 sân bay đón 1,2 triệu lượt khách thông quan (đứng thứ 4 Việt Nam) trong đó có hơn 1000 chuyến bay quốc tế với hơn 200.000 hành khách làm thủ tục xuất nhập cảnh tại sân bay. Hãng hàng không chuyển chở nhiều hành khách nhất tại sân bay Cam Ranh là Vietnam Airlines với gần 826,500 lượt khách lên xuống trong năm 2012 chiếm khoảng 2/3 lượt khách thông quan tại sân bay.
Đền năm 2013 Cam Ranh đón 1,509,212 lượt khách tiếp tục giữ vị trí thứ 4 Việt Nam. Trong đó khách từ các đường bay quốc nội là 1,143,015 lượt (chiếm 75.74%) và khách từ các đường bay quốc tế là 366,197 chiếm 24.26%.
Vào ngày 30 tháng 6 năm 2018, Nhà ga hành khách quốc tế Cam Ranh (Nhà ga T2) do Công ty Cổ phần Nhà ga Quốc tế Cam Ranh (CRTC) đầu tư và khai thác đã chính thức khánh thành, kịp thời đáp ứng nhu cầu đi lại ngày càng cao của người dân tỉnh Khánh Hòa, khu vực miền Nam Trung Bộ. Trong năm 2018, Nhà ga T2 đã phục vụ trên 5,21 triệu lượt khách quốc tế (tăng 42,8% so với năm 2017) tương ứng với 26.700 lượt bay quốc tế (tăng 43,4% so với năm 2017).
Lúc 10h sáng ngày 18/12/2019, chuyến bay mang số hiệu VJ837 xuất phát từ sân bay Incheon (Seoul, Hàn Quốc) đã hạ cánh xuống sân bay Cam Ranh (Nha Trang, Khánh Hòa) mang theo hành khách quốc tế thứ 3,5 triệu và khách thứ 10 triệu thông qua Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh năm 2019.
Định hướng phát triển
Sân bay Cam Ranh có công suất thiết kế chỉ 1,5 triệu lượt khách/năm nhưng 9 tháng trong năm 2014, tổng lượt khách đến Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh đã lên đến 1,58 triệu. Tình trạng trên khiến sân bay luôn phải hoạt động trong tình trạng quá tải. Không chỉ quá tải về nhà ga, đường băng duy nhất của sân bay được xây dựng cách đây 40 năm cũng chưa một lần được sửa chữa và đã xuống cấp trầm trọng đòi hỏi phải tạm dừng hoạt động để sửa chữa, hoặc phải xây dựng thêm đường băng mới.
Đầu tháng 11 năm 2014, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải ra văn bản đồng ý để tỉnh Khánh Hòa huy động các nguồn vốn của tỉnh thực hiện Dự án đầu tư xây dựng đường cất, hạ cánh số 2 của Dự án Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh
Ngày 15 tháng 3 năm 2015, UBND tỉnh Khánh Hòa tổ chức lễ khởi công xây dựng đường băng số 2, sân bay quốc tế Cam Ranh. Đường băng dài 3.048 m, rộng 45 m, đạt tiêu chuẩn Cảng hàng không cấp 4E, tức là có thể tiếp nhận các loại máy bay chở khách cỡ lớn hiện nay như A320, A321, B767, B777. Dự kiến đường băng số 2 sẽ được đưa vào sử dụng vào năm 2018. (Bay hiệu chuẩn )
Với tình trạng quá tải hiện nay ở sân bay Cam Ranh, Tổng công ty Cảng Hàng không Việt Nam trong thông cáo đấu giá cổ phần đã lên kế hoạch đầu tư cho dự án nâng cấp nhà ga hiện tại lên công suất 2,5 triệu lượt khách/năm với tổng mức đầu tư là 80 tỷ đồng.
Song song với việc nâng cấp nhà ga hiện hữu là đầu tư góp vốn trong dự án xây mới nhà ga hành khách quốc tế với tổng mức đầu tư toàn dự án dự kiến là 2000 tỷ đồng, công suất thiết kế của nhà ga mới là 2 triệu lượt khách/ năm. Dự kiến nhà ga hành khách mới sẽ khởi công vào quý II năm 2016 và đưa vào sử dụng vào năm 2018. Kể từ thời điểm đó, nhà ga hiện hữu chỉ phục vụ cho các chuyến bay quốc nội.
Nhà ga T2 (khách quốc tế) được dự kiến khởi công vào tháng 9 năm 2016, hoàn thành vào tháng 12 năm 2017, với phương án thiết kế có thể phục vụ 4 triệu khách/năm đến năm 2025, công suất tối đa 6 triệu khách/năm và có thể nâng cấp lên 8 triệu khách/năm, đồng thời dễ dàng kết nối với nhà ga T1 (khách nội địa).
Sáng 30-6-2018, Công ty cồ phần nhà ga quốc tế Cam Ranh (CRTC) tổ chức lễ khánh thành, đưa vào hoạt động nhà ga quốc tế Cam Ranh T2. Sau 19 tháng xây dựng, nhà ga quốc tế Cam Ranh đã chính thức đi vào hoạt động. Đây là nhà ga được đầu tư theo tiêu chuẩn 4 sao quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Nhà ga quốc tế Cam Ranh T2 có kiến trúc độc đáo, lấy cảm hứng từ Tổ chim yến, một sản phẩm đặc trưng của tỉnh Khánh Hòa. Với tổng diện tích sử dụng 50.500 mét vuông, nhà ga hành khách quốc tế - Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh được trang bị các hệ thống an ninh, soi chiếu, hệ thống kiểm soát, phòng cháy chữa cháy và tiện ích trợ giúp khách hàng hiện đại, đạt tiêu chuẩn 4 sao được nhập khẩu từ các nhà cung cấp chuyên dụng, trang thiết bị cho hàng không từ Đức, Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha. Dự kiến, nhà ga sẽ đón tiếp 2,4 triệu đến 4,8 triệu lượt hành khách quốc tế vào cuối năm 2018; và sau khi tiến hành giai đoạn 1B lắp đặt bổ sung thiết bị đầy đủ trong nửa cuối năm 2018, nhà ga sẽ đạt công suất phục vụ 6-8 triệu khách/năm. Điều đặc biệt là nhà ga được đầu tư và áp dụng nhiều máy móc, công nghệ thông minh trong việc điều hành quản lý sân bay không hề thua kém các sân bay hàng đầu trên thế giới.
Thống kê
Số liệu thống kê lượng khách sân bay quốc tế Cam Ranh
Sân bay Quốc tế Cam Ranh đang tìm kiếm mở rộng mạng lưới đường bay mới kết nối Philippines với Nha Trang - Cam Ranh (Khánh Hòa)
Các giải thưởng đạt được
Giải thưởng Kiến trúc Quốc gia 2018
Hội đồng giải thưởng đã tiến hành chấm giải từ ngày 18-19/01/19, tại trụ sở Hội KTS Việt Nam. Ngày 25/03/2019, hội đồng Giải thưởng Kiến trúc Quốc gia 2018 (GTKTQG) đã công bố kết quả, trong đó có 34 tác phẩm xuất sắc gồm 1 giải Vàng, 11 giải Bạc và 22 giải Đồng. Nhà ga quốc tế Cam Ranh T2 đạt được giải bạc.
Nhà ga hành khách quốc tế cảng hàng không Cam Ranh (Rohani Binte Baharin) | Hạng mục Tác phẩm xuất sắc tại Việt Nam của KTS nước ngoài
Văn phòng: CPG Consultants PTE LTD – Airport Division
Tác giả: Rohani Binte Baharin
Top 5 giải thưởng Routes Asia 2019 Marketing Awards Hội nghị Routes Asia 2019 được tổ chức từ ngày 10 – 12/3/2019 tại Cebu, Philippines. Nhà ga quốc tế Cam Ranh đã vinh dự lọt TOP 5 giải thưởng Routes Asia 2019 Marketing Awards. Routes Asia 2019 Marketing Awards. Đây là giải thưởng dành cho sân bay có hoạt động quảng bá truyền thông xuất sắc nhất 2019 đã diễn ra. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có mặt trong giải thưởng này. Một giải thưởng xuất sắc cho một nhà ga chỉ mới đi vào vận hành hơn 8 tháng.
Giải thưởng Routes Asia 2019 Marketing Awards mà Nhà ga quốc tế Cam Ranh vinh dự nhận được ở hạng mục dành cho Sân bay có công suất phục vụ từ 4 – 20 triệu hành khách/năm cùng với các sân bay khác như: Sân bay Adelaide (Úc), Sân bay Chubu Centrair (Nhật Bản) Sân bay Christchurch (Newzeland), Sân bay Perth (Úc).
Top 2 Nhà ga quốc tế được sự hài lòng của khách hàng'''
Ngày 11/3/2019, Cục Hàng không cũng công bố khảo sát từ 25.000 phiếu với 25 tiêu chí để đánh giá về sự hài lòng của hành khách tại 6 cảng hàng không là Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Quốc và Cát Bi.
Nhà ga quốc tế Cam Ranh theo chuẩn 4 sao, được bình chọn thứ 2 top nhà ga được hành khách hài lòng nhất.
Hình ảnh
Hình ảnh sân bay Cam Ranh
Hình ảnh nhà ga T1 (quốc nội) và T2 (quốc tế)
Chú thích |
Công vụ Tông đồ (theo cách gọi của Công giáo) hoặc Công vụ các Sứ đồ (theo cách gọi của Tin lành) là một trong các sách trong Thánh Kinh của Kitô giáo.
Những câu đầu trong sách Công vụ đề cập đến "sách thứ nhất" của tác giả, thường được cho là sách Phúc Âm Lu-ca. Các tác phẩm cổ được chia thành "sách" cũng như thành "chương", và rất có thể "sách" và "chương" này có nghĩa là một tác phẩm gồm có hai phần. Sách Công vụ và Phúc Âm Lu-ca tạo nên một tác phẩm, có thể được tạm gọi là tác phẩm "Lu-ca - Công vụ", của cùng một tác giả ẩn danh, được cho là đã xuất hiện vào khoảng 80–90 Công nguyên, mặc dù một số nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng tác phẩm xuất hiện trễ hơn vào 90–110 Công nguyên. Phần đầu tiên, Phúc Âm Lu-ca, kể về việc Thiên Chúa đã hoàn thành kế hoạch cứu rỗi thế giới của Ngài qua cuộc đời, sự hy sinh và phục sinh của Chúa Giê-su người Nazareth, tức là Đấng Cứu Thế đã được hứa cho người Do Thái từ xa xưa. Phần thứ hai, Công vụ, tiếp tục câu chuyện của Kitô giáo trong thế kỷ đầu tiên và sự lan rộng trong Đế quốc La Mã khi đó, bắt đầu với sự thăng thiên của Chúa Giê-su. Các chương đầu, lấy bối cảnh ở Jerusalem, mô tả Ngày Lễ Ngũ Tuần (sự hiện xuống của Chúa Thánh Thần) và sự phát triển của hội thánh ở Jerusalem. Ban đầu, người Do Thái tiếp thu thông điệp của Kitô giáo, nhưng sau đó họ quay lưng lại với những người theo Chúa Giê-su. Bị người Do Thái từ bỏ, tin mừng được mang đến cho dân ngoại dưới sự hướng dẫn của Thánh Phê-rô. Các chương tiếp theo kể về sự cải đạo của Thánh Phao-lô, sứ mệnh của ông ở Tiểu Á và Aegean, và cuối cùng là bị giam cầm ở Roma, nơi mà sách này kết thúc, khi ông đang chờ xét xử.
Tác phẩm "Lu-ca - Công vụ" là một nỗ lực để giải đáp một vấn đề thần học là làm thế nào Đấng Cứu Thế của người Do Thái lại có một tôn giáo mà phần lớn lại không phải là người Do Thái; câu trả lời mà tác phẩm này đưa ra là thông điệp của Đấng Cứu Thế đã được mang đến cho dân ngoại bởi vì người Do Thái đã từ chối nó. Tác phẩm "Lu-ca - Công vụ" cũng có thể được xem là lời biện hộ cho phong trào Chúa Giê-su với người Do Thái: phần lớn các tuyên bố và bài giảng trong sách Công vụ được gửi đến đối tượng người nghe là người Do Thái, với những người La Mã đóng vai trò người ngoài cuộc làm trọng tài cho các tranh chấp liên quan đến phong tục và luật lệ của người Do Thái. Một mặt, Lu-ca miêu tả những người theo Chúa Giê-su như là một giáo phái của người Do Thái, và do đó được quyền bảo vệ pháp lý thời đó như một tôn giáo được công nhận; mặt khác, Lu-ca dường như không chắc chắn về tương lai mà Thiên Chúa dành cho người Do Thái và Kitô hữu, do đó ông làm nổi bật tính chất Do Thái của Chúa Giê-su và các môn đồ của Ngài khi ấy, nhưng cũng đồng thời nhấn mạnh việc người Do Thái đã từ chối Đấng Cứu Thế đã được Thiên Chúa sai đến như thế nào.
Thông tin chung
Tên sách
Tên của sách, Công vụ Tông đồ hoặc Công vụ các Sứ đồ đã được Giám mục Irenaeus sử dụng lần đầu tiên vào cuối thế kỷ II. Vẫn chưa rõ liệu đây là một tên vốn có hay là tên do chính Giám mục Irenaeus đặt. Chỉ có thể kết luận rằng tên này không phải là do tác giả của sách đặt, vì từ práxeis (có nghĩa là hành động, hành vi) chỉ xuất hiện một lần trong sách (Công vụ 19:18) và ở đó từ này không chỉ các sứ đồ mà chỉ công tác của những người đi theo các sứ đồ.
Tác giả
Chúng ta không thể xem xét những vấn đề tổng quát về sách Công vụ mà không xét đến sách Phúc Âm Lu-ca và đặc biệt là bốn câu đầu của sách ấy, là những câu được xem là "Lời mở đầu" cho toàn bộ tác phẩm hai tập này. Như được nêu tại đó, dường như tác giả là người đồng hành với Phao-lô, là Lu-ca (CoCl 4:14). Trong các chương cuối của sách Công vụ, câu chuyện thỉnh thoảng được thuật lại ở ngôi thứ nhất số nhiều: "Chúng ta tìm được các môn đồ rồi, bèn ở lại với họ bảy ngày" (21:4 xem 16:10-17, 20:5-21:18, 27:1-28:16). Giải thích tự nhiên nhất về vấn đề này cho rằng sách Công vụ được viết bởi một người nào đó có tham dự vào một số các sự kiện này. Giả thuyết này đã bị phản đối, nhưng các phản đối này quan tâm đến các vấn đề về tính chính xác về mặt lịch sử của tác giả. Nếu như tác giả được thể hiện để trình bày một hình ảnh sai lệch về Phao-lô chẳng hạn, thì người ta ít có khả năng phán đoán rằng tác giả thực sự là một bạn đồng hành của vị sứ đồ này.
Giai đoạn
Về thời gian viết sách thì càng khó xác định hơn. Một lần nữa, như nêu ra trong phần Dẫn nhập sách Luca, có hai giả thuyết chính: sách Công Vụ được viết vào những năm 60 trong thời gian Phaolô bị tù ở Rôma, hoặc những năm 80 sau khi Phao-lô qua đời. Nhiều chi tiết trong các chương cuối sách Công Vụ gợi ý về giả thuyết thứ nhất. Có một điều, sách kết thúc với sự kiện Phao-lô (và độc giả của sách) đang chờ đợi kết quả của cuộc xử án tại Rôma. Sau một hơi dài mô tả về thỉnh cầu gởi đến Sê-sa và đó có vẻ hơi lạ, trừ phi ông thực sự đang đem đến cho độc giả sự "cập nhất". Người ta cũng thấy một "sự sinh động" hoặc "sự gần gũi" trong những chương cuối sách, mà cho thấy tác giả đã dựa trên những ký ức chưa bị phai mờ. Nếu như những chi tiết này gợi ý thời gian viết sách là những năm 60, thì người ta cũng có thể dễ dàng giải thích chúng theo cách khác, và chúng ta buộc phải kết luận rằng cả hai giả thuyết về thời gian viết sách đều có thể có khả năng.
Thể văn
Sách Công vụ được viết bằng một thể văn như thể văn các sách Phúc Âm, chủ yếu kể về các sự kiện, mặc dù trong đó cũng có chứa những sự dạy dỗ. Trong nhiều thế kỷ việc sách được xem là sách "lịch sử" và vì thế tác giả là một "nhà sử học" dường như là có chứng cứ hiển nhiên, cho đến khi các nhà nghiên cứu Thánh Kinh nhận ra rằng trong nhiều nghĩa, sách Công Vụ và bốn sách Phúc Âm có thể được phân loại là các sách "thần học". Không phải như lúc đầu được xem là đã viết những câu chuyện kể về sự kiện, tác giả rõ ràng là đã có mục đích chia sẻ tin mừng và thuyết phục hoặc dạy dỗ người đọc các sách ấy. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng quan tâm đến kỹ năng mà tác giả này thể hiện trong cách "kể chuyện" và các nhà nghiên cứu Tân Ước đang cố gắng tập trung vào sách Công vụ như là một tác phẩm văn học được biên soạn công phu chứ không phải là một sách lịch sử hay là thần học. Thể văn của sách Công vụ được trình bày chi tiết hơn ở phần bàn về tính chất của sách này bên dưới.
Bố cục
Sách Công vụ có hai nguyên tắc cấu trúc chính. Đầu tiên là sự di chuyển địa lý từ thành Jerusalem, là trung tâm của dân được chọn của Thượng Đế (tức là người Do Thái), đến thành Roma, là trung tâm của thế giới dân ngoại. Cấu trúc này là sự quay trở lại với tập đầu tiên trong tác phẩm của tác giả là Phúc âm Lu-ca, và được báo hiệu bằng những cảnh song song như lời Phao-lô nói ở Công vụ 19:21, lặp lại lời của Chúa Giê-su trong Lu-ca 9:51: nơi đến của Phao-lô là thành Roma, giống như nơi đến của Chúa Giê-su là thành Jerusalem. Thứ hai là vai trò của Phêrô và Phao-lô, người thứ nhất đại diện cho Hội Thánh của người Cơ đốc Do Thái, người thứ hai truyền giáo cho dân ngoại.
Phần chuyển tiếp: kể lại lời nói đầu được gửi cho Theophilus và các sự kiện kết thúc của sách Phúc Âm (Công vụ 1:1 – 1:26)
Cơ Đốc Giáo dưới sự dẫn dắt của Thánh Phêrô: Hội Thánh Do Thái từ Jerusalem đến Antioch (Công vụ 2: 1–12: 25)
2:1 – 8:1 - khởi đầu tại Jerusalem
8:2 – 40 - Hội Thánh mở rộng đến Sa-ma-ri và xa hơn nữa
9:1 – 31 - sự cải đạo của Phao-lô
9:32 – 12:25 - sự cải đạo của Cornelius, và sự hình thành của Hội Thánh ở Antioch
Cơ đốc giáo dưới sự dẫn dắt của Thánh Phao-lô: việc truyền giáo cho dân ngoại từ thành Antioch đến thành Roma (Công vụ 13:1 – 28:31)
13:1 – 14:28 - việc truyền giáo cho dân ngoại được quảng bá từ Antioch
15:1 – 35 - việc truyền giáo cho dân ngoại được xác nhận ở Jerusalem
15:36 – 28:31 - việc truyền giáo cho dân ngoại, cao trào trong câu chuyện về cuộc khổ nạn của Phao-lô ở thành Roma (21:17 – 28:31)
Một số tính chất của sách
Tính chất lịch sử
Trong thời hiện đại, người ta thường đặt nghi vấn về tính chính xác của sách Công vụ, chủ yếu căn cứ trên sự hiểu sai sách này. Các học giả thế kỷ 20 có một thời tin rằng sách Công vụ được viết rất trễ trong lịch sử Hội Thánh và rằng nó có vẻ là một nỗ lực tuyên truyền để che đậy và lấp liếm sự chia rẽ tồn tại giữa Hội Thánh người Do Thái theo Phi-e-rơ và Hội Thánh người ngoại quốc theo Phao-lô. Người ta tranh luận rằng đây là một hồi ức không hay cần được xoá bỏ. Mong khi có một vài vấn đề gây ra bởi việc du nhập những người ngoại quốc trong cái mà bắt đầu như là một phong trào trong Do Thái giáo, thì ngày nay người ta thừa nhận rằng sách Công vụ giải quyết những vấn đề này một cách thẳng thắn, và rằng tác giả không xấu hổ khi tường thuật sự chia rẽ và những khó khăn trong Hội Thánh (xem ví dụ trong 15:36-41).
Một cách hiểu sai khác là về chân dung của Phao-lô trong sách Công vụ. Chúng ta không thể mong sách Công vụ đề cập đến mọi khía cạnh của tư tưởng Phao-lô như khi tìm thấy chúng trong các thư tín của ông; còn một hình ảnh đầy đủ về Phao-lô là điều chưa được thể hiện. Nhưng phải chăng hình ảnh mà Lu-ca thể hiện là khác với một Phao-lô thật? Bài phát biểu tại A-thên (chương 17;) thường được dùng trong một nỗ lực để chứng minh bức tranh của Lu-ca khác với "thực tế" như thế nào. Trong thư ICô-rinh-tô, Phao-lô viết rằng ông không có tài hùng biện, thì ở đây tại A-thên, một thành phố văn hoá và học thuật ông lại được mô tả là một nhà diễn thuyết và nhà triết lý xuất sắc. Hơn nữa, người ta cho rằng bài phát biểu biện hộ và hầu như tán thành việc thờ phượng thần tượng ngoại giáo, là điều mà một Phao-lô thật sẽ không bao giờ làm. Những điểm này cũng không đứng nổi dưới một sự xem xét kỹ lưỡng. Còn lâu mới được là một nhà diễn thuyết lý tưởng và thuyết phục, Phao-lô bị chế nhạo bởi những người A-thên đang nghe sứ điệp của ông, và Lu-ca ghi lại rằng chỉ có một nhúm người chịu nghe - khó lòng mà câu chuyện được kể để có ý gây ấn tượng trên độc giả của sách Công vụ. Trong một đoạn khác, Phao-lô được tả vẽ là đã nói dài đến nỗi một người khi nghe ông nói đã ngủ gục (20:7-12)! Đối với thái độ "thông cảm" với vấn đề thờ phượng thần tượng ở A-thên, yếu tố này của bài phát biểu thực tế là một sự tấn công ngấm ngầm đối với sự thờ phượng thần tượng, chứ không phải là sự đồng tình. Điều này phù hợp với thái độ của Phao-lô khi ông đến thành phố này (xem 17:16 và bài tường thuật ở 17:16-34) cũng như thái độ của ông như được diễn tả trong các thư tín.
Cái mà chúng ta có thể gọi là "sự cố gắng rõ ràng" của tác phẩm của Lu-ca có khuynh hướng xác nhận chứ không phải phủ nhận niềm tin rằng sách Công vụ có chứa lịch sử thật. Các vấn đề lớn cũng vậy. Có nhiều chi tiết lịch sử trong sách này, và việc sách này bao gồm những chi tiết lịch sử đã gợi ý một cách mạnh mẽ một nguồn thông tin đáng tin cậy. Chẳng hạn như, các chi tiết về mặt địa lý và sự sử dụng những tên người và tước hiệu trong Công vụ ngày càng được đưa ra ánh sáng khi các nhà khảo cổ và sử học phát hiện và công bố nhiều chứng cứ cổ học. Danh sách dài có thể tìm thấy trong cuốn The Book of Acts in the Setting of Hellenistic History của C. Hemer (Mohr, 1989), chương 4 và 5. Sách Công vụ không phải hoàn toàn không có những rối rắm về lịch sử (xem tường thuật trong 5:33-39 và những vấn đề khó giải quyết xung quanh chương 15 và thư Ga-li-lê), nhưng xét về toàn thể, sách Công vụ đến với chúng ta như là một nguồn đáng tin cậy đối với thời gian và các sự kiện bao gồm trong đó.
Tính chất thần học
Tuy nhiên, có thể Lu-ca không phải là một nhà sử học dưới cái nhìn của người hiện đại về khái niệm này. Ông rõ ràng có một cảm xúc mạnh mẽ về chủ đề của mình, và mặc dù đây không phải là điều không mong đợi trong ý nghĩ xưa về những gì việc viết sử đòi hỏi, Lu-ca có thể được gọi là một nhà thần học cũng như một nhà sử học. Lướt qua toàn bộ hai sách của ông người ta có thể thấy thần học của ông. Các chủ đề mà có vẻ đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu sách Công Vụ là công tác của Hội Thánh và sự phổ cập của việc giới thiệu sự cứu rỗi. Đức Thánh Linh đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ, và tác giả đã chịu khó để tỏ ra rằng sự mở rộng Hội Thánh đến người Sa-ma-ri và các dân ngoại không diễn ra theo sự khởi xướng của chính các Cơ Đốc nhân mà là bởi sự khởi động và sau đó uỷ thác và chuẩn nhận một cách ngoạn mục bởi Đức Thánh Linh.
Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng Lu-ca không viết một cuốn sách về Đức Thánh Linh. Ông viết về sự lan tràn của Phúc âm, và ông mô tả vai trò trung tâm của Đức Thánh Linh trong công tác này. Vì thế, chẳng hạn, có thể ông đã kể cho chúng ta rất nhiều về những gì thực sự đã xảy ra cho các môn đồ tại ngày lễ Ngũ Tuần. Chúng ta rất tha thiết muốn có những câu chuyện về việc Đức Thánh Linh ngự vào lòng, có phải Ngài ngự thường xuyên hay không, việc Ngài ngự vào lòng người tín hữu đem lại thay đổi gì, v.v... Nhưng ông đã không ghi lại những điều này bởi vì đây không thuộc loại sách mà ông đang viết. Trọng tâm của ông không đặt vào việc thế nào sự đến của Đức Thánh Linh ảnh hưởng trên người tín đồ mà vào việc thế nào người ta có thể đến với những người hành hương Do Thái đến Giê-ru-sa-lem vào kỳ lễ vào thời ấy.
Lu-ca biết và trình bày các lẽ thật thần học về Đức Thánh Linh, vai trò của Chúa Giê su, sự ứng nghiệm các lời tiên tri Cựu Ước và khả năng chấp nhận tín hữu ngoại quốc ngoài quy định của luật pháp. Nhưng dù ông là một nhà thần học, chúng ta không được cho rằng sách của ông là sách về thần học hệ thống, và chúng ta phải cố gắng giảm bớt sự thất vọng của mình nếu như ông không thoả mãn được những tò mò của chúng ta, những độc giả của thế kỷ 20. Sự hiện diện của các tư tưởng và những mối quan tâm thần học không có nghĩa là chúng ta không thể tin cậy vào lịch sử được thể hiện trong sách. (Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, xem Lu-ca: Nhà sử học và thần học của I. H. Marshall (Paternoster Press, 1988)).
Tính chất văn học
Tính văn chương của sách Lu-ca - Công Vụ được thể hiện trong hình thức của nó. Trong khi khó có hai nhà bình luận nhất trí hoàn toàn về bố cục của sách, thì tất cả đều nhìn nhận rằng nó đã được bố cục một cách có hiệu quả, ngay cả về mặt nghệ thuật. Qua cả hai tập (hai sách Lu-ca và Công Vụ), thành phố Giê-ru-sa-lem đóng vai trò là một "điểm tiếp xúc" nơi mà câu chuyện tiếp tục trở lại. Rõ ràng chúng ta thấy một phong trào đi từ dòng nước xoáy của Đế quốc La Mã tại Ga-li-lê đến xứ Giu-đê và thủ phủ Sê-sa-rê, và từ đó qua xứ Sa-ma-ri rồi từng bước tiến sang phần còn lại của Đế quốc La Mã cho đến khi Phúc âm đã được truyền ra đến tận chính thủ độ của đế quốc, là Rôma ở phần cuối sách Công Vụ. Đây là sự tiến triển có tính chất lịch sử, nhưng Lu-ca đã chọn lựa những câu chuyện, thậm chí sự tập trung có chủ ý vào một nhóm nhân vật này sang nhóm nhân vật khác, để nhấn mạnh phong trào này.
Lu-ca tả vẽ Phao-lô là đã giảng cho người Do Thái và người ngoại quốc cũng như đã khích lệ nhiều cộng đồng tín hữu. Tuy nhiên, chỉ thấy ghi lại có một bài giảng chính trong nhà hội (13:14-43), một cho một hội chúng người ngoại quốc (17:16-35 là bài giảng tương tự trong 14:14-17, nhưng không có quy mô lớn bằng) và một cho nhóm tín hữu (20:17-38). Vì vậy, trang sách có mỗi bài giảng tiêu biểu cho mỗi loại thính giả.
Sự chọn lựa và sắp đặt có chủ ý này khiến chúng ta đặt ra câu hỏi: Mục đích của tác giả khi viết là gì? Đã thấy bố cục và tính phức tạp của sách, chúng ta không thể đơn giản nói rằng: "Ông muốn ghi lại những gì đã xảy ra". Sách Lu-ca và Công Vụ không đơn thuần là một sự miêu tả theo thứ tự thời gian và chắc chắn không phải là các tác phẩm hoàn chỉnh. Có quá nhiều điều còn thiếu để có thể đạt đến mục đích của Lu-ca.
Trái lại, sách Công Vụ Các Sứ Đồ có thể được xem là đang trả lời cho một câu hỏi phức tạp về Cơ Đốc giáo. Cơ Đốc giáo là gì? Nếu đó là một tôn giáo của người Do Thái thì tại sao tất cả những người Do Thái ra mặt chống đối và rất nhiều người ngoại quốc lại gia nhập nó? Nếu Cơ Đốc giáo là một tôn giáo hơn là một sự kiện xã hội, thì tại sao Giê-xu được gọi là "vua" và phong trào của Ngài được gọi là "vương quốc" - và tại sao có vẻ như nó làm dấy lên những cuộc rối loạn và bạo loạn?
Có lẽ những câu hỏi này nảy sinh như là kết quả trực tiếp của cuộc xử án Phao-lô tại Rô-ma, là vụ xử nêu lên những nét nổi bật trong phần ba của sách Công Vụ. Sách có lẽ quá dài và có quá nhiều chi tiết của nó chỉ có liên quan quá sơ sài để có thể được xem là một phần vụ xử của sự tự bào chữa, nhưng có thể nó đã được viết để trả lời những câu hỏi nảy sinh từ vụ xử ấy.
Mục đích thuộc loại này đã làm cho các điểm nổi bật của sách Công Vụ trở nên có ý nghĩa: khởi đầu của Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem đến sứ mạng truyền giáo tại Rô-ma, sự nhấn mạnh các vị sứ đồ khác nhau và sự truyền bá Phúc Âm cũng như sự chống đối mà Phúc âm gặp phải. Nó cũng làm cho có ý nghĩa câu phát biểu của Lu-ca trong chương 1 của sách Phúc Âm Lu-ca - ông viết để làm rõ và giải thích những điều mà Thê-ô-phi-lơ đã nghe liên quan đến Chúa Cứu Thế Giê-xu và phong trào mà Ngài đã dấy lên. |
Lã hậu (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác Lữ hậu, thường gọi Lã Thái hậu (呂太后) hay Hán Cao hậu (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ Lưu Bang - Hoàng đế sáng lập nên triều đại nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là Hoàng hậu đầu tiên của nhà Hán, cũng là hoàng hậu chính thức đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi Hán Cao Tổ băng hà, bà tiếp tục đăng ngôi vị Hoàng thái hậu, từng can dự triều chính dưới triều đại Hán Huệ Đế Lưu Doanh, cuối cùng là Lâm triều xưng chế dưới thời hai Thiếu Đế là Lưu Cung và Lưu Hồng (194 TCN - 180 TCN), tổng cộng nắm quyền 15 năm.
Tuy là Hoàng tổ mẫu đầu tiên trong lịch sử, nhưng Lã Thái hậu chưa hề nhận danh vị Thái hoàng thái hậu, mà vẫn chỉ dùng danh tôn Hoàng thái hậu. Với quy cách và quyền hành ngang với một Hoàng đế, gọi là "Lâm triều xưng chế", Lã hậu khống chế triều đình chính thức suốt 8 năm. Thời kỳ trị vì của bà được liệt kê riêng biệt thành một giai đoạn trong lịch sử nhà Hán, được ghi chép sử sách thành một Bản Kỷ (本纪) trong bộ Sử ký Tư Mã Thiên, vốn chỉ để chép truyện về các Hoàng đế. Từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung hoa, lập nên Đế quốc tại Trung Nguyên, bà là người phụ nữ đầu tiên nắm giữ quyền lực tối cao, ngang ngửa với các Hoàng đế. Thời kỳ bà nắm quyền, đã sử dụng thuật Hoàng lão làm chính sách, phế bỏ Hiệp thư luật (挟书律), lại tìm trong dân gian các điển sách, thư tịch cổ nào cũng đều đem về cất giữ trong tàng thư các. Đoạn kết "Lã hậu bản kỷ" trong Sử Ký ghi nhận: "Thời Lã hậu cầm quyền tuy có làm đảo lộn cung đình nhà Hán, giết hại các hoàng tử nhà Hán nhưng không làm xáo trộn đời sống xã hội, ít dùng hình phạt với dân chúng, thiên hạ được yên, nhân dân lo cày cấy, ăn mặc no đủ".
Đối với văn hóa Trung Hoa, Lã hậu cùng Võ Tắc Thiên và Từ Hi thái hậu là những người phụ nữ chuyên chính nổi bật nhất lịch sử Trung Quốc. Đặc biệt bà cùng Võ Tắc Thiên, hợp xưng [Lã Võ; 呂武], trở thành hình tượng lớn cho 2 người phụ nữ quyền lực nhất trong lịch sử, bà cùng Võ Tắc Thiên cũng là 2 người phụ nữ hiếm hoi có thời gian trị vì được biên thành ["Kỷ"] trong các sách lịch sử chính thống.
Thời trẻ
Thân thế
Lã hậu có tên thật là Lã Trĩ (呂雉), biểu tự là Nga Hủ (娥姁). Cha Lã Trĩ là Lã Văn (呂文, cũng gọi [Lã Công; 呂公]), nguyên quán ở Đan Phụ (單父; nay là huyện Thiền tỉnh Sơn Đông). Trong nhà bà còn 2 anh trai là Lã Trạch (吕泽) và Lã Thích Chi (吕释之); ngoài ra còn 2 chị em gái Lã Trường Hủ (吕長姁) và Lã Tu (吕媭).
Thời nhà Tần, Lã Công dời nhà đến Bái huyện (沛县; nay huyện Bái, tỉnh Giang Tô) để tránh bị trả thù. Tại đây, Lã Công với Huyện lệnh của Bái huyện là bạn bè nhiều năm, nay toàn gia dời nhà đến đây thì tụ tập chúc mừng, trong đó có nhiều hào kiệt thân hữu của huyện lệnh cũng đến. Trong buổi tiệc đó, Lã Công gặp Lưu Bang – lúc đó mới làm chức Đình trưởng (亭長). Nguyên là theo lệ, Chưởng lại Tiêu Hà sắp xếp ai mừng tiền nhiều trên 1.000 đồng thì để ra bên ngoài khách đường, Lưu Bang dù không mang một văn tiền nào, cũng ghi vào trong bái tiếp mình góp 10.000 đồng tiền. Khi xem bái thiếp, Lã Công rất giật mình, bèn thân ra cửa đón tiếp, có ý yêu mến Lưu Bang. Với tâm lý đó, Lã Công dòm xem tướng số, cho rằng Lưu Bang sẽ làm nên nghiệp lớn, bèn gả Lã Trĩ cho Lưu Bang. Bà kém Lưu Bang chừng 15 tuổi.
Bà Lã nghe chồng mình như vậy, bèn vội xen vào:「"Ông vốn coi trọng con gái chúng ta, quả quyết sẽ gả cho quý nhân. Bái huyện lệnh đối đãi rất tốt, còn có ý thông gia, ông còn chưa từng đồng ý, thế mà vì sao lại gả cho loại người như Lưu Quý?"」. Dù vậy, Lã Công vẫn kiên trì đem Lã Trĩ gả cho Lưu Bang. Trong thời gian này, Lã Trĩ sinh cho Lưu Bang một trai một gái, về sau chính là Hán Huệ Đế Lưu Doanh và Lỗ Nguyên công chúa. Khi Lưu Bang đảm nhiệm Đình trưởng , thường xuyên xin nghỉ về nhà. Có một lần, Lã Trĩ cùng hai đứa nhỏ ở đồng ruộng làm cỏ, có một ông lão đi ngang qua, muốn chút nước uống, Lã Trĩ bèn mời ông lão ăn cơm. Ông lão nhìn Lã Trĩ, bèn nói:「"Bà là người đại quý khắp thiên hạ"」. Sau đó, Lã Trĩ mời ông lão xem tướng cho hai đứa nhỏ, ông lão nhìn Lưu Doanh mà nói:「"Đức bà sở dĩ hiển quý, chính là nhờ vào đứa bé trai này!"」, ông lão nhìn sang con gái, cũng nói đây là quý tướng. Khi ông lão đi rồi, Lã Trĩ đem chuyện đó nói với Lưu Bang, thì Lưu Bang hồ hởi đuổi theo ông lão xem cho mình, ông lão nói cả ba người kia đều là quý tướng, thì ắt hẳn ông cũng là đại hiển đại quý. Lưu bang cảm tạ, nói rằng về sau có hiển quý, sẽ không quên ơn ông lão. Tuy nhiên về sau cả Lưu bang cũng không tìm ra ông lão ấy đi đâu về đâu.
Lúc này, trong thiên hạ có lời đồn “Đông Nam có Thiên tử khí” (東南有天子氣), nên Tần Thủy Hoàng thường sang Đông Nam du tuần, cốt là để trấn áp khí của Thiên tử âm mưu tạo phản. Lưu Bang cho rằng có liên hệ với mình, bèn thường trốn lên vùng núi Nãng San. Lã Trĩ cùng những người khác chia nhau ra tìm kiếm, lần nào cũng tìm ra được chỗ chính xác của Lưu Bang. Nhiều lần như vậy, Lưu Bang cảm thấy kì quái nên hỏi, Lã Trĩ bèn nói cứ hễ Lưu Bang đi đến đâu thì trên trời đều có mây tụ đến đó, nên lúc nào cũng dễ dàng tìm ra. Tin đồn truyền ra, nhiều người cho rằng Lưu Bang có đại hiển đại quý, tụ họp về rất đông.
Con tin ở Tây Sở
Lưu Bang khởi nghĩa chống nhà Tần, sau đó cùng Hạng Vũ tranh giành thiên hạ. Năm Hán nguyên niên (206 TCN), Lưu Bang mệnh quân đón Lã Trĩ, Lưu Thái Công cùng thân quyến. Quân Sở nhân đó đánh vào thủ phủ của Hán là thành Dương Hạ (nay là Thái Khang, Chu Khẩu). Cùng năm, cha của Lã Trĩ là Lã Công được Lưu Bang phong Lâm Tứ hầu (臨泗侯). Hai người anh bà là Lã Trạch, Lã Thích đều làm tướng dưới quyền Lưu Bang, theo Lưu Bang đi đánh dẹp. Anh cả bà là Lã Trạch tử trận, hai người con là Lã Đài, Lã Sản đều được phong tước Hầu.
Năm Hán thứ 2 (205 TCN), tháng 4, Lưu Bang nhân Hạng Vũ sa lầy chiến tranh ở đất Tề, bèn cùng các chư hầu tiến vào đánh chiếm kinh đô Tây Sở là Bành Thành. Do có nhiều chư hầu quy phục, thanh thế rất lớn nên Lưu Bang chủ quan, bị Hạng Vũ mang 3 vạn quân về đánh cho đại bại. Lưu Bang vội vã bỏ chạy, riêng Lã Trĩ cùng cha chồng là Lưu Thái Công bị quân Tây Sở bắt được. Hạng Vũ bắt được hai người, sai giam lại làm con tin. Lúc đó Lã Trĩ vẫn có người xá nhân của Lưu Bang bị lạc lại là Thẩm Tự Cơ theo hầu hạ. Lã Trĩ và cha chồng bị giữ ở Tây Sở 2 năm.
Năm Hán thứ 4 (203 TCN), tháng 9, Lưu Bang và Hạng Vũ giảng hòa, giao ước lấy Hồng Câu làm ranh giới, Hạng Vũ bèn tha cho Lưu Công và Lã Trĩ về với Hán vương Lưu Bang. Lã Trĩ được phong là Vương hậu, cha bà Lã Công cùng năm ấy qua đời. Năm sau (202 TCN), Lưu Bang hợp sức với các chư hầu diệt được Hạng Vũ, làm chủ cả thiên hạ.
Hoàng hậu nhà Hán
Giết hại công thần
Tuy đánh bại Hạng Vũ và lên ngôi Hoàng đế, nhưng trong quốc gia lúc đó nhiều nơi không khuất phục triều đình khiến Lưu Bang phải cầm quân đánh dẹp liên miên. Lưu Bang lập Lã Trĩ làm Hoàng hậu, Lưu Doanh con bà được lập làm Hoàng thái tử, cùng với Thừa tướng Tiêu Hà và các đại thần trông coi triều chính tại Trường An.
Lã hậu mau chóng thể hiện tài trí một nhà cai trị khôn ngoan, có tài năng và cứng rắn, cũng mau chóng bà có giao tình tốt với các mệnh quan triều đình. Tất cả một phần đều kính bà, một phần đều sợ sự tàn nhẫn, cứng rắn trong hành vi cai trị của bà. Trong số nhiều công thần bị Hán Cao Tổ trừ khử để phong cho các con mình thay thế làm chư hầu, Lã Hậu tham gia trực tiếp vào 2 vụ. Đó là cái chết của Hàn Tín và Bành Việt.
Năm Cao Tổ thứ 10 (197 TCN), Trần Hy làm phản ở đất Cự Lộc. Lưu Bang triệu tập Lương vương Bành Việt đến hội quân để đánh Hy, nhưng Bành Việt cáo ốm không đi, chỉ cho bộ tướng đi thay. Lưu Bang bèn sai sứ bất ngờ đến bắt Việt giải về Lạc Dương. Lưu Bang nghĩ Việt có công lao nên không giết mà chỉ đày vào huyện Thanh Y (青衣縣), đất Thục. Đúng lúc này, Lã hậu từ Trường An ra Lạc Dương thì gặp Bành Việt ở đất Trịnh. Bành Việt đến xin gặp Lã hậu để kêu oan, nhờ bà nói với Hán Cao Tổ tha tội, xin được về quê Xương Ấp. Lã hậu nhận lời, nhưng khi trở về Lạc Dương bà lại khuyên Lưu Bang rằng:"Bành Việt là dũng tướng, nếu thả vào đất Thục mà dấy quân làm phản thì để ẩn hoạ cho mình, chi bằng giết luôn để trừ hậu hoạ". Lưu Bang nghe theo. Lã hậu bèn sai một môn khách của Bành Việt đứng ra tố cáo rằng: "Bành Việt muốn xin về Xương Ấp, thực chất là để làm phản". Lưu Bang và Lã hậu cứ theo đó, sai Đình uý Điền Khai làm án, lệnh giết cả họ Bành Việt.
Sang năm sau (196 TCN), đại tướng Hàn Tín có công lao lớn nhất trong các công thần mà Lưu Bang rất đề phòng trong nhiều năm, đã bị lừa bắt về kinh đô. Cùng trong vụ Trần Hy làm phản, trong khi Lưu Bang mang quân đi dẹp thì Lã hậu cầm quyền ở kinh đô sai thừa tướng Tiêu Hà đến gặp Hàn Tín dụ rằng:「"Trần Hy đã chết, các chư hầu, các quan đều đến mừng. Tuy ngài ốm, cũng xin cố gắng vào mừng"」. Hàn Tín theo Tiêu Hà vào cung, Lã Hậu lập tức sai võ sĩ trói lại, kết tội Hàn Tín đồng mưu với Trần Hy làm phản và mang chém ở nhà treo chuông trong cung Trường Lạc. Sau đó bà giết cả ba họ nhà Hàn Tín. Sau này Lưu Bang đã dẹp xong quân của Trần Hy trở về kinh đô, nghe tin Hàn Tín chết vừa mừng vừa thương.
Giúp con giữ ngôi Thái tử
Ngoài Lã hậu, Lưu Bang còn nhiều phi tần khác, trong đó có Thích phu nhân xinh đẹp nên rất được sủng ái, sinh được Lưu Như Ý. Lưu Doanh làm Thái tử, có Thúc Tôn Thông (叔孫通) làm Thái phó, Trương Lương làm Thiếu phó giúp. Nhưng Lưu Bang sau thấy Lưu Như Ý thông minh, nói rằng "Như Ý giống ta", lại thêm Thích phu nhân luôn ve vãng lời ra tiếng vào, điều này khiến Cao Tổ muốn bỏ Doanh để lập Như Ý.
Năm thứ 12 (195 TCN), Cao Tổ bình định phản loạn Anh Bố, lúc này ông đã bị thương rất nghiêm trọng, Thích phu nhân theo hầu, càng khiến cho ông có ý định phế Lưu Doanh mà lập Như Ý lên thay. Trương Lương can gián không thành, bèn cáo bệnh không vào triều, còn Thúc Tôn Thông lấy chết can gián, Cao Tổ vờ chịu theo, nhưng ý chí đã quyết.
Lã hậu lo sợ, không biết làm thế nào, có người bẩm tấu Lã hậu nên hỏi Trương Lương, và Lã hậu bèn sai anh trai là Lã Trạch đến nhờ. Ban đầu Trương Lương định từ chối, nhưng Lã Trạch cố nài nên Lương đành nhận lời. Nhờ Trương Lương giúp, Lưu Doanh mời được 4 hiền sĩ Thương Sơn tứ hạo (商山四皓); là Đông Viên công (東園公), Lộc Lý (甪里), Ỷ Lý Quý (綺里季) và Hạ Hoàng công (夏黃公) mà trước đó chính Cao Tổ không sao mời nổi. Một hôm khi dự yến tiệc, Thái tử Lưu Doanh rót rượu đứng chầu. Bốn người theo Thái tử tuổi đều ngoài tám mươi, mày râu bạc phơ, áo mũ rất đẹp. Cao Tổ lấy làm lạ hỏi, bốn người tiến đến thưa, kể họ tên. Cao Tổ hoàng đế kinh ngạc, hỏi ra mới biết là các hiền sĩ mà bấy lâu mình mời không được. Bốn người nói với Cao Tổ:「"Bệ hạ khinh kẻ sĩ, hay mắng người, bọn thần nghĩa khí không chịu nhục, cho nên sợ mà trốn tránh. Nay trộm nghe thái tử là người nhân đức hiếu thảo, cung kính, thương yêu kẻ sĩ, trong thiên hạ không ai không vươn cổ muốn vì Thái tử mà chết, vì vậy chúng tôi đến đây"」. Cao Tổ nói:「"Phiền các ông nhờ giúp đỡ Thái tử cho trót"」
Bốn người chúc thọ xong, đứng dậy đi ra. Cao Tổ cho gọi Thích phu nhân vào, chỉ bốn người kia bảo rằng:「"Ta muốn đổi nó, nhưng bốn người kia đã giúp nó. Lông cánh nó đã thành, khó mà lay chuyển được. Lã hậu là chủ của ngươi rồi đấy!"」. Thích phu nhân thống khổ không thôi, bèn múa hát ca thán. Do đó, Lưu Doanh giữ được ngôi Thái tử không bị truất. Về sau, Cao Tổ phong Lưu Như Ý làm Triệu vương (趙王).
Bên giường bệnh hỏi di huấn
Cũng vào năm thứ 12 (195 TCN), Hán Cao Tổ Lưu Bang sau khi không phế Thái tử nữa, đã trở bệnh rất nặng. Lã hậu lo lắng, bèn mời danh y thiên hạ vào cung trị liệu, nhưng Cao Tổ biết mình không thể qua khỏi, bèn không cho chữa bệnh, thưởng 50 lạng vàng rồi cho lui.
Lã hậu ở bên giường bệnh, trực tiếp hỏi ông:「"Bệ hạ trăm tuổi rồi và tướng quốc Tiêu Hà cũng mất thì lấy ai thay?"」. Cao Tổ bèn đáp là Tào Tham, Lã hậu lại hỏi tiếp thì Cao Tổ đáp:「"Vương Lăng có thể được, nhưng Vương Lăng hơi gàn. Trần Bình có thể giúp ông ta. Trần Bình thì trí khôn có thừa, nhưng khó mà làm một mình. Chu Bột là người trung hậu, ít văn hoá nhưng người làm họ Lưu được an chính là Chu Bột đấy, có thể cho ông ta là Thái úy"」. Sau đó, Cao Tổ giá băng, Lã hậu đợi 4 ngày vẫn chưa phát tang. Vì Thái tử Lưu Doanh còn nhỏ, Lã hậu sợ các tướng không phục sẽ làm loạn, do đó bàn mưu với Thẩm Tự Cơ định giết chết các công thần. Tướng Lịch Thương ở kinh thành biết mưu đó, khuyên Thẩm Tự Cơ nên can Lã hậu không thực hiện ý định này, vì sẽ kích động các tướng đang cầm quân ở ngoài làm phản. Thẩm Tự Cơ vội đi nói với Lã hậu, bà bèn báo tang Hán Cao Tổ, vì vậy không xảy ra biến cố nào.
Thái tử Lưu Doanh thuận lợi lên nối ngôi, tức là Hán Huệ Đế, Lã hậu được tôn làm Hoàng thái hậu.
Hoàng thái hậu nhà Hán
Nhân trư sự kiện
Lã Thái hậu không hãm hại đại đa số các phi tần của Hán Cao Tổ, ngược lại còn hậu đãi và đối xử theo như luật đề ra. Những phi tần nào sinh được con trai đều được phong tước Vương thái hậu (王太后) và cùng con trai trở về đất phong cư ngụ, như trường hợp của Bạc phu nhân, mẹ của Đại vương Lưu Hằng. Chỉ trừ duy nhất trường hợp của Thích phu nhân, vị phi tần đã cậy sủng kiêu ngạo muốn con trai mình Triệu vương Lưu Như Ý thay thế ngôi Thái tử của Lưu Doanh. Lưu Như Ý lúc đó đang ở đất phong nước Triệu, nên Lã Thái hậu đã trừng phạt Thích phu nhân.
Năm Hiếu Huệ nguyên niên (195 TCN), tháng 12, Lã Thái hậu sai bắt giam Thích phu nhân ở Vĩnh Hạng cung. Oán hận Thái hậu, Thích phu nhân ngâm nga câu:「"Con là Vương, mà mẹ già đây phải là nô bộc, suốt ngày giã gạo đến sắp tối, thường thường bầu bạn với cái chết! Mẹ con phân ly ba nghìn dặm, làm sao có thể báo cho con biết tin?"」. Lã Thái hậu tức giận, bèn gọi Triệu vương Như Ý đến Trường An, âm mưu hạ độc Triệu vương. Sứ giả của Lã Thái hậu triệu tập, Tướng quốc nước Triệu là Chu Xương cự tuyệt không nghe lệnh. Lã Thái hậu cả giận, bèn sai người gọi Chu Xương về. Chu Xương về đến Trường An, Thái hậu lại sai người mời Triệu vương lần nữa, đành phải ra đi. Hán Huệ Đế thương em, biết Thái hậu giận, nên thân hành đón Như Ý ở Bá Thượng, rồi luôn luôn kèm lúc Như Ý đi đứng, ăn uống. Lã Thái hậu muốn giết Như Ý nhưng không có dịp. Một hôm, Huệ đế buổi sớm ra đi săn bắn, Như Ý không theo do còn sớm tham ngủ. Thái hậu nghe tin Như Ý ở một mình, bèn sai người mang thuốc độc đến cho Như Ý uống. Như Ý uống xong thì chết.
Năm Hiếu Huệ thứ 2 (194 TCN), mùa đông, Lã Thái hậu bắt đầu trả thù Thích phu nhân. Lã Thái hậu bèn sai chặt chân tay Thích phu nhân, móc mắt, đốt tai, bắt uống thuốc thành câm, cho ở trong nhà tiêu gọi đó là Nhân trư (人彘), nghĩa là con người lợn. Sau mấy hôm, Thái hậu cho gọi Huệ Đế vào để xem "Nhân trư". Hán Huệ Đế thấy, ngạc nhiên bèn hỏi, biết đó là Thích phu nhân, liền khóc rống lên, do quá ám ảnh mà ông mắc bệnh, sai người nói với Thái hậu:「"Việc đó không phải là việc con người làm! Ta là con của thái hậu, không thể nào trị thiên hạ được"!」. Huệ Đế bất lực trước sự độc ác của Thái hậu, không có cách nào ngăn cản được, vì thế ngày đêm uống rượu chơi bời dâm dật, không nghe chính sự, cho nên mắc bệnh. Vì thế, Lã Thái hậu nắm quyền chuyên chánh.
Chủ trì chính sự
Sau khi Huệ Đế lâm bệnh, triều chính đều do Lã Thái hậu tạm quản. Mùa đông năm Huệ Đế thứ 2 (194 TCN), những người anh em là Nguyên vương nước Sở, Điệu vương nước Tề (Lưu Phì) đến chầu. Hán Huệ Đế cùng ăn tiệc và uống rượu với Tề vương Lưu Phì trước mặt Lã Thái hậu, vì ông cho rằng Lưu Phì là anh nên để ngồi ghế trên theo lễ những người trong nhà. Thái hậu nổi giận, bèn sai rót hai chén thuốc độc đặt trước mặt mình, sai Lưu Phì chúc thọ. Khi Lưu Phì đứng dậy, Huệ Đế cũng đứng dậy nâng chén muốn cùng chúc thọ với Lưu Phì. Thái hậu sợ quá, thân hành đứng dậy hắt chén rượu của Huệ Đế.
Thấy hành động của Thái hậu, Lưu Phì lấy làm lạ, do đó không dám uống, giả vờ say đi ra. Khi hỏi, Lưu Phì biết đó là thuốc độc nên sợ hãi, tự cho rằng không thể ra khỏi Trường An nên rất lo lắng. Quan nội sử của Lưu Phì tên là Sĩ nói:「"Thái hậu chỉ có một mình Hoàng đế và Lỗ Nguyên công chúa. Nay Đại vương có hơn 70 thành, mà Công chúa chỉ có vài thành, nếu Đại vương quả thực đem một quận dâng cho Thái hậu để làm ấp tắm gội của Công chúa, thì Thái hậu thế nào cũng mừng rỡ và Đại vương cũng không lo ngại gì"」. Tề vương Lưu Phì bèn dâng quận Thành Dương, tôn Lỗ Nguyên công chúa làm Vương thái hậu. Lã Thái hậu mừng rỡ bằng lòng, bèn đặt tiệc rượu ở cung riêng của Tề vương, sau khi uống chén rượu vui vẻ, Thái hậu cho Tề vương trở về nước mình.
Năm Huệ Đế thứ 3 (192 TCN), Lã Thái hậu cho người xây dựng lại quy mô thành Trường An. Sang năm (191 TCN), Thái hậu bãi bỏ Hiệp thư luật (挾書律). Đây là một luật lệ từ thời Tần Thủy Hoàng, nằm trong khuôn khổ đốt sách chôn Nho, không cho dân gian tàng trữ kiến thức sách vở. Thái hậu bỏ lệnh này, hạ chiếu cho dân gian tiếp tục tìm kiếm và dâng sách, khôi phục cựu điển đã bị hủy hoại thời Tần Thủy Hoàng.
Bức thư của Mặc Đốn
Hung Nô ở phương bắc khi đó thế lực rất mạnh và hay khiêu chiến với nhà Hán. Cao Tổ hoàng đế Lưu Bang khi còn sống từng giao chiến với Hung Nô và đã gặp nguy khốn ở Bình Thành. Sang thời Lã thái hậu cầm quyền, Hung Nô tiếp tục quấy rối biên giới.
Năm Hán Huệ Đế thứ 4 (192 TCN), lúc đó Thiền vu của Hung Nô là Mặc Đốn thiền vu chết vợ, nghe tin Lã Thái hậu thay Huệ Đế nhiếp chính, là một góa phụ, bèn viết thư tỏ tình với lời lẽ trăng gió. Sách Hán thư đã ghi lại đoạn thư của Mặc Đốn mà Tư Mã Thiên nhận xét trong Sử ký là "lời lẽ bậy bạ" như sau:
Lã Thái hậu đọc thư rất tức giận, định điều binh đánh Mặc Đốn. Các tướng can rằng:"Giỏi và vũ dũng như Cao Đế mà còn bị nguy khốn ở Bình Thành". Thế rồi Thái hậu đành nén giận, lấy tông thất nữ quyến phong làm Công chúa gả cho Mặc Đốn, tiếp tục giữ chính sách giảng hòa với Hung Nô để yên bờ cõi.
Lâm triều xưng chế
Nữ chủ đầu tiên
Do bị mẹ áp chế không thể chống lại được, Huệ Đế buồn rầu sinh bệnh rồi mất sớm năm 188 TCN, khi mới 22 tuổi.
Con trai duy nhất qua đời, Lã Thái hậu tuy có khóc nhưng lại không chảy nước mắt. Người con của Trương Lương là Trương Tích Cương (张辟彊) khi ấy làm Thị trung, mới 15 tuổi, nói với thừa tướng Trần Bình rằng:「"Thái hậu chỉ có một mình hoàng đế. Nay Hoàng đế mất, Thái hậu khóc lại không đau xót, ngài có biết tại sao không?"」. Trần Bình hỏi vì sao, Tích Cương nói:「"Hoàng đế không có con lớn tuổi để kế nghiệp. Thái hậu sợ bọn các ông nổi loạn. Nay ông xin cho Lã Đài, Lã Sản, Lã Lộc làm Tướng, cầm quân giữ các đạo quân trong phía nam và phía bắc, cho những người con họ Lã vào giữ các chức vụ trong cung. Làm như thế thì thái hậu sẽ yên tâm và bọn các ông may mà tránh khỏi tai họa"」.
Thừa tướng Trần Bình bèn làm theo kế của Tích Cương. Lã Thái hậu mừng rỡ, lúc ấy khóc mới thảm thiết. Khi ấy, Trương Hoàng hậu của Hán Huệ Đế không có con. Theo Sử ký, Lã hậu đã giết chết một phi tần vừa mới sinh con cho Huệ Đế là Mỗ thị, sau đó mang đứa trẻ đến chỗ Trương hậu, giả là Hoàng hậu vừa sinh long tử. Khi Hán Huệ Đế mất, đứa trẻ được đưa lên ngôi, sử gọi là Hán Tiền Thiếu Đế. Dù thân là "Hoàng tổ mẫu" của Hoàng đế, nhưng Lã Thái hậu không nhận tôn hiệu Thái hoàng thái hậu mà vẫn giữ là Hoàng thái hậu, bà công khai đăng triều thay Hoàng đế trẻ nắm quyền điều hành triều chính, gọi là [Lâm triều xưng chế; 臨朝稱制].
Bằng việc này, Lã hậu trở thành "Nữ chủ nhân" đầu tiên của một chính quyền hoàng triều trong lịch sử Trung Quốc kể từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất, cũng là Nữ chủ nhân đầu tiên công khai nắm quyền mà không cần kiêng dè Hoàng đế, thực tế đã không khác gì một Nữ hoàng. Trong thời gian xưng Chế, quy cách của Lã hậu đều y hệt Hoàng đế, trong chiếu thư toàn tự xưng [Trẫm; 朕]. Bắt đầu giai đoạn này, Sử ký đều gọi từng năm là "Năm Hán Cao hậu thứ [bao nhiêu]" chứ không theo lệ là "[Thụy hiệu của Hoàng đế] năm thứ [bao nhiêu]", cho thấy rất rõ vị trí ngang hàng Hoàng đế của Lã Thái hậu.
Phong Vương cho ngoại thích
Để củng cố quyền lực, Lã Thái hậu muốn phong cho con cháu họ Lã tước Vương, một việc cấm kị khi đó vì chỉ có hoàng tộc họ Lưu mới có quyền phong Vương, do đó Lã Thái hậu bèn dò hỏi tướng Vương Lăng. Lăng thẳng thắn nói không được, vì điều đó trái ý của Hán Cao Tổ, đấy là dựa vào câu di huấn:「"Không phải họ Lưu mà phong Vương, thiên hạ cùng vào đánh nó"」. Thái hậu bèn bãi chức Vương Lăng, cho làm Thái phó. Trần Bình và Chu Bột phải lựa ý bà, tỏ ra đồng tình việc phong vương họ Lã, lúc này bà mới bằng lòng, mà họ Trần cùng họ Chu tiếp tục duy trì vị trí trong triều.
Thái hậu khi xưng Chế vừa xong, bèn phong cho các cháu và thân thích, cháu cả Lã Đài được phong làm Lã vương (呂王), đứng đầu các Vương hầu họ Lã. Kế thứ là Lã Lộc làm Triệu vương (趙王), Lã Thông làm Yên vương (燕王). Cha của Lã Thái hậu là Lã Công được truy tôn Lã Tuyên vương (呂宣王), cho con gái Lã Lộc lấy Thành Dương Cảnh vương Lưu Chương, cùng một số con em họ Lã khác. Ngoài ra, bà còn cất nhắc tình nhân Thẩm Tự Cơ từng theo hầu hạ bà trước kia lên làm Tả thừa tướng. Tư Mã Thiên đã kín đáo chép về việc này trong Sử ký rằng:「"Tả thừa tướng không làm việc, thường lo việc ở trong cung"」. Tự Cơ được tin dùng, nhiều quan viên muốn được việc phải nhờ cậy.
Năm Cao hậu thứ 2 (186 TCN), Lã Đài qua đời, con là Lã Gia (呂嘉) thừa tước. Năm thứ 4 (184 TCN), em gái bà là Lã Tu được phong Lâm Quang hầu (臨光侯), là phụ nữ đầu tiên được thụ phong tước vị dành cho nam giới. Cùng năm ấy, một cháu trai khác của Thái hậu là Lã Tha (呂他) được thụ phong Du hầu (俞侯), Lã Canh Thủy (呂更始) làm Chuế Kỳ hầu (贅其侯), Lã Phẫn (呂忿) làm Lã Thành hầu (呂城侯); năm đó thụ phong rất nhiều người trong các nhánh nhỏ gia tộc họ Lã, vị chi hơn 10 người đều thụ phong.
Tàn sát họ Lưu
Năm thứ 4 (184 TCN), Lã Thái hậu chuyên chế được 4 năm, vị Thiếu Đế Lưu Cung dần trưởng thành và hiểu chuyện.
Thiếu Đế nghe nói mẹ mình bị Lã Thái hậu giết, còn mình không phải là con của Hiếu Huệ Hoàng hậu, bèn nói:「"Hoàng thái hậu làm sao có thể giết mẹ ta mà gọi ta là con? Giờ ta còn bé, nếu ta trưởng thành thì sẽ thay đổi"」. Thái hậu nghe nói rất tức giận, sợ Thiếu đế chống lại mình, bèn giam Thiếu đế ở Vĩnh Hạng cung, nói rằng hoàng đế bị mắc bệnh nặng không thể gặp người ngoài được. Bà loan tin Thiếu đế bị bệnh nặng không làm hoàng đế được, nên lập người khác. Không ai dám ngăn cản, bà bèn sai giết Thiếu đế và lập một người con khác của Huệ đế là Thường Sơn vương Lưu Nghĩa làm Hoàng đế, cải danh gọi Lưu Hồng. Lã Thái hậu vẫn tiếp tục cầm quyền chính trong triều.
Sau khi giết Triệu vương Lưu Như Ý, Lã Thái hậu lập Hoài Dương vương Lưu Hữa lên thay làm Triệu vương. Lã Thái hậu gả một người con gái họ Lã cho Lưu Hữu nhưng không được Lưu Hữu sủng ái, Lã thị bèn tìm cách vu cáo với Lã thái hậu rằng Lưu Hữu bắt bình việc bà ta phong Vương cho họ Lã. Năm Cao hậu thứ 7 (181 TCN), Lã Thái hậu triệu Lưu Hữu vào chầu rồi bắt giam ông lại, bỏ đói cho đến chết. Sau khi Lưu Hữu qua đời, Thái hậu cho an táng ông theo lễ của dân thường rồi lập anh ông là Lương vương Lưu Khôi làm Triệu vương. Sau khi phong Lưu Khôi đến đất Triệu, Lã Thái hậu ép ông lấy con gái của Lã Sản em mình, và giết sủng phi của ông. Tháng 6 năm đó, Lưu Khôi vì thương tiếc người sủng phi bèn tự tử chết theo. Ông làm Triệu vương chưa đấy một năm. Lã Thái hậu lấy cớ Lưu Khôi tự sát, phế con ông, lập Lã Lộc làm Triệu vương.
Qua đời
Năm Cao hậu thứ 8 (180 TCN), tháng 7, Lã Thái hậu mắc bệnh nặng. Biết mình không qua khỏi, bà phong cháu Lã Lộc làm Thượng tướng quân thống lĩnh Bắc quân, cho Lã vương Sản làm Tướng quốc thống lĩnh Nam quân, khống chế lực lượng hộ vệ trong hoàng cung. Bà nói với con em họ Lã: 「"Sau khi bình định thiên hạ, Cao Tổ có giao ước với các quan đại thần: 'Ai không phải họ Lưu mà làm Vương thì thiên hạ cùng đánh nó'. Nay họ Lã làm Vương thì các quan đại thần không chịu. Nếu ta chết đi, Hoàng đế còn ít tuổi, sợ các đại thần gây biến loạn. Hai ngươi phải cầm quân giữ lấy cung, chớ có đi theo đám tang, đừng để cho người nào áp chế mình"」.
Ngày 30 tháng 7 (tức ngày 18 tháng 8 dương lịch) năm đó, Lã Thái hậu băng hà, chung niên thọ chừng 61 tuổi. Thụy hiệu của bà án theo thụy của Cao Tổ, là Cao Hoàng hậu (高皇后), nên sử gia thường gọi là [Cao hậu] hay [Hán Cao hậu]. Bà được hợp táng tại Trường lăng (長陵) cùng Hán Cao Tổ.
Sau khi Lã Thái hậu qua đời, triều đình nhà Hán bắt đầu đại loạn, gọi là Loạn chư Lã. Trong từng bước gầy dựng thế lực của họ Lã, Lã Thái hậu đã đụng chạm không ít các hoàng thân của nhà họ Lưu, khiến họ Lưu và họ Lã xích mích nhau, nên trước khi qua đời Lã Thái hậu đã cố gắng dàn xếp bằng cách ban hoàng kim ngàn cân cho các chư hầu toàn quốc, lại cho Lã Lộc và Lã Sản tước vị Tướng quốc, cho con gái Lã Lộc làm Hoàng hậu, cốt là để làm chỗ dựa cho họ Lã. Tuy nhiên, hai người cháu của Lã Thái hậu, cũng là đứng đầu khi ấy của dòng họ là Lã Lộc và Lã Sản không phải là đối thủ của các đại thần khai quốc nhà Hán như Trần Bình, Chu Bột. Bên ngoài có Tề vương Lưu Tương khởi binh, bên trong có hai người Trần, Chu đã làm binh biến, đã tiến hành thành công giết hết các tướng họ Lã mà Lã Thái hậu dựng lên để lấy lại thiên hạ cho họ Lưu.
Vì không muốn hình ảnh Lã Thái hậu tiếp tục tồn tại, các giai cấp thống trị họ Lưu đồng lòng cho rằng Hậu Hán Thiếu Đế, cùng hai con thứ xuất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh đều là giả mạo, bèn tiến hành phế bỏ và giết hại. Sau khi tiến hành tàn sát Hoàng đế do Lã Thái hậu lập nên, các thế lực họ Lưu kiên quyết chọn một người không có nhà mẹ mạnh để lên ngôi, sau khi cân nhắc cháu đích tôn của Cao Tổ là Tề vương Lưu Tương không được vì nhà mẹ quá ác độc, thì họ bàn ra rằng: "Nhà họ Bạc, mẹ Đại vương Hằng, con thứ tư của Cao Tổ, là người hiền đức, nên lập lên ngôi". Do đó, Đại vương Lưu Hằng được lập làm người kế vị, tức là Hán Văn Đế.
Gần cuối đời nhà Tân của Vương Mãng (9 SCN – 23 SCN), thi hài của Lã hậu bị phiến quân khởi nghĩa Xích Mi mạo phạm khi cướp phá Trường lăng. Thời Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú - người đã lật đổ Vương Mãng, khôi phục nhà Hán, Bạc phu nhân được tôn làm ["Cao Hoàng hậu"] thay thế và được hợp táng cùng Hán Cao Tổ. Còn Lã hậu thì bị truy phế, phần mộ bị dời ra khỏi Trường lăng.
Gia quyến
Thân phụ: Lã Công (呂公). Năm 187 TCN, được Lã hậu truy tôn Lã Tuyên vương (呂宣王). Sử gia Quách Mạt Nhược cho rằng ông là hậu duệ của Lã Bất Vi.
Phối ngẫu: Hán Cao Tổ Lưu Bang.
Hậu duệ:
Hán Huệ Đế Lưu Doanh.
Lỗ Nguyên công chúa (魯元公主), không rõ tên thật.
Anh chị em và cháu họ:
Lã Trường Hủ (呂長姁), chị gái trưởng.
Lã Bình (呂平), con trai Trường Hủ, phong Phù Liễu hầu (扶柳侯).
Lã Trạch (呂澤), anh trai, thụy phong Điệu Vũ vương (呂悼武王).
Lã Đài (呂台), con trai Lã Trạch, phong Lã vương (呂王). Mất, thụy là Túc vương (肅王).
Lã Gia (呂嘉), con trai Lã Đài, kế tước Lã vương.
Lã Thông (呂通), con trai Lã Đài, phong Yên vương (燕王) năm 181 TCN.
Lã Phỉ (呂庀), con trai Lã Đài, phong Đông Bình hầu (東平侯).
Lã Sản (呂產), con trai Lã Trạch, phong Lương vương (梁王) năm 181 TCN.
Lã Thích Chi (呂釋之), anh trai, thụy phong Triệu Chiêu vương (趙昭王).
Lã Tắc (呂則), con trai Lã Thích Chi, phong Kiến Thành hầu (建成侯).
Lã Chủng (呂種), con trai Lã Thích Chi, phong Phái hầu (沛侯).
Lã Lộc (呂祿), con trai Lã Thích Chi, kế nhiệm chức Triệu vương (趙王) năm 181 TCN.
Lã Tu (呂嬃), em gái, vợ của danh tướng Phàn Khoái, được phong làm Lâm Quang hầu (臨光侯) năm 184 TCN.
Trong văn hóa đại chúng |
Mục từ này nói về quan hệ trong toán học. Để xem các nghĩa khác, xem Quan hệ.
Trong toán học, quan hệ là một khái niệm khái quát hóa các quan hệ thường gặp, ví dụ như các quan hệ bằng, nhỏ hơn, lớn hơn, đồng dư giữa các số, hay các quan hệ bằng nhau, đồng dạng giữa các hình tam giác. Tất cả các ví dụ này đều là các quan hệ hai ngôi.
Khái niệm
Định nghĩa
Cho hai tập hợp A,B. Mỗi tập con của tích Descartes A x B được gọi là quan hệ hai ngôi từ A vào B. Nếu là quan hệ từ A vào B và cặp (a,b) thì ta ký hiệu .
Nếu A = B thì một tập con của tích Descartes AxA được gọi là quan hệ trên A.
Mở rộng của quan hệ hai ngôi là quan hệ n ngôi dẫn đến cấu trúc bảng trong cơ sở dữ liệu quan hệ.
Lưu ý rằng tập tích Descarter là tập các cặp có thứ tự nên quan hệ định nghĩa ở đây là quan hệ có hướng từ A vào B. Ta hình dung như các phần tử thuộc tập A là các phần tử "chủ động" trong quan hệ, còn các phần tử của B (nếu có mặt trong quan hệ) là các phần tử "bị động". Điều lưu ý này rất hữu ích cho các quan hệ xã hội như quý và được quý, hâm mộ và bị hâm mộ, hay trong quan hệ bao hàm:chứa và được chứa trong...
Ví dụ
Các quan hệ trong đời sống xã hội đều là các quan hệ theo nghĩa toán học: quan hệ hôn nhân (khác giới) là quan hệ từ tập người là nam vào tập người là nữ, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp, đồng hương, quan hệ chống đối... đều là các quan hệ giữa các tập người.
Các quan hệ trong toán như quan hệ bằng nhau, lớn hơn, nhỏ hơn giữa các số thực, quan hệ chia hết giữa các số tự nhiên....
Các quan hệ tuỳ ý giữa các tập hữu hạn có thể dẫn ra làm ví dụ rất nhiều, chẳng hạn cho A = {a, b, c, d}; B= {1, 2, 3}.
Quan hệ ={ (a,1), (a, 2), (b, 2), (c, 2)}.
Để biểu diễn quan hệ (trên các tập hữu hạn), nhất là khi phải giải quyết các bài toán về quan hệ trên máy tính, ta có biểu diễn bằng ma trận logic hoặc bằng đồ thị
Ma trận logic của quan hệ hai ngôi
Cho tập A có m phần tử
A = {a1,a2,...,am}
và tập B có n phần tử
B = {b1,b2,...,bn}
Ma trận logic của quan hệ A x B là ma trận cấp m n với các phần tử r i,j xác định như sau:
Ví dụ ma trận biểu diễn quan hệ ở trên là
Quan hệ n ngôi
Một quan hệ ngôi giữa các tập hợp là một tập hợp con của tích Descartes .
Quan hệ tương đương và quan hệ thứ tự
Một số tính chất của quan hệ trên một tập
Cho là một quan hệ trên tập A:
được gọi là quan hệ có tính chất phản xạ nếu :
được gọi là quan hệ có tính chất đối xứng nếu :nếu thì
được gọi là quan hệ có tính chất phản đối xứng nếu :nếu và thì
được gọi là quan hệ có tính chất bắc cầu nếu :nếu và thì
Quan hệ tương đương
Quan hệ trên A được gọi là quan hệ tương đương nếu nó có ba tính chất phản xạ, đối xứng, bắc cầu.
Cho là quan hệ tương đương trên tập A và phần tử . Tập con của A gồm các phần tử b có quan hệ với a được gọi là lớp tương đương của phần tử a, ký hiệu là .
Cho và quan hệ tương đương .
Khi đó
,
hoặc ,hoặc .
Từ đó tập các lớp tương đương của tạo thành một phân hoạch (hay một sự chia lớp) của tập A.
Một ví dụ minh hoạ cho quan hệ tương đương là quan hệ đồng dư theo môđun m trên tập hợp các số nguyên (m là số tự nhiên lớn hơn 1), mỗi lớp tương đương là tập các số nguyên có cùng số dư theo môđun m. Trong số học nó còn được gọi là các lớp thặng dư theo môdun m.
Quan hệ thứ tự
Quan hệ trên tập A được gọi là quan hệ thứ tự trên A nếu nó có ba tính chất phản xạ, phản đối xứng và bắc cầu.
Ví dụ về các quan hệ thứ tự là các quan hệ "≤", "≥" trên các tập hợp số. Một ví dụ khác là quan hệ chia hết "\" trên tập số tự nhiên, quan hệ bao hàm "" (quan hệ tập con) trong các tập hợp cũng là các quan hệ thứ tự.
Sau đây ta dùng ký hiệu để chỉ một quan hệ thứ tự trong trường hợp tổng quát.
Quan hệ thứ tự được gọi là quan hệ thứ tự toàn phần trên tập A nếu với hai phần tử bất kỳ một trong hai quan hệ hoặc sẽ xảy ra. Trong trường hợp ngược lại nó được gọi là quan hệ thứ tự bộ phận. Khi đó, tương ứng ta nói tập A được sắp thứ tự toàn phần/bộ phận. Khi không muốn nói vào chi tiết ta đơn giản gọi chúng là tập được sắp. Các quan hệ "≤" và "≥" trên tập số thực là quan hệ thứ tự toàn phần. Quan hệ chia hết trên tập số nguyên, quan hệ bao hàm trên các tập hợp là các quan hệ thứ tự bộ phận.
Các phần tử đặc biệt trong tập được sắp
Trong tập A được sắp theo quan hệ , một phần tử m được gọi là nhỏ nhất nếu với mọi . Ví dụ như phần tử nhỏ nhất của tập các số tự nhiên dương là 1, phần tử nhỏ nhất theo quan hệ bao hàm trên các tập hợp là tập rỗng, theo quan hệ chia hết trên tập các số tự nhiên phần tử nhỏ nhất là số 1.
Cho S là tập con của tập được sắp A theo quan hệ . Phần tử m (nếu có) được gọi là infimum của S, ký hiệu là inf(S) hay ^S, nếu với mọi và nếu thì .
Nếu S= {a, b} thì inf({x,y}) được ký hiệu là x^y. Trong quan hệ chia hết trên tập các số tự nhiên, x^y chính là ƯCNN(x,y), còn theo quan hệ bao hàm giữa các tập hợp, A^B chính là tập .
Khái niệm tương tự theo chiều ngược lại là khái niệm supremum, ký hiệu là sub(S)
Tích các quan hệ và bao đóng bắc cầu
Quan hệ tích
Cho quan hệ từ tập A vào tập B và quan hệ từ B vào C. Quan hệ tích là quan hệ từ A vào C, xác định bởi khi và chỉ khi tồn tại sao cho và
Tính chất của quan hệ bắc cầu
Quan hệ là quan hệ có tính chất bắc cầu khi và chỉ khi
=.
Quan hệ nhỏ nhất có tính chất bắc cầu chứa quan hệ được gọi là bao đóng bắc cầu (một số người gọi là bao đóng truyền ứng) của quan hệ ký hiệu là .
Nếu tập A hữu hạn gồm n phần tử thì
Biểu diễn đồ thị của quan hệ hai ngôi
Ta có thể biểu diễn quan hệ từ tập X và tập Y bằng một đồ thị có hướng như hình bên. Nếu A = thì đồ thị biểu diễn là đồ thị hai phía.
Trong hình bên phần tử A có thể "chủ động" quan hệ với ba phần tử 1, 2, 5 của Y, còn B chủ động không quan hệ với phần tử nào. Về phía Y, phần tử 2 và 5 bị hai phần tử cùng quan tâm, còn 3, 4 không được phần tử nào của X quan hệ tới.
Quan hệ và ánh xạ
Từ biểu diễn đồ thị của quan hệ và biểu diễn ánh xạ, có thể nhận ra rằng ánh xạ (hay hàm) là một quan hệ đặc biệt, mà ta gọi là quan hệ hàm.
Ánh xạ f : A B là một quan hệ từ A vào B thoả mãn điều kiện sau:
Mỗi phần tử a A đều có quan hệ f với đúng một phần tử b B.
Chú ý rằng trong định nghĩa này không loại trừ khả năng hai (hoặc nhiều hơn) phần tử của A cùng có quan hệ f với một phần tử
Quan hệ như là cấu xạ
Trong phạm trù các quan hệ Rel, một quan hệ cũng là một cấu xạ giữa các tập hợp. |
Lê Lai là một tướng lĩnh tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn, ông được coi là một anh hùng, một tấm gương trung nghĩa với sự kiện nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam là cải trang thành Lê Lợi và bị quân Minh giết chết.
Nguồn gốc
Lê Lai sinh ra ở thôn Dựng Tú, xã Đức Giang huyện Lương Giang (nay là Thôn Thành Sơn (Làng Tép), xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa), cha tên là Lê Kiều, nối đời làm chức phụ đạo trong vùng, con lớn tên Lê Lạn, con thứ 2 là Lê Lai.
Lê Lai được sử gia Lê Quý Đôn miêu tả trong sách Đại Việt thông sử là có tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt, lo việc hậu cần cho Lê Lợi rất chu đáo.
Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
Năm 1416, ông cùng Lê Lợi và 18 tướng lĩnh khác tham gia Hội thề Lũng Nhai, thề sống chết có nhau, nguyện chung sức đánh đuổi quân Minh đang cướp phá. Ông được ban tước Quan nội hầu, tổng quản của phủ Đô tổng quản. Anh trai của Lê Lai, Lê Lạn cũng tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn, lập được nhiều công lao.
Bấy giờ khoảng năm 1418 nghĩa quân Lam Sơn lực lượng còn yếu, thiếu lương, thường bị quân Minh vây đánh, tình thế hết sức ngặt nghèo. Lê Lợi đã hỏi về việc ai có thể đóng giả ông để cứu nguy cho toàn quân, Lê Lai đã nhận lời. Sự kiện này được các sử liệu chép có sai khác, chép lại chi tiết dưới đây.
Sách Lam Sơn thực lục chép
Theo sách Lam Sơn thực lục Nhà xuất bản Tân Việt (in lần thứ 3) 1956, bản điện tử, trang số 09) viết:
Khi ấy quân ta chỉ mới được nhỏ, mà thế giặc đương mạnh, Nhà vua bèn vời các tướng mà bảo rằng:
- Ai có thể thay thân khoác hoàng bào, lĩnh năm trăm quân, hai thớt voi, đánh vào thành Tây Đô? Thấy giặc ra đối địch, thì tự xưng tên: "Ta là chủ Lam Sơn đây!". Để cho giặc bắt? Cho trẫm được náu mình, nghỉ binh, thu họp cả quân sĩ, để mưu tính việc về sau!
Các tướng đều không dám nhận lời.'''
Chỉ có Lê Lai thưa rằng:
- Thần bằng lòng xin thay mặc áo chủ công. Ngày sau Bệ Hạ gây nên đế nghiệp, có được thiên hạ, thương đến thần tử, cho con cháu muôn đời được chịu ơn nước. Đó là điều thần mong mỏi!
Đế lạy Trời mà khấn rằng:
- Lê Lai có công đổi áo. Sau này trẫm cùng con cháu, các tướng tá, hay con cháu các công thần, nếu không thương đến công ấy, thì xin đền đài hóa ra rừng núi; ấn vàng hóa ra đồng sắt; gươm thần hóa ra đao binh!
Nhà vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân đến cửa trại giặc khiêu chiến. Giặc cậy quân mạnh xông đánh. Lê Lai cưỡi ngựa, phi vào giữa trận giặc, nói rằng:
- Ta đây là chủ Lam Sơn!
Giặc bèn xúm lại vây, bắt lấy đem về trong thành, xử bằng hình phạt cực ác, ra hẳn ngoài những tội thường làm.
Sách Việt sử tiêu án chép
Sách Việt sử tiêu án (Ngô Thì Sĩ, 1775)
Bình Định Vương đại phá quân Minh ở Mang Thôi. Trước Vương khởi binh ở Lam Sơn, thế quân kém và ít, người Minh lùng bắt mãi, bèn mưu cùng tướng tá rằng: Ai có thể đem thân ra thay ta, để cho ta đi ẩn nấp, giấu tông tích mà cho quân nghỉ, để mưu đồ cử binh lần sau.
Lê Lai xin đem thân nhận lấy việc ấy, Vương lạy khấn trời nói:
"Lê Lai đem thân thay chúa, nếu sau này không nhớ đến công, nguyện cung điện hóa thành rừng núi, bảo ấn hóa thành đồng, thần kiếm hóa thành dao cùn"
Lê Lai liền tự xưng là Bình Định Vương, khiêu chiến với quân Minh rồi chết. Đâu cũng truyền đi là Bình Định Vương chết rồi, người Minh cũng tin là thật, không lưu ý.
Sách Đại Việt thông sử, phần Liệt truyện chép
Theo sách Đại Việt thông sử, Liệt truyện đệ tam, phần viết về Lê Lai:
Năm Mậu Tuất 1418, lúc vua mới dựng cờ khởi nghĩa, tướng ít, quân thiếu, bị tướng nhà Minh vây đánh ở Mường Một, vua chạy thoát về đóng ở Trịnh Cao, nơi hẻo lánh, không dân ở, tướng Minh chia quân chặn những chỗ hiểm yếu, tình thế rất cấp bách, nhà vua hỏi các tướng:
Ai dám đổi áo thay ta đem quân ra đánh giặc, xưng danh hiệu của ta, bắt chước như Kỷ Tín đời Hán, để ta có thể giấu tiếng, nghỉ binh, tập hợp tướng sĩ, mưu tính cuộc nổi dậy về sau ?.
Các tướng đều không ai dám hưởng ứng. Riêng Lê Lai đứng dậy nói: Tôi xin đi. Sau này lấy được nước thì nghĩ đến công lao của tôi, khiến cho con cháu muôn đời được nhờ ơn nước, đó là nguyện vọng của tôi.
Nhà vua rất thương cảm. Ông nói: Bây giờ nguy khốn thế này, nếu ngồi giữ mảnh đất nguy hiểm, vua tôi đều bị tiêu diệt, sẽ sợ vô ích, nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì. Nhà vua vái trời mà khấn rằng:
Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi, cùng con cháu tướng ta công thần, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn báu thành cục đồng, gươm thần biền biến thành con dao cùn.
Ông bèn dẫn hai con voi và 500 quân kéo thẳng tới trại giặc khiêu chiến. Giặc dốc hết quân ra đánh, ông cưỡi ngựa tốt, xông thẳng vào giữa trận hô lên:Chúa Lam Sơn chính là ta đây, rồi đánh chết được rất nhiều quân giặc. Khi đã kiệt sức, ông bị địch bắt, xử cực hình. Sau đó giặc lui quân về thành Tây Đô, việc phòng bị chúng mới sơ hở, ta vừa có thời cơ, nghỉ binh nuôi chứa nhuệ khí, để có thể trăm trận trăm thắng và lấy được thiên hạ.
Sách Đại Việt thông sử, phần Đế Kỷ Đệ nhất chép
Theo sách Đại Việt thông sử, phần Đế kỷ Đệ nhất cuối tháng 1 năm 1418, Thái Tổ Cao Hoàng bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối hiểm yếu. Trong tình thế nguy cấp, Thái Tổ họp các tướng lại hỏi:
Nay thế trận hiểm nguy, có ai dám làm như Kỷ Tín đời Hán, thân khoác hoàng bào mà hi sinh thay trẫm không?
Các tướng đều ngồi yên không ai dám thưa. Lê Lai đứng dậy nói rằng: "Thần nay nguyện được tử trận thay cho chủ công. Ví như sau này giành được giang sơn thì xin nghĩ đến công lao của thần, khiến cho con cháu muôn đời được nhờ quốc ân, được vậy thần chết cũng nhắm mắt."
Thái Tổ rất thương cảm. Lê Lai lại nói: "Tình hình nguy khổn, nếu ngồi khư khư, quân thần chung mạng, bao công sức đây hãy còn gì. Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì?"
Thái Tổ lại vái trời khấn rằng:
"Lê Lai có công đổi áo, nếu sau này khôi phục nghiệp xưa, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn."
Lê Lai vâng mệnh mang 2 voi và 500 quân kéo ra trại quân Minh khiêu chiến. Quân Minh đổ ra đánh. Lê Lai thúc ngựa xông thẳng vào giữa trận hô to:
"Ta là chủ Lam Sơn đây!"
Quân Minh ngỡ là Thái Tổ nên xúm lại đánh kịch liệt. Lê Lai cầm binh dùng kế cầm chân giặc khoảng 500 tấn công quân Minh ác liệt nhưng lại thất bại, bị quân Minh bắt và đem hành hình. Hôm ấy là ngày 29 tháng 4 (theo âm lịch).
Cái chết
Lê Lai chết rồi, Lê Lợi ngầm sai người tìm di hài đem về Lam Sơn mai táng. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), phong Lê Lai là Công thần hạng nhất, tặng là Suy trung Đồng đức Hiệp mưu Bảo chính Lũng Nhai công thần, hàm Thiếu úy, thụy là Toàn Nghĩa.
Tháng 12 năm 1429, vua Lê Thái Tổ, sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thế ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để trong hòm vàng. Lại gia phong làm Thái úy Năm Thái Hòa thứ nhất 1443, ban tặng tước Bình Chương quốc quân trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng, tước Huyện Thượng Hầu. Năm 1470, niên hiệu Hồng Đức tặng tước Diên Phúc Hầu. Năm 1484 truy tặng tước Thái úy Phúc Quốc Công, sau gia phong Trung Túc Vương.
Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 âm lịch, năm 1433, trước khi mất có dặn lại đời sau phải làm giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Từ đó dân gian truyền lại câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Lê Lai được ban tước Vương và ban ruộng tế tự, vào năm 1672, đời vua Lê Gia Tông, triều đình có chính sách giảm lộc điền đối với các công thần, nhưng riêng số ruộng cấp cho con cháu Lê Lai để tế tự thì vẫn được giữ nguyên, ban cho 100 mẫu. Đến năm 1761, triều đình lại biểu dương tấm lòng trung trinh của ông.
Gia đình
Cả gia đình Lê Lai đều chết vì việc nước. Anh ông là Lê Lạn tử trận khi tham gia đánh ải Khả Lưu năm 1425, được phong tặng Hiệp Quận Công, hàm Thái phó.
Lê Lai có ba con trai, đều được Lê Lợi nuôi như con đẻ:
Lê Lư, tử trận khi vây thành Nghệ An năm 1425. Năm 1428 Tặng hàm Thiếu úy, đến đời vua Lê Thánh tông tặng tước Kiến tiết hầu, về sau gia tặng Kiến quận công.
Lê Lộ, trong trận đánh năm 1421 ở ải Kình Lộng đã dẫn phụ binh đánh bại Trần Trí, thăng là Tả trung quân tổng đốc chư quân sự. Năm 1424 theo Lê Lợi đánh châu Trà Lân, phá quân Phương Chính và Sư Hựu, thăng làm Thái bảo. Tháng 10 năm 1424 ông trúng tên mà chết. Năm 1428, Lê Lợi tặng Thái úy. Đến đời vua Lê Thánh Tông tặng là Chiêu Công hầu, sau gia tặng Chiêu quận công.
Lê Lâm, theo Lê Lợi lập được nhiều công lao, năm 1428 được phong làm Thứ thủ quân Thiết đột, là một trong những người được gọi là Lũng nhai công thần, phong là Trung Lượng đại phu, Câu kiềm vệ tướng quân, tước Thượng trí tự Suy trung đồng đức Hiệp mưu bảo chính công thần. Năm 1430, Lê Lâm làm tiên phong đi đánh Ai Lao, đuổi giặc bị trúng chông độc tử trận, tặng làm Thiếu úy. Lê Lâm sinh con là Lê Niệm làm trọng quan triều đình, gia phong làm Trung quốc công, ban tên thụy là Uy Vũ.
Những thông tin về những Lê Lai khác
Theo sách Võ tướng Thanh Hoá trong lịch sử dân tộc, sử sách, văn bia còn để lại một số nghi vấn về những nhân vật khác cũng có tên Lê Lai sống cùng thời khởi nghĩa Lam Sơn.
Sách Lam Sơn thực lục tục biên nêu trường hợp Nguyễn Thận người Mục Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hoa) là công thần khởi nghĩa Lam Sơn, được đổi sang họ Lê và tên Lai. Sách có đề cập đến một Lê Lai liều mình cứu chúa bị tử trận và sau đó nhân vật Nguyễn Thận này vẫn tiếp tục hoạt động. Như vậy đây là hai người khác nhau.
Văn bia ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) cũng đề cập đến một công thần khác của Lê Lợi cũng có tên là Lê Lai.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư phần bản kỷ, quyển số 10, trang 27b chỉ thấy chép: "Ngày 13 tháng 1 năm Đinh Mùi (1427) giết Tư mã Lê Lai, tịch biên gia sản vì Lai cậy có chiến công nên nói năng khinh mạn". Nên có giả thuyết rằng, Lê Lai may mắn sống sót sau khi cứu chúa, tiếp tục tham gia kháng chiến và bị chính Lê Lợi ra lệnh giết về sau này. Tuy nhiên trong các sách viết về khởi nghĩa Lam Sơn chỉ có sách này chép việc Lê Lai bị Lê Lợi giết và sách này cũng không chép việc Lê Lai liều mình cứu chúa.
Nhận định
Các sử quan thời nhà Nguyễn đã cho rằng:Vua nhà Lê đã có tài như vua nhà Hán là Cao Tổ, tôi nhà Lê lại cũng trung liệt như tôi nhà Hán là Kỷ Tín: nghìn năm bất hủ.
Các công trình gắn với tên tuổi Lê Lai
Phố Lê Lai
Đây là con phố nhỏ thuộc phường Lý Thái Tổ, tại trung tâm quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam, dài 420m, kéo từ phố Đinh Tiên Hoàng đến phố Trần Quang Khải.
Phố được chia làm hai đoạn. Đoạn từ Đinh Tiên Hoàng tới chỗ giao cắt Lý Thái Tổ - Ngô Quyền là đường một chiều (theo hướng Đinh Tiên Hoàng sang), đối xứng chiều với phố Lê Thạch song song qua vườn hoa Lý Thái Tổ. Phần kia là đường hai chiều.
Phố được xây trên nền đất của hai thôn cũ là Vọng Hà và Hậu Bi thuộc hai tổng Tả Túc và Hữu Túc, đều thuộc huyện Thọ Xương. Phố có từ thời Pháp thuộc, được phân ra làm hai phố là Rue Dominé (đoạn từ Đinh Tiên Hoàng tới chỗ giao cắt Lý Thái Tổ - Ngô Quyền) và Rue Bonhour (đoạn từ đường Trần Quang Khải tới chỗ giao cắt Lý Thái Tổ - Ngô Quyền). Sau năm 1945, hai phố này được gộp làm một và được đặt tên là Lê Lai.
Tên ông được đặt cho nhiều con đường trên khắp Việt Nam như đường Lê Lai ở phường Bến Thành, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; đường Lê Lai, thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng.
Tại huyện Ngọc Lặc quê hương ông, trước đây có Phố Lê Lai (nay là Đường Phố Cống, thị trấn Ngọc Lặc).
Năm 2019, tỉnh Thanh Hóa quyết định đặt tên Đại lộ Lê Lai cho con đường lớn mới mở nối từ đường Hồ Chí Minh vào khu trung tâm hành chính mới của huyện Ngọc Lặc.
Đền thờ Lê Lai
Đền thờ Lê Lai (dân địa phương gọi là đền Tép) thuộc địa phận làng Tép (Thôn Thành Sơn), xã Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hóa, cách khu di tích Lam Kinh 5 km về phía Tây, được nhà nước công nhận là di tích quốc gia. Hàng năm vào các ngày mùng 8 tháng Giêng và 21/8 âm lịch địa phương đều mở hội, rước kiệu và dâng hương tại Đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai (hay còn gọi là Đền Tép). Năm 2013, phần chính điện đã bị cháy. Hiện nay đã được phục dựng..
Tên trường
Năm 1999, UBND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định thành lập Trường THPT Lê Lai tại chính quê hương ông ở xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa. |
Turbo Pascal là một trình biên dịch và một môi trường phát triển tích hợp (IDE) cho ngôn ngữ Pascal chạy trên nền hệ điều hành MS-DOS và CP/M, được phát triển bởi hãng Borland. Cái tên Borland Pascal dành riêng cho phiên bản tốt hơn của Turbo Pascal (với nhiều thư viện chuẩn và mã nguồn hơn). Borland Pascal cũng được dùng để chỉ trình biên dịch Pascal của hãng Borland.
Các phiên bản
Turbo Pascal 4 sửa lại thư viện đồ họa của Turbo Pascal 3 và đưa vào khái niệm unit (đơn vị chương trình).
Turbo Pascal 5 có tính năng lập trình hướng đối tượng (OOP).
Turbo Pascal 6 có một số tính năng mới trong đó IDE được cải thiện, cho phép mở nhiều cửa sổ soạn thảo cùng lúc (Multi-document interface) (MDI)
Turbo Pascal 7 có một số tính năng mới trong đó có cải thiện IDE trong đó có hỗ trợ đổi màu mã lệnh (color-coding).
Các phiên bản mới của Turbo Pascal có kèm theo Turbo Vision, một GUI framework phát triển bởi Borland, dành cho C++ và Pascal.
Trong Giáo dục
Borland Pascal vẫn được giảng dạy ở một số quốc gia ở cấp trung học, dạng thứ sáu và đại học. Nó được giảng dạy tại các trường cao đẳng và đại học ở Costa Rica, Thổ Nhĩ Kỳ, Đức, Liên bang Nga, Mỹ, Malta và tại các trường trung học ở Argentina, Bỉ, Bulgaria, Canada, Costa Rica, Croatia, Pháp, Ý, Jamaica, Libya, Moldova, Romania, Serbia, Tunisia, Ukraine, Cộng hòa Séc và Việt Nam (nay đã chuyển sang Free Pascal). Đó là ngôn ngữ lập trình giáo dục được nhà nước phê duyệt cho tất cả các trường trung học ở Nam Phi cho đến năm 2002. Ngày nay, nó tiếp tục được giảng dạy ở một số trường đại học trên thế giới như là một giới thiệu về lập trình máy tính, thường tiến tới C hoặc Java hoặc cả hai.
Một số giảng viên thích sử dụng Borland Pascal 7 hoặc Turbo Pascal 5.5 vì tính đơn giản của nó so với các IDE hiện đại hơn như Microsoft Visual Studio hoặc Borland JBuilder, vì vậy nó giới thiệu cho sinh viên không quen với việc tính toán với các tác vụ thông thường như sử dụng phím tắt và bàn phím (TP 5.5 không có hỗ trợ chuột), làm quen với các lệnh DOS (phần lớn giống như các dấu nhắc lệnh của Microsoft Windows) và cho phép chúng viết chương trình mà không tốn nhiều công sức để môi trường hoạt động. TP 5.5 có sẵn dưới dạng tải xuống miễn phí từ Borland.
Lịch sử hình thành
Turbo Pascal được xây dựng trên nền trình biên dịch Blue Label Pascal được viết cho hệ điều hành NasSys của NasCom vào năm 1981 bởi Anders Hejlsberg. Đây là lần viết lại đầu tiên của trình biên dịch Compas Pascal cho hệ điều hành CP/M và trình biên dịch Turbo Pascal cho hệ điều hành MS-DOS và CP/M. Một phiên bản của Turbo Pascal đã được viết cho máy Apple Macintosh từ năm 1986 nhưng cuối cùng cũng bị bỏ dở năm 1992. Một phiên bản khác cũng được viết cho máy DEC Rainbow sau một vài lần phát hành.
Mẫu ví dụ
Pascal không phân biệt chữ hoa chữ thường.
Trong lịch sử, các bình luận Pascal được đính kèm { within pairs of braces }, hoặc (* left parenthesis/asterisk and asterisk/right parenthesis pairs *), chúng có thể trải rộng bất kỳ số lượng dòng nào. Các phiên bản sau của Borland Pascal cũng hỗ trợ các nhận xét kiểu C ++ // preceded by two forward slashes, kết thúc ở cuối dòng.
Cú pháp cho câu lệnh case linh hoạt hơn Pascal chuẩn.
Các bộ chỉ có thể có tối đa 256 (2 mũ 8) thành viên.
Pascal tiêu chuẩn String đi trước bởi một byte độ dài được hỗ trợ và có một lượng lưu trữ cố định; các phiên bản sau đã thêm loại kết thúc null linh hoạt hơn, gọi loại cũ hơn là "chuỗi ngắn". Mã nguồn cũ hơn xử lý các chuỗi theo các cách không chuẩn (ví dụ: thao tác trực tiếp byte độ dài như S[0]:=14để cắt một chuỗi) phải có các chuỗi được khai báo là các chuỗi ngắn hoặc được viết lại.
Đây là chương trình Hello world kinh điển trong Turbo Pascal:program HelloWorld;
begin
WriteLn('Hello World')
end. |
Văn Lâm là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Huyện Văn Lâm nằm ở phía bắc của tỉnh Hưng Yên, nằm cách thành phố Hưng Yên khoảng 44 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 20 km, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 104 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
Phía tây giáp huyện Văn Giang và huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
Phía nam giáp thị xã Mỹ Hào và huyện Yên Mỹ
Phía bắc giáp thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Huyện Văn Lâm có diện tích là 75,21 km², dân số năm 2020 là 135.766 người, mật độ dân số đạt 1.805 người/km².
Huyện có thu nhập bình quân tính theo GRDP trên 120.000.000 đồng/ người, tăng 45 triệu đồng so với năm 2015 theo Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Văn Lâm nhiệm kỳ 2020 - 2025. Đây được coi là huyện có kinh tế phát triển đa dạng bậc nhất tỉnh Hưng Yên.
Địa hình
Văn Lâm có đặc điểm địa hình bằng phẳng, cốt đất cao thấp không đều, độ dốc thoải dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao trung bình từ 3 - 4 mét. Là huyện có độ cao trung bình cao nhất tỉnh Hưng Yên.
Khí hậu
Nằm trong vành đai nhiệt đới. Huyện có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình năm là 23,6 °C; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ dao động từ 16 - 22 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.636 mm, độ ẩm trung bình trên 80%.
Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Văn Lâm có tổng diện tích tự nhiên là 75,21 km², trong đó: đất nông nghiệp 3139.3 ha (chiếm 41,74%), đất chuyên dùng 1.839,7 ha (chiếm 24,46%), đất ở 2.463,8 ha (chiếm 33,8%).
Huyện Văn Lâm có nguồn nước ngầm với trữ lượng lớn, chất lượng tốt, khoảng 20 nghìn năm tuổi có khả năng khai thác tới 100.000 m³/ngày/đêm, qua phân tích hàm lượng nước có 43 chất đảm bảo cho khai thác sử dụng, đáp ứng công suất nhà máy nước khoảng 10 triệu lít/năm. Điển hình là nhà máy Lavie miền Bắc tại Ngọc Quỳnh, thị trấn Như Quỳnh, là nơi sản xuất dòng sản phẩm Lavie Premium. Nước khoáng Lavie Premium một sản phẩm cao cấp rất khác biệt dành riêng cho kênh nhà hàng, khách sạn sang trọng.
Hành chính
Huyện Văn Lâm có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Như Quỳnh (huyện lỵ) và 10 xã: Chỉ Đạo, Đại Đồng, Đình Dù, Lạc Đạo, Lạc Hồng, Lương Tài, Minh Hải, Tân Quang, Trưng Trắc, Việt Hưng.
Lịch sử
Dưới thời nhà Lý, huyện Văn Lâm khi đó là một số tổng của huyện Gia Lâm, huyện Tế Giang thuộc phủ Thiên Đức, từ thời Hậu Lê huyện Văn Lâm thuộc Phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc.
Năm 1831, vua Minh Mạng cho đổi trấn Kinh Bắc thành tỉnh Bắc Ninh. Huyện Văn Lâm lúc này gồm một số tổng của huyện Gia Lâm, Văn Giang, Siêu Loại thuộc phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1862, phủ Thuận An được đổi tên thành phủ Thuận Thành, từ đó huyện Văn Lâm thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 25 tháng 2 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập đạo Bãi Sậy, gồm 4 huyện:
Huyện Yên Mỹ: được thành lập từ một số tổng huyện Đông Yên, Ân Thi của tỉnh Hưng Yên; một số tổng của huyện Mỹ Hào của tỉnh Hải Dương, một số tổng của huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh
Huyện Mỹ Hào: gồm các tổng còn lại sau khi cắt sang huyện Yên Mỹ
Huyện Cẩm Lương: gồm một số tổng thuộc huyện Cẩm Giàng của tỉnh Hải Dương, một số tổng thuộc huyện Lương Tài và Siêu Loại của tỉnh Bắc Ninh
Huyện Văn Lâm: chính thức được thành lập gồm một số tổng thuộc 3 huyện Văn Giang, Gia Lâm và Siêu Loại của tỉnh Bắc Ninh.
Sau khi đánh chiếm và áp đặt bộ máy cai trị trên địa phận tỉnh Hưng Yên, thực dân Pháp đã nhiều lần tiến hành thay đổi đơn vị hành chính. Trong năm 1891, hai lần Toàn quyền Đông Dương ra nghị định (12-4) và quyết định (32-11) để bãi bỏ đạo Bãi Sậy, nhập các huyện Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm vào tỉnh Hưng Yên. Riêng huyện Cẩm Lương, phần thuộc Cẩm Giàng trả về nơi cũ, phần thuộc Lương Tài - Siêu Loại đưa vào Văn Lâm, Mỹ Hào.
Ngày 6 tháng 6 năm 1947, Liên Bộ Nội vụ - Quốc phòng đã ra Nghị định số 79 NV-QP/NgĐ chỉ rõ: “Về phương diện kháng chiến và hành chính, Khu 12 nay thuộc Khu 3. Huyện Văn Lâm trước thuộc Hưng Yên, Khu 3 nay thuộc Khu 2.”
Trong giai đoạn 1968–1996, khi tỉnh Hưng Yên hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng thì huyện Văn Lâm thuộc tỉnh Hải Hưng.
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 70-CP về việc:
Hợp nhất hai huyện Văn Mỹ và Văn Yên (trừ 14 xã cắt sang huyện Khoái Châu) thành huyện Mỹ Văn
Sáp nhập 14 xã: Hoàn Long, Yên Phú, Yên Hòa, Tân Tiến, Long Hưng, Cửu Cao, Xuân Quan, Phụng Công, Văn Phúc, Liên Nghĩa, Thắng Lợi, Mễ Sở, Việt Cường, Minh Châu của huyện Văn Yên vào huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá IX đã phê chuẩn việc tách tỉnh Hải Hưng thành 2 tỉnh Hưng Yên và Hải Dương.
Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập, huyện Mỹ Văn thuộc tỉnh Hưng Yên.
Ngày 24 tháng 2 năm 1997, thành lập thị trấn Như Quỳnh thuộc huyện Mỹ Văn trên cơ sở giải thể xã Như Quỳnh.
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 60/1999/NĐ-CP về việc chia huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm và Yên Mỹ.
Huyện Văn Lâm có 7.521,4 ha diện tích tự nhiên và 92.301 nhân khẩu, gồm 11 đơn vị hành chính trực thuộc là các xã: Tân Quang, Lạc Đạo, Đại Đồng, Chỉ Đạo, Việt Hưng, Lương Tài, Minh Hải, Lạc Hồng, Trưng Trắc, Đình Dù và thị trấn Như Quỳnh và giữ ổn định từ đó đến nay.
Ngày 31 tháng 7 năm 2020, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 1005/QĐ-BXD công nhận khu vực phát triển đô thị trung tâm huyện Văn Lâm (gồm thị trấn Như Quỳnh và 5 xã: Đình Dù, Lạc Đạo, Lạc Hồng, Tân Quang, Trưng Trắc) là đô thị loại IV.
Kinh tế - xã hội
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của giai đoạn 2015 – 2020 đạt gần 12,5%/năm. Đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người tính theo GRDP ước đạt trên 120 triệu đồng/ người; giá trị sản xuất trên 1 ha canh tác đạt 205 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,42%.
Năm 2022, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện đạt nhiều kết quả tích cực: Tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt 9,21% trong đó công nghiệp xây dựng tăng 9,31% - thương mại dịch vụ tăng 10,24% - nông nghiệp thủy sản tăng 3,71%. Tổng thu ngân sách nhà nước ước thực hiện cả năm đạt 9.359,749 tỷ đồng, đạt 411,31% kế hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo là 1,42% theo chuẩn mới (giảm 0,28% so với năm 2021), hộ cận nghèo 1,44% (giảm 0,1% so với năm 2021). Tỷ lệ làng, khu phố văn hóa đạt 98,75%. Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 91,5% (tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2021). Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 97,06% (tăng 1 trường so với năm 2021). Đời sống của Nhân dân từng bước được cải thiện; quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp, xây dựng 81,81% - Thương mại, dịch vụ 15,34% - Nông nghiệp, thủy sản 3,48%. Thu nhập bình quân 77,64 triệu đồng/ người.
Huyện đã được công nhận là huyện nông thôn mới năm 2019. Năm 2022, huyện đã có 2 xã Tân Quang và xã Đình Dù được công nhận là xã nông thôn mới kiểu mẫu, 8 xã nông thôn mới nâng cao là các xã Trưng Trắc, Lạc Hồng, Lạc Đạo, Chỉ Đạo, Minh Hải, Đại Đồng, Việt Hưng và Lương Tài trong đó có 13 khu dân cư được công nhận là khu dân NTM cư kiểu mẫu.
Văn Lâm đang đẩy nhanh việc hình thành và đầu tư xây dựng các khu đô thị và các dự án dân cư cấp đô thị đã được chấp thuận trên địa bàn huyện.
Nông nghiệp
Trồng lúa, hoa, cây cảnh, cây ăn quả, cây dược liệu, trồng rau. Bên cạnh đó còn có chăn nuôi gia súc, gia cầm nhỏ.
Năm 2022, diện tích gieo trồng toàn huyện là 4.744,84ha trong đó diện tích lúa là 3.853,4ha năng suất lúa cả năm đạt 61,68 tạ/ha, diện tích rau màu và cây dược liệu là 891,44ha. Tổng đàn lợn 15.423 con, trâu bò 1.290 con, tổng đàn gia cầm 375.000 con.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Địa bàn huyện có 1 khu công nghiệp tập trung phố nối A 688,4ha (quy hoạch mở rộng 204,6ha), có các cụm công nghiệp Như Quỳnh, cụm công nghiệp Tân Quang 1-2-3,cụm công nghiệp Minh Khai 1-2-3, cụm công nghiệp Trưng Trắc - Đình Dù, CCN Lạc Đạo, CCN Minh Hải 1-2, CCN Chỉ Đạo, CCN Đại Đồng, CCN Lương Tài(quy hoạch) CCN làng nghề đúc đồng Lộng Thượng các cụm công nghiệp làng nghề hiện đang phát triển với tốc độ nhanh chóng, tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn công nhân của huyện, của vùng hằng năm.
Toàn huyện có 1247 doanh nghiệp đang hoạt động tạo việc làm cho trên 59.000 lao động. Trong đó có 1 doanh nghiệp Nhà nước, 1.136 doanh nghiệp tư nhân , 110 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, Văn Lâm là trung tâm công nghiệp, thương mại quan trọng của tỉnh Hưng Yên do có vị trí tiếp giáp thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương. Giao thông khá đa dạng kết nối đến các tỉnh bạn và là huyện nằm dọc tuyến đường 5A.
Thương mại - Dịch vụ
Trên địa bàn huyện hiện có rất nhiều khu vực thương mại dịch vụ phát triển tại các khu vực trung tâm xã, thị trấn và các khu vực khác ven các đường tỉnh và đường huyện đang gây ra áp lực lớn lên cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Toàn huyện có trên 600 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực thương mại- dịch vụ.
Bên cạnh đó Văn Lâm cũng là một trung tâm tài chính của phía Bắc tỉnh Hưng Yên với sự xuất hiện của hàng loạt trụ sở và văn phòng giao dịch của các ngân hàng nhà nước và tư nhân như Agribank, BIDV, MB, Techcombank, Vietcombank, Sacombank, DongA Bank, ACB, SHB, ABBank, VBSP...
Trên địa bàn đã xuất hiện nhiều thương hiệu bán lẻ và ẩm thực nổi tiếng trên thị trường Việt Nam như siêu thị Intimex Như Quỳnh, Thế giới di động, điện máy xanh, TTTM Như Quỳnh Center, Media Mart, Winmart+, FPT Long Châu, Viettel Store, Highland, Toco Toco, TokyoLife,...
Dịch vụ khách sạn nhà hàng rất phát triển trong đó có 2 khách sạn là Phương Anh và Meliá Grand đạt tiêu chuẩn 4* đầu tiên tại Hưng Yên. Trên địa bàn cũng có một vũ trường V Sound là vũ trường đầu tiên và duy nhất tại Hưng Yên đang hoạt động.
Đô thị
Ngày 31 tháng 7 năm 2020, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 1005/QĐ-BXD công nhận khu vực phát triển đô thị trung tâm huyện Văn Lâm (gồm thị trấn Như Quỳnh và 5 xã: Đình Dù, Lạc Đạo, Lạc Hồng, Tân Quang, Trưng Trắc) được công nhận là đô thị loại IV.
Ngoài các khu đô thị đã được xây dựng. Hiện nay, huyện đang đẩy mạnh giải phóng mặt bằng triển khai một số dự án đô thị lớn để nâng cấp và mở rộng đô thị trung tâm như khu đô thị Vinhomes Ocean Park 3 The Crown tại xã Tân Quang 137ha, Khu nhà ở và dịch vụ đô thị công nghiệp Như Quỳnh 37ha, Khu đô thị Hòa Phát Phố Nối Forestar tại xã Minh Hải 20ha, khu dân cư mới Minh Hải - Phan Đình Phùng 25ha, tổ hợp khu dịch vụ thương mại và nhà phố tại thị trấn Như Quỳnh 3,7ha, Khu dân cư mới Đình Dù- Trưng Trắc 7ha, khu đô thị Hoàng Gia GĐ1 (2,4ha), khu đô thị Vlasta- Văn Lâm 143ha, khu đô thị Đình Dù- Như Quỳnh giáp đường tỉnh 385 và ĐH11B, ĐH12B (143,2ha)...
Huyện đang đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn để hoàn thiện và nâng cao các tiêu chí của đô thị loại IV, III hướng tới xây dựng đề án công nhận huyện Văn Lâm đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV trước năm 2025, đạt tiêu chuẩn đô thị loại III và được công nhận là thành phố trực thuộc tỉnh Hưng Yên trước năm 2030 vào dịp kỷ niệm 30 năm tái lập huyện.
Giáo dục và đào tạo
Trên địa bàn huyện hiện có một số trường đại học, cao đẳng như: Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh, Trường Cao đẳng Y Dược Asean, Trường Cao Đẳng Dược Hà Nội, Trường Trung cấp tổng hợp Đông Đô, Trường Trung cấp nghề Á Châu, Trường Trung cấp nghề Châu Hưng ... góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho vùng tỉnh và cả nước trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Năm học 2021-2022, toàn huyện có 37 trường học các cấp trong đó: cấp mầm non có 14 trường (11 trường công lập, 3 trường tư thục), 27 cơ sở mầm non tư thục/ 358 nhóm, lớp/ 7.469 trẻ . Cấp tiểu học có 11 trường 319 lớp/ 13.403 học sinh. Cấp THCS có 12 trường 196 lớp/ 8.427 học sinh. Toàn huyện có 892 phòng học, có 33/34 trường công lập đạt chuẩn Quốc gia. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 97,06%. Tổ chức kỳ thi học sinh giỏi lớp 9 cấp huyện và tham gia cấp tỉnh đạt 51 giải trong đó có 2 giải nhất, 11 giải nhì, 22 giải ba, 16 giải khuyến khích xếp thứ nhất/ 10 huyện, thị xã, thành phố và được Bộ trưởng Bộ GDĐT tặng bằng khen.
Cấp THPT do sở GDĐT quản lý có 4 trường và 1 trung tâm GDTX.
Nơi đây có 29 tiến sĩ được ghi tên trên các danh bia tại Văn miếu Quốc Tử Giám và Văn miếu Xích Đằng. Trong đó có trạng nguyên Dương Phúc Tư người xã Lạc Đạo.
Y tế - dân số
Trên địa bàn huyện ngoài Trung tâm y tế huyện được đầu tư nâng cấp các phương tiện, trang thiết bị, máy móc hiện đại, còn có các bệnh viện tư nhân nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh với 55.447 lượt khám bệnh, số bệnh nhân điều trị nội trú 3.989 lượt, 100% trạm y tế xã đạt chuẩn, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 99,4%.
Dân cư: chủ yếu là dân tộc Kinh. Huyện Văn Lâm có dân số là 135.766 người, mật độ 1.805 người/km² là nơi có mật độ dân cư cao nhất tỉnh Hưng Yên theo số liệu năm 2020. Năm 2022, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,47%, tỷ số giới tính khi sinh 125,2 nam/ 100 nữ.
Văn hóa - thể thao - du lịch
Năm 2022, toàn huyện có 79/80 làng, khu phố đạt danh hiệu " làng, khu phố văn hóa" đạt tỷ lệ 98,75%. Tỷ lệ gia đình văn hóa 91,5%; huyện có 72 thiết chế văn hóa trong đó 01 cấp huyện, 10 nhà văn hóa xã, thị trấn, 61 nhà văn hóa thôn - khu phố.
Huyện có 36 di tích được xếp hạng gồm : 01 cấp Quốc gia đặc biệt, 17 cấp Quốc gia, 18 cấp tỉnh và 2 bảo vật Quốc gia; Lễ hội Cầu mưa xã Lạc Hồng được ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Huyện còn có một số làng nghề truyền thống như: đúc đồng tại làng Lộng Thượng, kinh doanh chế biến phế liệu tại làng Văn Ổ và Xuân Phao của xã Đại Đồng, làng nghề trồng hoa cây cảnh, làng nghề nấu rượu tại Lạc Đạo và Hành Lạc, Làng nghề đậu ở thôn Xuân Lôi, xã Đình Dù (đã được công nhận Làng nghề do UBND tỉnh Hưng Yên trao tặng năm 2000).
Toàn huyện có hơn 30 làng nghề, làng có nghề trong đó có 6 làng nghề được UBND tỉnh công nhận đạt tiêu chí cấp tỉnh.
Tại đại hội TDTT cấp tỉnh năm 2022 huyện Văn Lâm giành được 25 HCV, 21 HCB, 26 HCĐ và đạt được một số giải toàn đoàn như giải nhất bóng chuyền hơi nam- nữ, Taekwondo, giải nhì karate, giải ba bóng chuyền nam, HCV bóng chuyền hơi nam- nữ tại hội thao người cao tuổi tỉnh Hưng Yên.
Giải bóng chuyền hơi trung, cao tuổi toàn Quốc diễn ra tại tỉnh Cao Bằng đội bóng chuyền cao tuổi của huyện giành 1HCV, 1HCB, 1HCĐ.
Làng nghề
Văn Lâm là một huyện thuộc tỉnh Hưng Yên mảnh đất trăm nghề. Huyện có nhiều làng nghề, làng có nghề rất riêng mà ít nơi có như nhóm mộc ngoài mộc dân dụng nội thất còn có (đóng lắp loa, bàn bi a, quan tài...); nhóm nghề chế biến thực phẩm và nông sản ngoài làm bún bánh, giò, chả, nấu rượu còn có các làng có nghề làm nem chua, cơm nắm muối vừng, kiệu... Các nhóm nghề khác như đúc đồng, tái chế kim loại, thu gom tái chế phế liệu nhựa và tạo hạt, trồng hoa, may mặc, xây dựng, dược liệu, vận tải... cũng rất phát triển thu hút nhiều lao động. Với vị trí giáp thủ đô huyện có rất nhiều làng nghề truyền thống và làng nghề mới như:
Làng nghề đúc đồng Lộng Thượng (Đại Đồng)
Dược liệu thuốc nam Nghĩa Trai (Tân Quang)
Mộc (loa, bàn bi a, quan tài...); thực phẩm (rượu, giò, chả, cơm nắm...) thôn Ngọc (Lạc Đạo)
Hoa huệ, nấu rượu ở Hành Lạc (thị trấn Như Quỳnh)
Nghề mây tre đan Thanh Khê (Minh Hải)
Nghề làm giò chả thôn Đình Dù (Đình Dù)
Nghề may và may da Chí Trung (Tân Quang)
Làm mũ cối làng Cát (Chỉ Đạo)
Nghề phế liệu thôn Hùng Trì (Lạc Đạo)
Làng nghề sơ chế dược liệu Ngọc Lịch (Trưng Trắc)
Làng nghề giò chả nem bóng Thọ Khang (Tân Quang)
Một số làm vận tải đường bộ và dịch vụ vận tải các thôn gần Chợ Đường Cái
Trồng lá dong Tuấn Dị (Trưng Trắc)
Có nghề thợ mộc thôn Trình (Lạc Đạo)
Tái chế chì Đông Mai (Chỉ Đạo)
Làng hoa đào tết thôn Ngọc Đà (Tân Quang)
Chế biến thực phẩm, mộc xóm Mụ (Lạc Đạo)
Nghề mộc dân dụng thôn Hoằng (Lạc Đạo)
Nem chua, bì, bóng Bình Lương (Tân Quang)
Chế biến, buôn bán thực phẩm Thị Trung (Đình Dù)
Phế liệu Văn Ổ, Xuân Phao (Đại Đồng)
Đóng quan tài, bàn bi a, mộc và thực phẩm thôn Cầu (Lạc Đạo)
May da, giả da thôn Ngọc Loan (Tân Quang)
Trồng và muối dưa kiệu Tân Nhuế (Lạc Đạo)
Thợ xây dựng, nề, chát Việt Hưng
Trồng hoa làng Ghênh (Như Quỳnh)
Nghề nấu rượu thôn Đoan Khê và cả xã Lạc Đạo
Làng có nghề mộc thôn Giữa (Lạc Đạo)
Đậu phụ làng Xuân Lôi (Đình Dù)
Tái chế nhựa, phế liệu thôn Minh Khai (Như Quỳnh).
Nghệ thuật
Nét đẹp của nghề đúc đồng: Từ xa xưa vùng đất làng Nôm (nay thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm) đã được nhiều người biết đến với ngôi làng cổ kính với những ngôi nhà cổ, dải ao giữa làng, cầu đá, cây đa... Hay chợ phiên là nét đặc trưng của Văn Lâm xưa và khu vực lân cận như: chợ phiên Nôm (ngày 1,4,6,9), chợ phiên Đậu (ngày 3,8), chợ phiên Keo (ngày 1,3,6,8)... đã chứng tỏ nơi đây là vùng sầm uất, buôn bán sôi động từ thời xa xưa. Xa xưa đã có câu:
Ai về đồng nát cầu Nôm
Con gái nỏ mồm về ở với cha.
Nội dung đã nói về một nghề của vùng đất cổ này đó là nghề đúc, chế tác một kim loại quý đó chính là đồng.
Nghề đúc đồng ở cầu Nôm xưa là một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt Nam. Những sản phẩm đa dạng bằng đồng đạt trình độ cao về kỹ thuật, mỹ thuật được lưu lại từ trước đến nay đã cho thấy sự tài hoa, khéo léo của người thợ thủ công.
Cách đây khoảng 3000 năm, người Việt tại vùng đồng bằng sông Hồng này đã biết đúc các công cụ, vũ khí, đồ trang sức bằng đồng thau, mở đầu cho thời đại kim khí. Đặc biệt các sản phẩm bằng đồng còn giữ lại đến ngày nay là những bằng chứng cho những thời kỳ phát triển huy hoàng của nghề đúc đồng ở Việt Nam. Sau này, kế thừa và phát huy tài hoa ấy của ông cha người thợ thủ công đã sáng tạo ra nhiều sản phẩm phong phú, tinh xảo hơn để phục vụ các nhu cầu về kinh tế, quân sự, phong tục, tín ngưỡng...
Từ thế kỷ XVII - XVIII một bộ phận cư dân vùng Cầu Nôm tản đi mang theo nghề đến nhiều nơi trong đó phường đúc nổi tiếng Ngũ Xã, nay thuộc quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Sự hình thành các trung tâm đúc đồng theo địa bàn cư trú của người Việt đến nay vẫn giữ được nghề. Cầu Nôm (Rồng, Hưng Yên), Ngũ Xã (Hà Nội), phường Đúc (Thừa Thiên - Huế), Phước Kiều (Quảng Nam)...
Các tác phẩm nổi tiếng như hàng loạt trống đồng được đúc vào nhiều thời kỳ hoặc những sản phẩm bằng đồng hiện có ở nhiều nơi như tượng đồng đen chùa Quán Thánh (1667), tượng Phật Di Lặc chùa Ngũ Xã (Hà Nội), vạc đồng ở Đại Nội (1659 - 1684), khánh (1677), chuông (1710) chùa Thiên Mụ, Cửu Vị Thần Công (1803 -1804) ở Huế và nhiều địa phương khác như Hưng Yên, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nam... là một thành tựu phát triển đa dạng và rực rỡ của nghề đúc đồng ở Việt Nam.
Du lịch
Chùa Nôm ( Linh Thông Cổ Tự)
Chùa Nôm là một ngôi chùa gần như vẫn giữ được nguyên vẹn vẻ cổ kính của chùa cổ ở đồng bằng Bắc Bộ. Nằm ở làng Nôm thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Chùa được xây dựng từ năm nào không ai rõ, duy có hai tấm bia lớn đặt sau hậu cung ghi lại những tư liệu quý: Thời Hậu Lê, triều Chính Hòa, năm Canh Thân (1680) sau khi lên ngôi, nhà vua đã cho xây dựng lại chùa này. Tiếp theo vào các năm Nhâm Thân (1692), Giáp Tuất (1694), Đinh Sửu (1697), Mậu Dần (1698), Kỷ Mão (1699) tiếp tục tu sửa lại tiền đường, hậu cung và hành lang. Năm Chính Hòa thứ 21 (1700) chùa được sửa lại các cột trụ, tạo thêm tượng, mở rộng sân chùa. Năm Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn thứ 4 (1796) chùa xây thêm gác chuông và mở rộng hai dãy hàng lang.
Thời nhà Nguyễn, triều vua Thành Thái năm thứ 11 (1899) chùa Nôm lại được trùng tu thêm một lần nữa. Qua bao biến cố, chùa được trùng tu nhiều lần, trở thành ngôi chùa khang trang.
Điều đặc biệt là tại chùa Nôm hiện có đến hơn 100 pho tượng cổ bằng đất như Tam thánh, Tam thế, A Di Đà, Phật bà, Bát bộ Kim Cương, Thập bát la hán... ước tính có hàng trăm năm tuổi. Các pho tượng đều ngồi, đứng trên một giá đỡ bằng đất với đủ các tư thế mập, ốm, hiền lành, dữ tợn, dân dã, thần tiên... với nhiều kích thước khác nhau, vẻ mặt hình dáng có sức biểu cảm cao.
Đặc biệt, chùa Nôm còn lưu giữ được một tòa tượng cổ bằng đồng cực kỳ quý hiếm có tên gọi "Cửu Long Phật đản". Tòa tượng này miêu tả cuộc đời của đức Phật tổ Như Lai. Chính giữa tòa tượng là cảnh Phật tổ từ khi mới chào đời, xung quanh là chín con rồng uốn lượn, trên mỗi con rồng là một hình người nhỏ tượng trưng cho từng giai đoạn cuộc đời và tu hành của đức Phật. Ngoài ra, tại đây còn có nhiều hiện vật quý khác như tháp đồng, chuông đồng, đỉnh đồng....
Về với chùa Nôm, ngoài sự chiêm ngưỡng, khám phá về một ngôi chùa cổ của Việt Nam, các bạn còn được đắm mình vào một quần thể di tích làng Nôm cổ kính bao gồm cổng làng Nôm, cầu Nôm (cây cầu đá cổ nhất vùng châu thổ sông Hồng), chợ Nôm, đình Tam Giang với kiến trúc bằng đá thời Hậu Lê... để từ đó du khách sẽ tìm thấy không gian yên bình, dân dã đậm chất quê, vẻ đẹp của làng quê Bắc Bộ xưa.
Chùa Thái Lạc
Chùa Thái Lạc thờ bà Pháp Vân là một ngôi chùa thuộc hệ thống chùa thờ Tứ pháp tọa lạc tại xã Lạc Hồng. Trong chùa còn lưu giữ được nhiều hệ thống tượng pháp quý và kiến trúc chạm khắc gỗ đạt tới nghệ thuật tinh tế. Đây là ngôi chùa được Nhà nước cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1964. Sau đó Chùa đã được Bộ Văn hóa thể thao và du lịch công nhận là Di tích cấp Quốc gia đặc biệt 2018.
Chùa Hương Lãng (Thạch Quang Tự)
Chùa Hương Lãng, còn gọi là chùa Ông Sấm, chùa Lạng là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời nhất Việt Nam. Tương truyền, chùa Hương Lãng do Thái hậu Ỷ Lan cho xây dựng vào thời Lý, khoảng năm 1115 với bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”. Chùa đã được xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1974. Tượng sư tử đá và hệ thống thành bậc đá chùa Hương Lãng được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2020.
Lễ hội cầu mưa
Lễ hội cầu mưa của xã Lạc Hồng gắn liền với hệ thống thờ Tứ pháp gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Lễ hội kéo dài trong 3 ngày từ ngày 06 đến ngày 08/3 âm lịch. Ngày 12/01/2022, Bộ trưởng Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 68/QĐ-BVHTTDL về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Theo đó, Lễ hội cầu Mưa, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Chùa Ông ( Bản Tịch Tự)
Chùa Ông hay có tên gọi khác là Bản Tịch tự, tọa lạc tại xã Tân Quang mang vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông đến nay đã gần một thiên niên kỷ, là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời nhất Việt Nam. Chùa ông có sự đặc biệt không giống với các ngôi chùa khác bởi chùa được chính vua Lý Thần Tông xem thế cắm đất và cho xây dựng, điều mà hiếm có một ngôi chùa khác tại Việt Nam có được. Năm 2001, Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
Đền Ghênh
Đền Ghênh tọa lạc tại thôn Ngọc Quỳnh, thị trấn Như Quỳnh được xây dựng từ năm 1115 (thời nhà Lý) là nơi lưu giữ dấu ấn lịch sử của Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan tại nguyên quán. Ngày 2/2/1993, đền Ghênh Hưng Yên đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia.
Giao thông
Giao thông vận tải
Văn Lâm được coi là cửa ngõ phía Đông của thủ đô Hà Nội.
Tuyến quốc lộ 5A chạy qua đây là tuyến đường huyết mạch của vận tải miền bắc di chuyển hàng hóa từ cảng Hải Phòng đến các tỉnh miền Bắc và thủ đô Hà Nội đi qua các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội.
Nơi đây là huyện duy nhất của cả tỉnh Hưng Yên có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua, dọc theo quốc lộ 5A đến thị trấn Như Quỳnh thì không song song quốc lộ 5A nữa mà rẽ trái chạy song song với đường tỉnh 385 Hưng Yên theo hướng đông sang Hải Dương, Hải Phòng.
Hệ thống cầu, đường chính trên địa bàn đã cơ bản được đầu tư, cải tạo. Đường giao thông nông thôn được quan tâm xây dựng, cải tạo các tuyến đường trục xã, cứng hóa đường trục thôn.
Đây cũng là địa phương có dự án đường vành đai 4 vùng thủ đô Hà Nội đi qua đang được xây dựng.
Các tuyến giao thông chính
- Quốc lộ 5A: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng (cắt đường tỉnh 385 tại cầu vượt đường sắt Như Quỳnh km13 + 968).
- Đường tỉnh 385: Như Quỳnh - Lương Tài.
Điểm đầu Km0+00 giao với QL.5 thuộc địa phận thị trấn Như Quỳnh huyện Văn Lâm, điểm cuối Km17+200 thuộc địa phận xã Lương Tài huyện Văn Lâm. Tuyến đường đi qua huyện Văn Lâm có chiều dài 17,2km.
- Đường tỉnh 376: Quán Chuột ( Ngã tư Phố Nối A) - Triều Dương.
Điểm đầu Km0+00 giao với QL.5 tại quán Chuột thuộc địa phận xã Trưng Trắc huyện Văn Lâm, điểm cuối Km37+854,63 giao với QL.39 tại Triều Dương thuộc địa phận xã Thiện Phiến huyện Tiên Lữ, chiều dài tuyến đường 51,45km
- Đường tỉnh 380: Cầu Gáy (Đại Đồng) - Dân Tiến.
Điểm đầu Km0+00 cầu Gáy giáp Bắc Ninh, tuyến đi theo đường cũ đến ngã 5 cầu Treo, tuyến đi trùng với QL.39 đến Km7+450 thuộc xã Trung Hưng huyện Yên Mỹ; điểm cuối Km17+330 (Km10+780 QL.39) thuộc xã Dân Tiến huyện Khoái Châu. Tuyến đi qua các huyện Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu. Chiều dài tuyến đường 17,33km.
- Đường tỉnh 387: Lương Tài - Bãi Sậy.
Điểm đầu Km0+000 giao với ĐT.385 thuộc địa phận xã Lương Tài, huyện Văn Lâm, điểm cuối Km18+400 (đò Hà đi Hải Dương) thuộc địa phận xã Bãi Sậy huyện Ân Thi. Tuyến đường đi qua huyện Văn Lâm, Mỹ Hào, Ân Thi, chiều dài tuyến đường 18,4km, chiều dài quản lý 17,7km (đi trùng QL.38 0,7km).
- Đường tỉnh 381C: Ga Lạc Đạo - Tân Tiến (Văn Giang). Hiện đã có dự án nối tuyến đường này từ Ga Lạc Đạo với ĐT 283 đi tỉnh Bắc Ninh dài 1,42km được gọi là ĐH 13 kéo dài quy hoạch mắt cắt ngang 40m.
Điểm đầu Km0+00 giao với ĐT.385 tại xã Lạc Đạo huyện Văn Lâm, tuyến đi qua Khu Công nghiệp Hòa Phát thuộc xã Minh Hải huyện Văn Lâm đến giao với QL.5, tuyến đi trùng với ĐT.376 khoảng 1,5km, tuyến đi tiếp qua xã Vĩnh Khúc, xã Tân Tiến huyện Văn Giang vượt cao tốc Hà Nội - Hải Phòng đến giao với ĐH.23 thuộc địa phận xã Tân Tiến huyện Văn Giang. Tổng chiều dài tuyến đường 10,5km.
- Đường liên tỉnh Hưng Yên - Bắc Ninh (Chùa Nôm- Lăng Kinh Dương Vương).
Tuyến hình thành trên cơ sở ĐH15 và xây mới đoạn từ cầu trên ĐH.15 bắc qua sông Bắc Hưng Hải, tuyến chạy ven sông Bắc Hưng Hải kết nối với ĐT.281 Bắc Ninh (tuyến kết nối từ chùa Nôm tỉnh Hưng Yên đến Lăng Kinh Dương Vương tỉnh Bắc Ninh). Tổng chiều dài 2,8km trong đó đoạn làm mới từ ĐH.15 đến giáp Bắc Ninh dài khoảng 1,7km; đoạn từ ĐT.385 cắt qua ĐH.15 đến chùa Nôm 1,1km.
- Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng (do đặc thù ngành đường sắt và giao thông tại Việt Nam nên hiện nay trên địa bàn huyện có 2 nhà ga là: Lạc Đạo và Tuấn Lương đều không thực hiện đón trả khách).
- Đường tỉnh 379 (Đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên kéo dài đang xây dựng).
Đoạn 1 của dự án có chiều dài khoảng 14,8 km, có điểm đầu tại Km 3+280 giao với đường tỉnh 379B, điểm cuối Km 18+116 tại nút giao giữa đường vào trạm thu phí đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với tuyến đường bộ nối đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình.
Đoạn 2 (kéo dài) có chiều dài khoảng 18,7 km, có điểm đầu tại nút giao giữa đường tỉnh 380 và Quốc lộ 39, điểm cuối tại cầu Gáy (tiếp giáp tỉnh Bắc Ninh).
- Đường vành đai IV vùng thủ đô Hà Nội giai đoạn 2022- 2027 đang thực hiện công tác GPMB tái định cư. Hiện đã GPMB xong diện tích đất nông nghiệp, đất công ích và đã thực hiện lễ khởi công vào ngày 25/6/2023.
- Đường tỉnh 382D được hình thành trên cơ sở đường gom chạy song hành 2 bên đường vành đai 4 vùng thủ đô Hà Nội có chiều dài khoảng 17,7km mặt cắt ngang mỗi bên từ 12-15m, tuyến được thực hiện đồng thời cùng với đường vành đai 4 theo tiêu chuẩn đường đô thị.
-Đường ĐH15 kéo dài
tuyến đường kết nối các xã và phía Đông với đô thị trung tâm được xây dựng mới đoạn từ Quốc lộ 5 thôn Minh Khai thị trấn Như Quỳnh đến giao ĐT380 tại cống Trịnh xã Chỉ Đạo mặt cắt ngang nền đường 28m hiện đang thi công đoạn từ km0+000 - km2+700 từ QL5 vào CCN Minh Khai. Tuyến giao với đường trục trung tâm huyện tại km2+300 giao với ĐH13 kéo dài tại km6+ 435 giao với ĐT380 tại km8+ 130.
- Đường ĐH18 kéo dài giao với đường trục trung tâm huyện đang được mở rộng theo quy hoạch chiều dài 700m mặt cắt nền đường 30m.
Quy hoạch
- Đường tỉnh 381B được hình thành trên cơ sở đường vành đai 3,5 Hà Nội đoạn qua địa phận tỉnh Hưng Yên ( đang xây dựng trên địa phận huyện Văn Giang). Đoạn qua địa phận tỉnh Hưng Yên từ cầu Ngọc Hồi vượt sông Hồng tuyến cắt ĐT.378, ĐT.379, cao tốc Hà Nội-Hải Phòng giao với QL.5 tại xã Trưng Trắc.
- Tuyến đường gom KCN phía Nam đường sắt Hà Nội - Hải Phòng từ Như Quỳnh đến Lương Tài tổng chiều dài 17 km chiều rộng mặt đường 7,5m tổng vốn đầu tư gần 1000 tỷ đồng thời gian hoàn thành 2023-2025.
- Đường trục trung tâm huyện Văn Lâm dài 1,5km điểm đầu giao ĐH18 điểm cuối giao ĐH15 kéo dài chiều rộng nền đường 28m.
-Tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng: Nâng cấp thành đường sắt đôi khổ 1435mm.
-Tuyến đường sắt đô thị Lạc Đạo - thành phố Hưng Yên.
-Tuyến đường sắt vành đai đô thị Ngọc Hồi - Lạc Đạo - Bắc Hồng - Thạch Lỗi.
Trong kế hoạch ngắn và trung hạn huyện Văn Lâm sẽ thực hiện cải tạo nâng cấp xây dựng thêm các tuyến đường phố mới theo tiêu chuẩn đô đường đô thị, di chuyển và xây mới ga Lạc Đạo tại khu vực cảng cạn ICD xã Đại Đồng.
Cấp điện: Các tuyến đường dây tải điện và các trạm biến áp trung và hạ thế trên địa bàn huyện đã từng bước được nâng cấp. Đến nay 100% số hộ nông thôn đã có điện.
+ Trạm 220kV Phố Nối: 220/110/22kV công suất 2x250MVA.
+ Trạm 110kV Giai Phạm: 110/22kV công suất (2x63)MVA.
+ Trạm 110/35/22kV Lạc Đạo công suất (1x125+2x63) MVA.
+ Trạm 110/22kV Như Quỳnh công suất (2x63) MVA.
+ Trạm 110/35/22kV KCN Phố Nối A công suất (1x125+2x63) MVA.
+Trạm biến áp 110/22KV Tân Quang với công suất (1x63)MVA
Cấp nước: Đến nay đã có khoảng 92% số hộ được dùng nước sạch, hợp vệ sinh.
Hiện trên địa bàn huyện có 5 nhà máy cấp nước. Trong tương lai sẽ nâng cấp công suất các nhà máy cấp nước, xây dựng mạng đường ống vận chuyển khép kín cho toàn huyện và 05 nhà máy cấp nước trong huyện (nhà máy nước Như Quỳnh, Trưng Trắc, Chỉ Đạo, An Sinh, Lương Tài) sẽ đấu nối vào mạng này, đảm bảo việc cung cấp nước trong huyện được liên tục.
Thông tin liên lạc: Mạng lưới bưu chính viễn thông được quan tâm phát triển, phát huy tốt tác dụng của điểm bưu điện văn hóa xã. 100% các thôn trong huyện đã có mạng lưới cable viễn thông tốc độ cao.
Người nổi tiếng
Phạm Văn Thanh: Chủ tịch Hội đồng Quản trị Petrolimex.
Đỗ Tiến Sỹ: (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1965), là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Bí thư Đảng ủy, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông từng là Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên, Trưởng Đoàn ĐBQH khóa XIV tỉnh Hưng Yên.
Nguyễn Văn Thịnh (sinh ngày 10 tháng 8 năm 1957) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 nhiệm kì 2011-2016 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Hưng Yên.
Đỗ Thị Ánh Nguyệt (sinh năm 2001), quê ở thôn Hồng Thái, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, là một nữ vận động viên bắn cung người Việt Nam.
Danh Nhân
Vũ Đại (1927-1983) tên thật là Nguyễn Thúc Kha nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V, Đại biểu Quốc hội khóa VII, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Nguyễn Hòa (15 tháng 2 năm 1927 – 27 tháng 2 năm 2014; bí danh: Trần Doanh) là một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Tư lệnh quân đoàn 1 trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 Tổng cục trưởng Tổng cục Dầu Khí đầu tiên (năm 1980).
Lê Đức Thịnh (1927 – 2001) là nhà cách mạng và chính khách Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng, Bộ trưởng Bộ Nội thương, Trưởng ban Tài chính - Quản trị Trung ương.
Mai Vi sinh năm 1922 tên thật là Bùi Ngọc Xuyên quê thôn Nội (thôn Tân Nhuế), xã Lạc Đạo nguyên là Trưởng ty công an tỉnh Hà Đông và Yên Bái, Cục phó Cục xuất bản, Vụ trưởng Vụ nghệ thuật sân khấu, Thứ trưởng Bộ văn hóa.
Đặng Vũ Hiệp (1928-2008) (Bí danh: Đặng Hùng) là một tướng lĩnh cao cấp, quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND VN; Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Thời Phong Kiến
Nguyên phi Ỷ Lan (1044 - 1117) sinh ra tại hương Thổ Lỗi sau đổi thành hương Siêu Loại. Hiện nay quê bà ở đâu vẫn còn có nhiều ý kiến, lập luận khác nhau của các nhà sử học. Thực tế hiện nay rất nhiều xã, thị trấn ở khu vực giáp ranh giữa hai huyện Văn Lâm (Hưng Yên) và Gia Lâm (Hà Nội) như Phú Thị, Dương Xá, Dương Quang, Tân Quang và thị trấn Như Quỳnh đều đưa ra các bằng chứng xác định là nơi bà sinh ra. Hương Thổ Lỗi trước kia là một khu vực địa lý rộng, dân cư sinh sống rải rác và thưa thớt trùng với khu vực dân cư đông đúc phía Đông Nam huyện Gia Lâm và phía Tây huyện Văn Lâm ngày nay. Quê hương bà vẫn là sự kiện gây tranh cãi giữa hai huyện Gia Lâm và Văn Lâm, nhiều nhà nghiên cứu sử học cũng có những ý kiến khác nhau nhưng cùng có một ý kiến chung là hương Thổ Lỗi, Siêu Loại thế kỷ XI là một vùng rộng lớn, có sông Thiên Đức, đồng rộng, vườn dâu bát ngát trùng với địa phận một số xã trên của hai huyện Gia Lâm và Văn Lâm ngày nay.
Trương Thị Ngọc Chử chưa rõ năm sinh năm mất do các tài liệu không khớp nhau và không đề cập, quê ở làng Ghênh vùng đất Như Kinh, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc nay là thôn Như Quỳnh (làng Ghênh), thị trấn Như Quỳnh. Bà là mẹ đẻ thân sinh ra chúa Trịnh Cương.
Trương Thị Trong là Thị nội Cung tần, là nhà thơ Việt Nam thời Lê trung hưng.
Lã Đường sinh vào đầu thế kỷ 10 quê ở làng Thổ Lỗi thuộc Tống Bình, ngày nay là thôn Minh Khai (tên nôm là làng Khoai), thị trấn Như Quỳnh. Thời loạn 12 sứ quân Lã Đường chiếm giữ và cai quản vùng đất Tế Giang (vùng đất thuộc huyện Văn Giang và một phần các huyện Văn Lâm, Gia Lâm, Yên Mỹ ngày nay).
Dương Phúc Tư (1505 -1563) Quê quán: Xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, nay là xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Đinh Mùi niên hiệu Vĩnh Định 1 (1547) đời Mạc Phúc Nguyên. Làm quan nhà Mạc đến chức Tham chính.
Lê Hanh Huyễn (1458 - ?) Quê quán: thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) đời Lê Thánh Tông. Làm quan Đô cấp sự trung.
Nguyễn Oanh Quê quán: thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức 12 (1481) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chúc Đô ngự sử.
Hoàng Chính Liêm Quê quán: thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Canh Tuất niên 21 (1490) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Đô ngự sử.
Đỗ Thọ Quê quán: thôn Tuấn Dị, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Quý Sửu niên hiệu Hồng Đức 24 (1493) đời Lê Thánh Tông. Được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh. Làm quan đến chức Thị lang.
Đỗ Tuy (1456 - ?) Quê quán: thôn Cầu, xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Quý Sửu niên hiệu Hồng Đức 24 (1493) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
Nguyễn Thanh (1467 - ?) Quê quán: thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông. Làm quan đến Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sỹ.
Nguyễn Trí Tri Quê quán: thôn Ngải Dương, xã Đình Dù, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thống 2 (1499) đời Lê Hiến Tông. Làm quan đến chức Lễ bộ Hữu thị lang.
Nguyễn Minh Dương Quê quán: thôn Nghĩa Trai, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhất giáp tiến sỹ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa) khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch 3 (1550) đời Mạc Phúc Nguyên. Làm quan đến chức Hiến sát sứ.
Đỗ An Quê quán: thôn Thái Lạc, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn niên hiệu Sùng Khang 3 (1568) đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến chức Hữu thị lang, tước Trình Khê bá.
Lê Viết Thảng (1525 - ?) Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Sửu niên hiệu Sùng Khang 12 (1577) đời Mạc Mậu Hợp. Làm quan nhà Mạc đến chức Hữu thị lang.
Trần Nghi (1584 - ?) Quê quán: thôn Cầu, xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Bính Thìn niên hiệu Hoằng Định 16 (1616) đời Lê Kính Tông. Làm quan đến chức Dực vận tán trị công thần. Lễ bộ Tả thị lang, tước Thọ Xuyên hầu.
Dương Thuần (1587 - 1667) Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Thừa chính sứ, thăng Hữu thị lang.
Trần Ngọc Nguyên Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhị giáp đồng tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa 6 (1640) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Binh bộ Tả thị lang.
Dương Hạo (1615 -1672) Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa 6 (1640) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến Ngự sử đài đô ngự sử.
Đinh Tất Hưng (1617 - ?) Quê quán: thôn Ngọc Quỳnh, tt. Như Quỳnh, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái 4 (1646) đời Lê Chân Tông. Làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
Phùng Viết Tu (? - 1662) Quê quán: xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức 4 (1652) đời Lê Thần Tông. Làm quan đến chức Thiêm đô ngự sử.
Dương Lệ (1678 -1741) Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Nhâm Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh 8 (1712) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Công bộ Tả thị lang.
Dương Quán (1687 - ?) Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Vĩnh Thịnh 14 (1718) đời Lê Dụ Tông. Làm quan đến chức Giám sát
Dương Trọng Khiêm (1727 -1787) Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời Lê Hiển Tông.
Dương Sử (1716 -1774) Quê quán: xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng 15 (1754) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến chức Đại lý tự khanh.
Nguyễn Huy Quân (1744 - ?) Quê quán: Xã Thanh Khê, huyện Văn Giang, nay là thôn Thanh Khê, xã Minh Hải huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân Thịnh khoa Kỷ Hợi niên hiệu cảnh Hưng 40 (1779) đời Lê Hiển Tông. Làm quan đến chức Hàn lâm viện đãi chế, Thự hiến sát sứ.
Đặng Quỹ (1845 - ?) Quê quán: Xã Lộng Đình, huyện Văn Giang, nay thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Phó bảng khoa Kỷ sửu niên hiệu Thành Thái I (1889) khoa Ất Dậu (1885) đã thi Hội dự thứ trúng cách nhưng can tội khai không đúng hàm của cha, không được dự thi Đình. Sau khi thi đỗ được bổ chức Tư soạn, lĩnh Giáo thụ.
Dương Danh Chú (1696 - ?) Quê quán: Xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, nay là xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm. Thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sỹ xuất thân khoa Tân Hợi niên hiệu Vĩnh Khánh 3 (1731) đời vua Lê Duy Phường. Làm quan đến Lại bộ Tả thị lang.
Đặng Văn Khải (1784-?) Quê quán: thôn Lộng Thượng, xã Đại Đồng ,huyện Văn Lâm. Ông đỗ Cử nhân năm Ất Dậu, tức niên hiệu Minh Mạng thứ 6 1825. Sau ông đỗ đồng tiến sĩ xuất thân vào năm sau, Bính Tuất 1826. Ông làm quan Lang trung, từng được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). |
Bất đẳng thức Cauchy có thể là:
Bất đẳng thức Cauchy về trung bình cộng và trung bình nhân
Bất đẳng thức Cauchy-Schwarz về tích vectơ |
Chủ nghĩa tiền tệ là hệ thống các học thuyết và lý luận kinh tế vĩ mô liên quan đến tiền tệ, một biến số kinh tế quan trọng. Những người theo chủ nghĩa tiền tệ không ủng hộ việc lạm dụng chính sách tiền tệ để ổn định chu kỳ kinh tế. Họ đề nghị để tiền tệ trung lập hoặc chỉ nên giữ cho tốc độ tăng cung tiền chậm, ổn định và vừa đúng bằng tốc độ tăng sản lượng thực tế.
Bối cảnh hình thành
Có thể xem cái mốc hình thành chủ nghĩa tiền tệ là công trình của Milton Friedman công bố năm 1956 liên quan đến thuyết số lương tiền tệ . Trong tác phẩm này, Friedman cho rằng cung tiền mà vượt quá cầu tiền thì người ta sẽ tiêu số tiền dư thừa, khiến cho tổng cầu tăng lên. Điều này rõ ràng trái với lý luận của Keynes rằng tổng cầu không liên quan gì đến tiền tệ .
Tuy nhiên, phải đến giữa thập niên 1960, trường phái này mới trở nên được biết đến nhiều vì thách thức các học thuyết Keynes sau tác phẩm Lịch sử Tiền tệ Mỹ, 1867-1960 do Friedman viết chung với Schwartz trong đó các tác giả cho rằng nguyên nhân của cuộc Đại Khủng hoảng (1929-1933) là sự thu hẹp cung tiền quá mức trong lúc thị trường đói tín dụng chứ không phải là thiếu đầu tư (dẫn tới tổng cầu thiếu hụt so với tổng cung) như Keynes đã nghĩ. Các tác giả còn cho rằng nguyên nhân của hiện tượng lạm phát ở Mỹ là do cung tiền được mở rộng quá mức.
Năm 1968, Karl Bruner đã dùng cụm từ "monetarism - chủ nghĩa tiền tệ" để chỉ các chủ trương và lý luận của Friedman. Cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, các lý luận của chủ nghĩa tiền tệ bắt đầu được áp dụng vào chính sách kinh tế. Alan Greenspan và Ben Bernanke, lần lượt là các chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đều được xem là những người theo chủ nghĩa tiền tệ.
kji
Các lý luận chính
Hàm cầu tiền của Friedman
Xem bài riêng về Hàm cầu tiền của Friedman
Năm 1956, Friedman đã giới thiệu lý luận của mình về cầu tiền, theo đó lượng cầu về tiền của nền kinh tế phụ thuộc vào một vài biến số kinh tế lớn như các thu nhập thường xuyên, lãi suất dự tính của trái phiếu, chứng khoán, tỷ lệ lạm phát dự tính và lợi tức từ tiền. Friedman còn giả định rằng, người ta sẽ chuyển tài sản của mình từ dạng tiền sang hàng hóa nếu phát hiện tỷ lệ lạm phát dự tính tăng lên. Như vậy, chính là cung tiền tăng làm tăng tiêu dùng và do đó làm tăng tổng cầu, gây ra biến động kinh tế.
Thuyết số lượng tiền tệ
Xem bài riêng về Thuyết số lượng tiền tệ
Irving Fisher là người đã đưa ra thuyết số lượng tiền tệ vào năm 1911 với "đẳng thức trao đổi" theo đó lượng cung tiền nhân với tốc độ lưu thông sẽ vừa đúng bằng sản lượng thực tế nhân với mức giá chung. Friedman đã diễn giải lại đẳng thức này ở dạng động học với những giả thiết mới gồm (1) sản lượng thực tế cố định vì ở mức toàn dụng nhân lực, (2) tốc độ lưu thông tiền tệ không thay đổi, (3) cung tiền là biến ngoại sinh vì ngân hàng trung ương là cơ quan quyết định nó. Kết quả là tốc độ tăng cung tiền sẽ bằng tỷ lệ lạm phát. Từ đó kết luận, chính là ngân hàng trung ương gây ra lạm phát khi tăng cung tiền. Lạm phát bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ.
Quan hệ giữa lạm phát và mất giá tiền tệ
Hễ người ta dự tính lạm phát sẽ cao, thì lãi suất trên thị trường mở sẽ được nâng lên khiến cho nội tệ mất giá so với các ngoại tệ ổn định.
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là khái niệm được Friedman giới thiệu vào năm 1968 nhằm mục đích bác bỏ Đường cong Phillips của trường phái tổng hợp. Không thể làm giảm được tỷ lệ thất nghiệp này bằng cách tăng tổng cầu bởi vì điều này chỉ đem lại hậu quả là lạm phát tăng tốc. Sau này, kinh tế học vĩ mô cổ điển mới phát triển khái niệm này thành tỷ lệ thất nghiệp không làm gia tốc lạm phát.
Chú thích và tham khảo
Monetarism
Case, Karl and Fair, Ray (2002), Principles of Economics, Prentice Hall Business Publishing
"The Quantity Theory of Money: A restatement", 1956, in Friedman, editor, Studies in Quantity Theory.
Thực ra, từ cuối thế kỷ 19, các lý luận mang tính hệ thống liên quan đến tiền tệ đã xuất hiện.
Xem Kinh tế học Keynes
(1963) A Monetary History of the United States, 1867-1960
"The Role of Money and Monetary Policy", 1968, St. Louis Fed Review
Xem bài Monetarism của Allan H. Meltzer.
Friedman, Milton (1968), "The Role of Monetary Policy," American Economic Review vol. LVIII (March), pp: 1-17. |
Bướm ngày là các loài côn trùng nhỏ, biết bay, hoạt động vào ban ngày thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera), có nhiều loại, ít màu cũng có mà sặc sỡ nhiều màu sắc cũng có. Thường chúng sống gần các bụi cây nhiều hoa để hút phấn hoa, mật hoa, góp phần trong việc giúp hoa thụ phấn. Bướm ngày nhiều khi gọi tắt là bướm hay bươm bướm, mặc dù bướm có thể chỉ đến bướm đêm (ngai ngài).
Màu sắc
Màu sắc của các loài bướm được tạo ra từ hàng nghìn vảy nhỏ li ti, được xếp lên nhau. Đôi khi nó cũng là những hạt có màu, nhưng trong trường hợp thông thường thì bề mặt tạo ra các vảy này có thể khúc xạ ánh sáng, do đó cánh bướm có màu liên tục thay đổi, lấp lánh khi di chuyển. Thường thì phía dưới có màu xám hoặc nâu khác xa với màu sặc sỡ ở phía trên. Những màu xấu xí này sẽ dùng để ngụy trang khi cánh của nó xếp lại. Điều này sẽ giúp nó thoát khỏi con mắt săn lùng của các loài chim và sâu bọ khác.
Ăn uống
Những bông hoa có màu sặc sỡ thường thu hút bướm hơn. Bướm dùng vòi ống dài của mình để hút sạch mật hoa bên trong đài hoa. Có một số loài bướm lại không bị thu hút bởi những bông hoa đẹp, thay vào là xác chết hoặc chất thải động vật, nó hút chất lỏng bên trong những thứ đó.
Sinh sản
Bướm ngày có vòng đời sinh trưởng khá đặc biệt, từ ấu trùng như các con sâu đến dạng biến thái là dạng nhộng rồi cuối cùng là dạng trưởng thành có cánh.
Giao phối
Màu sắc sặc sỡ có tầm ảnh hưởng quan trọng đến đời sống của bướm. Chúng tìm ra và bắt cặp với nhau bằng cách khoe màu. Một số loài bướm dùng hương trong việc đi tìm bạn đời - một vài miếng vảy trên cánh con đực có mùi thơm để thu hút con cái.
Đẻ trứng
Sau khi giao phối xong, những con cái sẽ tự tìm cây mà có thể làm thực phẩm cho con cái chúng sau này. Bướm chết sau đó ít lâu trước khi đến ngày trứng nở.
Sâu bướm
Những con sâu bướm ăn cây lá nơi nó ở và lớn lên, sau đó nó hóa thành nhộng. Trong kén, nhộng phát triển thành bướm rồi cọ lưng vào kén đến thủng rồi bay ra ngoài.
Những chuyến bay xa
Mỗi con bướm đều có 4 cánh nhưng lại hoạt động như 1 cặp. Bướm đập cánh tương đối chậm (khoảng 20 lần/phút). Tuy vậy, nhiều loài bướm có thể bay rất nhanh và mạnh. Thậm chí có các loài nhỏ nhưng cũng có thể bay xa khi di trú. Ví dụ như bướm Comma có thể bay từ giữa sa mạc Sahara đến Anh, với khoảng cách 2000 dặm trong vòng 14 ngày. Bướm vua di trú hàng năm từ California đến Canada và vô tình bay qua cả Đại Tây Dương.
Loài nguy cấp
Vẻ đẹp của loài bướm là nguyên nhân cho chính sự suy vi của nó vì các nhà sưu tập đổ xô săn bắt với số lượng rất lớn. Một số loài bướm nhiệt đới như loài Monphos của Brasil và loài bướm cánh chim ở Đông Nam Á và Nam châu Úc được sử dụng như đồ trang trí hay một loại trang sức, ngày nay đang có nguy cơ tuyệt chủng. Một số loài được pháp luật bảo vệ, một số được nuôi trong trang trại. Thậm chí có một số loài bướm nhỏ ở Anh và châu Âu đang trong nguy cơ tuyệt chủng, bởi ấu trùng của nó bị phá hoại ghê gớm. Có lẽ các biện pháp bảo vệ Bướm sẽ ban hành, nhưng có lẽ đến khi đó thì đã quá muộn. |
Văn tự ngữ tố (tiếng Anh: morphographic writing), còn gọi là văn tự biểu từ, văn tự từ phù (logographic writing), là tập hợp các ký hiệu văn tự mang đặc điểm là một mình ký hiệu đó đã biểu thị toàn bộ một từ hoặc một ngữ tố (đơn vị nhỏ nhất mang ý nghĩa trong ngôn ngữ). Ký hiệu biểu thị toàn bộ một từ hoặc một ngữ tố gọi là từ phù (logogram). Thuật ngữ văn tự ngữ tố thường được dùng để chỉ các hệ thống văn tự có ký hiệu chủ yếu được sử dụng dưới dạng từ phù, chẳng hạn như chữ Hán, chữ Nôm, chữ tượng hình Ai Cập, chữ Maya.
Từ phù
Các hệ thống văn tự thường được gọi là văn tự ngữ tố như chữ Hán đều là các hệ thống văn tự có ký hiệu chủ yếu được dùng theo dạng từ phù chứ không phải là hệ thống văn tự có tất cả các ký hiệu của nó đều là từ phù. Ngoài từ phù ra, các hệ thống văn tự này còn có các ký hiệu âm tiết hoặc ký hiệu âm tiết và chữ cái. Tuỳ theo cách ký hiệu được dùng để ghi lại lời nói mà cùng một ký hiệu có thể có lúc là từ phù có lúc là ký hiệu âm tiết hoặc chữ cái.
Hệ thống văn tự gồm từ phù, ký hiệu âm tiết, chữ cái biểu thị phụ âm:
Chữ tượng hình Ai Cập – Ai Cập cổ đại
Hệ thống văn tự gồm từ phù và ký hiệu âm tiết:
Chữ tượng hình Anatolia và chữ hình nêm – các dân tộc cổ đại ở Tây Á
Chữ Hán – các dân tộc ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam
Chữ Nôm – các dân tộc ở Việt Nam, phát triển bổ sung dựa trên chữ Hán
Chữ Bu Ma (cổ) – dân tộc Di ở tây nam Trung Quốc
Chữ Maya – các dân tộc Maya ở Trung Mỹ
Trong các loại văn tự nêu trên, chữ Hán là loại văn tự duy nhất còn được dùng phổ biến trong thời hiện đại.
Thanh phù
Trong một hệ thống văn tự ngữ tố, thường có những chữ mang theo một thành phần định âm hoặc có âm được suy ra từ những chữ liên quan, và cả những chữ chỉ dành để định âm.
Có thành phần định âm: Trong chữ Hán, chữ hình thanh (xem Lục Thư) gồm một "phần hình" mang ý nghĩa và một "phần thanh" mang phát âm. Ví dụ: chữ 忠 (trung) gồm phần hình 心 (tâm, mang nghĩa "trái tim", "tấm lòng") và phần thanh 中 (trung, có nghĩa "ở trong", "ở giữa") hợp lại thành nghĩa "tấm lòng trung" (như trong "trung thành").
Có âm suy ra từ chữ liên quan: Trong chữ Nôm, những chữ Nôm "giả tá âm" mượn âm Hán – Việt của một chữ Hán, nhưng được hiểu theo nghĩa tương ứng với âm Nôm (âm thuần Việt). Ví dụ: chữ 終 (Hán – Việt "chung") có nghĩa là kết thúc (như trong "chung kết") được mượn làm chữ "chung" nghĩa là "cùng nhau" (như trong "chung một giàn").
Chữ định âm: Phần lớn chữ trong chữ hình nêm là những chữ chỉ dùng để chỉ một âm nào đó (giống như chữ cái trong chữ tượng thanh). Ví dụ: 𒀀="a", 𒐀="ba", 𒁕="da".
Nghĩa phù
Trong một hệ thống văn tự ngữ tố, một chữ thường được cấu tạo từ (hoặc mang theo) một vài thành phần mang ý nghĩa cơ bản, như những bộ thủ trong chữ Hán, hay những định tố trong chữ tượng hình Ai Cập.
Chữ tượng hình
Trong các cách cấu tạo chữ Hán, hay còn gọi là Lục Thư, "tượng hình" còn là cách cấu tạo đơn giản nhất dùng để tạo nên các chữ Hán sơ khai nhất mang những ý nghĩa cơ bản nhất bằng cách "vẽ lại" hình dạng của những thứ thường gặp. Ví dụ: để chỉ Mặt Trăng người ta vẽ , sau thành chữ 月; để chỉ dòng nước, người ta vẽ , sau thành chữ 水.
Ưu khuyết điểm
Ưu điểm
Không có quan hệ giữa chữ và tiếng: mỗi chữ có thể mang một nghĩa thống nhất cho mọi ngôn ngữ. Đây là cái lợi lớn nhất mà người Trung Quốc đã tận dụng được để thống nhất các phương ngữ tiếng Hán khác nhau trong ngữ tộc Hán được người Trung Quốc xem là các "phương ngôn" khác nhau của một ngôn ngữ duy nhất là tiếng Hán trong quốc gia rộng lớn của họ. Nhờ sức mạnh biểu ý đó mà chữ Hán đã lan rộng ra các nước lân cận như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Cũng nhờ tính biểu ý đó mà các dân tộc cổ đại lưu truyền kiến thức lại được một cách dễ dàng (các nhà khảo cổ học có thể hiểu được những ký hiệu khắc trên đá, dù không biết tiếng nói thời đó ra sao).
Khuyết điểm
Không có quan hệ giữa chữ và tiếng: một người không thể nào phát âm được một chữ mới, và ngược lại không thể viết lại khi nghe những từ lạ.
Phức tạp: số chữ trong một hệ thống văn tự ngữ tố của một ngôn ngữ thường lớn hơn rất nhiều so với số chữ cái trong một hệ thống văn tự tự mẫu tương ứng; hơn nữa, những ký hiệu văn tự ngữ tố diễn tả những khái niệm trừu tượng thường có cấu tạo phức tạp. Đây là bất lợi lớn nhất của văn tự ngữ tố khiến cho người học tốn nhiều công sức để học và nhớ hết các chữ, khiến cho quá trình tự động hóa như in ấn, truyền điện tín, lưu trữ điện tử trở nên vô cùng khó khăn (thực tế là ngày xưa, ngay cả việc khắc bản in, người ta cũng phải làm thủ công). |
Men trong tiếng Việt có thể là:
Tên gọi khác của Enzym.
Tên gọi chung của một nhóm sinh vật thuộc giới Nấm. Xem bài Nấm men.
Rượu bia (khi nói về tác dụng gây hưng phấn hoặc say của chúng).
Tên gọi của lớp thủy tinh tráng trên bề mặt đồ gốm sứ. Xem bài Men gốm.
Tên gọi của lớp thủy tinh tráng trên bề mặt đồ kim loại hay thủy tinh. Xem bài Men thủy tinh.
Màu men gốm.
Lớp khoáng chất che phủ trên bề mặt răng. Xem bài Men răng.
Lớp màng polymer che phủ trên bề mặt dây dẫn điện. Xem bài Dây điện tráng men. |
Men trong bài này là các loài vi sinh vật. Các nghĩa khác, xem bài Men.
Men là các loài nấm đơn bào, với một số ít các loài thường được sử dụng để lên men bánh mì hay trong sản xuất các loại đồ uống chứa cồn, cũng như trong một số mẫu tế bào nhiên liệu đang thử nghiệm. Phần lớn các loài men thuộc về ngành Nấm túi (Ascomycota), mặc dù có một số loài thuộc về ngành Nấm đảm (Basidiomycota). Một số ít các loài nấm, chẳng hạn như Candida albicans, có thể gây bệnh ở người (Candidiasis). Trên 1.000 loài men đã được miêu tả. Loài men được con người sử dụng phổ biến nhất là Saccharomyces cerevisiae, nó được dùng để sản xuất rượu vang, bánh mì và bia từ hàng nghìn năm trước.
Sinh lý học
Các loài men có thể là các vi sinh vật hiếu khí bắt buộc hoặc là các vi sinh vật kỵ khí không bắt buộc. Hiện nay người ta vẫn chưa thấy có men thuộc loại kỵ khí bắt buộc. Khi thiếu oxy, các loài men tạo ra năng lượng cho chúng bằng cách chuyển hóa các cacbohyđrat thành dioxide cacbon và êtanol (rượu) hoặc axít lactic. Trong sản xuất rượu, bia thì người ta thu lấy êtanol, còn trong việc sản xuất bánh mỳ thì dioxide cacbon tạo ra độ xốp cho bánh mỳ và phần lớn êtanol bị bay hơi.
Ví dụ đã đơn giản hóa quá trình phân hủy glucoza như sau:
C6H12O6 (glucoza) →2C2H5OH + 2CO2
Sử dụng trong công nghệ sinh học
Các thuộc tính sinh lý học có ích của men đã dẫn tới việc sử dụng chúng trong công nghệ sinh học. Quá trình lên men các loại đường bởi men là ứng dụng lâu đời và rộng rãi nhất của công nghệ này. Men bánh mỳ được sử dụng để sản xuất bánh mỳ, men bia được dùng để sản xuất bia, và men cũng được sử dụng trong sản xuất rượu vang. Men cũng là một trong số các sinh vật mẫu được sử dụng rộng rãi nhất trong nghiên cứu di truyền học và tế bào sinh học.
Sinh sản
Men có thể sinh sản vô tính thông qua mọc chồi hoặc hữu tính thông qua sự hình thành của nang bào tử. Trong quá trình sinh sản vô tính, chồi mới phát triển từ men mẹ khi các điều kiện thích hợp và sau đó, khi chồi đạt tới kích thước của men trưởng thành thì nó tách ra khỏi men mẹ. Khi các điều kiện dinh dưỡng kém các men có khả năng sinh sản hữu tính sẽ tạo ra các nang bào tử. Các men không có khả năng đạt được chu trình sinh sản hữu tính đầy đủ được phân loại trong chi Candida.
Công dụng
Các đặc tính sinh lý hữu ích của nấm men đã dẫn đến việc sử dụng chúng trong lĩnh vực công nghệ sinh học . Lên men đường bằng nấm men là ứng dụng lâu đời nhất và lớn nhất của công nghệ này. Nhiều loại men được sử dụng để làm nhiều loại thực phẩm: men làm bánh mì trong sản xuất bánh mì, men bia trong quá trình lên men bia , men trong quá trình lên men rượu vang và sản xuất xylitol . Cái gọi là men gạo đỏ thực chất là một loại nấm mốc , Moncus purpureus . Nấm men bao gồm một số sinh vật mẫu được sử dụng rộng rãi nhất cho di truyền học và sinh học tế bào.
Đồ uống có cồn
Đồ uống có cồn được định nghĩa là đồ uống có chứa ethanol (C2H5OH). Ethanol này hầu như luôn được sản xuất bằng quá trình lên men - quá trình chuyển hóa carbohydrate bởi một số loài nấm men trong điều kiện kỵ khí hoặc oxy thấp. Đồ uống như mật ong, rượu vang, bia hoặc rượu chưng cất đều sử dụng men ở một số giai đoạn sản xuất. Đồ uống chưng cất là đồ uống có chứa ethanol đã được tinh chế bằng cách chưng cất . Nguyên liệu thực vật chứa carbohydrate được lên men bằng men, tạo ra dung dịch ethanol loãng trong quá trình này. Các loại rượu mạnh như whisky và rượu rum được điều chế bằng cách chưng cất các dung dịch etanol loãng này. Các thành phần khác ngoài ethanol được thu thập trong phần ngưng tụ, bao gồm nước, este và các loại rượu khác, (ngoài rượu được cung cấp bởi gỗ sồi mà nó có thể được ủ trong đó) tạo nên hương vị của đồ uống.
Làm bánh
Nấm men, phổ biến nhất là S. cerevisiae , được sử dụng trong nướng bánh như một chất tạo men , nơi nó chuyển đổi thức ăn /đường có thể lên men có trong bột nhào thành khí carbon dioxide . Điều này làm cho bột nở ra hoặc nổi lên khi khí tạo thành túi hoặc bong bóng. Khi bột được nướng, men chết và các túi khí "đóng rắn", tạo cho sản phẩm nướng có kết cấu mềm và xốp. Việc sử dụng khoai tây, nước luộc khoai tây, trứng hoặc đường trong bột nhào bánh mì sẽ làm tăng tốc độ phát triển của nấm men. Hầu hết các loại men dùng trong làm bánh đều thuộc cùng một loại phổ biến trong quá trình lên men rượu. Ngoài ra, Saccharomyces exiguus (còn gọi là S. minor), một loại men hoang dã được tìm thấy trên thực vật, trái cây và ngũ cốc, đôi khi được sử dụng để nướng bánh. Trong sản xuất bánh mì, ban đầu nấm men hô hấp hiếu khí, tạo ra carbon dioxide và nước. Khi oxy cạn kiệt, quá trình lên men bắt đầu, tạo ra ethanol như một chất thải; tuy nhiên, điều này bay hơi trong quá trình nướng.
Một khối men tươi nén
Người ta không biết khi nào men lần đầu tiên được sử dụng để nướng bánh mì. Các bản ghi đầu tiên cho thấy việc sử dụng này đến từ Ai Cập cổ đại. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng hỗn hợp bột mì và nước đã được để lâu hơn bình thường vào một ngày ấm áp và các loại men xuất hiện trong chất gây ô nhiễm tự nhiên của bột mì đã khiến nó lên men trước khi nướng. Bánh mì thu được sẽ nhẹ hơn và ngon hơn so với bánh mì phẳng, cứng thông thường.
Men khô hoạt tính, một dạng hạt trong đó men được bán thương mại.
Ngày nay, có một số nhà bán lẻ men làm bánh; một trong những phát triển trước đó ở Bắc Mỹ là Fleischmann's Yeast , vào năm 1868. Trong Thế chiến II, Fleischmann's đã phát triển một loại men khô hoạt tính dạng hạt không cần làm lạnh, có thời hạn sử dụng lâu hơn men tươi và tăng nhanh gấp đôi. Men làm bánh cũng được bán dưới dạng men tươi được nén thành một "chiếc bánh" hình vuông. Dạng này nhanh hỏng nên phải sử dụng ngay sau khi sản xuất. Có thể sử dụng dung dịch nước và đường loãng để xác định xem men có hết hạn hay không. Trong dung dịch, men hoạt động sẽ sủi bọt khi nó lên men đường thành ethanol và carbon dioxide. Một số công thức gọi điều này là kiểm chứng men, vì nó "chứng minh" (kiểm tra) khả năng tồn tại của men trước khi các thành phần khác được thêm vào. Khi sử dụng chất khởi động bột chua , bột mì và nước được thêm vào thay vì đường; điều này được gọi là chứng minh miếng bọt biển.
Khi men được sử dụng để làm bánh mì, nó được trộn với bột mì , muối và nước ấm hoặc sữa. Bột được nhào cho đến khi mịn, sau đó để bột nở ra, đôi khi cho đến khi bột nở gấp đôi. Bột sau đó được định hình thành ổ bánh mì. Một số bột nhào bánh mì được đánh bật lại sau một lần nở và để bột nở trở lại (điều này được gọi là ủ bột ) và sau đó được nướng. Thời gian ủ lâu hơn sẽ mang lại hương vị thơm ngon hơn, nhưng men có thể không ủ được bánh mì ở giai đoạn cuối nếu để quá lâu ngay từ đầu.
Xử lý sinh học
Một số loại men có thể tìm thấy ứng dụng tiềm năng trong lĩnh vực xử lý sinh học . Một loại men như vậy, Yarrowia lipolytica , được biết là có khả năng phân hủy nước thải của nhà máy dầu cọ , TNT (một chất gây nổ) và các hydrocacbon khác , chẳng hạn như ankan , axit béo , chất béo và dầu. Nó cũng có thể chịu được nồng độ muối và kim loại nặng cao , và đang được nghiên cứu về tiềm năng của nó như một chất hấp thụ sinh học kim loại nặng. Saccharomyces cerevisiae có khả năng xử lý sinh học các chất ô nhiễm độc hại như asen từ nước thải công nghiệp. Các bức tượng bằng đồng được biết là đã bị xuống cấp bởi một số loài men. Các loại men khác nhau từ các mỏ vàng của Brazil tích lũy sinh học các ion bạc tự do và phức hợp.
Đồ uống không cồn
Một số đồ uống có ga ngọt có thể được sản xuất bằng các phương pháp tương tự như bia, ngoại trừ quá trình lên men được dừng lại sớm hơn, tạo ra carbon dioxide, nhưng chỉ một lượng nhỏ rượu, để lại một lượng đường dư đáng kể trong đồ uống.
Thực phẩm bổ sung
Men được sử dụng như một thành phần trong thực phẩm để tạo vị umami , giống như cách sử dụng bột ngọt (MSG) và giống như bột ngọt, thường chứa axit glutamic tự do . Các ví dụ bao gồm:
Chiết xuất nấm men , được làm từ nội dung bên trong của nấm men và được sử dụng làm phụ gia thực phẩm hoặc hương vị . Phương pháp chung để tạo chiết xuất men cho các sản phẩm thực phẩm như Vegemite và Marmite ở quy mô thương mại là tự phân hủy bằng nhiệt , tức là thêm muối vào huyền phù men, làm cho dung dịch ưu trương, dẫn đến tế bào co lại. Điều này kích hoạt quá trình tự phân giải , trong đó các enzym tiêu hóa của nấm men phá vỡ protein của chính chúng thành các hợp chất đơn giản hơn, một quá trình tự hủy diệt. Các tế bào nấm men sắp chết sau đó được làm nóng để hoàn thành quá trình phân hủy của chúng, sau đó vỏ trấu (men có thành tế bào dày sẽ tạo ra kết cấu kém) được loại bỏ. Dịch tự phân men được sử dụng ở Vegemite và Promite (Úc); Marmite (Vương quốc Anh); Marmite không liên quan (New Zealand); Vitam-R (Đức); và Cenovis ( Thụy Sĩ ).
Mảnh men dinh dưỡng có màu vàng Men dinh dưỡng , là các tế bào men khô, đã khử hoạt tính, thường là S. cerevisiae . Thường ở dạng vảy hoặc bột màu vàng, hương vị hạt dẻ và vị umami của nó làm cho nó trở thành một chất thay thế thuần chay cho bột phô mai. Một cách sử dụng phổ biến khác là làm lớp phủ cho bỏng ngô. Nó cũng có thể được sử dụng trong khoai tây nghiền và chiên, cũng như trong trứng bác . Nó ở dạng mảnh, hoặc ở dạng bột màu vàng có kết cấu tương tự như bột ngô . Ở Úc, nó đôi khi được bán dưới dạng "miếng men mặn".
Cả hai loại thực phẩm lên men ở trên đều giàu vitamin B tổng hợp (ngoài vitamin B12 trừ khi được tăng cường), khiến chúng trở thành thực phẩm bổ sung dinh dưỡng hấp dẫn cho người ăn chay trường. Các loại vitamin tương tự cũng được tìm thấy trong một số sản phẩm lên men bằng men đã đề cập ở trên, chẳng hạn như kvass . Đặc biệt, men dinh dưỡng có ít chất béo và natri tự nhiên, đồng thời là nguồn cung cấp protein và vitamin cũng như các khoáng chất và đồng yếu tố khác cần thiết cho sự tăng trưởng. Nhiều nhãn hiệu men dinh dưỡng và chiết xuất men, mặc dù không phải tất cả, đều được bổ sung vitamin B12 , được sản xuất riêng bởi vi khuẩn.
Năm 1920, Công ty Men Fleischmann bắt đầu quảng cáo bánh men trong chiến dịch "Men cho sức khỏe". Ban đầu họ nhấn mạnh men là nguồn cung cấp vitamin, tốt cho da và tiêu hóa. Quảng cáo sau đó của họ tuyên bố có nhiều lợi ích sức khỏe hơn nhiều và đã bị Ủy ban Thương mại Liên bang chỉ trích là gây hiểu lầm . Mốt bánh men kéo dài cho đến cuối những năm 1930.
Men vi sinh
Một số chất bổ sung men vi sinh sử dụng men S.boulardii để duy trì và phục hồi hệ thực vật tự nhiên trong đường tiêu hóa. S.boulardii đã được chứng minh là làm giảm các triệu chứng tiêu chảy cấp tính, giảm khả năng nhiễm trùng do Clostridium difficile (thường được xác định đơn giản là C. difficile hoặc C. diff), giảm nhu động ruột trong hội chứng ruột kích thích tiêu chảy chiếm ưu thế bệnh nhân, và giảm tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy liên quan đến
kháng sinh - du lịch - và HIV/AIDS.
Nghiên cứu khoa học
Một số loại nấm men, đặc biệt là S. cerevisiae và S. pombe , đã được sử dụng rộng rãi trong di truyền học và sinh học tế bào, phần lớn bởi vì chúng là các tế bào nhân thực đơn giản , phục vụ như một mô hình cho tất cả các sinh vật nhân chuẩn, bao gồm cả con người, để nghiên cứu các quá trình cơ bản của tế bào như như chu kỳ tế bào , sao chép DNA , tái tổ hợp , phân chia tế bào và trao đổi chất . Ngoài ra, nấm men dễ dàng được thao tác và nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, điều này đã cho phép phát triển các kỹ thuật tiêu chuẩn mạnh mẽ, chẳng hạn như lai hai loại nấm men , phân tích mảng di truyền tổng hợp , và phân tích tứ diện . Nhiều protein quan trọng trong sinh học của con người lần đầu tiên được phát hiện bằng cách nghiên cứu các chất tương đồng của chúng trong nấm men; những protein này bao gồm protein chu trình tế bào , protein tín hiệu và enzyme xử lý protein.
Vào ngày 24 tháng 4 năm 1996, S. cerevisiae được công bố là sinh vật nhân chuẩn đầu tiên có bộ gen của nó , bao gồm 12 triệu cặp cơ sở , được giải trình tự đầy đủ như một phần của Dự án Bộ gen . Vào thời điểm đó, đây là sinh vật phức tạp nhất được giải trình tự bộ gen đầy đủ và công việc kéo dài bảy năm cùng với sự tham gia của hơn 100 phòng thí nghiệm để hoàn thành. Loài nấm men thứ hai được giải trình tự bộ gen là Schizosaccharomyces pombe, được hoàn thành vào năm 2002. Đó là bộ gen của sinh vật nhân chuẩn thứ sáu được giải trình tự và bao gồm 13,8 triệu cặp cơ sở. Tính đến năm 2014, hơn 50 loài nấm men đã được giải trình tự và công bố bộ gen của chúng.
Nhà máy sinh học biến đổi gen
Nhiều loài nấm men khác nhau đã được biến đổi gen để sản xuất hiệu quả các loại thuốc khác nhau, một kỹ thuật được gọi là kỹ thuật trao đổi chất . S. cerevisiae dễ biến đổi gen; sinh lý học, sự trao đổi chất và di truyền học của nó đã được biết rõ, và nó có thể được sử dụng trong các điều kiện công nghiệp khắc nghiệt. Nhiều loại hóa chất thuộc các nhóm khác nhau có thể được sản xuất bằng men biến đổi gen, bao gồm phenolics, isoprenoids, alkaloids và polyketide. Khoảng 20% dược phẩm sinh học được sản xuất từ S.cerevisiae , bao gồm insulin , vắc-xin phòng viêm gan, và albumin huyết thanh người.
Môi trường phát triển
Nhiều loài men có thể được cô lập từ các môi trường giàu đường. Một số ví dụ điển hình là các loại quả và quả mọng (chẳng hạn nho, táo hay đào), các dịch tiết ra từ thực vật (chẳng hạn như nhựa cây). Một số loài men được tìm thấy sống cùng côn trùng hay dưới đất.
Môi trường phổ biến được sử dụng để nuôi cấy men là PDA (potato dextrose agar- Thạch khoai tây dextroza) hay PDB (potato dextrose broth- Nước luộc khoai tây detroza). Nước chát của khoai tây được tạo ra bằng cách hấp (luộc áp suất) khoai tây cắt nhỏ với nước trong 5 - 10 phút và sau đó chắt nước luộc. Sau đó dextroza (glucoza) được thêm vào (10 g/L) và môi trường được khử trùng bằng cách hấp lại. |
Bùi Thị Phương Thanh, thường được biết đến với nghệ danh Phương Thanh (sinh ngày 27 tháng 4 năm 1973), là một nữ ca sĩ người Việt Nam, từng giành 1 đề cử giải Cống hiến. Với dòng nhạc pop-rock sở trường và chất giọng khàn lạ, cô cũng được biết đến với tư cách là diễn viên của nhiều bộ phim khác nhau.
Tiểu sử
Khởi đầu
Năm 1990, mang theo lời động viên và ước vọng của mẹ, Phương Thanh đăng ký tham gia hàng loạt cuộc thi ca hát tại địa phương và các nhà văn hóa khi vẫn đang theo học tại trường cấp 3 Lê Quý Đôn. Tuy vẫn trắng tay sau rất nhiều cuộc thi nhưng Phương Thanh với lối hát đặc biệt của mình đã được gọi vào Câu lạc bộ ca sĩ trẻ của Nhà văn hóa Thanh Niên Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, Phương Thanh bắt đầu những bước trau dồi đầu tiên cho nghề hát của mình. Khoảng thời gian ngắn sau đó, Phương Thanh bắt đầu đi hát tại các buổi tiệc tùng và kiếm sống được bằng nghề nghiệp của mình.
Khoảng năm 1993-1994, với sự giúp đỡ của nhạc sĩ Bảo Phúc và nhạc sĩ - tay guitar bass nổi tiếng Lý Được, Phương Thanh được giới thiệu vào những vũ trường nổi tiếng trong thành phố như Phương Đông, Queen Bee,... để biểu diễn. Trong thời gian này, Phương Thanh cũng tham gia vào tam ca Sao Đêm cùng Nguyên Lộc và Quốc Hưng. Một thời gian sau, Phương Thanh được Minh Thuận giới thiệu vào hát cho Nhà hát Hòa Bình.
Nhưng cơ hội thật sự để cô được biết đến đó là ca khúc "Xa rồi mùa đông" của nhạc sĩ Nguyễn Nam. Thời điểm ấy, nhạc sĩ Nguyễn Nam đang là biên tập viên chương trình ca nhạc trên Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Ông có ý định tìm một ca sĩ thể hiện ca khúc của ông. Trong một cuộc trò chuyện, nhạc sĩ Nguyễn Nam đã nhờ nhạc sĩ Mạnh Trinh tìm giúp "một con bé ca sĩ có thể hát tới nốt mí". Và Phương Thanh đã được lựa chọn.
Dấu ấn tiếp theo để ghi đậm tên tuổi của Phương Thanh vào lòng khán giả đó là ca khúc "Giã từ dĩ vãng" trong bộ phim cùng tên. Bằng giọng hát khàn buồn gần như bản năng, Phương Thanh chinh phục trái tim người nghe bằng chất thật trong giọng hát và cảm xúc của cô. Bộ phim thành công còn ca khúc cũng vượt qua khỏi khuôn khổ một ca khúc nhạc phim để trở thành một ca khúc được ưa chuộng trong suốt nhiều năm liền và đưa tên tuổi Phương Thanh vào hàng ngũ những ca sĩ được yêu thích nhất vào thời điểm rất tinh mơ của nhạc nhẹ hiện đại Việt Nam.
Sự nghiệp
1997-2007
Năm 1997, cùng với sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của thương hiệu Làn Sóng Xanh, một trong những bảng xếp hạng âm nhạc do Đài tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, nền âm nhạc Việt Nam chứng kiến sự lột xác hoàn toàn cùng sự xuất hiện của dàn sao Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh ở phía Bắc và Lam Trường, Phương Thanh ở phía Nam.
Suốt 10 năm, bảng xếp hạng Làn Sóng Xanh luôn có sự góp mặt của Phương Thanh cùng những ca khúc của mình. Đối với Phương Thanh đây là thời gian cô cảm thấy sung sức nhất. Cô tâm sự: "Tốp ca sĩ Làn sóng xanh đầu tiên như Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Lam Trường,... mỗi người một vẻ, mỗi người một dòng nhạc, không ai giống ai. Vì thế mà mỗi khi bước ra sân khấu, mỗi người cứ việc hát hết sức mình, còn chuyện ai hay hơn ai thì cứ việc dựa vào tiếng vỗ tay của khán giả là biết. Còn thời bây giờ, khi đã có tên tuổi vững vàng, có một lượng fan nhất định rồi, mỗi khi bước ra sân khấu, mình biết ngay là không khí sẽ như thế nào, không còn như lúc trước nữa".
Năm 2007, Phương Thanh phát hành album Sang mùa, với ca khúc chủ đề là một sáng tác của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng, một trong những người bạn thân thiết của Phương Thanh. Đúng như tên của album, Phương Thanh đã lật cuộc đời mình sang trang mới, một mùa mới với hình ảnh và nét nhạc đằm thắm hơn, nữ tính hơn. Cô chia sẻ: "Hơn 10 năm đi hát, giọng hát của Phương Thanh gần như chuyên trị những ca khúc buồn. Hát ca khúc buồn riết rồi những giai điệu buồn đó cứ như ám vào đời mình. Đến thời điểm này thì tôi sợ quá rồi, phải Sang mùa thôi".
Những năm gần đây
Phương Thanh giờ đây không những được biết đến như một ca sĩ thuộc hàng gạo cội mà còn là một diễn viên điện ảnh và một diễn viên cải lương. Cô đã tham gia vào những vai phụ trong các bộ phim điện ảnh Đẻ mướn, Khi đàn ông có bầu, Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Nụ hôn thần chết, Đẹp từng centimet, Giải cứu thần chết, Hot boy nổi loạn... Đặc biệt với vai diễn thầy bói trong bộ phim Nụ hôn thần chết của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng, Phương Thanh đã đoạt được giải thưởng Cánh diều vàng cho hạng mục diễn viên phụ xuất sắc. Với vai cô gái điếm trong bộ phim đề tài đồng tính Hot boy nổi loạn, Phương Thanh đã vinh dự nhận giải nữ diễn viên phụ xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam 17.
Với nghệ thuật cải lương, Phương Thanh đã tham gia và hát cổ nhạc trong một số vở như Kim Vân Kiều, Chiếc áo thiên nga và Lan và Điệp.
Trong năm 2009 dù đã hứa với người hâm mộ sẽ phát hành nhiều album để bù đắp cho một năm 2008 vắng bóng trên thị trường băng đĩa nhưng Phương Thanh cũng chỉ kịp phát hành album "The best of Phương Thanh: Tình 2010". Trong năm 2011 cô đã phát hành các album "Mèo hoang"(rock), "Con ốc bươu" (âm hưởng dân ca).
Gia đình
Phương Thanh là con thứ 6 trong gia đình có 7 anh chị em. Cha mẹ Phương Thanh đều là những nghệ sĩ hoạt động trong quân đội. 6 tuổi, Phương Thanh cùng gia đình chuyển vào sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 13 tuổi, cha Phương Thanh qua đời, những ngày tiếp sau đó, gia đình cô đã phải sống cuộc sống cực khổ.
Năm 2005, Phương Thanh trở thành cái tên được nhắc tới ở nhiều tờ báo khi không chính thức lập gia đình nhưng lại có con. Con gái cô lấy họ mẹ, tên Bùi Hà Nghi Phương. Cô gọi cha của đứa bé là "người đàn ông trong bóng đêm", và tổ chức một chương trình ca nhạc mang tên này. Thông tin về người đàn ông ấy cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ.
Những điều ít biết về Phương Thanh
Nốt ruồi trên mép của Phương Thanh là giả, mỗi khi trang điểm Phương Thanh đều cố tình chấm nốt ruồi cho mình ở vị trí đó. Nguyên do là Phương Thanh rất thần tượng nữ ca sĩ Thanh Lan nên đã bắt chước theo.
Biệt danh Chanh xuất hiện là do nhầm lẫn của người nhập tên cô vào hộ khẩu khi viết nhầm T thành C. Tuy nhiên, lỗi này đã được chỉnh sửa ngay lúc đó nên sự thật là trên tất cả giấy tờ của cô đều ghi rõ tên thật là Bùi Thị Phương Thanh. Riêng Phương Thanh lại rất thích tên gọi này, vì thế bạn bè và thân hữu đều gọi cô là Chanh như một tên gọi thân mật.
Phương Thanh không hề có duyên với các giải thưởng ca nhạc do những nhà chuyên môn làm nhiệm vụ cầm cân nảy mực. Cô đã tham gia rất nhiều cuộc thi âm nhạc như Tiếng hát Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và những cuộc thi do các trung tâm tổ chức nhưng đều tay trắng ra về. Tính đến thời điểm này, các giải thưởng âm nhạc của Phương Thanh như giải Mai Vàng, giải Làn Sóng Xanh và các giải thưởng của các đơn vị khác tổ chức đều do khán giả bình chọn. Cũng vì lẽ đó Phương Thanh từng tâm sự cô thích trở thành "Ca sĩ của nhân dân". Giải thưởng duy nhất được giới chuyên môn trao cho Phương Thanh lại không phải là giải thưởng về âm nhạc mà chính là giải Cánh diều vàng dành cho vai phụ xuất sắc, vai thầy bói, trong phim Nụ hôn thần chết của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng. Như chính cô tâm sự, hiện tại trong bộ sưu tập giải thưởng của mình, Phương Thanh chỉ còn thiếu giải thưởng dành cho bộ môn cải lương mà thôi.
Phương Thanh là người có đời sống tâm linh và tình cảm rất mạnh mẽ. Cô luôn là nơi để những người quen biết có thể tâm sự và chia sẻ những nỗi buồn, những vất vả trong đời sống. Chính cô cũng thừa nhận: "Phương Thanh có thể bị lừa về tiền bạc, nhưng tình cảm thì không".
Scandal
Đánh người
Tự nhận bản thân là một người nóng tính, Phương Thanh được cho là đã từng tát Hồ Ngọc Hà và Nini Khanh
Trong khoảng năm 2004, Hồ Ngọc Hà được cho là đã có quan hệ tình cảm với Huy MC vì thế Phương Thanh đã tát Hồ Ngọc Hà để ra mặt cho bạn của mình là Thu Phương, vợ cũ của Huy MC. Tuy nhiên một nguồn tin khác lại dẫn lời Phương Thanh rằng cô chỉ hăm dọa đánh Hồ Ngọc Hà thông qua người mẫu Xuân Lan chứ không thật sự ra tay. Hiện nay mối quan hệ giữa cả hai vẫn tốt đẹp khi cùng song ca trong một chương trình truyền hình và dành cho nhau những lời lẽ tốt đẹp.
Phương Thanh cũng được cho là đã tát Nini Khanh nhiều cái ngay sau sân khấu Nhà hàng Hồng Kông vì không chịu được thái độ xấc xược của cô này. Sau đó, Phương Thanh còn gọi điện thoại báo với nhạc sĩ Nguyễn Nam, thời điểm đó đang đỡ đầu cho Nini Khanh rằng: "Con vừa đánh vợ bố xong đấy". Sự việc này cũng được cho là dẫn đến chuyện Phương Thanh bị cấm xuất hiện trên Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh một thời gian dài sau đó khi nhạc sĩ Nguyễn Nam đang là trưởng ban biên tập văn nghệ của đài.
Bị khủng bố tin nhắn
Tháng 8 năm 2007, trước thềm thực hiện liveshow "Mưa", Phương Thanh bị một kẻ giấu mặt khủng bố bằng tin nhắn điện thoại với những lời lẽ tục tĩu. Không lâu sau, một người bạn của cô là nhà báo Ngô Thoại Điền bị đánh, phải vào bệnh viện khâu 7 mũi. Vụ này cũng được cho là do nhóm người giấu mặt khủng bố điện thoại gây ra. Sau khi nộp đơn trình báo với cơ quan chức năng, Phương Thanh biết được nhóm người này ở phía Bắc, tuy nhiên cô cũng có những dự đoán riêng của mình về thủ phạm.
Sự kiện này đến nay vẫn chưa chính thức tìm ra thủ phạm.
Mâu thuẫn với Đàm Vĩnh Hưng
Trước khi xảy ra sự kiện "khủng bố tin nhắn", Đàm Vĩnh Hưng và Phương Thanh có mối quan hệ thân thiết trong đời sống và công việc. Theo đó, sau khi xảy ra sự kiện này, Phương Thanh đã đến gặp Đàm Vĩnh Hưng và nói: "Trong chuyện này, Chanh chỉ nghi ngờ Ngọc và Hưng". Đàm Vĩnh Hưng cũng xác nhận thông tin này tuy nhiên anh cho rằng Phương Thanh đang nói về Hồng Ngọc và Tuấn Hưng. Những cơ sở cho nghi ngờ của Phương Thanh là việc tiết mục của cô bị cắt đột ngột trong đêm thứ ba liveshow "Thương hoài ngàn năm" của Đàm Vĩnh Hưng và được trả cát-sê, điều mà trước giờ chưa từng xảy ra trước đó với mối quan hệ thân thiết giữa hai người. Bên cạnh đó, việc nhóm người giấu mặt khủng bố biết mối quan hệ "mẹ nuôi - con nuôi" giữa Phương Thanh và nhà báo Ngô Thoại Điền cũng là một chi tiết khiến cô nghĩ rằng thủ phạm là người ở cạnh mình.
Năm 2007, khi chuyện xích mích giữa Phương Thanh và nhà báo Hương Trà được đưa ra tòa án, Đàm Vĩnh Hưng cũng được cho là đã đưa luật sư của mình để hỗ trợ Hương Trà trong việc phản biện những cáo buộc của Phương Thanh.
Năm 2008, Phương Thanh và Đàm Vĩnh Hưng đều thừa nhận cả hai đã không nói chuyện với nhau hơn một năm. Thời gian này, Phương Thanh cho rằng đã có một người ở cạnh mình bán thông tin để báo chí viết một bài xuyên tạc đời tư của cô. Bên cạnh đó việc các bài báo của Đàm Vĩnh Hưng trùng hợp với những phát biểu của Phương Thanh khiến mối quan hệ của cả hai thêm căng thẳng.
Trả lời về mối quan hệ này, Đàm Vĩnh Hưng cho rằng những mâu thuẫn đã xảy ra chỉ là hiểu lầm và mong rằng có một ngày mọi chuyện sẽ sáng tỏ. Riêng Phương Thanh khẳng định mối quan hệ này đã "hết thuốc chữa". Ngay trong đêm trao giải Làn sóng xanh vào ngày 20 tháng 12 năm 2012, khán giả khi thấy hai người diễn cùng nhau trên sân khấu thì cho rằng cả hai người đã chính thức làm hòa. Nhưng trong một lần phỏng vấn không lâu sau đó, cô đã tuyên bố không hề có chuyện tha thứ hay làm hòa gì ở đây, đơn giản chỉ vì hai người được xếp hát chung, và hát tốp ca chứ không phải song ca. Cô nói "Gương vỡ không bao giờ lành" và cho rằng nếu cứ đụng vào sẽ có ngày đứt tay.
Vụ kiện với Hương Trà
Ngày 29 tháng 9 năm 2007, ca sĩ Phương Thanh tổ chức live show "Mưa" tại nhà thi đấu Phan Đình Phùng. Liveshow kết thúc, blogger Cô gái đồ long tức nhà báo Lê Nguyễn Hương Trà đã có entry về show diễn này. Theo đó đây là show "vào cửa tự do", vì quá thiếu khán giả nên Phương Thanh đã mở cửa cho khán giả vào thoải mái. Phương Thanh cho rằng entry ấy viết không đúng sự thực, hạ thấp uy tín cô vì việc mở cửa tự do là không hề có. Ông Tùng, đại diện công ty Yuki, công ty bảo vệ cho liveshow cũng xác nhận việc này.
Ngay khi sự việc còn chưa nổ ra công khai, blog Cô gái đồ long đã cho xóa bài viết về liveshow "Mưa", nhưng sau đó lại có bài khác về "Chuyện của Cờ". Một số ý kiến cho rằng "Cờ" là cách đọc của ký tự C, có thể liên tưởng đến từ "Chanh" vốn là tên thân mật của Phương Thanh. Entry này viết về "cô ca sĩ Cờ" như một ca sĩ "giang hồ", thích gây chiến với báo chí. Để chuẩn bị cho vụ kiện, Hương Trà đã cậy đến sự trợ giúp của diễn viên, luật sư Thiệu Ánh Dương.
Muốn làm rõ sự việc, Phương Thanh đã gọi điện cho Hương Trà nhiều lần để hẹn gặp, nói chuyện. Hương Trà từ chối nhận cuộc gọi. Đến khi Phương Thanh dùng số điện thoại khác để gọi thì Hương Trà bắt máy, đồng ý gặp mặt, nhưng lại không đến. Quá bức xúc, ngày 16 tháng 10 năm 2007, Phương Thanh đã gởi đơn khiếu nại đến các cơ quan truyền thông trong nước và cả cơ quan chức năng.
Kết quả, tòa án đã bác toàn bộ yêu cầu của Phương Thanh về việc yêu cầu nhà báo Hương Trà (chủ nhân của blog Cogaidolong) phải "xin lỗi công khai". Về entry thứ hai "Chuyện của Cờ", tòa cho rằng Phương Thanh cũng không có cơ sở buộc Hương Trà xin lỗi "đã không viết đúng sự thật" vì chính ca sĩ đã thừa nhận bản thân mình có những sự kiện như thế.
Từ thiện
Ngày 29 tháng 10 năm 2020 Phương Thanh đã đăng lên mạng xã hội về việc đi từ thiện của mình sau khi cơn bão số 9 năm 2020 Molave, gây thiệt hại rất lớn cho các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên việc này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ mạng xã hội và dân địa phương.
Cộng đồng mạng và dân địa phương tỉnh miền trung yêu cầu Phương Thanh xin lỗi, đính chính lại thông tin. Tuy nhiên, mục đích Phương Thanh đã đạt được nên việc xin lỗi là không có.
Danh sách đĩa nhạc
Album phòng thu
Một thời đã xa (1999)
Lang thang - Tình 2000 (1999)
Tiếng rao (2000)
Kẻ hát rong (2000)
Nếu như - Trót yêu (2001)
Khi giấc mơ về (2002)
Hãy để em ra đi - Vì em yêu anh (2003)
Quay về ngày xưa (2004)
Thương một người (2005)
Tìm lại lời thề (2006)
Sang mùa (2007)
Chanh bolero (2007)
Nào có ai biết (2010)
Con ốc bươu (2011)
Mùa xuân đầu tiên (2015)
Tâm sự ngày đông (2015)
Về quê (2016)
Album tổng hợp
The best tình 2010 (2010)
Đĩa đơn / EP
Giã từ dĩ vãng (1998)
Quay về đây - Mèo hoang (2011)
Album thu hình
Live Show 2002 (2002)
Chanh's Show (2007)
Mưa Show (2008)
Danh sách phim
Phim điện ảnh
Trái tim không ngủ yên (1999)
Tiếng hú nơi hoang dã (1999)
Khi đàn ông có bầu (2005)
Đẻ mướn (2005)
Con gái ông chủ vườn thuốc (2006)
Hồn Trương Ba, da hàng thịt (2006)
Võ lâm truyền kỳ (2007)
Phát tài (2008)
Nụ hôn thần chết (2008)
Đẹp từng centimet (2009)
Giải cứu thần chết (2009)
Những nụ hôn rực rỡ (2010)Hot boy nổi loạn và câu chuyện về thằng Cười, cô gái điếm và con vịt (2011)Cát nóng (2012)Nhà có 5 nàng tiên (2013)Hương ga (2014)Siêu nhân X (2015)Tiên nữ không kiêng cữ (2015)Tái sinh (2015)Lô tô (2017)Skin (2018) Chị trợ lý của anh (2019)Phim truyền hìnhKính thưa osin (2009)
Thẩm mỹ viện (2010)Về quê (2013)Bếp hát (nhân viên bồi bàn Thùy Như) (2014)Vừa đi vừa khóc (vai Chanh) (2014)Ngoại tình với vợ (2015)Bồng bềnh trên sông (2016) Osin nổi loạn (2017)Phim cổ tích Việt Nam: Gái khôn được chồng (2021)Thời hoa dại (2022) Phim chiếu mạng
Buôn tay đi (2017) Kiều (vai Tú Bà) (2021) - bộ phim ban đầu là phim điện ảnh, sau đó chuyển sang chiếu mạng.
Gameshow tham gia
Hội ngộ danh hài (2013)
Gương mặt thân quen (2013)
Gương mặt thân quen (2016)
Bụt ngồi trên nệm (2015)
Ơn giời cậu đây rồi (2014 – 2015) Danh hài đất việt (2016)
Giọng hát Việt – Cố vấn của đội Noo Phước Thịnh (2017)
I can do that - Tôi có thể HTV7 (2017)
Bài hát đầu tiên (2020)
Lạ lắm à nha (2023)
Và nhiều chương trình khác
Làm HLV
Biệt đội tài năng – HLV (2016)
Ai sẽ thành sao – HLV (2017)
Rock Việt - HLV (2022)
Làm giám khảo
Ngôi sao Việt (2013, 2014)
Những bài hát còn xanh (2014)
Hoa khôi Áo dài Việt Nam (2014)
Cùng nhau tỏa sáng (2015)
Học viện ngôi sao (2015)
Thử thách người nổi tiếng (2015)
Ngôi sao phương Nam (2015)
Bạn có thực tài (2015)
Ca sĩ giấu mặt (2015)
Hát vui - Vui hát (2016)
Bước nhảy xì tin (2016)
Người nghệ sĩ đa tài (2016)
Cặp đôi vàng (2017)
Hãy nghe tôi hát (2017)
Ngôi sao phương nam (2017)
Tinh hoa hội tụ (2017)
Trời sinh một cặp (2018)
Sao nối ngôi (2019)
Lô tô show - Gánh hát ngàn hoa (2019)
Hát vui – Vui hát (2019)
Ca sĩ thần tượng - 2020
Hát cho ngày mai (2021, 2022)
Miss Petite Vietnam (2023)
Và nhiều chương trình khác
Giải thưởng
Giải Mai Vàng 1998 cho ca khúc Giã từ dĩ vãng (Nguyễn Đức Trung)
Giải Mai Vàng 1999 cho ca khúc Sợi nhớ, sợi thương (Phan Huỳnh Điểu)
Giải Mai vàng 1999 cho ca khúc Một thời đã xa (Trường Huynh)
Giải Mai vàng 2006 hạng mục Nữ ca sĩ nhạc nhẹ được yêu thích nhất với ca khúc Ca dao mẹ (Trịnh Công Sơn)
Đề cử Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến 2006 cho Thương một người'' tại hạng mục "Album của năm"
Giải Cánh diều 2007 dành cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc
Top 10 Nghệ sĩ của năm giải thưởng Zing Music Awards 2011
Giải nữ diễn viên phụ xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 năm 2011
Giải thành tựu của Làn Sóng Xanh
Nhiều hạng mục giải thưởng tại Giải Làn Sóng Xanh
Và nhiều giải thưởng khác |
Họ Bụt mọc (danh pháp khoa học: Taxodiaceae) đã từng có thời được coi là một họ thực vật riêng biệt, bao gồm 10 chi các cây thông, tùng, sam v.v như chỉ ra dưới đây.
Athrotaxis- Bách Tasmania
Cryptomeria - Liễu sam hay bách Nhật Bản
Cunninghamia - Sa mộc (sa mu)
Glyptostrobus - Thông nước (thủy tùng)
Metasequoia - Thủy sam
Sciadopitys - Thông dù Nhật Bản
Sequoia - Hồng sam Bắc Mỹ
Sequoiadendron - Cự sam
Taiwania - Bách tán Đài Loan
Taxodium - Bụt mọc
Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng họ Taxodiaceae, ngoại trừ chi Sciadopitys, nên được trộn lẫn với họ Hoàng đàn (hay họ Bách, danh pháp: Cupressaceae). Lý do là không có các đặc trưng thích hợp mà họ này có thể được tách ra, và các chứng cứ di truyền học chứng minh một mối quan hệ họ hàng gần gũi của hai họ này; do vậy việc phối trộn này hiện nay đã được chấp nhận rộng rãi.
Ngoại lệ duy nhất, chi Sciadopitys, về mặt di truyền học là rất khác với các loại thông, tùng bách khác, và hiện nay được coi như là một họ của chính nó, là họ Thông dù (Sciadopityaceae).
Chú thích |
Người Việt có thể đề cập đến:
Là cách gọi ngắn gọn của cụm từ "Người Việt Nam" - những người sống định cư lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc để chỉ lên một khái niệm trừu tượng về tinh thần và nhân cách của dân tộc Việt (xem bài Các dân tộc tại Việt Nam)
Người Kinh, là dân tộc đa số tại Việt Nam. Tuy nhiên, cách gọi này không rõ ràng, bởi vì những công dân Việt Nam không thuộc sắc tộc Kinh cũng được gọi chung là người Việt.
Người có quốc tịch Việt Nam
Người Nam Việt, là tên gọi chung cho các nhóm người Việt ở phương nam Trung Quốc ngày xưa, như Ư Việt, Mân Việt, Nam Việt, Tây Âu, Đông Âu, Cán Việt, Lạc Việt, v.v.
Nhật báo Người Việt: nhật báo tiếng Việt lớn nhất ngoài Việt Nam |
Một giao dịch phân tán là giao dịch bao gồm một bó thao tác giữa hai hoặc nhiều máy. Thông thường, trong một giao dịch phân tán, một số máy cung cấp tài nguyên cho giao dịch (tức là đối tượng giao dịch), máy quản lý việc giao dịch (tức quản lý vào thao tác trên tài nguyên được cung cấp), và máy yêu cầu giao dịch (gửi yêu cầu tới máy quản lý giao dịch). Những máy này có thể là một hoặc khác nhau, tuỳ theo cấu trúc của hệ thống.
Giao dịch phân tán, cũng như mọi giao dịch khác, phải đảm bảo các thuộc tính ACID. |
Lệ Mật là một làng quê thuộc phường Việt Hưng, quận Long biên, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 7 km về phía Đông Bắc (nay thuộc phường Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội). Làng nổi tiếng về nghề bắt rắn và chế biến đặc sản thịt rắn.
Hàng năm, cứ đến ngày 23/3 âm lịch, dân của các vùng xung quanh và khách thập phương lại nô nức về dự hội làng Lệ Mật.
Chính cái nghề truyền thống này nó gắn với truyền thuyết về một Thành Hoàng làng đó là Phúc thần Hoàng Ngọc Trung, người làng Lệ Mật. Chuyện kể rằng: vào thế kỷ XI, con gái vua Lý Thán Tông dong thuyền chơi trên dòng sông Thiên Đức (sông Đuống ngày nay) chẳng may bị thủy quái có hình thù con rắn bắt giữ. Đám quan quân tùy tùng không đủ sức cứu giúp, rất may có chàng trai họ Hoàng (làm nghề đánh cá) lao vào cuộc, trận thủy chiến diễn ra ác liệt rồi cuối cùng quái vật bị chặt đầu bằng lưỡi gươm của chàng trai dũng cảm ấy. Có công cứu sống công chúa nhưng chàng trai dũng sĩ từ chối mọi công danh, vàng bạc do nhà vua ban thưởng, chàng chỉ xin được phép đưa dân làng Thăng Long. Chàng đã cùng dân làng lập được 13 trại làm ăn thịnh vượng, đó cũng là 13 làng có những cái tên: Cống Vị, Ngọc Hà, giảng Võ, Thủ Lê, Vạn Phúc, Hữu Tiếp, Thụy Khê, Ngọc Khánh, Liêu Giai, Kim Mã, Đại Yên, Phủ Đế… Để ghi nhớ công trạng của chàng, dân làng Lệ Mật đã tôn vinh chàng là Thành hoàng làng. Hàng năm, dân của 13 làng trại lại trở về nhớ tới công đức của vị tổ họ Hoàng.
Lịch sử làng
Làng Lệ Mật vào cuối thời Lê đầu thời Nguyễn là một xã thuộc tổng Gia Thụy, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Năm 1961, xã Việt Hưng cùng các xã, thị trấn trong huyện Gia Lâm được nhập về thành phố Hà Nội. Năm 2003, khi một phần huyện Gia Lâm được tách ra để thành lập quận Long Biên, xã Việt Hưng đổi thành phường Việt Hưng thuộc quận Long Biên. Lệ Mật là một làng cổ, xưa có tên là "Trù Mật", có lẽ vì kỵ húy chúa Trịnh Chù (Trịnh Cương (1686 - 1729) nên đổi thành tên như hiện nay.
Tương truyền, vào đời vua Lý Nhân Tông, có một công chúa cưng của vua thường bơi thuyền du ngoạn trên dòng Thiên Đức (sông Đuống ngày nay) và vào một hôm, công chúa bị đắm thuyền chết đuối không thấy xác. Vua trao giải cho ai tìm thấy nhưng không người nào tìm được. Có một chàng thanh niên họ Hoàng ở Lệ Mật đã chiến đấu dũng cảm với thủy quái và cuối cùng đưa được ngọc thể của công chúa lên bờ. Vua ban thưởng cho chàng rất nhiều gấm vóc, vàng bạc, nhưng chàng từ chối tất cả, chỉ xin vua cho đưa dân nghèo Lệ Mật và mấy làng quanh đó sang khai khẩn vùng đất phía Tây kinh thành Thăng Long làm trang trại. Sau khi được vua ưng thuận, dân chúng Lệ Mật đã cùng chàng vượt dòng sông Nhị Hà (sông Hồng) sang khai khẩn khu đất phía Tây thành Thăng Long. Vùng đất ấy dần trở nên trù phú, mở rộng thành 13 trại ấp mà sách sử gọi là khu "Thập Tam trại".
Sau khi khai lập được 13 trại, chàng trai họ Hoàng quay về củng cố làng cũ, rất trù phú, nên gọi làng là "Trù Mật". Sau khi chàng thanh niên mất, dân làng lập đình thờ chàng, suy tôn chàng là Thần hoàng. Theo gương chàng, dân chúng làng Lệ Mật ngoài việc nhà nông còn phát triển thêm nghề bắt rắn, nuôi rắn.
Hiện nay trong làng có hàng trăm hộ nuôi rắn, hàng chục nhà hàng đặc sản rắn và có nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật về rắn được tổ chức rầm rộ hàng năm. Lệ Mật được đánh giá là trung tâm giao dịch về rắn của toàn miền Bắc, đồng thời là làng rắn nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới.
Làng Lệ Mật xưa có hai ngôi đình: đình Thượng (nay không còn), thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và đình Hạ thờ dũng sĩ họ Hoàng.
Hội làng
Người dân Hà Nội xưa có câu ca:
Nhớ ngày 23 tháng 3
Dân trại ta vượt Nhị Hà thăm quê
Kinh quán, cựu quán đề huề
Hồ Tây cá nhảy đi về trong mây
Hội làng Lệ Mật là cơ hội để hàng năm con cháu trong làng (dân cựu quán) và con cháu đi xa khai hoang bên kinh thành Thăng Long (dân kinh quán) gặp gỡ nhau để tâm sự và tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên, những người khai hoang.
Hội làng được tổ chức hàng năm từ ngày 20 đến 24 tháng 3 Âm lịch, hội chính vào ngày 23 tháng 3 Âm lịch, suy tôn Thành Hoàng làng Lệ Mật. Vào ngày hội chính, đại diện con cháu của 13 trại phía Tây thành Thăng Long xưa đội 13 mâm lễ vật mang từ kinh đô về đình làng Lệ Mật để dự hội. Trong ngày hội làng có trò múa rắn độc đáo, con rắn được làm bằng nan tre lợp vải tượng trưng cho loài thủy quái đã bị chàng trai họ Hoàng dùng sức mạnh và ý chí của mình hạ gục. Người ta còn tổ chức thi rắn to, rắn đẹp, rắn lạ,..phổ biến các bí quyết bắt rắn, nuôi rắn, khai thác nọc, chữa rắn độc cắn...Du khách tham dự lễ hội có thể được thưởng thức các món đặc sản chế biến từ thịt rắn. |
Mai Chửng (1940 - 2001), tên thật Nguyễn Mai Chửng, là một điêu khắc gia có nhiều tác phẩm theo trường phái hiện đại được chọn bày nơi công cộng. Tuy nhiên, nhiều tác phẩm của ông đã bị phá hủy.
Ông sinh tại Bình Định và theo học Cao đẳng Mỹ thuật Huế với điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ mới từ Paris về. Tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1961, ông tiếp tục học tại Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật ở Sài Gòn, tốt nghiệp năm 1963.
Năm 1968, ông bắt đầu dạy ở trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật và năm 1974 tại Đại học Kiến trúc Sài Gòn. Năm 1975 ông bị bắt học tập cải tạo, được thả cuối năm 1978.
Ông vượt biên và tới Mỹ năm 1981, sống ở Hawaii và sau đó Texas. Tại Texas, ông thực hiện một loạt tác phẩm điêu khắc bằng kim loại và bằng đất nung. Tháng 7 năm 2001, ông tham gia một cuộc triển lãm lớn của các họa sĩ, điêu khắc gia Việt Nam trong và ngoài nước, tổ chức tại Gallery Vĩnh Lợi tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc triển lãm có sự tham gia của Nguyễn Trung, Dương Văn Hùng, Hồ Hữu Thủ, Cù Nguyễn, Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Lâm, Đỗ Quang Em, Nguyễn Phước, Trịnh Cung. Ngay đúng ngày triển lãm, ông ngã bệnh. Ông qua đời ngày 7 tháng 9 năm 2001 tại Dallas, Texas.
Hội Họa sĩ Trẻ
Năm 1966, ông và nhiều họa sĩ, điêu khắc gia khác thành lập Hội Họa sĩ Trẻ ở Sài Gòn. Nhiều thành viên Hội Họa sĩ Trẻ sau này nổi tiếng, như: Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nghiêu Đề, Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hợp, Hồ Thành Đức, Bé Ký, v.v.
Hội trưởng đầu tiên của Hội Họa sĩ Trẻ là Nghi Cao Uyên. Năm sau là Nguyễn Trung, và năm thứ ba là Mai Chửng.
Theo lời Mai Chửng thuật lại trong một cuộc phỏng vấn, "Hội của chúng tôi còn một điều đặc biệt là không có giấy tờ. Ngay cả vụ bầu bán chức vụ này nọ cũng không. Chức hội trưởng thay đổi phần lớn vì hoàn cảnh cá nhân, như bị đổi đi xa, không còn làm việc ở Sài Gòn thì không thể điều hành hội hữu hiệu".
Tác phẩm
Từ khi còn học ở Cao đẳng Mỹ thuật Huế, Mai Chửng tham gia cùng Lê Ngọc Huệ thực hiện một loạt tượng lớn theo kiểu mô-đéc đặt trong quảng trường nhà thờ La Vang, (Quảng Trị) vào đầu thập niên 60. Những pho tượng này có một vài tượng bị hư hại trong chiến tranh, nhất là trong cuộc giao tranh lớn năm 1972 đến nay vẫn còn và đã được tu sửa hoàn chỉnh.
Ông được biết đến như nhà điêu khắc tiên phong của Việt Nam trong việc sử dụng chất liệu kim loại trong điêu khắc.
Năm 1973, ông ra mắt tác phẩm Cái Mầm, dùng hàng ngàn vỏ đạn đồng hàn lại, cao 1,50 m, ý nói sự lớn lên trong chiến tranh. Tác phẩm này ra mắt tại gallery La Dolce Vita trong khách sạn Continental, Sài Gòn.
Ông thực hiện bức tượng Chị Em, đặt tại Thương xá Tam Đa. Sau 1975, bức tượng bị biến đâu mất.
Tác phẩm của ông nhiều người biết tới nhất có lẽ là Bông Lúa Con Gái. Bức tượng biểu hiện bó bông lúa đang sung sức, cao 13 m, làm bằng những mảng phế liệu đồng gắn lại, được dựng tại trung tâm thị xã Long Xuyên năm 1970. Tới năm 1975, bức tượng bị cho nổ và phá hủy. |
Trong tiếng Việt, quan hệ là sự liên quan giữa hai đối tượng hoặc hai nhóm đối tượng, có thể có các ý nghĩa:
Trong toán học, một quan hệ là một sự tổng quát hóa của quan hệ số học, như "=" và "<" trong các mệnh đề đại loại như "5 < 6" và "2 + 2 = 4". Xem lý thuyết quan hệ, quan hệ hai ngôi, quan hệ tương đương, quan hệ thứ tự...
Trong tin học (mô hình hóa quan hệ), một quan hệ là một tập các bộ (tuple), hay còn gọi là bảng. Xem cơ sở dữ liệu quan hệ, đại số quan hệ...
Quan hệ xã hội: quan hệ huyết thống, quan hệ họ hàng, quan hệ hôn nhân, quan hệ tình dục, quan hệ bạn bè...
Quan hệ kinh tế: quan hệ thanh toán, quan hệ nợ nần, quan hệ hạch toán...
Quan hệ chính trị: quan hệ ngoại giao, quan hệ quốc tế...
Trong triết học, quan hệ nói về sự phụ thuộc vào nhau của các yếu tố (phần tử) trong một hệ thống nhất định (tập hợp), theo nghĩa chung nhất.
Logic toán |
Hội Khoa học và Công nghệ Hàng không Việt Nam - tên tiếng Anh là: Vietnam Association on Aviation Science and Technology – viết tắt là VAAST có điều lệ được Phê duyệt kèm theo Quyết định số 1100/ 2011/QĐ-BNV ngày 24 tháng 5 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, là tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các tổ chức và công dân Việt Nam hoạt động trong các lĩnh vực Hàng không ở Việt Nam.
• Trụ sở chính: Số 121 Đường Nguyễn Sơn, Q. Long Biên, Hà Nội, Việt Nam (Phòng 11 nhà A6, Trụ sở Đoàn bay 919).
• Điện thoại Văn phòng Hội: 024 3872 6335
• Email: [email protected]
• Website: https://hoikhcnhangkhongvn.com
Hình thành và phát triển
Tiền thân của Hội Khoa học và Công nghệ Hàng không Việt Nam (VAAST) là Hội Khoa học kỹ thuật Xây dựng công trình Hàng không - VACA được thành lập ngày 14 tháng 3 năm 1990 theo quyết định số 34/BCH của TW Hội Xây dựng Việt Nam. Năm 2004 Hội được bổ sung chức năng và đổi tên là Hội Khoa học kỹ thuật Công trình Hàng không Việt Nam, tên tiếng Anh: Vietnam Association on Aviation Science and Technology là một hội của các tổ chức và công dân Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, lập quy hoạch, khảo sát, thiết kế và xây dựng các Công trình Hàng không ở Việt Nam và các chuyên ngành khác trong lĩnh vực đảm bảo và khai thác Hàng không .
Với bề dày truyền thống, Ngày nay Hội Khoa học và Công nghệ Hàng không Việt Nam (VAAST) là hội viên tập thể thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, là hội viên chuyên ngành của của Tổng hội Xây dựng Việt Nam, là thành viên của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, đồng thời là thành viên chính thức của Hiệp hội sân bay quốc tế khu vực Châu Á -Thái Bình Dương.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Hội Khoa học và Công nghệ Hàng không Việt Nam (VAAST) luôn là một nhân tố tích cực, đồng hành cùng ngành Hàng không Việt Nam trong quá trình xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Là một Hội nghề nghiệp, với mục đích là tập hợp các tổ chức và công dân Việt Nam trong và ngoài nước, hoạt động trong lĩnh vực Hàng không để duy trì và phát triển ngành Hàng không ở Việt Nam, nâng cao chất lượng nghiệp vụ chuyên môn, giữ gìn phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của các hội viên nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của đất nước, hội nhập với các tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực Hàng không của khu vực và thế giới.
Chức năng và Tổ chức
CHỨC NĂNG
• Tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các dự án phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, dự án đầu tư có liên quan đến lĩnh vực hàng không
• Tổ chức các hoạt động nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ, đào tạo, cung cấp thông tin. Tham gia xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và thực hiện các dịch vụ khoa học, công nghệ hàng không
• Tham gia ý kiến với các cơ quan quản lý Nhà nước và Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách, chế độ, chuẩn mực, nghiên cứu xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm trong các lĩnh vực Hàng không Việt Nam.
• Ký kết hợp đồng, tổ chức, thực hiện các hoạt động tư vấn phản biện, nghiên cứu khoa học, đào tạo, cung cấp dịch vụ kỹ thuật hàng không cho các tổ chức, cá nhân
• Chủ trì, tham gia xây dựng các chương trình, dự án nghiên cứu và sản xuất, thử nghiệm chuyên ngành, để kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước những giải pháp nhằm phát triển sự nghiệp hàng không.
• Xuất bản tạp chí của Hội, sách, tài liệu chuyên môn, để huấn luyện, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật thông tin, trau dồi đạo đức nghề nghiệp.
• Được gia nhập làm thành viên của tổ chức tương ứng trong khu vực và thế giới theo quy định của pháp luật.
CƠ CẤU TỔ CHỨC
Với 32 Hội viên tập thể và hơn 450 hội viên cá nhân là các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, kỹ sư, cử nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý nhiều năm kinh nghiệm trong ngành Hàng không trong và ngoài nước. Hội Khoa học và Công nghệ Hàng không Việt Nam (VAAST) có cơ cấu tổ chức như sau:
+ BCH Hội gồm 55 Uỷ viên;
+ Ban Thường vụ gồm 11 Ủy viên;
+ Ban Thường trực Hội gồm: • Chủ tịch: TS. Trần Quang Châu • Phó chủ tịch: GS-TSKH Đỗ Nguyên Khoát • Phó chủ tịch: Thiếu tướng KS. Bùi Quang Vinh • Phó chủ tịch kiêm Viện trưởng Viện KH&CN Hàng không: TS. Nguyễn Văn Lý • Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký: ThS. Trần Tuấn Linh.
+ Ban Kiểm tra; Hội đồng Khoa học và công nghệ
+ Văn phòng Hội và 9 Ban chuyên môn: • Ban Cảng Hàng không - Sân bay • Ban Quản lý bay • Ban Y tế và Môi trường • Ban Khoa học Công nghệ • Ban Công nghệ thông tin • Ban Kinh tế hàng không • Ban Đào tạo • Ban Tiêu chuẩn và cấp chứng chỉ • Ban Truyền thông
+ 2 đơn vị trực thuộc gồm: • Viện Khoa học Hàng không (ASI) • Trung tâm Tư vấn khoa học công nghệ Công trình hàng không (ABCC).
Thành tựu
Các hoạt động tư vấn
Tư vấn phản biện các dự án, chương trình, chiến lược, kế hoạch dài hạn về phát triển ngành GTVT VN nói chung và ngành HKVN nói riêng.
Tham gia xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho dự thảo Luật HKDDVN ; Qui hoạch hệ thống CHK-SB Việt nam đến năm 2010; xây dựng hệ thống các qui trình, qui phạm, qui chế, định mức kinh tế kỹ thuật về qui hoạch, thiết kế, thi công, bảo trì, sửa chữa, khai thác, quản lý và phát triển mạng CHK-SB VN.
Tham gia tư vấn phản biện các luật và hệ thống văn bản dưới luật theo yêu cầu của Tổng hội xây dựng VN, Liên hiệp các Hội KH & KT VN và các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trực tiếp tham gia phản biện các đề tài, dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các cơ sở góp phần thành công xây dựng các công trình thuộc nhiều hạng ngạch khác nhau.
Tư vấn cho các cơ quan , đơn vị trong việc hợp tác liên kết với các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt nam.
Nghiên cứu khoa học
Chủ trì, tham gia đề xuất nhiều ý tưởng và định hướng cho công tác nghiên cứu khoa học trong ngành với qui mô cả nước về các lĩnh vực chuyên ngành: Quản lý Nhà nước, quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý hoạt động bay, cảng HK-SB, vận tải hàng không và các vấn đề khác liên quan.
Phản biện đề án quy hoạch mạng cảng hàng không dân dụng toàn quốc.
Chủ trì thực hiện đề tài: “Nghiên cứu, điều tra, khảo sát nhu cầu và tính khả thi của việc ứng dụng kỹ thuật Hàng không (máy bay nhỏ) phục vụ phát triển kinh tế xã hội kết hợp với an ninh quốc phòng tại thành phố Hồ Chí Minh và vùng lân cận”.
Chủ trì thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn phục vụ quy hoạch hệ thống sân bay cho công tác tìm kiếm cứu nạn ở Việt Nam”.
Chủ trì biên soạn một số tiêu chuẩn cơ sở đã được Cục HK ban hành như: Tiêu chuẩn sân bay Trực thăng dân dụng Việt Nam; Quy trình thiết kế mặt đường sân bay; Quy trình duy tu bảo dưỡng sân bay...
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu do Bộ tài nguyên môi trường giao: “Đánh giá tác động biến đổi của khí hậu đối với ngành giao thông vận tải và xây dựng các biện pháp thích ứng với các kịch bản biến đổi khí hậu trong lĩnh vực giao thông vận tải của Việt nam trong khuôn khổ dự án “ Việt nam chuẩn bị thông báo quốc gia lần thứ hai cho UNFCCC”.
Biên soạn chuyển đổi “Tiêu chuẩn sân bay dân dụng Việt nam” thành tiêu chuẩn quốc gia (TCVN).
Nghiên cứu triển khai đề tài: “Nghiên cứu thiết kế và chế thử xuồng Thủy - khí động lực hoạt động ở vùng đầm lầy, nước nông”.
Đào tạo, thông tin và dịch vụ KHCN
Phối hợp với Đại học giao thông vận tải Hà nội tổ chức các lớp đại học tại chức chuyên ngành đường ô tô và sân bay, kinh tế vận tải hàng không và lớp hoàn chỉnh kiến thức liên thông từ cao đẳng lên Đại học ngành đường ô tô và sân bay.
Phối hợp với Viện khoa học và công nghệ Bộ giao thông vận tải mở lớp đào tạo nhân viên thí nghiệm và kiểm định vật liệu và công trình giao thông tại Viện KH&CN ở thành phố HCM.
Ứng dụng SA4 thi công đường biên giới, Sản xuất phụ gia bê tông chất lượng cao, tư vấn giám sát thi công các công trình GTVT, HK
Hợp tác quốc tế, hội nghị, hội thảo khoa học
Tổ chức thành công nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế về khoa học công nghệ mới, đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực... Các cuộc hội thảo với sự hợp tác của đại diện các nước như: Nga, Mỹ , Pháp, Úc, Trung quốc, Đài Loan, Đức, Ấn Độ...
Đã cung cấp nhiều thông tin phong phú, kịp thời, bổ ích về khoa học công nghệ mới và tăng cường hợp tác đầu tư, đào tạo, chuyển giao công nghệ, trao đổi giao lưu giữa các nhà khoa học, các nhà quản lý trong lĩnh vực Hàng không của Việt nam và quốc tế.
Hội viên tiêu biểu
Tổng Công ty Xây Dựng công trình Hàng Không (ACC), đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới (2004).
Công ty Thiết kế và Tư vấn xây dựng công trình Hàng không (ADCC).
Công ty CP Xuất nhập khẩu Hàng không (AIRIMEX)
Công ty TNHH Kỹ thuật Quản lý bay (ATTECH) |
Tiêu cự của một thấu kính là khoảng cách từ quang tâm đến tiêu điểm của thấu kính.
Nếu mặt của thấu kính có độ cong càng lớn thì tiêu điểm càng gần với thấu kính, tiêu cự càng nhỏ
Đối với thấu kính phân kì khả năng hội tụ của chùm tia sáng càng mạnh chứng tỏ tiêu cự càng nhỏ và ngược lại
Nói chung với các thấu kính thường dùng hàng ngày thì tiêu cự được đo bằng cm. Ký hiệu của tiêu cự là chữ f.
Người ta quy ước:
Thấu kính hội tụ có tiêu cự dương, f > 0.
Thấu kính phân kì có tiêu cự âm, f < 0.
Các gương cầu cũng có tiêu cự được định nghĩa tương tự như trên. |
Mazda Motors Corporation (Phiên âm: Ma-zư-đa hoặc Ma-tsư-đa, tiếng Nhật: マツダ株式会社 / Matsuda Kabushiki Gaisha) là công ty đa quốc gia sản xuất xe hơi của Nhật Bản, có trụ sở tại Fuchū, Quận Aki, Hiroshima, Nhật Bản.
Năm 2015, Mazda là nhà sản xuất ô tô lớn thứ 15 trên toàn thế giới.
Lịch sử
Mazda khởi đầu với tên Công ty TNHH Toyo Cork Kogyo, được thành lập ở Hiroshima, Nhật Bản, ngày 30 tháng 1 năm 1920. Toyo Cork Kogyo đổi tên thành Toyo Kogyo Co., Ltd. vào năm 1927. Vào cuối những năm 1920, công ty được Hiroshima Saving Bank và các nhà lãnh đạo kinh doanh khác ở Hiroshima cứu thoát khỏi tình trạng phá sản.
Năm 1931 Toyo Kogyo thay đổi từ sản xuất máy công cụ đến sản xuất xe ô tô với sự giới thiệu của Mazda-Go autorickshaw. Toyo Kogyo sản xuất vũ khí cho quân đội Nhật trong suốt Thế chiến thứ hai, đáng chú ý nhất là loại súng trường số 99 loại 30 đến 35. Công ty chính thức đổi tên thành Mazda vào năm 1984, mặc dù mỗi chiếc ô tô đều mang tên đó ngay từ đầu. Mazda R360 được giới thiệu vào năm 1960, theo sau là Mazda Carol năm 1962.
Bán hàng |
Scuderia Ferrari Marlboro, còn gọi là Đội đua Ferrari, là tên một bộ phận làm việc thuộc hãng sản xuất xe hơi thể thao Ferrari chuyên tham dự các cuộc đua xe, đặc biệt là cuộc đua Công thức 1. Tay đua đã từng 7 lần vô địch đua ô tô Công thức 1, Michael Schumacher, hiện là thành viên đội đua này. |
Montenegro (tiếng Montenegro bằng chữ Kirin: Црна Гора; chữ Latinh: Crna Gora; phát âm IPA: , phiên âm Tiếng Việt: Môn-tê-nê-grô) (trong tiếng Montenegro có nghĩa là "Ngọn núi Đen") là một quốc gia tại miền đông nam châu Âu. Nước này giáp với biển Adriatic về phía tây nam, và có chung đường biên giới với Croatia về phía tây, Bosnia và Hercegovina về phía tây bắc, Serbia về phía đông bắc, Kosovo về phía đông và cuối cùng là Albania về phía đông nam. Thủ đô của quốc gia này là Podgorica, trong khi thành phố Cetinje được gọi với cái tên là Prijestonica (Пријестоница), có nghĩa là Thành phố Thủ đô Hoàng gia.
Độc lập từ cuối Trung cổ tới năm 1918, nước này là một phần của vài chính phủ của Nam Tư và liên bang Serbia và Montenegro. Do cuộc trưng cầu dân ý ngày 21 tháng 5 năm 2006, Montenegro tuyên bố độc lập ngày 3 tháng 6 năm 2006. Ngày 28 tháng 6, Montenegro được trở thành thành viên thứ 192 của Liên Hợp Quốc.
Montenegro là quốc gia ít dân nhất ở Đông Âu. Trừ các tiểu quốc gia, nó là quốc gia ít dân thứ tư ở châu Âu (chỉ sau Iceland, Malta và Luxembourg). Nó là nước gốc Slav nhỏ nhất trên thế giới.
Tên gọi
Tên địa phương của Montenegro, Crna Gora, được nói đến lần đầu tiên trong một hiến chương của Tu viện Thánh Nicholas (Vranjina) do Quốc vương Milutin của Raška/Serbia phát hành năm 1296, nó dịch từng chữ là "núi đen", chỉ đến những khu rừng tối tăm ngày xưa, che dốc của dãy núi Alps Dinaric nhìn từ bờ biển. Nhiều ngôn ngữ Tây Âu, cũng như tiếng Việt, sử dụng tên tiếng Venezia monte negro, cũng có nghĩa "núi đen" và chắc có từ thời Venezia thống trị vùng này trong thời Trung cổ. Những ngôn ngữ khác, nhất là những ngôn ngữ ở gần vùng này, dịch theo nghĩa "núi đen", thí dụ Mali i Zi trong tiếng Albani, Черна гора trong tiếng Bulgari; Muntenegru trong tiếng Romana, Μαυροβούνιο trong tiếng Hy Lạp, và Karadağ trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ; những ngôn ngữ xa hơn mà dịch như vậy bao gồm tiếng Nga (Черногория) và tiếng Trung Quốc (黑山; Hán-Việt: Hắc Sơn; bính âm: hēishān).
Lịch sử
Những bộ lạc người Slav bắt đầu di cư đến bán đảo Balkan khoảng thế kỷ VI. Vào đầu thế kỷ VII vùng này là một tỉnh của Đế quốc La Mã và sau đó thuộc Đế quốc Byzantine. Năm 1042, vùng đất này giành được độc lập dưới sự chỉ huy của Công tước Voislav.
Năm 1496, Montenegro nằm dưới sự kiểm soát của Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1519, Montenegro trở thành lãnh thổ tự trị trong Đế quốc Ottoman và hưởng quyền tự trị khá lớn như: có chính phủ, tòa án và quân đội riêng. Sau chiến tranh Candy (1645-1669) Montenegro lại giành được độc lập mở đầu một thời kì tranh giành quyền lực giữa các sắc tộc và tôn giáo.
thế=|trái|nhỏ|250x250px|Nikola I cùng vợ của mình trong buổi lễ tuyên bố thành lập Vương quốc Montenegro
Ngày 13 tháng 7 năm 1878, Montenegro được công nhận là quốc gia độc lập đứng đầu là Nikolas I.
Những năm đầu của chiến tranh thế giới thứ nhất, Montenegro đứng về phía Anh, Pháp, Nga để chống lại Áo-Hung và bị chiếm đóng. Năm 1918, Montenegro được giải phóng.
Từ ngày 26 tháng 11 năm 1918 đến ngày 3 tháng 10 năm 1929, Montenegro là một phần của Vương quốc Serbia – Croatia – Slovenia. Sau đó đến ngày 27 tháng 1 năm 1941 thuộc Vương quốc Nam Tư.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Montenegro bị Italia và sau đó là Đức xâm chiếm. Những người cộng sản tổ chức phong trào kháng chiến, năm 1944 và 1945 Montenegro hầu như bị quân du kích kiểm soát.
Từ năm 1945 đến 1992, Montenegro nằm trong Liên bang Nam Tư. Nam Tư tan rã, Montenegro thuộc Liên bang Serbia và Montenegro. Do cuộc trưng cầu dân ý ngày 21 tháng 5 năm 2006, Montenegro tuyên bố độc lập ngày 3 tháng 6 năm 2006. Ngày 28 tháng 6 năm 2006, Montenegro được trở thành thành viên thứ 192 của Liên Hợp Quốc.
Chính trị
Montenegro theo thể chế cộng hòa.
Tổng thống Montenegro là người đứng đầu nhà nước, được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, ban hành pháp luật bởi các pháp lệnh, có quyền kêu gọi cuộc bầu cử Quốc hội sớm, đề nghị các ứng cử viên cho chức Thủ tướng, Bộ trưởng và các thẩm phán của Tòa án. Tổng thống cũng có quyền đề nghị kêu gọi của một cuộc trưng cầu dân ý để ân xá cho các tội phạm hình sự theo quy định của luật pháp quốc gia, thành viên của Hội đồng Quốc phòng tối cao Montenegro.
Chính phủ Montenegro là cơ quan hành pháp của Montenegro. Chính phủ đứng đầu là Thủ tướng và bao gồm các Phó Thủ tướng cũng như Bộ trưởng.
Quốc hội Montenegro là cơ quan lập pháp đơn viện. Quyền lực của quốc hội Montenegro lớn hơn luật pháp quốc gia, có quyền phê chuẩn điều ước quốc tế, bổ nhiệm Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, và các thẩm phán của tất cả các tòa án, thông qua ngân sách quốc gia và thực hiện các nhiệm vụ khác được thiết lập bởi Hiến pháp. Quốc hội có thể vượt qua một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ bởi đa số nghị sĩ tán thành. Một đại diện được bầu cho mỗi 6.000 cử tri. Quốc hội hiện nay có 81 ghế.
Quân đội
Quân đội của Montenegro là bao gồm lục quân, hải quân, lực lượng không quân và lực lượng đặc biệt. Tính đến năm 2009, nó được tổ chức như một đội quân thường trực đầy đủ và chuyên nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng với mục đích bảo vệ và bảo vệ chủ quyền Montenegro. Mục tiêu của Montenegro là gia nhập NATO sau khi hiện đại hóa và tổ chức lại quân đội của mình. Kế hoạch tương lai cho quân đội là tham gia vào nhiệm vụ gìn giữ hòa bình thông qua Liên Hợp Quốc và NATO trong Lực lượng Hỗ trợ an ninh quốc tế.
Địa lý
Montenegro là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Âu, tách ra từ Liên bang Serbia và Montenegro. Bắc giáp Bosnia và Herzegovina, Đông giáp Serbia, Nam giáp, và Tây Nam giáp biển Adriatic. Lãnh thổ chủ yếu là đồi núi cao từ 800m đến 2400m. Có dải đồng bằng hẹp dọc theo bờ biển khúc khuỷu lởm chởm tựa lưng vào những núi đá vôi.
Các ngọn núi tạo thành địa hình nước này gồ ghề nhất ở châu Âu, độ cao trung bình của các ngon núi ở Montenegro cao hơn 2.000 mét. Một trong những đỉnh núi đáng chú ý là Bobotov Kuk ở vùng núi Durmitor, đạt đến độ cao 2.522 mét. Các dãy núi ở Montenegrin hình thành do băng bị xói mòn ở các bộ phận của bán đảo Balkan trong thời kỳ băng hà cuối cùng.
Đa dạng sinh học
Sự đa dạng của cơ sở địa chất, khí hậu, cảnh quan và đất, cũng như vị trí của Montenegro trên bán đảo Balkan và biển Adriatic, tạo điều kiện cho sự hình thành đa dạng sinh học với giá trị rất cao, đưa Montenegro trở thành khu vực quan trọng về sự đa dạng sinh học của châu Âu và thế giới. Số lượng loài mỗi phân bổ trên 1 km² diện tích của Montenegro là 0,837, đây là chỉ số cao nhất trong tất cả các nước châu Âu.
Hồ nước ngọt Algea của Montenegro cho đến nay có 1200 loài và giống đã được mô tả.
Thực vật bậc cao có mạch của Montenegro có 3250 loài. Số loài đặc hữu là 392 loài, được xem là tỉ lệ cao trong sự đa dạng sinh học ở các nước khu vực Balkan.
Hồ Skadar là một trong những hồ nước quan trọng nhất, là nơi sinh sống của 40 loài cá nước ngọt, trong đó có các loài di cư từ biển đến hệ sinh thái nước ngọt, ví dụ: như cá chình (Anguilla Anguilla). Đến nay, đã có 40.742 loài cá biển đã được đăng ký tại Montenegro đại diện cho 70% của loài đặc hữu tại Địa Trung Hải.
Hiện tại có 56 loài (18 loài lưỡng cư và 38 loài bò sát) và 69 phân loài được ghi trong 38 chi hiện diện ở Montenegro. Vùng núi Lovćen và Prokletije nổi bật là điểm đặc biệt nóng của amphebians và bò sát ở Montenegro.
Trong số 526 loài chim của châu Âu thì có 333 loài được cho là thường xuyên hiện diện ở Montenegro. Trong số đó, có 204 loài làm tổ ở Montenegro.
Hành chính
Montenegro được chia thành 23 opština (khu tự quản), và hai khu tự quản đô thị, phân khu của khu tự quản Podgorica:
Andrijevica
Bar
Berane
Bijelo Polje
Budva
Cố đô Hoàng gia Cetinje
Danilovgrad
Gusinje
Herceg Novi
Kolašin
Kotor
Mojkovac
Nikšić
Petnjica
Plav
Plužine
Pljevlja
Thành phố Thủ đô Podgorica
Golubovci
Tuzi
Rožaje
Šavnik
Tivat
Ulcinj
Žabljak
Thành phố tại Montenegro
Kinh tế
Nền kinh tế dần thoát khỏi sự chi phối của Serbia, sử đồng euro thay cho dinar, gia nhập Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Sản xuất nhôm, du lịch và nông nghiệp là ngành kinh tế chủ chốt của Montenegro.
Tính đến năm 2016, GDP của Montenegro đạt 4.242 USD, đứng thứ 156 thế giới và đứng thứ 45 châu Âu.
Nhân khẩu học
Montenegro có dân số hiện nay là 684,736 người. Bao gồm nhiều sắc tộc khác nhau: người Montenegro 43%, người Serb 32%, người Bosnia 8%, người Albania 5%, các dân tộc khác (người Croatia, người Di-gan (Gypsy hay Romani)...) 12%.
Ngôn ngữ chính thức là tiếng Montenegro
Ngoài ra còn có các ngôn ngữ thiểu số như: tiếng Serbia, tiếng Albania, tiếng Croatia, tiếng Bosnia.
Montenegro có 3 tôn giáo chính là Chính thống giáo, Hồi giáo, Công giáo Rôma.
Chú thích |
Đỗ Quang Em (16 tháng 9 năm 1942 – 3 tháng 8 năm 2021) là một họa sĩ theo phong cách tả thực, với lối vẽ thật kỹ và thật giống thực. Ông được xem là họa sĩ Việt Nam có tác phẩm được bán với giá cao nhất, khi phòng tranh Galerie La Vong ở Hồng Kông bán bức Ấm và tách trà của ông với giá 50.000 USD vào năm 1995.
Tiểu sử
Đỗ Quang Em sinh ngày 16 tháng 9 năm 1942 tại Ninh Thuận. Ông học trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, tốt nghiệp năm 1965, ngành hội họa.
Năm 1966, ông cùng nhiều họa sĩ khác tham gia lập Hội Họa sĩ Trẻ ở Sài Gòn.
Năm 1971, ông đoạt huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Năm 1973 và 1974, ông giảng dạy hội họa tại Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
Sau năm 1975 ông cố vượt biên nhưng bị bắt vào năm 1976, phải đi tù ba năm. Hơn mười năm sau ông mới được chính phủ cho phép xuất ngoại thăm con ở Hoa Kỳ
Ông qua đời lúc 23:30 ngày 3 tháng 8 năm 2021 do tuổi cao sức yếu.
Phong cách hội họa
Đỗ Quang Em vẽ tranh theo phong cách tả thực, thậm chí từng được gọi là hyperrealist, tức "vô cùng thực".
Hai đề tài ông vẽ nhiều nhất là tĩnh vật, thường là chén ấm trà, và chân dung phụ nữ, thường là chân dung vợ ông.
Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam năm 2000, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, trong diễn văn đọc tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội, có nhắc tới việc tranh của Đỗ Quang Em bán được giá cao, như thí dụ về ảnh hưởng của sự toàn cầu hóa tới Việt Nam.
Cha ông mở tiệm ảnh, và trong một cuộc phỏng vấn ông thú nhận ngành nhiếp ảnh có ảnh hưởng tới phong cách hội họa của ông.
Tác phẩm
Đỗ Quang Em là người "trăm phần trăm chỉ biết vợ biết con mình". Ông chỉ vẽ những người thân trong gia đình và tĩnh vật. Tranh của ông thường được chú trọng về xếp đặt ánh sáng.
Các lần ông tham gia triển lãm:
- 1991: Triển lãm chung "Tranh Sơn dầu và Lụa của bốn Họa sĩ" tại TP.HCM.
- 1993: Tham gia triển lãm: "New Space" của các họa sĩ Việt Nam và Singapore.
- 1994: Triển lãm "36 Tác phẩm Mới", Viện Bảo Tàng Mỹ thuật Thành phố HCM.
- Trưng bày tại Galerie Lã Vọng, Hồng Kông từ năm 1993 đến 1996
Chú thích & Tham khảo
Người Ninh Thuận
Họa sĩ Việt Nam |
Notepad là một trình soạn thảo văn bản đơn giản cho Microsoft Windows và một chương trình chỉnh sửa văn bản cơ bản cho phép người dùng máy tính tạo tài liệu. Nó được phát hành lần đầu dưới dạng chương trình MS-DOS dựa trên chuột vào năm 1983 và đã được đưa vào tất cả các phiên bản Microsoft Windows kể từ Windows 1.0 năm 1985.
Tổng quan
Notepad là một trong những trình soạn thảo văn bản phổ biến nhất. Văn bản được soạn thảo khi lưu lại thành file có phần mở rộng là.txt, không có thẻ định dạng hay bất kỳ kiểu định dạng nào. Điều này làm cho Notepad thích hợp hơn trong việc chỉnh sửa các tệp sử dụng trong môi trường DOS. Notepad có thể chỉnh sửa những tệp thuộc hầu hết định dạng. Mặc dù vậy, Notepad không có khả năng chỉnh sửa được những tệp Unix một cách chính xác.
Những phiên bản đầu tiên, Notepad chỉ gồm một số chức năng cơ bản, như tìm văn bản. Những phiên bản mới hơn của Windows đã bao hàm bản Notepad được nâng cấp với các chức năng tìm kiếm và thay thế cao cấp hơn, ví dụ như Ctrl+F để tìm kiếm. Trong những phiên bản cũ của Notepad (đi kèm với Windows 95, 98, ME, 3.1) kích thước tối đa của một tệp được chỉnh sửa bằng Notepad được giới hạn trong 64-kilobyte, đó là giới hạn lớp EDIT của hệ điều hành.
Lên đến Windows 95, kiểu chữ (font) duy nhất mà Notepad sử dụng là Fixedsys. Windows NT 4.0 và 98 đã thay đổi kiểu chữ này. Windows 2000 lấy kiểu chữ mặc định là Lucida Console.
Trong những phiên bản Windows xây dựng trên nền Windows NT, Notepad có thể chỉnh sửa tệp văn bản 8-bit truyền thống, tệp văn bản Unicode (cả UTF-8 và UTF-16, với UTF-16 bao gồm của "little-endian" và "big-endian").
Notepad cũng có chức năng ghi nhật ký tích hợp đơn giản. Mỗi khi tệp bắt đầu bằng.LOG được mở, chương trình sẽ chèn dấu thời gian văn bản trên dòng cuối cùng của tệp.
Notepad chấp nhận văn bản từ bảng tạm Windows. Khi dữ liệu clipboard với nhiều định dạng được dán vào Notepad, chương trình chỉ chấp nhận văn bản ở định dạng CF_TEXT. [16] Điều này hữu ích cho việc tước loại phông chữ được nhúng và mã kiểu từ văn bản được định dạng, chẳng hạn như khi sao chép văn bản từ trang web và dán vào thư email hoặc trình soạn thảo văn bản WYSIWYG khác. Văn bản được định dạng có thể được dán tạm thời vào Notepad, và sau đó ngay lập tức sao chép lại ở định dạng tước để dán vào chương trình khác.
Notepad có thể in các tệp, nhưng không in chính xác nếu Word Wrap được bật. Đầu trang, chân trang và lề có thể được đặt và điều chỉnh khi chuẩn bị in một tệp trong Cài đặt trang. Ngày, tên tệp và thông tin khác có thể được đặt trong phần đầu và chân trang với nhiều mã khác nhau bao gồm ký hiệu ('&') kèm theo một chữ cái.
Phiên bản Notepad mới nhất trên Windows 11 được thiết kế lại giao diện và bổ sung một vài tính năng phụ trợ. |
Nguyễn Hữu Đang có thể là:
Chính khách Nguyễn Hữu Đang: thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; trưởng ban tổ chức ngày lễ Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9.
Cầu thủ Nguyễn Hữu Đang: cầu thủ của đội Hoàng Anh Gia Lai, cựu cầu thủ đội Khánh Hòa và là cựu tuyển thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam. |
Nguyễn Quỳnh có thể là:
Nguyễn Quỳnh tức Cống Quỳnh.
Họa sĩ Nguyễn Quỳnh.
Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh, cha của Nguyễn Nghiễm, ông nội của Nguyễn Du. |
Sinh lý học thực vật là một phân ngành của thực vật học liên quan đến chức năng hoặc sinh lý của thực vật. Những chuyên ngành có liên quan mật thiết gồm có hình thái học thực vật (cấu trúc của thực vật), sinh thái học thái thực vật (tương tác với môi trường), hóa thực vật (hóa sinh của thực vật), sinh học tế bào, di truyền, lý sinh và sinh học phân tử.
Những quá trình cơ bản như quang hợp, hô hấp, dinh dưỡng thực vật, chức năng của hormone thực vật, hướng kích thích, vận động ứng động, chu kỳ sáng, phát sinh quang hình thái, nhịp điệu sinh học, sinh lý căng thẳng môi trường, nảy mầm ở hạt, chức năng ngủ, khí khổng và thoát hơi nước, tất cả những phần của mối quan hệ nước ở thực vật, đều các nhà sinh lý học thực vật lựa chọn để nghiên cứu.
Mục tiêu
Những lĩnh vực mà sinh lý học thực vật nghiên cứu bao gồm mọi hoạt động bên trong của thực vật—những quá trình hóa học và vật lý gắn liền với sự sống khi chúng diễn ra ở thực vật. Điều này tức là nghiên cứu ở nhiều cấp độ quy mô và thời gian. Ở quy mô nhỏ nhất là các tương tác phân tử của quang hợp và khuếch tán bên trong nước, khoáng chất và chất dinh dưỡng. Ở quy mô lớn nhất là những quá trình phát triển, thời vụ, trạng thái ngủ và kiểm soát sinh sản ở thực vật. Những phân ngành chính của sinh lý thực vật gồm có hóa thực vật (nghiên cứu về hóa sinh của thực vật) và bệnh học thực vật (nghiên cứu về bệnh ở thực vật). Phạm vi của sinh lý thực vật dưới dạng một phân ngành có thể được chia thành nhiều lĩnh vực nghiên cứu chính.
Đầu tiên, nghiên cứu hóa thực vật được gộp vào môn sinh lý học thực vật. Để hoạt động và tồn tại, thực vật tạo ra một loạt các hợp chất hóa học không có ở các sinh vật khác. Quang hợp đòi hỏi một lượng lớn sắc tố, enzym và các hợp chất khác để hoạt động. Vì không thể di chuyển nên thực vật cũng phải tự vệ bằng hóa chất trước động vật ăn cỏ, mầm bệnh và cạnh tranh từ các thực vật khác. Chúng thực hiện bằng cách tạo độc tố và các hóa chất có mùi hôi. Các hợp chất khác bảo vệ cây chống lại bệnh tật, giúp cây sống sót trong hạn hán và chuẩn bị ngủ đông, trong khi các hợp chất khác được sử dụng để thu hút loài thụ phấn hoặc động vật ăn cỏ để phát tán hạt chín.
Thứ hai, sinh lý học thực vật gồm nghiên cứu các quá trình sinh học và hóa học của từng tế bào thực vật. Tế bào thực vật có một số đặc điểm giúp phân biệt chúng với tế bào động vật, từ đó dẫn đến những khác biệt lớn trong cách hoạt động và phản ứng trong đời sống thực vật khác với đời sống động vật. Ví dụ, tế bào thực vật có thành tế bào hạn chế hình dạng của tế bào thực vật và do đó hạn chế tính linh hoạt và khả năng di chuyển của thực vật. Tế bào thực vật cũng chứa chất diệp lục, một hợp chất hóa học tương tác với ánh sáng, qua đó cho phép thực vật tự sản sinh chất dinh dưỡng riêng thay vì tiêu thụ các sinh vật sống khác như động vật.
Thứ ba, sinh lý học thực vật liên quan đến những tương tác giữa các tế bào, mô và cơ quan bên trong thực vật. Các tế bào và mô khác nhau chuyên hóa về mặt vật lý và hóa học để thực hiện các chức năng khác nhau. Rễ và rễ giả có chức năng làm móc giữ chặt thực vật và thu khoáng chất trong đất. Lá lấy ánh sáng để sản xuất chất dinh dưỡng. Để cả hai cơ quan này tiếp tục sinh sống, các khoáng chất mà rễ thu được phải được vận chuyển đến lá, còn các chất dinh dưỡng được tạo ra trong lá phải được vận chuyển đến rễ. Thực vật phát triển theo một số cách để có được sự vận chuyển này, chẳng hạn như mô mạch, và chức năng của nhiều phương thức vận chuyển đang được các nhà sinh lý học thực vật nghiên cứu.
Hóa sinh thực vật
Những nguyên tố hóa học cấu tạo nên thực vật — chủ yếu là carbon, oxy, hydro, nitơ, phosphor, lưu huỳnh,... — giống như với mọi dạng sống khác: động vật, nấm, vi khuẩn và thậm chí cả virus. Chỉ có chi tiết về cấu trúc từng phân tử của chúng là khác nhau.
Bất chấp tương đồng cơ bản này, thực vật tạo ra vô số hợp chất hóa học với những đặc tính độc đáo mà chúng sử dụng để đối phó với môi trường. Những sắc tố được thực vật sử dụng để hấp thụ hoặc phát hiện ánh sáng, rồi được con người chiết xuất để sử dụng trong thuốc nhuộm. Những sản phẩm thực vật khác có thể được sử dụng để sản xuất cao su hoặc nhiên liệu sinh học có giá trị thương mại. Những hợp chất có thể xem là nổi tiếng nhất từ thực vật là những hợp chất có hoạt tính dược lý, chẳng hạn như acid salicylic (từ đó tạo ra aspirin) morphin và digoxin. Những công ty dược phẩm chi hàng tỷ đô la mỗi năm để nghiên cứu các hợp chất thực vật nhằm mang lại lợi ích tiềm năng cho ngành y.
Nguyên tố cấu thành
Thực vật cần một lượng lớn chất dinh dưỡng, chẳng hạn như carbon và nitơ để tồn tại. Một vài chất dinh dưỡng được gọi là chất dinh dưỡng đa lượng, trong đó tiền tố macro- (đa) để chỉ số lượng cần có chứ không phải kích thước của các hạt dinh dưỡng. Những chất dinh dưỡng khác (được gọi là chất dinh dưỡng vi lượng) thì chỉ cần một lượng rất nhỏ để thực vật duy trì sức khỏe. Những chất dinh dưỡng vi lượng như vậy thường được hấp thụ dưới dạng các ion hòa tan trong nước lấy từ đất, mặc dù thực vật ăn thịt thu được một số chất dinh dưỡng vi lượng từ con mồi mà chúng bắt được.
Bảng dưới đây liệt kê các nguyên tố chất dinh dưỡng cần có ở cây trồng. Việc sử dụng trong thực vật được khái quát hóa.
Sắc tố
Nằm trong số những phân tử quan trọng nhất đối với chức năng của thực vật là các sắc tố. Sắc tố thực vật gồm nhiều loại phân tử khác nhau, có thể kể đến porphyrin, carotenoid và anthocyanin. Mọi sắc tố sinh học hấp thụ chọn lọc các bước sóng ánh sáng nhất định, đồng thời phản xạ các bước sóng khác. Ánh sáng được hấp thụ có thể được thực vật sử dụng để tạo ra những phản ứng hóa học, trong khi các bước sóng ánh sáng phản xạ sẽ xác định màu sắc mà sắc tố hiện trước mắt.
Diệp lục là sắc tố chính ở thực vật; nó là một porphyrin hấp thụ các bước sóng ánh sáng đỏ và xanh lam, đồng thời phản chiếu màu xanh lục. Chính sự hiện diện và lượng diệp lục tương đối dồi dào đã mang lại cho thực vật màu xanh lục. Mọi thực vật trên cạn và tảo lục đều có hai dạng sắc tố này: diệp lục a và diệp lục b .Tảo bẹ, tảo silic và các roi quang hợp quang hợp khác chứa diệp lục c thay vì b, còn tảo đỏ chứa diệp lục a. Mọi chất diệp lục đóng vai trò làm phương tiện chính mà thực vật sử dụng để chặn ánh sáng và cung cấp nhiên liệu cho quang hợp.
Carotenoid là các tetraterpenoid màu đỏ, cam hoặc vàng. Chúng hoạt động như các sắc tố phụ trong thực vật, giúp thúc đẩy quang hợp bằng cách thu thập các bước sóng ánh sáng mà diệp lục không hấp thụ được dễ dàng. Những carotenoid quen thuộc nhất là carotene (sắc tố màu cam có trong cà rốt), lutein (sắc tố màu vàng có trong trái cây và rau quả) và lycopene (sắc tố màu đỏ tạo màu của cà chua). Carotenoid đã được chứng minh là hoạt động như chất chống oxy hóa và thúc đẩy thị lực khỏe mạnh ở người.
Anthocyanin (nghĩa đen là "hoa xanh") là các sắc tố flavonoid tan trong nước có màu từ đỏ đến xanh tùy theo độ pH. Chúng có mặt ở mọi mô của thực vật bậc cao, cung cấp màu sắc cho lá, thân, rễ, hoa và quả, mặc dù không phải lúc nào cũng đủ số lượng để có thể nhận thấy. Anthocyanin có thể nhìn thấy rõ nhất trong cánh hoa, nơi chúng có thể chiếm tới 30% trọng lượng khô của mô. Chúng cũng chịu trách nhiệm tạo ra màu tím ở mặt dưới của các cây chịu bóng nhiệt đới như Tradescantia zebrina. Ở những cây này, anthocyanin lấy ánh sáng xuyên qua lá và phản xạ nó trở lại những vùng có chất diệp lục, nhằm tối đa hóa việc sử dụng ánh sáng có sẵn.
Betalain là các sắc tố màu đỏ hoặc màu vàng. Giống như anthocyanin, chúng hòa tan trong nước, nhưng không như anthocyanin, chúng là các hợp chất có nguồn gốc từ indol được tổng hợp từ tyrosin. Loại sắc tố này chỉ được tìm thấy ở bộ Cẩm chướng (kể cả chi xương rồng và chi dền ), và không bao giờ cùng xuất hiện ở thực vật có anthocyanin. Betalain chịu trách nhiệm tạo ra màu đỏ đậm của củ dền và được sử dụng làm chất tạo màu thực phẩm với mục đích thương mại. Các nhà sinh lý học thực vật chưa chắc chắn về chức năng của betalain ở thực vật sở hữu chúng, nhưng có một số bằng chứng sơ bộ cho thấy chúng có thể có đặc tính diệt nấm.
Tín hiệu và chất điều hòa
Thực vật cho ra các hormone và các chất điều hòa sinh trưởng khác có tác dụng làm tín hiệu báo phản ứng sinh lý ở mô của chúng. Chúng còn tạo ra các hợp chất như phytochrome nhạy cảm với ánh sáng và có tác dụng kích thích sinh trưởng hoặc phát triển nhằm phản ứng với các tín hiệu môi trường.
Hormone thực vật
Hormone thực vật (còn gọi là chất điều hòa sinh trưởng thực vật (PGR) hoặc phytohormone) là những hóa chất điều hòa sinh trưởng của thực vật. Theo định nghĩa động vật tiêu chuẩn, hormone là các phân tử tín hiệu được tạo ra ở những vị trí cụ thể, xảy ra ở nồng độ rất thấp và gây ra các quá trình thay đổi trong tế bào đích ở những vị trí khác. Không như động vật, thực vật thiếu các mô hoặc cơ quan tạo hormone cụ thể. Hormone thực vật thường không được vận chuyển đến các bộ phận khác của cây và việc sản xuất không bị hạn chế ở những địa điểm cụ thể.
Hormone thực vật là những hóa chất có hàm lượng nhỏ, có tác dụng thúc đẩy và tác động đến sinh trưởng, phát triển và biệt hóa ở tế bào và mô. Hormone rất quan trọng đối với sự sinh trưởng của thực vật; chúng tác động đến các quá trình ở thực vật từ lúc ra hoa đến phát triển hạt, trạng thái ngủ và nảy mầm. Chúng điều hòa những mô nào sinh trưởng hướng lên và mô nào sinh trưởng hướng xuống, hình thành lá và phát triển thân cây, sự phát triển và độ chín của quả, cũng như rụng và thậm chí cả khi cây chết.
Tạo hình quang học
Trong khi đa số mọi người biết rằng ánh sáng rất quan trọng để thực vật quang hợp, nhưng ít người nhận ra rằng độ nhạy cảm của thực vật với ánh sáng đóng vai trò kiểm soát phát triển cấu trúc thực vật (tạo hình). Việc sử dụng ánh sáng để kiểm soát phát triển cấu trúc được gọi là tạo hình quang học và phụ thuộc vào sự hiện diện của thụ quan sáng chuyên biệt, tức sắc tố hóa học có khả năng hấp thụ bước sóng ánh sáng cụ thể.
Thực vật sử dụng bốn loại thụ quan sáng: phytochrome, cryptochrome, quang sắc tố UV-B và protochlorophyllide a. Hai loại sắc tố đầu tiên (phytochrome và cryptochrome) là thụ quan sáng protein mang cấu trúc phân tử phức tạp được hình thành nhờ kết hợp protein với sắc tố nhạy cảm với ánh sáng. Cryptochrome còn được gọi là thụ quan sáng UV-A, vì nó hấp thụ ánh sáng tử ngoại ở vùng sóng dài "A". Thụ quan UV-B là một hoặc nhiều hợp chất chưa xác định rõ ràng, mặc dù một số bằng chứng cho thấy carotene hoặc riboflavin có thể là loại thụ quan này. Protochlorophyllide a (như tên gọi của nó) là tiền hóa chất của diệp lục.
Chu kỳ sáng
Nhiều thực vật có hoa sử dụng sắc tố phytochrome để cảm nhận thay đổi độ dài ngày theo mùa, mà chúng xem là tín hiệu để trổ hoa. Tính nhạy cảm với độ dài ngày này được gọi là chu kỳ sáng. Nói rộng hơn, thực vật có hoa có thể được phân loại thành thực vật ngày dài, thực vật ngày ngắn hoặc thực vật ngày trung bình, tùy thuộc vào phản ứng cụ thể của chúng đối với thay đổi độ dài ngày. Cây ngày dài cần độ dài ánh sáng ban ngày tối thiểu nhất định để bắt đầu trổ hoa, vì vậy những cây này ra hoa vào mùa xuân hoặc mùa hè. Ngược lại, cây ngày ngắn trổ hoa khi độ dài ánh sáng ban ngày giảm xuống dưới mức độ dài ngày tới hạn nhất định. Cây ngày trung bình không bắt đầu ra hoa dựa trên chu kỳ sáng, mặc dù một số cây có thể sử dụng độ nhạy nhiệt độ (xuân hóa).
Mặc dù cây ngày ngắn không thể ra hoa trong những ngày hè dài, nhưng đấy thực ra không phải khoảng thời gian tiếp xúc với ánh sáng làm hạn chế ra hoa. Đúng hơn, cây ngày ngắn cần thời gian dưới bóng tối không bị gián đoạn tối thiểu là 24 giờ (độ dài ngày ngắn) trước khi khâu phát triển trổ hoa có thể bắt đầu. Bằng thực nghiệm, giới khoa học xác định rằng cây ngày ngắn (đêm dài) sẽ không ra hoa nếu chiếu ánh sáng kích hoạt phytochrome lên cây vào ban đêm.
Sinh lý học môi trường
Nghịch lý thay, một mặt phân ngành sinh lý học môi trường là môn nghiên cứu non trẻ về sinh thái thực vật, mặt khác lại là một trong những môn nghiên cứu lâu đời nhất. Sinh lý học môi trường là tên gọi cho phân ngành này mà một số nhà sinh lý học thực vật ưa dùng, nhưng nó còn có một số tên khác trong khoa học ứng dụng. Phân ngành gần như đồng nghĩa với sinh lý học sinh thái, sinh thái cây trồng, trồng trọt và nông học. Tên cụ thể được áp dụng cho phân ngành này là đặc trưng cho quan điểm và mục tiêu nghiên cứu. Dù được áp dụng tên nào thì nó cũng chỉ cách mà thực vật phản ứng với môi trường của chúng và do đó trùng lặp với môn sinh thái học.
Các nhà sinh lý học môi trường đánh giá phản ứng của thực vật với các yếu tố vật lý như bức xạ (kể cả ánh sáng và tia cực tím), nhiệt độ, lửa và gió. Đặc biệt quan trọng là quan hệ giữa nước (có thể đo được bằng bom áp suất) và áp lực của hạn hán hoặc lũ lụt, trao đổi khí với khí quyển, cũng như chu trình của chất dinh dưỡng như nitơ và carbon.
Trong khi thực vật (một dạng sinh vật sống) có thể tiếp nhận và truyền kích thích và tổn thương vật lý, chúng không cảm thấy đau như các thành viên của giới động vật đơn giản vì thiếu thụ quan đau, dây thần kinh hay một bộ não, và rộng hơn là thiếu ý thức.
Nhiều thực vật được cho là có thể tiếp nhận và phản ứng kích thích cơ học ở cấp độ tế bào, một vài thực vật như bẫy kẹp hay trinh nữ lại nổi bật nhờ "khả năng cảm nhận rõ ràng của chúng". Mặc dù vậy, toàn bộ giới thực vật không thấy đau, bất kể có thể phản ứng với ánh sáng mặt tròi, trọng lực, gió và bất kì kích thích bên ngoài nào như công trùng cắn, vì chúng thiếu hệ thần kinh. Nguyên do chính là không như các thành viên của giới động vật thành công hoặc thất bại do sự đau định hình, sự tiến hóa của thực vật đơn giản là do sự sống và cái chết định hình.
Hướng kích thích và vận động ứng động
Thực vật có thể phản ứng với kích thích có hướng và vô hướng. Phản ứng với kích thích có hướng (chẳng hạn như trọng lực hoặc ánh sáng mặt trời) được gọi là hướng kích thích. Phản ứng với kích thích vô hướng, chẳng hạn như nhiệt độ hoặc độ ẩm, là một vận động ứng động.
Hướng kích thích ở thực vật là kết quả của sinh trưởng biệt hóa tế bào, tức hiện tượng các tế bào ở một bên của cây dài ra hơn các tế bào ở phía bên kia, khiến bộ phận uốn về hướng kia sinh trưởng kém hơn. Trong số các hướng kích thích phổ biến ở thực vật là hướng sáng, hiện tượng cây bị uốn về phía nguồn sáng. Tính hướng sáng giúp cây tiếp xúc tối đa với ánh sáng, ở những chỗ cần thêm ánh sáng để quang hợp hoặc giảm thiểu ánh sáng ở những chỗ chịu ánh sáng và nhiệt độ cao. Hướng đất giúp rễ cây xác định hướng đất và sinh trưởng hướng xuống. Hướng kích thích thường là kết quả của tương tác giữa môi trường và sản xuất một hoặc nhiều hormone thực vật.
Vận động ứng động là kết quả của sinh trưởng biệt hóa tế bào, hoặc do những thay đổi về áp suất trương ở mô thực vật có thể xảy ra nhanh chóng. Một ví dụ quen thuộc là tính chạm (phản ứng chạm) ở bẫy kẹp, một loại cây ăn thịt. Những bẫy gồm có các phiến lá đã bị biến đổi chứa các sợi lông kích hoạt nhạy cảm. Khi côn trùng hoặc động vật khác chạm vào những sợi lông này, chiếc lá sẽ gập lại. Cơ chế này cho phép cây bẫy và tiêu hóa côn trùng nhỏ để có thêm chất dinh dưỡng. Mặc dù bẫy nhanh chóng bị đóng lại do thay đổi áp suất bên trong tế bào, nhưng lá phải phát triển chậm để tái lập cơ hội thứ hai để bẫy côn trùng.
Bệnh ở thực vật
Về mặt kinh tế, một trong những môn nghiên cứu sinh lý học môi trường quan trọng nhất là bệnh học thực vật, tức môn nghiên cứu về bệnh ở thực vật và cách mà thực vật chống bệnh. Thực vật dễ bị nhiễm các loại sinh vật gây bệnh như động vật, bao gồm virus, vi khuẩn và nấm, cũng như bị côn trùng và giun tròn xâm nhập về mặt vật lý.
Bởi vì đặc điểm sinh học của thực vật khác với động vật nên các triệu chứng và phản ứng của chúng cũng khá khác nhau. Trong một số trường hợp, thực vật có thể rụng lá hoặc hoa bị nhiễm bệnh để ngăn bệnh lây lan, quá trình này được gọi là rụng. Hầu hết động vật không lựa chọn cách này để khống chế bệnh tật. Bản thân sinh vật gây bệnh ở thực vật cũng khác với sinh vật gây bệnh ở động vật vì thực vật thường không thể nhiễm bệnh qua tiếp xúc vật lý thông thường. Mầm bệnh thực vật có xu hướng lây nhiễm qua bào tử hoặc bị vật trung gian truyền bệnh.
Một trong những tiến bộ quan trọng nhất trong khống chế bệnh dịch ở thực vật là phát hiện hỗn hợp Bordeaux vào thế kỷ 19. Hỗn hợp là thuốc diệt nấm đầu tiên được biết tới, kết hợp đồng sulfat và vôi. Hỗn hợp được ứng dụng vào việc ức chế sự lây lan của sương phấn tơ, căn bệnh là mối đe dọa thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp rượu vang của Pháp.
Lịch sử
Lịch sử sơ khai
Francis Bacon công bố một trong những thí nghiệm sinh lý học thực vật đầu tiên, nằm trong cuốn sách Sylva Sylvarum vào năm 1627. Bacon đã trồng một số thực vật trên cạn (kể cả hoa hồng) trong nước và kết luận rằng chỉ cần dùng đất để giữ cho cây đứng thẳng. Jan Baptist van Helmont đã công bố thí nghiệm định lượng đầu tiên về sinh lý học thực vật vào năm 1648. Ông trồng một cây liễu trong một cái chậu chứa 200 pound đất khô trong 5 năm. Đất chỉ mất đi 2 ounce trọng lượng khô và van Helmont kết luận rằng thực vật lấy toàn bộ trọng lượng từ nước thay vì đất. Năm 1699, John Woodward công bố thí nghiệm về sự sinh trưởng của cây bạc hà ở các nguồn nước khác nhau. Ông phát hiện ra rằng cây trồng phát triển tốt hơn nhiều trong nước ủ trong đất thay vì trong nước cất.
Stephen Hales được xem là vị cha đẻ của sinh lý học thực vật với nhiều thí nghiệm trong cuốn sách có nhan đề Vegetable Staticks (1727); mặc dù Julius von Sachs là người thống nhất các mảng sinh lý học thực vật và tập hợp chúng thành một môn học. Lehrbuch der Botanik được xem là kinh thánh về sinh lý học thực vật vào thời đó.
Ứng dụng kinh tế
Sản xuất thực phẩm
Trong trồng trọt, nông nghiệp cùng với khoa học thực phẩm, sinh lý học thực vật là một chủ đề quan trọng liên quan đến quả, rau và các bộ phận tiêu thụ khác của thực vật. Các chủ đề nghiên cứu bao gồm: yêu cầu khí hậu, rụng quả, dinh dưỡng, chín quả. Sản xuất cây lương thực cũng xoay quanh nghiên cứu sinh lý học thực vật, bao gồm các chủ đề như thời gian trồng và thu hoạch tối ưu cũng như bảo quản hậu thu hoạch để con người tiêu thụ và sản xuất các sản phẩm thứ cấp như thuốc và mỹ phẩm. |
Ferrari có thể là:
Ferrari S.p.A: Công ty sản xuất ô tô Ý.
Scuderia Ferrari Marlboro: Đội đua ô tô thể thao. |
Kama Sutra (; , , ) là một tác phẩm của nền văn minh Ấn Độ cổ đại viết bằng tiếng Phạn nội dung viết về tình dục, khoái lạc và thực hành cảm xúc trong cuộc sống. Người được xem là tác gia của tác phẩm này là Mallanaga Vatsyayana, Kama Sutra không chỉ đơn thuần viết về quan hệ tình dục mà còn được viết như một tác phẩm hướng dẫn về "nghệ thuật sống", bản chất của tình yêu, tìm bạn đời, duy trì tình yêu cuộc sống và các khía cạnh khác liên quan tới tri thức hướng đến niềm vui của đời người.
Kama Sutra là tác phẩm Ấn Độ giáo lâu đời nhất còn tồn tại viết về nội dung khiêu dâm. Đó là một tác phẩm kinh điển với những câu thơ cách ngôn ngắn gọn còn tồn tại đến nay với các bhasya khác nhau (giải thích và bình luận). Tác phẩm là sự kết hợp của thơ văn xuôi và anustubh. Văn bản thừa nhận khái niệm Puruṣārtha của Ấn Độ giáo, và liệt kê ham muốn, tình dục và sự thỏa mãn cảm xúc là một trong những mục tiêu đúng đắn của cuộc sống. Các chương của nó thảo luận về các phương pháp tán tỉnh, đào tạo nghệ thuật để gắn kết xã hội, tìm bạn đời, tán tỉnh, duy trì sức khỏe trong cuộc sống hôn nhân, khi nào và làm thế nào để ngoại tình, tư thế quan hệ tình dục và các chủ đề khác. Phần lớn nội dung của cuốn sách là về triết lý và lý thuyết tình yêu, những gì kích thích ham muốn, những gì duy trì ham muốn đó và làm thế nào cũng như khi nào điều đó tốt hay có hại.
Văn bản này là một trong nhiều văn bản của Ấn Độ về Kama Shastra. Đây là một tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng. Kama Sutra đã ảnh hưởng nhiều tác phẩm tương tự từ sau thế kỷ thứ 4, cũng như nghệ thuật Ấn Độ được minh họa bởi sự hiện diện phổ biến phù điêu Kama và các tác phẩm điêu khắc ở các ngôi đền Hindu. Trong số này, Khajuraho ở Madhya Pradesh là một di sản thế giới của UNESCO. Trong số những ngôi đền còn sót lại ở phía bắc Ấn Độ, một ngôi đền ở Rajasthan đã vẽ lên tất cả các chương và tư thế tình dục để minh họa cho Kama Sutra. Theo Wendy Doniger, Kama Sutra đã trở thành "một trong những cuốn sách dịch sang tiếng Anh sớm nhất" khi nó được xuất bản vào năm 1883 bởi Richard Burton. Ấn bản tại châu Âu đầu tiên này của Burton không phản ánh trung thực nhiều về Kama Sutra vì ông đã sửa đổi bản dịch hợp tác giữa Bhagavanlal Indrajit và Shivaram Parashuram Bhide với Forster Arbuthnot để phù hợp với thị hiếu của thời kỳ Victoria thế kỷ 19.
Ngày viết, tác giả, lịch sử
Thời điểm viết văn bản gốc đầu tiên của Kama Sutra đến nay vẫn chưa biết. Các nhà sử học đã phỏng đoán trong khoảng từ 400 TCN đến 300 SCN. Theo John Keay, một bản sơ thảo Kama Sutra với nội dung gần giống ngày nay cõ lẽ được viết vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Ngược lại, theo nhà nghiên cứu Ấn Độ học Wendy Doniger một tác giả đồng biên dịch Kama Sutra và xuất bản thành nhiều bài viết bằng văn bản tiếng Hindu, thì phiên bản hiện nay của Kama Sutra phải được sáng tác và sửa đổi sau năm 225 vì nó đề cập đến Abhiras và triều đại Andhras vốn dĩ không cùng cai trị khu vực chính của Ấn Độ cổ đại trước thời điểm đó. Văn bản không hề đề cập đến Đế chế Gupta cai trị các khu vực đô thị lớn của Ấn Độ thời kỳ cổ đại, phác họa nghệ thuật Ấn Độ cổ đại, văn hóa và kinh tế Hindu từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 6. Vì những lý do này, Kama Sutra phải được viết từ nửa sau của thế kỷ thứ 3.
Địa điểm sáng tác của Kama Sutra cũng chưa biết rõ. Có khả năng là các trung tâm đô thị ở phía bắc hoặc tây bắc Ấn Độ cổ đại, xen kẽ ở khu đô thị phía đông Pataliputra (ngày nay là Patna).
Vatsyayana Mallanaga là tác giả được chấp nhận rộng rãi hiện nay bởi vì tên của ông được gắn với mục lục, nhưng không ai biết gì về ông. Vatsyayana nói rằng ông đã viết tác phẩm sau thời gian dài thiền định. Trong lời nói đầu, Vatsyayana thừa nhận rằng ông đã chắt lọc nhiều văn bản cổ, nhưng những điều này là không có thật. Ông trích dẫn công việc của những người khác mà ông gọi là "giáo viên" và "học giả", và các văn bản dài của Auddalaki, Babhravya, Dattaka, Suvarnanabha, Ghotakamukha, Gonardiya, Gonikaputra, Charayana và Kuchumara. Kama Sutra của Vatsyayana được đề cập và một số câu nói được trích dẫn trong Brihatsamhita của Varahamihira, cũng như những bài thơ của Kalidasa. Điều này cho thấy ông sống trước thế kỷ 5.
Nền tảng
Truyền thống Ấn Độ giáo có khái niệm Puruṣārtha nêu ra "bốn mục tiêu chính của cuộc sống". Cho rằng mỗi con người đều có bốn mục tiêu phù hợp cần thiết và đầy đủ về một cuộc sống hạnh phúc và trọn vẹn:
Pháp - biểu thị các hành vi được coi là phù hợp với Ṛta (quy tắc, chân lý), trật tự của cuộc sống và vũ trụ, bao gồm các nghĩa vụ, quyền, luật pháp, hạnh kiểm, đạo đức và "cách sống đúng đắn". Pháp của Ấn Độ giáo bao gồm các nghĩa vụ tôn giáo, quyền và nghĩa vụ đạo đức của mỗi cá nhân, cũng như các hành vi được phép trong trật tự xã hội, hành vi đúng đắn và ý niệm đạo đức. Pháp, theo Van Buitenen, là điều mà tất cả chúng sinh hiện tại phải chấp nhận và tôn trọng nhằm duy trì sự hài hòa và trật tự trên thế giới. Đó là trạng thái mà theo Van Buitenen, phải theo đuổi và thực hiện như lẽ tự nhiên, tiếng gọi đúng đắn của một con người, và đó là vai trò sống trong vũ trụ này.
Artha - biểu thị "ý nghĩa của cuộc sống", các hoạt động và của cải cho phép một người sống trong tình trạng mà người đó mong muốn. Artha kết hợp sự giàu có, sự nghiệp, hoạt động để kiếm sống, an ninh tài chính và thịnh vượng kinh tế. Việc theo đuổi artha đúng cách được coi là mục tiêu quan trọng của đời sống con người trong Ấn Độ giáo.
Kama - biểu thị ham muốn, ước muốn, đam mê, cảm xúc, khoái cảm của giác quan, hưởng thụ cái đẹp của cuộc sống, tình cảm, hoặc tình yêu, có hoặc không có tình dục. Gavin Flood giải thích kāma là "tình yêu" mà không phạm pháp (trách nhiệm đạo đức), artha (thịnh vượng vật chất) và một hành trình hướng tới Giải thoát (giải thoát tâm linh).
Giải thoát - biểu thị sự giải phóng, tự do hoặc phóng thích. Trong một số trường phái của Ấn Độ giáo, "giải thoát" bao hàm sự tự do thoát khỏi saṃsāra, vòng luân hồi của chết và tái sinh, ở những trường phái khác, "giải thoát" bao hàm sự tự do, tự hiểu biết, tự ý thức và giải thoát trong cuộc sống này.
Mỗi mục tiêu theo đuổi này đã trở thành một chủ đề nghiên cứu và dẫn đến tiếng Phạn trở nên phát triển và vài ngôn ngữ văn học Prakrit ở Ấn Độ thời cổ đại. Cùng với Dharmasastras, Arthasastras và Mokshasastras, Kamasastras đã được lưu trữ trong các bản thảo lá cọ. Kamasutra thuộc thể loại văn bản Kamasastra. Các ví dụ khác về các tác phẩm tiếng Phạn của Ấn Độ giáo có nội dung tình dục và cảm xúc bao gồm Ratirahasya (được gọi là Kokashastra trong một số văn tự của Ấn Độ), Anangaranga, Nagarasarvasva, Kandarpachudmani và Panchasayaka. Chủ đề xác định của văn học Kamasastra Ấn Độ, mà theo Laura Desmond - một nhà nhân chủng học và giáo sư nghiên cứu tôn giáo, là "trải nghiệm cảm giác hài hòa" từ mối quan hệ tốt giữa "bản thân và thế giới", bằng cách khám phá và tăng cường khả năng cảm nhận "ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi thế giới". Vatsyayana chủ yếu thảo luận về Kama cùng với mối quan hệ của Kama với Pháp và Artha. Ông đề cập đến mục đích thứ tư của cuộc sống trong một số câu thơ.
Di sản Vệ đà
Những nền tảng đầu tiên của kamasutra được tìm thấy trong văn học thời kỳ Vệ Đà của Ấn Độ giáo. Vatsyayana thừa nhận di sản này trong nội dung 1.1.9 của văn bản vị trí mà ông gọi với cái tên là Shvetaketu Auddalaki là "tác giả đầu tiên của loài người về kamasutra". Auddalaki là một Áo nghĩa thư rishi (nhà thơ học giả, nhà hiền triết), người có những ý tưởng được ghi lại trong Brihadaranyaka Upanishad ở phần 6.2, và Chandogya Upanishad trong các nội dung từ 5.3 đến 5.10. Kinh điển Ấn Độ giáo này có niên đại khoảng giữa 900 TCN và 700 TCN, theo nhà nghiên cứu Ấn Độ học và học giả tiếng Phạn Patrick Olivelle. Giống với tri thức trong Ātman (bản thân, linh hồn) và khái niệm bản thể học của Brahman, những nhà Áo nghĩa thư đầu tiên này thảo luận về cuộc sống, hoạt động của con người và về bản chất của sự tồn tại như một hình thức tôn sùng nội tâm, trong đó giới tính và tình dục được tạo tác thành một hình thức nghi lễ tâm linh yajna (nghĩa: lửa hiến dâng, Agni) và tràn ngập về phương diện tâm linh:
Một ngọn lửa – chính là người phụ nữ, Gautama.
củi là âm hộ của cô,
khói là lông mu của cô,
lửa là âm đạo của cô,
khi một người xâm nhập vào cô, đó là than hồng của cô,
và tia lửa của cô là cao trào.
Trong ngọn lửa các vị thần dâng tinh dịch,
và từ đó hiến cho người đàn ông.
– Brihadaranyaka Upanishad 6.2.13, ~700 trước Công Nguyên, Dịch sang Anh ngữ: Patrick Olivelleयोषा वा आग्निर् गौतम । तस्या उपस्थ एव समिल् लोमानि धूमो योनिरर्चिर् यदन्तः करोति तेऽङ्गारा अभिनन्दा विस्फुलिङ्गास् तस्मिन्नेतस्मिन्नग्नौ देवा रेतो जुह्वति तस्या आहुत्यै पुरुषः सम्भवति । स जीवति यावज्जीवत्य् अथ यदा म्रियते ।१३, – 6.2.13, For the context and other verses: Wikisource
Theo nhà Ấn Độ học De, có một quan điểm mà Doniger cũng đồng ý, một trong nhiều bằng chứng cho thấy kamasutra bắt đầu trong văn học tôn giáo của thời kỳ Vệ Đà, những ý tưởng cuối cùng đã được tinh chỉnh và chắt lọc thành một tác phẩm kinh điển của Vatsyayana. Theo Doniger, văn bản mẫu này ghi lại thú vui, niềm vui và tình dục như một hành vi dharmic bắt đầu trong "sự phàm tục, tác phẩm rực rỡ có tên gọi là Rigveda" của người theo Ấn Độ giáo. Kamasutra và việc tiến hành quan hệ tình dục, khoái lạc tình dục và khoái cảm là một phần không thể thiếu trong những môi trường tôn giáo ở Ấn Độ giáo và khá phổ biến trong các đền thờ của họ.
Sử thi
Mối quan hệ giữa người với nhau, tình dục và sự thỏa mãn về cảm xúc là một phần quan trọng trong văn học tiếng Phạn sau Vệ Đà với vai trò là sử thi chính của Ấn Độ giáo: Mahabharata và Ramayana. Quan điểm của người Ấn Độ cổ đại được dẫn theo Johann Meyer, rằng tình yêu và tình dục là một nhu cầu thú vị. Mặc dù phụ nữ e dè và chọn lựa, "một người phụ nữ có nhu cầu rất lớn về surata (cảm nhận hoặc khoái cảm tình dục)" và "người phụ nữ có khuynh hướng tình dục mạnh mẽ hơn nhiều, cũng như niềm vui trong hành động tình dục của phụ nữ lớn hơn đàn ông".
Bản thảo
Bản thảo Kamasutra đã tồn tại trong nhiều phiên bản khác nhau trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Trong khi cố gắng để có được một bản dịch tiếng Phạn văn bản kama-sastra Anangaranga vốn được người Ấn giáo dịch rộng rãi bằng nhiều ngôn ngữ trong các khu vực như Marathi, các cộng sự của nhà Đông phương học Richard Burton đã tình cờ đọc được các phần của bản thảo Kamasutra. Họ ủy thác cho học giả tiếng Phạn Bhagvanlal Indraji tìm kiếm một bản thảo Kamasutra hoàn chỉnh và biên dịch. Indraji thu thập các bản thảo dị bản trong các thư viện và đền thờ của Varanasi, Kolkata và Jaipur. Burton đã xuất bản một bản dịch tiếng Anh qua chỉnh sửa từ các bản thảo này, nhưng không phải là một phiên bản của Kamasutra tiếng Phạn.
Theo SC Upadhyaya, người được biết đến với hoạt động nghiên cứu học thuật từ năm 1961 và có bản dịch chính xác hơn về Kamasutra, ông nói có những vấn đề với các bản thảo đã tồn tại và các dị bản theo thời gian. Điều này được xác nhận bởi các văn bản Ấn Độ giáo khác có từ thiên niên kỷ thứ 1 TCN, nội dung về kama có đề cập và trích dẫn Kamasutra, nhưng nhiều câu nói trong Kamasutra mà theo các tác giả lịch sử "không được tìm thấy trong văn bản của Kamasutra" hiện nay.
Nội dung
Kama Sutra của Vatsyayana ghi 1250 câu, được chia thành 36 chương trong 64 phần, được hệ thống thành 7 cuốn sách. Tuyên bố này được ghi lại trong chương mở đầu của tác phẩm, một thông lệ phổ biến trong các văn bản Hindu cổ, có khả năng bao gồm để ngăn chặn sự thêm thắt nội dung và trái phép của tác phẩm dị bản. Tác phẩm ngày nay gồm có 67 phần, và danh sách này được liệt kê trong Quyển 7 cũng như trong bình luận tiếng Phạn của Yashodhara (bhasya) nằm trong tác phẩm.
Kamasutra sử dụng sự pha trộn của văn xuôi và thơ, và tường thuật theo dạng tiểu thuyết ấn tượng với hai nhân vật được gọi là nayaka (người đàn ông) và nayika (phụ nữ), được hỗ trợ bởi các nhân vật được gọi là pitamarda (trụy lạc), vita (người mai mối) và vidushaka (kẻ pha trò). Định dạng này tuân theo những lời dạy được tìm thấy trong kinh điển tiếng Phạn có tên là Natyasastra. Giáo lý và thảo luận được tìm thấy trong Kamasutra kết hợp rộng rãi với thần thoại và truyền thuyết Ấn Độ giáo cổ đại.
Tiếp nhận
Indira Kapoor, giám đốc của Tổ chức phụ huynh kế hoạch quốc tế (International Planned Parenthood Foundation), tuyên bố rằng Kamasutra là một chuyên luận về hành vi tình dục của con người và là một thành tựu cổ xưa nghiên cứu một cách nghiêm túc về tình dục cùng những thứ khác. Theo Kapoor, trích lời Jyoti Puri, thái độ của người Ấn Độ hiện nay rất khác nhau, với những quan niệm sai lầm, biểu lộ sự bối rối, thay vì tò mò và tự hào, khi họ phải đối mặt với các văn bản như Kamasutra, khiêu dâm và nghệ thuật khiêu dâm được thấy trong các đền thờ Hindu. Kamasutra, tuyên bố của Kapoor, phải được xem như một phương tiện để khám phá và cải thiện "sự tự tin và hiểu biết về cơ thể và cảm xúc của họ".
Kamasutra đã là một tài liệu tham khảo phổ biến về tác phẩm khiêu dâm cổ đại. Trên các phương tiện truyền thông phương Tây, như Redbook-tạp chí phụ nữ Mỹ, Kamasutra được mô tả là "Mặc dù nó đã được viết từ nhiều thế kỷ trước, nhưng vẫn không có cuốn cẩm nang tình dục nào tốt hơn, trong đó có hàng trăm tư thế, mỗi tư thế mang đến sự thay đổi tinh tế trong khoái cảm cho nam giới và phụ nữ."
Jyoti Puri, người đã có một bài phê bình và phê bình nữ quyền tác phẩm này, ông nói rằng "Kamasutra thường xuyên được trích dẫn không thể phủ nhận trong quan điểm phi phương Tây và tính cởi mở, lưu bút thật sự của một góc nhìn về tình dục" và "niềm tin đối với Kamasutra cung cấp một nhãn quan xuyên suốt về quan điểm tích cực, thậm chí là xuất chúng về tình dục". Tuy nhiên, theo Puri, đây là một cách giải thích thời kỳ thuộc địa và hậu thuộc địa đối với tác phẩm này. Những bài tường thuật này không gây được tiếng vang cũng như không cung cấp "tính chính trị về giới tính, chủng tộc, quốc tịch và giai cấp" ở Ấn Độ cổ đại được xuất bản bởi các nhà sử học khác, điều này cũng đồng nghĩa các nhận định được thêm và chỉ thịnh hành thời kỳ sau đó.
Theo Wendy Doniger, Kamasutra là một "kiệt tác văn hóa vĩ đại", một trong những thứ có thể truyền cảm hứng cho người Ấn Độ đương đại vượt qua "sự nghi ngờ và vui mừng" đối với di sản cổ xưa của họ. |
Tiền Giang có thể chỉ:
Sông Tiền
Tỉnh Tiền Giang, được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Mỹ Tho và Gò Công cũ. |
Chữ biểu âm, còn gọi văn tự biểu âm, là hệ thống chữ viết mà trong đó, mỗi một ký hiệu văn tự tương ứng với một âm vị (đơn vị âm thanh nhỏ nhất của một ngôn ngữ) hay một âm tiết (âm thanh tạo thành từ một hoặc nhiều âm vị). Những hệ thống chữ viết tiêu biểu cho chữ biểu âm gồm có chữ Latin, chữ Kirin, chữ Ả Rập, chữ Devanagari, Kana (hiragana và katakana) của tiếng Nhật, Hangul của tiếng Triều Tiên. Trong khi đó, chữ tượng hình Ai Cập, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Maya lại đại diện cho hệ thống chữ viết đối lập với chữ biểu âm là văn tự ngữ tố với khả năng biểu nghĩa.
Phân loại
Có các loại chữ biểu âm như sau.
Văn tự âm tiết
Chữ biểu âm mà mỗi một ký hiệu trong đó tương ứng với một âm tiết được gọi là văn tự âm tiết.
Văn tự âm vị
Chữ biểu âm mà mỗi một ký hiệu trong đó tương ứng với một âm vị được gọi là văn tự âm vị.
Lịch sử hình thành
Tất cả các hệ thống chữ biểu âm đều được hình thành thông qua văn tự ngữ tố. |
Chi Ngân sam (danh pháp khoa học: Cathaya) là một chi thực vật trong họ Thông (Pinaceae) và có một loài còn tồn tại đã biết là ngân sam (Cathaya argyrophylla). Chi Cathaya là thành viên của phân họ Laricoideae, có quan hệ họ hàng gần gũi nhất với Pseudotsuga và Larix. Tên gọi loài thứ hai, C. nanchuanensis, hiện nay được coi là từ đồng nghĩa của loài đầu tiên, do nó không khác biệt gì với C. argyrophylla trong bất cứ đặc trưng cơ bản nào.
Cathaya chỉ sinh trưởng trong một khu vực giới hạn tại miền nam Trung Quốc, trong các tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Nam và đông nam Tứ Xuyên. Tên gọi trong tiếng Trung của nó là 银杉 (ngân sam). Loài cây này được tìm thấy trên các sườn đồi núi hẹp và dốc ở cao độ 950-1.800 m, trên nền đất đá vôi. Một quần thể lớn hơn đã bị suy giảm do tàn phá và đốn hạ trước khi nó được các nhà khoa học phát hiện và đưa vào danh sách bảo vệ trong năm 1950.
Lá của loài cây này hình kim, dài 2,5–5 cm, có các mép lá có lông rung khi còn non, và mọc xung quanh thân cây theo kiểu xoắn ốc. Quả nón dài 3–5 cm, với khoảng 15-20 vảy bắc, mỗi vảy chứa 2 hạt có cánh.
Một vài nhà thực vật học (Silba 1986) không thích một chi mới chỉ có 1 loài, đã cố gắng đưa nó vào các chi đang tồn tại khác, chẳng hạn đặt tên là Pseudotsuga argyrophylla hay Tsuga argyrophylla. Tuy nhiên, nó rất khác với cả hai chi này, và các tổ hợp tên gọi như vậy hiện nay gần như không ai sử dụng.
Các hóa thạch của các loài đã tuyệt chủng thuộc chi Cathaya được tìm thấy khá phổ biến tại các mỏ than nâu ở châu Âu có niên đại khoảng 10-30 triệu năm trước.
Chú thích |
Long Khánh là một thành phố trực thuộc tỉnh Đồng Nai, Việt Nam.
Địa lý
Thành phố Long Khánh nằm ở phía đông tỉnh Đồng Nai, cách thành phố Biên Hòa 47 km, cách thành phố Vũng Tàu 75 km, cách thành phố Phan Thiết 115 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 72 km, có vị trí địa lý:
Phía đông và đông bắc giáp huyện Xuân Lộc
Phía tây và tây bắc giáp huyện Thống Nhất
Phía nam giáp huyện Cẩm Mỹ
Phía bắc giáp huyện Định Quán.
Là vị trí cửa ngõ giao thông của vùng, liên kết với khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nguyên thông qua các tuyến đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1; quốc lộ 56, tuyến cao tốc Tp. Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, tương lai có tuyến đường cao tốc Dầu Giây - Liên Khương và đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết, thành phố Long Khánh có vị trí thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và du lịch.
Hành chính
Thành phố Long Khánh có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 11 phường: Bảo Vinh, Bàu Sen, Phú Bình, Suối Tre, Xuân An, Xuân Bình, Xuân Hòa, Xuân Lập, Xuân Tân, Xuân Thanh, Xuân Trung và 4 xã: Bảo Quang, Bàu Trâm, Bình Lộc, Hàng Gòn.
Lịch sử
Trước năm 1837, Long Khánh là vùng dân tộc ít người, sử cũ gọi là man sách, thuộc hai phủ Long An và Phước Khánh và một số buôn, sóc xen kẽ của người dân tộc ở tỉnh Bình Thuận. Tháng 3 năm 1836, Bố chánh Biên Hòa Phạm Duy Trinh tâu xin và được phép mộ dân, khai khẩn đến vùng núi Chứa Chan.
Tháng 11 năm 1837, huyện Long Khánh gồm 5 tổng, 36 xã thôn, 451 số đinh, trên cơ sở nhập hai trại man ở hai đồn Long An và Phước Khánh, lúc đó thuộc phủ Phước Tuy cũng mới thành lập.
Năm 1851, bỏ huyện Long Khánh, nhập về phủ Phước Tuy.
Năm 1957, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà lập tỉnh Long Khánh bao gồm 2 quận Xuân Lộc và Định Quán, sau lập thêm quận Kiệm Tân tách ra từ quận Xuân Lộc. Tỉnh lị tỉnh Long Khánh đặt tại Xuân Lộc (nay là khu vực trung tâm thành phố Long Khánh).
Năm 1976, Xuân Lộc trở thành một huyện thuộc tỉnh Đồng Nai. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Xuân Lộc.
Đến năm 1991, huyện Xuân Lộc tách thành hai huyện Xuân Lộc và Long Khánh. Khi mới thành lập, huyện Long Khánh có thị trấn Xuân Lộc (huyện lỵ) và 6 xã: Xuân Bình, Xuân Đường, Xuân Lập, Xuân Mỹ, Xuân Tân, Xuân Vinh.
Ngày 15 tháng 9 năm 1992, chia xã Xuân Đường thành 2 xã: Xuân Đường và Xuân Quế, chia xã Xuân Lập thành 2 xã: Xuân Lập và Xuân Thạnh.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chia xã Xuân Bình thành 2 xã: Bình Lộc và Xuân Thiện; chia xã Xuân Vinh thành 2 xã: Bảo Quang và Bảo Vinh; chia xã Xuân Mỹ thành 2 xã: Xuân Mỹ và Long Giao; chia xã Xuân Tân thành 3 xã: Xuân Tân, Xuân Thanh, Nhân Nghĩa; chia xã Xuân Lập thành 3 xã: Xuân Lập, Bàu Sen, Suối Tre; chia xã Xuân Quế thành 2 xã: Xuân Quế và Sông Nhạn; chia xã Xuân Đường thành 2 xã: Xuân Đường và Thừa Đức.
Từ đó đến cuối năm 2002, huyện Long Khánh có thị trấn Xuân Lộc (huyện lỵ) và 17 xã: Bàu Sen, Bình Lộc, Bảo Quang, Bảo Vinh, Long Giao, Nhân Nghĩa, Sông Nhạn, Suối Tre, Thừa Đức, Xuân Đường, Xuân Lập, Xuân Mỹ, Xuân Quế, Xuân Tân, Xuân Thanh, Xuân Thạnh, Xuân Thiện.
Ngày 21 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2003/NĐ-CP. Theo đó:
Thành lập thị xã Long Khánh trên cơ sở tách thị trấn Xuân Lộc và 8 xã: Xuân Lập, Bàu Sen, Suối Tre, Bình Lộc, Bảo Quang, Bảo Vinh, Xuân Tân, Xuân Thanh thuộc huyện Long Khánh
Sáp nhập 2 xã: Xuân Thiện, Xuân Thạnh của huyện Long Khánh vào huyện Thống Nhất
Sáp nhập 6 xã: Xuân Bảo, Bảo Bình, Xuân Đông, Xuân Tây, Sông Ray, Lâm San của huyện Xuân Lộc vào phần còn lại của huyện Long Khánh để thành lập huyện Cẩm Mỹ
Thành lập 6 phường: Phú Bình, Xuân An, Xuân Bình, Xuân Hòa, Xuân Thanh, Xuân Trung và xã Bàu Trâm thuộc thị xã Long Khánh trên cơ sở giải thể thị trấn Xuân Lộc
Đổi tên xã Xuân Thanh thành xã Hàng Gòn.
Sau khi thành lập, thị xã Long Khánh có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 6 phường: Phú Bình, Xuân An, Xuân Bình, Xuân Hòa, Xuân Thanh, Xuân Trung và 9 xã: Bảo Quang, Bảo Vinh, Bàu Sen, Bàu Trâm, Bình Lộc, Hàng Gòn, Suối Tre, Xuân Lập, Xuân Tân.
Ngày 30 tháng 12 năm 2015, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 1496/QĐ-BXD công nhận thị xã Long Khánh là đô thị loại III thuộc tỉnh Đồng Nai.
Ngày 10 tháng 4 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 673/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 2019). Theo đó:
Chuyển 5 xã: Bảo Vinh, Bàu Sen, Suối Tre, Xuân Lập, Xuân Tân thành 5 phường có tên tương ứng
Thành lập thành phố Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Khánh.
Sau khi thành lập, thành phố Long Khánh có 191,75 km² diện tích tự nhiên và 171.276 người với 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 11 phường và 4 xã như hiện nay.
Kinh tế
Thành phố Long Khánh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; tiếp giáp với vùng kinh tế chiến lược Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Có nhiều tuyến đường giao thông quốc gia đi qua, có vị trí quan trọng về các mặt kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng đối với tỉnh và cả khu vực; là đầu mối giao lưu hàng hóa với các tỉnh miền Trung, tạo điều kiện để thành phố phát triển thương mại - dịch vụ - du lịch.
Long Khánh được xem là "thiên đường trái cây" của vùng Đông Nam Bộ. Ngoài những miệt vườn, nơi đây còn có rất nhiều điểm đến thú vị và món ăn ngon để trải nghiệm.
Có diện tích đất đai màu mỡ, thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp; cây ăn quả; cây có giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu như: cao su, cà phê, chôm chôm, sầu riêng,... Hiện hơn 98% hệ thống đường giao thông nội ô đã được thảm nhựa, bê tông hóa. Mạng lưới điện quốc gia phủ đều các xã, phường phục vụ gần 100% số hộ dân sử dụng điện và khoảng 99% số hộ dùng nước hợp vệ sinh.
Hiện nay đã quy hoạch 2 khu công nghiệp nằm trên địa bàn thành phố; thu hút được 4 dự án đầu tư nước ngoài, một số doanh nghiệp nhà nước, trên 100 doanh nghiệp ngoài quốc doanh; bao gồm:
Khu công nghiệp Long Khánh có diện tích khoảng 264 ha
Khu công nghiệp Suối Tre có diện tích khoảng 150 ha
Mở thêm 8 khu công nghiệp mới diện tích hơn 5000 ha
Công viên phần mềm.
Cơ cấu kinh tế năm 2015:
Dịch vụ chiếm 56,8%
Công nghiệp - xây dựng chiếm 31,4%
Nông - lâm nghiệp - thủy sản chiếm 11,8%.
Thu nhập bình quân đầu người đạt 109 triệu đồng/năm.
Giao thông
Có quốc lộ 1, quốc lộ 56, đường cao tốc Phan Thiết – Dầu Giây và đường sắt Bắc Nam đi qua.
Chú thích |
Sông Tiền hay Tiền Giang là nhánh hạ lưu bên trái (tả ngạn) của sông Mê Kông (nhánh bên phải là Sông Hậu) chảy từ đất Campuchia vào đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Địa lý
Sông Tiền chảy qua các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh và Bến Tre, rồi đổ ra Biển Đông. Sông Tiền có tổng chiều dài chính thức là hơn 234 km.
Sông Tiền (giống như sông Hậu) chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.
Sông Tiền chảy từ Phnom Penh, qua Kandal và dọc theo ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Prey Veng (tả ngạn - bờ bắc) và Kandal (hữu ngạn - bờ nam).
Sông đi vào lãnh thổ Việt Nam ở xã Vĩnh Xương (Tân Châu, An Giang) và Thường Phước 1 (Hồng Ngự, Đồng Tháp). Sông đi dọc ranh giới giữa Tân Châu và Hồng Ngự rồi đi vào Hồng Ngự luôn, dọc theo ranh giới giữa Hồng Ngự với Tam Nông (Đồng Tháp) và Thanh Bình (Đồng Tháp). Sông tiếp tục dọc theo ranh giới giữa Thanh Bình, Cao Lãnh (Đồng Tháp) bên tả và Chợ Mới (An Giang) bên hữu. Sông lại vào sâu trong Đồng Tháp dọc theo ranh giới giữa Lấp Vò, Sa Đéc, Châu Thành bên hữu với thành phố Cao Lãnh và huyện Cao Lãnh bên tả. Sông là ranh giới tự nhiên giữa Châu Thành (Đồng Tháp) bên hữu và Cái Bè (Tiền Giang) bên tả.
Tới giáp ranh giữa thành phố Vĩnh Long và Tiền Giang, nó được tách làm ba nhánh lớn: sông Cổ Chiên, sông Hàm Luông và sông Mỹ Tho.
Sông Cổ Chiên chảy dọc theo ranh giới giữa Vĩnh Long, Trà Vinh (bên hữu) và Bến Tre (bên tả) đổ ra biển ở 2 cửa: cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu. Hai cửa biển này được ngăn cách bởi cù lao Hòa Minh – Long Hoà huyện Châu Thành (Trà Vinh).
Sông Hàm Luông chảy trọn vẹn trong tỉnh Bến Tre, đổ ra biển bằng cửa Hàm Luông ngăn cách huyện Thạnh Phú và Ba Tri.
Sông Mỹ Tho chảy qua ranh giới Bến Tre (bên hữu) và Tiền Giang (bên tả), đổ ra biển bởi ba cửa: cửa Tiểu (Gò Công), cửa Đại (giữa Bình Đại và Gò Công) và cửa Ba Lai (giữa Ba Tri và Bình Đại).
Ngoài ra còn rất nhiều các con sông nhỏ, kênh rạch khác nối liền sông Tiền với sông Hậu.
Tác động
Do sự biến động của dòng chảy và sự tác động của thủy triều mặn thâm nhập sâu vào trong đất liền, trên dòng sông xuất hiện nhiều cồn bãi nổi và ngầm, làm cho việc đi lại của các tàu có trọng tải lớn chắc chắn gặp nhiều khó khăn.
Các cây cầu
Cầu Tân Châu – Hồng Ngự, nối Đồng Tháp với An Giang (dự án)
Cầu Chợ Mới – Tân Long, nối Đồng Tháp với An Giang
Cầu Cao Lãnh, nối thành phố Cao Lãnh với huyện Lấp Vò, Đồng Tháp
Cầu Mỹ Thuận, nối Tiền Giang với Vĩnh Long
Cầu Rạch Miễu, nối Tiền Giang với Bến Tre
Cầu Ba Lai, Bến Tre
Cầu Hàm Luông, nối thành phố Bến Tre với huyện Mỏ Cày Bắc, Bến Tre
Cầu Cổ Chiên, nối Bến Tre với Trà Vinh |
Trà Vinh là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Trà Vinh, Việt Nam.
Địa lý
Thành phố Trà Vinh là tỉnh lỵ của tỉnh Trà Vinh, có diện tích tự nhiên 68,035 km² chiếm gần 3% diện tích của tỉnh. Nằm ở phía Nam sông Tiền có tọa độ địa lý từ 106o18’ đến 106o25’ kinh độ Đông và từ 9o31’ đến 10o1’ vĩ độ Bắc, có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp sông Cổ Chiên, tỉnh Bến Tre
Phía tây bắc giáp huyện Càng Long
Phía đông, nam, đông nam và tây nam giáp huyện Châu Thành.
Thành phố Trà Vinh có diện tích 68,03 km², dân số năm 2019 là 112.584 người, mật độ dân số đạt 1.655 người/km².
Điều kiện tự nhiên
Với diện tích 68,035 km² chủ yếu gồm 3 nhóm đất chính là đất cát giồng, đất phù sa và đất phèn tiềm năng. Tài nguyên thiên nhiên nước chủ yếu từ nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm khai thác từ sông, hồ kênh, rạch… tuy nhiên trữ lượng nước không đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân. Chưa phát hiện có các loại khoáng sản mà chủ yếu là cát xây dựng ở xã Long Đức với trữ lượng không lớn, chất lượng thấp và phù thuộc vào dòng chảy của sông Cổ Chiên. Ngoài ra, hiện nay trên địa bàn thành phố Trà Vinh có nhiều địa điểm du lịch gắn liền với văn hóa dân tộc như: Khu văn hóa du lịch ao Bà Om, Đền thờ Bác Hồ, các di tích cổ đền, chùa và tiềm năng phát triển khu du lịch sinh thái ấp Long Trị, xã Long Đức.
Lịch sử
Tỉnh Trà Vinh được thành lập năm 1900, tỉnh lỵ đặt tại làng Minh Đức, sau đổi thành Long Đức thuộc quận Châu Thành. Thị xã Trà Vinh có vị trí thuận lợi do nằm gần cửa sông Cổ Chiên nên sớm trở thành trung tâm dịch vụ và sau đó là trung tâm hành chính, quân sự của tỉnh Trà Vinh.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh 143-NV về việc giải thể và sáp nhập tỉnh Tam Cần vào tỉnh Trà Vinh, đồng thời đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình; đổi tên xã Long Đức thành xã Phú Vinh và chọn làm lỵ sở của quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Bình. Lúc này, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình cũng bị đổi tên tên là "Phú Vinh", do lấy theo tên xã Phú Vinh thuộc quận Châu Thành là nơi đặt tỉnh lỵ.
Sau năm 1975, Quốc hội Việt Nam khóa VI quyết định hợp nhất 2 tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long thành tỉnh Cửu Long, với tỉnh lỵ là thị xã Vĩnh Long. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1991 thị xã Trà Vinh là trung tâm vùng phía Đông Nam của tỉnh, gồm 7 phường (đánh số thứ tự từ 1 đến 7). Ngày 11 tháng 3 năm 1977, chuyển xã Long Đức thuộc huyện Châu Thành Đông vừa giải thể về thị xã Trà Vinh quản lý.
Sau gần 17 năm sáp nhập hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long, đến ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Cửu Long được chia tách thành hai tỉnh là Vĩnh Long và Trà Vinh. Và cũng từ đây, thị xã Trà Vinh đã và đang được đầu tư xây dựng, quy hoạch lại theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trở thành trung tâm hành chính về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và An ninh quốc phòng của tỉnh.
Ngày 18 tháng 7 năm 2002, thành lập 2 phường 8 và 9 trên cơ sở tách đất của 3 xã Nguyệt Hóa, Đa Lộc, Lương Hòa thuộc huyện Châu Thành.
Năm 2007, thị xã Trà Vinh được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 4 tháng 3 năm 2010, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP, thành lập thành phố Trà Vinh thuộc tỉnh Trà Vinh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Trà Vinh.
Ngày 5 tháng 2 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 241/QĐ-TTg, công nhận thành phố Trà Vinh là đô thị loại II thuộc tỉnh Trà Vinh.
Hành chính
Thành phố Trà Vinh có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 và xã Long Đức.
Dân số
Dân số toàn thành phố đạt khoảng 160.310 người, trong đó dân tộc Khmer chiếm 19,96%, dân tộc Hoa chiếm 6,22%, dân tộc khác chiếm 0,2% và số đông còn lại là dân tộc Kinh.
Toàn thành phố có khoảng 85.513 người trong độ tuổi lao động, mật độ dân số tăng tự nhiên hàng năm gần 1,35%..
Giao thông
Thành phố Trà Vinh nằm bên bờ sông Tiền, trên Quốc lộ 53 và cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 202 km và cách thành phố Cần Thơ 100 km, cách bờ biển Đông 40 km, với hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy khá hoàn chỉnh thuận tiện để phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và là vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh. Hiện nay thành phố đang triển khai đầu tư xây dựng khu đô thị HQC Trà Vinh nằm trên địa bàn phường 4.
Đường phố
Tên đường phố ở thị xã Trà Vinh trước năm 1975:
Đường Thái Lập Thành nay là đường Tô Thị Huỳnh
Đường Nguyễn Tri Phương nay là đường Trần Phú
Đường Phan Thanh Giản nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa
Đường Lê Văn Duyệt nay là đường 19 tháng 5
Đường Calmette nay là đường Lý Tự Trọng
Đường Gia Long nay là đường Phạm Thái Bường
Đường Thủ Tướng Thinh nay là đường Điện Biên Phủ
Đường Thành Thái nay là đường Võ Thị Sáu
Đường Neuve nay là đường Hai Bà Trưng
Đường Tôn Thọ Tường và Công Trường Diên Hồng nay là đường Độc Lập
Đường Lê Quang Liêm nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai
Đường Lý Thái Tổ nay là đường Hùng Vương
Đường Đỗ Hữu Vị nay là đường Nguyễn Thị Út.
Hình ảnh
Ảnh chụp trong thành phố Trà Vinh:
Chú thích |
Hậu Giang có thể chỉ:
Sông Hậu
Tỉnh Hậu Giang cũ, tồn tại từ năm 1976 đến năm 1991.
Tỉnh Hậu Giang hiện nay, tách ra từ tỉnh Cần Thơ cũ vào năm 2003. |
là một công ty kinh doanh hàng tiêu dùng điện tử và trò chơi điện tử đa quốc gia của Nhật Bản có trụ sở chính tại Kyoto. Công ty thành lập vào năm 1889 với tên bởi thợ thủ công Yamauchi Fusajiro, ban đầu sản xuất bài lá hanafuda làm bằng tay. Sau khi mạo hiểm tham gia vào nhiều ngành kinh doanh khác nhau trong những năm 1960 và có được tư cách pháp nhân là công ty đại chúng lấy tên như hiện tại, Nintendo đã phân phối máy chơi trò chơi điện tử đầu tiên của mình, Color TV-Game, vào năm 1977. Công ty đã được toàn thế giới công nhận với việc phát hành Nintendo Entertainment System và Super Mario Bros. vào năm 1985.
Kể từ đó, Nintendo đã sản xuất một số máy chơi trò chơi điện tử thành công nhất trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử, chẳng hạn như Game Boy, Super Nintendo Entertainment System, Wii và Nintendo Switch. Nintendo cũng đã phát hành nhiều nhượng quyền thương mại có ảnh hưởng, bao gồm Donkey Kong, Mario, The Legend of Zelda, Kirby, Metroid, Fire Emblem, Splatoon, Super Smash Bros. và Pokémon.
Nintendo có nhiều công ty con ở Nhật Bản và nước ngoài, còn có các đối tác kinh doanh như The Pokémon Company và HAL Laboratory. Cả công ty và đội ngũ nhân viên đã nhận được nhiều giải thưởng cho những thành tựu của họ, bao gồm Giải Emmy về Công nghệ & Kỹ thuật - Emmy Awards for Technology & Engineering, Giải thưởng do Nhà phát triển trò chơi bình chọn - Game Developers Choice Awards, Giải thưởng trò chơi điện tử của Viện hàn lâm Anh - British Academy Games Awards cùng những giải thưởng khác. Nintendo là một trong những công ty giàu có và giá trị nhất tại thị trường Nhật Bản.
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử của Nintendo
1889–1969: Lịch sử sơ khai
1889–1929: Xuất thân là một công ty thẻ bài
Nintendo được thành lập với tên gọi ban đầu là vào ngày 23 tháng 9 năm 1889 bởi thợ thủ công Yamauchi Fusajiro ở Shimogyō-ku, Kyoto, Nhật Bản, để sản xuất và phân phối . Từ Nintendo thường được cho là có nghĩa 'phó mặc thời vận cho trờinhưng không có ghi chép lịch sử nào xác thực giả định này. Nó có thể được dịch là 'đền thờ tự do của hanafuda'. Yamauchi sản xuất những quân bài này bằng vỏ cây dâu tằm trắng, và được ông vẽ bằng tay. Ông đã bán chúng công khai, dù thực tế là cờ bạc đã bị chính quyền Nhật Bản cấm từ năm 1633, có thể vì các lá bài có hình ảnh minh họa chứ không phải con số.
Với sự gia tăng phổ biến của bài lá, Yamauchi đã thuê các trợ lý để sản xuất hàng loạt nhằm đáp ứng nhu cầu. Tuy nhiên, mặc dù có một khởi đầu thuận lợi, công ty gặp khó khăn về tài chính do quy trình sản xuất chậm và tốn kém, giá thành sản phẩm lại cao, cùng với việc hoạt động trong một thị trường ngầm, cũng như độ bền của lá bài ảnh hưởng không ít đến doanh thu do tỷ lệ hư hỏng quá thấp. Như một giải pháp, Nintendo đã sản xuất một dòng máy chơi bài rẻ hơn và chất lượng thấp hơn, Tengu, đồng thời tìm cách bán sản phẩm ra các thành phố khác như Osaka, nơi sẽ thu được lợi nhuận đáng kể từ trò đánh bài. Ngoài ra, các thương gia địa phương quan tâm đến triển vọng đổi mới liên tục các bộ bài, do đó tránh được những nghi ngờ về việc tái sử dụng lá bài.
Năm 1902, theo dữ liệu của công ty, bộ bài mang phong cách phương Tây đầu tiên của Nintendo được đưa ra thị trường, mặc dù các tài liệu khác đã hoãn đến năm 1907, ngay sau Chiến tranh Nga-Nhật. Chiến tranh đã tạo ra những khó khăn đáng kể cho các công ty trong lĩnh vực giải trí, vốn phải chịu các loại thuế mới như Karuta Zei ('thuế chơi bài'). Mặc dù vậy, Nintendo vẫn tồn tại.
Năm 1907, công ty ký một thỏa thuận với Nihon Senbai - sau này được gọi là Japan Tobacco - để tiếp thị bài lá của mình cho các cửa hàng thuốc lá khác nhau trên khắp đất nước.
Đến năm 1915, trên một tờ lịch quảng cáo do Nintendo phát hànhtừ thời Taishō, cho thấy công ty có tên là Yamauchi Nintendo và sử dụng thương hiệu Marufuku Nintendo Co. cho các lá bài.
Văn hóa Nhật Bản quy định rằng để cho Nintendo Koppai tiếp tục hoạt động kinh doanh theo truyền thống gia đình sau khi Yamauchi nghỉ hưu, thì Yamauchi phải nhận nuôi con rể của mình để ông có thể tiếp quản công việc kinh doanh. Kết quả là Kaneda Sekiryo đổi sang họ Yamauchi vào năm 1907 và trở thành chủ tịch thứ hai của Nintendo Koppai vào năm 1929. Vào thời điểm đó, Nintendo Koppai là công ty bài lá lớn nhất tại Nhật Bản.
1929–1968: Mở rộng và đa dạng hóa
Năm 1933, Kaneda Sekiryo thành lập công ty với tư cách là đối tác chung mang tên Yamauchi Nintendo & Co. Ltd., đầu tư vào việc xây dựng trụ sở công ty mới nằm bên cạnh tòa nhà ban đầu, gần ga xe lửa Toba-kaidō. Bởi vì cuộc hôn nhân của Sekiryo với con gái Yamauchi không có người thừa kế nào là nam giới, ông đã lên kế hoạch nhận con rể Inaba Shikanojo, một họa sĩ trong công ty và là cha của cháu trai ông là Hiroshi, sinh năm 1927. Tuy nhiên, Inaba đã từ bỏ gia đình và công ty, vì vậy Hiroshi trở thành người kế vị cuối cùng của Sekiryo.
thế=|trái|nhỏ|200x200px|Ảnh kỷ niệm nhân dịp mừng năm mới 1949 của nhân viên
Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động tiêu cực đến công ty khi các nhà chức trách Nhật Bản cấm phổ biến các trò chơi bài tây và khi các quyền ưu tiên trong xã hội Nhật Bản thay đổi, mối quan tâm của họ đối với các hoạt động giải trí giảm dần. Trong thời gian này, Nintendo đã được hỗ trợ một phần bởi khoản tài chính đến từ nhà vợ của Hiroshi, Michiko Inaba, bà xuất thân từ một gia đình giàu có.
Năm 1947, Sekiryo thành lập công ty phân phối Marufuku Co. Ltd.
Năm 1950, do sức khỏe của Sekiryo ngày càng sa sút, Hiroshi đảm nhận chức vụ chủ tịch Nintendo. Những hành động đầu tiên của ông liên quan đến một số thay đổi quan trọng trong hoạt động của công ty: năm 1951, ông đổi tên công ty thành Nintendo Playing Card Co. Ltd., trong khi Công ty Marufuku lấy tên là Nintendo Karuta Co. Ltd.
Năm 1952, ông tập trung sản xuất bài lá tại các nhà máy ở Kyoto, dẫn đến việc mở rộng các văn phòng. Dòng bài lá bằng nhựa mới của công ty đã đạt được thành công đáng kể tại Nhật Bản. Một số nhân viên của công ty, vốn quen với sự lãnh đạo thận trọng và bảo thủ hơn, đã xem xét các biện pháp mới này một cách lo lắng, dẫn đến căng thẳng gia tăng và đình công. Tuy nhiên, biện pháp này không có tác động lớn, vì Hiroshi đã viện cớ đó để sa thải một số công nhân không hài lòng.
Năm 1959, Nintendo đã ký một thỏa thuận với Walt Disney để kết hợp các nhân vật hoạt hình vào thẻ. Nintendo cũng phát triển một hệ thống phân phối cho phép họ bán các sản phẩm trong các cửa hàng đồ chơi.
Đến năm 1961, công ty đã bán được hơn 1,5 triệu gói bài và chiếm thị phần cao, nhờ vào các chiến dịch quảng cáo trên truyền hình.
Năm 1963, nhu cầu đa dạng hóa đã khiến công ty niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán Osaka và Kyoto, ngoài ra còn trở thành công ty đại chúng và đổi tên thành Nintendo Co., Ltd.
Trong Năm 1964, Nintendo kiếm được tới 150 triệu yên.
Mặc dù công ty đang trải qua thời kỳ kinh tế thịnh vượng, nhưng thẻ Disney và các sản phẩm có nguồn gốc từ Disney khiến hãng phụ thuộc vào thị trường trẻ em. Tình hình càng trở nên trầm trọng hơn do doanh số bán bài hanafuda dành cho người lớn giảm xuống do xã hội Nhật Bản tập trung vào các sở thích khác như pachinko, bowling và đi chơi đêm. Khi doanh số bán thẻ của Disney bắt đầu có dấu hiệu cạn kiệt, Nintendo nhận ra rằng họ không có giải pháp thay thế thực sự nào để giảm bớt căng thẳng.
Sau Thế vận hội Tokyo 1964, giá cổ phiếu của Nintendo đã giảm mạnh xuống mức thấp nhất được ghi nhận là ¥ 60.
Từ năm 1963 đến năm 1968, Yamauchi đầu tư vào một số ngành kinh doanh khác xa với thị trường truyền thống và phần lớn đều không thành công. Trong số các liên doanh này có gạo ăn liền, chuỗi khách sạn tình yêu và dịch vụ taxi tên là Daiya. Mặc dù dịch vụ taxi được đón nhận tốt hơn so với những nỗ lực trước đó, Yamauchi đã từ chối sáng kiến này sau một loạt bất đồng với các công đoàn địa phương.
1969–1972: Trò chơi cổ điển và điện tử
Kinh nghiệm của Yamauchi với các sáng kiến trước đây đã khiến ông tăng cường đầu tư vào bộ phận nghiên cứu và phát triển do Imanishi Hiroshi, một nhân viên có thâm niên trong nhiều lĩnh vực ở công ty.
Năm 1969, Yokoi Gunpei gia nhập bộ phận và chịu trách nhiệm điều phối các dự án khác nhau. Kinh nghiệm sản xuất thiết bị điện tử của Yokoi đã khiến Yamauchi giao cho ông phụ trách bộ phận trò chơi của công ty, và sản phẩm của ông sẽ được sản xuất hàng loạt. Trong thời gian này, Nintendo đã xây dựng một nhà máy sản xuất mới trong Uji City, sát bên Kyoto, phân phối các trò chơi cổ điển chơi trên bàn như cờ vua, shogi, go (cờ vây), và mahjong (mạt chược), cũng như các trò chơi nước ngoài khác dưới thương hiệu Nippon Game. Việc tái cơ cấu của công ty nhằm bảo tồn một số lĩnh vực dành riêng cho sản xuất thẻ hanafuda.
Đầu những năm 1970 là thời điểm quan trọng trong lịch sử của Nintendo khi hãng này phát hành đồ chơi điện tử đầu tiên của Nhật Bản - Nintendo Beam Gun, một khẩu súng lục quang điện do Masayuki Uemura thiết kế. Hơn một triệu cái đã được bán ra. Trong thời kỳ đó, Nintendo bắt đầu giao dịch trên khu vực chính của thị trường chứng khoán Osaka và mở trụ sở mới. Các đồ chơi phổ biến khác được phát hành vào thời điểm đó bao gồm Ultra Hand, Ultra Machine, Ultra Scope và Love Tester, tất cả đều do Yokoi thiết kế. Ultra Hand đã bán được hơn 1,2 triệu cái tại Nhật Bản.
1973 – nay: Lịch sử trong mảng điện tử
1973-1978: Trò chơi điện tử thuở sơ khai và Color TV-game
Thông tin thêm: Lịch sử của Color TV-Game
Nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm của Nintendo đã khiến Yamauchi phải mở rộng hơn nữa các văn phòng, ông mua lại bất động sản xung quanh và giao việc sản xuất bài lá cho tòa nhà Nintendo như ban đầu. Trong khi đó, Yokoi, Uemura và các nhân viên mới như Takeda Genyo, tiếp tục phát triển các sản phẩm sáng tạo cho công ty.
Năm 1973 công ty phát hành máy bắn đất sét bằng Laser (Laser Clay Shooting System) thậm chí đã vượt qua được mức độ phổ biến của trò bowling.
Năm 1974, Nintendo phát hành Wild Gunman, một trình mô phỏng bắn súng xiên bao gồm một máy chiếu hình ảnh 16 mm với cảm biến tự phát hiện chùm tia từ súng ánh sáng của người chơi. Cả Laser Clay Shooting System và Wild Gunman đều được xuất khẩu thành công sang Châu Âu và Bắc Mỹ. Mặc dù vậy, tốc độ sản xuất của Nintendo vẫn chậm so với các công ty đối thủ như Bandai và Tomy, và giá của chúng lại cao, dẫn đến việc một số sản phẩm súng ánh sáng bị ngừng sản xuất.
Công ty con Nintendo Leisure System Co., Ltd., nơi phát triển các sản phẩm này, đã bị đóng cửa do ảnh hưởng kinh tế của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973.
thế=|nhỏ|200x200px|Máy chơi trò chơi điện tử đầu tiên của Nintendo là Color TV-Game, nó sớm trở thành trọng tâm chính của Nintendo.
Yamauchi, được thúc đẩy bởi thành công của Atari và Magnavox với máy chơi trò chơi điện tử, đã mua lại bản quyền phân phối Magnavox Odyssey vào năm 1974, và đạt được thỏa thuận với Mitsubishi Electric để phát triển các sản phẩm tương tự từ năm 1975 đến năm 1978, bao gồm bộ vi xử lý đầu tiên dành cho hệ máy trò chơi điện tử, loạt Color TV-Game và một máy game arcade lấy cảm hứng từ Othello. Trong giai đoạn này, Takeda đã phát triển trò chơi điện tử EVR Race, và Miyamoto Shigeru gia nhập nhóm của Yokoi với trách nhiệm thiết kế vỏ cho các máy Color TV-Game.
Năm 1978, bộ phận nghiên cứu và phát triển của Nintendo được tách thành hai cơ sở, Nintendo Research & Development 1 và Nintendo Research & Development 2, lần lượt do Yokoi và Uemura quản lý.
1979–1987: Game & Watch, máy chơi trò chơi điện tử thùng và Nintendo Entertainment System
Thông tin thêm: Lịch sử của Game & Watch và Lịch sử của Nintendo Entertainment System
Hai sự kiện quan trọng trong lịch sử của Nintendo xảy ra vào năm 1979: công ty con ở Mỹ được mở tại New York City và một bộ phận mới tập trung vào phát triển game thùng được thành lập. Năm 1980, hệ máy chơi trò chơi điện tử cầm tay đầu tiên, Game & Watch, được Yokoi tạo ra từ công nghệ được sử dụng trong máy tính bỏ túi. Nó đã trở thành một trong những sản phẩm thành công nhất của Nintendo, với hơn 43,4 triệu máy được bán ra trên toàn thế giới trong suốt thời gian sản xuất và tổng cộng có 59 trò chơi đã được tạo ra.
thế=|nhỏ|414x414px|Phiên bản thu nhỏ của máy game thùng Donkey Kong
Năm 1981, thành công của Nintendo trong mảng game thùng arcade ngày càng tăng nhờ vào việc phát hành Donkey Kong, do Miyamoto phát triển, đây cũng là một trong những trò chơi điện tử đầu tiên cho phép nhân vật người chơi có thể nhảy. Nhân vật Jumpman sau này sẽ trở thành Mario và là linh vật chính thức của Nintendo. Mario được đặt theo tên của Mario Segale, chủ khu đất mà Nintendo thuê lại ở Tukwila, Washington.
Năm 1983, Nintendo mở một cơ sở sản xuất mới ở Uji và được niêm yết đầu bảng trên Sở giao dịch chứng khoán Tokyo. Uemura, lấy cảm hứng từ ColecoVision, bắt đầu tạo ra một máy chơi trò chơi điện tử mới, kết hợp định dạng hộp băng ROM cũng như bộ xử lý trung tâm và bộ xử lý vật lý.
Family Computer, hay Famicom, được phát hành tại Nhật Bản vào tháng 7 năm 1983 cùng với ba trò chơi được chuyển thể từ phiên bản arcade gốc: Donkey Kong, Donkey Kong Jr. và Popeye.
Đỉnh thành công là vào năm 1984, máy đã vượt qua thị phần mà SG-1000 của Sega nắm giữ. Vào thời điểm này, Nintendo đã thông qua một loạt các nguyên tắc liên quan đến việc xác nhận từng trò chơi được sản xuất cho Famicom trước khi phân phối trên thị trường, các thỏa thuận với các nhà phát triển để đảm bảo rằng không có trò chơi Famicom nào được tinh chỉnh cho các hệ máy khác trong vòng hai năm kể từ khi phát hành và bắt buộc các nhà phát triển phải sản xuất hơn năm trò chơi mỗi năm cho Famicom.
thế=|trái|nhỏ|200x200px|Nintendo Entertainment System, thành công lớn đầu tiên của Nintendo trên thị trường máy chơi trò chơi điện tử gia đình
Vào đầu những năm 1980, một số máy chơi trò chơi điện tử phát triển mạnh ở Mỹ, cũng như các trò chơi chất lượng thấp do các nhà phát triển bên thứ ba sản xuất, đã làm bão hòa thị trường và dẫn đến sự cố trò chơi điện tử năm 1983. Do đó, một cuộc suy thoái ảnh hưởng đến ngành công nghiệp trò chơi điện tử của Mỹ, với doanh thu từ hơn 3 tỷ đô la xuống còn 100 triệu đô la từ năm 1983 đến năm 1985. Sáng kiến của Nintendo trong việc tung ra Famicom ở Mỹ cũng bị ảnh hưởng. Để tách biệt Famicom với các đối thủ cạnh tranh ở Mỹ, Nintendo đã chọn thiết kế lại Famicom như một "hệ thống giải trí" tương thích với "Game Paks", một từ ngữ để chỉ hộp băng và với thiết kế gợi nhớ đến đầu VCR. Nintendo đã triển khai một chip khóa trong Game Paks cho phép họ kiểm soát những trò chơi nào được xuất bản cho máy để tránh tình trạng bão hòa thị trường xảy ra tại thị trường Mỹ.
Kết quả là Nintendo Entertainment System, hay NES ra đời, phát hành ở Bắc Mỹ vào năm 1985. Các tựa game mang tính bước ngoặt như Super Mario Bros. và The Legend of Zelda được Miyamoto và Tezuka Takashi sản xuất cho máy chơi trò chơi điện tử tại gia. Công việc của nhà soạn nhạc Kondo Koji cho cả hai trò chơi đã củng cố ý tưởng rằng chủ đề âm nhạc có thể đóng vai trò như một lời khen ngợi đối với cơ chế trò chơi chứ không chỉ đơn giản là một yếu tố linh tinh.
Việc sản xuất NES kéo dài cho đến năm 1995, và quá trình sản xuất Famicom kéo dài đến năm 2003.
Tổng cộng, khoảng 62 triệu máy chơi trò chơi điện tử Famicom và NES đã được bán trên toàn thế giới. Trong thời kỳ này, Nintendo đã tạo ra một biện pháp chống vi phạm bản quyền các trò chơi điện tử của mình dưới hình thức Official Nintendo Seal of Quality, một con dấu được thêm vào sản phẩm của họ để khách hàng có thể nhận ra tính xác thực của chúng trên thị trường. Vào thời điểm này, mạng lưới các nhà cung cấp điện tử của Nintendo đã mở rộng đến khoảng ba mươi công ty, trong số đó có Ricoh — nguồn cung cấp chất bán dẫn chính của Nintendo — và Sharp Corporation.
1990–1992: Game Boy và Super Nintendo Entertainment System
Thông tin thêm: Lịch sử của Game Boy và Lịch sử của Super Nintendo Entertainment System
Năm 1988, Gunpei Yokoi và nhóm của ông tại Nintendo R & D1 đã hình thành Game Boy, máy chơi trò chơi điện tử cầm tay đầu tiên tương thích với các hộp băng có thể hoán đổi cho nhau.
Nintendo phát hành Game Boy vào năm 1989. Ở Bắc Mỹ, Game Boy được đóng gói cùng với trò chơi nổi tiếng của bên thứ ba là Tetris sau một quá trình đàm phán khó khăn với Elektronorgtechnica. Game Boy đem lại thành công đáng kể: trong hai tuần đầu tiên bán ra tại Nhật Bản, bán hết số lượng tồn kho ban đầu là 300.000 máy, trong khi ở Mỹ, có thêm 40.000 máy bán ra trong ngày đầu tiên phát hành. Vào khoảng thời gian này, Nintendo đã ký một thỏa thuận với Sony để phát triển Super Famicom CD-ROM Adapter, một thiết bị ngoại vi cho Super Famicom có khả năng chơi CD-ROM. Tuy nhiên, màn m hợp tác đã không kéo dài vì Yamauchi muốn tiếp tục phát triển công nghệ với Philips, dẫn đến tạo ra CD-i, và những nỗ lực độc lập của Sony đã dẫn đến việc tạo ra PlayStation.
Số đầu tiên của tạp chí Nintendo Power, với số lượng phát hành hàng năm là 1,5 triệu bản tại Mỹ, xuất bản vào năm 1988.
Vào tháng 7 năm 1989, Nintendo tổ chức triển lãm thương mại Nintendo Space World đầu tiên với tên gọi Shoshinkai nhằm mục đích công bố và trình diễn các sản phẩm sắp ra mắt của Nintendo. Cùng năm đó, cửa hàng trong cửa hàng World of Nintendo ra mắt lần đầu tiên, nơi bán hàng chính thức của Nintendo mở cửa tại Mỹ. Theo thông tin của công ty, hơn 25% gia đình ở Mỹ sở hữu máy NES vào năm 1989.
thế=|nhỏ|200x200px|Super Nintendo Entertainment System, bản kế thừa của Nintendo Entertainment System.
Cuối những năm 1980 đánh dấu sự thống trị của Nintendo trong thị trường trò chơi điện tử với sự xuất hiện PC Engine của NEC và Mega Drive của Sega, các hệ máy được thiết kế với kiến trúc 16-bit cho phép cải thiện đồ họa và âm thanh so với NES.
Để cạnh tranh, Uemura đã thiết kế Super Famicom, ra mắt vào năm 1990. Đợt đầu tiên gồm 300.000 máy đã được bán hết chỉ sau vài giờ. Năm sau, cũng như với NES, Nintendo phân phối một phiên bản sửa đổi của Super Famicom cho thị trường Mỹ, có tên là Super Nintendo Entertainment System (SNES). Những game ra mắt cho Super Famicom và SNES bao gồm Super Mario World, F-Zero, Pilotwings, SimCity và Gradius III.
Đến giữa năm 1992, hơn 46 triệu máy Super Famicom và SNES được bán sạch. Vòng đời của máy kéo dài đến năm 1999 tại Mỹ.
Vào tháng 3 năm 1990, Giải vô địch thế giới Nintendo (Nintendo World Championship) đầu tiên được tổ chức, với những người tham gia đến từ 29 thành phố của Mỹ tranh danh hiệu "người chơi Nintendo giỏi nhất thế giới". Vào tháng 6 năm 1990, công ty con Nintendo of Europe được mở tại Großostheim, Đức;
Vào năm 1993, các công ty con tiếp theo được thành lập tại Hà Lan (nơi Bandai trước đây đã phân phối các sản phẩm của Nintendo), Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bỉ và Úc.
Năm 1992, Nintendo mua lại phần lớn cổ phần của đội bóng chày Seattle Mariners, và bán cổ phần vào năm 2016.
Nintendo ngừng sản xuất máy và game arcade vào tháng 9 năm 1992.
Năm 1993, Star Fox được phát hành, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong ngành khi trở thành trò chơi điện tử đầu tiên sử dụng chip Super FX.
Năm 1994, sự gia tăng của các video game bạo lực, chẳng hạn như Mortal Kombat, đã gây ra tranh cãi và dẫn đến việc Nintendo đã đồng hợp tác phát triển thành lập Hiệp hội Phần mềm Kỹ thuật số Tương tác (Interactive Digital Software Association) và Hội đồng Phần mềm Giải trí (Entertainment Software Rating Board). Các biện pháp này cũng khuyến khích Nintendo từ bỏ các quy tắc nội dung mà họ đã thực thi kể từ khi phát hành NES. Các chiến lược thương mại được Nintendo thực hiện trong thời gian này bao gồm Nintendo Gateway System, một dịch vụ giải trí trên chuyến bay dành cho các hãng hàng không, tàu du lịch và khách sạn, và "Play It Loud!" chiến dịch quảng cáo cho Game Boys với vỏ nhiều màu sắc khác nhau. Đồ họa Advanced Computer Modelling được sử dụng trong Donkey Kong Country cho SNES và Donkey Kong Land cho Game Boy là một sự đổi mới công nghệ, cũng như thiết bị ngoại vi modem vệ tinh Satellaview cho Super Famicom, cho phép truyền dữ liệu kỹ thuật số bằng phương tiện liên lạc vệ tinh.
1993–1998: Nintendo 64, Virtual Boy và Game Boy Color
Thông tin thêm: Lịch sử của Nintendo 64, Lịch sử của Virtual Boy và Lịch sử của Game Boy ColorVào giữa năm 1993, Nintendo và Silicon Graphics đã công bố một liên minh chiến lược để phát triển Nintendo 64. NEC, Toshiba và Sharp đóng góp công nghệ. Nintendo 64 được tiếp thị là một trong những máy chơi trò chơi điện tử console đầu tiên được thiết kế với kiến trúc 64-bit. Là một phần của thỏa thuận với Midway Games, các game arcade như Killer Instinct và Cruis'n USA đã được chuyển sang máy.
Mặc dù Nintendo 64 đã được lên kế hoạch phát hành vào năm 1995, nhưng lịch trình sản xuất của các nhà phát triển bên thứ ba đã gây ra sự chậm trễ, và máy được phát hành lần lượt vào tháng 6 và tháng 9 năm 1996 tại Nhật Bản và Mỹ, và vào tháng 3 năm 1997 tại Châu Âu.
Khi kết thúc sản xuất vào năm 2002, khoảng 33 triệu máy chơi trò chơi điện tử Nintendo 64 đã được bán ra trên toàn thế giới, và được coi là một trong những hệ máy trò chơi điện tử được công nhận nhất trong lịch sử. 388 trò chơi đã được sản xuất cho Nintendo 64, một số game - đặc biệt là Super Mario 64, The Legend of Zelda: Ocarina of Time và GoldenEye 007 - đã được coi là một trong những trò chơi hay nhất mọi thời đại.
Năm 1995, Nintendo phát hành Virtual Boy, một hệ máy được thiết kế bởi Gunpei Yokoi với công nghệ thực tế ảo và đồ họa lập thể. Các nhà phê bình thường thất vọng với chất lượng của trò chơi và đồ họa màu đỏ, phàn nàn về những cơn đau đầu gây ra do chơi game. Hệ máy có doanh thua kém và lặng lẽ ngừng hoạt động. Giữa sự thất bại đó, Yokoi chính thức rút lui khỏi Nintendo.
Vào tháng 2 năm 1996, Pocket Monsters Red and Green, với tên quốc tế là Pokémon Red and Blue, do Game Freak phát triển, được phát hành tại Nhật Bản cho Game Boy, và thành lập thương hiệu Pokémon nổi tiếng. Trò chơi tiếp tục bán được 31,37 triệu máy, với loạt trò chơi điện tử đã vượt tổng doanh số 300 triệu tính đến năm 2017.
Năm 1997, Nintendo phát hành Rumble Pak, một thiết bị kết nối với tay cầm Nintendo 64 và tạo ra rung động trong những khoảnh khắc nhất định của trò chơi.
thế=|nhỏ|200x200px|Máy Game Boy Color
Năm 1998, Game Boy Color phát hành. Ngoài việc cho phép tương thích ngược với các trò chơi Game Boy, khả năng tương tự với NES đã dẫn đến việc chọn lọc các trò chơi chuyển thể từ thư viện đó, chẳng hạn như Super Mario Bros.Deluxe. Kể từ đó, hơn 118,6 triệu máy Game Boy và Game Boy Color đã được bán ra trên toàn thế giới.
1999–2003: Game Boy Advance và GameCube
Thông tin thêm: Lịch sử của Game Boy Advance và Lịch sử của GameCube
Vào tháng 5 năm 1999, với sự ra đời của PlayStation 2, Nintendo đã ký một thỏa thuận với IBM và Panasonic để phát triển bộ xử lý Gekko 128-bit và ổ đĩa DVD sẽ được sử dụng trong máy chơi trò chơi điện tử tiếp theo của Nintendo.
Trong khi đó, một loạt thay đổi hành chính xảy ra vào năm 2000, khi các văn phòng công ty của Nintendo được chuyển đến khu phố Minami-ku ở Kyoto, và Nintendo Benelux được thành lập để quản lý lãnh thổ Hà Lan và Bỉ.
Năm 2001 đánh dấu sự ra đời của hai máy chơi trò chơi điện tử mới: Game Boy Advance, được thiết kế bởi Gwénaël Nicolas, mang sự khác biệt về mặt phong cách từ những bản tiền nhiệm, và GameCube.
Trong tuần đầu tiên phát hành tại Bắc Mỹ vào tháng 6 năm 2001, hơn 500.000 máy GBA đã được bán ra, trở thành máy chơi trò chơi điện tử bán chạy nhất ở Mỹ vào thời điểm đó. Đến cuối chu kỳ sản xuất năm 2010, hơn 81,5 triệu máy đã được bán ra trên toàn thế giới. Đối với GameCube, mặc dù có các tính năng phân biệt như định dạng miniDVD của trò chơi và kết nối internet cho một số trò chơi hạn chế, doanh số bán hàng của nó thấp hơn so với những hệ máy tiền nhiệm và trong sáu năm sản xuất. 21,7 triệu máy đã được bán ra trên toàn thế giới. Một sản phẩm sáng tạo được Nintendo phát triển trong thời gian này là Nintendo e-Reader, một thiết bị ngoại vi của Game Boy Advance cho phép chuyển dữ liệu được lưu trữ trên một loạt thẻ sang máy.
Năm 2002, phát hành Pokémon Mini. Kích thước của nó nhỏ hơn so với Game Boy Advance và nặng 70 gram, khiến nó trở thành máy chơi trò chơi điện tử nhỏ nhất trong lịch sử. Nintendo đã hợp tác với Sega và Namco để phát triển Triforce, một bảng mạch arcade để tạo điều kiện chuyển đổi các tựa game arcade sang GameCube.
Sau khi GameCube được phát hành tại Châu Âu vào tháng 5 năm 2002, Yamauchi Hiroshi tuyên bố từ chức chủ tịch Nintendo và Iwata Satoru được công ty chọn làm người kế nhiệm. Yamauchi vẫn là cố vấn và giám đốc của công ty cho đến năm 2005, ông qua đời vào năm 2013.
Việc bổ nhiệm Iwata làm chủ tịch đã chấm dứt sự kế thừa Yamauchi ở vị trí lãnh đạo công ty, một thông lệ đã được áp dụng kể từ khi thành lập.
Năm 2003, Nintendo phát hành Game Boy Advance SP, một phiên bản cải tiến của Game Boy Advance kết hợp thiết kế gập, màn hình chiếu sáng và pin sạc.
Vào cuối chu kỳ sản xuất năm 2010, hơn 43,5 triệu máy đã được bán ra trên toàn thế giới.
Nintendo cũng đã phát hành Game Boy Player, một thiết bị ngoại vi cho phép chơi các trò chơi Game Boy và Game Boy Advance trên GameCube.
2004–2009: Nintendo DS và Wii
Thông tin thêm: Lịch sử của Nintendo DS và Lịch sử của Wii
thế=|trái|nhỏ|200x200px|Nintendo DS là máy chơi trò chơi điện tử cầm tay bán chạy nhất mọi thời đại.
Vào năm 2004, những tàn tích cuối cùng của trụ sở ban đầu của Nintendo đã bị phá hủy. Cuối năm đó, Nintendo phát hành Nintendo DS, có những đổi mới như màn hình kép - một trong số đó là màn hình cảm ứng - và kết nối không dây để chơi nhiều người. Trong suốt vòng đời của nó, hơn 154 triệu máy đã được bán ra, khiến nó trở thành chiếc máy chơi trò chơi điện tử cầm tay thành công nhất và bán chạy thứ hai trong lịch sử.
Năm 2005, Nintendo phát hành Game Boy Micro, hệ máy cuối cùng trong dòng Game Boy. Doanh số không đáp ứng được kỳ vọng của Nintendo, với 2,5 triệu máy được bán vào năm 2007. Vào giữa năm 2005, Nintendo World Store được khánh thành tại New York City.
thế=|nhỏ|200x200px|Wii, máy chơi trò chơi điện tử tại gia bán chạy nhất của Nintendo và là máy đầu tiên sử dụng điều khiển cảm biến chuyển động.
Máy chơi trò chơi điện tử gia đình thế hệ tiếp theo của Nintendo được hình thành vào năm 2001, mặc dù thiết kế bắt đầu vào năm 2003, lấy cảm hứng từ Nintendo DS.
Wii phát hành vào tháng 11 năm 2006, với tổng cộng 33 tựa trò chơi ra mắt. Với Wii, Nintendo đã tìm cách tiếp cận nhân khẩu học rộng hơn so với các đối thủ thế hệ thứ bảy, với ý định bao gồm cả khu vực "không phải người dùng". Để đạt được điều này, Nintendo đã đầu tư vào một chiến dịch quảng cáo trị giá 200 triệu đô la. Những cải tiến của Wii bao gồm bộ điều khiển Wii Remote, được trang bị hệ thống gia tốc kế và cảm biến hồng ngoại cho phép nó phát hiện vị trí của nó trong môi trường ba chiều với sự hỗ trợ của thanh cảm biến; thiết bị ngoại vi Nunchuk bao gồm bộ điều khiển tương tự cũng như gia tốc kế; và thiết bị mở rộng Wii MotionPlus giúp tăng độ nhạy của bộ điều khiển chính với sự hỗ trợ của con quay hồi chuyển.
Đến năm 2016, hơn 101 triệu máy Wii đã được bán ra trên toàn thế giới, khiến nó trở thành máy chơi trò chơi điện tử thành công nhất trong cùng thế hệ, một sự khác biệt mà Nintendo đã không đạt được kể từ SNES vào những năm 1990.
Một số phụ kiện đã được phát hành cho Wii từ năm 2007 đến năm 2010, chẳng hạn như Wii Balance Board, Wii Wheel và dịch vụ tải xuống WiiWare. Năm 2009, Nintendo Iberica SA mở rộng hoạt động thương mại sang Bồ Đào Nha thông qua văn phòng mới tại Lisbon. Vào năm đó, Nintendo chiếm 68,3% thị phần máy chơi trò chơi điện tử cầm tay trên toàn thế giới.
Vào năm 2010, Nintendo đã tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm ngày Mario xuất hiện lần đầu tiên, trong đó một số sản phẩm nhất định được đưa ra bán. Sự kiện bao gồm việc phát hành phiên bản kỷ niệm 25 năm Super Mario All-Stars và các phiên bản đặc biệt của Nintendo DSi XL và Wii.
2010–2016: Nintendo 3DS, Wii U và các liên doanh di động
Thông tin thêm: Lịch sử của Nintendo 3DS, Lịch sử của Wii U và Lịch sử của các trò chơi trên di động của Nintendo
thế=|trái|nhỏ|200x200px|Nintendo 3DS, có khả năng hiển thị đồ họa 3D không cần kính
Sau một thông báo vào tháng 3 năm 2010, Nintendo đã phát hành Nintendo 3DS vào năm 2011. Máy có khả năng tạo ra các hiệu ứng lập thể mà không cần kính 3D. Đến năm 2018, hơn 69 triệu máy đã được bán ra trên toàn thế giới; con số này tăng lên 75 triệu vào đầu năm 2019. Năm 2011, Nintendo đã tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm The Legend of Zelda với chuyến lưu diễn hòa nhạc The Legend of Zelda: Symphony of the Goddesses và trò chơi The Legend of Zelda: Skyward Sword.
thế=|nhỏ|200x200px|Wii U, kế nhiệm Wii
Năm 2012 và 2013 đánh dấu sự ra đời của hai hệ máy chơi trò chơi điện tử mới: Wii U, tích hợp đồ họa độ nét cao và bộ điều khiển GamePad với công nghệ giao tiếp trường gần, và Nintendo 2DS, một phiên bản của 3DS giản lược thiết kế ỏ sò của các máy chơi trò chơi điện tử cầm tay trước đây của Nintendo và các hiệu ứng lập thể của 3DS. Với 13,5 triệu máy được bán ra trên toàn thế giới, Wii U là máy chơi trò chơi điện tử kém thành công nhất trong lịch sử của Nintendo.
Vào năm 2014, một dòng sản phẩm mới đã được phát hành bao gồm các nhân vật của Nintendo được gọi là amiibos.
Vào ngày 25 tháng 9 năm 2013, Nintendo thông báo mua lại 28% cổ phần của PUX Corporation, một công ty con của Panasonic, với mục đích phát triển tính năng nhận dạng khuôn mặt, giọng nói và văn bản cho các trò chơi điện tử của mình. Do thu nhập của công ty giảm 30% trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2013, Iwata thông báo tạm thời tự cắt giảm 50% tiền lương của ông, trong khi các giám đốc điều hành khác phải giảm 20% –30%.
Vào tháng 1 năm 2015, Nintendo ngừng hoạt động tại thị trường Brazil một phần do thuế nhập khẩu cao. Mặc dù điều này không ảnh hưởng đến phần còn lại của thị trường Mỹ Latinh của Nintendo do có liên minh với Juegos de Video Latinoamérica, sau đó vào năm 2017, Nintendo đạt thỏa thuận với NC Games để các sản phẩm của Nintendo có thể tiếp tục phân phối tại Brazil.
Vào ngày 11 tháng 7 năm 2015, Iwata qua đời vì bệnh ung thư ống mật, và sau đó vài tháng, Miyamoto và Takeda cùng điều hành công ty, Kimishima Tatsumi trở thành người kế nhiệm Iwata vào ngày 16 tháng 9 năm 2015. Là một phần của quá trình tái cơ cấu ban lãnh đạo, Miyamoto và Takeda lần lượt được chỉ định là cố vấn sáng tạo và cố vấn công nghệ.
nhỏ|Điện thoại di động hiển thị màn hình đăng ký Pokémon Go
Những thiệt hại tài chính do Wii U gây ra, cùng với việc Sony dự định phát hành trò chơi điện tử độc quyền cho các nền tảng khác như TV thông minh, đã thúc đẩy Nintendo phải suy nghĩ lại chiến lược liên quan đến sản xuất và phân phối tài sản của mình.
Vào năm 2015, Nintendo đã chính thức hợp pháp hóa các thỏa thuận với DeNA và Universal Parks & Resorts để mở rộng sự hiện diện của mình sang các thiết bị thông minh và công viên giải trí.
Vào tháng 3 năm 2016, ứng dụng di động đầu tiên của Nintendo dành cho hệ điều hành iOS và Android, Miitomo, đã được phát hành. Kể từ đó, Nintendo đã sản xuất các ứng dụng tương tự khác, chẳng hạn như Super Mario Run, Fire Emblem Heroes, Animal Crossing: Pocket Camp, Mario Kart Tour và Pokémon Go, ứng dụng cuối cùng được phát triển bởi Niantic và mang lại doanh thu 115 triệu đô la cho Nintendo.
Khu vực công viên giải trí Super Nintendo World sẽ mở cửa tại Universal Studios Japan vào năm 2020.
Vào tháng 3 năm 2016, chương trình khách hàng thân thiết My Nintendo thay thế Club Nintendo.
NES Classic Edition phát hành vào tháng 11 năm 2016. Đây là phiên bản được thiết kế lại của NES bao gồm hỗ trợ giao diện HDMI và khả năng tương thích với Wiimote.
Kế nhiệm của nó, Super NES Classic Edition,
phát hành vào tháng 9 năm 2017. Đến tháng 10 năm 2018, khoảng mười triệu máy của cả hai hệ kết hợp đã được bán ra trên toàn thế giới.
2017 – nay: Nintendo Switch
Thông tin thêm: Lịch sử của Nintendo Switch
T
Thay thế Wii U trong thế hệ thứ tám của máy chơi trò chơi điện tử, Nintendo Switch, phát hành vào tháng 3 năm 2017. Nintendo Switch có thiết kế kết hợp như một máy chơi trò chơi điện tử cầm tay và gia đình, các tay cầm Joy-Con hoạt động độc lập, mỗi cái chứa một gia tốc kế, con quay hồi chuyển, và kết nối không dây đồng thời của tối đa tám máy. Để mở rộng danh mục trò chơi của mình, Nintendo đã liên minh với một số nhà phát triển bên thứ ba và độc lập; đến tháng 2 năm 2019, hơn 1.800 trò chơi đã được phát hành cho Nintendo Switch.
Doanh số toàn cầu của Nintendo Switch đã vượt quá 55 triệu máy vào tháng 3 năm 2020.
Vào tháng 4 năm 2018, dòng Nintendo Labo được phát hành, bao gồm các phụ kiện bằng bìa cứng tương tác với Nintendo Switch và Joy-Con. Nintendo Labo Variety Kit đã bán được hơn một triệu bản trong năm đầu tiên có mặt trên thị trường.
Năm 2018, Furukawa Shuntaro thay thế Kimishima làm chủ tịch công ty, trong khi vào năm 2019, Doug Bowser thay thế chủ tịch Nintendo of America, Reggie Fils-Aimé.
Vào tháng 4 năm 2019, Nintendo đã thành lập liên minh với Tencent để phân phối Nintendo Switch tại Trung Quốc bắt đầu từ tháng 12.
Vào tháng 4 năm 2020, ValueAct Capital Partners đã công bố thương vụ mua cổ phiếu Nintendo trị giá 1,1 tỷ đô la, mang lại cho họ tổng cổ phần của Nintendo là 2%.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 2020, công ty phát triển nhà hàng và khách sạn Plan See Do thông báo rằng họ sẽ tân trang lại trụ sở cũ của Marufuku Nintendo Card Co. thành một khách sạn, với kế hoạch thêm 20 phòng ở, một nhà hàng, quầy bar và phòng tập thể dục, với ngày mở cửa dự kiến vào mùa hè năm 2021. Tuy nhiên, tòa nhà không thuộc về Nintendo, mà là Yamauchi Co., Ltd., một công ty quản lý tài sản của gia đình sáng lập Nintendo. Có thông tin cho rằng trụ sở ban đầu từ thế kỷ 19 dường như đã bị phá bỏ và biến thành một bãi đậu xe. Mặc dù đại dịch COVID-19 đã gây ra sự chậm trễ trong quá trình sản xuất và phân phối một số sản phẩm của Nintendo, nhưng tình trạng này "đã tác động hạn chế đến kết quả kinh doanh"; vào tháng 5 năm 2020, Nintendo báo cáo thu nhập tăng 75% so với năm tài chính trước đó, chủ yếu được đóng góp bởi dịch vụ Nintendo Switch Online.
Vào tháng 8 năm 2020, Nintendo được vinh danh là công ty giàu nhất Nhật Bản.
Nintendo công bố kế hoạch vào tháng 6 năm 2021 để chuyển đổi nhà máy Uji Ogura, nơi trước đây họ đã sản xuất trò chơi và thẻ bài Hanafuda, thành một bảo tàng vào năm tài chính 2023.
Các sản phẩm
Bài chi tiết: Danh sách sản phẩm của Nintendo
Trọng tâm của Nintendo là nghiên cứu, phát triển, sản xuất và phân phối các sản phẩm giải trí, chủ yếu là phần mềm và phần cứng trò chơi điện tử, và trò chơi liên quan đến bài lá, các thị trường chính của nó là Nhật Bản, Mỹ và Châu Âu, mặc dù hơn 70% tổng doanh thu đến từ hai lãnh thổ thứ yếu.
Thẻ bài
Đồ chơi
Bài chi tiết: Danh sách sản phẩm của Nintendo § Đồ chơi và thẻ
Thiết bị chơi trò chơi điện tử
Bài chi tiết: Máy chơi trò chơi điện tử của Nintendo
Kể từ khi ra mắt Color TV-Game vào năm 1977, Nintendo đã sản xuất và phân phối nhiều loại máy chơi trò chơi điện tử khác nhau, bao gồm máy gia đình, máy cầm tay, máy chuyên dụng và máy lai. Mỗi máy tương thích với nhiều loại phụ kiện và bộ tay cầm điều khiển, chẳng hạn như NES Zapper, Game Boy Camera, Super NES Mouse, Rumble Pak, Wii MotionPlus, Wii U Pro và Nintendo Switch Pro Controller.
Trò chơi điện tử
Bài chi tiết: Danh sách trò chơi điện tử của Nintendo
Các trò chơi điện tử đầu tiên do Nintendo sản xuất là các tựa game arcade, với EVR Race (1975) là tựa điện tử đầu tiên của công ty và Donkey Kong (1981) là trò chơi platform đầu tiên trong lịch sử. Kể từ đó, cả Nintendo và các công ty phát triển khác đã sản xuất và phân phối một danh mục trò chơi điện tử phong phú cho các hệ máy chơi trò chơi điện tử tại gia khác nhau của Nintendo. Trò chơi của Nintendo được bán ở cả định dạng vật lý và kỹ thuật số; sau đó được phân phối thông qua các dịch vụ như Nintendo eShop và Nintendo Network.
Tiếp thị
Bài chi tiết: Chiến dịch tiếp thị của Nintendo
Nintendo of America tham gia vào một số chiến dịch tiếp thị cao cấp để xác định và định vị thương hiệu. Một trong những khẩu hiệu sớm nhất và lâu dài nhất của nó là "Now you're playing with power!", Được sử dụng đầu tiên để quảng cáo Nintendo Entertainment System. Khẩu hiệu đã sửa đổi để có từ "SUPER power" cho Super Nintendo Entertainment System và "PORTABLE power" cho Game Boy.
1994 "Play It Loud!" chiến dịch này đánh vào sự nổi loạn của thanh thiếu niên và tạo dựng được danh tiếng. Trong kỷ nguyên Nintendo 64, khẩu hiệu là "Get N or get out." Trong kỷ nguyên GameCube, "Who Are You?" gợi mối liên hệ giữa các trò chơi và danh tính của người chơi. Công ty đã quảng cáo thiết bị cầm tay Nintendo DS của mình với khẩu hiệu "Touching is Good." Đối với Wii, họ đã sử dụng khẩu hiệu "Wii would like to play" để quảng cáo máy với những người đã chơi thử các trò chơi bao gồm Super Mario Galaxy và Super Paper Mario. Nintendo 3DS đã sử dụng khẩu hiệu "Take a look inside." Wii U sử dụng khẩu hiệu "How U will play next." Nintendo Switch sử dụng khẩu hiệu "Switch and Play" ở Bắc Mỹ và "Play anywhere, anytime, with anyone" ở Châu Âu.
Thương hiệu
Trong thời kỳ đỉnh cao của sự thành công của Nintendo trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử vào những năm 1990, tên của họ đã được sử dụng phổ biến để chỉ bất kỳ máy chơi trò chơi điện tử nào, bất kể nhà sản xuất nào. Để ngăn chặn nhãn hiệu của họ trở nên quá chung chung, Nintendo đã đẩy mạnh việc sử dụng thuật ngữ "game console" và đã thành công trong việc bảo vệ thương hiệu của họ.
Những biểu trưng (Logos)
Được sử dụng từ những năm 1960, logo dễ nhận biết nhất của Nintendo là hình đường đua, đặc biệt là phần chữ màu đỏ thường (mặc dù không phải lúc nào cũng vậy) hiển thị trên nền trắng, chủ yếu được sử dụng ở các thị trường phương Tây từ năm 1985 đến 2006. Tại Nhật Bản, một phiên bản đơn sắc không có nền màu có trên Famicom, Super Famicom, Nintendo 64, GameCube, các máy chơi trò chơi điện tử cầm tay của Nintendo. Kể từ năm 2006, cùng với sự ra mắt của Wii, Nintendo đã thay đổi logo của mình thành một biến thể màu xám, thiếu nền màu bên trong chữ, làm cho nó trở nên trong suốt. Logo chính thức của Nintendo vẫn là biến thể này. Đối với các sản phẩm tiêu dùng và tiếp thị, một biến thể màu trắng trên nền đỏ đã được sử dụng từ năm 2015 và có hiệu lực đầy đủ kể từ khi ra mắt Nintendo Switch vào năm 2017.
Cơ cấu công ty
Ban giám đốc
Giám đốc đại diện
Furukawa Shuntaro, Chủ tịch
Miyamoto Shigeru, thành viên
Đạo diễn
Takahashi Shinya, giám đốc điều hành cấp cao, tổng giám đốc Bộ phận Kế hoạch & Phát triển Giải trí và giám sát viên của Bộ phận Phát triển Kinh doanh và Bộ phận Quản trị & Hỗ trợ Phát triển.
Shiota Ko, giám đốc điều hành cấp cao, tổng giám đốc Bộ phận Phát triển Công nghệ Platform
Shibata Satoru, giám đốc điều hành cấp cao, tổng giám đốc tiếp thị và cấp phép
Các cán bộ điều hành
Yamato Satoshi, giám đốc điều hành cấp cao, chủ tịch của Nintendo Sales Co., Ltd
Shinshi Hirokazu, giám đốc điều hành cấp cao, giám đốc sản xuất
Koizumi Yoshiaki, giám đốc điều hành cấp cao, phó tổng giám đốc Kế hoạch & Phát triển mảng Giải trí
Tezuka Takashi, giám đốc điều hành, nhân viên cấp cao của Kế hoạch & Phát triển mảng Giải trí
Murakami Hajime, Giám đốc điều hành, Tổng Giám đốc Khối Quản trị Tài chính
Beppu Yusuke, giám đốc điều hành, phó tổng giám đốc bộ phận phát triển kinh doanh
Yamagishi Kentaro, giám đốc điều hành, giám đốc điều hành chung
Doug Bowser, giám đốc điều hành, chủ tịch và COO của Nintendo of America
Stephan Bole, giám đốc điều hành, chủ tịch và COO của Nintendo of Europe
Các bộ phận nội bộ
Bài chi tiết: Danh sách nhóm phát triển của Nintendo
Hoạt động nghiên cứu và phát triển nội bộ của Nintendo được chia thành ba bộ phận chính:
Nintendo Entertainment Planning & Development (hay EPD), bộ phận phát triển phần mềm chính của Nintendo, tập trung vào phát triển trò chơi điện tử và phần mềm;
Nintendo Platform Technology Development (hay PTD), tập trung vào phát triển phần cứng máy chơi trò chơi điện tử gia đình và cầm tay; và
Nintendo Business Development (hay NBD), tập trung vào việc tinh chỉnh chiến lược kinh doanh và chịu trách nhiệm giám sát mảng thiết bị thông minh của doanh nghiệp.
Bộ phận Lập kế hoạch & Phát triển mảng Giải trí - Entertainment Planning & Development (EPD)
Bộ phận Lập kế hoạch & Phát triển mảng Giải trí là bộ phận phát triển phần mềm chính tại Nintendo, được thành lập như một sự hợp nhất giữa các bộ phận Phân tích & Phát triển mảng Giải trí - Entertainment Analysis & Development và Lập kế hoạch & Phát triển mảng Phần mềm - Software Planning & Development trước đây của họ vào năm 2015. Được lãnh đạo bởi Takahashi Shinya, bộ phận này tập trung nhiều nhân viên nhất công ty, có hơn 800 kỹ sư, nhà sản xuất, đạo diễn, nhà hoạch định và nhà thiết kế.
Bộ phận Phát triển công nghệ Platform - Platform Technology Development (PTD)
Bộ phận Phát triển Công nghệ Platform của Nintendo là sự kết hợp của bộ phận Nghiên cứu & Phát triển Tích hợp (Integrated Research & Development hoặc IRD) và Phát triển Hệ thống (System Development hoặc SDD) trước đây của Nintendo. Do Shiota Ko lãnh đạo, bộ phận chịu trách nhiệm thiết kế phần cứng và phát triển hệ điều hành, môi trường phát triển và mạng nội bộ của Nintendo cũng như bảo trì Nintendo Network.
Bộ phận Phát triển kinh doanh - Business Development (NBD)
Bộ phận Phát triển Kinh doanh Nintendo được thành lập sau bước đột phá của Nintendo vào phát triển phần mềm cho các thiết bị thông minh như điện thoại di động và máy tính bảng. Họ chịu trách nhiệm cải tiến mô hình kinh doanh của Nintendo cho ngành kinh doanh hệ thống trò chơi điện tử chuyên dụng và thúc đẩy liên doanh của Nintendo phát triển các thiết bị thông minh.
Công ty con
Mặc dù hầu hết các nghiên cứu và phát triển đang được thực hiện ở Nhật Bản, nhưng có một số cơ sở R&D ở Mỹ, Châu Âu và Trung Quốc đang tập trung phát triển công nghệ phần mềm và phần cứng được sử dụng trong các sản phẩm của Nintendo. Mặc dù tất cả đều là công ty con của Nintendo (và do đó là bên thứ nhất), chúng thường được coi là nguồn lực bên ngoài khi tham gia vào quá trình phát triển chung với các nhà phát triển nội bộ của Nintendo do các cá nhân Nhật Bản tham gia. Điều này có thể thấy trong loạt bài phỏng vấn Iwata asks. Nintendo Software Technology (NST) và Nintendo Technology Development (NTD) đặt tại Redmond, Washington, nước Mỹ, trong khi Nintendo European Research & Development (NERD) được đặt tại Paris, Pháp và Nintendo Network Service Database (NSD) được đặt tại Kyoto, Nhật Bản.
Hầu hết việc phát triển phần mềm của bên thứ nhất bên ngoài được thực hiện ở Nhật Bản, vì công ty con duy nhất ở nước ngoài là Retro Studios ở Mỹ. Mặc dù các studio này đều là công ty con của Nintendo, nhưng thường được coi là nguồn lực bên ngoài khi tham gia vào quá trình phát triển chung với các nhà phát triển nội bộ của Nintendo bởi bộ phận Phát triển & Kế hoạch Giải trí Nintendo - Nintendo Entertainment Planning & Development (EPD). 1-Up Studio và Nd Cube đặt tại Tokyo, Nhật Bản, trong khi Monolith Soft có một studio đặt tại Tokyo và một studio khác ở Kyoto. Retro Studios nằm ở Austin, Texas.
Nintendo cũng thành lập The Pokémon Company cùng với Creatures và Game Freak để quản lý thương hiệu Pokémon. Tương tự, Warpstar Inc. được thành lập thông qua đầu tư chung với HAL Laboratory, đơn vị phụ trách loạt phim hoạt hình Kirby: Right Back at Ya!. Cả hai công ty đều là những khoản đầu tư từ Nintendo, Nintendo nắm giữ 32% cổ phần của The Pokémon Company và 50% cổ phần của Warpstar Inc.
Tổng cộng có 27 công ty con được công ty báo cáo với 20 công ty được biết đến trong Báo cáo thường niên của Nintendo vào năm 2020:
Nintendo of America Inc.
Nintendo Technology Development, Inc.
Nintendo Software Technology Corporation
Nintendo of Canada Ltd.
Nintendo of America GmbH
Nintendo France
Nintendo Benelux BV>
Nintendo Iberica SA
Nintendo RU LLC
Nintendo Australia
Nintendo of Korea Co. Ltd.
iQue (China)
Retro Studios
Nintendo (Hongkong) Limited
Nintendo European Research and Development
Nintendo Sales Co. Ltd. (Japan)
NDcube
Studio 1-UP
Monolith Soft
Mario Club Co., Ltd.
Nhà phân phối bổ sung
Bergsala
Bergsala, một công ty bên thứ ba có trụ sở tại Thụy Điển, độc quyền xử lý các hoạt động của Nintendo ở khu vực Scandinavia. Mối quan hệ của Bergsala với Nintendo được thiết lập vào năm 1981 khi công ty tìm cách phân phối Game & Watch cho Thụy Điển, sau đó mở rộng sang NES vào năm 1986. Bergsala là nhà phân phối duy nhất không thuộc sở hữu của Nintendo đối với các sản phẩm của Nintendo, cho đến năm 2019 khi Tor Gaming giành được quyền phân phối tại Israel.
Tencent
Nintendo đã hợp tác với Tencent để phát hành các sản phẩm Nintendo tại Trung Quốc, sau khi dỡ bỏ lệnh cấm máy chơi trò chơi điện tử của nước này vào năm 2015. Ngoài việc phân phối phần cứng, Tencent sẽ giúp nhập khẩu các game của Nintendo thông qua quy trình phê duyệt của chính phủ đối với phần mềm trò chơi điện tử.
Tor Gaming
Vào tháng 1 năm 2019, ynet và IGN Israel báo cáo rằng các cuộc đàm phán về việc phân phối chính thức các sản phẩm Nintendo tại quốc gia này đang diễn ra. Sau hai tháng, IGN Israel thông báo Tor Gaming Ltd., một công ty được thành lập vào đầu năm 2019, đã đạt được thỏa thuận phân phối với Nintendo of Europe, xử lý hoạt động bán lẻ chính thức bắt đầu từ đầu tháng 3, tiếp theo là mở một cửa hàng trực tuyến chính thức tháng tiếp theo. Vào tháng 6 năm 2019, Tor Gaming ra mắt Cửa hàng Nintendo chính thức tại Trung tâm Dizengoff ở Tel Aviv, trở thành Cửa hàng Nintendo chính thức thứ hai trên toàn thế giới, 13 năm sau NYC.
Các chi nhánh
Công ty TNHH Nintendo
Có trụ sở chính tại Kyoto, Nhật Bản kể từ ngày đầu thành lập, Nintendo Co., Ltd. giám sát các hoạt động toàn cầu của tổ chức và quản lý đặc biệt các hoạt động tại Nhật Bản. Hai công ty con chính của công ty là Nintendo of America và Nintendo of Europe lần lượt quản lý các hoạt động ở Bắc Mỹ và châu Âu. Nintendo Co., Ltd. chuyển từ vị trí ban đầu ở Kyoto đến văn phòng mới ở Higashiyama-ku, Kyoto, vào năm 2000, trở thành tòa nhà nghiên cứu và phát triển khi trụ sở chính chuyển đến địa chỉ hiện nay ở Minami-ku, Kyoto.
Nintendo of America
Nintendo thành lập công ty con ở Bắc Mỹ vào năm 1980 với tên gọi Nintendo of America (NoA).Yamauchi Hiroshi bổ nhiệm con rể Arakawa Minoru làm chủ tịch, ông lần lượt thuê chính vợ của ông và con gái của Yamauchi là Yamauchi Yoko làm nhân viên đầu tiên. Gia đình Arakawa chuyển từ Vancouver để thành lập văn phòng ở Manhattan, New York, do đây là vị trí trung tâm thương mại của nước Mỹ. Cả hai đều xuất thân từ những gia đình cực kỳ giàu có, mục tiêu của họ đặt nặng vào thành tích hơn là vì tiền bạc và tất cả vốn liếng và sản phẩm của họ giờ đây cũng sẽ được thừa kế từ Nintendo tại Nhật Bản và mục tiêu đầu tiên của họ chính là những đồng xèng của thị trường máy chơi trò chơi điện tử thùng đem lại lợi nhuận 8 tỷ đô la mỗi năm ở Mỹ, vốn đã bỏ xa cả mảng giải trí phim ảnh và truyền hình cộng lại. Trong chuyến du ngoạn chủ yếu để nghiên cứu về trò chơi điện tử của cặp đôi, NoA đã thuê những game thủ trẻ tuổi làm việc trong nhà kho bẩn thỉu, nóng nực, ẩm ướt ở New Jersey để nhận và làm dịch vụ phần cứng cho trò chơi điện tử từ Nhật Bản.
Cuối năm 1980, NoA ký hợp đồng với công ty phân phối và bán trò chơi điện tử Far East Video có trụ sở tại Seattle, chỉ bao gồm các nhân viên bán hàng có kinh nghiệm là Ron Judy và Al Stone. Cả hai đã tạo dựng được danh tiếng cực tốt và cả một mạng lưới phân phối, được thành lập đặc biệt cho việc nhập khẩu và bán trò chơi độc lập từ Nintendo vì công ty Nhật Bản đã có nhiều năm chìm nổi ở Mỹ. Giờ đây, với tư cách là cộng sự trực tiếp của NoA mới, họ nói với Arakawa rằng họ luôn có thể dọn sạch hàng tồn kho của Nintendo nếu Nintendo chịu sản xuất các trò chơi tốt hơn. Far East Video đã ký hợp đồng với NoA về khoản hoa hồng cố định trên mỗi đơn vị đối với việc phân phối độc quyền trò chơi Nintendo ở Mỹ, luật sư Howard Lincoln có trụ sở tại Seattle chịu trách nhiệm giải quyết.
Dựa trên các địa điểm thử nghiệm thuận lợi ở Seattle, Arakawa đã đặt cược hầu hết số vốn khiêm tốn của NoA vào một đơn đặt hàng khổng lồ gồm 3.000 thùng máy Radar Scope. Ông đã tuyệt vọng khi trò chơi thất bại trên thị trường vốn dễ thay đổi mà việc chuyển hàng từ Nhật Bản mất tới bốn tháng đi thuyền. Far East Video đã gặp khó khăn về tài chính do doanh số bán hàng sụt giảm và Ron Judy phải đi vay 50.000 USD tiền tiết kiệm cả đời của người dì, trong khi vẫn nuôi hy vọng Nintendo sẽ phát triển bản hit Pac-Man đầu tiên. Arakawa hối hận khi thành lập công ty con Nintendo, với Yoko đau khổ, mắc kẹt giữa những trận tranh cãi liên miên của chồng và cha mình.
Giữa các mối đe dọa về tài chính, Nintendo of America đã chuyển từ Manhattan đến khu tàu điện ngầm Seattle để loại bỏ các yếu tố gây căng thẳng lớn: lối sống và con đường đi làm điên cuồng giữa New York và New Jersey, và những tuần hoặc tháng cứ trôi qua trên những chuyến hàng vận chuyển từ Nhật Bản do thảm họa Radar Scope gây ra. Cảng Seattle là cảng gần Nhật Bản nhất, chỉ mất chín ngày đi thuyền và có thị trường sản xuất gỗ cho các thùng game, đội trinh sát bất động sản của Arakawa đã tìm thấy một nhà kho rộng có thể xây ba văn phòng một cho Arakawa và một cho Judy và Stone. Nhà kho ở khu ngoại ô Tukwila này thuộc sở hữu của Mario Segale, chính là ý tưởng đặt tên cho nhân vật Mario, và ban đầu được quản lý bởi cựu nhân viên Far East Video là Don James. Sau một tháng, James tuyển dụng người bạn thời đại học Howard Phillips làm trợ lý, ông này nhanh chóng đảm nhận vị trí quản lý kho hàng. Công ty chỉ có vỏn vẹn không tới 10 nhân viên, tất cả phải xử lý việc bán hàng, tiếp thị, quảng cáo, phân phối và sản xuất trong hạn chế những tủ game thùng và máy chơi trò chơi điện tử cầm tay Game & Watch, tất cả đều được vận chuyển và có nguồn gốc từ Nintendo.
Arakawa vẫn còn sợ hãi trước cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra của NoA. Với việc công ty mẹ không có ý tưởng trò chơi mới, ông đã liên tục cầu xin Yamauchi bố trí lại một số tài năng hàng đầu khỏi các sản phẩm hiện có của Nhật Bản để phát triển thứ gì đó cho Mỹ đặc biệt là để mua lại số lượng lớn tủ Radar Scope đã chết. Vì tất cả các kỹ sư và lập trình viên chủ chốt của Nintendo đều bận rộn và NoA chỉ đại diện cho một phần nhỏ hoạt động kinh doanh tổng thể của công ty mẹ, Yamauchi chỉ được cho phép nhận một trợ lý trẻ măng của Gunpei Yokoi, anh này vốn không có nền tảng về kỹ thuật, Miyamoto Shigeru. Nhân viên của NoA ngoại trừ game thủ trẻ Howard Phillips đã đồng loạt phản đối khi nhìn thấy trò chơi đầu tay của nhà phát triển - sinh viên năm nhất Miyamoto, chính trò chơi mà họ đã phải nhập khẩu dưới dạng bộ công cụ chuyển đổi khẩn cấp cho hàng đống thùng trò chơi Radar Scope. Bộ dụng cụ đã biến các tủ trò chơi này thành khoản lợi nhuận khổng lồ của NoA với từ cú hit Donkey Kong của Miyamoto chỉ riêng trong năm 1981-1983. Họ đã bán được 4.000 thùng arcade mới mỗi tháng ở Mỹ, khiến Phillips, khi đó mới 24 tuổi trở thành người quản lý vận chuyển khối lượng khủng nhất cho toàn bộ Cảng Seattle ". Arakawa đã sử dụng những khoản lợi nhuận này để mua đất ở Redmond vào tháng 7 năm 1982 nhằm thực hiện việc ra mắt Nintendo Entertainment System trị giá 50 triệu đô la vào năm 1985, hồi sinh toàn bộ ngành công nghiệp trò chơi điện tử sau sự sụp đổ kinh hoàng năm 1983. Một nhà kho thứ hai ở Redmond đã sớm được dựng nên, và do Don James quản lý. Công ty chỉ có khoảng 20 nhân viên trong những năm này.Tổ chức đã được định hình lại trên toàn quốc trong những thập kỷ tiếp theo, và các chức năng kinh doanh tiếp thị và bán hàng cốt lõi đó hiện được chỉ đạo bởi văn phòng tại Thành phố Redwood, California. Các trung tâm phân phối của công ty là Nintendo Atlanta ở Atlanta, Georgia và Nintendo North Bend ở North Bend, Washington. , với mảnh đất rộng Cơ sở Nintendo North Bend xử lý hơn 20.000 đơn đặt hàng mỗi ngày cho khách hàng của Nintendo, bao gồm các cửa hàng bán lẻ bán các sản phẩm Nintendo cùng với những người tiêu dùng mua sắm trên trang web của Nintendo. NoA điều hành hai cửa hàng bán lẻ tại Mỹ: Nintendo New York trên Rockefeller Plaza ở New York, mở cửa cho toàn thể công chúng; và Nintendo Redmond, đồng đặt tại trụ sở NoA ở Redmond, Washington, chỉ mở cửa cho nhân viên Nintendo và những vị khách được mời. Chi nhánh Canada có trụ sở đặt tại Vancouver, British Columbia với trung tâm phân phối tại Toronto, Ontario. Nintendo Treehouse là nhóm bản địa hóa của NoA, bao gồm khoảng 80 nhân viên chịu trách nhiệm dịch văn bản từ tiếng Nhật sang tiếng Anh, tạo video và lên kế hoạch tiếp thị cũng như đảm bảo chất lượng.
Nintendo of Europe
Công ty con ở Châu Âu của Nintendo được thành lập vào tháng 6 năm 1990, có trụ sở tại Großostheim, Đức. Công ty xử lý các hoạt động trên khắp châu Âu, ngoại trừ Scandinavia, cũng như Nam Phi. Chi nhánh ở Anh (Nintendo UK) xử lý các hoạt động ở quốc gia đó và ở Ireland từ trụ sở chính ở Windsor, Berkshire. Vào tháng 6 năm 2014, NOE bắt đầu cắt giảm và hợp nhất, dẫn đến 130 lần sa thải: đóng cửa văn phòng và nhà kho, và chấm dứt tất cả việc làm ở Großostheim; hợp nhất tất cả các hoạt động đó, và chấm dứt một số việc làm tại Frankfurt. Tính đến tháng 7 năm 2018, công ty sử dụng 850 nhân viên. Vào năm 2019, NoE đã ký kết với Tor Gaming Ltd. để phân phối chính thức tại Israel.
Nintendo Australia
Công ty con của Nintendo tại Úc có trụ sở ở Melbourne. Xử lý việc xuất bản, phân phối, bán hàng và tiếp thị các sản phẩm của Nintendo ở Úc, New Zealand và Châu Đại Dương (Quần đảo Cook, Fiji, New Caledonia, Papua New Guinea, Samoa và Vanuatu). Công ty cũng sản xuất một số game Wii nội địa. Nintendo Australia cũng là nhà phân phối bên thứ ba của một số trò chơi từ Rising Star Games, Bandai Namco Entertainment, Atlus, The Tetris Company, Sega, Koei Tecmo và Capcom.
Nintendo of Korea
Công ty con của Nintendo tại Hàn Quốc được thành lập vào ngày 7 tháng 7 năm 2006 và có trụ sở tại Seoul. Vào tháng 3 năm 2016, công ty con đã bị thu hẹp đáng kể do tái cấu trúc doanh nghiệp sau khi phân tích sự thay đổi của thị trường hiện tại, sa thải 80% nhân viên, chỉ còn lại mười người, bao gồm cả CEO Hiroyuki Fukuda. Điều này không ảnh hưởng đến bất kỳ game nào dự kiến phát hành tại Hàn Quốc và Nintendo vẫn tiếp tục hoạt động ở đó như bình thường.
Chính sách
Nguyên tắc nội dung
Trong nhiều năm, Nintendo có chính sách rất nghiêm ngặt về nội dung cho các trò chơi điện tử được xuất bản trên các máy chơi trò chơi điện tử của mình. Mặc dù Nintendo cho phép đồ họa bạo lực trong các trò chơi điện tử được phát hành tại Nhật Bản, nhưng ảnh khỏa thân và tình dục bị nghiêm cấm. Cựu chủ tịch Nintendo, Yamauchi Hiroshi tin rằng nếu công ty cho phép cấp phép các trò chơi khiêu dâm, hình ảnh của công ty sẽ mãi mãi bị hoen ố. Nintendo của Mỹ đã tiến xa hơn khi các trò chơi phát hành cho hệ máy chơi trò chơi điện tử Nintendo không được có ảnh khoả thân, tình dục, ngôn từ tục tĩu (bao gồm phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính hoặc nói tục), máu, đồ họa hoặc bạo lực gia đình, ma túy, thông điệp chính trị hoặc biểu tượng tôn giáo (ngoại trừ những từ liên quan đến tôn giáo những không được chú thích rộng rãi, chẳng hạn như đền Pantheon của Hy Lạp). Công ty mẹ Nhật Bản lo ngại rằng họ có thể bị coi là "Cuộc xâm lược của Nhật Bản" bằng cách áp đặt các tiêu chuẩn của cộng đồng Nhật Bản đối với trẻ em Bắc Mỹ và châu Âu. Trước những nguyên tắc nghiêm ngặt, một số trường hợp ngoại lệ đã xảy ra: Bionic Commando (mặc dù hình chữ thập ngoặc đã bị loại bỏ trong phiên bản Mỹ), Smash TV và Golgo 13: Top Secret Episode có chứa bạo lực nhân quyền, phần sau cũng chứa ngụ ý tình dục và sử dụng thuốc lá; River City Ransom và Taboo: Sixth Sense chứa ảnh khoả thân và phần sau cũng chứa hình ảnh tôn giáo, cũng như Castlevania II và III.
Một tác dụng phụ của chính sách này là phiên bản Genesis của Mortal Kombat có doanh số bán hàng cao hơn gấp đôi so với phiên bản Super NES, chủ yếu là do Nintendo đã buộc nhà phát hành Acclaim phải nhuộm lại màu đỏ máu để trông giống như mồ hôi trắng và thay thế một số màu đẫm máu trong bản phát hành của trò chơi, làm cho nó ít bạo lực hơn. Ngược lại, Sega lại cho phép bạo lực và máu me trong phiên bản Genesis (mặc dù cần có mã để mở khóa máu me). Nintendo cho phép phiên bản Super NES của Mortal Kombat II xuất xưởng mà không bị kiểm duyệt vào năm sau với nội dung cảnh báo trên bao bì.
Hệ thống xếp hạng trò chơi điện tử xuất hiện với tên gọi Hội đồng xếp hạng phần mềm giải trí - Entertainment Software Rating Board (ESRB)năm 1994 và Thông tin trò chơi khu vực châu Âu - Pan European Game Information năm 2003, và Nintendo đã ngừng hầu hết các chính sách kiểm duyệt để người tiêu dùng tự lựa chọn. Ngày nay, những thay đổi đối với nội dung của game được thực hiện chủ yếu bởi nhà phát triển trò chơi hoặc đôi khi theo yêu cầu của Nintendo. Quy tắc rõ ràng duy nhất là các trò chơi được ESRB xếp hạng AO sẽ không được cấp phép trên máy của Nintendo ở Bắc Mỹ, một thông lệ cũng được thực thi bởi Sony và Microsoft, hai đối thủ cạnh tranh lớn nhất của họ trên thị trường hiện tại. Nintendo kể từ đó đã cho phép xuất bản một số trò chơi có nội dung dành cho người trưởng thành trên hệ máy chơi trò chơi điện tử của mình, bao gồm: Perfect Dark, Conker's Bad Fur Day, Doom, Doom 64, BMX XXX, loạt Resident Evil, Killer7, loạt Mortal Kombat, Eternal Darkness: Sanity's Requiem, BloodRayne, Geist, Dementium: The Ward, Bayonetta 2, Devil's Third, và Fatal Frame: Maiden of Black Water. Tuy nhiên, một số trò chơi đã tiếp tục được sửa đổi. Ví dụ: Konami đã buộc phải xóa tất cả các tham chiếu đến thuốc lá trong Metal Gear Solid trên Game Boy Color 2000 (mặc dù phiên bản NES trước của Metal Gear và phần tiếp theo Metal Gear Solid: The Twin Snakes trên GameCube đều bao gồm các tham chiếu đó, cũng như đối với game MadWorld trên Wii), chặt tay chân và máu đã bị xóa khỏi phiên bản chuyển thể lên Nintendo 64 của Cruis'n USA. Một ví dụ khác là Mega Man Zero 3 trong Game Boy Advance, trong đó một trong những con trùm, được gọi là Hellbat Schilt trong bản phát hành ở Nhật và châu Âu, đã được đổi tên thành Devilbat Schilt ở bản địa phương hóa ở Bắc Mỹ. Ở Bắc Mỹ khi phát hành Mega Man Zero, kẻ địch và tên trùm bị giết bằng một đòn tấn công bằng kiếm không chảy máu như trong các phiên bản Nhật Bản. Tuy nhiên, việc phát hành Wii đi kèm với một số trò chơi thậm chí còn gây tranh cãi hơn, chẳng hạn như Manhunt 2, No More Heroes, The House of the Dead: Overkill và MadWorld, ba trò chơi sau được xuất bản dành riêng cho máy chơi trò chơi điện tử tại gia.
Nguyên tắc cấp phép
Nintendo of America cũng đã có các hướng dẫn trước năm 1993 mà người được cấp phép phải tuân theo để tạo ra các game cho Nintendo Entertainment System, ngoài các hướng dẫn về nội dung trên. Các nguyên tắc đã được thực thi thông qua chip khóa 10NES.
Người được cấp phép không được phép phát hành cùng một trò chơi cho một máy chơi trò chơi điện tử cạnh tranh trong vòng hai năm.
Nintendo quyết định số lượng băng sẽ được cung cấp cho người được cấp phép.
Nintendo quyết định sẽ dành bao nhiêu không gian cho các bài báo và quảng cáo trên tạp chí Nintendo Power.
Người cấp phép phải đặt hàng số lượng hộp băng tối thiểu từ Nintendo.
Có giới hạn hàng năm là năm trò chơi mà người được cấp phép có thể sản xuất cho máy chơi trò chơi điện tử của Nintendo. Quy tắc này được tạo ra để ngăn chặn sự bão hòa quá mức của thị trường, nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của trò chơi điện tử năm 1983.
Quy tắc cuối cùng đã bị phá vỡ theo một số cách; ví dụ, Konami, muốn sản xuất nhiều trò chơi hơn cho máy chơi trò chơi điện tử tại gia của Nintendo, đã thành lập Ultra Games và sau đó là Palcom để sản xuất nhiều hơn với tư cách là một nhà xuất bản khác về mặt kỹ thuật. Điều này gây bất lợi cho các công ty nhỏ hơn hoặc mới nổi, vì họ không đủ khả năng để thành lập các công ty bổ sung. Trong một tác động phụ khác, giám đốc điều hành của Square Co (nay là Square Enix) đã gợi ý rằng giá xuất bản trò chơi trên Nintendo 64 cùng với mức độ kiểm duyệt và kiểm soát mà Nintendo thực thi đối với các trò chơi của mình, đặc biệt là Final Fantasy VI, là những yếu tố dẫn đến việc chuyển tập trung về phía hệ máy chơi trò chơi điện tử PlayStation của Sony.
Năm 1993, một vụ kiện tập thể đã được đưa ra chống lại Nintendo với cáo buộc rằng chip khóa của họ đã kích hoạt các hoạt động kinh doanh bất công. Vụ việc đã được giải quyết, với điều kiện người tiêu dùng California được nhận phiếu giảm giá 3 đô la cho một trò chơi do Nintendo lựa chọn.
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Nintendo, nói chung đã chủ động đảm bảo rằng tài sản trí tuệ của mình trong cả phần cứng và phần mềm đều được bảo vệ. Với NES, Nintendo đã sử dụng một hệ thống khóa chỉ cho phép các hộp băng trò chơi được ủy quyền sản xuất mới có thể chơi được trên máy.
Nintendo đã sử dụng bản giả lập của chính họ hoặc được cấp phép từ bên thứ ba để phát hành lại trò chơi từ các nền tảng cũ của họ trên các hệ máy mới hơn, với Virtual Console, công cụ này đã phát hành lại các game cổ điển dưới dạng tải xuống, thư viện NES và SNES cho Nintendo Switch Online với các máy chuyên dụng như NES Mini và SNES Mini. Tuy nhiên, Nintendo đã có lập trường cứng rắn chống lại việc giả lập không có giấy phép các trò chơi điện tử và máy của mình, tuyên bố rằng đây là mối đe dọa lớn nhất đối với quyền sở hữu trí tuệ của các nhà phát triển trò chơi điện tử. Hơn nữa, Nintendo đã thực hiện hành động chống lại các trò chơi do người hâm mộ tạo ra đã sử dụng các khía cạnh quan trọng của IP của họ, đưa ra thư ngừng và hủy đăng ký đối với các dự án này hoặc các khiếu nại liên quan đến Đạo luật Bản quyền Thiên niên kỷ kỹ thuật số đối với các dịch vụ lưu trữ các dự án này.
Trong những năm gần đây, Nintendo liên tục thực hiện hành động pháp lý chống lại các trang web cố ý phân phối bản ROM của trò chơi của họ. Vào ngày 19 tháng 7 năm 2018, Nintendo đã kiện Jacob Mathias, chủ sở hữu của các trang web phân phối bản ROM là LoveROMs và LoveRetro, vì "vi phạm trắng trợn và quy mô lớn đối với quyền sở hữu trí tuệ của Nintendo." Nintendo đã thanh toán với Mathias vào tháng 11 năm 2018 với giá hơn cùng với việc từ bỏ tất cả bản ROM thuộc quyền sở hữu của họ. Mặc dù Nintendo có khả năng đã đồng ý với một khoản tiền phạt nhỏ hơn ở chế độ riêng tư, nhưng số tiền lớn được coi là biện pháp ngăn chặn các trang web tương tự chia sẻ bản ROM. Nintendo đệ đơn kiện khác đối với RomUniverse vào tháng 9 năm 2019, công ty cũng cung cấp các bản sao vi phạm của các game Nintendo DS và Switch ngoài bản ROM. Cùng tháng đó, Nintendo cũng đã thắng kiện tại Anh nhằm buộc các nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn trong nước chặn quyền truy cập vào các trang web cung cấp các bản sao vi phạm bản quyền của phần mềm Switch hoặc các bản hack để Nintendo Switch chạy phần mềm trái phép. Trớ trêu thay, những cá nhân hack phiên bản Wii Virtual Console của Super Mario Bros. đã phát hiện ra rằng bản ROM mà Nintendo sử dụng có thể đã được tải xuống từ một trang web phân phối ROM. Trong một hành động liên quan, Nintendo đã gửi thư ngừng và hủy bỏ danh sách tới các nhà tổ chức giải đấu The Big House Super Smash Bros. năm 2020 được tổ chức hoàn toàn trực tuyến do đại dịch COVID-19. Nintendo đã đưa ra vấn đề với giải đấu bằng cách sử dụng các phiên bản mô phỏng của Super Smash Bros. Melee đã bao gồm một user mod để chơi qua mạng, vì điều này sẽ yêu cầu phải trích xuất một bản sao của Melee để chơi, một hành động mà họ không thể chấp nhận.
Trong một trường hợp đáng chú ý khác, Nintendo đã tìm kiếm hành động thực thi chống lại một tin tặc trong vài năm, người này đã xâm nhập vào cơ sở dữ liệu nội bộ của Nintendo bằng nhiều cách khác nhau, bao gồm lừa đảo để có được kế hoạch về những trò chơi và phần cứng mà hãng dự định công bố cho các chương trình sắp tới như E3, làm rò rỉ thông tin này lên Internet, ảnh hưởng đến cách nhận các thông báo của riêng Nintendo. Mặc dù người đó còn ở tuổi vị thành niên khi Nintendo đưa Cục Điều tra Liên bang - Federal Bureau of Investigation (FBI) để điều tra và đã bị FBI cảnh báo hủy bỏ danh sách, người này vẫn tiếp tục trong năm 2018 và 2019 khi trưởng thành, chế nhạo hành động của hãng trên mạng xã hội. Kết quả là các tay tội phạm đã bị bắt vào tháng 7 năm 2019, và ngoài các tài liệu xác nhận các vụ hack, FBI đã tìm thấy một số tệp trò chơi trái phép cũng như nội dung khiêu dâm trẻ em trên máy tính, khiến cả bọn phải nhận tội cho tất cả những việc đã gây ra vào tháng 1 năm 2020. Tương tự, Nintendo cùng với The Pokémon Company đã dành thời gian khá nhiều để xác định ai đã làm rò rỉ thông tin về Pokémon Sword and Shield vài tuần trước khi Nintendo Directs diễn ra, cuối cùng truy vết rò rỉ ngược trở lại một nhà báo chuyên viết về trò chơi người Bồ Đào Nha, người này đã rò rỉ thông tin từ các bản đánh giá chính thức của trò chơi và sau đó cắt đứt quan hệ với nhà sản xuất bản.
Bài chi tiết: Rò rỉ dữ liệu Nintendo 2020
Bất chấp những nỗ lực bảo vệ IP của mình, một vụ rò rỉ tài liệu lớn, bao gồm mã nguồn, tài liệu thiết kế, bản vẽ, tài liệu phần cứng và thông tin nội bộ khác chủ yếu liên quan đến Nintendo 64, GameCube và Wii, đã xuất hiện vào tháng 5 năm 2020. Vụ rò rỉ có thể liên quan đến BroadOn, một công ty mà Nintendo đã ký hợp đồng để giúp thiết kế Wii, nhưng cũng có thể là do Zammis Clark, một nhân viên của Malwarebytes và là hacker đã nhận tội xâm nhập vào máy chủ của Microsoft và Nintendo trước đó giữa Tháng 3 và tháng 5 năm 2018.
Một vụ rò rỉ lớn thứ hai xảy ra vào tháng 7 năm 2020, được gọi là "Gigaleak" vì nó chứa hơn một gigabyte dữ liệu và được cho là có liên quan đến vụ rò rỉ tháng 5 năm 2020. Bao gồm mã nguồn và nguyên mẫu của một số trò chơi phát hành đầu những năm 1990 trên SNES bao gồm Super Mario Kart, Yoshi's Island, Star Fox và Star Fox 2, cũng như các công cụ phát triển nội bộ và các thành phần phần mềm hệ thống, với tính xác thực của tài liệu được xác nhận bởi Dylan Cuthbert, một lập trình viên cho Nintendo trong thời kỳ đó. Sự rò rỉ cũng có nguồn gốc từ một số trò chơi Nintendo 64 bao gồm Super Mario 64, The Legend of Zelda: Ocarina of Time và hệ điều hành của máy chơi trò chơi điện tử. Gigaleak cũng chứa các tệp cá nhân của các nhân viên Nintendo, làm dấy lên lo ngại về nguồn gốc và sự lây lan của nó.
Dấu ấn chất lượng - Seal of Quality
Con dấu biểu trưng mặt trời vàng chiếu sáng lần đầu tiên được sử dụng bởi Nintendo of America và sau đó là Nintendo of Europe. Nó được hiển thị trên bất kỳ trò chơi, hệ máy hoặc phụ kiện nào được cấp phép sử dụng trên một trong các máy chơi trò chơi điện tử của hãng, biểu thị trò chơi đã được Nintendo phê duyệt. Con dấu cũng được hiển thị trên bất kỳ hàng hóa nào được Nintendo cấp phép, chẳng hạn như thẻ bài, sách hướng dẫn trò chơi hoặc quần áo, mặc dù vẫn có dòng chữ "Sản phẩm được cấp phép chính thức của Nintendo." (Official Nintendo Licensed Product.)
Vào năm 2008, nhà thiết kế game Sid Meier đã trích dẫn Seal of Quality là một trong ba đổi mới quan trọng nhất trong lịch sử trò chơi điện tử, vì nó đã giúp thiết lập tiêu chuẩn về chất lượng trò chơi nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi phần mềm bị bắt buộc cài đặt.
Khu vực NTSC
Ở các vùng NTSC, con dấu này là một khối ánh sao hình elip được đặt tên là "Official Nintendo Seal". Ban đầu, đối với các nước NTSC, con dấu là một hình sao lớn, tròn, có màu đen và vàng. Con dấu có nội dung như sau: "Con dấu này là sự đảm bảo cho bạn rằng NINTENDO đã chấp thuận và đảm bảo chất lượng của sản phẩm này." Con dấu này sau đó đã được thay đổi vào năm 1988: "được phê duyệt và đảm bảo" được đổi thành "được đánh giá và phê duyệt." Vào năm 1989, con dấu trở thành vàng và trắng, như bây giờ, với một cụm từ rút gọn, "Con dấu chất lượng chính thức của Nintendo." (Official Nintendo Seal of Quality.)Nó đã được thay đổi vào năm 2003 thành "Con dấu chính thức của Nintendo." ("Official Nintendo Seal.")
Con dấu hiện tại ghi:
Vùng PAL
Ở các khu vực PAL, con dấu là một hình sao, tròn, được đặt tên là "Con dấu chất lượng nguyên bản của Nintendo." ("Original Nintendo Seal of Quality.") Văn bản gần con dấu trong sách hướng dẫn Wii ở Úc nêu rõ:
Những dự án từ thiện
Năm 1992, Nintendo hợp tác với Starlight Children Foundation để xây dựng các máy giải trí di động Starlight Fun Center và lắp đặt chúng trong các bệnh viện. 1.000 thiết bị Starlight Nintendo Fun Center đã được cài đặt vào cuối năm 1995. Các thiết bị này kết hợp một số hình thức giải trí đa phương tiện, bao gồm cả game, và phục vụ như một phương tiện phân tâm để phục hồi tâm trạng và nâng cao tinh thần cho trẻ em trong thời gian nằm viện.
Hồ sơ bảo vệ môi trường
Nintendo liên tục bị xếp hạng cuối cùng trong "Guide to Greener Electronics" của Greenpeace do Nintendo không công bố thông tin. Tương tự, họ được xếp hạng cuối cùng trong "Conflict Minerals Company Rankings" của Enough Project do Nintendo từ chối phản hồi các yêu cầu cung cấp thông tin.
Giống như nhiều công ty điện tử khác, Nintendo cung cấp một chương trình tái chế cho phép khách hàng gửi các sản phẩm cũ mà họ không còn sử dụng đến. Nintendo of America tuyên bố rằng họ đã thu về 548 tấn sản phẩm bị trả lại trong năm 2011, 98% trong số đó được tái sử dụng hoặc tái chế. |
Trong toán học, nhóm giao hoán, còn được gọi là nhóm Abel, là nhóm mà việc áp dụng phép toán hai ngôi cho hai phần tử trong nhóm không phụ thuộc vào thứ tự của hai phần tử đó. Nghĩa là phép toán nhóm có tính giao hoán. Với phép cộng làm phép toán trong nhóm, tập các số nguyên và tập các số thực tạo thành nhóm Abel, khái niệm nhóm Abel tổng quát hóa các ví dụ này. Tên "nhóm Abel" được đặt tên theo nhà toán học thế kỷ 19 Niels Henrik Abel.
Khái niệm nhóm giao hoán nằm dưới nhiều cấu trúc đại số quan trọng như trường, vành, không gian vectơ, và đại số trên trường. Lý thuyết các nhóm abel nhìn chung đơn giản hơn lý thuyết các nhóm phi abel, và các nhóm abel hữu hạn đã được phân loại.
Định nghĩa
Nhóm giao hoán là tập hợp G cùng với một phép toán hai ngôi thỏa mãn các tiên đề sau:
Tính kết hợp: phép toán có tính kết hợp, tức là:
Phần tử đơn vị: tồn tại duy nhất một phần tử gọi là phần tử đơn vị (ký hiệu là 1 hay ) sao cho với mọi phần tử thuộc thì .
Phần tử nghịch đảo: với mỗi phần tử thuộc , tồn tại duy nhất một phần tử , gọi là phần tử nghịch đảo của , sao cho .
Tính giao hoán: phép toán có tính giao hoán:.
Nhóm mà phép toán không có tính giao hoán được gọi là nhóm phi abel
Ký hiệu và bảng nhân
Ký hiệu
CÓ hai cách ký hiệu chính cho nhóm Abel, ký hiệu phép cộng và ký hiệu phép nhân.
Thường thì ký hiệu phép nhân được sử dụng cho nhóm nói chung, và ký hiệu phép cộng thường được sử dụng cho mô đun và vành. Ký hiệu phép cộng đôi khi thường sử dụng để nhấn mạnh nhóm mà phép toán trong đó có tính giao hoán khi ta đang xét cả hai nhóm giao hoán và không giao hoán, một số ngoại lệ nổi bật khác bao gồm gần vành và nhóm sắp thứ tự một phần, trong đó phép toán ký hiệu theo phép cộng kể cả khi nhóm không giao hoán.
Bảng nhân
Để kiểm tra nhóm hữu hạn có giao hoán hay không, một bảng (hoặc ma trận) – được gọi là bảng Cayley – được xây tương tự như bảng cửu chương. Cho nhóm cùng với phép toán ô tại vị trí của bảng này chứa tích .
Nhóm giao hoán khi và chỉ khi bảng này đối xứng qua đường chéo chính. Điều này đúng bởi nhóm giao hoán khi và chỉ khi khi và chỉ khi với mọi ,và đúng khi và chỉ khi các ô của bảng bằng với ô với mọi , tức bảng đối xứng qua đường chéo chính.
Ví dụ
Mọi nhóm cyclic là nhóm Abel. Thật vậy, cho G là nhóm cyclic, nếu x, y là 2 phần tử của G thì Như vậy nhóm các số nguyên là nhóm Abel.
Mọi vành đều là nhóm Abel ứng với phép cộng. Trong vành giao hoán, các phần tử có nghịch đảo tạo thành một nhóm nhân giao hoán. Ví dụ tập tất cả các số thực là nhóm Abel ứng với phép cộng, tập tất cả các số thực khác không tạo thành nhóm Abel ứng với phép nhân.
Mọi nhóm con, nhóm thương của nhóm Abel là nhóm Abel.
Nhóm các ma trận nghịch đảo bậc n (n > 1) dưới trường các số thực không tạo thành nhóm Abel với phép toán nhân.
Tính chất
Cho G là một nhóm Abel (giao hoán)
Nếu n là số tự nhiên và x là một phần tử của G, thì phần tử x+x+..+x (n lần) có thể viết tắt là nx và (-n)x = - (nx). Như vậy thì G trở thành một module trên vành các số nguyên (điều ngược lại cũng đúng, tức là mọi module trên vành các số nguyên có thể hiểu là một nhóm Abel).
Nếu là hai đồng cấu nhóm giữa hai nhóm Abel, thì tổng của chúng , định nghĩa bởi , cũng là đồng cấu nhóm. (Điều này không đúng khi không phải nhóm Abel.) Tập chứa tất cả các đồng cấu nhóm từ đến cũng là nhóm Abel. |
Trong đại số tuyến tính, một ma trận khả nghịch hay ma trận không suy biến là một ma trận vuông và có ma trận nghịch đảo trong phép nhân ma trận.
Định nghĩa
Ma trận đơn vị
Ma trận đơn vị cấp n trên vành có đơn vị V là ma trận vuông cấp n trong đó tất cả các phần tử trên đường chéo chính bằng đơn vị, tất cả các phần tử khác bằng không.
Tính chất của ma trận đơn vị: với mọi ma trân vuông cùng cấp AE=EA=A.
Ma trận khả nghịch và ma trận nghịch đảo của nó
Ma trận A vuông cấp n được gọi là khả nghịch trên V nếu tồn tại ma trận A' cùng cấp n sao cho A A' = A' A = E. Khi đó A' được gọi là ma trận nghịch đảo của ma trận A, ký hiệu là A−1.
Các tính chất
Điều kiện cần và đủ để ma trận A vuông cấp n khả nghịch là định thức của A là phần tử khả nghịch trong vành V.
Nếu A là ma trận trên một trường F thì A là khả nghịch khi và chỉ khi định thức của nó khác 0.
Ma trận đơn vị là ma trận khả nghịch.
Nếu A, B là các ma trận khả nghịch thì AB khả nghịch và
Tập hợp tất cả các ma trận vuông khả nghịch cấp n tạo thành một nhóm với phép nhân ma trận
Tìm ma trận nghịch đảo
Định thức con và phần bù đại số
Cho ma trận vuông A cấp n và phần tử aij. Định thức của ma trận cấp n-1 suy ra từ A bằng cách xóa đi dòng thứ i, cột thứ j được gọi là định thức con của A ứng với phần tử aij, ký hiệu là Mij.
Định thức con Mij với dấu bằng (-1)i+j được gọi là phần bù đại số của phần tử aij, ký hiệu là Aij.
Ví dụ: Cho ma trận
.
Khi đó
Tương tự A12=0; A13=0; A21=-3;A22=3;A23=0;A31=-1;A32=-1;A33=2;
Công thức tính ma trận nghịch đảo
Nếu định thức của ma trận A là khả nghịch thì ma trận nghịch đảo của A được tính bằng công thức:
Các bước tìm ma trận nghịch đảo
Bước 1: Tính định thức của ma trận A
Nếu det(A)=0 thì A không có ma trận nghịch đảo
Nếu det(A)≠0 thì A có ma trận nghịch đảo , chuyển sang bước 2
Bước 2: Lập ma trận chuyển vị A' của A.
Bước 3: Lập ma trận phụ hợp của A' được định nghĩa như sau
với là phần bù đại số của phần tử ở hàng i, cột j trong ma trận A'.
Bước 4: Tính ma trận
Ví dụ
Cho . Tính ,
Tìm ma trận nghịch đảo bằng phép khử Gauss-Jordan
Phép khử Gauss-Jordan là một phương pháp tìm ma trận nghịch đảo.
Bước 1: Tính định thức của ma trận A
suy ra tồn tại ma trận nghịch đảo , chuyển sang bước 2.
Bước 2: Tìm ma trận chuyển vị A' của A.
Bước 3: Tìm ma trận phụ hợp A* của A'.
Bước 4: Tính ma trận nghịch đảo . |
Xem các nghĩa khác tại TEX (định hướng)
Trong ngành dệt may, hoặc các ngành tương tự dệt may như: cỏ nhân tạo, thảm,... TEX là đơn vị đo độ thô (độ to hay nhỏ; dầy hay mảnh) của sợi. Đơn vị này thường được ký hiệu là Tt, và 1 Tt = 1 gam (Khi cân khối lượng của 1000 mét sợi.)
1 TEX = 10 Dtex (hay Decitex)
Cách tính TEX
Tính đơn giản
Cân khối lượng 1,000m sợi.
Ví dụ: Khối lượng của 1,000m cỏ nhân tạo NGF12 là 800gram. ==> Chỉ số sợi của cỏ nhân tạo NGF12 là 800 Tex
Tính theo công thức
Trong đó:
N: chỉ số sợi
W: khối lượng mẫu sợi cỏ nhân tạo
L: chiều dài mẫu
l: đơn vị của hệ thống chiều dài
Thực hiện tính theo công thức khi chỉ biết độ dài bất kì của sợi.
Ví dụ: Có 500m sợi cỏ nhân tạo hay sợi vải bất kỳ. Khối Lượng 400gram.
N= 400 x 1,000 / 500 = 800 TEX. ==> Chỉ số sợi của mẫu sợi đó là: 800Tex |
Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu (崔顥), một nhà thơ thời nhà Đường. Tương truyền rằng, Lý Bạch khi đến Hoàng Hạc Lâu định làm thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu đề trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:
Chữ Hán - Phiên âm - Dịch nghĩa
Chữ "khứ" (去)
Bấy lâu nay, chữ 去, ta vẫn hay đọc với thanh Trắc (dấu sắc). Có nhiều người đã cho là một bài thơ luật Đường 'phá thể', hoặc 'lạc vận'...Lại có nhiều người cố dịch ra quốc ngữ (abc) bằng cách dùng thinh trắc ở câu Phá (câu thứ nhất).
Chữ 去, thời của Thôi Hiệu, hay vùng miền của ông có khi đọc ra la "Hôi", hoặc "Khu". Trong Hán Việt Từ điển - Thiều Chửu, cũng cho biết như thế:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khu/khâu
Thử địa không dư hoàng hạc lâu.
Các bản dịch
Tiếng Việt
Cho đến nay tại Việt Nam đã có nhiều người dịch Hoàng Hạc lâu ra tiếng Việt. Tản Đà là một trong những người dịch đầu tiên và tài năng của ông đã giúp cho bài thơ trở nên quen thuộc với người Việt Nam. Ngoài ra, có thể kể đến những bản dịch của Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Ngô Tất Tố, Vũ Hoàng Chương...
Chú thích
Thơ Đường
Thôi Hiệu |
Trần Tiến là tên người, có thể có các ý nghĩa sau:
Nhân vật
Võ sư Trần Tiến (1911-2011) võ phái Thiếu Lâm Nội gia Quyền
Diễn viên kịch nói, nghệ sĩ Nhân dân Trần Tiến, tên thật là Trần Văn Tiến (1937-2023), diễn viên kịch nói Việt Nam
Nhà văn Chu Cẩm Phong, tên thật là Trần Tiến (1941-1971), văn học hiện đại Việt Nam
Nhạc sĩ Trần Tiến, tên thật là Trần Việt Tiến (sinh năm 1947), một nhạc sĩ Việt Nam.
Khác
Trần Tiến: album nhạc Trần Tiến phát hành năm 2008. |
Đây là danh sách nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ đương nhiệm. Trong một số trường hợp, chủ yếu trong hệ thống tổng thống, chỉ có một nhà lãnh đạo vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ. Trong trường hợp khác, chủ yếu trong hệ thống bán tổng thống và nghị viện, nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ là những người khác nhau. Trong hệ thống bán tổng thống và nghị viện, vai trò người đứng đầu chính phủ (tức là nhánh hành pháp) được thực hiện bởi cả người đứng đầu chính phủ được liệt kê và nguyên thủ quốc gia. Trong hệ thống độc đảng, lãnh đạo của đảng cầm quyền (tức là Tổng Bí thư) là lãnh đạo cao nhất trên thực tế của nhà nước, và đôi khi lãnh đạo này cũng giữ chức chủ tịch nước hoặc thủ tướng.
Danh sách bao gồm tên của nguyên thủ quốc gia và chính phủ được bầu hoặc bổ nhiệm gần đây, những người sẽ nhậm chức vào một ngày được bổ nhiệm, với tư cách là tổng thống đắc cử và thủ tướng chỉ định, và những người lãnh đạo chính phủ lưu vong nếu được quốc tế công nhận.
Quốc gia thành viên và quan sát viên Liên Hợp Quốc
Quốc gia khác
Các quốc gia sau đây liên kết tự do với một quốc gia thành viên khác của Liên Hợp Quốc.
Các quốc gia sau đây có kiểm soát lãnh thổ của riêng mình và được ít nhất một thành viên Liên Hợp Quốc công nhận, nhưng không có đủ sự ủng hộ để trở thành một quốc gia.
Các quốc gia sau đây có kiểm soát lãnh thổ của riêng mình nhưng không được bất kỳ quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc nào công nhận.
Chính quyền khác
Các chính quyền thay thế này kiểm soát một phần lãnh thổ và được ít nhất một quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc công nhận là hợp pháp.
Các chính quyền thay thế này kiểm soát một phần lãnh thổ nhưng không được bất kỳ quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc nào công nhận là hợp pháp.
Các chính quyền thay thế này không kiểm soát lãnh thổ nhưng được ít nhất một quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc công nhận là hợp pháp.
Tổ chức liên chính phủ
Ghi chú |
Trong khí tượng học, nhiệt độ thế vị trong không khí tại áp suất là nhiệt độ mà khối không khí thu được nếu nó nở ra hay bị nén lại một cách đoạn nhiệt từ áp suất và nhiệt độ ban đầu về áp suất (thường lấy là 1000mb).
Nhiệt độ thế vị được xác định bằng công thức:
Trong đó, là nhiệt độ hiện tại của khối khí (độ Kelvin), là hằng số khí và là nhiệt dung của khối khí tại áp suất đó. Trong không khí,
Đối với không khí ẩm, khái niệm nhiệt độ thế vị tương đương được dùng thay thế. Nó được định nghĩa là nhiệt độ mà không khí sẽ thu được, nếu toàn bộ hơi nước ngưng kết lại và khối không khí sau đó (khô) được đưa đoạn nhiệt về áp suất thường (1000mb). |
Trong lý thuyết đồ thị, bài toán đường đi ngắn nhất nguồn đơn là bài toán tìm một đường đi giữa hai đỉnh sao cho tổng các trọng số của các cạnh tạo nên đường đi đó là nhỏ nhất. Định nghĩa một cách hình thức, cho trước một đồ thị có trọng số (nghĩa là một tập đỉnh V, một tập cạnh E, và một hàm trong số có giá trị thực f : E → R), cho trước một đỉnh v thuộc V, tìm một đường đi P từ v tới mỗi đỉnh v' thuộc V sao cho
là nhỏ nhất trong tất cả các đường nối từ v tới v' .
Bài toán đường đi ngắn nhất giữa mọi cặp đỉnh là một bài toán tương tự, trong đó ta phải tìm các đường đi ngắn nhất cho mọi cặp đỉnh v và v' .
Các thuật toán quan trọng nhất giải quyết bài toán này là:
Thuật toán Dijkstra — giải bài toán nguồn đơn nếu tất cả các trọng số đều không âm. Thuật toán này có thể tính toán tất cả các đường đi ngắn nhất từ một đỉnh xuất phát cho trước s tới mọi đỉnh khác mà không làm tăng thời gian chạy.
Thuật toán Bellman-Ford — giải bài toán nguồn đơn trong trường hợp trọng số có thể có giá trị âm.
Giải thuật tìm kiếm A* giải bài toán nguồn đơn sử dụng heuristics để tăng tốc độ tìm kiếm
Thuật toán Floyd-Warshall — giải bài toán đường đi ngắn nhất cho mọi cặp đỉnh.
Thuật toán Johnson — giải bài toán đường đi ngắn nhất cho mọi cặp đỉnh, có thể nhanh hơn thuật toán Floyd-Warshall trên các đồ thị thưa.
Lý thuyết nhiễu (Perturbation theory); tìm đường đi ngắn nhất địa phương (trong trường hợp xấu nhất)
Một bài toán có liên quan là bài toán người bán hàng - bài toán tìm đường đi ngắn nhất đi qua tất cả các đỉnh, mỗi đỉnh đúng một lần, và trở về đỉnh xuất phát. Đây là bài toán NP-đầy đủ, do đó khó có khả năng tồn tại một cách giải hiệu quả.
Trong tư duy của ngành mạng hay viễn thông, bài toán đường đi ngắn nhất đôi khi được gọi là bài toán đường đi có độ trễ nhỏ nhất (min-delay path problem) và thường được gắn với một bài toán đường đi rộng nhất (widest path problem). ví dụ đường đi rộng nhất trong các đường đi ngắn nhất (độ trễ nhỏ nhất) hay đường đi ngắn nhất trong các đường đi rộng nhất. |
Chi Lãnh sam, còn có tên Hán Việt là Linh sam (tên phiên sai, "lãnh" nghĩa là lạnh, nhưng được từ điển Hồ Ngọc Đức, Babylon ghi nhận) (danh pháp khoa học: Abies) là một chi của khoảng 45-55 loài cây có quả nón và thường xanh trong họ Thông (Pinaceae). Ở Việt Nam, tên linh sam bị gán sai cho cây Ba chia/ba gai thuộc họ Đậu, do một người chơi cây đặt sai và trở thành tên sai phổ biến. Tất cả các loài đều là cây thân gỗ, cao khoảng 10–80 m và đường kính thân cây khoảng 0,5–4 m khi trưởng thành. Lãnh sam có thể được phân biệt với các thành viên khác của họ thông nhờ các yếu tố như các lá hình kim của chúng được gắn với các cành nhỏ bằng gốc lá giống như một giác mút nhỏ, hay các quả nón mọc thẳng, hình trụ, dài 5–25 cm bị tan rã ra khi chín để giải phóng các hạt nhỏ có cánh. Việc nhận dạng các loài dựa trên kích thước và sự sắp xếp của các lá, hay kích thước và hình dạng của quả nón cũng như việc các vảy lá bắc là dài, thò ra hoặc ngắn và bị che khuất trong nón. Chúng có quan hệ họ hàng gần gũi nhất với tuyết tùng (chi Cedrus). Lãnh sam được tìm thấy tại phần lớn khu vực Trung và Bắc Mỹ, châu Á, châu Âu và Bắc Phi, trong các dãy núi thuộc phần lớn các khu vực này.
Lãnh sam bị ấu trùng của một số loài côn trùng thuộc bộ Lepidoptera phá hại, như Chionodes abella (thấy trên lãnh sam trắng), Epirrita autumnata, Korscheltellus gracilis (phá hại lãnh sam nhựa thơm), Ectropis crepuscularia, Eupithecia subfuscata, Erannis defoliaria và Panolis flammea.
Phân loại
Nhánh Balsamea (rừng taiga, miền cận Bắc cực của châu Á và Bắc Mỹ, cũng như các núi cao ở phía nam)
Abies fraseri - lãnh sam Fraser
Abies balsamea - lãnh sam nhựa thơm
Abies balsamea thứ phanerolepis - lãnh sam Canaan
Abies bifolia - lãnh sam núi đá cận núi cao
Abies lasiocarpa - lãnh sam ven biển cận núi cao
Abies lasiocarpa thứ arizonica - lãnh sam vỏ bần
Abies sibirica - lãnh sam Siberi
Abies sachalinensis - lãnh sam Sakhalin
Abies koreana - lãnh sam Hàn Quốc
Abies nephrolepis - lãnh sam Khinghan
Abies veitchii - lãnh sam Veitch
Abies veitchii thứ sikokiana - lãnh sam Shikoku
Nhánh Grandis (miền tây Bắc Mỹ tới Mexico và Guatemala, các vùng đất thấp ở phía bắc, cao độ trung bình ở phía nam)
Abies grandis - lãnh sam lớn hay đại lãnh sam
Abies grandis thứ idahoensis - lãnh sam lớn
Abies concolor - lãnh sam trắng
Abies concolor phân loài lowiana - lãnh sam trắng Low
Abies durangensis - lãnh sam Durango
Abies durangensis thứ coahuilensis - lãnh sam Coahuila
Abies flinckii - lãnh sam Jalisco
Abies guatemalensis - lãnh sam Guatemala
Nhánh Abies (trung, nam & Đông Âu, Tiểu Á)
Abies nebrodensis - lãnh sam Sicilia
Abies alba - lãnh sam bạc
Abies borisii-regis - lãnh sam Bulgari
Abies cephalonica - lãnh sam Hy Lạp
Abies nordmanniana - lãnh sam Nordmann hay lãnh sam Caucas
Abies nordmanniana phân loài equi-trojani - lãnh sam Thổ Nhĩ Kỳ
Abies cilicica - lãnh sam Cilicia
Nhánh Piceaster (miền nam Tây Ban Nha, tây bắc châu Phi)
Abies pinsapo - lãnh sam Tây Ban Nha
Abies pinsapo thứ marocana - linh sam Morocco
Abies numidica - lãnh sam Algeria
Nhánh Momi (miền đông và Trung Á, Himalaya, nói chung ở các cao độ thấp và vừa)
Abies kawakamii - lãnh sam Đài Loan
Abies homolepis - lãnh sam Nikko
Abies recurvata - lãnh sam Min
Abies recurvata thứ ernestii - lãnh sam Min
Abies firma - lãnh sam Momi
Abies beshanzuensis - lãnh sam Bách Sơn Tổ
Abies holophylla - lãnh sam Mãn Châu
Abies chensiensis - lãnh sam Tần Lĩnh
Abies chensiensis phân loài salouenensis - lãnh sam Salween
Abies pindrow - lãnh sam Pindrow
Abies ziyuanensis - lãnh sam Tư Nguyên
Nhánh Amabilis (các dãy núi ven Thái Bình Dương, Bắc Mỹ và Nhật Bản, trong các dãy núi có lượng mưa lớn)
Abies amabilis - lãnh sam bạc Thái Bình Dương
Abies mariesii - lãnh sam Maries
Nhánh Pseudopicea (Himalaya, ở cao độ lớn)
Abies delavayi - lãnh sam Delavay (tại Việt Nam gọi 1 phân loài là vân sam Phan xi phăng)
Abies fabri - lãnh sam/ lãnh sam Faber
Abies forrestii - lãnh sam Forrest
Abies chengii - lãnh sam Cheng
Abies densa - lãnh sam Bhutan
Abies spectabilis - lãnh sam đông Himalaya
Abies fargesii - lãnh sam Farges
Abies fanjingshanensis - lãnh sam Phạm Tịnh sơn
Abies yuanbaoshanensis - lãnh sam Nguyên Bảo sơn
Abies squamata - lãnh sam Flaky
Nhánh Oiamel (México, các núi có cao độ lớn)
Abies religiosa - lãnh sam linh thiêng
Abies vejarii - lãnh sam Vejar
Abies vejarii thứ mexicana - lãnh sam Mexico
Abies hickelii - lãnh sam Hickel
Abies hickelii thứ oaxacana - lãnh sam Oaxaca
Nhánh Nobilis (miền tây Hoa Kỳ, cao độ lớn)
Abies procera - lãnh sam Noble
Abies magnifica - lãnh sam đỏ
Abies magnifica thứ shastensis - lãnh sam đỏ Shasta
Nhánh Bracteata (ven biển của California)
Abies bracteata - lãnh sam quả cứng
Sử dụng
Gỗ của phần lớn các loài lãnh sam được coi là kém chất lượng, thông thường để làm bột giấy hoặc sản xuất gỗ dán và các loại gỗ mộc thô. Lãnh sam Nordmann, lãnh sam Noble, lãnh sam Fraser và lãnh sam nhựa thơm rất phổ biến trong vai trò của cây thông Giáng Sinh, nói chung được coi là các loài cây tốt nhất cho mục đích này, với các tán lá thơm mà không rụng nhiều lá khi bị khô đi. Nhiều loài được sử dụng làm cây trang trí trong vườn, đáng chú ý là lãnh sam Hàn Quốc và lãnh sam Fraser, chúng sinh ra các quả nón có màu sắc sáng màu khi còn non, thậm chí khi chỉ cao 1–2 m.
Chú thích |
Bướm là các loài côn trùng thuộc bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) gồm:
Bướm ngày
Bướm đêm (ngài)
Ngoài nghĩa đen chỉ loài côn trùng, bướm còn là danh từ theo nghĩa bóng chỉ bộ phận sinh dục phụ nữ. |
Thủy hử hay Thủy hử truyện (水滸傳, nghĩa đen là "bến nước"), tên gốc là Trung nghĩa truyện (忠義傳) hay Trung nghĩa Thủy hử truyện (忠義水滸傳), là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa, thường gọi là nhóm Tứ đại danh tác. Tác giả Thủy hử thường ghi là Thi Nại Am. Truyện được viết dựa theo sách Đại Tống Tuyên Hòa di sự Cốt truyện chính là sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.
Tác giả
Thi Nại Am theo sử liệu sinh năm 1296, mất năm 1370 tức là ông sống trong khoảng thời gian cuối đời Nguyên, đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. Quê của ông ở huyện Ngô, tỉnh Giang Tô sau dời đến Hưng Hóa. Thi Nại Am đỗ tiến sĩ năm 1330 dưới đời nhà Nguyên, rồi ông làm quan 2 năm ở Tiền Đường (nay thuộc tỉnh Hàng Châu, Trung Quốc). Sau vì bất mãn với triều đình nhà Nguyên, ông từ quan về ở ẩn, chuyên tâm sáng tác văn học.
Thủy hử là tác phẩm nổi tiếng nhất của Thi Nại Am sáng tác dựa trên các câu chuyện truyền miệng trong dân gian đời Tống, Nguyên. Có giả thuyết cho rằng Thủy hử là do Thi Nại Am và La Quán Trung cùng sáng tác nhưng tính chính xác của giả thuyết ấy không cao. Sở dĩ có giả thuyết trên vì cuộc đời của Thi Nại Am và La Quán Trung có nhiều điểm giống nhau như đều sống trong khoảng thời gian cuối đời Nguyên, đầu đời Minh.
Các phiên bản
Thủy hử truyện bắt nguồn từ những ghi chép về cuộc khởi nghĩa Tống Giang trong Tống sử và một số ghi chép mang tính chất dã sử trong Đại Tống Tuyên Hòa di sự. Có thể nói Đại Tống Tuyên Hòa di sự, với nội dung về "Tống Giang khởi nghĩa, bị Trương Thúc Dạ đánh bại, quy hàng, theo đánh Phương Lạp", là tiền thân của Thủy hử truyện.
Thủy hử có nhiều phiên bản, bản 70 hồi, 100 hồi, 114 hồi, 115 hồi, 120 hồi, 140 hồi,... Theo Lỗ Tấn, có tổng cộng sáu bản Thủy hử, thuộc hai loại: 70 hồi và trên 70 hồi. Trong đó, bản 100 hồi được xem là gần với nguyên tác nhất, với tựa đề ban đầu là Trung nghĩa Thủy hử truyện, nội dung gồm việc các anh hùng Lương Sơn Bạc tụ nghĩa (thường nằm trong khoảng 70 hồi) và bình Liêu đánh Phương Lạp. Bản Thủy hử phổ biến nhất là bản 70 hồi, do Kim Thánh Thán - một nhà phê bình nổi tiếng đời Thanh soạn lại. Kim Thánh Thán đã cắt bỏ hầu hết các nội dung khác, bao gồm việc đánh Liêu và Phương Lạp, chỉnh sửa lại theo quan điểm cá nhân, gia tăng bình luận của bản thân, từ đó tạo thành bản 70 hồi thường thấy ngày nay, gọi là Bình bản Thánh Thán.
Do sự cắt bỏ Kim Thánh Thán, các chi tiết chính Liêu và Phương Lạp được tách riêng, được bổ sung thêm phần bình Điền Hổ, Vương Khánh, tạo thành nhiều phiên bản, phổ biến nhất là bản 115 hồi còn được gọi là Giản bản và được gọi chung là Tục Thủy hử hay Chinh tứ khấu, được cho là của La Quán Trung. Các nội dung đó về sau được nhà sách Viên Vô Nhai chỉnh sửa, biên tập lại thành bản 120 hồi ngày nay, trở nên phổ biến với tên gọi Thủy hử toàn truyện hay Viên bản. 49 chương cuối của Thủy hử toàn truyện bị Kim Thánh Thán cắt bỏ được xuất bản tại Việt Nam với tên gọi Hậu Thủy hử.
Năm 1933, ở Thượng Hải xuất bản một bản Thủy hử với tên gọi Mai thị tàng bản, hay còn gọi là Cổ bản gồm 120 hồi với 70 hồi đầu tương đối giống bản Kim Thánh Thán. Nội dung Cổ bản hoàn toàn khác với Tục Thủy hử, nghĩa quân Lương Sơn Bạc không nhận chiêu an mà liên tục đấu tranh chống triều đình, cường hào ác bá đến cùng. Kết cục của Cổ bản là kết thúc mở, có thể do bị mất nội dung phần sau, được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng liên quan tới chống Kim. Cổ bản Thủy hử là một bản sách gây tranh cãi khi có nhà nghiên cứu cho rằng đây là bản gốc trước khi bị Kim Thánh Thán cắt bỏ, nhưng kết luận cuối cùng nhận định đây là một tác phẩm ngụy tạo do Mai Ký Hạc sáng tác.
Ngoài ra, còn có một quyển sách tên là Thủy hử hậu truyện gồm 40 hồi, viết tiếp bản 100 hồi, với nội dung là các thủ lĩnh còn sống sót cùng con em của Lương Sơn Bạc lần nữa tụ nghĩa, trừ gian thần, kháng quân Kim. Một bộ truyện khác là Đãng khấu chí của Du Vạn Xuân, gồm 70 hồi, viết tiếp bản 70 hồi của Kim Thánh Thán, với nội dung là Lương Sơn Bạc bị triều đình đánh dẹp. Kim Bình Mai cũng là một tác phẩm diễn sinh từ Thủy hử. Một số nhân vật của Thủy hử xuất hiện hoặc có quan hệ với một số nhân vật khác trong tác phẩm Thuyết Nhạc toàn truyện (xuất bản tại Việt Nam với tên gọi Nhạc Phi diễn nghĩa). Còn một tác phẩm nữa mang tên Hậu Thủy hử truyện, tuy nhiên nội dung của tác phẩm này hầu như không liên quan tới Thủy hử.
Cốt truyện
Quá trình tập hợp của các anh hùng thảo dã tại bến nước để hình thành quân khởi nghĩa Lương Sơn Bạc được Thi Nại Am dành 70 hồi để diễn giải. Tuy nhiên, nhân vật đầu tiên được đề cập không phải là một trong các vị anh hùng Lương Sơn, mà là Cao Cầu. Theo ý kiến các nhà nghiên cứu, quá trình thăng tiến của gian thần Cao Cầu chính là sự tố cáo cho chính sự thối nát của nhà Bắc Tống khi đó mà người chịu trách nhiệm cao nhất là hoàng đế Tống Huy Tông, một quân vương chơi bời, không quan tâm tới việc triều chính.
Từ một thảo dân lông bông, Cao Cầu gặp may hết lần này tới lần khác, trở thành sủng thần của vua Tống Huy Tông và được phong chức Thái uý. Mối liên kết giữa các gian thần Cao Cầu, Lương Trung Thư, Dương Tiễn... và bộ máy quan lại tham lam, xảo quyệt, độc ác bên dưới đã làm hại các trung thần của triều đình (Lâm Xung, Dương Chí, Hoa Vinh...) khiến họ lần lượt phải bỏ sự nghiệp đi theo Lương Sơn Bạc.
Cũng có những anh hùng xuất thân nơi thôn dã, không có chức vụ quyền hành nhưng bất bình với sự áp chế, bóc lột của quan lại địa phương như Lý Quỳ, Sử Tiến, Lưu Đường... nên đã ra tay cứu giúp người hoạn nạn hoặc tự cứu bản thân mình, trở thành người phạm tội với triều đình và cũng lên Lương Sơn.
Từng nhóm anh hùng được tập hợp riêng lẻ, rồi sau đó tất cả đều tụ về Lương Sơn. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu về Thủy hử, có những người mà con đường lên Lương Sơn vòng vo nhiều lần như Tống Giang, vì ông vốn mang tư tưởng trung hiếu với triều đình; lại có những người con đường lên Lương Sơn thẳng tuột như Lý Quỳ - ông coi việc làm phản khi bị hà hiếp là đương nhiên. Thủy hử phản ánh thực trạng trong xã hội phong kiến nhiều đời: "quan bức thì dân phản", điều đó rất hợp với tâm lý của đông đảo quần chúng lao động nghèo khổ bị bóc lột, áp bức nên Thủy hử dễ đi sâu vào tiềm thức của nhân dân.
Điều khiến Thủy hử trở nên ly kỳ, hấp dẫn là ngoài tính cách đa dạng của các nhân vật, các tình tiết còn mang nhiều tính bất ngờ, thú vị cho người đọc. Người thủ lĩnh đầu tiên của Lương Sơn Bạc là Vương Luân, nhưng chính Vương Luân lại bị Lâm Xung giết để tôn Tiều Cái. Tiều Cái được xem là người khai sáng Lương Sơn, nhưng lại không thuộc vào số 108 vị anh hùng - không thuộc vào 36 vị thiên cang hay 72 vị địa sát - vì ông tử trận trước khi Lương Sơn tập hợp đủ 108 người. Tài năng, tính cách của các anh hùng Lương Sơn cũng phong phú, mỗi người một vẻ. Ngoài những người giỏi chinh chiến trên lưng ngựa như Quan Thắng, Lâm Xung, Hô Diên Chước, Tần Minh, Đổng Bình... đánh bộ như Lý Quỳ, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm... còn một đội ngũ các tướng chuyên đánh thủy quân như anh em họ Trương, 3 anh em họ Nguyễn, Lý Tuấn; các quân sư tài ba như Ngô Dụng, Chu Vũ; những người di chuyển nhanh hoặc giỏi đột nhập như Đới Tung, Thời Thiên... Đặc biệt, trong các anh hùng Lương Sơn còn có 3 người phụ nữ (Cố Đại Tẩu, Hổ Tam Nương và Tôn Nhị Nương).
Các thủ lĩnh Lương Sơn Bạc
Xem chi tiết: Danh sách các thủ lĩnh Lương Sơn Bạc
Các anh hùng Lương Sơn Bạc thường được nhắc tới gồm có 108 người, tuy nhiên trên thực tế phải là 109 người, nếu tính cả Tiều Cái. Xa hơn nữa, chủ trại đầu tiên là Vương Luân, song Vương Luân nhanh chóng bị trừ khử không đóng vai trò gì đối với sự phát triển của Lương Sơn Bạc và do đó không được nhắc tới và không được tính vào hàng ngũ các anh hùng Lương Sơn.
Mặc dù Tiều Cái không chính thức thuộc về 108 anh hùng Lương Sơn Bạc vì trúng tên chết sớm ở trại Tăng Đầu, nhưng xét ra Tiều Cái là người lãnh tụ đầu tiên từ lúc Lương Sơn mới mở. Đối với các anh hùng Lương Sơn Bạc, từ Tống Giang trở đi, Tiều Cái là thủ lĩnh tối cao và nếu không vì cái chết của Tiều Cái, Tống Giang có thể không trở thành thủ lĩnh của Lương Sơn
108 thủ lĩnh Lương Sơn gồm có 36 vị sao Thiên Cương và 72 vị Địa sát, đứng đầu là Tống Giang (tức Tống Công Minh) và cuối cùng là Đoàn Cảnh Trụ.
Sau khi về hàng triều đình, quân Lương Sơn được điều đi chống quân nhà Liêu xâm phạm bờ cõi nhà Tống. Trở về, triều đình lại phái quân Lương Sơn đi đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa khác của Điền Hổ, Vương Khánh và Phương Lạp.
Khi đánh quân Liêu và các cuộc khởi nghĩa nông dân khác của Điền Hổ, Vương Khánh, quân Lương Sơn toàn thắng và không có tướng lĩnh nào tử trận. Tuy nhiên, khi đánh Phương Lạp, quân Lương Sơn bị tổn thất nặng. Trong 108 người, 5 người không tham dự cuộc chiến với Phương Lạp do được lệnh ở lại hoặc bị gọi về phục vụ triều đình; 103 người tham dự cuộc chiến với Phương Lạp thì có 59 người bị tử trận, 10 người ốm chết dọc đường, 7 người không trở về triều nhận quan tước, chỉ còn 27 người trở về kinh đô nhà Tống.
Trong 32 người phục vụ triều đình sau chiến dịch đánh Phương Lạp, 3 người bị bọn gian thần (Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu) trực tiếp hoặc gián tiếp sát hại là Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Lý Quỳ; 2 người tự vẫn theo là Ngô Dụng, Hoa Vinh; 12 người về tới kinh đô nhưng vẫn không nhận chức quan, bỏ về quê cũ hoặc đi làm đạo sĩ; 3 người nhận chức rồi sau đó từ chức vì không thích chốn quan trường nhiều gian thần; 12 người tiếp tục phục vụ triều đình.
Khái quát về các nhân vật trong tác phẩm
Về hình tượng, tính cách nhân vật
Trong bài giới thiệu về tác phẩm Thủy hử, giáo sư Lương Duy Thứ viết:
... Có người cho rằng, giá trị cơ bản của Thủy hử là ở chỗ đã xây dựng được hàng loạt nhân vật hảo hán Trung Hoa võ nghệ cao cường, giàu lòng vị tha, xả thân vì nghĩa. Vì vậy, các hảo hán Lương Sơn đã được ca ngợi hết lời, là những người tượng trưng cho ước vọng của quần chúng nông dân thấp cổ bé họng, là những ông tiên ông Bụt bằng xương bằng thịt...
Sự xuất hiện của các anh hùng Thủy hử là có lý. Giữa xã hội phong kiến,... hành động của họ nhiều lúc rất có ý nghĩa. Nhưng coi... tư tưởng và hành động của họ là chuẩn mực, là tấm gương sáng cho người đời noi theo thì lại hoàn toàn sai. Họ không thể là "bó đuốc soi đường cho nhân dân trong đêm trường trung cổ phong kiến". Trên thực tế của tác phẩm, đúng như Lỗ Tấn nhận xét, họ trả thù các quan lại, địa chủ cường hào, nhưng cũng có lúc xâm nhiễu nhân dân và hành động quá tay. Có những người may mắn được họ cứu giúp (như cha con Kim Thuý Liên, Thi Ân), nhưng cũng có những trường hợp bị chặt đầu vô cớ (19 người trong nhà Trương Đô giám, những người dân ra xem hành hình Tống Giang, những người vô tình qua Lương Sơn bị các hảo hán giết làm lễ ra mắt...). Họ giết người như ngoé và có lúc mở quán bánh bao nhân thịt người... Tính vô nhân đạo trong hành động của không ít hảo hán Lương Sơn Bạc đã làm hoen ố mục tiêu mà họ đề ra ("thế thiên hành đạo"). Nhiều lúc, hành động và tư tưởng của họ không khác kẻ cướp là mấy. Họ phản kháng và trả thù hoàn toàn tự phát, chưa có lý trí tỉnh táo sáng suốt dẫn dắt, do đó thường sa vào tình trạng manh động, thô bạo, vô chính phủ.
Xuất phát từ những lập luận đó, giáo sư Lương Duy Thứ không đồng tình với quan điểm của một số tác gia Trung Quốc:
Không thể coi Tống Giang là "lãnh tụ cách mạng nông dân trong xã hội phong kiến" và Lý Quỳ là "hình tượng điển hình có tinh thần cách mạng kiên định nhất của nhân dân lao động" ...
Giáo sư Lương Duy Thứ đưa ra dẫn chứng:
Thực ra, từ lâu Lỗ Tấn đã chỉ ra tính chất vô nhân đạo của những hành động manh động, tự phát của các nhân vật Thủy hử. Ông viết: "Tôi rất quý Trương Phi thẳng thắn, không biết sợ cái gì... nhưng tôi căm thù Lý Quỳ, người giống Trương Phi nhưng đã không phân biệt trắng với đen và là kẻ sẵn sàng chặt đầu hàng loạt bằng cây rìu của mình"
Trong tác phẩm Thủy hử, không phải anh hùng nào đang làm quan cho triều đình lên Lương Sơn cũng vì bị gian thần vu cáo, hãm hại như Lâm Xung mà có những trường hợp, chính các tướng lên Lương Sơn trước đặt họ vào tình thế buộc phải theo lên Lương Sơn. Kim sang thủ Từ Ninh bị Thang Long lừa lên Lương Sơn, đặt vào "hoàn cảnh đã rồi", muốn về cũng không được. Hay Lư Tuấn Nghĩa bị Ngô Dụng lừa viết bài thơ phản trắc lên tường (4 chữ đầu câu ghép thành "Lư Tuấn Nghĩa phản") nên không còn đường chối cãi trước lời buộc tội. Chính vì vậy, khi lực lượng Thủy hử đánh Phương Lạp trở về, không phải ngẫu nhiên có sự phân hóa trong tư tưởng của họ, khi triều đình chia cắt thì mỗi người suy nghĩ và theo đuổi mục đích riêng, có những người lại phục vụ triều đình chứ không phải ai cũng tự sát vì nghĩa, chết theo "Tống ca ca" như Ngô Dụng và Hoa Vinh.
Phần đông các anh hùng Thủy hử, nhất là những người xuất thân chiến tướng, dường như chỉ biết chiến đấu, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng theo mệnh lệnh. Chính vì vậy, họ dễ bị triều đình lợi dụng, như Hàn Tín bị Lưu Bang lợi dụng để khi xong việc thì trừ bỏ. Đặc biệt sau khi quy hàng triều đình, họ chiến đấu miệt mài hết trận này đến trận khác, thắng trận và lập công không biết mệt mỏi như những cỗ máy và dường như cũng không đòi hỏi gì. Họ xả thân, chỉ biết tiến lên phía trước mà không biết rằng sau lưng mình, bọn gian thần Cao Cầu, Đồng Quán chỉ chờ họ giết xong giặc thì sẽ đâm lén họ.
Về hình mẫu các nhân vật
Xem thêm: Thi Nại Am
Tuy Thủy hử có sự đa dạng về tính cách và sở trường, sở đoản các nhân vật nhưng theo ý kiến các nhà nghiên cứu, trong đó có ý kiến của nhà phê bình Kim Thánh Thán đời nhà Thanh, một số nhân vật trong Thủy hử có những nét tương đồng với nhân vật trong Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung. Đó là nguyên nhân chính để các nhà nghiên cứu khẳng định sự tham gia ở mức độ nhất định của La Quán Trung đối với tác phẩm Thủy hử.
Tống Giang, ngoài sự trung hiếu với triều đình, theo Kim Thánh Thán, còn mang nhiều nét của tính giả dối, giống như Lưu Bị. Ngô Dụng với trí thông minh tuyệt đỉnh rất giống Gia Cát Lượng. Quan Thắng và Chu Đồng đều có hình ảnh phảng phất như Quan Vũ. Lý Quỳ có tính nóng và ngay thẳng giống Trương Phi...
Ngoài ra, tên một số nhân vật cũng mang những chữ gợi nhớ đến các nhân vật Tam Quốc Diễn Nghĩa. Lã Phương có biệt danh là "Tiểu Ôn hầu", cũng sử dụng hoạ kích như Lã Bố; Trong Tam Quốc, Gia Cát Lượng có tên tự là Khổng Minh, trong Thủy hử có hai anh em họ Khổng là Khổng Minh và Khổng Lượng; Tiên phong Sách Siêu khoẻ mạnh nhưng bồng bột giống với nhân vật Mã Siêu của Tam Quốc...
Giá trị nghệ thuật
Trong bài giới thiệu tác phẩm Thủy hử, giáo sư Lương Duy Thứ viết:
Sức hấp dẫn kỳ lạ của Thủy hử chủ yếu do tài năng văn chương của Thi Nại Am. Kim Thánh Thán là một người mang nặng tư tưởng phong kiến đã phải thốt lên: "Những tên sao thiên cương, địa sát, xét ra không hợp đạo làm người, sao lại có áng văn viết ra lạ lùng dễ mê hoặc lòng người đến thế? Ta muốn dựng Thi Nại Am dậy mà hỏi cho ra?"
Về mặt kết cấu, tác phẩm được độc giả đón nhận như hàng trăm truyện ngắn ly kỳ, có thể đứng độc lập như những tác phẩm riêng lẻ, nhưng dưới ngòi bút của Thi Nại Am chúng được xâu chuỗi liền mạch thành một hệ thống hoàn chỉnh<ref>Mục từ Thủy hử, trong cuốn Từ điển văn học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, H. 2005, trang 1702.</ref>. Kết cấu đó mang đặc sắc của những tác phẩm phát triển từ chuyện kể, và sợi dây quán xuyến toàn bộ tác phẩm là sự xung đột giữa chế độ phong kiến áp bức và tinh thần phản kháng mãnh liệt của các anh hùng hảo hán.
Từ những câu chuyện về các số phận đầy éo le trắc trở, như những dòng suối tuôn chảy về sông, Thủy hử đã dựng dậy vô số nhân vật có phong tục tập quán cũng như lời ăn tiếng nói của vùng thượng lưu và trung lưu sông Hoàng Hà. Phải dụng công lắm Thi Nại Am mới xây dựng được những nhân vật không những có "suy nghĩ và hành động phù hợp với giai cấp xuất thân và địa vị xã hội" mà còn có cá tính muôn màu muôn vẻ, hình dáng và lời nói không ai giống ai trong thực tế cuộc đời. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng có những nhân vật chỉ được phác hoạ sơ và có những người chỉ thêm cho đủ số 108.
Trong số 108 hảo hán Lương Sơn có hơn một nửa là những "tôi trung con hiếu", những con người vốn sẵn lòng thờ phụng triều đình, nhưng "muốn làm nô lệ mà vẫn không được", họ phải đứng dậy, làm việc bất đắc dĩ "bức thướng Lương Sơn" (buộc phải lên Lương Sơn Bạc). Vốn là những người dân thấp cổ bé họng, không nuôi ảo tưởng gì đối với con đường công danh sự nghiệp phong kiến và sự phản kháng của họ chỉ nhằm tìm đường sống, nhưng những hảo hán Lương Sơn đã không thể thành công. Sự thất bại của họ cho thấy sự thực lịch sử là trong xã hội phong kiến, khởi nghĩa nông dân chỉ có thể hoặc bị thế lực thống trị đàn áp, hoặc trở thành công cụ thay triều đình đổi ngôi của chế độ phong kiến.
Tác phẩm xây dựng được tính cách nhân vật điển hình, rõ rệt, thậm chí dị biệt. Nếu Tống Giang coi việc làm phản là tội "đáng diệt chín họ" và con đường đến với Lương Sơn quanh co, day dứt bao nhiêu, thì Lý Quỳ lại xem đó là việc đương nhiên và việc gia nhập chốn thủy hử (bến nước) của họ Lý lại đơn giản bấy nhiêu. Ngay trong một nhân vật, khi hoàn cảnh sống và địa vị xã hội thay đổi, tính cách cũng thay đổi theo, như Lâm Xung vốn là người hiền lành nhẫn nhục, nhưng khi ở miếu Thổ thần, hiểu thấu sự nham hiểm và tàn bạo của đám quan trên, ông lại trở nên ngỗ ngược, ngang tàng. Về nỗ lực xây dựng cá tính của những hình tượng nghệ thuật, Thủy hử đã vượt thoát khỏi những khuôn sáo "tính cách có sẵn", "lý tưởng hóa" của các tác phẩm cổ điển, tạo nên những cá tính sinh động và có sức thuyết phục độc giả.
Theo giáo sư Lương Duy Thứ, văn chương của Thủy hử không "dệt gấm thêu hoa" như Tây Sương ký, không "nhả ngọc phun châu" như Hồng Lâu Mộng, mà là "nhạc trỗi chuông ngân", hùng hồn, dồn dập. Văn chương của Thủy hử gần gũi với truyện kể dân gian. Tác phẩm Thủy hử giữ được tính sống động của nhân vật trong ngôn ngữ gần gũi với đời sống hằng ngày, trong lối hành văn ít trang sức tô điểm.
Sự chuẩn xác lịch sử
Khởi nguồn của Thủy hử truyện là các truyện kể, huyền tích dân gian về cuộc đời và hành vi của các thủ lĩnh Lương Sơn Bạc, thêm vào đó, cũng tồn tại nhiều văn bản truyện Thủy hử khác nhau nên có thể nói, tính xác thực về mặt lịch sử của tiểu thuyết này là không cao. Một trong những ví dụ rõ ràng nhất là trên thực tế, Phương Lạp chưa từng bị tiêu diệt bởi quân lực của Lương Sơn. Phương Lạp đã thực sự xưng đế và bị tiêu diệt bởi những đội quân khác của triều đình nhà Tống chứ không phải quân Lương Sơn Bạc.
Theo Tống sử, tháng 2 năm 1121 (Tuyên Hòa thứ 3) thời Tống Huy Tông, Tống Giang ở Hoài Nam tấn công Hoài Dương quân, triều đình sai tướng đánh dẹp, Tống Giang lại tấn công Kinh Đông, tiến vào ranh giới Sở Châu, Hải Châu; triều đình sai tri châu là Trương Thúc Dạ chiêu hàng được Tống Giang. Cũng theo Tống sử, Tống Giang khởi nghĩa ở Hà Sóc, cướp bóc 10 quận, quan quân không dám chống lại. Tống Giang đánh tiếng sắp đến tấn công, Trương Thúc Dạ sai gián điệp dò xét, biết quân Tống Giang ở bờ biển cướp hơn 10 thuyền lớn để chở những thứ giành được. Vì thế Trương Thúc Dạ mộ tử sĩ được 1000 người, đặt mai phục gần thành, rồi sai khinh binh đến bờ biển, dẫn dụ quân Tống Giang đến đánh. Trước Trương Thúc Dạ đã cho những binh lính khỏe mạnh mai phục bên bờ biển, chờ khi binh lính hợp lại, nổi lửa đốt thuyền của Tống Giang. Quân Tống Giang thấy thuyền mình bị đốt, đều không còn ý chí chiến đấu, phục binh của Trương Thúc Dạ thừa cơ tấn công, bắt được phó thủ lĩnh của Tống Giang, Tống Giang bèn đầu hàng. Không có gì giống như được đề cập trong Thủy hử. Tống sử lại chép Tống Giang cướp bóc ở Kinh Đông, quan Tư Chính điện học sĩ là Hầu Mông dâng thư nói rằng: "Tống Giang có ba mươi sáu người hoành hành ở vùng Tề, Ngụy, quan quân có hàng vạn cũng không dám chống lại, tài năng ắt hơn người. Hiện nay giặc cướp ở Thanh Khê đang nổi lên, chẳng bằng tha tội cho Tống Giang, sai đi đánh Phương Lạp để chuộc tội".
Trong một nhận định khác về sự chân xác của Thủy hử truyện, Lỗ Tấn viết:
Các bản dịch ra ngôn ngữ khác
Thủy hử được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Bản dịch tiếng Việt đầu tiên là của Á Nam Trần Tuấn Khải, có văn phong hàn lâm và hiện được cho là bản dịch chính thức để dùng trong nghiên cứu và giảng dạy. Một bản dịch sau, không có những hồi cuối của La Quán Trung, do Mộng Bình Sơn dịch, có giọng văn sát với truyện anh hùng, phiêu lưu, mạo hiểm hơn và do đó quen thuộc hơn với người bình dân.
Bản tiếng Anh đầu tiên do Pearl Buck- nữ nhà văn Mỹ từng đoạt giải Nobel Văn học- dịch và mang tựa là All men are brothers (Mọi người là anh em, lấy ý tứ của câu Tứ hải giai huynh đệ, nghĩa đen: bốn bể là anh em).
Bản dịch ra tiếng Pháp lấy tên là Les chevaliers Chinois (Hiệp sĩ Trung Hoa).
Tác phẩm diễn sinh
Thủy hử hậu truyện Thủy hử hậu truyện của Trần Thầm nói về chuyện các thủ lĩnh còn sống sót cùng hậu duệ của Lương Sơn Bạc một lần nữa nổi dậy, chống gian thần, kháng quân Kim. Cuối truyện, các thủ lĩnh Lương Sơn rút về quần đảo Xiêm La, Lý Tuấn trở thành quốc vương Xiêm La, xưng thần với nhà Tống. Đây được xem là hình tượng của Trịnh Thành Công.
Tục Thủy hử
Tương truyền La Quán Trung là học trò của Thi Nại Am. Sau khi Thi Nại Am đã sáng tác xong 70 hồi truyện Thủy hử, vua nhà Nguyên đọc xong truyện đã nổi giận bắt giam Thi Nại Am và hạ lệnh phải viết tiếp đoạn sau, kể về việc Lương Sơn Bạc bị dẹp, nếu không sẽ bị xử tội.
Thi Nại Am lo lắng, bèn cho gọi học trò là La Quán Trung tới nhà lao cùng bàn bạc. Hai người cùng nhau thống nhất ý tưởng viết Tục Thủy Hử kể việc thất bại của quân Tống Giang. Sau một năm, phần Tục của Thủy hử hoàn thành, hai thầy trò mang dâng vua Nguyên. Vua Nguyên xem xong rất bằng lòng, hạ lệnh thả Thi Nại Am.Tục Thủy hử kể về quá trình tổn thất, tan rã hoàn toàn của các anh hùng Lương Sơn Bạc. Lương Sơn Bạc phát triển đến cực thịnh ở hồi 70 với việc tập hợp đủ 108 vị anh hùng được phân thứ hạng và nhiệm vụ ở Lương Sơn. Triều đình nhà Tống nhiều lần phát quân đi đánh dẹp đều bị quân khởi nghĩa đánh bại. Thái úy Cao Cầu đích thân cầm quân đi dẹp, bị quân Lương Sơn bắt sống. Tuy nhiên, do thủ lĩnh Tống Giang mang nặng tư tưởng trung quân ái quốc nên đã sai thả Cao Cầu và xin được về quy thuận triều đình.
Dù bị nhiều ý kiến phản đối (nhất là Võ Tòng và Lý Quỳ), Tống Giang vẫn quyết ý dẫn các thủ hạ về quy hàng khi được triều đình chiêu an.
Sau khi về hàng triều đình, quân Lương Sơn được điều đi chống quân nhà Liêu xâm phạm bờ cõi nhà Tống. Quân Lương Sơn thắng quân Liêu liên tiếp nhiều trận (chiếm được Đàn Châu, Kế Châu, Bá Châu, U Châu), sắp tiến đến kinh đô nước Liêu thì vua Huy Tông theo lời các gian thần, chấp thuận cho nước Liêu giảng hoà và hạ lệnh Tống Giang rút quân.
Trở về, triều đình lại phái quân Lương Sơn đi đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Phương Lạp. Với đội ngũ thiện chiến, tài năng, quân Lương Sơn dưới cờ hiệu của triều đình nhà Tống đã dẹp được cuộc khởi nghĩa quy mô lớn này. Khi đánh quân Liêu, họ toàn thắng và không có tướng lãnh nào tử vong. Sự suy giảm quân số chỉ diễn ra khi quân Lương Sơn đụng độ quân Phương Lạp. Cho tới khi đánh bại quân khởi nghĩa này và bắt sống thủ lĩnh Phương Lạp, các anh hùng Lương Sơn Bạc bị tổn thất rất nhiều.
Đãng khấu chí
Truyện Đãng khấu chí của Du Vạn Xuân đời nhà Thanh. Du Vạn Xuân theo quan điểm phong kiến, đứng về phía triều đình, cho rằng truyện Thủy hử quá tai hại đối với xã hội vì nó kích động nhân dân chống đối triều đình và những cái chết oan uổng của các anh hùng Lương Sơn sau khi quy hàng nhà Tống khiến nhân dân thương xót "những kẻ làm loạn". Vì vậy mãi tới thế kỷ 19, Du Vạn Xuân mới viết Đãng khấu chí (nghĩa là: kể chuyện dẹp giặc cướp) nhằm mục đích viết lại Hậu Thủy hử, nội dung kể về việc các anh hùng Lương Sơn Bạc bị triều đình đánh dẹp thẳng tay và họ đã bị tiêu diệt chứ không khiến triều đình phải chiêu an. Họ bị mô tả như quân cường khấu, vô đạo, trái nghĩa. Tuy nhiên, khi Đãng khấu chí ra đời, Hậu Thủy hử đã quá phổ biến, đã in sâu trong tâm trí độc giả 500 năm và vì vậy, Đãng khấu chí rất ít được biết tới.
Kim Bình Mai
Truyện Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh bắt nguồn từ một chi tiết trong Thủy hử, tích Võ Tòng giết chị dâu Phan Kim Liên để trả thù anh Võ Đại. Ba chữ trong tựa là tên ba nhân vật trong đó Kim là Phan Kim Liên, chị dâu Võ Tòng (Võ Tòng là một nhân vật trong Thủy hử), Lý Bình Nhi và Bàng Xuân Mai. Có người coi Kim Bình Mai là danh tác thứ năm, có người xếp Kim Bình Mai vào hàng tứ đại danh tác thay vì Hồng lâu mộng.Tứ đại danh tác của Trung Quốc bao gồm:
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung; Thủy hử của Thi Nại Am và La Quán Trung; Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân và Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần
Hậu Thủy hử truyện
Trong điện ảnh
Thủy hử đã đi sâu vào tiềm thức của nhiều người dân Trung Quốc nói riêng và Đông Á nói chung. Từ thập niên 80 của thế kỷ 20, đoàn làm phim tỉnh Sơn Đông đã dựng phim Thủy hử, kể về giai đoạn hình thành và phát triển của Lương Sơn Bạc và kết thúc ở hồi 70 khi các anh hùng Lương Sơn tụ tập đủ, phân chia ngôi thứ. Vai chính Tống Giang do diễn viên nổi tiếng Bào Quốc An (người thủ vai Tào Tháo trong phim Tam Quốc Diễn Nghĩa) đóng.
Tới cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20, hãng phim truyền hình Trung Quốc dựng phim Thủy hử, dài 43 tập, kể đầy đủ về sự hình thành cho tới khi thất bại của Lương Sơn Bạc. Vai chính Tống Giang do diễn viên nổi tiếng khác là Lý Tuyết Kiện đóng. Đặc biệt, bộ phim còn có sự tham gia của nhà chỉ đạo võ thuật nổi tiếng Viên Hòa Bình. Bộ phim này đã được coi là bản thành công nhất về phim Thủy Hử cho đến nay, ngoài ra bài nhạc Hảo Hán Ca do Lưu Hoan trình bày cũng được khán giả yêu thích và đón nhận vì toát lên được khí khái của các anh hùng hảo hán.
Hãng phim truyện TVB của Hong Kong cũng đã dựng phim Lâm Xung'' gồm 20 tập, chỉ đề cập tới một số nhân vật Thủy hử là Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Thời Thiên, Yến Thanh, Lư Tuấn Nghĩa, Lý Sư Sư, Cao Cầu và vua Huy Tông.
Vào năm 2011, một bộ phim Thủy hử mới được ra đời, gọi là Tân Thủy hử. Bộ phim truyền hình này được dàn dựng công phu và quy tụ nhiều ngôi sao hàng đầu điện ảnh Trung Quốc (Trương Hàm Dư trong vai Tống Giang, Nghiêm Khoan trong vai Yến Thanh, Cao Hổ trong vai Dương Chí, Hồ Đông trong vai Lâm Xung,...)., bộ phim này đã tạo dựng rõ hình tượng các anh hùng Lương Sơn hơn phim trong đó Tống Giang do Lý Tuyết Kiện thủ vai.
Chú thích |
Nguyễn Duy Trinh (1910 - 1985) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau đó là Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, ông còn được biết đến với vai trò là người đại diện cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt bút ký kết Hiệp định Paris 1973.
Tiểu sử
Nguyễn Duy Trinh, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1910 trong một gia đình nông dân tại xã Nghi Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Năm 1922, Nguyễn Duy Trinh được gia đình cho theo học tại Trường Quốc học Vinh. Năm 1924, ông là học trò của thầy giáo Trần Phú.
Năm 1925, ông đã tham gia phong trào học sinh đòi tự do hoạt động chính trị tại thành phố Vinh. Năm sau, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng đảng và được phái vào Sài Gòn hoạt động. Tại đây ông bị bắt và bị kết án 18 tháng tù. hết hạn tù, ông bị chính quyền trục xuất về miền Trung. Tại quê nhà ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Thời kỳ 1930 - 1931, ông lại bị bắt và bị đày ra Côn Đảo, sau chuyển về Kon Tum. Tại đây, năm 1941, ông cùng một số bạn tù vượt ngục nhưng bị bắt lại.
Tại Đại hội Đảng lần thứ II (1951), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và đến tháng 8 năm 1955 đảm nhiệm chức vụ Bí thư TƯ Đảng. Ông là uỷ viên Bộ chính trị Trung ương Đảng suốt từ năm 1956 đến năm 1982. Tại Đại hội Đảng lần thứ V (1982) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho đến khi mất.
Ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Chánh Văn phòng Trung ương Đảng (cuối năm 1954), Bộ trưởng Phủ Thủ tướng (1958), Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước (1963 - 1965) và là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lâu nhất Việt Nam (1965 - 1980). Chính trong thời gian đó, Việt Nam đàm phán và ký kết Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh Việt Nam. Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, tiến hành công cuộc tái thiết sau hơn 30 năm bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh; vừa tranh thủ sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa và cộng đồng thế giới, vừa đấu tranh chống bao vây cấm vận. Chính trong thời kỳ đó, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.
Sau khi thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (năm 1980) ông tham gia vào Ban nghiên cứu chiến lược kinh tế-xã hội của TƯ Đảng và Chính phủ (1982).
Ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam suốt từ khóa I đến khóa VII.
Đóng góp
Nguyễn Duy Trinh đóng góp tích cực vào việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế trong hoàn cảnh có sự bất đồng sâu sắc trong phe XHCN. Việc đàm phán ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973 có công lao của ông và thay mặt phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký chính thức vào Hiệp định Paris về Chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Tặng thưởng và vinh danh
Huân chương Sao vàng;
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến Chống Mỹ Cứu nước hạng Nhất;
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng,...
Tên của Nguyễn Duy Trinh được đặt cho các con đường tại thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh và đường vào Khu đô thị Linh Đàm, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Năm 2011, Trường THPT Nghi Lộc I được đổi tên thành trường THPT Nguyễn Duy Trinh |
Sin là một hàm số lượng giác. Giá trị sin của một cung tròn trên vòng tròn đơn vị có bằng độ lớn hình chiếu của đầu mút cung đó lên trục tung.
Sin của một góc được tính quy về sin của cung tròn chắn bởi góc đó.
Trong tam giác vuông, sin của một góc nhọn được tính bằng tỉ số giữa cạnh góc vuông đối diện và cạnh huyền.
Hàm số
Các đặc trưng của hàm số sin:
Miền xác định: R (toàn bộ trục số thực)
Miền giá trị: [-1, 1]
Tính tuần hoàn: hàm số là hàm tuần hoàn với chu kì .
Giới hạn tại lân cận :
Trong công thức Euler
Hàm số sin còn xuất hiện trong công thức Euler:
Ước lượng bằng phương pháp số trị
Hàm số sin có thể ước lượng dưới dạng chuỗi vô hạn từ khai triển Taylor:
Ứng dụng kĩ thuật
Hàm số sin có nhiều ứng dụng trong kĩ thuật:
Biểu diễn dao động cơ học: chẳng hạn dao động của lò xo được cho bởi:
Đặc trưng của dòng điện xoay chiều: cường độ dòng điện xoay chiều trong mạch được cho bởi:
Biểu diễn sự lan truyền sóng nước: độ cao mặt nước khi có sóng truyền qua có thể được xấp xỉ bởi một hàm số sin (hoặc cosin):
Dùng trong thuật toán đồ họa trong các phần mềm game 3D,tìm mối tương quan giữa góc xoay quanh trục tọa độ y tạo bởi vector raycast và vật thể có tọa độ (z;x) nhằm xác định tên vật thể và tinh chỉnh góc tia chiếu chuẩn trực. |
Phước Long là một tỉnh cũ ở miền Đông Nam Bộ, Việt Nam.
Địa lý
Tỉnh Phước Long có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Quảng Đức và tỉnh Lâm Đồng
Phía tây giáp tỉnh Bình Long và tỉnh Bình Dương
Phía nam giáp tỉnh Long Khánh
Phía bắc giáp Campuchia.
Lịch sử
Phước Long được thành lập theo Sắc lệnh số 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 do Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ký, chia Nam phần thành 22 tỉnh. Phước Long được tách ra từ một phần tỉnh Biên Hòa và một phần tỉnh Thủ Dầu Một. Tỉnh lỵ đặt tại Phước Bình, trước đây thuộc quận Bà Rá của tỉnh Biên Hòa.
Theo Nghị định số 311/BNV/NC/ND ngày 10 tháng 10 năm 1957 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa thì tỉnh Phước Long bao gồm 3 quận, 17 tổng và 21 xã:
Quận Phước Bình có 10 tổng: Khun Narr, Khun Klenh, Xer Nuk, Bình Cách, Tân Thuận, Thuận Lợi, Bù Đăng, Dek Cuorr, Bù Nard, Bù R'Noun; quận lỵ đặt tại xã Sơn Giang, tổng Khun Narr
Quận Bù Đốp có 4 tổng: Phước Lễ, Bù Yam Phút, Bù Yu, Dag Huyt; quận lỵ đặt tại xã Phước Lục, tổng Phước Lễ
Quận Phước Hòa có 2 tổng: Bù Prang, Bù R'lâp; quận lỵ đặt tại Bù Prang.
Ngày 19 tháng 5 năm 1958, quận Bù Đốp đổi tên thành quận Bố Đức
Ngày 23 tháng 1 năm 1959, một phần đất của tỉnh Phước Long được tách ra để lập tỉnh Phước Thành.
Theo Nghị định số 172-NV ngày 19 tháng 5 năm 1959 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa thì tỉnh Phước Long bao gồm 4 quận: Phước Bình, Bố Đức, Phước Hòa và Đức Phong.
Ngày 24 tháng 7 năm 1961, giải thể quận Phước Hòa và thành lập quận mới Đôn Luân. Từ đó tổ chức hành chính của tỉnh Phước Long gồm 4 quận:
Quận Bố Đức có 5 tổng, 5 xã và 22 ấp; quận lỵ đặt tại xã Phước Lục, tổng Phước Lễ. Với 5 tổng là (mỗi tổng có 1 xã):
Tổng Phước Lễ: xã Phước Lục
Tổng Bù Yam Phút: xã Bù Ghirr
Tổng Bù Yu: xã Bù Quak
Tổng Bù Prang: xã Bù Ja Mập
Tổng Dag Huyt: xã Bù Tom Yun
Quận Phước Bình có 3 tổng, 4 xã và 18 ấp; quận lỵ đặt tại xã Sơn Giang, tổng Khun Narr. Với 3 tổng là:
Tổng Khun Narr gồm 2 xã: Phước Quả, Sơn Giang
Tổng Khun Klenh: xã Bù Nho
Tổng Xer Nuk: xã Dakia
Quận Đức Phong có 2 tổng, 3 xã và 5 ấp; quận lỵ đặt tại xã Bù Đăng, tổng Bù Đăng. Với 2 tổng là:
Tổng Bù Đăng gồm 2 xã: Bù Đăng, Vĩnh Thiện
Tổng Bù R'lâp: xã Bù Barr
Quận Đôn Luân có 4 tổng, 5 xã và 7 ấp; quận lỵ đặt tại Đồng Xoài, xã Phước Thiện. Với 4 tổng là:
Tổng Tân Thuận: xã Tân Thuận
Tổng Thuận Lợi gồm 2 xã: Thuận Lợi, Phước Thiện
Tổng Bù Yum: xã Phú Riềng
Tổng N'dreng: xã N'dreng.
Sau năm 1975, 3 tỉnh Phước Long, Bình Long và Bình Dương hợp nhất thành tỉnh Sông Bé.
Đến cuối năm 1996, tỉnh Sông Bé lại tách ra làm 2 tỉnh Bình Phước và Bình Dương. Trong đó, tỉnh Bình Phước có địa giới bao gồm 2 tỉnh Bình Long và Phước Long cũ. Tỉnh lỵ tỉnh Bình Phước hiện nay là thành phố Đồng Xoài, vốn là quận lỵ quận Đôn Luân, tỉnh Phước Long trước đây.
Hiện nay, địa danh Phước Long chỉ còn được dùng để chỉ thị xã Phước Long, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Bình Phước và huyện Phước Long, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Địa bàn tỉnh Phước Long cũ nay là một phần của tỉnh Bình Phước (gồm thành phố Đồng Xoài, thị xã Phước Long và các huyện Đồng Phú, Bù Đăng, Phú Riềng, Bù Gia Mập, Bù Đốp), một phần huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương và phần lớn huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng.
Dân số
Chú thích |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.