text
stringlengths 0
512k
|
---|
Đồ thị trong tiếng Việt có thể chỉ các khái niệm:
Đồ thị trong lý thuyết đồ thị.
Đồ thị hàm số.
cs:Graf
de:Graph
en:Graph
fr:Graphe
sk:Graf
sl:Graf
th:กราฟ |
Vũ Đình Liên (12 tháng 11 năm 1913 – 18 tháng 1 năm 1996), là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Thơ ông thường mang nặng lòng thương người và hoài niệm cổ. Bài thơ Ông Đồ của ông được một nhà phê bình văn học xem là một trong mười bài thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới.
Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
Tiểu sử
Vũ Đình Liên sinh tại Hà Nội, quê quán gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Ông đỗ tú tài năm 1932, từng dạy học ở các trường: Trường Tư thục Thăng Long, Trường Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống. Ông học thêm trường Luật đỗ bằng cử nhân, về sau vào làm công chức ở Nha Thương chính (còn gọi là sở Đoan) Hà Nội.
Năm 1936, ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" được đăng trên báo Tinh Hoa
Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp của Đại học Quốc gia Hà Nội
Ông còn là một trong những nhà thơ đầu tiên của phong trào Thơ mới.
Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam
Tác phẩm
Một số bài thơ: Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre xanh, Người đàn bà điên ga Lưu xá...
Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (cùng Nhóm Lê Quý Đôn – 1957)
Nguyễn Đình Chiểu (1957)
Thơ Baudelaire (dịch – 1995)
Nhận xét
Mặc dù được biết đến trong phong trào Thơ mới nhưng Vũ Đình Liên chưa xuất bản một tập thơ nào. Đầu năm 1941, trong một bức thư gửi Hoài Thanh, lúc Hoài Thanh làm cuốn Thi nhân Việt Nam, Vũ Đình Liên viết "Tôi bao giờ cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có chút giá trị gì nên đã lâu tôi không làm thơ nữa". Hoài Thanh nhận xét Vũ Đình Liên hạ mình quá đáng, nhưng ông cũng hiểu nỗi đau của Vũ Đình Liên . Những bài thơ hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Hoài niệm của ông cũng là nỗi niềm của nhiều người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ còn tồn tại với thời gian:
...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?Bài thơ Ông Đồ được chuyển ngữ sang hàng chục thứ tiếng khác như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung , tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Thụy Điển, tiếng Ả Rập, tiếng Đan Mạch... Đặc biệt một tờ báo ở Châu Phi đã cùng một lúc in bài thơ này bằng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Ả Rập. Bản dịch tiếng Anh của bài thơ này phổ biến nhất là các bản dịch của Phạm Trọng Lệ (The Firmament Literacy Journal, 1972), Thomas Le (2005) và Vương Thu Trang (2011).
Có ba dịch giả đã chuyển Ông Đồ sang Pháp ngữ, người dịch đầu tiên là phóng viên của tờ L'Humanité nhưng bản dịch phổ biến nhất là của chính tác giả Vũ Đình Liên dịch cùng với Mireille Gansel:Chaque année s’ouvre la fleur du pêcherOn retrouve le vieux lettréencre de chine, papier pourpre étalésSur un trottoir parmi tant de passants...Bản dịch tiếng Trung của bài thơ này cũng có rất nhiều, phổ biến với tên gọi Lão Tú Tài'' (老秀才).
Chú thích |
Hòa Bình là một huyện nằm ở trung tâm tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Huyện Hòa Bình nằm ở trung tâm tỉnh Bạc Liêu, giáp với tất cả các huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh Bạc Liêu (trừ huyện Hồng Dân), có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thành phố Bạc Liêu và huyện Vĩnh Lợi
Phía tây giáp thị xã Giá Rai và huyện Đông Hải
Phía nam giáp Biển Đông
Phía bắc giáp huyện Phước Long.
Trung tâm của huyện là thị trấn Hòa Bình nằm trên tuyến Quốc lộ 1, đây là đầu mối giao thông giữa huyện Hòa Bình với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các huyện, thị xã, thành phố khác trong tỉnh. Với lợi thế này, huyện Hòa Bình có điều kiện để phát huy tiềm năng về đất đai cũng như các nguồn lực khác cho phát triển tổng hợp các ngành kinh tế - xã hội như: nông, lâm nghiệp, thủy hải sản và du lịch – dịch vụ trên địa bàn huyện nói riêng và toàn tỉnh Bạc Liêu nói chung.
Địa hình
Huyện Hòa Bình thuộc miền đồng bằng ven biển. Phần lớn diện tích đất của huyện có độ cao tuyệt đối dưới 1,0m; nơi có độ cao tuyệt đối thấp nhất là 0,5m; nơi cao nhất là 2,5m. Với đặc điểm như vậy đã gây ra hiện tượng xâm nhập mặn từ biển ở các mức độ khác nhau.
Vùng bờ biển được bồi đắp gặp điển hình ở ven biển thuộc các xã Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A, Vĩnh Thịnh,... Theo các kết quả khảo sát từ năm 1968 đến năm 1998, bờ biển huyện Hòa Bình đã mở rộng từ 0,36 đến 0,73 km.
Khí hậu
Huyện Hòa Bình mang đặc tính khí hậu của vùng bán đảo Cà Mau, chịu ảnh hưởng của chế độ nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, một năm phân chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Thủy văn
Huyện Hòa Bình có hệ thống kênh rạch chằng chịt với kênh trục chính là Bạc Liêu - Cà Mau. Chế độ thủy văn của hệ thống kênh rạch trên địa bàn huyện chịu ảnh hưởng giao thoa của thủy triều biển Đông, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn của các sông khá phức tạp.
Tài nguyên đất
Hệ thống phân loại phát sinh, tài nguyên đất huyện Hòa Bình gồm các nhóm đất sau:
Nhóm đất cát: Có diện tích 11.36 ha, chiếm 0,03% tổng diện tích tự nhiên của huyện, phân bố dọc theo bờ biển trên địa bàn các xã Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A,...
Nhóm đất mặn: Tổng diện tích đất mặn trong toàn huyện là 19.024,7 ha, chiếm 46,14% diện tích tự nhiên toàn huyện. Đất mặn phân bố chủ yếu ở phía Nam Quốc lộ 1 và một phần đất mặn ít dọc theo phía Bắc Quốc lộ 1.
Nhóm đất phèn: Có diện tích 11.470,47 ha, chiếm 27,8% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. Nhìn chung, đất phèn có hàm lượng lưu huỳnh tổng số rất cao, được xác định có tầng chẩn đoán vật liệu sinh phèn với pH <3,5 và có hàm lượng S >0,75% và thường được chia theo độ sâu khác nhau.
Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt: nguồn nước được dẫn qua hệ thống kênh, rạch và các công trình ngọt hoá khép kín là nguồn nước mặt ngọt duy nhất phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Nguồn nước ngầm: nguồn nước ngầm tầng nông nằm sát mặt đất được bổ sung bằng nước mưa và lượng nước từ kênh rạch.
Tài nguyên rừng
Năm 2014, huyện Hòa Bình có 1.743,16 ha đất rừng phòng hộ, chiếm 4,09% diện tích tự nhiên và bằng 5,52% diện tích đất nông nghiệp. Diện tích rừng phòng hộ ven biển phân bố tập trung tại các xã Vĩnh Thịnh 1.066,82 ha, Vĩnh Hậu 401,36 ha và Vĩnh Hậu A 274,98 ha. Đất rừng của huyện có giá trị phòng hộ che chắn gió, bão, sóng biển, điều hoà khí hậu, cân bằng môi trường sinh thái, bồi tụ, lắng đọng phù sa phục vụ cho
lấn biển, mở rộng diện tích, nơi cư trú, sinh trưởng của các loại hải sản và giữ vai trò quan trọng trong công tác an ninh quốc phòng. Thành phần thực vật chiếm ưu thế là đước, mắm, vẹt. Về động vật còn có các loại chim, bò sát, ếch nhái, tôm cá nước mặn. Nhìn chung, đất rừng của huyện với thảm thực vật hiện có đã góp phần cố định và tạo điều kiện bồi đắp lớp phủ thổ nhưỡng trên địa bàn huyện, đồng thời là tác nhân quan trọng trong quá trình hình thành các bãi bồi ven biển.
Tài nguyên biển
Huyện có hơn 20 km bờ biển với vùng lãnh hải và thềm lục địa, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh. Tài nguyên biển phong phú cung cấp nguồn lợi hải sản, cảnh quan môi trường. Đây là vùng biển có lượng hải sản lớn, phong phú về chủng loại có trữ lượng lớn và có giá trị kinh tế cao. Khu vực nước lợ ven biển tạo thành vùng sinh thái đặc thù phong phú có tiềm năng cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, với các cửa biển Chùa Phật, Cái Cùng có thể phát triển các tuyến giao thông vận tải, đường thủy và du lịch, là điều kiện thuận lợi để huyện trở thành một khu vực kinh tế toàn diện.
Tài nguyên nhân văn
Nền văn hoá ở huyện Hòa Bình mang đậm bản sắc văn hoá vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của người Kinh, Hoa, Khmer nên nền văn hoá mang những nét đặc sắc riêng của từng dân tộc. Tuy mỗi dân tộc có phong tục tập quán riêng nhưng bao đời nay vẫn sống hoà thuận, đoàn kết, hội nhập vào cộng đồng chung và đã cùng nhau tạo nên một bản sắc văn hoá độc đáo. Nét văn hoá đờn ca tài tử đã thấm sâu vào lòng người, được nhân dân trong và ngoài nước biết đến. Đờn ca tài tử luôn được trau dồi, rèn giũa và gìn giữ như một nét đẹp truyền thống trong sinh hoạt văn hoá của nhân dân vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long.
Thực trạng môi trường
Môi trường sinh thái của huyện cơ bản mang sắc thái tự nhiên vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những nét đặc trưng của điều kiện tự nhiên chi phối tới vấn đề môi trường sinh thái của huyện là:
Đất phèn và đất mặn chiếm ưu thế, hiện tượng xâm nhập mặn ở khắp huyện với mức độ khác nhau đối với từng tiểu vùng. Xa nguồn nước ngọt, nước mưa là nguồn nước ngọt chính. Do những đặc trưng trên đã tạo ra các hệ sinh thái khá nhạy cảm với những tác động về môi trường. Trong những năm gần đây, diện tích nuôi trồng thủy sản đã tăng nhanh nhưng các mô hình đa canh, xen canh, luân canh chưa được khẳng định. Vì thế bên cạnh những thành tựu kinh tế đạt được việc sử dụng các nguồn tài nguyên tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây tổn hại không nhỏ về môi trường. Bên cạnh đó sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hoá cũng có tác động tới môi trường.
Môi trường nước ở các kênh, rạch đang tiếp tục bị ô nhiễm do nước thải, rác thải sinh hoạt, sản xuất từ các ao nuôi tôm, chuồng trại chăn nuôi đổ xuống. Các chất thải từ nuôi trồng thủy sản, lượng vôi bột làm vệ sinh vuông tôm đã làm cho môi trường đất, nước trên các kênh, rạch và môi trường không khí ít nhiều bị ô nhiễm ở những mức độ khác nhau. Từ những vấn đề nêu trên, trong thời gian tới cùng với quá trình khai thác nguồn lợi một cách tối đa để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống thì việc tái tạo cảnh quan, bảo vệ môi trường phát triển bền vững là vô cùng cần thiết.
Hành chính
Huyện Hoà Bình có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Hòa Bình (huyện lỵ) và 7 xã: Minh Diệu, Vĩnh Bình, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A, Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Mỹ B, Vĩnh Thịnh.
Lịch sử
Tên gọi
Hòa Bình vốn là tên của thị trấn Hòa Bình, trung tâm của huyện Vĩnh Lợi trước đây (huyện Hòa Bình và huyện Vĩnh Lợi bây giờ). Sau khi tách huyện từ năm 2005, tên thị trấn được lấy để đặt tên cho huyện Hòa Bình.
Lịch sử
Trước năm 2005
Thời Pháp thuộc và sau đó là thời Việt Nam Cộng hòa, Hòa Bình chỉ là tên làng (sau năm 1956 gọi là xã) trực thuộc quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Tuy nhiên, quận lỵ quận Vĩnh Lợi lại được đặt tại làng Vĩnh Lợi (sau năm 1956 gọi là xã Vĩnh Lợi, nay tương ứng với các phường 1, 2, 3, 5, 7, 8, Nhà Mát và xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu) cho đến năm 1975. Sau năm 1975, huyện lỵ huyện Vĩnh Lợi được dời về xã Hòa Bình.
Ngày 25 tháng 7 năm 1979, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 275-CP về việc xã Hòa Bình đổi tên thành xã Vĩnh Lợi. Còn xã Vĩnh Lợi trước năm 1975 thì nay đã thuộc về thị xã Minh Hải (tên gọi lúc bấy giờ của thành phố Bạc Liêu ngày nay).
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 33B-HĐBT về việc:
Tách một phần diện tích và dân số của xã Vĩnh Hậu để sáp nhập vào xã Vĩnh Lợi
Tách ấp Láng Dài của xã Vĩnh Lợi để sáp nhập vào xã Long Thạnh; giải thể xã Vĩnh Lợi để thành lập thị trấn Hòa Bình (thị trấn huyện lỵ huyện Vĩnh Lợi).
Trước năm 2005, vùng đất của huyện Hòa Bình ngày nay là một phần của huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Huyện lỵ huyện Vĩnh Lợi khi đó đặt tại thị trấn Hòa Bình.
Từ năm 2005 đến nay
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2005/NĐ-CP về việc thành lập huyện Hoà Bình trên cơ sở 41.133 ha diện tích tự nhiên và 102.063 nhân khẩu của huyện Vĩnh Lợi.
Huyện Hoà Bình có 41.133 ha diện tích tự nhiên và 102.063 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Minh Diệu, Vĩnh Bình, Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Mỹ B, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A và thị trấn Hoà Bình.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt 8,27%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra (chỉ tiêu 6,5%); Tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP) tăng từ 35 triệu đồng/người/năm vào 2015 lên 56 triệu đồng/người/năm (chỉ tiêu đề ra 55 triệu đồng); tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 31.725 tỷ đồng, tăng 3,6% so với chỉ tiêu.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần công nghiệp, dịch vụ; trong đó khu vực khu vực nông nghiệp giảm từ 44% năm 2015 xuống 40%; khu vực công nghiệp tăng từ 27% năm 2015 lên 29,5%, khu vực dịch vụ tăng từ 29% năm 2015 lên 30,5%.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng cải thiện. Ngành nông nghiệp có sự phát triển mạnh cả về quy mô, năng suất, sản lượng, với nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao. Công nghiệp và xây dựng phát huy tốt các tiềm năng, thế mạnh; thương mại dịch vụ phát triển khá và chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ, hưởng thụ của người dân, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế.
Nông nghiệp
Toàn huyện đã tập trung triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng phát triển bền vững và đạt kết quả tích cực; sản lượng, năng suất, chất lượng đều có bước phát triển khá; triển khai nhân rộng nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả như: mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao, nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh, quảng canh cải tiến, nuôi thủy sản kết hợp. Diện tích nuôi trồng thủy sản là 16.327 ha, trong đó diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh là 8.100 ha, tăng 1.064 ha so với năm 2016; tổng giá trị sản xuất khu vực nông, lâm, thủy sản đã tăng từ 4.698 tỷ đồng (theo giá 2010) năm 2016 lên 7.863 tỷ đồng (bình quân tăng 5,71%/năm).
Cùng với hoạt động nuôi trồng, hoạt động đánh bắt thủy sản luôn được quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ ngư dân bám biển; tổng sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thủy sản đạt 58.313 tấn (đạt 119,98% chỉ tiêu), trong đó sản lượng tôm là 34.700 tấn (đạt 130,94% chỉ tiêu).
Tập trung tổ chức lại sản xuất, quy hoạch cải tạo đồng ruộng và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành đúng hướng; tăng mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, chuyển đổi cơ cấu giống lúa và sử dụng lúa giống chất lượng cao; vận động nhân dân tham gia xây dựng cánh đồng lớn và liên kết với các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm nông nghiệp cho nông dân; đến nay, toàn huyện có 6 cánh đồng mẫu lớn, với diện tích 800 ha (Vĩnh Mỹ B 260 ha; Vĩnh Bình 110 ha; Minh Diệu 430 ha). Tổng sản lượng lúa 199.100 tấn (đạt 107,27% chỉ tiêu), đã có nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã cùng người dân liên kết sản xuất gắn với bao tiêu, hàng năm có gần 21.800 ha diện tích lúa được bao tiêu, chiếm tỷ lệ 70% tổng diện tích gieo trồng. Mô hình đưa màu xuống ruộng đã mang lại hiệu quả kinh tế cao; chăn nuôi phát triển khá ổn định, công tác phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm được tăng cường, chủ động khống chế, không để lây lan trên diện rộng.
Công nghiệp - xây dựng
Công nghiệp - xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá, quy mô sản xuất được mở rộng, không ngừng cải tiến, đổi mới dây chuyền công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh. Giá trị sản xuất đạt 3.513 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng bình quân 8,13%/năm. Các doanh nghiệp đã tích cực đầu tư, mở rộng sản xuất, ứng dụng công nghệ và đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực sản xuất.
Công tác quy hoạch, quản lý xây dựng có nhiều tiến bộ, hoàn thành quy hoạch đô thị thị trấn Hòa Bình, Cái Cùng và quy hoạch các trung tâm xã. Tập trung quản lý tốt hệ thống dịch vụ xã hội đô thị hiện hữu đáp ứng nhu cầu của dân cư đô thị và nông thôn; đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp Vĩnh Mỹ, huyện Hòa Bình tỷ lệ 1/1.000.
Thương mại - dịch vụ
Thương mại dịch vụ có bước phát triển khá cả về số lượng và quy mô kinh doanh, phương thức hoạt động ngày càng đa dạng, tạo ra các kênh lưu thông hàng hóa thông suốt từ đô thị đến nông thôn, đáp ứng tốt nhu cầu vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân; cơ sở vật chất được tăng cường, hệ thống chợ, trung tâm thương mại được đầu tư xây dựng, nâng cấp. Giá trị sản xuất năm 2020 đạt 1.306 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), tăng 524 tỷ đồng so với năm 2016. Doanh thu thương mại dịch vụ tiếp tục tăng khá trong điều kiện khó khăn. Nhiều doanh nghiệp thương mại đã củng cố và phát triển hệ thống phân phối, triển khai các loại hình kinh doanh, dịch vụ mới theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng qua từng năm, năm 2020 đạt 5.149,21 tỷ đồng (tăng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 15,78%/năm).
Dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin tiếp tục phát triển. Thông tin liên lạc có bước phát triển mạnh, có nhiều loại hình dịch vụ mới, ứng dụng công nghệ thông tin được tăng cường. Hoạt động dịch vụ có chuyển biến tích cực, bước đầu đã hình thành các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, tín ngưỡng; các công trình văn hóa, tôn giáo, di tích lịch sử được quan tâm đầu tư nâng cấp như: Chùa Đìa Chuối tại xã Vĩnh Bình; Đình Vĩnh Mỹ tại xã Vĩnh Mỹ A; Miếu Thành Hoàng tại thị trấn Hòa Bình; lăng ông Duyên Hải tại xã Vĩnh Thịnh,...
Xã hội
Giáo dục
Toàn huyện có 34 trường: 10 trường mầm non, 17 trường tiểu học, 07 trường trung học cơ sở, 03 trường trung học phổ thông với 621 lớp (mầm non 97 lớp, tiểu học 314 lớp, THCS 151 lớp, THPT 59 lớp) .
Hiện tại trên huyện Hòa Bình có:
7 trường THCS
THCS Hòa Bình, thị trấn Hòa Bình
THCS Vĩnh Mỹ B, xã Vĩnh Mỹ B
THCS Vĩnh Mỹ A, xã Vĩnh Mỹ A
THCS Vĩnh Hậu, xã Vĩnh Hậu
THCS Vĩnh Thịnh, xã Vĩnh Thịnh
THCS Minh Diệu, xã Minh Diệu
THCS Đông Hải, xã Vĩnh Hậu A.
3 trường THPT
THPT Lê Thị Riêng (trường THPT Vĩnh Lợi trước đây)
THPT Trần Văn Lắm
THPT Dân tộc Nội trú tỉnh Bạc Liêu.
Dân số
Dân số
Huyện Hòa Bình có diện tích tự nhiên là 426,49 km², dân số năm 2018 là 111.899 người, mật độ dân số 262 người/km². Trong đó, dân số sống ở thành thị là 22.162 người chiếm tỉ lệ 19,81% và dân số sống ở nông thôn là 89.737 người chiếm tỉ lệ 80,19%. Dân tộc: gồm 3 dân tộc chính là Kinh, Khmer, Hoa và các dân tộc khác sống đan xen với nhau.
Năm 2019, huyện Hòa Bình có dân số là 117.883 người.
Năm 2020, dân số toàn huyện Hòa Bình là 118.598 người, trong đó: dân số thành thị là 22.620 người chiếm 19,07%, dân số nông thôn là 95.978 người chiếm 80,93%.
Theo thống kê ngày 1 tháng 11 năm 2021, dân số huyện Hòa Bình là 119.290 người. Trong đó, dân số thành thị là 22.783 người (19,10%), dân số nông thôn là 96.507 người (80,90%).
Tính đến hết năm 2021, huyện có 119.370 người.
Năm 2022, huyện Hòa Bình có dân số là 119.679 người, mật độ dân số đạt 280 người/km².
Văn hóa - Du lịch
Di tích
Trên địa bàn huyện Hòa Bình hiện có một số di tích như:
Đình Vĩnh Mỹ
Thành Hoàng Cổ Miếu
Đình Bình An.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Hiện trạng mạng lưới giao thông đường bộ của huyện như sau:
Tuyến Quốc lộ 1: chạy qua huyện dài 12 km hiện đã được nâng cấp bằng nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới với mặt đường thảm nhựa rộng 12m. Đây là tuyến đường kết nối huyện và tỉnh Bạc Liêu với các khu vực kinh tế lân cận như thành phố Cà Mau, Cần Thơ và xa hơn là thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyến đường tỉnh ĐT.997 (Giồng Nhãn - Gành Hào): chạy qua huyện dài 18 km, mặt đường trải nhựa, là tuyến đường ven biển kết nối các khu nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh và huyện Hòa Bình, đi qua các xã Vĩnh Hậu A, Vĩnh Hậu và Vĩnh Thịnh. Đây là tuyến đường có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng đối với huyện Hòa Bình và tỉnh Bạc Liêu.
Tuyến đường tỉnh ĐT.978: chạy dọc theo bờ Tây kênh Xáng Ngan Dừa - Cầu Sập, là tuyến trục đường quan trọng với chức năng kết nối khu vực thành phố Bạc Liêu góp phần thúc đẩy sự phát triển của huyện Hòa Bình.
Tuyến ĐT.978B (TT. Hòa Bình - Vĩnh Hậu): dài 9,00 km chạy dọc kinh Chùa Phật nối thị trấn Hòa Bình với xã Vĩnh Hậu.
Tuyến ĐT.979 (Vĩnh Mỹ B - Vĩnh Bình) dài trên 10 km chạy qua địa phận xã Vĩnh Bình và Vĩnh Mỹ B nối liền với tuyến Quốc lộ 1, đây cũng là tuyến đường có tính chất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của huyện.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện có 10 tuyến huyện lộ đạt tiêu chuẩn đường cấp IV, chiều rộng mặt đường chỉ khoảng từ 2m đến 3,5m đủ cho một làn xe; cao độ mặt đường phần lớn thấp so với mực nước lũ nên có chỗ vẫn bị ngập nước trong mùa mưa, vì vậy không ổn định được quanh năm; tải trọng của các tuyến đường này không được cao, khoảng 5 - 10 tấn.
Đến năm 2020, có 7/8 xã, thị trấn đã có đường ô tô vào tới trung tâm. Vận tải hàng hóa trong và ngoài huyện được đảm bảo thuận lợi và thông suốt. Tính đến nay giao thông nông thôn của huyện Hòa Bình đang được đầu tư phát triển mạnh do được tỉnh hỗ trợ về vốn và huy động nhân dân đóng góp. Hàng năm huyện xây dựng được hàng chục km đường giao thông các loại.
Giao thông đường thủy
Mạng lưới giao thông đường thủy trên địa bàn huyện Hòa Bình chủ yếu là tuyến kênh Cà Mau - Bạc Liêu được xem là hệ thống kênh huyết mạch phục vụ vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy; ngoài ra còn có những tuyến kênh rạch vừa và nhỏ. Trong những năm gần đây giao thông đường thủy của huyện luôn được đầu tư và xây dựng, đáp ứng được nhu vận chuyển bằng đường thủy của người dân trong huyện. Cùng với sự phát triển của hệ thống giao thông đường thủy là phát triển các bến tàu vừa và nhỏ trên các tuyến kênh đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa và di chuyển của người dân trên địa bàn huyện.
Kết nghĩa
Huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
Hình ảnh
Chú thích |
Vĩnh Lợi là một huyện nằm ở phía đông tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Vĩnh Lợi nằm ở phía đông của tỉnh Bạc Liêu, huyện nằm ở cửa ngõ đi vào thành phố Bạc Liêu, có Quốc lộ 1 chạy qua khoảng 10 km, nằm cách thành phố Bạc Liêu hơn 10 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng
Phía tây giáp huyện Phước Long và huyện Hòa Bình
Phía nam giáp thành phố Bạc Liêu và thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
Phía bắc giáp thị xã Ngã Năm và huyện Thạnh Trị thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Huyện Vĩnh Lợi là huyện cửa ngõ phía Đông của tỉnh Bạc Liêu, kết nối với tỉnh Sóc Trăng qua tuyến hành lang kinh tế quốc gia là Quốc lộ 1. Là vùng huyện thuộc vùng kinh tế trung tâm của tỉnh gắn với không gian kinh tế của thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình và huyện Phước Long. Là vùng phát triển về nông nghiệp hướng tới phát triển nông nghiệp công nghệ cao kết hợp với công nghiệp chế biến, thương mại dịch vụ và du lịch của tỉnh. Là vùng phát triển các loại hình năng lượng tái tạo, trong đó ưu tiên phát triển năng lượng gió.
Huyện có nhiều kênh rạch chảy ra biển, trong đó, kênh Cà Mau - Bạc Liêu chảy qua huyện lỵ song song với đường ô tô, có đường rẽ đi huyện Hồng Dân. Địa thế này giúp huyện có điều kiện thuận lợi để giao lưu, phát triển kinh tế với các huyện, thị xã, thành phố lân cận.
Hành chính
Huyện Vĩnh Lợi có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Châu Hưng (huyện lỵ) và 7 xã: Châu Hưng A, Châu Thới, Hưng Hội, Hưng Thành, Long Thạnh, Vĩnh Hưng, Vĩnh Hưng A.
Lịch sử
Nguồn gốc địa danh Vĩnh Lợi
Ban đầu, địa danh Vĩnh Lợi chỉ là tên một làng thuộc tổng Thạnh Hòa, tỉnh Bạc Liêu. Sau này, thực dân Pháp thành lập quận và đặt tên là quận Vĩnh Lợi do lấy theo tên gọi làng Vĩnh Lợi vốn là nơi đặt quận lỵ.
Lúc bấy giờ, địa bàn làng Vĩnh Lợi rất rộng lớn, chiếm phần lớn diện tích thành phố Bạc Liêu ngày nay (ngoại trừ các xã Vĩnh Trạch và Vĩnh Trạch Đông) cùng với một phần thị trấn Châu Hưng thuộc huyện Vĩnh Lợi ngày nay.
Thời Pháp thuộc
Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Vĩnh Lợi ngày nay thuộc tổng Thạnh Hưng, huyện Phong Thạnh, phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang.
Sau khi chiếm hết được các tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Tổng Thạnh Hưng lúc này thuộc hạt Thanh tra Ba Xuyên và sau đó là hạt Thanh tra Sóc Trăng.
Năm 1876, hạt Thanh tra Sóc Trăng đổi thành hạt tham biện Sóc Trăng.
Năm 1882, thực dân Pháp thiết lập hạt tham biện Bạc Liêu trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Hưng của hạt tham biện Rạch Giá hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện Sóc Trăng chuyển sang.
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Đông Dương điều thống nhất gọi là "tỉnh", trong đó có tỉnh Bạc Liêu. Lúc bấy giờ tỉnh Bạc Liêu chỉ có 2 quận: Vĩnh Lợi và Cà Mau. Quận Vĩnh Lợi khi đó gồm 2 tổng là Thạnh Hòa và Thạnh Hưng vốn trước năm 1882 cùng thuộc địa bàn hạt Sóc Trăng.
Năm 1904, tách tổng Thạnh Hưng ra khỏi quận Vĩnh Lợi đề thành lập mới quận Vĩnh Châu cùng thuộc tỉnh Bạc Liêu. Quận Vĩnh Châu có một tổng duy nhất là Thạnh Hưng với 5 làng trực thuộc: Vĩnh Châu, Vĩnh Phước, Lai Hòa, Lạc Hòa, Khánh Hòa; quận lỵ đặt tại làng Vĩnh Châu.
Ngày 5 tháng 10 năm 1917, quận Vĩnh Lợi có một tổng là Thạnh Hoà với 5 làng trực thuộc: Vĩnh Lợi, Long Thạnh, Hoà Bình, Vĩnh Trạch, Hưng Hội. Quận lỵ đặt tại làng Vĩnh Lợi. Thời Pháp thuộc, làng Vĩnh Lợi đóng hai vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi và là tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thị xã Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho trực thuộc các tỉnh cùng tên gọi. Các thị xã này đều có Ủy ban thị xã, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Thị xã Bạc Liêu lúc đó được thành lập trên phần đất làng Vĩnh Lợi.
Giai đoạn 1956 - 1976
Việt Nam Cộng hòa
Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bạc Liêu bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn tỉnh Ba Xuyên (tức tỉnh Sóc Trăng trước đó). Quận Vĩnh Lợi khi đó thuộc tỉnh Ba Xuyên. Lúc này, xã Vĩnh Lợi chỉ còn đóng vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi.
Năm 1957, quận Vĩnh Châu bị giải thể, sáp nhập vào quận Vĩnh Lợi cùng thuộc tỉnh Ba Xuyên. Quận Vĩnh Lợi lúc bấy giờ có 2 tổng, 10 xã:
Tổng Thạnh Hòa có 5 xã: Vĩnh Lợi, Long Thạnh, Hòa Bình, Hưng Hội, Vĩnh Trạch
Tổng Thạnh Hưng có 5 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Phước, Lai Hòa, Lạc Hòa, Khánh Hòa.
Ngày 5 tháng 12 năm 1960, quận Vĩnh Châu được tái lập, có một tổng là Thạnh Hưng do tách ra từ quận Vĩnh Lợi.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 254/NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu. Lúc này, quận Vĩnh Lợi trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu khi đó lại có tên là Vĩnh Lợi, do lấy theo tên xã Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi là nơi đặt tỉnh lỵ. Trong giai đoạn 1964 - 1975, xã Vĩnh Lợi vẫn tiếp tục giữ hai vai trò là quận lỵ quận Vĩnh Lợi và là tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu như thời Pháp thuộc.
Năm 1964, quận Vĩnh Lợi chỉ có 1 tổng là tổng Thạnh Hòa, bao gồm 5 xã: Vĩnh Lợi, Vĩnh Trạch, Hòa Bình, Long Thạnh, Hưng Hội với 59 ấp và 35.172 mẫu tây, dân số 80.622 người (thị xã Bạc Liêu có dân số 40.000 người, mật độ dân số 825 người/km²).
Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận.
Dân số quận Vĩnh Lợi năm 1967 là 79.625 người.
Chính quyền Cách mạng
Năm 1948, tỉnh Bạc Liêu giao huyện Vĩnh Châu và làng Hưng Hội thuộc huyện Vĩnh Lợi về tỉnh Sóc Trăng. Ngày 13 tháng 11 năm 1948, chính quyền cách mạng cắt 2 làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu. Cùng thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về tỉnh Bạc Liêu. Làng Châu Thới hợp nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới.
Năm 1954, huyện Vĩnh Châu cũng trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu giao về tỉnh Sóc Trăng quản lý. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu.
Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định giải thể huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu, tái lập huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi.
Ngày 7 tháng 3 năm 1972, nhập xã Vĩnh Hưng của huyện Giá Rai (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Cà Mau) vào huyện Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Sóc Trăng của chính quyền Cách mạng.
Trong giai đoạn 1964 - 1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý. Chính vì vậy, huyện Vĩnh Lợi vẫn thuộc tỉnh Sóc Trăng. Tháng 11 năm 1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu. Khi đó huyện Vĩnh Lợi trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Ngoài ra, xã Vĩnh Lợi và xã Vĩnh Trạch cũng được giao về thị xã Bạc Liêu; đồng thời huyện lỵ huyện Vĩnh Lợi được dời về xã Hòa Bình.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 2 năm 1976, Vĩnh Lợi trở thành huyện của tỉnh Minh Hải.
Ngày 25 tháng 7 năm 1979, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 275-CP về việc:
Chia xã Vĩnh Mỹ A thành bốn xã lấy tên là xã Vĩnh Mỹ A, xã Vĩnh Thắng, xã Vĩnh Thịnh và xã Vĩnh Hậu
Chia xã Vĩnh Mỹ B thành ba xã lấy tên là xã Vĩnh Mỹ B, xã Vĩnh Bình và xã Vĩnh An
Chia xã Châu Thới thành ba xã lấy tên là xã Châu Thới, xã Thới Chiến và xã Thới Thắng
Chia xã Hưng Hội thành hai xã lấy tên là xã Hưng Hội và xã Hưng Thành
Chia xã Long Thạnh thành hai xã lấy tên là xã Long Thạnh và xã Long Hà
Chia xã Vĩnh Hưng thành hai xã lấy tên là xã Vĩnh Hưng và xã Vĩnh Hùng
Chia xã Minh Diệu thành hai xã lấy tên là xã Minh Diệu và xã Minh Tân
Chia xã Châu Hưng thành ba xã lấy tên là xã Châu Hưng, xã Phước Hưng và xã Hòa Hưng
Xã Hòa Bình đổi tên thành xã Vĩnh Lợi.
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 33B-HĐBT về việc:
Sáp nhập xã Vĩnh An và xã Vĩnh Mỹ B thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Mỹ B; tách một phần diện tích và dân số của xã Vĩnh Mỹ B để sáp nhập vào xã Minh Diệu
Sáp nhập xã Minh Tân và xã Vĩnh Bình thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Bình; tách một phần diện tích và dân số của hai xã này để sáp nhập vào xã Minh Diệu và xã Vĩnh Hùng
Sáp nhập xã Vĩnh Hùng và xã Vĩnh Hưng thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Hưng; tách một phần diện tích và dân số của xã Minh Tân để sáp nhập vào xã Vĩnh Hưng
Tách một phần diện tích và dân số của xã Minh Diệu để sáp nhập vào xã Long Thạnh
Sáp nhập xã Châu Thới và xã Thới Chiến thành một xã lấy tên là xã Châu Thới; tách một phần diện tích và dân số của xã Châu Thới để sáp nhập vào xã Thới Thắng
Sáp nhập các xã Thới Thăng, Phước Hưng và Hoà Hưng thành một xã lấy tên là xã Hoà Hưng; tách một phần diện tích và dân số của xã Hoà Hưng để sáp nhập vào xã Châu Hưng và xã Hưng Hội
Sáp nhập xã Vĩnh Hậu và xã Long Hà thành một xã lấy tên là xã Vĩnh Hậu; tách một phần diện tích và dân số của xã Vĩnh Hậu để sáp nhập vào xã Vĩnh Thịnh, xã Long Thạnh và xã Vĩnh Lợi
Tách ấp Láng Dài của xã Vĩnh Lợi để sáp nhập vào xã Long Thạnh; giải thể xã Vĩnh Lợi để thành lập thị trấn Hòa Bình (thị trấn huyện lỵ huyện Vĩnh Lợi)
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Long Thạnh có 3.318 hécta đất với 10.457 nhân khẩu.
Ngày 9 tháng 11 năm 1990, Ban Tổ chức Chính phủ ban hành Quyết định số 483/QĐ-TCCP về việc:
Giải thể xã Hoà Hưng, nhập vào 2 xã Châu Hưng và Châu Thới
Giải thể xã Vĩnh Thắng, nhập vào xã Vĩnh Mỹ A.
Huyện Vĩnh Lợi lúc này gồm có thị trấn Hòa Bình và 12 xã: Châu Hưng, Châu Thới, Hưng Hội, Hưng Thành, Long Thạnh, Minh Diệu, Vĩnh Bình, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hưng, Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Mỹ B, Vĩnh Thịnh.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc chia tỉnh Minh Hải thành hai tỉnh là tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau. Khi đó, huyện Vĩnh Lợi trực thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 13 tháng 5 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2002/NĐ-CP về việc:
Thành lập xã Châu Hưng A trên cơ sở 2.959,21 ha diện tích tự nhiên và 9.680 nhân khẩu của xã Châu Hưng
Thành lập xã Vĩnh Hưng A trên cơ sở 2.080,93 ha diện tích tự nhiên và 9.380 nhân khẩu của xã Vĩnh Hưng.
Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2003/NĐ-CP về việc thành lập xã Vĩnh Hậu A trên cơ sở 5.150 ha diện tích tự nhiên và 7.416 nhân khẩu của xã Vĩnh Hậu.
Đến thời điểm năm 2005, huyện Vĩnh Lợi có thị trấn Hòa Bình và 15 xã: Châu Hưng, Châu Hưng A, Châu Thới, Hưng Hội, Hưng Thành, Long Thạnh, Minh Diệu, Vĩnh Bình, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A, Vĩnh Hưng, Vĩnh Hưng A, Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Mỹ B, Vĩnh Thịnh.
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2005/NĐ-CP về việc thành lập huyện Hoà Bình trên cơ sở 41.133 ha diện tích tự nhiên và 102.063 nhân khẩu của huyện Vĩnh Lợi.
Huyện Hoà Bình có 41.133 ha diện tích tự nhiên và 102.063 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Minh Diệu, Vĩnh Bình, Vĩnh Mỹ A, Vĩnh Mỹ B, Vĩnh Thịnh, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hậu A và thị trấn Hoà Bình.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thành lập huyện Hoà Bình, huyện Vĩnh Lợi còn lại 24.942 ha diện tích tự nhiên và 91.915 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Châu Hưng, Châu Hưng A, Hưng Thành, Hưng Hội, Châu Thới, Vĩnh Hưng, Vĩnh Hưng A, Long Thạnh.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2007/NĐ-CP về việc thành lập thị trấn Châu Hưng thuộc huyện Vĩnh Lợi trên cơ sở toàn bộ 3.155 ha diện tích tự nhiên và 11.311 nhân khẩu của xã Châu Hưng và điều chỉnh toàn bộ 265,23 ha diện tích tự nhiên và 1.438 nhân khẩu của ấp Xẻo Chích thuộc xã Châu Thới.
Thị trấn Châu Hưng có 3.420,23 ha diện tích tự nhiên và 12.749 nhân khẩu.
Từ đó, huyện Vĩnh Lợi có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Hưng Hội, Hưng Thành, Châu Hưng A, Châu Thới, Long Thạnh, Vĩnh Hưng, Vĩnh Hưng A và thị trấn Châu Hưng.
Dân số
Dân số
Trước đây huyện Vĩnh Lợi có diện tích 631 km². Sau khi tách phần phía tây nam để thành lập huyện Hoà Bình vào tháng 7 năm 2005, huyện Vĩnh Lợi còn lại 24.942 ha diện tích tự nhiên và 91.915 nhân khẩu. Đây là huyện có diện tích nhỏ nhất của tỉnh Bạc Liêu.
Huyện Vĩnh Lợi có tổng dân số năm 2018 là 102.173 người, thấp nhất trong các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Bạc Liêu; mật độ dân số là 404 người/km². Trong đó, dân số sống ở thành thị là 14.629 người chiếm tỉ lệ 14,32% và dân số sống ở nông thôn là 87.544 người chiếm tỉ lệ 85,68%.
Năm 2019, dân số toàn huyện là 101.025 người, trong đó, dân số thành thị là 14.876 người chiếm 14,71%, dân số nông thôn là 86.261 người chiếm 85,29%; dân tộc Kinh 90.837 người chiếm 89,92%; dân tộc Khmer 9.828 người (2.169 hộ) chiếm 9,73%; dân tộc Hoa 356 người và dân tộc khác 4 người chiếm 0,35%.
Năm 2020, dân số toàn huyện là 101.605 người, trong đó: dân số thành thị là 14.943 người chiếm 14,71%, dân số nông thôn là 86.662 người chiếm 85,29%.
Theo thống kê dân số huyện Vĩnh Lợi ngày 1 tháng 11 năm 2021 là 102.169 người. Trong đó, dân số thành thị là 15.052 người (14,73%), dân số nông thôn là 87.117 người (85,27%).
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Vĩnh Lợi là huyện nông nghiệp, có sản lượng lúa gạo lớn nhất toàn tỉnh, có giống lúa Tài nguyên đặc sản, bên cạnh đó ngành chăn nuôi lợn và gia cầm (đặc biệt là vịt) khá phát triển, nhưng quy mô còn nhỏ lẻ.
Ngoài ra, trên địa bàn huyện cũng có một số xí nghiệp công nghiệp nhẹ, như xí nghiệp may của công ty Pinetree trên địa bàn xã Châu Hưng A và một số khu công nghiệp nhỏ trên địa bàn các xã Hưng Thành, Hưng Hội.
Xã hội
Giáo dục
Đến năm 2020, toàn huyện có 28 trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm học 2010 - 2020 ở các cấp học từ 96% trở lên. Đến nay, huyện có 100% phòng học được xây dựng cơ bản và bán cơ bản,
24/28 trường đạt chuẩn quốc gia với tỉ lệ 85,71%.
Y tế
Huyện Vĩnh Lợi có 1 bệnh viện là bệnh viện đa khoa Vĩnh Lợi với quy mô 100 giường bệnh ở thị trấn Châu Hưng, ngoài ra còn có một số trạm y tế xã.
Văn hóa - du lịch
Di tích lịch sử
Đến năm 2020, huyện Vĩnh Lợi có 4 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh và 2 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Huyện nằm ở cửa ngõ đi vào thành phố Bạc Liêu, có Quốc lộ 1 chạy qua khoảng 10 km, trung tâm huyện cách thành phố Bạc Liêu hơn 10 km. Huyện có nhiều kênh rạch chảy ra biển, trong đó, kênh Cà Mau - Bạc Liêu chảy qua huyện lỵ song song với đường ô tô, có đường rẽ đi huyện Hồng Dân. Địa thế này giúp huyện có điều kiện thuận lợi để giao lưu, phát triển kinh tế với các huyện thị lân cận.
Trên địa bàn huyện có Quốc lộ 1 chạy qua xã Châu Hưng A và thị trấn Châu Hưng cùng với nhiều đường nông thôn. Trên đoạn quốc lộ qua xã Châu Hưng A có trạm thu phí BOT Bạc Liêu.
Quốc lộ 1 là trục giao thông huyết mạch đi qua địa phận tỉnh Bạc Liêu. Quốc lộ 1 qua huyện Vĩnh Lợi với tổng chiều dài là 12,53 km đã được mở rộng mặt đường 20,5 m.
Đường tỉnh: Tổng chiều dài các tuyến đường tỉnh đi qua địa phận của huyện là 24,28 km:
Đường tỉnh ĐT.976 (Bạc Liêu - Hưng Thành): Tuyến bắt đầu tại cầu Xáng (Phường 1, TP. Bạc Liêu) đi qua xã Hưng Hội và kết thúc tại xã Hưng Thành, huyện Vĩnh Lợi với tổng chiều dài qua địa bàn huyện là 13 km với quy mô cấp V đường đồng bằng, mặt đường láng nhựa 5,5m nền đường rộng 7,5m và nối vào Quốc lộ 1 tại xã Thạnh Quới, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
Đường tỉnh ĐT.978 (Cầu Sập - Ninh Quới): Tuyến bắt đầu từ Quốc lộ 1 tại xã Long Thạnh, huyện Vĩnh Lợi đi qua xã Minh Diệu, huyện Hòa Bình, xã Vĩnh Hưng và kết thúc tại xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi với tổng chiều dài qua địa bàn huyện là 11,28 km với quy mô cấp IV đường đồng bằng, mặt đường láng nhựa 7,0m nền đường rộng 9,0m và nối vào Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp thuộc xã Ninh Quới, huyện Hồng Dân.
Đường huyện: Tổng chiều dài các tuyến đường huyện đi qua địa phận của huyện là 44,94 km:
Đường huyện ĐH.16 (Quốc lộ 1 - Châu Thới - Đền thờ Bác Hồ - Vĩnh Hưng): Mặt đường nhựa rộng 3,5÷6,0m, đường cấp IV đồng bằng, chiều dài là 14,8 km.
Đường huyện ĐH.28 (Châu Hưng A - Hưng Thành): Mặt đường nhựa rộng 3,5m, đường cấp V đồng bằng, chiều dài là 13 km.
Đường huyện ĐH.29 (Hưng Thành - Châu Hưng): Mặt đường nhựa rộng 3,5m, đường cấp V đồng bằng, chiều dài là 4,8 km.
Đường huyện ĐH.29B (Cái Dầy - Nhà Thờ): Mặt đường nhựa rộng 3,5÷6,0m, nền đường rộng 9,0m, đường cấp V đồng bằng, chiều dài là 9,0 km.
Đường huyện ĐH.30 (đường vào Chùa Hưng Thiện): Mặt đường nhựa rộng 3,5m, đường nông thôn cấp A, chiều dài là 3,34 km.
Đường xã (GTNT): Tổng chiều dài các tuyến đường GTNT đi qua địa phận của huyện là 370,0 km là các tuyến chủ yếu nằm theo cặp kênh rạch thủy lợi, phần lớn là đường đất đen mặt đường từ 1,0÷3,0m, nền đường không ổn định. Một số tuyến được bê tông hoặc nhựa hóa đạt khoảng 67%, nhưng do nằm sát bờ kênh nên thường xuyên xảy ra sạt lở và còn nhiều cây cầu gỗ tạm chỉ phụ vụ cho người đi bộ và xe hai bánh.
Bến bãi: Trên địa bàn huyện có 1 bến xe Châu Thới với diện tích là 774 m². Tuy nhiên, đây chỉ là bến tạm, huyện đã quy hoạch nhưng chưa xây dựng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu đi lại của người dân.
Giao thông đường thủy
Tuyến kênh Vàm Lẽo - Bạc Liêu - Cà Mau chạy qua các xã Hưng Thành, Hưng Hội, Long Thạnh với tổng chiều dài là 18,1 km: Đây là tuyến vận tải thủy cấp III - quốc gia nối Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau rất thuận lợi vận chuyển hàng hóa của huyện.
Tuyến kênh Ngan Dừa - Cầu Sập là kênh vận tải thủy cấp IV chạy song song với ĐT.978, đoạn chạy qua huyện có tổng chiều dài 17,5 km.
Danh nhân
Nhà văn, nhà thơ Ngô Văn Phát (1910 - 1983)
Liệt sĩ - AHLLVTNT Nguyễn Minh Nhựt (1935 - ?)
Kết nghĩa
Huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam
Huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam
Hình ảnh
Chú thích |
Trong khoa học máy tính, duyệt cây là việc lần lượt viếng thăm các đỉnh của cây theo một thứ tự nào đó. Các cây nói trong bài này là cây có gốc.
Dưới đây trình bày một số thuật toán duyệt cây thông dụng.
Duyệt cây nhị phân
Khi xét một cây nhị phân, mỗi đỉnh cùng với các đỉnh đứng sau nó là gốc của một cây con. Ta xét một đỉnh A là đỉnh trong của cây nhị phân. Theo thứ tự người ta xem xét thứ tự thăm đỉnh A so với việc thăm hai con của nó là thăm A trước rồi hai con sau, thăm A xen giữa việc thăm hai con, thăm A sau thi thăm hai con:
A, con trái, con phải
Con trái, A, con phải
Con trái, con phải, A
Tất nhiên nút không có con nào thì việc thăm con không diễn ra. Còn nếu con trái hoặc con phải của A lại là gốc của một cây con, thì việc thăm thay bằng việc duyệt cây con có gốc tại đó.
Từ đó có các phương pháp duyệt tiền thứ tự, trung thứ tự, hậu thứ tự đối với cây nhị phân có gốc tại đỉnh A như sau
Duyệt tiền thứ tự cây con gốc A
Nếu Cây là rỗng Return
Thăm A
Duyệt tiền thứ tự cây con gốc trái
Duyệt tiền thứ tự cây con gốc phải
Duyệt trung thứ tự cây con gốc A
Nếu Cây là rỗng Return
Duyệt trung thứ tự cây con gốc trái
Thăm A
Duyệt trung thứ tự cây con gốc phải
Duyệt hậu thứ tự cây con gốc A
Nếu Cây là rỗng Return
Duyệt hậu thứ tự cây con gốc trái
Duyệt hậu thứ tự cây con gốc phải
Thăm A
Ví dụ
Giả sử có cây nhị phân sau
A
/ \
B C
/ \ / \
D E F G
Duyệt tiền thứ tự với cây này diễn ra tuần tự như sau
Thăm A, Duyệt cây gốc B, Duyệt cây gốc C
Thăm A, Thăm B, Thăm D, Thăm E, Thăm C, Thăm F, Thăm G
Duyệt trung thứ tự với cây này diễn ra tuần tự như sau
Duyệt cây gốc B, Thăm A, Duyệt cây gốc C
Thăm D, Thăm B, Thăm E, Thăm A, Thăm F, Thăm C, Thăm G
Duyệt hậu thứ tự với cây này diễn ra tuần tự như sau
Duyệt cây gốc B, Duyệt cây gốc C, Thăm A
Thăm D, Thăm E, Thăm B, Thăm F, Thăm G, Thăm C, Thăm A
Duyệt cây tổng quát
Nếu tại gốc A của cây có các con từ trái sang phải là thì quá trình duyệt tiền thứ tự, trung và hậu thứ tự như sau
Duyệt tiền thứ tự
Thăm A
Lần lượt duyệt các cây con gốc
Duyệt trung thứ tự
Duyệt cây con gốc
Thăm A
Lần lượt duyệt các cây con gốc
Duyệt hậu thứ tự
Lần lượt duyệt các cây con gốc
Thăm A
Tuy nhiên người ta ít xem xét việc duyệt trung thứ tự của cây tổng quát
Duyệt theo mức
Một phương pháp duyệt cây khác là duyệt theo mức. Bắt đầu duyệt từ gốc (đỉnh mức 0), rồi duyệt các con của gốc từ trái sang phải (các đỉnh mức 1), tiếp đến là các đỉnh mức 2,...
Giả mã
Giả sử có một cây nhị phân mà cấu trúc mỗi nút của nó chứa một giá trị value và các tham chiếu left và right trỏ tới hai con của nút đó. Ta có thể viết các hàm sau:
Duyệt tiền thứ tự
(pre-order (prefix) traversal)
visit(node)
print node.value
if node.left != null then visit(node.left)
if node.right != null then visit(node.right)
Duyệt hậu thứ tự
(post-order (postfix) traversal)
visit(node)
if node.left != null then visit(node.left)
if node.right != null then visit(node.right)
print node.value
Duyệt trung thứ tự
(in-order (infix) traversal)
visit(node)
if node.leftt!= null then visit(node.left)
print node.value
if node.rightg!= null then visit(node.right) // In phan tu tu be den lon
Cây nhị phân tương đương
Lưu trữ cấu trúc cây nhị phân
Để biểu diễn cây nhị phân ta dùng cấu trúc Nút (Node). Mỗi Nút là một đỉnh của cây, gồm ba trường, một trường chứa thông tin về nút đó. Hai trường và trỏ tới các nút con của đỉnh đó. Ngoài ra còn một con trỏ là trỏ tới nút gốc.
Cây nhị phân ở trong bài có thể biểu diễn như sau:
Root=A
A.Value="A",A.Left=B;A.Right=C
B.Value="B",B.Left=D;B.Right=E
C.Value="C",C.Left=F;C.Right=G
D.Value="D",D.Left=Null;D.Right=Null
E.Value="E",E.Left=Null;E.Right=Null
F.Value="F",F.Left=Null;F.Right=Null
G.Value="G",G.Left=Null;G.Right=Null
Chú ý: Phân biệt ký hiệu A, B,... chỉ nút và "A","B",... chỉ giá trị nút
Lưu trữ cấu trúc cây tổng quát
Khi biểu diễn cấu trúc cây tổng quát, vì mỗi nút có thể có nhiều con, số con có thể khác nhau, nên ta không dùng cho mỗi nút con một liên kết đến nút cha mà với mỗi nút vẫn chỉ dành hai liên kết, một liên kết (trường ) trỏ đến nút con đầu bên trái của nó, một liên kết (trường )trỏ đến nút cùng cha kề bên phải nó. Nếu coi liên kết trường như liên kết , liên kết như liên kết ta có một cây nhị phân tương đương với cây tổng quát.
Ví dụ
Cây tổng quát
A
/ | \
B C D
| | |
E F G
Cây nhị phân tương đương
A
|
B
/ \
E C
| |
F D
|
G
Lưu trữ của cây tổng quát như sau
Root=A
A.Value="A",A.Child=B,A.Next=Null
B.Value="B",B.Child=E,B.Next=C
C.Value="C",C.Child=Null,C.Next=D
D.Value="D",D.Child=G,D.Next=Null
E.Value="E",E.Null,E.Next=F
F.Value="F",F.Child=Null,F.Next=Null
G.Value="G",D.Child=Null,G.Next=Null |
Pāli (𑀧𑀸𑀮𑀺) còn gọi là Nam Phạn, là một ngôn ngữ thuộc nhóm Ấn-Arya Trung cổ hay prakrit. Nam Phạn là ngôn ngữ kinh điển của Phật giáo Nam Tông, dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm, trong đó có bộ Tam tạng (tên theo tiếng Nam Phạn là Tipitaka). Chữ Nam Phạn được đúc kết từ mấy nguồn hệ thống chữ viết khác nhau, từ chữ Brahmi, Devanāgarī và các chữ viết thuộc hệ Ấn-Aryan. Khi Latinh hóa thì hệ thống do T. W. Rhys Davids thuộc Pali Text Society khởi xướng được dùng nhiều hơn cả.
Nguồn gốc ngôn ngữ và sự phát triển
Bản thân từ Pāli có nghĩa là "hàng chữ" hay "văn bản (chính tắc)", và tên gọi này dường như bắt nguồn từ các truyền thống chú giải, trong đó Pāli (theo nghĩa các hàng chữ hay văn bản nguyên gốc được trích dẫn) được phân biệt với các câu chú giải hay là các câu bằng tiếng bản xứ theo sau đó trên trang bản viết. Do đó, tên gọi của ngôn ngữ này đã gây ra nhiều tranh luận giữa các học giả thuộc mọi thời đại; cách viết của tên cũng khác nhau, với "ā" ([ɑː]) dài và "a" ([a]) ngắn, cũng như với âm bật lưỡi (retroflex) ([ɭ]) hay là không có âm bật lưỡi ([l]) "l". Cho đến ngày nay, không có một cách viết chuẩn duy nhất của tên của ngôn ngữ này; cả bốn cách viết có thể tìm thấy trong các sách giáo khoa.
Pāli là ngôn ngữ văn chương của nhóm ngôn ngữ Prakrit; nó không phải (và chưa bao giờ) là một ngôn ngữ nói thông thường, theo nghĩa của một ngôn ngữ mẹ đẻ. Mặc dù có nhiều nghiên cứu xuất sắc về vấn đề này, vẫn thường có sự nhầm lẫn về các liên hệ giữa Pāli và tiếng bản xứ của tiếng Magadha cổ đại.
Pāli được những người theo Phật giáo thời xa xưa coi là tương đồng về mặt ngôn ngữ với tiếng Magadha cổ hay là sự nối tiếp trực tiếp của ngôn ngữ đó. Nhiều nguồn Theravada nhắc đến tiếng Pāli như là "tiếng Magadha". Tuy nhiên, dòng chữ khắc trên đá bằng tiếng Magadha của A-dục vương (Asoka) là một ngôn ngữ Đông Ấn trong khi đó Pāli giống với các chữ khắc bằng tiếng Tây Ấn hơn.
Có nhiều sự giống nhau đáng kể giữa Pali và một dạng cổ của Magadha - Ardhamagadha (Bán Magadha) - được bảo lưu trong các văn bản đạo Jain cổ. Ardhamagadha khác với Magadha cũng trong các điểm tương tự như là với Pali. Chẳng hạn, Ardhamagadha cũng không biến đổi r thành l, và trong biến tố danh từ nó cho thấy -o ở cuối thay vì -e như tiếng Magadha ít nhất là trong nhiều nơi có vần điệu. Điều tương tự này không phải là ngẫu nhiên, bởi vì người sáng lập ra đạo Jain Mahavira cũng truyền đạo trên cùng một khu vực (Magadha) với Phật Thích Ca.
Oskar von Hinuber đã cho rằng Pāli có thể bắt nguồn như là một dạng lingua franca (ngôn ngữ thương mại) vào thời đại đế chế Maurya của A-dục vương. Cho đến thời điểm Phật giáo truyền sang Sri Lanka (bởi các nhà truyền giáo mà vua A-dục vương phái đi), theo như các nguồn trong kinh Phật), Pāli là một ngôn ngữ văn chương đủ phức tạp để được sử dụng trong việc ghi lại toàn bộ Tam tạng. Sau khi Bộ kinh Pāli được truyền sang Sri Lanka, nó tiếp tục được bảo quản hoàn toàn bằng tiếng Pāli, trong khi các chú giải đi kèm theo nó (theo thông tin cung cấp bởi Buddhaghosa) được dịch sang tiếng Sinhala và được bảo quản trong tiếng địa phương qua nhiều đời khác nhau.
Tuy nhiên nó cuối cùng đã bị tiếng Sanskrit thay thế trong vai trò một ngôn ngữ văn chương và tôn giáo sau khi các học giả Pānini ở Ấn Độ hình thức hóa tiếng Phạn cổ điển. Ở Sri Lanka, Pāli được cho là đã vào giai đoạn thoái trào vào khoảng thế kỉ thứ 5 (khi tiếng Sanskrit đạt đến đỉnh cao), nhưng rồi cuối cùng vẫn tồn tại. Tác phẩm của Buddhaghosa đóng vai trò quan trọng cho sự hồi sinh trở lại của Pali như là một ngôn ngữ quan trọng của Phật giáo. Bộ Visuddhimagga cùng các tác phẩm bình chú khác mà Buddhaghosa biên dịch đã hệ thống hóa và làm gọn lại những chú giải truyền thống bằng tiếng Sinhala, vốn đã được duy trì và mở rộng ở Sri Lanka từ thế kỉ thứ 3.
Ngày nay Pāli được nghiên cứu chủ yếu là để tìm hiểu các bộ kinh của Phật giáo Tiểu Thừa, và thường được sử dụng để tụng niệm trong các nghi thức tế lễ. Các văn thư thông thường liên quan đến tôn giáo bằng tiếng Pāli như sử ký, y thư, văn bia, cũng có giá trị lịch sử quan trọng. Các trung tâm lớn nghiên cứu bằng tiếng Pāli vẫn tồn tại ở các nước có truyền thống Theravada ở Đông Nam Á: Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan, Lào và Campuchia. Học thuật Pāli ở vùng Bắc Ấn Độ nhìn chung là kết thúc với sự trỗi dậy của triều đại Sena, và đi xuống tại vùng bán đảo Ấn Độ, và có lẽ kéo dài nhất tại bang Orissa, nghĩa là, cuối cùng kết thúc (cùng với sự thực hành Phật giáo) với sự thất bại của cuộc kháng chiến cuối cùng trước sự bành trướng của các đế quốc Hồi giáo trên tiểu lục địa Ấn Độ. Kể từ thế kỉ thứ 19, nhiều hội đoàn phục hưng việc nghiên cứu Pāli ở Ấn Độ đã quảng bá nhận thức về ngôn ngữ này và nền văn học của nó, có lẽ đáng kể nhất là Maha Bodhi Society thành lập bởi Anagarika Dhammapala.
Ở châu Âu, Pali Text Society là lực lượng chính cùng với các học giả phương Tây quảng bá việc nghiên cứu tiếng Pāli kể từ ngày thành lập vào năm 1881. Đặt trụ sở tại Anh, hội này đã xuất bản các sách Pāli phiên ra tiếng Latinh, cùng với nhiều bản dịch tiếng Anh của các nguồn này. Pali Text Society được lập ra một phần để bù đắp cho kinh phí rất thấp dành cho ngành Ấn Độ học vào cuối thế kỉ 19 ở Anh; một cách phi lý là người Anh không mạnh mẽ trong việc nghiên cứu tiếng Phạn và Prakrit như là ở Đức, Nga và ngay cả Đan Mạch - một thực tế kéo dài đến tận ngày nay. Không cần phải là xứ thuộc địa như là trường hợp người Anh với Sri Lanka và Mayanma, các viện nghiên cứu như Thư viện Hoàng gia Đan Mạch đã xây dựng một bộ sưu tập lớn các văn bản tiếng Pāli, và xây dựng một truyền thống nghiên cứu tiếng Pāli khá mạnh.
Từ vựng
Gần như mỗi từ trong Pāli có từ cùng nguồn gốc trong các "ngôn ngữ Ấn-Aryan Trung cổ" Prakrit khác, ví dụ, Jain Prakrit. Quan hệ với Sanskrit trước đó (ví dụ, tiếng Vệ-đà) là ít trực tiếp hơn và phức tạp hơn. Theo lịch sử, ảnh hưởng giữa Pāli và Sanskrit có thể cảm nhận ở cả hai chiều. Sự giống nhau giữa tiếng Pāli và Sanskrit thường được cường điệu bằng cách so sánh nó với những tác phẩm sau này bằng Sanskrit—mà chúng được viết ra nhiều thế kỉ sau khi Sanskrit đã không còn là một ngôn ngữ sống nữa, và bị ảnh hưởng bởi các phát triển trong vùng Trung Ấn, bao gồm cả việc mượn trực tiếp một phần từ vựng Trung Ấn; trong khi đó, phần lớn các thuật ngữ Pāli sau này được mượn từ những từ vựng Sanskrit của các ngành tương đương, hoặc là trực tiếp hoặc là với một số thay đổi về cách phát âm nào đó.
Pāli sau này cũng có một vài từ mượn từ các ngôn ngữ địa phương nơi mà Pāli được sử dụng (ví dụ người Sri Lanka thêm từ trong tiếng vào Pāli). Những sử dụng này phân biệt Pāli tìm thấy trong Suttapiṭaka và các tác phẩm sau này chẳng hạn như các lời chú giải Pāli trong các bộ kinh và các câu chuyện dân gian (ví dụ, các câu chuyện bình giải Jātaka), và các nghiên cứu so sánh và xác định niên đại của bản sách dựa trên những từ vay mượn đó bây giờ trở thành một ngành chuyên môn.
Pāli không phải chỉ được sử dụng trong việc truyền đạt những lời dạy của Phật, bởi vì tồn tại nhiều bản sách khác không liên quan đến tôn giáo, như là các sách về y khoa, bằng tiếng Pāli. Tuy vậy, các nghiên cứu học thuật về ngôn ngữ này tập trung vào các tác phẩm tôn giáo và triết học, do cánh cửa độc nhất vô nhị mà nó mở ra trong một giai đoạn phát triển của Phật giáo.
Quan điểm Emic về Pāli
Mặc dù trong truyền thống Bà-la-môn, tiếng Sanskrit được cho là một ngôn ngữ không thay đổi được nói bởi các thần linh, trong đó mỗi từ hàm chứa một ý nghĩa quan trọng, quan điểm này đã không được chia sẻ trong các truyền thống Phật giáo thời xưa, mà trong đó từ ngữ chỉ là những dấu hiệu quy ước và có thể thay đổi được. Cả Phật và những người theo ông thời xưa không chia sẻ quan điểm của các bà-la-môn về sự kính trọng đối với tiếng Vệ-đà hay là kinh sách. Quan điểm này về ngôn ngữ đã được mở rộng một cách tự nhiên đến Pāli, và có thể đóng góp vào việc sử dụng nó (như là một xấp xỉ hay là chuẩn hóa của các phương ngữ Ấn-độ Trung cổ) thay cho Sanskrit.
Tuy nhiên theo như suy nghĩ thông thường, các lời tụng kinh bằng tiếng Pāli thường được cho là có những quyền năng siêu phàm (có thể là do ý nghĩa của lời kinh, bản chất của người tụng, hay là chất lượng của bản thân ngôn ngữ), và trong những bản văn Phật giáo cổ người ta có thể thấy Pāli dhāraṇī được sử dụng như là những câu thần chú, ví dụ để chống rắn cắn. Nhiều người trong các văn hóa Phật giáo Theravada vẫn còn tin rằng thề thốt bằng tiếng Pāli có một sự quan trọng đặc biệt, và, như là một ví dụ về quyền năng siêu phàm được gán cho việc tụng kinh trong thứ tiếng này, tụng lên những lời thề của Aṅgulimāla được tin là làm giảm đau trong quá trình sinh nở ở Sri Lanka. Ở Thái Lan, việc tụng một phần của Abhidhammapiṭaka được tin là có lợi cho người vừa mới qua đời, và lễ này có thể kéo dài cho đến bảy ngày. Một điều thú vị là, không có một thứ gì trong văn bản kể sau có liên quan đến chủ đề này, và nguồn gốc của phong tục vẫn chưa rõ.
Hệ thống âm vị
Các nguyên âm
Các nguyên âm dài và ngắn chỉ tương phản nhau trong các âm tiết mở; trong các âm tiết đóng, tất cả các nguyên âm luôn ngắn. Các âm e và o dài phân bố bù trừ nhau: các thay đổi ngắn chỉ xảy ra trong các âm tiết đóng, các thay đổi dài chỉ xảy ra trong các âm tiết mở. Các âm e và o ngắn và dài do đó không có âm vị khác nhau.
Các phụ âm
Các âm liệt kê bên trên, ngoại trừ ṅ, ḷ và ḷh là các âm vị khác nhau trong Pāli. ṅ chỉ xảy ra trước các điểm dừng của các âm vòm. ḷ và ḷh là tha âm vị của ḍ và ḍh khi chúng xảy ra đơn lẻ giữa các nguyên âm.
Ví dụ tiếng Pāli
Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā;
Manasā ce paduṭṭhena, bhāsati vā karoti vā,
Tato nam dukkhaṃ anveti, cakkaṃ'va vahato padaṃ.
Phân loại từng từ một
Mano-pubbaṅ-gam=ā dhamm=ā, mano-seṭṭh=ā mano-may=ā;
Mind-before-going=m.pl.nom. Thing=m.pl.nom., mind-foremost=m.nom.pl. mind-made=m.nom.pl.
Manas=ā ce paduṭṭh=ena, bhāsa=ti vā karo=ti vā,
Mind=n.sg.inst. if corrupted=n.sg.inst. speak=3.sg.pr. either act=3.sg.pr. or,
Ta=to naṃ dukkhaṃ anv-e=ti, cakkaṃ 'va vahat=o pad=aṃ.
That=from him suffering after-go=3.sg.pr., wheel as carrying(beast)=m.sg.gen. foot=n.sg.acc.
Ba từ ghép của hàng đầu theo nghĩa đen là:
manopubbaṅgama "đi trước đó là trí óc (Tâm)", "trí óc (Tâm) như là người đi trước hay là lãnh đạo"
manoseṭṭha "thành phần trước nhất là trí óc (Tâm)", "trí óc (Tâm) như thủ lĩnh"
manomaya "chứa đựng trí óc (Tâm)" hay "làm ra bởi trí óc (Tâm)"
Dịch nghĩa sát: "Pháp với trí óc (Tâm) là lãnh đạo, trí óc (Tâm) là thủ lĩnh, được làm ra bởi trí tuệ. Nếu [ai đó] nói hoặc hành động với một trí óc (Tâm) mục nát, từ [nguyên nhân] đó đau khổ sẽ bám theo anh ta, như là bánh xe [đi theo] vết chân của con vật kéo."
Một bản dịch có vẻ tự do hơn bởi Acharya Buddharakkhita
Trí óc (Tâm) đi trước mọi trạng thái tinh thần. Trí óc (Tâm) là thủ lĩnh; tất cả đều làm ra từ trí óc (Tâm).
Nếu một người hành động hay nói với một trí óc (Tâm) không trong sạch đau khổ sẽ theo anh ta như bánh xe đi theo vết chân bò (kéo xe).
Pāli và Sanskrit
Mặc dù Pāli không thể được xem là hậu duệ trực tiếp của hoặc Sanskrit Cổ điển hoặc là Vedic Sanskrit cổ hơn, những ngôn ngữ này hiển nhiên là rất gần nhau và những đặc tính chung của Pāli và Sanskrit luôn luôn được nhận ra một cách dễ dàng bởi những người ở Ấn Độ thông thạo cả hai thứ tiếng. Thật vậy, một phần rất lớn các từ trong Pāli và Sanskrit là hoàn toàn giống nhau, chỉ khác nhau trong chi tiết biến tố.
Các liên hệ này đủ phổ biến để các thuật ngữ từ Sanskrit có thể chuyển đổi dễ dàng thành Pāli bằng một số các biến đổi phát âm quy ước trước. Những biến đổi này bắt chước một phần nhỏ hơn của các phát triển về âm vị học đã diễn ra trong Proto-Pāli. Bởi vì sự phổ biến của những biến đổi này, không phải lúc nào cũng nói được một từ Pāli là một phần của một từ Prakrit cổ, hay là một biến đổi mượn từ Sanskrit. Sự tồn tại một từ tiếng Sanskrit tương ứng với một từ tiếng Pāli không phải lúc nào cũng là một bằng chứng chắc chắn về từ nguyên của Pāli, bởi vì, trong một số trường hợp, các từ Sanskrit nhân tạo được tạo ra bằng cách ghép các từ Prakrit.
Các quá trình chuyển âm sau không phải là một miêu tả đầy đủ của các thay đổi lịch sử tạo ra Pāli từ tiếng Ấn Cổ đại (Old Indic), như nên được hiểu như là một tóm tắt giữa các tương đương về âm vị phổ thông nhất giữa Sanskrit và Pāli, mà không tuyên bố đó là đầy đủ.
Các nguyên âm và nguyên âm đôi
Sanskrit ai và au luôn luôn được giảm thành Pāli e và o, một cách tương ứng.
Ví dụ: maitrī → mettā, → osadha
Sanskrit aya và ava cũng vậy thường giảm về Pāli e và o
Ví dụ: dhārayati → dhāreti, avatāra → otāra, bhavati → hoti
Sanskrit avi trở thành Pāli e (nghĩa là avi → ai → e)
Ví dụ: sthavira → thera
Ví dụ:
Sanskrit các nguyên âm dài được rút ngắn trước một dãy các cặp phụ âm sau đây.
Ví dụ:
Các phụ âm
Các biến đổi âm thanh |
Giuseppe Fortunino Francesco Verdi (; 10 tháng 10 năm 1813 – 27 tháng 1 năm 1901), là một nhà soạn nhạc opera người Ý. Sinh ra gần Busseto trong một gia đình trung lưu, ông nhận được sự giáo dục về âm nhạc từ một người bảo trợ địa phương. Verdi đã thống trị sân khấu opera Ý sau kỷ nguyên của Vincenzo Bellini, Gaetano Donizetti và Gioachino Rossini, những bậc thầy có ảnh hưởng đáng kể đến ông. Ở tuổi 30, ông đã trở thành một trong những nhà soạn nhạc opera xuất chúng trong lịch sử.
Trong những vở opera đầu tiên của mình, Verdi đã thể hiện sự đồng cảm với phong trào Risorgimento đang cố gắng thống nhất nước Ý. Ông cũng tham gia thoáng qua vào phong trào này với tư cách là một chính trị gia được bầu. Bản hợp xướng "Va, peniero" từ vở opera đầu tiên Nabucco (1842) và những bản hợp xướng tương tự trong các vở opera sau này, rất hợp với tinh thần của phong trào là thống nhất đất nước, bản thân nhà soạn nhạc được coi là đại diện cho những lý tưởng này. Tuy nhiên, là một người cực kỳ kín đáo, Verdi không tìm cách hòa vào những phong trào của công chúng. Sau khi thành công về mặt chuyên môn, ông viết ít tác phẩm hơn và cố gắng trở thành một chủ đất ở vùng bản địa của mình. Nhưng ông khiến giới âm nhạc phải ngạc nhiên khi trở lại ngoạn mục với tuyệt tác opera Aida (1871), với ba kiệt tác sau đó là: Requiem (1874), và các vở opera Otello (1887) và Falstaff (1893).
Các vở opera của Verdi vẫn cực kỳ nổi tiếng cho đến tận ngày nay, đặc biệt là ba đỉnh cao của 'thời kỳ giữa' của ông: Rigoletto, Il trovatore và La traviata. Chương trình kỉ niệm 200 năm ngày sinh của ông vào năm 2013 được tổ chức biểu diễn và phát sóng rộng rãi.
Tiểu sử
Thiếu thời
Cậu bé Giuseppe là con một chủ quán trọ trong làng. Giuseppe Fortunino Francesco Verdi sinh ngày 10 tháng 10 năm 1813 ở làng Le Roncole, vùng Parma, Italia. Ông học những bài học sáng tác âm nhạc đầu tiên từ Ferdinando Provesi, một nhạc sư ở ca đoàn nhà thờ Busseto. Năm 20 tuổi, ông đến Milan để theo học tiếp nhưng bị Nhạc viện ở đây từ chối nhận vì quá tuổi. Verdi theo lớp học nhạc tư, là học trò riêng của Lavigna.
Thầy giáo đầu tiên của Giuseppe là một linh mục địa phương, Don Pietro Baistrocchi, thầy giáo của trường trẻ em và cũng là người chơi đàn organ. Cái chết của Baistrocchi năm 1823 đã cho phép Giuseppe kế tục vị trí của thầy mình làm người chơi đàn organ tại nhà thờ ở Roncole khi ông mới 12 tuổi. Cũng cùng năm đó, cha ông gửi ông đi học tại trường trung học của Busseto do Pietro Seletti điều hành.
Ông tiếp tục học nhạc với Provesi, nhạc trưởng của Busseto và là một vị khách thường xuyên tại nhà của Antonio Barezzi, chủ tịch và là người đứng đầu trong giới thượng lưu yêu nhạc địa phương, ông cũng là một nhạc công thổi sáo ở đây, người có ảnh hưởng to lớn tới đời sống âm nhạc của ngôi làng. Dưới sự hướng dẫn của Provesi và sự bảo trợ của Barezzi, những nghệ sĩ đam mê âm nhạc này đã đạt tới một trình độ chuyên môn cao và thường xuyên được các giáo dân lân cận mời tới chơi trong các nghi lễ nhà thờ. Chính những lời đề nghị như thế này đã giúp chàng trai trẻ Verdi viết 4 hành khúc cho Cuộc Diễu hành Ngày Thứ Sáu tươi đẹp và Le Lamentazioni di Geremia, đó là những tác phẩm sớm nhất của ông.
Ông cũng đính hôn với con gái của Barezzi là Margherita vào năm 1831. Với sự hỗ trợ của người cha vợ tương lai, người bảo trợ vững chắc (cũng là người giúp đỡ cho ông về mặt tài chính), Verdi đã giành được học bổng Monte di Pietà, nhờ đó ông có thể chuyển tới Milano nơi ông đã thử thi vào nhạc viện năm 19 tuổi. Trượt trong kỳ thi tuyển năm 1832, ông tiếp tục học tư với người chỉ huy dàn nhạc opera Vincenzo Lavigna, nhạc trưởng tại La Scala.
Ông đã kết hôn với Margherita vào ngày 4 tháng 5 năm 1836 và Margherita đã sinh hai con, Virginia Maria Luigia (26 tháng 3 năm 1837 - 12 tháng 8 năm 1838) và Icilio Romano (ngày 11 tháng 7 năm 1838 - 22 tháng 10 năm 1839). Tuy nhiên, cả hai đã chết trong giai đoạn phôi thai trong khi Verdi đã làm việc trên opera đầu tiên của mình, và không lâu sau đó, Margherita chết vì mắc bệnh viêm não ngày 18 tháng 6 năm 1840, khi chỉ mới có 26 tuổi. Verdi yêu mến vợ và các con của mình, và ông đã suy sụp vì cái chết của họ.
Sự nghiệp
Do cái chết của Provesi, Verdi buộc phải quay về Busseto theo điều khoản của học bổng, và ông đã thay Provesi trong vai trò nhạc trưởng vào năm 1836. Ông cưới Margherita cùng năm đó và bắt đầu soạn nhạc cho vở opera đầu tiên. Oberto, conte di San Bonifacio được trình diễn lần đầu tiên tại La Scala và được đón nhận nồng nhiệt đến mức ông bầu đầy quyền lực Merelli đã đề nghị ông một bản hợp đồng viết các vở opera khác. Verdi khi đó đã chuyển tới Milan, nhưng những cái chết thương tâm đầu tiên là của 2 đứa con và sau đó là Margherita năm 1840 đã khiến ông gần như suy sụp tinh thần. Ông không còn tâm trí nào sáng tác vở opera hài mà Merelli đã yêu cầu, và không ngạc nhiên khi buổi công diễn tại La Scala của Un giorno di regno, là một thất bại thảm hại. Không nản lòng, Merelli đã thuyết phục ông viết một vở opera khác mặc dù ông vẫn còn chìm ngập trong đau khổ bởi cái chết của vợ và các con. Buổi công diễn tại La Scala năm 1842 của Nabucco đạt được thành công tuyệt đối và đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ thống trị opera Ý kéo dài tới 50 năm của Verdi. "Va’ pensiero", đoạn hợp xướng nổi tiếng của những tù nhân Do Thái bị đi đày trong Nabucco, là ví dụ điển hình nhất của cách viết hợp xướng thông dụng, và các đoạn hợp xướng của Verdi đã có đóng góp to lớn cho sự thành công của rất nhiều những vở opera sau này của ông, đặc biệt kể từ khi các khán giả Ý coi chúng như những biểu hiện thầm kín của chủ nghĩa yêu nước mà sau này đã thổi bùng lên cuộc cách mạng dẫn tới sự thống nhất của Ý năm 1848.
Vở opera thứ tư của ông là sản phẩm của những buổi tối với bạn bè là các nhà văn và nhà thơ hay lui tới các cuộc họp văn học của giới quý tộc Milan. Buổi công diễn năm 1843 của I Lombardi alla prima crociata, một tác phẩm dựa trên thi phẩm của Tommaso Grossi, là một thành công rực rỡ; tác phẩm này, cùng với sự thành công trước đó của Nabucco, đã dẫn tới các buổi trình diễn các vở opera của ông ở cả Paris và Luân Đôn, và ông bắt đầu gặt hái được thành công và sự nổi tiếng trên trường quốc tế. Cũng chính trong thời kỳ này ông đã đem lòng yêu Giuseppina Streppni, soprano thể hiện vai chính một cách rất xuất sắc trong buổi công diễn lần đầu Nabucco.
Những vở opera nổi tiếng khác của Verdi là Macbeth năm 1847, La traviata năm 1853, Don Carlos năm 1867, Aida năm 1871, Otello năm 1887, Falstaff năm 1893. Ông và nhạc sĩ Đức Wagner sinh cùng sinh năm 1813. Cả hai đều là nhạc sĩ opera nổi tiếng thế giới, hai người đi hai hướng khác nhau, nhưng lại tạo nên khuôn mặt văn hóa thế kỷ 19. Ngày nay, hơn 100 năm sau những vở opera của hai ông luôn có trong chương trình diễn hàng năm của các nhà hát opera lớn trên thế giới.
Cuối đời
Ở tuổi 80, Verdi đã quyết định viết một vở opera hài như 1 câu trả lời với những ý kiến cho rằng Verdi không có khả năng sáng tác hài kịch. Falstaff, opera do Arrigo Boito viết lời dựa trên vở kịch của Shakespeare nổi bật với những nhân vật, yếu tố hài hước, được công diễn lần đầu năm 1893 và nó được xem như một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của Verdi. Vở opera rất mới mẻ, độc đáo hoàn toàn khác với phong cách sáng tác thông thường của Verdi. Sau cái chết của người vợ năm 1897, Verdi dành hết tâm trí cho những công việc từ thiện, trong đó bao gồm cả quỹ Casa di riposo ("Nhà nghỉ cho những nhạc sĩ") tại Milano, trợ giúp tài chính cho nhiều tổ chức từ thiện.
Ông mất vào ngày 27 tháng 1 năm 1901 tại Milano, nơi ông đã quay trở về sinh sống sau khi vợ mất. Đám tang của ông được cử hành long trọng như 1 lễ quốc tang với sự tham gia của rất nhiều người dân. Ông được chôn cất tại Casa di Riposo ngay cạnh mộ của vợ ông, trong một nhà thờ nhỏ do ca sĩ nổi tiếng Teresa Stolz xây dành riêng cho họ.
Opera Aida
Aida là thiên tình sử giữa tướng trẻ Ai Cập Radames và thị tỳ của công chúa Ai Cập Amrenis là Aida. Aida là opera nổi tiếng của Giuseppe Verdi viết bằng tiếng Italia, được công diễn ở Cairo ngày 24. Dezember 1871. Đúng 100 năm sau, người viết bài này đã xem opera Aida năm 1971 ở Leipziger Opernhaus nước Đức.
Để khánh thành kênh đào Suez, đồng thời khánh thành nhà hát mới xây ở Cairo, phó vương Ai Cập Ismail đặt Verdi viết một tác phẩm thanh xướng kịch. Ismail muốn có một tác phẩm truyền tải được tinh thần Ai Cập. Verdi tìm đến nhà nghiên cứu về Ai Cập Ghislazoni – một người hiểu biết khá sâu sắc về văn hóa lịch sử Ai Cập. Sự hợp tác giữa hai người cho ra đời vở opera Aida.
Opera Aida gồm 4 cảnh, diễn trong 135 phút.
Cảnh 1: Đế chế Ai Cập hùng mạnh đánh Ethiopia, bắt công chúa Ethiopia là Aida về Ai Cập, bắt làm thị tỳ cho công chúa Ai Cập Amrenis. Công chúa Ai Cập Amrenis có tình cảm đơn phương với viên tướng Ai Cập Radames, nhưng giữa tướng trẻ này và Aida đã nảy sinh tình yêu. Trong lúc quân Ethiopia phản công lại quân Ai Cập, Radames được cử làm tướng tiên phong, viên tướng trẻ này hy vọng chiến thắng trở về vua Ai Cập sẽ ban Aida cho mình mà không hay biết vua Ethiopia Amonaros chính là cha đẻ của Aida. Trong lúc đó Aida đau đầu với những suy nghĩ về tổ quốc và mối tình với Radames.
Cảnh 2: Quân Ai Cập thắng, nhưng công chúa Ai Cập Amneris lại bảo Aida, tướng Radames đã tử trận và ra lệnh thị tỳ Aida đi cùng tới dự lễ ừng chiến thắng. Vua Ai Cập ra tận cổng thành Theben đón tướng Radames cùng quân chiến thắng trở về. Nhà vua ra lệnh dẫn tù binh ra trước hàng quân. Trong số tù binh có vua Ethiopie Amonasro. Tù binh Amonasro và tướng Radames cùng xin lãnh tụ tinh thần Ramphis và nhà vua thả tù binh và được chấp thuận. Tưởng thưởng cho chiến thắng là việc vua Ai Cập gà con gái là Amneris cho tướng Radames và Radames sẽ là người được truyền ngôi nếu nhà vua băng hà.
Cảnh 3: Đêm khuya, bên bờ sông Nil, công chúa Amneris được lãnh tụ tinh thần Ramphis làm lễ chứng giám cho cuộc hôn nhân của nàng. Aida được cha đẻ dặn hỏi Radames co biết con đường hành quân từ Ai Cập sang Ethiopie. Aida chờ Radames trước cổng đền, gặp được Radames liền dò hỏi. Không thể từ chối, Radames đã tiết lộ. Vua Ehiopie Amonasro xuất hiện, định giết công chúa Ai Cập, nàng hô lớn "Quân phản bội!". Radames rút kiếm ngăn. Chuyện vỡ lở, Radames từ chối trốn chạy với Aida, nộp kiếm cho lãnh tụ tinh thần Ramphis để bị bắt làm tù nhân. Nhân lúc mọi người bối rối, cha con vua Ethiopie trốn thoát.
Cảnh 4: Tướng Radames bị dẫn ra trước tòa án. Công chúa Ai Cập Amneris bị giằng xé giữa tình yêu, giận dữ, đau đớn. Nàng nghĩ mình sẽ cứu Radames trước tòa, nhưng Radames không sao quên được mối tình với Aida, nghĩ, Amneris sẽ giết mình. Radames ba lần im lặng thú tội. Tướng trẻ Radames bị kết án tử hình, bị chôn sống trong tầng hầm. Trước lúc viên gạch cuối cùng được xây, Radames thấy bóng hình Aida, còn nghe thấy tiếng thở dài của công chúa Ai Cập Amneris, nghe thấy lời cầu nguyện của các tu sĩ mong: "Radames yên nghỉ nơi suối vàng!"
Nhạc cụ
Khi còn nhỏ, Giuseppe Verdi thường chơi đàn ở nhà của Barezzi. Nhạc cụ ông chơi là đàn piano của Anton Tomaschek. Giuseppe Verdi cũng thích đàn piano Johann Fritz và sử dụng những chiếc piano Viennese 6-pedal Fritz từ thời vở opera Rigoletto năm 1851 đến Aida vào năm 1871. Cây đàn piano này có thể được chiêm ngưỡng trong Villa Verdi ở Piacenza, Ý. Năm 1857 Verdi đã biểu diễn trên một cây đại dương cầm của Joseph Danckh trong dịp lễ khánh thành Nhà hát A.Galli ở Rimini. |
Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno María de los Remedios Cipriano de la Santísima Trinidad Ruiz y Picasso (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, mất ngày 8 tháng 4 năm 1973), thường được biết tới với tên Pablo Picasso hay Picasso là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Tây Ban Nha. Picasso được coi là một trong những họa sĩ nổi bật nhất của thế kỷ 20, ông cùng với Georges Braque là hai người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc. Ông là một trong 10 họa sĩ vĩ đại nhất trong top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20. Ông cũng được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 người có tầm ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20.
Tiểu sử
Pablo Picasso sinh năm 1881 tại Málaga, miền nam Tây Ban Nha. Picasso là con đầu lòng của một họa sĩ đến từ tầng lớp trung lưu José Ruiz y Blasco (1838-1913) và vợ là María Picasso y López. Ông được đặt tên thánh là Pablo, Diego, José, Francisco de Paula, Juan Nepomuceno, Maria de los Remedios và Cipriano de la Santísima Trinidad. Họ của ông, Ruiz y Picasso bao gồm cả họ của bố mẹ ông theo truyền thống của người Tây Ban Nha. Họ Picasso của mẹ ông đến từ Tây Bắc nước Ý.
Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh vực hội họa, theo mẹ ông kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là "piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là bút chì. Cha của Picasso là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ông José còn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Và Picasso đã được cha đào tạo hội họa chính thức vào năm ông 7 tuổi.
Vào Học viện mỹ thuật (Academia de San Fernando) tại Madrid được chưa đầy một năm, năm 1900 Picasso đã bỏ học để sang Paris, trung tâm nghệ thuật của Châu Âu thời kỳ đó. Tại thủ đô nước Pháp, ông sống cùng Max Jacob, một nhà báo và nhà thơ, người đã giúp Pablo học tiếng Pháp. Đây là giai đoạn khó khăn của người họa sĩ trẻ khi ông phải sống trong cảnh nghèo túng, lạnh lẽo và đôi khi tuyệt vọng, phần lớn tác phẩm của Pablo đã phải đốt để sưởi ấm cho căn phòng nhỏ của hai người. Năm 1901, cùng với người bạn Soler, Picasso đã thành lập tờ tạp chí Arte Joven ở Madrid. Số đầu tiên của tạp chí hoàn toàn do Pablo minh họa.
Trong những năm đầu của thế kỉ 20, Picasso thường xuyên qua lại giữa hai thành phố Barcelona và Paris. Tại Paris, Picasso kết bạn với rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng ở khu Montmartre và Montparnasse, trong đó có người sáng lập trường phái siêu thực André Breton, nhà thơ Guillaume Apollinaire và nhà văn Gertrude Stein. Năm 1911, Picasso và Apollinaire thậm chí đã từng bị bắt giữ vì bị nghi ăn trộm bức tranh Mona Lisa khỏi Bảo tàng Louvre nhưng cuối cùng hai người cũng được thả vì vô tội.
Đời tư
Năm 1904, ông bắt đầu mối quan hệ lâu dài với Fernande Olivier, người phụ nữ xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm Thời kỳ Hồng của họa sĩ. Thời kỳ này được gọi là Thời kỳ Hồng vì đây là thời kỳ ông toàn dùng màu hồng nhạt mềm mại để làm nền tranh cho mình, thời kỳ Hồng của ông được tồn tại trong 3 năm. Sau khi bắt đầu nổi tiếng và trở nên giàu có, Picasso đã bỏ Olivier để quan hệ với Marcelle Humbert mà ông gọi đơn giản là Eva, chủ đề của rất nhiều bức tranh theo trường phái lập thể của ông. Sau đó ông còn đi lại với nhiều người phụ nữ khác mặc dù đã có vợ và con. Picasso đã hai lần làm đám cưới và ông có bốn đứa con với ba người phụ nữ. Năm 1918, họa sĩ cưới cô Olga Khokhlova, một nữ diễn viên ba lê của đoàn ba lê Sergei Diaghilev mà Picasso đã từng nhận trang trí cho họ vở Parade ở Roma. Khokhlova đã giới thiệu Picasso với tầng lớp trên của nước Pháp trong những buổi tiệc tùng và gặp gỡ của những người giàu có ở Paris trong thập niên 1920. Hai người cũng có với nhau một đứa con, Paulo, sau này trở thành một tay đua xe phóng đãng và là tài xế cho chính họa sĩ. Cuộc hôn nhân giữa Picasso và Khokhlova nhanh chóng chấm dứt, tuy vậy trên danh nghĩa hai người chỉ ly thân cho đến tận khi Khokhlova qua đời năm 1955 vì theo luật pháp ở Pháp, Picasso sẽ phải chia đôi tài sản cho vợ nếu chính thức ly dị. Năm 1927 Picasso gặp cô gái 17 tuổi Marie-Thérèse Walter và bắt đầu đi lại bí mật với cô. Với Marie-Thérèse, Picasso cũng có một người con gái, Maia. Marie-Thérèse luôn sống với hy vọng hão huyền rằng người họa sĩ nổi tiếng sẽ lấy cô làm vợ và cô đã treo cổ tự vẫn bốn năm sau cái chết của Picasso. Nhà nhiếp ảnh và họa sĩ Dora Maar cũng là một người tình lâu năm của Picasso, hai người đặc biệt gắn bó trong giai đoạn cuối thập niên 1930 và đầu thập niên 1940.
Sau khi Paris được giải phóng năm 1944, lúc đó ở tuổi 63, Picasso bắt đầu quan hệ với một sinh viên nghệ thuật trẻ là Françoise Gilot. Françoise và Picasso có chung với nhau hai đứa con, Claude và Paloma. Khác với những người tình khác của họa sĩ, chính Françoise là người rời bỏ Pablo năm 1953. Đây là một cú sốc với Picasso, ông nghĩ rằng mình đã già và trở nên kỳ cục trong mắt phụ nữ, Một vài tác phẩm của ông thời kỳ cuối đã khai thác đề tài này khi miêu tả một người lùn già nua gớm ghiếc đối lập với một cô gái trẻ đẹp. Tuy vậy không lâu sau người họa sĩ cũng tìm được một người tình khác, đó là Jacqueline Roque. Roque làm việc tại xưởng gốm Madoura, nơi Picasso thực hiện các tác phẩm bằng gốm của ông. Hai người duy trì mối quan hệ suốt phần đời còn lại của Picasso, họ cưới nhau năm 1961. Đám cưới này cũng là một sự trả thù của họa sĩ đối với người tình cũ Gilot. Gilot khi đó đang tìm cách hợp pháp hóa quan hệ cha con của Picasso với Claude và Paloma. Được Picasso thúc đẩy, cô đã sắp đặt việc ly dị với chồng là Luc Simon để cưới Picasso, qua đó bảo vệ quyền lợi cho con chung của hai người. Tuy nhiên Picasso đã bí mật làm đám cưới với Roque ngay sau khi Gilot hoàn thành thủ tục ly hôn, họa sĩ coi đây là sự trả thù của ông với việc Gilot đã rời bỏ mình năm 1953.
Pablo Picasso từ trần ngày 8 tháng 4 năm 1973 tại Mougins, Pháp, trong khi ông cùng bà Jacqueline đang chủ trì một buổi tiệc với bạn bè. Tác phẩm ông để lại gồm có 1800 bức tranh sơn dầu, 3 vạn bản tranh, 7000 bức ký họa phác thảo và có khá nhiều tác phẩm khó hiểu. Picasso được an táng tại công viên Vauvenargues ở Vauvenargues, Bouches-du-Rhône. Jacqueline Roque đã ngăn cản hai đứa con của ông là Claude và Paloma tham gia tang lễ cha mình.
Xu hướng chính trị
Picasso tỏ ra trung lập trong suốt Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nội chiến Tây Ban Nha và Chiến tranh thế giới thứ hai, họa sĩ từ chối ủng hộ bất cứ bên tham chiến nào. Trong Nội chiến Tây Ban Nha, tuy thể hiện sự phẫn nộ và phản đối chế độ của tướng Francisco Franco và chủ nghĩa phát xít qua các tác phẩm của mình, Picasso không hề cầm vũ khí chống lại chế độ này.
Năm 1944, Picasso gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tham gia một hội nghị hòa bình quốc tế tổ chức ở Ba Lan. Năm 1950, họa sĩ được nhận Giải thưởng hòa bình Stalin của chính phủ Liên Xô. Năm 1962, ông được nhận một giải thưởng lớn khác của nhà nước Xô viết, đó là Giải thưởng hòa bình Lenin.
Tác phẩm
Các tác phẩm của Picasso thường được phân loại theo các thời kỳ khác nhau. Tuy rằng tên gọi các thời kỳ sáng tác sau này của họa sĩ còn gây nhiều tranh cãi, người ta phần lớn đều chấp nhận cách phân chia thời kỳ đầu sáng tác của Picasso thành Thời kỳ Xanh (1901–1904), Thời kỳ Hồng (1904–1906), Thời kỳ Ảnh hưởng Châu Phi - điêu khắc (1908–1909), Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912) và Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919).
Các tác phẩm qua từng giai đoạn của Picasso đều chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi các điều kiện môi trường xung quanh và các dạng thông tin ông đã tiếp xúc trong giai đoạn đấy. Điển hình như trong Thời kỳ Xanh (tiếng Anh là Blue Period, 1901-1904), các tác phẩm của ông bị ảnh hưởng bởi việc tự sát của một người bạn, Carlos Casagemas. Hay như trong Thời kỳ Ảnh hưởng Châu Phi (tiếng Anh là Picasso's African Period, 1906-1909), các tác phẩm của ông lấy nhiều cảm hứng từ nghệ thuật Châu Phi, như mặt nạ, điêu khắc, và các bức vẽ cổ đại . Ý tưởng của bức họa Những cô nàng ở Avignon (tiếng Pháp là Les Demoiselles d’Avignon) - bức họa tạo nền tảng và đi tiên phong trong việc khởi xướng Chủ nghĩ Lập thể (tiếng Anh là Cubism) - đến từ khoảnh khắc sáng tạo của Picasso khi đang quan sát các tác phẩm nghệ thuật Châu Phi ở bảo tàng Cung điện Trocadéro (tiếng Pháp là Palais du Trocadéro) .
Trước 1901
Picasso bắt đầu tập vẽ dưới sự hướng dẫn của cha ông từ năm 1890. Sự tiến bộ trong kỹ thuật của họa sĩ có thể thấy trong bộ sưu tập các tác phẩm thời kì đầu ở Bảo tàng Museu Picasso tại Barcelona. Có thể thấy chủ nghĩa hiện thực hàn lâm trong các tác phẩm thời kì đầu này, tiêu biểu là bức The First Communion (1896). Cũng năm 1896, khi mới 14 tuổi, Picasso đã hoàn thành tác phẩm Portrait of Aunt Pepa (Chân dung dì Pepa), một bức chân dung gây ấn tượng sâu sắc đến mức Juan-Eduardo Cirlot đã đánh giá rằng "không nghi ngờ gì nữa, đây là một trong những tác phẩm lớn nhất trong lịch sử hội họa Tây Ban Nha".
Năm 1897, chủ nghĩa hiện thực của Picasso bắt đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, thể hiện qua một loạt các bức tranh phong cảnh sử dụng tông màu xanh lá cây và tím không tự nhiên.
Thời kỳ Xanh (1901–1904)
Trong thời kỳ này, tác phẩm của Picasso có tông màu tối hơn với màu chủ đạo là xanh thẫm, đôi khi được làm ấm hơn bởi các màu khác. Mốc bắt đầu của Thời kỳ Xanh không rõ ràng, nó có thể bắt đầu từ mùa xuân năm 1901 ở Tây Ban Nha, hoặc ở Paris nửa cuối năm đó. Có lẽ cách dùng màu của họa sĩ chịu ảnh hưởng từ chuyến đi xuyên Tây Ban Nha và sự tự sát của người bạn Carlos Casagemas.
Thời kỳ Hồng (1904–1906)
Các tác phẩm của Picasso trong giai đoạn này mang vẻ tươi tắn hơn với việc sử dụng nhiều màu cam và hồng. Năm 1904 tại Paris, Picasso gặp Fernande Olivier, một người mẫu cho các họa sĩ và nhà điêu khắc, rất nhiều tác phẩm của ông trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ nồng ấm giữa hai người.
Thời kỳ Ảnh hưởng Châu Phi (1906–1909)
Thời kỳ Ảnh hưởng Châu Phi bắt đầu với tác phẩm nổi tiếng Những cô nàng ở Avignon (Les Demoiselles d'Avignon) lấy cảm hứng từ những đồ tạo tác Châu Phi. Ông cho rằng mọi loại nghệ thuật phải tự học được cái hay của nhau. Ông chọn châu Phi làm cản hứng của mình bởi tính Lập thể rõ ràng của nó.
Thời kỳ Lập thể phân tích (1909–1912)
Chủ nghĩa Lập thể phân tích là phong cách vẽ mà Picasso đã phát triển cùng Georges Braque theo đó sử dụng những màu đơn sắc ngả nâu cho các tác phẩm. Các vật thể sẽ được hai họa sĩ tách thành những bộ phận riêng biệt và "phân tích" chúng theo hình dạng bộ phận này.
Thời kỳ Lập thể tổng hợp (1912–1919)
Đây là sự phát triển chủ nghĩa lập thể của Picasso với việc sử dụng nghệ thuật cắt dán bằng các chất liệu vải, giấy báo, giấy dán tường để mô tả đề tài tĩnh vật và nhân vật.
Chủ nghĩa cổ điển và siêu thực
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Picasso bắt đầu thực hiện các tác phẩm theo trường phái tân cổ điển (neoclassicism). Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Picasso, bức Guernica đã được sáng tác trong thời kì này. Bức tranh mô tả cuộc ném bom vào Guernica của phát xít Đức trong Nội chiến Tây Ban Nha.
Giai đoạn sau
Picasso là một trong 250 nhà điêu khắc tham gia Triển lãm điêu khắc quốc tế lần thứ 3 tổ chức tại Bảo tàng mỹ thuật Philadelphia vào mùa hè năm 1949.
Trong thập niên 1950, họa sĩ một lần nữa thay đổi phong cách sáng tác, ông thực hiện các bức tranh dựa trên phong cách của các bậc thầy cổ điển như Diego Velázquez, Goya, Poussin, Édouard Manet, Courbet và Delacroix.
Di sản
Khi Picasso qua đời, rất nhiều tác phẩm do họa sĩ sáng tác vẫn thuộc quyền sở hữu của ông vì Picasso cảm thấy không cần thiết phải bán chúng. Thêm vào đó, ông còn có một bộ sưu tập rất giá trị các tác phẩm của những họa sĩ yêu thích như Henri Matisse. Vì Picasso không để lại di chúc, một phần bộ sưu tập này được dùng để trả thuế cho chính phủ Pháp và nó được trưng bày tại Bảo tàng Musée Picasso tại Paris. Năm 2003, những người thân của họa sĩ đã cho khánh thành một bảo tàng tại thành phố quê hương ông, Málaga, đó là Bảo tàng Museo Picasso Málaga.
Picasso có vài bức tranh nằm trong danh sách những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nhất thế giới:
Bức "Nude on a black armchair" - được bán với giá 45,1 triệu USD năm 1999.
Bức Les Noces de Pierrette - được bán với giá hơn 51 triệu USD năm 1999.
Bức Garçon à la pipe - được bán với giá 104 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 4 tháng 5 năm 2004 đã lập kỉ lục thế giới về giá cho một tác phẩm nghệ thuật.
Bức Dora Maar au Chat - được bán với giá 95,2 triệu USD tại nhà đấu giá Sotheby's ngày 3 tháng 5 năm 2006. |
Thái Nguyên là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam.
Thành phố Thái Nguyên là trung tâm của vùng trung du và miền núi phía Bắc. Thành phố Thái Nguyên được thành lập vào năm 1962 và là một thành phố công nghiệp, thành phố luyện kim lớn nhất cả nước. Thành phố Thái Nguyên từng là thủ phủ của Khu tự trị Việt Bắc trong suốt thời kỳ tồn tại của khu tự trị này (1956 - 1965). Ngoài ra, thành phố Thái Nguyên được cả nước biết đến là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực rất lớn.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2019, thành phố Thái Nguyên đứng thứ 7 trong tổng số 19 đô thị loại I trực thuộc tỉnh về quy mô dân số.
Lịch sử
Vùng đất thành phố Thái Nguyên (ngày nay) thời các vua Hùng, thuộc bộ Vũ Định (1 trong số 15 bộ của nước Văn Lang). Dưới thời Bắc thuộc (179 TCN - 905), Thái Nguyên có lúc thuộc nước Nam Việt, có lúc thuộc huyện Long Biên, quận Giao Chỉ. Thời nhà Lý (1010 - 1225), địa bàn thành phố (ngày nay) thuộc phủ Phú Lương (sau đổi là châu Thái Nguyên); thời nhà Trần (1225 - 1400), thuộc phủ Thái Nguyên (từ năm 1397, đổi thành trấn Thái Nguyên)… Thời thuộc Minh (1407 - 1427), thuộc châu (sau là phủ) Thái Nguyên. Thời Lê sơ (1428 - 1789), có lúc thuộc thừa tuyên Thái Nguyên, hoặc thừa tuyên Ninh Sóc; có lúc thuộc xứ Thái Nguyên và đến năm 1533, thuộc trấn Thái Nguyên.
Dưới triều Nguyễn (từ năm 1802), địa bàn thành phố Thái Nguyên (ngày nay) vẫn thuộc trấn Thái Nguyên. Năm Gia Long thứ 12 (1813), thành trấn Thái Nguyên được chuyển từ xã Bình Kỳ, tổng Thượng Giã, huyện Thiên Phúc, tỉnh Bắc Ninh về xã Đồng Mỗ, tổng Túc Duyên, huyện Đồng Hỷ, phủ Phú Bình, trấn Thái Nguyên.
Năm 1831, nhà Nguyễn điều chỉnh lại địa giới hành chính, cắt huyện Thiên Phúc (vùng đất huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội ngày nay) về tỉnh Bắc Ninh, thủ phủ của trấn Thái Nguyên được chuyển từ xã Bình Kỳ, huyện Thiên Phúc về thành Đồng Mỗ, thuộc huyện Đồng Hỷ (nay là một phần vùng đất thuộc các phường Trưng Vương và Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên). Tỉnh thành đất bằng phẳng, rộng rãi, đường thủy, đường bộ giao thông đều thuận tiện. Chu vi tỉnh thành dài 345 trượng (khoảng 1145,4 mét), cao 9 thước (khoảng 2,88 mét), mở 4 cửa, hào rộng 3 trượng (khoảng 9,96 mét), sâu 5 thước (khoảng 1,66 mét). Tường thành đắp bằng đất, đến năm Tự Đức thứ 2 (1849) được xây bằng gạch.
Dưới thời Pháp thuộc, sau khi đánh chiếm Thái Nguyên, năm 1884, tướng Briere de L'Isle làm Công sứ Pháp đầu tiên ở tỉnh Thái Nguyên. Năm 1888, Pháp cử tướng Borgnis Desbordes bình định Thái Nguyên. Ngày 9/9/1891, thành lập Tiểu quân khu Thái Nguyên, do thiếu tá Bernard chỉ huy.
Một số Công sứ Pháp ở Thái Nguyên: Darles (tháng 4/1913 - 09/1917),Desteney (1/1895 - 4/1895, 1/1896 - 7/1898, 8/1899 - 3/1901)
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thị xã Thái Nguyên là tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên.
Năm 1956, khu Tự trị Việt Bắc được thành lập, thị xã Thái Nguyên vừa là tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên, vừa là Thủ phủ của Khu Tự trị Việt Bắc, gồm 3 phường: Hoàng Văn Thụ, Phan Đình Phùng, Trưng Vương.
Năm 1958, cắt một phần đất của các xã Đồng Bẩm, Cao Ngạn, Hóa Thượng thuộc huyện Đồng Hỷ để thành lập thị trấn Núi Voi và tiểu khu Chiến Thắng.
Theo quyết định số 114/CP ngày 19 tháng 10 năm 1962 của Thủ tướng Chính phủ, thị xã Thái Nguyên được nâng cấp thành thành phố Thái Nguyên, thuộc tỉnh Thái Nguyên, với tổng diện tích tự nhiên hơn 100 km² và dân số khoảng 60.000 người; cùng thời điểm này, chuyển 4 xã Cam Giá, Túc Duyên, Quang Vinh, Đồng Bẩm, các xóm Chùa, Quan Triều của xã Lương Sơn, các xóm Hòa Bình, Minh Cầu, Thống Nhất, Cầu Tre, Tiến Thành, Cấp Tiến của xã Đồng Quang, các xóm Thành, Phố, Ôn Lương của xã Tích Lương (thuộc huyện Đồng Hỷ); các xóm Nhân Thịnh, Ngọc Tâm của xã Thượng Đình (sáp nhập vào xã Lương Sơn), các xóm Ngân, Na Hoàng, Tiến Bộ, Phú Thái, Lương Thịnh, Tân Trung của xã Lương Sơn, xóm Hanh của xã Đào Xá (thuộc huyện Phú Bình); xóm Tân Long của xã Sơn Cẩm (thuộc huyện Phú Lương) và thị trấn Trại Cau về thành phố Thái Nguyên quản lý.
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và tăng cường khả năng quốc phòng, theo quyết định ngày 21 tháng 4 năm 1965 của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn sáp nhập thành tỉnh Bắc Thái, thành phố Thái Nguyên là tỉnh lỵ tỉnh Bắc Thái, bao gồm 10 phường: Chiến Thắng, Hoàng Văn Thụ, Hương Sơn, Phan Đình Phùng, Phú Xá, Quan Triều, Tân Long, Tân Thành, Trung Thành, Trưng Vương; 2 thị trấn: Núi Voi và Trại Cau và 7 xã: Cam Giá, Đồng Bẩm, Đồng Quang, Gia Sàng, Lương Sơn, Quang Vinh, Túc Duyên.
Ngày 21 tháng 10 năm 1982, chuyển thị trấn Núi Voi thành phường Núi Voi và chuyển thị trấn Trại Cau về huyện Đồng Hỷ quản lý.
Để phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Thái Nguyên và huyện Đồng Hỷ, ngày 2 tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Hội đồng Chính phủ) ra quyết định số 102/HĐBT điều chỉnh địa giới huyện Đồng Hỷ sang phía đông bắc sông Cầu; thành phố Thái Nguyên tiếp nhận thêm 7 xã phía tây và tây bắc của huyện Đồng Hỷ: Phúc Hà, Phúc Xuân, Phúc Trìu, Tân Cương, Thịnh Đán, Thịnh Đức và Tích Lương, đồng thời cắt xã Đồng Bẩm và 2 phường Chiến Thắng, Núi Voi về huyện Đồng Hỷ quản lý.
Ngày 8 tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 109/HĐBT, thành lập phường Tân Thịnh (tách ra từ xã Thịnh Đán), và chuyển 3 xã Đồng Quang, Cam Giá, Gia Sàng thành 3 phường có tên tương ứng.
Theo Quyết định số 25/HĐBT ngày 13 tháng 2 năm 1987 của Hội đồng Bộ trưởng, chuyển 2 xã Túc Duyên, Quang Vinh thành 2 phường có tên tương ứng; phường Tân Thịnh được chia thành 2 phường Tân Thịnh và Tân Lập.
Thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ, phường Đồng Quang tách thành 2 phường: Đồng Quang và Quang Trung.
Theo Quyết định ngày 6 tháng 11 năm 1996 của Quốc hội khóa IX, tỉnh Bắc Thái được tách thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn, thành phố Thái Nguyên là tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên, gồm 17 phường: Cam Giá, Đồng Quang, Gia Sàng, Hoàng Văn Thụ, Hương Sơn, Phan Đình Phùng, Phú Xá, Quan Triều, Quang Trung, Quang Vinh, Tân Lập, Tân Long, Tân Thành, Tân Thịnh, Trung Thành, Trưng Vương, Túc Duyên và 8 xã: Lương Sơn, Phúc Hà, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Tân Cương, Thịnh Đán, Thịnh Đức, Tích Lương.
Ngày 14 tháng 10 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 135/2002/QĐ-TTG công nhận thành phố Thái Nguyên là đô thị loại II.
Theo Quyết định số 14/2004/NĐ-CP, ngày 1 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ, thành lập phường Thịnh Đán trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của phường Tân Thịnh; đổi tên xã Thịnh Đán thành xã Quyết Thắng.
Ngày 31 tháng 7 năm 2008, Chính phủ đã có Nghị định số 84/2008-CP về điều chỉnh địa giới huyện Đồng Hỷ để mở rộng thành phố Thái Nguyên, bàn giao hai xã Cao Ngạn và Đồng Bẩm về thành phố Thái Nguyên.
Ngày 1 tháng 9 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 1615/QĐ-TTG công nhận thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ đã có nghị quyết số 05/NQ-CP về giải thể, điều chỉnh địa giới để thành lập các phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; theo đó, chuyển xã Tích Lương thành phường Tích Lương thuộc thành phố Thái Nguyên.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 932/NQ-UBTVQH13. Theo đó, chuyển xã Lương Sơn thuộc thành phố Thái Nguyên về thị xã Sông Công quản lý (nay là phường Lương Sơn thuộc thành phố Sông Công).
Thành phố Thái Nguyên còn lại 17.069,76 ha diện tích tự nhiên và 306.842 người với 27 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 19 phường và 8 xã.
Ngày 18 tháng 8 năm 2017, chuyển xã Sơn Cẩm của huyện Phú Lương, 2 xã Linh Sơn, Huống Thượng, thị trấn Chùa Hang của huyện Đồng Hỷ và xã Đồng Liên của huyện Phú Bình với tổng cộng 52,4 km² diện tích tự nhiên và 45.341 người về thành phố Thái Nguyên quản lý. Đồng thời chuyển xã Đồng Bẩm thành phường Đồng Bẩm, chuyển thị trấn Chùa Hang thành phường Chùa Hang.
Sau khi điều chỉnh địa giới và thành lập các phường, thành phố Thái Nguyên có 222,93 km² diện tích tự nhiên, dân số 362.921 người; có 32 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 21 phường và 11 xã.
Địa lý
Vị trí
Thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thái Nguyên, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, y tế, du lịch, dịch vụ của tỉnh Thái Nguyên và vùng trung du miền núi phía Bắc; trung tâm vùng trung du, miền núi Bắc Bộ, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 80 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Đồng Hỷ và huyện Phú Bình
Phía tây giáp huyện Đại Từ
Phía nam giáp thành phố Sông Công và thành phố Phổ Yên
Phía bắc giáp huyện Phú Lương.
Thành phố Thái Nguyên có diện tích 222,93 km², dân số năm 2017 là 362.921 người, mật độ dân số đạt 1.628 người/km².
Khí hậu
Thành phố Thái Nguyên mang những nét chung của khí hậu vùng đông bắc Việt Nam, thuộc miền khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có mùa đông lạnh giá, ít mưa, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều. Khí hậu của thành phố Thái Nguyên chia làm 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông và nằm trong vùng ấm của tỉnh, có lượng mưa trung bình khá lớn.
Tài nguyên thiên nhiên
Thành phố Thái Nguyên có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú.
Tài nguyên đất: so với diện tích đất tự nhiên thì tổng diện tích đất phù sa không được bồi hàng năm với độ trung tính ít chua là 3.125,35ha, chiếm 17,65% so với tổng diện tích tự nhiên; đất phù sa không được bồi hàng năm, chua, glây yếu có 100,19ha, chiếm 0,75% tổng diện tích đất tự nhiên được phân bổ chủ yếu ở phường Phú Xá; đất phù sa ít được bồi hàng năm trung tính ít chua có 379,84ha, chiếm 2,35% tổng diện tích đất tự nhiên; đất (Pcb1) bạc màu phát triển trên phù sa cũ có sản lượng feralit trên nền cơ giới nhẹ có 271,3ha, chiếm 1,53%; đất (Pcb2) bạc màu phát triển trên phù sa cũ có sản lượng feralit trên nền cơ giới nặng có 545,6ha, chiếm 3,08%...
Tài nguyên rừng: rừng ở Thái Nguyên chủ yếu là rừng nhân tạo và rừng trồng theo chương trình 327, rừng trồng theo chương trình PAM, vùng chè Tân Cương cùng với các loại cây trồng của nhân dân như cây nhãn, vải, quýt, chanh... Cây lương thực chủ yếu là cây lúa nước, ngô, đậu... thích hợp và phát triển ở những vùng đất bằng trên các loại đất phù sa, đất mới phát triển, đất glây trung tính ít chua.
Tài nguyên khoáng sản: 2 tuyến sông lớn chảy qua (sông Cầu và sông Công), do đó cung cấp cho thành phố một lượng cát, sỏi phục vụ xây dựng khá lớn, đủ đáp ứng nhu cầu xây dựng cho toàn thành phố. Thành phố nằm trong vùng sinh khoáng đông bắc Việt Nam, thuộc vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương. Mỏ than nội địa Khánh Hoà thuộc xã Phúc Hà có trữ lượng than rất lớn.
Nguồn nước: hai bên bờ sông của khu vực Đồng Bẩm, Túc Duyên có lượng nước ngầm phong phú.
Hành chính
Thành phố Thái Nguyên có 32 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 21 phường: Cam Giá, Chùa Hang, Đồng Bẩm, Đồng Quang, Gia Sàng, Hoàng Văn Thụ, Hương Sơn, Phan Đình Phùng, Phú Xá, Quan Triều, Quang Trung, Quang Vinh, Tân Lập, Tân Long, Tân Thành, Tân Thịnh, Thịnh Đán, Tích Lương, Trung Thành, Trưng Vương, Túc Duyên và 11 xã: Cao Ngạn, Đồng Liên, Huống Thượng, Linh Sơn, Phúc Hà, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Quyết Thắng, Sơn Cẩm, Tân Cương, Thịnh Đức.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Năm 2016, thành phố Thái Nguyên đạt các chỉ tiêu kinh tế như sau: Tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất năm 2016 đạt 15,5%. Trong đó:
- Giá trị sản xuất ngành dịch vụ đạt 15.130 tỷ đồng, tăng 18,1%.
- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng đạt 38.903 tỷ đồng, tăng 15%.
- Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 1.202 tỷ đồng, tăng 5%.
- Giá trị sản xuất công nghiệp địa phương (theo giá so sánh 2010) năm 2016 ước đạt 6.300 tỷ đồng, vượt 1,6% so với kế hoạch.
- Thu ngân sách: năm 2017 đạt 2.500 tỷ đồng
Năm 2018, thành phố đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 16%. Thu ngân sách 8 tháng đầu năm 2018 đạt 3.008 tỷ đồng. Tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 34 nghìn tỷ đồng
Năm 2021, thu ngân sách nhà nước của thành phố Thái Nguyên đạt 2.700 tỷ đồng.
Thành phố Thái Nguyên nằm trong vùng phát triển kinh tế năng động của tỉnh Thái Nguyên (bao gồm 2 thành phố Sông Công và Phổ Yên), là trung tâm công nghiệp lâu đời với trung tâm công nghiệp Gang Thép. Ngoài ra thành phố còn có tiềm năng lớn để phát triển du lịch, với Hồ Núi Cốc, các di tích lịch sử, cách mạng. Thành phố Thái Nguyên có đội ngũ cán bộ, công nhân có kinh nghiệm, năng lực, trình độ cao và đội ngũ sinh viên tốt nghiệp hàng năm từ các trường Đại học, chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.
Thành phố đã và đang có những chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào thành phố. Nhằm cải thiện môi trường đầu tư, UBND thành phố đã tích cực cải tiến các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư tại thành phố theo nguyên tắc "1 cửa", giảm thiểu thời gian khi nhà đầu tư làm thủ tục hành chính để tiến hành đầu tư hoặc kinh doanh tại thành phố.
Y tế
Thành phố là trung tâm y tế của vùng trung du miền núi Bắc Bộ với nhiều bệnh viện lớn có trình độ chuyên môn cao như:
Bệnh viện công lập
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên (1.300 giường) - Là bệnh viện tuyến Trung ương
Bệnh viện A (850 giường) - Là bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh
Bệnh viện Gang Thép (500 giường) - Là bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh
Bệnh viện Chỉnh hình & Phục hồi chức năng
Bệnh viện Mắt
Bệnh viện Trường Đại học Y khoa - Trực thuộc Đại học Thái Nguyên
Bệnh viện Y học cổ truyền Thái Nguyên
Bệnh viện Tâm thần
Bệnh viện Điều dưỡng và phục hồi chức năng
Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình
Bệnh viện Lao và Phổi Thái Nguyên
Bệnh viện tư nhân
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thái Nguyên (300 giường)
Bệnh viện Đa khoa Trung tâm
Bệnh viện Đa khoa Việt Bắc I
Bệnh viện Đa khoa An Phú
Các trung tâm y tế trên địa bàn thành phố
Trung tâm kiểm soát bệnh tật
Trung tâm Y tế Thành phố Thái Nguyên
Trung tâm Y tế Huyện Đồng Hỷ (nằm tại phường Chùa Hang)
Giáo dục
Danh sách các trường đại học và khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên:
Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh
Trường Đại học Khoa học
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp
Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông
Trường Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên
Khoa Quốc tế - Đại học Thái Nguyên
Trường Cao đẳng kinh tế kĩ thuật - Đại học Thái Nguyên
Các trung tâm và viện nghiên cứu trực thuộc Đại học Thái Nguyên:
Trung tâm Học liệu
Nhà xuất bản
Trung tâm Hợp tác Quốc tế
Bệnh viện thực hành
Viện Khoa học Sự sống
Trung tâm Giáo dục quốc phòng
Viện Nghiên cứu KT & XHNV Miền núi
Trung tâm Nghiên cứu & CGCN vùng Đông Bắc
Viện Nghiên cứu phát triển CNC về KTCN
Các Viện nghiên cứu khoa học trực thuộc Đại học Thái Nguyên phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Ngoài các trường thuộc Đại học Thái Nguyên, thành phố Thái Nguyên còn có nhiều trường Đại học, Cao đẳng thuộc các bộ, ngành khác như:
Đại học Công nghệ giao thông vận tải - Bộ giao thông vận tải
Đại học Việt Bắc - ĐH tư thục thuộc Bộ giáo dục
Văn phòng Đại diện Đại học FPT tại Thái Nguyên
Cao đẳng Cơ khí luyện kim - Bộ Công thương
Cao đẳng công nghiệp Thái Nguyên - Bộ Công thương
Cao đẳng thương mại và du lịch - Bộ Công thương
Cao đẳng Kinh tế tài chính - UBND tỉnh Thái Nguyên
Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công nghiệp - Bộ Công thương
Cao đẳng Y tế - Bộ Y tế
Cao đẳng Sư phạm - Bộ Giáo dục
Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Việt Bắc - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
Cao đẳng Nghề số 1 - Bộ Quốc phòng
Cao đẳng nghề cơ điện luyện kim - Tổng công ty thép Việt Nam
Cao đẳng Nghề công nghiệp Việt Bắc - Tập đoàn than - khoáng sản Việt Nam
Trường Cao đẳng kỹ thuật Việt - Đức - Bộ công thương
Và các trường trung học chuyên nghiệp:
Trung cấp luật - Bộ tư pháp
Trung cấp nghề Thái Nguyên
Trung cấp nghề CIENCO8
Trung cấp nghề Nam Thái Nguyên
Trung cấp nghề Tiến Bộ
Trường chính trị Đảng tỉnh - UBND Tỉnh
Trung tâm giáo dục thường xuyên - UBND Tỉnh
Trường trung cấp an ninh III - Bộ công An
Các trường trung học phổ thông
Thành phố Thái Nguyên là đơn vị hành chính đông dân nhất của tỉnh Thái Nguyên, cho nên số lượng các trường trung học phổ thông cũng đặc biệt nhiều hơn so với các thành phố, thị xã, các huyện khác với 11 trường THPT công lập, 3 trường THPT dân lập và tư thục, cùng 2 trường phổ thông thuộc khối công an, quân đội. Từ ngày 18/8/2017, theo nghị quyết của Thường vụ Quốc hội, xã Sơn Cẩm (huyện Phú Lương), thị trấn Chùa Hang (huyện Đồng Hỷ), cùng 3 xã khác được sáp nhập về thành phố. Theo đó, 2 trường THPT Khánh Hòa (nằm trên địa bàn xã Sơn Cẩm) và THPT Đồng Hỷ (nằm trên địa bàn thị trấn Chùa Hang) cũng thuộc địa bàn thành phố Thái Nguyên.
Ngoài ra còn có các trường phổ thông thuộc khối công an, quân đội:
Trường Thiếu Sinh Quân
Trường Văn hóa I - Bộ Công an
Trường Cao đẳng nghề số 1 - Bộ Quốc phòng
Khối trường tư thục:
Trường liên cấp IRIS (bao gồm Trường Mầm non, Tiểu học, Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông).
Trường mầm non Sunrise Kids phát triển bởi Công Ty Cổ Phần Thương Mại Và Xây Dựng Quỳnh Minh.
Ngành giáo dục của thành phố cũng đạt được nhiều thành tựu lớn với 4 trường cấp bậc Trung học cơ sở được đón cờ thi đua của Chính phủ và 100% các trường THCS đều đạt Chuẩn Quốc gia, nhiều trường Trung học phổ thông đạt được những thành tích cao như THPT Chuyên Thái Nguyên, THPT Lương Ngọc Quyến, THPT Chu Văn An, Trường THPT Tư Thục Đào Duy Từ,...
Vẻ đẹp tự nhiên
Khác với Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định hay các thành phố khác thuộc vùng đồng bằng, thành phố Thái Nguyên là một thành phố thuộc vùng trung du miền núi phía Bắc với những quả đồi thấp, và dòng sông Cầu, sông Công chảy qua. Nhiều công trình mang tính lịch sử có những đặc trưng riêng như: Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, Ngân hàng Nhà nước Thái Nguyên,.. Cùng với đó là các công trình mới liên tục được xây dựng như: Nhà hát ca múa nhạc dân gian Việt Bắc, tháp tài chính FCC, tòa nhà Kim Thái, trung tâm thương mại Vincom, các khu chung cư cao tầng TBCO, TECCO,.. Tất cả đã tạo nên một thành phố Thái Nguyên với một bộ mặt mới ngày càng hiện đại hơn. Trong tương lai, thành phố Thái Nguyên sẽ tiếp tục phát triển đô thị khang trang hơn với các dự án và công trình đã và đang triển khai như: Dự án đô thị hai bên bờ sông Cầu kết hợp chỉnh lũ sông Cầu, khu đô thị Picenza 1 và 2, khu nhà ở HUDS Đồng Bẩm,... Các công trình này hứa hẹn sẽ tạo điểm nhấn mới cho sự phát triển năng động của thành phố Thái Nguyên trong tương lai.
Hệ thống kết cấu hạ tầng
Hệ thống điện
Nguồn cung cấp điện cho thành phố Thái Nguyên hiện nay là nguồn điện lưới quốc gia với hệ thống đường dây cao thế 110kV và 220kV thông qua đường hạ thế xuống 35kV - 12kV - 6kV/380V/220V; 100% các đường phố chính có đèn chiếu sáng ban đêm.
Hệ thống nước sinh hoạt
Thành phố hiện có hai nhà máy nước là nhà máy nước Thái Nguyên và nhà máy nước Tích Lương với tổng công suất là 40.000m3/ng.đêm. Đảm bảo cung cấp nước sạch phục vụ cho sinh hoạt ở mức 100lit/người/ngày. Đến nay, 93% số hộ khu vực nội thành được cấp nước sinh hoạt.
Hệ thống thông tin liên lạc và truyền thông
Thành phố có 1 tổng đài điện tử và nhiều tổng đài khu vực. Mạng lưới viễn thông di động đã và đang được đầu tư đồng bộ hoàn chỉnh, trên địa bàn thành phố đã được phủ sóng và khai thác dịch vụ thông tin di động bởi 6 mạng di động: Vinaphone, Mobifone, Viettel, Gmobile, Vietnamobile và Sfone.
Báo chí:
Báo Thái Nguyên
Báo Văn Nghệ Thái Nguyên
Văn phòng đại diện Báo Nông nghiệp Việt Nam
Văn phòng đại diện Báo Nhân dân
Văn phòng đại diện Báo Cựu chiến binh
Văn phòng đại diện Báo Sài Gòn Giải phóng
Văn phòng đại diện Báo Đầu tư
Văn phòng đại diện Báo Lao động
Phân xã Thông tấn xã Việt Nam tại Thái Nguyên
Phát thanh:
Đài truyền thanh truyền hình Thành phố Thái Nguyên: tần số 99 MHz
Đây cũng là cơ quan ngôn luận của thành phố, với hệ thống loa công cộng phủ sóng rộng khắp, cùng sóng không dây FM. Đài cũng đã đưa vào vận hành trang thông tin điện tử daithainguyen.vn và chương trình truyền hình TPTN trên sóng TN1 - Đài PTTH tỉnh Thái Nguyên.
Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên: tần số 106.5 MHz
Đây là kênh thông tin của Đài PTTH tỉnh Thái Nguyên, với thời lượng 16 tiếng/ngày qua sóng FM. Cung cấp các thông tin thời sự trong tỉnh, trong và ngoài nước, cùng nhiều lĩnh vực khác.
Ngoài ra cũng có thể nghe được một số kênh phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam
Truyền hình:
Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên: kênh thông tin tổng hợp TN1HD (thời lượng 24h/ngày), kênh khoa giáo và giải trí TN2HD (thời lượng 18h/ngày. Hiện nay kênh TN1 đã phủ sóng vệ tinh Vinasat1,2, hệ thống truyền hình số mặt đất DVB T2, cùng nhiều hệ thống truyền hình như VTVCab HD, VTC, MyTV của VNPT, NextTV, FPT, và các hệ thống truyền hình OTT trên di động. Kênh TN2 cũng có thể xem qua vệ tinh, truyền hình VTC với chất lượng hình ảnh HD.
Ngoài ra hầu hết các kênh truyền hình quốc gia và quốc tế đặc sắc cùng các kênh địa phương khác đã được phân phối thông qua các hệ thống truyền hình trả tiền đang hiện diện tại Thái Nguyên như VTVCab, VTC, AVG, K+, FPT, MyTV, NextTV,...
Giao thông
Có quốc lộ 3, quốc lộ 37 và đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên – Bắc Kạn – Cao Bằng đi qua.
Hiện chưa có thống kê đầy đủ về số lượng các đường, phố ở thành phố Thái Nguyên. Nhìn chung, hạ tầng giao thông đô thị của thành phố đã và đang được đầu tư xây dựng một cách đồng bộ. Tuy nhiên trong những năm gần đây, dân số thành phố Thái Nguyên không ngừng tăng nhanh, thêm vào đó là mỗi năm thành phố phải đón nhận một lượng lớn người nhập cư là sinh viên theo học các trường Đại học, cao đẳng trên địa bàn nên đã xảy ra tình trạng tắc đường cục bộ tại một số điểm vào những giờ cao điểm như: Ngã tư Đồng Quang, đường Hoàng Văn Thụ, đường Lương Ngọc Quyến,... khiến cho bức tranh giao thông thành phố trở nên xấu đi.
Đường phố chính
Các tuyến đường:
Thanh Niên (thuộc khu Quảng trường Võ Nguyên Giáp)
Thanh Niên (thuộc phường Chùa Hang ngày nay, được đặt tên vào năm 2004 theo quyết định số 106 của UBND huyện Đồng Hỷ)
Hữu Nghị 1 (nối liền từ địa phận tổ dân phố Hưng Thái, thị trấn Hóa Thượng (huyện Đồng Hỷ) đến đường Núi Voi thuộc tổ 11, phường Chùa Hang)
Hữu Nghị 2 (nối liền từ địa phận tổ dân phố Sơn Quang, thị trấn Hóa Thượng (huyện Đồng Hỷ) đến đường Núi Voi thuộc tổ 11, phường Chùa Hang)
Núi Voi (nối liền từ đảo tròn Chùa Hang đến Quốc lộ 1B)
3 tháng 2 (nối liền từ đường Lê Quý Đôn (thị trấn Hóa Thượng đến địa phận Quân khu 1 thuộc huyện Đồng Hỷ và nối tiếp đến cổng Trung tâm Y tế huyện Đồng Hỷ và Ban Chỉ huy Quân sự huyện Đồng Hỷ (cơ sở cũ, đã chuyển địa điểm) thuộc phường Chùa Hang)
Bắc Kạn
Bắc Nam
Bắc Sơn
Bến Oánh
Bến Tượng
Phùng Chí Kiên
Cách mạng tháng Tám
Dương Tự Minh
Đê Nông Lâm
Đội Cấn
Đồng Bẩm
Đường Khu Nam ĐH Sư phạm Thái Nguyên
Ga Quan Triều
Ga Lưu Xá
Gia Sàng
Hoàng Ngân
Hoàng Văn Thụ
Hùng Vương
Hương Sơn
Lê Hữu Trác
Lê Quý Đôn
Lương Ngọc Quyến
Lương Thế Vinh
Lưu Nhân Chú
Minh Cầu
Mỏ Bạch
Nguyễn Du
Nha Trang
Phan Đình Phùng
Phố Hương
Phú Thái
Phủ Liễn
Phú Xá
Phúc Hà
Quang Trung
Quang Vinh
Tân Quang
Tân Thành
Tân Thịnh
Thịnh Đức
Thống Nhất
Tích Lương
Túc Duyên
Tố Hữu
Việt Bắc
Xuân Hòa
Z115
Các tuyến phố:
Phố Cột Cờ
Phố Đặng Văn Ngữ
Phố Đầm Xanh
Phố Đoàn Thị Điểm
Phố Đội Giá
Phố Đồng Mỗ
Phố Đồng Quang
Phố Hồ Đắc Di
Phố Hoàng Hoa Thám
Phố Lương Đình Của
Phố Lương Thế Vinh
Phố Nhị Quý
Phố Ngô Thì Sĩ
Phố Nguyễn Bính
Phố Nguyễn Công Hoan
Phố Nguyễn Đình Chiểu
Phố Nguyễn Thái Học
Phố Nguyễn Trung Trực
Phố Nguyễn Tri Phương
Phố Phan Bội Châu
Phố Trần Đăng Ninh
Phố Trịnh Bá
Phố Tô Ngọc Vân
Phố Văn Cao
Phố Vương Thừa Vũ
Phố Xương Rồng
Phố 19/8
Các tuyến xe buýt
Thành phố hiện có nhiều tuyến xe buýt đi tới tất cả các địa phương trong tỉnh, bao gồm:
Đồng Hỷ - Sông Công - Phổ Yên - Phố Nỷ (Sóc Sơn, Hà Nội) - Xem lộ trình
A Gang Thép (TPTN) - Đường Cách mạng tháng Tám - Trung tâm TPTN -Yên Lãng (Đại Từ) - Xem lộ trình
B Gang Thép (TPTN) - Quốc lộ 3 - Đường tránh TPTN - Tân Long (TPTN)- Yên Lãng (Đại Từ) - Xem lộ trình
Chợ Thái (TPTN)- Hồ Núi Cốc - TT Đại Từ - Ký Phú - Xem lộ trình
Đồng Hỷ - Thành phố Thái Nguyên - Phố Nỷ (Sóc Sơn, Hà Nội)- Xem lộ trình
Tân Long (TPTN) - Phú Bình - Cầu Ca (Phú Bình) - Xem lộ trình
Thành phố Thái Nguyên - Định Hóa - Xem lộ trình
Quyết Thắng (TPTN) - Đình Cả (Võ Nhai) - Xem lộ trình
Bình Long (Võ Nhai) - Đồng Hỷ - Phố Nỷ (Sóc Sơn, Hà Nội)
TT Trại Cau (Đồng Hỷ) - Thịnh Đán (TPTN) - Thành phố Sông Công - KCN Yên Bình (Samsung Phổ Yên) - Xem lộ trình
Thịnh Đán (TP.Thái Nguyên) - Quân Chu (Đại Từ) [Đã ngừng hoạt động]
Sông Công - KCN Điềm Thụy (Phú Bình) [Đã ngừng hoạt động]
ATK Định Hóa - Khu DTLS Đại đội TNXP 915 Gia Sàng (TP Thái Nguyên)
Hệ thống giao thông liên vùng
Thành phố Thái Nguyên cách thủ đô Hà Nội 80 km và cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km. Ngoài ra thành phố còn là cửa ngõ đi các tỉnh Đông Bắc như: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn.
Đường bộ:
Thành phố Thái Nguyên là một đầu mút giao thông với 4 đường Quốc lộ và 1 tuyến cao tốc, 1 tuyến tiền cao tốc đi qua gồm: Quốc lộ 3 (đi Hà Nội về phía Nam, đi Bắc Kạn về phía Bắc), Quốc lộ 37 (đi Tuyên Quang về phía Tây, đi Bắc Giang về phía Đông), Quốc lộ 17 (đi Hà Nội, qua Bắc Giang, Bắc Ninh), Quốc lộ 1B (đi Lạng Sơn), cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên (nối vào tuyến tránh đi vòng qua thành phố, không vào trung tâm, đấu nối với các tuyến đường vào trung tâm tại 3 nút giao là Tân Lập, Đán và Tân Long), tiền cao tốc Thái Nguyên - Chợ Mới (Bắc Kạn).
Thành phố đã xây dựng và đưa vào sử dụng Bến xe khách trung tâm thành phố thay cho bến xe cũ đã quá tải. Đây cũng được xem như là bến xe lớn và hiện đại nhất khu vực phía Bắc, với hệ thống quản lý giám sát xe ra vào hoàn toàn tự động bằng thẻ từ. Bến xe cũ nằm trong trung tâm thành phố hiện là trung tâm thương mại Vincom.
Thành phố đang triển khai xây dựng thêm Bến xe phía Bắc đặt tại phường Tân Long, và Bến xe phía Nam tại phường Tích Lương.
Đường sắt:
Thành phố Thái Nguyên có 2 hệ thống đường sắt chính: Hà Nội - Quan Triều và Lưu Xá - Kép, ngoài ra còn có tuyến Quan Triều - Núi Hồng chuyên dùng để chở khoáng sản. Hiện nay, một ngày có 2 chuyến tàu xuất phát từ Thái Nguyên đi Hà Nội.
Đường sông:
Hệ thống đường sông nội thủy hiện không còn được sử dụng do các sông thường có mức nước nông nhất là vào mùa đông. Trong tương lai tuyến sông Cầu qua thành phố sẽ được khai thác phục vụ du lịch.
Đường không:
Trong lịch sử, thành phố có sân bay Đồng Bẩm, là sân bay quân sự. Tuy nhiên sân bay này hiện đang bị bỏ hoang và không được sử dụng.
Thành phố kết nghĩa
Gyeongsang Bắc
Dongnae, Busan
Thành phố Nha Trang, Khánh Hòa
Du lịch
Thành phố Thái Nguyên là trung tâm du lịch của tỉnh Thái Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc. Nơi đây có khu du lịch Hồ Núi Cốc nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, có Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam mới được tổ chức SIDA Thuỵ Điển tài trợ sửa chữa, nâng cấp, là nơi lưu giữ hầu hết các di sản mang đậm bản sắc của các dân tộc Việt Nam, làng nghề chè Tân Cương nổi tiếng, đền thờ Đội Cấn và 112 di tích lịch sử, văn hóa khác, trong đó có 06 di tích được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, 22 di tích được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh.
Nhà hát ca múa dân gian Việt Bắc
Nhà hát ca múa dân gian Việt Bắc là nhà hát trung ương đóng trên địa bàn Thái Nguyên trực thuộc Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Trụ sở tại Đường Chu Văn An - Thành phố Thái Nguyên. Nhà hát đang được đầu tư xây dựng địa điểm mới tại Đường Hoàng Văn Thụ - TP.Thái Nguyên
Khu du lịch Hồ Núi Cốc
Cách trung tâm thành phố 16 km về phía Tây, Khu du lịch Hồ Núi Cốc là một điểm đến đầy hấp dẫn đối với khách du lịch. Đến với Hồ Núi Cốc là đến với truyền thuyết Nàng Công Chàng Cốc, là hòa mình vào những phong cảnh đẹp, hữu tình. Cùng với đó là hệ thống vui chơi giải trí khá thú vị như: Huyền Thoại Cung, Động Ba Cây Thông, Động Thế giới Âm phủ, Sân khấu nhạc nước, Vườn thú Hồ Núi Cốc, Công viên nước Hồ Núi Cốc...hay bạn cũng có thể đi du thuyền trên hồ, đi thăm các hòn đảo, thăm ngôi nhà cổ 300 năm trên Hồ Núi Cốc. Trong những năm qua, mạng lưới nhà hàng khách sạn không ngừng được đầu tư xây dựng và phát triển, đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng cao của du khách. Khu du lịch Hồ Núi Cốc được xác định là vùng du lịch trọng điểm quốc gia.
Chùa Phủ Liễn
Tên chữ là Phù Chân tự, được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX trên một quả đồi thuộc làng Phù Liễn, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc phường Hoàng Văn Thụ - TPTN). Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Các công trình chính của chùa như điện Tam Bảo, điện thờ Mẫu, nhà tổ và một số nhà tháp là nơi đặt linh vị của các nhà sư trụ trì. Từ xa xưa, chùa Phủ Liễn được coi là địa linh, là một trong những điểm hành hương về cầu trời phật của người dân Thái Nguyên.
"Khi Mỏ Bạch, khi Xương Rồng
Khi Phù Liễn tự, khi Đồng Mỗ am"
Vào ngày mùng một, ngày rằm hàng tháng, Phật tử khắp nơi về chùa Phủ Liễn thắp hương cúng Phật. Lễ hội của nhà chùa mở vào ngày 12 tháng Giêng hàng năm, trong lễ hội có nhiều trò chơi dân gian như chọi gà, kéo co, múa sư tử và hội thơ xuân Phủ Liễn.
Đền Đội Cấn
Đền thờ ông Đội Cấn - Thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp tại Thái Nguyên năm 1917 và các nghĩa sĩ tham gia khởi nghĩa này. Đền cũ được xây dựng trước năm 1945, đã bị bom Pháp phá huỷ năm 1947. Ngôi đền hiện nay xây dựng trên nền cũ, trong khuôn viên khu đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tỉnh Thái Nguyên ở trung tâm thành phố.
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam
Tọa lạc trên đường Đội Cấn thành phố Thái Nguyên, Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam là bảo tàng trung ương duy nhất đóng trên địa bàn Thái Nguyên trực thuộc Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Bảo tàng được xây dựng từ năm 1960 với lối kiến trúc độc đáo vào loại bậc nhất Việt Nam. Với 5 phòng trưng bày trong nhà và 6 khu vực trưng bày ngoài trời với nhiều nền văn hóa của các dân tộc thuộc nhiều vùng miền khác nhau.
Bảo tàng quân khu I
Bảo tàng Bảo tàng lực lượng vũ trang Việt Bắc - Quân khu I tọa lạc trên khuôn viên rộng 45 nghìn m² thuộc phường Tân Thịnh, Thành phố Thái Nguyên. Đây là nơi gìn giữ và giới thiệu hơn 9.500 hiện vật các loại phản ánh lịch sử hình thành và phát triển trong các thời kỳ cách mạng của lực lượng vũ trang Việt Bắc - Quân khu I.
Nhà trưng bày của Bảo tàng được xây dựng hai tầng. Tầng một diện tích 700 m² trưng bày giới thiệu vị trí chiến lược, truyền thống yêu nước cách mạng của vùng Việt Bắc và phòng triển lãm chuyên đề. Tầng hai 800m2 trưng bày theo các chủ đề: Việt Bắc căn cứ địa cách mạng, chiến trường chính của cả nước trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp (1946 - 1954); Quân khu I trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975), Quân khu I trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quan hệ quốc tế và trưng bày chuyên đề. Bảo tàng còn có khu trưng bày ngoài trời hiện đang trưng bày 28 hiện vật lớn như: Máy bay, tên lửa, ra đa, súng pháo do các đồng bào dân tộc Việt Bắc sử dụng lập nên nhiều chiến công trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc.
Đặc sản
Xưa nay, nói đến trà Việt, người ta nghĩ ngay đến trà Thái Nguyên. Mặc dù diện tích trồng chè chỉ đứng thứ 2 cả nước (sau Lâm Đồng), nhưng Thái Nguyên nằm trong vùng chè lâu đời của Việt Nam, với sản phẩm chè có hương vị đặc trưng mà không nơi nào khác có được. Từ rất lâu, chè Thái Nguyên đã được tôn vinh là "đệ nhất danh trà" của đất nước.
Chè Thái Nguyên ngon nhất là chè xanh Tân Cương, búp đều, nhỏ, hình móc câu, có vị cốm thơm. Nước pha trà ngon nhất là nước suối đầu nguồn, nước sạch ở giữa lòng sông hoặc nước giếng khơi.
Ông Lê Công Thịnh, người có công đầu tiên trong việc đem cây chè về ươm trồng, phát triển làng chè ở thôn Làng Cháy, xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Từ vùng chè nơi đây, sau này được phát triển rộng các thôn lân cận như Tiền Phong, Thống Nhất,... và ra nhiều vùng đất khác của tỉnh Thái Nguyên.
Ông sinh năm 1910, quê thôn Trà Hồi, xã Thuỵ Bình, huyện Thuỵ Anh, tỉnh Thái Bình. Ông còn được người dân gọi là “ông Ký Thịnh”, vì có nhiều hiểu biết về nghề y chữa bệnh làm phúc cho dân. Thời kỳ 1951 - 1953, ông còn làm y tá ở bệnh viện Thái Nguyên.
Những năm trước 1940, ông có dịp đặt chân đến xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Khi đó nơi đây còn là vùng rừng núi hoang vu heo hút, lác đác có vài hộ bà con người dân tộc Tày, Nùng, Cao Lan, sống rất nghèo khổ, người Kinh lúc đó ở đây chỉ có hai gia đình, đất cấy lúa rất ít, nguồn sống chính là dựa vào trồng khoai sắn, hái măng và đào củ rừng. Thấy bà con nơi đây đói khổ, hoàn cảnh, ông luôn trăn trở rồi nung nấu ý tưởng là cần phải phát triển nghề trồng trọt, tìm những loại hình cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng và có lợi ích kinh tế cao cho bà con đỡ khổ. Nên thời gian sau đó, ông đã qua lại thôn Làng Cháy thêm nhiều lần để khảo sát và tìm hiểu kỹ về vùng đất này. Cuối cùng ông đã đi đến khẳng định thổ nhưỡng và khí hậu ở đây rất tốt, rất phù hợp với đặc tính phát triển của cây chè.
Và thế là cuối năm 1941, ông đã huy động nhân lực lao động là bạn bè và một số bà con người dân ở đây khai sơn, phá thạch chuẩn bị được hơn 5 ha đất để trồng thử nghiệm cây chè ở thôn Làng Cháy.
Mùa xuân năm 1942, những cây chè giống đầu tiên đã được đưa về đây ươm trồng. Sau 2 năm vun xới chăm sóc, những vườn chè xanh mướt, tốt tươi đã cho mùa thu hoạch. Đến mùa xuân năm 1943, những mẻ chè đầu tiên đã được chế biến xuất xưởng, có hương vị rất đặc trưng của chè Thái Nguyên nước xanh, thơm ngát, đậm đà.
Tiếng lành đồn xa, nhiều khách hàng trong tỉnh, ngoài tỉnh đã đến đặt hàng để mua chè của ông Ký Thịnh. Cuối năm 1943 đầu năm 1944, ông quyết định mở rộng phát triển sản xuất tăng diện tích trồng chè.
Năm 1944, nhân sự kiện đảo chính Nhật - Pháp, phu thợ ở các khu mỏ ở Thái Nguyên do bị bóc lột, đàn áp quá tàn ác đã bỏ trốn rất nhiều, ông đã huy động được lực lượng lao động dồi dào này về để khai phá thêm đất rừng, mở rộng thêm diện tích trồng chè - nay thuộc đất của Nông trường Sông Cầu và một số hộ dân trong vùng.
Không chỉ có công tìm tòi đưa giống cây chè về nhân giống cho bà con trong vùng mà ông còn tỉ mỉ hướng dẫn bà con từ cách ươm giống cây chè, đến trồng chè, kỹ thuật chăm sóc, bón xới cho cây chè phát triển tốt. Và hướng dẫn cả cách hái chè, sao chè qua từng công đoạn, đến việc cuối cùng là lấy hương để đạt được sản phẩm chè khô chất lượng tốt nhất.
Những năm từ 1958 trở lại đây, bà con ở các thôn, xã lân cận có đến hàng trăm hộ gia đình đã đến Làng Cháy lấy giống chè của ông Ký Thịnh về trồng trọt, phát triển kinh tế gia đình, làm giàu quê hương. Có thể nói cây chè Làng Cháy, nghề chè Làng Cháy là nguồn cội đầu tiên của cây chè, nghề chè của tỉnh Thái Nguyên.
Năm 2016, hai thôn là Làng Cháy và Tiền Phong đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Làng chè truyền thống”. Bà con ở thôn Làng Cháy và xã Khe Mo đã cử phái đoàn kính cẩn đến dâng lễ tạ ơn công lao ông tại nơi ông đã yên nghỉ ở xóm Ao Rôm 1, xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Sâu thẳm trong tiềm thức truyền dạy của các bậc ông cha, những người dân ở đây đã ghi nhận và suy tôn ông là “ông tổ nghề chè”, là người đầu tiên đem cây chè về cho các vùng đất Thái Nguyên ngày nay.
Ông Ký Thịnh còn dựng lên Ngôi miếu thờ Sơn thần Thổ địa và ngôi miếu này từ ngày khai sinh ra vùng đất chè đã được người dân thành kính tiếp tục tôn thờ đến ngày nay tại thôn Làng Cháy.
Cây chè đã thực sự góp phần to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội của thôn Làng Cháy nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung. Sản phẩm chè Thái Nguyên đã đứng vững trên thị trường với thương hiệu quốc gia và quốc tế. Có được thành quả ấy, người dân nơi đây luôn ghi nhớ công ơn của ông Lê Công Thịnh (tức ông Ký Thịnh) - “Ông tổ nghề chè”. Nguồn https://langngheviet.com.vn/nguoi-co-cong-phat-trien-lang-nghe-che-o-thai-nguyen-7347.html (bài và ảnh: Trần Hùng)
Chú thích |
Cap Saint Jacques là tỉnh cũ ở Nam Kỳ, Việt Nam, tách ra từ tỉnh Bà Rịa.
Ngày 30 tháng 4 năm 1929, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách phần đất của tổng Vũng Tàu (gồm 3 xã Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam) thuộc đại lý hành chính Cap Saint Jacques, xã Long Sơn lập ra tỉnh Cap Saint Jacques.
Ngày 28 tháng 12 năm 1934, tỉnh Cap Saint Jacques bị giải thể, Cap Saint Jacques trở thành thành phố thuộc tỉnh Bà Rịa.
Danh sách các Chủ tỉnh Pháp ở tỉnh Cap Saint Jacques (Bà Rịa - Vũng Tàu) (mang tính tham khảo, sẽ bổ sung sau): 1861 - 1945
Garrindo (1864 - 1867)
Benoist (1869 - 1871)
Henry: 1874 - 1875
Escoubet: 1875
Petitgand: 1875
Briere: 1875
Nansot: 1875 - 1877
Navelle: 1877 - 1879
Duchamp: 1879 - 1880
Arbod: 1880 - 1881
Rougeot: 1881 - 1883
Huyn de Verneville: 1884 - 1887
Saintenoy: 1888 - 1891
Couzineau: 1909 - 1911
Armand Tholance: 1926.
Chú thích |
Bà Rịa là tỉnh cũ thuộc vùng Đông Nam Bộ Việt Nam, nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Lịch sử
Vùng đất Bà Rịa xưa
Vùng đất Bà Rịa được người Việt Nam khai phá từ thế kỷ 17, lúc đầu Bà Rịa thuộc dinh Trấn Biên, tỉnh Gia Định. Năm 1808, vua Gia Long đổi Trấn Biên thành Biên Hoà. Tên Bà Rịa có hai cách giải thích: theo các cuốn Gia Định thành thống chí'", Đại Nam nhất thống chí'' và một số bộ sử khác thì Bà Rịa vốn là đất của tiểu vương Bà Rịa (bị Chân Lạp thôn tính).
Năm 1622, theo thoả ước của chúa Nguyễn Phúc Nguyên với vua Chân Lạp Chey Chetta II, những nhóm cư dân Việt đầu tiên được phép khai phá xứ Mô Xoài. Tên Bà Lỵ là cách người Việt viết âm tiếng Hán của Bà Rịa. Một cách giải thích khác: vào khoảng năm 1789 có một người đàn bà tục gọi là Bà Rịa người Bình Định đưa dân nghèo vào khai hoang ở Tam Phước (tên gọi ngày nay). Nhờ uy tín và tài năng tổ chức, bà động viên được mọi người ra sức khẩn hoang, xây dựng cuộc sống trên vùng đất mới. Về già, bà Rịa đem hết tài sản của mình làm việc công ích, lập quỹ cứu tế để trợ giúp ngời nghèo, rước thầy về dạy học cho trẻ,... Bà qua đời năm 1803, được dân lập dền thờ như một vị phúc thần. Tên của bà đã trở thành tên của vùng đất này.
Tuy nhiên, cách xác định, được biết đến và tin cậy rộng rãi nhất về vùng đất này đó là bà Nguyễn Thị Rịa (1665 – 1759) đã dẫn dắt người dân khai khẩn vùng Đàng Trong, ảnh hưởng tới tên gọi của Bà Rịa dưới quy chế, xác nhận của người Pháp thời Pháp thuộc cho đến ngày nay.
Thay đổi hành chính
Tỉnh Bà Rịa được thành lập từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 cùng với 19 tỉnh khác ở Nam Kỳ theo nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương do việc đổi các hạt tham biện thành tỉnh.
Trước đó vào năm 1876, hạt tham biện, còn gọi là tiểu khu hành chính, (arrondissement) Bà Rịa được thành lập trên địa bàn phủ Phước Tuy của tỉnh Biên Hòa cũ.
Khi mới thành lập, tỉnh Bà Rịa có 8 tổng, 64 làng, sau tăng lên thành 10 tổng.
Ngày 27 tháng 6 năm 1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ (thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) nhập 2 tỉnh Bà Rịa và Chợ Lớn thành tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn, có khi gọi tắt là tỉnh Bà Chợ. Tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn thuộc Phân liên khu Miền Đông, Liên khu Nam Bộ.
Tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lập tỉnh Phước Tuy gồm địa bàn tỉnh Bà Rịa và quần đảo Trường Sa.
Từ tháng 3 năm 1963 đến tháng 12 năm 1963 và từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 10 năm 1967, chính quyền Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sáp nhập tỉnh Bà Rịa với tỉnh Biên Hòa thành tỉnh Bà Biên.
Trong quá trình tồn tại của tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu đã nhiều được tách ra rồi lại nhập vào.
Hiện nay, địa danh Bà Rịa chỉ còn được dùng để chỉ thành phố Bà Rịa, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và là tỉnh lỵ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Phân chia hành chính
Năm 1897
Toàn tỉnh Bà Rịa được chia thành 7 tổng:
Tổng An Phú Hạ có 13 làng: Long Hiệp, Long Hương, Long Kiên, Long Lập, Long Nhung, Long Xuyên, Mỹ Xuân, Núi Nứa, Phước Hòa, Phước Hữu, Phước Lễ, Phú Thạnh, Thạnh An
Tổng An Phú Thượng có 7 làng: An Ngãi, An Nhứt, Hắc Lăng, Long Điền, Long Thạnh, Long Hải, Phước Tỉnh
Tổng Phước Hưng Hạ có 12 làng: Gia Thạnh, Hiệp Hòa, Hưng Hòa, Long Hưng, Long Thới, Phước Hữu, Phước Hạp, Phước Lợi, Phước Thọ, Phước Tuy, Thạnh Mỹ, Xuyên Mộc
Tổng Phước Hưng Thượng có 8 làng: An Thới, Hội Mỹ, Lộc An, Long Mỹ, Phước Hải, Phước Liễu, Phước Trinh, Phước Hưng
Tổng An Trạch có 7 làng: Bằng La, Cù Bị, Cụ Khánh, Hắc Dịch, La Vân, Phước Chí, La Sơn
Tổng Long Cơ có 6 làng: Bình Ba, Bình Giã, Điền Giả, Ngãi Giao, Quảng Giao, Trịnh Ba
Tổng Long Xương có 7 làng: Anh Mao, Cù Mỹ, Hương Sa, Lâm Xuân, Thanh Hóa, Xuân Khai, Xuân Sơn
Năm 1939
Tỉnh Bà Rịa có 1 quận Long Điền với 8 tổng:
Tổng An Phú Hạ có 5 làng: Long Phước, Long Kiển, Long Tân, Long Xuyên, Phước Lễ
Tổng An Phú Tân có 6 làng: Hội Bài, Long Hương, Phú Mỹ, Núi Nứa, Phước Hòa, Thạnh An
Tổng An Phú Thượng có 6 làng: An Ngãi, An Nhứt, Hắc Lăng, Long Thạnh, Long Điền, Phước Tĩnh
Tổng Phước Hưng Hạ có 6 làng: Phước Bửu, Phước Thọ, Phước Tuy, Thạnh Mỹ, Xuân Khai, Xuyên Mộc
Tổng Phước Hưng Trung có 5 làng: Gia Thạnh, Long Hòa, Phước Hiệp, Phước Lợi, Thới Hòa
Tổng Phước Hưng Thượng có 5 làng: Lộc An, Long Mỹ, Hội Mỹ, Phước Hải, Tam Phước
Tổng Cơ Trạch có 15 làng: Bình Ba, Bình Giã, Cù Bị, Cù Khanh, Cù Mi, Điền Dã, Hắc Dịch, La Sơn, Lâm Xuân, La Văn, Phước Chí, Ngãi Giao, Quảng Giao, Xuân Sơn, Bằng La
Tổng Nhơn Xương có 5 làng: Hưng Nhơn, Thanh Toa, Nhu Lâm, Thừa Tích, Trịnh Ba |
Đền Đô, là tên gọi di tích thờ các vị vua, quan, có thể gồm các đền thờ sau:
Đền Lý Bát Đế (hay Cổ Pháp điện), ở làng (xã) Đình Bảng (nay là phường Đình Bảng), thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh - nơi thờ tám vị vua đầu tiên của nhà Lý,
Đền Đô ở xã Ninh Nhất thành phố Ninh Bình thờ thần Quý Minh trấn trạch phía Nam Hoa Lư tứ trấn.
Đền Đô, (hay Đền Đại Tư Mã) ở làng Quan Độ, xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh - nơi thờ quan Đại tư mã Nghiêm Tĩnh thời Lý. |
Hành tinh lùn là các thiên thể quay quanh Mặt Trời có khối lượng hành tinh nhưng nhỏ hơn tám hành tinh chính thức của Thái Dương hệ. Đây là một khái niệm trong việc phân loại các thiên thể trong Hệ Mặt Trời được Hiệp hội Thiên văn Quốc tế công bố vào ngày 24 tháng 8 năm 2006. Theo đó, các hành tinh lùn:
Có quỹ đạo quanh Mặt Trời
Có khối lượng đủ lớn để trọng trường của chính nó thắng lực vật rắn, tạo nên hình dạng cân bằng thủy tĩnh (gần hình cầu)
Có những vật thể khác nằm trên quỹ đạo chưa được dọn sạch
Không phải là vệ tinh tự nhiên của một hành tinh, hay các vật thể khác trong hệ Mặt Trời.
Cũng theo định nghĩa này, mọi vật thể trong hệ Mặt Trời (ngoại trừ Mặt Trời) được phân vào một trong ba thể loại là hành tinh, hành tinh lùn và vật thể nhỏ trong Hệ Mặt Trời. Theo cách phân loại mới này, Sao Diêm Vương không còn là một hành tinh mà là một hành tinh lùn. Bên cạnh đó, trong số các tiểu hành tinh, Ceres nay là một hành tinh lùn; trong khi đa số các tiểu hành tinh còn lại như Vesta nay là thiên thể nhỏ trong Hệ Mặt Trời. Nhiều sách báo của Việt Nam dịch không đúng thuật ngữ "hành tinh lùn" từ tiếng Anh khi gọi đây là "tiểu hành tinh", một thuật ngữ đã được dùng từ lâu để dịch từ asteroid (hoặc minor planet) trong tiếng Anh.
Danh sách các hành tinh lùn trong Hệ Mặt Trời
Được công nhận
Đây là những vật thể nhỏ được công nhận rộng rãi là hành tinh lùn:
Diêm Vương Tinh
Ceres
Eris
Makemake
Haumea
Ít được công nhận
Có một số thiên thể nhỏ khác chưa được công nhận nhưng các quan điểm khoa học vẫn cho rằng chúng thuộc nhóm hành tinh lùn.
Sedna
Quaoar
Orcus
Ixion
Varuna
Salacia
2002 MS4
Gonggong
2002 AW197
Varda
Vệ tinh tự nhiên của các hành tinh lùn
Các hành tinh lùn cũng có vệ tinh tự nhiên. Trong số chúng, Diêm Vương Tinh có 5 mặt trăng là Charon, Nix, Hydra, Styx và Kerberos. Một số hành tinh lùn khác như Eris, Haumea hay Quaoar cũng có chúng. Một thiên thể khác là S/2015 (136472) 1 của Makemake cũng là một vệ tinh tự nhiên của hành tinh này. |
Đặng Nhật Minh (sinh ngày 11 tháng 5 năm 1938) là một đạo diễn, biên kịch điện ảnh kiêm chính trị gia, người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng Thành tựu trọn đời tại một liên hoan phim quốc tế. Ông nổi tiếng với những bộ phim như: Đừng đốt, Cô gái trên sông, Thương nhớ đồng quê, Mùa ổi; đặc biệt, Bao giờ cho đến tháng Mười được nhiều hãng thông tấn đánh giá là một trong những phim châu Á hay nhất mọi thời đại. Ông được đánh giá là một đạo diễn hàng đầu của điện ảnh Việt Nam.
Khởi đầu với những bộ phim tài liệu theo sự phân công của hãng phim và nhà nước Việt Nam, Đặng Nhật Minh dần có những tác phẩm cho riêng mình. Kiên trì với nguyên tắc chỉ đạo diễn những bộ phim do chính mình viết kịch bản, ông đã tạo nên những tác phẩm có sự đồng nhất về mặt biểu đạt cũng như mang đậm phong cách đặc trưng cá nhân. Ngoại trừ 2 tác phẩm đầu tay, gần như toàn bộ các bộ phim điện ảnh của Đặng Nhật Minh đều giành được các giải thưởng trong và ngoài nước. Bên cạnh việc làm phim, ông còn từng là tổng thư ký Hội Điện ảnh Việt Nam.
Thành công trong nước với Thị xã trong tầm tay, Đặng Nhật Minh bắt đầu được thế giới biết đến khi Bao giờ cho đến tháng Mười trở thành bộ phim Việt Nam đầu tiên được công chiếu tại Hoa Kỳ và nhận được giải thưởng của Ủy ban Bảo vệ hòa bình tại Liên hoan phim quốc tế Moskva diễn ra tại Liên Xô. Sau đó, Thương nhớ đồng quê đã giúp ông khẳng định vị trí của mình khi chiến thắng giải Kodak tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương, giải châu Á hay nhất của NETPAC tại Liên hoan phim quốc tế Rotterdam cùng hàng loạt giải thưởng khác. Với những đóng góp cho điện ảnh Việt Nam, ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân và trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh chuyên ngành điện ảnh.
Cuộc đời
Đặng Nhật Minh sinh ngày 11 tháng 5 năm 1938 tại Thừa Thiên Huế. Mẹ ông là bà Tôn Nữ Thị Cung, con gái của Tôn Thất Đàn, thượng thư bộ Hình dưới triều Khải Định. Cha ông là Giáo sư Đặng Văn Ngữ, một bác sĩ đầu ngành nghiên cứu về ký sinh trùng của Việt Nam. Đặng Nhật Minh là con trai trưởng cùng với hai người em gái Đặng Nguyệt Ánh và Đặng Nguyệt Quý. Hai năm sau khi cha ông qua đời tại Quảng Trị vào năm 1967, người em gái út Đặng Nguyệt Quý của ông cũng mất vì bệnh ở Liên Xô. Người em gái thứ hai của ông, bà Đặng Nguyệt Ánh sau này lấy bằng tiến sĩ vật lý và công tác tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Khi còn nhỏ, Đặng Nhật Minh chủ yếu sống ở quê nội và quê ngoại là An Cựu và Lại Thế. Sau khi kết thúc chương trình học 4 năm ở trường An Cựu, ông bắt đầu theo học Trường Khải Định (nay thường được gọi là Trường Quốc học Huế). Đến năm 1950, gia đình ông nhận được tin giáo sư Đặng Văn Ngữ đã trở về Việt Nam sau nhiều năm đi du học tại Nhật Bản, mẹ ông đã đưa ba anh em lên Việt Bắc để đoàn tụ. Đặng Nhật Minh tiếp tục việc học ở Việt Bắc cho đến năm 14 tuổi thì được gửi đi học tại Trường Thiếu nhi Việt Nam ở Quế Lâm, Trung Quốc. Chỉ 2 năm sau, khi Đặng Nhật Minh mới 16 tuổi và vẫn còn đang học tại Trung Quốc thì mẹ ông qua đời.
Đặng Nhật Minh được bầu làm tổng thư ký (sau này là chủ tịch hội) tại Đại hội lần thứ 3 của Hội Điện ảnh Việt Nam vào tháng 2 năm 1989, và đảm nhiệm vai trò này 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Đến năm 1993, ông trở thành Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 9 thuộc đoàn đại biểu Thanh Hóa. Với nhiều thành công trong lĩnh vực phim ảnh, Đặng Nhật Minh thường xuyên trở thành giám khảo của các kỳ Liên hoan phim Việt Nam, cũng như một số cuộc thi điện ảnh khác. Tháng 3 năm 2023, ông được mời mở đầu hội thảo quốc tế "Chính sách và giải pháp phát triển ngành công nghiệp điện ảnh tại Việt Nam và Đông Nam Á" do Hiệp hội Phát hành và phổ biến phim Việt Nam tổ chức vào chiều ngày 14 tại Hà Nội.
Sự nghiệp điện ảnh
Trong hồi ký của mình, Đặng Nhật Minh cho biết thành viên trong gia đình ông chủ yếu làm trong ngành y hoặc giáo dục, chỉ có một người am hiểu lĩnh vực văn hóa nghệ thuật là giáo sư Nguyễn Hồng Phong – chồng của nhà phê bình văn học Nguyễn Thị Ngọc Trai, dì của Đặng Nhật Minh. Chính người dượng này đã dẫn dắt Đặng Nhật Minh vào con đường nghệ thuật và được ông xem như người thầy đầu tiên.
Bắt đầu sự nghiệp từ những năm 1960 và vẫn còn tiếp tục cho đến nay, Đặng Nhật Minh đã chứng kiến quá trình phát triển mạnh mẽ của điện ảnh Việt Nam trong thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông cũng phản ánh nhiều biến động từ nhiều khía cạnh của việc làm phim ở Việt Nam.
Khởi đầu
Sau 18 tháng theo học tại Liên Xô, Đặng Nhật Minh về nước và bắt đầu công việc làm phiên dịch viên tiếng Nga. Theo lời kể của đạo diễn Đặng Nhật Minh, trong những người cùng trở về từ Liên Xô với ông thì có ba người được phân công về công tác tại Bộ Văn hóa, hai người khác được giữ lại làm phiên dịch cho lãnh đạo bộ và ông thì được phân công về làm phiên dịch tại Phát hành phim Trung ương để dịch lời thoại trong các phim Liên Xô. Năm 1959, Trường Điện ảnh Việt Nam được thành lập và có sự hỗ trợ giảng dạy của một số đạo diễn đến từ Khối phía Đông. Đến năm 1962 khi các học viên khóa 1 chuẩn bị làm các bộ phim tốt nghiệp dưới sự hướng dẫn của , một đạo diễn người Azerbaijan đến từ Liên Xô, thì một phiên dịch viên của trường được cử sang Liên Xô du học. Đặng Nhật Minh được phân công đến thay vị trí phiên dịch đó. Không chỉ làm công việc phiên dịch tại trường, ông còn bắt tay dịch thuật những tác phẩm liên quan đến điện ảnh từ tiếng Nga. Từ đầu những năm 1960, Đặng Nhật Minh đã phiên dịch cuốn sách "Viết kịch bản phim truyện ngắn" của nhà văn Nga và đăng lên nhiều kỳ của tạp chí Điện ảnh Việt Nam. Đến năm 1965, ông bắt đầu nghề đạo diễn với bộ phim tài liệu đầu tay Theo chân người địa chất. Đây vốn là một tác phẩm tốt nghiệp của một nhóm học sinh Trường Điện ảnh Việt Nam mà ông được mời làm đạo diễn.
Sau khi cha ông qua đời tại chiến trường Quảng Trị khi đang nghiên cứu thuốc chống sốt rét vào năm 1967, ông trở thành con của liệt sĩ và được Bộ Văn hóa ưu tiên cho đi học đạo diễn ở Liên Xô, nhưng ông đã từ chối vì lo lắng cho gia đình do lúc bấy giờ Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn hai của Chiến tranh Đông Dương. Năm 1969, ông xin về Xưởng Phim truyện Việt Nam lúc bấy giờ đang đóng ở số 4 đường Thụy Khuê, Hà Nội. Năm 1970, Đặng Nhật Minh cùng đạo diễn Nguyễn Đức Hinh thực hiện bộ phim Chị Nhung dựa trên bộ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Sáng. Bộ phim nhận được một đề cử và một bằng khen tại Liên hoan phim quốc tế Moskva. Năm 1974, ông được giao cho đạo diễn bộ phim truyện Những ngôi sao biển được chuyển thể từ vở kịch Người từ giã cuối cùng của tác giả Nguyễn Khắc Phụng. Mặc dù có chất liệu và ý đồ hình tượng nghệ thuật tốt, có tiềm năng trở thành một tác phẩm có bề dày và chiều sâu, nhưng bộ phim không mấy thành công bởi cốt truyện phim phát triển chậm, không có kịch tính của từng đoạn. Sau sáu tháng được đào tạo ngắn hạn tại Bulgaria, ông quay về nước và bắt đầu thực hiện bộ phim Ngày mưa cuối năm chuyển thể từ vở kịch Những người bóc đá của Hồng Phi. Bộ phim này cũng không gây được tiếng vang gì dù thời điểm đó ông là một đạo diễn có bằng cấp.
Bước đầu thành công
Tối ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đặng Nhật Minh cùng đoàn quay phim của Xưởng phim truyện đã có mặt tại Dinh Độc Lập. Ngay ngày hôm sau, ông cùng đoàn phim của mình bắt đầu ghi lại những hình ảnh đầu tiên cho phim tài liệu Tháng Năm – Những gương mặt. Bộ phim mô tả hai hình ảnh đối lập của Sài Gòn khi chính quyền cũ vừa sụp đổ: sự hân hoan của người dân và tàn dư của xã hội cũ. Đây là một trong những bộ phim Việt Nam ra đời sớm nhất ghi lại hình ảnh của Thành phố Hồ Chí Minh sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4, bộ phim tài liệu này đã giành được giải Bông sen bạc.
Sau một thời gian thực hiện những bộ phim theo cách làm việc cũ (kịch bản sau khi được duyệt sẽ đưa về phân công cho các đạo diễn), Thị xã trong tầm tay là bộ phim đầu tiên ghi dấu ấn cá nhân của ông. Năm 1981, Đặng Nhật Minh có một truyện ngắn mang tên "Thị xã trong tầm tay" được đăng trên báo Văn nghệ. Dù truyện ngắn này không được chú ý, nhưng dịch giả Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ Vũ Hoàng Chương) đã gợi ý Đặng Nhật Minh chuyển thể sang điện ảnh. Trong quá trình thực hiện, bộ phim đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết nhạc phim dựa trên bài thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Thị xã trong tầm tay bắt đầu khởi quay vào năm 1982 tại Lạng Sơn, lấy bối cảnh Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979, thể hiện sự phản bội của Trung Quốc với Việt Nam cùng với sự phản bội giữa người với người. Vai diễn nhà báo Nhật Bản trong phim là một vai diễn bất đắc dĩ của Đặng Nhật Minh khi người vốn được chọn cho vai này, một sinh viên người Nhật Bản, không thể đến địa điểm quay phim trong tình hình biên giới Việt Nam bất ổn. Khi tham gia Liên hoan phim Việt Nam năm 1987, bộ phim đã gây tranh cãi lớn giữa các giám khảo. Cuối cùng, nhờ sự quyết liệt của nhóm giám khảo gồm nhà thơ Chế Lan Viên và Hoàng Trung Thông, nhà văn Nguyễn Khải và các đạo diễn Trần Vũ, Mai Lộc, Phạm Kỳ Nam, bộ phim đã giành được Bông sen vàng năm đó. Trong cuốn hồi ký của mình, Đặng Nhật Minh có chia sẻ rằng Thị xã trong tầm tay là bộ phim giàu chất điện ảnh nhất mà ông từng làm.
Cũng trong năm 1987, Đặng Nhật Minh đồng thời nhận được Bông sen bạc cho bộ phim tài liệu Nguyễn Trãi. Trong một bài phỏng vấn với báo Tổ quốc, Đặng Nhật Minh cho biết ông đã "đem hết tất cả tình cảm và trí sáng tạo bằng ngôn ngữ điện ảnh để làm bộ phim này". Lời bình được thực hiện bởi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp phần tạo nên thành công cho bộ phim. Trong ngày chiếu ra mắt, đã có nhiều nhà sử học, nhà văn hóa đến tham dự, trong đó có bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.
Dấu ấn quốc tế
Bao giờ cho đến tháng Mười
Sau khi gây tiếng vang trong nước với Thị xã trong tầm tay, ông tiếp tục ghi dấu ấn với bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười. Tại Liên hoan phim Việt Nam, bộ phim không chỉ giành được Bông sen vàng cho phim truyện điện ảnh mà còn giúp ông chiến thắng hạng mục Đạo diễn xuất sắc đầu tiên trong sự nghiệp điện ảnh của mình. Tuy nhiên trước đó, bộ phim đã liên tục bị kiểm duyệt 13 lần do tư duy làm phim khác biệt, trước khi được Tổng Bí thư Trường Chinh cho phép ra mắt khán giả. Đây được xem là bộ phim đầu tiên mang tính xét lại những chủ đề tranh cãi liên quan đến ký ức chiến tranh. Bằng cách miêu tả quá trình riêng tư về việc để tang người lính đã qua đời, Đặng Nhật Minh đã thách thức sự tôn trọng của nhà nước về những người chết trong chiến tranh và khôi phục ký ức về người lính đã chết trong cõi riêng của họ hàng gia đình. Mặc dù thời điểm này đã là năm 1984, gần 1 thập kỷ sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, bộ phim cũng ra đời sau nhiều bộ phim khác cùng về đề tài sự mất trong chiến tranh, nhưng đạo diễn Đặng Nhật Minh vẫn e ngại rằng những điều mình thể hiện có thể bị hiểu lệch lạc. Trong bài báo "Lời tự sự của người làm phim" đăng trên Tạp chí Điện ảnh số 2 năm 1985, ông đã dẫn lại một đoạn trích trong lời tựa của kịch bản:
Năm 1985, Bao giờ cho đến tháng Mười được công chiếu tại . Nó đánh đấu lần đầu tiên một bộ phim điện ảnh Việt Nam được trình chiếu tại một liên hoan phim của Hoa Kỳ. Bộ phim mô tả lại cuộc chiến từ một góc nhìn mà hầu hết người Mỹ chưa bao giờ được nhìn thấy từ những tác phẩm của Hollywood, đưa đến cho khán giả Mỹ một định nghĩa hoàn toàn khác về phim chiến tranh họ vốn quen thuộc. Với sự thành công rực rỡ trong cả giới phê bình lẫn công chúng, bộ phim được đề cử Giải thưởng Trung tâm Đông Tây dành cho bộ phim mang lại sự thấu hiểu tốt nhất giữa các dân tộc châu Á, Thái Bình Dương, Hoa Kỳ, và nó đã giành được giải đặc biệt từ ban giám khảo. Ngoài ra, bộ phim còn nhận được bằng khen của Ủy ban Bảo vệ hòa bình tại Liên hoan phim quốc tế Moskva. Năm 2008, đài truyền hình CNN đã liệt kê Bao giờ cho đến tháng Mười vào danh sách 18 bộ phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại. Cho đến nay, đây vẫn là một trong những bộ phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam.
Cô gái trên sông
Năm 1987, bộ phim Cô gái trên sông của Đặng Nhật Minh được công chiếu sau hàng loạt tranh cãi gay gắt trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Bộ phim được xây dựng với hai hình ảnh đối lập: người lính Quân đội nhân dân Việt Nam bội bạc trong khi người quân nhân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa lại thủy chung. Đây được xem là một sự lựa chọn mạo hiểm của Đặng Nhật Minh, và nó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều tin đồn thất thiệt bao gồm tin đồn bị cấm chiếu. Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 diễn ra ở Đà Nẵng, Cô gái trên sông vốn đã nhận đủ điểm từ ban giám khảo để nhận Bông sen vàng, nhưng tin đồn cấm chiếu khiến bộ phim chỉ nhận được Bông sen bạc. Việc này đã gây ra một làn sóng bất bình từ khán giả Đà Nẵng.
Ngược lại hoàn toàn với tin đồn, bộ phim không chỉ được công chiếu mà còn được đón nhận nồng nhiệt ở Đà Nẵng. Mặc dù không có số liệu chính thức, nhưng doanh thu của bộ phim được cho là đủ để trang trải toàn bộ kinh phí của Liên hoan phim và thậm chí vẫn còn thừa. Lần công chiếu tại Đà Nẵng trong khuôn khổ Liên hoan phim Việt Nam là lần cuối cùng bộ phim được công chiếu rộng rãi trong nước dù không có một lệnh cấm nào được ban hành. Sau đó, Cô gái trên sông đã xuất hiện tại hàng loạt liên hoan phim quốc tế và được nhiều quốc gia mua bản quyền phát hành như Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada. Bộ phim được xem là "một tiếng nổ đầu tiên của điện ảnh thời kỳ đổi mới". Năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm ngày thống nhất Việt Nam, bộ phim Cô gái trên sông đã được chiếu trên kênh truyền hình của châu Âu.
Sau thời kỳ Đổi Mới
Phim tâm lý
Năm 1993, Đặng Nhật Minh xuất bản cuốn truyện ngắn Ngôi nhà xưa trên báo Văn nghệ. Vào năm 2000, bộ phim tâm lý Mùa ổi dựa trên chính tác phẩm truyện ngắn đó ra mắt khán giả tại Liên hoan phim quốc tế Locarno. Tại đây, bộ phim của ông giành được hai giải thưởng. Sau đó, nó liên tục được công chiếu tại nhiều liên hoan phim quốc tế ở nhiều quốc gia như Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Pháp và Bỉ. Cũng như nhiều bộ phim khác, có nhiều ý kiến khen chê xung quanh tác phẩm này của Đặng Nhật Minh, riêng báo chí tiếng Pháp đã có nhiều nhận định khác nhau về bộ phim. Báo Télérama của Pháp cho rằng bộ phim có một số đoạn quay không được đều tay, "tác dụng biểu tượng đôi khi hơi nhấn mạnh, có cảm giác cảm động nhưng cũng có màn hơi ủy mị"; báo L'Humanité thì cho rằng bộ phim nên có nội dung sắc bén hơn là phải nói nhẹ đi; riêng báo Premiere nhận định tổng quát rằng sự vững vàng của kịch bản phim đã giúp người xem quên đi những khiếm khuyết này.
Dù thành công ở nước ngoài, nhưng trước đó, Mùa ổi là một trong những tác phẩm của Đặng Nhật Minh đã gặp rắc rối với sự kiểm duyệt phim trong nước khi nội dung bộ phim nói về cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Các nhà kiểm duyệt phim Việt Nam bị đánh giá là nổi tiếng khắt khe với những bộ phim chứa những chủ đề nhạy cảm về chính trị. Một số ý kiến cho rằng họ đã nhẹ tay khi cho phép ông thực hiện bộ phim này. Năm 2019, Mùa ổi được Viện phim Anh phục chế lại ở định dạng HD và được chiếu miễn phí tại sự kiện "Phim như một di sản văn hoá" do Viện phim Việt Nam phối hợp thực hiện.
Phim được tài trợ
Nhờ thành công tại các liên hoan phim, tên tuổi của Đặng Nhật Minh đã được quốc tế biết đến. Năm 1994, ông được kênh 4 Đài truyền hình Anh tài trợ kinh phí để thực hiện bộ phim Trở về. Bộ phim phản ánh cuộc sống kinh tế thị trường của Việt Nam những năm sau Đổi Mới: xã hội phát triển nhanh chóng trên con đường hiện đại hóa, nhưng lại dần mất đi những giá trị truyền thống như bản sắc thực sự của người Việt Nam. Trở về đã giành được giải đặc biệt của Ban giám khảo tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương năm 1994. Theo lời kể của nhà biên kịch Lê Ngọc Minh, kịch bản của Trở về và cả bộ phim Cô gái trên sông trước đó hơn nửa thập kỷ đều được thai nghén trong một chuyến công tác ở Tây Nguyên năm 1986 sau khi Đặng Nhật Minh trở về sau 1 năm tu nghiệp điện ảnh ở Pháp.
Năm 1995, Đặng Nhật Minh tiếp tục được Đài truyền hình NHK của Nhật Bản tài trợ để thực hiện bộ phim Thương nhớ đồng quê, và nó cũng là bộ phim đầu tiên ông được quyền quyết định chi tiêu. Kịch bản phim vốn dựa trên truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, đã từng được gửi đi kiểm duyệt tại Hãng phim Giải Phóng và Cục Điện ảnh nhưng bị trả lại vì có hai lý do phản đối: "kịch bản thiếu kịch tính, thiếu yếu tố để làm thành một phim truyện" và có nội dung liên quan đến công tác tổ chức của nhà nước. Tuy nhiên, kịch bản được người Nhật đánh giá cao đã đầu tư để sản xuất. Bộ phim đã xuất hiện tại hơn 60 liên hoan phim và thu về nhiều giải thưởng. Tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1995, bộ phim mang về cho ông giải Đạo diễn xuất sắc nhất, nhưng bản thân nó lại không được bất kỳ giải Bông sen nào. Dù vậy, đây vẫn là một tác phẩm mang tính văn hóa cao và là một trong những bộ phim quan trọng trong sự nghiệp của ông.{{Sfnp|Marciniak|Imre|OHealy|2007|p=172}}
Phim chiến tranh
Bộ phim Hà Nội mùa đông năm 46 là một bộ phim chiến tranh của Đặng Nhật Minh làm về Hồ Chí Minh. Bộ phim được bắt đầu bấm máy vào tháng 2 năm 1996 nhưng mãi đến tháng 3 năm 1999 mới chính thức ra mắt khán giả Việt Nam. Tuy nhiên, đây có thể xem là một số ít phim Việt Nam được công chiếu tại một liên hoan phim quốc tế trước cả khi hoàn chỉnh và được công chiếu tại Việt Nam vào năm 1999. Bộ phim được trình chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào tháng 12 năm 1997 và vào tháng 4 năm 1998. Bộ phim tiếp tục mang về cho ông giải Đạo diễn xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam và giải A của Hội Điện ảnh Việt Nam.
Năm 2001, đạo diễn người Úc đến Việt Nam để thực hiện bộ phim Người Mỹ trầm lặng. Vào thời điểm ra mắt, đây được xem là bộ phim nước ngoài về Việt Nam nổi tiếng nhất ở quốc gia này. Đặng Nhật Minh đã tham gia vào đoàn làm phim với vai trò đạo diễn của đội quay thứ hai. Sau khi chính thức công chiếu vào năm 2002, bộ phim đã thu về được nhiều đề cử và giải thưởng tại các lễ trao giải lớn trong đó có Oscar.
Đúng ngày 30 tháng 4 năm 2009, bộ phim Đừng đốt của ông ra mắt khán giả Hà Nội. Đặng Nhật Minh khẳng định, đây là bộ phim khiến ông hài lòng nhất từ trước đến nay. Với kịch bản dựa trên hai cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, bộ phim không chỉ nhận được lời khen từ quốc tế mà còn chiến thắng hàng loạt giải thưởng tại các liên hoan phim trong nước lẫn quốc tế. Ngoài chiến thắng tại cả Liên hoan phim Việt Nam và Giải Cánh diều, Đừng đốt còn vượt qua 24 bộ phim khác để giành được giải thưởng tại Liên hoan phim quốc tế Fukuoka. Bộ phim được đánh giá là "làm say đắm cả người xem Việt Nam và Mỹ" và nỗi đau trong bộ phim có thể khiến những cựu thù thấu hiểu nhau hơn. Một năm sau, Đại sứ Việt Nam tại Hungary là Nguyễn Quốc Dũng cho chiếu Đừng đốt tại rạp phim lớn ở thủ đô Budapest thay cho việc tổ chức lễ kỷ niệm sự kiện 30 tháng 4 như hằng năm.
Sau năm 2010
Từ khi thực hiện xong bộ phim Đừng đốt, một thời gian dài sau đó Đặng Nhật Minh đã tập trung vào viết kịch bản phim và không cho ra tác phẩm điện ảnh mới. Đến năm 2015, hãng phim Khánh An (một hãng phim tư nhân của Huế mới thành lập) mời ông thực hiện bộ phim tài liệu về họa sĩ Lê Bá Đảng, một họa sĩ Pháp gốc Việt. Ông cùng nhà quay phim đã bay sang Paris và đến thăm nhà vị họa sĩ 93 tuổi. Sau khi ghi hình tại Pháp và về nước, ông lại đến làng Bích La ở huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị để ghi lại những hình ảnh quê hương của Lê Bá Đảng. Bộ phim tài liệu ngắn 25 phút mang tên Lê Bá Đảng – Từ Bích La đến Paris được ra mắt ngay trong năm 2015. Tuy nhiên, lúc bộ phim hoàn thành cũng là lúc họa sĩ này qua đời. Sau đó, bộ phim tham gia Liên hoan Phim tài liệu quốc tế tại Hà Nội vào tháng 5 và Liên hoan Phim tài liệu tại Hàn Quốc vào tháng 6 cùng năm.
Năm 2020, Đặng Nhật Minh quay lại với việc làm phim điện ảnh khi bắt đầu khởi quay Hoa nhài. Ông gọi đây là bộ phim "tâm huyết lúc cuối đời" của mình. Bộ phim lấy bối cảnh Hà Nội này do một hãng phim nhỏ ở Huế đầu tư sản xuất. Đặng Nhật Minh cho biết, đây là lần đầu tiên ông thực hiện một bộ phim không sử dụng kinh phí nhà nước. Bộ phim đóng máy và bắt đầu làm hậu kỳ vào năm 2021. Để thực hiện được dự án phim này, ông đã phải vừa kêu gọi vốn tư nhân vừa phải bỏ vốn của mình ra. Mặc dù vậy, việc hậu kỳ đôi khi bị trì hoãn vì không đủ kinh phí. Về sau, vì sự bùng nổ của đại dịch COVID-19 mà việc hậu kỳ lẫn chuyện ra mắt bộ phim tiếp tục bị ảnh hưởng. Tháng 10 năm 2022, Hoa nhài chính thức trở thành bộ phim dài duy nhất của Việt Nam được chọn tham gia Liên hoan phim quốc tế Hà Nội. Liên hoan phim bắt đầu vào ngày 8 tháng 11 và bế mạc vào ngày 12 tháng 11 cùng năm.
Ngày 8 tháng 11, Hoa nhài được chọn làm bộ phim chiếu mở màn cho Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ 6 với chủ đề "Điện ảnh - Nhân văn, Thích ứng và Phát triển". Từ trước ngày công chiếu, bộ phim đã nhận được nhiều sự chú ý của khác giả. Đến ngày công chiếu, khán phòng của Trung tâm Chiếu phim Quốc gia đã kín chỗ ngồi, nhiều khán giả lựa chọn ngồi ở lối đi để theo dõi. Điều này khiến cho ban tổ chức phải mở thêm một phòng chiếu khác để đáp ứng nhu cầu của khán giả. Sau khi bộ phim được công chiếu, Đặng Nhật Minh đã khẳng định một lần nữa đây sẽ là bộ phim cuối cùng của ông, bởi lý do tuổi tác và sức khỏe. Mặc dù không giành được giải thưởng chính tại liên hoan phim, nhưng Đặng Nhật Minh đã nhận được Bằng khen phim có nội dung đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố từ Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội.
Sự nghiệp sáng tác
Truyện ngắn và hồi ký
Bên cạnh sự nghiệp đạo diễn điện ảnh, Đặng Nhật Minh còn tham gia văn đàn và đạt được một số thành tích. Trong chuyến đi thực tế ở Đường 9 Nam Lào vào năm 1970, ông đã bắt tay vào viết truyện ngắn đầu tay mang tên "Gặp gỡ ở cửa rừng", một tác phẩm mang dấu ấn của ông và người cha đã mất, giáo sư Đặng Văn Ngữ. Sau đó, ông đã tiếp tục viết một số truyện ngắn khác như "Tin đồn" và "Chuyện người lớn". Cũng như việc làm phim, việc sáng tác của ông bao quát phạm vi tương đối phong phú từ nông thôn đến thành thị và từ chiến tranh lẫn lịch sử đến đời sống đương đại.
Trong hơn 10 truyện ngắn đã từng được xuất bản, nổi bật nhất có thể kể đến những tác phẩm đã được chính ông chuyển thể thành phim như "Thị xã trong tầm tay", "Ngôi nhà xưa" và "Trở về". Năm 1980, "Thị xã trong tầm tay" đã giành được Giải ba tại cuộc thi truyện ngắn của báo Văn nghệ. Các tác phẩm của ông được tập hợp thành những tập truyện như Nước mắt khô (1993, Nhà xuất bản Văn học), Ngôi nhà xưa (2012, Nhà xuất bản Trẻ) và Hoa nhài (2016, Nhà xuất bản Dân trí). Tập truyện Ngôi nhà xưa được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 10 năm nhà xuất bản Trẻ đặt chi nhánh tại Hà Nội. Tập truyện vừa Hoa nhài bao gồm 3 truyện: "Hoa nhài", "Nhà điều dưỡng nước khoáng" và "Bao giờ cho đến tháng mười".
Năm 2005, quyển hồi ký mang tên Hồi ký điện ảnh được xuất bản. Ông thổ lộ rằng cuốn hồi ký này vốn chỉ viết cho người thân trong gia đình đọc, nhưng nghe theo lời khuyên của em gái là Đặng Nguyệt Ánh, ông đã đồng ý công bố rộng rãi tác phẩm này. Đến năm 2020, tác phẩm đã được tái bản lần thứ ba bởi Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Không chỉ được xuất bản tại Việt Nam, hồi ký của Đặng Nhật Minh còn được dịch sang tiếng Pháp và xuất bản với tên (tạm dịch: Hồi ký của một nhà làm phim Việt Nam) vào năm 2017.
Kịch bản phim
Ở mảng phim tài liệu, ngoại trừ 5 bộ phim ông là biên kịch kiêm đạo diễn, Đặng Nhật Minh còn cùng đạo diễn Đào Trọng Khánh biên soạn kịch bản cho bộ phim Hồ Chí Minh với Trung Quốc. Đây là một bộ phim dài 7 cuốn về Chủ tịch Hồ Chí Minh do nghệ sĩ Thanh An đạo diễn, giành được giải A cho phim tài liệu nhựa tại Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1996. Nhiều năm làm việc trong lĩnh vực điện ảnh, tham gia cả mảng viết kịch bản và đạo diễn phim, không phải bộ phim nào do Đặng Nhật Minh viết kịch bản thì đều do ông đạo diễn, và cũng không phải kịch bản nào cũng được hiện thực hóa thành một tác phẩm điện ảnh thực sự. Trong số đó, một số kịch bản được ông lấy cảm hứng từ những truyện ngắn. Một trong những tập kịch bản nổi bật nhất của ông là Bao giờ cho đến tháng Mười.
Từ sau bộ phim Mùa ổi, ông đã không cho ra mắt một tác phẩm mới trong một thời gian khá dài. Trả lời phỏng vấn của báo Người Lao Động, Đặng Nhật Minh cho biết, trong thời gian không làm phim ông đã viết ba kịch bản: Nước mắt khô, Chim én bay và Đừng đốt. Nước mắt khô là một kịch bản gần gũi với nghề nghiệp chính của ông khi nói về một cô gái đã từ giã sự nghiệp điện ảnh vì không thể khóc trong những cảnh quay giả dối. Tại cuộc thi Nâng cao chất lượng kịch bản của Cục Điện ảnh vào năm 2002, kịch bản này đã giành được giải Nhì (không có giải Nhất). Mặc dù được nhà văn Lê Thiếu Nhơn nhận định là có thể trở thành một bộ phim hay, nhưng kịch bản Nước mắt khô đã không được Hội đồng duyệt kịch bản của Cục Điện ảnh thông qua. Thêm vào đó, kịch bản Chim én bay được ông chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Tri Huân cũng không được duyệt.
Bên cạnh hai kịch bản được chuyển thể từ "Hoa nhài" và "Nhà điều dưỡng nước khoáng", ông còn viết một kịch bản phim mang tên Huyền nhiệm. Kịch bản viết về cuộc đời của một người tri thức đi theo cách mạng dựa trên nguyên mẫu từ cha ông. Ông cho biết, để có thể làm bộ phim này thì cần nguồn kinh phí tương đối lớn và sự tài trợ của nhà nước. Tuy nhiên, kịch bản này tiếp tục không được Cục Điện ảnh đón nhận.
Phong cách làm phim
Đặng Nhật Minh được đánh giá là một trong số hiếm những nhà điện ảnh Việt Nam tạo dựng nên phong cách riêng với những sáng tạo mạnh mẽ cùng thế giới quan độc đáo. Từ sau thành công của Thị xã trong tầm tay, Đặng Nhật Minh đã tự trung thành với một hướng đi mà ông đã xác định cho mình, đó là "chỉ làm những phim do tôi viết kịch bản, nói về những vấn đề mà tôi quan tâm, tôi rung động", đồng thời tự nhận mình là "người triệt để" với nguyên tắc này "hơn cả" các đạo diễn người Việt Nam khác.
Đặng Nhật Minh cho biết, việc làm phim đối với ông như viết một bức thư tình, ông làm phim là để gửi đến khán giả bức thư viết về những tâm tình của mình. Ông ví khán giả như người con gái mình yêu, vì vậy tất cả những tâm tình trong bức thư phải xuất phát từ "rung động chân thành" và "cảm xúc chân thực". Đó là lý do mà ông không làm phim do ai đặt hàng mà thường chỉ tự viết kịch bản cho mình. Đối với Đặng Nhật Minh, mỗi bộ phim ông làm đều là một cách nhìn hiện thực, xuất phát từ nhân sinh quan, cách nhìn cuộc đời, sự vật của ông; tương tự như câu nói "Đạo diễn không phải là một nghề. Đạo diễn là một nhân sinh quan" của đạo diễn người Ý Federico Fellini. Nhiều nhà làm công tác nghiên cứu và phê bình điện ảnh Việt Nam thường xếp phim của Đặng Nhật Minh vào loại phim tác giả. Với cá tính nghệ thuật được bộc lộ qua từng bộ phim, Đặng Nhật Minh được xem là một trong số những gương mặt nổi bật của dòng phim này thời kỳ đầu của điện ảnh Việt Nam nói chung và điện ảnh cách mạng nói riêng.
Các tác phẩm của ông thường là tiếng nói cá nhân và những nỗi niềm của ông về đất nước, con người Việt Nam, cũng như hướng đến thân phận con người với những vấn đề khái quát mang tính số phận của dân tộc, của nhân loại – những điều này đều được đạo diễn thể hiện một cách khéo léo trong suốt cuộc đời làm phim được nhà nước tài trợ kinh phí, vốn đi cùng rất nhiều ràng buộc về mặt tư tưởng. Khi nhắc lại về những bộ phim gặp khó khăn trong việc kiểm duyệt, Đặng Nhật Minh từng nêu ra quan điểm của mình: "Sáng tác thì không bao giờ được sợ, phải luôn là chính mình, luôn trung thành với mình. Không được xu thời mà phải hướng tới cái vĩnh cửu". Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Thị Bích Hồng nhận định trên Tuổi Trẻ rằng phim của Đặng Nhật Minh luôn làm "nổi bật thế giới nội tâm của nhân vật" và do đó các tác phẩm của đạo diễn luôn mang đậm một "chất giọng tiểu thuyết đặc trưng". Dù trong các bộ phim ông thực hiện đều có cả nỗi mất mát lẫn đau thương, nhưng những phẩm chất tốt đẹp của con người vẫn luôn được đạo diễn khắc hoạ một cách tinh tế.
Đánh giá
Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, điện ảnh cũng như các hình thức nghệ thuật khác trở thành một loại vũ khí để thể hiện ý thức hệ của cả hai phía. Vì sự đối lập về lập trường cũng như ý thức hệ, rất ít nghệ sĩ Việt Nam có thể có được một sự nghiệp lừng lẫy được chế độ cộng sản hoan nghênh trong khi đồng thời trở nên dễ chịu, dễ tiếp nhận đối với khán giả phương Tây hay người Việt Nam ở nước ngoài, những người thường có xu hướng bác bỏ nghệ thuật xã hội chủ nghĩa một cách quyết liệt. Nhưng Đặng Nhật Minh đã trở thành một trong số ít đó. Những bộ phim của ông đã thách thức truyền thống làm phim cách mạng như một người phục vụ cách mạng.
Đặng Nhật Minh bắt đầu làm phim vào một thời điểm tương đối thích hợp trong lịch sử Việt Nam – giai đoạn mà tự do hóa chính trị và nghệ thuật đang dần được tiếp cận và phát triển lên đến đỉnh điểm với việc khởi động cách cải cách Đổi Mới. Sau những bộ phim tài liệu, những bộ phim điện ảnh đầu tiên của ông như Chị Nhung, Những ngôi sao biển và tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Bao giờ cho đến tháng Mười đều được phát hành trước cuộc cải cách năm 1986.
Trong bài báo mang tên "Shuttle Diplomacy for Vietnam Films" (tạm dịch: Ngoại giao con thoi cho phim Việt Nam) trên tờ , tác giả Joan Dupont đã nhận xét rằng: những bộ phim của Đặng Nhật Minh luôn thể hiện hình ảnh của xã hội đương đại, từ cuộc sống làng quê bị chiến tranh tàn phá trong Bao giờ cho đến tháng Mười đến hình ảnh một cô gái bị từ chối bởi người lính Việt Cộng – người từng được cô bảo vệ lúc lâm nguy – sau khi anh ta thăng quan tiến chức trong Cô gái trên sông, từ hình ảnh một giáo viên đi về phía nam rồi bị choáng ngợp bởi sự bùng nổ kinh tế trong Trở về cho đến câu chuyện về sự thức tỉnh tình dục của một thanh niên 17 tuổi trong Thương nhớ đồng quê. Cũng vì những điều này mà Đặng Nhật Minh, với tư cách người đứng đầu Hội Điện ảnh Việt Nam, khó có thể tránh khỏi những lời chỉ trích. Joan Dupont nhận định, hoàn cảnh khốc liệt mà Đặng Nhật Minh gặp phải là nguyên nhân khiến cho ông không hướng con gái mình theo ngành nghệ thuật.
Xuyên suốt nhiều bộ phim, các hình tượng nghệ thuật mà Đặng Nhật Minh dựng nên luôn gây ra nhiều tranh luận. Nghệ sĩ nhân dân Trần Thế Dân – một nhà quay phim gạo cội của điện ảnh Việt Nam – từng nói rằng ông đánh giá cao cách làm việc của Đặng Nhật Minh khi phim của đạo diễn này đã "thực sự dựng nên những hình tượng, truyền được nỗi ám ảnh đến người xem" nhưng đi kèm đó là "nhiều điểm cần phải tranh luận xung quanh các hình tượng nghệ thuật". Dù chính quyền cộng sản cố biến các sản phẩm nghệ thuật Việt Nam thành những bản điếu văn cho lòng yêu nước, tinh thần cách mạng và đoàn kết dân tộc, thì Đặng Nhật Minh luôn tìm mọi cách để đưa vào các tác phẩm của mình những cảm xúc trữ tình và sự đồng cảm. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận định, Đặng Nhật Minh là một người rất quyết liệt trong ý đồ nghệ thuật của mình; và đó là điều cần thiết trong điện ảnh, nơi những ý đồ sáng tạo luôn dễ bị lung lay trước những khó khăn khách quan bên ngoài.
Khi trao Giải thưởng Nikkei Châu Á lần thứ 4 vào năm 1999, báo Nihon Keizai Shimbun của Nhật Bản cũng nhận xét về Đặng Nhật Minh: "Ông tôn trọng tự do ngôn luận nghệ thuật và đã tạo ra những bộ phim xuất sắc truyền tải trái tim của châu Á ra thế giới". Trong cuốn sách (tạm dịch: Văn hóa đô thị ở Việt Nam đương đại), tiến sĩ Lisa Drummond đã nói về Đặng Nhật Minh rằng: ông đã đưa ra cái nhìn của nhà làm phim về những biến đổi xã hội mà Việt Nam đã trải qua, dùng kỹ năng của mình để khắc họa sự thay đổi đó thông qua những trải nghiệm đời thường của nhiều đối tượng khác nhau. Nhà văn người Hà Lan Dick Gebuys xem đạo diễn Đặng Nhật Minh như là một sử gia của những mảnh đời đặc biệt vì các tác phẩm điện ảnh của ông thường nói về lịch sử, nỗi khổ của từng cá nhân và đi sâu vào thế giới nội tâm của từng nhân vật.Đặng Nhật Minh được đánh giá là một trong những đạo diễn nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất ở Việt Nam. Khi nhắc đến ông, báo chí Việt Nam thường dùng những cụm từ như "tài năng hàng đầu", "gương mặt hàng đầu" hay "đạo diễn hàng đầu" của điện ảnh Việt Nam. Không chỉ riêng việc làm phim, ông được xem là một số ít đạo diễn Việt Nam có khả năng văn chương để tự viết nên những kịch bản xuất sắc như Thị xã trong tầm tay, Bao giờ cho đến tháng Mười. Đặng Nhật Minh còn nhận được sự đánh giá cao từ nhiều đạo diễn, nhà nghiên cứu điện ảnh trong nước và quốc tế. Trong một bài nghiên cứu của mình, tác giả John Charlot đã gọi Đặng Nhật Minh là một "thiên tài điện ảnh đích thực" của Việt Nam. Đặng Nhật Minh được xem là một trong những nhà làm phim Việt Nam nổi tiếng nhất ở quốc tế, khi tên tuổi của ông được biết đến không chỉ ở châu Á mà còn cả ở châu Âu và Mỹ.
Tác phẩm
Phim tài liệu
Phim điện ảnh
Vinh danh
Đặng Nhật Minh được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú vào năm 1988, Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1993, và trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất vào năm 1998. Ngoài ra, ông còn nhận được Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì và Huân chương Độc lập hạng Ba. Đến năm 1999, ông đã nhận được giải thưởng Nikkei ở hạng mục văn hóa vì những đóng góp cho điện ảnh châu Á. Tại Hàn Quốc, ông đã 2 lần được vinh danh khi nhận được "Giải thành tựu trọn đời vì những cống hiến xuất sắc cho điện ảnh châu Á" và Giải thưởng Điện ảnh Hòa bình Kim Daejung tại Liên hoan phim quốc tế Gwangju vào năm 2005 và 2013. Ông cũng trở thành đạo diễn điện ảnh Việt Nam đầu tiên giành được Giải thành tựu trọn đời tại một liên hoan phim nước ngoài.
Năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh chuyên ngành điện ảnh cho các tác phẩm: Thị xã trong tầm tay, Bao giờ cho đến tháng Mười, Hà Nội mùa đông năm 46 và Mùa ổi. Trước đó, năm 1996, cha ông cũng được truy tặng Giải thưởng này trong lĩnh vực Y học. Năm 2010, ông trở thành đạo diễn Việt Nam đầu tiên được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh của Hoa Kỳ vinh danh vì những cống hiến cho sự nghiệp điện ảnh. Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh đã tổ chức một lễ tôn vinh sự cống hiến của Đặng Nhật Minh vào tháng 11 cùng năm. Và đến năm 2016, ông đã được trao giải Kỳ lân danh dự (Licorne d’Or) cho toàn bộ sự nghiệp điện ảnh tại Liên hoan phim quốc tế Amiens.
Cũng trong năm 2016, Đặng Nhật Minh là 1 trong 9 "Công dân Thủ đô ưu tú" được Thành ủy Hà Nội vinh danh. Ông cho biết, dù đã nhận được nhiều giải thưởng và danh hiệu, nhưng việc trở thành một công dân ưu tú của thủ đô là lần hạnh phúc và cảm động nhất. Ngày 12 tháng 8 năm 2017, một buổi đối thoại với chủ đề Phim Đặng Nhật Minh qua góc nhìn của người nước ngoài đã diễn ra tại Hà Nội. Sau khi chương trình được mở đầu bằng việc chiếu lại bộ phim Trở về, Đặng Nhật Minh đã có một buổi trao đổi với Dick Gebuys – một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch người Hà Lan, người đã từng thực hiện chương trình giới thiệu phim của Đặng Nhật Minh tại Hà Lan. Năm 2019, cũng chính nhà văn này đã hoàn thành cuốn sách tiếng Anh đầu tiên viết về Đặng Nhật Minh, lấy cảm hứng từ các bộ phim tiêu biểu của ông. Cuốn sách mang tên Nostalgia for the Countryside (tạm dịch: Hoài vọng đồng quê) được khởi thảo từ năm 2015 và chính thức được giới thiệu tại Việt Nam vào ngày 7 tháng 2 năm 2023.
Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại Đại sứ quán Pháp ở Hà Nội, Đặng Nhật Minh được Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Nicolas Warnery đại diện Bộ Văn hóa Pháp trao tặng , ghi nhận những đóng góp của ông trong việc góp phần làm tăng cường sự hiểu biết văn hóa giữa hai nước Việt Nam – Pháp. Đại sứ Nicolas Warnery khẳng định rằng, nước Pháp ghi nhận những đóng góp của Đặng Nhật Minh không chỉ ở những tác phẩm nhân văn của ông được công chiếu tại Pháp, những bộ phim hợp tác như Mùa ổi hay sự liên kết điện ảnh giữa hai nước trong thời kỳ ông làm tổng thư ký của Hội Điện ảnh, mà còn cả thời gian ông đã hỗ trợ phiên dịch cho các đoàn làm phim Pháp sang Việt Nam.
Danh sách giải thưởng và đề cử
Gia đình
Đặng Nhật Minh kết hôn với Nguyễn Phương Nghi, một nhạc công piano, con gái của luật sư Nguyễn Quế. Gia đình bà Phương Nghi trong đó có anh trai Nguyễn Hoán đã trở thành một trong những hình mẫu cho bộ phim Mùa ổi'' của chính Đặng Nhật Minh. Khi giáo sư Đặng Văn Ngữ qua đời vào năm 1967 thì Đặng Nhật Minh cùng vợ đã có một người con trai đầu lòng tên Nhật Tân. Cả Phương Nghi và Nhật Tân đều được nhắc đến trong bức thư cuối cùng mà Đặng Văn Ngữ gửi cho con trai. Đặng Nhật Minh còn có một người con gái là Đặng Phương Lan, một bác sĩ chuyên khoa tai – mũi – họng. Bà kết hôn với kỹ sư Đinh Xuân Thọ – con trai của Nhà giáo Nhân dân Đinh Xuân Lâm – và sinh sống cùng chồng tại Budapest, Hungary.
Chú thích |
Wesley Earl Craven (2 tháng 8 năm 1939 – 30 tháng 8 năm 2015) là nam đạo diễn, biên kịch, nhà sản xuất và diễn viên điện ảnh người Mỹ. Tên tuổi ông gắn với những bộ phim kinh dị, trong đó nổi bật nhất là loạt phim Tiếng thét.
Ông sống những năm đầu đời tại Cleveland, Ohio. Cha ông qua đời lúc ông mới 4 tuổi nên tuổi thơ của ông không mấy vui vẻ. Học hết trung học ông tiếp tục theo học tại trường Cao đẳng Wheaton (Wheaton College) tại Illinois. Craven không hề theo một trường lớp đào tạo nào về điện ảnh. Thay vào đó, ông theo học các ngành như Ngữ văn, Tâm lý học. Ông có bằng thạc sĩ (Master) của Đại học Johns Hopkins. Trước khi trở thành một đạo diễn điện ảnh như ngày nay, Wes Craven từng làm giáo viên dạy môn Nhân chủng học ở Đại học Clarkson.
Bộ phim đầu tiên Craven làm trong vai trò đồng đạo diễn là Together (1971). Một năm sau đó, Last House on the Left, bộ phim kinh dị đầu tiên của ông, do chính ông đạo diễn, viết kịch bản và biên tập ra mắt công chúng và đã gây được sự chú ý cũng như tranh cãi của người xem. Năm 1977, Wes Craven tung ra bộ phim thứ hai, The Hill Have Eyes. Một lần nữa nó lại gây tranh cãi. Nhờ bộ phim này, ông nhận được giải thưởng của các nhà phê bình trong Liên hoan Điện ảnh Sitges (Festival de Cine de Sitges). |
Trong toán học, một sơ đồ Voronoi, đặt tên theo nhà toán học người Nga Georgy Voronoi, là một cách phân tách một không gian mêtric theo khoảng cách tới một tập hợp rời rạc các vật thể cho trước trong không gian. Tập hợp các vật thể có thể là tập hợp rời rạc các điểm. Trong ngành thủy văn, sơ đồ này còn được gọi là đa giác Thiessen theo tên nhà khí tượng học người Mỹ Alfred H. Thiessen.
Trong trường hợp đơn giản nhất, khi các vật thể là các điểm, ta có một tập hợp S gồm các điểm trên mặt phẳng, được gọi là các điểm Voronoi. Mỗi điểm s ứng với một ô Voronoi, hay còn gọi là ô Dirichlet, ký hiệu là V(s), bao gồm tất cả các điểm gần s hơn tất cả các điểm Voronoi khác. Các cạnh của sơ đồ Voronoi là tập các điểm có khoảng cách tới hai điểm Voronoi gần nhất là như nhau. Các đỉnh của sơ đồ Voronoi là các điểm có khoảng cách tới ít nhất ba điểm Voronoi gần nhất là như nhau.
Các tính chất
Đồ thị đối ngẫu của sơ đồ Voronoi trên mặt phẳng là lưới tam giác Delaunay cho cùng một tập hợp điểm.
Hai điểm gần nhất trong tập hợp điểm tương ứng với hai ô Voronoi liền kề nhau.
Hai điểm liền kề nhau trên bao lồi khi và chỉ khi các ô Voronoi của chúng có một cạnh chung có độ dài vô hạn.
Các thuật toán
Thuật toán Fortune có thể xây dựng sơ đồ Voronoi cho n điểm trên mặt phẳng trong thời gian O(n log(n)).
Sơ đồ Voronoi của n điểm trong không gian Euclide d chiều đòi hỏi bộ nhớ để lưu trữ. Trong trường hợp sai số nhỏ là chấp nhận được, có thể sử dụng sơ đồ Voronoi xấp xỉ, trong đó mỗi điểm nằm trong ô Voronoi của điểm Voronoi gần nhất hoặc xấp xỉ gần nhất.
Trong thủy văn
Trong ngành thủy văn, sơ đồ Voronoi được ứng dụng như là một phương pháp được dùng để tính lượng mưa bình quân lưu vực và được gọi là đa giác Thiessen.
Cơ sở của phương pháp là: nếu một lưu vực có nhiều trạm mưa thì mưa tại một điểm bất kì trên lưu vực sẽ coi bằng lượng mưa đo đạc được tại trạm mưa gần đó nhất.
Trên bản đồ lưu vực có các trạm mưa có thể kẻ các đường trung trực giữa tất cả các cặp trạm mưa lân cận nhau. Tập hợp các đường trung trực này cùng với biên của lưu vực tạo thành các đa giác Thiessen.
Trong trường hợp tổng quát, trạm mưa không nhất thiết phải nằm trong lưu vực, miễn là đa giác chứa trạm mưa đó có phần diện tích nằm trong lưu vực.
Như vậy với một lưu vực có nhiều trạm đo mưa sẽ có lượng mưa trung bình trên toàn lưu vực là trung bình có trọng số của các lượng mưa tại các trạm thành phần với trọng số tỉ lệ với diện tích của hình đa giác chứa trạm mưa đó.
trong đó:
f1, f2... các diện tích đa giác thành phần
X1, X2... lượng mưa các trạm thành phần
F: diện tích toàn bộ lưu vực
: lượng mưa trung bình của lưu vực
Ghi chú |
Nghiệm góc trong kinh tế học là những lựa chọn đặc biệt của người lựa chọn (cá nhân, tổ chức, nhà nước) nằm ở hai đầu mút của một vector những lựa chọn khác nhau khi tìm cách tối ưu hóa thỏa dụng hay phúc lợi của mình. Những lựa chọn khác trên vector này mà không phải ở hai đầu mút được gọi là nghiệm thông thường hay nghiệm trong.
Trong kinh tế học vi mô, nghiệm góc thường hay chỉ tình huống ra quyết định lựa chọn một kết hợp hai hàng hóa X và Y nhằm tối đa hóa thỏa dụng với một chế ước ngân sách xác định. Thay vì chọn một nghiệm thông thường là (X>0; Y>0), người tiêu dùng lại lựa chọn nghiệm góc là (X>0; Y=0) hoặc (X=0; Y>0).
Một ví dụ khác về nghiệm góc trong kinh tế học, đó là giải pháp lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái của nhà nước. Nghiệm góc tương ứng với hai kiểu: thả nổi hoàn toàn hoặc cố định hoàn toàn. Trong khi đó, các giải pháp thông thường khác có thể là các chế độ tỷ giá thả nổi song có điều tiết.
Hay như trong quyết định lựa chọn phương án quản lý ngân sách nhà nước, phân quyền tài chính hoàn toàn hoặc tập quyền tài chính hoàn toàn sẽ là những nghiệm góc. |
Robert James "Bobby" Fischer (9 tháng 3 năm 1943 – 17 tháng 1 năm 2008) là một Đại kiện tướng cờ vua người Mỹ và là nhà vô địch thế giới thứ 11. Nhiều người đã nhận định ông là kỳ thủ cờ vua vĩ đại nhất mọi thời đại.
Ở tuổi 13 Fischer giành chiến thắng ngoạn mục trong một ván đấu nổi tiếng được biết đến với tên gọi Ván cờ thế kỷ. Kể từ năm 14 tuổi, Fischer 8 lần tham dự Giải Vô địch Cờ vua Mỹ và vô địch toàn bộ với ít nhất một điểm dư. Tuổi 15, ông trở thành đại kiện tướng trẻ nhất cho đến thời điểm đó đồng thời là ứng viên trẻ nhất cho danh hiệu vô địch thế giới. Năm 20 tuổi, Fischer giành chiến thắng tại giải vô địch cờ vua Mỹ với số điểm 11/11, điểm số hoàn hảo duy nhất trong lịch sử giải đấu. Cuốn sách My 60 Memorable Games của Fisher hiện vẫn là một tác phẩm đáng tôn trọng trong số những tài liệu về cờ vua.
Vào những năm đầu thập niên 1970, Fischer "thống trị những địch thủ đương thời đến một mức độ chưa từng thấy trước hoặc sau đó". Trong giai đoạn này ông vô địch giải Interzonal 1970 với kỷ lục dư 3½ điểm và thắng 20 ván liên tiếp, bao gồm hai trận chưa từng có tiền lệ với tỷ số 6-0 tại Giải Candidates. Tháng 7 năm 1971, ông trở thành kỳ thủ số một chính thức đầu tiên trong danh sách của Liên đoàn Cờ vua Thế giới (FIDE) và giữ vị trí này trong vòng tổng cộng 54 tháng. Năm 1972, ông giành lấy chức vô địch thế giới từ tay Boris Spassky người Liên Xô trong trận đấu tổ chức tại Reykjavík, Iceland, trận đấu công khai đại diện cho sự đối đầu của hai cường quốc trong chiến tranh Lạnh đã thu hút sự chú ý của thế giới hơn bất kỳ sự kiện tương tự nào trước đây.
Vào năm 1975, Fischer từ chối bảo vệ danh hiệu vô địch khi ông không đạt được sự đồng thuận với FIDE về một trong những điều kiện để tổ chức trận đấu. Sau đó, Fischer trở nên ít xuất hiện, biến mất trong mắt công chúng cho đến năm 1992, thời điểm mà ông chiến thắng trong một trận tái đấu không chính thức với Spassky. Trận đấu được tổ chức tại Nam Tư, khu vực khi đó đang đặt dưới lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc. Sự tham dự của Fischer dẫn tới một cuộc xung đột giữa ông và chính phủ Mỹ, họ đòi hỏi thuế thu nhập cho trận thắng của Fischer và cuối cùng ban hành lệnh bắt giữ ông.
Trong thập niên 1990, Fischer được cấp bằng sáng chế về một sửa đổi trong hệ thống định giờ, theo đó sau mỗi nước đi mỗi kỳ thủ sẽ được thêm một khoảng thời gian. Đây là một yếu tố tiêu chuẩn trong thực tiễn các trận đấu và giải đấu hàng đầu hiện nay. Ngoài ra ông còn sáng tạo một biến thể cờ vua được gọi là Chess960.
Cũng trong thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, Fischer định cư tại Hungary, Đức, Philippines, Nhật Bản, Iceland và ông ngày càng có nhiều nhận xét bài Mỹ và bài Do Thái trên các đài phát thanh khác nhau. Có thể vì lý do này mà ông đã bị thu hồi hộ chiếu Mỹ. Fischer, do không biết việc hộ chiếu của mình bị thu hồi, đã đến Nhật Bản, tại đây ông bị các nhà chức trách nước này bắt giữ và giam trong vòng 8 tháng (từ 2004 đến 2005) đồng thời đe dọa trục xuất. Vào tháng 3 năm 2005, Iceland đã cấp quyền công dân đầy đủ cho Fischer dẫn tới việc các nhà chức trách Nhật trả tự do cho ông. Sau đó Fischer đến Iceland và sống quãng đời còn lại tại đây cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 1 năm 2008.
Chú thích
Đại kiện tướng cờ vua Mỹ
Nhà vô địch cờ vua thế giới
Sinh năm 1943
Mất năm 2008
Người Chicago
Nhà phát minh Mỹ
Người Mỹ gốc Đức |
Sloan Digital Sky Survey (viết tắt là SDSS, tiếng Việt: Trạm quan sát bầu trời bằng kỹ thuật số Sloan) là trạm quan sát đặt tại Apache Point Observatory, New Mexico từ năm 2000.
Quan trắc
SDSS sử dụng chủ yếu là 1 kính thiên văn góc rộng 2.5 m, và chụp các bức ảnh thông qua năm bộ lọc (tương ứng với tên gọi u, g, r, i và z).Những ảnh chụp sau đó được xử lý để tạo ra một danh sách các đối tượng được quan sát cùng với các tham số liên quan đến đối tượng, như là chúng nhìn như một điểm hay một vùng(thiên hà chẳng hạn) và sự liên quan độ sáng của nó trên CCDs với các thông số thiên văn khác(astronomical magnitude).
Các dữ liệu mục tiêu thu được cũng được sử dụng để đo quang phổ(spectroscopy) của các đối tượng. Kính thiên văn có khả năng ghi lại 640 quang phổ tại một thời điểm bằng cách dẫn một sợi quang qua mỗi lỗ được khoan qua một tấm nhôm. Mỗi lỗ là một vị trí xác định cho mục tiêu cần tìm kiếm.
Đầu vào dữ liệu
Dự án công bố và cho phép truy cập dữ liệu trên Internet.TheSkyServer cung cấp một loạt các giao diện dưới dạng cơ sở dữ liệu SQL của Microsoft.Chúng cũng gồm cả quang phổ và các bức ảnh của các đối tượng quan sát, mà các giao diện cũng được thiết kế để dễ dàng sử dụng, ví dụ như chỉ cần cung cấp các tọa độ của một vùng bầu trời bất kỳ trong cơ sở dữ liệu của SDSS là có thể nhận được một bức ảnh đầy màu sắc của vùng đó. SkyServer cũng có rất nhiều những phần hướng dẫn cho mọi người từ trẻ em tới những nhà thiên văn chuyên nghiệp.
Dữ liệu thô (trước đó đã được xử lý thành cơ sở dữ liệu của các đối tượng) cũng được phép sử dụng ở các Internet server khác.
Kết quả
Cùng với việc công bố miêu tả quá trình quan sát, dữ liệu SDSS cũng được sử dụng trong việc công bố các chủ đề thiên văn khác nhau. Trang web SDSS full list có những công bố liên quan đến các quasars ở xa tại giới hạn quan sát thấy được của Vũ trụ, sự phân bố của các thiên hà, tính chất của các ngôi sao trong thiên hà của chúng ta và các chủ đề như vật chất tối và năng lượng tối trong vũ trụ. Xem thêm Sloan Great Wall |
Hà Tiên là một thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Ngoài ra, tên gọi Hà Tiên còn có thể chỉ:
Quần đảo Hà Tiên (hay còn gọi là quần đảo Hải Tặc), về mặt hành chính thuộc xã Tiên Hải, thành phố Hà Tiên
Tỉnh Hà Tiên: một trong 6 tỉnh đầu tiên của Nam Kỳ, tồn tại đến năm 1957; nay là một phần các tỉnh Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Huyện Hà Tiên: huyện cũ thuộc tỉnh Kiên Giang (trước 1975 được chính quyền Việt Nam Cộng hòa gọi là quận Hà Tiên); nay tương ứng với thành phố Hà Tiên và các huyện Giang Thành, Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang
Thị trấn Hà Tiên: Thị trấn cũ huyện lỵ huyện Hà Tiên đến năm 1998; nay tương ứng với các phường Bình San, Tô Châu và một phần các phường Đông Hồ, Pháo Đài thuộc thành phố Hà Tiên
Bài hát Hà Tiên của nhạc sĩ Lê Dinh.
Kiên Giang
Hà Tiên |
Barbados (phiên âm Tiếng Việt: Bác-ba-đốt), tên chính thức là Cộng hoà Barbados, là một đảo quốc độc lập ở phía tây của Đại Tây Dương, phía đông của biển Caribe.
Nguồn gốc tên gọi
Barbados nằm ở phía đông quần đảo Tiểu Antilles và Tây Indies. Nguồn gốc tên nước có nhiều cách giải thích khác nhau:
1. Bắt nguồn tên gọi một loại cây ăn quả không có hoa và có nhiều rau xoắn mọc khắp nơi ở đảo. Năm 1518, thực dân Tây Ban Nha lên đảo tìm bắt nô lệ để làm những công việc ở nông trường đường cát. Khắp nơi trên đảo mọc đầy loại cây ăn quả không hoa hoang dã, và trên cây mọc dài xuống những sợi tơ màu nâu đen, giống như những chòm râu. Thực dân Tây Ban Nha bèn đặt tên là "Los Barbados" có nghĩa là "đảo râu dài".
2. Bắt nguồn từ những người Indian (da đỏ) râu dài sinh sống trên đảo. Thế kỷ IX, một nhóm người Indian Alawak từ đại lục châu Mỹ vượt qua biển cả đến đảo này để mưu sinh. Trải qua hơn 400 năm sau, tộc người Caribbean ở phía bắc Nam Mỹ cũng đã đi thuyền độc mộc từ cửa sông Orinoco đến đây sinh sống bằng nghề đánh bắt cá.
Năm 1518, thực dân Tây Ban Nha chiếm giữ đảo. Năm 1605, một nhóm người Anh đầu tiên đến Barbados định cư. Năm 1624, thực dân Anh tuyên bố Barbados thuộc về mình. Năm 1627, Anh thiết lập Tổng đốc cai quản và mua từ Tây Phi đến số lượng nô lệ lớn để khai khẩn trồng trọt vườn. Năm 1834, Anh buộc phải trả tự do cho nô lệ. Năm 1958, Barbados sáp nhập vào Liên bang West Indies. Tháng 10 năm 1961, giành được chế độ tự trị nội bộ. Ngày 30 tháng 11 năm 1966, độc lập, là nước thành viên trong Khối Liên hiệp Anh.
Lịch sử
Người Tây Ban Nha đến chiếm đảo này từ năm 1518. Barbados trở thành thuộc địa Anh năm 1627. Người Da đen được đưa đến đây để khai hoang và xây dựng các đồn điền mía, chế độ nô lệ được bãi bỏ năm 1834. Quyền lực chính trị nằm trong tay các chủ đồn điền cho đến năm 1937. Đảo quốc này giành được độc lập và là nước thành viên thuộc Khối Liên hiệp Anh năm 1966. Errol Walton Barrow, lãnh đạo chính quyền tự trị từ năm 1961, trở thành Thủ tướng từ năm 1966.
Năm 1976, Thủ tướng Tom Adams thay thế Errol Walton Barrow. Năm 1994, Owen Seymour Arthur trở thành Thủ tướng mới của đảo quốc này, tiếp tục nhiệm kì mới năm 1999.
Ngày 15 tháng 9 năm 2020, toàn quyền Sandra Mason tuyên bố Barbados sẽ trở thành một nước cộng hòa vào ngày 30 tháng 11 năm 2021, ngày kỷ niệm 55 năm độc lập. Barbados thay thế Nữ hoàng Anh, Elizabeth II, bằng một Tổng thống được bầu làm nguyên thủ quốc gia. Tổng thống đầu tiên của quốc gia này là Sandra Mason, được bầu bởi nghị viện, bà trước đó là Toàn quyền của Barbados. Tại thời điểm này, Barbados sẽ không còn là một quốc gia của Vương quốc Thịnh vượng chung, nhưng vẫn sẽ duy trì tư cách thành viên tại Khối Thịnh vượng chung Anh.
Chính trị
Barbados là một quốc gia độc lập kể từ ngày 30 tháng 11 năm 1966. Barbados là quốc gia có chế độ dân chủ nghị viện, theo mô hình Hệ thống Westminster của Anh. Tổng thống đầu tiên và hiện nay là Sandra Mason. Thủ tướng là người đứng đầu của chính phủ. Quốc hội Barbados có 30 ghế.
Chính phủ hiện nay của Barbados một chính phủ liên hiệp cầm quyền giữa hai đảng là Đảng Lao động Dân chủ cầm quyền và Đảng Lao động Barbados. Đến năm 2003, hai đảng này thay nhau cầm quyền với nhiệm kỳ 2 năm. Cuộc bầu cử năm 2003 đã giúp cho đảng Lao động Barbados giàng chiến thắng và lên cầm quyền nhiệm kỳ thứ ba.
Ông David Thompson, người được bầu làm Thủ tướng của Barbados vào năm 2008, qua đời vì ung thư tuyến tụy vào ngày 23 tháng 10 năm 2010. Ông đã trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho Phó Thủ tướng Freundel Stewart, người đã tuyên thệ nhậm chức trong ngày ông mất.
Luật pháp
Hiến pháp của Barbados được xem là luật tối cao của quốc gia. Tổng chưởng lý là người đứng đầu ngành tư pháp độc lập. Trong lịch sử, pháp luật Barbados dựa hoàn toàn vào luật pháp của Anh với một số điều chỉnh cho sự thích ứng địa phương. Vào thời điểm độc lập, Quốc hội Anh không còn có khả năng thay đổi luật pháp địa phương theo quyết định riêng của mình. Pháp luật của Anh và quy chế pháp lý khác nhau trong luật pháp Anh tại thời điểm này, và các biện pháp khác trước khi được thông qua bởi quốc hội Barbados trở thành cơ sở của hệ thống pháp luật hiện tại của quốc gia.
Gần đây, luật pháp của Barbados có thể được định hình hoặc chịu ảnh hưởng của các tổ chức như Liên Hợp Quốc, Tổ chức các nước châu Mỹ, hoặc các diễn đàn quốc tế khác mà Barbados đã cam kết bắt buộc bởi hiệp ước. Ngoài ra, thông qua hợp tác quốc tế, các tổ chức khác có thể cung cấp cho Quốc hội Barbados về hình mẫu pháp luật để được điều chỉnh đáp ứng các hoàn cảnh địa phương trước khi đưa nó trở thành pháp luật pháp luật địa phương.
Bất kỳ một luật mới nào của Barbados cũng phải được thông qua bởi Quốc hội Barbados và được sự đồng ý của Toàn quyền và trở thành luật được chính thức ban hành.
Hệ thống tòa án
Hệ thống tòa án của Barbados được thực hiện thành:
Toà án sơ thẩm: Bao gồm tòa hình sự, dân sự trong nước, xét sử các vụ bạo lực gia đình, và các vấn đề vị thành niên.
Toà án phúc thẩm: Xử lý các kháng cáo từ Tòa án Sơ thẩm.
Tòa án Tối cao được tạo thành từ Tòa án Sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm. Tòa án tối cao bao gồm các bộ phận của pháp luật dân sự, hình sự, và gia đình.
Tòa án Tư pháp vùng Caribe (CCJ), (có trụ sở tại Port của Tây Ban Nha, Trinidad và Tobago), là tòa án cuối cùng (thẩm quyền cuối cùng) trong hệ thống Tòa án Barbados. Nó thay thế Ủy ban tư pháp của Hội đồng Cơ mật (JCPC) trụ sở tại Luân Đôn. CCJ có thể giải quyết vấn đề tranh chấp giao dịch với các đơn vị là Vùng Caribe (CARICOM) và Kinh tế (CSME).
Địa lý và khí hậu
Barbados là đảo cực nhỏ trong số các đảo thuộc khu vực Caribe. Tương đối phẳng, nó hơi lồi lên tại khu vực trung tâm, với điểm cao nhất là núi Hillaby, trong quận Scotland, có độ cao 340 m (1.100 ft) trên mực nước biển. Đảo này nằm trong Đại Tây Dương, về phía đông của các đảo khác trong khu vực Caribe. Khí hậu mang tính nhiệt đới, với mùa mưa từ tháng 6 tới tháng 10.
Barbados thường phải chịu các tác động tồi tệ nhất của các trận bão nhiệt đới trong khu vực trong mùa mưa do nó là điểm xa về phía đông trong Đại Tây Dương trong khu vực thường xuyên xảy ra các trận bão, còn các trận bão có cường độ mạnh (hurricane) đi qua đảo với tần suất 1 trận trong mỗi 26 năm. Trận bão mạnh đáng kể gần đây nhất gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho Barbados là Bão Janet năm 1955 có cấp bão là 5 trên thang bão Saffir-Simpson.
Trong giáo xứ Saint Michael có thành phố lớn nhất và đồng thời là thủ đô của Barbado là thành phố Bridgetown. Người dân địa phương đôi khi còn gọi Bridgetown là "The City", nhưng đơn giản và phổ biến nhất chỉ là "Town". Các thị trấn nằm rải rác trên đảo còn có Holetown trong giáo xứ Saint James; Oistins trong giáo xứ Christ Church và Speightstown nằm trong giáo xứ Saint Peter.
Về mặt địa chất, Barbados bao gồm lớp san hô dày 90 m (300 ft). Mặt đất hạ thấp theo một loạt các "thềm" ở phía tây và dốc hơn ở phía đông. Phần lớn Barbados được bao quanh bằng các rạn san hô.
Khí hậu là nhiệt đới ôn hòa với 2 mùa: khô và mưa. Mùa khô (tháng 12 năm trước tới tháng 5 năm sau) và mùa mưa (tháng 6 tới tháng 11) với lượng mưa hàng năm khoảng 1.000-2.300 mm (40-90 inch).
Hành chính
Barbados được chia thành 11 xã (parish):
Christ Church
Saint Andrew
Saint George
Saint James
Saint John
Saint Joseph
Saint Lucy
Saint Michael
Saint Peter
Saint Philip
Saint Thomas
Kinh tế
Kinh tế chủ yếu dựa vào du lịch, ngân hàng và chế biến đường. Mức sống của người dân ở đảo quốc này tương đối cao. Các sản phẩm xuất khẩu: đường, mật, rượu rum, bia, hóa chất, quần áo. Việc xúc tiến dự án xây dựng cảng Charles Marina ở Speightstown tạo điều kiện cho ngành du lịch tiếp tục phát triển. Hiện nay, chính phủ ra sức giảm bớt số người thất nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước.
Thành phần quan trọng nhất của nền kinh tế quốc đảo là hoạt động dịch vụ mang lại cho hòn đảo 3/4 tổng thu nhập quốc dần và thu hút khoảng 2/3 lực lượng lao động trong đó hoạt động mạnh nhất là lĩnh vực dịch vụ tài chính. Cuối năm 1995, trên đảo có 1.834 công ty kinh doanh đa quốc gia, 1.501 công ty thương mại nước ngoài, 230 công ty bảo hiểm và khoảng 34 ngân hàng nước ngoài có văn phòng tại Barbados. Tuy nhiên ngành du lịch mới là ngành mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn nhất. Hầu hết khách du lịch nghỉ lại ở bờ biển phía tây và phía nam hòn đảo, riêng trong năm 1995 hòn đảo đón 442.107 khách du lịch đến nghỉ lại và 484.670 người ghé vào tham quan. Ngành nông nghiệp trước đây là xương sống của nền kinh tế nhưng nay nó rất nhỏ chỉ đóng góp 5% thu nhập quốc dân và thu hút 5% lực lượng lao động.
Tính đến năm 2016, GDP của Barbados đạt 4.473 USD, đứng thứ 154 thế giới và đứng thứ 5 khu vực Caribe.
Giao thông
Mặc dù Barbados có tổng quảng đường rộng khoảng 34 km (21 dặm), một chuyến đi bằng ô tô từ Six Cross Roads ở St. Philip (phía đông nam) đến North Point ở St. Lucy (phía bắc trung tâm) có thể mất một tiếng rưỡi giờ hoặc lâu hơn do điều kiện đường sá. Barbados có một nửa số xe đăng ký là công dân.
Giao thông trên đảo tương đối thuận tiện với "taxi tuyến đường" được gọi là "ZR" (phát âm là "Zed-R") đi đến hầu hết các địa điểm trên đảo. Những chiếc xe buýt nhỏ này đôi khi có thể đông đúc, vì hành khách thường không bao giờ bị từ chối bất kể số lượng. Họ thường sẽ đi các tuyến đường đẹp hơn đến các điểm đến. Họ thường khởi hành từ thủ đô Bridgetown hoặc từ Speightstown ở phía bắc của đảo.
Bao gồm các ZR, có ba hệ thống xe buýt chạy bảy ngày một tuần (mặc dù ít thường xuyên hơn vào Chủ nhật). Có ZR, xe buýt nhỏ màu vàng và xe buýt vận tải màu xanh. Một chuyến đi trên bất kỳ phương tiện nào mỗi người phải trả 3,5 đô la. Các xe buýt nhỏ hơn từ hai hệ thống thuộc sở hữu tư nhân ("ZR" và "xe buýt nhỏ") có thể thay đổi; những chiếc xe buýt màu xanh lớn hơn từ hệ thống của Bộ Giao thông Vận tải Barbados do chính phủ điều hành, nhưng không đưa ra biên lai. Xe buýt của Bộ Giao thông Vận tải Barbados đi trong các tuyến xe buýt thường xuyên và lịch trình theo lịch trình trên toàn đất nước Barbados. Học sinh mặc đồng phục trường bao gồm một số trường Trung học đi xe miễn phí trên xe buýt của chính phủ và Bds $ 2,5 trên ZR. Hầu hết các tuyến đường yêu cầu kết nối ở Bridsville. Trụ sở chính của Bộ Giao thông Vận tải Barbados được đặt tại Nhà của Kay, Phố Roebuck, St. Michael, và các bến xe buýt và bến xe buýt được đặt tại Trạm xe buýt Đường phố Fairchild ở Phố Fairchild và Trạm xe buýt Princess Alice (trước đây là Bến xe buýt Hạ xanh ở Vườn Jubilee, Bridsville, St. Michael) ở Princess Alice Highway, Bridsville, St. Michael; Trạm xe buýt Speightstown ở Speightstown, St. Peter; Kho xe buýt Oistins ở Oistin, Nhà thờ Christ; và Kho xe buýt ngập mặn ở Rừng ngập mặn St. Philip.
Một số khách sạn cũng cung cấp cho du khách các tàu con thoi đến các điểm quan tâm trên đảo từ bên ngoài sảnh khách sạn. Có một số cơ quan cho thuê xe địa phương thuộc sở hữu và điều hành ở Barbados nhưng không có công ty đa quốc gia.
Sân bay duy nhất của hòn đảo là Sân bay Quốc tế Grantley Adams. Nó nhận các chuyến bay hàng ngày của một số hãng hàng không lớn từ các điểm trên toàn cầu, cũng như một số hãng hàng không thương mại khu vực nhỏ hơn và điều lệ. Sân bay đóng vai trò là trung tâm vận chuyển hàng không chính cho miền đông Caribbean. Trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, nó đã trải qua quá trình nâng cấp và mở rộng 100 triệu đô la Mỹ vào tháng 2 năm 2003 cho đến khi hoàn thành vào tháng 8 năm 2005.
Ngoài ra còn có một dịch vụ đưa đón bằng trực thăng, cung cấp dịch vụ taxi hàng không đến một số địa điểm trên đảo, chủ yếu ở vành đai du lịch Bờ Tây. Giao thông hàng không và hàng hải được quy định bởi chính quyền cảng Barbados. Các chuyến tham quan bằng máy bay trực thăng hạng sang tư nhân được đặt tại Spencers, Christ Church bên cạnh Trải nghiệm của người Canada khi nó được khai trương vào tháng 9 năm 2007 và đóng cửa vào tháng 4 năm 2010. Trực thăng Bajan được khai trương vào tháng 4 năm 1989 và đóng cửa vào cuối tháng 12 năm 2009 vì khủng hoảng kinh tế và suy thoái kinh tế.
Nhân khẩu
Barbados có dân số khoảng 281.968 và tỷ lệ tăng dân số 0,33% (giữa năm 2005 ước tính). Barbados hiện đang được xếp hạng là quốc gia có tỉ lệ tăng dân số thấp thứ 4 ở châu Mỹ (18 trên toàn cầu), và là quốc đảo đông dân thứ thứ 10 trong khu vực, (101 trên toàn cầu). Gần 90% của dân số Barbados (còn được gọi là người Bajan) có nguồn gốc châu Phi ("Afro-Bajans") và lai giữa người gốc châu Phi và người bản địa. Các thành phần dân tộc còn lại của Barbados bao gồm người gốc châu Âu (người Anh và người châu Âu lai với người Bajan) chủ yếu là từ Vương quốc Anh, Ireland. Ngoài ra còn có người Trung Quốc, người Hồi giáo từ Ấn Độ di cư đến. Các nhóm dân tộc nhỏ khác ở Barbados bao gồm những người từ Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Canada đến định cư.
Các cộng đồng lớn nhất bên ngoài cộng đồng Barbados gốc châu Phi là:
Người Guyana gốc Ấn Độ, đa phần họ là người nhập cư từ Guyana sang Barbados làm công nhân. Họ góp phần không nhỏ vào sự đa dạng văn hóa của Barbados. Đa số người Guyana gốc Ấn Độ theo Ấn giáo.
Người gốc châu Âu (chiếm khoảng 4% dân số) đã định cư ở Barbados kể từ thế kỷ XVI, có nguồn gốc từ Anh, Ireland và Scotland. Trong năm 1643, đã có 37.200 người da trắng ở Barbados (chiếm 86% dân số lúc đó).
Người Trung Quốc ở Barbados là cộng đồng dân tộc nhỏ hơn so với các cộng đồng người Trung Quốc ở Jamaica, Trinidad và Tobago. Hầu hết người Trung Quốc đến Barbados vào những năm 1940 trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai, có nguồn gốc chủ yếu từ các lãnh thổ Hồng Kông.
Người Liban và Syria hình thành các cộng đồng người Ả Rập trên đảo và cộng đồng thiểu số Hồi giáo trong đó có một tỷ lệ phần trăm nhỏ dân số Hồi giáo. Phần lớn người gốc Liban và Syria đến Barbados do các cơ hội thương mại. Trong những năm gần đây cộng đồng này đã suy giảm do sự di cư và nhập cư sang các nước khác.
Người Do Thái đến Barbados ngay sau khi những người da trắng đến định cư đầu tiên năm 1627. Bridgetown có một Hội đường Do Thái lâu đời nhất ở châu Mỹ, có niên đại từ năm 1654, mặc dù cấu trúc hiện tại được xây dựng vào năm 1833 thay thế Hội đường trước do bị hủy hoại bởi cơn bão năm 1831.
Cộng đồng người Ấn Độ đến từ Gujarat ở Ấn Độ chiếm phần lớn dân số Hồi giáo ở Barbados. Cộng đồng này thường được coi là nhóm thành công nhất trong kinh doanh, cùng với cộng đồng người Trung Quốc, hai cộng đồng dân tộc này đã góp phần rất lớn trong sự phát triển của nền Kinh tế Barbados.
Tôn giáo
Hầu hết người Barbados có nguồn gốc châu Phi và châu Âu là Kitô hữu (chiếm 95% dân số), chủ yếu là tín hữu Anh giáo (chiếm 40%). Các giáo phái Kitô giáo khác đáng kể Công giáo La Mã, Phong trào Ngũ Tuần, Nhân Chứng Giê-hô-va, Hội thánh Cơ Đốc Phục Lâm và Baptist. Tôn giáo dân tộc thiểu số bao gồm Ấn giáo, Hồi giáo, đạo Baha'i, Do Thái giáo và Wicca.
Văn hóa
Nền văn hóa của Barbados là sự pha trộn của các nền văn hóa Tây Phi, Bồ Đào Nha, Creole, Ấn Độ và Anh có mặt ở Barbados. Công dân được chính thức gọi là Barbadian. Thuật ngữ "Bajan" (phát âm là BAY-Jun) có thể xuất phát từ cách phát âm địa phương của từ Barbadian, đôi khi có thể nghe giống như "Bar-bajan"; hoặc, nhiều khả năng, từ tiếng Anh ("bayling"), tiếng Bồ Đào Nha baiano.
Sự kiện văn hóa, lễ hội lớn nhất diễn ra trên đảo là lễ hội Crop Over, được tổ chức lần đầu vào năm 1974. Cũng như nhiều quốc gia khác ở Caribbean và Mỹ Latinh, Crop Over cũng là một sự kiện quan trọng đối với nhiều người trên đảo. như hàng ngàn khách du lịch đổ về đó để tham gia vào các sự kiện thường niên. Lễ hội bao gồm các cuộc thi âm nhạc và các hoạt động truyền thống khác. Người Barbani nam và nữ thu hoạch được nhiều mía nhất được trao vương miện là Vua và Nữ hoàng của vụ mùa. Crop Over được tiến hành vào đầu tháng 7 và kết thúc bằng cuộc diễu hành hoành tráng vào Ngày Kadooment, được tổ chức vào thứ Hai đầu tiên của tháng Tám. Âm nhạc calypso/soca mới thường được phát hành và chơi thường xuyên hơn từ đầu tháng 5 để trùng với thời điểm bắt đầu lễ hội.
Ẩm thực
Ẩm thực Bajan là sự pha trộn của ảnh hưởng của châu Phi, Ấn Độ, Irish, Creole và Anh. Một bữa ăn thông thường bao gồm một món ăn chính là thịt hoặc cá, thường được ướp với hỗn hợp các loại thảo mộc và gia vị, các món ăn nóng, và một hoặc nhiều món salad. Bữa ăn thường được phục vụ với một hoặc nhiều loại nước sốt. Món ăn dân tộc của Barbados là Cou-Cou & Flying Fish với nước sốt cay. Một bữa ăn truyền thống khác là "Pudding and Souse" một món thịt lợn ngâm với khoai lang ướp gia vị. Một loạt các loại hải sản và thịt cũng có sẵn.
Trung tâm du khách Mount Gay Rum ở Barbados được coi là công ty rượu rum lâu đời nhất thế giới, với chứng thư được xác nhận sớm nhất từ năm 1703. Cockspur Rum và Malibu cũng đến từ hòn đảo này. Barbados là quê hương của Nhà máy bia Banks Barbados, nơi sản xuất bia Banks, một người cho vay nhạt, cũng như Banks Amber Ale. Các ngân hàng cũng sản xuất Tiger Malt, một loại đồ uống không cồn. Bia 10 Saints được ủ ở Speightstown, St. Peter ở Barbados và được ủ trong 90 ngày trong các thùng rượu Rum của Khu bảo tồn đặc biệt Mount Gay. Nó được ủ lần đầu tiên vào năm 2009 và có sẵn ở một số quốc gia Caricom.
Âm nhạc
Trong âm nhạc, Rihanna là một trong những nghệ sĩ nổi tiếng nhất của Barbados và là một trong những nghệ sĩ âm nhạc bán chạy nhất mọi thời đại, bán được hơn 200 triệu bản trên toàn thế giới. Năm 2009, cô đã được bổ nhiệm làm Đại sứ danh dự của Thanh niên và Văn hóa tại Barbados bởi cố Thủ tướng David Thompson. Ngày 30 tháng 11 năm 2021, cô được phong danh hiệu Anh hùng dân tộc Barbados bởi tổng thống Barbados đầu tiên Sandra Mason tại lễ thành lập nước Cộng hòa Barbados.
Chú thích |
Bullet Cluster, hay sự kiện Bullet Cluster"1E 0657-56", là cuộc đụng độ giữa hai đám thiên hà mạnh nhất mà ngành thiên văn học hiện đại ghi nhận được, khiến cho các vì sao và vật chất tối của những thiên hà đi xuyên tách rời nhau, trong khi những khối khí liên hành tinh giữa chúng va vào nhau và đi chậm lại. Kết quả là tạo ra thiên hà 1E 0657-56, hay Bullet Cluster. |
Trong vật lý thiên văn, thuật ngữ vật chất tối chỉ đến một loại vật chất giả thuyết trong vũ trụ, có thành phần chưa hiểu được. Vật chất tối không phát ra hay phản chiếu đủ bức xạ điện từ để có thể quan sát được bằng kính thiên văn hay các thiết bị đo đạc hiện nay, nhưng có thể nhận ra nó vì những ảnh hưởng hấp dẫn của nó đối với chất rắn và các vật thể khác cũng như với toàn thể vũ trụ. Dựa trên hiểu biết hiện nay về những cấu trúc lớn hơn thiên hà, cũng như các lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về Vụ Nổ Lớn, các nhà khoa học nghĩ rằng vật chất tối là thành phần cơ bản chiếm tới 70% vật chất (vật chất tối + vật chất thường) trong vũ trụ.
Nhận dạng vật chất tối
Các nhà khoa học đã nhận ra một số hiện tượng mà hợp với sự tồn tại của vật chất tối, bao gồm tốc độ quay của các thiên hà và tốc độ quỹ đạo của những thiên hà trong cụm; thấu kính hấp dẫn các thiên thể phía sau bởi những cụm thiên hà như là Bullet Cluster; và kiểu phân phối nhiệt độ của khí nóng ở các thiên hà và cụm thiên hà.
Vật chất tối cũng có vai trò quan trọng đối với sự tạo thành cấu trúc và sự tiến hóa thiên hà, và có ảnh hưởng đo được đến tính không đẳng hướng (anisotropy) của bức xạ phông vi sóng vũ trụ. Các hiện tượng này chỉ rằng vật chất quan sát thấy được trong các thiên hà, các cụm thiên hà, và cả vũ trụ mà có ảnh hưởng đến bức xạ điện từ chỉ là một phần nhỏ của tất cả vật chất: phần còn lại được gọi là "thành phần vật chất tối".
Năm 1933, Fritz Zwicky phát hiện ra loại vật chất này khi đo vận tốc các thiên hà trong cụm thiên hà Coma.
Thành phần của vật chất tối chưa hiểu được, nhưng có thể bao gồm những hạt sơ cấp mới nghĩ đến, như là WIMP, axion, và neutrino thường và nặng; các thiên thể như là sao lùn trắng và hành tinh (được gọi chung là MACHO, massive compact halo object); và đám khí không phát ra ánh sáng. Bằng chứng hiện hành ủng hộ các mô hình cho rằng thành phần chính của vật chất tối là những hạt sơ cấp chưa gặp, được gọi chung là "vật chất tối thiếu baryon". Cũng có thể xếp hố đen vào một dạng vật chất tối. Tuy nhiên, giữa hố đen và vật chất tối có nhiều điểm khác biệt. Vật chất tối bất kì nào cũng có 1 điểm gọi là gốc, chúng hút các nguyên tử trong không gian để tăng kích thước và càng đặc hơn. Gốc của vật chất tối có lực hấp dẫn, vì vậy vật chất tối lớn đến mấy thì trọng lực và áp suất chúng tạo ra là vẫn không đổi. Còn về hố đen, chúng không thể to ra, mà đơn thuần chỉ là một vòng xoáy với áp suất cực mạnh hút mọi thứ vật chất khác.Vật chất tối có thể di chuyển với vận tốc ánh sáng khi nó đủ đặc, và thậm chí lúc đó nó có thể phá hủy 1 hành tinh. Hố đen có thể là 1 dạng vật chất tối bị thuần hóa, nó không thể di chuyển nữa nhưng vẫn có áp suất cực mạnh.
Tuy vậy, các thí nghiệm vật lý trong năm 2016 của các thiết bị hiện đại nhằm tìm kiếm, chứng minh cho sự có mặt của vật chất tối đã thất bại trong việc phát hiện chúng. Vật chất tối rất khó tìm kiếm do chúng ta không thể thấy nó và chỉ có thể phát hiện khi các thiết bị tiếp xúc với trọng lực siêu nhỏ từ gốc của nó. Vì vậy, chứng thực được sự tồn tại của nó là rất khó.
Lý thuyết mới sự ra đời vật chất tối
Các nhà khoa học tại đại học Johannes Gutenberg ở Đức đưa ra lý thuyết mới sự hình thành vật chất tối ngay sau khởi đầu của vũ trụ. Mô hình này thay thế cho mô hình WIMP (Weakly Interacting Massive Particles) gọi là các hạt năng lượng tương tác yếu.
Khởi điểm vũ trụ vật chất tối có thể không ổn định, giả định là nó bị phân rã. Vật chất tối được giữ ổn định bằng giải thích nguyên lý đối xứng, cho phép nó tồn tại tới ngày nay. Giả thiết này được hai nhà vật lí Baker và Kopp đưa ra dựa trên lí thuyết bất đối xứng vật chất và phản vật chất trong vũ trụ.
Bằng chứng quan sát
Đường cong quay thiên hà
Cánh tay của các thiên hà xoắn ốc xoay quanh trung tâm thiên hà. Mật độ khối phát sáng của một thiên hà xoắn ốc giảm khi người ta đi từ trung tâm ra ngoài rìa. Nếu khối lượng phát sáng là tất cả vấn đề, thì chúng ta có thể mô hình thiên hà như một khối điểm ở trung tâm và kiểm tra các khối lượng quay quanh nó, tương tự như Hệ Mặt trời. Từ Định luật thứ hai của Kepler, dự kiến vận tốc quay sẽ giảm theo khoảng cách từ tâm, tương tự như Hệ mặt trời. Điều này không được quan sát. Thay vào đó, đường cong xoay thiên hà vẫn phẳng khi khoảng cách từ tâm tăng lên.
Nếu định luật của Kepler là chính xác, thì cách rõ ràng để giải quyết sự khác biệt này là kết luận sự phân bố khối lượng trong các thiên hà xoắn ốc không giống với Hệ Mặt trời. Đặc biệt, có rất nhiều vật chất không phát sáng (vật chất tối) ở vùng ngoại ô của thiên hà.
Vận tốc phân tán
Các ngôi sao trong các hệ thống ràng buộc phải tuân theo định lý virial. Định lý này, cùng với phân bố vận tốc đo được, có thể được sử dụng để đo phân bố khối lượng trong một hệ thống ràng buộc, chẳng hạn như các thiên hà hình elip hoặc các cụm cầu. Với một số ngoại lệ, ước tính phân tán vận tốc của các thiên hà hình elip không khớp với sự phân tán vận tốc dự đoán từ phân bố khối lượng quan sát được, thậm chí giả định sự phân bố phức tạp của các quỹ đạo sao.
Như với các đường cong xoay của thiên hà, cách rõ ràng để giải quyết sự khác biệt là định nghĩa sự tồn tại của vật chất không phát sáng.
Cụm thiên hà
Các cụm thiên hà đặc biệt quan trọng đối với các nghiên cứu vật chất tối vì khối lượng của chúng có thể được ước tính theo ba cách độc lập:
Từ sự phân tán vận tốc hướng tâm của các thiên hà trong các cụm
Từ tia X phát ra từ khí nóng trong cụm. Từ phổ năng lượng tia X và thông lượng, nhiệt độ và mật độ khí có thể được ước tính, do đó tạo ra áp suất; giả sử áp suất và cân bằng trọng lực xác định hồ sơ khối lượng của cụm.
Thấu kính hấp dẫn (thường là các thiên hà ở xa hơn) có thể đo khối lượng cụm mà không cần dựa vào các quan sát động lực học (ví dụ: vận tốc).
Nói chung, ba phương pháp này nằm trong thỏa thuận hợp lý, vật chất tối lớn hơn vật chất có thể nhìn thấy khoảng 5 đến 1.
Thấu kính hấp dẫn
Một trong những hệ quả của thuyết tương đối rộng là các vật thể lớn (như cụm thiên hà) nằm giữa một nguồn xa hơn (như chuẩn tinh) và người quan sát phải đóng vai trò như một thấu kính để bẻ cong ánh sáng từ nguồn này. Một vật thể càng lớn, ống kính càng được quan sát nhiều.
Thấu kính mạnh là sự biến dạng quan sát được của các thiên hà nền thành các cung khi ánh sáng của chúng đi qua một thấu kính hấp dẫn như vậy. Nó đã được quan sát xung quanh nhiều cụm ở xa bao gồm Abell 1689. Bằng cách đo hình học biến dạng, có thể thu được khối lượng của cụm can thiệp. Trong hàng chục trường hợp đã được thực hiện, các tỷ lệ khối lượng ánh sáng thu được tương ứng với các phép đo vật chất tối động của các cụm. Thấu kính có thể dẫn đến nhiều bản sao của một hình ảnh. Bằng cách phân tích sự phân bố của nhiều bản sao hình ảnh, các nhà khoa học đã có thể suy luận và lập bản đồ phân bố vật chất tối xung quanh cụm thiên hà MACS J0416.1-2403.
Thấu kính hẫp dẫn yếu nghiên cứu về sự biến dạng nhỏ của nền của các thiên hà, sử dụng các dữ liệu thống kê về những cuộc khảo sát thiên hà rộng lớn. Bằng cách khảo sát sự biến dạng của mặt cắt nền thiên hà, the mean distribution of dark matter can be characterized. The mass-to-light ratios correspond to dark matter densities predicted by other large-scale structure measurements. Dark matter does not bend light itself; mass (in this case the mass of the dark matter) bends spacetime. Light follows the curvature of spacetime, resulting in the lensing effect.
Nền vi sóng vũ trụ
Mặc dù cả vật chất tối và vật chất thông thường đều là vật chất, nhưng chúng không hành xử theo cùng một cách. Đặc biệt, trong vũ trụ sơ khai, vật chất thông thường bị ion hóa và tương tác mạnh với bức xạ thông qua sự tán xạ Thomson. Vật chất tối không tương tác trực tiếp với bức xạ, nhưng nó ảnh hưởng đến CMB bởi thế năng hấp dẫn của nó (chủ yếu ở quy mô lớn) và do ảnh hưởng của nó đến mật độ và vận tốc của vật chất thông thường. Do đó, nhiễu loạn vật chất thông thường và tối, phát triển khác nhau theo thời gian và để lại những dấu ấn khác nhau trên nền vi sóng vũ trụ (CMB).
Nền vi sóng vũ trụ rất gần với một người da đen hoàn hảo nhưng chứa bất đẳng hướng nhiệt độ rất nhỏ của một vài phần trong 100.000. Một bản đồ bầu trời của dị hướng có thể bị phân hủy thành phổ công suất góc, được quan sát thấy có chứa một loạt các đỉnh âm ở khoảng cách gần bằng nhau nhưng độ cao khác nhau. Một loạt các đỉnh có thể được dự đoán cho bất kỳ tập hợp các tham số vũ trụ giả định nào bằng các mã máy tính hiện đại như CMBFast và CAMB, và lý thuyết khớp với dữ liệu, do đó, hạn chế các tham số vũ trụ. Đỉnh thứ nhất chủ yếu cho thấy mật độ của vật chất baryonic, trong khi đỉnh thứ ba chủ yếu liên quan đến mật độ vật chất tối, đo mật độ vật chất và mật độ của các nguyên tử.
Bất đẳng hướng CMB lần đầu tiên được phát hiện bởi COBE vào năm 1992, mặc dù điều này có độ phân giải quá thô để phát hiện các đỉnh âm thanh. Sau khi phát hiện ra đỉnh âm thanh đầu tiên của thí nghiệm BOOMERanG từ khinh khí cầu vào năm 2000, phổ công suất đã được WMAP quan sát chính xác vào năm 2003, năm 2012 và thậm chí chính xác hơn là tàu vũ trụ Planck vào năm 2013 2015. Các kết quả hỗ trợ mô hình Lambda-CDM.
Phổ công suất góc CMB quan sát được cung cấp bằng chứng mạnh mẽ hỗ trợ vật chất tối, vì cấu trúc chính xác của nó được trang bị tốt bởi Lambda-CDM model, nhưng khó tái tạo với bất kỳ mô hình cạnh tranh nào, chẳng hạn như động lực học Newton đã sửa đổi (MOND).
Cấu trúc hình thành
Sự hình thành cấu trúc đề cập đến khoảng thời gian sau Vụ nổ lớn khi các nhiễu động mật độ sụp đổ để tạo thành các ngôi sao, thiên hà và cụm. Trước khi hình thành cấu trúc, các giải pháp Friedmann cho thuyết tương đối rộng mô tả một vũ trụ đồng nhất. Sau đó, các dị hướng nhỏ dần lớn lên và cô đặc vũ trụ đồng nhất thành các ngôi sao, thiên hà và các cấu trúc lớn hơn. Vật chất thông thường bị ảnh hưởng bởi bức xạ, là nguyên tố chi phối của vũ trụ vào thời kỳ rất sớm. Kết quả là, sự nhiễu loạn mật độ của nó bị rửa trôi và không thể ngưng tụ thành cấu trúc. Nếu chỉ có vật chất bình thường trong vũ trụ, sẽ không có đủ thời gian để nhiễu loạn mật độ phát triển thành các thiên hà và cụm thiên hà hiện đang được nhìn thấy.
Vật chất tối cung cấp một giải pháp cho vấn đề này vì nó không bị ảnh hưởng bởi bức xạ. Do đó, nhiễu loạn mật độ của nó có thể phát triển đầu tiên. Thế năng hấp dẫn tạo ra đóng vai trò như một giếng tiềm năng hấp dẫn cho các vật chất thông thường sụp đổ sau đó, đẩy nhanh quá trình hình thành cấu trúc.
Bullet Cluster
Nếu vật chất tối không tồn tại, thì lời giải thích tiếp theo có lẽ phải là thuyết tương đối rộng - thuyết hấp dẫn đang thịnh hành - là không chính xác và cần được sửa đổi. Cụm thiên hà, kết quả của một vụ va chạm gần đây của hai cụm thiên hà, cung cấp một thách thức cho các lý thuyết trọng lực đã được sửa đổi bởi vì khối tâm biểu kiến của nó lệch xa so với khối tâm baryonic. Các mô hình vật chất tối tiêu chuẩn có thể dễ dàng giải thích quan sát này, nhưng lực hấp dẫn được sửa đổi có thời gian khó hơn nhiều, đặc biệt là vì bằng chứng quan sát không phụ thuộc vào mô hình.
Phép đo khoảng cách siêu tân tinh loại la
Siêu tân tinh loại Ia có thể được sử dụng làm nến tiêu chuẩn để đo khoảng cách ngoài thiên hà, từ đó có thể được sử dụng để đo tốc độ vũ trụ đã giãn nở trong quá khứ. Dữ liệu cho thấy vũ trụ đang giãn nở với tốc độ gia tốc, nguyên nhân của nó thường được quy cho năng lượng tối. Vì các quan sát cho thấy vũ trụ gần như phẳng, nên dự kiến tổng mật độ năng lượng của mọi thứ trong vũ trụ phải tổng bằng 1 (Ωtot ≈ 1). Mật độ năng lượng tối đo được là ΩΛ ≈ 0,690; mật độ năng lượng của vật chất thông thường (baryonic) quan sát được là Ωb ≈ 0,0482 và mật độ năng lượng của bức xạ là không đáng kể. Điều này làm thiếu Ωdm ≈ 0,258 mà vẫn hoạt động giống như vật chất (xem phần định nghĩa kỹ thuật ở trên) - vật chất tối.
Khảo sát bầu trời và dao động âm thanh baryon
Dao động âm thanh Baryon (BAO) là những dao động về mật độ của vật chất baryon nhìn thấy được (vật chất bình thường) của vũ trụ trên quy mô lớn. Chúng được dự đoán là phát sinh trong mô hình Lambda-CDM do dao động âm trong chất lỏng photon-baryon của vũ trụ sơ khai, và có thể được quan sát thấy trong phổ công suất góc của nền vi sóng vũ trụ. BAO thiết lập thang đo độ dài ưa thích cho baryon. Khi vật chất tối và baryon kết tụ lại với nhau sau khi tái hợp, ảnh hưởng yếu hơn nhiều trong sự phân bố thiên hà trong vũ trụ gần đó, nhưng có thể phát hiện được như một ưu tiên tinh tế (≈1%) cho các cặp thiên hà cách nhau 147 Mpc, so với chúng cách nhau 130–160 Mpc. Tính năng này đã được dự đoán về mặt lý thuyết vào những năm 1990 và sau đó được phát hiện vào năm 2005, trong hai cuộc khảo sát dịch chuyển đỏ thiên hà lớn, Khảo sát Bầu trời Kỹ thuật số Sloan và Khảo sát Dịch chuyển Đỏ Thiên hà 2dF. Kết hợp các quan sát CMB với các phép đo BAO từ các cuộc khảo sát dịch chuyển đỏ của thiên hà cung cấp một ước tính chính xác về hằng số Hubble và mật độ vật chất trung bình trong Vũ trụ. Kết quả hỗ trợ mô hình Lambda-CDM.
Redshift-space biến dạng
Các cuộc khảo sát dịch chuyển đỏ lớn của thiên hà có thể được sử dụng để lập bản đồ ba chiều về sự phân bố của thiên hà. Các bản đồ này hơi bị bóp méo vì khoảng cách được ước tính từ các dịch chuyển đỏ quan sát được; dịch chuyển đỏ chứa đựng một phần đóng góp từ cái gọi là vận tốc đặc biệt của thiên hà cùng với thuật ngữ mở rộng Hubble chiếm ưu thế. Trung bình, các siêu đám đang giãn nở chậm hơn trung bình vũ trụ do lực hấp dẫn của chúng, trong khi các khoảng trống đang giãn nở nhanh hơn mức trung bình. Trong bản đồ dịch chuyển đỏ, các thiên hà phía trước siêu đám có vận tốc hướng tâm vượt quá đối với nó và có dịch chuyển đỏ cao hơn một chút so với khoảng cách của chúng, trong khi các thiên hà phía sau siêu đám có dịch chuyển đỏ hơi thấp so với khoảng cách của chúng. Hiệu ứng này làm cho các siêu đám có vẻ như bị bóp méo theo hướng xuyên tâm, và các khoảng trống tương tự cũng bị kéo căng ra. Các vị trí góc của chúng không bị ảnh hưởng. Hiệu ứng này không thể phát hiện được đối với bất kỳ cấu trúc nào vì hình dạng thực không được biết đến, nhưng có thể được đo bằng cách lấy trung bình trên nhiều cấu trúc. Nó được dự đoán định lượng bởi Nick Kaiser vào năm 1987, và lần đầu tiên được đo lường một cách quyết định vào năm 2001 bởi Khảo sát Dịch chuyển Đỏ Thiên hà 2dF. [35] Kết quả phù hợp với mô hình Lambda-CDM.
Rừng Lyman-alpha
Trong quang phổ thiên văn, rừng Lyman-alpha là tổng các vạch hấp thụ phát sinh từ quá trình chuyển đổi Lyman-alpha của hydro trung tính trong quang phổ của các thiên hà và chuẩn tinh ở xa. Các quan sát về rừng Lyman-alpha cũng có thể hạn chế các mô hình vũ trụ. Những ràng buộc này đồng ý với những ràng buộc thu được từ dữ liệu WMAP. |
Brigitte Anne-Marie Bardot ( ; ; sinh ngày 28 tháng 9 năm 1934), thường được gọi theo tên viết tắt là B.B., là một cựu nữ diễn viên, ca sĩ và hiện là nhà hoạt động vì quyền động vật người Pháp. Nổi tiếng vì hóa thân vào các nhân vật cởi mở về tình dục cùng lối sống khoái lạc, bà là một trong những biểu tượng sex danh tiếng nhất ở cuối thập niên 1950 và 1960. Mặc dù đã rút khỏi ngành công nghiệp giải trí vào năm 1973, bà vẫn là một biểu tượng văn hóa đại chúng lớn.
Sinh ra và lớn lên tại Paris, Bardot có khát vọng làm vũ công ba lê khi lớn lên. Bà bắt đầu theo đuổi sự nghiệp diễn xuất vào năm 1952. Bà được khán giả quốc tế chú ý vào năm 1957 với vai diễn trong Et Dieu... créa la femme (1956), đồng thời lọt vào mắt xanh của tầng lớp trí thức. Bà là đối tượng trong bài luận The Lolita Syndrome chắp bút năm 1959 của Simone de Beauvoir, miêu tả bà là "lá cờ đầu của lịch sử phụ nữ" và được xây dựng dựa tên các đề tài hiện sinh nhằm biến bà thành người phụ nữ đầu tiên và tự do nhất ở đất nước Pháp thời hậu chiến. Bardot sau đó đóng trong phim Le Mépris (1963) của Jean-Luc Godard. Với vai diễn trong phim Viva Maria! (1965) của Louis Malle, bà được đề cử giải BAFTA cho nữ diễn viên nước ngoài xuất sắc nhất.
Bardot rút khỏi ngành công nghiệp giải trí vào năm 1973. Bà đã tham gia diễn xuất 47 bộ phim, diễn trong nhiều vở nhạc kịch và ghi lại hơn 60 ca khúc. Bà được trao huân chương Bắc Đẩu Bội tinh vào năm 1985 nhưng từ chối nhận nó. Sau khi giải nghệ, bà trở thành một nhà hoạt động vì quyền động vật. Trong thập niên 2000, bà làm dấy lên tranh cãi khi phê phán nạn nhập cư và Hồi giáo ở Pháp, ngoài ra bà còn bị phạt tới 5 lần vi kích động thù hận chủng tộc. Bà đã kết hôn với Bernard d'Ormale – một cựu cố vấn cho Marine Le Pen – thủ lĩnh chính trị phe cực hữu chính tại Pháp.
Thân thế
Brigitte Anne-Marie Bardot sinh ngày 28 tháng 9 năm 1934 ở quận 15, Paris, là con gái của Louis Bardot (1896–1975) và Anne-Marie Mucel (1912–1978). Cha của Bardot có gốc gác từ Ligny-en-Barrois, là một kỹ sư và sở hữu nhiều nhà máy công nghiệp ở Paris. Mẹ bà là con gái của một giám đốc công ty bảo hiểm. Bà lớn lên trong một gia đình Cơ đốc giáo bảo thủ, giống như cha của bà. Bà mắc chứng nhược thị khi còn bé, làm cho con mắt trái của bà bị suy giảm thị lực. Bà có một cô em gái tên là Mijanou.
Tuổi thơ Bardot sống trong sung túc; bà sống trong căn hộ cớ tới 7 phòng ngủ của gia đình ở quận 16 xa hoa. Tuy nhiên, bà nhớ lại cảm giác bực bội trong những năm đầu đời. Cha bà yêu cầu bà phải tuân theo những hành vi chuẩn mực khắt khe, chẳng hạn như cách xử sự tốt trên bàn ăn và bà phải mặc quần áo đúng lễ nghi. Mẹ bà rất khắt khe trong việc chọn bạn đồng hành cho bà, hệ quả là Bardot có rất ít bạn thời thơ ấu. Bardot nhắc đến sự cố đau lòng trong đời bà khi hai chị em bà làm vỡ chiếc bình yêu quý của cha mẹ trong lúc họ đang chơi trong nhà; ông bố đã đánh hai chị em 20 cái và sau đấy đối xử với họ như "người lạ", yêu cầu hai đứa con xưng hô với cha mẹ bằng đại từ "vous" – một cách xưng hô trang trọng, được dùng đến khi nói chuyện với những người xa lạ hoặc có địa vị cao hơn ngoài gia đình ruột thịt. Sự cố ấy đã làm Bardot cảm thấy tức giận với cha mẹ mình, là nguyên cớ dẫn đến lối sống nổi loạn của bà sau này.
Trong Thế chiến II, thời điểm Paris bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, Bardot dành nhiều thời gian tại gia hơn do lệnh giám sát dân sự ngày một nghiêm ngặt. Bà say mê nhảy múa theo điệu nhạc từ đĩa hát, làm cho mẹ bà thấy con gái mình có tiềm năng về sự nghiệp múa ba lê. Bardot được nhận vào trường tư thục Cours Hattemer năm lên 7 tuổi. Bà tới trường ba ngày mỗi tuần, giúp bà có thời gian rảnh để tham gia lớp học múa tại một studio ở địa phương, dưới sự sắp xếp của mẹ. Năm 1949, Bardot được nhận vào trường Conservatoire de Paris. Trong 3 năm, bà đã dự các lớp học múa ba lê do biên đạo múa người Nga Boris Knyazev tổ chức. Bà cũng theo học Institut de la Tour, một trường trung học Công giáo tư thục ở gần nhà.
Năm 1949, Hélène Gordon-Lazareff – tổng biên tập của tạp chí Elle và Le Jardin des Modes thời điểm đó, đã thuê Bardot làm người mẫu "nhí". Ngày 2 tháng 5 năm 1949, Bardot (lúc ấy chưa đầy 15 tuổi) xuất hiện trên bìa tạp chí Elle, đem đến cho bà lời mời diễn xuất trong phim Les Lauriers sont coupés từ đạo diễn Marc Allégret. Cha mẹ bà phản đối con gái làm diễn viên, nhưng ông nội của bà lại ủng hộ khi nói rằng "nếu con bé trở thành điếm thì đấy không phải là do điện ảnh." Tại buổi thử vai, Bardot gặp Roger Vadim và sau đó được ông này thông báo rằng bà không giành được vai. Sau đấy họ phải lòng nhau. Cha mẹ bà phản đối kịch liệt tình cảm của hai người; tối nọ cha bà nói với con gái mình rằng bà sẽ tiếp tục đi học ở Anh và ông đã mua cho bà một chiếc vé tàu, chuyến đi dự kiến khởi hành trong ngày hôm sau. Bardot đã phản ứng bằng cách chui đầu vào lò nướng đang bật lửa; cha mẹ bà kịp thời ngăn con gái hành động dại dột và sau cùng chấp nhận tình yêu của bà với Vadim, với điều kiện là bà phải đợi đến khi 18 tuổi mới lấy Vadim.
Sự nghiệp
Khởi nghiệp
Bardot một lần nữa xuất hiện trên bìa tạp chí Elle vào năm 1952, giúp bà nhận được lời mời đóng phim hài Le Trou normand (1952), có sự tham gia diễn xuất của Bourvil và Jean Boyer làm đạo diễn. Bà được trả 200.000 franc (tức 4.700 euro năm 2019) cho một vai nhỏ, đóng người họ hàng của nhân vật chính. Bardot có vai diễn điện ảnh thứ hai trong Manina, la fille sans voiles (1953), do Willy Rozier làm đạo diễn. Bà cũng tham gia đóng các phim Les Dents longues và Le Portrait de son père (cả hai ra mắt năm 1953).
Bardot có một vai nhỏ trong bộ phim do Hollywood tài trợ được ghi hình ở Paris, mang tên Act of Love (1953), với sự tham gia của Kirk Douglas. Bà được giới truyền thông chú ý khi tham dự Liên hoan phim Cannes vào tháng 4 năm 1953.
Bardot đóng vai chính trong bộ phim tâm lý tình cảm của Ý mang tên Tradita (1954) và trong bộ phim hài phiêu lưu Le Fils de Caroline chérie (1954) của Pháp. Bà có một màn thể hiện hay khi hóa thân vào vai nữ sinh có sở thích tán tỉnh trong Futures vedettes (1955), đóng cặp cùng Jean Marais và do Marc Allégret làm đạo diễn.
Bardot có một vai khá tiếng tăm bằng tiếng Anh trong phim Doctor at Sea (1955), bà vào vai nhân tình của Dirk Bogarde. Đây là bộ phim nổi tiếng thứ ba tại phòng vé của Anh năm đó.
Bà có một vai nhỏ trong phim Les Grandes Manœuvres (1955) của đạo diễn René Clair, diễn cùng Gérard Philipe và Michelle Morgan. Vai diễn tầm cỡ hơn của bà đến trong phim La Lumière d'en face (1956) của đạo diễn Georges Lacombe. Bà còn tham gia một bộ phim của Hollywood nữa là Helen of Troy, thủ vai hầu gái của Helen.
Trong bộ phim điện ảnh Ý Mio figlio Nerone (1956), Bardot được đạo diễn đề nghị đóng vai cô gái tóc vàng. Thay vì đội tóc giả để che đi mái tóc nâu tự nhiên, bà lại quyết định nhuộm tóc. Bà rất hài lòng với mái tóc mới nhuộn nên quyết định giữ lại màu tóc ấy.
Vươn tầm minh tinh
Bardot ghi dấu trong bốn bộ phim biến bà thành ngôi sao điện ảnh. Đầu tiên là phim nhạc kịch Cette sacrée gamine (1956), trong phim Bardot thủ vai một nữ sinh rắc rối. Phim do Michel Boisrond làm đạo diễn với kịch bản được đồng chắp bút bởi Roger Vadim và trở thành cú hit phòng vé, là phim ăn khách đứng thứ 12 trong năm tại Pháp. Kế đến là tác phẩm hài En effeuillant la marguerite (1956) do Vadim viết kịch bản cùng đạo diễn Marc Allégret, bộ phim này tạo nên một thành công nữa ở Pháp. Tương tự là bộ phim hài La mariée est trop belle (1956) với Louis Jourdan.
Cuối cùng là bộ phim tâm lý tình cảm Et Dieu... créa la femme (1956) – tác phẩm đạo diễn đầu tay của Vadim với Bardot đóng cặp cùng Jean-Louis Trintignant và Curt Jurgens. Nội dung phim nói về một thiếu niên bất trị trong một thị trấn nhỏ đoan trang; tác phẩm gặt hái thành công lớn, không chỉ Pháp mà trên toàn thế giới – nằm trong top 10 phim nổi tiếng nhất ở Anh vào năm 1957. Phim biến Bardot thành ngôi sao tầm cỡ quốc tế. Kể từ năm 1956, bà được ca ngợi là "cô đào đỏng đảnh quyến rũ". Bộ phim đã gây xúc phạm tại Hoa Kỳ và làm các nhà quản lý rạp từng bị bắt vì chiếu phim.
Trong những năm đầu sự nghiệp, những tấm ảnh chụp bởi nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp Sam Lévin đã góp phần xây dựng hình ảnh gợi cảm của Bardot. Trong đó một tấm hình chụp Bardot từ phía sau đang mặc chiếc áo nịt ngực màu trắng. Nhiếp ảnh gia người Anh Cornel Lucas là người chụp các tấm hình Bardot ở các thập niên 1950 và 1960, trở thành hình hài đại diện của cô trước công chúng.
Sau Et Dieu... créa la femme, Bardot tham gia phim Une parisienne (1957), một tác phẩm hài có sự diễn xuất của Charles Boyer với Boisrond làm đạo diễn. Bà tái hợp với Vadim trong một tác phẩm tâm lý tình cảm nữa là Les bijoutiers du clair de lune (1958) và hóa thân một tội phạm quyến rũ Jean Gabin trong En cas de malheur (1958). En cas de malheur là bộ phim được xem nhiều thứ 13 trong năm ở Pháp.
Phim La Femme et le Pantin (1959) của đạo diễn Julien Duvivier khá nổi tiếng, song Babette s'en va-t-en guerre (1959), một phim hài mà Bardot đóng lấy bối cảnh trong Thế chiến II mới thực sự là một cú hích phòng vé, là phim điện ảnh ăn khách thứ 4 trong năm tại Pháp. Ngoài ra bà còn đóng trong Voulez-vous danser avec moi? (1959) của Boisrond.
Dự án phim kế tiếp của bà là tác phẩm chính kịch xử án La Vérité (1960) của Henri-Georges Clouzot. Đây là một tác phẩm được trình chiếu rộng rãi, làm cho Bardot ngoại tình và có ý định tự tử. Đây là phim thành công nhất của Bardot về mặt thương mại từ trước đến nay tại Pháp, phim ăn khách thứ ba trong năm và giành được đề cử Oscar cho Phim ngoại ngữ hay nhất. Bardot được trao giải David di Donatello cho nữ diễn viên nước ngoài xuất sắc nhất nhờ vai diễn trong phim.
Những bộ phim cuối
Từ năm 1969 đến 1978, Bardot là gương mặt chính thức của Marianne (người từng bị ẩn danh) để đại diện cho tự do của Pháp.
Phim Les Femmes (1969) thất bại về mặt doanh thu, mặc dù phim hài gàn dở L'Ours et la Poupée (1970) thể hiện tốt hơn một chút. Những tác phẩm cuối của bà đa số là phim hài: Les Novices (1970), Boulevard du Rhum (1971) (với Lino Ventura). Les Pétroleuses (1971) là phim nổi tiếng hơn, nhờ có Bardot đóng cặp cùng Claudia Cardinale. Bà có thêm một phim nữa với Vadim, Don Juan ou Si Don Juan était une femme... (1973), thủ vai nhân vật tiêu đề. Vadim cho biết bộ phim thể hiện "ở dưới cái mà người ta gọi 'huyền thoại Bardot' là một điều thú vị, ngay cả khi cô ấy chưa bao giờ được xem là nữ diễn viên chuyên nghiệp nhất thế giới. Trong nhiều năm, kể từ khi cô ấy già đi và huyền thoại Bardot chỉ còn là một món đồ lưu niệm... Tôi tò mò về cô ấy dưới hình hài phụ nữ và tôi phải đi đến tận cùng với cùng với cô ấy, để thoát khỏi cổ và thể hiện nhiều thứ mà tôi cảm nhận được ở cổ. Brigitte luôn tạo ấn tượng về tự do tình dục – cô ấy hoàn toàn là người tự do và cởi mở mà không hề có chút đả kích nào. Vì thế tôi đem đến cho cô ấy một phần của đàn ông – điều ấy làm tôi thấy thích thú".
"Nếu Don Juan không phải phim cuối cùng của tôi thì bộ phim kế tiếp sẽ là phim cuối", Bardot đã nói vậy trong lúc ghi hình phim. Bà đã giữ lời và chỉ làm thêm một phim nữa là L'histoire très bonne et très joyeuse de Colinot Trousse-Chemise (1973). Năm 1973, Bardot thông báo giải nghệ diễn xuất nhằm "rút lui một cách thanh lịch".
Hoạt động vì quyền động vật
Sau khi góp mặt trong hơn 40 tác phẩm điện ảnh và thu âm nhiều album nhạc, Bardot đã sử dụng danh tiếng của mình để quảng bá quyền động vật. Năm 1986, bà thành lập Quỹ Brigitte Bardot nhằm chăm sóc và bảo vệ động vật. Bà trở thành một người ăn chay và chi ra 3 triệu đồng franc (tương đương 811.000 euro vào năm 2020) để gây quỹ bằng cách đem bán đấu giá đồ trang sức và các vật tư. Bà là một người hoạt động vì quyền động vật tích cực và kịch liệt phản đối tiêu thụ thịt ngựa. Nhằm ủng hộ bảo vệ động vật, bà đã lên án nạn săn hải cẩu ở Canada trong chuyến ghé thăm tới đất nước này cùng với Paul Watson của Hiệp hội bảo tồn Chăm sóc Biển. Ngày 25 tháng 11 năm 2011, Hiệp hội bảo tồn Chăm sóc Biển đã đổi tên con tàu đánh chặn nhanh của họ là MV Gojira thành MV Brigitte Bardot nhằm cảm kích sự ủng hộ của bà.
Bà từng có một lần thiến một con lừa của hàng xóm trong lúc đang chăm sóc nó, với lý do nó đã "quấy rối tình dục" con lừa và ngựa cái của bà, làm cho bà bị chủ của con lừa đâm đơn kiện vào năm 1989. Năm 1999, Bardot viết một bức thư gửi cho Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân (có đăng trên tạp chí VSD của Pháp), trong đó cáo buộc Trung Quốc "tra tấn loài gấu và sát hại những con hổ và tê giác cuối cùng của thế giới để chế thuốc kích dục". Bà còn quyên góp hơn 140.000 USD trong hơn 2 năm cho chương trình triệt sản hàng loạt và nhận nuôi chó vô gia cư của Bucharest, ước tính lên tới 300.000 cá thể.
Tháng 8 năm 2010, Bardot viết một bức thư gủi cho Nữ hoàng Đan Mạch Margrethe II của Đan Mạch nhằm kêu gọi nữ hoàng ngừng săn cá heo ở Quần đảo Faroe. Trong nội dung bức thư, Bardot miêu tả hành động trên là một "cảnh tượng khủng khiếp", là "nỗi hổ thẹn cho Đan Mạch và Quần đảo Faroe ... Đây không phải là săn bắt mà là tàn sát hàng loạt ... một thứ truyền thống lỗi thời không có lời bào chữa thỏa đáng nào trong thế giới ngày nay". Ngày 22 tháng 4 năm 2011, bộ trưởng văn hóa Frédéric Mitterrand của Pháp chính thức đưa bộ môn đấu bò vào danh sách di sản văn hóa quốc gia. Bardot đã viết một bức thư chỉ trích kịch liệt ông về vấn đề này.
Kể từ năm 2013 trở đi, hai tổ chức là Quỹ Brigitte Bardot và Kagyupa International Monlam Trust của Ấn Độ đã phối hợp để tổ chức một Trại chăm sóc thú y thường niên. Bardot đưa ra cam kết vì quyền động vật ở Bodh Gaya từ năm này qua năm khác. Ngày 23 tháng 7 năm 2015, Bardot phản đối kế hoạch sát hại 2 triệu con mèo của chính trị gia người Úc Greg Hunt nhằm bảo vệ những loài có nguy cơ tuyệt chủng như Warru và vẹt đêm.
Đời tư
Ngày 20 tháng 12 năm 1952, tức năm 18 tuổi, Bardot cưới đạo diễn Roger Vadim. Họ ly hôn vào năm 1957; cặp đôi không có con nhưng vẫn giữ liên lạc, thậm chí còn hợp tác trong một số dự án về sau. Nguyên nhân dẫn đến vụ ly hôn là do Bardot ngoại tình với hai người đàn ông khác. Năm 1956, bà có quan hệ tình cảm với Jean-Louis Trintignant, bạn diễn của bà trong La Femme et le Pantin. Trintignant lúc bấy giờ đã kết hôn với nữ diễn viên Stéphane Audran. Hai người sống chung trong hai năm, cả trước lẫn sau khi Bardot ly dị Vadim song chưa bao giờ kết hôn. Mối quan hệ của họ trở nên phức tạp bởi Trintignant thường xuyên vắng mặt do bận nghĩa vụ quân sự và Bardot ngoại tình với nhạc sĩ Gilbert Bécaud.
Đầu năm 1958, vụ chia tay nhanh chóng với Trintignant được cho là nguyên nhân làm bà bị suy nhược thần kinh ở Ý, theo lời báo chí đưa tin. Có tin bà thậm chí đã uống thuốc ngủ để tự sát hai hôm trước, song người quản lý quan hệ công chúng của bà phủ nhận thông tin này. Bà hồi phục sau vài tuần và bắt đầu mối quan hệ với nam diễn viên Jacques Charrier. Bà mang bầu trước khi họ kết hôn vào ngày 18 tháng 6 năm 1959. Đứa con duy nhất của Bardot mang tên Nicolas-Jacques Charrier chào đời ngày 11 tháng 1 năm 1960. Sau khi bà và Charrier ly dị vào năm 1962, Nicolas được nuôi lớn trong gia đình nhà Charrier và ít tiếp xúc với mẹ đẻ cho đến khi cậu trưởng thành.
Bardot có quan hệ tình ái với Glenn Ford vào đầu thập niên 1960. Từ năm 1963 đến 1965, bà sống chung với nhạc sĩ Bob Zagury. Vụ hôn nhân thứ ba của Bardot là với vị tỷ phú ăn chơi khét tiếng người Đức Gunter Sachs, kéo dài từ 14 tháng 7 năm 1966 đến 7 tháng 10 năm 1969, dù cho họ đã ly thân vào năm trước. Năm 1968, bà bắt đầu hẹn hò với Patrick Gilles, bạn diễn trong phim L'Ours et la Poupée (1970); nhưng mối quan hệ của họ chấm dứt vào mùa xuân năm 1971. Trong nhiều năm sau đó, Bardot liên tiếp hẹn hò với bartender/hưỡng dẫn viên trượt tuyết Christian Kalt, chủ câu lạc bộ Luigi Rizzi, ca sĩ Serge Gainsbourg, nhà văn John Gilmore, nam diễn viên Warren Beatty và Laurent Vergez, bạn diễn trong Don Juan ou Si Don Juan était une femme....
Năm 1974, Bardot xuất hiện trong một ảnh chụp khỏa thân trên tạp chí Playboy nhằm mừng sinh nhật thứ 40 của mình. Năm 1975, bà có quan hệ tình cảm với nghệ sĩ Miroslav Brozek và làm mẫu tạo dáng cho các tác phẩm điêu khắc của ông. Brozek cũng là một diễn viên với nghệ danh là . Cặp đôi chung sống tại ngôi nhà La Madrague ở Saint-Tropez. Họ chia tay vào tháng 12 năm 1979.
Từ năm 1980 đến 1985, Bardot có quan hệ mặn nồng với nhà sản xuất truyền hình người Pháp . Ngày 28 tháng 9 năm 1983, nhân kỷ niệm sinh nhật tuổi 49, Bardot đã uống quá liều thuốc ngủ hoặc thuốc an thần trộn với rượu đỏ. Bà được chở khẩn cấp tới bệnh viện và được cứu mạng sau khi các bác sĩ sử dụng một chiếc máy bơm dạ dày để hút đống thuốc từ trong người bà. Bardot được điều trị ung thư vú vào các năm 1983 và 1984. Người chồng thứ tư và hiện tại của Bardot là Bernard d'Ormale; họ kết hôn kể từ ngày 16 tháng 8 năm 1992.
Các vấn đề chính trị và pháp lý
Bardot đã lên tiếng ủng hộ Tổng thống Charles de Gaulle vào thập niên 1960. Trong cuốn sách xuất bản năm 1999 Le Carré de Pluton ("Hình vuông của Pluton"), Bardot đã phê phán nghi thức giết mổ cừu trong Lễ hội Hồi giáo ở Eid al-Adha. Bên cạnh đó, trong một phần của cuốn sách có nhan đề "Bức thư ngỏ cho nước Pháp đánh mất của tôi", Bardot viết rằng "đất nước của tôi, nước Pháp, quê nhà của tôi, vùng đất của tôi một lần nữa bị xâm lăng bởi quá đông người nước ngoài sinh sống, đặc biệt là người đạo Hồi". Vì bình luận này mà một tòa án của Pháp đã phạt bà 30.000 đồng franc (tức 6.000 euro năm 2019) vào tháng 6 năm 2000. Bà đã bị phạt vào năm 1997 vì cho xuất bản bức thư gốc trong Le Figaro và dính án phạt thêm một lần nữa vì những phát ngôn tương tự vào năm 1998.
Trong tựa sách Un cri dans le silence (Tiếng hét trong im lặng) ra mắt năm 2003, bà so sánh những người bạn đồng tính thân thiết của mình với những người đồng tính "lắc lư đít, trỏ những ngón tay út của họ lên không trung và cất giọng bị thiến của họ rên rỉ nói về những kẻ dị tính kinh khủng ấy đã bắt họ phải trải qua," và cho rằng những người người đồng tính lúc bấy giờ cư xử như "những tên đồng bóng ở hội chợ". Để tự bào chữa mình, Bardot viết một bức thư gửi cho một tạp chí đồng tính của Pháp ghi rằng: "Ngoại trừ chồng tôi (có thể vào một ngày nào đó cũng sẽ theo xu hướng này luôn), tôi hoàn toàn bị vây quanh bởi những người đồng tính. Trong nhiều năm, họ là sự ủng hộ, bạn bè, con nuôi, những người bạn tâm giao của tôi."
Ngày 10 tháng 6 năm 2004, tòa án Pháp kết tội Bardot lần thứ tư vì kích động thù hận chủng tộc và tuyên án phạt bà 5.000 euro. Bardot phủ nhận cáo buộc gây thù hận chủng tộc và xin lỗi trước tòa: "Tôi không bao giờ cố ý muốn làm tổn thương ai cả. Đấy không phải tính cách của tôi." Năm 2008, Bardot bị kết tội kích động thù hận chủng tộc/tôn giáo do dính líu tới một bức thư mà bà viết (một bản sao của bức thư được gửi cho Nicolas Sarkozy khi ông là Bộ trưởng Nội vụ Pháp). Bức thư ghi lại sự phản đối của bà với nghi thức giết cừu của người Hồi giáo ở Pháp bằng cách rạch cổ chúng mà không gây mê trước. Bà còn phát ngôn rằng khi nhắc đến người đạo Hồi, bà "chán ngấy với việc nằm dưới sự chi phối của đám dân cơ đang hủy hoại chúng ta, hủy hoại đất nước của chúng ta và áp đặt những thói quen của họ". Phiên tòa khép lại vào ngày 3 tháng 6 năm 2008, một mức án và phí phạt 15.000 euro – mức phí phạt cao nhất mà bà phải nhận tính đến này. Công tố viên cho biết cô đã chán ngấy việc cáo buộc Bardot với những tội danh gây hận thù chủng tộc của bà.
Liên hệ tới Le Pen
Chồng của Bardot là Bernard d'Ormale – cựu cố vấn của Jean-Marie Le Pen, cựu thủ lĩnh của Đảng Mặt trận Quốc gia thuộc phe cực hữu (nay là Đảng Mặt trận Quốc gia Pháp); đây là đảng cực hữu chính ở Pháp nổi tiếng với niềm tin về chủ nghĩa dân tộc. Bardot lên tiếng ủng hộ Marine Le Pen, thủ lĩnh của Đảng Mặt trận Quốc gia, ví cô là "Jeanne d'Arc của thế kỉ 21". Bà vận động cho Le Pen trong các cuộc bầu cử tổng thống năm 2012 và 2017.
Dấu ấn
Trong ngành thời trang, đường viền cổ áo Bardot (đường viền rộng để lộ cả hai vai) được đặt theo tên bà. Bardot là người phổ biến phong cách thời trang này, đặc biệt được dùng cho áo len dệt kim hoặc váy jumper, dù cho nó cũng được dùng cho các loại áo và váy khác. Bardot còn là người phổ biến bộ bikini trong những bộ phim đầu của bà như Manina (1952). Năm 1953, bà còn làm mẫu chụp ảnh mặc bộ bikini trên mọi bãi biển ở miền Nam nước Pháp trong thời gian tổ chức Liên hoan phim Cannes. Bà đã gây được nhiều chú ý hơn nữa khi đang ghi hình Et Dieu... créa la femme (1956) với Jean-Louis Trintignant. Trong phim, Bardot thủ vai một thiếu nữ bất trị đang nhảy cẫng lên trong bộ bikini nhằm quyến rũ đàn ông trong một thị trấn nhỏ đoan trang. Tác phẩm gặt thành công lớn trên thị trường quốc tế. Ở thập niên 1950, bộ bikini được đón nhận khá nồng nhiệt ở Pháp nhưng lại bị xem là khiếm nhã ở đất Mỹ. Cuối năm 1959, Anne Cole - một trong những nhà thiết kế áo tắm lớn nhất Hoa Kỳ chia sẻ: "Nó chỉ đơn thuần là chiếc G-string thôi. Mặc nó gần như là bất lịch sự vậy."
Bà còn đem đến cho thời trang kiểu tóc choucroute ("Dưa cải") (một kiểu búi tóc hình tổ ong) và bộ quần áo dệt vải gingham sau khi bà mặc một chiếc váy hồng kẻ ca-rô do Jacques Esterel thiết kế tại đám cưới của bà với Charrier. Bardot là đối tượng trong một bức họa của Andy Warhol. Tư thế Bardot miêu tả một bức chân dung làm mẫu biểu tượng được chụp vào khoảng năm 1960 khi Bardot chỉ mặc mỗi chiếc quần vớ màu đen, bắt chéo chân lên phía trước và bắt chéo tay ôm ngực. Tư thế này đã được lặp lại nhiều lần bởi những người mẫu và người nổi tiếng như Lindsay Lohan, Elle Macpherson và Monica Bellucci.
Ngoài việc phổ biến bộ đồ tắm bikini, Bardot còn được ghi nhận vì đã có công quảng bá thành phố Saint-Tropez và thị trấn Armação dos Búzios ở Brasil lúc ghé thăm vào năm 1964 cùng bạn trai lúc đó là nhạc sĩ người Brasil Bob Zagury. Nơi bà nghỉ chân ở Búzios ngày nay là một khách sạn nhỏ tên là Pousada do Sol và cũng là một nhà hàng Pháp, Cigalon. Trong thị trấn có một bức tượng chân dung Bardot do Christina Motta thiết kế.
Bardot là thần tượng hồi trẻ của hai nhạc sĩ John Lennon và Paul McCartney. Họ đã định ghi hình một bộ phim có sự góp mặt của The Beatles và Bardot, giống với phim A Hard Day's Night, song kế hoạch ấy chưa bao giờ thành hiện thực. Vợ đầu của Lennon là Cynthia Powell đã nhuộm tóc sáng màu để trông gần giống Bardot hơn, còn George Harrison đã so sánh giữa Bardot và người vợ đầu Pattie Boyd của ông, như Cynthia sau này kể trong A Twist of Lennon. Lennon và Bardot đã có một lần gặp nhau vào năm 1968 tại Khách sạn Mayfair, theo lời giới thiệu của Derek Taylor (nhân viên báo chí của Beatles); do quá lo lắng mà Lennon đã dùng thuốc LSD trước khi đến, và cả hai ngôi sao đều gây những ấn tượng không mấy thiện cảm về nhau. (Lennon ghi trong cuốn hồi kí, "Tôi thì dùng LSD, còn cô ấy thì bỏ đi mất.") Theo những dòng ghi chú trong album đầu tay (trùng tên) của mình, nhạc sĩ Bob Dylan dành tặng bài đầu tiên mà ông từng sáng tác cho Bardot. Ông cũng nhắc đến tên bà trong "I Shall Be Free", ca khúc xuất hiện trong album thứ hai The Freewheelin' Bob Dylan của ông. Buổi triển lãm chính thức đầu tiên với điểm nhấn là ảnh hưởng và dấu ấn của Bardot đã được mở tại Boulogne-Billancourt vào ngày 29 tháng 9 năm 2009, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật tuổi 75 của bà. Nhóm nhạc pop người Úc Bardot đã được đặt theo tên bà.
Danh sách phim
Sự nghiệp điện ảnh của Brigitte Bardot
Danh sách đĩa nhạc
Bardot đã phát hành nhiều album và đĩa đơn trong các thập niên 1960 và 1970
"Sidonie" (1961, Barclay), lời bởi Charles Cros, nhạc bởi Jean-Max Rivière và Yanis Spanos, guitar bởi Brigitte – bài hát đầu tiên trích từ phim Vie privée
Brigitte Bardot Sings (1963, Philips) – hợp tác giữa Serge Gainsbourg ("L'Appareil à sous", "Je me donne à qui me plaît"), Jean-Max Rivière trong vai trò sáng tác ("La Madrague") và ca sĩ thể hiện ("Tiens ! C'est toi!") là Claude Bolling và Gérard Bourgeois
B.B. (1964, Philips) với Claude Bolling, Alain Goraguer, Gérard Bourgeois
"Ah ! Les p'tites femmes de Paris", song ca với Jeanne Moreau trong phim Viva Maria (1965, Philips), do Georges Delerue làm đạo diễn
Brigitte Bardot Show 67 (1967, Mercury) với Serge Gainsbourg (sáng tác "Harley Davidson", "Comic Strip", "Contact" và "Bonnie and Clyde"), Sacha Distel, Manitas de Plata, Claude Brasseur và David Bailey
Brigitte Bardot Show (1968, Mercury), nhạc hiệu bởi Francis Lai
Je t'aime... moi non-plus, song ca năm 1968 với Serge Gainsbourg
[Burlington Cameo Brings You] Special Bardot (1968. RCA) với "The Good Life" của Sacha Distel và "Comic Strip (với Gainsbourg) bằng tiếng Anh
Đĩa đơn "Bonnie and Clyde" song ca với Serge Gainsbourg (Fontana)
"La Fille de paille"/"Je voudrais perdre la mémoire" (1969, Philips), hợp tác với Gérard Lenorman
Tu veux ou tu veux pas (1970, Barclay) với bài hit "Tu veux ou tu veux pas" (bản Pháp hóa của bài hát tiếng Brazi "Nem Vem Que Não Tem"), do François Bernheim làm đạo diễn; "John and Michael", bài thánh ca cho tình yêu chung; "Mon léopard et moi", hợp tác với Darry Cowl và "Depuis que tu m'as quitté"
"Nue au soleil"/"C'est une bossa nova" (1970, Barclay)
"Chacun son homme", song ca với Annie Girardot trong Les Novices (1970, Barclay)
"Boulevard du rhum" và "Plaisir d'amour", song ca với Guy Marchand, trong Boulevard du rhum (1971, Barclay)
"Vous ma lady", song ca với Laurent Vergez, và "Tu es venu mon amour" (1973, Barclay)
"Le Soleil de ma vie", song ca với Sacha Distel
"Toutes les bêtes sont à aimer" (1982, Polydor)
Sách
Bardot đã chắp bút 5 tựa sách gồm:
Noonoah: Le petit phoque blanc (Grasset, 1978)
Initiales B.B. (autobiography, Grasset & Fasquelle, 1996)
Le Carré de Pluton (Grasset & Fasquelle, 1999)
Un Cri Dans Le Silence (Editions Du Rocher, 2003)
Pourquoi? (Editions Du Rocher, 2006) |
Glenn Close (sinh ngày 19 tháng 3 năm 1947) là một nữ diễn viên Mỹ đã từng 6 lần được đề cử giải Oscar. Sinh tại Greenwich, Connecticut, Glenn Close khởi đầu sự nghiệp diễn xuất trên sân khấu nhạc kịch Broadway nhưng lại được biết đến nhiều nhất nhờ những vai diễn có tính cách hung bạo và quyến rũ.
Danh mục phim và giải thưởng
Phim điện ảnh
Phim tài liệu
Phim truyền hình
Giải thưởng khác
1982: Rosemary Hall Alumnae Award
1988: People's Choice Award: Favorite Motion Picture Actress.
1989: ShoWest Convention, USA: Female Star of the Year.
1990: Hasty Pudding Woman of the Year.
1992: Golden Camera/ Germany: Best International Actress.
2001: Women in Film Crystal + Lucy Awards: Crystal Award for outstanding women who, through their endurance and the excellence of their work, have helped to expand the role of women within the entertainment industry.
2002: GLAAD Media Awards: For Excellence in Media.
2008: Common Wealth Award of Distinguished Service: For outstanding achievements in the dramatic arts.
2009: Star on the Hollywood Walk of Fame for Motion pictures.
2011: The Donostia Award for San Sebastián International Film Festival.
2011: Hollywood Career Achievement Award 2011 from the Hollywood Film Awards 2011.
2012: Palm Springs International Film Festival: Career Achievement Award.
Chú thích |
Hà Tiên (chữ Hán: 河僊) là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ Việt Nam, thành lập năm 1832.
Lịch sử
Vùng đất Hà Tiên xưa
Xưa kia, đây là vùng đất của Vương quốc Phù Nam, sau thuộc Chân Lạp và Đế chế Khmer, trong tiếng Việt gọi là Mang Khảm (còn gọi là Phương Thành, Trúc Phan, hay Đồng Trụ). Từ giữa thế kỷ 17, những lưu dân người Việt và người Hoa đã đi thuyền dọc theo đường biển đến tận vùng này sinh sống. Trong lời tựa tập Hà Tiên thập vịnh, Mạc Thiên Tích đã viết: "Trấn Hà Tiên nước An Nam, xưa là đất hoang, từ tiên quân khai sáng đến nay đã hơn 30 năm, mà dân mới được ở yên, hơi biết việc trồng trọt".
Tuy nhiên công lao khai phá Hà Tiên thuộc về hai cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích (Mạc Thiên Tứ), biến Hà Tiên thành nơi sầm uất. Mạc Cửu là người Quảng Đông (Trung Quốc), di cư đến sau khi nhà Minh bị tiêu diệt hoàn toàn năm 1645. Vua Cao Miên đã phong cho Mạc Cửu chức Oknha (Ốc nha) để cai quản vùng đất này. Mạc Cửu gom dân lưu tán lại lập ra 7 xã: Cà Mau, Rạch Giá, Phú Quốc, Vũng Thơm (Sihanoukville), Hà Tiên,..., (dọc bờ biển Tây, từ Cà Mau đến Vũng Thơm) và tự đứng ra cai quản. Tuy nhiên, do bị quân Xiêm La thường xuyên quấy nhiễu mà Cao Miên không đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ. Gia quyến Mạc Cửu đã bị quân Xiêm bắt đem về nước họ. Mạc Cửu trốn thoát về Trũng Kè, sau lại về Mang Khảm khôi phục sản xuất. Mạc Cửu đã thân đến Phú Xuân dâng biểu xin đem 7 xã mà mình khai phá quy phục Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn ưng thuận, lệnh đổi tên đất Mang Khảm thành trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu làm Tổng binh coi giữ.
Tiểu quốc Hà Tiên
Tên gọi Hà Tiên do Mạc Cửu đặt, vì tương truyền xưa kia có tiên xuất hiện trên sông Giang Thành.
Năm 1671, một người Hoa tên Mạc Cửu (Mạc Kính Cửu), quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc Kiến. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên một vùng đất hoang trong vịnh Thái Lan. Sau khi dò hỏi và biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng Chân Lạp, phái đoàn liền tìm đường đến Oudong xin tị nạn, nhưng lúc đó nội bộ Chân Lạp có loạn.
Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.
Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm (hay Mang Khảm, Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Kampong Som), Sài Mạt (Cheal Meas hay Banteay Meas), Linh Quỳnh (Kiri Vong) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (tức Hà Tiên), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo). Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).
Năm 1708, Mạc Cửu liên lạc được với Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu.
Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu.
Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh.
Từ năm 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan.
Năm 1735, Mạc Cửu mất, con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành Hà Tiên trấn.
Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (bắc Bạc Liêu).
Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Tân An, Long An) và Lôi Lập (Gò Công) để được về Nam Vang cai trị.
Năm 1757, nội bộ nước Cao Miên có loạn, vua Cao Miên là Nặc Tôn phải chạy sang nương nhờ đất Hà Tiên. Lúc đó, Mạc Thiên Tứ thay cha (Mạc Cửu) làm tổng binh trấn Hà Tiên, đã tâu với chúa Nguyễn xin cho quân tướng hộ tống Nặc Tôn về nước làm vua. Sau đó, Nặc Tôn đã cắt đất trả ơn cho Mạc Thiên Tứ 5 phủ phía Tây Nam nước Chân Lạp là: Châu Sum (Chân Sum có thể là Trực Sâm, Chal Chun, Chưn Rùm, Chưng Rừm (Chhuk) nay thuộc tỉnh Kampot, Chân Sum cũng có thể là phủ Chân Sum (còn gọi là Chân Chiêm) nằm giữa Châu Đốc và Giang Thành, nay là vùng Bảy Núi An Giang (nơi có núi Chân Sum).), Sài Mạt (Cheal Meas hay Banteay Meas), Linh Quỳnh (có thể là các huyện Kiri Vong (tỉnh Takeo), hay Chum Kiri (tỉnh Kampot)), Cần Vọt (hay Cần Bột (Kampot), nay là đất tỉnh Kampot của Campuchia) và Vũng Thơm (hay Hương Úc, Kompong Som). Năm phủ này là vùng duyên hải (ven bờ Vịnh Thái Lan) từ Srae Ambel tỉnh Koh Kong (tức Cổ Công, giáp với vùng người Thái (Xiêm La) kiểm soát) cho đến Mang Khảm (Ream). Mạc Thiên Tứ đem đất 5 phủ dâng chúa Nguyễn, chúa Nguyễn nhập đất 5 phủ này vào đất Mang Khảm (tức trấn Hà Tiên), đồng thời chúa cho lập ra hai đạo Kiên Giang (lỵ sở là Rạch Giá) và Long Xuyên (lỵ sở là Cà Mau) đều thuộc trấn Hà Tiên.
Năm 1774, Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Đàng trong thành 12 dinh, nhưng vẫn để lại trấn Hà Tiên, phong Mạc Thiên Tích (Tứ) làm Đô đốc cai trị.
Năm Đinh Mùi (1787), chúa Nguyễn Ánh lấy lại được đất Hà Tiên từ tay người Xiêm La. Năm 1788, Nguyễn Ánh đem 2 đạo Kiên Giang và Long Xuyên nhập vào dinh Vĩnh Trấn (sau là Vĩnh Long). Nhưng đến thời nhà Nguyễn, Gia Long (Nguyễn Ánh) lại tách 2 đạo này trả về cho trấn Hà Tiên như cũ.
Tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn
Cương vực
Năm Gia Long thứ 9 (1810) nhà Nguyễn đổi 2 đạo Kiên Giang và Long Xuyên thành huyện thuộc phủ An Biên trấn Hà Tiên. Giai đoạn 1819-1825, theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì: Trấn Hà Tiên trực tiếp quản lý 19 làng người Việt (trong đó 7 làng thuộc trấn thành Hà Tiên (là: Minh Hương thôn, Tân An, Tân Đông, Tiêm Hưng, Mỹ Hòa, Thuận An, Tiêm Hương) và 12 làng thuộc đảo Phú Quốc (là: Dương Cảnh Đông, An Hòa, Vĩnh Thạnh, Thái Thạnh, Phước Lộc, Phú Đông, Cảm Sơn, Phước Sơn, Minh Hương thuộc (Phú Quốc), Tân Qui, Mỹ Thạnh, Tiên Tỉnh)), 6 làng người Hoa (Minh Bột Đại phố, Minh Bột Tân phố, Minh Bột Kỳ Thọ phố (trước là Cây Cầy), Minh Bột Lư Khê sở (trước là Rạch Vượt), Minh Bột Thổ Khâu điếm (trước là Điếm Rê), và Đường Nhơn thuộc (ở Phú Quốc)), 26 làng (sóc) người Khmer (Lộc Trĩ (Lok), Cổ Cần Lộ, Sa Cà Mao, Cố Sâm (hay Cố Tham), Cố...,..., Ba Nam Rạp, Phiếm, Cò Vinh, Xoài [Tống] (Svay Tong), Hấp Tra, Kiên-xà-nư Rạch Vượt, Ta Lo, Côn..., Hòn Chông, Nam Rạp, Côn-trà Vị, Cốc Tầm Lai, Cốt Trà Câu, Phun Vàng Co, Côn Đồng, Việt Trác, Cốt Trà Mục, Bài Tầm Man, Lạc Bà Già, Tầm-nặc Tà-Bẹt (Damnak trabaek)), và 1 làng người Đồ Bà là: Đồ Bà đội. Ngoài ra Trấn Hà Tiên còn kiêm quản 2 huyện Long Xuyên và Kiên Giang. Đảo Phú Quốc trước năm Gia Long 18 (1819) thuộc đạo (huyện) Long Xuyên, năm 1819 chuyển lệ thuộc trấn thành Hà Tiên. Năm Minh Mạng thứ 6 (1825), đặt thêm huyện Hà Tiên (sau đổi là Hà Châu) thuộc phủ An Biên trấn Hà Tiên. Ban đầu huyện Hà Tiên gồm 2 tổng Hà Nhuận và Hà Thanh. Huyện Hà Tiên (Hà Châu) chứa tất cả 52 làng (gồm 19 làng người Việt, 6 làng người Hoa, 26 sóc người Cao Miên và 1 làng người Đô Bà), từng trực tiếp thuộc trấn thành giai đoạn 1819-1825 kể trên.
Tháng 4 âm lịch năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas tỉnh Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật. Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.
Năm 1832, vua Minh Mạng đặt ra tỉnh Hà Tiên (một trong 6 tỉnh Nam Kỳ), gồm 1 phủ là Quan Biên (đổi tên từ phủ An Biên) thống lĩnh 8 huyện: Hà Châu (đổi tên từ huyện Hà Tiên), Long Xuyên (sau này là địa bàn Cà Mau) và Kiên Giang (sau này là địa bàn tỉnh Rạch Giá), Sài Mạt, Linh Quỳnh, Châu Sum (có thể là Chhuk, mà cũng có thể là Bảy Núi), Cần Vọt, Vũng Thơm.
Năm 1833, Lê Văn Khôi nổi loạn đánh chiếm Hà Tiên, rồi quân Xiêm theo cầu viện của Khôi cũng vào chiếm Hà Tiên, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp. Năm 1834, nhà Nguyễn đem đất Cần Vọt và Vũng Thơm xưa đặt thành 2 phủ mới là Quảng Biên (Cần Vọt cũ, khoảng đất Kampot) và Khai Biên (Vũng Thơm cũ, khoảng cảng Kampong Som), đồng thời đổi lại tên phủ Quan Biên thành phủ An Biên. Đến năm 1837 lại hạ cấp phủ Khai Biên thành huyện và lập thêm huyện Kim Trường (sau đổi thành Vĩnh Trường, cùng với huyện Khai Biên thuộc phủ Quảng Biên (Kampot)). Nhưng đến thời vua Thiệu Trị (1840-1847), phủ Quảng Biên lại bị xóa bỏ. Năm 1836, Trương Đăng Quế, lập địa bạ Nam Kỳ, thì huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên gồm 5 tổng: Hà Nhuận, Hà Thanh, Nhuận Đức, Thanh Di, và tổng Phú Quốc (tổng hải đảo), tất cả gồm 44 làng. Tổng Phú Quốc gồm 9 làng: Phước Lộc, An Thới, Mỹ Thạnh, Tân Lập, Cẩm Sơn, Hàm Ninh, Thới Thạnh, Dương Đông, Tiên Tỉnh. Tổng Hà Nhuận gồm 5 làng: Tiên Phước, Tiên Hưng, Tiên Hưng Tây, Tiên Long, Hoa Giáp. Tổng Nhuận Đức gồm 7 làng: Đôn Hậu, Cổ Tham, Tầm Lai, Mụ Sơn, Hòa Luật, Nhượng Lộ, Lộc Trĩ. Tổng Hà Thanh gồm 11 làng: Hòa Mỹ Đông, Vi Sơn, Tiên Thới, Tiên Mỹ, Hòa Thuận, Thạnh Long, Tiên Quân, Tân Thạnh, Mỹ Đức, Bình An, Thuận An. Tổng Thanh Di gồm 12 làng: Phú Đông, Nam Hoa, Cần Thu, Nam An, Trà Câu, Tư Ngãi, Côn Văn, Trác Việt, Thuận Đức, Sa Kỳ, Mông Mậu, Dương Hòa.
Tổng Hà Nhuận (nay là khoảng tỉnh Kep Campuchia)ː Dọc bờ biển từ tây sang đông là thôn Tiên Hưng Tây (núi Bạch Mã mũi biển Kaeb, nay thuộc các phường Kaeb và Prey Thum quận Kaeb), thôn Hoa Giáp (núi Giáp đến cửa rạch Giáp, nay là phần nam phường Pong Tuek quận Damnak Chang'aeur), thôn Tiên Hưng (nay thuộc phường Angkaol quận Damnak Chang'aeur). Phía đất liền phía đông bắc của Hà Nhuận là thôn Tiên Long (xứ Vũng Thanh, nay thuộc đất xã Kampong Trach Khang Lech (tức là xã Kampong Trach Tây) huyện Kampong Trach tỉnh Kampot). Thôn Tiên Phước là xứ đảo Hòn Năng (Koh Thmei và Koh Seh).
Tổng Nhuận Đứcː Phần đất liền phía tây bắc là các thôn Đôn Hậu (Damnak Chang'aeur, nay là phần bắc của phường Pong Tuek quận Damnak Chang'aeur tỉnh Kep), Cố Tham (固參, hay Cố Sâm ở xứ Nam Liêu, nay là Kaoh Saom thuộc phường Angkaol quận Damnak Chang'aeur tỉnh Kep). Phía nội địa đông bắc Nhuận Đức là thôn Tầm Lai (xứ Tà Cú, nay là làng Trapeang Niel xã Ruessei Srok Khang Lech (Ruessei Srok Tây) huyện Kampong Trach tỉnh Kampot Campuchia). Dọc ven biển từ tây bắc sang đông nam lần lượt là thôn Mụ Sơn (xứ cửa rạch Sa Na (cửa rạch Kampong Trach), nay là làng Kaoh Kruesna xã Ruessei Srok Khang Lech (Ruessei Srok Tây) huyện Kampong Trach tỉnh Kampot), thôn Hòa Luật (xứ Lộc Sơn tức núi Nai, nay là làng Lok xã Ruessei Srok Khang Lech (Ruessei Srok Tây) huyện Kampong Trach tỉnh Kampot), thôn Nhượng Lộ (xứ Cần Lộ, nay là làng Thkov xã Ruessei Srok Khang Lech (Ruessei Srok Tây) huyện Kampong Trach tỉnh Kampot Campuchia), Lộc Trĩ (鹿峙, mũi Nai, ven biển các phường Mỹ Đức và Pháo Đài thành phố Hà Tiên Việt Nam).
Tổng Thanh Diː Vùng ven từ tây bắc xuống tây nam là các thôn Nam Hoa (南花, xứ Vũng Trách, nay là xã Kampong Trach Khang Kaeut (Kampong Trach Đông) huyện Kampong Trach tỉnh Kampot), thôn Thuận Đức, xã Mông Mậu (蠓茂, xứ Mông Tốn (Svay Tong), nay là các xã Svay Tong Khang Tboung (Svay Tong Nam), Svay Tong Khang Cheung (Svay Tong Bắc) huyện Kampong Trach tỉnh Kampot Campuchia).
Theo Đại Nam thực lục, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), tháng 4 âm lịch, thổ dân Khmer ở phủ Quảng Biên (Kampot, gồm cả huyện Khai Biên (Kampong Som)) không thuận theo nhà Nguyễn, sợ hãi bỏ quê đi lưu tán hết. Quan tỉnh Hà Tiên là Hoàng Mẫn Đạt tâu về triều. Vua Thiệu Trị cho là quan quân nhà Nguyễn ở Quảng Biên đóng giữ đất không, chẳng được ích lợi gì, liền cho binh biền đóng đồn phủ Quảng Biên, cùng quan phủ huyện rút hết về tỉnh thành Hà Tiên. Sau đó quân Xiêm-Lạp đến lấn đất phủ Quảng Biên (gồm cả huyện Khai Biên). Từ đó, phần đất phủ Quảng Biên (Kampot, Kampong Som) không còn thuộc tỉnh Hà Tiên của nhà Nguyễn nữa.
Năm Minh Mạng 20 (1839), vua Minh Mạng lấy đất nằm hai bên bờ kênh Vĩnh Tế thuộc phủ Chân Thành (Chân Chiêm hay Châu Chiêm) của Trấn Tây Thành (vùng lãnh thổ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ) nhập vào lãnh thổ Đại Nam thuộc tỉnh Hà Tiên, lập thành phủ Tĩnh Biên gồm 2 huyện: Hà Âm (phần phía Bắc phủ Tĩnh Biên, bờ tả sông Vĩnh Tế), Hà Dương (phần phía Nam phủ Tĩnh Biên, bờ hữu sông Vĩnh Tế). Sang thời Thiệu Trị, lại tách phủ Tĩnh Biên cùng 1 huyện Hà Dương khỏi Hà Tiên để nhập vào tỉnh An Giang (năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)), huyện Hà Âm vẫn thuộc phủ An Biên tỉnh Hà Tiên cho đến năm 1844 thì chuyển nốt cho phủ Tĩnh Biên tỉnh An Giang.
Thời vua Tự Đức cho đến khi Pháp chiếm Hà Tiên (1847-1867), tỉnh Hà Tiên gồm 1 phủ (là phủ An Biên) với 3 huyện: Hà Châu, Kiên Giang và Long Xuyên. Các huyện trước thuộc phủ Quảng Biên (đất Cần Bột (Kampot), Vũng Thơm) trả về cho nước Cao Miên.
Phủ An Biên (thời Tự Đức), gồm:
Huyện Hà Châu nguyên có tên là Hà Tiên, gồm 5 tổng (tổng Hà Nhuận, tổng Nhuận Đức, tổng Hà Thanh, tổng Thanh Di, tổng Phú Quốc) với 63 làng xã, phía Tây giáp biển Tây, phía Nam giáp huyện Kiên Giang (Rạch Giá), phía Đông giáp huyện Hà Âm tỉnh An Giang, phía Bắc giáp nước Cao Miên. Đất huyện Hà Châu (phần các tổng Hà Thanh, Thanh Di) nay là phần đất thuộc các huyện thị phía Bắc của tỉnh Kiên Giang: Hà Tiên, Kiên Lương, Hòn Đất, Giang Thành, và (có thể phần các tổng Hà Nhuận, Nhuận Đức) là phần đất Campuchia ngày nay ở giáp biên giới: (tại các huyện Banteay Meas, Kampong Trach của tỉnh Kampot), huyện Kiri Vong của tỉnh Takeo và thành phố Kep
Huyện Kiên Giang nguyên là đất Rạch Giá (được Mạc Cửu mở mang), gồm 4 tổng (Kiên Định, Giang Ninh, Kiên Hảo, Thanh Giang) với 66 làng xã, phía Tây giáp biển Tây (qua núi Tật Lệ), phía Nam giáp lâm phận rừng huyện Long Xuyên, phía Đông giáp huyện Phong Phú tỉnh An Giang, phía Bắc giáp huyện Hà Châu. Đất huyện Kiên Giang nay có thể là phần đất thuộc thành phố Rạch Giá và các huyện phía Nam của tỉnh Kiên Giang.
Huyện Long Xuyên nguyên là đất Cà Mau (được Mạc Cửu mở mang), gồm 2 tổng (là Long Thủy và Quảng Xuyên) với 55 làng xã, phía Tây giáp biển Tây (qua núi Bạch Thạch (Đá Bạc)), phía Nam (đến cửa Hàu (Gành Hào)) giáp biển Đông, phía Đông giáp huyện Phong Thịnh tỉnh An Giang, phía Bắc giáp lâm phận rừng huyện Kiên Giang. Đất huyện Long Xuyên có thể nay là phần đất thuộc các tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, nhưng cũng có thể bao gồm thành phố Long Xuyên của tỉnh An Giang, vì theo lời chú thích trong Đại Nam nhất thống chí (bản quốc ngữ) thì: Thời Pháp thuộc, tỉnh Hà Tiên chia cho 4 tỉnh: tỉnh Hà Tiên thời Pháp (đất huyện Hà Châu cũ), tỉnh Rạch Giá (huyện Kiên Giang cũ), tỉnh Long Xuyên (tức huyện Long Xuyên cũ), tỉnh Bạc Liêu (cũng đất huyện Long Xuyên) (có lẽ lời chú này lầm với tỉnh An Xuyên, tức Cà Mau ngày nay).
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì vào thời vua Tự Đức, cương vực tỉnh Hà Tiên như sau: "...Đông-Tây cách nhau 37 dặm, Nam-Bắc cách nhau 25 dặm, phía Đông đến địa giới huyện Hà Dương tỉnh An Giang (35 dặm), phía Tây đến biển (2 dặm), phía Nam vượt qua núi Tô Châu đến biển (5 dặm), phía Bắc đến địa giới Cao Miên (25 dặm), phía Đông Nam đến địa giới huyện Phong Thịnh tỉnh An Giang (150 dặm linh), phía Tây Nam đến biển (chừng 1 dặm), phía Đông Bắc đến địa giới Cao Miên (25 dặm), phía Tây Bắc vượt qua núi Bạch Ô đến biển (20 dặm). Từ tỉnh lỵ đi về phía Đông đến Kinh 1.325 dặm..."
Như vậy, tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn nằm kéo dài bên bờ vịnh Thái Lan (biển Tây), suốt từ Cà Mau đến Hà Tiên, có thời kỳ tới tận tỉnh Kampot và thành phố Sihanoukville (Kompong Som) của Campuchia, phía Đông giáp với tỉnh An Giang nhà Nguyễn, phía Tây Bắc, phía Bắc và phía Đông Bắc tiếp giáp Cao Miên.
Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, xem xét về các địa danh trấn Hà Tiên, Đào Duy Anh viết: "... Chúng ta đã biết Vũng Thơm, Cần Bọt, Sài Mạt là dải đất từ lỵ sở Hà Tiên đến Sài Mít. Tức dải đất bờ biển phía tây nam nước Cao Miên. Còn Chân Sum thì Nhất thống chí (An Giang) chép là núi ở phía nam huyện Hà Âm cách 10 dặm, cách bờ sông Vĩnh Tế ở phía Nam 10 dặm. Huyện Hà Âm là huyện ở phía bắc sông Vĩnh Tế (phía âm của sông) nên gọi tên là thế, đối với huyện Hà Dương là huyện ở phía nam (phía dương của sông). Có thể đất Chân Sum là đất Sóc Sum của tỉnh KamPot. Về Linh Quỳnh thì Nhất thống chí chép rằng núi Linh Quỳnh thuộc huyện Hà Châu cách 120 dặm và ở phía bắc sông Giang Thành, sông này có hai nguồn ra từ núi Linh Quỳnh. Linh Quỳnh tức địa điểm Linh Quỳnh của tỉnh KamPot nước Cao Miên. (Xem thế thì thấy rằng năm phủ Vũng Thơm, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh ở đời Nguyễn còn là đất của huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên và của huyện Hà Âm tỉnh An Giang, đến đời Tự Đức triều Nguyễn mới trả về nước Cao Miên)."
Tổng đốc và Tuần phủ tỉnh Hà Tiên
Các tổng đốc An Giang-Hà Tiên của nhà Nguyễn:
Trương Minh Giảng nhiệm kỳ 1832-1836 (Tổng đốc An Hà thứ hai)
Lê Đại Cương (Tổng đốc An Hà đầu tiên) có tội, bị cách chức)
Trương Minh Giảng nhiệm kỳ: 3(âm)/1838 - 1840
Dương Văn Phong nhiệm kỳ: 9(âm)/1840 - 3(âm)/1841 (bi cách chức)
Nguyễn Văn Chương (tức Nguyễn Tri Phương) tuần phủ kiêm quyền hộ lý tổng đốc 1841
Phạm Văn Điển nhiệm kỳ 1841-1842 (ốm chết)
Nguyễn Công Nhàn nhiệm kỳ 1842-1844 (bi cách chức)
Nguyễn Văn Chương (tức Nguyễn Tri Phương) nhiệm kỳ 1844-1845
Tôn Thất Bạch nhiệm kỳ 1845-1847
Doãn Uẩn nhiệm kỳ 1847-1850 (ốm chết)
Cao Hữu Bằng (Cao Hữu Dực) nhiệm kỳ 1850-1859 (ốm chết)
Nguyễn Công Nhàn nhiệm kỳ 1859-1861 (bị cách chức)
Phan Khắc Thận (1861-1867 (khi Pháp chiếm An Giang)
Các Tuần phủ (tỉnh trưởng) tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn
Nguyễn Bá Nghi:1848
Lương Văn Liễu
Lê Quang Huyên
Nguyễn Văn Ngươn
Huỳnh Mẫn Đạt: 1851 - 1852; 1862 - 1864.
Nguyễn Công Nhàn: 1856 - 1858
Trần Hoán: 1864 - ?
Địa hình địa mạo Hà Tiên nhà Nguyễn
Theo Đại Nam nhất thống chí thì cảnh vật tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn gồm:
Núi: ở Hà Châu có (Kim Dữ, Bình Sơn (Bình San), núi Phù Anh, Tô Châu, gò Lộc Trĩ (Lộc Giác, tức Mũi Nai), Bạch Mã (tức Bạch Ô ở Kep), Địa Tạng, Kháo Sơn), núi Sài Mạt (Banteay Meas), Tượng Sơn (núi Voi ở Cần Vọt (Kampot)), núi Linh Quỳnh (Kiri Vong)), ở Kiên Giang có núi Thổ Sơn (Hòn Đất), ở huyện Long Xuyên có (núi Trà Sơn, lèn Bạch Thạch (hòn Đá Bạc)).
Sông hồ: (sông Giang Thành, Lũng Kè, Tân Xuyên, Nghi Giang, Bồ Đề), hồ Đông Hồ.
Đảo: Hòn Khoai (Cà Mau), Hòn Rái (Kiên Giang, Phú Quốc, Thổ Chu, Cổ Công (Vũng Thơm), Cổ Cốt (Co Tang), Cổ Luân,...
Tỉnh Hà Tiên thời Pháp thuộc
Ngày 24 tháng 6 năm 1867, tỉnh thành Hà Tiên bị thực dân Pháp chiếm. Sau nhiều năm do dự và phân thiết, địa bàn Hà Tiên được phân bổ ra các đơn vị hành chánh khá phức tạp, theo từng thời điểm khác nhau.
Năm 1868, tỉnh Hà Tiên cũ được chia ra làm hai hạt Thanh tra: Hà Tiên và Rạch Giá
Hạt Thanh tra Hà Tiên, nguyên là huyện Hà Châu với 5 tổng và 16 thôn:
Tổng Hà Thanh: 5 thôn
Tổng Thanh Di: 3 thôn
Tổng Nhuận Đức: 1 thôn
Tổng Hà Nhuận: 5 thôn
Tổng Phú Quốc: 5 thôn
Hạt Thanh tra Rạch Giá, nguyên là hai huyện Kiên Giang và Long Xuyên với 7 tổng và 110 thôn:
Tổng Kiên Định: 14 thôn
Tổng Thanh Giang: 11 thôn
Tổng Kiên Hảo: 26 thôn
Tổng Giang Ninh: 11 thôn
Tổng Long Thủy: 25 thôn
Tổng Quảng Xuyên: 13 thôn.
Năm 1874, hạt Thanh tra Phú Quốc được thành lập, nhưng vì kinh tế không phát triển được nên một năm sau phải giải thể.
Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif) thì tỉnh Hà Tiên cũ bị chia thành hai hạt tham biện là Hà Tiên (chủ hạt là Chavassieux) và Rạch Giá (chủ hạt là Granier). Năm 1882, thiết lập hạt tham biện Bạc Liêu trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Hưng của hạt tham biện Rạch Giá hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện Sóc Trăng chuyển sang. Lỵ sở Bạc Liêu thuộc địa bàn tổng Thạnh Hòa vốn trước đó thuộc hạt tham biện Sóc Trăng.
Năm 1888, Hà Tiên cho thuộc về hạt tham biện Châu Đốc - dưới quyền của Chủ tỉnh Châu Đốc lúc này là Dussol, đến cuối năm 1892 được phục hồi. Hạt tham biện Hà Tiên thuộc khu vực Bát Xắc (Bassac) chỉ còn đất huyện Hà Châu của tỉnh Hà Tiên cũ với 4 tổng: tổng Hà Thanh (có 6 thôn), tổng Thanh Gi (có 4 thôn), tổng Phú Quốc (có 4 thôn) và tổng Bình Trị (hay Bình An có 1 thôn).
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Hà Tiên trở thành tỉnh Hà Tiên theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh. Chủ tỉnh lúc này là E. Lupuy. Thời chủ tỉnh Hà Tiên J. Hubert-Delisle, đảo Phú Quốc được đặt dưới quyền của đại diện chủ tỉnh Hà Tiên (năm 1903).
Từ năm 1913 đến năm 1924, tỉnh Hà Tiên được đặt dưới quyền chủ tỉnh Châu Đốc, lúc này là ông L. de Matra là chủ tỉnh. Ngày 9 tháng 2 năm 1924 - dưới thời chủ tỉnh Châu Đốc G. Striedter, Hà Tiên lại trở thành một tỉnh độc lập. Năm 1924, tỉnh Hà Tiên gồm 4 quận: Châu Thành, Giang Thành, Hòn Chông và Phú Quốc. Tỉnh lỵ Hà Tiên đặt tại làng Mỹ Đức thuộc tổng Hà Thanh, quận Châu Thành. Chủ tỉnh Hà Tiên đầu tiên là A. Klein (1924 - 1925)).
Tỉnh Hà Tiên giai đoạn 1945-1956
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tỉnh Hà Tiên là một trong 21 tỉnh ở Nam Bộ.
Tháng 10 năm 1950, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định hợp nhất tỉnh Long Châu Hậu (bao gồm một phần tỉnh Châu Đốc và một phần tỉnh Long Xuyên trước đó) và tỉnh Hà Tiên để thành lập tỉnh Long Châu Hà. Tuy nhiên, tỉnh Long Châu Hà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa công nhận.
Năm 1954, tỉnh Long Châu Hà bị giải thể và tỉnh Hà Tiên lại được tái lập.
Hà Tiên giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Hà Tiên như thời Pháp thuộc.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang.
Khi đó, địa bàn tỉnh Hà Tiên cũ được chuyển thành quận Hà Tiên và quận Phú Quốc cùng thuộc tỉnh Kiên Giang. Trong đó, địa bàn quận Hà Tiên bao gồm các quận Châu Thành, Giang Thành và Hòn Chông trước năm 1956.
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho thành lập quận Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Quận Kiên Lương gồm 5 xã tách từ quận Kiên Thành và quận Hà Tiên là: An Bình, Bình Trị, Thổ Sơn, An Hoà, Dương Hoà. Quận lỵ đặt tại xã An Bình. Ngày 04 tháng 9 năm 1961, quận Kiên Lương thành lập mới xã Đức Phương.
Thời Việt Nam Cộng Hòa, Hà Tiên chỉ là một quận của tỉnh Kiên Giang. Quận Hà Tiên gồm 3 xã Mỹ Đức, Phú Mỹ và Thuận Yên, 15 ấp. Quận lỵ đặt tại xã Mỹ Đức.
Chính quyền lâm thời
Lúc bấy giờ, chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng quyết định hợp nhất tỉnh Hà Tiên và tỉnh Rạch Giá trước đó lại thành một tỉnh có tên là tỉnh Rạch Giá.
Năm 1957, chính quyền Cách mạng quyết định giải thể tỉnh Hà Tiên, chuyển thành huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cùng trực thuộc tỉnh Rạch Giá.
Năm 1965, chính quyền Cách mạng giao huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cho tỉnh An Giang quản lý. Đến năm 1967 lại trả hai huyện Hà Tiên và Phú Quốc về cho tỉnh Rạch Giá như trước. Tuy nhiên, năm 1971 khi Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang và tỉnh Rạch Giá, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước năm 1956 thì huyện Hà Tiên, huyện Phú Quốc cùng với huyện Châu Thành A của tỉnh Rạch Giá lại được giao về cho tỉnh Châu Hà quản lý. Đến năm 1974 ba huyện này lại cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt các huyện Hà Tiên, huyện Phú Quốc và huyện Châu Thành A cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, địa bàn tỉnh Rạch Giá lúc đó (tương ứng với tỉnh Hà Tiên thời phong kiến) sẽ được chia ra vào sáp nhập vào các tỉnh mới, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Cụ thể như sau:
Tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Phần còn lại của tỉnh Rạch Giá cùng với toàn bộ diện tích tỉnh Long Châu Hà và huyện Thốt Nốt của tỉnh Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Rạch Giá cũ (bao gồm cả ba huyện Hà Tiên, Phú Quốc, Châu Thành A hiện cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà nhưng trước năm 1971 lại cũng đều thuộc tỉnh Rạch Giá) vẫn để thành một tỉnh riêng biệt.
Hà Tiên sau năm 1976
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định tái lập tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tỉnh Rạch Giá và ba huyện: Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc vốn thuộc tỉnh Long Châu Hà trước đó. Từ đó, Hà Tiên lại trở thành một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang. Địa bàn huyện Hà Tiên lúc này tương ứng với quận Hà Tiên và gần 1/2 diện tích quận Kiên Lương của tỉnh Kiên Giang thời Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 47/1998/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Hà Tiên và thành lập các phường thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Theo đó, thành lập thị xã Hà Tiên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Hà Tiên, xã Thuận Yên (trừ 2.732 ha diện tích tự nhiên và 3.302 nhân khẩu giao về xã Phú Mỹ quản lý), xã Mỹ Đức và xã Tiên Hải thuộc huyện Hà Tiên. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị xã Hà Tiên, huyện Hà Tiên có 89.548,5 ha diện tích tự nhiên và 62.162 nhân khẩu, gồm 6 xã và 1 thị trấn.
Ngày 21 tháng 4 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 28/1999/NĐ - CP về việc đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang.
Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chính phù ban hành Nghị quyết số 29/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường, thuộc các huyện, thành lập xã thuộc thị xã Hà Tiên và các huyện: Kiên Lương, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận; đồng thời điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kiên Lương để thành lập huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 573/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Tiên.
Sau nhiều lần thay đổi hành chính, địa bàn tỉnh Hà Tiên cũ thời Pháp thuộc hiện nay tương ứng với các huyện Phú Quốc, Kiên Lương, Giang Thành và thành phố Hà Tiên cùng thuộc tỉnh Kiên Giang. Còn địa bàn tỉnh Hà Tiên thời phong kiến thì bao gồm toàn bộ các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và một phần các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu ngày nay.
Hiện nay, địa danh "Hà Tiên" chỉ còn được dùng để chỉ thành phố Hà Tiên, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Kiên Giang.
Phân chia hành chính
Năm 1820
Hà Tiên trấn lệ thuộc (chưa đặt phủ, huyện, tổng):
19 xã thôn Việt Nam:
7 xã thôn ở đất liền: Minh Hương, Thuận An, Tiên Hưng, Hòa Mỹ, Tân Đông, Tân An, Tiên Hương
12 thôn nằm trong đảo Phú Quốc: Dương Cảng Đông, Vĩnh Thạnh, Tân Quy, Phước Sơn, An Hòa, Phước Lộc, Cẩm Sơn, Tiên Tỉnh, Thái Thạch, Phú Đông, Mỹ Thạnh, Minh Hương
6 phố sở điếm thuộc gồm người Hoa: Minh Bột đại phố, Minh Bột kỳ thụ phố, Minh Bột lô khê sở, Minh Bột thổ khâu điếm, Minh Bột tân phố, Đường Nhơn thuộc (ở đảo Phú Quốc)
26 sóc Miên: Lộc Trĩ, Cò Vinh, Cố Sâm, Ba Nam Rạp, Côn Đồng, Côn Trà Vị, Bài Tầm Man, Phiếm Vàm, Sa Cà Mao, Hấp Tra, Lọt, Côn Phần, Nam Rạp, Cốt Tà Nục, Cổ Cần Lộ, Xoài Tống, Cố Ven, Ta Lo, Hòn Chông, Vẹt Trác, Cố Tầm Lai, Phun Vàng Co, Kiên Xà Mi Rạch Vược, Cốt Trà Câu, Tầm Nặc Tà Bẹt, Lạc Bà Già, Đồ Bà.
Huyện Long Xuyên có 2 tổng với 32 thôn:
Tổng Long Thủy có 23 thôn: Tân Xuyên, Tân Phong, Mỹ Chánh, Phong Thạnh, Tân Long, Bình Lâm, Tân Bình, Hòa Thạnh, Minh Hương, Tân Trạch, Tân Định, Mỹ Thuận, Tân Thuộc, Tân Đức, Tân Thái, Tân An, Sái Phu, Tân Qui, Bình Thạnh, Vĩnh Thạnh, Hòa Thạnh, Tân Nghĩa, Cát An
Tổng Quảng Xuyên có 9 thôn: Tân Hưng, Tân Ân, Tân Khánh, Phú Thạnh Hoàng Lạp, Tân Duyệt, An Phong, Lâm An, Tân Thuận, San Du.
Huyện Kiên Giang có 2 tổng với 11 thôn:
Tổng Kiên Định có 7 thôn: Bình An, Vĩnh An, Lái Phu, Thái Hòa, Vĩnh Hòa Đông, Vĩnh Thạnh, An Hòa
Tổng Thanh Giang có 4 thôn: Vĩnh Thuận, Đông An, Vĩnh Hòa, Thái An.
Năm 1836
Huyện Hà Châu có 5 tổng chia thành 4 xã với 40 thôn:
Tổng Hà Nhuận gồm 5 thôn: Hoa Giáp, Tiên Long, Tiên Hưng, Tiên Hưng Tây, Tiên Phước
Tổng Hà Thanh gồm 2 xã: Mỹ Đức, Tiên Quán và 9 thôn: Bình Ân, Thuận Yên, Hòa Mỹ Đông, Tân Thạnh, Tiên Thới, Vy Sơn, Hòa Thuận, Tiên Mỹ, Thạnh Long
Tổng Nhuận Đức gồm 1 xã: Cổ Tham và 6 thôn: Lộc Trĩ, Tầm Lai, Đôn Hậu, Mụ Sơn, Hòa Luật, Nhương Lộ
Tổng Phú Quốc gồm 10 thôn: An Thới, Hàm Ninh, Phú Đông, Thới Thạnh, Cẩm Sơn, Mỹ Thạnh, Phước Lộc, Dương Đông, Tân Lập, Tiên Tỉnh
Tổng Thanh Di gồm 1 xã: Mông Mậu và 10 thôn: Cần Thu, Sa Kỳ, Trà Cau, Côn Văn, Nam An, Tư Ngãi, Trác Việt, Dương Hòa, Nam Hoa, Thuận Đức.
Huyện Kiên Giang có 4 tổng chia thành 34 xã với 24 thôn:
Tổng Giang Ninh gồm 5 xã: Hỏa Lựu, Vị Thủy, Hương Phù, Xà Bàn, Địa Linh và 6 thôn: Áp Lục, Lộc Động, Cao Môn, Phương Lang, Hương Thụ, Thủy Liễu
Tổng Kiên Định gồm 10 xã: An Hòa, Sái Phu, Thạnh Hòa, Vĩnh Thạnh Đông, Minh Hương Vĩnh Lạc, Long Thành, Vĩnh An, Hòa Nông, Vĩnh Thạnh, Vân Tập và 5 thôn: Lại Sơn, An Thuận, Long Hưng, Vĩnh Hòa Đông, Tăng Long
Tổng Kiên Hảo gồm 16 xã: Bàn Thạch, Cù Hóa, Tham Định, Thiếp Ngạc, Thanh Lương, Bình A, Minh Lương, Pha Kinh, Tỷ Ốc, Thông Chử, Đằng Văn, Lạc Thổ, Ngọc Chúc, Phong Hóa, Thúy Đằng, Vĩnh Niên và 8 thôn: Đồng Đăng, Liên Trì, Ngọc Giải, Dục Tượng, Hóa Quản, Trà Tuấn, Cam Da, Thanh Lang
Tổng Thanh Giang gồm 3 xã: Đông An, Vĩnh Thuận Đông, Đông Thới và 5 thôn: Vĩnh Hòa, Vĩnh Lộc, Vĩnh Thuận, Thới An, Vĩnh Phước.
Huyện Long Xuyên có 2 tổng chia thành 4 xã với 40 thôn:
Tổng Long Thủy gồm 2 xã: Bình Lãng, Cửu An và 28 thôn: An Thành, Cát An, Hòa Thạnh, Mỹ Thuận, Phước Thạnh, Tân Định, Tân Long, Tân Phong, Tân Thuộc, Thạnh Hòa, Tân Cẩm, Long Điền, Phong Thạnh, Tân An, Tân Đức, Tân Mỹ, Tân Qui, Tân Trạch, Thạnh Trị, Tân Châu, Bình Thạnh, Đại Hữu, Mỹ Chánh, Phú Lộc, Tân Bình, Tân Hóa, Tân Ngãi, Tân Thới, Tân Xuyên, Vĩnh Thạnh
Tổng Quảng Long gồm 2 xã: An Lạc, Thới Bình và 12 thôn: An Hòa, Lâm An, Tân Ân, Tân Hưng, Tân Thủy, Long An, Tân Duyệt, Tân Khánh, An Phong, Phú Thạnh, Tân Hội, Tân Thuận.
Năm 1901
Tổng Hà Thanh gồm 6 làng: Hòa Thạnh, Tân Thạnh (tức Giang Thành), Tiên Khánh, Phú Mỹ, Mỹ Đức (tỉnh lỵ), Lộc Trì (mũi Nai);
Tổng Thanh Gi gồm 4 làng: Trà Câu, Trà Tiên, Thuận Yên (Thuận An), Dương Hòa (tức Bãi Ớt);
Tổng Bình An gồm 1 làng duy nhất: Bình Trị (còn gọi Bình An tức Hòn Chông);
Tổng Phú Quốc gồm 4 làng: Dương Đông, Hàm Ninh, Lạc Phú, Phú Dự.
Năm 1939
Quận Châu Thành có 5 làng: Mỹ Đức, Lộc Trì, Kỳ Lộ, Thuận Yên, Dương Hòa
Quận Hòn Chông có 2 làng: Bình Trị (quận lỵ), An Bình
Quận Giang Thành có 5 làng: Tân Khánh Hòa (quận lỵ), Vĩnh Điều, Vĩnh Phú, Phú Mỹ, Trà Tiên
Quận Phú Quốc có 3 làng: Dương Đông (quận lỵ), Hàm Ninh, Phú Dự
Hình ảnh
Chú thích
Nam Kỳ lục tỉnh
Tỉnh cũ Việt Nam
Hành chính Việt Nam thời Nguyễn
Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc
Hành chính Kiên Giang
Hành chính Bạc Liêu
Hành chính Cà Mau |
Blue là ban nhạc người Anh bao gồm 4 thành viên là Duncan James, Simon Webbe, Lee Ryan và Anthony Costa. Ban nhạc gây tiếng vang với các album phòng thu All Rise (2001), One Love (2002) và Guilty (2003), đều đạt vị trí quán quân tại Anh. Chỉ trong 4 năm hoạt động, họ phát hành tổng cộng 16 đĩa đơn và thực hiện 4 tour diễn vòng quanh thế giới, hợp tác thu âm cùng nhiều nghệ sĩ hàng đầu như Stevie Wonder, Elton John và Lil' Kim. Ban nhạc tạm dừng hoạt động vào năm 2004 và cho phát hành album tuyển tập Best of Blue vào cuối năm.
Blue tái hợp vào năm 2011 và là đại diện của Vương quốc Anh tham dự Eurovision Song Contest 2011 tại Düsseldorf với ca khúc "I Can" (vị trí 11 với 100 điểm). Năm 2013, họ phát hành album tiếp theo Roulette theo cùng là đĩa đơn "Hurt Lovers". Không lâu sau, họ nhận lời tham gia sự kiện tái hợp The Big Reunion cùng nhiều ban nhạc đình đám khác như Liberty X, Atomic Kitten và 5ive, sau đó là tour diễn cùng tên vòng quanh nước Anh. Ngày 27 tháng 3 năm 2013, Blue chính thức giới thiệu tour diễn vòng quanh thế giới đầu tiên của họ sau 10 năm.
Tổng cộng, Blue bán được hơn 15 triệu đĩa toàn thế giới. Theo British Phonographic Industry, ban nhạc bán được 3,6 triệu album và 1,4 triệu đĩa đơn tại Anh.
Tháng 4 năm 2015, Blue bị Sony Music thanh lý hợp đồng thu âm sau khi album cuối cùng của họ, Colours, chỉ bán được 4.000 đĩa trong tuần đầu tiên phát hành.
Lịch sử
2000–01: Thành lập và All Rise
Tháng 5 năm 1999, Lee Ryan (khi đó 15 tuổi) và Anthony Costa (17 tuổi) lần đầu gặp nhau khi Simon Cowell thành lập một ban nhạc cho chương trình This Morning của ITV. Ryan cùng Will Young (người sau này trở thành quán quân đầu tiên của chương trình Pop Idol vào năm 2002) được lựa chọn, tuy nhiên Cowell không lựa chọn Costa.
Năm 2000, Costa rủ người bạn thân Duncan James thành lập ban nhạc chung, và anh liền gọi cho Ryan. Quản lý Daniel Glatman nhớ lại: "Duncan tới gặp tôi cùng người bạn Antony Costa. Cả hai người họ cùng có mong muốn thành lập một ban nhạc. Khi tôi hỏi liệu họ còn có ai tham gia dự án này nữa không, thì họ nói có một người muốn gia nhập tên là Ryan. Cả ba người bọn họ tới gặp tôi vài ngày sau đó, và ngay lập tức tôi choáng váng trước khả năng của họ." Ryan, Costa, James và Glatman cảm thấy ban nhạc vẫn còn thiếu một yếu tố nào đó, vậy nên họ tổ chức một buổi thử giọng. Và thành viên thứ tư của ban nhạc lại chính là người chung phòng với Ryan, Simon Webbe.
Blue ngay lập tức thu âm với đội hình hoàn toàn mới mẻ này. Họ cho ra mắt đĩa đơn đầu tay "All Rise" vào tháng 5 năm 2001, đạt vị trí số 4 tại UK Singles Chart. Đĩa đơn tiếp theo "Too Close" được phát hành vào tháng 8 và có được vị trí quán quân. Không lâu sau đó, họ tới New York ghi hình đĩa đơn "If You Come Back" và tận mắt chứng kiến Sự kiện 11 tháng 9. Phỏng vấn trên tờ The Sun, Ryan đã bình luận "Thành phố New York đã trở nên tan hoang", và thốt lên câu hỏi "Vậy còn những con cá voi thì sao? Họ có vẻ đang phớt lờ đi mạng sống của động vật. Động vật cần được bảo vệ, và điều đó mới thực sự quan trọng." Sự kiện này tạo nên nhiều tranh cãi và khiến Blue mất hợp đồng thu âm lớn tại Mỹ và nhận được yêu cầu sa thải Ryan khỏi dự án. Tuy nhiên, ban nhạc vẫn giành được vị trí quán quân với "If You Come Back".
Album All Rise sau đó được ra mắt vào đúng dịp Giáng sinh và nhanh chóng có được vị trí số 1 tại UK Albums Chart với hơn 1,3 triệu bản chỉ riêng tại Anh. All Rise nhận được chứng chỉ 4x Bạch kim và có 63 tuần nằm trong top 75 của bảng xếp hạng trên. Đĩa đơn cuối cùng của album này, "Fly by II", đạt vị trí số 6 vào tháng 3 năm 2002.
Album nhận được phản ứng khá trái chiều từ giới phê bình. Sharon Mawer từ AllMusic cho album điểm 3.5/5 "Giọng hát hòa âm mang lại những cảm xúc đích thực, và có lẽ chính điều đó tạo nên sự khác biệt của Blue với những nhóm khác." Andre Paine từ tạp chí NME chỉ chấm điểm 5/10 khi cho rằng các ca khúc "nhìn chung cũng ổn, nhưng không quá khác biệt so với những bài hát của các cô nhóc mới lớn. Đó cũng là phong cách của những nhóm boyband thịnh hành. 'If You Come Back' là bản ballad... kiểu Backstreet Boys. Nhưng ít nhất Stargate & Ray Ruffin đều biết mình đang làm gì. Blue còn trẻ và rất tài năng, hứa hẹn sẽ thành công trong sự nghiệp âm nhạc sau này."
2002–04: One Love và Guilty
Album thứ hai của Blue, One Love, được phát hành vào tháng 10 năm 2002. Ba đĩa đơn trích từ album này là "One Love", "Sorry Seems to Be the Hardest Word" (cùng Elton John) và "U Make Me Wanna" lần lượt đạt các vị trí 6, 1 và 4 tại UK Singles Chart. "Supersexual" được ban nhạc lựa chọn để quảng bá cho tour diễn tại Nam Mỹ và Tây Ban Nha. Album đạt vị trí quán quân tại UK Albums Chart trong vòng một tuần, và tới ngày 20 tháng 12 năm 2003, album đạt chứng chỉ 4× Bạch kim.
Tháng 6 năm 2003, Hugh và David Nicholson tới nhóm Blue (Scotland) tiến hành khởi kiện tác quyền đối với ban nhạc và hãng đĩa EMI với khoản bồi thường 5 triệu bảng. Đơn kiện được toà Phúc thẩm xem xét do liên quan tới vấn đề sử dụng tên Blue làm nghệ danh. Sau vài phiên thương thảo, cả hai bên đã tiến tới thống nhất cùng chia sẻ tên Blue cho các hoạt động thương mại.
Album thứ 3 của Blue có tên Guilty phát hành vào tháng 11 năm 2003, đạt vị trí quán quân tại Anh ngay tuần đầu tiên phát hành với doanh số hơn 100.000 bản. Cả 4 đĩa đơn theo kèm đều lọt vào top 10 tại Anh bao gồm "Guilty" (2), "Signed, Sealed, Delivered, I'm Yours" (cùng Stevie Wonder và Angie Stone, 11), "Breathe Easy" (4) và "Bubblin'" (9). "The Gift" được ban nhạc lựa chọn để quảng bá tại thị trường Nhật Bản. Tổng cộng, album bán được hơn 1 triệu bản chỉ riêng tại Anh và nhận chứng chỉ 2x Bạch kim đúng một tháng sau.
2004–05: Best of Blue và tạm dừng hoạt động
Tháng 11 năm 2004, Blue ra mắt album tuyển tập mang tên Best of Blue. Các đĩa đơn theo kèm bao gồm "Curtain Falls" đạt vị trí số 4 tại Anh, "Get Down on It" và "Only Words I Know" có vị trí số 2 tại Ý và Pháp. Album cũng giành được vị trí á quân tại UK Albums Chart và nhận chứng chỉ 2x Bạch kim.
Mặt B của album là những giai điệu chưa từng được công bố của ban nhạc, do các thành viên Costa và Webbe lựa chọn. Ba ca khúc chỉ phát hành tại thị trường Nhật Bản là "The Gift", "It's Alright" và "Elements" cũng được bổ sung vào album. Best of Blue còn có cả đĩa đơn solo đầu tay của James là "I Believe My Heart", trong bản thu trực tiếp "Lonely This Christmas" từ đĩa CD:UK vốn được đề xuất chọn làm ca khúc số 7 của album lại bị loại bỏ không rõ lý do. Phiên bản album này được ra mắt vào tháng 7 năm 2005 tại nhiều quốc gia châu Âu, tại Nhật Bản, Thái Lan và Trung Quốc, nhưng lại không được phát hành tại Anh.
Cuối năm 2005, ban nhạc chính thức tuyên bố tạm dừng hoạt động để các thành viên có cơ hội phát triển sự nghiệp ca sĩ. Họ có ý định tái hợp vào năm 2009 nhưng không thành công.
2011–12: Eurovision Song Contest
Ngày 29 tháng 1 năm 2011, Blue tuyên bố tái hợp để đại diện Vương quốc Anh tranh tài tại Eurovision Song Contest 2011 với đĩa đơn mới "I Can". Lần tái hợp này cũng đánh dấu 10 năm thành lập ban nhạc, và họ quyết định ra mắt bộ phim tài liệu nhỏ có tên Eurovision: Your Country Needs Blue, công chiếu vào tháng 4 cùng năm ngay trước đêm chung kết của cuộc thi. Đây là lần thứ 3 mà ban nhạc được tận hưởng không khí của cuộc thi này từ vòng sơ loại của Vương quốc Anh: Ryan từng sáng tác ca khúc "Guardian Angel", trình bày Andy Scott-Lee (2005); Costa thậm chí về nhì vòng sơ loại năm 2005 với ca khúc "It's A Beautiful Thing"; trong khi James từng dẫn chương trình cho Eurovision: Your Country Needs You 2009. Bản thân James cũng là người được công bố thể lệ bình chọn cho cuộc thi Eurovision Song Contest 2009.
Blue là nghệ sĩ đầu tiên kể từ The Shadows (1975) từng có đĩa đơn quán quân UK Singles Chart trước khi tham gia vòng loại Eurovision, và cũng là nghệ sĩ đầu tiên kể từ Sonia (1993) đạt thành tựu này trước khi tham gia vòng chung kết châu lục. Ca khúc "I Can" lần đầu được giới thiệu vào ngày 11 tháng 3 năm 2011 trong chương trình The Graham Norton Show. Tại đêm chung kết, ca khúc về vị trí 11 với 100 điểm. Sau cuộc thi, Blue cho rằng kết quả của họ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố chính trị, khi cho rằng thứ hạng của họ hoàn toàn có thể được cải thiện nếu nhiều quốc gia từ chối bỏ phiếu cho Vương quốc Anh. Quan điểm này có cơ sở khi European Broadcasting Union công bố Blue về thứ 5 trong vòng bỏ phiếu của công chúng, nhưng chỉ đạt thứ 22 từ phía phiếu bầu của ban giám khảo. James khẳng định rằng kết quả không ảnh hưởng tới sự trở lại của âm nhạc Anh: "Hoàn cảnh tệ nhất cũng không thể khiến chúng tôi từ bỏ ý định ra mắt album mới. Và đó không phải là sản phẩm cuối cùng của chúng tôi – chúng tôi thực sự mong muốn tái hợp ban nhạc."
Trong một bài phỏng vấn, Blue cho biết sẽ hợp tác cùng ca sĩ R&B Bruno Mars trong album tiếp theo của ban nhạc. Trả lời Digital Spy, Ryan chia sẻ: "Chúng tôi cũng hợp tác cùng Ne-Yo, và một số ca khúc do cá nhân tôi sáng tác cũng sẽ được đưa vào album. Ngoài ra có một ca khúc trình bày cùng Mars có tên "Black and Blue" mà anh ấy từng gửi cho chúng tôi nghe từ vài năm trước với nhiều nốt hay ở đoạn điệp khúc." RedOne tham gia sản xuất 3 ca khúc, và ban nhạc cảm thấy đây là "sản phẩm tốt nhất từ trước tới nay của mình". Tháng 2 năm 2012, Blue tổ chức tour diễn nhỏ tại Manila cùng nhóm A1 và Jeff Timmons trong 3 buổi diễn khác nhau (ngày 25 tháng 2 tại Smart Araneta Coliseum và ngày 28 tháng 2 tại Singapore Indoor Stadium). Tour diễn này có tên Boybands: The Greatest Hits Tour.
2012–2019: Roulette và Colours
Ngày 22 tháng 6 năm 2012 tại Trung Quốc, Blue lần đầu giới thiệu với công chúng ca khúc mới có tên "Hurt Lovers". Trong đoạn phỏng vấn ngắn ngay sau tour diễn, họ tiết lộ đây là một trong những album chủ đạo của album tái hợp ban nhạc. Sau những phản hồi tích cực tại châu Á, đĩa đơn này chính thức ra mắt tại Đức vào ngày 6 tháng 10 cùng năm. Không lâu sau, bộ phim Schlussmacher xin phép quyền sử dụng bài hát này, và ca khúc chính thức được phát hành toàn cầu vào ngày 4 tháng 1 năm 2013. Đĩa đơn theo kèm bản trình diễn trực tiếp tại Vocea României vào tháng 12 năm 2012 và trong khuôn khổ tour diễn vòng quanh nước Đức của ban nhạc. Trước đó vào tháng 10, trên trang facebook chính thức, Blue tuyên bố album tiếp theo của nhóm mang tên Roulette. Album cũng sớm được ưu tiên phát hành trước tại thị trường Đức vào cuối tháng 1 năm 2013 Bìa đĩa là hình ban nhạc chụp trong một quán casino không có người. Ngày 25 tháng 2 năm 2013, Blue nhận lời tham gia chương trình The Big Reunion của kênh truyền hình ITV 2.
Blue lên kế hoạch trình diễn tại nhà hát Hammersmith Apollo vào ngày 26 tháng 2 năm 2013, và toàn bộ vé chương trìnhd đã bán chạy hết ngay khi được giới thiệu vào ngày 31 tháng 1. DVD của chương trình được phát hành vào tháng 4 cùng năm. Ngày 11 tháng 2, với hiệu ứng tích của dự án The Big Reunion, ban nhạc tuyên bố sẽ lưu diễn vòng quanh nước Anh từ ngày 3–12 tháng 5 năm 2013.
Ngày 28 tháng 4 năm 2013, Blue phát hành album thứ tư mang tên Roulette tại Anh và Ireland. "I Can" được ban nhạc chọn làm đĩa đơn quảng bá của album. Đĩa đơn này được ra mắt vào ngày 1 tháng 5 dưới dạng tải kỹ thuật số, kèm với phiên bản thường được bày bán sau đó vài ngày. Tuy nhiên, "I Can" chỉ đạt vị trí 16 tại UK Singles Chart và là đĩa đơn có thứ hạng thấp nhất của Blue từ trước tới nay. "Hurt Lovers" là đĩa đơn chính thức đầu tiên của Roulette, được phát hành vào ngày 4 tháng 1. "Without You" là đĩa đơn tiếp theo của album, theo kèm là video âm nhạc được ra mắt tại Đức, Áo và Thụy Sĩ. Đĩa đơn thứ ba "Break My Heart" được giới thiệu trên sóng phát thanh vào ngày 29 tháng 6 và dưới dạng tải kỹ thuật số vào ngày 5 tháng 8 năm 2013. Đĩa đơn này được quảng bá tại Đức và Anh, với video âm nhạc theo kèm được ra mắt vào ngày 18 tháng 8. Tiếp theo đó là các đĩa đơn "Broken" và "Ayo", được phát hành vào ngày 2 tháng 2 năm 2014.
Tháng 11 năm 2014, Blue tuyên bố đạt được thỏa thuận sản xuất album cùng Sony Music, và album phòng thu thứ 5 của họ sẽ mang tên Colours, phát hành ngày 9 tháng 3 năm 2015. Tuy nhiên, doanh thu nghèo nàn với chỉ 4.000 đĩa tiêu thụ trong tuần đầu tiên khiến họ ngay lập tức bị thanh lý hợp đồng vào tháng 4 cùng năm. Blue vẫn thực hiện tour diễn vòng quanh nước Anh trong các thảng 3 và 4 năm 2015. Ngày 9 tháng 5, họ trình diễn tại chương trình VE Day 70: A Party to Remember tại Horse Guards Parade. Họ lên kế hoạch sản xuất album phòng thu tiếp theo vào năm 2017, tuy nhiên đề xuất đã bị Sony từ chối. Họ quyết định đi tour trong vòng 2 năm trước khi mỗi thành viên bắt đầu những dự án cá nhân: Costa và James tập trung vào diễn xuất, trong khi Ryan và Webbe tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp ca hát solo. Năm 2019, ban nhạc tuyên bố không còn tham vọng sản xuất album phòng thu mà chỉ đi lưu diễn cùng nhau.
2021–nay: 20th Anniversary Heart & Soul Tour
Ngày 30 tháng 11 năm 2021, Blue tuyên bố tái hợp và lưu diễn nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập ban nhạc. Tour diễn có sự tham gia của ban nhạc Atomic Kitten. Trong bài phỏng vấn trên chương trình This Morning, họ tiết lộ sẽ thu âm một album mới và cho ra mắt trong thời gian lưu diễn này. Ngày 11 tháng 4 năm 2022, ban nhạc cho giới thiệu album phòng thu thứ 6 mang tên Heart & Soul, dự kiến phát hành vào ngày 9 tháng 9 cùng năm.
Danh sách đĩa nhạc
All Rise (2001)
One Love (2002)
Guilty (2003)
Roulette (2013)
Colours (2015)
Tour
One Love Tour (2002–2003)
Guilty Tour (2003–2004)
Greatest Hits Tour (2005)
Roulette Tour (2013)
Colours Tour (2015–2016)
Blue Live (2016–2017)
20th Anniversary Heart & Soul Tour (2022)
Tour kết hợp
The Big Reunion (2013)
The Big Reunion Boy Band Tour (2014)
Đề cử và giải thưởng
|-
| style"text-align:center;" rowspan="2"|2001
|"All Rise"
|The Record of the Year cho Đĩa đơn của năm
|
|-
|Blue
|TMF Award cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất
|
|-
| style"text-align:center;" rowspan="2"|2002
|Blue
|Giải Brit cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất
|
|-
|Blue
|Giải Brit cho Nghệ sĩ Pop xuất sắc nhất
|
|-
| style"text-align:center;" rowspan="4"|2003
|Blue
|Giải Brit cho Ban nhạc xuất sắc nhất
|
|-
|Blue
|Giải Brit cho Nghệ sĩ Pop xuất sắc nhất
|
|-
|Blue
|MTV Asia Awards cho Nghệ sĩ Pop được yêu thích nhất
|
|-
|Blue
|MTV Asia Awards cho Nghệ sĩ mới đuợc yêu thích nhất
|
|-
| style"text-align:center;"|2004
|Blue
|MTV Asia Awards cho Nghệ sĩ Pop được yêu thích nhất
|
|-
| style"text-align:center;"|2005
|Blue
|MTV Asia Awards cho Nghệ sĩ Pop được yêu thích nhất
|
|} |
Rạch Giá là tỉnh cũ ở miền Tây Nam Bộ thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam, tiếp giáp với vịnh Thái Lan và là một trong những tỉnh có diện tích lớn nhất vùng lúc bấy giờ. Tỉnh Rạch Giá được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1900 và bị mất tên gọi đơn vị hành chính cấp tỉnh từ tháng 2 năm 1976 cho đến nay.
Lịch sử
Thời Pháp thuộc
Trước khi thực dân Pháp xâm chiếm tất cả sáu tỉnh ở Nam Kỳ vào năm 1867, vùng đất tỉnh Rạch Giá cũ chính là huyện Kiên Giang của tỉnh Hà Tiên vốn thuộc Nam Kỳ lục tỉnh vào thời nhà Nguyễn độc lập. Huyện Kiên Giang có diện tích lớn nhất trong số 3 huyện trực thuộc tỉnh Hà Tiên (bao gồm Kiên Giang, Long Xuyên và Hà Châu) lúc bấy giờ.
Ngày 15 tháng 6 năm 1867, sau khi chiếm xong tỉnh Hà Tiên, thực dân Pháp cho thành lập hạt Thanh tra Kiên Giang trên địa bàn huyện Kiên Giang thuộc tỉnh Hà Tiên cũ, với lỵ sở hạt đặt ngay tại Rạch Giá. Ngày 1 tháng 8 năm 1867, Pháp thấy vùng đất Cà Mau còn vắng vẻ nên đã bãi bỏ hạt thanh tra Long Xuyên (được lập đồng thời cùng với hạt Thanh tra Kiên Giang trước đó), sáp nhập địa bàn này tức vùng đất Cà Mau vào hạt thanh tra Kiên Giang và coi luôn vùng đất huyện Long Xuyên cũ.
Ngày 16 tháng 8 năm 1867, thực dân Pháp chính thức đổi tên gọi tất cả các địa danh cấp tỉnh và hạt thanh tra theo tên gọi địa điểm nơi đặt lỵ sở của hạt thanh tra. Các tên gọi mới này chính là tục danh bằng tên Nôm của các thôn xã nơi đặt lỵ sở hạt thanh tra vốn trước đây vào thời nhà Nguyễn độc lập lại không được dùng chính thức trong các văn bản hành chính. Như vậy, cũng kể từ đây, chính quyền thực dân Pháp đã dần dần chính thức hóa các tên gọi địa danh bằng tiếng Nôm này bằng những văn bản hành chính. Vào thời điểm này, hạt Thanh tra Rạch Giá được thành lập do đổi tên từ hạt Thanh tra Kiên Giang trước đó.
Hạt thanh tra Rạch Giá ban đầu bao gồm 6 tổng và 110 thôn:
Tổng Kiên Định gồm 14 thôn
Tổng Thanh Giang gồm 11 thôn
Tổng Kiên Hảo gồm 26 thôn
Tổng Giang Ninh gồm 11 thôn
Tổng Long Thủy gồm 25 thôn
Tổng Quảng Xuyên gồm 13 thôn
Ngày 5 tháng 6 năm 1871, thời Chủ tỉnh Benoist (1871 - 1872) - thực dân Pháp tách vùng Cà Mau ra khỏi hạt Rạch Giá để nhập vào hạt Sóc Trăng. Ngày 18 tháng 12 năm 1871, Pháp lại nhập vùng đất Cà Mau vào hạt Rạch Giá như cũ. Ngày 5 tháng 1 năm 1876, dưới thời Chủ tỉnh E. Granier (1875 - 1878) - thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif) thì tỉnh Hà Tiên cũ bị chia thành hai hạt tham biện là Hà Tiên và Rạch Giá, đồng thời các thôn cũng đổi thành các làng.
Ngày 18 tháng 7 năm 1882, thực dân Pháp thiết lập hạt tham biện Bạc Liêu (đầu tiên là Chủ tỉnh Lamothe de Carrier) trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Thủy của hạt tham biện Rạch Giá (thời Chủ tỉnh Rạch Giá Nansot) hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện Sóc Trăng (thời Chủ tỉnh Sóc Trăng de Bequigny) chuyển sang. Lỵ sở Bạc Liêu thuộc địa bàn tổng Thạnh Hòa vốn trước đó thuộc hạt tham biện Sóc Trăng. Ngày 12 tháng 8 năm 1888, hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt tham biện Long Xuyên. Ngày 27 tháng 12 năm 1892, thực dân Pháp lại tái lập hạt tham biện Rạch Giá với 4 tổng:
Tổng Giang Ninh có 16 làng
Tổng Kiên Định có 14 làng
Tổng Kiên Hảo có 25 làng
Tổng Thanh Giang có 18 làng
Ngày 26 tháng 1 năm 1894, chính quyền thực dân Pháp hợp nhất 4 làng Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa, Thanh Lương và Vân Tập thành một làng mới lấy tên là làng Vĩnh Thanh Vân, đồng thời vẫn là nơi đặt lỵ sở của hạt tham biện Rạch Giá như trước đó.
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Rạch Giá trở thành tỉnh Rạch Giá. Viên chủ tỉnh Pháp đầu tiên là L. Rivet. Tỉnh lỵ Rạch Giá đặt tại làng Vĩnh Thanh Vân thuộc địa bàn tổng Kiên Hảo.
Ngày 25 tháng 5 năm 1900, lập tổng Kiên Tường và tổng Thanh Bình. Ngày 31 tháng 12 năm 1907, thời chủ tỉnh Rach Giá L'Helgouach, Pháp lập thêm tổng An Ninh và tổng Thanh Biên. Năm 1910, thời chủ tỉnh Le Marchant de Trigon, tỉnh Rạch Giá gồm 8 tổng, 73 làng:
Ngày 6 tháng 1 năm 1916, lại lập thêm tổng Thanh Tuyên và tổng Thanh Yên.
Ngày 20 tháng 5 năm 1920, thực dân Pháp cho thành lập ở tỉnh Rạch Giá 5 quận trực thuộc: Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, Long Mỹ và Phước Long. Tên các quận này vốn được lấy theo tên làng hoặc tên chợ nơi đặt quận lỵ. Riêng quận Châu Thành được thành lập trên địa bàn một số tổng thuộc khu vực nơi đặt tỉnh lỵ Rạch Giá và các vùng phụ cận. Cụ thể như sau:
Quận Châu Thành gồm 2 tổng: Kiên Hảo và Kiên Tường. Quận lỵ: Rạch Giá (thuộc làng Vĩnh Thanh Vân)
Quận Giồng Riềng gồm 1 tổng: Giang Ninh. Quận lỵ: Giồng Riềng (thuộc làng Thạnh Hòa);
Quận Gò Quao gồm 2 tổng: Kiên Định và Thanh Biên. Quận lỵ: Gò Quao (thuộc làng Vĩnh Phước);
Quận Long Mỹ gồm 3 tổng: An Ninh, Thanh Giang, Thanh Tuyền. Quận lỵ: Long Mỹ (thuộc làng Thuận Hưng);
Quận Phước Long gồm 2 tổng: Thanh Bình và Thanh Yên. Quận lỵ: Phước Long (thuộc làng Phước Long).
Ngày 24 tháng 11 năm 1925, chuyển tổng Thanh Biên sang quận Phước Long, quận Gò Quao còn lại tổng Kiên Định. Ngày 1 tháng 1 năm 1936, thực dân Pháp lập đại lý hành chánh An Biên thuộc tỉnh Rạch Giá, trụ sở đặt tại chợ Thứ Ba, gồm 1 tổng có tên là Thanh Biên trên cơ sở tách đất từ quận Phước Long trước đó. Ngày 1 tháng 8 năm 1939, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định nâng lên thành quận An Biên, đặt dưới quyền một quan chức người Pháp.
Thời kỳ 1945-1954
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Lúc bấy giờ, Rạch Giá là một trong 21 tỉnh ở Nam Bộ.
Năm 1947, quận Phước Long được chính quyền thực dân Pháp giao cho tỉnh Bạc Liêu. Cũng trong năm này, chính quyền kháng chiến của lực lượng Việt Minh quyết định đổi tên huyện Phước Long thành huyện Hồng Dân, ban đầu thuộc tỉnh Rạch Giá, do lấy theo tên người chiến sĩ cộng sản Trần Hồng Dân (1916 - 1946) đã hy sinh tại địa phương trước đó. Năm 1951, huyện Hồng Dân được chính quyền Việt Minh giao về cho tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1951, chính quyền Việt Minh quyết định giải thể tỉnh Rạch Giá, sáp nhập địa bàn vào các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ và Sóc Trăng. Trong đó, thị xã Rạch Giá và các huyện Châu Thành, Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng được giao về cho tỉnh Cần Thơ, các huyện Hồng Dân và An Biên được giao về cho tỉnh Bạc Liêu. Bên cạnh đó, một phần nhỏ đất đai tỉnh Rạch Giá cũng được giao về cho tỉnh Sóc Trăng quản lý.
Tuy nhiên, việc giải thể tỉnh Rạch Giá cũng như đổi tên gọi huyện Phước Long thành huyện Hồng Dân lại không được phía chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp của Bảo Đại và sau này là chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Đến năm 1954, chính quyền Việt Minh lại quyết định tái lập tỉnh Rạch Giá. Tháng 10 năm 1954, các huyện Hồng Dân và Long Mỹ cũng trở lại thuộc tỉnh Rạch Giá. Sau năm 1956, chính quyền Cách mạng lại quyết định giao huyện Hồng Dân cho tỉnh Sóc Trăng và giao huyện Long Mỹ cho tỉnh Cần Thơ quản lý trở lại như cũ.
Ngày 29 tháng 12 năm 1952, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp quyết định công nhận đô thị tỉnh lỵ Rạch Giá trở thành thị xã hỗn hợp (commune mixte) thị xã Rạch Giá trực thuộc tỉnh Rạch Giá.
Giai đoạn 1954-1976
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Rạch Giá như thời Pháp thuộc.
Ngày 15 tháng 2 năm 1955, Thủ hiến Nam Việt của chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) quyết định tạm sáp nhập vùng Chắc Băng và quận An Biên thuộc tỉnh Rạch Giá vào tỉnh Sóc Trăng. Ngày 24 tháng 5 năm 1955, quyết định sáp nhập ba quận An Biên, Phước Long và Chắc Băng để thành lập đặc khu An Phước thuộc tỉnh Sóc Trăng, nhưng không lâu sau lại cho giải thể đặc khu này. Sau đó, quận An Biên và vùng Chắc Băng lại trở về thuộc tỉnh Rạch Giá như cũ.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Lúc này, tỉnh Rạch Giá và tỉnh Hà Tiên được nhập lại để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh Kiên Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang đặt tại Rạch Giá và vẫn giữ nguyên tên là "Rạch Giá". Sau năm 1956, thị xã Rạch Giá bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể, tuy nhiên đến ngày 20 tháng 11 năm 1970 lại tái lập thị xã Rạch Giá.
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn giữ nguyên tên gọi tỉnh Rạch Giá từ năm 1956 cho đến năm 1976, đồng thời vẫn duy trì thị xã Rạch Giá trực thuộc tỉnh Rạch Giá trong suốt giai đoạn này.
Năm 1957, chính quyền Cách mạng quyết định giải thể tỉnh Hà Tiên, đổi thành huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cùng trực thuộc tỉnh Rạch Giá. Tỉnh Rạch Giá khi đó gồm thị xã Rạch Giá và các huyện: Châu Thành, Gò Quao, Giồng Riềng, An Biên, Hà Tiên và Phú Quốc. Về sau, chính quyền Cách mạng lại cho thành lập thêm huyện Tân Hiệp trên cơ sở tách đất từ huyện Châu Thành và huyện Giồng Riềng. Bên cạnh đó, huyện Châu Thành cũng được chia thành huyện Châu Thành A và huyện Châu Thành B cùng thuộc tỉnh Rạch Giá.
Năm 1964, chính quyền Cách mạng thành lập huyện Vĩnh Thuận trên cơ sở tách ra từ huyện An Biên. Huyện Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Rạch Giá có địa giới hành chính trùng với quận Kiên Long thuộc tỉnh Kiên Giang của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm 1965, giao huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cho tỉnh An Giang quản lý. Đến năm 1967 lại trả hai huyện Hà Tiên và Phú Quốc về cho tỉnh Rạch Giá như trước. Tuy nhiên, năm 1971 khi Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước đó thì huyện Hà Tiên, huyện Phú Quốc cùng với huyện Châu Thành A của tỉnh Rạch Giá lại được giao về cho tỉnh Châu Hà quản lý. Đến năm 1974 ba huyện này lại cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Sau khi đã bàn giao huyện Châu Thành A về cho tỉnh Châu Hà và sau đó là tỉnh Long Châu Hà quản lý, huyện Châu Thành B cũng được đổi tên lại thành huyện Châu Thành thuộc tỉnh Rạch Giá như cũ. Từ đó cho đến năm 1976, tỉnh Rạch Giá còn lại thị xã Rạch Giá và các huyện: Châu Thành, Gò Quao, Giồng Riềng, An Biên, Tân Hiệp, Vĩnh Thuận.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Rạch Giá như trước đó cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, địa bàn tỉnh Rạch Giá sẽ được chia ra vào sáp nhập vào các tỉnh mới, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Cụ thể như sau:
Tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Phần còn lại của tỉnh Rạch Giá cùng với toàn bộ diện tích tỉnh Long Châu Hà và huyện Thốt Nốt của tỉnh Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Rạch Giá cũ (bao gồm cả ba huyện Hà Tiên, Phú Quốc, Châu Thành A hiện cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà nhưng trước năm 1971 lại cũng đều thuộc tỉnh Rạch Giá) vẫn để thành một tỉnh riêng biệt.
Sau năm 1976
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định tái lập tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tỉnh Rạch Giá và ba huyện: Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc vốn thuộc tỉnh Long Châu Hà trước đó. Lúc này, huyện Châu Thành A bị giải thể và sáp nhập trở lại vào huyện Châu Thành như trước. Tỉnh Kiên Giang lúc đó gồm thị xã Rạch Giá và các huyện: Châu Thành, Tân Hiệp, Gò Quao, Giồng Riềng, An Biên, Vĩnh Thuận, Hà Tiên và Phú Quốc. Tỉnh lỵ là thị xã Rạch Giá, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Kiên Giang.
Địa bàn tỉnh Rạch Giá cũ ngày nay tương ứng với các huyện Châu Thành, Tân Hiệp, Gò Quao, Giồng Riềng, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, Hòn Đất và Thành phố Rạch Giá cùng thuộc tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên, cũng có thời kỳ toàn bộ diện tích tỉnh Kiên Giang ngày nay đều thuộc tỉnh Rạch Giá, bao gồm cả các vùng Hà Tiên và Phú Quốc, tương ứng với thành phố Hà Tiên và các huyện Kiên Lương, Giang Thành, Kiên Hải và Phú Quốc ngày nay.
Hiện nay, địa danh "Rạch Giá" chỉ còn được dùng để chỉ Thành phố Rạch Giá, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Kiên Giang và là tỉnh lỵ của tỉnh Kiên Giang.
Phân chia hành chính
Năm 1897
Toàn tỉnh Rạch Giá được chia thành 4 tổng:
Tổng Giang Ninh có 15 làng: An Bình, An Lợi, Áp Lục, Cao Môn, Hỏa Lựu, Hương Phù, Hương Thọ, Phương Lang, Lộc Ninh, Lương Tâm, Thủy Liễu, Vị Thủy, Xà Phiên, Thuận An, Vị Thanh
Tổng Kiên Định 11 làng: An Hòa, Hòa Thuận, Lại Sơn, Long Thạnh, Tân Hội, Ngọc Hòa, Thạnh Hòa, Hòa Hưng, Vĩnh An, Vĩnh Hòa Đông, Vĩnh Thạnh
Tổng Kiên Hảo 24 làng: Bàn Thạch, Bình Kha, Cù Hóa, Đồng Đăng, Giục Tượng, Hóa Quảng, Lạc Thổ, Mỹ Lâm, Tham Định, Thanh Gia, Thanh Lang, Thiệp Ngạc, Minh Lương, Mỹ Phú, Mong Thọ, Ngọc Chúc, Ngọc Giải, Phi Kinh, Phong Hóa, Sóc Sơn, Thổ Sơn, Thông Chữ, Tuy Đằng, Vĩnh Niên
Tổng Thanh Giang 19 làng: Đông Tặc, Đông Thái, Tây Tặc, Thới An, Vân Khánh Đông, Vĩnh Hòa, Long Mỹ, Long Phú, Thuận Hòa, Vĩnh Hưng, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phước, Vĩnh Quới, Vĩnh Thuận, Vĩnh Thuận Đông, Vĩnh Tuy, Vĩnh Hòa Hưng, Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Tường
Năm 1939
Tỉnh Rạch Giá có 6 quận:
1. Quận Châu Thành có 2 tổng với 17 làng:
Tổng Kiên Hảo có 8 làng: An Hòa, Lại Sơn, Mỹ Lâm, Sóc Sơn, Tân Hội, Thổ Sơn, Phi Thông Vĩnh, Thanh Vân
Tổng Kiến Tường có 9 làng Bình An, Bàn Tân Định, Giục Tượng, Mong Thọ, Minh Lương, Hòa Thạnh Lợi, Tân Hiệp, Vĩnh Hòa Hiệp
2. Quận Long Mỹ có 3 tổng với 17 làng:
Tổng An Ninh có 6 làng: Hòa An, Hỏa Lựu, Long Bình, Vị Thủy, Vĩnh Thuận Đông, Vĩnh Tường
Tổng Thanh Tuyền gồm 5 làng: Lương Tâm, Thuận Hưng, Vĩnh Tuy, Vĩnh Viễn, Xà Phiên
Tổng Thanh Giang có 6 làng: An Lợi, Long Phú, Phương Bình, Phương Phú, Tân Long, Long Trị
3. Quận Phước Long có 2 tổng với 15 làng:
Tổng Thanh Bình có 8 làng: Hương Phú, Mỹ Quới, Ninh Hòa, Ninh Quới, Vĩnh Hưng, Vĩnh Lợi, Vĩnh Phú, Vĩnh Quới
Tổng Thanh Yên có 7 làng: Lộc Ninh, Ninh Thạnh Lợi, Phước Long, Vĩnh Bình, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phong, Vĩnh Thuận
4. Quận Gò Quao có 1 tổng Kiên Định với 9 làng: Định Hòa, Hòa Quản, Định An, Long Thạnh, Thới An, Thủy Liễu, Vĩnh Phước, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hòa Hưng
5. Quận An Biên có 1 tổng Thanh Biên với 7 làng: Đông Hòa, Đông Hưng, Đông Thạnh, Đông Thái, Đông Yên, Tân Yên, Vân Khánh
6. Quận Giồng Riềng có 1 tổng Giang Ninh với 8 làng: Hòa Hưng, Hòa Thuận, Ngọc Chúc, Ngọc Hòa, Thạnh Hòa, Thạnh Lợi, Thạnh Hưng, Vị Thanh
Chú thích
Tỉnh cũ Việt Nam
R |
Châu Đốc là một tỉnh của miền Nam Việt Nam cũ thuộc vùng IV, Việt Nam Cộng hòa.
Địa lý
Tỉnh Châu Đốc thời Pháp thuộc có vị trí địa lý:
Phía đông bắc tỉnh Tân An
Phía nam và đông nam giáp tỉnh Long Xuyên
Phía nam và tây nam giáp tỉnh Hà Tiên và tỉnh Rạch Giá
Phía bắc giáp Campuchia .
Lịch sử
Tỉnh Châu Đốc được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1900, tồn tại vào thời Pháp thuộc và bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể vào cuối năm 1956, tuy nhiên sau đó tỉnh Châu Đốc lại được chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập vào năm 1964 tỉnh lỵ là thị xã Châu Phú, tiếp tục tồn tại và bị mất tên gọi đơn vị hành chính cấp tỉnh từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho đến nay.
Thời Pháp thuộc
Châu Đốc nguyên là đất thuộc Chân Lạp, gọi là Tầm Phong Long (Kompong Long). Năm 1757, vua Chân Lạp dâng đất này cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn đặt đạo Châu Đốc nối liền với trấn Hà Tiên.
Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif) thì Châu Đốc là hạt tham biện thuộc khu vực hành chính Bát Xắc (Bassac), vốn là phần đất tỉnh An Giang xưa.
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Châu Đốc trở thành tỉnh Châu Đốc. Chủ tỉnh Châu Đốc đầu tiên là Doceul (1900 - 1902)
Lúc bấy giờ tỉnh Châu Đốc có 9 chợ là:
Châu Phú: Ngay tại Châu Đốc, làng Châu Phú, tổng Châu Phú
Tịnh Biên: Làng An Thạnh, tổng Quy Đức
Chợ Kinh: Ngay tại Tân Châu, làng Long Phú, tổng Tân Thạnh
Cái Dầu: Làng Bình Long, tổng An Lương
Trà Dư: Làng Thường Thới, tổng An Phước
Hồng Ngự: Làng Thường Lạc, tổng An Phước
Cây Mít: Làng Nhơn Hòa, tổng Quy Đức
Phú An: Làng Phú An, tổng An Thành
Xoài Tôn: Làng Hưng Nhượng, tổng Thành Tín.
Năm 1903, thời chủ tỉnh Lorin (1903 - 1904), tỉnh Châu Đốc có 3 quận: Tân Châu, Tri Tôn và Tịnh Biên. Đến năm 1919 có thêm quận Châu Phú và năm 1929 có thêm quận Hồng Ngự được tách từ tổng An Phước quận Tân Châu. Tỉnh lỵ đặt tại làng Châu Phú thuộc quận Châu Phú.
Từ năm 1913 đến năm 1924, tỉnh Hà Tiên bị giải thể, trở thành một quận thuộc tỉnh Châu Đốc. Sau đó, lại tách ra trở thành tỉnh Hà Tiên độc lập như trước.
Năm 1939, tỉnh Châu Đốc có 5 quận: Châu Thành, Tân Châu, Hồng Ngự, Tịnh Biên, Tri Tôn. Trong đó, quận Châu Thành được thành lập năm 1917, đến năm 1919 thì đổi tên là quận Châu Phú. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ.
Địa bàn tỉnh thời điểm này tương ứng với toàn bộ các huyện thị Phú Tân, Châu Phú (trừ xã Bình Thủy), An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, 2/3 diện tích đất huyện Tri Tôn và thành phố Châu Đốc của Tỉnh An Giang; một phần nhỏ đất huyện Giang Thành của tỉnh Kiên Giang; các huyện Hồng Ngự, Tân Hồng và thành phố Hồng Ngự, một phần nhỏ đất huyện Tam Nông, khu vực cù lao Tây của huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp ngày nay.
Giai đoạn 1945-1954
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Lúc bấy giờ, Châu Đốc là một trong 21 tỉnh ở Nam Bộ.
Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu như sau:
Tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 huyện: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò.
Tỉnh Long Châu Hậu nằm ở phía bờ phải (hữu ngạn) sông Hậu và có 6 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn, Châu Phú A và Châu Thành (bao gồm 2 tỉnh lỵ Long Xuyên và Châu Đốc).
Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, huyện Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 huyện mới là Phú Châu và Tân Châu.
Năm 1949, chính quyền Việt Minh giao huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Cần Thơ, đến năm 1954 lại trả huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Long Xuyên quản lý trở lại như trước.
Tháng 10 năm 1950 tỉnh Long Châu Hậu hợp nhất với tỉnh Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà, gồm 8 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại Sơn, Thốt Nốt, Giang Châu (hợp nhất hai huyện Giang Thành và Châu Thành của tỉnh Hà Tiên cũ), Phú Quốc.
Năm 1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa. Tháng 6 năm 1951, tỉnh Long Châu Tiền hợp nhất với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa, gồm 7 huyện: Châu Thành (của tỉnh Sa Đéc cũ), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Trong đó, hai huyện Tân Hồng và Tân Châu vốn là hai huyện Hồng Ngự và Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền trước đó. Tháng 7 năm 1951, hợp nhất 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên thành huyện Tịnh Biên; hợp nhất 2 huyện Châu Thành và Thoại Sơn thành huyện Châu Thành.
Tuy nhiên, tên các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Hậu, Long Châu Sa và Long Châu Hà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận.
Năm 1954, chính quyền Việt Minh giải thể các tỉnh Long Châu Sa, Long Châu Hà, đồng thời khôi phục lại tỉnh Châu Đốc, tỉnh Long Xuyên, tỉnh Sa Đéc và tỉnh Hà Tiên như cũ.
Giai đoạn 1954-1975
Việt Nam Cộng hòa
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Châu Đốc như thời Pháp thuộc.
Năm 1955 tỉnh Châu Đốc có 5 quận: Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự với 70 xã.
Ngày 17 tháng 2 năm 1956, Việt Nam Cộng hòa tách quận Hồng Ngự ra khỏi tỉnh Châu Đốc để nhập vào tỉnh Phong Thạnh mới thành lập (sau đó lại đổi tên thành tỉnh Kiến Phong). Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh An Giang trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên trước đó. Cũng sau năm 1956, các làng gọi là xã.
Lúc này ở vùng đất cả hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc trước đó đều có quận Châu Thành cả. Tuy nhiên, do tỉnh lỵ tỉnh An Giang có tên là "Long Xuyên" và được đặt ở quận Châu Thành thuộc tỉnh Long Xuyên cũ, cho nên quận Châu Thành thuộc tỉnh Châu Đốc cũ được đổi tên là quận Châu Phú như ở giai đoạn 1919-1939.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 246/NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Châu Đốc trên cơ sở các quận Châu Phú, Tân Châu, An Phú, Tri Tôn và Tịnh Biên cùng thuộc tỉnh An Giang trước đó. Tỉnh Châu Đốc khi đó bao gồm 5 quận:
Quận Châu Phú: gồm 14 xã, quận lỵ đặt tại xã Châu Phú
Quận Tân Châu: gồm 8 xã, quận lỵ đặt tại xã Long Phú
Quận Tri Tôn: gồm 15 xã, quận lỵ đặt tại xã Tri Tôn
Quận Tịnh Biên: gồm 8 xã, quận lỵ đặt tại xã An Phú
Quận An Phú (được thành lập vào năm 1957): gồm 13 xã, quận lỵ đặt tại xã Phước Hưng.
Tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc khi đó lại có tên là "Châu Phú", do nằm trong địa bàn xã Châu Phú, quận Châu Phú.
Địa bàn tỉnh thời điểm này tương ứng với toàn bộ các huyện thị Phú Tân, Châu Phú (trừ xã Bình Thủy), An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, 2/3 diện tích đất huyện Tri Tôn và thành phố Châu Đốc của Tỉnh An Giang, một phần huyện Giang Thành của tỉnh Kiên Giang ngày nay.
Sau năm 1975
Chính quyền Cách mạng
Năm 1957, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng giải thể và sáp nhập hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc với nhau để thành lập một tỉnh mới, vẫn lấy tên là tỉnh An Giang như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện vào năm 1956.
Trong giai đoạn 1964-1971, địa bàn tỉnh Châu Đốc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh An Giang của chính quyền Cách mạng quản lý.
Năm 1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước năm 1956. Đến tháng 5 năm 1974 chính quyền Cách mạng lại giải thể tỉnh An Giang, tái lập các tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Tiền bao gồm cả một phần vùng đất tỉnh Long Xuyên trước năm 1956.
Tỉnh Long Châu Tiền gồm 6 huyện, thị: thị xã Tân Châu, An Phú, Phú Tân A, Phú Tân B, Hồng Ngự và Tam Nông (nay là huyện Thanh Bình tỉnh Đồng Tháp).
Tỉnh Long Châu Hà mới gồm 8 huyện: Châu Thành X, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Huệ Đức, Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc và 2 thị xã Long Xuyên và Châu Đốc.
Tuy nhiên, tên các tỉnh Châu Hà, Long Châu Hà và Long Châu Tiền cũng không được chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận, mà thay vào đó vẫn sử dụng tên tỉnh Châu Đốc cho đến năm 1975.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì các tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Tiền như trước đó cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, địa bàn các tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Tiền sẽ được chia ra vào sáp nhập vào các tỉnh mới, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Cụ thể như sau:
Tỉnh Rạch Giá (ngoại trừ 2 huyện Vĩnh Thuận và An Biên) cùng với toàn bộ diện tích tỉnh Long Châu Hà và huyện Thốt Nốt của tỉnh Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Tỉnh Long Châu Tiền, tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Tường sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó chỉ hợp nhất một phần các tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hà trước đó lại thành một tỉnh mới. Địa bàn tỉnh mới này sẽ tương ứng với tỉnh Châu Đốc và tỉnh An Giang thời Việt Nam Cộng hòa, ngoại trừ huyện Thốt Nốt.
Sau năm 1975
Sau năm 1975, tỉnh Châu Đốc bị giải thể, sáp nhập vào tỉnh An Giang theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Địa bàn tỉnh Châu Đốc cũ ngày nay tương ứng với các huyện Châu Phú, An Phú, thị xã Tịnh Biên, Phú Tân, thành phố Châu Đốc, thị xã Tân Châu ; phần lớn huyện Tri Tôn của tỉnh An Giang ; một phần huyện Giang Thành của tỉnh Kiên Giang. Nếu kể luôn thời điểm trước năm 1956 thì tỉnh Châu Đốc bao gồm thêm thị xã Hồng Ngự và các huyện Hồng Ngự, Tân Hồng; một phần các huyện Tam Nông, Thanh Bình cùng thuộc tỉnh Đồng Tháp; các quận huyện Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt; một phần huyện Cờ Đỏ của thành phố Cần Thơ.
Hiện nay, địa danh "Châu Đốc" chỉ còn được dùng để chỉ thành phố Châu Đốc, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh An Giang.
Phân chia hành chính
Năm 1901
Tổng Thành Tín (誠信, nguyên là các làng nằm dọc hai bờ kinh Vĩnh Tế thuộc huyện Hà Dương và phần còn lại của huyện Hà Âm) gồm 5 làng: Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc, Vĩnh Quới, Hưng Nhượng.
Tổng Quy Đức (nguyên là các làng dọc bờ nam kinh Vĩnh Tế trước thuộc huyện Hà Dương) gồm 5 làng: An Nông, An Thạnh, Phú Thạnh, Nhơn Hòa, Thới Sơn.
Tổng Thành Ý (nguyên là đất huyện Hà Dương) gồm 8 làng: Tà Đảnh, Thuyết Nạp, Trát Quan, Tu Tế, Văn Giáo, Vĩnh Trung, Xuân Tô, An Cư.
Tổng Thành Ngãi (nguyên là đất thuộc huyện Hà Dương) gồm 8 làng: Ba Chút, Bích Trì, Bôn Ca, Châu Lăng, Lê Huất, Lương Đô, Phi Yên, Trầm Văn.
Tổng Thành Lễ (誠禮, nguyên là đất huyện Hà Dương) gồm 6 làng: An Tức, Đôn Hậu, Giai Âm, Nam Qui, Phi Cấm, Tri Tôn.
Tổng Thành Tâm (nguyên là đất huyện Hà Dương) gồm 4 làng: Cô Tô, Nam Chỉ, Ngôn Nạp, Ô Lâm.
Tổng Châu Phú (nguyên là đất huyện Tây Xuyên) gồm 21 làng: Châu Phú, Khánh An, Khánh Bình, Khánh Hội, Nhơn Hội, Phú Hội, Vĩnh Hội; Vĩnh Hội Đông, Vĩnh Khánh, Vĩnh Tế, Vĩnh Nguơn, Vĩnh Trường, Vĩnh Hưng, Phước Hưng, Đa Phước, Mỹ Đức, Kacoi, Kacoki, Lama, Sbâu, Hà Bao.
Tổng An Lương (nguyên là đất các huyện Tây Xuyên và Đông Xuyên) gồm 18 làng: Bình Long, Bình Mỹ, Bình Thạnh Đông, Hòa Hảo, Hòa Lạc, Khánh Hòa, Vĩnh Hậu, Vĩnh Lộc, Vĩnh Phong, Vĩnh Thạnh Trung, Thạnh Mỹ Tây, Phú Hữu, Hưng Nhơn, Hiệp Xương, Đồng Đức, Châu Giang, Phum Soài, Katambong.
Tổng An Thành (nguyên là đất huyện Đông Xuyên) gồm 12 làng: Long Khánh, Long Sơn, Long Thuận, Long Phú, Phú Thuận, Phú Lâm, Phú Hội Đại, Phú An, Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương, Vĩnh Xuyên.
Tổng An Phước (nguyên là đất tỉnh Định Tường và một phần huyện Đông Xuyên) gồm 12 làng: An Long, An Bình, Bình Thạnh, Bình Phú, Tân Long, Tân Hội, Tân Huề, Tân Quới, Tân Thành, Thường Lạc, Thường Phước, Thường Thới.
Năm 1939
Quận Châu Thành có 3 tổng:
Tổng An Lương gồm 10 làng: Bình Long, Bình Mỹ, Bình Thạnh Đông, Hiệp Xương, Hòa Lạc, Hưng Nhơn, Katambong, Khánh Hòa, Thạnh Mỹ Tây, Vĩnh Thạnh Trung
Tổng An Phú gồm 11 làng: Kacoki, Tân Hội, Khánh An, Khánh Bình, Nhơn Hội, Phú Hữu, Phum Soài, Vĩnh Lộc, Phước Hưng, Phú Hội, Vĩnh Hội Đông
Tổng Châu Phú gồm 10 làng: Châu Phú, Đa Phước, Hà Bao, Mỹ Đức, Châu Giang, Vĩnh Phong, Vĩnh Tế, Vĩnh Nguơn, Vĩnh Hậu, Vĩnh Trường.
Quận Tân Châu có 2 tổng:
Tổng An Lạc gồm 3 làng: Hòa Hảo, Phú An, Phú Lâm
Tổng An Thạnh gồm 8 làng: Long Khánh, Long Phú, Long Sơn, Long Thuận, Phú Thuận, Tân An, Vĩnh Hòa, Phú Vĩnh.
Quận Hồng Ngự có 2 tổng:
Tổng Cù Lao Tây gồm 3 làng: Tân Huề, Tân Long, Tân Qưới
Tổng An Phước gồm 8 làng: An Bình, An Long, Bình Thạnh, Tân Hội, Tân Thành, Thường Lạc, Thường Phước, Thường Thới.
Quận Tịnh Biên có 3 tổng:
Tổng Quy Đức gồm 4 làng: An Nông, An Phú, Thới Sơn, Nhơn Hưng
Tổng Thành Tín gồm 2 làng: Vĩnh Gia, Lạc Qưới
Tổng Thành Ý gồm 5 làng: Thuyết Nạp, Văn Giáo, Vĩnh Trung, Xuân Tô, Yên Cư.
Quận Tri Tôn có 3 tổng:
Tổng Thành Ngãi gồm 5 làng: Ba Chút, Bồn Tai, Châu Lang, Lê Huất, Lương Phi
Tổng Thành Tâm gồm 2 làng: Cô Tô, Ô Lâm
Tổng Thành Ý gồm 3 làng: Tà Đảnh, Trác Quan, Tú Tề.
Năm 1970
Quận An Phú gồm 11 xã: Đa Phước, Khánh An, Khánh Bình, Nhơn Hội, Phú Hội, Phú Hữu, Phước Hưng, Vĩnh Hậu, Vĩnh Hội Đông, Vĩnh Lộc, Vĩnh Tường.
Quận Châu Phú gồm 15 xã: Bình Long, Bình Mỹ, Bình Thạnh Đông, Châu Giang, Châu Phong, Châu Phú, Hiệp Xương, Hòa Lạc, Hưng Nhơn, Khánh Hòa, Mỹ Đức, Thạnh Mỹ Tây, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Thạnh Trung.
Quận Tân Châu gồm 9 xã: Hòa Hảo, Long Phú, Long Sơn, Phú An, Phú Lâm, Phú Vinh, Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương.
Quận Tịnh Biên gồm 10 xã: An Nông, An Phú, Ba Chúc, Lạc Qưới, Nhơn Hưng, Tân Khánh Hòa, Thới Sơn, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Xuân Tô.
Quận Tri Tôn gồm 12 xã: An Cư, An Hảo, An Lạc, An Túc, Cô Tô, Lệ Tri, Lương Phi, Ô Lâm, Tri Tôn, Tú Tề, Văn Giáo, Vĩnh Trung.
Chú thích
Tỉnh cũ Việt Nam
Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc
Hành chính Việt Nam Cộng hòa
Hành chính An Giang
Đồng bằng sông Cửu Long |
Câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa là câu lạc bộ bóng đá tại Việt Nam có trụ sở ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, từng thi đấu tại giải vô địch chuyên nghiệp quốc gia Việt Nam V-League. Thành tích tốt nhất của Câu lạc bộ là xếp thứ 4 mùa giải 2010. Cuối năm 2012, đơn vị chủ quản của câu lạc bộ là Tổng công ty Khánh Việt tuyên bố không tiếp tục duy trì đội hình thi đấu chuyên nghiệp do không đủ khả năng tài chính. Toàn bộ ban huấn luyện và đội hình chuyên nghiệp cùng suất thi đấu tại 2013 sẽ được chuyển giao cho Vicem Hải Phòng.
Lịch sử
Tiền thân của đội là Đội bóng đá Phú Khánh, thành lập vào năm 1976. Là đội bóng nghiệp dư đại diện cho tỉnh Phú Khánh, đội bắt đầu tham gia Giải vô địch bóng đá Việt Nam từ năm 1980 và nhiều năm liền đạt thành tích tốt. Tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 1987, đội lọt vào vòng bán kết và đạt hạng 4.
Kết thúc Giải phân hạng 1989, đội được xếp vào thi đấu ở Giải A1. Cũng trong năm đó, tỉnh Phú Khánh tách ra thành 2 tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên, đội được chuyển về cho tỉnh Khánh Hòa quản lý với tên gọi Đội bóng đá Khánh Hòa. Tại mùa giải 1991, đội đã thi đấu thành công, giành được suất thăng hạng. Tuy nhiên, đội không duy trì được phong độ khi vào mùa giải năm 1992, và phải chấp nhận xuống thi đấu trở lại ở Giải A1.
Đội trở lại thi đấu ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 1995 và duy trì được vị trí ở các mùa giải sau đó.
Tại Giải vô địch quốc gia chuyên nghiệp lần đầu tiên mùa bóng năm 2000-01, đội có thành tích tệ nhất giải khi thi đấu 18 trận, chỉ có 7 điểm gồm: 1 trận thắng, 4 trận hòa và 13 trận thua, ghi được 15 bàn thắng và để thủng lưới 36 bàn. Nhưng 15 bàn thắng đó, Đặng Đạo đã chiếm số bàn thắng hơn 1/2 số bàn thắng mà đội ghi được. Kết quả tồi tệ này còn ảnh hưởng tại Giải hạng Nhất mùa bóng 2001-2002. Do bị khủng hoảng cầu thủ, đội có một kết quả thi đấu tồi và nhận kết quả phải xuống thi đấu ở giải hạng Nhì năm sau.
Mùa bóng năm 2004, dưới sự tài trợ của Tổng công ty Khánh Việt của ông bầu Nguyễn Xuân Hoàng, đội thi đấu khá thành công và giành được chức vô địch Giải hạng Nhì, giành được suất thi đấu ở Giải hạng Nhất.
Ngày 1 tháng 11 năm 2004, đội chính thức chuyển sang mô hình câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp khi Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa chính thức bàn giao đội bóng cho Tổng Công ty Khánh Việt quản lý với tên gọi mới là Câu lạc bộ bóng đá KHATOCO Khánh Hòa.
Tại giải hạng nhất 2005, đội thi đấu thành công với 41 điểm, trong đó có: 12 trận thắng, 5 trận hòa và 5 trận thua, giành được quyền thi đấu tại V-league. Dù đoạt chức vô địch Giải hạng Nhất, nhưng số trận thắng của đội còn ít hơn cả Tiền Giang.
Thành tích thi đấu ở giải chuyên nghiệp
Mùa bóng 2006: Hạng 6 và đoạt giải phong cách.
Mùa bóng 2007: Hạng 10.
Mùa bóng 2008: Hạng 6.
Mùa bóng 2009: Hạng 8.
Mùa bóng 2010: CLB đứng thứ 4 với 13 trận thắng, 4 trận hòa và 9 trận thua, ghi được 42 bàn thắng và để thủng lưới 42 bàn, đáng chú ý hơn là kể từ sau khi nghỉ World Cup 2010, CLB đã lột xác, sau khi thắng nhà đương kim vô địch là SHB Đà Nẵng với tỉ số 4-1, hòa TĐCS Đồng Tháp trên sân vận động Cao Lãnh với tỉ số 1-1. Sau đó thắng Sông Lam Nghệ An với tỉ số 4-2 trên sân vận động Vinh, rồi đè bẹp cựu vô địch Becamex Bình Dương trên sân nhà với tỉ số 5-1. Chuỗi trận ấn tượng đó bị cắt bởi Lam Sơn Thanh Hóa khi bại trận trên Sân vận động Thanh Hóa với tỉ số 2-3. Ở vòng đấu cuối, nếu không chơi chủ quan trước một Hòa Phát Hà Nội đã chắc chắn trụ hạng, Khánh Hòa đã đứng thứ 3.
Mùa bóng 2011: CLB xếp thứ 11 chung cuộc, ghi 28 bàn thắng để lọt lưới 34 bàn, giành được 32 điểm và được trụ hạng.
Trong suốt 7 năm thi đấu với mô hình bán chuyên nghiệp, đầu tháng 12 năm 2011, đề án thành lập Công ty Cổ phần Bóng đá Khánh Hòa đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa thông qua, chuyển đổi hoàn toàn Câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa từ mô hình bán chuyên nghiệp sang mô hình chuyên nghiệp.
Tuy nhiên, sau khi kết thúc mùa giải 2012, do những khó khăn tài chính, các lãnh đạo Câu lạc bộ đã quyết định bán lại suất dự V-League 2013 cho Vicem Hải Phòng, cùng với nhiều cầu thủ của đội hình 1, chỉ giữ lại vài trụ cột cùng ban huấn luyện để bổ sung cho đội hình 2. Các lãnh đội cũng quyết định rút lui không thi đầu tại giải hạng nhất mùa giải 2013 và dự kiến ngày 31 tháng 3 năm 2013, Tổng công ty Khánh Việt sẽ bàn giao đội bóng cho Sở Văn hóa -Thể thao-Du lịch Khánh Hòa quản lý.
Thành tích
V League: 0
Giải phong cách (1): 2006
Giải hạng nhất: 1
Vô địch (1): 2005
Giải vô địch bóng đá U21 Việt Nam:
Vô địch (1): 2007
Hạng 3 (1): 2008
Giải vô địch bóng đá U19 Việt Nam:Hạng nhì (1): Năm 2006
KTV Cup:1 lần2005 Giải vô địch bóng đá hạng nhì Việt Nam: 1Vô địch (1): 2004
Sân vận động
Sân nhà của đội bóng là Sân vận động 19 tháng 8 còn có tên khác là Sân vận động Nha Trang''' ở thành phố Nha Trang, có sức chứa khoảng 18000 khán giả.
Đội hình 2005
Thành viên nổi bật
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất
Cầu thủ đoạt giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất khi đang chơi cho Khatoco Khánh Hòa:
Lê Tấn Tài 1985 – 2005
Nguyễn Hải Hưởng 1981 - 2003
Vua phá lưới
Cầu thủ đoạt giải Vua phá lưới khi đang chơi cho Khánh Hòa:
Đặng Đạo – 2000-01 (11 bàn)
Huấn luyện viên
Alfred Riedl (2001)
Trần Bình Sự (2002)
Nguyễn Hồng Quang (2001,2002)
David Booth (2005)
Dương Quang Hổ (2000,2005)
Nguyễn Ngọc Hảo (2006)
Lê Hữu Tường (tháng 11 năm 2006 - tháng 8 năm 2007)
Hoàng Anh Tuấn (tháng 8 năm 2007 - tháng 12 năm 2012)
Thành tích từ khi V-League thành lập |
Ngọc bích có thể chỉ đến một trong các loại đá quý sau:
Ngọc thạch
Ngọc lục bảo
hoặc:
Màu ngọc bích
hoặc chỉ tên người Việt Nam:
Nguyễn Ngọc Bích |
UnlimiteD là một ban nhạc heavy metal người Việt Nam được thành lập vào năm 2003. Nhóm từng giành chiến thắng tại cuộc thi "Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc (Superband 2007)" cũng như tham dự các kì Rock Storm năm 2007 và 2012. Album đầu tay của nhóm mang tên Tái sinh được phát hành vào ngày 23 tháng 11 năm 2007. Nhóm đã giành được ba đề cử giải Âm nhạc Cống hiến cho Album của năm (với Tái sinh), Ca sĩ của năm và Chương trình của năm ("Unlimited Symphony").
Lịch sử hoạt động
Tháng 6 năm 2003, UnlimiteD chính thức thành lập với các thành viên Minh Phương, Hoài Phong, Tiến Mẫn, Thái Sơn, Viết Thanh bằng Show rock do RFC tổ chức. Tới tháng 12 năm 2003, Minh Phương đã giới thiệu Keyboard cho band là Minh Quân. Bắt đầu từ đó, UnlimiteD đã xác định rõ lối đi và dòng nhạc mình sẽ theo đuổi. Từ thời gian này, UnlimiteD xuất hiện đều đặn tại các show rock do RFC tổ chức và thường xuyên chơi nhạc tại các quán bar và các show tại thành phố. Tháng 7 năm 2004, UnlimiteD đã chính thức phát hành Video clip: Lời nguyền của cái Bóng, do Songnamfilms thực hiện với sự giúp đỡ của Viettanstudio. Đây thực sự là bước tiến dài của ban nhạc. Cảnh quay được thực hiện tại rừng cao su. Tới năm 2005, một lần nữa UnlimiteD lại phát hành tiếp Video clip: Final Countdown, với sự giúp đỡ của hãng bia Foster. Cuối năm 2005, UnlimiteD tiếp tục giới thiệu clip thứ 3: Mộ Gió. Đây là clip thứ 3 UnlimiteD kết hợp cùng Songnamfilms phát hành. Khoảng giữa năm 2006, Minh Quân đã chính thức chia tay ban nhạc, kế đó là tay guitar Thái Sơn.
Năm 2007 là một năm đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử ban nhạc. Đầu năm 2007, UnlimtieD thay đổi thành viên Tuyên Đức (Bi) và Bá Lộc, 2 guitar vào thay thế vị trí của Tiến Mẫn và Thái Sơn, tập luyện và sau cùng gặt hái thành công với giải thưởng ban nhạc xuất sắc nhất trong "Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc (Superband 2007)". Ngày 13 tháng 5 năm 2007, nhóm trình diễn cùng nghệ sĩ rock nổi tiếng của Ý là Piero Pelu, bên cạnh thủ lĩnh Trần Lập của Bức Tường và ban nhạc Microwave tại đêm nhạc "Piero Pelu’Live in Vietnam". Ngày 23 tháng 11 cùng năm, ban nhạc phát hành album đầu tay mang tên Tái sinh với thể loại power metal. Đây cũng là album nhạc rock đầu tiên được thu âm tại phòng thu nhạc Viết Tân. Tựa của album ban đầu là Mộ gió. Album đã nhận được đề cử cho Album của năm tại lễ trao giải Âm nhạc Cống hiến 2007 do báo Thể thao & Văn hóa tổ chức. Tháng 12 năm 2007, UnlimiteD tham dự cuộc thi Tiger translate your rocker với hơn 40 ban nhạc trong cả nước tham dự và đoạt được giải ban nhạc được yêu thích nhất. Ban nhạc còn đem ca khúc "Mộ gió" tới dự thi Bài hát Việt" và được ban tổ chức phê duyệt.
Đầu năm 2008, họ tham gia Rock Storm tại các sân vận động Phú Thọ (Thành phố Hồ Chí Minh) và Cần Thơ. Và tiếp theo là tham gia show Unite08 cùng ban nhạc My Chemical Romance tại sân vận động Quân khu 7. Ngày 9 tháng 8 năm 2008, UnlimiteD tổ chức đêm nhạc giao hưởng mang tên "Unlimited Symphony", với sự hòa tấu của Dàn nhạc giao hưởng Thành phố Hồ Chí Minh tại Nhà thi đấu Nguyễn Du, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây được xem là chương trình nhạc rock kết hợp nhạc giao hưởng đầu tiên được tổ chức ở khu vực Đông Nam Á. Màn biểu diễn của ban nhạc được đánh giá là tốt, nhưng chất lượng âm thanh của đêm nhạc thì lại tệ. Dẫu vậy, chương trình đã nhận được đề cử giải Cống hiến cho Chương trình của năm.
Tháng 4 năm 2011, ban nhạc có mặt tại show "X211" được tổ chức Sân vận động Bách khoa, Hà Nội, bên cạnh nhóm Oringchains. Dù có mặt tại nhạc hội Rock Storm do Mobifone tổ chức vào năm 2007, song mãi đến năm 2012, nhóm mới tái ngộ khán giả ở nhạc hội này với buổi diễn ở Hải Phòng.
Phong cách nghệ thuật
Nhạc của UnlimiteD được phân vào thể loại melodic death metal, progressive metal và power metal. Nhóm từng được trang MTV Việt Nam xếp thứ hai trong danh sách "Top 10 ban nhạc rock nổi tiếng Việt Nam". Trang chủ của nhạc hội Rock Storm ca ngợi bản phối trường ca "Hòn vọng phu" của nhóm, ví đây "có thể gọi là đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam. UnlimiteD đã dũng cảm phối lại theo phong cách power metal của mình. Âm giai ngũ cung của Việt Nam trong ca khúc được biến tấu và giao phần hồn cho cây guitar điện và các nhạc cụ mới đảm nhiệm, đầy ngẫu hứng nhưng không phá hỏng kết cấu của bài hát." Báo An ninh Thủ đô nhận định về album đầu tay Tái Sinh của nhóm là "một album rock Việt được đầu tư khá công phu và chất lượng về mặt thiết kế cũng như phần hòa âm phối khí... Đặc biệt, UnlimiteD đã tạo một hướng khai thác mới khi cover lại ca khúc "Nối vòng tay lớn" của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bằng chất rock mạnh mẽ và hùng tráng. Hai ca khúc nước ngoài được UnlimiteD cover lại là "Wings of Destiny" (Rhapsody) và "Final countdown" (Europe) cũng có mặt trong album."
Thành tựu
Giải Âm nhạc Cống hiến
Danh sách đĩa nhạc
Tái sinh (2007)
DVD UnlimiteD symphony (8 tháng 6 năm 2009)
Unlimited Giáng sinh (24 tháng 12 năm 2013)
Bài hát
"Mộ gió" (2005).
"Lời nguyền của cái bóng" (2003).
Luân hồi (2005).
Unlimited jam (2004)
Nối vòng tay lớn (cover-2007).
Sự sống.
Sự cứu chuộc.
Tái sinh.
Linh hồn vẫn tồn tại.
Con đường ánh sáng.
She's gone (cover Steel Heart).
The Final Countdown (cover Europe).
Wings of destiny (cover Rhapsody).
Joy to the world.
Hòn Vọng Phu (cover 2008)
We Wish You A Merry Christmas (cover 2013)
Christmas Canon
Little Drummer Boy
Chờ Người Nơi Ấy
Feliz Navidad
Phantom Of The Opera
Video âm nhạc
Lời nguyền của cái bóng - Songnamfilms.
Mộ gió - Songnamfilms.
Sự cứu chuộc - Songnamfilms.
Sự sống - HKFilms.
Tái sinh - HKFilms.
Nối vòng tay lớn - HKFilms.
The final countdown - SongNam Films
Thành viên
Thành viên hiện tại
Viết Thanh (Bo) - hát chính (trưởng nhóm).
Dương Đình Tuyên Đức (Bi) - Guitar
Dương Hoài Phong - trống.
Lâm Minh Phương - bass, hát bè.
Nguyễn Phúc Minh Quân - keyboard, hát bè
Lâm Bá Lộc - Guitar
Thành viên cũ
Tuấn Billy - Keyboard.
Nguyễn Tiến Hưng (Hung Blackhearted) - Keyboard.
Nguyễn Tiến Mẫn (Tiger Nguyen) - Guitar.
Đặng Thái Sơn - Guitar, hát bè.
Chú thích
Ban nhạc rock Việt Nam
Nhóm nhạc thành lập năm 2001
Khởi đầu năm 2001 ở Việt Nam
Nhóm nhạc từ thành phố Hồ Chí Minh
Nhóm nhạc heavy metal người Việt Nam |
Blue có thể chỉ đến:
Màu xanh dương
Âm nhạc
Bài hát Blue của The Seatbelts, trong album Blue của họ
Bài hát Blue (Da Ba Dee) của Eiffel 65, trong album Europop
Bài hát Blue (The Verve) của ban nhạc The Verve, 1993
Bài hát Blue (Joni Mitchell) của Joni Mitchell, 1971
Bài hát Blue (Down By Law) của ban nhạc Down By Law, 1991
Bài hát Blue (LeAnn Rimes của LeAnn Rime, trong album có cùng tên, 1996
Album Blue (Third Eye Blind) của ban nhạc Third Eye Blind, 1999
Bài hát Blue (Lucinda Williams) của Lucinda Williams trong album Essence, 2001
Album Blue (Flashlight Brown) của ban nhạc Flashlight Brown, 2006
Blue (ban nhạc 2001), một ban nhạc pop Anh
Blue (ban nhạc 1973), một ban nhạc pop Scotland
Blue (song ca), gồm Dean Collinson và Brian Teasdale
Và cần phân biệt với
Nhạc blues, một loại nhạc có gốc đến từ dân nô lệ da đen của Hoa Kỳ
Phim và sách
Tạp chí Blue, một tạp chí dành cho các người đồng tính nam tại Úc
Tạp chí Blue, một tạp chí viết về du lịch
Tạp chí Blue Blood, một tạp chí văn học về tình dục
Phim Blue của đạo diễn Derek Jarman
Tên tiếng Anh của phim Trois Couleurs: Bleu, phim đầu tiên của bộ Trois Couleurs của đạo diễn Krzysztof Kieślowski
Phim Blue của đạo diễn Ando Hiroshi
Phim Blue Crush, 2002
Phim Blue của đạo diễn Jennifer Champagne
Sách hoạt hình Blue của Nananan Kiriko
Blue (Wolf's Rain), một nhân vật trong phim hoạt hình anime Wolf's Rain
Blue (Pokémon), một nhân vật trong trò chơi video Pokémon
Tên người
Ben Blue, một diễn viên người Canada
Lionel Blue, một phát ngôn viên radio người Anh
Vida Blue, một cầu thủ bóng chày
Billy Blue, một người tội phạm người Úc nổi tiếng
Josh Blue, một người khôi hài |
Werner von Siemens (1816 - 1892) là người khai sinh ra tập đoàn kinh tế SIEMENS của Đức.
Siemens sinh ra trong một gia đình nghèo khó, gồm nhiều anh chị em. Mười ba nhân khẩu trong gia đình trông chờ vào mớ nông sản èo uột của cha mẹ. Cùng với chị cả, ngay từ nhỏ Siemens phải nai lưng ra làm lao động với gia đình. Nhưng chính hoàn cảnh nghèo khó cùng với áp lực nặng nề của tinh thần đã trui rèn ông thành một người không sợ khó khăn, luôn sẵn sàng đương đầu với mọi bất trắc.
Cha Siemens là một người đàn ông giản dị nhưng độc đoán. Ông dạy dỗ con cái mình thông qua những hình thức xử phạt không thương tiếc. Nếu một đứa trẻ trong gia đình phạm lỗi, tất cả sẽ bị ăn đòn chung. Nhưng chính cách giáo dục này của người cha đã khiến ông trở nên có tinh thần trách nhiệm với gia đình
Năm Siemens lên năm tuổi, người chị cả mới lên tám đã phải đi học thêu kiếm tiền. Trên đường đi, cô thường bị một con ngỗng đực ở nhà một giáo sĩ tấn công. Người chị muốn bỏ học nhưng Siemens cầm chắc cây gậy mà nói: "Em sẽ đưa chị đi!". Siemens không hề sợ hãi, dùng gậy đánh con ngỗng bảo vệ chị mình. Câu chuyện đó trở thành gợi mở rất lớn đối với cuộc đời ông là đối diện với khó khăn thử thách.
Khi còn niên thiếu, đối với Siemens, việc học hỏi là tất cả. Dù nhà cách trường học hàng giờ đi bộ, mặc trời mưa gió, mặc cho mùa đông khắc nghiệt của nước Đức, ông vẫn thức khuya dậy sớm theo đuổi chương trình. Không những vậy, sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông đã quyết định nhảy lớp lên thẳng cấp ba trung học. Ông rất say mê các môn khoa học tự nhiên với ý định vào trường kiến trúc. Nhưng hoàn cảnh gia đình đã khiến ông phải xin đăng lính. Ông thi đậu với thành tích giỏi vào công binh Vương quốc Phổ. Năm 16 tuổi, ông bước chân vào trường kỹ thuật công trình.
Năm 26 tuổi, cha mẹ đều qua đời. Là con trai lớn, Siemens lúc ấy đang học tại trường kỹ thuật tại Berlin, dù rất đau đớn nhưng ông vẫn cắn răng quyết định hoàn thành công việc nghiên cứu khoa học đang dang dở chứ không chịu về nhà chịu tang.
Sau khi tốt nghiệp trường công trình, ông tiếp tục dấn sâu vào việc nghiên cứu khoa học. Nhưng khi đó, vì giúp một người bạn thân quyết đấu mà ông bị xử tù 5 năm. Thế nhưng, đằng sau song sắt nhà tù, ông đã nhờ nhiều người mua rất nhiều dụng cụ nghiên cứu khoa học, biến khám đường thành phòng thí nghiệm. Ông nghiên cứu thành công phương pháp mạ vàng, bạc lên kim loại và bán thành quả đó được 40 đồng Louis vàng vào năm 1842. Chuyện lộ ra, nhà vua đuổi ông ra khỏi tù dù ông đã hết sức xin được ở trong tù.
Sau khi ra tù, ông thành công trong việc nghiên cứu ra một loại pháo hoa với đủ màu sắc. Thành quả này làm chấn động dư luận bấy giờ. Ông được hoàng gia chiếu cố và cuộc sống bắt đầu thay đổi.
Tiếp theo, hàng loạt thành công trong nghiên cứu và kinh doanh đến với ông: dùng acid khắc bản đồng, phát minh kỹ thuật in kẽm, dùng cao su bọc dây dẫn điện. Ông xây dựng thành công đường điện tín Âu - Ấn, đồng thời đường cáp ngầm xuyên Đại Tây Dương. Sau hàng loạt những phát minh, sáng chế, Siemens còn thu nạp nhiều nhân tài kiệt xuất, chuyên gia chế tạo. Công ty của ông từng bước phát triển và trở thành công ty lớn: Công ty SIEMENS.
Công ty SIEMENS tiếp tục nghiên cứu các đề tài: máy thăm dò hàng hải từ xa, dụng cụ đo cồn... Và rực rỡ nhất là những phát minh: máy phát điện, xe điện, máy vô tuyến truyền tin và truyền ảnh đầu tiên trên thế giới. Loại này giúp các phóng viên có thể đưa tin tức và hình ảnh từ xa về tòa soạn lên thẳng khung.
Vương quốc Phổ bấy giờ hứa trả lương cao và yêu cầu ông giữ chức cục trưởng Cục điện tín quốc gia nhưng ông đã chối từ. Trong nghiên cứu và kinh doanh, Siemens đưa ra quan điểm: "Tôi nghĩ đến quyền lợi của đại chúng trước tiên, nhưng cuối cùng, tất nhiên, tôi sẽ hưởng phần lợi của riêng mình!" Một châm ngôn chẳng hề lỗi thời cho đến hôm nay.
Siemens qua đời tại Berlin năm 1892, di sản trực tiếp của ông là Công ty SIEMENS tiếp tục phát triển với những thành quả rực rỡ, liên tục cho ra đời những sản phẩm tiên tiến, cao siêu về mặt kỹ thuật. Các con trai và cháu của ông tiếp tục bước trên con đường nghiên cứu và kinh doanh, kế thừa một cách xuất sắc di sản mà người cha, người ông ngày xưa để lại. |
Nguyễn Khắc Nghiên (23 tháng 1 năm 1951 – 13 tháng 11 năm 2010) là một cựu tướng lĩnh cấp cao Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Xuất thân
Ông sinh ngày 23 tháng 1 năm 1951, quê quán ở xã Chương Xá, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.
Binh nghiệp
Tháng 7 năm 1969, ông nhập ngũ, được tuyển vào binh chủng đặc công, phục vụ tại Tiểu đoàn 4, Sư đoàn 305.
Từ tháng 1 năm 1971 đến tháng 3 năm 1975, ông lần lượt được giữ các chức vụ Trung đội trưởng, Đại đội phó, Đại đội trưởng thuộc Trung đoàn 48, Sư đoàn 320, chiến đấu ở mặt trận Quảng Trị. Tháng 4 năm 1972, ông được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ông giữ chức vụ trợ lý tác chiến Trung đoàn 48 (do Đoàn Trưng làm Trung đoàn trưởng), Sư đoàn 320B (nay là Sư đoàn 390), Quân đoàn 1, là đơn vị thọc sâu tiến công đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng hòa
Từ tháng 4 năm 1976 đến tháng 3 năm 1982, ông được cử đi học tại Trường Quân chính Quân đoàn 1, sau đó về được phân công giữ các chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 48; Tham mưu phó, Trung đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Trung đoàn 48, Sư đoàn 320B (đổi phiên hiệu thành Sư đoàn 390 từ ngày 4 tháng 5 năm 1979), Quân đoàn 1.
Từ tháng 4 năm 1982, giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 48, Sư đoàn 390, Quân đoàn 1.
Từ tháng 1 năm 1983, ông được cử đi học tại Học viện Quân sự cấp cao.
Tháng 7 năm 1985, ông được cử làm Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn 390, Quân đoàn 1.
Đến tháng 8 năm 1988, kiêm chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 390, Quân đoàn 1.
Tháng 8 năm 1991, được thăng làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 390.
Tháng 8 năm 1993, chuyển làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312, cũng thuộc Quân đoàn 1.
Tháng 2 năm 1996, ông được thăng làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 1, hàm Đại tá.
Tháng 12 năm 1997, được thăng làm Tư lệnh Quân đoàn 1, hàm Thiếu tướng.
Tháng 8 năm 1998, ông được cử làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2.
Tháng 5 năm 2001, bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 1, kế nhiệm tướng Phùng Quang Thanh nhậm nhậm chức Tổng Tham mưu trưởng.
Tháng 4 năm 2001, ông trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại khóa IX.
Tháng 10 năm 2002, được thăng Trung tướng và chuyển sang làm Tư lệnh Quân khu 5, thay cho tướng Nguyễn Văn Được lên nhậm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Tháng 12 năm 2004, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 4 năm 2006, ông tái đắc cử Ủy viên Trung ương Đảng khóa X.
Ngày 29 tháng 8 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 1131/QĐ-TTg bổ nhiệm ông làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Ngày 31 tháng 8 năm 2006, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký quyết định bổ nhiệm ông làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, kế nhiệm tướng Phùng Quang Thanh lên làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Năm 2007, ông được thăng hàm Thượng tướng và trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII.
Ông mất đột ngột khi đang điều trị ngay tại Viện quân y 108 – Hà Nội vào ngày 13/11/2010, hưởng dương 59 tuổi.
Huân huy chương
Huân chương Độc lập hạng nhì;
Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhì, hạng ba;
Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Campuchia;
Huy chương Kháng chiến hạng nhất;
Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
Lịch sử thụ phong quân hàm |
Hồng y (Latinh: Sanctae Romanae Ecclesiae cardinalis, nghĩa đen là Hồng y của Giáo hội Công giáo Rôma) là một nhà lãnh đạo cao cấp của Giáo hội này được biết đến với danh hiệu là Hoàng tử của Giáo hội, và thường được vinh thăng tước vị này, khi vẫn còn trong vòng độ tuổi bỏ phiếu, thông thường từ các giám mục của Giáo hội Công giáo. Các hồng y của Giáo hội hợp lại được gọi chung là Hồng y Đoàn. Các nhiệm vụ của các hồng y bao gồm tham dự các cuộc họp của hồng y đoàn với tư cách độc lập hoặc với tư cách thành viên các nhóm do yêu cầu từ phía giáo hoàng. Hầu hết hồng y đều có bổn phận riêng của họ, chẳng hạn như dẫn dắt một giáo phận hoặc tổng giáo phận hoặc quản lý một bộ phận của Giáo triều Rôma.
Một nhiệm vụ nội bật của các hồng y là bầu ra vị giám mục Rôma, thực tế là giáo hoàng, khi xảy ra hiện tượng trống tòa. Trong khoảng thời gian trống tòa (từ lúc một giáo hoàng qua đời hoặc từ chức đến khi người kế vị ông nhậm chức), việc quản trị hàng ngày của Tòa Thánh nằm trong tay của Hồng y Đoàn. Quyền tham dự vào các cuộc họp kín, còn gọi là Mật nghị Hồng y chọn tân giáo hoàng được giới hạn đối với những hồng y dưới 80 tuổi tính đến ngày trống tòa giáo hoàng.
Năm 1059, quyền bầu cử giáo hoàng dành cho các giáo sĩ chính ở Rôma và các giám mục của bảy giáo phận ngoại vi. Trong thế kỷ 12, việc bổ nhiệm các giáo sĩ từ ngoài Rôma bắt đầu với việc các hồng y, mỗi người trong số họ đã chỉ định một nhà thờ ở Rôma làm nhà thờ hiệu tòa đại diện của ông hoặc liên kết với một trong các giáo phận vùng ngoại ô, trong khi vẫn đang được quản trị một giáo phận khác với giáo phận Rôma.
Nhiệm kì của hồng y áp dụng cho bất kỳ linh mục nào được chỉ định cách vĩnh viễn khi được chỉ định và vinh thăng cho một nhà thờ, hoặc cụ thể cho linh mục cao cấp của một nhà thờ quan trọng, dựa trên tiếng latinh nguyên bản "cardo", nghĩa là bản lề, ngoài ra còn có nghĩa khác là "hiệu trưởng" hoặc "trưởng ban". Thuật ngữ này được áp dụng theo ý nghĩa này vào đầu thế kỷ thứ chín cho các linh mục của các giáo xứ giáp ranh giáo phận Rôma. Giáo hội Anh Quốc giữ lại một ví dụ về nguồn gốc của danh hiệu, hiện được giữ bởi hai thành viên cao cấp của Tiểu chủng viện Nhà thờ Thánh Paul.
Từ nguyên
Tên của chức vị giáo sĩ cao cấp này trong tiếng Latinh là cardinalis, có gốc từ danh từ cardo (có nghĩa là "bản lề", "khớp nối" hay "điểm mấu chốt)", do đó mà có thể được dịch thành "yếu tố thuộc bản chất, nền tảng, hay trụ cột".
Trong tiếng Việt thì từ "hồng y" vốn phát xuất từ "Hồng y chủ giáo" (紅衣主教) trong tiếng Hoa. Trong đó, "chủ giáo" là từ chỉ chức giám mục, và "hồng" tức là đỏ, "y" tức là áo - được gọi theo màu y phục; nghĩa từ nguyên chỉ đơn giản là "giám mục áo đỏ". Về sau từ rút gọn lại thành "hồng y" mà không có danh từ xứng hợp để dịch sát nghĩa của danh từ gốc Latinh. Trước đây, một số tài liệu tiếng Việt còn viết nhầm thành "hồng y giáo chủ" để thuận miệng, nhưng lại thừa và sai nghĩa, vì hồng y không phải là "giáo chủ" mà chỉ là một chức tước.
Bổ nhiệm
Giáo hoàng có quyền tuyệt đối và hoàn toàn tự do trong việc phong ai đó làm hồng y và có thể bằng hai thể thức:
Công khai tuyên bố danh sách: thông thường.
Giữ kín tên vị được bổ nhiệm (in pectore): vì hoàn cảnh chưa cho phép tiết lộ.
Sau khi được bổ nhiệm hồng y, tức khắc người này thuộc hàng Giáo sĩ Roma, trở thành công dân của Vatican.
Nhà thờ Hiệu tòa
Mỗi vị hồng y đều có một nhà thờ hiệu tòa, hoặc là một nhà thờ ở thành phố Rôma hay một trong những khu ngoại ô. Ngoại lệ duy nhất là dành cho các Tổ phụ của các Giáo hội Công giáo Đông phương. Tuy nhiên, các hồng y không có quyền quản trị và không can thiệp bằng bất cứ cách nào trong những vấn đề liên quan đến việc quản lý hàng hoá, kỷ luật, hoặc phục vụ các nhà thờ hiệu tòa của họ. Họ được phép cử hành Thánh Lễ, cử hành nghi thức Giải tội và dẫn dắt thăm viếng và các cuộc hành hương đến nhà thờ hiệu tòa, phối hợp với các nhân viên của nhà thờ. Các hồng y thường ủng hộ các nhà thờ của họ bằng tiền và nhiều Hồng y giữ liên lạc với các nhân viên mục vụ của các nhà thờ hiệu tòa.
Hồng y Niên trưởng của Hồng y đoàn ngoài một nhà thờ hiệu tòa của mình, cũng sẽ nhận được chức danh Hồng y của Nhà thờ hiệu tòa Ostia, thị trấn có ngai tòa hiệu tòa đầu tiên. Các Hồng y quản trị một Giáo hội nghi lễ khác giữ lại danh hiệu của Giáo hội đó.
Điều kiện
Kể từ Công đồng Vatican II, các tân hồng y đều phải qua chức Giám mục, chỉ có ít trường hợp ngoại lệ gọi là "Luật trừ".
Phân bậc
Tất cả các hồng y trên thế giới hợp thành Hồng y đoàn và do một hồng y niên trưởng đứng đầu (unus inter pares). Hồng y được chia thành ba bậc. Việc phân bậc hồng y là một truyền thống lâu đời, chỉ ba Thừa tác vụ có "chức Thánh" trong giáo hội là: Hồng y Giám mục, Hồng y Linh mục và Hồng y Phó tế nhưng không có sự khác biệt lớn.
Hồng y Giám mục: là những hồng y có một tước hiệu của một trong bảy giáo phận xung quanh Roma (Ostia, Palestrina, Albano, Frascati, Porto Santa Rufina, Sabina Poggio Mirteto và Velletri Segni) và các thượng phụ Giáo hội trực thuộc được thăng tước vị. Thực tế chỉ có sáu Hồng y Giám mục (không tính các vị là thượng phụ) mà thôi. Lý do là vị Niên trưởng hồng y đoàn luôn giữ tước hiệu của giáo phận Ostia, và thêm một giáo phận khác cũng ở xung quanh Roma nếu Hồng y này đã có trước.
Ngày 28 tháng 6 năm 2018, Giáo hoàng Phanxicô quyết định bỏ tham chiếu Giáo luật, bổ sung 4 Hồng y Đẳng Giám mục lên 10 vị, không bao gồm các vị thượng phụ. Ngày 1 tháng 5 năm 2020, Giáo hoàng lại thăng thêm hai hồng y giám mục nữa. Với sự qua đời của Hồng y Etchergaray, Hồng y Đẳng Giám mục có 11 vị và 3 hồng y là thượng phụ. Với sự qua đời của Hồng y Angelo Sodano vào năm 2022, danh sách các hồng y giám mục, gồm 12 vị:
Giovanni Battista Re, Hồng y Giám mục xứ Sabina-Poggio Mirteto
Francis Arinze, Hồng y Giám mục xứ Velletri-Segni
Tarcisio Bertone, Hồng y Giám mục xứ Frascati
José Saraiva Martins, Hồng y Giám mục xứ Palestrina
Pietro Parolin, Hồng y Giám mục xứ Torre Angela, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh
Leonardo Sandri, Hồng y Giám mục xứ Catinari, Tổng trưởng Bộ Các Giáo hội Đông phương
Marc Ouellet, Hồng y Giám mục xứ Traspontina, Tổng trưởng Bộ Giám mục
Fernando Filoni, Hồng y Giám mục xứ San Giovanni di Dio, Đại Thống lĩnh Dòng Hiệp sĩ Mộ Thánh Gierusalem.
Luis Antonio Tagle, Hồng y Giám mục Nhà thờ S. Felice da Cantalice a Centocelle, Tổng trưởng Bộ Truyền giáo.
Beniamino Stella, Hồng y Giám mục Nhà thờ Hiệu tòa Ss. Cosma e Damiano, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ.
Antonios Naguib, Nguyên Thượng phụ Alexandria, Công giáo Coptic, Ai Cập.
Béchara Boutros al-Rahi, Thượng phụ Toàn Giáo hội Maronite.
Louis Raphaël I Sako, Thượng phụ Tòa Babylon, Công giáo Chaldeans.
Hồng y Linh mục: là các vị đứng đầu các giáo phận khác trên toàn thế giới.
Hồng y Phó tế: là các vị đứng đầu một cơ quan của Tòa Thánh. Bậc Hồng y Phó tế cũng có thể chuyển sang bậc Hồng y Linh mục khi đã ở bậc Hồng y Phó tế 10 năm. Tuy nhiên, một khi đã chuyển lên bậc Hồng y Linh mục thì phải đổi cả tước hiệu nhà thờ chính tòa và dĩ nhiên là có quyền ưu tiên trên các Hồng y Linh mục cụ thể là được bổ nhiệm làm Hồng y sau mình.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Hồng y là những người tập hợp thành Hồng y đoàn, trực tiếp bầu giáo hoàng và dĩ nhiên có được nhiều ưu thế ứng cử làm giáo hoàng. Trong bầu chọn giáo hoàng, hồng y đứng đầu các Hồng y Phó tế thì có nhiệm vụ loan báo cho dân chúng chờ đợi tại Quảng trường Thánh Phêrô biết tên của Hồng y được bầu làm giáo hoàng. Giới hạn tuổi của một hồng y cử tri bầu giáo hoàng là dưới 80 tuổi.
Nếu không phải là Giám mục coi sóc một giáo phận nào đó thì các Hồng y bắt buộc phải ở Roma. Các Hồng y coi sóc các giáo phận trên thế giới phải đến Roma nếu giáo hoàng đương kim triệu tập hoặc hồng y Nhiếp chính triệu tập khi giáo hoàng qua đời.
Các Hồng y giữ những chức vụ trong Giáo triều Rôma hay tại Thành Vatican được mời gọi đệ đơn từ chức lên Giáo hoàng khi vừa tròn 75 tuổi, và chờ đợi sự quyết định từ giáo hoàng.
Các loại hồng y đặc biệt
Hồng y Nhiếp chính
Hồng y Nhiếp chính của Giáo hội Công giáo Rôma, với sự trợ giúp của Phó Nhiếp chính và các vị giám chức khác của Văn phòng được gọi là Camera Tông Tòa, có các chức năng mà về bản chất được giới hạn trong một thời kỳ trống tòa của chức vụ giáo hoàng. Ngài có nhiệm vụ đối chiếu các thông tin về tình hình tài chánh của tất cả các cơ quan phụ thuộc vào Toà Thánh và trình bày kết quả tại Hồng y Đoàn, khi họ tụ tập vào Mật nghị Hồng y chọn Tân Giáo hoàng.
Hồng y chưa là Giám mục
Cho đến năm 1917, có thể cho một người không phải là linh mục được vinh thăng Hồng y, nhưng đi kèm với một số ít quyền hạn, trở thành hồng y phẩm trật Hồng y Phó tế. Chẳng hạn, vào thế kỷ 16, Reginald Pole đã làm một hồng y trong 18 năm trước khi ông thụ phong linh mục. Năm 1917, tất cả các hồng y, thậm chí cả các hồng y Phó tế, đều phải là linh mục, và vào năm 1962, Giáo hoàng Gioan XXIII đặt ra tiêu chuẩn rằng tất cả các hồng y phải được phong chức giám mục, ngay cả khi họ chỉ là linh mục vào lúc bổ nhiệm. Do hậu quả của hai việc điều chỉnh Giáo luật này, điều 351 của Bộ Giáo luật cho phép một hồng y có xuất thân ít nhất phải có của chức tư tế, và những người được chọn làm hồng y chưa qua chức giám mục thì phải được tấn phong trước đó. Một số hồng y ở tuổi 80 hoặc gần tuổi này khi được bổ nhiệm đã bị ràng buộc từ luật buộc phải là một giám mục. Những hồng y dạng này đều được bổ nhiệm làm Hồng y Phó tế, chỉ trừ Roberto Tucci và Albert Vanhoye sống đủ lâu để được thực hiện quyền thăng lên phẩm trật hồng y Đẳng Linh mục.
Một vị hồng y không phải là giám mục vẫn có quyền mặc và sử dụng các bộ lễ phục giám mục và các huy hiệu giám mục khác (các quy định về biểu tượng chức giám mục: mũ mitra, gậy Mục tử, mũ Zucchetto, thánh giá đeo ngực và nhẫn). Ngay cả khi không phải là một giám mục, bất kỳ vị hồng y nào vẫn được sự tôn trọng và danh dự trên các vị thượng phụ không phải là hồng y, cũng như các tổng giám mục và giám mục không phải là hồng y, nhưng ông không thể thực hiện các chức năng dành riêng cho các giám mục, như truyền chức. Các linh mục nổi bật kể từ năm 1962 không được tấn phong giám mục về mức độ cao tới hồng y dưới tuổi 80, và vì vậy không một hồng y nào không phải là giám mục đã tham gia vào các mật nghị gần đây chọn Tân giáo hoàng.
Hồng y thế tục
Vào những thời điểm khác nhau, đã có những hồng y chỉ mới được cạo đầu và các chức thánh nhỏ nhưng chưa được truyền chức linh mục hay phó tế. Mặc dù là các giáo sĩ, họ đã được gọi không chính xác là "hồng y giáo dân". Teodolfo Mertel là một trong những người cuối cùng là hồng y giáo dân. Khi ông qua đời vào năm 1899, ông là vị hồng y còn sót lại cuối cùng, người chưa bao giờ được truyền chức linh mục. Với việc sửa đổi Bộ Giáo luật được ban hành năm 1917 bởi Giáo hoàng Biển Đức XV, chỉ những người đã là linh mục hay giám mục mới được bổ nhiệm làm hồng y.. Kể từ thời Giáo hoàng Gioan XXIII, một linh mục được chỉ định làm hồng y phải được truyền chức giám mục trước đó, trừ phi ông ta có được công lao lớn với giáo hội Công giáo. |
Lê Quang Đạo (8 tháng 8 năm 1921 – 24 tháng 7 năm 1999) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyện, là một chính khách của Việt Nam, ông giữ chức Chủ tịch Quốc hội Việt Nam kiêm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam từ năm 1987 đến 1992. Ông cũng từng là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, cấp bậc Trung tướng. Ông là Chủ tịch đầu tiên của Hội họ Nguyễn Việt Nam.
Tiểu sử
Ông tên thật là Nguyễn Đức Nguyện, sinh ngày 8 tháng 8 năm 1921, quê làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nay là phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha ông là cụ Nguyễn Đức Cung (Cụ Thơ La), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Lạc.
Hoạt động cách mạng
Năm 1938, ông hoạt động trong phong trào Thanh niên Dân chủ ở Hà Nội. Tháng 8 năm 1940, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, cùng năm chi bộ Cộng sản Đình Bảng được thành lập tại Đền Đô nơi thờ Lý Bát Đế, ông được tín nhiệm bầu làm Bí thư chi bộ Cộng sản đầu tiên của quê hương Đình Bảng. Ông cùng người cậu ruột của mình là Nguyễn Duy Thân cùng hoạt động cách mạng. Giữa năm 1941, ông thoát ly công tác cách mạng, là Bí thư Ban cán sự Đảng của huyện Từ Sơn.
Từ năm 1941 đến năm 1942, ông là Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Bắc Ninh, Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Đầu năm 1942, xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban Cán sự tỉnh Phúc Yên do ông làm Bí thư. Từ năm 1943 đến năm 1945, ông là Bí thư Ban cán sự Đảng thành phố Hà Nội được thực dân Pháp đặt bí danh Đốc lý đỏ. Ngoài ra ông còn là Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, biên tập viên các báo "Cứu quốc", "Cờ giải phóng", phụ trách báo "Quyết thắng" và các lớp đào tạo cán bộ Việt Minh ở Chiến khu Hoàng Hoa Thám. Ông còn được giao nhiệm vụ trực tiếp giảng bài ở các lớp bồi dưỡng lý luận về Đảng và công tác cách mạng cho các nhóm cốt cán của Đoàn Thanh niên Cứu quốc Hà Nội và Hội Văn hóa Cứu quốc. Từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1946, ông là Chính trị viên Chi đội Giải phóng quân tỉnh Bắc Giang, Bí thư Thành ủy Hải Phòng.
Đến tháng 4 năm 1946, ông là Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Thành ủy Hà Nội (từ tháng 4 đến giữa năm 1946), Phó Bí thư Khu ủy khu XI, Bí thư Thành ủy Hà Nội (tháng 11 năm 1947), Bí thư liên tỉnh Hà Nội – Hà Đông ông giữ chức này đến năm 1949 thì đước làm Phó ban Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng sau đó ông chuyển sang công tác tuyên huấn bên quân đội.
Hoạt động trong quân đội
Từ năm 1950 đến năm 1954, ông phụ trách công tác tuyên huấn Chiến dịch Biên giới, là Cục trưởng đầu tiên của Cục Tuyên huấn, Phó Chủ nhiệm chính trị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, quyền Chính ủy Đại đoàn 308 trong cuộc tấn công sang Thượng Lào, Phó trưởng đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ủy ban Liên hiệp đình chiến, Ủy viên Ban Liên hiệp đình chiến Trung ương.
Từ năm 1955 đến năm 1976, ông là Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị trực tiếp chỉ đạo công tác tuyên huấn, địch vận đối ngoại của quân đội, Ủy viên thường trực Quân ủy Trung ương (1965–1976). Năm 1961, ông kiêm chức Viện trưởng Viện Kiểm sát quân sự Trung ương. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam III năm 1961, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương. Ông thụ phong quân hàm Thiếu tướng vào năm 1959.
Từ năm 1968 đến năm 1972, ông làm Chính ủy các chiến dịch quân sự lớn: Đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào và Trị Thiên giải phóng Quảng Trị. Năm 1974, ông là Ủy viên Thường trực Quân ủy Trung ương và được phong quân hàm Trung tướng, Giám đốc Học viện Chính trị Quân đội. Tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV năm 1976, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chuyển sang công tác dân sự
Tháng 6 năm 1978, ông làm Phó Bí thư Thành ủy kiêm Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hà Nội (nay là Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội). Là Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội, ông đã cùng tập thể Thường vụ Thành ủy lo chạy gạo, mì, chất đốt... cho nhu cầu tối thiểu của người dân. Để tiết kiệm cho công quỹ thành phố, ông đi bộ từ nhà đến cơ quan mang theo một cà mèn cơm như cán bộ nhân viên thời đó. Trong gian nan, ông đã dành nhiều công sức đi xuống các trường đại học, các viện nghiên cứu, nhà máy, xí nghiệp, gặp gỡ lắng nghe ý kiến ở cơ sở để có cái nhìn toàn diện, cụ thể về sự phát triển Thủ đô và từng bước tháo gỡ những khó khăn. Thực tế sinh động là căn cứ quan trọng để ông sớm nhìn nhận ra và đồng tình với quan điểm đổi mới của Trường Chinh trong dự thảo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, bởi vì đó là thời kỳ khởi đầu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của đất nước.
Trong 28 năm phục vụ trong quân đội, Lê Quang Đạo đã đem hết tài năng, và sức lực, tâm hồn và trí tuệ xây dựng và chỉ đạo ngành Tuyên huấn quân đội. Ông là một nhà hoạt động tư tưởng và văn hoá xuất sắc của quân đội và của Đảng.
Làm việc tại Trung ương
Từ 1982, ông là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, phụ trách công tác dân vận khoa giáo và tham gia Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam.
Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987-1992)
Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 22 tháng 6 năm 1987, ông được bầu làm Chủ tịch Quốc hội, cùng ngày ông được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Ông là người thứ 2 tính đến thời điểm hiện tại kiêm nhiệm chức Phó Chủ tịch trong khi làm Chủ tịch Quốc hội. Đến năm 1988, ông giữ chức Bí thư Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhiệm kỳ Chủ tịch Quốc hội của ông là thời kỳ đầu của chính sách Đổi mới, gần một năm sau khi ông làm chủ tịch Quốc hội, Luật Đất đai đã được thông qua đồng thời Quốc hội cũng thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Năm 1990, Quốc hội thông qua Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, cùng năm Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Trong nhiệm kỳ 1987 đến 1992, cơ chế Hội đồng Nhà nước dần tỏ ra các hạn chế do đó đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992, theo đó sẽ tiến hành giải thể Hội đồng Nhà nước, tách Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra khỏi Hội đồng Nhà nước và đứng đầu Uỷ ban sẽ là Chủ tịch Quốc hội. Ngày 23 tháng 9 năm 1992, Nông Đức Mạnh kế nhiệm ông làm Chủ tịch Quốc hội.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1994-1999)
Tháng 8 năm 1994, sau gần 2 năm không giữ chức vụ quan trọng nào ông được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho đến khi qua đời vào tháng 7 năm 1999
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa III đến khóa VI (dự khuyết từ 1960, chính thức từ 1972 đến 1991), Bí thư Trung ương Đảng các khóa IV và V (1976–1986), Đại biểu Quốc hội khóa VIII và IX.
Qua đời và vinh danh
Ông mất ngày 24 tháng 7 năm 1999 tại Hà Nội. Ông được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội.
Tên ông đặt cho đường phố ở Hà Nội (nối Lê Đức Thọ với Đại lộ Thăng Long). Ở Huế (từ đường Tố Hữu - phường An Đông) và ở Đà Nẵng (đoạn cắt Phan Tứ đến đoạn cắt Nguyễn Văn Thoại), những tên đường phố này cũng mang tên ông. Tại Từ Sơn, đường Lê Quang Đạo có điểm đầu là đường Đình Bảng và điểm cuối là đường Tam Lư, chạy qua công viên Lý Thái Tổ. Ông được xây dựng nhà lưu niệm tại Bắc Ninh.
Gia đình
Em trai ông là nhà cách mạng Nguyễn Đức Nghiêm (1930-2006)
Vợ ông là nhà văn Nguyễn Thị Nguyệt Tú, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Phụ nữ
Con trai: Nguyễn Quang Thắng
Con trai: Nguyễn Quang Bắc, Thiếu tướng, Tiến sĩ khoa học, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật.
Con trai: Nguyễn Quang Tuệ.
Con gái: Nguyễn Nguyệt Tĩnh. |
Kinh tế học vĩ mô tổng hợp là một trường phái kinh tế học vĩ mô dựa trên việc tổng hợp các học thuyết của kinh tế học tân cổ điển với kinh tế học vĩ mô Keynes.
Đặc điểm
Trường phái này lấy cân bằng tổng thể của kinh tế học tân cổ điển làm khung, bổ sung thêm lý luận cầu hữu hiệu của kinh tế học Keynes, và sử dụng tích cực phân tích IS-LM của Hicks. Phái này cho rằng dựa vào chính sách điều chỉnh cầu hữu hiệu của nhà nước có thể đạt được trạng thái toàn dụng lao động như kinh tế học tân cổ điển nhìn nhận và đẩy mạnh được tăng trưởng kinh tế. Các mô hình kinh tế lượng sẽ giúp nhà nước tính toán và điều chỉnh cầu hữu hiệu một cách hiệu quả.
Hình thành, phát triển và thoái trào
Trường phái này hình thành trước tiên ở Mỹ vào thập niên 1950, với các đại biểu như Paul Anthony Samuelson, James Tobin và Franco Modigliani. Song, chính Hicks là người sử dụng phân tích IS-LM để diễn giải lý luận của Keynes dưới hình thức cân bằng tổng thể đã mở đầu trường phái này. Tuy nhiên, phân tích IS-LM mới đầu của Hicks không làm được một việc theo ý Keynes là gắn khu vực kinh tế thực với khu vực tiền tệ. Trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp đã giải quyết được thiếu sót này của Hicks bằng đường cong Phillips. Đường này cho thấy khi việc làm tăng lên (nghĩa là thất nghiệp giảm) thì lạm phát cũng gia tăng.
Trường phái đạt đến thời kỳ hoàng kim trong thập niên 1960. Nó là phái chủ lưu trong tư tưởng kinh tế học vĩ mô lúc đó. Chính quyền Kennedy ở Mỹ và chính quyền nhiều nước phương Tây khác đã tích cực áp dụng học thuyết của trường phái này.
Sang thập niên 1970, liên tiếp những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nổ ra, thất nghiệp và lạm phát cùng gia tăng (đình lạm). Ngoài ra, thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại xảy ra đồng thời (thâm hụt kép). Các lý luận của kinh tế học vĩ mô tổng hợp không giải thích nổi những hiện tượng kinh tế nói trên, nên bắt đầu thoái trào. |
Lạc Long Quân (chữ Hán: 貉龍君, 2825 TCN - 2524 TCN), tên húy là Sùng Lãm (崇纜), là một vị vua truyền thuyết của lịch sử Việt Nam. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì cha ông là Kinh Dương Vương Lộc Tục và mẹ ông là là Thần Long - con gái của Động Đình Quân. Lạc Long Quân được xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước nhà nước Văn Lang. Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem là thủy tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng". Lạc Long Quân có thể là danh hiệu truyền lại trong dã sử của một tù trưởng đã có công trong việc đi đến thống nhất các bộ tộc người Lạc Việt. Con trai ông là tù trưởng bộ lạc Văn Lang đã thống nhất thành công 15 bộ lạc, thành lập nhà nước Văn Lang, xưng hiệu Hùng Vương thứ nhất.
Truyền thuyết
Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Lĩnh Nam chích quái, Lạc Long Quân là hậu duệ của Thần Nông. Vua Đế Minh (cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông) có hai người con, "con trưởng là Đế Nghi, con thứ là Lộc Tục". Nhà vua yêu Lộc Tục hơn nên muốn cho Lộc Tục làm vua phương Bắc. Lộc Tục là người khiêm nhường nên đã nói với cha nhượng cho anh cả. Vì vậy vua cha cử Lộc Tục làm vua phương Nam (đất Văn Lang sau này). Đất Văn Lang tức nước Xích Quỷ có nhiều phong cảnh thanh kỳ. Dải Lĩnh Nam trùng trùng, điệp điệp, xanh như chàm, xa trông như rồng uốn khúc. Lên làm vua, Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, buổi đầu toan đóng đô ở chân núi Miễu Sơn, sau ấn định xây thành, đắp lũy ở Cửu Lĩnh. Vua lấy Long Nữ con gái Động Đình Quân, sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân kế nghiệp vua cha.
Truyền thuyết con Rồng cháu Tiên
Lấy con gái Đế Lai
Bản 1
Lạc Long Quân dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!" Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần là bọn Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở phía Nam. Khi đó, Long Quân đã về Thủy phủ, trong nước không có Chúa. Đế Lai bèn để ái nữ là Âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm dị thú, ngọc ngà vàng bạc... các thứ đá quý, các cây trầm, đàn cùng các sơn hào hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng, Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân".
Long Quân đột nhiên trở về, thấy Âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ, trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống. Cung điện tự nhiên dựng lên. Âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu Âu Cơ ở Long Đài. Nham Đế Lai trở về, không thấy Âu Cơ, sai quần thần đi tìm khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn trạng yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi... làm cho bọn đi tìm đều sợ hãi không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Truyền ngôi đến đời Du Võng, thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu, cùng Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, bị giáng phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết. Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người đều kính trọng cho là triệu phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy quốc vợ con thường muốn về đất Bắc.
Về tới biên giới, Hoàng Đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải, mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay về nước Nam mà gọi Long Quân rằng: "Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ thế này". Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương. Âu Cơ nói: "Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình". Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ra. Ta đem năm mươi con về Thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên".
Bản 2
Lạc Long Quân lấy hiệu là Hùng Hiền Vương di chuyển kinh đô về Nghĩa Lĩnh. Khi Kinh Dương Vương qua đời, Hùng Hiền Vương lấy nàng Âu Cơ con gái Đế Lai chúa tể động Lăng Xương, một xứ lân cận Văn Lang bên bờ giải Âu Giang. Âu Cơ có mang được 3 năm 3 tháng 10 ngày mới thấy chuyển dạ. Nơi nàng lâm bồn là một chiếc lều tranh bên đường không xa kinh thành, nàng sinh ra một cái bọc. Long Quân vô cùng kinh ngạc, Ngài cho quần thần dựng đàn tế cáo trời đất. Trong lúc cử hành lễ bái thì trời nổi mây ngũ sắc, năm người cao lớn dị thường đầu đội mũ Kim Quang, mặc áo bào xanh, lưng đeo đai ngọc... tuyên bố "Ngọc Hoàng Thượng đế cử chúng ta xuống để thi hành nhiệm vụ đặc biệt. Hoàng hậu sinh ra một cái bọc đó là điềm vô cùng tốt đẹp, trong bọc có một trăm trứng. Chúng tôi có bổn phận biến ra thành một trăm con trai, những người con này sẽ giúp nhà vua trị dân giữ nước". Đúng ngày rằm tháng 1 năm sau, mây ngũ sắc lại tái hiện, ngôi nhà rực sáng, bọc trứng tự nở ra một trăm người con trai. Một hôm vua bảo Âu Cơ: "Ta vốn là con cháu thủy thần, nàng thuộc loài tiên, nước lửa khắc nhau, không thể kết hợp lâu dài được. Vậy xin chia tay để giữ lấy dòng giống. Nàng nên đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống biển, cùng nhau khai cơ mở nghiệp, tạo thế cho con cái và dân chúng dài lâu".
Lấy con gái thần tiên
Bản 1
Lạc Long Quân thường xuyên lên bờ dạy dân việc cày cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi.
Đột nhiên một ngày nọ, xuất hiện một bệnh dịch lớn mà Long Quân không trị được. May mắn thay đã có một tiên nữ tên Âu Cơ từ trên núi xuống ra tay giúp đỡ, nhờ thế mà mọi người mới vượt qua bệnh dịch này. Âu Cơ đi khắp bốn phương để giúp đỡ và chữa trị cho những người đang lâm bệnh và gặp khó khăn. Nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật. Một ngày nọ, một con quái vật làm nàng sợ hãi. Nàng liền biến thành một con sếu mà bay đi. Lạc Long Quân, là thần rồng từ biển cả, thấy nàng đang gặp nguy hiểm liền cầm lấy cục đá và giết tên quái vật. Sau đó tình yêu đã nảy nở giữa hai người và họ cưới nhau. Âu Cơ sinh ra một bọc trứng có 100 người con. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, mình là giống Tiên, thủy thổ khắc nhau, không ở cùng nhau được". Hai người bèn chia con mà ở riêng.
Bản 2
Lạc Đà vốn là chim thần sống trên trời, sải cánh của ông đủ che lấp toàn bộ mặt đất, mỗi lần ông đập cánh là giông bão lại nổi lên. Một lần ông đến thăm Lộc Tục và tặng quà cho những đứa con trai của Lộc Tục. Âu Long Quân là con trai cả nên nhận được quả trứng tiên, ở bên trong chính là con của Lạc Đà. Chim thần không quên dặn rằng khi quả trứng nở ra thì người đầu tiên mà con gái ông nhìn thấy sẽ chính là chồng của cô. Sau đó Lạc Đà chia tay mọi người ra về, nào ngờ đúng lúc đó đứa con trai út Sùng Lãm của Lộc Tục ra đời, vì chỉ chuẩn bị tám món quà nên Lạc Đà không còn cách nào khác bèn lấy tên của mình đặt cho Sùng Lãm. Kể từ đó về sau đứa con út của Lộc Tục được gọi là Lạc Long Quân.
Lộc Tục mất đi khiến đất nước Xích Quỷ bị chia cắt, chiến tranh loạn lạc liên miên nhưng Âu Long Quân vẫn không quên lời dặn của Lạc Đà, ông luôn mang theo quả trứng bên mình mọi lúc mọi nơi không bao giờ rời xa dù chỉ nửa bước và đặt tên nó là Âu Cơ. Để ý thấy vùng đất Lạc Việt phía nam vắng chủ nên Âu Long Quân liền kéo quân đến xâm chiếm. Dân phương Nam khổ vì bị người Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương dân". Lạc Long Quân liền quay về cứu giúp người dân. Âu Long Quân bị Lạc Long Quân đánh bại, ngờ đâu trên đường tháo chạy thì quả trứng lại rơi xuống đất vỡ nát, để lộ bên trong là một người con gái tí hon. Và rồi người đầu tiên cô gái thấy chính là Lạc Long Quân. Âu Long Quân đau lòng vì bại trận và mất đi người mình yêu quý nên mất sớm, vùng đất Âu Việt cũng rơi vào hỗn loạn. Âu Cơ quả nhiên càng lớn càng xinh đẹp, nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật thường xuyên theo Lạc Long Quân đi tứ phương chữa bệnh giúp người. Sau đó Lạc Long Quân và Âu Cơ lấy nhau sinh ra một bọc trăm trứng nở ra một trăm người con. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, mình là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, không ở cùng nhau được". Hai người bèn chia con mà ở riêng.
Cái kết
Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi. Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi.
Sau khi chia tay với Quốc mẫu Âu Cơ, Lạc Long Quân cùng 50 người con còn lại xuôi đường lần ra Nam Hải. Đến đất Bình Đà bây giờ (xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, cách biển không xa, sông nước mênh mang, Lạc Long Quân truyền cho các con dừng chân dựng trại, nổi lửa nấu ăn. Đi dạo khắp vùng một lượt, thấy thế đất nơi đây màu mỡ, sông suối lượn quanh, nhiều thềm đất cao mang dáng long chầu hổ phục, bèn quyết định chọn đất này làm nơi dựng xây cơ nghiệp. Ngày ngày, Lạc Long Quân cùng quần thần văn võ dạy dân trồng dâu nuôi tằm dệt vải, đuổi diệt thú dữ. Lại truyền cho các con lựa chọn dân chúng khỏe mạnh, tỏa đi khắp vùng duyên hải khai khẩn đất hoang, lấn biển mở mang bờ cõi... Chẳng bao lâu, cả vùng đất với trung tâm là Bảo Cựu cuộc sống dân lành đã trở nên trù phú, mọi thảo khấu trong vùng bị dẹp tan. Ruộng đồng, làng xóm ngày một mở rộng, hình thành nên những làng xóm đầu tiên của châu thổ sông Hồng sau này. Lúc ấy, dân sống ở ven biển, xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: "Giống sơn man và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau đó". Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy.
Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cấy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đó trăm người con trai chính là tổ tiên của người Bách Việt vậy.
Vào một ngày cuối tháng Hai lịch trăng, trời bỗng nhiên nổi dông gió, sấm chớp lóe sáng cả vùng, Quốc tổ ăn vận trang phục oai phong, lẫm liệt, thân thương nhìn các con cháu và dân làng một lượt rồi hóa trong đêm. Cảm thương và tỏ lòng tri ân với người có công khai hóa vùng đất Bảo Cựu này, vua quan cùng dân làng tổ chức lễ tang linh đình, táng ngài tại gò đất cao nhất vùng, lập miếu (nay là Đền Nội Bình Đà) quanh năm thờ phụng. Cổ lôi ngọc phả hiện lưu giữ Đền Hùng (niên hiệu Thái Bình thứ hai-971) có ghi "Mộ (Lạc Long Quân) táng tại Ba Đống (Ba Gò) đồng thượng Bảo Cựu, hậu cải Bảo Đà".
Các chiến công của Lạc Long Quân
Diệt Ngư Tinh
Ở biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư Tinh) dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người nên ai cũng sợ.
Thuở ấy có hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang, Ngư Tinh sống ở trong đó. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân muốn mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền của nhân dân đi qua chỗ này thường hay bị Ngư Tinh làm hại. Đêm kia có bọn người tiên đục đá làm đường đi để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã rạng đông bèn cùng bay lên trời.
Lạc Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỷ Dạ Xoa ở Thủy phủ cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt. Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư Tinh chồm lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ, còn cái đầu trôi ra ngoài bể biến thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành cái đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là Cẩu Đầu Thủy).
Diệt Hồ Tinh
Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có người ở. Vua Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai con rồng dẫn thuyền đi, cho nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy, ngày nay tức là thành Kinh Hoa vậy. Xưa ở phía tây thành có hòn núi đá nhỏ, phía đông gối lên sông Lô Giang. Trong hang, dưới chân núi, có con cáo trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành người hoặc thành quỷ đi khắp nhân gian. Thời đó, dưới chân núi Tản Viên, người Mán chôn gỗ kết cỏ làm nhà. Trên núi có vị thần rất linh thiêng, người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán trồng lúa, dệt vải làm áo trắng mà mặc cho nên gọi là Bạch Y Man (Mán áo trắng).
Con cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất khổ sở. Long Quân bèn ra lệnh cho lục bộ Thủy phủ dâng nước lên công phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân Thủy phủ đuổi theo, phá hang bắt cáo mà nuốt ăn. Nơi này trở thành một cái vũng sâu gọi là "đầm xác cáo" (tức Tây Hồ ngày nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp yêu quái. Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Đỗng (hang cáo). Đất ở đây cao ráo, dân làm nhà mà ở nay gọi là Hồ Thôn (thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ Khước Thôn.
Các truyền thuyết khác
Sau này, khi quân Ân xâm lược nước Văn Lang, Lạc Long Quân đã báo mộng cho vua Hùng tìm người kỳ tài ra cứu nước, và người đó là Thánh Gióng.
Đền Nội Bình Đà
Sau khi Đức Quốc tổ về trời, các quan cùng nhân dân đã lập ngôi đền quanh năm thờ phụng Quốc tổ, nay là di tích quốc gia Đền Nội thuộc Bình Đà, Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội. Hiện nay đền còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý trong đó có bức giá tượng Quốc tổ Lạc Long Quân cùng văn võ bá quan dự hội đua thuyền, cùng bức đại tự đề 4 chữ "VI BÁCH VIỆT TỔ" (nghĩa là tổ của Bách Việt).
Xưa kia dưới các triều đại phong kiến, dân làng Bình Đà mở hội, vua chúa cử các quan trong triều đình cùng nhiều tổng, xã trong vùng về tổ chức lễ hội và dâng hương tưởng niệm Quốc Tổ. Năm 1032, vua Lý Thái Tông hiến sắc suy tôn Lạc Long Quân:"Lý triều hiến sắc
Thánh tổ tiên vươngNhất bào bách noãn
Sinh hạ bách thầnKhai quốc an dân
Vạn xuân an lạc"
Suốt sáu thế kỉ, đích thân 16 vị vua của các triều đại đều đích thân về Bình Đà dâng lễ Quốc tổ. Đã có 16 hiến sắc suy tôn Lạc Long Quân là "Khai Quốc Thần" (các hiến sắc này đều được lưu giữ tại Đền Nội Bình Đà và bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Từ xưa đến nay, vào dịp lễ hội, đều có đoàn thủ từ của đền Hùng – Phú Thọ về dâng hương Thánh tổ và xin rước chân nhang ở hương án Đệ nhất của đền Nội về thờ, với ý nghĩa cung kính đón Thánh tổ về dự hội đền Hùng vào ngày mồng mười tháng ba âm lịch.
Di tích quốc gia Đền Nội và ngôi mộ Quốc tổ tọa lạc trên đất thiêng Bình Đà mãi là nơi để con cháu Lạc Hồng về thờ phụng Quốc tổ.
Đạo mo
Đạo mo là một tín ngưỡng của người Việt cổ có đề cập đến một sự tích tương tự.Thần Đất và Thần Rừng sinh được một người con gái tên là Thần Nông. Thần Nông lớn lên lấy con trai của Thần Nước và Thần Bão là Thần Rồng. Do gia đình hai bên đều thù ghét nhau nên ra sức ngăn cản cuộc hôn nhân này. Thần Rừng bèn cử bọn ma cây đến quấy rối nhưng cây nào đến thì cây đó đều bị Thần Nông chặt hết cả. Thần Rồng dùng đống gỗ đó xây nên một ngôi nhà thật to cho hai vợ chồng. Thần Bão tức giận lắm, bèn thổi bay căn nhà của con trai mình. Dù thế Thần Rồng vẫn không bỏ cuộc, dù Thần Bão có thổi bay căn nhà bao nhiêu lần thì ngày hôm sau Thần Rồng lại tiếp tục dựng lên một căn nhà mới thậm chí còn to hơn trước. Sau một khoảng thời gian không đếm xuể, cuối cùng đã xây nên một căn nhà mà Thần Bão không cách nào có thể thổi bay nó được, biết không thể thay đổi được suy nghĩ của con mình nên Thần Bão quay về. Thần Rồng đặt tên ngôi nhà này là gió với ngụ ý rằng bão tố cũng chỉ là một cơn gió nhỏ nhoi không bao giờ làm suy suyển được căn nhà này.
Không lâu sau đó, Thần Nông mang thai rồi sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Thần Rồng chăm sóc vợ và các con mình được một thời gian thì cảm thấy nhớ nhà bèn quay trở lại biển cả. Sau đó Thần Rồng không bao giờ trở lại nữa, Thần Nông đau buồn lên núi nhìn về biển chờ chồng mãi. Còn các con của hai người chia nhau ra sinh sống khắp nơi, họ gọi nơi mình sinh sống là đất nước để gợi nhớ về nguồn cội và luôn giữ liên lạc với nhau hy vọng một ngày cha trở về.
Đánh giá
Quan điểm của Khâm định Việt sử Thông giám cương mục về Lạc Long Quân là:
Chuẩn tấu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi".
Tác giả Liam Christopher Kelley nhận xét:''Trải qua nhiều thế kỷ, những truyền thống mà họ [các sử gia] sáng tạo đã trở thành cái tự nhiên thứ hai (second nature). Thực tế, trong nửa thế kỷ qua, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc, những truyền thống được sáng tạo ấy (invented traditions) đã và đang trở thành những sự thực không thể thay đổi.'' |
Trần Hiến Tông (chữ Hán: 陳憲宗 17 tháng 5 năm 1319 – 11 tháng 6 năm 1341) là vị hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, trị vì trong 13 năm (1329 - 1341).
Hiến Tông tuy cai trị trên danh nghĩa nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thái thượng hoàng Trần Minh Tông xử lý. Trong thời gian này, Thượng hoàng dấy binh đi dẹp loạn Ngưu Hống ở Đà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi.
Thân thế
Trần Hiến Tông tên húy là Trần Vượng (陳旺),tên ngoại giao là Trần Nhật Phụ (陳日㷆), là con trưởng của Trần Minh Tông, mẹ là Minh Từ Quý phi họ Lê, người Giáp Sơn, là cô của Lê Quý Ly. Tuy là con đầu lòng của Minh Tông nhưng do mẹ là phi tần nên xét về chính danh ông vẫn chỉ là con thứ. Ông từ nhỏ có tên hiệu là Thiên Kiến (天建). Ngoài ông, Minh Từ Thái phi còn sinh ra Cung Định vương, tức Trần Nghệ Tông.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá, Trần Vượng là một người "tư trời tinh anh và sáng suốt".
Được lập làm Thái tử
Việc Trần Vượng được lập làm Thái tử vốn không hề đơn giản, vì nó tạo một sự mâu thuẫn có hậu quả rất lớn trong nền chính trị họ Trần.
Bấy giờ, vào năm Khai Thái thứ 5 (1328), Trần Minh Tông ở ngôi đã 15 năm, tuổi đã cao mà vẫn chưa lập Thái tử. Cha của Lệ Thánh Hoàng hậu là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn giữ ý định đợi Hoàng hậu có con rồi sẽ lập. Cương Đông Văn Hiến hầu là con (có sách chép là em) của Tá Thánh Thái sư Trần Nhật Duật, do muốn đánh đổ Hoàng hậu để lập Hoàng trưởng tử Vượng, mới đem 100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, bảo nó vu cáo Quốc Chẩn âm mưu phản loạn.
Sự việc diễn ra dẫn đến việc Huệ Vũ vương bị ép phải tự sát, có hơn 100 người bị dính vào vụ án này.
Năm Khai Thái thứ 6 (1329), ngày 7 tháng 2, Hoàng đế Trần Minh Tông xuống chiếu phong Trần Vượng làm Hoàng thái tử. Ngày 15 tháng 2, Minh Tông chính thức nhường ngôi, Thái tử Vượng lên làm Hoàng đế, còn Minh Tông trở thành Thái thượng hoàng.
Có giả thiết cho rằng, việc Trần Vượng được lập làm Thái Tử là phần lớn nhờ mưu kế của mẹ là Minh Từ Quý phi đã bày mưu tính kế với Văn Hiến Hầu để Văn Hiến Hầu đút lót Trần Phẫu vu oan cho Trần Quốc Chẩn tội mưu phản.
Trị vì
Trần Hiến Tông lên ngôi, tự xưng Triết Hoàng (哲皇), đặt niên hiệu là Khai Hựu (開佑). Hiến Tông lên ngôi còn nhỏ, quyền hành thực tế ở cả trong tay Thượng hoàng, cho nên tuy có trị vì 13 năm nhưng Trần Hiến Tông không được tự chủ việc gì cả.
Dưới triều Trần Hiến Tông, biên giới phía Bắc và phía Nam tương đối ổn định. Thời gian trị vì của Hiến Tông, nhà Trần không tổ chức khoa thi nào để chọn nhân tài. Vào năm Đinh Sửu (1337) có xuống chiếu cho các quan trong triều cũng như ngoài các lộ, hàng năm xét những thuộc viên do mình quản lý, người nào siêng năng cẩn thận thì giữ lại, còn người nào không làm được thì truất bỏ.
Từ năm 1333 đến năm 1338 chỉ trong vòng 6 năm, đã có nhiều thiên tai lớn xảy ra như lụt lội, bão gió, động đất. Vì vậy Trần Hiến Tông hạ lệnh cho các nơi lập kho lương chứa thóc thuế để kịp thời cấp cho dân đói.
Về văn hóa và một số ngành khoa học như thiên văn, lịch pháp, y học vào thời gian này cũng có những thành tựu đáng kể. Dưới triều Trần Hiến Tông có Hậu nghi đài lang, Thái sử cục lệnh là Đặng Lộ người huyện Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Nội) đã chế ra một dụng cụ xét nghiệm khí tượng gọi là Lung Linh nghi, khi khảo nghiệm không việc gì là không đúng.
Năm Khai Hựu thứ 13 (1341), ngày 11 tháng 6, ông qua đời ở chính tẩm, tạm quàng ở Kiến Xương cung, hưởng thọ 22 tuổi. Miếu hiệu là Hiến Tông (憲宗), thụy hiệu là Thể Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh Chí Hiếu Hoàng Đế (體元御極睿聖至孝皇帝). Khoảng 4 năm sau (1344), Hiến Tông mới được an táng vào An lăng (安陵).
Sau khi ông qua đời, Thượng hoàng Minh Tông chọn người con thứ của Hiến Từ Hoàng hậu là Trần Hạo (陳暭) lên ngôi, tức là Trần Dụ Tông.
Gia đình
Cha: Trần Minh Tông.
Mẹ sinh: Minh Từ Hoàng thái phi Lê thị (明慈皇太妃黎氏 ? - 1365), người Giáp Sơn, Hải Dương.
Mẹ đích: Hiến Từ Tuyên Thánh Hoàng hậu Trần thị (憲慈宣聖皇后陳氏 ? - 1370), chính cung của Minh Tông Hoàng đế, con gái Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn. Hiến Tông tôn làm đích mẫu, một mực tôn kính.
Chính thất: Hiển Trinh Công chúa (顯貞公主), con gái trưởng của Bình chương Huệ Túc vương Trần Đại Niên (1306 - 1360). Năm Khai Hựu thứ 9 (1337) lập làm Thần phi, sinh hạ được 1 công chúa. |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 8 năm 2006.
Thứ bảy, ngày 5 tháng 8
Vận động viên xe đạp Oscar Pereiro Sio (người Tây Ban Nha) cho rằng anh là người thắng cuộc tại Tour de France năm 2006 sau khi người Mỹ Floyd Landis không vượt qua vụ thử doping mẫu B.
Chủ nhật, ngày 6 tháng 8
Hội nghị Gặp gỡ Việt Nam (Rencontres du Vietnam) lần thứ 5 đã được khai mạc tại Khách sạn Horizon ở Hà Nội, Việt Nam. Hội nghị sẽ tập trung thảo luận những vấn đề mới nhất trong vật lý hạt cơ bản và vật lý thiên văn trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc họp sẽ kéo dài đến hết ngày 11 tháng 8.
Xung đột giữa Quân đội Sri Lanka và Những con Hổ giải phóng Tamil leo thang thành bạo lực lớn nhất trong cuộc xung đột dân tộc lâu năm của nước này sau khi lệnh ngừng bắn được ký vào năm 2002.
Thứ hai, ngày 7 tháng 8
Pháo kích của Hezbollah vào Kfar Giladi và Haifa, cũng như các cuộc tấn công của Israel tại Liban, vẫn tiếp tục trong cuộc xung đột Israel-Liban.
Thứ ba, ngày 8 tháng 8
Núi lửa Mayon gần thành phố Legazpi (Philippines) đe dọa phun lửa, làm hơn 30.000 người phải sơ tán.
Thứ tư, ngày 9 tháng 8
Tại Thành phố Mexico (México), những người ủng hộ ứng cử viên tổng thống Andrés Manuel López Obrador tiếp tục biểu tình phản đối kết quả bầu cử.
Thứ năm, ngày 10 tháng 8
Cảnh sát Thành phố của Luân Đôn tuyên bố rằng họ đã phá âm mưu khủng bố nổ bom trên nhiều chuyến bay từ Anh qua Hoa Kỳ.
1,5 triệu người phải sơ tán và ít nhất 106 người thiệt mạng khi cơn bão Saomai (Sao Mai) đổ bộ vào tỉnh Triết Giang ở miền đông Trung Quốc.
Thứ sáu, ngày 11 tháng 8
Hội đồng Bảo an LHQ nhất trí thông qua Nghị quyết 1701 kêu gọi Israel và Hezbollah ngừng bắn.
Thứ ba, ngày 15 tháng 8
Te Arikinui Phu nhân Te Atairangikaahu, Nữ hoàng của người Māori, qua đời tại Ngaruawahia (New Zealand) và kết thúc triều đại 40 năm.
Thứ tư, ngày 16 tháng 8
Ủy ban của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế đề nghị định nghĩa mới của thuật ngữ hành tinh để bao gồm Ceres, Charon, và 2003 UB313, cũng như nhiều thiên thể ngoài Sao Hải Vương khác, vào Hệ Mặt Trời. BBC
Chủ nhật, ngày 20 tháng 8
Cuộc bầu cử tổng thống tại Cộng hòa Dân chủ Congo dẫn đến cuộc bầu lại vì không có ứng cử viên nào được đa số phiếu.
Các nhà toán học Andrei Okounkov, Grigory Perelman, Terence Đào, và Wendelin Werner đoạt Giải thưởng Fields tại Đại hội Nhà toán học Quốc tế ở Madrid (Tây Ban Nha), nhưng Perelman từ chối giải thưởng này.
Thứ năm, ngày 24 tháng 8
Hiệp hội Thiên văn Quốc tế từ bỏ đề nghị của tuần trước và biểu quyết tái định nghĩa thuật ngữ "hành tinh"; định nghĩa mới giáng cấp Sao Diêm Vương thành "hành tinh lùn" và làm Hệ Mặt Trời chỉ có tám hành tinh.
Thứ bảy, ngày 26 tháng 8
Chính phủ Uganda và Quân đội Kháng chiến của Chúa đồng ý ngừng bắn để cố gắng kết thúc cuộc xung đột 20 năm.
Thứ năm, ngày 31 tháng 8
Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad tuyên bố rằng Iran có quyền sử dụng công nghệ hạt nhân, vào ngày giới hạn do Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã định.
Cảnh sát Na Uy lấy lại hai bức tranh Edvard Munch nổi tiếng bị cướp, Skrik (Tiếng Thét) và Madonna. |
Họ Ô tác (danh pháp khoa học: Otididae) là một số loài chim lớn sinh sống trên đất liền, chủ yếu gắn liền với các vùng đồng cỏ thảo nguyên khô và rộng tại Cựu Thế giới, theo truyền thống xếp trong bộ Sếu (Gruiformes), nhưng nghiên cứu phát sinh chủng loài gần đây cho thấy việc xếp như vậy làm cho bộ Sếu trở thành đa ngành và người ta tách các loài ô tác ra xếp trong bộ của chính chúng là Otidiformes
Đặc điểm
Các loài ô tác là chim ăn tạp và chim cơ hội, ăn các loại lá, chồi, hạt, quả, động vật không xương sống và động vật có xương sống nhỏ. và làm tổ trên mặt đất, làm cho trứng và con non trở nên rất dễ bị tổn thương trước những kẻ săn mồi. Chúng đi lại vững vàng trên đôi chân to khỏe có các ngón lớn trong khi tìm kiếm thức ăn. Chúng có các cánh dài và rộng với các đầu cánh giống như các ngón tay với kiểu bay nổi bật, nhưng phần lớn các loài ưa thích đi hoặc chạy hơn là bay. Nhiều loài có cách thức thể hiện mời gọi quan hệ tình dục lạ mắt, như phình to túi cổ họng hay dựng đứng các mào lông trau chuốt tỉ mỉ. Chim mái đẻ 3-5 trứng lốm đốm sẫm màu trong những chỗ chúng cào bới vào lòng đất và ấp trứng một mình. Ngoài mùa sinh sản, ô tác thích sống thành đàn, nhưng chúng rất thận trọng và rất khó tiếp cận trong khu vực sinh sống thoáng đãng mà chúng ưa thích.
Phần lớn các loài đang bị suy giảm hoặc đang nguy cấp do bị mất môi trường sống và bị săn bắn, thậm chí ngay cả tại các khu vực về mặt danh nghĩa thì chúng được bảo vệ. Một quần thể đáng kể chim ô tác sinh sống tại Hungary, nơi mà khu vực thảo nguyên Đông Âu kết thúc, gần thị trấn Dévaványa. Một quần thể lớn khác khoảng 6.000-7.000 con sống gần Saratov thuộc Nga. Tại Việt Nam, loài duy nhất được tìm thấy là Houbaropsis bengalensis (đồng nghĩa: Eupodotis bengalensis) với tên gọi là chim ô tác. Tại Trung Quốc, chim ô tác có tên gọi chung là bảo (鴇). Người Trung Quốc xưa coi chúng là các loài chim dâm dật.
Chi và loài
Afrotis
Afrotis afra: ô tác đen
Afrotis afraoides: ô tác đuôi trắng
Ardeotis (gộp cả Neotis)
Ardeotis arabs: ô tác Ả Rập
Ardeotis australis: ô tác Australia
Ardeotis denhami (đồng nghĩa: Neotis denhami): ô tác Denham
Ardeotis heuglinii (đồng nghĩa: Neotis heuglinii): ô tác Heuglin
Ardeotis kori: ô tác Kori
Ardeotis ludwigii (đồng nghĩa: Neotis ludwigii): ô tác Ludwig
Ardeotis nigriceps: ô tác Đại Ấn, tại Ấn Độ.
Ardeotis nuba (đồng nghĩa: Neotis nuba): ô tác Nubia
Chlamydotis
Chlamydotis macqueenii: ô tác Macqueen
Chlamydotis undulata: ô tác Houbara
Eupodotis
Eupodotis caerulescens: ô tác lam
Eupodotis senegalensis: ô tác bụng trắng
Heterotetrax (tách ra từ Eupodotis)
Heterotetrax humilis (đồng nghĩa: Eupodotis humilis): ô tác nâu nhỏ
Heterotetrax rueppellii (đồng nghĩa: Eupodotis rueppellii): ô tác Rüppell
Heterotetrax vigorsii (đồng nghĩa: Eupodotis vigorsii): ô tác Karoo
Houbaropsis
Houbaropsis bengalensis: ô tác Bengal
Lissotis
Lissotis hartlaubii: ô tác Hartlaub
Lissotis melanogaster: ô tác bụng đen
Lophotis
Lophotis gindiana: ô tác mào nâu sẫm
Lophotis ruficrista: ô tác mào đỏ
Lophotis savilei: ô tác Savile
Otis
Otis tarda: ô tác lớn
Sypheotides
Sypheotides indicus: ô tác Ấn Độ nhỏ
Tetrax
Tetrax tetrax: ô tác châu Âu nhỏ
Ô tác Macqueen gần đây đã được tách ra từ ô tác Houbara như là một loài riêng rẽ.
Phát sinh chủng loài
Cây phát sinh chủng loài vẽ theo Cohen (2011).
Chú thích |
Từ điển là danh sách các từ, ngữ được sắp xếp thành các từ vị chuẩn (lemma). Một từ điển thông thường cung cấp các giải nghĩa các từ ngữ đó hoặc các từ ngữ tương đương trong một hay nhiều thứ tiếng khác. Ngoài ra còn có thể có thêm thông tin về cách phát âm, các chú ý ngữ pháp, các dạng biến thể của từ, lịch sử hay từ nguyên, cách sử dụng hay các câu ví dụ, trích dẫn.
Đối với các ngôn ngữ sử dụng ký tự Latin thì các từ có thể được sắp xếp theo thứ tự chữ cái. Đối với các ngôn ngữ tại Đông Á chịu ảnh hưởng của chữ Hán, sử dụng ký tự là đơn vị ngôn ngữ có nghĩa thì phân biệt từ điển và tự điển (tự=chữ, từ điển rộng hơn tự điển và bao hàm tự điển). Thông thường từ điển được trình bày dưới dạng sách, ngày nay từ điển còn được số hóa và cung cấp dưới dạng phần mềm máy tính hay truy cập trực tuyến trên web, trên trình nhắn tin nhanh, hay có trong các thiết bị số cá nhân như PDA, điện thoại...
Từ điển là nơi giải thích thông tin về ngôn ngữ của con người một cách dễ hiểu và khách quan nhất. Từ điển có nhiệm vụ, nhất là từ điển bách khoa toàn thư, giúp người xem hiểu và vận dụng (sử dụng) chính xác một từ, ngữ, thuật ngữ, thành ngữ, khái niệm, phạm trù hay một vấn đề cụ thể trong đời sống xã hội con người. Từ nhiệm vụ này, từ điển đã được hình thành dưới nhiều dạng thức tồn tại khác nhau, góp phần giải quyết (hay đáp ứng) một hoặc nhiều nhu cầu khác nhau trong đời sống xã hội loài người. Đến nay, đã có các dạng thức từ điển như: từ điển bách khoa toàn thư, từ điển luật học, từ điển triết học, từ điển thành ngữ, từ điển song ngữ, từ điển thần học, từ điển tiếng lóng, từ điển ngôn ngữ phụ nữ...
Một số đặc tính tiêu biểu của từ điển
Tính chuẩn mực Từ điển là nơi cung cấp thông tin hoặc giải thích một sự vật hay hiện tượng một cách ngắn gọn và chính xác nhất. Trừ phương pháp định nghĩa theo lối hàn lâm, bác học (phương pháp này sử dụng phổ biến trong từ điển triết học hay những từ điển chuyên ngành khác), phương pháp kiến giải của hầu hết từ điển là luôn dùng những ngôn từ đơn giản và phổ biến nhất trong xã hội. Thông tin trong từ điển luôn được kiểm chứng và thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng xã hội.
Tính tương đối Từ điển chứa đựng những thông tin đã có, đã được kiểm chứng - do đó, nó luôn bị thay đổi hoặc bổ sung theo thời gian, cùng với sự thăng trầm của sự vật hoặc hiện tượng mà nó đã đề cập. Từ điển luôn đi sau những thay đổi hoặc tiến bộ của xã hội loài người.
Hiện nay đã có rất nhiều loại từ điển khác nhau. Chúng gần như hoàn toàn độc lập với nhau. Nhưng, như Ladislav Zgusta đã nhận xét ngay ở lời mở đầu công trình về từ điển học của mình (1971), một trong những đặc điểm lạ lùng nhất của từ điển học là các nhà từ điển rất ít trao đổi kinh nghiệm với nhau. Sự phân lập này có thể dẫn đến hiện tượng mâu thuẫn về nội dung của cùng một vấn đề trong các từ điển khác nhau. Như vậy, tính tương đối của tự điển có thể phát sinh khi xem xét về cùng một vấn đề ở hai từ điển khác nhau.
Từ điển mang đậm phong cách của nhóm tác giả biên soạn ra nó. Tính tương đối của từ điển còn có nguyên nhân từ sự khác biệt của mỗi nền văn hóa - văn minh, ngôn ngữ, dân tộc, quốc gia trên thế giới. Mỗi thành tố trên có thể lý giải về cùng một hiện tượng xã hội theo nhiều quan điểm, tư tưởng hay chính kiến khác nhau. Do đó, có thể cùng một khái niệm, nhưng tùy theo mỗi nền văn hóa khác nhau, có thể có cách sử dụng (vận dụng) khác nhau.
Như vậy, tính tương đối của từ điển có thể xuất phát từ sự chậm trễ khi cập nhật, sự phân lập của các nhà từ điển học hoặc sự khác biệt của các nền văn hóa trên Trái Đất.
Tính đa dạng Thông tin trong từ điển ghi nhận tất cả sự nhìn nhận, đánh giá, sử dụng hay vận dụng một khái niệm (phạm trù) theo nhiều hướng khác nhau. Sự đa dạng này có nguồn gốc từ sự khác biệt giữa các nền văn hóa, văn minh và tiến bộ của các cộng đồng, dân tộc hoặc các quốc gia trên thế giới.
Tính trung lập Tính đa dạng của từ điển bắt buộc nó phải thể hiện quan điểm trung lập trong tất cả các vấn đề mà nó đã đề cập. Bản thân sự đa dạng luôn hàm chứa nhiều mâu thuẫn hay đối lập nhau. Do đó, tính trung lập của từ điển còn nhằm tránh các xung đột có thể xảy ra giữa các nền văn hóa, văn minh trên Trái Đất. Trừ từ điển của các nước có mô hình một đảng chính trị lãnh đạo, hầu hết các từ điển khác đều tôn trọng nguyên tắc trung lập này.
Tính lịch sử Trong từ điển luôn chứa đựng đầy đủ sự hình thành và phát triển của một khái niệm hay phạm trù mà nó lưu giữ. Ở đó, người xem tiếp cận được cả cách sử dụng (vận dụng) từ ngữ từ lúc sơ khai cho đến hiện tại.
Thể loại từ điển bách khoa toàn thư
Hiện nay, từ điển bách khoa toàn thư có vô số bài viết về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội loài người. Tuy nhiên, đại thể có thể phân thành hai nhóm lớn như sau:
Nhóm cung cấp kiến thức: Đó là những bài viết cung cấp kiến thức cho cộng đồng về những vật, nhân vật, sự kiện lịch sử, địa danh cụ thể hay một tổ chức kinh tế, chính trị có thực trong xã hội. Nhóm bài viết này luôn bám sát thực tế, chuẩn mực và có thể kiểm chứng được. Ví dụ như: từ điển, cầu, Tháp Eiffel,sự kiện 30/4/1975, Huế, Nguyễn Đình Chiểu, Google là gì? Wikipedia là gì? Đảng cộng sản là gì? Chiến tranh Việt Nam... Nhóm bài viết này có phổ biến trong từ điển bách khoa hay từ điển bách khoa toàn thư.
Nhóm giải thích từ, ngữ: Đây là hướng đi đầu tiên và phổ biến nhất của từ điển. Theo nhóm này, khi tiếp cận từ điển nói chung, độc giả có thể hiểu và vận dụng chính xác một từ, chữ, khái niệm, thuật ngữ hay thành ngữ đã có trong xã hội. Nhóm bài viết này có trong mọi loại từ điển khác nhau.
Ngoài ra, trong nhóm làm nhiệm vụ giải thích này, còn có nhiều bài viết nhằm giải thích các hiện tượng xảy ra trong cơ thể con người, gia đình, trong tự nhiên hay trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội loài người... Ví dụ như: Sức ỳ trong tư duy là gì? Lạm phát là gì? Thủy triều là gì? Cách mạng là gì?... Nhóm bài viết này có phổ biến trong từ điển bách khoa toàn thư.
Từ điển trực tuyến
Từ điển trực tuyến là một website cho phép người dùng tra cứu các từ hoặc cụm từ theo nhiều ngôn ngữ khác nhau.
Ưu điểm
Cho phép truy cập trực tuyến, mọi lúc, mọi nơi
Phát hành miễn phí, tất cả mọi người đều có thể sử dụng.
Thường xuyên được cập nhật từ mới.
Sản phẩm của cộng đồng: bạn có thể đóng góp, có thể sửa đổi.
Tra cứu đa ngôn ngữ: Anh - Pháp - Nhật - Hàn Quốc - Việt...
Nhược điểm
Không truy cập được nếu không có Internet
Danh sách các từ điển chính
Tiếng Anh
Oxford English Dictionary
Concise Oxford Dictionary
New Oxford Dictionary of English
New Oxford American Dictionary
Canadian Oxford Dictionary
The American Heritage Dictionary of the English Language
ITP Nelson Canadian Dictionary
Webster's New Universal Unabridged Dictionary
A Dictionary of the English Language của Samuel Johnson (prescriptive)
Noah Webster's An American Dictionary of the English Language (prescriptive)
Webster's Third New International Dictionary (descriptive)
The Century Dictionary
Brewer's Dictionary of Phrase and Fable
Macquarie Dictionary, The, từ điển tiếng Anh tại Úc
Chambers Dictionary
Collins COBUILD
Collins English Dictionary
Gage Canadian Dictionary
Longman Dictionary of Contemporary English
Black's Law Dictionary, từ điển thuật ngữ luật
Law Dictionary - có các thuật ngữ ngành luật lấy từ Bouvier Law Dictionary
Dean's Law Dictionary - phát sinh bằng cách dùng các thuật toán thông minh nhân tạo với hơn 185.000 mục từ và 300.000 câu ví dụ
Hello Minasan Dictionary - Từ điển phổ thông có khả năng lưu trử trạng thái và ghi chú học tập giúp người dùng xem lại
Webster's New World Dictionary
Tiếng Pháp
Le dictionnaire de l'Académie française (prescriptive)
Dictionnaire alphabétique et analogique de la langue française ("Le Robert") (descriptive)
Petit Robert (thể rút gọn)
Le Trésor de la Langue Française Informatisé (TLFi) http://atilf.atilf.fr/tlf.htm (từ điển trực tuyến miễn phí)
Dictionnaire de la langue française (Littré)
Lexis, Dictionnaire Larousse de la langue française
Từ điển Larousse nhỏ (Le Petit Larousse hay Le Nouveau Petit Larousse Illustré)
Tiếng Trung
Nhĩ Nhã (爾雅), tự điển tiếng Trung Quốc cổ nhất còn tồn tại
Thuyết văn giải tự (說文解字), tự điển tiếng Trung Quốc đầu tiên
Khang Hi tự điển (康熙字典), tự điển thời nhà Thanh
Vận Thư, sắp xếp các từ theo âm vận
Tân Hoa tự điển'' (新華字典), tự điển bán chạy nhất thế giới
Tiếng Việt
Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục
Wiktionary tiếng Việt, từ điển mở trực tuyến |
Vũ Văn Mẫu (1914 – 1998) là học giả lớn về Luật Việt Nam, chính trị gia nổi tiếng trước năm 1975 ở Sài Gòn. Ông từng là Thượng Nghị sĩ trong Liên danh Hoa Sen, Khối Dân tộc, từng giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao rồi làm "Thủ tướng 1 ngày" của Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra ông còn là Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn, giáo sư thực thụ trường Đại học Luật khoa Sài Gòn.
Tiểu sử
Thân thế
Ông sinh ngày 25 tháng 7 năm 1914 tại làng Quất Động, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là xã Quất Động, huyện Thường Tín thuộc về thành phố Hà Nội) trong một gia đình tư sản. Nhà ông vốn có nghề thêu, sớm rời quê hương ra định cư ở Hà Nội, mở cửa hàng thêu, hiệu Phúc Thái ở 24 phố Hàng Nón. Ông là con thứ hai trong nhà, trên ông là một bà chị, dưới ông còn 2 em trai và 2 em gái. Cụ thân sinh không may mất sớm, mẹ ông ở vậy, một mình tần tảo nuôi 6 con ăn học nên người. 3 anh em gồm Luật sư Vũ Văn Mẫu và Tiến sĩ Lý Hóa Vũ Như Canh, dược sĩ Vũ Thị Sửu mở hiệu thuốc tây ở phố Hàng Da.
Ông thông minh, học giỏi, thi đỗ vào trường Bưởi. Sau khi đỗ Tú tài I, ông nộp đơn thi vào trường Albert Sarraut theo học lớp Toán sơ cấp (Math. Elem), năm 1934 ở tuổi 20 đỗ Bac. Math. hạng Bình thứ (mention Assez Bien), không có ai đỗ hạng Bình (mention Bien). Như mọi thanh niên thuộc gia đình danh giá thời bấy giờ, ông được gia đình đưa sang học ở Pháp và tốt nghiệp Đại học Luật khoa Paris, Pháp. Ông tiếp tục theo học tại đây cho đến khi lấy được bằng Thạc sĩ và trở về hành nghề luật tại Hà Nội.
Từ năm 1934 đến năm 1937, ông theo học luật tại Trường Đại học Luật Đông Dương thuộc Viện Đại học Đông Dương. Đỗ Cử nhân Luật rồi ông thi tri huyện, được bổ làm tri huyện huyện Gia Khánh (Ninh Bình), sau chuyển đến Gia Bình (Bắc Ninh). Ông nuôi chí tiếp tục học, đăng ký học Cao học ở trường Đại học Luật, thường đạp xe về thư viện trường Luật mượn tài liệu tự học tập nghiên cứu, thi đỗ luôn 2 bằng Cao học, trong đó có bằng Cao học Kinh tế. Thống sứ Bắc Kỳ thông cảm với ông tri huyện trẻ ham học, chuyển ông về làm tri huyện Đông Anh, gần Hà Nội hơn.
Vợ ông thuộc gia đình gia giáo, danh giá, là bà Hoàng Thị Nguyệt My, con gái cụ Cử Sen Hồ Hoàng Gia Luận (em trai Tổng đốc Hà đông Hoàng Trọng Phu).
Sau Cách mạng Tháng Tám ông ở nhà, âm thầm chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của giáo sư Camerlynck, năm 1948 sang Paris bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Luật; trở về nước, ông được mời làm giảng sư Luật ở Trường Đại học Luật Đông Dương.
Sau đó ông về nước, tiếp tục giảng dạy ở Trường Đại học Luật Đông Dương; em ông, Tiến sĩ Lý Hóa Vũ Như Canh, cũng đã rời Đại học Paris về dạy ở trường Đại học Khoa học Hà Nội từ hai năm trước.
Trưởng khoa Luật đầu tiên Đại học Sài Gòn
Năm 1954, theo hiệp định Genève (7-1954) Việt Nam bị chia cắt làm 2 miền, ông di tản vào Sài Gòn, trong khi em ông, Tiến sĩ Vũ Như Canh, quyết định ở lại Hà Nội. Vào Sài Gòn, ông được bổ làm Chánh Nhất Tòa Phá Án, đồng thời tham gia giảng dạy ở khoa Luật trường Đại học Sài Gòn, làm Trưởng khoa Luật, trưởng khoa đầu tiên người Việt Nam. Ông nổi tiếng là một học giả lớn về Luật, là chuyên gia về Dân Luật và Cổ Luật, thành thạo nhiều ngoại ngữ Pháp, Anh, La Tinh, Hán, uyên thâm cả về cựu học lẫn tân học, được đồng nghiệp kính trọng, sinh viên tín nhiệm, quý mến.
Trở thành Bộ trưởng Ngoại giao
Sau khi thực hiện cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, tân tổng thống Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và mời ông giữ chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa. Ông giữ chức vụ này trong 8 năm, từ 1955 đến 1963. Trong cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, ông đã từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối. Khi ông cố gắng rời Việt Nam Cộng hòa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật Ấn Độ, thì bị bắt và bị quản thúc.
Mâu thuẫn với chế độ Ngô Đình Diệm
Vốn là một nhà nghiên cứu về luật học, ông không quan tâm nhiều đến những biến động của thời cuộc bấy giờ. Tuy nhiên, là một Phật tử với pháp danh Minh Không, ông ra sức phản đối những biện pháp đàn áp khốc liệt của chính phủ Ngô Đình Diệm với Phật giáo. Ông cạo trọc đầu và sau đó từ chức Bộ trưởng ngày 22 tháng 8 năm 1963 để phản đối hành động tấn công các chùa Phật giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm.
Trở về Việt Nam
Suốt thời gian biến động miền Nam 1964-1967, ông hoàn toàn không tham gia vì công tác ở đại sứ tại nước ngoài. Mãi đến khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền tổng thống, ông mới được triệu hồi về nước. Ông trở thành Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Năm 1972, ông tranh cử Thượng nghị sĩ trong liên danh Hoa Sen và đắc cử.
Thủ tướng 1 ngày
Trong suốt nhiệm kỳ của mình, ông luôn hoạt động tích cực cho phong trào hòa bình và hòa giải cho dân tộc. Chính vì vậy, khi tướng Dương Văn Minh trở thành tổng thống, ông được đề cử cho chức vụ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa với mục đích tham gia thương lượng chấm dứt chiến tranh. Tuy nhiên, ông chỉ ở trong chức vụ chỉ vỏn vẹn được một ngày thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trước sức tiến công của quân đội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ông phải cùng tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu thêm nữa.
Cuối đời
Cũng như tướng Dương Văn Minh, ông là người ôn hòa, ủng hộ chủ trương bàn giao cho chính quyền quân Giải phóng. Do vậy, chính quyền Cách mạng chỉ thực hiện các biện pháp giám sát nhưng không khắt khe với ông. Sau khi tình hình ổn định, ông được cho phép xuất cảnh sang Pháp và định cư ở đây cho đến tận cuối đời. Ông mất ngày 20 tháng 8 năm 1998 tại Paris, thọ 84 tuổi.
Ông là một học giả lớn về luật của Việt Nam, uyên thâm cựu và tân học, biết nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Hán và là một giáo sư giảng giải luật rất hấp dẫn. Tác phẩm của ông còn được René David và John E.C Brierley trích dẫn trong cuốn sách nổi tiếng về luật so sánh Major Legal Systems in the World Today.
Gia đình
Ông bà sinh hạ được 5 con, tất cả đều thành đạt, hầu hết định cư ở Pháp. Ái nữ là bà Vũ Thị Việt Hương theo nghề của cha, thi đỗ vào trường Đại học Luật Sài Gòn, rồi đỗ Tiến sĩ Luật, trở về trường cũ giảng dạy, chuyên về Luật Quốc tế và Luật Đối sánh.
Trước tác tiếng Việt
Dân luật khái luận, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Dân luật lược giảng, 2 tập, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Pháp luật diễn giảng, 2 tập, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử diễn giảng, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, 1973
Cổ luật Việt Nam thông khảo, 2 tập, 1974
Tiểu từ điển luật và kinh tế 350 trang; đồng tác giả với Hồ Thới Sanh, Lê Đình Chân, Lưu Văn Bình, Nguyễn Cao Hách, 1973
Tự điển Hiến luật và Dân luật, đồng tác giả với Lê Đình Chân
Tự điển Pháp-Việt: pháp chính kinh tài xã hội 895 trang; Viện Đại học Vạn hạnh xuất bản, 1970
Tự điển Pháp-Việt: pháp luật, chính trị và kinh tế 125 trang, 1955.
Năm 1989 khi lấy hiệu là Minh Không, ông có viết bộ sách nói về "Hành trình mở cõi của dân tộc Việt" gồm 3 tập:
Tập 1: Việt - ChămPa
Tập 2: Việt - Phù Nam
Tập 3: Việt - Campuchia
Sách được đánh máy trên khổ giấy A4, không rõ ông đã hoàn thành chưa.
Chú thích |
Xăng hay Ét xăng () là một chất lỏng dễ cháy có nguồn gốc từ dầu mỏ, được sử dụng chủ yếu làm nhiên liệu trong hầu hết các động cơ đốt trong. Nó bao gồm chủ yếu là các hợp chất hữu cơ thu được từ quá trình chưng cất phân đoạn dầu mỏ, được tăng cường với nhiều loại phụ gia.
Đặc tính của hỗn hợp xăng đặc biệt để chống cháy quá sớm (nguyên nhân gây ra hiện tượng kích nổ máy và làm giảm hiệu quả trong động cơ piston) được đo bằng chỉ số octane, được sản xuất theo nhiều cấp độ. Sau khi được sử dụng rộng rãi để tăng chỉ số octane, chì ê-ty-len (dùng chống kích nổ) và các hợp chất chì khác không còn được sử dụng ở hầu hết các lĩnh vực (chúng vẫn được sử dụng trong hàng không và đua xe hơi). Các hóa chất khác thường được thêm vào xăng để cải thiện tính ổn định và hiệu suất của hóa chất, kiểm soát sự ăn mòn và cung cấp hệ thống làm sạch nhiên liệu. Xăng có thể chứa các hóa chất chứa oxy như ethanol, MTBE hoặc ETBE để cải thiện quá trình đốt cháy.
Xăng có thể xâm nhập vào môi trường không có tổ chức, cả dưới dạng lỏng và hơi, do rò rỉ và xử lý trong quá trình sản xuất, vận chuyển và giao hàng (ví dụ: từ bể chứa, từ sự cố tràn, v.v.). Là một ví dụ về các nỗ lực kiểm soát rò rỉ như vậy, nhiều bể chứa dưới lòng đất được yêu cầu phải có các biện pháp rộng rãi để phát hiện và ngăn chặn rò rỉ đó. Xăng chứa benzen và các chất gây ung thư được biết đến khác.
Lịch sử
Các động cơ đốt trong đầu tiên phù hợp để sử dụng trong các ứng dụng vận chuyển, được gọi là động cơ Otto, được phát triển ở Đức trong quý cuối của thế kỷ 19. Nhiên liệu cho những động cơ đầu tiên này là một hydrocarbon tương đối dễ bay hơi thu được từ khí than. Với điểm sôi gần (octaneee sôi cao hơn khoảng 40 °C), nó rất phù hợp cho bộ chế hòa khí sớm (thiết bị bay hơi). Sự phát triển của bộ chế hòa khí "vòi phun" cho phép sử dụng nhiên liệu ít bay hơi hơn. Những cải tiến hơn nữa về hiệu suất động cơ đã được thử ở các tỷ số nén cao hơn, nhưng những nỗ lực ban đầu đã bị chặn bởi vụ nổ nhiên liệu sớm, được gọi là kích nổ.
Năm 1891, quá trình lọc dầu Shukhov đã trở thành phương pháp thương mại đầu tiên trên thế giới để phá vỡ các hydrocarbon nặng hơn trong dầu thô để tăng tỷ lệ sản phẩm nhẹ hơn so với chưng cất đơn giản.
1903 đến 1914
Sự phát triển của xăng theo sự phát triển của dầu mỏ là nguồn năng lượng thống trị trong thế giới công nghiệp hóa. Trước Thế chiến thứ nhất, Anh là cường quốc công nghiệp lớn nhất thế giới và phụ thuộc vào hải quân của mình để bảo vệ việc vận chuyển nguyên liệu thô từ các thuộc địa của mình. Đức cũng đang công nghiệp hóa và, giống như Anh, thiếu nhiều tài nguyên thiên nhiên phải được chuyển đến nước sở tại. Đến những năm 1890, Đức bắt đầu theo đuổi chính sách nổi tiếng toàn cầu và bắt đầu xây dựng một hải quân để cạnh tranh với Anh. Than là nhiên liệu cung cấp năng lượng cho hải quân của hai nước. Mặc dù cả Anh và Đức đều có trữ lượng than tự nhiên, nhưng những phát triển mới về dầu làm nhiên liệu cho tàu đã thay đổi tình hình. Tàu chạy bằng than là một điểm yếu chiến thuật vì quá trình nạp than cực kỳ chậm và bẩn và khiến con tàu hoàn toàn dễ bị tấn công, và nguồn cung than không đáng tin cậy tại các cảng quốc tế khiến những chuyến đi đường dài trở nên không thực tế. Những lợi thế của dầu mỏ đã sớm tìm thấy hải quân trên thế giới chuyển đổi sang dầu, nhưng Anh và Đức có rất ít trữ lượng dầu trong nước. Cuối cùng, Anh đã giải quyết được sự phụ thuộc vào dầu của hải quân bằng cách đảm bảo dầu từ Royal Dutch Shell và Công ty dầu mỏ Anglo-Persian và điều này được xác định xăng đến từ đâu và chất lượng xăng.
Trong thời kỳ đầu phát triển động cơ xăng, máy bay đã buộc phải sử dụng xăng xe cơ giới vì xăng hàng không chưa tồn tại. Những nhiên liệu ban đầu này được gọi là xăng chưng cất trực tiếp và là sản phẩm phụ từ quá trình chưng cất một loại dầu thô duy nhất để sản xuất dầu hoả. Xăng chưng cất trực tiếp sớm nhất là kết quả của việc chưng cất dầu thô phía đông và không có sự pha trộn của các sản phẩm chưng cất từ các loại rượu khác nhau. Thành phần của những nhiên liệu ban đầu này chưa được biết và chất lượng rất khác nhau vì dầu thô từ các mỏ dầu khác nhau xuất hiện trong các hỗn hợp hydrocarbon khác nhau theo các tỷ lệ khác nhau.
Các hiệu ứng động cơ được tạo ra bởi quá trình đốt cháy bất thường (kích nổ động cơ và đánh lửa trước) do nhiên liệu cấp thấp chưa được xác định, và kết quả là không có đánh giá nào về khả năng chống cháy bất thường cho xăng. Đặc điểm chung mà theo đó các loại xăng ban đầu được đo là trọng lượng riêng thông qua thang Baumé và sau đó là độ bay hơi (xu hướng hóa hơi) được chỉ định theo các điểm sôi, đã trở thành trọng tâm chính cho các nhà sản xuất xăng dầu. Những loại xăng dầu thô phía đông ban đầu có kết quả thử nghiệm Baumé cao (65 tới 80 độ Baumé) mà được gọi là "High-Test" Pennsylvania hay đơn giản là các loại xăng "High-Test". Chúng thường được sử dụng cho động cơ máy bay.
Đến năm 1910, sản xuất xe hơi tăng và tiêu thụ xăng tăng lên đã tạo ra nhu cầu lớn hơn về xăng. Ngoài ra, điện khí hóa ngày càng tăng tạo ra nhu cầu dầu hỏa giảm, tạo ra vấn đề về nguồn cung. Có vẻ như ngành công nghiệp dầu đang phát triển sẽ bị mắc kẹt trong việc sản xuất dầu hỏa quá mức và xăng sản xuất kém vì chưng cất đơn giản không thể thay đổi tỷ lệ của hai sản phẩm từ bất kỳ loại dầu thô nào. Giải pháp xuất hiện vào năm 1911, khi sự phát triển của quy trình Burton cho phép cracking nhiệt dầu thô, làm tăng năng suất phần trăm của xăng từ các hydrocarbon nặng hơn. Điều này được kết hợp với việc mở rộng thị trường nước ngoài để xuất khẩu dầu hỏa dư thừa mà thị trường trong nước không còn cần thiết. Những loại xăng "cracking nhiệt" mới này được cho là không có tác dụng có hại và sẽ được thêm vào loại xăng chưng cất trực tiếp. Ngoài ra còn có cách thực hành pha trộn các chất chưng cất nặng và nhẹ để đạt được kết quả đọc Baumé mong muốn và gọi chung là các loại xăng "pha trộn".
Dần dần, sự biến động đã đạt được sự ưu ái so với thử nghiệm Baumé, mặc dù cả hai sẽ tiếp tục được sử dụng kết hợp để chỉ định một loại xăng. Cuối tháng 6 năm 1917, Standard Oil (nhà máy lọc dầu thô lớn nhất tại Hoa Kỳ vào thời điểm đó) tuyên bố rằng tài sản quan trọng nhất của xăng dầu là sự biến động của nó. Người ta ước tính rằng mức đánh giá tương đương với các loại xăng chưng cất trực tiếp này dao động từ 40 đến 60 octaneee và "Thử nghiệm cao", đôi khi được gọi là "cấp chiến đấu", có thể trung bình từ 50 đến 65 octaneee.
Xăng sinh học E5
Xăng sinh học sử dụng ethanol như là một loại phụ gia nhiên liệu pha trộn vào xăng thay phụ gia chì. Xăng sinh học là hỗn hợp của xăng A92 pha 5% ethanol.
Từ ngày 1/1/2015, xăng E5 được bán rộng rãi trên toàn Việt Nam.
Tuy nhiên xăng E5 lại không thích hợp cho các xe tay ga, xe mo tô có tỉ số nén cao (các loại xe tay ga và xe hơi mà hãng bắt buộc sử dụng xăng A95 thì không nên sử dụng E5).
Xăng E5 chứa ethanol dễ đốt cháy nhưng lượng tỏa nhiệt thấp hơn các loại xăng thông thường. Xe sử dụng xăng E5 sẽ chạy không vọt, tài xế đạp ga nhiều hơn gây tốn nhiên liệu và sản sinh lượng khí thải lớn hơn. Việc hạn chế khí thải độc của xăng E5 cũng mất đi. Các dòng xe đời cũ sử dụng bộ chế hòa khí nếu dùng xăng E5 có thể gặp khó khăn, đường ống dẫn xăng, ron..., bằng nhựa hoặc cao su khi sử dụng xăng E5 lâu ngày có thể bị bào mòn gây rò rỉ xăng, cháy xe. Sử dụng xăng E5 thì xe máy cũng như xe hơi không nên để bình xăng quá cạn, động cơ sẽ khó nổ.
Các chỉ tiêu chất lượng
Tính chống kích nổ
Có hai hiện tượng cháy có thể xảy ra:
Cháy bình thường
Cháy kích nổ
Chỉ số octan của xăng biểu hiện tính chống kích nổ của xăng. Xăng có trị số octan càng cao thì tính chống kích nổ càng cao. Xăng có trị số octan cao sử dụng cho động cơ có tỉ số nén cao. Nếu sử dụng xăng có trị số octan thấp cho xe có tỉ số nén cao sẽ gây hiện tượng octan háy kích nổ. Nếu sử dụng xăng có trị số octan cao cho xe có tỉ số nén thấp thì xăng sẽ cháy khó cháy, cháy không hết tạo cặn than làm bẩn máy, hao xăng. Chỉ số octan thấp nhất là 92 và cao nhất đang sử dụng là 98.
Tính bay hơi thích hợp
Xăng muốn cháy được trong máy thì cần phải bay hơi, trộn với một lượng oxy vừa đủ để đạt được hiệu suất đốt cao nhất, đối với động cơ đốt trong, chúng được trộn với nhau thông qua bộ chế hòa khí.
Nếu xăng bay hơi không thích hợp thì máy sẽ không phát huy được hết công suất, hao xăng nhiều và gặp phải những sự cố kỹ thuật sau:
Hiện tượng nghẹt xăng hay nút hơi
Hiện tượng ngộp xăng (sặc xăng)
Tính ổn định hóa học cao
Khả năng giữ vững bản chất hóa học chống lại ảnh hưởng của môi trường xung quanh gọi là tính ổn định hóa học của xăng.
Tính ổn định hóa học của xăng bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố: nhiệt độ, diện tích tiếp xúc với không khí, độ sạch và khô của vật chứa, mức độ tồn chứa và thời gian tồn chứa
Xăng có hàm lượng keo nhựa càng cao thì có tính ổn định hóa học càng thấp.
Không có sự ăn mòn, tạp chất cơ học và nước
Xăng có tính ăn mòn kim loại do sự có mặt của các hợp chất lưu huỳnh, các axít, keo nhựa chưa tinh chế hết trong quá trình chế biến.
Tạp chất cơ học có trong xăng gồm những chất từ bên ngoài rơi vào trong quá trình bơm rót, vận chuyển như cát, bụi, các chất được pha thêm trong quá trình sản xuất, chế biến như nhiên liệu cháy, chất ổn định, …
Nước từ bên ngoài rơi vào xăng trong quá trình xuất, nhập, tồn chứa....
Ứng dụng
Các loại máy móc chạy bằng xăng:
Xe máy
xe hơi
Máy bay
Máy phát điện
Các quốc gia tiêu thụ lượng xăng lớn
Hoa Kỳ
Trung Quốc
Nhật Bản |
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (tiếng Tây Ban Nha: Memoria de mis putas tristes) là tác phẩm văn học của nhà văn người Colombia Gabriel Garcia Marquez, người đã đoạt giải Nobel văn học năm 1982. Tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn dưới dạng hồi ức, cũng giống như các tác phẩm khác của ông như Trăm năm cô đơn, Sống để kể lại... Truyện có lối kể tự sự đơn giản, nhịp kể đều đều nhưng rất hấp dẫn bởi nhiều luận điểm mang tính triết lý giản dị nhưng sâu sắc. Truyện khiến người đọc liên tưởng đến tác phẩm Người đẹp say ngủ của Kawabata Yasunari. Những ông già trong tác phẩm của họ đã tìm thấy một tình cảm đẹp trong cố gắng tuyệt vọng để tìm lại tuổi trẻ. Đó chính là một niềm thương xót con người, đặc biệt là với những người phụ nữ. Cuốn sách đã được phát hành với số lượng lớn chỉ sau tuần lễ đầu tiên và hiện nay, nó đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Tóm tắt nội dung
Có một nhà báo già, sống trong một gia đình trung lưu nhưng sớm mồ côi cha mẹ. Ông sống một mình và dạy ngữ pháp tiếng Latinh cùng tiếng Tây Ban Nha. Ngoài ra, ông còn làm biên tập tin tức, viết báo và bình luận âm nhạc cho một tờ báo địa phương. Ông cứ sống như vậy cho đến trước hôm trước ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của mình, ông ao ước được có một đêm với một thiếu nữ còn trinh nguyên.
Ông đã liên hệ với bà Rosa Cabarcas, một người đàn bà ông đã quen từ hồi còn trẻ, là người chuyên mối lái các cô gái cho các vị khách, đề nghị tìm cho ông cô gái như yêu cầu. Tuy tuổi đã cao nhưng ông vẫn rất tin tưởng vào khả năng của mình. Năm hai mươi tuổi, ông có sở thích là thống kê, ghi chép lại tên họ, tuổi tác, nơi chốn và tóm tắt về hoàn cảnh và phong cách của các cô gái điếm mà ông đã từng quan hệ. Cho đến khi ông 50 tuổi, số lượng các cô gái trong danh sách của ông đã là 514 người.
Đến buổi chiều hôm trước ngày sinh nhật thì đã có thông tin từ bà Rosa Cabarcas. Cô bé này chưa đầy 14 tuổi, sẽ gặp ông sớm nhất là mười giờ đêm vì đứa bé gái còn phải cho các em ăn, ngủ và đưa bà mẹ bị liệt chân tay lên giường ngủ xong đã. Khi đến nơi gặp, đối diện với "nữ thần trinh trắng" trần trụi, mọi dục vọng đam mê bỗng tan biến. Cô bé ngủ say như chết sau khi đã thực hiện một núi công việc hằng ngày. Tối hôm đó, ông bỗng phát hiện ra "niềm thích thú thực sự khi được ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng". Ông cầu chúa giữ hộ trinh tiết cho cô bé, "vĩnh biệt mãi mãi bé gái bằng nụ hôn trên trán". Sáng hôm sau, những tưởng sẽ không gặp lại cô bé nữa, nhưng chính sự cô đơn đã kéo ông đến nhiều lần nữa đến với bé gái. Ông đặt tên cho bé gái là Delgadina. Mỗi lần đến ông cắm thêm bó hoa, hát ru, đọc truyện Hoàng tử Bé, Nghìn lẻ một đêm... cho cô nghe, mang tranh đến để treo tường trang trí căn phòng, mang đài đến cho cô nghe nhạc... và "căn phòng đã hồi sinh từ đống tro tàn và tôi đang bơi trong mối tình của Delgadina với niềm háo hức và hạnh phúc như chưa từng có trong cuộc đời trước đây của mình". Từ khi có cô bé, ông bỗng trở thành người khác. Ông đọc lại các tác phẩm cổ điển, lặn ngụp trong nền văn học lãng mạn. Nội dung các bài báo của ông bây giờ thay đổi hoàn toàn, ông đã viết các bài đó như những bức thư tình mà mỗi người đọc có thể cảm nhận như là thư của chính mình. Ông cảm thấy rất vui khi mua cho cô bé chiếc xe đạp để cô có thể đi đến chỗ đơm cúc áo hằng ngày cho khỏi mệt và trong tuần lễ đó, ông đã viết một bài báo có nhan đề "Làm thế nào để cảm thấy hạnh phúc khi ngồi trên xe đạp ở tuổi chín mươi"... Ông và cô bé như hai người sống chung và rất hiểu nhau, cùng với thời gian, cô bé vẫn tiếp tục lớn lên theo quy luật của tự nhiên.
Mọi việc vẫn tiếp diễn như vậy cho đến khi có một rắc rối lớn xảy ra tại nơi cô bé ở, nơi nhà trọ của bà Rosa. Có một vụ giết hại ông chủ ngân hàng ở đó, cảnh sát đã đến điều tra và cô bé phải đi trú ở nơi khác... |
Lê Đình Chân là một giáo sư thực thụ tại Đại học Luật khoa Sài Gòn và là Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn trước năm 1975. Ông là một chuyên gia lớn về Công pháp-Hiến luật.
Gần đây, giới Luật học Hiến pháp phía Bắc rất hay trích dẫn tác phẩm của ông. Các tác phẩm của ông có ý nghĩa to lớn với hiến pháp học viết bằng tiếng Việt.
Tác phẩm
Luật Hiến pháp và các định chế chính trị, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Luật HIến pháp - Khuôn mẫu Dân chủ, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Tài chánh công, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản
Từ điển Hiến luật và Dân luật, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, viết chung với Giáo sư Vũ Văn Mẫu
Công pháp Thâm cứu, Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản |
Phú Quang (13 tháng 10 năm 1949 – 8 tháng 12 năm 2021), tên đầy đủ Nguyễn Phú Quang, là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam.
Nhạc của Phú Quang chủ yếu là tình ca, những bài hát trữ tình viết về Hà Nội. Ngoài ra, ông còn sáng tác khí nhạc (nổi bật là "Khát vọng" và "Tình Yêu Của Biển") và nhạc phim (Bao giờ cho đến tháng Mười, Vị đắng tình yêu).
Tiểu sử
Nhạc sĩ Phú Quang sinh năm 1949 tại Phú Thọ, quê gốc làng Vĩnh Lộc, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội trong một gia đình có truyền thống âm nhạc, có nhà ở phố Khâm Thiên. Phú Quang không biết chính xác ngày sinh của mình bởi sau khi sinh ông được khoảng 3 tháng, mẹ ông mới đi làm Giấy khai sinh cho ông và lấy ngày 13/10/1949 là ngày sinh. Về sau này, Phú quang đã sáng tác bài "Sinh nhật đen" để nói về ngày sinh nhật của chính mình.
Sự nghiệp
Năm lên 5 tuổi, ông theo gia đình về Hà Nội. 36 tuổi vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và năm 2008 (59 tuổi) trở lại Hà Nội.
Năm 1967: Tốt nghiệp tại Nhạc viện Hà Nội hệ trung cấp kèn Cor
Từ năm 1967 đến 1978: Công tác tại Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Nhạc vũ kịch Việt Nam.
Năm 1978: Học tại Nhạc viện Hà Nội, chuyên ngành chỉ huy dàn nhạc.
Năm 1982: Tốt nghiệp, về công tác tại Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam.
Năm 1986: Chuyển về Phòng ca múa nhạc, Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1994: Chuyển về Nhà hát Giao hưởng Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2004: Thành lập Công ty Hỗ trợ và Phát triển Nghệ thuật Phú Quang.
Ca sĩ thể hiện thành công
Theo danh ca Khánh Ly, người hát hay nhất nhạc của Phú Quang là nữ ca sĩ nhạc nhẹ của thập niên 90, Thu Phương.
Các nhạc phẩm tiêu biểu
Ca khúc
Bâng quơ
Biển nỗi nhớ và em (Thơ Hữu Thỉnh)
Ca khúc "Mẹ"
Chiều đông Moskva
Chiều phủ Tây Hồ
Chiều sóng và em
Chuyện kể về tình yêu
Chuyện bình thường số 7
Em ơi Hà Nội phố (Thơ Phan Vũ)
Đâu phải bởi mùa thu (Thơ Giáng Vân)
Điều giản dị
Gió và hoa hồng (Nhạc ngoại)
Khúc mùa thu
Im lặng đêm Hà Nội (Thơ Phan Thị Ngọc Liên)
Lang thang
Thương lắm tóc dài ơi
Trong ánh chớp số phận
Tình khúc 24
Tình yêu của biển
Mơ về nơi xa lắm
Nói với anh
Nỗi buồn
Nỗi nhớ
Nỗi nhớ mùa đông (Thơ Thảo Phương)
Hà Nội ngày trở về (Thơ Thanh Tùng)
Ngày mai
Khúc mưa
Sinh nhật đen
Lãng đãng chiều đông Hà Nội (thơ Tạ Quốc Chương)
Rock buồn
Về lại phố xưa
Với tất cả tình yêu (Nhạc ngoại)
Khúc mưa (thơ Đỗ Trung Quân)
Một dại khờ một tôi (thơ Nguyễn Trọng Tạo)
Dương cầm lạnh (thơ Dương Tường)
Có một ngày (thơ Nguyễn Khoa Điềm)
Khí nhạc & nhạc phim
Phần lớn các bản khí nhạc của Phú Quang đều là những bản chuyển soạn cho flute và đàn dây. Một số trích đoạn khí nhạc của Phú Quang được dùng làm nhạc hiệu, nhạc nền cho chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam trong nhiều năm.
Niềm tin
Khát vọng
Câu chuyện truyền thuyết
Bao giờ cho đến tháng mười
Tình yêu của biển (sáng tác năm 1976)
Cõi người
Khi mùa thu tới (phim Vị đắng tình yêu)
Câu hát mẹ ru (viết cho đàn bầu)
Nhà soạn nhạc phim Việt Nam được Phú Quang nể phục nhất là Đàm Linh. Bản thân nhạc sỹ Phú Quang làm nhạc cho nhiều bộ phim nghệ thuật ăn khách có thể kể đến như: Tình Khúc 68, Bao Giờ Cho Đến Tháng Mười, Vị Đắng Tình Yêu, Ai Xuôi Vạn Lý, Hải Nguyệt, Có một tình yêu như thế, Băng Qua Bóng Tối, Huyền Thoại Về Người Mẹ…
Nhạc cho phim truyền hình dài tập như Ông Cố Vấn, Dốc Tính… Nhạc cho sân khấu kịch của Hà Nội như Bài Ca Điện Biên, Vòng Tay Anh Vòng Tay Em, Trần Thủ Độ… Nhạc cho ballet như vở Sự Ân Hận Muộn Màng.
Danh sách đĩa nhạc
Album phòng thu
Album 1: Cho một người tình xa (1996) - với Mỹ Linh
Album 2: Một dại khờ, một tôi (1997)
Album 3: Trong ánh chớp số phận (1997)
Album 4: Mơ về nơi xa lắm (1999)
Album 5: Về lại phố xưa (2001)
Album 6: Điều giản dị (2003)
Album 7: Ngoảnh lại (2003)
Album 8: 13 chuyện bình thường (2004)
Album 9: Cha & con (2005) - với Quang Lý, Thanh Lam, Ngọc Anh và Trinh Hương
Album 10: Phố cũ của tôi (2005)
Album 11: 69'59'' (2005) - với Ngọc Anh
Album 12: Mùa hạ còn đâu (2006)
Album 13: Cho em và cũng là cho anh (2006) - với Quang Lý
Album 14: Có một vài điều anh muốn nói với em (2007)
Album 15: Em & anh (2008) - với Phú Ân
Album 16: Mới thôi... mà đã một đời (2014)
Album biên tập
Tình khúc Phú Quang – Thương lắm tóc dài ơi! (1996) - NSND Lê Dung, Bảo Yến, Thanh Lam, Mỹ Linh, Thu Hà, Nhã Phương và Thanh Long Bass
Tình khúc Phú Quang – Nói với Anh (với Thu Phương) (1998)
Tình khúc Phú Quang – Giọt thu buồn (Bảo Yến)
Nỗi nhớ (Kasim Hoàng Vũ)
Lãng Đãng Chiều Đông Hà Nội - 12 Tình khúc Phú Quang (2001)
Tình khúc Phú Quang - Dòng Sông Không Trở Lại (2005)
Tình khúc Phú Quang - Nỗi Nhớ Mùa Đông (2006)
30 Tình khúc Phú Quang
CD Phú Quang (2010)
Tình khúc Phú Quang Vol 1 + 2 (2000)
The Best Of Phú Quang: Gửi Một Tình Yêu (2010)
Mới thôi… mà đã một đời - Phần 2: Hà Nội ngày trở về (2013)
Thu rất thật thu (Minh Thu, 2017)
Thời gian có bao giờ trở lại (Minh Chuyên, 25/03/2018)
Đức Tuấn Phú Quang in Symphony – Hà Nội và em khi thu chớm đông sang (Đức Tuấn, 2018)
TẤN MINH & HÀ NỘI - NHỮNG TÌNH KHÚC PHÚ QUANG (VOL. 3, CD) (2010)
Lớn lên cùng Hà Nội Acoustic (Born in Hanoi) (tháng 6/2014) - với Ngô Quang Vinh
Nỗi nhớ mùa đông (Phương Anh, 2015)
Tình ca Phú Quang 1 - với Tuấn Ngọc, Ý Lan, Mỹ Hạnh, Thu Phương, Thanh Hà, Quang Dũng, Nguyên Khang và Anh Tú (2003)
Em ơi, Hà Nội phố (Nguyễn Lệ Thu, 2021)
Nỗi nhớ mùa đông (Mai Diệu Ly, 2022)
Album tuyển tập
Còn tuổi nào cho em - với Lê Dung, Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Ngọc Anh, Thanh Long và Ngọc Quỳnh (1997)
Có một chiều như thế - với Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh và Thanh Long (1997)
Thương một người - với Lê Dung, Thanh Lam, Hồng Nhung, Thu Hà, Phương Thảo và Ngọc Anh (1998)
Liveshow (nổi bật)
Mơ về nơi xa lắm (1998)
Khát Vọng—37 năm ngoảnh lại (2002)
Phú Quang - Dương cầm lạnh (2014)
Hà Nội và em khi thu chớm đông sang (2014)
Những nẻo đường anh đã đi qua (2015)
Dương cầm lạnh & Phố cũ của tôi (2018)
Mùa thu giấu em (2019)
Đời tư
Phú Quang có 3 đời vợ: NS Kim Chung, NSƯT Hồng Nhung, và Anh Thư; và 3 người con: giảng viên piano Trinh Hương, Giáng Hương, và cậu út Phú Vương – tốt nghiệp ngành thiết kế đồ họa ở Singapore. Chồng Trinh Hương là nghệ sĩ violin nổi tiếng Bùi Công Duy. Trong đó, người vợ thứ ba kém ông hơn 20 tuổi, hai vợ chồng ở tại Tứ Liên, Tây Hồ, Hà Nội.
Nhạc sĩ Phú Quang suýt chết khi còn sơ sinh, được một linh mục Công Giáo cứu và đặt cho tên thánh là Phêrô.
Qua đời
Ông qua đời tại Bệnh viện Việt Xô vào lúc 8h45 ngày 8/12/2021, không lâu sau sinh nhật 73 tuổi.
Lễ tang của ông được tổ chức sáng 13/12 tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Lễ viếng được tổ chức từ 7h05 đến 8h45. Lễ truy điệu được tổ chức từ 8h45 đến 9h00. Lễ di quan lúc 9h, sau đó ông được an táng tại quê nhà Phú Thọ, thể theo di nguyện của ông và nguyện vọng của gia đình. Địa điểm an táng là tại công viên tưởng niệm Thiên Đức, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Chú giải
Chú thích |
Sun Java Desktop System (JDS) hay còn gọi là OpenSolaris Desktop, là một môi trường desktop legacy được phát triển ban đầu bởi Sun Microsystems và sau đó là Oracle Corporation khi Oracle mua lại Sun năm 2010. Java Desktop System có sẵn cho Solaris và cũng có sẵn cho Linux. Phiên bản Linux đã bị dừng sau khi Solaris được phát hành dưới dạng phần mềm tự do nguồn mở vào năm 2005. Java Desktop System nhằm mục đích cung cấp một hệ thống quen thuộc với người dùng máy tính trung bình với một bộ phần mềm năng suất văn phòng đầy đủ như bộ ứng dụng văn phòng, một trình duyệt web, email, lịch, và tin nhắn tức thời.
Như tên gọi Java Desktop System gợi ý, nó thực sự được viết bằng Java. Nó được built xung quanh một phiên bản tinh chỉnh của GNOME cùng với các dự án phần tự do phí phổ biến khác, được viết chủ yếu bằng C và C++, và được Sun Microsystems viết lại bằng Java. Tên gọi này cũng phản ánh việc quảng cáo sản phẩm của Sun như một lối thoát cho người dùng doanh nghiệp triển khai phần mềm được viết cho nền tảng Java.
Phiên bản
Trước tiên, Sun đã phát hành bản phát hành xem trước của Gnome 1.4 trên một đĩa CD riêng cho Solaris 8.
JDS v2 bao gồm:
Java
GNOME (dùng theme Blueprint)
StarOffice
Mozilla
Evolution
MP3 và CD player
Java Media Player của Java Media Framework
Trình nhắn tin đa dịch vụ Gaim
RealPlayer
JDS Release 2 có sẵn cho Solaris và các bản phân phối dựa trên SuSE.
JDS Release 3 phát hành năm 2005. Nó được được đóng gói trong Solaris 10 — khi cài đặt Solaris, người dùng có thể lựa chọn sử dụng CDE hay JDS. Nó dựa trên GNOME 2.6 và chỉ có sẵn cho nền tảng Solaris 10.
OpenSolaris Desktop
OpenSolaris đã nhận được phiên bản riêng của Java Desktop System. OpenSolaris Desktop được gắn với hệ điều hành OpenSolaris, và không có lịch phát hành riêng.
OpenSolaris Desktop 01 (phát hành ngày 28 tháng 10 năm 2005) dựa trên GNOME 2.10 và OpenSolaris Desktop 02 (phát hành ngày 23 tháng 12 năm 2005) dựa trên GNOME 2.12. Phiên bản cuối cùng được phát hành cùng với việc phát hành OpenSolaris 2009.6, và nó dựa trên Gnome 2.24. Nó cũng bao gồm Firefox 3.1, OpenOffice 3 và Sun VirtualBox. Dòng OpenSolaris Desktop của Java Desktop System trở thành không còn tồn tại khi dự án OpenSolaris kết thúc.
Khả dụng
Với sự kết thúc của dự án OpenSolaris, JDS Release 3 hiện là bản phát hành cuối cùng của dự án trên một hệ điều hành hiện được hỗ trợ Solaris 10. Các hệ điều hành mới hơn dựa trên Solaris đã từ bỏ Java Desktop System. Solaris 11 và các dự án dựa trên codebase OpenSolaris giống như OpenIndiana sử dụng một phiên bản stock của GNOME. |
Hồng kỳ Linux hay Red Flag Linux () là một bản phân phối Linux của Trung Quốc được phát triển bởi Red Flag Software. Logo của Red Flag là chú chim cánh cụt Tux mang một lá cờ đỏ.
Chủ tịch điều hành hiện tại của Red Flag Software là Jia Dong (贾栋, âm Hán Việt Giả Đống).
Mô tả
Red Flag Linux 6.0 được phát hành vào ngày 29/9/2009. Phiên bản 6.9 phát triển dựa trên bản phân phối Asianux 3.0, được phát hành vào ngày 22 tháng 9 năm 2007. Nó bao gồm Linux 2.6.22.6, KDE 3.5.7 và X.Org 7.2.
Red Flag Linux Desktop 6.0 dự định là một hệ điều hành desktop toàn diện và có một số cải tiến chủ yếu liên quan đến cài đặt, phần cứng, và hỗ trợ đa phương tiện, cũng như cấu hình desktop.
Bên cạnh các giải pháp chuyên ngành, Red Flag Linux có các sản phẩm sau:
Red Flag Asianux Server 3
Red Flag HA Cluster 6.0
Red Flag Desktop 6.0 (红旗Linux桌面版6.0)
Cấu trúc nội bộ của Red Flag Linux tương tự như Red Hat Linux, bằng cách sử dụng một trình cài đặt tương tự. Bản Desktop của Red Flag Linux có sự tương đồng cao với Windows XP, từ theme desktop đến các icon,sẽ giúp rút ngắn quá trình chuyển đổi hệ điều hành.
Lịch sử
Red Flag Linux xuất hiện lần đầu vào tháng 8/1999, khi nó được tạo ra bởi Viện nghiên cứu phần mềm tại Viện Khoa học Trung Quốc (Chinese Academy of Sciences). Được hỗ trợ từ Quỹ đầu tư mạo hiểm Shanghai NewMargin Venture Capital thuộc sở hữu của chính phủ. Tháng 3 năm 2001, Bloomberg News đưa tin CCIDNET Investment, một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp - Thông tin, trở thành cổ đông lớn thứ hai của Red Flag.
Trong một bế tắc với Microsoft vào tháng 1/2000 sau nhiều năm căng thẳng với Microsoft vì hãng này không quản lý tốt sự phát triển của Microsoft Venus, Chính phủ Trung Quốc đã yêu cầu gỡ bỏ Windows 2000 trên các máy tính của họ và chuyển sang Red Flag Linux.
Tháng 1/2006, Red Flag Linux tham gia Open Source Development Labs.
Mục đích
Red Flag Software Co., Ltd. (Red Flag Software) tập trung vào sự phát triển và tiếp thị của hệ điều hành dựa trên Linux và các ứng dụng đa nền tảng những người dùng công nghệ không ngừng phát triển tại Trung Quốc. Mục tiêu của họ là "Tạo ra ưu đãi cho cuộc sống mạng". Công ty sẽ tiếp tục phát triển một mô hình quản lý hiện đại được gọi là "Red Flag Way." Đây là client driven tùy biến dựa trên mô hình kinh doanh của họ liên quan đến phần mềm tự do.
Cafe internet tại Nam Xương
Ngày 3/12/2008, có một thông báo được gửi đến các quán cafe ở Nam Xương cho biết từ tháng 11/2008 họ phải chuyển sang cài đặt Red Flag Linux thay cho các bản Windows lậu đang phổ biến. Tuy nhiên theo đài RFA, các quán cafe ở Nam Xương được yêu cầu chuyển sang Red Flag Linux kể cả khi họ sử dụng Windows có bản quyền. Hệ thống này được cung cấp với một hợp đồng hỗ trợ vĩnh viễn với chi phí là 5000 nhân dân tệ cho tất cả các máy trong các quán cà phê. Một người phát ngôn chính thức cho Red Flag Linux làm rõ bằng cách nói rằng thông báo đã được nhắm mục tiêu đến phía máy chủ không phải máy tính chơi game nhiều khách hàng, và trong thông báo ban đầu, Microsoft Windows và Red Flag Linux chỉ đơn giản là đề nghị các nền tảng được thử nghiệm bởi Cục Văn hóa. |
SLAX là bản linux chạy trên CD mà không cần cài đặt xuống ổ cứng. SLAX sử dụng giao diện đồ họa KDE.
Các phiên bản SLAX
Slax Standard
Slax Kill-Bill
Slax Professional
Slax Frodo
Slax Hacker
Slax Server
Slax Popcorn
Các phần mềm được bao gồm
Linux Kernel 2.6.16
X.org 6.9
UnionFS & SquashFS
KDE 3.5.2
MPlayer 1.0pre7 with KPlayer
Rdesktop (rscp in KDE)
Hotplug support
Cdrtools
Mutt e-mail client
Wget |
Tượng thần Zeus ở Olympia là một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Bức tượng do nhà điêu khắc cổ đại nổi tiếng là Phidias tiến hành (XXX) khoảng năm SXX tại Olympia, Hy Lạp.
Ngay từ thế kỷ thứ nhất TCN, nhà địa lý Strabo đã viết rằng "Dường như thần Zeus đang định đứng lên", "Chim dưới lông" sẽ lật tung mái đền."
Bức tượng ngồi chiếm toàn bộ chiều rộng gian đền chứa tượng, cao 12 mét (40 feet), đặt trên đế làm bằng đá cẩm thạch cao 1m. Tượng thần Zeus được làm từ ngà voi (về mặt kỹ thuật, ngà voi được ngâm trong chất lỏng để làm mềm, và vì thế có thể chạm cũng như tạo hình theo nhu cầu) sau đó được phủ bằng các tấm vàng (vì thế gọi là ngà dát vàng) và ngồi trên một ngai gỗ tuyết tùng khảm ngà, vàng, và các loại đá quý rất lộng lẫy có chạm khắc những trận đấu điền kinh ở Olympia. Đầu thần Zeus trang điểm vòng hoa ôliu, thần có khuôn mặt hiền từ, đôi mắt màu hồng tinh anh, nhìn thẳng, lông mày và lông mi đen, mũi dọc dừa, chòm râu rậm, đôi môi dày cương nghị, với làn da được làm từ ngà voi; râu, tóc, áo choàng làm bằng vàng. Tay phải thần Zeus cầm một pho tượng Nike - vị thần chiến thắng - nhỏ, và trong tay trái là một cây vương trượng bằng kim loại có chú đại bàng đậu trên, tượng trưng cho quyền lực tối cao của vị vua trong các vị thần. Chân thần đi dép vàng đặt trên một chiếc bàn trang trí những con sư tử vàng, đặt lên một ghế lớn. Nửa trên của tượng được dát bằng ngà cu, vàng nhạt ngả về màu hồng phơn phớt, tạo cho thần Zeus một sức sống mãnh liệt. Nửa thân dưới của tượng phủ một "tấm vải" bằng vàng dát mỏng, có chạm trổ dưới thân áo những con vật, thân áo là những ngôi sao và những đoá hoa xinh xắn Dưới quần. Những Con chim bay cao như vị tướng La Mã Đầu bui, người đã giành chiến thắng trước Con chim non, cũng phải cung kính trước vẻ uy nghiêm thần thánh và sự tráng lệ của bức tượng thần mà Phidias đã tạo ra.
Có lẽ khám phá lớn nhất về di tích còn sót lại của kỳ quan thế giới này diễn ra năm 1958 với cuộc khai quật khu xưởng nơi chế tạo bức tượng. Điều này khiến một số nhà sử học có thể tái tạo kỹ thuật đã được sử dụng trước kia. |
Linspire, trước đây là LindowsOS là bản phân phối linux dựa trên Debian, và sau này là Ubuntu. Linspire được phát hành bởi Linspire, Inc. và tập trung vào tính dễ sử dụng, nhắm mục tiêu người sử dụng máy tính gia đình. Bản phát hành ổn định cuối cùng của Linspire là phiên bản 6.0, được phát hành vào tháng 10/2007.
Ngày 1/7/2008, các cổ đông Linspire đã bỏ phiếu để đổi ten công ty thành Digital Cornerstone, và tất cả các tài sản được mua lại bởi Xandros.
Ngày 8/8/2008, Andreas Typaldos, CEO của Xandros, thông báo rằng Xandros sẽ ngừng tài trợ cho Linspire; Freespire đã thay đổi base code từ Debian sang Ubuntu; và các thương hiệu Linspire sẽ chấm dứt tồn tại.
Lịch sử
Có trụ sở tại San Diego, California, Lindows, Inc. được thành lập vào tháng 8/2001 bởi Michael Robertson ới mục tiêu phát triển một hệ điều hành dựa trên Linux có khả năng chạy các ứng dụng của Microsoft Windows. Nó dựa trên khả năng tương thích Windows trên các Wine API. Công ty sau đó đã từ bỏ cách tiếp cận này ủng hộ cố gắng để làm cho các ứng dụng Linux dễ dàng để tải về, cài đặt và sử dụng. Cuối cùng một chương trình tên là "CNR" đã được phát triển: dựa trên Advanced Packaging Tool của Debian, nó cung cấp một giao diện người dùng đồ họa dễ dàng sử dụng một hệ thống gói phần mềm chỉnh sửa cho một khoản phí hàng năm. Phát hành công khai đầu tiên của Lindows là phiên bản 1.0, phát hành vào cuối năm 2001.
Năm 2002 Microsoft đã kiện Lindows, Inc. tuyên bố tên Lindows chứa một vi phạm thương hiệu Windows của họ. Đơn kiện của Microsoft đã bị tòa án từ chối, trong đó khẳng định rằng Microsoft đã sử dụng các thuật ngữ windows để mô tả các giao diện đồ họa người dùng trước khi sản phẩm Windows được phát hành, và rằng các kỹ thuật window đã được triển khai bởi Xerox và Apple Computer nhiều nắm trước đó. Microsoft tìm cách tái thẩm và sau này đã bị hoãn trong tháng 2/2004, được cung cấp để giải quyết các trường hợp. Như một phần của việc giải quyết cấp giấy phép, Microsoft trả khoảng 20 triệu USD, và Lindows, Inc. chuyển giao thương hiệu Lindows sang cho Microsoft và đổi tên nó thành Linspire, Inc.
Ngày 15/6/2005, Michael Robertson trở thành CEO của Linspire, Inc. Ông tiếp tục làm chủ tịch và bị thay thế bởi CEO by Kevin Carmony. Carmony đã từ chức tại Linspire 31/7/2007.
Linspire đã trở thành một thành viên của Interop Vendor Alliance được sáng lập năm 2006.
Ngày 08/2/2007 Linspire, Inc. và Canonical Ltd, nhà tài trợ chính cũng như phát triển của hệ điều hành Ubuntu, đã công bố kế hoạch cho một quan hệ đối tác công nghệ mới, với Linspire nhằm "bắt đầu căn cứ... [của họ] cung cấp máy tính để bàn Ubuntu Linux."
Ngày 13/6/2007, Linspire và Microsoft ã công bố một thỏa thuận hợp tác khả năng tương tác với một tập trung vào khả năng tương thích định dạng tài liệu, tin nhắn tức thì, phương tiện truyền thông kỹ thuật số, tìm kiếm trên web, và bằng sáng chế cam cho khách hàng của Linspire. Thỏa thuận này đã bị chỉ trích, đáng chú ý nhất của trang web Groklaw disingenuously ngắn ngủi và hạn chế, và ngược lại tinh thần của GNU General Public License. Kevin Carmony, ột trong những "Linspire Letters," thường xuyên khẳng định rằng thỏa thuận sẽ "mang nhiều hơn sự lựa chọn cho máy tính để bàn Linux người dùng [và]... cung cấp một kinh nghiệm Linux "tốt hơn"."
Linspire căn cứ tên mã sản phẩm cá được tìm thấy gần trụ sở của họ: Linspire/LindowsOS 4.5 là mã có tên là Coho; Linspire Five-0 (5.0 and 5.1), Freespire 1.0, Marlin; Freespire 2.0 và Linspire 6.0, Skipjack.
CNR
CNR của Linspire (ban đầu là Click'N'Run) là một dịch vụ phân phối phần mềm dựa trên APT của Debian. Nó được thiết kế để phục vụ như là một phương tiện dựa vào GUI, người dùng có thể truy cập tải về và cài đặt các ứng dụng khác nhau, cả tự do lẫn sở hữu độc quyền. Các dịch vụ cho phép người dùng để cài đặt các ứng dụng có sẵn bằng cách sử dụng một nhấp chuột duy nhất. CNR cũng bao gồm một tập hợp các phần mềm Click and Buy (CNB), bao gồm nhiều ứng dụng thương mại cho các thành viên tốc độ giảm giá. CNR đã có trên 38,000 gói phần mèm khác nhau, ừ các ứng dụng đơn giản cho các tác phẩm thương mại chính như Win4Lin và StarOffice. CNR là ban đầu đăng ký, dựa với 2 tầng: dịch vụ cơ bản có giá 20$ mỗi năm, và dịch vụ vàng, ới đặc trưng giảm giá trên một số các ứng dụng thương mại,, 50$. Năm 2006, Linspire đã thông báo rằng các dịch vụ cơ bản là miễn phí.
Linspire đã có kế hoạch để cổng CNR cho bản phân phối Ubuntu. Công ty đã công bố ngày 24/4/2006 rằng CNR sẽ được phát hành theo một giấy phép mã nguồn mở. Việc phát hành CNR miễn phí đến khách hàng đã được chọn để trùng với việc phát hành Freespire 2.0 và Linspire 6.0. Ngày 23/1/2007, Linspire đã thông báo rằng nó dự định để cung cấp CNR phân phối Linux khác, cả dựa trên APT cũng như dựa trên RPM, bao gồm Debian, Fedora, OpenSUSE Fedora_Core và Ubuntu. Hỗ trợ này đã được dự kiến sẽ xuất hiện ở giữa năm 2007. Ngày 8/2/2007, Linspire, Inc. công bố một quan hệ đối tác với Canonical Ltd., nhà phân phối Ubuntu Linux. Thỏa thuận này sẽ thấy Linspire và Freespire di chuyển từ quá trình phát hành Debian không thể đoán trước để sang chu kỳ phát hành nữa năm của Ubuntu. Nó được dự định rằng Ubuntu chính sẽ trở thành bản phân phối Linux đầu tiên mở dịch vụ Click'N'Run bên cạnh Linspire.
Freespire
Trong tháng 8/2005, Andrew Betts phát hành Freespire, một Live CD dựa trên Linspire. Một số người dùng nhầm đây cho một sản phẩm từ Linspire, Inc. Linspire, Inc. cung cấp cho người dùng một "Linspire miễn phí" (mua giảm giá với $0) bằng cách sử dụng các phiếu giảm giá mã "Freespire" cho đến tháng 9/2005. Ngày 24/4/2006, Linspire công bố dự án riêng của mình tên là "Freespire". Điều này theo mô hình phát hành theo định hướng cộng đồng của Red Hat và Novell ở dạng Fedora và openSUSE. Freespire là một cộng đồng thúc đẩy và - hỗ trợ dự án gắn với phân phối Linspire thương mại, và bao gồm các yếu tố trước đây độc quyền từ Linspire, ví như CNR Client, trong khi các yếu tố khác, mà giấy phép Linspire, Inc. nhưng không sở hữu, giống như các thư viện tương thích Windows Media Audio vẫn còn đóng cửa-nguồn. Do đó, có hai phiên bản của Freespire, một với các thư viện nguồn đóng, và một, được gọi là Freespire OSS Edition, bao gồm chỉ các thành phần mã nguồn mở. Freespire 1.0 được phát hành ngày 7/8/2006, ba tuần trước thời hạn. Nó được biết rằng Freespire sẽ thay đổi code base của nó từ Ubuntu sang Debian trên bất kỳ bản phát hành trong tương lai. Vào ngày 10/7/2007 Linspire phát hành Linspire 6.0, dựa trên Freespire 2.0.
Đóng góp
Linspire, Inc. Tài trợ các dự án mã nguồn mở bao gồm cả ứng dụng nhắn tin tức thời Pidgin và Kopete, trình duyệt web Mozilla Firefox , hệ thống tập tin ReiserFS, trình biên soạn website Nvu WYSIWYG, và websites KDE-Apps.org và KDE-Look.org. Trong quá khứ, Linspire đã tổ chức một số sự kiện Linux và mã nguồn mở, ví dụ như Desktop Linux Summit, DebConf và hội nghị KDE Developers Conference.
Chỉ trích
Linspire đã nhận được một số sự chỉ trích từ các cộng đồng phần mềm tự do. Điều này đã bao gồm những lời chỉ trích bao gồm cả phần mềm sở hữu độc quyền, với người sáng lập GNU Richard Stallman nhận xét: "Không có phát hành GNU/Linux khác có backslided cho đến nay từ tự do. Chuyển đổi từ MS Windows, Linspire không mang lại cho bạn sự tự do, nó chỉ giúp bạn một bậc thầy khác nhau." Ngoài ra, sau này Freespire thông báo ban đầu Pamela Jones của trang web Groklaw xuất bản một bài viết tựa đề "Freespire: A Linux Distro For When You Couldn't Care Less About Freedom;"(Freespire: một Linux Distro để khi bạn không thể chăm sóc ít hơn về sự tự do) đó là rất quan trọng của Linspire, Inc., các dự án của Freespire, trong đó thành phần mã nguồn đóng cửa và quảng cáo của họ như là một điểm thuận lợi; một hành động cô phân loại như là bỏ qua các giá trị cộng đồng FOSS trong một "cộng đồng thúc đẩy" các phân phối, khẳng định rằng "phần mềm tự do không phải là về trình điều khiển sở hữu độc quyền" và rằng "độc quyền codec, trình điều khiển và ứng dụng không phải là mã nguồn mở hay mở trong bất kỳ cách nào." trong phản ứng của, Linspire, Inc. CEO Kevin Carmony nói thông qua một nhà báo trên trang web Linspire rong mười năm tổ chức, cộng đồng FOSS đã có những lợi ích tương đối ít, mà nhiều người sử dụng đang sử dụng phần mềm độc quyền, và mặc dù một số sẽ tổ chức ra, hầu hết muốn có một cái gì đó mà làm việc chứ không phải là không có gì. Ông cũng khẳng định rằng công ty tin tưởng vào phần mềm mã nguồn mở, nhưng cũng sự tự do của cá nhân để chọn phần mềm bất cứ điều gì họ muốn. |
Đền Artemis là đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, còn được gọi là đền thờ Diana được xây dựng từ đá cẩm thạch bởi kiến trúc sư Chersiphron và con là Metagenes, dài 377 feet (115 m), rộng 180 feet (55 m, bao gồm 127 cột đá, ở thành phố Ephesus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), bờ biển Aegea.
Lịch sử-truyền thuyết
Nữ thần săn bắn Artemis là con của thần Zeus và thần Leto, em của thần ánh sáng-thi ca Apollon, được hình dung là một trinh nữ trong trắng cầm cung tên, thường đi cùng một con hươu hoặc một con chó.
Đền được bắt đầu xây dựng năm 550 TCN, trải qua quá trình xây dựng lại và mở rộng qua nhiều thời kỳ, lần cuối là năm 430 TCN sau 120 năm. Năm 356 TCN, ngôi đền bị lửa thiêu hủy vào đêm Alexander Đại Đế chào đời. Một ngôi đền tương tự được xây lại trên nền ngôi đền cũ. Năm 262, người Goth đã đốt ngôi đền lần thứ hai. Chỉ phần nền và một số phần khác của ngôi đền thứ hai còn tồn tại đến ngày nay. Viện bảo tàng Anh ở Luân Đôn còn lưu một số di tích thuộc ngôi đền thứ hai.
Kiến trúc và mỹ thuật
Nghệ thuật Hy Lạp và sự giàu có của châu Âu đã kết hợp tạo dựng nên một công trình kiến trúc thần thánh và nguy nga. Đền thờ nữ thần Artemis nằm trong số Bảy kỳ quan thế giới cổ đại bởi tính tráng lệ về kiến trúc và kích thước khác thường.
Đền thờ nữ thần Artemis không những là một trong số những ngôi đền Hy Lạp đồ sộ nhất, mà còn là một trong những công trình được xây dựng toàn bằng đá cẩm thạch lâu đời nhất. Đền được xây dựng ở địa điểm gồm các ngôi đền xây dựng đầu tiên vào khoảng năm 550 TCN với sự giúp đỡ tài chính của Croesus, một vị vua nổi tiếng giàu có thuộc vương quốc Lydia lân cận. Thế nhưng, vào năm 356 TCN, công trình kiến trúc nguy nga này bị một kẻ mắc chứng cuồng nhằm muốn tên tuổi của mình bất tử, đã phóng hỏa thiêu huỷ. Trong vòng vài thập niên sau, người ta dựng tại địa điểm cũ ngôi đền mới, theo hình dáng của ngôi đền ban đầu.
Ngôi đền mới trùng tu vẫn còn tồn tại dưới thời kỳ La Mã, khi ấy nhà văn La Mã đã ngạc nhiên trước kích thước và việc xây dựng ngôi đền. Ba cửa sổ lớn được trổ thẳng xuyên qua mái, cửa sổ ở giữa tạo ra một khoang hở giúp những người viếng đền có thể nhìn thấy vị nữ thần Artemis trên bàn thờ. Chính bàn thờ cũng là một công trình có dãy cột thật tráng lệ ở bên phía, đặt ở phía trước ngôi đền.
Đền nguyên thủy có kích thước 55 x 110 m tính ở bậc thang phía trên, ba phía là một dãy cột gồm hai hàng bao quanh, một chiếc cổng có mái che với hàng cột sâu phía trước lối ra vào. Khi ngôi đền được trùng tu vào thế kỷ 4 TCN, thì nền móng của một số kiến trúc thượng tầng của ngôi đền nguyên thủy được tận dụng, nhưng ngày nay chỉ cao khỏi mặt đất khoảng 2m, tấm móng được một hàng cầu thang bao quanh. Ba mươi sáu cột nằm ở phía trước lối ra vào đều trang trí bằng các tác phẩm chạm nổi, một đặc điểm khác thường đối với các ngôi đền Hy Lạp, chính bản thân các cột đều chạm trổ từ 40 đến 48 đường rãnh máng khoét sâu ở thân cột. Quanh ngôi đền phía trên các cây cột, có một trụ ngạch, trong khi các máng xối đều chạm hình đầu sư tử. Với khoảng cách giữa các cột không có trụ đỡ thường vượt quá 6,5 m, bao gồm các tảng đá dài đến 8,75 m, công trình đã buộc những người thợ xây thể hiện khả năng cao nhất của mình.
Trong hội họa, điêu khắc
Đá cẩm thạch dùng trong công trình được lấy từ mỏ đá cách công trường 11 km (7 dặm), khoảng cách khá xa khiến việc vận chuyển những tảng đá nặng đến 40 tấn trở thành một thử thách. Lẽ đương nhiên xe bò không để đảm đương nổi trọng lượng này, nhưng Chersiphron nghĩ ra một phương pháp thay thế thật tài tình: khối đá hình lăng trụ dùng để lắp cột được các chốt ở tâm giữ cố định trong một khung bằng gỗ sao cho chúng có thể quay vòng như những chiếc xe lu khổng lồ chuyển động bằng sức kéo nhiều con bò. Ý tưởng này do con trai của Chersiphron là Metagenes đề xuất, sao cho các tảng đá trang trí đầu cột vuông góc có thể di chuyển theo cách tương tự, mỗi đầu cột đều bọc trong bánh xe bằng gỗ khổng lồ.
Vì thế chính cái khó đã ló cái khôn, kích thước đáng kinh ngạc của ngôi đền và các tảng đá sử dụng trong công trình đòi hỏi những kỹ thuật mới trong vận chuyển và dựng đá đứng thẳng. Trong khi phương pháp của Chersiphron chưa từng áp dụng ở nơi khác, thì ngôi đền đồ sộ này quả thật là chứng cứ cho sự khéo léo, tài tình của ông. Nhưng tiếc thay, chỉ một phần rất ít của công trình còn tồn tại cho đến nay, người ta chỉ bảo quản được bục đài vòng của đền vừa khai quật và một cột đền duy nhất được gia cố bằng bê tông. |
Linux XP là một hệ điều hành Linux có giao diện được thiết kế giống với giao diện của Microsoft Windows XP. Phiên bản mới nhất thường được biết dưới tên là Linux XP Desktop 2008.
Tổng quan
Linux XP là một hệ điều hành máy tính dựa trên môi trường GNOME/Linux nhưng có giao diện được thiết kế để bắt chước Windows. Nó thể chạy một số chương trình của Microsoft Windows bằng cách sử dụng lớp tương thích Wine. Ban đầu, Linux XP được xây dựng bởi EnabledPeople, sau đó, nó thuộc sở hữu và được tiếp tục phát triển bởi một công ty của Nga, Trustverse.
Hiện tại (2010), phiên bản ổn định của Linux XP được mang tên Linux XP Desktop 2008, với một giao diện đồ họa tương tự như Windows Vista. Cũng giống như Windows XP, Linux XP cho phép một thời hạn dùng thử 30 ngày sau khi cài đặt trước khi đăng ký. Quá thời hạn này, hệ điều hành sẽ ngừng hoạt động. Các tài khoản đăng ký được cung cấp thông qua Softkey, một trang web bán hàng trực tuyến của Nga.
Nhìn chung, về mặt kỹ thuật, Linux XP không khác biệt nhiều so với bản phân phối Linux Fedora do sử dụng chung hầu hết các chương trình tương tự và các gói phân phối. Sự khác biệt giữa Linux XP và Linux Fedora chỉ là về giao diện thẩm mỹ. Linux XP có giao diện hầu như bắt chước Windows nhằm đạt được sự quen thuộc từ những người dùng Windows chuyển sang. |
Edubuntu là một phiên bản linux dựa trên Ubuntu. Edubuntu được thiết kế để sử dụng trong các lớp học. |
Vietkey Linux là một phiên bản Linux của Việt Nam do Vietkey Group phát triển dựa trên Red Hat Linux. Bản Vietkey Linux đầu tiên từng đạt giải nhất cuộc thi Trí tuệ Việt Nam năm 2002.
Vietkey Linux được phát triển từ năm 2000. Phiên bản mới nhất là Vietkey Linux 3.0 phát hành năm 2003.
Là một phiên bản của Linux, Vietkey Linux là phần mềm nguồn mở. Tuy nhiên, đây là một phần mềm có bản quyền, thuộc về Vietkey Group và Vietkhang JSC. |
Dưới đây là danh sách các bản phân phối Linux.
A
Arch Linux
Asianux
AndLinux
Android
B
BeatrIX
Bonzai Linux
C
Canaima OS
CMC linux
Cent OS
Chrome OS
D
Damn Small Linux
Damn Vulnerable Linux
Debian
E
Easys
Edubuntu
F
Fedora Core
Flash Linux
G
Gentoo Linux
Gnoppix
Chrome OS
Fenix Vietnam
H
Hồng kỳ Linux
HáCảo Linux
I
iPodLinux
J
Java Desktop System
K
Knoppix
Kubuntu
L
Linspire
Linux XP
LXDE
Linux Mint
M
Mandriva Linux
Manjaro Linux
MCNLive
N
NUbuntu
NepaLinux
NovaOS
O
Onebase Linux
Open Wall Linux
OpenWrt
P
Puppy Linux
PCLinuxOS
Q
QiLinux
R
Red Hat Linux
Red Hat Enterprise Linux
Red Star OS
S
SLAX
Slitaz GNU/Linux
SUSE Linux
SteamOS
Sailfish OS
T
Teendows Linux
Tinfoil Hat Linux
Tiny Core Linux
Trustix
Tuga
Turbo Linux
U
Ubuntu
Kubuntu
Lubuntu
Ubuntu Budgie
Ubuntu Kylin
Ubuntu MATE
Ubuntu Touch
Xubuntu
Ultimate Edition
V
Vacarm Linux
Vector Linux
Vietkey Linux
VnlinuxEDU
W
X
Xandros
Y
Yellow Dog
YOPER
Z |
Todd Morgan Beamer (24 tháng 11 năm 1968 – 11 tháng 9 năm 2001) là nạn nhân của vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Beamer là hành khách trên chuyến bay số 93 của United Airlines, câu nói sau cùng của anh với người người phụ trách tổng đài "Let’s roll" (Lên nào) trở nên câu khẩu hiệu được sử dụng rộng rãi sau đó.
Tiểu sử
Todd Beamer, sinh sống ở Cranbury, tiểu bang New Jersey, phụ trách một bộ phận kế toán của tập đoàn Oracle. Todd chết ở tuổi 32 trên chuyến bay 93 của United Airlines, để lại vợ, Lisa Beamer, hai con trai, David và Drew, và một con gái, Morgan Kay, chào đời ngày 9 tháng 1 năm 2002 - gần bốn tháng sau khi Todd qua đời.
Todd và những hành khách khác đã liên lạc được với bên ngoài qua hệ thống điện đàm trên phi cơ và điện thoại di động để biết rằng Trung tâm Thương mại Thế giới đã bị tấn công bởi hai chiếc máy bay bị không tặc. Todd nói chuyện với Lisa D. Jefferson, phụ trách tổng đài GTE Airfone tại Oak Brook, tiểu bang Illinois, trong 13 phút (Beamer cố gắng gọi về nhà bằng thiết bị điện đàm trên máy bay nhưng lại vào đường dây của tổng đài). Trước khi kết thúc cuộc gọi, Beamer và Jefferson cùng đọc bài Cầu nguyện chung (kinh Lạy Cha).
Mặc dù nhiều người tin rằng các hành khách trên chuyến bay đã cố làm máy bay rơi bằng một nỗ lực trong tuyệt vọng hầu có thể cứu mạng những người khác trên mặt đất, kết luận của Ủy ban 9/11 (dựa trên băng ghi âm phòng lái của chiếc hộp đen) cho rằng hành khách trên chuyến bay 93 không có ý định làm máy bay rơi, nhưng bọn không tặc đã cho máy bay đâm xuống đất khi các hành khách cố xông vào phòng lái để cố giành lại quyền kiểm soát máy bay.
"Let’s roll" được công nhận rộng rãi là câu nói sau cùng của Todd Beamer qua điện đàm sau khi Lisa Beamer thuật rằng cô đã nghe lời này qua điện thoại di động của chồng.
Một số cơ sở được đặt theo tên của Todd Beamer, trong đó có một bưu điện ở Cranbury, New Jersey; một trường trung học (Todd Beamer High School) ở Federal Way, Tây Virginia; Đại học Wheaton cũng có một toà nhà mang tên Beamer (Todd M. Beamer Student Center). Beamer đã từng theo học tại
Năm 2003, Lisa Beamer, với sự cộng tác của Ken Abraham, viết một cuốn sách về Todd và những nỗ lực của cô khi gánh chịu nỗi đau về cái chết của chồng với tựa đề Let’s Roll: Con người bình thường, Lòng dũng cảm phi thường (Let's Roll!: Ordinary People, Extraordinary Courage), thuật lại cuộc sống của Todd và Lisa trước tai nạn và cuộc sống của Lisa sau đó. |
Đầu thế kỷ XXI, những đồng minh quan trọng nhất của Hoa Kỳ ở Tây Á là Thổ Nhĩ Kỳ (thành viên của NATO), Israel và Ai Cập. Các quốc gia này vẫn nhận viện trợ tài chính từ Hoa Kỳ. Năm 2001, Hoa Kỳ có những căn cứ quân sự ở Ả Rập Saudi, Bahrain, Kuwait, Qatar và Oman.
Bối cảnh lịch sử
Trước thập niên 1970
1953–1979: Sau khi những quyền lợi về dầu mỏ của Anh bị quốc hữu hóa tại Iran, năm 1953, Hoa Kỳ giúp lật đổ chính quyền dân chủ của Thủ tướng Mohammed Mossadegh trong một cuộc đảo chính được CIA hỗ trợ, và ủng hộ chế độ độc tài của Mohammad Reza Pahlavi. Những người Hồi giáo bảo thủ giành được sự ủng hộ của dân chúng vì được xem như là một sự thay thế khả dĩ cho chế độ độc tài thế tục đang cầm quyền.
1967: Hoa Kỳ chủ trương Israel nên triệt thoái khỏi khu vực chiếm được trong cuộc Chiến tranh sáu ngày (Dải Gaza, Bơ Tây, Cao nguyên Golan).
Thập niên 1970
1972–1973: Tháp Bắc (1972) và Tháp Nam (1973) của Trung tâm Thương mại Thế giới được hoàn tất.
1979: Một chính phủ được Liên Xô ủng hộ lên nắm quyền ở Afghanistan, Hoa Kỳ (Chính khách Jimmy Carter) và Pakistan bắt đầu vũ trang lực lượng nổi dậy Mujahadeen. Ronald Reagan đón tiếp "các chiến binh tự do" Mujahadeen tại Nhà Trắng. Trong số những người được Hoa Kỳ vũ trang và huấn luyện, có Osama bin Laden.
1979: Một cuộc nổi dậy được quần chúng ủng hộ đã lật đổ nhà vua độc tài Mohammad Reza Pahlavi. Phe Hồi giáo Shi'ite bảo thủ, dưới sự lãnh đạo của Ayatollah Khomeini, nắm chính quyền, thiết lập thể chế thần quyền cực đoan, ủng hộ các lực lượng Hồi giáo quá khích trong vùng.
Thập niên 1980
1983: Binh sĩ Hoa Kỳ được gởi đến Liban như là một thành phần trong Lực lượng Gìn giữ Hòa Bình Liên Hợp Quốc. Hoa Kỳ rút quân sau khi dân quân Shiite được Iran hậu thuẫn đặt bom tòa đại sứ và căn cứ Thủy quân lục chiến Mỹ tại Beirut, giết chết 258 người Mỹ. Hải quân Hoa Kỳ, trong nỗ lực hỗ trợ Israel và các lực lượng đồng minh, nã pháo vào các ngôi làng và những khu dân cư ở Bayrut.
1980-1988: Hoa Kỳ cung cấp vũ khí cho cả hai phe trong cuộc chiến đẫm máu kéo dài giữa Iran và Iraq bùng nổ năm 1982, cùng Liên Xô, Pháp, Trung Quốc và những nước khác ủng hộ Iraq. Hoa Kỳ và các nước khác phong toả các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc lên án cuộc xâm lăng của Iraq, rút tên Iraq khỏi danh sách các quốc gia bảo trợ khủng bố, cho phép chuyển giao vũ khí của Mỹ cho Iraq và tái lập quan hệ ngoại giao.
1987-1988: Hoa Kỳ gửi hải quân đến Vịnh Ba Tư để bảo vệ các tàu dầu và biểu thị sự ủng hộ dành cho Iraq. Ngày 17 tháng 3 năm 1987, một máy bay Iraq tấn công tàu khu trục USS Stark, giết chết 37 thủy thủ; cuộc tấn công được xem là một sự lầm lẫn từ cả hai phía. Tương tự, ngày 3 tháng 7 năm 1988, tàu tuần dương USS Vincennes bắn rơi chuyến bay 655 (Airbus A300) của hàng không Iran, 290 người thiệt mạng.
1989: Ra mắt Tập san Quốc phòng, trong đó trình bày chiến lược mới xác định nạn khủng bố quốc tế và các quốc gia "lưu manh" là mối đe doạ mới cho an ninh quốc gia, xếp Iraq và một số nước khác vào danh sách các nước "lưu manh", một năm trước khi Iraq xâm lăng Kuwait.
Từ năm 1981-1988, Osama bin Laden thành lập al-Qaeda. Năm 1988, Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan. Hoa Kỳ ngưng ủng hộ mujahadeen. Năm 1992, chính quyền cộng sản ở Afghanistan sụp đổ, một chính quyền mới thế chỗ, nhưng bùng nổ cuộc nội chiến trong vòng những phe phái chống đối nhau với phe được Pakistan ủng hộ và những nhóm bên ngoài, kể cả CIA.
Suốt trong thập niên 1980, phong trào Hồi giáo phát triển lan toả, lợi dụng việc Hoa Kỳ ủng hộ những thể chế độc tài trong khu vực, rao giảng rằng tất cả chính quyền tại các nước Ả Rập đều thối nát và không đại diện cho Hồi giáo "chân chính"; như thế chúng phải bị phế bỏ và nên được thay thế bằng chính quyền Hồi giáo, cai trị đất nước theo luật Hồi giáo.
Thập niên 1990
1990-1991: Viện cớ những tranh chấp về các mỏ dầu trên đường biên giới, Iraq xâm lăng Kuwait, bắt đầu Chiến tranh Vùng Vịnh. Lực lượng Liên quân quốc tế do Hoa Kỳ lãnh đạo đẩy lui quân đội Iraq và phục hồi vương triều của Kuwait. Khi Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh là lúc các phong trào chống đối tập trung sức mạnh ở phía nam (Hồi giáo Shi’ite) và phía bắc (người Kurd), nhưng Saddam Hussein ra tay chà nát họ và giành lại quyền lực. Hoa Kỳ và lực lượng đồng minh duy trì các căn cứ quân sự ở Ả Rập Xê Út. Osama bin Laden, giận dữ vì điều ông xem là sự hiện diện của bọn ngoại giáo tại thánh địa Mecca và Medina, quay sang đối nghịch Hoa Kỳ.
1991–2003: Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc duy trì lệnh cấm vận kinh tế toàn diện chống Iại Iraq như là điều kiện cần thiết để chấm dứt chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq. Hơn một triệu tử vong tại Iraq được cho là do lệnh cấm vận. Những người chỉ trích cho rằng lệnh cấm vận chỉ làm suy yếu sự chống đối của dân chúng đối với Hussein và trừng phạt người dân vô tội. Osama bin Laden vẫn thường viện dẫn lệnh cấm vận như một biện minh cho chính nghĩa của mình. Hoa Kỳ thường thực hiện những cuộc oanh tạc vào Iraq. Hoa Kỳ và đồng minh tuần tra khu vực cấm bay ở phía bắc và phía nam Iraq để bảo vệ các thành phần thiểu số.
1991: Chiến tranh Lạnh chấm dứt với việc chia cắt Liên Xô thành các nước cộng hoà độc lập.
Tháng 1 năm 1993: Trung tâm Thương mại Thế giới (World Trade Center) bị đánh bom; một nhóm được cho là có sự ủng hộ của bin Laden dùng xe bom đột nhập vào trung tâm, cho nổ tại bãi đậu xe ở tầng hầm của toà tháp bắc. Sáu người thiệt mạng và hơn một ngàn người bị thương. Năm 1997, sáu phần tử Hồi giáo cực đoan bị kết án, mỗi người 240 năm tù.
1994: Quyền công dân Ả Rập Xê Út của Osama bin Laden bị thu hồi. Bin Laden đến Sudan.
Ngày 11 tháng 12 năm 1994: Một quả bom nhỏ phát nổ trên chuyến bay 434 của Philippine Airlines, giết chết một doanh nhân Nhật Bản. Về sau phát hiện rằng Ramzi Yousef đặt bom trên chuyến bay ấy để thử nghiệm cho kế hoạch khủng bố của hắn.
Ngày 6 tháng 1 – 7 tháng 1 năm 1995: Chiến dịch Bojinka bị phát hiện trong một máy tính xách tay và nhiều đĩa mềm bị tìm thấy trong một chung cư ở Manila khi sau khi xảy ra hoả hoạn ở đây. Kẻ chủ mưu Abdul Hakim Murad bị bắt giữ. Một tháng sau, Ramzi Yousef bị bắt; nhà tài chính Wali Khan Amin Shah bị bắt vào cuối năm, nhưng Khalid Sheik Mohammed vẫn chưa bị bắt giữ cho đến năm 2003.
Tháng 1 năm 1995: Ramzi Yousef bị bắt tại Lahore, Pakistan.
Ngày 13 tháng 11 năm 1995: Một quả bom phát nổ tại bộ chỉ huy quân đội Mỹ tại Riyadh, Ả Rập Xê Út giết chết 5 người Mỹ và 2 người Ấn Độ.
Tháng 12 năm 1995: Người cung cấp tài chính cho chiến dịch Bonjinka, bị bắt giữ tại Malaysia.
1996: Phong trào Hồi giáo cực đoan Taliban chiếm thủ đô Kabul và phần lớn lãnh thổ Afghanistan từ tay những nhóm mujahdeen địa phương. Chính quyền Taliban được công nhận bởi Pakistan, Ả Rập Xê Út và UAE. Bin Laden rời Sudan để đến Afghanistan. Phần lãnh thổ còn lại vẫn ở dưới quyền kiểm soát của Liên minh phương Bắc, qui tụ các nhóm mujahadeen địa phương, cùng những người thuộc chính quyền cộng sản cũ và thành phần thiểu số (người Afghanistan theo Taliban thuộc nhóm Pashtun đa số).
Ngày 25 tháng 6 năm 1996: Bom nổ tại doanh trại quân đội mỹ ở Dhahran, Ả Rập Xê Út, 19 người thiệt mạng, 500 người bị thương.
Tháng 1 năm 1998: Osama bin Laden và thành phần Hồi giáo cực đoan ra một giáo lệnh (fatwa), tuyên cáo rằng nghĩa vụ tôn giáo của mọi người Hồi giáo là "giết người Mỹ và đồng minh của chúng – dân sự hoặc quân đội... tại bất cứ nơi đâu nếu có thể". Dựa trên sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Israel và hành động của quốc gia này trong và sau Chiến tranh Vùng Vịnh mà bin Laden đã ra giáo lệnh này.
Tháng 7 năm 1998: Nổ bom tại các sứ quán Hoa Kỳ ở Dar Es Salaam, Tanzania và Nairobi, Kenya. Hơn 200 người thiệt mạng. Hoa Kỳ tin bin Laden có dính líu.
Ngày 21 tháng 8 năm 1998: Hoa Kỳ dùng hoả tiễn cruise huỷ diệt nhà máy dược phẩm ở Sudan (cung cấp một nửa lượng thuốc cho Sudan), dựa trên những chứng cớ thiếu chính xác cho rằng nhà máy có dính líu đến việc chế tạo vũ khí hoá học; tìm cách sát hại bin Laden khi bắn tên lửa cruise và căn trại của bin Laden ở Afghanistan đang khi diễn ra một cuộc họp của các thủ lĩnh khủng bố (Chiến dịch Infinite Reach). Chỉ có 24 người thiệt mạng nhờ những tính toán chính xác, nhưng các thủ lĩnh kịp di tản trước đó, bin Laden vô sự. Hoa Kỳ ngăn cản cuộc điều tra của Liên hiệp quốc về vụ tấn công Sudan. Sudan được phép nhập khẩu dược phẩm từ Hoa Kỳ để thay thế số thuốc bị mất.
Tháng 12 năm 1998: Viện cớ Iraq thiếu hợp tác trong một báo cáo của Liên hiệp quốc, không quân Hoa Kỳ và Anh Quốc tấn công Iraq. Toán thanh tra vũ khí của Liên hiệp quốc rời khỏi Iraq, sau đó không được phép trở lại. Sau vụ oanh tạc của Hoa Kỳ và Anh, Chiến dịch Desert Fox tìm cách huỷ diệt vũ khí giết người hàng loạt của Iraq. Hoa Kỳ và Anh giới thiệu Rules of Engagement, mở đường cho những vụ oanh tạc vào các căn cứ phòng không của Iraq.
1999: Xảy ra hạn hán ở Afghanistan.
Ngày 23 tháng 9 năm 1999: Thống đốc Texas George W. Bush tuyên bố trên website Ủy ban Thăm dò tranh cử Tổng thống của ông, nếu trở thành Tổng thống Hoa Kỳ ông sẽ xem vấn đề an ninh nội địa là ưu tiên hàng đầu:
"Việc nước Mỹ tự bảo vệ mình sẽ trở thành ưu tiên hàng đầu trong thế kỷ mới. Một khi đối sách chiến lược trì trệ, vấn đề an ninh nội địa trở nên một nghĩa vụ cấp bách. Chúng ta cần cho mọi quốc gia và mọi tổ chức biết rằng, nếu họ bảo trợ những vụ tấn công, phản ứng của chúng là sẽ là quyết liệt. Nếu đắc cử tổng thống, tôi sẽ thiết lập ba mục tiêu: tôi sẽ phục hồi mối quan hệ tín cẩn giữa tổng thống và quân đội, tôi sẽ bảo vệ nhân dân Mỹ chống lại hoả tiễn và khủng bố, và tôi sẽ bắt tay xây dựng quân đội cho thế kỷ kế tiếp. Quân lực của chúng ta cần tập trung vào một sứ mạng rõ ràng. Sứ mạng ấy là ngăn ngừa chiến tranh – và phải chiến thắng nếu không thể ngăn ngừa chiến tranh. Bố trí quân đội vào vô số chiến dịch mơ hồ và không có mục đích là phương cách mau chóng nhất làm tan rã tinh thần chiến đấu."
Ngày 12 tháng 12 năm 1999: Nhà cầm quyền Jordan che giấu một âm mưu đánh bom các mục tiêu ở nước này như là một phần trong kế hoạch tấn công thiên niên kỷ 2000. 28 người bị bắt giữ, trong đó 22 người bị kết án.
Ngày 14 tháng 12 năm 1999: Ahmed Ressan bị bắt tại biên giới Mỹ – Canada với hợp chất hóa học gây nổ nitroglycerin tìm thấy trong xe. Ressan và ba người Algérie khác bị giới chức thẩm quyền Mỹ cáo buộc âm mưu đặt bom Phi trường Quốc tế Los Angeles như là một phần thuộc kế hoạch tấn công thiên niên kỷ 2000.
Ngày 24 tháng 12 (Đêm Giáng sinh) năm 1999: Chuyến bay 814 của Indian Airlines cất cánh từ Kathmandu, Nepal đến Phi trường quốc tế Indira Gandhi, Ấn Độ bị không tặc. Phi cơ phải bay đến các địa điểm khác nhau ở Nam Á và Đông Nam Á trong khi diễn ra cuộc đàm phán giữa các viên chức Chính phủ Ấn Độ và chính phủ Taliban. Một hành khách bị giết, một số khác được phóng thích.
Ngày 31 tháng 12 năm 1999: Tất cả con tin còn lại trên chuyến bay 814 của Indian Airlines được tự do sau khi một phần tử Hồi giáo được Ấn Độ trả tự do.
Ngày 3 tháng 1: Một âm mưu bất thành nhằm đánh chìm khu trục hạm USS The Sullivians của Hải quân Hoa Kỳ khi một chiếc thuyền chứa đầy chất nổ bị chìm. Âm mưu này thuộc kế hoạch tấn công thiên niên kỷ 2000.
Từ năm 2000
Ngày 5 tháng 1 – 8 tháng 1 năm 2000: Cuộc họp cấp cao năm 2000 của tổ chức al Qaeda được triệu tập ở Kuala Lumpur, Malaysia trong một chung cư. Nawaf al-Hazmi và Khalid al-Mihdhar, được cho là không tặc trên chuyến bay 77 của American Airlines trong cuộc tấn công 11 tháng 9, đã đến dự họp.
Tháng 10 năm 2000: Tấn công bằng bom vào khu trục hạm USS Cole của Hải quân Hoa Kỳ giết chết 17 thủy thủ, thủ phạm bị nghi là nhóm al-Qaida của Osama bin Laden.
Ngày 15 tháng 9 năm 2000: Tiến trình hòa bình Israel-Palestine đình trệ, bùng nổ làn sóng bạo động al-Aqsa Intifada.
Tháng 5 năm 2001: Hoa Kỳ viện trợ 43 triệu USD cho Taliban giúp hạ giảm mức sản xuất cây anh túc (là nguồn sản xuất heroin).
Tin tình báo trước 11 tháng 9
Ngày 22 tháng 6 năm 2001: Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra lời cảnh báo cho công dân Mỹ khắp thế giới về khả năng xảy ra tấn công khủng bố liên quan đến Osama bin Laden. Lời cảnh báo sẽ hết hạn hoặc sẽ được cập nhật ngày 22 tháng 9.
Ngày 28 tháng 6 năm 2001: Thượng nghị sĩ Warner phát biểu khi làm chứng trước Ủy ban Quân bị Thượng viện rằng ông xem xét bản đệ trình ngân sách "bởi vì chúng ta cần phải chuẩn bị cho một cuộc tấn công khủng bố sẽ xảy ra tại đây, ngay trong nước theo một cách nào đó tại các thành phố của Hoa Kỳ, chúng ta cần có cách đối phó tốt nhất.".
Ngày 20 tháng 7 năm 2001: Hội nghị thượng đỉnh G8 khai mạc tại Genova, Ý. Các biện pháp an ninh được siết chặt do những đám đông biểu tình và do tin tình báo cho biết những tay khủng bố có liên quan đến Osama bin Laden đang âm mưu tấn công hội nghị nhằm sát hại George W. Bush và những người khác. Kế hoạch tấn công gồm có việc sử dụng một máy bay chứa đầy thuốc nổ đâm vào các tòa nhà dùng làm nơi tổ chức hội nghị hoặc làm nơi lưu trú cho các đại biểu. Nhiều biện pháp đề phòng được áp dụng: George W. Bush được sắp xếp ở một nơi riêng biệt, chiến đấu cơ phản lực tuần tra trên bầu trời thành phố, thiết lập một khu vực cấm bay rộng lớn, bố trí các pháo đội hoả tiễn đất đối không chung quanh thành phố.
Ngày 6 tháng 8 năm 2001: Trong buổi tường trình ngắn thường nhật, George W. Bush được báo cho biết Osama bin Laden quyết tâm tấn công các mục tiêu bên trong nước Mỹ và FBI tin rằng những hoạt động đồng bộ với việc chuẩn bị cướp máy bay đang được tiến hành.
Ngày 18 tháng 8 năm 2001: Báo cáo của FBI cho rằng nếu được trả tự do, nghi can Zacarias Moussaoui "có thể cướp một máy bay và đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới".
Ngày 9 tháng 9 năm 2001: Taliban ám sát Ahmed Shah Massoud, thủ lĩnh quân sự Liên minh phương Bắc của phe chống đối ở Afghanistan (Massoud chết ngày 13 tháng 9).
Ngày 10 tháng 9 năm 2001: Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSA) bắt được hai lời nhắn bằng tiếng Ả Rập gửi đi từ Ả Rập Xê Út đến Afghanistan. Giới chức Hoa Kỳ tin rằng hai người ở Afghanistan có liên quan đến Al-Qaida. Nội dung hai lời nhắn là "Ngày mai là giờ số không" và "Trận đấu bắt đầu vào ngày mai". Tuy nhiên, vì cho là lời nhắn ngụ ý cuộc tấn công chưa gần kề nên mãi đến ngày 12 tháng 9, hai lời nhắn này mới được dịch ra tiếng Anh.
Ngày 11 tháng 9 năm 2001: Xảy ra cuộc tấn công.
Những cảnh báo
Trong những tháng trước ngày 11 tháng 9, chính phủ của ít nhất là bốn quốc gia – Đức, Ai Cập, Nga và Israel – đã đưa ra những cảnh báo "khẩn cấp" cho Hoa Kỳ về một cuộc tấn công khủng bố sắp xảy ra, cho biết máy bay thương mại có thể bị cướp để tấn công các mục tiêu ngay tại Mỹ (xem danh sách những cảnh báo tình báo trong tháng 7–8 năm 2001). Những cảnh báo của Ai Cập và Pháp được cho là có nguồn gốc từ Mossad và tình báo Đức.
"Không ai biết thời điểm chính xác những cảnh báo này được gởi đến, chỉ sau khi xảy ra sự kiện 11/9, chúng mới được công bố".
Trong tháng 6, Cơ quan Tình báo Đức (BND) báo cho tình báo Mỹ và Israel biết các phần tử khủng bố Trung Đông đang "âm mưu cướp máy bay thương mại và sử dụng chúng như một loại vũ khí để tấn công những biểu tượng quan trọng của nền văn hoá Mỹ và Israel" (Nguồn: Frankfurter Allgemeine Zeitung, 14 tháng 9 năm 2001).
Ngày 13 tháng 6, Ai Cập gởi cảnh báo khẩn cấp đến Hoa Kỳ, Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak nói với nhật báo Pháp Le Figaro rằng lời cảnh báo này đã được gởi đi ngay trước kỳ họp thượng đỉnh G-8 ở Genova và được xem xét nghiêm túc đủ để cho bố trí những pháo đội phòng không chung quanh phi trường Genova. Theo Mubarak, "một phi cơ chứa đầy chất nổ" được nói đến trong nguồn tin. (Nguồn: New York Times, 26 tháng 9 năm 2001).
Trong suốt mùa hè, tình báo Nga đã lưu ý CIA rằng có 25 phần tử khủng bố được huấn luyện kỹ năng lái máy bay cho các sứ mạng cảm tử.
Ngày 15 tháng 9, trong một cuộc phỏng vấn của MSNBC, Tổng thống Nga Vladimir Putin khẳng định rằng trong tháng 8 ông đã chỉ thị tình báo Nga cảnh báo chính phủ Hoa Kỳ bằng "những lời lẽ mạnh mẽ nhất có thể" về những vụ tấn công sắp xảy ra nhắm vào các phi cảng và toà nhà chính phủ. (Nguồn: From The Wilderness web site; MSNBC).
Trong tháng 8, tình báo Israel, Mossad, cảnh báo FBI và CIA rằng có đến 200 thuộc hạ của Osama bin Laden đang đột nhập vào nước Mỹ để chuẩn bị cho "một cuộc tấn công lớn vào Hoa Kỳ". Lời cảnh báo này có nói đến một "mục tiêu quy mô lớn", và tờ Los Angeles Times trích dẫn lời của các viên chức Mỹ giấu tên xác nhận rằng cảnh báo của Mossad đã đến tay người Mỹ. (Nguồn: Sunday Telegraph, 16 tháng 9 năm 2001; Los Angeles Times, 20 tháng 9 năm 2001).
Nhật báo The Independent của Anh cho đăng một bài viết khẳng định rằng Chính phủ Mỹ "đã được cảnh báo nhiều lần về một vụ tấn công thảm khốc nhắm vào nước Mỹ đang được tiến hành". Tờ báo này cũng trích dẫn một cuộc phỏng vấn Osama bin Laden của một nhật báo tiếng Ả Rập đặt trụ sở tại Luân Đôn, al-Quds al-Arabi, vào cuối tháng 8 (Nguồn: Independent, 17 tháng 9 năm 2001). |
Nguyễn Thị Bích có thể là:
Nguyễn Nhược Thị Bích, cung tần của vua Tự Đức, là tác giả của bài Hạnh Thục ca nổi tiếng.
Nguyễn Thị Bích, người Quảng Trị, là một trong những thứ phi của vua Quang Trung. |
Ung thư buồng trứng là một trong những ung thư đường sinh dục thường gặp nhất ở phụ nữ. Ở Mỹ thì đây là ung thư có tỉ suất cao thứ hai sau ung thư thân tử cung và là ung thư đường sinh dục gây tử vong cao nhất cho phụ nữ Mỹ. Trên toàn thế giới thì ung thư buồng trứng là ung thư đường sinh dục thường gặp thứ hai sau ung thư cổ tử cung, và cũng là ung thư đường sinh dục gây tử vong cao thứ hai sau ung thư cổ tử cung.
Về sinh học ung thư buồng trứng thì có một số điểm đáng chú ý:
Nguy cơ ung thư liên quan mật thiết đến sự tổn thương của niêm mạc buồng trứng mỗi lần rụng trứng.
Ung thư buồng trứng thường được chẩn đoán muộn khi bệnh đã lan tràn, gieo rắc vùng chậu và ổ bụng.
Điều trị ung thư buồng trứng đòi hỏi kết hợp nhiều mô thức điều trị, đó là phẫu trị, hóa trị và xạ trị.
Đặc điểm dịch tễ
Tại Việt Nam theo số liệu ghi nhận ung thư quần thể thì xuất độ ung thư buồng trứng năm 2000 ở Hà Nội là 4,4/100.000 dân và ở Thành phố Hồ Chí Minh là 3,7/100.000 dân.
Một số quốc gia ở Bắc Mỹ và Bắc Âu, phụ nữ có nguy cơ cao. Trái lại tỷ lệ thấp ở Nhật và các quốc gia đang phát triển. Phụ nữ châu Phi ở Mỹ cũng có tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn.
Ung thư buồng trứng có thể gặp ở phụ nữ trẻ khoảng lứa tuối 14-15 nhưng tuổi trung bình của ung thư buồng trứng là khoảng 60 tuổi, gặp nhiều ở phụ nữ hậu mãn kinh, .
Sinh bệnh học
Nguyên nhân của carcinôm buồng trứng chưa được biết rõ ràng, tuy nhiên carcinôm buồng trứng có vẻ phát triển trên những cơ địa đặc biệt:
Yếu tố nội tiết và tiền căn thai sản
Có những mối liên hệ rõ ràng giữa yếu tố nội tiết và tiền căn thai sản với nguy cơ mắc carcinôm buồng trứng như:
Sinh đẻ ít và kinh thưa. Phụ nữ đã từng mang thai sẽ giảm nguy cơ ung thư buồng trứng xuống 2 lần.
Dùng thuốc kích thích rụng trứng, đặc biệt khi sử dụng kéo dài.
Thuốc ngừa thai: nhiều nghiên cứu cho thấy thuốc ngừa thai dạng uống có tác dụng bảo vệ đáng kể đối với carcinôm buồng trứng. Nguy cơ mắc carcinôm buồng trứng ở những phụ nữ này chỉ bằng một nửa so với những phụ nữ không sử dụng, tác dụng bảo vệ này kéo dài nhiều năm sau khi ngưng sử dụng.
Chế độ dinh dưỡng
Chế độ ăn nhiều mỡ làm tăng khả năng mắc carcinôm buồng trứng: những người có chế độ ăn nhiều chất có lactose như sữa mà thiếu men galactose-1-phosphate uridyltransferase có tăng nguy cơ mắc carcinôm buồng trứng.
Vitamin A và C dường như có vai trò bảo vệ.
Yếu tố môi trường
Trong một số nghiên cứu cho thấy phụ nữ tiếp xúc với bột talc qua bao cao su hoặc giấy vệ sinh có tăng nguy cơ mắc bệnh carcinôm buồng trứng. Tỷ lệ carcinôm buồng trứng cao ở những người có tiền căn dùng phấn thơm ở vùng sinh dục hơn những người không sử dụng.
Mối liên hệ giữa tia bức xạ ion và carcinôm buồng trứng còn nhiều bàn cãi. Chưa có bằng chứng rõ ràng về mối liên hệ giữa virus và carcinôm buồng trứng, nhưng có nhiều nghiên cứu đã cho thấy ảnh hưởng của virus như cúm, rubella, quai bị đối với carcinôm buồng trứng.
Ảnh hưởng của yếu tố di truyền
Carcinôm buồng trứng có tính chất di truyền. Carcinôm buồng trứng di truyền thường xảy ra sớm hơn 10 năm so với carcinôm buồng trứng không có tính di truyền, tuy nhiên tiên lượng có vẻ tốt hơn, .
Hội chứng ung thư vú-buồng trứng gia đình thường ảnh hưởng tới liên quan phả hệ bậc 1 và 2. Hội chứng này thường gặp ở phụ nữ trẻ, bướu buồng trứng thường ở 2 bên. Ở những phụ nữ này, nguy cơ bị mắc ung thư buồng trứng tăng gấp 2 đến 4 lần so với cộng đồng. Locus gen hiện diện trên chromosome 17 của gen BRCA1,
Hội chứng Lynch II: carcinôm tuyến ở nhiều cơ quan, hiện diện đồng thời ung thư ở đại tràng, buồng trứng, nội mạc tử cung, vú và những ung thư khác của đường sinh dục,
Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy người bị ung thư vú có tần suất bị ung thư buồng trứng cao gấp 2 lần người khác và ung thư buồng trứng có tần suất bị ung thư vú cao gấp 3, 4 lần,
Giải phẫu bệnh
Phân chia bướu buồng trứng về mặt vi thể dựa vào nguồn gốc tạo mô:
Bướu có nguồn gốc từ biểu mô
Ung thư bao gồm các loại:
Bướu dịch thanh
Bướu tuyến bọc dịch trong
Bướu dịch trong giáp biên
Carcinôm tuyến bọc dịch trong
Bướu dịch nhầy
Bướu tuyến bọc dịch nhầy
Bướu dịch nhầy giáp biên
Carcinôm tuyến bọc dịch nhầy
Carcinôm dạng nội mạc tử cung
Carcinôm tuyến tế bào sáng
Bướu Brenner
Carcinôm không biệt hoá
Trong đó:
75% carcinôm buồng trứng có giải phẫu bệnh là carcinôm tuyến bọc dịch trong
20% carcinôm buồng trứng có giải phẫu bệnh là carcinôm tuyến bọc dịch nhầy
2% carcinôm buồng trứng là carcinôm tuyến tế bào sáng
1% carcinôm buồng trứng là bướu brenner
1% carcinôm buồng trứng là carcinôm kém biệt hoá
Bướu mầm bào
Bướu nghịch mầm
Carcinôm phôi
Bướu đa phôi
Bướu xoang nội bì
Bướu nguyên bào nuôi
Bướu quái ác tính không trưởng thành
Bướu tế bào mầm hỗn hợp
Bướu có nguồn gốc từ dây sinh dục
Bướu tế bào hạt và tế bào vỏ
Bướu tế bào hạt
Bướu tế bào vỏ
Bướu sợi
Bướu tế bào Sertoli-Leydig
Bướu nguyên bào sinh dục
Bướu không được xếp loại
Bướu do di căn
Đặc điểm lâm sàng của carcinôm buồng trứng
Khó chịu ở bụng, cảm giác nặng bụng, đầy bụng và bụng chướng là những triệu chứng thường gặp của carcinôm buồng trứng, ngoài ra cũng có thể gặp những triệu chứng khác là xuất huyết âm đạo, triệu chứng đường tiêu hoá như đi cầu bón, khó đi cầu do bướu lớn chèn ép vào thành trực tràng và đường tiết niệu như tiểu lắt nhắt....
Khi thăm khám, nếu là bướu lớn có thể sờ được trên bụng, bướu nhỏ nằm trong tiểu khung thì phải thăm khám âm đạo phối hợp với khám bụng. Khi ấy sẽ thấy: khối bướu tròn, chắc, căng, gõ đục, nằm giữa, trước hay cạnh tử cung, di động hay ít di động, độc lập với tử cung, bướu có thể xâm lấn vùng chậu hay không. Một số trường hợp bệnh nhân được phát hiện tình cờ lúc khám tổng quát.
Ở trẻ em, triệu chứng thường gặp là đau bụng, bụng sưng to, khối bướu vùng chậu.
Chẩn đoán
Chẩn đoán ung thư buồng trứng dựa vào việc khám lâm sàng và các phương tiện cận lâm sàng.
Các triệu chứng của ung thư buồng trứng đã mô tả ở mục trên. Một số biểu hiện gợi ý bệnh ác tính, đó là bướu xâm lấn vùng chậu, báng bụng, bệnh nhân sụt cân, thiếu máu,...
Về cận lâm sàng, chẩn đoán ung thư buồng trứng dựa vào các phương tiện sau:
Siêu âm bụng chậu
Giúp chẩn đoán khối bướu buồng trứng, khi nghi ngờ trên khám lâm sàng có thể thực hiện siêu âm vùng chậu qua ngã bụng và qua ngã âm đạo.
Siêu âm cho phép chẩn đoán khối bướu buồng trứng dựa trên những tiêu chuẩn nghĩ đến ác tính. Trong tất cả các trường hợp, siêu âm đòi hỏi phải rõ ràng, chính xác và hoàn hảo: kỹ thuật sử dụng, giai đoạn nào của chu kỳ kinh nguyệt, vị trí tổn thương, một hay hai bên buồng trứng, kích cỡ và cấu trúc khối bướu (dịch đồng nhất, hỗn hợp dịch và đặc, đặc đồng nhất...). Khi siêu âm cần mô tả: độ dày của thành, vách ngăn, chồi nhú trong nang hoặc ngoài nang, có tràn dịch màng bụng hay tụ dịch vùng douglas, hạch phì đại...
CT scan và MRI
CT scan đặc biệt hữu ích khi chụp có thuốc cản quang đường uống hay đường tĩnh mạch. Nó cho phép đánh giá hạch sau phúc mạc ở vùng cạnh động mạch chủ và sự gieo rắc trong xoang phúc mạc và mạc treo ruột. Tuy nhiên đối với ung thư buồng trứng ở giai đoạn sớm, CT scan thường không mang lại những thông tin nào ngoài siêu âm cho nên không cần thực hiện một cách thường qui.
MRI cũng được chỉ định trong một số trường hợp đặc biệt: khối bướu có kích thước lớn, bệnh nhân quá mập, phụ nữ có thai, siêu âm có nhiều vấn đề phức tạp.
Các dấu hiệu sinh học
CA-125
CA-125 là epitope cacbohydrate, kháng nguyên ung thư glycoprotein, một dấu hiệu sinh học của bướu trong huyết thanh.
CA-125 bình thường hiện diện ở lá phôi trong dẫn xuất từ biểu mô mầm, bao gồm phúc mạc, màng phổi và màng ngoài tim và màng ối. Biểu mô buồng trứng không biểu hiện hoạt tính CA-125.
Mức CA-125 trong huyết thanh là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá khối bướu vùng chậu, đặc biệt đối với carcinôm buồng trứng. Mức CA-125 trong huyết thanh liên quan chặt chẽ với sự lan rộng của bướu, sự đáp ứng với điều trị và sự tái phát.
Mức CA-125 > 60u/ml giúp loại trừ những bệnh nhân không có bướu hoặc bướu lành với độ đặc hiệu là 98%, nhưng độ nhạy của xét nghiệm chỉ là 70% và giá trị tiên đoán chỉ đạt 2% khi tầm soát ở cộng đồng.
CA-125 được đo bằng các xét nghiệm miễn dịch, có nồng độ bình thường trong huyết thanh < 35 u/ml. Chỉ có 1% người bình thường có ca-125 > 35u/ml. 80% bệnh nhân bị carcinôm buồng trứng loại biểu mô không tiết nhầy có nồng độ ca-125 tăng cao.
CA-125 có thể tăng cao trong 50% trường hợp ung thư buồng trứng giai đoạn I và trong 60% trường hợp ung thư buồng trứng giai đoạn II.
Các dấu hiệu sinh học khác
M-CSS: là một cytokine được tiết ra bởi tế bào carcinôm buồng trứng.
OVX1: là một kháng nguyên glycoprotein có trọng lượng phân tử cao.
Một số các dấu hiệu sinh học khác đã được sử dụng và nghiên cứu nhưng kết quả không tốt hơn các kháng nguyên trước đây, đó là: LASA, CA54-61, CA 72-4, CA-195, CA-50...
Xếp giai đoạn
Ung thư buồng trứng được xếp giai đoạn theo FIGO (Federation Internationale de Gynecology et d'Obstetric)
Giai đoạn I: khu trú ở buồng trứng
Giai đoạn IA: một buồng trứng, không báng bụng, không có bướu trên mặt ngoài buồng trứng, vỏ bao buồng trứng còn nguyên
Giai đoạn IB: cả hai buồng trứng, không báng bụng, không có bướu trên mặt ngoài, vỏ bao còn nguyên
Giai đoạn IC: IA hoặc IB kèm bướu trên bề mặt của một hoặc hai buồng trứng, hoặc vỏ bao vỡ, hoặc báng bụng có chứa tế bào ác tính trong dịch rửa phúc mạc
Giai đoạn II: bướu ở một hoặc hai buồng trứng có thêm ăn lan vùng chậu
Giai đoạn IIA: ăn lan và/hoặc di căn tử cung và/hoặc vòi trứng
Giai đoạn IIB: ăn lan các mô khác của vùng chậu
Giai đoạn IIC: IIA hoặc IIB kèm bướu trên bề mặt của một hoặc hai buồng trứng, hoặc vỏ bao vỡ hoặc báng bụng có chứa tế bào ác tính, hoặc dịch rửa phúc mạc
Giai đoạn III: bướu ở một hoặc hai buồng trứng lan tới ruột non, di căn mạc nối trong vùng chậu hoặc trong phúc mạc, các hạch sau phúc mạc, hạch bẹn, di căn bề mặt gan
Giai đoạn IIIA: khu trú ở vùng chậu, hạch (-) nhưng vi thể có ăn lan phúc mạc
Giai đoạn IIIB: khu trú một hay hai buồng trứng, ăn lan phúc mạc không quá 2 cm đường kính, hạch (-)
Giai đoạn IIIC: ăn lan phúc mạc > 2 cm đường kính và hoặc hạch bẹn hay hạch sau phúc mạc (+)
Giai đoạn IV: di căn xa, tràn dịch màng phổi tế bào học (+), di căn nhu mô gan... |
phải|nhỏ|250x250px|253 Mathilde, một tiểu hành tinh kiểu C.
Tiểu hành tinh là một hành tinh vi hình—một vật thể không phải là hành tinh thực sự hay sao chổi—ở vòng trong hệ Mặt Trời. Chúng là những vật thể bằng đá, kim loại hoặc băng không có bầu khí quyển. Kích thước và hình dạng của các tiểu hành tinh khác nhau đáng kể, từ những tảng đá có đường kính 1 mét đến một hành tinh lùn có đường kính gần 1.000 km.
Trong số khoảng một triệu tiểu hành tinh đã biết, số lượng lớn nhất nằm giữa quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc, cách Mặt Trời khoảng 2 đến 4 AU, trong vành đai tiểu hành tinh. Các tiểu hành tinh thường được phân thành ba loại: loại C, loại M và loại S. Chúng được đặt tên theo và thường được xác định tương ứng với các thành phần carbon, kim loại và silic. Kích thước của các tiểu hành tinh rất khác nhau; lớn nhất, Ceres, có chiều ngang gần và đủ tiêu chuẩn để là một hành tinh lùn, trong khi số còn lại hiện được xếp loại như những vật thể nhỏ hệ Mặt Trời. Tổng khối lượng của tất cả các tiểu hành tinh cộng lại chỉ bằng 3% khối lượng Mặt Trăng của Trái Đất. Phần lớn các tiểu hành tinh ở vành đai chính có quỹ đạo hơi hình elip, ổn định, quay cùng hướng với Trái Đất và mất từ ba đến sáu năm để hoàn thành một vòng quanh Mặt Trời.
Mọi người cho rằng các tiểu hành tinh là tàn tích của một đĩa tiền hành tinh, và trong vùng này sự hợp nhất của các tàn tích tiền hành tinh thành các hành tinh không thể diễn ra vì những ảnh hưởng hấp dẫn to lớn từ Sao Mộc trong giai đoạn thành tạo của hệ Mặt Trời. Một số tiểu hành tinh có các vệ tinh hay đi thành cặp trở thành các hệ đôi.
Lịch sử quan sát
Chỉ có một tiểu hành tinh, 4 Vesta, có bề mặt tương đối phản chiếu, thường có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Khi ở vị trí thuận lợi, 4 Vesta có thể được nhìn thấy trên bầu trời tối. Hiếm khi, các tiểu hành tinh nhỏ đi gần Trái Đất có thể được nhìn thấy bằng mắt thường trong một khoảng thời gian ngắn. Tính đến tháng 4 năm 2022, Minor Planet Center đã có dữ liệu về 1.199.224 hành tinh vi hình trong và ngoài hệ Mặt Trời, trong đó khoảng 614.690 hành tinh vi hình có đủ thông tin để được đánh số.
Khám phá Ceres
Năm 1772, nhà thiên văn học người Đức Johann Elert Bode, trích dẫn Johann Daniel Titius, đã công bố một numerical procession được gọi là định luật Titius–Bode. Ngoại trừ khoảng cách không giải thích được giữa Sao Hỏa và Sao Mộc, công thức của Bode dường như dự đoán quỹ đạo của các hành tinh đã biết.
Công thức của Bode dự đoán một hành tinh khác sẽ được tìm thấy với bán kính quỹ đạo gần 2,8 đơn vị thiên văn (AU), hay 420 triệu km, tính từ Mặt Trời. Định luật Titius–Bode được củng cố hơn nhờ việc William Herschel phát hiện ra Sao Thiên Vương ở gần khoảng cách được dự đoán cho một hành tinh ngoài Sao Thổ. Năm 1800, một nhóm, được đứng đầu bởi Franz Xaver von Zach–biên tập viên tạp chí thiên văn học Đức Monatliche Correspondenz, đã gửi yêu cầu tới 24 nhà thiên văn học giàu kinh nghiệm (người mà ông mệnh danh là "celestial police"), mong muốn họ cùng nỗ lực và bắt đầu tìm kiếm một cách có phương pháp hành tinh dự kiến. Mặc dù họ không phát hiện ra Ceres nhưng sau đó họ đã tìm thấy tiểu hành tinh 2 Pallas, 3 Juno và 4 Vesta.
Một trong những nhà thiên văn học được chọn để tìm kiếm là Giuseppe Piazzi, một linh mục Công giáo tại Học viện Palermo, Sicily. Trước khi nhận được lời mời tham gia nhóm, Piazzi đã phát hiện ra Ceres vào ngày 1 tháng 1 năm 1801. Ông đang tìm kiếm "[ngôi sao] thứ 87 trong the Catalogue of the Zodiacal stars of Mr la Caille". Thay vì một ngôi sao, Piazzi đã tìm thấy một vật thể giống như ngôi sao đang chuyển động, mà lúc đầu ông nghĩ đó là sao chổi.
Piazzi đã quan sát Ceres tổng cộng 24 lần, lần cuối cùng vào ngày 11 tháng 2 năm 1801, khi bệnh tật làm gián đoạn công việc của ông. Ông công bố khám phá của mình vào ngày 24 tháng 1 năm 1801 bằng thư và chỉ gửi cho hai nhà thiên văn học là Barnaba Oriani ở Milan và Bode ở Berlin. Ông cho biết nó là một sao chổi nhưng "vì chuyển động của nó quá chậm và khá đồng đều nên tôi đã nhiều lần nghĩ rằng nó có thể là thứ gì đó hơn là sao chổi". Vào tháng 4, Piazzi đã gửi những quan sát đầy đủ của mình cho Oriani, Bode và nhà thiên văn học người Pháp Jérôme Lalande. Thông tin này được công bố trên tạp chí Monatliche Correspondenz số tháng 9 năm 1801.
Tìm kiếm thêm
Ba tiểu hành tinh khác (2 Pallas, 3 Juno và 4 Vesta) được nhóm của von Zach phát hiện trong vài năm tiếp theo, với Vesta được tìm thấy vào năm 1807. Không có tiểu hành tinh mới nào được phát hiện cho đến năm 1845. Nhà thiên văn nghiệp dư Karl Ludwig Hencke bắt đầu tìm kiếm các tiểu hành tinh mới vào năm 1830, và 15 năm sau, trong khi tìm kiếm Vesta, ông đã tìm thấy tiểu hành tinh sau này được đặt tên là 5 Astraea. Đây là phát hiện tiểu hành tinh mới đầu tiên sau 38 năm. Carl Friedrich Gauß được vinh dự đặt tên cho tiểu hành tinh này. Sau đó, các nhà thiên văn học khác cũng tham gia; 15 tiểu hành tinh đã được tìm thấy vào cuối năm 1851. Năm 1868, khi James Craig Watson phát hiện ra tiểu hành tinh thứ 100, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp đã khắc hình ảnh của Karl Theodor Robert Luther, John Russell Hind và Hermann Goldschmidt, ba người tìm kiếm tiểu hành tinh thành công nhất vào thời điểm đó, trên một huy chương kỷ niệm đánh dấu sự kiện này.
Năm 1891, Max Wolf đi tiên phong trong việc sử dụng kỹ thuật chụp ảnh thiên văn để phát hiện các tiểu hành tinh xuất hiện dưới dạng những vệt ngắn trên các tấm ảnh phơi sáng dài. Điều này làm tăng đáng kể tỷ lệ phát hiện so với các phương pháp trực quan trước đó: chỉ riêng Wolf đã phát hiện ra 248 tiểu hành tinh; phát hiện đầu tiên là 323 Brucia, trong khi chỉ có hơn 300 tiểu hành tinh được phát hiện cho đến thời điểm đó. Người ta biết rằng còn nhiều hơn nữa, nhưng hầu hết các nhà thiên văn học không bận tâm đến chúng, một số gọi chúng là "sâu bọ của bầu trời", cụm từ bị gán cho Eduard Suess và Edmund Weiss. Thậm chí một thế kỷ sau, chỉ có vài nghìn tiểu hành tinh được xác định, đánh số và đặt tên.
Thế kỷ 19 và 20
Trước đây, các tiểu hành tinh được phát hiện bằng quy trình gồm bốn bước. Đầu tiên, một vùng bầu trời được chụp ảnh bằng kính viễn vọng trường rộng hoặc astrograph. Các cặp ảnh được chụp, thường cách nhau một giờ. Nhiều cặp có thể được thực hiện trong một loạt các ngày. Thứ hai, hai film hoặc plate của cùng một vùng được xem dưới kính lập thể. Một vật thể quay quanh Mặt Trời sẽ di chuyển nhẹ giữa cặp film. Dưới kính lập thể, hình ảnh của vật thể dường như nổi lên một chút trên nền của các ngôi sao. Thứ ba, một khi xác định được một vật thể chuyển động, vị trí của nó sẽ được đo chính xác bằng kính hiển vi số hóa (digitizing microscope). Vị trí sẽ được đo tương ứng với các vị trí ngôi sao đã biết.
Ba bước đầu tiên này không giúp khám phá ra tiểu hành tinh: người quan sát chỉ tìm thấy một sự hiện diện, được chỉ định tạm thời, bao gồm năm phát hiện, một chữ cái biểu thị half-month phát hiện, và cuối cùng là một chữ cái và một con số chỉ rõ số thứ tự của khám phá (ví dụ, ). Bước cuối cùng là gửi vị trí và thời gian quan sát đến Minor Planet Center.
Phân loại
Các tiểu hành tinh thường được phân loại theo hai tiêu chí: đặc điểm quỹ đạo của chúng và đặc điểm phổ phản xạ của chúng.
Phân loại quỹ đạo
Nhiều tiểu hành tinh đã được xếp vào group và family dựa trên đặc điểm quỹ đạo của chúng. Ngoài sự phân chia rộng nhất, người ta thường đặt tên một group tiểu hành tinh theo tên tiểu hành tinh đầu tiên của group đó được phát hiện. Các group là những liên kết động học tương đối lỏng lẻo, trong khi các family thì chặt chẽ hơn và là kết quả của sự tan vỡ của một tiểu hành tinh mẹ lớn trong quá khứ.
Phân loại quang phổ
Năm 1975, một hệ thống phân loại dựa trên màu sắc, suất phản chiếu và hình dạng quang phổ đã được Clark R. Chapman, David Morrison, và Ben Zellner phát triển. Các tính chất đó được cho là tương ứng với thành phần vật chất bề mặt tiểu hành tinh. Ban đầu, họ chỉ xếp tiểu hành tinh vào ba loại:
Các tiểu hành tinh kiểu C, carbon, 75% số tiểu hành tinh đã biết.
Các tiểu hành tinh kiểu S, silic, 17% số tiểu hành tinh đã biết.
Các tiểu hành tinh kiểu M, kim loại, đa số còn lại.
Từ đó danh sách này đã được mở rộng bao gồm một số kiểu tiểu hành tinh khác. Số lượng các kiểu tiếp tục tăng lên khi càng nhiều tiểu hành tinh được nghiên cứu.
Cần nhớ rằng tỷ lệ các tiểu hành tinh đã biết được xếp vào nhiều kiểu quang phổ khác nhau không nhất thiết phản ánh tỷ lệ tất cả các tiểu hành tinh thuộc kiểu đó; một số kiểu dễ dàng phát hiện hơn những kiểu khác, ảnh hưởng tới những con số tổng kết.
Những vấn đề khi sử dụng phân loại theo quang phổ
Trước kia, việc xác định quang phổ dựa trên sự suy luận thành phần của tiểu hành tinh:
C – carbon
S – silic
M – kim loại
Tuy nhiên, sự tương ứng giữa lớp quang phổ và thành phần không phải lúc nào cũng tốt đẹp, và có rất nhiều kiểu xếp hạng được sử dụng. Điều này dẫn tới sự lẫn lộn rất lớn. Trong khi các tiểu hành tinh thuộc các lớp quang phổ khác nhau có vẻ được cấu thành từ những vật liệu khác nhau, thì lại không có những sự đảm bảo rằng các tiểu hành tinh trong cùng một lớp phân loại được cấu thành từ những vật liệu như nhau.
Hiện tại, việc xếp hạng quang phổ dựa trên nhiều cuộc khảo sát phân tích quang phổ không chính xác trong thập kỷ 1990 vẫn được coi là tiêu chuẩn. Các nhà khoa học không thể đồng thuận cho một hệ thống xếp hạng tốt hơn, phần lớn bởi sự khó khăn để thu được các số đo chi tiết thường xuyên cho một lượng lớn các tiểu hành tinh (ví dụ, phân tích quang phổ chính xác hơn, hay các dữ liệu phi quang phổ như mật độ sẽ rất hữu ích).
Đặt tên tiểu hành tinh
Quy ước đặt tên
Một tiểu hành tinh mới được phát hiện được đặt một tên tạm thời gồm năm phát hiện và một mã chữ (như ). Khi quỹ đạo của nó đã được xác định, nó được trao một số, và sau này có thể được đặt một cái tên (ví dụ, ). Quy ước đặt tên chính thức sử dụng dấu ngoặc quanh số (ví dụ, (433) Eros), nhưng việc bỏ dấu ngoặc cũng khá thường xuyên. Một cách không chính thức, mọi người thường gộp tất cả số lại với nhau, hay bỏ nó sau khi đã được đề cập tới lần đầu tiên ở những tên lặp lại sau đó.
Các tiểu hành tinh đã được trao một con số nhưng không phải là tên thì vẫn giữ tên tạm thời của mình, ví dụ, (29075) 1950 DA. Khi các kỹ thuật khám phá tiểu hành tinh hiện đại khiến số lượng chúng tăng vọt, dần dần chúng bị bỏ mặc vô danh như cũ. Tiểu hành tinh đầu tiên không có tên như vậy là (3360) 1981 VA.
Đánh số tiểu hành tinh
Các tiểu hành tinh sẽ được trao một con số chính thức ngay khi quỹ đạo của chúng được xác định. Với tốc độ phát hiện tiểu hành tinh ngày càng tăng, chúng hiện được đánh theo dãy sáu số. Việc chuyển từ dãy năm số sang dãy sáu số diễn ra sau việc xuất bản Minor Planet Circular (MPC) ngày 19 tháng 10 năm 2005, với việc số tiểu hành tinh được đánh số nhảy vọt từ 99947 lên 118161. Sự thay đổi này đã gây ra một cơn khủng hoảng kiểu "Y2K" nhỏ với nhiều trung tâm dịch vụ dữ liệu tự động, bởi chúng chỉ được quy định định dạng dãy năm số cho tiểu hành tinh. Đa số các trung tâm dã mở rộng phạm vi số tiểu hành tinh. Những trung tâm không làm tương tự xử lý vấn đề này bằng cách thay con số xa nhất bên trái (đơn vị mười ngàn) bằng chữ. Vì thế, dãy số dài như 120437 sẽ được định dạng thành C0437 trên một số bản danh sách.
Nguồn tên
Một số ít tiểu hành tinh đầu tiên được đặt tên theo những nhân vật trong thần thoại Hy Lạp – La Mã, nhưng khi tên những vị thần đã được sử dụng hết, những nhân vật khác—người nổi tiếng, nhân vật văn học, tên vợ những người có công khám phá, tên trẻ em, và thậm chí cả những nhân vật truyền hình cũng được dùng.
Tiểu hành tinh đầu tiên được đặt tên không theo thần thoại là 20 Massalia, theo tên thành phố Marseille. Trong một thời gian chỉ tên phụ nữ (hay nữ hoá) mới được sử dụng; Alexander von Humboldt là người đàn ông đầu tiên có tên được đặt cho một tiểu hành tinh, nhưng tên ông đã được nữ hóa thành 54 Alexandra. Quy ước truyền thống ngầm này kéo dài tới tận khi đặt tên cho 334 Chicago; thậm chí sau đó, nhiều tên nữ hóa kỳ quặc vẫn xuất hiện trong những bản danh sách trong nhiều năm sau.
Khi số lượng tiểu hành tinh bắt đầu lên tới hàng trăm, và cuối cùng là hàng nghìn, những người khám phá ra chúng dần ít chú ý tới việc đặt tên nên đã xuất hiện những cái tên kỳ cục. Những ví dụ đầu tiên là 482 Petrina và 483 Seppina, được đặt theo tên những chú chó của người tìm ra chúng. Tuy nhiên, cho tới năm 1971 vẫn có cuộc tranh cãi nhỏ về vấn đề này, khi đặt tên cho 2309 Mr. Spock (nó không được đặt theo tên nhân vật trong phim Star Trek, mà là tên con mèo của người phát hiện tiểu hành tinh, vốn có vẻ ngoài khá giống nhân vật kia). Dù Liên đoàn Thiên văn Quốc tế (IAU) sau đó đã cấm dùng tên thú nuôi đặt cho tiểu hành tinh, nhưng vẫn có những cái tên được đề xuất và chấp nhận như 6042 Cheshirecat, 9007 James Bond hay 26858 Misterrogers.
Các quy định đặt tên đặc biệt
Việc đặt tên tiểu hành tinh không phải tùy thích: có một số kiểu tiểu hành tinh phải được đặt theo một nguồn tên. Ví dụ, các tiểu hành tinh Centaur (nằm giữa Sao Thổ và Sao Hải Vương) đều phải được đặt tên theo các centaur trong thần thoại, các tiểu hành tinh Troia theo tên các vị anh hùng chiến tranh thành Troia và các vật thể ngoài Sao Hải Vương theo tên những linh hồn dưới địa ngục.
Một quy định từ lâu khác là các sao chổi phải được đặt theo tên người phát hiện ra chúng, trong khi đó các tiểu hành tinh thì không cần như avạy. Các nhà thiên văn có một cách để "lách" quy định này là dùng tên lẫn nhau để đặt cho khám phá của họ. Một trường hợp ngoại trừ đặc biệt của quy định này là 96747 Crespodasilva, nó được đặt theo tên người phát hiện là Lucy d'Escoffier Crespo da Silva, vì bà đã qua đời chỉ một thời gian ngắn sau thành công, ở tuổi 22.
Các biểu tượng tiểu hành tinh
Một số ít tiểu hành tinh phát hiện đầu tiên được gắn các biểu tượng như kiểu những biểu tượng truyền thống thường dùng cho Trái Đất, Mặt Trăng, Mặt Trời và các hành tinh. Các biểu tượng này nhanh chóng trở nên vô duyên, khó viết và nhận dạng. Tới cuối năm 1851 đã có 15 tiểu hành tinh được phát hiện, 14 tiểu hành tinh đã có biểu tượng riêng. Bốn biến thể chính đầu tiên:
1 Ceres
2 Pallas
3 Juno
4 Vesta
Johann Franz Encke đã tiến hành một thay đổi lớn trong cuốn Berliner Astronomisches Jahrbuch (BAJ, "Berlin Astronomical Yearbook") năm 1854. Ông sử dụng các số được khoanh tròn thay cho các biểu tượng, dù ông bắt đầu đánh số từ Astraea, bốn tiểu hành tinh đầu tiên vẫn tiếp tục được biểu thị bằng các biểu tượng của chúng. Cải tiến mới này nhanh chóng được cộng đồng thiên văn học chấp nhận. Một năm sau đó, dãy số của Astraea lên tới 5 số, nhưng từ Ceres tới Vesta sẽ chỉ được biểu thị bằng dãy số từ năm 1867. Một số tiểu hành tinh khác (28 Bellona, 35 Leukothea, và 37 Fides) vừa có biểu tượng vừa có dãy số định danh.
Vòng tròn sau này trở thành hai dấu ngoặc, và trong vài thập kỷ sau thì cả dấu ngoặc thỉnh thoảng cũng bị bỏ đi.
Khảo sát tiểu hành tinh
Trước thời du hành vũ trụ, các tiểu hành tinh chỉ đơn giản là những hình ảnh nhỏ, thậm chí khi quan sát bằng các kính viễn vọng lớn nhất, hình dạng cũng như địa hình của chúng còn là điều bí ẩn.
Những bức ảnh gần đầu tiên của những vật thể như tiểu hành tinh được chụp năm 1971 khi tàu thăm dò vũ trụ Mariner 9 chụp ảnh Phobos và Deimos, hai vệ tinh nhỏ của Sao Hoả, có lẽ là những tiểu hành tinh đã bị bắt giữ. Những hình ảnh này cho thấy hình dạng không đều, giống như củ khoai tây của hầu hết tiểu hành tinh, tương tự như những hình ảnh sau này về các vệ tinh nhỏ của các hành tinh khí khổng lồ do tàu thăm dò vũ trụ Voyager chụp.
Tiểu hành tinh thật sự đầu tiên được chụp gần là 951 Gaspra năm 1991, sau đó là 243 Ida và vệ tinh của nó là Dactyl năm 1993, tất cả những bức ảnh này đều do tàu thăm dò vũ trụ Galileo chụp khi đang trên đường tới Sao Mộc.
Tàu thăm dò vũ trụ đầu tiên dành riêng cho mục đích nghiên cứu tiểu hành tinh là NEAR Shoemaker, nó đã chụp ảnh 253 Mathilde năm 1997, trước khi đi vào quỹ đạo quay quanh 433 Eros, cuối cùng đổ bộ xuống bề mặt tiểu hành tinh này năm 2001.
Các tiểu hành tinh khác từng được tàu vũ trụ viếng thăm trong một khoảng thời gian khi chúng đang trên đường thi hành nhiệm vụ khác gồm 9969 Braille (bởi Deep Space 1 năm 1999), và 5535 Annefrank (bởi Stardust năm 2002).
Tháng 12 năm 2005, tàu thăm dò vũ trụ Hayabusa của Nhật Bản đã bắt đầu nghiên cứu chi tiết 25143 Itokawa và sẽ quay trở lại Trái Đất với những mẫu lấy từ bề mặt tiểu hành tinh này. Chương trình nghiên cứu tiếp sau là của châu Âu với tàu thăm dò vũ trụ Rosetta (được phóng năm 2004), nghiên cứu 2867 Šteins và 21 Lutetia vào năm 2008 và 2010.
NASA có kế hoạch phóng Dawn năm 2007, bay quanh 1 Ceres và 4 Vesta năm 2011–2015, và nhiệm vụ của nó có thể sẽ mở rộng sang cả 2 Pallas.
Từng có ý kiến đề xuất sử dụng các tiểu hành tinh trong tương lai như một nguồn nguyên liệu thay thế cho nguồn nguyên liệu sẽ cạn kiệt trên Trái Đất (khai thác tiểu hành tinh).
Tiểu hành tinh trong khoa học viễn tưởng
Thông thường các tiểu hành tinh (và có ít hơn là các sao chổi) trong khoa học viễn tưởng được thể hiện như những mối đe dọa bởi sự va chạm giữa chúng và Trái Đất có thể gây nên nguy cơ nghiêm trọng với thế giới. Điều này có cơ sở từ giả thuyết khoa học cho rằng những vụ va chạm như vậy trong quá khứ Trái Đất đã dẫn tới sự tuyệt chủng của loài khủng long—dù dường như chúng xảy ra các nhau hàng chục triệu năm, không hề có lý do đặc biệt nào để cho rằng sự va chạm như vậy có thể xảy ra trong vài nghìn năm tới đây.
Một cách khác để coi các tiểu hành tinh là một mối nguy hiểm là biểu hiện chúng như những vật có thể đe dọa tới những con tàu vũ trụ bay từ Trái Đất ra phía ngoài hệ Mặt Trời khi bay ngang qua vành đai tiểu hành tinh (hay phải buộc bay vòng–tốn thời gian và nhiên liệu–để tránh nó). Các tiểu hành tinh được thể hiện như vậy thường giống như những bãi cát ngầm hay những quả núi ngầm dưới mặt biển xuất hiện trong những câu chuyện chinh phục đại dương thời cổ. Và cũng giống như những bãi cát hay đá ngầm dưới đại dương, các tiểu hành tinh cũng có thể được dùng làm nơi trú ẩn cho những kẻ ngoài vòng pháp luật phải sống trốn tránh. Vành đai tiểu hành tinh được thể hiện trong phim ảnh thường là những phiến đá bay hỗn loạn đầy nguy hiểm phi hiện thực. Các tiểu hành tinh trong thực tế, thậm chí cả vành đai chính, nằm rất xa nhau.
Trước khi việc chinh phục các tiểu hành tinh có thể trở thành một khả năng hiện thực, sự quan tâm chính tới chúng chính là lý thuyết nguồn gốc tiểu hành tinh, cụ thể lý thuyết cho rằng các tiểu hành tinh là tàn tích của một hành tinh đã nổ tung. Điều này tự nhiên dẫn tới giả thuyết viễn tưởng rằng trên hành tinh này từng có người ở, và vì thế chính các cư dân ở đó đã gây ra sự hủy diệt của chính họ, bởi chiến tranh hay những hành động tàn phá môi trường. Mở rộng thêm lý thuyết đó, nếu các tiểu hành tinh là tàn dư của một hành tinh trong quá khứ thì tương lai hủy diệt Trái Đất và các hành tinh khác thành các tiểu hành tinh mới cũng không thể bỏ qua.
Khi đề tài chinh phục liên hành tinh lần đầu trở thành một chủ đề trong khoa học viễn tưởng, vành đai tiểu hành tinh không phải là nơi đáng thèm muốn, kém xa rất nhiều so với các hành tinh như Sao Hoả và Sao Kim (thường được coi là một kiểu hành tinh thiên đường, cho tới khi các tàu thăm dò vũ trụ thập kỷ 1960 khám phá ra nhiệt độ và điều kiện thực tế bên dưới những đám mây của Sao Kim). Vì thế, trong nhiều câu chuyện và cuốn sách về vành đai tiểu hành tinh, nếu không thực sự là một nguy cơ, thì nó cũng chỉ là một nơi tù túng hiếm khi được đặt chân đến trong quá trình chinh phục hệ Mặt Trời.
Viễn cảnh chinh phục các hành tinh trong hệ Mặt Trời càng trở nên tăm tối khi những khám phá ngày càng nhiều về điều kiện trên bề mặt của chúng. Trái lại, giá trị tiềm năng của các tiểu hành tinh lại tăng lên nhiều, như một nguồn tài nguyên khoáng vật, dễ dàng tiếp cận trong điều kiện lực hút hấp dẫn nhỏ, và khi những nguồn tài nguyên trên Trái Đất đang cạn đi. Những câu chuyện về khai thác tiểu hành tinh đã bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều kể từ cuối thập kỷ 1940, và bước tiến hợp logic tiếp theo chính là các xã hội kiểu Trái Đất trên những tiểu hành tinh đó. |
Hiệp ước Hữu Nghị, Hợp Tác và Tương Trợ ( - DDSV) là một hiệp ước phòng thủ chung được lãnh đạo bởi Liên Xô với sự tham gia của đại đa số các nước thuộc khối phía Đông. Đây là nền tảng cho sự thành lập và tồn tại của Tổ chức Hiệp Ước Warszawa ( - WTO), thường được gọi là Khối Warszawa (phiên âm theo tiếng Ba Lan), Khối Warsaw (phiên âm theo - WP/WAPA) hay Khối Vác-sa-va (phiên âm theo tiếng Việt), vốn là khối liên minh quân sự gồm 7 nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu, gồm Liên Xô, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, România và Tiệp Khắc, về cơ bản là các nước tham gia vào hiệp ước kể trên. Liên minh quân sự này do Liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chống lại khối quân sự NATO, do Hoa Kỳ đứng đầu, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Ban đầu hiệp ước được ký ở thủ đô Warszawa (Warsaw/Vác-sa-va) của Ba Lan nhưng trụ sở của khối đặt tại thủ đô Moskva của Liên bang Xô viết. Mặc dù trên danh nghĩa là liên minh phòng thủ, song Khối Warszawa đã mở chiến dịch quân sự vào các quốc gia khác theo nhiều mức độ khác nhau (ví dụ như Mùa xuân Praha, Chiến tranh Việt Nam, Cách mạng Hungary, Nội chiến Angola...).
Mục đích
Việc thành lập Tổ Chức Hiệp Ước Warszawa được coi là để bảo đảm hòa bình và an ninh ở các nước cộng sản chủ nghĩa thành viên, nhưng các biến cố lịch sử cho thấy mục đích chính của khối này cũng là để củng cố chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Ở Hungary vào năm 1956, và sau đó là ở Tiệp Khắc năm 1968, Liên Xô đã viện dẫn Hiệp Ước Warszawa để hợp pháp hóa việc can thiệp nhằm đàn áp các cuộc nổi dậy chống cộng.
Khối Warszawa được thành lập như là một đối trọng của các nước Xã hội Chủ nghĩa đối với NATO trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, với mục đích ban đầu là thành lập 1 hiệp ước phòng vệ tập thể trước nguy cơ các quốc gia trong khối Warszawa bị NATO tấn công. Tuy nhiên về sau mục đích này ngày càng đi xa sứ mệnh ban đầu của mình khi Moskva lợi dụng khối Warszawa để can thiệp vào nội bộ các nước Đông Âu khiến các nước thành viên trong khối Warszawa mất quyền chủ quyết của mình.
Mặc dù hiệp ước tuyên bố sự bình đẳng của các bên tham gia nhưng trên thực tế, từ những ngày đầu tiên tổ chức tồn tại và cho đến khi giải thể, vai trò chủ chốt trong hiệp ước này thuộc về Liên Xô. Ngoài ra, các chức vụ tổng tư lệnh và tham mưu trưởng Lực lượng vũ trang chung của các quốc gia thành viên Hiệp ước Warszawa luôn thuộc về các chỉ huy Liên Xô, trong khi đại diện của các quân đội khác theo quy định chỉ là cấp phó của họ.
Tổ chức
Tổ chức khối Warszawa gồm 2 phần: Ủy ban Cố vấn Chính trị với nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan đến chính trị của khối, Bộ Chỉ huy Phối hợp Lực lượng vũ trang Hiệp ước kiểm soát các vấn đề quân sự các quốc gia thành viên. Trụ sở được đặt tại Warszawa, Ba Lan. Đồng thời Tổng Tư lệnh Tối cao Lực lượng vũ trang thống nhất của Tổ chức Hiệp ước Warszawa là Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng Liên Xô và Tổng Tham mưu Liên hợp Lực lượng vũ trang thống nhất của Tổ chức Hiệp ước Warszawa đồng thời là Phó Tổng Tham mưu thứ nhất Lực lượng vũ trang Liên Xô. Vì thế, mặc dù là một liên minh an ninh tập thể quốc tế, nhưng Liên Xô đã thống lĩnh các lực lượng vũ trang của Hiệp ước Warszawa.
Lịch sử
Khối này được thành lập ngày 14/5/1955 tại Warszawa, sau khi các nước Liên Xô, Albania, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, România, Tiệp Khắc ký kết Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ, có hiệu lực từ tháng 6/1955. Theo hiệp ước, các nước thành viên có nghĩa vụ đem quân hỗ trợ nhau trong trường hợp bất kỳ 1 nước thành viên nào bị tấn công bởi 1 nước khác nằm ngoài khối. Mặc dù Nam Tư cũng là nước XHCN nhưng do bất đồng với Liên Xô nên không tham gia khối quân sự này.
Năm 1961, Albania rút khỏi hiệp ước này do bất đồng với Liên Xô và các nước XHCN khác. Sau đó đặt quan hệ thân mật với Trung Quốc.
Khối Warszawa đã góp phần vào việc xây dựng lên bức tường Berlin (bức tường tượng trưng cho sự chia cắt giữa Đông Đức và Tây Đức). Ngoài ra, khối này cũng can thiệp vào các sự kiện cách mạng Hungary 1956 và tấn công Tiệp Khắc 1968.
Vào tháng 12/1970, khối Warszawa tổ chức 1 hội nghị họp tại Đông Berlin để thảo luận phương hướng và nhiệm vụ của tổ chức. Đến năm 1985, lãnh đạo các nước thành viên của khối ký nghị định thư về việc gia hạn hiệp ước. Năm 1989, khối Warszawa ủng hộ việc Liên Xô rút quân khỏi các nước thành viên (đầu tiên là Tiệp Khắc). Đến tháng 5/1989, khối Warszawa kêu gọi NATO cùng giải tán, ngoài ra khối cũng mong muốn cùng NATO đàm phán về vũ khí hạt nhân chiến thuật và các vấn đề liên quan tới hải quân. Tháng 12/1989, khối Warszawa đã đánh giá lại sự kiện năm 1968 ở Tiệp Khắc, lên án các đơn vị quân đội của mình can thiệp vào sự kiện này.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1991, đại diện của Liên Xô, Bulgaria, Hungary, Ba Lan, Romania và Tiệp Khắc đã ký một nghị định thư tại Praha về việc chấm dứt hoàn toàn Hiệp ước Warszawa. Trong khi đó, trong 20 năm sau đó, tất cả các đồng minh cũ của Moskva đều gia nhập Liên minh Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Lực lượng
Năm 1977-1978, Khối Warszawa có khoảng 4,752 - 5,502 triệu quân, trong đó Liên Xô đóng góp 3,675 - 4,425 triệu quân.
Trong năm 1990, khối quân sự này có tổng cộng 4,8 triệu quân, trong đó riêng Liên Xô đã góp 3,7 triệu.
Các thành viên
Các thành viên gồm:
Lãnh đạo Khối
Tổng Tư lệnh Tối cao Lực lượng vũ trang thống nhất
1955-1960 — Ivan Stepanovich Koniev — Nguyên soái Liên Xô.
1960-1967 — Andrei Grechko — Nguyên soái Liên Xô.
1967-1976 — Ivan Yakubovsky — Nguyên soái Liên Xô.
1977-1989 — Viktor Kulikov — Nguyên soái Liên Xô.
1989-1991 — Pyotr Lushev — Đại tướng.
Tổng Tham mưu Liên hợp Lực lượng vũ trang thống nhất
1955-1962 — Aleksey Innokent'evich Antonov — Đại tướng lục quân.
1962-1965 — Pavel Batov — Đại tướng lục quân.
1965-1968 — Mihail Kazakov — Đại tướng lục quân.
1968-1976 — Sergei Shtemenko — Đại tướng lục quân.
1976-1988 — Anatoly Gribkov — Đại tướng lục quân.
1989-1991 — Vladimir Lobov — Đại tướng lục quân. |
Mode có thể nói đến một trong các nghĩa sau:
Thời trang
Mode - một thuật ngữ trong ngành thống kê.
Điệu thức trong âm nhạc (mode music) |
Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên () là nhan đề một phim truyền hình do ông Michael Landon làm tổng đạo diễn, xuất phẩm giai đoạn 1974—1983 trên sóng NBC.
Lịch sử
Thập niên 1970, hoàn cầu bước vào giai đoạn hậu cách mạng công nghiệp, truyền thông đại chúng và văn nghệ bắt đầu cảm thấy những bất ổn trong tâm lý xã hội nhưng chưa đủ phương pháp tiếp cận và mô tả. Đặc biệt, khi xu thế Chiến tranh Lạnh đã chuyển biến mãnh liệt từ xung đột bằng võ khí sang làm băng hoại dần các giá trị đạo đức xã hội, mà trên nhất là từ gia đình và các mối quan hệ bằng hữu. Ngay tại Bắc Mỹ, xứ sở được mệnh danh tự do và bao dung nhất thế giới bấy giờ, Chiến tranh Việt Nam đã theo các quân nhân về Mỹ để trở thành một hội chứng công phá nền tảng chính trị văn hóa cố hữu, khiến giới trẻ mất tin tưởng vào cuộc sống. Những người Mỹ sinh sau Đệ Nhị thế chiến từ chỗ chạy theo các trào lưu beatlemania, hippie cuồng loạn tới chóng sa vào tệ nạn ma túy, băng đảng, khiến cho tiêu chuẩn gia đình kiểu Mỹ mục ruỗng tận gốc.
Thời điểm đó, nhà chế tác truyền hình Edwin "Ed" Samson Friendly Jr (nghệ danh Ed Friendly) đau đáu thực hiện một bộ phim thể hiện chân thực nhất bản chất xã hội Mỹ đương thời, chí ít về khía cạnh tâm lý. Theo sự gợi ý của phu nhân (Natalie Brooks Coulson) và con gái nhỏ (Brooke Friendly), ông bèn thử đọc trứ tác Ngôi nhà nhỏ của bà Laura Ingalls Wilder, một trong những ấn phẩm bán chạy nhất ở thập niên 1930 - thời kì nước Mỹ tang thương vì cuộc đại tiêu điều. Sau thời gian khá ngắn đắn đo, ông quyết định tiến hành chuyển thể tác phẩm này thành phim truyền hình.
Cũng giai đoạn này, kĩ thuật truyền hình thế giới còn rất sơ khai. Việc chế tác mỗi cuốn phim truyền hình thường rất tốn kém so với phim điện ảnh, trong khi lợi nhuận hầu như bằng 0. Do vậy, để tiết kiệm tối đa kinh phí nhân lực, các hãng sản xuất thường chọn bối cảnh hẹp, tuyến truyện giản đơn và ít tài tử, cho nên phim truyền hình thời này chỉ được gọi là drama (kịch). Tuy nhiên, sau khi cân nhắc các ý tưởng nghệ thuật và dự trù những rủi ro có thể phát sinh, tổng giám chế Ed Friendly vẫn quyết tâm thực hiện.
Ông khẩn khoản mời nam minh tinh truyền hình Michael Landon vào vị trí đạo diễn. Thời này ông Michael Landon đã có chút tiếng tăm sau loạt phim Bonanza, nhưng muốn thử sức ở cương vị đạo diễn để dễ dàng thực thi ý tưởng nghệ thuật thay vì răm rắp vâng lời nhà làm phim khác. Sau một hồi suy xét, Michael Landon cũng chấp thuận, nhưng yêu cầu Ed Friendly để mình thủ vai chính (Charles Ingalls). Đáp lại, ông Ed Friendly hoàn toàn tán thành.
Để tiết kiệm nguồn kinh phí ban đầu, nhà sản xuất phải tiến hành tuyển trạch diễn viên rất kĩ lưỡng, mà đạo diễn Michael Landon làm giám khảo chính, nhằm có dàn tài tử chấp nhận lương thấp và chỉ tập trung diễn thay vì mặc cả như các minh tinh Hollywood đương thời thường thích thể hiện. Phim được bấm máy theo hình thức cuốn chiếu (chế tác tới đâu phát hành tới đấy) để thăm dò thị hiếu công chúng. Hai tập đầu bắt đầu lên sóng truyền hình NBC ngày 30 tháng 03 năm 1974 để chờ loạt phản hồi của khán giả. Sau khi nhận thấy những hiệu ứng tích cực, nhà sản xuất mới quyết định chiếu những tập tiếp từ ngày 11 tháng 09 cùng năm, và cứ thế kéo dài tới đầu năm 1983 - tức là cả thảy được những 9 năm ròng.
Bộ phim không giản dị chỉ là gây nguồn lợi nhuận phi thường cho nhà chế tác và kênh NBC mà trở thành hiện tượng giải trí chấn động xã hội Mỹ ba thập niên cuối thế kỷ XX, kéo theo sự tiến hóa mãnh liệt phong cách chế tác phim truyền hình thế giới. Phim cũng được coi như "liều thuốc" hữu hiệu nhất trấn an những vết thương tinh thần trong xã hội Mỹ từ sau Đệ Nhị thế chiến, và là chương trình truyền hình được người Mỹ mong chờ nhất hàng ngày ở suốt giai đoạn cuối thế kỷ XX.
Nội dung
Phần 1 : 001 ⇀ 002
Trong thời kì Tây tiến, vùng Big Woods (Wisconsin) ngày càng chật như nêm vì đất không đủ chứa người mới sinh và người từ miền Đông tới. Năm 1869, anh thợ săn Charles Ingalls cực chẳng đã đành chia tay cha mẹ và anh chị em để dắt vợ con đi sang Viễn Tây với hi vọng tìm được đất đủ rộng để canh tác.
Hành trình đi tìm miền đất hứa rất gian khổ, nhưng rốt cuộc gia đình Ingalls cũng tới được Kansas, cắm mốc mang tên mình tại phần đất đã được chính phủ cấp phép. Tại đây, cô bé Carrie Ingalls cất tiếng khóc chào đời.
Mà rồi chẳng bao lâu, những người da đỏ đói khát đã tới làm phiền, dù vậy nhà Ingalls chóng giao hòa được với họ. Vị tân tù trưởng tới thông báo rằng, gia đình Ingalls phải rời đi vì cắm mốc "nhầm chỗ". Bộ lạc đã được chính phủ Hoa Kỳ nhượng lại khu vực này để họ ngưng quấy tuyến thiết lộ Đông-Tây đang xây dựng.
Tuy rằng phải bỏ cơ nghiệp cùng mùa ngô hứa hẹn bội thu, nhưng nhà Ingalls không còn chọn lựa khả dĩ hơn. Bù lại, họ nhận được tình cảm quý mến của vị tù trưởng trẻ tuổi và bác thợ rừng Isaiah Edwards.
Phần 2 : 003 ⇀ 088
Sau thời gian rất dài lang bạt kì hồ, mãi tới năm 1874, gia đình Ingalls mới tậu được thửa đất rất đẹp ven một con lạch gần thị trấn Walnut Grove (Minnesota). Họ bắt đầu làm quen với những người láng giềng mới và tiến hành gầy dựng lại cơ nghiệp. Hàng xóm có người định cư tại đây mấy chục năm, cũng có người chỉ mới chân ướt chân ráo tới, kẻ xấu người tốt đủ cả nhưng đem lại bao rắc rối cho vùng quê mới.
Chị em Mary và Laura lại cặm cụi cắp sách tới trường như thời ở Big Woods, trong khi gia cảnh vẫn chưa cải thiện là bao. Nhưng trong bộn bề khó khăn vẫn đây đó có tình gia đình, nghĩa láng giềng. Thế giới thảo nguyên thơ mộng vẫn lộng lẫy đợi họ khám phá.
Phần 3 : 089 ⇀ 160
Gia đình Ingalls nhận nuôi cậu bé Albert Quinn và có thêm em Grace Ingalls, sau đó lại nhận thêm anh em James và Cassandra Cooper.
Ở tuổi dậy thì, cô bé Mary bị mù vì di chứng tinh hồng nhiệt. Cô phải gác mọi ước mơ cao sang và bỏ cả thành tích học tập rạng ngời để vào trường khiếm thị, những tưởng cuộc đời đã kết thúc. Tại đây, Mary gặp rồi kết hôn với thầy giáo mù Adam Kendall.
Còn Laura cũng ngày càng nhổ giò, không còn tinh nghịch và lười học như xưa nữa. Cô thầm yêu chàng nài ngựa Almanzo Wilder, hơn cô rất nhiều tuổi và là em cô giáo Laura. Họ từ chỗ hờ hững tới cảm mến nhau, rồi kết hôn. Laura kế nhiệm chị dâu để dạy trường Walnut Grove.
Phần 4 : 161 ⇀ 202
Bà Harriet nhận nuôi cô bé mồ côi Nancy Oleson, kẻ có tính cách rất ngỗ ngược. Tuyến truyện hầu như tập trung vào đôi nhân vật Jenny Wilder và Nancy Oleson.
Phần 5 : 203 ⇀ 204
Theo gợi ý của cô giáo Laura Ingalls Wilder, người dân Walnut Grove tiến hành phá sập toàn thị trấn để trả đũa việc chính phủ cưỡng bách thu hồi đất làm quân khu.
Kĩ thuật
Bộ phim được thực hiện chủ yếu tại Old Tucson Studios (Arizona), thường được ví là nốt thăng cuối cùng trong lịch sử phim trường này trước khi dòng phim Viễn Tây mất hẳn thị phần. Tổng đạo diễn Michael Landon đã rắp tâm biến trường quay thành không gian đậm chất gia đình để dàn diễn viên đông đảo cảm thấy gần gũi nhau và nỗ lực hoàn thành trách nhiệm hơn.
Sản xuất
Biên kịch : Blanche Hanalis, Michael Landon, Don Balluck, John T. Dugan, Arthur Heinemann, Arthur Heinemann, John Hawkins, Carole Raschella, Michael Raschella, B. W. Sandefur, Chris Abbott, Vince Gutierrez, Ward Hawkins, Paul W. Cooper, Harold Swanton, Gerry Day, Dale Eunson, Tony Kayden, Joseph Bonaduce, Juanita Bartlett, Hindi Brooks, John Meston, Preston Wood, Lawrence Konner, Del Reisman, Paul Wolff, Jeri Taylor, Joel Murcott, William Putman, Jean Rouverol, Michael Russnow, Ann Beckett, Rocci Chatfield, Ray Goldrup, William Keys, Byron Twiggs, Ernie Durham, John V. Hanrahan, Robert Vincent Wright, Bradley Berwick, Ray Berwick, Ron Chiniquy, Robert Janes, Richalene Kelsay, Robert F. Metzler, Scott Swanton, Kenneth Hunter, Larry Bischof, Kathleen McGhee-Anderson, Pamela Balluck, Peter Dixon, Larry Jensen, Duke Sandefur, Ernie Wallengren, Ande Lamb
Tuyển trạch : Susan McCray, Edward R. Morse
Điều phối : Walter M. Jefferies, Trevor Williams, George Renne
Trang trí : Donald E. Webb, Dennis W. Peeples, Morris Hoffman, Sam Gross, John M. Dwyer
Diễn xuất
Chính
Michael Landon as Charles Phillip Ingalls (seasons 1–8, guest in 9, two post-series movies)
Karen Grassle as Caroline Quiner Ingalls (seasons 1–8, one post-series movie)
Melissa Gilbert as Laura Ingalls Wilder (seasons 1–9, three post-series movies)
Melissa Sue Anderson as Mary Ingalls Kendall (seasons 1–7, guest in 8)
Lindsay and Sidney Greenbush as Carrie Ingalls (seasons 1–8)
Matthew Labyorteaux as Albert Quinn Ingalls (seasons 5–8, guest in 9, one post-series movie)
Richard Bull as Nels Oleson (seasons 1–9, three post-series movies)
Katherine MacGregor as Harriet Oleson (seasons 1–9)
Alison Arngrim as Nellie Oleson Dalton (seasons 1–7, guest in 9)
Jonathan Gilbert as Willie Oleson (seasons 1–9, two post-series movies)
Victor French as Mr. Edwards (seasons 1–3, guest in 6, 8–9, three post-series movies)
Bonnie Bartlett as Grace Snider Edwards (seasons 1–3, guest in 6)
Kevin Hagen as Dr. Hiram Baker (seasons 1–9, three post-series movies)
Dabbs Greer as Rev. Robert Alden (seasons 1–9, two post-series movies)
Charlotte Stewart as Eva Beadle Simms (seasons 1–4)
Karl Swenson as Lars Hanson (seasons 1–5)
Radames Pera as John (Sanderson, Jr.) Edwards (seasons 2-4)
Brian Part as Carl (Sanderson) Edwards (seasons 2-3)
Kyle Richards as Alicia (Sanderson) Edwards (seasons 2–3, guest in 6, 8)
Merlin Olsen as Jonathan Garvey (seasons 4–7)
Hersha Parady as Alice Garvey (seasons 4–6)
Patrick Labyorteaux as Andrew "Andy" Garvey (seasons 4–7)
Linwood Boomer as Adam Kendall (seasons 4–7, guest in 8)
Ketty Lester as Hester-Sue Terhune (seasons 5–9)
Wendi-Brenda Turnbaugh as Grace Ingalls (seasons 5–8)
Queenie Smith as Mrs. Amanda 'May' Whipple (seasons 1-4)
Dean Butler as Almanzo Wilder (seasons 6–9, three post series movies)
Lucy Lee Flippin as Eliza Jane Wilder (season 6, guest in 7 and 8 )
Steve Tracy as Percival Dalton (season 6 and 7)
Jason Bateman as James (Cooper) Ingalls (seasons 7 and 8)
Melissa Francis as Cassandra (Cooper) Ingalls (seasons 7 and 8)
Allison Balson as Nancy Oleson (seasons 8 and 9, three post-series movies)
Shannen Doherty as Jenny Wilder (season 9, three post-series movies)
Stan Ivar as John Carter (season 9)
David Friedman as Jason Carter (season 9)
Lindsay Kennedy as Jeb Carter (season 9)
Pamela Roylance as Sarah Reed Carter (season 9)
Phụ
Willie Aames (episode 3.15)
Anne Archer (episode 1.17)
Lew Ayres (episode 9.3)
Hermione Baddeley (3 episodes)
Jonathan Banks (episode 6.16)
Billy Barty (2 episodes)
Richard Basehart (episode 2.17)
Ralph Bellamy (episode 9.12)
Ken Berry (episode 6.5)
Peter Billingsley (episode 8.12)
John Bleifer (episode 5.15)
Dirk Blocker (episode 1.9)
Ray Bolger (episodes 5.5 and 5.17)
Ernest Borgnine (episode 1.13/14)
Christopher Bowman (episodes 5.9, 5.18)
Todd Bridges (episode 3.18)
Red Buttons (episode 1.19)
Johnny Cash & June Carter Cash (episode 3.1)
Charles Cioffi (episode 5.22)
Michael Conrad (episode 4.8)
Keith Coogan (episode 7.15)
Johnny Crawford (episode 3.10)
James Cromwell (episode 7.1)
Richard Farnsworth (episode 3.13)
David Faustino (episode 7.5)
Gil Gerard (episode 4.4)
Louis Gossett Jr. (episode 2.18)
Moses Gunn as Joe Kagan (5 episodes)
Jerry Hardin (episode 5.23)
Melora Hardin (episodes 8.1/2)
Mariette Hartley (episode 2.19)
John Hillerman (episode 5.8)
Rance Howard (episode 3.13)
Ernie Hudson (episode 8.8)
Rick Hurst (episode 1.3)
John Ireland (episodes 3.4 and 5.3)
Burl Ives (episode 3.10)
Richard Jaeckel (episodes 2.18, 7.17/18)
Jack Kruschen (episode 8.6)
Katy Kurtzman (episodes 3.19, 4.16)
Charles Lane (episode 9.3)
Sheila Larken (episode 9.13)
Robert Loggia (episode 9.4)
Mike Lookinland (episode 4.4)
Chuck McCann (episode 1.11)
Vera Miles (episode 9.19)
Richard Mulligan (episode 2.21)
Patricia Neal (episode 2.7)
James Olson (episode 6.10)
Sean Penn (uncredited student extra)
Eddie Quillan (7 episodes)
Ford Rainey (episodes 2.2, 4.21)
Anne Ramsey (episode 5.1)
Nick Ramus (episode 4.13)
Kim Richards (episode 1.7)
Kathryn Leigh Scott (episode 5.16)
James B. Sikking (episode 3.17)
Raymond St. Jacques (episode 4.10)
Jan Sterling (episode 3.6)
Madeleine Stowe (episode 7.6)
Robert Torti (episode 8.6)
Mitch Vogel (episodes 1.5, 1.23)
M. Emmet Walsh (episode 8.8)
Ray Walston (episode 6.9)
Collin Wilcox (episode 4.7)
Harris Yulin (episode 1.20)
Michael Landon Jr. (episode 3.20)
Leslie Landon (4 guest episodes, Season 9 as a regular)
Shawna Landon (Little House Years / episode 9.15; both uncredited)
Phong hóa
Hậu trường
Năm 1976, vai Caroline Quiner Ingalls ban đầu được giao cho nữ tài tử vô danh Hersha Parady, nhưng ở phút chót đạo diễn Michael Landon chuyển cho minh tinh sân khấu Karen Grassle. Tuy nhiên, ông an ủi bà bằng vai nhỏ là chị họ Eliza Anne Ingalls xuất hiện thoảng qua ở tập 01. Sang năm 1977, Hersha Parady tái xuất với vai chị láng giềng Alice Garvey. Cái chết của nhân vật Alice gây bao tiếc nuối cho khán giả, nhưng đồng thời vai diễn này đưa bà Hersha Parady tới đỉnh cao sự nghiệp. Bà đặt tên con là Jonathan theo nhân vật Jonathan Garvey trong phim.
Nhân vật bà chủ tiệm tạp hóa bẳn gắt Harriet Oleson đem lại vinh quang quốc tế cho nữ tài tử sân khấu ít tiếng tăm Katherine MacGregor, vậy nhưng ở tập cuối bà lại không thể tham gia được vì còn bận sang Ấn Độ dự lễ hội Hindu.
Quá trình quay phim gây mối thâm tình bền vững giữa đạo diễn Michael Landon và nữ tài tử Melissa Gilbert. Ông nhận cô làm con nuôi để bù đắp những thiếu thốn tình cảm ruột thịt của cô.
Nhân vật Willie Oleson thường xuyên bị đứng góc lớp (bên trái bục giảng) vì tội nói leo, tới mức cậu ta coi đó là chỗ dành riêng cho mình. Trong phim, Willie thường gây hiềm khích với Mary và Laura, nhưng ngoài đời tài tử Jonathan Gilbert là em ruột minh tinh Melissa Gilbert.
Trong các cuộc phỏng vấn của truyền thông, nữ minh tinh Alison Arngrim thừa nhận việc tham gia Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên đã cứu cuộc đời bà khỏi trạng thái trầm cảm lâu dài. Bà quyết định dành cả đời làm thiện nguyện và công tác xã hội.
Vai Caroline Quiner Ingalls tuy chưa phải hàng đầu trong đời diễn xuất của nữ minh tinh Karen Grassle nhưng là đặc điểm hầu như duy nhất để khán giả bao thế hệ còn nhắc tới bà. Năm 2020, Karen Grassle mượn hình ảnh tích cực này để lập kênh YouTube chuyên đọc sách cho thiếu nhi hằng đêm.
Vai Carrie và Grace đều do các chị em sinh đôi thay nhau đảm nhiệm vì tuổi nhân vật quá bé khiến một diễn viên không thể gánh nổi.
Nhà biên kịch đã khéo cài nhiều nhân vật và tình tiết có thật trong lịch sử Mỹ vào bộ phim, khiến càng về sau không thuần túy chỉ là chuyển thể nữa mà khái quát hóa một giai đoạn vô cùng sôi động của xã hội Mỹ. Từ anh em Jesse-Frank James và Robert Ford (thành bạn học Mary Ingalls) tới ông trùm KFC Harland David Sanders (trong cảnh bị bà Oleson hắt hủi khi ghé ngang Walnut Grove để quảng bá công thức gà rán mà ông vừa nghĩ ra).
Sau khi Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên đóng máy, những ý niệm về Thiên Chúa và đức tin trong bộ phim này đã trở thành cơ sở để đạo diễn Michael Landon thực hiện loạt phim mới có nhan đề Đường tới thiên đàng cũng rất thành công.
Ảnh hưởng
Kể từ năm 1983 cho tới thời điểm 2020, Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên đứng nguyên vị trí là xuất phẩm điện ảnh truyền hình có nhân sự hùng hậu nhất thế giới, tuy rằng chi phí sản xuất và phương tiện kĩ thuật bấy giờ còn rất hạn chế.
Tuy nhiên, sự thành công lớn nhất của bộ phim vẫn là cảm xúc dành cho khán giả giữa bối cảnh thế giới (đặc biệt là Mỹ) tang thương vì chiến tranh, xung đột sắc tộc và tín ngưỡng. Phim tiếp cận cuộc đời bằng cái nhìn chậm rãi, đậm tính chiêm nghiệm và cố ý khắc họa một giai đoạn lịch sử hào hùng của nước Mỹ. Giới phê bình cũng chỉ trích bộ phim thi vị hóa cuộc đấu tranh sắc tộc, chính kiến và thuần hóa thiên nhiên ở Mỹ thế kỷ XIX mà trong thực tế khắc nghiệt gấp bội phần.
Trong lĩnh vực giải trí Mỹ đương đại, bộ phim mở ra công thức mới trong chế tác phim về chủ đề gia đình, bằng hữu, thời trang và du lịch. Hình ảnh thiên nhiên hoang dã với những con người chân chất trở thành một trào lưu sản xuất điện ảnh truyền hình thượng phong hoàn cầu suốt những năm cuối thế kỷ XX.
Đối với các nhân vật góp mặt từ ít tới nhiều trong bộ phim, việc được tham gia đã là vinh dự trọn đời. Một số tài tử thậm chí soạn hồi ký kể lại những ngày làm việc trên trường quay Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên, có những người cả đời không thoát khỏi cái bóng của vai diễn trong xuất phẩm này. Hầu như năm nào các kênh truyền hình Bắc Mỹ cũng mở chương trình hội ngộ dàn diễn viên Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên để đáp ứng thị hiếu của đông đảo người hâm mộ.
Tại Việt Nam, theo kí giả Lê Quang Thanh Tâm, có thông tin rằng, ngay từ năm 1975, ban giám đốc Đài Truyền hình Quốc gia Việt Nam Cộng hòa đã chuẩn bị xong thủ tục mua bản quyền phát sóng loạt phim Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên. Tuy nhiên, do quốc nạn 30 tháng 04 cắt ngang nên việc này không kịp thực hiện.
Mãi hai chục năm sau, Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên mới được Đài Truyền hình Việt Nam mua bản quyền công chiếu ở khung 18:00 những năm 1996-7 trên kênh VTV1 (từ 1998 tách thành VTV1 và VTV3), qua giọng thuyết minh Kim Tiến và Minh Trí. Bộ phim chóng chiếm được cảm tình của khán giả Việt Nam bởi nội dung tương đối thiết thực với bối cảnh xã hội Việt Nam thập niên 1990, từ truyện gia đình tới truyện học đường, từ việc mưu sinh tới việc hôn nhân. Sau khi phim chiếu tập cuối, thể thư yêu cầu của số đông khán giả, Đài Truyền hình Việt Nam phải tái thương lượng với đối tác Mỹ để chiếu lần nữa ở khung 10:00 hàng ngày, trừ thứ Bảy và Chủ Nhật.
Bộ phim Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên cũng mở đầu thời kì dòng phim gia đình Bắc Mỹ và Úc châu áp đảo trên sóng truyền hình Việt Nam gần hai thập niên.
Năm 2018, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Truyền thông Purpose tiến hành mua bản quyền 10 năm để phát liên tục trên các kênh HTV3 - DreamsTV và VTC3 dưới dạng lồng tiếng Nam Bộ.
Vào năm 2020, hãng NBC đã tiến hành công tác phục chế chất lượng băng gốc rồi đẩy lên định dạng 4K để đem lại cảm giác hoàn toàn mới mẻ sinh động cho lớp khán giả trẻ.
Vinh dự
1976: TP de Oro, Tây Ban Nha, Mejor Actriz Extranjera (Best Foreign Actress), Karen Grassle
1978: Emmy Award for Outstanding Cinematography in Entertainment Programming for a Series, Ted Voigtlander, episode "The Fighter"
1979: Emmy Award for Outstanding Cinematography for a Series, Ted Voigtlander, episode "The Craftsman"
1979: Emmy Award for Outstanding Music Composition for a Series, David Rose, episode "The Craftsman"
1980: TP de Oro, Tây Ban Nha, Mejor Actriz Extranjera (Best Foreign Actress), Melissa Sue Anderson
1981: Western Writers of America Spur Award for Best TV Script, Michael Landon, episode "May We Make Them Proud"
1982: Emmy Award for Outstanding Achievement in Music Composition for a Series (Dramatic Underscore), David Rose, episode "He Was Only Twelve" (Part 2)
1983: Young Artist Award for Best Young Actress in a Drama Series, Melissa Gilbert
1984: Young Artist Award for Best Young Actress in a Drama Series, Melissa Gilbert |
Trí tuệ Việt Nam là cuộc thi sản phẩm phần mềm tin học nhằm phát hiện và khuyến khích các tài năng trẻ sáng tạo, phát triển những sản phẩm công nghệ thông tin có tính sáng tạo và tính ứng dụng cao trong cuộc sống phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cuộc thi do báo Lao động, Đài Truyền hình Việt Nam và Công ty FPT bắt đầu phối hợp tổ chức từ năm 2000. Mỗi năm, cuộc thi lại có một chủ đề khác nhau. Lễ trao giải thường được tổ chức vào ngày 1 tháng 1 dương lịch hằng năm.
Một số sản phẩm đoạt giải cao nhất của cuộc thi đã gây ra nhiều tranh cãi về tính ứng dụng cũng như độ trung thực, điển hình là hệ điều hành Vietkey Linux đoạt giải năm 2002 và iCMS đoạt giải năm 2003.
Hình thành
Ý tưởng về một cuộc thi sản phẩm phần mềm tin học mang tên Trí tuệ Việt Nam đã được công ty FPT hình thành từ cuối năm 1999. Đầu năm 2000, FPT mời hai cơ quan ngôn luận lớn là báo Lao động và VTV3 tham gia đồng tổ chức. FPT nhận đài thị toàn bộ giải thưởng và chi phí cho thí sinh cũng như Ban giám khảo.
Đối tượng tham gia
Thể lệ của cuộc thi quy định đối tượng dự thi là người Việt Nam ở trong và ngoài nước (bao gồm cả Việt kiều ở nước ngoài) dưới 30 tuổi (năm đầu tiên không giới hạn độ tuổi).
Sản phẩm tham gia dự thi có thể là:
Ý tưởng, thiết kế, giải thuật (chưa là một sản phẩm, cần đầu tư thêm thời gian và công sức để hoàn thiện)
Sản phẩm hoàn thiện
Giải pháp (là một hệ thống đầy đủ gồm cả phần cứng và phần mềm, giải quyết được một công việc cụ thể)
Công trình nghiên cứu khoa học, luận án tốt nghiệp…
Các lần tổ chức
Ảnh hưởng
Năm đầu tiên tổ chức, cuộc thi Trí tuệ Việt Nam đã được báo Thể thao & Văn hoá bình chọn là một trong 10 sự kiện tiêu biểu của Việt Nam năm 2000. |
Trong toán học, bất đẳng thức Bernoulli là một bất đẳng thức cho phép tính gần đúng các lũy thừa của 1 + x.
Bất đẳng thức này được phát biểu như sau:Làm mới
với mọi số nguyên r ≥ 0 và với mọi số thực x > −1. Nếu số mũ r là chẵn, thì bất đẳng thức này đúng với mọi số thực x. Bất đẳng thức này trở thành bất đẳng thức nghiêm ngặt như sau:
với mọi số nguyên r ≥ 2 và với mọi số thực x ≥ −1 với x ≠ 0.
Bất đẳng thức Bernoulli thường được dùng trong việc chứng minh các bất đẳng thức khác. Bản thân nó có thể được chứng minh bằng phương pháp quy nạp toán học:
Chứng minh:
Khi r=0, bất đẳng thức trở thành tức là mà rõ ràng đúng.
Bây giờ giả sử bất đẳng thức đúng với r=k:
Cần chứng minh:
Thật vậy, (vì theo giả thiết )
(vì )
> Bất đẳng thức đúng với rk+1.
Theo nguyên lý quy nạp, chúng ta suy ra bất đẳng thức đúng với mọi
Số mũ r có thể tổng quát hoá thành số thực bất kỳ như sau: nếu x > −1, thì
với r ≤ 0 hoặc r ≥ 1, và
với 0 ≤ r ≤ 1.
Có thể chứng minh bất đẳng thức tổng quát hoá nói trên bằng cách so sánh các đạo hàm.
Một lần nữa, bất đẳng thức này trở thành bất đẳng thức nghiêm ngặt nếu x ≥ -1 và 1 ≤ r thuộc tập số tự nhiên.
Các bất đẳng thức liên quan
Bất đẳng thức dưới đây ước lượng lũy thừa bậc r của 1 + x theo chiều khác. Với số thực x bất kỳ, r > 0, chúng ta có
với e = 2.718....
Bất đẳng thức này có thể chứng minh bằng cách dùng bất đẳng thức (1 + 1/k)k < e. |
Ngày quốc khánh là một ngày lễ quan trọng của một quốc gia, có thể chỉ:
Danh sách các ngày quốc khánh trên thế giới
Quốc khánh Nhật Bản
Quốc khánh Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Quốc khánh Việt Nam
Quốc khánh Trung Hoa Dân Quốc
Quốc khánh Hoa Kỳ
Quốc khánh Liban
Quốc khánh Singapore
Quốc khánh Pháp |
Quốc Khánh có thể chỉ:
Địa danh
Xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
Người
Đặng Quốc Khánh
Đặng Quốc Khánh (thiếu tướng), Chính ủy Cục Quân y, Bộ Quốc phòng
Đặng Quốc Khánh (chính khách), Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII (2015 – 2020), Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang, nguyên Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Quốc Khánh
Nguyễn Quốc Khánh (trung tướng), Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (2009 – 2016)
Nguyễn Quốc Khánh (chính khách), Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV tỉnh Quảng Nam
Nguyễn Quốc Khánh (biên tập viên)
Quốc Khánh (nghệ sĩ), nghệ sĩ ưu tú, diễn viên hài, nổi tiếng với vai Ngọc Hoàng trong chương trình Gặp nhau cuối năm.
Khác
Hoàng Quốc Khánh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La
Lê Quốc Khánh, vận động viên quần vợt
Phạm Quốc Khánh, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Trần Quốc Khánh, Phó Bí thư Ban Cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Công thương Việt Nam
Trương Quốc Khánh, nhạc sĩ, nhà báo, nhà biên kịch, nổi tiếng với ca khúc "Tự nguyện" được sáng tác trong phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe. |
Cơ quan Vũ trụ châu Âu (tiếng Anh: European Space Agency, viết tắt: ESA) là một tổ chức liên chính phủ được thành lập năm 1975, chuyên trách việc thám hiểm vũ trụ mà Đức dẫn đầu tiên phong. ESA hiện có 18quốc gia thành viên, tổng hành dinh đặt tại Paris, Pháp. ESA có số lượng nhân viên (không tính các nhân viên hợp đồng và các cơ quan vũ trụ quốc gia) là khoảng 1.900 với ngân sách hàng năm khoảng €3 tỷ trong năm 2006.
Sân bay vũ trụ của ESA là Centre Spatial Guyanais (Guyana Space Centre) ở Kourou, Guiana thuộc Pháp, nơi này được chọn vì nó gần xích đạo và từ đó việc phóng lên các quỹ đạo quan trọng là dễ dàng hơn. Trong những năm 1990 thì ESA đạt ví trí dẫn đầu thị trường phóng vệ tinh thương mại và trong những năm gần đây ESA đã đi khẳng định như là một đối tác quan trọng trong thám hiểm vũ trụ trước khi bị Mỹ soán ngôi trở lại trong những năm gần đây.
Các cơ quan khoa học của ESA đóng tại ESTEC ở Noordwijk, Hà Lan, Trạm Quan sát Mặt đất ESRIN ở Frascati, Ý, Trung tâm điều khiển ESA (ESOC) ở Darmstadt, Đức, và Trung tâm phi hành gia châu Âu (PACI), huấn luyện các phi hành gia tương lai đóng ở Köln, Đức. |
Lục địa Á-Âu hay Lục địa Âu-Á (còn được viết là đại lục Á-Âu hay đại lục Âu-Á) là một khu vực đất đai rộng lớn, bao gồm châu Âu và châu Á. Phần lớn nằm ở Đông và Bắc bán cầu, lục địa Á Âu có thể được coi là một siêu lục địa, một phần của siêu lục địa lớn hơn là đại lục Phi-Á Âu. Nó giáp với Đại Tây Dương ở phía Tây, Thái Bình Dương ở phía Đông, Bắc Băng Dương ở phía Bắc, Ấn Độ Dương ở phía Nam.
Lục địa Á-Âu có diện tích khoảng 55.000.000 km2, khoảng 36,2% diện tích bề mặt Trái Đất, khoảng 5 tỷ người sinh sống (70% dân số thế giới). Loài người bắt đầu định cư tại lục địa này khoảng 60.000 đến 125.000 năm trước.
Trong kiến tạo địa tầng, mảng kiến tạo Á Âu bao gồm châu Âu và phần lớn châu Á, nhưng không bao gồm tiểu lục địa Ấn Độ, tiểu lục địa Ả Rập và khu vực phía đông của dãy Cherskiy tại Sakha.
Sự chia tách giữa châu Âu và châu Á như là 2 lục địa riêng biệt chủ yếu do lý do lịch sử và văn hóa, sự phân chia khu vực địa lý không rõ ràng.
Thuật ngữ Eurasia (Á-Âu) còn được sử dụng trong chính trị quốc tế như là phương thức trung lập để chỉ các tổ chức hay các sự vụ liên quan đến các quốc gia hậu Xô viết, cụ thể là Nga, các nước cộng hòa Trung Á và các nước cộng hòa vùng Kavkaz. Nhiều người Âu không có ý niệm về lục địa Á-Âu, thông thường coi châu Âu và châu Á là các lục địa tách rời, với đường phân chia dọc theo biển Aegean, Dardanelles, Bosphorus, biển Đen, dãy núi Kavkaz, biển Caspi, sông Ural và dãy Ural, và thuật ngữ này phổ biến trên khắp thế giới, thậm chí châu Á chứa nhiều khu vực và nhiều nền văn hóa đa dạng cũng như châu Âu, và chúng cũng tách rời về mặt địa lý và khác biệt nhau giống như ở châu Âu. Từ quan điểm hiện đại, lục địa với ít lý do nhất để công nhận tách biệt chính là châu Âu, và trong giới khoa học nói chung người ta coi châu Âu và châu Á là đại lục Á-Âu.
Jared Diamond, trong cuốn sách của mình Guns, Germs and Steel (Súng, Mầm bệnh và Thép), đã quy ưu thế vượt trội của người Á-Âu trong lịch sử thế giới cho sự mở rộng theo chiều đông tây của đại lục Á-Âu và các khu vực khí hậu của nó, cũng như khả năng của các động và thực vật Á-Âu dễ thích hợp với điều kiện thuần hóa.
Con đường tơ lụa là biểu tượng của thương mại và trao đổi văn hóa liên kết các nền văn minh Á Âu trong suốt lịch sử và là chủ đề có độ phổ biến gia tăng. Trong các thập kỷ gần đây người ta đã tạo ra quan điểm về một lịch sử Á Âu lớn hơn, thiết lập các mối quan hệ di truyền học, văn hóa và ngôn ngữ giữa các nền văn minh châu Âu và châu Á thời cổ đại, mà trong một thời gian dài trước đó được cho là riêng biệt.
Adolf Erik Nordenskiöld đã đi vòng quanh lục địa Á Âu lần đầu tiên thời kỳ các năm 1878-1879. |
Tự điển (字典) hay tự vị/tự vựng (字彙) là sách giải nghĩa, cách dùng và phát âm của từng chữ Hán một. Chỉ có chữ Hán và các biến thể như chữ Nôm mới có khái niệm tự điển. Tự điển cũng có thể coi là từ điển khi nó diễn giải thêm cả các từ hoàn chỉnh thay vì chỉ diễn giải từng chữ riêng lẻ.
Từ điển học |
Đan Trường (sinh ngày 29 tháng 11 năm 1976) tên đầy đủ là Phạm Đan Trường, là nam ca sĩ người Việt Nam. Anh là ca sĩ gắn liền với những video ca nhạc cổ trang giai đoạn 1999-2005. Anh được xem là ca sĩ đầu tiên tại Việt Nam tiên phong trong việc mua độc quyền ca khúc nhằm xây dựng hình ảnh và phong cách âm nhạc chuyên nghiệp. Anh là một trong những ca sĩ có doanh số bán đĩa lớn nhất tại Việt Nam. Đến nay, anh đã phát hành hơn 60 album nhạc đạt doanh số khoảng 2 triệu đĩa.
Năm 1996, sau khi đoạt giải tại một cuộc thi âm nhạc của Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Đan Trường bắt đầu đi hát tại những điểm diễn nhỏ lẻ và đi diễn tỉnh xa. Đến năm 1997, anh hợp tác với người quản lý Hoàng Tuấn và trở thành ca sĩ độc quyền của công ty đào tạo ca sĩ HT Production. Năm 1999, anh được yêu thích rộng rãi qua hàng loạt ca khúc nhạc trẻ, đặc biệt là các bản nhạc Hoa lời Việt. Ca khúc đầu tiên "Kiếp ve sầu" đã mang đến thành công bất ngờ, tiếp nối là những bản hit lớn như "Mưa trên cuộc tình", "Bước chân lẻ loi" và đặc biệt là "Đi về nơi xa". Phong cách âm nhạc của anh có ảnh hưởng lớn từ dòng nhạc Cantopop, anh đạt thành công ở nhiều dòng nhạc khác nhau, từ nhạc trẻ đến nhạc truyền thống và dân ca trữ tình.
Trong suốt sự nghiệp ca hát hơn 20 năm, Đan Trường đã nhận được nhiều giải thưởng âm nhạc, phần lớn là danh hiệu "Ca sĩ được yêu thích nhất" và "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" liên tiếp nhiều năm của nhiều giải thưởng như Làn Sóng Xanh, Giải Mai Vàng, Ngôi Sao Bạch Kim, HTV Awards, Zing Music Awards,... trước khi anh tự rút lui. Anh thắng 1 giải "Ca sĩ của năm" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh và nhận 1 đề cử "Ca sĩ của năm" tại Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến, ngoài ra còn những giải thưởng khác như VTV Bài hát tôi yêu, Album Vàng,... Anh ghi kỷ lục tại giải thưởng HTV Awards, VTV Bài hát tôi yêu, liveshow Dấu Ấn,... Bên cạnh ca hát, anh còn tham gia vào lĩnh vực phim ảnh với các bộ phim nổi bật như: Võ lâm truyền kỳ (2007), ... Thứ ba học trò (2009), Yêu anh! Em dám không? (2013), Cha ma (2019),... Ngoài ra, anh còn làm giám khảo/ huấn luyện viên cho các cuộc thi âm nhạc như: Ngôi Sao Phương Nam, Thần tượng Bolero, Tuyệt Đỉnh Song Ca, Solo cùng Bolero.
Tiểu sử
Đan Trường tên thật là Phạm Đan Trường sinh năm 1976 tại thành phố Hồ Chí Minh trong một gia đình Công giáo gốc Hải Phòng di cư năm 1954. Cả nhà sống trong một con hẻm trên đường Tháp Mười, quận 6. Cha mẹ anh là công nhân của một xí nghiệp thủy sản đông lạnh. Mặc dù xuất thân trong gia đình vốn không có truyền thống nghệ thuật, Đan Trường sớm biểu lộ niềm đam mê ca hát. Ở nhà anh được gọi bằng cái tên thân mật là "Bo", đây cũng là biệt danh quen thuộc của anh trên các phương tiện thông tin đại chúng sau này.
Do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, không thể tiếp tục trang trải cho việc học nên sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, anh đã quyết định học nghề thợ tiện để giúp đỡ cho bố mẹ gánh nặng kinh tế. Ban ngày anh đi làm ở xưởng cơ khí, tối về lại tham gia câu lạc bộ nhảy gần nhà. Vì đam mê và sớm bộc lộ tố chất, không ít lần Đan Trường được mời tham gia diễn ở các quán bar, vũ trường… rồi may mắn có vài lần diễn độc lập, mở màn chương trình. Sau đó thấy có lớp dạy hát, anh thử chuyển sang học. Năm 1996, Nhà văn hoá quận 10 tổ chức một cuộc thi tìm kiếm giọng hát hay. Do là một trong số những gương mặt nổi bật trong lớp học hát nên anh được động viên tham gia cuộc thi và bất ngờ đoạt giải Nhì với ca khúc "Gửi người tôi yêu" của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết. Sau đó, anh quyết định chuyển sang một trung tâm đào tạo ca sĩ và chính thức bước chân vào con đường nghệ thuật. Thời gian này, anh thường song ca cùng ca sĩ Việt Quang và đi hát ở các câu lạc bộ, nhà hàng cũng như đi diễn tỉnh xa.
Sự nghiệp
1997-1999: Bắt đầu ca hát chuyên nghiệp
Năm 1997, trong một chương trình ca nhạc diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh, Đan Trường gặp Hoàng Tuấn (biệt danh 'Tuấn Thaso'), ông chủ công ty HT Production, một công ty đào tạo ca sĩ. Anh trở thành ca sĩ độc quyền và chính thức bước chân vào con đường âm nhạc chuyên nghiệp. Lúc này, trụ sở công ty được đặt cùng khuôn viên với văn phòng Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Trần Quốc Thảo, TP HCM) và Hoàng Tuấn có sự hợp tác với nhiều nhạc sĩ hàng đầu của Việt Nam. Những chuyên gia âm nhạc đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng hình ảnh và phong cách âm nhạc cho Đan Trường trong những ngày đầu của sự nghiệp khi anh được xây dựng về chuyên môn, cách chọn bài hát phù hợp và cách thể hiện tốt nhất. Không đi ngược lại với xu hướng và thị hiếu nghe nhạc thời bấy giờ, Đan Trường được công ty định hướng phát triển theo dòng cantopop với ca khúc được phát hành đầu tiên là "Kiếp ve sầu". Từng được các ca sĩ khác thể hiện nhưng không tạo được hiệu ứng.
Nhưng đến khi qua giọng hát của Đan Trường, "Kiếp ve sầu" nhanh chóng trở nên phổ biến trong khán giả và nghiễm nhiên trở thành bài hit đầu tiên của anh.
Đan Trường bắt đầu được quảng bá qua hàng loạt ca khúc, hầu hết là chủ đề trong những CD/cassette do HT Production, Hãng Phim Trẻ, Kim Lợi Studio và Vafaco thực hiện như: Còn lại một mình (04/1998), Rêu phong (10/1998), Mưa trên cuộc tình 1 (01/1999), Nắng xuân (02/1999), Hạnh phúc bay xa (03/1999), Mưa trên cuộc tình 2 (04/1999), Mưa rơi (06/1999), Mưa tình yêu (06/1999).
Cùng với các ca khúc khác như "Mưa trên cuộc tình", "Bước chân lẻ loi", "Cuộc tình cay đắng", "Tâm hồn xao động", Đan Trường tạo cú hích với album đầu tay. Ngày 17 tháng 6 năm 1999, album riêng đầu tiên của anh ra mắt mang tên Nhạc tuyển Đan Trường Vol.1 tổng hợp 14 ca khúc bao gồm hầu hết những ca khúc đã phổ biến và một số ca khúc mới. Hoàng Tuấn chia sẻ: "Mức độ phổ biến và lượng tiêu thụ của album này rất kinh khủng. Sau lần đó, Đan Trường được các bầu show săn đón". Tiếp theo là sự ra mắt của album video vol. 1 Kiếp ve sầu với những video nhạc được đầu tư công phu nhằm đẩy mạnh hình ảnh Đan Trường đến gần hơn với khán giả.
Tháng 11 năm 1999, album riêng thứ hai của Đan Trường ra mắt với tựa đề Đi về nơi xa và nhanh chóng đạt thành công thương mại cũng như nhận được sự chú ý từ giới chuyên môn. Ca khúc chủ đề "Đi về nơi xa" là một 'hiện tượng' trên thị trường âm nhạc, kể từ khi ra mắt đến nay vẫn luôn được yêu thích và đạt doanh thu thương mại lớn khi số lượng băng cassette, CD, VCD, karaoke có ca khúc này đã tiêu thụ hơn 250.000 bản. Bản hit này giúp anh lần đầu tiên đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và mang về cho nhạc sĩ Lê Quang giải "Nhạc sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2000. Một số ca khúc nổi bật khác đã được anh trình diễn trên khắp các sân khấu ca nhạc như: "Vẫn mãi cô đơn", "Mưa tình yêu", "Tình quay gót", "Hôn môi xa",... Sau một thời gian gắn liền với nhạc ngoại và nhận những đánh giá trái chiều từ truyền thông về chất giọng và các sản phẩm âm nhạc, Đan Trường đã có một album thành công đột phá với những bản hit tại Bảng xếp hạng Làn Sóng Xanh, chương trình ca nhạc nổi tiếng nhất thời gian này.
Tiếp nối thành công là sự kết hợp với nữ ca sĩ Cẩm Ly trong bản thu âm đầu tiên của cặp song ca là bản nhạc Hoa mang tên "Ảo mộng tình yêu". Album tổng hợp đầu tiên của hai người ra mắt mang tên Nếu phôi pha ngày mai và nhanh chóng nhận được sự yêu thích lớn cho ca khúc chủ đề và những ca khúc mới của cả hai.
Một năm thành công lớn của Đan Trường đã giúp anh đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" năm 1999 do Tạp chí Thanh niên trao tặng.
2000: Bóng dáng thiên thần và Cảm ơn cuộc đời
Đầu năm 2000, Đan Trường tiếp tục ra mắt album riêng thứ ba với tựa đề Bóng dáng thiên thần. Trong album lần này, anh thử nghiệm với phong cách nhạc hip hop, R&B,... Ca khúc chủ đề "Bóng dáng thiên thần", bản nhạc Hoa duy nhất trong album được viết lời Việt bởi Nguyễn Ngọc Thiện và rất được yêu thích. Ca khúc "Mưa buồn" (Hoài An) đã trở thành bản hit mới trên Bảng xếp hạng Làn Sóng Xanh cho cặp đôi Đan Trường – Cẩm Ly. Nhạc sĩ trẻ Phương Uyên đánh dấu lần đầu hợp tác thành công trong 2 ca khúc: "Nỗi đau chia xa" và "Tình bạn". Còn lại là những sáng tác được phổ biến rộng rãi như: "Không còn ai" (Nguyễn Ngọc Thiện), "Hẹn lòng đi nhé" (Tuấn Khanh), "Tình mênh mang" (Trương Quang Lộc), "Dỗi hờn" (Nguyễn Nhất Huy),...
Đan Trường còn thu âm một ca khúc hit khác có tên "Tình đơn phương". Ca khúc nhạc Hoa này không có mặt trong một album riêng chính thức nào của anh, tuy nhiên lại rất đình đám. Điều đặc biệt là ca khúc cũng được yêu thích qua giọng hát của Lam Trường. Và "Tình đơn phương" đã trở thành bản hit chung của cả hai nam ca sĩ. Ngoài ca khúc này thì hai người cũng hát chung một số ca khúc nhạc Hoa khác nữa.
Cùng năm, album vol. 4 Best collection được phát hành như một tuyển tập những ca khúc được yêu thích của anh trong các album riêng và album tổng hợp khác, nổi bật là các ca khúc: "Cho tình mãi Xa" (Minh Khang), "Bóng biển" (Lê Quốc Dũng) và đặc biệt là những bản nhạc Hoa như: "Kiếp rong buồn" (tên gọi khác: "Khúc rong buồn"), "Mùa đông tàn phai", "Mưa trên cuộc tình 3",... do nhạc sĩ Lê Quang và Minh Khang viết lời Việt. Đan Trường không ngại đón nhận những chỉ trích từ giới chuyên môn lẫn truyền thông, anh trở lại cùng dòng nhạc Hoa đã ghi dấu ấn từ ngày đầu khởi nghiệp ca hát và đặc biệt dành cho lực lượng những người hâm mộ trung thành luôn ủng hộ anh.
Trong năm 2000, Đan Trường và ekip có những chuyến lưu diễn châu Âu đầu tiên. Thời gian này, ekip HT Production đã quay MV và phát hành album video vol. 2 Đi về nơi xa với những cảnh quay đẹp tại các nước châu Âu. Ngoài ra, anh thử sức với công việc diễn xuất qua bộ phim cổ tích nhạc kịch mang tên "Vua hóa cò" do Hãng phim Trẻ sản xuất và phát hành.
Tháng 12 năm 2000, Đan Trường gây chú ý lớn với liveshow đầu tiên trong sự nghiệp của anh mang tên Cảm ơn cuộc đời, với sự phối hợp tổ chức của 3 đơn vị: Hãng phim Trẻ, Hội âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh và HT Production. Liveshow được tổ chức thành 2 đêm diễn tại sân khấu Lan Anh - Thành phố Hồ Chí Minh với 10.000 khán giả, sau đó là tour diễn qua các tỉnh: Đồng Nai, Cần Thơ, Nha Trang. Tổng kinh phí cho chương trình gần 800 triệu đồng. Đạo diễn chương trình là Hoàng Tuấn và Minh Vy. Ca sĩ khách mời bao gồm: Cẩm Ly, Lâm Vũ, Quang Vinh, nhóm Tik Tik Tak. Đan Trường đã trình diễn những ca khúc nhạc trẻ và cả nhạc truyền thống. Album video thu trực tiếp show diễn được phát hành đồng loạt trong nước và quốc tế vào ngày 4 tháng 6 năm 2001. Theo hãng HT Production, giá bán bản quyền chương trình cho các hãng ở hải ngoại là 18.000 USD, cao nhất thời điểm đó.
Trong năm 2000, Đan Trường còn vinh dự nhận giải thưởng "Ca sĩ được yêu thích nhất" do báo Mực Tím trao tặng và danh hiệu "Ngôi sao 2000" do Báo Văn hóa và Ðài truyền hình Việt Nam trao tặng.
2001: Lời ru tình và Biệt khúc chờ nhau
Tại Lễ trao giải Mai Vàng lần thứ 7 vào ngày 3 tháng 2 năm 2001, Đan Trường bất ngờ đoạt giải "Nam ca sĩ được yêu thích nhất", giải Mai Vàng đầu tiên trong sự nghiệp với ca khúc "Người mẹ của tôi" (Xuân Hồng), Đan Trường đã vượt qua Lam Trường với 3 năm liên tiếp đoạt giải trước đó.
Tháng 5 năm 2001, Đan Trường phát hành album vol. 5 The best of Dan Truong như một tuyển tập những ca khúc mà anh tâm đắc nhất, tiếp tục hâm nóng "thương hiệu Đan Trường" sau dự án liveshow đầu tiên. Các ca khúc nổi bật là: "Email tình yêu" (Trần Minh Phi), "Cuộc tình trong cơn mưa" (nhạc Hoa - lời Việt: Trần Vũ), "Phong ba tình đời" (nhạc Hoa - lời Việt: Lê Quang).
Album video Đan Trường in China – Phong ba tình đời ra mắt sau đó trở thành album video cổ trang đầu tiên của Việt Nam được quay tại nước ngoài. Kinh phí thực hiện album là 2 tỉ đồng, trong đó MV cho ca khúc chủ đề "Phong ba tình đời" được đầu tư gần 300 triệu đồng với những cảnh quay trên Vạn Lý Trường Thành, trong khi 200 triệu đồng được đầu tư cho MV "Cuộc tình cay đắng" với đạo diễn người Trung Quốc.
Tháng 11 năm 2001, Đan Trường ra mắt album vol.6 với tựa đề Lời ru tình. Album giới thiệu 11 ca khúc mới của các nhạc sĩ Lê Quang, Quốc An, Trần Minh Phi, Phương Uyên, Minh Khang... được chọn lọc khá kỹ lưỡng để phù hợp nhất với chất giọng của Đan Trường sau quãng thời gian anh tạm thời nghỉ ngơi và 'nâng cấp' giọng hát. Album đã cho thấy sự phát triển về kỹ thuật hát và tư duy thẩm mỹ âm nhạc của anh sau nhiều nhận định phê bình từ giới chuyên môn. Ca khúc chủ đề "Lời ru tình" và ca khúc mới "Khung trời ngày xưa" (với Cẩm Ly) giúp Đan Trường tiếp tục đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và mang về cho hai nhạc sĩ Lê Quang và Hoài An giải thưởng "Nhạc sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2002. Các ca khúc còn lại hầu hết đều được phổ biến và yêu thích như: "Chờ trên tháng năm", "Mơ ước xa xưa", "Mẹ tôi", "Tuyết hồng" (với Cẩm Ly), "Những mùa dấu yêu",...
Để kỷ niệm ngày Quốc khánh 2/9, Hãng phim Trẻ và HT Production đã phát hành album nhạc truyền thống Như khúc tình ca với Đan Trường là giọng hát chính. Các ca khúc như: "Người mẹ của tôi", "Nhánh lan rừng", "Hát về anh",... được nhiều bạn trẻ đón nhận.
Album video Chờ trên tháng năm phát hành sau đó và gây ấn tượng với loạt video cổ trang được đầu tư công phu như: "Chờ trên tháng năm", "Tuyết hồng", "Mẹ tôi".
Nối tiếp sự thành công của "Vua hoá cò", trong năm 2001, Đan Trường tiếp tục cùng đạo diễn Đoàn Khoa và Hãng phim Trẻ thực hiện bộ phim cổ tích dành cho thiếu nhi mang tên "Hoàng tử chăn lợn". Anh cũng thể hiện 2 ca khúc trong phim là "Yêu em" và "Hoa hồng vô tình".
Trong chương trình giao lưu ca nhạc Việt Nam - Trung Hoa "Sứ giả hữu nghị" vào tháng 12 năm 2001, Đan Trường song ca với Triệu Vy (Zhao Wei) trong ca khúc nhạc phim "Tân dòng sông ly biệt" mang tựa đề Việt "Biệt khúc chờ nhau". Đây được xem là một màn trình diễn ấn tượng giữa hai giọng ca Việt - Trung.
Trong năm 2001, Đan Trường còn lần thứ 2 liên tiếp đoạt giải thưởng "Ca sĩ được yêu thích nhất" do báo Mực Tím trao tặng.
2002: Dòng máu Lạc Hồng và Trái tim bình yên - Dòng sông băng
Ngày 16 tháng 1 năm 2002, vào đúng dịp Tết Nhâm Ngọ, tour lưu diễn xuyên Việt của Đan Trường mang tên Giữ mãi niềm tin mở màn tại Thành phố Hồ Chí Minh , tiếp đó là các show lưu diễn tại Đồng Nai, Cần Thơ, Hà Nội (9/3) và điểm dừng chân cuối cùng là sân khấu Công viên 26/3 (TP HCM) Đạo diễn chương trình là Hoàng Tuấn và Văn Hiệp. Trong liveshow tại Hà Nội, Đan Trường giới thiệu các ca khúc trong album mới nhất Lời ru tình và một số ca khúc thành công khác của anh. Ca sĩ khách mời bao gồm: Cẩm Ly, Nhóm 3 Con Mèo. Giá vé liveshow tại Hà Nội là mức giá vé đắt nhất thời điểm đó so với các chương trình được tổ chức tại đây.
Tháng 8 năm 2002, Đan Trường xuất hiện trong video nhạc của ca khúc "Phiêu du" (sáng tác: Trần Minh Phi; đạo diễn: Trần Cảnh Đôn). Video âm nhạc đã mang đến cho anh danh hiệu "Ca sĩ được yêu thích nhất" và "Video clip được khán giả bình chọn" trong năm đầu tiên tổ chức chương trình VTV Bài hát tôi yêu của Đài truyền hình Việt Nam.
Tháng 9 cùng năm, album vol. 7 Best collection được phát hành bởi HT Production. Ca khúc "Dòng máu Lạc Hồng" trong album là một bản hùng ca với nội dung ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước và khơi dậy niềm tự hào dân tộc, đã giành được nhiều sự yêu mến từ khán giả và thường xuyên được anh trình diễn trong các chương trình lễ hội cấp quốc gia hay giao lưu văn hóa. Ca khúc này giúp anh lần thứ 2 liên tiếp đoạt giải "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" và mang về cho nhạc sĩ Lê Quang giải "Nhạc sĩ được yêu thích nhất" tại Lễ trao giải Mai Vàng lần thứ 8.
Tiếp theo là sự ra mắt album chung thứ hai của Đan Trường và Cẩm Ly với tựa đề Mùa thu kỷ niệm. Đây là tuyển tập những ca khúc song ca của cặp đôi này. Ca khúc mới cũng là chủ đề album "Mùa thu kỷ niệm" là một sáng tác pop ballad đến từ nhạc sĩ Dương Đức Thuỵ và trở thành bài hit tiếp theo của đôi song ca Đan Trường - Cẩm Ly.
Tháng 10 năm 2002, album phòng thu thứ tám của Đan Trường ra mắt với tựa đề: Trái tim bình yên - Dòng sông băng. 2 ca khúc được đặt tựa đề cho album trở thành 2 bản hit lớn tiếp theo trong sự nghiệp của anh. Ca khúc "Trái tim bình yên" được phát hành đĩa đơn (single) với 3 phiên bản hòa âm. Đây là đĩa đơn đầu tiên của Đan Trường và được coi là đĩa đơn đúng nghĩa đầu tiên tại Việt Nam. Ca khúc này giúp Đan Trường tiếp tục đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và mang về cho nhạc sĩ Lê Quang giải "Nhạc sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2003. Năm 2003, ca khúc "Dòng sông băng" (Hoài An) với video nhạc được đạo diễn bởi Trần Cảnh Đôn giúp anh lần thứ 2 liên tiếp đoạt giải "Video clip được khán giả bình chọn" tại giải thưởng VTV – Bài hát tôi yêu lần thứ 2. Video nhạc trên đạt kỷ lục bình chọn với hơn 100.000 lượt vote trong 1 tuần.
Trong năm 2002, Đan Trường lần thứ 3 liên tiếp đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" do báo Mực Tím trao tặng.
2003: Giấc mơ màu xanh và Tình khúc vàng
Đầu năm 2003, album video Lời ru ngàn đời được ra mắt với sự chú ý lớn cho video nhạc của ca khúc chủ đề, khi Đan Trường vào vai người anh hùng dân tộc Lê Lai. Ngoài ra, anh còn lần đầu đạo diễn video nhạc với video "Cuộc tình trong mơ".
Trong một lần phỏng vấn, Đan Trường gây chú ý với phát ngôn sẽ không bao giờ chịu hát lipsync, trừ những chương trình mà Đài truyền hình bắt buộc 100% thì phải chấp hành và sẵn sàng tặng 50 triệu đồng cho người nào phát hiện anh hát nhép môi.
Tháng 5 năm 2003, album vol.9 với tựa đề Giấc mơ màu xanh ra mắt với sự pha trộn của nhiều phong cách nhạc khác nhau. Ca khúc chủ đề "Giấc mơ màu xanh" sáng tác bởi nhạc sĩ Lê Quang viết về khát vọng hòa bình đã giành được nhiều sự quan tâm từ khán giả và như trở thành ca khúc về đề tài xã hội hay nhất của anh. Ca khúc này mang về cho Đan Trường giải "Nam ca sĩ âm hưởng dân ca và truyền thống cách mạng được yêu thích nhất" và giúp Lê Quang đoạt giải "Nhạc sĩ được yêu thích nhất" tại Giải Mai Vàng 2003. Trong khi đó, "Tình khúc vàng", bản hit mới từ Hoài An đã liên tục thống trị bảng xếp hạng Làn Sóng Xanh và giúp anh tiếp tục đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2004. Sự kết hợp bất ngờ với Mỹ Tâm trong ca khúc "Cung đàn tình yêu" (Hoài An) cũng nhận được nhiều sự yêu thích. "Tình đã phôi pha" là một bản pop r&b lãng mạn đáng chú ý, còn "Người Việt Nam" là ca khúc nhạc truyền thống mang niềm tự hào dân tộc. Ca khúc tặng kèm mang tên "Lỡ hẹn" (Hồng Xương Long) là một thử nghiệm mới của Đan Trường với dòng nhạc dân ca trữ tình. Nhìn chung, album cho thấy sự thích nghi của Đan Trường qua nhiều dòng nhạc khác nhau. Từ đây, các album nhạc trẻ của anh thường xuất hiện thêm các ca khúc dân ca và dần giúp anh chuyển hướng thành công sang dòng nhạc này.
Đêm 19 và 20 tháng 7 năm 2003, Liveshow Trái tim bình yên diễn ra tại Nhà thi đấu Phan Đình Phùng, Thành phố Hồ Chí Minh, với Văn Hiệp và Hoàng Tuấn đồng đạo diễn, phần phối nhạc bởi nhạc sĩ Lê Quang và Lý Huỳnh Long, hát bè do AC&M đảm nhận. Kinh phí tổ chức liveshow khoảng 500 triệu đồng. Đây là lần đầu tiên Đan Trường mở rộng việc hát song ca với các nữ ca sĩ: Phương Thanh, Mỹ Tâm, Mỹ Lệ, Thanh Thảo. Những ca khúc từng gắn liền với tên tuổi Đan Trường được nhạc sĩ Minh Khang phối khí lại và các màn trình diễn vũ đạo của anh cùng nhóm múa Lido trở thành điểm nhấn của chương trình. Thời điểm trước liveshow, Đan Trường tiết lộ đây sẽ là liveshow cuối cùng của anh. Các show lưu diễn tiếp theo được tổ chức tại Trung tâm triển lãm Giảng Võ, Hà Nội (29/8) và tại Khu du lịch quốc tế Tuần Châu, Quảng Ninh (01/9). Album video thu hình từ liveshow đã bán được 8.000 bản ngay trong tuần đầu tiên phát hành.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Đan Trường nhận giải thưởng "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" và được đề cử tại hạng mục "Nam ca sĩ có giọng hát xuất sắc nhất" trong lần đầu tiên tổ chức của giải thưởng Ngôi Sao Bạch Kim
2004: Đến 1 lúc nào đó và Mãi mãi một tình yêu
Đầu năm 2005, Đan Trường phát hành album vol.10 Đánh mất giấc mơ - Best of best ra mắt như một tuyển tập những ca khúc được yêu thích mới nhất của anh kể từ album vol.8. Đáng chú ý là ca khúc chủ đề "Đánh mất giấc mơ" (nhạc ngoại, lời Việt: Minh Kha), "Sài Gòn Rap" (Vi Nhật Tảo) và "Lời tự tình dâng mẹ" (Thiên Toàn).
Tháng 11 năm 2004, album vol.11 ra mắt với tựa đề Đến 1 lúc nào đó, đánh dấu sự lột xác trong giọng hát và phong cách âm nhạc của anh. Phần hình ảnh thực hiện cho album tạo sự khác biệt hoàn toàn so với trước đây. Với khoản đầu tư lớn nhất từ trước đến nay, album bao gồm 11 ca khúc được chọn lọc từ 450 ca khúc, mang đến sự ấn tượng và mới lạ từ dòng nhạc R&B, Hip hop. Giọng hát và cách xử lý bài hát của Đan Trường cũng có sự thay đổi để phù hợp với dòng nhạc mới. Chưa phát hành nhưng album đã đạt con số đặt hàng rất tốt. Album được đón nhận nồng nhiệt với loạt ca khúc của nhạc sĩ trẻ Lương Bằng Quang cũng như những phần hoà âm đến từ nhạc sĩ mix ngoại quốc David Elberling. Màu sắc r&b và hip hop được thể hiện rõ nét trong ca khúc chủ đề "Đến một lúc nào đó" và ca khúc tặng kèm "Nắng sân trường" (đã được phát hành trong album tổng hợp cùng tên trước đó). "Sao đổi ngôi" là một bản r&b-ballad nhạc ngoại êm dịu, "Lời ru rừng xanh" là sự pha trộn giữa pop-rock và hip hop, và ca khúc sôi động nhất album là ca khúc dance nhạc Thái "Vũ điệu Boom Boom". Đan Trường cũng không quên đưa vào album những giai điệu nhạc Hoa qua hai ca khúc "Dòng đời trôi mãi", "Khóc thầm" và giới thiệu ca khúc nhạc dân ca thứ hai của anh mang tên "Chưa vơi câu hò". "Bài hát cuối" cũng là ca khúc đáng chú ý với nội dung nhân văn nhẹ nhàng và được quay video nhạc rất ấn tượng. Nhưng ca khúc được yêu thích nhất và đạt thành công vang dội trong album lại là bản nhạc pop "Mãi mãi một tình yêu", một bản hit tiếp theo đến từ nhạc sĩ Hoài An, người được coi là chuyên gia tạo ca khúc hit cho Đan Trường. Ca khúc này giúp anh đoạt giải "Nam ca sĩ nhạc nhẹ được yêu thích nhất" tại Giải Mai Vàng 2004 và giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2005. Video nhạc "Mãi mãi một tình yêu" (đạo diễn: Minh Vy) đã giúp anh lần thứ 3 liên tiếp đoạt giải "Video clip được khán giả bình chọn" tại giải thưởng VTV Bài hát tôi yêu 2004. Dù album cho thấy những đổi mới mạnh mẽ trong phong cách âm nhạc của Đan Trường nhưng anh vẫn 'dành chỗ' cho những ca khúc mang phong cách quen thuộc của nhiều dòng nhạc trên thị trường để gần gũi hơn với nhiều lớp khán giả khác nhau, tuy nhiên điều này lại gây những ý kiến trái chiều.
Album video Còn mãi tìm nhau được phát hành sau đó nhằm quảng bá cho các ca khúc trong album vol.11, đặc biệt là video nhạc "Đến một lúc nào đó" do Đan Trường làm đạo diễn. Những MV như: "Lời ru rừng xanh", "Vũ điệu Boom Boom", "Khóc thầm" được coi như khởi đầu cho phong trào sử dụng kỹ thuật flash trong thực hiện video nhạc tại Việt Nam.
Tiếp theo là sự ra mắt của album vol.12 Bông hồng cài áo. Album là tuyển tập 15 ca khúc nhạc truyền thống quen thuộc được thể hiện trên những bản hoà âm mới như: "Đất nước", "Hát về anh", "Nhánh lan rừng", "Hát về cây lúa hôm nay", "Hãy yên lòng mẹ ơi",...
Sau nhiều lần lỗi hẹn, liveshow Mãi mãi 1 tình yêu của Đan Trường đã chính thức diễn ra vào lúc 20 giờ ngày 25 và 26 tháng 12 năm 2004 tại Nhà thi đấu Phan Đình Phùng (Q.3, Thành phố Hồ Chí Minh) do HT Production kết hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tổ chức, được truyền hình trực tiếp trên các kênh truyền hình địa phương như: Đài Truyền hình Bình Dương, Vĩnh Long, Ninh Thuận, Hà Tây, Bình Định, Hải Phòng. Tiền bán vé của chương trình một phần được dùng để ủng hộ Quỹ từ thiện vì người nghèo ở các tỉnh Bình Dương, Vĩnh Long, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội... Đan Trường trình diễn những ca khúc ở album Vol.11 mới phát hành và một số ca khúc mới được giới thiệu cho album sắp tới. Các ca sĩ khách mời gồm: Phương Thanh, Quang Linh, Cao Thái Sơn, Đàm Vĩnh Hưng, Cẩm Ly, diễn viên sân khấu kịch Trung Dân, Mai Thanh Dung...
2005: Chim trắng mồ côi và Nội tôi
Đầu năm 2005, album vol. 13 Anh phải làm sao? được phát hành ngay sau khi thực hiện liveshow Mãi mãi 1 tình yêu với sự tham gia hoà âm của chính Đan Trường. Sự đón nhận nồng nhiệt của khán giả qua những ca khúc như "Anh phải làm sao?" (Nhất Trung), "Đời người ca sĩ" (Phương Uyên), "Điệp khúc tuổi thơ" (Lương Bằng Quang), "Bản hùng ca Chim Lạc" (Lê Quang),... đã tạo nên một album rất đáng nghe trong năm 2005. Màn kết hợp trở lại của cặp đôi Đan Trường - Cẩm Ly qua ca khúc "Chim trắng mồ côi" (Minh Vy, Hồng Xương Long) được giới thiệu trong liveshow Mãi mãi 1 tình yêu và đặc biệt trên sân khấu Duyên dáng Việt Nam 14 sau đó đã để lại nhiều ấn tượng cho khán giả. Ca khúc này mang về cho cả Đan Trường và Cẩm Ly giải "Ca sĩ âm hưởng dân ca và truyền thống cách mạng được yêu thích nhất" tại Giải Mai Vàng năm 2005.
Trong năm 2005, Đan Trường ra mắt album vol. 14, album riêng đầu tiên về nhạc dân ca với tựa đề Thương thầm. Đây là tuyển tập những ca khúc mang âm hưởng dân ca mới đến từ các nhạc sĩ: Nguyễn Ngọc Thạch, Trương Quang Tuấn, Đình Văn, Tiến Luân, Trần Vũ Anh Bình, Hồng Xương Long, Minh Vy. Album có sự tham gia của ca sĩ Hương Lan trong "Chim sáo tương tư" (Trương Quang Tuấn) và Cẩm Ly trong "Đau xót lý con cua" (Minh Vy). Đáng chú ý là ca khúc "Nội tôi" (Đình Văn) được đầu tư hòa âm và quay video đến 100 triệu đồng đã giành được sự yêu thích lớn của khán giả. Ca khúc mang về cho Đan Trường giải thưởng "Nam ca sĩ âm hưởng dân ca và truyền thống cách mạng được yêu thích nhất" tại Giải Mai Vàng 2007.
2006: 10 năm - Một chặng đường
Đầu năm 2006, album vol. 15 của Đan Trường ra mắt vào với tựa đề Lời nguyện cầu tình yêu, khởi đầu cho chiến lược mở rộng ảnh hưởng của Đan Trường sang các thị trường ca nhạc lân cận, mà điểm đến đầu tiên là Đài Loan. Album tập hợp những sáng tác mới nhất của các nhạc sĩ: Hoài An, Lương Bằng Quang, Trần Minh Phi, Minh Vy, Trung Quân. Đan Trường đã thực hiện hầu hết những ý tưởng từ chụp hình album cho đến chọn ca khúc và hoà âm phối phí. Album bao gồm 2 ca khúc nhạc Đài Loan lời Việt là: "Khi cô đơn em nhớ ai?" và "Lòng cảm ơn". Ca khúc chủ đề "Lời nguyện cầu tình yêu" giúp Đan Trường nhận đề cử cho giải "Nam ca sĩ nhạc nhẹ được yêu thích nhất" tại Giải Mai Vàng 2006 và giúp anh tiếp tục đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" và mang về cho nhạc sĩ Đình Văn giải "Nhạc sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2006. Đặc biệt khi Đan Trường đã đoạt giải "Ca sĩ của năm" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2006. Danh sách đề cử bao gồm những ca sĩ nổi tiếng khác là: Lam Trường, Quang Dũng, Cẩm Ly, Mỹ Tâm, Hồ Quỳnh Hương.
Album video Dan Truong in Taiwan - Khúc hát phương xa được phát hành sau đó nhằm quảng bá du lịch Đài Loan. Album bao gồm những video nhạc cho một số ca khúc trong album phòng thu Vol. 15 và được hỗ trợ thực hiện bởi Tổng cục Du lịch Đài Loan.
Tháng 3 năm 2006, Đan Trường phát hành album video Nắng gió tình ta với những MV cổ trang được quay tại Đà Lạt. Đan Trường vào vai "Thần điêu hiệp lữ" Dương Quá bên cạnh nàng "Tiểu Long Nữ" Cẩm Ly trong các video nhạc "Trăng vỡ", "Nắng gió tình ta" và "Tình theo gió mây" (Minh Vy).
Ngày 11 tháng 6 năm 2006, Đan Trường phát hành album vol. 16 Bài ca MiYaHee bao gồm 13 ca khúc thuộc nhiều dòng nhạc khác nhau. Ca khúc chủ đề album là một bản nhạc dance sôi động, phiên bản lời Việt của ca khúc nhạc Rumani "Dragostea Din Tei". Ngoài ra là các sáng tác mới nổi bật của Hoài An như: "Con sóng yêu thương", "Bên ấy bên này" và loạt ca khúc nhạc xưa được anh hát lại bao gồm: "Gửi người tôi yêu", "Người đi ngoài phố", "Mưa bụi 2" (với Cẩm Ly). Nhạc sĩ Lê Quang đã viết ca khúc "Mười năm một chặng đường" dành riêng Đan Trường nhân dịp kỷ niệm 10 năm sự nghiệp ca hát của anh.
Cuối tháng 7 năm 2006, Đan Trường và HT Production đã tổ chức liveshow kỷ niệm đặc biệt mang tên 10 năm - Một chặng đường, bao gồm 2 đêm nhạc vào ngày 28 và 29 tháng 7, tại Nhà thi đấu Lan Anh, Thành phố Hồ Chí Minh. Đạo diễn chương trình là Hiệp Nguyễn và Hoàng Tuấn. Các khách mời bao gồm: Cẩm Ly, Thanh Thảo, Kim Ngọc, Anh Vũ, Việt Hương, Thúy Nga, Minh Béo, MC Đỗ Thụy, Phước Lập. Liveshow mở đầu với phần hát và đệm đàn piano của chính Đan Trường trong tác phẩm "Gửi người tôi yêu", ca khúc đoạt giải từ 10 năm trước đã giúp anh quyết định đi theo sự nghiệp âm nhạc. Nam ca sĩ đã trình diễn những ca khúc thành công từ 2 album mới nhất. Bên cạnh 2 đêm nhạc còn có khá nhiều hoạt động khác được Hoàng Tuấn thiết kế như: triển lãm Đan Trường - 10 năm thành tựu bao gồm những vật dụng, hình ảnh có liên quan đến nam ca sĩ, sản xuất lại bộ sưu tập gồm tất cả các CD của Đan Trường; họp fanclub Đan Trường trên toàn quốc; tổ chức diễu hành quanh Thành phố Hồ Chí Minh để quảng bá cho liveshow.
Đầu tháng 9 năm 2006, hãng đĩa Bến Thành phát hành album tổng hợp Ở nơi đó em cười bao gồm những sáng tác mới nhất của nhạc sĩ Hoài An viết riêng cho giọng hát Đan Trường. Ngoài ra, anh còn đoạt giải "Nam ca sĩ Việt Nam được yêu thích nhất" năm 2006 của giải thưởng YAN Awards do diễn đàn yeuamnhac.com bầu chọn.
2007: Võ lâm truyền kỳ và Thập nhị mỹ nhân
Đan Trường tiếp tục nhận đề cử cho hạng mục "Nam ca sĩ có giọng hát xuất sắc nhất" và đoạt giải "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" tại lễ trao giải Ngôi Sao Bạch Kim lần thứ 2 vào tháng 1 năm 2007. Trước đêm trao Giải Mai Vàng 2006 vào ngày 19 tháng 1, Đan Trường tuyên bố không tham gia giải Mai Vàng vì cho rằng kết quả có sự sắp đặt trước.
Ngày 9 tháng 2 năm 2007, bộ phim điện ảnh "Võ lâm truyền kỳ" với Đan Trường trong vai nam chính được công chiếu trên 60 rạp phim toàn quốc. Phim do đạo diễn Lê Bảo Trung thực hiện và sản xuất bởi Hãng phim Phước Sang. Phim có sự tham gia của các diễn viên khác bao gồm: Kim Thư, Chi Bảo, Hoài Linh, Tấn Beo, Thanh Thảo, Vũ Thu Phương,... Đan Trường vào vai Thắng, một sinh viên nhà nghèo nhưng lại không lo học mà chỉ lo chơi game online... Phim ra mắt với nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình và khán giả.
Đan Trường tiếp tục đoạt giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Làn Sóng Xanh 2007 và giải "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Giải thưởng 10 năm Làn Sóng Xanh (1997–2007). Ngoài ra, tại Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến lần 2 diễn ra vào tháng 3 năm 2007, Đan Trường được đề cử cho hạng mục "Ca sĩ của năm" bên cạnh những cái tên: Mỹ Linh, Mỹ Tâm, Thu Minh, Đức Tuấn. Tháng 5 năm 2007, Đan Trường đoạt giải "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" tại mùa đầu tiên của giải thưởng HTV Awards. và giải "Nam ca sĩ Việt Nam được yêu thích nhất" năm 2007 của giải thưởng YAN Awards.
Tháng 10 năm 2007, HT Production phát hành album The best of remix - Đan Trường trong thời điểm anh đang đi lưu diễn nước ngoài. Khán giả được nghe lại những bài hit trong nhiều năm qua của Đan Trường với bản phối mới trẻ trung, sôi động. Đặc biệt là sự kết hợp bất ngờ và thành công với nữ ca sĩ Hồ Quỳnh Hương trong ca khúc "Hát ru tình yêu" do nhạc sĩ Hoài An sáng tác.
Ngày 29 tháng 11 năm 2007, vào đúng ngày sinh nhật Đan Trường, album vol. 17 Thập nhị mỹ nhân đồng loạt được phát hành tại Mỹ, châu Âu, một số nước châu Á và Việt Nam. Để có thể ra mắt album này, HT Production đã chuẩn bị trong 14 tháng, với chi phí đầu tư thực hiện là 320 triệu đồng. Ông Hoàng Tuấn và Đan Trường đã có sự chọn lọc rất kỹ, kể cả việc thăm dò ý kiến các fan, để cuối cùng chọn ra 22 ca khúc với những bản hòa âm ưng ý nhất từ 245 ca khúc được gửi đến. Những ca khúc này thuộc nhiều dòng nhạc khác nhau từ các nhạc sĩ quen thuộc như Hoài An, Nguyễn Ngọc Thiện, Minh Khang, Đình Văn,... và đặc biệt là sự hợp tác bất ngờ với nhạc sĩ Lê Minh Sơn. Hoài An là nhạc sĩ tham gia với số lượng ca khúc nhiều nhất (5 ca khúc). Album gồm 2 CD chia thành 2 phần: Thập nhị mỹ nhân và Anh vẫn đợi chờ. Phần 1: Thập nhị mỹ nhân bao gồm 12 ca khúc song ca cùng 12 nữ ca sĩ trong nước và hải ngoại bao gồm: Thanh Lam, Phương Thanh, Mỹ Tâm, Cẩm Ly, Thanh Thảo, Lệ Quyên, Hồ Ngọc Hà, Hiền Thục, Hoàng Châu và Hương Lan, Phi Nhung, Ninh Cát Loan Châu. Mỗi bản song ca lại mang phong cách âm nhạc riêng của từng ca sĩ khách mời. Được phổ biến nhiều nhất là các ca khúc: "Những ân tình xưa" (với Loan Châu), "Tình yêu thần thoại" (với Lệ Quyên), "Khúc hát chưa đặt tên" (với Mỹ Tâm), "Buồn mình ên" (với Cẩm Ly), "Chỉ cần mình có nhau" (với Hoàng Châu),... Phần 2: Anh vẫn đợi chờ bao gồm 8 ca khúc chính thức và 4 ca khúc tặng kèm. Phổ biến nhất là các ca khúc: "Anh vẫn đợi chờ" (Hoài An), "Nhớ người tình xa" (nhạc Hoa - lời Việt: Trung Quân), "Tự hỏi lòng" (Lương Bằng Quang),... Ngoài ra, ca khúc "Em còn nhớ anh" là bản song ngữ Việt - Hoa, còn ca khúc "Hãy về đây bên anh" được thể hiện mới mẻ với tiếng Hoa và tiếng Thái Lan. Album vol. 17 đoạt giải "Album được yêu thích nhất" tại Giải thưởng Album Vàng 2008 do Công ty Cát Tiên Sa và Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Album đạt kỷ lục khi là album được in xuất bản lần 1 tại Đài Loan với số lượng nhiều nhất (10.000 đĩa), album đơn có số lượng ca sĩ tham gia đông nhất (14 ca sĩ), album CD có nhiều nhà tài trợ lớn nhất (5 công ty).
2008: Đan Trường và Thập đại mỹ nhân
Tháng 1 năm 2008, Đan Trường phát hành album video Dan Truong in Holland, một chương trình do TNT và Đại sứ quán Hà Lan hỗ trợ kinh phí với mức đầu tư 1 tỷ đồng, thực hiện bởi đạo diễn Lâm Lê Dũng và Xuân Phước. 60.000 bản đầu tiên được phát hành đồng loạt trên toàn thế giới.
Tháng 3 năm 2008, Đan Trường phát hành album video mang tên The best of video Chivalrous Swordsman: Đan Trường - Ảo mộng tình yêu, một tập hợp gồm những clip ca nhạc cổ trang được yêu thích, tuyển chọn từ các album video trong 12 năm ca hát của anh.
Trong đêm trao giải HTV Awards vào ngày 19 tháng 4 năm 2008 tại Nhà hát truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Đan Trường đoạt giải "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" năm thứ 2 liên tiếp, sau khi vượt qua Đàm Vĩnh Hưng và Quang Dũng với số phiếu hơn 40.000. Ngày 6 tháng 9 năm 2008, Đan Trường thông báo chính thức rút lui khỏi Giải thưởng Làn Sóng Xanh để nhường cơ hội cho những ca sĩ trẻ hơn. Tuy nhiên, anh cho biết vẫn sẵn sàng tham gia biểu diễn trong lễ trao giải hàng năm.
Ngày 20 tháng 11 năm 2008, Đan Trường ra mắt album vol. 18 Dây đủng đỉnh buồn, album nhạc dân ca thứ hai của anh. Đây là hoạt động nằm trong kế hoạch những hoạt động bên lề liveshow Thập đại mỹ nhân sắp diễn ra. Album gồm 10 bài hát mang âm hưởng dân ca và nhạc trữ tình như: "Lời xàng xê của ngoại" (Giang Hạ), "Dây đủng đỉnh Buồn" (Sơn Hạ), "Thành phố buồn" (Lam Phương), "Bài thơ đầu" (thơ: Lê Thị Đầm - nhạc: Giang Hạ)…
Đêm 29 tháng 11 năm 2008, đúng vào sinh nhật Đan Trường, liveshow Đan Trường và Thập đại mỹ nhân diễn ra với hơn 11.000 khán giả tại sân vận động Quân khu 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình được đạo diễn bởi Văn Hiệp, Lê Hoàng Tuấn và được đầu tư hơn 2 tỷ đồng. Khán giả đã chứng kiến những màn trình diễn tốn kém: ca sĩ từ đi xe ngựa, xe hơi, cưỡi ngựa, đến chèo thuyền trên dòng sông dài 42m (tốn 200 triệu đồng), bị "cắt làm đôi" trong phần ảo thuật, rồi huy động 200 diễn viên cho một tiết mục... Đan Trường trình bày 23 ca khúc, trong đó có 10 ca khúc song ca với 10 khách mời bao gồm: Thanh Lam, Phương Thanh, Hồ Ngọc Hà, Hoàng Châu (thay thế Thanh Thảo), Cẩm Ly, Phi Nhung, Lương Bích Hữu, Bảo Thy, Hoa hậu Thùy Lâm và Eva Kdi (Indonesia). Cách Đan Trường trình diễn để phù hợp với 10 nữ ca sĩ với những phong cách khác nhau đã để lại ấn tượng với khán giả.
Tại sân khấu Cầu vồng 126 vào ngày 25 tháng 12 năm 2008, theo yêu cầu của khán giả, Trung tâm văn hóa Quận 3 phối hợp với HT Production tái hiện một phần liveshow Đan Trường và Thập đại mỹ nhân vừa qua với quy mô nhỏ hơn. Khách mời là 5 nữ ca sĩ: Phương Thanh, Cẩm Ly, Hoàng Châu, Bảo Thy, Lương Bích Hữu. Nhân dịp này, HT. Production và Đan Trường cũng phát hành album Đan Trường vol. 19 Thiên sứ tình yêu. Album bao gồm các ca khúc pop ballad nhẹ nhàng, dễ nghe của các nhạc sĩ quen thuộc như: Hoài An, Bá Vĩnh, Minh Vy... Ca khúc chủ đề "Thiên sứ tình yêu" (nhạc Hoa - lời Việt: Võ Hoài Phúc) được chú ý nhiều nhất do đã phát hành trực tuyến từ trước. Đan Trường lần đầu viết lời cho một ca khúc nhạc Hoa mang tên "Cô bé Tiểu Vy" (với Lương Bích Hữu). Album không có sự đổi mới về phong cách âm nhạc, thậm chí có ca khúc còn bị đánh giá chất lượng rất thấp và không phù hợp với vị trí của anh trên thị trường âm nhạc. Tuy nhiên album vẫn được những khán giả trung thành tiếp tục ủng hộ và giành vị trí số 1 trong cuộc bình chọn Zing Album '08 cho album được yêu thích nhất do zing.vn tổ chức năm 2008.
2009: ... Thứ ba học trò và Ngôi sao bay
Trong đêm trao giải HTV Awards 2009 diễn ra tối ngày 18 tháng 4 tại TP HCM, với số bình chọn kỷ lục của giải thưởng này cho đến nay (53.384 phiếu bình chọn), Đan Trường đã bỏ xa các đối thủ của mình là Kasim Hoàng Vũ và Đàm Vĩnh Hưng để lần thứ 3 liên tiếp nhận giải thưởng "Nam ca sĩ được yêu thích nhất". Anh cũng nói lời chia tay với HTV Awards khi xin rút khỏi danh sách đề cử của năm sau để nhường lại giải thưởng cho các ca sĩ trẻ.
Đôi song ca Đan Trường - Cẩm Ly đánh dấu lần hợp tác trở lại với album Em là hạnh phúc đời anh do hãng Kim Lợi sản xuất và phát hành vào ngày 24 tháng 8 năm 2009. Đây là album chung thứ ba của Cẩm Ly và Đan Trường, bao gồm 10 sáng tác của nhạc sỹ Minh Vy dành riêng cho giọng hát của hai ca sĩ như: "Em là hạnh phúc đời anh", "I love you" ("Nàng xuân của tôi"), "Còn lại đây mình em",…
Sau nhiều tháng lưu diễn trong và ngoài nước, tháng 9 năm 2009, Đan Trường quay trở lại công việc diễn xuất với bộ phim truyền hình "Nhất quỷ nhì ma" (tên gọi ban đầu của phim "... Thứ ba học trò") của đạo diễn Đặng Lưu Việt Bảo, được sản xuất bởi TiVi Plus & VietCast theo đơn đặt hàng của HTV. Để tham gia quay phim, anh đã tạm ngưng biểu diễn trong khoảng một tháng rưỡi. Ngày 13/11/2009, "Thứ ba học trò" chính thức khởi chiếu trên kênh truyền hình HTV9 của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh với 33 tập phim. Đan Trường tham gia diễn xuất cùng các gương mặt: Thanh Thảo, Nguyệt Ánh, Phương Hằng, Angela Phương Trinh, Mi Ngân, Đông Nhi, Baggio, Bạch Công Khanh, Văn Anh Duy, Hoàng Long, NSƯT Thanh Thanh Tâm… Trong phim, Đan Trường vào vai thầy giáo chủ nhiệm Nghiêm Tuấn phải đương đầu với những trò quậy phá của đám học trò lớp 12A1. Phim để lại những suy ngẫm về mối quan hệ thầy và trò, gia đình và nhà trường trong thời đại ngày nay. Bộ phim khi được trình chiếu lần đầu đã tạo cơn sốt yêu thích trong giới học sinh, sinh viên lúc bấy giờ, và được đánh giá là một trong những phim Việt Nam hay nhất về đề tài học đường. Vai diễn này mang về cho Đan Trường danh hiệu "Nam diễn viên Việt Nam được yêu thích nhất" năm 2010 của giải thưởng Movie Awards - DMAs do thành viên diễn đàn dienanh.net bình chọn. Album nhạc phim phát hành trên các trang nghe nhạc trực tuyến cũng rất được yêu thích, đặc biệt là ca khúc chủ đề "... Thứ ba học trò" với 2 phiên bản thể hiện bởi Đan Trường và nữ ca sĩ trẻ Đông Nhi.
Trong tháng 11 năm 2009, Đan Trường kết hợp với VNPT xây dựng và khai thác hộp thư thông tin riêng thông qua tổng đài (08) 80111989 để phục vụ cho khán giả và fan club của anh. Ngoài ra, HT.Production cùng Đan Trường đã ký kết với Công ty Idea Music tại Samoa (Đài Loan) để khai thác gần 2.000 ca khúc karaoke Việt Nam tại thị trường Đài Loan với tổng số tiền bản quyền là 4 tỷ đồng.
Cuối tháng 11 năm 2009, Đan Trường ra mắt album vol. 20 với tựa đề Ngôi sao bay. Đây là hoạt động đánh dấu sự trở lại của anh trên thị trường âm nhạc với sự hợp tác cùng ekip nhạc sĩ mới. Album bao gồm hầu hết các ca khúc pop ballad và vẫn mang nhiều ảnh hưởng từ dòng nhạc cantopop. Ca khúc được chú ý nhiều nhất trong album là "Cắn môi tình còn đau" khi đạt số lượt nghe vượt trội và nhiều tuần đạt vị trí số 1 trên trang nghe nhạc trực tuyến Zing Mp3. Ca khúc này có mặt trong "Top 10 ca khúc của năm" tại giải thưởng Zing Music Awards 2010. Một số ca khúc phổ biến khác là: "Tình xa", "Bướm tình", "Giấc mơ màu tím" (với Hồ Quỳnh Hương).
Đêm 3 tháng 12 năm 2009, tại sân khấu Trống Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra liveshow Ngôi sao bay nhằm quảng bá cho album cùng tên vừa ra mắt của Đan Trường. Tổng kinh phí chương trình khoảng 800 triệu đồng. Khách mời bao gồm: Cẩm Ly, Thanh Thảo, Hồ Quỳnh Hương, nghệ sĩ hài Hoài Linh và "biệt đội 12A1" gồm Đông Nhi, Phương Trinh, Bạch Công Khanh, Baggio, Hoàng Long… MC chương trình là Bảo Thy và Trấn Thành. Liveshow tập trung nhiều cho sân khấu và cả trang phục biểu diễn. Sân khấu Trống Đồng vốn 'bình dân' đã trở thành một sân khấu hoàn toàn mới lạ theo kiểu thành cổ đại của châu Âu. Nhân dịp này, Đan Trường cũng tri ân những nhạc sĩ, những người đã giúp Đan Trường có những tác phẩm âm nhạc xuất sắc đi vào lòng khán giả hơn 13 năm qua.
Ngày 3 tháng 12 năm 2009, Đan Trường tiếp tục phát hành album vol. 21 với tựa đề Ướt lem chữ đời. Album gồm 13 ca khúc nhạc xưa và dân ca. Ca khúc chủ đề "Ướt lem chữ đời" (Vũ Quốc Việt) là một sáng tác mà anh rất tâm đắc. Trước đây Đan Trường có bài hát "Nội tôi" đã để lại nhiều ấn tượng thì trong album này xuất hiện ca khúc mới "Ngoại tôi", đều được viết bởi nhạc sĩ Đình Văn. Anh cũng hát lại những nhạc phẩm nổi tiếng một thời như: "Chỉ có bạn bè" (Bảo Lâm), "Thao thức vì em" (Lam Phương), "Giã từ đêm mưa" (Văn Phong),... được hoà âm mới với sự tham gia của các ca sĩ khách mời: Quang Linh, Thanh Thảo, Cẩm Ly.
2010: Hùng thiêng Âu Lạc và Người miền Tây
Đầu tháng 10 năm 2010, Đan Trường ra mắt album sử ca chào mừng Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội với tựa đề Hùng thiêng Âu Lạc. Với album này, Đan Trường và HT.Production đã chọn phần lớn những bài hát có đề tài lịch sử dân tộc như: "Dòng máu Lạc Hồng", "Đất Việt - Tiếng vọng ngàn đời", "Hùng thiêng Âu Lạc", "Thăng Long khát vọng ngàn năm"…
Trong năm 2010, Đan Trường nhận danh hiệu "Nam ca sĩ Việt Nam được yêu thích nhất" của giải thưởng YAN Awards và "Nam diễn viên Việt Nam được yêu thích nhất" của giải thưởng DMAs, do diễn đàn yeuamnhac.com và dienanh.net bình chọn.
Ngày 28 tháng 12 năm 2010, album vol. 22 của Đan Trường ra mắt với tựa đề Người miền Tây. Album bao gồm 11 ca khúc mang âm hưởng dân ca và trữ tình đến từ các nhạc sĩ: Sơn Hạ, Phi Bằng, Giang Hạ, Trường Phi Hùng, Hồng Xương Long,... Đây là album đặc biệt mang nhiều màu sắc dân gian Nam Bộ được Đan Trường thực hiện dành tặng người dân miền Tây, đó cũng là quê ngoại của Đan Trường, nơi mà anh có nhiều gắn bó. Các nữ ca sĩ Cẩm Ly, Thanh Thảo, Phi Nhung và Hoàng Châu tham gia với vai trò là khách mời. Ca khúc "Anh Ba Khía" (Sơn Hạ) rất phổ biến với khán giả miền Tây, Nam bộ và được đề cử cho hạng mục "Nam ca sĩ âm hưởng dân ca và truyền thống cách mạng được yêu thích nhất" của giải Mai Vàng mặc dù anh đã tuyên bố rút lui khỏi giải thưởng này trước đó.
2011: Thiên đường vắng và Con sóng yêu thương
Ngày 10 tháng 1 năm 2011, Đan Trường tiếp tục tung ra album vol. 23 với tựa đề Thiên đường vắng. Album với hầu hết các ca khúc pop/ ballad mới đến từ ekip nhạc sĩ trẻ. Trong đó 2 ca khúc "Thiên đường vắng" và "Có bao giờ" đã gây chú ý khi bị phát tán trên mạng từ vài ngày trước. Một ca khúc gây ồn ào khác khi dính lùm xùm về bản quyền là "Tình yêu đầu tiên" khi đã được thể hiện trước đó bởi nhóm nhạc The Men nhưng với tên gọi khác. Album với phong cách âm nhạc không mới và có phần lỗi thời trên thị trường nhạc Việt.
Trong Lễ trao giải Zing Music Awards 2010 diễn ra vào ngày 12 tháng 1 tại nhà hát Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Đan Trường đoạt giải "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" và ca khúc "Cắn môi tình còn đau" của anh có mặt trong "Top 10 Ca khúc của năm".
Đêm 13 tháng 1 năm 2011, tại Sân khấu Trống Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra liveshow Đan Trường với chủ đề Thiên đường vắng. Chương trình được chia làm 3 phần: sử ca, dân ca, nhạc trữ tình và nhạc trẻ. Đây là nơi anh đã tổ chức live show Ngôi Sao Bay và lần này anh tiếp tục chọn sân khấu ngoài trời nhưng với mức giá vé khá rẻ. Trong liveshow này, Đan Trường chủ yếu giới thiệu các ca khúc trong 2 album mới nhất. Khách mời của liveshow là các ca sĩ ít nhiều đã gắn bó với Đan Trường như: Cẩm Ly, Thanh Thảo, Phi Nhung, Hoàng Châu, Phương Thanh, Hồ Ngọc Hà... Đặc biệt, lần đầu tiên tất cả các ca sĩ khách mời đến với liveshow lần này đều sẽ hát miễn phí, không lấy catse. Trước và sau đêm diễn, anh đã phải vào viện vì suy nhược cơ thể. DVD thu hình từ liveshow phát hành sau đó đã tiêu thụ rất tốt, chỉ trong 2 ngày đầu đã bán được 4.000 đĩa.
Cuối tháng 1 là sự ra mắt của album video Dan Truong in America sau gần 5 năm không thực hiện các chương trình video của Đan Trường và HT Production. DVD được đầu tư khoảng 700 triệu đồng và có 2 video nhạc do chính Đan Trường đạo diễn. DVD bao gồm hai phần, phần 1 được quay tại Mỹ và phần 2 tại Việt Nam.
Vào dịp Tết Tân Mão tháng 2 năm 2011, Đan Trường xuất hiện trong vai nam chính của bộ phim truyền hình dài 5 tập "Nụ hôn đầu xuân" của đạo diễn Xuân Phước trên kênh VTV3, Đài truyền hình Việt Nam. Nội dung phim xoay quanh câu chuyện về đôi trai gái với những tài lẻ: Khang Trung (Đan Trường), một thợ may tháo vát, và Lam Hân (Nguyệt Ánh), một thợ cắt tóc đầy sáng tạo. Họ lên thành phố và nuôi dưỡng niềm đam mê của mình. Trong một lần gặp gỡ đầu xuân, cả hai đã thương mến nhau... Phim còn có sự tham gia diễn xuất của: Hoài Linh, Huỳnh Đông, Châu Gia Kiệt,...
Ngày 25 tháng 11, Đan Trường ra mắt album vol. 24 với tựa đề Lỡ duyên rồi. Album bao gồm 13 ca khúc nhạc dân ca và nhạc xưa với hai ca sĩ khách mời là Cẩm Ly và Thanh Thảo. Trong album lần này, Đan Trường giới thiệu các ca khúc mới: "Bậu bình bát", "Vợ chồng Tư Sậy" (Sơn Hạ), "Lỡ duyên rồi", "Cánh đồng hoa mua tím" (Hồng Xương Long). Ngoài ra, anh còn thể hiện lại các ca khúc nhạc xưa như: "Chiếc áo Bà Ba", "Chuyện hẹn hò" (Trần Thiện Thanh), "Hoàng hôn màu tím" (Thế Hiển),...
Đầu tháng 12, Đan Trường tiếp tục phát hành album nhạc trẻ vol. 25 mang tựa đề Tuyết mùa hè. Album giới thiệu 12 ca khúc mới mang nhiều ảnh hưởng từ dòng nhạc Pop R&B. Tuy nhiên album không được đánh giá cao về phần viết lời và cách hoà âm phối khí cũng không mới. Tuy nhiên sức hút từ thương hiệu Đan Trường cũng giúp album thu hút lượt nghe khá lớn khi album đạt 1,9 triệu lượt nghe chỉ sau vài tiếng phát hành trên Zing Mp3.
Để kỷ niệm 15 năm ca hát, Đan Trường và HT Production đã tổ chức liveshow với chủ đề Con sóng yêu thương vào đêm 17 tháng 12 tại sân vận động Quân khu 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Liveshow được đầu tư hơn 3 tỷ đồng, riêng màn trình diễn với chiếc trực thăng đã tiêu tốn 200 triệu đồng. Khách mời tham gia đêm nhạc gồm các ca sĩ như Lam Trường, Thanh Thảo, Cẩm Ly, Hoài Linh, Phi Nhung, Chí Tài, và MC chương trình là Quỳnh Hương và Quách Ngọc Ngoan… Tiết mục được khán giả đón nhận nồng nhiệt là: liên khúc "Tình khúc vàng - Tình thôi xót xa" của ‘cặp đôi’ Lam Trường - Đan Trường khi hai nam ca sĩ hát lại bài hit của nhau. Một tiết mục cũng được nhiều khán giả yêu thích là ca cảnh "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài" với phần biểu diễn của Đan Trường, Cẩm Ly, Hoài Linh, Chí Tài do NSND Thanh Tòng viết riêng cho chương trình. Đặc biệt, anh còn tổ chức buổi triển lãm Đan Trường - 15 năm thành tựu tại khu vực bên ngoài sân vận động Quân khu 7 (vào lúc 16 giờ ngày 16/12 cho đến 22 giờ ngày 17/12). Trong quá trình sản xuất DVD thu hình liveshow, Đan Trường cho biết anh phải hủy đến 5.000 đĩa vì chiếc đĩa thứ 2 trong bộ DVD bị lỗi trước khi phát hành.
2012: Thư pháp và Người hai quê
Tối ngày 8 tháng 1 năm 2012, tại Lễ trao giải Zing Music Awards 2011, Đan Trường và Đàm Vĩnh Hưng cùng đoạt giải "Nam ca sĩ được yêu thích nhất" với số phiếu bình chọn bằng nhau hy hữu (29.986 lượt bầu). Khán giả được xem đoạn video clip Đan Trường gửi về từ Đài Loan, chúc chương trình thành công và cáo lỗi vì phải thực hiện một sứ mệnh khác nên không thể tới tham dự buổi lễ. Sau đó, anh cũng tuyên bố rút lui khỏi những hạng mục giải thưởng do khán giả bình chọn từ năm sau.
Chiều ngày 30 tháng 1, Đan Trường gặp tai nạn xe hơi trong lúc di chuyển từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Bình Thuận để bắt đầu tour diễn tại các tỉnh miền Trung. Nhưng may mắn là Đan Trường không bị thương và vẫn tiếp tục thực hiện chuyến lưu diễn của mình.
Đầu tháng 4 năm 2012, Đan Trường phát hành album vol. 26 với tựa đề Thư pháp. Ngoài 2 ca khúc mới là "Thư pháp" (Nguyễn Duy Hùng) và "Vợ chồng Tư Sậy " (Sơn Hạ), các bài hát còn lại trong album đều quen thuộc và xuất hiện trong các liên khúc. Ca khúc chủ đề "Thư pháp" trong Chương trình Bài hát Việt 2008 từng được khá nhiều ca sĩ trình bày nhưng Đan Trường đã mang đến một hơi hướng cổ với cách xử lý khá lạ. Đặc biệt, album tặng kèm video clip "Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài" với sự trình bày của Đan Trường, Cẩm Ly, Chí Tài, Hoài Linh...
Cuối năm 2012, album vol. 27 của Đan Trường mang tên Người hai quê ra mắt bao gồm 13 ca khúc nhạc dân ca và nhạc xưa. Album được hỗ trợ hòa âm bởi các chuyên viên đến từ trung tâm Thúy Nga. Ca khúc "Hai bờ cách biệt" (Sơn Hạ) song ca với Cẩm Ly đã giúp cặp đôi ca sĩ nhận giải "Ca khúc mang âm hưởng dân ca của năm" tại Lễ trao giải Zing Music Awards 2012. Còn MV cho ca khúc "Ngốc ơi" do Đan Trường đạo diễn gây ấn tượng với nội dung độc đáo, hài hước và hiện đạt hơn 11 triệu lượt xem trên Youtube.
2013: Ngày và đêm và Lục tỉnh miền Tây
Ngày 10 tháng 1 năm 2013, Đan Trường ra mắt album nhạc trẻ mới vol. 28 với tựa đề Ngày và đêm. Album gây ấn tượng về mặt hình ảnh khi Đan Trường xuất hiện trong hình tượng người hai mặt "ác" và "thiện" với mặt nạ, kiểu tóc nhuộm vàng và trang phục bằng kim loại. Ca khúc "Ước mơ ngọt ngào" (với Cẩm Ly) trong album được yêu thích và phổ biến rộng rãi từ trước khi phát hành chính thức thông qua clip quảng cáo từ nhãn hàng Neptune. Tuy nhiên những ca khúc còn lại đều tiếp tục bị đánh giá thấp và được cho là không phù hợp với chất giọng cũng như vị trí của anh trên thị trường âm nhạc đang phát triển mạnh mẽ.
Đan Trường tiếp tục thực hiện liveshow với chủ đề Ngày và đêm và tối ngày 12 tháng 1 tại sân khấu Cầu Vồng 126 Thành phố Hồ Chí Minh. Đêm diễn được đầu tư 1 tỷ đồng nhằm giới thiệu đến khán giả 2 album mới nhất của anh là Người hai quê và Ngày và đêm. Nam ca sĩ xuất hiện với tạo hình ấn tượng cùng trang phục bán khỏa thân bằng kim loại. Anh đã phải tập thể hình căng thẳng trong suốt 6 tháng để có ngoại hình thật sexy. Các dòng nhạc được Đan Trường thể hiện trong liveshow gồm những ca khúc nhạc dance, ngoài sở trường pop ballad, dân ca trữ tình. Khách mời là các ca sĩ thân thiết với anh: Cẩm Ly, Thanh Thảo, Đàm Vĩnh Hưng, Noo Phước Thịnh, Miu Lê, Huyền Ny, Trấn Thành,...
Ngày 6 tháng 2, đúng dịp Tết Quý Tỵ 2013, Đan Trường xuất hiện trong bộ phim điện ảnh Yêu anh! Em dám không? của đạo diễn Nguyễn Quang Minh, do hãng phim Phước Sang sản xuất và phát hành. Đan Trường vào vai Hùng, một chàng trai hiền lành, tốt bụng đến mức khờ khạo nên dễ bị lợi dụng, một vai diễn được đánh giá là phù hợp với diễn xuất chân thật của anh. Các diễn viên tham gia khác bao gồm: Miu Lê, danh hài Chí Tài, Hoàng Sơn, Nhật Cường, Trấn Thành...
Sau đám cưới đình đám và vụ scandal "tống tiền", đến cuối năm 2013, Đan Trường phát hành album thứ 29 trong sự nghiệp của mình mang tựa đề Lục tỉnh miền Tây. Tiếp tục trung thành với dòng nhạc quê hương, anh giới thiệu những ca khúc mang âm hưởng dân ca mới nhất của các nhạc sĩ: Sơn Hạ, Trương Phi Hùng, Võ Đảm, Thanh Sơn... Album còn có sự góp giọng của Cẩm Ly và Lương Bích Hữu.
2014: Vẫn mãi một nụ cười và Dấu ấn
Tối ngày 11 tháng 1 năm 2014, tại sân khấu Cầu Vồng 126, Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra liveshow Vẫn mãi một nụ cười. Một phần số tiền bán vé sẽ được trích ra để làm từ thiện vào dịp Tết. Đêm diễn được đầu tư 2 tỷ đồng, riêng tiền đầu tư cho thiết bị, ánh sáng, âm thanh trên sân khấu là hơn 1 tỷ đồng. Trong liveshow, anh trình diễn những ca khúc quen thuộc và giới thiệu những nhạc phẩm trong 2 album mới nhất là Lục tỉnh miền tây và Người thay thế. Các tiết mục và trang phục đều do Đan Trường lên ý tưởng. Nghệ sỹ khách mời bao gồm: Thanh Thảo, Cẩm Ly, Trấn Thành, Việt Hương, Cao Thái Sơn, Đinh Hương, nhóm 365 và Quang Anh - Quán quân Giọng hát Việt nhí 2013.
Album vol. 30 mang tựa đề Người thay thế cũng được phát hành trong ngày diễn ra liveshow, bao gồm những ca khúc nhạc trẻ mới nhất của các nhạc sĩ: Trung Quân, Sơn Hạ, Bảo Kun, Hoài An, Lương Bằng Quang,... Ngày 6 tháng 4, Đan Trường phát hành MV cho ca khúc chủ đề "Người thay thế" trên kênh Youtube chính thức do anh làm đạo diễn.
Tại chương trình Bài hát yêu thích tháng 10, Đan Trường lần đầu tiên xuất hiện với ca khúc "Anh Ba Khía" đang rất được yêu thích tại các tỉnh miền Tây. Màn trình diễn của anh gây ra tranh cãi sau lời chê của MC Trác Thuý Miêu. Sau đó, phía nam ca sĩ đã kêu gọi fan ngưng các hoạt động bình bầu trên tin nhắn lẫn website của cuộc thi, cũng như gửi lời cảm ơn khán giả đã đồng hành cùng mình trong thời gian qua.
Đêm ngày 1 tháng 11 tại Nhà thi đấu Nguyễn Du, Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra liveshow Dấu ấn của Đan Trường. Chương trình đã 'cháy vé' từ hơn 1 tuần trước và phá vỡ kỷ lục về số lượng khán giả. Trong suốt hơn 100 phút của liveshow với 12 tiết mục và trên 20 ca khúc, Đan Trường đã trình diễn trọn vẹn ở cả ba mảng nhạc: truyền thống, dân ca và nhạc trẻ. Đây là 3 dòng nhạc mà Đan Trường đã thể hiện rất thành công trong sự nghiệp ca hát gần 20 năm của mình. Các khách mời là: Thanh Thảo, Cao Thái Sơn, Thiện Nhân - quán quân Giọng hát Việt nhí 2014, nhóm 365 Daband và một người bạn của Đan Trường - Kevin Rogers. Một trong những màn trình diễn ấn tượng nhất liveshow là tiết mục Đan Trường thể hiện lại hai ca khúc "Tình khúc vàng" và "Đi về nơi xa" theo phong cách acoustic với sự hỗ trợ của hai nhạc sĩ thân thiết Lê Quang và Hoài An. Đan Trường để lại ấn tượng với khán giả bởi phong độ rất ổn định và ngoại hình trẻ trung "bất chấp tuổi tác".
Trong chương trình Giai điệu tự hào lên sóng vào tối 28 tháng 11 trên kênh VTV1, Đan Trường lần đầu tham gia với tư cách ca sĩ khách mời đặc biệt. Anh cũng là nghệ sĩ thể hiện ca khúc chủ đề của chương trình Giai điệu tự hào - "Tình đất đỏ miền Đông". Cả hai hội đồng bình luận và gần 400 khán giả tại trường quay đã bình chọn cho tiết mục "Tình đất đỏ miền Đông" và Đan Trường giành được 95,31% tỷ lệ bình chọn, trở thành tiết mục dẫn đầu Giai điệu tự hào tháng 11 và góp mặt trong chương trình Gala Giai điệu tự hào 2014 lên sóng vào tối ngày 21/2 (mùng 3 Tết Nguyên Đán).
2015: Ký sự miền Tây và Nồi đất
Đầu năm 2015, Đan Trường phát hành một loạt các album mới. Ngày 31 tháng 1 phát hành album nhạc xuân mang tên Mai đào đón xuân với các ca sĩ khách mời: Hồ Ngọc Hà, Thanh Thảo, Quang Hà, Cao Thái Sơn, Hương Tràm. Ngày 2 tháng 2, album riêng vol. 31 được ra mắt với tựa đề Nhìn vào nỗi nhớ - Chàng Ốc tương tư bao gồm 2 phần. CD Nhìn vào nỗi nhớ gồm những ca khúc nhạc trẻ mới từ các nhạc sĩ: Bảo Thạch, Tăng Nhật Tuệ, Trung Quân, Sơn Hạ,... MV cho ca khúc chủ đề "Nhìn vào nỗi nhớ" được vợ chồng Đan Trường thực hiện ngẫu hứng từ chuyến đi chơi tại đảo Maldives đầu năm nhân kỷ niệm 2 năm ngày cưới và được phát hành trên Youtube vào 24/4. Ca sĩ khách mời là Thanh Thảo trong ca khúc "Dừng lại ở đây". Ngoài ra, nhạc sĩ quen thuộc Hoài An đóng góp một ca khúc ý nghĩa mừng xuân mang tên "Mừng tuổi mẹ cha". CD Chàng Ốc tương tư gồm các ca khúc nhạc dân ca mới từ các nhạc sĩ: Trương Phi Hùng, Võ Đàm, Sơn Hạ,...Album tặng kèm khá nhiều những ca khúc và liên khúc từ các album trước. Ngày 4 tháng 2, DVD Ký sự miền Tây của Đan Trường được phát hành, đáng chú ý khi DVD này còn được 18 đài truyền hình đồng ý phát lại cho khán giả cả nước xem trong dịp Tết âm lịch. Đan Trường đã lên kế hoạch và chuẩn bị kịch bản khoảng nửa năm. Qua loạt ký sự này, ông Hoàng Tuấn, Đan Trường cùng ê kíp thực hiện chương trình và các ca sĩ khách mời như: Thanh Thảo, Phương Thanh, Mai Tuấn, Hương Tràm, nhóm 365 và nhạc sĩ Sơn Hạ mong muốn khán giả sẽ thấu hiểu phần nào công việc chăn nuôi và trồng trọt khá vất vả của những người làm nông quanh năm "chân lấm tay bùn". Ngày 14 tháng 2 phát hành album video Lời tiên tri bao gồm 3 video nhạc mới của anh.
Cuối tháng 6 năm 2015, Đan Trường nhận lời mời làm giám khảo cho vòng chung kết cuộc thi ca hát Ngôi sao phương Nam do Đài truyền hình Vĩnh Long tổ chức. Đây là lần đầu tiên anh xuất hiện trong vai trò giám khảo tại một cuộc thi.
Cuối năm 2015, Đan Trường tiếp tục giới thiệu đến khán giả album vol. 32 mang tựa đề Nồi đất. Album mang âm hưởng dân gian mộc mạc và giản dị nhưng qua cách phối hiện đại với những sáng tác mới nhất của Sơn Hạ, Lương Bằng Quang, Võ Đảm, Đình Văn, Khánh Đơn... Ca khúc chủ đề "Nồi đất", một sáng tác dân gian đương đại của Lương Bằng Quang đã để lại ấn tượng lớn với khán giả. Những ca khúc như "Chữ tình", "Cơm nhà phở chợ" (với Cẩm Ly) hay "Tình chàng nhà nông"… được anh thể hiện với tinh thần lạc quan, tích cực. Ngay sau khi phát hành, album đạt vị trí số 2 trên Bảng xếp hạng album tuần 53 của Zing Mp3.
Ngày 30 tháng 12, Đan Trường phát hành MV "Yêu nhau bao lâu?" trên kênh Youtube chính thức nhằm giới thiệu cho album cùng tên sắp ra mắt vào đầu năm sau.
2016: Cảm ơn đời và Thần tượng Bolero
Đầu năm 2016, album vol. 33 của Đan Trường ra mắt với tựa đề Yêu nhau bao lâu? giới thiệu những ca khúc mới của các nhạc sĩ trẻ: Phan Mạnh Quỳnh, Tăng Nhật Tuệ, Châu Đăng Khoa, Lý Tuấn Kiệt,... Ca khúc chủ đề album đã gây được sự chú ý qua MV mới phát hành. MV cho ca khúc pop ballad "Hết hy vọng" do chính Đan Trường viết kịch bản cũng được phát hành trên Youtube vào ngày 1 tháng 2. Các ca khúc phổ biến khác là: "Vì sao", "Tôi của ngày mai", "Lướt bay trong mưa",...
Tối 16 tháng 1 năm 2016, tại Sân vận động Quân khu 7 (TP.HCM) đã diễn ra liveshow đặc biệt kỷ niệm 20 năm ca hát của Đan Trường với chủ đề Cảm ơn đời. Chương trình được lên kế hoạch và chuẩn bị từ một năm trước với kinh phí khoảng 6 tỷ đồng. Liveshow đạt kỷ lục khi trở thành liveshow bán vé có số lượng khán giả tham dự nhiều nhất tại Việt Nam (14.000 người). Đan Trường đã trình diễn 23 tiết mục bao gồm các ca khúc nổi tiếng của anh trong từng giai đoạn cùng những phần kết hợp quen thuộc với các ca sĩ khách mời hàng đầu: Cẩm Ly, Phương Thanh, Thanh Thảo, Lam Trường, Hồ Ngọc Hà, Đàm Vĩnh Hưng,... Tất cả các tiết mục đều được dàn dựng công phu với nhiều cảnh trí, đạo cụ, múa minh họa,... Đặc biệt chương trình diễn ra gần 4 tiếng đồng hồ, đến 12h20 mới kết thúc, nhưng gần như toàn bộ khán giả đều ở lại cho đến phút cuối cùng. Dù trong chương trình có những ca khúc mới sáng tác nhưng nhìn chung, liveshow vẫn mang nặng tính 'tổng kết' và tri ân. Đan Trường cho biết đây sẽ là liveshow lớn cuối cùng trong sự nghiệp của anh. DVD thu hình từ liveshow được phát hành tại Hoa Kỳ từ ngày 21/5, tại Việt Nam và Đài Loan từ ngày 01/06 và trên kênh Youtube từ ngày 06/06. Số lượng 3.000 đĩa dự kiến ban đầu cho ra mắt đã được đăng ký mua hết từ ngày 20/5, trong đó gồm phần đông là fanclub của Đan Trường trên cả nước. Những sự kiện bên lề live concert lần này đã được tiến hành song song, đặc biệt là Triển lãm Đan Trường - 20 năm thành tựu – được tổ chức từ ngày 15 đến 16/01/2015, nơi ghi đậm nét những dấu ấn trong suốt 20 ca hát của anh. Đây là triển lãm lớn nhất của Đan Trường từ trước đến nay.
Ngày 28 tháng 1 năm 2016, Đan Trường xuất hiện trong vai trò huấn luyện viên của chương trình Thần tượng Bolero mùa đầu tiên, sản xuất bởi công ty Cát Tiên Sa và được phát sóng trên kênh VTV3, Đài truyền hình Việt Nam. Bốn vị trí ghế nóng huấn luyện viên bao gồm: Đan Trường, Cẩm Ly, Quang Linh, Quang Dũng. Quán quân của chương trình là Trung Quang, cũng là thí sinh đến từ đội của Đan Trường.
Ngày 7 tháng 4 năm 2016, Đan Trường phát hành MV "Gọi tên Việt Nam" với những khung hình đẹp của nhiều vùng miền Tổ quốc. Ca khúc này được Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch, Tổng cục Du lịch và UBND tỉnh Kiên Giang chọn làm ca khúc chính, chủ lực của chương trình "Năm Du lịch Việt Nam 2016" được tổ chức tại Phú Quốc vào ngày 10 tháng 4 năm 2016. Góp mặt và cùng hòa giọng trong MV là những nghệ sĩ thân thiết như: Quang Linh, Quang Dũng, Thanh Thảo, Ngô Kiến Huy, Issac, Hoài Lâm,… Ngoài ra, Đan Trường còn trình diễn ca khúc này trong sự kiện đón cựu Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam vào cuối tháng 5.
Ngày 8 tháng 8 năm 2016, Đan Trường kết hợp với Cẩm Ly tạo thành cặp giám khảo của chương trình Tuyệt đỉnh song ca được phát sóng trên kênh THVL1, Đài truyền hình tỉnh Vĩnh Long. Ngoài ra là 2 cặp giám khảo khác: Đàm Vĩnh Hưng - Dương Triệu Vũ và Minh Tuyết - Noo Phước Thịnh.
Ngày 2 tháng 10 năm 2016, Đan Trường đại diện Việt Nam tham dự liên hoan âm nhạc Asian Pop Music Concert 2016 diễn ra tại Hàn Quốc. Trong chương trình này, anh đã biểu diễn 2 ca khúc: "Tình khúc vàng" và "Gọi tên Việt Nam".
2017: Anh Ba ngố miền Tây và Mãi yêu em như ngày đầu
Để kỷ niệm 21 năm ca hát, Đan Trường ra mắt MV cổ trang "Thiên tử". Đây là sản phẩm hợp tác giữa HT Production và VTC Game nhằm quảng bá cho tựa game cùng tên do Đan Trường làm đại sứ hình ảnh. Ca khúc của nhạc sĩ Tăng Nhật Tuệ mang giai điệu ballad, trên nền hòa âm phối khí kết hợp các nhạc cụ dân tộc hào hùng, đúng tính chất cổ trang mà Đan Trường rất yêu thích và theo đuổi suốt 21 năm sự nghiệp. MV được đầu tư 1 tỷ đồng, riêng 300 triệu đồng dành cho bộ trang phục cổ trang của anh. MV được phát hành trên kênh Youtube chính thức của anh vào ngày 13 tháng 3 năm 2017 và đạt hơn 1 triệu lượt xem trong ngày đầu tiên. Bên cạnh đó, MV cũng gây dư luận khi bị so sánh với MV của một ca sĩ trẻ khác.
Cuối tháng 5 năm 2017, album vol. 34 của Đan Trường ra mắt với tựa đề Anh Ba ngố miền Tây và được phát hành tại Việt Nam, Đài Loan và Hoa Kỳ. Ca khúc "Anh Ba ngố miền Tây" là một sáng tác dân ca đương đại của nhạc sĩ Cao Minh Thu, chính giai điệu vui tươi và đậm chất Nam Bộ đã khiến Đan Trường rất tâm đắc và chọn làm chủ đề cho album này. Album bao gồm 12 ca khúc đến từ các nhạc sĩ: Minh Vy, Võ Đàm, Cao Minh Thu,... Hai MV "Chờ một người đến bao giờ" và "Xót xa bông súng đợi chờ" (với Trung Quang) đã được phát hành từ trước đó. Đặc biệt, ca khúc chủ đề "Anh Ba ngố miền Tây" được anh thể hiện cùng thần đồng nhí Tin Tin. Album đạt vị trí số 1 liên tiếp trên Bảng xếp hạng album tuần 23 và tuần 24 của Zing Mp3.
Ngày 23 tháng 6 năm 2017, Đan Trường có mặt trong buổi đón nhận nút Play bạc của YouTube do POPS Worldwide tổ chức dành cho tài khoản cán mốc 100.000 lượt theo dõi cùng với các nghệ sĩ Phi Nhung, Vũ Cát Tường...
Ngày 18 tháng 8 năm 2017, Đan Trường phát hành album vol. 35 The best of remix. Album được chuẩn bị gần 2 năm với những bản hòa âm mới cho loạt ca khúc hit suốt 20 năm của Đan Trường, thực hiện bởi các nhạc sĩ: Nguyễn Hồng Thuận, Only C, Lương Bằng Quang, Lý Huỳnh Long, Nguyễn Thanh Tùng... Bộ ảnh trong album gây ấn tương với gương mặt trẻ trung và thân hình nóng bỏng của Đan Trường.
Tháng 12 năm 2017, Đan Trường giới thiệu đến khán giả album thứ 36 trong sự nghiệp với tựa đề Mãi yêu em như ngày đầu. Album bao gồm nhiều ca khúc của các nhạc sĩ Nguyễn Đình Vũ, Sơn Hạ, Châu Đăng Khoa, Dương Khắc Linh,... MV cho ca khúc: "Gọi tên Việt Nam" đã được quảng bá từ trước và nhận được tích cực từ khán giả. Ca khúc "I Don’t Think So" trong album do nhạc sĩ người Đan Mạch – Max Laplnsua Sylwen viết riêng cho Đan Trường. Album đạt vị trí số 3 trên Bảng xếp hạng album tuần 52 của NhacCuaTui.
2018: Solo cùng Bolero
Ngày 26 tháng 2 năm 2018, Đan Trường ra mắt ca khúc và MV cùng tên "Con yêu của ba" dành tặng con trai của anh nhân dịp tròn 1 tuổi. Ca khúc được đặt hàng sáng tác và quay viral video bởi nhạc sĩ Lương Bằng Quang. Ngày 16 tháng 4 năm 2018, anh phát hành MV "Cố quên đi một người" trên kênh Youtube chính thức sau 2 ngày quay hình tại Sapa với kinh phí hơn 200 triệu đồng. Ngày 23 tháng 8 năm 2018, sau thời gian dài với các show diễn trong và ngoài nước, anh phát hành tiếp MV "Sai trong quá khứ" và xem đây như món quà dành tặng khán giả vào dịp lễ 2/9.
Ngày 15 tháng 10, Đan Trường xuất hiện với vai trò giám khảo chương trình Solo cùng Bolero mùa thứ 5 trên kênh THVL1. Anh ngồi ghế nóng cùng với Phi Nhung, Mạnh Quỳnh và đạo diễn Vũ Thành Vinh.
Ngày 30 tháng 11, Đan Trường ra mắt MV 'Bức tranh tình nhân' trong fan meeting mừng tuổi mới.
2019: Biển người nhân gian và Cha ma
Ngày 5 tháng 1 năm 2019, Đan Trường phát hành phim ca nhạc Mưa trên cuộc tình bao gồm bộ ba ca khúc "Mưa trên cuộc tình", "Biệt khúc chờ nhau" và "Biển người nhân gian". Hai ca khúc đầu là hai bản hit cũ được anh phối khí lại. Ca khúc cuối cùng là sáng tác mới của Quốc Cường. Dự án được quay tại Việt Nam và Trung Quốc. Đan Trường cho biết muốn tái hiện hình ảnh thời kỳ đình đám với các MV lấy cảm hứng từ phim kiếm hiệp, để gửi tặng khán giả ủng hộ anh suốt 23 năm làm nghề. Tiếp theo không lâu là sự ra mắt của album vol.37 với tựa đề "Biển người nhân gian". Đây như một mini album với 8 bản thu. Hai ca khúc "Biển người nhân gian" và "Bức tranh tình nhân" đã được giới thiệu từ trước qua các MV đã phát hành. Còn lại là hai ca khúc cũ "Mưa trên cuộc tình" và "Biệt khúc chờ nhau" với các bản hòa âm khác nhau.
Ngày 13 tháng 6, Đan Trường ra mắt MV "Nắng sân trường" phiên bản 2019 với kỹ thuật quay one-shot. Đan Trường cho biết anh thực hiện sản phẩm để nhớ một thời thanh xuân. Anh muốn cùng khán giả ôn lại thời phổ thông nhiều buồn vui và động viên các học sinh đang chịu áp lực bởi những kỳ thi quan trọng.
Ngày 26 tháng 6, Đan Trường ra mắt sản phẩm mang tên The Best of Dan Truong’s songs - tuyển tập những ca khúc trong 37 album của anh. Đan Trường cho biết mất 3 tháng nghe lại và chọn các nhạc phẩm. USB có dung lượng 16 GB, được bán ở Mỹ lẫn Việt Nam, đã bán hết 1500 bản chỉ trong 2 ngày và có kế hoạch tái phát hành 1000 bản nữa.
Ngày 23 tháng 8, anh xuất hiện trong bộ phim điện ảnh Cha ma do Bá Vũ đạo diễn. Phim được quảng bá rất nhiều từ trước nhưng lại có rất ít cảnh diễn cho anh trong tác phẩm này.
Phong cách nghệ thuật
Giọng hát và phong cách âm nhạc
Đan Trường sở hữu chất giọng nam trung trữ tình (lirico baritone), một giọng hát nhẹ nhàng, êm dịu. Thời điểm ra mắt, anh hát khá bản năng, tự nhiên và không kỹ thuật. Đặc trưng trong cách hát của Đan Trường là anh thường thể hiện những đoạn (melisma) để tạo nét độc đáo và mới lạ cho bài hát. Nhạc sĩ Quốc An đã từng nhận xét: "Trong mỗi ca khúc, chàng trai này đều sáng tạo thêm những cách luyến láy, làm cho bài hát trở nên sống động và truyền cảm." Tuy không chú trọng nhiều về kỹ thuật thanh nhạc, nhưng Đan Trường vẫn chinh phục được những khán giả trung thành bởi giọng hát nhẹ nhàng dễ nghe và những ca khúc ăn khách.
Thời kỳ đầu khởi nghiệp ca hát, phong cách âm nhạc của anh mang nhiều ảnh hưởng từ dòng nhạc canto-pop và dòng nhạc trẻ. Chất giọng của anh được cho là phù hợp với những bản nhạc Hoa phổ lời Việt, hầu hết là các bản ballad nhẹ nhàng được mua 'độc quyền' dành cho riêng anh. Những ca khúc nhạc pop với giai điệu nhẹ nhàng hay sôi động với ca từ ý nghĩa phù hợp với đời sống giới trẻ cũng được thể hiện trong âm nhạc của anh, nổi bật nhất là trong các album: Đi về nơi xa (1999), Lời ru tình (2001), Trái tim bình yên - Dòng sông băng (2003), Giấc mơ màu xanh (2003). Các nhạc sĩ tham gia xây dựng hình ảnh và phong cách âm nhạc của anh thời kỳ này bao gồm: Lê Quang, Nguyễn Ngọc Thiện, Hoài An, Trần Minh Phi, Phương Uyên, Quốc An,... Phần lớn bài hát "made by Hoài An" đều rất dễ trở thành hit qua giọng hát Đan Trường. Sau này, anh thử nghiệm với nhiều thể loại âm nhạc khác nhau. Phong cách nhạc hip hop, R&B đã được thể hiện phần nào trong các album: Bóng dáng thiên thần (2000), Đến 1 lúc nào đó (2004), Anh phải làm sao? (2005), Tuyết mùa hè (2011),... với dấu ấn từ các nhạc sĩ: Phương Uyên, Lương Bằng Quang,... Những bản hùng ca - sử ca với âm hưởng trầm hùng, qua giọng hát của Đan Trường trở nên dễ đi vào lòng giới trẻ hơn, được ghi nhận qua nhiều sáng tác của nhạc sĩ Lê Quang, đặc biệt là trong album tổng hợp Hùng thiêng Âu Lạc (2010). Ngoài ra Đan Trường còn thử sức với nhạc truyền thống qua các album: Như khúc tình ca (2001), Bông hồng cài áo (2004), và đặc biệt thành công với nhạc dân ca trữ tình qua hàng loạt album: Thương thầm (2005), Người hai quê (2012), Lục tỉnh miền Tây (2013), Nồi đất (2015),... Với dòng nhạc dân ca, anh thường thể hiện với giọng điệu đặc trưng Nam Bộ qua những sáng tác đậm chất trữ tình đến từ các nhạc sĩ: Minh Vy, Hồng Xương Long, Đình Văn, Sơn Hạ... Về ca từ, các nhạc phẩm mà Đan Trường thể hiện có nội dung rất đa dạng như: tình cảm lứa đôi, tình bạn, trẻ thơ, các vấn đề xã hội, tình yêu quê hương và khơi dậy niềm tự hào dân tộc,...
Trong suốt sự nghiệp âm nhạc của mình, Đan Trường đã hát song ca hoặc hợp tác cùng rất nhiều những nghệ sỹ hàng đầu như: Cẩm Ly, Phương Thanh, Thanh Thảo, Quang Linh, Mỹ Tâm, Hồ Quỳnh Hương, Hồ Ngọc Hà,... Cẩm Ly được đánh giá là ca sĩ hát đôi hợp nhất và thành công nhất với anh. Cặp song ca "vàng" Đan Trường - Cẩm Ly đã tạo nên rất nhiều bản hit thuộc nhiều dòng nhạc khác nhau như: "Nếu phôi pha ngày mai", "Mưa buồn", "Khung trời ngày xưa", "Tuyết hồng", "Chim trắng mồ côi", "Hai bờ cách biệt",... Ngoài ra, Đan Trường còn tham gia thực hiện hoà âm cho các album nhạc và tự đạo diễn cho các video nhạc của anh.
Ảnh hưởng và công nhận
Đan Trường được xem là ca sĩ đầu tiên tại Việt Nam thực hiện việc mua độc quyền ca khúc nhằm xây dựng hình ảnh và phong cách âm nhạc chuyên nghiệp. Nam ca sĩ được truyền thông đánh giá là thế hệ thành công đầu tiên của công nghệ lăng xê tại Việt Nam với thực tài và những chiến lược riêng. Nhạc sĩ Lê Quang: "Nói đến công nghệ lăng xê là phải nói đến thời Hoàng Tuấn, người từng chăm chút cho Đan Trường từng chút một, từ việc đặt bài hát cho đến đặt trang phục. Tuy nhiên, ngày xưa không chiêu trò nhiều như bây giờ... Chiêu trò có thể giúp họ mau nổi nhưng nếu không có thực lực thì cũng nhanh chìm mà thôi...". Ca sĩ Thanh Thảo: "Nói về việc ca sĩ nổi lên qua sự lăng xê của bầu sô thì phải kể đến Đan Trường - Hoàng Tuấn, Nguyễn Phi Hùng - Thủy Nguyễn, Hữu Minh - Cẩm Ly. Đây là những cặp ca sĩ - bầu sô thành công nhờ có thực tài và chiến lược riêng dù rằng lúc đó công nghệ lăng xê chưa có được sự hỗ trợ nhiều như bây giờ". Ca sĩ Cẩm Ly: "Đan Trường chính là hiện thân một ca sĩ thần tượng đúng nghĩa nhất bởi hiệu ứng tổng thể mang lại từ vóc dáng, giọng hát tình cảm và quan trọng hơn là cách chọn bài hát khá khéo léo của anh. Đan Trường luôn có những ca khúc ăn khách mỗi khi giới thiệu một sản phẩm âm nhạc mới".
Anh cập nhật rất nhanh các xu hướng âm nhạc đang thịnh hành trên thế giới như hip-hop, R&B, dance… cũng như khởi xướng cho làn sóng ca sĩ nhạc trẻ hát nhạc truyền thống, dân ca trữ tình,... Theo nhạc sĩ Hữu Minh, những cái mới phù hợp với trào lưu hiện tại cũng như với văn hóa của người Việt sẽ mau chóng được công chúng đón nhận. "Thành công của Đan Trường một phần là nhờ sự đón đầu xu hướng mới đó" - nhạc sĩ này khẳng định.
Ngay từ khi ra mắt, Đan Trường đã thể hiện sức ảnh hưởng lớn trong thị trường âm nhạc đại chúng. Vào năm 2001, Đan Trường đã có liveshow đầu tiên mang tên Cảm ơn cuộc đời. Hiện nay anh đã tổ chức 13 liveshow riêng, hầu hết đều là những liveshow được đầu tư hoành tráng và luôn đạt số lượng khán giả rất lớn. Để duy trì sức hút cho thương hiệu "Đan Trường", các album nhạc, album video của Đan Trường luôn được đầu tư thực hiện và phát hành liên tục trong mỗi năm. Anh được biết đến như một trong những nghệ sĩ tiên phong và thành công bậc nhất trong làn sóng thực hiện video nhạc cổ trang tại Việt Nam, nổi bật là những video nhạc như: "Phong ba tình đời", "Cuộc tình cay đắng", "Chờ trên tháng năm", "Mẹ tôi", "Lời ru ngàn đời", "Thiên tử",...
Đan Trường là một ca sĩ đại chúng, ca khúc và những album, liveshow của anh không mang nhiều tính khám phá như một số ca sĩ khác mà chủ yếu là mang tính giải trí. Nhiều nhận định phê bình về cách làm album của Đan Trường và hãng đĩa, khi các album đều là sự pha trộn của quá nhiều thể loại nhạc khác nhau. Điều này khiến cho mỗi album của anh không mang được nét đặc trưng riêng biệt, thiếu cá tính âm nhạc và không nhiều đột phá. Đan Trường cho biết: "Tôi muốn âm nhạc của mình phải đến được với mọi người, phải phục vụ tất cả công chúng yêu nhạc, tôi hát ở nhiều thể loại đúng là hơi tham, nhưng tôi không muốn mình trở nên cao cấp hơn để rồi tự thu hẹp lượng khán giả, bởi âm nhạc là dành cho công chúng, là ngôn ngữ của nhiều người, vì sao lại phải đi ngược lại nguyên tắc đó? Tôi khẳng định album của mình không "chợ" cũng không quá sang, tôi muốn mình đại diện cho âm nhạc để đến với số đông công chúng." Trước nhận định cho rằng việc đi diễn ở tỉnh không phù hợp với vị trí của Đan Trường mà chỉ dành cho ca sĩ hạng C, anh bày tỏ quan điểm thẳng thắn: "Theo tôi, một ca sĩ hạng A là ca sĩ phải được khán giả mọi miền đất nước biết đến và yêu mến. Nhiều người nổi tiếng nhưng chỉ theo đuổi những dòng nhạc phù hợp với các thành phố lớn, chưa chắc khi đến vùng sâu vùng xa có thể thuyết phục được khán giả". "Các thương hiệu khi mời nghệ sĩ đi diễn tỉnh họ cũng phải lựa chọn người mà có thể biến hóa và làm nhiều đối tượng khán giả hài lòng", anh giải thích.
Kiểu tóc hai mái của Đan Trường từng là trào lưu trong giới trẻ Việt Nam vào những năm 2000. Anh được mệnh danh là "mỹ nam không tuổi" của showbiz Việt với ngoại hình trẻ đẹp bất chấp tuổi tác của mình.
Nam ca sĩ có hệ thống fanclub chuyên nghiệp trên cả nước với số lượng khoảng 100.000 thành viên được cấp thẻ chính thức. Đến nay, anh đã thể hiện khoảng 900 bài hát, phát hành hơn 60 CD, DVD với mức tiêu thụ hơn 2 triệu đĩa.
Có rất nhiều ca sĩ chia sẻ sự hâm mộ dành cho Đan Trường và coi anh là người truyền cảm hứng đến sự nghiệp âm nhạc của họ như: Quốc Thiên, Isaac, Thanh Duy, Sơn Ngọc Minh, Vũ Cát Tường, Bảo Thy, Đông Nhi, Noo Phước Thịnh, Hoài Lâm, Ngô Kiến Huy, Hồ Quang Hiếu,...
Giải thưởng và đề cử
Đan Trường chiến thắng tại hầu hết những hạng mục giải thưởng trong nước do khán giả bình chọn như "Ca sĩ được yêu thích nhất" và "Nam ca sĩ được yêu thích nhất".
Giải thưởng Làn Sóng Xanh
"Top 10 Ca sĩ được yêu thích nhất" (2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007).
"Ca sĩ của năm" (2006).
"Top 10 Ca sĩ được yêu thích nhất" - Giải thưởng 10 năm Làn Sóng Xanh (1997–2007).
Giải Thành tựu Làn Sóng Xanh cùng với Cẩm Ly (2023)
Giải Mai Vàng
"Nam ca sĩ được yêu thích nhất" (2001, 2002).
"Nam ca sĩ âm hưởng dân ca và truyền thống cách mạng được yêu thích nhất" (2003, 2005, 2007).
"Nam ca sĩ nhạc nhẹ được yêu thích nhất" (2004).
Đề cử "Nam ca sĩ nhạc nhẹ được yêu thích nhất" (2006).
Đề cử "Nam ca sĩ âm hưởng dân ca và truyền thống cách mạng được yêu thích nhất" (2006, 2010).
Giải thưởng VTV Bài Hát Tôi Yêu
"Ca sĩ được yêu thích nhất" (2002)
"Top 10 Video clip được khán giả bình chọn" (2002, 2003, 2004).
Giải thưởng Ngôi Sao Bạch Kim
"Nam ca sĩ được yêu thích nhất" (2003, 2006) (Thắng giải trong cả hai lần tổ chức của giải thưởng này).
Đề cử "Nam ca sĩ có giọng hát xuất sắc nhất" (2003, 2006).
Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến
Đề cử "Ca sĩ của năm" (2006).
Giải thưởng HTV Awards
"Nam ca sĩ được yêu thích nhất" (2007, 2008, 2009). (Đan Trường là nam ca sĩ đầu tiên 3 năm liên tiếp đạt được giải thưởng này. Anh cũng giữ số phiếu bình chọn cao kỷ lục tại giải thưởng này cho đến nay).
Giải thưởng Zing Music Awards
"Nam ca sĩ được yêu thích nhất" (2010, 2011).
"Top 10 Ca khúc của năm" (2010) với ca khúc "Cắn môi tình còn đau".
"Ca khúc mang âm hưởng dân ca của năm" (2012) với ca khúc "Hai bờ cách biệt" (cùng Cẩm Ly).
Giải thưởng khác
Giải Ba cuộc thi "Giọng hát hay Quận 10" do Nhà Văn hoá Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức (1996).
"Ca sĩ được yêu thích nhất" do Tạp chí Thanh niên trao tặng (1999).
"Ca sĩ được yêu thích nhất" do báo Mực Tím trao tặng (2000, 2001, 2002).
Danh hiệu "Ngôi sao 2000" do Báo Văn hóa và Ðài truyền hình Việt Nam trao tặng (2000).
"Nam ca sĩ Việt Nam được yêu thích nhất" - Giải thưởng YAN Awards do diễn đàn yeuamnhac.com bình chọn (2006, 2007, 2010).
"Album được yêu thích nhất" - Giải thưởng Album Vàng (Công ty Cát Tiên Sa và Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh) cho album Thập nhị mỹ nhân (2008).
Vị trí No.1 trong "Zing Album 08" (Zing.vn tổ chức) cho album Thiên sứ tình yêu (2008).
"Nam diễn viên Việt Nam được yêu thích nhất" - Giải thưởng DMAs do diễn đàn dienanh.net bình chọn (2010).
Các hoạt động khác
Đại sứ du lịch và đại sứ hình ảnh
Cuối năm 2005, Đan Trường đã được Tổng cục Du lịch Đài Loan chọn làm "Người giới thiệu du lịch" tại Đài Bắc và Việt Nam. Trong vai trò của mình, Đan Trường xuất hiện trong các chương trình quảng bá du lịch của Đài Loan tại Việt Nam và ngược lại. Nam ca sĩ ra mắt khán giả Đài Loan thông qua chương trình giao lưu trên sóng phát thanh truyền hình Đài Loan. Báo chí Đài Loan còn đặt cho Đan Trường biệt danh "Bae Yong Joon Việt Nam" (Bae Yong Joon là một diễn viên Hàn Quốc rất nổi tiếng tại các nước châu Á).. Cuối tháng 8 năm 2007, Đan Trường được Tổng lãnh sự quán Hà Lan chọn làm "Đại sứ du lịch Hà Lan tại Việt Nam" nhân sự kiện "Những ngày văn hóa Hà Lan tại TP HCM" diễn ra vào tháng 10.
Ngoài ra, Đan Trường còn làm đại sứ cho thương hiệu HKPhone, một thương hiệu điện thoại của Việt Nam (2013), thực hiện quảng cáo cho nhiều nhãn hàng và làm đại sứ hình ảnh cho nhiều game: Thế giới Hoàn Mỹ (2007), Mộng Võ Lâm 2 (2016), Võ Lâm Truyền Kỳ Mobile (2016), Thiên Tử 3D (2017).
Hoạt động kinh doanh
Cuối tháng 8 năm 2009, Đan Trường khai trương quán cafe mang tên "# Bo Music" tại địa chỉ 289 Lê Văn Sỹ, quận Phú Nhuận, TP HCM. Đây được coi là điểm hẹn cho những người yêu nhạc, đặc biệt là những fan hâm mộ của Đan Trường. Toàn bộ nội thất đều do anh lựa chọn tìm mua với số tiền hơn 1 tỉ đồng. Chính Đan Trường nảy ra sáng kiến đặt thực đơn thức uống bằng tên những bài hát đã tạo nên tên tuổi của anh như: Đi về nơi xa, Tình khúc vàng, Nắng sân trường, Dòng sông băng, Mặt trời lạnh,…
Chiều ngày 6 tháng 8 năm 2017, Đan Trường chính thức khai trương Trung tâm du học, giới thiệu việc làm Nhật Bản do anh thành lập.
Hoạt động từ thiện
Trong nhiều năm qua, Đan Trường và ê-kip đã đi đến rất nhiều nơi, gặp gỡ nhiều mảnh đời bất hạnh để cùng chia sẻ sự khó khăn với họ. Đặc biệt khi anh đã tổ chức những liveshow, đêm diễn nhằm gây quỹ từ thiện như: liveshow Mãi mãi 1 tình yêu (2004), liveshow Vẫn mãi một nụ cười (2014), đêm nhạc Ấm tình vùng lũ (13/1/2017), đêm nhạc Miền Trung quê tôi (15/12/2017),...
Gia đình
Đan Trường đến 37 tuổi mới lập gia đình với Trịnh Thủy Tiên (tên tiếng Anh: Windy Thuy Tien Trinh) - một thương gia người Mỹ gốc Việt sinh năm 1986. Vợ chồng anh quen nhau từ năm 2010. Sau gần 3 năm tìm hiểu, hai người quyết định kết hôn vào ngày 20/4/2013. Trước đó, đám cưới này được tổ chức tại nhà thờ Five Wounds Portuguese National Church thuộc thành phố San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ (đây là một trong hai nhà thờ Công giáo lớn nhất San Jose), được cử hành theo nghi thức Bồ Đào Nha và do cha xứ người Việt chủ trì. Sau đó một tiệc cưới sang trọng đã diễn ra với chi phí khoảng 145.000 USD, sự kiện này đã gây chú ý lớn trong showbiz Việt thời gian đó.
Con trai của họ sinh vào cuối tháng 2 năm 2017, và được đặt tên là Mathis Thiên Từ.
Trên trang cá nhân, vợ Đan Trường đã từng chia sẻ hình ảnh con trai đầu lòng và căn biệt thự xa hoa của gia đình tại San Jose, bang California (Mỹ).
Ngày 18 tháng 7 năm 2021, cả Đan Trường lẫn Thủy Tiên đều công khai xác nhận đã ly hôn sau 8 năm chung sống.
Scandal
Vụ lùm xùm về quản lý Hoàng Tuấn
Tháng 5 năm 2001, giới nghệ sĩ Thành phố Hồ Chí Minh nói rất nhiều về việc ông bầu Hoàng Tuấn đã can thiệp quá nhiều vào cuộc sống của ca sĩ độc quyền, cụ thể là Đan Trường. Nam ca sĩ cho biết anh cảm thấy buồn và mất hết niềm tin và phải tạm thời nghỉ hát một thời gian để nghỉ ngơi đồng thời 'nâng cấp' giọng hát.
Mâu thuẫn với ca sĩ, nhạc sĩ Duy Mạnh về bản quyền ca khúc
Cuối tháng 4 năm 2010, ca sĩ, nhạc sĩ Duy Mạnh thông báo sẽ kiện Đan Trường và ông Hoàng Tuấn về việc sử dụng trái phép ca khúc "Hãy về đây bên anh" của anh mà không xin phép. Đáp trả lại ý kiến của Duy Mạnh, cả Đan Trường và ông Hoàng Tuấn đều khẳng định rằng, họ đã xin phép Duy Mạnh trước khi hát ca khúc này. Đan Trường còn bày tỏ sự thất vọng về Duy Mạnh. Sau gần 2 tháng gây tranh cãi, cuối cùng, scandal này cũng lắng xuống khi cả hai chấp nhận hòa giải bằng một văn bản rõ ràng tại Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam.
Scandal "lừa tình tiền"
Tháng 7 năm 2013, có thông tin tố cáo Đan Trường đã "lừa tình tiền" một người phụ nữ xưng tên là Dung. Số tiền lừa đảo lên tới 60.000 đô la Mỹ theo cáo buộc của phụ nữ này. Theo một lá thư đăng trên trang mạng xã hội của ông Hoàng Tuấn thì Đan Trường thừa nhận đã từng nhận sự trợ giúp quay clip nhạc và 20.000 đô la Mỹ tiền mặt từ người phụ nữ này. Tuy nhiên, Đan Trường cho rằng anh đang bị tống tiền và vụ việc này là âm mưu nhằm "khủng bố tinh thần" vợ chồng anh.
Bị tố vi phạm bản quyền hình ảnh
Tháng 2 năm 2014, thư pháp gia Đăng Học đăng tải dòng chia sẻ về việc các tác phẩm thư pháp của anh bị Đan Trường tự ý lấy sử dụng để phục vụ cho việc ra album và đi diễn. Ông Hoàng Tuấn cho biết những hình ảnh đó là do ekip thực hiện album và chương trình, và ông không biết vụ việc này cũng như người tố cáo là ai.
Danh sách đĩa nhạc
Album chính
Vol.1 - Nhạc tuyển Đan Trường (1999)
Vol.2 - Đi về nơi xa (1999)
Vol.3 - Bóng dáng thiên thần (2000)
Vol.4 - Best collection (2000)
Vol.5 - The best of Dan Truong (2001)
Vol.6 - Lời ru tình (2001)
Vol.7 - Best collection (2002)
Vol.8 - Trái tim bình yên - Dòng sông băng (2002)
Vol.9 - Giấc mơ màu xanh (2003)
Vol.10 - Đánh mất giấc mơ - The best of Dan Truong (2003)
Vol.11 - Đến một lúc nào đó (2004)
Vol.12 - Bông hồng cài áo (2005)
Vol.13 - Anh phải làm sao? (2005)
Vol.14 - Thương thầm (2005)
Vol.15 - Lời nguyện cầu tình yêu (2006)
Vol.16 - Bài ca Mi-Ya-Hee (2006)
Vol.17 - Thập nhị mỹ nhân - Anh vẫn đợi chờ (Double album) (2007)
Vol.18 - Dây đủng đỉnh buồn (2008)
Vol.19 - Thiên sứ tình yêu (2008)
Vol.20 - Ngôi sao bay (2009)
Vol.21 - Ướt lem chữ đời (2009)
Vol.22 - Người miền Tây (2010)
Vol.23 - Thiên đường vắng (2010)
Vol.24 - Lỡ duyên rồi (2011)
Vol.25 - Tuyết mùa hè (2011)
Vol.26 - Thư pháp (2012)
Vol.27 - Người hai quê (2012)
Vol.28 - Ngày và Đêm (2013)
Vol.29 - Lục tỉnh miền Tây (2013)
Vol 30 - Người thay thế (2014)
Vol 31 - Nhìn vào nỗi nhớ - Chàng Ốc tương tư (2015)
Vol 32 - Nồi đất (2015)
Vol 33 - Yêu nhau bao lâu (2016)
Vol 34 - Anh Ba ngố miền Tây (2017)
Vol 35 - Tình đơn phương - The best of Remix (2017)
Vol 36 - Mãi yêu em như ngày đầu (2018)
Vol 37 - Biển người nhân gian (2019)
Album video
Vol. 1 - Kiếp ve sầu (1999)
Vol. 2 - Đi về nơi xa (2000)
Vol. 3 - Dan Truong in China - Phong ba tình đời (2000)
Vol. 4 - Chờ trên tháng năm (2001)
Vol. 5 - Lời ru ngàn đời (2002)
Vol. 6 - Còn mãi tìm nhau
Vol. 7 - Dan Truong in Taiwan - Khúc hát phương xa (2006)
Vol. 8 - Nắng gió tình ta (2006)
Vol. 9 - Dan Truong in Holland (2008)
Vol. 10 - Dan Truong in America (2010)
Vol. 11 - Lời tiên tri (2015)
Đĩa đơn
Trái tim bình yên (2002)
Đứa bé - Minh Khang kết hợp cùng nhiều nghệ sĩ
Có kiếp sau không? (Đan Trường - Lương Bích Hữu) (2013)
Lời tiên tri (2014)
Hết hy vọng (2015)
Con yêu của ba (2018)
Một số album tổng hợp khác
Nếu phôi pha ngày mai (Đan Trường - Cẩm Ly) (2000)
Như khúc tình ca (Nhiều nghệ sĩ) (2001)
Gửi lại mùa xuân - Hợp tuyển xuân (2002)
Mùa thu kỷ niệm (Đan Trường - Cẩm Ly) (2002)
Dòng máu Lạc Hồng (Nhiều nghệ sĩ) (2002)
Thầm mong - Tình khúc Hoài An (Đan Trường - Cẩm Ly) (2004)
Trương Chi Mỵ Nương - Những tình khúc Hoài An (2004)
Ở nơi đó em cười - Những tình khúc mới của Hoài An (2006)
Một ngày đi qua - The best of Le Quang (2007)
The best of Remix (2007)
Em là hạnh phúc đời anh (Đan Trường - Cẩm Ly) (2009)
Hùng thiêng Âu Lạc (2010)
Yêu anh! Em dám không? (Đan Trường - FBBoiz) (2013)
Bài ca tháng 7 (Đan Trường - Trung Quang) (2015)
Con đường xưa em đi (Nhiều nghệ sĩ) (2016)
Xuân 2017 - Bài ca Tết cho em (Nhiều nghệ sĩ) (2017)
Buổi diễn
Cảm ơn cuộc đời (2000, 2001)
Giữ mãi niềm tin (2002)
Trái tim bình yên (2003)
Mãi mãi 1 tình yêu (2004)
10 năm - Một chặng đường - Kỷ niệm 10 năm ca hát (2006)
Thập đại mỹ nhân (2008)
Ngôi sao bay (2010)
Thiên đường vắng (2011)
Con sóng yêu thương - Kỷ niệm 15 năm ca hát (2012)
Ngày và đêm (2013)
Vẫn mãi một nụ cười (2014)
Dấu ấn (2014)
Cảm ơn đời - Kỷ niệm 20 năm ca hát (2016)
Trung tâm Thúy Nga
Chương trình Thúy Nga Music Box
Phim đã tham gia
2000: Vua hóa cò
2001: Hoàng tử chăn lợn
2007: Võ lâm truyền kỳ
2009: Thứ ba học trò vai Nghiêm Tuấn
2011: Nụ hôn đầu xuân vai Khang Trung
2013 : Yêu anh! Em dám không? vai Hùng
2019: Ngốc Ơi Tuổi 17
2019: Cha Ma
Chú thích
Đan Trường 3 lần đoạt giải HTV Awards |
"Người ở đừng về" là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh do Xuân Tứ cải biên từ bài quan họ cổ "Chuông vàng gác cửa tam quan" và bài hát được phát triển từ một bài thơ dân gian. Bài hát thường được cất lên vào lúc hội tàn, khi "giã bạn", có thể do bên liền anh hoặc liền chị hát. Bài hát nghe da diết, khẩn khoản như muốn níu kéo người nghe ở lại. Tình cảm của người hát với người nghe không chỉ thể hiện ở một câu hát, câu gọi mà thể hiện cả trong những câu dặn dò. Đến khi biết được rằng không thể níu kéo được, thì câu hát chuyển sang dặn người đi phải cận thận"sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua"và còn dặn với một câu khiêm nhường rằng, nếu gặp ai hơn thì kết còn ai bằng thì hãy đợi người hát. Trong mỗi đoạn hát đều có phần mở và kết chốt lại với câu"Người ơi! Người ở đừng về".
Thông tin thêm
Bài hát được sử dụng khá nhiều trong các bộ phim có chủ đề về Quan họ, như phim Đến hẹn lại lên của đạo diễn Trần Vũ.
Nhạc sĩ Trần Hoàn cũng đã sáng tác bài hát "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" có nhắc đến bài dân ca quan họ này, còn nhạc sĩ Lê Minh Sơn cũng đã khai thác chất liệu dân ca trong bài này để sáng tác một bài hát mới "Người ở người về".
Câu "Rằng yêu em... người ơi... người ở, đến cao nguyên người ở... đừng về" có trong bài hát "Nghe câu quan họ trên cao nguyên" do Vũ Thiết sáng tác, phát triển từ thơ của Vũ Chỉnh. Trong chùm ca khúc viết về Chiến tranh Việt Nam, nhạc sĩ An Thuyên cũng đã sáng tác bài hát "Khi xe tăng qua miền quan họ": "Người ơi người ở... áo em ướt đầm rồi... mai lên biên giới... tình em lưu luyến...". Còn Nhất Sinh cũng đã gửi gắm tình cảm của mình qua câu hát "Chỉ mong gặp em người em gái, hát câu dân ca, người ở đừng về" trong bài Tơ hồng,...
Lời bài thơ
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn khóc thầm
Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa
Người ơi người ở đừng về
Người về em vẫn trông theo,
Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi
Người ơi người ở đừng về
Người về em nhắn tái hồi
Yêu em xin chớ đứng ngồi với ai |
Phật giáo Thượng tọa bộ, hay Phật giáo Theravada, là một trong 3 truyền thống lớn của Phật giáo hiện đại. Khởi nguồn từ Ấn Độ, Phật giáo Thượng tọa bộ được hình thành và phát triển đầu tiên ở Sri Lanka, sau đó được truyền bá rộng rãi tại nhiều quốc gia ở vùng Đông Nam Á. Được cho là nhánh Phật giáo bảo tồn nhiều tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Thượng tọa bộ ngày nay có hơn 150 triệu tín đồ trên toàn thế giới, không chỉ giữ vai trò như quốc giáo tại một số quốc gia như Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia... mà còn hồi sinh tại Ấn Độ, quê hương của Phật giáo, cũng như bắt đầu bén rễ ở phương Tây.
Thuật ngữ "Thượng tọa bộ" trong tiếng Việt là được phiên âm Hán-Việt từ danh xưng Shàngzuò Bù () trong tiếng Trung Quốc. Nó bắt nguồn từ những ghi chép của các du tăng Trung Quốc đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ VII là Huyền Trang và Nghĩa Tịnh khi nhắc đến các trường phái Phật giáo ở Sri Lanka.
Nhiều tài liệu tiếng Việt còn sử dụng các danh xưng không hoàn toàn chính xác là Phật giáo Nam truyền, Phật giáo Nam tông hay Phật giáo Nguyên thủy để chỉ Phật giáo Thượng tọa bộ. Trên thực tế, Phật giáo Thượng tọa bộ được xác định là một nhánh hậu thân của Phật giáo Nguyên thủy và là đại diện lớn nhất của truyền thống Phật giáo Nam truyền.
Từ nguyên
Thera trong tiếng Pali hay sthavira trong tiếng Sanskrit nghĩa là "cũ", "cổ xưa", "lâu năm" và đồng thời được dùng để chỉ một tì kheo đã tu hành lâu năm (trưởng lão, thượng tọa). Còn veda (Pali) hay vadin (Sanskrit) nghĩa là "giáo lý", "quan điểm". Theravada hay Sthaviravadin vì vậy có nghĩa là "giáo lý của người xưa", "thượng tọa bộ". Danh xưng này bắt nguồn từ việc các tăng sĩ Thượng tọa bộ cho rằng truyền thống Phật giáo của mình có nguồn gốc lâu đời và bảo tồn nguyên vẹn các giáo lý nguyên thủy của Đức Phật Thích-ca. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, qua các khảo cứu hiện đại, không có bằng chứng lịch sử nào cho thấy nhánh Thượng tọa bộ đã tồn tại cho đến khoảng hai thế kỷ sau cuộc đại phân ly các bộ phái xảy ra sau Đại hội kết tập lần thứ ba. Chỉ đến vào thế kỷ thứ IV, qua biên niên sử Dīpavaṃsa (Đảo sử), các tăng sĩ Mahāvihāra ở Sri Lanka đã bắt đầu cố gắng xác định nguồn gốc kết nối của mình với Trưởng lão bộ, một trong hai cộng đồng tăng sĩ sơ khai, có xu hướng bảo tồn nguyên vẹn các giới luật của Phật giáo Nguyên thủy. Theo học giả Bhante Sujato, mối liên hệ này thực chất xác định Trưởng lão bộ (Sthaviravāda) là nguồn gốc của một nhóm các bộ phái liên quan, một trong số đó là Thượng tọa bộ (Theravāda).
Lịch sử
Sự hình thành các cộng đồng Sthavira
Truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ liên kết mình với một nhóm các trưởng lão cấp cao trong cộng đồng Tăng già nguyên thủy, vốn có xu hướng bảo tồn nguyên vẹn các giới luật thời Đức Phật tại thế. Sau nhiều cố gắng không thành công để thay đổi các giới luật (vinaya) đã được thay đổi nhiều trong tăng đoàn kể từ sau khi Phật nhập diệt, tại Đại hội kết tập lần thứ hai, một nhóm nhỏ các trưởng lão đã ly khai khỏi cộng đồng đa số trong tăng đoàn để hình thành một cộng đồng thiểu số duy trì các giới luật nguyên thủy. Nhóm cộng đồng thiểu số này về sau được gọi là Sthaviravada, hay Trưởng lão bộ. Nhóm đa số còn lại được gọi với danh xưng Mahāsāṃghika, hay Đại chúng bộ.
Có sự sai khác đáng kể giữa các tài liệu theo truyền thống Nam tông và Bắc tông về sự phân chia thành các bộ phái trong Thời kỳ Bộ phái, dẫn đến hình thành Phật giáo Thượng tọa bộ. Theo các nhà nghiên cứu hiện đại, căn cứ vào việc khảo cứu đối chiếu giữa các tài liệu Trưởng lão bộ và Đại chúng bộ, sự hình thành Thượng tọa bộ trải qua một quá trình phân chia bộ phái lâu dài và phức tạp. Một trong những trong những phân chia đầu tiên trong cộng đồng Sthaviravada, là sự khác biệt cách thức giải thích về sự tồn tại của các pháp trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Một nhóm các tăng sĩ chủ trương phân biệt giữa các pháp "tồn tại" và các pháp không tồn tại, do đó được mệnh danh là các Vibhajyavādin (Phân biệt thuyết giả), và cộng đồng này được gọi là Vibhajyavāda (Phân tích bộ hoặc Phân biệt thuyết bộ). Tại Đại hội kết tập lần thứ ba tại Pataliputra khoảng năm 250 TCN, các Vibhajyavādin đã giành được sự ủng hộ của hoàng đế Ashoka và trở thành nhánh Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhất tại Ấn Độ.
Với sự hỗ trợ của hoàng đế Ashoka, các Vibhajyavādin có điều kiện thuận lợi để truyền bá học thuyết của mình ra khắp Ấn Độ, thậm chí mở đường truyền giáo ra ngoại quốc. Theo các nhà nghiên cứu, từ cộng đồng Vibhajyavāda đã hình thành 4 nhóm nhỏ hơn, về sau được gọi là Mahīśāsaka (Hóa Địa bộ), Kāśyapīya (Ẩm Quang bộ), Dharmaguptaka (Pháp Tạng bộ) và Tāmraparṇīya (Đồng Diệp bộ). Sự phân biệt này không phải chủ yếu do sự khác biệt nào về giáo lý hay giới luật, mà là do khoảng cách địa lý. Trong đó, ba nhóm đầu có phạm vi ảnh hưởng trên tiểu lục địa Ấn Độ, thậm chí phát triển dọc theo các tuyến đường thương mại Trung Á, từng có ảnh hưởng đến sự phát triển Phật giáo ở Gandhara trong thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Nhóm thứ tư lan rộng về phía nam từ Avanti vào Maharastra và Andhra xuống đến tiểu quốc Chola (Kanchi). Các Vibhajyavādin ở Nam Ấn thường sử dụng ngôn ngữ Pali, có sự khác biệt đáng kể so với 3 nhóm còn lại ở Bắc Ấn. Nhóm này thường tự gọi mình là những Theriya hay Thera, về sau hình thành nên cộng đồng Theravadin ở Sri Lanka.
Cắm rễ ở Sri Lanka và sự ra đời của những kinh điển trên lá bối
Theo tài liệu của Phật giáo Thượng tọa bộ, Phật giáo được truyền bá đến Sri Lanka ở thế kỷ thứ III TrCN, bởi Theriya Mahinda (Ma-hi-đà), con trai vua Asoka, trong khuôn khổ phong trào dhammaduta (người truyền giáo). Ở Sri Lanka, Ma-hi-đà đã thuyết phục được vua Devanampiya-tissa theo đạo Phật. Nhà vua cho dựng chùa Mahavihara ở Anuradhapura, kinh đô Sri Lanka thời đó. Sau này, em gái Ma-hi-đà là ni trưởng Sanghamittā (Tăng-già-mật-đa) mang xá lị Phật và chồi cây bồ-đề tới trồng ở chùa này càng làm cho uy tín của Phật giáo và của chùa Mahavihara tăng cao. Bấy giờ, Sri Lanka còn được gọi là Tāmraparṇi theo tên vương quốc cổ đầu tiên ở đây. Vì vậy, cộng đồng Phật giáo tại đây được gọi chung là Tāmraparṇīya (Xích Đồng Diệp bộ). Trung tâm truyền giáo của các Theriya cũng dịch chuyển từ Chola (Kanchi, Ấn Độ) về Mahāvihāra (Anuradhapura, Sri Lanka).
Từ đấu thế kỷ thứ II TrCN đến giữa thế kỷ thứ I TrCN, người Tamil từ Nam Ấn nhiều lần tràn sang cướp phá Sri Lanka. Do hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc liên miên, thay cho phương pháp truyền khẩu truyền thống, các nhà sư Tāmraparṇīya bắt đầu thực hiện việc biên chép Tam tạng để bảo tồn kinh điển. Việc biên chép kinh điển bằng tiếng Pali lên các tờ lá bối, được thực hiện kéo dài trong nhiều thế kỷ liên tiếp.
Sự trỗi dậy và suy tàn của ảnh hưởng Đại thừa
Năm 24 TrCN, để kỷ niệm chiến thắng trước sự xâm lăng của quân Tamil từ Nam Ấn Độ, quốc vương Vattagâmani của Sri Lanka đã cho xây dựng chùa Abhayagirivihâra còn lớn hơn cả chùa Mahavihâra, giao cho Mahâtissa, một Thera của Kuppikala vihâra, và hai cao tăng khác cai quản. Dưới sự bảo trợ của Vattagâmani, Abhayagirivihâra nhanh chóng có được ảnh hưởng lớn trong cộng đồng Phật giáo Sri Lanka, dần dà nảy sinh mâu thuẫn với chính cái nôi Phật giáo Sri Lanka Mahavihâra.
Ban đầu, Abhayagirivihâra được cai quản bởi các cao tăng do Mahavihâra phái đến. Nhân việc thầy mình là Mahâtissa bị các cao tăng của Mahavihâra khai trừ vì một lỗi nhỏ, một vị trưởng lão là Bahalamassutissa đã tức giận, gia nhập Abhayagirivihâra, từ đó xây dựng một cộng đồng độc lập với Mahavihâra. Nhóm Abhayagirivihâra dường như có nhiều ảnh hưởng ở khu vực phía bắc của Sri Lanka, vốn có sự giao lưu đáng kể với các nhánh Phật giáo từ Ấn Độ. Chính điều này dẫn đến sự gia nhập Abhayagirivihâra của một nhóm nhà sư Vajjiputtaka (Bạt-kỳ-tử) đến từ Pallārāma (Ấn Độ). Từ đó, Abhayagirivihâra nằm dưới sự lãnh đạo của trưởng lão Dhammaruci (Pháp Hỷ), một nhà sư trong nhóm Vajjiputtaka. Vì vậy, nhóm Abhayagirivihâra còn được gọi là những người Dhammaruciya.
Do áp lực của Dhammaruciya, chùa Mahavihara bị vua cho phá hủy khiến tăng đoàn phải xây lại. Biến cố này cùng với nguy cơ thường trực bị quân Tamil xâm lược đã thúc đẩy các nhà sư chùa Mahavihara ghi lại kinh Phật trên lá bối bằng tiếng Pali. Từ đây, kinh Pali được truyền đi các xứ khác.
Theo như A.K. Warder, phái Hóa Địa bộ Ấn Độ cũng đã tự thành lập ở Sri Lanka cùng với phái Theravāda, và chúng được tiếp thụ sau này.
Tăng đoàn Dhammaruciya ở chùa Abhayagirivihâra giữ vị trí chủ đạo do được triều đình coi trọng hơn. Về sau họ ít nhiều tiếp thu các tư tưởng Đại thừa - điều này được sư Trung Quốc Huyền Trang ghi nhận.
Một số học giả cho rằng những người lãnh đạo của Sri Lanka đã bảo đảm rằng Theravāda vẫn giữ nguyên truyền thống, và điều này có đặc điểm tương phản với Phật giáo Ấn Độ. Tuy nhiên, trước thế kỷ XII, nhiều nhà lãnh đạo của Sri Lanka đã đem sự ủng hộ và bảo trợ cho những người Thượng tọa bộ ở Abhayagiri, và những du khách ví như Pháp Hiển thấy được phái Thượng tọa bộ Abhayagiri như đã trở thành truyền thống Phật giáo chính Sri Lanka.
Khuynh hướng phái Abhayagiri chiếm ưu thế đã thay đổi ở thế kỷ XII, khi phái Mahavihara được sự hỗ trợ về chính trị của nhà vua Parakkamabāhu I (1153–1186), và hoàn toàn bãi bỏ các truyền thống Thượng tọa bộ của Abhayagiri và Kỳ Viên. Các nhà sư của hai phái còn lại sau đó bị buộc phải hoàn tục và định sẵn sự chọn lựa về điều hướng thành người thế tục vĩnh viễn, hoặc cố gắng để tái phối theo truyền thống phái Mahavihara như "Sa-di" ().
Trường phái này đã sử dụng chính cái tên Theravāda dưới dạng văn bản ít nhất từ thế kỷ thứ IV, thuật ngữ này được xuất hiện trong Đảo sử (Dīpavaṁsa).
Qua nhiều thế kỷ, những tu sĩ Thượng tọa bộ ở Abhayagiri đã duy trì chặt chẽ mối quan hệ với những tín đồ Phật giáo Ấn Độ và thu nhận nhiều giáo lý mới mẻ từ Ấn Độ, bao gồm nhiều yếu tố của giáo lý Đại thừa, trong khi những tu sĩ Thượng tọa bộ dòng tịnh xá Kỳ Viên tiếp thu Đại thừa ở mức độ ít hơn.<ref>Gombrich, Richard Francis. Phật giáo Nguyên Thủy: Lịch sử xã hội. 1988. tr. 158.</ref>
Huyền Trang đã viết về hai sự phân chia của Thượng tọa bộ ở Sri Lanka, đề cập đến truyền thống của Abhayagiri là "Những người Thượng tọa bộ Đại Thừa", và truyền thống của phái Đại Tự là "Tiểu thừa Thượng tọa bộ". Huyền Trang còn tiếp tục viết rằng:
Akira Hirakawa có những ghi chú rằng những chú luận Pāli còn được tồn tại () của trường phái Mahāvihāra, khi đã có sự kiểm duyệt chặt chẽ, cũng bao gồm một số các vị trí có sự ăn khớp với giáo lý Đại Thừa. Kalupahana cũng ghi chú những tương tự về Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga), là chú dẫn của Theravāda mang tính quan trọng nhất.
Trong thế kỷ thứ VIII, được biết rằng cả Đại thừa và phái Mật tông Kim cương thừa (Vajrayāna) - hình thức của đạo Phật đã được thực hành ở Sri Lanka, và hai nhà sư Ấn Độ có trách nhiệm truyền bá Phật giáo Bí Truyền tại Trung Quốc là Kim Cương Trí (Vajrabodhi) và Bất Không Kim Cương (Amoghavajra), đã từng đến thăm hòn đảo trong suốt thời gian này. Tịnh xá Abhayagiri có vẻ như là nơi trung tâm gộp những giáo lý của Thượng tọa bộ, Đại thừa và Kim Cương thừa.
Truyền bá và ảnh hưởng tại Đông Nam Á
Thượng tọa bộ truyền đến Suvarnabhumi ở Đông Nam Á và phổ biến ở Thaton, quốc gia của người Môn ở miền Nam Myanmar ngày nay. Phật giáo của Thaton dùng kinh bằng tiếng Pali, nhưng hình thức thì có pha trộn với một số đường nét tiêu biểu của Phật giáo Đại thừa và Kim Cương thừa. Phật giáo từ Thaton đã lan truyền sang các xứ khác ở Đông Nam Á.
Thượng tọa bộ truyền đến xứ Suvarnabhumi của người Môn ở Đông Nam Á trước. Vua Anawrahta của triều Pagan ở Miến Điện sau khi thôn tính xứ của người Môn ở miền Nam nước này đã tiếp thu Thượng tọa bộ làm quốc giáo. Giữa Pagan và Sri Lanka có mối quan hệ mật thiết liên quan đến tôn giáo. Pagan gửi kinh và người đến giúp Sri Lanka khôi phục Phật giáo sau họa xâm lược và hủy diệt của Tamil. Còn Sri Lanka gửi tặng Pagan xá lị Phật, làm cho uy tín Thượng tọa bộ được nâng cao ở Pagan. Phật giáo ở Pagan vì vậy ngày càng chịu ảnh hưởng của Thượng tọa bộ từ Sri Lanka. Đến thế kỷ XIII, sư Capata thậm chí còn đề nghị phải loại bỏ các truyền thống tu hành của Phật giáo Thaton để hoàn toàn theo truyền thống của chùa Mahâvihâra ở Sri Lanka. Trong nỗ lực tái thiết đất nước sau khi quân Mông Cổ rút đi, các vua Miến Điện đã gửi các nhà sư sang Sri Lanka học tập. Sri Lanka lúc này đã lấy Thượng tọa bộ phái Mahâvihâra làm quốc giáo. Trở về nước, các nhà sư nói trên đã tiếp tục củng cố truyền thống Thượng tọa bộ Mahâvihâra ở Miến Điện. Myanmar trở thành trung tâm bảo tồn Thượng tọa bộ chủ yếu cùng với Sri Lanka.
Trong khi đó, các xứ khác ở Đông Nam Á tiếp tục truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ của người Môn từ Thaton.
Hiện đại hóa và lan rộng đến Tây phương
Vào thế kỷ XIX đã bắt đầu có một quá trình ảnh hưởng lẫn nhau của cả hai bên, giữa phái Thượng tọa bộ châu Á và một nhóm khán giả phương Tây quan tâm đến nền minh triết cổ xưa. Đặc biệt, Helena Blavatsky và Henry Steel Olcott, những người sáng lập ra Hội Thông Thiên học (hay Hiệp hội Thần Trí học) đã có một vai trò sâu sắc trong quá trình này. Ở các nước Theravāda, loại Thiền Minh Sát được thực hành phát triển. Từ những năm 1970 về sự quan tâm của Phương Tây đã quay hướng đến sự phát triển của cái gọi là phong trào Thiền Minh sát ở Tây phương.
Sự khác biệt giáo lý với các trường phái khác
Đây là phái tương đối bảo thủ, và theo như tiến sĩ Rupert Gethin, giáo phái này gần với Phật giáo ban đầu hơn là các giáo phái truyền thống khác hiện nay. Thượng tọa bộ thừa nhận rằng Thích Ca là một nhân vật lịch sử, một con người và cũng có những hạn chế nhất định của con người như đau lưng, khó chịu với sự ồn ào,...
Các bậc A-la-hán là hoàn hảo
Phái Đại chúng bộ cho rằng A-la-hán còn có thoái lui và chưa phải là hoàn hảo. Trong khi phái Thượng tọa bộ cho rằng các A-la-hán có một "thể tính cao khiết".
Quán sát là bất ngờ và hoàn toàn
Theo như Thượng tọa bộ, "những tiến bộ trong hiểu biết đến đồng lúc, 'sự nhìn thấu bên trong sự vật' (Hiện Quán, abhisamaya) không phải là đến 'dần dần' (liên tiếp - anapurva)". Điều này được phản ánh ở trong bản cáo của Theravada trên Tứ thánh quả, trong đó sự đạt được bốn thánh quả này xuất hiện bất ngờ, và những uế nhiễm cũng được xả bỏ ra cùng lúc. Lập trường tương tự cũng đã được ứng dụng ở phong trào Thiền Minh sát hiện nay, đặc biệt với cái gọi là "Tân Miến Điện Pháp".
Các Pháp
Các hệ phái Thượng tọa bộ
Ở một số quốc gia ở Đông Nam Á và Sri Lanka, nơi mà truyền thống Theravāda giữ địa vị như quốc giáo, cộng đồng tăng chúng cũng hình thành những dòng tự viện truyền thừa khác nhau, được gọi là nikāya''. Chúng có thể được hình thành từ các nhóm tự viện được hoàng gia hoặc chính phủ bảo trợ (như phái Dhammayuttika Nikāya của Thái Lan và Campuchia), hoặc từ nguồn gốc của dòng truyền thừa (phái Siam Nikāya của Sri Lanka có nguồn gốc từ Thái Lan), phân hóa do sự khác biệt trong cách giải thích kinh luận, hoặc do các yếu tố khác (như phái Amarapura Nikāya ở Sri Lanka, nổi lên như một phản ứng đối với những hạn chế đẳng cấp trong Siam Nikāya). Tuy nhiên, những phân hóa này không phát triển đến mức hình thành các nhánh Theravāda riêng biệt như các tông phái trong Phật giáo Hán truyền, do các hệ phái này vẫn tuân thủ cùng một nền tảng kinh luật, và sự phân hóa này cũng không mở rộng đến cộng đồng cư sĩ.
Các lễ hội và phong tục
Lễ trăng tròn (Magha Puja)
Lễ Phật Đản (Vesakha Puja)
Asalha Puja
Lễ Bố Tát (Uposatha)
An cư kết hạ (Vassa, ẩn mưa)
Lễ Dâng y Kathina
Danh sách các nước đa phần theo Thượng tọa bộ
Phật giáo Thượng tọa bộ được các quốc gia khác nhau và rất nhiều người trên thế giới đi theo, như là:
Tại Nam Á:
Sri Lanka (có 70% dân số)
Bangladesh (có 0.7% dân số)
Tại Đông Nam Á:
Campuchia (có 95% dân số)
Lào (có 67% dân số)
Myanmar (có 89% dân số)
Thái Lan (có 95% dân số)
Tại những nơi khác ở châu Á:
Trung Quốc (chủ yếu là dân tộc người Shan và các sắc tộc Thái)
Việt Nam (bởi người Khmer (Việt Nam) và người Kinh Nam Bộ)
Malaysia (có 19.2% dân số)
Indonesia (có 0.72% dân số)
Singapore là nơi mà gần đây Thượng tọa bộ được phổ biến, hiện nay đã có tiếp đến 33.3% dân số.
Tây phương nhánh Thượng tọa bộ cũng tăng phổ biến gần đây.
Hình ảnh |
"Ngồi tựa mạn thuyền" là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh, thường được hát vào lúc bắt đầu hát giao duyên. Sau khi các liền anh hát bài "Ngồi tựa song đào" thì đến lượt các liền chị hát bài này. Trong những ngày hội, các Quan họ gặp nhau có thể hát ở cửa đình, bờ ao, đường cái quan... và hát cả trên thuyền thúng ở ao, hồ vừa chèo thuyền vừa hát. Đó cũng là lý do xuất hiện các bài như: "Ngồi tựa mạn thuyền", "Chén son để cạnh mạn thuyền", "Thuyền thúng"...
Lời bài hát
Ngồi rằng là ngồi tựa (có mấy) mạn( ới ơ) thuyền là ngồi tựa (có hơ) mạn thuyền (ấy mấy) đêm (là) đêm(ý) hôm qua.
Ngồi rằng (là) ngồi tựa (có mấy) mạn thuyền là ngồi tựa (có hơ) mạn thuyền
Trăng in (là in) mặt nước cũng có (a) càng nhìn (là) càng nhìn non nước càng xinh (ư hư là ôi hư)
Sơn rằng sơn thủy (có mấy) hữu tình là sơn thủy (có hơ) hữu tình (ấy mấy) trông (là) tôi trông lên
Sơn rằng (là) sơn thủy (có mấy) hữu tình là sơn thủy (có hơ) hữu tình
Thơ ngâm (là ngâm) ngoài lái cũng có (a) rượu bình (là) rượu bình giải trí trong khoang (ư hư là ôi hư)
Tay rằng tay dạo (có mấy) cung đàn là tay dạo (có nắn) cung đàn (ấy mấy) đôi (là) đôi tay em
Tay rằng (là) tay dạo (có mấy) cung đàn là tay dạo (có nắn) cung đàn
Tiếng tơ (là tơ) tiếng trúc cũng có (a) bổng trầm (là) bổng trầm năn nỉ thiết tha
Làm (ư hư) tài trai chơi chốn (ý hơ) hà (là ôi a) tôi mà cầu hà
Thông tin thêm
Trong một bài viết về "Ngồi tựa mạn thuyền", nghệ sĩ Đức Miêng đã cho biết:
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý khi sáng tác bài hát "Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh" có nói rằng: "Tôi bắt chước phần kết của bài 'Ngồi tựa mạn thuyền' ở chỗ đưa âm nhạc mở ra thật bay bổng..."
Nghệ sĩ hát quan họ Thuý Cải cho biết khi biết cô dự định trình bày bài hát này tại Nhật Bản, ban tổ chức đã làm một sân khấu to như một con thuyền để Thuý Cải đứng giữa hát, tạo cảnh đúng như nội dung bài hát.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, Jane Fonda khi đến Việt Nam đã hát bài hát này một cách say sưa trong căn nhà ở nơi sơ tán.
Ghi chú |
M'Kraan trong truyện tranh Marvel là một khối pha lê khổng lồ đóng vai trò trung tâm của mọi thực thể. Bên trong khối pha lê là một thành phố dài vô tận và quả cầu chứa một thiên hà neutron (neutron galaxy). Khối pha lê này đóng vai trò chính trong nhiều sự kiện, bao gồm Dark Phoenix Saga (Truyền thuyết Phượng Hoàng tối) và Age of Apocalypse (Thời đại Apocalypse). Các tình tiết nói rằng Phoenix Force là vệ sĩ của khối pha lê.
Khả năng
Là trung tâm của mọi thực thể, nên khối pha lê cho phép du hành giữa các vũ trụ. Nhưng việc mở nó ra có thể làm ngân hà neutron bên trong hút lấy toàn bộ vật chất bên ngoài, và gây ra một phản ứng dây chuyền đa vũ trụ (multiverse), hủy diệt sự tồn tại của mọi vũ trụ. Chỉ có thể tiếp cận thành phố bên trong hàng triệu năm một lần: khi các dãy thiên hà xác định xếp thẳng hàng, khối pha lê M'Kraan sẽ mở ra một lối đi trong một thời gian ngắn. Nó cũng là nơi tọa lạc của White Hot Room, nơi Phoenix Force đặt những sinh vật bên trong để chữa thương và hồi sinh.
Lịch sử
Khối pha lê M'Kraan xuất hiện lần đầu trong Uncanny X-Men tập 107. Được đặt trên một hành tinh ít ai biết đến, gọi là "The World", khối pha lê được thờ phụng bởi chủng tộc ngoài hành tinh Shi'ar, một biểu tượng đức tin của họ. Tên hoàng đế điên loạn của Shi'ar, D'Ken, muốn sử dụng năng lượng huyền thoại của nó phục vụ cho mình. Em gái của D'Ken, công chúa Lilandra, đã liên minh với nhóm X-Men để ngăn chặn bàn tay của hắn khi biết rằng khối pha lê còn có cái tên "Kết liễu mọi thứ" (The End of All That Is). Phoenix Force, lúc này vẫn còn yếu và chưa thích nghi với vật chủ mới là Jean Grey, bay đến khối pha lê để ngăn D'Ken, nhưng bị hút vào trong cùng với các thành viên khác. Bên trong là một thành phố dài vô tận, ở trung tâm là trái tim của khối pha lê: quả cầu chứa một ngân hà neutron. Các Dị nhân, và kể cả D'Ken, hầu như tê liệt trước luồng sáng toả ra từ khối cầu, nó làm cho từng người trải qua những cơn ác mộng khủng khiếp nhất. Chỉ có Phoenix là không bị tác động. Bằng mối liên thông với khối pha lê, Phoenix khám phá ra một trường năng lượng có hình dáng một tấm lưới, hoạt động như một lá chắn sống - khi ngân hà neutron bị phá hoại, nó gây ra một lực hút mãnh liệt làm cho mọi vật thể bị kéo vào trong. Phoenix cố dùng năng lượng của mình để sửa chữa tấm lưới chắn, nhưng cô ta không đủ mạnh, vì vậy cô đã liên lạc với các đồng đội để yêu cầu trợ giúp. Năng lượng kết hợp của họ đã giúp cho Phoenix sửa chữa được khối pha lê và tránh cho vũ trụ khỏi bị hủy diệt hoàn toàn.
Trong Age of Apocalypse, người ta biết rằng một mảnh vỡ của khối pha lê cũng có đủ năng lượng như toàn bộ khối pha lê. Apocalypse lập một kế hoạch dùng Cyclops để chinh phục các vũ trụ khác, nhưng Bishop đã dùng khối pha lê để đi ngược lại thời gian và khôi phục các không gian như cũ. Một mảnh vỡ của M'Kraan đã di chuyển X-Man và Holocaust từ vũ trụ của Thời đại Apocalypse (Earth-295) về vũ trụ hiện tại (Earth-616), trong khi Sugar Man và Dark Beast thì làm một chuyến hành trình ngược lại. Holocaust hấp thu năng lượng từ mảnh vỡ pha lê một lúc trước khi bị X-Man lấy ra.
Tại Trái Đất của Age of Apocalypse, Dark Beast khám phá ra phương pháp di chuyển đến một Trái Đất song song thông qua khối pha lê. Và nhóm du hành vượt không gian Exiles (reality-hopping Exiles) đã dùng nó tính toán ra cách sử dụng năng lượng của khối pha lê để chuyển đến một không gian bất kỳ. Mục đích của họ là tiếp cận Panoptichron, một nơi nằm ngoài không gian và thời gian.
Người bảo vệ
Khối pha lê M'Kraan được bảo vệ bởi Jahf, một người máy mạnh mẽ và bền bỉ vô cùng. Nếu Jahf bị đánh bại thì người máy khổng lồ Modt sẽ thay chỗ. Modt vững chắc và mạnh mẽ hơn Jahf cả ngàn lần. Modt quả quyết rằng nếu mình có bị đánh bại thì những người bảo vệ mạnh hơn cũng sẽ xuất hiện, một số lượng vô tận những người bảo vệ càng lúc càng mạnh luôn đứng phía sau Modt. Cho đến giờ chưa ai có thể đánh bại Modt. Những Vệ sĩ này dường như có mặt đồng thời trong mọi thực tại, chẳng hạn Jahf trong Age of Apocalypse biết được sự kiện diễn ra trong Earth-616.
Một khi tránh được những Vệ sĩ này, vẫn còn một tầng bảo vệ thứ hai: bất cứ ai lọt vào trong khối pha lê sẽ phải sống trong những nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất.
Phoenix Force là thực thể bảo vệ khối pha lê khỏi sự lạm dụng. White Hot Room, tổ của những hiện thân và vật chủ của Phoenix Force, tọa lạc ở thành phố nằm trong khối pha lê. |
Di sản văn hóa phi vật thể (tiếng Anh: Intangible cultural heritage) là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác bao gồm lễ hội, lối sống, bí quyết truyền nghề, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống. Công ước 2003 của UNESCO bác bỏ việc xếp hạng di sản văn hóa phi vật thể nên không có khái niệm xếp hạng di sản theo cấp tỉnh, cấp quốc gia hay cấp thế giới.
Ở cấp độ toàn cầu, Di sản văn hóa phi vật thể có danh sách được UNESCO đưa ra để ghi danh giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới. Danh sách này được bắt đầu năm 2001 với 19 di sản, năm 2003 danh sách có thêm 28 di sản. Danh sách tiếp theo được lập vào ngày 25 tháng 11 năm 2005. Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong danh sách phải được một hoặc nhiều quốc gia đề cử cho UNESCO trước khi được một ủy ban của tổ chức này xem xét khả năng đưa vào danh sách.
Tại hội nghị lần thứ 3 họp tại Istanbul tháng 11/2008, để nâng cao nhận thức về tính cấp thiết của vấn đề bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, Ủy ban liên chính phủ về bảo tồn Di sản phi vật thể đã đưa ra hai danh sách:
Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
Danh sách di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
Các kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại đã được công bố trước đây nay được chuyển vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
Danh sách này biểu hiện sự đa dạng của các di sản văn hóa phi vật thể và giúp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các di sản đó. UNESCO đã công bố 90 di sản trong năm 2008 (trước đây đã được công bố là kiệt tác), 76 di sản trong năm 2009 và 47 di sản trong năm 2010.
Tính đến cuối năm 2010, có 213 di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Thống kê cụ thể như sau:
Danh sách di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp
Cũng từ năm 2008, UNESCO bổ sung thêm Danh sách di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, gồm các di sản phi vật thể mà cộng đồng có liên quan và các quốc gia thành viên UNESCO cần có các biện pháp khẩn cấp để bảo tồn. Danh sách này góp phần huy động sự hợp tác quốc tế và sự hỗ trợ cho các bên liên quan để thực hiện các biện pháp bảo vệ thích hợp. Trong năm 2009, UNESCO công bố 12 di sản và trong năm 2010 là 10 di sản thuộc nhóm này.
Ngoài ra, trong năm 2009, UNESCO cũng ghi danh ba di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp nhất theo điều 18 của Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (tiếng Anh: Register of best Intangible Heritage safeguarding activities - Article 18).
Di sản phi vật thể tại Việt Nam
Đã được ghi danh
Đề cử trong các năm tiếp theo
Nhầm lẫn là di sản thế giới
Có một số cách hiểu sai và quan niệm sai lầm về di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam và các nước khác khi thường xếp chung vào danh mục các di sản thế giới. TS Frank Proschan trình bày tại hội thảo “Huy động truyền thông trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể” ở Hà Nội. Tại buổi thuyết trình này, TS Frank Proschan một lần nữa mong muốn tất cả hãy cùng xem xét kỹ định nghĩa về di sản văn hóa phi vật thể trong Công ước 2003 và một số hệ quả quan trọng rút ra từ định nghĩa đó. Ông cũng bàn về vấn đề sở hữu và tại sao Công ước 2003 lại bác bỏ quan điểm di sản văn hóa phi vật thể là di sản chung của nhân loại. Theo Công ước 2003, “chính các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, những người thực hành một biểu đạt văn hóa nào đó, và chỉ họ mà thôi, mới có thể là những người công nhận nó là một bộ phận cấu thành di sản văn hóa phi vật thể của họ, và chỉ họ mới có thể xác định được giá trị của nó”. TS Frank Proschan chỉ ra 3 cụm từ có thể gây hiểu nhầm thường gặp ở Việt Nam là: Di sản văn hóa phi vật thể thế giới; Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; UNESCO công nhận.
UNESCO có danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại nhưng quan điểm của UNESCO cho rằng, di sản là của cộng đồng, không có di sản nào của chung nhân loại cả. Việc ghi danh là ghi danh trong một danh sách của UNESCO được các quốc gia đệ trình lên, còn chủ nhân của di sản không ai khác chính là cộng đồng. Theo cách cắt nghĩa này có thể hiểu: Quan họ là di sản của cộng đồng người dân ở Bắc Ninh, Bắc Giang. Không gian Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên thuộc về đồng bào ở Tây Nguyên, hay di sản Thực hành Then của cộng đồng Tày, Nùng, Thái chứ không phải của cả nhân loại
Di sản văn hóa phi vật thể thuộc về cộng đồng, và chỉ duy nhất thuộc về cộng đồng. Di sản văn hóa phi vật thể không thuộc về quốc gia, nhà nước, dân tộc hay nhân loại cũng như toàn thế giới. Điều này vẫn đúng cho dù di sản đó được kiểm kê, tư liệu hóa, đăng ký, đề cử, ghi danh… Trạng thái của một di sản văn hóa phi vật thể không thay đổi được khi UNESCO ghi vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại hay danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, nghĩa là di sản vẫn thuộc về cộng đồng của nó và không trở thành “di sản thế giới”, hay tài sản của nhân loại nói chung. |
Phoenix Force là một thực thể vũ trụ hư cấu xuất hiện trong Marvel Comics.
Tiểu sử
Phoenix Force là một thực thể bất tử, bất khả xâm phạm và là hiện thân bất định của sự sống sơ khai, có thể coi như con đẻ của vũ trụ. Nó có mối liên hệ với mọi dạng năng lượng psionic đang, hoặc đã từng xuất hiện trong mọi thực tại của vũ trụ; một Vệ sĩ của Tạo hóa, và là người bảo vệ không chính thức của khối pha lê M'Kraan. Phoenix Force cũng là một trong những sinh vật đáng sợ nhất toàn vũ trụ - do khả năng cắt đứt hoặc tái tạo bất kỳ thành phần nào trong vũ trụ, cũng như hủy diệt hoàn toàn, theo đúng như một phần mục đích tồn tại của nó: "Phán quyết Phượng Hoàng" - thiêu rụi những gì không hoạt động. Sự can thiệp của Phoenix Force dựa theo giả định: "cái không hoạt động" là những thứ trở nên trì trệ thay vì tiến hóa tự nhiên.
Vào những lúc hiện thân, Phoenix Force chu du khắp vũ trụ cũng như những sinh vật khác. Thuở ban đầu, nó chỉ là một quần thể năng lượng không có hình dáng rõ ràng, chỉ đến vài ngàn năm trước, khi nó đến Trái Đất và gặp một pháp sư tên Feron (người tôn thờ cái tên Phượng Hoàng trong truyền thuyết), Phoenix Force đã dựa theo sức tưởng tượng phi thường của Feron để chuyển thành hình dạng một con chim lửa như hiện tại ta thấy. Ông ta đã mượn năng lượng của Phoenix Force để xây dựng một cây trụ đá (stone pillar) (nhìn giống như một ngọn hải đăng) bắc ngang qua các vũ trụ (multiverse). Cây trụ trở thành ngọn hải đăng dẫn đường của nhóm siêu anh hùng Excalibur (có sự góp mặt của Rachel Summers). Phoenix Force rời Trái Đất, nhưng rồi được triệu hồi lại khi nó cảm nhận thấy tâm linh của một người đang vượt khỏi những giới hạn vật chất, một bộ não có thể tương thông với Phoenix Force. Đó là Jean Grey trẻ, người có thể dùng năng lực ngoại cảm để liên kết với tâm linh người bạn đã chết của cô, Annie Richards, giữ cho linh hồn Annie không đi sang thế giới bên kia. Phoenix Force dùng năng lượng của nó để bẻ gãy mối liên kết đó và luôn dõi theo Jean một cách sát sao, bởi nó cảm nhận một mối quan hệ gần gũi với dị nhân trẻ này. Nhiều năm sau, khi Jean đang hấp hối trên phi thuyền con thoi, tâm linh của cô đã cầu cứu sự giúp đỡ. Phoenix Force đáp lại lời kêu gọi đó và cứu Jean, biến đổi cô thành một Phượng Hoàng.
Theo tình tiết gốc, hiện thân Jean Grey của Phượng Hoàng không còn là một thực thể vũ trụ tách rời nữa, đổi lại Jean có được một khả năng tâm linh tối thượng, nhưng việc đó khiến cô bị huỷ hoại dần dần dưới sự cám dỗ của những kẻ địch như Mastermind và Emma Frost; đến khi không thể kềm chế được nguồn năng lượng khổng lồ trong người nữa, Jean trở nên điên cuồng. Cô trở thành Dark Phoenix (Phượng Hoàng Bóng Tối) và hủy diệt một hành tinh đông đúc cư dân, sau đó tự sát trên Mặt Trăng.
Nhằm đưa Jean trở lại vài năm sau đó, cốt truyện được lật lại, tiết lộ thêm về thực thể vũ trụ Phoenix Force. Nó đã sao chép Jean lên chính nó, tự bảo với bản thân rằng mình chính là Jean, và cư xử giống hệt như cô trong khi Jean thật vẫn đang nằm hôn mê dưới biển. Sự kiện này mở đường cho Jean sống lại làm thành viên của nhóm X-Factor. Tình tiết về sau được mở rộng theo Jean hoặc bản sao Phượng Hoàng tùy theo tác giả tập truyện vào từng thời điểm.
Một phần Phoenix Force kết hợp với Madelyne Pryor, một bản sao của Jean, cho tới khi cô ta tự sát và ý thức của Phoenix Force kết hợp trở lại với Jean vừa được cứu sống. Một người khác cũng chiếm hữu một phần Phoenix Force là Rachel Summers, con gái của Jean trong một tương lai song song (alternate future) sau sự kiện Days of Future Past (Ngày quá khứ của tương lai). Cô có thể liên lạc với Phoenix Force và cho phép nó chiếm hữu bản thân, để sử dụng trong giới hạn một phần năng lượng bao la của nó.
Về sau, khi Rachel Summers đã trở về tương lai, Jean lấy lại bí danh là Phoenix. Cô thậm chí có thể hiện thân dưới hình dạng chim Phượng Hoàng mà không cần vận dụng năng lượng. Trong tập truyện New X-Men, Jean và Phoenix Force hòa nhập làm một. Phoenix Force đã nói với giáo sư Xavier "Jean là nơi cư ngụ duy nhất của tôi"
Trong loạt truyện ngắn Phoenix: The Endsong (Phượng Hoàng: Bài ca cuối cùng), Phoenix Force trở lại Trái Đất và hồi sinh Jean Grey. Trải qua hàng loạt biến cố; bao gồm việc Jean buộc Wolverine giết cô, Jean tự giam mình trong băng, Phoenix Force chuyển sang cơ thể Emma Frost, và một phần nhóm X-Men bị mắc bẫy do chủng tộc Shi'ar tạo ra, Jean Grey tái xuất, kiểm soát Phoenix Force và cứu thoát cả nhóm. Diễn tiến sự việc dẫn tới một cuộc tấn công của Shi'ar chống lại Phoenix Force, và đó là một câu chuyện dang dở. Kết quả của nó được giải quyết trong Phoenix: The Warsong (Phượng Hoàng: Bài ca chiến tranh).
Loạt truyện cho thấy rằng Jean Grey là một thực thể khắng khít mà Phoenix Force coi là đại diện chính thống hay hiện thân vật lý của nó, xa hơn nữa, Phoenix Force uỷ quyền cho Jean sở hữu nó theo kiểu quan hệ ruột thịt hoặc ràng buộc tâm linh.
Những năm ở tương lai, khi Phoenix Force mang Rachel Summers vào vũ trụ để chữa thương, nó gặp Galactus, kẻ sống bằng cách nuốt chửng những ngôi sao, lúc đó đang ăn một hành tinh. Cuộc chiến giữa hai bên nổ ra và Phoenix Force chặn đứng Galactus. Không may, hành tinh mà nó cố cứu đã bị phá hủy bởi sức mạnh kết hợp của cả hai. Phoenix yêu cầu Galactus dừng tay vì hắn không còn đủ sức để tiếp tục nữa. Nó muốn hồi sinh lại hành tinh mà Galactus đang ăn và bị phá hủy sau trận chiến. Nhưng Galactus cũng chẳng phải tay vừa, bảo rằng nếu hắn là kẻ ăn ngấu nghiến các sinh mệnh trên hành tinh, thì Phoenix cũng chẳng tốt lành gì khi lần lượt hút năng lượng sống từ tương lai - giết đi vô số sinh vật đáng lẽ phải được sinh ra.
Dark Phoenix
Nếu như Phoenix là ánh sáng và sự sống của vũ trụ, thì Dark Phoenix đại diện cho quyền lực và sự hủy diệt. Phoenix trở thành Dark Phoenix một khi nó bị những cảm xúc của con người che mờ lương tri. Lúc này Phoenix mạnh mẽ nhất, nhưng đồng thời cũng là hiện thân của quỷ dữ. Nó khao khát quyền năng và tàn phá. Hoàn toàn không thể kiểm soát, nó là một lực lượng nằm ngoài những ràng buộc lương tâm của loài người. Khi Dark Phoenix bay vào không gian, hình dáng một con chim lửa của nó có thể nhìn thấy từ khắp vũ trụ, thậm chí có thể gây sự chú ý của Chúa Trời. Lilandra từng nói rằng Dark Phoenix có thể phá hủy mọi sự tồn tại.
Dark Phoenix bắt đầu xuất hiện trong Dark Phoenix Saga (Truyền thuyết Phượng Hoàng Bóng Tối). Dưới những ảo giác tâm linh của Mastermind, Phoenix (tự cho là Jean Grey) đã gia nhập tổ chức Inner Circle của hội Hellfire Club với cái tên Black Queen. Nhóm X-Men cố gắng cứu 'Jean', nhưng những ảo giác của Mastermind đã khiến Black Queen nhìn họ thành những kẻ thù trong quá khứ - những cuộc khởi nghĩa, những nô lệ. Tin tưởng rằng những ảo giác sẽ đánh lừa được 'Jean', Mastermind giết Scott Summers trước mặt cô. Hành động khinh suất của Mastermind đã giải phóng 'Jean' khỏi những ảo ảnh. Cô cứu các Dị nhân và điên tiết với Mastermind. Những ảo giác của hắn đã làm Phoenix khám phá ra những cảm xúc tối tăm của con người: tham lam, quyền lực, giận dữ, tàn phá, và sự khao khát vô hạn. Các Dị nhân đánh bại Inner Circle, nhưng cơn thịnh nộ của Phoenix đã bùng phát. Cô ta trở mặt với Mastermind và cho hắn thấy quyền năng tối thượng của mình. Lúc này Mastermind không còn kiểm soát được tình hình nữa.
Các Dị nhân tiếp cận Phoenix, vẫn nghĩ đó là Jean, nhưng dưới lốt vỏ người phụ nữ họ quen biết và yêu mến giờ đây là một Dark Phoenix. Cô ta say sưa với sức mạnh và quyền năng hủy diệt vừa tìm thấy. Cô tấn công và dễ dàng khuất phục các dị nhân; tuy nhiên, cô không giết họ mà chỉ bay vào không gian để thoả mãn sự thèm muốn. Dark Phoenix lao vào một ngôi sao ngoài Thái Dương hệ và nuốt chửng nó. Ngôi sao bị hủy diệt cùng với năm tỉ cư dân.
Dark Phoenix trở lại Trái Đất, khao khát và hăm hở khám phá thêm những cảm xúc của con người. Cô ta đến nhà cũ của Jean và lại đụng độ với nhóm X-Men. Lần này các dị nhân - bao gồm cả giáo sư Xavier và phần ý thức của Jean - khuất phục được Dark Phoenix. Đúng lúc đó họ bị chuyển dịch lên tàu của người Shi'ar. Người Shi'ar định hành quyết Jean vì đã phá hủy một hành tinh. Các Dị nhân chiến đấu để cứu Jean, nhưng cuối cùng Dark Phoenix một lần nữa trỗi dậy, mặc dù còn yếu ớt. Ý thức của Jean đã kịp giữ lại quyền kiểm soát Dark Phoenix, đủ để người Shi'ar có thể kích hoạt vũ khí. Cuối cùng cô tự làm cho mình tan biến vào không trung.
Những năm về sau, mỗi khi năng lực của Jean bùng nổ, các đồng đội của cô lại e sợ một sự trở lại khác của Dark Phoenix, mặc dù Dark Phoenix thực sự chưa bao giờ là Jean. Sau một lần tái nhập với Phoenix Force, Jean đã trông thấy nhũng ký ức của Dark Phoenix và lương tâm cô luôn bị đè nặng về cái chết của năm tỉ người.
Lần gần nhất Dark Phoenix xuất hiện dưới hình dạng của chim Phượng Hoàng là trong loạt truyện ngắn Phượng Hoàng: Bài ca cuối cùng.
Đặc điểm
Chiều cao: Không rõ
Trọng lượng: Không rõ
Mắt: Không rõ
Tóc: Không rõ
Biểu hiện khác thường: Xuất hiện với hình dạng chim Phượng Hoàng khổng lồ
Quyền năng
Phoenix Force sở hữu một nguồn năng lượng vũ trụ vô hạn. Dù có hóa thân dưới vỏ bọc khác hay không, nó vẫn là một trong những thực thể hùng mạnh nhất của vũ trụ Marvel (Marvel Universe). Phoenix Force có thể hút lấy năng lượng của những cá thể sống sẽ sinh ra trong tương lai, ngăn cá thể đó ra đời. Nó dùng năng lượng này để tạo ra một lực chấn động khổng lồ. Nó có thể du hành xuyên không gian và thời gian bằng cách bao bọc nguồn năng lượng lại, gây ra sự sụp đổ để tạo thành một lỗ đen, sau đó nó sẽ biến hình và di chuyển đến đích mong muốn. Nó còn hấp thu trực tiếp năng lượng như luồng nhiệt phát ra từ mắt Cyclops hay toàn bộ năng lượng của mặt trời. Phoenix Force kiểm soát được sống chết của chính nó. Nhờ mối liên hệ với mọi dạng năng lượng psionic, nó có một khả năng tâm linh hùng mạnh, bao gồm năng lực ngoại cảm và di chuyển vật thể; do đó nó luôn chọn những cá thể có khả năng hấp thu năng lượng psionic để làm vật chủ. Một khi kết hợp với vật chủ, Phoenix Force khuếch đại khả năng của họ tới cấp độ không lường được. Nó biến đổi được các vật chất ở cấp độ dưới-nguyên-tử (như biến gỗ thành vàng, đá thành pha lê,...), chuyển dịch được mọi thứ qua một khoảng cách vô hạn. Năng lượng của nó phát huy mạnh nhất khi kết hợp với Jean Grey (người sở hữu một năng lực khó tin về ngoại cảm và điều khiển vật thể, hoàn toàn kiểm soát mọi thứ liên quan đến vật chất, năng lượng, và ý thức), cả hai có một lối liên hệ thần bí phi thường với nhau (Jean là hiện thân vật lý gần gũi nhất của nó). Nếu Phoenix Force bị tổn thương hoặc bị giết, nó sẽ biến hình thành một "quả trứng" năng lượng vũ trụ, ấp trong White Hot Room, và hoàn toàn lành lặn khi nở ra. Toàn bộ năng lực của nó đến giờ vẫn đang được khám phá. |
Ngồi tựa song đào là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh. Bài hát này cùng với bài Ngồi tựa mạn thuyền được sử dụng trong phần đầu buổi hát giao duyên của liền anh, liền chị. "Ngồi tựa song đào" thường được hát bởi liền anh.
Lời bài hát
Ngồi tựa song đào
Ngồi rằng là ngồi tựa í ơ có... mấy song ơi ơ.... đào
Là ngồi tựa có a song đào ấy mấy đêm là đêm í hôm qua
Ngồi rằng là ngồi tựa í ơ có... mấy song ô ở ờ... đào
Là ngồi tựa có a song đào.
Hỏi người là người tri kỷ í ơ
Cũng có a ra vào là ra vào có thấy vấn vương.
Hử là hội hừ
Gió rằng là gió lạnh í ơ có... đêm ơi ờ ở … trường,
Là gió lạnh suốt đêm đông trường, ấy mấy đêm là đêm í hôm qua
Gió rằng là gió lạnh í ơ có...mấy đêm ơi ờ ở trường
Là gió lạnh suốt đêm đông trường.
Nửa chăn ơ là chăn, nửa chiếu í ơ
cũng có a nửa giường, là nửa giường để đó đợi ai.
Hử hả hội hừ
Ngắt rằng là ngắt í nhuỵ í ơ có... mấy bông ơi ơ … huê nhài,
là ngắt nhị cái bông huê nhài, ấy mấy đôi là đôi tay em
Ngắt rằng là ngắt í nhuỵ í ơ có... mấy bông ơi ơ … huê nhài,
là ngắt nhị cái bông huê nhài
Tay giơ ơ.. là giơ đón gió í ơ
Cũng có a tay chòi là tay chòi đón gió ghẹo trăng i
Rủi i.. à may bởi tại ơ ớ ờ.… Hằng ới a là chị Hằng …
Thông tin thêm
Trong buổi diễn "Đường xa vạn dặm" do nhạc sĩ Quốc Trung dàn dựng, "Ngồi tựa song đào" là một trong 4 tác phẩm góp vào câu truyện kể về nỗi nhớ thương của người phụ nữ một thân một mình nuôi con chờ chồng. Bài hát được thể hiện trên nền nhạc điện tử và dàn trống hiện đại. Nhưng khán giả không thấy sự khập khiễng giữa truyền thống và hiện đại bởi Quốc Trung đã biết cách hợp nhất dân ca và nhạc đương đại hòa quyện vào nhau. |
Hành tinh vi hình là cách dịch không chính thức của thuật ngữ tiếng Anh "minor planet" và đôi khi "planetoid". Cách dùng thuật ngữ "minor planet" trong tiếng Anh có nghĩa hơi khác so với cách dùng chúng trong các ngôn ngữ khác; và cũng không hẳn đạt được sự thống nhất, mà là một cách dùng tương đối lỏng lẻo.
Nói chung, thuật ngữ này muốn chỉ các vật thể nhỏ trong Hệ Mặt Trời nhỏ hơn các hành tinh, nhưng lớn hơn thiên thạch (các thiên thạch ở đây được coi là có kích thước nhỏ hơn 10 mét ), và không phải là sao chổi (các sao chổi ở đây là các vật thể có khả năng tạo ra đuôi sao chổi khi đi qua gần Mặt Trời).
Trong tiếng Việt, thuật ngữ này ít dùng, mà thay vào đó là các thuật ngữ chỉ các thể loại con của hành tinh nhỏ là tiểu hành tinh (các hành tinh nhỏ nằm chủ yếu giữa quỹ đạo Sao Hỏa và Sao Mộc) và các thiên thể ngoài Sao Hải Vương (các hành tinh nhỏ nằm từ quỹ đạo Sao Hải Vương trở ra).
Ngày 24 tháng 8 năm 2006, Hiệp hội Thiên văn Quốc tế đã ra định nghĩa phân loại các thiên thể trong hệ Mặt Trời; theo đó đa số các hành tinh nhỏ sẽ thuộc về thể loại Vật thể nhỏ Hệ Mặt Trời và một số có khối lượng lớn sẽ thuộc về thể loại hành tinh lùn. |
Laurasia () là vùng đất nằm ở phía bắc trong số hai vùng đất bắt nguồn từ siêu lục địa Pangaea từ khoảng (Mya), vùng đất còn lại là Gondwana. Nó chia tách khỏi Gondwana vào (bắt đầu Kỷ Tam Điệp muộn) trong sự kiện phân tách Pangaea, trôi xa lên phía bắc sau khi chia tách và cuối cùng bị phân nhỏ sau sự kiện hình thành Bắc Đại Tây Dương khoảng 56 Mya. Cái tên "Laurasia" là ghép từ từ Laurentia và Asia.
Laurasia bao gồm phần lớn diện tích đất đai tạo ra các châu lục ngày nay của Bắc bán cầu, chủ yếu là Laurentia (phần lớn của Bắc Mỹ ngày nay), Baltica, Siberia, Kazakhstania và các nền cổ Hoa Bắc và Hoa Đông.
Nguồn gốc
Mặc dù Laurasia được biết đến như là sự kiện của Đại Trung Sinh, nhưng ngày nay người ta cho rằng các lục địa (đã tạo ra Laurasia sau này) đã tồn tại như là một siêu lục địa dính liền sau sự chia tách của Rodinia vào khoảng 1 tỷ năm trước. Để tránh nhầm lẫn với siêu lục địa thuộc đại Trung Sinh thì siêu lục địa này được nhắc tới như là Proto-Laurasia (Laurasia nguyên thủy). Người ta cũng tin rằng Laurasia này đã không bị chia tách một lần nữa trước khi nó tái kết hợp với các lục địa phía nam để tạo ra siêu lục địa Pannotia vào cuối thời tiền Cambri, là siêu lục địa tồn tại đến đầu kỷ Cambri.
Chia tách và tái hình thành
Trong kỷ Cambri, Laurasia chủ yếu nằm quanh các vĩ độ xung quanh xích đạo và bắt đầu chia tách, với các lục địa Hoa Bắc và Siberia trôi dạt tới các vĩ độ xa về phía bắc hơn so với các vĩ độ mà các lục địa này chiếm giữ trong vòng 500 triệu năm trước đó. Vào kỷ Devon, Hoa Bắc đã nằm gần vòng Bắc cực và nó là khu vực đất đai nằm xa nhất về phía bắc trên thế giới trong thời kỳ băng hà thuộc kỷ Than Đá vào khoảng 300 tới 280 triệu năm trước. Tuy vậy, hiện nay không có chứng cứ nào cho thấy có sự đóng băng ở cấp độ lớn đối với các lục địa miền bắc vào kỷ Than Đá. Thời kỳ lạnh giá này là sự nối ghép lại của Laurentia và Baltica với sự hình thành của dãy núi Appalaches và các trầm tích than đá lớn mà ngày nay là cơ sở chính của nền kinh tế cho những khu vực này, chẳng hạn như Tây Virginia và các phần của Anh và Đức.
Siberia chuyển động về phía nam và kết nối với Kazakhstania, một khu vực lục địa nhỏ mà ngày nay người ta tin rằng đã được tạo ra trong kỷ Silur do hoạt động núi lửa gia tăng. Khi hai lục địa này kết hợp với nhau, Laurasia đã gần như được tái tạo, và vào đầu kỷ Trias, craton Hoa Đông cũng đã tái kết nối với Laurasia đang tái phát triển do nó va chạm với Gondwana để tạo ra Pangaea. Do bị trôi dạt về phía nam từ các vĩ độ gần Bắc cực nên Hoa Bắc trở thành lục địa cuối cùng kết hợp với Pangaea.
Phân chia cuối cùng
Vào khoảng 200 triệu năm trước, Laurasia bị phân chia thành các lục địa mà theo cách kết hợp tên gọi của chúng ta có tên gọi của siêu lục địa này: Laurentia (ngày nay là Bắc Mỹ) và Eurasia (ngoại trừ tiểu lục địa Ấn Độ và tiểu lục địa Ả Rập). Phần lớn các craton đã tạo ra Laurasia, như có thể thấy, vẫn gắn liền với nó ngày nay, mặc dù sự trôi dạt vẫn còn diễn ra ngày nay trong khu vực hồ Baikal. |
Đêm qua nhớ bạn là tên một bài hát dân ca Quan họ Bắc Ninh. Đây là một bài hát khá dài trong số các bài quan họ, bài hát có 3 đoạn, có thể nam nữ hát thay phiên hoặc chỉ một liền chị, một liền anh hát. Bài hát có lời mang tính tự sự, phù hợp với làn điệu quan họ cổ, bày tỏ nỗi buồn vẩn vơ không biết thổ lộ với ai và nỗi nhớ người bạn. Bài hát này cũng có trong chùm bài quan họ được sử dụng trong phim Đến hẹn lại lên của đạo diễn Trần Vũ.
Lời bài hát
Đêm i hôm qua mình i tôi nhớ bạn i.
Linh tính a lính tình tinh i, này a có a tôi buồn, tôi ớ buồn về ai là chứ tai í tôi nghe.
Tai i tôi nghe giọt đồng hồ nó mấy kêu á là kêu thánh í thót í buồn lại tôi ngâm câu thơ,
Dế nó lại giăng i theo, lòng lại tôi thêm i buồn.
Lòng tôi i là tôi bối i rối, bối rối rối về ai, bối rối về nỗi chị hai ơ.
Nông có a nỗi này, biết i ngỏ í ơ, biết i ngỏ ớ ơ ai song ngỏ cùng ai?
Đêm i hôm qua mình em thao i thức i.
Linh tinh a lính tình tinh i, này a có a em buồn, em ơ ớ buồn về ai là chứ tai í em nghe.
Tai i em nghe chim nó kêu á là kêu khắc í khoải í buồn lại em đánh đàn chơi
Ôi phím lại long mất rồi, buồn lại em thêm buồn.
Lòng em ơ là em thương i nhớ, thương nhớ a nhớ về ai, thương nhớ về nỗi anh ba ơ.
Tâm có a sự này, biết i ngỏ í ơ ớ ơ, biết i ngỏ ớ ơ ai song ngỏ cùng ai?
Đêm i hôm qua mình em (tôi) thao i thức i.
Linh tinh a lính tình tinh i, này a có a em (tôi) buồn.
Em(tôi) ơ ớ buồn về ai là chứ tai í em(tôi) nghe,
Tai em(tôi) nghe con gà cầm canh là canh nó gáy i í buồn lại đánh ván cờ tiên
Ôi cờ lại bí nước liền, buồn lại em(tôi) thêm buồn.
Lòng em ơ là em thương i nhớ, thương nhớ a nhớ về ai, Thương nhớ về nỗi chị tư.
Nông có a nỗi này, biết i ngỏ í ơ ớ ơ, biết i ngỏ ớ ơ ai song ngỏ cùng ai? |
Nguyễn Lữ (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là Nguyễn Văn Lữ (chữ Hán: 阮文侶) là là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong 3 thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn và là em của vua Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc và Quang Trung Hoàng đế Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn, một trong những triều đại hiển hách nhất về võ công của Việt Nam.
Tiểu sử
Tổ tiên ba anh em Tây Sơn ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An vào niên hiệu Thịnh Đức (1653–1657) đời Lê Thần Tông. Ông cố của "Tây Sơn tam kiệt" tên là Hồ Phi Long, vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn (tức An Nhơn), cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Bà vợ tên là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó nên họ đổi con cái từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Vì vậy, người con có tên là Nguyễn Phi Phúc. Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và trở nên mỗi ngày mỗi giàu có (cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam).
Nguyễn Phi Phúc có tám người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Các tài liệu không hoàn toàn thống nhất về thứ tự của ba người con này, chỉ biết Nguyễn Nhạc là anh cả, còn Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ không rõ ai lớn hơn ai. Có tài liệu nói Nguyễn Lữ là người con thứ 3 và là con trai út (thầy Tư Lữ), có tài liệu cho ông là người con trai thứ 6 (Đức ông Bảy). Trong ba anh em, Nguyễn Lữ là người thiếu mạnh mẽ hơn cả. Ông được đánh giá là người nhân hậu, khoan hoà.
Nguyễn Lữ còn gọi là Nguyễn Văn Lữ theo tên gọi trong sử, sinh năm Giáp Tuất (1754), tại làng Kiên Mỹ, huyện Tuy Viễn. Là em thứ ba sau Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Lớn lên theo hai anh xuống Bàng Châu thụ giáo Đinh Công hai năm rồi lên An Thái, theo học văn lẫn võ cùng thầy Trương Văn Hiến.
Nguyễn Lữ đã được thầy là Trương Văn Hiến chân truyền cho môn miên quyền. Môn này cũng là món sở trường của Trương Công. Vốn người mảnh khảnh, tính nết hiền hòa, ưa thanh tịnh. Khác với hai anh, ông học văn nhiều hơn học võ. Tuy nhiên, ông cũng đã học hết các môn võ và chuyên về môn miên quyền. Môn miên quyền còn gọi là nhu quyền, là một môn võ nghệ chuyên dùng sức nhẹ để thắng mạnh, hợp với phụ nữ và những người thích võ nhưng tính ôn hòa. Phần đông đều dùng nhu quyền để tự vệ hơn tấn công. Ngoài ra, Nguyễn Lữ cũng chuyên về kiếm, nhờ ở sự phối hợp giữa miên quyền và kiếm thuật, ông Lữ đã nổi danh về môn nhu kiếm. Kiếm của ông nhẹ và mỏng nhưng lại sắc bén vô cùng nhờ ở biết thế nương vào sức mạnh của địch mà đánh trả, nên tuy kiếm mảnh mà không đao búa nào đánh gãy được.
Về văn học, ông lại ham thích nghiên cứu về tôn giáo, cho nên khi cha là Nguyễn Phi Phúc qua đời, Nguyễn Nhạc về nối nghiệp cha thì Nguyễn Lữ cũng thôi học, xuất gia theo Minh giáo, tục gọi là đạo Ma Ní, dùng phù phép để chữa bệnh, trừ tà như đạo phù thủy. Đạo minh giáo thờ thần lửa gần giống với sự thờ cúng của các dân tộc ít người tại Tây Sơn thượng. Đạo Ma Ní rất thịnh hành ở Tây Sơn thượng, nên Nguyễn Lữ qua việc truyền giáo đã quen biết rất nhiều các tộc trưởng, nhiều bộ lạc, người dân tộc thiểu số như sắc tộc Xà Đàn (Sédang), Ra Đê (Rhadé), Gia Rai (Djarais) v.v…
Nguyễn Lữ đi truyền đạo cũng như chữa bệnh cho mọi người khắp vùng Tây Sơn. Nhân dân thường gọi ông là Thầy Tư Lữ (có thuyết nói Nguyễn Văn Lữ là người sinh thứ ba trong gia đình, tục người Đàng Trong gọi người sinh đầu là anh hai để tướng nhớ nguồn gốc là dân Việt từ phía bắc di cư vào nam, Nguyễn Lữ sinh thứ ba nên gọi là Tư Lữ).
Trên đường hành đạo, Nguyễn Lữ nhờ đức tính hiền hòa cộng với sự tin tưởng vào bản thân tuyệt đối, hòa với võ công đặc biệt là môn miên quyền mà ông đã vượt qua mọi trở ngại, hiểm nguy. Khi gặp phải bọn côn đồ, không thể dùng lời lẽ ôn tồn khuyên răn, ông đã dùng đến vũ lực để chinh phục. Nhờ môn miên quyền mà ông đã thu phục được nhiều kẻ anh hùng, vũ dũng, sống ngoài vòng cương tỏa của xã hội, sau này trở thành tướng sĩ của nhà Tây Sơn.
Khi Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, ông trở về cùng anh chung lo việc nước. Một phần lớn nhờ ở ông đi thuyết phục mà các sắc tộc miền Tây Sơn thượng theo về với nhà Tây Sơn. Việc thu phục được tộc trưởng Bốc Kiơm, ông đã dự vào một phần lớn. Khi Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Vương thì Nguyễn Lữ được giao trọng trách lo về kinh tế, tài chính, cùng với Nguyễn Thung và Bùi Thị Xuân.
Nguyễn Thung là một phú nông ở thôn Thuận Nghĩa, sát Kiên Mỹ, là một thôn trù phú. Nguyễn Thung tuy là một phú nông, song kinh sử đều thông thuộc. Tính tình hào phóng, nhân hậu. Trong nhà tân khách luôn luôn tấp nập. Biết võ nghệ, sở trường về môn trường tiên. Kết giao với nhiều tay anh hùng như ba anh em Tây Sơn, Võ Văn Dũng… là nhân vật đến với nhà Tây Sơn từ thuở ban đầu. Khi Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Thung đã đem tất cả tài sản ủng hộ nghĩa quân. Giữ nhiệm vụ vận tải, tiếp tế quân lương, ông được phong Tán Tương Quân vụ, lo ở mặt Bắc, còn Nguyễn Lữ lo mặt Nam.
Lúc tổng hành dinh dời lên Tây Sơn thượng, Nguyễn Lữ vẫn ở lại Tây Sơn hạ, tiếp tục đôn đốc sản xuất. Khi cần đến kế hoạch "thượng vận", ông mới lên cùng Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn thượng. Ông là người có công đầu trong việc liên kết các sắc tộc với nhà Tây Sơn, vì ông vừa giỏi tiếng dân tộc vừa là nhà truyền giáo rất thích hợp với tôn giáo người miền Tây Sơn thượng. Trong việc chinh phục tộc trưởng Bốc Kiơm của tộc Xà Đàng Nguyễn Lữ là người tham mưu cho ông Nhạc, cũng như việc liên kết với tộc Ba na trong rừng Mộ Điểu. Để nâng cao uy danh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ dành mọi thực thi kế hoạch cho Nguyễn Nhạc. Kết quả các bộ tộc Tây Sơn thượng tôn Nguyễn Nhạc là vua trời (Thiên vương). Nguyễn Lữ đã cùng anh đi rộng lên Kontum, Pleiku. Đi đến đâu, thuyết phục người dân tộc đến đó và rất được đồng thanh liên kết. Trên bước đường đi liên minh cùng các sắc tộc vùng cao, Nguyễn Lữ cũng đã tuyên truyền cho đạo thần lửa của mình và tài nghệ dùng lá cây chữa bệnh đã giúp ông thu nhiều kết quả.
Ngày rằm tháng 8 năm Quý Tỵ (1773), Tây Sơn khởi nghĩa. Nguyễn Lữ được phong Tán Tương Quân vụ lo việc tiếp tế lương thực.
Sáng ngày 16, Nguyễn Lữ đã chuẩn bị sẵn sàng lương thực tại chân núi Đồng Phong, thôn Trinh Tường để đón tiếp đại quân xuất phát từ núi Bà Phù đêm hôm trước. Tại đây, tướng sĩ dừng chân, ăn uống no nê rồi đi thẳng một mạch xuống Tuy Viễn. Binh đi như gió cuốn. Mặt trời lên cao thì huyện lỵ đã bị bao vây. Tiếng quân hò reo vang trời. Tri huyện Tuy Viễn trốn chạy, binh sĩ trong huyện đầu hàng. Cho là nhờ ăn no, lãnh lương đầy đủ tại núi Đồng Phong, nên quân Tây Sơn chiến thắng dễ dàng. Do đó nhân dân gọi núi Đồng Phong là Hòn Lãnh Lương và gọi tắt là Hòn Lương.
Cuối thu năm ấy, sau khi chiếm được Quy Nhơn, đuổi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ cùng Nguyễn Văn Lộc, Võ Văn Cao đi vào Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận để xem xét tình hình và liên lạc với hai vua Thủy Xá (Potau Ea) và Hỏa Xá (Potau Apui) để liên minh và cổ động đồng bào địa phương hưởng ứng cuộc Nam chinh.
Nổi dậy
Nhân lúc chính sự họ Nguyễn rối ren, lấy danh nghĩa trừng phạt quyền thần Trương Phúc Loan, Nguyễn Lữ theo anh là Nguyễn Nhạc phất cờ khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn. Sử sách ghi nhận vai trò của Nguyễn Nhạc là lớn nhất trong những ngày đầu tiên của cuộc nổi dậy. Dĩ nhiên, là người tham gia trong bộ chỉ huy của Tây Sơn tam kiệt, Nguyễn Lữ cũng đóng vai trò nhất định
Khởi phát từ ấp Tây Sơn, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ tập hợp lực lượng, ban đầu chủ yếu là đồng bào người Thượng, đứng lên nổi dậy. Lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Nhạc phất cờ nổi dậy năm 1771. Tây Sơn có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, năm sau, cuộc nổi dậy lan rộng và đã thắng một số trận chống lại quân chúa Nguyễn được phái tới trấn áp cuộc nổi dậy.
Tập kích Gia Định
Năm 1773, quân Tây Sơn dùng mưu đánh chiếm được thành Quy Nhơn. Nhờ vai trò lãnh đạo của Nguyễn Nhạc và tài quân sự của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn nhanh chóng phát triển thế lực ra toàn Nam Trung bộ và nhiều lần đánh bật quân Nguyễn ra hòng chiếm lại vùng này. Gặp lúc chúa Trịnh điều quân vào nam, Nguyễn Nhạc xin giảng hoà với họ Trịnh để tập trung đánh họ Nguyễn.
Nguyễn Huệ chiếm lại được Phú Yên, ra bắc dẹp quân tàn dư họ Nguyễn ở Quảng Nam, để lại tướng người Hoa là Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Tây Sơn lại mất Phú Yên.
Nếu để quân Nguyễn tập trung đủ lực lượng từ Gia Định tới Phú Yên đánh ra thì Quy Nhơn rất nguy. Trước tình hình đó, để chia thế quân Nguyễn, đầu năm 1776, Nguyễn Nhạc quyết định sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thủy vào đánh Gia Định. Bị đánh bất ngờ, Nguyễn Phúc Thuần bỏ chạy về Trấn Biên (Biên Hoà). Nguyễn Lữ vào thành, kiểm điểm kho tàng, thu thập quân lương chuyển về Quy Nhơn.
Đồng thời ông điều quân xuống Long Hồ đánh quân Nguyễn, bắt sống tướng Bùi Hữu Lễ. Chúa Nguyễn sợ hãi bỏ trốn về Bà Rịa. Nguyễn Lữ sai quân truy kích, Thuần phải trốn vào nhà giáo sĩ người Tây Ban Nha trốn trong gầm giường. Do quân Tây Sơn không phạm tới những người theo Công giáo nên Thuần mới thoát nạn.
Thoát chết, Thuần sai Đỗ Thanh Nhơn (Nhân) đi mộ quân cần vương, lại sai người đi cầu cứu tướng người Hoa là Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu), lại gọi Tống Phúc Hiệp, Lý Tài ở Phú Yên vào. Nghe tin quân địch từ các trấn kéo về, Nguyễn Lữ không chống cự, bỏ thành rút quân về Quy Nhơn, Đỗ Thành Nhân rước Định Vương về Sài Côn lo việc phòng thủ.
Trận tập kích Gia định tuy không chiếm hẳn được Nam bộ nhưng khiến quân Nguyễn rơi vào thế bị động, phải co về Nam bộ, giải toả được nguy cơ cho Quy Nhơn.
Đánh chiếm Gia Định
Sau khi đánh Gia Định lần thứ hai, bắt giết được hai chúa Nguyễn, Nguyễn Nhạc làm chủ toàn bộ đất đai từ Quảng Nam đến Hà Tiên. Năm 1778, ông lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức Hoàng Đế.
Tuy nhiên sau khi Tây Sơn rút đi, lực lượng theo Nguyễn Ánh lại nổi dậy tái chiếm Nam bộ. Sang năm 1782, Nguyễn Nhạc thân chinh cùng Nguyễn Huệ lại nam tiến đánh bại Nguyễn Phúc Ánh nhưng một lần nữa Nguyễn Phúc Ánh lại trốn thoát.
Nguyễn Nhạc rút quân về bắc, Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Phúc Ánh trở về. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân nam tiến.
Dù Nguyễn Phúc Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước vẫn bị anh em Tây Sơn phá tan, Nguyễn Phúc Ánh bỏ chạy về Đồng Tuyên, lại bị quân Tây Sơn đánh phá. Nguyễn Phúc Ánh phải bỏ chạy ra Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Phúc Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, Nguyễn Phúc Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm cầu viện.
Đông Định vương
Năm 1786, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vâng lệnh Nguyễn Nhạc mang quân bắc tiến đánh chiếm Phú Xuân. Theo kế hoạch của Nguyễn Huệ, trong khi Nguyễn Huệ đem quân bộ đánh đèo Hải Vân và thành Phú Xuân thì Nguyễn Lữ cùng Đô đốc Nguyễn Văn Lộc mang thủy quân tiến thẳng tới sông Gianh. Ông chia quân làm hai, một cánh án ngữ sông Gianh ngăn quân Trịnh ở Bắc hà vào cứu, một cánh đánh chiếm Bố Chính, sau đó đánh tiếp xuống luỹ Đồng Hới, tức Luỹ Thầy nổi tiếng. Dù trước đây Hoàng Ngũ Phúc đã lập nhiều đồn luỹ từ sông Gianh tới Dinh Cát nhưng quân Trịnh bạc nhược thấy quân Tây Sơn đã bỏ chạy. Tướng giữ Động Hải là Vị Phái hầu Mai Xuân Bách và Hiệp trấn Ninh Tốn trốn về Nghệ An. Tướng giữ Dinh Cát (Bố Chính) là Cung Vũ hầu Văn Đình Cung cùng quân sĩ bị bắt sống, sau đó Văn Đình Cung bị giết (Văn Đình Cung là Phò mã của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm, dòng giõi tướng Văn Đình Dận). Khi Nguyễn Lữ hạ được Luỹ Thầy thì Nguyễn Huệ cũng chiếm được Phú Xuân. Nguyễn Lữ ở lại giữ Phú Xuân trong khi Nguyễn Huệ theo lời của Nguyễn Hữu Chính bắc tiến ra Thăng Long.
Sau đó với khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh", chỉ trong 1 tháng, Nguyễn Huệ ra Bắc Hà tiêu diệt họ Trịnh. Vua Thái Đức vội vã ra bắc gọi em về. Sau khi lựa lời vỗ về em, vua Thái Đức tự mình cầm quân, gặp gỡ vua Lê vừa lên ngôi là Chiêu Thống. Ít ngày sau, Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ bí mật rút quân về nam.
Từ Bắc Hà trở về, anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ bất hoà và xảy ra xung đột. Có tài liệu nói rằng nhờ sự điều đình của Nguyễn Lữ, quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã không giao chiến với nhau. Sau sự kiện đó, anh em Tây Sơn giảng hoà, Nguyễn Nhạc phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình vương đóng ở Phú Xuân, Nguyễn Lữ làm Đông Định vương trấn giữ Gia Định. Hỗ trợ cho Đông Định vương Nguyễn Lữ là Thái bảo Phạm Văn Tham.
Bỏ thành Gia Định
Nhân khi anh em Tây Sơn hiềm khích đánh nhau, Nguyễn Phúc Ánh đang lưu vong ở Xiêm lập tức trở về gây dựng lại (tháng 8 năm 1787). Được các địa chủ lớn ở Nam Bộ ủng hộ, quân Nguyễn nhanh chóng mạnh lên.
Thấy Nguyễn Phúc Ánh sắp kéo đến đánh Gia Định, Nguyễn Văn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ chạy ra Biên Hoà bỏ thành Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Việc ông rút lui ít nhiều đã làm giảm ý chí chiến đấu của quân Tây Sơn ở lại. Sau một thời gian thấy thế quân Nguyễn quá mạnh và có lẽ lúc đó đã mang bệnh trong người, ông không dám tham chiến mà theo đường biển rút thẳng về Quy Nhơn.
Theo các sử gia nhà Nguyễn, khi Nguyễn Văn Lữ rút ra Biên Hoà, Nguyễn Phúc Ánh dùng kế của tướng Tống Phúc Đạm ly gián hai người, bắt chước theo lối chữ của Nguyễn Văn Nhạc, viết bức thư có nội dung gửi cho Nguyễn Văn Lữ nói: Phạm Văn Tham là người của Nguyễn Văn Huệ nên sai Nguyễn Văn Lữ giết Phạm Văn Tham đi. Bức thư có nội dung như vậy nhưng Ánh lại cố ý gửi "nhầm" cho Phạm Văn Tham. Tham đọc thư sợ bị giết nên sai người giong thuyền, giương cờ hiệu màu trắng là màu cờ của quân Nguyễn Phúc Ánh khiến Nguyễn Văn Lữ hoảng sợ, tưởng Tham đã hàng Ánh rồi. Nghĩ mình đơn độc ở Nam bộ không có đủ khả năng xung trận chống địch, ông rút quân về. Năm sau, Phạm Văn Tham ra hàng, thành Gia Định lại trở về với nhà Nguyễn.
Không lâu sau khi trở về Quy Nhơn, cuối năm 1787, Đông Định vương Nguyễn Văn Lữ qua đời. Nguyễn Văn Lữ làm Đông Định vương chưa được 1 năm. Sử sách không nhắc gì tới gia quyến của ông. Có nhiều tài liệu cho rằng sau khi thất thủ Gia Định, ông về Quy Nhơn gặp anh chịu tội rồi ra đi phiêu bạt, dùng tài chữa bệnh giúp người, cuối cùng thế nào không ai biết rõ.
Trong văn hoá đại chúng |
Nguyễn Nhạc (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là Nguyễn Văn Nhạc, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn, ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm 1788, lấy niên hiệu là Thái Đức (泰德) thường gọi là Thái Đức Đế (泰德帝). Từ năm 1789 – 1793, ông từ bỏ đế hiệu để nhường ngôi hoàng đế cho em trai là hoàng đế Quang Trung, còn ông tự hạ tước hiệu của mình xuống thành Tây Sơn vương.
Nguyễn Văn Nhạc và hai người em trai của ông, được biết với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía Bắc và Nguyễn ở phía Nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng Nhà Hậu Lê.
Song ông không có ý muốn thống nhất đất nước khi đã tiêu diệt Chúa Trịnh ở phía bắc mà lên ngôi hoàng đế khi đất nước chưa thống nhất. Về sau, ông đã bị lu mờ trước người đã tiếp tục lãnh đạo phong trào Tây Sơn trong công cuộc thống nhất đất nước đó chính là em trai ông, Nguyễn Huệ. Quyền lực của em trai Nguyễn Huệ ngày càng vượt hơn anh, ông đành chấp nhận giao lại quyền lãnh đạo cho em trai là Nguyễn Huệ, còn ông chỉ xưng là Tây Sơn vương, lui về ở tại thành Quy Nhơn. Năm 1793, các tướng của vua cháu Quang Toản đã tịch biên gia sản của ông trong thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc đang ốm nặng, nghe tin thì tức giận mà qua đời.
Tiểu sử
Ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ được gọi là Tây Sơn tam kiệt. Các nguồn tài liệu về thân thế Nguyễn Nhạc và anh em Tây Sơn chưa hoàn toàn thống nhất.
Các sách Đại Việt sử ký tục biên, Hoàng Lê nhất thống chí, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục đều ghi các thủ lĩnh Tây Sơn là họ Nguyễn, nhưng không nói tổ tiên là họ gì.
Có giả thuyết cho rằng tổ tiên Nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chân Chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi Chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố của Nguyễn Nhạc tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ Chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam.
Nguyễn Phi Phúc có tám người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Lớn lên, ba anh em được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy Trương Văn Hiến. Chính người thầy này đã phát hiện được khả năng khác thường của Nguyễn Huệ và khuyên ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp. Tương truyền câu sấm: "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" là của ông.
Trong những năm đầu tiên, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất. Tương truyền trước khi nổi dậy ông từng đi buôn trầu nên được gọi là Hai Trầu. Có sách nói Nguyễn Nhạc làm chức biện lại nên còn gọi là Biện Nhạc. Sử Nhà Nguyễn chép rằng ông được Chúa Nguyễn giao cho việc thu thuế trong vùng nhưng mang tiền thu thuế đánh bạc mất hết, cùng quẫn phải nổi dậy. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu, tình tiết này thực chất là dụng ý nói xấu người "phản loạn" của Nhà Nguyễn sau khi họ đã thắng trận..
Khởi nghĩa
Chính sự chúa Nguyễn cuối thời Nguyễn Phúc Khoát ngày càng suy đồi, gây khổ sở cho dân chúng. Hệ thống thuế khóa phức tạp, cồng kềnh, nặng nề, quan cấp dưới lạm thu để tham nhũng. Thuế thổ sản có tới hàng ngàn thứ, tính cả những sản vật nhỏ nhặt. Năm 1741, Phúc Khoát ra lệnh truy thu thuế của cả những người bỏ trốn. Tới năm 1765 lại có lệnh truy thu thuế còn thiếu của 10 năm trước. Bản thân chúa Nguyễn sa vào tửu sắc hưởng lạc, các quan lại bên dưới cũng đua nhau tham ô (tiêu biểu như Trương Phúc Loan), khiến lòng dân ngày càng oán ghét.
Khi Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát qua đời (1765), chính sự họ Nguyễn ở Đàng Trong càng rối ren quanh việc chọn người kế vị ngôi chúa. Vũ vương vốn trước lập con thứ 9 (nhưng do chính cung sinh ra) là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử, nhưng Hiệu mất sớm, để lại người con là Nguyễn Phúc Dương. Con cả của Vũ vương là Nguyễn Phúc Chương cũng đã mất. Đáng lý ra theo thứ tự khi Nguyễn Phúc Khoát qua đời, phải lập người con thứ hai là Nguyễn Phúc Luân lên ngôi, nhưng quyền thần Trương Phúc Loan nắm lấy triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Luân mà lập người con thứ 16 của Vũ vương là Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định vương, để dễ bề thao túng. Trong triều cũng như bên ngoài dư luận nhiều người bất bình vì khi Luân đã chết thì ngôi chúa lẽ ra phải thuộc về Nguyễn Phúc Dương. Thái phó Trương Văn Hạnh, thầy dạy của Phúc Luân, cũng bị Loan giết. Môn khách của Trương Văn Hạnh là Trương Văn Hiến phải bỏ Phú Xuân, trốn về Tây Sơn mai danh ẩn tích.
Trương Văn Hiến dạy học cũng đã truyền ý chí khởi nghĩa cho 3 anh em Tây Sơn. Nhận thấy tình hình rối ren trong triều và lòng dân oán ghét họ Nguyễn, Nguyễn Nhạc tập hợp lực lượng nổi dậy ở ấp Tây Sơn.
Theo các sách sử nhà Nguyễn thì do đánh bạc tiêu mất tiền thu thuế, Nguyễn Nhạc bèn "trốn vào Tây Sơn làm trộm cướp, những người vô lại và người nghèo đói phần nhiều phụ theo, vì thế thủ hạ có đến vài ngàn người". Nhạc cùng em là Văn Huệ, Văn Lữ chia nhau quản lãnh, rồi đi đánh cướp đồn ấp, viên tướng giữ trấn không sao kiềm chế được. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, tình tiết "Nguyễn Nhạc thua bạc nên đi trộm cướp" thực chất là chuyện thêu dệt của nhà Nguyễn nhằm bôi nhọ uy tín của nhà Tây Sơn. Việc anh em Nguyễn Nhạc khởi nghĩa chắc chắn phải được mưu tính kỹ lưỡng từ lâu, từ việc chuẩn bị căn cứ, lương thực cho đến tuyên truyền, thu hút lực lượng tham gia, không thể chỉ là hành vi bột phát do "thua bạc".
Quân Tây Sơn bao gồm người Kinh, người Thượng, người Hoa tham gia rất đông. Khởi phát từ ấp Tây Sơn, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ tập hợp lực lượng, ban đầu chủ yếu là đồng bào người Thượng, gây dựng chiến khu, đứng lên khởi nghĩa. Lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ Vương tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Nhạc phất cờ nổi dậy năm 1771. Bởi Tây Sơn mang danh nghĩa ủng hộ Vương tôn Dương và khi đánh trận thường la ó ầm ĩ nên dân gian có câu:
Sau khi đứng vững ở địa bàn ấp Tây Sơn, năm sau, cuộc khởi nghĩa lan rộng và nghĩa quân đã thắng một số trận chống lại quân Chúa Nguyễn được phái tới đàn áp cuộc khởi nghĩa. Bấy giờ ở Quy Nhơn có nhà giàu là Huyền Khê thường giúp tài chính cho Nguyễn Nhạc, nhân đó ông sắm thêm được nhiều vũ khí và chiêu mộ thêm được nhiều quân.
Năm 1773, Nguyễn Nhạc đánh chiếm ấp Kiến Thành, rồi chia cho các tướng cùng coi giữ: chủ trại nhất Nguyễn Nhạc giữ hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, chủ trại nhì Nguyễn Thung giữ huyện Tuy Viền, chủ trại ba Huyền Khê coi việc hậu cần. Không những tập hợp cả những tay lục lâm như Nhưng Huy, Tứ Linh, Nguyễn Nhạc còn mật liên lạc với nữ chúa của nước Chiêm Thành sót lại lúc đó đem quân đóng ở trại Thạch Thành để cứu lẫn nhau.
Hạ thành Quy Nhơn
Sau khi đứng vững ở căn cứ, Nguyễn Nhạc quyết định đánh thành Quy Nhơn, một trọng trấn của Đàng Trong. Quy Nhơn là trung tâm của khu vực Nam Trung bộ, nếu làm chủ Quy Nhơn có thể làm chủ cả khu vực này.
Để đánh chiếm thành, Nguyễn Nhạc đã vận dụng mưu kế rất táo bạo. Ông tự ngồi vào cũi cho quân lính khiêng tới thành Quy Nhơn nộp cho tướng giữ thành là Nguyễn Khắc Tuyên, giả làm quân lính phản Tây Sơn, bắt tướng "giặc" về hàng với Chúa Nguyễn. Khắc Tuyên tin là thật nên cho quân áp giải Nguyễn Nhạc vào. Nửa đêm, quân Tây Sơn trá hàng mở cũi cho Nguyễn Nhạc, ông cùng binh lính nổi dậy phối hợp với quân ngoại viện từ ngoài ùa vào đánh chiếm thành Quy Nhơn. Nguyễn Khắc Tuyên vội bỏ cả gia đình và ấn tín chạy trốn.
Từ Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc tiến ra đánh chiếm Quảng Ngãi. Sau đó ông đem quân vào đánh Phú Yên. Đến cuối năm 1773, quân Tây Sơn thắng như chẻ tre, nhanh chóng chiếm được Phú Yên, Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận, quân Nguyễn phải rút vào Nam bộ.
Lưỡng đầu thọ địch
Đầu năm 1774, Chúa Nguyễn sai Tôn Thất Thăng mang quân từ Quảng Nam vào đánh Tây Sơn nhưng vừa thấy quân Tây Sơn, Thăng đã bỏ chạy. Nguyễn Nhạc đánh Bến Ván, uy hiếp Quảng Nam. Bấy giờ có hai người Tàu là Tập Đình và Lý Tài mộ dũng sĩ hưởng ứng Tây Sơn. Nhân cơ hội đó, Nguyễn Nhạc lại đánh Quảng Nam, nhưng bị cai đội Nguyễn Cửu Dật đánh lui, phải rút về Thiên Lộc. Giữa năm 1774, Chúa Nguyễn lại cử Tống Phúc Hiệp mang quân từ Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh Nam Trung bộ, nhanh chóng lấy lại Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Nguyễn Nhạc chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.
Tuy nhiên lúc Tây Sơn vừa mất Bình Khang thì phía bắc lại có biến. Nhân lúc Đàng trong rối ren, cuối năm 1774, Chúa Trịnh Sâm cử lão tướng Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc làm Bình Nam thượng tướng quân, mang 3 vạn quân vượt sông Gianh nam tiến, cũng lấy lý do trừ khử Trương Phúc Loan, lập Nguyễn Phúc Dương. Quân Trịnh lần lượt chiếm Bố Chính, Đồng Hới và tiến đến Thuận Hoá. Quân Nguyễn yếu thế, Chúa Nguyễn phải trói Trương Phúc Loan nộp quân Trịnh, nhưng sau đó Hoàng Ngũ Phúc vẫn tiến quân, đầu năm 1775 đánh chiếm Phú Xuân. Chúa Nguyễn không chống nổi phải bỏ chạy vào Quảng Nam.
Nguyễn Nhạc nhân thời cơ đó mang quân hai đường thủy bộ ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định, phong Nguyễn Phúc Dương làm thế tử, ở lại Quảng Nam. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh tiến vào Quảng Nam. Quân Tây Sơn sai Lý Tài rước Phúc Dương về Hội An. Quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Nguyễn Nhạc cử hai tướng người Hoa là Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân đánh Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Tập Đình bỏ chạy tháo thân, theo đường biển về Trung Quốc, vì Nguyễn Nhạc muốn nhân cơ hội thua bắt giết do Tập Đình vốn là người bạo ngược, nhưng sau đó bị Nhà Thanh bắt chém. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn.
Nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp lại từ Bình Khang ra đánh Phú Yên, quân Tây Sơn lại thua phải co về Quy Nhơn. Như vậy địa bàn của Nguyễn Nhạc chỉ còn Quy Nhơn và Quảng Ngãi.
Hoà Bắc đánh Nam
Tình thế của Nguyễn Nhạc và quân Tây Sơn lúc đó rất nguy ngập. Cả quân Trịnh lẫn quân Nguyễn từ hai đằng đánh tới đều đang ở thế thắng trận. Nếu mang quân ra đương đầu với cả hai phía thì chắc chắn Nguyễn Nhạc sẽ bị tiêu diệt. Đứng trước tình thế đó, ông đã sáng suốt đưa ra quyết định đúng đắn.
Nhận thấy quân Trịnh đang ở thế thắng liên tiếp từ khi vào nam, tiềm lực của Bắc hà lại lớn không thể đương đầu, Nguyễn Nhạc quyết định xin giảng hoà với Chúa Trịnh để tập trung vào chiến trường phía nam. Ông sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho Chúa Trịnh để đánh Chúa Nguyễn. Quân Trịnh đi xa bấy giờ đã mệt mỏi, quân sĩ nhớ nhà, Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh Chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc hàng, phong làm "Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân", sai Nguyễn Hữu Chỉnh trao cờ và ấn kiếm cho ông. Dù thế, quận Việp lão luyện vẫn không lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, định chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn.
Tống Phúc Hiệp lại sai sứ bắt Nguyễn Nhạc trả lại thế tử Nguyễn Phúc Dương. Trước tình thế nguy ngập, Nguyễn Nhạc giả vờ nhận lời, rồi bí mất đưa thế tử ra Hà Liêu.
Loại bỏ nguy cơ phía bắc
Tạm yên mặt bắc nhưng Nguyễn Nhạc ở vào tình thế chỉ có một lựa chọn là phải thắng trận để chiếm lại Phú Yên từ tay quân Nguyễn, nếu không sẽ bị quân Trịnh đánh chụp.
Trong tình thế các tướng đều thua trận bạc nhược, Nguyễn Nhạc quyết định cử em là Nguyễn Huệ, mới 23 tuổi, người sau này trở thành nhà quân sự kiệt xuất của Tây Sơn, làm chủ tướng mang quân vào nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phúc Hiệp việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh. Việc đàm phán đến nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới đánh khiến Hiệp không kịp trở tay. Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền, Hiệp bỏ chạy. Tướng Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận. Nguyễn Huệ giao việc phòng thủ cho Nguyễn Văn Hưng và Lê Văn Lộc rồi kéo đạo binh người Thượng trở về Quy Nhơn.
Năm 1775, Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn mang quân vào nam liền lấn tới đóng quân ở Chu Ổ thuộc Quảng Ngãi, nhưng sau nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận không dám tiến nữa. Để tăng thêm thanh thế, Nguyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em và Nguyễn Huệ được phong làm "Tây Sơn hiệu tiền tướng quân". Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quận Việp bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng dưới quyền, còn mình dẫn đại quân về bắc, sau bệnh chết dọc đường.
Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, hai cựu thần của nhà Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân nổi dậy chống Tây Sơn, đánh lấy phủ Thăng Bình và phủ Điện Bàn. Nguyễn Nhạc lại liền sai Đặng Xuân Phong đi đánh dẹp. Không phải dùng nhiều công sức, Đặng Xuân Phong mới xáp chiến trận đầu là lấy ngay được Thăng Bình rồi Điện Bàn. Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân đều tử trận.
Quảng Nam được dẹp yên, Tây Sơn Vương gọi Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nghĩa về Qui Nhơn cử Đặng Xuân Phong thay thế, và cử Nguyễn Văn Tuyết ra trấn thủ Quảng Nam, cùng họ Đặng làm răng môi giữ gìn mặt Bắc. Bắc Nam được yên ổn, Tây Sơn Vương cho sửa lại thành Đồ Bàn.
Đánh Gia Định
Lần thứ nhất
Cuối năm 1775, Nguyễn Huệ đi đánh Quảng Nam để lại tướng người Trung Quốc là Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng Chúa Nguyễn. Tây Sơn lại mất Phú Yên.
Để chia thế quân Nguyễn, tháng 3 năm 1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thủy vào đánh Gia Định. Nguyễn Phúc Thuần không có quân trong tay nên không chống lại, tháo chạy vào Bà Rịa, Trấn Biên. Nguyễn Lữ đánh chiếm được Gia Định gây tổn thất cho bá tánh nhưng không lâu sau các tướng Nguyễn là Đỗ Thanh Nhân, Mạc Thiên Tứ, Tống Phúc Hiệp, Lý Tài đang tụ tập dần về Nam Bộ. Nguyễn Lữ liền cướp hết kho báu tiền bạc của nhiều đời Chúa Nguyễn rút về Quy Nhơn.
Tháng 6 năm 1776, Tống Phước Hiệp qua đời, Đỗ Thanh Nhân, thủ lĩnh quân Đông Sơn hiềm khích với Lý Tài, đem quân đến đánh. Nguyễn Phúc Dương lúc đó từ quy Nhơn chạy về, ra lệnh cho Lý Tài rút quân.
Lần thứ hai
Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương lui quân từ Quy Nhơn về Gia Định. Lý Tài ép Thuần nhường ngôi cho Dương làm Tân chính vương, còn Thuần làm Thái thượng vương.
Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Ba Huệ làm tướng mang quân thủy vào đánh Gia Định. Lý Tài thua trận rút về thành, đưa 2 Chúa Nguyễn về Hóc Môn. Sau Tài rút khỏi Hóc Môn bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết. Thuần theo Nhân giữ Tranh Giang, Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ Tài Phụ. Nguyễn Huệ chia đường đánh bại cả hai cánh quân Nguyễn. Thuần và Nhân bỏ chạy về Cần Thơ cầu viện Mạc Thiên Tứ (tướng người Hoa), còn Dương bỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre).
Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ. Thuần sai Nhân lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Nguyễn Nhạc nhân lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở Nam bộ cũng cử binh đánh Phú Yên, Bình Thuận. Một cánh quân Tây Sơn ở Biên Hoà chặn đánh giết chết Trần Văn Thức. Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại Phú Yên đến Bình Thuận.
Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tử.
Nguyễn Phúc Thuần bại trận bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu viện Nhà Thanh nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đến nơi, bắt được Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ đành mỗi người một nơi.
Lần thứ ba
Nguyễn Nhạc làm chủ toàn bộ đất đai từ Quảng Nam đến Hà Tiên. Năm 1778, thành Đồ Bàn sửa xong, lên ngôi Hoàng đế, xưng Minh Đức Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, không ràng buộc với Nhà Lê Trung hưng và Chúa Trịnh ở Bắc Hà nữa. Thành Đồ Bàn đổi tên là Hoàng Đế thành.
Hoàng đế thỉnh thầy học Trương Văn Hiến về làm quân sư và phong:
Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng quân.
Nguyễn Lữ là Tiết chế.
Phan Văn Lân làm Nội hầu.
Trần Quang Diệu làm Thiếu phó.
Võ Văn Dũng làm Đại Tư khấu.
Võ Đình Tú làm Thái úy.
Ngô Văn Sở làm Đại Tư mã.
Bùi Thị Xuân được phong làm Đại Tướng quân, tự hiệu là Tây Sơn nữ tướng, quản đốc mọi việc quân dân trong Hoàng thành và tuần sát vùng Tây Sơn.
Các tướng khác đều phong Đô đốc và Đại đô đốc. Còn bên văn thì phong Võ Xuân Hoài làm Trung thư lệnh. Các quan khác đều phong từ Đại học sĩ, Thượng thư, Thị lang.
Hai Vua Thủy Xá và Hỏa Xá được phong Vương tước, sai sứ đưa ra những trầm hương, kỳ nam, hổ phách và voi ngựa làm cống vật và nguyện giữ một lòng trung thành với Tây Sơn.
Bok Kiơm không nhận chức tước cũng không nhận tiền của, chỉ xin mỗi năm được nhà vua cấp muối và cá khô để lấy lòng của đồng bào Thượng.
Trần thị được rước về Hoàng Đế thành, lập vị Hoàng hậu. Nữ tử người Thượng được rước về cung phong Phi.
Quân số lúc bấy giờ phỏng chừng 15 vạn (150.000) Theo binh chế đời nhà Chu, binh chia làm 6 cấp: Quân, Sư, Lữ, Tốt, Lượng, Ngũ. Ngũ gồm có năm người. Lượng gồm có 5 ngũ tức 25 người. Tốt gồm có 4 lượng tức 100 người. Lữ gồm có 5 tốt, tức 500 người. Sư gồm có 5 lữ, tức 2.500 người. Quân gồm có 5 sư, tức 12.500 người. Tổng số là 12 quân đoàn, có bộ binh và thủy binh. Binh chủng nào cũng tinh nhuệ.
Đặc biệt nhất là:
2 quân đoàn người Thượng, với 2.000 chiến mã.
4 lữ đoàn nữ binh, với 100 thớt voi.
Hai quân đoàn người Thượng do Long Nhương Tướng Quân Nguyễn Huệ tổ chức và thường do Long Nhương chỉ huy.
Sau khi Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn, các tướng Nguyễn là Đỗ Thanh Nhân, Chu Văn Tiếp nổi dậy, đón Nguyễn Ánh, con Nguyễn Phúc Luân về lập làm chúa, chiếm lại Gia Định. Được các lực lượng phương Tây như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức, Nguyễn Ánh lại mạnh lên. Năm 1778, vua Thái Đức sai tướng vào đánh nhưng lại bị thất bại thảm và mất luôn Bình Thuận.
Năm 1781, Nguyễn Ánh nghĩ uy quyền của Nhân quá lớn nên xử tử Nhân, lại đem quân đánh ra Bình Khang nhưng bị quân của vua Thái Đức đánh bại. Tháng 3 năm 1782, vua Thái Đức và Nguyễn Huệ mang quân thủy bộ nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Ánh bỏ chạy về Hậu Giang. Chu Văn Tiếp từ Bình Thuận vào cứu bị đánh bại phải co về. Nguyễn Ánh cùng thế đành gọi người sang Xiêm cầu viện.
Nguyễn Nhạc chiếm lại Nam bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm của Nguyễn Ánh và suýt bắt được ông ta. Nguyễn Ánh đành ngụ đảo Phú Quốc.
Lần thứ tư
Tháng 6 năm 1782, Nguyễn Nhạc rút quân về Quy Nhơn, Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Huệ, Lữ mang quân đánh phá vùng Đông Nam bộ.
Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước vẫn bị quân Tây Sơn phá tan, Nguyễn Ánh rút về Đồng Tuyên. Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Ánh đành chạy ra Hà Tiên rồi ra đảo Phú Quốc.
Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm La cầu viện.
Đất Gia Định đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ đã được tổ chức nghiêm mật, tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Huệ cùng Lữ và Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Đa cùng một số tướng sĩ ở lại giữ thành Gia Định. Và khi quân thắng trận về đến Quy Nhơn, Vua Thái Đức sai thêm hai văn thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Đình Tiệp vào trợ lực.
Chiến thắng ngoài mong đợi
Năm 1782, Bắc hà có biến, phe người con lớn của chúa Trịnh Sâm vừa chết là Trịnh Tông làm binh biến lật đổ người con nhỏ mới được lập là Trịnh Cán. Một tướng Bắc hà là Nguyễn Hữu Chỉnh (thủ hạ cũ của Hoàng Ngũ Phúc) không hợp tác với Trịnh Tông nên bỏ vào nam hàng Tây Sơn và được vua Thái Đức tin dùng.
Nguyễn Ánh cầu viện được quân Xiêm, trở lại Nam bộ năm 1784. Cuối năm 1784 Trương Văn Đa sai Đô Úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình ở Gia Định. Vua Thái Đức liền sai Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo trừ. Bùi Thị Xuân xin tòng chinh. Quân thiện chiến chừng 2 vạn, danh tướng, ngoài Võ, Trần, Bùi, còn có Đô úy Đặng Văn Trấn và một số thuộc tướng.
Quân Tây Sơn đánh bại liên quân Xiêm Nguyễn ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút. Chu Văn Tiếp bị giết. Nguyễn Ánh phải chạy sang Xiêm sống lưu vong.
Quét sạch quân xâm lăng, đuổi được Nguyễn Phúc Ánh ra khỏi nước, Nguyễn Huệ lo sắp đặt tề chỉnh việc quân việc dân, rồi giao Gia Định cho Trương Văn Đa và Đặng Văn Chấn trấn thủ, còn mình cùng Võ Văn Dũng và vợ chồng Bùi Thị Xuân kéo đại binh về Quy Nhơn. Cao Tắc Tựu và Triệu Đình liền bàn cùng Trương Văn Đa và Đặng Văn Chấn rồi một mặt làm sớ gởi về Quy Nhơn xin thêm người, một mặt chiêu nạp nhân tài ở địa phương làm phụ tá. Vua Thái Đức liền sai Huỳnh Văn Thuận và Lưu Quốc Hưng vào tăng cường.
Năm 1786, khi tình hình phía Nam đã tạm yên, Hữu Chỉnh khuyên vua Thái Đức đánh Phú Xuân để khôi phục lại đất đai của Chúa Nguyễn trước đây. Vua Thái Đức đồng ý, liền cử Nguyễn Huệ làm chỉ huy cùng các tướng Nguyễn Hữu Chỉnh và phò mã Vũ Văn Nhậm (con rể vua Thái Đức) bắc tiến.
Quân Trịnh ở Phú Xuân bị quân Tây Sơn dùng kế lừa khiến mất cảnh giác và nghi ngờ lẫn nhau. Tháng 5 năm 1786, Nguyễn Huệ nhanh chóng đánh chiếm thành Phú Xuân. Nghe theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh – người muốn trả thù Trịnh Tông, Nguyễn Huệ quyết định mang quân ra đánh Thăng Long mà không hỏi ý vua anh. Vua Thái Đức nghe tin em đã mang quân bắc tiến, sai người đuổi theo gọi về nhưng không kịp.
Với khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh", chỉ trong 1 tháng, Nguyễn Huệ đánh bại quân Trịnh, Trịnh Tông tự sát. Nguyễn Huệ tôn phò Nhà Lê và được vua Lê Hiển Tông gả công chúa Lê Ngọc Hân cho.
Vua Thái Đức nghe tin, sợ không kiềm chế được Huệ nữa, vội vã ra bắc gọi em về. Sau khi lựa lời vỗ về em, vua Thái Đức tự mình cầm quân, thay đổi hết nhân sự do em sắp đặt rồi mới gặp gỡ vua Lê Chiêu Thống vừa lên ngôi. Trong cuộc hội kiến, Lê Chiêu Thống xin cắt đất Nghệ An cho Tây Sơn. Nguyễn Nhạc trả lời:
"Tôi tức giận Nhà Lê bị họ Trịnh áp chế nên đứng ra tôn phò. Nếu đất đai không phải của Nhà Lê thì một tấc tôi cũng không để. Nhưng nếu là của Nhà Lê, một tấc tôi cũng không lấy".
Đêm 17 tháng 8, ông cùng Nguyễn Huệ bí mật rút quân về nam. Nguyễn Hữu Chỉnh nghe tin vội chạy theo, Nguyễn Nhạc cho làm quan ở Nghệ An.
Anh em bất hoà
Sử sách không ghi chép rõ về nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh em Tây Sơn. Các sử gia Nhà Nguyễn cho rằng vì Nguyễn Nhạc đã thông dâm với vợ Nguyễn Huệ (tuy nhiên phân tích hiện đại cho thấy câu chuyện này chỉ là nhà Nguyễn hư cấu ra để bôi nhọ nhà Tây Sơn, vì vợ Nguyễn Huệ ở cùng chồng tại Phú Xuân, cách rất xa nơi ở của Nguyễn Nhạc tại Bình Định, nên Nguyễn Nhạc không thể gặp vợ của Nguyễn Huệ để mà tư thông). Có tài liệu nói lý do hợp lý hơn, đó là Nguyễn Nhạc yêu cầu Nguyễn Huệ nộp vàng bạc cướp được từ kho của họ Trịnh ở Bắc Hà mang về nam nhưng Huệ không chịu; hơn thế vua em lại xin vua anh cho cai quản thêm Quảng Nam và vua anh không chấp thuận, do đó Nguyễn Huệ làm liều mang quân vào nam đánh anh cả Nguyễn Nhạc.
Có ý kiến bàn thêm rằng, chủ trương của Nguyễn Nhạc là tập trung tiêu diệt Chúa Nguyễn, chỉ đánh chiếm phần đất của Chúa Nguyễn để thay thế cai trị tại miền Nam và giữ hòa bình với Bắc Hà, cho nên việc Nguyễn Huệ tự ý đem quân bắc tiến là trái ý vua anh. Ngay khi biết tin Nguyễn Huệ đánh Thăng Long, vua Tây Sơn vội mang quân ra bắc, thực chất là để gọi em về. Mặt khác, Nguyễn Nhạc không yên tâm với sự phát triển thế lực riêng của Nguyễn Huệ. Trong khi đó, là người có hùng tâm, Nguyễn Huệ có chủ trương tự lực phát triển ra ngoài tầm kiềm chế của vua anh và việc bắc tiến của ông không hẳn chỉ vì lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh.
Sử cũ ghi rất vắn tắt và không thật rõ ràng về sự kiện này. Nguyễn Nhạc về Quy Nhơn nhưng Nguyễn Huệ ở lại Phú Xuân, không theo về như những lần đi đánh bá tánh Gia Định trước đây. Danh tiếng Nguyễn Huệ lên cao, tự tôn là Đức Chúa. Nguyễn Nhạc sợ ảnh hưởng đến quyền lực của mình, doạ trị tội Nguyễn Huệ. Khoảng đầu năm 1787 Nguyễn Huệ viết hịch kể tội Nguyễn Nhạc và mang 6 vạn quân nam tiến vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vây ngặt bèn gọi Đặng Văn Trấn, đang trấn thủ Gia Định, ra cứu. Trấn vâng lệnh mang quân ra, nhưng đến Phú Yên đã bị Nguyễn Huệ bắt sống. Nguyễn Huệ nã pháo tới tấp vào thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải lên thành khóc xin em đừng đánh thành nữa. Nguyễn Huệ bằng lòng giảng hòa với anh.
Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn và phong vương cho hai em, mỗi người chia nhau giữ một khu vực từ tháng 4 năm 1787:
Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định.
Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc.
Như vậy vua Thái Đức đã thoả mãn yêu cầu được cai quản Quảng Nam của em trai. Ở vào thời điểm vinh quang nhất của phong trào Tây Sơn trong công cuộc thống nhất đất nước 1786 – 1787 mà Nguyễn Huệ là người tiêu biểu nhất thì phong trào Tây Sơn đã bị Nguyễn Nhạc phong kiến hóa.
Tới cuối năm 1788, nhận thấy việc phân phong giữa 3 anh em làm suy yếu sức mạnh chung của Nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc quyết định từ bỏ địa vị "Trung ương Hoàng đế" và giao lại binh quyền và lãnh thổ cho người em trai là Nguyễn Huệ. Ông lui về làm Tây Sơn Vương, về ở tại Quy Nhơn là nơi đất tổ, còn Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Quang Trung. Đến lúc này Nhà Tây Sơn đã thống nhất được vị trí lãnh đạo.
Lại mất Nam bộ
Anh em vua Thái Đức mâu thuẫn khiến đối thủ lợi dụng ngay lập tức. Ở phía bắc, họ Trịnh ngóc đầu dậy rồi Nguyễn Hữu Chỉnh ra sức hoành hành. Ở phía nam, Nguyễn Phúc Ánh cũng nhân cơ hội lực lượng Tây Sơn bị chia rẽ để quay trở về đánh lại Gia Định (tháng 7 năm 1787).
Người em Đông Định vương chưa đánh nhau với quân chúa Nguyễn đã bỏ chạy về Biên Hoà, bỏ Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau lại chạy luôn một mạch về Quy Nhơn rồi ốm và qua đời khiến vua Thái Đức mất một chỗ dựa về tinh thần. Mặc dù tháng 10 năm 1787, ông đã điều Nguyễn Văn Hưng vào tiếp viện cho Phạm Văn Tham, nhưng sau khi hai người vây đánh Nguyễn Ánh ở Mỹ Lung không hạ được, Hưng lại rút quân về Quy Nhơn. Không hẳn việc Hưng rút về Quy Nhơn là theo lệnh của vua Thái Đức. Dù Hưng tự ý rút nhưng ông không trừng phạt tướng này cho thấy ông không còn quyết tâm và đủ nhuệ khí với chiến trường Nam bộ nữa, hoàn toàn phó thác cho Phạm Văn Tham. Những diễn biến sau này từ chiến trường Nam bộ cho thấy đây là sai lầm lớn của ông.
Không có người hợp sức, Phạm Văn Tham bị đơn độc và dần dần trở nên yếu thế trước lực lượng ngày càng lớn mạnh của Nguyễn Ánh. Ánh chuyển từ phòng ngự sang tấn công. Tới tháng 8 năm 1788, thành Gia Định mất, Tham phải chạy ra ngoài tiếp tục chiến đấu. Tướng này chiến đấu bền bỉ đến tận đầu năm 1789 sau khi Nguyễn Huệ đá đánh xong quân Thanh, nhưng vì bị Nguyễn Ánh vây ngặt và chặn đường biển về Quy Nhơn, buộc lòng phải đầu hàng.
Trong khi đó vua em Bắc Bình vương vừa so gươm với ông đang quyết chí theo đuổi ý tưởng chinh phục phía bắc để xây dựng sự nghiệp riêng. Không phải vua em không quan tâm tới chiến trường Nam bộ nhưng nguy cơ ở Bắc hà liên tiếp xảy ra không yên, từ họ Trịnh rồi Nguyễn Hữu Chỉnh và sau đó là Vũ Văn Nhậm và chính Lê Chiêu Thống dẫn quân Thanh về không phải nhỏ. Do đó Nguyễn Huệ không thể dồn hết lực lượng vào chiến trường Nam bộ lúc đó. Lực lượng của vua Thái Đức đã hao mòn, lại mất hết nhuệ khí và ông cũng không có phương pháp nào vực dậy.
Từ bỏ đế hiệu, giao quyền cho Nguyễn Huệ
Giữa anh em vua Thái Đức dù giảng hoà nhưng chưa hoàn toàn xoá bỏ hiềm nghi. Ông vẫn ngầm mang ý định giành lại quyền lực. Nhân tướng Nguyễn Văn Duệ dưới trướng Nguyễn Huệ vốn được giao giữ Nghệ An để đề phòng Nguyễn Hữu Chỉnh lại ngả theo Nguyễn Nhạc, ông bèn tranh thủ sự ủng hộ của viên tướng này. Tháng 3 năm 1788, Nguyễn Duệ vào Quy Nhơn theo Nguyễn Nhạc rồi mang quân đánh ra Quảng Nam do Nguyễn Huệ quản lý. Duệ nhanh chóng bị đánh tan. Duệ bị bắt và xử tử.
Anh em còn hiềm nghi nên Nguyễn Huệ không thể dễ dàng mang đại quân qua vùng Nguyễn Nhạc quản lý vào Nam Bộ. Sau cái chết của Nguyễn Văn Duệ và sau đó là Vũ Văn Nhậm và diễn biến chiến trường Nam Bộ, vua Thái Đức đã tỏ ra bất lực và không gượng dậy được. Không thể kìm chế người em hùng lược và thực lực đã suy, cuối năm 1788, ông từ bỏ đế hiệu và niên hiệu Thái Đức, tự xưng là Tây Sơn vương, đổi tên thành Hoàng Đế là thành Quy Nhơn. Ông viết thư cho Nguyễn Huệ, chỉ xin giữ phủ Quy Nhơn và nhường toàn bộ binh quyền, đất đai trong cả nước cho vua em; đồng thời ông cầu khẩn vua em mang gấp đại binh vào cứu Nam bộ (chiếu lên ngôi của Quang Trung nói rõ vấn đề này, trong đó có đoạn "...về phần đại huynh (Nguyễn Nhạc) có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Quy Nhơn, tự nhún xưng là Tây Vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc hết về trẫm...).
Tuy nhiên lúc đó Bắc Bình vương dù biết lời cầu khẩn của ông nhưng không thể vào nam tham chiến vì 20 vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống rước về đã vượt qua biên giới. Nguy cơ phía bắc rõ ràng lớn và gấp hơn nên vua em buộc phải hoãn việc nam tiến thêm một thời gian nữa.
Kế hoạch dở dang
Mặc dù vua em Quang Trung đã đại thắng quân Mãn Thanh (1789) nhưng sau đó vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc hà do tàn dư của Nhà Lê còn sót lại và sức ép ngoại giao từ phía Nhà Thanh. Vì vậy, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, ông chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.
Sau khi ổn định tình hình Bắc hà, Quang Trung quyết tâm tiêu diệt Nguyễn Ánh. Ông ra sức trấn an vua anh và nhân dân trong vùng do vua anh cai quản để chuẩn bị nam tiến. Quang Trung sai Vũ Văn Dũng đi "xin" Càn Long đất Quảng Đông, Quảng Tây, thu phục quân "Tàu ô", sai đánh phá biên giới Trung Quốc cốt để Nhà Thanh bị cuốn vào hoạt động ngoại giao và chống giặc cướp để cho ông có thời gian hỗ trợ vua anh dồn lực lượng vào chiến trường miền nam.
Để chuẩn bị phối hợp với vua em, năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền đóng ở cửa Thi Nại để nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm, chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào. Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây Sơn vương không phòng bị, lại phải thu quân về Quy Nhơn.
Để báo thù trận đó, vua em Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20 vạn quân thủy bộ, chia làm ba đường:
Vua anh và quân "Tàu ô" cùng theo đường bộ từ Phú Yên vào đánh Gia Định
Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho sang Xiêm.
Quân thủy của Quang Trung sẽ tiến vào đón lõng tận Hà Tiên đổ bộ lên đất liền để ngăn Ánh chạy ra biển.
Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên cái chết đột ngột của vua em Quang Trung tháng 9 năm 1792 khiến kế hoạch nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực.
Từ trần
Được tin Nguyễn Huệ chết nhưng Nguyễn Nhạc không thể ra viếng vì quân của cháu là Nguyễn Quang Toản (Cảnh Thịnh) ngăn giữ phòng bị. Nguyễn Ánh biết sự kiện này mang quân bắc tiến đánh Quy Nhơn do sự nghi kỵ nội bộ giữa bác cháu Nhà Tây Sơn.
Nguyễn Ánh đánh ra Quy Nhơn. Các cánh quân dưới quyền Tây Sơn vương đều yếu ớt nhanh chóng bại trận hoặc bỏ chạy, để mất Phú Yên. Quân Nguyễn Ánh tiến ra vây hãm thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc ốm yếu không thể cầm quân nên sai con là Quang Bảo ra cự địch. Thành bị vây hãm 3 tháng. Trong tình thế nguy cấp, ông phải viết thư cầu cứu cháu. Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng mang quân vào cứu, quân Nguyễn Ánh phải rút lui về Phú Yên.
Dù Nguyễn Nhạc đã sai mang vàng bạc ra khao quân Phú Xuân nhưng Công Hưng vẫn chiếm cứ thành Quy Nhơn, kê biên kho tàng của Nhạc. Thấy kho báu bao năm của mình sắp truyền cho con bị chính cháu ruột (con Nguyễn Huệ) đoạt mất, ông uất ức ho ra máu rồi chết.
Nguyễn Nhạc ở ngôi tổng cộng 10 năm (1778 – 1788), xưng hiệu Thái Đức đế, sau đó tự hạ xuống làm vương, xưng là Tây Sơn vương được 5 năm (1788 – 1793).
Về sau, con ông là Quang Bảo bị em họ Quang Toản an trí ra huyện Phù Ly, gọi là Tiểu triều. Bảo không cam chịu, năm 1799 đánh chiếm lại thành Quy Nhơn rồi định theo hàng Nguyễn Ánh. Quân của Ánh chưa tới thì Cảnh Thịnh (con Nguyễn Huệ) đã điều quân vào đánh chiếm thành, giết chết Quang Bảo (con Nguyễn Nhạc).
Khi Nguyễn Ánh tiêu diệt được Tây Sơn, nhớ tới nỗi đau nhà Tây Sơn lật đổ chúa Nguyễn và truy sát mình, liền sai người đào mộ Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, giã hài cốt thành bột. Hộp sọ bị mang bỏ vào vò và giam cầm trong ngục thất. Dân gian sau này gọi là "Ông Vò".
Gia quyến
Theo sách Nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc có vợ và các con như sau:
Vợ
Bà Trần Thị Huệ
Bà Đặng thị Ngọc
Bà Ya Dố: gọi là cô Hầu, người Ba Na. Những ngày xây dựng căn cứ khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn, bà có công giúp ông xây dựng hậu cần cho quân khởi nghĩa.
Bà Mịch Chi gốc quảng đông
Con
Con gái:
Thọ Hương công chúa: năm 1775, định gả cho chúa Nguyễn Phúc Dương nhưng Dương từ chối; năm 1778, khi Nguyễn Nhạc đã xưng đế, lại gả cho Vũ Văn Nhậm.
1 cô con gái khác gả cho Trương Văn Đa.
Con trai:
Nguyễn Văn Bảo: hay còn gọi là Nguyễn Bảo sinh năm 1776, năm 1793 bị Cảnh Thịnh phế làm Tiểu triều, cho ăn lộc một huyện Phù Ly, rồi giết chết vào năm 1799.
Nguyễn Thanh
Nguyễn Hân
Nguyễn Dũng
Nguyễn Văn Đức: bị Minh Mạng chém ngang lưng
Nguyễn Văn Đâu: bị Minh Mạng chém ngang lưng
Nguyễn Văn Trượng: trốn thoát vào Gia Định nên thoát khỏi truy giết của Minh Mạng.
Nguyễn Văn Lương: bị Minh Mạng chém ngang lưng
Nguyễn Thanh, Nguyễn Hân, Nguyễn Dũng bị Nguyễn Ánh bắt năm 1802 và bị giết.
Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Văn Lương bị bắt vào năm 1831 cùng với Nguyễn Văn Đâu (con Nguyễn Văn Đức), Minh Mạng ra lệnh chém ngang lưng. Riêng Nguyễn Văn Trượng con của Nguyễn Văn Đức trốn thoát vào Gia Định.
Nhận định
Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc là người phát động phong trào Tây Sơn. Ông là người đóng vai trò quan trọng nhất trong việc gây dựng phong trào buổi đầu cho đến khi dựng thành một cơ đồ riêng. Vua em Nguyễn Huệ trẻ trung, hùng lược (khi khởi nghĩa mới 18 tuổi) sở dĩ sau này lập được nhiều chiến công hiển hách cũng nhờ vào cơ sở gây dựng ban đầu của ông.
Chính bởi vai trò gây dựng của ông cho Nhà Tây Sơn sau này lớn mạnh và lập được nhiều chiến công (kể cả khi ông không còn vai trò "cầm trịch" đại cuộc), Nhà Nguyễn rất căm ghét ông và các sử gia triều đại này luôn gán cho ông, không chỉ là "tội" với "triều đình" mà còn cả những điều xấu nhiều hơn cả trong 3 anh em Tây Sơn.
Do những chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ, tên tuổi của ông trong những nhà lãnh đạo Tây Sơn có phần bị lu mờ. Thậm chí ngoài các sử gia Nhà Nguyễn, còn không ít nhà sử học ngày nay phê phán những sai lầm của ông và chê ông kém tài. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận khách quan có thể thấy Nguyễn Nhạc đã có những quyết định sáng suốt trong những thời điểm then chốt.
Xuất thân từ biện lại trong vùng núi, Nguyễn Nhạc đã chứng tỏ tài năng kiệt xuất của người đề xướng và lãnh đạo khi biết tập hợp và thu dụng mọi lực lượng trong xã hội để xây dựng thành một đội quân đông đảo, mạnh mẽ, đủ sức quật ngã Chúa Nguyễn. Ông biết tranh thủ không chỉ sức dân trong nước mà còn cả hoạt động ngoại giao với các nước láng giềng như Chân Lạp và sau này là Xiêm La để củng cố thực lực cho mình.
Đứng trước tình thế bị cả quân Trịnh và quân Nguyễn từ hai đằng ép lại, Nguyễn Nhạc tìm ra đường giải nguy là giảng hoà với kẻ địch lớn mạnh hơn lúc đó là họ Trịnh để rảnh tay lo việc phía nam. Hơn nữa, trong thế bị dồn vào chân tường, ông còn mạnh dạn, quyết đoán sử dụng người em Nguyễn Huệ mới 23 tuổi, chưa từng làm chủ tướng, cầm quân đi đánh một trận quyết định (Phú Yên) mà chỉ có thắng mới còn đường sống.
Nguyễn Nhạc biết tận dụng xung đột trong nội bộ gia tộc Chúa Nguyễn để phát động khởi nghĩa. Ông đã giơ khẩu hiệu ủng hộ Nguyễn Phúc Dương. Thậm chí con bài Nguyễn Phúc Dương còn được ông sử dụng tới lần thứ hai trong cuộc chiến chống Chúa Nguyễn (Phúc Thuần). Khi quyền thần Trương Phúc Loan, "tiêu điểm trừ khử" ban đầu đã chết (về tay quân Trịnh), ông lại gả con gái cho Dương để lung lạc một bộ phận tướng sĩ của Chúa Nguyễn và chính con bài chính trị này góp phần giúp Nguyễn Huệ làm nên trận tái chiếm Phú Yên mang ý nghĩa sống còn với chính quyền Tây Sơn.
Ban đầu ông đã có ý định ngăn cản Nguyễn Huệ phát triển tài năng và cơ nghiệp riêng. Hiển nhiên điều đó là khó tránh khỏi, một phản xạ như bản năng của một ông vua khi còn đương quyền và sung sức. Nhưng khi đã nhận ra tài năng của Nguyễn Huệ có thể đảm đương được đại sự và biết thực lực của mình khi về già, Nguyễn Nhạc đã tự nguyện rút lui để nhường ngôi hoàng đế cho em, quyết không để việc tranh chấp trong nhà cho kẻ địch lợi dụng như anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng trước đây và chính anh em Quang Bảo, Quang Toản sau này. Ông đã nhận thấy được hậu quả của cuộc xung đột lần trước khiến kẻ địch lợi dụng và ông đã biết sửa chữa sai lầm. Hành động đó của Nguyễn Nhạc rất đúng đắn và nếu như vua em không sớm ra đi để hoàn thành việc tiêu diệt Nguyễn Ánh, thống nhất giang sơn, xây dựng Việt Nam hùng mạnh, người đời sau sẽ còn ca ngợi đức độ của ông.
Hiển nhiên anh em Tây Sơn, trong đó có Nguyễn Nhạc, đã phạm phải một số sai lầm và Nhà Tây Sơn phải trả giá cho sai lầm của những người lãnh đạo. Tên tuổi của Nguyễn Nhạc có thể không nổi tiếng như Nguyễn Huệ nhưng nói đến khởi nghĩa Tây Sơn, cái tên đầu tiên được nhắc đến là Nguyễn Nhạc
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tranh luận về quan điểm giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ trong việc "đánh nam dẹp bắc" (xem thêm bài về Nguyễn Huệ). Bản ý của vua Thái Đức là chỉ đánh chiếm Phú Xuân để thay thế Chúa Nguyễn cai quản Nam hà mà thôi. Có ý kiến cho rằng ông muốn tập trung sức lực tận diệt lực lượng của Nguyễn Ánh và tham vọng phát triển về phía nam, mở rộng bờ cõi sang Chân Lạp. Việc Nguyễn Huệ bắc tiến Thăng Long hoàn ngoài dự định của ông, không chỉ khiến quân Tây Sơn phải phân tán lực lượng ra bắc mà về mặt cá nhân, sự phát triển lực lượng riêng của Nguyễn Huệ ảnh hưởng đến quyền lực toàn cục của ông, dần dần sẽ khó kìm chế được. Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, một trong số ít những sách mô tả khá sinh động, chân thực về vua Thái Đức, chính lần ra bắc gọi em về, vua Thái Đức đã nói rõ với người Bắc hà quan điểm của ông để người Bắc hà yên tâm rằng ông không hề có ý định chiếm giữ đất này. Ông không muốn kết oán với người Bắc hà, theo ông là một nước lớn có truyền thống lâu đời, và cho rằng, dù đời ông có chiếm được thì đời con cháu ông cũng không giữ được.
Trong văn hoá đại chúng |
Dương Thụ (sinh ngày 10 tháng 2 năm 1943) là một nhạc sĩ của Việt Nam, từng giành được 2 đề cử tại giải Cống hiến. Ông còn có các bút danh khác: Trần Xuân Nam, Vân Đình, Ái Nhạc.
Những nhạc phẩm của Dương Thụ luôn đón nhận được sự yêu thích của khán giả và tạo được dấu ấn riêng. Có nhiều ca sĩ đã từng thể hiện những sáng tác của ông nhưng nhiều nhất và nổi tiếng nhất vẫn là ba diva: Hồng Nhung, Thanh Lam và Mỹ Linh.
Ông là bạn thân của ba nhạc sĩ Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường và gọi họ là Phương "gàn", Tiến "bụi" và Cường "Cuồng nhiệt".
Ngoài ra, Dương Thụ cũng là người đã phát hiện ra Hồng Nhung khi khi đi tuyển diễn viên ca cho Nhà hát Tuổi trẻ và Mỹ Linh, Quốc Trung khi ông làm giám khảo cuộc Liên hoan nhạc nhẹ toàn quốc năm 1993. Ông còn là bạn của nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh và đã từng được người bạn của mình gửi gắm nhạc sĩ Anh Quân ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiểu sử
Dương Thụ sinh năm 1943 tại thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội, thuộc gia tộc họ Dương danh giá có hai cụ cố đỗ tiến sĩ triều Nguyễn và làm quan nhà Nguyễn: Dương Khuê và Dương Lâm tức 'cụ Thiếu Vân đình'. Ông là cháu họ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Giáo sư Tiến sĩ Dương Thiệu Tống. Do sinh ra trong gia đình địa chủ, nên trong cuộc cải cách ruộng đất, gia đình ông đã ly tán, do đó ông phải tự mình kiếm sống để đi học.
Trong những năm cấp 3, Dương Thụ học piano với gia đình nghệ sĩ Thái Thị Sâm tại trường âm nhạc tư thục của cụ Lưu Quang Duyệt ở Hà Nội. Năm 1965, ông tốt nghiệp Khoa Văn - Đại học Sư phạm Hà Nội, sau đó đi lên dạy học cấp 3 ở Tuyên Quang. Sáng tác đầu tiên của ông được biết tới là Nhớ làng xưa, được phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1962.
Năm 1972, Dương Thụ thi đỗ vào Khoa Sáng tác của Nhạc viện Hà Nội (cùng đợt với Nguyễn Cường và Trần Tiến), tuy nhiên do những rắc rối về hành chính nên năm thứ hai Đại học ông phải trở về Tuyên Quang làm giáo viên dạy Văn tại trường Thanh niên Lao động XHCN Tuyên Quang (Nay là trường THPT ATK Tân Trào thuộc huyện Sơn Dương)
Năm 1978, ông chuyển vào miền Nam, làm Giảng viên khoa lý luận Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1982, Dương Thụ chuyển sang hoạt động âm nhạc chính thức, vừa sáng tác vừa chỉ đạo nghệ thuật cho nhiều đoàn biểu diễn, rồi làm biên tập cho Nhà xuất bản Âm nhạc và Đĩa hát Việt Nam, Tạp chí Âm nhạc của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.
Vào thập niên 1990, những sáng tác của ông bắt đầu được công chúng biết đến và đón nhận. Hàng loạt ca khúc của ông được phát trên sóng phát thanh truyền hình, xuất hiện trong nhiều chương trình, băng đĩa, được rất nhiều ca sĩ thể hiện như Lệ Quyên, Thanh Lam, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Bằng Kiều,...
Tháng 11 năm 2012, Dương Thụ chia sẻ: "Với riêng tôi, Nhung vẫn là người hát hay nhất những gì tôi viết". (Album Bài hát ru cho anh, Ngày không mưa, Khu vườn yên tĩnh). Nhiều ca sĩ trẻ được ông kỳ vọng là Khánh Linh, Nguyên Thảo,... Chương trình "Con đường âm nhạc số 2" mang tên "Im lặng" đã được tổ chức để vinh danh ông.
Đời tư
Vợ ông là Phạm Thị Thu Thủy, kém ông 29 tuổi, hiện là phóng viên Báo Thể thao & Văn hóa, Thông tấn xã Việt Nam. Hai người kết hôn vào năm 1995.
Đánh giá/Nhận xét
{{Cquote| Và cũng là Hà Nội cho ông một con người của... vỉa hè. Dương Thụ yêu vỉa hè Hà Nội, yêu cuộc sống bình dị của Hà Nội. Mỗi khi trở về, việc đầu tiên Dương Thụ làm sau khi xuống khỏi máy bay là đến một quán nước vỉa hè để ngồi, uống nước và hút thuốc lào. Dương Thụ khoe, ông biết nhiều người bán nước vỉa hè và nhiều chủ quán vỉa hè cũng không còn lạ mặt nhạc sĩ. Và những sáng tác của Dương Thụ về Hà Nội đều là những gì bình dị, của gió sông Hồng thổi, của áo len cài vội, của cánh hoa đào vội phai...|200px||Gia Vũ }}
Câu nói ấn tượngPhong cách Dương Thụ:Hà Nội rất đời thường trong Dương Thụ: Danh sách đĩa nhạc
Tác phẩm
Nhạc phẩm
Văn chươngCà phê... mưa Buổi biểu diễn
Chương trình ghi hình
Liveshow
Chú thích |
{{Thông tin nhạc sĩ
| background = ca sĩ hát đơn
| tên = Trần Tiến
| image = Tran Hieu - Tran Thu Ha - Tran Tien (7766740934) (crop).jpg
| caption = Trần Tiến (phải) trình diễn cùng Trần Thu Hà trong đêm diễn tại Hà Nội vào tháng 8 năm 2012
| tên thật = Trần Việt Tiến
| nghệ danh = Trần Tiến
| ngày sinh =
| nơi sinh = Hà Nội
| ngày mất =
| nơi mất =
| nghề nghiệp = Nhạc côngNhạc sĩCa sĩ
| dòng nhạc = PopDân ca đương đại
| nhạc cụ = Guitar
| ca_khúc = Chị tôiSao em nỡ vội lấy chồngMặt trời bé con
| ca sĩ = Trần Thu Hà, Trần Hiếu, Hồng Nhung, Tùng Dương, Ngọc Tân, Y Moan, Quang Lý
|Quê quán=xã Tam Hiệp, Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây}}
Trần Tiến (tên đầy đủ Trần Việt Tiến, 16 tháng 5 năm 1947) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông vừa là nhạc sĩ sáng tác ca khúc quần chúng, vừa là ca sĩ. Ngoài ra, ông từng giành được một đề cử tại giải Cống hiến. Ông hiện sống cùng với vợ ở Vũng Tàu.
Tiểu sử
Trần Tiến sinh ngày 16 tháng 5 năm 1947 trong một gia đình khá giả Hà Nội. Sau 1954, do thành phần gia đình, cơ hội học hành của ông ban đầu bị hạn chế. Ông kể rằng đã trải qua thời trẻ sống lang thang trong những ngõ nhỏ Hà Nội.
Trần Tiến là em trai của ca sĩ Trần Hiếu, chú của ca sĩ Trần Thu Hà.
Năm 16 tuổi, Trần Tiến làm hậu đài cho Đoàn Ca múa Hà Nội. Sau một năm tự học, ông trở thành nghệ sĩ đơn ca của Đoàn và đi biểu diễn ở vùng tuyến lửa lúc bấy giờ như Quảng Bình, Vĩnh Linh. Các bài hát Thanh niên ra tiền tuyến, Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp ra đời trong thời gian này và đã đoạt Giải A cuộc thi Tiếng hát át tiếng bom do Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức.
Năm 1971, Trần Tiến bị sốt rét ác tính và trở ra Bắc. Ông theo học Nhạc viện Hà Nội, tốt nghiệp khoa thanh nhạc và sáng tác năm 1978. Những ca khúc đầu tiên ông sáng tác sau khi tốt nghiệp mang chủ đề yêu nước. Những sáng tác nổi bật nhất của thời kỳ này là:Giai điệu Tổ quốc. Đây là một bài hát ca ngợi lòng yêu nước, về những giai điệu hùng thiêng của sông núi, trong lời hát ru con, trong Truyện Kiều và trong nhịp quân hành của những người lính ra trận.Những đôi mắt mang hình viên đạn, sáng tác về Chiến tranh Việt-Trung 1979, bài hát về đôi mắt của những người mẹ già và trẻ nhỏ từ nơi biên giới, những đôi mắt cháy lên ánh lửa quê hương trở thành động lực cho những người lính Việt Nam.Vết chân tròn trên cát, một khúc ca về những người thương binh trở về sau chiến tranh. Những vết chân tròn trong bài hát từ chiếc nạng gỗ của người cựu chiến binh, người đã tìm cho mình niềm vui trong vai trò người thầy giáo làng quê miền duyên hải, nơi anh chơi cây đàn guitar của mình cho lũ trẻ.
Năm 1987, ông thành lập ban nhạc rock Đen-Trắng và lưu diễn dọc đất nước. Các bài hát của ông trong thời kỳ này có nội dung cổ vũ cho Đổi mới. Một số bài hát trong chương trình biểu diễn Đối thoại 87:Ý nghĩ trong phòng hải quan,Đồng hồ, một bài hát trong đó mượn hình ảnh kim giây để chỉ những người lao động bị sách nhiễu, trong khi kim phút và kim giờ đại diện cho những ông chủ và tầng lớp quan liêu hưởng lợi.Trần trụi 87, ca khúc mạnh bạo nhất và gây tranh cãi nhất của ông. Bài hát nói về sự hi sinh của những người lính và những bà mẹ già đã nuôi giấu chiến sĩ, phê phán chủ nghĩa yêu nước trống rỗng, và kêu gọi người Việt Nam hãy quan tâm lẫn nhau và cùng góp sức xây dựng đất nước.
Trần Tiến đã từng bị công an Thành phố Hồ Chí Minh gọi lên tra vấn nhiều lần vì trình diễn những ca khúc này. Ông kể về việc được cựu Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh "cứu thoát" vì "Trần Tiến không kích động bạo loạn, Trần Tiến kích động yêu nước".
Kể từ thập niên 1990, phong cách sáng tác của Trần Tiến có sự thay đổi từ pop đơn thuần sang phong cách dân gian đương đại và cũng giành được sự đón nhận của khán giả. Những sáng tác tiêu biểu cho phong cách này của ông bao gồm: Tùy hứng lý ngựa ô, Ngẫu hứng sông Hồng, Quê nhà.
Năm 2000, Trần Tiến tổ chức liveshow đầu tiên của mình tại Nhà hát Hòa Bình và được Hãng phim Phương Nam sản xuất mang tên Ngẫu hứng Trần Tiến. Ông là người dẫn chuyện kiêm nhạc sĩ và hát xuyên suốt chương trình với các ca sĩ như Trần Thu Hà, Ngọc Anh (Tam ca 3A), Phương Thanh, Hồng Nhung,...
Năm 2005, ca khúc Mưa bay tháp cổ của ông được ca sĩ Tùng Dương thể hiện thành công và giành giải Bài hát của tháng trong chương trình Bài hát Việt. Năm 2006, những ca khúc của ông như Bình nguyên xa vắng, Ra ngõ mà yêu, Lữ khách sông Hồng, Mưa bay tháp cổ, Quê nhà... xuất hiện trong album Đối thoại 06 của Trần Thu Hà (album được hiểu là sự đối thoại giữa âm nhạc Đông và Tây, giữa nhạc sĩ già - Trần Tiến - và nhạc sĩ trẻ - Nguyễn Xinh Xô).
Năm 2007, ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho các tác phẩm Bài ca thanh niên ra tiền tuyến (1967), Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp (1968), Giai điệu Tổ quốc (1980), Chiếc vòng cầu hôn (1984), Tùy hứng ngựa ô (1987), Chị tôi (1997).
Tháng 9 năm 2008, Hà Trần với công ty riêng của mình đã sản xuất album mới mang tên Trần Tiến, do các ca sĩ Trần Thu Hà, Tùng Dương, David Trần và Hòa Trần thể hiện. Theo Trần Thu Hà, đây sẽ là album Trần Tiến có chất lượng tổng thể tốt nhất từ trước đến nay. Album đã được phát hành ở cả hai thị trường Việt Nam và hải ngoại.
Tháng 12 năm 2020, bộ phim tài liệu về cuộc đời nhạc sĩ Trần Tiến mang tên "Màu cỏ úa" được ra rạp, bộ phim do đạo diễn Lan Nguyên thực hiện và được đón nhận nhiệt liệt.
Tối ngày 9 tháng 5 năm 2022, ông cùng rapper Đen Vâu ra mắt MV "Đi trong mùa hè" lấy cảm hứng chủ đề về bóng đá. Theo đại diện truyền thông của MV, mục đích của MV là "khơi dậy niềm tự hào, truyền tải ước mơ về chiến thắng vinh quang, kể câu chuyện về bóng đá qua nhiều góc nhìn thú vị, gần gũi". "Đi trong mùa hè" có những cảnh quay hoành tráng, tái hiện khoảnh khắc "đi bão" ăn mừng chiến thắng của người hâm mộ bóng đá Việt Nam.
Tối 13 tháng 5 năm 2023, hành trình hơn 50 năm sáng tác, "phiêu bạt, say mê âm nhạc" của Trần Tiến được khắc họa trong chương trình đêm nhạc "Nửa thế kỷ phiêu bạt" tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia. Với đêm nhạc này, nhạc sĩ Trần Tiến đã “kể” cho khán giả về cuộc đời mình với những thăng trầm như những nốt nhạc trầm bổng du dương. Đêm nhạc cũng mang ý nghĩa hướng tới chào mừng sinh nhật lần thứ 76 của nhạc sĩ Trần Tiến vào ngày 16/5.
Nhận xét
Giải thưởng
Năm 1979: Giải nhất 10 bài hát được quần chúng ưa thích trong năm do báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh bình chọn.
Năm 1990, bài Sao em nỡ vội lấy chồng đoạt giải thưởng Trung ương Đoàn về đề tài Dân số - Kế hoạch hoá gia đình
Năm 1992, bài Chiếc vòng cầu hôn đoạt giải bài hát hay nhất năm 1992-1993 do Đài Truyền hình Việt Nam bình chọn
Năm 1999, bài Chị tôi giành giải Mai vàng cho Nhạc sĩ xuất sắc.
Năm 1975-1985, đoạt danh hiệu "Nhạc sĩ được yêu thích nhất 10 năm sau giải phóng" do báo Tuổi Trẻ' và Hội Nhạc sĩ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức bình chọnNăm 2007, Trần Tiến được Giải thưởng nhà nước chuyên ngành nhạc.
Danh sách đĩa nhạc
Album phòng thu
Album tuyển tập
Nhạc phẩm
Bình nguyên xa vắng
Chào cuộc đời
Chị tôi
Chiếc vòng cầu hôn
Chim sẻ tóc xù
Cho tôi xin em đứa con trai
Chuyện 5 người
Chuyện tình thảo nguyên
Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp
Cô bé vô tư
Viết lời Việt cho bài Donna Donna
Dòng sông mùa thu
Đi trong mùa hè (với Đen Vâu)
Điệp khúc tình yêu
Độc huyền cầm
Những đôi mắt mang hình viên đạn
Đồng hồ
Đời doanh nhân
Em vẫn như ngày xưa
Giai điệu tổ quốc
Giấc mơ Chapi
Hà Nội ngày ấy
Hà Nội những năm 2000
Không gục ngã
Lambada quê ta
Lá diêu bông
Lữ khách sông Hồng
Mặt Trời bé con
Mẹ tôi
Một mình
Mùa thu trắng
Mùa xuân gọi
Mưa bay tháp cổ
Nếu bạn tìm tới Lênin - Hồ Chí Minh
Ngẫu hứng khi đi qua hải quan
Ngẫu hứng lý qua cầu
Ngẫu hứng Sông Hồng
Ngẫu hứng phố
Ngọn lửa cao nguyên
Ngũ sắc biển
Ngựa ô thương nhớ
Người thích tình ca
Nhăng nhố
Nhớ những dáng hoa
Nhức nhối (Ối a)
Phiêu bạt
Phố nghèo
Phố núi
Quê nhà
Ra ngõ mà yêu
Ra ngõ tụng kinh
Rock đồng hồ
Sao em nỡ vội lấy chồng
Sắc màu
Sen hồng hư không
Sói con ngơ ngác
Tạm biệt chim én
Thanh niên ra tiền tuyến
Thành phố trẻ
Tiếng trống Paranưng
Tóc gió thôi bay
Tôi cô đơn như một ngọn cờ
Tôi yêu bóng đá
Trái tim nhiều ngăn
Trắng đen
Trần trụi 87
Trống rỗng
Tùy hứng Lý qua cầu
Về đi em
Vết chân tròn trên cát
Vô tình
Ý nghĩ trong phòng hải quan
Văn học
Ngẫu hứng'' (2016), là cuốn sách đầu tiên của Nhạc sĩ Trần Tiến, gồm 27 khúc ngẫu hứng văn xuôi.
Vấn đề sức khỏe
Tháng 10 năm 2020, một số trang truyền thông đưa tin cho rằng nhạc sĩ Trần Tiến đang mắc bệnh ung thư vòm họng giai đoạn 4, nhưng sau đó ca sĩ Trần Thu Hà đã đính chính về tình trạng của nhạc sĩ rằng Trần Tiến chỉ bị yếu một mắt lên Sài Gòn để điều trị, đã ra viện và trở lại Vũng Tàu dưỡng bệnh..
Tháng 1 năm 2021, trên mạng xã hội chia sẻ thông tin nhạc sĩ Trần Tiến qua đời vì ung thư vòm họng. Tuy nhiên sau đó, chính nhạc sĩ đã bác bỏ thông tin này..
Tháng 4 năm 2023, nhạc sĩ trải lòng về 30 lần xạ trị ung thư và có những lúc tưởng chừng không gượng dậy nổi. Trong những ngày tháng gian nan này, ông sáng tác bài "Không gục ngã", và khi xuất hiện sau quá trình điều trị, tại buổi công bố live concert mang tên "Trần Tiến - Nửa thế kỷ phiêu bạc", ông đã biểu diễn bài hát tặng những người yêu mến mình..
Chú thích |
Phó Đức Phương (23 tháng 7 năm 1944 - 19 tháng 9 năm 2020) là một nhạc sĩ sáng tác ca khúc quần chúng dòng nhạc trữ tình Việt Nam, từng nhận được 1 đề cử tại giải Cống hiến. Quê ông ở Đa Ngưu -Tân Tiến (Văn Giang - Hưng Yên). Ông từng là Giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC) và là phó chủ tịch Hội âm nhạc Hà Nội. Ông qua đời ngày 19 tháng 9 năm 2020 vì ung thư tụy.
Tiểu sử
Phó Đức Phương sinh năm 1944, tuổi Giáp Thân, quê quán ở Văn Giang, Hưng Yên. Ông có người chú ruột là nhà cách mạng Phó Đức Chính - đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng - nổi tiếng .
Năm 1962, ông học khoa Toán trường Đại học Sư phạm. Năm 1965, ông làm nông trường viên chăn nuôi thuộc nông trường Cửu Long (Hòa Bình) rồi năm 1966, trở về thi vào trường Âm nhạc Việt Nam. Năm 2002, Phó Đức Phương làm giám đốc Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam do chính ông cùng 200 nhạc sĩ khác kiến nghị lên Quốc hội, Trung ương Đảng, Chính phủ.
Nhạc sĩ Phó Đức Phương qua đời trưa ngày 19 tháng 9 năm 2020 sau thời gian chống chọi với bệnh ung thư tụy, không lâu sau sinh nhật 77 tuổi.
Nhạc phẩm
Giải thưởng
Ông đã được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học - nghệ thuật đợt 1-2001. Cùng nhiều huân huy chương khác.
Album đã phát hành
Album phòng thu
Trên đỉnh Phù Vân Phó Đức Phương I Saigon Audio (1997)
Một thoáng Tây Hồ Phó Đức Phương II Saigon Audio (1997)
Chảy đi sông ơi Phó Đức Phương III Saigon Audio (1998)
Album biên tập
Khúc hát phiêu ly (với ca sĩ Minh Thu) Dihavina (2006)
Minh Thu hát Phó Đức Phương (với ca sĩ Minh Thu) Hồ Gươm Audio (2015)
Liveshow trong sự nghiệp
Con đường âm nhạc Phó Đức Phương Những giấc mơ trên sóng (9/2005)
Phó Đức Phương-Trên đỉnh Phù Vân (29/12/2016)
Phó Đức Phương-Khúc hát phiêu ly (10/7/2020) |
Ung thư da gồm có hai loại: mêlanôm (tiếng Anh Melanoma) và không mêlanôm (về mêlanôm xin xem Mêlanôm ác). Melanoma là trường hợp nguy hiểm nhất nhưng cũng là trường hợp ít gặp nhất trong ung thư da. Ung thư da không mêlanôm chủ yếu có hai loại thường gặp là carcinôm tế bào đáy và carcinôm tế bào vảy. Ung thư da là loại ung thư thường gặp nhất, nhiều hơn tất cả các loại ung thư khác cộng lại. Hầu hết các ung thư da có thể phát hiện sớm dễ dàng. Tuy nhiên về mặt lâm sàng nhận ra các đặc điểm diễn tiến mạnh của bướu rất quan trọng để có kế hoạch điều trị và tiên lượng chính xác. Vì cơ hội điều trị hợp lý lần đầu sẽ ít để lại dư chứng, bảo tồn tốt chức năng và thẩm mỹ cũng như ít tốn kém. Mỗi năm hơn một triệu người ở Hoa Kỳ bị nhiễm loại bệnh này.
Dịch tễ học và nguyên nhân
Ai cũng có thể bị nhiễm ung thư da nhưng có một số yếu tố làm tăng tỉ lệ bị ung thư da như:
Đi tắm nắng quá nhiều hoặc bị phỏng nặng.
Sử dùng giường hoặc công nghệ tắm nắng.
Có làn da cực kì nhạy cảm, chỉ tiếp xúc với ánh nắng một tí thôi là sẽ gây nguy hiểm.
Gia đình hoặc chính mình đã bị ung thư da.
Bị tàn nhang hoặc bị mất nhiều chất trong da.
Bệnh học
Diễn tiến
Chẩn đoán
Ngoài việc kiểm tra da hàng năm do bác sĩ thực hiện, sử dụng quy trình để tìm các đặc điểm da bất thường trên cơ thể.
Không đối xứng: Một triệu chứng cảnh báo liên quan đến ung thư da là sự không đối xứng của các vết nốt ruồi. Nếu bạn nhận thấy một nốt ruồi có hình dạng không đều, nên kiểm tra với bác sĩ.
Viền ngoài: Kiểm tra viền ngoài của những vết nốt ruồi bạn nghi ngờ. Nếu viền ngoài của chúng mịn màng và đều, có khả năng chúng không phải là ung thư. Tuy nhiên, nếu chúng có viền răng cưa hoặc không đồng đều, có thể cần phải kiểm tra thêm.
Màu: Một nốt ruồi khỏe mạnh chỉ có một màu. Vì vậy, nếu nốt ruồi của bạn có màu đen trộn với màu nâu trong đó, nó có một cơ hội bị ung thư cao hơn.
Đường kính: bác sĩ da liễu nói nốt ruồi rộng khoảng 6mm hoặc hơn nên kiểm tra khả năng gây ung thư của chúng.
Độ nổi: Một điều cần xem xét là độ nổi của nốt ruồi của bạn. Một nốt ruồi bị nâng lên hoặc nốt ruồi phát triển nhanh chóng về bề nổi có thể dẫn tới ung thư.
Xếp giai đoạn
Điều trị
Đông lạnh
Người ta có thể phá huỷ các tế bào dày sừng hoặc các ung thư nhỏ giai đoạn sớm bằng cách làm đông lạnh chúng với ni-tơ lỏng. Mô chết sẽ bị tróc ra sau khi giải đông. Biện pháp này cũng có thể dùng để điều trị các vết sẹo trắng nhỏ.
Phẫu thuật
Áp dụng cho tất cả các loại ung thư da. Bác sĩ cắt bỏ mô ung thư và bao phủ vùng bị cắt bởi mô da bình thường. Ung thư tế bào hắc tố thường phải khoét rộng hơn do mô ung thư ăn sâu hơn. Phẫu thuật viên cần phải có kinh nghiệm phục hình da để tránh sẹo xâu nhất là vùng da mặt.
Điều trị bằng laser
Chùm sáng năng lượng cao và được điều khiển rất chính xác có thể ngăn chặn, phá huỷ vùng mô bệnh và một khu vực nhỏ mô bao quanh với khả năng chảy máu, sưng tấy cũng như sẹo xấu rất thấp. Thường sử dụng biện pháp này cho các sang thương ung thư và tiền ung thư bề mặt, ngay cả ở môi.
Phẫu thuật Moh
Dùng cho các sang thương ung thư da lớn hơn, tái phát hoặc khó điều trị, cho cả loại ung thư tế bào đáy và tế bào sừng. Phẫu thuật cắt bỏ từng lớp da bị ung thư, kiểm tra dần từng lớp bên dưới cho đến lớp tế bào lành. Không gây nhiều tổn thương cho vùng da bình thường xung quanh.
Xạ trị
Dùng tia phóng xạ điều trị mỗi ngày, thường kéo dài khoảng 1 - 4 tuần, có thể phá huỷ các tế bào đáy hoặc sừng ung thư nếu không có chỉ định phẫu thuật.
Hoá trị liệu
Trong phương pháp này, người ta dùng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây nguy hại cho tế bào bình thường. Thuốc có thể dùng thoa tại chỗ hoặc dùng đường uống, chích tĩnh mạch.
Theo dõi |
Ngôn ngữ học châu Âu là ngành ngôn ngữ học khá mới mẻ, nghiên cứu về các ngôn ngữ tại châu Âu. Tuy nhiên, ở đây châu Âu không được hiểu theo nghĩa nhất định. Có ba cách định nghĩa về châu Âu, dựa trên:
Chính trị (ngôn ngữ của Cộng đồng châu Âu)
Địa lý (từ Đại Tây Dương đến sông Ural)
Nhân loại học (ngôn ngữ của những quốc gia đặc trưng bởi di sản tiểu Hy Lạp và Latin (gồm những quy tắc luật pháp), (sự đa dạng về Thiên chúa Giáo La Mã (phương Tây) (và sự phát triển của nó trong giai đoạn Phong trào Cải cách Giáo hội La Mã đến Phong trào Phản đối cải cách Giáo hội Tin Lành), việc sử dụng mẫu tự Latin, sự tách biệt tôn giáo và phi tôn giáo, chủ nghĩa đa nguyên và cá nhân, lịch sử chung về nghệ thuật (theo nghĩa rộng) và lịch sử chung về giáo dục)
Lịch sử ra đời
Thuật ngữ Eurolinguistics (ngôn ngữ học châu Âu) lần đầu tiên được Norbert Reiter đưa ra vào năm 1991 (từ Eurolinguistik của tiếng Đức). Ngoài những công trình nghiên cứu về ngôn ngữ châu Âu, thì công trình của Harald Haarmann đã bao quát những vấn đề cần nghiên cứu; vấn đề này vốn cũng đã được Maio Wandruszka theo đuổi. Tuy nhiên thực tế cho thấy Wandruszka muốn các công trình khoa học (kể cả một số từ điển bách khoa) nghiên cứu một số ngôn ngữ lớn tại châu Âu: tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha. Ngoài ra tiếng Đức được hiểu là tiếng Đức của người Đức, tiếng Pháp của người Pháp, v.v. Việc nhận biết sự đa dạng dân tộc cũng mới chỉ bắt đầu góp một phần nào đó trong ngôn ngữ học châu Âu. Trong những năm gần đây một số vấn đề được giải quyết chủ yếu bởi Hội Ngôn ngữ học châu Âu (Eurolinguistischer Arbeitskreis Mannheim - ELAMA). Cổng Internet Euro LinguistiX (EliX) cung cấp từ điển, diễn đàn thảo luận và tạp chí online nhằm giải quyết một số vấn đề "lịch sử văn hóa ngôn ngữ", 'xã hội học ngôn ngữ", "chính trị ngôn ngữ" và "giao tiếp xuyên văn hóa". Những khái niệm cơ bản vền ngôn ngữ châu Âu đã được Joachim Grzega giới thiệu và cho xuất bản.
Đặc điểm chung
Những kết quả nghiên cứu sau đây dựa vào định nghĩa văn hóa nhân loại học châu Âu.
Lịch sử về hệ thống chữ viết
Hệ thống chữ viết sử dụng ở châu Âu dựa vào nguyên tắc âm thanh-ký tự, bắt nguồn từ phía Bắc Semitic (thuộc hệ ngôn ngữ Semit – Do Thái và Ả Rập) (2000-1700 TCN), được người Hy Lạp sử dụng và từ đó truyền cho người La Mã (thế kỷ thứ 6 TCN). Chữ cái Latin được phát triển thành những dạng chữ viết khác. Trước đây ở châu Âu, dưới triều đại Frank (Carolingian), nét chữ La Tinh rất đa dạng. Và từ đây chữ viết được phát triển thành hai nhánh, Gothic/Fracture/German truyền thống, vốn được người Đức sử dụng ở thế kỷ 20, và nhánh thứ hai là tiếng Ý/Italic/Antiqua/Latin truyền thống vẫn được sử dụng. (Loại đặc biệt về chữ cái Latin trong tiếng Gaeilge (tiếng Ireland) vẫn được sử dụng trong rất nhiều cuốn sách viết bằng tiếng này).
Đối với một số quốc gia thì việc hội nhập châu Âu nghĩa là loại bỏ chữ viết cổ, ví dụ như những quốc gia sử dụng tiếng Germanic đã không còn chữ viết run (hay futhrk) (giữa thế kỷ thứ 3 đến 17), và những người sử dụng tiếng Ireland đã bỏ đi chữ viết Ogham (thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 7).
Đặc điểm âm thanh
Hệ thống âm thanh giữa các ngôn ngữ rất khác biệt. Ngôn ngữ châu Âu khá đặc trưng về sự thiếu vắng những âm "click". Người ta có thể nghĩ tới những đặc điểm âm thanh ngôn ngữ cụ thể nào đó chẳng hạn như thanh điệu hầu hết người châu Âu biết đến trong tiếng Trung Quốc hay tiếng Việt. Nhưng ở châu Âu cũng có ngôn ngữ sử dụng thanh điệu: tiếng Croatia (ví dụ: léta là "anh ta bay, đang bay" nhưng lèta là "năm" (lịch), và tiếng Slovenia (ví dụ: sùda là "của chiếc tàu" trong khi súda là "của tòa án". Đối với tiếng Slovenia việc sử dụng thanh điệu tuy nhiên cũng đang giảm dần, nhưng hầu như ở ngữ cảnh nào người ta cũng có thể hiểu được. Ở Thụy Điển, tiếng Thụy Điển (không phải tiếng Thụy Điển của người Phần Lan) thanh điệu cũng tìm thấy ở một số từ chẳng hạn như anden "con vịt" trái lại với àden "ma quỷ".
Đặc điểm ngữ pháp
Như đã được đề cập ở phần dẫn nhập tổng quát, chúng ta có thể phân biệt ba loại hình ngôn ngữ cấu trúc:
Phân tích (nghĩa là chức năng ngữ pháp /câu được diễn đặt qua hình thức phân tích và tuân theo quy luật trật tự từ khá nghiêm ngặt, ví dụ nguyên tắc trật tự từ theo chủ ngữ và động từ trong tiềng Anh),
Kết dính (nghĩa là chức năng ngữ pháp/câu được diễn đạt qua tiếp vị ngữ, mỗi tiếp vị ngữ diễn đặt chính xác một chức năng) và
Biến hình (nghĩa là chức năng ngữ pháp/câu được diễn đạt qua tiếp vị ngữ, mỗi tiếp vị ngữ diễn đạt nhiều chức năng).
Ngôn ngữ châu Âu hiếm khi đơn thuần chỉ là một trong những loại hình trên. Đối với loại hình thứ nhất (phân tích), tiếng Anh hiện đại là một ví dụ tiêu biểu; đối với loại hình thứ ba (biến hình) thì tiếng Anh cổ và tiếng Đức hiện đại là những đại diện tiêu biểu; đại diện cho loại hình thứ hai (kết dính) là tiếng Phần Lan và Hungary. Nếu một ngôn ngữ không thuộc loại hình phân tích thì cũng không có nghĩa là nó không có quy luật về trật tự từ. Tiếng Latin, Phần Lan và những ngôn ngữ thuộc nhóm Slavic có trật từ từ khá tự do, trong khi nhiều ngôn nhữ khác cho thấy những quy luật nghiêm ngặt hơn. Ví dụ tiếng Đức và tiếng Hà Lan cho thấy trật tự từ theo nguyên tắc động từ đứng ở vị trí thứ hai trong những mạnh đề chính và động từ đứng cuối trong những mạnh đề phụ. Tiếng Anh có trật tự từ S-V (chủ từ-động từ), điều này cho thấy tiếng Anh nghiêng về ngôn ngữ Roman. Tiếng Ireland có trật tự từ cơ bản là động từ đứng đầu.
Chúng ta có thể phân biệt những cấu trúc phân tích (với những hình vị ngữ pháp tự do, nghĩa là những yếu tố ngữ pháp là những từ tách biệt) và cấu trúc tổng hợp (với những hình vị kết nối, nghĩa là những yếu tố ngữ pháp được kết nối hoặc có sẵn trong một từ), ví dụ the house of the man và the man’s house (ngôi nhà của người đàn ông).
Ngoài những điểm đã nêu trên, loại hình "dạng" động từ (không phải luôn dễ dàng tách ra khỏi hệ thống "thì" trong ngôn ngữ và "giống" là điều cũng cần quan tâm. Đối với thể động từ các nhà ngữ học đưa ra sự khác biệt giữa những hành động đã hoàn thành (những hành động đã kết thúc và dẫn tới kết quả, sự kiện đơn lẻ) và những hành động chưa hoàn thành (hành động chưa được kết thúc, có hoặc chưa có thông tin về sự kết thúc, kéo dài, lặp đi lặp lại). Những ngôn ngữ trong hệ thống Slavic có hệ thống dạng động từ cứng ngắc; trong tiếng Anh có sự phân biệt giữa tiếp diễn và không tiếp diễn (thể đơn giản) và cũng có sự phân biệt giữa hiện tại hoàn thành và quá khứ; đối với ngôn ngữ Romanic thì dạng chưa hoàn thành dùng để chỉ những hành động mang tính chất bối cảnh.
Hệ thống "giống" trong ngôn ngữ hiện tại ở châu Âu là nhị phân (giống đực và giống cái chẳng hạn đối với hệ ngôn ngữ Romanic, hoặc "uter" và giống trung đối với hệ ngôn ngữ Scandinavian; nhưng cũng có những ngôn ngữ có tới ba giống (như tiếng Đức) hoặc không có giống trong danh từ (như tiếng Anh, Hungary, Phần Lan). Vấn đề giống trong ngôn ngữ liên quan tới hệ thống đại từ nhân xưng. Chúng ta thường phân biệt ba đại từ nhân xưng số ít và ba đại từ nhân xưng số nhiều, nhưng có một số ngôn ngữ có một số từ cụ thể dùng cho số đôi (như tiếng Sorbic, ở ngôi thứ ba số ít chúng ta thường phân biệt tùy theo giống văn phạm; tuy nhiên trong tiếng Anh, sự lựa chọn được quyết định bởi giống tự nhiên; Đối với tiếng Hungary và Phần Lan không có sự phân biệt, trái lại đối với những ngôn ngữ Scandinavian thì lại có sự phân biệt mà nó kết hợp cả giống văn phạm và tự nhiên. Ở một số ngôn ngữ, giống văn phạm cũng liên quan tới ngôi thứ hai số nhiều (ví dụ những ngôn ngữ thuộc nhóm Romanic).
Trong khi đó theo phương pháp truyền thống chúng ta thường nhóm ngôn ngữ theo những hệ ngôn ngữ mang tính chất lịch sử (như indo-European, Finno-ugric), có một phương pháp hiện đại hơn để xem xét những đặc điểm ngữ pháp theo quan điểm đồng đại. Một số đặc điểm cấu trúc chung có thể hình thành một sprachbund (nhóm ngôn ngữ). Đối với châu Âu, nhóm ngôn ngữ đặc trưng nhất chúng ta có thể khẳng định được đề cập tới như là SAE (Standard Average European) hoặc là nhóm Charlemagne. Những ngôn ngữ chính của nhóm này là Tiếng Đức, tiếng Hà Lan, Tiếng Pháp, tiếng Occitan, tiếng bắc Ý. Những đặc điểm quan trọng là:
Sự khác biệt giữa mạo từ xác định và không xác định.
Sự hình thành mệnh đề liên hệ đặt sau đại từ hoặc danh từ liên quan và được giới thiệu bởi những đại từ liên hệ có thể thay đổi.
Cấu trúc thì quá khứ với động từ "to have".
Cấu trúc bị động cho thấy túc từ của hành động ở vị trí cấu trúc của chủ từ và sử dụng quá khứ phân từ tươnng ứng với một trợ động từ.
Tiếp vị ngữ cụ thể biểu.
Đặc điểm về từ vựng
Tiếng Latin, Pháp, Anh không những đã và đang được sử dụng để làm ngôn ngữ chung mà còn ảnh hưởng tới những ngôn ngữ quốc gia/phương ngữ vì danh tiếng của những ngôn ngữ này. Vì vậy không những có những sự vay mượn cần thiết, mà còn vay mượn theo kiểu dùng cho sang và vay mượn bắt chước. Sự vay mượn từ ba ngôn ngữ này (đặc biệt là Neo-Latin có những yếu tố Hy Lạp) có thể được xem như là những từ quốc tế, cho dù đôi khi có sự khác biệt về ngữ nghĩa từ ngôn ngữ này đến ngôn ngữ kia mà có thể gây sự hiểu nhầm. Ví dụ:
Latin forma: e.g. Pháp forme; Ý, Tây Ban Nha, Cộng hòa Séc, Slovakia, Slovenian, Hungary, Phần Lan, Croatia, Latvia. Forma; Đan Mạch, Thụy Điển, Anh, form; Romansh furma, Đức Form, Ireland foirm),
Tiếng Pháp restaurant, e.g. Anh, Na Uy, Romansh restaurant; Đức Restaurant; Thụy Điển restaurang; Bồ Đào Nha restaurante; Tây Ban Nha restaurante; Ý ristorante; Séc restaurace; Slovakia, Slovenian reštaurácia, Latvia restorâns; Ba Lan restauracja
Tiếng Anh manager, e.g. Na Uy, Iceland, Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Phần Lan; Romansh manager; tiếng Đức Manager, Ba Lan menadżer; Croatia menedžer; Hungary menedzser
Ba ngôn ngữ phụ dùng cho việc vay mượn trong ngôn ngữ châu Âu là tiếng Ả Rập (đặc biệt là trong toán học và khoa học, thực vật và trái cây nước ngoài; tiếng Ý (đặc biệt là trong nghệ thuật, từ giai đoạn thế kỷ thứ 15 đến 17); tiếng Đức (đặc biệt trong nghệ thuật, giáo dục, hầm mỏ, thương mại từ thế kỷ 12 đến 20).
Như chúng ta biết, vì cấu trúc hay cách diễn đạt ngôn ngữ trên thế giới, nên sự thay đổi diễn ra khá nhanh do sự phát triển tri thức, sự thay đổi chính trị xã hội, v.v…Những ngữ vựng vốn cứng ngắc là những thành ngữ hay những thành ngữ mang tính ẩn dụ. Nhiều thành ngữ ở châu Âu liên quan tới những kinh nghiệm xưa hay kinh thánh, một số xuất phát từ những câu truyện quốc gia hay được nhân rộng vào những ngôn ngữ khác bằng tiếng Latin. Một câu thành ngữ châu Âu tiêu biểu với nghĩa ‘Tay làm hàm nhai’ (Nguyên văn: Không có lợi nhuận nếu không làm việc) được dịch là: "Roasted pigeons/larks/sparrows/geese/chickens/birds don’t fly into one’s mouth". Ví dụ, tiếng Séc dịch là Pečeni ptáci nelítají do huby (birds!); Đan Mạch. Stegte duer flyve ingen i munden (Tauben!); tiếng Hà Lan: De gebraden duiven vliegen je niet in de mond (pigeons!) dịch ra tiếng Anh: He thinks that larks will fall into his mouth roasted; Phần Lan:. Ei paistetut varpuset suuhun lennä (sparrows!); Pháp: Les alouettes ne vous tombent pas toutes rôties dans le bec (larks!). Đức: Gebratene Tauben fliegen einem nicht ins Maul; Hungary: Senkinek nem repül a szájába a sült galamb (pigeon!);Latvia; Cepts zvirbulis no jumta mutē nekrīt (sparrow!); Na Uy: Dat kjem inkje steikte fuglar fljugande i munnen (bird!); Ba Lan: Pieczone gołąbki nie przydą same do gąbki (pigeons!); Slovakia: Nech nik nečaká, že mu pečené holuby budú padať do úst (pigeons!); Slovenian: Pečeni golobje ne lete nobenemu v usta [pigeons!]; Thủy Điển: Spekta sparvar flyga ingen i munnen (sparrows!).
Chiến lược giao tiếp tiêu biểu
Theo cách hiểu của Geert Hofstede thì châu Âu nếu được hiểu theo nghĩa rộng thì sẽ được xem là một nền văn minh riêng lẻ (nghĩa là phong cách thẳng thắng và mang tính phân tích khá ưa chuộng, những vấn đề quan trọng được đề cập trước khi giải thích hay minh họa trong buổi tranh luận hay thảo luận dựa vào sự thỏa thuận hay đa số ý kiến nhất trí); trái lại, đối với những nền văn minh như châu Á, Nhật, Ả Rập và Hindu thì lại mang tính tập thể (nghĩa là theo phong cách gián tiếp và tổng hợp, sự giải thích và minh họa được đưa ra trước khi những điểm quan trọng trong buổi tranh luận hay thảo luận được chấp nhận qua sự hài lòng). Chúng ta có thể hiểu sự khác biệt mà Edward Hall đã đưa ra giữa việc giao tiếp có "ngữ cảnh thấp" (nghĩa là theo phong cách trực tiếp, hướng tới con người, cởi mở, nói nhiều) và giao tiếp với "ngữ cảnh cao" (nghĩa là theo phong cách gián tiếp, hướng tới chức vụ, kín đáo, im lặng). Hầu hết những quốc gia châu Âu giao tiếp theo "ngữ cảnh thấp":
Đặc điểm tiêu biểu về chiến lược giao tiếp ở châu Âu như thế nào?
Một trong những đặc điểm đó là việc sử dụng hỗ tương về cách xưng hô (vấn đề này rất khác biệt ở Giáo hội Chính thống Slavic và văn minh phương đông). Ở châu Âu chức vụ đóng vai trò kém quan trọng hơn ở những nền văn minh châu Á và Nhật. Sự giao tiếp giữa hai giới hoàn toàn bình thường ở châu Âu, trong khi đó theo truyền thống thi vấn đề nà rất khó đạt tới đối với nền văn minh Ả Rập. Về đại từ nhân xưng, chúng ta có thể thấy rằng ở hầu hết những ngôn ngữ châu Âu thường dùng đại từ chung cho cà hai giới (vấn đề này cũng đang tồn tại ở những quốc gia châu Mỹ Latin. Một số nước Bắc Mỹ, và một số quốc gia theo Chính thống giáo Slavic). Có nhiều xu hướng trong việc sử dụng cách xưng hô nhằm phân biệt châu Âu từ những nền văn minh khác. Ở những tình huống thân mật thì ngày nay những người châu Âu thích gọi nhau bằng tên; trong giao tiếp thương mại, trước hết nên dùng tước hiệu chính xác, và sau đó có thể thay đổi cách xưng hô khá nhanh. Tước hiệu dĩ nhiên là quan trọng hơn ở những quốc gia châu Á, Hindu, Ả Rập, Nhật Bản; nền văn minh Chính Thống giáo Slavic có thể được đặc trưng bởi việc thường xuyên sử dụng biệt danh đối với tất cả những cuộc nói chuyện riêng tư và thân mật.
Về những thuật ngữ chào hỏi ở châu Âu, chúng ta có thể thấy nhiều câu chào hỏi mong muốn có thời gian tốt đẹp trong ngày, sức khỏe (hoặc hỏi xem có khỏe không), mong ước sự thành công hay may mắn). Người châu Á và Ả Rập thì thường ước muốn hòa bình và điều này không thấy ở những quốc gia châu Âu. Điều thú vị là nhiều câu chào hỏi của người châu Âu thường (ít ra ở những tình huống thân mật) cắt giảm ở mức độ ngữ âm, điều này khó thấy ở những quốc gia châu Á, Ả Rập, Hindu, Nhật.
Đề tài những cuộc nói chuyện ngắn thường là du dịch, bóng đá (và những luật thể thao quốc tế), sở thích, công nghiệp giải trí Mỹ và thời tiết. Trái lại, tình dục, tôn giáo và chính trị (và chửi thề) thường là những điều cấm kị. Ở các nước châu Á, Hindu, Ả Rập, Nhật Bản, người ta thường được hỏi về gia đình (ở Ả Rập, tuy nhiên không được hỏi về vợ). Vì thiên về địa vị nên những nền văn minh Viễn Đông thường hỏi về những thông tin về hình thức quản lý.
Đối với những người châu Âu, cụm từ "cảm ơn" thường được mong đợi và thích được sử dụng ở một số tình huống, trong khi đó những người Hindu thì lại tiết kiệm sử dụng cụm từ này và thường hài lòng với những cái nhìn mang nghĩa cảm ơn; mặt khác những nền văn minh khác không thuộc phương Tây thì lại mở rộng hình thức cảm ơn.
Với những lời yêu cầu, thể cầu khiến đơn giản thường không được sử dụng thay vào đó là những câu hỏi, những trợ động từ đặc biệt, bàng thái cách, câu điều kiện, những động từ đặc biệt. Sự thay đổi hình thức động từ được sử dụng trong tiếng Nhật và một số ngôn ngữ châu Á, không phải là một phần ở những ngôn ngữ (Indo-) châu Âu.
Khi người ta nói "không", thường thì hình thức xin lỗi hay giải thích được sử dụng. Ở một số nước châu Á, từ "không" ở những tình huống trang trọng thường thì không được hoan nghênh.
Những lời xin lỗi thì cần thiết sau khi ai đó xâm phạm chỗ riêng tư của người khác (điều này quan trọng hơn và dễ bị vi phạm ở Mỹ và những quốc gia châu Á hơn là ở châu Âu, và quan trọng hơn ở châu Âu hơn là châu Mỹ Latin và những quốc gia Ả Rập.
Ở châu Âu, để an toàn thì người ta thường khen ngợi quần áo và diện mạo bên ngoài (ở những quốc gia Ả Rập điều này bị cấm ở những người khác phái), bữa ăn, trang bị trong phòng ngủ (thậm chí những vật cứng vốn nên tránh ở những nước Ả Rập).
Ngôn ngữ chung (lingua franca)– quá khứ và hiện tại
Lịch sử châu Âu được đánh dấu bởi ba ngôn ngữ chung:
Latin (Trung cổ và Cận đại) (đến 1867, và Hungary là quốc gia sau cùng từ bỏ tiếng Latin như là một ngôn ngữ chính thức ngoài Vatican), cùng với xu thế đi xuống dần của ngôn ngữ chung từ cuối thời kỳ Trung Cổ, khi những phương ngữ trở trên ngày càng quan trọng hơn (Viện ngôn ngữ đầu tiên ở Italy vào năm 1582/83), vào thế kỷ thứ 17 thậm chí ở những trường đại học.
Tiếng Pháp (từ những triều đại Cardinal Richelieu và Louis XIV, khoảng 1648 (nghĩa là sau Cuộc chiến 30 năm, vốn chẳng ảnh hưởng gì tới nước Pháp, và do đó mà trở nên hưng thịnh), đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khoảng 1918)
Tiếng Anh (từ chiến tranh Thế giới lần thứ nhất và đặc biệt sau chiến tranh thế giới lần thứ 2).
Những ngôn ngữ chung khác thường ít phổ biến, nhưng cũng đã đóng vai trò khá quan trọng trong lịch sử châu Âu gồm:
Provencal (= Occitan) (thế kỷ 12-14, vì thi ca Troubadour)
Hạ Đức (thế kỷ 14-16, trong suốt thời hoàng kim của Liên minh Hanse)
Hy Lạp cổ đại, đặc biệt là ở giai đoạn Đế chế La Mã Phương Đông(Đế chế Byzantine).
Những cuốn từ điển và văn phạm đầu tiên
Loại từ điển đầu tiên là glossary (chú thích những thuật ngữ khó), nghĩa là liệt kê theo những cặp từ vựng (theo trật tự chữ cái hoặc theo những khái niệm). Cuốn the Latin-German (Latin-Bavarian) Abrogans là một trong những cuốn đầu tiên. Có thể thấy một làn sóng làm từ điển từ thế kỷ thứ 15 trở đi (sau khi máy in ra đời, với sự quan tâm về việc chuẩn hóa các ngôn ngữ.
Ngôn ngữ và bản sắc, tiến trình chuẩn hóa
Ở thời kỳ Trung Cổ, hai yếu tố định nghĩa châu Âu là Christianitas và Latinitas. Do đó ngôn ngữ- ít nhất ngôn ngữ vượt ra ngoài phạm vi quốc gia - đóng vai trò cơ bản. Vấn đề này đã thay đổi sự phát triển của những ngôn ngữ dân tộc ở những bối cảnh chính thức và khơi dậy tình cảm dân tộc. Ngoài ra, vấn đền này cũng đã dẫn đến việc chuẩn hóa các ngôn ngữ dân tộc và sự ra đời của những viện ngôn ngữ (ví dụ 1582 có viện Accademia della Crusca ở Florence; 1617 Fruchtbringende Gesellschaft; 1635 Academie francaise; 1713 Real Academia de la Lengua in Madrid). "Ngôn ngữ" sau đó (và ngày nay) có sự kết nối nhiều đến vấn đề "dân tộc" và "văn minh" (cụ thể là ở Pháp). "Ngôn ngữ" cũng được sử dụng để tạo ra cảm giác về "bản sắc tôn giáo và đạo đức" (ví dụ những bản dịch kinh thánh khác nhau bởi những người thiên chúa giáo và tin lành có cùng một ngôn ngữ).
Trong nhữg buổi thảo luận và những tiến trình chuẩn hóa đầu tiên liên quan tới tiếng Ý ("quesione della lingua": Mordern Tuscan/Florentine và Old Tuscan/Florentine và Venetian > Modern Florentine + archaic Tuscan + Upper Italian), tiếng Pháp (chuẩn dựa trên Parisian), tiếng Anh (chuẩn dựa vào tiếng London) và tiếng Đức (High) (dựa vào chancellery of Meßen/Saony + Middle German + chancellary of Praguee/Bohemia ("Common German). Và một số những quốc gia khác cũng đã bắt đầu tìm kiếm và phát triền về chuần hóa vào thế kỷ 16.
Về vấn đề ngôn ngữ thiểu số
Cho dù tiếng Anh rất quan trọng, nhưng châu Âu luôn kết hợp lại với nhau với sự đa dạng ngôn ngữ, vấn đề này cho thấy việc bảo vệ các ngôn ngữ được xem là không quan trọng, ví dụ như tổ chức the European Charta of Regional and Minority Languages. Điều này cho thấy quan điểm cho rằng "một dân tộc một ngôn ngữ" là sai (cho dù những nỗ lực đồng nhất ngôn ngữ dân tộc ở Pháp trong cuộc cách mạng hoặc ở Tây Ban Nha của Franco). Một ngôn ngữ thiểu số có thể được định nghĩa là một ngôn ngữ được sử dụng bởi một nhóm người như là một dân tộc thiểu số và ngôn ngữ của nhóm người này thường khác biệt và nó không phải tiếng địa phương của ngôn ngữ chuẩn mực. Ở châu Âu một số ngôn ngữ có vị trí khá mạnh theo nghĩa chúng có một vị trí khá đặc biệt, (ví dụ: Basque, Irish, Welsh(Cymric, Catalan, Rhaeto-Romance/Romansh), trái lại những ngôn ngữ khác chiếm vị trị khá yếu (ví dụ như tiếng Frisian, Scottish Gaelic, Thổ Nhĩ Kỳ) - đặc biệt là có những ngôn ngữ thiểu số không có được vị trí chính thức trong Cộng đồng châu Âu (có thể do chúng không phải là một phần trong di sản văn hóa của một nền văn minh). Một số ngôn ngữ thiểu số chưa có chuẩn mực, nghĩa là chúng chưa đạt tới mức độ của một nhóm ngôn ngữ, và chúng có thể thay đổi nếu những ngôn ngữ này được đưa cho vị trí chính thức.
Những vấn đề về chính trị ngôn ngữ
Pháp là nước có nguồn gốc hai luật hay sắc lệnh liên quan tới ngôn ngữ: the Ordonnance de Villers-Cotterêts (1239) quy định rằng mỗi văn bản ở nước Pháp nên viết bằng tiếng Pháp (nghĩa là không viết bằng tiếng Latin hoặc Occitan) và the French Loi Toubon hướng tới loại bỏ những từ tiếng Anh từ những văn bản chính thức. Nhưng đặc điểm cụ thể tiêu biểu của châu Âu là tính đa dạng và sự tiếp nhận về ngôn ngữ. Bằng chứng minh họa về sự khuyến khích sự đa dạng ngôn ngữ là trường dịch thuật ở Toledo hình thành vào thế kỷ thứ 12 (Vào thời kỳ Toledo trung cổ thì người thiên chúa giáo, người Do thái và người Ả Rập sống với nhau khá yên bình.
Thái độ ngôn ngữ khá tiếp nhận này cũng là lý do tại sao quy luật chung của khối EU rằng mỗi ngôn ngữ dân tộc chính thức cũng là ngôn ngữ chính thức của ngôn ngữ EU. Tuy nhiên, ngôn ngữ Flemish và Letzebuergish/ Luxemburgish không phải là ngôn ngữ chính thức EU bởi lẽ cũng còn có nhiều ngôn ngữ chính thức khác mạnh hơn có vị trí trong khối EU ở những quốc gia được coi trọng. Nhiều khái niệm về chính sách ngôn ngữ EU cũng đang được bàn cãi:
Một ngôn ngữ chính thức (ví dụ như tiếng Anh hay Quốc tế ngữ)
Nhiều ngôn ngữ chính thức (ví dụ như tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha + chủ đề khác-ngôn ngữ lệ thuộc)
Tất cả những ngôn ngữ dân tộc đều là những ngôn ngữ chính thức, nhưng với một số ngôn ngữ khác dùng cho việc dịch thuật (như tiếng Anh hoặc Quốc tế ngữ). |
Siêu lục địa đầu tiên của Trái Đất được cho là tồn tại là Vaalbara. Theo các dữ liệu đo phóng xạ của các vùng im lìm (nền) bao quanh đã tạo ra Vaalbara, người ta biết rằng nó tồn tại vào khoảng 3,3 tỷ năm trước (3,3 Ga) và có thể xa tới tận 3,6 Ga. Các chứng cứ bao gồm các nghiên cứu địa thời học và cổ từ học giữa hai vùng im lìm thuộc liên đại Thái Cổ (các lục địa nguyên thủy) gọi là nền Kaapvaal (tỉnh Kaapvaal của Nam Phi) và nền Pilbara (khu vực Pilbara của Tây Úc). Một phần khác của chứng cứ là sự tương đồng về trật tự cấu trúc của vành đai đá lục và vành đai gơnai của hai vùng im lìm này. Các vành đai đá lục thuộc liên đại Thái Cổ này hiện nay loang ngang qua rìa của nền Superior thuộc Canada và cũng loang ngang qua các vùng im lìm của các lục địa cổ Gondwana và Laurasia. Các đường trôi dạt diễn ra tiếp theo của các nền Kaapvaal và Pilbara sau 2,8 Ga cung cấp thêm chứng cứ cho thấy chúng đã từng có thời kết nối với nhau.
Người ta vẫn chưa chắc chắn khi nào thì Vaalbara bắt đầu tách ra, nhưng các chứng cứ địa thời học và cổ từ học chỉ ra rằng hai nền này có sự chia cắt theo chiều ngang quay đi 30 độ vào khoảng 2,78 đến 2,77 Ga, ngầm giả thiết rằng chúng đã không còn tiếp giáp nhau vào thời gian sau ~2,8 Ga. |
Trong địa chất học, các khoáng chất và đá mafic là các khoáng chất silicat, macma, đá lửa do núi lửa phun trào hoặc xâm nhập có tỷ lệ các nguyên tố hóa học nặng khá cao. Thuật ngữ này là tổ hợp của magnesium và ferrum, hai từ trong tiếng Latinh để chỉ magiê [ma(gnesium) + và sắt f(errum) + ic] . Dù có tên như vậy, macma mafic cũng khá giàu calci và natri.
Các khoáng chất mafic thông thường sẫm màu và có tỷ trọng riêng lớn hơn 3,0. Các loại khoáng chất mafic tạo đá thông dụng là olivin, pyroxen, amphibol, biotit và các mica, augit cũng như plagiocla thuộc nhóm fenspat giàu calci.Các loại đá mafic thông dụng bao gồm bazan và gabbro.
Trong thuật ngữ hóa học, các loại đá mafic nằm ở mặt khác của phổ đá so với các loại đá được gọi là đá felsic. Thuật ngữ này tương ứng gần đúng với lớp đá cơ bản cũ hơn.
Dung nham mafic, trước khi nguội đi, có độ nhớt thấp hơn của dung nham felsic do hàm lượng silica (SiO2) ít hơn. Nước và các chất dễ bay hơi khác có thể dễ dàng hơn và dần dần thoát ra khỏi dung nham mafic, vì thế các phun trào của núi lửa tạo ra dung nham mafic là ít dữ dội hơn so với phun trào dung nham felsic. Phần lớn các núi lửa phun dung nham mafic là các núi lửa dưới đại dương, chẳng hạn Hawaii. |
Trần Ngọc Tăng (sinh 1948) nguyên là Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan Khoa giáo Trung ương , nguyên Phó Trưởng ban Ban Khoa giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (2007-2012)
Tiểu sử
Ông quê ở xã Cấp Dẫn, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Là một giáo viên, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Tăng đã đảm nhận các chức vụ tại địa phương: Hiệu trưởng trường cấp 3 huyện Cẩm Khê , Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Huyện Cẩm Khê, Tổng Biên tập Báo Vĩnh Phú, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân , Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư thường trực tỉnh ủy Phú Thọ...
Ngày sinh: 15/12/1948
Giới tính: Nam
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: Không
Quê quán: Xã Cấp Dẫn, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ
Trình độ chính trị: Cử nhân chính trị
Trình độ chuyên môn: Tiến sĩ Triết học, Cử nhân Văn học
Nghề nghiệp, chức vụ: Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ủy viên Hội đồng nghiên cứu công tác quần chúng của Trung ương Đảng; Ủy viên Uỷ ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Khóa XIII; Thành viên Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - EP của Tổ chức Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam, Quốc hội khóa XIII Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam(Đã nghỉ hưu từ 01/01/2009)
Nơi làm việc: Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam - 82 Nguyễn Du, Hà Nội
Ngày vào đảng: 22/8/1967
Nơi ứng cử: Hà Tĩnh
Đại biểu Quốc hội khoá: XIII
Đại biểu chuyên trách: Không
Đại biểu Hội đồng Nhân dân: Không |
Long Châu Hà là tỉnh cũ ở miền Tây Nam Bộ, do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt.
Tháng 10 năm 1950 tỉnh Long Châu Hậu (bao gồm một phần tỉnh Châu Đốc và một phần tỉnh Long Xuyên) hợp nhất với tỉnh Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà. Tỉnh này gồm 8 quận: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại Sơn, Thốt Nốt, Giang Châu (quận Giang Thành và Châu Thành của Hà Tiên nhập lại) và Phú Quốc. Tháng 7 năm 1951, sáp nhập 2 quận Tri Tôn, Tịnh Biên thành quận Tịnh Biên; 2 quận Châu Thành, Thoại Sơn thành quận Châu Thành.
Tỉnh Long Châu Hà tồn tại cho đến năm 1954 thì lại chia thành các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên và Hà Tiên như cũ.
Sau đó, tháng 5 năm 1974 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam tái lập tỉnh Long Châu Hà. Tỉnh Long Châu Hà mới gồm 8 huyện: Châu Thành X, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Huệ Đức, Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc và 3 thị xã: Long Xuyên, Châu Đốc và Hà Tiên. Tỉnh Long Châu Hà tồn tại cho đến tháng 2 năm 1976.
Tỉnh này không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa công nhận.
Địa bàn tỉnh Long Châu Hà nay một phần thuộc tỉnh An Giang, một phần thuộc tỉnh Kiên Giang và một phần phía bắc của thành phố Cần Thơ. |
Ngô Văn Dụ (sinh năm 1947) (tức Hai Dụ) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XII.
Xuất thân
Ngô Văn Dụ sinh ngày 21 tháng 12 năm 1947, quê quán tại xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Giáo dục
Ông tốt nghiệp bậc Cử nhân trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội và Cao cấp lý luận chính trị.
Sự nghiệp
Tháng 5 năm 1962, ông bắt đầu tham gia công tác thanh thiếu niên tại địa phương, lên dần vị trí cán bộ cấp huyện. Ngày 10 tháng 3 năm 1969, ông được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam.
Ngày 10/3/1969, ông gia nhập Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam.
Năm 1996, ông được phân công giữ chức Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 4 năm 2001, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX, phân công giữ chức Chánh Văn phòng Trung ương Đảng.
Tháng 4 năm 2006, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X.
Sau đó ông trúng cử Đại biểu Quốc hội khoá XI.
Tháng 1 năm 2009, tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X), ông được bầu bổ sung vào Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 19 tháng 1 năm 2011, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XI, được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, được phân công làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XII, ông nghỉ hưu. |
Long Châu Sa là tỉnh cũ ở miền Tây Nam Bộ, do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt.
Tháng 6 năm 1951 tỉnh Long Châu Sa được thành lập, do hợp nhất hai tỉnh Long Châu Tiền và Sa Đéc. Tỉnh Long Châu Sa bao gồm một phần tỉnh Châu Đốc, một phần tỉnh Long Xuyên và tỉnh Sa Đéc. Tỉnh này gồm 7 huyện: Châu Thành (Sa Đéc), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu (nay là huyện Phú Tân, tỉnh An Giang), Chợ Mới. Hai huyện Tân Hồng và Tân Châu được lập ra do chia lại ranh giới 2 huyện Hồng Ngự và Tân Châu. Tháng 7 năm 1951, nhập thêm huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa.
Tỉnh Long Châu Sa tồn tại cho đến năm 1954.
Tỉnh này không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa công nhận. Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa lập tỉnh An Giang gồm tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc cũ, sau này lập lại tỉnh Châu Đốc và tỉnh Sa Đéc.
Địa bàn tỉnh Long Châu Sa nay một phần thuộc tỉnh An Giang, một phần thuộc tỉnh Đồng Tháp. |
Đỗ Bá Tỵ (sinh năm 1954) là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và chính khách người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Chủ tịch Quốc hội khóa XIV phụ trách quốc phòng - an ninh, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội và là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kỳ 2016–2021 thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Lào Cai. Ông từng là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (2010–2016). Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông nguyên là Ủy viên Đảng đoàn Quốc hội, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, nguyên Chủ tịch Nhóm Nghị sỹ hữu nghị Việt - Trung.
Thân thế
Đỗ Bá Tỵ sinh ngày 1 tháng 12 năm 1954 tại xã Tân Lập, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Năm 15 tuổi ông theo gia đình đi kinh tế mới tại huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.
Quê quán: Xã Tân Lập, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
Ông có con rể là Trung tướng Nguyễn Hồng Thái - UV BCH TW Đảng Khóa XIII, Tư lệnh Quân Khu 1.
Binh nghiệp
Ngày vào Đảng: 31/03/1974.
Ngày chính thức: 31/03/1975.
Năm 1972, ông nhập ngũ vào Quân đội nhân dân Việt Nam.
5/1972 - 7/1973: Chiến sỹ thuộc Tiểu đoàn 9, Tiểu đoàn 4 - Trung đoàn 246.
8/1973 - 5/1976: Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng thuộc Trung đoàn 28 - Sư đoàn 10 - Quân đoàn 3.
6/1976 - 8/1979: Đại đội trưởng, Phó Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trợ lý Tác chiến, Phó Tham mưu trưởng thuộc Trung đoàn 28 - Sư đoàn 10 - Quân đoàn 3 chiến đấu tại Campuchia.
9/1979 - 8/1982: Học viên Học viện Lục quân - Bộ Quốc phòng.
9/1982 - 4/1983: Phó Trung đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Trung đoàn 752 - Sư đoàn 355- Quân đoàn 29 - Binh đoàn Sông Thao - Quân khu 2 (đã giải thể).
5/1983 - 8/1987: Phó Trung đoàn trưởng - Tham mưu trưởng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 192 - Sư đoàn 355 - Quân đoàn 29 - Quân khu 2.
9/1987 - 4/1988: Phó Trưởng phòng Tác chiến Quân đoàn 29 - Quân khu 2.
5/1988 - 6/1989: Phó Sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Sư đoàn 345 - Quân đoàn 29 - Quân khu 2.
7/1989 - 8/1992: Phó Sư đoàn trưởng, Phó Sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng Sư đoàn 313 - Quân đoàn 29 - Quân khu 2.
9/1992 - 7/1994: Học viên Chỉ huy Tham mưu cao cấp, Học viện Quân sự cấp cao- Bộ Quốc phòng (nay là Học viện Quốc phòng Việt Nam).
8/1994 - 11/1996: Sư đoàn trưởng Sư đoàn 355 - Quân khu 2.
12/1996 - 02/1999: Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Thọ - Quân khu 2, Đại biểu Quốc hội khóa X.
03/1999 - 7/1999: Học viên Học viện Chính trị Quân sự - Bộ Quốc phòng.
8/1999 - 01/2000: Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Phú Thọ- Quân khu 2.
02/2000 - 11/2000: Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2.
12/2000 - 4/2001: Phó Tư lệnh Quân khu 2.
Năm 2001, ông giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2, hàm Thiếu tướng.
5/2001 - 01/2007: Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 2.
Tháng 1 năm 2006, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X.
Ngày 7 tháng 2 năm 2007, ông được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Quân khu 2, hàm Trung tướng, thay cho Trung tướng Ma Thanh Toàn.
02/2007 - 10/2010: Tư lệnh Quân khu 2.
Ngày 22 tháng 10 năm 2010, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Sau khi Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên qua đời, ngày 22 tháng 12 năm 2010, ông được Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
12/2010 - 3/2016: Tổng tham mưu trưởng - Thứ trưởng Thường trực Bộ Quốc phòng.
Tháng 1 năm 2011 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam ông được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI.
Tháng 5 năm 2011, ông được bầu vào Quốc hội Việt Nam khóa XIII tại đơn vị bầu cử là tỉnh Điện Biên.
Ngày 5 tháng 12 năm 2011, ông được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phong quân hàm Thượng tướng cùng với 8 tướng lĩnh cấp cao khác của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1 năm 2016) ông là một trong bốn trường hợp quá tuổi, được BCH Trung ương Đảng khóa XI giới thiệu để tái cử và được bầu lại vào BCH Trung ương Đảng khóa XII.
Ngày 5 tháng 10 năm 2015 ông được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phong quân hàm Đại tướng. Cùng được phong quân hàm Đại tướng với ông trong ngày này còn có ông Ngô Xuân Lịch.
Ngày 5 tháng 4 năm 2016 tại Kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII, ông được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội phụ trách quốc phòng - an ninh.
Ngày 27 tháng 4 năm 2016, ông được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng để nhận nhiệm vụ mới.
Tháng 5 năm 2016, ông tiếp tục được bầu vào Quốc hội Việt Nam khóa XIV tại đơn vị bầu cử là tỉnh Lào Cai.
Tháng 7 năm 2016 tại Kỳ họp thứ 1 Quốc hội khóa XIV, ông được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội phụ trách quốc phòng - an ninh.
Tháng 7 năm 2021, ông thôi chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội và nghỉ hưu theo chế độ từ ngày 1 tháng 12 năm 2021.
Khen thưởng
Huân chương Độc lập hạng Nhất.
50x50px 02 Huân chương Chiến công hạng Nhất.
50x50px 02 Huân chương Chiến công hạng Nhì.
Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.
Huân chương Kháng chiến hạng Ba.
Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất.
Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba.
Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhì (1974).
50x50px Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.
Huân chương Hiệp sĩ bội tinh Đệ Nhất của Hoàng gia Thái Lan.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Chú thích
Người Hà Nội
Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII Điện Biên
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV Lào Cai
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII
Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa XIV
Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam khóa XIII
Tư lệnh Quân khu 2, Quân đội nhân dân Việt Nam
Ứng cử viên Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV do Trung ương giới thiệu
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV chuyên trách trung ương
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 2010 |
Long Châu Hậu là tỉnh cũ ở miền Tây Nam Bộ, do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt.
Tỉnh Long Châu Hậu được thành lập theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ ngày 12 tháng 9 năm 1947, bao gồm một phần tỉnh Châu Đốc và một phần tỉnh Long Xuyên.
Tỉnh Long Châu Hậu nằm ở phía bờ phải (hữu ngạn) sông Hậu và có 6 quận: Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn, Châu Phú A và Châu Thành (bao gồm 2 tỉnh lỵ Long Xuyên và Châu Đốc).
Đến tháng 10 năm 1950 tỉnh Long Châu Hậu hợp nhất với tỉnh Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà.
Tỉnh này không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại công nhận.
Địa bàn tỉnh Long Châu Hậu nay một phần thuộc tỉnh An Giang, một phần thuộc tỉnh Kiên Giang |
Hoàng Văn Phong (sinh 1948) là một chính khách Việt Nam, giữ chức Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trong Chính phủ Việt Nam từ tháng 8 năm 2002 đến ngày 1 tháng 8 năm 2011.
Tiểu sử
Ông sinh ngày 6 tháng 10 năm 1948, quê ở Minh Khai, Từ Liêm, Hà Nội.
Xuất thân là một phó giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành vật lý lý thuyết, ông từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (5/1997 - 11/2002)..
Sau đó ông trở thành Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX (2001) và khoá X (2006).
Tháng 8 năm 2002, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Phan Văn Khải về việc thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ trên cơ sở Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, và bổ nhiệm ông vào chức vụ Bộ trưởng.
Kể từ ngày 17 tháng 9 năm 2010, ông kiêm nhiệm Chủ tịch Ủy ban Vũ trụ Việt Nam theo quyết định số 1720/QĐ -TTg của thủ tướng chính phủ Việt Nam
Câu nói nổi tiếng
Trong thời gian tại nhiệm, Bộ trưởng Hoàng Văn Phong từng nói:
Chú thích |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.