text
stringlengths
0
512k
Paul Joseph Goebbels hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là Giô-xép Gơ-ben (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức Bộ trưởng Bộ Giác ngộ quần chúng và Tuyên truyền của Đức Quốc xã từ 1933 đến 1945. Goebbels là một trong số những trợ lý gần gũi và thuộc hạ tận tâm nhất của Adolf Hitler; ông được biết đến với những lần diễn thuyết trước công chúng cùng tư tưởng bài Do Thái sâu sắc và hiểm độc của mình, bởi vậy Goebbels đã ủng hộ việc tận diệt người Do Thái trong vụ Holocaust. Goebbels có mong muốn trở thành một tác giả, ông giành được tấm bằng Tiến sĩ Triết học tại Đại học Heidelberg vào năm 1921. Ba năm sau, Goebbels gia nhập đảng Quốc xã và cộng tác với Gregor Strasser tại chi nhánh phía Bắc của họ. Năm 1926 Goebbels được bổ nhiệm làm Gauleiter (lãnh đạo địa bàn) của Berlin, tại đây ông bắt đầu quan tâm đến việc sử dụng biện pháp tuyên truyền để giúp nâng cao vị thế và xúc tiến các kế hoạch của đảng. Sau khi những người Quốc xã lên nắm quyền vào năm 1933, Bộ Tuyên truyền của Goebbels đã nhanh chóng giành lấy và thực thi quyền giám sát quản lý các phương tiện truyền thông, nghệ thuật, và thông tin tại Đức. Goebbels tỏ ra đặc biệt thông thạo trong việc sử dụng các phương thức tương đối mới mẻ như phát thanh và phim ảnh để phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Đề tài tuyên truyền gồm có bài Do Thái, công kích Giáo hội Cơ đốc, và sau sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai là nỗ lực định hướng tinh thần. Vào năm 1943, Goebbels bắt đầu gây áp lực lên Hitler nhằm giới thiệu các biện pháp tạo nên "chiến tranh toàn diện", trong đó có việc đóng cửa các doanh nghiệp không cần thiết, buộc phụ nữ gia nhập lực lượng lao động khổ sai, và tận dụng những nam giới thuộc các ngành nghề được miễn trước đây để cho nhập ngũ. Hitler về sau bổ nhiệm Goebbels làm Toàn quyền Chiến tranh toàn diện vào ngày 23 tháng 7 năm 1944, nhờ đó Goebbels đã tiến hành các biện pháp, đa phần thất bại, nhằm làm tăng quân số phục vụ trong ngành sản xuất vũ khí và quân đội (Wehrmacht). Khi cuộc chiến gần khép lại cũng là lúc Đức Quốc xã đối mặt với thất bại, thời điểm đó Goebbels đoàn tụ với vợ Magda và những đứa con của mình tại Berlin. Từ ngày 22 tháng 4 năm 1945 gia đình họ trú ẩn dưới Vorbunker, một phần tổ hợp boongke dưới mặt đất của Hitler. Hitler tự sát vào ngày 30 tháng 4. Theo như bản di chúc của Hitler, Goebbels lên kế nhiệm ông trong vai trò Thủ tướng Đức. Goebbels giữ chức vụ này trong vòng một ngày, trước khi cùng vợ hạ độc sáu đứa con rồi tự sát. Thuở thiếu thời Paul Joseph Goebbels sinh ngày 29 tháng 10 năm 1897 tại Rheydt, một thành phố công nghiệp nằm về phía nam Mönchengladbach, gần Düsseldorf. Cha mẹ Goebbels đều là những người theo Công giáo và xuất thân từ tầng lớp thấp kém trong xã hội. Fritz, cha của Goebbels, là một đốc công; còn mẹ ông, Katharina (née Odenhausen), từng là một tá điền, bà là người Hà Lan. Goebbels có năm anh chị em ruột: Konrad (1893–1947), Hans (1895–1949), Maria (1896–1896), Elisabeth (1901–1915), và Maria (1910–1949), người sau này đã kết hôn với nhà làm phim Đức Max W. Kimmich vào năm 1938. Năm 1932, Goebbels công bố một cuốn sách nhỏ về gia phả của mình nhằm bác bỏ những tin đồn cho rằng bà ông có gốc gác Do Thái. Thuở nhỏ, sức khỏe của Goebbels là không được tốt với những lần ốm đau, bệnh tật, trong đó có một đợt viêm phổi kéo dài. Bàn chân phải của ông bị dị tật, nó quẹo vào trong, dầy và ngắn hơn bàn chân trái, do nguyên nhân bẩm sinh. Ông từng trải qua một đợt điều trị giải quyết dị tật này ngay trước khi bước vào tiểu học, tuy nhiên không thành công. Do một chân ngắn, Goebbels thường phải đeo một vật dụng ở chân và sử dụng một loại giày đặc biệt; bước đi của ông là khập khễnh. Điều này cũng là nguyên nhân khiến ông không thể phục vụ cho quân đội trong thời kỳ Thế chiến thứ nhất. Goebbels từng theo học tại một trường Gymnasium Cơ đốc và hoàn thành kỳ thi Abitur vào năm 1917. Tại lớp của mình, Goebbels là học sinh đứng đầu và theo truyền thống ông đã vinh dự được phát biểu tại lễ trao giải. Cha mẹ Goebbels ban đầu kỳ vọng con trai họ sẽ trở thành một linh mục Công giáo và Goebbels thật sự đã cất nhắc về điều này. Quãng thời gian tiếp theo Goebbels nghiên cứu văn học và lịch sử tại các trường đại học Bonn, Würzburg, Freiburg, và Munich. Trong giai đoạn đó ông bắt đầu không còn chú tâm đến tôn giáo. Các nhà sử học, trong đó có Richard J. Evans và Roger Manvell, cho rằng việc luôn được phái nữ theo đuổi suốt cuộc đời có thể coi như một sự bù đắp cho thể trạng ốm yếu của Goebbels. Vào tháng 5 năm 1918, tại Freiburg, Goebbels gặp gỡ và rơi vào cuộc tình với Anka Stalherm, một người con gái hơn ông ba tuổi. Hai người đã cùng tới Würzburg để tiếp tục quá trình học tập, rèn luyện. Tuy nhiên, chỉ hai năm sau, vào năm 1920, mối quan hệ giữa họ chấm dứt và ý định tự tử đã lấp đầy tâm trí Goebbels vì điều này. Trong năm 1921, Goebbels viết một cuốn tiểu thuyết bán tự truyện có tựa Michael, một tác phẩm gồm ba phần mà hiện chỉ còn sót lại phần I và III. Ông cảm thấy như đang tự thuật lại câu chuyện của riêng mình. Goebbels có thể đã thêm vào nội dung bài Do Thái và tư liệu về một người lãnh đạo có sức lôi cuốn không lâu trước thời điểm cuốn sách được nhà xuất bản của đảng Quốc xã Eher-Verlag cho xuất bản năm 1929. Trong quãng thời gian học tập và nghiên cứu tại đại học Heidelberg, Goebbels làm luận án tiến sĩ về Wilhelm von Schütz, một nhà soạn kịch lãng mạn thế kỷ 19. Ông từng kỳ vọng được làm luận án dưới sự hướng dẫn của Friedrich Gundolf, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng tại thời điểm đó. Dường như Goebbels không cảm thấy khó chịu với việc Gudolf là người Do Thái. Tuy nhiên, Gundolf đã không còn thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, do đó ông giới thiệu Goebbels đến giáo sư cùng cộng tác Max Freiherr von Waldberg, ông này cũng là người Do Thái. Waldberg là người gợi ý cho Goebbels đề tài luận án về Wilhelm von Schütz. Sau khi trải qua quá trình làm luận án và một kỳ thi vấn đáp, Goebbels đạt học vị Tiến sĩ Triết học vào năm 1921. Giai đoạn tiếp theo, Goebbels trở về nhà và làm công việc trợ giáo, bên cạnh đó ông còn kiếm được chân ký giả cho một tờ báo địa phương. Tư tưởng bài Do Thái đang dần lớn mạnh, và việc không ưa văn hóa hiện đại đã được phản ánh qua những bài viết của Goebels khi đó. Vào mùa hè năm 1922, Goebels gặp gỡ và bắt đầu cuộc tình với Else Janke, một giáo viên. Sau khi Janke tiết lộ việc mang nửa dòng máu Do Thái trong mình, Goebbels phát biểu "sự lôi cuốn đã tiêu tan". Dẫu vậy, mối quan hệ giữa họ vẫn tiếp tục cho đến năm 1927. Goebbels tiếp tục cố gắng trong vòng vài năm để trở thành một tác giả. Ông bắt đầu viết nhật ký từ năm 1923 như một cách giải tỏa đam mê viết lách và duy trì thói quen này trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Với việc không kiếm được thu nhập từ hai tác phẩm văn học của mình (ông viết hai vở kịch vào năm 1923, cả hai đều không bán được), Goebbels buộc phải làm các việc như người gọi điện ở sở giao dịch chứng khoán và thư ký ngân hàng ở Cologne, một công việc mà ông ghét cay ghét đắng. Sau khi bị sa thải khỏi ngân hàng vào tháng 8 năm 1923, Goebbels trở về Rheydt. Trong quãng thời gian này, ông say mê đọc và chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của Oswald Spengler, Fyodor Dostoyevsky, và Houston Stewart Chamberlain, nhà văn người Đức sinh ra ở Anh với The Foundations of the Nineteenth Century (1899) là một trong những tác phẩm được xem là tiêu chuẩn của phe cực hữu tại Đức. Ông cũng bắt đầu nghiên cứu "vấn đề xã hội" và đọc các tác phẩm của Marx và Engels. Theo tiểu sử gia Peter Longerich, văn phong nhật ký của Goebbels giai đoạn từ cuối 1923 đến đầu 1924 biểu lộ một người đàn ông cô độc, bận tâm bởi các vấn đề "tôn giáo-triết học", và thiếu đi năng lực định hướng. Kể từ giữa tháng 12 năm 1923 trở về sau, nội dung nhật ký cho thấy Goebbels hướng đến phong trào dân tộc völkisch. Nhà hoạt động Quốc xã Goebbels chú tâm đến Adolf Hitler và chủ nghĩa Quốc xã lần đầu vào năm 1924. Tháng 2 năm đó, phiên tòa xử Hitler về tội phản quốc bắt đầu theo sau nỗ lực chiếm quyền không thành của ông ta tại Munich vào ngày 8–9 tháng 11 năm 1923 (cuộc đảo chính thất bại được biết đến với tên gọi Đảo chính nhà hàng bia). Phiên tòa thu hút rất nhiều sự chú ý của báo giới và nó đã trở thành sân khấu cho Hitler tuyên truyền. Goebbels bị đảng Quốc xã thu hút phần lớn bởi sức hút của Hitler và niềm tin vào lời cam kết của ông ta. Trong khoảng thời gian đó, Goebbels gia nhập đảng Quốc xã, trở thành thành viên số 8762. Cuối năm 1924, ông đề nghị được làm việc với Karl Kaufmann, Gauleiter (thủ lĩnh địa bàn của đảng) của vùng Rhine-Ruhr. Kaufmann phân cho Goebbels cộng tác cùng Gregor Strasser, một nhà tổ chức Quốc xã hàng đầu tại miền Bắc nước Đức, người đã thuê Goebbels làm việc cho tờ tuần báo của họ đồng thời làm thư ký cho các văn phòng đảng trong khu vực. Goebbels cũng trở thành phát ngôn viên của đảng và người đại diện cho vùng Rhineland-Westphalia. Các thành viên thuộc chi nhánh phía bắc của đảng dưới quyền Strasser, trong đó có Goebbels, có quan điểm thiên về xã hội chủ nghĩa hơn so với nhóm địch thủ Hitler ở Munich. Strasser bất đồng với Hitler về nhiều phần trong cương lĩnh đảng và từ tháng 11 năm 1926 ông bắt đầu có một sự xét lại. Hitler nhìn nhận những hành động của Strasser như một mối đe dọa đến quyền lực của mình và ông đã triệu tập 60 Gauleiter và thủ lĩnh đảng, trong đó có Goebbels, tới một hội nghị đặc biệt tổ chức tại Bamberg, địa điểm thuộc Gau Franconia của Streicher. Tại đây Hitler có một bài diễn thuyết kéo dài hai giờ phản đối chương trình chính trị mới của Strasser. Hitler phản đối những kiến thức, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đến từ vùng miền Bắc, tuyên bố nó sẽ đồng nghĩa với "Bolshevik hóa nước Đức về mặt chính trị". Thêm nữa là, sẽ "không có hoàng thân, chỉ có người Đức", và một chế độ dựa trên luật pháp "… không có hệ thống bóc lột của người Do Thái;... để cướp bóc của nhân dân chúng ta". Tương lai sẽ được bảo đảm bằng việc giành lấy đất, không phải thông qua tước đoạt những khu đất của giới quý tộc, mà là qua thuộc địa hóa những vùng lãnh thổ ở phía Đông. Goebbels rùng mình trước quan niệm của Hitler cho rằng những đặc điểm của chủ nghĩa xã hội là "một sự sáng tạo của người Do Thái", và khẳng định của ông ta rằng sở hữu tư sẽ không bị chính quyền Quốc xã chiếm đoạt. Goebbels viết trong nhật ký: "Tôi không còn tin tưởng hoàn toàn nơi Hitler. Đó là một điều khủng khiếp: sự ủng hộ bên trong tôi đã mất". Trong niềm hy vọng giành chiến thắng trước những địch thủ đối lập, Hitler sắp xếp các cuộc họp với ba thủ lĩnh Gau Greater Ruhr tại Munich, trong đó có Goebbels. Goebbels ấn tượng với việc Hitler đi xe riêng đến gặp họ tại nhà ga. Tối hôm đó, cả Hitler và Goebbels đều có những bài diễn thuyết tại một đại hội diễn ra ở nhà hàng bia. Ngày hôm sau, Hitler đưa tay đề nghị hòa giải với ba người, động viên họ để lại những bất đồng ở phía sau. Ông ta đồng thời cho Goebbels thấy "cái nhìn sâu sắc mới" về "vấn đề xã hội". Goebbels hoàn toàn đầu hàng và dâng đến Hitler tất cả lòng trung thành của mình;– một lời thề chân thật, và ông đã giữ vững lời thề ấy trong suốt quãng đời còn lại. "Tôi yêu mến ông ấy;... Ông ấy đã nghĩ đến mọi việc," Goebbels viết. "Một trí tuệ sắc sảo tới mức có thể trở thành lãnh đạo của tôi. Tôi cúi đầu trước con người vĩ đại, một thiên tài chính trị". Sau này Goebbels viết: "Adolf Hitler, tôi yêu quý ông vì ông vừa vĩ đại vừa giản dị. Những gì mà người ta gọi là một thiên tài". Kết quả sau các cuộc họp ở Bamberg và Munich, dự thảo chương trình đảng mới của Strasser bị bãi bỏ. Chương trình Quốc gia Xã hội chủ nghĩa ban đầu năm 1920 được giữ lại y nguyên, và vị thế lãnh đạo đảng của Hitler đã được củng cố đáng kể. Tuyên truyền viên ở Berlin Theo lời mời của Hitler, Goebbels đã phát biểu tại các cuộc họp đảng ở Munich và tại kỳ đại hội đảng thường niên tổ chức ở Weimar năm 1926. Để phục vụ cho các sự kiện năm sau, Goebbels lần đầu tham gia vào việc lập kế hoạch. Ông cùng Hitler sắp xếp thực hiện một bộ phim về kỳ đại hội. Việc thể hiện tốt tại các sự kiện giúp Goebbels nhận được những lời tán dương, điều này đã định hình tư tưởng chính trị của ông sao cho phù hợp với tư tưởng của Hitler và làm ông cảm phục cũng như thần tượng Hitler hơn nữa. Goebbels được mời vào vị trí Gauleiter của vùng Berlin trong tháng 8 năm 1926. Ông tới Berlin vào giữa tháng 9 và tiếp nhận chức vụ này một tháng sau. Như vậy kế hoạch chia rẽ và phân tán nhóm Gauleiter vùng Tây Bắc của Hitler, nhóm mà Goebbels phục vụ dưới quyền Strasser, đã thành công. Hitler ban cho Goebbels quyền thế lớn trên khắp khu vực, cho phép Goebbels định ra đường lối tổ chức và lãnh đạo Gau Berlin. Goebbels được nắm quyền kiểm soát các lực lượng Sturmabteilung (SA) và Schutzstaffel (SS) khu vực và chỉ đáp lại mình Hitler. Goebbels đã hạ thấp số lượng đảng viên tích cực và hứa hẹn nhất xuống còn 600. Nhằm giúp tăng ngân quỹ, ông lập phí đảng viên và bắt đầu thu phí tham dự các cuộc họp đảng. Nhận thức được giá trị của tính công khai (cả mặt tích cực lẫn tiêu cực), ông cố tình kích động các cuộc ẩu đả ở nhà hàng bia và ngoài đường phố, bao gồm cả các cuộc tấn công bạo lực nhằm vào Đảng Cộng sản Đức. Goebbels đi theo xu hướng phát triển hiện thời áp dụng các hình thức quảng cáo trong thương mại vào lĩnh vực chính trị, trong đó có việc dùng những khẩu hiệu lôi cuốn và ám hiệu ẩn ý. Những ý tưởng mới của Gobbels trong cách trình bày áp phích bao gồm sử dụng cỡ lớn, mực đỏ, và các tiêu đề mang tính bí ẩn, khó hiểu kích thích người đọc nghiên cứu phần chữ nhỏ để xác định ý nghĩa. Cũng như Hitler, Goebbels rèn luyện kỹ năng diễn thuyết trước một tấm gương. Trước mỗi buổi hội nghị là những nghi thức tuần hành, ca hát và các địa điểm được trang trí bằng những biểu ngữ của đảng. Goebbels chọn thời điểm xuất hiện (hầu như toàn là muộn) sao cho đạt hiệu quả cảm xúc tối đa. Ông thường lên kế hoạch tỉ mỉ cho những lần diễn thuyết, sử dụng những cử chỉ, điệu bộ; đồng thời có khả năng ứng biến, thay đổi màn thể hiện để làm sao kết nối với khán thính giả một cách hiệu quả. Thủ đoạn khiêu khích nhằm thu hút sự chú ý cho đảng của Goebbels cùng với bạo lực xảy ra tại các kỳ họp đảng và các cuộc biểu tình đã dẫn tới việc đảng Quốc xã bị cảnh sát Berlin cấm từ ngày 5 tháng 5 năm 1927. Các vụ bạo lực vẫn tiếp tục, như là việc những người Quốc xã trẻ vô cớ tấn công người Do Thái trên đường phố. Goebbels chịu lệnh cấm diễn thuyết chốn công cộng cho đến cuối tháng 10. Trong quãng thời gian này, Goebbels nhận thấy tờ báo Der Angriff là một phương tiện tuyên truyền hữu ích cho vùng Berlin. Đó là một tờ báo có phong cách hiện đại mang tính chất hung hăng. Điều làm Goebbels thất vọng là số phát hành ban đầu thấp, chỉ 2.000 tờ. Nội dung của báo nặng tính chống cộng sản và bài Do Thái. Một trong số những mục tiêu công kích ưa thích của tờ báo này là Phó Chánh Cảnh sát Berlin người Do Thái Bernhard Weiß. Goebbels gán cho Weiß biệt danh có tính xúc phạm "Isidore" và tiến hành chiến dịch phỉ báng không ngừng nhằm vào ông này với hy vọng nó sẽ kích động một cuộc trấn áp mà từ đó ông có thể khai thác. Đồng thời, Goebbels tiếp tục cố gắng xâm nhập vào lĩnh vực văn học với một phiên bản chỉnh sửa của cuốn Michael mà cuối cùng cũng được xuất bản, cùng hai vở kịch không thành công (Der Wanderer và Die Saat). Die Saat là tác phẩm kịch cuối cùng của Goebbels. Quãng thời gian ở Berlin Goebbels quan hệ với rất nhiều phụ nữ, trong đó có cả tình cũ Anka Stalherm, người khi đó đã kết hôn và có một đứa con nhỏ. Goebbels yêu một ai đó rất nhanh, nhưng cũng dễ chán nản và chuyển sang người phụ nữ khác. Ông lo lắng quá về cái cách mà một mối quan hệ nghiêm túc có thể gây trở ngại đến sự nghiệp của mình. Đầu năm 1928, lệnh cấm đảng Quốc xã được dỡ bỏ, gần thời điểm cuộc tuyển cử Nghị viện tổ chức vào ngày 20 tháng 5. Kết quả là thất vọng, đảng Quốc xã mất đi gần 100.000 cử tri và chỉ đạt tỉ lệ 2,6% số phiếu trên toàn quốc. Tính riêng ở Berlin thì kết quả còn thất vọng hơn khi họ chỉ nhận được 1,4% số phiếu bầu. Goebbels là một trong 12 thành viên của đảng Quốc xã được bầu vào Nghị viện. Điều này giúp ông được miễn truy tố nhiều vụ việc còn tồn đọng, một trong số đó là bản án ba tuần giam ông nhận trong tháng 4 vì tội xúc phạm phó chánh cảnh sát Weiß. Tháng 2 năm 1931 Nghị viện thay đổi các điều lệ miễn giảm, và Goebbels đã buộc phải nộp phạt vì những phát ngôn có tính bôi nhọ trên tờ Der Angriff trong năm trước đó. Trên tờ báo Berliner Arbeiterzeitung của mình, Gregor Strasser đã chỉ trích mạnh mẽ thất bại của Goebbels trong việc thu hút những lá phiếu ở khu vực thành thị. Xét tổng quan đảng Quốc xã đạt kết quả khả quan hơn hẳn ở những vùng nông thôn, một vài nơi họ giành được 18% số phiếu. Điều này một phần là nhờ việc Hitler đã tuyên bố công khai ngay trước thời điểm bầu cử về điều 17 của chương trình đảng, đó là sung công đất mà không bồi thường và sẽ chỉ áp dụng đối với những kẻ đầu cơ người Do Thái, không nhắm đến đối tượng là chủ sở hữu đất tư. Sau cuộc tuyển cử, đảng Quốc xã chuyển sang chú trọng vào việc tìm cách thu hút nhiều lá phiếu hơn ở những vùng nông nghiệp và vào tháng 5, Hitler đã xem xét bổ nhiệm Goebbels làm chánh tuyên truyền đảng. Goebbels lưỡng lự, ông lo ngại việc Gregor Strasser chuyển chức vụ sẽ dẫn tới sự chia rẽ trong đảng. Goebbels tự nhìn nhận bản thân rất phù hợp với vị trí này và ông bắt đầu xây dựng những ý tưởng làm thế nào để có thể áp dụng tuyên truyền vào trong trường học và các phương tiện truyền thông đại chúng. Đến năm 1930, tình trạng xung đột ác liệt giữa một bên là những người Quốc xã và bên kia là những người Cộng sản đã dẫn tới sự kiện thủ lĩnh đám lính SA địa phương Horst Wessel bị hai đảng viên Đảng Cộng sản Đức bắn. Wessel chết hai ngày sau trong bệnh viện. Goebbels đã khai thác cái chết của Wessel, biến nhân vật này thành một tử sĩ chết vì đạo. Hành khúc Die Fahne hoch (tạm dịch: Giương cao ngọn cờ) của Wessel được đổi tên thành Horst-Wessel-Lied (Bài ca của Horst Wessel) và Goebbels chính thức tuyên bố bài hát này là đảng ca của đảng Quốc xã. Đức là quốc gia chịu tác động lớn từ cuộc Đại Suy thoái và đến năm 1930 thì tỉ lệ thất nghiệp đã tăng mạnh. Trong quãng thời gian này, nhóm của Strasser bắt đầu cho xuất bản một tờ nhật báo mới ở Berlin mang tên Nationaler Sozialist (Quốc gia Xã hội chủ nghĩa). Cũng như những xuất bản phẩm khác, tờ báo này truyền tải những đặc điểm chủ nghĩa Quốc xã mang quan điểm của họ bao gồm chủ nghĩa dân tộc, chống tư bản, cải cách xã hội, bài phương Tây. Goebbels than phiền dữ dội về tờ báo của nhóm địch thủ Strasser với Hitler và thừa nhận rằng thành công của họ khiến báo của ông ở Berlin bị "đẩy vào chân tường". Vào cuối tháng 4 năm 1930, Hitler thông báo công khai và kiên quyết về sự đối địch với Gregor Strasser, đồng thời bổ nhiệm Goebbels làm thủ lĩnh tuyên truyền của đảng Quốc xã thay thế Strasser. Một trong những việc đầu tiên mà Goebbels làm đó là cấm ấn bản phát hành vào buổi tối của Nationaler Sozialist. Ngoài ra, Goebbels còn được trao quyền quản lý các tờ báo Quốc xã ở Đức, bao gồm cả tờ báo lưu hành trên toàn quốc của đảng, Völkischer Beobachter (Quan sát viên Nhân dân). Ông vẫn phải đợi đến ngày 3 tháng 7 để có thông báo Otto Strasser cùng đội ngũ đã rời đảng. Ngay khi hay tin, Goebbels cảm thấy nhẹ nhõm và vui mừng vì "cơn khủng hoảng" với Strasser cuối cùng đã chấm dứt và Strasser đã mất đi mọi quyền hành. Sự suy thoái nhanh chóng của nền kinh tế dẫn tới việc chính phủ liên hiệp giải thể vào ngày 27 tháng 3 năm 1930. Một nội các mới được thành lập và Paul von Hindenburg đã sử dụng quyền lực tổng thống của mình để chi phối thông qua các nghị định khẩn cấp. Hindenburg đã bổ nhiệm Heinrich Brüning làm thủ tướng. Goebbels phụ trách chiến dịch tranh cử Nghị viện của đảng Quốc xã, cuộc tuyển cử diễn ra vào ngày 14 tháng 9 năm 1930. Chiến dịch vận động có quy mô hết sức lớn với hàng ngàn cuộc mít tinh và những bài phát biểu trên khắp đất nước. Các bài phát biểu của Hitler tập trung đổ lỗi cho Cộng hòa Weimar là nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế, nhất là việc chính phủ này tuân theo các điều khoản của Hòa ước Versailles khiến Đức phải bồi thường chiến phí, điều đã được chứng minh là thủ phạm phá hoại nền kinh tế đất nước. Hitler đề xuất một xã hội Đức mới căn cứ vào chủng tộc và sự đoàn kết dân tộc. Thành quả thắng lợi khiến cả Hitler và Goebbels phải bất ngờ: Quốc xã đã trở thành đảng lớn thứ hai ở Đức sau khi nhận được 6,5 triệu lá phiếu trên toàn quốc và giành 107 ghế trong Nghị viện. Vào cuối năm 1930 Goebbels gặp Magda Quandt, một người phụ nữ ly dị chồng từng gia nhập đảng Quốc xã vài tháng trước. Quandt làm công việc tình nguyện trong các cơ quan đảng ở Berlin và giúp Goebbels sửa soạn đống sổ sách riêng tư. Căn hộ của bà ở Reichkanzlerplatz đã sớm trở thành điểm họp mặt ưa thích của Hitler và các đảng viên Quốc xã. Goebbels và Quandt kết hôn vào ngày 19 tháng 12 năm 1931. Goebbels đã tổ chức các chiến dịch vận động khổng lồ bao gồm các cuộc mít tinh, diễu hành, các bài phát biểu, và chuyến du hành quanh đất nước của Hitler bằng máy bay cùng khẩu hiệu "Führer phía trên nước Đức", cho hai cuộc tuyển cử trong năm 1932. Ông còn thực hiện nhiều chuyến phát biểu trong các chiến dịch tranh cử này, một vài trong số đó được công bố trên đĩa than và sách nhỏ. Ông cũng tham gia vào công việc sản xuất một loạt phim câm có thể sẽ được chiếu tại các cuộc họp đảng, dù cho họ không có đủ số trang thiết bị để áp dụng hình thức này một cách rộng rãi. Các áp phích vận động của Goebbels, không ít trong số chúng chứa những hình ảnh bạo lực như một người đàn ông khổng lồ cởi trần tiêu diệt những địch thủ chính trị hay những kẻ thù khác. Ông thường mô tả những thứ đối lập như là "những tên tội phạm tháng 11", "những tên Do Thái giật dây", hay mối đe dọa cộng sản. Sự ủng hộ dành cho đảng tiếp tục tăng, tuy nhiên cả hai cuộc tuyển cử đều không dẫn tới một chính phủ đa số. Vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, trong một nỗ lực nhằm bình ổn hóa đất nước và cải thiện tình hình kinh tế, Hindenburg đã bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng Đức. Nghệ thuật tuyên truyền Göbbels góp công rất lớn cho sự đi lên của Quốc xã, nhờ nghệ thuật tuyên truyền của ông, mà vài việc điển hình được ghi dưới đây. "Liệt sĩ" Quốc xã.. Một trong những chỉ huy SA cấp cơ sở ở thủ đô Berlin là Horst Wessel, con của một mục sư Tin lành. Anh này bỏ gia đình, bỏ học để đến ngụ trong một khu nhà tồi tàn, sống chung với một phụ nữ lúc trước làm gái bán dâm và cống hiến cuộc đời của anh ta để chiến đấu cho Quốc xã. Nhiều người chống Quốc xã cho rằng Wessel kiếm tiền bằng cách làm ma cô dắt gái, nhưng có lẽ đấy là lời phóng đại. Chắc chắn là anh ta giao thiệp với ma cô và gái mại dâm. Tháng 2/1930, bị đảng viên Cộng sản hạ sát. Đáng lẽ Wessel đã đi vào quên lãng cùng với hàng trăm nạn nhân khác của hai bên đã bỏ mình khi xô xát trên đường phố. Chỉ có điều khác biệt: Wessel có một ca khúc do anh ta soạn cả nhạc và lời. Đấy là bài Horst Wessel (cũng có tựa là Die Fahne Hoch – Ngọn cờ giương cao), chẳng bao lâu trở thành ca khúc chính thức của Đảng Quốc xã và sau này là quốc ca chính thức thứ hai – sau bài Deutschland über Alles – của Đế chế Thứ Ba. Nhờ nghệ thuật tuyên truyền khéo léo của Göbbels, Horst Wessel trở thành một trong những anh hùng huyền thoại vĩ đại nhất của phong trào, được ca tụng là người có lý tưởng thuần khiết đã bỏ mình vì sự nghiệp. Tuyên truyền thắng lợi bầu cử. Ngày 15 tháng 1 năm 1933, trong khi Schleicher đang hoan hỉ nói về ngày tàn của Hitler, Quốc xã đạt kết quả khả quan trong cuộc bầu cử ở Bang Lippe, chiếm 39% số phiếu trong tổng số 90.000 phiếu, tăng được 17% so với kỳ bầu cử trước. Tuy kết quả chỉ là nhỏ nhoi so với cấp toàn quốc, Göbbels chỉ huy một chiến dịch truyên truyền mạnh mẽ cho "thắng lợi" này. Điều lạ lùng là việc tuyên truyền gây ấn tượng cho một số người của phe bảo thủ, kể cả người đứng sau Tổng thống Ludwig von Hindenburg, chủ yếu là Chánh văn phòng Meissner và con trai ông, Oskar. Hitler đã gây ấn tượng mạnh với người con trai của Tổng thống khi hai người gặp gỡ riêng với nhau. Từ đó, ảnh hưởng của Hitler lan đến người cha. Hitler tranh cử Tổng thống. Trong cuộc bầu cử Tổng thống Đức tháng 5 năm 1932, Hitler lao mình vào chiến dịch tranh cử với năng lượng dữ dội, di chuyển khắp nước Đức, phát biểu với đám đông trong nhiều buổi đại hội và thôi thúc họ đến mức độ cuồng loạn. Göbbels và Strasser, hai người có tài ăn nói làm mê mẩn lòng người, cũng lao vào lịch phát biểu tương tự. Nhưng chưa hết. Họ chỉ đạo một chiến dịch tuyên truyền rầm rộ mà nước Đức chưa từng thấy bao giờ. Họ dán hàng triệu pa-nô đầy màu sắc khắp các thành phố và thị trấn, phân phối 8 triệu tờ bướm và thêm 12 triệu bản tờ báo của đảng, tổ chức 3.000 buổi mít-tinh lớn nhỏ mỗi ngày khắp nước Đức. Lần đầu tiên trong một cuộc bầu cử ở Đức, Quốc xã sử dụng phim ảnh, thêm máy hát phát ra loa đặt trên xe tải. Khai mạc Nghị viện. Hitler cùng Göbbels thực hiện một động thái thần sầu khai mạc phiên họp Nghị viện mới ở Nhà thờ Doanh trại Potsdam, là thánh địa của nước Phổ xa xưa, gợi lại trong lòng người Đức nhiều hoài niệm về đế chế quang vinh. Ngày được chọn để cử hành lễ khai mạc Nghị viện đầu tiên của Quốc xã, 21 tháng 3 năm 1933, cũng có ý nghĩa. Đấy là ngày kỷ niệm Bismarck khai mạc Nghị viện đầu tiên của Đế chế thứ Hai vào năm 1871. Göbbels (đã nhậm chức Bộ trưởng Bộ Giác ngộ quần chúng và Tuyên truyền ngày 13 tháng 3 năm 1933) phụ trách dàn dựng nghi thức và chỉ đạo công tác truyền thanh khắp cả nước. Để tỏ lộ lòng khiêm tốn sâu sắc đối với vị Tổng thống, Hitler cúi đầu thật thấp trước mặt Hindenburg và nắm lấy bàn tay ông. Trong ánh sáng nhấp nháy của những ngọn đèn máy ảnh và giữa tiếng lịch kịch của máy quay phim – mà Göbbels đã cho bố trí cùng với micrô ở những góc cạnh thích hợp nhất – hình ảnh vị Thống chế Đức và người hạ sĩ gốc Áo nắm chặt tay nhau được ghi lại cho cả nước Đức và thế giới cùng xem. Thế vận hội Berlin 1936. Qua Thế vận hội này Göbbels có một cơ hội bằng vàng để tạo ấn tượng cho thế giới về những thành tựu của Đế chế Thứ Ba. Nào nước Đức tạo nên phong thái tốt nhất có thể được. Chưa từng có Thế vận hội nào được tổ chức ngoạn mục như thế với chương trình giải trí phong phú như thế. Göring, Ribbentrop và Göbbels tổ chức nhiều buổi tiếp tân lộng lẫy đón khách nước ngoài. Du khách, nhất là người Anh và người Mỹ, có ấn tượng mạnh đối với những gì họ nhìn thấy: hiển nhiên là một dân tộc hạnh phúc, khỏe mạnh, thân thiện, đoàn kết dưới Hitler. Họ cho biết đấy là cả sự khác biệt so với những gì họ đọc qua những bài báo gửi đi từ Berlin. Chuẩn bị việc thôn tính châu Âu. Để lấy cớ cho Đức xâm lăng Áo năm 1938, Göbbels dựng nên những mẩu chuyện về tình hình rối loạn Đỏ – xô xát, bắn giết, cướp bóc – trên đường phố chính ở Viên. Năm 1939, Quốc xã cũng đã dàn dựng để đánh lừa dân Đức và những người cả tin khác ở châu Âu. Trong nhiều ngày, điệp viên Đức đã xách động nhiều vụ gây rối ở các thành phố Tiệp Khắc. Họ không được thành công lắm vì lý do oái oăm như công sứ Đức ở Praha báo cáo: "Cảnh sát Tiệp Khắc được lệnh không hành động chống người Đức, ngay cả trong các trường hợp bị khiêu khích." Nhưng Göbbels đã khuấy động báo chí Đức gây ồn ào về cái mà họ gọi là những hành động khủng bố của người Tiệp Khắc chống lại người Đức đáng thương. Như đại sứ Pháp báo cáo về Paris, những hàng tít lớn trông giống như trường hợp mà TS. Göbbels đã dựng nên trong cuộc khủng hoảng Sudetenland. Qua đấy, Hitler có thể trấn an người dân Đức rằng đồng bào của họ sẽ không phải chịu cảnh bơ vơ lâu nữa. Quốc xã hóa nền văn hóa Vào buổi tối 10 tháng 5 năm 1933, khoảng 4 tháng rưỡi sau khi Hitler trở thành thủ tướng, một cảnh tượng xảy ra ở Berlin chưa từng thấy ở thế giới phương Tây kể từ thời Trung cổ. Khoảng giữa đêm, cuộc diễu hành rước đuốc của hàng nghìn sinh viên kết thúc trên quảng trường đối diện Đại học Berlin. Một đống sách khổng lồ được châm lửa, rồi khi ngọn lửa bùng lên có thêm sách được ném vào, cuối cùng khoảng 20.000 quyển sách cháy thành tro. Cảnh tượng tương tự diễn ra ở vài thành phố khác. Chiến dịch đốt sách đã bắt đầu. Nhiều quyển sách do đám sinh viên ném vào đống lửa đêm ấy dưới đôi mắt hài lòng của TS. Göbbels là tác phẩm của những tác giả đã nổi tiếng trên thế giới. Trong số tác giả Đức gồm có Thomas Mann, Heinrich Mann, Lion Feuchtwanger, Jakob Wassermann, Stefan Zweig, Erich Maria Remarque, Walther Rathenau, Albert Einstein, Alfred Kerr và Hugo Preuss – người cuối cùng đã đóng góp vào việc soạn thảo bản hiến pháp của Cộng hòa Đức. Các tác giả nước ngoài gồm: Jack London, Upton Sinclair, Helen Keller, Margaret Sancher, H.G. Wells, Havelock Ellis, Arthur Schnitzler, Freud, Gide, Zola, Proust. Bộ trưởng Göbbels phát biểu với sinh viên sau khi các quyển sách đã hóa thành tro: Tâm hồn của dân tộc Đức có thể cất lên tiếng nói trở lại. Những ngọn lửa này không những rọi chiếu hồi kết cục của một kỷ nguyên cũ, mà còn soi sáng cho kỷ nguyên mới. Kỷ nguyên Quốc xã mới của nền văn hóa Đức được soi sáng không chỉ bởi những đống lửa đốt sách vở, mà còn qua những quy định theo tầm mức chưa một quốc gia phương tây hiện đại nào từng thấy. Có biện pháp âm thầm, không thể hiện biểu tượng như đống lửa sách nhưng hữu hiệu, như việc quy định số ấn bản lưu hành hoặc trữ trong thư viện và đề tài của sách mới. Ngay từ thời gian đầu, ngày 22 tháng 9 năm 1933, Ban Văn hóa Đế chế được thành lập và được giao cho Göbbels quản lý. Chức năng của Ban này được luật quy định như sau: Nhằm theo đuổi một chính sách của văn hóa Đức, cần thiết phải tập hợp lại những nghệ sĩ có sáng kiến trong mọi lĩnh vực vào một tổ chức dưới quyền lãnh đạo của Quốc xã. Đế chế không những sẽ quy định đường hướng tiến triển về tinh thần và tâm linh, mà còn sẽ chỉ đạo và tổ chức các ngành nghề. Nhiều phòng được đặt ra dưới Ban Văn hóa Đế chế để hướng dẫn và kiểm soát cuộc sống văn hóa: các phòng Đế chế về mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, văn học, báo chí, truyền thanh và phim ảnh. Mọi người hoạt động trong những lĩnh vực này đều bị buộc phải gia nhập một phòng tương ứng, trong đấy các quyết định và chỉ đạo có hiệu lực theo luật định. Trong số các chức năng khác, các phòng có thể trục xuất – hoặc từ chối đơn xin gia nhập – người "thiếu tin cậy về chính trị." Có nghĩa là người không sốt sắng lắm với Quốc xã thường bị cấm hành nghề và thế là mất kế sinh nhai. Sự kiểm soát báo chí, truyền thanh và phim ảnh Mỗi buổi sáng, biên tập viên của các nhật báo ở Berlin và thông tín viên báo chí xuất bản nơi khác tề tựu ở Bộ Tuyên truyền để nghe TS. Göbbels hoặc phụ tá của ông thông báo cho phép in tin nào và cấm tin nào, viết bản tin ra sao và đề tựa như thế nào, chiến dịch truyên truyền nào phải chấm dứt và chiến dịch nào phải bắt đầu, và bài xã luận nào cần viết. Nếu có trường hợp hiểu lầm, một văn bản được gửi đi kèm lời chỉ dẫn bằng miệng. Văn bản được gửi bằng điện tín hoặc thư bưu điện đến các tờ báo ở xa. Luật Báo chí ngày 4 tháng 10 năm 1933 quy định người "trong sạch" về chính trị và chủng tộc mới được làm biên tập viên dưới thời Quốc xã: phải có quốc tịch Đức, thuộc chủng tộc Aryan và không kết hôn với người Do Thái. Điều 14 của Luật Báo chí quy định biên tập phải "loại ra khỏi báo chí bất kỳ bài viết nào... có xu hướng làm suy yếu sức mạnh của Đức Quốc xã, ý chí nội tại hoặc bên ngoài của dân tộc Đức, nền quốc phòng của Đức... hoặc xúc phạm danh dự và phẩm giá của nước Đức." Đấy là những vi phạm mà nếu Luật được áp dụng trước 1933 sẽ trấn áp tất cả biên tập viên của Quốc xã. Bây giờ Luật dẫn đến việc loại bỏ những tờ báo và người làm báo không phải là Quốc xã. Vài tờ báo còn tồn tại là nhờ Văn phòng Báo chí Đức can thiệp vì muốn duy trì những tờ báo danh tiếng quốc tế này hầu tạo ấn tượng cho thế giới bên ngoài. Khi mọi tờ báo ở Đức đã được chỉ dẫn phải đăng gì, viết bản tin và xã luận như thế nào, điều không khỏi là có sự tuân phục tai hại lan tràn khắp báo chí cả nước. Ngay cả một dân tộc vốn đã được điều hành chặt chẽ và chịu phục tùng chế độ cũng cảm thấy chán ngán với nhật báo. Số phát hành báo giảm nhanh chóng. Trong 4 năm đầu của chế độ Quốc xã, số tựa báo giảm từ 3.607 xuống còn 2.671. Người nước ngoài ở Berlin cũng nhận ra cách thức mà báo chí, dưới quyền chỉ đạo chuyên nghiệp của Göbbels, đang lừa dối người dân Đức cả tin. Trong sáu năm, từ khi Quốc xã "điều phối" các tờ nhật báo, có nghĩa là dập tắt tự do báo chí, người dân đã bị cắt đứt khỏi sự thật của những gì diễn ra trên thế giới. Có lúc vào năm 1934, Göbbels kêu gọi các biên tập viên hay khúm núm không nên viết bài quá đơn điệu. Một biên tập viên lại quá năng nổ với chỉ thị này, viết bài chỉ trích Bộ Tuyên truyền quá nghiêm khắc khiến cho báo chí trở nên chán ngắt. Tờ tuần báo của ông này lập tức bị đình bản ba tháng và chính ông bị Göbbels đưa vào trại tập trung. Ngành truyền thanh và phim ảnh cũng bị nhanh chóng uốn nắn để phục vụ cho mục đích truyên truyền của Nhà nước Quốc xã. Göbbels thường lên tiếng trên đài truyền thanh (truyền hình chưa xuất hiện lúc này). Qua Cục Truyền thanh trong Bộ Tuyên truyền, ông kiểm soát hoàn toàn và lèo lái các chương trình truyền thanh cho mục đích của mình. Công việc càng thêm dễ dàng vì ở Đức, giống như những quốc gia châu Âu khác, Nhà nước nắm độc quyền lĩnh vực truyền thanh. Ngành phim ảnh vẫn còn nằm trong tay công ty tư nhân, nhưng Bộ Tuyên truyền và Phòng Phim ảnh kiểm soát mọi hoạt động trong ngành, với chức năng – theo ngôn từ của một bài xã luận chính thức – "nhằm đưa ngành phim ảnh thoát ra khỏi phạm trù của những tư tưởng kinh tế tự do..." Trong cả hai trường hợp, hậu quả đối với người Đức là mang đến những chương trình truyền thanh và phim ảnh ngớ ngẩn và chán phèo, cũng giống như báo chí xuất bản định kỳ. Ngay cả một dân tộc vốn quen chịu o ép cũng tỏ ý phản kháng. Người hâm mộ lánh xa những phim của Quốc xã và chen chúc đến xem một số ít phim nước ngoài (phần lớn là phim Hollywood hạng nhì) mà Göring cho phép chiếu trong nước. Có lúc giữa thập kỷ 1930, Bộ trưởng Nội vụ Wilhelm Frick ra một lời cảnh cáo nghiêm khắc về "thái độ phản trắc của khán giả phim ảnh." Tương tự, các chương trình truyền thanh bị chê bai thậm tệ, đến nỗi chủ tịch Phòng Truyền thanh Horst Dressler-Andress tuyên bố lời ta thán như thế là "xúc phạm đến nền văn hóa Đức" và sẽ không được dung thứ. Trong những ngày này ở thập kỷ 1930s, thính giả Đức có thể bắt nghe một số đài nước ngoài mà không sợ rủi ro đến tính mạng như trong Thế chiến II sau này. Có lẽ nhiều người Đức làm thế, tuy tác giả có cảm tưởng TS. Göbbels đã đúng khi cho rằng truyền thanh là công cụ tuyên truyền hữu hiệu nhất. Người ta dễ chịu ảnh hưởng bởi ngành báo chí và truyền thanh bị kiểm duyệt trong một nước chuyên chế. Điều đáng ngạc nhiên là chế độ tuyên truyền dai dẳng gồm những điều bịa đặt và bóp méo sự thật cuối cùng gây ấn tượng trên tâm tư con người và thường khiến họ dễ lầm lạc. Sống nhiều năm dưới chế độ tuyên truyền liên tục có tính toán thì khó mà thoát khỏi tầm ảnh hưởng. Trong nhà riêng hoặc văn phòng người Đức, đôi lúc trong buổi chuyện trò cởi mở với một người mới gặp ở nhà hàng, quầy bia, quán café, người nước ngoài thường nghe những lời khẳng định lạ lùng từ người có vẻ như thông minh và có học thức. Hiển nhiên là họ lặp lại như con vẹt những điều vô lý mà họ đã nghe qua đài truyền thanh hoặc đọc qua báo chí. Đôi lúc người nước ngoài có thể thử nói ra sự thật, nhưng được đáp lại với cái nhìn kinh ngạc, với sự im lặng, như thể ta đã phạm thánh. Từ đấy, có thể nhận ra chỉ là vô ích nếu cố tiếp cận với một tư tưởng đã bị bẻ cong, đã thấm nhuần theo cách mà Hitler và Göbbels muốn uốn nắn. Vài vụ việc tuyên truyền nổi bật khác Vụ đánh đắm tàu hành khách Athenia. Tối ngày 3 tháng 9 năm 1939, chiếc tàu Athenia của Anh chở 1.400 hành khách bị đánh đắm lúc 9 giờ, cách Hebrides (tây Scotland) khoảng 320 kilômét về phía tây. Có 112 hành khách tử vong, trong số ấy có 28 người mang quốc tịch Mỹ. Bộ Tuyên truyền Đức kiểm tra với Bộ Tư lệnh Hải quân Đức, được báo không có tàu ngầm Đức trong vùng, và lập tức phủ nhận trách nhiệm của Đức. Ngày 22 tháng 10, đích thân Göbbels phát biểu trên sóng truyền thanh mà kết án Churchill đã đánh đắm chiếc Athenia, và ngày hôm sau báo chí Đức phụ họa theo. Đô đốc Karl Dönitz, lúc này là tư lệnh lực lượng tàu ngầm, nhiều năm sau tiết lộ sự thật: Tôi gặp Thượng úy Hạm trưởng Lemp, khi chiếc tàu trở về căn cứ, và anh ấy yêu cầu nói chuyện riêng với tôi. Tôi nhận thấy ngay là anh ta tỏ vẻ rất buồn; anh nói ngay với tôi rằng anh nghĩ anh có trách nhiệm trong việc đánh đắm tàu Athenia. Tuân theo chỉ thị của tôi lúc trước, anh đã để ý theo dõi thương thuyền được vũ trang thành tàu tuần dương, và đã ra lệnh bắn ngư lôi đánh đắm một chiếc tàu mà sau đấy qua đài truyền thanh anh mới biết là chiếc Athenia, chỉ vì anh đã nhận lầm là một tàu tuần dương. Đức bắn chìm chiếc Royal Oak. Ngày 14 tháng 10 năm 1939, tàu ngầm U-17 của Đức xâm nhập hệ thống phòng vệ của căn cứ hải quân Anh Scapa Flow và bắn chìm tàu thiết giáp Royal Oak Anh đang thả neo, khiến cho 786 sĩ quan và thủy thủ tử vong. Đấy là một thắng lợi đáng kể mà TS. Göbbels khai thác tận lực trong chiến dịch tuyên truyền của Đức, và nâng cao vị thế của hải quân trong đầu óc của Hitler. Chiếm Pháo đài Eben Emael. Tháng 5 năm 1940, khi đánh qua Tây Âu, Đức đạt chiến công hiển hách khi chiếm được Pháo đài Eben Emael kiểm soát điểm hợp lưu của Sông Meuse và Kênh Albert. Pháo đài hiện đại này nằm ở vị trí có tầm quan trọng chiến lược, được xem là có cấu trúc kiên cố nhất châu Âu, kiên cố hơn bất kỳ công sự nào mà Pháp xây ở Phòng tuyến Maginot hoặc Đức xây ở Bức tường Tây. Pháo đài gồm mạng lưới giao thông hào sâu bằng bê-tông cốt thép, những ổ súng được bảo vệ bằng lớp thép dày do 1.200 quân điều hành, được cho là có thể chống trả vô thời hạn những cuộc oanh kích của máy bay và đại pháo. Nhưng trong vòng 30 tiếng đồng hồ pháo đài này lại rơi vào tay 80 binh sĩ Đức dưới quyền chỉ huy của một trung sĩ. (Trung úy chỉ huy bị sự cố khiến ông đến muộn.) Quân Đức bay đến bằng 9 máy bay lượn đáp trên nóc pháo đài, và chỉ chịu thiệt hại nhẹ: 6 thiệt mạng và 19 bị thương. TS. Göbbels phát tán tin đồn là Đức có "vũ khí mới." Từ chiến dịch tuyên truyền này, chiến thắng Eben Emael của Đức trở thành một huyền thoại. Xử lý nhóm âm mưu ám sát Hitler. Sau vụ ám sát hụt Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944, phiên xử đầu tiên của Tòa án Nhân dân diễn ra ở Berlin vào các ngày 7-8 tháng 8. Göbbels đã ra lệnh quay phim từng phút của phiên tòa để mang ra chiếu cho binh sĩ và dân chúng xem để làm gương. Vì thế, nhiều cách thức đã được thực hiện để làm cho các phạm nhân trông lôi thôi lếch thếch. Họ ăn mặc quần áo không ra kiểu gì cả, không được cạo râu, không có cổ áo, không có cà-vạt, không thắt lưng khiến cho quần trông lụng thụng. Đặc biệt, vị Thống chế Witzleben một thời kiêu hãnh giờ giống như một ông cụ xác xơ, móm mém. Đến khi thi hành án tử hình, từng người bị lột trần cho đến eo, một thòng lọng bằng sợi dây dương cầm được tròng vào cổ họ và phía trên buộc vào cái móc treo thịt. Máy quay phim vẫn chạy rè rè trong khi tử tội đong đưa và ngạt thở, chiếc quần không có dây lưng cuối cùng tụt xuống, khiến cho họ trần truồng trong khi chết một cách đau đớn. Theo chỉ thị, cùng đêm ấy cuốn phim được tráng rồi được chuyển đến cho Hitler xem cùng những ảnh chụp trong phiên tòa. Có người nói Göbbels cố giữ không bị ngất xỉu bằng cách lấy hai bàn tay che đôi mắt. Cuốn phim quay phiên tòa được quân Đồng minh tìm thấy và mang ra chiếu tại Tòa án Nürnberg. Nhưng không thể tìm thấy cuốn phim quay việc thi hành án; có lẽ Hitler đã ra lệnh tiêu hủy vì sợ rơi vào tay kẻ thù. Göbbels cho ráp nối cuốn phim và mang ra chiếu cho binh sĩ xem. Nhưng họ từ chối xem. Tại Trường Võ bị Lichterfelde, họ bước ra ngoài ngay khi khởi chiếu cuốn phim. Chẳng bao lâu, cuốn phim không còn được lưu hành nữa. Göbbels đã đề nghị bắn ngay tù binh phi công Đồng minh để trả đũa việc ném bom xuống các thành phố của Đức. Pháo đài Quốc gia. Tháng 4/1945, quân Mỹ chỉ còn cách Berlin 100 kilômét. Thủ tướng Anh Winston Churchill và giới lãnh đạo quân sự Anh công kích tướng Dwight Eisenhower một cách cay đắng vì đã không tiến đến Berlin trước quân Nga – là việc dễ dàng. Nhưng Eisenhower và bộ tham mưu của ông bị ám ảnh với ý nghĩ là phải gấp rút tiến lên miền đông-nam sau khi bắt tay với quân Nga hầu chiếm được cái gọi là Pháo đài Quốc gia. Đây là nơi được cho là Hitler đang tập họp những lực lượng còn lại để cố chống cự trong vùng núi Alps hầu như không thể bị đánh xuyên thủng. "Pháo đài Quốc gia" chỉ là một huyền thoại. Nó chỉ hiện hữu trong trò tuyên truyền của Göbbels và trong đầu óc cẩn trọng của tổng hành dinh của Eisenhower đã quá cả tin. Từ đầu tháng 3 năm 1945, quân báo Đồng minh đã đánh động Eisenhower rằng Quốc xã đang dự trù xây dựng một pháo đài kiên cố vùng rừng núi và chính Hitler sẽ chỉ huy cuộc phòng thủ ở đây từ biệt thự nghỉ dưỡng ở Berchtesgaden. Báo cáo cho biết những vách núi lởm hởm phủ đầy băng "trên thực tế là không thể đánh thủng được." Báo cáo tiếp: Ở đây, được che chắn bởi thiên nhiên và bởi những vũ khí bí mật hữu hiệu nhất chưa được phát minh, các thế lực từ trước đến giờ điều hành nước Đức sẽ tái tổ chức để vực dậy nước này; ở đây họ sẽ chế tạo vũ khí trong những nhà máy chống bom, lưu trữ thực phẩm và thiết bị trong những hang núi rộng rãi nằm dưới đất, và tuyển chọn đặc biệt một đoàn quân gồm những người trẻ được được huấn luyện về chiến tranh du kích, rồi vũ trang và chỉ đạo cả quân đội nằm vùng để giải phóng Đức khỏi các lực lượng đang chiếm đóng. Đây trông có vẻ như những tác giả bí ẩn người Anh và Mỹ đã xâm nhập quân báo của Eisenhower để gieo rắc huyền thoại. Dù sao đi nữa, tổng hành dinh của Eisenhower xem việc này là nghiêm trọng. Tướng tham mưu trưởng Bedell Smith dưới quyền Eisenhower thì ngẫm nghĩ đến khả năng khiếp đảm "của một chiến dịch kéo dài trong vùng rừng núi Alps" khiến gây tổn thất nặng cho binh sĩ Mỹ và kéo tài vô tận cuộc chiến. Đây cũng là lần cuối cùng TS. Göbbels đầy sáng kiến đã thành công trong việc gây ảnh hưởng đến tiến trình chiến lược bằng màn tháo cáy tuyên truyền. Vì lẽ, tuy Adolf Hitler lúc đầu có nghĩ đến rút vào vùng rừng núi Áo-Bayern – gần sinh quán và là nơi ông có ngôi biệt thự ở vùng Obersalzberg – để cố chống cự, ông vẫn lưỡng lự rồi cuối cùng đã quá muộn. Những ngày cuối cùng Sau khi quân Mỹ bắt tay với quân Nga bên bờ sông Elbe, cách Berlin khoảng 40 kilômét về phía nam ngày 25 tháng 4, lãnh thổ Đức bị cắt ra làm hai mảnh bắc và nam. Adolf Hitler bị cô lập ở Berlin. Nhưng ông và vài thủ hạ cuồng tín nhất, trên tất cả là Göbbels, vẫn còn tin vào niềm hy vọng rằng sẽ được cứu nguy vào phút chót bằng một phép lạ. Một buổi tối đẹp trời trong tháng 4, Göbbels đọc cho Hitler nghe một trong những quyển sách mà Hitler thích nhất: Lịch sử Friedrich Đại đế của nhà văn Thomas Carlyle người Scotland. Chương ông đang đọc trình bày những ngày đen tối nhất trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm tàn khốc, khi nhà vua lâm vào đường cùng và bảo các quan đại thần rằng đến ngày 15 tháng 2 nếu tình hình không sáng sủa thì ông sẽ từ bỏ và uống thuốc độc. Giai đoạn lịch sử này khá tương đồng với hiện tại, và hẳn Göbbels đọc lên với cả giọng điệu kịch tính: "Hỡi Đức Vua quả cảm! Hãy chờ đợi trong ít lâu, rồi những ngày thống khổ sẽ qua đi. Mặt trời may mắn của Người đã ở trên tầng mây và chẳng bao lâu sẽ soi rọi đến Người." Ngày 12 tháng 2, Nữ hoàng Nga qua đời, Phép lạ của Vương triều Brandenburg đã đến. Göbbels cho biết đôi mắt của Hitler đẫm lệ. Với sự khích lệ như thế họ xin hai lá số chiêm tinh, được lưu trữ trong văn phòng "nghiên cứu" đa dạng của Himmler. Một lá số là của Hitler lập nên ngày 30 tháng 1 năm 1933, ngày ông lên cầm quyền; lá kia là của nền Cộng hòa Weimar, do một chiêm tinh gia ẩn danh lập ngày 9 tháng 11 năm 1918, ngày sáng lập nền Cộng hòa. Một sự kiện kỳ diệu đã tỏ rõ, cả hai lá số tiên đoán chiến tranh bùng nổ năm 1939, những chiến thắng cho đến năm 1941, rồi một loạt những thất bại với đòn nặng nhất trong những tháng đầu năm 1945, đặc biệt trong hai tuần đầu tháng 4. Trong hai tuần cuối tháng 4, ta có thành công tạm thời. Rồi sẽ đến thời kỳ đình trệ cho đến tháng 8, và hòa bình trong tháng này. Trong ba năm kế nước Đức sẽ gặp nguy khó, nhưng bắt đầu từ năm 1948 sẽ trỗi dậy. Tinh thần được củng cố bởi Carlyle và sự tiên đoán kỳ diệu của những vì sao, ngày 6 tháng 4 Göbbels ban bố lời hiệu triệu binh sĩ đang rút lui: Lãnh tụ đã tuyên bố rằng ngay cả trong năm nay, vận may sẽ đến... Tố chất thực sự của thiên tài là tinh thần tỉnh táo và nhận thức chắc chắn về sự thay đổi đang đến. Lãnh tụ biết thời khắc chính xác thay đổi sẽ đến. Định mệnh đã phái ông đến với chúng ta hầu trong giai đoạn khốn khổ bên ngoài và bên trong này, chúng ta sẽ chứng giám cho phép lạ... Chỉ một tuần sau, vào đêm 12 tháng 4, Göbbels tin rằng "thời khắc chính xác" đã đến. Đấy là ngày có thêm tin xấu. Quân Mỹ đã xuất hiện trên xa lộ Dessau-Berlin, Đức đã vội vã ra lệnh phá hủy hai nhà máy làm thuốc súng còn lại nằm gần đường tiến quân. Từ lúc này trở đi, binh sĩ Đức không được tiếp tế thêm đạn dược nữa. Đến đêm 12 tháng 4, trung tâm Berlin bốc cháy do máy bay Anh không kích. Những gì còn lại của Phủ Thủ tướng và Khách sạn Adlon đều bùng cháy. Một thư ký đưa tin khẩn đến Göbbels: Roosevelt đã chết! Gương mặt Göbbels rạng rỡ hẳn lên. Ông kêu: "Mang ra rượu sâm-banh ngon nhất. Và gọi điện cho Lãnh tụ!" Hitler đang ở trong một bong-ke sâu chờ cho cuộc không kích kết thúc. Ông nhấc điện thoại. Göbbels nói: "Lãnh tụ, tôi xin chức mừng ông! Roosevelt đã chết! Lá số chiêm tinh tiên đoán trong hai tuần cuối tháng 4 sẽ có điểm ngoặt cho chúng ta. Hôm nay là Thứ Sáu, ngày 13 tháng 4. Đây là điểm ngoặt!" Không có tài liệu ghi chép phản ứng của Hitler, nhưng có thể tưởng tượng ông cảm thấy phấn khởi qua Carlyle và chiêm tinh học. Riêng Göbbels và Krosigk thì sướng thỏa. Nhưng tình hình ngày càng tồi tệ, quân địch ngày càng tiến gần đến Berlin. Ngày 22 tháng 4 năm 1945, Hitler cho gọi Göbbels đến, mời ông này, bà vợ cùng sáu đứa con vào ngụ trong bong-ke của Lãnh tụ vì ngôi nhà của họ đã bị bom phá hư hại nặng. Ông biết rằng ít nhất người thuộc hạ cuồng tín và trung thành này, cùng với gia đình, sẽ ở bên ông cho đến cùng. Giữa 1 và 3 giờ sáng 29 tháng 4, Hitler cử hành hôn lễ chính thức với Eva Braun. Göbbels và Bormann ký làm người chứng. Sau nghi lễ ngắn gọn là bữa điểm tâm ăn mừng hôn lễ trong phòng riêng của Hitler. Rượu sâm-banh được khui ra, và ngay cả bà Manzialy, người nấu các món ăn chay cho Hitler, cũng được mời dự, cùng với các thư ký, tướng lĩnh, Tham mưu trưởng Lục quân Krebs và Burgdorf, Bormann, cùng hai vợ chồng Göbbels. Họ nói chuyện về những ngày tươi đẹp xa xưa và những đồng chí trong đảng vào thời còn gắn bó với nhau. Hitler nói một cách trìu mến về cơ hội ông làm phù rể trong hôn lễ của Göbbels. Buổi tiệc mừng hôn lễ chìm vào không khí ảm đạm; vài người khách cố giấu những giọt nước mắt. Trong bản "Tuyên cáo Chính trị", Hitler trục xuất những kẻ phản bội và chỉ thị cho Dönitz cách bổ nhiệm người trong chính phủ mới. Họ là "những người có danh giá vốn sẽ hoàn tất nhiệm vụ tiếp tục cuộc chiến bằng mọi cách." Göbbels sẽ là Thủ tướng. Lúc 4 giờ sáng ngày Chủ Nhật, 29 tháng 4 năm 1945. Hitler triệu vào Göbbels, Bormann, các Tướng Krebs và Burgdorf để chứng kiến khi ông ký vào "Tuyên cáo Chính trị" và họ đều ký tên làm chứng. TS. Göbbels không muốn sống ở nước Đức sau khi vị Lãnh tụ mà ông tôn thờ đã ra đi. Ông đã gắn kết định mệnh của mình với Hitler, người duy nhất đã đưa ông lên đài danh vọng. Ông đã là nhà tiên tri và chuyên gia tuyên truyền cho phong trào Quốc xã. Chính ông, sau Hitler, là người đã sản sinh những huyền thoại. Để lưu truyền những huyền thoại này, không những Lãnh tụ mà cả người trợ lý thân cận nhất – người duy nhất trong số những chiến hữu cũ đã không phản bội ông – phải hy sinh qua cái chết. Ông cũng phải nêu một gương sáng vốn sẽ được nhớ mãi qua các thế hệ và một ngày nào đấy sẽ giúp khơi lại ngọn lửa của chủ nghĩa Quốc xã. Có lẽ đấy là những ý nghĩ của Göbbels khi trở về căn phòng nhỏ của ông trong bong-ke để viết lại lời vĩnh biệt cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Ông đặt tiêu đề là "Phụ lục cho Tuyên cáo Chính trị của Lãnh tụ." Lãnh tụ đã ra lệnh cho tôi rời Berlin... và tham gia với tư cách một thành viên hàng đầu trong chính phủ do ông chỉ định. Lần đầu tiên trong đời, tôi phải từ chối tuân hành lệnh của Lãnh tụ. Vợ tôi và các con tôi đều từ chối cùng với tôi. Ngoài sự kiện là những cảm nghĩ về nhân tính và lòng trung thành của riêng tôi không cho phép tôi bỏ rơi Lãnh tụ trong giờ khắc khó khăn này, nếu không làm thế cho đến cuối đời tôi sẽ hiện thân là kẻ phản bội đáng hổ thẹn và là tên vô lại thấp hèn, sẽ mất cả lòng tự trọng cũng như sự trọng vọng của đồng bào tôi... Trong cơn ác mộng của những hành động bội phản vây quanh Lãnh tụ trong những ngày khủng hoảng nhất của cuộc chiến, phải có người nào đấy ở kề bên ông cho đến phút cuối mà không đòi hỏi gì... Tôi tin qua cách này tôi đang phục vụ tốt nhất cho tương lai của dân tộc Đức. Trong hoàn cảnh khó khăn sắp đến, nêu gương tốt là điều quan trọng hơn con người... Vì lý do ấy, cùng với vợ tôi, và thay mặt cho các con tôi vốn còn quá nhỏ không thể tự phát biểu và nếu đủ lớn khôn hẳn sẽ hoàn toàn đồng ý với quyết định này, tôi xin bày tỏ ý muốn không gì lay chuyển được là sẽ không rời khỏi thủ đô của Đế chế ngay cả nếu thủ đô thất thủ, mà ở lại bên Lãnh tụ, để kết liễu cuộc sống mà đối với cá nhân tôi không còn giá trị gì nữa nếu tôi không thể dùng cuộc sống này để phục vụ Lãnh tụ và ở bên ông. Göbbels viết xong vào lúc 5 giờ rưỡi sáng ngày 29 tháng 4. Lúc 2 giờ rưỡi xế chiều ngày 30 tháng 4, Hitler cùng Eva Braun nói lời vĩnh biệt với những người phụ tá thân cận nhất: Göbbels, hai tướng Krebs và Burgdorf, các thư ký, và người nấu bếp Manzialy. Bà vợ Göbbels không xuất hiện. Giống như Eva Braun, người phụ nữ cương nghị và xinh đẹp với mái tóc bạch kim này cảm thấy thoải mái được chết cùng người chồng. Nhưng bà cảm thấy khổ sở với việc giết sáu đứa con – những ngày này đang vui vẻ nô đùa trong bong-ke mà không hề biết gì cả. Hai hoặc 3 đêm trước, bà đã nói với nữ phi công Reitsch: Cô Hanna thân yêu, khi phút cuối đã đến cô phải giúp tôi nếu tôi trở nên yếu lòng vì mấy đứa trẻ... Chúng nó thuộc về Đế chế thứ Ba và thuộc về Lãnh tụ, và nếu cả hai đều không còn nữa thì không còn có chỗ cho chúng nó. Tôi sợ nhất là tôi quá yếu đuối vào thời khắc cuối. Bây giờ, ở trong gian phòng riêng nhỏ hẹp, bà đang cố gắng vượt qua nỗi sợ hãi cùng cực nhất. Các con của bà và tuổi của chúng là: Hela 12, Hilda 11, Helmut 9, Holde 7, Hedda 5, và Heide 3. Ở hành lang bên ngoài, Göbbels, Bormann cùng vài người khác chờ đợi trong khi Hitler cùng Eva Braun ở trong phòng riêng của họ lập tự kết liễu cuộc đời. Hai thi thể được mang ra ngoài khu vườn, trong khi đại bác ngưng bắn, được để xuống một hố đạn rồi đốt bằng xăng. Nhóm người, do Göbbels và Bormann dẫn đầu, rút vào đứng trong hầm tránh bom nơi cửa thoát hiểm. Khi ngọn lửa bùng lên, họ đứng nghiêm, đưa cánh tay phải lên chào theo kiểu Quốc xã. Nghi thức diễn ra ngắn gọn, vì đạn pháo của Hồng quân lại bắt đầu rơi xuống khu vườn. Nhóm người còn sống đi vào bên trong bong-ke, để lại ngọn lửa làm nốt công việc xóa đi mọi dấu vết của Adolf Hitler và vợ của ông. Lúc 3:15 giờ chiều, Göbbels ông gửi bức điện của riêng mình cho Dönitz – là thông tin vô tuyến cuối cùng phát đi từ bong-ke. Thủy sư Đô đốc Dönitz TỐI MẬT Lãnh tụ qua đời hôm nay lúc 15 giờ 30. Di chúc đề ngày 29 tháng 4 cử ông làm Tổng thống Đế chế... [Kế tiếp là tên những người chủ chốt được bổ nhiệm vào nội các.] Theo lệnh của Lãnh tụ, Di chúc đã được gửi đến ông từ Berlin... Bormann có ý định đi đến ông hôm này và thông báo cho ông rõ tình hình. Thời gian và cách thức loan tin cho báo chí và binh sĩ là tùy nơi ông. Xin cho biết đã nhận được. Göbbels Göbbels nghĩ không cần thiết báo cho người Lãnh tụ mới về ý định của riêng ông. Đầu buổi tối 1/5, ông thực hiện ý định. Sáu đứa trẻ được chích thuốc độc. Rồi Göbbels gọi tùy viên của ông, Đại úy SS Guenther Schwaegermann, và chỉ thị anh này đi tìm một ít xăng. Göbbels nói: "Schwaegermann, đây là sự bất trung tồi tệ nhất. Các tướng lĩnh đã phản bội Lãnh tụ. Tất cả đã mất. Tôi sẽ chết, cùng với vợ tôi và gia đình." Ngay với tùy viên của mình, Göbbels vẫn không cho biết là ông vừa cho người sát hại các con của mình: "Anh sẽ đốt xác của chúng tôi. Anh có thể làm được chứ?" Schwaegermann trả lời mình làm được, rồi phái hai hộ lý đi tìm xăng. Ít phút sau, khoảng 8:30 giờ, khi bên ngoài bắt đầu sẫm tối, TS. Göbbels và bà vợ đi qua bong-ke, chào giã biệt người nào họ gặp trong hành lang, đi lên các bậc cầu thang để ra khu vườn. Nơi đây, theo yêu cầu của họ, người hộ lý SS bắn hai phát súng vào phía sau đầu. Họ đổ 4 can xăng lên hai thi thể rồi châm lửa, nhưng việc hỏa thiêu không trọn vẹn. Những người còn sống sót trong bong-ke nóng lòng muốn chạy thoát ra ngoài và không để mất thời giờ mà lo hỏa thiêu những người đã chết. Ngày hôm sau, quân đội Liên Xô tìm thấy thi thể cháy thành than của hai vợ chồng và lập tức nhận dạng được họ. Phim ảnh Ulrich Matthes đóng vai trong bộ phim Đức Downfall năm 2004.
Giang Thanh (chữ Hán: 江青; bính âm: Jiang Qing; nghệ danh là Lam Bình; 1914–1991) là người vợ thứ tư của Mao Trạch Đông, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Bà cũng được nhắc đến như là Mao phu nhân và là lãnh đạo của Tứ nhân bang trong Cách mạng Văn hóa. Khi đang ở đỉnh cao quyền lực, Giang Thanh từng phê chuẩn lệnh bắt nhiều đảng viện cộng sản bị vu là phản cách mạng, thậm chí cả đầu bếp và người giúp việc của họ cũng không thoát. Tiểu sử Giang Thanh sinh tháng 3 năm 1914 tại Chư Thành, Sơn Đông, Trung Quốc. Người cha làm thợ mộc lúc ấy đã 60 tuổi và rất ngao ngán khi mong mỏi con trai thì lại một đưa con gái ra đời. Người mẹ nuôi nấng Giang Thanh trong sự thiếu quan tâm của gia đình chồng. Bà đặt tên con là Thục Mông. Khi Thục Mông gần 10 tuổi thì người cha họ Lý mất. Hai mẹ con cô càng khó sống ở quê chồng. Người mẹ liền đưa con gái về quê ngoại ở Tế Nam và ở đấy ông ngoại Thục Mông đã đổi tên cháu thành Vân Hạc với mong muốn cháu gái sau này có cuộc sống sung sướng và nhàn hạ. Tuy nhiên đúng như câu cửa miệng của người đời “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”, Vân Hạc đi học mà như ngồi trên lửa nóng không yên. Năm 14 tuổi bà bỏ học đi học kịch hát. Năm 1929, Vân Hạc vào trường nghệ thuật thực nghiệm tỉnh Sơn Đông và bắt đầu sắm các vai kịch hát và bắt đầu gắn bó đời mình với nghệ thật sân khấu. Ở lĩnh vực này Vân Hạc thể hiện là người có năng khiếu, tuy nhiên chỉ được một thời gian ngắn, các gánh hát mà cô ta phục vụ giải thể. Vân Hạc lại trở về quê ngoại và ở đây trong hoàn cảnh thúc ép, Vân Hạc kết hôn với một người con trai họ Phí lúc mới 16 tuổi. Cuộc sống gia đình cùng với những tập tục nghiêm ngặt trói buộc người phụ nữ có chồng vẫn rất nặng nề. Cuộc hôn nhân nhanh chóng tan vỡ. Trong lúc chưa biết làm gì, Vân Hạc lại gặp may khi được Triệu Thái Mậu ông chủ cũ của trường thực nghiệm Sơn Đông, người rất thích giọng hát và phong cách biểu diễn của cô, hiện làm cán bộ quản lý trường đại học Thanh Đảo giúp đỡ. Tại Thanh Đảo, Vân Hạc làm nhân viên quản lý thư viện. Những năm 30 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản phát triển mạnh ở Trung Quốc. Nhiều sinh viên trường Thanh Đảo là thành viên “Mặt trận văn hóa cộng sản”. Vân Hạc đã gặp và đem lòng yêu một sinh viên của thành viên mặt trận đó là Du Khởi Uy. Từ mối quan hệ này Vân Hạc được Du Khởi Uy giới thiệu tham gia các tổ chức thân cộng sản trong đó có “ Ban kịch Hải Tân”. Hoạt động tích cực trong ban kịch và với những vai diễn chống Nhật Bản xâm lược, Vân Hạc được nhiều người biết tới. Năm 1932, Du Khởi Uy giới thiệu Vân Hạc vào đảng cộng sản Trung Quốc. Vân Hạc và Du Khởi Uy lấy nhau. Cuộc sống gia đình không hôn thú ấy kéo dàì khoảng hai năm thì Du Khởi Uy bị Quốc Dân đảng bắt vào tù. Đây là cú sốc lớn trong cuộc đời Vân Hạc. Cô liền bỏ tổ chức đảng, bỏ cả Du Khởi Uy để về Thượng Hải tìm cơ hội mới. Tại đây, Vân Hạc theo nhóm thanh niên cộng sản rải truyền đơn, diễn kịch chống Quốc Dân đảng. Năm 1934, lúc ấy tròn 20 tuổi, Vân Hạc bị mật vụ Quốc Dân đảng bắt vào tù. Vân Hạc đã tự thú và chỉ bị giam vài tháng rồi được tha. Sau vụ việc này Vân Hạc một lần nữa đổi tên thành Lam Bình và thử sức trong một số vai diễn ở một gánh hát. Đặc biệt một vai diễn mang tên Nala khiến Lam Bình rất nổi danh. Cái tên Lam Bình và nghiệp diễn đã giúp Lam Bình có vị trí trong giới sân khấu Thượng Hải. Thậm chí năm 1935, được giới yêu nghệ thuật Thượng Hải gọi là năm Nala. 21 tuổi Lam Bình lấy chồng lần thứ ba. Chồng bà là Đường Nạp, làm ở tạp chí Đại công báo. Cuộc sống và những thành công trên sàn diễn ở Thượng Hải tưởng đã là bến đậu của Lam Bình, nhưng rồi sóng gió lại xảy ra. Chưa đầy hai năm Đường Nạp và Lam Bình lại ai đi đường nấy.Từ bỏ ba người chồng một cách nhẹ nhàng, từ Thục Mông, Vận Hạc tới nay là Lam Bình quyết làm một chuyến phiêu lưu lên vùng rừng núi heo hút Diên An, lúc ấy đang là Thủ đô của lực lượng công sản Trung Quốc. Được một số người hoạt động cộng sản ở Thượng Hải giới thiệu, Lam Bình gặp Ngụy Củng Chi,  là vợ Nguyên soái Diệp Kiếm Anh sau này, giới thiệu tiếp và lọt vào Diên An. Tại đây Lam Bình xin được khôi phục đảng tịch. Cuộc đời Lam Bình từ đây lại bước sang một trang mới. Đến năm 1938, bà gặp Mao Trạch Đông ở Diên An, hai người sau đó đã kết hôn. Sau khi về ở với nhau, Lam Bình đề nghị Mao Trạch Đông đổi cho mình một cái tên mới để đánh dấu chặng đường đời trở thành đệ nhất phu nhân Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã lấy chữ đầu và chữ cuối trong câu thơ cuối của bài thơ “ Tương linh cổ sức” mà ông thường ngâm là: “Giang biên sổ phòng thanh” đặt cho vợ mới. Đó là Giang Thanh. Năm 1940, Giang Thanh sinh con gái đầu lòng với người chồng thứ tư Mao Trạch Đông. Về phía Mao Trạch Đông đây là đứa con thứ mười và Giang Thanh cũng là người vợ thứ tư của ông. Mao đặt tên con gái là Lý Nạp, lấy chữ Lý trong họ của mẹ. Hoạt động chính trị Tháng 10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập. Không lâu sau, Mao Trạch Đông công du đến Liên Xô. Khi đang ở Matxcơva, Mao Trạch Đông đã nhận được điện báo của Giang Thanh xin được đến vùng giải phóng mới để “xem xét”. Thực ra, đây là một đề nghị hoàn toàn chính đáng và Mao Trạch Đông đã đồng ý. Nhưng ông đã thông qua điện báo gửi Lưu Thiếu Kỳ – người phụ trách văn phòng Trung ương Đảng tại Bắc Kinh chuyển cho Giang Thanh. Nội dung bức điện: "Gửi đồng chí Lưu Thiếu Kỳ!. Tôi đã nhận được điện ngày 1 tháng 1, đồng ý cho Giang Thanh đến vùng giải phóng mới, nhưng phải được sự đồng ý của đồng chí Lưu Thiếu Kỳ. Nếu được sự đồng ý, Giang Thanh phải lấy danh nghĩa là nhân viên nghiên cứu thuộc phòng nghiên cứu chính sách Trung ương Đảng, đồng thời phải do bộ tổ chức của Trung ương Đảng viết giấy giới thiệu đến tổ chức của vùng giải phóng. Vì thế, cần phải nói chuyện và có sự đồng ý của đồng chí Liêu Lỗ Ngôn và do đồng chí ấy quyết định. Đến vùng giải phóng mới chỉ được thu thập tài liệu, không được phát biểu ý kiến, không được làm phiền quá nhiều đến đảng bộ chính quyền địa phương, mọi việc theo sự sắp xếp của đồng chí Thiếu Kỳ và do đồng chí làm chủ". Sau năm 1949, Giang Thanh làm việc tại Bộ Văn hóa của Trung Quốc. Khi đang ở đỉnh cao quyền lực, Giang Thanh từng phê chuẩn lệnh bắt nhiều đảng viện cộng sản bị vu là phản cách mạng, thậm chí cả đầu bếp và người giúp việc của họ cũng không thoát. Nhưng với dòng chảy của thời gian, nhược điểm của Giang Thanh bắt đầu lộ rõ. Lâm Khắc - thư ký của Mao Trạch Đông phát hiện ra Giang Thanh là người "yêu hư vinh, thích khoe khoang, ích kỉ đố kị, chuyên quyền, thậm chí xúi giục trả thù”. Làm việc bên cạnh Mao Trạch Đông 12 năm, Lâm Khắc dần dần phát hiện ra “Đang có một mối nguy hiểm tiềm ẩn ở Giang Thanh đó chính là tham vọng quyền lực chính trị”. Sau Đại nhảy vọt (1958–1961), Mao bị chỉ trích rất cao trong Đảng. Sau khi Mao viết một cuốn sách nhỏ đặt câu hỏi về sự tồn tại của nhạc kịch truyền thống "phong kiến và tư sản", Giang Thanh lấy nó làm căn cứ thanh lọc mọi thứ một cách có hệ thống trên phương tiện truyền thông và văn học Trung Quốc ngoại trừ tuyên truyền về chính trị. Kết quả cuối cùng là sự đàn áp gần như toàn bộ tất cả các tác phẩm sáng tạo ở Trung Quốc ngoài các tài liệu "cách mạng" được quy định. Được hỗ trợ bởi Mao, bà được bổ nhiệm làm thành viên Nhóm Cách mạng Văn hóa vào năm 1966 và nổi lên như một nhân vật chính trị vào mùa hè năm đó. Tại Đại hội Đảng lần thứ 9 vào tháng 4 năm 1969, bà được đưa lên Bộ Chính trị. Lúc đó bà đã thiết lập một mối quan hệ làm việc chính trị chặt chẽ với các thành viên khác sau này được gọi là Tứ nhân bang - Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên. Bà là một trong những nhân vật gây tranh cãi và quyền lực nhất ở Trung Quốc trong những năm cuối của Mao. Trong thời gian này, Giang Thanh bắt đầu đóng một vai trò chính trị ngày càng tích cực. Bà đã tham gia vào các hoạt động quan trọng nhất của Đảng và chính phủ. Bà được hỗ trợ bởi một phe đảng cấp tiến, được đặt tên bởi Mao, Tứ nhân bang. Cơn bão đầu tiên của Cách mạng Văn hóa đã chấm dứt khi Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ bị buộc phải rời khỏi tất cả các chức vụ vào ngày 13 tháng 10 năm 1968. Lâm Bưu giờ đã trở thành người kế nhiệm được Mao chỉ định. Chủ tịch Mao đã ủng hộ cho nhóm Tứ nhân bang. Bốn người này chiếm giữ các vị trí mạnh mẽ trong Bộ Chính trị sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1973. Giang Thanh đã lợi dụng cuộc cách mạng văn hóa để trả thù cá nhân của mình, bao gồm cả những người đã gây khó dễ trong suốt sự nghiệp diễn xuất của bà vào những năm 1930. Giang Thanh kích động thanh niên cực đoan được tổ chức như Hồng vệ binh nhằm chống lại các nhà lãnh đạo chính trị cao cấp khác và các quan chức chính phủ, bao gồm Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình. Năm 1968 và 1974, Giang Thanh chỉ đạo chiến dịch "Phê phán Lưu, phê phán Khổng Tử" chống lại thủ tướng Chu Ân Lai được xem đối thủ chính trị chính. Năm 1975, Giang khởi xướng một chiến dịch mang tên "Phê phán Song Giang, Đánh giá Lề nước", khuyến khích việc sử dụng Chu Ân Lai như một ví dụ về một kẻ thua cuộc chính trị. Sau khi Chu Ân Lai qua đời vào năm 1976, Giang đã khởi xướng chiến dịch ngăn cản và cấm bất kỳ tổ chức tang lễ công khai nào cho Chu Ân Lai nhưng không thành do sau đó Bộ Chính trị đã quyết định tổ chức hẳn một lễ quốc tang dành cho ông. Hôn nhân với Mao Trạch Đông Sau khi Hạ Tử Trân đi Liên Xô, ngày 20 tháng 11 năm 1938, Mao Trạch Đông đã kết thúc cuộc sống độc thân bằng việc kết hôn với diễn viên Lam Bình đến từ Thượng Hải. Cùng ngày, Diên An đột nhiên nổ ra vụ ném bom oanh tạc của đế quốc Nhât, vì thế dân gian mới truyền nhau câu nói nổi tiếng: "Chủ tịch kết hôn gây kinh thiên động địa". Sau khi kết hôn người phụ nữ này đổi tên thành Giang Thanh và cái tên này đã nổi tiếng khắp Trung Quốc suốt 30 năm sau. Cuối tháng 8/1938, Lam Bình được văn phòng bát lộ quân ở Tây An giới thiệu đến Diên An. Sau khi đến Diên An, Lam Bình yêu cầu khôi phục lại đảng tịch của mình, Trung ương Đảng đã tiến hành thẩm tra và tháng 11 cô bắt đầu vào học tại trường Đảng của Trung ương Đảng. Mùa xuân năm đó, đoàn kịch cứu quốc Thượng Hải kết hợp với đoàn hí kịch Diên An diễn vở kịch nói” Máu tế Thượng Hải”, Lam Bình cũng tham gia diễn xuất. Sau buổi biểu diễn, bộ truyền thông Trung ương đã mở tiệc thiết đãi toàn thể diễn viên. Lam Bình cũng dự tiệc và lần đầu gặp Mao Trạch Đông. Khi đó Mao Trạch Đông đã 44 tuổi còn Lam Bình mới 24 tuổi, vừa chân ướt chân ráo đến Diên An. Việc kết hôn của hai người là chuyện lớn, hơn nữa lại rất phức tạp. Trung ương Đảng rất quan tâm và cũng rất thận trọng, thậm chí còn tổ chức họp Đảng để thảo luận và đưa ra phương án hợp lý. Chính Mao Trạch Đông khi kể lại với Chu Thế Chiêu (một người bạn tốt thuở thiếu thời) về việc Trung ương Đảng đưa ra phương án nào về chuyện kết hôn của ông và Giang Thanh đã chia sẻ: "Có những hôm, buổi tối chúng tôi cũng họp, tôi còn nhớ họp đến 12 rưỡi đêm. Đột nhiên đồng chí Chu Ân Lai bảo tôi: "Phiền Chủ tịch ra ngoài một chút, chúng tôi có việc cần thảo luận và nghiên cứu". Tuy Trung ương Đảng đã đồng ý để Mao Trạch Đông kết hôn với Giang Thanh nhưng Trung ương cũng đề ra “ba điều lệ trong hiến pháp tạm thời" và yêu cầu Giang Thanh phải thực hiện: Thứ nhất: Khi mối quan hệ vợ chồng của Mao Trạch Đông và Hạ Tử Trân chưa chấm dứt, Giang Thanh không được phép mạo nhận mình là phu nhân của Mao Trạch Đông. Thứ hai: Giang Thanh chịu trách nhiệm sống cùng và chăm lo sức khỏe cho Mao Trạch Đông, sau này không ai có quyền đưa ra bất kỳ yêu cầu gì tương tự đối với Trung ương Đảng. Thứ ba: Giang Thanh chỉ được quản công việc và đời sống riêng tư của Mao Trạch Đông, trong vòng 20 năm sau kết hôn, tuyệt nhiên không được đảm nhiệm bất kì một chức vụ nào trong Đảng cộng sản Trung Quốc, đồng thời không được can dự vào những công việc nội bộ Đảng và không được tham gia hoạt động chính trị. “Ba điều lệ trong hiến pháp tạm thời" là bút tích của Vương Nhược Phi (năm 1947, sau khi quân đội của Quốc dân đảng tiến vào Diên An, Vương Nhược Phi làm tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc). “Sau khi 'Đại cách mạng văn hóa' nổ ra, “Giang Thanh không còn chú ý quan tâm chăm sóc Mao Trạch Đông mà ngược lại còn thường xuyên quấy nhiễu. Vết rạn nứt tình cảm giữa hai người càng ngày càng sâu. Đương nhiên, việc li hợp là chuyện riêng của hai người nhưng sự lạnh nhạt của Giang Thanh cũng liên quan không nhỏ đến hoạt động ngoại giao của Mao Trạch Đông. Theo Lâm Khắc thì khi “Đại cách mạng văn hóa” bắt đầu nổ ra, Mao Trạch Đông và Giang Thanh đã ly thân, ông đã chuyển sang sống ở phòng khác. Nhưng mối quan hệ vợ chồng của họ vẫn còn trên pháp lý, bởi vì nó vẫn cần thiết cho chính trị. Trong hồi ký “Những điều tôi biết về Mao Trach Đông” của mình, Lâm Khắc cũng có nhận xét về con người Giang Thanh. Theo ông, trên chính trường, Giang Thanh là người nhìn mặt đoán lời. Thời kì sau thập niên 50, bà ta đã dần dần phát triển tư tưởng cánh “tả” của mình. Nhân danh cho việc đấu tranh giai cấp đã gây ra rất nhiều sóng gió trên chính trường Trung Quốc. Đời tư 17 tuổi, Giang Thanh kết hôn lần đầu tiên với Bùi Minh Luân (裴明伦), con trai của một doanh nhân. Cuộc hôn nhân nhanh chóng tan vỡ và họ ly hôn tháng 7/1931. 18 tuổi, Giang Thanh kết hôn với Hoàng Kính (黄敬). Cuộc hôn nhân kéo dài 2 năm. 22 tuổi, Giang Thanh kết hôn với nhà văn Đường Nạp (唐納). Cuộc hôn nhân này cũng chỉ kéo dài được 1 năm. 23 tuổi, Giang Thanh kết hôn với Mao Trạch Đông và sinh được một người con gái đặt tên Lý Nạp. Cuộc hôn nhân này kéo dài đến khi chủ tịch Mao từ trần (1938-1976). Qua đời Giang Thanh sốt liên miên và nhập viện của công an ở Tử Tiên Kiều từ ngày 13 tháng 3 năm 1991. Bà ghi tên “Lý Nhuận Thanh” trong phiếu khám bệnh. Ngày 18 tháng 3, bà được chuyển tới một gian buồng bệnh có 1 phòng ngủ, 1 phòng tắm và tủ để đồ. Bà từng nhiều lần từ chối đề nghị phẫu thuật họng của bác sĩ. 3 giờ 30 phút ngày 14 tháng 5, y tá phát hiện bà treo cổ trong bồn tắm của bệnh viện. Thi thể của Giang Thanh nặng 47 kg, hao 1 kg so với ngày 15-3 khi vào bệnh viện. Chiều hôm đó, được tin Lý Nạp đã tới bệnh viện ký vào giấy báo tử. Không có bất kỳ một lễ tang lễ được tổ chức. Sau đó 3 ngày, thi thể Giang Thanh đã được hỏa táng. Hôm đó Lý Nạp không có mặt., ông yêu cầu chuyển hộp tro xương cho mình. Phải tới đầu tháng 6 năm 1991, tuần báo Thời đại mới đăng tin cái chết của Giang Thanh. Tờ báo ghi rõ Giang Thanh đã thắt cổ tự tử, nguyên nhân tự sát do ung thư vòm họng. Sau đó mấy ngày, vào khoảng 11 giờ đêm ngày 4 tháng 6, Chính phủ Trung Quốc đã xác nhận nội dung chủ yếu của bài báo. Toàn văn thông báo như sau: “Theo tin Tân hoa xã Bắc Kinh ngày 4-6, Giang Thanh, thủ phạm vụ án tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, Giang Thanh, trong thời gian chữa bệnh tại ngoại, sáng sớm ngày 14-5-1991 đã tự sát tại nơi ở của bà tại Bắc Kinh. Tại phiên tòa đặc biệt Tòa án Nhân dân tối cao, tháng 1-1981, Giang Thanh đã bị kết án tử hình, được hoãn thi hành án trong 2 năm, bị tước đoạt quyền lợi chính trị suốt đời. Tháng 1-1983 được sửa thành án tù chung thân. Ngày 4-5-1984 được phép chữa bệnh tại ngoại”. Thông báo không hề đề cập tới tiểu sử cuộc đời Giang Thanh, cũng không hề đề cập tới bà ta đã từng giữ các chức vụ cao, hay đã từng suốt 18 năm ròng làm Đệ nhất phu nhân và vợ Chủ tịch Mao Trạch Đông. Những lời bào chữa Ngày 9/9/2016, nhân kỉ niệm 40 năm ngày mất Mao Trạch Đông (9/9/1976 –9/9/2016), tác giả Quan Lĩnh viết: "Tình yêu của Mao Trạch Đông và Giang Thanh là điển hình của mô thức 'anh hùng – mỹ nhân'. Tình yêu này thực sự nồng thắm bất chấp sự phản đối của các cán bộ lão thành cấp cao của đảng Cộng sản Trung Quốc. Cho dù khi đó có nhiều người gièm pha với Mao Trạch Đông rằng Giang Thanh xuất thân là đào hát, trải qua nhiều cuộc hôn nhân, lai lịch không tốt nhưng lãnh tụ Trung Quốc vẫn bất chấp tất cả để kết hôn". Cùng ngày, truyền thông Trung Quốc cũng cho biết trong những ngày đầu của cuộc Đại cách mạng văn hóa, Giang Thanh được cử làm Phó ban chỉ đạo, chỉ đứng sau Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông đã viết cho bà một bức thư có nội dung: "Sự vật thường diễn biến theo chiều ngược lại, tâng bốc, sùng bái càng cao thì ngã càng đau, Tôi đã chuẩn bị tâm lý là mình sẽ bị ngã đau, bị người ta vùi dập". Báo đảng Trung Quốc Nhân dân nhật báo ngày 13/1/2012 cũng viết: "Khi còn ở khu căn cứ địa Thiểm Bắc, Mao Trạch Đông từng nói với những người thân cận rằng: 'Sau khi tôi chết, người ta sẽ trù đập, đấu tố Giang Thanh tới chết, bởi vì bà ấy ăn nói đanh đá, chua ngoa làm mất lòng mọi người'''." Đúng như lời dự báo của Mao Trạch Đông, ngày 9/9/1976 Mao qua đời thì đến tháng 10/1976 Giang Thanh bị bắt. Tháng 1/1981 Giang Thanh bị đưa ra xét xử ở "phiên tòa thế kỷ" với 35 thẩm phán và 600 đại biểu được mời tới dự. Tại phiên tòa, Giang Thanh từng phản biện: "Các vị đều rất rõ, lúc bấy giờ, Đảng làm những việc mà bị nhân dân và các ngài ai oán nhưng nay tất cả đều đổ tội lên đầu tôi... Tôi chỉ là một người lãnh đạo của đảng, đứng bên cạnh Mao Chủ tịch..." Giang Thanh nói tiếp: "Các người có biết không? Tối hôm đó, Mao Chủ tịch viết cho Hoa Quốc Phong một bức thư, trong đó viết: ‘Anh làm việc, Tôi yên tâm’ nhưng trong thư đó chí ít còn thêm 6 chữ nữa là: ‘Có vấn đề, hỏi Giang Thanh’. Vậy đấy, nhưng nay lại đổ hết tội lỗi lên đầu tôi.''"
Lockheed Martin () là một hãng chế tạo máy bay, vũ khí, tên lửa, vệ tinh và cung cấp các giải pháp kỹ thuật tân tiến Quốc Phòng An ninh. Công ty được thành lập năm 1995 bởi sự sáp nhập của Lockheed với Martin Marietta. Trụ sở chính đặt tại Bethesda, Maryland, một cộng đồng dân cư ở hạt Montgomery, Maryland ,có 135.000 nhân viên trên toàn thế giới. Chủ tịch và CEO từ năm 2020 là bà James Taiclet. Lockheed Martin là công ty có hợp đồng quốc phòng lớn nhất thế giới (theo doanh thu quốc phòng), đứng ngay trên cả Boeing. Vào năm 2005, 95% doanh thu của Lockheed Martin là từ Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, các cơ quan liên bang khác của Hoa Kỳ, và các khách hàng là quân đội nước ngoài. Lịch sử Lockheed Martin được thành lập bởi sự sáp nhập của hai công ty lớn với các sản phẩm được kể ra dưới đây: Lockheed Tên lửa Trident P-3 Orion F-16 Fighting Falcon (dây chuyền sản xuất mua lại từ General Dynamics vào năm 1993) F-22 Raptor F-35 Lightning II C-130 Hercules A-4AR Fightinghawk DSCS-3 satellite Martin Marietta Tên lửa Titan Phòng thí nghiệm quốc gia Sandia (hợp đồng điều hành đạt được vào năm 1993) Bình nhiên liệu bên ngoài tàu con thoi Bộ phận đáp của Viking 1 và Viking 2 Transfer Orbit Stage (dưới hợp đồng với Orbital Sciences Corporation) Các vệ tinh A2100 Martin Marietta 3000 Martin Marietta 4000 Martin Marietta 7000 Tiros-N: các vệ tinh dự báo thời tiết Vinasat-1 (vệ tinh viễn thông của Việt Nam) Vinasat-2 (vệ tinh viễn thông của Việt Nam) Điều hành công ty Các thành viên hiện nay của hội đồng quản trị của Lockheed Martin là: Edward Aldridge, Nolan Archibald, Marcus Bennett, James O. Ellis, Gwendolyn King, James Loy, Douglas McCorkindale, Eugene Murphy, Joseph Ralston, Frank Savage, Anne Stevens, Robert J. Stevens, James Ukropina, và Douglas Yearley. Phân chia Hàng không Công ty Hàng không Lockheed Martin (Lockheed Martin Aeronautics) Hệ thống điện tử Lockheed Martin Canada Lockheed Martin Maritime Systems & Sensors Lockheed Martin Missiles & Fire Control Lockheed Martin Simulation, Training & Support Lockheed Martin Systems Integration - Owego Lockheed Martin Transportation & Security Solutions Dịch vụ Công nghệ thông tin Sandia Corporation Knolls Atomic Power Laboratory Lockheed Martin Advanced Technology Laboratories (ATL) Lockheed Martin Aircraft & Logistics Centers Lockheed Martin Aircraft Argentina SA (formerly Fabrica Militar de Aviones) Lockheed Martin Information Technology Lockheed Martin Space Operations Lockheed Martin Systems Management Lockheed Martin Technical Operations Lockheed Martin Technology Ventures Hệ thống & Giải pháp tích hợp Lockheed Martin Integrated Systems & Solutions Lockheed Martin Orincon Lockheed Martin STASYS Hệ thống vũ trụ Lockheed Martin Space Systems Khác LMC Properties Lockheed Martin Enterprise Information Systems Lockheed Martin Finance Corporation Lockheed Martin U.K. Liên doanh International Launch Services (với Khrunichev, RSC Energia) Lockheed Martin Alenia Tactical Transport Systems (with Finmeccanica-Alenia, now folded) MEADS International (with EADS và MBDA) Space Imaging (46%, remainder public) United Launch Alliance (with Boeing, subject to US Government approval vào 01/2006) United Launch Alliance (with Boeing) Kelly Aviation Center (with GE và Rolls-Royce) Bạn có biết Tên chính thức "Lockheed Martin" thường được gọi tắt là "LockMart". Lockeed Martin tài trợ cho cuộc thi Lockheed Martin Maintenence Trophy, là một cuộc thi được tổ chức hàng năm song song với cuộc thi Fincastle competition. Khi đó, phi hành đoàn của hai dòng máy bay P-3 Orion và Nimrod MR2 sẽ tham gia các thí nghiệm và nhiệm vụ khác nhau để tìm ra người dẫn đầu.
Hun Sen (tiếng Khmer: ហ៊ុន សែន, đọc là Hun-sen; tên kèm danh hiệu đầy đủ là Samdech Akeakmohasenapadey Decho Hun Sen, bí danh tiếng Việt là Mai Phúc, sinh ngày 5 tháng 8 năm 1952) là cựu Thủ tướng của Vương quốc Campuchia. Ông cũng là người lãnh đạo cấp cao của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) - một đảng lãnh đạo Campuchia trong một chính phủ liên hiệp với đảng bảo hoàng Funcinpec kể từ khi Campuchia khôi phục chế độ đa đảng năm 1993. Mặc dù tên khai sinh của ông là Hun Bunal, ông đổi tên thành Hun Sen vào năm 1972 hai năm sau khi gia nhập Khmer Đỏ. Từ 1979 đến 1986 và một lần nữa từ 1987 đến 1990, ông giữ chức bộ trưởng ngoại giao của Campuchia. Ông được Vua Norodom Sihamoni thăng quân hàm Thống tướng cùng đợt với các ông Heng Samrin và Chea Sim ngày 23 tháng 12 năm 2009. Từ năm 1997, Hun Sen đã lãnh đạo CPP liên tiếp giành chiến thắng và hiện đang phục vụ trong nhiệm kỳ thủ tướng thứ năm của mình. Vào tháng 6 năm 2015, sau cái chết của Chea Sim, Hun Sen đã được bầu làm chủ tịch của CPP. Năm 2018, ông được bầu vào nhiệm kỳ thứ sáu trong một cuộc thăm dò ý kiến mà phe ủng hộ ông chiếm đa số, với CPP giành được mọi ghế trong Quốc hội. Hun Sen đã 32 tuổi khi ông trở thành Thủ tướng, biến ông lúc đó trở thành người đứng đầu chính phủ trẻ nhất thế giới. Ông đã được The Sydney Morning Herald mô tả là một "người điều hành gian ác, đã tiêu diệt các đối thủ chính trị" và là một nhà độc tài, người đã nắm quyền lực độc đoán ở Campuchia bằng cách sử dụng bạo lực, đe dọa và tham nhũng để duy trì cơ sở quyền lực của mình. Dưới chính phủ của ông, hàng ngàn nhà hoạt động đối lập, chính trị gia, nhà hoạt động môi trường và nhà hoạt động nhân quyền đã bị sát hại, trong đó phần lớn các vụ án không bao giờ được điều tra do mối quan hệ chính trị với chính quyền đương nhiệm. Hun Sen đã tích lũy quyền lực tập trung cao độ ở Campuchia, bao gồm cả một lực lượng bảo vệ cá nhân được cho là có khả năng cạnh tranh với quân đội chính quy của đất nước, khiến cho những nỗ lực đảo chính hầu như không thể xảy ra. Tuổi thơ Hun Sen sinh ra ở Stueng Trang, Kampong Cham với tên khai sinh Hun Buny, là con thứ 3 trong 6 người con trong một gia đình tử tế. Cha của ông, Hun Neang, là một nhà sư thường trú tại địa phương Wat ở tỉnh Kampong Cham trước khi tham gia kháng chiến chống Pháp và kết hôn với mẹ của Hun Sen, Dee Yon, vào những năm 1940. Ông bà nội của Hun Neang là những chủ đất giàu có người Triều Châu. Hun Neang được thừa hưởng một số tài sản của gia đình, bao gồm vài hecta đất, và có một cuộc sống tương đối thoải mái cho đến khi một vụ bắt cóc đã buộc gia đình phải bán hết tài sản. Hun Nal rời gia đình năm 13 tuổi để theo học một trường tu ở Phnôm Pênh. Khi Lon Nol lật đổ Sihanouk vào năm 1970, ông đã bỏ học để gia nhập Khmer Đỏ. 2 năm sau, Hun Nal đổi tên thành Hun Sen. Đường đến quyền lực và cương vị Thủ tướng Hun Sen tiến thân trong nội bộ Khmer Đỏ và từng là Tư lệnh Tiểu đoàn ở Vùng Đông của Campuchia Dân chủ (tên nhà nước trong thời chính quyền Khmer Đỏ). Năm 1977, trong các cuộc thanh trừng nội bộ của chế độ Khmer Đỏ, Hun Sen và các cán bộ trong tiểu đoàn của ông đã trốn sang Việt Nam. Khi Việt Nam chuẩn bị tấn công Campuchia, Hun Sen trở thành một trong những người lãnh đạo quân đội và chính phủ nổi dậy do Việt Nam bảo trợ. Sau sự thất bại của chế độ Khmer Đỏ, Hun Sen được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao của Cộng hòa Nhân dân Campuchia/Nhà nước Campuchia (PRK/SOC). Hun Sen đã lên chức Thủ tướng vào tháng 1 năm 1985 khi Quốc hội chỉ định ông kế nhiệm Chan Sy, người đã qua đời khi đương chức này vào tháng 12 năm 1984. Là nhà lãnh đạo trên thực tế của Campuchia, năm 1985, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Thủ tướng. Năm 1987, Tổ chức Ân xá Quốc tế cáo buộc chính quyền của Hun Sen tra tấn hàng ngàn tù nhân chính trị bằng cách sử dụng "sốc điện, bàn ủi nóng và làm tù nhân gần như nghẹt thở với túi nhựa". Là Bộ trưởng Ngoại giao và sau đó là Thủ tướng, Hun Sen đóng vai trò nòng cốt trong Đàm phán hòa bình Paris năm 1991, mà đã đưa đến hòa bình ở Campuchia. Trong thời kỳ này, Hoàng tử Norodom Sihanouk gọi ông là "con lừa chột mắt của Việt Nam". Ông giữ vị trí Thủ tướng cho đến cuộc bầu cử do Liên Hợp Quốc bảo trợ năm 1993, kết quả là một quốc hội treo. Sau các cuộc đàm phán gây tranh cãi với FUNCINPEC, Hun Sen đã được chấp nhận làm Thủ tướng thứ hai, phục vụ cùng với Norodom Ranariddh cho đến khi một cuộc đảo chính năm 1997 lật đổ sau đó. Ung Huot sau đó được chọn để kế nhiệm Ranariddh. Trong cuộc bầu cử năm 1998, ông đã lãnh đạo CPP để giành chiến thắng nhưng phải thành lập một chính phủ liên minh với FUNCINPEC. Năm 1997, liên minh đã bị lung lay bởi căng thẳng giữa Ranariddh và Hun Sen. FUNCINPEC đã tham gia các cuộc thảo luận với các phiến quân Khmer Đỏ còn lại, với các bên đã liên minh trước đó để chống lại chính phủ Hun Sen được Việt Nam hậu thuẫn trong những năm 1980), với mục đích thu hút họ vào hàng ngũ lãnh đạo của mình. Sự phát triển như vậy sẽ làm thay đổi cán cân sức mạnh quân sự giữa hoàng gia và CPP. Đáp lại, Hun Sen đã phát động cuộc đảo chính Campuchia năm 1997, thay thế Ranariddh bằng Ung Hout giữ chức Thủ tướng thứ nhất và bản thân ông duy trì vị trí Thủ tướng thứ hai, một tình huống kéo dài cho đến khi CPP chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1998, sau đó ông trở thành Thủ tướng quốc gia duy nhất. Trong năm đó, các phương tiện truyền thông miêu tả ông là Người đàn ông mạnh mẽ của Campuchia. Sau đó, ông nói rằng điều này là quá sớm, và cuộc đảo chính tháng 7 năm 1997 chỉ đơn thuần là chính phủ hành động chống lại tình trạng hỗn loạn bán quân sự được Norodom Ranariddh bảo trợ và đưa đến Phnôm Pênh. Trong một bức thư ngỏ, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã lên án việc xử tử các bộ trưởng FUNCINPEC và "chiến dịch bắt giữ và quấy rối có hệ thống" đối với các đối thủ chính trị của Hun Sen. Cuộc bầu cử gây tranh cãi và tranh cãi rộng rãi vào tháng 7 năm 2003 đã dẫn đến đa số lớn hơn trong Quốc hội cho CPP, với FUNCINPEC mất ghế cho CPP và Đảng Sam Rainsy. Tuy nhiên, đa số CPP đã thiếu hai phần ba ghế mà hiến pháp yêu cầu để CPP có thể tự thành lập một chính phủ mới. Sự bế tắc này đã được khắc phục khi một liên minh CPP-FUNCINPEC mới được thành lập vào giữa năm 2004, với Norodom Ranariddh được chọn làm người đứng đầu Quốc hội và Hun Sen lại trở thành Thủ tướng duy nhất. Vào ngày 6 tháng 5 năm 2013, Hun Sen tuyên bố ý định cai trị Campuchia cho đến năm 74 tuổi. Sau cuộc tổng tuyển cử tháng 7 năm 2013, cả Hun Sen và các đối thủ của ông đều tuyên bố giành chiến thắng. Vào tháng 8, Hun Sen tiếp tục theo đuổi mục tiêu thành lập một chính phủ mới. Cũng trong tháng 8, tại New York, một cuộc biểu tình lớn, nhưng hầu như không được chú ý, được tổ chức trước Liên Hợp Quốc (LHQ) vào ngày 19 tháng 8 do người Campuchia và các nhà sư Phật giáo tổ chức, là một khúc dạo đầu quan trọng để diễn ra các cuộc biểu tình lớn ở Phnôm Pênh sau đó vào tháng 9 năm 2013 do các nhóm đối lập phản đối cuộc bầu cử tháng 7 năm 2013 và phản ứng của Hun Sen. Người Campuchia ở Hoa Kỳ, Canada và các nơi khác, với hàng trăm tu sĩ Phật giáo, đã biểu tình ôn hòa trước Liên Hợp Quốc tại thành phố New York để phản đối việc triển khai lực lượng quân sự và an ninh của Hun Sen tại Phnôm Pênh và việc ông không sẵn sàng chia sẻ quyền lực chính trị với các nhóm đối lập và không nghiêm túc giải quyết gian lận bỏ phiếu và bầu cử bất thường trước đó từ cuộc bầu cử tháng 7 năm 2013. Sau kết quả bầu cử năm 2013, mà bị phe đối lập của Hun Sen coi là gian lận, một người đã thiệt mạng và những người khác bị thương trong các cuộc biểu tình ở thủ đô Campuchia, với 20.000 người biểu tình tập trung, một số vụ đụng độ với cảnh sát chống bạo động. Sau hai tuần phản đối, Hun Sen tuyên bố rằng ông đã được bầu lên theo hiến pháp và sẽ không từ chức cũng như không tổ chức một cuộc bầu cử mới. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2013, hàng chục ngàn người Campuchia, cùng với các nhà sư và nhóm đối lập Phật giáo, bao gồm Đảng Cứu quốc Campuchia của Sam Rainsy đã tổ chức các cuộc biểu tình rầm rộ ở Phnôm Pênh để phản đối kết quả bầu cử ngày 28 tháng 7 mà họ tuyên bố là thiếu sót và bị hủy bỏ bằng các cách bỏ phiếu bất thường và có thể là gian lận. Các nhóm người này yêu cầu Liên Hợp Quốc điều tra và tuyên bố rằng kết quả bầu cử không tự do và công bằng. Vào ngày 3 tháng 1 năm 2014, cảnh sát quân sự đã nổ súng vào người biểu tình, giết chết 4 người và làm bị thương hơn 20. Liên Hợp Quốc và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên án hành vi bạo lực này. Nghị sĩ Hoa Kỳ Ed Royce đã trả lời báo cáo về bạo lực ở Campuchia bằng cách kêu gọi Hun Sen từ chức, nói rằng người dân Campuchia xứng đáng với một nhà lãnh đạo tốt hơn ông. Vào ngày 10 tháng 6 năm 2014, Hun Sen xuất hiện trước công chúng và tuyên bố rằng ông không có vấn đề gì về sức khỏe. Ông cảnh báo rằng nếu ông chết sớm, đất nước Campuchia sẽ mất kiểm soát và phe đối lập có thể gặp rắc rối từ các lực lượng vũ trang, nói rằng ông là người duy nhất có thể kiểm soát quân đội. Vào tháng 11 năm 2016, Hun Sen công khai tán thành ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa Hoa Kỳ Donald Trump, người tiếp tục được bầu làm tổng thống. Theo lệnh của Hun Sen, vào ngày 31 tháng 1 năm 2017, Quốc hội đã bỏ phiếu nhất trí bãi bỏ các vị trí Lãnh đạo thiểu số và Thủ lĩnh đa số để giảm bớt ảnh hưởng của đảng đối lập. Vào ngày 2 tháng 2 năm 2017, Hun Sen không cho phe đối lập được chất vấn một số bộ trưởng chính phủ của ông. Hơn nữa, Hun Sen tuyên bố sửa đổi hiến pháp mà có thể làm cho Đảng Cứu quốc Campuchia đối lập bị giải tán. Động thái này đã dẫn đến sự từ chức bất ngờ của nhà lãnh đạo phe đối lập Sam Rainsy. Luật gây tranh cãi này được thông qua vào ngày 20 tháng 2 năm 2017, trao cho đảng cầm quyền quyền được giải tán các đảng chính trị. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2018, vài tuần trước cuộc bầu cử quốc hội, Hun Sen đã bổ nhiệm con trai lớn thứ hai của mình, Hun Manet, vào các vị trí quân sự cao hơn để chuẩn bị cho con trai của ông lên làm thủ tướng khi ông nghỉ hưu hoặc qua đời, củng cố hiệu quả triều đại chính trị nhà Hun ở Campuchia. Hun Sen cũng đã tiến hành các chiến dịch xây dựng hình ảnh cho con trai mình, mà theo ông được sinh ra từ một sinh vật 'siêu nhiên' và do đó, mang tính thần thánh. Các chuyên gia chính trị đã nói rằng các chiến dịch của Hun Sen có thể đưa Campuchia đến một triều đại tương tự như triều đại tại Bắc Triều Tiên của Kim Jong-un. Bạo lực chính trị ở Campuchia Một số đối thủ chính trị của Hun Sen trong quá khứ đã cố gắng buộc tội ông là một con rối của Việt Nam. Điều này là do vị trí của ông trong chính phủ do Việt Nam dựng lên khi Campuchia nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội Việt Nam và thực tế ông là một nhân vật nổi bật trong Đảng Cách mạng Nhân dân Campuchia (nay là Đảng Nhân dân Campuchia), mà cai trị Campuchia như một nhà nước độc đảng dưới sự chiếm đóng của quân đội Việt Nam từ năm 1979 cho đến bầu cử năm 1993. Hun Sen và những người ủng hộ ông bác bỏ các cáo buộc như vậy, nói rằng ông chỉ đại diện cho người dân Campuchia. Chính phủ của Hun Sen đã chịu trách nhiệm việc cho thuê 45% tổng diện tích đất ở Campuchia, chủ yếu cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong những năm 2007-08, làm hơn 150.000 người Campuchia bị đe dọa trục xuất. Một phần của các nhượng bộ là các khu vực hoang dã được bảo vệ hoặc các công viên quốc gia, và việc bán đất đã được các nhà quan sát coi là tham nhũng của chính phủ. Đã có hàng ngàn công dân trở thành nạn nhân của các vụ trục xuất này. Hun Sen có liên quan đến tham nhũng tài nguyên dầu mỏ và tài nguyên khoáng sản của Campuchia trong báo cáo Global Witness 2009 về Campuchia. Ông và các cộng sự thân cận của mình bị cáo buộc thực hiện các cuộc đàm phán bí mật với các bên tư nhân quan tâm, lấy tiền từ những người được cấp quyền khai thác tài nguyên của đất nước này. Độ tin cậy của lời buộc tội này đã bị thách thức bởi các quan chức chính phủ và đặc biệt là từ chính Thủ tướng Hun Sen. Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của Hun Sen đã ra lệnh cấm các cuộc tụ họp công cộng, đuổi những người ủng hộ phe đối lập từ địa điểm của các cuộc họp biểu tình trước đây ra khỏi 'Công viên Tự do', và triển khai cảnh sát chống bạo động để đánh đập những người biểu tình và giam giữ các nhà lãnh đạo liên minh. Kiểm soát truyền thông Hun Sen và đảng chính trị của ông, CPP, đã nắm giữ quyền thống trị gần như toàn bộ trên các phương tiện truyền thông chính thống trong phần lớn thời gian cai trị. Truyền hình Bayon được con gái lớn của Hun Sen, Hun Mana sở hữu và điều hành. thuộc sở hữu chung của Say Sam Al, Bộ trưởng Bộ Môi trường CPP và con trai của Say Chhum, thư ký CPP và con trai của Phó Thủ tướng CPP, ông Sok An. CTN, CNC và MyTV đều thuộc sở hữu của ông trùm người Khmer gốc Hoa, Neak Okhna Kith Meng, một trong những "Okhna" của Nhà nước Campuchia. Okhna là một danh hiệu được Thủ tướng hoặc Hoàng gia trao cho các doanh nhân cao cấp, và biểu thị một tình bạn rất thân thiết. Okhna thường xuyên được Thủ tướng triệu tập để cung cấp kinh phí cho các dự án khác nhau. Các quan chức CPP tuyên bố rằng không có mối liên hệ nào giữa các đài truyền hình và nhà nước, mặc dù có sự phổ biến rõ ràng của chủ nghĩa gia đình trị. Tuy nhiên, nhà lập pháp CPP và phát ngôn viên chính thức Cheam Yeap từng tuyên bố "Chúng tôi trả tiền cho truyền hình đó bằng cách mua giờ phát sóng để trình bày thành tích của chúng tôi", chỉ ra rằng các đài truyền hình đó ủng hộ CPP vì họ đã được Nhà nước trả tiền cho những cái gọi là quảng cáo hiệu quả. Yêu cầu về giấy phép truyền hình và đài phát thanh là một trong 10 yêu cầu của đảng đối lập, Đảng Cứu hộ Quốc gia Campuchia (CNRP), thông qua tại "Đại hội Nhân dân" vào tháng 10 năm 2013. Các đài phát thanh đã bị cấm phát sóng Đài Tiếng nói Hoa Kỳ và Đài Á Châu Tự do vào tháng 8 năm 2017. Tờ báo độc lập nổi tiếng nhất của đất nước Cambodia Daily đã bị đóng cửa vào ngày 4 tháng 9 năm 2017, một ngày sau khi nhà lãnh đạo phe đối lập chính Kem Sokha bị bắt vì tội phản quốc. Ông một trong nhiều nhà hoạt động, chính trị gia và nhà phê bình chính phủ Campuchia hiện nay đang phải chịu án tù. Đời tư Hun Sen kết hôn với Bun Rany. Họ có sáu người con: Kamsot (đã chết), Manet, Mana, Manith, Mani và Mali. Hun Manet tốt nghiệp Học viện West Point năm 1999 và lấy bằng Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Bristol. Năm 2010, Manet được thăng cấp Thiếu tướng trong Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Campuchia (RCAF) và trở thành Phó Tư lệnh Bộ chỉ huy Bảo vệ Cơ quan của Thủ tướng. Năm 2023, Manet kế nhiệm cha trở thành Thủ tướng của Campuchia. Cả ba người con trai của Hun Sen đều đóng vai trò lớn trong chế độ của ông. Anh trai của Hun Sen, Hun Neng, là một cựu thống đốc của Campuchia, và hiện là thành viên của quốc hội. Mặc dù ngày sinh chính thức của Hun Sen là ngày 4 tháng 4 năm 1951, ngày sinh thực sự của ông là ngày 5 tháng 8 năm 1952. Hun Sen ngoài tiếng Khmer bản địa còn thông thạo tiếng Việt. Hun Sen cũng nói được một ít tiếng Anh sau khi bắt đầu học ngôn ngữ này vào những năm 1990, nhưng thường nói chuyện bằng tiếng Khmer thông qua các phiên dịch viên khi trả lời phỏng vấn chính thức cho các phương tiện truyền thông nói tiếng Anh. Hun Sen bị mù một bên mắt vì một vết thương từ thời còn là lính Khmer Đỏ. Chú thích Thư mục Hun Sen, nhân vật xuất chúng của Campuchia, Harish C.Mehta, Nhà xuất bản Văn học 2008
Siem Reap (, ; , trong tiếng Việt cũng viết theo phiên âm là Xiêm Riệp) là tỉnh lỵ tỉnh Siem Reap, nằm ở tây bắc Campuchia. Địa danh này theo tiếng Khmer nghĩa là "Xiêm bại trận". Đây là một thành phố rất hút khách du lịch vì vị trí của nó nằm ở cửa ngõ vào khu vực quần thể Angkor. Siem Reap có nhiều kiến trúc kiểu thuộc địa và kiểu Tàu nằm trong khu phố Tây, quanh chợ cũ. Thành phố có sân khấu biểu diễn điệu múa Apsara, các cửa hàng thủ công, các nông trại nuôi tằm và các cánh đồng lúa của vùng nông thôn và làng chài, tràm chim gần hồ Tonlé Sap. Ngày nay, Siem Reap là một điểm đến nổi tiếng của du khách với nhiều khách sạn và nhà hàng. Các khách sạn nhà hàng nhỏ nằm quanh khu chợ cũ, các cơ sở lớn thì nằm ở giữa sân bay Quốc tế Angkor và dọc theo Quốc lộ 6. Thành phố có sân bay Quốc tế Angkor nối đến các thành phố khác trong khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam, chủ yếu phục vụ du khách tham quan di sản thế giới Angkor Wat. Lịch sử Cái tên "Siem Reap" có nghĩa là "Xiêm bại trận", và thường được xem như một sự ám chỉ trong một cuộc xung đột nhiều thế kỷ giữa vương quốc Xiêm và Khmer, mặc dù điều này có lẽ là không có thật. Theo truyền thống truyền khẩu, vua Ang Chan (1516–1566) đã đặt tên cho thị trấn là "Siem Reap", nghĩa là "thất bại của Xiêm", sau khi ông ta đánh bại một đội quân xâm lược bởi vua Xiêm Maha Chakkraphat năm 1549. Tuy nhiên, các học giả như Michael Vickery coi thuật ngữ này chỉ đơn thuần là một từ nguyên dân gian hiện đại, và duy trì rằng tên Siem Reap và Chân Lạp (tên cũ mà Trung Quốc đặt cho khu vực này) có lẽ có liên quan, nguồn gốc thực sự của cái tên vẫn chưa được biết. Câu chuyện truyền thống tuyên bố rằng vua Ang Chan của Campuchia đã cố gắng khẳng định sự độc lập lớn hơn từ Xiêm, mà sau đó đã trải qua những cuộc đấu tranh nội bộ. Vua Chairachathirat đã bị đầu độc chết bởi vợ lẽ của ông, Phu nhân Sri Sudachan, người đã phạm tội tà dâm với một người dân bình thường là Worawongsathirat, trong khi nhà vua đang chỉ huy một chiến dịch kháng chiến Vương quốc Chiang Mai. Sudachan sau đó lập người yêu của mình lên ngai vàng. Do căm ghét bà ta, các quý tộc Xiêm thông đồng với nhau và lừa giết cả hai người và con gái mới sinh của họ, sau đó mời Hoàng tử Thianracha lên ngai vàng tức Vua Maha Chakkraphat (1548–1569). Khi người Xiêm đang bị phân tâm bởi các vấn đề nội bộ triều đình của họ, vua Ang Chan cho rằng đây là thời cơ chín muồi để tấn công. Ông đánh chiếm thành phố Prachin Buri của Xiêm La năm 1549 và bắt rất nhiều người dân vô tội làm nô lệ. Chỉ sau đó ông mới biết được rằng ngôi kế vị đã được giải quyết và Maha Chakkraphat là người cai trị mới. Ang Chan ngay lập tức rút lui về Campuchia, đem cả những người bị bắt về cùng ông. Vua Maha Chakkraphat giận dữ vì cuộc kháng chiến không được chư hầu nào viện trợ, nhưng Miến Điện cũng đã chọn xâm lược qua Đèo Ba Chùa. Quân đội Miến Điện là mối đe dọa nghiêm trọng hơn nhiều, khi chúng đã chiếm Kanchanaburi và Suphanburi. Quân đội này cũng đã kéo quân tiến đến Ayutthaya. Trước nguy cơ mất kinh thành, quân đội Xiêm đã đánh bại thành công quân Miến Điện, buộc chúng phải nhanh chóng rút lui qua đèo. Suy nghĩ của Maha Chakkraphat sau đó hướng sang Campuchia. Không chỉ có Ang Chan tấn công và cướp phá Prachin Buri, biến người dân thành nô lệ, nhưng ông cũng từ chối không cho Maha Chakkraphat một con voi trắng mà ông yêu cầu, từ chối ngay cả việc thần phục Xiêm. Maha Chakkraphat ra lệnh cho Hoàng tử Ong, thống đốc của Sawankhalok, dẫn đầu một đoàn quân viễn chinh để chinh phạt Ang Chan và thu hồi những người bị Ang Chan bắt giữ. Quân đội đối đầu gặp nhau, và Ang Chan đã giết Hoàng tử Ong với một phát bắn mũi tên may mắn từ lưng voi. Quân đội Xiêm sợ hãi chạy trốn, và Ang Chan được cho đã bắt sống 10.000 lính Xiêm. Để kỷ niệm chiến thắng vĩ đại của mình, Vua Ang Chan được cho là đã đặt tên cho cuộc chiến "Siem Reap", có nghĩa là "Thất bại hoàn toàn của Xiêm". Trong thực tế, các nguồn lịch sử còn tồn tại khiến khả năng câu chuyện dân gian này xuất hiện rất khó, kể từ khi người Khmer từ bỏ kinh thành Angkor đến hơn một thế kỷ trước đó, khi một cuộc xâm lược quân sự khác từ Xiêm đã chiếm Angkor Wat. Việc Angkor thất thủ năm 1431 trùng với thời kỳ suy yếu của vương quốc Khmer, mặc dù lý do đằng sau sự bỏ rơi kinh đô này là không rõ ràng. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, sự đấu tranh giữa giới quý tộc Khmer đã dẫn đến sự can thiệp định kỳ và sự lấn át của cả hai nước láng giềng lớn ở 2 phía Đông và Tây của Campuchia, Đại Việt và Xiêm La. Siem Reap, cùng với Battambang (Phra Tabong) và Sisophon, các thành phố lớn ở phía tây bắc Campuchia, dưới sự quản lý của Xiêm La và các tỉnh được gọi chung là Nội Campuchia từ 1795 đến 1907, trước khi chúng được nhượng lại cho Đông Dương thuộc Pháp. Trong thế kỷ 18, dưới sự cai trị của Vương quốc Ayutthaya, thành phố có tên tiếng Thái là là Nakhorn Siam. Khám phá trở lại Siem Reap được miêu tả là "còn nhỏ hơn một ngôi làng" khi các nhà thám hiểm người Pháp như Henri Mouhot "tái khám phá" Angkor vào thế kỷ 19. Tuy nhiên, du khách châu Âu đã đến thăm di tích đền thờ sớm hơn nhiều, bao gồm cả António da Madalena vào năm 1586. Năm 1901, École française d'Extrême-Orient (EFEO; Trường học Viễn Đông của Pháp) bắt đầu liên kết lâu dài với Angkor bằng cách tài trợ cho một chuyến thám hiểm ở Xiêm để tham quan Bayon, EFEO đã chịu trách nhiệm thanh toán bù trừ và khôi phục toàn bộ khu vực này. Trong cùng năm đó, các du khách phương Tây đầu tiên đến Angkor, tổng cộng khoảng 200 người chỉ trong ba tháng. Angkor như thể "được giải cứu" khỏi rừng rậm và khẳng định được vị trí của nó trong thế giới hiện đại. Với việc mua lại Angkor của người Pháp vào năm 1907 sau một hiệp ước Pháp-Xiêm, Siem Reap bắt đầu phát triển. Grand Hotel d'Angkor khai trương vào năm 1932 và các ngôi đền Angkor trở thành một trong những địa điểm thu hút hàng đầu châu Á cho đến cuối những năm 1960. Vào năm 1975, dân số của Siem Reap, giống như tất cả các thành phố và thị trấn Campuchia khác, đã bị Khmer Đỏ điều khiển vào vùng nông thôn. Lịch sử gần đây của Siem Reap được tô vẽ bởi sự kinh hoàng của chế độ Khmer Đỏ tàn bạo. Kể từ cái chết của Pol Pot vào năm 1998, tuy nhiên, sự ổn định tương đối và một ngành công nghiệp du lịch trẻ hóa đã làm sống lại thành phố. Siem Reap bây giờ phục vụ như là một thị trấn cửa ngõ đến di sản thế giới Angkor Wat. Nó là một thị trấn sôi động với các khách sạn và nhà hàng hiện đại, vẫn quản lý để bảo tồn nhiều văn hóa và truyền thống của nó. Trong những năm gần đây, thành phố đã thường xuyên được xếp hạng trong top 10 cho danh sách "Điểm đến tốt nhất" được xếp hạng bởi TripAdvisor, tạp chí Wanderlust và Travel + Leisure. Khí hậu Theo phân loại khí hậu Köppen, Siem Reap có khí hậu nhiệt đới ẩm và khô. Thành phố thường nóng trong suốt cả năm, với nhiệt độ cao trung bình không bao giờ giảm xuống dưới 30 C trong bất kỳ tháng nào. Siem Reap có mùa mưa tương đối dài bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 11. Mùa khô bao gồm bốn tháng còn lại. Thành phố có lượng mưa trung bình khoảng 1500 mm mỗi năm. Kinh tế Du lịch đóng một vai trò rất quan trọng của nền kinh tế Siem Reap - ước tính vào năm 2010 rằng hơn 50% công ăn việc làm trong thị trấn có liên quan đến ngành du lịch. Thành phố đã chứng kiến ​​một sự gia tăng lớn trong thương mại du lịch trong vài thập kỷ sau khi kết thúc thời Khmer Đỏ, và các doanh nghiệp tập trung vào du lịch đã phát triển mạnh do sự bùng nổ du lịch. Số lượng khách tham quan không đáng kể vào giữa những năm 1990, nhưng đến năm 2004, hơn nửa triệu du khách nước ngoài đã đến tỉnh Siem Reap năm đó, chiếm 50% của tất cả khách du lịch nước ngoài trên toàn lãnh thổ Campuchia. Đến năm 2012, số lượng khách du lịch đã đạt hơn hai triệu. Một số lượng lớn các khách sạn đã nổi lên trong thành phố, từ các khách sạn 5 sao và khu nghỉ dưỡng sang trọng đến hàng trăm nhà nghỉ bình dân. Một loạt các cửa hàng trên đường phố trong khu vực Psar Chas, cũng như các nhà hàng, quán bar và câu lạc bộ đêm phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp này sử dụng hàng nghìn nhân viên là người dân địa phương ở Siem Reap hoặc đã di cư từ các tỉnh lân cận. Một số lượng lớn các tổ chức NGO và các tổ chức phi lợi nhuận khác hoạt động trong và xung quanh Siem Reap, và họ đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, cũng như giúp phát triển nó trong tương lai. Hàng ngàn người nước ngoài tìm nhà định cư ở thành phố và họ cũng có một tác động đáng kể đến nền kinh tế. Các địa danh Angkor Wat Đền Angkor Wat (ngôi đền Wat) là nét đặc trưng trung tâm của Di sản Thế giới được UNESCO công nhận là di sản thế giới của Angkor. Loạt tháp năm tầng của Angkor Wat lên đến đỉnh điểm trong một tòa tháp trung tâm ấn tượng tượng trưng cho núi Meru huyền thoại. Hàng ngàn feet của không gian tường được bao phủ bằng cách khắc phức tạp mô tả những cảnh từ thần thoại Hindu. Điều quan trọng nhất là phù điêu khắc Bas của những câu chuyện Hindu. Họ kể một câu chuyện về các vị thần chiến đấu với ma quỷ để lấy lại trật tự mà chỉ có thể đạt được bằng cách phục hồi tinh hoa của cuộc sống được gọi là amrita. Các vị thần và ma quỷ phải làm việc cùng nhau để giải phóng nó và sau đó chiến đấu để đạt được nó. Angkor Thom Angkor Thom là một kinh đô hoàng gia bên trong được xây dựng bởi Jayavarman VII, "Warrior King" nổi tiếng của Đế chế, vào cuối thế kỷ 12 và nổi tiếng với các ngôi đền, đặc biệt là Bayon. Các địa điểm đáng chú ý khác là Baphuon, Phimeanakas, Sân Voi và Sân Vua Cùi. Quần thể này có thể được tham quan thông qua 5 cổng, một ở mỗi điểm hồng y và Cổng Chiến thắng trên bức tường phía đông. Các ngôi đền khác Một số ngôi đền quan trọng được rải rác xung quanh Angkor Wat và Angkor Thom trong Công viên Angkor, bao gồm Ta Prohm, Preah Khan, Banteay Kdei, Phnom Bakheng, Ta Keo, Ta Som, Đông Mebon, Pre Rup và Neak Pean. Những ngôi đền này có thể được viếng thăm dọc theo mạch lớn hoặc các tuyến mạch nhỏ. Các địa điểm khác là nhóm đền Roluos nằm ở phía đông của Siem Reap. Bảo tàng Chiến tranh Campuchia Bảo tàng Chiến tranh Campuchia bao gồm ba thập niên cuối của thế kỷ 20 khi Khmer Đỏ hoạt động ở Campuchia. Có một loạt các loại xe, pháo binh, vũ khí, mìn và thiết bị trưng bày. Bảo tàng đang sử dụng bởi các hướng dẫn viên là những cựu chiến binh chiến tranh đã chiến đấu cho quân đội Campuchia, Khmer Đỏ hoặc quân đội Việt Nam. Bảo tàng Quốc gia Angkor Khai trương vào ngày 12 tháng 11 năm 2007, Bảo tàng Quốc gia Angkor mang đến cho du khách một sự hiểu biết tốt hơn về kho báu khảo cổ của khu vực. Kỷ nguyên vàng của Vương quốc Khmer được trình bày, bao gồm cả việc sử dụng công nghệ đa phương tiện hiện đại. Bảo tàng bao gồm lịch sử Khmer, văn minh và di sản văn hóa trong tám phòng trưng bày. Chợ Chợ cũ hoặc Psah Chas nằm giữa Pub Street và sông Siem Reap, và cung cấp một hỗn hợp quà lưu niệm cho khách du lịch và một loạt các sản phẩm, thực phẩm và các mặt hàng khác thuộc đặc sản địa phương. Các chợ khác ở Siem Reap bao gồm Chợ đêm Angkor nằm ngoài đường Sivutha, Phsar Kandal (Chợ trung tâm) nằm ở phố Sivutha, nơi phục vụ khách du lịch, và Phsar Leu (The Upper Market) nằm xa hơn dọc theo Quốc lộ 6 nhưng là thị trường lớn nhất của Siem Reap được người dân địa phương sử dụng. The Made in Cambodia Market (ban đầu được gọi là "Well Made in Cambodia") là một chợ đêm cho khách du lịch ở Siem Reap, nơi tất cả các sản phẩm được bán nên được sản xuất tại Campuchia. Chợ tổ chức các buổi biểu diễn hàng ngày và các sự kiện khác trên Đường King's. Cuộc sống về đêm Phần lớn các quán bar và quán rượu ở Siem Reap tập trung trên một dải gọi là Pub Street và đó là những con hẻm xung quanh. Mặc dù yên bình trong ngày, các đường phố trong khu phố Pub Street, chỉ cách khối Psah Chas lịch sử (chợ Cũ) một đoạn đi bộ, trở nên sống động về đêm với ánh sáng và âm nhạc. Khách du lịch, cả trong và ngoài nước, bắt đầu vào các quán bar và quán rượu và tận hưởng không khí sôi động vào ban đêm. Bắt đầu vào cuối những năm 90 bởi một doanh nghiệp địa phương gọi là Angkor What? Bar và những dịch vụ tiếp theo là đối thủ của nó, Temple Bar, từ phía bên kia đường, phố Pub thường được xem là điểm tham quan không thể bỏ qua ở Siem Reap. Giao thông Trung tâm Siem Riep cách sân bay quốc tế Angkor (IATA code REP) 7 km và có thể đến được bằng các chuyến bay thẳng từ nhiều thành phố châu Á, và bằng đường bộ từ Phnôm Pênh và biên giới từ Thái Lan. Nó cũng có thể đến bằng thuyền (thông qua hồ Tonle Sap) và xe buýt từ Phnôm Pênh và Battambang. Một sân bay mới được lên kế hoạch xây dựng, cách Siem Reap 60 km (37 dặm). Có thể đi từ Bangkok đến Siem Reap qua Poipet. Con đường từ Poipet đến Siem Reap mới được trải nhựa và niêm phong vào năm 2013. Nếu du khách đi taxi từ Bangkok đến Poipet và từ Poipet đến Siem Reap, có thể hoàn thành toàn bộ hành trình trong vòng 6-10 giờ đồng hồ, tùy thuộc vào thời gian qua biên giới. Hành trình này cũng có thể bằng xe buýt và xe buýt nhỏ. Vé có thể được mua trực tuyến thông qua trang web chính thức của Nattakan. Đến Siem Reap từ Bangkok cũng có thể bằng tàu hỏa qua ga Aranyaprathet đến biên giới với Campuchia và sau đó thông qua các xe buýt mini hoặc taxi chung đến Siem Reap.
Skype (IPA: /'skaɪp/) là một mạng điện thoại Internet ngang hàng được thành lập bởi Niklas Zennström và Janus Friis, cũng là những người thành lập ra ứng dụng chia sẻ tập tin Kazaa và ứng dụng truyền hình ngang hàng Joost. Nó cạnh tranh với những giao thức VoIP mở hiện nay như SIP, IAX, và H.323. Skype Group, đã được mua lại với giá 2,6 tỉ $ bởi eBay vào tháng 9 năm 2005, có trụ sở đặt tại Luxembourg, với các văn phòng đại diện ở London, Tallinn, Praha và San Jose, California. Skype đã phát triển nhanh chóng về cả lượng người dùng và phát triển phần mềm từ khi ra mắt, cả dịch vụ miễn phí và dịch vụ trả tiền. Hệ thống liên lạc Skype nổi bật nhờ các tính năng thuộc nhiều lĩnh vực, bao gồm hội nghị thoại và hình ảnh miễn phí, khả năng sử dụng công nghệ (phân bố) ngang hàng để vượt qua vấn đề về tường lửa và NAT, sử dụng kỹ thuật mã hóa mạnh và trong suốt và khả năng cực mạnh chống lại việc biên dịch ngược phần mềm hay giao thức. Ngày 10 tháng 5 năm 2011, tập đoàn Microsoft đã mua lại Skype với giá 8,5 tỷ USD Hệ thống và Phần mềm Công nghệ Điểm khác nhau chủ yếu giữa Skype và các chương trình VoIP đó là Skype hoạt động theo mô hình mạng ngang hàng, chứ không theo mô hình chủ-khách truyền thống. Thư mục người dùng của Skype hoàn toàn phân rã và phân bố trên các node mạng, điều đó có nghĩa là mạng có thể mở rộng dễ dàng (tính đến thời điểm hiện tại đã có trên 300 triệu người dùng trên toàn thế giới và trong năm 2012 đã có hơn 3 tỉ giờ gọi qua Skype) mà không đòi hỏi một cơ sở hạ tầng tập trung phức tạp và đắt tiền. Skype cũng tìm đường cho các cuộc gọi thông qua những máy ngang hàng để dễ vượt qua NAT đối xứng và tường lửa. Tuy nhiên, điều này đặt thêm một gánh nặng cho người nào kết nối Internet mà không có NAT, vì băng thông của máy tính và mạng của họ được dùng để tìm đường cho các cuộc gọi của người dùng khác. Giao diện lập trình ứng dụng (API) của chương trình Skype mở mạng cho những nhà phát triển phần mềm. Skype API cho phép các chương trình khác sử dụng mạng Skype để lấy thông tin "trang trắng" và quản lý cuộc gọi. Mã nguồn của Skype là mã nguồn đóng, và giao thức không được chuẩn hóa. Giao diện người dùng Windows được phát triển bằng Pascal sử dụng Delphi, phiên bản Linux được viết bằng C++ với Qt, và phiên bản Mac OS X được viết bằng Objective-C với Cocoa. Vài phần của chương trình sử dụng Internet Direct (Indy), một thư viện truyền socket mã nguồn mở. Bảo mật Giao tiếp an toàn là một đặc tính của Skype. Việc mã hóa không thể bật hoặc tắt. Người dùng không có vai trò trong quá trình mã hóa và do đó không phải động tới vấn đề hạ tầng khóa công cộng. Skype được báo cáo là sử dụng những giải thuật mã hóa mạnh mẽ, và có sẵn phổ biến. Tổng quan Mã nguồn của Skype là có sở hữu và mã nguồn đóng, và Skype không hề có kế hoạch trở thành phần mềm mã nguồn mở, theo như trích dẫn sau: Một cuốn sách của Nhà xuất bản Que, Skype: The Definitive Guide ("Skype: Hướng dẫn tổng quát") đã chỉ ra rằng: Skype có thể sử dụng băng thông của người dùng khác. (Mặc dù điều này được phép trong EULA, không có cách nào có thể xác định được có bao nhiêu băng thông được dùng theo cách này). Có khoảng 20.000 supernode so với hàng triệu người dùng đăng nhập. Skype Guide for network administrators (Skype Hướng dẫn cho các nhà quan trị mạng) nói rằng supernode chỉ mang lưu lượng điều khiển tới 5 kbyte/s và các bộ tiếp nối (relay) có thể mang lưu lượng dữ liệu dùng dùng khác lên đến 10 kbyte/s (cho một cuộc gọi truyền hình). Một bộ tiếp nối không nên dùng cho hơn một "kết nối chuyển tiếp". Chức năng truyền tập tin của Skype không chứa bất cứ giao diện lập trình được nào cho các sản phẩm chống virus, mặc dù Skype nói rằng họ đã kiểm tra sản phẩm của họ bằng những sản phẩm "Giáp" chống virus. Sự thiếu rõ ràng về nội dung có nghĩa là tường lửa và các nhà quản trị hệ thống không thể chắc chắn được Skype đang làm gì. (Sự kết hợp nghiên cứu kỹ thuật đảo và được mời cho rằng Skype không hề làm điều gì thù địch). Các quy định về tường lửa cho bảng ip được cung cấp cho các công ty để khóa Skype. Sự liên lạc thật sự của bất kỳ cuộc hội thoại Skype nào đó được báo cáo là khá an toàn; cả phân tích về mật mã học cũng kết luận rằng Skype đã tận dụng tốt các kỹ thuật mã hóa hiện đại và đã viết những dòng mã giải thuật mã hóa một cách đúng đắn trong phần mềm. Sử dụng tài nguyên Skype truy cập vào ổ cứng vài lần mỗi phút Điều này có thể được xác định bằng cách quan sát hoạt động của đèn LED của ổ cứng, hoặc bằng cách sử dụng một chương trình giám sát truy cập tập tin như FileMon. Tùy thuộc vào băng thông internet, một số người dùng nào đó được chọn bởi phần mềm để đóng vai trò là "supernode". Dưới những điều kiện nhất định, Skype được cho là sẽ sẵn sàng chấp nhận hàng ngàn kết nối, nhưng đã nói rằng tự giới hạn đến 40 kb/s tải lên và tải xuống. Tính bí mật của dữ liệu Skype nói rằng giao thức thiết lập phiên có sở hữu là hiệu quả và ngăn ngừa cả tấn công man-in-the-middle và tấn công replay. Phần mềm không tự chứng nhận có nghĩa là nó cần phải kết nối và đăng nhập vào một máy chủ Skype tập trung để chứng nhận mỗi một khóa công cộng của người dùng. Skype hiện cho phép nhiều đăng nhập đồng thời: Nếu một kẻ tấn công có thể có được mật khẩu đăng nhập của người dùng, kẻ tấn công đó có thể đăng nhập như người dùng đó, và thay đổi trạng thái của họ thành "Ẩn". Sau đó, các phiên nói chuyện liên quan đến người dùng thật có thể được sao chép lại vào tài khoản "ma" của hacker. Nếu giả sử người dùng giữ cho mật khẩu của anh/chị ta an toàn, điều này không còn là vấn đề nữa. Sự xác thực danh tính người dùng Skype cung cấp một hệ thống đăng ký không quản lý cho người dùng: việc đăng ký không cần phải có bằng chứng (với nghĩa là thẻ chứng minh do nhà nước cấp) về danh tính của người dùng. Điều này có hai cách thực hiện: bạn có thể sử dụng hệ thống một cách an toàn mà không phải để lộ ra danh tính thực của mình cho người khác trong hệ thống, nhưng mặt khác bạn không thể đảm bảo người bạn đang nói chuyện thực sự là họ ở đời thực. Mặt tiêu cực của chuyện này đó là dễ dàng sử dụng tên cá nhân (chứ không phải danh tính) của một người đáng tin cậy làm nickname Skype và lừa người dùng ngây thơ lộ ra thông tin hoặc chạy một chương trình gửi đến cho họ. Cần chú ý rằng hành động này phổ biến ở tất cả các dịch vụ cung cấp theo kiểu số: những ngoại lệ là những chứng nhận từ cơ quan chứng nhận với tất cả những trở ngại ai cũng biết. Các sự kiện chính 2002-2005 Tháng 9 năm 2002: được đầu tư từ Công ty đầu tư Draper Tháng 4 năm 2003: Tên miền Skype.com và Skype.net được đăng ký Tháng 8 năm 2003: Phiên bản beta công cộng đầu tiên được phát hành Tháng 9 năm 2005: SkypeOut bị cấm ở Nam Trung Hoa. Tháng 10 năm 2005: eBay mua lại Skype (14 tháng 10). Tháng 12 năm 2005: Điện thoại truyền hình được giới thiệu. 2006-2007 Tháng 4 năm 2006: đạt đến 100 triệu người dùng đăng ký. Tháng 10 năm 2006 Skype 2.0 cho Mac được phát hành, bản phát hành đầy đủ đầu tiên của Skype với video cho Macintosh. Tháng 12 năm 2006 Skype thông báo một cấu trúc giá mới vào ngày 18 tháng 1 năm 2007, với phí kết nối cho tất cả cuộc gọi SkypeOut. Skype 3.0 cho Windows được phát hành. Tháng 3 năm 2007 Skype 3.1 được phát hành, thêm một vài tính năng mới, bao gồm Skype Find và Skype Prime. Skype cũng phát hành bản 3.2 beta với tính năng mới gọi là Send Money cho phép người dùng gửi tiền qua Paypal từ một người dùng Skype này tới người dùng Skype khác. Các phiên bản hiện giờ có cho các hệ điều hành Microsoft Windows [2000, XP và CE (Pocket PC)], Mac OS X và GNU/Linux. Phiên bản Linux chạy trên FreeBSD thông qua lớp tương thích mã nhị phân Linux của nó; phiên bản Fedora Core hoạt động tốt, nếu người dùng bật micro trong phần thiết lập âm thanh GNOME. Phiên bản Symbian hiện đang được phát triển. Các thay đổi chi tiết Các thay đổi Windows Các thay đổi Mac Các thay đổi Linux Sử dụng và lưu lượng Người sử dụng có thể đăng ký hơn 1 tài khoản, và không thể nhận biết được ai có nhiều tài khoản. Theo báo cáo đã có 17,443,598 người sử dụng Skype online vào ngày 11 tháng 5 năm 2009. Lưu lượng đường truyền thông của Skype vô cùng lớn và đã trở thành chương trình truyền tải lớn nhất thế giới. Lưu lượng từ máy tính tới máy tính giữa người dùng Skype trong năm 2005 tương đương chiếm 2,9% lưu lượng truyền tải quốc tế trong năm 2005 và xấp xỉ 4,4% tổng lưu lượng quốc tế (264 tỉ phút) năm 2006. Năm 2008, khoảng 8% các cuộc gọi quốc tế được thực hiện bởi Skype. Skype phối hợp vài tính năng để che lấp đi đường truyền của họ, nhưng nó không thiết kế đặc biệt để cản trở phân tích lưu lượng và do đó không cung cấp liên lạc nặc danh. Một số nhà nghiên cứu có thể làm mờ đi lưu lượng để nó không thể nhận ra được ngay cả sau khi truyền thông qua mạng mạng nặc danh Tor. SkypeNOW! là một dịch vụ mà Skype cung cấp cho các khách hàng sử dụng mạng Vodafone ở Nam Phi. Với dịch vụ này, người sử dụng Vodafone có thể thực hiện các cuộc gọi quốc tế Skype không dây. Tính năng SkypeOut SkypeOut cho phép người dùng Skype gọi cho số điên thoại truyền thống, bao gồm điện thoại di động có tính phí. Mức phí này thấp nhất vào khoảng 0,024 USD/phút cho phần lớn các nước phát triển, và cao nhất là 2,142 USD/phút cho cuộc gọi đến vùng phụ thuộc Diego Garcia. Bắt đầu từ tháng 1 năm 2007, Skype cũng tính tiền tương đương với 0,039 EUR cho mỗi cuộc gọi SkypeOut, cộng thêm với mức phí thông thường. Sau 180 ngày mà không thực hiện cuộc gọi SkypeOut, số tiền Skype sẽ hết hạn. Vào tháng 30 tháng 1 năm 2007, các cuộc gọi tới Canada và Mỹ không còn miễn phí nữa. Chất lượng dịch vụ không được đảm bảo và có thể rớt, đứt kết nối và có vấn đề về nén âm thanh. SkypeIn SkypeIn cho phép người dùng Skype nhận cuộc gọi trên máy tính được gọi bằng những thuê bao điện thoại thường tới số điện thoại Skype, Hiện nay cho phép người dùng thuê bao cho các số ở Úc, Brasil, Đan Mạch, Cộng hòa Dominica, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hồng Kông, Nhật Bản, Ba Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, România và Hoa Kỳ. Ví dụ như, một người dùng ở San Francisco có thể tạo một số địa phương ở Helsinki. Người gọi từ Helsinki chỉ phải trả mức giá nội địa cho cuộc gọi tới số đó. Những chỉ trích Skype đã bị chỉ trích vì sử dụng giao thức có sở hữu, thay vì một chuẩn mở như H.323, Inter-Asterisk eXchange, hay SIP, bởi vì điều này khiến cho các nhà phát triển khác khó khăn hơn, nếu không nói là không thể, giao tiếp với Skype. Có người bán tán rằng quyết định đó là để ngăn cản các đối thủ cạnh tranh khác của SkypeOut. Do cách thiết kế giao thức của Skype, nếu tiếp cận vào một kết nối mạng không giới hạn thì người dùng Skype có thể trở thành một supernode. Những supernode này sẽ cùng nắm giữ mạng ngang hàng và cung cấp dữ liệu tìm đường cho những máy khách khác đằng sau những tường lửa nghiêm ngặt hơn, do đó có thể sử dụng một lượng rất lớn băng thông. Chính vì lý do đó, một vài nhà cung cấp mạng, như các trường đại học, cấm sử dụng Skype. Một bản báo cáo của hãng thứ ba chuyên phân tích bảo mật và phương pháp luận của Skype đã được giới thiệu tại Đại hội Mũ đen châu Âu 2006. Nó phân tích Skype và có những quan sát sau: Sử dụng quá nhiều các kỹ thuật chống gỡ lỗi (debug) (dùng để ngăn cản sự phát triển của các chương trình thay thế hay các công cụ xâm nhập (hack)) Sử dụng nhiều mã làm rối (làm chậm quá trình reverse engineer (kĩ thuật dịch ngược), hạn chế mô tả chương trình trong tập tin thực thi được) Giữ các mẩu hội thoại trên mạng, thậm chí khi "để không" (idle) (thậm chí đối với những máy không phải là supernode. Có thể được dùng để duyệt NAT) Không tin vào bất cứ chương trình nào khác liên lạc với Skype Có khả năng xây dựng một mạng Skype song song Thiếu tính riêng tư (Skype giữ những khóa cho phiên giải mã) Tràn chồng (heap overflow) trong Skype Skype khiến cho việc tăng cường chính sách bảo mật (của công ty) thêm khó khăn "Không có cách nào biết được nó có/sẽ có "cửa sau" (backdoor) hay không" SkypeOut tính phí theo phút, trái ngược với xu thế tính cước hiện nay ở những điện thoại thông thường. Ở một số nước, nhiều cuộc gọi được tính cước với một khoản tiền cố định mỗi cuộc gọi. Theo cách này, những cuộc gọi dài bị SkypeOut tính mắc, trong khi rẻ hơn nếu nói chuyện ngắn. Hơn nữa, cũng dấy lên những than phiền về sự hỗ trợ khách hàng ít ỏi của Skype. Vào tháng 6 năm 2007, Skype vẫn không cung cấp một cách trực tiếp để liên lạc với dịch vụ hỗ trợ khách hàng, chỉ dựa trên cổng thông tin wen cho tất cả các vấn đề liên quan. Cụ thể là, những khách hàng đã trả tiền dịch vụ như SkypeOut, thường diễn tả sự thất vọng với việc thiếu hồi đáp của Skype, cho rằng họ không quan tâm hoặc không cung cấp đủ sự hồi đáp cho các lời than phiền về những vấn đề cụ thể nào đó, như không tính hóa đơn đúng. Ví dụ, những khách hàng đã than phiền về các khoản tính phí không rõ ràng của Skype. Trong một vài trường hợp, khi những lần tính phí đó đột ngột trả lại lời lại, thì đa số chúng được xếp vào loại phí ẩn. Khi Skype 2.0 được phát hành, AMD đã sắp đặt một vụ kiện cho rằng phần mềm chỉ cho phép cuộc gọi hội nghị 10 bên trên bộ xử lý Intel nhân đôi, trong khi những bộ xử lý khác, bao gồm tất cả các con chip của AMD, chi được cho phép cuộc gọi hội nghị 5 bên. Sự phê phán khác của Skype là vấn đề lọc nội dung. Đặc biệt là ở Trung Quốc. Trong khi có phiên bản chạy trên Windows, Mac OS X và Linux (i386 platform), không có phiên bản Skype chạy trên Palm OS, được sử dụng trong những thiết bị di động như điện thoại thông minh Treo 700p cũng như phiên bản Powerpc của Linux. Ngoài ra, Skype không hỗ trợ Windows Vista (). Vấn đề này còn làm phức tạp thêm với sự thật là Skype chưa từng thông báo bất kỳ ngày phát hành (hay phiên bản) Skype nào tương thích với Vista, mặc dù Vista đã có mặt trên thị trường vào ngày 30 tháng 1 năm 2007. Điều này có thể cản trở các khách hàng dựa vào Skype có thể chuyển sang Vista hoàn toàn. Skype đã bị chỉ trích trong cộng đồng Linux vì những lỗi và trì hoãn trong các phiên bản Linux. Cũng có những chỉ trích về việc Skype phong tỏa hoặc không cho phép tài khoản người dùng sử dụng dịch vụ SkypeOut. Cũng vậy, khi sử dụng SkypeOut để gọi cuộc gọi tính phí người nghe, người dùng có thể gặp phải sự suy giảm chất lượng cuộc gọi khi sử dụng bàn phím để nhập số vào hệ thống tự động. Skype cũng bị phát hiện là truy cập vào dữ liệu BIOS để xác định máy tính cá nhận và cung cấp sự bảo vệ DRM cho các plug-in. Skype group (công ty) Vào ngày 14 tháng 10 2005, eBay đã mua lại công ty với giá 1,9 tỷ € bằng tiền mặt và chứng khoán, cộng với một khoản 1,5 tỷ € tiền thưởng nếu đạt được mục tiêu đề ra đến năm 2008.
Mozilla Thunderbird là một ứng dụng email, tin tức, RSS và ứng dụng trò chuyện đa nền tảng tự do nguồn mở, phát triển bởi Mozilla Foundation. Dự án này lấy hình mẫu từ trình duyệt Mozilla Firefox. Ngày 7 tháng 12 năm 2004, phiên bản 1.0 được phát hành, đạt được hơn 500.000 lượt tải chỉ trong ba ngày đầu, và 1.000.000 lượt cho 10 ngày. Nó được cài đặt mặc định trên các hệ thống desktop Ubuntu. Ngày 6/7/2012, Mozilla tuyên bố công ty đã bỏ ưu tiên phát triển Thunderbird vì nỗ lực liên tục mở rộng bộ tính năng của Thunderbird hầu như không có kết quả. Mô hình phát triển mới được chuyển sang Mozilla chỉ cung cấp "Các bản phát hành hỗ trợ mở rộng", cung cấp các bản cập nhật bảo mật và bảo trì, đồng thời cho phép cộng đồng tiếp quản việc phát triển các tính năng mới. Ngày 1/12/2015 Giám đốc điều hành Mozilla Mitchell Baker thông báo trong một bản ghi nhớ toàn công ty rằng việc phát triển Thunderbird cần phải được tách ra khỏi Firefox. Cô đã đề cập đến các nhà phát triển Thunderbird dành những nỗ lực lớn để đáp ứng các thay đổi đối với các công nghệ Mozilla, trong khi Firefox đang trả thuế để hỗ trợ phát triển Thunderbird. Cô cũng nói rằng cô không tin Thunderbird có khả năng "tác động toàn ngành" mà Firefox làm. Đồng thời, thông báo rằng Mozilla Foundation sẽ cung cấp ít nhất một ngôi nhà tài chính và pháp lý tạm thời cho dự án Thunderbird. Kể từ bản ghi nhớ năm 2015, Mozilla đã đưa Thunderbird trở lai trong một thông báo vào ngày 9 tháng 5 năm 2017 và tiếp tục hỗ trợ sự phát triển của nó. Nhóm phát triển Thunderbird cũng đã mở rộng bằng cách thêm một số thành viên mới và đã trải qua một cuộc đại tu về bảo mật và giao diện người dùng. Lịch sử Ban đầu được gọi là Minotaur gọi theo tên Phoenix (tên gốc của Mozilla Firefox), dự án không được chú ý nhiều. Tuy nhiên, với sự thành công của Phoenix, nhu cầu cho một mail client tăng lên, và công việc trên Minotaur đã được hồi sinh dưới một tên mới, và chuyển sang bộ công cụ phát triển mới của nhóm Firefox. Các phần việc quan trọng trên Thunderbird được khỏi động lại cùng với một thông báo rằng, kể từ phiên bản 1.5 trở đi, bộ Mozilla chính sẽ được thiết kế từ các chương trình tách biệt sử dụng toolkit mới. Điều này tương phản với hướng tiếp cận tất-cả-trong-một trước đây, và được hi vọng là sẽ tạo ra những đoạn mã hiệu quả hơn, cũng như cho phép người dùng hòa trộn và ghép các chương trình của Mozilla với các chương trình thay thế. Bộ ứng dụng Mozilla gốc vẫn tiếp tục được phát triển dưới tên SeaMonkey. Ngày 23 tháng 12 năm 2004, Dự án Lightning được công bố là một chức năng lịch (lập kế hoạch, tác vụ, vv.) tích hợp chặt chẽ vào Thunderbird, và bây giờ đang hiện hữu dưới dạng phần bổ trợ. Lightning sẽ hỗ trợ đầy đủ các cơ chế và giao thức lịch được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng Mozilla Calendar, giống như với (post-0.2) Sunbird hiện đại. Ngày 11 tháng 10 năm 2006, Qualcomm và Mozilla Foundation tuyên bố "các phiên bản tương lai của Eudora sẽ dựa trên nền tảng công nghệ giống như email client mã nguồn mở của Mozilla." dự án có tên mã là Penelope. Cuối năm 2006, Debian đổi thương hiệu Thunderbird thành Icedove vì lý do thương hiệu và bản quyền. Đây là sản phẩm thứ hai được đổi thương hiệu Ngày 26 tháng 7 năm 2007, Mozilla Foundation công bố rằng Thunderbird sẽ được phát triển bởi một tổ chức độc lập, bởi vì Mozilla Corporation (chi nhánh của quỹ) sẽ tập trung vào việc phát triển Mozilla Firefox. Ngày 17 tháng 9 năm 2007, Mozilla Foundation công bố hoạt động tài trợ cho một sáng kiến liên lạc trên internet mới, cùng với Tiến sĩ David Ascher của ActiveState. Mục đích của sáng kiến này là "phát triển các phần mềm liên lạc trên Internet dựa trên thương hiệu, mã nguồn và sản phẩm Thunderbird". Ngày 19 tháng 2 năm 2008, Mozilla Messaging bắt đầu hoạt động với tư cách là một chi nhánh của Mozilla Foundation, chịu trách nhiệm phát triển các phương thức liên lạc qua thư điện tử hoặc tương tự. Sự tập trung đầu tiên là phiên bản Thunderbird 3 sắp tới. Các bản phát hành Alpha Preview của Thunderbird 3 có tên mã là "Shredder". Ngày 4/4/2011, Mozilla Messaging sáp nhập vào nhóm Mozilla Labs của Mozilla Foundation. Ngày 6/7/2012, một bản ghi nhớ bí mật từ Jb Piacentino, Giám đốc điều hành Thunderbird tại Mozilla, đã bị rò rỉ và xuất bản lên TechCrunch. Bản ghi nhớ chỉ ra rằng Mozilla sẽ chuyển một số nhóm ra khỏi dự án và việc phát triển thêm các tính năng mới sẽ được để lại cho cộng đồng. Bản ghi nhớ dự kiến phát hành vào ngày 9 tháng 7 năm 2012. Một bài viết tiếp theo của giám đốc điều hành Mozilla, Mitchell Baker, đã nêu quyết định của Mozilla về việc chuyển Thunderbird sang mô hình quản trị và phát hành mới. On ngày 25 tháng 11 năm 2014, Kent James của Hội đồng Tình nguyện viên Thunderbird thông báo trên blog Thunderbird rằng những người đóng góp tích cực cho Thunderbird đã tập trung tại văn phòng Mozilla ở Toronto và thảo luận về tương lai của ứng dụng. Họ đã quyết định rằng cần thêm nhân viên làm việc toàn thời gian trên Thunderbird để Nhóm Thunderbird có thể phát hành một sản phẩm ổn định và đáng tin cậy và đạt được tiến bộ về các tính năng thường được cộng đồng yêu cầu. Ngày 1/12/2015, đã đề xuất trong một bản ghi nhớ toàn công ty rằng Thunderbird nên được tách rời khỏi hạ tầng của Firefox. Bà gọi Thunderbird là một loại thuế đối với Firefox và nói rằng bà không tin Thunderbird có khả năng "tác động toàn ngành" mà Firefox đã làm. Mozilla vẫn quan tâm đến việc có vai trò trong Thunderbird, nhưng đang tìm kiếm thêm sự trợ giúp để giúp phát triển. Ngày 9 tháng 5 năm 2017, Philipp Kewisch tuyên bố rằng Mozilla Foundation sẽ tiếp tục đóng vai trò là ngôi nhà tài chính và pháp lý cho dự án Thunderbird, nhưng Thunderbird sẽ di chuyển khỏi hạ tầng của Mozilla Corporation tách biệt các khía cạnh hoạt động của dự án. Các phiên bản tạm thời/beta Thunderbird 57 và 58, được phát hành vào cuối năm 2017, bắt đầu thực hiện các thay đổi chịu ảnh hưởng của Firefox Quantum, bao gồm giao diện người dùng "Photon" mới. Mặc dù đã loại bỏ các hỗ trợ cho các tiện ích bổ sung dựa trên XUL chính thức cho WebExtensions trong Firefox Quantum, nhưng phiên bản ổn định/ESR của Thunderbird 60 vào giữa năm 2018 vẫn tiếp tục hỗ trợ chúng, mặc dù hầu hết sẽ yêu cầu cập nhật và không hỗ trợ WebExtensions cho Themes. Năm 2018, theo Mozilla, công việc đang được tiến hành để hỗ trợ theo kế hoạch trong Thunderbird 63 của WebExtensions và để tiếp tục "phần nào" hỗ trợ các addon kế thừa. Phát hành Các bản phát hành Thunderbird diễn ra trong ba giai đoạn, được gọi là Beta, Earlybird, và Daily, tương ứng với các giai đoạn Beta, Aurora, và Nightly của Firefox. Ngày phát hành và các phiên bản Gecko hoàn toàn giống với Firefox; ví dụ, Firefox 7 và Thunderbird 7 đều được phát hành vào ngày 27 tháng 9 năm 2011 và cả hai đều dựa trên Gecko 7.0. Tính năng Thunderbird là một ứng dụng email, nhóm tin tức, nguồn cấp tin tức và trò chuyện (XMPP, IRC, Twitter). Phiên bản nguyên gốc không phải là trình quản lý thông tin cá nhân (PIM), nhưng dù vậy, với phần mở rộng Mozilla Lightning, một phần lớn chức năng PIM đã được thêm vào. Các tính năng khác, nếu cần, có thể thêm vào thông qua phần mở rộng. Quản lý tin nhắn Thunderbird có thể quản lý nhiều tài khoản email, nhóm tin tức và nguồn cấp tin tức và hỗ trợ nhiều danh tính trong tài khoản. Các tính năng như tìm kiếm nhanh, thư mục tìm kiếm đã lưu ("thư mục ảo"), lọc tin nhắn nâng cao, nhóm tin nhắn và nhãn giúp quản lý và tìm tin nhắn. Trên các hệ thống dựa trên Linux, tài khoản thư hệ thống (Movemail) được hỗ trợ. Thunderbird cung cấp hỗ trợ cơ bản cho các thông báo email mới dành riêng cho hệ thống và có thể được mở rộng với hỗ trợ thông báo nâng cao bằng cách sử dụng add-on. Lọc rác Thunderbird kết hợp bộ lọc thư rác Bayes, danh sách trắng dựa trên sổ địa chỉ được bao gồm và cũng có thể hiểu phân loại theo các bộ lọc dựa trên máy chủ như SpamAssassin. Phần mở rộng và themes Tiện ích mở rộng cho phép bổ sung các tính năng thông qua việc cài đặt các mô-đun XPInstall (còn gọi là "XPI" hay "zippy") thông qua website add-ons có tính năng cập nhật để cập nhật các phần mở rộng. Thunderbird hỗ trợ nhiều themes để thay đổi giao diện tổng thể của nó. Các gói tệp CSS và hình ảnh này có thể được tải xuống thông qua trang web bổ trợ tại Mozilla Add-ons. Tiêu chuẩn hỗ trợ Thunderbird tuân theo các tiêu chuẩn công nghiệp cho email: POP. Giao thức truy xuất email cơ bản. IMAP. Thunderbird đã triển khai nhiều khả năng trong IMAP, ngoài việc thêm các tiện ích mở rộng của riêng họ và các tiêu chuẩn thực tế của Google và Apple. Hoàn thành địa chỉ LDAP. S/MIME Cung cấp mã hóa và ký email bằng các khóa X.509 được cung cấp bởi cơ quan chứng nhận tập trung. OpenPGP Được hỗ trợ thông qua các tiện ích mở rộng như Enigmail. Đối với nguồn cấp dữ liệu web (ví dụ tổng hợp tin tức), có Atom và RSS. Thunderbird tuân theo các giao thức internet khi chúng phát triển. Ví dụ, , nó chạy trên IRCv3.1, nhưng không hỗ trợ IRCv3.2. Đối với các nhóm tin tức usenet họ cung cấp NNTPS mới nhất. Các định dạng file hỗ trợ Thunderbird cung cấp hỗ trợ định dạng hộp thư bằng plugin, nhưng tính năng này chưa được bật do đang tiến hành công việc liên quan. Các định dạng hộp thư được hỗ trợ là: mbox – Định dạng hộp thư Unix (một file chứa nhiều email) maildir – được gọi là maildir-lite (một file trên một email). bị tắt theo mặc định, "vì vẫn còn nhiều lỗi". Thunderbird cũng dùng Mork và (từ phiên bản 3) MozStorage (dựa trên SQLite) cho cơ sở dữ liệu nội bộ của nó. Mork đã được thay thế bằng MozStorage trong Thunderbird 3.0, nhưng bản phát hành 8.0 vẫn sử dụng định dạng file Mork. Phiên bản hiện tại của SeaMonkey, v2.14.1, vẫn sử dụng Mork cho các chỉ mục của nó cho cả thư mục thư POP và IMAP. Liên kết file lớn Kể từ phiên bản 38, Thunderbird đã tích hợp hỗ trợ tự động liên kết các file lớn thay vì đính kèm chúng trực tiếp vào thư Lồng mã HTML Menu Insert cung cấp khả năng chèn mã HTML code. Do đó, người ta có thể chèncác chỉ mục với và , ký tự nhiệt độ ° với ... vào tin nhắn Giới hạn và các vấn đề đã biết Như với bất kỳ phần mềm nào, có thể có giới hạn về số lượng và kích thước của file và đối tượng được trình bày. Ví dụ: các thư mục POP3 phải tuân theo giới hạn thiết kế hệ thống file, chẳng hạn như kích thước file tối đa trên các hệ thống file không có hỗ trợ file lớn, cũng như các giới hạn có thể có của tên file dài và các vấn đề khác. Hỗ trợ đa nền tảng Thunderbird chạy trên nhiều nền tảng. Các bản phát hành có sẵn trên trang phân phối chính hỗ trợ các hệ điều hành sau: Linux Windows macOS Các port không chính thức có sẵn cho: FreeBSD OpenBSD Các port cũ khác có thể có sẵn cho OS/2 và eComStation. Mã nguồn có sẵn miễn phí và có thể được biên dịch để chạy trên nhiều kiến trúc và hệ điều hành khác. Quốc tế hóa và bản địa hóa Với những người đóng góp trên toàn thế giới, khách hàng được dịch sang hơn 50 ngôn ngữ khác nhau, mặc dù địa chỉ email hiện bị giới hạn ở các phần ASCII cục bộ. Thunderbird chưa hỗ trợ SMTPUTF8 (RFC 6531) hoặc Địa chỉ Email quốc tế hóa. Bảo mật Thunderbird cung cấp các tính năng bảo mật cấp doanh nghiệp và cấp chính phủ như kết nối TLS/SSL đến máy chủ IMAP và SMTP. nó cũng cung cấp hỗ trợ riêng cho email bảo mật S/MIME (chữ ký số và mã hóa tin nhắn bằng khóa). Bất kỳ tính năng bảo mật nào cũng có thể tận dụng thẻ thông minh với việc cài đặt các tiện ích mở rộng bổ sung. Các tính năng bảo mật khác có thể được thêm vào thông qua các phần mở rộng. Ví dụ: Enigmail cung cấp ký, mã hóa và giải mã PGP. Các biện pháp bảo vệ tùy chọn cũng bao gồm vô hiệu hóa tải hình ảnh từ xa trong tin nhắn, chỉ cho phép các loại phương tiện cụ thể (khử trùng) và vô hiệu hóa JavaScript. Quân đội Pháp sử dụng Thunderbird và đóng góp cho các tính năng bảo mật của nó, được cho là phù hợp với các yêu cầu đối với hệ thống nhắn tin đóng của NATO.
Dell Inc. là một công ty công nghệ có trụ sở tại Hoa Kỳ. Công ty phát triển, bán hàng, sửa chữa và hỗ trợ máy tính và các sản phẩm và dịch vụ liên quan. Dell thuộc sở hữu của công ty mẹ Dell Technologies. Dell bán các sản phẩm như máy tính cá nhân (PC), máy chủ, thiết bị lưu trữ dữ liệu, bộ chuyển mạng, phần mềm máy tính, thiết bị ngoại vi máy tính, HDTV, máy ảnh, máy in và điện tử được sản xuất bởi các nhà sản xuất khác. Công ty nổi tiếng với cách quản lý chuỗi cung ứng và thương mại điện tử của mình. Điều này bao gồm việc Dell bán trực tiếp cho khách hàng và cung cấp các sản phẩm máy tính mà khách hàng mong muốn. Đến năm 2009, Dell là một nhà cung cấp phần cứng thuần túy cho đến khi mua lại Perot Systems. Kể từ đó, Dell đã mở rộng vào thị trường dịch vụ công nghệ thông tin. Công ty đã mở rộng các hệ thống lưu trữ và mạng. Hiện nay, Dell không chỉ cung cấp máy tính mà còn cung cấp một loạt công nghệ cho khách hàng doanh nghiệp. Dell là một công ty niêm yết công khai (), cũng như là thành phần của chỉ số NASDAQ-100 và S&P 500. Đến tháng 1 năm 2021, Dell là nhà cung cấp máy tính cá nhân lớn thứ ba. Trong danh sách Fortune 500 năm 2022, Dell đứng thứ 31, tăng từ vị trí 76 vào năm 2021. Nó cũng là công ty lớn thứ sáu ở Texas về doanh thu tổng theo tạp chí Fortune. Nó là công ty lớn thứ hai không liên quan đến dầu mỏ ở Texas. Năm 2015, Dell mua lại công ty công nghệ doanh nghiệp EMC Corporation. Dell và EMC trở thành các phân nhánh của Dell Technologies. Dell EMC bán các sản phẩm lưu trữ dữ liệu, bảo mật thông tin, ảo hóa, phân tích và điện toán đám mây. Lịch sử Thành lập và khởi nghiệp Michael Dell thành lập Dell Computer Corporation, kinh doanh dưới tên gọi PC's Limited vào năm 1984 khi ông là sinh viên tại Đại học Texas tại Austin, hoạt động từ phòng ngủ ngoài ký túc xá của Michael Dell tại Dobie Center. Mục tiêu của công ty khởi nghiệp là bán các máy tính tương thích với IBM PC được lắp ráp từ các linh kiện có sẵn. Michael Dell bắt đầu kinh doanh với niềm tin rằng, bằng cách bán trực tiếp các hệ thống máy tính cá nhân cho khách hàng, PC's Limited có thể hiểu rõ nhu cầu của khách hàng và cung cấp các giải pháp máy tính hiệu quả nhất để đáp ứng nhu cầu đó. Michael Dell bỏ học đại học sau khi hoàn thành năm học đầu tiên tại Đại học Texas để tập trung toàn thời gian vào doanh nghiệp mới thành lập, sau khi nhận được khoảng 1.000 đô la từ gia đình để mở rộng kinh doanh. Đến tháng 4 năm 2021, giá trị tài sản ròng của Michael Dell được ước tính vượt qua 50 tỷ đô la. Vào năm 1985, công ty sản xuất ra máy tính đầu tiên theo thiết kế riêng của mình, được gọi là "Turbo PC", được bán với giá 795 đô la Mỹ và được trang bị bộ xử lý tương thích Intel 8088 có khả năng chạy ở tốc độ tối đa 8 MHz. PC's Limited quảng cáo hệ thống này trên các tạp chí máy tính quốc gia để bán trực tiếp cho người tiêu dùng, và lắp ráp từng đơn đặt hàng theo lựa chọn các tùy chọn. Điều này giúp mua hàng với giá thấp hơn so với các thương hiệu bán lẻ, nhưng lại tiện lợi hơn việc tự lắp ráp các linh kiện. PC's Limited không phải là công ty đầu tiên sử dụng mô hình kinh doanh này, nhưng họ trở thành một trong những công ty đầu tiên thành công với nó. Trong năm đầu tiên hoạt động, công ty đã thu về hơn 73 triệu đô la. Năm 1987, công ty bỏ tên PC's Limited để trở thành Dell Computer Corporation và bắt đầu mở rộng quốc tế. Lý do là tên mới này phản ánh tốt hơn sự hiện diện của công ty trên thị trường doanh nghiệp, và cũng giải quyết vấn đề việc sử dụng "Limited" trong tên công ty ở một số quốc gia. Công ty thành lập các hoạt động quốc tế đầu tiên tại Anh; sau đó, trong vòng bốn năm, còn 11 hoạt động quốc tế khác được mở rộng. Vào tháng 6 năm 1988, vốn hóa thị trường của Dell Computer tăng thêm 30 triệu đô la lên 80 triệu đô la từ đợt chào bán công khai đầu tiên vào ngày 22 tháng 6 với 3,5 triệu cổ phiếu được bán với giá 8,5 đô la mỗi cổ phiếu. Năm 1989, Dell Computer thành lập các chương trình dịch vụ tại chỗ đầu tiên để bù đắp cho việc thiếu các nhà bán lẻ địa phương sẵn lòng làm trung tâm dịch vụ. Sự phát triển trong những năm 1990 và đầu những năm 2000 Năm 1990, Dell Computer thử bán sản phẩm của mình thông qua các câu lạc bộ kho hàng và siêu thị máy tính, nhưng không gặp nhiều thành công, và công ty tập trung lại vào mô hình bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng thành công hơn. Năm 1992, tạp chí Fortune xếp Dell Computer Corporation vào danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới, khiến Michael Dell trở thành CEO trẻ tuổi nhất của một công ty Fortune 500 tại thời điểm đó. Năm 1993, để bổ sung kênh bán hàng trực tiếp của mình, Dell đã lên kế hoạch bán máy tính cá nhân tại các cửa hàng bán lẻ lớn như Wal-Mart, điều này sẽ mang lại thêm 125 triệu đô la doanh thu hàng năm. Bain tư vấn viên Kevin Rollins đã thuyết phục Michael Dell rút lui khỏi các thỏa thuận này, vì tin rằng chúng sẽ là những khoản lỗ trong dài hạn. Lợi nhuận tại các cửa hàng bán lẻ rất mỏng và Dell rời khỏi kênh bán hàng qua đại lý vào năm 1994. Rollins sớm gia nhập Dell toàn thời gian và sau đó trở thành tổng giám đốc điều hành của công ty. Ban đầu, Dell không nhấn mạnh thị trường tiêu dùng, do chi phí cao và lợi nhuận thấp khi bán cho cá nhân và hộ gia đình; điều này thay đổi khi trang web của công ty phát triển mạnh vào năm 1996 và 1997. Trong khi giá bán trung bình của ngành công nghiệp dành cho cá nhân đang giảm, giá bán của Dell lại tăng lên, vì những người mua máy tính lần thứ hai và thứ ba, muốn có máy tính mạnh mẽ với nhiều tính năng và không cần nhiều hỗ trợ kỹ thuật, đã chọn Dell. Dell tìm thấy một cơ hội trong số những người sành về máy tính cá nhân, thích sự tiện lợi của việc mua hàng trực tiếp, tùy chỉnh máy tính của họ theo ý muốn và có nó được giao trong vài ngày. Vào đầu năm 1997, Dell thành lập một nhóm bán hàng và tiếp thị nội bộ dành riêng cho thị trường gia đình và giới thiệu một dòng sản phẩm được thiết kế đặc biệt cho người dùng cá nhân. Từ năm 1997 đến 2004, Dell liên tục phát triển và chiếm thị phần từ các đối thủ ngay cả trong thời kỳ suy thoái của ngành công nghiệp. Trong cùng giai đoạn này, các nhà sản xuất máy tính cá nhân đối thủ như Compaq, Gateway, IBM, Packard Bell và AST Research gặp khó khăn và cuối cùng rời khỏi thị trường hoặc bị mua lại. Năm 1999, Dell vượt qua Compaq để trở thành nhà sản xuất máy tính cá nhân lớn nhất. Chi phí hoạt động chỉ chiếm 10% tổng doanh thu 35 tỷ đô la của Dell vào năm 2002, so với 21% doanh thu của Hewlett-Packard, 25% của Gateway và 46% của Cisco. Năm 2002, khi Compaq sáp nhập với Hewlett-Packard (nhà sản xuất máy tính cá nhân xếp thứ tư), Hewlett-Packard mới hợp nhất nhanh chóng chiếm vị trí hàng đầu nhưng gặp khó khăn và Dell sớm lấy lại vị trí dẫn đầu. Dell phát triển nhanh nhất vào đầu những năm 2000. Năm 2002, Dell mở rộng danh mục sản phẩm của mình để bao gồm các sản phẩm như truyền hình, thiết bị cầm tay, máy nghe nhạc kỹ thuật số và máy in. Năm 2003, tại cuộc họp thường niên của công ty, các cổ đông đã thông qua việc đổi tên công ty thành "Dell Inc." để nhận ra sự mở rộng của công ty vượt ra khỏi lĩnh vực máy tính. Năm 2004, công ty thông báo rằng họ sẽ xây dựng một nhà máy lắp ráp mới gần Winston-Salem, Bắc Carolina; thành phố và quận đã cung cấp cho Dell khoản hỗ trợ trị giá 37,2 triệu đô la; tiểu bang cung cấp khoảng 250 triệu đô la hỗ trợ và miễn thuế. Vào tháng 7, Michael Dell rời vị trí giám đốc điều hành trong khi vẫn giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị. Kevin Rollins, người từng giữ nhiều vị trí lãnh đạo tại Dell, trở thành CEO mới. Mặc dù không còn giữ chức CEO, Dell vẫn hoạt động như một đồng CEO thực tế với Rollins. Dưới sự lãnh đạo của Rollins, Dell đã mua lại nhà sản xuất phần cứng máy tính Alienware vào năm 2006. Kế hoạch của Dell Inc. dự kiến ​​Alienware sẽ tiếp tục hoạt động độc lập dưới sự quản lý hiện tại. Alienware mong đợi sẽ được hưởng lợi từ hệ thống sản xuất hiệu quả của Dell. Các sự kiện quan trọng Năm 2005, trong khi doanh thu và lợi nhuận vẫn tiếp tục tăng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng doanh số đã giảm đáng kể, và cổ phiếu của công ty đã mất 25% giá trị trong năm đó. Đến tháng 6 năm 2006, cổ phiếu giao dịch ở mức khoảng 25 đô la Mỹ, giảm 40% so với tháng 7 năm 2005 - điểm cao nhất của công ty trong thời kỳ sau dot-com. Đến tháng 6 năm 2021, cổ phiếu đã đạt mức cao kỷ lục trên 100 đô la Mỹ mỗi cổ phiếu, phản ánh sự thành công của công ty trong việc chuyển đổi thành nhà cung cấp giải pháp công nghệ hỗ trợ khách hàng vượt qua quá trình chuyển đổi kỹ thuật số. Tình trạng giảm tốc độ tăng trưởng doanh số đã được cho là do thị trường máy tính cá nhân đã trưởng thành, chiếm 66% doanh số của Dell, và các nhà phân tích đề xuất rằng Dell cần tiến vào các lĩnh vực kinh doanh không phải là máy tính như lưu trữ, dịch vụ và máy chủ. Lợi thế về giá của Dell liên quan đến quy trình sản xuất siêu gọn cho máy tính để bàn, nhưng điều này trở nên ít quan trọng hơn khi việc tiết kiệm trở nên khó khăn hơn trong chuỗi cung ứng của công ty, và khi các đối thủ như Hewlett-Packard và Acer đã nâng cao hiệu quả sản xuất máy tính để bàn của mình để cạnh tranh với Dell, làm suy yếu sự khác biệt về giá truyền thống của Dell. Trên toàn ngành công nghiệp máy tính cá nhân, sự giảm giá cùng với sự tăng cường hiệu suất đã khiến Dell có ít cơ hội để bán thêm cho khách hàng của mình. Kết quả là, công ty bán ra một tỷ lệ máy tính giá rẻ hơn so với trước đây, làm suy giảm biên lợi nhuận. Phân khúc máy tính xách tay đã trở thành phân khúc tăng trưởng nhanh nhất của thị trường máy tính cá nhân, nhưng Dell sản xuất các máy tính xách tay giá rẻ tại Trung Quốc như các nhà sản xuất máy tính khác, điều này đã loại bỏ lợi thế về chi phí sản xuất của Dell, cộng thêm việc Dell phụ thuộc vào bán hàng trực tuyến đã khiến công ty bỏ lỡ việc tăng doanh số bán máy tính xách tay trong các cửa hàng bán lẻ lớn. CNET đã chỉ ra rằng Dell đang bị mắc kẹt trong quá trình thương mại hóa ngày càng tăng của máy tính có khối lượng lớn và lợi nhuận thấp, điều này đã ngăn cản công ty cung cấp các thiết bị thú vị hơn mà người tiêu dùng yêu cầu. Mặc dù có kế hoạch mở rộng sang các khu vực và phân khúc sản phẩm toàn cầu khác, Dell vẫn phụ thuộc nặng vào thị trường máy tính cá nhân của Mỹ, vì máy tính để bàn bán cho cả khách hàng doanh nghiệp và tổ chức chiếm 32% doanh thu của công ty, 85% doanh thu đến từ doanh nghiệp, và 64% doanh thu đến từ Bắc và Nam Mỹ, theo kết quả quý 3 năm 2006 của công ty. Việc vận chuyển máy tính để bàn tại Mỹ đang giảm, và thị trường máy tính để bàn của doanh nghiệp, mua máy tính theo chu kỳ nâng cấp, đã quyết định tạm dừng mua hệ thống mới. Chu kỳ cuối cùng bắt đầu vào khoảng năm 2002, ba năm sau khi các công ty bắt đầu mua máy tính trước các vấn đề Y2K được cho là có, và không dự kiến khách hàng doanh nghiệp nâng cấp lại cho đến khi thử nghiệm kỹ lưỡng của hệ điều hành Windows Vista của Microsoft (dự kiến vào đầu năm 2007), khiến chu kỳ nâng cấp tiếp theo diễn ra vào khoảng năm 2008. Rất phụ thuộc vào máy tính để bàn, Dell đã phải giảm giá để tăng doanh số bán hàng, trong khi đòi hỏi giảm giá sâu từ các nhà cung cấp. Dell đã lâu dựa vào mô hình bán hàng trực tiếp của mình. Trong những năm gần đây, người tiêu dùng đã trở thành những người thúc đẩy chính của doanh số bán máy tính cá nhân, nhưng đã có sự suy giảm trong việc người tiêu dùng mua máy tính qua mạng hoặc qua điện thoại, khi số lượng người tới các cửa hàng bán lẻ điện tử tiêu dùng để thử các thiết bị trước đã tăng lên. Các đối thủ của Dell trong ngành công nghiệp máy tính cá nhân như HP, Gateway và Acer, đã có mặt trong lĩnh vực bán lẻ từ lâu nên đã sẵn sàng để tận dụng sự chuyển đổi của người tiêu dùng. Việc thiếu mặt hàng bán lẻ đã làm trì hoãn những nỗ lực của Dell trong việc cung cấp sản phẩm điện tử tiêu dùng như TV màn hình phẳng và máy nghe nhạc MP3. Dell đã đáp lại bằng cách thử nghiệm các gian hàng trong trung tâm mua sắm và cửa hàng hỗn hợp ở Texas và New York. Dell có danh tiếng là một công ty dựa vào hiệu quả chuỗi cung ứng để bán các công nghệ đã được thẩm định với giá thấp, thay vì là một nhà đổi mới. Đến giữa những năm 2000, nhiều nhà phân tích đang tìm kiếm các công ty đổi mới là nguồn tăng trưởng tiếp theo trong ngành công nghệ. Việc Dell chi tiêu ít cho R&D so với doanh thu (so với IBM, Hewlett-Packard, và Apple Inc.) - điều này đã hoạt động tốt trong thị trường máy tính cá nhân - đã ngăn cản Dell tiến vào các phân khúc có lợi nhuận cao hơn, chẳng hạn như máy nghe nhạc MP3 và sau này là các thiết bị di động. Việc tăng chi tiêu cho R&D sẽ ảnh hưởng đến biên lợi nhuận mà công ty nhấn mạnh. Dell đã làm tốt với một tổ chức theo chiều ngang tập trung vào máy tính để bàn khi ngành công nghiệp máy tính chuyển sang các lớp đa dạng theo ngang trong những năm 1980, nhưng đến giữa những năm 2000, ngành công nghiệp đã chuyển sang các cấu trúc tích hợp theo chiều dọc để cung cấp một sản phẩm CNTT toàn diện, và Dell đã đứng sau rất xa so với các đối thủ như Hewlett-Packard và Oracle. Dell đã có tiếng xấu về dịch vụ khách hàng kém chất lượng, điều này càng trở nên nghiêm trọng khi họ chuyển các trung tâm dịch vụ khách hàng sang nước ngoài và khi sự tăng trưởng của họ vượt quá cơ sở hạ tầng hỗ trợ kỹ thuật. Mô hình ban đầu của Dell được biết đến với mức độ hài lòng khách hàng cao khi máy tính được bán với giá hàng nghìn đô la, nhưng đến những năm 2000, công ty không thể giải thích được mức độ dịch vụ đó khi các máy tính trong cùng dòng sản phẩm được bán với giá hàng trăm đô la. Rollins đã đáp lại bằng cách chuyển Dick Hunter từ vị trí trưởng nhóm sản xuất sang vị trí trưởng dịch vụ khách hàng. Hunter, nhận thấy rằng văn hóa tiết kiệm chi phí của Dell đã "trở thành trở ngại," nhằm giảm thời gian chuyển cuộc gọi và đảm bảo nhân viên trung tâm dịch vụ khách hàng giải quyết các yêu cầu trong một cuộc gọi. Đến năm 2006, Dell đã chi tiêu 100 triệu đô la chỉ trong vài tháng để cải thiện điều này và triển khai DellConnect để trả lời nhanh hơn các yêu cầu từ khách hàng. Vào tháng 7 năm 2006, công ty bắt đầu blog Direct2Dell của mình, và sau đó vào tháng 2 năm 2007, Michael Dell ra mắt IdeaStorm.com, yêu cầu ý kiến từ khách hàng bao gồm việc bán máy tính chạy Linux và giảm bớt các phần mềm quảng cáo trên máy tính. Các sáng kiến này đã giảm số lượng bài đăng tiêu cực trên blog từ 49% xuống còn 22%, và giảm bớt sự "Dell Hell" trên các công cụ tìm kiếm trên Internet. Cũng có những chỉ trích cho rằng Dell đã sử dụng các thành phần lỗi cho các máy tính của mình, đặc biệt là 11,8 triệu máy tính để bàn OptiPlex bị lỗi được bán cho các doanh nghiệp và chính phủ từ tháng 5 năm 2003 đến tháng 7 năm 2005 gặp vấn đề với các tụ điện lỗi. Trong tháng 8 năm 2006, việc thu hồi pin do một chiếc laptop Dell bắt lửa đã gây sự chú ý tiêu cực cho công ty, mặc dù sau đó, Sony đã được xác định là người chịu trách nhiệm về việc sản xuất các loại pin, tuy nhiên một người phát ngôn của Sony nói rằng vấn đề liên quan đến sự kết hợp giữa pin và bộ sạc, điều này chỉ đặc thù cho Dell. Năm 2006 đánh dấu năm đầu tiên mà tốc độ tăng trưởng của Dell chậm hơn toàn ngành công nghiệp máy tính. Đến quý IV năm 2006, Dell đã mất vị trí nhà sản xuất máy tính cá nhân lớn nhất cho Hewlett Packard, nhờ Nhóm Hệ thống Cá nhân của họ được củng cố nhờ một quá trình cải tổ do CEO Mark Hurd tiến hành. Cuộc điều tra của SEC Vào tháng 8 năm 2005, Dell trở thành đối tượng của một cuộc điều tra không chính thức của Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ (SEC). Năm 2006, công ty tiết lộ rằng Công tố viên Hoa Kỳ cho Quận Nam New York đã yêu cầu tài liệu liên quan đến báo cáo tài chính của công ty từ năm 2002 trở lại. Công ty đã trì hoãn việc nộp báo cáo tài chính cho quý III và quý IV của năm 2006, và một số vụ kiện đòi bồi thường tập thể đã được khởi kiện. Việc không nộp báo cáo thu nhập quý có thể khiến công ty bị xóa tên khỏi NASDAQ, nhưng sàn giao dịch đã cho Dell một khoản miễn trừ, cho phép cổ phiếu được giao dịch bình thường. Vào tháng 8 năm 2007, công ty thông báo rằng nó sẽ điều chỉnh lại kết quả kinh doanh cho các năm tài chính từ 2003 đến 2006 và quý đầu tiên của năm 2007 sau khi kiểm toán nội bộ phát hiện rằng một số nhân viên đã thay đổi số dư tài khoản doanh nghiệp để đạt các mục tiêu tài chính quý. Vào tháng 7 năm 2010, SEC thông báo buộc tội một số cán bộ cấp cao của Dell, bao gồm Chủ tịch và CEO Michael Dell, cựu CEO Kevin Rollins và cựu CFO James Schneider, "vì không tiết lộ thông tin quan trọng cho nhà đầu tư và sử dụng kế toán gian lận để làm cho dường như công ty liên tục đạt được mục tiêu lợi nhuận của Wall Street và giảm chi phí hoạt động của mình." Dell, Inc. bị phạt 100 triệu đô la, và Michael Dell bị phạt cá nhân 4 triệu đô la. Michael Dell trở lại vị trí CEO Sau khi bốn trong số năm báo cáo thu nhập quý không đạt kỳ vọng, Rollins từ chức vào ngày 31 tháng 1 năm 2007, và người sáng lập Michael Dell trở lại vị trí CEO. Vào ngày 1 tháng 3 năm 2007, công ty đã công bố báo cáo thu nhập quý dự kiến với doanh số gộp là 14,4 tỷ đô la, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước, và lợi nhuận ròng là 687 triệu đô la (30 cent mỗi cổ phiếu), giảm 33%. Lợi nhuận ròng sẽ giảm nhiều hơn nếu không có tác động từ việc loại bỏ tiền thưởng nhân viên, chiếm 6 cent mỗi cổ phiếu. NASDAQ kéo dài thời hạn nộp báo cáo tài chính cho công ty đến ngày 4 tháng 5. Dell 2.0 và cắt giảm quy mô Dell thông báo một chiến dịch thay đổi được gọi là "Dell 2.0," giảm số lượng nhân viên và đa dạng hóa các sản phẩm của công ty. Trong khi là chủ tịch hội đồng quản trị sau khi từ chức CEO, Michael Dell vẫn có sự đóng góp quan trọng trong công ty trong thời gian Rollins làm CEO. Với sự trở lại của Michael Dell làm CEO, công ty đã thấy những thay đổi trong hoạt động, sự ra đi của nhiều phó chủ tịch cấp cao và đưa nhân sự mới từ bên ngoài công ty. Michael Dell công bố một số sáng kiến và kế hoạch (thuộc chiến dịch "Dell 2.0") nhằm cải thiện hiệu suất tài chính của công ty. Các biện pháp bao gồm loại bỏ tiền thưởng năm 2006 cho nhân viên và một số phần thưởng tùy ý, giảm số lượng quản lý báo cáo trực tiếp cho Michael Dell từ 20 xuống 12, và giảm "quá trình hành chính". Jim Schneider nghỉ hưu khỏi vị trí CFO và được thay thế bởi Donald Carty, khi công ty đang bị điều tra bởi SEC về các phương pháp kế toán của mình. Vào ngày 23 tháng 4 năm 2008, Dell thông báo đóng cửa một trong những trung tâm điện thoại lớn nhất tại Canada, ở Kanata, Ontario, chấm dứt hợp đồng làm việc của khoảng 1100 nhân viên, trong đó có 500 người bị sa thải ngay lập tức, và việc đóng cửa chính thức của trung tâm được lên lịch cho mùa hè. Trung tâm điện thoại này đã mở cửa vào năm 2006 sau khi thành phố Ottawa giành được hợp đồng để đón chào nó. Chưa đầy một năm sau đó, Dell đã lên kế hoạch tăng gấp đôi lực lượng lao động lên gần 3.000 nhân viên và xây dựng một tòa nhà mới. Nhưng các kế hoạch này đã bị đảo ngược, do đồng đôla Canada mạnh làm cho nhân viên ở Ottawa tương đối đắt đỏ, và cũng là một phần của quá trình cải tổ của Dell, bao gồm việc di chuyển các công việc trung tâm điện thoại này ra nước ngoài để cắt giảm chi phí. Công ty cũng đã thông báo đóng cửa văn phòng tại Edmonton, Alberta, khiến 900 người mất việc. Tổng cộng, Dell đã thông báo kết thúc khoảng 8.800 việc làm trong giai đoạn 2007-2008 - tương đương 10% lực lượng lao động của họ. Vào cuối những năm 2000, phương pháp "đặt hàng theo yêu cầu" của Dell - cung cấp các máy tính cá nhân được cấu hình theo yêu cầu của khách hàng từ các cơ sở sản xuất của họ tại Mỹ - không còn hiệu quả hoặc cạnh tranh với các nhà sản xuất hợp đồng ở châu Á sản xuất hàng loạt PC giá rẻ và mạnh mẽ. Dell đã đóng các nhà máy sản xuất máy tính để bàn cho thị trường Bắc Mỹ, bao gồm Trung tâm sản xuất Mort Topfer ở Austin, Texas (vị trí ban đầu) và Lebanon, Tennessee (mở vào năm 1999) vào năm 2008 và đầu năm 2009. Nhà máy sản xuất máy tính để bàn ở Winston-Salem, North Carolina, nhận được 280 triệu đô la từ chính phủ bang và được khai trương vào năm 2005, nhưng đã ngừng hoạt động vào tháng 11 năm 2010. Hợp đồng của Dell với bang yêu cầu họ phải trả lại các khoản khuyến khích vì không đáp ứng các điều kiện, và họ đã bán nhà máy ở Bắc Carolina cho Herbalife. Nhiều công việc đã được chuyển giao cho các nhà sản xuất ở châu Á và Mexico, hoặc một số nhà máy của Dell ở nước ngoài. Vào ngày 8 tháng 1 năm 2009, Dell thông báo đóng cửa nhà máy sản xuất tại Limerick, Ireland, với việc mất đi 1.900 việc làm và chuyển sản xuất đến nhà máy ở Łodź, Ba Lan. Các nỗ lực đa dạng hóa Sự ra mắt của iPad của Apple đã ảnh hưởng tiêu cực đến Dell và các nhà cung cấp máy tính để bàn và máy tính xách tay khác, khi người tiêu dùng chuyển sang sử dụng máy tính bảng. Bộ phận di động của Dell không thành công trong việc phát triển điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng, dù chạy hệ điều hành Windows hoặc Google Android. Dell Streak đã thất bại về mặt kinh doanh và đánh giá do hệ điều hành đã lỗi thời, nhiều lỗi phần mềm và màn hình độ phân giải thấp. InfoWorld cho rằng Dell và các nhà sản xuất khác coi máy tính bảng là một cơ hội ngắn hạn và đầu tư ít, chạy hệ điều hành Google Android, tiếp cận này đã bỏ qua giao diện người dùng và không đạt được sự quan tâm lâu dài từ người tiêu dùng. Dell đã đáp lại bằng cách tập trung vào các dòng máy tính cao cấp hơn, như dòng máy tính xách tay XPS, không cạnh tranh trực tiếp với máy tính bảng Apple iPad và Kindle Fire. Sự phổ biến ngày càng tăng của điện thoại thông minh và máy tính bảng thay thế cho máy tính để bàn đã khiến cho phân khúc người tiêu dùng của Dell ghi nhận thua lỗ vận hành trong Q3 2012. Vào tháng 12 năm 2012, Dell đã trải qua sự suy giảm đầu tiên trong doanh số bán hàng trong kỳ nghỉ lễ sau năm năm liên tiếp, mặc dù đã ra mắt Windows 8. Trong ngành công nghiệp máy tính cá nhân đang suy tàn, Dell tiếp tục mất thị phần khi từ năm 2011, nó đã tụt xuống vị trí thứ ba trên thế giới, đứng sau Lenovo. Dell cùng với đối thủ cạnh tranh người Mỹ Hewlett Packard đã phải đối mặt với áp lực từ các nhà sản xuất máy tính châu Á như Lenovo, Asus và Acer, tất cả đều có chi phí sản xuất thấp hơn và sẵn lòng chấp nhận lợi nhuận thấp hơn. Ngoài ra, trong khi các nhà sản xuất máy tính châu Á đã cải thiện chất lượng và thiết kế của sản phẩm của mình - ví dụ như dòng máy tính xách tay ThinkPad của Lenovo đã chiếm được sự quan tâm của khách hàng doanh nghiệp từ Dell - dịch vụ khách hàng và uy tín của Dell đã giảm sút. Dell vẫn là nhà sản xuất máy tính có lợi nhuận cao thứ hai, chiếm 13% lợi nhuận hoạt động trong ngành công nghiệp máy tính cá nhân trong quý 4 năm 2012, sau Mac của Apple chiếm 45%, HP 7%, Lenovo và Asus 6%, và Acer chiếm 1%. Dell đã cố gắng bù đắp cho doanh nghiệp máy tính cá nhân đang suy giảm của mình, mặc dù nó vẫn chiếm một nửa doanh thu và tạo ra dòng tiền mặt ổn định, bằng cách mở rộng vào thị trường doanh nghiệp với các dịch vụ máy chủ, mạng lưới, phần mềm và dịch vụ. Dell đã tránh được nhiều khoản giảm giá thu mua và sự thay đổi lãnh đạo đã làm đau đầu đối thủ chính của mình là Hewlett Packard. Mặc dù đã chi khoảng 13 tỷ USD để đa dạng hóa danh mục sản phẩm ngoài phần cứng, nhưng công ty không thể thuyết phục thị trường rằng nó có thể tồn tại hoặc thực hiện sự chuyển đổi trong thế giới sau PC, khi nó tiếp tục gặp sự suy giảm về doanh thu và giá cổ phiếu. Thị phần của Dell trong phân khúc doanh nghiệp trước đây đã là "hào cản" chống lại các đối thủ nhưng điều này không còn đúng khi doanh số bán hàng và lợi nhuận đã giảm mạnh. Mua lại năm 2013 Sau một vài tuần đồn đoán, bắt đầu từ ngày 11 tháng 1 năm 2013, Dell công bố vào ngày 5 tháng 2 năm 2013 rằng họ đã đạt được thỏa thuận mua lại trị giá 24,4 tỷ đô la, sẽ loại bỏ cổ phiếu của mình khỏi NASDAQ và Sàn giao dịch Chứng khoán Hồng Kông và chuyển thành công ty tư nhân. Reuters đưa tin rằng Michael Dell và Silver Lake Partners, được hỗ trợ bởi khoản vay 2 tỷ đô la từ Microsoft, sẽ mua lại cổ phiếu công khai với giá 13,65 đô la mỗi cổ phiếu. Thỏa thuận mua lại trị giá 24,4 tỷ đô la này được dự đoán sẽ là thương vụ mua lại có vốn đòn bẩy lớn nhất được hỗ trợ bởi vốn tư nhân kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007. Đây cũng là thương vụ mua lại công nghệ lớn nhất từ trước đến nay, vượt qua thương vụ mua lại Freescale Semiconductor năm 2006 trị giá 17,5 tỷ đô la. Michael Dell nhận xét về thỏa thuận mua lại vào tháng 2 rằng "Tôi tin rằng giao dịch này sẽ mở ra một chương mới thú vị cho Dell, khách hàng và các thành viên trong đội ngũ". Đối thủ cạnh tranh của Dell, Lenovo, đã phản ứng với thương vụ mua lại này, nói rằng "những hành động tài chính của một số đối thủ truyền thống của chúng tôi sẽ không làm thay đổi triển vọng của chúng tôi một cách đáng kể." Tháng 3 năm 2013, Blackstone Group và Carl Icahn thể hiện sự quan tâm trong việc mua lại Dell. Tháng 4 năm 2013, Blackstone rút lại đề nghị của họ, trích dẫn sự suy giảm kinh doanh. Các công ty vốn riêng tư khác như KKR & Co. và TPG Capital từ chối đệ trình các đề nghị thay thế cho Dell, trích dẫn thị trường không chắc chắn cho máy tính cá nhân và áp lực cạnh tranh, vì vậy "cuộc chiến đấu mở rộng" không bao giờ diễn ra. Các nhà phân tích cho biết thách thức lớn nhất đối với Silver Lake sẽ là tìm ra một "chiến lược thoát" để tạo lợi nhuận từ đầu tư của mình, đó là khi công ty sẽ tổ chức một đợt IPO để niêm yết công khai trở lại, và một người cảnh báo "Nhưng ngay cả khi bạn có thể có giá trị doanh nghiệp 25 tỷ đô la cho Dell, việc thoát ra sẽ mất nhiều năm." Tháng 5 năm 2013, Michael Dell đã tham gia cùng Hội đồng quản trị của mình để bỏ phiếu cho đề nghị mua lại. Tháng 8, ông đã đạt được thỏa thuận với ủy ban đặc biệt trên Hội đồng quản trị với giá 13,88 đô la mỗi cổ phiếu, tăng lên từ giá 13,75 đô la cộng với một cổ tức đặc biệt là 13 xu, cũng như một thay đổi về quy định bỏ phiếu. Đề nghị tiền mặt 13,88 đô la (cộng với cổ tức 0,08 đô la cho quý tài chính thứ ba) đã được chấp nhận vào ngày 12 tháng 9 và hoàn tất vào ngày 30 tháng 10 năm 2013, chấm dứt sự tồn tại của Dell trên thị trường công khai trong 25 năm. Sau việc mua lại, Dell tư nhân mới đã cung cấp Chương trình Tách rời Tự nguyện dự kiến giảm số lượng nhân viên lên đến 7%. Sự đón nhận của chương trình vượt quá mong đợi đến mức Dell có thể bị buộc phải tuyển dụng nhân viên mới để bù đắp cho số lượng nhân viên giảm đi. Lịch sử gần đây Vào ngày 19 tháng 11 năm 2015, Dell, cùng với ARM Holdings, Cisco Systems, Intel, Microsoft và Đại học Princeton, thành lập OpenFog Consortium để thúc đẩy quyền lợi và phát triển trong lĩnh vực fog computing (tính toán mờ). Mua lại EMC Vào ngày 12 tháng 10 năm 2015, Dell Inc. thông báo ý định mua lại EMC Corporation bằng thỏa thuận trả tiền mặt và cổ phiếu trị giá 67 tỷ đô la, được coi là thương vụ mua lại lớn nhất trong lĩnh vực công nghệ. Theo thỏa thuận này, Dell sẽ tiếp quản 81% cổ phần của EMC tại công ty điện toán đám mây và ảo hóa VMWare. Đây sẽ là một sáp nhập theo chiều dọc đáng chú ý khi kết hợp các lĩnh vực kinh doanh máy chủ doanh nghiệp, máy tính cá nhân và di động của Dell với lĩnh vực lưu trữ doanh nghiệp của EMC. Dell sẽ trả 24,05 đô la cho mỗi cổ phiếu EMC và 9,05 đô la cho mỗi cổ phiếu tracking stock của VMware. Cách đây hai năm sau khi Dell Inc. trở lại sở hữu tư nhân, công ty tuyên bố rằng nó đối mặt với triển vọng u ám và sẽ cần một vài năm ngoài ánh mắt công chúng để xây dựng lại doanh nghiệp. Có thông tin cho rằng giá trị của công ty đã tăng gấp đôi kể từ đó. EMC bị áp lực từ Elliott Management, một quỹ hedge fund nắm giữ 2,2% cổ phiếu EMC, yêu cầu tổ chức lại cấu trúc "Liên minh" không thông thường của EMC, trong đó các phân khúc của EMC thực tế được vận hành như các công ty độc lập. Elliott lập luận rằng cấu trúc này đánh giá thấp giá trị cốt lõi của EMC trong lĩnh vực lưu trữ dữ liệu "EMC II" và rằng sự cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa EMC II và các sản phẩm của VMware làm mờ đánh giá của thị trường và gây trở ngại cho cả hai công ty. The Wall Street Journal ước tính rằng vào năm 2014, Dell có doanh thu 27,3 tỷ đô la từ máy tính cá nhân và 8,9 tỷ đô la từ máy chủ, trong khi EMC có 16,5 tỷ đô la từ EMC II, 1 tỷ đô la từ RSA Security, 6 tỷ đô la từ VMware và 230 triệu đô la từ Pivotal Software. EMC sở hữu khoảng 80% cổ phiếu của VMware. Thỏa thuận mua lại đề xuất sẽ duy trì VMware như một công ty riêng biệt, được nắm giữ thông qua một loại cổ phiếu theo dõi mới, trong khi các phần còn lại của EMC sẽ được sáp nhập vào Dell. Sau khi thỏa thuận mua lại hoàn thành, Dell sẽ lại công bố kết quả tài chính hàng quý, sau khi đã ngừng công bố từ khi trở thành công ty tư nhân vào năm 2013. Công ty kết hợp dự kiến sẽ tập trung vào các thị trường kiến trúc scale-out, cơ sở hạ tầng hội tụ (converged infrastructure) và đám mây riêng tư (private cloud computing), tận dụng ưu điểm của cả EMC và Dell. Một số nhà bình luận đã đặt câu hỏi về thỏa thuận này, với FBR Capital Markets cho rằng mặc dù nó rất phù hợp với Dell, nhưng đó là "một kịch bản ác mộng thiếu sự cộng sinh chiến lược" đối với EMC. Fortune cho biết rằng có nhiều điều mà Dell thích trong danh mục của EMC, nhưng "liệu tất cả có đủ để giải thích hàng tỷ đô la cho gói hàng trọn vẹn? Có lẽ không." The Register đưa tin về quan điểm của William Blair & Company rằng thỏa thuận này sẽ "thay đổi bảng cờ cụ thể của công nghệ thông tin hiện tại", buộc các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin khác phải cải cách để đạt được quy mô và tích hợp dọc. Giá cổ phiếu VMware giảm 10% sau thông báo, làm giảm giá trị thỏa thuận xuống khoảng 63-64 tỷ USD thay vì 67 tỷ USD ban đầu được báo cáo. Các nhà đầu tư chủ chốt hỗ trợ thỏa thuận ngoài Dell còn có Temasek Holdings của Singapore và Silver Lake Partners. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2016, Dell hoàn thành việc sáp nhập với EMC, bao gồm việc phát hành 45,9 tỷ USD trái phiếu và 4,4 tỷ USD cổ phiếu thông thường. Khi đó, một số nhà phân tích cho rằng việc Dell mua lại Iomega có thể gây thiệt hại đối với mối quan hệ đối tác LenovoEMC. Vào tháng 7 năm 2018, Dell thông báo ý định trở lại là một công ty niêm yết bằng việc chi trả 21,7 tỷ USD bằng tiền mặt và cổ phiếu để mua lại cổ phần của mình trong VMware, đề xuất cho cổ đông khoảng 60 cent trên đô la cho mỗi cổ phần trong giao dịch. Vào tháng 11, Carl Icahn (sở hữu 9,3% cổ phần của Dell) kiện công ty vì kế hoạch trở lại công khai. Do áp lực từ Icahn và các nhà đầu tư hoạt động khác, Dell đã đàm phán lại thỏa thuận, cuối cùng đề xuất cho cổ đông khoảng 80% giá trị thị trường. Như một phần của thỏa thuận này, Dell trở lại là một công ty niêm yết, với doanh nghiệp máy tính gốc của Dell và Dell EMC hoạt động dưới tên gọi Dell Technologies - công ty mẹ mới được thành lập. Sau khi hoàn tất việc sáp nhập, Dell đã được tổ chức lại với một công ty mẹ mới là Dell Technologies; các doanh nghiệp dành cho người tiêu dùng và máy trạm của Dell được gọi nội bộ là Nhóm Giải pháp Khách hàng Dell, và là một trong ba đơn vị kinh doanh chính của công ty cùng với Dell EMC và VMware. Vào tháng 1 năm 2021, Dell thông báo doanh thu 94 tỷ USD và lưu chuyển tiền mặt hoạt động 13 tỷ USD trong năm 2020. Dell và AMD Khi Dell mua lại Alienware vào đầu năm 2006, một số hệ thống của Alienware được trang bị chip AMD. Vào ngày 17 tháng 8 năm 2006, một thông cáo báo chí của Dell cho biết bắt đầu từ tháng 9, các máy tính để bàn Dell Dimension sẽ sử dụng bộ vi xử lý AMD và sau đó trong năm đó, Dell sẽ tung ra một máy chủ hai socket, bốn bộ xử lý sử dụng chip AMD Opteron, đi ngược lại với truyền thống của Dell chỉ cung cấp các bộ xử lý Intel trong các máy tính Dell. Ngày 17 tháng 8 năm 2006, trang News.com của CNet trích dẫn CEO của Dell, Kevin Rollins, cho rằng việc chuyển sang sử dụng bộ xử lý AMD là để giảm chi phí và tận dụng công nghệ của AMD. Phó chủ tịch cấp cao của AMD trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, Marty Seyer, cho biết: "Việc Dell mở rộng sử dụng sản phẩm dựa trên bộ vi xử lý AMD là một chiến thắng cho Dell, cho ngành công nghiệp và quan trọng nhất là cho khách hàng của Dell." Vào ngày 23 tháng 10 năm 2006, Dell thông báo ra mắt các máy chủ mới sử dụng chip AMD - PowerEdge 6950 và PowerEdge SC1435. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2006, trang web của Dell bắt đầu cung cấp các máy tính xách tay sử dụng bộ vi xử lý AMD (Inspiron 1501 với màn hình ) với sự lựa chọn giữa bộ vi xử lý MK-36 đơn nhân, bộ vi xử lý Turion X2 đa nhân hoặc Mobile Sempron. Vào năm 2017, Dell ra mắt AlienWare 17. Mẫu máy này chủ yếu dựa trên hệ thống NVIDIA GeForce GTX 1080. Dell và Linux trên máy tính để bàn Vào năm 1998, Ralph Nader đã yêu cầu Dell (và năm OEM lớn khác) cung cấp các hệ điều hành thay thế cho Microsoft Windows, đặc biệt là bao gồm Linux, với "sự quan tâm đáng kể". Có thể là tình cờ, Dell đã bắt đầu cung cấp các hệ thống laptop chạy Linux không "đắt hơn so với các đối tác chạy Windows 98" vào năm 2000, và sớm mở rộng, Dell trở thành "nhà sản xuất lớn đầu tiên cung cấp Linux trên toàn bộ dòng sản phẩm của mình". Tuy nhiên, vào đầu năm 2001, Dell đã "giải thể đơn vị kinh doanh Linux của mình." Ngày 26 tháng 2 năm 2007, Dell thông báo rằng họ đã bắt đầu một chương trình để bán và phân phối các máy tính với hệ điều hành Linux được cài đặt sẵn như một sự lựa chọn thay thế cho Microsoft Windows. Dell cho biết rằng phiên bản SUSE Linux của Novell sẽ xuất hiện trước. Tuy nhiên, vào ngày tiếp theo, Dell thông báo rằng thông báo trước đó của họ liên quan đến việc chứng nhận phần cứng đã sẵn sàng hoạt động với Novell SUSE Linux và Dell không có kế hoạch bán các hệ thống được cài đặt sẵn Linux trong tương lai gần. Ngày 28 tháng 3 năm 2007, Dell thông báo rằng họ sẽ bắt đầu giao hàng một số máy tính để bàn và máy tính xách tay được cài đặt sẵn Linux, mặc dù không đưa ra thông tin về bản phân phối Linux cụ thể hay phần cứng nào sẽ dẫn đầu. Ngày 18 tháng 4, xuất hiện một báo cáo cho biết Michael Dell sử dụng Ubuntu trên một trong các hệ thống cá nhân tại nhà. Ngày 1 tháng 5 năm 2007, Dell thông báo rằng họ sẽ phân phối bộ phân phối Linux Ubuntu. Ngày 24 tháng 5 năm 2007, Dell bắt đầu bán các mẫu máy tính xách tay, máy tính giá rẻ và máy tính cao cấp được cài đặt sẵn Ubuntu Linux 7.04: Ngày 27 tháng 6 năm 2007, Dell thông báo trên blog Direct2Dell của họ rằng họ định kế hoạch cung cấp nhiều hệ thống được cài đặt sẵn trước (các máy tính để bàn và máy tính xách tay mới Dell Inspiron). Sau khi trang web IdeaStorm ủng hộ mở rộng gói sản phẩm này ra khỏi thị trường Mỹ, Dell sau đó thông báo về việc tiếp thị quốc tế hơn. Ngày 7 tháng 8 năm 2007, Dell chính thức thông báo rằng họ sẽ cung cấp một máy tính xách tay và một máy tính để bàn tại Vương quốc Anh, Pháp và Đức với Ubuntu "được cài đặt sẵn". Tại Hội nghị và Triển lãm LinuxWorld 2007, Dell thông báo kế hoạch cung cấp SUSE Linux Enterprise Desktop của Novell trên một số mẫu máy tính ở Trung Quốc, "được cài đặt từ nhà máy". Ngày 30 tháng 11 năm 2007, Dell báo cáo đã giao hàng 40.000 máy tính chạy Ubuntu. Ngày 24 tháng 1 năm 2008, Dell tại Đức, Tây Ban Nha, Pháp và Vương quốc Anh ra mắt một chiếc laptop thứ hai, XPS M1330 với Ubuntu 7.10, với giá từ 849 euro hoặc 599 Bảng Anh trở lên. Ngày 18 tháng 2 năm 2008, Dell thông báo rằng Inspiron 1525 sẽ có Ubuntu như một hệ điều hành tùy chọn. Ngày 22 tháng 2 năm 2008, Dell thông báo kế hoạch bán Ubuntu tại Canada và khu vực Latin. Từ ngày 16 tháng 9 năm 2008, Dell đã giao hàng cả phiên bản Dell Ubuntu Netbook Remix và phiên bản Windows XP Home của Inspiron Mini 9 và Inspiron Mini 12., Dell đã giao các phiên bản laptop Inspiron Mini với Ubuntu phiên bản 8.04. Đến năm 2021, Dell vẫn tiếp tục cung cấp một số mẫu laptop và máy trạm được cài đặt sẵn hệ điều hành Ubuntu Linux, dưới tên gọi "Developer Edition". Các sản phẩm Máy tính xách tay Pocket PC Máy tính bàn Màn hình máy tính Chip xử lý Tranh cãi Rút hoạt động tại Nga Ngày 27/8, tập đoàn Dell Technologies Inc của Mỹ thông báo đã ngừng mọi hoạt động tại Nga sau khi đóng cửa văn phòng vào giữa tháng 8 này. Đây là tập đoàn mới trong danh sách ngày càng các công ty phương Tây rút hoạt động tại Nga Trước đó, vào tháng 2, Dell đã quyết định không bán, cung cấp dịch vụ hoặc hỗ trợ các sản phẩm tại hai quốc gia là Nga và Belarus.
LimeWire là phần mềm chia sẻ tệp tin thông qua mạng ngang hàng. Đây là phần mềm miễn phí theo giấy phép GNU. Hệ thống tương thích Microsoft Windows Mac OS X Linux
Công ty Hewlett-Packard, hay ngắn gọn hơn là HP, là tập đoàn công nghệ thông tin lớn trên thế giới. HP thành lập năm 1939 tại Palo Alto, California, Hoa Kỳ. HP hiện có trụ sở tại Cupertino, California, Hoa Kỳ. Năm 2006, tổng doanh thu của HP đạt 9,4 tỷ đô la, vượt đối thủ IBM với 9,1 tỉ, chính thức vươn lên vị trí số một (đến nay là Google đứng số một) trong các công ty công nghệ thông tin. Vào ngày 6 tháng 10 năm 2014, Hewlett-Packard thông báo kế hoạch tách ngành kinh doanh máy tính và máy in ra khỏi các ngành về sản phẩm doanh nghiệp và dịch vụ của mình. Việc tách rời hoàn tất vào ngày 1 tháng 11 năm 2015, kết quả là hai công ty đại chúng: HP Inc. giao dịch dưới mã cổ phiếu cũ HPQ của Hewlett Packard và Hewlett Packard Enterprise giao dịch dưới mã cổ phiếu HPE. Năm 2017, Hewlett Packard Enterprise tách bộ phận Dịch vụ doanh nghiệp lập thành DXC Technology và bộ phận phần mềm thành Micro Focus. Lịch sử Thành lập HP được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1939 bởi Bill Hewlett và Dave Packard, với hình thức là nhà sản xuất công cụ đo lường và kiểm định với vốn đầu tư là 538 USD. Cả hai đã tốt nghiệp Đại học Stanford năm 1934. Công ty khởi đầu từ một ga-ra khi họ còn đang học sau đại học ở Standford. (Vì thế câu chuyện của họ là về những trí thức trở nên giàu có chứ không phải là những kẻ nghèo khó trở nên giàu có). Sản phẩm đầu tiên là máy tạo dao động âm thanh, model 200A. Điểm sáng tạo của họ là đã dùng bóng đèn nhỏ (loại dùng để chiếu sáng) như là một điện trở nhiệt trong bộ phận quan trọng của mạch điện. Nhờ vậy họ đã bán model 200A này với giá 54,40 USD trong khi các đối thủ cạnh tranh bán các máy tạo dao động ít ổn định hơn với giá trên 200 USD. Loạt máy phát dòng 200 được tiếp tục sản xuất đến năm 1972 với model 200AB, vẫn dựa trên đèn điện tử nhưng có cải tiến về mẫu mã. 33 năm, đó có lẽ là mẫu thiết kế điện tử được bán lâu nhất trong mọi thời đại. Tên công ty, Hewlett-Packard, được hình thành từ họ của hai nhà sáng lập. Nếu Bill không thắng trong việc tung đồng xu, thì có thể hiện nay tên công ty được biết sẽ là Packard-Hewlett. Một trong những khách hàng đầu tiên của công ty là Walt Disney Productions, họ đã mua 8 máy tạo dao động model 200B (với giá 71,50 USD/cái) để kiểm tra hệ thống âm thanh vòng Fantasound trong những rạp chiếu phim Fantasia. Những năm 60 và 70 HP được công nhận là nhà sáng lập của thung lũng Silicon, dù công ty đã không chủ động đầu tư vào các thiết bị bán dẫn mãi đến vài năm sau, sau khi "Tám kẻ phản bội" đã từ bỏ William Shockley để lập nên công ty bán dẫn Fairchild vào năm 1957. Công ty cổ phần HP của Hewlett-Packard, thành lập năm 1960, đã phát triển các thiết bị bán dẫn chỉ để dùng trong nội bộ. Các dụng cụ đo lường và máy tính là những sản phẩm sử dụng các thiết bị này. HP được công nhận bởi Tạp chí Wired là nhà sản xuất máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới, vào năm 1968, với loại máy Hewlett-Packard 9100A. HP gọi nó là máy tính để bàn (desktop calculator), vì Bill Hewlett phát biểu rằng, "Nếu chúng tôi gọi nó là máy tính (computer), các bậc thầy về máy tính sẽ phản đối vì nó không giống IBM. Vì thế chúng tôi quyết định gọi nó là máy tính (calculator), và những thứ vô lý đó không còn nữa." Là một thắng lợi trong kỹ thuật lúc đó, các mạch điện logic được sản xuất mà không có vi mạch tích hợp nào; quá trình lắp ráp một cái CPU hoàn toàn được tiến hành với các bộ phận rời rạc. Với bộ đọc CRT, card lưu trữ bằng từ tính, và máy in, giá sản phẩm khoảng $5000. Công ty được thế giới tín nhiệm với nhiều mặt hàng. Họ đã giới thiệu máy tính điện tử khoa học cầm tay đầu tiên trên thế giới vào năm 1972 (máy HP-35), máy tính lập trình đầu tiên vào năm 1974 (máy HP-65), máy tính lập trình có hiển thị số đầu tiên, vào năm 1979 (máy HP-41C), và máy tính hình thức có thể vẽ đồ thị đầu tiên HP-28C. Giống như các máy tính khoa học và thương mại, máy dao động ký, máy phân tích logic, và các thiết bị đo lường khác của công ty cũng rất nổi tiếng vì độ bền và tính tiện dụng (những sản phẩm đo lường này bây giờ là các dòng sản phẩm của công ty Agilent tách ra từ HP). Triết lý trong thiết kế của công ty trong giai đoạn này có thể tóm tắt là "thiết kế cho người ngồi ở ghế kế bên." HP dẫn đầu thị trường máy tính Theo nghiên cứu của IDC và Gartner, HP tiếp tục dẫn đầu thị trường máy tính toàn cầu 5 quý liên tiếp tính đến quý 3/2007, bỏ xa đối thủ cạnh tranh kế tiếp. Vẫn theo thông báo của IDC và Gartner được HP dẫn lại và công bố vào ngày 12/12/2007 tại Sài Gòn thì HP đã có tổng lượng máy tính bán ra đạt mức tăng trưởng 33% (theo số liệu của IDC) và 18,8% thị phần với doanh số tăng 33,1% (theo số liệu của Gartner). Mức tăng trưởng này cao hơn mức tăng trung bình của thị trường toàn cầu và vượt xa tỷ lệ tăng trưởng bình quân vùng tại tất cả các vùng. Theo Gartner, trong quý 3/2007 toàn thế giới đã tiêu thụ 68,5 triệu máy tính, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Doanh số của khu vực châu Á – Thái Bình Dương tăng 23,4% và tại khu vực châu Âu, Trung Đông và châu Phi là 16,4%. Trong khi đó, mức tăng doanh số của thị trường Mỹ chỉ đạt 4,7%, thấp hơn dự đoán của Gartner là 6,7%. Báo cáo nghiên cứu thị trường của IDC cho thấy đây là quý thứ 2 liên tiếp HP đạt mức tăng trưởng bình quân trên 30%. Thị phần của HP đã tăng 2,5% so với năm ngoái trên cả thị trường Mỹ và thị trường thế giới. Tại Mỹ, trong quý 3 năm nay, HP đã đạt mức tăng trưởng 169%, cao hơn gấp 3 lần so với mức tăng bình quân của thị trường. Cũng trong quý 3 năm nay, riêng tại thị trường Việt Nam, HP chiếm 29,9% thị phần, đạt mức tăng trưởng năm 252,9%, vươn lên chiếm vị trí dẫn đầu thị trường máy tính xách tay. Xét trên cả ngành công nghiệp máy tính (bao gồm máy tính để bàn và máy tính xách tay), HP giữ 10,2% thị phần với mức tăng trưởng 144,5%, qua đó tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu trên thị trường. Nhưng HP đã bị đối thủ cạnh tranh đến từ Đài Loan là ASUS vượt qua, theo bình chọn của tạp chí "Wall Street Asia" tháng 8 năm 2009, HP đã bị đối thủ cạnh tranh ASUS đến từ Đài Loan soán ngôi số 1, vì theo cộng đồng sử dụng máy tính xách tay, các sản phẩm của HP thường hay bị lỗi VGA card, gây nên hiện tượng máy nóng khi hoạt động, trong khi đó ASUS được đánh giá cao vì các sản phẩm của ASUS có tỉ lệ lỗi thấp, chất lượng đảm bảo, vì vậy tạp chí này đã bình chọn ASUS trở thành hãng máy tính "Đứng đầu thế giới về chất lượng và dịch vụ" Sản phẩm Máy tính bàn Máy tính xách tay Máy ảnh kĩ thuật số Máy in Máy quét Pocket PC Máy chủ x86 Máy chủ Phiến Mỏng Blade System Máy chủ UNIX Máy chủ siêu mạnh Supper Dome và Non Stop Hệ thống lưu trữ StorageWork
Không gian khả ly (trong tiếng Anh: separable space) là một khái niệm của ngành tôpô. Một không gian mêtric X (tổng quát hơn: không gian tôpô) được gọi là khả ly nếu nó có một tập con hữu hạn hoặc đếm được trù mật trong X. Khái niệm không gian (mêtric, tôpô) khả ly là một trong những khái niệm quan trọng của giải tích. Các không gian khả ly dễ xử lý và kiểm soát. Chỉ cần thu thập, kiểm soát những thông tin trên một tập khá nhỏ (tập hữu hạn hoặc đếm được các phần tử), trù mật trong không gian đã cho thì sẽ thu thập, kiểm soát được thông tin trên toàn thể không gian. Từ đó có thể lý luận, chứng minh hay xây dựng các đối tượng toán học liên quan bằng phép quy nạp. So sánh trực quan Chẳng hạn trong bất cứ quốc gia nào, để nắm tình hình an ninh, Bộ Công an bố trí lực lượng công an địa phương, khu vực như là một tập hợp trù mật trong một quốc gia vậy. Rõ ràng tình hình trật tự, trị an trong toàn quốc được phản ảnh bởi lực lượng công an khu vực này. Ví dụ Các không gian metric đếm được như là các không gian khả ly. cũng là một không gian khả li bởi vì nó có một tập con đếm được trù mật trong Chú thích
Stephen Harper (sinh 30 tháng 4 năm 1959 tại thành phố Toronto, tỉnh Ontario) là thủ tướng thứ 22 của Canada từ 6 tháng 2 năm 2006 đến ngày 4 tháng 11 năm 2015. Ông đồng thời cũng là Lãnh đạo Đảng bảo thủ Canada. Harper trở thành Thủ tướng Canada khi đảng của ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc tháng 1 năm 2006; mặc dù vậy, đảng của ông không giành được đa số tuyệt đối tại Hạ nghị viện. Harper là đảng viên đầu tiên của Đảng bảo thủ Canada trở thành thủ tướng, và là thủ tướng đầu tiên thuộc phe bảo thủ kể từ năm 1993. Việc nhậm chức Thủ tướng của Harper đã chấm dứt 12 năm cầm quyền liên tục của Đảng tự do Canada. Harper cũng là thủ tướng Canada đầu tiên sinh ra vào nửa sau của thế kỷ 20. Đảng bảo thủ Canada cũng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc xảy ra vào ngày 14 tháng 10 năm 2008, tăng thêm vài ghế ở Hạ nghị viện. Tuy vậy, chính phủ của Harper vẫn là chính phủ thiểu số. Cuối tháng 3 năm 2011, sau một số vụ bê bối, chính phủ của ông bị lật đổ sau khi thua phiếu bất tín nhiệm. Trong cuộc bầu cử toàn quốc xảy ra vào ngày 2 tháng 5 năm 2011, lần này Đảng bảo thủ Canada được giành chiến thắng lớn sau khi tăng thêm vài ghế ở Hạ nghị viện, và đầy đủ để cho ông lập chính phủ đa số đầu tiên sau 10 năm. Trong cuộc bầu cử toàn quốc xảy ra vào ngày 19 tháng 10 năm 2015, đảng bảo thủ của ông bị thua đảng Tự do, và ông tuyên bố từ chức thủ tướng để cho lãnh tụ của đảng Tự do, Justin Trudeau, thành lập chính phủ mới. Harper là Hạ nghị sĩ đại diện cho vùng phía Tây thành phố Calgary thuộc tỉnh Alberta từ năm 1993 đến năm 1997. Sau đó ông tiếp tục trúng cử vào Hạ nghị viện, đại diện cho vùng Tây Nam Calgary từ năm 2002 đến nay. Ông là một trong những thành viên sáng lập Đảng cải cách Canada. Vào năm 2002, Harper kế nhiệm Stockwell Day làm lãnh đạo Khối liên minh Canada (có tiền thân là Đảng cải cách), trở lại Hạ nghị viện với cương vị lãnh đạo phe đối lập. Năm 2003, Harper cùng Peter MacKay, lãnh đạo của Đảng bảo thủ cấp tiến Canada, đạt được thoả thuận hợp nhất hai đảng với tên gọi mới là "Đảng bảo thủ Canada". Sau đó ông được bầu làm lãnh đạo đầu tiên của đảng này sau thời gian Đảng có lãnh đạo lâm thời vào tháng 3 năm 2004. Tiểu sử Sự nghiệp chính trị
Khái niệm trù mật là một khái niệm tô pô. Giả sử A và B là 2 tập con trong không gian tôpô X. Ta nói tập A trù mật trong tập B nếu trong đó là ký hiệu bao đóng của tập A. Thêm nữa, tập A được gọi là trù mật khắp nơi nếu A trù mật trong toàn không gian X. Để dễ hình dung, ta xét trường hợp đặc biệt trong không gian mêtric X thì định nghĩa trên được phát biểu lại trực quan như sau: Tập A trù mật trong B nếu mỗi phần tử và với trong đó ký hiệu d(x,y) là khoảng cách giữa 2 điểm (phần tử) x và y. Nói một cách nôm na rằng, tập A trù mật trong B nếu mọi phần tử trong B đều bị kiểm soát bởi những phần tử trong A với khoảng cách bé tùy ý, tức là, cứ lấy mỗi phần tử làm tâm, quay một vòng tròn bán kính tùy ý thì thế nào trong hình tròn này cũng có mặt một phần tử Hay đơn giản hơn: Tập trù mật A nghĩa là nếu đóng trong thì A trù mật trong .Bao đóng của A chính là phần bù của A. Ví dụ Tập số hữu tỉ, Tập số vô tỉ là 2 tập trù mật trong tập số thực. Với tô pô hội tụ đều trên các tập compact, tập các đa thức một biến trù mật trong không gian hàm một biến liên tục. Theo chuẩn hội tụ trung bình bình phương, tập các đa thức một biến, đa thức lượng giác, hàm một biến liên tục là 3 tập trù mật trong không gian các hàm bình phương khả tích Lebesgue. Một điểm ge-ne-ric của một không gian tô pô là một điểm sao cho trù mật trong .
Hạ Môn (chữ Hán giản thể: 厦门; chữ Hán phồn thể: 廈門; pinyin: Xiàmén; Wade-Giles: Hsiamen) là thành phố phó tỉnh ven biển nằm ở phía Đông Nam tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Thành phố nhìn ra eo biển Đài Loan và giáp giới với thành phố Tuyền Châu về phía Bắc và Chương Châu về phía Nam. Tên gọi của thành phố này theo phiên âm dựa vào phương ngữ, được quốc tế biết đến, nhất là trong các văn bản cũ, là Amoy. Thành phố là một trong những đặc khu kinh tế của Trung Quốc. Diện tích: 1.565 km², dân số 3.5 triệu người. GDP: 435,118 tỷ NDT, GDP đầu người: 16 235 USD, xếp thứ 9 trong các thành phố của Trung Quốc. Các quận: Hải Thương (海沧区) Hồ Lý (湖里区) Tập Mỹ (集美区) Tư Minh (思明区) Đồng An (同安区) Tường An (翔安区) Quận Tư Minh và Hồ lý tạo lập thành Đặc khu kinh tế năm 1980. Hạ Môn là thương cảng được người châu Âu sử dụng năm 1541, đây là cảng chính của Trung Quốc vào thế kỷ XIX xuất khẩu trà. Do đó tiếng địa phương của Hạ Môn (tiếng Khách Gia) đã ảnh hưởng lên cách phát âm các từ mà ngôn ngữ châu Âu vay mượn từ tiếng Hán (ví dụ: tea hoặc thé (茶 tê), cumshaw (感謝 kám-siā), ketchup (茄汁 kiô-chiap) và Pekoe (白毫 pe̍h-hô) xuất phát từ tiếng Mân Nam. Hạ Môn là một trong 5 cảng nhượng quyền từ Trung Quốc nằm trong Hiệp ước Nam Kinh ký kết cuối năm 1842 khi kết thúc Chiến tranh Nha phiến giữa Anh và Trung Quốc. Kinh tế: đánh bắt cá, đóng tàu, chế biến thực phẩm, dệt, chế tạo máy, hóa chất, tài chính, viễn thông. Đầu tư nước ngoài: đến cuối năm 2000, có 4.991 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng vốn 17.527 tỷ USD. Năm 1992, Hạ Môn nằm trong 10 thành phố mạnh toàn diện của Trung Quốc, GDP tăng 20% hàng năm. Năm 2017, GDP của Hạ Môn là 435.118 tỷ NDT, GDP đầu người 16 235 USD, kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2000: 10.049 tỷ USD, xuất khẩu: 5.880 USD. Thành phố có Sân bay Quốc tế Hạ Môn Cao Khi. Cảng Hạ Môn nằm trong 10 cảng đầu của Trung Quốc, đây là cảng nước sâu có thể đón tàu 50.000 tấn cập cảng, tàu 100.000 tấn vào neo đậu trong cảng. Cảng có các tuyến đi Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Cao Hùng và Singapore, châu Âu, châu Mỹ và Địa Trung Hải. Năm 2000, lượng hàng qua cảng Hạ Môn là 19,65 triệu tấn hàng, tăng 10,82% so với 1999. Lượng container là 108 triệu TEU, tăng 27,83% so với 1999. Thành phố kết nghĩa Cardiff (Anh) từ năm 1983 Sasebo, Nhật Bản từ năm 1983 Cebu, Philippines từ năm 1984 Baltimore (Mỹ) từ năm 1985 Wellington, New Zealand từ năm 1987 Penang, Malaysia từ năm 1991
là một tác phẩm văn học do nhà văn Nhật Bản Kuroyanagi Tetsuko sáng tác vào năm 1981. Tác giả Kuroyanagi Tetsuko sinh ngày 9 tháng 8 năm 1933 ở Tokyo. Bà được thừa nhận là một diễn viên nổi tiếng nhất Nhật Bản suốt năm năm liền. Bà học hát opera ở trường nhạc Tokyo nhưng lại trở thành diễn viên, không lâu sau đã đoạt giải thưởng về hoạt động truyền thanh và truyền hình. Năm 1972, bà ở New York, học biểu diễn và viết Từ New York trở về mang theo tình yêu. Từ năm 1975 bà phụ trách chương trình Tetsuko - Câu chuyện phỏng vấn truyền hình hàng ngày đầu tiên của Nhật Bản sau được giải thưởng truyền hình cao nhất. Chương trình này cùng những tiết mục khác đều được đánh giá cao. Vì lợi ích của trẻ em hai lần bà mời Nhà hát các diễn viên câm điếc quốc gia Mỹ sang Nhật Bản, cùng biểu diễn với họ bằng ngôn ngữ tín hiệu. Nhuận bút cuốn sách của bà lập nên Quỹ Totto dùng để đào tạo nghiệp vụ các diễn viên câm điếc mà bà thường xuyên tiếp xúc. Là tác giả Gấu Panda và tôi, là người nhiều năm quan tâm bảo vệ gấu trúc (một loại gấu hiếm, đẹp) và là giám đốc Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên sống của Nhật Bản. Năm 1984, bà được bổ nhiệm làm Sứ giả thiện chí của UNICEF (Quỹ nhi đồng của Liên Hợp quốc), với tư cách trên, bà đã sang thăm Việt Nam cuối năm 1988. . Năm 2006, Donald Richie viết về Tetsuko trong cuốn Chân dung Nhật Bản: Hình ảnh những con người khác biệt (Japanese Portraits: Pictures of Different People) như sau: "Người phụ nữ nổi tiếng và được ngưỡng mộ nhất tại Nhật Bản." Nội dung Totto-chan nghĩa là "bé Totto", tên thân mật hồi nhỏ của tác giả Kuroyanagi Tetsuko. Totto-chan sinh trưởng trong một gia đình hạnh phúc, có cha là nghệ sĩ vĩ cầm, mẹ là vận động viên bóng rổ, nhà em còn nuôi con chó lớn tên Rocky. Trước khi em sinh ra, cha mẹ luôn nghĩ em sẽ là con trai nên đã đặt tên con là "Toru", nghĩa là vang xa, thâm nhập. Nhưng vì Totto-chan là con gái nên gia đình đổi tên em thành Tetsuko. Cha của em thường gọi em một cách thân mật là "Totsky" (Totto-Suke ở nguyên gốc tiếng nhật). Mới sáu tuổi, Totto-chan đã bị đuổi học ở trường tiểu học vì em quá năng động và lạ lùng so với các bạn. Mẹ của Totto-chan biết ngôi trường bình thường không thể hiểu được con gái, bà liền xin cho em vào học tại Tomoe Gakuen (Trường Tomoe) của thầy hiệu trưởng Kobayashi Sosaku. Trường Tomoe có lớp học là những toa tàu cũ, cả trường chỉ có hơn năm mươi học sinh, ai cũng đặc biệt như Totto-chan, thậm chí có cả những em bị khuyết tật. Nhưng vượt qua những trở ngại và khác biệt tính cách, các học sinh ở Tomoe đều hoà hợp với nhau như anh em. Thầy hiệu trưởng Kobayashi tôn trọng học sinh của mình, luôn để chúng tự do phát huy cá tính, khả năng bẩm sinh. Ở Tomoe không có thời khoá biểu nhất định, học sinh thích học môn gì nhất thì cứ tự học môn đó trước và những môn không thích thì học sau cùng. Các thầy cô chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn các em khi cần và cho bài tập. Nhà trường còn tổ chức cắm trại, đi du lịch cho các em được mở mang tầm mắt, gần gũi với thiên nhiên. Nhờ sự giáo dục của thầy hiệu trưởng Kobayashi, học sinh Tomoe đều trở thành những người tốt và thành đạt trong xã hội. Mặc dù trường Tomoe chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi (1937-1945) rồi bị bom đạn của thế chiến thứ hai phá sập, toàn bộ học sinh luôn luôn khắc ghi ngôi trường trong ký ức của họ, đặc biệt là Totto-chan. Cô bé vẫn nhớ mãi lời thầy Kobayashi nói: "Em thật là một cô bé ngoan". "Nếu không học ở Tomoe..." - tác giả viết - "nếu không được gặp thầy Kobayashi, có lẽ tôi đã là một người mang đầy mặc cảm tự ti với cái mác ‘đứa bé hư’ mà mọi người gán cho". Nhà văn Tetsuko dành những trang cuối của tác phẩm để viết các bạn bè cùng lớp của mình và cả cuộc sống sau này của họ. Có người đã trở thành nhà khoa học, người chuyên trồng hoa lan, người trở thành nhà giáo dục và nghệ sĩ nhưng cũng có người đã qua đời vì bệnh tật. Trích đoạn Nhận xét chung Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Hàn Quốc, tiếng Malaysia, tiếng Việt, tiếng Indonesia, tiếng Thái, tiếng Nga, một số thứ tiếng của Ấn Độ (Hindi, Telugu, Marathi, Malayalam, Oriya...), tiếng Sinhala và tiếng Lào. Ở khắp nơi trên thế giới, Totto-chan bên cửa sổ được đón nhận như là truyện đối với các em thiếu nhi, sách tham khảo đối với các phụ huynh học sinh, tài liệu sư phạm đối với các nhà giáo. Ở Nhật Bản, một số chương trong cuốn sách còn được đưa vào nội dung của sách giáo khoa. "Totto-chan bên cửa sổ" bằng tiếng Việt được dịch giả Anh Thư dịch từ bản tiếng Anh "Totto-chan, the Little Girl at the Window" (do nhạc sĩ kiêm thi sĩ Dorothy Britton dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Anh năm 1982) Tác phẩm chỉ có 207 trang (tính cả phần phụ lục) được chia thành nhiều chương nhỏ, có đoạn rất ngắn. Năm 2011, tác phẩm lần đầu tiên chính thức xuất bản tại Việt Nam với bản dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Nhật của dịch giả Trương Thùy Lan. Trong lần xuất bản này, cuốn sách dày 355 trang cùng nhiều tranh minh họa của Iwasaki Chihiro. Các nhận xét khác: EVăn Totto-chan bên cửa sổ mang trong mình một thông điệp đúng đắn, nhưng trong 30 năm tồn tại, cuốn sách chưa thể thay đổi xã hội hoặc thay đổi hành vi của số đông người trong xã hội Nhật. Mặc dù vậy, ông Yoshikawa Takeshi khẳng định: "Vì cuốn sách bán rất chạy và cũng là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong lịch sử xuất bản ở Nhật, chắc chắn nhiều người đã biết và hiểu được thông điệp của cuốn sách. Trong xã hội luôn có những điều đã trở thành quy ước, không thể thay đổi được. Nhưng dù phải tuân theo những quy ước đó, sâu trong trái tim mọi người vẫn mong muốn làm những gì tự do và thực sự đúng với đam mê." Thời báo New York Times "Tottochan" là bản cáo trạng thầm lặng về một nền giáo dục không có kết quả. Diễn đàn tin tức quốc tế Tottochan đã nhắc nhở hàng triệu người Nhật Bản về một nền giáo dục mà trẻ em hằng mong muốn. Nguyễn Khắc Viện Chắc chắn mỗi học sinh đều mơ ước được như Tốt-tô-chan may mắn vào học một trường như Tô-mô-e, với một thầy hiệu trưởng như ông Kô-ba-y-a-si. Riêng tôi chỉ mong cho nhiều giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, các bậc cha mẹ đọc sách này, để giúp thoát khỏi khuôn nếp cũ, tự tạo ra "tư duy mới" trong việc chăm sóc dạy dỗ con em. Chú thích Truyện thiếu nhi Tự truyện Sách Nhật Bản Dịch thuật Tiểu thuyết năm 1981 Tiểu thuyết Nhật Bản
Little Fighter 2 (LF2) là một trò chơi đấu võ miễn phí nổi tiếng trên máy tính, LF2 được rất nhiều người biết đến và có nhiều diễn đàn trên thế giới quan tâm đến. LF2 được tạo nên bởi Marti Wong và Starsky Wong năm 1999 và nhiều bản cập nhật theo từng seri đã được tung ra sau đó. Trò chơi đã nhận được rất nhiều lời khen dành cho cách chơi đơn giản, tự do của trò chơi và có thể chơi lại nhiều lần nhưng không hề nhàm chán. Trò chơi hỗ trợ tối đa 4 người chơi cùng trên một máy và 8 người chơi mạng với nhau. Người chơi có thể dùng Bàn phím hoặc Gamepad. Các phím có thể thay đổi để phù hợp với người chơi. Cách chơi LF2 là một trò chơi thuộc thể loại "chạy nhảy và đánh". Các nhân vật có thể di chuyển bằng bốn phím mũi tên. Các nút phòng thủ, nhảy, tấn công được sử dụng để các nhân vật thực hiện những chiêu thức riêng của mình. Khi bị trúng đòn, bạn sẽ bị mất máu, được hiển thị ở thanh HP (health point) bên trên màn hình. Mỗi nhân vật sẽ có những chiêu thức đặc biệt (special move) của riêng mình, và bạn có thể sử dụng chúng bằng cách phối hợp những phím trên Keyboard. Một vài chiêu thức khi sử dụng sẽ mất mana, được hiển thị ở thanh MP (magic point) bên trên màn hình. Các đồ vật thỉnh thoảng sẽ rơi từ bên trên xuống để giúp đỡ cho người chơi. Bạn có thể uống những chai bia hay sữa để hồi phục mana hay máu (sữa thì khôi phục phần lớn là máu và một ít mana còn bia chỉ khôi phục mana). Cũng có một tá vũ khí mà bạn có thể dùng để đánh nhau như những trái bóng, dao găm, lưỡi hái, gậy, hộp gỗ và những hòn đá lớn. Những vũ khí này làm đối thủ bị thương khi đánh nhau và cuối cùng chúng sẽ bị vỡ.Các chiêu thức khác nhau của little Fighter: david: bắn ra các quả cầu năng lượng: phòng thủ + đánh + sang ngang. đấm liên hoàn: Phòng thủ + đánh + xuống dưới. đấm đối thủ bay lên không trung: phòng thủ + đánh + lên trên. wooddy: bắn ra các dòng năng lượng: phòng thủ + đánh + sang ngang. đến bên đối thủ hoặc đến bên đội mình: phòng thủ + đánh + lên trên, xuống dưới. lộn lên và hất đối thủ lên không trung: phòng thủ + đánh + lên trên. lộn lên rồi đá 3 cú đá vào đối thủ: phòng thủ + đánh + xuống dưới. dennis: phóng ra quả cầu năng lượng: phòng thủ + đánh + sang ngang.phóng ra quả cầu năng lượng đuổi theo kẻ thù: phòng thủ + đánh + lên trên. đá lên hoàn 5 cú đá một chỗ và tất cả đối thủ ở trước đều bị hạ gục: phòng thủ + đánh + xuống dưới. quay chân: Phòng thủ + nhảy + sang ngang. Ngoài ra còn có các tuyệt chiêu: phòng thủ + nhảy + đánh. dùng khi các nhân vật muốn biến đổi cơ thể để biến thành người khác Chế độ game VS Mode, cho phép người chơi và máy có thể đánh lẫn nhau tùy theo sự chọn lựa của người chơi. Stage Mode, giống như rất nhiều game đấu võ kinh điển khác, người chơi sẽ cùng bạn bè mình chiến đấu để vượt qua 5 màn của trò chơi là Lion forest, Stanley prison, The great wall, Queen's island và Forbidden tower. Ở mỗi màn, một vài nhân vật đặc biệt sẽ xuất hiện bao gồm những nhân vật có thể chọn lựa kèm theo vài nhân vật ẩn khác. Những đối thủ xuất hiện bất ngờ sẽ gây cho bạn bất ngờ và ấn tượng về sức mạnh của chúng và sẽ trở thành thử thách thực sự cho bạn nếu muốn hoàn tất game. Championship Mode, tạo ra một giải đấu loại trực tiếp để tìm ra người chiến thắng. Battle Mode, cho phép bạn tạo ra một trận đấu giữa 2 đội trong đó bạn là chỉ huy của một bên. Demo mode, hiển thị ngẫu nhiên một trận đấu giữa máy với máy và không có bất kỳ một sự điều khiển nhân vật nào từ phía người chơi Độ khó Mặc định người chơi có thể tùy chọn được 3 độ khó là: Easy, Normal, Difficulty. Ngoài ra có chế độ "Crazy", chỉ được chọn khi người chơi gõ Cheat vào Màn hình game. Để có được Cheat game bạn phải hoàn tất chế độ Stage Mode của game Multiplay Đặc biệt LF2 cũng là một small online game nên bạn có thể đấu với bất kỳ ai qua hệ thống mạng Lan hoặc qua Internet (yêu cầu bạn mở cổng 12345 của Modem) với Public IP. Đây là điều mà chỉ một số ít minigame có được. Chính điều này đã làm cho LF2 trở nên hấp dẫn. Nhân vật Nhân vật lựa chọn được Đây là những nhân vật mà người chơi có thể lựa chọn Deep, Kiếm sĩ. Sử dụng thanh kiếm của mình để ra đòn, các chiêu thức của anh rất mạnh mẽ. Có lợi thế khi đánh giáp lá cà. Energy Blast:Dùng kiếm chém ra những luồng năng lượng chỉ dùng để tấn công trong cự ly gần. Strike: Đẩy lùi tất cả kẻ địch ở gần chỉ trong một nhát chém Leap Attack: Đánh gục kẻ thù xuống dưới đất khi đang ở trên không Dashing Strafe: Đòn này có thể đánh văng bất cứ ai Deep gặp trên đường đi John, Pháp sư. Sử dụng cây gậy phép của mình để chiến đấu. Có khả năng chữa thương. Energy Blast: Bắn ra một quả cầu màu tía có thể tấn công ở tầm xa Energy Disk: Tạo ra một chiếc đĩa có thể điều khiển hạ gục mọi đối thủ trên đường đi của nó Energy Shield: Tạo ra một chiếc khiên phản lại hầu hết các cầu năng lượng của đối phương (trừ Soul Bomb của Julian) Heal: hồi máu cho mình và bạn bè Henrry, Cung thủ. Các đòn đánh chủ yếu là bắn tên, số lượng tên là không giới hạn. Dragon Palm: Tạo ra một làn sóng mạnh đánh ngã mọi kẻ thù Multiple Shots: Bắn ra 5 mũi tên trong một lần, mở rộng phạm vi tấn công Critical Shot: Bắn ra một mũi tên có thể xuyên qua mọi kẻ thù trên đường đi Sonata of the Death: Thổi sáo làm đối thủ lơ lửng trên không và mất máu từ từ Rudolf, Ninja. Sử dụng phi tiêu và kiếm rất nhanh. Thích hợp với việc chiến đấu trong cự ly gần hay trung bình. Leap Attack: Sử dụng kiếm chém rất nhanh vào đối thủ Multiple Ninja Star: Ném 5 phi tiêu trong một lần Transform: Rudolf có thể biến hình thành người mà anh ta đang nắm lấy Hide: tàng hình trong vòng 6 giây Double: phân thân thành 3 người Louis, Hiệp sĩ. Do có mặc áo giáp nên bạn phải đánh anh ta liên tục mới có thể làm anh ta bị thương. Khi còn ít hơn 1/3 máu Louis có thể phá giáp để biến đổi thành LouisEx. Thunder Punch: chạy hay nhảy rồi cuối cùng kết thúc bằng một cú đấm hạ gục đối thủ Thunder Kick: Tung ra 6 cú đá liên tiếp trên không, đạp ngã mọi chướng ngại trên đường đi Whirlwind Throw: nắm lấy địch thủ và ném hắn đi bất cứ đâu Phoenix Palm: Tương tự như Dragon Palm của Henry nhưng có thể đánh về hai phía Firen, Pháp sư Lửa. Sử dụng Lửa làm vũ khí. Fire Ball: Sử dụng Mana tạo thành quả cầu Lửa để đốt cháy kẻ thù Blaze: Chạy xung quanh tạo ra một vệt Lửa dài, đốt cháy bất kỳ ai lại gần Inferno: thổi ra một ngọn Lửa có thể đốt cháy mọi thứ trên đường đi Explosion: Tạo ra một vụ nổ thổi bay mọi đối thủ ở gần Frezze, Pháp sư Băng. Sử dụng Băng để chiến đấu, ngoài ra có thể tấn công đối phương bằng kiếm Băng. Ice Blast: đóng Băng đối phương bằng quả cầu Băng, có thể phản lại Energy Blast Summon Sword: tạo ra thanh kiếm có thể đóng Băng đối thủ Icicle: tạo ra 3 cột Băng có thể đóng Băng địch thủ nằm trong vùng lân cận Whirlwind: Tạo ra cơn gió lốc cực mạnh gây đóng Băng và quăng đối phương ra xa Dennis, Võ sĩ. Lối đánh của anh ta dường như chỉ tập trung vào đòn chân. Energy Blast: Bắn ra các quả cầu năng lượng Strafe: Tung ra các cú đá liên tiếp rất nhanh Whirlwind Kick: Các cú đá liên tiếp trên không có thể quét sạch mọi đối thủ trên đường Chasing Blast: bắn ra quả cầu năng lượng lớn, có thể đuổi theo đối phương Woody, Võ sĩ. Là người có độ tuổi cao nhất trong 10 người, mặc dù các đòn đánh không mạnh mẽ lắm nhưng rất nhanh nhẹn và linh hoạt. Flip Kick: chiêu này có thể hất tung những đối thủ gần Woody lên Turning Kick: Với tư thế trồng cây chuối này Woody có thể đốn ngã đối thủ chỉ bằng chân Teleport: đưa Woody ngay lập tức đến bên đồng đội hay kẻ thù Energy Blast: Cũng giống như của Dennis nhưng phân làm hai Tiger Dash: Cú đá bằng đầu gối này sẽ đưa đối thủ văng ra đằng xa Davis, Võ sĩ. Sử dụng nắm đấm rất thành thạo, trái ngược với Dennis. Leap Attack: cho đối phương đo đường bằng một cú chặt ở trên không Energy Blast: giống như Dennis nhưng tốc độ nhanh hơn rất nhiều Strafe: Tung các cú đấm liên tiếp có tể hạ gục một tá kẻ thù Dragon Punch: Cú đấm móc hất tung đối thủ lên trên không Nhân vật bí mật Những nhân vật là những nhân vật được tạo thành từ những nhân vật ban đầu, và đều xuất hiện trong chế độ Stage Mode. Người chơi có thể unlock những nhân vật này bằng cách gõ Cheat vào màn hình game. LouisEX, biến thể của Louis khi không mặc Áo giáp, với một chiếc Thương và nhanh nhẹn hơn trước nhiều. Chính điều này làm LouisEx trở nên vô cùng đáng sợ khi đánh giáp khá mạnh Thunder Punch: giống như Louis nhưng mạnh hơn Phoenix Dance: một đòn phòng thủ hiệu quả và có thể quét sạch những đối thủ ở bên Phoenix Palm: tương tự như của Henry nhưng có thể ra đòn liên tiếp Firzen, Hợp thể của Firen và Freeze. Khi Freeze và Firen có ít hơn 1/4 máu,Freeze và Firen chạy đâm vào nhau sẽ hợp thể thành Firzen. Anh ta có một năng lực rất mạnh sử dụng cả phép Lửa và Băng. Firzen Cannon: Bắn ra luồng năng lượng cực mạnh có thể thổi bay mọi thứ trên đường đi Overwhelming Disaster: Tạo ra những quả cầu Băng và Lửa chôn vùi kẻ thù Arctic Volcano: Một vụ nổ lớn tạo ra Lửa và Băng, kèm theo các cột Băng xung quanh Bat, undead. Anh ta chỉ có vài chiêu thức nhưng đánh gần rất giỏi. Speed Punch: một cú đấm nhanh hạ gục kẻ địch ở gần Eye Laser: Bắn ra một luồng laze cực mạnh Summon Bats: Gọi dơi tấn công kẻ thù Julian,Boss cuối undead beast. Julian có một bộ giáp rất chắc chắn nên để làm Julian bị thương là điều không dễ dàng. Julian chắc chắn là nhân vật mạnh nhất trong game. Uppercut: Giống như Davis' Dragon Punch nhưng không tốn Mana Soul Punch: Tương tự LouisEX's Thunder Punch nhưng không tốn Mana Skull Blast: Bắn ra các quả cầu hình đầu lâu cực kì nhanh Mirror Image: Tạo ra ảo ảnh của Julian làm đối phương nhầm lẫn Big Bang: Đẩy lui kẻ thù bằng một vụ nổ lớn Soul Bomb: Bắn ra một quả cầu lớn rất mạnh có thể đánh bật mọi đối thủ, nổ khi va chạm quá nhiều địch thủ Nhân vật thứ yếu Đây là những nhân vật yếu, có thể lựa chọn trong chế độ Battle Mode. Người chơi có thể unlock các nhân vật này bằng Cheat. Bandit, là nhân vật yếu nhất trong game. Bandit không có đòn gì đặc biệt. Hunter, giống như Bandit nhưng được trang bị cung tên. Mark, không có đòn nào mạnh nhưng rất khỏe có lợi khi đánh giáp lá cà. Jack, có thể sử dụng energy blast ở cấp thấp. Monk, rất chậm và có đòn đặc biệt duy nhất là Tiger Palm (giống Henry's Dragon Palm) Knight, cũng có áo giáp nhưng không có kĩ năng. Sorcerer, sử dụng fire ball và ice ball giống firen và freeze, có khả năng chữa thương như John. Justin, dạng nhỏ hơn của Julian Jan, nữ Pháp sư, có khả năng tấn công đối phương và hồi máu cho tất cả đồng đội bằng việc bắn lên trời những quả cầu năng lượng. Nhân vật khác Template:Là nhân vật mẫu để người chơi có thể chỉnh sửa theo ý thích. Giống như bandit, Template không có đòn gì đặc biệt. Sự sửa đổi game Little Fighter 2, theo mặc định game cung cấp người chơi nhân vật template (nhân vật mẫu) và những bản đồ mẫu để tạo nên những màn chơi trong stage mode hay những nhân vật theo ý thích. Những khuôn mẫu chỉ cung cấp những thiết lập cơ bản về hình ảnh. Tuy nhiên, nhờ có sự gia đời của một phần mềm Non-official - phần mềm "Data changer", chúng ta có thể chỉnh sửa thành những đòn thế đa dạng hơn và mức độ của chúng cũng có thể trở nên mạnh mẽ hơn. Đã có rất nhiều những phiên bản được chỉnh sửa từ Little Fighter 2 đã ra đời bởi rất nhiều người, trong đó nổi bật là phiên bản Combined Effort Little fighter 2 và Little fighter 2 v2.5. Ở Việt Nam có phiên bản Little fighter Vietnam 2.0 - một phiên bản do NKC việt hóa. Sự chỉnh sửa này hoàn toàn được tác giả cho phép.
Trung Dũng, sinh năm 1967, (thường được biết dưới tên tiếng Anh Trung Dung) là lập trình viên, tỷ phú người Mỹ gốc Việt. Khi bước chân lên đất Mỹ năm 1985, ông chỉ có 2 USD nhưng 15 năm sau, ông đã chuyển nhượng công ty OnDisplay của ông cho Vignette Corp với giá gần 1,8 tỉ USD. Câu chuyện về thành công của ông đã trở thành "huyền thoại" trong giới công nghệ cao, và được nhiều tạp chí nổi tiếng như Forbes, Fortune, Financial Times, Wall Street Journal, San Francisco Chronicle... tường thuật và in trong cuốn sách The American Dream (Giấc mơ Mỹ) của biên tập viên Dan Rather của đài CBS. Tiểu sử và thành tích Sinh ngày 26 tháng 3 năm 1967. Có thông tin cho rằng ông thật ra là họ Dụng, là họ của người dân tộc Chăm, cha của ông là người Chăm đất Phan Rí và mẹ là người Việt. Cha là Dũng Văn Đối, trung tá của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, thị trưởng một tỉnh lỵ tại miền Nam và sau 1975 phải đi học tập cải tạo, tài sản gia đình bị tịch thu. Gia đình túng quẫn, ông phải vừa học vừa bán hàng để phụ gia đình. Vượt biển đến Indonesia năm 1984, sau hai lần thất bại và đến Hoa Kỳ tị nạn từ năm 1985. Thời gian đầu ông cùng chị gái sống tại Louisiana, sau đó hai chị em chuyển sang Boston. Một năm sau, ông ghi tên vào học ở trường Đại học Massachusetts, Boston. Ông vừa học vừa làm đủ thứ công việc, từ rửa chén trong nhà hàng đến làm kỹ thuật viên, để nuôi sống mình và gia đình. Hàng tháng, ông vẫn gửi về Việt Nam 300-400 USD để giúp gia đình. Đến năm 1990, gia đình ông được đoàn tụ. Tốt nghiệp cử nhân khoa học máy tính và toán học ứng dụng tại Đại học Massachusetts, Boston năm 1988. Lấy bằng cao học (master), đang học tiến sĩ thì bỏ dở vì mẹ bệnh ung thư nặng. Sau này, năm 1992 ông lấy bằng Tiến sĩ ngành Khoa học máy tính tại trường Đại học Boston. Vợ của ông là bác sĩ Nam Phương tốt nghiệp Đại học Stanford về ngành ung thư. Làm kỹ sư trưởng (Senior Engineer) cho công ty Open Market. Bỏ việc làm tại Open Market, thành lập công ty On Display Inc năm 1996. Lúc đầu khó khăn nhưng sau nhờ sự hỗ trợ của Mark Pine, từng là ủy viên quản trị công ty Sybase Inc, nhiều nhà đầu tư đã giúp vốn cho ông. Công ty đặt trụ sở chính tại San Ramon, California và được xem là một trong 10 công ty IPO (công ty lần đầu lên sàn chứng khoán) thành đạt nhất Hoa Kỳ của năm 1999. Năm 2000, chuyển nhượng công ty OnDisplay cho Vignette Corp với giá gần 1,8 tỉ USD. Năm 2001, sáng lập và hiện là giám đốc điều hành công ty Fogbreak ở Walnut Creek, Bắc California. Công ty phát triển dây chuyền phân phối & hợp tác dịch vụ phần mềm (a venture-backed company developing collaborative supply chain software). Công ty được các công ty lớn như Matrix Partners, Greylock, và Sigma Partners góp vốn đầu tư. Tháng 5 năm 2004, được trao tặng Giải Đuốc Vàng từ Đại hội Liên hoan Người Mỹ gốc Việt Toàn quốc (VANG). Năm 2005, ông thành lập và là giám đốc điều hành tập đoàn V-Home Group, gồm những doanh nhân người Mỹ gốc Việt thành đạt muốn tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Năm 2006, được nhận danh hiệu vinh danh nước Việt. Ông nói tiếng Việt và Anh lưu loát, hiếu thảo và bản tính khiêm tốn, có lòng với sinh hoạt cộng đồng và thường tham gia những sinh hoạt cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Các công ty sáng lập hoặc điều hành OnDisplay Inc DICentral DICentral Vietnam Fogbreak Software Home Page ở Walnut Creek, Bắc California Tổ chức Vietnamese Silicon Valley Network (VSVN) Vietnam Education Foundation (VEF) , Quỹ Giáo dục Việt Nam V-Home Group
Trong logic, một luận cứ là một cố gắng để thể hiện tính đúng đắn của một khẳng định được gọi là một kết luận, dựa trên tính đúng đắn của một tập các khẳng định được gọi là tiền đề (premise). Luận cứ được định hình bởi quy trình thể hiện việc lập luận theo lối suy diễn hoặc quy nạp. Quy trình này sử dụng một kiểu giao tiếp nào đó, có thể là một phần của một văn bản viết, một bài nói, hay một đoạn hội thoại. Tổng quan Thông thường, trong các tranh luận khoa học và triết học, các luận cứ loại suy (abductive) và các luận cứ bằng phép tương tự (analogy) hay được sử dụng. Các luận cứ có thể hiệu lực hoặc không hiệu lực, tuy chính bản thân cách xác định xem một luận cứ được xếp vào loại nào thường lại có thể là một đối tượng của nhiều bàn cãi. Một cách không chính thức, người ta nên kỳ vọng rằng một luận cứ hiệu lực sẽ có sức thuyết phục theo nghĩa nó có khả năng thuyết phục người khác về tính đúng đắn của kết luận. Tuy nhiên, một tiêu chí như vậy cho tính hiệu lực không đầy đủ hoặc thậm chí còn gây lầm lẫn, do nó phụ thuộc nhiều vào kỹ năng của người xây dựng luận cứ trong việc thao túng người đang bị thuyết phục hơn là phụ thuộc vào chính luận cứ đó. Các tiêu chí ít chủ quan hơn cho tính hiệu lực của các luận cứ thường được mong muốn hơn, và trong một số trường hợp, ta thậm chí nên kỳ vọng vào sự chặt chẽ của luận cứ. Một luận cứ chặt chẽ là luận cứ tuân theo các quy tắc chính xác của tính hiệu lực. Điều này áp dụng cho các luận cứ dùng trong các chứng minh toán học. Lưu ý rằng một chứng minh chặt chẽ không nhất thiết phải là một chứng minh hình thức. Trong ngôn ngữ hàng ngày, người ta nói đến lôgic của một luận cứ hoặc sử dụng thuật ngữ có ý rằng một luận cứ được dựa trên các quy tắc suy luận của lôgic hình thức. Tuy một số luận cứ có sử dụng các suy luận logic một cách không thể chối cãi (chẳng hạn tam đoạn luận), các loại suy luận khác lại hầu như luôn luôn được sử dụng trong các luận cứ thực tiễn. Ví dụ, nhiều luận cứ thường chỉ nói về các vấn đề quan hệ nhân quả, xác suất và thống kê hoặc thậm chí trong các ngành chuyên biệt như kinh tế học. Trong các trường hợp đó, logic có nghĩa là cấu trúc của luận cứ thay vì các nguyên tắc của lôgic thuần túy có thể được sử dụng trong đó. Tóm lại, luận cứ là phần khá quan trọng trong văn nghị luận Tính hợp lý của luận cứ Khi đánh giá một luận cứ, ta xem xét riêng rẽ tính đúng đắn của các tiền đề và tính hiệu lực (validity) của các mối quan hệ lôgic giữa các tiền đề, các khẳng định trung gian bất kỳ và kết luận. Tính chất lôgic chính của một luận cứ mà chúng ta quan tâm ở đây là: nó có bảo toàn sự thật hay không, nghĩa là nếu các tiền đề là đúng thì kết luận cũng đúng. Ta sẽ gọi tắt tính chất này bằng cách nói đơn giản rằng luận cứ là có hiệu lực. Nếu luận cứ là có hiệu lực, ta nói rằng các tiền đề suy ra hoặc kéo theo kết luận. Các luận cứ sai có xu hướng rơi vào một số dạng nhất định, chúng được gọi là các ngụy biện lôgic. Khuôn mẫu toán học Trong toán học, một luận cứ có thể được hình thức hóa bằng lôgic biểu tượng. Khi đó, một luận cứ được coi là một danh sách có thứ tự của các mệnh đề, mỗi mệnh đề trong đó là một trong các tiền đề hoặc được rút ra từ tổ hợp của một tập con nào đó của các mệnh đề đứng trước và một hoặc nhiều tiên đề bằng cách sử dụng các luật suy luận. Mệnh đề cuối cùng trong danh sách là kết luận. Đa số các luận cứ được dùng trong các chứng minh toán học là chặt chẽ, nhưng không hình thức. Trong thực tế, việc xây dựng các chứng minh thật sự hình thức cho tất cả trừ những khẳng định tầm thường nhất đều là cực kỳ khó; các chứng minh này cũng rất khó hiểu nếu không có sự trợ giúp của máy tính. Một trong các mục đích của lĩnh vực nghiên cứu chứng minh định lý tự động là để thiết kế các chương trình máy tính để tạo và kiểm tra các chứng minh hình thức. Một ngành nghiên cứu về các hệ thống toán học hình thức cùng với các câu hỏi ngữ nghĩa chẳng hạn như tính đầy đủ (completeness) và tính hiệu lực thường được gọi là siêu toán học (metamathematics). Một điểm lưu ý đặc biệt theo hướng này là định lý Gödel về tính không đầy đủ dành cho các lý thuyết bậc nhất về số học (first order theories of arithmetic). Hội thoại tranh luận Các luận cứ như đã bàn ở các đoạn trên là luận cứ tĩnh, như các luận cứ mà người ta có thể tìm thấy trong một cuốn sách giáo trình hay một bài báo khoa học. Các luận cứ này có nhiệm vụ là một ghi nhớ được xuất bản về sự minh giải cho một khẳng định. Luận cứ còn có thể có tính chất tương tác, trong đó người đề xuất và người đàm thoại có một mối quan hệ đối xứng hơn. Các tiền đề được thảo luận, tính hiệu lực của các suy luận trung gian cũng vậy. Ví dụ, xét đoạn đối thoại sau:: Luận cứ: "Không có người Scotland nào ăn cháo với đường." Trả lời: "Nhưng anh bạn Angus của tôi thích ăn cháo với đường." Bác bỏ: "À phải, nhưng không có một người Scotland thực thụ nào lại ăn cháo với đường." Trong đoạn hội thoại này, trước tiên, người đề xuất đưa ra một tiền đề, tiền đề bị thách thức bởi người đàm thoại, và cuối cùng, người đề xuất đưa ra một sự sửa đổi đối với tiền đề. Cuộc trao đổi này có thể là một phần của một cuộc thảo luận lớn hơn, chẳng hạn trong một vụ xử án giết người, trong đó bị cáo là một người Scotland, và trước đó người ta đã khẳng định rằng thủ phạm đang ăn cháo đường khi thực hiện vụ giết người. Trong một hội thoại tranh luận, các quy tắc tương tác có thể được thương lượng bởi các bên tham gia đối thoại, tuy trong nhiều trường hợp, các quy tắc đã được quyết định sẵn bởi thông lệ xã hội. Trong trường hợp đối xứng nhất, hội thoại tranh luận có thể được xem là một quá trình phát hiện nhiều hơn một cách biện minh cho một kết luận. Về lý tưởng, mục đích của hội thoại tranh luận là để cho các thành viên đi đến một kết luận chung bởi các suy luận cùng được chấp nhận. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tính hiệu lực của các kết luận chỉ là thứ cấp. Chẳng hạn, thay vì đi đến một kết luận chung, mục đích thực sự của một cuộc đối thoại lại là sự giải phóng cảm xúc, ghi điểm trước người nghe, làm mòn sức một đối thủ hoặc hạ thấp giá bán một thứ hàng hóa. Walton phân biệt các loại hội thoại tranh luận sau, chúng minh họa cho các mục đích kể trên. Cãi nhau cá nhân. Tranh tụng. Đối thoại với mục đích thuyết phục. Mặc cả. Hành động nhằm tìm kiếm đối thoại. Đối thoại giáo dục. Van Eemeren và Grootendorst xác định các giai đoạn khác nhau của đối thoại tranh luận. Các giai đoạn này có thể được coi là một giao thức luận cứ. Diễn dải một cách nôm na, các giai đoạn đó như sau: Đối chất: Trình bày vấn đề, chẳng hạn một câu hỏi tranh luận hay một bất đồng chính trị Mở đầu: Thống nhất về các quy tắc, chẳng hạn các dẫn chứng được trình bày như thế nào, những nguồn sự kiện nào được sử dụng, xử lý các cách hiểu trái chiều bằng cách nào, xác định các điều kiện kết thúc. Tranh luận: Áp dụng các nguyên tắc lôgic theo các quy tắc đã thống nhất ở trên. Kết thúc: Tranh luận kết thúc khi các điều kiện kết thúc đã được thỏa mãn. Trong các điều kiện đó có thể có một giới hạn về thời gian hay sự phán quyết của một trọng tài. Van Eemeren và Grootendorst còn đưa ra một danh sách chi tiết về các quy tắc phải được áp dụng tại mỗi giai đoạn của giao thức. Hơn nữa, theo tranh luận của các tác giả này, có các vai trò cụ thể của người ủng hộ và người phản đối trong giao thức, các vai trò này được quyết định bởi các điều kiện tạo nên nhu cầu cho luận cứ.
Bắc Việt Nam có thể chỉ đến: Miền Bắc Việt Nam Bắc Bộ Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Suy diễn lôgic, lập luận diễn dịch hay suy diễn là lập luận mà trong đó kết luận được rút ra từ các sự kiện được biết trước theo kiểu: nếu các tiền đề là đúng thì kết luận phải đúng. Nghĩa là các sự kiện cho trước đòi hỏi rằng kết luận là đúng. Kiểu lập luận này khác với lập luận loại suy và lập luận quy nạp, trong đó các tiền đề có thể tiên đoán một xác suất cao của kết luận nhưng không đảm bảo kết luận là đúng. Suy diễn còn được định nghĩa là kiểu suy luận từ trường hợp tổng quát hơn tới trường hợp cụ thể hơn, hay là suy luận mà trong đó kết luận có độ xác tính ngang bằng với các tiền đề. Ví dụ Người ta có thể nói rằng: "Vì trời mưa nên chắc chắn đường ướt". Tuy nhiên, có một luận cứ ẩn trong câu này: "Nếu trời mưa thì đường ướt.". Sử dụng tiền đề "Nếu trời mưa thì đường ướt.", ta có thể tranh luận rằng "Vì trời mưa nên chắc chắn đường ướt", mà không thể rằng "đường ướt cho nên chắc chắn trời đang mưa". Hoặc ta có thể nói: "Đường không ướt, do đó trời không mưa", nhưng không thể "Trời không mưa, do đó đường không ướt". Đó là vì đường ướt là một kết quả không tránh khỏi của mưa, nhưng đường ướt không nhất thiết phải do mưa. Tính hiệu lực và tính có cơ sở Các luận cứ suy diễn có thể có hiệu lực hoặc không có hiệu lực. Các luận cứ có hiệu lực tuân theo các quy tắc đã định trước. Đối với tính hiệu lực, việc các quy tắc định trước đúng hay sai không được xét đến. Do đó, các kết luận có hiệu lực không nhất thiết là kết luận đúng, và các kết luận không có hiệu lực có thể không sai. Khi một luận cứ vừa có hiệu lực vừa đúng, nó được coi là có cơ sở (sound). Khi nó có hiệu lực, nhưng không đúng, nó được coi là không có cơ sở. Ví dụ: Suy diễn có hiệu lực: Do Socrates là một người, và do tất cả mọi người đều không bất tử, do đó Socrates cũng không bất tử. Suy diễn trên còn được coi là có cơ sở, do hai tiền đề "Socrates là người" và "tất cả mọi người đều không bất tử" là đúng. Suy diễn không có hiệu lực: Tất cả các thí sinh thi trượt đều không được học bổng, tất cả các thí sinh đỗ vớt đều không được học bổng, do đó tất cả các thí sinh đỗ vớt đều thi trượt.
Người tình (tiếng Pháp: L'Amant) là một tiểu thuyết tự truyện của Marguerite Duras, do nhà xuất bản Les Éditions de Minuit ấn hành năm 1984. Tiểu thuyết này đã được dịch ra 43 thứ tiếng với khoảng 2,4 triệu bản in . Nó cũng đoạt giải Goncourt năm 1984. Tác phẩm được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 1992. Nội dung Bối cảnh lịch sử của tác phẩm là Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Tác phẩm kể về mối tình lãng mạn và phức tạp của một thiếu nữ mới lớn của một gia đình Pháp đang gặp khó khăn về tài chính với một người đàn ông gốc Hoa giàu có. Năm 1929, trên chuyến phà qua Đồng bằng sông Cửu Long trở về trường nội trú ở Sài Gòn sau kỳ nghỉ tại nhà ở Sa Đéc, cô gái trẻ 15 tuổi thu hút sự chú ý của một người đàn ông giàu có 27 tuổi, con trai một nhà tài phiệt người Hoa. Anh được thừa hưởng một khối tài sản. Anh bắt chuyện với cô và cô đồng ý trở lại thị trấn với anh trên chiếc xe limousine sang trọng. Cô gái là con một goá phụ phá sản và trầm uất. Giờ cô nhận thức được rằng việc cô còn lại một mình trên đời này rất có thể thành hiện thực. Do đó cô đã trở thành người tình của anh chàng người Hoa, cho đến khi anh không dám chống lại sự phản đối của cha mình và kết thúc cuộc tình. Mối liên quan đến cuộc đời thực Duras không bao giờ tiết lộ tên thật người tình gốc Hoa của bà. Chỉ sau này, khi bộ phim Người tình được quay thì bà thừa nhận mình là cô gái trong tiểu thuyết. Tin tức cuối cùng mà bà biết về ông là ông định cư ở Mỹ sau Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Ông đã mất khi bộ phim khởi quay. Duras mới 15 tuổi tại thời điểm cuộc tình này diễn ra, cũng là tuổi nhân vật nữ trong tiểu thuyết . Bản dịch tiếng Việt Tác phẩm có một số bản dịch tiếng Việt. Gã nhân tình, Đình Kinh Hiệt dịch, Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1989 Người tình, Trịnh Xuân Hoành dịch, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1991. Người tình, Lê Ngọc Mai dịch, Nhà xuất bản Văn học và Nhã Nam ấn hành năm 2007 . Chú thích Tiểu thuyết Pháp Tiểu thuyết năm 1984
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả phí hoặc không để thực hiện việc giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người muốn truyền thông phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng để đưa thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin. Vào thế kỷ 19, các doanh nghiệp xà phòng là một trong những doanh nghiệp đầu tiên sử dụng các chiến dịch quảng cáo quy mô lớn. Thomas J. Barratt được Pears thuê làm giám đốc thương hiệu của mình - người đầu tiên thuộc loại này - và ngoài việc tạo ra các khẩu hiệu và hình ảnh, ông còn mời nữ diễn viên kiêm người nổi tiếng Lillie Langtry của West End trở thành gương mặt đại diện cho Pears, khiến cô trở thành người nổi tiếng đầu tiên quảng cáo cho một sản phẩm thương mại. Quảng cáo hiện đại bắt nguồn từ các kỹ thuật được giới thiệu trong quảng cáo thuốc lá vào những năm 1920, đáng kể nhất là với các chiến dịch của Edward Bernays, được coi là cha đẻ của quảng cáo hiện đại, "Madison Avenue". Tổng chi tiêu cho quảng cáo trên toàn thế giới vào năm 2015 ước tính đạt 529,43 tỷ đô la Mỹ. Phân bổ quảng cáo dự kiến cho năm 2017 là 40,4% cho TV, 33,3% cho kỹ thuật số, 9% cho báo, 6,9% cho tạp chí, 5,8% cho quảng cáo ngoài trời và 4,3% cho đài phát thanh. Trên toàn thế giới, các tập đoàn quảng cáo lớn nhất ("Big Five") là Omnicom, WPP, Publicis, Interpublic và Dentsu. Lịch sử nhỏ|Tấm đồng in quảng cáo cho cửa hàng kim chỉ của gia đình Liu ở Jinan, Trung Quốc thời nhà Tống. Đây là phương tiện quảng cáo in ấn sớm nhất được xác định trên thế giới. nhỏ|Tờ rơi LEL thời Edo từ năm 1806 cho một loại thuốc truyền thống có tên Kinseitan Người Ai Cập đã sử dụng giấy cói để tạo ra các thông điệp bán hàng và áp phích treo tường. Các thông điệp thương mại và áp phích chiến dịch chính trị đã được tìm thấy trong tàn tích của Pompeii và Ả Rập cổ đại. Quảng cáo tìm thấy và thất lạc trên giấy cói là phổ biến ở Hy Lạp cổ đại và Rome cổ đại. Tranh tường hoặc vẽ đá để quảng cáo thương mại là một biểu hiện khác của một hình thức quảng cáo cổ xưa, tồn tại cho đến ngày nay ở nhiều nơi ở Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ. Truyền thống vẽ tranh tường có thể bắt nguồn từ các bức tranh nghệ thuật đá Ấn Độ có niên đại từ năm 4000 trước Công nguyên. Ở Trung Quốc cổ đại, quảng cáo sớm nhất được biết đến là quảng cáo bằng miệng, như được ghi lại trong Kinh Thi (thế kỷ thứ 11 đến thứ 7 trước Công nguyên) của những cây sáo tre được chơi để bán bánh kẹo. Quảng cáo thường được thực hiện dưới dạng biển hiệu thư pháp và giấy mực. Một tấm đồng in có niên đại từ thời Tống được sử dụng để in áp phích dưới dạng một tờ giấy hình vuông với logo con thỏ có chữ "Cửa hàng kim chỉ tốt của Liu Jinan" và "Chúng tôi mua thanh thép chất lượng cao và làm kim chất lượng cao, để sẵn sàng sử dụng tại nhà trong thời gian ngắn" được viết ở trên và bên dưới được coi là phương tiện quảng cáo in được xác định sớm nhất trên thế giới. Ở châu Âu, khi các thị trấn và thành phố thời Trung cổ bắt đầu phát triển và dân chúng nói chung không biết đọc, thay vì các biển hiệu ghi "thợ đóng giày", "thợ xay bột", "thợ may" hoặc "thợ rèn", hình ảnh liên quan đến nghề nghiệp của họ sẽ được sử dụng như một chiếc ủng, một bộ đồ, một chiếc mũ, một chiếc đồng hồ, một viên kim cương, một chiếc móng ngựa, một cây nến hoặc thậm chí là một túi bột mì. Trái cây và rau quả được bán ở quảng trường thành phố từ phía sau xe đẩy và xe ngựa và chủ sở hữu của họ đã sử dụng những người gọi đường phố (những người la làng) để thông báo vị trí của họ. Biên soạn đầu tiên của các quảng cáo như vậy đã được tập hợp trong "Les Crieries de Paris", một bài thơ thế kỷ 13 của Guillaume de la Villeneuve. Thế kỷ 18-19: Quảng cáo trên báo nhỏ|Poster cho xà phòng Pears được tạo ra dưới sự lãnh đạo của Thomas J. Barratt , 1900. Bảo tàng Victoria và Albert , Luân Đôn Quảng cáo bắt đầu xuất hiện trên các báo tuần ở Anh vào thế kỷ 18. Những quảng cáo in ấn đầu tiên này chủ yếu được sử dụng để quảng bá sách và báo, thứ đã trở nên ngày càng giá cả phải chăng với sự phát triển của máy in; và thuốc men, thứ ngày càng được tìm kiếm. Tuy nhiên, quảng cáo sai sự thật và quảng cáo "quack" đã trở thành một vấn đề, dẫn đến việc điều chỉnh nội dung quảng cáo. Ở Hoa Kỳ, báo chí phát triển nhanh chóng trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19, một phần nhờ vào quảng cáo. Đến năm 1822, Hoa Kỳ có nhiều độc giả báo hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khoảng một nửa nội dung của những tờ báo này là quảng cáo, thường là quảng cáo địa phương, với một nửa số báo hàng ngày trong những năm 1810 sử dụng từ "advertiser" trong tên của họ. Vào tháng 6 năm 1836, tờ báo Pháp La Presse là tờ báo đầu tiên đưa quảng cáo trả phí vào trang của mình, cho phép tờ báo giảm giá, mở rộng lượng độc giả và tăng lợi nhuận, và công thức này đã sớm được tất cả các tờ báo khác sao chép. Khoảng năm 1840, Volney B. Palmer thành lập nền tảng của các công ty quảng cáo hiện đại ở Philadelphia. Năm 1842, Palmer mua một lượng lớn không gian trên các tờ báo khác nhau với giá chiết khấu, sau đó bán lại không gian đó với giá cao hơn cho các nhà quảng cáo. Nội dung quảng cáo, bố cục và hình ảnh minh họa thực tế vẫn được thực hiện bởi công ty muốn quảng cáo; trên thực tế, Palmer là một nhà môi giới không gian. Tình hình thay đổi khi công ty quảng cáo dịch vụ đầy đủ đầu tiên của N.W. Ayer & Son được thành lập vào năm 1869 tại Philadelphia. Ayer & Son đề nghị lập kế hoạch, tạo và thực hiện các chiến dịch quảng cáo hoàn chỉnh cho khách hàng của mình. Đến năm 1900, công ty quảng cáo đã trở thành trọng tâm của việc lập kế hoạch sáng tạo và quảng cáo đã được khẳng định vững chắc như một nghề nghiệp. Cùng thời gian đó, ở Pháp, Charles-Louis Havas đã mở rộng các dịch vụ của hãng thông tấn Havas của mình để bao gồm môi giới quảng cáo, khiến nó trở thành tập đoàn Pháp đầu tiên tổ chức. Lúc đầu, các công ty quảng cáo là nhà môi giới không gian quảng cáo trên báo chí. Cuối thế kỷ 19: Quảng cáo hiện đại Thomas J. Barratt của London được mệnh danh là "cha đẻ của ngành quảng cáo hiện đại". Khi làm việc cho công ty xà phòng Pears, Barratt đã tạo ra một chiến dịch quảng cáo hiệu quả cho các sản phẩm của công ty, trong đó sử dụng các khẩu hiệu, hình ảnh và cụm từ được nhắm mục tiêu. Một trong những khẩu hiệu của ông, "Chào buổi sáng. Bạn đã sử dụng xà phòng Pears chưa?" đã nổi tiếng vào thời của ông và đến tận thế kỷ 20. Năm 1882, Barratt đã tuyển chọn nữ diễn viên người Anh Lillie Langtry trở thành gương mặt đại diện cho Pears, biến bà trở thành người nổi tiếng đầu tiên quảng cáo cho một sản phẩm thương mại. Trở thành giám đốc thương hiệu của công ty vào năm 1865, được Sách Kỷ lục Guinness ghi nhận là người đầu tiên của loại hình này, Barratt đã đưa ra nhiều ý tưởng quan trọng là nền tảng của quảng cáo thành công và những ý tưởng này đã được lưu hành rộng rãi vào thời của ông. Ông liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của một hình ảnh thương hiệu mạnh mẽ và độc quyền cho Pears và việc nhấn mạnh tính khả dụng của sản phẩm thông qua các chiến dịch bão hòa. Ông cũng hiểu tầm quan trọng của việc liên tục đánh giá lại thị trường để thay đổi thị hiếu và đạo đức, khi tuyên bố vào năm 1907 rằng "thị hiếu thay đổi, thời trang thay đổi và nhà quảng cáo phải thay đổi theo chúng. Một ý tưởng hiệu quả một thế hệ trước sẽ thất bại, cũ kỹ và không lợi nhuận nếu được trình bày cho công chúng ngày nay. Không phải ý tưởng của ngày hôm nay luôn tốt hơn ý tưởng cũ, nhưng nó khác - nó đánh vào thị hiếu hiện tại." trái|nhỏ|180x180px|Quảng cáo cho tấm wafer Huntley & Palmers c.  1890 Một trong những tác động của Cách mạng Công nghiệp ở Anh là doanh thu quảng cáo tăng cao. Nhờ cuộc cách mạng và người tiêu dùng mà nó tạo ra, đến giữa thế kỷ 19, bánh quy và sô cô la đã trở thành những sản phẩm dành cho đại chúng, và các nhà sản xuất bánh quy của Anh là một trong những nhà sản xuất đầu tiên giới thiệu nhãn hiệu để phân biệt các sản phẩm tạp hóa. Một trong những thương hiệu toàn cầu đầu tiên trên thế giới, bánh quy Huntley & Palmers được bán ở 172 quốc gia vào năm 1900 và phạm vi toàn cầu của họ được phản ánh trong các quảng cáo của họ. nhỏ|Bức tranh về nội thất của một chiếc xe buýt cuối thế kỷ 19 của George William Joy thể hiện rõ ràng các quảng cáo được đặt trên đầu hành khách. Thế kỷ 20 trái|nhỏ|294x294px|Quảng cáo cho Guy's Tonic vào những năm 1900 phải|nhỏ|Doanh thu quảng cáo tính theo tỷ lệ GDP của Hoa Kỳ cho thấy sự gia tăng của quảng cáo audio-visual và kỹ thuật số với chi phí của các phương tiện in ấn.. trái|nhỏ|219x219px|Một quảng cáo bằng tiếng Estonia về chuyến du ngoạn giữa Tallinn và Helsinki vào những năm 1930 phải|nhỏ|Một quảng cáo trên báo Encyclopædia Britannica số ra năm 1913 Quảng cáo đã tăng đáng kể ở Hoa Kỳ do quá trình công nghiệp hóa ồ ạt. Năm 1919, quảng cáo chiếm 2,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Hoa Kỳ và trung bình chiếm 2,2% GDP từ đó đến ít nhất là năm 2007, mặc dù nó có thể đã giảm đáng kể kể từ cuộc Đại suy thoái. Ngành công nghiệp không thể hưởng lợi từ việc tăng năng suất nếu không có sự gia tăng đáng kể chi tiêu của người tiêu dùng. Điều này đã góp phần vào sự phát triển của tiếp thị đại chúng được thiết kế để tác động đến hành vi kinh tế của dân số trên quy mô lớn hơn. Trong những năm 1910 và 1920, các nhà quảng cáo ở Hoa Kỳ đã áp dụng học thuyết cho rằng bản năng của con người có thể được nhắm mục tiêu và khai thác - " thăng hoa" thành mong muốn mua hàng hóa. Edward Bernays, cháu trai của Sigmund Freud, đã trở nên nổi tiếng với phương pháp này và đôi khi được gọi là cha đẻ của quảng cáo và quan hệ công chúng hiện đại. Bernays tuyên bố rằng:Nói cách khác, việc bán sản phẩm bằng cách hấp dẫn tâm trí lý trí của khách hàng (phương pháp chính được sử dụng trước Bernays) ít hiệu quả hơn nhiều so với việc bán sản phẩm dựa trên những ham muốn vô thức mà Bernays cho rằng là động cơ thúc đẩy thực sự của hành động của con người. "Sex sells" (tình dục bán hàng) đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi, với các kỹ thuật kích thích và mở rộng đối tượng khán giả đặt ra thách thức cho đạo đức thông thường. Trong những năm 1920, dưới thời Thứ trưởng Thương mại Herbert Hoover, chính phủ Mỹ đã thúc đẩy quảng cáo. Bản thân Hoover đã có một bài phát biểu trước các Câu lạc bộ Quảng cáo Liên kết của Thế giới vào năm 1925 có tên là "Quảng cáo là một Lực lượng VITAL trong Đời sống Quốc gia của Chúng ta". Vào tháng 10 năm 1929, người đứng đầu Cục Thương mại Đối ngoại và trong nước Hoa Kỳ, Julius Klein, đã tuyên bố "Quảng cáo là chìa khóa cho sự thịnh vượng của thế giới." Đây là một phần của sự hợp tác "vô song" giữa doanh nghiệp và chính phủ trong những năm 1920, theo một tạp chí kinh tế châu Âu năm 1933. Các công ty thuốc lá đã trở thành những nhà quảng cáo lớn để bán thuốc lá đóng gói. Các công ty thuốc lá đã đi tiên phong trong các kỹ thuật quảng cáo mới khi họ thuê Bernays để tạo ra những liên tưởng tích cực với việc hút thuốc lá. Quảng cáo cũng được sử dụng như một phương tiện đồng hóa văn hóa, khuyến khích người lao động từ bỏ những thói quen và cấu trúc cộng đồng truyền thống của họ để ủng hộ một lối sống "hiện đại" chung. Một công cụ quan trọng để gây ảnh hưởng đến người lao động nhập cư là Hiệp hội Báo chí Ngôn ngữ Nước ngoài Hoa Kỳ (AAFLN). AAFLN chủ yếu là một công ty quảng cáo, nhưng cũng nắm quyền kiểm soát chặt chẽ đối với nhiều tờ báo của người nhập cư. nhỏ|Tạp chí Ladies' Home Journal năm 1916 Phiên bản quảng cáo nổi tiếng của Helen Lansdowne Resor của Cơ quan J. Walter Thompson Vào đầu thế kỷ 20, quảng cáo là một trong số ít lựa chọn nghề nghiệp dành cho phụ nữ. Vì phụ nữ chịu trách nhiệm cho hầu hết việc mua sắm trong gia đình nên các nhà quảng cáo và các công ty nhận ra giá trị của ý kiến phụ nữ trong quá trình sáng tạo. Trên thực tế, quảng cáo Mỹ đầu tiên sử dụng yếu tố tình dục để bán hàng được tạo ra bởi một phụ nữ - cho một sản phẩm xà phòng. Mặc dù theo tiêu chuẩn ngày nay thì quảng cáo này có vẻ khá nhẹ nhàng, nhưng nó có hình ảnh một cặp đôi với thông điệp "Một làn da mà bạn thích chạm vào". Trong những năm 1920, các nhà tâm lý học Walter D. Scott và John B. Watson đã đóng góp lý thuyết tâm lý ứng dụng vào lĩnh vực quảng cáo. Scott nói: "Con người được gọi là động vật lý trí, nhưng có lẽ chính xác hơn khi gọi con người là sinh vật dễ bị ám thị. Con người là sinh vật lý trí, nhưng con người cũng dễ bị ám thị hơn". Ông đã chứng minh điều này thông qua kỹ thuật quảng cáo của mình là ra lệnh trực tiếp cho người tiêu dùng. Đài phát thanh từ những năm 1920 nhỏ|Quảng cáo cho một chương trình phát thanh trực tiếp, được tài trợ bởi công ty sữa Adohr milk, và đăng trên tờ Los Angeles Times vào ngày 6 tháng 5 năm 1930 Vào đầu những năm 1920, các đài phát thanh đầu tiên được thành lập bởi các nhà sản xuất thiết bị radio, tiếp theo là các tổ chức phi lợi nhuận như trường học, câu lạc bộ và các nhóm công dân, những người cũng thành lập các đài riêng của họ. Các nhà bán lẻ và nhà sản xuất hàng tiêu dùng nhanh chóng nhận ra tiềm năng của radio trong việc tiếp cận người tiêu dùng tại nhà và sớm áp dụng các kỹ thuật quảng cáo cho phép thông điệp của họ nổi bật; các khẩu hiệu, biểu tượng và giai điệu bắt đầu xuất hiện trên radio vào những năm 1920 và truyền hình sơ khai vào những năm 1930. Sự phát triển của truyền thông đại chúng đã cho phép các nhà sản xuất hàng hóa có thương hiệu vượt qua các nhà bán lẻ bằng cách quảng cáo trực tiếp cho người tiêu dùng. Đây là một sự thay đổi lớn trong mô hình kinh doanh, buộc các nhà sản xuất phải tập trung vào thương hiệu và kích thích nhu cầu tìm hiểu sâu sắc hơn về hành vi mua sắm, tiêu dùng và sử dụng của người tiêu dùng; nhu cầu, mong muốn và khát vọng của họ. Loạt phim truyền hình radio đầu tiên được tài trợ bởi các nhà sản xuất xà phòng và thể loại này được gọi là soap opera. Chẳng bao lâu, các chủ sở hữu đài phát thanh nhận ra rằng họ có thể tăng doanh thu quảng cáo bằng cách bán "giờ phát sóng" thành các khoảng thời gian nhỏ có thể bán cho nhiều doanh nghiệp. Đến những năm 1930, những quảng cáo này, được gọi là các gói thời gian, đã được bán bởi các đại diện bán hàng địa lý của đài, mở ra kỷ nguyên quảng cáo radio quốc gia. Đến những năm 1940, các nhà sản xuất bắt đầu nhận ra cách mà người tiêu dùng đang phát triển mối quan hệ cá nhân với thương hiệu của họ theo nghĩa xã hội/tâm lý/nhân học. Các nhà quảng cáo bắt đầu sử dụng nghiên cứu động lực và nghiên cứu người tiêu dùng để thu thập thông tin chi tiết về hành vi mua sắm của người tiêu dùng. Các chiến dịch thương hiệu mạnh mẽ cho Chrysler và Exxon/Esso, sử dụng thông tin chi tiết thu được từ các phương pháp nghiên cứu trong tâm lý học và nhân học văn hóa, đã dẫn đến một số chiến dịch bền bỉ nhất của thế kỷ 20. Truyền hình thương mại những năm 1950 Vào đầu những năm 1950, DuMont Television Network đã bắt đầu thực hành bán thời gian quảng cáo cho nhiều nhà tài trợ. Trước đó, DuMont gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhà tài trợ cho nhiều chương trình của họ và đã bù đắp bằng cách bán các khối thời gian quảng cáo nhỏ hơn cho một số doanh nghiệp. Điều này cuối cùng đã trở thành tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp truyền hình thương mại ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vẫn là một thông lệ phổ biến để có các chương trình tài trợ duy nhất, chẳng hạn như The United States Steel Hour. Trong một số trường hợp, các nhà tài trợ đã thực hiện quyền kiểm soát lớn đối với nội dung của chương trình - đến mức có cơ quan quảng cáo của họ thực sự viết kịch bản cho chương trình. Mô hình nhà tài trợ duy nhất hiện nay ít phổ biến hơn nhiều, một ngoại lệ đáng chú ý là Hallmark Hall of Fame. Truyền hình cáp từ những năm 1980 Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, truyền hình cáp và đặc biệt là MTV đã ra đời. MTV đã tiên phong trong khái niệm video âm nhạc và mở ra một loại hình quảng cáo mới: người tiêu dùng theo dõi thông điệp quảng cáo thay vì coi nó là một sản phẩm phụ hoặc suy nghĩ sau. Khi truyền hình cáp và vệ tinh trở nên phổ biến hơn, các kênh chuyên biệt đã xuất hiện, bao gồm các kênh hoàn toàn dành cho quảng cáo, chẳng hạn như QVC, Home Shopping Network và ShopTV Canada. Internet từ những năm 1990 Với sự ra đời của máy chủ quảng cáo, quảng cáo trực tuyến đã phát triển mạnh mẽ, góp phần vào sự bùng nổ "dot-com" của những năm 1990. Toàn bộ các tập đoàn hoạt động chỉ dựa trên doanh thu quảng cáo, cung cấp mọi thứ từ phiếu giảm giá đến truy cập Internet miễn phí. Vào đầu thế kỷ 21, một số trang web, bao gồm công cụ tìm kiếm Google, đã thay đổi quảng cáo trực tuyến bằng cách cá nhân hóa quảng cáo dựa trên hành vi duyệt web. Điều này đã dẫn đến những nỗ lực tương tự khác và sự gia tăng của quảng cáo tương tác. Tỷ lệ chi tiêu cho quảng cáo so với GDP đã thay đổi rất ít trong các thay đổi lớn về phương tiện kể từ năm 1925. Năm 1925, các phương tiện quảng cáo chính ở Mỹ là báo chí, tạp chí, biển quảng cáo trên xe điện và áp phích ngoài trời. Chi tiêu cho quảng cáo chiếm khoảng 2,9% GDP. Đến năm 1998, truyền hình và phát thanh đã trở thành phương tiện quảng cáo chính; đến năm 2017, cán cân giữa quảng cáo phát sóng và quảng cáo trực tuyến đã thay đổi, với chi tiêu trực tuyến vượt qua phát sóng. Tuy nhiên, chi tiêu cho quảng cáo chiếm tỷ lệ GDP thấp hơn một chút - khoảng 2,4%. Tiếp thị du kích (Guerrilla marketing) là một hình thức tiếp thị sử dụng các phương pháp tiếp cận bất thường như dàn dựng các cuộc gặp gỡ ở nơi công cộng, tặng sản phẩm miễn phí như ô tô được phủ đầy thông điệp thương hiệu và quảng cáo tương tác, nơi người xem có thể phản hồi để trở thành một phần của thông điệp quảng cáo. Loại hình quảng cáo này không thể đoán trước, khiến người tiêu dùng mua sản phẩm hoặc ý tưởng. Điều này phản ánh xu hướng ngày càng tăng của quảng cáo tương tác và "nhúng", chẳng hạn như thông qua việc đặt sản phẩm, người tiêu dùng bỏ phiếu qua tin nhắn văn bản và các chiến dịch khác nhau sử dụng các dịch vụ mạng xã hội như Facebook hoặc Twitter. Mô hình kinh doanh quảng cáo cũng đã được điều chỉnh trong những năm gần đây. Trong truyền thông đổi lấy vốn, quảng cáo không được bán mà được cung cấp cho các công ty khởi nghiệp để đổi lấy vốn. Nếu công ty phát triển và được bán, các công ty truyền thông sẽ nhận được tiền mặt cho cổ phiếu của họ. Các nhà đăng ký tên miền (thường là những người đăng ký và gia hạn tên miền như một khoản đầu tư) đôi khi "đỗ" tên miền của họ và cho phép các công ty quảng cáo đặt quảng cáo trên các trang web của họ để đổi lấy các khoản thanh toán theo nhấp chuột. Các quảng cáo này thường được điều khiển bởi các công cụ tìm kiếm trả tiền theo nhấp chuột như Google hoặc Yahoo, nhưng đôi khi cũng có thể đặt quảng cáo trực tiếp trên các tên miền được nhắm mục tiêu thông qua việc thuê tên miền hoặc liên hệ với người đăng ký của tên miền mô tả sản phẩm. Các nhà đăng ký tên miền thường dễ dàng xác định thông qua các bản ghi WHOIS có sẵn công khai trên các trang web của nhà đăng ký. Phân loại thumbtime=3:52|nhỏ|Một quảng cáo cho Wikimedia Foundation nhỏ|Quảng cáo cho một quán ăn. Những dấu hiệu như vậy thường thấy ở mặt tiền cửa hàng. nhỏ|Một chiếc taxi có quảng cáo của Daikin ở Singapore. nhỏ|Bảng quảng cáo di động ở East Coast Park, Singapore nhỏ|Khinh khí cầu hiển thị quảng cáo cho tạp chí GEO Quảng cáo có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, bao gồm theo phong cách, đối tượng mục tiêu, phạm vi địa lý, phương tiện hoặc mục đích. Ví dụ, trong quảng cáo in ấn, phân loại theo phong cách có thể bao gồm quảng cáo hiển thị (quảng cáo có các yếu tố thiết kế được bán theo kích thước) so với quảng cáo phân loại (quảng cáo không có yếu tố thiết kế được bán theo từ hoặc dòng). Quảng cáo có thể là địa phương, quốc gia hoặc toàn cầu. Một chiến dịch quảng cáo có thể hướng đến người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp. Mục đích của quảng cáo có thể là nâng cao nhận thức (quảng cáo thương hiệu) hoặc tạo ra doanh số bán hàng ngay lập tức (quảng cáo phản hồi trực tiếp). Thuật ngữ above the line (ATL) được sử dụng cho quảng cáo liên quan đến phương tiện truyền thông đại chúng; các hình thức quảng cáo và khuyến mãi được nhắm mục tiêu hơn được gọi là below the line (BTL). Hai thuật ngữ này có từ năm 1954 khi Procter & Gamble bắt đầu trả tiền cho các công ty quảng cáo của họ khác với các công ty khuyến mãi khác. Trong những năm 2010, khi công nghệ quảng cáo phát triển, một thuật ngữ mới, through the line (TTL) bắt đầu được sử dụng, đề cập đến các chiến dịch quảng cáo tích hợp. Phương tiện truyền thông truyền thống Hầu như bất kỳ phương tiện nào cũng có thể được sử dụng để quảng cáo. Các phương tiện quảng cáo thương mại có thể bao gồm tranh tường, bảng quảng cáo, các thành phần nội thất đường phố, tờ rơi và thẻ xếp in, radio, quảng cáo rạp chiếu phim và truyền hình, biểu ngữ web, màn hình điện thoại di động, giỏ hàng, cửa sổ bật lên trên web, viết trên bầu trời, ghế dài trạm xe buýt, bảng quảng cáo di động và quảng cáo trên trán, tạp chí, báo, người rao tin, hai bên xe buýt, biểu ngữ gắn vào hoặc hai bên máy bay ("máy bay logo"), quảng cáo trên chuyến bay trên bàn khay ghế hoặc thùng chứa đồ phía trên, cửa xe taxi, giá đỡ trên nóc và màn hình hành khách, chương trình sân khấu âm nhạc, nền tảng và tàu điện ngầm, dây thun trên tã lót dùng một lần, cửa buồng vệ sinh, nhãn dán trên táo ở siêu thị, tay cầm giỏ hàng (grabertising), phần mở đầu của âm thanh và video phát trực tuyến, áp phích và mặt sau của vé sự kiện và hóa đơn siêu thị. Bất kỳ tình huống nào mà nhà tài trợ "được xác định" trả tiền để gửi thông điệp của họ thông qua phương tiện truyền thông đều là quảng cáo. Tivi Quảng cáo trên truyền hình là một trong những loại quảng cáo đắt nhất; các kênh truyền hình tính phí rất cao cho thời gian phát sóng quảng cáo trong các sự kiện phổ biến. Trận đấu bóng bầu dục Super Bowl hàng năm ở Hoa Kỳ được coi là sự kiện quảng cáo nổi bật nhất trên truyền hình - với lượng khán giả hơn 108 triệu người và các nghiên cứu cho thấy 50% trong số đó chỉ theo dõi để xem quảng cáo. Trong phiên bản năm 2014 của trò chơi này, quảng cáo dài ba mươi giây trung bình có giá 4 triệu đô la và 8 triệu đô la được tính phí cho một quảng cáo dài 60 giây. Quảng cáo ảo có thể được chèn vào chương trình thông thường thông qua đồ họa máy tính. Nó thường được chèn vào phông nền trống hoặc được sử dụng để thay thế các bảng quảng cáo địa phương không liên quan đến khán giả phát sóng từ xa. Bảng quảng cáo ảo có thể được chèn vào nền ở những nơi không tồn tại trong đời thực. Kỹ thuật này đặc biệt được sử dụng trong các sự kiện thể thao được truyền hình. Cũng có thể đặt sản phẩm ảo. Quảng cáo dài là một loại quảng cáo truyền hình dài, thường dài năm phút trở lên. Tên này kết hợp các từ "thông tin" và "thương mại". Mục tiêu chính của quảng cáo dài là tạo ra một cú mua hàng bốc đồng, để khách hàng mục tiêu xem bài thuyết trình và sau đó ngay lập tức mua sản phẩm thông qua số điện thoại miễn phí hoặc trang web được quảng cáo. Quảng cáo dài thường mô tả và giới thiệu sản phẩm, đồng thời có lời chứng thực từ khách hàng và các chuyên gia trong ngành. nhỏ|Một quảng cáo truyền hình được quay vào năm 1948 Radio Quảng cáo trên radio được phát sóng dưới dạng sóng radio lên không trung từ máy phát đến ăng-ten và do đó đến thiết bị thu. Thời gian phát sóng được mua từ một đài hoặc mạng lưới để đổi lấy việc phát sóng các quảng cáo. Mặc dù radio có hạn chế là chỉ giới hạn ở âm thanh, nhưng những người ủng hộ quảng cáo trên radio thường coi đây là một lợi thế. Radio là một phương tiện đang phát triển có thể được tìm thấy trên sóng phát thanh và trực tuyến. Theo Arbitron, radio có khoảng 241,6 triệu người nghe hàng tuần, tương đương hơn 93% dân số Hoa Kỳ. Trực tuyến Quảng cáo trực tuyến là một hình thức quảng cáo sử dụng Internet và World Wide Web để truyền tải thông điệp tiếp thị nhằm thu hút khách hàng. Quảng cáo trực tuyến được phân phối bởi một máy chủ quảng cáo. Các ví dụ về quảng cáo trực tuyến bao gồm quảng cáo theo ngữ cảnh xuất hiện trên trang kết quả của công cụ tìm kiếm, quảng cáo biểu ngữ, quảng cáo văn bản trả tiền cho mỗi nhấp chuột, quảng cáo phương tiện phong phú, quảng cáo trên mạng xã hội, quảng cáo phân loại trực tuyến, mạng quảng cáo và tiếp thị qua email, bao gồm cả e-mail spam. Một hình thức quảng cáo trực tuyến mới hơn là Quảng cáo gốc; chúng được hiển thị trong nguồn cấp tin tức của trang web và được cho là cải thiện trải nghiệm người dùng bằng cách ít gây khó chịu hơn. Tuy nhiên, một số người cho rằng cách làm này là lừa dối. Tên miền Quảng cáo tên miền thường được thực hiện thông qua công cụ tìm kiếm trả tiền cho mỗi lần nhấp chuột (PPC), tuy nhiên, các nhà quảng cáo thường thuê trực tiếp các tên miền mô tả chung về sản phẩm của họ. Khi người dùng Internet truy cập vào một trang web bằng cách gõ tên miền trực tiếp vào trình duyệt web của họ, điều này được gọi là "truy cập trực tiếp" hoặc "gõ vào" lưu lượng truy cập web. Mặc dù nhiều người dùng Internet tìm kiếm ý tưởng và sản phẩm bằng cách sử dụng công cụ tìm kiếm và điện thoại di động, nhưng một số lượng lớn người dùng trên khắp thế giới vẫn sử dụng thanh địa chỉ. Họ sẽ gõ một từ khóa vào thanh địa chỉ như "geraniums" và thêm ".com" vào cuối. Đôi khi họ sẽ làm tương tự với ".org" hoặc TLD mã quốc gia (TLD như ".co.uk" cho Vương quốc Anh hoặc ".ca" cho Canada). Khi người dùng Internet gõ một từ khóa chung và thêm .com hoặc kết thúc tên miền cấp cao nhất (TLD) khác, nó sẽ tạo ra một khách hàng tiềm năng được nhắm mục tiêu. Quảng cáo tên miền ban đầu được phát triển bởi Oingo (sau này được gọi là Applied Semantics), một trong những vụ mua lại ban đầu của Google. Marketing lồng ghép sản phẩm Marketing lồng ghép sản phẩm là một loại quảng cáo mà trong đó sản phẩm hoặc thương hiệu được nhúng vào trong các chương trình giải trí và phương tiện truyền thông. Ví dụ, trong một bộ phim, nhân vật chính có thể sử dụng một món đồ hoặc một thứ gì đó khác của một thương hiệu cụ thể, như trong bộ phim Minority Report, nơi nhân vật John Anderton của Tom Cruise sở hữu một chiếc điện thoại có logo Nokia được viết rõ ràng ở góc trên cùng, hoặc chiếc đồng hồ của anh ấy được khắc logo Bulgari. Một ví dụ khác về quảng cáo trong phim là trong I, Robot, nơi nhân vật chính do Will Smith thủ vai đề cập đến đôi giày Converse của mình nhiều lần, gọi chúng là "kinh điển", bởi vì bộ phim được đặt trong tương lai xa. I, Robot và Spaceballs cũng giới thiệu những chiếc xe tương lai có logo Audi và Mercedes-Benz hiển thị rõ ràng ở phía trước xe. Cadillac đã chọn quảng cáo trong bộ phim The Matrix Reloaded, do đó có nhiều cảnh sử dụng xe Cadillac. Tương tự, quảng cáo lồng ghép cho đồng hồ Omega, xe Ford, VAIO, BMW và Aston Martin xuất hiện trong các bộ phim James Bond gần đây, đáng chú ý nhất là Casino Royale. Trong bộ phim "Fantastic Four: Rise of the Silver Surfer", chiếc xe vận chuyển chính có một logo Dodge lớn ở phía trước. Blade Runner bao gồm một số quảng cáo lồng ghép sản phẩm rõ ràng nhất; toàn bộ bộ phim dừng lại để hiển thị một bảng quảng cáo Coca-Cola. In Quảng cáo in ấn là quảng cáo trên các phương tiện in ấn như báo, tạp chí hoặc tạp chí chuyên ngành. Điều này bao gồm tất cả mọi thứ từ các phương tiện truyền thông có lượng độc giả rất rộng, chẳng hạn như báo hoặc tạp chí quốc gia lớn, đến các phương tiện truyền thông được nhắm mục tiêu hẹp hơn như báo địa phương và tạp chí chuyên ngành về các chủ đề rất chuyên biệt. Một hình thức quảng cáo in ấn là quảng cáo phân loại, cho phép cá nhân hoặc công ty tư nhân mua một quảng cáo nhỏ, được nhắm mục tiêu hẹp, được trả tiền theo từ hoặc dòng. Một hình thức quảng cáo in ấn khác là quảng cáo hiển thị, thường là quảng cáo lớn hơn với các yếu tố thiết kế, thường chạy trong phần bài viết của báo. Ngoài trời nhỏ|250x250px|Quảng cáo ngoài trời, chẳng hạn như Quảng trường Shaftesbury, London khoảng năm 1949 trong ảnh, thường được đặt ở những nơi đông người. Biển quảng cáo, còn được gọi là bảng quảng cáo ở một số nơi trên thế giới, là những cấu trúc lớn được đặt ở những nơi công cộng để hiển thị quảng cáo cho người đi bộ và người lái xe qua đường. Thông thường, chúng được đặt trên các tuyến đường chính có lượng người đi bộ và xe cộ qua lại lớn; tuy nhiên, chúng có thể được đặt ở bất kỳ vị trí nào có đông người xem, chẳng hạn như trên các phương tiện giao thông công cộng và trong các nhà ga, trong các trung tâm mua sắm hoặc tòa nhà văn phòng và trong các sân vận động. Hình thức quảng cáo đường phố lần đầu tiên xuất hiện ở Vương quốc Anh bởi Dịch vụ Quảng cáo Đường phố để tạo ra quảng cáo ngoài trời trên đồ nội thất đường phố và vỉa hè. Làm việc với các sản phẩm như Reverse Graffiti, air dancers và quảng cáo vỉa hè 3D, để đưa thông điệp thương hiệu ra không gian công cộng. Quảng cáo ngoài trời có mái che kết hợp quảng cáo ngoài trời với quảng cáo trong nhà bằng cách đặt các cấu trúc (lều) di động lớn ở những nơi công cộng trên cơ sở tạm thời. Không gian quảng cáo bên ngoài lớn nhằm thu hút mạnh mẽ sự chú ý của người xem, sản phẩm được quảng cáo bên trong, nơi trang trí sáng tạo có thể tăng cường ấn tượng. Biển quảng cáo di động thường là biển quảng cáo được gắn trên xe hoặc màn hình kỹ thuật số. Chúng có thể được gắn trên các loại xe chuyên dụng được chế tạo riêng để mang quảng cáo theo các tuyến đường do khách hàng lựa chọn trước, chúng cũng có thể là xe tải chở hàng được trang bị đặc biệt hoặc trong một số trường hợp, là những tấm băng rôn lớn được treo từ máy bay. Các biển quảng cáo thường được chiếu sáng; một số được chiếu sáng từ phía sau, và một số sử dụng đèn chiếu điểm. Một số biển quảng cáo là tĩnh, trong khi những biển khác thay đổi; ví dụ, quay liên tục hoặc định kỳ giữa một tập hợp các quảng cáo. Màn hình di động được sử dụng cho nhiều tình huống khác nhau ở các khu đô thị trên khắp thế giới, bao gồm: quảng cáo mục tiêu, các chiến dịch một ngày và dài hạn, hội nghị, sự kiện thể thao, khai trương cửa hàng và các sự kiện quảng cáo tương tự, và các quảng cáo lớn từ các công ty nhỏ hơn. nhỏ|Tờ báo RedEye đã quảng cáo cho thị trường mục tiêu của mình tại bãi biển North Avenue với một tấm biển quảng cáo thuyền buồm trên hồ Michigan. Điểm bán hàng Quảng cáo trong cửa hàng là bất kỳ quảng cáo nào được đặt trong một cửa hàng bán lẻ. Nó bao gồm việc đặt sản phẩm ở những vị trí dễ nhìn thấy trong cửa hàng, chẳng hạn như ngang tầm mắt, ở cuối lối đi và gần quầy tính tiền (hay còn gọi là POP - trưng bày tại điểm bán hàng), trưng bày bắt mắt quảng cáo cho một sản phẩm cụ thể và quảng cáo ở những nơi như xe đẩy mua sắm và màn hình video trong cửa hàng. Quảng cáo người nổi tiếng Quảng cáo người nổi tiếng là việc một người nổi tiếng quảng cáo cho một sản phẩm hoặc thương hiệu, tận dụng sức mạnh, danh tiếng, tiền bạc và sự nổi tiếng của người nổi tiếng để thu hút sự chú ý cho sản phẩm của họ hoặc quảng cáo cho các cửa hàng hoặc sản phẩm cụ thể. Các nhà quảng cáo thường quảng cáo sản phẩm của họ, chẳng hạn như khi người nổi tiếng chia sẻ sản phẩm yêu thích của họ hoặc mặc quần áo của các thương hiệu hoặc nhà thiết kế cụ thể. Người nổi tiếng thường tham gia vào các chiến dịch quảng cáo như quảng cáo trên truyền hình hoặc báo in để quảng cáo các sản phẩm cụ thể hoặc chung. Tuy nhiên, việc sử dụng người nổi tiếng để quảng cáo cho một thương hiệu cũng có thể có những nhược điểm; một sai lầm của người nổi tiếng có thể gây hại đến quan hệ công chúng của một thương hiệu. Ví dụ, sau khi giành được tám huy chương vàng tại Thế vận hội Olympic 2008 ở Bắc Kinh, Trung Quốc, hợp đồng của kình ngư Michael Phelps với Kellogg's đã bị chấm dứt, vì Kellogg's không muốn liên kết với anh sau khi anh bị chụp ảnh đang hút cần sa. Người nổi tiếng như Britney Spears đã quảng cáo cho nhiều sản phẩm khác nhau bao gồm Pepsi, Candies from Kohl's, Twister, NASCAR và Toyota. nhỏ|Một chiếc máy bay của Allegiant Air với lớp sơn đặc biệt của Blue Man Group Phương pháp truyền thông mới Một cách tiếp cận quảng cáo mới được gọi là quảng cáo tiên tiến, đây là quảng cáo dựa trên dữ liệu, sử dụng lượng lớn dữ liệu, công cụ đo lường chính xác và nhắm mục tiêu chính xác. Quảng cáo tiên tiến cũng giúp các công ty bán không gian quảng cáo dễ dàng hơn trong việc gán các giao dịch mua của khách hàng cho quảng cáo mà họ hiển thị hoặc phát sóng. Ngày càng có nhiều phương tiện truyền thông khác đang vượt qua nhiều phương tiện truyền thông "truyền thống" như truyền hình, đài phát thanh và báo chí do sự thay đổi sang việc sử dụng Internet để xem tin tức và nghe nhạc cũng như các thiết bị như máy ghi hình video kỹ thuật số (DVR) như TiVo. Quảng cáo trực tuyến bắt đầu với quảng cáo e-mail hàng loạt không mong muốn, được gọi là "e-mail spam". Thư rác đã là vấn đề đối với người dùng e-mail từ năm 1978. Khi các kênh truyền thông trực tuyến mới xuất hiện, quảng cáo cũng theo sau. Quảng cáo biểu ngữ đầu tiên xuất hiện trên World Wide Web vào năm 1994. Giá của không gian quảng cáo trên Web phụ thuộc vào "độ liên quan" của nội dung web xung quanh và lưu lượng truy cập mà trang web nhận được. Trong quảng cáo hiển thị trực tuyến, quảng cáo hiển thị tạo ra nhận thức nhanh chóng. Không giống như tìm kiếm, đòi hỏi ai đó phải nhận thức được nhu cầu, quảng cáo hiển thị có thể thúc đẩy nhận thức về một cái gì đó mới và không có kiến thức trước đó. Hiển thị hoạt động tốt cho phản hồi trực tiếp. Hiển thị không chỉ được sử dụng để tạo ra nhận thức, nó được sử dụng cho các chiến dịch phản hồi trực tiếp liên kết đến trang đích với "gọi hành động" rõ ràng. Khi điện thoại di động trở thành một phương tiện truyền thông đại chúng mới vào năm 1998 khi nội dung có thể tải xuống trả phí đầu tiên xuất hiện trên điện thoại di động ở Phần Lan, quảng cáo di động đã theo sau, cũng được ra mắt lần đầu tiên ở Phần Lan vào năm 2000. Đến năm 2007, giá trị của quảng cáo di động đã đạt 2 tỷ USD và các nhà cung cấp như Admob đã phân phối hàng tỷ quảng cáo di động. Các quảng cáo di động tiên tiến hơn bao gồm quảng cáo biểu ngữ, phiếu giảm giá, tin nhắn hình ảnh và video của Dịch vụ nhắn tin đa phương tiện (MMS), trò chơi quảng cáo và các chiến dịch tiếp thị tương tác khác nhau. Một tính năng đặc biệt thúc đẩy quảng cáo di động là mã vạch 2D, thay thế nhu cầu phải nhập bất kỳ địa chỉ web nào và sử dụng tính năng camera của điện thoại hiện đại để truy cập nội dung web ngay lập tức. 83% người dùng điện thoại di động Nhật Bản đã là người dùng tích cực của mã vạch 2D. Một số công ty đã đề xuất việc đặt các thông điệp hoặc logo công ty trên thân của các tên lửa đẩy và Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS). Quảng cáo không trả phí (còn gọi là "quảng cáo công khai") có thể bao gồm các khuyến nghị cá nhân ("mang theo một người bạn", "bán nó"), lan truyền thông tin hoặc đạt được thành tích gắn liền thương hiệu với một danh từ chung (ví dụ, ở Mỹ, "Xerox" = "photocopier", "Kleenex" = tissue, "Vaseline" = petroleum jelly, "Hoover" = vacuum cleaner, và "Band-Aid" = adhesive bandage). Tuy nhiên, một số công ty phản đối việc sử dụng tên thương hiệu của họ để dán nhãn cho một vật thể. Việc gắn liền một thương hiệu với một danh từ chung cũng có nguy cơ biến thương hiệu đó thành thương hiệu chung – biến nó thành một thuật ngữ chung, nghĩa là nó mất đi sự bảo vệ pháp lý với tư cách là thương hiệu. Vào giai đoạn đầu thành lập, The CW đã phát sóng các đoạn quảng cáo ngắn gọi là "Content Wraps", để quảng cáo sản phẩm của một công ty trong toàn bộ thời gian nghỉ quảng cáo. The CW là tiên phong trong việc sử dụng "content wraps" và một số sản phẩm được giới thiệu là Herbal Essences, Crest, Guitar Hero II, CoverGirl, và Toyota. Một khái niệm quảng cáo mới đã xuất hiện, đó là "ARvertising", quảng cáo trên công nghệ thực tế tăng cường. Sự nổi lên trên các phương tiện truyền thông mới nhỏ|Doanh thu quảng cáo trên báo Mỹ, Hiệp hội báo chí Mỹ công bố số liệu Internet đã mang đến nhiều cơ hội quảng cáo mới. Quảng cáo pop-up, Flash, banner, pop-under, advergaming và quảng cáo email (tất cả đều thường không mong muốn hoặc là thư rác trong trường hợp của email) hiện đã trở nên phổ biến. Đặc biệt kể từ sự ra đời của quảng cáo "giải trí", một số người có thể thích một quảng cáo đủ để muốn xem lại nó sau hoặc cho bạn bè xem. Nói chung, cộng đồng quảng cáo vẫn chưa thực hiện điều này một cách dễ dàng, mặc dù một số đã sử dụng Internet để phân phối rộng rãi quảng cáo của họ cho bất kỳ ai sẵn sàng xem hoặc nghe chúng. Trong ba quý cuối cùng của năm 2009, quảng cáo trên thiết bị di động và Internet đã tăng trưởng lần lượt 18% và 9%, trong khi quảng cáo trên các phương tiện truyền thông cũ hơn lại giảm: -10,1% (TV), -11,7% (radio), -14,8% (tạp chí) và -18,7% (báo). Từ năm 2008 đến năm 2014, các báo ở Mỹ đã mất hơn một nửa doanh thu quảng cáo in ấn. Tiếp thị ngách Một xu hướng quan trọng khác liên quan đến tương lai của quảng cáo là tầm quan trọng ngày càng tăng của thị trường ngách sử dụng quảng cáo ngách hoặc nhắm mục tiêu. Cũng được thúc đẩy bởi Internet và lý thuyết về đuôi dài, các nhà quảng cáo sẽ có khả năng tiếp cận đối tượng cụ thể ngày càng tăng. Trong quá khứ, cách hiệu quả nhất để truyền tải thông điệp là phủ sóng đối tượng thị trường đại chúng lớn nhất có thể. Tuy nhiên, việc theo dõi việc sử dụng, hồ sơ khách hàng và sự phổ biến ngày càng tăng của nội dung ngách được tạo ra bởi mọi thứ từ blog đến các trang mạng xã hội, cung cấp cho các nhà quảng cáo đối tượng nhỏ hơn nhưng được xác định tốt hơn, dẫn đến các quảng cáo phù hợp hơn với người xem và hiệu quả hơn cho các sản phẩm tiếp thị của công ty. Trong số những công ty khác, Comcast Spotlight là một nhà quảng cáo sử dụng phương pháp này trong menu video theo yêu cầu của họ. Những quảng cáo này được nhắm mục tiêu đến một nhóm cụ thể và có thể được xem bởi bất kỳ ai muốn tìm hiểu thêm về một doanh nghiệp hoặc hoạt động cụ thể, từ chính ngôi nhà của họ. Điều này khiến người xem trở nên chủ động và thực sự chọn những quảng cáo mà họ muốn xem. Tiếp thị ngách cũng có thể được hỗ trợ bằng cách đưa yếu tố màu sắc vào quảng cáo. Các màu sắc khác nhau đóng vai trò chính khi nói đến các chiến lược tiếp thị, chẳng hạn, nhìn thấy màu xanh lam có thể thúc đẩy cảm giác bình tĩnh và mang lại cảm giác an toàn, đó là lý do tại sao nhiều mạng xã hội như Facebook sử dụng màu xanh lam trong logo của họ. Google AdSense là một ví dụ về tiếp thị ngách. Google tính toán mục đích chính của một trang web và điều chỉnh quảng cáo phù hợp; nó sử dụng các từ khóa trên trang (hoặc thậm chí trong email) để tìm ra các ý tưởng chung của các chủ đề được sử dụng và đặt các quảng cáo mà người xem tài khoản email hoặc khách truy cập trang web có khả năng nhấp vào nhiều nhất. Crowdsourcing Khái niệm crowdsourcing đã mở đường cho xu hướng quảng cáo được tạo ra bởi người dùng. Quảng cáo được tạo ra bởi người dùng được tạo ra bởi mọi người, trái ngược với một công ty quảng cáo hoặc chính công ty, thường là kết quả từ các cuộc thi quảng cáo do thương hiệu tài trợ. Đối với Super Bowl 2007, bộ phận Frito-Lays của PepsiCo đã tổ chức cuộc thi "Crash the Super Bowl", cho phép mọi người tạo quảng cáo Doritos của riêng họ. Chevrolet cũng tổ chức một cuộc thi tương tự cho dòng SUV Tahoe của họ. Do thành công của các quảng cáo được tạo ra bởi người dùng Doritos trong Super Bowl 2007, Frito-Lays đã khởi động lại cuộc thi cho Super Bowl 2009 và 2010. Các quảng cáo kết quả là một trong những quảng cáo Super Bowl được xem nhiều nhất và được yêu thích nhất. Trên thực tế, quảng cáo chiến thắng được phát sóng trong Super Bowl 2009 đã được USA Today Super Bowl Ad Meter xếp hạng là quảng cáo hàng đầu của năm trong khi các quảng cáo chiến thắng được phát sóng trong Super Bowl 2010 được BuzzMetrics của Nielsen xếp hạng là "quảng cáo được bàn tán nhiều nhất" Một ví dụ khác về các công ty sử dụng crowdsourcing thành công là công ty đồ uống Jones Soda, khuyến khích người tiêu dùng tham gia thiết kế nhãn cho chính họ. Xu hướng này đã dẫn đến sự ra đời của một số nền tảng trực tuyến tổ chức các cuộc thi quảng cáo được tạo ra bởi người dùng thay mặt cho các công ty. Được thành lập vào năm 2007, Zooppa đã tổ chức các cuộc thi quảng cáo cho các thương hiệu như Google, Nike, Hershey's, General Mills, Microsoft, NBC Universal, Zinio, và Mini Cooper. Crowdsourcing vẫn còn gây tranh cãi, vì tác động lâu dài đối với ngành quảng cáo vẫn chưa rõ ràng. Toàn cầu hóa Quảng cáo đã trải qua 5 giai đoạn phát triển chính: trong nước, xuất khẩu, quốc tế, đa quốc gia và toàn cầu. Đối với các nhà quảng cáo toàn cầu, có 4 mục tiêu kinh doanh có thể cạnh tranh với nhau cần được cân bằng khi phát triển quảng cáo trên toàn thế giới: xây dựng thương hiệu trong khi nói lên một tiếng nói, phát triển quy mô kinh tế trong quy trình sáng tạo, tối đa hóa hiệu quả địa phương của quảng cáo và tăng tốc độ triển khai của công ty. Sinh ra từ các giai đoạn tiến hóa của tiếp thị toàn cầu là ba cách tiếp cận chính và về cơ bản khác nhau đối với việc phát triển các thực thi quảng cáo toàn cầu: xuất khẩu các thực thi, sản xuất các thực thi địa phương và nhập khẩu các ý tưởng đi du lịch. Nghiên cứu quảng cáo là chìa khóa để xác định thành công của một quảng cáo ở bất kỳ quốc gia hay khu vực nào. Khả năng xác định các yếu tố và/hoặc khoảnh khắc nào của quảng cáo góp phần vào thành công của nó là cách tối đa hóa quy mô kinh tế. Khi biết điều gì hiệu quả trong một quảng cáo, ý tưởng đó hoặc các ý tưởng đó có thể được nhập khẩu bởi bất kỳ thị trường nào khác. Các biện pháp nghiên cứu thị trường, chẳng hạn như Lưu lượng chú ý, Lưu lượng cảm xúc và Khoảnh khắc xây dựng thương hiệu, cung cấp thông tin chi tiết về những gì đang hoạt động trong một quảng cáo ở bất kỳ quốc gia hay khu vực nào vì các biện pháp dựa trên các yếu tố trực quan, không phải bằng lời, của quảng cáo. Thông điệp công chúng nước ngoài Các chính phủ nước ngoài, đặc biệt là những chính phủ sở hữu các sản phẩm hoặc dịch vụ thương mại có thể bán được, thường quảng bá lợi ích và vị thế của họ thông qua việc quảng cáo các hàng hóa đó bởi vì đối tượng mục tiêu không chỉ phần lớn không nhận thức được diễn đàn là một phương tiện truyền tải thông điệp nước ngoài mà còn sẵn sàng tiếp nhận thông điệp trong khi ở trong trạng thái tinh thần tiếp thu thông tin từ quảng cáo trong thời gian nghỉ quảng cáo truyền hình, khi đọc báo định kỳ hoặc khi đi qua các biển quảng cáo ở những nơi công cộng. Một ví dụ điển hình của kỹ thuật nhắn tin này là các chiến dịch quảng cáo nhằm thúc đẩy du lịch quốc tế. Mặc dù việc quảng cáo các điểm đến và dịch vụ nước ngoài có thể bắt nguồn từ mục tiêu điển hình là tăng doanh thu bằng cách thu hút nhiều du lịch hơn, một số chiến dịch du lịch mang theo mục đích dự định bổ sung hoặc thay thế là thúc đẩy tình cảm tốt đẹp hoặc cải thiện tình cảm hiện có trong số đối tượng mục tiêu đối với một quốc gia hoặc khu vực nhất định. Việc quảng cáo quảng bá các nước nước ngoài thường được sản xuất và phân phối bởi các bộ du lịch của các nước đó, vì vậy những quảng cáo này thường mang theo các tuyên bố chính trị và/hoặc những mô tả về nhận thức công chúng quốc tế mong muốn của chính phủ nước ngoài. Ngoài ra, một loạt các hãng hàng không nước ngoài và các dịch vụ liên quan đến du lịch quảng cáo riêng biệt với các điểm đến, bản thân chúng, thuộc sở hữu của chính phủ tương ứng của họ; ví dụ bao gồm, nhưng không giới hạn ở, hãng hàng không Emirates (Dubai), Singapore Airlines (Singapore), Qatar Airways (Qatar), China Airlines (Đài Loan/Cộng hòa Trung Hoa) và Air China (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa). Bằng cách mô tả các điểm đến, hãng hàng không và các dịch vụ khác của họ theo một ánh sáng thuận lợi và dễ chịu, các quốc gia tiếp thị bản thân cho các dân số ở nước ngoài theo cách có thể giảm thiểu ấn tượng công chúng trước đó. Đa dạng hóa Trong lĩnh vực các công ty quảng cáo, sự đa dạng hóa ngành tiếp tục đã khiến các nhà quan sát lưu ý rằng "các khách hàng toàn cầu lớn không cần các công ty quảng cáo toàn cầu lớn nữa". Điều này được thể hiện qua sự phát triển của các công ty quảng cáo không theo truyền thống ở nhiều thị trường toàn cầu khác nhau, chẳng hạn như công ty TAXI của Canada và SMART của Úc, và được gọi là "một cuộc cách mạng trong thế giới quảng cáo". Công nghệ mới nhỏ|Biển quảng cáo sống tại Liên hoan Đa văn hóa Quốc gia được sử dụng để quảng cáo bảng tin Facebook Khả năng ghi lại các chương trình trên máy ghi hình video kỹ thuật số (chẳng hạn như TiVo) cho phép người xem ghi lại các chương trình để xem sau, cho phép họ tua nhanh qua các quảng cáo. Ngoài ra, khi ngày càng nhiều mùa của các bộ hộp được ghi sẵn được bán cho các chương trình truyền hình, thì số người xem các chương trình trên TV ngày càng ít. Tuy nhiên, thực tế là những bộ hộp này được bán có nghĩa là công ty sẽ nhận được thêm lợi nhuận từ những bộ hộp này. Để chống lại hiệu ứng này, nhiều chiến lược khác nhau đã được sử dụng. Nhiều nhà quảng cáo đã chọn đặt sản phẩm trong các chương trình TV như Survivor. Các chiến lược khác bao gồm tích hợp quảng cáo với hướng dẫn chương trình được kết nối với internet (EPG), quảng cáo trên các thiết bị đồng hành (như điện thoại thông minh và máy tính bảng) trong chương trình và tạo ứng dụng di động cho các chương trình TV. Ngoài ra, một số thương hiệu đã chọn tài trợ cho chương trình truyền hình xã hội. Công nghệ hiển thị bằng máy bay không người lái mới nổi gần đây đã được sử dụng cho mục đích quảng cáo. Giáo dục Trong những năm gần đây, đã có một số sáng kiến về hiểu biết truyền thông, và cụ thể hơn là về quảng cáo, nhằm trao quyền cho công dân trước các chiến dịch quảng cáo trên phương tiện truyền thông. Giáo dục quảng cáo đã trở nên phổ biến với các bằng cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ được cung cấp trong lĩnh vực này. Sự gia tăng trong mối quan tâm đến quảng cáo thường được quy cho mối quan hệ chặt chẽ giữa quảng cáo và những thay đổi về văn hóa và công nghệ, chẳng hạn như sự phát triển của mạng xã hội trực tuyến. Một mô hình độc đáo để giảng dạy quảng cáo là agency quảng cáo do sinh viên điều hành, nơi sinh viên quảng cáo tạo ra các chiến dịch cho các công ty thực tế. Các tổ chức như Liên đoàn Quảng cáo Mỹ thành lập các công ty với sinh viên để tạo ra các chiến dịch này. Mục đích Quảng cáo là hoạt động truyền tải thông điệp phù hợp đến khách hàng và khách hàng tiềm năng. Mục đích của quảng cáo là thông báo cho người tiêu dùng về sản phẩm của mình, thuyết phục khách hàng rằng dịch vụ hoặc sản phẩm của công ty là tốt nhất, nâng cao hình ảnh của công ty, chỉ ra và tạo ra nhu cầu cho sản phẩm hoặc dịch vụ, giới thiệu những cách sử dụng mới cho các sản phẩm hiện có, thông báo về các sản phẩm và chương trình mới, củng cố thông điệp cá nhân của nhân viên bán hàng, thu hút khách hàng đến doanh nghiệp và giữ chân khách hàng hiện tại. Khuyến mãi bán hàng và lòng trung thành thương hiệu Khuyến mãi bán hàng là một cách quảng cáo khác. Khuyến mãi bán hàng có hai mục đích: thu thập thông tin về loại khách hàng mà doanh nghiệp thu hút và vị trí của họ, đồng thời thúc đẩy doanh số bán hàng. Khuyến mãi bán hàng bao gồm các hoạt động như thi và trò chơi, rút thăm trúng thưởng, tặng sản phẩm, tặng mẫu, phiếu giảm giá, chương trình khách hàng thân thiết và giảm giá. Mục tiêu cuối cùng của khuyến mãi bán hàng là kích thích khách hàng tiềm năng hành động. Phê bình nhỏ|Quảng cáo "Nhiều bác sĩ hút thuốc lá Camel hơn bất kỳ loại thuốc lá nào khác" cho thuốc lá Camel vào những năm 1940 Mặc dù quảng cáo có thể được coi là cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, nhưng nó không phải là không có chi phí xã hội. Thư điện tử thương mại không được yêu cầu và các hình thức thư rác khác đã trở nên phổ biến đến mức trở thành mối phiền toái lớn đối với người dùng các dịch vụ này, cũng như là gánh nặng tài chính đối với các nhà cung cấp dịch vụ internet. Quảng cáo ngày càng xâm lấn không gian công cộng, chẳng hạn như trường học, , mà một số nhà phê bình cho rằng đó là một hình thức khai thác trẻ em. Khó khăn ngày càng tăng trong việc hạn chế tiếp xúc với các đối tượng cụ thể có thể dẫn đến phản ứng tiêu cực cho các nhà quảng cáo. Cùng với những chỉ trích này, ngành quảng cáo đã chứng kiến ​​tỷ lệ chấp thuận thấp trong các cuộc khảo sát và miêu tả văn hóa tiêu cực. Một trong những chỉ trích gây tranh cãi nhất của quảng cáo hiện nay là việc quảng cáo các loại thực phẩm có hàm lượng đường, chất béo và muối cao dành riêng cho trẻ em. Các nhà phê bình cho rằng quảng cáo thực phẩm nhắm vào trẻ em là khai thác và không được cân bằng đầy đủ với giáo dục dinh dưỡng thích hợp để giúp trẻ em hiểu được hậu quả của việc lựa chọn thực phẩm của chúng. Ngoài ra, trẻ em có thể không hiểu rằng chúng đang bị bán cho thứ gì đó và do đó dễ bị ấn tượng hơn. Michelle Obama đã chỉ trích các công ty thực phẩm lớn vì quảng cáo các loại thực phẩm không lành mạnh chủ yếu cho trẻ em và yêu cầu các công ty thực phẩm hạn chế quảng cáo cho trẻ em hoặc quảng cáo các loại thực phẩm phù hợp hơn với hướng dẫn chế độ ăn uống. Những chỉ trích khác bao gồm sự thay đổi mà những quảng cáo này mang lại cho xã hội và cả những quảng cáo lừa dối được các tập đoàn phát sóng và xuất bản. Ngành công nghiệp mỹ phẩm và sức khỏe là những ngành khai thác cao nhất và tạo ra những lý do đáng quan ngại. Một nghiên cứu năm 2021 cho thấy đối với hơn 80% thương hiệu, quảng cáo có tỷ lệ hoàn vốn đầu tư tiêu cực. Quảng cáo không được yêu cầu đã bị chỉ trích là ăn cắp sự chú ý. Quy định quảng cáo Ngày càng có nhiều nỗ lực bảo vệ lợi ích công cộng bằng cách quy định nội dung và ảnh hưởng của quảng cáo. Một số ví dụ bao gồm các hạn chế đối với quảng cáo rượu, thuốc lá hoặc cờ bạc được áp dụng ở nhiều quốc gia, cũng như lệnh cấm quảng cáo với trẻ em ở một số nơi ở châu Âu. Quy định quảng cáo tập trung mạnh vào tính xác thực của các tuyên bố và do đó, thường có các hạn chế chặt chẽ hơn đối với quảng cáo thực phẩm và sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Ngành công nghiệp quảng cáo ở một số quốc gia dựa ít hơn vào luật pháp và nhiều hơn vào các hệ thống tự điều chỉnh. Các nhà quảng cáo và các phương tiện truyền thông thống nhất một bộ tiêu chuẩn quảng cáo mà họ cố gắng duy trì. Mục đích chung của các bộ tiêu chuẩn này là đảm bảo rằng tất cả quảng cáo đều "hợp pháp, đàng hoàng, trung thực và chân thực". Một số tổ chức tự điều chỉnh được tài trợ bởi ngành công nghiệp quảng cáo, nhưng vẫn giữ độc lập, với mục đích duy trì các tiêu chuẩn hoặc quy tắc như Cơ quan Tiêu chuẩn Quảng cáo ở Vương quốc Anh. Ở Vương quốc Anh, hầu hết các hình thức quảng cáo ngoài trời như hiển thị bảng quảng cáo được quy định bởi hệ thống quy hoạch thị trấn và quận của Vương quốc Anh. Hiện tại, việc hiển thị quảng cáo mà không có sự đồng ý của Cơ quan Quy hoạch là một hành vi phạm tội có thể bị phạt tới 2.500 bảng Anh cho mỗi lần vi phạm. Tại Hoa Kỳ, nhiều cộng đồng tin rằng nhiều hình thức quảng cáo ngoài trời làm xấu cảnh quan công cộng. Ngay từ những năm 1960 ở Hoa Kỳ, đã có những nỗ lực cấm quảng cáo bằng bảng quảng cáo ở vùng nông thôn. Các thành phố như São Paulo đã ban hành lệnh cấm hoàn toàn, trong khi London cũng có luật pháp cụ thể để kiểm soát việc hiển thị bất hợp pháp. Một số chính phủ hạn chế ngôn ngữ có thể được sử dụng trong quảng cáo, nhưng các nhà quảng cáo có thể sử dụng các thủ thuật để cố gắng tránh chúng. Ví dụ, ở Pháp, các nhà quảng cáo đôi khi in các từ tiếng Anh bằng chữ đậm và bản dịch tiếng Pháp bằng chữ nhỏ để đối phó với Điều 120 của Luật Toubon năm 1994 hạn chế việc sử dụng tiếng Anh. Quảng cáo thông tin giá cả là một chủ đề quan tâm khác của các chính phủ. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, thông thường các doanh nghiệp chỉ đề cập đến sự tồn tại và số lượng thuế áp dụng ở giai đoạn sau của giao dịch. Ở Canada và New Zealand, thuế có thể được liệt kê như các mục riêng biệt, miễn là chúng được báo trước. Ở hầu hết các quốc gia khác, giá quảng cáo phải bao gồm tất cả các loại thuế áp dụng, giúp khách hàng dễ dàng biết được họ sẽ phải trả bao nhiêu tiền. Chú thích Thiết kế giao tiếp Truyền thông quảng cáo và tiếp thị Mô hình kinh doanh
Thâm Quyến (; ) là một thành phố phó tỉnh lớn nằm bên bờ đông của cửa sông Châu Giang tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Là một phần của vùng đại đô thị Đồng bằng Châu Giang, Thâm Quyến tiếp giáp với Hồng Kông ở phía nam, giáp Huệ Châu ở đông bắc và giáp với Đông Quan ở tây bắc, đồng thời có chung biên giới biển với Quảng Châu, Trung Sơn và Châu Hải về phía tây và tây nam dọc cửa sông. Cảnh quan của Thâm Quyến mang đậm những nét của một nền kinh tế phát triển nhanh, xuất phát từ việc gia tăng vốn đầu tư từ nước ngoài sau khi chính sách "Cải cách và mở cửa" bắt đầu được áp dụng ở Trung Quốc từ năm 1979. Thành phố có ranh giới gần trùng với huyện Bảo An, chính thức trở thành đô thị năm 1979 và lấy tên từ thị trấn huyện trước đó, có nhà ga là trạm cuối cùng trên Trung Quốc đại lục của tuyến đường sắt Cửu Long – Quảng Châu. Năm 1980, Thâm Quyến trở thành đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc. Thành phố hiện là một trung tâm công nghệ hàng đầu toàn cầu, được truyền thông gọi là Thung lũng Silicon của Trung Quốc. Thâm Quyến là một trong những đô thị có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới vào những năm thập niên 1990 và 2000. Dân số được ghi nhận của Thâm Quyến năm 2017 vào khoảng 12.905.000, tuy nhiên cảnh sát và chính quyền địa phương ước tính con số thực tế lên đến 20 triệu, do số lượng lớn người dân tạm trú cũng như người không đăng ký hộ khẩu hay cư dân, người đi làm, du khách bán thời gian. Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2021, dân số định cư của Thâm Quyến là 17,56 triệu người. Thâm Quyến được xếp hạng là thành phố Alpha (thành phố toàn cầu cấp một) bởi Mạng lưới Nghiên cứu Thành phố thế giới và Toàn cầu hóa. Thâm Quyến cũng là một trung tâm tài chính dẫn đầu khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và xếp thứ 8 trong những trung tâm tài chính lớn nhất thế giới trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu năm 2021. Thâm Quyến có số lượng tỷ phú cao thứ tư trên thế giới, đứng sau New York, Bắc Kinh và Thượng Hải. Thành phố này cũng có cảng container bận rộn thứ ba trên thế giới, và cùng với dân số thành thị lớn đã khiến Thâm Quyến trở thành một siêu thành phố cảng trọng điểm của châu Á. Thâm Quyến xếp thứ hai trong danh sách "10 thành phố đáng ghé nhất năm 2019" bởi Lonely Planet. Thành phố là nơi đặt Sở Giao dịch Chứng khoán Thâm Quyến cũng như là trụ sở của nhiều công ty đa quốc gia như JXD, Vanke, Hytera, CIMC, SF Express, Shenzhen Airlines, Nepstar, Hasee, Ngân hàng Bình An, Bảo hiểm Bình An, Ngân hàng Tiểu thương Trung Quốc, Tập đoàn Hằng Đại, Tencent, ZTE, OnePlus, Huawei, DJI và BYD. Thâm Quyến là một trung tâm nghiên cứu và sáng tạo quốc tế và xếp thứ 32 về đầu ra nghiên cứu khoa học trên toàn cầu theo Nature Index. Đây cũng là nơi đặt một số cơ sở đào tạo uy tín như Đại học Thâm Quyến và Đại học Khoa học Công nghệ Nam Phương. Lịch sử hình thành Trước khi trở thành đặc khu kinh tế, Thâm Quyến còn là một làng chài. Năm 1979, lãnh đạo tối cao của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Đặng Tiểu Bình đã cho thành lập Đặc khu kinh tế tại Thâm Quyến. Đây là đặc khu đầu tiên của Trung Quốc do lợi thế nằm giáp Hương Cảng (lúc đó còn là một thuộc địa của Vương quốc Anh). Việc thành lập đặc khu này được coi như là thử nghiệm mô hình Cải cách kinh tế Trung Quốc. Địa điểm này được chọn vì cả dân Thâm Quyến và dân Hương Cảng cùng có chung ngôn ngữ (tiếng Quảng Đông), chung văn hóa và dân tộc nhưng lại có giá nhân công, đất đai rẻ hơn nhiều. Do gần Hồng Kông nên Thâm Quyến có thể dễ dàng thu hút vốn đầu tư và chuyên gia từ Hương Cảng cũng như xuất khẩu hàng hóa sang Hương Cảng và đi các nước. Ý tưởng đã thành công rực rỡ, tạo tiền đề cho Trung Quốc đẩy nhanh quá trình cải cách mở cửa kinh tế. Thâm Quyến đã trở thành một trong những thành phố lớn nhất vùng đồng bằng châu thổ Châu Giang. Đồng bằng châu thổ Châu Giang đã trở thành trung tâm kinh tế của Trung Quốc và là phân xưởng sản xuất của thế giới. Thâm Quyến, tên gọi trước đây là huyện Bảo An (宝安县)- là huyện thuộc tỉnh Quảng Đông vào tháng 11 năm 1979. Tháng 5 năm 1980, Thâm Quyến chính thức được chuyển thành Đặc khu kinh tế. Năm 1988, Thâm Quyến được cho phép có thẩm quyền về kinh tế tương đương cấp tỉnh của Trung Quốc. Thâm Quyến là đặc khu đầu tiên trong 5 đặc khu kinh tế tại Trung Quốc. Thành phố Thâm Quyến bao gồm 8 quận: La Hồ (罗湖), Phúc Điền (福田), Nam Sơn (南山), Diêm Điền (盐田), Bảo An (宝安), Long Cương (龙岗) và Quang Minh tân khu (光明新区) Bình Sơn tân khu (坪山新区). Các đặc khu kinh tế bao gồm La Hồ, Phúc Điền, Nam Sơn và Diêm Điền. Nằm trong trung tâm của Đặc khu và sát Hương Cảng, La Hồ là trung tâm tài chính thương mại, diện tích 78,89 km². Phúc Điền là trung tâm hành chính của thành phố, là trái tim của Đặc khu, rộng 78,04 km². Nam Sơn rộng 164,29 km² là trung tâm của công nghệ cao, quận này nằm phía đông Đặc khu. Bên ngoài đặc khu, Bảo An rộng 712,92 km² nằm ở phía tây bắc và Long Cương rộng 844,07 km² nằm ở phía đông bắc của Thâm Quyến. Diêm Điền (75,68 km²) là cơ sở dịch vụ hậu cần hàng hải (logistics). Quang Minh Tân khu mới được tách ra từ quận Bảo An kể từ ngày 31 tháng 5 năm 2007, có diện tích 79 km². Cảng Nhan Điền là cảng nước sâu container lớn thứ thứ hai của Trung Quốc và lớn thứ 4 thế giới. Địa lí Thâm Quyến nằm trong vùng châu thổ sông Châu Giang, giáp với Hương Cảng về phía Nam, Huệ Châu ở phía bắc và đông bắc, Đông Hoản về phía bắc và phía tây bắc. Kênh Linh Đinh (伶仃洋) và sông Châu Giang về phía tây và Vịnh Đại Bằng (vịnh Biển Đông) về phía đông và cách thủ đô Quảng Châu khoảng 100 km (62 dặm). Đô thị này có diện tích 1,991.64 km2 (769 dặm vuông) bao gồm cả khu vực thành thị và nông thôn, với tổng dân số là 10.358.381 trong cuộc điều tra dân số năm 2010. Thành phố là một phần của khu vực xây dựng hệ thống đồng bằng sông Châu Giang với 44.738.513 cư dân, trải dài trên 9 thành phố (bao gồm Áo Môn). Thành phố này dài 81,4 km từ đông sang tây, trong khi phần ngắn nhất từ bắc xuống nam 10,8 km. Khí hậu Mặc dù Thâm Quyến nằm về phía nam so với chí tuyến Bắc, do tác động từ gió thổi ngược từ Siberia, nó có khí hậu ôn đới ẩm ướt, ấm áp, có gió mùa. Mùa đông khá ôn hòa và tương đối khô, do một phần là do ảnh hưởng của Biển Đông, và băng giá rất hiếm khi xảy ra; nó bắt đầu khô nhưng dần dần trở nên ẩm hơn và u ám. Tuy nhiên, sương mù thường xảy ra nhất vào mùa đông và mùa xuân, với 106 ngày xuất hiện mỗi năm. Mùa xuân là thời điểm có nhiều mây nhất trong năm, và lượng mưa bắt đầu tăng mạnh vào tháng Tư; mùa mưa kéo dài đến cuối tháng 9 hoặc có thể tới đầu tháng 10. Gió mùa đạt đến đỉnh cao vào những tháng mùa hè, khiến thành phố trải qua những ngày nóng oi bức, nhưng chỉ có 2.4 ngày có nhiệt độ chạm đến mức 35 °C (95 °F). Vùng có nguy cơ mưa lớn, với 9.7 ngày có mưa nhiều nhất là 50 mm (1,97 inch), và 2.2 ngày ít nhất là 100 mm (3,94 inch). Đổ ẩm thường khô vào mùa thu. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 1.970 mm (78 inch), một số trong đó được phát ra từ các cơn bão từ phía đông vào mùa hè và đầu mùa thu. Nhiệt độ cực đại dao động từ 0,2 °C (32 °F) vào ngày 11 tháng 2 năm 1957 đến 38,7 °C (102 °F) vào ngày 10 tháng 7 năm 1980. Phân cấp hành chính Thâm Quyến được chia thành 9 khu (quận) và 1 tân khu: Kinh tế Thâm Quyến là khu vực kinh tế đặc biệt đầu tiên được thành lập bởi Đặng Tiểu Bình và cho thấy mức tăng trưởng nhanh nhất, trung bình với tốc độ tăng trưởng rất cao là 40% mỗi năm giữa năm 1981 và năm 1993 so với tăng trưởng GDP trung bình là 9,8% toàn quốc. Sự tăng trưởng kinh tế sau đó đã chậm lại sau thời điểm đột ngột này. Từ năm 2001 đến năm 2005, tổng sản phẩm quốc nội của Thâm Quyến tăng trung bình hàng năm 16,3%. Từ năm 2012, tăng trưởng kinh tế đã giảm xuống khoảng 10% mỗi năm. Hiện tại, nó đang phát triển với 6%-7% mỗi năm. Sản lượng kinh tế của Thâm Quyến đứng thứ 3 trong số 659 thành phố của Trung Quốc (phía sau Bắc Kinh, Thượng Hải). Thành phố này được xếp thứ 19 trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu 2016. Trong Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu năm 2017, Thâm Quyến được xếp hạng là có trung tâm tài chính cạnh tranh thứ 22 trên thế giới. Vào năm 2016, GDP của Thâm Quyến đạt 303,37 tỷ đô la, ngang bằng với một tỉnh thuộc Trung Quốc theo tổng số GDP. Tổng sản lượng kinh tế của thành phố cao hơn các nước nhỏ như Bồ Đào Nha, Ireland và Việt Nam. GDP bình quân đầu người ppp mỗi năm là 49.185 đô la (số người di cư không đăng ký) tính đến năm 2016, ngang bằng với các nước phát triển như Úc và Đức. Năm 2017, sản lượng kinh tế của Thâm Quyến đạt 338 tỷ USD, vượt qua Quảng Châu, Hương Cảng lần đầu tiên và đứng thứ 3 ở Trung Quốc, chỉ sau Thượng Hải và Bắc Kinh. Đó là địa vị mới sẽ cho phép thành phố trở thành công cụ kinh tế hàng đầu trong Sáng kiến ​​Khu vực vịnh Việt Cảng Áo (粤港澳大灣區) của Trung Quốc. Thâm Quyến là một trung tâm sản xuất lớn ở Trung Quốc. Trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng lớn của Trung Quốc như Ngân hàng Bình An (giản thể: 平安银行, phồn thể: 平安銀行) và ngân hàng Chiêu Thương (giản thể: 招商银行, phồn thể: 招商銀行) có trụ sở tại Thâm Quyến. Trong những năm 1990, Thâm Quyến được mô tả là xây dựng "Mỗi ngày một cao ốc, 3 ngày một đại lộ". Đường chân trời của Thẩm Quyến được coi là một trong những nơi tốt nhất trên thế giới. Hiện tại, có 59 tòa nhà cao hơn 200 mét, bao gồm Trung tâm tài chính Bình An (平安国际金融中心) (tòa nhà cao thứ tư trên thế giới 599 m) và Kinh Cơ 100 (京基100) cao 442 m (đổi tên thành KK100), toà nhà cao thứ 14 trong thế giới. Năm 2001, lực lượng lao động đạt 3,3 triệu người. Thâm Quyến trở thành nơi thu hút nhân lực từ tỉnh Quảng Đông và các tỉnh lân cận lẫn Hoa Kiều từ các nước. GDP đạt 492,69 tỷ NDT năm 2005, tăng 15% so với 2004, GDP thời kỳ 2001-2005 tăng 16,3%/năm. GDP xếp thứ 4 trong các thành phố của Trung Quốc. Kim ngạch xuất nhập khẩu xếp thứ nhất trong 9 năm liên tục vừa qua, xếp thứ 2 về sản lượng công nghiệp, thu ngân sách xếp thứ 3 trong 5 năm liên tục, xếp thứ 3 về sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Thâm Quyến là một trung tâm chế tạo lớn của Trung Quốc. Thâm Quyến là nơi đặt trụ sở của nhiều công ty IT thành công như Huawei và ZTE. Foxconn có nhà máy tại đây, chế tạo phần lớn máy nghe nhạc số cá nhân (iPod) và máy tính xách tay cho hãng Apple. Thành phố có sự hiện diện của hơn 400 trong 500 công ty lớn nhất thế giới. Sở giao dịch chứng khoán của Thâm Quyến có 540 công ty niêm yết, 35 triệu nhà đầu tư đăng ký và 17.700 nhân viên môi giới chứng khoán, tổng vốn 122 tỷ USD, mỗi ngày có 600.000 giao dịch, giá trị 807 triệu USD. Khu công nghệ cao Thâm Quyến Khu công nghiệp công nghệ cao Thâm Quyến (SHIP) được thành lập vào tháng 9 năm 1996. Nó có diện tích 11,5 km2 (4,4 dặm vuông). Các ngành công nghiệp được khuyến khích trong khu vực bao gồm Công nghệ sinh học / dược phẩm, xây dựng / vật liệu xây dựng, sản xuất và chế biến hóa chất, phần mềm máy tính, lắp ráp và sản xuất điện tử, sản xuất dụng cụ và thiết bị công nghiệp, thiết bị y tế và nguồn cung, nghiên cứu và phát triển. Công viên phần mềm Thâm Quyến được tích hợp với Khu công nghiệp Công nghệ cao Thâm Quyến, một chiếc xe quan trọng được thành lập bởi chính quyền thành phố Thâm Quyến để hỗ trợ sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm. Công viên đã được phê duyệt để là cơ sở sản xuất phần mềm của Kế hoạch Quốc gia vào năm 2001. Khoảng cách giữa Quốc lộ 010 và khu vực này là 20,8 km (12,9 dặm). Khu vực nằm cách sân bay quốc tế Thâm Quyến Bảo An 22 km (14 dặm) Sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến Sở Giao dịch Chứng khoán Thâm Quyến (SZSE) là một sở giao dịch chứng khoán quốc gia được trao đổi theo Ủy ban điều tiết Chứng khoán Trung Quốc (CSRC) cung cấp địa điểm kinh doanh chứng khoán. Một số lượng lớn người tham gia thị trường, bao gồm 540 công ty niêm yết, 35 triệu nhà đầu tư đăng ký và 177 thành viên giao dịch, tạo ra thị trường. Kể từ khi nó được thành lập năm 1990, SZSE đã phát triển với vốn hóa thị trường khoảng 1 nghìn tỷ nhân dân tệ (122 tỷ USD). Trên cơ sở hàng ngày, khoảng 600.000 giao dịch, trị giá 807 triệu USD, giao dịch trên SZSE. Nhân khẩu học Với dân số 12.528.300 người sinh sống trong địa giới thành phố tính đến năm 2017, Thâm Quyến là thành phố đông dân thứ năm ở Trung Quốc. Với tổng diện tích 1.992 km², Thâm Quyến có mật độ dân số 6.889 người trên mỗi km². Tính đến năm 2010, khu vực đô thị bao quanh của thành phố được ước tính bởi OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) có dân số 23,3 triệu người. Thâm Quyến là một phần của Vùng đô thị châu thổ sông Châu Giang (bao gồm các thành phố như Quảng Châu, Đông Quan, Phật Sơn, Trung Sơn, Chu Hải, Huệ Châu, Hồng Kông và Ma Cao), khu vực đô thị lớn nhất thế giới theo thống kê của Ngân hàng Thế giới và có dân số hơn 108,5 triệu theo điều tra dân số năm 2015. Trước khi trở thành Đặc khu kinh tế vào năm 1980, khu vực này bao gồm chủ yếu là người Khách Gia và người Quảng Đông. Tuy nhiên, kể từ khi trở thành Đặc khu kinh tế, Thâm Quyến đã trở thành một điểm đến của người di cư tìm kiếm việc làm và cơ hội. Lịch sử Kể từ thời Nam Tống (1127–1279), khu vực phía nam Quảng Đông và Thâm Quyến ngay nay đã là điểm đến của các cuộc di cư. Tuy nhiên số lượng người di cư tăng lên đáng kể kể từ khi Thâm Quyến được thành lập vào những năm 1980. Tại tỉnh Quảng Đông, Thâm Quyến là thành phố duy nhất mà các phương ngữ địa phương (tiếng Quảng Đông, Khách Gia và Triều Châu) không phải là ngôn ngữ chính. Ngôn ngữ chính được nói nhiều nhất tại đây là tiếng Quan Thoại do số lượng lớn người di cư/người nhập cư từ khắp Trung Quốc. Vào năm 1978, Thâm Quyến chỉ là một vùng quê nằm kế bên Hồng Kông với dân số chỉ vỏn vẹn 20.000 người. Tuy nhiên, kể từ khi trở thành Đặc khu Kinh tế, Thâm Quyến đã chứng kiến dân số và hoạt động của mình phát triển một cách nhanh chóng. Nó đã trở thành một thỏi nam châm thu hút người di cư tìm kiếm công ăn việc làm, bắt đầu với những nhân viên cổ cồn xanh, công nhân lạo động nặng, mang lại cho thành phố biệt danh "công xưởng của thế giới". Thâm Quyến có dân số chính thức là hơn 10 triệu người trong cuộc điều tra dân số năm 2011. Tuy nhiên, do số lượng dân số di cư trôi nổi chưa đăng ký sống trong thành phố là cực lớn, một số ước tính đã cho rằng dân số thực tế của Thâm Quyến rơi vào khoảng 20 triệu người sinh sống trong khu vực hành chính tại bất kỳ thời điểm cụ thể nào. Sự gia tăng dân số của Thâm Quyến theo xu hướng quy mô lớn; vào khoảng năm 2012–13, tăng trưởng ước tính của thành phố chậm lại xuống dưới 1 phần trăm do chi phí lao động di cư tăng, công nhân nhập cư nhắm mục tiêu cải cách, và chuyển các nhà máy ra ngoại vi và Đông Quan lân cận. Năm 2015, nền kinh tế công nghệ cao bắt đầu thay thế dần các ngành công nghiệp thâm dụng lao động khi thành phố dần trở thành một thỏi nam châm cho một thế hệ người di cư mới, lần này là những người lao động cổ trắng có học thức. Sự di cư vào Thâm Quyến một lần nữa được tăng mạnh khi các thành phố cấp I khác như Bắc Kinh và Thượng Hải, vốn trước đây là điểm đến hàng đầu của người lao động cổ trắng, đã áp đặt giới hạn dân số cứng. Tính đến năm 2018, dân số của Thâm Quyến nằm vào khoảng 14 triệu người, tuy nhiên chỉ có 3 triệu sở hữu giấy tờ hộ khẩu đầy đủ. Các thống kê khác Hiện tại, độ tuổi trung bình ở Thâm Quyến là dưới 30. Độ tuổi cụ thể như sau: 8,49% trong độ tuổi từ 0 đến 14, 88,41% trong độ tuổi từ 15 đến 59 và 3,1% ở độ tuổi 65 trở lên. Cơ cấu dân số Thâm Quyến có sự đa dạng lớn, từ những người trí thức có trình độ học vấn cao đến những người lao động nhập cư có trình độ học vấn thấp. Theo một báo cáo vào tháng 6 năm 2007, 20% sinh viên tốt nghiệp Tiến sĩ của Trung Quốc đã làm việc tại Thâm Quyến. Thâm Quyến cũng được bầu là một trong 10 thành phố hàng đầu ở Trung Quốc cho người nước ngoài. Người nước ngoài chọn Thâm Quyến làm nơi định cư vì cơ hội tìm kiếm việc làm cũng như sự khoan dung và cởi mở về văn hóa. Nó thậm chí từng được bầu chọn là Thành phố năng động nhất của Trung Quốc và Thành phố được ưa chuộng nhất bởi Công nhân nhập cư năm 2014. Theo khảo sát của Sở Kế hoạch Hồng Kông, số lượng người đi lại xuyên biên giới đã tăng từ khoảng 7.500 năm 1999 lên 44.600 vào năm 2009. Hơn một nửa trong số họ sống ở Thâm Quyến. Mặc dù nằm cạnh nhau, những người đi làm hàng ngày vẫn cần phải đi qua các trạm kiểm soát hải quan và nhập cư, vì việc đi lại giữa Đặc khu kinh tế và Đặc khu hành chính Hồng Kông (SAR) bị hạn chế. Cư dân đại lục muốn vào Hồng Kông để tham quan được yêu cầu phải có "Giấy phép xuất cảnh để đi du lịch đến và đi từ Hồng Kông và Macao". Cư dân Thâm Quyến đặc biệt có thể được cấp giấy chứng thực 1 năm (nhưng tối đa 1 lần nhập cảnh mỗi tuần bắt đầu từ ngày 13 tháng 4 năm 2015). Loại chứng thực xuất cảnh này chỉ được cấp cho những người có hộ khẩu ở một số khu vực nhất định. Cảnh quan thành phố Tòa nhà cao nhất ở Thâm Quyến là Trung tâm tài chính Bình An cao 599 mét, cũng là cao thứ hai ở Trung Quốc và là tòa nhà cao thứ 4 trên thế giới. Tòa nhà cao thứ hai là Kinh Cơ 100, cao 441,8 m (1.449 ft) và chứa 100 tầng văn phòng và không gian của khách sạn. Thâm Quyến cũng là nhà của quảng trường Tín Hưng (信兴广场) / tòa nhà Địa Vương (地王大厦), cao nhất ở châu Á (nếu ăng-ten được đưa vào tài khoản) khi nó được xây dựng vào năm 1996. Hầu hết các tòa nhà chọc trời của thành phố tập trung ở quận Nam Sơn, La Hồ và Phúc Điền. SEG Plaza, ở Hoa Cường Bắc (华强北), cũng là một cột mốc nổi bật ở độ cao 356 m (291,6 m so với mái nhà). Tòa nhà Quốc Mậu (国贸大厦) còn là tòa nhà cao nhất ở Trung Quốc khi nó được hoàn thành vào năm 1985. Có một số lượng đáng kể của siêu tháp được đề xuất, phê duyệt hoặc đang được xây dựng có hơn 300 m (984 ft) tại Thâm Quyến. Những khách hàng đã hoàn thành hoặc đứng đầu từ năm 2014 bao gồm Trụ sở Tài nguyên Trung Quốc, Quảng trường Kinh Cơ Tân Hà Thời Đại (京基滨河时代广场), Tháp Chuneng Trung Quốc (深圳市), Trung tâm Hán Kinh (汉京金融中心), Trung tâm Thành phố Hán Quốc (汉国城市商业中心), Tháp Trường Phú Kim Mậu (长富金茂大厦), Trung tâm Tài chính Trung Châu, Trung tâm Thương mại Đông Thái Bình Dương, Bay Tower 7 và Shum Yip Upperhills (深业上城), trong số những người khác. Giao thông Cảng Thâm Quyến nằm kề Hương Cảng (cách 20 hải lý). Năm 2005, cảng này xếp thứ 4 thế giới về khối lượng container (16,2 triệu TEU). Sân bay quốc tế Bảo An Thâm Quyến cách trung tâm thành phố 35 km có các chuyến bay quốc tế. Đường sắt và đường bộ hiện đại nối liền với Hương Cảng và các thành phố khác của Trung Quốc. Tàu điện ngầm bắt đầu vận hành từ ngày 27 tháng 12 năm 2004, có 2 tuyến. Từ Thâm Quyến có thể đi Châu Hải, Áo Môn, Hương Cảng, Sân bay quốc tế Hương Cảng bằng tàu thủy cao tốc.
Dudinka là một thành phố tại Liên bang Nga, trung tâm hành chính của Vùng tự trị Taymyr và từ ngày 1 tháng 1 năm 2007 trở đi là của huyện Taymyr. Nó được thành lập năm 1667 như là điểm cư trú mùa đông và tới năm 1951 thì được nâng cấp lên thành thành phố. Dân số 25.200 người (năm 2005) và 24.382 năm 2008. Thành phố này nằm phía trên vòng Bắc cực, trên bờ phải sông Enisei, nằm về phía bắc thành phố Krasnoyarsk và cách nó 2.021 km. Dudinka - một cảng biển ở hạ lưu sông Enisei và là lớn nhất tại Siberia. Từ hải cảng này có thể vận tải tới Arkhangelsk và Murmansk quanh năm bằng phương tiện vận tải đường biển, còn trong giai đoạn mùa hè thì có thể vận tải cả bằng phương tiện đường sông tới Krasnoyarsk và Dikson. Hàng hóa được vận chuyển chủ yếu là kim loại màu, than và các loại quặng để luyện kim. Tại đây có tuyến đường sắt dành cho tàu hỏa chạy điện xa nhất về phía bắc trên thế giới cũng như tuyến đường bộ nối liền Dudinka với Norilsk (96 km) và sân bay Alykel (40 km). Các thành phố Norilsk và Dudinka có địa vị pháp lý là ZATO (ЗАТО - vùng lãnh thổ hành chính đóng cửa), nhưng kể từ ngày 25 tháng 11 năm 2001 trở đi thì việc đến các thành phố này đối với người nước ngoài (ngoại trừ công dân Belarus) phải có giấy phép của chính quyền. Trước đó, trong vòng 10 năm (từ năm 1991) thì việc đi lại là tự do.
Cải cách kinh tế Trung Quốc (; Cải cách khai phóng; chi tiết theo từng chữ: cải cách và mở cửa; được nói ở phương Tây là Mở cửa Trung Quốc) nói tới những chương trình cải cách kinh tế được đặt tên là "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" và "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" ở Cộng hòa nhân dân Trung Quốc chương trình mà những nhà cải cách trong Đảng cộng sản Trung Quốc – được lãnh đạo bởi Đặng Tiểu Bình – đã bắt đầu vào 18 tháng 12 năm 1978. Trước cải cách, nền kinh tế Trung Quốc bị chi phối bởi sở hữu nhà nước và kế hoạch hóa tập trung. Từ năm 1950 tới 1973, GDP thực tế bình quân đầu người của Trung Quốc tăng trung bình 2,9% mỗi năm; mặc dù sự thay đổi thất thường bắt nguồn từ Đại nhảy vọt và Cách mạng văn hóa. Mức này gần với mức trung bình của những quốc gia châu Á trong thời kì này, so với những quốc gia tư bản như Nhật Bản, Nam Triều Tiên và của Đài Loan thì tỉ lệ tăng của Trung Quốc thấp hơn nhiều. Bắt đầu năm 1970, nền kinh tế đã bước vào một giai đoạn trì trệ, và sau cái chết của Mao Trạch Đông, lãnh đạo Đảng cộng sản hướng vào cải cách theo định hướng thị trường để cứu sự sụp đổ của nền kinh tế. Những người cầm quyền Đảng cộng sản đã thực hiện những cải cách thị trường trong hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên, khoảng cuối những năm thập kỷ 70 và đầu những năm thập kỷ 80, bao gồm phi tập thể hóa nông nghiệp, mở của đất nước để đón nhận đầu tư nước ngoài, và cho phép doanh nhân bắt đầu công việc kinh doanh. Tuy niên hầu hết nền công nghiệp vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Giai đoạn hai của cải cách, khoảng cuối những năm thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90, bao gồm tư nhân hóa và rút vốn khỏi nhiều ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và bãi bỏ những chính sách kiểm soát giá cả, chủ nghĩa bảo hộ, và các quy định, mặc dù sự độc quyền nhà nước trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng và dầu mỏ vẫn còn. Khu vực tư nhân đã phát triển đặc biệt, chiếm 70 % tổng sản phẩm quốc nội khoảng năm 2005. Từ năm 1978 cho tới 2013, sự phát triển chưa từng thấy đã xảy ra, với nền kinh tế tăng khoảng 9,5% một năm. Chính quyền bảo thủ của Hồ Cẩm Đào đã điều chỉnh và quản lý nền kinh tế chậm chạp hơn sau năm 2005, đảo chiều một vài cải cách. Quá trình của cải cách Tình trạng hiện tại và xu hướng trong tương lai Một số học giả cũng cho rằng mô hình Trung Quốc sau cải cách và mở cửa vẫn là một hệ thống độc tài, thiếu tự do, dẫn đến khả năng đổi mới hoặc sáng tạo xã hội thấp, do đó không thể đạt được sự phát triển bền vững độc lập. Cải cách và mở cửa đã trải qua những thay đổi thiết yếu trong thời kỳ Tập Cận Bình. Ông phản đối một phần chính sách cải cách và thoái lui nhiều cải cách của thời Đặng Tiểu Bình theo cách thức thấp kém. Bởi vì Đảng Cộng sản Trung Quốc tái khẳng định quyền kiểm soát của họ đối với tất cả các khía cạnh của xã hội Trung Quốc, bao gồm cả nền kinh tế. Có một số quan điểm cho rằng cải cách và mở cửa của Việt Nam cuối cùng sẽ đi theo con đường tương tự. Vào năm 2018, nhà Hán học Pei Minxin tin rằng kể từ khi bắt đầu thời kỳ cải cách vào những năm 1980, nền kinh tế Trung Quốc hiện đang kém mở nhất. Một nhà bình luận Hồng Kông coi tự do hóa dân chủ là một phần trong các mục tiêu của cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ. Hoa Kỳ cho rằng chính phủ Trung Quốc đang cung cấp các lợi thế cạnh tranh không công bằng và phân biệt đối xử cho các doanh nghiệp nhà nước và công ty tư nhân của Trung Quốc.
Kim Nham là một trong số các vở chèo cổ kinh điển của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Vở chèo Kim Nham có trích đoạn "Xúy Vân giả dại" được đánh giá là một trong những trích đoạn hay nhất của chèo cổ Việt Nam. Đây là 1 trong 7 vở chèo có nhiều làn điệu chèo gốc, mẫu mực của nghệ thuật chèo Việt Nam. Nội dung vở chèo Kim Nham là một học trò nghèo xứ Sơn Nam, ngụ học ở kinh đô, được viên huyện Tể đem con gái là Xúy Vân gả cho. Trước khi Xúy Vân lấy chồng, anh nàng là Cu Sứt ra dạy dỗ nàng, tạo ra một lớp hề kinh điển trong chèo. Sau khi cưới vợ, Kim Nham lại lên kinh đô theo đuổi công danh, còn Xúy Vân lẻ bóng ở nhà và rất buồn trong cảnh chờ đợi. Kim Nham vắng nhà thì Trần Phương, một gã nhà giàu đàng điếm ở Đông Ngàn, Bắc Ninh thông qua Mụ Quán tìm cách tán tỉnh Xúy Vân, xui nàng giả điên dại để thoát khỏi Kim Nham. Xúy Vân nghe theo bèn giả điên. Kim Nham nhận được thư Xúy Quỳnh là em gái Xúy Vân liền trở về, mời cô đồng, thầy cúng đến chạy chữa cho vợ nhưng không kết quả. Hai vợ chồng lập đàn thề nguyền giải thoát cho nhau. Một số kịch bản đến đây là hết. Ở Hà Nội thời Pháp tạm chiếm, xuất hiện đoạn được thêm vào cuối vở chèo này như sau: Kim Nham do quyết chí học hành, đã đỗ cao, được bổ làm quan. Trong khi đó Xúy Vân điên dại, phải đi ăn xin. Nhận ra vợ cũ, Kim Nham bỏ một nén bạc vào nắm cơm, sai người đem cho Xúy Vân. Xúy Vân bẻ nắm cơm, thấy có bạc, hỏi ra mới biết. Xấu hổ, nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Cải biên Vở chèo cải biên Xúy Vân (Súy Vân) do GS NSND Trần Bảng là đạo diễn, người chủ biên, lần đầu tiên công diễn trong hội diễn sân khấu chuyên nghiệp mùa xuân năm 1962 bởi Nhà hát Chèo Việt Nam. Nội dung vở chèo Súy Vân cải biên, Súy Vân đã trở thành nhân vật trung tâm, biến nội dung thành: Kim Nham đỗ đạt, muốn lấy thêm vợ lẽ dẫn đến chàng và Xúy Vân bất hòa, mẹ Kim Nham khinh miệt Xúy Vân, Xúy Vân qua mụ Quán bị Trần Phương mồi chài bỏ Kim Nham. Khi ra bến sông đợi Trần Phương đón và mơ mộng về cuộc sống mới, hề theo Trần Phương đi đưa thư cho nàng, thư viết hắn đã bỏ nàng, Xúy Vân đau đớn tự vẫn. Đội ngũ cải biên ủng hộ sự nổi dậy của Súy Vân, làm cho ý đồ bênh vực Súy Vân hoàn toàn thắng thế. Với vở chèo này, nhà hát đã được đón nhận nhiều Huy chương Vàng tại hội diễn: cho vở diễn, cho các thành phần tham dự sáng tạo (đạo diễn, âm nhạc, trang trí phục trang), 7 HCV cho diễn viên. Tuy nhiên, vào liên hoan Chèo toàn quốc năm 2001, vở diễn cải biên lại trái với quy định bởi năm ấy chỉ được diễn chèo cổ, tức là vở Kim Nham của Nhà hát Chèo Ninh Bình dự liên hoan đoạt huy chương vàng, còn Xúy Vân là vở cải biên. Dấu ấn các nghệ sĩ NSND Diễm Lộc diễn viên Nhà hát Chèo Việt Nam gây ấn tượng mạnh khi đóng Xúy Vân trong Xúy Vân giả dại, giành huy chương vàng tại Hội diễn sân khấu năm 1962. NSND Thúy Ngần (Nhà hát Chèo Việt Nam) rất thành công với vai diễn Xúy Vân. Giành huy chương vàng Hội diễn sân khấu toàn quốc các năm 1990, 1995, 2001. NSND Mai Thủy cũng tâm đắc nhất trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật với vai diễn Xúy Vân trong vở chèo "Kim Nham". Với vai diễn này, Mai Thủy đã đạt Huy chương Vàng, đồng thời với Giải Diễn viên Xuất sắc vai Nữ pha và Bằng khen của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tại Liên hoan Nghệ thuật Chèo chuyên nghiệp Toàn quốc tổ chức tại Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh năm 2001. Hội diễn sân khấu chèo năm đó Đoàn chèo Ninh Bình đạt giải vở diễn xuất sắc nhất. NSND Chu Văn Thức (nguyên giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam 1987 - 1989) từng rất nổi tiếng với vai diễn Kim Nham. NSND Mạnh Phóng (Nhà hát Chèo Việt Nam) được gọi với biệt danh "Phù thủy làng chèo" do ông từng đóng đinh vai hề thầy phù thủy trong vở chèo Kim Nham, một trong năm vai mẫu quan trọng, bên cạnh đào, kép, lão, mụ. Vai này đưa Mạnh Phóng trở thành gương mặt sáng giá của Nhà hát chèo Việt Nam. Mỗi buổi diễn, ông luôn nhận được tràng pháo tay tán thưởng từ khán giả. Có lần, sau suất ở Đồ Sơn (Hải Phòng), người xem chật kín đứng đợi nghệ sĩ để chụp ảnh lưu niệm. Vở chèo Súy Vân của Nhà hát Chèo Việt Nam giành Huy chương Vàng tại hội diễn sân khấu chèo năm 1962.
Lập luận được định nghĩa rất khác nhau tùy theo ngữ cảnh của hiểu biết về lý tính như là một hình thức của tri thức. Định nghĩa lôgic là hành động sử dụng lý tính để rút ra một kết luận từ các tiền đề nhất định bằng cách sử dụng một phương pháp luận cho trước. Suy luận, cùng với trực giác là các phương pháp thuộc về nhận thức tự phát. Suy luận, là một phương pháp quan trọng để nhận thức và tìm kiếm chân lý. Nhận thức suy luận là kiểu nhận thức gián tiếp. Nhận thức một định lý toán học, một định luật khoa học... đều là nhờ suy luận. Vì rằng suy luận nhất thiết đòi hỏi phải có trung gian, là những phán đoán, những khái niệm. Ví dụ để nhận biết sự tương đương giữa A và C khi A=B, B=C,thì phải sử dụng các khái niệm phương trình, số hạng, về sự tương đương. Suy luận có tính trừu tượng và tổng quát. SUY LUẬN dựa vào phán đoán, khái niệm mà chúng ta phải thừa nhận là khái niệm bao giờ cũng trừu tượng và tổng quát. Ví dụ khái niệm " người" chỉ định tất cả mọi người và nói lên đặc tính chung của loài người, chứ không nói đến tính riêng biệt như tính chất thông thái vượt trội của Socrates, dũng mãnh như Hercules...hay tính ích kỷ, tham lam, nhỏ nhen...của cá nhân nào đó. Suy luận bao giờ cũng gắn liền với ngôn ngữ và đó là điểm khác biệt với trực giác. Vì thế điều gì nhận biết được nhờ suy luận, thì có thể làm cho người khác hiểu trọn vẹn nó thông qua ngôn ngữ chuẩn xác. Khi bạn được nghe chứng minh một điều gì, bạn sẽ hiểu điều này như chính người đã chứng minh điều đó cho bạn. Tuy nhiên, trong các ngữ cảnh triết học lý tưởng, lập luận là quy trình trí óc đem lại cho sự tưởng tượng, tri giác, ý nghĩ, và cảm giác của ta bất cứ cái gì có thể hiểu được mà những hành vi trí óc kia có thể hàm chứa; và do đó liên hệ trải nghiệm của ta với ý nghĩa toàn thể. Các phương pháp lập luận lôgic Suy luận diễn dịch hay lập luận suy diễn Suy luận quy nạp hay Lập luận quy nạp Suy luận loại suy hay Lập luận loại suy Phương pháp thứ tư là phép tương tự. Lập luận bằng tương tự đi từ trường hợp cụ thể này tới trường hợp cụ thể khác. Kết luận của một phép tương tự chỉ là có thể đúng (plausible. Lập luận bằng tương tự rất thường gặp trong nhận thức thông thường, khoa học, triết học và khoa học nhân văn, nhưng đôi khi chỉ được chấp nhận như là một phương pháp bổ trợ. Một cách tiếp cận được cải tiến là lập luận dựa tình huống. Về các suy luận bằng phương pháp tương tự, xem Juthe, 2005 (tiếng Anh). Chi tiết cụ thể của các phương pháp lập luận là mối quan tâm của các ngành như triết học, lôgic, tâm lý học, và trí tuệ nhân tạo.
Chủ nghĩa dân tộc (tiếng Anh: nationalism) là một quan niệm và ý thức hệ chính trị cho rằng dân tộc nên đồng nhất với nhà nước. Khái niệm này hay được cho là ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, trong các tác phẩm của các nhà Khai sáng. Trong Cách mạng Pháp, chủ nghĩa dân tộc đặt dân tộc, những người dân là hiện thân của đất nước, đưa ra khái niệm quốc gia dân tộc, trái ngược với tầm nhìn của chế độ cũ vua Pháp là hiện thân đất nước. Khi đó chủ nghĩa dân tộc là cánh tả, nó đi kèm với khái niệm quốc tịch, quyền công dân, quyền tự quyết dân tộc, các giá trị tự do dân chủ. Johann Gottfried von Herder một người được cho là theo chủ nghĩa dân tộc bảo thủ Đức, hay được xem như là một trong những người định nghĩa sớm nhất về chủ nghĩa dân tộc, khi ông cho rằng Vua cũng như nông dân, đều là thuộc về một giai cấp, là Volk (mọi người), nhằm bác bỏ lý thuyết giai cấp của những người cộng sản, và đề cao văn hóa dân tộc bác bỏ lý thuyết khế ước xã hội của chủ nghĩa tự do. Theo Anthony D. Smith, Ý thức hệ chính trị này hướng đến việc giành được, và duy trì sự tự trị (self-governance), hoặc chủ quyền hoàn toàn (full sovereignty), trên một vùng lãnh thổ có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với một nhóm người (như là tổ quốc của họ). Chủ nghĩa dân tộc do đó cho rằng một dân tộc nên tự mình cai trị, không bị ảnh hưởng từ bên ngoài, và được kết nối với khái niệm self-determination (tự xác định, tự định hướng). Xa hơn nữa, chủ nghĩa dân tộc còn hướng đến sự phát triển và duy trì bản sắc dân tộc (national identity) dựa trên các đặc trưng chung như văn hóa, ngôn ngữ, chủng tộc, tôn giáo, các mục tiêu chính trị và/hoặc niềm tin về tổ tiên chung. Vì vậy, chủ nghĩa dân tộc tìm cách bảo tồn văn hóa của dân tộc. Nó cũng thường liên quan cảm giác tự hào về những thành tựu của dân tộc, và có sự liên kết chặt chẽ với khái niệm chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa dân tộc theo các nghĩa này có thể tích cực hay tiêu cực. Do đa số các quốc gia là đa sắc tộc hoặc có nhiều nhóm tự nhận vị thế quốc gia. Chủ nghĩa dân tộc là một hiện tượng xã hội mạnh mẽ trên thế giới, khi các quốc kỳ, quốc ca, và những sự phân biệt quốc gia là các ví dụ về chủ nghĩa dân tộc sáo rỗng (banal nationalism) mà người ta thường thể hiện một cách vô thức. Hơn nữa, một số học giả cho rằng chủ nghĩa dân tộc với hình thức tình cảm hoặc văn hóa, mà đôi khi được miêu tả bằng từ 'bản sắc dân tộc' (national identity) để tránh ảnh hưởng của nghĩa "hệ tư tưởng", là nền tảng xã hội hiện đại. Công nghiệp hóa, dân chủ hóa, và sự ủng hộ đối với sự tái phân bố kinh tế đã phần nào đóng góp cho sự đoàn kết xã hội mà chủ nghĩa dân tộc mang lại. Chủ nghĩa dân tộc đã giữ vai trò ảnh hưởng chính hay nguyên nhân của Chiến tranh thế giới thứ nhất, và đặc biệt là Chiến tranh thế giới thứ hai do sự nổi lên của chủ nghĩa phát xít), một hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cấp tiến và độc đoán. Chủ nghĩa dân tộc lý giải quyền lực nhà nước hình thành trên cơ sở dân tộc, khác với những người theo chủ nghĩa Marx cho quyền lực nhà nước trên cơ sở phân hóa giai cấp, hay chủ nghĩa tự do quyền lực Nhà nước trên cơ sở khế ước xã hội của các cá nhân. Chủ nghĩa dân tộc góp phần quan trọng hình thành nên các quốc gia từ các phong trào giải phóng dân tộc hay ly khai, hoặc có ảnh hưởng các chính sách dân tộc của nhà nước. Chính sách dân tộc chủ nghĩa có thể biểu hiện qua chính sách kinh tế, văn hóa, ví dụ cấm (hạn chế) nhập một hàng hóa từ bên ngoài vào để bảo vệ hàng nội, hay cấm (hạn chế) các tư tưởng, văn hóa, sản phẩm nghệ thuật từ bên ngoài vào để bảo vệ văn hóa, tư tưởng dân tộc, hay các sản phẩm văn hóa quốc nội, những chính sách mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa này không đồng nghĩa có lợi cho toàn thể dân tộc, mà có khi chỉ cho một nhóm người (ví dụ những người đang sản xuất mặt hàng, sản phẩm đó,...). Chủ nghĩa dân tộc thường được xem là rộng hơn, có tính chính trị hơn và không hoàn toàn trùng nhau với chủ nghĩa yêu nước, một khái niệm có tính mơ hồ hơn. Nó khởi nguồn cho rất nhiều các cuộc chiến tranh hoặc các tư tưởng bài ngoại, đóng cửa, phân biệt chủng tộc (như Đảng Dân tộc ở Nam Phi trước đây), kỳ thị sắc tộc thiểu số hay tôn giáo thiểu số (như ở Myanmar một thời), đối xử tệ với thổ dân (như ở châu Mỹ và Úc một thời), sự xích lại của một dân tộc trong một khu vực không phân biệt lãnh thổ. Sở dĩ từ chủ nghĩa dân tộc hay được những người cánh tả gọi là để phân biệt với chủ nghĩa quốc gia, vì mục tiêu dân tộc gắn với chủ nghĩa quốc tế, không tách rời nhau (như giải phóng dân tộc gắn với giải phóng nhân loại), chứ không hiểu là chủ nghĩa quốc gia hay được họ xem là gắn với phân biệt, kỳ thị chủng tộc, đế quốc hay nhân danh chủ nghĩa quốc gia để bảo vệ lợi ích những người cai trị. Quốc gia gắn liền với cương vực lãnh thổ, địa lý, còn dân tộc là một khái niệm khác. Về cơ bản hầu hết các khuynh hướng chính trị ở các quốc gia đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của chủ nghĩa dân tộc nhưng lý giải khác nhau. Thông thường chủ nghĩa dân tộc hay gắn bó với cánh hữu hơn vì họ coi trọng đoàn kết dân tộc, bảo vệ quyền lợi quốc gia - dân tộc hơn là tính đến các vấn đề giai cấp, và ít chịu ảnh hưởng hơn của chủ nghĩa quốc tế. Đôi khi chủ nghĩa dân tộc đi kèm với chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa nhà nước, và đối trọng với chủ nghĩa tự do coi trọng bảo vệ quyền cá nhân hơn. Do bản chất dân tộc là một khái niệm tranh cãi, cho nên chủ nghĩa dân tộc cũng hay được xem là mơ hồ, trong một sự cố gắng liên kết của những nhóm người có cùng huyết thống, màu da, hay ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo,... Một số phong trào chủ nghĩa dân tộc hiện nay có thể có hình thức hùng biện chính trị mị dân hoặc chiến lược liên kết với chủ nghĩa dân túy. Trong thời gian Đại dịch COVID-19, Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres nhiều lần cảnh báo nguy cơ thuyết âm mưu kích động chủ nghĩa dân tộc đe dọa hòa bình thế giới, gây ra các cuộc xung đột, phân biệt sắc tộc, bài ngoại, dân túy, thi hành các chính sách độc đoán, vi phạm quyền con người... Thuật ngữ Trước năm 1800, ở châu Âu, từ nation (dân tộc) được dùng để chỉ những cư dân (inhabitant) của một quốc gia (country) hoặc chỉ những bản sắc tập thể (collective identity) có thể có chung lịch sử, luật pháp, các quyền chính trị, tôn giáo và truyền thống, với nghĩa tương đối giống với quan niệm hiện nay. Chủ nghĩa dân tộc (tiếng Anh: Nationalism, còn được dịch thành: tư tưởng dân tộc, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa quốc dân) là một thuật ngữ mới hơn; trong tiếng Anh thuật ngữ này có từ năm 1844, mặc dù khái niệm thì đã có từ trước. Thuật ngữ này trở nên quan trọng vào thế kỷ XIX,, và dần dần mang nghĩa tiêu cực từ sau năm 1914. Glenda Sluga viết rằng "Thế kỷ XX, thời đại mà người ta bị vỡ mộng với chủ nghĩa dân tộc, cũng là thời đại tuyệt vời của chủ nghĩa quốc tế." Người theo chủ nghĩa dân tộc được gọi là người dân tộc chủ nghĩa (hoặc người quốc gia). Ở Việt Nam hay dịch lẫn lộn state, nation, country, nhưng luật quốc tế có sự phân biệt. Chữ state hay country khi dịch sang tiếng Trung có nghĩa là 国家, nếu dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt thì quốc và nước là một, gia và nhà là một (ví dụ Nam Quốc sơn hà nam đế cư, có nghĩa Sông núi nước Nam vua Nam ở, theo thuyết Trung quân ái quốc của thời phong kiến, quốc gia gắn với nhà nước, với vua, khác với khái niệm công dân vay mượn từ phương Tây). Chữ "quốc gia" và "nhà nước" của Việt Nam là vay mượn từ tiếng Hán. Nhưng ở Trung Quốc, thì quốc gia và nhà nước là một. Còn chữ "dân tộc" là vay mượn từ phương Tây, chỉ vào Việt Nam khoảng đầu thế kỷ 20. Trước cận đại cả Trung Quốc và Việt Nam không hề biết đến chữ "dân tộc". Nation khi dịch sang tiếng Trung Quốc, là "quốc tộc", nhưng cũng có khi để chỉ "dân tộc" với nghĩa dân tộc cộng đồng, còn Việt Nam là "dân tộc". Người Trung Quốc lấy từ tài liệu tiếng Đức qua tiếng Nhật. Quốc tộc là từ ghép của dân tộc và quốc gia, để chỉ gắn bó dân tộc với nhà nước trong một quốc gia. Còn chữ ethnic group hay được dịch là dân tộc ở Trung Quốc (Việt Nam dịch sắc tộc). Nation ở Trung Quốc còn có thể dịch là chủng tộc. Và sự phân biệt sắc tộc hay chủng tộc thì cũng như nhau. Lòng yêu nước ở Việt Nam, bên Trung Quóc gọi là lòng ái quốc (chữ patriot người Anh vay mượn từ tiếng Pháp trung cổ). Chữ Tổ quốc người Việt vay mượn từ tiếng Trung, chỉ quốc gia tổ tiên, tức xác định nguồn gốc quê quán của một ai đó. Nó còn có nghĩa là quê hương. Ở Trung Quốc, do quốc gia và Nhà nước là một, nên chủ nghĩa nhà nước qua tiếng Trung có thể được dịch ra là chủ nghĩa quốc gia, nhấn mạnh quyền lực nhà nước, nó khác với chủ nghĩa dân tộc. Còn chữ quốc dân có từ thời Tôn Trung Sơn làm cách mạng và về sau thành lập Trung Hoa dân quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời gian hợp tác với Quốc dân Đảng không phủ nhận chữ quốc dân, nhưng họ hay dùng từ nhân dân để thay thế. Chữ "nhân dân" không phải toàn bộ quốc dân (công dân) mà có nghĩa là tất cả những quần chúng cách mạng chống lại các thế lực được họ coi là giai cấp bóc lột, Hán gian, phản cách mạng. Nhưng có một thời kỳ họ gọi là "dân chúng" (bình dân), nhưng sau đó lại dùng từ "nhân dân". Vì thế trong mắt của nhiều học giả phương Tây, Mao Trạch Đông hay được xem là chủ nghĩa dân túy, do ông thay từ giai cấp vô sản bằng khái niệm nhân dân rộng hơn. Khác với thời Tôn Trung Sơn, ban đầu chủ nghĩa dân tộc là để chỉ đòi lại quốc gia cho người Hán với Vạn Lý trường thành là biên giới, thời Mao, chủ nghĩa dân tộc là đoàn kết 56 dân tộc anh em trong một quốc gia duy nhất. Mao chủ trương chống lại chủ nghĩa Sôvanh Đại Hán, nhưng cũng chống lại chủ nghĩa dân tộc cục bộ, nên ông ta đưa ra khái niệm tự trị của các dân tộc thiểu số (Hiến pháp 1954). Nó có tác động đến Việt Nam, và thông thường ở Việt Nam 54 sắc tộc hay được xem là 54 dân tộc (chữ dân tộc trở nên có hai nghĩa), là học từ Trung Quốc. Những khái niệm này có ảnh hưởng đến Việt Nam khi chủ nghĩa dân tộc du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ XX qua các con đường khác nhau. Khái niệm chủ nghĩa quốc gia là nhấn mạnh đến quyền lực nhà nước, không thay thế chủ nghĩa dân tộc. Tức là cánh hữu của chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên về sau chữ chủ nghĩa quốc gia hay bị lạm dụng, cho nhiều người không phải theo hệ tư tưởng này khi nó du nhập vào Việt Nam và được một số học giả xây dựng lên thành học thuyết, như là một sự bác bỏ các lý thuyết không nhà nước phe cánh tả lẫn các lý thuyết tự do. Chủ nghĩa dân tộc thường được nhìn nhận dưới hai hình thức. Không phải là hai trường phái, mà là cách nhìn nhận khác nhau từ khái niệm dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc công dân là hình thức chủ nghĩa dân tộc gắn dân tộc với khái niệm quốc tịch, quyền công dân, tức sự gắn bó của người dân với một nhà nước hiện đại, có tự do, dân chủ. Các tiếp cận này bắt đầu từ Cách mạng Pháp. Sau này Napoleon đi xâm chiếm các lãnh thổ khác và phổ biến các giá trị Cách mạng Pháp như tự do dân chủ tới các vùng đó, từ đó có khái niệm quốc gia dân tộc, chứ không xem người dân như là thần dân chỉ có phục tùng, và quyền lực là thần quyền dưới các quốc gia chuyên chế. Chủ nghĩa dân tộc hình thành nên nhiều quốc gia dưới các hình thức cách mạng và sự hợp nhất (như ở Đức, Ý... là hợp nhất) đi kèm với các khái niệm chủ quyền nhân dân, tự quyết dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc công dân định nghĩa dân tộc là toàn bộ công dân sinh sống trên một lãnh thổ, cho dù họ có thể có nguồn gốc huyết thống, văn hóa, hay truyền thống, lịch sử khác nhau. Ví dụ ở Việt Nam, đó là 54 dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, và các các công dân khác nhập tịch. Chủ nghĩa này chấp thuận một sự đa nguyên văn hóa, và thường được xem là ôn hòa. Với cách tiếp cận này, thông thường ở các quốc gia, sẽ nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc kể từ khi chủ nghĩa đó ra đời từ cuối thế kỷ XVIII, và chủ nghĩa dân tộc mỗi quốc gia, được nghiên cứu từ khi nó được du nhập vào quốc gia đó, hay sớm hơn khi xã hội có những biểu hiện xuất hiện chủ nghĩa dân tộc như vậy. Ví dụ Trung Quốc chủ nghĩa dân tộc nghiên cứu từ thời nhà Minh, khi mà có sự giao lưu nhiều với phương Tây và những biểu hiện hình thành quốc gia hiện đại. Chủ nghĩa dân tộc sắc tộc, là hình thức chủ nghĩa dân tộc gắn dân tộc với khái niệm sắc tộc, tức nhìn vào cội nguồn huyết thống, bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, đức tin... Dạng chủ nghĩa dân tộc này hay bị xem là cực đoan, khi mà nó luôn nhấn mạnh sự khác biệt của một sắc tộc này với một sắc tộc khác. Ví dụ ở Việt Nam có 54 dân tộc (sắc tộc), thì đó là chủ nghĩa dân tộc của mỗi sắc tộc riêng lẻ đó. Có thể hiểu chủ nghĩa dân tộc của tất cả người Kinh sinh sống tại Việt Nam và hải ngoại, chủ nghĩa dân tộc của người H'Mông sinh sống tại Việt Nam, Lào, Trung Quốc và các nơi khác, chủ nghĩa dân tộc của người Khmer ở Việt Nam, Campuchia và các nơi khác. Ở nhiều nước đôi khi có các phong trào ly khai hay giải phóng từ các dạng chủ nghĩa dân tộc sắc tộc, ví dụ người Kurd sinh sống ở Thổ Nhĩ Kỳ, ở Iraq, Iran..., người Basque ở Tây Ban Nha, Pháp..., có phong trào đòi thống nhất dân tộc từ nhiều quốc gia như người Ả Rập sinh sống rộng khắp Trung Đông - Bắc Phi. Hay phong trào đòi thống nhất người Slav... Những người nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc dưới góc độ này, sẽ nghiên cứu về sự hình thành của các quốc gia dân tộc từ thời Cổ đại, cho dù khái niệm chủ nghĩa dân tộc đi kèm với quyền công dân chỉ ra đời vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Ví dụ ở Việt Nam sẽ nghiên cứu chủ nghĩa dân tộc từ thời Hùng Vương hay sớm hơn, thay vì nghiên cứu từ khi nó du nhập vào Việt Nam, và trên thực tế, nếu như vậy có thiếu sót nếu nó không phải là chủ nghĩa dân tộc của cả 54 dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc dạng này hay bị xem là cực đoan, hay là mang tính độc tài, khác với khái niệm chủ nghĩa dân tộc công dân hay được xem là ôn hòa, có tính khoan dung, dân chủ và chấp nhận một sự đa nguyên văn hóa. Quang phổ chính trị Chủ nghĩa dân tộc (chủ nghĩa dân tộc công dân) gắn liền với chủ nghĩa tự do từ cuối thế kỷ XVIII hay được xem là cánh tả khi nó đưa ra các khái niệm về chủ quyền thuộc về dân tộc, chứ không phải thần quyền của lý thuyết bảo thủ phong kiến. Chủ nghĩa dân tộc gắn với tự do và dân chủ (Mác xít định nghĩa là dân chủ tư sản). Tuy nhiên chủ nghĩa bảo thủ dân tộc nổi lên như một khuynh hướng chính trị nhấn mạnh vào gìn giữ các giá trị truyền thống hơn là tự do, có ảnh hưởng rất lớn ở nhiều vùng nông thôn các nước châu Âu, là một dạng chính trị cánh hữu. Tuy nhiên công nghiệp hóa, đô thị hóa và chủ nghĩa hiện đại khiến cho chủ nghĩa bảo thủ dân tộc mất dần ảnh hưởng. Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa dân tộc hay biến dạng thành chủ nghĩa đế quốc, các cuộc xâm lược thuộc địa, các chế độ độc tài, Thế chiến I rồi sau là chủ nghĩa phát xít. Từ đó, chủ nghĩa dân tộc hay bị xem là xấu xa, kể cả trong mắt những người cánh tả lẫn tự do. Lúc này chủ nghĩa dân tộc hay bị xem là hữu đến cực hữu. Phe cánh tả đều bác bỏ chủ nghĩa dân tộc, nhưng thái độ của mỗi phái không thống nhất. Như phe Xã hội, thì trong Thế chiến I họ đứng về các đảng cánh hữu nhân danh bảo vệ lợi ích dân tộc tham gia các cuộc chiến tranh. Trong khi đó Lênin kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa quốc tế, bảo vệ hòa bình, thậm trí chấp nhận hi sinh quyền lợi quốc gia trước mắt ký vào Hòa ước Brest-Litovsk. Sau này thành lập Đệ tam Quốc tế, theo chủ nghĩa quốc tế. Phe vô chính phủ cũng có lập trường chống lại chủ nghĩa dân tộc nhà nước, nhưng có nhóm chủ trương một mặt xóa bỏ nhà nước tư sản và cơ cấu giai cấp, nhưng vẫn giữ kết cấu dân tộc như một cộng đồng văn hóa, trong khi có nhóm chủ trương cộng đồng có tính xã hội kinh tế, chứ không phải dựa trên sắc tộc văn hóa. Chủ nghĩa quốc gia ở Việt Nam đầu thế kỷ XX là một dạng chủ nghĩa dân tộc cánh hữu, nó nhấn mạnh sự hình thành nên một quốc gia tự trị trong khi chưa có một quốc gia. Những người này không đấu tranh giải phóng bằng bạo lực, mà là hợp tác với Pháp, đòi tự trị "lần hồi độc lập". Trong khi những người cánh tả như cộng sản đòi đấu tranh giải phóng, nhưng là một bước trong tiến trình cách mạng chủ nghĩa quốc tế. Sau này có xuất hiện một số dạng chủ nghĩa dân tộc có tính cực đoan hơn lên cùng chủ nghĩa phát xít toàn cầu, liên quan các thuyết vị chủng, coi trọng huyết thống (khác với chủ nghĩa duy vật bác bỏ lý thuyết coi trọng huyết thống, đẻ ra nạn con ông cháu cha, thân tộc, dân tộc hẹp hòi một số truyền thống Á Đông). Chủ nghĩa quốc gia nhấn mạnh đến nhà nước, trong bối cảnh Việt Nam chưa có nhà nước, và là để đối trọng với các lý thuyết chính trị cánh tả có xu hướng bài quyền lực nhà nước, đi đến "thế giới phẳng" trong lý thuyết đại đồng. Lý thuyết này hay bị xem là duy tâm, và bị những người tự do xem là đưa đến một nhà nước độc tài, do nó nhấn mạnh đến quyền lợi chung hơn là quyền lợi riêng tư, và dễ đưa đến vi phạm nhân quyền. Lênin, Stalin hay Mao Trạch Đông đều phê phán chủ nghĩa dân tộc, như là một dạng độc tài của tư sản và địa chủ, nhưng lại đề cao lòng ái quốc (yêu nước). Chủ nghĩa yêu nước hay được xem là một tư tưởng ôn hòa, nó có tính chất tình cảm, tinh thần, hơn là một học thuyết chính trị. Nó không có tính đối lập với chủ nghĩa quốc tế. Nhưng cũng có ý kiến cho chủ nghĩa yêu nước cũng giống như chủ nghĩa quốc gia, thường vận động theo chỉ dẫn của nhà nước, hơn là học thuyết có tính chất dân chúng. Tức chủ nghĩa dân tộc nhìn dưới hai góc độ khác nhau, của dân chúng và của nhà nước. Tuy bác bỏ chủ nghĩa dân tộc, nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, thì quan niệm cánh tả, mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp phải song hành nhau. Một phong trào giải phóng dân tộc theo cánh tả phải liên kết với phong trào giải phóng giai cấp ở chính các nước đế quốc và ở các thuộc địa. Ví dụ các Đảng cộng sản ở thuộc địa phải liên minh liên kết với các Đảng cộng sản và tiến bộ ở các "chính quốc", hỗ trợ nhau, đưa đến sự suy yếu của phe đế quốc. Cách mạng sẽ lan ra toàn cầu và các dân tộc XHCN cùng tồn tại hòa bình trong giai đoạn quá độ khi vẫn còn quốc gia - nhà nước, nhưng sẽ xóa nhòa ranh giới bất bình đẳng dân tộc, và xã hội cộng sản chỉ được xây dựng dựa trên sự xóa bỏ giai cấp và các dân tộc cùng một trình độ phát triển tương đương nhau. Bản chất nhà nước gắn với giai cấp, nên xóa bỏ giai cấp là tiền đề xóa bỏ nhà nước. Giải phóng dân tộc (tức giải phóng con người chứ không phải chỉ là giải phóng lãnh thổ, thay cơ chế cai trị này bằng cơ chế cai trị khác) là mục tiêu của nhiều phong trào cánh tả. Do đó mới có các khái niệm như "giải phóng dân tộc", "độc lập dân tộc", tức hướng đến con người, chứ không phải khái niệm quốc gia chung chung, cũng không dùng từ chủ nghĩa dân tộc mà họ hay xem là hẹp hòi, là chủ nghĩa cơ hội (chủ nghĩa quốc gia dân tộc thập niên 1930 ở Việt Nam hay bị những người cánh tả xem là chủ nghĩa cơ hội, cải lương). "Độc lập dân tộc" phải được giương lên kể cả sau khi đã có quốc gia độc lập, vì chống chủ nghĩa tư bản, đế quốc, thực dân mới là cuộc chiến lâu dài. Có nhiều phong trào giải phóng thuộc địa (dân tộc) không lấy tên, đường lối chủ nghĩa dân tộc, ví dụ Đảng Quốc đại Ấn Độ, hay Đảng Ba'athism ở một số nước Trung Đông, Sukarno (lúc đầu là đảng Dân tộc nhưng sau theo cánh tả), Gaddafi, Arafat, các phong trào chống chủ nghĩa thực dân mới ở Mỹ Latinh, hay phong trào chống chủ nghĩa tư bản ở Venezuela...Hay quốc hữu hóa kênh đào Suez...Tương tự là phong trào cộng sản. Ngược lại rất nhiều đảng mang tên đảng Dân tộc ở các nước kém phát triển hay thuộc địa lại không phải là các đảng đấu tranh giải phóng dân tộc, mà là các đảng cánh hữu. Tại Ấn Độ, Đảng Bharatiya Janata là đảng dân tộc cánh hữu, còn Đảng Quốc đại trước đây đấu tranh giải phóng Ấn Độ là đảng cánh tả. Tại New Caledonia phong trào đòi độc lập do cánh tả phát động, thường gắn với người bản xứ, còn cánh hữu gọi là phe dân tộc thì lại ủng hộ duy trì sự cai trị của Pháp, phe này gắn với người Pháp di cư. Năm 2020 có bỏ phiếu trưng cầu dân ý tại đảo này. Ngày nay chủ nghĩa dân tộc hay được xem là cánh hữu, và đối lập với cánh tả theo chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa vũ trụ, thường đưa ra các giải pháp liên kết quốc tế hay thậm trí đến đại đồng... Các đảng dân tộc thường quang phổ chính trị ngả từ hữu đến cực hữu, nhất là khi nó liên kết với chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa dân túy (như là các phong trào tân dân tộc chủ nghĩa chống nhập cư, bài Trung Hoa, bài Hồi giáo ở một số nước). Các đảng này thường dành được ít số phiếu trong các cuộc bầu cử, như Mặt trận Dân tộc Pháp (FN), Đảng vì tự do ở Hà Lan (PVV),...(phương Tây chữ tự do cũng hay được xem một hình thức chủ nghĩa dân tộc, không liên quan chủ nghĩa tự do) hay có xu hướng bài ngoại. Các đảng trung hữu bảo thủ thường ôn hòa hơn, họ hay nhấn mạnh các giá trị truyền thống chứ không nhấn mạnh bài ngoại hay bài trừ sự đa văn hóa... Còn chủ nghĩa dân tộc cánh tả là một khái niệm gây tranh cãi. Riêng các phong trào ly khai, thì phải nhìn vào đường lối khác để xác định là tả hay hữu hay trung dung. Chủ nghĩa dân tộc được xem là đối lập chủ nghĩa cá nhân, lẫn chủ nghĩa địa phương và cả chủ nghĩa quốc tế. Chủ nghĩa dân túy cánh hữu có thể lợi dụng một số các khía cạnh chủ nghĩa dân tộc để đạt một số lợi ích chính trị trước mắt. Ví dụ Donald Trump đưa ra khẩu hiệu Nước Mỹ trên hết, và còn khuyên các nguyên thủ khác là chỉ quan tâm đến lợi ích của dân tộc - quốc gia mình (chứ không phải là quan tâm đến lợi ích của quốc gia - dân tộc khác) như thế họ sẽ làm tốt trách nhiệm của mình hơn. Các chính sách như chủ nghĩa bảo hộ, hay được xem là "thượng đẳng da trắng" chống người nhập cư là những biểu hiện chính trị dân túy, khi Trump nhận thấy rất đông người da trắng bản địa bị mất việc làm bởi những người nhập cư, và là đối tượng tranh thủ trong bầu cử. Do đặt lợi ích nước Mỹ trên hết, nên Trump theo đường lối thực dụng, đặc biệt về kinh tế, chứ ít quan tâm đến các vấn đề toàn cầu như bảo vệ môi trường, chống hiệu ứng nhà kính, các vấn đề tự do dân chủ, nhân quyền, hay là can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia khác, khác với đường lối của nhiều tổng thống Mỹ khác. Đảng Cộng hòa về lý thuyết là bảo thủ ôn hòa, nhưng Trump về lý thuyết là phe hữu trong đảng đó, tức ngả từ hữu đến cực hữu. Ngược lại Biden và đảng Dân chủ có lập trường từ trung dung đến trung tả trong các vấn đề đối nội và đối ngoại, cởi mở hơn trong các quan hệ quốc tế, và có xu hướng tự do tả khuynh. Các vụ Biểu tình George Floyd chống phân biệt chủng tộc,...là biểu hiện của chính trị cánh tả, có sự liên kết mang tính quốc tế, lan rộng ở nhiều nước, thậm trí có biểu hiện chủ nghĩa vô chính phủ, một phong trào quốc tế. Lòng yêu nước (tinh thần yêu nước) hay tinh thần dân tộc (gắn bó cộng đồng dân tộc người với người không quan tâm đến quốc gia- nhà nước) hay trách nhiệm công dân, trách nhiệm nhà nước không liên quan đến khái niệm chủ nghĩa dân tộc như một hệ tư tưởng phức tạp liên quan nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh và hay được xem là thuộc cánh hữu. Ví dụ như có chiến tranh thì công dân phải có nghĩa vụ đi lính, Nhà nước phải bảo vệ lãnh thổ, cái đó không cấu thành chủ nghĩa dân tộc mặc dù có thể liên quan đến chủ nghĩa dân tộc. Lịch sử Chủ nghĩa dân tộc đã trở thành một nét đặc trưng xã hội phổ biến của các nền văn minh loài người kể từ thời cổ đại, đã được thể hiện qua nhận thức hiện đại về sự tự trị và sự độc lập chính trị của các dân tộc trên thế giới và đã được chính thức thực hiện hóa vào cuối thế kỷ thứ XVIII. Ví dụ về các cuộc cách mạng chủ nghĩa dân tộc có thể được quan sát thấy trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, từ những cuộc nổi loạn của người Do Thái ở thế kỷ thứ II, cho tới sự vực dậy của nền văn minh Ba Tư trong giai đoạn Đế quốc Sassanid, và cho đến sự trở lại của nền văn minh Latin ở Đế chế Tây La Mã vào thế kỷ thứ IV và tại thế kỷ thứ V, và cũng hiện tượng này cũng xuất hiện ở nhiều dân tộc khác. Trong thời hiện đại, có thể thấy những ví dụ rõ ràng về sự hưng thịnh của chủ nghĩa dân tộc Đức như là một phản ứng chống lại sự kiểm soát của Napoleon lên dân tộc Đức, phản ứng dữ dội của dân tộc Đức chính là sự thành lập Liên bang Rhein khoảng năm 1805-14. Trung Đông Chủ nghĩa dân tộc Ả Rập, một phong trào giải phóng và trao quyền lực cho người Ả Rập ở Trung Đông, đã xuất hiện trong thế kỷ XIX, lấy cảm hứng từ các phong trào giành tự do độc lập khác từ thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX. Khi Đế quốc Ottoman sụp đổ và Trung Đông được lãnh đạo bởi các cường quốc Châu Âu, dân Ả Rập đã tìm cách thành lập các quốc gia độc lập riêng của họ do chính bàn tay người Ả Rập kiểm soát hơn là người nước ngoài. Chính phủ Syria được thành lập vào năm 1920; Đất nước Transjordan (sau này là Jordan) dần dần từ từ giành được độc lập giữa năm 1921 và năm 1946; nhà nước Saudi Arabia được thành lập vào năm 1932; và quốc gia Ai Cập hiện đại đã lấy lại được sự độc lập tự do hạnh phúc từ năm 1922 đến năm 1952. Khối liên đoàn Ả rập được thành lập tại năm 1945 để thúc đẩy các mối quan tâm, quan hệ, và hợp tác lợi ích thịnh vượng chung cho người Ả Rập giữa các quốc gia Ả Rập hiện đại. Song song với những nỗ lực giành độc lập tự do này, thì phong trào chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái đã xuất hiện trong tâm tư của những người Do Thái Châu Âu vào thế kỷ thứ XIX. Bắt đầu từ năm 1882, người Do Thái chủ yếu đến từ các quốc gia châu Âu, đã bắt đầu di dân tới Ottoman Palestine với mục tiêu thiết lập một quê hương mới dành cho người Do thái. Sự cố gắng phấn đấu này lên tới đỉnh cao khi người Do Thái quyết định tuyên bố sự tự do độc lập của Nhà nước Israel vào năm 1948. Vì động thái giành độc lập tự do của người Do Thái cho quốc gia Israel đã hoàn toàn mâu thuẫn với niềm tin phổ biến của đại đa số các dân tộc Ả Rập rằng Palestine là một phần lãnh thổ của người Ả rập và quốc gia Ả Rập, cho nên các dân tộc Ả rập láng giềng nằm ở xung quanh nhà nước Do Thái Israel, các dân tộc người Ả Rập đã cùng nhau đồng loạt hô hào phát động một cuộc xâm chiếm tấn công quốc gia Do thái Israel non trẻ. Cuộc xâm lược của người Ả Rập chỉ thành công một phần nào đó và dẫn đến hàng chục thập kỷ xung đột giữa các hệ tư tưởng chủ nghĩa dân tộc Ả Rập đối đấu với dân tộc Do thái. Châu Á Trung Quốc Xem chi tiết ở bài Chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc (chữ Hán: 中国民族主义, Hán-Việt: Trung Quốc dân tộc chủ nghĩa). Ở Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc là 1 hiện tượng khách quan hiển nhiên lâu đời từ xa xưa ở Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc hiện đại có từ thời nhà Minh, Tôn Trung Sơn (1866–1925) thành lập Trung Quốc Quốc dân Đảng(KMT) và Trung Hoa Dân Quốc(Ngày nay là đảo Đài Loan). Đảng Cộng sản Trung Quốc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại lục địa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trach Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, Thuyết ba đại diện, Quan điểm phát triển khoa học, Tư tưởng Tập Cận Bình làm nền tảng phát triển Trung Quốc Đại lục bây giờ. Việt Nam Tại Việt Nam, một thời, từ thập niên 1930 cụm từ "chủ nghĩa quốc gia" hay được dùng. Trong thời Pháp thuộc, một số nhóm theo chủ nghĩa này ủng hộ chế độ bảo hộ của Pháp tại Đông Dương, ủng hộ chủ nghĩa quốc gia ở Pháp (chỉ các nhóm chính trị cánh hữu hay cực hữu ở Pháp). Có nhóm năm 1939 khi cánh hữu thắng cử ở Pháp, đã kêu gọi "từ giã hết chủ nghĩa xã hội, quốc tế, cộng sản xét ra không có lợi gì cho tiền đồ Tổ quốc đi, để quay đầu về phụng sự chủ nghĩa quốc gia", họ cho là các lý tưởng kia "không lấy thực nghiệm ra mà suy xét, chỉ chạy theo lý tưởng xuông" và xem một số nước "đem ra thực hành đều thất bại cả", họ kêu gọi "trông cậy vào sự chỉ đạo của nước Pháp bảo hộ,...yêu cầu nước Pháp gây dựng cho nước ta một quốc gia, có chính phủ chịu trách nhiệm các việc nội trị trước một dân Viện có quyền lập pháp". Tức đòi quyền tự trị chứ không phải độc lập. Họ bác bỏ quan điểm của "bọn thanh niên... cứ nhứt định theo đòi văn minh Âu -Mỹ mà thôi", và kêu gọi "khôi phục quốc quyền, chấn hưng quốc thể", bác bỏ "tư tưởng và óc đảng phái đã làm cho quốc dân Việt Nam tam phân ngũ liệt", và "đòi tự trị", "quân chủ lập hiến". Họ bác bỏ "thuyết xã hội, thuyết quốc tế cùng đảng viên tả phái đi cổ động tự do", cho đó là "trái với tinh thần "trung quân ái quốc" của dân chúng, trái với luân lý Phật đà, Khổng Tử, khác với chủ nghĩa quốc gia cái rễ từ đời Trưng Nữ vương đuổi Tô Định, Triệu Ấu đuổi quân Ngô", kêu gọi "chỉ có ai là thức thời, có lòng yêu nước trung vua vốn sẵn, chỉ dựa vào cái chủ nghĩa "Pháp Nam hợp tác", "Pháp Việt đề huề", học đòi người quý quốc, làm cho nước được mạnh, dân được giàu lên đã". Theo báo Tràng An những người này chủ trương "Nếu chúng ta mong có ngày kia, nước Pháp sẽ theo hòa ước 6 juin 1884, thi hành triệt để giao giả về quốc quyền cho chúng ta tự trị lấy việc nước nhà ta, thì trước hết chúng ta cũng phải bắt chước người Pháp đồng tâm hiệp lực lại, trên dưới một lòng, quân dân một dạ, cử quốc hiệp nhất, khiến cho nước Pháp kính nể, nước Pháp tin cẩn mới được". Một số chính trị gia theo chiều hướng này tiêu biểu như Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh...nhưng đường lối cụ thể không giống nhau. Họ chống lại Mặt trận Bình dân (cánh tả) ở Pháp. Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi... tiêu biểu cho khuynh hướng bảo hộ Pháp, quân chủ kèm dân quyền, sau có hướng thân Nhật, là nhóm "quốc gia" nhất, Bùi Quang Chiêu có hướng tự do, và lập hiến kiểu dân chủ tư sản, sau ngã sang xu hướng xã hội cấp tiến, pha trộn chủ nghĩa tự do và xã hội, gần đường lối Gandhi nhưng ủng hộ bảo hộ Pháp, một thời gian ngắn liên kết với nhóm ủng hộ thợ thuyền cộng sản và xã hội. Hồ Văn Ngà thì dựa vào Nhật ủng hộ độc lập. Ngoài ra còn có "quốc gia xã hội" (tắt là quốc xã) như nhóm Đại Việt của Trần Trọng Kim,...Pháp thời gian đó cũng có Đảng Quốc gia Xã hội Pháp, có chi nhánh tại Đông Dương. Trên báo Phụ nữ tân văn đã bình phẩm cho "quốc gia xã hội" chỉ là một thứ "cãi xà lách" vì "quốc gia" và "xã hội" là hai chữ nghĩa khác nhau, chủ nghĩa quốc gia là chủ nghĩa của những người chỉ lấy tiếng nước mà hiệu triệu người, bảo người phải vì nước và vì kẻ thống trị của nước, mà chống nhau với nước khác. Còn chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa của những người bảo rằng: nước chỉ là nước của những người có tài sản, rốt cuộc có hai nước trong mỗi nước: nước của người có tài sản và nước của người vô sản. Quyền lợi tương phản cùng nhau...Và cho rằng thuyết quốc xã nó "có thể hợp với những bọn gọi là yêu nước để giữ quyền lợi quốc gia, tức là quyền lợi của hạng tư bản và binh lợi quyền của vô sản", một cái thuyết lộn xộn! Ngay thời gian này, trên báo Ngày nay, Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long cho "chủ nghĩa quốc gia, vì làm thiên lệch lòng ái quốc, vì quá tôn nước mình, hóa ra khinh rẻ nước người, và là cái mầm của sự chiến tranh giữa nước này với nước kia, cái mầm của sự lấn áp nước yếu của nước khỏe, cái mầm của chủ nghĩa đế quốc". Nhóm này ảnh hưởng của chủ nghĩa Tam Dân, chủ nghĩa tự do pha trộn xã hội, một thời ủng hộ Mặt trận Dân chủ chịu chi phối của giới bình dân công nông thợ thuyền, chống bảo hoàng.
Trong toán học, không gian compact là một khái niệm rất quan trọng của tô pô. Tùy theo không gian ta xét là không gian mêtric hay không gian Euclide mà có những định nghĩa khác nhau so với không gian tô pô tổng quát. Giới thiệu Một ví dụ cơ bản về không gian compact là không gian con của với topo Euclide. Tức là nếu lấy tập vô hạn phần tử rời nhau trong thì tập đó sẽ chứa ít nhất một điểm tụ. Ví dụ tập thì sẽ là một điểm tụ của . Tổng quát hơn, định lý Heine-Borel cho ta là không gian compact (không gian là con của với topo Euclide) khi và chỉ khi đóng và bị chặn trong . Vì vậy, những khoảng mở, nửa khoảng và là không compact. Như ta đã biết, có nhiều cách định nghĩa một không gian compact, ví dụ như compact tổng quát, compact dãy.... Các định nghĩa sẽ phụ thuộc vào cấp độ tổng quát của không gian topo. Ví dụ: Không gian con của không gian Euclide là compact khi và chỉ khi nó đóng và bị chặn. Trong không gian metric, khái niệm compact dãy trùng với khái niệm compact tổng quát. Tuy nhiên, trong không gian topo tổng quát, khái niệm compact dãy sẽ không tương đương với khái niệm compact tổng quát. Nghĩa là không gian được gọi là compact khi và chỉ khi với mọi phủ mở của , ta có thể trích ra một phủ con hữu hạn. Khi đó, một tập đóng và bị chặn trong không gian Euclide là compact tổng quát được chứng minh qua định lý Heine-Borel. Định nghĩa Xét là một tập hợp con của một không gian tô-pô . được gọi là một tập con compact của nếu điều kiện sau được thỏa mãn: nếu và với là các tập con mở của , thì tồn tại một tập con hữu hạn sao cho (nghĩa là với mọi phủ mở của , có một phủ hữu hạn các tập mở bao hàm nó). Ngắn gọn, là một tập con compact khi và chỉ khi "mọi phủ mở đều có phủ con hữu hạn". Một không gian tô-pô được gọi là compact nếu tập con tầm thường là một tập con compact. Không gian con compact Cho là không gian con của không gian tô pô . Cho là tập chỉ số của một phủ mở của . Với mỗi là chỉ số của một tập mở của , thì ta có mở trong sao cho . Vì vậy, ta có họ các tập mở của mà có hội chứa . Nói cách khác, nếu có một họ các tập mở trong có hội chứa , thì họ là một phủ mở của . Do đó, là không gian con compact của nếu cho họ là họ các tập mở bất kì có phần hội chứa , thì tồn tại và sao cho có hội chứa . Vì vậy, ta có thể định nghĩa không gian con của là compact qua hai cách: dùng họ phủ mở của hoặc họ các tập mở trong có hội chứa . Nói cách khác, một tập con là compact khi và chỉ khi nó là một không gian con compact với tô-pô cảm sinh. Những ví dụ Topo tổng quát Không gian topo với hữu hạn là không gian compact, vì nó chỉ có hữu hạn tập mở. Tổng quát hơn, nếu topo có hữu hạn phần tử thì là không gian compact (topo hiển nhiên là một ví dụ). Không gian topo với tô pô phần bù hữu hạn là không gian compact. Giải tích và Đại số Khoảng đóng dưới topo Euclide là compact, điều này được suy ra từ định lý Heine - Borel. Khoảng mở thì không compact vì ta có họ phủ mở là phủ nhưng không trích ra được phủ con hữu hạn. với topo Euclide là không compact vì ta có họ phủ mở phủ nhưng không trích ra được phủ con hữu hạn. Ta cũng có thể kết luận điều này vì đồng phôi với với topo Euclide nhưng không compact, dẫn đến không compact. Tập Cantor là compact dưới topo Euclide. Cho là tập hợp các hàm số thỏa điều kiện Lipschitz: tồn tại sao cho thì . Ta có là không gian metric với metric định bởi là không gian compact. Điều này được suy ra từ định lý Arzela-Ascoli. Ý nghĩa Ý nghĩa của khái niệm này: Để đưa những vấn đề mang tính địa phương về toàn cục, cần phải hữu hạn hóa quá trình vô hạn. Nói cách khác, mỗi sự kiện phụ thuộc ở phạm vi địa phương (xét trong lân cận tại mỗi điểm thuộc A), toàn bộ tập A được bao phủ bởi tất cả các lân cận ấy. Nếu chỉ cần một số hữu hạn các lân cận ấy đủ để bao phủ A thì ta có thể chọn được những đại lượng lớn nhất, bé nhất liên quan đến tính hữu hạn này. Trong tiếng Anh, compact có nghĩa là "nén chặt, gọn gàng, tinh tế". Qua định nghĩa trên, ta thấy một tập compact khá gọn gàng: Tưởng chừng phải có vô hạn cái túi để đựng tập A nhưng thật ra chỉ cần hữu hạn cái là đủ. Trước đây, một số nhà toán học Việt Nam đưa những thuật ngữ tiếng Việt để dịch khái niệm này như là "tập compact", "tập cơm nén" (quá thuần Việt) hay "tập áp súc" (từ Hán-Việt). Có lẽ không được hưởng ứng nhiều, ngày nay ta dùng luôn từ compact, đôi khi phiên âm thành "com-pắc". Các định lý Khá nhiều định lý gắn chặt với tính chất compact của tập như: Ảnh liên tục của một không gian compact là compact. Tập con đóng của không gian compact là compact. Cho là song ánh liên tục. Nếu là compact và là Hausdorff, thì là đồng phôi. Không gian con compact của không gian Hausdorff là đóng. Định lý giá trị cực trị: một hàm trị thực liên tục trên một không gian compact có giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất. Hội hữu hạn những tập compact là compact. Định lý Tychonoff: tích của một họ các không gian compact là compact. Đặc trưng của tính compact Một không gian là compact nếu và chỉ nếu mỗi họ các tập đóng với tính chất giao hữu hạn có giao khác rỗng. Không gian Euclide Với tập con của không gian Euclide , những tính chất sau là tương đương: 1. là compact. 2. Mỗi dãy trong có dãy con hội tụ. 3. là đóng và bị chặn (định lý Heine-Borel). Không gian metric Cho phủ mở của không gian metric compact, thì có một số sao cho quả cầu bán kinh chứa trong một thành phần của phủ mở. (số Lebesgue) Một không gian metric là compact nếu và chỉ nếu mỗi dãy có dãy con hội tụ. Chú thích
Chủ nghĩa yêu nước (hay chủ nghĩa ái quốc, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước) là cảm xúc, tình cảm, tinh thần yêu thương, tích cực về quê hương, đất nước hay cội nguồn của một cá nhân hay tập thể, trong đó quê hương có thể là một vùng, một thành phố nhưng thông thường thì khái niệm này gắn với khái niệm quốc gia. Nó gồm những quan điểm như: tự hào về thành tựu hay văn hóa của quê hương, mong muốn được cống hiến hết mình cho quê hương đất nước. Hiện nay chủ nghĩa yêu nước rất gần với chủ nghĩa dân tộc, vì thế chúng hay được dùng như những từ đồng nghĩa. Nếu xét cặn kẽ thì chủ nghĩa dân tộc liên quan tới các học thuyết và phong trào chính trị hơn, trong khi chủ nghĩa yêu nước liên quan tới tình cảm nhiều hơn. Chủ nghĩa yêu nước giúp con người cảm thấy yêu mến, tự hào, có các trách nhiệm hơn với quốc gia dân tộc. Một lòng yêu nước thái quá trong việc bảo vệ một dân tộc được gọi là chủ nghĩa sô vanh. Chữ patrie, tiếng Pháp là đất mẹ, quê hương hay Tổ quốc. Đó có thể là một khu vực, làng, thị trấn, đất nước hay liên bang. Theo Andrea Baumeister, chủ nghĩa yêu nước (lòng yêu nước) là cảm xúc tận tâm và gắn kết với một quốc gia, dân tộc, hay cộng đồng chính trị. Chủ nghĩa yêu nước (tình yêu nước) và chủ nghĩa dân tộc (lòng trung thành với dân tộc) thường được coi là đồng nghĩa, nhưng chủ nghĩa yêu nước có nguồn gốc khoảng 2.000 năm trước khi chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy vào thế kỷ 19. Chủ nghĩa yêu nước gắn với sự gắn bó riêng biệt với dân tộc được xem là biểu hiện chủ nghĩa sô vanh và trái ngược với chủ nghĩa thế giới cũng như giá trị đạo đức chung của toàn thể nhân loại / loài người. Nói cách khác, chủ nghĩa dân tộc là chính sách hay học thuyết khẳng định lợi ích của quốc gia / dân tộc mình được coi là tách biệt với lợi ích của các quốc gia / dân tộc khác hoặc lợi ích chung của tất cả các quốc gia / dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là một loại chủ nghĩa yêu nước thái quá, hiếu chiến. Chủ nghĩa dân tộc thường được hiểu mang tính tiêu cực, còn chủ nghĩa yêu nước thường được hiểu mang tính tích cực. Chủ nghĩa dân tộc thường thể hiện tình yêu thái quá và độc quyền với quốc gia / dân tộc, và bài ngoại, kỳ thị người nhập cư hay một nhóm người cùng sinh sống trên một quốc gia nhưng khác biệt sắc / chủng tộc hay tôn giáo. Có một cách phân biệt khác, sự khác biệt giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc là người yêu nước tự hào về đất nước của mình vì những gì nó xứng đáng, còn người theo chủ nghĩa dân tộc tự hào về đất nước của mình bất kể thứ gì, tức sự tự hào một cách mù quáng và cực đoan. Một dân tộc thường là thể hiện sự gắn bó của một sắc tộc hay cộng đồng văn hóa, nhưng chủ nghĩa dân tộc thì còn gắn với nhà nước, khái niệm national state. Từ "yêu nước" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, ở Việt Nam dịch từ tiếng Hoa sang có nghĩa là yêu nước (ái quốc), nhưng thực chất ban đầu là yêu quê cha đất tổ, tức nơi cội nguồn sinh ra, không nhất thiết phải là quốc gia. Chủ nghĩa yêu nước cũng như chủ nghĩa dân tộc có khi bị gán cho là bảo thủ hay phản động. Trong bài viết về chính trị nước Mỹ của Jonathan Zimmerman (Đại học Pennsylvania): "Tự do và công lý cho tất cả" là tiêu chuẩn yêu nước: Công bằng xã hội là tiêu chuẩn yêu nước. Trước những biểu hiện này, Đảng Dân chủ có thể coi lòng yêu nước là một sự thôi thúc bảo thủ hoặc phản động. Theo một cuộc khảo sát gần đây của Gallup, 76% đảng viên Cộng hòa nói rằng họ “cực kỳ tự hào” về đất nước của mình, trong khi chỉ có 22% đảng viên đảng Dân chủ nói rằng họ như vậy. Ở Mỹ và phần lớn phần còn lại của thế giới giàu có, các đảng bảo thủ đã bị chủ nghĩa dân tộc phản động tiếp quản hoặc thách thức. Tuy nhiên chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa dân tộc phản động là khác nhau. Những người bảo thủ có xu hướng hoài cổ và sợ hãi rối loạn. Tuy nhiên những người bảo thủ chấp nhận tính phổ quát, những người phản động coi trọng đặc tính riêng biệt, như 30% người Mỹ nói rằng bạn phải là một người Cơ đốc giáo sinh ra ở chính nước Mỹ để trở thành một người Mỹ thực sự nghiêng về ủng hộ Đảng Cộng hòa. Donald Trump - đảng viên một thời đầy hy vọng của Đảng Cải cách, người đã từng gièm pha ông Buchanan là “người yêu Hitler” vào năm 2000. Trump cho lòng yêu nước là vô điều kiện, ông trích dẫn câu của Mark Twain: "Lòng yêu nước là luôn ủng hộ đất nước của bạn, và chính phủ của bạn khi nó xứng đáng." Tuy nhiên Trump bị chỉ trích là tự phụ và không chân thành và "nếu lòng yêu nước có bất kỳ ý nghĩa tích cực nào, nó chắc chắn bao gồm việc đặt lợi ích của đất nước và đồng bào lên trên tham vọng chính trị và sự làm giàu tài chính cho bản thân. Theo tiêu chuẩn đó, Trump là tổng thống ít yêu nước nhất mà chúng ta có". Trump bị chỉ trích: Cái mà Trump gọi là "giáo dục yêu nước" là giáo dục phân biệt chủng tộc. "Giáo dục yêu nước" là chủ nghĩa phát xít của Stephen Miller + chủ nghĩa cơ yếu của Mike Pence. Các cụm từ "Thanh niên Trump" và "Thanh niên Hitler" đã trở thành chiều hướng trên Twitter, một số người ví dự án giáo dục mới của tổng thống với sự dạy dỗ giới trẻ ở Đức Quốc xã. Quan điểm Theo Oscar Wilde: "Lòng yêu nước là đức tính của những kẻ xấu xa. Lòng yêu nước quá mức là hình thức giả dối nhất của sự kiêu ngạo" Theo V.I.Lênin “Lòng yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”. Theo Hồ Chí Minh “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Chợ Bến Thành là một ngôi chợ nằm tại quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Chợ được khởi công xây dựng từ năm 1912, hình ảnh đồng hồ ở cửa nam của ngôi chợ này được xem là biểu tượng không chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh. Chợ nằm giữa các đường Phan Bội Châu - Phan Chu Trinh - Lê Thánh Tôn - Công trường Quách Thị Trang tại phường Bến Thành với diện tích 13.056 m². Các ngành hàng kinh doanh chủ yếu ở đây bao gồm: quần áo, vải sợi, giày dép, thời trang, hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm tươi sống, trái cây, hoa tươi,... Thời kì đầu của những năm thành lập, chợ Bến Thành đã có từ trước cả khi người Pháp xâm chiếm Gia Định. Ban đầu, vị trí của chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé, cạnh một bến sông gần thành Gia Định (bấy giờ là thành Quy, còn gọi là thành Bát Quái). Bến này dùng để cho hành khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến Thành, và khu chợ cũng có tên gọi là chợ Bến Thành - tên gọi chính thức vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Lịch sử Chợ Cũ Chợ Bến Thành thời kỳ đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, được mô tả như là "phố chợ nhà cửa trù mật" ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền". Tuy nhiên, sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1833-1835), thành Quy bị triệt hạ, phố chợ Bến Thành cũng không còn sầm uất như trước. Trước khi Pháp đánh chiếm Gia Định, khu vực xung quanh thành Gia Định (bấy giờ là Thành Phụng) mới chỉ có 100 ngàn dân và chợ Bến Thành là nơi đông đúc nhất. Cạnh khu chợ, dọc theo bờ sông Bến Nghé, các ghe thương thuyền thường đậu chen chúc nhau, tạo thành một thành phố nổi trên mặt nước. Tuy nhiên, khi ấy khu họp chợ trên bến mới chỉ là một dãy nhà trống lợp ngói. Vào tháng 2 năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định và hai ngày sau, các binh lính người Việt đã tổ chức hỏa công thiêu rụi cả thành phố, tất nhiên chợ Bến Thành cũng bị thiêu hủy. Sau khi đã vững chân trên mảnh đất Nam Kỳ, năm 1860, người Pháp đã cho xây cất lại chợ Bến Thành ở địa điểm cũ (thời Việt Nam Cộng hòa là địa điểm Tổng Ngân khố, nay là Trường đào tạo cán bộ ngân hàng trên đường Nguyễn Huệ). Ngôi chợ được xây cất bằng cột gạch, sườn gỗ, và lợp lá. Tháng 7 năm 1870, chợ bị cháy mất một gian, phải xây cất lại bằng cột gạch, sườn sắt, lợp bằng ngói, tất cả có năm gian: gian thực phẩm, gian hàng cá, gian hàng thịt, gian hàng ăn uống và gian hàng tạp hóa. Trong năm gian hàng này, chỉ có gian hàng thịt được lợp bằng tôn, nền lót đá xanh. Thời đó, khu chợ được xây dựng bên bờ phía nam một con kênh, được gọi là Kinh Lớn. Phía trước chợ, dọc bờ kênh là một con đường được người Pháp đặt tên là đường Charner, hay một tên gọi khác là đường Quảng Đông (Rue de Canton), bởi đa số người Hoa làm nghề buôn bán ở đây đều là người Quảng Đông. Phía đối diện bờ kênh là đường Rigaul de Genouilly. Do vị trí nằm giao điểm của khu đô thị và hợp lưu của hai tuyến đường thủy là kênh Lớn và rạch Cầu Sấu (nay là đường Hàm Nghi), ghe thuyền có thể cập bến và đổ người lên chợ bất cứ ở phía bên này hay bên kia. Còn người bên đất liền muốn qua chợ thì có thể đi qua những chiếc cầu gỗ xinh xắn, do đó chợ Bến Thành luôn luôn nhộn nhịp. Vì lưu lượng hàng hóa vận chuyển tấp nập nên Kinh Lớn dần dần trở nên ô nhiễm nặng khiến người Pháp phải cho lấp kênh đào này. Cuối thập niên 1960, chính quyền thành phố đã cho lấp lại đoạn trên của con kênh (từ đường Lê Thánh Tôn đến đường Mạc Thị Bưởi ngày nay). Năm 1887, phần còn lại của con kênh được lấp và hai con đường cũ được sáp nhập lại làm một thành đại lộ Charner. Dân bản xứ gọi nôm là đường Kinh Lấp (nay là đường Nguyễn Huệ). Khu chợ càng trở nên đông đúc với các cửa hiệu phần nhiều là của người Hoa, người Ấn Độ và người Pháp. Tuy nhiên, khoảng giữa năm 1911, ngôi chợ trở nên cũ kỹ và lâm vào tình trạng có thể bị sụp đổ. Để tránh tai họa, người ta phải phá chợ, chỉ còn gian hàng thịt, vì mái tôn nhẹ, nên chưa bị phá. Đồng thời, người Pháp cũng lựa chọn một địa điểm để xây cất một khu chợ mới lớn hơn để phục vụ nhu cầu buôn bán sầm uất ngày càng phát triển. Địa điểm được lựa chọn nằm gần ga xe lửa đi Mỹ Tho (nay là Công ty Vận tải Đường sắt Sài Gòn), tức là địa điểm chợ Bến Thành ngày nay. Chợ Mới Khu vực xây chợ, vốn là một cái ao sình lầy cũ, gọi là ao Bồ Rệt (Marais Boresse), được người Pháp cho lấp đi. Khuôn viên chợ quy hoạch 4 mặt bởi 4 con đường. Mặt tiền là Place Cuniac, tên đặt theo viên Thị trưởng thành phố Sài Gòn (Xã Tây) Cuniac, người đã đề ra công việc lấp ao. Người Việt thì quen gọi đó là Bùng binh Chợ Bến Thành cho dù tên chính thức đã từng đổi là "Công trường Cộng Hòa", "Công trường Diên Hồng", rồi "Quảng trường Quách Thị Trang". Mặt bắc chợ là Rue d'Espagne, phía đông là rue Viénot, và phía tây là rue Schroeder. Năm 1955, thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, 3 con đường này đổi tên thành đường Lê Thánh Tôn, đường Phan Bội Châu và đường Phan Châu Trinh. Ngôi chợ mới do hãng thầu Brossard et Maupin khởi công xây dựng từ năm 1912 đến cuối tháng 3 năm 1914 thì hoàn tất. Lễ ăn mừng chợ khánh thành được báo chí thời đó gọi là "Tân Vương Hội", do được diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914, với pháo bông, xe hoa và hơn 100.000 người tham dự, kể cả từ các tỉnh đổ về. Đặc biệt, ngày khai mạc chợ, người ta đã cho tổ chức màn biểu diễn đánh cọp của cô gái tên Võ Thị Vuông, là con của lão võ sư Hai Ất. Trong khi khai hoang lập đồn điền trồng cao su phía bắc tỉnh Thủ Dầu Một, con cọp bị mắc bẫy và được đem về Sài Gòn. Cuộc đấu kéo dài từ sáng sớm và kết thúc lúc chính ngọ, khi con cọp bị người nữ võ sĩ đâm trúng yết hầu. Năm 1952, nhà thầu tu sửa chợ Bến Thành từ Sài Gòn lên Biên Hòa đặt xưởng mỹ nghệ Biên Hòa làm 12 bức phù điêu, bức lớn có kích thước 2,2 x 1,5 m; bức nhỏ 2,0 x 1,4 m về đặt nơi bốn cửa chợ. Họa sĩ Lê Văn Mậu được giao sáng tác theo đơn đặt hàng, đã được sự giúp đỡ của những người thầy và những nghệ nhân lành nghề tại xưởng mỹ nghệ Biên Hòa như: Sáu Sảnh, Tư Ngô, Hai Sáng, chủ Thạch, anh Tóc... Các bức phù điêu được nung tới độ vật liệu kết dính thành khối. Vào thời kỳ đó hiếm có hóa chất nhập khẩu dùng cho ngành gốm, màu men dùng cho sản phẩm gốm được nghệ nhân pha chế từ nguyên liệu gốc là đồng với nguyên liệu lấy từ thiên nhiên để cho ra một hợp chất theo ý muốn, gọi là “men ta”. Còn men nhập cảng gọi là “men tàu”, vì chúng được vận chuyển bằng tàu. Dòng sản phẩm gốm Biên Hòa một thời nổi tiếng Đông Dương cũng chính từ cách pha chế truyền thống này. Tuy nhiên do nung bằng củi, lửa trong lò không đều nên màu men trên cùng một sản phẩm có màu sắc đậm nhạt khác nhau tạo nên nét rất hiếm thấy trên các dòng sản phẩm gốm hiện thời. Sau trận lũ lụt Nhâm Thìn (1952), ba ông Phạm Văn Ngà (Ba Ngà), Nguyễn Trí Dạng (Tư Dạng) và Võ Ngọc Hảo được xưởng mỹ nghệ Biên Hòa cử lên Sài Gòn để gắn những bức phù điêu chợ Bến Thành. Mỗi cửa gắn ba bức, một bức lớn ở trên và hai bức nhỏ ở dưới. Tại bốn cửa chợ gắn phù điêu mang biểu tượng: cá đuối với nải chuối (cửa tây), con vịt xiêm với nải chuối (cửa bắc), bò với heo (cửa đông), đầu bò với cá chép (cửa nam) Khu chợ mới này vẫn mang tên gọi Bến Thành; tuy nhiên cho đến trước năm 1975 tên gọi chợ Bến Thành này thường chỉ hiện diện trong sách vở, còn người dân thì thường gọi là chợ Sài Gòn hay chợ Mới, để phân biệt chợ Cũ tại điểm cũ, vốn chỉ còn lại gian hàng thịt. Phần còn lại bị phá đi và được người Pháp xây dựng thành cơ quan Ngân khố. Hai con đường bên hông chợ mãi đến năm 1940 còn là bến xe đò miền Đông và miền Tây. Về sau, bến xe này mới được dời đi chỗ khác. Ngày 1 tháng 7 đến 15 tháng 8 năm 1985, chợ Bến Thành được cải tạo và sửa chữa lớn. Hình ảnh Chú thích
{{Thông tin khu dân cư | name = Madrid | official_name = |motto = ("Tôi được xây dựng trên nước,Tường của tôi làm từ lửa.Đây là lá cờ và huy hiệu của tôi.") | settlement_type = |image_skyline = CollageMadrid.jpg |image_caption = |imagesize = 250px |image_flag = |image_shield = Escudo de Madrid.svg |flag_link = Flag of the City of Madrid |flag_size = 125px |shield_link = Coat of arms of Madrid |shield_size = 75px |pushpin_map = Spain | pushpin_relief = 1 |pushpin_mapsize = 250 |pushpin_map_caption = Vị trí của Madrid trong Tây Ban Nha |pushpin_map1 = Spain Madrid |pushpin_map_alt1 = |pushpin_map_caption1 = Vị trí của Madrid trong Vùng cộng đồng Tây Ban Nha |coordinates_region = ES-M |subdivision_type = Quốc gia |subdivision_name = Tây Ban Nha |subdivision_type1 = Vùng |subdivision_name1 = Cộng đồng Madrid |government_type = Thị trưởng thành phố, Hội đồng chính phủ |governing_body = Ayuntamiento de Madrid |leader_title = Thị trưởng |leader_name = Anna Botella |leader_party = Đảng Nhân dân |established_title = Founded |established_date = thế kỷ 9<ref name="History of Madrid">{{Chú thích web |url=http://www.madridamano.com/historia/?op=hist3 |title=La dominación árabe(Arab rule). The city of Mayrit, a fortress in its origin, was founded by the end of the IX centruy. |access-date=ngày 7 tháng 8 năm 2011 |language=es}}</ref> |established_title2 = |established_date2 = |established_title3 = |established_date3 = |area_magnitude = |unit_pref = |area_footnotes = |area_total_km2 = |area_land_km2 = 607 |area_water_km2 = |area_total_sq_mi = |area_land_sq_mi = |area_water_sq_mi = |area_water_percent = |area_urban_km2 = |area_urban_sq_m = |area_metro_km2 = 10,506 |area_metro_sq_mi = 4,057 |population_as_of = 2010 |population_note = |population_total = 3,273,049 |population_density_km2 = 5403 |population_metro = 6,458,684 |population_density_metro_km2 = |population_density_metro_sq_mi = |population_urban = |population_density_urban_km2 = |population_density_urban_mi2 = |population_rank = 1st |population_demonym = Madrilenian (m) (f)|timezone = CET |utc_offset = +1 |timezone_DST = CEST |utc_offset_DST = +2 |latd=40 |latm=23 |lats= |latNS=N |longd=3 |longm=43 |longs= |longEW=W |elevation_footnotes = |elevation_m = 667 |elevation_ft = |postal_code_type = Mã bưu chính |postal_code = 28001–28080 |area_code = 34 (Tây Ban Nha) + 91 (Madrid) |blank_name_sec1 = Patron Saints |blank_info_sec1 = Isidore the LaborerVirgin of Almudena |website = www.munimadrid.es |footnotes = }} Madrid () là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Tây Ban Nha. Dân số thành phố vào khoảng 3,4  triệu người, toàn bộ dân số của vùng đô thị Madrid ước tính khoảng 6,271 triệu người. Madrid là thành phố lớn thứ hai trong Liên minh châu Âu, sau Berlin. Vùng đô thị Madrid lớn thứ hai trong Liên minh châu Âu, chỉ sau và Paris.Eurostat, UrbanAudit.org , accessed on ngày 12 tháng 3 năm 2009. Data for 2004.United Nations Department of Economic and Social Affairs, World Urbanization Prospects (2007 revision) , (United Nations, 2008), Table A.12. Data for 2007. Thành phố có diện tích tổng cộng 604,3  km² (233.3  sq mi). Madrid là đô thị trung tâm của Vùng đô thị Madrid có dân số hơn 5,8 triệu người. Chùm đô thị Madrid có mức GDP lớn thứ ba trong Liên minh châu Âu và mọi ảnh hưởng về chính trị, giáo dục, giải trí, môi trường, truyền thông, thời trang, khoa học và nghệ thuật của Madrid đều góp phần vào vị thế là một trong những thành phố toàn cầu của thế giới. Dựa trên xuất khẩu kinh tế, tiêu chuẩn đời sống cao và quy mô thị trường rộng lớn, Madrid được xem là trung tâm tài chính chủ đạo của Nam châu Âu và bán đảo Iberia. Nơi đây là nơi đóng trụ sở của một số lượng đông đảo các công ty lớn của Tây Ban Nha. Madrid là thành phố thu hút du lịch nhất trên đất nước Tây Ban Nha, và xếp thứ tư trên toàn lục địa, ngoài ra còn là thành phố được xem là nơi sống tốt đứng thứ 10 thế giới theo tạp chí Monocle trong bảng xếp hạng năm 2010. Madrid cũng nằm trong danh sách 12 thành phố châu Âu xanh nhất vào năm 2010. Thành phố nằm trên sông Manzanares, ở trung tâm của đất nước và vùng Cộng đồng Madrid (vốn bao gồm thành phố Madrid, vùng đô thị liên hoàn của nó và các ngôi làng cũng như vùng ngoại ô mở rộng xung quanh). Vùng cộng đồng này giáp với cộng đồng tự trị Castile và León và Castile-La Mancha. Đóng vai trò là thành phố thủ đô, nơi đóng cơ quan chính phủ và nơi cư trú của Quốc vương Tây Ban Nha, Madrid do đó còn là trung tâm chính trị của Tây Ban Nha. Thị trưởng hiện nay là Alberto Ruiz-Gallardón của Đảng Nhân dân. Tuy Madrid sở hữu một nền cơ sở hạ tầng hiện đại, nơi đây vẫn lưu giữ vẻ bề ngoài và cảm giác xưa cũ tại phần lớn các khu phố và những con đường lịch sử. Các thắng cảnh bao gồm: cung điện hoàng gia Madrid; nhà hát hoàng gia Teatro Real cùng nhà hát Opera tại đây phục hồi vào năm 1850; công viên Buen Retiro, thành lập năm 1631; toà nhà Thư viện Quốc gia từ thế kỷ 19 (thành lập năm 1712) lưu trữ những hiện vật và tài liệu lịch sử của Tây Ban Nha; bảo tàng khảo cổ; Tam giác Vàng Nghệ thuật nằm dọc theo đại lộ Paseo del Prado và gồm 3 bảo tàng nghệ thuật: Bảo tàng Prado, Bảo tàng Reina Sofía, một bảo tàng nghệ thuật đương đại, ngoài ra còn bảo tàng Thyssen-Bornemisza, nằm trong cung điện Madrid được sửa chữa phục hồi lại. Lịch sử Thời Trung cổ Mặc dù địa điểm Madrid hiện đại đã có người ở từ thời tiền sử, trong thời La Mã vùng này thuộc về xứ đạo của Complutum (nay là Alcalá de Henares). Nhưng các dữ liệu lịch sử đầu tiên của thành phố có từ thế kỉ thứ 9, khi Mehmed I ra lệnh xây một cung điện nhỏ tại cùng nơi mà hiện nay là Palacio Real. Xung quanh cung điện có một thành lũy nhỏ mang tên al-Mudaina. Gần cung điện là Manzanares, nơi những người Hồi giáo gọi là (tiếng Ả Rập: المجريط, "nguồn nước"). Từ đó mà có việc đặt tên nơi này là Majerit, sau này dẫn đến cách phát âm hiện đại của Madrid). Thành này bị Alfonso VI xứ Castile chinh phục vào năm 1085 trên đường tiến quân về Toledo. Ông cho xây lại mosque thành nhà thờ của Virgin xứ Almudena (almudin: vựa lúa của quân đoàn đồn trú). Vào năm 1329, Cortes Generales tụ họp lần đầu tiên trong thành phố để cố vấn cho Ferdinand IV xứ Castile. Người Do Thái Sephardic và người Moor tiếp tục sống trong thành phố cho đến khi họ bị đuổi đi vào cuối thế kỉ thứ 15. Sau nhiều bạo loạn và một trận cháy lớn, Henry III xứ Castile (1379-1406) cho xây dựng lại thành phố và bản thân ông đóng đồn bên ngoài thành phố một cách an toàn ở El Pardo. Đám rước Ferdinand và Isabella trọng thể vào Madrid báo hiệu việc chấm dứt sự xung đột giữa Castile và Aragon. Thời Phục hưng Vương quốc Castilla, với thủ đô tại Toledo, và Aragón, với thủ đô là Saragossa, được Carlos I hòa nhập vào Tây Ban Nha hiện đại. Mặc dù Carlos chuộng Madrid hơn, chính con trai ông, Felipe II (1527-1598) là người dời triều đình về Madrid vào năm 1561. Mặc dù ông không công bố chính thức, địa điểm của triều đình cũng chính là thủ đô de facto. Sevilla tiếp tục cai quản Spanish Indies, nhưng Madrid quản lý Sevilla. Ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn, 1601-1606, khi Felipe III thiết lập triều đình ở Valladolid, sự may mắn của Madrid khá gần giống với sự may mắn của Tây Ban Nha. Suốt thời Siglo de Oro (Thế kỉ vàng), trong thế kỉ thứ 16/17, Madrid không giống bất cứ thủ đô nào ở châu Âu: dân số thành phố phụ thuộc kinh tế vào các công việc của chính triều đình. Madrid cuối thời Phục hưng và đầu thời hiện đại Felipe V quyết định rằng một thủ đô châu Âu không thể ở trong tình trạng như vậy, và nhiều cung điện mới (bao gồm cả Palacio Real de Madrid) được xây dựng dưới triều đại của ông. Tuy nhiên, chỉ cho đến thời của Carlos III (1716-1788) thì Madrid mới trở thành một thành phố hiện đại. Carlos III là một trong những vị vua được kính trọng nhất trong lịch sử của Madrid, và câu nói "người thị trưởng tốt nhất, đó là nhà vua" trở thành phổ biến trong những thời gian này. Khi Carlos IV (1748-1819) lên ngôi vua thì dân thành Madrid nổi loạn. Sau cuộc Nổi loạn Aranjuez, dẫn dầu bởi chính con trai ông là Fernando VII chống lại ông, Carlos IV thoái vị, nhưng triều đại của Fernando VII khá ngắn ngủi: vào tháng 5 năm 1808 quân đội của Napoléon Bonaparte tiến vào thành phố. Vào 2 tháng 5 năm 1808 (tiếng Tây Ban Nha: Dos de Mayo) nhóm Madrileños nổi dậy chống lại quân Pháp, sự đối phó tàn bạo của quân Pháp đã có ảnh hưởng lâu dài lên sự cai trị của Pháp ở Tây Ban Nha và hình ảnh của Pháp nói chung ở châu Âu. Sau cuộc chiến tranh giành độc lập (1814) Fernando VII quay trở lại ngôi vua, nhưng sau một cuộc cách mạng của quân đội tự do, Đại tá Riego làm nhà vua phải thề là tôn trọng hiến pháp. Điều này bắt đầu một giai đoạn mà nhà nước tự do và nhà nước bảo thủ thay phiên lẫn nhau, và điều này chấm dứt với sự lên ngôi của nữ hoàng Isabel II (1830-1904). Madrid thế kỉ thứ 20 Isabel II không thể làm dịu đi sự căng thẳng về mặt chính trị làm dẫn tới một cuộc cách mạng khác, Đệ nhất Cộng hòa Tây Ban Nha, và sự trở lại của hoàng gia, cuối cùng dẫn tới Đệ nhị Cộng hòa Tây Ban Nha và Nội chiến Tây Ban Nha. Trong suốt cuộc chiến tranh này (1936-1939) Madrid là một trong những thành phố bị ảnh hưởng nặng nhất với các con đường trở thành những bãi chiến trường. Madrid là điểm cố thủ của những người Cộng hòa từ tháng 7 năm 1936. Các vùng ngoại ô phía tây là nơi những trận chiến khốc liệt xảy ra vào tháng 11 năm 1936, khi lực lượng Quốc gia cố gắng chiếm thành phố. Sau đó, thành phố bị bao vây gần ba năm, cho đến khi nó đầu hàng vào tháng 3 năm 1939. Chính trong Nội chiến mà Madrid trở thành thành phố đầu tiên bị bỏ bom bởi máy bay cố ý nhắm vào thường dân. (Xem Bao vây Madrid (1936-39).) Trong suốt chế độ độc tài của Francisco Franco, đặc biệt là sau thập niên 1960, miền nam Madrid trở nên công nghiệp hóa cao và có nhiều cuộc di dân lớn từ các vùng nông thôn vào thành thị. Phía ngoại vi đông nam Madrid trở thành một khu nhà ổ chuột lớn, trở thành nền tảng cho các hoạt động văn hóa và chính trị. Sau cái chết của Franco, các đảng phái dân chủ nổi lên (gồm cả những đảng cánh tả và những người theo lý tưởng cộng hòa) chấp nhận mong ước của Franco là được Juan Carlos I kế vị - để bảo đảm ổn định chính trị và dân chủ - dẫn tới việc Tây Ban Nha ngày nay như là một nước quân chủ lập hiến. Phù hợp với sự phồn vinh đạt được trong thập niên 1980, thủ đô của Tây Ban Nha đã củng cố vị trí trong vai trò là một trung tâm dẫn đầu về kinh tế, văn hóa, công nghiệp, giáo dục và khoa học kỹ thuật gay trên bán đảo Iberia. Thế kỉ 21 Vào 11 tháng 3 năm 2004, Madrid bị đánh bom khi quân khủng bố đặt một loạt bom trên nhiều chuyến tàu trong giờ cao điểm, ba ngày trước cuộc bầu cử 14 tháng 3 năm 2004. Đây là cuộc thảm sát lớn nhất ở Tây Ban Nha kể từ nội chiến chấm dứt vào năm 1939. Ban đầu, những người khủng bố Basque thuộc ETA đã bị đảng cầm quyền lúc đó là Partido Popular, cũng như các đảng phái chính trị khác ở Tây Ban Nha buộc tội, nhưng sau đó thủ phạm được cho là những kẻ khủng bố Hồi giáo. Madrid cũng mong muốn trở thành một thành phố Thế vận hội, và trở thành ứng cử viên cho thế vận năm 2012, nhưng điều này đã thuộc về Luân Đôn sau khi Madrid bị loại ở vòng bỏ phiếu thứ ba. Tuy nhiên, thị trưởng thành phố đã nói rằng giấc mơ Thế vận hội của Madrid chưa kết thúc ở Singapore, vì thành phố sẽ ứng cử như là thành phố chủ nhà cho Thế vận hội năm 2016.. Khí hậu Madrid chịu ảnh hưởng của khí hậu Địa Trung Hải (phân loại khí hậu Köppen) với mùa đông lạnh tuỳ theo cao độ (650m trên mực nước biển tại Alicante), bao gồm những đợt tuyết rơi lác đác và nhiệt độ thấp nhất thường dưới 0 độ. Mùa hè khí hậu thường nóng với nhiệt độ luôn vượt quá vào tháng 7 và tháng 8, tuy ít khi nào vượt quá ngưỡng . Do cao độ và khí hậu khô của Madrid, sự chênh nhiệt nhiệt độ vào ban ngày đặc biệt hệ trọng vào mùa hè. Giáng thủy tập trung vào mùa thu và mùa xuân, chủ yếu thưa thớt vào hè, diễn ra dưới hình thức một hoặc hai cơn mưa rào hoặc mưa giông trong vòng một tháng. Nguồn nước Khoảng 75% lượng nước cung cấp cho Madrid lấy từ các đập và bể chứa nước xây trên sông Lozoya, trong đó có đập El Atazar. Quận Madrid được phân chia hành chính ra thành 21 quận, sau đó phân nhỏ ra tổng cộng 128 phường (barrios). Centro: Palacio, Embajadores, Cortes, Justicia, Universidad, Sol. Arganzuela: Imperial, Acacias, La Chopera, Legazpi, Delicias, Palos de Moguer, Atocha. Retiro: Pacífico, Adelfas, Estrella, Ibiza, Jerónimos, Niño Jesús. Salamanca: Recoletos, Goya, Parque de las Avenidas, Fuente del Berro, Guindalera, Lista, Castellana. Chamartín: El Viso, Prosperidad, Ciudad Jardín, Hispanoamérica, Nueva España, Castilla. Tetuán: Bellas Vistas, Cuatro Caminos, Castillejos, Almenara, Valdeacederas, Berruguete. Chamberí: Gaztambide, Arapiles, Trafalgar, Almagro, Vallehermoso, Ríos Rosas. Fuencarral-El Pardo: El Pardo, Fuentelarreina, Peñagrande, Barrio del Pilar, La Paz, Valverde, Mirasierra, El Goloso. Moncloa-Aravaca: Casa de Campo, Argüelles, Ciudad Universitaria, Valdezarza, Valdemarín, El Plantío, Aravaca. Latina: Los Cármenes, Puerta del Ángel, Lucero, Aluche, Las Águilas, Campamento, Cuatro Vientos. Carabanchel: Comillas, Opañel, San Isidro, Vista Alegre, Puerta Bonita, Buenavista, Abrantes. Usera: Orcasitas, Orcasur, San Fermín, Almendrales, Moscardó, Zofío, Pradolongo. Puente de Vallecas: Entrevías, San Diego, Palomeras Bajas, Palomeras Sureste, Portazgo, Numancia. Moratalaz: Pavones, Horcajo, Marroquina, Media Legua, Fontarrón, Vinateros. Ciudad Lineal: Ventas, Pueblo Nuevo, Quintana, La Concepción, San Pascual, San Juan Bautista, Colina, Atalaya, Costillares. Hortaleza: Palomas, Valdefuentes, Canillas, Pinar del Rey, Apóstol Santiago, Piovera. Villaverde: San Andrés, San Cristóbal, Butarque, Los Rosales, Los Ángeles. Villa de Vallecas: Casco Histórico de Vallecas, Santa Eugenia. Vicálvaro: Casco Histórico de Vicálvaro, Ambroz. San Blas: Simancas, Hellín, Amposta, Arcos, Rosas, Rejas, Canillejas, Salvador. Barajas: Alameda de Osuna, Aeropuerto, Casco Histórico de Barajas, Timón, Corralejos. Vùng đô thị Vùng đô thị Madrid gồm thành phố Madrid và 40 đô thị tự trị xung quanh, với dân số vào khoảng hơn 6,271 triệu người, với diện tích bao phủ một khu vực rộng 4,609 km². Đây là vùng đô thị rộng lớn nhất của Tây Ban Nha và lớn thứ ba tại Liên minh châu Âu.Brinkoff, Thomas "Principal Agglomerations of the World". Retrieved ngày 12 tháng 3 năm 2009. Data for ngày 1 tháng 1 năm 2009. Như các vùng đô thị khác với quy mô tương tự, Madrid phân biệt hai khu vực đô thị hoá: Vòng trong (primera corona): Alcorcón, Leganés, Getafe, Móstoles, Fuenlabrada, Coslada, Alcobendas, Pozuelo de Alarcón, San Fernando de Henares Vòng ngoài (segunda corona): Villaviciosa de Odón, Parla, Pinto, Valdemoro, Rivas-Vaciamadrid, Torrejón de Ardoz, Alcalá de Henares, San Sebastián de los Reyes, Tres Cantos, Las Rozas de Madrid, Majadahonda, Boadilla del Monte Những vùng ngoại ô rộng lớn nhất nằm về phía Nam, chủ yếu phân bố dọc theo các tuyến đường chính dẫn ra ngoài Madrid. Tiểu vùng đô thị Một dự án mới định ra những tiểu vùng đô thị bên trong vùng đô thị Madrid: Kiến trúc Mặc dù vị trí của Madrid đã được chiếm giữ làm nơi sinh sống từ thời tiền sử, những dữ liệu lịch sử đầu tiên có liên quan đến thành phố ghi nhận lại khoảng thời gian vào giữa thế kỷ thứ 9, khi Mohammad I ra lệnh xây dựng một cung điện nhỏ (ngày nay vị trí này là Cung điện Real). Xung quanh cung điện này người ta xây lên một thành luỹ nhỏ (al-Mudaina). Cung điện nhìn thẳng hướng về sông Maanazanares, nơi các nhà Hồi giáo gọi tên là Mayrit, có nghĩa là nguồn nước (sau này đổi thành Magerit, và cuối cùng là Madrid). Năm 1085, thành trì bị Alfonso VI chinh phục trong quá trình bành trướng về phía Toledo. Môi trường Madrid là thành phố châu Âu có lượng cây và bề mặt được cây xanh bao phủ lớn nhất tính trên đầu người; có lượng cây trồng theo hàng nhiều thứ hai trên thế giới, với con số lên đến 248.000, chỉ sau Tokyo. Cư dân Madrid có thể đến được khu vực cây xanh chỉ trong vòng 15 phút đi bộ. Từ năm 1997, các khu vực cây xanh đã tăng lên 16%. Ngày nay, 8,2% diện tích đất bề mặt Madrid được phủ xanh, điều này có nghĩa là có 16 m² xanh tính theo mỗi đầu người, vượt xa con số 10 m² mỗi đầu người mà tổ Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị. Công viên Buen Retiro (Parque del Retiro), trước đây là nơi xây dựng cung điện cho vua Felipe IV, là công viên nổi tiếng nhất tại Madrid và cũng là công viên rộng nhất tại trung tâm Madrid. Công viên có diện tích hơn 1,4 km² (350 héc ta) và nằm rất gần với tượng đài Puerta de Alcalá, cách Bảo tàng Prado không xa. Đây là một công viên rất đẹp, với nhiều tượng đài và tác phẩm điêu khắc, bộ sưu tập,... nằm khắp nơi cùng một hồ nước thanh bình; là nơi diễn ra nhiều sự kiện và là một trong những điểm thu hút hàng đầu tại Madrid. Toàn bộ công viên được bao bọc bởi thành phố Madrid ngày nay. Hồ ở giữa công viên từng là nơi tổ chức những cuộc diễn trận hải quân để giải trí cho hoàng gia, thời nay, thú tiêu khiển bằng thuyền thanh bình hơn rất được ưa chuộng. Lâu đài Pha lê (Palacio de Cristal) được xây dựng lấy cảm hứng từ lâu đài pha lê Luân Đôn, nằm ở cuối phía đông nam của công viên. Trong công viên Retiro là Rừng Tưởng niệm (Bosque de los Ausentes),một tượng đài tưởng nhớ 191 nạn nhân của cuộc tấn công Madrid ngày 11 tháng 3 năm 2004. Nhà ga Atocha không chỉ là nhà ga trung tâm đầu tiên của thành phố mà còn là nơi có khu vườn trong nhà đặc biệt phủ 4.000 m² thực vật nhiệt đới. Nhà ga Atocha đã trở thành một điểm đến bởi khu nhà kính dành cho những người yêu cây cỏ, với hơn 500 loài thực vật và những hồ nước có rùa và cá vàng nuôi bên trong, cùng những cửa tiệm và quán cà phê. Đây là một địa điểm đẹp để viếng thăm vào một ngày lạnh hay ẩm ướt với nhiệt độ luôn ổn định ở mức 24 độ C, hoặc thậm chí để ghé thăm vào những ngày hè nóng bức để xua tan nhiệt lượng. Casa de Campo là vùng cây xanh đô thị khổng lồ nằm ở phía tây thành phố, đóng vai trò là lá phổi xanh chính của Madrid, với diện tích lớn nhất ở Tây Ban Nha, bao phủ diện tích tổng cộng 1.700 héc ta (6,6 dặm vuông). Đây là nơi có Sở thú Madrid, trong đó có khu công viên thủy cung. Madrid còn có một công viên giải trí mang tên Parque de Atracciones de Madrid, cùng một hồ bơi thành phố ở ngoài trời, ở đây những người đến xem có thể tận hưởng tầm nhìn bao quát từ trên cao của toàn công viên và thành phố từ trên buồng cáp treo từ phía bên trên những cành cây cao nhất. Thực vật tại Casa de Campo'' có những đặc trưng vô cùng quan trọng, hình thành 3 hệ sinh thái khác nhau: sồi, thông và nhóm cây bụi ven sông. Sồi là loài cây chiếm thành phần chủ yếu trong khu vực, mặc dù nhiều cây sồi trong số này có hơn 100 năm tuổi và đạt đến độ cao khổng lồ, chúng cũng có ở dạng cây nhỏ và cây bụi. Hệ sinh thái rừng thông có một lượng lớn cây đã thích nghi hoàn hảo với ánh sáng và điều kiện khô trong công viên. Ngoài ra, nấm thường sinh sôi sau những cơn mưa đầu mùa thu. Sau cùng, nhóm cây bụi ven sông, còn gọi là những khu rừng nhỏ ven sông, được tạo thành từ những loài cây đa dạng, chủ yếu là những loài rụng lá mọc ở những vùng ẩm ướt. Điển hình như dương, liễu và cây tổng quán sủi. Đối với những loài động vật liên quan, không gian xanh là nơi sinh sống của khoảng 133 loài động vật có xương sống. Kinh tế Từ thời Trung cổ đến thế kỷ 20 1992 đến 2008 Madrid là trung tâm chính về kinh doanh và thương mại quốc tế. Đây là một trong những trung tâm tài chính lớn nhất châu Âu và tại Tây Ban Nha. Madrid đã trở thành thành phố giàu thứ 23 trên thế giới và giàu có thứ 3 tại châu Âu về GDP; sản lượng kinh tế trong năm 2005 là 201,5 triệu USD, xếp sau Paris (460 triệu USD) và Luân Đôn ($452 triệu USD), vượt qua Moskva và Barcelona. Về GDP bình quân đầu người, Madrid, đặc biệt là vùng Madrid là nơi giàu có nhất tại Tây Ban Nha và là một trong những nơi giàu có nhất châu Âu. Với con số là 34.572 euro (48.313 USD), chênh lệch 133,9% so với mức trung bình tại châu Âu là 25,800€, Madrid đứng đầu trong tất cả tám vùng Tây Ban Nha khác. Sức mua của Madrid tương đương 97,8% của New York. Madrid là một trong những trung tâm dứng đầu thế giới về tài chính, nằm trong nhóm 5 Trung tâm Thương mại hàng đầu ở châu Âu. Madrid còn là thành phố then chốt ở châu Âu, vươn lên từ thứ hạng 16 năm 2007 sang thứ 11 trên toàn cầu, từ thứ hạng 6 lên thứ 5 tại châu Âu. GDP, tỷ giá hối đoái và thị trường trái phiếu mạnh ổn định cùng với tiêu chuẩn đời sống cao của Madrid, tất cả góp phần đưa thành phố này đứng vào hàng ngũ những thành phố nổi bật nhất châu Âu:: Luân Đôn, Paris, Frankfurt và Amsterdam. Madrid là một trong những thành phố thuộc bán đảo Iberi có sức thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài và người tìm việc làm. Mức lương cơ bản tại Madrid trong năm 2007 là 2540 euro, cao hơn hẳn so với mức trung bình ở Tây Ban Nha là 2085 euro. Về mạng lưới kinh doanh, Madrid cũng đứng đầu tại Tây Ban Nha, đứng thứ 28 trên thế giới với tỉ lệ 78.6%. Dân số Dân số Madrid tăng từ khi thành phố trở thành thủ đô quốc gia vào giữa thế kỷ 16 và cố định vào khoảng 3 triệu dân từ những năm 1970. Từ khoảng năm 1970 đến giữa những năm 1990, dân số thành phố giảm. Hiện tượng này cũng ảnh hưởng đến những thành phố châu Âu khác, vốn xảy ra một phần là do sự tăng trưởng của những vùng ngoại ô vệ tinh với mức phí tổn như các khu buôn bán kinh doanh trong thành phố. Một lý do khác có thể là sự suy giảm mức tăng trưởng kinh tế của châu Âu. Sự tăng vọt dân số đẩy mạnh vào cuối những năm 1990 và những năm đầu của thế kỷ 21 do quá trình di cư quốc tế, có nguồn gốc từ làn sóng tăng trưởng kinh tế ở Tây Ban Nha. Theo số liệu thống kê, dân số thành phố tăng 271.856 người từ năm 2001 đến năm 2005. Với vai trò là thành phố thủ đô của Tây Ban Nha, thành phố do đó thu hút nhiều di dân từ khắp nơi trên thế giới. Khoảng 83,3$ cư dân là người Tây Ban Nha, những người khác có nhiều nguồn gốc khác, bao gồm di dân từ Mỹ Latinh, châu Âu, châu Á, Bắc Phi và Tây Phi, tổng cộng chiếm khoảng 16,2% dân số Madrid vào năm 2007.. 10 nhóm di dân lớn nhất bao gồm: Ecuador: 104.184, România: 52.875, Bolivia: 44.044, Colombian: 35.971, Peru: 35.083, Trung Quốc: 34.666, Maroc: 32.498, Cộng hoà Dominica: 19.602, Brasil: 14.583 và Paraguay: 14.308. Ngoài ra cũng có các cộng đồng lớn khác của người Philippines, Guinea Xích Đạo, Bulgaria, Ấn Độ, Ý, Argentina, Senegal và Ba Lan. Các quận có nhiều di dân nhất là Usera (28,37%), Centro (26,87%), Carabanchel (22,72%) và Tetuán (21,54%). Các quận có ít di dân nhất là Fuencarral-El Pardo (9,27%), Retiro (9,64%) và Chamartin (11,74%). Văn hoá Đấu bò Madrid là nơi có trường đấu bò lớn nhất Tây Ban Nha, Las Ventas, thành lập vào năm 1929. Las Ventas được nhiều người xem là trung tâm thế giới của những trận đấu bò tót với sức chứa gần 25.000 chỗ ngồi. Mùa đấu bò ở Madrid bắt đầu từ tháng 3 và kết thúc vào tháng 10. Những trận đấu bò được tổ chức mỗi ngày trong các lễ hội của San Isidro (vị thánh bảo trợ của Madrid) từ giữa tháng 5 đến đầu tháng 6, và mỗi chủ nhật cùng ngày nghỉ lễ diễn ra phần còn lại của mùa đấu. Las Ventas được xây dựng theo phong cách Tân mudéjar. Nơi đây cũng tổ chức các buổi hòa nhạc và các sự kiện khác ngoài của khoảng thời gian của mùa đấu bò. Giao thông Madrid có một hệ thống hạ tầng kỹ thuật giao thông phát triển cao, khiến thủ đô Madrid trở thành trung tâm hậu cần hàng đầu cho cả Tây Ban Nha và châu Âu. Nơi đây cũng tự hào có mạng lưới đường cao tốc, bao quanh bởi những tuyến đường vành đai và đường xuyên tâm, là trục xương sống cho mạng đường sắt Tây Ban Nha, qua đó cung cấp kết nối hiệu quả với không chỉ những khu vực khác của toàn vùng, mà còn kết nối với nơi khác trên quốc gia Tây Ban Nha và châu Âu lại với nhau. Madrid cùng Tokyo và Paris là 3 trung tâm đường sắt cao tốc lớn nhất thế giới. Madrid cũng là nơi có sân bay Barajas Madrid, sân bay hàng đầu của Tây Ban Nha đồng thời cũng là một trong những sân bay lớn nhất trên toàn thế giới. Đường không Sân bay Barajas tại Madrid là trung tâm của hãng hàng không Iberia Airlines. Do đó sân bay đóng vai trò là cửa ngõ chính đến bán đảo Iberia từ châu Âu, châu Mỹ và những nơi khác trên thế giới. Số hành khách hiện nay lên khoảng 49,8 triệu lượt mỗi năm, điều này đã khiến cho sân bay Barajas trở thành sân bay lớn nhất và đông đúc nhất của đất nước. Trong năm 2009, đây là sân bay tấp nập thứ 11 trên thế giới, ngoài ra còn là sân bay tấp tập thứ 4 tại châu Âu. Do gia tăng hàng năm khoảng 10%, nơi đây đã tiến hành xây dựng một nhà ga thứ tư. Nó đã làm giảm đáng kể sự trì hoãn và gia tăng gấp đôi khả năng vận chuyển của sân bay đến hơn 70 triệu hành khách mỗi năm. Hai đường băng bổ sung cũng được xây dựng và làm cho Barajas trở thành một sân bay 4 đường băng vận hành hoàn toàn. Sân bay Barajas nằm trong địa giới thành phố của Madrid, chỉ cách 9 km (5,6 dặm) từ quận tài chính của thành phố và cách 13 km (8,1 dặm) về phía đông bắc của Puerta del Sol, trung tâm lịch sử của Madrid. Tên gọi của sân bay bắt nguồn từ quận gần kề của Barajas, nơi có nhà ga xe điện ngầm trên cùng tuyến đường sắt phục vụ cho sân bay. Đại biểu Hội đồng Giao thông của Cộng đồng Madrid, Manuel Lamela, tuyên bố vào 2007 rằng sẽ có hai sân bay mới phục vụ cho thành phố, hai sân bay này dự kiến sẽ vận hành hoàn toàn vào năm 2016. Sân bay đầu tiên nằm tại Campo Real, chủ yếu dùng cho những chuyến bay vận chuyển hàng hoá và là nơi phục vụ những chuyến bay giá rẻ. Sân bay thứ hai dự kiến được xây dựng giữa hai đô thị tự trị El Álamo và Navalcarnero, chỉ tiếp quản những tuyến đường vận hành tại sân bay Cuatro Vientos. Đô thị song đôi và thành phố kết nghĩa Danh sách đô thị song đôi, thành phố kết nghĩa và thành phố đối tác: Tokyo, Nhật Bản (1965) Seoul, Hàn Quốc (1978) Lisbon, Bồ Đào Nha (1979) Thành phố Panama, Panama (1980) New York, Hoa Kỳ (1982) Malabo, Guinea Xích Đạo (1982) Bordeaux, Pháp (1984) Nouakchott, Mauritania (1986) Berlin, Đức (1988) Rabat, Maroc (1988) Tripoli, Libya (1988) Manila, Philippines (2005) Sarajevo, Bosnia và Herzegovina (2007) Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (2007) Miami, Hoa Kỳ (2014) Công trình kiến trúc lịch sử khác
Tân Kỳ là một huyện miền núi phía tây của tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh 90 km. Huyện có đường Trường Sơn đi ngang qua. Huyện lỵ là thị trấn Tân Kỳ. Đây là huyện được UNESCO đưa vào danh sách các địa danh thuộc Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An. Địa lý Huyện Tân Kỳ có vị trí địa lý: Phía bắc giáp huyện Nghĩa Đàn và huyện Quỳ Hợp Phía nam và đông nam giáp với huyện Đô Lương Phía tây và tây nam giáp huyện Anh Sơn Phía đông và đông bắc giáp huyện Yên Thành và huyện Nghĩa Đàn. Huyện có diện tích 729,2 km², dân số năm 2019 là 147.257 người, mật độ dân số đạt 202 người/km². Hành chính Huyện Tân Kỳ có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Tân Kỳ (huyện lỵ) và 21 xã: Đồng Văn, Giai Xuân, Hương Sơn, Kỳ Sơn, Kỳ Tân, Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Dũng, Nghĩa Hành, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Hợp, Nghĩa Phúc, Nghĩa Thái, Phú Sơn, Tân An, Tân Hợp, Tân Hương, Tân Long, Tân Phú, Tân Xuân, Tiên Kỳ. Lịch sử Huyện Tân Kỳ được thành lập ngày 19-4-1963 theo Quyết định 52-CP của Chính phủ trên cơ sở tách 10 xã: Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Hợp, Nghĩa Dũng, Nghĩa Thái, Nghĩa Hoàn, Giai Xuân, Nghĩa Phúc, Tân Hợp, Tiên Đồng thuộc huyện Nghĩa Đàn và 3 xã: Kỳ Sơn, Phú Sơn, Hương Sơn thuộc huyện Anh Sơn. Khi mới thành lập, huyện Tân Kỳ có 13 xã: Giai Xuân, Hương Sơn, Kỳ Sơn, Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Dũng, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Hợp, Nghĩa Phúc, Nghĩa Thái, Phú Sơn, Tân Hợp, Tiên Đồng. Ngày 17-4-1965, chia xã Tiên Đồng thành hai xã lấy tên là xã Tiên Kỳ và xã Đồng Văn. Ngày 15-4-1967, chia xã Nghĩa Thái thành hai xã lấy tên là xã Nghĩa Thái và xã Tân Xuân. Ngày 24-3-1969, thành lập xã Nghĩa Hành từ một phần các xã Hương Sơn, Kỳ Sơn, Phú Sơn; chia xã Nghĩa Phúc thành hai xã lấy tên là xã Nghĩa Phúc và Tân An; chia xã Nghĩa Hoàn thành hai xã lấy tên là xã Nghĩa Hoàn và Tân Long; chia xã Nghĩa Đồng thành hai xã lấy tên là xã Nghĩa Đồng và xã Tân Phú. Ngày 1-3-1988, chia xã Kỳ Sơn thành 3 đơn vị hành chính lấy tên là xã Kỳ Sơn, xã Kỳ Tân và thị trấn Tân Kỳ. Ngày 23-3-2005, thành lập xã Tân Hương trên cơ sở 1.557,50 ha diện tích tự nhiên và 4.219 nhân khẩu của xã Kỳ Sơn, 1.038 ha diện tích tự nhiên và 1.918 nhân khẩu của xã Nghĩa Hành, 532 ha diện tích tự nhiên và 954 nhân khẩu của xã Hương Sơn.
Ninh Phước là một huyện ven biển thuộc tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Địa lý Huyện Ninh Phước có vị trí địa lý: Phía bắc và tây bắc giáp huyện Ninh Sơn Phía đông bắc giáp thành phố Phan Rang – Tháp Chàm Phía nam và tây nam giáp huyện Thuận Nam Phía đông giáp Biển Đông. Huyện Ninh Phước có diện tích là 341,95 km², dân số năm 2019 là 128.028 người, mật độ dân số đạt 374 người/km². Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Cam Lâm – Vĩnh Hảo đang được xây dựng đi qua. Ninh Phước hội tụ cả ba điều kiện địa lý: có núi, sông, biển và cả đồng bằng. Tuy nhiên nền kinh tế Ninh Phước chưa được phát triển, là một huyện nằm ở hạ lưu dòng sông Dinh nên thường xuyên bị ngập lụt vào khoảng tháng 10 - 11 hằng năm. Nền nông nghiệp chủ yếu của Ninh Phước là trồng nho, tuy nhiên trong vài năm gần đây có vài thay đổi trong canh tác nông nghiệp. Người dân dần dần chuyển qua các hình thức canh tác khác như trồng táo và thanh long. Làng Bàu Trúc ở Ninh Phước nổi tiếng cả nước với nghề truyền thống gốm Bàu Trúc. Làng Mỹ Nghiệp có nghề truyền thống là dệt thổ cẩm. Ngoài ra huyện Ninh Phước còn có món ăn đặc sắc là canh dưa hồng và một số món ăn được chế biến từ con dông. Huyện Ninh Phước có vị trí giao thương quan trọng không chỉ riêng với huyện mà còn là một trong những vùng thuộc tỉnh Ninh Thuận có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, xã hội. Điều đó được thể hiện rõ nét với hệ thống giao thông liên khu vực hết sức thuận lợi với sự hiện diện của Quốc lộ 1 và tuyến đường sắt Bắc Nam đi ngang qua địa bàn huyện, việc thông thương với vùng cao nguyên Di Linh, Lâm Viên và ra các tỉnh phía Bắc hoàn toàn thuận lợi. Với hệ thống giao thông liên vùng, liên khu vực hiện hữu đã tạo cho huyện các điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và giữ vững an ninh quốc phòng. Hành chính Huyện Ninh Phước có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Phước Dân (huyện lỵ) và 8 xã: An Hải, Phước Hải, Phước Hậu, Phước Hữu, Phước Sơn, Phước Thái, Phước Thuận, Phước Vinh. Lịch sử Huyện Ninh Phước được thành lập ngày 1 tháng 9 năm 1981 trên cơ sở tách 9 xã: Phước Sơn, Phước Hà, Nhị Hà, Phước Nam, Phước Hữu, Phước Thái, Phước Dân, Phước Hậu, Phước Thuận của huyện An Sơn và 4 xã: Phước Diêm, Phước Dinh, Phước Hải, An Hải của huyện Ninh Hải cũ. Huyện Ninh Phước khi đó thuộc tỉnh Thuận Hải, bao gồm 13 xã: An Hải, Nhị Hà, Phước Dân (trung tâm huyện lỵ), Phước Diêm, Phước Dinh, Phước Hà, Phước Hải, Phước Hậu, Phước Hữu, Phước Nam, Phước Sơn, Phước Thái và Phước Thuận. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tái lập tỉnh Ninh Thuận từ tỉnh Thuận Hải cũ, huyện Ninh Phước thuộc tỉnh Ninh Thuận. Ngày 3 tháng 6 năm 1993, chuyển xã Phước Dân thành thị trấn Phước Dân (thị trấn huyện lỵ huyện Ninh Phước). Ngày 4 tháng 8 năm 1998, thành lập xã Phước Minh trên cơ sở điều chỉnh 6.300 ha diện tích tự nhiên và 1.470 nhân khẩu của xã Phước Nam; 1.750 ha diện tích tự nhiên và 1.623 nhân khẩu của xã Phước Diêm. Ngày 22 tháng 11 năm 2002, thành lập xã Phước Vinh trên cơ sở 4.557,06 ha diện tích tự nhiên và 9.569 nhân khẩu của xã Phước Sơn. Tính đến cuối năm 2008, huyện Ninh Phước có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Phước Dân và 14 xã: An Hải, Nhị Hà, Phước Diêm, Phước Dinh, Phước Hà, Phước Hải, Phước Hậu, Phước Hữu, Phước Minh, Phước Nam, Phước Sơn, Phước Thái, Phước Thuận, Phước Vinh. Ngày 10 tháng 6 năm 2009, Chính phủ ban hành nghị quyết số 26/NQ-CP. Theo đó: Thành lập xã Phước Ninh trên cơ sở điều chỉnh 2.686,69 ha diện tích tự nhiên và 4.292 nhân khẩu của xã Phước Nam Thành lập xã Cà Ná trên cơ sở điều chỉnh 1.307,82 ha diện tích tự nhiên và 8.537 nhân khẩu của xã Phước Diêm Điều chỉnh 56.452,62 ha diện tích tự nhiên và 54.768 nhân khẩu của huyện Ninh Phước (bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 8 xã: Cà Ná, Phước Diêm, Phước Ninh, Phước Nam, Phước Minh, Phước Dinh, Nhị Hà và Phước Hà) để thành lập huyện Thuận Nam. Huyện Ninh Phước còn lại 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc với 34.103,37 ha diện tích tự nhiên và 135.146 nhân khẩu, bao gồm 1 thị trấn và 8 xã như hiện nay. Du lịch Làng gốm Bàu Trúc Làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp Đồi cát Nam Cương. Danh nhân Kỷ lục gia trí nhớ thế giới, nhà nghiên cứu Địa chính trị, thạc sĩ Dương Anh Vũ Ca sĩ hải ngoại Chế Linh Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Inrasara Nhà thơ, phi tần vua Tự Đức Nguyễn Thị Bích Nhà yêu nước, quan triều Nguyễn Phan Cư Chánh Po Dharma, nhà nghiên cứu lịch sử Champa. Chú thích
Bao giờ cho đến tháng Mười là một bộ phim tâm lý do Nghệ sĩ nhân dân Đặng Nhật Minh đạo diễn, ra mắt lần đầu năm 1984. Đây không chỉ là một bộ phim thành công và kinh điển của điện ảnh Việt Nam những năm đầu thập niên 1980, mà còn là 1 trong 18 bộ phim châu Á xuất sắc nhất mọi thời đại do CNN bình chọn. Nội dung Trở về nhà sau chuyến đi thăm chồng ở biên giới Tây Nam, Duyên mang trong mình nỗi đau khôn tả: biết tin chồng chị đã hi sinh. Trên thuyền trở về, chị đã bị ngã xuống sông và được thầy giáo Khang cứu sống. Duyên giấu chuyện chồng hi sinh với mọi người trong gia đình đặc biệt là đối với người cha già đang có bệnh nặng. Để an ủi cha, Duyên nhờ Khang viết hộ những bức thư hỏi thăm gia đình như khi chồng chị còn sống. Những bức thư này đã mang lại niềm vui cho gia đình, nhưng nỗi đau thì một mình cô phải chịu đựng, nước mắt nuốt vào trong. Thế rồi, có nhiều tiếng đồn dị nghị rằng Duyên và thầy giáo Khang hai người có tư tình. Đến khi cảm thấy mình yếu, không còn sống được bao lâu, người cha chồng bảo Duyên gọi điện cho con trai về để gặp lần cuối. Đến lúc này, tin chồng mất đã không giấu được nữa... Diễn viên Nghệ sĩ ưu tú Lê Vân vai Duyên. Nghệ sĩ ưu tú Hữu Mười vai thầy giáo Khang. Nghệ sĩ ưu tú Đặng Lưu Việt Bảo vai Nam (chồng Duyên). Trịnh Phong vai Tuấn (con trai Duyên). Nguyễn Minh Vượng vai Thơm. Lại Phú Cương vai bố chồng Duyên. Kiểm duyệt Cũng như nhiều bộ phim khác của mình, kịch bản Bao giờ cho đến tháng Mười do chính tay đạo diễn Đặng Nhật Minh soạn. Ngay sau khi trình kịch bản cho Cục Điện ảnh Việt Nam, ông đã được cảnh báo rằng, bộ phim có thể được phép quay nếu người góa phụ không yêu thầy giáo của làng. Mặc dù Đặng Nhật Minh đồng ý nhưng ông vẫn ám chỉ điều này trong các tình tiết phim. Mặc dù việc chiếu thử cho các cơ quan chức năng của Việt Nam diễn ra suôn sẻ, nhưng các quan chức tiếp tục đặt vấn đề với một số nội dung được cho là "mê tín dị đoan": phiên chợ âm dương và hình ảnh người chồng quá cố của cô Duyên xuất hiện trong các giấc mơ. Dù được một số nhà nghiên cứu nước ngoài đánh giá đây là một điều rất đúng và phù hợp với tính cách và văn hóa người Việt, nhưng những chi tiết này này đã khiến bộ phim bị xét duyệt 13 lần trước khi được cố Tổng Bí thư Trường Chinh cho phép ra mắt khán giả. Việc liên tục bị xét duyệt đã khiến đạo diễn Đặng Nhật Minh cảm thấy mình như "kẻ tội phạm bị các phiên tòa lôi ra xét xử liên tục". Tâm linh vốn là một trong những đặc điểm không thể tách rời khỏi cuộc sống trong văn hóa người Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Văn hóa đương thời là ông Đình Quang cũng nhận định, khi nào người Việt Nam còn có bàn thờ thì phiên chợ âm dương trong bộ phim vẫn sẽ có chỗ đứng của nó. Sản xuất Sau khi được cấp phép, Đặng Nhật Minh bắt tay vào thực hiện bộ phim. Lúc bấy giờ, Việt Nam vẫn trong thời bao cấp, mọi việc đều phụ thuộc vào nhà nước, và đoàn làm phim được phân cho một máy quay phim cũ của Liên Xô. Vì chất lượng máy quay phim quá kém nên rất nhiều thước phim đã bị hỏng. Điều này khiến cho đạo diễn Đặng Nhật Minh mất kiên nhẫn và quyết định đến mượn máy quay phim tại Viện Sốt rét ký sinh trùng và côn trùng, nơi cha ông từng là viện trưởng. Đây vốn là chiếc máy quay do Liên Xô viện trợ cho Viện để quay các bộ phim giáo khoa về phòng chống sốt rét. Ban đầu, người đảm nhận quay chính là Nguyễn Mạnh Lân, vốn là giảng viên quay phim của Trường Điện ảnh Việt Nam. Tuy nhiên, khi bộ phim đang thực hiện thì Nguyễn Lân nhận được thông báo sang giảng dạy tại Campuchia trong vòng 1 tháng. Không muốn đoàn làm phim phải kéo dài thời gian, Đặng Nhật Minh quyết định để phó quay Phạm Tiến Đạt thay thế vị trí quay chính. Điều này đã khiến Nguyễn Mạnh Lân không vừa ý và tuyên bố sẽ không quay trở về đoàn làm phim nữa. Giám đốc hãng phim lúc bấy giờ là Hải Ninh vốn không chấp nhận việc để phó quay phim đảm nhận quay chính, nhưng sau đó đã cử thêm nhà quay phim Nguyễn Đăng Bảy đến hỗ trợ đoàn phim. Mặc dù thời điểm này đã là năm 1984, gần 1 thập kỷ sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, bộ phim cũng ra đời sau nhiều bộ phim khác cùng về đề tài sự mất trong chiến tranh, nhưng đạo diễn Đặng Nhật Minh vẫn e ngại rằng những điều mình thể hiện có thể bị hiểu lệch lạc. Trong bài báo "Lời tự sự của người làm phim" đăng trên Tạp chí Điện ảnh số 2 năm 1985, Đặng Nhật Minh đã dẫn lại một đoạn trích trong lời tựa của kịch bản: Công chiếu Bộ phim chính thức được phát sóng trên truyền hình Việt Nam vào năm 1984. Năm 1985, không chỉ xuất hiện tại Liên hoan phim quốc tế Moskva, Bao giờ cho đến tháng Mười còn được công chiếu tại , đánh đấu lần đầu tiên một bộ phim điện ảnh Việt Nam được trình chiếu tại một liên hoan phim của Hoa Kỳ. Năm 1988, bộ phim tiếp tục xuất hiện tại . Năm 1989, Liên hoan phim Hawaii đã công chiếu bộ phim này một lần nữa. Về sau, bộ phim liên tục được công chiếu tại nhiều liên hoan phim quốc tế như Liên hoan phim Toronto, Liên hoan phim Busan và . Đón nhận Không chỉ vướng mắc ở khâu kiểm duyệt kịch bản, sau khi bộ phim ra mắt cũng đã nhận được nhiều ý kiến khen chê trái chiều khác nhau. Trong đó có 1 ý kiến cho rằng: Cũng từ những nhận xét như vậy mà tại buổi tổng kết nghệ thuật năm 1984 của Xí nghiệp Phim truyện Việt Nam, nhiều nhà sáng tác và phê bình đánh giá rằng mục đích của bộ phim chưa được làm rõ. Mặc dù nhận nhiều ý kiến trái chiều, nhưng bộ phim không chỉ giành được 7 giải thưởng tại Liên hoan phim Việt Nam bao gồm Bông sen vàng, mà còn được chào đón ở nhiều liên hoan phim quốc tế và nhận được nhiều giải thưởng, đề cử. Bộ phim được dư luận đánh giá là đỉnh cao trong sáng tác của Đặng Nhật Minh. Ngay tại lần đầu tiên được công chiếu tại Liên hoan phim Hawaii, bộ phim đã rất được khán giả quốc tế đón nhận. Bộ phim đã mô tả lại cuộc chiến từ một góc nhìn mà hầu hết người Mỹ chưa bao giờ được nhìn thấy từ những tác phẩm của Hollywood. Cùng 5 bộ phim quốc tế khác, Bao giờ cho đến tháng Mười đã được đề cử Giải thưởng Trung tâm Đông Tây cho bộ phim mang lại hiểu biết chuyên nghiệp tốt nhất giữa các dân tộc Châu Á, Thái Bình Dương và Hoa Kỳ. Sự thành công rực rỡ với cả giới phê bình lẫn công chúng đã giúp bộ phim giành được giải đặc biệt từ ban giám khảo. Ngoài ra, bộ phim còn nhận được bằng khen của Ủy ban Bảo vệ hòa bình tại Liên hoan phim quốc tế Moskva. Tính đến năm 2006, đây là một trong các 30 bộ phim được thư viện thành phố Fukuoka lưu giữ bảo quản tại phòng lưu trữ số 3. Ngày 15 tháng 9 năm 2008, CNN đánh giá "Bao giờ cho đến tháng Mười" là một trong 18 bộ phim châu Á xuất sắc mọi thời đại. Một số tài liệu nhận định rằng, bộ phim xứng đáng được xếp vào hàng những tác phẩm kinh điển của thế giới. Giải thưởng và đề cử
Hoa hậu Việt Nam (tiếng Anh: Miss Vietnam, tên cũ: Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền Phong) là một cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia tại Việt Nam, được tổ chức lần đầu vào năm 1988. Cùng với Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam và Hoa hậu Thế giới Việt Nam, Hoa hậu Việt Nam được xem là một trong ba cuộc thi sắc đẹp uy tín và danh giá nhất. Cuộc thi này do Báo Tiền Phong khởi xướng, sáng lập và hiện vẫn là đơn vị giữ quyền tổ chức. Năm 2014, Công ty Cổ phần Quảng cáo Thương mại Sen Vàng ký kết phối hợp tổ chức cuộc thi và là đơn vị truyền thông chính thức, và kể từ năm 2016 đến nay, công ty này tiến thêm một bước nữa là trở thành đơn vị quản lý, định hướng hoạt động cho Hoa hậu cũng như Á hậu sau đăng quang. Cuộc thi được tổ chức vào các năm chẵn, dành cho tất cả các thiếu nữ trên toàn Việt Nam đáp ứng đủ điều kiện ghi trong thể lệ dự thi. Trước đây, với tư cách là cuộc thi hoa hậu cấp quốc gia duy nhất, người giành danh hiệu Hoa hậu Việt Nam sẽ có quyền đại diện cho Việt Nam thi Hoa hậu Thế giới (luân phiên với người chiến thắng Hoa hậu Thế giới Việt Nam), hai Á hậu sẽ được bổ nhiệm dự thi Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Hòa bình Quốc tế. Đương kim Hoa hậu Việt Nam là cô Huỳnh Thị Thanh Thủy đến từ Đà Nẵng đăng quang vào ngày 23 tháng 12 năm 2022. Lịch sử Hoa hậu Việt Nam là cuộc thi sắc đẹp có quy mô toàn quốc đầu tiên sau khi Việt Nam thống nhất. Trước đó đã có một cuộc thi sắc đẹp tại Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa cũng mang tên Hoa hậu Việt Nam và Hoa hậu Việt Nam 1955 Công Thị Nghĩa đã trở thành hoa hậu đầu tiên của cuộc thi cũng như là hoa hậu cấp quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Cuộc thi Hoa hậu Việt Nam sau thống nhất do báo Tiền Phong khởi xướng và tổ chức với tên gọi Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền Phong, bắt đầu từ năm 1988 và được tổ chức hai năm một lần. Người đầu tiên giữ danh hiệu này là Bùi Bích Phương. Cuộc thi chính thức được đổi tên thành Hoa hậu Việt Nam từ năm 2002. Tuy Tiền Phong không có giấy phép nhượng quyền để cử đại diện đi thi các cuộc thi sắc đẹp quốc tế nhưng thông qua Công ty Elite thì từ năm 2002 đến 2006, người đăng quang Hoa hậu Việt Nam đã đại diện cho Việt Nam tại Hoa hậu Thế giới. Năm 2008, do chưa hoàn thành chương trình phổ thông nên Trần Thị Thùy Dung không được tham dự Hoa hậu Thế giới 2008 và cả hai Á hậu cũng không được dự thi. Kể từ đó đến năm 2015, không có Hoa hậu Việt Nam nào tham dự cuộc thi quốc tế, kể cả Đặng Thị Ngọc Hân, Đặng Thu Thảo và Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Tuy nhiên, Á hậu 1 Hoa hậu Việt Nam 2010 Vũ Thị Hoàng My được cử đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2011 tại São Paulo, Brazil và Hoa hậu Thế giới 2012 tại Ordos, Trung Quốc. Từ năm 2014, Công ty TNHH Quảng cáo và Thương mại Sen Vàng tham gia sản xuất Hoa hậu Việt Nam cùng với Báo Tiền Phong. Năm 2017, họ hợp tác với Elite Việt Nam để chuyển nhượng giấy phép đưa các Hoa hậu Việt Nam và các thí sinh khác tham dự các cuộc thi quốc tế khác nhau. Với sự hợp tác này, Hoa hậu Việt Nam sẽ có quyền cử đại diện tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Á hậu 1 và Á hậu 2 có thể được chọn để tham gia cuộc thi Hoa hậu Quốc tế. Tại Hoa hậu Thế giới 2017, Đỗ Mỹ Linh trở thành Hoa hậu Việt Nam đầu tiên đăng quang ngôi vị Hoa hậu Việt Nam kể từ sau Mai Phương Thúy đại diện cho đất nước tại cuộc thi vào năm 2006. Năm 2018, Á hậu 2 năm đó Nguyễn Thị Thúy An ban đầu được cử tham gia Hoa hậu Quốc tế nhưng cô đã rút lui vì vấn đề sức khỏe. Thí sinh có số điểm cao tiếp theo trong Top 5 là Nguyễn Thúc Thùy Tiên đảm nhận vị trí của Thúy An tại cuộc thi. Tuy nhiên từ năm 2013, rất nhiều cuộc thi hoa hậu khác có nội dung tương tự cũng được cấp phép tổ chức ở Việt Nam (từ cấp quốc gia đến cấp tỉnh/thành phố) với rất nhiều người đạt danh hiệu "hoa hậu, hoa khôi, người đẹp"... khiến cuộc thi Hoa hậu Việt Nam bị giảm hẳn sức hút. Công chúng trở nên nhàm chán vì có quá nhiều cuộc thi hoa hậu được tổ chức (Hoa hậu Thế giới Việt Nam, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam, Hoa hậu Biển Việt Nam Toàn cầu, Hoa hậu Đại dương Việt Nam, Hoa hậu các dân tộc Việt Nam, Hoa hậu Du lịch Việt Nam...). Trước kia Hoa hậu Việt Nam là cuộc thi hoa hậu cấp quốc gia duy nhất, nhưng hiện nay đã có tới cả chục cuộc thi diễn ra chỉ trong 1 năm, cuộc thi nào cũng tuyên bố mình là "cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia". Đặc biệt, Nghị định 144/2020/NĐ-CP năm 2020 đã bãi bỏ quy định giới hạn số lượng cuộc thi hoa hậu trong một năm. Việc buông lỏng điều kiện cấp phép đã khiến hàng loạt cuộc thi hoa hậu được tổ chức tràn lan. Riêng trong năm 2022, đã có tới 25 cuộc thi hoa hậu được tổ chức ở Việt Nam với đủ các tên gọi Vì cấp phép tổ chức tràn lan nên dẫn tới tình trạng "loạn danh hiệu", "lạm phát hoa hậu", quá nhiều người đạt danh hiệu "hoa hậu, hoa khôi" đã khiến danh hiệu này bị "mất giá", công chúng chẳng còn nhớ được mặt mũi hoa hậu, đăng quang năm nào, ở cuộc thi nào, và cũng chẳng biết ai mới là hoa hậu đại diện cho phụ nữ Việt Nam Danh sách thí sinh đăng quang cuộc thi Hoa hậu Đã qua đời Á hậu Á hậu/Á hậu 1 Á hậu 2 Thành tích theo khu vực Thống kê tính đến năm 2022: Các đại diện tại các cuộc thi quốc tế Các vụ scandal và tai tiếng liên quan đến cuộc thi Bên cạnh những thành công, cuộc thi cũng có những scandal trong quá trình tiến hành. Hậu trường đằng sau cuộc thi nhan sắc còn là việc nói xấu, chiêu trò làm hại nhau giữa các đối thủ, bởi chiến thắng của thí sinh cũng là chiến thắng của ông bầu. Họ sẽ có nhiều uy tín trong việc tạo ra những nhan sắc và xây dựng những tài năng mới, vì vậy cuộc chiến này chưa bao giờ ngừng khốc liệt. Họ cũng sẵn sàng "trả đũa" nếu "gà" của mình không lọt vào vòng trong hoặc các đối thủ khác đạt một vài danh hiệu nào đó.. Đã có nhiều báo cáo về việc dùng tiểu xảo để tranh ngôi vị, chính ban tổ chức Hoa hậu Việt Nam 2014 cũng thừa nhận họ nhận được vô số tố cáo nhằm vào các thí sinh trong và sau cuộc thi.. Mục đích thi hoa hậu bị biến tướng Từ năm 2012, các cuộc thi sắc đẹp ở Việt Nam diễn ra rầm rộ, mỗi năm có rất nhiều cuộc thi. Trước kia, nói tới "hoa hậu", "hoa khôi" là nói tới biểu tượng của nhan sắc, trí tuệ và tâm hồn. Nhưng việc "lạm phát" thi hoa hậu khiến danh hiệu này mất đi ý nghĩa, trở nên mang tính tiêu cực, làm xấu đi giá trị của phụ nữ Việt Nam. Các cuộc thi hoa hậu giờ đây bị nhiều người coi là nơi trá hình cho việc "tuyển gái gọi cho đại gia", các thí sinh giống như món hàng bị chấm điểm, bị công chúng buông lời chê bai và xúc phạm Cha đẻ của cuộc thi - nhà báo Dương Kỳ Anh tâm sự rằng, ông thực sự rất xót xa khi mục đích cuộc thi đã bị biến tướng, các cô gái ngày nay tìm đến với các cuộc thi Hoa hậu không phải để tìm một định hướng thẩm mỹ mà chủ yếu vì muốn có một cơ hội để gia nhập showbiz và kiếm tiền: {{cquote|Mục đích ban đầu của cuộc thi Hoa hậu Việt Nam được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1988 là tạo ra một sinh hoạt văn hoá mới để định hướng thẩm mỹ cho các bạn trẻ chứ không phải như bây giờ. Bây giờ, các bạn trẻ xem Hoa hậu là một "nghề" có thể giúp họ được tung hô, kiếm tiền một cách dễ dàng. Xã hội bây giờ xuống cấp quá. Đồng tiền tác oai, tác quái và làm đảo lộn mọi giá trị. Người ta đi thi không phải vì đề cao cái đẹp như xưa nữa mà có nhiều mục đích thực dụng hơn. Tôi thấy buồn, thấy đau vì điều này!Bây giờ cuộc thi đã bị biến thành một đấu trường nhan sắc thật sự, nơi đó, các thí sinh luôn ngấm ngầm tìm cơ hội để "hạ bệ" nhau hòng loại bớt đối thủ thì mình sẽ dễ dàng tiến thân hơn là giúp đỡ nhau cùng tiến|}} Trước kia Việt Nam chỉ có 1-2 cuộc thi hoa hậu quốc gia, còn hiện nay rất nhiều cuộc thi đua nhau mọc lên như: Hoa hậu Trang sức Việt Nam, Hoa hậu các dân tộc Việt Nam, Hoa hậu Phu nhân thế giới người Việt, Hoa hậu Quý bà Việt Nam, Hoa hậu Đại Dương Việt Nam, Hoa hậu Du lịch Việt Nam... Quá nhiều cuộc thi sắc đẹp mang danh nghĩa "Việt Nam" được sinh ra, nhưng tổ chức thì luộm thuộm, nhiều cuộc thi còn có dấu hiệu lừa đảo, bán danh hiệu kiếm tiền hoặc tạo ra "chiêu trò bẩn" để thu hút sự chú ý của công chúng. Á hậu Việt Nam năm 1994, Trịnh Kim Chi, trả lời phỏng vấn năm 2018: "Tôi làm giám khảo nhiều nên biết rõ, vì có quá nhiều cuộc thi nhan sắc nên người đẹp thật sự rất hiếm. Ngày xưa, 2 năm mới có một cuộc thi và khi có người đẹp đăng quang thì cả nước biết mặt biết tên. Còn bây giờ, ra đường thấy ai cũng đeo vương miện nhưng không ai biết mặt, không ai biết tên"Theo nhà thơ Dương Xuân Nam: "Tôi thấy bây giờ có rất nhiều cuộc thi hoa hậu. Trong những cuộc thi đó, tôi có cảm giác nó không đơn thuần chỉ là tôn vinh cái đẹp mà còn vì nhiều mục tiêu khác nhau. Đồng tiền đang làm đảo lộn rất nhiều giá trị... Tôi thấy đáng buồn vì hiện nay có quá nhiều cuộc thi hoa hậu trở nên loãng, thật giả lẫn lộn. Niềm tin của công chúng về các cuộc thi sắc đẹp bị lung lay. Họ trở nên nghi hoặc vào vẻ đẹp của một hoa hậu.". Năm 2018, một số thí sinh đạt danh hiệu trong các cuộc thi hoa hậu bị phát hiện là gái bán dâm cao cấp, số tiền bán dâm lên tới hàng nghìn USD mỗi lần. Các cuộc thi hoa hậu giờ đây bị nhiều người coi là nơi trá hình cho việc tuyển gái mại dâm cao cấp. Trước tình trạng đó, nhà báo Dương Kỳ Anh, người lập ra cuộc thi, tâm sự rằng: "Bản thân tôi cũng như anh em trong báo Tiền phong là cơ quan đã tổ chức cuộc thi Hoa hậu đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, khi chúng tôi tổ chức cuộc thi này với mục đích là tôn vinh vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam tạo nên nét sinh hoạt văn hoá mới, định hướng cái đẹp cho tuổi trẻ. Cũng không nghĩ rằng đến một lúc nào đó có một danh hiệu hoa hậu, á hậu nào đó ở một cuộc thi nào đó có thể dính vào những việc như thế này... thí sinh đi thi họ không phải đến đó như một ngày hội văn hóa tôn vinh nét đẹp mà họ đi thi vì mục đích có danh hiệu để vào showbiz, để làm việc này việc khác kiếm tiền chẳng hạn.... Trước đây chúng ta chỉ có 1 – 2 cuộc thi gọi là hoa hậu thôi còn cuộc thi bé hơn thì gọi là hoa khôi, người đẹp, còn bây giờ đâu cũng hoa hậu cả. Ngày xưa người ta nói ra ngõ gặp anh hùng, ngày nay ra ngõ gặp hoa hậu, nó buồn lắm."Các tổ chức đấu tranh vì quyền bình đẳng phụ nữ trên thế giới cũng phê phán các cuộc thi sắc đẹp, nơi mà người khác có quyền được buông ra những lời nhận xét (dù vô tình hay cố tình) có thể làm tổn thương đến phụ nữ. Năm 1970, khi cuộc thi Hoa hậu Thế giới được tổ chức tại Anh, nhiều tổ chức bảo vệ nữ quyền đã tổ chức biểu tình, giơ những biểu ngữ như "Phụ nữ cũng là con người", "Chấm dứt trưng bày cơ thể phụ nữ"... khiến các kênh truyền hình Anh phải từ chối phát sóng cuộc thi. Trong cuộc thi Hoa hậu Ukraine 2017, một nhóm ủng hộ nữ quyền đã lao lên sân khấu để phản đối vì cho rằng các cuộc thi hoa hậu đã biến người phụ nữ thành vật trưng bày mua vui, hạ thấp phẩm giá người phụ nữ. Các cuộc thi hoa hậu đang ngày càng bị thương mại hóa, những "ông bầu" tổ chức thi hoa hậu chỉ để bán danh hiệu thu tiền, hoặc "tuyển đào cho đại gia", nhiều thí sinh tham dự đã trở thành đối tượng để chê bai, bị xúc phạm nặng nề Trên thế giới đầu thế kỷ 21, trừ một số nước chậm phát triển tại Đông Nam Á và Nam Mỹ, các cuộc thi Hoa hậu chẳng còn được khán giả thế giới chú ý nhiều, đặc biệt là tại các nước phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản... Hoa hậu Thế giới 2015, Mireia Lalaguna, khi trở về Tây Ban Nha sau đăng quang đã chẳng có khán giả nào đến sân bay để chào đón. Tại Hoa Kỳ, số người xem tivi tường thuật các cuộc thi Hoa hậu đã giảm mạnh, năm 2006 chỉ còn bằng 1/3 so với năm 1980. Tại Hàn Quốc, chẳng mấy ai nhớ được tên 2 hoa hậu Hàn Quốc đăng quang gần nhất. Khi hiểu biết về quyền phụ nữ được nâng cao, người dân các nước này đã nhận ra rằng thi Hoa hậu thực chất là việc hạ thấp phẩm giá phụ nữ, biến người phụ nữ thành những vật trưng bày di động, buộc phụ nữ phải mặc áo tắm trình diễn hở hang để mọi người bình phẩm, soi mói ngoại hình. Do vậy, người đẹp ở các nước phát triển không còn muốn thi Hoa hậu nữa, danh hiệu Hoa hậu tại các nước này chỉ còn là "hữu danh vô thực". Những người từng đoạt danh hiệu đều dần chìm vào quên lãng, chẳng được mấy ai nhớ đến Phê phán màn thi áo tắm trong cuộc thi Việt Nam là 1 nước Á Đông với thuần phong mỹ tục tôn trọng sự kín đáo của phụ nữ, hình ảnh thí sinh mặc bikini hở hang trong cuộc thi khiến nhiều người cảm thấy rất phản cảm và coi đó là khiêu dâm trá hình. Nhiều thiếu nữ giàu lòng tự trọng đã không muốn đăng ký dự thi, nhiều người khác bị gia đình phản đối vì phần thi này. Nhiều màn trình diễn của các cô gái trẻ với bikini bị công chúng đem ra bình phẩm, giễu cợt như bụng ngấn mỡ, đùi to... Dù cố tình hay vô tình, những lời bình phẩm, chỉ trích đối với thân thể phụ nữ đều khiến họ bị tổn thương ít nhiều. Những thí sinh dự thi đa phần chỉ là những cô gái mới lớn đã phải hứng chịu những bình phẩm ác ý từ hàng triệu khán giả về cơ thể của mình, rõ ràng đó là một sự phản nhân văn. Khi phần thi này được phát sóng lên truyền hình hoặc chụp ảnh đưa lên báo chí, việc chứng kiến cơ thể hở hang, lộ liễu của các thí sinh cũng gây tác động xấu về văn hóa (cổ súy trào lưu ăn mặc hở hang, khêu gợi trong thanh niên; hoặc khiến những đối tượng như người già, trẻ em bị ảnh hưởng xấu về tâm lý...) Các tổ chức đấu tranh vì quyền phụ nữ trên thế giới đã liên tục phê phán phần thi bikini trong các cuộc thi hoa hậu, vì ở đó công chúng thoải mái buông ra những lời nhận xét khiếm nhã (dù vô tình hay cố tình) có thể làm tổn thương phụ nữ. Màn thi bikini đã trực tiếp cổ vũ tâm lý coi cơ thể phụ nữ là vật trưng bày mua vui, hạ thấp nhân phẩm phụ nữ, nhiều cô gái tham dự đã trở thành đối tượng bị chê bai, xúc phạm nặng nề chỉ vì cơ thể họ có khiếm khuyết. Đây là điều mà một xã hội văn minh, tôn trọng nhân phẩm phụ nữ không thể chấp nhận được. Trước kia các cuộc thi người đẹp ở Việt Nam vốn không có phần thi áo tắm, thí sinh chỉ trình diễn các trang phục truyền thống, lễ phục tao nhã để không gây phản cảm cho người xem. Á hậu Hoàng Thị Liên, từng đăng quang tại cuộc thi "Hoa hậu xứ Mường" năm 1942, đã khôi hài phê phán phần thi áo tắm trong các cuộc thi người đẹp hiện nay: "Mế cũng xem nhiều cuộc thi hoa hậu hiện nay, sao mà các cô ấy đi thi hoa hậu bây giờ vất vả thế, nhất là thi kiểu gì mà mặc quần áo như hai cái lá cây (bikini 2 mảnh) mà không thấy lạnh hay xấu hổ, sao mà trông hãi thế". Theo bà thì "Cái đẹp không phải đo vòng này vòng nọ. Cái đẹp phải là cái đẹp tự nhiên, cái có sẵn thì nó mới đẹp chứ"Có người đã chỉ ra rằng: nhiều người cổ vũ màn thi bikini vì nó khiến họ có thể được săm xoi cơ thể hở hang của các người đẹp, nhưng "nếu đặt mình vào vị trí phụ huynh hoặc người thân của thí sinh, liệu họ sẽ cảm thấy thế nào khi chứng kiến cô con gái non nớt của mình phô bày thân thể trước hàng triệu người xa lạ như vậy?" Có quan điểm còn cho rằng màn thi bikini là tàn tích xa xưa của việc mua bán nô lệ, tại đó nữ nô lệ bị lột trần trên sân khấu để hàng nghìn người định giá thông qua việc soi xét cơ thể trần trụi của họ. Nhiều người cũng nêu ra một nghịch lý của pháp luật Việt Nam: các ca sĩ, vũ công khi trình diễn trên sân khấu đều phải chấp hành quy định chặt chẽ về cấm trang phục khiêu dâm (áo không được quá mỏng, váy không được ngắn quá bắp đùi) để không gây phản cảm cho công chúng, nhưng trang phục tại các cuộc thi hoa hậu thì lại bị buông lỏng, cho tới nay vẫn chưa có văn bản pháp luật quy định chi tiết về trang phục trong các cuộc thi hoa hậu (hở đến đâu thì được, và đến đâu thì không được). Do vậy, các thí sinh hoa hậu lại được trình diễn bikini thiếu vải trên sân khấu và còn được truyền hình công khai cho hàng triệu khán giả, bao gồm cả người già và trẻ em, dù bikini là loại trang phục "không thể hở hang hơn" và mức phản cảm, khiêu dâm còn cao hơn nhiều so với váy ngắn của ca sĩ, vũ công. Có ý kiến cho rằng thi bikini là yếu tố quan trọng giúp đánh giá vẻ đẹp, vóc dáng của thí sinh nên không thể bỏ. Tuy nhiên, phân tích kỹ thì các thí sinh đều đã trải qua những vòng kiểm tra nhân trắc học rất kĩ lưỡng do những chuyên gia thực hiện, ban giám khảo cũng có thể đánh giá chính xác vẻ đẹp hình thể của họ ngay trong phòng kín, việc trình diễn công khai vốn không cần thiết. Vậy tại sao lại buộc các cô gái phải trình diễn bikini, phô bày cơ thể hở hang công khai trước cả ngàn người? Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên thì thẳng thắn chỉ ra: "Lấy lý do phần thi thi áo tắm là cần thiết để ban giám khảo chấm hình thể của các thí sinh là không đúng. Nó thực chất chỉ là màn trình diễn để mát mắt người xem mà thôi."Nhiều người đã lên tiếng ủng hộ việc bỏ phần thi bikini trong cuộc thi Hoa hậu Việt Nam. Hoa hậu Việt Nam 2010 Đặng Thị Ngọc Hân nói: "Tôi xuất thân là người mẫu nên việc tự tin thể hiện bản thân trước khán giả là điều đơn giản. Tuy vậy, không phải thí sinh nào trong cuộc thi cũng thấy thoải mái khi mặc bikini trên sân khấu. Ví dụ, ở cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2010, Nhã Uyên và Na Uy - hai thí sinh đến từ Huế, vùng đất còn nặng tính truyền thống - phải vượt qua ngại ngần để diễn áo tắm. Ban tổ chức khi ấy phải thuyết phục hai cô và gia đình rất nhiều để họ tham gia phần thi". Ngọc Hân nói rằng không cần phải buộc các cô gái mặc bikini mỏng manh trình diễn trên sân khấu trước rất đông khán giả thì mới chấm điểm được ngoại hình thí sinh, bởi ống kính máy quay, những chỉ số đo đạc hình thể được bác sĩ chuyên môn thực hiện trong phòng kín mới là chính xác nhất. Hoa hậu Việt Nam 2016 Đỗ Mỹ Linh cho rằng: "Với sự phát triển và thay đổi tư duy của xã hội hiện nay, vẻ đẹp ngoại hình theo tôi không còn quá được chú trọng. Khán giả mong muốn tìm ra những cô gái có vẻ đẹp tâm hồn, sự thông minh, tự tin, biết cách tỏa sáng", cô cho rằng việc bỏ phần thi bikini cũng sẽ giúp loại bỏ được tư tưởng "body shaming" trong xã hội (trêu chọc, chê bai người khác vì khiếm khuyết cơ thể của họ). Tiến sỹ Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội, cho biết: bà đồng tình với việc bỏ phần thi áo tắm trong cuộc thi hoa hậu, vì trong một chừng mực nào đó, phần thi này hạ thấp nhân phẩm của người phụ nữ''. Trong một cuộc thi hoa hậu, vẻ đẹp hình thức cũng quan trọng, nhưng có nhiều cách để đánh giá vẻ đẹp này chứ không cần màn trình diễn áo tắm phản cảm diễn ra công khai cho hàng triệu người xem. Bà đề xuất: một nhóm ban giám khảo có thể đo chỉ số hình thể và đánh giá vẻ đẹp thí sinh, nhưng quy trình này cần diễn ra nội bộ trong phòng kín, không diễn ra trên sân khấu công khai, cũng không được công bố hình ảnh hoặc chiếu lên sóng truyền hình cho công chúng, bởi màn thi này là rất phản cảm đối với rất nhiều người (như người già, trẻ em hoặc các nhóm ủng hộ nữ quyền, đạo đức truyền thống, đồng bào tôn giáo, dân tộc thiểu số...), trong khi lại khiến nhiều thí sinh bị tổn thương khi cơ thể họ bị dư luận bình phẩm, thậm chí chế giễu. Bà Khuất Thu Hồng nói: Phó giáo sư Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng ban tổ chức nên đánh giá hình thể thí sinh một cách kín đáo bởi ban giám khảo là những người có chuyên môn về nhân trắc học, và không được công khai hình ảnh các thí sinh mặc đồ thiếu vải trên truyền thông và sân khấu. Bà bày tỏ quan điểm: Phó giáo sư Nguyễn Hoàng Ánh cho rằng: Vi phạm tiêu chuẩn tham dự Năm 1992, khi cuộc thi đang diễn ra, một ứng cử viên sáng giá cho ngôi vị hoa hậu là Đặng Ci Mi bị một lá đơn tố cáo đã có chồng con. Ban tổ chức phải yêu cầu các nhà nhân trắc học kiểm tra và sau đó cả công an và phóng viên xác thực, mới phát hiện Ci Mi đã có con 3 tuổi. Cô bị loại ngay trước đêm chung kết. Do xấu hổ vì việc này nên cô đã tự tử nhưng được phát hiện kịp thời. Cuộc thi năm 2012 xảy ra "sự cố" là thí sinh Vương Thu Phương bị loại ngay trước đêm chung kết vì bị phát hiện đã làm đám cưới (nhưng không đăng ký kết hôn). Ban tổ chức không biết về đám cưới này trước khi sự việc bị lộ ra do các video ghi hình được đưa lên mạng, dù trước đó đã có nhiều nguồn tin cho biết việc Thu Phương kết hôn (nhưng Thu Phương đều phủ nhận trước khi có bằng chứng là video ghi hình). Năm 2016, thí sinh Lê Trần Ngọc Trân là ứng viên sáng giá bị tố từng tham gia cuộc thi Kim Mộc Hỏa Thổ (Hoa hậu Việt Nam Thế giới 2014) tại Nhật Bản và đoạt danh hiệu á hậu. Tuy nhiên, sau đó cô vị tước danh hiệu vì bị phát hiện giả mạo chữ ký của cơ quan chức năng để xuất cảnh. Ngày 14/8, đại diện ban tổ chức Hoa hậu Việt Nam 2016 nhận được đơn xin rút khỏi cuộc thi của thí sinh Ngọc Trân. Trong thư, cô thừa nhận việc tham dự cuộc thi Kim Mộc Hỏa Thổ năm 18 tuổi mà không xin phép các cơ quan chức năng. Tuy nhiên cô phủ nhận chuyện đoạt danh hiệu và giả mạo chữ ký của Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn. Phẫu thuật thẩm mỹ Năm 2014, Phạm Mỹ Linh được đánh giá là ứng viên sáng giá tại cuộc thi Hoa hậu Việt Nam. Ngay khi vòng chung kết cuộc thi khởi động, thí sinh này bị tố cáo từng sửa mũi. Làm việc với ban tổ chức, Phạm Mỹ Linh khẳng định chưa từng phẫu thuật thẩm mỹ và viết giấy cam đoan về điều đó. Cô cũng đã được đưa đi chụp X-quang sống mũi để minh oan. Tuy nhiên, trước sức ép dư luận, Mỹ Linh tự nguyện viết đơn xin rút lui khỏi cuộc thi vì lý do gia đình không ủng hộ, sức khỏe và tinh thần bị khủng hoảng. Năm 2016, thí sinh Nguyễn Thị Thành xin rút lui vì lý do cá nhân trước đêm chung kết diễn ra. Tuy nhiên, sau đó mạng xã hội lan truyền thông tin thí sinh này bị phát hiện phẫu thuật thẩm mỹ. Đến ngày 10/8, đại diện truyền thông của Nguyễn Thành công bố cô bị Ban tổ chức Hoa hậu Việt Nam ép nộp đơn rút lui, đồng thời yêu cầu giữ im lặng. Theo nguồn tin này, cô gặp tai nạn nên phải trồng 8 chiếc răng sứ. Đến khi vòng chung kết Hoa hậu Việt Nam sắp bắt đầu, phía ban tổ chức yêu cầu Nguyễn Thị Thành phải cung cấp bằng chứng là toa thuốc của nha sĩ. Cô đã cung cấp đầy đủ thông tin cho chương trình và thể hiện nguyện vọng muốn ở lại, nhưng bị từ chối. Cũng trong ngày 10/8, BTC Hoa hậu Việt Nam chính thức công bố quyết định loại Nguyễn Thành ra khỏi vòng Chung kết với lý do vi phạm quy định "phải có vẻ đẹp tự nhiên". Đến ngày 15/8, BTC tiếp tục tổ chức buổi gặp gỡ truyền thông để đưa ra những bằng chứng chứng minh Nguyễn Thành cùng ê-kíp đã ngụy tạo giấy tờ và chiến dịch vu cáo, bôi nhọ BTC. Ông Lê Xuân Sơn - Trưởng ban tổ chức Hoa hậu Việt Nam - cho biết những thông tin đến từ ê-kíp Nguyễn Thị Thành không đúng sự thật, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự cuộc thi. Gian lận học vấn Hoa hậu Việt Nam 2008 Trần Thị Thùy Dung đã phải đối mặt với scandal gian lận học vấn, đó là chưa tốt nghiệp cấp 3 khi đăng quang. Theo quy chế cuộc thi, trình độ học vấn tối thiểu của thí sinh là phải tốt nghiệp cấp 3, Thùy Dung không những "lách" được qua vòng tuyến chọn hồ sơ mà thậm chí còn lên ngôi vị cao nhất mà Ban tổ chức không hề biết việc cô khai gian học vấn. Hồ sơ của Thùy Dung còn bị nghi là đã làm giả học bạ. Khi dư luận tố cáo và các cơ quan chức năng vào cuộc xác minh, được biết Thùy Dung học trung học tại một trường tư thục và đã nghỉ học giữa lớp 12, thế nhưng cô lại bất ngờ nộp đơn đăng ký tham gia cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2008 mà không xin phép gia đình.. Năm 2009, Thùy Dung mới tốt nghiệp cấp 3 Hoa hậu Việt Nam 2012 Đặng Thu Thảo bị tố cáo là đã khai gian trình độ học vấn. Trong khi tham gia cuộc thi, Thu Thảo đăng ký với trình độ học vấn là sinh viên Đại học Tây Đô nhưng có lời tố cáo rằng Thu Thảo chỉ theo học Hệ trung cấp trường này chứ không phải là sinh viên đại học. Bảng điểm của Thu Thảo bị nghi ngờ là do nhà trường sắp đặt, "nâng điểm" sau khi biết cô đoạt giải. Nhiều danh xưng không thiện cảm đã được dành cho cô như: Hoa hậu học dốt, Hoa hậu nói dối... Hoa hậu Việt Nam 2018 Trần Tiểu Vy có điểm thi tốt nghiệp THPT khá thấp: 5,2 điểm môn Toán, Ngữ văn 4,75, Vật lý 4,75, Hóa học 4, Sinh học 2,75, Tiếng Anh 4,6, Khoa học Tự nhiên 4,27 (điểm trung bình của 3 môn Vật Lý, Hóa học, Sinh học). Điểm trung bình các môn của Trần Tiểu Vy chỉ là 4,27. Tuy nhiên, điểm tổng kết các môn học của Trần Tiểu Vy năm lớp 12 lại lên tới 8,2. Điều này đặt ra nhiều nghi vấn về việc "chạy điểm" trong học bạ THPT của Tiểu Vy. Dàn xếp kết quả Hoa hậu Việt Nam 2014 Nguyễn Cao Kỳ Duyên bị phản đối do nhan sắc kém thuyết phục, có nguồn tin cho rằng ứng cử viên ban đầu được nhắm cho ngôi vị Hoa hậu là Phạm Thị Hương nhưng vì Ban tổ chức chịu sức ép từ ông bầu của cô là nhà thiết kế Võ Việt Chung nên họ buộc phải chọn một gương mặt an toàn, "sạch sẽ" nhất để trao giải, thế nên chiến thắng của Kỳ Duyên gây ra nhiều phản đối và scandal không mong muốn. Ngoài ra, báo chí cũng nêu ra một nghi án "chạy giải" cho rằng thí sinh Phạm Thị Hương - Á hậu Thể thao Thế giới 2014 vì bị nhà thiết kế Võ Việt Chung tố cáo vi phạm hợp đồng độc quyền nên không thể lọt sâu vào được cuộc thi. Những thông tin này cho biết rằng kết quả Hoa hậu Việt Nam 2014 vốn đã được dàn xếp sẵn: Phạm Thị Hương giành được vương miện Hoa hậu, Á hậu 1 là Nguyễn Trần Huyền My và Á hậu 2 là Phạm Thị Ngọc Quý. Đến phút chót thì vì Võ Việt Chung làm lùm xùm về bản hợp đồng độc quyền trước đây với Phạm Hương nên ban tổ chức đã thay đổi kết quả, chọn Nguyễn Cao Kỳ Duyên đăng quang vì sợ lằng nhằng sau này. Tư cách đạo đức Năm 2003, hoa hậu năm 2002 Phạm Thị Mai Phương bị "mất tích" suốt 1 tuần, sau đó cô đột nhiên xuất hiện trở lại và nói rằng mình "đi chơi xa với bạn mà không xin phép gia đình". Dư luận phê phán cô vì việc tự ý bỏ nhà mà không xin phép gia đình, đồng thời vẫn bàn tán là có điều gì đó khuất tất trong thái độ và hành vi khó hiểu của hoa hậu Mai Phương Sau cuộc thi năm 2014, trên mạng Internet lan truyền những hình ảnh được cho là của Á hậu 1 Nguyễn Trần Huyền My đang trình diễn đồ lót trong quán bar, khiến nhiều người bất bình và yêu cầu tước danh hiệu. Bản thân Á hậu Huyền My đã dối trá phủ nhận điều này. Ban tổ chức đã phải gửi công văn triệu tập khẩn cấp Huyền My để xác minh rõ. Ban tổ chức nói "chưa thể cung cấp thông tin" và cần thêm thời gian để thu thập và thẩm tra các thông tin, cũng như cần thêm thời gian để tham vấn ý kiến của các cơ quan. Tuy nhiên vụ việc này sau đó được ban tổ chức làm lơ như không có gì xảy ra và bị chìm xuồng. Ngoài ra, vấn đề học vấn của Huyền My cũng được nhiều người để ý đến vì cô chỉ mới tốt nghiệp trung học với số điểm thi tốt nghiệp rất thấp và cô cũng không đăng ký thi đại học. Hoa hậu Việt Nam 2014 Nguyễn Cao Kỳ Duyên sau khi đăng quang đã gây ra nhiều scandal khiến dư luận bất bình, bao gồm việc đi dự họp báo trễ, bị bắt gặp hút thuốc lá, bóng cười trong quán cà phê và đang say xỉn vì uống nhiều rượu trong quán bar. Ngày 6/8/2016, Ban tổ chức quyết định rằng hành vi của Kỳ Duyên đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh Hoa hậu Việt Nam và đưa ra biện pháp xử lý: tất cả hình ảnh đại diện, ảnh quảng cáo cho cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2016 có hình ảnh Kỳ Duyên sẽ bị gỡ bỏ, Kỳ Duyên cũng sẽ không được mời tham gia chương trình đồng hành với Vòng chung kết cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2016. Ngoài ra, Kỳ Duyên không được mời trao vương miện đăng quang cho tân hoa hậu 2016, mà trưởng ban tổ chức, tổng biên tập báo Tiền Phong Lê Xuân Sơn sẽ làm việc này. Hoa hậu Việt Nam 2016 Đỗ Mỹ Linh ngay sau khi đăng quang đã bị tố cáo rằng cô đã phẫu thuật cắt lợi và từng chửi cô giáo là "dog" (con chó). Năm 2017, clip sex của thí sinh lọt vào Top 40 vòng chung kết Hoa hậu Việt Nam năm 2014 là Võ Hồng Ngọc Huệ bị tung lên mạng. Dựa vào những hình ảnh và đoạn clip đang bị phát tán trên mạng, có thể thấy Võ Hồng Ngọc Huệ đã chủ động ghi lại video nóng và tự chụp ảnh khỏa thân với bạn trai. Một số ý kiến cho rằng video bị rò rỉ là chuyện không may, một số khác lại cho rằng cô cố tình làm vậy để nổi tiếng.
Biểu tượng hay logo (từ tiếng Anh, vắn tắt từ ) là một yếu tố đồ họa (ký hiệu, chữ biểu thị, biểu tượng, hình tượng...) kết hợp với cách thức thể hiện nó tạo thành: một nhãn hiệu hay thương hiệu, hình ảnh đại diện cho một công ty hay các tổ chức phi thương mại, hình ảnh biểu thị một sự kiện, một cuộc thi, một phong trào hay một cá nhân nào đó. Thông thường, biểu trưng được chủ thể công nhận ngay sau khi nó được thiết kế xong và mặc nhiên có bản quyền, ít xảy ra trường hợp một biểu trưng tồn tại một thời gian dài mà không hoặc chưa có bản quyền. Trong hoạt động quảng bá, biểu tượng không phải là thương hiệu, tuy nhiên nó là ấn tượng bên ngoài để dễ nhận ra thương hiệu. Thiết kế Yêu cầu Theo Al Ries và Laura Ries (1998), Alycia Perry (2003), cũng như một số chuyên gia thương hiệu khác thì biểu trưng của thương hiệu thường phải đảm bảo một số yêu cầu. Khác biệt: có những dấu hiệu đặc biệt gây ấn tượng thị giác mạnh, dễ phân biệt. Đây là chức năng quan trọng của biểu trưng, giúp phân biệt thương hiệu hay sản phẩm với thương hiệu hay sản phẩm cạnh tranh. Sự khác biệt cũng làm cho thương hiệu dễ đi vào tâm trí của khách hàng hơn. Tính khác biệt cao cũng làm tăng khả năng được pháp luật bảo hộ. Đơn giản, dễ nhớ: tạo khả năng dễ chấp nhận, dễ suy diễn. Trong vài chục giây quan sát, người xem có thể hình dung lại đường nét biểu trưng trong trí nhớ. Trong bối cảnh nhiều sản phẩm cạnh tranh cùng được khuếch trương trên các phương tiện thông tin đại chúng, biểu trưng của thương hiệu sẽ không được khách hàng biết đến nếu nó phức tạp và khó nhớ, dù là bằng tên gọi, ký hiệu hay chữ viết. Hầu hết các thương hiệu nổi tiếng thế giới đều sử dụng những dấu hiệu thương hiệu rất đơn giản. Kodak sử dụng chữ K được viết cách điệu, McDonald sử dụng chữ M hình cánh cổng màu vàng, Nike sử dụng nét phết, IBM sử dụng tên thượng hiệu viết cách điệu. Hầu như những dấu hiệu thương hiệu này chỉ sử dụng 1 hoặc 2 màu cơ bản như màu vàng của Kodak, McDonald, màu xanh da trời của IBM, hay màu đỏ của Coca Cola. Dễ thích nghi: có khả năng thích nghi trong các thị trường thuộc khu vực khác nhau, các nền văn hoá hay ngôn ngữ khác nhau. Trên thực tế, khách hàng ở các nước khác nhau, có nền văn hoá khác nhau và ngôn ngữ khác nhau thường có cách hiểu khác nhau đối với các hình ảnh hay ký hiệu. Do đó các biểu trưng thương mại quốc tế ít dùng hình ảnh mang ý nghĩa sẵn có theo một nền văn hoá hay ngôn ngữ nào mà sử dụng những hình ảnh mới rồi gắn chúng với các liên tưởng về sản phẩm. có ý nghĩa: biểu thị được những nét đặc trưng cho sản phẩm hay các chủ đề liên quan. Thực tế là những biểu trưng có ý nghĩa tự thân về sản phẩm lại thường không tạo nên cảm giác khác biệt. Hơn nữa, sản phẩm ngày nay thường quá phức tạp khiến tên gọi hay hình ảnh có ý nghĩa thì lại khó khác biệt, dễ nhớ và đảm bảo tính tượng trưng. Cho nên trong thực tế tính ý nghĩa này thường được tạo ra qua các liên tưởng về thương hiệu hơn là tự thân thương hiệu. Hình dáng Một số nhà thiết kế biểu trưng coi trọng hình dạng giản dị, dễ đọc vì biểu trưng phức tạp thường khó nhận biết. Có thể kết hợp ký hiệu với tên thương hiệu. Khá nhiều doanh nghiệp chọn một ký hiệu đặc thù kết hợp với tên thương hiệu để tạo thành biểu trưng. Khi thương hiệu đã trở nên nổi tiếng, ký hiệu có thể đứng độc lập để tạo nên sự nhận biết về thương hiệu. Tuy nhiên, những tác giả như Al Ries và Laura Ries (1998) và Alycia Perry (2003) cho rằng ký hiệu thường chỉ có tác dụng khi nó đi cùng tên thương hiệu trong biểu trưng. Những thương hiệu mà bản thân ký hiệu có thể đứng một mình đại diện cho thương hiệu như Nike hoặc Mercedes là rất hiếm và thường chỉ có ở những thương hiệu xuất hiện từ rất sớm, khi số lượng trên thị trường là rất nhỏ. Cách khác để tạo ra ấn tượng là dùng kiểu chữ đặc thù của tên thương hiệu. Đây là hình thức cách điệu tên thương hiệu bằng cách sử dụng kiểu chữ đặc thù bao gồm việc sử dụng phông chữ, chữ hoa - chữ thường, thay đổi độ đậm nhạt hoặc cách viết cách điệu. Khi thiết kế biểu trưng theo cách này, doanh nghiệp có thể sử dụng thiết kế đặc thù của tên thương hiệu đầy đủ hoặc viết tắt. Màu sắc Màu sắc cũng có xu hướng đơn giản, dễ dàng được nhận thấy và ghi nhớ. Các nhà thiết kế có thể ưu tiên vẽ màu trắng và đen trước khi tô màu. Một vài ví dụ diễn giải màu sắc: Đen: trang trọng, đặc biệt, mạnh mẽ, quyền lực, tinh tế, truyền thống. Xanh dương: uy quyền, đỉnh đạc, an toàn, đáng tin cậy, truyền thống, ổn định, trung thành. Nâu/vàng: cổ điển, lợi ích, trần tục, giàu sang, truyền thống, bảo thủ. Xám/bạc: ảm đạm, quyền lực, thực tế, tâm linh, tin tưởng. Xanh lá cây: yên tĩnh, lành mạnh, khoẻ khoắn, ổn định, thèm muốn. Hồng: nữ tính, ngây thơ, dịu dàng, khoẻ mạnh, trẻ trung. Tím: tinh tế, tâm lý, giàu sang, hoàng tộc, trẻ trung, bí ẩn Đỏ: mạnh mẽ, bền bỉ, năng động, đầy sức sống, may mắn. Vàng: lạc quan, ấm áp, truyền thống, sang trọng Cam: là màu phối hợp giữa màu đỏ và vàng, chỉ điềm lành được hưởng cuộc sống yên vui, nhiều quyền hành.
Franz Liszt (; ; 22 tháng 10 năm 1811 - 31 tháng 7 năm 1886) là một nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc người Hungary. Ông là nhạc sĩ có danh tiếng ở khắp châu Âu vào thế kỉ 19 nhờ có kỹ thuật điêu luyện bậc nhất trên bàn phím. Ngày nay ông vẫn được xem như là một trong những nghệ sĩ piano lớn nhất mọi thời đại với các tác phẩm kinh điển như bản Hungarian Rhapsody số 2. Cuộc đời và sự nghiệp Thời thơ ấu của một thần đồng Franz Liszt sinh ngày 22 tháng 10 năm 1811 tại Doborján thuộc vương quốc Hungary, sau này trở thành một phần đế quốc Habsburg. Nguyên thủy tên ông là Franciscus nhưng những người thân thuộc gọi ông là Franz theo cách của người Đức gọi tên Franciscus. Bố mẹ ông là Adam và Maria Anna Liszt (nhũ danh Lager). Cha của Liszt, Adam Liszt trong những năm đầu thập kỉ 1790 là giáo viên dạy tiếng Hungary cho trường trung học Pressburg (nay là Bratislava, thủ đô Slovakia) trong vòng 5 năm. Thời đó tiếng Hungary không phải là tiếng nói chính thức trong vùng mà là tiếng Đức. Còn ngôn ngữ hành chính là tiếng Latin. Dù vậy Franz mặc dù lưu loát tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Ý nhưng hầu như chẳng biết tiếng Hungary. Đến những năm 1870 khi mọi người bị bắt buộc phải học tiếng Hungary, mặc dù rất cố gắng ông vẫn không học được. Dòng dõi của ông gây ra nhiều tranh cãi bởi hầu hết các tài liệu quan trọng về ông đều bị thất lạc. Ông tổ của Franz Liszt là Sebastian Liszt là người Đức đến Hungary vào đầu thế kỉ 18. Vì quốc tịch của con là thừa hưởng của cha nên ông nội và cha Franz Liszt đều mang quốc tịch Đức, mẹ ông có nguồn gốc từ Áo, thời đó cũng được xem là Đức luôn. Như vậy thì Franz Liszt mang quốc tịch Đức dù sinh ra tại Hungary, không phải là người Hung. Tuy vậy giấy khai sinh của Sebastian cũng không được tìm thấy trong văn khố Đức hay Áo, còn văn khố Hungary bị người Thổ Nhĩ Kỳ phá hoại rất nhiều. Do vậy chưa có gì chắc chắn về nguồn gốc Đức của Sebastian. Nhưng trong cuộc đời chính Franz lúc thì nhận rằng mình mang quốc tịch Đức, lúc thì Hungary, các con ông mang quốc tịch Hungary. Theo các nguồn thông tin chính thức thì ngay từ thời thơ ấu Franz Liszt đã bộc lộ thiên tài của mình. Mơ ước trở thành nhạc sĩ chuyên nghiệp là của bố ông, Adam Liszt, người chơi rất nhiều nhạc cụ từ piano đến violin, cello, guitar nhưng do hoàn cảnh không cho phép giấc mơ ấy thành hiện thực. Franz được sinh ra trong môi trường âm nhạc và điều này hẳn ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời ông. Bản thân Liszt đã phải tập luyện rất nhiều dưới sự kèm cặp của bố từ năm lên 7 tuổi. Theo những thư từ của người cha thì ông đã từng tập tất cả các tác phẩm của Bach, Beethoven, Mozart và nhiều nhạc sĩ khác. Ngày 26 tháng 11 năm 1820, lần đầu tiên ông ra mắt công chúng tại lâu đài của bá tước Michael Esterházy ở Pressburg trước các nhà quý tộc địa phương. Trong dịp này Liszt may mắn được đề nghị tài trợ mỗi năm 600 gulden để đi học ở nước ngoài, tuy nhiên số tiền này chỉ đủ trang trải một phần chi phí sinh hoạt cho nên sau đó Liszt vẫn không đi đâu cả. Ngày 3 tháng 6 năm 1822, Adam Liszt xin hoàng tử Esterházy được nghỉ việc một năm và cả gia đình bán hết đồ đạc để chuyển đến Viên vào ngày 8 tháng 5 năm 1822. Ở Wien, Liszt theo học piano với Carl Czerny, người từng là học trò của Ludwig van Beethoven, cùng với Antonio Salieri, cựu quan đại thần âm nhạc Áo. Theo như trong hồi ký của Czerny, Liszt có năng khiếu rất rõ nhưng do học tập không tốt cho nên kĩ năng ngón tồi cũng như phong cách chơi đàn rất hỗn loạn. Hai thầy trò bất đồng nhau trong việc sử dụng các ngón tay và thế là để tránh các bài tập, Liszt đã viết các ghi chú bậy lên bản nhạc rồi nói với cha rằng đó là do thầy dạy. Nhưng sự việc bị phát giác và Liszt vẫn phải tiếp tục học với Czerny. Tuy vậy, Czerny rất yêu quý Liszt, và chính Liszt cũng vô cùng tôn trọng Czerny. Liszt nhanh chóng trở nên có tiếng trong giới âm nhạc Wien, lần trình diễn đầu tiên là tại Landständischer Saal ngày 1 tháng 12 năm 1822 với các tác phẩm của Ferdinand Hummel, Gioachino Rossini và Beethoven. Ngày 13 tháng 4 năm 1823 ông trình diễn tại Kleiner Redoutensaal với các tác phẩm của Hummel. Mùa xuân năm 1823 là hết thời hạn nghỉ của Adam Liszt, ông xin Esterházy nghỉ thêm 2 năm nữa nhưng không được chấp thuận, vậy là Adam phải trở về. Cuối tháng 4 gia đình trở về Hungary lần cuối. Trong thời gian trước khi quay trở lại Wien, Liszt có một số buổi diễn tại Pest ngày 1 và 24 tháng 5 năm 1823, tại rạp Königliches Städtisches ngày 10 và 17 tháng 5, ngày 19 tháng 5 năm 1823 tại một buổi diễn gọi là vergnügliche Abendunterhaltung. Cuối tháng 5 năm 1823 cả gia đình Liszt trở lại Wien. Ngày 20 tháng 9 năm 1823, gia đình Liszt rời Wien để đến Paris. Để kiếm tiền, trong chuyến đi Liszt phải trình diễn ở München, Augsburg, Stuttgart, Strasburg. Ngày 11 tháng 12 năm 1823 họ đến Paris, với nguyện vọng theo học Nhạc viện Paris. Do thời đó nhạc viện Paris có quy định là chỉ nhận sinh viên người Pháp nên Liszt không thể theo học nơi đây. Hậu quả là Adam Liszt trở thành thầy của Franz Liszt, một người thầy cực kì nghiêm khắc, gần như chuyên chế. Với cha, hàng ngày Franz Liszt học các bài tập cũng như các thang âm với máy gõ nhịp, ông cũng phải tập các bài fugue của Johann Sebastian Bach. Tại Paris, Liszt học tiếng Pháp nhanh chóng và cũng nhanh chóng trở nên nổi tiếng sau khi có vài buổi trình diễn, ông được gọi là "Liszt bé nhỏ". Trong các năm 1824, 1825 và 1827, ông cùng cha đến Anh, ông kiếm được rất nhiều tiền nhờ các buổi biểu diễn. Từ năm 1824, Liszt học sáng tác cho piano với Anton Reicha và Ferdinando Paer và cũng viết được vài tác phẩm cho piano gồm concerto, sonata, nhạc thính phòng, các bản biến tấu trên chủ đề của Rossini, Gaspare Spontini. Các tác phẩm của Liszt đều theo phong cách Wien đương đại, tuy nhiên phần lớn các tác phẩm đã xuất bản đều không thành công thậm chí có người còn chỉ trích ông "chẳng có tí khả năng sáng tác nào". Mùa xuân năm 1824, Liszt bắt đầu viết vở opera Don Sanche (hay Lâu đài tình ái) với sự giúp đỡ của Paer. Vở này được công diễn lần đầu ngày 17 tháng 10 năm 1825 ở Viện âm nhạc hoàng gia do Rodolphe Kreutzer đạo diễn và Adolphe Nourrit đóng vai Don Sanche nhưng không mang lại thành công lắm. Sau sự kiện này Liszt trở nên chán âm nhạc và có ý hướng về tôn giáo, nhưng bố ông buộc ông phải tiếp tục trình diễn. Năm 1826 tại Marseille ông bắt đầu viết các bài tập luyện kĩ thuật ngón, dự tính là 48 bài nhưng cuối cùng Liszt chỉ viết được 12 bài xuất bản dưới tên "Etudes Op.6". Trong mùa hè năm 1827, Lizst bị ốm, cha ông đưa ông đến Boulogne-sur-Mer dưỡng bệnh, khi ông khỏi thì cha ông lại mắc bệnh và mất ngày 28 tháng 8 năm 1827. Liszt viết một khúc tang ca ngắn trong dịp này. Liszt không bao giờ đến thăm mộ của Adam tại Bouglogne. Những năm sau này Liszt thường nhìn lại thời thơ ấu với thái độ bi quan rằng tuy ông kiếm được nhiều tiền và nổi tiếng nhưng lại chẳng được ăn học đàng hoàng. Thời thanh niên ở Paris Sau khi cha chết, Liszt trở lại Paris. Trong 5 năm sau đó ông ở với mẹ trong một căn hộ nhỏ cho đến cuối năm 1833 ông ra ở riêng. Để kiếm sống, Liszt dạy chơi piano và dạy sáng tác. Một trong những học trò của ông là Caroline de Saint-Cricq, con của bộ trưởng thương mại Pháp dưới triều vua Charles X của Pháp. Hai người yêu nhau và mẹ của Caroline cũng đồng tình cho kết hôn; tuy nhiên đến tháng 7 năm 1829 thì người mẹ chết và người cha buộc hai người chia tay. Caroline phát ốm, còn Liszt bị sốc nặng. Năm 1830, Caroline lấy Bertrand d'Artigaux và cùng chồng chuyển đến miền nam Pháp. Mối tình đầu của Liszt tan vỡ. Ngày 25 tháng 12 năm 1828 Liszt tự tổ chức một buổi diễn của riêng mình, nhương không may kế hoạch biểu diễn phải bỏ dở vì Liszt bị bệnh sởi. Ngày 25 tháng 3 năm 1829 ông tham gia dàn nhạc 12 người biểu diễn bản overture Die Zauberflöte của Mozart. Mùa đông 1829-1830 ông trình diễn một vài lần nữa. Tháng 7 năm 1830 Cách mạng Pháp lan đến Paris, ảnh hưởng bởi sự kiện này, Liszt sáng tác bản giao hưởng Cách mạng. Cuối cùng cách mạng chẳng thu được kết quả gì tốt hơn thậm chí làm cho tình hình xã hội trở nên tệ hơn, Liszt chán nản và bản giao hưởng chẳng bao giờ được trình diễn Paganini Sau khi tham dự một buổi hòa nhạc từ thiện từ ngày 20 tháng 4 năm 1832 cho các nạn nhân của một bệnh dịch tả ở Paris do Niccolò Paganini tổ chức, Liszt đã quyết tâm trở thành một bậc thầy về piano khi thấy Paganini chơi violin. Paris vào những năm 1830 đã trở thành trung tâm với các hoạt động nghệ thuật biểu diễn, với hàng chục nghệ sĩ piano khổ luyện trên mặt phím. Một số, chẳng hạn như Sigismond Thalberg và Alexander Dreyschock, tập trung vào những khía cạnh cụ thể của kỹ thuật (ví dụ như "hiệu ứng ba tay" và các quãng tám liên tục,..). Mặc dù một số người gọi trường phái chơi đàn dương cầm này là "đu dây bay", thế hệ này cũng đã giải quyết được một số vấn đề nan giải của kỹ thuật dương cầm, nâng cao trình độ chung của các buổi biểu diễn đến những tầng cao chưa được biết đến trước đây. Sức mạnh và khả năng của Liszt nổi bật trong phường hội này là nắm vững tất cả các khía cạnh của kỹ thuật piano mà các đối thủ của anh đã dày công xây dựng. Liszt cũng chính là người đi tiên phong trong phong trào này. Các tác phẩm viết cho violin của Paganini cũng đã truyền cảm hứng mạnh mẽ đến Liszt. Liszt đã chuyển soạn một số tác phẩm của Paganini cho Piano, tiêu biểu là Khúc luyện chính từ Paganini với nhiều phiên bản, gồm nhiều khúc luyện về kĩ thuật rất khó. Năm 1833 ông đã thực hiện chuyển thể của một số tác phẩm của Berlioz, bao gồm Symphonie fantastique (Bản giao hưởng kỳ ảo). Động lực chính của anh trong việc làm như vậy, đặc biệt với Symphonie, là giúp Berlioz - bạn thân của Liszt ở Paris và đang trong cảnh túng quẫn. Bản giao hưởng của Berlioz vẫn chưa được biết đến và chưa được xuất bản. Liszt chịu chi phí cho việc xuất bản các bản sao và chơi nó nhiều lần để giúp phổ biến bản nhạc gốc. Liszt cũng có một tình bạn với một nhà soạn nhạc đã ảnh hưởng đến anh, Frédéric Chopin; dưới ảnh hưởng của Chopin, Liszt đã phát triển thêm tính thơ và lãng mạn. Hai người vừa là bạn, vừa là đối thủ trên các sân khấu, Chopin và Liszt đã nhiều lần cùng nhau biểu diễn. Tuy là vậy, họ ngưỡng mộ và tôn trọng nhau. Tập Etudes Op.10 nổi tiếng của Chopin đã được đề tặng cho Liszt - người được cho là đã vùa nhìn bản nhạc, vừa chơi cả tập này - điều gần như không thể. Khi hay tin Chopin vừa qua đời năm 1849, Liszt đã vô cùng tiếc nuối. Bá tước Marie d'Agoult Năm 1833, Liszt bắt đầu mối quan hệ của mình với Bá tước Phu nhân Marie d'Agoult, một người đã có chồng con khi anh gặp nàng ở một salon, tuy Marie lớn tuổi hơn Liszt. Ngoài ra, vào cuối tháng 4 năm 1834 ông đã làm quen với Felicité de (vùng) Lamennais. Dưới ảnh hưởng của cả hai, những cảm hứng sáng tạo của Liszt đã bùng nổ. Năm 1835, nữ bá tước rời khỏi chồng và gia đình để sống với Liszt ở Geneva; Con gái đầu của Liszt với nữ bá tước, Blandine, sinh ra vào ngày 18 tháng 12. Liszt đã đóng góp các bài tiểu luận cho Paris Revue et Gazette musicale (Tạp chí âm nhạc Paris). Trong những bài tiểu luận này, ông tranh luận về việc nâng cao địa vị người nghệ sĩ từ một người đầy tớ đến một thành viên đáng kính của cộng đồng. Trong bốn năm tiếp theo, Liszt và bà phu nhân sống cùng nhau. Họ đi du lịch cùng nhau chủ yếu ở Thụy Sĩ và Italy, nơi con gái họ, Cosima, sinh ra ở Como, đôi khi họ đến thăm Paris. Vào ngày 9 tháng 5 năm 1839, con trai duy nhất của họ, Daniel, được sinh ra, nhưng mùa năm đó thu mối quan hệ giữa họ trở nên căng thẳng. Nguyên nhân có thể do vấn đề tài chính: họ có thói quen tiêu xài khá phung phí. Liszt phải nuôi người tình Marie, các con của mình và cả mẹ Anna bằng mười ngón trên bàn tay anh. Một thời gian sau, Liszt nghe nói rằng kế hoạch cho một đài kỉ Beethoven ở Bonn có nguy cơ sụp đổ vì thiếu vốn, và cam kết hỗ trợ của ông. Như vậy có nghĩa là trở lại cuộc đời của một nghệ sĩ đi lưu diễn. Marie trở về Paris với các em, trong khi đó Liszt đã đặt 6 buổi hòa nhạc tại Vienna. Một chương mới của cuộc đời Liszt mở ra. Anh đã cắt đứt quan hệ với Marie, bắt đầu đi lưu diễn khắp toàn Châu Âu. Lưu diễn ở châu Âu Đây là thời kỳ rực rỡ nhất của Liszt với tư cách là nghệ sỹ piano hòa nhạc. Anh đạt đỉnh cao danh vọng và luôn gặp những lời xu nịnh bất cứ nơi nào anh trình diễn. Franz đã viết ba bản Concerto của mình vào năm 1845 và 1849. Vì ông thường xuất hiện phải từ ba hoặc bốn lần một tuần trong buổi hòa nhạc, có thể chắc chắn rằng Liszt đã xuất hiện trước công chúng hơn một ngàn lần trong khoảng thời gian 8 năm này. Ngoài ra, sự nổi tiếng của anh với tư cách là một nghệ sĩ dương cầm, mà anh sẽ tiếp tục tận hưởng lâu sau khi chính thức giã từ sân khấu hoà nhạc, chủ yếu dựa vào thành tích trong thời gian này. Trong thời hoàng kim của mình, Liszt được nhà văn Hans Christian Andersen miêu tả như một "người đàn ông mảnh dẻ... với mái tóc đen phủ quanh khuôn mặt nhợt nhạt của mình". Ông được nhiều người xem là điển trai, với bài viết của Heinrich Heine,nhà thơ Đức, về sự trình diễn của ông trong các buổi hòa nhạc: "Mạnh mẽ làm sao, đáng kinh ngạc làm sao, đó chính là sự xuất hiện của ông"  Năm 1841, Franz Liszt được nhận vào hội quán Tam Điểm, bậc "Nhất thống" ở Frankfurt am Main. Ông được thăng cấp bậc hai và được bầu vào làm thành viên của hội quán "Zur Eintracht" ở Berlin. Từ năm 1845, ông cũng là thành viên danh dự của hội quán "Khiêm tốn và tự do" "Modestia cum Libertate" tại Zurich và năm 1870 là hội quán ở Pest (Budapest-Hungary). Sau năm 1842, "Lisztomania" ("chứng cuồng Liszt") - thuật ngữ do nhà thơ Đức thế kỷ 19, Heinrich Heine nghĩ ra - đã quét qua châu Âu. Sự tiếp đãi, mà Liszt tận hưởng như một thành quả, chỉ có thể được mô tả như là cơn cuồng loạn. Phụ nữ đã chiến đấu vì chiếc khăn tay lụa và găng tay nhung của ông, chúng được xé thành từng mảnh để làm quà lưu niệm. Bầu không khí này lại được thúc đẩy bởi tính cách thôi miên của nghệ sĩ và sự hiện diện của Liszt trên sân khấu. Nhiều nhân chứng sau đó đã nói rằng rằng việc đàn của Liszt đã làm tâm trạng của khán giả được nâng cao lên mức độ ngất ngây huyền bí. Vào ngày 14 tháng 3 năm 1842, Liszt nhận được bằng tiến sĩ danh dự của 'Đại học Königsberg - một vinh dự chưa từng có vào thời đó và đặc biệt quan trọng đối nếu nhìn theo truyền thống Đức. Liszt không bao giờ sử dụng danh xưngTiến sĩ Liszt 'hoặc' Tiến sĩ Franz Liszt 'công khai. Ferdinand Hiller, một đối thủ của Liszt thời bấy giờ, được cho là ghen tị vì quyết định của trường đại học. Thêm vào danh tiếng của ông là một thực tế là Liszt đã bỏ hầu hết số tiền thu được vào hoạt động từ thiện và nhân đạo. Trên thực tế, Liszt đã kiếm được rất nhiều tiền từ khoảng bốn mươi tuổi đến mức hầu như tất cả các khoản tiền có được sau năm 1857 đã đi từ thiện. Trong khi các đóng góp của ông về tượng đài Beethoven và Nhạc viện Quốc gia Hungary là nổi tiếng, ông cũng hào phóng trao tặng quỹ xây dựng Nhà thờ Cologne, thành lập một trường trung học ở Dortmund, và xây dựng Nhà thờ Leopold ở Pest. Ông cũng có những khoản đóng góp cá nhân cho các bệnh viện, trường học và các tổ chức từ thiện như Quỹ Lương hưu của hội nhạc sĩ Leipzig. Khi ông biết đến Đại hỏa hoạn Hamburg, nổ ra trong ba ngày trong tháng 5 năm 1842 và phá huỷ phần lớn thành phố, ông đã tổ chức các buổi hòa nhạc để trợ giúp cho hàng ngàn người vô gia cư ở đó. Liszt ở Weimar Tháng 2 năm 1847, Liszt chơi tại Kiev. Ở đó, ông đã gặp Công chúa người Ba Lan Carolyne zu Sayn-Wittgenstein, có lẽ là một trong những người quan trọng nhất trong suốt phần đời còn lại của Liszt. Cô đã thuyết phục ông tập trung vào việc sáng tác, điều đó có nghĩa là từ bỏ nghề nghiệp của mình như là một nghệ sỹ lưu diễn nay đây mai đó. Sau chuyến lưu diễn vùng Balkans, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga vào mùa hè năm đó, Liszt biểu diễn buổi hòa nhạc cuối cùng tại Yelisavetgrad vào tháng Chín.Ông đã dành cả mùa đông với công chúa tại mảnh đất của mình ở Woronince. Sau khi rút khỏi ánh đèn sân khấu hoà nhạc ở tuổi 35, khi vẫn ở đỉnh cao danh vọng của mình, Liszt đã thành công trong việc giữ khả năng chơi đàn huyền thoại của mình không bị phai nhạt. Năm sau, Liszt đã có lời mời lâu năm của Nữ Công tước Maria Pavlovna của Nga để định cư tại Weimar, nơi ông được bổ nhiệm làm Kapellmeister Extraordinaire "Nhà soạn nhạc xuất chúng" năm 1842, ông ở lại đó đến gần 20 năm. Trong thời gian này, ông đã đóng vai trò chỉ huy tại các buổi hòa nhạc của triều đình và vào các dịp đặc biệt tại nhà hát. Ông đã dạy cho một số nghệ sĩ dương cầm, trong đó có bậc thầy vĩ đại Hans von Bülow, người đã kết hôn với cô con gái của Liszt là Cosima năm 1857 (nhiều năm sau, cô sẽ kết hôn với Richard Wagner). Ông cũng đã viết các bài báo để bảo vệ Berlioz và Wagner. Cuối cùng, Liszt đã có rất nhiều thời gian để sáng tác và trong suốt 12 năm tiếp theo ông tiếp tục sửa đổi hoặc soạn những bản nhạc cho giao hưởng và hợp xướng, danh tiếng của ông lúc này có được là từ việc soạn nhạc. Trong suốt 12 năm đó, ông cũng đã giúp nâng cao hình ảnh của Wagner lưu vong bằng cách biểu diễn các khúc Overture "Khúc dạo đầu" trích từ các vở Opera của Wagner trong các buổi hòa nhạc của mình, Liszt và Wagner đã có một tình bạn sâu sắc kéo dài cho đến tận khi Wagner qua đời ở Venice vào năm 1883. Wagner đánh giá rất cao Liszt và âm nhạc của ông một cách hùng hồn: "Bạn có biết một nhạc sĩ mà có chất nhạc hơn cả Liszt?", "Tôi đã nghĩ kỹ rồi và tôi thấy rằng mình chỉ như một nhạc sĩ đáng khinh, trong khi bạn [Liszt], như tôi bây giờ đã tự thuyết phục bản thân, là nhạc sĩ vĩ đại nhất của mọi thời đại. " Công chúa Carolyne đã sống cùng Liszt trong những năm tháng ở Weimar. Cuối cùng, cô đã muốn được kết hôn với Liszt, nhưng cô lại có chồng, sĩ quan quân đội Nga, Hoàng tử Nikolaus zu Sayn-Wittgenstein-Ludwigsburg (1812-1864), lúc này vẫn còn sống, vậy là cô phải thuyết phục Giới thẩm quyền Công giáo La Mã rằng hôn nhân của cô với ông ta đã không hợp lệ. Sau những nỗ lực to lớn và những quá trình phức tạp đượm phần kỳ quặc, cô đã "tạm thời" thành công (tháng 9 năm 1860). Kế hoạch là cặp vợ chồng sẽ cưới nhau tại Rome vào ngày 22 tháng 10 năm 1861, sinh nhật thứ 50 của Liszt. Mặc dù Liszt đã đến Rome vào ngày 21 tháng 10, nhưng công chúa từ chối cưới ông vào tối hôm đó. Có vẻ như cả chồng lẫn Sa hoàng Nga đã nỗ lực để phế quyền cho cuộc hôn nhân tại Vatican. Chính phủ Nga cũng tịch thu một số căn nhà của công chúa ở Ba Lan, khiến các cuộc hôn nhân sau này của bà trở nên gần như bất khả thi. Rome, Weimar, Budapest Những năm 1860 là một những năm buồn thảm nhất trong cuộc sống riêng tư của Liszt. Vào ngày 13 tháng 12 năm 1859, con trai Daniel, 20 tuổi, đã qua đời. 3 năm sau, đứa con gái 26 tuổi Blandine của ông cũng nối gót. Trong thư gửi cho bạn bè, Liszt thông báo rằng anh ta sẽ rút lui để sống một mình, đơn độc. Ông đã tìm thấy cuộc sống như vậy tại tu viện Madonna del Rosario, ngay bên ngoài Rome. Ngày 20 tháng 6 năm 1863, ông sống trong chỉ một-phần-tư ở một căn hộ nhỏ kiến trúc kiểu Sparta. Ngày 23 tháng 6 năm 1857, ông đã gia nhập Dòng Thứ ba của Thánh Phanxicô. Vào ngày 25 tháng 4 năm 1865, ông được làm Lễ cạo đầu dưới bàn tay của Hồng y Hohenlohe. Vào ngày 31 tháng 7 năm 1865, ông nhận được bốn thánh chức nhỏ đó là 1. Chức giữ và mở cửa nhà thờ (Porter), Chức đọc Sách Thánh (Reader), Chức trừ quỷ (Exorcist), Chức Giúp Lễ (Acolyte). Sau khi thọ giới, ngài thường được gọi là Abbé Liszt. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1879, ông được phong làm thầy dòng danh dự của vùng Albano. Trong một số dịp, Liszt tham gia vào nhịp sống âm nhạc ở Rome. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1863, tại một buổi hòa nhạc tại Palazzo Altieri, ông đã chỉ huy một chương trình âm nhạc thánh. Bản Chân Phước"Seligkeiten" của Christus-Oratorio và Cantico del Sol di Francesco d'Assisi cũng như Sự sáng thế"Die Schöpfung" của Haydn và các tác phẩm của J. S. Bach, Beethoven, Jommelli, Mendelssohn và Palestrina đã được trình diễn. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1866, Liszt chỉ huy cho bản "Stabat mater" (một bản hùng ca về sự khổ hạnh về Đức mẹ Maria bị đóng đinh lên cây thánh giá) của Christus-Oratorio, và vào ngày 26 tháng 2 năm 1866, "Giao hưởng Thần khúc"Dante Symphony của ông. Cũng còn nhiều lần ông xuất hiện kiểu như vậy, nhưng so với thời gian lưu lại của Liszt ở Rome, chúng là không đáng kể. Năm 1866, Liszt sáng tác Missa coronationalis (Lễ đăng quang trong Thánh lễ Misa) cho Franz Joseph và Elisabeth của vùng Bavaria. Bản "Thánh lễ Misa" được biểu diễn lần đầu tiên vào ngày 8 tháng 6 năm 1867, tại lễ đăng quang của nhà thờ Matthias bởi Buda Castle theo hình thức sáu phần. Sau buổi biểu diễn đầu tiên, phần "Ca tiến lễ" Offertory đã được bổ sung, và hai năm sau đó là phần "Ca tiến cấp" Gradual. Liszt được mời trở lại Weimar vào năm 1869 để dạy các lớp bậc thầy trong việc chơi piano. Hai năm sau, ông được yêu cầu dạy tương tự tại Budapest tại Học viện Âm nhạc Hung-ga-ri. Từ đó cho tới khi kết thúc cuộc đời, ông đã thực hiện những chuyến đi thường xuyên giữa 3 thành phố Rome, Weimar và Budapest, tiếp tục cái mà ông gọi là "vie trifurquée" hoặc cuộc-sống-chia-ba. Người ta ước tính rằng Liszt đi ít nhất 4.000 dặm một năm trong giai đoạn này trong cuộc sống - một thành tích đáng nể vì tuổi giả của ông và sự khắc nghiệt của đường bộ và đường sắt trong những năm 1870. Nhạc viện Hoàng gia Budapest Từ đầu thập niên 1860 đã có những nỗ lực để có được một chỗ đứng cho Liszt ở Hungary. Vào năm 1871, Thủ tướng Hungary Gyula Andrássy đã viết một kiến nghị vào ngày 4 tháng 6 năm 1871 đệ lên nhà vua Hungary (Hoàng đế Áo Franz Joseph I), yêu cầu một khoản trợ cấp hàng năm là 4.000 Gulden và phong chức "Nghị sĩ Hoàng gia" "Königlicher Rat" dành cho Liszt, người sẽ quay ở lại vĩnh viễn ở Budapest, chỉ đạo dàn nhạc của Nhà hát Quốc gia cũng như các học viện Âm nhạc Kế hoạch thành lập Học viện Hoàng gia đã được Nghị viện Hungary thông qua vào năm 1872. Tháng 3 năm 1875 Liszt được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng. Học viện chính thức khai giảng vào ngày 14 tháng 11 năm 1875 cùng với đồng nghiệp của Liszt là Ferenc Erkel làm quản lý, Kornél Ábrányi và Robert Volkmann. Liszt đích thân đến vào tháng 3 năm 1876 để giảng một số bài học và tổ chức buổi hòa nhạc từ thiện. Mặc dù Liszt đã được chỉ định là "Königlicher Rat", nhưng ông cũng không chỉ huy dàn nhạc của Nhà hát Quốc gia và thực ra cũng không định cư lâu dài ở Hungary. Thông thường, ông sẽ đến vào giữa mùa đông ở Budapest. Sau khi một hoặc hai buổi hòa nhạc biểu diễn bởi sinh viên của mình vào đầu mùa xuân, ông rời đi. Ông không bao giờ tham gia vào các kỳ thi cuối cùng, được tổ chức vào mùa hè mỗi năm. Một số sinh viên tham gia các bài học mà Liszt đã giảng vào mùa hè ở Weimar. Năm 1873, nhân dịp kỷ niệm 50 năm hoạt động nghệ thuật của Liszt, thành phố Budapest đã quyết định thành lập một "Franz Liszt Stiftung" (Quỹ Franz Liszt), trợ cấp 200 Gulden cho ba sinh viên của Học viện đã có những màn biểu diễn xuất sắc dành cho âm nhạc Hungary. Chỉ có Liszt quyết định trao các khoản trợ cấp này. Một thói quen của Liszt là tuyên bố tất cả các sinh viên tham gia các bài học của mình như là sinh viên tư của riêng ông. Do đó, hầu như không ai trong số họ trả bất kỳ khoản học phí cho Học viện. Một sắc lệnh của bộ trưởng ngày 13 tháng 2 năm 1884 đã quy định rằng tất cả những người tham gia vào bài học của Liszt đều phải trả một khoản phí hàng năm là 30 Gulden. Thực ra, chính Học viện mới là lãi nhất, vì Liszt luôn dành tặng khoản thu này các công việc từ thiện. Những năm cuối đời Liszt ngã xuống cầu thang một khách sạn ở Weimar vào ngày 2 tháng 7 năm 1881. Mặc dù bạn bè và đồng nghiệp đã nhận thấy sưng chân và chân khi Liszt đến Weimar tháng trước (một dấu hiệu của suy tim và sung huyết có thể xảy ra), ông vẫn có sức khoẻ khá tốt trước thời điểm đó và vẫn sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, Liszt bị liệt toàn thân tám tuần sau khi tai nạn và không bao giờ hồi phục hoàn toàn các chấn thương. Lúc này, bệnh tật của ông cũng bắt đầu "lộ nguyên hình" - chứng phù nề, hen suyễn, mất ngủ, đục thủy tinh thể mắt trái và bệnh tim - những thứ đã góp phần vào cái chết của Liszt. Ông ngày càng trở nên ám ảnh bởi cảm giác hoang vu, tuyệt vọng và lo lắng về cái chết - có thể đang đến, các tác phẩm của ông thời kỳ này phản ánh rất rõ những cảm xúc rối loạn (có thể kể đến như Csardas Macebre). Ông đã nói với Lina Ramann - người viết tiểu sử của ông: "Tôi mang một nỗi buồn sâu sắc của trái tim, thứ mà nhất định sẽ vỡ thành các âm thanh." Franz Liszt mất ngày 31 tháng 7 năm 1886 do biến chứng nặng nề của viêm phổi, thọ 75 tuổi. Cái chết của Liszt đã để lại niềm thương tiếc rất lớn đối với toàn bộ nghệ sĩ piano trên toàn thế giới. Phong cách sáng tác & những tác phẩm tiêu biểu Franz Liszt là một tài năng hiếm có trong lịch sử nhân loại. Các tác phẩm của ông có nhiều nét khác biệt qua từng giai đoạn của cuộc đời: - Những tác phẩm được viết khi Liszt còn nhỏ thường có giai điệu nhẹ nhàng, chịu ảnh hưởng khá lớn từ các nhạc sĩ đi trước, tiêu biểu như bộ đôi Rondo và Allergo di Bravura, Etudes Op.6,... - Những tác phẩm của Liszt khi ông đang là một nghệ sĩ biểu diễn thường vô cùng khó, gồm các quãng tám liên tục, các trill và tremolo, những bước nhảy xa giữa các phím, kết hợp với hiệu ứng ba tay (gồm các arpeggio chơi liên tục khiến người nghe tưởng rằng có đến 3 tay đang chơi đàn). Ông cũng chuyển soạn nhiều tác phẩm cho dàn nhạc sang piano và tự viết lên những khúc Fantasies, Reminiscences trên giai điệu chính (theme) của tác phẩm đó. Tiêu biểu là Reminiscences de Norma từ opera của Bellini, Reminiscences de Don Juan từ "Don Giovanni" của Mozart, Waltz trên chủ đề từ vở opera "Faust" của Gounod,... - Các tác phẩm được viết sau khi ông từ bỏ danh hiệu "nghệ sĩ hòa nhạc" thường có cấu trúc đồ sộ, truyền cảm hứng cho thế hệ sau như Debussy, Tchaikovsky,... Tuy vậy, các tác phẩm lúc cuối đời của ông thường mang sắc thái buồn, ghê rợn, liên tưởng đến cái chết, Có thể kể đến như 19 bản Hungarian Rhapsody, Điệu nhảy tử thần "Totentanz", 2 vở giao hưởng lớn "Dante" và "Faust" cùng 12 bản giao hưởng thơ, các điệu Csardas, các bài hợp xướng, thánh ca,... Franz Liszt đã sáng tác hơn 700 tác phẩm trong suốt cuộc đời của ông. Ông được đánh giá là một trong những nghệ sĩ lớn nhất mọi thời đại. Nhạc cụ Franz Liszt được biết đã sử dụng đàn piano Boisselot trong chuyến lưu diễn ở Bồ Đào Nha của mình và sau đó vào năm 1847 ở Kiev và Odessa. Liszt đã giữ chiếc đàn Boisselot của mình tại dinh thự Villa Altenburg của ông ở Weimar. Liszt bày tỏ sự tôn sùng của mình đối với nhạc cụ này trong lá thư gửi Xavier Boisselot vào năm 1862: “Mặc dù các phím đàn gần như mòn qua các cuộc chiến âm nhạc của quá khứ, hiện tại và tương lai, tôi sẽ không bao giờ đồng ý thay đổi nó, và đã quyết tâm giữ nó cho đến cuối đời, như là một cộng sự được tôi ưu ái ”. Nhạc cụ này hiện không ở trong tình trạng có thể chơi được. Vào năm 2011, theo đơn đặt hàng của Klassik Stiftung Weimar, nhà chế tác piano đương thời Paul McNulty đã tạo ra một bản sao của cây đàn piano Boisselot này, hiện đang được trưng bày bên cạnh các nhạc cụ của Liszt. Trong số những cây đàn piano của Liszt ở Weimar còn có đàn Erard, “piano-organ” của Alexandre, piano Bechstein và đàn Broadwood của Beethoven. Chú thích
Trường Lê Hồng Phong có thể chỉ: Trung học Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong tại thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Trường Trung học phổ thông Lê Hồng Phong tại thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trường THPT Lê Hồng Phong tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Trường Trung học phổ thông Lê Hồng Phong tại thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trường THPT & THCS Lê Hồng Phong tại huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Trường THCS & THPT Lê Hồng Phong tại thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Trường THPT Lê Hồng Phong tại Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Trường THPT Lê Hồng Phong tại thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang. Trường THPT Lê Hồng Phong tại quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Trường THPT Lê Hồng Phong tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trường THPT Lê Hồng Phong tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai. Trường THPT Lê Hồng Phong tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lăk Trường THCS Lê Hồng Phong tại thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái Trường THCS Lê Hồng Phong tại thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Khác Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong (Trường Đảng Lê Hồng Phong) ở Hà Nội.
Cuộc thi sắc đẹp là cuộc thi mang tính truyền thống tập trung vào việc đánh giá và xếp hạng các chỉ số hình thể của các thí sinh. Các cuộc thi hiện nay đã phát triển để bao gồm vẻ đẹp bên trong, với các tiêu chí bao gồm đánh giá về nhân cách, trí thông minh, tài năng, tính cách và việc tham gia từ thiện, thông qua các cuộc phỏng vấn riêng với giám khảo và trả lời các câu hỏi công khai trên sân khấu. Thuật ngữ cuộc thi sắc đẹp ban đầu dùng để chỉ Tứ đại Hoa hậu (Big Four). Cuộc thi sắc đẹp bao gồm các cuộc thi dành cho nữ (với các danh hiệu Hoa hậu, Á hậu, Hoa khôi, Á khôi, Nữ hoàng, Á hoàng, Người đẹp) và dành cho nam (với các danh hiệu Nam vương, Hoa vương, Á vương, Quý ông); ngoài ra còn có các cuộc thi dành cho các đối tượng khác như phụ nữ đã lập gia đình (Hoa hậu Quý bà, Hoa hậu Doanh nhân...), thanh thiếu niên (Nam vương Thiếu niên, Hoa hậu Thiếu niên, Hoa hậu Tuổi teen hay Miss Teen) hay dành cho người thuộc cộng đồng LGBT (Hoa hậu chuyển giới, Nam vương chuyển giới, Hoa hậu Bình đẳng...). Hàng năm, có tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn cuộc thi sắc đẹp diễn ra trên khắp thế giới. Tuy nhiên, hiện có bốn cuộc thi sắc đẹp được xem là có quy mô và uy tín nhất hay Tứ đại Hoa hậu (Big Four): Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Trái Đất. Người chiến thắng của mỗi cuộc thi sắc đẹp sẽ nhận được vương miện, băng gôn, hoa, cúp, tiền thưởng, các hiện vật có giá trị tinh thần và kỷ niệm. Đến đầu thế kỷ 21, mức độ quan tâm đến các cuộc thi sắc đẹp tại Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á đã suy giảm nhanh chóng, nguyên nhân xuất phát từ những chỉ trích về những điều bị cho là "hữu danh vô thực" mà các cuộc thi này mang lại, sự phê phán việc đánh giá chấm điểm cơ thể người phụ nữ, đồng thời do những hoạt động giải trí tại các quốc gia này đã trở nên phát triển hơn thời kỳ trước. Điều này khiến làn sóng phản đối các cuộc thi sắc đẹp ở các quốc gia này ngày càng lớn. Trái lại, những quốc gia Nam Mỹ và Đông Nam Á vẫn tiếp tục tích cực tổ chức các cuộc thi hoa hậu, việc này được cho là đáp ứng ham muốn dùng sắc đẹp để đổi lấy sự giàu sang, tâm lý thích "hư danh" của công chúng. Lịch sử Những năm đầu Thường niên một số quốc gia tại châu Âu từ thời Trung Cổ đã bắt đầu có các cuộc thi sắc đẹp, điển hình là vào ngày 1 tháng 5 tại nước Anh họ đã tổ chức một cuộc thi gọi là Nữ hoàng tháng Năm. Đối với một số quốc gia châu lục khác, như nước Mỹ. Doanh nhân Phineas Taylor Barnum đã tổ chức cuộc thi hoa hậu Mỹ hiện đại đầu tiên vào năm 1854, nhưng cuộc thi sắc đẹp của ông đã bị đóng cửa sau sự phản đối của công chúng. Đối với Việt Nam thì có cuộc thi tuyển chọn "nữ tú". Cuộc thi cấp quốc gia Một cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia chính thức và được ghi nhận lại là tại Spa, Bỉ. Các cuộc thi như thế này bắt đầu phổ biến vào những năm 1880 đến năm 1888, cục diện của các cuộc thi sắc đẹp cấp quốc gia như thế này bắt đầu thay đổi khi Mỹ tổ chức cuộc thi "Miss America" vào năm 1921. Cuộc thi "Miss America" thành lập năm 1921 tại thành phố Atlantic, New Jersey và vẫn hoạt động lâu dài sau đó đã trở thành bước tiến cho các cuộc thi cấp quốc gia khác. Cuộc thi cấp quốc tế Cuộc thi săc đẹp cấp quốc tế đầu tiên là cuộc thi International Pageant of Pulchritude, do CE Barfield thành có trụ sở chính thức tại Galveston, Texas. Cuộc thi bắt đầu từ năm 1926 và là hình mẫu của các cuộc thi sắc đẹp hiện đại. Sau thế chiến thứ 2 Sự nổi tiếng của cuộc thi Hoa hậu Mỹ (Miss America) đã thúc đẩy các tổ chức khác thành lập các cuộc thi tương tự vào những năm 1950 và hơn thế nữa. Một số là quan trọng trong khi những người khác là tầm thường, chẳng hạn như cuộc thi Reina. Cuộc thi Hoa hậu Thế giới bắt đầu từ năm 1951, Hoa hậu Hoàn vũ bắt đầu từ năm 1952 cũng như cuộc thi tìm kiếm đại diện cho Mỹ tại cuộc thi này là Hoa hậu Mỹ (Miss USA). Hoa hậu Quốc tế bắt đầu từ năm 1960. Hoa hậu Châu Á Thái Bình Dương Quốc tế bắt đầu từ năm 1968 là cuộc thi sắc đẹp đầu tiên và lâu đời nhất ở Châu Á. The Miss Black America contest started in 1968 Cuộc thi Hoa hậu Mỹ da đen bắt đầu vào năm 1968 để đáp lại việc loại phụ nữ Mỹ gốc Phi khỏi cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ bắt đầu tổ chức Hoa hậu Tuổi Teen Mỹ (Miss Teen USA) vào năm 1983 dành cho nhóm tuổi 14-19. Hoa hậu Trái Đất bắt đầu vào năm 2001, kênh truyền hình của các cuộc thi sắc đẹp như một công cụ hữu hiệu để tích cực thúc đẩy việc bảo tồn môi trường. Những cuộc thi này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Chỉ trích Phần thi áo tắm Yêu cầu thí sinh mặc áo tắm là một khía cạnh gây tranh cãi trong các cuộc thi khác nhau. Tranh cãi càng dâng cao khi bikini ngày càng phổ biến sau khi được giới thiệu vào năm 1946. Trang phục bikini bị cấm tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ năm 1947 vì những người phản đối Công giáo La Mã. Khi cuộc thi Hoa hậu Thế giới bắt đầu vào năm 1951, đã có một làn sóng phản đối kịch liệt khi người chiến thắng đăng quang trong trang phục bikini. Giáo hoàng Pius XII lên án việc trình diễn trang phụ hở hang như bikini là một tội lỗi rất nghiêm trọng và là sự hủy hoại các giá trị đạo đức Ki-tô giáo, và các quốc gia có truyền thống tôn giáo đe dọa rút các đại diện. Bộ bikini đã bị cấm cho các cuộc thi trong tương lai và các cuộc thi khác. Mãi cho đến cuối những năm 1990, chúng mới được phép trở lại, nhưng vẫn gây ra tranh cãi khi các trận chung kết được tổ chức ở những quốc gia mà bikini (hay đồ bơi nói chung) bị xã hội phản đối. Ví dụ, vào năm 2003, Vida Samadzai đến từ Afghanistan đã gây náo động ở quê nhà khi cô tham gia cuộc thi Hoa hậu Trái Đất trong bộ bikini màu đỏ. Cô bị Tòa án Tối cao Afghanistan lên án, cho rằng việc phô bày cơ thể phụ nữ như vậy là vi phạm luật Hồi giáo và văn hóa Afghanistan. Năm 2012, ban tổ chức cuộc thi Hoa hậu Italia thông báo cấm thí sinh mặc bikini dự thi. Họ chỉ chấp nhận những bộ áo tắm một mảnh hoặc áo tắm kiểu cổ điển, kín đáo như ở thập niên 1950. Patrizia Mirigliani - nhà tổ chức Miss Italia - cho hay quyết định này nằm trong nỗ lực nhằm đưa cuộc thi về với "vẻ đẹp cổ điển". Việc loại bỏ bikini cũng đồng thời mang lại "yếu tố tao nhã" cho sàn đấu sắc đẹp này. Năm 2013, vòng thi áo tắm của cuộc thi Hoa hậu Thế giới đã phải chuyển thành trang phục đi biển sarong vì các cuộc biểu tình của người Hồi giáo ở Bali (Indonesia), nơi diễn ra cuộc thi. Năm 2015, cuộc thi Hoa hậu Thế giới đã chính thức loại bỏ phần thi áo tắm khỏi cuộc thi của mình. Năm 2016, Hoa hậu Tuổi Teen Mỹ (Miss Teen USA) chuyển phần thi áo tắm thành phần thi trang phục thể thao. Năm 2018, Hoa hậu Mỹ (Miss America) loại bỏ phần thi áo tắm sau 97 năm. Năm 2019, lần đầu tiên cuộc thi Hoa hậu Venezuela sẽ không công bố số đo 3 vòng (vòng ngực, vòng eo, vòng hông) của 24 thí sinh tham dự nữa, dù đây là quốc gia nổi tiếng về thi hoa hậu. Quyết định này được đưa ra do các cuộc thi nhan sắc đang đối mặt với những chỉ trích của công luận vì quá chú trọng tới vẻ đẹp hình thể. Cô Gabriela Isler, người phát ngôn của cuộc thi Hoa hậu Venezuela và cũng là Hoa hậu Hoàn vũ 2013, nói: "Vẻ đẹp của một phụ nữ không phải là 90, 60, 90… Nó được đo bằng tài năng của mỗi người" Năm 2017, Carousel Productions bị chỉ trích vì tổ chức phần thi phản cảm với phụ nữ trong cuộc thi Hoa hậu Trái Đất 2017, nơi các thí sinh mặc đồ bơi trong sự kiện với tấm màn che mặt trong Người đẹp Hình thể, một phân đoạn được giới thiệu lần đầu tiên trong cuộc thi Hoa hậu Trái Đất Philippines 2017. Các tổ chức đấu tranh vì quyền phụ nữ trên thế giới đã phê phán phần thi bikini trong các cuộc thi sắc đẹp, vì ở đó công chúng thoải mái buông ra những lời nhận xét khiếm nhã (dù vô tình hay cố tình) có thể làm tổn thương phụ nữ. Màn thi bikini đã trực tiếp cổ vũ tâm lý coi cơ thể phụ nữ là vật trưng bày mua vui, hạ thấp nhân phẩm phụ nữ, nhiều cô gái tham dự đã trở thành đối tượng bị chê bai, xúc phạm nặng nề chỉ vì cơ thể họ có khiếm khuyết Có người đã chỉ ra rằng: nhiều người cổ vũ màn thi bikini vì nó khiến họ có thể được săm xoi cơ thể hở hang của các người đẹp, nhưng "nếu đặt mình vào vị trí phụ huynh hoặc người thân của thí sinh, liệu họ sẽ cảm thấy thế nào khi chứng kiến cô con gái non nớt của mình phô bày thân thể trước hàng triệu người xa lạ như vậy?" Có quan điểm còn cho rằng màn thi bikini là tàn tích xa xưa của việc mua bán nô lệ, tại đó nữ nô lệ bị lột trần trên sân khấu để hàng nghìn người định giá thông qua việc soi xét cơ thể trần trụi của họ. Cuộc đấu tranh lâu dài của các nhóm nữ quyền đã bước đầu có kết quả và làm ban tổ chức các cuộc thi hoa hậu ở các quốc gia khác phải suy nghĩ lại. Đến đầu thập niên 2010, nhiều cuộc thi hoa hậu trên thế giới bắt đầu loại bỏ phần thi trang phục bikini do những chỉ trích về văn hóa và đạo đức. Các cuộc thi này nhận thấy việc buộc thí sinh mặc trang phục bikini diễu qua lại trước đông đảo người xem không phải là "tôn vinh nét đẹp", mà là sự thiếu tôn trọng đối với phụ nữ, đó là một dạng lợi dụng cơ thể hở hang, thiếu vải của phụ nữ để câu khách. Một xã hội văn minh, coi trọng nhân phẩm phụ nữ cần phải chấm dứt những màn thi buộc phụ nữ phải mặc trang phục hở hang, thiếu vải, chịu sự săm xoi của khán giả về những ưu khuyết điểm trên cơ thể họ. Trong xã hội hiện nay, vấn đề bình đẳng giới, quyền phụ nữ ngày càng được coi trọng, nâng cao thì việc thi bikini bị loại bỏ ở các cuộc thi nhan sắc được coi là chuyện sớm muộn sẽ xảy ra. Quyền phụ nữ Các cuộc thi sắc đẹp thường xuyên nhận chỉ trích và cáo buộc củng cố thêm định kiến về ngoại hình của nữ giới, điều này khiến nhiều phụ nữ phải chịu áp lực về tiêu chuẩn cái đẹp mà cuộc thi nhan sắc tạo ra, họ dành nhiều thời gian, tiền bạc cho thời trang, mỹ phẩm, kiểu tóc và thậm chí là cả phẫu thuật thẩm mỹ. Một số phụ nữ ăn kiêng đến mức hại sức khỏe mình để theo chuẩn tiêu chí hình thể đã tồn tại nhiều năm. Mạng lưới Nữ quyền Luân Đôn lập luận rằng thay vì trao quyền, các cuộc thi sắc đẹp lại thể hiện điều ngược lại: khách quan hóa phụ nữ, khiến phụ nữ nghĩ rằng làm đẹp và trở nên hấp dẫn là nghĩa vụ của họ. Việc chấm điểm người phụ nữ bằng những con số, tính toán định lượng cũng nhận về nhiều lời chỉ trích. Sắc đẹp trở thành một hệ số trong việc xếp hạng các thí sinh, và kiểu tính điểm này ngày nay vẫn tồn tại một cách hệ thống ở mọi cuộc thi. Trong một chiều hướng ngược lại, một số nhà nghiên cứu cho rằng việc chấm điểm có thể củng cố các kỹ năng, chẳng hạn như kỹ năng giao tiếp ứng xử, tự tin nói trước đám đông, những điều này hữu ích cho con đường sự nghiệp tương lai. Ngay cả sau khi tiêu chuẩn cái đẹp trở nên đa dạng vào cuối thế kỷ 20, vẫn tồn tại quan niệm sai lầm rằng hình mẫu lý tưởng của vẻ đẹp truyền thống là những người phụ nữ da trắng. Những vụ bê bối Đã có rất nhiều vụ bê bối trong ngành công nghiệp thi sắc đẹp. Những vụ bê bối còn nổi tiếng hơn sau khi các cuộc thi sắc đẹp được công chúng biết đến rộng rãi. Năm 2012, một tờ báo của Nga công bố video việc bà Lorraine Schuck, chủ tịch cuộc thi Hoa hậu Trái Đất thương lượng về việc mua giải với các phóng viên điều tra giả dạng làm khách hàng. Năm 2018, 3 thí sinh của cuộc thi này gồm các hoa hậu đến từ Canada, Anh và Guam đã tố cáo bị một nhà tài trợ quấy rối tình dục nhưng khi thông báo với ban tổ chức, họ không hề nhận được sự giúp đỡ nào. Vào năm 2016, Nawat Itsaragrisil – chủ tịch Hoa hậu Hòa bình Quốc tế – miệt thị ngoại hình đại diện Iceland Arna Ýr Jónsdóttir bằng câu "cô ta quá béo và cần phải giảm cân" trước thềm chung kết cuộc thi được tổ chức tại Las Vegas vào năm 2016. Cuộc thi này cũng gặp phải bê bối về chính trị vào năm 2022, hai thí sinh đại diện cho Nga và Ukraina được tổ chức ghép chung phòng trong bối cảnh xung đột quân sự vẫn đang diễn ra giữa hai nước. Vấn đề này đã gây ra một cuộc thảo luận gây gắt trên mạng xã hội vì tình hình chính trị căng thẳng giữa hai quốc gia này. Các cuộc thi sắc đẹp quốc tế lớn Thuật ngữ "cuộc thi sắc đẹp" phần lớn đề cập đến các cuộc thi dành cho phụ nữ. Các cuộc thi quốc tế lớn dành cho phụ nữ bao gồm cuộc thi Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Quốc tế ,Hoa hậu Trái Đất.Đây được coi là cuộc thi Big 4, bốn cuộc thi sắc đẹp quốc tế lớn nhất và nổi tiếng nhất dành cho phụ nữ độc thân hoặc chưa kết hôn. Các vụ truất ngôi Tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới có 3 lần truất ngôi: Năm 1973, Marjorie Wallace đến từ Hoa Kỳ, người đã đăng quang Hoa hậu Thế giới và từng tuyên bố rằng "với tư cách là Hoa hậu Thế giới, tôi có thể được hẹn hò với bất kỳ người đàn ông nào mà tôi chọn", sau đó cô đã hẹn hò với một loạt người nổi tiếng trong đó có George Best. Cô bị truất ngôi ba tháng sau khi đăng quang. Sau khi đăng quang Hoa hậu Wales và sau đó là Hoa hậu Vương quốc Anh, Helen Morgan đã tranh tài và đoạt giải Hoa hậu Thế giới 1974. Tuy nhiên cô bị phát hiện đã làm mẹ và bị nêu tên trong một vụ ly hôn. Điều này dẫn đến việc cô phải từ bỏ ngôi vị sau khi đăng quang 4 ngày. Cô được thay thế bởi Á hậu 1 đến từ Nam Phi, Anneline Kriel. Gabriella Brum đến từ Tây Đức có thời gian đương nhiệm ngắn nhất trong lịch sử Hoa hậu Thế giới khi cô từ chức 18 giờ sau khi đăng quang Hoa hậu Thế giới 1980. Cô cho biết rằng bạn trai của cô không đồng ý cuộc thi, nhưng sau đó người ta tiết lộ rằng cô đã chụp ảnh khỏa thân; sau đó cô chuyển đến Hoa Kỳ và làm người mẫu khỏa thân cho Playboy. Á hậu 1 Kimberley Santos của đảo Guam thay thế Brum. Tại Hoa hậu Hoàn vũ, Oxana Fedorova của Nga đã đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 2002 và bị truất ngôi 4 tháng sau đó vì không thể hoàn thành nghĩa vụ của mình. Cô là người đầu tiên bị truất ngôi trong lịch sử Hoa hậu Hoàn vũ. Cô được thay thế bởi Á hậu 1 Justine Pasek của Panama. Trong những năm đầu tiên, có hai trường hợp đương kim Hoa hậu Hoàn vũ chọn từ chức: Armi Kuusela, Hoa hậu Hoàn vũ 1952 đến từ Phần Lan,. người từng là người chiến thắng Hoa hậu Hoàn vũ đầu tiên đã từ bỏ vương miện của mình trong vòng chưa đầy một năm để kết hôn với doanh nhân người Philippines Virgilio Hilario trong khi Amparo Muñoz, Hoa hậu Hoàn vũ 1974 của Tây Ban Nha từ chối đến Nhật Bản và thay vào đó từ chức sau sáu tháng. Tuy nhiên, vì cuộc thi hoa hậu không có quy định cụ thể nào về việc từ chức vào thời điểm đó, họ được phép giữ danh hiệu của mình. Trong cuộc thi Hoa hậu Trái đất, người chiến thắng năm 2002, Dzejla Glavovic của Bosnia và Herzegovina đã bị truất ngôi vương miện 6 tháng sau khi cô ấy không xuất hiện tại một số sự kiện về môi trường. Theo Carousel Productions, nhà tổ chức cuộc thi Hoa hậu Trái đất, Glavovic đã bị truất ngôi vì "không thể hoàn thành nghĩa vụ và trách nhiệm với tư cách là người có danh hiệu Hoa hậu Trái Đất, theo các quy tắc và quy định của Hoa hậu cũng như hợp đồng mà cô ấy đã ký." Á hậu 1 Winfred Omwakwe của Kenya vào ngôi Hoa hậu Trái Đất 2002. Tại Hoa hậu Quốc tế, Ikumi Yoshimatsu, Hoa hậu Quốc tế 2012 là người giành được danh hiệu đầu tiên của cuộc thi đến từ Nhật Bản bị truất ngôi ngay trước khi kết thúc thời gian nhiệm kỳ của cô. Tại Việt Nam nhỏ|Hoa hậu Việt Nam là cuộc thi sắc đẹp lâu đời nhất còn tồn tại ở Việt Nam Năm 2022, tại Việt Nam có tới 25 cuộc thi sắc đẹp được tổ chức. Trong số đó, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội cho rằng ba cuộc thi hoa hậu uy tín và có thương hiệu, được công chúng biết đến rộng rãi là Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam và Hoa hậu Thế giới Việt Nam. Tranh cãi Trước kia, Việt Nam chỉ có khoảng 1-2 cuộc thi hoa hậu mỗi năm. Nhưng kể từ năm 2012, rất nhiều cuộc thi hoa hậu, hoa khôi khác có nội dung và hình thức tương tự cũng được cấp phép tổ chức ở Việt Nam (từ cấp quốc gia đến cấp tỉnh/thành phố) với rất nhiều người đạt danh hiệu "hoa hậu, hoa khôi, người đẹp"... khiến việc thi Hoa hậu tại Việt Nam trở nên "bát nháo, loạn danh hiệu" và giảm hẳn sức hút. Công chúng trở nên nhàm chán và "bội thực" vì có quá nhiều cuộc thi hoa hậu được tổ chức (Hoa hậu Thế giới Việt Nam, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam, Hoa hậu Biển Việt Nam, Hoa hậu Đại Dương Việt Nam, Hoa hậu Bản sắc Việt Toàn cầu, Hoa hậu các dân tộc Việt Nam, Hoa hậu Trái Đất Việt Nam, Hoa hậu Du lịch Việt Nam, Hoa hậu Hòa bình Việt Nam...), đó là chưa kể hàng loạt các cuộc thi người đẹp cấp tỉnh/khu vực cũng ngày càng xuất hiện tràn lan. Trước kia Việt Nam chỉ cho phép tổ chức tối đa 2 cuộc thi hoa hậu cấp quốc gia mỗi năm, nhưng Nghị định 144/2020 về biểu diễn nghệ thuật năm 2020 đã bãi bỏ quy định về giới hạn số lượng cuộc thi Hoa hậu. Việc buông lỏng quy định pháp luật đã dẫn tới tình trạng "bát nháo thi hoa hậu" khi mỗi năm có tới 5-6 cuộc thi hoa hậu cấp quốc gia được tổ chức, cuộc thi nào cũng tuyên bố mình là "cuộc thi sắc đẹp đại diện cho phụ nữ Việt Nam". Riêng trong năm 2022, đã có tới 25 cuộc thi sắc đẹp được tổ chức ở Việt Nam với đủ các tên gọi. Vì cấp phép tổ chức quá tràn lan nên dẫn tới tình trạng "loạn danh hiệu", "lạm phát hoa hậu", quá nhiều người đạt danh hiệu "hoa hậu, hoa khôi" đã khiến danh hiệu này bị "mất giá", ngày càng bị công chúng coi thường Việc tổ chức quá nhiều các cuộc thi Hoa hậu khiến công chúng chẳng còn nhớ nổi mặt mũi hoa hậu, đăng quang năm nào, ở cuộc thi nào, và cũng chẳng biết ai mới là hoa hậu đại diện cho phụ nữ Việt Nam Cũng vì có quá nhiều cuộc thi được tổ chức nên tất yếu diễn ra tình trạng "thương mại hóa", mục đích thi hoa hậu bị biến tướng, trở nên phản văn hóa và phản giáo dục. Các cuộc thi hoa hậu đã không còn là sân chơi văn hóa như trước kia nữa mà đã biến tướng thành hoạt động giải trí mang tính trục lợi, chỉ cốt để ban tổ chức kiếm tiền. Có những cuộc thi hoa hậu còn dùng chiêu trò vô văn hóa, "truyền thông bẩn" như cố ý tạo scandal để công chúng chú ý đến cuộc thi. Các thí sinh thì bí mật "đấu đá" lẫn nhau, mua bán danh hiệu để lăng-xê tên tuổi hòng mưu lợi cá nhân. Các Hoa hậu sau cuộc thi hầu hết không có đóng góp gì cho xã hội, họ thường chỉ xuất hiện khi đi sự kiện quảng cáo kiếm tiền hoặc khi vướng phải những tai tiếng đời tư, rồi có những thông điệp lệch lạc kiểu "chỉ cần đẹp là sẽ có cuộc sống sung túc". Ngoài ra, việc một số thí sinh Á hậu, Hoa hậu bị phát hiện là gái bán dâm cao cấp đã khiến các cuộc thi hoa hậu chịu nhiều tai tiếng. Các cuộc thi hoa hậu giờ đây bị dư luận coi là nơi trá hình cho việc "tuyển gái gọi, vợ bé cho đại gia", khuyến khích phụ nữ ăn mặc hở hang để kiếm tìm danh lợi, gây tác hại cho việc giáo dục thanh niên chứ không có ích lợi gì cho xã hội Đặc biệt, từ đầu năm 2021, Nghị định 144/2020 về biểu diễn nghệ thuật của Chính phủ đã bãi bỏ quy định quan trọng là "thí sinh thi hoa hậu phải có vẻ đẹp tự nhiên". Sự thay đổi này là một sai lầm nghiêm trọng, khiến cho những cuộc thi sắc đẹp "đã loạn lại càng thêm loạn", trước kia là "loạn danh hiệu", nay lại có cả "loạn giới tính thí sinh", "loạn nhan sắc thật - giả". Không còn quy định pháp luật kiểm soát, nhiều cuộc thi sắc đẹp tại Việt Nam đã cố ý buông lỏng tiêu chuẩn lựa chọn thí sinh (trước kia thí sinh phải có vẻ đẹp tự nhiên mới được thi hoa hậu, nhưng hiện nay thì xuất hiện ngày càng nhiều cuộc thi cho phép thí sinh đã phẫu thuật thẩm mỹ, thậm chí cả người chuyển giới cũng được tham gia), khiến các cuộc thi này mất hoàn toàn sự trung thực và tính công bằng. Bản chất thi hoa hậu ở Việt Nam bị biến tướng nghiêm trọng, trở thành nơi đua tranh của công nghệ phẫu thuật thẩm mỹ, của "ngoại hình nhân tạo, sắc đẹp dối trá" chứ không còn là thi vẻ đẹp tự nhiên đích thực nữa. Thời của những cuộc thi hoa hậu đích thực, "nơi tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên của phụ nữ Việt Nam" đã không còn nữa, thay vào đó là những màn trình diễn "sắc đẹp dao kéo" được tạo ra bởi công nghệ thẩm mỹ. Hệ lụy là sự suy đồi nghiêm trọng về văn hóa và quan niệm thẩm mỹ: vẻ đẹp tự nhiên của phụ nữ Việt Nam ngày càng bị coi thường, trong khi nhan sắc giả tạo thì ngày càng được cổ súy và lạm dụng. Các cuộc thi hoa hậu ngày càng trở nên phản văn hóa, ngày càng giả dối và bất bình đẳng: Thí sinh có thể phẫu thuật thẩm mỹ từ làn da, khuôn mặt, vóc dáng cho tới cả chuyển đổi giới tính… mà vẫn được phép thi hoa hậu, vẫn được dùng "sắc đẹp dối trá" để lừa bịp khán giả. Danh xưng "Hoa hậu", một thời được coi là "đại diện cho vẻ đẹp tự nhiên của phụ nữ Việt Nam", thì nay đã biến tướng thành "sản phẩm của công nghệ làm giả nhan sắc", bị công chúng dè bỉu. Một hệ lụy phản giáo dục đau lòng khác là sự cổ xúy nhiều thiếu nữ đua nhau đi phẫu thuật thẩm mỹ để tham gia thi hoa hậu, không còn biết trân trọng ngoại hình do cha mẹ sinh thành. Quy định pháp luật sai lầm, quản lý văn hóa yếu kém chính là nguyên nhân khiến các cuộc thi hoa hậu ở Việt Nam lâm vào tình trạng "loạn nhan sắc thật - giả, loạn giới tính thí sinh" diễn ra nghiêm trọng như hiện nay Hiện nay Bắc Mỹ, châu Âu và Đông Á Các tổ chức đấu tranh vì quyền bình đẳng phụ nữ trên thế giới cũng phê phán các cuộc thi sắc đẹp, nơi mà người khác có quyền được buông ra những lời nhận xét (dù vô tình hay cố tình) có thể làm tổn thương đến phụ nữ. Năm 1970, khi cuộc thi Hoa hậu Thế giới được tổ chức tại Anh, nhiều tổ chức bảo vệ nữ quyền đã tổ chức biểu tình, giơ những biểu ngữ như "Phụ nữ cũng là con người", "Chấm dứt trưng bày cơ thể phụ nữ"... khiến các kênh truyền hình Anh phải từ chối phát sóng cuộc thi. Trong cuộc thi Hoa hậu Ukraine 2017, một nhóm ủng hộ nữ quyền đã lao lên sân khấu để phản đối vì cho rằng các cuộc thi hoa hậu đã biến người phụ nữ thành vật trưng bày, hạ thấp phẩm giá người phụ nữ. Các cuộc thi hoa hậu đang ngày càng bị công chúng xem thường vì đã bị thương mại hóa, những "ông bầu" tổ chức thi hoa hậu chỉ để bán danh hiệu thu tiền, hoặc "tuyển đào cho đại gia", nhiều thí sinh tham dự đã bị xúc phạm phẩm giá nặng nề. Hoa hậu Thế giới 2015, Mireia Lalaguna, khi trở về Tây Ban Nha sau đăng quang đã chẳng có khán giả nào đến sân bay để chào đón. Tại Hoa Kỳ, số người xem tivi tường thuật các cuộc thi Hoa hậu đã giảm mạnh, năm 2006 chỉ còn bằng 1/3 so với năm 1980. Tại Mỹ và châu Âu, công chúng tại những nước này đã không còn quan tâm đến các cuộc thi nhan sắc. Hoa hậu Hoàn vũ từng đạt rating 7,7 triệu người xem tại Mỹ năm 2014, nhưng đến năm 2019 đã sụt xuống 3,8 triệu và đến năm 2021, rating chỉ còn 2,7 triệu người xem. Hoa hậu Thế giới ngày nay đã không còn được truyền hình trực tiếp tại Anh, đất nước khai sinh ra cuộc thi. Trong một bài khảo sát đăng tải trên The Guardian, nhiều người Anh còn không biết đến sự tồn tại của cuộc thi này. Tại Trung Quốc, cuối thập niên 1990 là giai đoạn các cuộc thi hoa hậu bùng nổ, việc xem thi hoa hậu cũng là niềm đam mê của nhiều khán giả. Tuy nhiên hiện tại, các cuộc thi nhan sắc phải xếp sau các sự kiện âm nhạc, điện ảnh, thông tin giải trí… Hoa hậu Hồng Kông từng là một cuộc thi nhan sắc có tiếng tại châu Á trong thập niên 1990, tuy nhiên hiện nay chất lượng thí sinh đã giảm sút nghiêm trọng. Trương Chí An - giáo sư tại khoa Báo chí, Đại học Phúc Đán đã tuyên bố: “Hoa hậu ngày nay vừa đăng quang đã hết thời”. Những năm trở lại đây, những cô gái Trung Quốc xinh đẹp, tài năng đã không còn mặn mà với các đấu trường nhan sắc Ở Hàn Quốc, chuyên gia vũ đạo Lee Myeong Seok - người nhiều năm là tổng đạo diễn đêm chung kết các cuộc thi hoa hậu - cho biết vài năm gần đây, các cuộc thi người đẹp ở Hàn Quốc ngày một suy giảm, chẳng mấy ai nhớ được tên 2 hoa hậu Hàn Quốc đăng quang gần nhất. Nguyên nhân vì nhiều cuộc thi vướng bê bối mua giải, thí sinh ăn mặc phản cảm. Một phần nguyên nhân khác là quan niệm văn hóa của công chúng đã nâng lên, họ nhận ra các cuộc thi người đẹp chỉ là một hình thức kinh doanh lợi dụng thân thể, nhan sắc của người phụ nữ chứ không mang ý nghĩa tốt đẹp gì. Pháp Dù Pháp là một quốc gia thuộc châu Âu, nhưng cuộc thi Hoa hậu Pháp vẫn là một trong những sự kiện giành được sự quan tâm bậc nhất tại đây. Lượng khán giả theo dõi đạt đỉnh vào năm 2021 với số lượng người xem trực tiếp là 10,4 triệu. Giải thích cho sự thành công này, theo giáo sư đại học Paris III François Jost, điều đó nằm ở xuất thân của những cô hoa hậu. Họ thường đến từ những vùng tỉnh lẻ, gia cảnh khiêm tốn, không phải diễn viên, người nổi tiếng hay quý tộc. Ở họ toát lên sự chân thực, mộc mạc và năng lượng tích cực mà người dân tìm kiếm. Từ đó truyền đi một thông điệp ý nghĩa với nhiều người Pháp: Sinh ra mà không ngậm thìa bạc? Chẳng sao hết, bạn vẫn có có thể tỏa sáng. Tuy vậy, cuộc thi cũng vấp phải nhiều làn sóng phản đối khác nhau. Mỗi khi Hoa hậu Pháp kết thúc, báo chí lớn của Pháp tràn ngập hình ảnh ca ngợi cuộc thi. Họ đăng tải bộ sưu tập hình ảnh những thí sinh mặc áo tắm, nụ cười rạng rỡ. Và mọi người có thể truy cập, xem thông tin của các thí sinh cũng như bình phẩm về họ. Hành động này bị chỉ trích là “vật thể hóa” (objectification) phụ nữ, tức là coi nhẹ cơ thể phụ nữ và đối xử với họ như một loại hàng hóa có thể trao đổi. Vật thể hóa phụ nữ đồng thời làm gia tăng tình trạng bạo hành và quấy rối tình dục. Nhóm phản đối cũng tin rằng những nguyên tắc trong cuộc thi có phần lạc hậu và cản trở phong trào giải phóng nữ quyền, bởi các thí sinh vừa phải phục vụ mục đích kinh tế, vừa phải tuân thủ nhiều “quy tắc thân thể”. Người đứng sau các cuộc thi cũng nhận ra những phản đối ngày một tăng. Vì vậy họ cũng thực hiện nhiều biện pháp để cải tiến cuộc thi cho hợp với xu thế hơn. Năm 2013, Pháp cấm các cuộc thi dành cho người dưới 16 tuổi vì lo ngại sẽ thúc đẩy hành vi khiêu dâm ở tuổi vị thành niên. Đến năm 2015, lần đầu tiên ban tổ chức tổ chức thêm vòng thi trả lời câu hỏi trắc nghiệm về kiến thức tổng quát xoay quanh chủ đề chính trị, văn học hay lịch sử. Động thái này nhằm bác bỏ các cáo buộc cho rằng thí sinh chỉ có vẻ đẹp nhưng không có trí tuệ. Ba năm sau, tại cuộc thi Hoa hậu Pháp 2018, trưởng ban tổ chức Sylvie Tellier thông báo cuộc thi được tổ chức để tôn vinh một chiến dịch chống bạo hành phụ nữ. Nam Mỹ và Đông Nam Á Trên thế giới đầu thế kỷ 21, chỉ còn một số nước chậm phát triển nhưng "cuồng" hoa hậu tại Nam Mỹ và Đông Nam Á như Venezuela, Philippines, Colombia, Việt Nam... là tích cực tổ chức thi hoa hậu nhằm thỏa mãn tâm lý thích dùng sắc đẹp để kiếm danh tiếng hoặc lấy chồng đại gia nhằm đổi đời. Còn ở các nước phát triển, những cuộc thi Hoa hậu chẳng còn được khán giả thế giới chú ý nhiều, đặc biệt là tại các nước phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản... Khi hiểu biết về quyền phụ nữ được nâng cao, người dân các nước này đã nhận ra rằng thi Hoa hậu thực chất là việc hạ thấp phẩm giá phụ nữ, vì các cuộc thi này xem cơ thể phụ nữ giống như vật trưng bày di động để chấm điểm, buộc phụ nữ phải mặc áo tắm trình diễn hở hang chỉ để mọi người bình phẩm, kiếm lợi cho ban tổ chức. Một xã hội văn minh thì sẽ không chấp nhận việc cơ thể người khác (dù xấu hay đẹp) bị đem ra bình phẩm một cách công khai; và một người phụ nữ giàu lòng tự trọng cũng sẽ không dùng cơ thể mình làm vật trưng bày để người khác chấm điểm. Do vậy, những người đẹp ở các nước phát triển không còn muốn thi Hoa hậu nữa, danh hiệu Hoa hậu tại các nước này chỉ còn là "hữu danh vô thực", chẳng có mấy ai quan tâm hoặc nhớ đến những người từng đoạt giải
Hàn quốc hay Hàn Quốc có thể là tên gọi của các nước: Hàn Quốc, hay đầy đủ là Đại Hàn Dân Quốc, một nước trên bán đảo Triều Tiên. Nước Hàn, một trong bảy nước thời Chiến Quốc (Trung Quốc).
Cho hai không gian tô pô X và Y. Một ánh xạ được gọi là một phép đồng phôi từ X lên Y nếu f là một song ánh đồng thời cả f lẫn ánh xạ ngược là những hàm liên tục. Nếu tồn tại một phép đồng phôi từ X lên Y thì hai không gian này được gọi là hai không gian đồng phôi với nhau. Nếu ta xem một không gian tô pô là một vật thể hình học, thì có thể xem một phép đồng phôi là một phép kéo dài và vặn xoắn liên tục một vật thể để cho ra một hình dạng mới. Cho nên một hình vuông và một hình tròn là đồng phôi với nhau. Cũng như việc biến một cốc cà phê thành một cái vòng như hình bên cạnh. Nhưng một quả cầu và một cái bánh donut thì không đồng phôi với nhau. Phép đồng phôi là cấu xạ của phạm trù các không gian tô pô. Định nghĩa Một ánh xạ giữa hai không gian tô pô được gọi là một phép đồng phôi nếu thỏa mãn các tính chất bên dưới: f là một song ánh f là ánh xạ liên tục ánh xạ ngược là liên tục(f là ánh xạ mở). Nếu tồn tại một ánh xạ f thỏa mãn các tính chất trên thì được gọi là đồng phôi với nhau. Một phép tự đồng phôi là một phép đồng phôi từ một không gian tô pô vào chính nó. Phép đồng phôi hình thành nên một quan hệ tương đương trên lớp các không gian tô pô, lớp tương đương này còn được gọi là những lớp đồng phôi. Ví dụ Ánh xạ đồng nhất id: là một phép đồng phôi. Dưới topo Euclid, với là các số thực bất kỳ sao cho , ta có : Các Khoảng mở và đồng phôi với nhau. Hai khoảng đóng, bị chặn bất kỳ của đường thẳng thực thì đồng phôi với nhau. Các nửa khoảng đồng phôi với nhau. Mặt cầu trong không gian n chiều bỏ đi một điểm thì đồng phôi với cả không gian Phép đồng phôi có thể được chọn như phép chiếu lập thể từ điểm bỏ đi đó. Lưu ý: Với và không đồng phôi với nhau (đây là hệ quả của Định lý bất biến miền). Đường thẳng thực Euclid không đồng phôi với đường tròn đơn vị bởi vì đường tròn đơn vị compắc nhưng đường thẳng thực thì không compắc. Chú ý Tính chất thứ 3, liên tục là điều kiện thiết yếu. Xét ví dụ, cho hàm , với , thì là một song ánh và liên tục nhưng không là đồng phôi ( compắc nhưng không compắc). Phép đồng phôi là một phép đẳng cấu trong phạm trù không gian topo. Như vậy, hợp của hai phép đồng phôi là một phép đồng phôi, và tập tất cả các tự đồng phôi từ tạo thành một nhóm, được gọi là nhóm đồng phôi của , ký hiệu là . Lưu ý: Nếu là phép đồng phôi giữa và thì vừa là ánh xạ đóng vừa là ánh xạ mở, nghĩa là biến tập mở trong thành tập mở trong , biến tập đóng trong thành tập đóng trong . Hơn nữa, nếu là một ánh xạ liên tục, ta có ba điều kiện tương đương sau: là một phép đồng phôi là một song ánh đóng là một song ánh mở Tính chất Hai không giao topo đồng phôi với nhau thì có cùng tính chất topo với nhau. Cho ánh xạ . Với là phép đồng phôi giữa và . Nếu là không gian topo compact thì cũng là không gian topo compact và ngược lại. là không gian topo liên thông thì cũng là không gian topo liên thông và ngược lại. là không gian topo Hausdorff thì cũng là không gian topo Hausdorff và ngược lại. Cho nên không gian R với tô pô chuẩn thì không đồng phôi với không gian R với tô pô phần bù hữu hạn, vì không gian R với tô pô chuẩn là không gian Hausdorff, còn không gian R với tô pô phần bù hữu hạn thì không. Các khái niệm khác Phép nhúng của trong là một ánh xạ: sao cho là phép đồng phôi giữa và không gian con của . Cho là không gian topo.Nếu là một phép nhúng thì ảnh của là một cung trong .Nếu là một phép nhúng thì ảnh của là một đường cong đơn kín đơn giản trong . Ví dụ: những nốt thắt dây là phép nhúng của một vòng tròn vào không gian 3 chiều.
Xem các nghĩa khác tại Con mắt thứ ba (định hướng). Từ xa xưa, người phương Đông cổ đại thường cho rằng, năng lượng được phát ra từ một bộ phận trung tâm của con người và vùng trung tâm đó chính là "con mắt thứ ba". Hình ảnh con mắt thứ ba được thể hiện trên trán của các vị thần trong các tác phẩm điêu khắc cổ đại ở đền chùa Phật giáo. Người ta tin rằng, con mắt nhìn thấu mọi điều đã được Thượng đế ban tặng cho các vị thần để họ có những năng lực siêu phàm nhìn thấu những vật vô hình. Theo đạo Cao Đài, người tu hành khi đoạt được Pháp sẽ có thêm con mắt thứ ba và con mắt này được gọi là Huệ nhãn, sẽ thấy được cõi vô hình. Trong Yoga, việc luyện tập Marantha để có được một vài năng lực tâm linh thần bí như khai sáng được "con mắt thứ ba" mà người khác không có. Người Ấn Độ thường chấm một điểm trên trán giữa hai con mắt để diễn tả con mắt thứ ba, chính là thần nhãn, để thấy được những gì mà hai con mắt trần vẫn nhìn mà không thể thấy được. Nhiều giả thuyết khác lại cho rằng, do từ thời xa xưa, Adam và Eva đã phạm luật thiên đàng nên hạch tuyến Pituitary và Pineal nằm ở khoảng giữa hai con mắt đã dần bị hạn chế khả năng nhìn nhận ánh sáng. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của một số nhà khoa học thì thông thường mỗi sinh vật có một con mắt thứ ba nằm ở trung tâm não có tên là tuyến tùng. Nó cảm nhận giống như một con mắt vì tuyến tùng phản ứng lại với những thay đổi của ánh sáng. Một khám phá gần đây cho thấy mắt thường cũng có thể sản xuất được chất melatonin, làm cho vai trò của tuyến tùng trong con người càng ít quan trọng hơn nữa. Lobsang Rampa, một tăng sĩ nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng đã có viết một quyển sách "Tây Tạng huyền bí" (The Third Eye), trong đó miêu tả chi tiết về cách khai mở con mắt thứ ba, là con mắt trí tuệ, giúp cho hành giả thấy rõ được quá khứ và vị lai. Vị trí của con mắt thứ ba theo cách gọi của tử vi Trung Hoa, được gọi là nơi Ấn đường. Một số thử nghiệm Tiến sĩ Vitaly Pravdivstev đã thực hiện một số thử nghiệm và kết luận rằng, con mắt thứ ba này có thể tìm thấy ở thời kỳ phôi thai và sẽ mất đi khi thai nhi tiếp tục lớn lên. Nó chỉ để lại mấu trên não (epiphysis) ở tuyến yên phía trước tiểu não. Epiphysis có đặc điểm tương tự như mắt, chịu sự điều khiển của tuyến yên và nhãn cầu. Nó cũng có một thủy tinh thể và các chức năng cảm nhận màu sắc giống mắt. Trong quá trình tiến hoá hàng nghìn năm của con người, epiphysis từ kích cỡ bằng quả anh đào đã bị nhỏ đi bằng hạt đậu do thiếu hoạt động. Ở Việt Nam, nhiều cuộc thử nghiệm về đề tài này cũng đã được tiến hành. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đã từng nhắc đến cô gái Việt Nam có khả năng kỳ lạ trên và chương trình "Những chuyện lạ Việt Nam" cũng đã ghi hình và cho phát toàn bộ cuộc thử nghiệm khả năng đặc biệt của cô gái này. Mặc dù 2 mắt bịt kín nhưng cô vẫn đi lại, hoạt động và đọc chính xác sách báo như bình thường.
Khúc Hạo (chữ Hán: 曲顥; 860 - 917) hoặc Khúc Thừa Hạo, được suy tôn là Khúc Trung Chủ, là con của Khúc Thừa Dụ. Quê hương của cha con Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo nay được cho là làng Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Cha của ông là Khúc Thừa Dụ vốn xuất thân từ gia đình hào tộc, nhân nhà Đường loạn, quân đội nhà Đường không thể kiểm soát nước Việt, Khúc Thừa Dụ được dân chúng suy tôn làm chúa và tự xưng là Tiết độ sứ, trực tiếp cai trị nước Việt. Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay làm Tiết độ sứ. Ông đã có vai trò quan trọng trong việc kiến thiết nền móng một nước Việt tự chủ; thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, trung lập khi ở Trung Quốc thời ấy có hai nước là Nam Hán và Hậu Lương. Bối cảnh và nguồn gốc Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền nhà Đường Trung Quốc đô hộ, năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm 866, vua Đường Ý Tông thăng An Nam đô hộ phủ lên thành Tĩnh Hải quân. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại. Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Ở nước Việt, lúc bấy giờ có một người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là một người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người kính phục. Năm 905 Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ Độc Cô Tổn bị triệu về nhà Đường (đời vua Đường Ai Đế) để trị tội, đất Tĩnh Hải quân vô chủ. Khúc Thừa Dụ thừa dịp dẫn quân đánh chiếm thủ phủ Đại La của Tĩnh Hải quân. Năm Bính Dần (906) đời vua Đường Ai Đế, nhân khi trong châu có loạn, dân chúng cử Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ để cai trị Giao Châu. Nhà Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho Khúc Thừa Dụ làm Tĩnh Hải Tiết độ sứ và gia phong Đồng bình Chương sự. Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay, phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải, có ý để lấy lại Giao Châu. Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ được non một năm thì mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo. Theo Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung gọi Khúc Thừa Dụ là Khúc Tiên Chúa, mấy đời là hào tộc mạnh, nhân nhà Đường mất, lòng người yêu mến, suy tôn làm chúa, dựng đô ở La Thành. Khúc Trung Chúa (tức Khúc Hạo) nối cơ nghiệp trước, có phong thái của ông nội. Không rõ Lê Tung viết Khúc Hạo là con hay cháu của Khúc Thừa Dụ. Sự nghiệp Kế tập chức Tiết độ sứ Các sách sử như Đại Việt sử ký toàn thư, An Nam chí lược, Lịch triều hiến chương loại chí... đều chép rất vắn tắt về Khúc Hạo cũng như những việc ông làm. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 907, sau khi nhà Đường mất, nhà Lương lên thay, cho Quảng Châu Tiết độ sứ là Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Khi ấy Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu trị, tự xưng là Tiết độ sứ, có ý mưu đồ lẫn nhau. Khúc Hạo kế nghiệp Khúc Thừa Dụ, đóng đô ở La Thành, vốn là trị sở cũ do nhà Đường xây dựng nên. Sử gia Lê Tung nhận xét rằng Khúc Hạo có phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, đã định ra hộ tịch và các chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất (tức năm 917). Theo Việt Nam sử lược, Khúc Hạo lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con là Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để dò thăm mọi việc hư thực. Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. Theo sách An Nam chí lược, Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tổn: đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất. Cải cách Theo nghiên cứu của một số nhà làm sử hiện đại ở Việt Nam thì Khúc Hạo đã có những cải cách quan trọng. Khúc Hạo đã tiến hành cải cách quan trọng về các mặt. Đường lối chính trị của ông được sử sách tóm lược ngắn gọn song rất rõ ràng: "Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui". Khoan dung tức là không bắt buộc, không quá khắt khe với dân, chống tham quan ô lại. Giản dị là không làm phiền hà, sách nhiễu bởi nhiều thủ tục quan liêu. Yên vui, "an cư lạc nghiệp" là lý tưởng của nếp sống mà người nông dân nơi thôn xóm mong đợi. Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế má lực dịch nặng nề của thời thuộc Đường. Ông ra lệnh "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi." Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với An Nam, nhằm khắc phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng lớn đầu tiên nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất từ trung ương đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau thời thuộc Đường gọi là hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách An Nam chí nguyên, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây nhà Đường đặt, cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp. Ngoại giao Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương Bắc nhiều biến cố nên Hậu Lương Thái Tổ thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907. Nhưng qua năm sau (năm 908), vua Hậu Lương là Hậu Lương Thái Tổ lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ". Điều đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam. Sự cai trị vững vàng của Khúc Hạo ở Tĩnh Hải quân khiến họ Lưu ở Quảng Châu không dám nhòm ngó tới phương nam. Năm 909, Hậu Lương Thái Tổ phong Lưu Ẩn ở Quảng Châu là Nam Bình vương. Năm 910, Hậu Lương Thái Tổ phong Lưu Ẩn ở Quảng Châu là Nam Hải vương. Ngày 4 tháng 4 năm 911 Nam Hải vương Lưu Ẩn ở Quảng Châu mất, em là Lưu Nham kế vị làm Nam Hải vương. Vào đầu năm 913, vua Chu Hữu Khuê nhà Hậu Lương ban chức kiểm hiệu thái phó cho Nam Hải vương Lưu Nham ở Quảng Châu. Cùng năm 913, vua Chu Trấn nhà Hậu Lương bổ nhiệm Lưu Nham ở Quảng Châu làm tiết độ sứ của Thanh Hải quân và Kiến Vũ quân, phong tước Nam Bình vương cho Lưu Nham. Năm 916 Lưu Nham chấm dứt việc gửi cống phẩm và sứ giả đến nhà Hậu Lương sau khi bị vua Chu Trấn nhà Hậu Lương từ chối sắc phong làm Nam Việt vương. Khi được tăng cường lực lượng từ các sĩ dân Trung nguyên di cư xuống phía Nam, Quảng Châu mạnh lên. Tháng 9 năm 917, Nam Bình vương Lưu Nham ở Quảng Châu bèn xưng đế, lập ra nước Nam Hán tách khỏi nhà Hậu Lương, một trong mười nước thời Ngũ đại Thập quốc. Nguyên ban đầu Nam Hán Cao Tổ (Lưu Nghiễm) lấy quốc hiệu là Đại Việt, sang năm 918 Nam Hán Cao Tổ mới đổi tên là Đại Hán (sử gọi là Nam Hán để phân biệt với Bắc Hán tồn tại cùng thời kỳ) và từ đó giữ quốc hiệu này. Quốc hiệu Đại Việt ban đầu càng chứng tỏ tham vọng của họ Lưu muốn đánh Tĩnh Hải quân mà sau này họ hai lần thực hiện (vào năm 930 và năm 938). Nhận thấy nguy cơ từ phía họ Lưu, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm "khuyến hiếu sứ" sang Quảng Châu gặp vua Nam Hán Cao Tổ, bề ngoài là để ‘‘kết mối hòa hiếu’’, song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của địch. Cuối năm 917 khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Dù ông chưa từng xưng đế hay xưng vương nhưng đời sau nhớ công lao của ông và gọi ông là ‘‘Khúc Trung chủ’’. Khúc Thừa Mỹ kế vị làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Do hành động ngoại giao mềm dẻo của Khúc Hạo, Nam Hán không gây hấn với Tĩnh Hải quân. Sau này, do Khúc Thừa Mỹ từ bỏ chính sách của cha, nhận chức Tiết độ sứ từ nhà Lương chứ không thừa nhận nhà Nam Hán. Sử ghi thời Khúc Thừa Mỹ bên trong lao dịch nặng nề; bên ngoài lại thân với nhà Hậu Lương mà nước Nam Hán đã ly khai, chống đối Nam Hán trong khi Hậu Lương ở quá xa tận Trung nguyên; hơn nữa Khúc Thừa Mỹ còn công khai gọi Nam Hán là "ngụy đình" (triều đình không chính thống) làm chọc giận họ Lưu, nên có thể là nguyên nhân quân Nam Hán tiến quân xâm lược nước Việt. Nhận định Theo Văn Tạo, Viện Sử học Việt Nam: Khúc Hạo được đánh giá là nhà cải cách hành chính đầu tiên ở Việt Nam. So với thời Cao Biền, số đơn vị hành chính thời Khúc Hạo được tăng lên gấp đôi. Như vậy về chiều rộng, chính quyền trung ương đã vươn tới nhiều nơi hơn trên địa bàn cai trị. Việc đưa nhân khẩu vào quản lý chặt chẽ hơn tại các đơn vị hành chính tạo điều kiện tăng cường nhân lực cho các hoạt động kinh tế, quân sự của chính quyền. Vào thế kỷ 10, trong khi các hào trưởng địa phương ít nhiều có xu hướng độc lập, cát cứ với chính quyền trung ương (ngay cả các triều đại Ngô, Đinh sau đó cũng vậy), Khúc Hạo đã khéo léo dựa vào họ để củng cố chính quyền cơ sở. Cuộc cải cách của ông tạo cơ sở kinh tế, xã hội vững chắc cho nền độc lập, tự chủ của người Việt sau này.
Đêm của những con dao dài (tiếng Đức: ), đôi khi được gọi là Operation Hummingbird, hay ở Đức là Cuộc lật đổ Röhm (tiếng Đức: ) hay đôi khi gọi với một cách châm biếm là , là cuộc thanh trừng diễn ra ở Đức từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 2 tháng 7 năm 1934, khi chế độ Đức Quốc Xã do Adolf Hitler cầm đầu đã tiến hành một loạt các vụ đảo chính. Những thành viên thuộc phe cánh tả Strasserist thuộc Đảng Quốc xã Đức (NSDAP) cùng với kẻ đứng đầu Gregor Strasser bị giết với lý do là hợp tác với những người có âm mưu chống chế độ Quốc xã (điển hình là cựu thủ tướng Kurt von Schleicher và Gustav Ritter von Kahr, người đã cản bước Hitler trong vụ đảo chính nhà hàng bia vào cuối năm 1923). Trong số những người thiệt mạng có cả những người lãnh đạo của lực lượng Sturmabteilung (SA), một tổ chức bán quân sự. Hitler chống lại lực lượng SA và thủ lĩnh Ernst Röhm, vì ông xem sự độc lập của SA và thiên hướng từ các thành viên của lực lượng này vào các vụ bạo động đường phố là một mối đe dọa trực tiếp đến quyền lực chính trị mà Hitler vừa nắm giữ. Hitler cũng muốn điều đình với những nhà lãnh đạo của Reichswehr - lực lượng quân đội chính thức, đồng thời lo ngại và xem thường lực lượng SA - và tham vọng của Röhm là muốn hợp nhất Reichwehr vào SA dưới sự chỉ đạo của ông này. Ngoài ra, Hitler cũng không đồng tình với những lời lên tiếng ủng hộ "cuộc cách mạng thứ hai" để tái phân chia quyền lực từ Röhm (theo quan điểm của Röhm, việc bổ nhiệm Hitler làm Thủ tướng vào ngày 30 tháng 1 năm 1933 của Tổng thống Hindenburg được xem là đã thành công trong việc tiến hành "cách mạng dân tộc" nhưng chưa thực hiện được mục tiêu "xã hội chủ nghĩa" trong Đảng Quốc xã). Cuối cùng, Hitler đã tiến hành các cuộc thanh trừng để tấn công và loại bỏ những sự chỉ trích nhằm vào chính quyền mới của ông, đặc biệt là đến từ những người trung thành với Phó Thủ tướng Franz von Papen, cũng như giải quyết những món nợ với các kẻ thù cũ. Đã có ít nhất 85 người đã chết trong các cuộc thanh trừng, mặc dù con số đầy đủ có thể lên đến hàng trăm, và trên 1000 đối thủ chính đã bị bắt giữ. Hầu hết các vụ giết người được tiến hành bởi lực lượng Schutzstaffel, (SS) và Gestapo (Geheime Staatspolizei), cảnh sát bí mật của chế độ. Các cuộc thanh trừng đã tăng cường và củng cố sự ủng hộ của Reichswehr dành cho Hitler. Cuộc thanh trừng này cũng đã đặt nền móng pháp luật cho chế độ phát xít, các tòa án và nội các Quốc xã đã nhanh chóng gạt bỏ các lệnh cấm chống lại các vụ giết người ngoài vòng pháp luật để chứng minh sự trung thành với chế độ. Đêm của những con dao dài đã tạo nên bước ngoặt cho chính phủ Đức. Cuộc thanh trừng đã đưa Hitler trở thành "chánh án tối cao của dân tộc Đức" như ông đã phát biểu tại Reichstag (Nghị viện) vào ngày 13 tháng 7 năm 1934. Nguyên nhân Nguyên do chủ yếu là sự bất đồng chính kiến giữa Hitler, Lãnh tụ Quốc xã kiêm Lãnh tụ Lực lượng Sturmabteilung (Sư đoàn Bão táp, gọi tắt SA) và Ernst Röhm, Tham mưu trưởng của SA. Đang chỉ huy lực lượng SA hiện đã lên đến nửa triệu người và có ghế trong nội các, Röhm chưa hài lòng nên đã đề xuất với nội các là lực lượng SA phải là nền tảng cho Quân đội Nhân dân của Đức, và toàn bộ Quân đội, Quân Áo nâu SA và Quân Áo đen SS (Schutzstaffel) được đặt dưới Bộ Quốc phòng mà ông ngụ ý sẽ do mình đứng đầu. Giới lãnh đạo Quân đội đồng lòng phản đối và kêu gọi Hitler ủng hộ họ vì e ngại truyền thống của giai cấp chiến binh sẽ bị hủy diệt nếu "gã côn đồ Röhm" và "đám quân áo nâu ô hợp" nắm quyền kiểm soát Quân đội. Mặc khác, các tướng lĩnh không chấp nhận việc tham nhũng và sa đọa của bè phái Röhm, đặc biệt họ không chịu được những người đồng tính luyến ái. Lúc này, Hitler rất cần Quân đội, thế nên ông không chấp nhận đề xuất của Röhm. Đến mùa hè 1934, quan hệ giữa Röhm và Quân đội càng tồi tệ hơn. Tranh cãi xảy ra gay gắt trong nội các giữa Röhm và Thống chế Werner von Blomberg (Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực). Vị tướng này phản đối với Hitler là đội quân SA đang bí mật trang bị một lực lượng lớn súng máy. Blomberg cho rằng việc này là mối đe dọa cho Quân đội, và cũng làm phương hại đến chương trình tái vũ trang bí mật mà Quân đội đang thực hiện. Vào lúc này, Hitler đang nghĩ đến ngày mà Tổng thống Ludwig von Hindenburg trút hơi thở cuối cùng. Hitler biết rằng sau khi ông này qua đời, Quân đội và các thành phần bảo thủ khác đều mong phục hồi vương triều Hohenzollern. Nhưng Hitler có kế hoạch khác. Hitler cần Quân đội ủng hộ để thực hiện mưu đồ của mình, và ông muốn tranh thủ sự ủng hộ này bằng mọi giá. Cơ hội để điều đình bí mật với Quân đội đến vào ngày 11/4/1934. Hitler cùng Bộ trưởng Quốc phòng Blomberg, Tướng Freiherr von Fritsch chỉ huy Lục quân và Đô đốc Erich Johann Albert Raeder chỉ huy Hải quân đi trên chiếc tàu thiết giáp bỏ túi Deutschland để tham dự cuộc tập trận mùa xuân ở Đông Phổ. Hitler thông báo cho hai chỉ huy Lục quân và Hải quân về tình trạng sức khỏe ngày càng tồi tệ của Tổng thống, và thẳng thừng đề nghị là mình sẽ lên thay thế. Để đáp lại sự ủng hộ của Quân đội, Hitler hứa sẽ trấn áp đội quân SA và đảm bảo rằng Quân đội vẫn là lực lượng vũ trang duy nhất. Cũng có tin cho rằng Hitler còn hứa hẹn về chương trình phát triển mạnh mẽ của Quân đội, nếu các chỉ huy ủng hộ ông. Trong nội bộ Đảng Quốc xã nổi lên một cuộc tranh giành quyền lực mới không khoan nhượng. Hermann Göring và Heinrich Himmler cùng liên kết với nhau để chống lại Röhm. Để tự bảo vệ trong cuộc chiến đấu hoang dại, Göring cũng thành lập một lực lượng cảnh sát cho riêng cá nhân mình, với đội ngũ lên đến vài ngàn người, đóng doanh trại ở Trường Sĩ quan ở Lichterfelde nằm ở vị trí chiến lược vùng ngoại ô Berlin. Bản thân Göring và Himmler đều có tham vọng riêng và cũng muốn thanh toán món nợ cũ với Schleicher cùng nhóm bảo thủ đang bất mãn, nên báo cáo mọi chuyện với Hitler. Hai người có ý định thanh trừng SA, quét sạch các đối thủ ở cánh Tả lẫn Hữu, kể cả những người lúc trước chống đối Hitler nhưng bây giờ không còn hoạt động. Diễn biến khơi mào Hitler kể lại rằng vào đầu tháng 6, có cuộc khẩu chiến giữa ông và Röhm kéo dài 5 tiếng đồng hồ cho đến nửa đêm. Hitler nói đấy là "cố gắng chung cuộc" của ông nhằm mang lại cảm thông giữa hai người. Theo lời Hitler, khi từ giã Röhm "đảm bảo sẽ làm mọi cách để chấn chỉnh tình thế." Sau này, Hitler nói, thực ra Röhm bắt đầu "các bước chuẩn bị để đích thân triệt hạ tôi." Điều này hầu như không có thực. Mặc dù có lẽ ta không bao giờ biết được toàn bộ vụ việc, các chứng cứ có sẵn đều cho thấy Röhm không bao giờ âm mưu lật đổ Hitler. Sau khi nói chuyện với Röhm, Hitler ra lệnh lực lượng SA ngưng hoạt động trong cả tháng 7, và trong thời gian này họ bị cấm mặc đồng phục, diễu hành hoặc tập trận. Sau đấy, Hitler cáo giác là Röhm và những kẻ âm mưu có những bước chuẩn bị để chiếm Berlin và bắt giữ ông. Nếu đúng như thế, tại sao tất cả cấp chỉ huy của SA rời khỏi Berlin đầu tháng 6, và – quan trọng hơn – tại sao Hitler rời khỏi Đức vào lúc này và do đó tạo cơ hội cho lực lượng SA nắm quyền kiểm soát Nhà nước trong khi ông vắng mặt? Bởi vì, ngày 14/6, Hitler bay đến Venice để hội đàm với Mussolini. Tuy vậy, trong tuần lễ cuối của tháng 6, Hitler vẫn còn do dự – ít nhất vì không biết phải quyết liệt đến mức nào đối với các chỉ huy của SA vốn đã tận tình phục vụ ông trong thời gian qua. Nhưng bây giờ, Göring cùng Bộ trưởng Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền Paul Joseph Göbbels giúp ông quyết định được dễ dàng hơn. Họ đã liệt kê những ân oán cần giải quyết, những kẻ thù hiện tại và quá khứ cần thanh trừng. Họ chỉ cần thuyết phục Lãnh tụ là có một "âm mưu" chống lại ông nên cần có hành động nhanh chóng và quyết liệt. Theo lời khai trước Tòa án Nürnberg của Wilhelm Frick, Bộ trưởng Nội vụ và là một trong những phụ tá trung thành nhất của Hitler, Himmler rốt cuộc đã thuyết phục được Hitler. Sau đấy, Himmler nhận lệnh ra tay ở Bang Bayern, còn Göring được chỉ thị hành động ở thủ đô Berlin. Quân đội cũng thúc đẩy Hitler và qua đấy cũng phải nhận một phần trách nhiệm cho cơn bạo tàn sắp diễn ra. Ngày 25/6, Tướng von Fritsch chỉ huy Lục quân đặt Quân đội trong tình trạng báo động, hủy bỏ mọi giấp phép nghỉ và giữ binh sĩ túc trực trong doanh trại. Ngày 28/6, Röhm bị trục xuất khỏi Liên đoàn Sĩ quan Đức – dấu hiệu cho thấy ông bị rắc rối to. Và để tỏ rõ chính kiến của Quân đội, Blomberg lấy động thái chưa hề có tiền lệ là cho đăng một bài báo có ký tên ra ngày 29/6, khẳng định "Quân đội... đứng sau lưng Adolf Hitler..." Thế thì, Quân đội thúc đẩy cuộc thanh trừng, nhưng không muốn bàn tay của họ vấy máu. Việc này phải do Hitler, Göring và Himmler tiến hành, với lực lượng quân áo đen SS và cảnh sát đặc biệt của Göring. Thanh trừng diễn ra Ngày 28/6/1934, Hitler rời Berlin đi Essen để dự lễ cưới của xứ ủy Josef Terboven. Chuyến đi và mục đích cho thấy hẳn Hitler không dự trù những gì sắp diễn ra. Cùng ngày, Göring và Himmler huy động lực lượng SS và "cảnh sát Göring" để ứng chiến. Trong khi Hitler vắng mặt, cả hai hẳn nghĩ họ có toàn quyền hành động. Ngày kế, 29/6, Hitler đi kinh lý một vòng rồi nghỉ đêm ở Khách sạn Dreesen bên bờ Sông Rhine tại Godesberg. Göbbels, trước đấy dường như vẫn lưỡng lự, bây giờ đã quyết định, cũng đi đến Godesberg. Sau này, Hitler kể rằng cho đến ngày 29/6, ông chỉ quyết định "cách chức Tham mưu trưởng [Röhm] rồi giam ông này tạm thời, bắt giữ một số chỉ huy có tội rõ ràng... và kêu gọi những người khác quay lại với nhiệm vụ." Trước Nghị viện ngày 13/7, Hitler kể lại: Tuy nhiên,... vào lúc 1 giờ sáng tôi nhận được hai tin khẩn từ Berlin và München. Tin đầu tiên từ Berlin... lúc 5 giờ chiều cuộc tấn công bất ngờ sẽ bắt đầu; các tòa nhà chính phủ sẽ bị chiếm đóng... Tin thứ hai từ München... lực lượng SA đã được lệnh tập trung lúc 9 giờ tối... Đấy là phản loạn!... Trong tình huống như thế, tôi chỉ có một quyết định... Chỉ có cách can thiệp kiên quyết và sẵn sàng đổ máu mới có thể trấn áp sự phát tán mầm phản loạn... Vào lúc 2 giờ sáng, tôi bay đi München. Hitler không bao giờ tiết lộ ai đã gửi hai "tin khẩn" nhưng ngụ ý đấy là Göring và Himmler. Điều chắc chắn là những tin báo này đều quá xa sự thật. Ở Berlin, chỉ huy SA Karl Ernst lái xe đi Bremen trong chuyến hưởng tuần trăng mật với cô vợ mới cưới. Còn ở miền nam, những kẻ "âm mưu" của SA tập trung ở đâu? Vào lúc 2 giờ rạng sáng 30/6/1934, khi chiếc máy bay chở Hitler và Göbbels cất cánh từ Sân bay Hangelar gần Bonn, Röhm và các phụ tá đang say ngủ trong Khách sạn Hanslbauer ở Wiesse. Sự thật khác xa với lời cáo buộc phản loạn vì Röhm đã để nhóm cận vệ của ông lưu lại München. Đại tướng SS Edmund Heines, chỉ huy trưởng SA ở Silesia, kẻ giết người đã bị kết án, người đồng tính luyến ái khét tiếng, lên giường với một anh trai trẻ. Xem chừng có nhiều trò chè chén lạc thú giữa các cấp chỉ huy của SA nhưng không thấy biểu hiệu phản loạn. Hitler và nhóm tùy tùng (tùy viên báo chí Otto Dietrich và chỉ huy trưởng SA Viktor Lutzem ở Hanover) đáp xuống München lúc 4 giờ sáng, và thấy đã có vài hoạt động xảy ra. Những người đã bị bắt gồm các cấp chỉ huy của lực lượng SA ở München kể cả Đại tướng SS Schneidhuber, cũng là chỉ huy trưởng cảnh sát München. Hitler bây giờ tỏ ra cuồng loạn, tìm đến đám tù nhân ở Bộ Nội vụ Bayern. Bước đến Schneidhuber, cựu đại tá Quân đội, Hitler giật phắt huy hiệu Quốc xã của ông này và chửi bới ông về tội "phản loạn." Lúc trời vừa hừng sáng, Hitler cùng nhóm tùy tùng đi đến Wiesse trên một đoàn xe dài. Họ thấy Röhm và các bạn của ông này vẫn còn ngủ say sưa trong Khách sạn Hanslbauer. Đám người bị đánh thức một cách thô bạo. Heines và anh trai trẻ ngủ chung giường bị dắt ra bên ngoài khách sạn và bị bắn chết ngay tại chỗ theo lệnh của Hitler. Theo lời kể của Otto Dietrich, Hitler một mình bước vào phòng của Röhm, mắng mỏ ông và ra lệnh giải ông đến München, giam vào nhà tù Stadelheim, cũng là nơi ông ngồi tù sau khi tham gia vụ Bạo loạn Nhà hàng bia cùng với Hitler. Trong động thái mà ông nghĩ là ban ân huệ, Hitler ra lệnh để một khẩu súng lục trên bàn của người đồng chí cũ. Röhm từ chối sử dụng. Ông nói: "Nếu muốn giết tôi, hãy để cho Adolf tự làm việc này." Theo lời khai của một trung úy cảnh sát làm nhân chứng trước một phiên tòa ở München tháng 5/1957: hai sĩ quan SS bước vào, rút súng của họ ra bắn thẳng vào Röhm. Nhân chứng này nói: "Röhm muốn nói điều gì đấy, nhưng người sĩ quan SS ra hiệu cho ông im lặng. Rồi Röhm đứng nghiêm – ông bị lột áo xuống đến hông – với nét mặt đầy vẻ khinh bỉ." Trong lúc ấy tại Berlin, Göring và Himmler. Khoảng 150 cán bộ chỉ huy SA bị bố trí đứng dọc bức tường rào của Trường Sĩ quan Lichterfelde rồi bị quân SS của Himmler và cảnh sát của Göring hành quyết. Trong số này có Karl Ernst (chỉ huy trưởng SA ở Berlin, trước đây là vũ công thoát y tại các hộp đêm dành cho người đồng tính luyến ái), bị binh sĩ SS bắt gần Bremen trên đường đi hưởng tuần trăng mật. Cô vợ và người lái xe bị thương; riêng ông bị đánh bất tỉnh rồi bị giải về Berlin chịu hành quyết. Vốn là người thiếu thông minh, trong khoảng 24 giờ, ông vẫn nghĩ rằng đây là vụ đảo chính do cánh Hữu gây ra, nên chuẩn bị tinh thần để hô "Heil Hitler!" trước khi bị bắn. Không phải chỉ có đám SA bị xử tử. Buổi sáng 30/6/1934, một toán SS nhấn chuông nhà cựu Thủ tướng Kurt von Schleicher ở ngoại ô Berlin. Khi vị tướng mở cửa, ông bị bắn ngay tại chỗ. Khi cô vợ ông mới cưới 18 tháng trước – ông vẫn độc thân cho đến lúc ấy – bước đến, cô cũng bị bắn ngay. Tướng Kurt von Bredow, một người bạn thân của Schleicher, cũng cùng chung số phận tối hôm ấy. Gregor Strasser bị bắt tại nhà của ông ở Berlin và đích thân Göring ra lệnh kết liễu ông trong nhà ngục. Ông chết vì đã có thái độ thách thức với Hitler và bí mật tiếp xúc với von Schleicher trong các âm mưu giành quyền lực. Đương kim Phó Thủ tướng Franz Papen von Papen trong nội các Hitler thì may mắn hơn, trốn thoát được số phận. Nhưng quân SS lục soát văn phòng của ông, bắn chết thư ký của ông tại bàn làm việc. Tội của ông là đọc bài diễn văn ở Marburg ngày 17/6/1934, công kích Quốc xã đã quá chuyên chế. Bạn thân của Papen là Edgar Jung, bị Gestapo (Mật vụ) bắt vài ngày trước, rồi bị hạ sát trong ngục. Erich Klausener, thủ lãnh nhóm Hành động Công giáo, bị giết trong văn phòng của ông ở Bộ Giao thông, còn các nhân viên của ông kể cả thư ký riêng là Nữ Nam tước Stotzingen đều bị đưa vào trại tập trung. Edgar Jung và Erich Klausener cùng giúp soạn bài diễn văn Marburg cho Papen đọc ngày 17/6. Khi Papen tìm đến Göring để phản đối, ông bị giam lỏng trong ngôi biệt thự của ông với quân SS vũ trang kín kẽ canh gác chung quanh, đường điện thoại bị cắt, Ông bị cấm liên lạc với bên ngoài – thêm nỗi nhục nhã mà vị Phó Thủ tướng giỏi chịu đựng. Vì lẽ, không đầy một tháng sau, ông chấp nhận làm công sứ tại Áo, nơi Quốc xã vừa sát hại Thủ tướng Engelbert Dollfuss. Nhiều người bị giết chỉ là do trả thù vì đã chống đối Hitler trong quá khứ; một số người là do đã biết quá nhiều, và ít nhất một người bị giết nhầm. Xác của Gustav Ritter von Kahr được tìm thấy trong một đầm lầy. Ông nguyên là một trong tam đầu chế cầm quyền Bang Bayern đã đàn áp vụ Đảo chính Nhà hàng bia và đã ngưng hoạt động chính trị từ lâu, nhưng Hitler không bao giờ quên và tha thứ ông. Xác của Mục sư Bernhard Stempfle được tìm thấy trong một khu rừng với 3 phát đạn vào ngực, cổ bị gãy. Ông đã giúp biên tập quyển Mein Kampf của Hitler và có lẽ sau đấy nói quá nhiều về tình cảm của Hitler đối với cô cháu gái Geli Raubal. Những người khác "biết quá nhiều" gồm có 3 binh sĩ SA bị cho là tòng phạm của Ernst trong việc đốt tòa nhà Nghị viện. Cần đề cập một vụ giết người nhầm lẫn. Buổi tối 30/6/1934, TS. Willi Schmid, nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng, đang chơi nhạc trong nhà trong khi bà vợ đang nấu ăn và ba đứa con đang chơi đùa. Chuông cửa ngân, bốn nhân viên SS xuất hiện và bắt ông đi mà không giải thích gì cả. Bốn ngày sau, xác của ông được trả về trong một quan tài với lệnh của Mật vụ là không được mở ra trong bất cứ trường hợp nào. TS. Willi Schmid chưa bao giờ tham gia chính trị. Có lẽ SS nhầm ông với Willi Schmidt, chỉ huy SA ở địa phương, cùng lúc bị một toán SS khác sát hại. Kate Eva Hoerlin, vợ của Willi Schmid, kể lại vụ việc trong một tờ khai được tuyên thệ nộp năm 1945 ở Mỹ. Bà đã nhập quốc tịch Mỹ năm 1944. Để che đậy tính dã man, Rudolf Heß đích thân đến thăm bà, ngỏ ý xin lỗi về sự "nhầm lẫn" và giúp tìm cho một khoản tiền về hưu từ chính phủ Đức. Tờ khai của bà được trình ra trước Tòa án Nürnberg. Phần lớn việc giết chóc đã xong xuôi vào buổi chiều Chủ nhật 1/7/1934. Ngày hôm sau, Tổng thống Ludwig von Hindenburg ngỏ lời cảm ơn Hitler do "hành động kiên quyết và sự can thiệp cá nhân dũng cảm đã giúp diệt mầm phản loạn từ trong trứng nước và tránh cho dân tộc Đức hiểm họa to tát hơn." Ông cũng chúc mừng Göring vì "hành động hăng say và thành công" trong việc đàn áp "phản loạn cấp cao". Ngày kế tiếp, Tướng Werner von Blomberg phát biểu với Thủ tướng lời chúc mừng của nội các vốn đã tiến hành "hợp thức hóa" cuộc tàn sát như là biện pháp cần thiết nhằm "bảo vệ Nhà nước." Blomberg cũng ban hành nhật lệnh cho Quân đội, biểu lộ sự hài lòng của Ban Chỉ huy về vụ việc và cam kết "mối quan hệ mật thiết với lực lượng SA mới". Hệ lụy Một phiên tòa ở München tháng 5/1957 là cơ hội đầu tiên để nhân chứng và người can dự vào cuộc thanh trừng cung khai trước công chúng. Sepp Dietrich là người chỉ huy cận vệ SS của Himmler vào năm 1934 và chỉ đạo cuộc hành quyết trong nhà tù Stadelheim. Mang quân hàm thượng tướng SS trong chiến tranh, ông bị án 25 năm tù vì can dự vào việc sát hại tù binh Mỹ. Sau 10 năm, ông được trả tự do, rồi bị mang ra xử ở München năm 1957 và lãnh án 18 tháng tù vì can dự vào cuộc hành quyết ngày 30/6/1934. Sĩ quan SS Michael Lippert bị kết án đã trực tiếp giết Röhm. Không bao giờ người ta biết chính xác bao nhiêu người bị sát hại. Trong bài diễn văn đọc trước Nghị viện ngày 13/7, Hitler thông báo có 61 người bị bắn, kể cả 19 "lãnh đạo SA cấp cao," thêm 13 người chết vì "chống lại lệnh bắt giữ: và 3 người "tự tử" – tổng cộng 77 người. Di dân ở Paris xuất bản một quyển sách cho biết có 401 người bị giết, nhưng chỉ có thể kể tên 116 người. Trong phiên tòa năm 1957, con số được đưa ra là "hơn 1000." Có mưu đồ gì chống lại Hitler không? Chỉ có lời tố cáo của ông trong những bản thông cáo và diễn văn đọc trước Nghị viện ngày 13/7. Ông không bao giờ trình bất kỳ bằng chứng nào. Röhm đã công khai tỏ lộ tham vọng được thấy SA làm nòng cốt của quân đội mới do ông chỉ huy. Chắc chắn ông có tiếp xúc Schleicher về ý đồ này khi Schleicher là Thủ tướng. Có lẽ, như Hitler nói, Gregor Strasser cũng có can dự. Nhưng những việc thảo luận như thế không phải là phản bội. Chính Hitler cũng đã tiếp xúc với Strasser và đề nghị cử ông này làm Bộ trưởng Kinh tế. Lúc đầu Hitler tố cáo Röhm và Schleicher tìm kiếm sự hỗ trợ của một "cường quốc nước ngoài" – ý nói Pháp – nhưng không đưa ra chứng cứ. Sau đấy, Hitler vẫn lặp lại lời cáo buộc trước Nghị viện và nói một cách châm biếm về một "nhà ngoại giao nước ngoài," rõ ràng chỉ đại sứ Pháp Francois-Poncet. Khi Francois-Poncet cực lực phản đối về việc mình bị nói bóng gió đã tham dự vào "âm mưu" của Röhm, Bộ Ngoại giao Đức chính thức thông báo với Chính phủ Pháp rằng những lời cáo giác là hoàn toàn vô căn cứ, và chính phủ Quốc xã hy vọng vị đại sứ sẽ ở lại trong nhiệm vụ của ông. Thật thế: Francois-Poncet tiếp tục có quan hệ cá nhân mật thiết hơn bất kỳ đại sứ nào khác từ một quốc gia dân chủ. Bản thông cáo đầu tiên và diễn văn của Hitler ở Nghị viện nhắc nhiều đến lối sống sa đọa của Röhm và những nhân viên SA khác đã bị giết. Tùy viên báo chí Otto Dietrich đưa ra những chi tiết về lối sống này. Trong bài phát biểu với các lãnh đạo SA còn lại ngày 30/6, Hitler tuyên bố những người bị xử tử là đáng chết vì lối sống vô đạo đức của họ. Nhưng ngay từ những ngày đầu của Quốc xã, Hitler đã biết rõ các phụ tá thân cận của ông bị lệch lạc về giới tính hoặc là những kẻ giết người có tiền án. Lúc ấy, không những Hitler làm ngơ, mà còn biện hộ cho họ. Hơn một lần, ông đã cảnh cáo các đồng chí là không nên quá câu nệ về đạo đức cá nhân của một người nếu người ấy là chiến binh cuồng tín cho phong trào. Bây giờ, ông lại thú nhận mình bị sốc vì những phụ tá gần gũi nhất đã thoái hóa đạo đức. Chắc chắn là Quân đội hài lòng với việc kình địch SA của họ bị tiêu diệt. Nhưng còn ý thức về danh dự của họ thì sao? Giới chỉ huy Quân đội không những đã nhắm mắt làm ngơ mà còn công khai ca ngợi một chính phủ đã thực hiện cuộc tàn sát chưa hề có tiền lệ trong lịch sử nước Đức, trong đó hai vị tướng hàng đầu bị giết một cách dã man: von Schleicher và von Bredow. Chỉ có hai người lên tiếng phản đối việc sát hại hai tướng lĩnh và cáo buộc về vụ phản loạn: vị Thống chế von Mackensen 85 tuổi và Đại tướng cựu Tư lệnh Lục quân von Hammerstein. Hai người tiếp tục nỗ lực nhằm minh oan cho Schleicher và Bredow. Họ đã thành công. Trong một buổi họp kín của các nhà lãnh đạo đảng và quân sự ngày 3/1/1935, Hitler nhìn nhận việc sát hại hai vị tướng là "sai lầm" và tuyên bố trả lại danh dự cho hai người. Việc "phục hồi" không bao giờ được công bố ở Đức, nhưng được giới chỉ huy Quân đội chấp nhận như thế. Thái độ của giới chỉ huy không những là vết nhơ trên danh dự của Quân đội, mà còn là biểu hiệu của óc thiển cận đến khó tin. Hitler tuyên bố trước Nghị viện ngày 13/7/1934: Nếu có ai trách tôi và hỏi tại sao tôi không vận dụng tòa án tư pháp, thì tôi chỉ có thể trả lời: "Trong thời khắc này tôi có trách nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc Đức, và qua đó tôi trở thành chánh án tối cao của dân tộc Đức." Hơn nữa, giới chỉ huy Quân đội chỉ tự lừa dối khi nghĩ rằng họ đã thoát khỏi sự đe dọa của phong trào Quốc xã đối với những đặc quyền truyền thống của họ. Bởi vì, thay cho SA là SS. Ngày 26/7/1934, để tưởng thưởng công lao của họ, lực lượng SS được tách ra độc lập với SA, dưới quyền chỉ huy của Himmler, người chỉ báo cáo với Hitler. Chẳng bao lâu, với kỷ luật và lòng trung thành hơn SA, lực lượng SS trở nên hùng mạnh hơn hẳn SA.
Trong toán học, bất đẳng thức tam giác là một định lý phát biểu rằng trong một tam giác, chiều dài của một cạnh phải nhỏ hơn tổng, nhưng lớn hơn hiệu của hai cạnh còn lại. Ví dụ: Với ΔABC với BC = a, AC = b, AB = c, ta có các bất đẳng thức: Bất đẳng thức là một định lý trong các không gian như hệ thống các số thực, tất cả các không gian Euclide, các không gian Lp (p≥1) và mọi không gian tích trong. Bất đẳng thức cũng xuất hiện như là một tiên đề trong định nghĩa của nhiều cấu trúc trong giải tích toán học và giải tích hàm, chẳng hạn trong các không gian vectơ định chuẩn và các không gian metric. Không gian vectơ định chuẩn Trong không gian vectơ định chuẩn V, bất đẳng thức tam giác được phát biểu như sau: ||x + y|| ≤ ||x|| + ||y|| với mọi x, y thuộc V tức là, chuẩn của tổng hai vectơ không thể lớn hơn tổng chuẩn của hai vectơ đó. Đường thẳng thực là một không gian vectơ định chuẩn với chuẩn là giá trị tuyệt đối, vì thế có thể phát biểu bất đẳng thức tam giác cho hai số thực bất kỳ x và y như sau: Trong giải tích toán học, bất đẳng thức tam giác thường được dùng để ước lượng chặn trên tốt nhất cho giá trị tổng của hai số, theo giá trị của từng số trong hai số đó. Cũng có một ước lượng chặn dưới mà có thể tìm được bằng cách dùng bất đẳng thức tam giác đảo chiều, mà phát biểu rằng với bất kỳ hai số thực x và y: Không gian metric Trong không gian metric M với metric là d, bất đẳng thức tam giác có dạng d(x, z) ≤ d(x,y) + d(y,z) với mọi x, y, z thuộc M tức là, khoảng cách từ x đến z không thể lớn hơn tổng các khoảng cách từ x đến y với khoảng cách từ y đến z. Hệ quả Người ta thường sử dụng một hệ quả sau đây của bất đẳng thức tam giác, thay vì cho cận trên hệ quả này cho cận dưới: | ||x|| - ||y|| | ≤ ||x - y|| hay phát biểu theo metric | d(x, y) - d(x, z) | ≤ d(y, z) điều này cho thấy chuẩn ||–|| cũng như hàm khoảng cách d(x, –) là 1-Lipschitz và do đó là hàm liên tục. Sự đảo chiều trong không gian Minkowski Trong không gian Minkowski thông thường hay trong các không gian Minkowski mở rộng với số chiều tùy ý, giả sử các vectơ không và các vectơ giống-thời-gian có cùng chiều thời gian, bất đẳng thức tam giác bị đảo chiều: |x + y| ≥ |x| + |y| với mọi x, y thuộc R sao cho |x| > 0, |y| > 0 và tx t<sub>y ≥ 0 <sub><sub>Một ví dụ vật lý cho bất đẳng thức này là nghịch lý sinh đôi trong thuyết tương đối hẹp
Đêm của những con dao dài có thể là một trong các sự kiện lịch sử sau đây: Đêm của những con dao dài (450) - cuộc thảm sát các người lãnh đạo của các bộ tộc Anh tại bàn hoà đàm (xảy ra tại Salisbury Plain, Anh); đây cũng là nguồn gốc của cụm từ (Night of the Long Knives) Đêm của những con dao dài (1934) - cuộc thanh trừng đẫm máu trong Đảng Đức Quốc xã do Adolf Hitler khởi động Đêm của những con dao dài (1962) - cuộc sa thải 7 thành viên trong nội các của mình, khởi động bởi Thủ tướng Anh Harold Macmillan Đêm của những con dao dài (1979) - cuộc thanh trừng đẫm máu của Đảng Ba'ath của Iraq, khởi động bởi Saddam Hussein Đêm của những con dao dài (1981) - tên được những người chủ trương Québec độc lập dùng để gọi đêm khi họ không được mời đến bàn hội thảo về Hiến pháp Canada Ngoài ra: "Night of the Long Knives" (Đêm của những con dao dài) cũng còn là tên của một bài hát của nhóm AC/DC.
Schutzstaffel (SS; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là ᛋᛋ; , nghĩa "Đội phòng vệ") là một tổ chức bán quân sự trực thuộc Đảng Quốc xã (NSDAP) dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ Tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Khởi nguyên của SS là một đơn vị cảnh vệ nhỏ mang tên Saal-Schutz (An ninh hội trường) gồm các tình nguyện viên thực hiện công tác giữ gìn an ninh cho các cuộc họp đảng ở München. Năm 1925, Heinrich Himmler gia nhập đơn vị mà khi ấy đã được cải tổ và đổi tên thành Schutzstaffel. Dưới sự lãnh đạo của Himmler, SS phát triển từ một đội hình bán quân sự nhỏ thành một trong những tổ chức thế lực nhất tại Đức Quốc Xã. Kể từ ngày đầu Đảng Quốc xã lên nắm quyền cho đến khi sụp đổ vào năm 1945, SS là cơ quan quan trọng nhất về an ninh, giám sát và khủng bố ở Đức cũng như tại các vùng đất ở châu Âu bị nước này chiếm đóng. Schutzstaffel được cấu thành từ hai nhóm chính là Allgemeine SS (SS Tổng quát) và Waffen-SS (SS Vũ trang). Allgemeine SS đảm nhiệm thực thi chính sách chủng tộc của Đức Quốc Xã và giữ gìn trật tự chung, còn Waffen-SS bao hàm những đơn vị chiến đấu trong quân đội Đức Quốc Xã. Bộ phận thứ ba của SS là SS-Totenkopfverbände (SS-TV; đơn vị Đầu lâu) điều hành các trại tập trung và trại hành quyết. Các phân nhóm bổ sung của SS bao gồm Gestapo và Sicherheitsdienst (SD) đảm trách truy lùng những kẻ thù thực sự và tiềm ẩn của nhà nước, dập tắt mọi hành vi chống đối, giám sát lòng thành của nhân dân với ý thức hệ cũng như cung cấp thông tin tình báo trong và ngoài nước. SS là tổ chức chịu trách nhiệm lớn nhất cho vụ diệt chủng 5,5 đến 6 triệu người Do Thái cùng hàng triệu nạn nhân khác trong suốt thời kỳ Holocaust. Các thành viên ở mọi phân nhánh của tổ chức đều phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 45). SS còn liên quan đến các doanh nghiệp thương mại và bóc lột sức lao động của tù nhân trại tập trung, bức ép họ làm lao động khổ sai. Sau khi chiến tranh kết thúc, Tòa án Quân sự Quốc tế tại Nürnberg đã phán xử SS và Đảng Quốc Xã là những tổ chức tội phạm trong khi Ernst Kaltenbrunner, trưởng bộ phận chính SS cấp cao nhất còn sống, bị xử treo cổ vì tội ác chống nhân loại vào năm 1946. Nguồn gốc Tiền thân Vào năm 1923, Đảng Quốc xã do Adolf Hitler đứng đầu đã thành lập một đơn vị bảo vệ thường trực quy mô nhỏ gọi là Saal-Schutz (An ninh Hội trường) phụ trách công tác đảm bảo an ninh cho các cuộc họp đảng tại München. Cùng năm đó, Hitler ra lệnh thành lập một đơn vị cận vệ riêng biệt nhỏ để phục vụ bản thân. Hitler mong muốn đơn vị này tách biệt với "số đông đáng ngờ" của đảng, bao gồm lực lượng bán quân sự Sturmabteilung (Binh đoàn bão táp; SA) mà ông không tin tưởng. Đơn vị mới này mang tên Stabswache (Bảo vệ Bộ tham mưu), ban đầu có tám người, gồm hai chỉ huy là Julius Schreck, Joseph Berchtold. Stabswache hoạt động dựa theo mô hình của một Freikorps khi đó là Marinebrigade Ehrhardt (Lữ đoàn Hải quân Ehrhardt). Tháng 5 năm 1923, Stabswache đổi tên thành Stoßtrupp (Lực lượng xung kích). Sau thất bại của vụ đảo chính nhà hàng bia năm 1923 do Đảng Quốc xã tổ chức nhằm cướp chính quyền ở München, Stoßtrupp bị ép phải giải tán. Vào năm 1925, Hitler sau khi được tại ngoại đã lệnh cho Schreck thành lập một đội cận vệ mới có tên là Schutzkommando (Biệt động bảo an). Đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ Hitler tại các buổi họp hay sự kiện của đảng. Cùng năm đó, Schutzkommando phát triển trên quy mô cả nước và lần lượt đổi tên thành Sturmstaffel (Sư đoàn bão táp) và cuối cùng là Schutzstaffel (Đội phòng vệ; SS). Ngày thành lập chính thức của SS là ngày 9 tháng 11 năm 1925, cũng là ngày kỷ niệm 2 năm của cuộc đảo chính nhà hàng bia. Lực lượng SS mới này có nhiệm vụ bảo vệ giới chức lãnh đạo Đảng Quốc xã trên phạm vi toàn quốc. Đơn vị SS bảo vệ riêng cho Hitler sau đó được mở rộng bao gồm cả các đơn vị chiến đấu. Các chỉ huy ban đầu Julius Schreck là thành viên sáng lập SA và đồng thời là một người bạn tâm giao của Hitler. Ông chính thức trở thành lãnh đạo SS vào tháng 3 năm 1925. Ngày 15 tháng 4 năm 1926, Joseph Berchtold lên thay Schreck làm chỉ huy mới của SS. Sau khi nhậm chức, ông đổi tên chức vụ của mình thành Reichsführer-SS (Lãnh đạo Reich-SS). Berchtold được đánh giá là năng nổ hơn người tiền nhiệm song ngày càng nản chí vì SS bi SA áp chế. Điều này dẫn đến sự chuyển giao quyền lực của ông sang phụ tá của mình là Erhard Heiden vào ngày 1 tháng 3 năm 1927. Dưới trướng Heiden, SS áp dụng quy tắc kỷ luật nghiêm khắc hơn so với những gì người ta vẫn thấy trong SA. Giai đoạn 1925–1929, lực lượng SS chỉ còn được coi đơn thuần là một Gruppe (tiểu đoàn) của SA. Ngoại trừ khu vực München, SS đã không thể duy trì số lượng thành viên của họ. Thành viên của SS giảm từ 1.000 xuống còn 280 do sự phát triển nhanh chóng của SA. Vào tháng 9 năm 1927, Heinrich Himmler trở thành phụ tá của Heiden trong lúc Heiden đang nỗ lực để giúp SS không bị SA sáp nhập. Trong vai trò mới, Himmler bộc lộ khả năng tổ chức tốt hơn Heiden. SS thành lập một số Gau (khu vực hoặc tỉnh). Các SS-Gaus này bao gồm SS-Gau Berlin, SS-Gau Berlin Brandenburg, SS-Gau Franken, SS-Gau Niederbayern, SS-Gau Rheinland-Süd và SS-Gau Sachsen. Himmler nắm quyền Tháng 1 năm 1929, Hitler phê chuẩn cho Himmler lên làm Reichsführer-SS. Về phía đảng, Heiden được tuyên bố là đã ra đi vì "lý do gia đình". Trong thời gian Himmler lãnh đạo, SS phát triển và có chỗ đứng cao hơn. Himmler nhận định SS là một tổ chức quốc gia xã hội ưu tú, tuân thủ nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của đảng, là một "sự kết hợp giữa Hiệp sĩ Teuton, tu sĩ Dòng Tên và Samurai Nhật Bản". Mục tiêu của Himmler là biến lực lượng SS thành tổ chức mạnh nhất tại Đức và phân nhánh ảnh hưởng nhất của đảng. Số thành viên SS đã tăng lên 3.000 chỉ trong năm đầu tiên Himmler trở thành lãnh đạo. Năm 1929, SS-Hauptamt (văn phòng chính SS) được mở rộng và tái cơ cấu thành 5 văn phòng chính gồm: cơ quan quản lý chung, tài chính, nhân sự, an ninh và các vấn đề chủng tộc. Đồng thời, SS-Gaus được mở rộng thành ba khu vực hoạt động, gọi chung là SS-Oberführerbereiche (tạm dịch: Phân khu Thượng tá SS), với tên gọi SS-Oberführerbereiche Ost, SS-Oberführerbereiche West và SS-Oberführerbereiche Süd. Các cấp độ thấp hơn phần nhiều giữ nguyên không thay đổi. Dù chính thức vẫn là 1 đơn vị trực thuộc SA và chịu trách nhiệm trước Stabschef (Tham mưu trưởng SA), nhưng cũng chính trong thời gian này, Himmler bắt đầu tách SS ra khỏi SA. SS lớn mạnh nhờ sự trung thành tuyệt đối với Hitler, khác với SA được xem là một lực lượng bán tự do và mối đe dọa đến bá quyền của Hitler. Lý do Hitler cảnh giác SA là vì họ yêu cầu phát động một "cuộc cách mạng thứ hai" sau cái lần đã đưa Đảng Quốc xã lên nắm quyền. Tới cuối năm 1933, SS có 209.000 thành viên. Dưới sự lãnh đạo của Himmler, SS không ngừng mở rộng thế lực khi ngày càng nhiều địa bàn và chức năng của đảng rơi vào phạm vi quyền hạn của tổ chức này. Theo thời gian, SS chỉ còn "chấp hành" mỗi mệnh lệnh từ Hitler. Đây là một quá trình phát triển điển hình của cơ cấu tổ chức ở nơi mà quy chuẩn hợp pháp bị thay thế bằng hành động tuân thủ Führerprinzip (nguyên tắc Führer) khi ý muốn của Hitler được xem là có trọng lượng hơn cả luật pháp. Mùa thu 1934, Himmler đã giám sát việc thành lập 3 SS-Junkerschule (trường Junker), là nơi các sĩ quan SS thế hệ kế tiếp được đào tạo kỹ năng lãnh đạo, quân sự cũng như truyền bá tư tưởng chính trị và các tư tưởng Quốc xã. Công tác đào tạo với trọng tâm là sự đề cao tính tàn nhẫn và bền bỉ là một phần của hệ thống giá trị SS, nó giúp thúc đẩy ý nghĩ ưu việt trong những người được đào tạo và dạy họ sự tự tin. Những ngôi trường đầu tiên được dựng lên tại Bad Tölz và Braunschweig, về sau mở rộng thêm một số cơ sở tại Klagenfurt và Praha trong thời chiến. Ý thức hệ SS được xem là đơn vị ưu tú của Đảng Quốc xã. Để phù hợp với chính sách chủng tộc của nhà nước Quốc Xã, ngay từ đầu tất cả ứng viên sĩ quan SS phải cung cấp bằng chứng về gốc gác Arya đến năm 1750, còn cấp bậc khác là đến năm 1800. Vào thời chiến, quy định được sửa lại do việc xác định gốc gác trở nên khó hơn. Cũng chính vì điều này nên một ứng viên chỉ cần chứng minh được ông bà của anh ta là người Arya như ghi rõ trong đạo luật Nürnberg. Một yêu cầu khác mà các ứng viên SS phải tuân thủ đó chính là sự phục tùng tuyệt đối với Führer và sự cam kết trách nhiệm trước nhân dân và đất nước. Himmler còn cố áp đặt tiêu chí hình thể dựa trên ngoại hình và chiều cao nhưng yêu cầu này chỉ được thực thi một cách lỏng lẻo và có trên một nửa thành viên SS không đáp ứng được. Các thành viên SS được cấp nhà lớn, được hưởng mức lương cao ưu đãi vì họ – những thành phần ưu tú – được kỳ vọng sinh nhiều con hơn những gia đình Đức bình thường. Đây được coi là trách nhiệm với học thuyết Đảng Quốc xã của mỗi thành viên SS. Trách nhiệm với tư tưởng SS liên tục được nhấn mạnh suốt quá trình tuyển mộ và đào tạo. Các thành viên tiếp thu chính sách chủng tộc của nhà nước Quốc xã. Họ được dạy rằng những người bị chính sách đó xem là hạ đẳng cần phải được loại trừ khỏi nước Đức. Những nghi lễ bí truyền hay việc trao tặng biểu chương và phù hiệu nhân dịp các dấu mốc trong sự nghiệp của một thành viên SS góp phần giúp họ ngày càng thấm nhuần tư tưởng Quốc xã. Thành viên được kỳ vọng từ bỏ đức tin Kitô. Lễ Giáng sinh cũng được thay thế bằng một lễ kỷ niệm điểm chí. Himmler còn sáng chế nên một nghi lễ ngoại giáo gọi là SS Ehewein dùng để thay thế đám cưới trong nhà thờ. Các lễ nghi giả tôn giáo này thường diễn ra gần những tượng đài dành riêng cho SS hay tại những địa điểm đặc biệt được SS chỉ định. Himmler mua lâu đài Wewelsburg ở Westfalen vào năm 1933, ban đầu dự định dùng nó làm trung tâm đào tạo của SS. Tuy nhiên về sau Wewelsburg trở thành nơi tổ chức tiệc và nghi thức tân ngoại giáo. Năm 1936, trong một cuốn sách nhỏ với tựa đề Die Schutzstaffel als antibolschewistische Kampforganisation (Schutzstaffel là một tổ chức chiến đấu chống chủ nghĩa Bolshevik), Himmler nhấn mạnh: Áp dụng khủng bố và bạo lực làm giải pháp cho các vấn đề chính trị và quân sự là một phần của đường lối hoạt động SS. Tổ chức này đề cao lòng trung thành tuyệt đối và sự chấp hành mệnh lệnh cho đến chết. Dựa vào đó, Hitler khai thác SS như một công cụ hữu hiệu để xúc tiến mục tiêu của đảng lẫn mục tiêu cá nhân. SS được giao trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ tàn độc, hoạt động phi pháp cùng tội ác chiến tranh. Himmler từng viết rằng một thành viên SS "không do dự một nháy mắt, chấp hành mà không cần suy nghĩ" mọi mệnh lệnh từ Führer. Khẩu hiệu chính thức của họ là "Meine Ehre heißt Treue" (Danh dự của tôi là lòng trung thành). Là một phần của các nhiệm vụ liên quan tới vấn đề chủng tộc trong chiến tranh thế giới thứ hai, SS giám sát hoạt động cách ly và di dời người Do Thái trên các lãnh thổ bị chinh phạt. SS chiếm hữu tài sản và đày ải dân Do Thái đến các trại tập trung và ghetto – nơi họ bị buộc phải lao động khổ sai hoặc bị giết ngay lập tức. Được lựa chọn để thực hiện Endlösung (giải pháp cuối cùng), SS được xem là thủ phạm số một chịu trách nhiệm về việc giết hại và diệt chủng từ 15 tới 20 triệu người trong cuộc diệt chủng Holocaust, bao gồm khoảng 5.2 đến 6 triệu người Do Thái và 10.5 triệu người Slav. Một số lượng nạn nhân đáng kể là người thuộc những nhóm sắc tộc khác như 258.000 người Di-gan. Ngoài ra, SS tham gia giết hại, loại trừ những thành phần dân chúng bao gồm người tâm thần, tàn tật, đồng tính, bất đồng chính kiến vốn được xem là mối đe dọa đến tính ưu việt của chủng tộc Arya hay ý thức hệ của đảng. Thành viên của các tổ chức công đoàn và những người được coi là có liên kết với các nhóm phản động (tôn giáo, chính trị, xã hội…), hay những người bị xem là không phù hợp đã bị vây bắt số lượng lớn; những người này gồm giáo sĩ thuộc mọi tôn giáo, tín đồ Nhân chứng Jehovah, hội viên Hội Tam Điểm, người Cộng sản và thành viên Rotary Club. Theo phán quyết đưa ra tại tòa án Nürnberg cùng nhiều phiên điều tra và xét xử tiến hành sau đó, đa phần tội ác chiến tranh của Đức Quốc Xã là do SS gây ra. Đặc biệt SS cũng là tổ chức chủ đạo thực hiện Holocaust. Nước Đức thời tiền chiến Sau khi Hitler và Đảng Quốc xã lên cầm quyền vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, SS được xem là một tổ chức nhà nước và đồng thời là một ban ngành chính phủ. Việc chấp pháp dần đi vào phạm vi chức quyền của SS, nhiều tổ chức SS thực tế đã trở thành cơ quan chính phủ. SS thiết lập một nhà nước cảnh sát, sử dụng lực lượng an ninh và cảnh sát mật do Himmler quản lý để đàn áp mọi hành vi chống đối Hitler. Năm 1933, Hermann Göring trong vai trò Thủ tướng Phổ đã cho lập một lực lượng cảnh sát mật Phổ là Geheime Staatspolizei, viết tắt Gestapo, và bổ nhiệm Rudolf Diels làm chỉ huy. Lo ngại Diels không đủ tàn nhẫn để vận hành Gestapo để có thể triệt tiêu thế lực của SA một cách hiệu quả, Göring đã giao vị trí chỉ huy cho Himmler vào ngày 20 tháng 4 năm 1934. Cũng trong ngày hôm đó, Hitler bổ nhiệm Himmler làm trưởng cục cảnh sát mọi lực lượng cảnh sát trên lãnh thổ Đức bên ngoài nước Phổ, khác với thông lệ lâu đời của Đức rằng chấp pháp là vấn đề địa phương và của từng nước trực thuộc. Himmler chỉ định phụ tá và protégé Reinhard Heydrich làm thủ lĩnh Gestapo vào ngày 22 tháng 4 năm 1934. Heydrich đồng thời vẫn là chỉ huy của Sicherheitsdienst (SD; sở an ninh). Sự kiện Himmler tiếp quản Gestapo là tiền đề cho Nacht der langen Messer (đêm của những con dao dài), vụ bắt giữ và hành hình số đông lãnh đạo SA mà chủ yếu do SS và Gestapo thực hiện. Vào ngày 20 tháng 7 năm 1934, khi mà SA không còn là một thế lực sau cuộc thanh trừng, Hitler chính thức tách SS ra khỏi SA. SS trở thành một đội quân ưu tú độc lập của Đảng Quốc xã, chỉ tuân theo mệnh lệnh của Hitler. Giờ đây, quân hàm Reichsführer-SS của Himmler trở thành cấp bậc thực tế của ông ta. Đây đồng thời là cấp bậc cao nhất trong SS, tương đương với cấp bậc thống chế trong quân đội (cấp bậc trước đây của ông là Obergruppenführer). Khi địa vị và quyền hạn của Himmler ngày càng tăng, thì cấp bậc của ông cũng tăng theo. Vào ngày 17 tháng 6 năm 1936, toàn bộ lực lượng cảnh sát ở Đức chịu sự cai quản của Himmler và SS. Vì lẽ đó nên Himmler và Heydrich trở thành hai trong số những nhân vật quyền lực nhất trong chính quyền Quốc xã. Lực lượng cảnh sát và tình báo do họ kiểm soát hành chính bao gồm SD, Gestapo, Kriminalpolizei (Kripo; cảnh sát hình sự), và Ordnungspolizei (Orpo; cảnh sát trật tự hay cảnh sát mặc đồng phục thường). Trên cương vị là chỉ huy lực lượng cảnh sát, Himmler trên danh nghĩa là cấp dưới của Bộ trưởng Nội vụ Wilhelm Frick. Tuy vậy, do SS chỉ tuân thủ mệnh lệnh của Hitler nên sự hợp nhất trên thực tế giữa SS và cảnh sát khiến lực lượng cảnh sát không nằm trong phạm vi kiểm soát của Frick. Vào tháng 9 năm 1939, các cơ quan an ninh và cảnh sát, bao gồm Sicherheitspolizei (SiPo; cảnh sát an ninh) và SD (nhưng không phải Orpo) hợp nhất tạo thành Reichssicherheitshauptamt (RSHA, Cơ quan an ninh trung ương quốc gia) do Heydrich đứng đầu. Chính điều này đã góp phần làm tăng sức mạnh tập thể của SS. Trong Kristallnacht (9–10 tháng 11 năm 1938), các bộ phận an ninh SS như Gestapo, SD, Kripo, SiPo và lực lượng cảnh sát chính quy đã đã bí mật phối hợp để đảm bảo việc nhà ở và các cơ sở kinh doanh của người Do Thái vẫn nguyên vẹn để sung công, trong khi các giáo đường và những trung tâm hội họp của họ phải bị phá hủy. Trong đêm hôm đó, một lực lượng đông đảo mà đa phần là thành viên SA, đã tham gia phá hoại và cướp bóc hàng nghìn cơ sở kinh doanh, nhà cửa và nghĩa địa Do Thái. Khoảng 500 đến 1.000 giáo đường bị đốt phá. Vào ngày 11 tháng 11, Heydrich báo cáo có 36 người chết trong sự kiện đêm hôm đó. Tuy nhiên, những ước định sau này đưa ra số người thiệt mạng là 2.000. Theo lệnh của Hitler, khoảng 30.000 người Do Thái đã bị bắt và áp giải đến các trại tập trung vào ngày 16 tháng 11. Có tới 2.500 người trong số này đã chết trong những tháng tiếp đó. Chính tại thời điểm này, nhà nước SS đã khởi động gắt gao chiến dịch khủng bố nhằm vào các đối thủ chính trị và tôn giáo, bỏ tù bất kỳ ai bị nghi ngờ không thông qua xét xử hay giám sát tư pháp vì mục đích "an ninh, cải tạo hoặc phòng ngừa". Tháng 9 năm 1939, quyền lực của SS mở rộng hơn nữa khi sĩ quan SS cao cấp nhất ở mỗi quân khu cũng trở thành chánh cảnh sát quân khu đó. Hầu hết các chỉ huy SS và cảnh sát này đều đeo hàm từ SS-Gruppenführer (Trung tướng bậc 2) trở lên và chịu trách nhiệm trực tiếp với Himmler mọi vấn đề trên địa bàn mình phụ trách. Vai trò của họ là cảnh giới dân chúng, giám sát hoạt động của SS viên trong khu vực. Bằng cách ban bố tình trạng khẩn cấp, họ có thể bỏ qua các cơ quan hành chính địa phương và nắm quyền quản lý trực tiếp hoạt động của SS, SD, SiPo, SS-Totenkopfverbände (SS-TV; lính gác trại tập trung) và Orpo. Vệ sĩ riêng của Hitler Quy mô và tầm quan trọng của ba nhóm SS chính bảo vệ Hitler ngày càng tăng. Vào năm 1933, đội vệ sĩ riêng đông đảo của Hitler (trước là SS-Standarte số 1) được triệu tập đến Berlin để thay đội Lực lượng Vệ binh Phủ Thủ tướng Đức. Sepp Dietrich chỉ huy đơn vị mới gọi là SS-Sonderkommando Berlin đổi tên từ SS-Stabswache Berlin (Bảo vệ bộ tham mưu SS Berlin). Tháng 11 cùng năm, đơn vị đổi tên thành Leibstandarte Adolf Hitler. Đến tháng 4 năm 1934 Himmler sửa lại thành Leibstandarte SS Adolf Hitler, viết tắt là LSSAH. LSSAH đảm nhận canh gác nơi ở và văn phòng của Hitler, tạo ra một vòng bảo vệ bên ngoài cho Führer và khách khứa. Họ còn lập các chốt gác trên các lối vào Phủ Thủ tướng cũ và mới. Số lính gác LSSAH tăng lên vào mỗi dịp đặc biệt. Tại dinh thự Berghof của Hitler ở Obersalzberg, có một nhóm LSSAH đông đảo đảm nhận tuần tra một khu vực an ninh rộng lớn. Kể từ năm 1941 trở đi, Leibstandarte được phân làm bốn bộ phận riêng biệt: sư đoàn Waffen-SS (không tham gia bảo vệ Hitler mà là đội hình trực thuộc Waffen-SS), nhóm canh giữ phủ thủ tướng Berlin, trung đoàn an ninh SS được giao đến Obersalzberg và một nhóm vệ sĩ đặt trụ sở tại München giữ trọng trách bảo vệ Hitler mỗi khi ông đến căn hộ riêng và sở chỉ huy Nhà Nâu (Braunes Haus). Tuy danh nghĩa là dưới quyền Himmler nhưng Dietrich mới là chỉ huy thực sự và là người điều hành công việc hàng ngày. Hai đơn vị SS còn lại tạo nên vòng bảo vệ bên trong của Hitler. SS-Begleitkommando des Führers thành lập tháng 2 năm 1932, gồm tám người luân phiên túc trực theo ca suốt ngày đêm, là nhóm hộ tống Hitler khi di chuyển. SS-Begleitkommando về sau phát triển thành Führerbegleitkommando (FBK, Biệt động tháp tùng Führer), vẫn nhận lệnh riêng và bảo vệ Hitler. Führer Schutzkommando (FSK, Biệt động bảo vệ Führer) là đội cận vệ do Himmler lập vào tháng 3 năm 1933, ban đầu chỉ phụ trách bảo vệ Hitler ở trong địa phận Bayern nhưng đến đầu năm 1934 thì thay thế SS-Begleitkommando để bảo vệ Hitler trên phạm vi toàn quốc. Tháng 8 năm 1935, FSK đổi tên thành Reichssicherheitsdienst (RSD, Cục An ninh Quốc gia). Johann Rattenhuber, giám đốc RSD, gần như chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Hitler. Trong khi đó, giám đốc FBK hiện tại chỉ đóng vai trò phụ tá của Rattenhuber. Các thành viên RSD và FBK có mặt tại mọi nơi Hitler cư trú. Người của RSD đảm nhiệm công việc tuần tra xung quanh còn FBK bảo vệ an ninh chặt chẽ bên trong. Vào mỗi chuyến đi hay sự kiện công cộng, người của RSD và FBK phối hợp để đảm bảo an ninh và bảo vệ cá nhân Hitler nhưng vẫn đi theo hai nhóm và sử dụng xe riêng. Đến tháng 3 năm 1938, cả hai đều mặc đồng phục xám ngả lục tiêu chuẩn của SS. Đồng phục của RSD có nút hình thoi với chữ SD ở nửa dưới ống tay áo bên trái. Thành lập trại tập trung SS có liên hệ chặt chẽ với hệ thống trại tập trung của Đức Quốc Xã. Vào ngày 26 tháng 6 năm 1933, Himmler bổ nhiệm SS-Oberführer Theodor Eicke làm chỉ huy một trong những trại tập trung đầu tiên tại Đức là Dachau. Trại này ra đời nhằm hợp nhất nhiều trại nhỏ từng được Đảng Quốc xã và nhiều cơ quan cảnh sát dựng lên để giam cầm tù nhân chính trị. Cơ cấu tổ chức Eicke áp dụng tại Dachau đã trở thành hình mẫu cho tất cả trại tập trung sau này. Sau năm 1934, Eicke được chỉ định là chỉ huy của SS-Totenkopfverbände (SS-TV), đội hình SS phụ trách điều hành các trại tập trung do SS và Himmler quản lý. Được biết đến với cái tên "Đơn vị Đầu lâu", ban đầu SS-TV được tổ chức thành nhiều tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn đóng tại một trong những trại tập trung lớn của Đức. Tổ lãnh đạo tại các trại được chia làm gồm năm bộ phận: chỉ huy và phụ tá, bộ phân chuyên trách chính trị, giam giữ bảo vệ, quản lý, và nhân viên y tế. Đến năm 1935, Himmler có được sự phê chuẩn của Hitler và tài chính cần thiết để xây dựng và vận hành các trại bổ sung. Sau bốn năm đã có sáu trại tập trung giam giữ 21.400 tù nhân (chủ yếu là tù nhân chính trị) vào thời điểm tháng 9 năm 1939, cũng là lúc chiến tranh bắt đầu. Khi chiến tranh kết thúc, hàng trăm trại với quy mô và chức năng khác nhau đã mọc lên, chứa gần 715.000 người mà hầu hết bị chính quyền Đức Quốc Xã nhằm vào chỉ vì chủng tộc của họ. Nhân khẩu các trại tập trung tăng lên song song với những thất bại mà Đức Quốc Xã phải hứng chịu; tình hình ngày càng tồi tệ đồng nghĩa với nỗi sợ bị lật đổ càng lớn. Điều này đã thúc đẩy SS tăng cường đàn áp và khủng bố tù nhân. SS trong Chiến tranh thế giới thứ hai Vào thời điểm Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, SS hợp nhất thành hình hài cuối cùng, cấu thành từ ba tổ chức chính là Allgemeine SS (SS Tổng quát), SS-Totenkopfverbände và Waffen-SS (SS Vũ trang). Lực lượng vũ trang SS được thành lập năm 1934 dưới cái tên SS-Verfügungstruppe (SS-VT), đến năm 1940 thì đổi tên thành Waffen-SS. Trong quá trình diễn ra cuộc chiến, Waffen-SS đã phát triển thành đội quân thứ hai của Đức, hoạt động song song cùng Wehrmacht, đặc biệt là với Lục quân Đức. Tuy nhiên, đơn vị này chưa từng được hoàn toàn độc lập tác chiến hay được xem là "địch thủ đáng gờm" của quân đội Đức. Thành viên SS không thể gia nhập hàng ngũ Bộ Tư lệnh Tối cao Đức và SS buộc phải phụ thuộc vào quân đội để trang bị những loại vũ khí hạng nặng. Dù cấp hàm SS nhìn chung có sự tương đương với những binh chủng khác, tên quân hàm trong hệ thống quân hàm của SS không sao chép các nhánh của Wehrmacht. Thay vào đó, quân hàm của SS được phỏng theo hệ thống do Freikorps và SA thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là một cách để nhấn mạnh rằng SS độc lập với Wehrmacht. Cuộc xâm lược Ba Lan Trong cuộc xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939, hai lực lượng LSSAH và SS-VT tham chiến trong vai các trung đoàn bộ binh cơ động riêng biệt. LSSAH trở nên khét tiếng với các vụ đốt phá làng mạc mà không có bất kỳ lý do quân sự chính đáng nào. Thành viên LSSAH ra tay tàn độc tại nhiều thành thị, bao gồm sát hại 50 người Do Thái Ba Lan ở Błonie, dùng súng máy bắn chết 200 người (bao gồm cả trẻ em) ở Złoczew. Các vụ nổ súng còn tiếp diễn Bolesławiec, Torzeniec, Goworowo, Mława, và Włocławek. Một số thành viên cao cấp của Wehrmacht không tin các đơn vị SS này được chuẩn bị đầy đủ cho chiến đấu. Các đơn vị này thường chấp nhận rủi ro không cần thiết và có tỷ lệ thương vong cao hơn quân đội, một điều mà Generaloberst (Đại tướng) Fedor von Bock phê phán. Sau chuyến thăm sư đoàn SS-Totenkopf vào tháng 4 năm 1940, ông phát hiện họ chưa được đào tạo đủ bài bản để có thể tác chiến trên chiến trường một cách hiệu quả. Về phía Hitler, ông cho rằng lời chỉ trích này đơn thuần chỉ là một "quan niệm tinh thần thượng võ cổ hủ" của giới tướng lĩnh Wehrmacht. Về phần SS, họ lấy lý do rằng các nhóm vũ trang SS phải tác chiến tách rời nhau và không được quân đội Đức trang bị phù hợp. Sau khi Ba Lan bị chiếm đóng, Hitler giao cho SS thực hiện các hành động trừ khử có mật danh là Chiến dịch Tannenberg và AB-Aktion nhằm loại bỏ các thủ lĩnh tiềm tàng có thể gây dựng phong trào kháng chiến chống quân Đức. Các vụ giết người được Einsatzgruppen (đội đặc nhiệm; các nhóm triển khai) thực hiện và được hỗ trợ bởi các nhóm bán quân sự địa phương. Nhân lực của Einsatzgruppen vốn đa phần lấy từ thành viên của SS, SD và lực lượng cảnh sát. Đến hết năm 1939 đã có khoảng 65.000 công dân Ba Lan bị giết, bao gồm các nhà hoạt động, trí thức, học giả, giáo viên, diễn viên, cựu sĩ quan cùng những người khác. Khi ban lãnh đạo quân đội phàn nàn về sự tàn bạo của Einsatzgruppen, Reinhard Heydrich đáp lại rằng mình chỉ đang hành động "theo mệnh lệnh đặc biệt của Führer". Vụ xử bắn hàng loạt người Do Thái có hệ thống đầu tiên mà Einsatzgruppen thực hiện diễn ra vào ngày 6 tháng 9 năm 1939 khi quân Đức tấn công Kraków. Hài lòng với màn thể hiện của SS ở Ba Lan, Hitler cho phép mở rộng thêm các đơn vị SS vũ trang khác, nhưng ông khẳng định các đơn vị mới vẫn phải chịu sự quản lý của quân đội. Trong khi SS-Leibstandarte vẫn là một trung đoàn độc lập hoạt động như đội vệ sĩ riêng của Hitler thì các trung đoàn khác như SS-Deutschland, SS-Germania và SS-Der Führer đã kết hợp thành SS-Verfügungs-Division (vệ binh cơ động). Sư đoàn SS thứ hai, SS-Totenkopf, được cấu thành từ các lính canh trại tập trung của SS-TV. Còn sư đoàn SS thứ ba, SS-Polizei, được thành lập từ các tình nguyện viên cảnh sát. Vào thời điểm này, SS đã giành được quyền quản lý công tác tuyển mộ, hậu cần, và hệ thống cung ứng cho các đội hình vũ trang của mình. SS, Gestapo và SD phụ trách cơ quan hành chính quân sự lâm thời ở Ba Lan cho đến khi Hans Frank được bổ nhiệm làm Toàn quyền vào ngày 26 tháng 10 năm 1939. Trận chiến nước Pháp Vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, Hitler phát động tấn công Pháp và các nước thuộc vùng đất thấp, mở màn cho trận chiến nước Pháp. SS tham gia tiếp tế hai trong số 89 sư đoàn tham chiến. Lực lượng LSSAH và các đơn vị thuộc SS-VT tham gia cuộc xâm lược trên bộ trong trận Hà Lan. Nhiều lính dù đồng thời được thả để chiếm những sân bay, cây cầu, và cung đường sắt trọng yếu của nước này. Sau năm ngày tham chiến, LSSAH hội ngộ với các đơn vị lục quân và lính dù sau một số phen đụng độ với quân phòng thủ Hà Lan. Lính SS không tham gia cuộc tấn công xuyên qua rừng Ardennes và sông Meuse. Thay vào đó, SS-Totenkopf được triệu tập từ nhóm dự bị để hỗ trợ Sư đoàn Panzer số 7 của Generalmajor (Thiếu tướng) Erwin Rommel đang tiến về phía eo biển Manche. Vào ngày 21 tháng 5, quân Anh sử dụng thiết giáp mở một cuộc phản công nhằm vào hai bên sườn của Sư đoàn Panzer số 7 và SS-Totenkopf. Sau đó, quân Đức bẫy quân Anh và Pháp, bao vậy liên quân hai nước trong một vòng vây khổng lồ ở Dunkerque. Vào ngày 27 tháng 5, Đại đội 4, SS-Totenkopf đã gây ra vụ thảm sát Le Paradis – 97 tù binh thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Hoàng gia Norfolk bị sát hại bằng súng máy sau khi đầu hàng. Những người không bị bắn chết đều bị giết bằng lưỡi lê. Trong số những lính Anh, chỉ có duy nhất hai người sống sót. Vào ngày 28 tháng 5, SS-Leibstandarte chiếm được Wormhout nằm cách Dunkerque . Tại đây các binh sĩ thuộc Tiểu đoàn 2 đã giết chết 80 lính Anh và Pháp sau khi họ đầu hàng, gây ra cuộc thảm sát Wormhoudt. Theo nhà sử học Charles Sydnor, "sự liều lĩnh cuồng tín trong tấn công, quyết tử phòng thủ chống lại kẻ thù và sự tàn ác man rợ khi đối mặt với những mục tiêu yếu đuối" mà sư đoàn SS-Totenkopf biểu lộ trong cuộc xâm lược là nét đặc trưng của toàn thể binh sĩ SS. Vào thời điểm trận chiến nước Pháp đi vào hồi kết, Hitler đã bày tỏ sự hài lòng với màn thể hiện của SS-Leibstandarte. Ông nói với họ rằng "kể từ nay về sau, các bạn, đội quân mang tên tôi, sẽ vinh dự dẫn đầu mọi cuộc tấn công của quân Đức". SS-VT được đổi tên thành Waffen-SS trong một bài phát biểu của Hitler vào tháng 7 năm 1940. Rồi Hitler cho phép tuyển mộ (mà theo cách nói của Himmler là) "những người được cho là có dòng dõi liên quan" nhằm nới rộng hàng ngũ. Nhiều người Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan tình nguyện gia nhập Waffen-SS chiến đấu dưới sự chỉ huy của sĩ quan Đức. Họ được tập hợp để lập ra sư đoàn mới mang tên SS-Wiking. Sư đoàn SS-Verfügungs đổi tên thành SS-Reich (sư đoàn cơ giới) vào tháng 1 năm 1941 rồi thành Sư đoàn Panzer SS số 2 Das Reich khi được tái cơ cấu làm một sư đoàn Panzergrenadier (bộ binh cơ giới) năm 1942. Chiến dịch ở Balkan Tháng 4 năm 1941, quân Đức xâm lược Nam Tư và Hy Lạp. LSSAH và Das Reich lần lượt tham gia các quân đoàn Panzer riêng biệt của lục quân. Một đại đội trưởng trực thuộc sư đoàn Das Reich là Fritz Klingenberg đã chỉ huy đại đội băng qua Nam Tư đến thủ đô Beograd. Tại đây, một nhóm nhỏ trong đội tiên phong tiếp nhận sự đầu hàng của thành phố vào ngày 13 tháng 4. Vài ngày sau, toàn bộ Nam Tư đầu hàng. Các đơn vị cảnh sát SS ngay lập tức tiến hành bắt giữ con tin và thực hiện các hành động trả thù, một thực tiễn đã trở nên phổ biến. Trong một số trường hợp, Wehrmacht cũng tham gia vào các cuộc trừ khử do SS thực hiện. Tương tự như Ba Lan, chính sách của Đức Quốc Xã ở Balkan dẫn đến sự chiếm đóng tàn bạo và những cuộc tàn sát mang đậm màu sắc phân biệt chủng tộc. Serbia trở thành quốc gia thứ hai (sau Estonia) tuyên bố Judenfrei (không có người Do Thái). Ở Hy Lạp, Wehrmacht và Waffen-SS vấp phải sự phản kháng từ Lực lượng Viễn chinh Anh (BEF) và quân đội Hy Lạp. Cuộc chiến thêm phần khốc liệt bởi địa hình đồi núi hiểm trở với những con đèo hẹp được cố thủ nghiêm ngặt. LSSAH là lực lượng tiên phong dẫn đầu cuộc tấn công của quân Đức. Trước sự tấn công mạnh mẽ của người Đức, BEF buộc di tản bằng đường biển đến đảo Crete, nhưng phải tháo chạy một lần nữa vào cuối tháng 5 khi quân Đức đổ bộ lên đảo. Tương tự như những gì diễn ra ở Nam Tư, cuộc xâm lược Hy Lạp của Đức mang hiểm nguy đến cho người Do Thái nơi đây vì họ ngay lập tức rơi vào tầm ngắm của Đức Quốc Xã. Ban đầu bị giam giữ trong các khu ghetto, hầu hết người Do Thái Hy Lạp bị áp giải đến trại tập trung Auschwitz vào tháng 3 năm 1943 để rồi bị sát hại trong những căn phòng hơi ngạt. Chỉ 20% trong số 80.000 người Do Thái Hy Lạp sống sót qua chiến tranh. Mặt trận phía Đông Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Hitler phát động chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô. Chiến tranh lan rộng và nhu cầu quản lý lãnh thổ chiếm đóng tạo điều kiện để Himmler củng cố thêm các bộ phận quân sự và cảnh sát của SS. Bước tiến vũ bão của quân Đức trên Mặt trận phía Đông gây khó khăn cho các tổ chức cảnh sát SS khi họ phải vật lộn để thích nghi với những thách thức an ninh mới. Lữ đoàn bộ binh SS số 1 và số 2, được chiêu mộ từ lính canh trại thất nghiệp thuộc SS-TV và Lữ đoàn Kỵ binh SS, theo chân quân đội tiến vào Liên Xô. Ban đầu, hai lữ đoàn này tham gia bình định quân kháng chiến Liên Xô nhưng đến mùa thu năm 1941 thì đảm nhận các công việc liên quan tới Holocaust, chuyển giao nhiệm vụ ban đầu sang các đơn vị khác. Họ lập ra những toán nã súng hỗ trợ Einsatzgruppen thủ tiêu các nhóm dân Do Thái của Liên Xô. Vào ngày 31 tháng 7 năm 1941, Heydrich được Göring ủy quyền bằng văn bản, nhận nhiệm vụ đảm bảo sự hợp tác giữa các ban ngành chính phủ để có thể tiến hành diệt chủng người Do Thái trên các vùng lãnh thổ do Đức kiểm soát một cách hiệu quả. Heydrich góp công không nhỏ trong việc triển khai các hoạt động thảm sát này khi mà cả hai cơ quan thuộc thẩm quyển ông ta – Gestapo và Einsatzgruppen – lần lượt đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng. Ở phía Tây, lực lượng Gestapo tiến hành trục xuất người Do Thái trong khi Einsatzgruppen tiến hành thảm sát trên diện rộng ở phía đông. Vào ngày 20 tháng 1 năm 1942, Heydrich chủ trì một cuộc họp gọi là hội nghị Wannsee nhằm bàn luận cách thực thi kế hoạch. Waffen-SS hứng chịu thương vong nặng nề trong các trận đánh ở Liên Xô những năm 1941 và 1942. LSSAH và Das Reich mất hơn nửa quân số do giao tranh và bệnh tật. Vì nhu cầu nhân lực, Himmler chấp nhận những binh sĩ không đáp ứng được yêu cầu chủng tộc mà SS đề ra thuở ban đầu. Vào đầu năm 1942, SS-Leibstandarte, SS-Totenkopf, và SS-Das Reich được lệnh rút về phía Tây để tái trang bị và tái tổ chức thành các sư đoàn Panzergrenadier (bộ binh cơ giới). Đầu năm 1943, quân đoàn SS-Panzer quay lại Liên Xô và tham gia Trận Kharkov lần thứ ba diễn ra vào tháng 2 và tháng 3 năm đó. Holocaust SS được xây dựng dựa trên nền tảng bạo lực, thể hiện qua hình thái cùng cực nhất bằng việc thảm sát dân thường và tù nhân chiến tranh ở Mặt trận phía Đông. Einsatzgruppen thu nạp thêm nhân sự từ Kripo (cảnh sát hình sự), Orpo (cảnh sát trật tự), Waffen-SS và đạt tổng binh lực là 3.000 người. Các đội Einsatzgruppen A, B và C lần lượt tham gia Cụm tập đoàn quân Bắc, Trung tâm và Nam trong khi Einsatzgruppe D trực thuộc biên chế của Tập đoàn quân số 11. Einsatzgruppe dành cho Mục đích Đặc biệt bắt đầu hoạt động ở miền đông Ba Lan kể từ tháng 7 năm 1941. Sử gia Richard Rhodes mô tả những người này "vượt quá giới hạn đạo đức", "vừa là quan tòa, vừa là bồi thẩm đoàn mà vừa là đao phủ", nắm trong tay mọi quyền sinh sát. Sau Chiến dịch Barbarossa, các đơn vị Einsatzgruppen kết hợp cùng Waffen-SS và Cảnh sát Trật tự giết hại hàng loạt người Do Thái ở miền đông Ba Lan và tại các vùng đất Liên Xô bị chiếm đóng. Quy mô hoạt động của Einsatzgruppen đạt đỉnh vào năm 1941 và 1942 tại Ukraina và Nga. Trước cuộc xâm lược, khắp cõi Liên Xô có hơn năm triệu người Do Thái đăng ký, khoảng ba triệu trong số đó sống trên những lãnh thổ bị quân Đức chiếm đóng. Khi chiến tranh kết thúc, hơn hai triệu người đã bị sát hại. Các hoạt động giết chóc của Einsatzgruppen thường tuân theo một quy trình tiêu chuẩn. Một chỉ huy Einsatzgruppen sẽ liên lạc với tư lệnh đơn vị Wehrmacht gần nhất để thông báo về hành động sắp tới, mục đích là để họ có thể phối hợp kiểm soát khu vực hành quyết, tránh người không phận sự xâm nhập. Ban đầu, các nạn nhân bị hành quyết bằng cách xử bắn, nhưng phương pháp này tỏ ra không khả thi đối với một chiến dịch quy mô tầm cỡ. Thêm nữa, sau khi quan sát thấy 100 người Do Thái bị bắn tại Minsk vào tháng 8 năm 1941, Himmler trở nên lo ngại về tác động của việc làm này lên tinh thần của lính. Ông quyết định phải tìm các phương pháp giết người thay thế, kết quả là xe hơi ngạt ra đời. Tuy nhiên, phương pháp này không được ưa chuộng bởi việc chuyển xác chết ra khỏi xe rồi mang đi chôn là một thử thách khủng khiếp đối với những người lính. Tù nhân hoặc người phụ giúp thường được chỉ định làm nhiệm vụ này để tránh binh lính SS bị sang chấn tâm lý. Tiêu diệt quân kháng chiến Tháng 7 năm 1942, nhằm giải quyết những khó khăn mà kháng quân Liên Xô gây ra cho quân đội, Hitler quyết định chuyển giao hoạt động chống quân kháng chiến cho phía cảnh sát, khiến vấn đề này lọt vào phạm vi phụ trách của Himmler. Ngày 8 tháng 7 năm 1941, khi Hitler ra lệnh rằng tất cả người Do Thái đều là quân kháng chiến thì cụm từ "chiến dịch chống kháng quân" được dùng làm uyển ngữ ám chỉ hoạt động tàn sát người Do Thái và đấu tranh tiêu diệt những phần tử kháng chiến. Tháng 7 năm 1942, Himmler chỉ thị sử dụng thuật ngữ "kẻ cướp" thay thế "kháng quân" làm từ mô tả những kẻ chống đối chính quyền Đức Quốc Xã. Himmler chỉ định SS và SD bắt tay phát triển thêm các sách lược chống kháng quân và mở một chiến dịch tuyên truyền. Tháng 6 năm 1943, Himmler ban hành lệnh Bandenbekämpfung (đánh cướp) và thông báo sự tồn tại của Bandenkampfverbände (các đội đánh cướp) với thủ lĩnh là Obergruppenführer Erich von dem Bach-Zelewski. Bandenkampfverbände chủ yếu tuyển mộ nhân sự từ cảnh sát SS và Waffen-SS, gồm bốn bộ phận chính: truyên truyền, quản lý tập trung và điều phối các hoạt động an ninh, huấn luyện quân đội và hoạt động chiến đấu. Ngay sau khi Wehrmacht chiếm được vùng lãnh thổ mới, nhiệm vụ đầu tiên của các Bandenkampfverbände là tiếp quản cơ sở liên lạc, đường bộ, đường sắt, đường thủy. Tiếp đó, họ sẽ tiếp quản các thôn làng, trụ sở hành chính và xí nghiệp địa phương. Ngoài ra, Bandenkampfverbände cũng nhận nhiệm vụ đảm bảo các nguồn tài nguyên nông nghiệp và lâm nghiệp. SS giám sát việc thu hoạch vụ mùa – một điều được cho là rất quan trọng đối với hoạt động chiến lược. Bất kỳ người Do Thái nào sống trong khu vực đều bị vây bắt và sát hại. Những người cộng sản hay người gốc Á đều bị giết theo phương châm "thà giết nhầm còn hơn bỏ sót" nhằm đề phòng mật vụ Liên Xô trà trộn. Trại tử thần Sau khi chiến tranh bùng nổ, Himmler đẩy mạnh hoạt động của SS tại Đức cũng như trên các vùng lãnh thổ châu Âu do Đức Quốc xã chiếm đóng. Số lượng người Do Thái, công dân Đức bị tình nghi về chính trị, hay người ngoài xã hội, bị bắt ngày một đông. Khi chế độ quốc xã ngày càng trở nên áp chế hơn, hệ thống trại tập trung cũng theo đó mà phát triển về kích thước và quy mô hoạt động giết người. Cường độ tàn sát trở nên ác liệt hơn vào cuối năm 1941 khi SS bắt đầu xây dựng những cơ sở hơi ngạt để làm công cụ giết người thay thế Einsatzgruppen. Nạn nhân của trại hành quyết bị giết bằng khí cacbon monoxit thải từ động cơ xe hơi. Trong chiến dịch Reinhard do người của Totenkopfverbände điều hành, có ba trại hành quyết được xây mới tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị chiếm đóng. Ba trại đó lần lượt là Bełżec (hoạt động vào tháng 3 năm 1942), Sobibór (hoạt động vào tháng 5 năm 1942) và Treblinka (hoạt động vào tháng 7 năm 1942). Các sĩ quan Totenkopfverbände tuyên thệ giữ bí mật, giám sát hàng trăm tù nhân Sonderkommando cùng với các đội Trawnikimänner (cộng tác viên người Đông Âu). Tù nhân Sonderkommando bị bắt làm việc ở phòng hơi ngạt và lò thiêu (thu thập xác chết, áp giải nạn nhân) trước khi chính họ cũng bị giết theo cách tương tự. Theo lệnh của Himmler, trại tập trung tại Auschwitz được nới rộng quy mô vào đầu năm 1942 để xây thêm phòng hơi ngạt để giết các nạn nhân bằng thuốc trừ sâu Zyklon B. Vì lý do hành chính, tất cả lính canh trại tập trung và nhân viên hành chính đều trở thành thành viên chính thức của Waffen-SS vào năm 1942. Các trại tập trung đều nằm dưới quyền chỉ huy của SS-Wirtschafts-Verwaltungshauptamt (Văn phòng hành chính và kinh tế chính SS; WVHA) do Oswald Pohl đứng đầu. Richard Glücks từng là Thanh tra Trại tập trung, năm 1942 trở thành văn phòng "D" trực thuộc WVHA. Khi tình hình chiến sự trở nên xấu đi đối với quân Đức, các hoạt động bóc lột và hành quyết được suy xét lại. Vì nhu cầu lao động của nền kinh tế chiến tranh, đặc biệt là lao động có tay nghề cao, nên một số người Do Thái đã may mắn thoát khỏi nạn diệt chủng. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1942, tình trạng thiếu hụt nhân công trầm trọng khiến Himmler ra lệnh bắt nhiều người khỏe mạnh từ các vùng lãnh thổ Liên Xô bị chiếm đóng đưa sang Đức làm lao động khổ sai. Tới năm 1944, SS-TV đã được tổ chức thành ba bộ phận: cán bộ trại tập trung ở Đức và Áo, cán bộ trại tập trung ở lãnh thổ chiếm đóng và cán bộ trại hành quyết ở Ba Lan. Việc thay người ở các trại đã trở thành thông lệ tiêu chuẩn, một phần dựa trên nhu cầu nhân sự nhưng cũng là một phương pháp để phân việc cho những thành viên SS bị thương một cách dễ dàng hơn. Điều này đồng nghĩa với việc gần như toàn thể nhân sự SS biết những gì diễn ra bên trong các trại tập trung khiến cả tổ chức phải chịu trách nhiệm cho tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người. Đế chế kinh doanh Vào năm 1934, Himmler thành lập một nhà xuất bản tài liệu tuyên truyền và sách hướng dẫn đào tạo SS mang tên Nordland-Verlag. Nhà xuất bản này là phi vụ đầu tư kinh doanh đầu tiên của tổ chức. Himmler mua lại hãng gốm sứ Allach và bắt đầu chế tạo kỷ vật SS. Vì thiếu hụt nhân công và bị thúc đẩy bởi mong muốn kiếm lợi, SS bắt đầu trấn lột tù nhân trại tập trung, ép họ lao động khổ sai. Thuở đầu, hầu hết các doanh nghiệp SS đều thua lỗ cho đến khi Himmler nhượng lại cho Verwaltung und Wirtschaftshauptamt Hauptamt (Văn phòng quản lý và kinh doanh; VuWHA) của Oswald Pohl vào năm 1939. Tuy tình hình tài chính có chút khởi sắc nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động kém hiệu quả vì nhân viên SS thiếu kinh nghiệm kinh doanh còn công nhân phần nhiều đói khổ và không thể làm việc theo năng lực. Tháng 7 năm 1940, Pohl thành lập một tập đoàn bảo trợ mang tên Deutsche Wirtschaftsbetriebe GmbH (Công ty trách nhiệm hữu hạn Kinh tế Đức; DWB) chính thức tiếp quản mọi công ty trực thuộc SS. Trong suốt quá trình tồn tại, SS đã lập tổng cộng gần 200 công ty cổ phần mẹ phục vụ mục tiêu kinh doanh. Tháng 5 năm 1941, VuWHA thành lập Deutsche Ausrüstungswerke GmbH (Vật liệu thiết bị Đức; DAW) để hợp nhất doanh nghiệp SS với hệ thống trại tập trung đang mọc lên ngày một nhiều. Cũng trong năm đó, Himmler cho dựng bốn trại tập trung lớn là Auschwitz, Gross-Rosen, Natzweiler-Struthof và Neuengamme. Mỗi trại đều có ít nhất một nhà máy hoặc mỏ đá gần đó để các tù nhân làm việc. Himmler đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp nhân công cho IG Farben, vốn đang xây dựng một nhà máy sản xuất cao su tổng hợp tại Auschwitz III – Monowitz. Vào thời điểm bị Hồng quân Liên Xô đánh sập năm 1945, nhà máy gần như đã sẵn sàng để đi vào hoạt động. Cũng giống nhiều trại khác, tuổi thọ bình quân của tù nhân sau khi nhập trại Monowitz là ba tháng. Thiếu ăn và có điều kiện sống tồi tàn, lại còn bị ép làm việc quá tải dưới chính sách hành quyết qua lao động là những lý do tại sao tù nhân có tuổi thọ trung bình ngắn đến vậy. Năm 1942, Himmler hợp nhất mọi cơ quan do Pohl phụ trách làm một, lập ra Văn phòng Hành chính và Kinh tế Chính của SS (Wirtschafts- und Verwaltungshauptamt; viết tắt là WVHA). Toàn bộ hệ thống trại tập trung được đặt dưới quyền của WVHA. SS sở hữu Sudetenquell GmbH, một nhà máy sản xuất nước khoáng ở Sudetenland. Đến năm 1944, SS đã mua 75% hãng nước khoáng tại Đức và có ý đồ nắm độc quyền ngành này. Một số trại tập trung sản xuất vật liệu xây dựng như đá, gạch và xi măng cho Deutsche Erd- und Steinwerke cũng thuộc sở hữu của SS (Nhà máy Đất và Đá Đức; viết tắt là DEST). Tại các vùng lãnh thổ phía Đông bị chiếm đóng, SS giành độc quyền sản xuất gạch bằng cách chiếm giữ tất cả 300 xưởng gạch còn tồn tại. DWB còn lập ra Ost-Deutsche Baustoffwerke (Vật liệu cung ứng xây dựng Đông Đức; GmbH hay ODBS) và Deutsche Edelmöbel GmbH (Nội thất Cao cấp Đức). Các hãng này tiến hành sản xuất vật liệu trong các nhà máy mà SS cưỡng đoạt từ người Do Thái và người Ba Lan. SS sở hữu các trang trại thử nghiệm, tiệm bánh, nhà máy đóng gói thịt, xưởng da thuộc, nhà máy sản xuất quần áo và đồng phục cùng các nhà máy sản xuất vũ khí nhỏ. Dưới sự chỉ đạo của WVHA, SS đã cho các nhà máy thuê lao động với giá từ 3 đến 6 Reichsmark mỗi tù nhân mỗi ngày. Ngoài việc tịch thu và bán tài sản của các tù nhân trong trại tập trung, SS còn tịch thu danh sách vốn đầu tư và tiền mặt của họ, đồng thời thu lợi từ những người chết bằng việc bán tóc làm nỉ hoặc nấu chảy vàng từ vật liệu trám răng. SS-Gruppenführer (Trung tướng bậc 1) Odilo Globocnik liệt kê tổng giá trị tài sản mà SS cưỡng đoạt từ các nạn nhân trong Chiến dịch Reinhard (không bao gồm Auschwitz) là 178.745.960,59 Reichsmark. Vật dụng chiếm đoạt bao gồm 2.909,68 kg vàng trị giá 843.802,75 RM, 18.733,69 kg bạc, 1.514 kg bạch kim, 249.771,50 đô-la Mỹ, 130 trang sức kim cương, 13.458,62 cara kim cương, 2.511,87 cara kim cương đa mặt, 114 kg ngọc trai. Theo luật thì tài sản của người Do Thái thuộc về nhà nước nhưng nhiều chỉ huy và lính gác trại thường lấy cắp kim cương, tiền mặt để trục lợi. Họ cũng thường tuồn những mặt hàng thực phẩm và rượu bị tịch thu ra thị trường chợ đen. Tình thế đảo chiều Vào ngày 5 tháng 7 năm 1943, quân Đức khai màn trận vòng cung Kursk để tiêu diệt chỗ lồi của Hồng quân Liên Xô tại Kursk. Gần như toàn bộ lực lượng Waffen-SS – khi ấy đã mở rộng thành 12 sư đoàn – đều tham gia trận đánh. Trước sự kháng cự quyết liệt của Liên Xô, Hitler lệnh hoãn tấn công vào ngày 12 tháng 7. Tới ngày 17, Hitler quyết định đình chỉ chiến dịch và chỉ thị lui binh. Kể từ đó, người Đức đánh mất thế chủ động, trong khi Hồng quân dần bước giải phóng miền tây nước Nga. Vào thời điểm Waffen-SS và Wehrmacht hứng chịu tổn thất lớn tại Kursk, Đồng Minh phương Tây phát động tấn công Ý, mở ra mặt trận thứ hai cho Đức. Cuộc đổ bộ Normandie Bị báo động bởi những cuộc oanh tạc của Không quân Đồng Minh ở Saint-Nazaire và Dieppe năm 1942, Hitler chỉ thị xây một phòng tuyến công sự mà ông gọi là bức tường Đại Tây Dương bao trùm hết bờ biển Đại Tây Dương từ Tây Ban Nha đến Na Uy nhằm ngăn ngừa Đồng Minh đổ bộ. Các ụ súng bằng bê tông được xây dựng tại các điểm chiến lược dọc theo bờ biển và trên bãi biển có bố trí cọc gỗ, khối kim loại ba chân, mìn, và chướng ngại chống tăng để trì hoãn tàu đổ bộ tiếp cận bờ và cản trở sự di chuyển của xe tăng. 11 sư đoàn Panzer và Panzergrenadier (bộ binh cơ giới) cùng một vài sư đoàn bộ binh cố định được bố trí tại gần bờ biển. Bốn sư đoàn trong đội hình này là các sư đoàn trực thuộc Waffen-SS. Sau khi tham chiến ở Liên Xô, SS-Das Reich được chuyển đến miền nam nước Pháp và LSSAH được chuyển đến Bỉ đều được tái trang bị. Một sư đoàn Panzer mới lập khác mang tên SS-Hitlerjugend thì đóng quân ở phía tây Paris. Đa phần nhân sự của sư đoàn được chiêu mộ từ những thành viên 17–18 tuổi của Đoàn Thanh niên Hitler và được hỗ trợ bởi các cựu binh và sĩ quan không ủy nhiệm có kinh nghiệm trận mạc. SS-Hitlerjugend thành lập là dấu hiệu cho thấy Hitler đang tuyệt vọng muốn có thêm lính, nhất là những người vâng lời ông ta một cách mù quáng. Quân đội Đồng Minh phương Tây, yểm trợ bởi hải quân và không quân, bắt đầu triển khai cuộc đổ bộ lớn nhất lịch sử nhân loại kể từ ngày 6 tháng 6 năm 1944. Sư đoàn Panzer số 21 dưới quyền của Generalmajor (Thiếu tướng) Edgar Feuchtinger bố trí ở phía nam Caen là sư đoàn thiết giáp duy nhất đóng gần bờ biển. Sư đoàn này có tổng cộng 150 xe tăng và 50 pháo tự hành tấn công, có bộ binh và pháo binh yểm trợ. Vào lúc 02:00, Generalleutnant (Trung tướng) Wilhelm Richter, tư lệnh Sư đoàn Bộ binh cố định số 716, lệnh cho Sư đoàn Panzer 21 sẵn sàng phản công. Tuy nhiên, vì sư đoàn này là một phần của đội dự bị thiết giáp, Feuchtinger buộc phải có sự cho phép của OKW (Bộ Tư lệnh) mới có thể ra quân. Phải tới gần 09:00 sáng Feuchtinger mới nhận được chỉ thị từ Bộ Tư lệnh. Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi, ông đã điều một nhóm (có xe tăng) đánh chặn quân Anh ở bờ đông sông Orne. SS-Hitlerjugend bắt đầu được triển khai vào chiều ngày 6 tháng 6 và tham gia phòng thủ ngày hôm sau. Sư đoàn này tham gia trận Caen (tháng 6–tháng 8 năm 1944). Vào ngày 7–8 và 17 tháng 6, người của SS-Hitlerjugend đã sát hại 20 tù binh Canada trong vụ thảm sát ở tu viện Ardenne. Quân Đồng Minh liên tiếp thu về những thắng lợi quan trọng trong chiến dịch giải phóng nước Pháp. Vào ngày 4 tháng 8, Hitler ra lệnh phản công từ Vire về phía Avranches (Chiến dịch Lüttich). Tham chiến lần này có LSSAH, Das Reich, Sư đoàn Panzer số 2, 116 cùng sự yểm trợ của bộ binh và các bộ phận thuộc Sư đoàn Panzergrenadier SS số 17 Götz von Berlichingen do SS-Obergruppenführer (Thượng tướng SS) Paul Hausser chỉ huy. Theo kế hoạch, lực lượng này sẽ tiến hành tấn công quân Đồng Minh ở gần Mortain, sau đó thì tiến về phía tây qua Avranches để ra bờ biển. Tuy nhiên nước đi này bị quân Đồng Minh đoán trước. Không quân Đồng Minh tiến hành oanh tạc đội hình kết hợp, gây ra những tổn thất kinh hoàng cho Đức. Vào ngày 21 tháng 8, 5 vạn lính Đức, trong đó có đa phần lực lượng LSSAH, bị Đồng Minh vây hãm tại Falaise. Tàn quân LSSAH buộc phải tháo chạy về Đức để tái trang bị. Chiến dịch Normandie kết thúc sau khi Paris được giải phóng vào ngày 25 tháng 8 rồi đơn vị Đức cuối cùng thoái lui về hữu ngạn sông Seine vào cuối tháng đó. Trận chiến nước Đức Những đơn vị Waffen-SS còn sót lại sau chiến dịch mùa hè được lệnh rút khỏi tiền tuyến để tái trang bị. Hai trong số đó, Sư đoàn Panzer SS số 9 và Sư đoàn Panzer số 10 SS, được tái trang bị tại khu vực Arnhem của Hà Lan đầu tháng 9 năm 1944. Vào ngày 17 tháng 9, khi quân Đồng Minh tổ chức các cuộc tấn công kết hợp cả không lẫn bộ trong khuôn khổ Chiến dịch Market Garden nhằm giành quyền kiểm soát vùng hạ lưu sông Rhein, họ đã bị các lực lượng Đức tại đây (trong đó có cả Panzer SS số 9 và 10) đẩy lui. Tháng 12 năm 1944, Hitler phát động chiến dịch phản công Ardennes với mục đích tiếp cận Antwerpen và bao vây quân Đồng Minh tại Bỉ. Cuộc tấn công mở màn bằng một trận pháo kích ngay rạng sáng ngày 16 tháng 12. Mũi nhọn của cuộc tấn công lần này là hai đội Panzer tập hợp chủ yếu từ các sư đoàn Waffen-SS. Mọi chuyện diễn ra tương đối suôn sẻ đối với người Đức cho đến khi họ phải băng qua khu vực rừng đồi Ardennes trong điều kiện thời tiết mùa đông. Các đơn vị tác chiến Đức nhanh chóng gặp sự phản kháng mạnh mẽ từ Sư đoàn Bộ binh số 2 và 99 của Hoa Kỳ. Đến ngày 23 tháng 12, thời tiết tốt trở lại, không quân Đồng Minh tiến hành không kích quân Đức và bộ phận tiếp tế gây thiếu hụt nhiên liệu. Tình hình trở nên không mấy khả quan đối với người Đức khi mà bước tiến của họ dần chậm lại và chung cuộc bị chặn đứng. Chiến dịch thất bại khiến Hitler mất khoảng 700 xe tăng, gần như toàn bộ lực lượng cơ động còn sót lại ở phía tây, cũng như phần lớn nhân lực và vật lực dự trữ không thể thay thế. Trước khi lui binh, SS-Obersturmbannführer (Trung tá SS) Joachim Peiper đã gieo rắc nỗi kinh hoàng cho quân Đồng Minh khi binh lính Waffen-SS dưới quyền của ông thảm sát tù binh Mỹ và dân thường Bỉ không có vũ trang trong vụ thảm sát Malmedy. Sau chiến tranh, binh sĩ SS trực thuộc Kampfgruppe Peiper (Đội tác chiến Peiper) bị đưa ra xét xử vì những hành động tàn bạo mà họ gây ra trong khu vực này. Nhiều thủ phạm bị tuyên án tử hình song được giảm án. Vì vai trò của mình, Peiper bị tuyên án 11 năm tù. Ở phía đông, Hồng quân Liên Xô tái khởi động cuộc tấn công vào ngày 12 tháng 1 năm 1945. Trên mặt trận Xô – Đức, quân Đức bị áp đảo số lượng 20/1 về máy bay, 11/1 về bộ binh, 7/1 về xe tăng. Tới cuối tháng 1, Hồng quân đã chiếm được đầu cầu bên tả ngạn sông Oder – chướng ngại địa lý cuối ở phía đông Berlin. Đồng Minh phương Tây cũng tiếp tục đạt được những tiến triển song không nhanh bằng Hồng quân. Quân đoàn Panzer cố thủ thành công tại sông Hron vào ngày 17–24 tháng 2, làm chậm bước tiến của quân Đồng Minh đến Viên. Quân đoàn Panzer số 1 và 2 tiến về Áo nhưng bị chậm do hệ thống đường sắt đã bị phá huỷ nặng nề trong các cuộc oanh tạc. Sau khi Budapest thất thủ vào ngày 13 tháng 2, Hitler lệnh cho Tập đoàn quân Panzer SS số 6 của Dietrich đến Hungary để bảo vệ các mỏ dầu và xưởng lọc dầu tại Nagykanizsa mà ông cho là nguồn dự trữ nhiên liệu quan trọng nhất về mặt chiến lược ở phía đông. Cuộc tấn công cuối cùng của Đức ở phía đông, Frühlingserwachsen (Chiến dịch mùa xuân thức tỉnh), diễn ra vào đầu tháng 3. Quân Đức tiến hành phản công gần hồ Balaton với Tập đoàn quân Panzer SS số 6 tiến lên phía bắc đến Budapest và Tập đoàn quân Panzer số 2 di chuyển về phía đông và nam. Quân của Dietrich ban đầu gặt hái một số thành công song bị chặn khi đến gần sông Danube bởi địa hình bùn lầy và sự phản kháng mạnh mẽ của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 3, kế hoạch của quân Đức chính thức phá sản. Tức giận sau khi nghe tin bại trận, Hitler lệnh cho toàn bộ đơn vị Waffen-SS có liên quan phải tháo huy hiệu trên tay áo như một dấu hiệu của sự ô nhục. Dietrich từ chối thực thi mệnh lệnh này. Tính đến thời điểm này, trên cả hai mặt trận đông tây, quân Đồng Minh nhận thức rõ các hành vi của SS sau khi giải phóng các trại tập trung và hành quyết. Binh lính Đồng Minh hoài nghi và ghê tởm trước bằng chứng về sự tàn bạo của Đức Quốc Xã tại những trại này. Vào ngày 9 tháng 4 năm 1945, Königsberg rơi vào tay Hồng quân. Sang đến ngày 13 thì đơn vị SS của Dietrich cũng đã bị đẩy khỏi Viên. Pháo binh Liên Xô khai hỏa lúc 03:30 ngày 16 tháng 4, mở màn Trận Berlin. Trong suốt một tuần, giao tranh diễn ra quyết liệt trong khu vực nội thành. Thành phần phòng thủ Berlin bao gồm lính Waffen-SS người Pháp, Latvia và Scandinavia. Lúc bấy giờ, Hitler tuy đang ẩn nấp trong Führerbunker phía dưới phủ thủ tướng những vẫn hy vọng số binh sĩ SS còn sót lại có thể giải nguy cho thủ đô. Bất chấp tình cảnh vô vọng, quân SS tuần tra thành phố tiếp tục xử bắn hoặc treo cổ bất kỳ người lính hoặc người dân nào có hành vi bị xem là hèn nhát và chủ bại. Quân phòng thủ Berlin đầu hàng vào ngày 2 tháng 5 – hai ngày sau khi Hitler tự sát. Vì không trông mong nhiều vào sự nhân từ của Hồng quân, nhiều thành viên SS chọn cách đào thoát về phía tây để đầu hàng Đồng Minh phương Tây. Các đơn vị và chi nhánh SS Reichssicherheitshauptamt Heydrich giữ chức Chef der Sicherheitspolizei und des SD (Chánh Cảnh sát an ninh và SD) đến ngày 27 tháng 9 năm 1939 rồi trở thành giám đốc Reichssicherheitshauptamt (Văn phòng An ninh Chính Quốc gia; viết tắt là RSHA) mới thành lập. Từ thời điểm đó trở đi, RSHA phụ trách các lực lượng bảo mật SS, bao gồm SD, Kripo, Gestapo, cùng một vài cơ quan khác xử lý các vấn đề tài chính, quản trị và nguồn cung. Heinrich Müller, người trước đó từng là giám đốc điều hành của Gestapo, đã được bổ nhiệm làm thủ lĩnh mới của lực lượng này. Arthur Nebe trở thành chỉ huy trưởng của Kripo, còn hai nhánh SD do một loạt sĩ quan SS như Otto Ohlendorf và Walter Schellenberg chỉ huy. SD được coi là lực lượng ưu tú của SS; thành viên SD được đào tạo bài bản hơn và thường tham vọng hơn những người trong hàng ngũ Allgemeine SS. Các thành viên của SD được huấn luyện về tội phạm học, tình báo và phản tình báo. Họ cũng nổi tiếng tàn nhẫn và trung thành tuyệt đối với ý thức hệ Đức Quốc Xã. Vào ngày 27 tháng 5 năm 1942, một tổ binh sĩ người Séc và Slovak do Anh đào tạo đã tấn công Heydrich ở Praha. Đây là những người được chính phủ lưu vong Tiệp Khắp cử đi giết Heydrich trong chiến dịch Anthropoid. Heydrich bị thương và qua đời một tuần sau. Himmler tạm thời điều hành RSHA đến ngày 30 tháng 1 năm 1943, rồi Ernst Kaltenbrunner lên tiếp quản những vị trí Heydrich từng nắm giữ. SS-Sonderkommando Bắt đầu từ năm 1938 cũng như trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, SS ban hành một thủ tục cho phép các phòng ban và đơn vị SS tạo lập những đơn vị con gọi là SS-Sonderkommando (Biệt động Đặc biệt SS) để thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt, bao gồm cả các hoạt động giết người quy mô lớn, dẫn đến việc lực lượng SS-Sonderkommando được triển khai trên diện rộng. Theo lời của cựu SS-Sturmbannführer (Thiếu tá SS) Wilhelm Höttl, ngay cả giới lãnh đạo SS cũng không biết có bao nhiêu SS-Sonderkommando từng được thành lập, giải thể và cải tổ cho các nhiệm vụ khác nhau, đặc biệt là ở Mặt trận phía Đông. Đơn vị SS-Sonderkommando của SS-Sturmbannführer Herbert Lange đã sát hại 1.201 bệnh nhân bệnh viện tâm thần Tiegenhof ở thành phố tự do Danzig, 1.100 ở Owińska, 2.750 ở Kościan, 1.558 ở Działdowo, cùng hàng trăm người Ba Lan ở trại Pháo đài VII nơi có xe và buồng hơi ngạt. Trong các năm 1941–42, SS-Sonderkommando Lange đã xây dựng và quản lý trại hành quyết đầu tiên tại Chełmno, tại đây 152.000 người Do Thái đã bị giết bằng xe hơi ngạt. Tháng 2 năm 1943, sau trận Stalingrad, Himmler linh cảm rằng nước Đức sẽ thua nên đã cho thành lập một đội đặc nhiệm mang tên Sonderkommando 1005 do SS-Standartenführer (Thượng tá SS) Paul Blobel chỉ huy. Nhiệm vụ của đơn vị này là đến những hố chôn tập thể ở Mặt trận phía Đông để tiến hành khai quật và phi tang xác chết nhằm che giấu tội ác diệt chủng. Khi chiến tranh kết thúc, Sonderkommando 1005 vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ mà Himmler giao phó. Vì vậy nên nhiều hố chôn vẫn chưa được đánh dấu hoặc khai quật. Eichmann Sonderkommando là đội đặc nhiệm dưới trướng Adolf Eichmann được cử đến Budapest vào ngày 19 tháng 3 năm 1944, cùng ngày phe Trục xâm lược Hungary. Các đơn vị SS-Sonderkommando tranh thủ sự trợ giúp của các phần tử bài Do Thái thuộc lực lượng hiến binh Hungary và những nhà quản lý thân Đức thuộc Bộ Nội vụ Hungary để phụ trách công tác trục xuất người Do Thái Hungary đến Auschwitz. Hoạt động vây bắt được tiến hành vào ngày 16 tháng 4. Kể từ ngày 14 tháng 5, mỗi ngày đều có tới bốn đoàn tàu chở 3.000 người Do Thái rời Hungary đến Auschwitz II-Birkenau. Con tàu sẽ vào nhánh đường ray mới xây nằm cách khu phòng hơi ngạt vài trăm mét. Từ 10 đến 25% số người trên mỗi chuyến tàu được chọn làm lao động khổ sai, số còn lại bị giết chỉ trong vòng vài giờ sau khi đến. Dưới áp lực quốc tế, chính phủ Hungary đã ngừng trục xuất người Do Thái vào ngày 6 tháng 7 năm 1944. Tính đến thời điểm đó, hơn 437.000 trong số 725.000 người Do Thái của Hungary đã phải bỏ mạng. Einsatzgruppen Einsatzgruppen (đội đặc nhiệm) có nguồn gốc từ lực lượng Einsatzkommando (Biệt động đặc nhiệm) Đặc biệt được Heydrich thành lập sau sự kiện Anschluss ở Áo vào tháng 3 năm 1938. Tháng 10 năm 1938, có hai đơn vị Einsatzgruppen đồn trú tại Sudetenland – lãnh thổ mới được Tiệp Khắc nhượng lại theo Thỏa thuận München. Về sau, Einsatzgruppen nhận nhiệm vụ tịch thu giấy tờ chính phủ và tài liệu của cảnh sát Tiệp Khắc tại địa phương. Họ canh giữ các tòa nhà chính phủ, thẩm vấn các công chức cấp cao và bắt giữ khoảng 10.000 người cộng sản Séc và công dân Đức. Einsatzgruppen cũng theo chân Wehrmacht và thẳng tay sát hại những phần tử bị tình nghi là kháng quân. Các đơn vị tương tự được sử dụng vào năm 1939 khi Đức chiếm đóng Tiệp Khắc. Hitler cảm thấy việc giết người Do Thái có kế hoạch là quá khó và quá quan trọng để có thể giao phó cho quân đội. Năm 1941, Einsatzgruppen được cử đến Liên Xô để bắt đầu cuộc diệt chủng người Do Thái, Di-gan và cộng sản trên diện rộng. Nhà sử học Raul Hilberg ước tính rằng Einsatzgruppen cùng các cơ quan liên quan đã gây ra cái chết của hơn 2 triệu người, trong đó có 1,3 triệu người Do Thái, trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến năm 1945. Vụ xử bắn hàng loạt lớn nhất mà Einsatzgruppen thực hiện là tại Babi Yar ở ngoại ô Kiev, khi 33.771 người Do Thái phải bỏ mạng trong một cuộc càn quét diễn ra trong hai ngày 29–30 tháng 9 năm 1941. Tháng 9–12 năm 1941, Einsatzgruppen tham gia sát hại 25.000 người từ khu ghetto Riga trong thảm sát Rumbula. Một vụ xử bắn hàng loạt khác diễn ra vào đầu năm 1942 cũng đã cướp đi sinh mạng của hơn 10.000 người Do Thái ở Kharkiv. Einsatzgruppen buộc phải giải thể vào giữa năm 1944 (dù một số vẫn tiếp tục tồn tại trên giấy tờ cho đến năm 1945) do quân Đức rút lui trên cả hai mặt trận khiến hoạt động tàn sát không thể tiếp tục. Các cựu thành viên Einsatzgruppen được giao nhiệm vụ tại Waffen-SS hoặc trại tập trung. Sau khi chiến tranh kết thúc, 24 chỉ huy Einsatzgruppen đã bị đưa ra xét xử vì tội ác chiến tranh. Văn phòng tòa án chính SS Văn phòng tòa án chính SS (Hauptamt SS-Gericht) là một cơ quan pháp luật nội bộ có nhiệm vụ thực hiện các cuộc điều tra, xét xử và trừng phạt của SS và cảnh sát. Bộ phận này có hơn 600 luật sư làm việc tại các văn phòng chính ở Berlin và München. Quá trình tố tụng được tiến hành tại 38 tòa án SS địa phương trên khắp nước Đức. Đây là cơ quan duy nhất được phép xét xử các nhân viên SS, ngoại trừ các thành viên SS đang hoạt động trong Wehrmacht (những thành viên SS này sẽ được xét xử tại một tòa án quân sự tiêu chuẩn). Sự ra đời của Tòa án này đã khiến SS vượt ngoài tầm xử lý của cơ quan thẩm quyền dân sự. Himmler đích thân can thiệp vào việc kết tội và trừng trị khi thấy thích hợp. Nhà sử học Karl Dietrich Bracher mô tả hệ thống tòa án này là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành một nhà nước cảnh sát toàn trị khi nó loại bỏ mọi thủ tục pháp lý khách quan, khiến công dân không có cơ hội biện hộ trước một nền "công lý giản lược của khủng bố SS". Kỵ binh SS Ngay sau khi Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, hầu hết các hiệp hội cưỡi ngựa đều do SA và SS tiếp quản. Các thành viên được huấn luyện chiến đấu để phục vụ trong Reiter-SS (Quân đoàn kỵ binh SS). Trung đoàn kỵ binh SS đầu tiên, mang tên SS-Totenkopf Reitstandarte số 1, được thành lập vào tháng 9 năm 1939. Đơn vị nằm dưới sự chỉ huy của SS-Standartenführer (Thượng tá) Hermann Fegelein, được cử tới Ba Lan tham gia tiêu diệt giới trí thức nước này. Tháng 5 năm 1940, SS bổ sung thêm nhiều đội kỵ binh mới, nâng số tổng số trung đoàn lên mười bốn. Hai trung đoàn tách từ SS-Totenkopf Reitstandarte 1 vào tháng 12 năm 1939 đều do Fegelein phụ trách. Tổng binh lực của hai trung đoàn này tính đến tháng 3 năm 1941 là 3.500 người. Tháng 7 năm 1941, họ tổ chức vây bắt và sát hại người Do Thái và quân kháng chiến trong chiến dịch thanh trừng đầm lầy Pripyat. Vào ngày 31 tháng 7, hai trung đoàn trên được hợp nhất thành Lữ đoàn kỵ binh SS. Báo cáo cuối cùng của Fegelein ngày 18 tháng 12 năm 1941 nói rằng họ đã giết 14.178 người Do Thái, 1.001 kháng quân, 699 lính Hồng quân, bắt giam 830 người. Nhà sử học Henning Pieper ước tính số người Do Thái bị giết trên thực tế là gần 23.700. Lữ đoàn kỵ binh SS chịu tổn thất nghiêm trọng trong trận Moskva tháng 11 năm 1941, với thương vong lên tới 60% trong một số đội. Fegelein được bổ nhiệm làm chỉ huy Sư đoàn kỵ binh SS số 8 Florian Geyer vào ngày 20 tháng 4 năm 1943. Đơn vị này nhận nhiệm vụ đàn áp quân kháng chiến và dân thường ở Liên Xô. Ngoài các đơn vị trên ra còn có các trung đoàn kỵ binh SS khác phục vụ tại Croatia và Hungary. Đoàn y tế SS Quân đoàn y tế SS ban đầu được gọi là Sanitätsstaffel (đơn vị y tế). Sau năm 1931, SS lập ra Amt V làm văn phòng trung ương cho những đơn vị y tế SS. Năm 1938, một học viện y SS được lập ở Berlin để đào tạo bác sĩ quân y của Waffen-SS. Nhiệm vụ chính của nhân viên y tế SS là thúc đẩy công cuộc y tế hóa diệt chủng thay vì công tác chăm sóc người bệnh. Tại Auschwitz, khoảng 3/4 số người mới đến, bao gồm hầu hết trẻ em, phụ nữ có con nhỏ, toàn bộ người già hay bất kỳ người nào không vượt qua bài kiểm tra sức khỏe ngắn và hời hợt của bác sĩ SS đều sẽ bị giết trong vòng vài giờ sau khi nhập trại. Trong vai trò là Desinfektor (người khử trùng), các bác sĩ SS chọn lựa nhân công theo tiêu chí thể lực và giám sát công tác giết bất kỳ ai không đáp ứng yêu cầu. Tù nhân có sức khỏe yếu bị bác sĩ SS kiểm tra và quyết định xem có thể khỏe lại trong dưới hai tuần không. Những người bị thương hoặc ốm quá nặng và không thể phục hồi trong khung thời gian đó sẽ bị giết. Tại Auschwitz, khâu cấp phát hơi độc đến nạn nhân luôn do nhân viên SS thực hiện theo lệnh của các y bác sĩ SS. Nhiều bác sĩ SS cũng tiến hành các thí nghiệm y tế vô nhân đạo trên các tù nhân trong trại. Bác sĩ SS khét tiếng nhất, Josef Mengele, từng phục vụ trong vai trò cán bộ y tế tại Auschwitz dưới sự chỉ huy của Eduard Wirths thuộc lực lượng quân y của trại. Hy vọng tìm được đối tượng để thí nghiệm, Mengele tiến hành tuyển chọn bệnh nhân ngay cả khi công việc không yêu cầu. Mengele đặc biệt quan tâm đến những cặp song sinh. Trong khi các bác sĩ khác coi việc tìm đối tượng là một trong những nhiệm vụ căng thẳng và kinh khủng nhất của họ, Mengele lại làm việc này với vẻ khoa trương và thường mỉm cười hoặc huýt sáo khi làm việc. Sau chiến tranh, nhiều bác sĩ SS bị cáo buộc tội ác chiến tranh vì những thí nghiệm y khoa vô nhân tính và vai trò của họ trong công tác chọn lọc tù nhân. Các đơn vị SS khác Ahnenerbe Ahnenerbe (Tổ chức Di sản Tổ tiên) được Himmler thành lập vào năm 1935 và trở thành một phần của SS vào năm 1939. Ahnenerbe là cơ quan bảo trợ cho hơn năm mươi tổ chức có nhiệm vụ nghiên cứu bản sắc chủng tộc của người Đức cũng như về truyền thống và ngôn ngữ dân tộc German cổ đại. Cơ quan này tài trợ cho các cuộc thám hiểm khảo cổ ở Đức, Scandinavia, Trung Đông, Tây Tạng cũng như một số nơi khác nhằm tìm kiếm bằng chứng về nguồn gốc, ảnh hưởng và sự ưu việt của người Arya. Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, các cuộc thám hiểm lên kế hoạch từ trước đều đã bị hoãn vô thời hạn. SS-Frauenkorps SS-Frauenkorps (Quân đoàn nữ) là một đơn vị báo cáo và văn thư phụ trợ, với thành phần chính là SS-Helferinnenkorps (Quân đoàn trợ giúp nữ) được cấu thành từ các nữ tình nguyện viên. Các thành viên được chỉ định làm nhân viên hành chính và nhân viên cung ứng. Họ cũng thường phục vụ ở các vị trí chỉ huy hoặc làm lính canh tại các trại tập trung nữ. Lính canh trại tập trung và hành quyết nữ là nhân viên dân sự của SS. SS-Helferinnen (Phụ tá nữ SS) hoàn thành khóa huấn luyện tại Reichsschule für SS-Helferinnen (Trường dành cho những nữ phụ tá SS) ở Oberehnheim (Alsace) sẽ là thành viên chính quy của Waffen-SS. Tương tự các đồng sự nam giới, SS nữ cũng tham gia đàn áp, tàn sát người Do Thái, người Ba Lan và các dân tộc khác. Năm 1942, Himmler thành lập Reichsschule für SS Helferinnen ở Oberehnheim để đào tạo phụ nữ trong lĩnh vực liên lạc. Trong thời điểm mà quân đội Đức đang cần người trên tiền tuyến thì mục tiêu của khóa đào tạo này là để phụ nữ có thể thay nam giới đảm nhận các cộng việc ở hậu phương. Himmler cũng có ý định thay thế tất cả các nữ nhân viên dân sự phục vụ của mình bằng các thành viên SS-Helferinnen vì họ được lựa chọn và đào tạo theo hệ tư tưởng của Đức Quốc Xã. Reichsschule für SS Helferinnen phải đóng cửa vào ngày 22 tháng 11 năm 1944 trước cuộc tiến công của quân Đồng Minh. SS-Mannschaften SS-Mannschaften (Lực lượng Phụ trợ SS) không được coi là thành viên SS chính quy nhưng được tuyển mộ từ các nhánh khác thuộc quân đội Đức, NSDAP, SA và Volkssturm để phục vụ trong các trại tập trung và trại hành quyết. Lính lê dương và tình nguyện viên ngoại quốc Kể từ năm 1940, Himmler mở đợt tuyển mộ những người Đức không mang quốc tịch Đức gia nhập Waffen-SS. Vào tháng 3 năm 1930, Văn phòng Chính của SS thành lập Germanische Leitstelle (Văn phòng Hướng dẫn German) để mở các văn phòng tuyển mộ Waffen-SS trên các vùng lãnh thổ châu Âu do Đức Quốc Xã chiếm đóng. Phần lớn thành viên của các đơn vị Waffen-SS nước ngoài đều sẽ đeo phù hiệu cổ áo đại diện cho quốc gia xuất xứ. Tên gọi của các lực lượng Waffen-SS nước ngoài có tiền tố Waffen thay vì SS. Tình nguyện viên từ Scandinavia được chia đều thành hai sư đoàn là SS-Wiking và SS-Nordland. Tình nguyện viên người Thụy Sĩ nói tiếng Đức tham gia với số lượng lớn. Người Vlaanderen Bỉ gia nhập người Hà Lan để thành lập quân đoàn SS-Nederland còn người Wallonie nói tiếng Pháp gia nhập lực lượng SS-Wallonien. Đến cuối năm 1943, khoảng một phần tư binh sĩ SS là người gốc Đức đến từ khắp châu Âu. Sang đến năm 1944, hơn một nửa nhân sự Waffen-SS (và SS) là người sinh ra ở nước ngoài. Waffen-SS bổ sung thêm nhân lực từ người Ukraina, người Albania từ Kosovo, người Serbia, người Croatia, người Đột Quyết, người da trắng, người Cossack và người Ấn Độ. Lý do người Ukraina và người Tatar tình nguyện gia nhập SS có lẽ là do phải chịu sự đàn áp dưới thời Stalin chứ không phải vì họ có cùng ý thức hệ với SS. Hitler tranh thủ được sự ủng hộ của một số nhân vật có tiếng nói trong giới tăng lữ Hồi giáo. Đại Mufti lưu vong của Jerusalem Amin al-Husseini được Himmler phong làm SS-Gruppenführer (thiếu tướng SS) vào tháng 5 năm 1943. Al-Husseini lợi dụng chủ nghĩa bài Do Thái và lòng căm thù người Serbia để tuyển mộ người Hồi giáo Bosnia gia nhập sư đoàn SS-Handschar. Việc quân Liên Xô chiếm đóng các nước Baltic trong hơn một năm vào đầu Thế chiến thứ hai là động lực thúc đẩy tình nguyện viên Latvia và Estonia gia nhập các đơn vị Waffen-SS. Quân đoàn Estonia có 1.280 tình nguyện viên đang được huấn luyện vào cuối năm 1942. Khoảng 25.000 người phục vụ trong sư đoàn Estonia của SS, cộng với hàng nghìn người tham gia vào các tiểu đoàn thuộc Mặt trận Cảnh sát và các đơn vị biên phòng. Hầu hết người Estonia tham chiến để giành độc lập và trong đó có tới 15.000 người hy sinh khi chiến đấu cùng quân Đức. Vào đầu năm 1944, Himmler thậm chí còn đề nghị Oswald Pohl phóng thích các tù nhân Hồi giáo khỏi các trại tập trung để bổ sung vào lực lượng SS. Quân đoàn Ấn Độ là một đơn vị trực thuộc Wehrmacht được thành lập vào tháng 8 năm 1942. Các thành viên của lực lượng này phần nhiều là lính Ấn Độ thuộc quân đội Anh-Ấn bị bắt trong chiến dịch Bắc Phi. Vào tháng 8 năm 1944, đơn vị được chuyển giao cho Waffen-SS quản lý và đổi tên thành Indische Freiwilligen-Legion der Waffen-SS (Binh đoàn Lê dương Ấn Độ tự do thuộc Waffen-SS). Bên cạnh đó, một sư đoàn tình nguyện của Pháp có tên là SS-Charlemagne được thành lập vào năm 1944, lấy nhân lực chủ yếu từ tàn quân của Quân đoàn tình nguyện Pháp chống chủ nghĩa Bolshevik và Sturmbrigade (Lữ đoàn xung kích) Pháp. Quân hàm và quân phục SS đã thiết lập biểu tượng, nghi lễ, phong tục, cấp bậc và đồng phục riêng để tạo sự khác biệt với các tổ chức khác. Trước năm 1929, SS mặc đồng phục màu nâu tương tự SA, mang thêm cà vạt đen và mũ lưỡi trai đen có biểu tượng hai khúc xương đặt chéo nhau và Totenkopf (đầu lâu). Năm 1932, SS chuyển sang đồng phục đen. Năm 1935, các đội hình chiến đấu của SS đưa đồng phục màu xám xanh mặc hằng ngày vào sử dụng. SS cũng phát triển đồng phục dã chiến riêng, gồm áo khoác có thể lộn ngược và mũ đội có in hoa văn ngụy trang. Phần lớn đồng phục SS được sản xuất tại hàng trăm nhà máy được cấp phép, có một số công nhân là tù nhân chiến tranh lao động cưỡng bức tuy nhiên cũng có số lượng không nhỏ được sản xuất tại các trại tập trung. Hitler và đảng Quốc xã hiểu được sức mạnh của biểu tượng và phù hiệu trong việc tác động dư luận. Tia chớp cách điệu được chọn làm biểu tượng của SS vào năm 1932. Hai biểu tượng này là một cặp chữ lấy từ bộ 18 chữ Rune Armanen do Guido von List tạo ra năm 1906. Chữ này có hình dáng tương tự như chữ Rune Sowilō (ᛋ) cổ, vốn tượng trưng cho mặt trời, nhưng trong bộ chữ của List đã được đổi tên thành "Sig" mang hàm ý chiến thắng. Totenkopf tượng trưng cho sự sẵn sàng quyết tử chiến đấu của người lính và cũng là một phương pháp để khiến kẻ thù khiếp sợ. Số thành viên SS ước tính (1925 – 45) Sau năm 1933, sự nghiệp ở SS ngày càng trở nên hấp dẫn đối với tầng lớp xã hội của Đức. Họ bắt đầu tham gia phong trào với số lượng lớn, thường được thúc đẩy bởi chủ nghĩa cơ hội chính trị. Đến năm 1938, khoảng một phần ba lãnh đạo SS là thành viên của tầng lớp trung-thượng lưu. Xu hướng này đảo ngược sau cuộc phản công đầu tiên của Liên Xô năm 1942. {| class="wikitable plainrowheaders sortable" style="text-align: center;" |- ! scope="col" class="unsortable" | Năm ! scope="col" | Số thành viên ! scope="col" class="unsortable" | Reichsführer-SS |- ! scope="row" | 1925 | | style="text-align:left;" | Julius Schreck |- ! scope="row" | 1926 | | style="text-align:left;" | Joseph Berchtold |- ! scope="row" | 1927 | | style="text-align:left;" | Erhard Heiden |- ! scope="row" | 1928 | | style="text-align:left;" | Erhard Heiden |- ! scope="row" | 1929 | | style="text-align:left;" | Heinrich Himmler |- ! scope="row" | 1930–33 | (hiệu ứng đoàn tàu) | style="text-align:left;" | Heinrich Himmler (Đế chế thứ ba thành lập) |- ! scope="row" | 1934–39 | | style="text-align:left;"| Heinrich Himmler |- ! scope="row" | 1940–44 | | style="text-align:left;" | Heinrich Himmler |- ! scope="row" | 1944–45 | Không rõ | style="text-align:left;" | Heinrich Himmler và Karl Hanke |} Văn phòng SS Tính đến năm 1942, mọi hoạt động của SS được quản lý thông qua mười hai văn phòng chính. Hauptamt Persönlicher Stab Reichsführer-SS (Bộ tham mưu Reichsführer-SS) Văn phòng chính SS (SS-HA) SS-Führungshauptamt (Văn phòng điều hành chính SS; SS-FHA) Tổng cục Bảo an Quốc gia (RSHA) Cục quản lý và kinh tế SS (WVHA) Ordnungspolizei Hauptamt (Văn phòng Cảnh sát Trật tự chính) Văn phòng Tòa án chính SS Văn phòng nhân chủng và di cư chính SS (RuSHA) Văn phòng nhân sự chính SS Hauptamt Volksdeutsche Mittelstelle (Văn phòng Hỗ trợ về chủng tộc Đức; VOMI) Văn phòng giáo dục SS Văn phòng Ủy viên cường hóa tính dân tộc Đức (RKFDV) SS Áo Thuật ngữ "SS Áo" thường được sử dụng để chỉ bộ phận thành viên SS đến từ Áo. Dù vậy nhưng SS Áo chưa bao giờ được công nhận là một phân nhánh thực sự của SS. Khác với những thành viên SS đến từ các quốc gia khác, vốn thường được phân vào các Quân đoàn SS-German hoặc Quân đoàn Ngoại quốc của Waffen-SS, thành viên SS Áo là nhân viên SS chính quy. Về mặt kỹ thuật, SS Áo nằm dưới quyền chỉ huy của SS ở Đức nhưng thường hoạt động độc lập trong các vấn đề liên quan tới Áo. Lực lượng SS Áo được thành lập từ năm 1930 và đến năm 1934 bắt đầu hoạt động như một lực lượng bí mật để tiến hành và thúc đẩy quá trình thống nhất Áo với Đức, tức sự kiện Anschluss diễn ra vào tháng 3 năm 1938. Các nhà lãnh đạo SS Áo thời kỳ đầu gồm có Kaltenbrunner và Arthur Seyss-Inquart. Các thành viên SS người Áo phục vụ trong mọi phân nhánh của SS. Nhà khoa học chính trị David Art của Đại học Tufts nói rằng người Áo chiếm 8% dân số của Đệ tam Đế chế và 13% của SS. Ông cũng bổ sung thêm rằng 40% nhân viên và 75% chỉ huy tại các trại tử thần là người Áo. Sau sự kiện Anschluss, các thành viên SS Áo được sắp xếp thành SS-Oberabschnitt Donau (Phân khu trên SS Donau). Trung đoàn SS-Verfügungstruppe (Der Führer) thứ ba và trung đoàn Totenkopf (Ostmark) thứ tư được biên chế tại Áo ngay sau đó. Theo mệnh lệnh từ Heydrich, các cơ quan chức năng Đức Quốc Xã đã tiến hành bắt giữ hàng loạt kẻ thù tiềm tàng của chế độ ngay sau khi Áo được sáp nhập. Mauthausen là trại tập trung đầu tiên được mở ở Áo sau sự kiện Anschluss. Trước khi Liên Xô xâm lược, Mauthausen là trại tập trung có tình trạng tồi tệ nhất trong số tất cả các trại nằm trong lãnh thổ Đế chế Đại Đức. Khách sạn Metropole được biến thành trụ sở Gestapo tại Viên vào tháng 4 năm 1938. Với 900 nhân viên (80% trong số đó được tuyển dụng từ lực lượng cảnh sát Áo), đây là văn phòng Gestapo lớn nhất bên ngoài Berlin. Ước tính, trong suốt khoảng thời gian hoạt động, có khoảng 50.000 người bị thẩm vấn hoặc tra tấn tại nơi này. Đứng đầu Gestapo chi nhánh Viên là Franz Josef Huber, cựu giám đốc Cơ quan Trung ương về Di cư Do Thái ở Viên. Dù Adolf Eichmann và sau này là Alois Brunner mới là những chỉ huy trên thực tế, Huber vẫn là người chịu trách nhiệm về việc trục xuất người Do Thái ở Áo. Hoạt động thời hậu chiến và hậu quả Sau khi Đức Quốc Xã sụp đổ, SS chấm dứt tồn tại. Nhiều thành viên SS còn trung thành với chế độ quốc xã vẫn sống trong tự do ở Đức và khắp châu Âu. Vào ngày 21 tháng 5 năm 1945, quân Anh bắt được Himmler khi ấy đang nguỵ trang và dùng giấy tờ giả. Ít ngày sau, Himmler đã cắn một viên xyanua tự tử tại một trại tạm giam gần Lüneburg. Nhiều thủ lĩnh SS khác cố gắng đào tẩu nhưng một số đã nhanh chóng bị quân Đồng Minh bắt. Kaltenbrunner, lãnh đạo RSHA và trưởng phòng ban chủ chốt SS cấp cao nhất còn sống sau khi Himmler tự sát, bị bắt ở khu vực dãy Anpơ ở Bayern. Kaltenbrunner nằm trong số 24 bị cáo bị đưa ra xét xử tại Tòa án Quân sự Quốc tế vào năm 1945–46. Một số thành viên SS phải chịu sự hành quyết, tra tấn và đánh đập dưới bàn tay của các tù nhân được thả tự do, người tị nạn, hay lính Đồng Minh. Khi lính Mỹ thuộc Trung đoàn số 157 tiến vào trại tập trung tại Dachau vào tháng 4 năm 1945 và chứng kiến sự thống khổ của con người và tàn ác của SS, đã bắn chết một số lính gác trại còn lại. Ngày 15 tháng 4 năm 1945, quân đội Anh tiến vào Bergen-Belsen. Họ cho lính canh SS khẩu phần ăn ít ỏi, ép phải làm việc không nghỉ và xử lý đống tử thi còn lại, dùng lưỡi lê đâm hoặc báng súng đánh nếu làm chậm. Một số thành viên của Quân đoàn Tình báo Phản gián của Quân đội Hoa Kỳ đã đưa những lính gác trại SS bị bắt đến các trại tị nạn vì biết rằng họ sẽ không thoát khỏi cái chết nếu rơi vào tay những nạn nhân sống sót. Tòa án quân sự quốc tế ở Nürnberg Phe Đồng Minh thành lập Tòa án quân sự quốc tế ở Nürnberg vào năm 1945 và khởi động tố tụng hình sự đối với những người quốc xã bị bắt. Phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh đầu tiên đối với 24 nhân vật nổi bật như Hermann Göring, Albert Speer, Joachim von Ribbentrop, Alfred Rosenberg, Hans Frank và Kaltenbrunner diễn ra bắt đầu từ tháng 11 năm 1945; với cáo buộc bốn tội danh vi phạm luật pháp quốc tế bao gồm "âm mưu", "tiến hành chiến tranh xâm lược", "tội ác chiến tranh", và "tội ác chống lại loài người". 20 bị cáo nhận án tử hình, trong đó Kaltenbrunner bị tuyên án tội ác chống nhân loại và bị xử tử vào ngày 16 tháng 10 năm 1946. Cựu chỉ huy trại Auschwitz Rudolf Höss đã làm chứng thay mặt Kaltenbrunner và những người khác, trước khi bị xét xử và hành hình vào năm 1947. Sau phiên tòa đầu tiên, nhiều phiên xử và bản án SS đã tiếp nối. Lấy lý do phải tuân theo mệnh lệnh một cách vô điệu kiện vì bổn phận và lời tuyên thệ khi gia nhập SS, nhiều bị cáo cố biện hộ rằng họ chỉ đơn thuần làm theo lệnh cấp trên. Tuy nhiên, tòa không xem đây là một lý do chính đáng. Trong số 40 sĩ quan SS và lính gác trại Auschwitz bị xét xử ở Kraków vào tháng 11 năm 1947, hầu hết bị cáo đều bị kết tội, 23 người nhận án tử hình. Bên cạnh Đồng Minh phương Tây, phía Liên Xô cũng xét xử và kết án khoảng 37.000 thành viên SS. Các bản án gồm treo cổ hoặc lao động khổ sai dài hạn. Giám đốc Bảo tàng Auschwitz-Birkenau Piotr Cywiński ước tính chỉ có 1.650 đến 1.700 trong số 70.000 thành viên SS dính dáng đến những tội ác trong trại tập trung bị xét xử sau chiến tranh. Năm 1946, SS bị Tòa án quân sự quốc tế liệt kê vào danh sách những tổ chức tội phạm. Chạy trốn Sau khi Thế chiến II kết thúc, nhiều cựu đảng viên quốc xã bỏ trốn sang Nam Mỹ. Điểm đến phổ biến nhất của họ là Argentina vì tại đây họ được chế độ Juan Perón chào đón. Trong những năm 1950, cựu tù Dachau Lothar Hermann phát hiện công dân Buenos Aires Ricardo Klement thực chất là Adolf Eichmann, người kiếm được căn cước giả và giấy phép nhập cảnh vào Argentina nhờ một tổ chức do giám mục Alois Hudal đứng đầu vào năm 1948. Hudal, khi ấy đang cư trú ở Ý, là một giáo sĩ người Áo ủng hộ chủ nghĩa quốc xã. Cục tình báo Mossad của Israel bắt Eichmann ở Buenos Aires vào ngày 11 tháng 5 năm 1960. Tại phiên tòa xét xử tại Jerusalem năm 1961, Eichmann bị kết tội và kết án tử hình bằng cách treo cổ. Eichmann được cho là đã từng tuyên bố rằng: "Tôi sẽ vừa cười vừa nhảy vào mả của mình vì cảm giác là tôi có 5 triệu mạng người cắn rứt lương tâm của tôi đưa đến một nguồn thỏa mãn vô biên". Franz Stangl, chỉ huy trại tập trung Treblinka, cũng trốn đến Nam Mỹ nhờ mạng lưới Hudal hỗ trợ. Stangl bị trục xuất về Đức năm 1967, nhận án tù chung thân năm 1970 và qua đời sau đó một năm. Sợ sẽ phải đối mặt với án tử hình khi bị bắt, cựu bác sĩ quân y Josef Mengele, người được mệnh danh là Thiên thần chết, trốn khỏi Đức vào ngày 17 tháng 4 năm 1949. Thông qua một mạng lưới của các cựu thành viên SS, Mengele đến Genova, Ý và kiếm được hộ chiếu giả dưới danh tính "Helmut Gregor" từ Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế. Ông lên tàu tới Argentina vào tháng 7. Biết mình đang bị truy nã, Mengele chuyển đến Paraguay năm 1958 và Brasil năm 1960 — cả hai lần đều được cựu phi công Luftwaffe Hans-Ulrich Rudel giúp đỡ. Mengele bị đột quỵ khi đang bơi và chết đuối vào năm 1979. Hàng nghìn người quốc xã, bao gồm những cựu thành viên SS như cảnh vệ Trawniki Jakob Reimer hay cộng tác viên người Adyghe Tscherim Soobzokov, trốn đến Hoa Kỳ dưới vỏ bọc người tị nạn và đôi khi dùng giấy tờ giả mạo. Những SS viên khác như Soobzokov, Wilhelm Höttl, Otto von Bolschwing (sĩ quan phụ tá của Eichmann) và Theodor Saevecke, một tội phạm chiến tranh đã bị buộc tội, được cục tình báo Hoa Kỳ thuê để hoạt động chống Liên Xô. Nhân viên CIA Harry Rositzke phát biểu: "Việc lợi dụng bất kỳ tên khốn nào miễn là hắn chống cộng là một công việc mang tính bản năng. Sự hăm hở, khát khao tuyển chọn cộng tác viên đồng nghĩa với việc bạn không để ý quá kỹ thông tin của họ." Tương tự như Mỹ, Liên Xô cũng dùng người SS sau chiến tranh. Đơn cử là trong một chiến dịch mang mật danh Theo, những người này đã được giao nhiệm vụ lan truyền tin đồn kích động tại các vùng của Đức do Đồng minh phương Tây chiếm đóng. Simon Wiesenthal và nhiều người khác đặt ra giả thuyết về sự tồn tại của một mạng lưới đào tẩu của Đức Quốc Xã mang mật danh ODESSA (viết tắt của Organization der ehemaligen SS-Angehörigen, Tổ chức các cựu thành viên SS) được cho là hỗ trợ tội phạm chiến tranh tìm nơi ẩn náu ở châu Mỹ Latinh. Nữ nhà văn Anh Gitta Sereny, người từng phỏng vấn nhiều thành viên SS, không tán thành với Wiesenthal về sự tồn tại của tổ chức này. Theo bà, sự hỗn loạn thời hậu chiến và mạng lưới Hudal mới là những lối thoát giúp cựu thành viên SS có cơ hội chạy trốn. Trong khi sự tồn tại của ODESSA chưa được chứng minh, Sereny cho rằng "tất nhiên có những tổ chức cứu trợ quốc xã khác nhau sau chiến tranh — không có mới là đáng ngạc nhiên". Các vụ án xét xử gần đây Kể từ năm 2000, một số cựu thành viên SS nằm trong Danh sách tội phạm chiến tranh Đức Quốc Xã bị truy nã gắt gao nhất của Trung tâm Simon Wiesenthal đã bị đưa ra xét xử tại nhiều quốc gia khác nhau, bao gồm Đức. Song do đa phần các bị cáo tuổi đều đã cao nên chỉ còn rất ít người phải hầu tòa. Tháng 11 năm 2009, Tòa án Thành phố München II tiến hành tố tụng hình sự đối với bị cáo John (Ivan) Demjanjuk, một sĩ quan Trawniki người Ukraina trực thuộc SS-Totenkopfverbände, sau khi các điều tra viên chứng minh ông từng là cai ngục tại Trại hủy diệt Sobibór. Trước đó Demjanjuk từng phải hầu tòa tại Israel một lần vì nhiều nhân chứng đã xác nhận ông chính là cai ngục "Ivan Hung bạo" khét tiếng của Trại hủy diệt Treblinka – người bị những nạn nhân sống sót mô tả là đã gây ra những "tội ác kinh hoàng" bao gồm cắt ngực của phụ nữ hoặc bắt tù nhân Do Thái cưỡng bức những bé gái 12 tuổi. John Demjanjuk bị tòa án phúc thẩm kết án tử hình song Tối cao Pháp viện Israel đã rút lại bản án vào năm 1993 và tuyên bố vô tội vì trong quá trình chờ thụ án, các cơ quan điều tra đã phát hiện nhiều bằng chứng mới làm dấy lên "nghi ngờ hợp lý" về thân phận thực sự của "Ivan Hung bạo". Năm 2002, sau khi bị điều tra về danh tính và vai trò tại Sobibór, Demjanjuk bị Tòa án Hoa Kỳ tước quyền công dân, song đến thời điểm 2009 vẫn chưa bị trục xuất vì lý do tuổi già sức yếu. Tuy nhiên, vào năm 2009, chính phủ Đức đã dẫn độ Demjanjuk về Đức thành công để xét xử và tuyên phạt 5 năm tù trong phiên tòa sơ thẩm diễn ra vào tháng 5 năm 2011 vì liên quan tới cái chết của khoảng 28.000 người Do Thái. Song bản án chưa kịp có hiệu lực thì Demjanjuk đã qua đời vào ngày 17 tháng 3 năm 2011 trong lúc chờ phúc thẩm. Tháng 12 năm 2009, sĩ quan SS người Hà Lan Heinrich Boere – khi ấy đã 88 tuổi – bị Tòa án Thành phố Aachen tuyên án tù chung thân vì từng tham gia thảm sát thường dân trong chiến dịch truy quét kháng quân Hà Lan mang mật danh Silbertanne (Lãnh sam bạc). Boere bị đưa về thi hành án tại nhà tù tại Fröndenberg vào ngày 16 tháng 12 năm 2011 ở tuổi 90. Tháng 8 năm 2010, Bộ Tư pháp Bayern quyết định xem xét lại bản án xét xử 60 năm tuổi của tòa án Hà Lan đối với một nghi phạm người Hà Lan khác tên là Klaas Carel Faber, người đã sống hàng thập kỷ yên ổn tại Ingolstadt sau khi chiến tranh kết thúc. Tương tự Boere, Faber từng tham gia chiến dịch Silbertanne. Tuy nhiên, vì những mâu thuẫn pháp lý giữa hai quốc gia nên khi qua đời vào tháng 5 năm 2012, ông vẫn chưa bị dẫn độ về nước xét xử.
Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng ở Việt Nam một hệ thống kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính đến tháng 11 năm 2007, đã có Trung Quốc, Nga, Venezuela, Nam Phi, ASEAN và Ukraina tuyên bố công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường đầy đủ, đến năm 2013, đã có 37 quốc gia công nhận Việt Nam đạt kinh tế thị trường (VCCI) trong đó có Nhật Bản, Đức và Hàn Quốc. Đến năm 2017, sau những nỗ lực đàm phán các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương với quốc tế, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã thông báo đã có 69 nước công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường tại phiên họp thường trực chính phủ, tuy nhiên Hoa Kỳ (đối tác thương mại lớn thứ 2) thì vẫn chưa công nhận kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Xét về mặt kinh tế, Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, ASEAN. Số liệu Tháng 10 năm 2020, theo ước đoán của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), quy mô nền kinh tế Việt Nam với 97,3 triệu dân theo GDP danh nghĩa đạt 340,6 tỷ đô la Mỹ, sức mua tương đương đạt 1,047 tỷ đô la Mỹ, GDP bình quân đầu người theo danh nghĩa là 3,498 USD/người còn theo sức mua là 10,755 USD/người. Theo Dự thảo Báo cáo chính trị tháng 10-2020 trình Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam: Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011 - 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 268,4 tỷ USD vào năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2020, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt khoảng 343 tỷ USD, đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và đứng thứ tư ASEAN; GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng thứ 6 ASEAN. Theo đánh giá của IMF, kết thúc năm 2020, nếu tính theo sức mua tương đương, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 1.050 tỷ USD và GDP bình quân đầu người phải đạt trên 10.000 USD. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8% một năm giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất. Sở dĩ Tổng cục Thống kê cuối 2020 chỉ công bố tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, không có số liệu cụ thể GDP là do năm 2019 và nhiều năm trước đó công bố GDP rồi lại công bố số liệu GDP đã đánh giá lại mà có độ chênh lệch rất cao (2010 là 27%, 2011 là 27,33%, 2012 là 25,53%, 2013 là 24,9%, 2014 là 25,38%, 2015 là 23,83%, 2016 là 25,11%, 2017 là 25,72%, 2018 là 25,2%, 2019 là 26,79%, khả năng năm 2020 là 24,2%). Năm 2019 GDP hơn 6 triệu tỷ VNĐ, đánh giá lại hơn 7 triệu 6 trăm nghìn tỷ VNĐ (tương tự GNI cũng có đánh giá lại và chênh lệch rất cao). Nếu quy đổi ra USD giả sử tỷ giá hối đoái 1 USD bằng 23 nghìn VNĐ, thì GDP năm 2019 có hai con số khoảng 262 tỷ USD và khoảng 332 tỷ USD, và các con số tương đối khớp với các con số dự thảo Báo cáo chính trị và số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư đưa ra cho năm 2020, có sự chênh lệch rất lớn hai con số. GDP bình quân đầu người hơn 62 triệu đồng hay hơn 2.700 USD năm 2019, hay con số gần 2.800 USD của năm 2020 (Tổng cục Thống kê) là dựa theo số liệu GDP chưa được điều chỉnh. Nếu dựa con số này thì tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của năm 2020 là 1,02% so với năm 2019. Với việc đánh giá lại GDP, chỉ là sự đánh giá lại các hoạt động thực tế đã diễn ra, quy mô kinh tế tăng lên chỉ là về mặt tính toán, chứ không phải là sự tăng thực tế. Về cơ bản, Việt Nam tính toán GDP bằng phương pháp sản xuất. Phương pháp chi tiêu ở phía cầu cũng được đưa ra trong niên giám thống kê sau khi đã "chốt" GDP từ phương pháp sản xuất. GDP theo phương pháp thu nhập không được tính đến (trừ những năm lập bảng cân đối liên ngành). Từ năm 2010, Tổng cục Thống kê (TCTK) tính toán chỉ tiêu GDP theo đúng chuẩn mực của Liên hiệp quốc: GDP = Tổng giá trị tăng thêm (GVA) theo giá cơ bản + Thuế sản phẩm - Trợ giá sản phẩm. Xét về tốc độ tăng trưởng từ 2011, yếu tố thuế trừ đi trợ cấp đã được tách khỏi GVA của các ngành. Do vậy, tăng trưởng GDP và tăng trưởng GVA luôn là hai con số khác nhau. Tăng trưởng GVA mới là con số phản ánh sự tăng trưởng của sản xuất. Trong Hệ thống các tài khoản quốc gia (SNA) không chỉ có GDP, mà còn có chỉ số khác phản ánh "sức khỏe" của nền kinh tế như: Tổng thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) và chỉ tiêu để dành. Đối với Việt Nam, các chỉ tiêu tăng trưởng GDP và thu hút FDI luôn là một thước đo để đánh giá "sức khỏe" của nền kinh tế. Việc định hướng phát triển cho nền kinh tế về dài hạn, không phải chỉ lấy chỉ tiêu tăng trưởng GDP làm một chuẩn mực để phấn đấu. Tăng trưởng GDP có thể cao, nhưng giá trị thực chất mà một quốc gia có được phải thông qua các chỉ số về GNI, NDI và tiết kiệm. Theo dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XIII, năm 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và GDP bình quân đầu người đạt 2.779 USD/người. Báo cáo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: "Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 5,9%) [nhiệm kỳ XII]...Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%". Chỉ số GDP/người của Việt Nam hiện nay là lấy GDP chia cho dân số ước tính, được hiểu là dân số đăng ký hộ khẩu, nhiều nước khác cũng vậy. Tuy nhiên để tính chính xác hơn thì nhiều nước áp dụng tính GDP bình quân đầu người cho cư dân địa phương (được hiểu là cộng thêm người nước ngoài tạm trú - thường trú có lao động kinh doanh trên lãnh thổ và trừ đi công dân ra nước ngoài lao động kinh doanh). Ví dụ như Trung Quốc, áp dụng chia GDP cho dân số thường trú, chứ không phải dân số đăng ký (đăng ký hộ khẩu) để tính GDP bình quân đầu người (vì thực tế một bộ phận dân cư là sinh sống tạm ở nước ngoài và đóng góp cho GDP nước ngoài và một bộ phận người nước ngoài sinh sống trên lãnh thổ Trung Quốc góp vốn và lao động đóng góp cho tăng trưởng GDP Trung Quốc). Dân số thường trú là những người sống thường xuyên trên địa bàn trên 6 tháng, kể cả dân số trôi nổi (không có đăng ký hộ khẩu). Lịch sử Trước năm 1848 Nền văn minh của Việt Nam đã được xây dựng trên nông nghiệp. Các triều đại phong kiến đã luôn luôn coi nông nghiệp là cơ sở kinh tế chính, những tư tưởng kinh tế của họ được khẳng định trên chủ nghĩa trọng nông. Quyền sở hữu đất đai được công nhận bên cạnh sở hữu công ruộng đất và những công trình quy mô lớn như đê, các công trình thủy lợi đã được xây dựng ở đồng bằng sông Hồng tạo điều kiện cho canh tác lúa nước. Trong những thời điểm yên bình, những người lính được gửi về nhà để làm nông, triều đình gọi chính sách này là ngụ binh ư nông. Hơn nữa, triều đình cấm giết mổ trâu bò, gia súc và tổ chức nhiều nghi lễ liên quan tới nông nghiệp. Thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật được coi trọng, nhưng thương mại không được xem trọng, những người kinh doanh được gọi là "con buôn". Do đồng bằng nhỏ hẹp, nông nghiệp năng suất thấp, thủ công nghiệp và thương mại kém phát triển nên nền kinh tế quốc gia là tự cung tự cấp. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam không thể xem là một quốc gia giàu có. Từ thế kỉ 16, một nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển. Tại Đàng Trong ngoại thương phát triển mạnh. Đàng Trong trở thành nơi cung cấp nông sản, lâm sản, khoáng sản cho thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây. Sang thời Nguyễn, các cảng thương mại ban đầu, như Hội An, bị hạn chế, và các quốc gia nước ngoài có nền văn hóa khác nhau và tham vọng xâm lược của họ được coi là một mối đe dọa. Do nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp, Việt Nam không có một nền công nghiệp và thương mại phát triển nên cũng không có nhu cầu mở cửa để giao thương. Chính sách đóng cửa này khiến ngoại thương không thể phát triển khiến sản xuất trong nước không có nhân tố kích thích để phát triển dẫn đến một mức độ đình trệ trong nền kinh tế Việt Nam và góp phần đưa Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Trong khi đó Nhật Bản tuy cũng thi hành chính sách Toả Quốc vì e ngại bị phương Tây xâm lược nhưng nền kinh tế của họ đã phát triển tới mức hình thành một thị trường nội địa và có nhu cầu tăng cường ngoại thương. Nhật Bản đã có các đô thị lớn sầm uất và một giới doanh nhân khao khát làm giàu. Chủ nghĩa tư bản đang hình thành tại Nhật Bản. Chính vì thế Nhật Bản chấp nhận mở cửa để giao thương với phương Tây. Trước 1954 Trong những biến đổi xã hội vì sự xâm nhập của người Pháp là nhiều mặt hàng mới, trong đó có nhiều thực vật được đưa vào Việt Nam từ châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và cả những nước châu Á lân cận góp nguồn. Đồn điền cây cà phê (xuất phát từ châu Phi), cây cao su (từ Nam Mỹ) được quy hoạch và phát triển, biến đổi hẳn bộ mặt đất nước, đưa dân lên miền núi khai thác và định cư. Ở miền xuôi thì trái cây nhiệt đới như chôm chôm, măng cụt cũng được trồng, lấy giống từ Mã Lai, Nam Dương. Ngoài ra nhiều loại rau như khoai tây, súp lơ, xu hào, cà rốt, tỏi tây nhập cảng từ Pháp được trồng quy mô kể từ năm 1900. Nhiều món ăn mới cũng theo chân người Pháp ra mắt ở Việt Nam như bánh mì, bơ, pho mát, cà phê rồi trở thành quen thuộc. Pháp thực hiện độc quyền thương mại, đặc biệt là công khai buôn bán thuốc phiện. Độc quyền nấu rượu thì giao cho công ty Société des Distilleries d'Indochine phân phối cho toàn Liên bang dưới hiệu "RA" (Régie de Alcool), tục gọi là "rượu ty". Những nguồn rượu khác thì bị liệt vào hạng rượu lậu và ai nấu hay mua thì bị truy tố và tài sản tịch thu. Đối với thuốc phiện thì quyền nhập cảng, chế biến và bán sỉ là do cơ quan Régie de l'Opium đảm nhận. Tính đến năm 1900 thì lợi nhuận chính phủ thu được từ thuốc phiện đạt hơn phân nửa số tiền thu nhập của toàn Liên bang Đông Dương. Riêng việc phân phối bán lẻ là để cho tư nhân, đa số là người Hoa. Quá trình công nghiệp hoá tiến triển chậm. Nền công nghiệp Việt Nam nhỏ bé và không hoàn chỉnh với các cơ sở sản xuất lớn là của tư bản Pháp còn công nghiệp bản địa chỉ gồm những doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lãnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Ngành công nghiệp không phát triển là chủ đích của thực dân Pháp không muốn để cho dân bản xứ lập công ty để cạnh tranh với các công ty của Pháp. Nước Pháp muốn duy trì nền công nghiệp bản xứ tại Đông Dương là nền sản xuất thủ công, không đòi hỏi chất lượng nhân công cao mặc dù có những chỉ trích của những nhà công nghiệp và nhà kinh tế học ngay tại thời điểm đó. Người Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp khai khoáng, cơ khí, công nghiệp chế biến nông lâm sản, công nghiệp nhẹ nhưng vẫn chưa hình thành nền tảng công nghiệp hoàn chỉnh tại Việt Nam, trong khi Nhật Bản đã xây dựng khá nhiều cơ sở công nghiệp tại các thuộc địa của họ như Triều Tiên, Mãn Châu. Công nghiệp thời Pháp thuộc đã cung cấp một số sản phẩm và kỹ thuật mới như: điện, xi măng, diêm, bia, xà phòng, thuốc lá, thủy tinh, ô tô, xe đạp, tàu điện, tàu hoả, các sản phẩm cơ khí... Một số sản phẩm quen thuộc được sản xuất theo qui trình mới như nước máy, giấy, vải, thuốc lá... Nhờ sự giao thương mà lần đầu tiên, người Việt Nam được biết các sản phẩm của phương Tây, như: dầu hỏa và đèn dầu hỏa, thuốc lá điếu, diêm, xà phòng, sữa bò, kính đeo mắt, ô che mưa nắng, giầy dép, kính lắp cửa, các đồ dùng thủy tinh... làm thay đổi tiêu dùng nội địa. Sau khi thiết lập được chính quyền tại Việt Nam, Pháp cũng đã thiết lập chế độ bảo hộ mậu dịch, dựng hàng rào thuế quan và áp dụng một số độc quyền có lợi cho hàng hoá Pháp. Nền kinh tế xuất hiện một số kỹ thuật có thể coi là hiện đại vào thời kỳ đó tạo ra một năng suất mới trong sản xuất và đời sống như kỹ thuật khai thác hầm mỏ, kỹ thuật chế biến lâm sản, tốc độ và chất lượng của giao thông liên lạc, kỹ thuật và chất lượng xây dựng... Công nghiệp ra đời đã góp phần mở rộng thị trường trong nước và thị trường nước ngoài, một bộ phận dân cư trong nước, nhất là dân thành thị làm quen với những sản phẩm hiện đại phương Tây như điện, xà phòng, nước máy, thuốc lá, xi măng… Một số ngành sản xuất cổ truyền như lúa gạo, cà phê, chè, gỗ... có khả năng mở rộng sản xuất, để bước đầu vươn ra thị trường quốc tế. Công nghiệp còn tạo ra một đội ngũ công nhân và kỹ thuật viên Việt Nam tiếp thu kỹ thuật phương Tây. Công nghiệp thời Pháp thuộc chú trọng vào sử dụng nhân công giá rẻ và khai thác tài nguyên nên có tỷ suất lợi nhuận cao nhưng sản lượng rất thấp. Công nghiệp mang tính chất thâm dụng lao động do nó chú trọng khai thác lao động giá rẻ của dân bản xứ hơn thâm dụng tư bản để nâng cao năng suất và sản lượng. Cho đến 1931, trong tổng giá trị sản phẩm quốc nội của Đông Dương là 750 triệu đồng Đông Dương, công nghiệp chỉ chiếm có 105 triệu, tức chỉ đạt 14%. Trong thập kỷ 1930, công nghiệp đã tiến xa hơn: tăng gấp đôi so với những gì Pháp đã làm ở đây trong vòng 70 năm (1860-1930). Đến năm 1938, trong tổng sản phẩm quốc nội của Đông Dương là 1014 triệu đồng Đông Dương, công nghiệp chiếm 233,08 triệu, tức 22%. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân cư Việt Nam được hưởng những thành tựu của sự phát triển công nghiệp. Điện, nước máy, xà phòng, đường sắt, đường nhựa và điện tín vẫn còn xa lạ với nông thôn, người nghèo. Tính tới năm 1940, lượng điện tiêu thụ trên đầu người tại Việt Nam chỉ bằng 1/107, lượng sắt thép sử dụng bằng 1/10 so với nước Pháp. Nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp với phương thức sản xuất không thay đổi trong hàng ngàn năm. Quan hệ sản xuất tại nông thôn vẫn là quan hệ địa chủ – tá điền như thời Trung cổ, còn tại thành thị, chủ nghĩa tư bản chỉ mới manh nha xuất hiện. Người Việt có mức sống rất thấp, nghèo đói phổ biến trên toàn đất nước, đặc biệt ở miền Bắc và miền Trung. Ở nông thôn tồn tại mâu thuẫn giữa địa chủ và tá điền còn ở thành thị có sự tương phản giữa tầng lớp tư sản, quan chức cao cấp và thị dân lớp dưới. Người Pháp xây dựng một số cơ sở hạ tầng cơ bản tại An Nam. Hệ thống kinh tế mà Pháp đầu tư tại An Nam như các đồn điền cao su, mỏ than, các thành phố lớn, đường sắt, cảng biển là để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của họ chứ không phải để phục vụ lợi ích của dân bản xứ. Dù người Pháp đã mang những yếu tố hiện đại vào nền kinh tế Việt Nam nhưng nhìn tổng thể nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong tình trạng tiền tư bản, bán Trung cổ, chỉ tương đương với trình độ châu Âu vào đầu thế kỷ 19. Theo giáo sư Trần Văn Thọ, kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc đạt sản lượng nhất là năm 1938, bình quân đầu người cao hơn năm 1960 là 60%, sau đó sụt giảm dần do chiến tranh. Năm 1938, tổng sản phẩm quốc nội của Đông Dương là 1,014 tỷ tiền Đông Dương, trong đó công nghiệp chiếm 22%. Kinh tế thị trường có mức độ phát triển nhất định. So với thời trước thực dân, cơ cấu kinh tế chuyển từ kinh tế phong kiến nặng tự cung tự cấp sang nền kinh tế có công nghiệp và thương mại phát triển ở mức độ sơ khai, chủ yếu xuất khẩu lúa gạo, cao su, than,... Lao động giá rẻ của người bản xứ được tận dụng. Nhiều công trình giao thông và thành phố hiện đại theo kiểu phương Tây được xây dựng, phục vụ cho lợi ích của thực dân Pháp. Giai đoạn 1954–1976 Thời gian này, Chiến tranh Việt Nam nổ ra. Trong thời kỳ này, Việt Nam bị chia cắt thành hai vùng với hai chế độ chính trị và kinh tế khác nhau. Kinh tế Việt Nam Cộng hòa Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trong giai đoạn này, kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát triển bình quân năm là 6% (GDP đầu người bình quân năm tăng khoảng 3%), còn kinh tế Việt Nam Cộng hòa phát triển trung bình 3,9%/năm (bình quân đầu người tăng 0,8%). Đặc biệt, kinh tế Việt Nam Cộng hòa phát triển ở số âm trong giai đoạn 1965–1975 phần lớn do chiến tranh đã lan rộng khắp miền và ở mức độ quyết liệt.. Tổng tăng trưởng bình quân cả hai miền 1,9% giai đoạn 1955–1976. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1955–1975 được ghi tại bảng dưới đây (đơn vị: triệu USD, tính theo thời giá 2015). Ở thời điểm 1956, Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam Cộng hòa cao gấp 5 lần so với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có sự chênh lệch lớn này là do lãnh thổ miền Bắc Việt Nam bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Đông Dương, trong khi lãnh thổ miền Nam ít bị tàn phá hơn nhiều. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1955–1970, khoảng cách này dần bị thu hẹp, đặc biệt là kể từ năm 1963, khi kinh tế Việt Nam Cộng hòa suy thoái nhiều năm liền. Đến năm 1972 trở về sau thì tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa đã vượt cao hơn so với Việt Nam Cộng hòa GDP bình quân đầu người của Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1955–1975 được ghi tại bảng dưới đây (đơn vị: USD/người/năm): Giai đoạn đầu tiên là 1955–1963, cả Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều có mức tăng trưởng kinh tế cao (kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tăng 1,7 lần trong khi Việt Nam Cộng hòa tăng 1,6 lần). Giai đoạn thứ 2 là năm 1964–1975, tăng trưởng trở nên bấp bênh khi mà cả hai miền Việt Nam đều bị lôi vào sự leo thang chiến tranh với sự dính líu trực tiếp của Hoa Kỳ cho đến khi chiến tranh kết thúc Giai đoạn 1955–1975, nhìn chung, Việt Nam Cộng hòa có mức GDP bình quân đầu người cao hơn so với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguyên nhân là từ mức viện trợ kinh tế cực kỳ lớn từ Mỹ. Tuy nhiên, một điều thú vị là năm 1974 (năm áp chót của chiến tranh), khoảng cách GDP bình quân đầu người giữa hai miền Việt Nam đã biến mất, kinh tế hai miền đã ở mức ngang nhau khi chiến tranh kết thúc. Có thể giải thích điều này là do sự cắt giảm viện trợ kinh tế của Hoa Kỳ từ năm 1973 khiến kinh tế Việt Nam Cộng hòa bị suy thoái. Việt Nam Cộng hòa tồn tại kinh tế thị trường, phân hóa giai cấp, thu nhập bình quân không cân xứng với GDP bình quân, tức là có thu nhập không theo lao động, không tính vào tổng GDP, trong khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tồn tại hệ thống bao cấp, thu nhập dân chúng phụ thuộc nhiều vào chế độ tem phiếu, áp dụng theo quy luật "làm theo năng lực, hưởng theo lao động". Đặc điểm chung của hai miền là phụ thuộc nhiều vào viện trợ bên ngoài. Vốn đầu tư của người Hoa ở Việt Nam Cộng hòa năm 1969 chiếm 35% tổng vốn đầu tư kinh tế Việt Nam Cộng hòa. Các vùng do Mặt trận kiểm soát có chính sách kinh tế riêng. Sản xuất ở miền Bắc ước tính bằng 70% ở miền Nam trong giai đoạn 1950-1975. Ở miền Nam, chênh lệch thu nhập lớn trong dân chúng, giữa thành thị - nông thôn, và tác động của chiến tranh ảnh hưởng đến kinh tế theo cả hai chiều xấu tốt trong các bộ phận dân chúng khác nhau, xuất khẩu thô và dịch vụ liên quan chiến tranh phát triển. Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuy có dựa vào viện trợ bên ngoài, nhưng nặng về tự cung tự cấp, tự lực tự cường, thương mại kém phát triển và nhà nước phân bổ thu nhập nên ít phân hóa giàu nghèo, nhưng chi phí cho chiến tranh lớn, đồng nghĩa tăng gánh nặng đóng góp của dân chúng cho chi phí chiến tranh. Giai đoạn 1976–1986 Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc năm 1976, nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện ba cuộc cách mạng: về quan hệ sản xuất, khoa học – kỹ thuật, tư tưởng và văn hóa (phát triển từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa). Các chính sách quốc hữu hóa và tập thể hóa được đẩy mạnh ở miền Nam, ngoài ra áp dụng phân bổ lại nguồn lực lao động trên cả nước, bao gồm cả xây dựng các vùng kinh tế mới, từng bước hoàn thiện phân phối xã hội chủ nghĩa làm theo năng lực hưởng theo lao động, xóa bỏ kinh tế hàng hóa. Chỉ tiêu kinh tế đặt ra rất cao trong hoàn cảnh chiến tranh tàn phá nặng nề cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các vùng nông thôn và một số cơ sở hạ tầng giao thông và công nghiệp miền Bắc, nhân lực hạn chế do tỷ lệ thương tật trong chiến tranh cao, tỷ lệ mù chữ khá cao, khả năng quản lý kinh tế yếu kém, phát triển kinh tế dàn trải, đầu tư nhiều cho nông thôn và các tỉnh (hòng sớm xóa bỏ hố phân hóa kinh tế giữa hai miền, nông thôn - thành thị, đồng bằng - miền núi) trong khi điều kiện các vùng về tài nguyên tự nhiên, nhân lực rất khác nhau (rất khác với mô hình kinh tế thị trường sau này các vùng có điều kiện phát triển như thành thị, duyên hải, có nhiều tài nguyên và chất lượng nhân lực tốt được đầu tư nhiều hơn và lợi nhuận chảy nhiều vào các khâu trung gian cấp vốn và đầu ra sản phẩm). Đường lối kinh tế chủ đạo của Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V do Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày, ngày 27 tháng 3 năm 1982: Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên, nông dân ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ được khuyến khích tham gia sản xuất tập thể Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất. Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978. Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao cấp". Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế, các xí nghiệp, nhà máy cứ theo kế hoạch nhà nước mà làm. Thành phần kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ (Hiến pháp cho phép kinh tế trên nền sở hữu tư nhân rất hãn hữu trong giai đoạn quá độ). Nông dân làm việc trong các hợp tác xã. Về lý thuyết, các hợp tác xã thuộc thành phần kinh tế tập thể, tuy nhiên do ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân (do Nhà nước quản lý nhưng người dân không dễ giám sát với tư cách người chủ tối cao), cộng thêm cơ cấu quản lý hợp tác xã bất hợp lý, làm theo chỉ tiêu nhà nước và phụ thuộc nhà nước nên các ý tưởng lối làm ăn tập thể mang tính nhân đạo và đùm bọc lẫn nhau không thể phát huy tác dụng, thậm chí mang tính kinh tế nhà nước hơn là kinh tế tập thể. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm còn giảm: Năm 1977, tăng 2,8%; năm 1978, tăng 2,3%; năm 1979, giảm 2%; năm 1980, giảm 1,4%, bình quân 1977–1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc độ tăng trưởng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%. GDP bình quân đầu người là 80 USD năm 1980 thấp hơn Lào (94 USD), và Campuchia (191 USD). Theo một số thống kê, kế hoạch 5 năm lần thứ hai chỉ tiêu tăng 13-14% mỗi năm, nhưng chỉ tăng 0,4% mỗi năm, trong đó nông nghiệp tăng 1,9% và công nghiệp tăng 3,3%, phân phối yếu kém và lãng phí vốn đầu tư. Kết quả này do nhiều nguyên nhân, như không còn nhận nguồn viện trợ dồi dào từ bên ngoài, hậu quả của các cuộc chiến tranh, ngân sách quốc phòng lớn, cấm vận của Mỹ, nạn thuyền nhân và chảy máu chất xám, thiên tai, dân số tăng nhanh,... trong đó có cả "do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội" dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng phí lớn về sức người, sức của;... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với các kế hoạch hóa gò bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở, địa phương và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản trở sản xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những người lao động... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những biện pháp có hiệu quả" Việt Nam thiếu khả năng hoạch định và quản lý kinh tế do đa số cán bộ trình độ quản lý kinh tế kém. Mô hình kinh tế nặng về tự cung tự cấp, quan liêu, không sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất cũng như con người của quốc gia. Thêm và đó phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", làm cạn kiệt vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh tế trầm trọng.. Kim ngạch xuất khẩu năm 1980 chỉ đạt 15% kim ngạch nhập khẩu. Cùng năm đó, chỉ tiêu thóc lúa là 21 triệu tấn nhưng thu hoạch chỉ đạt 12 triệu tấn. Tình hình lương thực thiếu hụt trầm trọng khiến lượng gạo mua qua mậu dịch quốc doanh bị hạn chế tương đương với thời kỳ chiến tranh khốc liệt nhất ở miền Bắc. Khoảng 10-15% lương thực phải nhập khẩu. Hàng hóa không đủ, để trang trải các khoản nợ từ khối Cộng sản, chính phủ Việt Nam xoay sang trả nợ bằng lao động. Riêng tại Liên Xô đã có hơn 100.000 thợ thuyền người Việt được gửi sang để bù vào phần nào cán cân mậu dịch. Thu nhập bình quân đầu người năm 1976 là 101 USD, đến năm 1980 có 91 USD, trong khi năm 1982 là 99 USD, riêng tại miền Bắc năm 1976 là 82 USD, đến năm 1980 là 58 USD.. Tốc độ tăng kinh tế giai đoạn 1975 đến 1985 dao động ở 1,9%-0,6%. Năm 1982, Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam trong thời kỳ 1976–1980 là: "kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó khăn". Vì thế, từ năm 1982, Đảng này quyết định Việt Nam sẽ tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp và coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, và kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, tăng cường phân cấp cho địa phương trong công tác sản xuất và quản lý sản xuất. Kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, kinh tế gia đình được khuyến khích. Thị trường không có tổ chức bị quản lý chặt chẽ. Tính chung tốc độ phát triển 5 năm, năm 1981 tăng 2,3%, năm 1982 tăng 8,8%, năm 1983 tăng 7,2%, năm 1984 tăng 8,3%, năm 1985 tăng 5,7%, bình quân 1981-1985 tăng 6,4%/ năm. Tốc độ tăng kinh tế cả giai đoạn 1975 đến 1985 trung bình là 3,7%, trong khi dân số tăng 2,3% song chỉ tiêu đặt ra cho kế hoạch 5 năm lần thứ ba chỉ từ 4,5%-5% mỗi năm nhưng tăng trung bình 6,4% mỗi năm, nông nghiệp tăng 5,3% và công nghiệp tăng 9,3%. Lạm phát đầu những năm 80 là cao với 50%, đến 1985 là 587,2% (giai đoạn 1975-1980 lạm phát trung bình mỗi năm có 21,2%). Tuy nhiên, thời kỳ 1981–1985, kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đã đề ra trong nghị quyết đại hội V là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá – lương – tiền cuối năm 1985 đã đẩy nền kinh tế đất nước đến những khó khăn mới. Kinh tế – xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Siêu lạm phát xuất hiện và kéo dài, từ năm 1985 kéo dài đến 1988 từ 500% đến 800%. Nguồn gốc lạm phát một nguyên nhân là do thâm hụt ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên bất cập hệ thống phân phối cũng đáng kể. Để vượt qua khó khăn, các địa phương nhất là địa phương ở Nam Bộ đã có những biện pháp "xé rào" như khoán hộ, khoán sản phẩm, bù giá vào lương, tăng cường quan hệ ngoại thương với các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Những biện pháp "xé rào" này đã mang lại những hiệu quả nhất định trong tăng năng suất sản xuất, giải quyết tình trạng khan hiếm hàng hóa và nợ lương người lao động. Vì thế, chúng đã thu hút được sự chú ý của các nhà lãnh đạo Đảng và Chính phủ. Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (hay Khoán 100 gọi dựa theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV) và mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh (nghị quyết 25/CP của Chính phủ) được Đảng và Chính phủ cho phép thí điểm và dần áp dụng rộng rãi từ năm 1981. Ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, một số nhà nghiên cứu kinh tế gồm cả những người được đào tạo thời Việt Nam Cộng hòa đã được lãnh đạo Đảng triệu tập để nghiên cứu, chuẩn bị cho đổi mới. Những thực tiễn "xé rào" và lý luận mới trên đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam triển khai chính thức chương trình Đổi mới tư duy quản lý kinh tế mà thể hiện trước hết là nghị quyết của Đại hội VI tổ chức vào giữa tháng 12 năm 1986. Các quyết định đổi mới gắn với tên tuổi của Tổng Bí thư Trường Chinh và chỉ đạo bởi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Giai đoạn 1986–2006
{{Thông tin truyền hình |show_name=ECW |show_name_2=ECW on SyFy |image= |caption=ECW logo |format=Thể thao giải tríĐấu vật chuyên nghiệp |camera=Multicamera setup |picture_format=480i (SDTV) |runtime=45 phút (60-65 kể cả quảng cáo) |creator=Paul HeymanVince McMahon |opentheme= |starring=Các đô vật của ECW |country=Hoa Kỳ |network=SyFy Channel |first_aired=13 tháng 6 năm 2006 |last_aired=Hiện nay |num_episodes=62 (tính đến 7 tháng 8 năm 2007) |website=http://www.wwe.com/shows/ecw/ |imdb_id=0810614 |tv_com_id=60570 }} ECW (viết tắt của tiếng Anh Extreme Championship Wrestling) là một chương trình biểu diễn đô vật chuyên nghiệp của WWE (World Wrestling Entertainment''). Trước đây ECW từng là một công ty hoạt động độc lập và tồn tại từ năm 1993 tới năm 2001. Sau này ECW được khôi phục và trở thành thể loại chương trình thứ ba của WWE sau RAW và SmackDown!. Chương trình bắt đầu hoạt động vào ngày 13 tháng 6 năm 2006 và được trình chiếu trên truyền hình mỗi tuần. Ngày nay ECW được phát sóng trên kênh Syfy Channel của Mỹ, và tại nhiều quốc gia khác như kênh Xtreme Sports Channel và Global của Canada, kênh Sky Sports 3 của Anh, kênh FX của Mỹ Latinh, kênh Ten Sports của Ấn Độ, kênh Super Sport Action của Thái Lan, kênh FOX8 của Australia và kênh SKY 1 của New Zealand. Lịch sử Những ngày đầu thành lập (1993-1996) Thành lập vào năm 1992 ở Philadelphia bởi Tod Gordon nhưng trước đó lại là show nhỏ của National Wrestling Alliance (NWA) và mang tên là Eastern Championship Wrestling. Năm 1994, sau khi đã đủ danh tiếng, ECW tách ra khỏi NWA và đổi tên thành Extreme Championship Wrestling! Tod Gordon bắt đầu tuyển chọn lại đội hình Roster mới cho mình và đội ngũ đạo diễn viết kịch bản. ECW lần đầu tiên được quảng cáo trên vô tuyến truyền hình là một show Hardcore, khác với World Championship Wrestling (WCW) và World Wrestling Fenedration (WWF), ECW dành cho những fans từ độ tuổi 18 – 25, những khán giả khát máu, thèm cảm giác Extreme và những khán giả đã chán nản với những màn quật nhau đơn giản như ở WWF và WCW! ECW đã tạo nên một số khác biệt với WWF hay WCW: ECW nổi tiếng với những thể thức trận đấu như: • Trận Three Way Dance là biến thế của trận đấu Triple Threat • Tất cả các trấn đấu, loại đai đều sử dụng thể loại đấu Hardcore ! (Dù một woman đấu với man vẫn sử dụng thể thức Hardore Match !) • 24/7 Title: Một số loại đai được sử dụng rules này với thể thức là người giữ đai vô địch sẽ phải bảo vệ đai của mình 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần ! Họ có thể mất đai bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, miễn là ở đó có trọng tài! Sau này WWF đã bắt chước ECW cho luật này vào đai Hardcore Championsip ! • ECW không hề thiên về kĩ thuật bay nhảy hay sức khỏe, vì thế các đô vật của ECW như The Sandman hay Tommy Dreammer chỉ có những chiu DDT hay Russian Leg Sweep là chiêu cuối nên khi họ qua WWE/F hay WCW đều rất bất lợi ! Thời kỳ huy hoàng Năm 1995 – 1996 là những năm đầu của thời kì huy hoàng của ECW khi số lượng fans ngày càng tăng dù không bằng của WWF nhưng ngang ngửa với WCW. Vào năm đó, mối thù của Tommy Dreamer và Raven với những trận đấu được mệnh danh là tàn khốc nhất trong lịch sử Hardcore Wrestling và lượng khán giả ngày càng tăng, Tod Gordon quyết định mở rộng thêm một show TV nhỏ là Hardore TV, một show TV chuyên chiếu lại những cảnh tượng ấn tượng nhất của tuần, show kéo dài 1 tiếng kể cả quảng cáo. Năm 1996, Sự kiện Mass Transit Incident đã đi vào lịch sử đô vật của thế giới! Chuyện là khi Mass Transit, một cậu nhóc 17 tuổi có một trận tag team cặp với D-Von để đấu với New Jack và Mustapha Saed ở show ECW Barely Legal. Trận này theo kịch bản kết thúc là New Jack sẽ dùng một đồ vật gì đó để đánh vào Mass Transit và thắng. Nhưng không, khi New Jack đang sử dụng một lò nướng đập vào đầu cậu, thì máu không ngừng tuôn chảy từ một vết cắt sâu ở đầu! Kết quả: New Jack bị bắt vì tội "Cố ý giết người"; Transit phải phẫu thuật khâu vết thương nhưng vết cắt quá sâu làm tổn thương toàn bộ hệ thần kinh của cậu bé và kết quả cậu phải sống đời sống thực vật trong 5 năm sau trước khi chết! Sau đó show Barely Legal cũng bị bỏ dù đây là show PPV đầu tiên của ECW!!! Những ngày huy hoàng nhất (1996-1999) Năm 1996, Tod Gordon bỗng bán lại toàn bộ cổ phần của show Extreme Championship Wrestling cho Paul Heyman, sau này ông vẫn làm nhân vật ECW Commissioner nhưng đã rời ECW vài năm sau đóa và trở thành người viết kịch bản cho WCW! Năm 1995, ECW hợp tác với WWF trong một storyline. Mọi chuyện bắt đầu ở King Of The Ring 1995, khi trận đấu giữa Vega và Mabel đang diễn ra thì khán giả bắt đầu la lên "ECW, ECW, ECW". Đến show WWF Mind Games vào năm 1996, Paul Heyman cùng Tommy Dreamer và The Sandman đã xuất hiện hàng ghế đầu và The Sandman đã phun bia vào mặt của Vega khi anh đang đấu với JBL trong trận Strap Match ! Show này chủ yếu diễn ra mối thù giữa Paul Heyman và Jerry "The King" Lawler nên không được nổi tiếng lúc bấy giờ lắm! Năm 1997, mối thù của Raven và Tommy Dreamer, mối thù dài và tàn khốc nhất trong lịch sử ECW cũng kết thúc với kết quả Raven phải rời khỏi ECW trong trận You’Re Fired Match! Năm 1998 – 1999 với một chuỗi hàng loạt các show đặc biệt thành công vang dội, ECW đã có thể sánh ngang bằng với WWF và WCW dù chỉ là một show truyền hình không có màn hình lớn như WWF, không có pháo hoa ào ào như WCW nhưng lại có một phong thái Hardcore Wrestling chính gốc! Năm 1999, Paul Heyman ký hợp đồng với đài truyền hình TNN (Spike TV bây giờ!) và giúp ECW trở thành show hay nhất của TNN lúc đó! ECW trên TNN đã giúp Paul Heyman và TNN bỏ vào túi một khoản tiền rất lớn khi phát song trên toàn thế giới. Bắt đầu suy thoái Những sự thành công này đã dồn WWF vào đường cùng của sự thất bại nhưng bằng tài năng và trí tưởng tượng của mình cùng với đội ngũ superstar huyền thoại, chủ tịch Vince McMahon đã lội ngược dòng và giúp cho WWF Monday Night Raw phát triển hơn bao giờ hết! Những ngày suy tàn (2000-2001) Năm 2000, sau sự thành công rực rỡ của WWF Monday Night Raw, kênh TNN đã quyết định hủy hợp đồng phủ song toàn thế giới với ECW và ký với Vince Mcmahon hợp đồng mới! Điều này được Paul Heyman nhận xét là "điểm mấu chốt dẫn đến sự thất bại của ECW trong DVD Hardcore Homecoming!!! Năm 2000 dù được nhận xét là đỉnh cao của sự thành công của ECW khi mà lượng khán giả đã lần đầu tiên qua 4000 người nhưng đó vẫn không so sánh được với SummerSlam 1995 của WWF hay WrestleMania 23 với lượng khán giả hơn 80.000 người. Sự phá sản của ECW Năm 2000 – 2001, Paul Heyman đã sử dụng toàn bộ ngân quỹ và số tiền tiết kiệm của ông hay số tiền ký hợp đồng với TNN để duy trì cho show ECW, nhưng những cố gắng đó là không đủ với sự thành công của WWF! Paul Heyman đã quyên góp toàn bộ số tiền lương của các superstar trung thành với ECW, một số người thậm chí đã tặng hết tài sản và làm việc không công lương, nhưng với số tiền mướn sân vận đông hay điện máy, dụng cụ đấu vật, … đã tiêu tốn tất cả số tiền đó! Năm 2001, sau khi WCW của Eric Bischoff đã bị phá sản và bán lại cho chủ tịch WWF Vince McMahon. 2 tháng sau PPV cuối cùng ECW Guilty As Charged, Paul Heyman và tập đoàn ECW chính thức tuyên bố phá sản và toàn bộ cổ phần, roster bị bán lại cho chủ tịch WWF là Vince McMahon!!! Cuối cùng sau cuộc chiến tay ba của 3 tập đoàn đô vật lớn nhất của nước Mĩ, sau khi WWF, WCW hay ECW trải qua những scandan, khó khăn về tài chính, … thì "gã khổng lồ" World Wrestling Federation với ông trùm Vince Mcmahon đã giành chiến thắng ! Vào những tháng cuối năm 2001, storyline Invasion diễn biến theo sự thật ngoài đời, đã kết thúc hình ảnh của WCW và ECW Originals trên màn ảnh! ECW của WWE (2005 - 2010) Năm 2005, Shane Douglas bỏ tiền túi ra lập ra một tour diễn trên khắp nước Mĩ với chủ đề "Hardcore Homing" đã tụ tập lại toàn bộ roster cũ của ECW và ECW đã như sống lại những ngày Extreme thuở nào! Một tháng sau đó, WWE cũng diễn ra show ECW One Night Stand cũng hợp lại toàn bộ roster cũ của ECW và diễn ra những trận đấu Extreme Rules! Đến năm 2007, sau khi diễn ra trận đấu Extreme Rules tranh đai WWE Championship giữa Rob Van Dam và John Cena. Với kết quả là Rob Van Dam thắng, ECW đã được phục hồi với những star gốc như Sabu, Tommy Dreamer, The Sandman, Rob Van Dam, …. Nhưng ECW của WWE không hề mang lại cảm giác Extreme vốn có của ECW Originals đặc biệt là sau đó WWE đã sa thải Sabu, Sandman, … lại càng làm mất đi tính Extreme ! Với việc trong dụng các superstar hạng 2 như Elijah Burke đã làm xấu hổ đi hình ảnh Extreme Championship Wrestling bây giờ!!! Sự kết thúc của ECW Vào tháng 2-2010 sau sự kiện Elimination Chamber, Vince McMahon quyến định thay thế ECW bằng WWE NXT- là một chương trình tìm kiêm tài năng của WWE vì thực tế show ECW toàn là những show debut của các superstar nổi tiếng như Stone Cold,Sheamus,Rob Van Dam,Cm Punk...làm nền tảng để vào Draft vào roster của Raw và Smackdown nên việc thay thế này cũng được coi như là sự đổi mới vì ECW ngày nay đã không còn tính Extream mạo hiểm nhiều hơn xưa nữa.Nhưng mãi trong lòng khán giả luôn vẫn còn đọng lại những giây phút mà ECW còn tồn tại,những huyền thoại ECW và những trận đấu khiến khán giả hồi hộp gào thét Người quản lý Paul Heyman (7 tháng 6 năm 2006 đến tháng 12 năm 2006) Armando Alejandro Estrada (14 tháng 8 năm 2007 đến 3 tháng 6 năm 2008) Theodore Long (3 tháng 6 năm 2008 đến 7 tháng 4 năm 2009) Tiffany (7 tháng 4, năm 2009 đến nay) Bình luận viên Tazz (7 tháng 6 năm 2006 đến nay) Joey Styles (7 tháng 6 năm 2006 đến nay)
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Tiểu thừa và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ cư sĩ Phật hội), Kitô giáo (gồm Công giáo và Tin Lành), tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác (Ấn Độ giáo và Hồi giáo). Các loại hình tín ngưỡng dân gian cũng có nhiều ảnh hưởng tại Việt Nam. Một lượng đáng kể người dân tự xem mình là người không tôn giáo, hoặc ít ra là trên giấy tờ thể hiện như vậy, mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp trong năm. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng có chỗ đứng rất quan trọng trong tâm tưởng của đa phần người dân Việt Nam, được thực hành bởi đa số dân cư dù họ có theo tôn giáo nào hay không. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì cả nước có hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được đăng ký chính thức. Năm tôn giáo lớn nhất là Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo, Tin Lành, và Cao Đài; các tôn giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ. Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về công tác tôn giáo, tín ngưỡng. Số liệu Các nguồn cho thấy các số liệu khác nhau về tôn giáo tại Việt Nam. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (Việt Nam) trong 3 lần Tổng điều tra dân số và nhà ở. Theo các số liệu thống kê từ Pew Research Center (2010) và Ban Tôn giáo Chính phủ (2014 và 2018): Lịch sử Việt Nam thời cổ đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tượng được người Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con rồng cũng được xuất hiện nhiều trong các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long Quân, một huyền thoại về người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông, biển... cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ, chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Trong thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, có vai trò là nền tảng luân lý quy định các mối quan hệ xã hội. Nho giáo cũng gắn liền với chế độ khoa cử; nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Hiếu thảo, biểu hiện một phần qua các thực hành tôn kính tổ tiên, được coi là nhân đức nền tảng để duy trì sự hài hòa trong xã hội. Trong các triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn, chính quyền cũng sùng mộ và hỗ trợ Phật giáo. Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Từ thời Lê trung hưng có thêm Kitô giáo. Đầu thế kỷ 20 chứng kiến sự lan truyền các phong trào tôn giáo mới, đặc biệt là tại miền Nam như đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo. Ấn Độ giáo và sau đó Hồi giáo có nhiều vai trò trong lịch sử, văn hóa của người Chăm. Công giáo tới Việt Nam từ thế kỷ 16, và phát triển khá mạnh từ thế kỷ 17 nhờ các thừa sai Dòng Tên Bồ Đào Nha và Ý. Hội Thừa sai Paris, Dòng Đa Minh, Dòng Âu Tinh, Dòng Phan Sinh tiếp sức công việc truyền giáo. Tới cuối thế kỷ 18, Công giáo đã trở thành một phần vững chãi trong khung cảnh tâm linh và xã hội Việt Nam, đặc biệt là tại Đàng Ngoài. Nhiều giáo sĩ phương Tây từng phục vụ trong chính quyền Đàng Trong. Thời nhà Nguyễn, đạo Công giáo được vua Gia Long cho phép hoạt động nhưng bị bức hại nặng nề dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và phong trào Văn Thân. Quan hệ giữa người Công giáo và nhà Nguyễn cải thiện trở lại dưới thời Đồng Khánh và Thành Thái. Các giám mục người Việt tiên khởi được bổ nhiệm vào thập niên 1930, và các địa phận dần được trao cho hàng giáo sĩ bản địa coi sóc. Sau cuộc di cư 1954, số tín hữu tại miền Nam nhiều hơn miền Bắc. Các nhóm Kháng Cách (thường gọi là Tin Lành) tới Việt Nam từ năm 1911 bởi những nhà truyền giáo Bắc Mỹ. Các hệ phái Tin Lành phát triển tại các đô thị, vùng Tây Nguyên, và gần đây là giữa cộng đồng người H'mông. Hồi giáo đến Việt Nam bởi những người truyền giáo Ả Rập và Malay từ thế kỷ 10 hoặc 11 nhưng mạnh lên vào thế kỷ 15, mạnh mẽ ở cộng đồng người Chăm vốn là dân Ấn Độ giáo. Cùng lúc đó, sự phân chia tôn giáo giữa người Chăm ngày càng trở nên rõ ràng. Những người Chăm thuần Ấn giáo tiếp tục theo đuổi tôn giáo này; trong khi Hồi giáo Chăm Bani lại được tách ra khỏi Hồi giáo Chăm Islam. Chăm Bani có niềm tin Hồi giáo không giống như người theo Islam gốc, khi Chăm Bani tích hợp cả Phật giáo, Ấn Độ giáo và tín ngưỡng Chăm cổ đại, tạo nên một bản sắc riêng của người Chăm Bani. Sau năm 1954, khi người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, họ xem vấn đề tâm linh như là một đối tượng đấu tranh tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ. Họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều bị đả phá. Đền Hùng cũng bị phá vì bị cho rằng đó là mê tín dị đoan. Những thời kỳ Cải cách ruộng đất và thành lập hợp tác xã, nhiều đình chùa, đền miếu bị phá bỏ. Sau năm 1954 đến đầu những năm 1980, ở miền Bắc các thực hành tín ngưỡng bị suy giảm trầm trọng nhưng ở miền Nam thì vẫn duy trì. Cũng tại miền Nam, các chính sách của Ngô Đình Diệm bị quan điểm phổ biến cho là thiên vị Công giáo, phân biệt đối xử với Phật giáo. Điều đấy dẫn đến Biến cố Phật giáo năm 1963 lật đổ chính phủ có Tổng thống là người Công giáo. Việc ngắt quãng trong một thời gian dài tại miền Bắc, từ 1954 đến đầu những năm 1980 đã khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ. Từ năm 1986 đến nay, chính quyền cộng sản cầm quyền thừa nhận sai lầm trước đây và gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành mới, được quan tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian. Việc tổ chức nghi lễ tâm linh hiện nay do người dân, cộng đồng tự quyết định và thực hiện, thay vì chính quyền can thiệp như trước đây. Hiện nay, nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ trương tự do tín ngưỡng, nhưng có một số nguyên tắc do một vài cá nhân thiếu hiểu biết đưa ra khiến việc thực hành đôi khi lại bị ngăn cản. Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét "dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây mà cả hiện nay nữa đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt". Theo ông, đây là bài học về việc đừng nên tạo ra những sa mạc nhận thức như đã từng làm, vì không ai khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải gánh chịu hậu quả. Theo tác giả Trần Đình Hượu, người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, còn mặt giáo lý, tinh thần lại ít được quan tâm. Các tôn giáo Phật giáo Phật giáo hiện nay có số tín đồ cao thứ hai cả nước (theo số liệu từ cuộc điều tra dân số năm 2019). Theo thống kê này, có 4,6 triệu tín đồ Phật giáo, chiếm 35% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 4,8% dân số cả nước. Theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 2008, cả nước có gần 4,5 triệu tín đồ đã quy y Tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử và khoảng 54.773 tăng ni; 14.244 ngôi chùa trong cả nước. Một số người cho rằng từ 40% đến 45% dân số Việt Nam mang thiên hướng Phật giáo. Địa phương có số tín đồ Phật giáo đông nhất cả nước là Thành phố Hồ Chí Minh với 1.570.220 người. Phật giáo ở Việt Nam gồm cả Đại thừa, Tiểu thừa, và các tôn giáo cải biên từ Phật giáo. Phật giáo Đại thừa lần đầu tiên từ Trung Quốc vào tới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng của Việt Nam từ khoảng năm 200 CN và từng trở thành tôn giáo phổ biến nhất cả nước, trong khi Phật giáo Tiểu thừa từ Ấn Độ du nhập vào phía nam đồng bằng sông Cửu Long từ khoảng năm 300 - 600 và trở thành tôn giáo chính ở vùng đồng bằng phía nam Việt Nam. Có thuyết khác lại cho rằng Phật giáo bắt đầu truyền vào Việt Nam trong khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước công nguyên từ Ấn Độ theo đường biển chứ không phải từ Trung Hoa. Lúc đầu Phật giáo tại Việt Nam (đồng bằng châu thổ sông Hồng) mang màu sắc của Phật giáo Tiểu thừa nhưng về sau do ảnh hưởng của Trung Hoa mới chuyển dần thành Đại thừa. Phật giáo Đại thừa được nhìn nhận là có nhiều ảnh hưởng với đa số người Việt, người Hoa. Đại thừa tại Việt Nam có ba tông phái chính là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Phật giáo Đại thừa ở Việt Nam tồn tại hòa hợp với các tín ngưỡng như tục thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu. Thời Lê sơ và Nguyễn sơ, Phật giáo gặp hạn chế khi Nho giáo thịnh. Phật giáo Tiểu thừa (Nam tông) là tôn giáo chính của người Khmer tại Việt Nam. Công giáo Công giáo lần đầu tiên tới Việt Nam vào thế kỉ 16. Sau một số nỗ lực ban đầu ít hiệu quả, Công giáo phát triển mạnh từ thế kỷ 17 khi các thừa sai Dòng Tên từ nhiều nước như Bồ Đào Nha, Ý, Nhật Bản tới truyền giáo tại Đàng Trong năm 1615 và tại Đàng Ngoài năm 1627. Hai Hạt đại diện Tông tòa đầu tiên được thành lập vào năm 1659. Các thừa sai Pháp, Tây Ban Nha, Ý thuộc một số nhóm (Hội Thừa sai Paris, Dòng Đa Minh, Dòng Phan Sinh, Dòng Âu Tinh Chân đất, Bộ Truyền bá Đức tin) góp sức vào công cuộc truyền giáo. Công giáo Việt Nam phát triển trong suốt giai đoạn sơ khởi này thời Lê trung hưng và trở thành một trong những cộng đồng Kitô giáo thiểu số lớn nhất tại châu Á. Các cuộc bách hại diễn ra mạnh nhất dưới thời Minh Mạng và bởi phong trào Văn Thân. Vào giai đoạn chấm dứt Chiến tranh Pháp–Thanh, có khoảng 700 ngàn người Công giáo Việt Nam, chiếm khoảng 6–7% dân số, đa số sống ở vùng đồng bằng sông Hồng, nhiều nhất là các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, Hà Nội; kế tiếp là các khu vực Vinh, Huế, Sài Gòn và Quy Nhơn. Từ nửa sau thế kỷ 19 cho tới nay, tỉ lệ người Công giáo trong tổng dân số Việt Nam không thay đổi đáng kể. Theo điều tra dân số năm 2019, Công giáo là tôn giáo lớn nhất cả nước với số lượng tín hữu hơn 5,86 triệu người, chiếm 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng dân số cả nước. Theo các nguồn khác, Việt Nam hiện nay có khoảng 7 triệu người Công giáo, chiếm 7% tổng dân số, với 4.000 linh mục, 4.500 giáo xứ, 22.000 tu sĩ với hơn 240 dòng tu, hơn 2400 đại chủng sinh cùng khoảng 10.000 nhà thờ. Tỉnh có số tín đồ Công giáo đông nhất cả nước là Đồng Nai với 1.035.015 người. Các giám mục người Việt đầu tiên được Tòa Thánh bổ nhiệm thập niên 1930. Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập năm 1960. Năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên thánh cho 117 tín hữu tử vì đạo ở Việt Nam. Khi tấn phong giám mục hoặc các chức phẩm cao hơn, Vatican sẽ tham khảo ý kiến của chính phủ Việt Nam nhưng Vatican mới là bên có thể bổ nhiệm giám mục tại Việt Nam. Việt Nam đã làm việc với Vatican kể từ năm 1990 tới nay, một điểm nhấn đối lập với các chế độ cộng sản khác. Tin Lành Kháng Cách, thường gọi là đạo Tin Lành, được truyền vào Việt Nam năm 1911. Đầu tiên tôn giáo này chỉ được cho phép tại một số vùng; đến năm 1920, Tin Lành được phép hoạt động trên khắp Việt Nam. Năm 1927, Hội thánh Tin Lành Việt Nam (hỗ trợ bởi Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp) được chính thức thành lập. Các hệ phái Kháng Cách khác như Baptist, Trưởng lão, Mennonite, Ngũ tuần tiếp bước truyền giảng Phúc Âm tại Việt Nam, đồng thời tham gia tích cực các hoạt động xã hội. Năm 2019, số tín đồ Tin Lành ở Việt Nam theo số liệu chính thức là 960.558 người, chủ yếu tập trung ở khu vực Tây Nguyên, vùng núi Tây Bắc, và một số đô thị. Tin Lành hiện là tôn giáo phát triển nhanh nhất tại Việt Nam. Cao Đài Cao Đài, hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là một tôn giáo bản địa Việt Nam do Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc thành lập năm 1926, với trung tâm là Tòa Thánh Tây Ninh. Tôn giáo này thờ Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng đế. Các tín đồ Cao Đài thi hành những giáo điều như không sát sanh, sống lương thiện, hòa đồng, làm lành, lánh dữ, giúp đỡ xung quanh, cầu nguyện, thờ cúng tổ tiên và thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc ăn chay với mục tiêu tối thiểu là đem sự hạnh phúc đến cho mọi người, đưa mọi người về với Thượng đế nơi Thiên Giới và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát khỏi vòng luân hồi. Theo số liệu thống kê năm 2019 thì có 556.234 tín đồ Cao Đài phân bố tại 39 tỉnh thành cả nước đông nhất là tại Tây Ninh và khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Úc. Đạo Cao Đài đã trở thành tôn giáo lớn thứ ba tại Việt Nam Hòa Hảo Hòa Hảo, hay Phật giáo Hòa Hảo, là một tôn giáo Việt Nam gắn chặt với truyền thống Phật giáo, do Đức Huỳnh Phú Sổ thành lập năm 1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu (nay Thị Trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, Tỉnh An Giang). Đạo Hoà Hảo phát triển ở miền Tây Nam Bộ, kêu gọi mọi người sống hòa hợp. Tôn giáo này đánh giá cao triết lý "Phật tại tâm", khuyến khích nghi lễ thờ cúng đơn giản (chỉ có hoa và nước sạch) và loại bỏ mê tín dị đoan. Những buổi lễ được tổ chức rất đơn giản và khiêm tốn, không có ăn uống, hội hè. Lễ lộc, cưới hỏi hay ma chay không cầu kỳ như thường thấy ở những tôn giáo khác. Đạo không có tu sĩ, không có tổ chức giáo hội mà chỉ có một số chức sắc lo việc đạo và cả việc đời. Theo thống kê năm 2019 có khoảng 983.079 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ (Đặc biệt là An Giang với 936.974 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là tỉnh có số tín đồ Phật giáo Hòa Hảo đông nhất cả nước). Đạo Mẫu Đạo Mẫu hay còn gọi với những tên khác như Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, Tam Phủ-Tứ Phủ, là một tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc dân tộc Việt, được tổng hợp từ tục thờ cha mẹ tổ tiên (đạo Lương) và niềm tin vào các đấng thần linh, tiên thánh như Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, Diêu Trì Kim Mẫu (Tây Vương Mẫu), Quán Thế Âm, Tứ Thánh Bất Tử (Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công Chúa), Tam Phủ-Tứ Phủ (Đệ Nhất Thượng Thiên, Đệ Nhị Thượng Ngàn, Đệ Tam Thượng Thoải, Đệ Tứ Địa Mẫu), Đức Thánh Trần (Trần Quốc Tuấn), Bát Hải Long Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Ngũ Vị Tôn Quan, Chầu Bà, Ông Hoàng, Cô, Cậu, Ông Ngũ Hổ, Ông Lốt,... Đạo Mẫu vì là tín ngưỡng dân tộc Việt gắng liền với tục lệ thờ cúng tổ tiên với văn hoá truyền thống dân tộc "Uống nước nhớ nguồn" và niềm tin vào các đấng thần linh tiên thánh, là chổ dựa tinh thần cho mọi người khi gặp cảnh khó khăn như hạn hán mất mùa, chiến tranh, bệnh dịch,... Khi đã không còn biện pháp gì để giải quyết vấn đề khó khăn con người sẽ tìm đến những đấng siêu nhiên như Thần, Tiên, Thánh để mong sự cứu giúp của những vị ấy. Đạo Mẫu không có năm thành lập rõ ràng vì xuất phát từ tục thờ cúng trong tín ngưỡng dân tộc Việt, chủ yếu phát triển mạnh ở Miền Bắc Việt Nam, sau lan truyền mạnh mẽ về Bắc Trung Bộ và các miền khác trên toàn đất nước. Đạo Mẫu đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới năm 1/12/2016 với tên gọi Đạo Mẫu hay Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Việt Nam. Ấn Độ giáo Ấn Độ giáo là từng tôn giáo phổ biến nhất của người Chăm. Ấn Độ giáo chưa được công nhận chính thức bởi Chính phủ Việt Nam. Với cách hiểu Ấn Độ giáo là Bà-la-môn giáo (của người Chăm Bà la môn) thì Bà la môn đã được chính phủ Việt Nam công nhận là 1 trong số 16 tôn giáo chính thức (theo thống kê Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê). Bà-la-môn giáo có 64.547 tín đồ tập trung chủ yếu ở Ninh Thuận với 40.695 tín đồ. Hồi giáo Hầu hết tín đồ Hồi giáo tại Việt Nam là người Chăm song 1/3 người Hồi giáo là thuộc các sắc dân khác. Người ta cho rằng Hồi giáo đã được truyền vào Việt Nam đầu tiên là khoảng thế kỉ 10, 11, ở cộng đồng người Chăm. Năm 2019, tại Việt Nam có khoảng 70.934 tín đồ Hồi giáo, chủ yếu ở Bình Thuận, Ninh Thuận, An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh trong đó đông nhất là tại Ninh Thuận với 44.990 tín đồ. Có hai giáo phái Hồi giáo của người Chăm: người Chăm ở Châu Đốc, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Đồng Nai theo Hồi giáo chính thống, còn người Chăm ở Bình Thuận, Ninh Thuận theo phái Chăm Bà Ni. Các tôn giáo khác Các thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phổ biến ở đa số dân cư bất kể họ có theo tôn giáo nào hay không. Trong các cuộc điều tra về tôn giáo của Viện Nghiên cứu Tôn giáo tiến hành từ 1995 đến 2007 thì số người thực hiện việc thờ cúng tổ tiên chiếm tỷ lệ trung bình là 98% dân số. Ngoài những tôn giáo lớn, Việt Nam còn có các tôn giáo nhỏ được chính quyền công nhận như: Tứ Ân Hiếu Nghĩa (30.416 tín đồ), Cơ đốc Phục lâm (11.830 tín đồ), Baha'i (7.000 tín đồ), Mormon (4.281 tín đồ), Bửu Sơn Kỳ Hương (2.975 tín đồ), Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam (2.306 tín đồ), Hiếu Nghĩa Tà Lơn (401), Minh Sư Đạo (260), Minh Lý Đạo (193). Ngoài ra còn có một số tín ngưỡng và tôn giáo chưa được đăng ký chính thức như: Các tín ngưỡng dân gian ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Đạo Dừa ở Bến Tre. Đạo Ông Trần tại đảo Long Sơn, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Các tín ngưỡng khác như đạo Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, thờ thành hoàng. Phần nào các tín ngưỡng này được tích hợp và chấp nhận bởi đa số tín đồ Phật giáo và Phật giáo Hòa Hảo. Chính thống giáo tại Việt Nam bao gồm ba giáo xứ của Giáo hội Chính thống giáo Nga tại Vũng Tàu, TP.HCM, và Hà Nội. Thành viên là các tín hữu nói tiếng Nga, trong số đó có các chuyên gia của Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro và các viên chức ngoại giao. Do Thái Giáo tại Việt Nam có 1 Hội Đường Do Thái Giáo tại đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 1 . Không tôn giáo Nhà nước Việt Nam theo chủ trương thế tục, trong đó chủ nghĩa Marx–Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ tư tưởng chính trị của nhà nước, được khuyến khích trên các phương tiện thông tin và giảng dạy trong các trường học tại Việt Nam. Đến năm 2019, có khoảng 5,2 triệu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần lớn người dân Việt Nam nhận mình là không tôn giáo. Trong số họ, đa số vẫn duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở các mức độ khác nhau. Không rõ số liệu cụ thể những người coi mình là vô thần, hoặc bất khả tri. Tổ chức tôn giáo có đăng ký Nhà nước Việt Nam hiện nay công nhận 36 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo. Hình ảnh
Ampe (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp ampère /ɑ̃pɛʁ/), còn được viết là am-pe, cũng còn được gọi là ăm-pe, ký hiệu A, là đơn vị đo cường độ dòng điện (kí hiệu là I) trong hệ SI, lấy tên theo nhà Vật lý và Toán học người Pháp là André Marie Ampère (1775–1836), được coi là cha đẻ của điện từ trường cùng với nhà vật lý người Đan Mạch Hans Christian Ørsted. Hệ thống đơn vị quốc tế định nghĩa ampe theo các đơn vị cơ bản khác bằng cách đo lực điện từ giữa các vật dẫn điện mang dòng điện. Hệ đơn vị centimet–gam–giây trước đó có hai định nghĩa khác nhau về dòng điện, một định nghĩa về cơ bản giống với SI và một định nghĩa khác sử dụng điện tích làm đơn vị cơ sở, với đơn vị là điện tích được xác định bằng cách đo lực giữa hai tấm kim loại tích điện. Ampe sau đó được định nghĩa là một culông điện tích mỗi giây Trong SI, đơn vị điện tích, culông, được định nghĩa là điện tích do một ampe mang trong một giây. Định nghĩa mới, xét về các hằng số bất biến của tự nhiên, cụ thể là điện tích cơ bản, có hiệu lực vào ngày 20 tháng 5 năm 2019. Định nghĩa Đơn vị đo cường độ dòng điện A được định nghĩa từ năm 1946, và có hiệu lực cho đến ngày 20 tháng 5 năm 2019, là dòng điện cố định, nếu nó chạy trong hai dây dẫn thẳng song song dài vô hạn có tiết diện không đáng kể, đặt cách nhau 1 mét trong chân không, thì sinh ra một lực giữa hai dây này bằng 2×10−7 niutơn trên một mét chiều dài. 1 Ampe tương ứng với dòng chuyển động của 6,24150948 · 1018 điện tử e (1 culông) trên giây qua 1 diện tích dây dẫn. 1 Ampe = 1 culông / giây () Lịch sử Ampe được đặt tên theo nhà vật lý và toán học người Pháp André-Marie Ampère (1775–1836), người đã nghiên cứu ra điện từ và đặt nền móng của ngành điện động lực học. Để ghi nhận những đóng góp của Ampère trong việc tạo ra khoa học điện hiện đại, một công ước quốc tế được ký kết tại Triển lãm Quốc tế về Điện năm 1881, đã xác định ampe làm đơn vị đo điện tiêu chuẩn cho dòng điện. Ampe ban đầu được định nghĩa là một phần mười đơn vị của dòng điện trong hệ đơn vị cm–gam–giây. Đơn vị đó thời nay gọi là abampere (abA), được định nghĩa là lượng dòng điện tạo ra lực hai dyne trên một cm chiều dài giữa hai dây cách nhau một cm. Kích thước của đơn vị được chọn để các đơn vị bắt nguồn từ nó trong hệ thống MKSA sẽ được định cỡ thuận tiện. "Ampe quốc tế" là định nghĩa sớm của ampe, có nghĩa là dòng điện sẽ tạo ra bạc mỗi giây từ dung dịch bạc nitrat. Sau đó, các phép đo chính xác hơn cho thấy dòng điện này là . Vì công suất được định nghĩa là tích của dòng điện và điện áp, nên ampe có thể biểu thị thay thế theo các đơn vị khác bằng cách sử dụng mối quan hệ , và do đó 1 A = 1 W/V. Dòng điện có thể được đo bằng đồng hồ vạn năng, một thiết bị có thể đo điện áp, dòng điện và điện trở. Định nghĩa trước đây trong SI Cho đến năm 2019, SI định nghĩa ampe như sau:Bằng dòng điện cố định chạy trong hai dây dẫn song song dài vô hạn có tiết diện không đáng kể, đặt cách nhau 1 mét trong chân không, và sinh ra một lực giữa hai dây này bằng 2×10−7 niutơn trên một mét chiều dài (CGPM lần thứ 9 (1948), Nghị quyết 7, CR 70). Khi đó, đơn vị điện tích SI, culông, được định nghĩa là "lượng điện được dòng điện 1 ampe mang trong 1 giây". Ngược lại, dòng điện một ampe là một dòng điện tích đi qua một điểm nhất định trong một giây: Nói chung, điện tích được xác định bởi dòng điện ổn định chạy trong một thời gian khi . Các ước số-bội số trong SI Hiện thực hóa Ampe chuẩn được nhận ra chính xác nhất bằng cách sử dụng thiết bị cân bằng Kibble, nhưng trên thực tế được duy trì thông qua Định luật Ohm từ các đơn vị lực điện động và điện trở, vôn và ohm, vì hai cái sau có thể được gắn với các hiện tượng vật lý tương đối dễ tái tạo, tương ứng với hiệu ứng Josephson và hiệu ứng Hall lượng tử. Các kỹ thuật để thiết lập nhận thức của một ampe có độ sai số tương đối khoảng một vài phần trong 10 và liên quan đến việc xác định oát, ohm và vôn.
Những cuộc phiêu lưu của Mít Đặc và các bạn (tiếng Nga: Приключения Незнайки и его друзей) là một tập truyện giả tưởng dành cho trẻ em của nhà văn Nikolai Nosov, ra đời năm 1953. Nội dung Cốt truyện xoay quanh cuộc sống tự lập và mối quan hệ của những cô bé, cậu bé tí hon ở thành phố Diều và các thành phố hư cấu khác. Trong số các em bé này thì Mít Đặc là một cậu bé nổi đình đám nhất với những ý nghĩ nghịch ngợm và kỳ quặc của cậu. Trái ngược lại với Mít Đặc là Biết Tuốt, một cậu bé hiểu biết rộng, chững chạc và thường bị Mít Đặc ghen tị. Các cô bé, cậu bé này biết làm thành thạo những công việc của một người lớn như biết sửa xe, vẽ tranh, làm khinh khí cầu, làm thơ, chữa bệnh... Danh sách các tập truyện Chương 1: Các cô chú tí hon ở thành phố Hoa. Chương 2: Mít Đặc muốn trở thành nhạc sĩ. Chương 3: Mít Đặc học vẽ. Chương 4: Mít Đặc làm thơ. Chương 5: Mít Đặc tập lái xe. Chương 6: Biết Tuốt sáng chế ra khinh khí cầu. Chương 7: Chuẩn bị lên đường. Chương 8: Lên đường. Chương 9: Trên chín tầng mây. Chương 10: Tai nạn. Chương 11: Đến nơi xa lạ. Chương 12: Bạn mới. Chương 13: Câu chuyện bên bàn ăn. Chương 14: Thăm thành phố Xanh. Chương 15: Trong bệnh viện. Chương 16: Một buổi hòa nhạc. Chương 17: Bù Loong và Đinh Vít đến thành phố Diều. Chương 18: Ở thành phố Diều. Chương 19: Thăm Cả Láu. Chương 20: Thuốc Nước làm việc. Chương 21: Bù Loong và Đinh Vít trở về. Chương 22: Máy móc kỳ diệu. Chương 23: Tẩu thoát. Chương 24: Sáng kiến hợp lý hóa của Thuốc Nước. Chương 25: Viên Đạn nằm ở bệnh viện. Chương 26: Đinh Dép trở về. Chương 27: Cuộc gặp gỡ bất ngờ. Chương 28: Lại làm lành. Chương 29: Vũ hội. Chương 30: Trở về. Nhân vật Thành phố Hoa Phố Hoa Bìm Bìm Có tất cả 16 chú tí hon, một số chú nổi danh là: Mít Đặc: là chú bé hay ăn mặc lòe loẹt và lượn quanh thành phố để ba hoa, bịa đặt đủ thứ chuyện cho bất kỳ ai muốn hóng chuyện. Chú có bạn thân là chú Tịt Mũi. Biết Tuốt: là chú bé hiểu biết rất nhiều điều do đọc nhiều sách, được các bạn bè vị nể và hay đến hỏi ý kiến. Nhiều lúc, mọi người cứ ngỡ rằng chú là một giáo sư. Bác sĩ Thuốc Viên: có tài chữa mọi bệnh cho các cô chú tí hon, thường mặc bộ áo choàng trắng và đội mũ trắng. Ngoài ra còn các chú tí hon, như: chú thợ máy Bù Loong và chú giúp việc Đinh Vít; chú Nước Đường nghiện uống nước ngọt có ga; chú thợ săn Viên Đạn với con chó Mực; họa sĩ Thuốc Nước, nhạc sĩ Kèn Đồng, chú Cáu Kỉnh, Lặng Lẽ, Tròn Xoay, Nhanh Nhảu, Mất Sạch, hai anh em chú Ngộ Nhỡ, Chắc Chắn. Phố Hoa Cúc Tịt Mũi: bạn thân của Mít Đặc Nhà thiên văn Thủy Tinh Nhà thơ Hoa Giấy, Đá Một Cú, Bọ Gậy Thành phố Xanh Mật Ngọt: bác sĩ Mắt Xanh Hoa Dại: nhà thơ Có các cô tí hon khác như: Sóc Con, Bạch Tuyết, Sáo Sậu, Mẫu Đơn, Cun Cút, Chuồn Chuồn, Thỏ Con, Mèo Con, cô Én... Thành phố Diều Đinh Ốc, Đinh Dép, Bánh Vòng, Cả Láu... Chi tiết thú vị Trong truyện, tên nhân vật phần nào nói lên những nét đặc trưng cho tính cách của nhân vật đó. Thông qua các đoạn văn miêu tả sinh động, tính cách hồn nhiên ấy của các cô cậu bé tí hon càng được lột tả rõ nét hơn. Ngoài ra, truyện còn có nhiều đoạn thơ được tác giả viết khá ngộ nghĩnh và lồng ghép qua lời của các nhân vật, như các đoạn thơ mà Mít Đặc đã làm dưới đây: Một hôm đi dọc theo dòng suối Biết Tuốt nhảy qua con cá chuối Có cái bánh nhân mỡ Dưới gối cậu Ngộ Nhỡ Nhanh Nhảu đói thật tội, Nuốt chửng bàn là nguội Các câu thơ của thi sĩ Hoa Dại ở thành phố Xanh: Tôi bắt con muỗi,Nó kêu vo ve, Tôi yêu nó ghêNhưng rồi một buổi Nó buồn rũ rượiTôi thương vô cùng Giữ thì ác hung...Có lẽ tốt hơn Tôi bắt con kiếnKiến cũng buồn nản, Tôi thả nó ra.Chơi đã chán chê ''Thôi, tôi đọc sách. Chuyển thể
Trăm năm cô đơn () là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn người Colombia Gabriel Garcia Marquez. Tác phẩm được nhà xuất bản Sudamericana xuất bản lần đầu bằng tiếng Tây Ban Nha vào năm 1967 tại Buenos Aires (Argentina). Đến năm 1970, truyện đã được in bằng tiếng Tây Ban Nha hơn nửa triệu bản, chưa kể hai lần in ở Cuba là một trăm nghìn bản. Khi đó còn có 17 hợp đồng xin phép tác giả được dịch tác phẩm này ra các thứ tiếng khác. Cho đến nay, tác phẩm đã chuyển dịch qua hơn 30 ngôn ngữ trên thế giới trong đó có Việt Nam, được tặng giải Chianchiano của Ý, được Pháp công nhận là cuốn sách hay nhất trong năm và được giới phê bình văn học Mỹ đánh giá là một trong 12 cuốn sách hay nhất trong thập niên 1960. Đây được coi là một kiệt tác của Gabriel Garcia Marquez, cùng với những tác phẩm Ngài đại tá chờ thư (El coronel no tiene quien le escriba, 1959), Mùa thu của ngài trưởng lão (El otoño del patriarca, 1975), Trăm năm cô đơn đã mang đến cho tác giả vinh dự đoạt giải Nobel Văn học vào năm 1982. Bản dịch tiếng Việt là của dịch giả Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi và Nguyễn Quốc Dũng. Nguyễn Trung Đức viết lời giới thiệu. Hoàn cảnh sáng tác Gabriel Garcia Marquez bắt đầu viết Trăm năm cô đơn vào đầu năm 1965. Trước đó, trong khoảng thời gian từ 1961 tới 1965, với văn học, ông không sáng tác một dòng nào do tâm lý sợ thất bại từ các tác phẩm trước. Tháng 1 năm 1965, khi đang lái xe từ Thành phố Mexico tới khu nghỉ mát Acapulco, Garcia Marquez bỗng dừng xe và nói với vợ, bà Mercedes Barcha: "Anh đã tìm được giọng điệu rồi! Anh sẽ kể lại câu chuyện này với gương mặt khô cứng như gỗ của bà ngoại khi kể cho anh nghe những câu chuyện lạ, bắt đầu từ cái buổi chiều nọ khi đứa bé được bố đưa đi xem nước đá." Garcia Marquez gom được 5.000 USD tiết kiệm và bạn bè giúp đỡ để đưa cho vợ lo chi tiêu trong gia đình, còn ông đóng cửa viết trong 18 tháng. Khi cuốn sách hoàn thành cũng là lúc vợ ông cho biết gia đình đã nợ lên tới 10.000 USD. Để có tiền gửi bản thảo, Garcia Marquez phải bán nốt một số vật dụng giá trị trong nhà. Được xuất bản vào năm 1967, Trăm năm cô đơn ngay lập tức gây được tiếng vang lớn. Câu chuyện kể về một dòng họ và ngôi làng họ sống, Macondo qua một trăm năm, tựa như một phần lịch sử của Colombia. Macondo là ngôi làng do Gabriel Garcia Marquez tưởng tượng ra, dựa trên những ký ức của ông về ngôi làng thời niên thiếu của mình, điều này đã được ông kể lại trong cuốn hồi ký Sống để kể lại ( Vivir para contarla). Dòng họ Buendia bao gồm 7 thế hệ. Người đầu tiên trong dòng họ là Jose Acardio Buendia và người cuối cùng của dòng họ là Aureliano đã bị kiến ăn khi vừa mới được sinh ra. Dòng họ này đã tự lưu đày vào cõi cô đơn để chạy trốn tội loạn luân. Theo cuốn hồi ký Sống để kể lại thì rất nhiều sự kiện, nhân vật của Trăm năm cô đơn được tác giả lấy từ cuộc đời thật. Đại tá Aureliano Buendía nhiều điểm giống với ông ngoại của Garcia Marquez: cùng là đại tá thuộc phái Tự do trong cuộc chiến tranh. Nhưng chính ông ngoại của Garcia Marquez đã giết một người trong một cuộc thách đấu, điều này trùng với nhân vật José Arcadio Buendía trong tiểu thuyết. Nhân vật Úrsula Iguarán thì giống với bà ngoại của Marquez, người cuối đời cũng bị mù. Nhóm bạn của Aureliano Babilonia ở phần cuối tiểu thuyết, mà trong đó cũng có một nhân vật mang họ Marquez, chính là một nhóm bạn của Garcia Marquez khi ông bắt đầu tham gia báo chí. Sự kiện thảm sát cũng đã từng xảy ra và thị trấn quê hương của ông cũng có thời thịnh vượng rồi suy tàn như Macondo. Công ty Chuối trong tiểu thuyết giống với một công ty hoa quả của Mỹ từng xây dựng ở quê hương ông. Tóm tắt cốt truyện José Arcadio Buendía là người đầu tiên trong cây dòng họ này, một người đàn ông khỏe mạnh và quan tâm tới các giả thuyết về triết học. Cha mẹ José đã ngăn cản ông và Úrsula Iguarán lấy nhau do hai dòng họ của hai người đã có mối quan hệ thâm giao lâu đời, cháu chắt họ lấy nhau và đã từng có trường hợp đẻ ra một người có đuôi lợn. Tuy nhiên, với tình yêu sâu nặng, hai người vẫn nhất quyết lấy nhau, nhưng Úrsula Iguarán vẫn sợ sự đe dọa trên nên khi đi ngủ bao giờ cô cũng mặc quần trinh tiết do mẹ may cho, nó có một hệ thống dây da chằng chéo và khóa sắt to sụ. Sự việc cứ kéo dài như vậy hơn một năm và dân làng đồn ầm lên rằng José là kẻ bất lực. Trong một cuộc chọi gà, một người bạn thân do cay cú khi bị thua nên đã chọc tức José. José trong cơn bực tức đã giết người này. Hôm đó về nhà, anh nhất định bắt vợ bỏ chiếc quần trinh tiết đó đi và tuyên bố "dù có đẻ ra kỳ đà thì chúng mình sẽ nuôi kỳ đà". Mặc dù đã toại nguyện trong cuộc sống gia đình nhưng José lúc nào cũng dằn vặt vì đã giết oan người bạn đó. Anh đã cùng vợ bỏ làng đi đến một vùng đất khác để tìm kiếm lại sự thanh thản cho mình. Sau này, khi sinh ra những đứa con, sau mỗi lần đẻ, Úrsula đều phải xem con cặn kẽ xem chúng có mang bộ phận nào của loài vật không và luôn nhắc nhở con cháu phải tỉnh táo để nhận họ hàng, nghiêm cấm những mối quan hệ loạn luân. Toàn bộ những sự kiện trong truyện Trăm năm cô đơn diễn ra tại một ngôi làng không có thực tên là Macondo. Ngôi làng được Jose Acardio Buendia sáng lập, ông là một tộc trưởng kiên quyết và cứng rắn nhưng sau này bị cuốn hút mạnh mẽ bởi những điều kỳ diệu mà những tiến bộ khoa học của thế giới đem lại, những điều kỳ diệu này tới làng Macondo bởi một nhóm người Di-gan du mục do một người đàn ông già tên Melquides dẫn đầu. Khi ngôi làng phát triển, chính quyền cử đến đây một viên quan để nắm quyền cai trị ngôi làng và lôi kéo ngôi làng vào vòng xoáy chính trị nhưng rồi quyền lực của ngôi làng lại trở về tay Jose Acardio Buendia. Cuộc nội chiến nổ ra, làng Macondo sớm đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến khi gửi đến cuộc chiến một đội quân do Đại tá Aureliano Buendia, con trai của Jose Acardio Buendia, lãnh đạo để chống lại quân đội Bảo hoàng. Trong khi ông Đại tá đi chiến đấu, Jose Acardio Buendia trở thành một người điên và bị trói vào một cái cây. Arcadio, đứa cháu ngoài giá thú của ông ta, nắm quyền lãnh đạo ngôi làng và sớm trở thành một tên độc tài khát máu. Quân đội bảo hoàng bao vây ngôi làng và Arcadio bị xử bắn. Cuộc chiến tiếp tục, Đại tá Aureliano đã nhiều lần thoát chết, trở thành một con người vinh quang. Cho đến một ngày, quá mệt mỏi vì một cuộc chiến vô nghĩa, ông ta dàn xếp cho một thoả thuận hòa bình mà rồi cuối cùng cũng đến vào cuối cuốn tiểu thuyết. Sau khi hòa ước được ký kết, Aureliano tự tử nhưng không chết. Ngôi làng phát triển, trở nên lộn xộn và thành trung tâm các hoạt động của hàng ngàn người nước ngoài. Những người nước ngoài đến và bắt đầu triển khai một dự án trồng chuối gần ngôi làng. Nhờ đó, ngôi làng trở nên thịnh vượng cho đến một ngày cuộc bãi công của công nhân nổ ra. Quân đội chính phủ được gọi đến và những người công nhân biểu tình bị bắn chết rồi ném xác xuống biển. Khi đó, Úrsula, bà vợ goá già cả của Jose Acardio Buendia đã nói "thời gian là một vòng tròn". Sau cuộc thảm sát công nhân trồng chuối, ngôi làng chìm trong một trận mưa dữ dội kéo dài liên tục năm năm trời. Úrsula nói rằng bà sẽ chờ đợi đến khi cơn mưa chấm dứt để chết. Một trong những thành viên cuối cùng của dòng dõi Buendia tên là Aureliano Babilona, thuộc thế hệ thứ 6, sinh ra trong thời gian này. Cuối cùng thì cơn mưa dai dẳng cũng chấm dứt, Úrsula chết, Mancondo chỉ còn là một ngôi làng tan hoang. Aureliano Babilonia không được học hành, sống cô đơn trong ngôi nhà đổ nát của dòng họ Buendia. Anh ta tự mình tìm cách đọc những văn bản được viết trên những tấm giấy da dê của ông lão Melquiades, khi đó đã chết và trở thành một hồn ma làm bạn với Aureliano Babilonia. Anh ta trưởng thành mà chỉ có một công việc duy nhất là nghiên cứu những văn bản đó cho đến khi Aureliano Babilonia gặp và yêu người chủ hợp pháp cuối cùng của ngôi nhà, Amaranta Ursula, cũng chính là người dì ruột của mình. Aureliano không biết điều này cho đến khi Amaranta Ursula chết khi sinh ra một đứa con có đuôi lợn. Trong khi đau khổ vì cái chết của người tình và đứa con vừa được sinh ra (đứa bé, giọt máu cuối cùng của dòng họ Buendia đã bị một đàn kiến ăn thịt), Aureliano Buendia cuối cùng cũng có thể hiểu được những điều được viết bằng chữ Phạn trong những mảnh giấy da dê của Melquiades. Những văn bản ấy kể lại chi tiết lịch sử dòng họ Buendia, ngay cả những sự việc xảy ra sau khi những tài liệu đó được viết ra. Khi anh ta đọc xong, cả ngôi làng bị phá hủy bởi một trận cuồng phong và bị xóa sạch khỏi thế giới này. Nhân vật Trong Trăm năm cô đơn có khoảng 60 nhân vật, cả chính lẫn phụ. Các nhân vật đều có cá tính riêng. Bằng thủ pháp nghệ thuật riêng, Gabriel Garcia Marquez xây dựng nên những nhân vật siêu mẫu, những người dị thường, phi thường và quái dị. Ở từng nhân vật cụ thể, tác giả thường chỉ tập trung miêu tả nhấn mạnh những biểu hiện của cá tính với những đặc điểm nổi bật: Pilar Ternera với mùi khen khét phả ra từ nách và tiếng cười khanh khách; Rebecca ăn đất yêu đương mãnh liệt; Remedios - Người đẹp ngây thơ với sắc đẹp làm chết người; Aureliano Segundo kẻ phàm tục với câu nói: "Hỡi những con bò cái hãy dạng háng ra kẻo cuộc đời ngắn ngủi lắm"; Mauricio Babilonia thợ cơ khí của công ty Chuối luôn xuất hiện của đàn bướm vàng bay trên đầu... Gia phả dòng họ Buendia Thế hệ thứ nhất José Arcadio Buendía Cụ tổ của dòng họ Buendia. Ông cưới người em họ Úrsula Iguarán vào năm 19 tuổi. Bỏ làng đi sau khi giết một người chọi gà đã sỉ nhục mình, José Arcadio Buendía sáng lập ra làng Macondo và là người lãnh đạo sáng suốt của làng trong một thời gian dài. José Arcadio Buendía là người có cả sức mạnh cơ bắp và trí tuệ. Hai đặc điểm này di truyền cho con cháu theo hai nhánh. Những José Arcadio khỏe mạnh, sống sôi nổi, còn những Aureliano thì thông minh nhưng cô đơn và lánh đời. Sau khi bị mê hoặc bởi những phát minh của người Digan, José Arcadio Buendía say sưa lao vào những tìm kiếm khoa học, rồi phát điên và cuối cũng chết dưới tán cây dẻ. Úrsula Iguarán Úrsula Iguarán là vợ của José Arcadio Buendía. Cùng với chồng, bà là một trong những người đầu tiên lập nên Macondo. Giữ vai trụ cột, trục chính của gia đình, Úrsula Iguarán đã sống và chứng kiến nhiều thế hệ con cháu sinh ra, lớn lên và chết đi. Vượt xa cả tuổi 100, cụ Úrsula Iguarán chết sau cơn lụt kéo dài, khi Macondo đang bước vào thời kỳ suy tàn. Thế hệ thứ hai José Arcadio José Arcadio là con cả của Úrsula Iguarán và José Arcadio Buendía, sinh ra trên đường khi mọi người đi lập làng Macondo. José thừa hưởng sức mạnh của người cha. Có quan hệ với Pilar Ternera, José bỏ đi theo những người Di gan. Sau nhiều năm, sau khi đã 65 lần đi vòng quanh thế giới, José trở về Macondo với cơ thể đầy hình xăm. Sự trở về của José phá vỡ đám cưới dự định giữa Rebecca và Pietro Crespi. José cưới em nuôi là Rebecca rồi khi về già chết một cách bí ẩn. José Arcadio cũng chính là người cứu Đại tá Aureliano Buendía khi ngài bị đưa về Macondo để hành hình. Đại tá Aureliano Buendía Nhân vật quan trọng, xuyên suốt hai phần ba tác phẩm. Aureliano Buendía là con thứ hai của gia đình và là người đầu tiên được sinh ra ở Macondo. Di truyền từ cha, Aureliano Buendía là người thông minh và dũng cảm. Cộng với biệt tài tiên đoán, Aureliano phát động 32 cuộc chiến tranh, trở thành tư lệnh các lực lượng vũ trang vùng duyên hải, chiến đấu cho phái Tự do. Cùng với những thành công trong con đường binh nghiệp, Aureliano trở thành một kẻ độc tài, kiêu ngạo, chỉ chiến đấu cho niềm kiêu hãnh của cá nhân mình. Cuối cùng, Đại tá Aureliano Buendía ký một bản hòa ước với chính phủ mà theo các đồng đội của ông thì đó là một sự đầu hàng. Đại tá Aureliano Buendía lại quay về xưởng kim hoàn, tiếp tục ngồi sản xuất những con cá vàng cho đến khi chết già. Remedios Moscote Remedios Moscote là con gái nhỏ nhất trong số bảy người con gái của quan thanh tra Don Apolinar Moscote. Aureliano Buendía trong lần cùng cha đến nhà Don Apolinar Moscote đã gặp và yêu Remedios dù khi đó Remedios chưa đến tuổi thành niên. Aureliano Buendía vừa đợi, vừa dạy học cho Remedios rồi tổ chức đám cưới ngay khi Remedios đến tuổi dậy thì. Làm ngạc nhiên tất cả mọi người, Remedios trở thành một người vợ tuyệt vời. Cô mang về cho nhà Buendía một không khí vui vẻ, là người duy nhất dám can ngăn những cuộc cãi vã giữa Amaranta và Rebecca, cô chăm sóc cụ José Arcadio Buendía và nhận con của Aureliano Buendía và Pilar Ternera làm con đầu lòng của mình. Remedios chết không lâu sau khi cưới trong lúc đang mang thai; do uống phải ly cà phê có độc vốn được Amaranta pha để đầu độc Rebecca. Amaranta Amaranta là con gái út của Úrsula Iguarán và José Arcadio Buendía. Lớn lên cùng Rebecca, nhưng tình cảm hai người thay đổi khi cả hai cùng yêu Pietro Crespi. Sau khi Rebecca từ bỏ Pietro Crespi để cưới José Arcadio, Amaranta từ chối Pietro Crespi khi anh ta đến với mình. Pietro Crespi tự tử, Amaranta sống độc thân đến cuối đời, từ chối cả tình cảm của Đại tá Gerineldo Marquez. Amaranta chỉ có một mối quan hệ duy nhất với người cháu là Aureliano José, con trai của Pilar Ternera và Đại tá Aureliano Buendía. Rebecca Rebecca là đứa trẻ mồ côi tới Macondo khi cô chưa được 11 tuổi cùng một bao tải gai bên trong đựng hài cốt của cha mẹ mình. Thời gian đầu cô không nói chuyện, không ăn cơm mà ăn đất ẩm. Trở thành con nuôi của José Arcadio Buendía và Úrsula Iguarán, Rebecca lớn lên cùng Amaranta. Cô là người chiến thắng Amaranta trong cuộc tranh giành tình yêu của Pietro Crespi. Nhưng đến khi đám cưới sắp được tổ chức thì José Arcadio trở về và Rebecca trở thành vợ của José Arcadio. Sau cái chết của chồng, Rebecca tự giam hãm mình trong căn nhà ở góc quãng trường (căn nhà thứ hai, sau căn nhà đầu tiên ở gần nghĩa địa) của hai vợ chồng cho tới khi chết vì tuổi già. Thế hệ thứ ba Arcadio Arcadio là con trai của José Arcadio và Pilar Ternera nhưng không bao giờ biết thân thế của mình. Sau khi José Arcadio bỏ đi, Pilar Ternera sinh Arcadio rồi mang đến trả cho gia đình Buendía. Arcadio lớn lên và được Aureliano dạy đọc, dạy viết. Khi chiến tranh nổ ra, trước lúc đi, Aureliano Buendía đã để lại làng Macondo cho Arcadio. Cùng với bọn trẻ trong trường học, Arcadio trở thành một tên độc tài hống hách, quản lý Macondo với một chế độ hà khắc. Arcadio lấy Santa Sofía de la Piedad và hai người có tất cả ba đứa con. Khi quân Chính phủ về làng, Arcadio bị đem ra xử bắn. Aureliano José Con trai của Pilar Ternera và Đại tá Aureliano Buendía. Aureliano José lớn nên, được nuôi dạy bởi Amaranta và cậu ta đã có tình cảm với chính người cô ruột của mình. Sau một thời gian tham gia chiến tranh, Aureliano José trở lại Macondo và bị một sĩ quan bảo hoàng bắn chết trước cửa rạp hát trong một lần đi xem kịch. Santa Sofía de la Piedad Santa Sofía de la Piedad, người được Pilar Ternera trả tiền để tới ngủ với Arcadio thay cho mình. Santa Sofía de la Piedad trở thành vợ Arcadio và sinh ra ba người con: Remedios - Người đẹp, José Arcadio Segundo và Aureliano Segundo. Santa Sofía de la Piedad đóng vai trò mờ nhạt trong gia đình. Sau nhiều năm, sau cái chết của cụ Úrsula Iguarán, ngôi nhà cũ kỹ bắt đầu hư hỏng, Macondo bước vào thời kỳ suy tàn, bà Santa Sofía de la Piedad bỏ đi khỏi làng. Mười bảy Aureliano Trong thời gian 32 cuộc chiến, Đại tá Aureliano Buendía đã có 17 người con trai với 17 phụ nữ khác nhau mà với mỗi người chỉ trải qua một đêm. Đó là theo một tập quán, những bà mẹ gửi con gái mình đến ngủ với những chiến binh dũng cảm nhất như một biện pháp cải tạo giống nòi. Mười bảy người con đó được mang tới và Úrsula Iguarán đặt cho tên Aureliano kèm với tên họ của người mẹ. Vào ngày lễ thượng thọ của Đại tá Aureliano Buendía, 17 người cùng xuất hiện ở làng Macondo và vài người quyết định ở lại đấy. Aureliano Triste lập một nhà máy sản xuất nước đá ở Macondo, còn Aureliano Centeno là người đã xây dựng tuyến tàu hỏa đầu tiên tới làng. Nhưng rồi, chỉ trong một đêm, 16 Aureliano bị bắn chết ở các địa điểm khác nhau. Người thứ 17 tuy trốn thoát khi đó những cũng bị giết vào nhiều năm sau. Thế hệ thứ tư Remedios - Người đẹp Remedios - Người đẹp là con gái của Arcadio và Santa Sofía de la Piedad. Nguyện vọng của Arcadio trước khi bị tử hình là con gái mình mang tên Úrsula. Vào phút cuối Arcadio lại muốn đặt là Remedios, theo tên người vợ của Đại tá Aureliano Buendía, nhưng Arcadio đã không kịp nói ra. Tuy vậy, Úrsula Iguarán vẫn quyết định đặt tên cho chắt gái của mình là Remedios vì theo cụ cái tên Úrsula sẽ làm nó khổ một đời. Thừa hưởng sắc đẹp của người mẹ, Remedios - Người đẹp được coi là người đẹp nhất thế gian. Nhưng sắc đẹp của Remedios là thứ sắc đẹp chết người, nhiều chàng trai si mê đã chết oan uổng vì cô. Remedios - Người đẹp ngây ngô, dửng dưng với mọi thứ và suốt cuộc đời không vướng vào ái tình. Cuối cùng Remedios - Người đẹp bay lên trời cùng với những chiếc chăn thô trải giường. José Arcadio Segundo José Arcadio Segundo là con trai của Arcadio và Santa Sofía de la Piedad, anh em song sinh của Aureliano Segundo. Ở thế hệ này có sự hoán vị giữa José Arcadio và Aureliano. Khác với các José Arcadio khác, José Arcadio Segundo là kẻ thông minh, ít nói và cô đơn. Tham gia vào công đoàn bảo vệ những công nhân của công ty Chuối, José Arcadio Segundo là người đã sống sót sau cuộc thảm sát ở sân ga. Trở về Macondo, ông cố gắng tìm mọi cách để chứng minh vụ thảm sát đó là có thật. Không thành công, José Arcadio Segundo giam mình trong phòng của Melquíades, không chịu tiếp xúc với ai ngoài người anh em song sinh và đứa cháu họ Aureliano. Hai anh em José Arcadio Segundo và Aureliano Segundo chết cùng lúc. Khi chôn, người ta đã lầm lẫn, chộn quan tài người này vào huyệt người kia. Aureliano Segundo Con trai của Arcadio và Santa Sofía de la Piedad, anh em song sinh của José Arcadio Segundo. Aureliano Segundo là Aureliano duy nhất cởi mở và phàm tục. Aureliano Segundo cưới Fernanda del Carpio, nhưng vẫn là tình nhân suốt đời của Petra Cotes. Ông may mắn có được sản nghiệp khổng lồ nhờ sự sinh sôi kỳ lạ của đàn gia súc. Thời trai trẻ Aureliano Segundo là kẻ béo tốt, phóng đãng với câu nói: "Hỡi những con bò cái hãy dạng háng ra kẻo cuộc đời ngắn ngủi lắm". Sau trận lụt kéo dài, ông mất hết gia sản. Cuối đời, ông cùng Petra Cotes mở lại những cuộc quay xổ số để có tiền đưa Amaranta Úrsula đi học ở Brussel. Càng về già, Aureliano Segundo càng gầy đi và đến khi chết lại giống người anh em song sinh của mình y hệt. Fernanda del Carpio Cô gái xuất hiện trong ngày hội Carnaval đẫm máu trong trang phục hoàng hậu. Fernanda del Carpio sinh ra trong một gia đình khánh kiệt bởi chu cấp cho việc giáo dục cô. Sau hội Carnaval, Aureliano Segundo đi tìm Fernanda del Carpio rồi mang về Macondo làm đám cưới. Được giáo dục để trở thành một bà hoàng, Fernanda del Carpio chỉ ngồi đại tiện trên chiếc bô bằng vàng. Từ khi đến, ngôi nhà vốn sáng sủa, hiếu khách bị Fernanda del Carpio biến thành lạnh lẽo và u ám. Cuối đời, sau những chữa trị bằng liên lạc với các thầy thuốc không nhìn thầy được không hiệu quả, Fernanda del Carpio chết vì bệnh tật. Thế hệ thứ năm Renata Remedios (Meme) Con gái của Aureliano Segundo và Fernanda del Carpio. Cái tên Renata Remedios là kết quả của sự bất đồng trong việc đặt tên giữa Fernanda del Carpio và gia đình. Nhưng cuối cùng thì mọi người gọi cô là Meme, tên thân mật của Remedios. Không được thừa kế sắc đẹp của mẹ, nhưng Meme lại thừa hưởng tính cách vui tươi của người cha. Meme trở về Macondo sau một thời gian đi học xa - mà một trong những kỳ nghị hè cô về nhà cùng với 4 bà sơ và 68 cô bạn gái. Meme trở về vào thời kỳ huy thịnh vượng nhất của Macondo. Meme làm quen với các cô bạn gái, hòa mình với cuộc sống và say mê Mauricio Babilonia, một anh chàng học nghề cơ khí ở công ty Chuối. Tuy bị Fernanda del Carpio ngăn cản, hai người vẫn tiếp tục quan hệ cho tới khi Mauricio Babilonia bị bắn trong lúc trèo vào nhà tắm để gặp Meme. Bị mẹ đưa đến một tu viện, Meme chết sau khi sinh một đứa con trai. José Arcadio Là con trai của Aureliano Segundo và Fernanda del Carpio. Được nuôi lớn với ước vọng của cụ Úrsula Iguarán là sẽ trở thành Giáo hoàng, José Arcadio được gia đình gửi sang Ý học. Sau thời gian sống nghèo khó ở Ý, José Arcadio trở về Macondo khi cả cha và mẹ đã chết, căn nhà chỉ còn Aureliano Babilonia sống. Tình cờ may mắn tìm lại được số vàng do những người lính gửi trong thời gian chiến tranh, José Arcadio tận hưởng một cuộc sống xa hoa. Cuối cùng, José Arcadio bị nhóm trẻ vẫn giao du cùng giết chết để chiếm số vàng. Amaranta Úrsula Amaranta Úrsula là con thứ ba của Aureliano Segundo và Fernanda del Carpio. Cô lớn lên cùng Aureliano Babilonia nhưng cả hai không biết mối quan hệ của họ với nhau. Khác với hầu hết các thành viên khác của dòng họ, Amaranta Úrsula là người vui vẻ, cởi mở. Sau trận lụt kéo dài khiến gia đính khánh kiệt, cha cô Aureliano Segundo và Petra Cotes đã mở các cuộc xổ số kiếm tiền đưa Amaranta Úrsula sang Bỉ học. Tại Brussel, cô làm quen và kết hôn với Gastón, một phi công người Phần Lan giàu có. Hai người cùng trở về Macondo sau khi José Arcadio đã chết, chỉ còn mình Aureliano Babilonia. Cô cố gắng thay đổi ngôi nhà với nhiều vật dụng đặt mua từ châu Âu. Sau khi Gastón trở về châu Âu, Amaranta Úrsula ở lại sống cùng Aureliano Babilonia. Thời kỳ này Macondo đã suy tàn. Do không biết mối quan hệ của mình, cô và Aureliano Babilonia yêu nhau và sinh một đứa con trai. Amaranta Úrsula chết vì mất máu sau khi sinh. Thế hệ thứ sáu Aureliano Babilonia Là con trai của Meme và Mauricio Babilonia, thợ cơ khí của công ty Chuối. Mối quan hệ của Meme và Mauricio Babilonia bị Fernanda del Carpio ngăn cản. Mauricio Babilonia bị bắn khi treo vào nhà tắm tìm Meme. Còn Meme sau đó bị dẫn tới một tu viện và ở đó sinh hạ Aureliano Babilonia. Aureliano Babilonia được gửi về Macondo, lớn lên nhưng không biết gốc gác của mình. Sau cái chết của Fernanda del Carpio, rồi José Arcadio, Aureliano Babilonia sống một mình tới khi Amaranta Úrsula và Gastón trở về. Vì không biết Amaranta Úrsula chính là dì ruột của mình, hai người yêu nhau. Sau khi Amaranta Úrsula chết khi sinh hạ, Aureliano Babilonia đọc được những bí mật ghi trên tấm da thuộc và biết được gốc gác của mình. Đó cũng là khi cơn lốc nhấn chìm toàn bộ làng Macondo. Thế hệ thứ bảy Aureliano Người cuối cùng của dòng họ, là con trai của Amaranta Úrsula và Aureliano Babilonia. Aureliano là đửa trẻ duy nhất được sinh ra bởi tình yêu trong suốt 100 năm của dòng họ Buendía. Amaranta Úrsula chết ngay sau khi sinh Aureliano. Aureliano Babilonia đau khổ bỏ quên Aureliano, rồi mải miết đọc các chữ ghi lại trên tấm da thuộc. Aureliano bị bỏ quên và bị kiến cắn cho đến chết. Các nhân vật khác Melquíades Melquíades là một nhà thông thái có khả năng tiên tri. Ông ở trong đám dân Digan thường đến làng Macondo vào tháng 8 mỗi năm để trình diễn những gì thu thập được khắp thế giới. Những vật dụng, công nghệ mới mà Melquíades mang đến làng luôn được José Arcadio Buendía cảm thấy kỳ thú và xin đổi, đó có thể là những thanh nam châm hay dụng cụ thí nghiệm hoá học. Có một thời gian bọn Digan bảo ông chết tại Singapore, nhưng rất lâu sau đó ông lại trở lại làng Macondo, chữa bệnh mất ngủ cho cả làng rồi sống chung với gia đình Buendía. Từ đó đến cuối đời, ông chỉ ở trong phòng thí nghiệm ghi chép những điều bí ẩn hay nghiên cứu một tấm da thuộc. Công việc kỳ quặc này về sau được nhiều người trong gia đình Bueldía tiếp nối. Trước khi qua đời, lần đầu tiên Melquíades bước ra khỏi phòng kể từ lúc bước vào. Ông ra một bờ sông gần Macondo và người ta thấy ông chết trên sông đó. Theo nguyện vọng của ông, José Arcadio Buendía để nguyên xác Melquiades trong vài ngày, sau đó mới đun bằng hỗn hợp thủy ngân. Nhân vật này về sau được Marquez tái hiện trong truyện ngắn Đám tang bà mẹ vĩ đại (Los funerales de la Mamá Grande) Pilar Ternera Pilar là một người phụ nữ ở Macondo, sống bằng nghề bói toán và chủ chứa. Bà ăn nằm với anh em Aureliano và José Arcadio, sinh ra Aureliano José (con trai của Aureliano) và Arcadio (con trai của José Arcadio). Những lời bói toán của bà qua những lá bài thường chính xác, nhưng lời giải thích thì mập mờ. Bà có quan hệ gần gũi với gia đình Buendia trong suốt tiểu thuyết, giúp họ bằng những lời tiên đoán của mình. Bà chết khi bước sang tuổi 145 (bà đã không tính tuổi của mình từ trước đó nhiều năm). "Ternera" có thể là cách chơi chữ từ "Ternura", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "tính nhân hậu". Pilar luôn hiện ra là một nhân vật tốt, và có thể tác giả đã sử dụng cái tên này theo nghĩa tốt đẹp đó. Prudencio Aguilar Nicanor Ulloa và Rebeca Montiel Pietro Crespi Pietro là một nghệ sĩ Italia đẹp trai và lịch lãm. Anh mở một trường dạy nhạc ở Macondo và đã lắp đặt một chiếc piano tự động trong nhà Buendia. Anh yêu Rebeca và họ đã dự định ngày cưới, nhưng Amaranta (vì rất yêu Pietro) đã khiến cho nó phải hoãn lại. Sau đó, khi José Arcadio lấy được Rebeca, Pietro bắt đầu theo đuổi Amaranta. Nhưng cô lại từ chối anh ta, khiến cho Pietro phải tự vẫn. Petra Cotes Petra là góa phụ sống bằng nghề xổ số đến làng Macondo vào giữa lúc chiến tranh ác liệt. Thời còn trẻ, cô ta là một phụ nữ lai đen trẻ trung và sạch sẽ. Do nhầm lẫn hai anh em sinh đôi là José Arcadio Segundo và Aureliano Segundo mà cô ta đã ăn nằm với cả hai rồi sau đó lây bệnh lậu cho họ (sau ba tháng, họ đã lành bệnh). Cô ta là tình nhân gắn bó suốt đời với Aureliano. Họ từng có cuộc sống đồi trụy đầy hoan lạc trong cảnh giàu sang nhờ đàn gia súc đông đúc nhưng sau những trận mưa triền miên, gia tài của hai người bị cuốn trôi hết. Đến những năm cuối đời Petra - già cỗi, héo hon lại quay về với nghiệp bán xổ số cùng với Aureliano Segundo. Ngài Herbert và ngài Brown Mauricio Babilonia Mauricio là một thợ máy ở công ty chuối. Anh chàng tốt bụng, đẹp trai tự nhận mình là con cháu của những người Di-gan đã qua Macondo thuở xưa. Anh có một nét không bình thường khi luôn bị những con bướm vàng bám theo. Mauricio đã có tình cảm với Meme (Reneta Remedios) khi Meme cùng với vài người bạn của mình đến công ty chuối xem mẫu ô tô mới. Sau đó, họ đã có quan hệ tình cảm với nhau cho đến khi Fernanda phát hiện và cố gắng ngăn cản. Mauricio đột nhập vào nhà của Meme và tiếp tục có quan hệ với cô. Fernanda bịa chuyện anh ăn trộm gà và anh đã bị bắn trong một đêm định đột nhập vào nhà Meme. Anh chết già trong nỗi cô đơn, mòn mỏi sống trong cảnh bị những kỉ niệm dằn vặt và đàn bướm vàng không để cho anh lấy một phút. Gastón Là người chồng chính thức của Amaranta Úrsula. Tên các nhân vật theo bản dịch của Nguyễn Trung Đức Ý nghĩa Trăm năm cô đơn là một tác phẩm có nhiều bình diện, phản ánh một cách độc đáo cuộc sống mọi mặt của các dân tộc ở Mỹ Latinh, kể cả những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử của họ. Về mặt thi pháp, sự kết hợp của thần thoại của thổ dân da đỏ với trí tuệ của văn minh hiện đại, sự pha trộn giữa các yếu tố hiện thực và hoang đường đã tạo ra một hệ thẩm mỹ đặc biệt mà các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học gọi là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magical realism), một sản phẩm đặc thù của Mỹ Latin hiện đại. Về mặt ý nghĩa, cái đuôi lợn của dòng họ Buendia là sự vật chất hóa của tác giả về tính ích kỷ của loại người đã đánh mất bản chất người. Những con người trong dòng họ này có đầy đủ trí tuệ và sức khoẻ cần thiết, nhưng thiếu trái tim yêu thương sôi nổi. Tình yêu mới là cái cần thiết để thoát khỏi cảnh cô đơn. Truyện có thông điệp kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất của mình, vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân để hòa đồng với gia đình, với xã hội. Theo lời người dịch truyện, Gabriel Garcia Marquez đã từng tuyên bố rằng ông để cả đời sáng tác về cái cô đơn, thông qua nó, ông kêu gọi mọi người đoàn kết lại để đấu tranh, để "...sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận của mình, ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này...".
Thần thoại học (tiếng Hy Lạp: μυθολογία ghép từ μῦθος - "thần thoại" hay "truyền thuyết" và λόγος - "lời nói", "câu chuyện", "lời dạy") là ngành khoa học nghiên cứu về thần thoại như một dạng ý thức đặc biệt của con người, về sự bảo tồn tư tưởng truyền thống giữa hiện thực biến đổi; coi đó là phương pháp tư duy chủ yếu công xã - thị tộc cũng như quan niệm cổ đại về thực tại xung quanh và bản chất con người. Đối tượng của thần thoại học có thể kể đến như thần thoại, sử thi,... Thần thoại học có nhiều chuyên ngành hẹp hơn, ví dụ thần thoại đối chiếu. Thần thoại học phân biệt thần thoại khác với văn học dân gian: thần thoại là một tập hợp các ý tưởng về thế giới, con người coi đó là tri thức có giá trị và phản ánh trung thực, trái ngược với văn học dân gian nói chung không bắt buộc phải phản ánh hiện thực. Văn học dân gian phản ánh thế giới một cách nghệ thuật và thẩm mỹ, có thể được sinh ra từ thần thoại, mang một số đặc tính nhưng không trở nên ngang bằng với thần thoại được. N. B. Mechkovskaya tổng quát: “Thần thoại về mặt lịch sử là hình thái ý thức tập thể đầu tiên của con người, là bức tranh tổng thể của thế giới, trong đó các yếu tố tôn giáo, thực tế, khoa học, nghệ thuật chưa được phân biệt và không tách rời nhau. Văn học dân gian về mặt lịch sử là sự sáng tạo tập thể mang tính nghệ thuật (thẩm mỹ) đầu tiên của con người (câu chuyện, thơ ca, vũ đạo, kịch)”. Thần thoại học không nghiên cứu câu chuyện thần thánh nói chung mà xác lập khuôn mẫu thần thoại, giải thích cơ sở hành vi khi thần thoại phục vụ cho nghi thức hàng ngày, mang lại cơ hội tìm kiếm ý nghĩa sự sống. Mô tả thần thoại Nguồn gốc thần thoại Những ý tưởng thần thoại tồn tại ở các giai đoạn phát triển nhất định của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Điều này được giới nghiên cứu lịch sử khẳng định cũng như các bộ tộc nguyên thủy tồn tại trong thời hiện đại chứng minh, mỗi dân tộc đều có một hoặc vài thần thoại khác nhau. Kinh Thánh có dấu vết từ Thần thoại Tây Semitic. Trước khi theo Hồi giáo, người Ả Rập đã có thần thoại của riêng mình. Nếu người châu Âu trước Thời đại Khám phá chỉ quen thuộc với thần thoại phương Tây cổ đại và Kinh Thánh, thì sau đó dần biết đến sự hiện diện của thần thoại các dân tộc châu Phi, châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương. Thần thoại luôn tồn tại trong tâm thức con người. Những hình tượng thần thoại không cần định nghĩa chính xác. Sự hình thành thần thoại gắn bó chặt chẽ với nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức. Mô hình thế giới Sự thể hiện tổng quát đơn giản hóa các quan niệm về thế giới trong một truyền thống thần thoại cụ thể tạo thành một mô hình thần thoại (thần thoại hóa). Thần thoại thường là cách thức khái quát thế giới dưới dạng hình ảnh trực quan. Có những khía cạnh nhất định không chỉ nằm ở khái niệm, mà hiển thị trực quan, cụ thể để cảm nhận. Tập hợp các hình ảnh trực quan liên hệ với nhau vẽ nên bức tranh thần thoại về thế giới. Mô hình thần thoại này không thuộc về khái niệm thực nghiệm: các quan điểm truyền thống có thể không hoàn toàn nhận thức được toàn bộ mô hình. Khái niệm thần thoại hình thành từ tư duy đặc biệt, đặc trưng cho tư duy nguyên thủy nói chung và các tư duy khác như ý thức đám đông ở mọi thời đại. Điều kiện tiên quyết của tư duy thần thoại là con người cổ xưa không tách rời khỏi tự nhiên, tính logic hòa lẫn với cảm xúc, từ đó giới tự nhiên được nhân bản hóa trong so sánh ẩn dụ với văn hóa, rồi từ những cảm nhận cá thể trở nên phổ quát, hình tượng hóa qua biểu tượng, ngôn từ. Khái niệm hoang đường không hoàn toàn phi logic (như tâm thức nguyên thủy của Lévy-Bruhl) mà có tính biểu tượng (theo E. Cassirer), nhiều tầng ý nghĩa và có những ý "đánh lừa" gián tiếp (bricolage và suy diễn theo Lévi-Strauss). Cấp độ thần thoại Các nhân vật thần thoại được chia làm nhiều nhóm khác nhau, trong đó các vị thần ở cấp độ trên thường nằm trong tôn giáo chính thống, còn hạ đẳng hơn như quỷ và các linh thể. Các nhóm về sau gồm những tiểu thần về mùa màng, nhân cách hóa kỳ lễ hội theo niên lịch (Yaryla thần thoại Slav, German, Befana thần thoại Ý,...), các thần ngoại giáo dân gian bị hạ thấp và thay thế bằng các vị thánh Cơ Đốc giáo - thần sinh sản, v.v. (như ở Nga, thần Velez bị thay bằng thánh Blaise, nữ thần Mokosh bị nữ thánh Paraskeva thay thế,...), các ma quỷ khác nhau bị đánh đồng thành thiên thần sa ngã,... Các nhân vật trong thần thoại hạ đẳng thường tham gia tích cực vào cuộc sống con người, giao tiếp với con người, biến thành người,... Do đó, trong nhiều thần thoại, những thần thường ngày này lại giữ vị trí quan trọng và thân thuộc hơn các thần thượng đẳng thuộc thời đại thần thoại sáng thế. Trong phạm trù nghi thức, nhân vật thần thoại hạ đẳng thường liên hệ tới mê tín dị đoan, phù thủy, phong tục và ma thuật trong phạm vi bộ lạc hoặc chung cho cả dân tộc. Các nhân vật thần thoại hạ đẳng trong văn hóa Châu Âu như ma cà rồng, phù thủy, quỷ lùn gnome, tiên cá, incubus, succubus, tiên nữ, Lamia, mara, Undine, Befana,... có nguồn gốc từ những truyền thống khác nhau (Cổ đại, German, Slav,... ) và là chất liệu cho văn học dân gian. Thể loại thần thoại Thần thoại vũ trụ và nhân chủng Thần thoại vũ trụ nói về sự sáng tạo, về nguồn gốc vũ trụ từ thời hỗn mang, đây là cốt truyện chính ban đầu trong hầu hết các thần thoại. Câu chuyện khởi đầu mô tả về sự hỗn loạn (trống rỗng), một vũ trụ không có trật tự hay các nguyên tố nguyên thủy tương tác với nhau. Dạng thần thoại này giải thích sự sáng tạo thế giới và nguồn gốc sự sống trên trái đất. Một trong những chủ đề phổ biến của thần thoại vũ trụ là quả trứng nở ra thế giới. Huyền thoại này tìm thấy trong nhiều dân tộc trên các châu lục khác nhau. Quả trứng thế giới là một biểu tượng phổ quát về nguồn gốc sự sống. Trong nhiều thần thoại, thế giới do các vị thần tạo nên. Ví dụ về các cặp đôi đã tạo ra thế giới: Izanagi và Izanami trong Thần đạo, Abzu và Tiamat ở Sumer, Geb và Nut ở Ai Cập, Rangi và Papa của người Māori. Đôi khi cốt truyện xoay quanh cuộc đối đầu giữa lực lượng sáng tạo và thế lực hủy diệt, gọi là đặc trưng thần thoại nhị nguyên, ví dụ Ahura Mazda và Angra Mainyu, Yong và Omele, Kugu Yumo và Yyn. Trong thần thoại Hy Lạp cổ đại, Gaia được coi là tổ tiên của thế giới, thần sinh ra từ Chaos. Bà sinh ra Uranus và từ thần này lại sản sinh các thần khác, Cyclops, Titans, Erinia, người khổng lồ, núi, biển, quái vật và các anh hùng. Một trường hợp đặc biệt của thần thoại vũ trụ là thần thoại nhân chủng nói về sự sáng tạo loài người, tổ tiên thần thoại của con người, cặp đôi đầu tiên,... Thần thoại vũ trụ và nhân chủng thường có mối liên hệ với nhau, trong đó các vị thần tạo ra thế giới cũng thường sáng tạo ra cả con người. Một phiên bản khác của mối quan hệ này là nhân loại hóa thế giới, khi vũ trụ lại sinh ra từ cơ thể của con người (vị thần) đầu tiên. Trong các thần thoại khác nhau, con người được tạo ra từ các nguyên liệu khác nhau, phổ biến nhất là đất sét và bụi đất. Từ đất sét tạo ra con người có thể kể đến Prometheus trong thần thoại Hy Lạp, Enki và vợ là Ninmah trong thần thoại Sumer, Marduk và Enki trong thần thoại Akkadian, Khnum trong thần thoại Ai Cập, Ulgem trong thần thoại Altai, Amma trong thần thoại Dogon, Yoskekh trong thần thoại Iroquois và còn các thần của nhiều dân tộc khác. Một số dân tộc thì nói con người tạo nên từ cây cối. Ngoài ra còn có nhiều biến thể kỳ lạ hơn, như từ các loại hạt của người Melanesia và người da đỏ Peru hoặc từ xương động vật, chim và cá của một số bộ tộc thổ dân da đỏ Bắc Mỹ. Đối với nhiều dân tộc, thần thoại nhân chủng thường nói đàn ông có được tạo ra trước phụ nữ; và hai giới cũng được tạo nên từ các chất liệu khác nhau (trong nhiều thần thoại của thổ dân Nam Mỹ). Một kiểu thần thoại riêng biệt nói về totem là nguồn gốc con người, phạm vi thường là trong bộ lạc, họ coi mình có nguồn gốc từ động vật, ví dụ như chim cũng có thể là tổ tiên loài người. Hoặc con người đầu tiên sinh ra từ quả trứng. Thần thoại mạt thế và lịch thời gian Thần thoại mạt thế nói về ngày tận thế, luôn song hành với thần thoại vũ trụ, gắn liền với sự đối lập giữa hỗn mang và trật tự. Nội dung dự báo về ngày tận thế trong tương lai, như Ragnarök của Bắc Âu, hoặc cho rằng một thảm họa đã xảy ra phân tách thời thần thoại với thời hiện đại. Tùy vào thần thoại mỗi nơi, sự hủy diệt có thể dưới dạng đại hồng thủy, đại diêm hỏa, sự hủy diệt các thần và những âm mưu khác. Thần thoại lịch là thần thoại hóa sự thay đổi của các chu kỳ thời gian - ngày và đêm, mùa đông và mùa hè, cho đến các chu kỳ vũ trụ Chúng liên hệ với các quan sát thiên văn, chiêm tinh học, lễ hội năm mới, lễ thu hoạch và các sự kiện lịch khác. Trong thần thoại Sumer-Akkadia, Marduk được coi là người sáng tạo ra lịch. Để tưởng nhớ, năm mới được tổ chức vào tháng Nissan (trùng với ngày tiết phân). Ở Babylon, ngày lễ này được gọi là Akita nằm trong kỳ lễ 12 ngày, thừa hưởng từ người Sumer. Thần thoại Ai Cập về các mùa đề cập đến xung đột giữa 2 vị thần Ra và Tefnut. Họ cãi nhau khiến cho hạn hán còn khi làm lành, sông Nile lại ngập lụt. Thần thoại về chu kỳ vũ trụ tuần hoàn rất đa dạng, xoay quanh các chu kỳ phát triển, thế giới bị phá hủy rồi được tái tạo. Ví dụ, trong thần thoại Aztec, lịch sử thế giới được chia thành kỷ nguyên của các mặt trời khác nhau, kỷ nguyên mặt trời đầu tiên kết thúc với sự hủy diệt của báo đốm khổng lồ, kỷ nguyên mặt trời thứ nhì kết thúc bằng những trận cuồng phong con người biến mất, kỷ nguyên mặt trời thứ ba chấm dứt bằng hỏa hoạn, kỷ nguyên mặt trời thứ tư tận cùng là đại hồng thủy. Theo tín ngưỡng Aztec, để không xảy ra ngày tận thế tiếp theo, cần phải hiến tế con người hiến tế cho các vị thần. Một ví dụ khác là khái niệm thời kỳ Kalpa và Yuga trong Ấn Độ giáo. Thời đại diệt vong trong Ấn Độ giáo hiện thân qua thần Kali-yuga và nữ thần Kali. Thần thoại anh hùng Thần thoại anh hùng là thần thoại về những anh hùng có thể là con của các vị thần và người phàm như trong thần thoại Hy Lạp, hoặc chỉ đơn giản là những nhân vật huyền thoại trong sử thi. Cốt truyện điển hình của huyền thoại anh hùng là thời thơ ấu phi thường (tài năng thiên bẩm, mồ côi, số phận đặc biệt), thường xuyên phải lưu vong, lập chiến công, đánh bại quái vật, cứu mỹ nhân, trở về và kết hôn. Nhiều thần thoại anh hùng dưới dạng ngụ ngôn kể về sự hình thành nhân cách và giành được địa vị trong xã hội, từ đó có tính kêu gọi hướng dẫn về một hình mẫu tiêu biểu. Thần thoại anh hùng tạo nên phạm trù văn hóa đặc biệt. Đây là những nhân vật thần thoại có đóng góp vào nền văn minh cuộc sống người dân. Thường thì anh hùng là một bán thần, có vị trí ngang với các vị thần, đặt ra luật pháp hoặc phát minh đầu tiên (lửa, cây trồng, công cụ), dạy con người săn bắn, hàng thủ công, nghệ thuật, quy định tổ chức xã hội, nguyên tắc hôn nhân, ma thuật và nghi lễ thờ cúng. Thần thoại thờ cúng Thần thoại thờ cúng đưa ra lời giải thích (động cơ) của nghi lễ hoặc các hoạt động thờ phụng khác. Nguyên thủy nhất là thần thoại thờ cúng vật tổ. Các hoạt động thờ cúng thường bí truyền, tức là chỉ có một số người hạn chế đủ tuổi mới được truyền lại ý nghĩa. Những thần thoại như vậy thường gắn liền với nghi thức nhập môn khi một thành viên bộ tộc đến tuổi trưởng thành phải trải qua thử thách, nếu vượt qua được mới coi là người nam thực thụ và được phép tiếp nhận các tri thức truyền thống bí truyền. Ở Hy Lạp cổ đại, dấu vết thờ cúng đầu tiên là về Demeter và Persephone của người Eleusinia và thần thoại về Dionysos hiện thực hóa bằng những buổi lễ hoan lạc. Các nghi lễ tương tự được phát hiện ở Địa Trung Hải để tôn vinh thần Attis bị giết và sống lại, hoặc theo dị bản về thần Adonis. Nhiều thần thoại thờ cúng còn chưa được phát hiện vì được giữ bí mật nội bộ, không tiết lộ ra ngoài. Thần thoại chiêm tinh Thần thoại chiêm tinh mô tả góc nhìn thần thoại về các chòm sao, hành tinh, mặt trăng và mặt trời. Loại thần thoại này thường gắn với thuyết vật linh, một số đi kèm với tôn giáo để thờ cúng thiên thể nhưng cũng có một số thần thoại không có mục đích tôn thờ cũng xếp vào đây. Phân biệt loại hình Thần thoại và tôn giáo Câu hỏi về mối quan hệ giữa tôn giáo và thần thoại đã được các nhà nghiên cứu thuộc các hướng khác nhau giải quyết theo những cách khác nhau. Trường phái thần thoại chưa đặt ra câu hỏi này một cách trực tiếp, vì vào thời điểm đó chỉ có những tín ngưỡng phức tạp mới được coi là tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo,... và thần thoại mới được coi là thơ ca cổ. Trường phái thần thoại không tách rời thần thoại khỏi các niềm tin tôn giáo phổ biến. Lần đầu tiên khái niệm “thần thoại” được áp dụng vào học thuyết Thiên Chúa giáo do nhà sử học tôn giáo và thần học tự do D. Strauß trong tác phẩm Das Leben Jesu kritisch bearbeitet (Cuộc đời Chúa Giêsu, 1835). Ông cố gắng tẩy sạch hình ảnh Chúa Giêsu lịch sử khỏi các lớp màn thần thoại. Các nhà dân tộc học thuộc trường phái tiến hóa đã đưa thần thoại và tôn giáo đến gần nhau hơn. E. Taylor tin rằng thần thoại dựa trên thuyết vật linh nguyên thủy, tôn giáo dựa vào đó mà phát triển. Quan điểm này được các nhà tiến hóa dân tộc học đa dạng hóa theo nhiều cách khác nhau. N. N. Kharuzin coi thần thoại là thế giới quan của người nguyên thủy, là nguồn tri thức chính của đức tin tôn giáo vì tôn giáo sử dụng nguyên liệu thần thoại. D. Brinton cũng tin rằng bản chất thần thoại là tôn giáo, nhưng không phải tôn giáo xuất phát từ thần thoại mà ngược lại; thần thoại nguyên bản chính là sự thâm nhập vào bản chất thần thánh, mà đó lại là cơ sở duy nhất cho các tôn giáo. K. Preuss lưu ý rằng thần thoại là thành phần thiết yếu trong tín ngưỡng sùng bái. Theo A. B. Ranovich, thần thoại luôn là một trong những yếu tố của tôn giáo. Ngay từ cuối thế kỷ 19 đã có những nỗ lực phân biệt giữa thần thoại với tôn giáo hoặc phản đối sự hòa trộn hai khái niệm này. Mục đích là để "minh oan" cho tôn giáo, giải phóng tôn giáo khỏi yếu tố thần thoại của những câu chuyện "ngây thơ hài hước". Với ý tưởng đó, Frank Jevons viết rằng thần thoại không phải là tôn giáo, cũng không phải là nguồn gốc của tôn giáo, mà là triết học và khoa học nguyên thủy cùng với một phần hư cấu. Tôn giáo có tính chọn lọc lấy những thần thoại phù hợp và loại bỏ những thần thoại không tương thích. S. Reynak coi thần thoại như tuyển tập các câu chuyện còn tôn giáo được đặc trưng bởi tình cảm và hành vi. Những người ủng hộ thuyết pramonotheism (A. Lang, W. Schmidt và học trò) cố gắng phân rẽ tôn giáo và thần thoại một cách rõ ràng nhất có thể. Tôn giáo được xem như một thế giới quan thuần túy đạo đức, không dựa trên nền tảng thần thoại. Những nền tảng như vậy không tồn tại trong tôn giáo nguyên thủy. Cha đẻ của pramonotheism - Lang viết về hai khuynh hướng trong tôn giáo là tính tôn giáo và tính thần thoại. Khuynh hướng tôn giáo xuất hiện trong cả dân tộc sơ khai nhất cũng không thực hành ma thuật trong khi khuynh hướng thần thoại đầy dẫy ma thuật mê hoặc. Người đứng đầu trường phái Viên là Schmidt cho rằng các yếu tố thần thoại trong tôn giáo là lớp vỏ về sau che khuất hình ảnh siêu việt, thuần khiết của một Thượng Đế duy nhất ban đầu. Một số tác giả phân biệt thần thoại và tôn giáo bằng cách thu hẹp khái niệm của người đi trước. W. Wundt tin rằng tôn giáo chỉ hiện diện khi có đức tin vào thần thánh, trong khi thần thoại bao hàm niềm tin vào linh hồn, ma quỷ, linh tính con người và động vật, đó chỉ là sự mầm mống ban đầu của tôn giáo. Theo P. Ehrenreich, thần thoại lúc đầu không mang tính tôn giáo và chỉ trong giai đoạn phát triển sau này mới gắn liền với tôn giáo. Ngược lại với thuyết pramonotheism, những người mác-xít coi tôn giáo như một hiện tượng tiêu cực, còn thần thoại mang giá trị văn hóa tích cực, chính tôn giáo trộn lẫn vào đã làm hỏng thần thoại. Trencsényi-Waldapfel tin rằng tôn giáo là lực lượng phản động đề nén con người trước thế lực thần bí, còn thần thoại là lực lượng tiến bộ tạo nên hình ảnh anh hùng tích cực và các vị thần đẹp đẽ hiện thân cho sự hoàn thiện nhất của con người. Theo ông, trong xã hội nguyên thủy, thần thoại nằm trong tôn giáo, nhưng sau này, khi xã hội không giai cấp chuyển sang có giai cấp, thần thoại tách ra khỏi tôn giáo. Thần thoại trở thành phần tiến bộ của trí tưởng tượng, trong đó con người tự ý thức đấu tranh chống lại tôn giáo, cố gắng giải phóng khỏi phụ thuộc vào thế giới tự nhiên. S. A. Tokarev lưu ý rằng các kết luận của Trencsényi-Waldapfel chủ yếu dựa trên thần thoại Hy Lạp phát triển sau này. Thần thoại cung cấp nguyên liệu cho tín ngưỡng và là yếu tố cốt lõi nhất của tôn giáo. W. Robertson-Smith viết rằng cơ sở các tôn giáo cổ đại không phải là tín ngưỡng và giáo luật, mà là các hoạt động nghi lễ yêu cầu thành viên cộng đồng bắt buộc tham gia. Trong nhiều tôn giáo, yếu tố thần thoại chỉ mang tính thứ yếu. Nhờ đó, ví dụ như thần thoại Hy Lạp cổ đại phát triển đặc biệt mạnh mẽ và đa dạng, không có bản chất của tôn giáo. Con người có quyền tin vào thần thoại hay không. Những người tri thức có thể phủ nhận thần thoại miễn là họ vẫn tôn trọng và tham gia nghi lễ dâng lên các vị thần bảo trợ thành phố. Trong một số tôn giáo, khía cạnh thần thoại chỉ giữ vai trò kín đáo, có khi hầu như không tồn tại, ví dụ trong Nho giáo. Thần thoại và tôn giáo có điểm chung là sự nhân cách hóa tưởng tượng. Do đó, ở giai đoạn đầu phát triển, các ý tưởng thần thoại xâm nhập vào tôn giáo. Các sự kiện thần thoại đề cập đến quá khứ xa xôi (thời đại thần thoại). Trong tôn giáo, có những thần thoại thờ cúng gắn liền với các nghi thức tín ngưỡng và ma thuật, đến lượt nghi thức lại là một cách thể hiện đặc trưng của thần thoại, thuộc về thời đại thần thoại, gắn liền với những nhân vật thần thoại, do đó trở bí ẩn thiêng liêng. Hợp nhất các nghi thức tín ngưỡng ma thuật, thần thoại tạo thành một bộ phận thiết yếu trong nội dung tôn giáo. Ở giai đoạn phát triển muộn hơn, thần thoại trở thành giáo điều tôn giáo. Nhưng trong một quy mô thần thoại lớn (như ở Hy Lạp), thực tế là các ý tưởng triết học trừu tượng có thể được khoác bên ngoài chiếc áo thần thoại. Thần thoại cả ở giai đoạn đầu và giai đoạn sau đôi khi vẫn có thể phần nào đứng độc lập khỏi tôn giáo. Thần thoại và văn học dân gian Một số truyện cổ tích đôi khi được coi là "thần thoại suy thoái". Một số nhà nghiên cứu lại coi thần thoại là một dạng cổ tích. Ngược lại, những người khác có xu hướng gọi câu chuyện thời nguyên thủy xa xưa là thần thoại. V. Propp thừa nhận bản sắc thần thoại và cổ tích, nhấn mạnh vai trò của tín ngưỡng để hiểu được thần thoại. Ví dụ như mô típ Táo vàng có thể thấy trong thần thoại về Heracles lẫn trong truyện cổ tích Nga về Ivan Tsarevich. Tuy nhiên, Hercules là một vị thần Hy Lạp được người cổ đại thờ phụng còn Ivan Tsarevich không hơn gì một nhân vật anh hùng nghệ thuật. Propp cho rằng đó là khác biệt chính giữa truyện cổ tích và thần thoại. Chức năng chính của thần thoại là giải thích, hướng đến nghi lễ và tính thiêng liêng, trong khi cổ tích có tính giải trí, răn dạy đạo đức và đầy chất văn thơ. Người kể và người nghe đều cảm nhận tính hiện thực của thần thoại mà coi cổ tích là hư cấu. Thần thoại xuất hiện trong thời tiền sử, còn văn học dân gian diễn ra như kiểu ngoại truyện lịch sử. Phân chia theo khu vực địa lý Thần thoại Cận Đông và Lưỡng Hà Thần thoại Akkad Thần thoại Ả Rập Thần thoại Ai Cập Thần thoại Do Thái Thần thoại Tây Semitic Thần thoại Urartian Thần thoại Hurri Thần thoại Lưỡng Hà Thần thoại Elam Thần thoại Viễn Đông Thần thoại Việt-Mường Thần thoại Việt Nam Thần thoại Trung Hoa Thần thoại Triều Tiên Thần thoại Nhật Bản Thần thoại Môn-Khmer Thần thoại Ấn-Âu Thần thoại Armenia Thần thoại Baltic Thần thoại Litva Thần thoại Latvia Thần thoại Hy Lạp Thần thoại German Thần thoại Bắc Âu Thần thoại Frank Thần thoại Anglo-Saxon Thần thoại Hà Lan Thần thoại Đức Thần thoại Ý Thần thoại các vùng Ý Thần thoại Etruscan Thần thoại La Mã Thần thoại Celtic Thần thoại Ireland Thần thoại Gaul Thần thoại Tây Ban Nha Thần thoại Ấn-Âu sơ khởi Thần thoại Ba Tư Thần thoại Scythia Thần thoại Hỏa giáo Thần thoại Ấn Độ Thần thoại Hindu Thần thoại Vệ Đà Thần thoại Slav Thần thoại Tochari Thần thoại Hittite Thần thoại Paleo-Balkan Thần thoại Dacia Thần thoại Thracia Thần thoại România Thần thoại Albania Thần thoại Phần Lan-Ugria Thần thoại Karelo-Phần Lan Thần thoại Komi Thần thoại Udmurt Thần thoại Estonia Thần thoại Livonia Thần thoại Veps Thần thoại Sámi Thần thoại Mordva Thần thoại Mari Thần thoại Khanty-Mansi Thần thoại Hungary Thần thoại Thổ Nhĩ Kỳ Thần thoại Azerbaijan Thần thoại Altai Thần thoại Chuvash Thần thoại Yakut Thần thoại Kavkaz Thần thoại Adyg Thần thoại Gruzia Thần thoại Vainakh Thần thoại Paleo-Siberia Thần thoại Ainu Thần thoại Samoyed Thần thoại Eskimo Thần thoại Nivkh Thần thoại Itelmen Thần thoại Ket Thần thoại Châu Phi Thần thoại Ashanti Thần thoại Bambara Thần thoại Bénin Thần thoại Bushmen Thần thoại Ganda Thần thoại Hottentot Thần thoại Dogon Thần thoại Dahomey Thần thoại Yoruba Thần thoại Somali Thần thoại Ethiopia Thần thoại Châu Đại Dương Thần thoại Úc Thần thoại Andaman Thần thoại Bali Thần thoại Papua Thần thoại Polynesia Thần thoại Rapanui Thần thoại Melanesia Thần thoại Micronesia Thần thoại Māori Thần thoại Châu Mỹ Thần thoại Inca Thần thoại Aztec Thần thoại Maya Thần thoại Muisca Thần thoại Bắc Mỹ Hướng tiếp cận Lịch sử Thuyết thần thoại lịch sử (euhemerism) đã có từ thời cổ đại với quan niệm thần thoại là những tường thuật bóp méo sự kiện lịch sử có thật. Thuyết này lấy theo tên nhà thần thoại Euhemerus (khoảng năm 20 TCN), người cho rằng các vị thần tiến hóa từ truyền thuyết về con người mà ra. Ông và các triết gia khác nỗ lực không loại bỏ di sản văn hóa nhưng diễn giải lại một cách hợp lý. Một nguyên nhân là thời xa xưa những người kể chuyện (truyền khẩu) nhiều lần điều chỉnh và mở rộng nội dung khiến một số nhân vật đạt tới địa vị thần thánh. Ví dụ khác vào thế kỷ 19, nhà thần thoại học Thomas Bulfinch đề xuất thần gió Aíolos bắt nguồn từ một vị vua lịch sử đã dạy dân mình cách chèo thuyền. Nhà sử học Herodotos (thế kỷ 5 TCN) và triết gia Pródikos đề xuất những cách giải thích tương tự. Phúng dụ thiên nhiên Nửa đầu thế kỷ 19, đặc biệt vào thời Lãng mạn Đức bén rễ ý tưởng thần thoại cơ bản là những câu chuyện về giới tự nhiên. Theo đó, thần thoại mô tả khí tượng và vũ trụ còn các vị thần đại diện thế lực tự nhiên. Quan điểm này càng trở nên phổ biến và có sức ảnh hưởng lớn thông qua nhà ngữ văn người Đức Max Müller (1823-1900). Theo Müller, thần thoại nảy sinh là do tên các hiện tượng tự nhiên đã bị hiểu nhầm theo thời gian. Ví dụ câu chuyện người anh hùng đánh bại quái vật chỉ đơn giản là ban ngày xua tan bóng đêm. Tuy nhiên, vấn đề chưa có lời giải là vì sao các hiện tượng tự nhiên có thể quan sát tương đối rõ ràng lại cần phải phức tạp hóa quá nhiều thành các phúng dụ xa cách đến vậy. Từ đó đưa đến ý kiến cho rằng không phải tất cả thần thoại đều mô tả thiên nhiên. Khoa học nguyên thủy Thần thoại nghiễm nhiên được coi là có liên hệ với tôn giáo, mà mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học vẫn nằm trong vòng tranh cãi, kết quả là tranh luận về mối quan hệ giữa thần thoại và khoa học cũng không có hồi kết. Thần thoại được coi là ngang hàng với khoa học, thậm chí còn được đánh đồng với khoa học, là tiền thân của khoa học. Một lý thuyết lỗi thời nhưng có giá trị đặc biệt là của Andrew Lang (1844-1912) và nhà nhân chủng học nổi tiếng Edward Burnett Tylor (1832-1917). A. Lang phản đối thần thoại phúng dụ tự nhiên, đã coi thần thoại là một dạng của khoa học nguyên thủy, có tính căn nguyên hoặc giải thích. Tylor cũng coi thần thoại là nỗ lực tiền khoa học của bộ óc nguyên thủy để giải thích sự tồn tại của con người và môi trường xung quanh. Cụ thể, Tylor đưa ra mô hình từ thấp đến cao: thần thoại → tôn giáo → khoa học → triết học một cách chi tiết. Đối với Tylor, triết học có hai mặt: nguyên thủy và hiện đại. Triết học nguyên thủy đồng nghĩa với tôn giáo nguyên thủy, còn khoa học không tồn tại. Ngược lại là triết học hiện đại. Tôn giáo hiện đại không còn tính thần thoại mà bao gồm siêu hình học và đạo đức, điều mà tôn giáo nguyên thủy thiếu. Theo mô hình này, linh hồn trong tôn giáo hiện đại sẽ là phi vật chất và chỉ giới hạn ở các cá nhân, còn linh hồn trong tôn giáo nguyên thủy là vật chất. Mô hình phân cấp trên là quan điểm điển hình ở thế kỷ 19 với ý tưởng cho rằng thần thoại đại diện mang tính biểu tượng về thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, không phải tất cả thần thoại đều liên quan đến sự vật vận động. Hơn nữa, cách tiếp cận này đặt giả định thần thoại chống lại tính hiện đại, tính hợp lý và tính khoa học: Thần thoại giải thích thế giới (mục đích tốt đẹp hơn) nhưng kể từ khi khoa học lãnh trách nhiệm này, dẫn đến thần thoại theo định nghĩa sẽ gắn liền với các xã hội không có khoa học. Sang đến thế kỷ 20, nhiều lý thuyết phản bác điều này. Ví dụ, dựa trên cơ sở phân tích cấu trúc thần thoại, Lévi-Strauss viết "Logic thần thoại cũng chặt chẽ như logic khoa học hiện đại, và [...] sự khác biệt nằm ở chỗ, không phải chất lượng của quá trình tư duy mà trong bản chất sự vật áp dụng điều đó". Dù vậy, nhận thức chuyển đổi thần thoại sang lý trí trong thế kỷ 20 vẫn còn nhiều mâu thuẫn dai dẳng. Nghi lễ Mối liên hệ giữa nghi lễ và thần thoại đã được các nhà nghiên cứu ghi nhận từ lâu. Nghi lễ giống như kịch hóa một thần thoại, đến lượt thần thoại lại giải thích cho nghi lễ. Mối liên hệ này được thể hiện rõ ràng nhất trong thần thoại tôn giáo. Nhưng về bản chất quan hệ này còn có các ý kiến khác nhau. Đại diện các trường phái thần thoại và tiến hóa tin rằng thần thoại (tín ngưỡng) có trước nghi lễ. Quan điểm này của J. Grimm, A. N. Afanasyev, E. Taylor, H. Spencer, J. Lippert và những người khác. Vào thập niên 1880, quan điểm trái ngược nảy sinh và nhanh chóng trở nên phổ biến nhờ W. Robertson-Smith, R. Marette và A. van Gennep. Theo R. Lowie, trong “thần thoại nguyên thủy”, “toàn bộ nghi lễ chỉ đơn giản được phóng chiếu vào quá khứ, giống như do một đấng siêu nhiên dạy dỗ hoặc người thiết lập nghi lễ được bí mật chứng kiến các đấng siêu nhiên thực hiện”. Nhà văn học dân gian Nga N. Poznansky, người nghiên cứu thuật chú zagоvor dân gian, cho rằng phần chú ngữ bao hàm thành tố thần thoại "phát triển từ thuật phù thủy". Theo hướng nghiên cứu chủ nghĩa Mác, vấn đề này được I. I. Skvortsov-Stepanov nghiên cứu và đặc biệt là công trình của Yu. P. Frantsev. Trường phái về sau này chỉ ra rằng thần thoại phát triển có điểm khởi đầu là tôn giáo hoặc nghi lễ ma thuật. Nhà dân tộc học Hoa Kỳ J. Fontenrose và nhà văn hóa dân gian Liên Xô E. M. Meletinsky chỉ trích lý thuyết nghi lễ mang tính phiến diện hoang đường. Lý thuyết thần thoại nghi lễ thịnh hành cho đến thập niên 1950, khi nhà khoa học Pháp C. Lévi-Strauss lên tiếng chống lại từ quan điểm lý thuyết cấu trúc luận về thần thoại. Ông viết về tính độc lập của thần thoại như một loại cấu trúc thuần túy logic, chỉ tuân theo các quy luật riêng của nó. Tuy nhiên, lý thuyết nghi lễ thần thoại vẫn tồn tại, mặc dù nhiều nhà nghiên cứu lưu ý rằng ảnh hưởng thần thoại ngược lại đối với nghi thức vẫn thường diễn ra. Theo Meletinsky, nghi lễ đại diện cho một khía cạnh trong phức hợp nghi lễ-thần thoại khá hiệu quả. Học giả tôn giáo và dân tộc học người Anh J. Frazer trong tác phẩm The Golden Bough đã thu thập từ các mảnh ghép và tái tạo một hệ thống thần thoại cổ đại, về cơ bản là nông nghiệp, được xây dựng dựa trên các nghi lễ sùng bái khác nhau. Tôn giáo nông nghiệp cổ đại bao gồm các hành động ma thuật tác động lên đất đai cho cây trồng, lời cầu nguyện đến các vị thần bảo trợ cho nông nghiệp, và nhiều câu chuyện thần thoại (hầu hết đã mất) khác nhau về những vị thần này. Nghiên cứu của Frazer cho rõ ràng nhất sự kết hợp chặt chẽ giữa thần thoại và nghi thức sùng bái thần Osiris ở Ai Cập. Trong các Sách Phúc Âm có một số chủ đề được coi là những nghi lễ được thần thoại hóa. Vì vậy, câu chuyện Chúa Giêsu chịu báp-têm có thể chứa đựng chi tiết lịch sử nhưng căn bản đã đại diện cho một cơ sở thần thoại mới về nghi lễ truyền thống dùng nước thanh tẩy. Có nhiều ví dụ về sự tương đồng giữa nghi lễ trong dân gian và trong nhà thờ, chúng đều được bắt nguồn từ các câu chuyện trong sách Phúc Âm. Điều này dễ thấy trong các kỳ lễ theo lịch và lễ hội của các dân tộc Châu Âu. Cùng với các phong tục và nghi lễ bản địa (thường có nguồn gốc tiền Thiên Chúa giáo), có rất nhiều phần bày tỏ các chi tiết Phúc Âm như: thời Trung Cổ thần bí hóa cũng như làm cho tưng bừng Lễ Giáng Sinh, Sự khổ nạn của Chúa, Chúa vào thành Jerusalem cho đến Chúa Phục sinh đều trở thành truyền thống đặc trưng đến tận ngày nay. Trong hầu hết các trường hợp, các màn trình diễn tôn giáo ấy mất dần đi nghi thức nghiêm ngặt mà trở thành sự kiện vui vẻ cho dân chúng, rồi quay ngược lại biến thành phụng vụ chính thức trong nhà thờ. Tâm thức nguyên thủy Nhà triết học Pháp Lucien Lévy-Bruhl (1857–1939) đương thời đã phản đối quan điểm thần thoại đối chiếu cổ điển và cho rằng suy nghĩ của người nguyên thủy cơ bản là khác biệt. Người nguyên thủy có tư duy đơn giản là phi logic. Quan điểm phương Tây nhìn nhận người nguyên thủy tự coi mình và tất cả thiên nhiên là một tổng thể thần bí, trong thực thể này đồng thời lại có thực thể khác. Không có chỗ cho sự khác biệt cá thể, từ đó người nguyên thủy nhận thức thế giới rất khác biệt. Đối với Lévy-Bruhl, triết học khi đó hoàn toàn trừu tượng nên tôn giáo chưa được bao hàm và tư tưởng thần thoại cũng vậy. Ông xem thần thoại không phải là nỗ lực đơn giản dùng trí tuệ để hiểu thế giới mà để giao tiếp với thế giới thông qua các động lực cảm xúc. Điều lệ xã hội Phản ứng với quan điểm coi đặc tính thần thoại là căn nguyên tự nhiên, nhà nhân chủng học Ba Lan Bronisław Malinowski (1884-1942) cho rằng thần thoại thực sự như một loại điều lệ, định ước của xã hội. Thần thoại là sự hợp lý hóa và hợp thức hóa các hiện tượng xã hội như truyền thống hay vương quyền: "Chức năng thần thoại (...) là củng cố và mang lại cho truyền thống một giá trị, vị thế lớn hơn bằng cách đưa nó trở lại cao hơn, tốt hơn, đẹp hơn lúc ban đầu." Có thể thấy điều này qua Aeneis của Vergilius. Tuy nhiên, quan điểm này cũng theo chủ nghĩa phổ quát một cách nghiêng lệch và tiếp cận xã hội như một thể tĩnh tại mà bản chất xã hội lại không phải như vậy. Bởi đó, học trò của Malinowski là E. R. Leach nhận xét: "[Thần thoại] và nghi lễ là ngôn ngữ ký hiệu thể hiện đặc quyền và địa vị xã hội, ngôn ngữ này có tính tranh biện chứ không phải một âm hưởng hòa hợp." Quan điểm cho rằng xã hội là động lực thúc đẩy thần thoại (hình thành) tạo cơ sở cho cách tiếp cận này, và do đó có liên quan đến quan điểm xã hội học Durkheim và Franz Boas. Biểu tượng tâm lý Một cách tiếp cận khác là theo hướng bản chất tâm lý hoặc phân tâm học chuyên sâu, trong đó thần thoại, cổ tích, diễn tả nghệ thuật và những thứ tương tự được coi là biểu hiện của các yếu tố bị kìm nén, ham muốn và sợ hãi trong tiềm thức. Sigmund Freud (1856-1939) thực hiện điều này trong Totem und Tabu (Totem và cấm kỵ). Ông lấy thần thoại Hy Lạp cho các lý thuyết phân tích tâm lý của mình, chẳng hạn như Phức cảm Ơ-đíp. Cách tiếp cận này cũng đã được áp dụng cho các thể loại văn học khác như truyện cổ tích và tiểu thuyết hiện đại. Tuy nhiên nội dung chính của phương pháp nghiên cứu đến từ nhà tâm thần học Thụy Sĩ Carl Jung (1875-1961). Ông lưu ý rằng trong giấc mơ, tưởng tượng và biểu hiện sáng tạo của trẻ em có nhiều động khác nhau để xuất hiện liên tục ở cả người bệnh tâm thần và người bình thường. Hiện tượng này nói lên có một điều gì đó thiết yếu về tâm trí con người. Cũng giống như tất cả mọi người tương đồng về cơ thể, tâm trí cũng phải có một bản chất phổ quát chung. Tập thể vô thức này là những gì được phản ánh trong thần thoại và biểu tượng. Bằng cách nghiên cứu thần thoại và biểu tượng này, nguyên mẫu có thể được công thức hóa, mà Jung lấy cảm hứng từ tác phẩm của Bastian. Do đó đối với Jung, thần thoại chủ yếu liên quan đến bối cảnh của từng cá nhân. Mục đích nghiên cứu tâm lý của Jung nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về tiềm thức để người hiện đại có thể hiểu bản thân mình hơn. Tâm lý hóa thần thoại và những điều tương tự đã được phỏng theo nhiều. Nhà tâm lý học Erich Neumann (1906-1960) cố gắng đối chiếu tiến hóa ý thức với cơ sở truyền thống thần thoại. Lấy cảm hứng từ thần thoại đối chiếu và tâm lý học phân tích, tâm lý học chiều sâu của Jung, nhà thần thoại học Joseph Campbell cho ra đời nhiều tác phẩm về thần thoại, tôn giáo đối chiếu và duy linh. Ý định của Campbell thể hiện trong The Hero with a Thousand Faces (Người hùng mang ngàn gương mặt): Hiện tượng văn học Ngoài việc đưa vào bối cảnh khoa học hoặc tôn giáo, thần thoại cũng được tiếp cận từ quan điểm văn học. Trong thời đại Victoria, các tác gia cổ điển như Jane Harrison, Gilbert Murray và Francis Cornford coi thần thoại là nguồn gốc của văn học. Dựa trên Frazer, Harrison và Murray cho rằng thần thoại lúc đầu chỉ đơn thuần mô tả nghi lễ nhưng về sau đã được văn học hóa. Trong nửa đầu thế kỷ 20, những cách tiếp cận mới theo hướng ngôn ngữ học trở nên thịnh hành, chịu ảnh hưởng của nhà triết học Ludwig Wittgenstein, nhà nhân chủng học Franz Boas và đặc biệt là nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure. Những cách thức này cùng với chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa cấu trúc có chung nền tảng ngôn ngữ học và đặc điểm mang tính hình thức, hệ thống. Những quan điểm này được áp dụng rộng rãi xuyên suốt thế kỷ. Hình thức luận là sự phân tích kỹ càng các chuyện kể một cách hình thức. Viẹc này chủ yếu liên quan đến phân tích hình thức văn học cụ thể, trong đó nguồn gốc, tâm lý cùng với nhiều khía cạnh khác không được tính đến. Chủ nghĩa hình thức Nga giữ vai trò đặc biệt quan trọng với những đại diện như Roman Jakobson và nhà cấu trúc luận Vladimir Propp. Propp phân tích truyện cổ tích và kết luận rằng luôn tìm được những mẫu giống nhau. Ông thậm chí còn liệt kê được 31 mẫu chính thức, tạo nên hệ thống tổng hợp ổn định và phổ biến. Theo Propp, các hình mẫu này và những thành phần của chúng có thể đối chiếu độc lập không cần kể đến ngữ cảnh riêng. Một số thành tố nhất định cũng có thể được thay thế (một cách có hệ thống) theo thời gian, giúp cho cách tiếp cận này trở nên rõ ràng hơn. Việc nghiên cứu không nhất thiết phải bỏ qua các nguyên liệu thần thoại. Sản phẩm xã hội Chủ nghĩa cấu trúc, giống như chủ nghĩa thực chứng, theo nhiều cách đối lập với các cách tiếp cận thông diễn học. Ý tưởng cốt lõi là khoa học xã hội và nhân văn nên được tiếp cận giống như khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa cấu trúc có cơ sở ngôn ngữ học và triết học mạnh mẽ và cho rằng các hiện tượng xã hội được xác định một cách vô thức do các cấu trúc siêu cá thể hoặc hệ thống ký hiệu. Các cấu trúc này hoạt động ngoài ý muốn cá nhân và hiện diện khắp mọi nơi. Trước thời Lévi-Strauss (xem bên dưới), cách tiếp cận chủ nghĩa cấu trúc có thể tìm thấy chủ yếu trong phân tích văn học nhưng cũng áp dụng trong thần thoại đối chiếu của nhà nghiên cứu Ấn-Âu Georges Dumézil (1898-1986). Trong nghiên cứu thần thoại Ấn-Âu đối chiếu, Dumézil tin rằng đã tìm thấy bằng chứng phân loại gốc Ấn-Âu là quyền tối cao, chiến binh và sự sinh sôi. Dumézil nhìn ra phân loại ba bên này trong thần thoại, nghi lễ tôn giáo và tổ chức chính trị xã hội. Nhà nhân chủng học có ảnh hưởng lớn là Claude Lévi-Strauss sử dụng ý tưởng chủ nghĩa cấu trúc để nghiên cứu dân tộc ký. Giống như Jung, quan điểm của Lévi-Strauss đề cao tiềm thức, tất cả khả năng và trải nghiệm cuối cùng đều được xác định và giới hạn do cấu trúc tâm trí con người. Ông coi tổ chức xã hội, quan hệ họ hàng, huyền thoại và những thứ tương tự như ký hiệu phải được nghiên cứu và so sánh. Middleton phát biểu "Với Claude Lévi-Strauss, thần thoại là hệ thống có cấu trúc để tham chiếu trong đó tập hợp các quan hệ nội tại được dùng để ánh xạ cấu trúc tập hợp quan hệ khác, nội dung thì có thể biến đổi không ngừng và không quan trọng một cách tương đối." Phương pháp này đến với thần thoại học vào năm 1955. Thần thoại phải được phân tích và chia nhỏ ra các thành tố, sau đó mỗi thành tố được phân loại vào các chủ đề thông dụng. Nguyên tắc tạo thành ký hiệu cũng được xem xét. Sau khi đối chiếu, chủ đề, thông điệp và cấu trúc chính của thần thoại sẽ trở nên rõ ràng. Điều này liên quan đến văn hóa và tâm trí con người. Trong bộ 4 tập Mythologiques (1969-1981), Lévi-Strauss trình bày kỹ lưỡng ý tưởng và nghiên cứu về thần thoại của mình. Mục đích nghiên cứu là thiết lập phương pháp luận và logic thần thoại một cách chắc chắn. Khác với Lévi-Bruhl, ông quan điểm rằng nền văn hóa "nguyên thủy" về cơ bản không khác "hiện đại" và cũng hoàn toàn logic. Ví dụ, trong Mythologiques tập một Le Cru et le Cuit (Sống và chín), ông xem xét phân biệt giữa thực phẩm sống và nấu chín, tương đồng với sự khác biệt giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố văn hóa trong xã hội, giữa thế tục và thiêng liêng trong tôn giáo, giữa khoảng lặng và tiếng động trong âm thanh. Những hình mẫu logic như vậy có thể tìm thấy trong thần thoại và cần thiết để hiểu rõ tâm trí con người trong nền văn hóa đang nói tới. Cuối cùng, Lévi-Strauss coi thần thoại là nỗ lực chính đáng được kịch hóa dưới dạng chuyện kể để giải quyết những căng thẳng trong xã hội. Thần thoại đối chiếu Từ giữa thế kỷ 19, các chuyên gia về thần thoại và văn học dân gian, đặc biệt là các nhà dân tộc học nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa các truyền thống thần thoại khác nhau rải rác trên khắp thế giới. Họ tìm kiếm khuôn mẫu chung tương ứng trong nhiều nền văn hóa. Bất chấp sự khác biệt về thời gian, địa điểm và bối cảnh văn hóa lịch sử, những điểm tương đồng ấy được xem xét nghiên cứu. Ví dụ, nhà khoa học Đức Adolf Bastian (1826-1905) đưa ra lý thuyết ý tưởng cơ bản phổ biến của nhân loại nói chung. Frazer mở rộng điều này trong The Golden Bough. Ông khám phá các mẫu khác nhau dựa trên tất cả các loại thần thoại, nghi lễ và dân gian truyền thống trải rộng trên toàn cầu. Hoặc ngược lại có thể lấy một thần thoại nhất định, rồi tìm kiếm những điểm tương đồng trong các truyền thống khác, từ đó đi đến một mô hình phổ quát. Điển hình của cách thức này có thể kể đến The Hero with a Thousand Faces (1949) của Joseph Campbell chịu ảnh hưởng từ Bastian. Tuy nhiên, phương pháp này đặt ra nghi vấn về tiêu chí chọn mẫu cũng như đoán định sai lầm. Tính địa phương đặc trưng cũng bị bỏ qua, và không xét đến yếu tố văn hóa xã hội ẩn chứa trong đó. Thực tế môi trường xung quanh thần thoại của một nhóm người cụ thể không được đưa vào đánh giá. Nói chung, tiếp cận này bị coi là lỗi thời và không còn phổ biến trong nghiên cứu thần thoại nữa. Phương pháp thần thoại đối chiếu mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 và vẫn còn tiếp tục phát triển. Nghiên cứu đương đại về nguồn gốc văn hóa lịch sử của thần thoại và mối quan hệ giữa các nền văn hóa của chúng cũng có tính chất liên ngành. Thần thoại đối chiếu không chỉ sử dụng thông tin văn học, lịch sử, khảo cổ, mà còn chú trọng cả ngôn ngữ như một phương tiện truyền tải thần thoại. Phương pháp này giúp khám phá chính xác việc trao đổi và phổ biến thần thoại giữa các nhóm không có quan hệ trực tiếp với nhau, cùng với chứng mình thần thoại nguyên thủy đã phân nhánh trong nhiều thiên niên kỷ thành các thần thoại khác nhau. Ví dụ, từ nguyên của tên gọi các vị thần có thể ám chỉ nguồn gốc và đặc điểm ban đầu. Những cái tên tương tự nhau cũng có thể chỉ ra mối quan hệ giữa các vị thần từ các nền văn hóa khác nhau. Một số lượng lớn công trình nghiên cứ theo cách thức này đã được thực hiện về thần thoại Proto-Semitic và Ấn-Âu. Chủ nghĩa bí truyền Cách tiếp cận bí truyền (thuật ngữ và phân loại còn gây tranh cãi) bị giới học thuật coi là giả khoa học. Thần thoại được xem như những câu chuyện có thể chắt lọc thông tin lịch sử và truyền tải khôn ngoan bí truyền. Ví dụ như Mythen en hun esoterische betekenis (Thần thoại và ý nghĩa bí truyền) của Jan van Dijk (1933), cách tiếp cận gần gũi với Jung và Campbell nhưng không có gì hiện đại mới mẻ. Hoặc như người theo thuyết Hermeticism cổ đại cũng nhìn ra sự thật mới trong các đã nhìn thấy sự thật mới trong thần thoại, đặc biệt ở Ai Cập, ví dụ Isis được coi là ngụ ngôn sáng thế có liên hệ tới học thuyết siêu hình. Ví dụ điển hình khác thời hiện đại là ý tưởng của Erich von Däniken trong Chariots of the Gods (Chiến xa các vị thần) (1968), theo dấu vết tiếp xúc với các nền văn minh ngoài Trái đất trong các đồ tạo tác, kiến trúc và văn bản cổ đại. Hay như công trình The 12th Planet (1976) của Zecharia Sitchin (1920-2010) đề xuất rằng thần thoại Sumer cung cấp bằng chứng về hành tinh thứ 12 trong Hệ Mặt Trời tên là Nibiru, cư dân ở đó (anunnaki) đã đến thăm Trái đất trong quá khứ xa xôi. Bên ngoài giới học thuật vẫn còn tranh cãi về tính hợp lệ của những lý thuyết như vậy. Một cách giải thích đương đại về thần thoại như là dấu hiệu chủ yếu ám chỉ tự nhiên thiên văn học được phát triển trong tác phẩm của Giorgio de Santillana và Hertha von Dechend, với lập luận rằng các vị thần đều là những tinh tú quan sát được, những người lập luận rằng tất cả các vị thần đều là các vì sao, thường đi ngược với trường phái Jung như những điều do Campbell đưa ra. Di sản văn hóa Trong hệ thống các tôn giáo phổ biến (Phật giáo, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo,...) chứa đựng nhiều thành tố thần thoại khác nhau. Tuy nhiên, thần thoại theo nghĩa hẹp thường bị hệ tư tưởng tôn giáo chối bỏ và gạt ra khỏi vị trí của nó. Còn xã hội nói chung, yếu tố thần thoại (theo nghĩa chung nhất) nằm trong các nền văn hóa, ý thức hệ cận đại và hiện đại, chủ yếu trong văn hóa đại chúng. Về mặt lịch sử, thần thoại đóng vai trò là mô hình chính của bất kỳ hệ tư tưởng nào và là nguồn đồng bộ của nhiều loại hình văn hóa như văn học, nghệ thuật, tôn giáo, triết học và thậm chí cả khoa học. Sự khác biệt hóa về tính đồng bộ thần thoại-nghi lễ lúc ban đầu của văn hóa (đặc biệt khi triết học và khoa học phát triẻn) đòi hỏi ý thức xã hội phải được "giải thần thoại hóa" (demythologization) phần nào, nhưng việc này không thể hoàn toàn mà luôn mang tính tương đối. Và định kỳ nó lại được thay thế bằng "tái thần thoại hóa" (remythologization), đặc biệt diễn ra trong thời hiện đại. Thế kỷ 20 ghi dấu sự phát triển nhanh chóng của tư tưởng khoa học kỹ thuật và sự vỡ mộng đối với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa tiến hóa và hy vọng "khai sáng". Trái ngược với ý kiến các nhà thực chứng ở thế kỷ 19, thực tế cho thấy khoa học không thể thay thế hoàn toàn thần thoại vì không giải quyết được các vấn đề siêu hình như ý nghĩa cuộc sống, triết học lịch sử,... trong khi thần thoại có thể là giải pháp, đưa những vấn đề khó giải quyết trở nên dễ hiểu và dễ xử lý hơn. Thần thoại mang lại cảm giác hài hòa giữa xã hội và tự nhiên (vũ trụ). Thần thoại của nền văn minh kỹ thuật có cơ sở là tính hợp lý khi cố gắng loại bỏ những điểm mơ hồ, đưa về những vấn đề có thể giải thích được. Khi gặp phải một vấn đề mới chưa được biết đến, chính bản thân khoa học tạo ra những thần thoại "nhận thức luận" (khám phá "kênh đào" trên sao Hỏa, sự sống trong vũ trụ,...) được khoa học hư cấu khi sử dụng. Truyền thuyết đô thị càng ngày càng phát triển trong các thành phố lớn. Bên cạnh đó, ngoài các nhân vật thần thoại có từ lâu, thế giới hiện đại cũng nảy sinh những sinh vật thần thoại mới. Ví dụ như sinh vật Gremlin xuất hiện vào thập niên 1920, cũng như một số lượng lớn các nhân vật trong truyền thuyết đô thị và "văn học dân gian hiện đại". Có những nhân vật tiếp tục đặc trưng của linh thể cổ xưa như trường hợp Shubin trong các hầm mỏ thuộc tín ngưỡng Slav. Hay như các siêu anh hùng điện ảnh, hoạt hình và truyện tranh được tạo dựng theo nguyên tắc thần thoại: Indiana Jones, Ninja Rùa, Người nhện, Người Dơi,... Tất cả những nhân vật này đều có nền tảng anh hùng thần thoại, sở hữu khả năng đặc biệt và thực hiện kỳ công vì lợi ích nhân loại. Cần lưu ý rằng cũng giống như ngày nay, văn hóa truyền thông đại chúng đã tồn tại trong Đế quốc La Mã nơi lưu truyền sự tích Hercules-Heracles tương tự như vậy. Thần thoại trong văn học thế kỷ 20 được thể hiện bằng thơ (Eliot, Yeats, Pound,...), kịch (Anouilh, Claudel, Cocteau, Giraudoux, O'Neill,...) và đặc biệt với truyện và tiểu thuyết (Mann, Joyce, Moravia, Broch, Langgässer, Frisch, Updike, King, Merril, Arguedas, Asturias, Márquez, Bulgakov,...). Franz Kafka cũng viết về phản thần thoại, để thần thoại bộc lộ ra. Ngay cả các nhà văn dùng nguyên liệu thần thoại truyền thống cũng làm đảo ngược nó ở những mức độ khác nhau. Do đó, văn học đã mô hình hóa bản chất mâu thuẫn thần thoại hóa cả tường minh lẫn ngấm ngầm trong văn hóa và hệ tư tưởng thế kỷ 20. Trái ngược với nhiệm vụ chính vốn có, thần thoại trong văn học hiện đại thế kỷ 20 biến thành phản thần thoại, trở thành biểu hiện của lánh đời và tự kỷ.
Quách Mạt Nhược (郭沫若; 16 tháng 11 năm 1892 - 12 tháng 6 năm 1978), ấu danh Văn Báo (文豹), nguyên tên là Khai Trinh (開貞), tự Đỉnh Đường (鼎堂), hiệu Thượng Võ (尚武), bút danh Cao Nhữ Hồng (高汝鸿), Mạch Khắc Ngang (麦克昂), Dịch Khảm Nhân (易坎人), Cốc Nhân (谷人), Ái Mưu (爱牟), Đỗ Thuyên (杜荃), Thạch Đà (石沱), người Lạc Sơn, Tứ Xuyên là nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà sử học, nhà chính trị Trung Quốc, Phó Chủ tịch Toàn quốc Chính hiệp, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện. Quê gốc của ông ở phủ Đinh Châu, Ninh Hóa, tỉnh Phúc Kiến. Tổ tiên của ông, Quách Phúc, là hậu duệ của Phần Dương quận vương Quách Tử Nghi. Ông từng làm hiệu trưởng Trường nghệ thuật mang tên Lỗ Tấn. Sau ngày thành lập Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, là chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Trung Quốc. Là nhà sử học chuyên về cổ sử Trung Quốc, Quách Mạt Nhược có nhiều cống hiến trong việc nghiên cứu văn tự cổ (ghi trên mai rùa xương thú) và thể chế xã hội nô lệ. Ông còn là viện trưởng đầu tiên Viện khoa học xã hội Trung Quốc trong một thời gian dài. Ông từng bị phê phán trong Cách mạng văn hóa. Quách Mạt Nhược còn tham gia Hội đồng hoà bình thế giới và từng là Phó chủ tịch. Năm 1951, ông được tặng Giải thưởng Hòa bình Lenin. Các tác phẩm nổi tiếng Tập thơ Nữ thần (1921) Trung Quốc cổ đại xã hội nghiên cứu (1928) Giáp cốt văn nghiên cứu (1928) Kịch Hổ Phù (1930) Chuyên khảo lịch sử Thập phê phán thư (1940) Kịch lịch sử Khuất Nguyên (1942) Tiểu thuyết Bài ca tuổi trẻ Hùng Kê tập Nô lệ chế thời đại Văn sử luận tập kịch lịch sử Võ Tắc Thiên (1962)
Bố già (tiếng Anh: The Godfather) là tên một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Mỹ gốc Ý Mario Puzo, được nhà xuất bản G. P. Putnam's Sons xuất bản lần đầu vào năm 1969. Tác phẩm là câu chuyện về một gia đình mafia gốc Sicilia tại Mỹ, được một nhân vật gọi là "Bố già" (Godfather) Don Vito Corleone tạo lập và lãnh đạo. Các sự kiện chính của tiểu thuyết xảy ra từ năm 1945 đến 1955, ngoài ra cũng đề cập đến thời thơ ấu và giai đoạn thanh niên của Vito Corleone vào đầu thế kỉ 20. Tóm tắt nội dung Ông chủ nhà đòn Bonasera ra tòa nghe tuyên án 2 thằng khốn can tội bạo hành, toan cưỡng dâm con gái lão. Chánh tòa tuyên mỗi đứa 3 năm tù cho hưởng án treo. Lão tức giận quyết tìm tới ông Trùm Corleone. Kép Johnny Fontane một thời lừng lẫy nhưng bây giờ xuống dốc, bị vợ sau không coi ra gì nên quyết bay về New York nhờ bố già Corleone. Ông chủ lò bánh Nazorine có cô con gái lỡ yêu và có bầu với người làm công Enzo, 1 tù binh Ý được trưng dụng làm thợ. Ông phải kiếm cách nhập tịch Mỹ cho Enzo nên phải nhờ bố già Corleone. Ông Trùm Vito Corleone tổ chức lễ vu quy của con gái út Connie với Carlo Rizzi vào cuối tháng 8/1945 tại Long Island, New York. Ông Trùm có 4 con: Santino (Sonny), Frederico (Fred), Michael (Mike) và Constanzia (Connie). Sonny cao cỡ 1m8, tóc quăn dày, có vợ là Sandra và 3 đứa con nhỏ nhưng vẫn lén lút qua lại với cô phù dâu Lucy Mancini. Fred, 30 tuổi, người tầm thước, không được bảnh trai, chưa vợ. Michael sinh 1920, tóc đen, đẹp trai, là Đại úy Thủy quân Lục chiến, có nhiều huy chương, được giải ngũ đầu năm 1945 sau thời gian dưỡng thương. Michael đang học Đại học Dartmouth, hôm nay dẫn cô bồ Kay Adams về ra mắt. Thomas Hagen (Tom), 35 tuổi, gốc Ireland, cao ráo, nhanh nhảu, có vợ là Theresa. Tom là luật sư riêng của gia đình, đang tạm thời làm consigliori (cố vấn kiêm phụ tá cho ông Trùm) thay Genco Abbandando bị ung thư nặng, nằm bệnh viện gần 1 năm nay. Sau khi mẹ rồi cha chết, Tom lang thang đầu đường xó chợ được bạn học Sonny dắt về nhà. Tom ở với gia đình Corleone từ năm 12 tuổi nhưng không phải là con nuôi. Tại tiệc cưới, Bố già lần lượt tiếp Nazorine, Anthony Coppola, hung thần Luca Brasi, Bonasera và chấp nhận yêu cầu của họ. Johnny Fontane, con đỡ đầu của ông Trùm, về tham dự đám cưới, cùng biểu diễn với bạn thân Nino Valenti. Sau khi vào văn phòng, Johnny than thở với ông Trùm là mình bị mất giọng, rồi bị chủ hãng phim Jack Woltz cắt vai diễn trong 1 bộ phim do... cướp bồ cưng của ông ta. Ông Trùm nhận giúp đỡ Johnny. Michael kể cho Kay biết rằng 8 năm trước Johnny hát cho ban Les Halley. Khi nổi tiếng Johnny muốn tách riêng nhưng kẹt giao kèo 5 năm. Bố già chung 20 ngàn đô la để hủy giao kèo nhưng ông bầu không chịu. Hôm sau, Bố già đi cùng Genco, Luca, ông bầu phải ký hủy giao kèo, dù Bố già chỉ đưa 10 ngàn, vì có 1 nòng súng kê ở chỗ thái dương. Lên đến tột đỉnh vinh quang thì Johnny bỏ vợ và 2 con để kết hôn với 1 nữ minh tinh tóc vàng. Buổi tối, xong đám cưới, Bố già vào Y viện Pháp thăm Genco tới 3 giờ khuya thì Genco chết. Ông Trùm tuyên bố vai trò consigliori của nhà Corleone chính thức về tay Thomas Hagen. Tom ra phi trường đi Los Angeles để điều đình với Jack Woltz, vua Hollywood, cố vấn điện ảnh cho Tổng thống, mê ngựa đua, từng chi 600 ngàn đô mua chú ngựa đua siêu vô địch Khartoum. Jack không đồng ý cho Johnny tham gia phim nhưng mời Tom về nhà riêng chơi. Sau khi tham quan nhà, xem Khartoum, trong bữa tối Jack vẫn không đồng ý chuyện của Johnny, đồng thời tỏ ra xem thường Bố già. Hagen về. Vài ngày sau, 2 thằng bạo hành con gái lão Bonasera bị Paulie Gatto cùng 2 đàn em đánh nát người nhưng vẫn còn thoi thóp; lão Woltz một buổi sáng thức dậy thì thấy ở cuối giường cái đầu con ngựa Khartoum và Johnny được mời đóng phim. Trong "hội nghị gia đình", Sonny và Tom đồng ý hợp tác với Sollozzo buôn bán ma túy nhưng Bố già thì còn suy nghĩ. Tại buổi gặp sáng hôm sau, Virgil Sollozzo "đường Thổ", có sự hậu thuẫn của nhà Tattaglia, đề nghị ông Trùm chung vốn 2 triệu đô và đảm bảo an ninh, pháp lý trong việc mang ma túy vào nội địa Mỹ và phân phối. Tuy được chia 50% nhưng ông Trùm từ chối. Ông Trùm ngầm sai Luca Brasi điều tra Sollozzo có tính toán gì không. Luca la cà ở mấy quán rượu của cậu út Bruno nhà Tattaglia. Cuối cùng được gặp Sollozzo nhưng bị siết cổ thủ tiêu lúc 4 giờ sáng. Buổi chiều khi Hagen xong việc ra khỏi văn phòng thì bị Sollozzo chặn đường ép lên xe chở đi. Khoảng 5 giờ kém 15, ông Trùm xong việc tại công ty nhập cảnh dầu ăn. Paulie Gatto bị ốm xin nghỉ nên Fred làm tài xế. Ông Trùm mua trái cây thì xuất hiện 2 kẻ lạ mặt nên bỏ chạy nhưng bị bắn 5 phát vào người may không chết. Hagen được thả về. Paulie Gatto là vệ sĩ kiêm lái xe cho ông Trùm được xác định đã "bán" ông Trùm cho Sollozzo. Xếp Peter Clemenza sai Rocco Lampone bắn chết Gatto. Tối hôm đó Mike gặp Kay tại khách sạn, rồi 10h30 Mike đến bệnh viện thăm Bố già. Bệnh viện vắng tanh, không có một đàn em nào của nhà Corleone lẫn cảnh sát, do bị Đại úy Mark Mc Closkey, ăn tiền của Sollozzo, điều đi hết. Mike gọi điện về cho Sonny chi viện rồi đẩy giường bệnh của bố già qua phòng khác. Mike ra đứng trước cổng bệnh viện cùng với một người quen. Sollozzo cùng các sát thủ thấy có người nên không dám ra tay. Closkey tức giận đánh Mike vỡ gò má rồi Mike ngất đi sau khi lực lượng bảo vệ ông Trùm đã được đưa đến. Sáng mai Mike tỉnh dậy rồi về Long Beach, được thông báo là Bruno Tattaglia bị tiêu diệt lúc 4 giờ sáng. Cả nhóm quyết định chấp nhận lời đề nghị điều đình của Sollozzo, với người điều đình là Michael. Mike nói chuyện với Sollozzo và Closkey, sau đó vào toilet lấy súng rồi bắn chết Sollozzo và Closkey. Michael ẩn náu tại Sicily. Cuộc Ngũ gia đại chiến của Mafia năm 1946 bắt đầu. Johnny, trước khi đóng xong bộ phim, được Bố già hỗ trợ vốn để tự sản xuất phim tại Hollywood. Johnny cũng hỗ trợ Nino, cũng là con đỡ đầu của ông Trùm, ca hát tại Hollywood. Sau khi ông Trùm bị bắn, Johnny vẫn sản xuất phim, có một vai cho Nino. Billy Goff, đại diện nghiệp đoàn, vòi tiền Johnny thì bị bắn chết. Cô vợ 2 của Johnny cũng đã li dị. Tại giải Oscar, Johnny đoạt giải Nam diễn viên chính. Ông Trùm, tên thật là Vito Andolini, sinh ra và lớn lên tại làng quê nghèo Corleone đảo Sicily. Cha của Vito lỡ tay đập chết một gã đại diện Mafia địa phương. Vito, lúc này 12 tuổi, được họ hàng che chở rồi gởi sang Mỹ lánh nạn, nương náu trong gia đình Abbandando. Năm 18 tuổi Vito lấy vợ, 2 năm sau Sonny ra đời. Sau đó Vito làm bạn với Clemenza rồi Tessio, và nhập băng "làm ăn". Sau lần đầu tiên "ăn hàng" trót lọt thì Vito bị "trấn" tiền bởi Fannucci, một đại ca giang hồ. Vito đã bắn chết tên này. Sau đó còn giúp góa phụ Colombo không bị chủ nhà trọ đuổi đi. Vito được "kính nể". Tới việc nhập cảng dầu ăn với Genco, hãng ngày càng ăn nên làm ra. Rồi buôn rượu lậu, móc nối với luật sư, quan chức, nghị sĩ. Vito tổ chức lại cơ sở, Tessio và Clemenza lãnh chức caporegime, mỗi người chỉ huy một toán và Genco được phong làm consigliori. Ông Trùm được tôn xưng Bố già. Khi Nhà nước cho sản xuất rượu tự do thì Ông Trùm chuyển hướng, tiếp xúc với vua cờ bạc và cho vay nặng lãi là Salvatore Maranzano đề nghị hợp tác. Maranzano từ chối vì ỷ quân đông và có Al Capone, vua găngtơ Chicago, hậu thuẫn. Đây là trận đại chiến năm 1933. Maranzano nhờ Capone cho mượn cặp hung thần từ Chicago sang New York. Luca Brasi cùng 3 đàn em lừa bắt được. Luca dùng rìu chặt rời 2 bàn chân, rụng đầu gối, rồi băm thêm vài nhát cho đùi rời thân mình. Gã kia khiếp đảm nuốt luôn chiếc khăn nhét miệng để chết nghẹt. Capone không can thiệp, 6 tháng liền cánh Corleone đánh lớn và Maranzano cứ chạy dài. Giao thừa 1933 Maranzano bị Tessio và 4 đàn em bắn nát người. Vito Corleone tung lực lượng tổng càn quét New York trong 3 năm, chỉ còn lại 5, 6 nhà có thực lực. Vito đã từng bị bắn suýt chết. Trong lúc cha dưỡng thương, Sonny lập một toán đánh đấm riêng. Caporegime Sonny trong 3 năm 1935-36-37 thành danh đao-phủ-thủ. Từ năm 1937 giới giang hồ New York hết sóng gió. Giữa năm 1939, Vito Corleone làm một cuộc du thuyết, vận động toàn quốc. "Sứ giả hòa bình" trong giới giang hồ đã có công lập bản thỏa ước giữa tất cả các phe nhóm, y hệt như Hiến pháp Hoa Kỳ. Năm 1939 Vito mua luôn cư xá Long Beach. Một tháng sau vụ Michael giết Sollozzo và Closkey, cảnh sát New York đã đến nhà riêng của Kay ở New Hampshire để điều tra về Michael. Kay trả lời không gặp Michael 1 tháng nay và cô không tin Michael là thủ phạm. Ba ngày sau cô đến Long Beach và gặp Hagen rồi mẹ Michael. Bà nhận chuyển thư của cô cho Michael nhưng khuyên cô không nên chờ đợi Michael. Kay có ý nghi ngờ Michael có dính líu đến vụ án. Connie hay bị chồng là Carlo đánh đập, dù đang mang bầu. Có lần về méc bà Trùm, Sonny giận muốn giết Carlo nhưng ông Trùm cấm, coi chuyện vợ chồng là việc riêng không can thiệp. Sáng nay Carlo lại đánh Connie rồi đi làm. Sonny ghé nhà em gái biết chuyện nên đến chỗ làm đánh Carlo rồi về cư xá. Có người báo cho nhà Tattaglia hòng chặn đường bắn Sonny nhưng quá chậm nên Sonny về được Long Beach. Khoảng giữa tháng Hai ông Trùm được đưa về Long Beach nằm tĩnh dưỡng. Fred được gởi sang Las Vegas dưỡng bệnh. Năm gia đình New York họp nhau đánh mạnh nhà Corleone. Sonny ra lệnh cho hai ông caporegime cấp tốc "trải nệm", gồng mình quần thảo liên miên với cả 5 địch thủ. Cánh Corleone đâm hụt hơi vì xuất lực quá nhiều và thực lực không còn như xưa. Nhưng cả 5 cánh kia tấn công không hăng mà phản công cũng cứ yếu dần rồi đứng sững hẳn, ra vẻ chủ hòa. Cả 5 đi đến kết luận là để tránh một thảm bại trước mắt chỉ còn một đòn giờ chót là "thịt" bằng được Sonny. Rồi Connie ghen, Carlo đánh Connie, Connie gọi điện về cho mẹ nhưng bà Trùm nghe không rõ Connie nói gì nên nhờ Sonny nghe dùm. Sonny nổi điên chạy đến nhà vợ chồng em gái. Tại trạm thu phí, trong lúc dừng lại để đưa tiền Sonny đã bị bắn nát người. Carlo và Connie về sống ở cư xá Long Beach. Sandra mang con về Florida ở với cha mẹ. Ông Trùm Corleone bình phục, đích thân điều khiển công việc. Sau đám tang của Sonny, ông cử sứ giả đi cầu hòa, không những muốn chấm dứt chiến tranh mà còn đề nghị một buổi gặp gỡ tất cả các ông Trùm New York có đại diện các phe nhóm anh em toàn quốc, đứng trung gian hòa giải là gia đình Bocchicchio. Mọi nhà được quyền làm ăn ngành ma túy, 2 cánh Barzini - Tattaglia đảm trách hầu hết việc kinh doanh và cánh Corleone phải đảm bảo việc lo lót với chức quyền miền Đông. Cả 2 nhà Corleone và Tattaglia bỏ qua, không trả thù cái chết của các con trai, và Michael, con ông Trùm, phải được yên ổn trở về. Gần 1 năm sau ông Trùm Corleone mới đưa được Michael an toàn về Mỹ, nhờ ông Trùm vận động tử tội Felix Bocchicchio nhận thêm tội giết Sollozzo và Closkey. Nghe tin Sonny chết, Lucy Mancini đã uống thuốc ngủ suýt chết. Hagen đã đưa Lucy xuống Las Vegas cùng khách sạn với Fred làm tiếp dẫn viên. Sau đó bác sĩ giải phẫu Jules Segal, chuyên viên phá thai, được tuyển mộ vào khách sạn. Lucy và Jules quen biết rồi yêu nhau. Jules dẫn Lucy đến 1 người bạn ở Los Angeles để phẫu thuật thẩm mỹ cho cô. Hôm sau Johnny và Nino đến thăm. Jules khám cổ họng Johnny và phát hiện có một chỗ thịt mọc dư trên thanh quản và Johnny được phẫu thuật. 1 tháng sau Jules và Lucy đính hôn. Michael nương náu tại làng Corleone, đảo Sicily trong biệt thự của ông y sĩ Taza, chú ruột của capomafioso Tommasino, có 2 cận vệ là Calo và Fabrizzio. Trong một lần đi dạo xa, Michael gặp cô bé Apollonia Vitelli và bị "tiếng sét ái tình". 1 tháng sau đám cưới diễn ra. Michael dạy vợ tiếng Anh và tập cho Apollonia lái xe hơi chạy vòng vòng trong khuôn viên biệt thự. Mike được bà giúp việc Filomena kể chuyện về Luca Brasi. 30 năm trước bà là 1 cô mụ vườn tại New York, 1 đêm được Luca, lúc đó chưa đầu quân cho ông Trùm, đón đi đỡ đẻ. Khi bé gái ra đời, Luca nói mình là cha và dùng dao uy hiếp cô mụ phải "thảy cha nó vô lò sưởi cho rồi!". Cô mụ phải làm. 2 ngày sau có tin Luca "thịt" luôn sản phụ và bị bắt ngay. Filomena chạy tới Bố già kể lại câu chuyện. Luca tự sát trong xà lim nhưng không chết rồi được ông Trùm đưa ra. Rồi Mike được tin Sonny bị bắn chết. Mike cùng vợ sống với nhau mấy tháng, Apollonia đã có triệu chứng mang bầu. Sáng hôm đó Mike phải di chuyển về nơi ẩn náu mới. Mike từ trong nhà đi ra, Apollonia đang nghịch trên xe rồi chiếc xe phát nổ. Apollonia và Calo chết, Mike bị ngất đi gần tuần lễ, Fabrizzio thì trốn biệt. Sau 1 tháng dưỡng thương và 2 tháng làm giấy tờ, thủ tục, Michael đáp máy bay về New York. Tốt nghiệp Đại học xong, Kay kiếm một chân dạy học ở ngay trường trung học tỉnh nhà New Hampshire. 6 tháng sau khi Michael biệt tích nàng còn mỗi tuần mỗi phôn tới Long Beach hỏi tin tức. Gần hai năm rồi Kay sống cô đơn như một cô giáo già. Gặp dịp nghỉ, cô giáo Kay 24 tuổi xuống New York chơi, rồi gọi điện về Long Beach. Bà Trùm báo Michael đã về 6 tháng và bảo nàng sang chơi. Kay gặp lại Michael, được Mike chở về nhà riêng ở New York tâm sự. Vài tháng sau họ kết hôn, sống trong cư xá Long Beach. Kay có con đầu lòng, rồi lại có bầu lần thứ 2. Sau khi Kay sanh thằng bé đầu lòng, Mike đi giải phẫu lại khuôn mặt. Johnny một bước nhảy lên chủ hãng phim lớn và ngay cuốn phim đầu đã hốt bạc ào ào. Cuốn phim số 1 vừa thành công lớn là Johnny quay luôn 2 phim một lúc, lần này còn để cho Nino thủ vai chính 1 phim. Rồi giọng ca của Johnny lại tốt trở lại như cũ. Michael tới Las Vegas cùng Tom Hagen và cận vệ mới Albert Neri. Gia đình Corleone quyết định dời hết xuống Las Vegas làm ăn. Moe Greene, trước đây là đệ nhất đao-phủ-thủ của tổ-hợp giết mướn Brooklyn, đã bỏ New York xuống lập nghiệp ở Las Vegas. Moe nhất định không bán lại số cổ phần tại khách sạn. Mike cũng tuyên bố ông Trùm kể như về hưu, mọi công việc đều do Mike điều khiển hết, chính thức chấm dứt chức vụ consigliori của Tom, chỉ còn là luật sư riêng của Mike ở Las Vegas. Trước khi về, Mike ghé thăm Nino. Kể từ ngày ông Trùm phải cầu hòa với Ngũ Đại gia đình thì thực lực cánh Corleone giảm sút. Làm vua trọn vùng New York bây giờ là 2 cánh Barzini - Tattaglia. Rocco Lampone được Mike bí mật ủy thác lập một băng đặc biệt. Sau đó Kay sanh đứa con thứ 2, lại con trai. Cũng ít lâu sau Nino Valenti từ trần vì một cơn xuất huyết não, tang lễ tổ chức tại California. Đại diện chính thức của gia đình Corleone là Albert Neri do ông Trùm bị đau tim. 2 ngày sau đám tang Nino, Albert Neri bắn chết Moe Greene. Chủ nhật, ông Trùm ra vườn săn sóc cây cỏ thì bị 1 cơn đau tim. Thằng cháu nội vội chạy vô nhà kêu cha. Cùng với mấy thằng đàn em, Michael chạy ngay ra vườn. Michael nắm chặt lấy tay cha, ông Trùm mở mắt nhìn con lần chót, chỉ lẩm bẩm một câu "Đời đẹp quá" là đi luôn. Ngay sau ngày chôn cất, có buổi họp gia đình trong căn nhà của Ông Trùm. Mike xin mọi người ráng nhẫn nhịn, tuyệt đối không phản ứng đối với sự khiêu khích của đối thủ. Hagen ở nán lại với Mike ít tuần. Ngày hôm sau, Mike nhận điện thoại, đúng một tuần lễ nữa sẽ có một phiên họp tay đôi giữa Barzini và Michael, do Tessio sắp đặt. Michael nhận làm cha đỡ đầu cho con đầu của Connie. Hồi còn làm Cảnh sát, Albert Neri lập gia đình với Rita, một nữ sinh, gốc Ý hơi cổ. Albert có sức mạnh như voi và tính nết thẳng như ruột ngựa. Mới 5 năm, Albert đã nổi danh hung thần của đám bất lương, được cả New York biết tiếng. Một buổi sáng chủ nhật Albert đưa vợ đi thăm bà chị góa chồng ở Brooklyn. Thằng cháu Thomas 20 tuổi vì nói hỗn với mẹ nên bị ông cậu trừng trị thẳng tay. Nhưng Rita khiếp hãi sự dữ dằn của Albert nên 2 tháng sau bỏ về nhà cha ruột. Trong 1 lần đi tuần, Albert đập vỡ sọ thằng ma cô Wax Baines đang hành hung 2 phụ nữ nên bị bắt. Ông già vợ chạy lại gia đình Corleone nhờ cậy, Albert được hưởng án treo rồi đầu quân và làm cận vệ cho Michael. Vào ngày quyết định tiêu diệt kẻ thù, Michael cho đưa bà Trùm, Connie và 2 đứa con nhỏ xuống Las Vegas còn Kay và 2 đứa nhỏ về New Hampshire chơi với ông bà ngoại. Fabrizzio bị bắn 3 phát tại Buffalo, Phillip Tattaglia, 70 tuổi, bị Rocco Lampone bắn 4 viên khi đang vui vẻ với gái, ông Trùm Barzini bị Albert, giả làm cảnh sát, đẩy 3 phát đạn vào ngực. Tessio, vì tội bán đứng Michael cho Barzini, cũng bị đám cận vệ của Michael đưa đi thủ tiêu. Carlo, vì tội bán đứng Sonny cho Barzini, bị Clemenza dùng dây lụa siết cổ. Băng của Tessio đặt dưới quyền điều khiển của Albert Neri. Trong vòng 24 giờ ngày hôm đó, bao nhiêu tay súng trong gia đình đều được 2 caporegime Clemenza và Rocco Lampone điều động tung ra bằng hết để "thịt" những kẻ nào lâu nay xâm phạm "giang sơn" nhà Corleone. Khi hay tin chồng chết, Connie đã mắng nhiếc Michael đã giết chồng mình. Mike phủ nhận điều này với Kay nhưng ngay sau đó, khi nghe Clemenza gọi Mike là "Ông Trùm Michael..." thì cô sực tỉnh. Sáng hôm sau Kay dẫn 2 con về nhà cha mẹ ở New Hampshire. Michael khôi phục lại toàn vẹn ngôi vị số 1 New York cho cánh Corleone. Mãi cuối năm Michael mới quyết định thanh toán dứt khoát cơ sở New York, bán hết nhà hết đất để xuống Nevada. Clemenza cũng nghiễm nhiên làm một ông Trùm. Rocco Lampone vẫn là caporegime cho Michael, Neri xuống Las Vegas phụ trách an ninh chung trong khi Tom Hagen làm cố vấn pháp lý. Để tang 1 năm chưa xong Connie đã bước thêm bước nữa với một người khá đẹp trai. Một năm sau khi Kay bỏ đi, Tom Hagen lái xe lên tận nhà nàng ở New Hampshire để khuyên nhủ, giải thích. Kay cùng 2 con lại theo xe của Tom về với Michael. Kay trở lại đạo Công giáo và hai đứa con nhỏ cũng theo mẹ luôn. "Ngày nào Kay chẳng thành tâm cầu nguyện cho linh hồn Michael Corleone." Nhân vật Gia đình Corleone Người sáng lập và đứng đầu gia đình mafia Corleone là Vito Corleone, tên thật là Vito Andolini nhưng khi sang đến đất Mỹ thì đổi họ thành Corleone để gợi nhớ đến quê hương của ông ta là thị trấn Corleone nằm trên đảo Sicily. Theo dịch giả Ngọc Thứ Lang thì "nhiều tư liệu gần đây về mafia và 'The Godfather' cho chúng ta biết rằng nhân vật 'Bố Già' ngoài đời chính là Don Vito Cascio Ferro, một trong những thủ lĩnh quan trọng đầu tiên của giới mafia Ý di cư sang Mỹ. Ông cầm đầu giới giang hồ ở Sicilia và sau đó thống lãnh nhóm "Mano Nero" (Bàn tay đen), một nhóm chuyên tống tiền và cưỡng đoạt. Nhóm này chính là tiền thân của giới mafia Mỹ, hiện nay được gọi là tổ chức "La Cosa Nostra" (Chuyện làm ăn của chúng ta). Những người nghiên cứu về vấn đề mafia viết rằng cách đây hơn 50 năm, trong bè đảng của Don Vito Cascio Ferro đã sản sinh ra các thủ lĩnh mafia mới ở Mỹ và họ đã du nhập những ngành làm ăn bất chính vào Mỹ rồi phát triển chúng lên". Vito 18 tuổi cưới vợ. Hai vợ chồng có bốn người con ruột là Santino "Sonny" Corleone, Frederico "Fred" Corleone, Michael "Mike" Corleone và Constanzia "Connie" Corleone. Ngoài ra ông còn nuôi một đứa trẻ mồ côi, nhưng không nhận là con nuôi, là Thomas "Tom" Hagen, người sau đó trở thành "cố vấn" (consigliori) của nhà Corleone. Vito Corleone còn là cha đỡ đầu của 2 ca sĩ và diễn viên Hollywood nổi tiếng là Johnny Fontane và Nino Valenti. Vào đầu tiểu thuyết, con gái út của nhà Corleone, Connie, làm đám cưới với Carlo Rizzi. Còn ở phần cuối, Michael Corleone gặp lại Kay Adams sau khi hai người đã có 2 đứa con. Vito Corleone có hai thủ hạ thân tín, hai "lãnh tụ" (caporegime) là Peter Clemenza và Salvatore Tessio. Trước khi Tom Hagen trở thành cố vấn của ông trùm thì người nắm giữ vị trí này là bạn thân của Vito từ thời thanh niên, Genco Abbandando. Phục vụ trực tiếp dưới quyền "Bố già" có tay sát thủ Luca Brasi và sau đó là Albert Neri. Ngũ đại gia tộc Trong tiểu thuyết, thế giới tội ác của New York nằm dưới sự quản lý của năm gia đình mafia lớn. Đó là gia đình Corleone (sòng bài, nghiệp đoàn, quan chức), gia đình Barzini (sòng bài, nuôi điếm, cá cược, ma túy), gia đình Tattaglia (nuôi điếm, hộp đêm, ma túy), gia đình Stracci (sòng bạc) và gia đình Cuneo (sòng bạc), trong đó gia đình nhà Corleone và Barzini là lớn nhất. Ngoài ra ở New York còn có gia đình Bocchicchio chuyên nghề đổ rác và làm trung gian hòa giải. Ngoài ra ở các vùng khác ở nước Mỹ còn có các gia đình mafia lớn khác, đó là: Gia đình Tramonti ở Florida, sòng bạc Gia đình Zaluchi ở Detroit, đua ngựa Gia đình Falcone ở Los Angeles, điện ảnh, cung cấp gái Gia đình Molinari ở San Francisco, bến tàu, cá cược thể thao Gia đình Panza ở Boston Gia đình Forlenza ở Cleveland, cờ bạc Gia đình Capone ở Chicago Chuyển thể Điện ảnh Năm 1972, tiểu thuyết Bố già được chuyển thể thành bộ phim cùng tên của đạo diễn Francis Ford Coppola với Marlon Brando thủ vai Don Vito Corleone và Al Pacino vào vai Michael Corleone. Bộ phim lập tức thành công vang dội với doanh thu 134 triệu USD, đoạt ba giải Oscar, bốn giải Quả cầu vàng (Golden Globe) và được coi là một trong những bộ phim xuất sắc nhất trong lịch sử điện ảnh. Bộ phim được tiếp tục bởi Bố già phần II, một thành công nữa của sự hợp tác giữa Puzo và Coppola với 6 giải Oscar. Bố già phần III của Coppola và Puzo được sản xuất năm 1990 và hoàn tất bộ ba (trilogy) của Mario Puzzo. Khác với hai bộ phim trước, Bố già phần III không những chẳng đoạt được giải Oscar nào mà diễn viên Sofia Coppola trong phim còn được trao giải Golden Raspberry cho Nữ diễn viên phụ tồi nhất trong năm. Chuyển thể khác Hãng sản xuất trò chơi Electronic Arts đã cho phát hành trò chơi điện tử dựa theo tiểu thuyết Bố già vào ngày 21 tháng 3 năm 2006. Phần tiếp Năm 2004, nhà xuất bản Random House đã cho phát hành "phần tiếp theo" của Bố già - The Godfather Returns (Bố già trở lại) do nhà văn Mark Winegardner chấp bút. Winegardner còn cho phát hành một phần tiếp theo nữa với tựa đề The Godfather's Revenge (Sự trả thù của Bố già) vào năm 2006. Các phần tiếp theo này tiếp tục các sự kiện diễn ra trong tác phẩm của Mario Puzo và không hề mâu thuẫn với các "phần tiếp theo" của bộ phim Bố già. Bố già trở lại viết về những sự kiện trong gia đình Corleone từ năm 1955 đến năm 1962 cũng như nói rõ hơn tuổi thanh niên của Michael Corleone. Sự trả thù của Bố già đề cập đến giai đoạn 1963 - 1964 trong gia đình Bố già.
Định lý đường chéo Cantor (phát biểu trong thế kỉ 19) được mang tên nhà toán học người Đức Georg Ferdinand Ludwig Phillip Cantor (1845-1918). Từ ngữ "đường chéo" xuất phát từ phương pháp chứng minh dùng đến cách xử lý theo đường chéo của Cantor. Phát biểu Tập hợp lũy thừa (power set) của một tập hợp cho trước ký hiệu là sẽ có lực lượng hoàn toàn lớn hơn lực lượng của chính tập hợp . Đặc biệt, các thành phần của và không thể đặt vào một quan hệ 1-1.'' Trong đó, tập hợp lũy thừa được hiểu là "tập hợp của tất cả các tập con của ". Hệ quả Tập hợp số thực "lớn hơn" tập hợp số tự nhiên (vì ) Chứng minh
Định lý giao điểm Cantor được chứng minh trong thế kỉ 19 bởi nhà toán học người Đức là Georg Ferdinand Ludwig Phillip Cantor (1845-1918) trong lĩnh vực topo. Phát biểu Một không gian metric là đủ khi và chỉ khi mọi dãy hình cầu đóng lồng nhau có bán kính tiến dần tới không đều chứa một điểm chung duy nhất.
Định lý Cantor có thể là một trong các định lý sau: Định lý đường chéo Cantor về mối tương quan giữa tập hợp và tập lũy thừa của nó trong lý thuyết tập hợp Định lý giao điểm Cantor về giao điểm của các tập lồng nhau trong một không gian tô pô
Bố già có thể là: Cách gọi người đỡ đầu nam giới trong nhiều truyền thống Thiên Chúa giáo; ba già có mặt tại lễ rửa tội của đứa trẻ và hứa hẹn rằng đứa trẻ sẽ lớn lên như một Cơ đốc nhân. Tiếng lóng dùng để gọi một trùm xã hội đen trong các băng nhóm mafia, hoặc để gọi một capo di tutti capi (Trùm của Trùm), người có quyền lực bao trùm toàn bộ thế giới mafia Bố già (tiểu thuyết), tiểu thuyết của nhà văn Mario Puzo được xuất bản lần đầu vào năm 1969 Loạt phim Bố già gồm ba phần, trong đó hai phần đầu dựa theo tiểu thuyết của Mario Puzo Bố già (phim), phim năm 1972 Bố già phần II, phim năm 1974 Bố già phần III, phim năm 1990 Bố già, phim của Việt Nam ra mắt năm 2021.
Điểm G, hay còn gọi là điểm Gräfenberg (vinh danh bác sĩ phụ khoa người Đức Ernst Gräfenberg), là một vùng kích thích tình dục của âm đạo. Khi kích thích vùng này có thể gây hưng phấn mạnh mẽ, cực khoái và xuất tinh ở nữ giới. Điểm G thường được tìm thấy ở vị trí phía trước thành âm đạo, giữa lỗ âm đạo và niệu đạo. Vùng nhạy cảm này có thể là một phần của tuyến tiền liệt nữ (tuyến Skene). Sự tồn tại của điểm G vẫn chưa được chứng minh. Mặc dù điểm G được nghiên cứu từ những năm 1940 nhưng hiện nay vẫn còn có nhiều tranh cãi về sự tồn tại của điểm G, liệu có nên coi điểm G là một cấu trúc giải phẫu, và nếu điểm G là một cấu trúc giải phẫu thì định nghĩa nó như thế nào và vị trí ra sao. Điểm G có thể là phần mở rộng của âm vật (cũng là chỗ gây ra cực khoái qua âm đạo). Các nhà tình dục học và các nhà nghiên cứu khác lo ngại rằng phụ nữ có thể coi mình bị rối loạn sinh lý nếu họ không cảm thấy hưng phấn khi kích thích điểm G. Họ nhấn mạnh rằng phụ nữ không cảm thấy kích thích điểm G là rất bình thường, không phải là dấu hiệu của bệnh lý. Cấu trúc giải phẫu Vị trí Hai phương pháp chính được sử dụng để xác định và định vị trí điểm G là một khu vực nhạy cảm trong âm đạo: Phương pháp tự kích thích và tự báo cáo về vị trí nhạy cảm Phương pháp kích thích điểm G dẫn đến xuất tinh ở phụ nữ. Siêu âm cũng được sử dụng để xác định sự khác biệt về sinh lý giữa các phụ nữ và những thay đổi đối với vùng điểm G trong hoạt động tình dục. Vị trí của điểm G thường ở bên trong âm đạo từ 50-80 mm (2-3 in) bên trong, thành trước âm đạo. Đối với một số phụ nữ, kích thích khu vực này tạo ra cực khoái mãnh liệt hơn so với kích thích âm vật. Khu vực điểm G được mô tả là cần được kích thích trực tiếp bằng hai ngón tay. Cố gắng kích thích khu vực này thông qua thâm nhập tình dục, đặc biệt là ở tư thế quan hệ tình dục thông thường, rất khó vì cần phải thâm nhập với góc quay cụ thể. Âm đạo và âm vật Phụ nữ thường cần kích thích âm vật trực tiếp để đạt cực khoái, và kích thích điểm G có thể đạt được tốt nhất bằng cách sử dụng cả kích thích bằng tay và thâm nhập âm đạo. Mát xa yoni cũng kích thích điểm G bằng tay. Có thể dùng đồ chơi tình dục để kích thích điểm G. Máy rung điểm G thiết kế tựa như dương vật có đoạn cong để chạm vào, kích thích điểm G. Máy rung điểm G được làm từ các chất liệu tương tự như máy rung thông thường, từ nhựa cứng, cao su, silicon, gel. Mức độ thâm nhập của âm đạo khi sử dụng máy rung điểm G tùy thuộc vào từng phụ nữ, vì tâm sinh lý của phụ nữ không phải lúc nào cũng giống nhau. Tác dụng của kích thích điểm G khi sử dụng dương vật hoặc máy rung điểm G có thể được tăng cường bằng cách kích thích bổ sung nhiều vùng khác dễ bị kích thích trên cơ thể phụ nữ, chẳng hạn như âm vật hoặc âm hộ. Khi sử dụng máy rung điểm G, có thể đồng thời dùng tay hoặc máy rung để kích thích âm vật. Năm 1981, một nghiên cứu cho rằng kích thích thành trước âm đạo làm cho khu vực này phát triển thêm 50% và khi điểm G được kích thích thì mức độ kích thích/đạt cực khoái sẽ mãn nguyện hơn. Năm 1983, một nghiên cứu trên 11 phụ nữ bằng cách sờ nắn toàn bộ âm đạo theo chiều kim đồng hồ, và báo cáo phản ứng cụ thể với kích thích thành trước âm đạo ở 4 phụ nữ, kết luận rằng khu vực này chính là điểm G. Trong một nghiên cứu năm 1990, 2.350 phụ nữ ở Hoa Kỳ và Canada nhận được một bộ câu hỏi ẩn danh và đạt tỷ lệ phản hồi 55%. Trong số những người phản hồi này, 40% cho biết có tiết dịch (xuất tinh) tại thời điểm đạt cực khoái, và 82% phụ nữ cho biết tác động vào vùng nhạy cảm (điểm Gräfenberg) cũng gây xuất tinh khi đạt cực khoái. Một số nghiên cứu cho rằng cực khoái điểm G và âm vật có cùng nguồn gốc. Masters và Johnson là những người đầu tiên xác định rằng các cấu trúc âm vật bao quanh và kéo dài dọc theo và vào trong môi âm hộ. Khi nghiên cứu chu kỳ đáp ứng tình dục của phụ nữ với các kích thích khác nhau, họ quan sát thấy rằng cả cực khoái âm vật và âm đạo đều có các giai đoạn đáp ứng thể chất giống nhau và nhận thấy rằng phần lớn đối tượng chỉ có thể đạt được cực khoái âm vật, trong khi một số ít đạt được cực khoái âm đạo. Trên cơ sở này, Masters và Johnson lập luận rằng kích thích âm vật là nguồn gốc của cả hai loại cực khoái, lập luận rằng âm vật bị kích thích trong quá trình thâm nhập bằng cách chà sát mui âm vật. Các nhà nghiên cứu tại Đại học L'Aquila sử dụng phương pháp siêu âm và đưa ra bằng chứng cho thấy những phụ nữ trải qua cực khoái âm đạo theo thống kê có nhiều khả năng thành trước âm đạo có mô dày. Họ tin rằng những phát hiện này giúp phụ nữ có thể làm xét nghiệm nhanh để xác nhận xem họ có điểm G hay không. Giáo sư dịch tễ học di truyền, Tim Spector, người đồng tác giả nghiên cứu đặt câu hỏi về sự tồn tại của điểm G và hoàn thiện nó vào năm 2009, cũng đưa ra giả thuyết về mô dày ở vùng điểm G. Ông nói rằng mô này có thể là một phần của âm vật và không phải là một vùng sinh dục riêng biệt. Một nghiên cứu được công bố vào năm 2005 điều tra kích thước của âm vật và củng cố giả thuyết mô âm vật kéo dài vào thành trước của âm đạo. Nhà nghiên cứu chính của nghiên cứu là nhà tiết niệu người Úc, bà Helen O'Connell khẳng định rằng mối quan hệ này là lời giải thích cho sinh lý điểm G và trải nghiệm cực khoái âm đạo, có tính đến sự kích thích của các bộ phận bên trong âm vật trong quá trình thâm nhập vào âm đạo. Bà O'Connell cho chụp cộng hưởng từ và ghi nhận mối quan hệ trực tiếp giữa chân hoặc gốc của âm vật và mô của "củ âm vật", niệu đạo và âm đạo. Bà kết luận: “Thành âm đạo thực chất là âm vật.", "Nếu bạn nhấc da khỏi âm đạo ở thành bên, bạn sẽ thấy "củ âm vật" là những khối mô cương cứng hình tam giác hay hình lưỡi liềm." Năm 1998, O'Connell và cộng sự thực hiện phẫu tích trên bộ phận sinh dục nữ trên tử thi, chụp ảnh lại để lập bản đồ cấu trúc dây thần kinh ở âm vật, đều cho kết quả rằng âm vật có sự khác biệt so với quy đầu và khẳng định rằng có mô cương có nhiều ở âm vật hơn những gì được mô tả trong sách giáo khoa giải phẫu trước đó. Họ kết luận rằng một số phụ nữ có mô và dây thần kinh âm vật rộng và nhiều hơn những người khác, vì họ đã quan sát thấy điều này ở những tử thi trẻ so với những người già, và do đó trong khi phần lớn phụ nữ chỉ có thể đạt được cực khoái bằng cách kích thích trực tiếp phần ngoài của âm vật, một số chỉ cần kích thích các mô khác của âm vật thông qua giao hợp. Nhà nghiên cứu người Pháp Odile Buisson và Pierre Foldès báo cáo những phát hiện tương tự như kết quả của O'Connell. Năm 2008, họ xuất bản bản siêu âm 3D hoàn chỉnh đầu tiên về âm vật được kích thích. Bản siêu âm tái bản năm 2009 có thêm nghiên cứu mới chứng minh những cách mà mô cương của âm vật tụ lại và bao quanh âm đạo. Trên cơ sở nghiên cứu này, họ lập luận rằng phụ nữ có thể đạt được cực khoái âm đạo thông qua kích thích điểm G bởi vì âm vật được kéo sát vào thành trước của âm đạo khi phụ nữ kích thích tình dục và trong quá trình thâm nhập vào âm đạo. Họ khẳng định rằng vì thành trước của âm đạo được liên kết chặt chẽ với các bộ phận bên trong âm vật, nên việc kích thích âm đạo mà không kích hoạt âm vật có thể là điều không thể. Trong nghiên cứu được công bố năm 2009, "những thiết đồ đứng ngang chụp được trong quá trình co thắt đáy chậu và sự thâm nhập của ngón tay đã chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa gốc âm vật và thành trước âm đạo". Buisson và Foldès cho rằng "sự nhạy cảm đặc biệt của thành trước âm đạo dưới có thể được giải thích bởi áp lực và chuyển động của gốc âm vật trong quá trình thâm nhập âm đạo và co thắt đáy chậu". Tuyến tiền liệt của nữ Năm 2001, Ủy ban Liên đoàn về Thuật ngữ Giải phẫu chấp nhận tuyến tiền liệt của nữ là thuật ngữ thứ hai để gọi tuyến Skene. Tuyến này tìm thấy ở điểm G dọc theo thành niệu đạo. Tuyến tiền liệt của nam tương đồng về mặt sinh học so với tuyến Skene; do đó tuyến tiền liệt của nam được gọi một cách không chính thức là điểm G của nam giới vì mát xa tuyến tiền liệt có thể gây hưng phấn. Năm 1672, Regnier de Graaf quan sát thấy rằng chất tiết khi nữ giới xuất tinh trong âm đạo giúp bôi trơn, "làm dễ chịu trong khi quan hệ". Những giả thuyết khoa học hiện đại nhận ra mối liên kết giữa sự nhạy cảm điểm G với quá trình xuất tinh, hình thành nên ý niệm chất dịch xuất tinh ngoài nước tiểu của phụ nữ có thể bắt nguồn từ tuyến Skene. Tuyến Skene của nữ và tuyến tiền liệt của nam đều có kháng nguyên và acid phosphatase đặc hiệu của tuyến tiền liệt, nên có thể gọi tuyến Skene là tuyến tiền liệt của nữ. Ngoài ra, enzym PDE5 (liên quan đến rối loạn cương dương) cũng có liên quan đến khu vực điểm G. Vì những yếu tố này, có tranh luận rằng điểm G là một hệ thống các tuyến và ống dẫn nằm trong thành trước âm đạo. Cũng có nghiên cứu về liên quan giữa điểm G với niệu đạo xốp. Ý nghĩa lâm sàng Khuếch đại điểm G (G-Shot) là một thủ thuật nhằm mục đích tăng khoái cảm tạm thời ở phụ nữ hoạt động tình dục có chức năng tình dục bình thường, tập trung vào việc tăng kích thước và độ nhạy cảm của điểm G. Khuếch đại điểm G được thực hiện bằng cách cố gắng xác định vị trí điểm G và ghi chép lại để có thể tham khảo. Sau khi làm tê tại chỗ, collagen được tiêm trực tiếp vào dưới niêm mạc ở chỗ xác định là điểm G. Trường Cao đẳng Sản phụ khoa Hoa Kỳ năm 2007 cảnh báo rằng không đủ chứng cứ y học để thực hiện thủ thuật khuếch đại, chưa chứng minh được đây là thủ thuật an toàn, hiệu quả. Những rủi ro tiềm ẩn có thể gây rối loạn chức năng tình dục, nhiễm trùng, loạn cảm giác, đau khi quan hệ và để lại sẹo. Quy trình này cũng không được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm và Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ chấp thuận, và không có bình duyệt nào được chấp nhận về tính an toàn hoặc hiệu quả của phương pháp điều trị này. Xã hội và văn hoá Hoài nghi Ngoài sự hoài nghi giữa các bác sĩ phụ khoa, nhà tình dục học và các nhà nghiên cứu khác rằng điểm G tồn tại, một nhóm nghiên cứu tại Đại học Hoàng đế Luân Đôn cuối năm 2009 cho rằng sự tồn tại của điểm G là mang tính chủ quan. Trong một đề tài nghiên cứu khoa học, họ lấy mẫu là 1.800 cặp sinh đôi nữ, và theo như phản hồi trong bộ câu hỏi, họ nhận thấy rằng các cặp sinh đôi không báo cáo có vị trí điểm G giống nhau. Tim Spector là người đứng đầu nghiên cứu kéo dài 15 năm về các cặp song sinh, đó là các cặp song sinh giống hệt và không giống hệt nhau. Theo giả thiết, nếu một cặp song sinh giống hệt nhau báo cáo có điểm G, nhiều khả năng người kia cũng vậy, nhưng giả thiết trên thực tế không đúng. Đồng tác giả nghiên cứu, bà Andrea Burri tin rằng: "Thật vô trách nhiệm khi tuyên bố sự tồn tại của một thứ chưa bao giờ được khoa học chứng minh và gây áp lực cho cả phụ nữ và nam giới." Bà nói rằng một trong những lý do của nghiên cứu là để loại bỏ cảm giác "tủi thân" đối với những phụ nữ lo sợ họ không có điểm G. Nhà nghiên cứu Beverly Whipple bác bỏ kết quả nghiên cứu, nhận xét rằng các cặp song sinh có các kỹ thuật giao cấu và bạn tình khác nhau, và nghiên cứu bỏ qua trường hợp người đồng tính nữ hoặc song tính luyến ái. Nhà khoa học người Anh, bà Petra Boynton, đã giành nhiều giấy mực cho các bài tranh luận về điểm G, cũng lo ngại về việc lan tỏa ý niệm về điểm G khiến phụ nữ cảm thấy bị "rối loạn chức năng" nếu họ không tìm thấy điểm G. Bà nói: “Tất cả chúng ta đều khác nhau. Một số phụ nữ sẽ có vùng bên trong âm đạo sẽ rất nhạy cảm và một số khác thì không, nhưng chỗ nhạy cảm nhất của họ không nhất thiết phải ở trong khu vực được gọi là điểm G. Nếu một người phụ nữ dành toàn bộ thời gian để lo lắng xem mình có bình thường không, có điểm G hay không, thì cô ấy sẽ chỉ tập trung vào vùng này mà bỏ sót vùng nhạy cảm khác. [Việc tạo ra ý niệm điểm G] không khác gì bảo người phụ nữ rằng chỉ có một chỗ nhạy cảm duy nhất khi quan hệ." Tận cùng thần kinh Những người ủng hộ điểm G bị chỉ trích vì đã quá tin tưởng vào bằng chứng vụn vặt (anecdotal evidence). Mặt khác, một số tài liệu nói rằng các đầu dây thần kinh tập trung với mật độ nhiều ở 1/3 dưới (gần lỗ vào) của âm đạo, nhưng một số nghiên cứu khoa học về thần kinh chi phối thành âm đạo lại phủ nhận luận điểm trên. Một số nhà nghiên cứu cũng coi mối quan hệ giữa tuyến Skene và điểm G là ít thuyết phục. Tuy nhiên, niệu đạo xốp (cũng được giả thuyết là điểm G) chứa các đầu tận cùng thần kinh và mô cương. Độ nhạy không được xác định bởi mật độ tế bào thần kinh đơn thuần: những yếu tố khác như kiểu phân nhánh của các đầu tận cùng tế bào thần kinh và sự chi phối tế bào của neuron. Trong khi những người phản đối điểm G cho rằng vì có rất ít đầu dây thần kinh xúc giác trong âm đạo và do đó điểm G không thể tồn tại, những người ủng hộ điểm G lại cho rằng cực khoái âm đạo phụ thuộc vào dây thần kinh nhạy cảm với áp lực. Các cuộc tranh luận về âm vật và cấu trúc giải phẫu khác Vincenzo Puppo đồng ý rằng âm vật là trung tâm của khoái cảm tình dục của phụ nữ, nhưng không đồng ý với Helen O'Connell và những mô tả giải phẫu và thuật ngữ của các nhà nghiên cứu khác về âm vật. Ông cho rằng, "Củ âm vật là một thuật ngữ không chính xác từ quan điểm phôi thai học và giải phẫu học, trên thực tế, củ âm vật không phát triển từ thể dương vật, và chúng không thuộc về âm vật." Ông nói rằng hành âm vật "không phải là một thuật ngữ được sử dụng trong giải phẫu người" và cho rằng hành âm đạo là thuật ngữ chính xác, đồng thời nói thêm rằng các bác sĩ phụ khoa và chuyên gia tình dục nên thông báo cho công chúng sự thật thay vì giả thuyết hoặc ý kiến cá nhân. Ông cho biết thêm: "Cực khoái vùng âm đạo/tử cung hay là cực khoái điểm G/ điểm A/điểm C/ điểm U và xuất tinh ở nữ, là những thuật ngữ mà những nhà tình dục học, phụ nữ và phương tiện truyền thông đại chúng không được sử dụng", "thành trước âm đạo được ngăn cách với thành sau của niệu đạo bởi vách âm đạo niệu đạo (dày 10–12 mm)", cấu trúc mang tên "âm vật trong" không tồn tại. Puppo cho biết: "Niệu đạo tầng sinh môn phụ nữ, nằm ở phía trước của thành trước âm đạo, có chiều dài khoảng 1 cm và điểm G nằm ở thành chậu của niệu đạo, cách âm đạo 2–3 cm". Puppo cho rằng dương vật không thể tiếp xúc với tập hợp thần kinh/tĩnh mạch nằm ở góc âm vật và không thể tiếp xúc với rễ âm vật (là nơi không có receptor cảm giác trong suốt quá trình quan hệ tình dục). Tuy nhiên, Puppo đã bác bỏ định nghĩa cực khoái do điểm G, ông nói rằng "không có bằng chứng giải phẫu nào ủng hộ cho khái niệm cực khoái âm đạo mà Freud phát minh vào năm 1905, nó không có bất kỳ cơ sở khoa học nào" Luận điểm trên của Puppo cho rằng không có mối quan hệ giải phẫu nào giữa âm đạo và âm vật là trái ngược với luận điểm chung của các nhà nghiên cứu rằng cực khoái âm đạo là kết quả của sự kích thích âm vật. Nhà nghiên cứu Amichai Kilchevsky cho biết: “Quan điểm của tôi là điểm G thực sự chỉ là phần mở rộng của âm vật ở bên trong âm đạo, tương tự như phần gốc của dương vật nam giới. Bởi vì trong trường hợp không tiếp xúc đáng kể với hormone nam, sự phát triển của bào thai nữ mang tính "mặc định". Do vậy, dương vật về cơ bản là một âm vật được các hormone nam đó kích thích và phát triển". Kilchevsky tin rằng không có lý do tiến hóa nào giải thích được tại sao phụ nữ lại có hai cấu trúc riêng biệt có khả năng tạo ra cực khoái. Kilchevsky đổ lỗi cho ngành công nghiệp khiêu dâm và "những người quảng bá điểm G" đã cố gắng củng cố luận điểm về điểm G là một cấu trúc giải phẫu riêng biệt. Khó khăn để đạt cực khoái âm đạo là một tình trạng giảm điều kiện và khả năng sinh con bằng cách giảm mạnh số lượng đầu dây thần kinh âm đạo. Khái niệm này có phần xung khắc với luận điểm cực khoái âm đạo giúp khuyến khích quan hệ tình dục nhằm tạo điều kiện sinh sản. O'Connell tuyên bố rằng việc tập trung vào điểm G để loại trừ phần còn lại của cơ thể phụ nữ "giống như việc kích thích tinh hoàn của một chàng trai mà không cần chạm vào dương vật và mong đợi cực khoái xảy ra chỉ vì họ yêu nhau thật lòng". Bà nói: "tốt nhất nên coi âm vật, niệu đạo và âm đạo là một đơn vị vì chúng có quan hệ mật thiết với nhau". Ian Kerner nói rằng điểm G có thể là "không gì khác hơn là rễ của âm vật đan chéo vào niệu đạo xốp". Một nghiên cứu của Đại học Rutgers công bố vào năm 2011, là nghiên cứu đầu tiên lập bản đồ bộ phận sinh dục nữ vào phần cảm giác của não và hỗ trợ khả năng xuất hiện điểm G riêng biệt. Khi nhóm nghiên cứu yêu cầu một số phụ nữ tự kích thích mình trong khi chụp cộng hưởng từ chức năng (fMRI), trên thiết đồ não cho thấy việc kích thích âm vật, âm đạo và cổ tử cung làm sáng lên những khu vực khác biệt của vỏ não cảm giác của phụ nữ, có nghĩa là não bộ ghi nhận những cảm giác khác biệt giữa việc kích thích âm vật, cổ tử cung và thành âm đạo (nơi ghi nhận điểm G). Barry Komisaruk, người đứng đầu kết quả nghiên cứu cho biết: “Tôi nghĩ rằng phần lớn bằng chứng cho thấy điểm G không phải là một chi tiết giải phẫu cụ thể. "Nó không giống như câu hỏi, 'Tuyến giáp là gì?' Điểm G giống như một thành phố New York. Đó là một vùng, là nơi hội tụ của nhiều cấu trúc khác nhau." Năm 2009, Tạp chí Y học tình dục tổ chức một cuộc tranh luận cho cả hai bên về vấn đề điểm G, kết luận rằng cần có thêm bằng chứng để xác thực sự tồn tại của điểm G. Vào năm 2012, nhiều học giả bao gồm Kilchevsky, Vardi, Lowenstein và Gruenwald tuyên bố trên tạp chí này rằng: "Thông tin trên phương tiện truyền thông đại chúng sẽ khiến người ta tin rằng điểm G là một thực thể có khả năng tạo ra các kích thích tình dục cực khoái, nhưng điều này khác xa với sự thật." Họ trích dẫn rằng hàng chục thử nghiệm cố gắng xác nhận sự tồn tại của điểm G bằng cách sử dụng khảo sát, bệnh phẩm bệnh học, phương thức chẩn đoán hình ảnh khác nhau. các dấu hiệu sinh hóa, và kết luận:Các cuộc khảo sát cho thấy phần lớn phụ nữ tin rằng điểm G thực sự tồn tại, mặc dù không phải tất cả phụ nữ tin vào điểm G đều có thể xác định được vị trí đó. Những nỗ lực để xác định đặc điểm chi phối thần kinh của âm đạo đã cho thấy một số khác biệt trong sự phân bố dây thần kinh khắp âm đạo, mặc dù những phát hiện này không mang đặc tính loài. Hơn nữa, các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh không chứng minh được một thực thể duy nhất (ngoài âm vật) mà sự kích thích trực tiếp dẫn đến cực khoái âm đạo. Những phép đo khách quan không cung cấp bằng chứng chắc chắn và nhất quán về sự tồn tại của một vị trí giải phẫu có thể liên quan đến điểm G. Tuy nhiên, những báo cáo đáng tin cậy và lời chứng thực giai thoại về sự tồn tại của một khu vực nhạy cảm cao ở đầu xa thành trước âm đạo đặt ra câu hỏi liệu những phương pháp điều tra đã được thực hiện đã đủ hay là chưa đủ để tìm kiếm điểm G.Một đánh giá năm 2014 từ tập san học thuật Nature Reviews Urology khẳng định rằng "không có cấu trúc giải phẫu duy nhất nào phù hợp với cái gọi là điểm G." Lịch sử Việc giải phóng dịch lỏng được các nhà y học coi là có lợi cho sức khỏe. Trong bối cảnh này, nhiều phương pháp khác nhau đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ để giải phóng "hạt giống cái" (thông qua chất bôi trơn âm đạo hoặc xuất tinh ở phụ nữ) như một phương pháp điều trị chứng suffocation ex semine retento (tử cung nghẹt thở), chứng hysteria ở nữ hoặc thiếu máu nhược sắc. Hộ sinh sẽ cọ xát thành âm đạo hoặc đưa vật có hình dạng giống dương vật vào âm đạo. Trong cuốn sách History of V, Catherine Blackledge liệt kê những thuật ngữ cũ dùng để chỉ tuyến tiền liệt của phụ nữ (tuyến Skene), bao gồm dòng nước nhỏ, ngọc trai đen, cung điện của người âm ở Trung Quốc, da của giun đất ở Nhật Bản, và saspanda nadi trong cẩm nang tình dục Ananga Ranga của Ấn Độ. Bác sĩ người Hà Lan ở thế kỷ 17 Regnier de Graaf đã mô tả sự xuất tinh của phụ nữ và ám chỉ một khu vực sinh dục trong âm đạo mà ông liên kết là tương đồng với tuyến tiền liệt của nam giới; Khu vực này sau đó đã được bác sĩ phụ khoa người Đức Ernst Gräfenberg xác nhận. điểm G do Addiego và cộng sự đặt vào năm 1981 nhằm vinh danh Gräfenberg, Alice Kahn Ladas, Beverly Whipple và cộng sự thực hiện điều tương tự vào năm 1982. Tuy nhiên, nghiên cứu của Gräfenberg vào những năm 1940 dành riêng cho việc kích thích niệu đạo; Gräfenberg tuyên bố, "Vùng nhạy cảm luôn ở thành trước âm đạo dọc theo đường niệu đạo". Khái niệm về điểm G ăn sâu vào văn hóa đại chúng với ấn phẩm năm 1982 về Điểm G và những khám phá gần đây khác về tình dục của con người của Ladas, Whipple và Perry, nhưng ngay lập tức ấn phẩm bị các bác sĩ phụ khoa chỉ trích.
Phiên tòa Nürnberg () là các phiên xét xử quân sự quân Đồng Minh mở ở Nürnberg, Đức theo luật quốc tế và luật chiến tranh sau Thế chiến thứ hai, nổi tiếng vì truy tố các lãnh đạo chính trị, quân sự, tư pháp và kinh tế của Đức Quốc Xã đã kế hoạch, tiến hành hoặc tham gia cuộc Đại tàn sát và những tội chiến tranh khác; những phán quyết này đánh dấu bước ngoặt giữa luật quốc tế cổ điển và đương đại. Phiên tòa đầu tiên và nổi tiếng nhất là của những tội phạm chiến tranh chính trước Tòa án Quân sự Quốc tế, Norman Birkett gọi "phiên tòa lớn nhất trong lịch sử," một trong các thẩm phán Anh có mặt trong suốt. Từ ngày 20 tháng 11 năm 1945 đến ngày 1 tháng 10 năm 1946, Tòa được giao nhiệm vụ xét xử 24 trong các lãnh đạo chính trị, quân sự quan trọng nhất của Đế chế thứ ba, bị tố mưu chiến, phạm tội tội ác chống lại hòa bình, tội ác chiến tranh cũng như tội ác chống lại loài người. Adolf Hitler, Wilhelm Burgdorf, Hans Krebs và Joseph Goebbels đều đã tự tử trong mùa xuân năm 1945 để tránh bị bắt giữ. Heinrich Himmler bị bắt và tự tử một ngày sau khi bị bắt bởi quân Anh. Krebs và Burgdorf tự sát hai ngày sau Hitler ở cùng nơi. Reinhard Heydrich bị ám sát bởi đảng phái Séc năm 1942. Josef Terboven tự sát bằng thuốc nổ ở Na Uy năm 1945. Adolf Eichmann chạy trốn đến Argentina để tránh bị bắt giữ, nhưng bị bắt giữ bởi dịch vụ tình báo của Israel (Mossad) và treo cổ năm 1962. Miklós Horthy là nhân chứng trong phiên tòa Bộ trưởng diễn ra ở Nürnberg năm 1948. Phán quyết cuối cùng của tòa án bao gồm án tử hình đối với mười hai bị cáo: Martin Bormann (vắng mặt), Hans Frank, Wilhelm Frick, Hermann Göring (tự tử trước khi thi hành bản án), Alfred Jodl, Ernst Kaltenbrunner, Wilhelm Keitel, Joachim von Ribbentrop, Alfred Rosenberg, Fritz Sauckel, Arthur Seyss-Inquart và Julius Streicher. Bảy bị cáo nhận án tù từ mười năm đến tù chung thân: Karl Dönitz, Walther Funk, Rudolf Hess, Konstantin von Neurath, Erich Raeder, Baldur von Schirach và Albert Speer. Ba bị cáo được tha bổng là Hans Fritzsche, Franz von Papen và Hjalmar Schacht. Hai bị cáo còn lại không được tuyên án, Robert Ley tự tử trước khi phiên tòa bắt đầu, Gustav Krupp không được xét xử vì lí do sức khỏe. Bài này chủ yếu nói về phiên tòa đầu tiên, được triệu tập bởi IMT. Những phiên tòa sau đó được triệu tập bởi Tòa án Quân sự Nürnberg (NMT) do Hòa Kỳ tổ chức, bao gồm phiên tòa Bác sĩ và phiên tòa Thẩm phán. Tương tự như Nürnberg, Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông được lập ra để xét xử những tội ác trên mặt trận Thái Bình Dương. Việc phân loại các tội danh và sự hình thành của tòa án thể hiện một tiến bộ pháp lý mà sau này được dùng bởi Liên Hợp Quốc để phát triển một bộ luật quốc tế cụ thể cho các vấn đề tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người, chiến tranh xâm lược, cũng như sự thành lập của Tòa án Hình sự Quốc tế. Bản cáo trạng Nürnberg cũng lần đầu tiên đề cập đến nạn diệt chủng trong pháp luật quốc tế (Điều ba, tội ác chiến tranh: "sự tiêu diệt các nhóm chủng tộc và dân tộc, chống lại quần thể nhân dân của một số khu vực bị chiếm đóng nhằm tiêu diện chủng tộc và tầng lớp và các nhóm quốc gia, chủng tộc hoặc tôn giáo nhất định, cụ thể là người Do Thái, người Ba Lan, người Di-gan và những nhóm khác.") Tiền lệ lịch sử Thông thường, một hiệp ước hòa bình giữa các cường quốc được sử dụng để phán xét và giải quyết các mâu thuẫn và thiệt hại, trao chiến lợi phẩm cho kẻ chiến thắng và buộc kẻ bại trận bồi thường. Để chấm dứt xung đột, một hiệp ước hòa bình luôn đi kèm với một điều khoản ân xá nghiêm cấm việc khơi dậy hoặc tố cáo những tội ác gây ra trong chiến tranh. Một điều khoản ân xá như thế đã xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại: "Sau khi Ba mươi Bạo chúa bị đuổi khỏi Athens, Thrasybulus đề ra đạo luật được dân Athens chấp thuận rằng cả hai bên sẽ quên hết mọi thứ diễn ra trong chiến tranh: bắt đầu từ thời điểm này thuật ngữ ân xá được sử dụng." Những điều khoản ân xá thế này vẫn còn đến năm 1962 trong Hiệp định Évian kết thúc cuộc chiến tranh Algérie. Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng cách thành lập một tòa án và quy trình pháp lý xét xử lãnh đạo của những nước thua cuộc là một hành động chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Napoleon là một trong những lãnh đạo đầu tiên mà việc xét xử hình sự bởi một tòa án quốc tế được đưa ra: Một trong những tòa án có thẩm quyền đa quốc gia xuất hiện từ năm 1899, khi Tòa án Trọng tài thường trực được thành lập và tồn tại đến ngày nay, tuy nhiên không được công nhận thẩm quyền hình sự. Ý tưởng về một tòa án hình sự quốc tế có từ Chiến tranh thế giới thứ nhất và bắt nguồn từ những hiệp định chấm dứt nó: Điều 227 của Hòa ước Versailles bao gồm bản cáo trạng của Hoàng đế Wilhelm II: "một tội ác chống lại đạo đức quốc tế và sự tôn nghiêm của các hiệp ước". Nó cũng đặt ra nền tảng cho một tòa án đặc biệt bao gồm đại diện của Mỹ, Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản. Điều 228 yêu cầu xét xử các tội phạm chiến tranh, được thực hiện bởi chính phủ Đức mới, và phải dẫn độ khi có yêu cầu. Tuy nhiên những quy định không thể được áp dụng trong thực tiễn: Chính phủ Hà Lan, nơi Wilhelm II ẩn náu, từ chối thực hiện nó do tính hồi tố của nó. Phiên tòa vì thế không được diễn ra.. Cộng hòa Weimar giải thích cho quân Đồng Minh rằng việc dẫn độ sẽ gây nên một cuộc chống đối toàn diện, làm suy yếu tính bền vững của chính phủ. Vì thế, việc xét xử các tội phạm chiến tranh, hay ít nhất một phần của nó, diễn ra tại Đức trước Reichsgericht (Tòa Dân sự Tối cao) tại Leipzig từ tháng 5 năm 1921 đến tháng 12 năm 1922. Kết quả nằm ngoài dự đoán: trong số 901 bị cáo, 888 người được tha bổng. 13 người còn lại nhận những bản án nhẹ nhưng cũng không phải thực hiện chúng. Hòa ước Sèvres không được phê chuẩn; Hiệp ước Lausanne thay thế nó không đưa ra những quy định về Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1922, Toà án Thường trực Công lý Quốc tế được thành lập. Không khác những tòa án trước đó, nó không có thẩm quyền hình sự và tan rã năm 1946 với sự thành lập của Liên Hợp Quốc. Nguồn gốc Đầu năm 1940, chính quyền Ba Lan lưu vong mong muốn chính phủ Anh và Pháp lên án cuộc xâm lược của Đức vào nước họ. Phía Anh ban đầu từ chối; tuy nhiên, sau khi Ba Lan xem xét và sửa đổi dự thảo, ngày 18 tháng 4 năm 1940, một tuyên bố chung được đưa ra bởi Anh, Pháp và Ba Lan. Tuyên bố tố cáo chính phủ Đức đã xâm lược Ba Lan "bằng những cuộc tấn công tàn bạo vào người dân Ba Lan và vi phạm những quy tắc của pháp luật quốc tế". Berlin bị lên án vì đã vi phạm luật chiến tranh và hiệp định quốc tế như [[Các công ước Den Haag 1899 và 1907 |Công ước Hague 1907]]. Tuy nhiên, kết luận cuối cùng không mang ý nghĩa lớn: ba nước Đồng Minh "tái khẳng định trách nhiệm của Đức cho những tội ác này và quyết tâm chỉnh đốn những tội ác gây ra với người Ba Lan." Ngày 12 tháng 6 năm 1941, đại diện của tám chính quyền lưu vong tại Luân Đôn bao gồm Bỉ, Tiệp Khắc, Hy Lạp, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Nam Tư cùng với các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh và Ủy ban Quốc gia Pháp, ký Tuyên bố Cung điện Thánh James, thể hiện mong muốn xét xử tội phạm chiến tranh bằng một cơ quan quốc tế, được phát triển trong chiến tranh. Ba năm rưỡi sau, ý định trừng phạt quân Đức trở nên quả quyết hơn hẳn. Ngày 1 tháng 11 năm 1943, Liên Xô, Anh và Mỹ đề ra "Tuyên bố về Tội ác của Đức ở châu Âu", đưa ra một "lời cảnh báo toàn diện" rằng, khi Đức Quốc Xã bị tiêu diệt, quân Đồng Minh sẽ "đuổi theo chúng đến tận cùng trái đất ... để công lý được thực thi. ... Tuyên bố trên không có định kiến về trường hợp những tên tội phạm chiến tranh với tội ác không xảy ra ở một vị trí địa l1y cụ thể nào và sẽ bị trừng phạt bởi quyết định chung của Chính phủ của lực lượng Đồng Minh." Quyết tâm thực hiện công lý của quân Đồng Minh được thể hiện ở Hội nghị Yalta và Potsdam năm 1945. Tài liệu của Nội các Chiến tranh Anh, phát hành ngày 2 tháng 1 năm, cho thấy ngay từ tháng 12 năm 1944 Nội các đã thảo luận chính sách trừng phạt lãnh đạo Đức Quốc Xã nếu bắt được chúng. Thủ tướng Anh lúc bấy giờ, Winston Churchill, đã ủng hộ chính sách hành quyết không xét xử trong một số trường hợp, cùng với việc sử dụng Lệnh tước quyền công dân và tịch thu tài sản để tránh các trở ngại pháp lý, nhưng rồi bị can ngăn qua những buổi thảo luận với Mỹ và Liên Xô sau này. Cuối năm 1943, trong Cuộc họp Bữa tối giữa Tam Cường tại Hội nghị Tehran, lãnh đạo Liên Xô, Joseph Stalin, kiến nghị xử tử 50.000–100.000 sĩ quan Đức để Đức không thể chuẩn bị cho trận chiến nào khác. Roosevelt, tin rằng Stalin không nghiêm túc, đùa rằng "có lẽ 49.000 là đủ". Churchill, tin rằng hai người kia nghiêm túc, lên cơn phẫn nộ và lên án "cuộc hành quyết máu lạnh những người lính đã chiến đấu vì Tổ quốc của họ" và nói rằng ông thà bị "đem ra khu đất trống và bắn" chính ông hơn là tham gia vào bất kỳ hành động nào như thế. Tuy nhiên, ông cũng nói rằng tội phạm chiến tranh phải trả giá cho những tội ác họ đã gây ra và vì thế, dựa trên Văn bản Moskva mà chính ông đã viết, chúng nên bị xét xử tại nơi mà tội ác đã diễn ra. Churchill hoàn toàn phản đối việc hành quyết "vì mục đích chính trị" Theo biên bản một cuộc gặp giữa Roosevelt và Stalin ở Yalta, ngày 4 tháng 2 năm 1945 tại Lâu đài Livadia, Tổng thống Roosevelt "nói rằng ông rất sốc trước quy mô hủy diệt của Đức Quốc Xã ở Crimea và vì thế ông khát máu với người Đức hơn so với một năm trước, và ông hy vọng rằng Nguyên soái Stalin sẽ nâng cốc mừng việc hành quyết 50.000 sĩ quan của Quân đội Đức." Henry Morgenthau Jr., Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ, đề nghị một kế hoạch giải quốc xã toàn diện nước Đức; đây còn gọi là Kế hoạch Morgenthau. Kế hoạch ủng hộ việc giải trừ công nghiệp bắt buộc cho Đức và hành quyết không xét xử những kẻ được gọi là "tội phạm chính", những tội phạm chiến tranh chủ chốt. Roosevelt ban đầu ủng hộ kế hoạch này, và thuyết phục được Churchill ủng hộ nó với một số cắt giảm nhẹ. Tuy nhiên sau đó, chi tiết kế hoạch bị lộ gây nên sự chỉ trích mạnh mẽ trong báo chí Mỹ. Roosevelt, nhận thấy rõ sự phản đối của công chúng, hủy bỏ kế hoạch, nhưng không sử dụng một biện pháp thay thế cho vấn đề. Sự sụp đổ của Kế hoạch Morgenthau yêu cầu cấp thiết một giải pháp thay thế để xử lý các lãnh đạo Đức Quốc Xã Plan. Kế hoạch "Xét xử Tội phạm Chiến tranh Châu Âu" được soạn thảo bởi Bộ trưởng Chiến tranh Henry L. Stimson và Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ. Nối tiếp cái chết của Roosevelt vào tháng 4 năm 1945, tổng thống mới, Harry S. Truman, bày tỏ sự đồng thuận cho quá trình pháp lý. Sau một cuộc đàm phán giữa Anh, Mỹ, Liên Xô và Pháp, chi tiết của cuộc xét xử được đưa ra. Phiên tòa dự kiến bắt đầu ngày 20 tháng 11 năm 1945, tại thành phố Nürnberg thuộc bang Bayern. Sự thành lập tòa án Ngày 20 tháng 4 năm 1942, đại diện từ chín nước bị chiếm đóng bởi quân Đức gặp mặt ở Luân Đôn để dự thảo "Nghị quyết Đồng Minh về Tội ác Chiến tranh của Đức". Tại cuộc họp mặt ở Tehran (1943), Yalta (1945) và Postdam (1945), ba cường quốc thời chiến, Anh, Mỹ và Liên Xô, nhất trí về hình thức trừng phạt những kẻ chịu trách nhiệm cho những tội ác trong Thế Chiến thứ hai. Pháp cũng được cho một ghế trong tòa án. Cơ sở pháp lý cho tòa án được xây dựng bởi Hiến chương Nürnberg, được chấp thuận bởi bốn Cường quốc vào ngày 8 tháng 8 năm 1945, và giới hạn phiên tòa chỉ được "trừng phạt những tội phạm chiến tranh chính của các nước châu Âu Phe Trục". Khoảng 200 bị cáo tội ác chiến tranh Đức bị xét xử ở Nürnberg, và 1.600 người khác bị xét xử theo quy trình truyền thống của các tòa án quân sự. Cơ sở pháp lý về quyền hạn của tòa án được định nghĩa trong Văn kiện Đầu hàng của Đức. Thẩm quyền chính trị của Đức được chuyển cho Hội đồng Kiểm soát Đồng Minh, với quyền lực tối cao ở Đức, có thể trừng phạt vi phạm luật quốc tế và luật chiến tranh. Vì tòa án chỉ có thẩm quyền trong giới hạn vi phạm luật chiến tranh, nó không có thẩm quyền tài phán với những tội danh xảy ra trước khi chiến tranh bắt đầu vào ngày 1 tháng 9 năm 1939. Địa điểm Leipzig và Luxembourg ban đầu được xem xét để làm địa điểm diễn ra phiên tòa. Liên Xô muốn tòa án diễn ra tai Berlin, thủ đô của 'những kẻ âm mưu phát xít', nhưng Nürnberg được chọn làm địa điểm diễn ra vì hai lý do, đặc biệt với lý do đầu tiên mang tính quyết định: Cung điện Công lý rất rộng và ít bị hư hại (một trong số ít tòa nhà vẫn còn nguyên vẹn qua những lần đánh bom nước Đức trên diện rộng của quân Đồng Minh), và đồng thời có một nhà tù lớn. Nürnberg được coi là nơi sinh ra của Đảng Quốc Xã. Đây là nơi diễn ra các cuộc biểu tình tuyên truyền hàng năm của Đảng và phiên quốc hội Reichstag đã thông qua Luật Nürnberg. Vì thế đây được coi là nơi thích hợp để đánh dấu sự sụp đổ của Đảng Quốc Xã. Để thỏa hiệp với Liên Xô, quân Đồng Minh đồng ý rằng tuy phiên tòa diễn ra ở Nürnberg, Berlin sẽ là địa điểm chính thức của cơ quan tài phán. Pháp cũng được chấp thuận làm thành viên thường trực của IMT và phiên xử đầu tiên (một số phiên tòa đã được lên kế hoạch) sẽ diễn ra tại Nürnberg. Hầu hết bị cáo đều đã bị giam giữ trước đó tại Trại Ashcan, một trung tâm xử lý và thẩm vấn tại Luxembourg, và được đưa đến Nürnberg để xét xử. Thành viên Mỗi nước trong bốn nước cử một thẩm phán và một người thẩm phán dự khuyết, cũng như các công tố viên. Thẩm phán Thiếu tướng Iona Nikitchenko (thẩm phán Liên Xô chính) Trung tá Alexander Volchkov (thẩm phán Liên Xô dự khuyết) Chánh tòa Đại tá Geoffrey Lawrence (thẩm phán Anh chính), Chánh án Norman Birkett (thẩm phán Anh dự khuyết) Francis Biddle (thẩm phán Mỹ chính) John J. Parker (thẩm phán Mỹ dự khuyết) Giáo sư Henri Donnedieu de Vabres (thẩm phán Pháp chính) Robert Falco (thẩm phán Pháp dự khuyết) Trưởng công tố viên Tổng chưởng lý Hartley Shawcross (Anh) Phó Chánh án Robert H. Jackson (Mỹ) Trung tướng Roman Andreyevich Rudenko (Liên Xô) François de Menthon, sau bị thay thế bởi Auguste Champetier de Ribes (Pháp) Trợ giúp Jackson là các luật sư Telford Taylor, William S. Kaplan và Thomas J. Dodd, cùng với Richard Sonnenfeldt, một phiên dịch viên của lục quân Hoa Kỳ. Trợ giúp Shawcross gồm có Thiếu tá David Maxwell-Fyfe, John Wheeler-Bennett và Mervyn Griffith-Jones. Shawcross cũng chiêu mộ một luật sư tranh tụng trẻ, Anthony Marreco, con trai của một người bạn của ông, để giúp đoàn nước Anh xử lý lượng công việc lớn. Luật sư bào chữa Hầu hết luật sư bào chữa là các luật sư người Đức, bao gồm Georg Fröschmann, Heinz Fritz (Hans Fritzsche), Otto Kranzbühler (Karl Dönitz), Otto Pannenbecker (Wilhelm Frick), Alfred Thoma (Alfred Rosenberg), Kurt Kauffmann (Ernst Kaltenbrunner), Hans Laternser (tổng tham mưu và chỉ huy cấp cao), Franz Exner (Alfred Jodl), Alfred Seidl (Hans Frank), Otto Stahmer (Hermann Göring), Walter Ballas (Gustav Krupp von Bohlen und Halbach), Hans Flächsner (Albert Speer), Günther von Rohrscheidt (Rudolf Hess), Egon Kubuschok (Franz von Papen), Robert Servatius (Fritz Sauckel), Fritz Sauter (Joachim von Ribbentrop), Walther Funk (Baldur von Schirach), Hanns Marx (Julius Streicher), Otto Nelte (Wilhelm Keitel), và Herbert Kraus/Rudolph Dix (cả hai làm việc cho Hjalmar Schacht). Các luật sư chính được hỗ trợ bởi tổng cộng 70 trợ lý, thư ký và luật sư. Các nhân chứng bào chữa bao gồm một vài người tham gia vào các tội ác chiến tranh trong Thế Chiến thứ hai, như Rudolf Höss. Tòa án Tòa án Quân sự Quốc tế được bắt đầu vào ngày 19 tháng 11 năm 1945 tại Cung điện Công lý ở Nürnberg. Phiên đầu tiên được chủ trì bởi thẩm phán Liên Xô Nikitchenko. Bản cáo trạng chống lại 24 tội phạm chiến tranh và 7 tổ chức – lãnh đạo của Đảng Quốc Xã, Nội các Đệ Tam Đế chế, Schutzstaffel (SS), Sicherheitsdienst (SD), Gestapo, Sturmabteilung (SA) và "Tổng tham mưu và Chỉ huy Cấp cao", bao gồm một vài cấp chỉ huy quân đội. Các tổ chức này được coi là "tội phạm" nếu bị kết tội. Bản cáo trạng gồm có bốn tội danh: Tham gia vào kế hoạch hay âm mưu tội ác chống lại hòa bình Lên kế hoạch, khởi xướng và tiến hành chiến tranh xâm lược và các tội danh khác chống lại hòa bình Tội ác chiến tranh Tội ác chống lại loài người Danh sách dưới đây liệt kê các bị cáo, tội danh và phán quyết. Đối với từng tội danh, 24 bị cáo hoặc là bị buộc tội nhưng không bị kết tội (I), bị buộc tội và kết tội (G), hoặc không bị buộc tội (—): Kiểm tra trí thông minh và sức khỏe tâm thần Các bị cáo phải làm bài trắc nghiệm Rorschach, cùng với Trắc nghiệm Năng lực Nhận thức Chủ đề Tổng Quát (TAT) và phiên bản tiếng Đức của Bài kiểm tra trí tuệ Wechsler-Bellevue (WAIS). Tất cả bị cáo đều thông minh trên mức trung bình, một số rất thông minh. Trong suốt các phiên tòa, cụ thể giữa tháng 1 và tháng 7 năm 1946, các bị cáo và một số nhân chứng được phỏng vấn bởi bác sĩ tâm thần Mỹ Leon Goldensohn. Ghi chú của ông cho thấy hành vi lời nói của các bị cáo còn sống; chúng được chỉnh sửa thành sách và xuất bản năm 2004. Jean Delay là chuyên gia tâm thần học cho phái đoàn Pháp trong phiên xét xử Rudolf Hess. Tổng quan phiên tòa Ngày 20 tháng 11 năm 1945: Tòa án bắt đầu. Ngày 21 tháng 11 năm 1945: Thẩm phán Robert H. Jackson mở đầu buổi truy tố với bài phát biểu kéo dài vài tiếng đồng hồ, gây ấn tượng đến cả quan tòa và công chúng. Ngày 26 tháng 11 năm 1945: Bản ghi nhớ Hossbach (của một cuộc họp nơi Hitler giải thích kế hoạch chiến tranh) được trình bày. Ngày 29 tháng 11 năm 1945: Bộ phim "Trại tập trung và nhà tù của Đức Quốc Xã" được chiếu. Ngày 30 tháng 11 năm 1945: Nhân chứng Erwin von Lahousen làm chứng rằng Keitel và von Ribbentrop ra sắc lệnh giết người Ba Lan, Do Thái, và tù binh [[Liên Xô]. Ngày 11 tháng 12 năm 1945: Bộ phim Kế hoạch Đức Quốc Xã được chiếu, cho thấy việc lên kế hoạch và sự chuẩn bị dài hạn cho chiến tranh của Đức Quốc Xã. Ngày 3 tháng 1 năm 1946: Nhân chứng Otto Ohlendorf, cựu lãnh đạo Einsatzgruppen, thú nhận đã giết khoảng 90.000 người Do Thái. Ngày 3 tháng 1 năm 1946: Nhân chứng Dieter Wisliceny mô tả tổ chứng Văn phòng An ninh Chính Reich Ban IV-B-4, chịu trách nhiệm cho Giải pháp cuối cùng. Ngày 7 tháng 1 năm 1946: Nhân chứng và cựu Obergruppenführer SS (Thượng tướng SS) Erich von dem Bach-Zelewski thú nhận đã tổ chức các cuộc thảm sát người Do Thái và người Liên Xô. Ngày 28 tháng 1 năm 1946: Nhân chứng Marie-Claude Vaillant-Couturier, thành viên của Kháng chiến Pháp và là một người sống sót qua trại tập trung, trở thành nạn nhân Holocaust đầu tiên làm chứng cho sự việc Holocaust. Ngày 11–12 tháng 2 năm 1946: Nhân chứng và cựu thống chế Friedrich Paulus, người được bí mật đưa đến Nürnberg, chứng thực về câu hỏi khởi xướng chiến tranh xâm lược. Ngày 14 tháng 2 năm 1946: Các công tố viên Liên Xô cố đổ lỗi cho người Đức về vụ thảm sát Katyn. Ngày 19 tháng 2 năm 1946: Bộ phim Sự tàn bạo của những tên Phát xít Đức xâm lược được chiếu, trình bày chi tiết về tội ác diễn ra ở các trại hành quyết. Ngày 27 tháng 2 năm 1946: Nhân chứng Abraham Sutzkever xác nhận vụ thảm sát gần 80.000 người Do Thái ở Vilnius bởi quân Đức chiếm đóng thành phố này. Ngày 8 tháng 3 năm 1946: Nhân chứng đầu tiên của bên bị làm chứng – cựu tướng Karl Bodenschatz. Ngày 13–22 tháng 3 năm 1946: Hermann Göring đưa ra lời khai. Ngày 15 tháng 4 năm 1946: Nhân chứng Rudolf Höss, cựu tư lệnh Auschwitz, xác nhận rằng Kaltenbrunner chưa từng ở đó, nhưng đồng thời thú nhận đã thực hiện thảm sát. Ngày 21 tháng 5 năm 1946: Nhân chứng Ernst von Weizsäcker giải thích về Hiệp ước Xô-Đức 1939, bao gồm một nghị định bí mật về sự phân chia Đông Âu giữa Đức và Liên Xô. Ngày 20 tháng 6 năm 1946: Albert Speer đưa ra lời khai. Ông là bị cáo duy nhất chịu trách nhiệm cho những hành động của mình. Ngày 29 tháng 6 năm 1946: Luật sư bào chữa cho Martin Bormann làm chứng. Ngày 1–2 tháng 7 năm 1946: Tòa án nghe sáu nhân chứng khai về vụ thảm sát Katyn; Liên Xô thất bại trong việc đổ tội cho Đức về vụ việc. Ngày 2 tháng 7 năm 1946: Đô đốc Chester W. Nimitz cung cấp lời khai trên giấy về việc tấn công tàu buôn không báo trước, xác nhận rằng không chỉ Đức mà Mỹ cũng thực hiện những vụ tấn công như thế. Ngày 4 tháng 7 năm 1946: Phán quyết cuối cùng cho bên bị. Ngày 26 tháng 7 năm 1946: Phán quyết cuối cùng cho bên tố. Ngày 30 tháng 7 năm 1946: Bắt đầu phiên tòa về "các tổ chức tội phạm". Ngày 31 tháng 8 năm 1946: Những lời cuối cùng của các bị cáo. Ngày 1 tháng 9 năm 1946: Tòa án tạm ngừng. Ngày 30 tháng 9–ngày 1 tháng 10 năm 1946: Bản án được đưa ra trong hai ngày, với từng bản án đọc rõ vào chiều ngày 1 tháng 10. Bên tố cáo thành công trong việc vén màn những diễn tiến dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai, cướp đi ít nhất 55 triệu mạng người ở châu Âu, cũng như quy mô của tội ác diễn ra dưới chính quyền Hitler. Mười hai bị cáo nhận án tử hình, bảy người phải ở tù (từ 10 năm đến tù chung thân), ba người được tha bổng và hai bị cáo không bị kết tội. Thi hành bản án Các án tử được thực hiện ngày 16 tháng 10 năm 1946 bằng treo cổ sử dụng phương thức thả tiêu chuẩn thay vì thả dài. Quân đội Mỹ bác bỏ thông tin cho rằng chiều dài thả rơi quá ngắn khiến các bị cáo chết từ từ do siết cổ thay vì chết ngay lập tức do gãy cổ, nhưng vẫn có bằng chứng cho thấy một số kẻ bị kết tội chết từ từ trong đau đớn, vùng vẫy trong khoảng 14 đến 28 phút trước khi cuối cùng ngạt thở mà chết. Người hành hình là John C. Woods. Buổi xử tử diễn ra tại phòng tập gym của tòa nhà (bị phá hủy năm 1983). Mặc dù tin đồn từ lâu rằng các thi thể được đem đến Dachau và hỏa táng, thực chất quân Đồng Minh đã thiêu chúng ở một lò hỏa táng tại Munich, và tro cốt được rải khắp sông Isar. Quan tòa người Pháp đề nghị rằng những tù nhân quân sự (Göring, Keitel và Jodl) bị xử bắn, theo tiêu chuẩn của các tòa án quân sự, nhưng Biddle và các thẩm phán Liên Xô phản đối, cho rằng các sĩ quan quân đội đã vi phạm đạo đức quân đội và không đáng để được chết bằng xử bắn, hình thức xử tử được coi là nhân đạo hơn. Những tên tội phạm nhận án tù được chuyển đến nhà tù Spandau năm 1947. Trong số 12 bị cáo nhận án tử, hai người không bị treo cổ: Martin Bormann bị kết án khi vắng mặt (quân Đồng Minh không biết ông đã chết trong lúc chạy trốn khỏi Berlin vào tháng 5 năm 1945), và Hermann Göring tự sát vào đêm trước buổi hành quyết. 10 bị cáo còn lại đều bị treo cổ chết. Nguyên tắc Nürnberg Định nghĩa của các tội danh được xếp vào tội ác chiến tranh được mô tả bởi bộ nguyên tắc Nürnberg, một tập hợp các văn bản hướng dẫn được tạo ra từ kết quả của tòa án. Các thí nghiệm y khoa thực hiển bởi các bác sĩ Đức bị truy tố trong phiên tòa Bác sĩ dẫn đến sự ra đời của Bộ luật Nürnberg để kiểm soát các thử nghiệm tương lai liên quan đến con người, một bộ nguyên tắc nhân đạo cho thí nghiệm với con người. Trong số các tổ chức bị tố cáo có những tổ chức sau không bị kết tội: Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh không phải là một nhóm hay tổ chức định nghĩa bởi điều 9 của Hiến chương Luân Đôn. 14 thành viên của Bộ Tư lệnh bị xét xử tại phiên tòa Tư lệnh dưới danh Tội phạm, phiên tòa thứ 12 của Các phiên tòa Nürnberg tiếp theo Sturmabteilung Các phiên tòa phụ và liên quan Quan chức Hoa Kỳ thực hiện các phiên tòa Nürnberg tiếp theo trong vùng chiếm đóng của Mỹ. Các phiên tòa khác diễn ra sau phiên tòa Nürnberg đầu tiên bao gồm: Phiên tòa Belsen Phiên tòa Auschwitz Phiên tòa Belzec, diễn ra trước Tòa án quận 1 Munich vào giữa những năm 1960, gồm tám thành viên SS của trại hành quyết Belzec Phiên tòa Chełmno về nhân viên trại hành quyết Chełmno, diễn ra ở Ba Lan và Đức. Các bản án được đưa ra cách nhau gần hai mươi năm. Phiên tòa Dachau Phiên tòa Frankfurt Auschwitz Phiên tòa Majdanek, phiên tòa về tội ác chiến tranh của Đức Quốc Xã dài nhất trong lịch sử, kéo dài hơn 30 năm Phiên tòa trại Mauthausen-Gusen Phiên tòa Hamburg Ravensbrück Phiên tòa Sobibór diễn ra tại Hagen, Đức, năm 1965, xét xử các thành viên SS của trại hành quyết Sobibor Phiên tòa Treblinka tại Düsseldorf, Đức Vai trò của Mỹ Tuy thẩm phán Anh Geoffrey Lawrence là người được chọn làm Chánh án, quan tòa nổi bật nhất có lẽ là vị thẩm phán người Mỹ, Francis Biddle. Trước đó, Biddle từng làm Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ nhưng được Truman yêu cầu từ chức đầu năm 1945. Một số người cho rằng Truman đã chọn Biddle làm thẩm phán Mỹ chính cho phiên tòa nhằm xin lỗi cho việc yêu cầu ông từ chức. Trớ trêu thay, Biddle trong lúc còn là Bộ trưởng được đã phản đối ý định xét xử các lãnh đạo Đức Quốc Xã về những tội ác gây ra trước chiến tranh và đã gửi đi một bản ghi nhớ về vấn đề này ngày 5 tháng 1 năm 1945. Bản ghi nhớ cũng nói rõ ý kiến của Biddle rằng thay vì kế hoạch ban đầu xét xử toàn bộ tổ chức, cần phải có nhiều phiên tòa hơn dành cho từng bị cáo cụ thể. Biddle sớm đổi ý, và chấp thuận kế hoạch đã chỉnh sửa vào ngày 21 tháng 1 năm 1945, có lẽ vì hạn chế trong thời gian do phiên tòa sẽ là một trong những vấn đề chính tại hội nghị Yalta. Tại phiên tòa, tòa án Nürnberg quy định rằng bất kì thành viên nào của tổ chức bị kết tội ác chiến tranh, ví dụ như SS hay Gestapo, và tham gia sau năm 1939 sẽ được coi là tội phạm chiến tranh. Biddle thuyết phục được các thẩm phán khác miễn trừ những ai được chọn hoặc không biết về những tội ác mà các tổ chức này gây ra. Công tố viên Robert H. Jackson không chỉ đóng một vai trò quan trọng trong phiên tòa, mà cũng trong việc hình thành Tòa án Quân sự Quốc tế. Ông dẫn đầu phái đoàn Mỹ đến Luân Đôn vào mùa hè năm 1945, ủng hộ kế hoạch xét xử lãnh đạo Đức Quốc Xã như là âm mưu tội phạm. Theo Airey Neave, Jackson cũng là người đằng sau quyết định bao gồm tất cả thành viên của bất kỳ tổ chức nào trong sáu tổ chức tội phạm có trong bản cáo trạng, tuy nhiên bị IMT bác bỏ vì điều này chưa từng có tiền lệ ngay cả trong luật quốc tế hay luật pháp của bất kỳ nước Đồng Minh nào. Jackson cũng cố gắng xét xử Alfried Krupp thay vì cha ông, Gustav, và thậm chí đề nghị Alfried tự nguyện được xét xử thay cho cha mình. Cả hai kiến nghị đều bị bác bỏ bởi IMT, cụ thể là Lawrence và Biddle, và một số nguồn tin cho rằng điều này khiến Jackson không được Biddle coi trọng. Thomas Dodd là công tố viên cho Hoa Kỳ. Một lượng lớn bằng chứng được sử dụng để chứng minh các cáo trạng, đặc biệt với những ghi chép đầy đủ các hành động của Đức Quốc Xã vẫn được lưu giữ. Các công tố viên có những hồ sơ được ký bởi Đảng viên Quốc Xã cho mọi thứ, từ văn phòng phẩm cho đến hơi Zyklon B, được dùng để giết tù nhân của các trại hành quyết. Thomas Dodd chiếu một loạt các bức hình cho tòa án sau khi đọc qua các văn bản về tội ác của những bị cáo trong chiến tranh. Các bức hình được thu thập ghi những tù nhân được giải phóng khỏi trại tập trung. , một mục sư Luther, và Sixtus O'Connor, một linh mục Công giáo, được đưa đến để trông coi các bị cáo. Hình ảnh của tòa án được chụp bởi một nhóm các nhiếp ảnh gia ảnh tĩnh của Lục quân Mỹ, dưới sự chỉ đạo của nhiếp ảnh gia chính Ray D'Addario. Di sản Tòa án được ca ngợi vì đã xác định rõ "tội ác vi phạm luật pháp quốc tế được thực hiện bởi con người, không phải bởi các thực thể trừu tượng, và chỉ khi trừng phạt những cá nhân thực hiện các tội ác đó thì luật pháp quốc tế mới được thực thi." Sự hình thành của Tòa án Quân sự Quốc tế mở đường cho các phiên tòa xét xử những quan chức Quốc Xã thấp hơn và các bác sĩ Quốc Xã, những người đã thực hiện thí nghiệm trên cơ thể tù nhân trại tập trung. Đồng thời đó cũng là hình mẫu cho Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông xét xử các quan chức Nhật Bản vì tội ác chống lại hòa bình và loài người. Nó cũng làm mẫu cho Phiên tòa Eichmann và các tòa án ngày nay ở Den Haag, cho việc xét xử những tội ác diễn ra trong cuộc chiến tranh Nam Tư, và tại Arusha, cho việc xét xử những người chịu trách nhiệm cho cuộc thảm sát ở Rwanda. Tòa án Nürnberg có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của luật hình sự quốc tế. Quyết định của Tòa án Nürnberg là hình mẫu cho: Công ước của Liên Hợp Quốc về Trừng phạt và Ngăn ngừa Tội ác Diệt chủng, 1948. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, 1948. Nguyên tắc Nürnberg, 1950. Công ước Genève về luật chiến tranh, 1949, và các nghị định bổ sung, 1977. Ủy ban Pháp luật Quốc tế, theo yêu cầu của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, xuất bản báo cáo Các nguyên tắc của Pháp luật Quốc tế được công nhận trong Hiến chương của Tòa án Nürnberg và trong Phán quyết của Toà án (Niên giám của Ủy ban Pháp luật Quốc tế, 1950, quyển II). Ảnh hưởng của tòa án còn có thể thấy trong các kiến nghị về một tòa án hình sự quốc tế thường trực, và dự thảo của các bộ luật hình sự quốc tế, sau được chuẩn bị bởi Ủy ban Pháp luật Quốc tế. Du khách hiện có thể tham quan phòng xét xử 600 những ngày không diễn ra phiên tòa. Một triển lãm thường xuyên đã được dành riêng cho các phiên tòa. Sự thành lập một Tòa án Hình sự Quốc tế thường trực Tòa án Nürnberg tạo điều kiện cho phong trào cho sự thành lập của một tòa án hình sự quốc tế thường trực, cuối cùng dẫn đến Đạo luật của Tòa án Quân sự Quốc tế được chấp thuận hơn năm mươi năm sau. Phong trào này bắt nguồn từ những mâu thuẫn trong phương thức xét xử giữa hệ thống tòa án Đức và hệ thống tòa án Mỹ. Những tội ác và âm mưu chiến tranh chưa từng có trong hệ thống luật châu Âu lục địa. Do đó, phía nước Đức cảm thấy không công bằng khi kết tội các bị cáo vì âm mưu phạm tội, trong khi các thẩm phán từ những nước dùng thông luật thì đã quen với việc đó. Chỉ trích Hình thức Hầu hết phiên tòa, nếu không nói là toàn bộ, đều dựa trên những văn bản, hiệp ước, tuyên bố, báo chí,... của chính quyền. Trừ những bị cáo, có rất ít lời khai của các nạn nhân. Sự thiếu sót này có lẽ đã khiến cho chính sách diệt chủng của Đức Quốc Xã, còn gọi là giải pháp cuối cùng, không được phát hiện sớm hơn. Đồng thời định nghĩa của tội ác chống lại loài người không bao gồm những tội ác trước 1939 và sau ngày 8 tháng 5 năm 1945. Joseph Kessel cho rằng: "Các hình vẽ, văn bản, giấy tờ chứng thực khá là dài dòng". Xu hướng báo chí Cuối phiên tòa, hai khuynh hướng xuất hiện rõ ràng trên báo chí quốc tế, trong khi đó báo chí Đức, dưới sự kiểm soát của phe Đồng Minh, không cho phép chỉ trích mạnh mẽ nào. Một mặt, báo chí Liên Xô, cũng như các nước cộng sản khác và cánh tả Pháp phản đối ba trường hợp tha bổng. Với một số nhà báo, đó là "sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản và quân sự Đức". Ngược lại, ở Mỹ và Anh, truyền thông thương tiếc cho sự hà khắc của phán quyết. Thượng nghị sĩ Robert Taft nói về "sự vi phạm công lý"; bình luận viên quân sự người Anh Fuller so sánh những viên chức Đức với người Do Thái. Taft cũng có so sánh tương tự, nói rằng "tìm sự khác nhau [giữ số phận của người Do Thái và những viên tướng]. Công lý của kẻ chiến thắng Những người chỉ trích tòa án Nürnberg cho rằng các tội danh chống lại bị cáo chỉ được xem là "tội ác" sau khi chúng đã được thực hiện nên phiên tòa không hợp lệ và khiến đây là một hình thức của "công lý của kẻ chiến thắng". Giáo sư Michael Biddiss cho rằng, "Tòa án Nürnberg tiếp tục ám ảnh chúng ta. ... Câu hỏi đặt ra về điểm mạnh và điểm yếu của chính quá trình tố tụng." Một số người cho rằng Phát xít và những đồng phạm cần được xét xử bởi những nước trung lập trong chiến tranh, thậm chí là bởi các tòa án Đức chống phát xít. Giáo sư Ludwig Erhard, thủ tướng Tây Đức từ 1963 đến 1966, chỉ trích rằng: Pháp luật hồi tố Tính hồi tố và đối phó của định nghĩa về tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người là một vấn đề lớn trong nền tảng của luật pháp, với nguyên tắc bất hồi tố của luật hình sự. Tuy nhiên, nguyên tắc này không được xem xét trong các hiệp định quốc tế, ít nhất là đến năm 1945. Một số điều nhất định của Hiến chương của Tòa án quân sự Quốc tế, cụ thể 19 và 21, giảm nhẹ một số yêu cầu kĩ thuật trong việc thu thập bằng chứng. Điều 19 viết "Tòa án không bị giới hạn bởi những quy định kĩ thuật của bằng chứng... và sẽ sử dụng bất kì chứng cứ nào có giá trị làm chứng". Những điều này gây tranh cãi và nghi ngờ về tính hợp lệ của một số lí lẽ được đưa ra trong tòa án. Quincy Wright, viết mười tám tháng sau phán quyết của IMT, giải thích về sự chống đối với Tòa án: Phó Chánh án Tòa án Tối cao William O. Douglas cáo buộc quân Đồng Minh đã phạm tội "thay thế nguyên tắc bằng quyền lực" tại Nürnberg. "Tôi nghĩ lúc đó và cả bây giờ rằng Tòa án Nürnberg không hề có nguyên tắc," ông viết. "Luật lệ được tạo ra có hiệu lực hồi tố để thỏa mãn mong muốn và dư luận lúc bấy giờ." Để củng cố nền tảng pháp lý của phiên tòa, những lập luận sau về tính bất hồi tố của luật hình sự đã được đưa ra: Tháng 1 năm 1942, chín chính phủ Châu Âu đang tị nạn ở Luân Đôn, kiên quyết chốn lại việc xét xử con tin bởi quân đội Đức, xuất bản Tuyên bố Saint-James cùng với chính phủ Anh, thông báo rằng sẽ bắt đầu một tiến trình pháp lý chống lại lãnh đạo của Đế chế thứ ba. Tháng 11 năm 1943, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Tam Cường, Anthony Eden của Anh, Cordell Hull của Mĩ, và Vyacheslav Molotov của Liên Xô tập trung ở Moskva, quyết định tham gia vào việc truy tố lãnh đạo của Đệ tam đế chế. Mặt khác, để biện minh cho tội danh chống lại hòa bình không có trong phát biểu của Saint-James và Moskva, các luật sư Anh đã sử dụng Hiệp ước Kellogg–Briand năm 1928, trong đó tất cả bên ký, bao gồm Mĩ, Đức, Anh và Pháp phải hạn chế sử dụng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn với nhau. Do đó, theo William Chanler, cố vấn pháp lý của quân đội Mĩ ở Đức, "người vi phạm hiệp ước này sẽ mất đi quyền gây chiến và chiến tranh mà họ gây ra sẽ được coi là sát hại và tấn công theo luật của nước bị xâm lược." Để thiết lập mối liên hệ giữa việc vi phạm hiệp ước Kellogg–Briand với một án phạt hình sự khả dĩ, các thẩm phán sử dụng một khái niệm từ Thông luật, đó là âm mưu: theo đó, bất kì hành nào của một nhóm hay tổ chức nhằm thực hiện một tội ác có tổ chức, nằm trong phạm vi của Thông luật, phải bị trừng phạt, bao gồm cả án tử hình. Tội ác của quân Đồng Minh Tháng 10 năm 1945, Jackson, trong một bức thư viết về những điểm yếu của tòa án, nói với Tổng thống Mỹ Harry S. Truman rằng quân Đồng Minh "đã hoặc đang thực hiện chính những thứ chúng ta truy tố quân Đức. Pháp đang vi phạm Hiệp ước Geneva trong việc đối xử tù binh đến nỗi ta phải ra lệnh lấy lại những tù nhân đã gửi cho họ. Chúng ta tố cáo trộm cướp mà quân Đồng Minh lại đang thực hiện nó. Chúng ta bảo chiến tranh xâm lược là một tội ác và một trong những đồng minh của ta lại xâm lăng và khẳng định chủ quyền tại các nước Baltic." Mặc cho những nỗ lực của thẩm phán và công tố viên Xô Viết, vai trò của Liên Xô trong cuộc xâm lược Ba Lan vẫn được đề cập tới trong phiên tòa. Nghị định thư bí mật trong Hiệp ước Xô-Đức ký ngày 23 tháng 8 năm 1939, đưa ra sự phân chia lãnh thổ Ba Lan giữa Đức và Liên Xô và được thực hiện vào tháng 9 năm 1939. Tuy nhiên, lãnh đạo Liên Xô không bị xét xử trên việc đồng âm mưu. Ngoài ra, Anh và Liên Xô đều không bị xét xử cho việc chuẩn bị và thực hiện chiến dịch Countenance (1941) hay chiến tranh mùa đông (1939-1940). Những cuộc tranh cãi về thảm sát Katyn hay vụ đắm tàu MV Wilhelm Gustloff cho thấy rõ ràng quân Đồng Minh cũng đã gây ra những tội ác chiến tranh. Mặc dù vậy, sử gia Ba Lan Bronisław Baczko cho rằng nếu những hành vi đó có thể được coi là tội ác, "chúng ta cần cảm ơn thẩm quyền của Nürnberg.". Đi xa hơn việc chất vấn Liên Xô, thẩm phán Serge Fuster cùng một số người khác đã chỉ trích quân Đồng Minh về sự khác biệt giữa các cuộc thảm sát dân thường Nga ở Ukraine và các vụ ném bom ở Dresden, Hiroshima và Nagasaki. Nhà sử học Pháp Poliakov viết: "kể từ nay, tồn tại hai loại luật pháp quốc tế, một cho Đức, một cho phần còn lại của thế giới". Freda Utley, trong cuốn sách The High Cost of Vengeance xuất bản năm 1949, cho rằng tòa án bằng tiêu chuẩn kép. Cô chỉ ra việc quân Đồng Minh sử dụng lao động dân sự ép buộc và cố tình bỏ đói dân thường ở những khu vực bị chiếm đóng. Cô cũng chỉ ra rằng Tướng Rudenko, trưởng công tố viên của Liên Xô, sau phiên tòa đã trở thành chỉ huy của trại tập trung Sachsenhausen. Sau sự sụp đổ của Đông Đức, thi thể của 12.500 nạn nhân được tìm thấy ở trại, chủ yếu là "trẻ em, thanh niên và người già".)
Kinh tế học Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết tổng quát) của John Maynard Keynes (1883-1946) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng. Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái. Bối cảnh hình thành Cuộc Đại Khủng hoảng (1929-1933) đã ảnh hưởng sâu sắc tới suy nghĩ của Keynes về kinh tế học. Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi. Nhưng Keynes lại quan sát cuộc Đại Khủng hoảng và thấy: tiền công không hề giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Từ đó, Keynes cho rằng thị trường không hoàn hảo như các nhà kinh tế học cổ điển nghĩ. Những suy nghĩ mới mẻ của ông được ghi chép lại trong cuốn Chuyên luận về Tiền tệ công bố năm 1931 và nhất là trong cuốn Lý thuyết tổng quát. Lý thuyết tổng quát Lý thuyết tổng quát của Keynes đã giới thiệu một loạt lý luận mới mẻ đối với giới học thuật kinh tế thời ấy, đó là Tổng cầu (Chương 3), Nguyên lý Cầu Hữu hiệu (Chương 3), Kỳ vọng (Chương 5), Số nhân (Chương 10), Bẫy thanh khoản. Chính vì thế, cuốn Lý thuyết Chung được giới học thuật kinh tế đánh giá như một cuộc cách mạng. Một số luận điểm chính mà Keynes trình bày trong cuốn Lý thuyết tổng quát gồm: Tiền công có tính cứng nhắc. Kỳ vọng về giảm tiền công và giá cả tạo ra vòng xoáy đi xuống của nền kinh tế hình thành. Lãi suất giảm không nhất thiết dẫn tới đầu tư tăng. Cái quy định lãi suất, nhất là trong ngắn hạn, chính là cung và cầu về tiền. Lãi suất không nên xuống thấp hơn một mức nào đó. Có thể đạt được mức cân bằng ngay cả khi có thất nghiệp. Thắt chặt chi tiêu trong thời kỳ khủng hoảng chỉ làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. Mô hình hóa lý luận của Keynes Năm 1937, nghĩa là chỉ một năm sau khi Lý thuyết Chung của Keynes được công bố, John Richard Hick (1904-1989) đã phát triển một mô hình, gọi là Phân tích IS-LM dùng để khám phá các giả thiết liên quan đến đầu tư và tiết kiệm, cung và cầu tiền. Với mô hình này, công việc xác định điểm cân bằng mà Keynes đã lý luận trở nên dễ dàng. Năm 1939, Hicks còn mô hình hóa ý tưởng về bẫy thanh khoản mà Keynes đã đưa ra. Trong những năm 1939-1948, Roy Forbes Harrod (1900-1978), một đồng nghiệp thân thiết của Keynes, đã phát triển một mô hình diễn giải về tăng trưởng kinh tế dựa trên lý luận của Keynes về quy định thu nhập. Cùng thời gian đó, Evsey David Domar (1914-1997) độc lập phát triển một mô hình tương tự. Vì thế, mô hình này sau đó được gọi là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này cho phép người ta hiểu dễ hơn luận điểm của Keynes rằng khó có thể đạt được một mức cân bằng toàn dụng nhân lực và phát triển luận điểm cân bằng do cầu quyết định của Keynes vào lý luận tăng trưởng dài hạn và dao động chu kỳ nội sinh. Trường phái Keynes sau Keynes Sau khi Keynes mất năm 1946, các lý luận của Keynes tiếp tục được một số nhà kinh tế Anh từ trường Cambridge trong nhóm Câu lạc bộ Keynes gồm Joan Robinson, Richard Kahn, Piero Sraffa, Austin Robinson và James Meade bảo vệ. Một loạt nhà kinh tế Anh ngoài trường Cambridge cũng đóng góp vào phát triển lý luận của Keynes gồm Roy F. Harrod, Michal Kalecki, Nicholas Kaldor, Abba P. Lerner, John R. Hicks, Maurice H. Dobb, Lorie Tarshis, Richard Stone, và George L.S. Shackle. Lý luận của Keynes còn được phát triển ở Mỹ, song đã bị cải biên khá nhiều và nhất là được tổng hợp với lý luận tân cổ điển (Xem trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp).
Lê Trung Hưng có thể là: Nhà Lê trung hưng Lê Trung Hưng, kiểm sát viên cao cấp người Việt Nam, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên
Nàng Kim Sam Soon dễ thương (tiếng Hàn: 내 이름은 김삼순, Nae I-reum-eun Kim Sam-soon, hay Tên tôi là Kim Sam-Soon) là bộ phim của hãng MBC (Hàn Quốc) sản xuất vào năm 2005. Bộ phim là một thành công rực rỡ ngay từ tập đầu tiên và đã thu hút đến hơn 50% khán giả Hàn Quốc ở tập cuối. Cốt truyện Câu chuyện kể về một cô gái bụ bẫm 30 tuổi tên là Sam Soon (Kim Sun Ah đóng). Cô đã học một năm làm bánh tại Pháp. Sau khi bị bồ đá cô xin được việc làm ở một nhà hàng của chàng giám đốc nhà giàu tên là Hyun Jin Heon (Huyn Bin đóng). Là một cô gái bộc trực thẳng thắn, cá tính của Sam Soon và Jin Heon đã không hợp nhau ngay ngày đầu tiên. Jin Heon có một mối tình đầu với một người tên là Yoo Hee Jin và đang buồn bực về chuyện tình cảm. Trong khi ấy mẹ Jin Heon luôn thúc hối anh lập gia đình. Vì muốn bà mẹ khỏi lúc nào cũng kèo nhèo, và vì tin chắc mình và Sam Soon không thể nào thương nhau được, Jin Heon đã đề nghị Sam Soon giả vờ làm bồ của mình theo hợp đồng. Một thái độ đùa với lửa mà mong không làm ai bị tổn thương thì cũng khó. Cả Jin Heon và Sam Soon đều cảm nhận được một bài học giúp tâm hồn họ trưởng thành hơn một bậc. Đối với Sam Soon thì bài học ấy được đúc kết trong những câu thơ cô đọc ở một trạm xe buýt: Đó là cách nói khác của ý sau đây: "Dù cuộc sống có làm bạn khổ đau tới mức nào, tình yêu có làm bạn òa khóc, nhưng bạn hãy sống thật mạnh mẽ". Sản xuất Nhiều nhà bình luận cho rằng sự thành công vượt bực của bộ phim là nhờ đề tài xoay quanh một cô gái mập mạp và quá thời. Một số rất đông phái nữ thường có mặc cảm mình mập và thua kém về mặt tài sắc, nên họ rất cảm thông với hoàn cảnh của Kim Sam Soon, một đấu thủ bước vào đấu trường tình cảm với trang bị vũ khí hoàn toàn thua thiệt. Trong các chuyện thần tiên trước, như chuyện Cô bé lọ lem, nhân vật nữ dù nghèo nhưng còn có vốn liếng nhan sắc để chinh phục chàng hoàng tử bạch mã. Còn Kim Sam Soon thì thật mất cả chì lẫn chài: vừa nghèo, vừa không đẹp, vừa dốt lại vừa không dịu dàng. Kim Sam Soon không còn là một nhân vật cổ tích nữa mà là một người sống rất thật ngoài đời. Người xem cảm thấy gần gũi với cô và thấy cô cũng giống mình. Họ tò mò không biết cô có làm nên cơm nên cháo gì không. Họ chỉ còn biết hy vọng và chúc cho cô may mắn. Người mẫu Kim Sun Ah khi đóng bộ phim này phải tăng cân lên hơn 7 kg. Hình tượng và cá tính Sam Soon khiến nhiều người cho rằng nhân vật này là phiên bản Hàn Quốc của nhân vật Bridget Jones của nước Anh. Tại Việt Nam, phim được trình chiếu trên Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội từ ngày 9 tháng 7 năm 2006. Diễn viên Kim Sun Ah (김선아 / 金宣兒 / Kim Tuyên Nhi) vai Kim Sam-soon (김삼순 / 金三珣 / Kim Tam Thuận) Hyun Bin (현빈 / 玄彬 / Huyền Bân) vai Hyun Jin-heon (현진헌 / 玄真賢 / Huyền Chân Hiền) Jung Ryu Won (정려원 / 鄭麗媛 / Trịnh Lệ Viện) vai Yoo Hee-jin (유희진 / 俞熙真 / Du Hi Chân) Daniel Henney (다니엘 헤니 / Đan Ni Nhĩ Hải Ni) vai Dr. Henry Kim (헨리 킴 / 亨利 金 / Hưởng Lợi Kim) Lee Kyu Han (이규한 / 李奎翰 / Lý Khuê Hàn) vai Min Hyun-Woo (민현우 / 閔賢佑 / Mẫn Hiền Hữu) Kim Ja-ok (김자옥) vai Park Bong-Sook (박봉숙, mẹ của Sam-soon) Lee Ah Hyun (이아현) vai Kim Yi-Young (김이영, chị của Sam-soon) Na Moon Hee (나문희) vai Na Hyun-Sook (나현숙, mẹ của Jin-heon) Seoh Ji Hee (서지희) vai Hyun Mi-Joo (현미주, cháu gái của Jin-heon) Yoon Ye Hee (윤예희) vai Yoon Hyun-Sook (윤현숙, thư ký của mẹ Jin-heon) Lee Yoon Mi (이윤미) vai Jang Chae-Ri (장채리, vị hôn thê của Min Huyn-Woo) Yeo Woon-kay (여운계) vai Ms. Oh (오 여사, Bà Ngô, quản lý nhà hàng) Kwon Hae Hyo (권해효) vai Lee Hyun Moo (현무, đầu bếp trưởng) Han Yeo Won (한여운) vai Lee In-Hye (이인혜, thợ làm bánh tập sự) Kim Hyun Jung (김현정) vai Jang Young-Ja (장영자, đội trưởng nhân viên phục vụ) Kim Seong-gyeom (김성겸) vai giám đốc khách sạn(호텔 사장) Kim Ki Bang (김기방) vai Ki Bang (đầu bếp phụ) Won Jong Rye (원종례) vai mẹ của Jang Chae-Ri Ban sản xuất Giám đốc sản xuất: Kim Sa Hyun Đạo diễn: Kim Yoon Chul (김윤철) Biên kịch: Kim Do Woo (김도우) Giải thưởng Giải thưởng Liên hoan hoan Baeksang thứ 42: Phim hay nhất, Tên tôi là Kim Sam-Soon Kịch bản hay nhất, Kim Do Woo Cặp đôi được ái mộ nhất, Hyun Bin và Kim Sun Ah Dàn diễn viên hay nhất, Tên tôi là Kim Sam-Soon Giải thưởng MBC 2005: Diễn viên mới triển vọng, Daniel Henney Cặp đôi được ái mộ nhất, Hyun Bin và Kim Sun Ah Cặp đôi diễn hay nhất, Hyun Bin và Kim Sun Ah Diễn viên xuất sắc, Jeong Ryeo Won Diễn viên nam xuất sắc nhất: Hyun Bin Diễn viên nữ xuất sắc nhất: Kim Sun Ah Giải thưởng cao quý toàn diện, Kim Sun Ah Giải thưởng Liên hoan Kịch nghệ Seoul 2006: Phim bộ hay nhất, Tên tôi là Kim Sam-Soon Phiên bản khác Phiên bản Philippin 2008 tựa Ako si Kim Samsoon với Regine Velasquez và Mark Anthony Fernandez. Phiên bản Thái Lan 2020 tựa My name is Bussaba / Tên tôi là Bussaba với Namthip Jongrachatawiboon và Thanapat Kawila đài One 31. Phim được phụ đề trên FPT Play, phát song song với Trung Quốc.
Không gian tôpô là những cấu trúc cho phép người ta hình thức hóa các khái niệm như là sự hội tụ, tính liên thông và tính liên tục. Những dạng thường gặp của không gian tôpô bao gồm không gian Euclid, không gian metric và đa tạp. Chúng xuất hiện hầu như trong tất cả mọi ngành của toán học hiện đại và là một khái niệm thống nhất có tính trọng tâm. Ngành toán nghiên cứu về các không gian tôpô gọi là toán học tô pô. Định nghĩa Một không gian topo là một tập X cùng với một họ T của các tập con của X thỏa mãn các tiên đề sau đây: . . Họ T được gọi là một topo trên X. Các tập hợp trong T được gọi là các tập mở, và phần bù của chúng trong X được gọi là các tập đóng. Các phần tử của X được gọi là các điểm. Hai tiên đề trên được hiểu là: Hợp của bất kì họ nào của các tập mở cũng là một tập mở. Giao của một họ hữu hạn các tập mở cũng là một tập mở. Tập hợp toàn thể không gian là một tập mở. Tập hợp rỗng là một tập mở. Ví dụ X = {1, 2, 3, 4} và họ T gồm các tập con của X tạo thành một không gian X = {1, 2, 3, 4} và tập hợp T = {{},{1, 2, 3, 4},{1},{1, 2},{3, 4},{1, 3, 4}} gồm các tập con của X tạo thành một không gian tôpô (X, T).Ta có thể viết tắt (X, T) là X. và họ gồm các tập con thỏa mãn tạo thành không gian tô pô tiêu chuẩn , i.e. đường thẳng thực. So sánh các cấu trúc topo Nhiều cấu trúc topo khác nhau có thể được đặt trên cùng một tập hợp để tạo nên các không gian topo khác nhau. Khi mọi tập trong một topo T1 cũng là một tập trong topo T2, ta nói rằng T2 là "mịn hơn" T1, và T1 là "thô hơn" T2. Một chứng minh chỉ dựa trên sự tồn tại của một số loại tập mở nào đó cũng đúng cho bất kì topo nào mịn hơn, và tương tự như vậy một chứng minh chỉ dựa trên một số tập nào đó không mở cũng đúng cho bất cứ topo nào thô hơn. Các từ "lớn hơn" và "nhỏ hơn" đôi lúc được sử dụng thay cho "mịn hơn" và "thô hơn". Các từ "mạnh hơn" và "yếu hơn" cũng được sử dụng trong sách vở, nhưng không được đồng ý bởi đại đa số về mặt ngữ nghĩa, do đó ta luôn luôn phải chắc chắn về cách sử dụng của tác giả khi đọc sách. Bộ sưu tập của tất các topo trên một tập cố định X tạo thành một dàn đầy đủ: nếu F = {Tα: α A} là một bộ sưu tập các topo trên X, thì inf của F là giao của F, và sup của F là inf của một bộ sưu tập của các topo trên X chứa mọi phần tử của F. Nói chung nếu T thì ta nói T thô hơn , và "mịn hơn" T. Ánh xạ liên tục Một ánh xạ giữa hai không gian topo được nói là liên tục nếu như nghịch ảnh của mọi tập mở là mở. Đây là một cố gắng để nắm bắt trực giác về việc không có "vết đứt" hay "sự phân cách" trong hàm đó. Một phép đồng phôi (homeomorphism) là một song ánh liên tục và ánh xạ ngược của nó cũng liên tục. Hai không gian gọi là "đồng phôi" nếu như có một phép đồng phôi giữa chúng. Dưới quan điểm topo, các không gian đồng phôi là như nhau. Phạm trù các không gian topo. Xem các không gian topo như là các vật và các ánh xạ liên tục như là các cấu xạ thì họ các không gian topo lập thành một phạm trù, ký hiệu là Top. Đây là một phạm trù cơ bản trong toán học. Cố gắng phân loại các vật của phạm trù này (xê xích một phép đồng phôi) bởi các bất biến đã tạo ra nhiều lãnh vực nghiên cứu mới, như là lý thuyết đồng luân (homotopy theory), lý thuyết đồng điều (homology theory) và lý thuyết K (K - theory), v.v. Các định nghĩa tương đương Có nhiều định nghĩa tương đương khác để định nghĩa một không gian tôpô. Ví dụ, sử dụng các định luật de Morgan, các tiên đề định nghĩa tập mở trở thành các tiên đề định nghĩa các tập đóng: Tập trống và X là đóng. Giao của bất kì họ của các tập đóng nào cũng đóng. Hợp của bất kì cặp hai tập đóng nào cũng đóng. Sử dụng các tiên đề này có thể định nghĩa không gian tôpô là một tập X cùng với một họ T các tập con của X thỏa mãn các tiên đề sau: Tập rỗng và tập X thuộc T. Giao của họ bất kỳ các tập thuộc họ T cũng thuộc họ T. Hợp của hai tập thuộc họ T cũng thuộc họ T. Theo định nghĩa này, các tập hợp trong tôpô T được gọi là các tập đóng, còn phần bù của chúng được gọi là các tập mở. Một cách khác để định nghĩa một không gian tôpô là sử dụng các tiên đề bao đóng Kuratowski, định nghĩa các tập đóng như là những điểm bất động của một toán tử trên tập mũ của X (tập của các tập con của X). Một lân cận của một điểm x là bất kì một tập nào chứa một tập mở có chứa x. Hệ các lân cận tại x chứa tất cả các lân cận của x. Một topo có thể được xác định bởi một tập các tiên đề liên quan đến tất cả các hệ lân cận. Một lưới là một sự tổng quát hóa khái niệm của dãy. Một topo được xác định hoàn toàn nếu như với mọi lưới trong X tập hợp các điểm giới hạn (accumulation point) của nó được xác định. Ví dụ về các không gian topo Một tập hợp cho trước có thể có nhiều tôpô trên đó. Nếu như một tập được cho một tôpô khác, nó sẽ được xem như là một không gian tôpô khác. Bất kì tập nào cũng có được cho tô pô rời rạc mà trong đó bất kì tập nào cũng mở. Những dãy (hay lưới) hội tụ trong không gian này là những dãy (hay lưới) cuối cùng hằng số. Cũng vậy, bất kì tập nào cũng được cho tôpô hiển nhiên (cũng còn được gọi là tôpô không rời rạc), mà trong đó chỉ có tập trống hay là toàn bộ không gian là mở. Mọi dãy và lưới và trong tôpô này hội tụ tới mỗi điểm trong không gian. Ví dụ này cho thấy trong không gian tô pô tổng quát, giới hạn của chuỗi không nhất thiết là duy nhất. Có nhiều cách định nghĩa một tô pô trên R, tập hợp của các số thực. Tô pô quy chuẩn trên R được tạo ra bởi các đoạn mở. Những đoạn mở này tạo thành một nền hay cơ sở cho topo đó, nghĩa là mọi tập mở là hợp của các tập mở cơ sở. Tổng quát hơn, không gian Euclid có thể được cho một topo. Trong tô pô thông thường trên Rn các tập mở cơ sở là các quả cầu mở. Tương tự như vậy, C và có một tôpô quy chuẩn mà trong đó các tập mở cơ sở là các quả cầu mở. Mọi không gian metric có thể được cho một tôpô metric, mà trong đó các tập mở cơ sở là những quả cầu mở định nghĩa bởi metric đó. Đây là tôpô quy chuẩn trên bất kì không gian vectơ định chuẩn nào. Nhiều tập hợp các toán tử trong giải tích hàm được trang bị với những tô pô định nghĩa bằng cách xác định khi nào thì một dãy của các hàm hội tụ đến hàm zero. Bất kì trường địa phương nào cũng có một topo bản chất của nó, và tôpô này có thể mở rộng ra không gian vectơ định nghĩa trên trường đó. Bất kì đa tạp nào cũng có to po tự nhiên bởi vì một cách địa phương chúng là Euclidean. Tương tự như vậy, mỗi đơn hình (simplex) và bất kì phức đơn hình (simplicial complex) thừa kế một tô pô tự nhiên từ . Tô pô Zariski được định nghĩa một cách đại số trên phổ của một vành hay là một đa tạp đại số (algebraic variety). Trên Rn hay Cn, tập hợp đóng của tôpô Zariski là tập hợp các nghiệm của hệ các phương trình đa thức. Một đồ thị tuyến tính có một to po tự nhiên tổng quát hóa nhiều khía cạnh hình học của đồ thị với các đỉnh và các cạnh. Không gian Sierpiński là không gian tô pô đơn giản không hiển nhiên, không rời rạc. Nó có nhiều mối liên quan quan trọng đến lý thuyết máy tính và ngữ pháp. Bất kì tập vô hạn nào cũng có thể được cho tô pô phần bù hữu hạn trong đó các tập mở là tập trống và những tập mà phần bù là hữu hạn. Đây là tô pô T1 nhỏ nhất trên bất kì tập vô hạn nào. Đường thẳng thực có thể được cho tôpô giới hạn dưới. Ở đây, các tập mở cơ sở là các đoạn nửa mở [a, b). Topo này trên R là thực sự mịn hơn topo Euclidean định nghĩa phía trên; một dãy hội tụ đến một điểm trong topo này nếu và chỉ nếu nó hội tụ từ bên trên trong tô pô Euclidean. Ví dụ này cho thấy một tập có thể có nhiều loại topo khác nhau định nghĩa trên đó. Nếu Γ là một số thứ tự, thì tập hợp [0, Γ] có thể được trang bị với topo thứ tự Phân biệt các không gian topo Các không gian tô pô có thể được phân biệt, xê xích một đồng phôi, bằng các tính chất tô pô của chúng. Tính chất tô pô là tính chất của không gian không thay đổi trong các phép biến đổi đồng phôi. Để chứng minh hai không gian không đồng phôi, có thể tìm một tính chất tô pô mà chúng khác nhau. Ví dụ như tính liên thông, tính compact, các tiên đề tách hay các bất biến đại số. Xem thêm các tính chất tô pô. Các không gian topo với cấu trúc đại số Đối với các đối tượng đại số thường có tôpô tự nhiên trên đó. Tôpô này tương thích với các phép toán theo nghĩa các phép toán này là các ánh xạ liên tục. Điều này dẫn tới các khái niệm như nhóm tôpô, không gian vectơ tôpô...
Phong trào chống đối Hitler gồm những hoạt động của một số người chống đối Adolf Hitler với mục đích chính ban đầu là lật đổ Hitler và đưa ông ra tòa để ngăn ông gây chiến tranh mà họ nghĩ là sẽ đem đến chiến bại cho nước Đức. Kế tiếp, khi Thế chiến II đã bùng phát, những người chống đối muốn ngăn chặn việc Đức bị thất trận nhục nhã, cần vớt vát ít nhiều bằng cách ám sát Hitler và đàm phán với Đồng Minh. Bước khởi đầu của Phong trào chống Hitler Giữa năm 1938, sau 5 năm rưỡi dưới chế độ Quốc xã, số ít người chống lại Adolf Hitler thấy rõ rằng chỉ Quân đội mới có đủ sức mạnh vật chất để lật đổ ông. Công nhân và các giai cấp trung lưu và thượng lưu đều không có phương tiện trong tay. Họ không có tổ chức bên ngoài các nhóm của đảng Quốc xã, và dĩ nhiên không được vũ trang. Dù rằng về sau người ta viết nhiều về phong trào "kháng chiến" Đức, từ đầu đến cuối đấy chỉ là một nhóm yếu ớt của một dúm người can đảm và tề chỉnh, chỉ có tướng mà không có quân. Lúc đầu, sự chống đối là từ dân thường. Các tướng lĩnh đã quá hài lòng với việc xóa bỏ những hạn chế của Hòa ước Versailles và với việc nhận nhiệm vụ tái vũ trang. Điều mỉa mai là những dân thường cầm đầu chống lại Hitler chính là những người đã từng phục vụ ông trong chức vụ quan trọng. Phần lớn số này đã từng hăng say với chủ nghĩa Quốc xã, và chỉ từ năm 1937 mới bắt đầu nhận ra rằng Hitler đang đẩy Đức vào cuộc chiến mà hầu như chắc chắn Đức sẽ thua. Một trong những người đầu tiên được sáng mắt là Carl Goerdeler, cựu thị trưởng Leipzig và Kế toán trưởng Vật giá. Có năng lực, nhiệt huyết và thông minh, nhưng hay hớ hênh. Tuy kiên trì, ông từ chức cả hai nơi vào năm 1936, rồi hành động chống đối Hitler với cả con tim và linh hồn. Hai người sáng mắt kế tiếp là Johannes Popitz, cựu Bộ trưởng Tài chính của Bang Phổ và TS. Hjalmar Schacht, cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đức. Cả hai đã được thưởng huân chương cao quý nhất của Quốc xã vì công lao đóng góp vào nền kinh tế cho mục đích chiến tranh. Có lẽ vì quá khứ và tư cách của họ mà hai người không được thành phần cốt lõi của nhóm chống đối tin cậy. Popitz là người thông minh nhưng thiếu ổn định tư tưởng. Là một học giả tài ba về Hy Lạp cũng như là nhà kinh tế thành danh, ông gia nhập một nhóm trí thức gặp gỡ mỗi tuần để bàn luận về tâm lý học, sử học, nghệ thuật, khoa học, văn học; rồi theo thời gian tiến triển – hoặc thời gian không còn nữa – thành lập nên một trong những nhóm chống đối. Schacht là con người của chủ nghĩa cơ hội, và Hassell nhận xét trong nhật ký của ông là Schacht "nói một đàng nhưng làm một nẻo" – ý kiến mà ông nghĩ Đại tướng Tham mưu trưởng Lục quân Ludwig Beck và Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch cũng đồng ý. Ulrich von Hassell trở thành một cố vấn ngoại giao cho các nhà lãnh đạo chống đối. Là người có văn hóa, ông khinh rẻ cung cách thô lỗ của Quốc xã, nhưng vẫn phục vụ chế độ cho đến khi bị khai trừ trong cuộc cải tổ sâu rộng của Hitler ngày 4 tháng 2 năm 1938. Cũng giống như nhiều người khác, có vẻ như phải đợi đến khi có cú sốc do bị Quốc xã cách chức ông mới nghĩ đến việc làm gì đấy để lật đổ họ. Một khi chuyện này xảy ra, con người nhạy cảm, thông minh, bứt rứt toàn tâm vào nhiệm vụ mới và cuối cùng hy sinh đời ông, chịu một cái chết dã man. Có những người khác, ít được biết đến hơn và đa số trẻ hơn, chống đối Hitler ngay từ đầu và dần dà kết hợp với nhau để tạo thành những nhóm khác nhau. Có nhà trí thức, có nhà lãnh đạo nghiệp đoàn. Có hai sĩ quan Gestapo: Artur Nebe, chỉ huy cảnh sát hình sự, và Bernd Gisevius, một sĩ quan cảnh sát chuyên nghiệp trẻ, trở nên những phụ tá đắc lực cho nhóm âm mưu. Gisevius đóng góp nhiều thông tin cho các công tố viên của Mỹ tại Tòa án Nürnberg. Ông viết một quyển sách đưa ra ánh sáng nhiều chi tiết trong các âm mưu chống Hitler, tuy phần đông các nhà sử học và tác giả này nửa tin nửa ngờ. Có một số người trẻ tuổi thuộc dòng dõi của những gia đình tiếng tăm ở Đức: Bá tước Helmuth von Moltke, dòng dõi một Thống chế lừng danh, sau này lập nên Nhóm Kreisau; Bá tước Albrecht von Bernstorff, cháu của đại sứ Đức tại Hoa Kỳ trong Thế chiến I; Freiherr Karl Ludwig von Gutenberf, chủ bút không hề biết sợ của một nguyệt san Công giáo; Mục sư Dietrich Bonhoeffer thuộc gia tộc giáo sĩ Tin lành có tiếng tăm ở hai bên nội ngoại, người xem Hitler là kẻ phản Chúa và tin rằng nhiệm vụ của người theo Cơ đốc là phải trừ khử ông. Phần lớn những người trẻ dũng cảm này đều kiên trì cho đến khi bị Quốc xã bắt giam, tra tấn rồi xử tử hoặc chỉ việc giết bỏ. Trong một thời gian, nhóm dân thường nhỏ nhoi như thế không thể dẫn dụ Quân đội vào công việc của họ. Như Thống chế von Blomberg khai trước Tòa án Nürnberg: Trước 1938-39, các tướng lĩnh Đức không chống lại Hitler. Không có lý do gì chống lại ông, vì ông tạo ra thành quả mà họ mong ước. Âm mưu đảo chính năm 1938 Nhóm trí thức tiếp xúc với Đại tá Hans Oster, phụ tá chính cho Đô đốc Wilhelm Franz Canaris Giám đốc Cục Quân báo, và thấy vị sĩ quan này không những có tinh thần chống Hitler mãnh liệt mà còn sẵn sàng làm cầu nối giữa hai giới quân đội và dân sự. Tuy nhiên, mãi đến mùa đông 1937 – sau khi Hitler quyết định gây chiến tranh, thanh trừng các tướng lĩnh và đích thân nắm quyền tổng tư lệnh, đối xử tệ hại với tướng Fritsch – thì vài tướng lĩnh mới nhận ra hiểm họa của nhà độc tài Quốc xã đối với nước Đức. Việc Đại tướng Beck từ chức vào cuối tháng 8/1938 khiến có thêm một số người thức tỉnh. Beck hiển nhiên là người có thể tụ hội cả những tướng lĩnh ương ngạnh lẫn giới dân sự bất mãn. Cả hai nhóm đều kính trọng và tin tưởng ông. Cả hai nhóm cũng phải xét thêm một điểm nữa. Để lật đổ Hitler, cần phải dùng vũ lực, và chỉ Quân đội mới có vũ lực. Nhưng ai trong Quân đội có thể gom vũ lực lại cho họ? Họ nhận ra là cần có tướng lĩnh thật sự chỉ huy binh sĩ trong và chung quanh thủ đô, và có thể hành động ngay khi được cấp báo. Tướng tân Tham mưu trưởng Lục quân Franz Halder không có quân dưới tay; còn Tướng tân Tư lệnh Lục quân Walther von Brauchitsch không được tin cậy. Vài tướng lĩnh chủ chốt sẵn sàng cộng tác. Ba người có vị thế quan trọng để mang lại thành công: Tướng Erwin von Witzbelen, tư lệnh quân khu Berlin và vùng phụ cận; Tướng Bá tước Erich von Brockdorff-Ahlefeld, chỉ huy doanh trại Potsdam gồm Sư đoàn 23; và Tướng Erich Hoepner, tư lệnh một sư đoàn thiết giáp ở Thüringen. Kế hoạch của nhóm phản loạn là bắt giữ Hitler ngay khi ông ra lệnh cuối cùng tấn công Tiệp Khắc và giải ông ra trước Tòa án Nhân dân với cáo buộc ông đã đẩy nước Đức vào hiểm họa chiến tranh Châu Âu và vì thế không có năng lực lãnh đạo. Thời gian đầu sẽ là chế độ độc tài quân sự, kế tiếp là chính phủ lâm thời do một nhân vật được trọng vọng đứng đầu. Sau đấy sẽ thành lập chính phủ dân chủ bảo thủ. Để đảm bảo thành công, có hai yếu tố cần xem xét liên hệ đến hai nhân vật chủ chốt: Tướng Halder và Tướng Beck. Yếu tố đầu là thời gian. Halder đã dàn xếp với Bộ Tổng tham mưu là ông cần được thông báo trước 48 giờ về lệnh cuối cùng của Hitler tấn công Tiệp Khắc. Việc này sẽ giúp ông có đủ thời giờ thực hiện cuộc đảo chính trước khi quân đội có thể vượt biên giới Tiệp Khắc. Vì thế, ông sẽ có thể bắt giữ Hitler và ngăn chặn bước cuối cùng dẫn đến chiến tranh. Yếu tố thứ hai là Beck phải có khả năng thuyết phục các tướng lĩnh trước và dân Đức sau, rằng tấn công Tiệp Khắc sẽ gây ra chiến tranh châu Âu mà Đức chắc chắn sẽ bại trận. Đây là chủ đề của các bản ghi nhớ của ông suốt mùa hè và là cơ sở cho tất cả những gì ông chuẩn bị làm bây giờ: tránh cho Quốc xã sa vào cuộc xung đột ở châu Âu – bằng cách lật đổ Hitler. Thương thay cho Beck, và cho phần lớn thế giới, chính là Hitler chứ không phải cựu Tham mưu trưởng Lục quân có cái nhìn khôn ngoan hơn về những khả năng của cuộc chiến lớn. Một người có văn hóa và có ý thức về lịch sử như Beck không thể nghĩ ra rằng Anh và Pháp lại cố tình hy sinh quyền lợi của họ bằng cách không can thiệp nếu Đức tấn công Tiệp Khắc. Ông có ý thức về lịch sử nhưng không biết gì về những chính sách đương đại. Hitler thì biết rõ. Trong một thời gian Hitler đã biết rằng Anh thà hy sinh Tiệp Khắc còn hơn là tham gia chiến tranh và như thế, Pháp cũng không muốn giúp Tiệp Khắc. Khi nói chuyện với Jodl ngày 8 tháng 9 năm 1937, Tướng Karl-Heinrich von Stülpnagel, thuộc Tổng cục Hậu cần của Bộ Tổng tham mưu và cũng tham gia vào nhóm âm mưu đảo chính của Halder, yêu cầu báo cho Bộ Tổng tham mưu trước 5 ngày về lệnh của Hitler tấn công qua Tiệp Khắc. Đại tướng Cấp cao Alfred Jodl, Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ Tổng tham mưu Quân lực, trả lời rằng vì lý do thời tiết thất thường, chỉ có thể đảm bảo báo trước 2 ngày. Như thế là đủ cho nhóm âm mưu. Nhưng họ cần sự đảm bảo theo phương diện khác: liệu giả định của họ – là Anh và Pháp sẽ gây chiến với Đức nếu Đức tấn công Tiệp Khắc – có đúng hay không. Họ phái nhân viên thân tín đi London để tìm hiểu, và nếu cần, cố gắng gây ảnh hưởng lên phía Vương quốc Anh bằng cách thông báo tướng lĩnh Đức chống đối cuộc tấn công và sẽ có hành động quyết liệt nếu Anh cứng rắn với Hitler cho đến cùng. Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain ủng hộ giải pháp Tiệp Khắc nhượng vùng Sudentenland cho Đức, nhưng cần đạt sự thỏa thuận của Pháp trước khi thúc đẩy thêm. Ông đi hội kiến với Hitler hai lần: tại Berchtesgaden ngày 15 tháng 9 năm 1938 và tại Godesberg ngày 22-23 tháng 9 năm 1938. Do những phản ứng bất lợi của Nam Tư, Rumani, Pháp, Hoa Kỳ, Thụy Điển... cùng sự thờ ơ của Ý, ngày 27 tháng 9 năm 1938, Hitler gửi cho Chamberlain một lá thư có ngôn từ được tính toán một cách tuyệt diệu để lay chuyển Chamberlain: Đức sẵn sàng đàm phán những chi tiết với Tiệp Khắc, sẵn sàng "nghiêm túc đảm bảo cho phần còn lại của Tiệp Khắc." Đối với vài tướng lĩnh và trên hết đối với Tướng Tham mưu trưởng Lục quân Halder, đã đến lúc thực hiện âm mưu nhằm lật đổ Hitler và tránh cho Tổ quốc lâm vào một cuộc chiến mà họ nghĩ Đức sẽ bại trận. Suốt tháng 9, theo lời kể sau này của người sống sót, các nhân vật trong nhóm âm mưu luôn bận rộn. Erich Kordt, thư ký trưởng của Ribbentrop tại Bộ Ngoại giao, cũng là nhân vật tham dự quan trọng và sống sót sau chiến tranh. Tại Tòa án Nürnberg, ông soạn một bản ghi nhớ dài về những sự kiện trong tháng 9 năm 1938. Halder, Gisevius và Schacht đều kể lại về âm mưu này, nhưng mỗi người đều cung cấp chi tiết khó hiểu, và ở vài điểm còn mâu thuẫn với nhau. Cần nhớ rằng ban đầu cả ba đều phục vụ chế độ Quốc xã, vì thế sau chiến tranh cố chứng tỏ họ chống đối Hitler và yêu chuộng hòa bình. Tướng Halder luôn liên lạc với Đại tá Oster và sếp của ông này tại Cục Quân báo, Đô đốc Canaris, người cung cấp thông tin về động thái chính trị của Hitler và của tình báo nước ngoài. Riêng Tướng von Witzbelen vẫn còn lưỡng lự vì ông nghĩ Anh và Pháp đã bí mật cho Hitler rảnh tay ở miền đông và vì thế sẽ không tham chiến vì Tiệp Khắc. Vài tướng lĩnh tin theo ức đoán này. Vào lúc ấy, họ chỉ muốn lật đổ Hitler nhằm tránh chiến tranh xảy ra. Nếu Anh và Pháp không can dự, chiến tranh sẽ không xảy ra, thì họ thấy không cần gì phải đảo chính. Nhóm âm mưu càng thêm chán nản vì Erich Kordt nắm bắt được nội dung lá thư của Chamberlain giải thích cho Hitler là muốn gặp ông này để "tìm giải pháp hòa bình." Kordt nói: Ảnh hưởng gần như là một thảm họa đối với kế hoạch của chúng tôi. Sẽ là điều vô lý nếu phát động cuộc đảo chính để lật đổ Hitler vào lúc mà Thủ tướng Anh đang đến Đức đế thảo luận với Hitler về ‘hòa bình của thế giới’. Tuy nhiên, vào buổi tối 15 tháng 9, TS. Paul Schmidt, làm thông dịch viên độc nhất và nhân chứng độc nhất trong cuộc họp Hitler-Chamberlain và cũng nằm trong nhóm âm mưu, đưa tin là Hitler vẫn muốn đánh chiếm toàn nước Tiệp Khắc. Nguồn tin này làm cho tinh thần của nhóm âm mưu phấn chấn trở lại. Họ quyết định tiến hành theo kế hoạch. Kordt cho biết trong ngày 27 tháng 9, nhóm âm mưu định ngày hành động là 29/9. Gisevius khai trước Tòa án Nürnberg rằng các tướng Halder và Witzleben quyết định hành động lập tức ngày 28/9 sau khi họ nhận được bản sao "bức thư thách thức" của Hitler với "yêu sách xấc xược" gửi Chamberlain đêm hôm trước. Các tướng lĩnh tin rằng đấy là chứng cứ cho thấy Hitler định tiến hành chiến tranh. Nhưng hoặc nội dung của lá thư bị thay đổi khi sao chép, hoặc các tướng lĩnh ngộ nhận, bởi vì lá thư ấy có ngôn từ ôn hòa, đầy lời hứa hẹn "đàm phán những chi tiết với Tiệp Khắc" và "nghiêm túc đảm bảo cho phần còn lại của Tiệp Khắc." Vào giờ phút cuối cùng này, tâm tư Tướng von Brauchitsch có thể nghi ngại. Theo Gisevius, Witzleben gọi điện cho Brauchitsch từ văn phòng của Halder, cho biết mọi việc đã sẵn sàng và xin ông đứng ra chỉ huy cuộc đảo chính. Nhưng vị Tư lệnh Lục quân vẫn lửng lơ. Ông cho Halder và Witzleben biết ông sẽ đến Phủ Thủ tướng để tự mình xem các tướng lĩnh có đánh giá tình hình đúng hay không. Gisevius kể rằng Witzleben vội trở về tổng hành dinh của mình. Ông phấn khích nói: "Gisevius, giờ khắc đã đến!" Ít phút trước thời hạn của tối hậu thư do Hitler đưa ra, 2 giờ chiều 28/9/1938, Đức gửi thư mời lãnh đạo các chính phủ Anh, Pháp và Ý đến gặp Hitler ở München vào lúc trưa ngày hôm sau để dàn xếp vấn đề Tiệp Khắc. Tất cả những người âm mưu đều đổ lỗi cho Neville Chamberlain! Bằng cách đi đến München, ông này đã buộc bọn họ vào phút cuối phải bãi bỏ kế hoạch lật đổ Hitler và chế độ Quốc xã! Lúc Tòa án Nürnberg gần kết thúc, Tướng Halder được phỏng vấn trong riêng tư, và nói: Đã có kế hoạch đánh chiếm Phủ Thủ tướng và các tòa nhà văn phòng của chính phủ, đặc biệt của các bộ do đảng viên điều hành, với ý định tránh đổ máu... Đúng ngày [28/9], Witzleben đến gặp tôi... Chúng tôi thảo luận các chi tiết... Trong khi thảo luận, có tin đưa đến là Thủ tướng Anh và Thủ tướng Pháp đã đồng ý đến gặp Hitler để bàn thảo thêm. Việc này xảy ra khi có mặt Witzleben. Vì thế, tôi rút lại lệnh khởi sự bởi vì, dựa trên sự kiện ấy, không còn có cơ sở để hành động... Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng chúng tôi sẽ thành công. Nhưng bây giờ Ông Chamberlain đi đến, và ngay lập tức tránh khỏi nguy cơ chiến tranh... Người ta chỉ có thể chờ đến một dịp khác... Câu hỏi: "Liệu tôi hiểu đúng ông nói rằng nếu Chamberlain không đến München, kế hoạch của các ông hẳn đã được thi hành, và Hitler hẳn đã bị lật đổ?" Tướng Halder trả lời: Tôi chỉ có thể nói kế hoạch hẳn đã được thi hành. Tôi không biết liệu hẳn đã thành công hay không. TS. Schact, người ở Tòa án Nürnberg và trong quyển sách viết sau chiến tranh rõ ràng phóng đại vai trò của ông trong các âm mưu khác nhau chống Hitler, cũng đổ lỗi cho Chamberlain: Rõ ràng là... âm mưu đầu tiên của Witzleben và tôi là âm mưu duy nhất có thể mang đến bước ngoặt trong định mệnh của nước Đức. Đấy là âm mưu duy nhất được trù định và chuẩn bị ở thời điểm thích hợp... Vào mùa thu 1938, vẫn còn có thể mang Hitler ra xử trước Tòa án Tối cao, nhưng mọi nỗ lực sau này đều cần tính đến việc kết liễu tính mạng ông ấy... Lịch sử đã chống lại tôi. Sự can dự của một chính khách nước ngoài là điều tôi không thể xét đến. Và Gisevius thêm: Điều không thể đã xảy ra. Chamberlain và Daladier đang bay đến München. Cuộc nổi dậy của chúng tôi bị phá hoại. Trong vài giờ, tôi còn tưởng tượng rằng dù sao đi nữa chúng tôi vẫn có thể phát động cuộc nổi dậy. Nhưng Witzleben giải thích cho tôi biết rằng binh sĩ sẽ chẳng bao giờ nổi dậy chống lại vị Lãnh tụ chiến thắng... Chamberlain đã cứu Hitler. Đúng thế không? Hoặc đấy chỉ là cách để bào chữa khi đã thất bại? Khi khai trước Tòa án Nürnberg, Halder giải thích rằng có ba điều kiện để một "hành động cách mạng" thành công: Điều kiện thứ nhất là sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán. Điều kiện thứ hai là quần chúng phải sẵn sàng chấp nhận ý tưởng cách mạng. Điều kiện thứ ba là chọn thời điểm cho đúng. Theo quan điểm của chúng tôi, điều kiện thứ nhất về sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán đã đạt được. Chúng tôi nghĩ điều kiện thứ hai cũng hoàn tất, bởi vì... dân tộc Đức không muốn chiến tranh. Điều kiện thứ ba – chọn thời điểm cho đúng – cũng tốt bởi vì chúng tôi đã trông đợi trong vòng 48 giờ lệnh thực hiện hành động quân sự. Vì thế, chúng tôi tin chắc rằng chúng tôi sẽ thành công. Nhưng bây giờ, ông Chamberlain đi đến, và chỉ trong phút chốc hiểm họa chiến tranh đã được ngăn chặn. Người ta có thể nghi ngờ về việc đạt điều kiện thứ nhất. Lý do là, nếu có "sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán" thì tại sao các tướng lĩnh lưỡng lự trong bốn ngày? Họ có đủ sức mạnh quân sự để quét sạch Hitler và chế độ của ông: Witzleben có nguyên một quân đoàn – Quân đoàn III – trong và chung quanh Berlin, Brockdorff-Ahlefeldt có một sư đoàn bộ binh thiện chiến gần Potsdam, Hoefner có một sư đoàn thiết giáp ở miền nam, và hai sĩ quan cảnh sát cấp cao ở thủ đô, Bá tước von Helldorf và Bá tước von der Schulenburg, có một lực lượng cảnh sát mạnh. Theo các nhân vật trong nhóm kể lại, tất cả các sĩ quan này chỉ chờ mệnh lệnh của Halder để đứng lên hành động với lực lượng áp đảo. Và dân chúng ở Berlin, đang sợ chết khiếp khi thấy Hitler sắp gây chiến tranh, có thể tự phát ủng hộ cuộc đảo chính. Liệu Halder và Witzleben hẳn đã rốt cuộc hành động nếu Chamberlain không đến München hay không là câu hỏi sẽ không bao giờ được trả lời một cách chung thẩm. Xét qua thái độ lạ kỳ của các tướng lĩnh này khi họ muốn lật đổ Hitler chỉ nhằm tránh chiến tranh chứ không phải chấm dứt sự chuyên chế và tàn bạo, thì có lẽ họ đã hành động nếu không có hội nghị München. Người ta không có thông tin để biết âm mưu đã được tổ chức hoàn thiện như thế nào, các lực lượng đã sẵn sàng đến đâu để tiến công, và Halder và Witzleben đã tiến gần ra sao đến việc ra lệnh hành động. Chúng ta chỉ có lời khai của một số nhỏ người mà sau chiến tranh muốn chứng tỏ họ chống lại Quốc xã, và những gì họ nói và viết ra để tự bào chữa thường là mâu thuẫn và khó hiểu. Nếu đúng như những nhân vật âm mưu nói, kế hoạch của họ đang đến điểm phải thi hành, lời loan báo về chuyến đi của Chamberlain chắc chắn sẽ làm cho họ hụt hẫng. Các tướng lĩnh khó mà bắt giữ và đưa Hitler ra tòa như là tội nhân chiến tranh khi điều rõ ràng là ông sắp đạt một thành tựu quan trọng mà không cần chiến tranh. Hoạt động của nhóm âm mưu năm 1939 Trong nhiều tuần mùa hè năm 1939, nhóm âm mưu hành động tất bật, tuy chính xác với mục đích gì thì khó mà hiểu được. Họ đã đi Anh để cảnh báo Chamberlain, Halifax và ngay cả Churchill rằng Hitler trù định tấn công Ba Lan vào cuối tháng 8. Chính họ đã thấy rằng người Anh kể cả Chamberlain đã thay đổi chính kiến, và điều kiện mà họ đặt ra để lật đổ Hitler – là Anh và Pháp tuyên bố chống lại hành động quân sự mới của Quốc xã – đã được thực hiện. Thế thì, họ muốn gì thêm nữa? Qua tài liệu họ để lại, người ta vẫn không biết rõ và người ta có cảm tưởng là chính họ cũng không biết họ muốn gì. Dù là có thiện chí, họ hoang mang trầm trọng và tê liệt vì kém hiệu quả. Hitler đã hoàn toàn khống chế cả nước Đức – quân đội, Cộng sản, chính quyền và dân chúng – đến nỗi họ không thể nghĩ ra cách nào tháo gỡ hoặc làm lũng đoạn sự khống chế như thế. Về phần tướng Halder, đang bận rộn chuẩn bị kế hoạch tấn công Ba Lan nên không còn nghĩ gì đến việc lật đổ Hitler. Trước Tòa án Nürnberg, ông được hỏi tại sao ông và nhóm chống chế độ Quốc xã không làm gì vào cuối tháng 8 và qua đấy cứu nước Đức khỏi thảm họa chiến tranh. Ông đáp: "Không có khả năng." Tại sao? Bởi vì Tướng von Witzleben đã được thuyên chuyển về miền tây. Nếu không có Witzleben, quân đội không thể hành động. Còn về dân Đức thì sao? Khi nghe Halder nói dân Đức chống chiến tranh, Đại úy Sam Harris của quân đội Mỹ, người thẩm vấn ông, hỏi: "Nếu Hitler đã nhất quyết muốn gây chiến tranh, tại sao ông không dựa trên sự ủng hộ của quần chúng?" Halder: "Ông phải thứ lỗi nếu tôi cười. Nếu tôi nghe chữ "nhất quyết" liên quan đến Hitler, tôi phải nói rằng không có gì là nhất quyết cả." Rồi ông giải thích thêm rằng mãi cho đến ngày 22/8, sau khi Hitler tiết lộ cho các tướng lĩnh nghe kế hoạch "nhất quyết" tấn công Ba Lan, bản thân ông vẫn không tin Lãnh tụ sẽ làm như lời nói. Xét qua những gì Halder ghi vào nhật ký trong những ngày này, câu nói trên quả là lạ lùng. Nhưng đấy là điều thông thường không những của Halder mà còn là của hầu hết nhóm âm mưu. Khi Adolf Hitler chuẩn bị ném nước Đức vào chiến tranh, không một ai trong nhóm âm mưu làm gì để ngăn chặn ông. Hiển nhiên việc này là khó khăn và có lẽ đến thời khắc muộn màng này là không thể được. Nhưng họ đã không cố gắng. Thế là, chấm dứt những cố gắng của nhóm âm mưu nhằm ngăn chặn Hitler khởi động Thế chiến II, ngoại trừ nỗ lực vào phút chót của TS. Schacht, mà ông dựa vào đấy để biện hộ cho mình trước Tòa án Nürnberg. Vào tháng 8/1939 ông gửi thư cho Hitler, Göring và Ribbentrop – ở thời điểm gây cấn các nhà lãnh đạo phe chống đối chỉ biết viết thư và bản ghi nhớ – nhưng, ông "rất ngạc nhiên", như ông kể sau này, không nhận được trả lời. Kế đến, ông quyết định đi gặp Brauchitsch. Trước Tòa án Nürnberg, Schacht giải thích ông định nói với Tư lệnh Lục quân rằng khởi động chiến tranh mà không thông qua Nghị viện là vi hiến! Vì thế nhiệm vụ của Tư lệnh Lục quân là tôn trọng lời tuyên thệ của ông ấy đối với hiến pháp! Cuối cùng TS. Schacht đã không gặp Brauchitsch! Canaris cảnh cáo nếu ông này đi gặp, vị Tư lệnh Lục quân "có lẽ sẽ ra lệnh bắt giữ chúng ta lập tức." Nhưng Gisevius giải thích lý do thật sự khiến Schacht không đi nói ra chuyện kỳ quái ấy (việc yêu cầu Nghị viện bù nhìn phê chuẩn là trò trẻ con đối với Hitler đến nỗi ông này không màng đến thủ tục ấy). Có vẻ như Schacht bãi bỏ chuyến đi khi Hitler ra lệnh bãi bỏ tấn công Ba Lan. Cũng theo Gisevius, ba ngày sau ông định đi nhưng Canaris khuyên ông là đã quá muộn. Không phải là các nhà âm mưu lỡ chuyến tàu; họ không bao giờ đi đến nhà ga để tìm cách lên tàu. "Âm mưu" Zossen lật đổ Hitler Gần cuối năm 1939, những người trong nhóm âm mưu nghĩ đã đến lúc nên hành động một lần nữa. Brauchitsch và Halder thấy có hai phương án: hoặc lật đổ Hitler hoặc tổ chức cuộc tấn công ở miền Tây mà họ nghĩ sẽ là thảm họa cho nước Đức. Những người âm mưu cả quân sự và dân sự thình lình hồi sức, thúc giục phương án thứ nhất. Tướng về hưu von Hammerstein được gọi lại để nhận một chức tư lệnh ở miền Tây. Trong tuần lễ đầu của cuộc chiến, ông thúc giục Hitler đến thị sát tổng hành dinh của ông để chứng tỏ Lãnh tụ không bỏ quên miền Tây trong khi thôn tính Ba Lan. Thật ra Hammerstein, một kẻ thù không hề lay chuyển của Hitler, dự định bắt giữ ông này. Ogilvie Forbes đã được bí mật thông báo. Nhưng Hitler đánh hơi được hiểm họa, nên từ chối lời mời của vị cựu Tư lệnh Lục quân và sau đấy sa thải ông này. Những người dân sự trong nhóm âm mưu vẫn nhận ra rằng chỉ quân đội là có khả năng để ngăn chặn Hitler, với sức mạnh tăng lên cực kỳ to lớn sau cuộc tổng động viên và chiến dịch ở Ba Lan. Nhưng Halder cố giải thích với họ rằng lực lượng lớn mạnh lại là một trở ngại. Nhiều sĩ quan trừ bị được gọi vào quân ngũ nguyên là đảng viên Quốc xã, còn binh sĩ đã hoàn toàn tiêm nhiễm giáo điều Quốc xã. Halder vạch ra rằng sẽ khó mà tìm ra một đội hình có thể tin cậy được để chống lại Hitler. Có một yếu tố nữa mà các tướng lĩnh nêu ra và mọi người đều thấy đúng lý. Một vụ nổi loạn chống Hitler có thể gây hoang mang cho quân đội và đất nước nói chung, khi ấy liệu Anh và Pháp có thể đánh qua miền Tây, chiếm lấy Đức rồi áp đặt nền hòa bình ngặt nghèo cho người Đức – cho dù đã loại được Hitler? Vì thế, cần phải giữ mối liên lạc với Anh hầu đi đến sự thấu hiểu rằng Đồng minh không nên lợi dụng vụ đảo chính mà chống Quốc xã. Họ có nhiều kênh liên lạc. Một kênh là Tòa thánh Vatican thông qua TS. Josef Müller, một luật sư nổi danh ở München. Qua sự sắp xếp của Đại tá Oster ở Cục Quân báo, vào đầu tháng 10 Müller đi đến Roma và thiết lập liên lạc với Công sứ Anh ở Tòa thánh. Theo những nguồn tin của Đức, ông nhận được đảm bảo của Anh và được Giáo hoàng đồng ý làm trung gian giữa chế độ mới chống Quốc xã và Anh. Kênh khác là ở Bernes, Thụy Sĩ. Tại đây, Weizsäcker đã bổ nhiệm Theodor Kordt, lúc trước làm đại biện lâm thời tại London, làm đại biện lâm thời tại Thụy Sĩ. Kordt bắt liên lạc với TS. Philip Conwell-Evans, giáo sư người Anh tại Đại học Koenigsberg. Kordt nhận từ Conwell-Evans một bản văn nói là lời cam kết long trọng của Chamberlain đối với chế độ mới. Thật ra, đấy chỉ là lời phát biểu của Chamberlain trước Nghị viện rằng Anh không có mưu đồ ở Đức. Lời phát biểu thân thiện với người dân Đức đã được truyền thanh rộng rãi, nhưng nhóm âm mưu vẫn cho đấy là quan trọng. Thế là, với hai nguồn đảm bảo từ Anh, nhóm âm mưu quay sang quân đội, là mối hy vọng duy nhất của họ. Thời giờ đã cấp bách. Quân đội Đức dự trù tấn công qua Bỉ và Hà Lan vào ngày 12/11/1939. Phải tiến hành đảo chính trước ngày này. Như Hassell cảnh báo những người khác, không thể nào có nền hòa bình tốt đẹp sau khi Đức đã xâm lấn Bỉ. Có nhiều lời giải thích tại sao kế tiếp không có gì xảy ra, và những giải thích này mâu thuẫn với nhau và lộn xộn. Tướng Halder giải thích trước Tòa án Nürnberg rằng "quân đội tiền phương" không thể làm đảo chính vì "trước mặt họ có địch quân được vũ trang đầy đủ." Ông đã kêu gọi "quân đội hậu phương" vốn không phải đối mặt với kẻ thù, nhưng vị tư lệnh Lực lượng Dân quân, Tướng Friedrich Fromm, trả lời là mình chỉ nhận lệnh từ Brauchitsch. Nhưng Brauchitsch còn hèn yếu hơn Halder. Tướng Beck bảo Halder: Nếu Brauchitsch không có đủ quyết đoán, anh nên lấy quyết định rồi đặt ông ấy trước chuyện đã rồi. Nhưng Halder cho rằng vì Brauchitsch là Tư lệnh Lục quân, ông này phải lãnh trách nhiệm. Thế là quả bóng trách nhiệm cứ bị đá qua đá lại. Cuối cùng, Tướng Thomas và Đại tá Oster đứng ra cầm đầu nhóm âm mưu, làm công tác tư tưởng cho Halder để ông này thuận theo – họ nghĩ như thế – để gây cuộc đảo chính ngay khi Hitler ra lệnh tiến công miền Tây. Halder thông báo cho Tướng Beck và Goerdeler, hai trong số nhân vật âm mưu chính, sẵn sàng hành động từ ngày 5/11/1939. Tổng hành dinh kết hợp của Tư lệnh Lục quân và Bộ Tham mưu Lục quân ở Zossen trở thành hang ổ của hoạt động phản loạn. Vào ngày 5/11, quân đội bắt đầu di chuyển đến các điểm xuất phát đối diện Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, Cũng trong ngày này, Brauchitsch có cái hẹn đến gặp Hitler. Brauchitsch và Halder đã đi thị sát các đơn vị hàng đầu ở miền Tây và nghe những ý kiến tiêu cực của các chỉ huy chiến trường. Thế là, dựa trên những biện luận của tướng lĩnh trên mặt trận miền Tây, của chính mình, của Halder và của Thomas, Brauchitsch đi gặp Hitler. Nhóm âm mưu hồ hởi và lạc quan. Nếu Brauchitsch không thể thuyết phục Hitler, ông sẽ gia nhập họ mà lật đổ Hitler. Như những dịp khác, tất cả đều nhầm lẫn. Brauchitsch không thể thuyết phục được Hitler. Khi vị tướng nói đến thời tiết xấu, Hitler trả lời xấu cho Đức thì cũng xấu cho địch. Cuối cùng, trong nỗi tuyệt vọng, Brauchitsch báo cáo rằng tinh thần binh sĩ ở mức thấp tương tự như trong thời gian 1917-1918, khi có tư tưởng chủ bại, bất tuân quân lệnh và ngay cả nổi loạn. Nhật ký của Halder ghi rằng khi nghe thế, Hitler nổi giận. Ông muốn biết: "trong những đơn vị nào có những trường hợp thiếu kỷ luật? Chuyện gì đã xảy ra? Ở đâu?" Ông sẽ bay đến đấy ngày mai. Vị tướng tội nghiệp đã cố tình cường điệu hóa nhằm làm cho Hitler nản chí, nhưng bây giờ gánh chịu toàn bộ áp lực trong cơn thịnh nộ của Lãnh tụ. Hitler thét lên: "Bộ tư lệnh đã có hành động gì? Đã thi hành bao nhiêu án tử hình?" Hitler gầm rít: Sự thật là "quân đội không muốn chiến đấu." Brauchitsch khai trước Tòa án Nürnberg: "Không thể nào tiếp tục cuộc thảo luận. Nên tôi ra về." Những người khác còn nhớ là ông thất thểu đi vào tổng hành dinh ở Zossen, trong tình trạng bị sốc nặng đến nỗi lúc đầu ông không thể kể lại rõ ràng chuyện gì đã xảy ra. Đến đây là chấm dứt "Âm mưu Zossen." Thêm một thất bại nhục nhã như "Âm mưu Halder" vào thời gian Hội nghị München. Mỗi lần đều hội đủ các điều kiện mà nhóm âm mưu đặt ra. Lần này, Hitler đã nhất quyết tiến công ngày 12/11/1939, và có chỉ thị bằng văn bản. Vì thế, nhóm âm mưu có bằng cớ rõ ràng mà họ đã nói cần có để lật đổ Hitler: lệnh tấn công vốn sẽ gây thảm họa cho nước Đức. Nhưng sau đấy, nhóm âm mưu không làm gì thêm ngoại trừ hoảng hốt. Họ nháo nhào lo thiêu hủy tài liệu và che giấu chứng tích. Các tướng lĩnh, kể cả Witzleben, hiểu rằng họ đã thua cuộc. Ít ngày sau, Tướng Karl von Rundstedt, Tư lệnh Tập đoàn quân A, triệu các tư lệnh quân đoàn và sư đoàn đến để thảo luận những chi tiết của cuộc tiến quân. Trong khi bản thân vẫn còn nghi ngờ về chiến thắng, ông khuyên các tướng lĩnh của ông nên bỏ qua những nghi ngại. Ông nói: "Quân đội đã được giao nhiệm vụ, và sẽ thi hành nhiệm vụ!" Âm mưu cuối năm 1939 Ngày 12/12/1939, Hitler ban hành một chỉ thị tối mật hoãn cuộc tấn công ở miền Tây cho đến sớm nhất là ngày 1/1/1940, và cho nghỉ phép Giáng sinh. Tại Berlin, nhân các ngày nghỉ lễ, đại sứ Hassel trao đổi với những người âm mưu Popitz, Goerdeler và Tướng Beck. Ngày 30/12, ông ghi trong nhật ký kế hoạch mới nhất: Điều một số sư đoàn ghé lại Berlin trong khi đang di chuyển từ Tây sang Đông. Rồi Witzleben đến Berlin và giải tán SS... Beck nắm quyền chỉ huy từ Brauchitsch. Một bác sĩ tuyên bố Hitler không có khả năng tiếp tục công việc, rồi giam Hitler lại. Hiệu triệu toàn dân theo nội dung: ngăn chặn sự tàn bạo thêm của SS, vãn hồi khuôn phép và đạo đức của Cơ đốc giáo, tiếp tục chiến tranh nhưng sẵn sàng cho hòa bình trên cơ sở bình đẳng... Nhưng đấy chỉ là hư ảo; tất cả chỉ là lời nói suông. Những người âm mưu tỏ ra rối trí đến nỗi Hassell phải viết ra dài dòng trong nhật ký để xem xét liệu họ nó nên bắt giữ Göring hay không! Nhóm âm mưu lại nản lòng Đầu năm 1940, một lần nữa, những người âm mưu chống Hitler lại thuyết phục các tướng lĩnh nên lật đổ Hitler – lần này là để ngăn chặn cuộc tiến công lên miền bắc mà họ đã nghe phong phanh. Họ muốn Anh đảm bảo sẽ dàn hòa mà cho phép chế độ chống Quốc xã được giữ lại phần lớn lãnh thổ do Hitler mới chiếm được. Dựa trên cương lĩnh này, Hassell đã vô cùng dũng cảm đi đến Thụy Sĩ để tham khảo với một người Anh mà ông ghi trong nhật ký là "Ông X" nhưng thật ra mang tên là J. Londsdale Bryans. Ông này nằm trong giới ngoại giao ở Roma, tự nhận vai trò trung gian theo cách thiếu chuyên nghiệp kiểu Dahlerus. Ông có mối dây liên hệ với chính phủ Anh, và Hassell có ấn tượng tốt khi gặp ông. Nhưng sau sự cố với Thiếu tá Stevens và Đại úy Best khi tìm cách bắt liên lạc với nhóm âm mưu, phía Anh tỏ ra ngờ vực cả âm mưu chống Hitler, và khi Bryans dọ hỏi Hassell để nắm thêm thông tin đáng tin cậy thì ông này lại kín kẽ. Hassell trả lời: "Tôi không thể nói ra tên những người ủng hộ tôi." Rồi Hassell phác thảo quan điểm của "cánh đối lập": phải lật đổ Hitler "trước khi có động thái quân sự lớn lao"; đây "hoàn toàn là chuyện nội bộ của Đức"; phải có "tuyên bố với giới có thẩm quyền ở Anh" về việc đối xử với chế độ chống Quốc xã ở Berlin... Hassell và nhóm âm mưu của ông muốn được đảm bảo rằng nếu họ đã loại Hitler, nước Đức sẽ được đối xử một cách rộng lượng hơn là sau khi người Đức đã loại Hoàng đế Wilhelm II. Rồi Hassell trao cho Bryans một bản ghi nhớ đầy thuyết phục với những ý niệm cao quý về tương lai của thế giới "dựa trên những nguyên tắc của đạo đức Cơ đốc, công lý và luật pháp, an sinh xã hội, tự do tư tưởng..." Điều kiện chính cho hòa bình của Hassell là nước Đức mới được giữ lại hầu hết lãnh thổ do Hitler đã chiếm được: Áo, Sudetenland, đường biên giới năm 1914 với Ba Lan, cũng là đường biên giới với Liên Xô bởi vì lúc ấy chưa có Ba Lan. Bryans đồng ý rằng cần có hành động nhanh chóng và hứa sẽ trình bản ghi nhớ của Hassell cho Halifax. Hassell trở về Berlin để tường thuật lại với những người trong nhóm âm mưu. Dù vẫn hy vọng vào "Ông X" của Hassell, trong lúc này họ đang quan tâm nhiều hơn đến cái gọi là "Báo cáo X" của một người trong nhóm, TS. Hans von Dohnanyi tại Cục Quân báo. Dựa trên sự liên hệ với Tòa thánh Vatican, báo cáo này cho biết Giáo hoàng sẵn sàng can thiệp với Anh về những điều khoản hòa bình thuận lợi cho chính phủ mới của Đức chống Quốc xã và về "vấn đề dàn xếp ở miền Đông có lợi cho Đức." Nhóm âm mưu xem Báo cáo X là quan trọng. Tướng Thomas đã trình cho Brauchitsch xem báo cáo này nhằm tác động vị Tư lệnh Lục quân khuyên Hitler không nên đánh miền Tây. Nhưng Brauchitsch không thích hành động như thế, mà còn dọa sẽ bắt giữ Thomas nếu ông này đưa vấn đề ra bàn lần nữa, mà ông cho biết đấy "rõ ràng là tội phản quốc." Rồi Thomas lại trình Báo cáo X cho Halder với hy vọng ông này sẽ theo đấy mà hành động, nhưng chỉ hoài công. Như vị Tham mưu trưởng Lục quân đã bảo Goerdeler – người cũng đã cầu xin ông chủ trì – vào lúc này ông không thể phá bỏ lời tuyên thệ là người lính của Lãnh tụ. Ông biện luận rằng Anh và Pháp đã tuyên chiến với Đức, và nền hòa bình dựa trên sự dung hòa là điều không tưởng. Goerdeler ghi trong nhật ký: Halder đã bắt đầu than thở khi nói về trách nhiệm của mình, tạo cảm tưởng về một người yếu đuối với tinh thần rệu rã. Cảm tưởng như thế là đáng ngờ. Khi xem qua nhật ký của Halder vào tuần lễ đầu của tháng 4/1940, người ta có cảm tưởng rằng vị Tham mưu trưởng có tinh thần phấn chấn trong khi đang tham khảo với các tư lệnh chiến trường và kiểm tra lần cuối cùng những kế hoạch cho cuộc hành quân lớn lao nhất và táo bạo nhất trong lịch sử của Đức. Trong nhật ký của ông không có ý tưởng nào chống đối chế độ hoặc băn khoăn với lương tâm. Dù ông có mối nghi ngại đối với việc tấn công Đan Mạch và Na Uy, đấy chỉ là thuần túy dựa trên lý do quân sự. Không hề có chữ nào bày tỏ nỗi băn khoăn về đạo lý đối với hành động gây hấn của Quốc xã chống lại bốn quốc gia trung lập nhỏ mà Đức đã long trọng cam kết đảm bảo đường biên giới, trong khi ông lại đóng vai trò chủ đạo lập kế hoạch hành quân chống lại hai trong số bốn quốc gia ấy. Thế là, chấm dứt nỗ lực cuối cùng của những "người Đức tốt" muốn lật đổ Hitler trước khi quá muộn. Đây là cơ hội cuối cùng mà họ có thể đạt nền hòa bình trong sự rộng lượng của nước ngoài. Như Brauchitsch và Halder đã tỏ rõ, các tướng lĩnh không quan tâm đến nền hòa bình dựa trên đàm phán. Giống như Lãnh tụ, lúc này họ đang nghĩ đến nền hòa bình do họ áp đặt – áp đặt sau khi Đức chiến thắng. Nhóm âm mưu hồi sinh Thất bại trên mặt trận Nga trong mùa đông 1941 và việc cách chức một số thống chế cùng tư lệnh mặt trận cao cấp làm khơi dậy hy vọng của những người âm mưu chống Quốc xã. Nhóm âm mưu cho rằng chỉ có các tướng lĩnh đang cầm quân mới có đủ sức mạnh để lật đổ nhà độc tài Quốc xã. Bây giờ còn có cơ hội trước khi quá muộn. Sau thất lại ở Liên Xô và thêm Mỹ tham chiến, họ nghĩ Đức không thể nào thắng cuộc chiến. Nhưng vẫn chưa chiến bại. Một chính phủ chống Quốc xã ở Berlin vẫn có thể nhận những điều kiện hòa bình để duy trì Đức như là một cường quốc và, có lẽ, giữ lại vài lãnh thổ do Hitler thôn tính, như Áo, Sudetenland và tây Ba Lan. Vào cuối mùa hè 1941, nhóm âm mưu vẫn còn nghĩ như thế, khi vẫn còn có triển vọng tiêu diệt Liên Xô. Nhưng họ bị giáng một đòn nặng. Hiến chương Đại Tây Dương do Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Franklin Delano Roosevelt soạn thảo ngày 19/8, đặc biệt Điểm 8, quy định sau chiến tranh sẽ giải giới nước Đức trong khi chờ hiệp định giải trừ binh bị tổng quát. Hassell, Goerdeler, Beck cùng những thành viên trong nhóm thấy điều này có nghĩa là Đồng minh không có ý định phân biệt giữa người Đức theo Quốc xã và người Đức chống Quốc xã. Dù mất ảo tưởng vì Hiến chương Đại Tây Dương, nhóm âm mưu vẫn thấy cần thiết phải loại trừ Hitler trong khi còn kịp đàm phán có lợi cho nền hòa bình cho một nước Đức lúc này vẫn còn chiếm nhiều phần đất của châu Âu. Thời giờ đang cấp bách. Nhóm âm mưu nhất trí với nhau là chẳng bao lâu sẽ trở nên quá muộn. Khi cơ may thắng lợi trong cuộc chiến mất đi hoặc còn mong manh thì không còn có thể làm gì được nữa. Trung tâm âm mưu trong Quân đội vào mùa hè này là tổng hành dinh của Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế Fedor von Bock đang tiến đến Moskva. Trung tướng Henning von Tresckow dưới quyền Bock là người cầm đầu, được hỗ trợ bởi Fabian von Schlabrendorff, Bá tước Hans von Hardenberg và Bá tước Heinrich von Lehndorff, cả hai đều thuộc dòng dõi có tiếng tăm. Một trong những nhiệm vụ tự họ đặt ra là làm công tác tư tưởng của vị Thống chế, nhưng không thành công. Dù chán ghét chủ nghĩa Quốc xã, Bock đã tiến thân nhiều dưới chế độ này và cũng vì tính khí rỗng tuếch và có tham vọng mà ông không muốn may rủi. Khi nhóm âm mưu vạch ra rằng Hitler đang dẫn nước Đức đến chỗ diệt vong, Bock lớn tiến: "Tôi không cho phép phê bình Lãnh tụ!" Tresckow và các phụ tá thất vọng nhưng không nản chí. Họ quyết định tự hành động. Ngày 4/8/1941, Lãnh tụ đến thăm tổng hành dinh của Tập đoàn quân, họ lên kế hoạch bắt giữ ông khi ông đi từ sân bay đến tổng hành dinh. Nhưng họ đã quá nghiệp dư và không tính đến những phương pháp an ninh cho Lãnh tụ. Luôn có một lực lượng SS hùng hậu bao quanh và không sử dụng xe của quân đội khi đi từ sân bay đến – Hitler đã phái trước một đoàn xe để dùng cho chuyến đi – nhóm âm mưu không có cơ hội tiếp cận để ra tay. Thất bại này – hẳn cũng có những thất bại khác tương tự – dạy cho những người âm mưu trong quân đội vài bài học. Thứ nhất, đến gần Hitler không phải là việc dễ dàng; ông luôn được bảo vệ cẩn mật. Kế tiếp, bắt giữ ông không thể giải quyết vấn đề, vì các tướng lĩnh chủ chốt hoặc quá hèn nhát hoặc quá hoang mang về lời tuyên thệ trung thành với ông nên có thể không cho phép nhóm âm mưu hành động tiếp. Vào khoàng thời gian này, mùa thu 1941, vài sĩ quan Quân đội trẻ đành phải đi đến kết luận là giải pháp đơn giản nhất, có lẽ giải pháp duy nhất, là hạ sát Hitler. Lúc ấy, sau khi được giải thoát khỏi lời tuyên thệ, các tướng lĩnh e dè sẽ thuận theo chính quyền mới và mang đến sự ủng hộ của Quân đội. Nhưng các chỉ huy của nhóm âm mưu chưa sẵn sàng tiến xa như thế. Họ định ra một kế hoạch ngu xuẩn gọi là "hành động cô lập" mà vì lý do nào đấy họ nghĩ sẽ thỏa mãn lương tâm của các tướng lĩnh về lời tuyên thệ và cùng lúc cho phép họ loại trừ Hitler. Ngay cả bây giờ ta còn cảm thấy khó hiểu về việc này, nhưng ý tưởng là các chỉ huy quân đội cấp cao, cả ở hai mặt trận miền Tây và miền Đông, theo hiệu lệnh đã định trước chỉ việc bất tuân mệnh lệnh của Hitler. Dĩ nhiên như thế là phá vỡ lời tuyên thệ trung thành với Lãnh tụ, nhưng những người ngụy biện ở Berlin giả vờ không thấy điều này. Họ giải thích rằng trong trường hợp gì đi nữa, mục đích thật sự là tạo ra tình trạng hoang mang, trong khi ấy Beck với sự yểm trợ của lực lượng Dân quân ở Berlin sẽ cướp chính quyền, cách chức Hitler và đặt Đức Quốc xã ra ngoài vòng pháp luật. Lực lượng Dân quân có một triệu người nhưng chỉ là một tổ chức ô hợp gồm những tân binh qua huấn luyện sơ sài trước khi được điều đi chiến trường để thay thế cho số thương vong. Vài tướng lĩnh cao cấp ở mặt trận Liên Xô hoặc vùng chiếm đóng có thể thuận theo nhóm âm mưu nếu kế hoạch ban đầu thành công. Một người trong số này, đã can dự vào âm mưu của Halder nhằm bắt Hitler vào thời điêm Hội nghị München, xem như là chọn lựa đúng lý. Đấy là Thống chế von Witzleben, bây giờ là Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây. Giữa tháng 1/1942, nhóm âm mưu phái Hassell đi gặp Witzleben và Tướng Alexander von Falkenhausen, chỉ huy quân Đức tại Bỉ, Hassell đang bị Gestapo theo dõi, nhưng sử dụng bình phong là chuyến đi diễn thuyết cho các sĩ quan Đức và viên chức địa phương về "Không gian sinh sống và Chủ nghĩa Đế chế." Giữa các buổi giảng, ông tham khảo với Falkenhausen ở Brussels và Witzleben ở Paris. Cả hai có ấn tượng tốt với ông, đặc biệt là Witzleben. Bị cho ra rìa tại Pháp trong khi các thống chế đồng sự đang chỉ huy những trận đánh quang vinh tại Liên Xô, Witzleben khao khát hành động. Ông bảo Hassel "hành động cô lập" là chuyện không tưởng. Cách duy nhất là lật đổ Hitler, và ông sẵn lòng nhận vai trò đi đầu. Có lẽ thời gian thích hợp nhất là mùa hè 1942, khi Đức mở lại cuộc tiến công ở Liên Xô. Để chuẩn bị cho ngày này, ông muốn có sức khỏe tốt, nên xin tiến hành một tiểu giải phẫu. Không may cho ông và cho nhóm âm mưu, quyết định này gây hậu quả tai hại. Witzleben bị bệnh trĩ, và tiểu giải phẫu để chữa trĩ chỉ là một ca thông thường. Nhưng khi Witzleben xin nghỉ bệnh một thời gian ngắn, Hitler nhân cơ hội này cho ông về hưu, cử Rundstedt thay thế. Ông này không có can đảm chống lại Hitler dù gần đây bị Hitler đối xử tệ hại. Thế là nhóm âm mưu thấy hy vọng chính yếu của họ trong Quân đội là một Thống chế không có quân. Chỉ có tướng mà không có quân thì không thể thành lập chế độ mới. Các nhà lãnh đạo của nhóm âm mưu vô cùng chán nản. Họ vẫn gặp gỡ nhau mà bàn bạc âm mưu, nhưng không thể tìm được phấn khởi. Hassell ghi nhận là vào cuối tháng 2/1942, họ nghĩ dường như không thể làm gì Hitler được. Tuy nhiên, có phải làm nhiều việc để củng cố ý tưởng của họ về loại hình chính phủ họ mong muốn cho nước Đức sau khi lật đổ Hitler và cải thiện tình trạng hỗn loạn của tổ chức để nắm chính quyền khi thời cơ đến. Phần lớn các nhà lãnh đạo của nhóm âm mưu, vốn bảo thủ, muốn phục hồi vương triều Hohenzollern. Nhưng trong một thời gian dài, họ không nhất trí với nhau hoàng tử Hohenzollern nào sẽ lên ngôi. Có người chọn Hoàng Thái tử, có người đề xuất con trai trưởng của Hoàng Thái tử, nhưng đều bị người khác chống đối. Cho đến mùa hè 1941, nhiều người đồng ý chọn Louis-Ferdinand, con trai thứ hai của Hoàng Thái tử, lúc ấy 23 tuổi. Hassell và vài người khác không được thuyết phục lắm, nhưng rốt cuộc họ thuận theo. Mối quan tâm chính yếu của Hassell là loại hình và bản chất của chính phủ Đức trong tương lai. Ông tham khảo với Tướng Beck, Goerdeler và Popitz để soạn ra một chương trình cho giai đoạn tạm thời, được hoàn thiện vào cuối năm 1941. Dự định sẽ phục hồi tự do các nhân, cử một phụ chính để người này bổ nhiệm chính phủ và Hội đồng Nhà nước. Chế độ có phần nào chuyên chế, nên Goerdeler và đại diện nghiệp đoàn trong nhóm âm mưu không thích. Nhưng vì thiếu ý tưởng cụ thể nào hay hơn, kế hoạch của Hassell được chấp nhận trên nguyên tắc. Sau này vào năm 1943, Nhóm Kreisau do Bá tước Helmuth von Moltke cầm đầu soạn một chương trình phóng khoáng hơn để thay thế. Cuối cùng, đến mùa xuân 1942, nhóm âm mưu cử một lãnh đạo là Tướng Beck, do trí thông minh, tính tình, uy tín đối với các tướng lĩnh, và tiếng tăm trong cũng như ngoài nước. Tuy nhiên, họ có tổ chức quá yếu kém đến nỗi họ không bao giờ đưa ông vào vị thế chỉ huy. Một ít người, như Hassell, tuy ngưỡng mộ và tôn trọng ông, vẫn tỏ ý nghi ngờ. Tuy thế, đến tháng 3/1942, sau nhiều buổi họp kín, cả nhóm đồng ý để Beck nắm quyền thật sự. Nhưng âm mưu vẫn còn mông lung và vô định ngay cả ở những thành viên tích cực nhất. Họ biết rằng mùa xuân này Hitler đang lên kế hoạch mở lại cuộc tiến công trên đất Nga. Họ nghĩ việc này sẽ nhấn chìm sâu thêm nước Đức. Nhưng họ vẫn nói, chứ không làm gì cụ thể. Họ không có kế hoạch gì cả trong khi còn có thời giờ. Ngày 28/3/1942, Hassel ghi trong nhật ký: Trong những ngày qua ở Berlin, tôi đã có những buổi thảo luận chi tiết với Jessen, Beck và Goerdeler. Viễn cảnh là rất tốt đẹp. Làm thế nào có thể tốt đẹp được? Không có kế hoạch hành động nào. Ngay bây giờ. Trong khi vẫn còn có thời gian. Âm mưu ám sát Hitler Xem chi tiết: Claus von Stauffenberg. Đại tá Tham mưu trưởng Lực lượng Dân quân Claus von Stauffenberg, nhờ có cơ hội tham dự những buổi họp quân sự thường kỳ với Hitler, lĩnh nhiệm vụ ám sát Hitler. Sau những âm mưu khởi đầu thất bại, đến ngày 20 tháng 7, 1944, Stauffenberg cho phát nổ một quả bom giữa buổi họp của Hitler. Có 25 người hiện diện, nhưng không có 2 nhân viên chủ chốt khác mà nhóm âm mưu cũng nhắm làm mục tiêu từ đầu: Hermann Göring và Heinrich Himmler. Hitler chỉ bị sây xát chút ít. Người ghi tốc ký chết tại chỗ, còn Đại tá Heinz Brandt (chỉ huy ban tham mưu Lục quân), Tướng Schmundt (tùy viên của Hitler) và Tướng Korten (Tham mưu trưởng Không quân) chết vì bị thương nặng. Âm mưu bị dập tắt thảm hại. Khi biết Hitler không chết, Tướng Fromm trở mặt với nhóm âm mưu. Ông tuyên bố "nhân danh Lãnh tụ" ông đã triệu tập một phiên xử của "tòa án binh" (không có chứng cứ gì về chuyện này) và phiên tòa đã tuyên án tử hình đối với 4 người: Tướng Friedrich Olbricht (Cục trưởng Tổng hợp-Thanh tra Lục quân), Đại tá tham mưu trưởng Mertz von Quirnheim dưới quyền Olbricht, Đại tá Stauffenberg, và Trung úy Haeften (tùy viên của Stauffenberg). Ngay buổi tối 20/7/1944, cùng ngày xảy ra vụ nổ bom, 4 người bị xử bắn trong khoảng sân tổng hành dinh Dân quân ở Phố Bendlerstraße. Stauffenberg hô lên trước khi bị bắn: "Nước Đức thiêng liêng muôn năm!" Tướng Beck bị Fromm buộc phải tự sát. Hai lần ông bắn vào người mình, nhưng không chết. Cuối cùng, một trung sĩ kéo Beck ra bên ngoài phòng rồi bắn một phát vào gáy ông. Hitler và Himmler ra lệnh truy lùng những người có liên can. Có khoảng 4.980 người bị hành quyết. Gestapo liệt kê 7.000 người bị bắt. Đợt đàn áp nhóm âm mưu Xem chi tiết: Heinrich Himmler và Gestapo. Các tướng lĩnh và sĩ quan cấp cao của Quân đội bị cáo buộc bị đưa ra trước Tòa án Danh dự Quân sự để bị tước quân tịch. Tòa án này không được phép nghe người sĩ quan tự biện hộ, mà chỉ hành động dựa trên "chứng cứ" do Mật vụ cung cấp. Sau đó, các bị cáo được đưa ra bị xét xử ở Tòa án Nhân dân do SS giật dây. Phán quyết của tòa án này không được quyền kháng cáo, và các phiên xử thường là kín. Việc thi hành án tử hình thường được thực hiện ngay ngày hôm sau theo cách thức lột trần tử tội cho đến eo, tròng vào cổ họ một thòng lọng bằng sợi dây dương cầm và buộc vào cái móc treo thịt ở phía trên đầu. Tướng Friedrich Fromm không thoát án tử hình dù đã có động thái chống nhóm âm mưu. Himmler ra lệnh bắt giữ ông ngày hôm sau, đưa ông ra Tòa án Nhân dân vào tháng 2/1945 với tội danh "hèn nhát." Theo một nhân chứng, ông tỏ ra rất cay đắng vì đã "lập công" cho Quốc xã. Có lẽ để công nhận ông đã giúp cứu nguy cho chế độ Quốc xã, ông không bị treo cổ như những người khác mà bị xử bắn ngày 19/3/1945. Cũng nhân dịp này, Hitler và Himmler xử lý luôn những người không trực tiếp tham gia vào vụ nổ bom ám sát nhưng bị nghi ngờ dính dáng ít nhiều đến phong trào chống đối. Lấy ví dụ những trường hợp này là Thống chế lừng danh Erwin Rommel bị bức tử, Bá tước Helmuth von Moltke cầm đầu Nhóm Kreisau (chỉ soạn chương trình cho nước Đức sau khi lật đổ Hitler nhưng không muốn ám sát Hitler) bị hành quyết, TS. Jens Peter Jessen (giáo sư kinh tế học tại Đại học Berlin) bị hành quyết, Tướng Halder, TS. Schacht và Thượng tướng Alexander von Falkenhausen (chỉ huy quân quản Bỉ và bắc Pháp) bị đưa vào trại tập trung cho đến khi được Đồng minh giải cứu lúc gần kết thúc chiến tranh. Nhiều sĩ quan Quân đội dính líu vào âm mưu thà tự xử hơn là chịu ra trước Tòa án Nhân dân, như Tướng Henning von Tresckow. Tướng Heinrich von Stülpnagel (chỉ huy ban quân quản Pháp) cũng tự tử nhưng không chết, rồi bị hành quyết ngày 30/8/1944. Thống chế von Kluge, (Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây) tự tử sau khi bị thay thế bởi Thống chế Walther Model và biết đã bị Hitler nghi ngờ. Vinh danh Stauffenberg Bendlerstraße có nghĩa "Phố Bendler," là khu chỉ huy của Quân đội Đức gồm Tổng hành dinh Dân quân và nhiều doanh trại, cũng là tổng hành dinh của nhóm âm mưu ám sát Hitler ngày 20/7/1944, và là nơi Fromm ra lệnh hành quyết 5 người chủ chốt kể cả Stauffenberg trong nhóm âm mưu. Sau chiến tranh Bendlerstraßeđược đổi tên thành Stauffenbergstraße (Phố Stauffenberg), còn tòa nhà tổng hành dinh được biến cải thành nhà lưu niệm phong trào chống Hitler. Kỷ niệm 60 năm Vào ngày 20 tháng 7 năm 2004, nước Đức tổ chức lễ kỷ niệm tròn 60 năm vụ nổ bom ám sát Hitler. Bà quả phụ Moltke 93 tuổi được mời đến dự lễ ở khu tưởng niệm (nơi Stauffenberg bị hành quyết). Bà tuyên bố: "Tôi lấy làm hãnh diện." Một người khác trong phong trào còn sống sót đến dự là Philipp von Boeselager. Thủ tướng Đức Gerhard Schroeder đọc bài diễn văn ca ngợi phong trào chống đối Hitler, còn Tổng thống Horst Koehler đặt một vòng hoa. Đọc thêm Adolf Hitler Đức Quốc xã Hermann Göring Heinrich Himmler Sicherheitsdienst Gestapo
Chính quyền liên bang Hoa Kỳ (tiếng Anh: Federal Government of the United States) là chính quyền trung ương của Hoa Kỳ, một nước cộng hoà liên bang gồm 50 tiểu bang, cùng thủ đô Washington, D.C., 326 Biệt khu thổ dân châu Mỹ và các lãnh thổ hải ngoại. Hệ thống Luật pháp Hoa Kỳ được thiết lập bởi các Đạo luật của Quốc hội (đặc biệt là Luật Hoa Kỳ và Luật Pháp chế Quân đội); những quy định hành chính, và những tiền lệ tư pháp giải thích các bộ luật và các quy định. Chính quyền liên bang có ba nhánh độc lập: lập pháp, hành pháp, và tư pháp, được thiết lập theo Hiến pháp Hoa Kỳ. Dựa trên nguyên tắc tam quyền phân lập, mỗi nhánh có thẩm quyền để hành xử các sự vụ trong lĩnh vực riêng, với một số thẩm quyền ảnh hưởng trên hai nhánh còn lại, và ngược lại, có một số thẩm quyền bị ảnh hưởng bởi một hoặc cả hai nhánh kia. Tên gọi Tên đầy đủ của Hoa Kỳ là "Hợp chúng quốc Hoa Kỳ". Không có tên nào khác xuất hiện trong Hiến pháp, và đây là tên xuất hiện trên tiền, trong các hiệp ước và trong các trường hợp pháp lý (như khởi kiện,...) mà nó là một bên (ví dụ: Charles T. Schenck kiện Hoa Kỳ). Thuật ngữ "Chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" hoặc "Chính phủ Hoa Kỳ" thường được sử dụng trong các tài liệu chính thức đại diện cho chính quyền liên bang, khác với các chính quyền tiểu bang nói chung. Trong ngôn ngữ thông thường, thuật ngữ "Chính quyền liên bang" thường được sử dụng, và thuật ngữ "Chính quyền quốc gia" đôi khi cũng được sử dụng. Các thuật ngữ "Liên bang" và "Quốc gia" trong tên các cơ quan chính phủ hoặc chương trình nghị sự chỉ ra mối liên kết của nó với chính quyền liên bang (ví dụ: Cục Điều tra Liên bang, Cơ quan Quản lý Khí tượng và Thủy văn Quốc gia, Cục Công viên Quốc gia). Vì trụ sở của chính quyền liên bang là ở Washington, DC, "Washington" thường được hoán dụ cho nó. Lịch sử Chính phủ Hoa Kỳ dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa liên bang và chủ nghĩa cộng hòa, trong đó quyền lực được chia sẻ giữa chính quyền liên bang và các chính quyền tiểu bang. Việc giải thích và thực hiện các nguyên tắc này, bao gồm quyền hạn mà chính phủ liên bang nên có và cách thực hiện các quyền đó, đã được tranh luận kể từ khi Hiến pháp được thông qua. Một số người đề nghị tăng quyền lực liên bang trong khi những người khác đề nghị hạn chế vai trò của chính quyền liên bang với các cá nhân, tiểu bang hoặc các thực thể được công nhận khác. Kể từ Nội chiến Hoa Kỳ, quyền lực của chính quyền liên bang nói chung đã mở rộng rất nhiều, mặc dù đã có những giai đoạn nhánh lập pháp thống trị nền chính trị Hoa Kỳ (ví dụ, những thập kỷ sau Nội chiến) hoặc khi có những người đề xuất quyền của tiểu bang đã thành công trong việc hạn chế quyền lực liên bang qua các hành động lập pháp, sắc lệnh hành pháp hoặc bằng cách giải thích hiến pháp của tòa án. Một trong những trụ cột lý thuyết của Hiến pháp Hoa Kỳ là ý tưởng về "sự kiểm tra và cân bằng " giữa quyền hạn và trách nhiệm của ba nhánh chính phủ Hoa Kỳ: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Ví dụ, trong khi nhánh lập pháp ( Quốc hội ) có quyền tạo ra luật, nhánh hành pháp dưới quyền tổng thống có thể phủ quyết bất kỳ luật nào — một đạo luật mà Quốc hội đã có thể bỏ qua. Tổng thống đề cử các thẩm phán vào Tòa án Tối cao , nhưng những đề cử đó phải được Quốc hội phê chuẩn. Tòa án Tối cao, có thể vô hiệu các đạo luật vi hiến đã được Quốc hội thông qua... Lập pháp Quốc hội Hoa Kỳ là nhánh lập pháp của Chính quyền liên bang Hoa Kỳ. Theo chế độ lưỡng viện, Quốc hội gồm có Hạ viện (còn gọi là Viện dân biểu), và Thượng viện (còn gọi là Viện Bang biểu hoặc Viện Nguyên lão). Hạ viện có 435 thành viên bỏ phiếu, số thành viên mỗi bang phụ thuộc vào dân số của bang đó. Mỗi bang có tối thiểu 1 hạ nghị sĩ. Mỗi hạ nghị sĩ có nhiệm kỳ 2 năm. Một người muốn trở thành hạ nghị sĩ thì phải từ 25 tuổi trở lên, phải là công dân Hoa Kỳ ít nhất 7 năm, và phải là cư dân tại bang mà người đó đại diện. Không có giới hạn số nhiệm kì cho mỗi hạ nghị sĩ. Ngoài 435 thành viên bỏ phiếu còn có 6 thành viên không bỏ phiếu, bao gồm 5 đại biểu (delegate) từWashington, D.C, Guam, Quần đảo Virgin, Samoa thuộc Mỹ, Quần đảo Bắc Mariana, và 1 ủy viên cư dân (resident commissioner) từ Puerto Rico. Thượng viện có tổng cộng 100 thượng nghị sĩ, mỗi bang có 2 thượng nghị sĩ. Mỗi thượng nghị sĩ phục vụ trong nhiệm kỳ 6 năm. Cứ mỗi 2 năm thì Thượng viện được bầu lại. Một người muốn được bầu làm thượng nghị sĩ thì phải ít nhất 30 tuổi, phải là công dân Hoa Kỳ ít nhất 9 năm, phải là cư dân tại bang mà họ đại diện trong thời gian bầu cử. Mỗi viện đều có quyền lực riêng biệt. Thượng viện có nhiệm vụ cố vấn và phê chuẩn các bổ nhiệm của tổng thống, trong khi Hạ viện có trách nhiệm đệ trình các dự luật từ dân biểu và nâng cao thu nhập quốc gia. Tuy nhiên, cần có sự đồng thuận của cả hai viện để có thể thông qua các dự luật rồi trở thành đạo luật. Quyền lực của quốc hội được quy định trong những điều khoản của Hiến pháp; tất cả quyền còn lại dành cho các tiểu bang và nhân dân. Trong hiến pháp có "điều khoản cần thiết và thích đáng" cho phép quốc hội "làm tất cả luật cần thiết và thích đáng để bảo đảm sự vận hành của quyền lực hiện hành." Thành viên Hạ viện và Thượng viện được tuyển chọn theo thể thức một hạt bầu cử chọn một người là người có số phiếu cao nhất (first-past-the-post voting), ngoại trừ hai tiểu bang Louisiana và Washington theo thể thức bầu cử hai vòng (runoffs) – vòng đầu chọn hai người có số phiếu cao nhất để vào tiếp vòng sau. Hiến pháp không có quy định nào về việc thiết lập các Ủy ban của quốc hội, nhưng theo đà tăng trưởng của đất nước, do nhu cầu thẩm định các dự luật mà các Ủy ban lần lượt ra đời. Quốc hội khoá 108 (2003-2005) có 19 uỷ ban thường trực ở Hạ viện và 17 uỷ ban ở Thượng viện, chưa kể bốn uỷ ban lưỡng viện có nhiệm vụ giám sát Thư viện Quốc hội, ấn loát, thuế và kinh tế. Mỗi viện còn có quyền bổ nhiệm, hoặc tuyển chọn các uỷ ban nghiên cứu các vấn đề đặc biệt. Vì khối lượng công việc gia tăng, các uỷ ban thường trực sản sinh thêm 150 tiểu ban trực thuộc. Quốc hội có trách nhiệm giám sát và tác động đến các mặt điều hành của nhánh hành pháp. Quy trình giám sát của quốc hội nhắm vào các mục tiêu như ngăn chặn sự lãng phí, các hành vi dối trá, bảo vệ các quyền tự do dân sự cũng như các quyền cá nhân, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của nhánh hành pháp, thu thập thông tin để làm luật và giáo dục quần chúng, cũng như thẩm định những thành quả của hành pháp. Quyền giám sát này được thực thi đối với các bộ của chính phủ, các cơ quan hành pháp, các uỷ ban pháp chế, và chức vụ tổng thống. Chức năng giám sát của Quốc hội được thể hiện trong nhiều hình thức: Ủy ban thẩm tra và điều trần; Xem xét các tường trình của tổng thống và cho ý kiến; Hạ viện tiến hành luận tội và đưa ra Thượng viện xét xử; Hạ viện và Thượng viện tiến hành các thủ tục cần thiết chiếu theo Tu chính án thứ 25 trong trường hợp tổng thống không thể thi hành nhiệm vụ, hoặc khi chức vụ phó tổng thống bị khuyết; Tổ chức những buổi họp không chính thức giữa các nhà lập pháp và các viên chức hành pháp; Thông qua các uỷ ban quốc hội và các cơ quan hỗ trợ như Văn phòng Ngân sách Quốc hội, Văn phòng Giải trình Chính phủ tiến hành các cuộc nghiên cứu. Chức trách của Nghị sĩ Quốc hội Mỗi nghị sĩ quốc hội phải đảm nhiệm năm chức trách: nhà lập pháp, thành viên uỷ ban, đại diện hạt bầu cử, người phục vụ cử tri, và chính trị gia. Quyền lực của Quốc hội Hiến pháp quy định nhiều quyền khác nhau cho Quốc hội: quyền đánh thuế và thu thuế để trả nợ, cung ứng phương tiện quốc phòng và phúc lợi chung cho nước Mỹ; vay mượn tiền; lập ra các quy định thương mại với các nước khác và giữa các tiểu bang; thiết lập những quy định thống nhất về nhập tịch; phát hành tiền và quy định mệnh giá; trừng phạt các hình thức lừa đảo; thiết lập bưu điện và công lộ, cổ xuý sự tiến bộ khoa học, thiết lập các toà án trực thuộc Tối cao Pháp viện, định nghĩa và trừng phạt tội vi phạm bản quyền và các trọng tội, tuyên chiến, tổ chức và hỗ trợ quân đội, cung ứng và duy trì hải quân, làm luật lãnh thổ và lực lượng hải quân, cung ứng lực lượng dân quân, trang bị vũ khí và duy trì kỷ luật các lực lượng dân quân, thi hành hệ thống luật đặc biệt ở Washington, D. C., và ban hành những luật lệ cần thiết để thực thi quyền lực của Quốc hội. Hành pháp Nhánh Hành pháp gồm có Tổng thống Hoa Kỳ và các viên chức được tổng thống ủy nhiệm để cấu thành Nội các Hoa Kỳ (chính phủ của Tổng thống Hoa Kỳ). Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ và là tổng tư lệnh quân lực, cũng là nhà ngoại giao trưởng. Theo Hiến pháp, tổng thống có trách nhiệm đôn đốc việc tuân thủ luật pháp. Để thực thi chức trách này, tổng thống điều hành ngành hành pháp của Chính phủ liên bang, một guồng máy khổng lồ với khoảng 4 triệu nhân viên, kể cả 1 triệu binh sĩ đang phục vụ trong quân đội. Tổng thống còn có quyền lực đáng kể trong các lĩnh vực tư pháp và lập pháp. Bên trong nhánh hành pháp, tổng thống được Hiến pháp dành cho nhiều quyền lực để điều hành công việc quốc gia cũng như bộ máy chính quyền liên bang, cũng có quyền ban hành sắc lệnh về các sự vụ quốc nội. Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật đã được Quốc hội thông qua. Tổng thống có thể bị luận tội bởi đa số dân biểu ở Hạ viện và bị phế truất chức vụ bởi đa số hai phần ba tại Thượng viện vì những cáo buộc như "phản quốc, hối lộ hoặc những trọng tội và hành vi bất chính khác". Tổng thống không thể giải tán quốc hội hoặc tổ chức các cuộc bầu cử đặc biệt, nhưng có quyền ân xá những người bị buộc tội theo luật liên bang, ban hành sắc lệnh hành pháp và bổ nhiệm (với sự chuẩn thuận của Thượng viện) thẩm phán Tối cao Pháp viện và thẩm phán liên bang. Phó Tổng thống là viên chức hành pháp đứng hàng thứ nhì trong chính quyền, là nhân vật đầu tiên theo thứ tự kế nhiệm tổng thống. Theo đó, Phó Tổng thống sẽ đảm nhiệm chức vụ tổng thống trong trường hợp tổng thống qua đời, hoặc từ nhiệm, hoặc bị bãi nhiệm, hoặc khả năng điều hành bị cản trở. Cho đến nay đã có chín trường hợp phó tổng thống thay thế tổng thống theo thể thức kế nhiệm. Chức trách hiến định của phó tổng thống là phục vụ trong cương vị Chủ tịch Thượng viện và có quyền biểu quyết nhằm phá thế bế tắc khi mà số phiếu của các thượng nghị sĩ rơi vào vị trí cân bằng, nhưng theo dòng thời gian phó tổng thống dần trở thành cố vấn chính cho tổng thống. Tất cả quyền lực hành pháp trong Chính quyền liên bang đều được ủy nhiệm cho tổng thống, như vậy các viên chức chính phủ phải chịu trách nhiệm trước tổng thống. Tổng thống và phó tổng thống được tuyển chọn theo thể thức liên danh bởi Hệ thống Đại Cử tri Đoàn đại diện cho các tiểu bang và Đặc khu Columbia, có số thành viên ngang bằng số ghế ở Thượng viện và Hạ viện cộng thêm các đại biểu của Washington, D. C.. Hiện nay, số thành viên của cử tri đoàn là 538 theo công thức 100 + 435 + 3. Như vậy, muốn chiếm được ghế tổng thống, một liên danh phải giành được 270 phiếu của cử tri đoàn. Mối quan hệ giữa Tổng thống và Quốc hội Hoa Kỳ phản ảnh mối quan hệ giữa Vương quyền và Quốc hội Vương quốc Anh vào thời điểm hình thành Hiến pháp Hoa Kỳ. Quốc hội có quyền làm luật để hạn chế quyền hành pháp của tổng thống, ngay cả đối với quyền tư lệnh các lực lượng vũ trang của tổng thống mặc dù trường hợp này là hiếm hoi - một thí dụ là những giới hạn quốc hội đã áp đặt trên Tổng thống Richard Nixon khi ông ra lệnh oanh tạc Campuchia trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Dù tổng thống có quyền đệ trình các dự luật (như ngân sách liên bang), thường thì tổng thống phải dựa vào sự hỗ trợ của các nghị sĩ để vận động cho các dự luật. Sau khi các dự luật được thông qua ở hai viện Quốc hội, cần có chữ ký của tổng thống để trở thành luật, đó là lúc tổng thống có thể sử dụng quyền phủ quyết – dù không thường xuyên - để bác bỏ chúng. Quốc hội có thể vượt qua phủ quyết của tổng thống nếu có được đa số hai phần ba ở cả hai viện. Quyền lực tối hậu của quốc hội đối với tổng thống là quyền luận tội và bãi nhiệm tổng thống qua quy trình biểu quyết ở Hạ viện và xét xử ở Thượng viện (với đa số hai phần ba). Đã có sự phân hoá chính trị nghiêm trọng khi quy trình này được áp dụng cho các tổng thống Andrew Johnson, Richard Nixon, Bill Clinton và Donald Trump. Tổng thống bổ nhiệm khoảng 2.000 chức danh hành pháp, trong đó có các thành viên Nội các và các đại sứ (cần có sự phê chuẩn của Thượng viện); tổng thống có quyền ban hành sắc lệnh và lệnh ân xá và thi hành các chức trách hiến định khác như đọc Diễn văn Liên bang trước Quốc hội (theo thông lệ mỗi năm một lần). Hiến pháp không buộc tổng thống phải đích thân đọc diễn văn, nhưng có thể gởi thông điệp cho quốc hội, theo cách các tổng thống Hoa Kỳ thường làm trong thế kỷ 19. Dù vai trò hiến định của tổng thống có thể bị hạn chế, trong thực tế, với những đặc quyền to lớn, chức danh này thường chiếm ưu thế đối với quyền lực quốc hội; có thể nói Tổng thống Hoa Kỳ là nhân vật nhiều quyền lực nhất thế giới. Phó Tổng thống là nhân vật đứng đầu trong thứ tự kế nhiệm tổng thống và đương nhiên là Chủ tịch Thượng viện. Các thành viên Nội các chịu trách nhiệm điều hành những bộ ngành khác nhau của chính phủ như Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp và Bộ Ngoại giao. Nội các, Bộ ngành và các Cơ quan Chức trách điều hành thực thi luật pháp liên bang được đặt vào tay các bộ ngành hành pháp liên bang, được thiết lập bởi Quốc hội nhằm giải quyết các sự vụ quốc nội và quốc tế. Các bộ trưởng của 15 bộ khác nhau, được chọn bởi tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện, cấu thành một hội đồng cố vấn cho tổng thống gọi là "Nội các". Ngoài ra, còn có một số tổ chức được xếp vào nhóm Văn phòng Hành pháp của Tổng thống gồm có ban nhân viên Toà Bạch Ốc, Văn phòng Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, Văn phòng Chính sách Kiểm soát Ma tuý Quốc gia và Văn phòng Chính sách Khoa học Kỹ thuật. Cũng có các cơ quan độc lập khác như Cơ quan Tình báo Quốc gia, Cơ quan Quản lý Dược và Thực phẩm, và Cơ quan Bảo vệ Môi trường. Ngoài ra, còn có các tập đoàn quốc doanh như Amtrak. Tư pháp Thiết chế đứng đầu nhánh tư pháp là Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, gồm có chín thẩm phán. Toà tối cao xét xử các sự vụ liên quan đến Chính phủ liên bang và những vụ tranh tụng giữa các tiểu bang, có quyền giải thích Hiến pháp và tuyên bố các hoạt động lập pháp và hành pháp ở mọi cấp chính quyền là vi hiến, cũng như có quyền vô hiệu hoá các luật lệ và tạo tiền lệ cho luật pháp và các phán quyết sau này. Dưới Toà án Tối cao là các Toà Kháng án, dưới nữa là toà án cấp quận, đây là cấp toà án thực hiện nhiều vụ xét xử nhất theo luật liên bang. Tách khỏi, nhưng không hoàn toàn độc lập, với hệ thống toà án liên bang là các hệ thống toà án riêng lẻ thuộc tiểu bang, có thẩm quyền xét xử các vụ án theo luật tiểu bang với trình tự riêng của mình. Tối cao pháp viện của mỗi tiểu bang là thẩm quyền tối hậu giải thích hiến pháp và luật tiểu bang. Có thể kháng án lên toà liên bang sau khi chịu xét xử bởi toà tiểu bang nếu vụ án có liên quan đến các vấn đề liên bang. Nhánh lập pháp liên bang gồm có Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, thẩm phán phục vụ ở toà này được bổ nhiệm trọn đời bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện, cùng với các toà án trực thuộc, trong đó có Toà Kháng án Liên bang và Toà án Liên bang cấp quận. Theo cách này, Quốc hội khoá đầu tiên đã phân chia quốc gia thành nhiều quận tư pháp và thiết lập các toà án liên bang cấp quận. Từ đó hình thành cấu trúc hiện nay với Toà tối cao, 13 toà kháng án, 94 toà án quận và 2 toà án đặc biệt. Cho đến nay quốc hội vẫn giữ cho mình quyền thiết lập và huỷ bỏ các toà án liên bang, cũng như quyền quyết định số lượng thẩm phán trong hệ thống tư pháp liên bang. Dù vậy, Quốc hội không có quyền hủy bỏ Tối cao Pháp viện. Hiện có ba cấp toà án liên bang với quyền xét xử các vụ án hình sự và dân sự giữa các cá nhân. Những toà khác như toà phá sản hoặc toà thuế vụ, là những toà án được thiết lập để giải quyết những vụ án thuộc một vài lãnh vực đặc biệt. Toà phá sản trực thuộc toà án quận nhưng không được xếp vào toà "Điều III" vì thẩm phán toà này không được bổ nhiệm trọn đời. Tương tự, toà án thuế vụ cũng không thuộc hệ thống toà án "Điều III". Toà án liên bang cấp quận là nơi các vụ án được đem ra xét xử và phán quyết. Toà kháng án là nơi xử lại các vụ án đã được quyết định ở toà án quận, một số vụ kháng án này là do các cơ quan hành chánh. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ xem xét các vụ kháng án từ toà kháng án và từ toà tối cao tiểu bang (liên quan đến các vấn đề hiến pháp), cũng như tổ chức xét xử một số vụ việc khác. Quyền tài phán liên bang có hiệu lực trên các vụ án dưới thẩm quyền Hiến pháp, các đạo luật của Quốc hội, hiệp ước của quốc gia, những vụ án liên quan đến các đại sứ, bộ trưởng và lãnh sự của nước ngoài tại Hoa Kỳ; những tranh tụng trong đó Chính phủ Hoa Kỳ là một bên; những tranh tụng giữa các tiểu bang (hoặc công dân tiểu bang) và nước ngoài (hoặc công dân nước ngoài); và những vụ án phá sản. Tu chính án thứ mười một dời bỏ khỏi quyền tài phán liên bang những vụ án, trong đó công dân của một tiểu bang là nguyên đơn và chính quyền của một tiểu bang khác là bị đơn. Cũng không thuộc quyền tài phán liên bang là những vụ án trong đó chính quyền một tiểu bang là nguyên đơn và công dân một tiểu bang khác là bị cáo. Hiến pháp bảo đảm tính độc lập của nhánh tư pháp bằng cách quy định các thẩm phán liên bang được duy trì chức vụ "miễn là đạo đức tốt". Điều này có nghĩa là các thẩm phán phục vụ cho đến khi qua đời, về hưu hoặc từ nhiệm. Thẩm phán phạm tội khi đương chức sẽ bị luận tội theo thể thức áp dụng cho tổng thống hoặc các viên chức Chính phủ liên bang. Thẩm phán liên bang được bổ nhiệm bởi tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng viện. Một điều khoản khác của Hiến pháp ngăn cấm Quốc hội cắt giảm lương thẩm phán - Quốc hội có thể làm luật để ấn định mức lương thấp hơn cho các thẩm phán tương lai nhưng không thể cắt giảm lương các thẩm phán đương nhiệm. Bầu cử Theo thời gian, thể thức bầu cử đã thay đổi đáng kể. Trong thời kỳ lập quốc, bầu cử là một vấn đề thuộc thẩm quyền tiểu bang, và chỉ hạn chế cho nam giới da trắng là chủ sở hữu đất. Các cuộc bầu cử trực tiếp được tổ chức để bầu thành viên của Viện Dân biểu (Hạ viện) và viện lập pháp các tiểu bang, mặc dù thể thức của chúng là khác nhau tại mỗi tiểu bang, trong khi hai thượng nghị sĩ đại diện cho mỗi tiểu bang tại thượng viện được chọn bởi đa số phiếu của viện lập pháp tiểu bang. Sau khi Tu chính án thứ mười bảy được phê chuẩn năm 1913, thành viên của cả hai viện Quốc hội mới được bầu trực tiếp. Ngày nay, một phần là do Tu chính án thứ hai mươi sáu, công dân Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở lên không phân biệt giới tính, chủng tộc hoặc tài sản có quyền bầu phiếu phổ thông, và lưỡng viện quốc hội cũng được bầu trực tiếp. Quyền đại diện tại Quốc hội của các lãnh thổ và quận liên bang Washington, D. C. bị giới hạn: cư dân Đặc khu Columbia được đặt dưới thẩm quyền luật liên bang và hệ thống thuế liên bang nhưng đại diện của họ tại quốc hội chỉ có quyền đại biểu không bỏ phiếu. Chính quyền tiểu bang, bộ tộc và địa phương Chính quyền tiểu bang là định chế có ảnh hưởng lớn nhất trên đời sống thường nhật của người dân Mỹ. Mỗi tiểu bang đều có hiến pháp, chính quyền và luật lệ riêng. Đôi khi có những khác biệt lớn trong luật và thủ tục hành chính giữa các tiểu bang liên quan đến những vấn đề như quyền sở hữu, tội phạm, y tế và giáo dục. Chức danh dân cử đứng đầu tiểu bang là Thống đốc. Mỗi tiểu bang đều có một viện lập pháp (theo thể chế lưỡng viện ngoại trừ tiểu bang Nebraska chỉ có một viện), và hệ thống tòa án riêng. Tại một số tiểu bang, thẩm phán tòa tối cao và các tòa dưới được bầu chọn bởi người dân, trong khi ở những bang khác, các thẩm phán được bổ nhiệm theo thể thức áp dụng cho liên bang. Sau phán quyết của Tối cao Pháp viện về vụ án Worcester chống Georgia, các bộ tộc người da đỏ được xem là "các dân tộc độc lập bên trong một quốc gia" được hưởng quyền tự trị dưới thẩm quyền liên bang, nhưng không hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của tiểu bang. Hàng trăm luật lệ, sắc lệnh hành pháp và vụ án đã làm thay đổi vị trí của các bộ tộc đối với chính quyền tiểu bang, nhưng vẫn giữ hai bên tách biệt nhau. Khả năng điều hành chính quyền của các bộ tộc là khác nhau, từ một hội đồng gọn nhẹ quản lý tất cả sự vụ của bộ tộc cho đến một bộ máy hành chính cồng kềnh và phức tạp với các ban ngành khác nhau. Các bộ tộc có quyền tự thành lập chính quyền với thẩm quyền đặt vào tay các hội đồng bộ tộc, chủ tịch hội đồng được dân bầu, hoặc những thủ lĩnh tôn giáo. Quyền công dân (và quyền bầu cử) thường được giới hạn chặt chẽ trong vòng những người có nguồn gốc da đỏ. Những thiết chế chịu trách nhiệm điều hành chính quyền địa phương như thị trấn, thành phố hoặc quận, được quyền ban hành luật trong một số lĩnh vực như giao thông, giấy phép bán rượu và chăn giữ súc vật. Chức vụ dân cử cao cấp nhất của thị trấn hoặc thành phố thường là thị trưởng. Ở vùng Tân Anh, các thị trấn được điều hành theo thể thức dân chủ trực tiếp trong khi ở một vài tiểu bang như Đảo Rhode và Connecticut, chính quyền cấp quận không có hoặc có rất ít quyền lực, chỉ hiện hữu như một sự phân định địa giới. Tại các tiểu bang khác, chính quyền quận được ban cho nhiều thẩm quyền hơn như quyền thu thuế và duy trì các cơ quan thi hành pháp luật.
Neil Alden Armstrong (5 tháng 8 năm 1930 – 25 tháng 8 năm 2012) là một phi hành gia và kỹ sư kỹ thuật hàng không vũ trụ người Mỹ, và cũng là người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng. Ông cũng là một phi công hải quân, phi công thử nghiệm, và giáo sư đại học. Là một cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Purdue, Armstrong đã theo học ngành kỹ thuật hàng không; học phí đại học của ông được Hải quân Hoa Kỳ chi trả theo Kế hoạch Holloway. Ông đã trở thành một chuẩn úy hải quân vào năm 1949 và phi công hải quân vào năm tiếp theo. Ông tham gia vào những hoạt động trong Chiến tranh Triều Tiên, lái chiếc Grumman F9F Panther từ tàu sân bay . Vào tháng 9 năm 1951, trong khi thực hiện một cuộc ném bom tầm thấp, máy bay của Armstrong đã bị hư hại khi va chạm với một dây cáp phòng không cắt đứt một phần lớn của một bên cánh. Armstrong bị buộc phải nhảy dù khỏi máy bay. Sau chiến tranh, ông đã hoàn thành bằng cử nhân tại Purdue và trở thành phi công thử nghiệm tại Trạm bay Tốc độ cao của Ủy ban Cố vấn Hàng không Quốc gia (NACA) tại Căn cứ Không quân Edwards ở California. Ông là phi công dự án trên các máy bay chiến đấu Century Series và bay bảy lần trên chiếc North American X-15. Ông cũng là người tham gia các chương trình Man in Space Soonest và chuyến bay vũ trụ có người trên chiếc X-20 Dyna-Soar, tất cả đều thuộc Không quân Hoa Kỳ. Armstrong gia nhập Quân đoàn Phi hành gia NASA trong nhóm thứ hai, được chọn vào năm 1962. Ông thực hiện chuyến du hành không gian đầu tiên với tư cách là phi công chỉ huy của Gemini 8 vào tháng 3 năm 1966, trở thành phi hành gia dân sự đầu tiên của NASA bay lên vũ trụ. Trong nhiệm vụ này với phi công David Scott, ông đã thực hiện lần đầu tiên hoạt động ghép nối hai tàu vũ trụ; nhiệm vụ đã bị hủy bỏ sau khi Armstrong sử dụng nhiên liệu kiểm soát tái nhập của mình để làm ổn định một chuyển động lộn vòng nguy hiểm gây ra bởi một bộ đẩy bị kẹt. Trong quá trình huấn luyện cho chuyến du hành không gian thứ hai và cuối cùng của Armstrong với tư cách là chỉ huy tàu Apollo 11, ông đã phải bật ghế phóng ra khỏi Phương tiện Di chuyển Nghiên cứu Hạ cánh xuống Mặt Trăng trước khi gặp nạn. Vào ngày 20 tháng 7 năm 1969, Armstrong và phi công Buzz Aldrin của Mô-đun Mặt Trăng (LM) của tàu Apollo 11 đã trở thành những người đầu tiên đáp xuống Mặt Trăng, và ngày hôm sau họ dành hai tiếng rưỡi bên ngoài tàu vũ trụ trong khi Michael Collins vẫn ở trên quỹ đạo mặt trăng ở mô-đun chỉ huy (CM) của nhiệm vụ. Khi Armstrong bước lên bề mặt Mặt Trăng, ông đã phát biểu một câu nói nổi tiếng: "Đây là bước đi nhỏ bé của một con người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại." Cùng với Collins và Aldrin, Armstrong đã được Tổng thống Richard Nixon trao tặng Huân chương Tự do Tổng thống. Tổng thống Jimmy Carter đã trao tặng cho Armstrong Huân chương Danh dự Không gian Quốc hội năm 1978, và Armstrong và các đồng đội cũ của ông đã nhận được Huy chương Vàng Quốc hội năm 2009. Sau khi từ chức tại NASA vào năm 1971, Armstrong giảng dạy tại Khoa Kỹ thuật hàng không vũ trụ tại Đại học Cincinnati cho đến năm 1979. Ông phục vụ trong cuộc điều tra tai nạn Apollo 13 và Ủy ban Rogers, điều tra thảm họa tàu con thoi Challenger. Ông đóng vai trò là người phát ngôn cho một số doanh nghiệp và xuất hiện trong quảng cáo cho thương hiệu ô tô Chrysler bắt đầu từ tháng 1 năm 1979. Cuộc đời và sự nghiệp Armstrong sinh ngày 5/8/1930 tại tiểu bang Ohio, Mỹ. Vào khoảng những năm 1956, ông là một phi công lái thử tại Trạm Bay Tốc độ cao NASA ở Căn cứ Không quân Edwards, tiểu bang us Sau quãng thời gian làm một phi công lái thử, Armstrong có bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp. Ông chuyển sang làm một nhà du hành vũ trụ. Năm 1969, Armstrong nhận nhiệm vụ tham gia chuyến bay Apollo 11 và sứ mệnh đại diện cho cả ngành hàng không vũ trụ Mỹ trong việc đặt chân lên Mặt Trăng. Người Mỹ rất khao khát làm được điều này, sau khi người Nga đã đi trước một bước với việc đưa được con người vào vũ trụ 8 năm trước đó. Sáng sớm ngày 20/7/1969, Armstrong trở thành người đầu tiên đặt chân xuống Mặt Trăng với câu nói nổi tiếng: "Đây là bước đi nhỏ của một con người, nhưng là bước tiến lớn của nhân loại". Sau đó Armstrong và bạn đồng hành Aldrin cùng căng lá quốc kỳ Mỹ trên Mặt Trăng. Sự kiện này được truyền hình trực tiếp trên toàn thế giới và có đến vài trăm triệu người đã theo dõi qua màn hình tivi đen trắng. Với việc trở thành người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng, Armstrong vụt sáng để trở thành một biểu tượng đáng tự hào của rất nhiều thế hệ người Mỹ. Ngày nay, vẫn còn rất nhiều thanh niên Mỹ coi ông là một tấm gương sáng để noi theo. Sau khi thực hiện "bước tiến dài của nhân loại" trên Mặt Trăng vào năm 1969, nhà du hành Neil Armstrong duy trì cuộc sống bình lặng và tránh xa ánh hào quang của quá khứ. Ngay sau chuyến bay lên Mặt Trăng, Armstrong tuyên bố ông sẽ không bay lên vũ trụ nữa. Ông từ bỏ mọi chức vụ tại NASA vào năm 1971 và nhận công việc giảng dạy tại khoa Cơ khí Hàng không của Đại học Cincinnati ở tiểu bang Ohio. Mặc dù từng lái máy bay chiến đấu cho hải quân Mỹ, làm phi công thử nghiệm và phi hành gia cho Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA), Armstrong chưa bao giờ cho phép bản thân chìm đắm trong ánh hào quang sau chuyến bay lên Mặt Trăng vào năm 1969. Ông rất hiếm khi xuất hiện trước công chúng. Vô số công ty muốn ông trở thành người phát ngôn của họ, nhưng ông liên tục từ chối và chỉ chấp nhận lời mời của một số doanh nghiệp. "Tôi, bây giờ và mãi mãi, chỉ là một kỹ sư bình thường", ông từng tuyên bố như vậy vào năm 2000. Khi xuất hiện tại thành phố Dayton vào năm 2003 để tham dự một sự kiện, Armstrong bước lên sân khấu nhưng chỉ phát biểu trước đám đông trong vài giây và không hề đề cập tới Mặt Trăng. Sau đó ông nhanh chóng rời sân khấu. Luôn lẩn tránh ống kính của báo giới, nhưng vào năm 2010, Armstrong xuất hiện trước công chúng để bày tỏ sự lo ngại về chính sách của Tổng thống Obama đối với chương trình thám hiểm vũ trụ. Sau khi nắm quyền, ông Obama không ưu tiên tới việc trở lại Mặt Trăng mà chú trọng vào việc tư nhân hóa hoạt động vận tải vũ trụ. Cùng với hơn 10 cựu phi hành gia của NASA, ông ký một thư kêu gọi chính phủ Mỹ chú trọng việc hướng tới Mặt Trăng trong tương lai. Ngày 25/8/2012, Armstrong qua đời tại chính quê hương Ohio, vì những di chứng sau một ca phẫu thuật tim. Nhận định John Logsdon, giáo sư danh dự của Đại học George Washington, bình luận: "Việc Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng sẽ là một thành tựu mà nhân loại sẽ nhớ mãi. Đó thực sự là sự kiện truyền thông toàn cầu của loài người. Khoảng 600 triệu người, tương đương 20% dân số thế giới, đã xem những bước đi đầu tiên của con người trên Mặt Trăng" Roger Launius, một nhà nghiên cứu của Viện Smithsonian tại Mỹ, cho rằng khi các thế hệ sau liệt kê hai sự kiện lịch sử đáng nhớ nhất của thế kỷ 20, họ sẽ nghĩ tới chuyến đổ bộ đầu tiên lên Mặt Trăng và quả bom nguyên tử đầu tiên:"Không ai có thể đánh giá thấp tầm quan trọng của chuyến đổ bộ đầu tiên lên Mặt Trăng trong lịch sử nhân loại và Armstrong sẽ gắn với sự kiện ấy mãi mãi" Douglas Brinkley, một chuyên gia về lịch sử thế kỷ 20 của Đại học Rice tại Mỹ, bình luận: "Chuyến thám hiểm tới châu Mỹ từ 500 năm trước của Christopher Columbus tạo ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử. Tương tự, Neil Armstrong và phi thuyền Apollo 11 cũng tạo nên một thời đại mới" Howard McCurdy, giáo sư bộ môn vũ trụ và chính sách công của Đại học America tại Mỹ, phát biểu: "20 năm trước khi tàu Apollo 11 bay lên Mặt Trăng, người ta vẫn chỉ nghĩ đó là một giấc mơ viển vông, nhưng Neil Armstrong đã biến nó thành hiện thực. Nếu chúng ta có thể thực hiện điều không tưởng trong lĩnh vực thám hiểm vũ trụ, chúng ta có thể tạo nên kỳ tích tương tự trong những lĩnh vực khác", "Armstrong nhắc tới nhân loại, chứ không phải người Mỹ, trong câu nói bất hủ của ông. Với hành động đó, Armstrong muốn khẳng định chuyến đổ bộ của ông là thành tựu của cả thế giới" Douglas Brinkley, nhà nghiên cứu lịch sử của Đại học Rice tại Mỹ và từng phỏng vấn Armstrong, nói rằng Armstrong có đầy đủ phẩm chất mà NASA đặt ra đối với người đầu tiên bước trên Mặt Trăng. Kiến thức về kỹ thuật của ông là ưu điểm nổi bật nhất. "Tôi nghĩ điểm đáng ngưỡng mộ nhất của Armstrong chính là thái độ lẩn tránh vinh quang. Ông ấy là vị anh hùng đích thực trong thời đại mà con người sẵn sàng làm những việc phi lý để trở nên nổi tiếng". Charles Bolden, giám đốc NASA: "Mọi cuốn sách lịch sử sẽ nhắc tới Neil Armstrong. Người ta sẽ nói rằng ông ấy là người đầu tiên đặt chân lên một thiên thể ngoài Trái Đất" Gia đình Armstrong tuyên bố trong cáo phó trong đám tang ông: "Neil Armstrong là một vị anh hùng bất đắc dĩ, bởi ông ấy nghĩ rằng đặt chân lên Mặt Trăng chỉ là một phần của công việc"
Trong thiên văn học, mô hình địa tâm (tiếng Anh: geocentric model; từ tiếng Hy Lạp: geo "Trái Đất" và kentron "trung tâm") của vũ trụ là lý thuyết cho rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ và Mặt Trời cùng các thiên thể khác quay quanh nó. Hệ này được coi là hình mẫu tiêu chuẩn thời Hy Lạp cổ đại, được cả Aristotle và Ptolemaeus, cũng như đa số các nhà triết học Hy Lạp đồng thuận rằng Mặt Trời, Mặt Trăng, các ngôi sao, và những hành tinh có thể quan sát được bằng mắt thường đều quay quanh Trái Đất. Các ý tưởng tương tự cũng đã xuất hiện ở thời Trung Quốc cổ đại. Aristarchus xứ Samos đã đưa ra một mô hình nhật tâm của hệ mặt trời, nhưng rõ ràng ông ở phe thiểu số tin rằng Trái Đất không nằm ở trung tâm. Người Hy Lạp cổ đại và các nhà triết học thời Trung Cổ thường cho mô hình địa tâm đi cùng với Trái Đất hình cầu, không giống với mô hình Trái Đất phẳng từng được đưa ra trong một số thần thoại. Người Hy Lạp cổ đại cũng tin rằng những sự chuyển động của các hành tinh đi theo đường tròn chứ không phải hình elíp. Quan điểm này thống trị văn hoá phương tây cho tới tận trước thế kỷ 17. Mô hình địa tâm là quan điểm thống trị trước thời Cận đại; từ cuối thế kỷ 16 trở về sau nó dần bị thay thế bởi thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus, Galileo Galilei và Johannes Kepler. Hy Lạp cổ đại Mô hình địa tâm bắt đầu xuất hiện trong triết học và thiên văn học Hy Lạp từ rất sớm. Có thể tìm thấy những dấu vết mô hình này trong triết học tiền socrat. Vào thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên, Anaximander đã đưa ra một vũ trụ học với Trái Đất như một mặt cắt của một cột trụ (một hình trụ), được giữ ở bên trên tại trung tâm tất cả mọi vật. Mặt trời, Mặt Trăng, và các hành tinh được đục trong những bánh xe vô hình quanh Trái Đất; thông qua những hố đó, con người có thể thấy được ngọn lửa thần bí. Cùng thời gian ấy, những môn đồ Pytago dạy rằng Trái Đất là một hình cầu, nhưng không phải ở trung tâm; họ tin rằng nó chuyển động quanh một ngọn lửa thần bí. Sau này các quan điểm đó được phối hợp với nhau, vì thế đa số những học giả Hy Lạp từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên đều nghĩ rằng Trái Đất là một hình cầu tại trung tâm vũ trụ. Trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, hai nhà triết học Hy Lạp có nhiều ảnh hưởng đã viết các tác phẩm dựa trên mô hình địa tâm. Đó là Plato và học trò của mình, Aristotle. Theo Plato, Trái Đất hình cầu, và nằm ở trung tâm vũ trụ. Các ngôi sao và các hành tinh được gắn trên các mặt cầu quay quanh Trái Đất, với thứ thự (từ trong ra ngoài): Mặt Trăng, Mặt trời, Sao Kim, Sao Thủy, Sao Hoả, Sao Mộc, Sao Thổ, các ngôi sao cố định. Trong "Thần thoại Trái Đất" (myth of Er) một phần của cuốn Cộng hoà, Plato miêu tả vũ trụ như Con suốt của sự tất yếu (spindle of necessity), được chăm sóc bởi các Mỹ nhân ngư và được quay bởi ba Thần mệnh. Eudoxus xứ Cnidus, người cùng làm việc với Plato, đã phát triển một cách giải thích ít tính thần bí và khoa học hơn về sự chuyển động của các hành tinh dựa trên lời tuyên bố của Plato cho rằng toàn bộ các hiện tượng trên trời có thể được giải thích bằng một chuyển động tròn duy nhất. Aristotle đã thêm chi tiết vào hệ thống của Eudoxus. Trong hệ thống đã được phát triển đầy đủ của Aristotle, Trái Đất hình cầu nằm ở trung tâm vũ trụ. Mọi vật thể trên trời được gắn với 56 mặt cầu đồng tâm quay quanh Trái Đất. (Số lượng nhiều bởi mỗi hành tinh cần nhiều mặt cầu trong suốt). Mặt Trăng nằm trên mặt cầu gần tâm nhất. Vì thế nó thuộc địa hạt Trái Đất, khiến nó cũng không hoàn hảo, gây nên các chấm đen và phải trải qua các tuần trăng. Nó không hoàn hảo như những vật thể khác trên trời, vốn tự toả sáng bằng ánh sáng của chính mình. Thuyết địa tâm được nhiều người tin theo bởi nó phù hợp với các quan sát thông thường. Đầu tiên, nếu Trái Đất thực sự chuyển động, thì một người trên đó phải quan sát thấy các ngôi sao cố định dời chỗ vì hiện thượng thị sai. Nói gọn, những hình dạng của các chòm sao phải thay đổi ở mức quan sát thấy trong năm. Trên thực tế, các ngôi sao ở quá xa so với Mặt trời và các hành tin tới mức chuyển động của chúng (thực sự có tồn tại) không thể quan sát thấy cho đến tận thế kỷ 19. Vì không thể quan sát thấy thị sai nên bất cứ một thuyết nào khác ngoài mô hình địa tâm đều bị bác bỏ. Một sự quan sát có nhiều ảnh hưởng khác là Sao Kim luôn có độ sáng ổn định trong mọi khoảng thời gian "và vì thế nó luôn ở cùng một khoảng cách so với Trái Đất". Trên thực tế điều đó xảy ra bởi vì phần ánh sáng mất đi trong các tuần của nó bù trừ cho kích thước biểu kiến thay đổi theo khoảng cách của Sao Kim với Trái Đất. Những sự chống đối khác bao gồm ý tưởng do Aristotle đưa ra cho rằng những vật thể to lớn như Trái Đất theo trạng thái tự nhiên phải đứng yên và rằng phải cần có nhiều lực mới có thể làm chúng chuyển động. Một số người cũng tin rằng nếu Trái Đất quay quanh trục của nó thì không khí và các vật thể trên Trái Đất (như chim hay mây) sẽ bị bỏ lại đằng sau. Một sai lầm lớn của các mô hình Eudoxus và Aristotle dựa trên các mặt cầu đồng thâm là họ không thể giải thích được sự thay đổi độ sáng của các hành tinh do sự biến đổi khoảng cách gây ra. Claudius Ptolemaeus Dù những giáo lý căn bản của thuyết địa tâm Hy Lạp được hình thành từ thời Aristotle, các chi tiết về hệ của ông không phải là một tiêu chuẩn. Vinh dự này được dành cho Hệ Ptolemaeus, được nhà thiên văn học Hy Lạp-Rôma Claudius Ptolemaeus (hay còn gọi là Ptolemaeus) đưa ra vào thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên. Cuốn sách thiên văn học quan trọng của ông Almagest là thành quả cao nhất của công trình kéo dài hàng thế kỷ của các nhà thiên văn Hy Lạp; nó đã được chấp nhận trong hơn một nghìn năm sau, được những người châu Âu và các nhà thiên văn học Hồi giáo coi là mô hình vũ trụ chính xác. Vì ảnh hưởng của nó, hệ Ptolemaeus thỉnh thoảng được coi tương tự với mô hình địa tâm. Hệ Ptolemaeus Trong hệ Ptolemaeus, mỗi hành tinh chuyển động trên hai hay nhiều mặt cầu: một mặt cầu chính (deferent) với tâm là Trái Đất, và các mặt cầu khác được gọi là ngoại luân nằm trên mặt cầu chính. Hành tinh chuyển động trên các mặt cầu và ngoại luân đó. Mặt cầu chính quay quanh Trái Đất trong khi ngoại luân quay bên trong mặt cầu chính, khiến hành tinh có thể tiến gần hay rời xa Trái Đất hơn tùy theo các điểm khác nhau trên quỹ đạo của nó, và thậm chí có thể di chuyển chậm, dừng lại, đi giật lùi (trong chuyển động lùi). Các ngoại luân của Sao Kim và Sao Thủy luôn có tâm trên một đường thẳng nối Trái Đất với Mặt trời (Sao Thủy gần Trái Đất hơn), điều này giải thích tại sao chúng luôn gần nhau trên bầu trời. Thứ tự các hành tinh từ Trái Đất trở ra theo hệ Ptolemaeus như sau: Mặt Trăng Sao Thủy Sao Kim Mặt trời Sao Hoả Sao Mộc Sao Thổ Các định tinh Mô hình mặt cầu chính và các ngoại luân đã từng được các nhà thiên văn Hy Lạp sử dụng trong nhiều thế kỷ, cũng như ý tưởng lệch tâm (một mặt cầu chính có tâm hơi lệch khỏi tâm Trái Đất). Trong hình minh hoạ, tâm của mặt cầu chính không phải tâm Trái Đất mà là điểm X, khiến nó bị lệch tâm (trong tiếng Latinh ex- hay e- có nghĩa "từ," và centrum nghĩa "trung tâm"). Không may thay, hệ này ở thời Ptolemaeus không tương thích lắm với các quan sát, thậm chí khi nó đã được cải tiến nhiều so với hệ Aristotle. Thỉnh thoảng kích thước các hành tinh đang thụt lùi (trường hợp dễ thấy nhất là Sao Hoả) nhỏ lại, và thỉnh thoảng lại to hơn. Điều này khiến ông phải đưa ra ý tưởng về một đẳng thước (equant). Điểm đẳng thước là một điểm gần tâm một quỹ đạo hành tinh mà, nếu bạn đứng đó quan sát, trung tâm ngoại luân của hành tinh sẽ luôn thể hiện di chuyển với cùng một tốc độ. Vì thế, hành tinh trên thực tế đang chuyển động với một tốc độ khác nhau tùy theo điểm mà ngoại luân ở trên mặt cầu chính. Khi sử dụng đẳng thứoc, Ptolemaeus muốn giữ chuyển động luôn là đồng nhất và hình tròn, nhưng nhiều người không thích nó bởi vì họ cho rằng nó không chính xác với tuyên bố của Plato về "chuyển động tròn đồng nhất." Hệ thống cuối cùng được nhiều người chấp nhận ở phương tây là một hệ thống rất cồng kềnh khi quan sát theo quan điểm hiện nay; mỗi hành tinh cần một ngoại luân quay quanh mặt cầu chính, được bù thêm bằng một tâm sai khác nhau tùy theo hành tinh. Nhưng hệ này lại phán đoán được chuyển động của nhiều thiên thể, gồm cả sự khởi đầu và kết thúc của chuyển động lùi, khá chính xác ở thời điểm ấy. Hệ địa tâm và các hệ thống đối nghịch khác Không phải tất cả những người Hy Lạp đều đồng tình với mô hình địa tâm. Hệ thống của Pytago đã được đề cập tới; một số người theo trường phái Pytago tin rằng Trái Đất là một trong nhiều hành tinh quay quanh một ngọn lửa thần bí. Hicetas và Ecphantus, hai học trò của Pytago ở thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, và Heraclides Ponticus ở thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, tin rằng Trái Đất quay quanh trục của nó nhưng vẫn là trung tâm của vũ trụ. Một hệ thống như vậy vẫn được coi là hệ địa tâm. Ở thời Trung cổ hệ thống này được Jean Buridan sửa đổi lại. Heraclides Ponticus cũng thỉnh thoảng được cho là đã đưa ra ý tưởng rằng cả Sao Kim và Sao Thủy đều quay quanh Mặt trời chứ không phải Trái Đất, nhưng bằng chứng chứng minh cho ý tưởng đó không rõ ràng. Martianus Capella rõ ràng đã đặt Sao Thủy và Sao Kim trên những ngoại luân quanh Mặt trời. Aristarchus xứ Samos là người có tư tưởng tiến bộ nhất. Ông đã viết một tác phẩm, hiện không còn nữa, về hệ nhật tâm, nói rằng Mặt trời nằm ở trung tâm vũ trụ, trong khi Trái Đất và các hành tinh khác quay quanh nó. Lý thuyết của ông không phổ biến, và chỉ có một người duy nhất được biết đến đã ủng hộ lý thuyết của ông, Seleukos xứ Seleucia. Hệ thống Copernicus Năm 1543 hệ địa tâm lần đầu tiên bị thách thức nghiêm trọng khi Copernicus xuất bản cuốn Về chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium), ấn định rằng Trái Đất và các hành tinh khác đều quay quanh Mặt trời. Hệ địa tâm vẫn còn tồn tại nhiều năm sau đó, bởi vì ở thời ấy hệ Copernicus không đưa ra được các tiên đoán tốt hơn về vị trí các hành tinh so với hệ địa tâm, và nó đặt ra các vấn đề đối với cả triết học tự nhiên và Kinh thánh. Với sự phát minh ra kính viễn vọng năm 1609, những cuộc quan sát đầu tiên do Galileo tiến hành (như Sao Thổ có các Mặt Trăng) đặt ra một số nghi vấn đối với những giáo lý của thuyết địa tâm nhưng không đe dọa nghiêm trọng tới vị trí của nó. Tháng 12 năm 1610, Galileo Galilei đã sử dụng kính viễn vọng của mình chứng minh rằng Sao Kim có trải qua các tuần, giống như các tuần Mặt Trăng. Đây là một bằng chứng cho thấy sự không chính xác của hệ Ptolemaeus. Ptolemaeus đặt Sao Kim bên trong mặt cầu của Mặt trời (giữa Mặt trời và Sao Thủy), đây là hành động tùy tiện; ông chỉ có thể đơn giản đổi vị trí Sao Kim và Sao Thủy rồi đặt chúng vào phía bên kia của Mặt trời, hay đặt chúng ở bất cứ vị trí nào, khi chúng luôn nằm gần đường thẳng từ Trái Đất tới Mặt trời. Trong trường hợp này nếu Mặt trời là nguồn gốc của mọi ánh sáng, theo hệ Ptolemaeus: Nếu Sao Kim nằm giữa Trái Đất và Mặt trời, pha của Sao Kim phải luôn là hình lưỡi liềm hoặc hoàn toàn tối. Nếu Sao Kim ở phía bên kia Mặt trời, pha của Sao Kim phải luôn khuyết hoặc hoàn toàn tròn. Nhưng Galileo quan sát thấy ban đầu Sao Kim nhỏ và tròn đầy nhưng sau đó lớn lên và có hình lưỡi liềm. Các nhà thiên văn học thời kỳ này cho rằng nếu các kết quả được chấp nhận là đúng thì đó là một bằng chứng không thể phủ nhận cho thấy sự sai lầm của vũ trụ học Ptolemaeus. Vì thế, nửa sau thế kỷ 17 là thời gian diễn ra cuộc tranh chấp giữa các mô hình vũ trụ dựa trên hệ thống Tycho của Tycho Brahe (trong đó Trái Đất vẫn nằm ở trung tâm vũ trụ và Mặt trời quay quanh nó, nhưng toàn bộ các hành tinh khác quay quanh Mặt trời theo rất nhiều hệ ngoại luân), và hệ Copernicus. Hấp dẫn: Newton và Einstein Năm 1687, Isaac Newton đưa ra định luật hấp dẫn vũ trụ, cho rằng lực hấp dẫn là lực khiến Trái Đất và các hành tinh chuyển động trong vũ trụ cũng như giữ không khí không bị bay đi mất. Năm 1838, nhà thiên văn học Friedrich Wilhelm Bessel đã đo thành công thị sai của ngôi sao 61 Cygni, và đây được coi là bằng chứng cuối cùng cho thấy Trái Đất đang chuyển động. Từ quan điểm khoa học hiện đại, đặc biệt theo thuyết tương đối rộng của Einstein, không hề có hệ tham chiếu tuyệt đối, mà chỉ có những hệ tham chiếu thích hợp hay không thích hợp cho một mục đích quan sát mà thôi. Một hệ tham chiếu với Trái Đất là trung tâm thích hợp cho những hoạt động thường ngày và đa số các thực nghiệm khác, nhưng nó lại không phải là một lựa chọn tốt cho cơ học hệ mặt trời và du lịch không gian. Trong khi hệ tham chiếu với mặt trời ở trung tâm thích hợp hơn cho những trường hợp đó, thiên văn học thiên hà và ngoại thiên hà dễ tiếp cận hơn nếu coi Mặt trời không đứng yên cũng không phải là trung tâm vũ trụ mà đang quay quanh trung tâm ngân hà. Thuyết địa tâm ngày nay Một số tín đồ chính thống Do Thái, Thiên chúa giáo và Hồi giáo vẫn giải thích theo sách kinh tôn giáo của họ rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ - được gọi là thuyết địa tâm hiện đại. Trong mô hình thiên văn học Mô hình địa tâm (Ptolemaeus) về hệ mặt trời vẫn thường được những người chế tạo các mô hình thiên văn học ưa chuộng, bởi vì, về lý do kỹ thuật, cơ cấu chuyển động của các hành tinh kiểu Ptolemaeus có nhiều ưu thế hơn so với hệ Copernicus. Các mặt cầu thiên thể, được sử dụng cho các mục đích giảng dạy và thỉnh thoảng cho cả mục đích hoa tiêu cũng vẫn dựa trên hệ địa tâm.
Incredimail Xe là một trình duyệt thư điện tử có giao diện đồ họa của công ty Incredimail LTD. Phiên bản Incredimail Xe miễn phí Incredimail Xe Premium
Kim Tae-pyung (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1982), thường được biết đến với nghệ danh Hyun Bin, là nam diễn viên người Hàn Quốc. Anh được biết đến rộng rãi nhờ vai diễn trong bộ phim truyền hình hài lãng mạn My Lovely Sam Soon năm 2005. Kể từ đó, anh đảm nhận nhiều vai chính trong các chương trình truyền hình thành công khác, bao gồm bộ phim giả tưởng lãng mạn Khu vườn bí mật (2010–2011), Memories of the Alhambra (2018–2019) và bộ phim tình cảm lãng mạn Crash Landing On You (2019– 2020). Sự nổi tiếng của Hyun Bin càng được mở rộng khi đóng vai chính trong một loạt thành công phòng vé: Confidential Assignment (2017) và phần tiếp theo năm 2022, The Swindlers (2017), The Negotiation (2018). Anh ấy là nam diễn viên truyền hình của năm theo bình chọn của Gallup Hàn Quốc vào năm 2011. Thành công của các tác phẩm trên trường quốc tế đã giúp anh trở thành một ngôi sao Hallyu hàng đầu. Anh ấy là một trong những diễn viên được trả lương cao nhất và có ảnh hưởng lớn tại Hàn Quốc. Hyun Bin đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình cho màn trình diễn của anh ấy trong bộ phim tình cảm Late Autumn, được chiếu tại Liên hoan phim Quốc tế Berlin lần thứ 61. Trong suốt sự nghiệp điện ảnh và truyền hình của mình, anh ấy đã được đề cử cho một số giải thưởng mang tính biểu tượng, bao gồm năm giải thưởng tại Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang, và giành được nhiều giải thưởng cho sự công nhận diễn xuất của mình, bao gồm Giải thưởng lớn (Daesang) cho TV tại Giải thưởng Nghệ thuật Baeksang lần thứ 47. Sự nghiệp 2004–2009: Sự khởi đầu Hyun Bin ra mắt với tư cách là một diễn viên trong bộ phim truyền hình Bodyguard năm 2003. Sau đó, anh đóng vai chính trong bộ phim sitcom Nonstop 4 và bộ phim tình cảm lãng mạn kỳ quặc Ireland, và ra mắt bộ phim cùng năm trong bộ phim thể thao dành cho giới trẻ Spin Kick. Hyun Bin trở thành ngôi sao với bộ phim hài lãng mạn năm 2005 My Lovely Sam Soon với Kim Sun-a. Bộ phim là một cú hit lớn với rating trung bình hơn 37% và 50,5% cho tập cuối, giúp Hyun Bin giành giải thưởng nhiều giải thưởng lớn tại MBC Drama Awards. Sau thành công của My Lovely Sam Soon, anh đóng vai chính trong bộ phim đầu tiên của mình với tư cách là một diễn viên chính trong A Millionaire's First Love. Bộ phim được nhiều khán giả tuổi teen đón nhận. Tuy nhiên, dự án truyền hình tiếp theo, The Snow Queen đã không thành công. Anh bắt đầu chọn nhiều dự án có chiều sâu hơn, như Worlds Within năm 2008 được chắp bút bởi biên kịch Noh Hee-kyung, I Am Happy - bộ phim được chọn trình chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Busan 2008. Năm 2009, anh đã thu hút được sự hoan nghênh phê phán trong vai diễn xã hội học trong Friend, Our Legend. 2010–2013: Sự nổi tiếng trên thế giới Hyun Bin trải qua sự hồi sinh của sự nổi tiếng vào năm 2010 với Secret Garden cùng bạn diễn Ha Ji Won, một bộ phim giả tưởng lãng mạn được viết bởi Kim Eun-sook. Bộ phim đạt rating hơn 30% và thu hút được nhiều sự quan tâm về thời trang, các câu khẩu hiệu và âm nhạc. Hyun Bin nhận được sự công nhận tại SBS Drama Awards 2010, xuất sắc giành được giải thưởng Daesang cao quý mảng truyền hình tại Giải thưởng nghệ thuật Baeksang lần thứ 47 cho màn diễn xuất của mình. Anh cũng tham gia hát OST của bộ phim với "That Man". Bài hát đạt xếp hạng cao trên các nền tảng âm nhạc của Hàn Quốc. Năm 2011, Hyun Bin đóng vai chính trong hai bộ phim: Come Rain, Come Shine (một tác phẩm độc lập chia tay tối giản của đạo diễn Lee Yoon-ki) và Late Autumn (đạo diễn Kim Tae-yong). Late Autumn là phiên bản làm lại bằng tiếng Anh của tác phẩm kinh điển Lee Man-hee năm 1966, trong đó Hyun Bin đóng vai một người đàn ông đang yêu một người phụ nữ đang ở tù đặc biệt (nữ diễn viên Trung Quốc Tang Wei). Bộ phim trở thành tác phẩm điện ảnh Hàn Quốc có doanh thu cao nhất được phát hành tại Trung Quốc cho đến nay, thu về hơn trong hai tuần, điều chưa từng có đối với một melodrama. Anh nhận được đánh giá tốt từ The Hollywood Reporter, trong đó tuyên bố: "Chính Hyun Bin là người gây ấn tượng nhiều vì thể hiện được khía cạnh bảnh bao, tự ái trong tính cách của nhân vật." Hyun Bin tham gia Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 61, nơi hai bộ phim được chiếu. Anh mô tả vinh dự này là "thành tích hạnh phúc nhất". Ngày 7 tháng 3 năm 2011, Hyun Bin tình nguyện phục vụ 21 tháng nghĩa vụ quân sự bắt buộc trong Thủy quân lục chiến, được coi là nơi phục vụ khó khăn nhất. Anh xuất ngũ vào ngày 6 tháng 12 năm 2012 và được ghi nhận là một người lính gương mẫu. 2014–2016: Sự trở lại Trở lại diễn xuất sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, Hyun Bin chọn tác phẩm The Fatal Encounter, trong vai Vua Jeongjo, người phải đối mặt với những nỗ lực tấn công và ám sát của đảng trong thời kỳ trị vì. Bộ phim được phát hành vào tháng 4 năm 2014, thu hút hơn 3 triệu lượt xem. Tuy nhiên, bộ phim không được công chúng đánh giá cao. Hyde, Jekyll, Me là dự án tiếp theo, một bộ phim lãng mạn năm 2015, trong đó anh vào vai một người đàn ông mắc chứng rối loạn nhân cách chia rẽ (lấy cảm hứng từ nhân vật văn học) mà cả hai nhân cách cùng yêu nhau một người phụ nữ. Tuy nhiên, bộ phim cũng bị đánh giá thấp. Tháng 1 năm 2016, Hyun Bin thành lập công ty đại diện của riêng mình, VAST Entertainment. Công ty đã trở thành công ty con của KaKao Entertainment vào năm 2019. 2017–nay: Sự hồi sinh nghề nghiệp Năm 2017, Hyun Bin trở lại màn ảnh rộng với bộ phim hành động kinh dị mang tên Confidential Assignment, anh trong vai một thám tử Bắc Triều Tiên được bí mật gửi đến Hàn Quốc để bắt giữ một vòng tội phạm được tạo thành từ những kẻ phản bội Bắc Triều Tiên. Bộ phim thành công, Hyun Bin nhận được những đánh giá tích cực cho những cảnh hành động và diễn xuất hài hước của anh ấy. Sau đó, anh đóng vai chính trong bộ phim hành động tội phạm The Swindlers, cùng với Yoo Ji-tae, kể về một công tố viên có kế hoạch bắt một kẻ lừa đảo đã lừa đảo một số tiền lớn. Tác phẩm là một hit phòng vé khác cho Hyun Bin. Năm 2018, Hyun Bin đóng vai chính trong phim kinh dị tội phạm The Negotiation cùng Son Ye-jin, lần đầu tiên hóa thân trong vai phản diện; và bom tấn zombie Rampant (do VAST Entertainment đồng sản xuất). Cùng năm đó, anh trở lại màn ảnh nhỏ với bộ phim giả tưởng Memories of the Alhambra cùng với Park Shin-hye. Bộ phim là một trong những tác phẩm truyền hình Hàn Quốc đạt rating cao nhất trong danh sách phim thuộc đài truyền hình cáp. Năm 2019, Hyun Bin tham gia bộ phim tình cảm Crash Landing On You với tư cách là Ri Jeong-hyeok - một sĩ quan Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Bộ phim thành công lớn, thu hút được đông đảo khán giả. Crash Landing On You cũng là bộ phim có rating cao nhất của đài tvN, cao thứ ba trong lịch sử phim thuộc đài truyền hình cáp. Các hoạt động cộng đồng Sau khi gia nhập Thủy quân lục chiến để thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc và hoàn thành sáu tháng phục vụ, Hyun Bin đã tham gia "Cuộc thi marathon biển kỷ niệm khai hoang Seoul". Anh chạy 6,25 km với 400 lính thủy đánh bộ cao cấp gương mẫu. Sự kiện này được tổ chức để tưởng nhớ sự kiện có ý nghĩa lịch sử khi Thủy quân lục chiến giành lại thủ đô Seoul đã được thực hiện trong Chiến tranh Triều Tiên 6.25. Ngày 29 tháng 10 năm 2013, Hyun Bin nhận được giải thưởng của Tổng thống tại Ngày tiết kiệm thứ 50 do Ủy ban Dịch vụ Tài chính tổ chức, vì đã tiết kiệm được 35 tỷ won (khoảng 3,3 triệu USD) trong vòng 17 năm. Tháng 2 năm 2016, Hyun Bin tham gia vào một chiến dịch nâng cao nhận thức chống lại sự tàn ác của động vật. Là một phần của dự án, công ty VAST Entertainment của Hyun Bin đã công bố những bức ảnh anh chụp cùng một chú chó tìm kiếm và cứu hộ đã nghỉ hưu có tên "Vision". Đời tư Hyun Bin sinh ra và lớn lên ở Seoul và có 1 anh trai. Anh tốt nghiệp Trường Trung học Youngdong và sau đó theo học tại Đại học Chung-Ang vào năm 2004, anh theo học chuyên ngành Sân khấu. Năm 2009, anh tiếp tục theo học tại trường đại học này để lấy bằng Thạc sĩ. Mối quan hệ Ngày 1 tháng 1 năm 2021, công ty quản lý của Hyun Bin xác nhận rằng anh đang hẹn hò với nữ diễn viên Son Ye-jin, bạn diễn của anh trong The Negotiation (2018) và Crash Landing On You (2019–2020), kể từ năm 2020 sau khi Crash Landing On You kết thúc. Ngày 10 tháng 2 năm 2022, Hyun Bin và Son Ye-jin tuyên bố kết hôn thông qua một bức thư được đăng tải trên tài khoản Instagram cá nhân của họ. Ngày 31 tháng 3 năm 2022, Hyun Bin và Son Ye-jin kết hôn trong một buổi lễ riêng tư được tổ chức trước sự chứng kiến ​​của cha mẹ và những người quen của hai bên gia đình. Ngày 27 tháng 6 năm 2022, Son Ye Jin thông báo trên Instagram rằng mình đã mang thai con đầu lòng với ông xã Hyun Bin sau 3 tháng kết hôn. Ngày 27 tháng 11 năm 2022, truyền thông Hàn Quốc đưa tin Son Ye Jin đã thuận lợi hạ sinh bé trai đầu lòng dù sớm hơn vài tuần so với ngày dự sinh. Công ty quản lý của nữ diễn viên lên tiếng xác nhận thông tin trên là chính xác và cho biết sức khỏe của cô cùng em bé đều ổn định. Danh sách phim Phim điện ảnh Phim truyền hình Chương trình truyền hình Video âm nhạc Danh sách đĩa hát Đại sứ Giải thưởng và đề cử
Trong toán học, số hữu tỉ là các số x có thể biểu diễn dưới dạng phân số , trong đó a và b là các số nguyên với b ≠ 0. Tập hợp các số hữu tỉ, hay còn gọi là trường số hữu tỉ, ký hiệu là (chữ đậm) hoặc (chữ viền), Unicode 𝐐/ℚ. Tên Q của tập hợp này được Giuseppe Peano sử dụng lần đầu tiên như là chữ viết tắt của quoziente, nghĩa là tỷ lệ, và xuất hiện lần đầu trong cuốn sách Algèbre của Bourbaki. Khai triển thập phân của một số hữu tỉ kết thúc sau một số hữu hạn chữ số (ví dụ: hoặc thậm chí bắt đầu lặp lại một số hữu hạn cùng dãy các chữ số lặp đi lặp lại (ví dụ: ). Ngược lại, bất kỳ số thập phân lặp lại tuần hoàn hoặc kết thúc sau hữu hạn chữ số đều đại diện cho một số hữu tỉ. Các phát biểu này đúng trong cơ số 10 và trong mọi cơ số nguyên khác (ví dụ: nhị phân hoặc thập lục phân). Một số thực không phải là số hữu tỉ được gọi là số vô tỉ. Một số ví dụ của số vô tỉ bao gồm , , và . Khai triển thập phân của một số vô tỉ kéo dài mãi mà không lặp lại. Vì tập hợp các số hữu tỉ là đếm được và tập hợp các số thực là không đếm được nên hầu như tất cả các số thực đều là số vô tỉ. Số hữu tỉ có thể được định nghĩa một cách chính tắc là các lớp tương đương của các cặp số nguyên với , sử dụng quan hệ tương đương được định nghĩa như sau: Phân số khi đó biểu thị lớp tương đương của . Số hữu tỉ cùng với phép cộng và phép nhân tạo thành một trường trong đó có chứa các số nguyên, và được chứa trong bất kỳ trường nào có chứa các số nguyên. Nói cách khác, trường số hữu tỉ là một trường nguyên tố và một trường có đặc trưng là 0 nếu và chỉ khi nó chứa các số hữu tỉ dưới dạng một trường con. Phần mở rộng hữu hạn của được gọi là trường số đại số và phần đóng đại số của là trường số đại số. Trong giải tích toán học, các số hữu tỉ tạo thành một tập con trù mật của các số thực. Các số thực có thể được xây dựng từ các số hữu tỉ bằng cách hoàn thành, sử dụng chuỗi Cauchy, cắt Dedekind hoặc các số thập phân vô hạn (để biết thêm, xem Xây dựng các số thực). Từ nguyên Thuật ngữ hữu tỷ trong tên của tập hợp đề cập đến thực tế rằng một số hữu tỷ biểu thị một tỷ số của hai số nguyên. Tính từ hữu tỉ đôi khi có nghĩa là các hệ số là số hữu tỉ. Ví dụ, một điểm hữu tỉ là một điểm có toạ độ hữu tỉ (tức là một điểm có toạ độ là số hữu tỉ); một ma trận hữu tỉ là một ma trận của các số hữu tỉ; một đa thức hữu tỉ có thể là một đa thức với các hệ số hữu tỉ, mặc dù thuật ngữ "đa thức trên các số hữu tỉ" thường được ưu tiên hơn, để tránh nhầm lẫn giữa " biểu thức hữu tỉ " và " hàm hữu tỉ" (đa thức là một biểu thức hữu tỉ và định nghĩa một hàm hữu tỉ, ngay cả khi các hệ số của nó không phải là số hữu tỉ). Tuy nhiên, một đường cong hữu tỷ không phải là một đường cong được xác định trên các số hữu tỷ, mà là một đường cong có thể được tham số hóa bằng các hàm hữu tỷ. Từ nguyên này tương tự như từ nguyên của số ảo và số thực. Số học Phân số tối giản Mọi số hữu tỉ có thể được biểu diễn theo một cách duy nhất dưới dạng một phân số tối giản , trong đó và là các số nguyên tố cùng nhau và . Đây thường được gọi là dạng chính tắc của số hữu tỉ. Bắt đầu từ một số hữu tỉ , dạng chính tắc của nó có thể nhận được bằng cách chia và cho ước chung lớn nhất của chúng, và nếu , thay đổi dấu của tử số và mẫu số. Nhúng các số nguyên Mọi số nguyên có thể được biểu diễn dưới dạng số hữu tỉ , là dạng chính tắc của nó dưới dạng một số hữu tỉ. Đẳng thức khi và chỉ khi Nếu cả hai phân số đều ở dạng chính tắc, thì: khi và chỉ khi và Thứ tự Nếu cả hai mẫu số đều dương (đặc biệt nếu cả hai phân số đều ở dạng chính tắc): khi và chỉ khi Mặt khác, nếu một trong hai mẫu số là âm, thì trước tiên mỗi phân số có mẫu số âm phải được chuyển thành dạng tương đương với mẫu số dương — bằng cách đổi dấu của cả tử số và mẫu số của nó. Phép cộng Hai số hữu tỷ được cộng như sau: Nếu cả hai phân số đều ở dạng chính tắc, kết quả sẽ ở dạng chính tắc khi và chỉ khi và là các số nguyên tố cùng nhau. Phép trừ Hai số hữu tỷ được trừ như sau: tùy vào các trường hợp Nếu cả hai phân số đều ở dạng chính tắc, kết quả sẽ ở dạng chính tắc khi và chỉ khi và là các số nguyên tố cùng nhau. Phép nhân Hai số hữu tỷ được nhân như sau: trong đó kết quả có thể là một phân số có thể rút gọn — ngay cả khi cả hai phân số ban đầu đều ở dạng chính tắc. Nghịch đảo phép cộng và phép nhân Mọi số hữu tỉ có một nghịch đảo phép cộng, thường được gọi là số đối của nó, Nếu như ở dạng chính tắc, thì số đối của nó cũng ở dạng này. Một số hữu tỉ khác không có nghịch đảo phép nhân, còn gọi là nghịch đảo của nó, Nếu như ở dạng chính tắc, thì dạng chính tắc của nghịch đảo của nó là hoặc , phụ thuộc vào dấu của . Phép chia Nếu , và khác không, quy tắc chia là Như vậy, chia cho tương đương với nhân với nghịch đảo của : Lũy thừa với số mũ nguyên Nếu là một số nguyên không âm, thì Kết quả ở dạng chuẩn tắc nếu ở dạng chuẩn tắc. Đặc biệt, Nếu , thì Nếu như ở dạng chuẩn tắc, dạng chuẩn tắc của kết quả là nếu hoặc chẵn. Nếu không, dạng chuẩn tắc của kết quả là . Biểu diễn Biểu diễn trong hệ thập phân và các hệ cơ số khác Khi biểu diễn số hữu tỉ theo hệ ghi số cơ số 10 (dạng thập phân), số hữu tỉ có thể là số thập phân hữu hạn hoặc số thập phân vô hạn tuần hoàn và ngược lại. Một phân số tối giản với mẫu dương và mẫu không có ước nguyên tố nào ngoài 2 và 5 thì phân số đó viết được dưới dạng số thập phân hữu hạn VD: phân số có mẫu số là không có ước nguyên tố nào khác 5 nên có thể viết được dưới dạng số thập phân hữu hạn Một phân số tối giản với mẫu dương và mẫu có ít nhất 1 ước nguyên tố khác 2 và 5 thì phân số đó viết dưới dạng số thập phân vô hạn tuần hoàn Ví dụ 1: phân số có mẫu số là 7 nên được viết dưới dạng số thập phân vô hạn tuần hoàn Ví dụ 2: phân số có mẫu số là 17 nên được viết dưới dạng số thập phân vô hạn tuần hoàn Dãy các chữ số lặp lại trong biểu diễn thập phân của các số thập phân vô hạn tuần hoàn được gọi là chu kỳ, và số các chữ số trong chu kỳ này có thể chứng minh được rằng không vượt quá |b|. Một cách tổng quát, trong một hệ cơ số bất kỳ, các chữ số sau dấu phẩy của số hữu tỉ là hữu hạn hoặc vô hạn tuần hoàn. Biểu diễn bằng liên phân số Một liên phân số hữu hạn là một biểu thức chẳng hạn như trong đó là các số nguyên. Mọi số hữu tỉ có thể được biểu diễn dưới dạng một liên phân số hữu hạn, mà hệ số có thể được xác định bằng cách áp dụng thuật toán Euclide cho . Xây dựng tập các số hữu tỉ từ tập số nguyên Trong toán học hiện đại, người ta xây dựng tập hợp các số hữu tỉ như trường các thương của . Xét tập tích Decaters: = Trên đó xác định một quan hệ tương đương: lớp tương đương của cặp (a, b) được ký hiệu là a/b và gọi là thương của a cho b: Tập các lớp này (tập thương) được gọi là tập các số hữu tỷ và ký hiệu là . Trên tập định nghĩa các phép toán: Khi đó nếu và thì ; và . Do đó các phép toán trên có thể được chuyển sang thành các phép toán trên tập các lớp tương đương nói trên, nghĩa là tập . Để xem là bộ phận của ta nhúng vào nhờ đơn ánh cho mỗi số nguyên n ứng với lớp n/1 trong .\ Tính chất Tập hợp Z của tất cả các số hữu tỉ, cùng với các phép toán cộng và nhân được trình bày ở trên, tạo thành một trường. Z không có phép tự đẳng cấu nào ngoài giá trị đơn vị. Với thứ tự được định nghĩa ở trên, là trường có thứ tự không có trường con nào khác ngoài chính nó, và là trường có thứ tự nhỏ nhất, theo nghĩa là mọi trường có thứ tự đều chứa một trường con duy nhất đẳng cấu với Z. Z là trường phân số của tập hợp các số nguyên . Tính đóng đại số của , tức là trường của các nghiệm của các đa thức hữu tỷ, là trường của các số đại số. Tập hợp tất cả các số hữu tỉ có thể đếm được (xem hình vẽ), trong khi tập hợp tất cả các số thực (cũng như tập hợp các số vô tỉ) là không đếm được. Có thể đếm được, tập hợp các số hữu tỉ là tập hợp rỗng, tức là hầu hết tất cả các số thực đều vô tỉ, theo nghĩa của độ đo Lebesgue. Số hữu tỷ là một tập hợp có trật tự trù mật: giữa hai số hữu tỷ bất kỳ, có một số hữu tỷ khác, và do đó, có vô số số hữu tỷ khác giữa chúng. Ví dụ, đối với hai phân số bất kỳ thỏa mãn (với đều dương), ta có Bất kỳ tập hợp có thứ tự hoàn toàn nào có thể đếm được, trù mật (theo nghĩa trên) và không có phần tử nhỏ nhất hoặc lớn nhất nào là đẳng cấu thứ tự với tập hợp các số hữu tỉ. Với số thực và tính chất pô Số hữu tỉ là một tập con trù mật của các số thực: mọi số thực đều có các số hữu tỉ gần nó một cách tùy ý. Một tính chất liên quan là số hữu tỉ là số duy nhất có mở rộng hữu hạn dưới dạng liên phân số thông thường. Theo thứ tự của chúng, các số hữu tỷ có một cấu trúc liên kết trật tự. Các số hữu tỉ, như một không gian con của các số thực, cũng có một cấu trúc liên kết không gian con. Các số hữu tỉ tạo thành một không gian số liệu bằng cách sử dụng metric chênh lệch tuyệt đối , và điều này tạo ra một cấu trúc liên kết thứ ba trên . Tất cả ba cấu trúc liên kết trùng hợp và biến các hợp lý thành một trường tôpô. Các số hữu tỉ là một ví dụ quan trọng của một không gian không phải là nhỏ gọn cục bộ. Các hợp lý được đặc trưng về mặt cấu trúc liên kết là không gian có thể đếm được duy nhất mà không có điểm cô lập. Không gian này cũng hoàn toàn bị ngắt kết nối. Các số hữu tỉ không tạo thành một không gian số liệu hoàn chỉnh  ; các số thực là sự hoàn thành của theo metric bên trên. Số -adic Ngoài metric giá trị tuyệt đối được đề cập ở trên, có những số liệu khác biến thành một trường tô pô liên kết: Cho là một số nguyên tố và với mọi số nguyên khác không , cho , trong đó là lũy thừa cao nhất của chia hết . Ngoài ra ta đặt . Đối với bất kỳ số hữu tỉ , ta đặt . Khi đó xác định một metric trên Không gian metric không hoàn chỉnh và phần hoàn thành của nó là trường số -adic . Định lý Ostrowski phát biểu rằng bất kỳ giá trị tuyệt đối không tầm thường nào trên số hữu tỉ đều tương đương với giá trị tuyệt đối thực thông thường hoặc giá trị tuyệt đối -adic.
Trong toán học, các số vô tỷ là tất cả các số thực không phải là số hữu tỷ, nghĩa là không thể biểu diễn dưới dạng tỉ số của hai số nguyên. Khi tỷ lệ độ dài của hai đoạn thẳng là một số vô tỉ, các đoạn thẳng này cũng được mô tả là không thể đo lường được, có nghĩa là chúng không chia sẻ "thước đo" chung, nghĩa là không có độ dài ("số đo") chung, dù là ngắn đến đâu, mà có thể được sử dụng để thể hiện độ dài của cả hai đoạn thẳng đã cho dưới dạng bội số nguyên của cùng một đoạn thẳng đơn vị chung. Các ví dụ về số vô tỉ là tỷ lệ của chu vi của vòng tròn với đường kính của nó, số Euler e, tỷ lệ vàng φ, và căn bậc hai của hai; trong thực tế, tất cả các căn bậc hai của số tự nhiên, trừ căn bậc hai của các số chính phương, đều là các số vô tỉ. Có thể chỉ ra rằng các số vô tỉ, khi được biểu thị trong một hệ thống cơ số (ví dụ như số thập phân hoặc với bất kỳ cơ số tự nhiên nào khác), là các chuỗi không chấm dứt, cũng không lặp lại, nghĩa là không chứa một chuỗi các chữ số, mà có sự lặp lại ở phần đuôi của cách biểu diễn số. Ví dụ: biểu diễn thập phân của số bắt đầu bằng 3.14159, nhưng không có số chữ số hữu hạn nào có thể đại diện chính xác cho số , và cũng không có sự lặp lại. Việc chứng minh cho thấy việc mở rộng thập phân của số hữu tỉ phải chấm dứt hoặc lặp lại khác với chứng minh rằng việc mở rộng thập phân chấm dứt hoặc lặp lại phải là một số hữu tỉ, và mặc dù sơ cấp và không dài, cả hai chứng minh đều không đơn giản. Các nhà toán học thường không coi việc thể hiện thập phân là "chấm dứt hoặc lặp lại" là định nghĩa của khái niệm số hữu tỉ. Số vô tỉ cũng có thể được xử lý thông qua các liên phân số không kết thúc. Như một hệ quả của chứng minh của Cantor rằng các số thực là không thể đếm được và các số hữu tỷ có thể đếm được, theo đó hầu như tất cả các số thực là các số vô tỉ. Lịch sử Hy Lạp cổ đại Bằng chứng đầu tiên cho thấy về sự tồn tại của các số vô tỉ thường được quy cho một người theo trường phái Pythagore (cũng có thể là Hippasus của Metapontum), người có thể đã phát hiện ra chúng trong khi xác định các cạnh của ngôi sao năm cánh. Phương pháp Pythagore hiện tại đã tuyên bố rằng phải có một số đơn vị đủ nhỏ, không thể phân chia, có thể vừa khít với một trong những độ dài này cũng như các chiều dài khác. Tuy nhiên, Hippasus, vào thế kỷ thứ 5 TCN, đã có thể suy luận rằng trên thực tế không có đơn vị đo lường chung nào, và việc khẳng định sự tồn tại như vậy trên thực tế là một mâu thuẫn. Ông đã làm điều này bằng cách chứng minh rằng nếu cạnh huyền của tam giác vuông cân thực sự có tỷ lệ đo được khi so với cạnh góc vuông, thì một trong những độ dài được đo theo đơn vị đo đó phải là số lẻ và số chẵn, điều này là không thể. Lý luận của ông là như sau: Giả sử chúng ta có một tam giác vuông cân với các số nguyên cạnh a, b và c. Tỷ lệ của cạnh huyền với một chân được biểu thị bằng c:b. Giả sử a, b và c là các số hạng nhỏ nhất có thể (nghĩa là chúng không có ước số chung). Theo định lý Pythagoras: c2 = a2 + b2 = b2 + b2 = 2b2. (Vì tam giác là cân, nên a = b). Vì c2 = 2b2, c2 chia hết cho 2 và do đó chẵn. Vì c2 là chẵn nên c phải chẵn. Vì c là chẵn nên chia c cho 2 có thương là số nguyên. Đặt y là số nguyên này (c = 2y). Bình phương cả hai vế của c = 2y thu được c2 = (2y)2 hoặc c2 = 4y2. Thay 4y2 cho c2 theo phương trình thứ nhất (c2 = 2b2) cho kết quả 4y2 = 2b2. Chia cho 2 thu được 2y2 = b2. Vì y là một số nguyên và 2y2 = b2, b2 phải chia hết cho 2 và do đó là số chẵn. Vì b2 là chẵn nên b phải chẵn. Chúng ta vừa chỉ ra rằng cả b và c phải là số chẵn. Do đó chúng có ước số chung là 2. Tuy nhiên, điều này mâu thuẫn với giả định rằng chúng không có ước số chung. Mâu thuẫn này chứng minh rằng cả c và b không thể là số nguyên và do đó, có sự tồn tại của một số không thể biểu thị bằng tỷ lệ của hai số nguyên. Các nhà toán học Hy Lạp đã gọi tỉ lệ này là các số không thể đo lường được, hoặc không thể diễn tả được. Tuy nhiên, Hippasus không được ca ngợi vì những nỗ lực của mình: theo một truyền thuyết, ông đã khám phá ra điều này khi đang ở ngoài biển và sau đó bị các nhà toán học cùng trường phái Pythagore của ông ném ra khỏi tàu vì đã tạo ra một yếu tố trong vũ trụ mà phản đối lại học thuyết, rằng tất cả các hiện tượng trong vũ trụ có thể được tối giản thành các số nguyên và tỉ lệ của chúng." Một truyền thuyết nói rằng Hippasus chỉ đơn thuần là phải đi lưu vong vì chứng minh này. Dù hậu quả của Hippasus là gì, khám phá của ông đã đặt ra một vấn đề rất nghiêm trọng đối với toán học Pythagore, vì nó phá vỡ giả định rằng số lượng và hình học không thể tách rời – một nền tảng của lý thuyết này. Việc phát hiện ra các tỉ lệ không thể tối giản/đo được cho thấy một vấn đề khác mà người Hy Lạp phải đối mặt: mối quan hệ của sự rời rạc với sự liên tục. Điều này đã được Zeno of Elea đưa ra ánh sáng, người đã đặt câu hỏi về quan niệm rằng số lượng là rời rạc và bao gồm một số lượng đơn vị hữu hạn có kích thước nhất định. Các quan niệm của Hy Lạp trong quá khứ cho rằng chúng nhất thiết phải có, vì toàn bộ các số đại diện cho các đối tượng rời rạc và tỉ lệ tương xứng biểu thị mối quan hệ giữa hai bộ sưu tập các đối tượng rời rạc, nhưng Zeno thấy rằng "trong thực tế số lượng không phải là tổng/tập hợp của các đơn vị; Đây là lý do tại sao các tỉ lệ không thể giải quyết được [số lượng] xuất hiện. Số lượng, nói cách khác là liên tục." Điều này có nghĩa là, trái với quan niệm phổ biến về thời gian, không thể có một đơn vị không thể chia nhỏ nhất, mà chúng ta có thể dùng nó như đơn vị đo cho bất kỳ số lượng nào. Trong thực tế, các phân chia số lượng này nhất thiết phải là vô hạn. Ví dụ, hãy xem xét một đoạn thẳng: đoạn thẳng này có thể được chia làm đôi, một nửa chia thành một nửa nữa, một nửa mới chia này tiếp tục chia thành một nửa nữa, và như vậy. Quá trình này có thể tiếp tục đến vô tận, vì luôn có một nửa khác bị chia đôi. Càng nhiều lần đoạn thẳng được chia đôi, đơn vị đo càng gần bằng 0, nhưng nó không bao giờ đạt đến số 0 chính xác. Đây chỉ là những gì Zeno tìm cách chứng minh. Ông đã tìm cách chứng minh điều này bằng cách xây dựng bốn nghịch lý, điều này chứng minh những mâu thuẫn vốn có trong tư tưởng toán học thời đó. Mặc dù nghịch lý của Zeno đã chứng minh chính xác những thiếu sót của các quan niệm toán học khi đó, chúng không được coi là bằng chứng của sự thay thế. Trong suy nghĩ của người Hy Lạp, việc bác bỏ tính hợp lệ của một quan điểm không nhất thiết phải chứng minh tính hợp lệ của một quan điểm khác, và do đó phải tiến hành điều tra thêm. Bước tiếp theo được Eudoxus của Cnidus thực hiện, người đã chính thức nêu ra một lý thuyết mới về tỷ lệ có tính đến số lượng tương xứng cũng như không thể so sánh được. Trung tâm của ý tưởng của ông là sự phân biệt giữa cường độ và số lượng. Một cường độ... không phải là một con số mà là viết tắt của các thực thể như đoạn thẳng, góc, diện tích, khối lượng và thời gian có thể thay đổi, như chúng ta sẽ nói, liên tục. Độ lớn trái ngược với các con số, nhảy từ giá trị này sang giá trị khác, chẳng hạn từ 4 đến 5." Các số được tạo thành từ một số đơn vị nhỏ nhất, không thể chia, trong khi cường độ có thể giảm vô hạn. Do không có giá trị định lượng nào được gán cho độ lớn, Eudoxus sau đó có thể tính cả hai tỷ lệ tương xứng và không thể đo được bằng cách xác định tỉ lệ theo độ lớn của nó và tỷ lệ là một đẳng thức giữa hai tỉ lệ. Bằng cách lấy các giá trị định lượng (số) ra khỏi phương trình, ông tránh được cái bẫy phải biểu thị một số vô ỉỷ dưới dạng số. Lý thuyết của Eoxoxus cho phép các nhà toán học Hy Lạp đạt được tiến bộ to lớn về hình học bằng cách cung cấp nền tảng logic cần thiết cho các tỷ lệ vô tỷ. Tính không tương thích này được giải quyết trong Tác phẩm Cơ bản của Euclid, Quyển X, Proposition 9. Do sự phân biệt giữa số lượng và cường độ, hình học trở thành phương pháp duy nhất có thể biểu diễn được các tỉ lệ là số vô tỉ. Bởi vì các nền tảng số học trước đây vẫn chưa tương thích với khái niệm về số vô tỉ, trọng tâm của toán học Hy Lạp đã ngừng tập trung nghiên cứu các khái niệm về số như đại số và hầu như chỉ tập trung vào hình học. Trong thực tế, trong nhiều trường hợp, các khái niệm đại số đã được cải tổ thành các thuật ngữ hình học. Điều này có thể giải thích cho lý do tại sao chúng ta vẫn quan niệm x2 và x3 là x bình phương và x lập phương thay vì x mũ hai và x mũ ba. Cũng rất quan trọng đối với tác phẩm của Zeno với cường độ (số vô tỉ) không thể đo lường được là trọng tâm cơ bản trong lý luận suy diễn xuất phát từ sự tan vỡ nền tảng của toán học Hy Lạp trước đó. Việc nhận ra rằng một số quan niệm cơ bản trong lý thuyết hiện tại là mâu thuẫn với thực tế cần phải có một cuộc điều tra đầy đủ và kỹ lưỡng về các tiên đề và giả định làm nền tảng cho lý thuyết đó. Xuất phát từ sự cần thiết này, Eudoxus đã phát triển phương pháp cạn kiệt của mình, một loại chứng minh phản chứng mà "đã thành lập cách thức suy diễn trên cơ sở các tiên đề rõ ràng, cũng như khẳng định và củng cố cho cách thức chứng minh trước đó. Phương pháp cạn kiệt này là bước đầu tiên trong việc tạo ra môn vi tích phân. Theodorus của Cyrene chứng minh tính vô tỷ của khai căn của các số nguyên lên đến khai căn của các số nhỏ hơn 17, nhưng dừng lại ở đó có lẽ vì đại số ông sử dụng không thể được áp dụng cho căn bậc n của 17. Chỉ đến khi mà Eudoxus phát triển một lý thuyết về tỷ lệ có tính đến các tỷ lệ là số vô tỉ cũng như tỉ lệ là số hữu tỉ, một nền tảng toán học mạnh mẽ của các số vô tỉ mới được tạo ra. Biểu diễn thập phân Có thể dùng biểu diễn thập phân (hay sự biểu diễn của một số trong hệ thập phân) của một số để định nghĩa số hữu tỉ và số vô tỉ. Nếu như mọi số hữu tỉ đều có biểu diễn thập phân hoặc hữu hạn (số thập phân hữu hạn, ví dụ: ) hoặc vô hạn tuần hoàn (số thập phân vô hạn tuần hoàn, ví dụ: ) thì số vô tỉ có biểu diễn thập phân vô hạn nhưng không tuần hoàn (ví dụ: .) Một số thực là số vô tỉ khi và chỉ khi biểu diễn liên phân số của nó là vô hạn. Các ví dụ về cách chứng minh Căn bậc hai của 2 Giả sử rằng là một số hữu tỉ. Tức là √2 có thể viết được dưới dạng a/b với a và b là 2 số nguyên dương nguyên tố cùng nhau (vì √2 >0) có thể được viết dưới dạng: với a, b là hai số nguyên dương nguyên tố cùng nhau (vì √2 >0) Khi đó Nên chia hết cho suy ra a chia hết cho b (vì a và b là 2 số nguyên dương) Suy ra mâu thuẫn với giả thiết a và b là 2 số nguyên dương nguyên tố cùng nhau ở (1) Vậy nên giả sử là một số hữu tỉ là sai và ta có kết luận là số vô tỉ. Cách chứng minh trên có thể được tổng quát hóa để chứng tỏ rằng: "căn bậc hai của một số tự nhiên bất kì hoặc là một số nguyên hoặc là một số vô tỉ." Các cách chứng minh khác Để chứng minh: " là một số vô tỉ" người ta còn dùng phương pháp phản chứng theo cách khác, cách này ít nổi tiếng hơn cách ở trên. Giả sử rằng là một số hữu tỉ. Điều này có nghĩa là tồn tại hai số nguyên dương m và n sao cho Biến đổi đẳng thức trên, ta có: Vì > 1, nên từ (1) suy ra Từ (2) và (3) suy ra là phân số rút gọn của phân số Từ (4) suy ra, không thể là phân số tối giản hay không thể là số hữu tỉ - mâu thuẫn với giả thiết là một số hữu tỉ. Vậy phải là số vô tỉ. Cách chứng minh trên tương tự với cách dùng phép dựng hình để chứng minh giả thuyết về số - một loại phương pháp chứng minh được sử dụng bởi các nhà hình học Hy Lạp cổ đại. Xét một tam giác vuông cân mà độ dài tương ứng của các cạnh góc vuông và cạnh huyền là hai số nguyên dương n và m. Áp dụng Định lý Pytago, ta suy ra tỉ số bằng . Mặt khác, bằng phương pháp dựng hình cổ điển com-pa và thước thẳng ta dựng được một tam giác vuông cân nhỏ hơn với độ dài của các cạnh góc vuông và cạnh huyền tương ứng bằng và . Áp dụng Định lý Pytago cho tam giác thứ hai, ta suy ra tỉ số cũng bằng . Như vậy, , điều này chứng tỏ phân số không thể là phân số tối giản hay không phải là số hữu tỉ mà phải là số vô tỉ. Căn bậc hai của 10 Giả sử là số hữu tỉ, tức là bằng , vậy: trong đó m, n là số nguyên Tuy nhiên, trong hệ thập phân, bất kỳ số bình phương nào cũng có số chẵn số 0 ở cuối. (Chứng minh: Bất kỳ số nguyên n nào, trong hệ thập phân, đều có dạng: , trong đó a không kết thúc bằng số 0. Vậy bất kỳ số bình phương nào cũng có dạng: .) Như vậy, trong đẳng thức ở trên, vế trái có số chẵn số 0 ở cuối, nhưng vế phải lại có số lẻ số 0 ở cuối. Vậy giả thiết là số hữu tỉ phải sai. Căn bậc ba của 2 Giả sử A = là một số hữu tỉ.Có nghĩa là tồn tại m,n là số nguyên sao cho . Suy ra A là nghiệm hữu tỉ của phương trình: ; Suy ra m là ước của 2, n là ước của 1. Tuy nhiên không có m nào là ước của 2 mà lũy thừa 3 bằng 2. Vậy A là vô tỉ. Căn bậc n của tất cả các số nguyên tố Dùng cùng phương pháp này, ta có thể chứng minh rằng căn bậc n của bất kỳ số nguyên nào cũng phải hoặc là số nguyên hoặc là số vô tỉ. Lấy số nguyên bất kỳ r. Ví dụ, r = 2. Trong hệ nhị phân, Vậy, như ở trên, nếu = thì, trong hệ nhị phân: trong đó m, n là số nguyên Trường hợp n = 1 không thể xảy ra, vì ta biết không phải là số nguyên. Lập luận như trên, vế trái có số chẵn số 0 (trong hệ nhị phân) ở cuối, nhưng vế phải lại có số lẻ số 0 ở cuối. Vậy giả thiết là số hữu tỉ phải sai. Với số nguyên r bất kỳ, cũng chứng minh như trên trong hệ r - phân: trong đó m, n là số nguyên Nếu n = 1 thì , vậy là số nguyên. Còn nếu n ≠ 1 thì, như trên, một số bình phương trong hệ r - phân phải có số chẵn số 0 (trong hệ r - phân) ở cuối. Do đó trong đẳng thức này vế trái có số chẵn số 0 ở cuối nhưng vế phải lại có số lẻ số 0 ở cuối. Vậy không thể là số hữu tỉ. Tỉ lệ vàng Điểm I chia đoạn thẳng AB theo tỉ lệ vàng nếu A, I, B thẳng hàng và với Ai > IB Tỉ số vàng là một số vô tỉ. Thật vậy, giả sử tỉ số này là một số hữu tỉ, thì nó có dạng phân số tối giản là , với x là chiều dài của cả đoạn và a là chiều dài của phần lớn. Suy ra, chiều dài của phần nhỏ là x − a. Và ta có: Điều này có nghĩa là phân số tối giản được rút gọn thành - một sự vô lý. Sự vô lý này chứng tỏ việc thừa nhận tỉ số φ là số hữu tỉ là sai. Vậy φ là một số vô tỉ. Lôgarít Có lẽ, các số vô tỉ dễ nhận ra nhất là các lôgarít. Dưới đây ta sử dụng phương pháp phản chứng để chứng minh rằng log23 là một số vô tỉ: Giả sử log23 là một số hữu tỉ. Khi đó tồn tại hai số nguyên dương m và n thỏa mãn: log23 = Từ (1) suy ra 2m/n = 3. Nâng hai vế của (2) lên lũy thừa bậc n, ta có: 2m = 3n. Mặt khác, 2m - lũy thừa cơ số 2 với số mũ nguyên dương luôn lớn hơn 0 và chẵn (vì là tích với ít nhất một thừa số 2), còn 3n - lũy thừa cơ số 3 với số mũ nguyên dương luôn lớn hơn 0 và lẻ (vì là tích của các thừa số lẻ), nên 2m ≠ 3n. Từ (3) và (4) suy ra mâu thuẫn, chứng tỏ điều giả sử ban đầu: "log23 là một số hữu tỉ" là sai. Tương tự, bạn có thể chứng minh cho trường hợp: log102. Chứng minh e là số vô-tỉ Xem chứng minh ở bài số e. Số vô tỉ siêu việt và vô tỉ đại số Một số vô tỉ hoặc là số siêu việt hoặc là số đại số (hay Không-đa thức với các hệ số nguyên), trong đó hầu hết các số vô tỉ đều là số siêu việt và số siêu việt là số vô tỉ. Ví dụ: , là các số vô tỉ đại số; còn e và π là các số vô tỉ siêu việt.</font> Có thể tạo ra các số vô tỉ đại số, bằng cách xét các phương trình đa thức: Trong đó, các hệ số là số nguyên và Giả sử rằng có ít nhất một số thực x sao cho (ví dụ, với n lẻ ta luôn tìm được một số x như vậy) thì x là số vô tỉ khi phương trình đa thức trên không có nghiệm hữu tỉ. Nếu đa thức p có nghiệm hữu tỉ thì các nghiệm đó có dạng , trong đó: r là ước của và s là ước của . Vì thế bằng cách thử trực tiếp các giá trị trên bạn có thể biết chúng có phải là nghiệm của p không. Nếu tất cả các giá trị đó đều không là nghiệm của p thì x phải là số vô tỉ. Ví dụ, bằng cách trên bạn có thể chỉ ra rằng là một số vô tỉ đại số. Thật vậy, ta có do đó , phương trình thứ hai là một phương trình đa thức không có nghiệm hữu tỉ, vì các giá trị đều không phải là nghiệm của nó. Để tạo ra các số vô tỉ siêu việt, bạn không thể dùng cách kết hợp các số đại số với nhau, vì các số đại số lập thành một trường, hơn nữa, là một trường đóng. Nhưng bạn có thể dùng cách kết hợp các số siêu việt với các số đại số. Ví dụ: , , và là các số vô tỉ (cũng là các số siêu việt). Câu hỏi chưa có lời giải Các số và là số vô tỉ hay không phải là số vô tỉ? Thực tế, chưa ai tìm ra được một cặp số nguyên khác 0 m và n để khẳng định rằng hoặc là số vô tỉ hoặc không phải là số vô tỉ. Cũng chưa ai khẳng định được các số: , , , hằng số Catalan và hằng số Euler-Mascheroni γ có phải là số vô tỉ hay không. Mặt khác, theo Công thức Euler thì eiπ + 1 = 0 nên eiπ = -1 lại là một số nguyên, tức là số hữu tỉ Tập hợp số vô tỉ Tập hợp số vô tỉ là tập hợp không đếm được (trong khi tập hợp số hữu tỉ là tập hợp đếm được và tập hơp số thực là tập hợp cả số vô tỉ và hữu tỉ.. Tập hợp số vô tỉ đại số, hay tập hợp số vô tỉ không siêu việt, là tập hợp đếm được. Tập hợp số vô tỉ dùng giá trị tuyệt đối làm độ đo khoảng cách là một không gian Metric không đầy đủ. Tuy nhiên, không gian Metric này đồng phôi với không gian Metric đầy đủ của tất cả các dãy số nguyên dương; với ánh xạ đồng phôi cho bởi liên phân số mở rộng. Điều đó được chứng minh bằng định lý Baire cho không gian các số vô tỉ. Trong khi, tập hợp các số thực với tính tô-pô thông thường là liên thông, thì không gian Barie, cùng với tính tô-pô như các số thực, được gọi là tô-pô thứ tự, lại hoàn toàn rời rạc: không có một ánh xạ nào đi từ số vô tỉ này đến độ dài của một số vô tỉ khác. Tập hợp số vô tỉ: Kí hiệu là Các tập hợp số : Tập hợp số tự nhiên : Tập hợp số nguyên : Tập hợp số hữu tỉ : Tập hợp số vô tỉ : Tập hợp số thực
Trong toán học, số nguyên được định nghĩa một cách thông dụng là một số có thể được viết mà không có thành phần phân số. Ví dụ: 21, 4, 0 và −2048 là các số nguyên, trong khi 9,75, và không phải là số nguyên. Tập hợp các số nguyên bao gồm 0, các số tự nhiên dương (, , ,...), còn được gọi là số đếm, và các nghịch đảo phép cộng của chúng (là các số nguyên âm, tức là, −1, −2, −3, ...). Tập hợp các số nguyên thường được biểu thị bằng chữ in đậm () hoặc chữ lớn có viền với chữ cái "Z" bắt nguồn từ tiếng Đức Zahlen (nghĩa là "số"). là một tập hợp con của tập hợp các số hữu tỷ , đến lượt nó là một tập hợp con của tập hợp các số thực . Giống như tập hợp các số tự nhiên, là tập hợp vô hạn đếm được. Các số nguyên tạo thành nhóm nhỏ nhất và vành nhỏ nhất chứa các số tự nhiên. Trong lý thuyết số đại số, các số nguyên đôi khi được coi là số nguyên hữu tỉ để phân biệt chúng với các số nguyên đại số tổng quát hơn. Trên thực tế, số nguyên (hữu tỉ) là số nguyên đại số mà cũng là số hữu tỉ. Ký hiệu Biểu tượng có thể được dùng để biểu thị các tập hợp khác nhau, với cách sử dụng khác nhau giữa các tác giả khác nhau: , hoặc đối với các số nguyên dương, hoặc cho các số nguyên không âm và cho các số nguyên khác 0. Một số tác giả sử dụng ký hiệu cho các số nguyên khác 0, trong khi những người khác sử dụng nó cho các số nguyên không âm hoặc cho . Ngoài ra, được sử dụng để biểu thị tập các số nguyên modulo (tức là tập các lớp đồng dư của các số nguyên) hoặc tập các số nguyên -adic.. vì vậy nếu muốn sử dụng ký hiệu hoặc ký hiệu thì phải định nghĩa lại trên đề kiểm tra, nếu trên đề không có định nghĩa thì xem như đề đó là sai. Có một số bài bài toán chứng minh quy nạp thường hay sử dụng để loại đi trường hợp khác không.Chúng ta phải căn cứ vào sách giáo khoa lớp 6 làm căn cứ, trong sách lớp 6 tập hợp số nguyên chỉ có kí hiệu là Z nên khi chúng ta cho đề mà có sử dụng ký hiệu khác thường như hoặc thì chúng ta phải định nghĩa trên đề là hoặc là tập hợp các số tự nhiên khác không, nếu không có định nghĩa trên đề thì xem như đề đó là sai Tính chất Giống như các số tự nhiên, là tập hợp đóng với các phép toán cộng và nhân, tức là tổng và tích của hai số nguyên bất kỳ là một số nguyên. Tuy nhiên, với việc bao gồm cả các số nguyên âm (và quan trọng là 0), , không giống như các số tự nhiên, cũng là tập hợp đóng với phép trừ. Các số nguyên tạo thành một vành đơn vị, vốn là vành cơ bản nhất, theo nghĩa sau: đối với bất kỳ vành đơn vị nào, đều có một phép đồng cấu duy nhất từ các số nguyên vào vành này. Thuộc tính phổ quát này, cụ thể là một đối tượng ban đầu trong loại vành, là đặc trưng cho vành . không đóng với phép chia, vì thương của hai số nguyên (ví dụ: 1 chia cho 2) có thể không là số nguyên. Mặc dù các số tự nhiên là đóng với phép lũy thừa, nhưng các số nguyên thì không (vì kết quả có thể là một phân số khi số mũ là âm). Bảng sau liệt kê một số tính chất cơ bản của phép cộng và phép nhân đối với bất kỳ số nguyên , và : Trong ngôn ngữ của đại số trừu tượng, năm thuộc tính đầu tiên được liệt kê ở trên khẳng định rằng là một nhóm abel với phép cộng. Nó cũng là một nhóm cyclic, vì mọi số nguyên khác 0 đều có thể được viết dưới dạng tổng hữu hạn hoặc . Trên thực tế, với phép cộng là nhóm tuần hoàn vô hạn duy nhất — theo nghĩa là bất kỳ nhóm tuần hoàn vô hạn nào đều là đẳng cấu với . Bốn thuộc tính đầu tiên được liệt kê ở trên cho phép nhân nói rằng cùng với phép nhân là một monoid giao hoán. Tuy nhiên, không phải mọi số nguyên đều có nghịch đảo nhân (như trường hợp của số 2), có nghĩa là với phép nhân không phải là một nhóm. Tất cả các quy tắc từ bảng thuộc tính trên (ngoại trừ quy tắc cuối cùng), khi được kết hợp với nhau, nói rằng cùng với phép cộng và phép nhân là một vành giao hoán có phần tử đơn vị. Nó là nguyên mẫu của tất cả các đối tượng của cấu trúc đại số như vậy. Chỉ những đẳng thức của biểu thức là đúng trong cho tất cả các giá trị của biến, thì cũng là đúng trong bất kỳ vành giao hoán có đơn vị nào. Một số số nguyên khác 0 ánh xạ tới 0 trong một số vành nhất định. Việc thiếu các ước số của 0 trong các số nguyên (thuộc tính cuối cùng trong bảng) có nghĩa là vành giao hoán là một miền nguyên. Việc thiếu các phép nghịch đảo của phép nhân, tương đương với thực tế là không phải là đóng với phép chia, có nghĩa là không phải là một trường. Trường nhỏ nhất chứa các số nguyên dưới dạng một vành con là trường các số hữu tỉ. Quá trình xây dựng các số hữu tỉ từ các số nguyên có thể được bắt chước để tạo thành trường phân số của bất kỳ miền nguyên nào. Và ngược lại, bắt đầu từ trường số đại số (phần mở rộng của số hữu tỉ), vành số nguyên của nó có thể được trích xuất, bao gồm như là vành con của nó. Mặc dù phép chia thông thường không được định nghĩa trên , phép chia "với phần dư" được xác định trên chúng. Nó được gọi là phép chia Euclid, và có tính chất quan trọng sau: cho hai số nguyên và với , tồn tại các số nguyên và duy nhất sao cho và , ở đâu biểu thị giá trị tuyệt đối của . Số nguyên được gọi là thương và được gọi là phần dư của phép chia cho . Thuật toán Euclid để tính ước số chung lớn nhất hoạt động với một chuỗi các phép chia Euclid. Một lần nữa, trong ngôn ngữ của đại số trừu tượng, phần trên nói rằng là một vành Euclid. Điều này ngụ ý rằng là một vành ideal chính và bất kỳ số nguyên dương nào cũng có thể được viết dưới dạng tích của các số nguyên tố theo một cách cơ bản duy nhất. Đây là định lý cơ bản của số học. Thuộc tính lý thuyết thứ tự là một tập hợp có thứ tự hoàn toàn không có giới hạn trên hoặc dưới. Thứ tự của được định nghĩa là: Một số nguyên là dương nếu nó lớn hơn 0 và âm nếu nó nhỏ hơn 0. Số không (0) được định nghĩa là không âm cũng không dương. Thứ tự của các số nguyên tương thích với các phép toán đại số theo cách sau: Nếu và , thì Nếu và , thì . Vì vậy, ta kết luận rằng cùng với thứ tự trên là một vành có thứ tự. Các số nguyên là nhóm abel có thứ tự hoàn toàn không tầm thường duy nhất có các phần tử dương được sắp xếp theo thứ tự hợp lý. Điều này tương đương với tuyên bố rằng bất kỳ vành đánh giá Noether nào cũng là một trường — hoặc một vành định giá vô cùng quan trọng. Xây dựng Trong quá trình dạy học ở trường tiểu học, các số nguyên thường được định nghĩa một cách trực quan là các số tự nhiên (dương), số 0 và các số đối của các số tự nhiên. Tuy nhiên, kiểu định nghĩa này dẫn đến nhiều trường hợp khác nhau (mỗi phép toán số học cần được xác định trên mỗi tổ hợp các kiểu số nguyên) và khiến việc chứng minh rằng các số nguyên tuân theo các định luật số học khác nhau trở nên tẻ nhạt. Do đó, trong toán học lý thuyết tập hợp hiện đại, một cấu trúc trừu tượng hơn cho phép người ta xác định các phép toán số học mà không có bất kỳ phân biệt trường hợp nào thường được sử dụng để thay thế. Do đó, các số nguyên có thể được xây dựng chính thức như các lớp tương đương của các cặp số tự nhiên có thứ tự . Trực giác là là viết tắt của kết quả của phép trừ -. Để xác nhận kỳ vọng của chúng ta rằng và biểu thị cùng một số, chúng ta xác định quan hệ tương đương trên các cặp này với quy tắc sau: chỉ khi Phép cộng và phép nhân các số nguyên có thể được định nghĩa theo các phép toán tương đương trên các số tự nhiên; bằng cách sử dụng để biểu thị lớp tương đương có là thành viên, lớp này có: Số đối (hoặc phép nghịch đảo của phép cộng) của một số nguyên có được bằng cách đảo ngược thứ tự của cặp: Do đó phép trừ có thể được định nghĩa là phép cộng với nghịch đảo của phép cộng: Thứ tự tiêu chuẩn trên các số nguyên được đưa ra với bất đẳng thức: khi và chỉ khi Dễ dàng xác minh rằng các định nghĩa này không phụ thuộc vào việc lựa chọn đại diện của các lớp tương đương. Mọi lớp tương đương có một thành viên duy nhất có dạng hoặc (hoặc cả hai cùng một lúc). Số tự nhiên được xác định với lớp (nghĩa là, các số tự nhiên được nhúng vào các số nguyên bằng cách ánh xạ gửi tới ) và lớp được ký hiệu (điều này bao gồm tất cả các lớp còn lại và cho lớp 2 lần do Do đó, được ký hiệu là Nếu các số tự nhiên được xác định với các số nguyên tương ứng (sử dụng phép nhúng được đề cập ở trên), thì quy ước này không tạo ra sự mơ hồ. Ký hiệu này phục hồi biểu diễn quen thuộc của các số nguyên là } } } }. Một số ví dụ: Trong khoa học máy tính lý thuyết, các cách tiếp cận khác để xây dựng các số nguyên được sử dụng bởi các máy dò định lý tự động và các công cụ viết lại thuật ngữ. Số nguyên được biểu diễn dưới dạng các thuật ngữ đại số được xây dựng bằng cách sử dụng một vài phép toán cơ bản (ví dụ: zero, succ, pred) và, có thể, sử dụng các số tự nhiên, được giả định là đã được xây dựng (sử dụng phương pháp Peano). Tồn tại ít nhất mười cách xây dựng các số nguyên có dấu. Các cấu trúc này khác nhau theo một số cách: số lượng các phép toán cơ bản được sử dụng cho cấu trúc, số lượng (thường là từ 0 đến 2) và các loại đối số được các phép toán này chấp nhận; sự hiện diện hay vắng mặt của các số tự nhiên làm đối số của một số phép toán này và thực tế là các phép toán này có phải là hàm tạo tự do hay không, tức là cùng một số nguyên có thể được biểu diễn chỉ bằng một hoặc nhiều số hạng đại số. Kỹ thuật xây dựng các số nguyên được trình bày ở trên trong phần này tương ứng với trường hợp cụ thể trong đó có một cặp phép toán cơ bản duy nhất nhận đối số là hai số tự nhiên và và trả về một số nguyên (bằng ). Thao tác này không tự do vì số nguyên 0 có thể được viết là cặp (0,0), hoặc cặp (1,1) hoặc cặp (2,2), v.v. Kỹ thuật xây dựng này được sử dụng bởi trợ lý chứng minh Isabelle; tuy nhiên, nhiều công cụ khác sử dụng các kỹ thuật xây dựng thay thế, đáng chú ý là những kỹ thuật dựa trên các cấu trúc tự do, đơn giản hơn và có thể được thực hiện hiệu quả hơn trong máy tính. Máy tính Một số nguyên thường là một kiểu dữ liệu nguyên thủy trong các ngôn ngữ máy tính. Tuy nhiên, kiểu dữ liệu số nguyên chỉ có thể đại diện cho một tập hợp con của tất cả các số nguyên, vì máy tính thực tế có dung lượng hữu hạn. Ngoài ra, trong biểu diễn phép bù hai phổ biến, định nghĩa cố hữu của dấu phân biệt giữa "âm" và "không âm" thay vì "âm, dương và 0 ". (Tuy nhiên, chắc chắn máy tính có thể xác định được liệu một giá trị số nguyên có thực sự là số dương hay không.) Các kiểu dữ liệu xấp xỉ số nguyên có độ dài cố định (hoặc tập hợp con) được ký hiệu là int hoặc Integer trong một số ngôn ngữ lập trình (chẳng hạn như Algol68, C, Java, Delphi, v.v..). Các biểu diễn số nguyên có độ dài thay đổi, chẳng hạn như bignum, có thể lưu trữ bất kỳ số nguyên nào vừa với bộ nhớ của máy tính. Các kiểu dữ liệu số nguyên khác được triển khai với kích thước cố định, thường là một số bit là lũy thừa của 2 (4, 8, 16, v.v.) hoặc một số chữ số thập phân (ví dụ: 9 hoặc 10). Lực lượng Lực lượng của tập hợp các số nguyên bằng (aleph-null). Điều được dễ dàng chứng minh bằng việc xây dựng một song ánh, đó là một hàm đơn ánh và toàn ánh từ đến . Nếu như sau đó xem xét hàm sau: } Nếu như thì ta xem xét hàm sau: } Nếu miền bị hạn chế trong vậy thì mỗi và mọi phần tử của có một và chỉ một phần tử tương ứng của và theo định nghĩa của bình đẳng lực lượng thì hai tập hợp này có lực lượng bằng nhau.
Trong toán học, một số thực là một giá trị của một đại lượng liên tục có thể biểu thị một khoảng cách dọc theo một đường thẳng (hoặc cách khác, đại lượng có thể được biểu diễn dưới dạng khai triển thập phân vô hạn). Tính từ thực trong bối cảnh này được René Descartes giới thiệu vào thế kỷ 17, với mục đích phân biệt giữa nghiệm thực và ảo của đa thức. Các số thực bao gồm tất cả các số hữu tỷ, chẳng hạn như số nguyên −5 và phân số 4/3 và tất cả các số vô tỷ, chẳng hạn như (1.41421356..., căn bậc hai của 2, số đại số vô tỷ). Bao gồm trong các số vô tỷ là các số siêu việt, chẳng hạn như số (3.14159265...). Ngoài việc đo khoảng cách, số thực có thể được sử dụng để đo các đại lượng như thời gian, khối lượng, năng lượng, vận tốc và nhiều đại lượng khác. Tập hợp các số thực được biểu thị bằng ký hiệu R hoặc và đôi khi được gọi là "thực". Các số thực có thể được coi là các điểm trên một dòng dài vô hạn gọi là trục số, trong đó các điểm tương ứng với các số nguyên cách đều nhau. Bất kỳ số thực nào cũng có thể được xác định bằng cách biểu diễn thập phân vô hạn, chẳng hạn như số 8.632, trong đó mỗi chữ số liên tiếp được tính bằng một phần mười giá trị của số trước. Trục số thực có thể được coi là một phần của mặt phẳng phức. Những mô tả về các số thực không đủ nghiêm ngặt theo các tiêu chuẩn hiện đại của toán học thuần túy. Việc phát hiện ra một định nghĩa phù hợp nghiêm ngặt về các con số thực sự, thực tế, việc nhận ra rằng một định nghĩa tốt hơn là cần thiết là một trong những phát triển quan trọng nhất của toán học thế kỷ 19. Định nghĩa tiên đề theo tiêu chuẩn hiện tại là các số thực tạo thành trường có thứ tự hoàn chỉnh Dedekind cho đến một đẳng cấu, trong khi các định nghĩa xây dựng phổ biến của các số thực bao gồm khai báo chúng là tương đương các lớp trình tự Cauchy của các số hữu tỷ, cắt Dedekind hoặc biểu diễn thập phân vô hạn, cùng với các diễn giải chính xác cho các phép toán số học và quan hệ thứ tự. Tất cả các định nghĩa này đáp ứng định nghĩa tiên đề và do đó là tương đương. Tập hợp tất cả các số thực là không thể đếm được; nghĩa là: trong khi tập hợp tất cả các số tự nhiên và các tập hợp của tất cả các số thực đều là các tập hợp vô hạn, không thể có hàm đơn ánh từ những số thực tới các số tự nhiên: lực lượng của tập hợp của tất cả các số thực (được gọi là lực lượng của continuum) lớn hơn nhiều so với lực lượng của tập hợp tất cả các số tự nhiên . Tuyên bố rằng không có tập hợp con của số thực với số lượng lớn hơn tập hợp số tự nhiên và hoàn toàn nhỏ hơn tập hợp các số thực được gọi là giả thuyết continuum (CH). Giả thuyết này được biết là không thể chứng minh được và cũng không thể bác bỏ được bằng cách sử dụng các tiên đề của lý thuyết tập hợp Zermelo Muff Fraenkel bao gồm tiên đề chọn (ZFC), nền tảng tiêu chuẩn của toán học hiện đại, theo nghĩa của một số mô hình của ZFC thỏa mãn CH, trong khi các mô hình khác lại vi phạm nó. Lịch sử Phân số đơn giản được sử dụng bởi người Ai Cập khoảng 1000 BC; trong "Kinh điển Sulba " Vệ đà ("Các quy tắc của hợp âm"), , bao gồm những gì có thể được gọi là "việc sử dụng" đầu tiên của số vô tỷ. Khái niệm về số vô tỷ đã được các nhà toán học Ấn Độ đầu tiên chấp nhận một cách ngầm định kể từ Manava , những người nhận thức được rằng căn bậc hai của một số số nhất định như 2 và 61 không thể được xác định chính xác. Khoảng 500 TCN, các nhà toán học Hy Lạp do Pythagoras làm lãnh đạo nhận ra sự cần thiết của các số vô tỷ, đặc biệt là sự vô tỷ của căn bậc hai của 2. Thời Trung cổ đã đưa ra sự chấp nhận các số 0, âm, số nguyên và phân số, đầu tiên bởi các nhà toán học Ấn Độ và Trung Quốc, và sau đó là các nhà toán học Ả Rập, những người đầu tiên coi các số vô tỷ là các đối tượng đại số, nhờ sự phát triển của môn đại số. Các nhà toán học Ả Rập đã hợp nhất các khái niệm " số " và " độ lớn " thành một ý tưởng tổng quát hơn về các số thực. Nhà toán học Ai Cập Abū Kamil Shuja ibn Aslam là người đầu tiên chấp nhận số vô tỉ như các nghiệm của phương trình bậc hai hoặc như hệ số trong một phương trình, thường ở dạng của căn bậc hai, căn bậc ba và căn bậc bốn. Vào thế kỷ 16, Simon Stevin đã tạo ra cơ sở cho ký hiệu thập phân hiện đại và nhấn mạnh rằng không có sự khác biệt giữa các số hữu tỷ và số vô tỷ trong vấn đề này. Vào thế kỷ 17, Descartes đã giới thiệu thuật ngữ "thực" để mô tả nghiệm của một đa thức, phân biệt chúng với những nghiệm "ảo". Trong thế kỷ 18 và 19, có nhiều công trình về những số vô tỷ và số siêu việt. Johann Heinrich Lambert (1761) đã đưa ra chứng minh sai đầu tiên rằng không thể là số hữu tỷ; sau đó Adrien-Marie Legendre (1794) đã hoàn thành chứng minh này, và cho thấy rằng không phải là căn bậc hai của một số hữu tỷ. Paolo Ruffini (1799) và Niels Henrik Abel (1842) đều đã chứng minh thành công định lý Abel-Ruffini: nội dung là phương trình bậc 5 hoặc cao hơn không thể được giải quyết bằng một công thức chung chỉ gồm các phép toán cộng trừ nhân chia và khai căn. Évariste Galois (1832) đã phát triển các kỹ thuật để xác định liệu một phương trình đã cho có thể được giải bằng phép khai căn, điều này đã tạo ra lĩnh vực của lý thuyết Galois. Joseph Liouville (1840) đã chỉ ra rằng cả e và e2 đều không thể là nghiệm số của một phương trình bậc hai có hệ số nguyên, và sau đó thiết lập sự tồn tại của các số siêu việt; Georg Cantor (1873) đã mở rộng và đơn giản hóa rất nhiều chứng minh này. Charles Hermite (1873) lần đầu tiên chứng minh rằng e là số siêu việt, và Ferdinand von Lindemann (1882), chứng minh rằng là siêu việt. Chứng minh của Lindemann đã được Weierstrass (1885) đơn giản hóa, và tiếp tục được David Hilbert (1893) đơn giản hóa tiếp, và cuối cùng đã được Adolf Hurwitz và Paul Gordan đơn giản hóa đến mức độ đại số sơ cấp. Sự phát triển của vi tích phân trong thế kỷ 18 đã sử dụng toàn bộ tập hợp các số thực mà không xác định chúng rõ ràng. Định nghĩa chặt chẽ đầu tiên của số thực được Georg Cantor công bố vào năm 1871. Năm 1874, ông chứng minh rằng tập hợp tất cả các số thực là vô hạn không đếm được nhưng tập hợp tất cả các số đại số là vô hạn đếm được. Trái với niềm tin rộng rãi, phương pháp chứng minh đầu tiên của ông không phải là lập luận đường chéo nổi tiếng của ông, mà ông đã xuất bản năm 1891. Xem bằng chứng không thể đếm được đầu tiên của Cantor. Định nghĩa Hệ thống số thực có thể được định nghĩa theo hệ tiên đề theo phép đẳng cấu, được mô tả sau đây. Cũng có nhiều cách để xây dựng hệ thống số thực "" và một cách tiếp cận phổ biến bao gồm việc bắt đầu từ các số tự nhiên, sau đó xác định các số hữu tỉ về mặt đại số, và cuối cùng là xác định các số thực như các lớp tương đương của dãy Cauchy của chúng hoặc như cắt Dedekind, mà là một tập hợp con nhất định của tập hợp số hữu tỉ. Một cách tiếp cận khác là bắt đầu từ một số tiên đề chặt chẽ của hình học Euclide (theo cách nói của Hilbert hoặc của Tarski), và sau đó xác định hệ thống số thực về mặt hình học. Tất cả các cấu trúc này của các số thực đã được chứng minh là tương đương, có nghĩa là các hệ thống số này là đẳng cấu với nhau. Tiếp cận dùng tiên đề Tập hợp là tập hợp tất cả các số thực, mà thỏa mãn các điều kiện sau: Tập hợp là một trường, nghĩa là phép cộng và phép nhân được xác định và có các thuộc tính thông thường. Trường được sắp xếp theo thứ tự, nghĩa là có tổng thứ tự ≥ sao cho tất cả các số thực x, y và z: nếu x ≥ y thì x + z ≥ y + z; nếu x ≥ 0 và y ≥ 0 thì xy ≥ 0. Thứ tự là hoàn tất (đầy đủ, hoàn thành) Dedekind, có nghĩa là mọi tập con S không rỗng của với giới hạn trên trong có giới hạn trên nhỏ nhất (hay còn gọi là supremum) nằm trong . Thuộc tính cuối cùng là thứ phân biệt số thực với số hữu tỷ (và với các trường khác có thứ tự kỳ lạ hơn). Ví dụ, có giới hạn trên hợp lý (ví dụ: 1,42), nhưng không có giới hạn trên hợp lý nhỏ nhất, vì không phải là số hữu tỷ. Các thuộc tính này ngụ ý thuộc tính Archimedes (không được ngụ ý bởi các định nghĩa khác về tính đầy đủ), cho biết rằng tập hợp các số nguyên không có giới hạn trên trong số thực. Trên thực tế, nếu điều này là sai, thì các số nguyên sẽ có giới hạn trên N nhỏ nhất; khi đó, N - 1 sẽ không là giới hạn trên và sẽ có một số nguyên n sao cho , và do đó , điều này mâu thuẫn với thuộc tính giới hạn trên của N. Các số thực được chỉ định duy nhất bởi các thuộc tính trên. Chính xác hơn, với bất kỳ hai trường có thứ tự hoàn chỉnh Dedekind và , tồn tại một trường duy nhất đẳng cấu từ đến . Tính duy nhất này cho phép chúng ta nhìn nhận về chúng về cơ bản là cùng một đối tượng toán học. Đối với một tiên đề khác về , hãy xem tiên đề của Tarski về số thực. Xây dựng từ các số hữu tỉ Các số thực có thể được xây dựng như một sự hoàn chỉnh hóa các số hữu tỉ, theo cách mà một dãy được xác định bằng khai triển thập phân hoặc nhị phân như (3; 3.1; 3.14; 3.141; 3.1415;...) hội tụ thành một số thực duy nhất —Trong trường hợp này là . Để biết chi tiết và các cấu trúc khác của số thực, hãy xem cấu tạo của số thực. Tính chất Các tính chất cơ bản Bất kỳ số thực khác không là số âm hoặc số dương. Tổng và tích của hai số thực không âm cũng là một số thực không âm, nghĩa là chúng được đóng trong các phép toán này và tạo thành một vành số dương, từ đó tạo ra một thứ tự tuyến tính của các số thực dọc theo một trục số. Những số thực tạo nên một tập hợp vô hạn các số mà không thể được đơn ánh tới tập hợpvô hạn của các số tự nhiên, tức là có vô cùng nhiều không đếm được các số thực, trong khi các số tự nhiên được gọi là tập hợp vô hạn đếm được. Điều này chứng tỏ rằng trong một số ý nghĩa, có nhiều số thực hơn so với các phần tử trong bất kỳ tập hợp đếm được nào. Có một hệ thống các tập hợp con vô hạn có thể đếm được của các số thực, ví dụ: số nguyên, số hữu tỷ, số đại số và số tính được, mỗi tập hợp là một tập hợp con thực sự của tập hợp tiếp theo. Các phần bù của tất cả các tập hợp này (số thực vô tỷ, số siêu việt và số không tính toán được) đối với các số thực, đều là các tập hợp vô hạn không đếm được. Số thực có thể được sử dụng để thể hiện các phép đo đại lượng liên tục. Chúng có thể được biểu thị bằng các biểu diễn thập phân, hầu hết chúng có một chuỗi các chữ số vô hạn ở bên phải dấu thập phân; chúng thường được biểu diễn như 324.823122147..., trong đó dấu chấm lửng (ba dấu chấm) chỉ ra rằng vẫn còn nhiều chữ số nữa sẽ xuất hiện. Điều này gợi ý cho thực tế rằng chúng ta chỉ có thể biểu thị chính xác một vài số thực được chọn với một số hữu hạn chữ số. Chính thức hơn, các số thực có hai thuộc tính cơ bản là trường có thứ tự và có thuộc tính cận trên thấp nhất. Thuộc tính đầu tiên nói rằng các số thực bao gồm một trường, với phép cộng và phép nhân cũng như phép chia cho các số khác không, có thể được sắp xếp hoàn toàn trên một trục số theo cách tương thích với phép cộng và phép nhân. Thuộc tính thứ hai nói rằng, nếu một tập hợp các số thực không trống có giới hạn trên, thì nó có cận trên là số thực nhỏ nhất. Điều kiện thứ hai phân biệt các số thực với các số hữu tỷ: ví dụ: tập hợp các số hữu tỷ có bình phương nhỏ hơn 2 là tập hợp có giới hạn trên (ví dụ 1,5) nhưng không có cận trên tối thiểu (là số hữu tỷ): do đó các số hữu tỷ không đáp ứng các tính chất có cận trên nhỏ nhất. Tính hoàn chỉnh Một lý do chính cho việc sử dụng số thực là nhiều dãy số có giới hạn không hữu tỷ. Về mặt hình thức hơn, các số thực là hoàn chỉnh (theo nghĩa của không gian số liệu hoặc không gian đồng nhất, nghĩa là khác với tính hoàn chỉnh Dedekind của thứ tự trong phần trước): Một dãy (xn) gồm các số thực được gọi là dãy Cauchy nếu với bất kỳ nào tồn tại số nguyên N (có thể phụ thuộc vào ε) sao cho khoảng cách nhỏ hơn ε với mọi n và m đều lớn hơn N. Định nghĩa này, ban đầu được Cauchy đưa ra, chuẩn hóa thực tế rằng xn cuối cùng tiến đến và gần sát nhau một cách tùy ý. Một dãy (xn) hội tụ đến giới hạn x nếu các phần tử của nó cuối cùng đến và tiếp tục gần với x một cách tùy ý, nghĩa là, nếu với bất kỳ thì tồn tại một số nguyên N (có thể phụ thuộc vào ε) sao cho khoảng cách nhỏ hơn ε với mọi n lớn hơn N. Mọi dãy hội tụ là một dãy Cauchy, và điều ngược lại đúng với các số thực, và điều này có nghĩa là không gian tôpô của các số thực là hoàn chỉnh. Tập hợp các số hữu tỉ là không đầy đủ. Ví dụ, dãy (1; 1.4; 1.41; 1.414; 1.4142; 1.41421;...), trong đó mỗi số hạng thêm một chữ số của khai triển thập phân của căn bậc hai dương của 2, là dãy Cauchy nhưng nó không hội tụ thành một số hữu tỉ (ngược lại, trong tập hợp các số thực, nó hội tụ về căn bậc hai dương của 2). Tính chất đầy đủ của các số thực là cơ sở để xây dựng phép vi tích phân, và nói chung là giải tích toán học. Đặc biệt, việc kiểm tra rằng một dãy là một dãy Cauchy cho phép chứng minh rằng một dãy có giới hạn, mà không cần tính toán giới hạn này, và thậm chí không cần biết về nó. Ví dụ, chuỗi tiêu chuẩn của hàm mũ hội tụ tới một số thực với mọi x, vì tổng có thể được làm nhỏ tùy ý (không phụ thuộc vào M) bằng cách chọn N đủ lớn. Điều này chứng tỏ rằng chuỗi này là một chuỗi Cauchy, và do đó hội tụ, cho thấy rằng được xác định rõ ràng với mọi x. "Trường được xếp thứ tự hoàn chỉnh" Các số thực thường được mô tả là "trường có thứ tự hoàn chỉnh", một cụm từ có thể được hiểu theo nhiều cách. Đầu tiên, một thứ tự có thể là hoàn thành bên trong nó. Dễ dàng nhận thấy rằng không có trường có thứ tự nào có thể là hoàn chỉnh bên trong nó, bởi vì nó không thể có phần tử lớn nhất (với bất kỳ phần tử z, z+1 là lớn hơn). Ngoài ra, một thứ tự có thể là hoàn chỉnh Dedekind. Hai khái niệm về tính hoàn chỉnh này bỏ qua cấu trúc trường. Tuy nhiên, một nhóm có thứ tự (trong trường hợp này là nhóm phụ gia của trường) xác định cấu trúc đồng nhất, và cấu trúc đồng nhất có khái niệm về tính hoàn chỉnh là một trường hợp đặc biệt. (việc đề cập đến khái niệm đầy đủ trong không gian đồng nhất hơn là khái niệm có liên quan và được biết đến nhiều hơn cho không gian mêtric, vì định nghĩa của không gian metric dựa trên việc đã có đặc điểm của các số thực.) không phải là trường có thứ tự hoàn chỉnh thống nhất duy nhất, nhưng nó là trường Archimedes hoàn chỉnh đồng nhất duy nhất, và thực sự người ta thường nghe thấy cụm từ "trường Archimedes hoàn chỉnh" thay vì "trường có thứ tự hoàn chỉnh". Mọi trường Archimedes hoàn chỉnh đồng nhất cũng phải là trường hoàn chỉnh Dedekind (và ngược lại). Cảm giác đầy đủ này có liên quan chặt chẽ nhất đến việc xây dựng các thực từ các chuỗi Cauchy (việc xây dựng được thực hiện đầy đủ trong bài viết này), vì nó bắt đầu với trường Archimedean (các số hữu tỷ) và tạo thành sự hoàn thành đồng nhất của nó theo một cách tiêu chuẩn. Nhưng cách sử dụng ban đầu của cụm từ "trường Archimedes hoàn chỉnh" là của David Hilbert, người có hàm ý với ý nghĩa khác. Ý của Hilbert là các số thực tạo thành trường Archimedes lớn nhất theo nghĩa là mọi trường Archimedes khác là một trường con của . Như vậy là "hoàn chỉnh" theo nghĩa là không thể thêm gì nữa mà không làm cho nó không còn là một trường Archimedes. Cảm giác đầy đủ này có liên quan chặt chẽ nhất đến việc xây dựng các số thực từ các số siêu thực, vì việc xây dựng đó bắt đầu với một lớp thích hợp chứa mọi trường có thứ tự (số siêu thực) và sau đó chọn từ đó trường con Archimedes lớn nhất. Các tính chất nâng cao Các số thực là không thể đếm được; nghĩa là, có nhiều số thực hơn số tự nhiên, mặc dù cả hai tập hợp này đều là vô hạn. Trên thực tế, bản số của số thực bằng với bản số của các tập hợp con (tức là tập hợp lũy thừa) của các số tự nhiên, và lập luận đường chéo của Cantor nói rằng bản số của tập hợp sau lớn hơn hẳn so với bản số của . Vì tập hợp các số đại số có thể đếm được nên hầu như tất cả các số thực đều là số siêu việt. Sự không tồn tại của một tập con các số thực với bản số chính xác giữa tập hợp số nguyên và số thực được gọi là giả thuyết liên tục. Giả thuyết liên tục không thể được chứng minh cũng như không bị bác bỏ; nó độc lập với các tiên đề của lý thuyết tập hợp. Là một không gian tôpô, các số thực có thể phân tách được. Điều này là do tập hợp các số hữu tỉ, có thể đếm được, dày đặc nằm trong các số thực. Các số vô tỉ cũng dày đặc trong các số thực, tuy nhiên chúng không đếm được và có cùng số lượng với số thực. Các số thực tạo thành một không gian mêtric: khoảng cách giữa x và y được xác định là giá trị tuyệt đối . Do là một tập hợp có thứ tự hoàn toàn, chúng cũng mang một cấu trúc liên kết thứ tự; cấu trúc liên kết phát sinh từ số liệu và cấu trúc liên kết phát sinh từ thứ tự giống hệt nhau, nhưng mang lại các trình bày khác nhau cho cấu trúc liên kết — trong cấu trúc liên kết thứ tự là các khoảng có thứ tự, trong cấu trúc liên kết số liệu là epsilon-ball. Cấu trúc cắt Dedekind sử dụng trình bày cấu trúc liên kết thứ tự, trong khi cấu trúc trình tự Cauchy sử dụng trình bày cấu trúc liên kết số liệu. Các thực tạo thành một không gian số liệu có thể co lại (do đó được kết nối và kết nối đơn giản), có thể phân tách và hoàn chỉnh với số chiều Hausdorff là 1. Các số thực là compact cục bộ nhưng không compact. Có nhiều thuộc tính khác nhau chỉ định duy nhất chúng; ví dụ, tất cả các cấu trúc liên kết thứ tự không bị ràng buộc, được kết nối và có thể phân tách nhất thiết phải là đồng phôi với các số thực. Mọi số thực không âm đều có căn bậc hai thuộc , mặc dù không có số âm nào có căn bậc hai thuộc . Điều này cho thấy rằng thứ tự trên được xác định bởi cấu trúc đại số của nó. Ngoài ra, mọi đa thức bậc lẻ đều có ít nhất một nghiệm là số thực: hai thuộc tính này làm cho trở thành ví dụ hàng đầu về một trường đóng thực. Chứng minh tính chất này là nửa đầu tiên của một chứng minh của định lý cơ bản của đại số. Các số thực có một số đo chính tắc, số đo Lebesgue, là số đo Haar trên cấu trúc của chúng như một nhóm tôpô được chuẩn hóa sao cho khoảng đơn vị [0; 1] có số đo là 1. Tồn tại các tập hợp số thực mà Lebesgue không thể đo lường được, ví dụ: Tập hợp Vitali. Tiên đề cận trên lớn nhất về số thực đề cập đến các tập con của số thực và do đó là một câu lệnh logic bậc hai. Không thể đặc trưng cho các số thực chỉ với logic bậc nhất: định lý Löwenheim – Skolem ngụ ý rằng tồn tại một tập con dày đặc có thể đếm được của các số thực thỏa mãn chính xác các câu trong logic bậc nhất như chính các số thực. Tập hợp các số siêu thực thỏa mãn các câu thứ tự bậc nhất giống như . Các trường có thứ tự đáp ứng các câu thứ tự đầu tiên giống như được gọi là mô hình không tiêu chuẩn của . Điều này là những gì làm cho phân tích không tiêu chuẩn hoạt động; bằng cách chứng minh một câu lệnh bậc nhất trong một số mô hình không chuẩn (có thể dễ dàng hơn việc chứng minh nó trong ), khi đó chúng ta hiểu rằng tuyên bố tương tự cũng phải đúng với . Trường số thực là một trường mở rộng của trường số hữu tỉ , và do đó có thể được xem như một không gian vectơ trên . Lý thuyết tập hợp Zermelo – Fraenkel với tiên đề lựa chọn đảm bảo sự tồn tại của cơ sở của không gian vectơ này: tồn tại một tập hợp B gồm các số thực sao cho mọi số thực có thể được viết duy nhất dưới dạng một tổ hợp tuyến tính hữu hạn của các phần tử của tập hợp này, sử dụng chỉ các hệ số hữu tỉ, và sao cho không phần tử nào của B là tổ hợp tuyến tính hữu tỉ của các phần tử khác. Tuy nhiên, định lý tồn tại này hoàn toàn là lý thuyết, vì một cơ sở như vậy chưa bao giờ được mô tả một cách rõ ràng. Định lý sắp xếp tốt ngụ ý rằng các số thực có thể được sắp xếp hợp lý nếu tiên đề lựa chọn được giả định: tồn tại một thứ tự toàn bộ trên với thuộc tính mà mọi tập hợp con không trống của có một phần tử nhỏ nhất trong thứ tự này. (Thứ tự tiêu chuẩn ≤ của các số thực không phải là một thứ tự tốt vì ví dụ một khoảng mở không chứa phần tử nhỏ nhất trong thứ tự này.) Một lần nữa, sự tồn tại của một trật tự tốt như vậy hoàn toàn là lý thuyết, vì nó chưa được mô tả rõ ràng. Nếu giả sử V = L cùng với các tiên đề của ZF, thứ tự tốt của các số thực có thể được xác định một cách rõ ràng bằng một công thức. Một số thực có thể tính toán được hoặc không thể tính toán được; dù cho là tính toán ngẫu nhiên về mặt thuật toán hoặc không; và ngẫu nhiên về mặt số học hoặc không. Ứng dụng và kết nối với các lĩnh vực khác Số thực và logic Các số thực thường được chuẩn tắc hóa bằng cách sử dụng tiên đề Zermelo-Fraenkel của lý thuyết tập hợp, nhưng một số nhà toán học nghiên cứu các số thực bằng các cơ sở logic khác của toán học. Đặc biệt, các số thực còn được nghiên cứu trong toán học đảo ngược và toán học kiến thiết. Các số siêu thực được phát triển bởi Edwin Hewitt, Abraham Robinson và những người khác mở rộng tập hợp các số thực bằng cách giới thiệu các số vô hạn và vô hạn, cho phép xây dựng phép tính thập phân theo cách gần gũi hơn với trực giác ban đầu của Leibniz, Euler, Cauchy và những người khác. Lý thuyết tập hợp bên trong của Edward Nelson đã làm phong phú thêm lý thuyết tập hợp Zermelo-Fraenkel về mặt cú pháp bằng cách giới thiệu một vị từ một ngôi "tiêu chuẩn". Theo cách tiếp cận này, các số tương đương là phần tử (không phải "tiêu chuẩn") của tập hợp các số thực (chứ không phải là phần tử của phần mở rộng của chúng, như trong lý thuyết của Robinson). Giả thuyết continuum cho rằng bản số của tập hợp các số thực là ; tức là vô hạn nhỏ nhất số hồng y sau , bản số của các số nguyên. Paul Cohen đã chứng minh vào năm 1963 rằng nó là một tiên đề độc lập với các tiên đề khác của lý thuyết tập hợp; nghĩa là: người ta có thể chọn giả thuyết liên tục hoặc phủ định của nó như một tiên đề của lý thuyết tập hợp, mà không có mâu thuẫn. Trong vật lý Trong khoa học vật lý, hầu hết các hằng số vật lý như hằng số hấp dẫn phổ quát và các biến vật lý, chẳng hạn như vị trí, khối lượng, tốc độ và điện tích, được mô hình hóa bằng cách sử dụng số thực. Trên thực tế, các lý thuyết vật lý cơ bản như cơ học cổ điển, điện từ học, cơ học lượng tử , thuyết tương đối rộng và mô hình chuẩn được mô tả bằng cách sử dụng các cấu trúc toán học, điển hình là đa tạp trơn hoặc không gian Hilbert, dựa trên các số thực, mặc dù các phép đo thực tế của các đại lượng vật lý có độ chính xác hữu hạn. Các nhà vật lý thỉnh thoảng gợi ý rằng một lý thuyết cơ bản hơn sẽ thay thế các số thực bằng các đại lượng không tạo thành một continuum, nhưng những đề xuất như vậy vẫn mang tính suy đoán. Trong tính toán Với một số ngoại lệ, hầu hết các máy tính không hoạt động trên số thực. Thay vào đó, chúng hoạt động với các phép xấp xỉ chính xác hữu hạn được gọi là số dấu phẩy động. Trên thực tế, hầu hết các phép tính khoa học đều sử dụng số học dấu phẩy động. Các số thực thỏa mãn các quy tắc thông thường của số học, nhưng số dấu phẩy động thì không. Máy tính không thể lưu trữ trực tiếp các số thực tùy ý có vô số chữ số. Độ chính xác có thể đạt được bị giới hạn bởi số lượng bit được phân bổ để lưu trữ một số, cho dù là số dấu phẩy động hay số có độ chính xác tùy ý. Tuy nhiên, các hệ thống đại số máy tính có thể hoạt động chính xác trên các đại lượng vô tỉ bằng cách thao tác các công thức cho chúng (chẳng hạn như hoặc ) chứ không phải là xấp xỉ hữu tỉ hoặc thập phân của chúng. Nói chung, không thể xác định xem hai biểu thức như vậy có bằng nhau hay không (bài toán hằng số). Một số thực được gọi là có thể tính toán được nếu tồn tại một thuật toán đưa ra các chữ số của nó. Bởi vì chỉ có nhiều thuật toán có thể đếm được nhưng một số thực là không đếm được, hầu như tất cả các số thực đều không thể tính toán được. Hơn nữa, sự bằng nhau của hai số có thể tính toán được là một vấn đề không thể giải quyết được. Một số nhà toán học kiến tạo chỉ chấp nhận sự tồn tại của những số thực mà có thể tính toán được. Tập hợp các số có thể xác định được rộng hơn, nhưng vẫn chỉ có thể đếm được. Số thực trong lý thuyết tập hợp Trong lý thuyết tập hợp, cụ thể là lý thuyết tập hợp mô tả, không gian Baire được sử dụng làm đại diện cho các số thực vì sau này có một số thuộc tính tôpô (tính liên thông) gây bất tiện về kỹ thuật. Các phần tử của không gian Baire được gọi là "các số thực". Các phép toán Phép cộng: Trên , phép cộng được xây dựng bởi ánh xạ sau: : Phép cộng là đóng trên Sao cho: Có thể thấy phép cộng xác định như trên là tồn tại và duy nhất. Ngoài ra, ta còn có thể chứng minh được rằng: Phép trừ Phép nhân Phép chia Phép lũy thừa Phép khai căn Phép logarit Giá trị tuyệt đối của số thực a là khoảng cách từ điểm a đến 0 trên trục số thực và kí hiệu là |a|.(Đọc là: Giá trị tuyệt đối của a).Lưu ý: Giá trị tuyệt đối của số thực a luôn được kết quả là một số lớn hơn hoặc bằng 0. Các tập hợp số : Tập hợp số tự nhiên (Natural numbers) : Tập hợp số nguyên (Integers numbers) : Tập hợp số hữu tỉ (Rational numbers) : Tập hợp số vô tỉ (Irrational numbers) : Tập hợp số thực (Real numbers) Ngoài ra, một số thực có thể là số đại số hoặc số siêu việt. Tập hợp số thực là tập hợp con của số phức , khi hệ số Các tập hợp con trên Tập hợp các số thực Khoảng: Ví dụ: Đoạn: Nửa khoảng: Chú ý: ∞ đọc là vô cực.
Tuesday Lobsang Rampa tự nhận mình là linh hồn của một vị lama người Tây Tạng đã mượn tạm xác của một người Anh tên là Cyril Hoskin (8 tháng 4 1910 - 25 tháng 1 1981). Cái tên Tuesday (thứ Ba) liên quan đến lời ông kể rằng các quý tộc người Tây Tạng được đặt tên theo ngày mà họ sinh ra. Vào tháng 11 năm 1956 một cuốn sách với tựa đề The Third Eye (Con mắt thứ ba) được xuất bản ở Anh. Cuốn sách được viết bởi một người ký tên là Lobsang Rampa và kể lại những kinh nghiệm của ông khi lớn lên trong một tu viện ở Tây Tạng từ năm lên bảy tuổi. Tựa đề cuốn sách liên quan đến một cuộc phẫu thuật trên trán để mở ra con mắt thứ ba để làm tăng cường khả năng nhìn aura của ông. Các sách viết bởi Lobsang Rampa Tây Tạng huyền bí (The Third Eye) (1956) My Visit to Venus (Chuyến đi thăm Sao Kim) (1957, xem chú thích bên dưới) Doctor from Lhasa (Bác sĩ từ Lhasa) (1959) The Rampa Story (Câu chuyện của Rampa) (1960) Cave of the Ancients (Hang đá của người cổ đại) (1963) Living with the Lama (Sống với vị Lama) (1964) You Forever (Bạn là mãi mãi) (1965) Wisdom of the Ancients (Trí tuệ người xưa) (1965) The Saffron Robe (Chiếc áo cà sa) (1966) Chapters of Life (Các chương của cuộc đời) (1967) Beyond the Tenth (Vượt trên chiều thứ mười) (1969) Feeding the Flame (Nuôi dưỡng ngọn lửa) (1971) The Hermit (Ẩn sỹ) (1971) The Thirdteenth Candle (Ngọn nến thứ mười ba) (1972) Candlelight (Ánh sáng ngọn nến) (1973) Twilight (Hoàng hôn) (1975) As it was (Như là đã xảy ra) (1976) I Believe (Tôi tin) (1976) Three lives (Ba đời sống) (1977) Tibetan Sage (Nhà thông thái người Tây Tạng) (1980) My Visit to Venus dựa trên các bản thảo mà Lobsang Rampa đã không đồng ý xuất bản và được xuất bản vài năm sau khi được viết.
Tây Tạng huyền bí (tên gốc tiếng Anh: The Third Eye hay Con mắt thứ ba) là một cuốn sách được viết bởi một người Anh có tên là Cyril Henry Hoskin tự nhận là một Lạt ma Tây Tạng Lobsang Rampa vào năm 1956. Chưa hề có một tài liệu nào nói về vị Lạt ma này và cũng chưa có một Lạt ma hay Ringpoche Tây Tạng nào khẳng định sự tồn tại của vị Lạt ma này. Cuốn sách được sáng tác ra như một tự truyện của một vị lạt ma người Tây Tạng, sinh ra vào khoảng năm 1900 và được gửi vào tu viện từ năm lên bảy tuổi để huấn luyện về các vấn đề huyền bí theo truyền thống Tây Tạng rồi gửi sang thế giới phương Tây để quảng bá văn hóa Phật giáo của Tây Tạng ra thế giới bên ngoài. Cyril Henry Hoskin chưa một lần đặt chân lên Tây Tạng, không nói tiếng Tây Tạng. Sự tự nhận của ông ta chính là hồn của Lama Lobsang Rampa trong thân thể Hoskin rất đáng nghi ngờ. Vì nếu là một Lama cao thâm chừng ấy, thì vị ấy phải nhớ tiếng mình đã từng nói thông, đọc thạo. Người này nhớ về việc ông ta từng là Cyril Henry Hoskin đời thật nhiều hơn; còn đời của Lobsang Rampa thì không thể kiểm chứng hoặc không có người nghiêm túc nào muốn kiểm chứng. Đơn giản người ta chỉ xem đây là một truyện giả tưởng. Chính vì thế mà có một người hay du lịch đến Tây Tạng và là người nghiên cứu Tây Tạng Henry Harrer đã thuê thám tử Clifford Burgess điều tra và truy được người tác giả là ai. Tức chỉ là một người Anh có tên là Cyril Henry Hoskin!!! Theo tôi đây chỉ là một tưởng tượng khá phong phú của một người Tây phương về những điều thần bí. Là một Phật tử tôi không tìm thấy ở đây một điểm nào giống đạo Phật cả. Đó là một món nhào lộn các tư tưởng huyền bí mà tác giả đã từng đọc đâu đấy trong các sách huyền thuật. Thật là nguy hiểm nếu như cho đó là cái gì được phép viết ra của Phật pháp. Đức Phật cấm các đệ tử mình thi triển thần thông cũng như tự nhận mình đã chứng đắc. Tất cả tác phẩm của tác giả này cũng rất xa rời với các tư tưởng Phật giáo. Thế mà, quyển sách giả tưởng về huyền thuật này được liệt kê trong các kinh sách Phật giáo thì quả thời đại này đúng là thời mạt pháp. Người Phật tử nên cố tu tập theo những pháp tu mà các Thầy mình đã dạy, dù chỉ cần niệm A Di Đà Phật, hơn là đọc những câu truyện nhảm nhí, hoang đường này. Các bản dịch tiếng Việt Bản phỏng dịch bởi Nguyễn Hữu Kiệt với tựa đề Tây Tạng huyền bí, xuất bản tại nhà sách Xuân Thu. Bản phóng tác của Nguyên Phong với tựa đề Tây Tạng huyền bí. Bản dịch của Lê Nguyễn với tựa Các lạt ma hóa thân, xuất bản bởi Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 2003. Hai bản có tựa đề Tây Tạng huyền bí của Nguyễn Hữu Kiệt và Nguyên Phong được liệt kê trong nhiều danh sách kinh sách Phật giáo.
Trong thiên văn học, mô hình nhật tâm là lý thuyết cho rằng Mặt Trời nằm ở trung tâm của vũ trụ và/hay của Hệ Mặt Trời. Từ này (heliocentrism) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (helios = "Mặt Trời" và kentron = "trung tâm"). Về mặt lịch sử, hệ nhật tâm đối lập với hệ địa tâm và hiện nay là với thuyết địa tâm hiện đại, cho rằng Trái Đất nằm ở trung tâm. (Sự phân biệt giữa Hệ Mặt Trời và Vũ trụ là không rõ ràng cho tới tận thời hiện đại, nhưng đặc biệt quan trọng cho sự tranh cãi về vấn đề vũ trụ học và tôn giáo.) Trong thế kỷ 16 và 17, khi lý thuyết này được Copernicus, Galileo và Kepler đưa ra và ủng hộ, nó trở thành trung tâm của một cuộc tranh cãi lớn. Sự phát triển của thuyết nhật tâm Đối với bất kỳ một người nào đứng nhìn lên bầu trời, có vẻ rõ ràng rằng Trái Đất đứng yên vị trong khi mọi vật trên bầu trời mọc và lặn hay quay quanh nó hàng ngày. Quan sát trong một thời gian lâu hơn, họ sẽ thấy nhiều chuyển động phức tạp hơn. Mặt Trời chuyển động chậm chạp theo hình tròn trong năm; các hành tinh có các chuyển động tương tự nhau, nhưng thỉnh thoảng chúng quay vòng và di chuyển ngược lại trong một khoảng thời gian (chuyển động lùi). Khi các chuyển động đó ngày càng được tìm hiểu kỹ hơn, càng ngày càng cần có những miêu tả tỉ mỉ hơn, cách miêu tả nổi tiếng nhất là hệ Ptolemy, được hình thành từ thế kỷ thứ 2. Ấn Độ cổ đại Những dấu vết sớm nhất về một ý tưởng đi ngược trực giác cho rằng Trái Đất trên thực tế đang quay quanh Mặt Trời và Mặt Trời là trung tâm của Hệ Mặt Trời (đó chính là khái niệm của thuyết nhật tâm) đã được tìm thấy trong nhiều văn bản kinh Vệ Đà tiếng Phạn được viết trong thời Ấn Độ cổ đại. Yajnavalkya (khoảng thế kỷ 9–thế kỷ 8 TCN) ghi nhận rằng Trái Đất có hình cầu và rằng Mặt Trời là "trung tâm của vũ trụ" như được miêu tả trong kinh Vệ đà ở thời ấy. Trong bài viết về thiên văn học của mình Shatapatha Brahmana (8.7.3.10) cho rằng: "Mặt Trời treo các thế giới - Trái Đất, các hành tinh, khí quyển - vào mình bằng một sợi chỉ." Ông nhận rằng Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái Đất, và đây là điều ảnh hưởng tới khái niệm thuyết nhật tâm sơ khai này. Ông cũng đã đo chính xác các khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời và Mặt Trăng bằng 108 lần đường kính các thiên thể đó, khá gần với con số ngày nay là 107.6 với Mặt Trời và 110.6 với Mặt Trăng. Ông cũng đã miêu tả một loại lịch trong cuốn Shatapatha Brahmana. Văn bản Vệ Đà tiếng Phạn Aitareya Brahmana (2.7) (khoảng thế kỷ 9–8 TCN) cũng nói rằng: "Mặt Trời không lặn cũng không mọc. Khi con người nghĩ rằng Mặt Trời đang lặn, nó không làm như vậy; vì thế đó là sự hiểu lầm." Văn bản này chỉ ra rằng Mặt Trời đứng yên (vì thế Trái Đất di chuyển quanh nó), điều này đã được trình bày chi tiết hơn trong một bản bình luận thời sau Vishnu Purana (2.8) (khoảng thế kỷ thứ 1), nói rằng: "Mặt Trời luôn đứng yên, trong ngày. [...] Vì Mặt Trời, luôn đứng yên tại chỗ, nên nó không lặn cũng không mọc." Hy Lạp cổ đại Ở thế kỷ thứ 4 TCN, trong Chương 13 Quyển hai bộ Về bầu trời (On the heavens), Aristotle đã viết rằng "Ở trung tâm, họ [những người theo trường phái Pytago] nói, là ngọn lửa, và Trái Đất là một trong những ngôi sao, tạo nên ngày và đêm bởi các chuyển động hình tròn của chúng quanh trung tâm." Những lý do của sự sắp đặt này là vì triết học dựa trên các nguyên tố cổ điển chứ không phải khoa học; ngọn lửa có tầm quan trọng lớn hơn Trái Đất theo quan điểm của trường phái Pytago, và vì lý do này ngọn lửa phải nằm ở trung tâm. Tuy nhiên ngọn lửa trung tâm không phải là Mặt Trời. Những người theo Pytago tin rằng Mặt Trời cũng như toàn bộ các vật thể khác đều quay quanh ngọn lửa trung tâm. Aristotle đã từ bỏ lý thuyết này và ủng hộ thuyết địa tâm. Heraclides xứ Pontus (thế kỷ thứ 4 TCN) đã giải thích chuyển động biểu kiến hàng ngày của các thiên thể thông qua sự tự quay của Trái Đất, và có lẽ cũng đã nhận ra rằng Sao Thủy và Sao Kim quay quanh Mặt Trời. Tuy nhiên, người đầu tiên đề xuất hệ nhật tâm là Aristarchus xứ Samos (khoảng 270 TCN). Không may thay những ghi chép của ông về hệ nhật tâm không còn nữa, nhưng chúng ta có được một số thông tin chủ chốt của hệ thống nay thông qua các tác giả khác (người quan trọng nhất là Archimedes, ông sống ở thế kỷ thứ 3 TCN và vì thế có được kiến thức trực tiếp từ các tác phẩm của Aristarchus). Khi Aristarchus viết các tác phẩm của mình, kích thước Trái Đất đã được Eratosthenes tính toán khá chính xác. Aristarchus cũng đo đạc kích thước Trái Đất, và kích thước cũng như khoảng cách của Mặt Trăng và Mặt Trời, chúng được ghi lại trong một bản luận văn may mắn còn tồn tại. Phương pháp hình học của ông là chính xác, nhưng nó đòi hỏi phải vượt qua khó khăn khi đo góc giữa Mặt Trời và Mặt Trăng khi Mặt Trăng nằm ở góc một phần tư thứ nhất và cuối cùng, hơi nhỏ hơn 90 độ. Aristarchus đã ước tính góc quá rộng và vì thế ước tính kích thước cũng như khoảng cách của Mặt Trời nhỏ hơn thực tế (dù các con số của ông về Mặt Trăng khá chính xác). Tuy nhiên, điều quan trọng là cách tiếp cận khoa học của Aristarchus, và kết luận rằng Mặt Trời lớn hơn nhiều so với Trái Đất. Có lẽ, như nhiều người đã từng đề xuất, khi xem xét những con số đó Aristarchus đã cho rằng có lẽ cho Trái Đất đang chuyển động thì đúng hơn là Mặt Trời vĩ đại chuyển động quanh Trái Đất. Công trình đầu tiên của Aristarchus về hệ nhật tâm không còn nữa và chỉ được biết tới thông qua ghi chép của những người khác; vì thế ta không chắc chắn được về sự lý luận của ông với vấn đề đó. Dù có lẽ rằng ông đã hiểu vấn đề thị sai của các ngôi sao: nếu Trái Đất chuyển động qua những khoảng cách lớn khi quay quanh Mặt Trời, thì ở khoảng cách gần hơn các định tinh phải có khác biệt so với khoảng cách xa, tương tự như những quả đồi ở gần sẽ có vị trí sai khác so với các ngọn núi ở xa khi ta di chuyển. Aristarchus đã giải thích hiện tượng không quan sát thấy thị sai đó bằng cách cho rằng các ngôi sao ở những khoảng cách quá xa: khoảng cách mặt cầu của các định tinh so với quỹ đạo Trái Đất tương tự với bề mặt của một mặt cầu so với tâm của nó. (Archimedes đã miêu tả và cho rằng lý lẽ này do Aristachus đưa ra ở lời mở đầu cuốn Người đếm cát (The Sand Reckoner).) Điều này khiến các ngôi sao nằm ở khoảng cách rất lớn; dù ông muốn dùng đúng nghĩa đen, hay chỉ muốn thể hiện một tỷ lệ khoảng cách cực lớn, thì hiện nay ta cũng không thể xác định chắc chắn điều đó. (Vì cách giải thích của ông tỏ ra chính xác, dù các khoảng cách là có hạn; thị sai sao chỉ được quan sát thấy ở thế kỷ 19.) Mô hình nhật tâm của Aristarchus được Archimedes đề cập tới trong cuốn Người đếm cát. Mục đích của cuốn sách này là chứng minh rằng những con số cực lớn, thậm chí số lượng những hạt cát đủ để lấp đầy vũ trụ, cũng có thể được thể hiện bằng toán học và không nên biểu diễn chúng một cách ước lượng là "vô vàn". Ông đã lấy mô hình vũ trụ rộng lớn nhất từng có, mô hình vũ trụ Aristarchus, để tính toán số lượng cát cần thiết đổ đầy vào đó. Chỉ ra rằng về mặt toán học, sẽ không có ý nghĩa gì khi nói về một tỷ lệ giữa bề mặt của một mặt cầu và tâm của nó, bởi vì nó không có độ rộng lớn, Archimedes kết luận rằng khoảng cách giữa các định tinh có cùng quan hệ với bán kính của quỹ đạo Trái Đất bởi vì quỹ đạo đó cũng có quan hệ với chính Trái Đất. Theo những điều kiện đó, chúng ta có thể chứng minh rằng thị sai sao đã vượt quá khả năng quan sát để phát hiện thấy của thời kỳ đó, đúng như thực tế. Tuy nhiên, không có dấu hiệu cho thấy cả Aristarchus hay Archimedes đã thực sự tranh luận vấn đề thị sai sao và coi đó là cách để xác định việc liệu Trái Đất có thực sự chuyển động không. Một nhà thiên văn Hy Lạp khác, Seleukos xứ Seleucia, đã chấp nhận mô hình nhật tâm của Aristarchus, và theo Plutarch ông đã chứng minh nó. Ấn Độ trung cổ Nhà thiên văn học-toán học người Ấn Độ Aryabhata (476–550), trong kiệt tác Aryabhatiya của mình đã đề xuất một mô hình nhật tâm theo đó Trái Đất quay quanh trục của nó và các chu kỳ [quỹ đạo] của các hành tinh cũng được tính toán dựa trên mô hình Mặt Trời đứng yên. Ông cũng là người đầu tiên khám phá ra rằng ánh sáng từ Mặt Trăng và các hành tinh là sự phản xạ ánh sáng từ Mặt Trời, và rằng cách hành tinh chuyển động theo một quỹ đạo hình elíp quanh Mặt Trời, và vì thế đề xuất một mô hình [quỹ đạo] elíp lệch tâm của các hành tinh, dựa theo đó ông đã tính toán chính xác nhiều hằng số thiên văn học, như những khoảng thời gian nhật thực và nguyệt thực, và chuyển động ở một thời điểm nào đó của Mặt Trăng (được thể hiện như một phương trình vi phân). Bhaskara (1114–1185) đã mở rộng mô hình nhật tâm của Aryabhata trong bản luận thiên văn học Siddhanta-Shiromani của mình, trong đó ông đã đề cập tới định luật hấp dẫn, khám phá ra rằng các hành tinh không quay quanh Mặt Trời với một tốc độ đồng nhất, và tính toán chính xác nhiều hằng số thiên văn học dựa trên mô hình đó, như nhật thực và nguyệt thực, các tốc độ và các chuyển động ở một thời điểm nào đó của các hành tinh. Bản dịch tiếng Ả Rập cuốn Aryabhatiya của Aryabhata đã có từ thế kỷ thứ 8, trong khi các bản dịch tiếng Latin mãi tới thế kỷ 13 mới xuất hiện, trước khi Copernicus viết cuốn Về chuyển động quay của các thiên thể, vì thế có lẽ tác phẩm của Aryabhata đã có ảnh hưởng trên ý tưởng của Copernicus. Thế giới Hồi giáo Kinh Qur'an (Surah 36. Yaseen) nói rằng: 38. Mặt Trời chạy tới điểm ngừng cố định của nó; đó là lệnh của Đấng toàn năng và Nhà tiên tri.39. Và Mặt Trăng, chúng ta đã xác định nó trong những pha cho tới khi nó quay trở lại như một cành cọ khô.40. Mặt Trời không chạy nhanh hơn Mặt Trăng, cũng như ngày không nhanh hơn đêm. Mỗi cái đều trôi nổi trên một quỹ đạo. Nhà khoa học Hồi giáo Ba Tư Nasir al-Din Tusi (1201–1274) đã giải quyết các vấn để chủ yếu trong hệ thống Ptolemy bằng cách phát triển Tusi-couple thành thứ thay thế cho tâm sai khó hiểu về vật lý của Ptolemy. Nhà khoa học Hồi giáo Mu'ayyad al-Din al-'Urdi (khoảng 1250) đã phát triển bổ đề Urdi (Urdi lemma). Nhà thiên văn học Hồi giáo Ả Rập ibn al-Shatir (1304–1375), trong tác phẩm Kitab Nihayat as-Sul fi Tashih al-Usul (Tìm hiểu lần cuối về sự sửa chữa Lý thuyết hành tinh) của mình đã loại bỏ tâm sai bằng cách đưa ra một ngoại luân nữa, thoát khỏi hệ thống của Ptolemy theo cách sau này Copernicus cũng đã thực hiện. Ibn al-Shatir đề xuất một hệ chỉ tương tự với mô hình địa tâm, chứ không hoàn toàn chính xác như vậy, khi đã chứng minh theo lượng giác rằng Trái Đất thực sự không phải là trung tâm vũ trụ. Sự sửa đổi của ông sau này đã được dùng lại trong mô hình Copernicus, cùng với Tusi-couple và bổ đề Urdi. Những bản ghi chép còn sót lại về Tusi, al-Urdi và Ibn al-Shatir đều thuộc mô hình địa tâm, theo chiều hướng cho rằng Trái Đất đứng yên (thậm chí nếu nó không ở chính trung tâm của mọi chuyển động). Vai trò của những lý thuyết này đối với sự phát triển thuyết nhật tâm sau này hiện vẫn chưa được hiểu rõ. Châu Âu phục hưng Cần lưu ý quan niệm thông thường ở phương Tây cho rằng trước Copernicus khái niệm hệ nhật tâm chưa bao giờ xuất hiện, hay không được biết tới ở châu Âu là sai lầm. Không chỉ vì những văn bản tiếng Ả Rập ngày càng được dịch nhiều sang tiếng Latin sau thế kỷ 11 (nhờ ngày càng có nhiều sự tiếp xúc với thế giới Ả Rập/Hồi giáo do những chiến binh thập tự chinh mang lại), mà còn bởi những nhà thám hiểm, các thương gia xuất hiện nhiều hơn ở châu Âu (có điều kiện thuận lợi hơn nhờ Pax Mongolica) khiến phương Tây biết được về truyền thống ủng hộ thuyết nhật tâm ở Ấn Độ với chi tiết như được trình bày ở trên. Và tất nhiên các học giả biết rõ về những cuộc tranh luận của Aristarchus và Philolaus, cũng như việc nhiều nhà tư tưởng cổ đại khác đã đề xuất (hay được cho là đã đề xuất) mô hình nhật tâm hay các quan điểm gần thuyết nhật tâm, như Hicetas và Heraclides Ponticus (Copernicus tất nhiên cũng biết điều này). Hơn nữa, một số nhà tư tưởng châu Âu cũng đã tranh luận về thuyết nhật tâm từ thời Trung Cổ: ví dụ Nicolas Oresme và Nicholas of Cusa. Tuy nhiên, đối với đa số các học giả ở giai đoạn này, thuyết nhật tâm có một vấn đề lớn và dễ nhận thấy: theo trực giác thông thường, nếu Trái Đất quay quanh trục và chuyển động quanh Mặt Trời, con người và đồ vật ở trên đó sẽ có xu hướng rơi hay bay vào vũ trụ; một vật thể rơi xuống từ trên tháp sẽ chạm đất ở đằng tây xa phía sau tháp bởi vì tháp đã quay đi cùng Trái Đất; và các ví dụ tương tự. Một câu trả lời cho những vấn đề đó đòi hỏi con người phải có hiểu biết sâu hơn về vật lý. Dù có những vấn đề như vậy, ở thế kỷ 16, lý thuyết nhật tâm được Nicolaus Copernicus khôi phục lại, ở hình thức thích hợp với những quan sát thực tế thời đó. Lý thuyết này đã giải quyết các vấn đề về chuyển động lùi của hành tinh bằng cách lập luận rằng chuyển động đó chỉ là cái quan sát thấy bên ngoài và là chuyển động biểu kiến, chứ không phải chuyển động thực tế: đó là một hiệu ứng thị sai, giống như khi ta vượt qua một chiếc xe thì ta có cảm giác chiếc xe đó đang chuyển động lùi về phía chân trời. Vấn đề này cũng đã được giải quyết trong hệ thống địa tâm của Tycho Brahe; tuy nhiên, trong khi tìm cách bỏ đi các ngoại luân ông vẫn giữ lại và coi chuyển động tiến lùi của các hành tinh là chuyển động thực tế, chuyển động này được Kepler cho rằng có đặc điểm giống một "hình xoắn". Trong khi phát triển các lý thuyết của mình về chuyển động hành tinh, có lẽ Copernicus đã lấy ý tưởng từ trong các công trình của nhà thiên văn học người Ấn Độ là Aryabhata cho về thuyết nhật tâm của mình, và các nhà khoa học/thiên văn học Hồi giáo Nasir al-Din Tusi, Mu'ayyad al-Din al-'Urdi và ibn al-Shatir để giải quyết các vấn đề quan trọng trong hệ thống Ptolemy. Những tranh cãi tôn giáo về thuyết nhật tâm Ngay từ thời Aristarchus, ở châu Âu ý tưởng nhật tâm đã bị chối bỏ vì bị coi là phản tôn giáo. Tuy vậy, vấn đề này không mang bất kỳ ý nghĩa quan trọng nào trong gần 2000 năm. Nicolaus Copernicus đã xuất bản cuốn De Revolutionibus mang ý nghĩa quyết định về hệ thống của ông năm 1543. Copernicus đã bắt đầu viết nó năm 1506 và hoàn thành năm 1530, nhưng không cho xuất bản tới tận khi ông sắp qua đời. Dù ông có danh tiếng tốt với Giáo Hội và đã đề tặng một cuốn sách cho Giáo hoàng Paul III, cuốn sách được in ra vẫn có phần lời nói đầu không có chữ ký của Osiander cho rằng hệ thống này chỉ đơn giản là một cách thức toán học và không có ý định phủ định cho thực tế. Có lẽ vì phần lời nói đầu này, tác phẩm của Copernicus gây ra ít cuộc tranh luận về việc nó có phải là một cuốn sách dị giáo hay không trong 60 năm sau đó. Thuật ngữ thời ấy cho một cách thức tính toán hoàn toàn hư cấu như vậy là giả thuyết. Để hiểu được các cuộc tranh cãi trong vòng 100 năm sau, cần nhớ rằng ý nghĩa hiện đại, một ý tưởng cần được xác nhận hay phủ nhận bởi thực nghiệm, đã chưa xuất hiện cho tới mãi về sau này. Từ sớm trong những tín đồ Dòng tu Dominic đã có đề xuất cần cấm giảng dạy cuốn sách đó, nhưng dù sao việc này vẫn không xảy ra. Tuy nhiên trong thế kỷ 16, một số người Tin lành đã kịch liệt phản đối nó. Martin Luther từng nói: "Đã có những lời nói về một nhà chiêm tinh mới, người muốn chứng minh rằng Trái Đất chuyển động và tự xoay quanh trục chứ không phải bầu trời, Mặt Trời, Mặt Trăng, cũng như nếu có một người đang ngồi trong một toa xe hay trên một chiếc tàu chuyển động sẽ thấy rằng anh ta đang đứng yên trong khi Trái Đất và cây cối chuyển động quanh mình. Nhưng đó là cách mọi thứ đang diễn ra ngày nay: khi một người muốn trở nên thông minh, anh ta sẽ cần phải phát minh ra một thứ gì đó đặc biệt, và cách thức thực hiện điều đó cũng phải là tốt nhất! Kẻ ngu muốn đảo lộn toàn bộ trật tự thiên văn học. Tuy nhiên, như Kinh Thánh linh thiêng đã dạy chúng ta, cũng như Joshua đã ra lệnh cho Mặt Trời đứng yên chứ không phải Trái Đất." Những câu này được nói ra trong bối cảnh một cuộc tranh luận ở bữa ăn tối và không phải là một tuyên bố chính thức về đức tin. Tuy nhiên, Melanchthon đã phản đối học thuyết ấy trong nhiều năm. Tuy nhiên, cùng với thời gian, Giáo hội Công giáo bắt đầu tỏ thái độ cứng rắn hơn trong việc bảo vệ quan điểm địa tâm. Giáo hoàng Urban VIII, người từng đồng ý cho Galileo xuất bản một cuốn sách về hai lý thuyết thế giới, đã trở thành thù địch với Galileo; có ý kiến cho rằng Giáo hoàng nghĩ Galileo đã nhạo báng ông trong cuốn Đối thoại về hai hệ thống chính của thế giới, dù không có nhiều bằng chứng về điều đó. (Nhân vật đại diện cho các quan điểm truyền thống trong cuộc đối thoại được đặt tên là "Simplicio", theo tên nhà triết học cổ điển Simplicius, người thời ấy được những tín đồ chủ nghĩa Plato mới kính trọng.) Cuối cùng, Cơ Đốc giáo trở thành phái đối chọi chủ chốt của quan điểm nhật tâm. Hệ thống được ưa chuộng là hệ Ptolemy, trong đó Trái Đất nằm ở trung tâm vũ trụ và mọi thiên thể đều quay quanh nó. (Không nên lẫn lộn việc Cơ Đốc giáo ủng hộ thuyết địa tâm với ý tưởng về một Trái Đất phẳng, là cái chưa từng được Giáo hội ủng hộ.) Hệ Tycho đã sắp đặt ổn thỏa các vị trí của mô hình địa tâm, trong đó Mặt Trời quay quanh Trái Đất, trong khi các hành tinh quay quanh Mặt Trời giống như mô hình của Copernicus. Những nhà thiên văn học dòng Tên tại Roma ban đầu không đồng ý với hệ thống của Tycho; người nổi bật nhất là Clavius, ông đã bình luận rằng Tycho đã "lẫn lộn mọi thứ trong thiên văn học, bởi vì ông muốn đặt Sao Hỏa thấp hơn Mặt Trời." (Fantoli, 2003, p. 109) Nhưng khi cuộc tranh cãi ngày càng phát triển và Giáo hội có quan điểm cứng rắn hơn về các ý tưởng của Copernicus sau năm 1616, dòng Tên quay sang ủng hộ việc giảng dạy ý tưởng của Tycho; sau năm 1633, việc sử dụng hệ thống này hầu như đã trở thành bắt buộc. Vì tội đã đề xuất thuyết nhật tâm, Galileo đã bị quản thúc tại gia trong nhiều năm. Tuy nhiên, nhà thần học đồng thời cũng là một mục sư Thomas Schirrmacher, đã biện hộ: "Trái với truyền thuyết, hệ thống của Galileo và Copernican đã được các quan chức Giáo hội rất quan tâm. Galileo là nạn nhân của chính tính kiêu ngạo của mình, sự đố kị của các bạn đồng nghiệp và quan điểm chính trị của Giáo hoàng Urban VIII. Ông bị buộc tội không phải vì đã chỉ trích Kinh Thánh, mà vì đã bất tuân lệnh của Giáo hoàng." Các nhà khoa học Cơ đốc cũng nói: "Rõ ràng rằng việc đánh giá Galileo hay Copernicus là dị giáo không hề có ý nghĩa gì về mặt thần học hay tổng quát", (Heilbron 1999). Những cách giải thích về thần học này dù thực sự có xuất hiện hay không bên trong Giáo hội ở thời Galileo có thể sẽ được xác định từ đoạn văn về Cuộc điều tra khi Giáo hội tìm cách buộc tội Galileo năm 1633. Trong những lời buộc tội chính thức từ Cuộc điều tra ông không bị kết tội vi phạm mệnh lệnh của Giáo hoàng; thay vào đó, họ buộc tội ông đã tin vào "một học thuyết sai trái do nhiều người giảng dạy, nói rõ ra là Mặt Trời bất động ở trung tâm thế giới và Trái Đất chuyển động". Trong khi thẩm vấn, Galileo đã bị đặt câu hỏi (ngày đầu tiên) ông đã nhận được những mệnh lệnh gì trong năm 1616 (rõ ràng ám chỉ tới cái mệnh lệnh được kể tới ở trên); nhưng ông cũng phải trả lời (ngày thứ tư) về những niềm tin vào hệ thống Copernicus của mình. Lời tuyên án cuối cùng hoàn toàn trùng hợp với bản cáo trạng: ông phải tự "hoài nghi mãnh liệt về sự dị giáo", nhưng không hề có lời đề cập tới sự bất tuân với một mệnh lệnh đặc biệt nào đó. Chính Hồng y Robert Bellarmine đã coi mô hình của Galileo có "ý nghĩa tuyệt vời" trong việc làm đơn giản hoá toán học; có nghĩa là, như một "giả thuyết" (xem bên trên). Và ông nói: "Nếu có một bằng chứng thực sự cho thấy Mặt Trời nằm ở trung tâm vũ trụ, rằng Trái Đất nằm trên mặt cầu [tầng trời] thứ ba, thì chúng ta cần rất thận trọng khi giải thích các trích đoạn trong Kinh thánh, với lời dạy trái ngược, và vì thế chúng ta nên nói rằng ta không hiểu được chúng chứ không nên tuyên bố đó là ý kiến sai lầm khi nó đã được chứng minh là đúng. Nhưng tôi không nghĩ có bất kỳ một bằng chứng nào như vậy bởi vì chưa có ai cho tôi thấy được nó." (Koestler 1959, pp. 447–448) Vì thế ông ủng hộ lệnh cấm giảng dạy ý tưởng đó dưới bất cứ tên gọi nào mà chỉ được coi là giả thuyết. Năm 1616 ông chuyển cho Galileo một mệnh lệnh của Giáo hoàng không được "ủng hộ hay bảo vệ" ý tưởng nhật tâm. Trong những cuộc tranh luận trước khi có lệnh cấm, ông giữ lập trường ôn hoà, bởi vì nhóm Dominic muốn cấm việc giảng dạy thuyết nhật tâm ở mọi hình thức. Phiên toà xử tội dị giáo của Galileo diễn ra năm 1633, đưa ra những sự phân biệt rõ ràng giữa "giảng dạy" và "ủng hộ và bảo vệ coi đó là đúng". Sự phản đối chính thức thuyết nhật tâm của Giáo hội không phải là sự phản đối với toàn bộ ngành thiên văn học; quả vậy, họ cần các dữ liệu quan sát thiên văn để điều chỉnh bộ lịch của mình. Để ủng hộ các nỗ lực quan sát đó, họ cho phép sử dụng chính các giáo đường làm đài quan sát thiên văn. Năm 1664, Giáo hoàng Alexander VII đã xuất bản cuốn Index Librorum Prohibitorum Alexandri VII Pontificis Maximi jussu editus gồm toàn bộ những lời chỉ trích từ trước với các cuốn sách về hệ địa tâm. Một bản copy có chú giải cuốn Principia của Isaac Newton đã được hai linh mục le Seur và Jacquier của dòng Franciscan Minims, hai nhà toán học Cơ đốc giáo với lời nói đầu cho rằng công trình của tác giả có vẻ ủng hộ thuyết nhật tâm và không thể được giải thích nếu không có giả thuyết. Giáo hoàng Benedict XIV ngừng lệnh cấm các tác phẩm viết về hệ nhật tâm ngày 16 tháng 4 năm 1757 dựa trên công trình của Issac Newton. Giáo hoàng Pius VII đã đồng ý với nghị định năm 1822 của Giáo đoàn điều tra linh thiêng cho phép in các cuốn sách về lý thuyết nhật tâm tại Roma. Quan điểm của khoa học hiện đại Sự nhận thức rằng, theo một nghĩa chặt chẽ, quan điểm nhật tâm cũng không hoàn toàn chính xác đã được từng bước hoàn thành. Rằng Mặt Trời không phải là trung tâm của vũ trụ, mà chỉ là một trong vô số những ngôi sao, đã được Giordano Bruno, một người theo chủ nghĩa thần bí tán thành; Galileo cũng có cùng quan điểm, nhưng ông hiếm khi đề cập tới vấn đề này, có lẽ vì không muốn gây gổ với nhà thờ. Trong thế kỷ 18 và 19, địa vị Mặt Trời chỉ là một trong số nhiều ngôi sao khác dần trở nên rõ rệt. Tới thế kỷ 20, thậm chí trước khi con người khám phá ra rằng có nhiều hệ ngân hà, đây không còn là một vấn đề gây tranh cãi nữa. Thậm chí nếu cuộc tranh luận chỉ giới hạn trong Hệ Mặt Trời, Mặt Trời không nằm ở trung tâm hình học của bất cứ quỹ đạo của hành tinh nào, mà nói chính xác hơn, nó nằm ở một tiêu điểm của quỹ đạo hình elíp. Hơn nữa, khi mở rộng ra rằng khối lượng của một hành tinh không thể bị bỏ qua khi so sánh với khối lượng của Mặt Trời, tâm hấp dẫn của Hệ Mặt Trời hơi dịch chỗ ra khỏi tâm Mặt Trời. (Các khối lượng của các hành tinh, chủ yếu là Sao Mộc, bằng khoảng 0,14% so với khối lượng Mặt Trời.) Vì thế một nhà thiên văn học lý thuyết trên một ngoại hành tinh sẽ quan sát thấy hiện tượng "lắc lư". Từ bỏ toàn bộ quan điểm "đứng yên" có liên quan tới nguyên lý tương đối. Trong khi, thừa nhận một vũ trụ không biên giới, rõ ràng rằng không có vị trí ưu tiên trong vũ trụ, cho tới khi sự thừa nhận thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein, ít nhất sự tồn tại của một lớp ưu tiên trong các hệ quán tính tuyệt đối "đứng yên" được công nhận, đặc biệt ở hình thức các lý thuyết aether truyền ánh sáng. Một số hình thức Mach's principle coi hệ quy chiếu là đứng yên và có xem xét tới các khối lượng trong vũ trụ có các đặc tính đặc biệt. Thuật ngữ "địa tâm" và "nhật tâm" ngày nay Trong cách thức tính toán hiện đại, gốc và hướng của một hệ tọa độ thường phải được lựa chọn. Vì các lý do thực tiễn, các hệ tọa độ có gốc tại trung tâm khối lượng Trái Đất, khối lượng Mặt Trời hay trung tâm khối lượng của Hệ Mặt Trời thường được sử dụng. Tính từ "địa tâm" hay "nhật tâm" có thể được sử dụng trong ngữ cảnh này. Tuy nhiên, sự lựa chọn các hệ tọa độ như vậy không hề có những liên quan triết học hay vật lý. Fred Hoyle đã viết: "Mối quan hệ giữa hai mô hình [địa tâm và nhật tâm] được đơn giản hóa thành một sự chuyển đổi hệ tọa độ bình thường và đó chính là nguyên tắc cơ bản lý thuyết của Einstein cho rằng bất kỳ hai cách tiếp cận nào đối với thế giới có quan hệ với nhau bởi một sự chuyển đổi hệ quy chiếu thì hoàn toàn tương tự với nhau từ quan điểm vật lý." (Hoyle, 1973, trang 78)
Giao thức Otway-Rees là một giao thức xác thực dùng trong các mạng máy tính không an toàn (chẳng hạn như Internet). Nó cho phép các cá nhân có thể trao đổi thông tin để chứng minh nhân dạng của mình đồng thời chống lại việc nghe trộm cũng như gửi lại các gói tin cũ hay sửa đổi các gói tin trên đường truyền. Theo hệ thống ký hiệu giao thức mật mã, giao thức Otway-Rees được mô tả như sau (trong đó Alice sử dụng máy chủ S để xác thực mình với Bob): 1. 2. 3. 4. Một vấn đề của giao thức này là kẻ tấn công có thể can thiệp để khi kết thúc quá trình, A và B sở hữu 2 khóa khác nhau. Quá trình xảy ra như sau: Sau khi A và B thực hiện thành công 3 bước đầu tiên, B nhận được khóa . Khi đó, kẻ tấn công giữ lại gói tin số 4 và gửi lại gói tin số 2. Điều này khiến cho S tạo thêm một khóa mới và gửi tới B. Kẻ tấn công cũng giữ lại gói tin này và gửi cho A phần mà đáng lẽ B phải gửi (cho A). Vì vậy, A cuối cùng cũng nhận được gói tin số 4 nhưng với khóa thay vì . Một vấn đề khác nảy sinh là: mặc dù máy chủ nói với B rằng A đã sử dụng một số ngẫu nhiên (nonce), B cũng không thể biết được số đó vừa được tạo ra hay là một gói tin cũ được phát lại.
Nhà thờ Domaine de Marie còn được gọi là Nhà thờ Vinh Sơn (vì là nguyện đường của các sœurs Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn), Nhà thờ Mai Anh (vì trước đây khu vực này có rất nhiều hoa mai anh đào). Đây là một cụm kiến trúc bao gồm nhà nguyện và hai dãy nhà tu viện nữ tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn với tổng diện tích 12 hatrước giải phóng nằm trên đường Ngô Quyền cách trung tâm thành phố Đà Lạt vào khoảng 1 km về hướng tây nam. ''' Lịch sử Nhà thờ được xây dựng từ năm 1938. Từ năm 1943, nhà thờ được xây dựng lại với một dạng kiến trúc độc đáo . Trước đây nhà thờ là tu viện chính của Dòng tu nữ tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn (từ năm 1940 – 1943). Sau năm 1975, ngoài nhà nguyện và hai dãy tu viện, các cơ sở khác đã được sử dụng cho các mục đích công ích. Ở đây sơ đã nuôi rất nhiều trẻ em mồ côi và dạy nghề cho các em như dệt, thêu, vẽ tranh. Kiến trúc Bố cục kiến trúc nhà thờ có nhiều điểm cách tân so với các nhà thờ cổ điển phương Tây. Vẫn là dạng mặt bằng chữ thập nhưng tỷ lệ có phần tự do hơn: chiều rộng 11 m và chiều dài là 33 m. Có hai đường bậc thang đi lên cửa chính và nhập lại ở sảnh chính. Tiền đình được thiết kế là một hình tam giác cân, trên đỉnh nhọn của nóc mái có gắn một cây thánh giá, phía trước được tô điểm bởi các cửa vòm nhỏ hình lưỡi mác. Chính giữa mặt đứng, phía gần đỉnh mái có một cửa sổ hoa hồng hình tròn. Chi tiết này thường xuất hiện trong các nhà thờ của Pháp cuối thế kỷ XVII. Hệ thống mái, có hình dáng tựa như nhà rông của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Mái nhà có độ dốc khá lớn, được lợp ngói màu đỏ sản xuất ở Việt Nam. Hệ vì kèo gỗ được chế tạo tinh vi góp phần vào việc hình thành một không gian nội thất trong nhà thờ. Các cửa sổ mái nhô ra từ phần mái lớn vừa tạo những điểm nhấn duyên dáng cho một diện tích mái khá lớn, vừa là nơi gắn những tấm kính màu (xuất xứ từ Pháp) chiếu sáng cho không gian thánh đường thêm phần lung linh, huyền ảo. Phần tường được xây bằng đá chẻ tới ngang bệ cửa sổ theo kiểu kiến trúc vùng Normandie (miền Bắc nước Pháp). Tường dưới mái xây khá dày và các cửa được thiết kế sâu vào bên trong, do đó ở mặt bên của công trình có thể nhận thấy rõ các mảng đặc - rỗng, sắc độ đậm nhạt -sáng tối, làm cho mặt bên của công trình càng thêm ấn tượng và độc đáo. Từ khi hoàn thành cho đến nay nhà thờ chỉ dùng vôi màu hồng đậm để quét tường. Nhà thờ thời gian đầu xây dựng không có tháp chuông. Hiện tại nhà thờ đã có tháp chuông, tháp được đặt ở ngay phía sau ngôi chánh điện với quả chuông nhỏ. Trong nhà thờ có tượng Đức Mẹ đứng trên quả địa cầu tạc theo hình mẫu của phụ nữ Việt Nam, do Jonchère - một kiến trúc sư người Pháp thiết kế, cao 3 m nặng 1 tấn, được làm năm 1943 và do phu nhân toàn quyền Đông Dương Decoux (Suzanne Humbert) dâng tặng. Phía sau nhà thờ là phần mộ của bà Decoux, để hoàn thành tâm nguyện của bà và để ghi nhớ công ơn của bà, người có công trong việc giúp xây dựng nhà thờ. Bà đã bị tai nạn trong một chuyến đi từ Sài Gòn ra Đà Lạt tại đèo Prenn, sau đó được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng nhưng vì vết thương quá nặng nên bà đã qua đời tại đó vào năm 1944). Phía sau nhà thờ là một quần thể kiến trúc được thiết kế theo kiểu hiện đại với ba dãy nhà 3 tầng của dòng Nữ tu Bác Ái, bao quanh vườn trong, tường quét vôi màu vàng, mái lợp ngói đỏ. Chú thích
Nhà thờ chính tòa Phát Diệm (thường gọi là Nhà thờ đá Phát Diệm) là một quần thể nhà thờ Công giáo rộng khoảng 22 ha, nằm tại thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, cách Hà Nội khoảng 120 km về hướng Nam. Quần thể các công trình nơi đây được xây dựng từ năm 1875, đến năm 1899 thì hoàn thành. Nhà thờ lớn tại vị trí trung tâm, hiện là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Phát Diệm ở miền Bắc Việt Nam, được hoàn thành năm 1891. Nét độc đáo của các công trình này ở chỗ là nhà thờ Công giáo được xây hoàn toàn bằng đá và gỗ theo kiến trúc cổ Việt Nam, mang dáng dấp của đình, đền, chùa và cung điện truyền thống. Quần thể kiến trúc này được chủ trì xây dựng dần dần bởi linh mục Phêrô Trần Lục, linh mục Địa phận Tây Đàng Ngoài từ năm 1865 và một nhà lãnh đạo cộng đồng địa phương trong hơn 20 năm. Nhà thờ được xây dựng với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ 19. Từ hướng Nam đi vào nhà thờ Phát Diệm gồm các phần: Ao hồ, Phương đình, Nhà thờ lớn, bốn Nhà thờ bên, ba hang đá nhân tạo và Nhà thờ đá. Hiện nay, tỉnh Ninh Bình và các nhà nghiên cứu Nhật Bản đang hoàn thiện hồ sơ về kiến trúc nhà thờ Phát Diệm để đề nghị UNESCO công nhận nhà thờ Phát Diệm là di sản văn hóa thế giới. Nhà thờ đá Phát Diệm được báo chí đánh giá là một trong những nhà thờ đẹp nhất Việt Nam, được ví như "kinh đô Công giáo Việt Nam". Kiến trúc Quần thể nhà thờ Phát Diệm gồm 1 nhà thờ lớn và 5 nhà thờ nhỏ (trong đó có một nhà thờ được xây dựng toàn bộ bằng đá tự nhiên, được gọi là nhà thờ đá), 1 phương đình (tháp chuông), ao hồ và 3 hang đá nhân tạo. Ông Nguyễn Văn Giao, hướng dẫn viên phục vụ nhà thờ cho biết: "Nói công trình này giống đình chùa là rất đúng. Cha Phêrô Trần Lục có mong muốn rằng, qua công trình này nói lên tính chất hòa hợp và sự hội nhập giữa đạo Công giáo với nền văn hóa kiến trúc của dân tộc cũng như sự hòa hợp giữa Công giáo với các tôn giáo khác ở Việt Nam; nói lên tính đoàn kết". Ao hồ: Một hồ nước hình chữ nhật, rộng khoảng 4 ha, được kè đá xung quanh nằm trực diện với con đường từ thị trấn Phát Diệm dẫn vào nhà thờ. Giữa hồ là một hòn đảo trên đó có bức tượng Chúa Giê-su. Phương đình: hoàn thành năm 1899, là một công trình kiến trúc cao 25m, rộng 17m, dài 24m gồm ba tầng được xây dựng bằng đá phiến, lớn nhất là tầng dưới cùng được xây dựng bằng đá xanh. Trên 4 đỉnh tháp có 4 pho tượng bốn vị Thánh Sử, mà từ đường nét, tư thế đến đường mây nếp áo khiến ta dễ lầm với các pho tượng trong các đền chùa Việt Nam. Các vòm cửa bằng đá được lắp ghép đến trình độ tinh xảo. Giữa Phương Đình đặt một sập làm bằng đá nguyên khối, phía ngoài và bên trong là những bức phù điêu được khắc chạm trên đá hình ảnh chúa Giê-su và các vị thánh với những đường nét thanh thoát. Tầng thứ hai của Phương Đình treo một trống lớn. Tầng ba treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần 2000 kg, quả chuông lớn ở Phương Đình được đúc vào năm 1890. Một tiếng chuông vang xa được ví như cả ba tỉnh (Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hóa) nghe thấy. Mái của nhà thờ Phát Diệm không cao vút kiểu ngọn tháp như những nhà thờ theo lối phương Tây mà là mái cong cổ kính như mái đình, mái chùa. Nhà thờ lớn: Nhà thờ chính được khánh thành vào năm 1891 với tước hiệu là Nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi, nay là nhà thờ chính tòa của vị Giám mục Phát Diệm. Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, có bốn mái và có năm lối vào dưới các vòm đá được chạm trổ. Trong nhà thờ có 6 hàng cột gỗ lim (48 cột) nguyên khối, hai hàng cột giữa cao tới 11m, chu vi 2,35m, mỗi cột nặng khoảng 10 tấn. Gian thượng của thánh đường có một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Hai phía bên nhà thờ có bốn nhà thờ nhỏ được kiến trúc hài hòa, mỗi nhà thờ đều có đặc điểm riêng. Bốn nhà thờ nhỏ là những nhà nguyện đứng độc lập ở hai bên nhà thờ lớn: Nhà thờ Trái Tim Chúa Giêsu (1889) hướng Đông Bắc Nhà thờ Thánh Rôcô (1895) hướng Đông Nam Nhà thờ Thánh Giuse (1896) hướng Tây Nam Nhà thờ Thánh Phêrô (1896) hướng Tây Bắc. Ba hang đá nhân tạo ở phía bắc nhà thờ Phát Diệm, cách nhau khoảng 100m, được tạo bằng những khối đá lớn nhỏ khác nhau giữ nguyên dáng vẻ tự nhiên. Trên các hang đá đều có các tượng lớn. Núi Sinh Nhật: nguyên thủy tên là Núi Táng Xác, khởi dựng năm 1875, cũng là công trình được xây dựng đầu tiên với quy mô rất đồ sộ nhằm mục đích thử độ lún của đất mới bồi. Từ năm 1954 được đổi tên thành núi Sinh Nhật hay hang đá Bêlem hiện nay. Núi Lộ Đức: nguyên thủy tên là Vườn Giệt-si-ma-ni (phiên âm từ Gethsemane), khởi dựng năm 1896, từ năm 1925 đổi tên thành hang đá Lộ Đức. Núi Sọ: dựng năm 1898, ban đầu là hang Bêlem. Năm 1957 đặt tượng Chúa chịu đóng đinh nên từ đó mang tên núi Sọ. Nhà thờ đá: xây dựng năm 1883, mang tước hiệu Nhà nguyện Trái tim Vô nhiễm nguyên tội Đức Mẹ. Tọa lạc riêng tại hướng Tây Bắc, đây là nhà thờ đầu tiên được dựng lên trong quần thể này, còn được gọi là nhà thờ đá vì tất cả mọi thứ ở nhà thờ này đều được làm bằng đá, từ nền, tường, cột, chấn song cửa... Phía trong được chạm nhiều bức phù điêu đẹp, đặc biệt là bức chạm tứ quý: tùng, mai, cúc, trúc, tượng trưng cho thời tiết và vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong một năm. Đường nét khắc họa những con vật như sư tử, phượng sống động đến lạ thường. Lễ hội Giáng sinh Lễ hội Giáng sinh ở Nhà thờ Phát Diệm là một dịp sinh hoạt văn hóa cộng đồng lớn nhất của giáo dân Giáo phận Phát Diệm cũng như những người dân Kim Sơn. Khoảng nửa tháng trước ngày lễ hội, giáo dân Phát Diệm bắt đầu chuẩn bị cho ngày lễ trọng đại nhất trong năm của những người theo đạo. Họ dành thời gian vào việc trang hoàng lại nhà thờ cho ngày lễ sắp tới. Đêm Giáng Sinh diễn ra dưới tiết trời lạnh giá, Tòa Giám mục Phát Diệm lung linh với ánh đèn màu rực rỡ. Hệ thống hang đá, cây thông, đèn ông sao phát quang tạo nên một không gian độc đáo và tráng lệ khác thường. Trong khuôn viên nhà thờ, những người Công giáo chuẩn bị tham dự thánh lễ tại thánh đường. Lễ giáng sinh ở Phát Diệm gồm các phần: Canh thức trước hang đá và Thánh Lễ. Kết thúc phần lễ là màn rước kiệu hoa tượng Chúa Hài Đồng. Lễ rước được tiến hành tôn nghiêm và linh thiêng. Ý nghĩa của nghi lễ này là để rước Chúa vào lòng dân. Sau nghi lễ này, tượng Chúa được đưa vào bên trong hang đá để giáo dân tới tôn kính. Trên sân khấu trước giữa phương đình và hồ nước là nơi trình diễn các tiết mục ca mừng Giáng sinh phục vụ nhân dân và du khách. Kết thúc chương trình ca mừng Giáng sinh cũng là lúc bên trong thánh đường, mọi người cùng nhau nguyện cầu cho cuộc sống hòa bình, con người an lạc và hạnh phúc. Ngày Giáng sinh là dịp tặng quà cho nhau, đây cũng là dịp để các giáo dân làm các việc bác ái như trao quà cho người nghèo, người vô gia cư, trẻ em háo hức chờ sự xuất hiện của ông già Noel, gia đình bè bạn rủ nhau hội hè, yến tiệc,... Trong dịp Giáng sinh, Công an huyện Kim Sơn phối hợp với Ban Quản lý Nhà thờ Phát Diệm quy hoạch khu đi lại, ăn ở, để xe và đặt các biển hướng dẫn, phân luồng xe tại khu vực thị trấn Phát Diệm, trên tuyến đường quốc lộ 10 giúp du khách đến dự lễ thuận tiện. Ảnh nhà thờ Chú thích
Hồ Xuân Hương trong tiếng Việt có thể là: Thi sĩ Hồ Xuân Hương, được mệnh danh là "Bà chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương, một hồ nước nhân tạo ở thành phố Đà Lạt
là một tập đoàn đa quốc gia đại chúng về lĩnh vực xe máy và thiết bị điện, có trụ sở tại Minato, Tokyo, Nhật Bản. Honda là nhà sản xuất xe máy lớn nhất thế giới kể từ năm 1959, đạt sản lượng 400 triệu vào cuối năm 2019, cũng như là nhà sản xuất động cơ đốt trong lớn nhất thế giới tính theo khối lượng, sản xuất hơn 14 triệu động cơ đốt trong mỗi năm. Honda trở thành nhà sản xuất ô tô lớn thứ hai của Nhật Bản vào năm 2001. Năm 2015, Honda là nhà sản xuất ô tô lớn thứ tám trên thế giới. Năm 1986, Honda là nhà sản xuất ô tô đầu tiên của Nhật Bản tung ra nhãn hiệu xe sang chuyên dụng Acura. Ngoài mảng kinh doanh cốt lõi là ô tô và xe máy, Honda còn sản xuất thiết bị làm vườn, động cơ hàng hải, tàu thủy cá nhân, máy phát điện và các sản phẩm khác. Từ năm 1986, Honda tham gia nghiên cứu trí tuệ nhân tạo/người máy và cho ra mắt người máy ASIMO vào năm 2000. Họ cũng mạo hiểm đầu tư vào lĩnh vực hàng không vũ trụ với việc thành lập GE Honda Aero Engines vào năm 2004 và Honda HA-420 HondaJet, bắt đầu sản xuất từ năm 2012. Honda có hai liên doanh tại Trung Quốc: Dongfeng Honda và Guangqi Honda. Trong năm 2013, Honda đã đầu tư khoảng 5,7% (6,8 tỷ USD) doanh thu vào việc nghiên cứu và phát triển. Cũng trong năm 2013, Honda trở thành nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đầu tiên trở thành nhà xuất khẩu ròng từ Hoa Kỳ, xuất khẩu 108.705 mẫu xe Honda và Acura, trong khi chỉ nhập khẩu 88.357. Lịch sử Trong suốt cuộc đời của người sáng lập Honda là Honda Soichiro, ông luôn có mối quan tâm đăc biệt với ô tô. Ông từng làm thợ cơ khí tại ga ra Art Shokai, tại đây, ông có nhiệm vụ điều chỉnh ô tô và tham gia các cuộc đua. Năm 1937, với sự tài trợ từ người quen là Shichirō Kato, Honda thành lập Tōkai Seiki (Công ty máy chính xác Biển Đông) để chế tạo vòng piston hoạt động từ Art Shokai. Sau những thất bại ban đầu, Tōkai Seiki đã giành được hợp đồng cung cấp vòng pít-tông cho Toyota, nhưng bị mất hợp đồng do chất lượng sản phẩm kém. Sau khi theo học trường kỹ thuật mà không có bằng tốt nghiệp và tham quan các nhà máy trên khắp Nhật Bản để hiểu rõ hơn về quy trình kiểm soát chất lượng của Toyota được gọi là "Five whys", đến năm 1941, Honda đã có thể sản xuất hàng loạt vòng piston được Toyota chấp nhận, áp dụng quy trình tự động mà ngay cả những người không có kỹ năng cũng có thể sử dụng. Tōkai Seiki chịu sự kiểm soát của Bộ Thương mại và Công nghiệp (gọi là Bộ đạn dược sau năm 1943) khi bắt đầu Thế chiến II, và Honda Soichiro đã bị giáng chức từ chủ tịch xuống giám đốc điều hành cấp cao sau khi Toyota mua 40% cổ phần của công ty. Honda cũng hỗ trợ nỗ lực chiến tranh bằng cách hỗ trợ các công ty khác tự động hóa sản xuất cánh quạt máy bay quân sự. Mối quan hệ mà Honda vun đắp với các nhân viên tại Toyota, Công ty máy bay Nakajima và Hải quân Đế quốc Nhật Bản sẽ là công cụ trong thời kỳ hậu chiến. Một cuộc tấn công bằng máy bay ném bom B-29 của Hoa Kỳ đã phá hủy nhà máy Yamashita của Tōkai Seiki vào năm 1944, và nhà máy Itawa sụp đổ vào ngày 13 tháng 1 năm 1945 sau trận động đất Mikawa. Honda Soichiro đã bán những gì còn lại có thể cứu vãn được của công ty cho Toyota sau chiến tranh với giá 450.000 Yên và sử dụng số tiền thu được để thành lập Viện Nghiên cứu Kỹ thuật Honda vào tháng 10 năm 1946. Chiếc mô tô hoàn chỉnh đầu tiên có cả khung và động cơ do Honda sản xuất là D-Type năm 1949, chiếc Honda đầu tiên có tên là Dream. Năm 1961, Honda giành chức vô địch Grand Prix đầu tiên và Giải vô địch thế giới ở hạng mục 125cc và 250cc. Ô tô đầu tiên của Honda sản xuất là xe bán tải mini T360, bán vào tháng 8 năm 1963. Xe có trang bị động cơ xăng 4 xi-lanh thẳng hàng 356 cc nhỏ, nó được xếp vào khung thuế xe Kei rẻ hơn. Chiếc xe thứ hai của Honda là xe thể thao S500, sau khi chiếc T360 được đưa vào sản xuất vào tháng 10 năm 1963. Bánh sau truyền động bằng xích hướng về nguồn gốc xe máy của Honda. Ngày 23 tháng 2 năm 2015, Honda thông báo Giám đốc điều hành và Chủ tịch Ito Takanobu sẽ từ chức và Hachigo Takahiro sẽ là người thay thế vào tháng 6 cùng năm. Tháng 10 năm 2019, Honda được cho là đang đàm phán với Hitachi để hợp nhất mảng kinh doanh phụ tùng ô tô của hai công ty, tạo ra một nhà cung cấp linh kiện với doanh thu hàng năm gần 17 tỷ USD. Tháng 1 năm 2020, Honda thông báo rút nhân viên làm việc tại thành phố Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc do đại dịch COVID-19. Ngày 23 tháng 3 năm 2020, do sự lây lan của vi-rút trên toàn cầu, Honda đã trở thành nhà sản xuất ô tô lớn đầu tiên có hoạt động tại Hoa Kỳ tạm dừng sản xuất tại các nhà máy. Công ty tiếp tục sản xuất ô tô, động cơ và hộp số tại các nhà máy ở Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 5 năm 2020. Tháng 9 năm 2020, Honda và General Motors công bố liên minh Bắc Mỹ bắt đầu vào năm 2021. Theo The Detroit Free Press, "Liên minh sẽ bao gồm việc chia sẻ nhiều loại phương tiện, được bán dưới các nhãn hiệu riêng biệt của mỗi công ty, cũng như hợp tác mua bán, nghiên cứu và phát triển các dịch vụ kết nối." Tháng 3 năm 2022, Honda thông báo phát triển và chế tạo xe điện trong một liên doanh với Sony. Honda chịu trách nhiệm về các quy trình sản xuất xe hơi. Liên doanh ra mắt vào cuối năm 2022 với việc phát hành những chiếc xe đầu tiên ​​vào năm 2025. Lãnh đạo cấp cao Chủ tịch Hội đồng quản trị: Mikoshiba Toshiaki (từ tháng 4 năm 2019) Chủ tịch và Giám đốc điều hành: Mibe Toshihiro (từ tháng 4 năm 2021) Hồ sơ công ty và các bộ phận Honda có trụ sở chính tại Minato, Tokyo, Nhật Bản. Cổ phiếu giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán Tōkyō và Sở giao dịch chứng khoán New York, cũng như các sàn giao dịch ở Osaka, Nagoya, Sapporo, Kyoto, Fukuoka, London, Paris và Thụy Sĩ. Công ty có các nhà máy lắp ráp trên toàn cầu. Các nhà máy này được đặt tại Trung Quốc, Hoa Kỳ, Pakistan, Canada, Anh, Nhật Bản, Bỉ, Brazil, México, New Zealand, Malaysia, Indonesia, Ấn Độ, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan, Perú và Argentina. Tính đến tháng 7 năm 2010, 89% xe Honda và Acura bán tại Hoa Kỳ được sản xuất tại các nhà máy ở Bắc Mỹ, tăng từ 82,2% một năm trước đó. Điều này bảo vệ lợi nhuận từ việc đồng yên tăng lên mức cao nhất trong 15 năm so với đồng đô la. Đối với năm tài chính 2018, Honda đã báo cáo thu nhập là 9,534 tỷ đô la Mỹ, với doanh thu hàng năm là 138,250 tỷ đô la Mỹ, tăng 6,2% so với chu kỳ tài chính trước đó. Cổ phiếu của Honda được giao dịch ở mức hơn 32 USD/cổ phiếu và vốn hóa thị trường của nó được định giá 50,4 tỷ USD vào tháng 10 năm 2018. Doanh thu thuần và doanh thu hoạt động khác của Honda theo khu vực địa lý năm 2007 Hoạt động xã hội Honda Y-E-S và Honda Award Giải thưởng Honda Y-E-S (Young Engineer and Scientist) và Honda Award được triển khai với sự hợp tác của Quỹ Honda Foundation (Nhật Bản), Công ty Honda Việt Nam, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ (NISTPASS) - Bộ Khoa học Công nghệ và các trường đại học liên kết. Giải thưởng nhằm tìm kiếm và phát triển những tài năng trẻ trong lĩnh vực công nghệ sinh thái để trở thành nhà lãnh đạo tiềm năng trong tương lai,cống hiến cho sự phát triển của nền khoa học công nghệ tại các nước đang phát triển. Tôi Yêu Việt Nam Khởi đầu là chương trình tuyên truyền, hướng dẫn và giáo dục về An toàn giao thông do Công ty Honda Việt Nam phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Cục Cảnh sát Giao thông – Bộ Công an, được triển khai từ năm 2004. Năm 2020, "Tôi Yêu Việt Nam" trở lại với phiên bản hoàn toàn mới  "Vui giao thông", tập trung vào lứa tuổi Mầm non. Ngoài ra, Honda Việt Nam còn phối hợp với Bộ Giáo dục & Đào tạo từng bước mở rộng triển khai trên toàn quốc chương trình đào tạo trực tiếp tại các trường mầm non với rất nhiều tài liệu đào tạo phong phú được thể hiện một cách sinh động, vui nhộn như truyện tranh, sách tô màu, mô hình giao thông, bộ nhập vai giao thông. Sản phẩm Ô tô Năm trong số mười chiếc ô tô tiết kiệm nhiên liệu nhất của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ từ năm 1984 đến năm 2010 đều là của Honda, nhiều hơn bất kỳ nhà sản xuất ô tô nào khác. Năm mẫu xe là: 2000–2006 Honda Insight ( kết hợp), 1986–1987 Honda Civic Coupe HF ( kết hợp), 1994–1995 Honda Civic hatchback VX ( kết hợp), 2006– Honda Civic Hybrid ( kết hợp) và 2010– Honda Insight ( kết hợp). ACEEE cũng đã đánh giá Civic GX là chiếc xe thân thiện với môi trường nhất tại Hoa Kỳ trong bảy năm liên tiếp. Honda hiện đang sản xuất xe tại các nhà máy ở Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, Pakistan, Anh, Bỉ, Brazil, Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, Mexico, Đài Loan và Philippines. Xe máy nhỏ|Honda Gold Wing Honda là nhà sản xuất xe máy lớn nhất Nhật Bản kể từ khi bắt đầu sản xuất năm 1955. Vào thời kỳ đỉnh cao năm 1982, Honda sản xuất gần ba triệu xe máy mỗi năm. Đến năm 2006, con số này giảm xuống còn khoảng 550.000 nhưng vẫn cao hơn ba đối thủ cạnh tranh trong nước. ATV Honda chế tạo những chiếc ATV tiện ích dưới các mẫu Recon, Rubicon, Rancher, Foreman và Rincon. Honda cũng chế tạo những chiếc ATV thể thao theo các mẫu TRX 90X, TRX 250X, TRX 400x, TRX 450R và TRX 700. Thiết bị điện Thiết bị điện Honda bao gồm: Động cơ Động cơ Honda cung cấp năng lượng cho toàn bộ 33 ô tô xuất phát trong 2010 Indianapolis 500 và trong cuộc đua thứ năm liên tiếp, không có sự cố ngừng hoạt động nào liên quan đến động cơ trong quá trình chạy Memorial Day Classic. Robot ASIMO là một phần của chương trình Nghiên cứu & Phát triển người máy của Honda. Đây là cái thứ mười một trong dòng các bản dựng liên tiếp bắt đầu từ năm 1986 với Honda E0 di chuyển qua dòng Honda E tiếp theo và dòng Honda P. ASIMO nặng 54 kg và cao 130 cm, có bề ngoài giống như một phi hành gia nhỏ đeo ba lô và có thể đi bằng hai chân theo cách giống như con người di chuyển, tốc độ tối đa . ASIMO là robot hình người duy nhất trên thế giới có thể lên xuống cầu thang một cách độc lập. Tuy nhiên, các chuyển động của con người như leo cầu thang rất khó bắt chước bằng máy, bằng chứng là ASIMO đã hai lần lao xuống khỏi cầu thang. Máy bay Honda cũng đi tiên phong trong công nghệ HA-420 HondaJet mới, do công ty con Honda Aircraft Company sản xuất, ccho phép giảm lực cản ở mức độ mới, tăng tính khí động học và tiết kiệm nhiên liệu nhằm giảm chi phí vận hành. Xe đạp địa hình Honda cũng đã chế tạo một chiếc xe đạp đua đổ đèo gọi là Honda RN-01 nhưng không bán ra. Xe đạp có hộp số, thay thế cho derailleur tiêu chuẩn như các xe đạp thông thường. Honda đã thuê một số người lái chiếc xe này, trong số đó có Greg Minnaar, Đội G Cross Honda. Sản phẩm trước đây Lõi pin mặt trời Công ty con về pin mặt trời của Honda gọi là Honda Soltec (Trụ sở chính: Kikuchi-gun, Kumamoto; Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành: Kazusa Akio) bắt đầu bán pin mặt trời màng mỏng trên khắp Nhật Bản cho mục đích sử dụng công cộng và công nghiệp vào ngày 24 tháng 10 năm 2008, sau khi bán pin mặt trời dùng cho dân dụng vào tháng 10 năm 2007. Cuối tháng 10 năm 2013, Honda Soltec thông báo giải thể và ngừng hoạt động kinh doanh vào mùa xuân năm 2014, chỉ còn hỗ trợ khách hàng hiện tại. Mô tô thể thao Honda hoạt động rất tích cực trong lĩnh vực đua xe thể thao, như Công thức 1, MotoGP và những môn khác. Ô tô Honda tham gia Công thức 1 lần đầu tiên trong 1964, chỉ một năm sau khi bắt đầu sản xuất ô tô đường trường, sản xuất cả động cơ và khung gầm. Honda đã giành được chiến thắng đầu tiên tại Grand Prix Mexico 1965, và một chiến thắng khác tại Grand Prix Ý 1967, trước khi rút lui sau mùa giải 1968. Họ trở lại với môn thể thao này năm 1983 với tư cách là nhà sản xuất động cơ, tiếp tục cho đến 1992. Giai đoạn này chứng kiến Honda thống trị giải đua Grand Prix, giữa 1986 và 1991, họ đã giành được năm chức vô địch liên tiếp với tay đua Nelson Piquet, Ayrton Senna và Alain Prost, và sáu danh hiệu Nhà xây dựng với Williams và McLaren. Giai đoạn thứ ba từ 2000 đến 2008, ban đầu với tư cách là nhà sản xuất động cơ và sau đó cũng là chủ sở hữu đội, đã giành được 17 bục nhận giải, trong đó có một chiến thắng và vị trí thứ hai năm 2004 trong bảng xếp hạng của các nhà xây dựng. Họ trở lại với tư cách là nhà cung cấp thiết bị năng lượng cho năm thứ hai của kỷ nguyên hybrid 2015, dù ban đầu gặp khó khăn, nhưng sự phát triển mạnh mẽ đã giúp họ một lần nữa chiến thắng cuộc đua năm 2019, và trong 2021 họ đã giành chức vô địch thế giới với tay đua Max Verstappen và Red Bull Racing. Honda chính thức ngừng cung cấp động cơ Công thức 1 sau năm 2021 để tập trung nguồn lực vào các công nghệ carbon trung tính, nhưng vẫn mở rộng hỗ trợ đơn vị năng lượng cho Red Bull Powertrains (RBPT) cho đến năm 2025. Xe máy Honda Racing Corporation (HRC) thành lập năm 1982. Công ty kết hợp việc tham gia các cuộc đua mô tô trên khắp thế giới với việc phát triển các cỗ máy đua có tiềm năng cao. Các hoạt động đua xe là một nguồn quan trọng để có thể tạo ra và áp dụng các công nghệ hàng đầu trong quá trình phát triển xe máy Honda. HRC cũng đóng góp vào sự phát triển của môn thể thao mô tô thông qua một loạt các hoạt động bao gồm bán mô tô đua sản xuất, hỗ trợ các đội vệ tinh và các chương trình giáo dục người lái. Trong Giải vô địch mô tô thế giới, Honda đã giành sáu chức vô địch thế giới. Trong Giải vô địch Enduro thế giới, Honda giành tám danh hiệu, gần đây nhất là với Stefan Merriman vào năm 2003 và Mika Ahola từ năm 2007 đến 2010. Trong mô tô địa hình, Honda giành ba chức vô địch thế giới với tay đua người Bỉ Eddy Lejeune. Xe điện và xe sử dụng nhiên liệu thay thế Khí tự nhiên nén Honda Civic GX trong thời gian dài là chiếc xe chạy bằng khí tự nhiên (NGV) được sản xuất riêng duy nhất có sẵn thương mại ở một số khu vực của Mỹ. Honda Civic GX đầu tiên xuất hiện vào năm 1998 dưới dạng Civic LX được sửa đổi từ nhà máy để chạy hoàn toàn bằng khí tự nhiên nén. Xe có vẻ ngoài và lái giống như một chiếc Honda Civic LX đương đại, nhưng không chạy bằng xăng. Năm 2001, Civic GX được đánh giá là động cơ đốt trong sạch nhất trên thế giới bởi Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA). Lần đầu tiên được cho thuê cho Thành phố Los Angeles, vào năm 2005, Honda bắt đầu cung cấp GX trực tiếp cho công chúng thông qua các đại lý được đào tạo từ nhà máy và được chứng nhận để phục vụ GX. Trước đó, chỉ có các đội xe mới đủ điều kiện mua một chiếc Civic GX mới. Năm 2006, Civic GX được phát hành tại New York, trở thành bang thứ hai nơi người tiêu dùng có thể mua xe. Vào tháng 6 năm 2015, Honda thông báo quyết định dừng việc thương mại hóa các xe chạy bằng khí tự nhiên để tập trung vào việc phát triển thế hệ mới của các xe điện tử như xe hỗn hợp, xe cắm điện và xe chạy bằng hydro xe hạt nhân nhiên liệu. Kể từ năm 2008, Honda đã bán khoảng 16.000 xe chạy bằng khí tự nhiên, chủ yếu là xe taxi và đội xe thương mại. Xe chạy nhiều loại nhiên liệu Công ty con của Honda tại Brazil đã ra mắt các phiên bản flex-fuel cho Honda Civic và Honda Fit vào cuối năm 2006. Giống như các phương tiện chạy flex-fuel khác ở Brazil, các mẫu này hoạt động trên bất kỳ hỗn hợp nào của ethanol hydrous (E100) và xăng E20-E25. Ban đầu, để thử nghiệm thị trường, nhà sản xuất quyết định sản xuất một tỷ lệ nhỏ các phương tiện với động cơ flex-fuel, chiếm 33% sản lượng Civic và 28% các mẫu Fit. Ngoài ra, giá bán của phiên bản flex-fuel cao hơn phiên bản chạy xăng tương ứng, khoảng 1.000 đô la Mỹ cho Civic, và 650 đô la Mỹ cho Fit, mặc dù tất cả các phương tiện chạy flex-fuel khác bán ở Brazil đều có mức giá như phiên bản chạy xăng của chúng. Vào tháng 7 năm 2009, Honda đã ra mắt trên thị trường Brazil chiếc xe chạy flex-fuel thứ ba của họ, Honda City. Trong hai tháng cuối năm 2006, cả hai mẫu xe sử dụng nhiên liệu linh hoạt đã bán được 2.427 xe so với 8.546 xe sử dụng xăng, tăng lên 41.990 xe nhiên liệu linh hoạt vào năm 2007 và đạt 93.361 xe vào năm 2008. Do thành công của các phiên bản sử dụng nhiên liệu linh hoạt, vào đầu năm 2009, toàn bộ sản xuất ô tô của Honda cho thị trường Brazil hiện đã sử dụng nhiên liệu linh hoạt, và chỉ có một tỷ lệ nhỏ phiên bản xăng được sản xuất tại Brazil để xuất khẩu. Vào tháng 3 năm 2009, Honda đã ra mắt tại thị trường Brazil chiếc xe máy sử dụng nhiên liệu linh hoạt đầu tiên trên thế giới. Sản xuất bởi công ty con Moto Honda da Amazônia của hãng, mẫu CG 150 Titan Mix có giá bán khoảng 2.700 đô Mỹ. Xe hơi hybrid Vào cuối năm 1999, Honda đã ra mắt mẫu xe hơi hybrid điện đầu tiên được bán trên thị trường Mỹ, đó là Honda Insight, chỉ cách đây một tháng so với việc giới thiệu Toyota Prius, và ban đầu được bán với giá 20.000 USD. Honda Insight thế hệ đầu tiên được sản xuất từ năm 2000 đến năm 2006 và đạt mức tiêu thụ nhiên liệu cho đánh giá tốc độ cao trên đường cao tốc của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA), là chiếc xe tiêu thụ nhiên liệu hiệu suất cao nhất được sản xuất hàng loạt vào thời điểm đó. Tổng doanh số bán toàn cầu của Insight chỉ đạt khoảng 18.000 xe. Tính đến năm 2005, tổng doanh số bán toàn cầu đạt 100.000 xe hybrid, và năm 2007 là 200.000 xe. Honda giới thiệu mẫu Insight thế hệ thứ hai tại Nhật Bản vào tháng 2 năm 2009 và phát hành nó trên các thị trường khác vào năm 2009 và tại thị trường Mỹ vào tháng 4 năm 2009. Với giá 19.800 USD dành cho phiên bản hatchback 5 cửa, nó đã trở thành mẫu hybrid rẻ nhất có sẵn trên thị trường Mỹ. Kể từ năm 2002, Honda cũng đã bán mẫu Honda Civic Hybrid (mẫu 2003) trên thị trường Mỹ. Sau đó là Honda Accord Hybrid, được bán trong các năm mẫu 2005 đến 2007. Cuối cùng là Honda CR-Z, được bán ra tại Nhật Bản vào tháng 2 năm 2010, trở thành mẫu xe hơi hybrid thứ ba của Honda trên thị trường. Hiện tại, tính đến năm 2011, Honda sản xuất khoảng 200.000 xe hybrid mỗi năm tại Nhật Bản. Doanh số bán xe Honda Fit Hybrid bắt đầu tại Nhật Bản vào tháng 10 năm 2010, và lúc đó, nó là mẫu xe hybrid điện-gasoline giá rẻ nhất được bán tại đất nước này. Phiên bản dành cho châu Âu, gọi là Honda Jazz Hybrid, được ra mắt vào đầu năm 2011. Trong năm 2011, Honda ra mắt ba mẫu xe hybrid chỉ có sẵn tại thị trường Nhật Bản, đó là Fit Shuttle Hybrid, Freed Hybrid và Freed Spike Hybrid. Tính đến cuối tháng 9 năm 2012, doanh số bán hàng toàn cầu của Honda vượt qua mốc 1 triệu đơn vị xe hybrid, 12 năm 11 tháng sau khi bắt đầu bán mẫu Insight thế hệ đầu tiên tại Nhật Bản vào tháng 11 năm 1999. Tổng cộng có 187.851 xe hybrid được bán trên toàn cầu trong năm 2013, và 158.696 xe hybrid trong 6 tháng đầu tiên của năm 2014. Tính đến năm 2014, Honda đã bán hơn 1,35 triệu xe hybrid trên toàn cầu. Tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro Vào ngày 16 tháng 6 năm 2008 tại Takanezawa, Nhật Bản, Honda đã sản xuất chiếc Honda FCX Clarity đầu tiên trên dây chuyền lắp ráp, một loại xe tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro hybrid. Hiệu suất cao hơn so với một chiếc xe tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro hỗn hợp, FCX Clarity kết hợp hydro và oxygen từ không khí thông thường để tạo ra điện cho động cơ điện. Vào tháng 7 năm 2014, Honda thông báo dừng sản xuất Honda FCX Clarity từ năm 2015. Xe này không thải ra bất kỳ chất ô nhiễm nào và chỉ tạo ra nhiệt và nước làm sản phẩm phụ. FCX Clarity cũng có lợi thế hơn so với các xe hybrid chạy xăng - điện bởi nó không sử dụng động cơ đốt trong để đẩy xe. Tương tự như các xe hybrid chạy xăng - điện, nó sử dụng một pin lithium ion để hỗ trợ tế bào nhiên liệu trong quá trình tăng tốc và thu thập năng lượng qua cơ chế phanh tái tạo, từ đó nâng cao hiệu quả nhiên liệu. Sự thiếu hụt các trạm nạp hydro trong các nước phát triển sẽ giữ cho sản lượng sản xuất ở mức thấp. Honda sẽ phát hành xe này dưới dạng nhóm 150 chiếc. California là thị trường duy nhất ở Hoa Kỳ có hạ tầng để cung cấp nhiên liệu cho loại xe này, tuy số lượng các trạm cung cấp nhiên liệu này vẫn còn hạn chế. Xây dựng thêm các trạm cung cấp nhiên liệu này đòi hỏi chi phí cao, khi Hội đồng Tài nguyên Khí quyển California (CARB) đã cấp 6,8 triệu USD cho bốn trạm nạp hydro, mỗi trạm tốn khoảng 1,7 triệu USD. Honda coi xe tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro là sự thay thế dài hạn cho các xe động cơ piston, không phải xe điện pin. Xe điện sạc từ ổ cắm Chiếc xe điện toàn phần Honda EV Plus đã được giới thiệu vào năm 1997 nhằm tuân thủ mệnh lệnh của CARB về các xe không thải ra khí thải và chỉ có thể cho thuê tại California. EV Plus là chiếc xe điện toàn phần đầu tiên của một hãng sản xuất ô tô lớn với pin không phải loại chì. EV Plus có phạm vi hoạt động toàn điện . Khoảng 276 chiếc đã được bán tại Mỹ và sản xuất đã kết thúc vào năm 1999. Chiếc xe Honda Fit EV toàn phần được giới thiệu vào năm 2012 và có phạm vi hoạt động . Xe điện toàn phần này đã được phát hành cho khách hàng bán lẻ tại Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2012, nhưng lượng xe ban đầu chỉ có sẵn ở California và Oregon. Sản xuất giới hạn chỉ 1.100 chiếc trong 3 năm đầu tiên. Tính đến tháng 9 năm 2014, tổng cộng đã cho thuê 1.007 chiếc tại Hoa Kỳ. Fit EV đã được phát hành tại Nhật Bản thông qua việc cho thuê cho chính phủ địa phương và các khách hàng doanh nghiệp vào tháng 8 năm 2012. Hiện chỉ có 200 chiếc được cung cấp trên thị trường Nhật Bản trong hai năm đầu tiên. Vào tháng 7 năm 2014, Honda thông báo dừng sản xuất Fit EV từ năm 2015. Honda Accord Plug-in Hybrid được giới thiệu vào năm 2013 và có phạm vi hoạt động toàn điện . Doanh số bán ra đã bắt đầu từ tháng 1 năm 2013 tại Hoa Kỳ và loại xe hybrid plug-in chỉ có sẵn ở California và New York. Tính đến tháng 9 năm 2014, tổng cộng đã bán ra 835 chiếc tại Hoa Kỳ. Accord PHEV đã được giới thiệu tại Nhật Bản vào tháng 6 năm 2013 và chỉ có sẵn cho thuê, chủ yếu dành cho các công ty và cơ quan chính phủ. Dự kiến ​​Honda Prologue sẽ được giới thiệu vào năm 2024 như một chiếc SUV crossover điện trung bình dựa trên nền tảng Ultium của General Motors. Pin Vào tháng 8 năm 2022, Honda và LG Energy Solution thông báo hợp tác thành lập một liên doanh nhằm xây dựng một nhà máy pin lithium-ion mới tại Mỹ để cung cấp cho các xe điện Honda và Acura. Lúc đó, mục tiêu sản xuất là 40 gigawatt giờ. Tiếp thị Tại Nhật Bản Bắt đầu từ năm 1978, Honda Nhật Bản quyết định đa dạng hóa các kênh phân phối bán hàng và tạo ra Honda Verno, bán các sản phẩm đã có tên tuổi với hàm lượng thiết bị tiêu chuẩn cao hơn và mang tính chất thể thao hơn. Việc thành lập Honda Verno trùng hợp với mẫu xe thể thao nhỏ gọn mới của hãng là Honda Prelude. Sau đó, Honda Vigor, Honda Ballade và Honda Quint đã được thêm vào các cửa hàng Honda Verno. Cách tiếp cận này là nhờ nỗ lực của các nhà sản xuất ô tô đối thủ Nhật Bản Toyota và Nissan. Tiếp thị quốc tế Cuối năm 2006, Honda phát hành quảng cáo robot ASIMO khám phá một bảo tàng, nhìn vào các vật trưng bày với vẻ ngạc nhiên gần như trẻ con (dang hai tay ra trong phòng trưng bày hàng không vũ trụ, vẫy chào bộ đồ phi hành gia, v.v.), trong khi Garrison Keillor ngẫm nghĩ về tiến độ. Nó kết thúc với khẩu hiệu: "Làm ơn tiến tới nhiều hơn". Honda cũng tài trợ cho ITV's phủ sóng Công thức 1 tại Anh năm 2007. Tuy nhiên, họ thông báo sẽ không tiếp tục vào năm 2008 do giá tài trợ mà ITV yêu cầu quá cao. Tại thị trường Bắc Mỹ, Honda bắt đầu tất cả các quảng cáo bằng tiếng leng keng hai tông kể từ giữa thập niên 2010. Tại Việt Nam, Honda thường lồng ghép các hoạt động tuyên truyền, giáo dục an toàn giao thông vào quảng cáo. Số lượng sản xuất
Mai Phương Thúy (sinh ngày 6 tháng 8 năm 1988 tại Hà Nội) là một hoa hậu, doanh nhân và người mẫu người Việt Nam. Cô đăng quang Hoa hậu Việt Nam 2006 vào tháng 8 năm 2006 tại Nha Trang, Khánh Hòa. Tiểu sử Mai Phương Thúy là con gái lớn trong gia đình có 2 chị em. Năm lên 6 tuổi, bố cô mất sau gần một năm nằm viện. Mẹ cô là bà Nguyễn Phương Lan từng là cán bộ trong ngành thuế (Chi cục Thuế quận Tây Hồ) đã ở vậy để nuôi cha mẹ chồng và 2 con nhỏ. Trước khi đến với cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2006, Mai Phương Thúy từng là thành viên của Công ty người mẫu New Talent. Cô gia nhập công ty từ kì nghỉ hè năm lớp 11 qua sự giới thiệu của một người bạn. Mai Phương Thúy từng học THCS Thăng Long và trường Trung học phổ thông Phan Đình Phùng, Hà Nội. Năm 2006, cô thi đỗ trường Đại học Ngoại thương ngành Quản trị kinh doanh với số điểm 24,5 và đã 3 lần đoạt được học bổng toàn phần của Đại học RMIT Việt Nam. Sau khi đăng quang, Mai Phương Thuý đã chọn theo học trường Đại học RMIT Việt Nam cơ sở Nam Sài Gòn. Hoa hậu Việt Nam 2006 Đăng quang Tại cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2006, Mai Phương Thúy có các số đo hình thể: chiều cao 179.5 cm (nhưng đăng ký 179 cm vì lo rằng cô quá cao theo thông tin Mai Phương Thúy cho biết), nặng 60 kg và ba vòng 86-62-95. Cô lập kỷ lục về chiều cao của hoa hậu trong lịch sử Hoa hậu Việt Nam kể từ năm 1988 - 2012. Cô luôn được đánh giá là ứng viên sáng giá cho vương miện hoa hậu trong suốt cuộc thi. Những gương mặt triển vọng được đánh giá cao cùng với Mai Phương Thuý trong cuộc thi này là Lưu Bảo Anh (Cần Thơ), Trần Thị Hương Giang (Hải Dương), Phạm Thị Thùy Dương, Lương Thị Ngọc Lan,... Đêm chung kết cuộc thi diễn ra vào ngày 26 tháng 8 tại sân khấu nhạc nước của Công viên Văn hóa Vinpearl thuộc Khu liên hợp quốc tế Vinpearl - Hòn Ngọc Việt (Hòn Tre, Nha Trang). Sau các phần thi trình diễn áo tắm và trang phục dạ hội, Mai Phương Thúy được chọn vào Top 5 người đẹp nhất. Nhận được câu hỏi ứng xử: "Những lúc nào bạn cảm thấy thiếu tự tin nhất?", Mai Phương Thúy đã trả lời: "Theo em, trong cuộc sống, ai cũng muốn hướng tới một vẻ đẹp hoàn thiện về nhân cách, về hình thức, về tâm hồn. Chính vì thế, con người rất có ý thức để trang bị cho mình những hành trang để có thể trở thành một người tự tin trong cuộc sống. Vì vậy, lúc em cảm thấy thiếu tự tin nhất đó chính là lúc mà mình chưa trang bị đủ cho mình những kiến thức, những điều tốt đẹp để có thể trở thành một người phụ nữ Việt Nam mang vẻ đẹp Việt Nam, mang nhân cách Việt Nam, trái tim Việt Nam". Kết quả chung cuộc, cô giành được ngôi vị cao nhất bên cạnh Á hậu 1 Lưu Bảo Anh và Á hậu 2 Lương Thị Ngọc Lan. Ngoài ngôi vị cao nhất, Mai Phương Thuý còn nhận được danh hiệu thí sinh được bình chọn nhiều nhất qua hệ thống tin nhắn và website chính thức của cuộc thi. Dự thi quốc tế Sau khi đăng quang, cô đã phải khẩn trương lên đường tới thủ đô Warszawa của Ba Lan để kịp dự thi Hoa hậu Thế giới 2006. Tuy nhiên, do đến muộn, cô đã bỏ lỡ đêm ra mắt các thí sinh và phần thi áo tắm (Hoa hậu Bãi biển) của cuộc thi này. Cô tham gia đầy đủ các phần thi Hoa hậu Thể thao, Trang phục dân tộc và không tham gia phần thi Hoa hậu Tài năng. Trong phần thi trang phục dân tộc, Mai Phương Thuý lọt vào Top 20 thí sinh mặc trang phục dân tộc đẹp nhất nhờ chiếc áo dài đen đuôi công kết cườm và kim sa của nhà thiết kế Việt Hùng. Đây cũng là bộ trang phục được Mai Phương Thuý mặc lại trong đêm chung kết do cô bị thất lạc hành lý khi đến cuộc thi và trang phục dạ hội của cô nằm trong chiếc vali đó. Đêm chung kết cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2006 tổ chức tại sân khấu Tháp Văn hóa và Khoa học, Warszawa vào ngày 30 tháng 9. Kết quả cuối cùng, Mai Phương Thúy đã giành được thành tích lọt vào Top 17 của cuộc thi với tư cách là Thí sinh được khán giả yêu thích nhất (bình chọn nhiều nhất) khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhờ thành tích lọt vào bán kết Hoa hậu Thế giới 2006 của Mai Phương Thuý, thứ hạng của Việt Nam đã tăng 15 bậc từ 65 lên vị trí 49 trên bảng xếp hạng Grand Slam của Globalbeauties. Bảng xếp hạng này tổng hợp điểm của các quốc gia đạt được từ 5 cuộc thi sắc đẹp lớn và uy tín nhất thế giới là Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Quốc tế, Hoa hậu Trái Đất và Nữ hoàng Du lịch Quốc tế (hiện nay Hoa hậu Trái Đất và Nữ hoàng Du lịch Quốc tế không còn nằm trong hệ thống Grand Slam). Cũng trong năm đó, Mai Phương Thúy được trang web Globalbeauties.com xếp hạng lọt vào Top 50 hoa hậu tiêu biểu nhất tại các cuộc thi hoa hậu quốc tế trong năm 2006. Sau đó, một lần nữa cô nhận được lời mời làm đại diện Việt Nam tại đấu trường Hoa hậu Hoàn vũ 2011 nhưng cô đã từ chối. Mai Phương Thúy từng đảm nhiệm vai trò giám khảo của cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015 và 2017. Công tác từ thiện Trong suốt 2 năm đương kim hoa hậu, Mai Phương Thuý đã đi nhiều nơi, gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều đối tượng: thương bệnh binh, trẻ em mồ côi, người già neo đơn, nạn nhân thiên tai…để thăm hỏi và tặng quà. Tổng số tiền cô đã làm từ thiện trong 2 năm đương nhiệm lên tới gần 10 tỷ đồng. Ngoài ra, Mai Phương Thúy cũng tham gia với tư cách là "đại sứ thiện chí" cho một số chương trình xã hội - cộng đồng như: Chương trình đi bộ kêu gọi ủng hộ trẻ em nghèo hiếu học, chương trình phòng chống tai nạn - thương vong của Quỹ thương vong châu Á (AIPF), đại sứ thanh niên hoa hậu của Operation Smile Việt Nam, Quỹ từ thiện cộng đồng người sử dụng Internet Việt Nam. Hoạt động nghệ thuật Ngoài các hoạt động từ thiện-xã hội, Mai Phương Thúy cũng là một hoa hậu được đánh giá là năng động và nhiệt huyết thử sức trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật, thể hiện đặc trưng tuổi trẻ. Cô tham gia nhiều hoạt động quảng cáo, đóng phim, ra DVD "Hoa đồng nội", phát hành sách Phụ nữ và Tuồng, thực hiện những bộ ảnh nghệ thuật, ra album ca nhạc… Năm 2008, Mai Phương Thúy nhận lời tham gia đóng nhân vật chính trong bộ phim truyền hình dài tập "Âm tính", kể về cuộc đời của một cô hoa hậu gian truân, bất hạnh, cuối cùng chết trong cô đơn với căn bệnh HIV/AIDS Lâm Uyển Nhi. 4/10/2010, Mai Phương Thuý đã kết hợp cùng nhà thiết kế thời trang Võ Việt Chung trình diễn chiếc áo dài kỷ lục gồm 9 vạt với tổng chiều dài hơn 1000m gắn 2000 viên kim cương. Đời tư Mai Phương Thúy hẹn hò với Noo Phước Thịnh vào khoảng những năm 2008. Trên trang cá nhân của Cô cũng nhiều lần úp mở chuyện tình giữa cô và Noo Phước Thịnh nhiều lần. Tháng 10.2018, trong một buổi trò chuyện trực tuyến, Noo Phước Thịnh thừa nhận anh và Thúy từng có thời gian hẹn hò. Sau đó, Mai Phương Thúy cũng lên tiếng xác nhận mối quan hệ này. Hiện nay, cả hai đều xác nhận đã chia tay và giữ mối quan hệ bạn bè. Chỉ trích Vào thời điểm giữa năm 2009, Mai Phương Thúy gây xôn xao dư luận với những bộ ảnh gợi cảm trong trang phục bikini nóng bỏng liên tục được cô tung ra cùng với dự định chụp bộ ảnh nude được hoa hậu giải thích là vì mục đích từ thiện. Sự việc này gây rất nhiều ồn ào tranh cãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng và diễn đàn khiến cô gặp phải khá nhiều lời chỉ trích và trách móc. Mặt khác, trong dư luận còn xuất hiện nhiều lời đồn thổi về việc chỉnh sửa thẩm mỹ vòng 1 quá mức cần thiết của hoa hậu nhưng cô đã phủ nhận điều này. Ngoài ra, cư dân mạng cũng từng ầm ĩ khi một đoạn clip lan truyền trên internet quay cảnh một cô gái được cho là rất giống Hoa hậu Mai Phương Thuý đang cãi cọ, to tiếng với người đi đường. Báo chí có đặt câu hỏi đối chất nhưng Mai Phương Thuý đã từ chối bình luận về sự kiện này. Năm 2012, bộ ảnh "Xuân thì" chụp Mai Phương Thúy trong trang phục áo dài có chất liệu mỏng và tư thế tạo dáng được cho là quá gợi cảm đã được tung lên mạng. Một số tờ báo đã chỉ trích nặng nề, cho rằng bộ ảnh làm vấy bẩn hình ảnh chiếc áo dài và đòi tước vương miện hoa hậu của Mai Phương Thúy. Một số tờ báo lại đánh giá, đó là bộ ảnh đẹp, tôn vinh vẻ đẹp áo dài truyền thống Việt Nam. Ngoài ra, Mai Phương Thúy còn vướng một số rắc rối khác, như thiếu lễ độ đối với người lớn tuổi trong một quảng cáo, thái độ của cô khi trao đổi với một người bảo vệ của Bưu điện Trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 9 năm 2011. Phim truyền hình Chú thích
Vũ khí tối thượng (Lethal Weapon) là phim đầu tiên trong sêri các phim Mỹ được phát hành trong những năm 1987, 1989, 1992, và 1998, các diễn viên chính Mel Gibson và Danny Glover đóng vai một cặp sĩ quan cảnh sát Los Angeles không ăn ý. Bộ phim thuộc thể loại hành động-hài, và thường được coi là kiểu phim "Đôi bạn cảnh sát thân thiết" (Buddy Cop). Tên phim Lethal Weapon khi vào Việt Nam xuất hiện dưới các tên sau: Vũ khí tối thượng, Vũ khí hủy diệt, Vũ khí giết người, Vũ khí sát thương. Cốt truyện Câu chuyện bắt đầu vào tháng 12 năm 1987 khi xảy ra vụ tự sát của Amanda Hunsacker, con gái Michael Hunsacker (Tom Atkins) - một người bạn chiến đấu cũ của sĩ quan LAPD Roger Murtaugh. Là một cảnh sát trong 20 năm, Roger Murtaugh phải bắt đầu làm việc với người đồng nghiệp không mong muốn trong ngày sinh nhật thứ 50 của mình. Martin Riggs 37 tuổi, có người vợ đã từng chung sống 11 năm trước khi bị chết trong một tai nạn ôtô 3 năm trước đó. Chính vì lý do đó, Riggs luôn có ý định tự vẫn, trở thành sâu rượu, luôn có thái độ khinh suất và bạo lực trong phương pháp làm việc của mình và được coi là một "vũ khí tối thượng". Trung sĩ Murtaugh không lấy gì làm vui vẻ khi có một đồng nghiệp "luôn trong tình trạng tơi tả" và "chỉ có một điều ước là chết", nhưng ông đã sớm chịu ơn cứu mạng với người đồng nghiệp mới. Trong khi đang điều tra cái chết của Amanda Hunsacker, hai người đã phát hiện ra vụ buôn lậu heroin do những cựu binh của lực lượng đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam tổ chức, gọi là Đại đội Bóng tối (Shadow Company), thông qua các mối quan hệ của CIA trong thời kỳ chiến tranh ở Air America - một công ty đầu mối được sử dụng để buôn lậu heroin từ vùng Tam giác vàng. Những phi vụ này được đạo diễn bởi một con người độc ác là Đại tướng Peter McAllister (Mitchell Ryan) - chỉ huy trước đây của Shadow Company - và cánh tay phải của ông ta, cũng là một người người đầy dã tâm - Peter Joshua (Gary Busey). Murtaugh và Riggs - đều là cựu binh Chiến tranh Việt Nam - phát hiện ra Michael Hunsacker đã "rửa tiền" qua ngân hàng của ông ta, và McAllister sắp đặt vụ giết hại Amanda Hunsacker nhằm làm cho Michael không dám hé lộ về những thứ ông ta biết về các vụ buôn lậu heroin; ngay sau khi hai viên cảnh sát đụng độ Michael Hunsacker, Joshua đã bất ngờ xuất hiện trên một chiếc trực thăng và giết Michael. Khi Riggs và Murtaugh phát hiện thêm nhiều tình tiết về mạng lưới của Shadow Company, các thành viên của Shadow Compay bắt cóc con gái của Murtaugh là Rianne để gây áp lực buộc Murtaugh phải nói những điều Michael Hunsacker tiết lộ. Riggs, đầu tiên bị McAllister bắt, đã tự giải thoát mình và sau đó cứu cả Murtaugh và Rianne. Bộ đôi này sau đó đã tấn công Shadow Company và bắn hạ gần hết các thành viên của nhóm này; McAllister bỏ mạng trong một vụ nổ xe hơi (cùng với heroin), cả Riggs và Murtaugh bắn chết Joshua sau khi Riggs đánh bại hắn trong một trận đấu tay không trên bãi cỏ nhà Murtaugh. Murtaugh và Riggs trở thành đôi bạn thân thiết, Riggs dự Giáng sinh cùng với gia đình Roger; Riggs mang con chó Sam để làm bạn với con mèo của họ là Burbank. Phản ứng Bộ phim với kinh phí khiêm tốn 15 triệu đôla, đã thu được doanh thu tổng cộng 65 triệu đôla ở nội địa và 55 triệu đôla ở nước ngoài, xếp hạng Topten các phim năm 1987. Bộ phim được phát hành vào mùa xuân, thời điểm khá bất thường cho việc phát hành các phim hành động. Qua bộ phim này, sự nghiệp của Gibson và Glover càng thêm vững chắc. Thành công của bộ phim đã làm cảm hứng cho các nhà làm phim sản xuất một loạt các phim tương tự. Mỗi phim giới thiệu một nhân vật chính mới: Leo Getz (Joe Pesci) năm 1989 trong Vũ khí tối thượng 2, Lorna Cole (Rene Russo) năm 1992 trong Vũ khí tối thượng 3, và Thám tử Lee Butters (Chris Rock) năm 1998 với phim Vũ khí tối thượng 4.
Live 8 là một chuỗi các buổi biểu diễn nhạc từ thiện vào tháng 7 năm 2005 tại những nước G8 và Cộng hòa Nam Phi, được tổ chức ngay trước khi hội nghị cấp cao G8 được tổ chức tại khách sạn Gleneagles, Auchterarde, Scotland từ ngày 6 đến 8 tháng 7 năm 2005. Sự kiện này còn trùng với kỉ niệm 20 năm Live Aid. Song song với cuộc vận động "Hãy biến nghèo đói thành quá khứ", tiếng Anh: Make Poverty History của Anh và lời kêu gọi hành động toàn cầu chống nghèo đói, các buổi biểu diễn có mục đích gây áp lực với các nhà lãnh đạo thế giới nhằm giảm nợ cho các nước nghèo, giúp đỡ họ phát triển. Mười buổi biểu diễn Live 8 được tổ chức đồng loạt vào ngày 2 tháng 7 và một buổi vào ngày 6 tháng 7 đã mang đến tuyên bố của các nhà lãnh đạo G8, vào 7 tháng 7 cùng năm lời cam kết tăng gấp đôi viện trợ cho châu Phi, từ 25 lên đến 50 tỉ USD vào năm 2010. Live 8 với hơn 1.000 nghệ sĩ tham gia được phát sóng trên 182 kênh truyền hình và 2.000 đài phát thanh. Thành viên của Live Aid và Band Aid, ông Bob Geldof công bố kế hoạch này vào ngày 31 tháng 5 năm 2005. Nhiều thành viên của Live Aid sẵn sàng phục vụ cho mục tiêu này. Trước khi kế hoạch được công bố chính thức , kéo theo một sự kiện là ’’"Live Aid 2"’’. Và bằng cách nào đó, Geldof cùng với Midge Ure đã nói rõ ràng rằng họ không nghĩ sự kiện này là giống với ’’"Live Aid"’’. Geldof nói: " Đây không phải là "Live Aid" lần thứ hai, những buổi diễn này là điểm bắt đầu của The Long Walk To Justice, là một cách để chúng tôi có thể cùng cất lên tiếng nói của mình.". Ban tổ chức Live 8 đã trình ’’Danh sách Live 8’’ đến các nhà lãnh đạo tại hội nghị G8. Đó là danh sách những người trên khắp thế giới lên tiếng ủng hộ mục đích Biến nghèo đói thành quá khứ của Live 8. Cùng với sự kiện này, việc một số vé xem Live 8 được bán đấu giá tại trang web eBay đã gây náo động. Geldof đã yêu cầu eBay phải loại bỏ cuộc bán đấu giá đó, thậm chí còn khuyến khích những hacker tấn công trang web. Ebay cuối cùng cũng loại bỏ những vé đó, sau vài cuộc tranh cãi. Phần lớn DVD của chương trình Live 8 được phát hành trên toàn cầu vào ngày 7 tháng 11 năm 2005, riêng phát hành tại Hoa Kỳ được thực hiện sau một ngày, trùng hợp với ngày phát hành DVD của Live Aid vào ngày 8 tháng 11 năm 2004. Buổi hòa nhạc Có 10 buổi hòa nhạc tổ chức vào ngày 2 tháng 7 năm 2005, phần lớn chúng được tổ chức cùng lúc với nhau. Buổi đấu tiên được tổ chức tại Makuhari Messe, Nhật Bản, ban nhạc Rize biểu diễn. Tring phần mở đầu của buổi biểu diễn tại Philadelphia, Will Smith đã dẫn dắt khán giả ở London, Philadelphia, Berlin, Roma, Paris và Barrie, Ontario (ngoại ô Toronto) in a synchronised finger click. Nó tượng trưng cho cái chết của trẻ em cứ mỗi 3 giây, vì nghèo đói. Bob Geldof lúc đó ở Hyde Park, London và đã biểu diễn ’’I Don’t Like Monday’’. Một số khách mời đặc biệt xuất hiện suốt buổi diễn là Kofi Annan, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc., Bill Gates có một bài diễn văn và Nelson Mandela tại Nam Phi. Sự kiện cuối cùng được tổ chức tại Edinburgh vào ngày 6 tháng 7 năm 2005 và có tên Edinburgh 50,000 - The Final Push. Hơn nữa, nó có phần biểu diễn của những nghệ sĩ ở buổi biểu diễn khác và là kết thúc của ’’Live 8’’. Những sự kiện chính Ngày 31 tháng 5 năm 2005: Lời tuyên bố chính thức về ’’Live 8’’ của Bob Geldof. Ngày 1 tháng 6 năm 2005: Bob Geldof kêu gọi một triệu người tới Edinbufgh trong ’’"Long Walk to Justice"’’, vào ngày 6 tháng 7, ngày đầu tiên của hội nghị G8. Geldof ngay lập tức bị phê bình bởi đội trưởng Lothian and Borders Police Ian Dickenson về sự khuyến khích tụ tập một đám đông lớn như thế tại Endinburgh mà không có tham khảo ý kiến ​​với chính quyền địa phương và để làm cách nào có thể chứa nhiều người như vậy. Ngày 3 tháng 6 năm 2005: Thủ tướng Anh Gordon Brown tuyên bố rằng sẽ không tính thuế VAT cho buổi biểu diễn tại London. Ông ước tính rằng nó sẽ thâm vào cho tổ chức 500.000 bảng Anh. Ông cũng khuyền khích lời kêu gọi hòa bình của Geldof ở cả Scotland. Ngày 6 tháng 6 năm 2005: Gửi tin nhắn đê nhạn được vé xem ca nhạc tại Vương quốc Anh. Có khoảng 1,5 triệu tin nhắn SMS như vậy được gửi đi. Ngày 7 tháng 6 năm 2005: Midge Ure tuyên bố rắng buổi biểu diễn được tổ chức tại Murrayfield Stadium ở Endinburgh, Scotland vào ngày 6 tháng 7. Ngày 11 tháng 6 năm 2005: Bộ trưởng tài chính G8 đồng ý xóa nợ cho 18 nước nghèo nhất thế giới. Ngày 14 tháng 6 năm 2005: eBay tuyên bố họ sẽ không bán vé sau khi Geldof kêu gọi mọi người tập hợp nhau chống lại trang bán đấu giá trên internet. Ngày 15 tháng 6 năm 2005: Peter Gabriel tuyên bố rằng ông sẽ tổ chức sáu buổi hòa nhạc Live 8 đồng thời có tên ’’ "Africa Calling"’’ với những nghệ sĩ châu Phi, chồng lại những lời phê bình của nhiều người thực hiện rằng tới lúc đó Live 8 mới chỉ có những nghệ sĩ da trắng. Sự kiện này được tổ chức tại Cornwall, tây nam England vào ngày 2 tháng 7. Nhạc sĩ người Senegal Youssou N'Dour sẽ là chủ trì của sự kiện này, người cũng biểu diễn với những nghệ sĩ châu Phi như Maryam Mursal, Salif Keita và Thomas Mapfumo. Ngày 16 tháng 6 năm 2005: Geldof tuyên bố rằng sẽ có 3 buổi diễn được tổ chức trong ngày 2 tháng 7, tại Johannesburg, South Africa, Makuhari Messe, Nhật Bản, và Toronto/Barrie, Canada. Ngày 17 tháng 6 năm 2005: lời thỉnh cầu cho những nhà lãnh đạo G8 được đưa ra. Ngày 21 tháng 6 năm 2005: ’’"Live 8 Canada"’’ được thông báo. Những nghệ sĩ bao gồm Bryan Adams, Barenaked Ladies, và một số khác nữa. Sự kiện này được chủ trì bởi diễn viên hài Dan Aykroyd và Tom Green. Cùng ngày, Damon Albarn, người mới chỉ trích sự vắng mặt của những nghệ sĩ châu Phi, hiện đã tường trình lại rắng rất vui về Live 8 vì họ đã đáp lại lời chỉ trích đó. Albarn của ban nhạc Blur, ban đầu cũng trong hàng ngũ của Live 8, nhưng rút khỏi sau khi kêu ca rằng sự kiên này tốn tại quá nhiều "Anglo-Saxon". Ngày 22 tháng 6 năm 2005: Tại Mĩ, MTV, MTV2, mtvU và VH1 đều xác nhận rằng họ phát sóng Live bắt đầu tại Noon ET. Country Music Television và VH1 Classic thì sẽ nêu bật ngày 3 tháng 7 trong phần ưa thích ở những thể loại thích xem của họ. Ngày 23 tháng 6 năm 2005: 35.000 vé ở Canada đã được bán hết chỉ trong 20 phút được bán trên mạng. Ngày 24 tháng 6 năm 2005: Live 8 Nhật Bản và Nam Phi được loan báo. Những nghệ sĩ bao gồm Do As Infinity, Björk, Good Charlotte, trong khi những tiết mục ở Johannesburg gốm có những ngôi sao châu Phi cũng như 4Peace Ensemble và Oumou Sangare. Ngày 27 tháng 6 năm 2005: Live 8 của Liên bang Nga tại Quảng trường Đỏ được loan báo. Những nghệ sĩ bao gồm Pet Shop Boys, The Red Elvises và Bravo. Ngày 28 tháng 6 năm 2005: ABC nói họ sẽ phát sóng 2 giờ của sự kiện này vào 8 giờ tối ET trong ngày 2 tháng 7 vào thời gian đầu tiên. Ngày 2 tháng 7 năm 2005: AOL Music bắt đầu phát sóng trong mỗi thành phố và theo yêu cầu tại AOLmusic.com. Cùng ngày, cuộc diễu hành chống lại đói nghèo tại Edinburgh khởi đầu và tiếp diễn khá hòa bình, ước tính có 200,00 người tham gia vào cuộc diễu hành. Buổi biểu diễn chính bắt đầu. Ngày 3 tháng 7 năm 2005: Sail 8 thất bại. Ngày 6 tháng 7 năm 2005: xảy ra buổi hòa nhạc ở Edinburgh Edinburgh 50,000 - The Final Push. Ngày 8 tháng 7 năm 2005: Hội nghị G8 lấn thứ 31 kết thúc. Những nhà lãnh đạo G8 cam kết viện trợ thêm cho những nước đang phát triển 50 tỉ USD tới năm 2010, bao gồm 25 tỉ USD cho châu Phi. Cùng ngày, người tổ chức Live 8 Bob Geldof cảm ơn G8. Ngày 25 tháng 10 năm 2005: DVD chính thức của Live 8 châu Phi, "Africa Calling" tại Eden Project được phát hành. Ngày 7 tháng 11 năm 2005: Phát hành DVD chính thức Live 8 trên toàn cầu. Ngày 8 tháng 11 năm 2005: DVD Live 8 phát hành tại Bắc Mĩ. Ngày 2 tháng 7 năm 2006: MTV Networks, CTV và BBC 1 phát sóng ’’ Live 8: What a Difference a Day Makes’’ kỉ niệm một năm của cuộc biểu diễn. Danh sách Live 8 Buổi hòa nhạc Live Aid, được tổ chức vào năm 1985, đã quyên góp được khoảng 79 triệu bảng Anh, và chúng được viện trợ cho những nước nghèo nhất thế giới. Live 8 không phải là để gây quỹ hay tương tự, hơn thế, những người tổ chức hi vọng rằng nó gây được sự chú ý về mặt chính trị. Sự kiện này xảy ra đồng thời với hội nghị G8 2005 tại Gleneagles Hotel, Perthshire, Scotland, và ý tưởng bên dưới là trấn áp tám chính khách có mặt với những lời đề nghị của quần chúng về những diều cơ bản của chiến dịch " Make Poverty History". Lời thỉnh cầu của hơn 30 triệu cái tên gấn như có ngay trên Internet. Có thể tìm thấy chúng tại the Live8 List page. Hàng triệu lời thỉnh cầu được viết trên giấy hay bằng e-mail đã được đưa ra. Vé Mặc dù đây là một buổi hòa nhạc miễn phí, 66.500 cặp vé cho buổi diễn tại Hyde Park đã được phân phát từ ngày 13 tháng 6 năm 2005 đến ngày 15 tháng 6, cho những người chiến thắng trong cuộc thi nhắn tin SMS điện thoại di động diễn ra từ thứ Hai, 6 tháng 6 năm 2005. Những người tham gia cuộc thi phải trả lời các câu hỏi trắc nghiệm bằng tin nhắn với giá 1,50 bảng Anh. Người chiến thắng sẽ được lựa chọn ngẫu nhiên từ những người đã trả lời chính xác các câu hỏi. Hơn 2 triệu tin nhắn đã được gửi đi trong suốt thời gian cuộc thi diễn ra, thu về 3 triệu bảng Anh cho ban tổ chức. Như vậy, mỗi thí sinh có khoảng một phần 28 cơ hội được sở hữu một cặp vé cho đêm diễn. 1,6 triệu bảng đầu tiên số tiền thu được sẽ được gửi đến quỹ Prince's Trust, họ sẽ tiếp tục chuyển số tiền này đến hội từ thiện " Help A London Child". Quỹ Prince's Trust vẫn thường tổ chức buổi ca nhạc thường niên Party in the Park vào tháng 7 tại Hyde Park. Tuy nhiên sự kiện này đã bị hủy bỏ vào năm 2005 để dọn đường cho Live 8. Món tiền ủng hộ 1,6 triệu bảng này được xem như là sự đền bù cho việc hủy bỏ này. Số tiền thu được còn lại sẽ được dùng để " trả cho những chi phí của Live 8, vì nó là một sự kiện miễn phí", dẫn lời website của Live 8. Một vài người may mắn đã ngay lập tức phe lại vé trên các phiên bán đấu giá tại eBay với ý định thu lợi. Sự việc này đã nhận nhiều chỉ trích nặng nề từ phía những người tổ chức, bao gồm cả Bob Geldof. Ban đầu, eBay bào chữa cho việc họ đã để những phiên đấu giá này diễn ra, rằng không có luật pháp nào chống lại những phiên buôn bán này. Họ cũng hứa sẽ quyên góp cho Live 8 " tối thiểu cũng bằng với mức phí" mà họ có thể thu được từ các phiên buôn bán này. Rất nhiều người, vì tức giận trước việc có người lợi dụng Live 8 để thu lợi, đã đặt những mức giá ngất ngưởng lên đến hàng triệu Bảng để ép những người rao bán phải tháo bỏ buổi đấu giá của họ xuống. Sau này, có thông tin cho rằng, eBay, trước sức ép nặng nề từ chính phủ Anh, công chúng, cũng như từ chính Geldof, đã hủy bỏ toàn bộ những phiên đấu giá vé xem Live 8. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng việc phe lại vé hoàn toàn không làm ảnh hưởng đến những người mà Live 8 đang cố gắng giúp đỡ, không những thế còn đem lại cơ hội được tham dự Live 8 cho những người không kiếm được vé. Tương tự, những tình huống căng thẳng cũng xuất hiện tại Edinburgh và Canada, cuối cùng, eBay đã phải hủy bỏ tất cả các phiên bán vé này. Trên thực tế, vào ngày 23 tháng 6 năm 2005, 35.000 vé miễn phí đã được phân phát hết veo trong vòng 20 phút cho buổi diễn tại Canada, theo Ticketmaster. Hình ảnh Chú thích
Alexandros của Macedonia, hay Alexandros xứ Macedonia, là tên của 5 vị vua của Vương quốc Macedonia thời cổ đại: Alexandros I của Macedonia Alexandros II của Macedonia Alexandros III của Macedonia tức Alexandros Đại Đế Alexandros IV của Macedonia Alexandros V của Macedonia
Tóc ngắn có thể là: Các album Tóc ngắn, Vẫn mãi mong chờ (Tóc ngắn II) và Một ngày (Tóc ngắn acoustic) của ca sĩ Mỹ Linh. Bài hát "Tóc ngắn" của Mỹ Linh trong album cùng tên. Bộ phim Tóc ngắn do Nguyễn Chánh Tín đạo diễn.
Xuân Hương có thể chỉ: Địa danh Xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang Hồ Xuân Hương, một hồ nhân tạo ở thành phố Đà Lạt. Tên người Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương, được mệnh danh là "bà chúa thơ Nôm". Văn học Xuân Hương truyện, tiểu thuyết khuyết danh của nhân dân Triều Tiên.
Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có không quân và tàu ngầm, phát triển thành một quân đội hùng mạnh nhất thế giới rồi gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945). Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan. Cuộc xâm lược khiến Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, theo hiệp ước hai nước này đã ký kết với Ba Lan. Theo sau Anh, các nước Úc, Canada, New Zealand, Cộng hoà Nam Phi cũng tuyên chiến với Đức. Sau chiến dịch tại Ba Lan, chiến tranh bước đến một giai đoạn tương đối im lặng gọi là Chiến tranh Giả vờ. Giai đoạn này kết thúc khi Đức xâm chiếm Đan Mạch và Na Uy vào tháng 4 năm 1940 và Hà Lan, Bỉ và Pháp vào tháng 5. Tất cả các nước bị xâm chiếm lần lượt bị sụp đổ trong khi Anh và các đồng minh bị tổn thất nặng nề tại Na Uy và phải rút quân ra khỏi Pháp. Anh lại có nguy cơ bị đổ bộ, nhưng trong cuộc chiến trên bầu trời Anh, Luftwaffe (Không quân Đức Quốc xã) đã không giành được ưu thế và vì vậy Đức Quốc xã đã đình hoãn kế hoạch xâm chiếm. Các sự kiện quân đội Đức bị đánh bại ở trận Stalingrad năm 1942, ở trận Kursk năm 1943, ở Chiến dịch Bagration năm 1944 và sự kiện Hoa Kỳ cùng các đồng minh Anh và Canada mở Mặt trận phía Tây tháng 6 năm 1944 đã làm thay đổi cán cân lực lượng bất lợi cho Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt với sự đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện của Đức, sự sụp đổ của Đức Quốc xã, và cái chết của Adolf Hitler. Con đường dẫn đến chiến tranh 1934-1939 Trong hai năm đầu, chiến thuật của Đức Quốc xã là nói chuyện hòa bình, bí mật chuẩn bị chiến tranh, thực hiện chính sách ngoại giao cẩn trọng, tái vũ trang trong bí mật nhằm tránh các nước Đồng Minh viện dẫn Hòa ước Versailles mà chống Đức bằng quân sự. Chương trình tái vũ trang 1934-1936 Trong lúc này, Đức Quốc xã theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang. Quân đội nhận lệnh tăng quân số lên gấp ba – từ 100.000 lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934. Hải quân Đức (Kriegsmarine) đã bắt đầu đóng hai chiếc tàu thiết giáp 26.000 tấn (Hòa ước Versailles hạn định tối đa 10.000 tấn). Việc đóng tàu ngầm, mà Hòa ước Versailles ngăn cấm, đã được tiến hành bí mật ở Phần Lan, Hà Lan và Tây Ban Nha dưới chế độ Cộng hòa Weimar. Hermann Göring cũng tất bật trong hai năm này để lo gây dựng Không quân. Với tư cách là Bộ trưởng Hàng không – được hiểu là Hàng không Dân dụng – ông đặt hàng cho các cơ xưởng thiết kế máy bay chiến đấu. Việc đào tạo phi công quân sự được bắt đầu ngay dưới lốt ngụy trang Liên đoàn Bay Thể thao. Ngày 16 tháng 3 năm 1935, Adolf Hitler ban hành nghị định thiết lập nghĩa vụ quân sự và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn – khoảng nửa triệu người. Pháp và Anh chỉ lên tiếng phản đối nhưng không có động thái nào khác. Xiềng xích Versailles, biểu tượng của chiến bại và nỗi nhục nhã của Đức, đã bị tháo bỏ. Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, bổ nhiệm Tiến sĩ Hjalmar Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh và tái tổ chức quân lực; Bộ Quốc phòng được đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (Quân Phòng vệ Đế chế) dưới thời Cộng hòa Weimar bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (Lực lượng Phòng vệ). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực, Đại tướng Werner von Blomberg được chỉ định làm Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực. Mỗi quân chủng có Tư lệnh và Bộ Tư lệnh riêng. Tướng Ludwig Beck được chỉ định là Tham mưu trưởng Lục quân. Cùng ngày, Hitler đề xuất việc giải trừ quân bị. Đặc biệt, Đức sẵn sàng giới hạn Hải quân Đức mới ở mức 35% của trọng tải lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh. Chính phủ Anh rơi vào bẫy của Hitler một cách ngây thơ, nông nổi tiến hành xóa bỏ mọi hạn chế hải quân ghi trong Hòa ước Versailles. Vì lẽ, đồng ý cho Đức gây dựng hải quân bằng 35% hải quân Anh tức là đã cho phép Đức tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể – ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng binh chủng hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức. Đức chiếm Rhineland Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu sông Rhine và tiến vào khu phi quân sự Rhineland. Lực lượng Đức gồm từ 4 lữ đoàn đến 3 sư đoàn. Pháp tập trung 30 sư đoàn gần biên giới Đức, nhưng chỉ để tăng cường cho Phòng tuyến Maginot. Hitler dám đánh ván bài liều là do Pháp lưỡng lự và Anh nhu nhược. Anh không muốn gây rủi ro chiến tranh cho dù lực lượng của Đồng Minh vượt trội hẳn so với Đức. Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức "bầu cử" mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rhineland. Theo số liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler. Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố "rút chữ ký" của Đức ra khỏi Hòa ước Versailles. Đây là hành động rỗng tuếch nhưng đặc trưng của Hitler, vì bản thân hòa ước đã bị Đức khai tử từ lâu. Nước cờ định mệnh ngày 5 tháng 11 năm 1937 Buổi chiều 5 tháng 11 năm 1937, Hitler triệu 6 người đến để ông trình bày chiến lược quân sự: Thống chế Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Werner von Blomberg, Đại tướng Tư lệnh Lục quân Werner von Fritsch, Đô đốc Tư lệnh Hải quân Erich Raeder, Đại tướng Tư lệnh Không quân Hermann Göring, Nam tước Ngoại trưởng Konstantin von Neurath, và Đại tá Hossbach, tùy viên quân sự cho Hitler. Lãnh tụ thông báo quyết định không gì lay chuyển được: tiến hành chiến tranh. Các tư lệnh và vị Ngoại trưởng đối mặt với những thời điểm cụ thể để thật sự tấn công hai nước láng giềng Tiệp Khắc và Áo – hành động mà họ tin chắc sẽ dẫn đến chiến tranh toàn châu Âu. Họ phải sẵn sàng vào năm 1938, và chậm nhất là 1943-1945. Blomberg, Fritsch, Neurath và Schacht rơi rụng Cả Werner von Blomberg, Werner von Fritsch, Konstantin von Neurath và Hjalmar Schacht đều tỏ ý ít nhiều chống lại quyết định đi đến chiến tranh của Hitler. Chẳng bao lâu, họ đều rơi rụng bằng cách này hay cách khác. Neurath và Schacht bị thay thế, riêng hai tướng Blomberg và Fritsch bị dàn cảnh để rồi bị loại ra khỏi quân đội. Xem Hermann Göring và Gestapo về việc dàn cảnh ám hại Blomberg và Fritsch Áo sáp nhập vào Đức Trong buổi hội kiến với Thủ tướng Áo Kurt Schuschnigg, Hitler đưa tối hậu thư với các điều kiện: Áo phải bãi bỏ lệnh cấm Đảng Quốc xã Áo, ân xá mọi đảng viên Quốc xã đang ngồi tù, cử luật gia thân Quốc xã, Tiến sĩ Arthur Seyss-Inquart, làm Bộ trưởng Nội vụ với quyền hành chỉ huy các lực lượng cảnh sát và an ninh, cử hai người thân Quốc xã khác làm Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Tài chính. Cộng thêm sự đe dọa của Đức sẽ tấn công bằng quân sự, Schuschnigg từ chức, Seyss-Inquart lên thay. Đức ngụy tạo một bức điện tín của Seyss-Inquart kêu gọi Hitler đưa quân vào Áo để lập lại trật tự. Ngày 12 tháng 3 năm 1938, quân Đức tiến vào Áo trong khi Bộ Ngoại giao Đức cho rằng phát biểu của Schuschnigg về tối hậu thư của Đức là "hoàn toàn bịa đặt". Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 10 tháng 4 năm 1938, đa số người Áo bỏ phiếu thuận theo Hitler để sáp nhập Áo vào Đức. Không cần bắn một phát súng và không có sự can thiệp của Anh, Pháp và Liên Xô vốn có lực lượng quân sự áp đảo, Đức Quốc xã chiếm được một vị trí chiến lược có giá trị cực kỳ lớn lao cho những kế hoạch trong tương lai. Quân đội của Đức chế ngự Tiệp Khắc ở ba mặt, và Áo là cửa ngõ mở ra vùng Đông-Nam châu Âu. Cũng vào giữa năm 1938, khi Đức ngấp nghé thôn tính tiếp Tiệp Khắc, nổi lên bước khởi đầu của phong trào chống Hitler, kéo dài cho đến gần cuối cuộc chiến. Đức thôn tính Tiệp Khắc Đức lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người Đức thiểu số ở Tiệp Khắc làm cái cớ để quấy động nước này, trong khi Anh và Pháp vẫn chưa nhận ra mưu đồ ấy. Hitler chỉ thị cho Đảng người Đức Sudeten thân Quốc xã là "phải ra những đòi hỏi mà chính phủ Tiệp Khắc không thể chấp nhận", tức "phải luôn đòi hỏi nhiều để ta không bao giờ được thỏa mãn". Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain gây áp lực bắt Tiệp Khắc phải nhượng bộ. Kết quả là Tiệp Khắc nhường cho Đức gần 300.000 kilômét vuông lãnh thổ. Trên lãnh thổ này là một hệ thống lô cốt mà từ trước đến giờ tạo nên tuyến phòng thủ vững chắc nhất châu Âu, có lẽ chỉ kém Phòng tuyến Maginot của Pháp. Cả hệ thống đường sắt, đường bộ, điện thoại và điện tín của Tiệp Khắc đều bị xáo trộn. Theo số liệu của Đức, Tiệp Khắc mất trên dưới 80% than non, hóa chất, xi măng; trên dưới 60% than đá, sắt, thép, điện năng; và 40% gỗ. Một đất nước công nghiệp phồn thịnh trong phút chốc bị tan rã và phá sản. Đức Quốc xã thôn tính Memel Memel, một cảng trên bờ Biển Baltic với khoảng 40.000 dân, đã bị Hòa ước Versailles cắt ra từ Đức để trao cho Litva. Hitler quyết định chiếm Memel từ ngoài biển. Ông và Thủy sư Đô đốc Erich Raeder muốn phô trương sức mạnh của hải quân nên cả hai đi trên chiếc tàu thiết giáp bỏ túi Deutschland đến Memel ngày 22 tháng 3 năm 1939, đúng một tuần sau khi Hitler tiến vào thủ đô Praha của Tiệp Khắc. Ngày hôm sau, Litva đã chịu ký nhường Memel lại cho Đức. Lúc 2:30 giờ chiều ngày 23 tháng 3 năm 1939, Hitler có thêm một chuyến đi chiến thắng vào một thành phố mà ông vừa thôn tính, lần này ở Memel ông cũng phát biểu với một đám đông người Đức mà ông vừa "giải phóng". Thêm một điều khoản của Hòa ước Versailles đã bị xé bỏ. Thêm một cuộc thôn tính không đổ máu. Dù cho Hitler không biết, đấy là cuộc thôn tính không đổ máu cuối cùng. Hiệp ước Xô-Đức Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop của Đức và Ngoại trưởng Viatcheslav Mikhaïlovitch Molotov của Liên Xô ký kết Hiệp ước Xô-Đức hay còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, có tên chính thức là "Hiệp ước Bất tương xâm giữa Đức và Liên bang Xô viết". Nghị định thư bí mật đính kèm quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva và România thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Hai bên đồng ý phân chia ảnh hưởng tại Ba Lan. Nhiều năm trước, Hitler đã tiên đoán trong quyển Mein Kampf: "Việc ký kết mối liên minh với Nga chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp". Trong lúc này, Đức được rảnh tay với Liên Xô để chú tâm thôn tính Ba Lan. Những thắng lợi đầu tiên Đức tấn công Ba Lan Bình minh ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đức tràn qua biên giới Ba Lan và đều hướng về thủ đô Warszawa từ ba phía bắc, nam và tây. Đức đã lấy cuộc tấn công giả tạo của Đức vào đài truyền thanh của Đức ở Gleiwitz nhằm biện minh cho hành động gây hấn lạnh lùng với Ba Lan. Ngày 3 tháng 9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Ngày 17 tháng 9, Cụm Tập đoàn quân Bắc dưới quyền tướng Fedor von Bock bắt tay với Tập đoàn quân 14 của tướng Siegmund von List, bao vây tất cả lực lượng Ba Lan. Vài nhóm lẻ tẻ còn chống cự một cách anh dũng, nhưng số phận của họ đã bị khép lại. Bắt đầu từ ngày 17 tháng 9, Liên Xô đưa quân vào Ba Lan. Ngày 29 tháng 9, Molotov và Ribbentrop ký kết một hiệp ước mới gọi là "Hiệp ước Biên giới và Hữu nghị Đức-Liên Xô" quy định những quyền lợi của hai quốc gia; trong mỗi lãnh thổ chiếm được hai quốc gia sẽ tái lập "hòa bình và trật tự" và "đảm bảo cư dân sống ở đấy một đời sống an bình trong việc gìn giữ bản sắc dân tộc của họ". Cũng có nghị định thư mật thêm Litva vào "vùng ảnh hưởng" của Liên Xô. Hitler đã thắng cuộc chiến ở Ba Lan, nhưng người hưởng lợi nhiều nhất là Stalin, và quân đội Liên Xô hầu như không phải nổ phát súng nào. Liên Xô chiếm gần phân nửa Ba Lan và bóp nghẹt các nước vùng Baltic. Chiến tranh giả vờ ở phía Tây Không có gì nhiều xảy ra ở phía Tây. Hầu như không có tiếng súng nổ. Đức không lấy làm ngạc nhiên lắm; họ xem việc Pháp tấn công là khó xảy ra. Tham mưu trưởng Hành quân Alfred Jodl của Bộ Tổng tham mưu khai trước Tòa án Nürnberg: Nếu chúng tôi không sụp đổ năm 1939, đấy chỉ nhờ sự kiện là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn Pháp và Anh hoàn toàn bất động khi đối mặt với 23 sư đoàn của Đức. Có nhiều lý do tại sao quân đội Pháp không tấn công Đức: tư tưởng chủ bại trong quân đội, chính phủ và người dân Pháp; hồi ức trong Thế chiến thứ nhất khi Pháp bị bỏ mặc cho đến kiệt quệ và e sợ cuộc thảm sát tương tự lần này; Pháp nhận ra rằng vào giữa tháng 9 quân đội Ba Lan đã bị đánh tan nát và Đức chẳng bao lâu sẽ chuyển quân về phía Tây và có thể đẩy lùi bước tiến của Pháp. Hitler đề nghị hòa bình, Anh-Pháp nói phải chấp nhận thực tế "là Ba Lan không thể cất đầu lên lại nữa". Ngày 12 tháng 10 năm 1939, Chamberlain trả lời Hitler, nói những đề nghị của Hitler là "mơ hồ và thiếu chắc chắn" và nhận xét rằng "không có đề nghị nào nhằm sửa chữa những sai lầm đã gây ra cho Tiệp Khắc và Ba Lan". Ông nói, không thể nào tin tưởng những lời hứa của "Chính phủ Đức hiện giờ". Đức tấn công Đan Mạch và Na Uy Hải quân Đức từ lâu đã dòm ngó miền bắc nhằm lập căn cứ hải quân ở Na Uy để phá vỡ sự phong tỏa của Anh trên Biển Bắc, mở đường cho tàu Đức thông thương ra đại dương. Tương tự, Không quân Đức dòm ngó các sân bay Đan Mạch để làm bàn đạp tấn công Anh. Ngày 9 tháng 4 năm 1940, nhà vua Đan Mạch đầu hàng và ra lệnh chấm dứt mọi hành động chống cự. Tổng cộng phía Đan Mạch có 13 người tử trận và 23 người bị thương. Phía Đức có khoảng 20 thương vong. Na Uy chống cự ngay từ đầu, tuy không phải là ở khắp nơi. Đến ngày 28 tháng 5, Na Uy mới chịu đầu hàng. Vua Håkon VII của Na Uy và chính phủ được đưa đến Luân Đôn và sống ở đây 5 năm trong cảnh lưu vong. Cuộc tấn công thần tốc Đan Mạch và Na Uy là một chiến thắng quan trọng cho Đức Quốc xã. Chiến thắng giúp đảm bảo tuyến vận chuyển quặng sắt trong mùa đông, tạo thêm sự bảo vệ cho Đức ở ngõ ra vào Biển Baltic, cho phép Hải quân Đức tiến ra vùng Bắc Đại Tây Dương, cung cấp các cảng biển vô cùng thuận lợi cho cuộc chiến trên biển với Anh, cho phép Không quân Đức sử dụng các sân bay tiến gần đến địch thủ hơn hàng trăm dặm. Và có lẽ yếu tố quan trọng nhất là uy tín quân sự của Đức Quốc xã được nâng cao rõ rệt. Hà Lan đầu hàng Vào ngày 10 tháng 5 năm 1940, dọc chiến tuyến 280 kilômét trải dài từ Biển Bắc đến Phòng tuyến Maginot, quân Đức tràn qua biên giới của ba quốc gia trung lập nhỏ bé Hà Lan, Bỉ và Luxembourg. Ngày 15 tháng 5, Hà Lan ký văn kiện đầu hàng. Bỉ đầu hàng và quân Anh-Pháp bị bao vây Vào buổi tối 13 tháng 5, các đơn vị thiết giáp của Đức chiếm được bốn bàn đạp bắt ngang con sông Meuse có bờ dốc và cây cối rậm rạp, từ Dinant đến Sedan, rồi chiếm lấy Sedan. Ngày kế, cơn hồng thủy ập đến. Sử dụng phương án tác chiến "Chiến tranh chớp nhoáng" (tiếng Đức: Blitzkrieg), một đoàn quân thiết giáp chưa từng thấy về quân số, sự tập trung, tính cơ động và hỏa lực, theo ba mũi trải dài đến 160 kilômét. Vào buổi tối 20 tháng 2, sư đoàn 2 Thiết giáp của Đức tiến đến thị trấn Abbeville gần cửa sông Somme, trong sự ngạc nhiên của tổng hành dinh của Hitler. Quân Bỉ, Lực lượng Viễn chinh Anh và ba tập đoàn quân Pháp bị bao vây. Vua Leopold III của Bỉ đầu hàng sáng ngày 28 tháng 5 năm 1940. Anh tổ chức cuộc di tản binh sĩ khỏi bờ biển Dunkerque. Đến ngày 4 tháng 6, gần 340.000 quân Anh và Pháp đã thoát ra khỏi gọng kìm của Đức, được đưa về Anh. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1940, sau khi quân Đức tiến chiếm thủ đô Paris, Philippe Pétain - người anh hùng của nước Pháp trong trận Verdun hồi năm 1916, lên làm Thủ tướng và bắt đầu đàm phán với Đức Quốc xã. Vào ngày 22 tháng 6 năm 1940, Adolf Hitler buộc Pháp ký văn kiện đầu hàng trên một khoảnh trống trong khu rừng Compiègne. Sự kiện này đã tẩy bỏ một trong những ký ức đen tối nhất trong tâm trí của người Đức – cuộc đầu hàng của Đức vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 tại toa tàu hỏa cá nhân của Thống chế Pháp Ferdinand Foch ở Compiègne. Hitler đã ngồi trên cái ghế ngồi của Foch khi ký kết hiệp định đình chiến nam 1918. Đây cũng được xem là đỉnh cao trong sự nghiệp của nhà lãnh đạo Đức Quốc xã. Chiến dịch năm 1940 ở phía Tây được nhìn nhận là thắng lợi quân sự lớn nhất của Đức Quốc xã. Trong vài tuần lễ kế tiếp, Hitler vẫn tin rằng sau khi Pháp bị đánh bại, Anh sẽ nôn nóng muốn hòa bình. Theo khía nhìn của Đức, những điều khoản mà Hitler đưa ra là rộng lượng, nếu xét qua việc Đức đã đánh bại Anh ở Na Uy và Pháp. Hitler nói ông chỉ muốn Anh cho ông được tự do hành động trên lục địa châu Âu. Nhưng Anh vẫn không chịu thỏa hiệp hòa bình. Cuộc chiến trên bầu trời Anh quốc Xem Hermann Göring về những trận đánh của Không quân Đức trong cuộc chiến Đức mở cuộc tổng không kích nhắm vào nước Anh bắt đầu ngày 15 tháng 8 với mục đích tiêu diệt Không lực Hoàng gia Anh và qua đấy tạo một điều kiện thuận lợi cho cuộc đổ bộ. Do những thất bại nặng nề của Không quân Đức, ngày 17 tháng 9, Hitler đình hoãn vô hạn định kế hoạch đổ bộ lên đất Anh. Trận không chiến tại Anh Quốc là thắng lợi đầu tiên của phe Đồng Minh trước Đệ tam Đế chế Đức và tạo điều kiện cho sự tiếp diễn của Trận chiến Đại Tây Dương. Liên Xô chiếm vùng Baltic Trong khi Đức đang bận rộn đánh Tây Âu, quân đội Liên Xô lần lượt tràn vào Litva, Latvia Estonia và lật đổ chính phủ các nước này, đưa các lãnh đạo thân Liên Xô lên nắm quyền. Các cuộc bầu cử gian lận được tổ chức ở ba nước để hợp pháp hóa việc chiếm đóng, và Xô viết Tối cao (quốc hội của Liên Xô) sáp nhập ba nước vào Liên bang Xô viết: Litva ngày 3 tháng 8, Latvia ngày 5 tháng 9 và Estonia ngày 6 tháng 8. Adolf Hitler cảm thấy mất mặt, nhưng trong khi tất bật lo xâm lấn Anh, ông không làm gì được. Kế tiếp, Liên Xô dòm ngó đến România khiến cho Đức âu lo, vì Romania cung ứng dầu hỏa, thực phẩm và thức ăn gia súc cho Đức. Đức sẽ mất đi những nguồn lợi này nếu Hồng quân chiếm Romania. Stalin lại đòi hỏi Phần Lan trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan, Bulgaria, kiểm soát hai eo biển Bosporus và Dardanelles và, trên thực tế, kiểm soát cả các giếng dầu Ả Rập và Ba Tư (Iran bây giờ) vốn cung cấp phần lớn lượng dầu cho châu Âu. Với sự sụp đổ của Pháp, việc đánh đuổi quân Anh qua bên kia eo biển và viễn ảnh của nước Anh sắp suy sụp, ý nghĩ của Hitler quay trở lại Liên Xô. Bởi vì bây giờ ông xem mình đã rảnh tay ở miền Tây và qua đấy đã hoàn tất được một điều kiện mà ông đã đặt ra để có vị thế "chống Nga". Việc Stalin nhanh chóng chiếm lấy các nước vùng Baltic và hai tỉnh của Romani đã thúc đẩy Hitler phải có hành động. Walther von Brauchitsch nghĩ rằng sẽ cần đến 80-100 sư đoàn; ông đánh giá sức mạnh của Liên Xô là "50 đến 75 sư đoàn thiện chiến". Franz Halder ước lượng Liên Xô có 155 sư đoàn và sức mạnh của Đức là tương đương nhưng "có chất lượng tác chiến cao hơn hẳn". Màn mở đầu tại Balkan Ngày 25 tháng 3 năm 1941, Thủ tướng Dragisha Cvetković cùng Ngoại trưởng Alexander Cincar-Marković của Nam Tư bí mật đến Viên rồi với sự hiện diện của Hitler và Joachim von Ribbentrop, hai người ký vào Hiệp ước phe Trục. Ngay sau khi các vị khách Nam Tư trở về thủ đô Belgrade, chính phủ và Hoàng thân Phụ chính bị lật đổ. Chế độ mới do tướng Dušan Simović cầm đầu lập tức đề nghị ký hiệp ước bất tương xâm với Đức, nhưng Đức thấy rõ là họ không chấp nhận vị thế bù nhìn mà Hitler mong áp đặt. Cuộc đảo chính ở Nam Tư khiến cho Hitler nổi lên cơn thịnh nộ dữ dội, xem đấy là sự xúc phạm đối với cá nhân ông. Trong cơn giận dữ đi đến quyết định khiến về sau gây nên thảm họa cho Đức Quốc xã: xâm lăng Nam Tư. Chiến dịch Liên Xô được dời lại bốn tuần. Việc hoãn lại cuộc tiến công Liên Xô chỉ vì Hitler muốn rửa hận đối với một quốc gia vùng Balkan nhỏ bé có lẽ là một quyết định nguy hại nhất cho sự nghiệp của Hitler. Không phải quá đáng mà nói rằng Hitler đã vứt bỏ cơ hội bằng vàng để thắng cuộc đại chiến và đưa Đức Quốc xã lên thành một Đế chế vĩ đại nhất trong lịch sử Đức. Tư lệnh Lục quân Brauchitsch và Tham mưu trưởng Lục quân Halder sau này sẽ thấu hiểu hơn những hệ lụy, khi giữa mùa đông họ nhận ra rằng chỉ thiếu 3 hoặc 4 tuần là đủ đi đến chiến thắng chung cuộc. Ngày 6 tháng 4, quân đội Đức với sức mạnh vượt trội tràn xuống Nam Tư và Hy Lạp, băng qua các đường biên giới giữa Đức và Bulgaria cùng Hungary với tất cả tốc độ của cơ giới để tiến đánh những đơn vị phòng hộ được trang bị thô sơ và còn bị Không quân Đức bắn phá trước. Theo lệnh của Hitler, thủ đô Belgrade bị san bằng. Ngày 17 tháng 4 năm 1941, Quân đội Nam Tư đầu hàng tại Sarajevo dù họ vẫn còn 28 sư đoàn. Đức đánh Bắc Phi Sau khi các lực lượng Ý bị tiêu diệt ở Libya, Hitler gửi một sư đoàn thiết giáp hạng nhẹ và vài đơn vị Không quân đến Bắc Phi và điều tướng Erwin Rommel đến giữ chức chỉ huy liên quân Ý-Đức. Là vị tướng binh chủng tăng táo bạo, nhiều mưu lược, Rommel đã nổi danh từ khi là tư lệnh một sư đoàn thiết giáp ở chiến trường Pháp, và sẽ gây nhiều rắc rối cho quân Anh trong hai năm. Với một sư đoàn thiết giáp Đức, một sư đoàn thiết giáp Ý và một sư đoàn bộ binh Ý, vào cuối tháng 3 năm 1941, thình lình Rommel tiến công. Trong vòng 12 ngày, ông chiếm được tỉnh Cyrenaica và tiến đến Bardia, chỉ cách biên giới Ai Cập dăm bảy kilômét. Toàn vị thế của Anh ở Ai Cập và Kênh đào Suez bị đe dọa, và vị thế ở Địa Trung Hải cũng bị nguy hiểm vì sự hiện diện của quân Đức tại Hy Lạp. Mùa xuân thứ hai trong cuộc chiến mang thêm chiến thắng lẫy lừng cho Đức. Hải quân Đức thúc giục Hitler nên khai thác tình hình, kêu gọi Hitler nên tổng tấn công ở Ai Cập và vùng Kênh đào Suez, còn Rommel cũng kêu gọi việc tương tự ở Bắc Phi vì muốn tiếp tục tiến công sau khi nhận thêm tăng viện. Nhưng Hitler đã quyết định trước nhất phải tiêu diệt Liên Xô. Ông chỉ gửi một phái bộ quân sự, vài máy bay và chút ít vũ khí. Nhưng ông thấy không cần phải làm gì thêm ngoài động thái nhỏ nho này. Về chiến lược táo bạo ở tầm mức rộng lớn mà các đô đốc và Rommel kêu gọi, Hitler trả lời là chỉ xét đến sau khi đã đánh bại Liên Xô. Đấy là một sai lầm trọng đại. Vào thời điểm này, cuối tháng 4 năm 1941, chỉ cần một lực lượng nhỏ Hitler hẳn đã giáng cho Anh một đòn nặng, có thể là đòn chí tử. Đức đánh qua Liên Xô Ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân Đức tràn vào đất Liên Xô. Chỉ trong vòng 3 tuần, Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Thống chế Fedor von Bock, gồm 30 sư đoàn bộ binh và 15 sư đoàn thiết giáp hoặc cơ giới, tiến hơn 700 kilômét từ Bialystock ở đông-bắc Ba Lan đến Smolensk thuộc vùng trung-tây nước Nga. Moskva chỉ còn cách 320 kilômét về phía đông. Trên mặt trận miền bắc, Cụm Tập đoàn quân Bắc của Thống chế Wilhelm von Leeb, gồm 21 sư đoàn bộ binh và 6 sư đoàn thiết giáp, tiến nhanh qua các nước vùng Baltic hướng đến thành phố Leningrad. Trên mặt trận miền nam, Cụm Tập đoàn quân Nam của Thống chế Karl von Rundstedt gồm 25 sư đoàn bộ binh, 4 sư đoàn cơ giới, 4 sư đoàn quân sơn cước và 5 sư đoàn thiết giáp tiến về sông Dniepr và thành phố Kiev, thủ phủ của vùng đất màu mỡ Ukraina mà Hitler thèm muốn. Thế là theo đúng kế hoạch, quân Đức tiến theo trận tuyến dài 1.600 kilômét từ Biển Baltic đến Biển Đen. Với ưu thế vượt trội của Đức, hết tập đoàn quân này đến tập đoàn quân khác của Liên Xô bị bao vây hoặc phải rút lui. Chỉ ba tuần sau khi tiến công, Hitler tin rằng Liên Xô đã bị đánh gục. Nhưng Đức vấp phải ngạc nhiên lớn. Hồng quân Liên Xô còn đông đảo hơn và được trang bị tốt hơn là Hitler nghĩ. Từng sư đoàn mới của Liên Xô – mà tình báo Đức chưa hề tiên liệu – được liên tục tung vào trận chiến. Nhật ký của Halder ngày 11 tháng 8 ghi: Càng ngày càng thấy rõ rằng ta đã đánh giá quá thấp sức mạnh của Nga... Khởi đầu ta ước lượng địch có khoảng 200 sư đoàn và bây giờ ta đã xác định được 360. Khi hàng chục sư đoàn của họ bị tiêu diệt, người Nga tung ra một chục sư đoàn khác. Ngày 21 tháng 8, Hitler ra một chỉ thị lịch sử: Mục tiêu quan trọng nhất phải đạt được trước mùa đông không phải là đánh Moskva, mà phải chiếm vùng Krym, vùng công nghiệp và mỏ than của lưu vực sông Donets, và cắt đứt nguồn cung cấp xăng dầu khỏi Kavkaz. Mục tiêu ở miền bắc là khóa chặt Leningrad và kết hợp với quân Phần Lan. Gerd von Rundstedt phóng mũi tiến công ở miền nam với sự tăng cường của lực lượng tách ra từ mặt trận trung tâm. Heinz Guderian cho rằng họ đạt được thắng lợi to tát về chiến thuật. Thành phố Kiev thất thủ ngày 19 tháng 9 – và quân Đức còn tiến xa thêm 240 kilômét. Ngày 26 tháng 9, Trận Kiev kết thúc; phía Đức cho biết 665.000 quân Nga bị bắt làm tù binh. Vài tướng lĩnh nghi ngờ tầm quan trọng chiến lược của chiến thắng này: vì bị cắt giảm lực lượng thiết giáp, Cụm Tập đoàn quân trung tâm đành phải ngừng tiến quân suốt hai tháng. Hitler miễn cưỡng chiều theo sự thúc giục của tướng lĩnh để ra lệnh mở lại mũi tiến công đến Moskva. Nhưng đã quá muộn! Mãi đến đầu tháng 10, mũi tiến công mãnh liệt mới khởi phát. Nhưng một lần nữa, Hitler là nạn nhân của tính ngông cuồng hoang tưởng. Chiếm Moskva trước mùa đông là không đủ. Ông ra lệnh cho Thống chế von Leeb ở miền bắc cùng lúc phải chiếm lấy Leningrad và cũng cùng lúc, Rundstedt phải đánh dọc bờ biển Đen, chiếm thành phố Rostov, chiếm các mỏ dầu ở Maykop và tiến đến Stalingrad. Đức bị căng sức ra trên ba mặt trận. Lúc đầu, quân Đức tiến nhanh, bắt được 650.000 tù binh. Đến ngày 20 tháng 10, các đội tăng tiền phong chỉ còn cách Moskva 65 kilômét. Nhưng những trận mưa mùa thu đã đổ xuống. Mặt đất đầy sình lầy. Đoàn quân hùng mạnh tiến chậm lại. Ở miền nam, ngày 21 tháng 11, xe tăng Đức tiến vào thành phố Rostov nhưng rồi bị quân Liên Xô đánh chiếm lại. Quân Đức bị tấn công ở cả hai mạn sườn bắc và nam nên phải rút lui 80 kilômét. Tuyết dày và giá lạnh đến sớm trong mùa đông năm này ở Nga. Khí lạnh làm bùn nhão cứng lại, xe tăng và cơ giới của Đức đã có thể tiếp tục tác chiến. Khi gần đến cuối tháng 11, giữa những cơn bão tuyết và nhiệt độ âm, các đội hình quân Đức ở phía bắc, nam và đông đã tiến đến cách Moskva 30 đến 50 kilômét. Nhưng quân Đức vấp phải sức chống trả với tinh thần thép của Liên Xô. Ngày 2 tháng 12, một tiểu đoàn trinh sát của Đức xâm nhập vào Khimki, một vùng ngoại ô của Moskva, từ đây họ có thể nhìn thấy những mái hình tháp nhọn của Điện Kremli. Nhưng sáng hôm sau, vài xe tăng Liên Xô và một lực lượng ô hợp gồm những công nhân trong các nhà máy của thành phố được huy động một cách vội vã đánh bật quân Đức ra ngoài. Đấy là điểm gần Moskva nhất mà quân Đức có thể tiến đến; đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng họ có thể thoáng nhìn thấy Kremli. Ngày 6 tháng 12, Tướng Georgi Konstantinovich Zhukov phát động cuộc phản công. Dọc phòng tuyến dài 360 kilômét trước Moskva, ông tung ra bảy tập đoàn quân và hai quân đoàn kỵ binh – tổng cộng 100 sư đoàn với khoảng 80 vạn quân – gồm những binh sĩ còn sung sức và đã dày dạn trận mạc, được trang bị và huấn luyện để chuyên tác chiến trong không khí giá lạnh và trên lớp tuyết dày. Sức mạnh mà vị tướng tương đối còn vô danh này tung ra với một lực lượng đáng sợ gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp, kỵ binh và không quân – mà Hitler không thể ngờ hiện diện với số lượng lớn đến thế – có tính chất bất ngờ và mãnh liệt đến nỗi Quân đội Đức không thể chống đỡ và bị hất ra xa thủ đô Moskva. Chiến thắng đầu tiên của Hồng quân Liên Xô và cũng là thất bại đầu tiên của quân Đức đã đánh dấu sự phá sản của chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh" của Hitler. Tướng lĩnh Đức bắt đầu bị cách chức vì thất bại. Gerd von Rundstedt, Fedor von Bock, Heinz Guderian và Erich Hoepner bị Hitler cách chức. Tướng Hans von Sponeck, người đã nhận Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ của Chữ thập Sắt do đã chỉ huy quân nhảy dù đánh Hà Lan năm trước, bị trừng phạt nặng hơn vì đã ra lệnh một sư đoàn trong quân đoàn của ông tự rút lui. Ông bị tước quân hàm, bị đưa ra tòa án binh và, do lệnh của Hitler, bị án tử hình. Ông bị thi hành án vào tháng 7 năm 1944 sau vụ ám sát hụt Hitler mà ông không can dự. Walther von Brauchitsch chịu vài cơn đau tim và quyết định xin từ chức. Hitler đích thân nhận chức Tư lệnh Lục quân. Vào cuối tháng 2 năm 1942, quân Đức rút lui cách Moskva 75 đến 160 kilômét. 200.000 người tử trận, trên 720.000 người bị thương và 46.000 lính mất tích; thương tật do tê cóng là trên 100.000 người. Đấy là chưa kể những thiệt hại của Hungary, România và Ý. Phía Liên Xô thiệt hại còn nặng hơn. Trên 1 triệu người đã chết, mất tích, bị bắt hoặc bị thương trong trận Moskva. Dù vậy, ý nghĩa chiến lược của trận Moskva đã nâng cao rất nhiều tinh thần của quân dân Liên Xô và khiến các chỉ huy Đức mất dần niềm tin vào chiến thắng. Nếu không thể đánh gục Liên Xô thật nhanh chóng như kế hoạch ban đầu và bị kéo vào chiến tranh tiêu hao lâu dài, sớm muộn Đức sẽ bị đè bẹp bởi nguồn nhân lực và tài nguyên khổng lồ của Liên Xô. Thế trận xoay chiều Hoa Kỳ tham chiến Ngày Chủ Nhật, 7 tháng 12, 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng. Ngày 11 tháng 12, Hitler tuyên chiến với Hoa Kỳ. Đức thua trận ở Bắc Phi Cáo sa mạc Erwin Rommel đã khởi động lại cuộc tiến công ở el Alamein ngày 31 tháng 8, với ý định quân Anh rồi tiếp tục tiến đến Alexandria và sông Nil. Một trận đánh dữ dội diễn ra trong sức nóng như thiêu đốt trên một trận tuyến dài hơn 60 kilômét, nhưng Rommel không thể trụ nổi. Ngày 3 tháng 9, ông rút ra khỏi trận chiến và lui về vị trí phòng thủ. Cuối cùng, quân Anh tại Ai Cập đã nhận được tăng viện mạnh mẽ về quân số, pháo, xe tăng và máy bay (nhiều xe tăng và máy bay là do Mỹ cung cấp). Sau khi thua một trận đánh, Rommel nghỉ bệnh ở vùng rừng núi Semmering gần Wien. Buổi chiều 24 tháng 10 ông nhận được cuộc gọi của Hitler kêu ông quay lại Bắc Phi. Nhưng quân Anh có sức mạnh vượt trội, xuyên thủng đoạn phòng tuyến phia nam và bắt đầu tràn ngập các sư đoàn quân Ý ở khu vực này. Buổi tối 2 tháng 11, Rommel báo cáo với Hitler là ông không còn có thể trụ vững được nữa và định rút lui 60 kilômét về Fûka. Ngày kế, ông đã bắt đầu cuộc rút lui thì nhận được lệnh của Hitler: "trụ vững, không rút lui dù một bước." Rommel miễn cưỡng ra lệnh ngừng rút lui nhưng vào buổi tối 4 tháng 11, ông quyết định cứu lấy những gì còn lại và rút lui về Fûka. Số thương vong và mất tích tổng cộng là 59.000 người gồm 34.000 quân Đức, trong tổng số ban đầu 96.000 người. Ngày 5 tháng 11, Lãnh tụ gửi chỉ thị cụt lủn: "Tôi đồng ý cho quân rút lui về vị trí Fûka". Nhưng xe tăng của Bernard Montgomery đã chiếm được vị trí này. Trong 15 ngày kế tiếp, Rommel rút lui hơn 1.100 kilômét với những gì còn lại – khoảng 25.000 quân Ý, 10.000 quân Đức và 60 xe tăng – mà vẫn không có cơ hội dừng lại. Đấy là khởi đầu cho sự kết thúc của Đức Quốc xã tại Bắc Phi, trận đánh đầu tiên tại mặt trận này mà quân Đức chiến bại. Lãnh tụ còn nhận thêm tin dữ kết liễu số phận của phe Trục trên mặt trận Bắc Phi. Đồng Minh đổ bộ lên Bắc Phi Ngày 3 tháng 11 khi Rommel báo cáo thảm họa, tổng hành dinh của Hitler đã nhận tin một hạm đội hùng mạnh của Đồng Minh được phát hiện ngoài khơi Gibraltar. Không ai trong Bộ Tổng tham mưu Đức đoán được ý đồ của hạm đội này. Trong khi đang bận rộn với sự chống trả không ngừng của quân Liên Xô và với Rommel ở el Alamein, Hitler không quan tâm mấy đến tin quân báo này. Quân Anh-Mỹ dưới quyền Tướng Dwight D. Eisenhower đổ bộ lên các bãi biển Maroc và Algérie ngày 8 tháng 11 năm 1942. Hitler điều 250.000 quân Đức và Ý đến để trấn giữ đầu cầu Tunisia, nhưng đấy là chiến thắng không rõ ràng. Nếu ông chỉ cần phái một phần năm lực lượng này đến cho Rommel vài tháng trước, thì quân Đức lúc này đã tiến được đến sông Nil, Anh-Mỹ đã không thể đổ bộ và phe Trục đã kiểm soát được Địa Trung Hải, vì thế đảm bảo mặt dưới của phe Trục. Ngược lại, toàn bộ lực lượng mà Hitler điều đến Tunisia cùng phần còn lại của Quân đoàn châu Phi bị mất hẳn vào mùa xuân; 125.000 quân đầu hàng chỉ trong tuần lễ cuối của chiến dịch, 5-12 tháng 5 năm 1943. Thảm họa tại Stalingrad Rạng sáng ngày 19 tháng 11 đi đến tin dữ: Liên Xô đã đánh xuyên qua Tập đoàn quân số 3 của România dọc sông Don, ở tây-bắc Stalingrad. Về phía nam thành phố, một lực lượng Liên Xô khác đang tấn công mãnh liệt Tập đoàn quân số xe tăng 4 của Đức và Tập đoàn quân số 3 của Romania. Liên Xô đã tập trung mười tập đoàn quân cùng với hàng nghìn xe tăng để phản công, tiến từ hướng bắc và nam để cắt đứt Stalingrad và ép Tập đoàn quân số 6 của Đại tướng Friedrich Paulus hoặc phải vội vã rút về hướng tây hoặc chịu bao vây. Đại tướng Tân Tham mưu trưởng Lục quân Kurt Zeitzler thúc giục Hitler cho phép Tập đoàn quân số 6 rút ra khỏi Stalingrad. Chỉ lời đề xuất ấy đủ để Hitler nổi cơn giận dữ: ông nghiêm cấm việc rút lui. Đến ngày 22 tháng 11, Tập đoàn quân số 6 đã bị bao vây hoàn toàn. Hitler ra lệnh Paulus dời tổng hành dinh vào thành phố và lập cứ điểm phòng vệ. Tập đoàn quân này sẽ được tiếp tế bằng máy bay cho đến khi được giải cứu. Nhưng đấy chỉ là động thái vô vọng. Có 20 sư đoàn Đức và 2 sư đoàn Romania bị cắt đứt tại Stalingrad. Tướng Paulus cho biết họ cần tối thiểu 750 tấn hàng hậu cần mỗi ngày. Không quân không thể đáp ứng đủ số lượng này vì thiếu máy bay, bị trở ngại vì bão tuyết, thiếu chiến đấu cơ yểm trợ và bị lực lượng pháo phòng không Liên Xô bắn chặn quyết liệt. Việc giải cứu Tập đoàn quân số 6 là biện pháp thực tế hơn. Ngày 25 tháng 11, Hitler triệu hồi Thống chế Erich von Manstein từ mặt trận Leningrad xuống và giao cho ông chỉ huy một đơn vị mới được thành lập: cụm quân Don để giải cứu Tập đoàn quân số 6 tại Stalingrad. Von Manstein cố gắng giải thích cho Hitler hiểu rằng cơ hội duy nhất để thành công là cho Tập đoàn quân số 6 rút ra khỏi Stalingrad đi về hướng tây trong khi cụm quân Don do Tập đoàn quân xe tăng số 4 dẫn đầu tiến lên hướng đông-bắc, đánh xuyên qua quân Liên Xô đang ở giữa hai lực lượng của Đức. Nhưng một lần nữa, Hitler từ khước việc rút về sông Volga. Tập đoàn quân số 6 phải trụ lại Stalingrad và von Manstein phải tiến công đến đấy. Ngày 21 tháng 12, Tập đoàn quân xe tăng số 4 dưới quyền Đại tướng Hermann Hoth tiến đến cách chu vi phía nam của thành phố Stalingrad 50 kilômét, và qua vùng thảo nguyên phủ tuyết vào ban đêm binh sĩ của Tập đoàn quân số 6 có thể nhìn thấy ánh sáng của hỏa châu do quân bạn đến giải cứu bắn lên. Theo lời khai sau này của tướng lĩnh Đức, lúc ấy quân Đức bị bao vây có thể đánh ra hướng về phía Tập đoàn quân xe tăng số 4 đang tiến đến họ. Nhưng một lần nữa, Hitler lại cấm việc rút khỏi thành phố. Khi gặp sức kháng cự càng lúc càng mạnh của quân Liên Xô phía trước và hai bên sườn, Tướng Hoth không có đủ lực lượng để tiến thêm 50 kilômét còn lại. Nỗ lực giải cứu đã thất bại. Ngày 30 tháng 1, Hitler nhận xét với Alfred Jodl: "Lịch sử quân sự chưa từng ghi thống chế Đức nào đã bị bắt làm tù binh". Rồi ông phong cho Paulus, qua sóng vô tuyến, quân hàm thống chế. Khoảng 117 sĩ quan khác cũng được thăng cấp. Đấy là một động thái trong mục đích của Hitler: ông ta muốn quân Đức trong vòng vây sẽ chống cự tới cùng thay vì đầu hàng. Nhưng cuối ngày 31 tháng 1 năm 1943, Paulus đầu hàng quân đội Xô viết. Nga đưa 91.000 chiến binh Đức – kể cả 24 tướng lĩnh - vào các trại tù binh ở Siberia. Trừ 20.000 quân Romania và 29.000 thương binh đã được đưa về bằng máy bay, đấy là tất cả những gì còn lại của một tập đoàn quân có quân số 285.000 chỉ hai tháng trước. Những người khác đã bị tiêu diệt hoặc chết vì đói rét trong khí lạnh -20 độ C. Trong số 91.000 người vào ngày mùa đông ấy đi đến chốn giam cầm, chỉ có 5.000 người được trở về tổ quốc của họ. Khởi đầu cho hồi kết liễu Đồng Minh đổ bộ lên Normandie Trong khi Đồng Minh đang chuẩn bị hàng triệu quân và hàng nghìn tàu đủ loại để đổ bộ lên châu Âu, Quân đội Đức mãi hoang mang, ít nhất là về thời gian và địa điểm của cuộc đổ bộ. Họ nhận thấy trong tháng 5 năm 1944 có 18 ngày với các điều kiện trời tiết, mặt nước và thủy triều đều thuận lợi, nhưng tướng Dwight D. Eisenhower đã không lợi dụng cơ hội này. Vào ngày 30 tháng 5, Thống chế Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây Gerd von Rundstedt báo cáo với Hitler rằng không thấy dấu hiệu cho biết sẽ có cuộc đổ bộ trong tương lai trước mắt. Ngày 4 tháng 6, bộ phận khí tượng của Không quân Đức ở Paris cho biết vì lý do thời tiết, trong nửa tháng sắp đến sẽ không có động thái của Đồng Minh. Tin tức khác không có nhiều: Không quân Đức bị ngăn chặn bay thám thính trên các cảng biển miền nam nước Anh nơi binh sĩ của Eisenhower đang tấp nập chuẩn bị xuống tàu, còn Hải quân Đức đã rút tất cả tàu thám thính về vì biển động. Dựa trên thông tin hạn chế, ngày 5 tháng 6 Rommel trở về nhà riêng ở Herrlingen thăm gia đình và xin cái hẹn hôm sau đến tham khảo với Hitler ở Berchtesgaden. Thượng tướng Tham mưu trưởng Hans Speidel dưới quyền Rundstedt nhớ lại ngày 5 tháng 6 là "một ngày yên ả". Xem dường không có lý do nào ngăn trở Rommel nhẩn nha trở về Đức. Điệp viên Đức vẫn báo cáo Đồng Minh sắp đổ bộ – lần này là giữa ngày 6 tháng 6 và ngày 16 tháng 6 – nhưng từ tháng 4 đã có hàng trăm báo cáo như thế mà không ai xem là quan trọng. Cũng vì thế, vào ngày 6 tháng 6 Tướng Friesrich Dollmann, tư lệnh Tập đoàn quân 7 ở Normandie, ra lệnh giảm tình trạng báo động và triệu tập sĩ quan cấp cao đến cuộc tập trận trên bản đồ ở Rennes, cách Normandie khoảng 200 kilômét về phía nam. Phía Đức vừa hoàn toàn không biết gì về thời điểm đổ bộ, vừa không rõ sẽ diễn ra ở đâu. Rundstedt và Hitler đều chắc chắn sẽ diễn ra ở Pas-de-Calais, nơi Biển Manche thu hẹp nhất. Nơi đây, họ đã tập trung lực lượng mạnh nhất, Tập đoàn quân 15 đã được tăng viện 10-15 sư đoàn trong mùa xuân. Trước đó, Erwin Rommel đã điều Cụm Tập đoàn quân B về Normandie và liên tục cảnh báo về một cuộc đổ bộ vào đây nhưng Hitler đã phớt lờ. Tuy thế, phần lớn lực lượng của quân Đức, kể cả bộ binh và thiết giáp, đều trấn giữ ở phía bắc sông Seine, giữa Le Havre và Dunkerque. Rundstedt và các tướng lĩnh dưới quyền vẫn trông chừng Pas-de-Calais hơn là Normandie. Họ càng thêm tin tưởng do một số động thái đánh lạc hướng của Anh-Mỹ cho thấy họ đã tính toán đúng. Thế là, ngày 5 tháng 6 trôi qua trong yên bình theo như những gì người Đức nhận thấy. Có vài cuộc không kích mạnh của Anh-Mỹ nhắm đến các mục tiêu của Đức: kho tàng, đài ra đa, dàn phóng V-1, vị trí thông tin và vận chuyển, nhưng trong những tuần qua mỗi ngày đêm đều có không kích như thế, và bây giờ không mạnh hơn. Khi màn đêm buông xuống, tổng hành dinh của Rundstedt nhận tin báo là đài BBC ở London đang phát sóng thời lượng lớn một cách bất thường những bản tin bằng mật mã cho kháng chiến Pháp, và các đài ra-đa của Đức giữa Cherbourg và Le Havre đang bị nhiễu sóng. Lúc 10 giờ tối, Tập đoàn quân 15 nghe lỏm được một thông báo bằng mật mã mà họ nghĩ có nghĩa là cuộc đổ bộ sắp bắt đầu. Lệnh báo động được phát ra cho tập đoàn quân này, nhưng Rundstedt nghĩ không cần thiết phải báo động Tập đoàn quân 7 giữa Caen và Cherbourg, khu vực mà hàng nghìn chiếc tàu Đồng Minh đang tiến đến. Mãi đến 1:07 giờ rạng sáng 6 tháng 6 năm 1944, Tập đoàn quân 7 mới nhận ra những gì đang xảy ra, trong khi Tư lệnh Tập đoàn quân này vẫn còn tập trận trên bản đồ ở Rennes. Hai sư đoàn dù Mỹ và một sư đoàn dù Anh nhảy xuống ngay giữa vùng đóng quân của Tập đoàn quân 7 Đức. Lệnh báo động toàn diện được phát ra lúc 1:30 giờ sáng. Lúc 2:15 giờ, Trung tướng Tham mưu trưởng Max Pemsel của Tập đoàn quân 7 gọi điện đến tướng Speidel tại tổng hành dinh của Rommel cho biết đấy có vẻ như là "cuộc hành quân trên diện rộng". Speidel không tin nhưng vẫn báo cáo cho Rundstedt, và ông này cũng nghi ngờ. Cả hai tướng đều tin rằng việc thả quân dù chỉ là cách Đồng Minh chiến thuật đánh lạc hướng để đổ bộ quanh Calais. Lúc 2:40 giờ, Pemsel được báo rằng Rundstedt "không xem đấy là cuộc hành quân lớn". Mãi cho đến rạng sáng 6 tháng 6, một hạm đội Đồng Minh khổng lồ đổ lên từng đơn vị lớn dưới sự yểm trợ dữ dội của đại pháo từ tàu chiến, vị Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây mới tin đấy là cuộc tấn công chính của Đồng Minh. Chỉ đến xế trưa, Speidel mới nhận ra rõ ràng sự việc. Vào lúc này, quân Mỹ đã lập được hai đầu cầu trên bãi biển, quân Anh có đầu cầu thứ ba, và họ đã xâm nhập vào đất liền được 3 đến 10 kilômét. Speidel đã gọi điện cho Rommel ở nhà ông này lúc 6 giờ sáng. Vị Thống chế vội vàng trở lại bằng ô tô mà không đi gặp Hitler, nhưng đến xế chiều ông mới về đến tổng hành dinh Tập đoàn quân B. (Vì lẽ Đồng Minh chiếm ưu thế trên không, Hitler cấm sĩ quan cao cấp đi máy bay.) Cùng lúc, Speidel, Rundstedt và tham mưu trưởng của ông này, tướng Günther Blumentritt, gọi điện về Bộ Tổng tham mưu lúc này đang đóng tại Berchtesgaden. Do một chỉ thị ngu xuẩn của Hitler, ngay cả Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây phải xin phép ông khi muốn điều động các sư đoàn thiết giáp. Khi ba vị tướng hoảng hốt gọi đến vào buổi sáng ngày 6 tháng 6 xin phép điều hai sư đoàn thiết giáp đến Normandie, Jodl trả lời rằng Hitler muốn trước nhất xem tình hình như thế nào. Rồi sau đấy, Hitler đi ngủ. Từ lúc ấy cho đến 3 giờ chiều, tuy các tướng gọi về tới tấp, không ai ở tổng hành dinh dám làm phiền ông. Khi Hitler thức dậy, tin xấu đã đưa về khiến cho ông hành động. Ông cho phép sử dụng hai sư đoàn thiết giáp ở Normandie. Đã quá muộn! Ông cũng ban hành một chỉ thị nổi tiếng: "phải tiêu diệt địch quân ở đầu cầu vào buổi tối 6 tháng 6... Phải quét sạch bờ biển hạn cuối là đêm nay." Rommel ra lệnh cho tổng hành dinh Tập đoàn quân 5 mở cuộc phản công bằng Sư đoàn 21 Thiết giáp – là đơn vị thiết giáp duy nhất trong vùng – "ngay lập tức dù có tăng viện hay không". Sư đoàn này đã làm việc ấy mà không phải đợi lệnh của Rommel. Khi Rommel gọi đến, Tướng Pemsel trả lời về chỉ thị của Hitler "quét sạch hạn cuối là đêm nay" không phải một, mà là ba đầu cầu. Ông nói: "Việc này là không khả thi". Rundstedt và Rommel quyết định đã đến lúc nói điều này với Hitler, mặt đối mặt, và yêu cầu ông chấp nhận mọi hậu quả. Họ thuyết phục ông đến một cuộc họp ngày 17 tháng 6 tại Margival, nơi có một boong-ke xây làm tổng hành dinh cho Hitler. Viễn cảnh bị thêm một chiến bại choáng váng khiến các tướng lĩnh thêm can đảm, hoặc ít nhất đối với Rommel, được Rundstedt cho phép phát biểu khi lời lẽ của Hitler trách cứ họ tạm ngưng. Với sự thẳng thắn mà không cần uốn nắn ngôn từ, Rommel vạch ra rằng trận chiến chống lại Đồng Minh có ưu thế trên không, trên mặt biển và trên đất liền là vô vọng. Nhưng tình hình không đến nỗi tuyệt vọng nếu Hitler từ bỏ quyết tâm vô lý là giữ vững mọi tấc đất rồi đẩy các lực lượng Đồng Minh xuống biển. Rommel đề xuất với sự đồng ý của Rundstedt là rút quân Đức khỏi tầm bắn chết người của đạn pháo hải quân Đồng Minh, đưa các đơn vị thiết giáp về phía sau và tổ chức lại rồi sau đấy phát động phản công. Làm như thế, có thể đánh bại Đồng Minh trong một trận đánh bên ngoài tầm bắn của đạn pháo hải quân địch. Nhưng Hitler không muốn nghe bất kỳ đề xuất nào về việc rút lui. Binh sĩ Đức phải trụ lại mà chiến đấu. Đến lúc này Rommel muốn hướng về chính trị. Ông tiên đoán rằng phòng tuyến Đức tại Normandie sẽ tan vỡ và rằng không thể ngăn chặn đà tiến của Đồng Minh vào đất Đức. Ông không chắc liệu có thể giữ vững phòng tuyến ở Liên Xô hay không. Ông đề xuất nên tìm cách chấm dứt cuộc chiến. Hitler đã ngắt lời Rommel vài lần, cuối cùng chen vào: "Ông đừng lo lắng về tiến trình tương lai của cuộc chiến, nhưng nên chú tâm vào mặt trận tấn công của ông." Hai thống chế không đi đến đâu, cả với lập luận quân sự và chính trị. Tướng Jodl khai trước Tòa án Nürnberg: "Hitler không hề chú tâm đến những lời cảnh báo của họ." Liên Xô tiếp tục phản công Ngày 20 tháng 6, đợt phản công của Liên Xô, mà mọi người tiên liệu từ lâu, đã bắt đầu với sức mạnh vượt trội. Chỉ trong vòng vài ngày, Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức, mà Hitler đã tập trung những đơn vị mạnh nhất, hoàn toàn tan nát. Phòng tuyến Đức vỡ vụn, và con đường đến Ba Lan rộng mở. Ngày 4 tháng 7, quân Nga vượt đường biên giới năm 1939 phía đông của Ba Lan và hội tụ ở Đông Phổ. Vào ngày 29 tháng 6, một lần nữa Rundstedt và Rommel kêu gọi Hitler nên đối mặt với thực tế ở miền Đông và miền Tây, cố chấm dứt chiến tranh trong khi một phần đáng kể của Quân đội Đức vẫn tồn tại. Hitler khước từ. Hai ngày sau, Rundstedt bị bãi nhiệm chức Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây. Thay thế ông là Thống chế Günther von Kluge. Sự suy tàn của Đế chế Thứ Ba Cuộc tấn công vào lãnh thổ Đức Cuộc tổng phản công của Liên Xô bắt đầu ngày 10 tháng 6 năm 1944. Đến giữa tháng 8 năm 1944, Hồng quân tiến đến biên giới Đông Phổ, bao vây 15 sư đoàn Đức ở vùng Baltic, xâm nhập đến Vyborg của Phần Lan, tiêu diệt Cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức. Trong 5 tuần, mặt trận của Liên Xô tiến đến sông Wisla. Ở miền nam, Liên Xô bắt đầu cuộc phản công ngày 20 tháng 8. Đến cuối tháng 8, họ chiếm được Romania cùng với mỏ dầu Ploesti, nguồn cung cấp dầu hỏa chính duy nhất cho quân đội Đức. Ngày 26 tháng 8, Bulgaria chính thức từ bỏ cuộc chiến và quân Đức bắt đầu vội vã rút ra khỏi nước này. Đến tháng 9, Phần Lan đầu hàng và giải giới những binh sĩ Đức không chịu rút ra khỏi nước này. Ngày 25 tháng 8 năm 1944, sau 4 năm dưới sự chiếm đóng của Đức, Paris được giải phóng khi Sư đoàn 2 Thiết giáp của Pháp dưới quyền tướng Leclerc và Sư đoàn 4 Bộ binh của Mỹ tiến vào thành phố. Tàn dư của những quân Đức ở Pháp bây giờ đều rút lui. Thống chế Bernard Montgomery dẫn Tập đoàn quân số 1 của Canada và Tập đoàn quân số 2 của Anh giải phóng Bruxelles ngày 3 tháng 9 và Antwerp ngày hôm sau. Ông tiến quân nhanh đến nỗi Đức không có thời giờ phá hủy những công trình cảng tại Antwerp. Đây là điều may mắn lớn cho Đồng Minh, vì cảng này sẽ trở thành căn cứ tiếp tế chính cho quân Anh-Mỹ. Về phía nam, Tập đoàn quân số 1 của Mỹ dưới quyền tướng Courtney H. Hodges cũng tiến nhanh vào miền đông-nam Bỉ, đến sông Meuse rồi chiếm được các pháo đài ở Namur và Liège mà Đức không có thời giờ tổ chức phòng ngự. Xa hơn về phía nam, Tập đoàn quân số 3 của tướng George Patton đã giải phóng Verdun, bao vây Metz, tiến đến sông Moselle rồi bắt tay với Tập đoàn quân số 7 của Pháp-Mỹ dưới quyền tướng Alexander Patch. Đến cuối tháng 8, mặt trận miền Tây của Đức đã mất 500.000 quân (phân nửa số này bị bắt làm tù binh) và hầu như toàn bộ xe tăng, đại bác và xe vận tải. Gerd von Rundstedt, người được tái bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Tư lệnh Mặt trận miền Tây ngày 4 tháng 9, sau này nói với Đồng Minh: "Đối với cá nhân tôi, cuộc chiến đã chấm dứt vào tháng 9." Nước cờ liều lĩnh cuối cùng của Hitler Suốt cuối mùa thu Hitler đã vơ vét khắc nước Đức mọi nguồn lực cho nước cờ mới. Chiến dịch phản công là một kế hoạch liều lĩnh. Hitler tin rằng hầu như chắc chắn sẽ tạo được bất ngờ. Nhưng có một nhược điểm. Quân đội Đức đã yếu hơn so với năm 1940, đặc biệt là về không quân, trong khi đối thủ có tiềm năng mạnh hơn và vũ khí tốt hơn. Đến tháng 12, ông đã thu thập được gần 28 sư đoàn kể cả chín sư đoàn thiết giáp để đánh xuyên qua Ardennes, thêm 6 sư đoàn để tấn công Alsace tiếp theo mũi tiến công chính. Hermann Göring hứa sẽ cung ứng 3.000 chiến đấu cơ. Đấy là một lực lượng đáng kể, tuy còn yếu hơn nhiều so với tập đoàn quân của Rundstedt trên cùng mặt trận năm 1940. Nhưng việc động quân như thế đã khiến cho mặt trận miền Đông không có quân tăng viện vốn rất cần thiết để đẩy lui cuộc tấn công của Liên Xô dự trù vào tháng 1 năm 1945. Ngày 16 tháng 12 năm 1944, lợi dụng màn sương dây bao phủ vùng đồi hiểm trở của rừng Ardennes, quân Đức phản công trên mặt trận trải dài 120 kilômét. Không lực Đồng Minh không cất cánh được vì thời tiết xấu. Quân Đức khiến cho Đồng Minh bị bất ngờ hoàn toàn, đánh xuyên qua được vài điểm ngay sáng đầu tiên. Khi một đội hình tăng của Đức tiến đến Stavelot vào đêm 17 tháng 12, họ chỉ còn cách tổng hành dinh Tập đoàn quân 1 của Mỹ có 13 kilômét ở Spa, và nơi này đang vội vã lo rút lui. Quan trọng hơn, giữa quân Đức và một kho xăng dầu khổng lồ của Mỹ chứa 11 triệu lít xăng chỉ có khoảng cách chưa đến 2 kilômét. Xe tăng Đức đang tiến chậm chạp vì luôn thiếu hụt nhiên liệu. Vì thế, nếu chiếm được kho xăng dầu này, họ có thể tiến nhanh hơn và xa hơn. Những đơn vị rời rạc của Tập đoàn quân 1 Mỹ vẫn ngoan cường chống trả khiến cho đà tiến của Đức chậm lại. Quân Mỹ trấn đóng trên các vùng phía bắc Monschau và phía nam Bastogne, chỉ cho phép quân Đức luồn qua một khoảng hẹp. Lực lượng Mỹ phòng ngự ở Bastogne khép lại số phận của Đức. Giao lộ Bastogne là chìa khóa cho sự phòng vệ vùng Ardennes và sông Meuse phía sau. Nếu Đồng Minh giữ vững Bastogne, họ sẽ khống chế những con đường chính mà quân Đức muốn sử dụng, và còn cầm chân được một lực lượng đáng kể của Đức. Vào sáng ngày 18 tháng 12, mũi tiến công của Đức chỉ còn cách Bastogne 24 kilômét, trong khi nơi đây chỉ có binh sĩ thuộc tổng hành dinh của một quân đoàn đang chuẩn bị rút lui. Tuy nhiên, tối ngày 17 tháng 12, Sư đoàn Không vận 101 của Mỹ, lúc ấy đang lo bổ sung lực lượng tại Reims, nhận lệnh hành quân cấp tốc đến Bastogne trên quãng đường dài 160 kilômét. Cả sư đoàn đi trên xe tải mở đèn chạy suốt đêm, và đến Bastogne sau 24 giờ. Quân Đức đã thua trong cuộc chạy đua. Dù Đức bao vây Bastogne với lực lượng vượt trội, các sư đoàn Đức vẫn không thể đi vòng đến tiến đến sông Meuse, mà còn phải để lại một lực lượng lớn để cố chiếm lấy giao lộ này. Bước ngoặt cho nước cờ của Hitler tại Ardennes diễn ra ngày 24 tháng 12. Quân Mỹ tạo thành hai gọng kìm mạnh từ hai bên sườn bắc và nam của quân Đức trên khoảng hẹp. Nhờ thời tiết tốt trở lại, không lực Anh-Mỹ tấn công dữ dội các tuyến đường tiếp tế và đội hình Đức. Quân Đức cố mở thêm đợt tấn công vào Bastogne, nhưng quân phòng ngự. Ngày hôm sau, một đội hình thiết giáp thuộc Tập đoàn quân 3 của tướng George S. Patton đánh xuyên qua phía nam và giải cứu cho thị trấn. Quân Đức phải rút lui khỏi hành lang chật hẹp nếu không muốn quân Mỹ cắt đứt tiêu diệt. Vào ngày đầu năm, Hitler tung 8 sư đoàn theo 2 mũi tấn công, nhưng cả hai đều không thể tiến xa. Một cuộc tấn công tổng lực vào Bastogne của không dưới hai quân đoàn gồm 9 sư đoàn diễn ra ngày 3 tháng 1 năm 1945, dẫn đến một trong những trận đánh dữ dội nhất trong chiến dịch Ardennes. Đến ngày 16 tháng 1, chỉ một tháng sau khi phát động cuộc phản công mà Hitler tung ra tất cả cơ số dự bị về nhân lực và khí tài, quân đội Đức rút về phòng tuyến xuất phát. Đức bị thiệt hại 120.000 người gồm thương vong và mất tích, 600 xe tăng và pháo, 1.600 máy bay và 6.000 xe cộ các loại. Thiệt hại phía Mỹ cũng nặng – 8.000 tử trận, 48.000 bị thương, 21.000 bi bắt hoặc mất tích và 733 xe tăng. Quân đội Đức sụp đổ Vào mùa xuân 1945, Đế chế thứ Ba tiến nhanh đến hồi kết liễu. Tháng 2 năm 1945, với phần lớn vùng công nghiệp Ruhr đã đổ nát và vùng Thượng Silesia rơi vào tay Nga, sản lượng than đá chỉ còn một phần năm so với năm trước và lại khó vận chuyển vì không quân Mỹ-Anh đánh phá hệ thống đường sắt và kênh đào. Đức mất những giếng dầu ở Romania và Hungary, còn không quân Đồng Minh đánh phá các nhà máy sản xuất dầu nhân tạo. Nhiên liệu thiếu hụt một cách trầm trọng đến nỗi nhiều tàu hải quân và phần lớn máy bay nằm ụ và bị máy bay Đồng Minh đến phá hủy. Nhiều sư đoàn thiết giáp không thể di chuyển cũng vì thiếu nhiên liệu. Đến ngày 8 tháng 2 năm 1945, quân Đồng Minh, bây giờ lên đến 85 sư đoàn, bắt đầu tiến gần đến sông Rhine. Họ đã nghĩ Đức sẽ cố bảo toàn lực lượng để chiến đấu cầm cự, rút về phía sau phòng tuyến nước của một con sông rộng và chảy xiết, rất khó vượt qua. Rundstedt đã tham mưu như thế. Nhưng ở đây, cũng giống như những nơi khác qua bao lần thất bại, Hitler không muốn nghe việc rút lui. Ông nói với Rundstedt làm như thế chẳng khác nào "dời thảm họa từ nơi này sang nơi khác". Thế là, Hitler cương quyết đòi hỏi quân Đức phải trụ lại mà chiến đấu – nhưng không thể lâu được. Đến cuối tháng 2 năm 1945, quân Anh-Mỹ đã tiến đến sông Rhine ở nhiều điểm phía bắc Düsseldorf, và 2 tuần sau họ đã trụ vững bên bờ trái của sông Moselle. Quân Đức đã có thêm 300.000 thương vong trong số này có 293.000 bị bắt, và mất phần lớn khí tài chiến tranh. Vào buổi xế chiều ngày 7 tháng 3, một đơn vị tiền phong thuộc Sư đoàn 9 Thiết giáp của Mỹ tiến đến những ngọn đồi nhìn xuống thị trấn Remagen bên bờ sông Rhine. Họ kinh ngạc thấy chiếc cầu bắc qua con sông vẫn còn nguyên vẹn. Xe tăng Mỹ chạy qua cầu. Đến tối, quân Mỹ đã lập được một vị trí vững chắc ở bờ đông. Họ đã vượt qua được chướng ngại vật thiên nhiên cuối cùng ở Tây Đức. Hitler ra lệnh xử tử 8 sĩ quan chỉ huy lực lượng yếu kém của Đức tại cầu Remagen. Ít ngày sau, vào đêm 22 tháng 3, Tập đoàn quân số 3 dưới quyền Patton vượt sông Rhine tại Oppenheim, phía nam Mainz. Đến ngày 25 tháng 3, quân Đồng Minh đã chiếm được cả bờ tây con sông và hai đầu cầu vững chắc bên bờ đông. Trong vòng 6 tuần, Đức đã mất hơn một phần ba lực lượng ở miền Tây và phần lớn vũ khí cho nửa triệu người. Trong khi các tập đoàn quân Anh-Canada dưới quyền Thống chế Bernard Montgomery tiến đến Bremen, Hamburg và vùng Baltic, Tập đoàn quân 9 Mỹ của tướng William Hood Simpson và Tập đoàn quân 1 Mỹ của tướng Hodges cũng tiến nhanh qua vùng Ruhr. Cụm Tập đoàn quân B của Thống chế Model gồm Tập đoàn quân 15 và Tập đoàn quân xe tăng 5 – khoảng 21 sư đoàn – bị bao vây, rồi đầu hàng ngày 18 tháng 4. Thêm 325.000 quân Đức kể cả 30 tướng lĩnh bị bắt, nhưng không có mặt Thống chế Otto Model. Ông đã tự tử bằng súng chứ không muốn làm tù binh. Ngày 16 tháng 4 năm 1945 quân Mỹ tiến đến Nürnberg, còn quân của Nguyên soái Zhukov tiến tiếp từ đầu cầu sông Oder rồi đến vùng ngoại ô của Berlin ngày 21 tháng 4. Wien đã được giải phóng ngày 13 tháng 4. Lúc 4:40 giờ chiều ngày 25 tháng 4, toán tuần tiễu của Sư đoàn 69 Bộ binh Mỹ bắt tay với nhóm tiền phương của Sư đoàn 69 Cận vệ Liên Xô ở Torgau bên bờ sông Elbe, cách Berlin khoảng 40 kilômét về phía nam. Lãnh thổ Đức bị cắt ra làm hai mảnh bắc và nam. Adolf Hitler bị cô lập ở Berlin. Ông tự tử ngày 30 tháng 4, 1945, mười ngày sau sinh nhật thứ 56 của ông. Chiến tranh kết thúc Lúc 2:41 giờ rạng sáng ngày 7 tháng 5 năm 1945, Đức đầu hàng vô điều kiện. Đêm mồng 8 rạng sáng 9 tháng 5 năm 1945, ký vào văn kiện về phía Đồng Minh là tướng Mỹ Walter Bedell Smith, với tướng Ivan Susloparov ký làm người chứng cho Liên Xô và tướng François Sevez cho Pháp. Đô đốc Hans-Georg von Friedeburg (Tư lệnh Hải quân Đức cuối cùng trong cuộc chiến) và Đại tướng Alfred Jodl (Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Đức trong suốt cuộc chiến) ký thay cho Đức. Jodl xin phép phát biểu và được chấp nhận. Với chữ ký này, dù tốt hay xấu nhân dân Đức và Quân lực Đức được giao vào tay của những người chiến thắng,... Trong giờ khắc này tôi chỉ có thể nói lên hy vọng rằng bên chiến thắng sẽ đối xử với họ một cách khoan dung. Phía Đồng Minh không có đáp từ. Nhưng có lẽ Jodl còn nhớ một dịp khác chỉ mới 5 năm trước, khi vai trò hai bên đảo ngược. Lúc ấy, khi thay mặt nước Pháp ký đầu hàng vô điều kiện, một vị tướng Pháp đã có lời khẩn cầu tương tự. Sau đấy, người ta biết rằng lời khẩn cầu đã vô hiệu. Đại bác trên châu Âu ngưng bắn và bom ngưng rơi bắt đầu từ giữa đêm 8 tháng 5 rạng sáng 9 tháng 5 năm 1945. Lần đầu tiên kể từ ngày 1 tháng 9 năm 1939, một sự yên lặng lạ lùng nhưng được chào đón toàn lục địa châu Âu. Cuộc chiến mà Đức Quốc xã phát động trên châu Âu diễn ra trong 5 năm, 8 tháng và 6 ngày. Còn tại mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, Mĩ ném bom vào 2 thành phố lớn Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản) làm nhiều người chết, hàng chục vạn người nhiễm độc do bom nguyên tử. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện trên chiếc hạm Missouri của Mĩ. Chiến tranh kết thúc Cơ cấu chỉ huy quân đội Đức Quốc xã Từ năm 1933, Đức Quốc xã khởi động chương trình tái vũ trang, tăng cường quân lực mạnh mẽ. Năm 1935, Bộ Chiến tranh được thành lập thay cho Bộ Quốc phòng. Thượng tướng Bộ binh Werner von Blomberg (thăng Thống chế 1936), Bộ trưởng Chiến tranh, giữ vai trò Tổng tư lệnh quân đội. Cơ cấu quân đội Đức Quốc xã thay đổi mạnh mẽ từ năm 1938 với sự hình thành Bộ Tư lệnh Tối cao Wehrmacht (Oberkommando der Wehrmacht - OKW) thay cho Bộ Chiến tranh. Từ đây, quân đội Đức được đặt trực tiếp dưới quyền lãnh đạo của Hitler với vai trò Tổng tư lệnh Tối cao (Oberbefehlshaber - OB). Cơ cấu này duy trì cho đến khi Đức Quốc xã hoàn toàn sụp đổ năm 1945. Tổng tư lệnh Tối cao (Oberbefehlshaber) Führer Adolf Hitler (1938-1945) Đại đô đốc Karl Dönitz (1945) Chỉ huy trưởng (Chef des OKW) Đại tướng Wilhelm Keitel (1938-1945) (Thống chế 1940) Tổng tư lệnh Lục quân (Oberbefehlshaber des Heeres - OBdH) Đại tướng Werner von Fritsch (1934-1938) Thống chế Walther von Brauchitsch (1938-1941) Führer Adolf Hitler (1941-1945) Thống chế Ferdinand Schörner (1945) Tổng tư lệnh Không quân (Oberbefehlshaber des Luftwaffe - OBdL) Thống chế Đế chế Hermann Göring (1935-1945) Thống chế Robert Ritter von Greim (1945) Đại tướng Hans-Jürgen Stumpff (1945) (tạm quyền thay mặt Tổng tư lệnh Không quân ký kết văn kiện đầu hàng) Tổng tư lệnh Hải quân (Oberbefehlshaber des Marine - OBdM) Đại Đô đốc Erich Raeder (1928-1943) Đại Đô đốc Karl Dönitz (1943-1945) Đô đốc Hans-Georg von Friedeburg (1945) Đô đốc Walter Warzecha (1945) Danh sách các Thống chế 1936 Werner von Blomberg (1878-1946), chết khi bị bắt giữ 1938 Hermann Göring (1893-1946), tự tử 1940 Walther von Brauchitsch (1881-1948), chết khi bị bắt giữ 1940 Albert Kesselring (1885-1960), được trả tự do 1940 Wilhelm Keitel (1882-1946), bị Đồng Minh xử tử 1940 Günther von Kluge (1882-1944), tự tử 1940 Wilhelm Ritter von Leeb (1876-1956), bị án tù 1940 Fedor von Bock (1880-1945), tử trận 1940 Wilhelm List (1880-1971), được trả tự do 1940 Erwin von Witzleben (1881-1944), bị Quốc xã sát hại 1940 Walther von Reichenau (1884-1942), tử trận 1940 Erhard Milch (1892-1972), bị án tù 1940 Hugo Sperrle (1885-1953), được tha bổng 1940 Gerd von Rundstedt (1875-1953), bị giam sau đó thả về 1940 Eduard Freiherr von Böhm-Ermolli (1856-1941), về hưu 1942 Erwin Rommel (1891-1944), tự tử 1942 Georg von Küchler (1881-1968), được trả tự do vì sức khỏe 1942 Erich von Manstein (1887-1973), cố vấn cho Thủ tướng Konrad Adenauer 1943 Friedrich Paulus (1890-1957), bị Liên Xô bắt làm tù binh, được trả tự do sau chiến tranh 1943 Paul Ludwig Ewald von Kleist (1881-1954), bị án tù 1943 Maximilian Reichsfreiherr von Weichs (1881-1954), không bị truy tố 1943 Ernst Busch (1885-1945), chết khi bị bắt giữ 1943 Wolfram Freiherr von Richthofen (1895-1945), chết khi bị bắt giữ 1944 Walther Model (1891-1945), tự tử 1945 Ferdinand Schörner (1892-1973), bị án tù 1945 Robert Ritter von Greim (1892-1945), tự tử 1936 Erich Raeder (1876 -1960), bị án tù 1943 Karl Dönitz (1891-1980), bị án tù Chú thích Năm 1941, Göring được thăng quân hàm cao nhất: Thống chế Đế chế (Reichsmarschall), là người duy nhất mang quân hàm này, những Thống chế khác mang quân hàm thấp hơn: Generalfeldmarschall. Erich Raeder và Karl Dönitz là hai người duy nhất mang quân hàm Đại Đô đốc (Großadmiral), tương đương với Thống chế.
Visual Basic for Applications (VBA) là một sự bổ sung của Microsoft's Visual Basic, được xây dựng trong tất cả các ứng dụng Microsoft Office (bao gồm cả phiên bản cho hệ điều hành Mac OS), một số ứng dụng của Microsoft khác như Microsoft MapPoint và Microsoft Visio - một ứng dụng trước đây của Microsoft; ít nhất đã được bổ sung thành công trong những ứng dụng khác như AutoCAD, WordPerfect và ESRI ArcGIS. Nó đã được thay thế và mở rộng trên khả năng của ngôn ngữ macro đặc trưng như WordBasic của Word, và có thể được sử dụng để điều khiển hầu hết tất cả khía cạnh của ứng dụng chủ, kể cả vận dụng nét riêng biệt về giao diện người dùng như các menu và toolbar và làm việc với các hình thái hoặc hộp thoại tùy ý. VBA có thể được sử dụng để tạo ra các bộ lọc xuất nhập cho các định dạng tập tin khác nhau như ODF. Như tên gọi của mình, VBA khá gần gũi với Visual Basic, nhưng nó chỉ có thể chạy trong ứng dụng chủ chứ không phải 1 chương trình độc lập. Nó có thể được dùng để điều khiển 1 ứng dụng từ 1 OLE tự động (ví dụ, tự động tạo một bản báo cáo bằng Word từ dữ liệu trong Excel). VBA có nhiều khả năng và cực kì mềm dẻo nhưng nó có một số hạn chế quan trọng, bao gồm hỗ trợ hạn chế cho các hàm gọi lại. Nó có khả năng sử dụng (nhưng không tạo ra) các thư viện động, và các phân bản sau hỗ trợ cho các mô-đun lớp (class modules). Sử dụng Hầu hết các sản phẩm phần mềm (Autodesk AutoCAD / Microsoft Office / Adobe Illustrator) trang bị một 'Kiểu đối tượng' cho môi trường Visual Basic cho phép người dùng tạo ra mọi thứ từ các macro nhỏ để biểu diễn yêu cầu lặp lại cho chương trình bao quát để thêm khả năng cho chương trình chủ. Macros có thể được gắn vào một menu, nút nhấn hoặc bàn phím. Các ví dụ Một công dụng phổ biến của VBA là thêm hàm vào giao diện ứng dụng chuẩn. Macro này chuẩn bị một shortcut để nhập ngày hiện tại trong Word: Sub NhapNgayHienTai() ' NhapNgayHienTai Macro ' Macro recorded 15/03/2005 by UserName ' Selection.InsertDateTime DateTimeFormat:="d-MMM-yy", InsertAsField:=False, _ DateLanguage:=wdEnglishAUS, CalendarType:=wdCalendarWestern, _ InsertAsFullWidth:=False End Sub VBA rất có ích trong việc tự động cập nhật dữ liệu qua một bảng: Sub LoopTableExample Dim db As DAO.Database Dim rs As DAO.Recordset Set db = CurrentDb Set rs = db.OpenRecordset("SELECT * FROM tblMain") Do Until rs.EOF MsgBox rs!FieldName rs.MoveNext Loop Set rs = Nothing Set db = Nothing End Sub VBA có thể dùng để thêm hàm mới trong bảng tính Microsoft Excel: ' EX VBA Public Function BusinessDayPrior(dt As Date) As Date Select Case Weekday(dt, vbMonday) Case 1 BusinessDayPrior = dt - 3 Case 7 BusinessDayPrior = dt - 2 Case Else BusinessDayPrior = dt - 1 End Select End Function Tương lai Microsoft có kế hoạch thay thế VBA bằng Visual Studio Tools for Applications (VSTA), một bộ công cụ thay đổi ứng dụng có nền tảng.Net. Tuy nhiên những kĩ thuật này vẫn đang được nghiên cứu, vì vậy ít nhất bộ Office 2007 vẫn sẽ dùng công nghệ VBA.
Kỹ sư xây dựng là người có khả năng tư vấn thi công xây dựng, thiết kế, quản lý dự án, tính toán kết cấu và thi công các công trình xây dựng. Kỹ sư xây dựng là người phải tốt nghiệp chuyên ngành xây dựng tại các trường đại học Xây dựng hay các trường đại học có chuyên ngành xây dựng. Thời gian học ít nhất là 4 hoặc 5 năm. Ở nhiều quốc gia, sau khi tốt nghiệp thì kỹ sư xây dựng cần phải có thời gian thực tập và phải có chứng chỉ hành nghề mới được thực hiện một số công việc xây dựng nhất định thuộc lĩnh vực xây dựng. Đặc điểm Kỹ thuật xây dựng là ngành kỹ thuật, chương trình học khá khô khan, nhiều tính toán. Công việc đòi hỏi người kỹ sư phải đi công tác xa nhà thường xuyên nên ngành này rất ít nữ giới thi vào. Nhiều người cho rằng nghề xây dựng thích phiêu lưu, phong trần, thích thiết kế, có một mức thu nhập cao và nhiều ưu đãi. Là một ngành kỹ thuật nhưng công việc yêu cầu người kỹ sư xây dựng ngoài khả năng tính toán, sáng tạo, chịu áp lực còn rất cần kỹ năng giao tiếp và hiểu biết xã hội. Công việc của người kỹ sư xây dựng nhìn chung là ít ổn định, không điều độ và hay thay đổi. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, những kỹ sư Xây dựng đầu tiên được đào tạo trong nước là những kỹ sư tốt nghiệp khóa 1 - Khoa Xây dựng - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nay là trường Đại học Xây dựng. Xem: Danh sách các chuyên ngành Kỹ thuật xây dựng được đào tạo tại các trường đại học ở Việt Nam
Franz Bopp (14 tháng 9 năm 1791 - 23 tháng 10 năm 1867) là một nhà ngôn ngữ học người Đức nổi tiếng về công trình ngôn ngữ học so sánh đối với các ngôn ngữ thuộc hệ Ấn-Âu. Cuộc đời Franz Bopp sinh ngày 14 tháng 9 năm 1791 tại Mainz. Trong thời gian đó, vì một số rắc rối về chính trị, cha mẹ của ông chuyển đến Aschaffenburg, Bavaria nơi ông được tự do học tập tại Lyceum. Chính tại đây ông đã bắt đầu chú ý đến ngôn ngữ và văn hóa phương Đông qua những bài giảng hùng biện của Karl Joseph Hieronymus Windischmann cùng với Georg Friedrich Creuzer, Johann Joseph von Görres và anh em nhà Schlegel về triết học và kiến thức của Ấn Độ. Ngoài ra, cuốn Über die Sprache und Weisheit der Indier (Về tài hùng biện và sự thông thái của người Ấn Độ, Heidelberg, 1808) của Karl Wilhelm Friedrich Schlegel đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến trí tuệ của các nhà lịch sử và triết học Đức và cũng không thua kém trong việc làm Bopp quan tâm đến ngôn ngữ của đạo Hindu. Năm 1812 đến năm 1816, ông nhận được học bổng của chính phủ Bavaria sang Paris để nghiên cứu tiếng Ba Tư, Ả Rập, Do Thái tại trường của Silvestre de Sacy, học tiếng Phạn với Antoine Leonard de Chézy, Louis Mathieu Langlès và, quan trọng nhất, Alexander Hamilton. Chính ở Paris, Bopp đã viết công trình Über das Conjugationssystem der Sanskritsprache in Vergleichung mit jenem der griechischen, lateinischen, persischen und germanischen Sprachen (Về hệ thống chia động từ trong tiếng Phạn so với tiếng Hy Lạp, Ba Tư, Latin và các ngôn ngữ gốc Đức). Cuốn sách được in tại Frankfurt am Main vào năm 1816. Trong thời gian 1816 - 1820, ông tiếp tục nhận được học bổng nghiên cứu tiếp tại London. Tại đây ông đã quen biết nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Wilhelm von Humboldt. Về nước, ông lại không được phân công giảng dạy tiếng Phạn tại đại học cho mãi đến khi Humboldt thành lập Đại học Berlin, đã bổ nhiệm ông làm giáo sư dạy tiếng Phạn tại đại học này. Sự nghiệp Một phần do công trình của Rask viết năm 1814 chưa được nhiều người biết đến, phần về hoàn cảnh khách quan về môi trường nghiên cứu vào thời điểm Bopp ở Berlin vô cùng thuận lợi nên công trình Über das Conjugationssystem der Sanskritsprache in Vergleichung mit jenem der griechischen, lateinischen, persischen und germanischen Sprachen được in tại Frankfurt am Main đã đưa Franz Bopp lên ngôi sáng lập ra ngành ngôn ngữ học so sánh. Cũng vào thời điểm này, ở Đức đang dấy lên phong trào nghiên cứu ngôn ngữ, triết học, lịch sử dân tộc,...trong khi tiếng Phạn lại gắn liền với lịch sử dân tộc. Vì thế, người ta đã đưa ra thuật ngữ được người Đức nồng nhiệt đón chào là "Ngôn ngữ Ấn – Giécmanh". Tuy nhiên, Bopp, Achopenhauer và một số nhà nghiên cứu khác lại không dùng thuật ngữ này mà dùng thuật ngữ "Ấn-Âu" xuất hiện từ năm 1814. Có thể nói, Bopp đã thực hiện công việc nghiên cứu ngôn ngữ so sánh hơn nửa thế kỷ, thể hiện qua các công trình So sánh phân tích tiếng Sanskrit với các ngôn ngữ thân thuộc [Transactions of the Berlin Academy (1824 - 1831)]; Ngữ pháp so sánh tiếng Sanskrit với các ngôn ngữ Hy Lạp, Ba Tư, Latin và Giécmanh năm 1833 – 1852, ngôn ngữ Giécmanh (1836); ngôn ngữ Celtic (Sentơ) (1839); tiếng Phổ cổ (1853), ngôn ngữ Albania (1854); Trọng âm của tiếng Sanskrit và Hy Lạp (1854); Về sự liên quan của ngôn ngữ Polynesia với ngôn ngữ Ấn – Âu (1840); và về tiếng Caucasia (1846). Sự thúc đẩy của cảm hứng đã dẫn ông vào con đường sai lầm trong hai tác phẩm cuối cùng vừa đề cập trên đây. Bopp bị buộc tội bỏ mặc việc nghiên cứu ngữ pháp địa phương Sanskrit. Nhưng trong buổi đầu nghiên cứu tiếng Sanskrit, các dữ liệu cần thiết không thể lấy được tại các thư viện lớn của châu Âu. Những tư liệu này lôi cuốn sự chú ý của ông trong nhiều năm. Trong khi đó thì việc nghiên cứu ngữ pháp tương tự của Wilkins và Colebrooke mà ông từ những kiến thức ngữ pháp của ông bắt nguồn từ đấy lại hoàn toàn dựa vào ngữ pháp địa phương. Ông còn bị buộc tội là trong cuốn Ngữ pháp so sánh của mình, bằng những lời lẽ của mình, ông đã tỏ ra quá đáng đối với ngôn ngữ Sanskrit vì ngay từ đầu những năm 1920, ông đã đưa ra ý kiến cho rằng thường thì những ngôn ngữ có cùng nguồn gốc có thể giải thích cho các hình thức ngữ pháp bị mai một dần trong tiếng Sanskrit (Annals of Or. Lit. I, 3), một ý kiến dẫn ông tiến xa hơn nữa trong tất cả các tác phẩm của ông sau này. Những nghiên cứu của Bopp, đã mang lại sự thâm nhập tuyệt vời vào những chi tiết nhỏ nhất của các hiện tượng ngôn ngữ dẫn đến việc mở rộng và đi xa hơn nữa của những vị trí cũng như cấu trúc, nguyên lý, thực hành và những cách sử dụng của dân địa phương của các quốc gia Ấn – Âu - một khoa học về ngữ pháp so sánh có lẽ chẳng ngoa khi người ta đề cập đến cái ngày mà tác phẩm đầu tay của ông được xuất bản. Và năm 1829 ông được phong là Viện sĩ Viện Hàn lâm Berlin.
(17 tháng 11 năm 1906 – 5 tháng 8 năm 1991) là người sáng lập hãng xe hơi Honda. Ông sinh ra ở làng Komyo, quận Iwata, thành phố Hamamatsu,tỉnh Shizuoka, Nhật Bản. Suốt thời thơ ấu Honda phụ ông Gihei cha mình vốn là một thợ rèn. Lúc ấy bà Mika mẹ ông là thợ dệt. Đến tuổi 15 Honda không học hành bài bản gì lại lên Tokyo tìm việc. Ông được nhận vào làm thợ sửa xe tại một gara xe hơi và đã làm ở đó trong sáu năm từ 1922 đến 1928 trước khi về quê mở một tiệm sửa xe hơi cho riêng mình ở tuổi 22. Năm 1948 Honda bắt đầu sản xuất xe máy trong cương vị chủ tịch Công ty Honda. Ông đã biến công ty thành một tập đoàn đa quốc gia giá trị hàng tỉ đô la chuyên sản xuất ra những xe máy bán chạy nhất thế giới. Tài năng về kỹ thuật và tiếp thị của Honda thể hiện ở việc bán nhiều vượt tưởng tượng các loại xe Triumph ở thị trường nội địa và Harley-Davidson. Năm 1959 Xe máy Honda mở đại lý bán sỉ đầu tiên tại Hoa Kỳ. Ông giữ chức chủ tịch công ty đến khi nghỉ hưu năm 1973 nhưng vẫn là giám đốc. Năm 1983 ông được nhận chức danh "cố vấn cao cấp". Biều tượng huyền thoại này được tạp chí People xếp trong danh sách năm 1980 của "25 người gây thú vị nhất năm", và tôn ông là "Henry Ford của Nhật Bản". Khi đã nghỉ hưu ông lại bận rộn với công việc của Tổ chức Honda. Ông mất năm 1991. Ông được coi là người mở đầu cho động cơ thế giới.
Con mắt thứ ba có thể nói đến: Con mắt thứ ba - một khái niệm tâm linh. Cuốn sách Tây Tạng huyền bí (The Third Eye) của Lobsang Rampa. Nhãn thông
Cụm từ Tây Tạng huyền bí có thể nói đến: Bản phỏng dịch cuốn sách The Third Eye với tựa đề Tây Tạng huyền bí của Nguyễn Hữu Kiệt. Bản phóng tác Tây Tạng huyền bí của tác giả Nguyên Phong. Tây Tạng, một vương quốc cổ, nay là một vùng đất thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
Lâm nghiệp là ngành sản xuất vật chất độc lập của nền kinh tế quốc dân có chức năng xây dựng rừng, quản lý bảo vệ rừng, khai thác lợi dụng rừng, chế biến lâm sản và phát huy các chức năng phòng hộ văn hóa, xã hội,... của rừng. Khái niệm lâm nghiệp Để đi đến khái niệm về ngành lâm nghiệp, trên thực tế đã có nhiều quan điểm: Quan điểm thứ nhất: Cho rằng lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế quốc dân có chức năng xây dựng và quản lý bảo vệ tài nguyên rừng. Quan điểm thứ hai: Cho rằng lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt không chỉ có chức năng xây dựng, quản lý, bảo vệ rừng mà còn có chức năng khai thác sử dụng rừng. Quan điểm thứ ba: Xuất phát từ thực trạng quản lý ngành lâm nghiệp và đứng trên giác độ khép kín của quá trình tái sản xuất thì lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất ngoài chức năng xây dựng rừng, quản lý bảo vệ rừng, khai thác vận chuyển và chế biến lâm sản. Lịch sử Ngay từ buổi đầu của lịch sử, con người đã lấy từ rừng các thức ăn, chất đốt, vật liệu phục vụ cuộc sống; rừng được coi là cái nôi sinh ra và là môi trường sống của con người. Đến thế kỷ 17, hệ thống quản lý rừng được ra đời tại châu Âu, đánh dấu một xu hướng mới trong việc khai thác tái tạo tài nguyên rừng. Khai thác, lợi dụng và tái tạo tài nguyên rừng ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội luôn đòi hỏi phải có hệ thống quản lý rừng thích hợp. Hai quá trình này phát triển ngày càng cao và dần dần hình thành ngành lâm nghiệp. Ngành lâm nghiệp ra đời ngày càng có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Như vậy lâm nghiệp ra đời xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của xã hội đối với rừng và vai trò của xã hội đối với rừng thông qua chức năng quản lý, gìn giữ và phát triển rừng. Vai trò của các loại rừng Lâm nghiệp là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt. Nói đến lâm nghiệp trước hết phải nói đến vai trò của rừng trong nền kinh tế quốc dân và trong đời sống xã hội. Trong luật Bảo vệ và phát triển rừng có ghi "Rừng là tài nguyên quý báu của đất nước, có khả năng tái tạo là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, gắn liền với đời sống của nhân dân với sự sống còn của dân tộc". Có thể tóm tắt một số vai trò chủ yếu sau: Vai trò cung cấp Cung cấp lâm sản, đặc sản cây công nghiệp phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội, trước hết là gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Cung cấp thực vật là đặc sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nông nghiệp, xây dựng cơ bản. Cung cấp các dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho con người. Cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực phẩm... phục vụ nhu cầu đời sống xã hội. Vai trò phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái Phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ nước, điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện. Phòng hộ ven biển, chắn sóng, chắn gió, chống cát bay, chống sự xâm nhập của nước mặn...bảo vệ đồng ruộng và khu dân cư ven biển... Phòng hộ khu công nghiệp và khu đô thị, làm sạch không khí, tăng dưỡng khí, giảm thiểu tiếng ồn, điều hòa khí hậu tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển. Phòng hộ đồng ruộng và khu dân cư: giữ nước, cố định phù sa, hạn chế lũ lụt và hạn hán, tăng độ ẩm cho đất... Bảo vệ khu di tích lịch sử, nâng cao giá trị cảnh quan và du lịch... Rừng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là nơi dự trữ sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm. Vai trò xã hội Là nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc miền núi, là cơ sở quan trọng
Đặng Trần Thường (chữ Hán: 鄧陳常: 1759-1813) là công thần khai quốc nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Sự nghiệp Đặng Trần Thường người huyện Chương Đức (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Nội); đậu Sinh đồ về cuối đời nhà Lê. Đặng Trần Thường là con cháu của Trần Tuân, do nổi loạn chống nhà Lê nên phải đổi sang họ Đặng Trần khi tới định cư tại thôn Lương Xá xưa (nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ). Đời nhà Lê, dòng họ Đặng Trần lập được nhiều công tích lớn nên rất được trọng dụng. Thuở nhỏ, Đặng Trần Thường được cha cho học văn từ năm lên 9 tuổi. Tuy nhiên, vốn tính hiếu động, Đặng Trần Thường lại thích luyện tập võ nghệ, trận giả cùng chúng bạn và... nghịch những trò không giống ai. Tương truyền, hồi nhỏ, có lần cậu bé Thường vào nghịch trong một đền thờ thổ địa. Làng ấy năm đó bỗng nhiên có động, nhờ thầy bói xem. Thầy bói nói rằng, có một người đã vào đuổi thần thổ địa đi nên phải làm lễ mời thần về lại. Hỏi ra, mới biết tên người đã cả gan đuổi thần đi là Đặng Trần Thường. Vì chuyện này, cụ thân sinh đã trách cứ ông rất nhiều, còn dân làng cứ thì thào với nhau rằng, có lẽ lớn lên, Đặng Trần Thường sẽ rất hiển đạt, vì nào có phải bất kỳ ai cũng làm quỷ thần kinh hãi được đâu. Sáng dạ nên năm 16 tuổi, Đặng Trần Thường đã thi Hương trúng cách vào đệ Tam trường. Nhận rõ thời cuộc và biết rằng chẳng thể làm gì có ích cho đời nếu theo nghiệp bút nghiên, Đặng Trần Thường đã quyết định sẽ lập thân bằng nghề võ và đi khắp thiên hạ kết giao cùng các bậc hào kiệt và trí giả để cùng chờ thời. Trong thâm tâm ông chỉ mong ngóng có một minh quân để theo làm nghiệp lớn, ích nước lợi nhà. Ngay từ trẻ, Đặng Trần Thường đã bộc lộ một tính cách không bằng phẳng. ông có cách hành xử ngạo nghễ, cương cường, bạo ăn, bạo nói của một hiệp sĩ tự nhận thức được năng lực và sứ mệnh khác thường của mình. Với ông, những của cải vật chất thường ngày là phù du, quan trọng là cái đích trị quốc bình thiên hạ cần theo đuổi. Tuy nhiên, sau rất nhiều lận đận và bôn ba, phải dấn thân vào không chỉ một trận chiến ác liệt để "Cần Vương", Đặng Trần Thường đã sớm hiểu ra rằng, cách hành xử dựa vào ngoại bang để khôi phục lại vương triều như của Lê Chiêu Thống sẽ không thể dẫn tới một kết cục tốt đẹp nên ông không cộng tác với ông vua này... Sau khi nhà Lê mất, ông xin ra làm quan với nhà Tây Sơn nhưng không được tiếp nhận nên vào Gia Định, theo giúp Nguyễn Ánh lập nhiều công trạng làm đến chức Tán lý. Là người rất muốn thi thố với đời, lại rất tinh anh, Đặng Trần Thường dĩ nhiên là đã nhìn ra triển vọng mới cho mình trong việc đi theo phò tá cho lực lượng của Nguyễn Ánh. Vua Gia Long coi Đặng Trần Thường là "nhân vật anh kiệt ở đất Bắc Hà" và rất trọng dụng ông trong các đợt hành binh giành lấy quyền lực. Năm 1808, Đặng Trần Thường đã được giữ Tổng lý đê chính Bắc Thành. Tháng 8 năm 1809, Đặng Trần Thường được triệu về Phú Xuân để nhận chức Thượng thư rồi mới lại quay ra Bắc Thành thực thi công vụ. Năm 1810, có chiếu triệu ông về kinh đô Phú Xuân làm Thượng thư Bộ Binh. Năm 1813, ông phạm vào tội làm gian sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc, một tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, phải bị bắt giam trong ngục. Triều đình lúc đó đã kết tội án chém đầu nhưng sau đó ông được tha chết. Tuy nhiên, sau đó ít lâu ông bị soi ra tội khác liên quan đến đinh điền và chiếm giữ đầm ao nên tiếp tục bị giam vào ngục, sau bị xử giảo (xử treo cổ). Trả thù Ngô Thì Nhậm Đặng Trần Thường có tài văn học, lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Ngô Thì Nhậm thét bảo Thường: Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác. Đặng Trần Thường hổ thẹn ra về, rồi mang khăn gói vào Nam, phụng sự Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long), làm đến Binh Bộ Thượng thư. Khi thay đổi triều đại, Đặng Trần Thường vì mối tư thù cá nhân trước đó với Ngô Thì Nhậm nên đã cho tẩm thuốc độc vào roi mà đánh Ngô Thì Nhậm. (Theo Việt Nam sử lược và Quốc Triều Chính Biên). Câu đối nổi tiếng của 2 ông: Đặng Trần Thường ra đối: Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Ngô Thì Nhậm đối lại: Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, thế đã thế, thế thời phải thế Đặng Trần Thường giận Ngô Thì Nhậm bèn sai người dùng gậy tẩm thuốc độc đánh Nhậm. Vì thế Nhậm về đến nhà thì chết. Cái chết Sau này, vì làm gian Sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc, tướng của chúa Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình kết án phải tội chém. Nhưng rồi ông lại được tha. Đặng Trần Thường trước có hiềm khích với Lê Chất, nên Chất mới bới những việc sai phạm của Thường như khi ra coi tàu binh ở Bắc Thành, có giấu thuế đầm ao và dinh điền. Thường lại bị bắt giam. Trong ngục, Trần Thường tỏ ý mỉa mai, đến tai đình thần, nên khi kết án, đình thần xử tội giảo. Tương truyền Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài Hàn Vương Tôn Phú bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời nhà Hán.