text
stringlengths 0
512k
|
---|
Lý Văn Phức (chữ Hán: 李文馥, 1785–1849), tự là Lân Chi, hiệu Khắc Trai và Tô Xuyên; là một danh thần triều Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam.
Tiểu sử
Lý Văn Phức sinh ở làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội (nay là phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội).
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho gốc ở thôn Tây Hương, thuộc huyện Long Khê, phủ Chương Thâu, tỉnh Phúc Kiến. Tổ tiên ông từng làm quan nhà Minh, sang làng Hồ Khẩu (Việt Nam) lánh nạn khi quân Mãn Thanh vào xâm chiếm Trung Quốc.
Theo Gia phả họ Lý ở làng Hồ Khẩu, tổ tiên Lý Văn Phức đều là quan võ, mãi đến đời ông nội ông mới theo nghiệp văn, thi đỗ Cử nhân), nhưng "không chịu làm quan với nhà Tây Sơn, ở nhà nuôi mẹ già, gia đình rất là quẫn bách" .
Đến đời cha Lý Văn Phức, ông không đỗ đạt gì, vừa làm nghề thuốc vừa dạy học.
Sinh trưởng trong cảnh nghèo, nên việc học của anh em Lý Văn Phức bị cản trở khá nhiều . Ngoài nghề dạy học ở Cổ Nhuế (Từ Liêm) và Hà Nội, Lý Văn Phức đã phải làm cả nghề tướng số, mặc dù cha ông rất ghét việc dị đoan .
Vì lo kiếm sống, năm 23 tuổi Lý Văn Phức mới đi thi, mãi đến năm 34 tuổi, ông mới thi đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1819) dưới triều vua Gia Long.
Năm Minh Mạng thứ nhất (Canh Thìn, 1820), Lý Văn Phức được bổ làm Hàn lâm viện Biên tu, sung Sử quán. Sau đó, ông lần lượt trải qua các chức vụ: Thiêm sự bộ Lễ, Hiệp lý trấn Quảng Nam kiêm quản cơ Lục Kiên, Tham hiệp dinh Quảng Nam, Hộ bộ Hữu thị lang, Tham Tri, Chủ khảo trường thi Hương Gia Định (1828).
Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), ông đang làm công việc Hộ chính, vì phạm lỗi bị triều đình kết án, nhưng được nhà vua ân xá cho đi hiệu lực ở Tiểu Tây Dương (tức Bengale) để lấy công chuộc tội (1830).
Năm 1831, nhân có Giám sinh Trần Khải, Tri huyện Lý Chấn Thanh và hơn 40 người là người Trung Quốc đi biển bị bão, thuyền bị dạt vào hải phận Việt Nam. Triều đình Minh Mạng sai Lý Văn Phức đưa những người bị nạn ấy về nước .
Năm 1832, ông được khôi phục chức Tư vụ phủ Nội vụ. Nhân có việc, ông được cử đi công cán Lữ Tống (tức đảo Luçon thuộc Philippin).
Năm 1833, triều đình nhà Nguyễn lại phái ông sang Quảng Đông (Trung Quốc). Về nước, ông được thăng làm Chủ sự bộ Binh, hàm Quang lộc tự Thiếu khanh, và được cử sang Tân Gia Ba (tức Singapore).
Tháng 4 (âm lịch) năm 1834, bộ biền tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) là Trần Tử Long đi thuyền binh bị gió bạt vào tỉnh Thanh Hóa, nhà vua lại sai ông đưa họ về nước.
Sau, ông lại sang Áo Môn (tức Ma Cao, khi ấy thuộc Quảng Đông) làm việc công . Về nước, ông được cử làm Lang trung bộ Công, rồi Thự Hữu Tham tri bộ Công, Quyền Thủy sư kinh kỳ.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), Lý Văn Phức được bổ làm Hữu Tham tri bộ Lễ, rồi làm Chánh sứ đi sứ Yên Kinh (tức Bắc Kinh). Nhân các cuộc đi này, ông sáng tác được nhiều tập văn thơ. Tháng 2 (âm lịch) năm 1842, ông về nước. Tổng cộng trong 11 năm (1830-1841), ông đi công cán ra nước ngoài cả thảy 7 lần.
Năm 1843, ông được cử làm Chủ khảo trường thi Hương Nghệ An. Đến khi thuyền nước ngoài đến Đà Nẵng, vì làm việc không khéo, ông bị án xử làm lính. Một thời gian sau, ông được khai phục chức Thị độc.
Năm Tự Đức thứ nhất (1848), thăng ông làm Lang trung, biện lý bộ Lễ.
Năm Kỷ Dậu (1849), Lý Văn Phức mất khi tại chức, hưởng thọ 64 tuổi, được truy tặng Lễ bộ Hữu thị lang.
Tác phẩm
Lý văn Phức để lại một di sản khá đồ sộ bằng chữ Hán và chữ Nôm. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có:
Chữ Hán
Học ngâm tồn thảo, gồm 80 bài thơ viết khi vừa thi đỗ cho đến khi bắt đầu làm quan (1819).
Tây hành thi ký (Ghi chép bằng thơ trong chuyến đi sứ về phía Tây), gồm 45 bài thơ.
Hải hành ngâm (Ngâm trong lúc đi trên biển).
Tây hành kiến văn kỷ lược (lược ghi những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi về phía Tây), gồm những ghi chép trong dịp đi hiệu lực ở vùng biển Tiểu Tây dương năm 1830.
Mân hành tạp vịnh thảo (Tạp vịnh trong chuyến đi đến đất Mân), là tập thơ làm trên đường đi sang đất Mân Việt (Phúc Kiến, Trung Quốc) năm 1831. Trong tập này có bài "Biện di luận", là tác phẩm khá nổi tiếng .
Việt hành tục ngâm (Thơ ngâm tiếp trong chuyến đi Việt Đông).
Đông hành thi tạp lục (Tạp ghi bằng thơ trong chuyến đi về phía Đông), làm trong chuyến đi công cán đến Lữ Tống năm 1832.
Nghĩ Vô Danh công tự thuật phú (Phú tự thuật của ông Vô Danh, tức Lý Văn Phức), viết sau chuyến đi hiệu lực đến Tân Gia Ba (Singapore) năm 1833.
Việt hành ngâm thảo (Thơ ngâm trong chuyến đi Việt Đông)
Tam chi Việt tạp thảo (Tạp ghi trong lần thứ ba đến Việt Đông).
Kinh hải tục ngâm (Thơ ngâm tiếp khi đi trên biển), gồm 110 bài thơ vịnh cảnh, vịnh di tích trong lần đi công cán đến Áo Môn (Ma Cao) năm 1834.
Chu Nguyên tạp vịnh thảo (Bản thảo những bài thơ tạp vinh ở đất Chu Nguyên).
Hoàng hoa tạp vịnh thảo (Bản thảo những bài tạp vịnh trên con đường hoa). Hoàng hoa ý nói con đường đi sứ. Đây là tập thơ gồm 76 bài thơ và 1 bài Ký Nhị thị ngẫu đàm (Cuộc trò chuyện giữa hai họ Thích Ca và Lão Tử).
Sứ trình chí lược thảo (Bản thảo lược ghi trên hành trình đi sứ).
Sứ trình quát yếu biên (Tập sách biên chép tổng quát trên hành trình đi sứ). Cả ba tập sau đều làm trong dịp đi sứ sang Yên Kinh năm 1841.
Ngoài ra, ông còn có một số thơ văn đi sứ soạn chung với các tác giả khác.
Chữ Nôm
Sứ trình tiện lãm khúc (Khúc ngâm nhân quan sát trên hành trình đi sứ), kể về cuộc đi sứ đến Yên Kinh (tức Bắc Kinh) năm 1841.
Chu hồi trở phong thán (Than thở về chyến trở về gặp gió bão), viết theo thể biền ngẫu, làm khi trên đường từ Tân Gia Ba trở về gặp gió bão năm 1834.
Hồi kinh nhật ký (Nhật ký trên đường về kinh)
Tự thuật phú (Phú tự thuật), viết theo thể tứ lục, kể thân thế của mình với mục đích đề cao đạo làm con.
Bát phong lưu truyện (Truyện về người không phong lưu), thơ trường thiên, ý ám chỉ bản thân mình, làm năm 1815.
Phụ châm tiện lãm (Giáo huấn phụ nữ), viết theo thể song thất lục bát.
Nhị thập tứ hiếu diễn ca (Diễn ca 24 chuyện hiếu hạnh), viết theo thể song thất lục bát. Nguyên tác của Quách Cư Nghiệp đời Nguyên.
Ngoài ra ông còn diễn âm một số tác phẩm Trung Quốc thành truyện thơ Nôm:
Tây sương (Mái Tây), dài 1.744 câu lục bát, dựa theo một vở kịch nổi tiếng ở Trung Quốc do Vương Thực Phủ đời Nhà Nguyên viết. Có người cho rằng người diễn Nôm không phải Lý Văn Phức mà là Nguyễn Lê Quang, bạn đồng liêu của ông.
Ngọc Kiều Lê, dài khoảng 2.926 câu lục bát, dựa theo một tiểu thuyết cùng tên ở Trung Quốc.
Cừu Đại Nương Trương Văn Thành diễn nghĩa, thể lục bát, viết theo một tiểu thuyết của Trung Quốc.
Nhị độ mai diễn ca , thể lục bát, viết theo truyện Nhị độ mai của Trung Quốc.
Nhận xét
Trong Đại Nam chính biên liệt truyện:
(Lý) Văn Phúc có tiếng là văn học, làm quan thường bị vấp, rồi lại được khôi phục. Trước sau hơn 30 năm, phần nhiều phải làm việc khó nhọc ở đường biển, sóng gió kinh khủng, mây khói mờ mịt, kinh lịch không chỉ một chỗ nào, thường thấy biểu hiện ở thơ văn vậy .
Trong Từ điển văn học (bộ mới):
Lý Văn Phức là một cây bút nhuần nhuyễn cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ văn ông nghiêng nhiều về những nét đời thường, cả trong miêu tả và cảm xúc. Tuy trong từng tác phẩm, từng thể loại, ông không có những đóng góp thật kiệt xuất...Nhưng có đủ lý do để nói rằng Lý Văn Phức là một tác gia tiêu biểu cho xu hướng tư tưởng và văn chương của giai đoạn nửa đầu thế kỷ 19 .
Chú thích
Sách tham khảo
Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Đại Nam chính biên liệt truyện (bản dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2004, tr. 511-512.
Quốc sử quán triều Nguyễn (Cao Xuân Dục làm Tổng tài), Quốc triều chính biên toát yếu. Nhà xuất bản Văn học, 2002.
Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968, tr. 392.
Vũ Ngọc Phan, truyện "Lý Văn Phức" in trong Vũ Ngọc Phan toàn tập (Tập I). Nhà xuất bản Văn học, 2010.
Trần Hải Yến, mục từ "Lý Văn Phức" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004, tr. 926-928.
Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Quyển Thượng), mục "Lý Văn Phức". Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản, tr. 814-816.
Hoàng Hữu Yên, Văn học thế kỷ 19, mục "Lý Văn Phức". Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2004, tr. 174.
Nguyễn Đổng Chi, "Lý Văn Phức: Cây bút luận chiến ngoại giao cứng cỏi" in trong Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1981.
Nhà thơ Việt Nam thời Nguyễn
Quan lại nhà Nguyễn
Người Việt gốc Hoa |
Naguib Mahfouz (tiếng Ả Rập: نجيب محفوظ Nağīb Maḥfūẓ; 11 tháng 11 năm 1911 – 30 tháng 8 năm 2006) là một nhà văn Ai Cập đoạt giải Nobel Văn học năm 1988. Ông được coi là một trong những nhà văn đương đại đầu tiên của văn học Ả Rập, cùng với Taha Hussein, khám phá các chủ đề về chủ nghĩa hiện sinh. Ông đã xuất bản 34 tiểu thuyết, hơn 350 truyện ngắn, hàng chục kịch bản phim, hàng trăm chuyên mục tạp chí cho các tờ báo Ai Cập, và năm vở kịch trong sự nghiệp 70 năm. Nhiều tác phẩm của ông đã được dựng thành phim Ai Cập và nước ngoài.
Tuổi thơ và giáo dục
Mahfouz sinh ra trong một gia đình Ai Cập theo đạo Hồi thuộc tầng lớp trung lưu ở Cairo cũ vào năm 1911. Ông là con thứ bảy và là con út, có bốn anh trai và hai chị gái, tất cả đều lớn hơn anh nhiều tuổi. (Theo kinh nghiệm, ông lớn lên như là một "đứa con duy nhất". ") Gia đình Mahfouz sống ở hai quận nổi tiếng của Cairo: đầu tiên, ở khu Bayt al-Qadi trong khu phố Gamaleya trong thành phố cũ, từ nơi họ chuyển vào năm 1924 đến Abbaseya, sau đó là một vùng ngoại ô Cairo mới ở phía bắc thành phố cũ, các địa điểm điều đó sẽ cung cấp bối cảnh cho nhiều tác phẩm sau này của Mahfouz. Cha của ông, Abdel-Aziz Ibrahim, người mà Mahfouz mô tả là "cổ hủ", là một công chức, và Mahfouz cuối cùng đã tiếp bước ông vào năm 1934. Mẹ của Mahfouz, Fatimah, là con gái của Mustafa Qasheesha, một người Al-Azhar sheikh, và mặc dù bản thân không biết chữ, đã đưa cậu bé Mahfouz đi du ngoạn nhiều địa điểm văn hóa như Bảo tàng Ai Cập và các Kim tự tháp.
Gia đình Mahfouz là những người Hồi giáo sùng đạo và Mahfouz có một nền giáo dục Hồi giáo nghiêm ngặt. Trong một cuộc phỏng vấn, ông đã giải thích cặn kẽ về bầu không khí tôn giáo nghiêm khắc ở nhà trong thời thơ ấu của mình. Anh ấy nói rằng "Bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng một nghệ sĩ sẽ xuất hiện từ gia đình đó."
Cách mạng Ai Cập năm 1919 có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Mahfouz, mặc dù lúc đó ông mới 7 tuổi. Từ cửa sổ, ông thường nhìn thấy binh lính Anh bắn vào những người biểu tình, đàn ông và phụ nữ. "Bạn có thể nói... rằng điều khiến an ninh thời thơ ấu của tôi rung chuyển nhất là cuộc cách mạng năm 1919," sau này ông nói.
Trong những năm đầu của mình, Mahfouz đọc nhiều và chịu ảnh hưởng của Hafiz Najib, Taha Hussein và Salama Moussa, trí thức Fabian.
Sau khi hoàn thành chương trình trung học, năm 1930, Mahfouz được nhận vào Đại học Ai Cập (nay là Đại học Cairo), nơi ông học triết học, tốt nghiệp năm 1934. Đến năm 1936, sau một năm làm bằng Thạc sĩ triết học, ông quyết định ngừng việc học và trở thành một nhà văn chuyên nghiệp. Mahfouz sau đó làm phóng viên cho al-Risala, và đóng góp truyện ngắn cho Al-Hilal và Al-Ahram.
Phục vụ trong cơ quan công quyền
Sau khi nhận bằng cử nhân Triết học tại Đại học Cairo năm 1934, Mahfouz gia nhập ngành dân sự Ai Cập, nơi ông tiếp tục làm việc ở nhiều vị trí và bộ khác nhau cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1971. Trước tiên, ông làm thư ký tại Đại học Cairo, sau đó, vào năm 1938, tại Bộ Tài nguyên Hồi giáo (Awqaf) với tư cách thư ký quốc hội cho Bộ trưởng Tài trợ Hồi giáo. Năm 1945, ông yêu cầu chuyển đến thư viện Lăng al-Ghuri, nơi ông phỏng vấn những cư dân trong khu phố thời thơ ấu của mình như một phần của "Dự án cho vay tốt". Trong những năm 1950, ông làm Giám đốc Kiểm duyệt của Cục Nghệ thuật, Giám đốc Quỹ Hỗ trợ Điện ảnh, và cuối cùng là cố vấn cho Bộ Văn hóa.
Sự nghiệp viết văn
Mahfouz đã xuất bản 34 tiểu thuyết, hơn 350 truyện ngắn, hàng chục kịch bản phim và năm vở kịch trong suốt 70 năm sự nghiệp. Có thể là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, The Cairo Trilogy, miêu tả cuộc sống của ba thế hệ trong các gia đình khác nhau ở Cairo từ Thế chiến thứ nhất cho đến sau cuộc đảo chính quân sự năm 1952 lật đổ Vua Farouk. Ông là thành viên hội đồng quản trị của nhà xuất bản Dar el-Ma'aref. Nhiều tiểu thuyết của ông đã được đăng nhiều kỳ trên Al-Ahram, và các bài viết của ông cũng xuất hiện trên chuyên mục hàng tuần của ông, "Point of View". Trước giải Nobel, chỉ có một số tiểu thuyết của ông xuất hiện ở phương Tây.
Phong cách và chủ đề
Hầu hết các tác phẩm đầu tiên của Mahfouz đều lấy bối cảnh ở Cairo. Abath Al-Aqdar (Mockery of the Fates) (1939), Rhadopis (1943), và Kifah Tibah (Cuộc đấu tranh của Thebes) (1944) là những tiểu thuyết lịch sử được viết như một phần của dự án 30 tiểu thuyết lớn hơn chưa hoàn thành. Lấy cảm hứng từ Ngài Walter Scott (1771–1832), Mahfouz đã lên kế hoạch đưa toàn bộ lịch sử Ai Cập vào một loạt sách. Tuy nhiên, sau tập thứ ba, sự quan tâm của ông chuyển sang các bối cảnh và các vấn đề hiện tại, cũng như tác động tâm lý của sự thay đổi xã hội đối với những người bình thường.
Văn xuôi của Mahfouz có đặc điểm là diễn đạt thẳng thừng các ý tưởng của ông. Các tác phẩm của ông bao gồm một loạt các chủ đề, bao gồm cả những chủ đề gây tranh cãi và cấm kỵ như chủ nghĩa xã hội, đồng tính luyến ái và Chúa. Một số tác phẩm viết về một số chủ đề này bị cấm ở Ai Cập.
Các tác phẩm của Mahfouz thường đề cập đến sự phát triển của Ai Cập trong thế kỷ 20, đồng thời kết hợp những ảnh hưởng văn hóa và tri thức từ cả Đông và Tây. Việc tiếp xúc với văn học nước ngoài của chính ông bắt đầu từ khi còn trẻ với sự say mê nhiệt tình của truyện trinh thám phương Tây, tác phẩm kinh điển của Nga và các nhà văn hiện đại như Marcel Proust, Franz Kafka và James Joyce. Các câu chuyện của Mahfouz hầu như luôn lấy bối cảnh ở những khu đô thị đông dân cư của Cairo, nơi các nhân vật của ông, thường là những người bình thường, cố gắng đương đầu với sự hiện đại hóa của xã hội và những cám dỗ của các giá trị phương Tây.
Tác phẩm trung tâm của Mahfouz trong những năm 1950 là Bộ ba Cairo, mà ông đã hoàn thành trước Cách mạng tháng Bảy. Các cuốn tiểu thuyết được đặt tên với các tên đường Palace Walk, Palace of Desire và Sugar Street. Mahfouz đặt câu chuyện trong các phần của Cairo, nơi ông lớn lên. Tiểu thuyết mô tả cuộc sống của tộc trưởng el-Sayyed Ahmed Abdel Gawad và gia đình ông qua ba thế hệ, từ Thế chiến I đến những năm 1950, khi Vua Farouk I bị lật đổ. Mahfouz đã ngừng viết vài năm sau khi hoàn thành bộ ba tác phẩm trên.
Thất vọng với chế độ Nasser, mà đã lật đổ chế độ quân chủ vào năm 1952, ông bắt đầu xuất bản trở lại vào năm 1959, với hàng loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, báo chí, hồi ký, tiểu luận và kịch bản. Ông tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm 1998 rằng ông “từ lâu cảm thấy rằng Nasser là một trong những nhà lãnh đạo chính trị vĩ đại nhất trong lịch sử hiện đại. Tôi chỉ bắt đầu đánh giá cao Nasser sau khi ông ấy quốc hữu hóa kênh đào Suez. "
Cuốn tiểu thuyết năm 1966 của ông Tharthara Fawq Al-Nīl (Adrift on the Nile) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Sau đó nó được dựng thành phim có tên Chitchat trên sông Nile trong thời kỳ Anwar al-Sadat. Truyện phê phán sự suy đồi của xã hội Ai Cập thời Nasser. Nó đã bị Sadat cấm để tránh kích động những người Ai Cập vẫn yêu mến cựu tổng thống Nasser. Bản sao của cuốn sách bị cấm này rất khó tìm thấy trước cuối những năm 1990.
Những đứa trẻ của Gebelawi (1959, còn được gọi là Những đứa trẻ trong thung lũng) một trong những tác phẩm được biết đến nhiều nhất của Mahfouz, khắc họa tộc trưởng Gebelaawi và những đứa con của ông, những người Ai Cập bình thường sống cuộc sống của Cain và Abel, Moses, Jesus và Mohammed. Gebelawi xây một dinh thự trong ốc đảo giữa sa mạc cằn cỗi; gia sản của ông trở thành cảnh của mối thù gia tộc kéo dài qua nhiều thế hệ. "Bất cứ khi nào ai đó chán nản, đau khổ hay nhục nhã, anh ta chỉ vào ngôi biệt thự ở đầu hẻm cuối hẻm mở ra sa mạc, và buồn bã nói: 'Đó là nhà của tổ tiên chúng tôi, chúng tôi đều là con của ông ấy, và chúng tôi có quyền đối với tài sản của mình. Tại sao chúng ta chết đói? Chúng ta đã làm gì? '" Cuốn sách bị cấm trên toàn thế giới Ả Rập ngoại trừ Liban cho đến năm 2006 khi nó được xuất bản lần đầu tiên ở Ai Cập. Tác phẩm đã bị cấm vì bị cáo buộc báng bổ thông qua miêu tả ngụ ngôn về Chúa và các đức tin độc thần của người Áp-ra-ham của Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo.
Vào những năm 1960, Mahfouz đã phát triển thêm chủ đề rằng nhân loại đang ngày càng rời xa Chúa trong các tiểu thuyết hiện sinh của ông. Trong The Thief and the Dogs (1961), ông đã miêu tả số phận của một tên trộm theo chủ nghĩa Marx đã được ra tù và lên kế hoạch trả thù.
Trong những năm 1960 và 1970, Mahfouz bắt đầu xây dựng tiểu thuyết của mình một cách tự do hơn và thường sử dụng độc thoại nội tâm. Trong Miramar (1967), ông đã sử dụng một dạng nhiều câu chuyện kể ngôi thứ nhất. Bốn người kể chuyện, trong số đó có một người theo chủ nghĩa xã hội và một người cơ hội Nasserite, đại diện cho các quan điểm chính trị khác nhau. Ở trung tâm của câu chuyện là một cô gái đầy tớ hấp dẫn. Trong Arabian Nights và Ngày (1981) và trong Hành trình của Ibn Fatouma (1983) ông đã vẽ trên tường thuật Ả Rập truyền thống như subtexts. Akhenaten: Dweller in Truth (1985) đề cập đến xung đột giữa sự thật tôn giáo cũ và mới.
Nhiều tiểu thuyết của ông lần đầu tiên được xuất bản dưới dạng nhiều kỳ, bao gồm Children of Gebelawi và Midaq Alley cũng được chuyển thể thành phim Mexico với sự tham gia của Salma Hayek có tên El callejón de los milagros.
Ảnh hưởng chính trị
Hầu hết các bài viết của Mahfouz chủ yếu đề cập đến chính trị, một sự thật mà ông thừa nhận: “Trong tất cả các bài viết của tôi, bạn sẽ tìm thấy chính trị. Bạn có thể tìm thấy một câu chuyện bỏ qua tình yêu hoặc bất kỳ chủ đề nào khác, nhưng không phải chính trị; nó là trục tư duy của chúng ta ".
Ông tán thành chủ nghĩa dân tộc của Ai Cập trong nhiều tác phẩm của mình và bày tỏ thiện cảm với Đảng Wafd thời hậu Thế chiến. Ông cũng bị thu hút bởi những lý tưởng xã hội chủ nghĩa và dân chủ ngay từ khi còn trẻ. Ảnh hưởng của lý tưởng xã hội chủ nghĩa được phản ánh mạnh mẽ trong hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Al-Khalili và New Cairo, cũng như nhiều tác phẩm sau này của ông. Song song với sự đồng cảm của ông đối với chủ nghĩa xã hội và dân chủ là sự ác cảm của ông đối với chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo.
Thời trẻ, Mahfouz từng quen biết Sayyid Qutb khi Qutb tỏ ra quan tâm đến phê bình văn học hơn là chủ nghĩa chính thống Hồi giáo; Qutb sau đó đã trở thành một người có ảnh hưởng đáng kể đối với Tổ chức Anh em Hồi giáo. Vào giữa những năm 1940, Qutb là một trong những nhà phê bình đầu tiên công nhận tài năng của Mahfouz, và đến những năm 1960, gần cuối đời Qutb, Mahfouz thậm chí còn đến thăm ông trong bệnh viện. Nhưng sau đó, trong cuốn tiểu thuyết bán tự truyện Mirrors, Mahfouz đã vẽ một bức chân dung tiêu cực về Qutb. Ông vỡ mộng với cuộc cách mạng năm 1952 và thất bại của Ai Cập trong Chiến tranh sáu ngày năm 1967. Ông đã ủng hộ các nguyên tắc của cuộc cách mạng, nhưng trở nên thất vọng, nói rằng các thực hành không phù hợp với lý tưởng ban đầu.
Các tác phẩm của Mahfouz đã ảnh hưởng đến một thế hệ luật sư Ai Cập mới, bao gồm Nabil Mounir và Reda Aslan.
Đón nhận
Các tác phẩm dịch của Mahfouz nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình Mỹ:
"Những con hẻm, những ngôi nhà, cung điện và nhà thờ Hồi giáo và những người sống giữa chúng được gợi lên một cách sống động trong tác phẩm của Mahfouz cũng như những đường phố ở London được Dickens gợi lên." - Newsweek
"Xuyên suốt tiểu thuyết của Naguib Mahfouz có một ý nghĩa ẩn dụ lan tỏa, về một nghệ sĩ văn học đang sử dụng tiểu thuyết của mình để nói trực tiếp và rõ ràng về tình trạng của đất nước mình. Tác phẩm của anh ấy thấm đẫm tình yêu đối với đất nước và con người Ai Cập, nhưng cũng vô cùng trung thực và không ủy mị. " - Bưu điện Washington
"Tác phẩm của Mahfouz mang một sắc thái mới mẻ và trữ tình đầy ám ảnh. Giải Nobel thừa nhận tầm quan trọng phổ quát của tiểu thuyết [của ông]. " - Thời báo Los Angeles
"Ông Mahfouz thể hiện bản chất của những gì đã làm cho con người ở Cairo bầm dập, hung hãn và hỗn loạn." - The Economist
Giải Nobel Văn học
Mahfouz được trao giải Nobel Văn học năm 1988, là nhà văn Ả Rập duy nhất giành được giải thưởng này. Ngay sau khi giành được giải thưởng, Mahfouz đã nói:
Bức thư Thụy Điển gửi Mahfouz ca ngợi "các tác phẩm phong phú và phức tạp" của ông:
Vì đã cao tuổi, việc đi đến Thụy Điển khó khăn nên Mahfouz đã không tham dự lễ trao giải.
Tham gia vào chính trị
Mahfouz không thu mình trước những tranh cãi bên ngoài công việc của mình. Do hậu quả của việc ông ủng hộ hiệp ước hòa bình Trại David với Israel vào năm 1978, sách của ông đã bị cấm ở nhiều nước Ả Rập cho đến sau khi ông đoạt giải Nobel. Giống như nhiều nhà văn và trí thức Ai Cập, Mahfouz nằm trong "danh sách tử hình" của những người theo chủ nghĩa chính thống Hồi giáo.
Ông bênh vực nhà văn Anh-Ấn Độ Salman Rushdie sau khi Ayatollah Ruhollah Khomeini lên án Rushdie và tuyên án tử hình trong một fatwa năm 1989, nhưng cũng chỉ trích cuốn tiểu thuyết Rushdie của The Satanic Verses là "xúc phạm" đối với đạo Hồi. Mahfouz tin vào quyền tự do ngôn luận, và mặc dù cá nhân ông không đồng ý với việc làm của Rushdie, ông đã lên tiếng phản đối việc fatwa kết án tử hình Rushdie vì điều đó.
Năm 1989, sau khi fatwa của Ayatollah Khomeini của kêu gọi Rushdie và nhà xuất bản của ông bị giết, Mahfouz gọi Khomeini một kẻ khủng bố. Ngay sau đó, Mahfouz đã cùng với 80 trí thức khác tuyên bố rằng "không có sự báng bổ nào làm tổn hại đến Hồi giáo và những người theo đạo Hồi nhiều như lời kêu gọi sát hại một nhà văn."
Nỗ lực ám sát
Sự xuất hiện của The Satanic Verses đã làm sống lại những tranh cãi xung quanh cuốn tiểu thuyết Children of Gebelawi của Mahfouz. Những lời đe dọa tử thần chống lại Mahfouz theo sau, bao gồm cả một từ "cảnh sát mù", Omar Abdul-Rahman gốc Ai Cập. Mahfouz được cảnh sát bảo vệ, nhưng vào năm 1994, một kẻ cực đoan đã tấn công tiểu thuyết gia 82 tuổi bằng cách đâm vào cổ ông bên ngoài nhà của ông ở Cairo.
Ông sống sót, nhưng vĩnh viễn bị ảnh hưởng do tổn thương dây thần kinh của chi trên bên phải. Sau sự cố, Mahfouz không thể viết quá vài phút mỗi ngày và do đó ngày càng ít tác phẩm hơn. Sau đó, ông sống dưới sự bảo vệ thường xuyên của vệ sĩ. Cuối cùng, vào đầu năm 2006, cuốn tiểu thuyết được xuất bản tại Ai Cập với lời tựa do Ahmad Kamal Aboul-Magd viết. Sau những lời đe dọa, Mahfouz ở lại Cairo với luật sư của mình, Nabil Mounir Habib. Mahfouz và Mounir sẽ dành phần lớn thời gian trong văn phòng của Mounir; Mahfouz đã sử dụng thư viện của Mounir làm tài liệu tham khảo cho hầu hết các cuốn sách của mình. Mahfouz ở với Mounir cho đến khi ông qua đời.
Đời tư
Mahfouz vẫn độc thân cho đến năm 43 tuổi vì ông tin rằng, với vô số hạn chế và hạn chế, hôn nhân sẽ cản trở tương lai văn học của ông. "Tôi sợ hôn nhân... đặc biệt là khi tôi thấy các anh chị em của mình bận rộn với các sự kiện xã hội vì nó. Lúc thì đi thăm người ta, sau đó lại mời người ta đến. Tôi có ấn tượng rằng cuộc sống hôn nhân sẽ chiếm hết thời gian của tôi. Tôi thấy mình sẽ ngập trong những chuyến thăm và tiệc tùng. Không có tự do. "
Tuy nhiên, vào năm 1954, ông lặng lẽ kết hôn với một phụ nữ Chính thống giáo Coptic từ Alexandria, Atiyyatallah Ibrahim, và ông có hai con gái, Fatima và Umm Kalthum. Hai vợ chồng ban đầu sống trên một ngôi nhà thuyền ở khu vực Agouza của Cairo trên bờ Tây sông Nile, sau đó chuyển đến một căn hộ ven sông trong cùng khu vực. Mahfouz tránh tiếp xúc với công chúng, đặc biệt là những câu hỏi về cuộc sống riêng tư của mình, điều này có thể trở thành "một chủ đề ngớ ngẩn trong các tạp chí và chương trình phát thanh".
Tác phẩm
Bản dịch sang tiếng Ả Rập tác phẩm Ancient Egypt (1932) مصر القديمة của của James Baikie
Whisper of Madness (Tiếng thì thầm cuồng dại, 1938) همس الجنون tập truyện ngắn
Mockery of the Fates (Số phận trớ trêu, 1939) عبث الأقدار. His first full-length novel, translated title in English Khufu's Wisdom. tiểu thuyết
Rhadopis of Nubia (1943) رادوبيس
The Struggle of Thebes (1944) كفاح طيبة
Cairo Modern (1945) القاهرة الجديدة
Khan al-Khalili (1945)خان الخليلي
Midaq Alley (1947) زقاق المدق
The Mirage (1948) السراب
The Beginning and the End (1950) بداية ونهاية
Palace Walk (Giữa những lâu đài, 1956) بين القصرين (Cairo Trilogy, Part 1)
Palace of Desire (Chính quyền bền vững, 1957) قصر الشوق (Cairo Trilogy, Part 2)
Sugar Street (Ngôi nhà em yêu, 1957) السكرية (Cairo Trilogy, Part 3)
Children of Gebelawi (1959) أولاد حارتنا
The Thief and the Dogs (1961) اللص والكلاب
Quail and Autumn (Chim cút mùa thu, 1962) السمان والخريف tiểu thuyết
God's World (1962) دنيا الله
Zaabalawi (1963)زعبلاوي
The Search (Ánh sáng của Thượng đế, 1964) الطريق tiểu thuyết
The Beggar (1965) الشحاذ
Adrift on the Nile (Tiếng huyên náo trên dòng sông Nil, 1966) ثرثرة فوق النيل tiểu thuyết
Miramar (Tấm gương, 1967) ميرامار tiểu thuyết
The Pub of the Black Cat (1969) خمارة القط الأسود
A story without a beginning or an ending (1971) حكاية بلا بداية ولا نهاية
The Honeymoon (1971) شهر العسل
Mirrors (1972) المرايا
Love under the rain (Tình yêu trong mưa, 1973) الحب تحت المطر tiểu thuyết
The Crime (1973) الجريمة
al-Karnak (1974) الكرنك
Stories from Our Neighbourhood (حكايات حارتنا (1975
Respected Sir (1975) حضرة المحترم
The Harafish (Anh hùng ca Harafish, 1977) ملحمة الحرافيش sử thi
Love above the Pyramid Plateau (1979) الحب فوق هضبة الهرم
The Devil Preaches (1979) الشيطان يعظ
Love and the Veil (1980) عصر الحب
Arabian Nights and Days (1981) ليالي ألف ليلة
Wedding Song (1981) أفراح القبة
One hour remains (1982) الباقي من الزمن ساعة
The Journey of Ibn Fattouma (1983) رحلة ابن فطومة
Akhenaten, Dweller in Truth (1985) العائش فى الحقيقة
The Day the Leader was Killed (1985) يوم مقتل الزعيم
The Hunger (Al-Go'a) (1986) الجوع
Morning and Evening Talk (1987) حديث الصباح والمساء
Fountain and Tomb (1988)
Echoes of an Autobiography (1994)
Dreams of the Rehabilitation Period (2004) أحلام فترة النقاهة
The Seventh Heaven (2005) |
Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 (hay Cúp bóng đá thế giới 2010, tiếng Anh: 2010 FIFA World Cup, tiếng Afrikaans: FIFA Sokker-Wêreldbekertoernooi in 2010) được tổ chức tại Nam Phi. Đây là giải vô địch bóng đá thế giới lần thứ 19 do FIFA tổ chức và là lần đầu tiên diễn ra ở châu Phi. Giải diễn ra trên các sân vận động của Nam Phi từ ngày 11 tháng 6 và kết thúc với trận chung kết trên sân vận động Soccer City tại Johannesburg vào ngày 11 tháng 7 năm 2010. Tây Ban Nha lần đầu tiên giành chức vô địch sau trận chung kết có thi đấu hiệp phụ và trở thành đội vô địch ghi ít bàn thắng nhất (8 bàn), đồng thời trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên đăng quang ở ngoài lục địa. Còn Ý trở thành đội đương kim vô địch thứ tư bị loại ngay từ vòng bảng (sau lần đầu tiên vào năm 1950 cùng với hai đội bóng khác là Brasil 1966 và Pháp 2002). Ngoài ra, Nam Phi trở thành đội chủ nhà đầu tiên không vượt qua được vòng bảng của một kỳ World Cup.
Nếu tính cả vòng loại, kỳ World Cup lần này có sự tham gia tranh tài của 204 đội tuyển quốc gia trong số 208 thành viên của FIFA. Đây là sự kiện thể thao quy tụ được nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ nhất gửi đại diện tham gia cùng với Thế vận hội Mùa hè 2008.
Giành quyền đăng cai
Sau khi Nam Phi thất bại trong cuộc đua giành quyền đăng cai World Cup 2006, FIFA ra quyết định World Cup 2010 sẽ được tổ chức ở châu Phi và muốn thực hiện chính sách sáu liên đoàn châu lục thành viên sẽ lần lượt xoay vòng tổ chức vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới. Tuy nhiên chính sách này đã bị từ bỏ vào năm 2007.
FIFA đã nhận được bốn hồ sơ xin đăng cai từ năm quốc gia thuộc "lục địa đen": Nam Phi, Maroc, Ai Cập cùng hồ sơ xin đồng đăng cai của Tunisia và Libya.
Nhưng theo quyết định của Ủy ban điều hành của FIFA về việc không chấp nhận hồ sơ đồng đăng cai, Tunisia đã rút lui. Ủy ban cũng không chấp nhận hồ sơ Libya xin đăng cai riêng do thiếu những điều kiện cần thiết.
Quốc gia giành quyền đăng cai World Cup 2010 được chủ tịch FIFA, Sepp Blatter, công bố vào ngày 15 tháng 5 năm 2004 tại Zurich. Nam Phi giành chiến thắng ngay trong vòng bỏ phiếu đầu tiên khi có được 14 phiếu bầu, Maroc được 10 phiếu còn Ai Cập không giành được bất kỳ lá phiếu nào.
Vòng loại
Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2010 chính thức khởi tranh ngày 25 tháng 8 năm 2007 và kết thúc ngày 18 tháng 11 năm 2009. Bên cạnh đội chủ nhà (Nam Phi) được vào thẳng vòng chung kết, 203 quốc gia và vùng lãnh thổ khác phải tham dự vòng loại để chọn ra 31 đội được phân bổ theo sáu liên đoàn châu lục gồm:
Châu Âu (UEFA): 53 đội chọn lấy 13 đội (tỉ lệ 1/4.07)
Châu Phi (CAF): 53 đội chọn lấy 5 đội (không kể chủ nhà Nam Phi) (tỉ lệ 1/10,6)
Châu Á (AFC): 43 đội chọn lấy 4 hoặc 5 đội (đấu vé vớt với OFC) (tỉ lệ 1/10,75)
Châu Đại dương (OFC): 9 đội chọn lấy 0 hoặc 1 đội (đấu vé vớt với AFC); kết quả được New Zealand (tỉ lệ 1/9)
Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF): 35 đội chọn lấy 3 hoặc 4 đội (đấu vé vớt với CONMEBOL) (tỉ lệ 1/8,75)
Nam Mỹ (CONMEBOL): 10 đội chọn lấy 4 hoặc 5 đội (đấu vé vớt với CONCACAF). Kết quả Uruguay đoạt vé vớt (tỉ lệ 1/2,5).
Các đội giành quyền vào vòng chung kết
Dưới đây là danh sách các đội giành quyền tham dự vòng chung kết.
AFC (4)
(20)
(45)
(105)
(47)
CAF (6)
(30)
(19)
(32)
(27)
(21)
(83) (chủ nhà)
CONCACAF (3)
(38)
(17)
(14)
CONMEBOL (5)
(7)
(1)
(18)
(31)
(16)
OFC (1)
(78)
UEFA (13)
(36)
(8)
(9)
(6)
(13)
(5)
(4)
(3)
(15)
(34)
(25)
(2)
(24)
Sân vận động
Ngay từ năm 2005, các nhà tổ chức đã đề cử lên FIFA danh sách 13 địa điểm thi đấu tại Bloemfontein, Cape Town, Durban, Johannesburg (2 sân), Kimberley, Klerksdorp, Nelspruit, Orkney, Polokwane, Port Elizabeth, Pretoria và Rustenburg. Danh sách này đã được xem xét và rút gọn xuống mười sân tại chín thành phố bởi FIFA ngày 17 tháng 3, 2006 (bỏ Kimberley, Klerksdorp và Orkney).
Sân Soccer City với sức chứa 84.490 người được chọn làm sân khai mạc và chung kết giải đấu. Sân Soccer City và sân Ellis Park ở Johannesburg nằm trên độ cao 1.750 mét so với mực nước biển, bốn trong số tám sân còn lại là trên 1.200 mét; sân Mbombela có độ cao 660m, các sân Cape Town, Moses Mabhida và Nelson Mandela Bay nằm gần mực nước biển.
Đại bản doanh các đội
Tiền thưởng và hỗ trợ cho các câu lạc bộ
Tổng số tiền thưởng của FIFA ở giải lần này là 420 triệu đôla, tăng 60% so với giải năm 2006. Trước giải đấu, mỗi đội được nhận một triệu đôla cho công tác chuẩn bị. Trong quá trình thi đấu, mỗi đội được nhận thêm 8 triệu đôla nữa. Cơ chế giải thưởng như sau:
9 triệu đôla - Vòng 2
18 triệu đôla - Tứ kết
20 triệu đôla - Bán kết
24 triệu đôla - Á quân
30 triệu đôla - Vô địch
Lần đầu tiên trong lịch sử các kỳ World Cup, FIFA hỗ trợ tài chính các câu lạc bộ có cầu thủ tham dự vòng chung kết. Tổng số tiền hỗ trợ là 26 triệu€, ước tính vào khoảng 1.000€ cho một cầu thủ cho mỗi ngày thi đấu tại giải.
Đây là kết quả từ thỏa thuận đạt được giữa FIFA và các câu lạc bộ châu Âu để giải thể tổ chức G-14 và họ từ bỏ các vụ kiện bắt đầu tiến hành từ năm 2005, như câu lạc bộ Bỉ Charleroi S.C. vì tuyển thủ người Maroc Abdelmajid Oulmers bị chấn thương trong một trận giao hữu quốc tế năm 2004, hay như câu lạc bộ Anh Newcastle United vì Michael Owen bị chấn thương tại World Cup 2006.
Các nhà tài trợ
Ngoài các đối tác chính thức (Adidas, Coca-Cola, Emirates, Hyundai, Sony và VISA, FIFA đã ký kết thỏa thuận các đối tác tài trợ cụ thể cho World Cup 2010 gồm tám công ty: Budweiser, Castrol, Continental, McDonald's, MTN, Mahindra Satyam (công ty Ấn Độ đầu tiên tài trợ cho một kì World Cup), Seara và Yingli Solar76, tổng số tiền tài trợ là 1,6 tỷ USD.
Khai mạc
Lễ khai mạc bắt đầu vào chiều tối thứ sáu ngày 11 tháng 6 năm 2010, diễn ra trên sân Soccer City với 94.000 chỗ ngồi - sân lớn nhất châu Phi, buổi lễ kéo dài khoảng 30 phút. Chương trình khai mạc được chia làm sáu phần, gồm chủ yếu là những lời ca, điệu nhạc rộn rã từ các ca sĩ nổi tiếng của Nam Phi, Algérie hay Ghana, không có hiệu ứng ánh sáng hoành tráng vì diễn ra buổi chiều địa phương - thành phố Johannesburg.
Chia bảng
Buổi lễ bốc thăm chia bảng diễn ra trang trọng tại Cape Town, Nam Phi ngày 4 tháng 12 năm 2009. Nữ diễn viên, Charlize Theron, và thư ký FIFA Jérôme Valcke tiến hành bốc các lá thăm. 32 đội tuyển được chia thành bốn nhóm. Nhóm 1 là nhóm hạt giống và đội chủ nhà Nam Phi. Nhóm 2 gồm các đội AFC, khu vực CONCACAF và OFC. Nhóm 3 gồm các đội Nam Mỹ và châu Phi không phải là hạt giống. Nhóm 4 gồm các đội châu Âu không phải là hạt giống. Việc chọn các đội hạt giống dựa vào bảng xếp hạng của FIFA vào thời điểm tháng 10 năm 2009.
Đội chủ nhà Nam Phi được xếp tự động vào bảng A. Bảy đội hạt giống khác được phân chia vào các bảng từ B đến H. Mỗi bảng sẽ có một đội của mỗi nhóm. Trừ châu Âu, thể thức bốc thăm đảm bảo để không có cùng hai đội thuộc cùng một liên đoàn rơi vào chung một bảng. Nam Phi sẽ tránh các đội châu Phi ở nhóm 3, còn Argentina và Brasil sẽ tránh các đội Nam Mỹ ở nhóm này. Hai đội châu Phi được bốc ra đầu tiên sẽ vào cùng bảng với Argentina và Brasil.
Trọng tài
Dưới đây là danh sách trọng tài được FIFA lựa chọn để điều hành giải:
AFC
Khalil Al Ghamdi ()
Ravshan Irmatov ()
Subkhiddin Mohd Salleh (Malaysia)
Nishimura Yuichi ()
CAF
Mohamed Benouza ()
Koman Coulibaly ()
Jerome Damon ()
Eddy Maillet ()
CONCACAF
Joel Aguilar ()
Benito Archundia ()
Carlos Batres ()
Marco Antonio Rodríguez ()
OFC
Michael Hester ()
Peter O'Leary ()
CONMEBOL
Carlos Amarilla ()
Héctor Baldassi ()
Jorge Larrionda ()
Pablo Pozo ()
Óscar Ruiz ()
Carlos Simon ()
UEFA
Olegário Benquerença ()
Massimo Busacca ()
Frank De Bleeckere ()
Martin Hansson ()
Viktor Kassai ()
Stephane Lannoy ()
Roberto Rosetti ()
Wolfgang Stark ()
Alberto Undiano Mallenco ()
Howard Webb ()
Danh sách cầu thủ tham dự giải
Mỗi đội tuyển tham gia vòng chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 2010 có quyền đăng ký 23 cầu thủ, trong đó có tối thiểu ba thủ môn. Hạn cuối cùng để nộp danh sách là ngày 1 tháng 6 năm 2010. Trong trường hợp chấn thương vào phút chót, các đội tuyển có thể thay đổi danh sách chậm nhất là vào 24 giờ trước trận đấu khai mạc giải.
Trong 736 cầu thủ tham dự giải, hơn một nửa đang thi đấu tại năm giải vô địch quốc gia mạnh nhất châu Âu; dẫn đầu là FA Premier League của Anh (117 cầu thủ), Bundesliga (Đức) (84 cầu thủ), Serie A (Ý) (80 cầu thủ), La Liga (Tây Ban Nha) (59 cầu thủ) và Ligue 1 (Pháp) (46 cầu thủ). Các đội tuyển Anh, Đức và Ý mang tới Nam Phi một đội hình gồm toàn bộ các cầu thủ đang thi đấu tại giải quốc nội, trong khi ngược lại Nigeria thì toàn bộ các cầu thủ đang thi đấu tại nước ngoài. Tổng cộng, các cầu thủ đang thi đấu tại 52 giải vô địch quốc gia khác nhau. FC Barcelona là câu lạc bộ có nhiều cầu thủ tham dự giải nhất, với 13 cầu thủ, trong đó có bảy người được gọi vào đội tuyển Tây Ban Nha, ngoài ra còn có bảy câu lạc bộ khác cũng cung cấp trên 10 cầu thủ mỗi câu lạc bộ.
Lần đầu tiên trong lịch sử các kỳ World Cup, có ba anh em ruột cùng tham dự với tư cách cầu thủ, khi ba anh em Jerry, Johnny và Wilson Palacios đều nằm trong danh sách 23 cầu thủ của tuyển Honduras.
Vòng chung kết
Vòng bảng
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (GMT+2)
Xếp hạng vòng bảng
Trong trường hợp có hai hay nhiều đội bằng điểm nhau sau khi vòng đấu bảng kết thúc, việc phân định ngôi thứ sẽ dựa trên các tiêu chuẩn sau:
Có hiệu số bàn thắng bại cao nhất trong tất cả các trận đấu của bảng;
Ghi được nhiều bàn thắng nhất trong tất cả các trận đấu của bảng;
Giành được nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp;
Có hiệu số bàn thắng bại cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp;
Ghi được nhiều bàn thắng hơn trong tất cả các trận đối đầu trực tiếp;
Ủy ban tổ chức của FIFA tiến hành bốc thăm.
Bảng A
|}(H) Chủ nhà.
Bảng B
|}
Bảng C
|}
Bảng D
|}
Bảng E
|}
Bảng F
|}
Bảng G
|}
Bảng H
|}
Vòng đấu loại trực tiếp
Sơ đồ khái quát
Vòng 16 đội
Tứ kết
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 được tổ chức thi đấu vào ngày 11 tháng 7 năm 2010 tại sân vận động Soccer City, Johannesburg, Nam Phi. Đội tuyển Tây Ban Nha đánh bại tuyển Hà Lan với tỉ số 1–0 và giành chức vô địch World Cup đầu tiên trong lịch sử của mình. Trận đấu phải thi đấu thêm hai hiệp phụ sau khi hai đội hòa nhau với tỉ số 0–0 sau hai hiệp chính, và tiền vệ của đội Tây Ban Nha Andrés Iniesta đã ghi bàn quyết định trong hiệp phụ thứ hai để xác định đội chiến thắng.
Chung kết giải vô địch bóng đá thế giới 2010 đã lập một kỷ lục mới về số thẻ phạt được rút ra trong một trận chung kết World Cup với tổng cộng 14 thẻ phạt, trong đó có một thẻ đỏ dành cho John Heitinga của Hà Lan sau khi nhận hai thẻ vàng. Ngoài ra còn có thể nhắc đến cú đá bằng gầm giày nguy hiểm của Nigel de Jong vào ngực của Xabi Alonso ở giữa hiệp một mà chỉ bị phạt một thẻ vàng.
Diễn biến trận đấu, tuyển Tây Ban Nha và Hà Lan đều có một số cơ hội ghi bàn, nhưng Tây Ban Nha với thế trận lấn lướt nên có nhiều cơ hội hơn, đáng chú ý nhất của Hà Lan là tình huống ở phút thứ 60 của trận đấu khi Arjen Robben thoát xuống sau đường chuyền của Wesley Sneijder và đối mặt với thủ môn Iker Casillas, tuy nhiên pha dứt điểm của tiền đạo người Hà Lan không thắng được thủ thành Tây Ban Nha.. Về phần Tây Ban Nha, Sergio Ramos đã bỏ lỡ cơ hội đánh đầu cận thành trong tư thế trống trải. Bàn thắng quyết định của trận đấu được ghi ở phút thứ 116 ở hiệp phụ thứ hai từ một cú volley nửa nảy của Andrés Iniesta sau đường chuyển của tiền vệ trẻ Cesc Fàbregas.
Vô địch
Giải thưởng
Quả bóng vàng
Giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải, do giới truyền thông bầu chọn (được trao lần đầu vào năm 1982); Quả bóng bạc và Quả bóng đồng cho hai cầu thủ xếp thứ hai và thứ ba về số phiếu trong cuộc bầu chọn này.
Chiếc giày vàng
Giải Chiếc giày vàng cho vua phá lưới của giải. Chiếc giày bạc và Chiếc giày đồng cho hai cầu thủ về nhì và về ba. Kết thúc giải có bốn cầu thủ cùng ghi được năm bàn thắng, nhưng Thomas Müller của đội tuyển Đức được ghi nhận có số đường chuyền thành bàn nhiều hơn đã giành giải cao nhất. David Villa của Tây Ban Nha và Wesley Sneijder của Hà Lan vượt Diego Forlán của Uruguay do ghi năm bàn trong tổng số thời gian thi đấu ít hơn.
Đội hình tiêu biểu
FIFA/FIFPro World XI
Đội hình tiêu biểu của thế giới
Đội hình tiêu biểu ở giải lần này được bầu chọn trực tuyến (theo sơ đồ chiến thuật 4-4-2 cùng huấn luyện viên xuất sắc nhất).
Trong cuộc bầu chọn này, tuyển Tây Ban Nha chiếm ưu thế tuyệt đối với sáu thành viên được chọn (cùng huấn luyện viên trưởng Vicente del Bosque).
Các giải thưởng khác
Cầu thủ ghi bàn
Cầu thủ chạy cánh người Nam Phi Siphiwe Tshabalala là cầu thủ đầu tiên ghi bàn ở giải đấu, bàn thắng mở tỉ số trong trận khai mạc gặp đội tuyển Mexico. Hậu vệ Đan Mạch Daniel Agger là cầu thủ đầu tiên đốt lưới nhà trong trận thua Hà Lan 0-2. Còn tiền đạo Gonzalo Higuaín là cầu thủ đầu tiên lập hat-trick trong trận Argentina thắng Hàn Quốc 4-1, đây là hat-trick thứ 49 trong lịch sử các kỳ World Cup.
Tây Ban Nha lập một kỷ lục World Cup mới khi là đội vô địch ghi được ít bàn thắng nhất với chỉ tám bàn thắng được ghi. Phá vỡ kỷ lục cũ là 11 bàn của Brasil năm 1994, đội Anh năm 1966 và đội Ý năm 1934. Ngoài ra, Tây Ban Nha còn lập hai kỷ lục khác: đội vô địch với ít cầu thủ ghi bàn nhất trong cả giải – ba cầu thủ: David Villa, Andrés Iniesta và Carles Puyol; và đội vô địch để thủng lưới ít bàn nhất - 2 bàn, bằng với thành tích của đội Ý năm 2006 và đội Pháp năm 1998. Tây Ban Nha cũng là đội vô địch World Cup đầu tiên giữ được sạch lưới tại vòng đấu loại trực tiếp.
Có 4 cầu thủ ghi nhiều bàn nhất giải, mỗi cầu thủ ghi được năm bàn. bốn cầu thủ thuộc bốn đội lọt vào Top 4 của giải, mỗi đội đóng góp một cầu thủ. Giành được danh hiệu Chiếc giày vàng là Thomas Müller của đội Đức vì ngoài năm bàn thắng, anh còn có ba đường chuyền thành bàn, trong khi ba cầu thủ còn lại, mỗi cầu thủ chỉ có một đường chuyền thành bàn. Danh hiệu Chiếc giày bạc thuộc về David Villa của Tây Ban Nha, vì tổng số thời gian thi đấu trên sân của anh là 635 phút ít hơn hai đối thủ còn lại. Chiếc giày đồng thuộc về Wesley Sneijder của Hà Lan với 652 phút có mắt thi đấu trên sân. Diego Forlán của Uruguay trượt danh hiệu chiếc giày đồng khi thi đấu nhiều hơn Wesley Sneijder hai phút.
Chỉ có tổng cộng 145 bàn thắng được ghi tại kỳ World Cup lần này, ít nhất kể từ khi giải chuyển sang thể thức thi đấu 64 trận. Đây nối tiếp đà đi xuống về số lượng bàn thắng được ghi từ khi giải chuyển sang thể thức thi đấu này, với 171 bàn thắng được ghi tại World Cup 1998, 161 bàn thắng được ghi tại World Cup 2002 và 147 bàn thắng được ghi tại World Cup 2006.
Đây là danh sách những cầu thủ ghi bàn tại World Cup 2010
5 bàn
Thomas Müller
Wesley Sneijder
David Villa
Diego Forlán
4 bàn
Gonzalo Higuaín
Miroslav Klose
Róbert Vittek
3 bàn
Luís Fabiano
Asamoah Gyan
Landon Donovan
Luis Suárez
2 bàn
Carlos Tevez
Brett Holman
Elano
Robinho
Samuel Eto'o
Lukas Podolski
Honda Keisuke
Javier Hernández
Arjen Robben
Kalu Uche
Tiago
Lee Chung-Yong
Lee Jung-Soo
Andrés Iniesta
1 bàn
Martín Demichelis
Gabriel Heinze
Martín Palermo
Tim Cahill
Juan
Maicon
Jean Beausejour
Mark González
Rodrigo Millar
Nicklas Bendtner
Dennis Rommedahl
Jon Dahl Tomasson
Jermain Defoe
Steven Gerrard
Matthew Upson
Florent Malouda
Cacau
Arne Friedrich
Marcell Jansen
Sami Khedira
Mesut Özil
Kevin-Prince Boateng
Sulley Muntari
Dimitris Salpingidis
Vasilis Torosidis
Daniele De Rossi
Antonio Di Natale
Vincenzo Iaquinta
Fabio Quagliarella
Didier Drogba
Salomon Kalou
Romaric
Yaya Touré
Endō Yasuhito
Okazaki Shinji
Cuauhtémoc Blanco
Rafael Márquez
Klaas-Jan Huntelaar
Dirk Kuyt
Giovanni van Bronckhorst
Robin van Persie
Winston Reid
Shane Smeltz
Yakubu Aiyegbeni
Ji Yun-Nam
Antolín Alcaraz
Cristian Riveros
Enrique Vera
Hugo Almeida
Cristiano Ronaldo
Liédson
Raul Meireles
Simão
Milan Jovanović
Marko Pantelić
Kamil Kopúnek
Valter Birsa
Robert Koren
Zlatan Ljubijankić
Bongani Khumalo
Katlego Mphela
Siphiwe Tshabalala
Park Chu-Young
Park Ji-Sung
Carles Puyol
Gelson Fernandes
Michael Bradley
Clint Dempsey
Edinson Cavani
Álvaro Pereira
Maxi Pereira
An-Byong Jun
phản lưới nhà
Daniel Agger (trong trận gặp Hà Lan)
Park Chu-Young (trong trận gặp Argentina)
Tranh cãi
Các sai sót của trọng tài
Sai lầm của trọng tài cũng là một trong những điểm nóng mà gây nhiều tranh cãi của kì World Cup này. Ở trận vòng 1/8 của hai đội Đức và Anh, trọng tài Jorge Larrionda đã sai lầm khi không công nhận bàn thắng hoàn toàn hợp lệ của Frank Lampard, khi tỉ số chiến thắng đang là 2-1 cho Đức, đây được nhiều người liên tưởng làm cho là sự tương đồng với sai lầm tại trận chung kết World Cup 1966 nhưng trái ngược quan hệ đối tượng 2 đội trong tình huống này và báo chí Đức gọi đây là"Sự trả thù"cho chính thiệt thòi của họ ngay ở Sân vận động Wembley (1923) tại Luân Đôn của chính nước Anh. Trọng tài Howard Webb bỏ qua tình huống Nigel de Jong vào bóng nguy hiểm đạp thẳng vào ngực Xabi Alonso, một pha bóng xứng đáng nhận thẻ đỏ, nhưng ông chỉ tặng De Jong một thẻ vàng. Ngoài ra, ở trận đấu vòng 1/8 giữa Argentina và Mexico, trọng tài người Ý Roberto Rosetti cũng đã công nhận một bàn thắng trong lỗi việt vị rất rõ ràng của Carlos Tévez.
Thống kê
Số đội của mỗi liên đoàn tại mỗi vòng đấu
Đây là lần đầu tiên, một đội của châu Âu vô địch khi giải không được tổ chức trên cựu lục địa.
Bảng xếp hạng các đội tuyển
Ngay sau trận chung kết, FIFA đã công bố bảng xếp hạng các đội tuyển của World Cup 2010. Bảng xếp hạng dựa vào độ tiến sâu vào giải của từng đội, tiếp đến là số điểm ghi được, rồi hiệu số bàn thắng và số bàn thắng ghi được. Điểm số ghi được dựa theo nguyên tắc tính điểm của vòng bảng, nghĩa là 3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho một trận hòa, và 0 điểm cho một trận thua.
Biểu tượng
Linh vật
Linh vật chính thức của World Cup 2010 là con báo hoa mai Zakumi, sinh ngày , được giới thiệu lần đầu ngày 22 tháng 9 năm 2008. Tên của chú được ghép từ "ZA", chữ viết tắt quốc tế của Nam Phi, và "kumi", có nghĩa là số mười trong nhiều thứ tiếng châu Phi. Zakumi gồm hai màu vàng-xanh là màu áo của tuyển Nam Phi.
Ngày sinh của Zakumi trùng với ngày Thanh niên ở Nam Phi. Còn năm 1994 đánh dấu cuộc bầu cử không phân biệt chủng tộc đầu tiên ở quốc gia này. Andries Odendaal thuộc thành phố Cape Town là tác giả thiết kế linh vật.
Khẩu hiệu chính thức của Zakumi là: "Lối chơi của Zakumi là lối chơi Fair Play. - Zakumi's game is Fair Play." Khẩu hiệu xuất hiện trên những bảng quảng cáo điện tử của FIFA Confederations Cup 2009, và World Cup 2010.
Bài hát
FIFA đã chọn bài hát "Waka Waka (This Time For Africa)" do Shakira viết và biểu diễn cùng nhóm nhạc Freshlyground. Ông Sepp Blatter, Chủ tịch FIFA, phát biểu về bài hát:
Bóng thi đấu
Jabulani là quả bóng chính thức được dùng ở các trận đấu tại giải vô địch bóng đá thế giới 2010 do hãng Adidas sản xuất. Bóng được công bố tại Cape Town, Nam Phi vào ngày 4 tháng 12 năm 2009 và đã được phát triển tại Đại học Loughborough, Anh Quốc. Từ "Jabulani" có nghĩa là "Hãy hạnh phúc" hay "Chào mừng" trong tiếng Zulu.
Quả bóng này cũng được sử dụng trong Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2009 ở UAE, và một phiên bản đặc biệt khác của trái bóng, Jabulani Angola, là quả bóng được dùng trong Cúp bóng đá châu Phi 2010. Nó cũng được sử dụng tại Clausura 2010 của giải Argentina cũng như ở MLS 2010 của Mỹ trong màu xanh da trời và màu xanh lá cây, hai màu chủ đạo của các giải đấu này.
Quả bóng được chế tạo bằng cách sử dụng một thiết kế mới, bao gồm 8 miếng ghép (giảm xuống từ 14 miếng ghép trong World Cup 2006) được hàn bằng nhiệt-ngoại quan thay vì khâu bằng chỉ như những quả bóng khác. Đây là những vật thể hình cầu, được đúc từ chất axetat etylen-vinyl và nhựa nhiệt dẻo polyurethan. Bề mặt của quả bóng được kết cấu với các rãnh, một công nghệ mới được phát triển bởi Adidas và được gọi là GripnGroove để nhằm cải thiện khí động học của quả bóng. Việc thiết kế đã nhận được sự quan tâm đáng kể từ các học viện, bằng chứng là quả bóng đã được phát triển trong quan hệ đối tác với các nhà nghiên cứu từ Trường đại học Loughborough, Vương quốc Anh.
Bóng được trang trí bằng bốn hoa văn giống hình tam giác trên nền trắng. Mười một màu sắc khác nhau biểu tượng cho 11 cầu thủ trong một đội bóng và 11 dân tộc của Nam Phi. Jabulani Angola, quả bóng được sử dụng tại Cúp bóng đá châu Phi 2010 tại Angola, có các màu đại diện cho lá cờ của quốc gia chủ nhà gồm màu vàng, đỏ, và màu đen. Đối với trận chung kết được tổ chức tại Johannesburg vào ngày 11 tháng 7, một quả bóng đặc biệt khác sẽ được sử dụng với kết cấu là các tấm bảng vàng, một biến thể đắt giá so với những quả bóng Jabulani thường. Quả bóng đó sẽ được gọi là "Jo'bulani", một lối chơi chữ từ biệt danh của Johannesburg là "Thành phố vàng".
Với những quả bóng được làm tại Trung Quốc, chúng sử dụng ruột làm từ cao su ở Ấn Độ, nhiệt dẻo Pôliurêtan-elastomer từ Đài Loan, axetat etylen-vinyl, đẳng hướng pôliexte / vải cô-tông, keo dán và mực in từ Trung Quốc.
Vuvuzela
Vuvuzela phát ra âm thanh đều đều lớn rất đặc biệt, nhiều loại vuvuzela, được làm ra bởi nhiều nhà sản xuất, có thể thay đổi cường độ và tần số âm thanh phát ra. Cường độ của các kết quả âm thanh phát ra phụ thuộc vào kỹ thuật và lực thổi. Theo truyền thống Nam Phi, lấy cảm hứng từ sừng của con kudu, vuvuzela được sử dụng để triệu tập dân làng xa xôi tới tham dự các cuộc tụ họp cộng đồng. Vuvuzela là một loại đồ vật được sử dụng rất nhiều tại các trận đấu bóng đá ở Nam Phi, và nó đã trở thành một biểu tượng của bóng đá Nam Phi, trong các sân vận động nó phát ra âm thanh to và âm thanh khàn đặc của nó phản ánh sự hứng khởi của những người hâm mộ. Nó đã được sử dụng tại Confederations Cup 2009 và giải vô địch bóng đá thế giới 2010.
Vuvuzela cũng là chủ đề của những tranh cãi. Âm thanh cao độ của nó ở cự ly gần có thể dẫn tới mất thính lực vĩnh viễn cho đôi tai, với một tần suất âm thanh lên tới 120 đêxiben (mức có thể gây đau đớn) tại 1 mét khi thổi. |
Cát lún là hỗn hợp cát và đất sét ướt nước, thường ở vùng Đồng bằng châu thổ. Các hạt cát dính nhau do đất sét ướt, nó hoạt động như một loại keo nửa cứng nửa lỏng. Giữa đất sét có nhiều lực tự nhiên va chạm nhau. Một số là lực đẩy, một số là lực hút.
Phân loại
Cát lún ướt
Cát lún ướt thường gồm cát, hoặc đất sét và muối bị ngập nước. Bề mặt nhìn giống như nền cứng, nhưng khi bạn bước chân vào, cát sẽ hóa lỏng. Cát và nước bị chia tách, để lại một hố cát ướt như một cái bẫy. Ma sát giữa các hạt cát sẽ bị giảm đi rất nhiều và không thể cân bằng với trọng lượng cơ thể và bạn bắt đầu bị chìm xuống. Đúng là càng vùng vẫy bạn sẽ càng chìm xuống sâu hơn tuy nhiên, cát sẽ tiếp tục hoà vào nước, khiến độ nổi của hỗn hợp tăng lên. Nghĩa là thay vì chìm, bạn sẽ mắc lại khi chìm được một nửa thân mình, thậm chí có thể bị đẩy ngược lên đôi chút. Nhưng nếu bạn không thoát khỏi đó sớm, thủy triều có thể dâng lên ngập. Đây mới là thứ đáng sợ của cát lún gây ra chết cho nạn nhân.
Cát lún khô
Cát lún khô lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Rơi vào một vùng cát lún khô có thể gây nguy hiểm chết người.
Cách xử trí khi rơi vào hố cát lún
Khi rơi vào cát lún ướt, bạn hãy bình tĩnh vì khả năng chết đuối trong trường hợp này rất thấp. Lúc này, cố gắng tìm cách cử động bàn chân, hòa tan cát vào nước càng nhiều càng tốt, đồng thời ngả người, dạng chân tay để phân bổ trọng lượng hợp lý hơn. Nếu làm đúng, bạn sẽ thấy cơ thể nổi dần lên.
Còn khi rơi vào hố cát lún khô, bạn sẽ buộc phải tìm cách thoát ra càng nhanh càng tốt. Nếu không may chỉ có một mình, hãy tìm một thứ gì đó để bám lấy, tránh bị hút sâu hơn.
Và nếu tất cả mọi thứ đều không có thì tuyệt đối không vùng vẫy, vì chỉ cần thể tích của bạn giảm, cát sẽ nhảy vào chiếm chỗ, còn bạn thì bị hút nhanh hơn. Hãy giữ cơ thể yên vị để câu kéo thêm thời gian, đợi người đến giúp. |
Giải bóng đá vô địch U-17 Quốc gia (hay Giải bóng đá U-17 Quốc gia) là giải bóng đá được Liên đoàn Bóng đá Việt Nam tổ chức hàng năm dành cho lứa tuổi dưới 17 (trước năm 2006 dành cho lứa tuổi dưới 18). Giải đấu bao gồm các đội bóng thuộc các câu lạc bộ chuyên nghiệp, ngoài chuyên nghiệp, các tỉnh, thành, ngành và các trung tâm đào tạo bóng đá trong cả nước.
Các đội bóng tham dự năm 2019
Mùa giải 2019, có 27 đội bóng tham dự vòng loại:
Bảng A: Viettel, Hà Nội, Công An Nhân Dân, Quảng Ninh, Hải Phòng, PVF.
Bảng B: SHB Đà Nẵng, Thanh Hóa, Sông Lam Nghệ An, Nam Định, Thừa Thiên Huế.
Bảng C: Hoàng Anh Gia Lai, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Phú Yên.
Bảng D: Becamex Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Thuận, Hallmen Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai.
Bảng E: Đồng Tháp, An Giang, Sài Gòn, Long An, Cần Thơ.
Các đội đoạt huy chương
Vua phá lưới |
Cúp bóng đá châu Đại Dương (tiếng Anh: OFC Nations Cup) là giải bóng đá giữa đội tuyển bóng đá quốc gia thuộc châu Đại Dương do Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC) tổ chức. Giải lần đầu tiên diễn ra tại New Zealand năm 1973 và nhà vô địch đầu tiên là đội tuyển nước chủ nhà. Từ năm 1996, giải được tổ chức 2 năm 1 lần. Tính đến nay, đội tuyển bóng đá quốc gia Úc đã 4 lần vô địch. Tuy nhiên Úc đã rút khỏi Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương từ 1 tháng 1 năm 2006 và gia nhập Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC). Từ năm 2004, giải được tổ chức 4 năm 1 lần. Hiện nay, đội tuyển bóng đá quốc gia New Zealand đã 5 lần vô địch. Đương kim vô địch hiện nay là đội tuyển bóng đá quốc gia New Zealand với chức vô địch Cúp bóng đá châu Đại Dương 2016.
Các trận chung kết và tranh hạng 3
Các đội lọt vào top 4
^ Năm 1973, vị trí thứ tư thuộc về đội tuyển Vanuatu với tên gọi Tân Hebrides.
Các đội chủ nhà
Kết quả của các nước chủ nhà
Kết quả của đương kim vô địch
Giải thưởng
Cầu thủ xuất sắc nhất giải
Vua phá lưới
Các đội tham dự
Chú thích
— Vượt qua vòng loại của giải đấu sắp tới
— Vượt qua vòng loại nhưng bỏ cuộc
— Không vượt qua vòng loại
— Không tham dự / Bỏ cuộc / Bị cấm tham dự
— Chủ nhà
Lần đầu tham dự
Dưới đây là thống kê giải đầu tiên mà các đội tuyển giành quyền vào chơi một vòng chung kết Nations Cups.
Thống kê theo số trận thắng
Tính đến mùa giải 2016.
Các huấn luyện viên vô địch |
Eliteserien () là hạng thi đấu cao nhất của bóng đá Na Uy. Giải được tổ chức từ 1937 đến nay. Câu lạc bộ Rosenborg B.K. là đội đoạt chức vô địch nhiều nhất với 20 lần, trong đó có 13 lần liên tiếp từ 1992 đến 2004.
Các đội vô địch trong lịch sử
Tổng số lần vô địch
20 lần - Rosenborg B.K. (trong đó có 13 lần liên tiếp)
09 lần - Fredrikstad F.K.
08 lần - Viking F.K.
05 lần - Lillestrøm S.K., Vålerenga I.F.
03 lần - Larvik Turn I.F., S.K. Brann,
02 lần - F.C. Lyn Oslo, I.K. Start,
01 lần - S.K. Freidig, I.F. Fram Larvik, Skeid, Strømsgodset I.F., Moss F.K., |
Siêu cúp bóng đá Pháp (tiếng Pháp: Trophée des Champions) là trận đấu bóng đá giữa đội vô địch Ligue 1 và đội đoạt Cúp bóng đá Pháp (Coupe de France).
Lịch sử
trái|nhỏ|Chiếc cup dành cho đội vô địch
Từ năm 1955 đến 1973, Liên đoàn bóng đá Pháp (FFF) đã tổ chức trận đấu này với tên gọi là Challenge des champions. Trận đấu được tổ chức trở lại vào năm 1985 nhưng đã ngừng tổ chức sau 2 mùa giải do không được khán giả quan tâm.
Năm 1995, FFF chính thức tổ chức lại trận đấu với cái tên hiện tại (Trophée des Champions) và trận đấu đầu tiên là trận Paris Saint-Germain đối đầu Nantes vào tháng 1 năm 1996 tại Stade Francis-Le Blé ở Brest, Pháp. Mùa giải tiếp theo, trận đấu không được tổ chức do đội bóng Auxerre đã giành cú đúp. Năm 2008, trận đấu suýt không diễn ra vì lý do tương tự khi Lyon giành được cúp đúp danh hiệu, nhưng LFP đã quyết định cho phép đội á quân Ligue 1 mùa 2007–08 là Bordeaux trở thành đối thủ của Lyon. Bordeaux đã giành chiến thắng 5–4 trên loạt luân lưu sau khi 2 đội hoà nhau 0–0 trong thời gian thi đấu chính thức.
nhỏ|Olympique Marseille, nhà vô địch của Trophée des Champions 2011
Vào ngày 12 tháng 5 năm 2009, Liên đoàn bóng đá Pháp tuyên bố rằng Trophée des Champions 2009 sẽ được tổ chức bên ngoài nước Pháp lần đầu tiên, tại sân vận động Olympic ở Montreal, Quebec, Canada.
Tính đến này, trận đấu đã từng được tổ chức tại Tunisia, Maroc, Hoa Kỳ, Gabon, Trung Quốc và Israel.
Kết quả các trận đấu
Thống kê |
Campeonato Brasileiro Série A ( phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [kãmpjonatu brazilejɾu sɛɾii a] ; tiếng Anh: Brazilian Championship A Series ), thường được gọi là Brasileirão ( phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [brazilejɾãw] ), là một giải đấu bóng đá chuyên nghiệp hạng cao nhất của Brazil dành cho các câu lạc bộ. Giải bao gồm 20 đội bóng thi đấu vòng tròn với một hệ thống lên xuống hạng với Campeonato Brasileiro Série B .
Do đặc thù lịch sử và quy mô địa lý rộng lớn của đất nước, Brazil có lịch sử giải bóng đá toàn quốc tương đối ngắn. Chỉ đến năm 1959, với những tiến bộ trong lĩnh vực hàng không dân dụng và vận tải hàng không, cùng với nhu cầu cử đại diện Brazil tham dự giải Copa Libertadores đầu tiên, Taça Brasil đã tạo ra một giải đấu toàn quốc. Năm 1967, Torneio Rio-São Paulo được mở rộng để bao gồm các đội từ các bang khác, trở thành Torneio Roberto Gomes Pedrosa, cũng được coi là một giải đấu quốc gia. Campeonato Brasileiro đầu tiên với tên gọi đó được tổ chức vào năm 1989. Trước đó, chỉ những mùa giải sau năm 1971 mới được coi là Campeonato Brasileiro. Năm 2010, các giải đấu quốc gia từ năm 1959 và 1970 — Taça Brasil và Torneio Roberto Gomes Pedrosa — được Liên đoàn bóng đá Brazil thống nhất trong lịch sử giải vô địch Brazil nhưng liệt kê những giải đấu này với tên ban đầu của họ trong thống kê, quả thực họ đã trao cùng một danh hiệu, đó của nhà vô địch Brazil, mặc dù là các giải đấu khác nhau.
Campeonato Brasileiro là một trong những giải đấu mạnh nhất trên thế giới; nó giành nhiều danh hiệu vô địch thế giới câu lạc bộ nhất, với 10 chức vô địch giành được trong số sáu câu lạc bộ, và danh hiệu Copa Libertadores nhiều thứ hai , với 19 danh hiệu giành được trong số 10 câu lạc bộ. Các Liên đoàn Quốc tế về Lịch sử & Thống kê bóng đá (IFFHS) đã xếp hạng giải đấu này đứng thứ tư trong giai đoạn 2001-12 sau khi Premier League (Anh), La Liga (Tây Ban Nha), và Serie A (Ý). Campeonato Brasileiro là giải đấu bóng đá được xem nhiều nhất ở châu Mỹ và là một trong những chương trình được chiếu nhiều nhất trên thế giới, được phát sóng tại 155 quốc gia. Đây cũng là một trong những giải vô địch giàu có nhất thế giới, được xếp hạng là có giá trị thứ sáu với giá trị hơn 1,43 tỷ đô la Mỹ, tạo ra doanh thu hàng năm hơn 1,17 tỷ đô la Mỹ vào năm 2012.
Kể từ năm 1959, có tổng cộng 156 câu lạc bộ đã chơi ở Campeonato Brasileiro. Mười bảy câu lạc bộ đã lên ngôi vô địch bóng đá Brazil, mười hai trong số đó đã giành chức vô địch nhiều hơn một lần. Palmeiras là câu lạc bộ thành công nhất của Campeonato Brasileiro, đã 10 lần vô địch giải đấu, tiếp theo là Santos với tám danh hiệu, Corinthians với bảy danh hiệu, Flamengo và São Paulo với sáu danh hiệu. Santos ' Os Santásticos đã giành được năm danh hiệu liên tiếp từ năm 1961 đến năm 1965, một kỳ tích mà vẫn chưa có ai sánh kịp. Bang São Paulo là bang thành công nhất với 31 danh hiệu trong số 5 câu lạc bộ.
Lịch sử
Taca Brasil đã tổ chức giải đấu vào năm 1959, và giải đã thi đấu cho đến năm 1968. Giải Torneio Roberto Gomes Pedrosa đã thi đấu giữa năm 1967 và 1970. Năm 2010 CBF thông báo và công nhận rằng các CLB vô địch hai giải đấu trên được coi là vô địch giải Brazil.
Năm 1968, sự chậm trễ trong việc đóng cửa Taça Brasil năm 1968 đã khiến CBD sử dụng Robertão để xác định những người đại diện cho Libertadores. Với sự sụp đổ của Taça Brasil, Robertão, được CBD chính thức đặt tên là "Taça de Prata" ( Cúp bạc ) vẫn là giải vô địch hàng đầu của Brazil trong hai năm sau đó.
Sau chức vô địch thế giới thứ ba của Brazil tại FIFA World Cup 1970 , chủ tịch Emílio Médici quyết định cơ cấu lại hệ thống bóng đá Brazil. Trong một cuộc hội ngộ với CBD và các chủ tịch câu lạc bộ vào tháng 10 năm 1970, đã quyết định tạo ra một giải vô địch Brazil vào năm 1971 do hai mươi đội tranh tài, lấy cảm hứng từ các giải đấu quốc gia ở các quốc gia châu Âu. Phiên bản đầu tiên của "Campeonato Nacional" ("Giải vô địch quốc gia"), được tổ chức vào năm 1971 . Giải hạng nhất được đặt tên là "Divisão Extra" (Giải phụ), trong khi giải hạng hai mới được thành lập mang tên "Primeira Divisão" (Giải hạng nhất).
Năm 1987, CBF thông báo rằng họ không thể tổ chức giải vô địch bóng đá Brazil, chỉ vài tuần trước khi dự kiến bắt đầu. Kết quả là, mười ba câu lạc bộ bóng đá lớn nhất ở Brazil đã tạo ra một giải đấu, The Clube dos 13, để tổ chức một giải vô địch của riêng họ. Giải đấu này được gọi là Copa União và được điều hành bởi 16 câu lạc bộ cuối cùng đã tham gia nó (Santa Cruz, Coritiba và Goiás được mời tham gia). CBF ban đầu đứng về phía The Clube dos 13 quyết định. Tuy nhiên, vài tuần sau, khi giải đã diễn ra và dưới áp lực từ các câu lạc bộ bóng đá bị loại khỏi Copa União, CBF đã thông qua một bộ quy tắc mới, coi Copa União là một phần của một giải đấu lớn hơn, bao gồm 16 đội khác. Theo bộ quy tắc mới đó, Copa União sẽ được gọi là một nhánh Xanh của giải vô địch CBF, trong khi 16 đội khác sẽ chơi ở nhánh Vàng. Cuối cùng, hai đội đầu tiên của mỗi nhánh sẽ đấu với nhau để xác định nhà vô địch quốc gia; và hai đội sẽ đại diện cho Brazil tại Copa Libertadores năm 1988. Tuy nhiên, Bộ quy tắc mới đó chưa bao giờ được The Clube dos 13 công nhận và bị hầu hết các phương tiện truyền thông Brazil, những người tập trung sự chú ý vào giải đấu độc lập, bỏ qua, cuối cùng đã giành chiến thắng trước Clube de Regatas do Flamengo. Tourney cuối cùng được thiết lập để có Thể thao và Guarani , từ nhành vàng, và Flamengo và Internacional từ nhánh xanh lá cây. Tuy nhiên, điều đó không bao giờ thành hiện thực khi Flamengo và Internacional từ chối tham gia. Kết quả là Sport và Guarani đã đấu với nhau, với đội đầu tiên giành chức vô địch vào năm 1987 và cả hai cùng đại diện cho Brazil tại Copa Libertadores năm 1988. Mặc dù Flamengo đã cố gắng giành quyền sở hữu chức vô địch nhiều lần thông qua hệ thống công lý, Thể thao vẫn được CBF và FIFA công nhận là Nhà vô địch năm 1987.
Năm 2010, CBF quyết định công nhận nhà vô địch của cả Taça Brasil (1959–68) và Torneio Roberto Gomes Pedrosa (1967–70) là Nhà vô địch Brazil, tạo ra một số tranh cãi vì có khoảng thời gian hai năm khi cả hai giải đấu được tổ chức. Palmeiras đã hai lần được trao giải vì chiến thắng cả hai vào năm 1967 và cả Santos và Botafogo đều được công nhận là nhà vô địch vào năm 1968 khi mỗi giải đấu đều do một trong số họ vô địch.
Thể thức thi đấu
Cạnh tranh
Có 20 câu lạc bộ ở Brasileirão . Trong suốt một mùa giải (từ tháng 5 đến tháng 12), mỗi câu lạc bộ thi đấu với những đội hai lần (lượt đi lượt về), một lần tại sân nhà của họ và một lần tại sân của đối thủ, tổng cộng 38 trận. Các đội nhận được ba điểm cho một trận thắng và một điểm cho một trận hòa. Không có điểm nào được trao cho một trận thua. Các đội được xếp hạng theo tổng điểm, hiệu số bàn thắng bại và số bàn thắng ghi được. Vào cuối mỗi mùa giải, câu lạc bộ có nhiều điểm nhất sẽ lên ngôi vô địch. Nếu điểm bằng nhau giữa hai hoặc nhiều câu lạc bộ, các quy tắc phân hạng là:
Nếu hòa giữa nhiều hơn hai câu lạc bộ không cạnh tranh chức vô địch quốc gia hoặc xuống hạng, thì sẽ xét các chỉ số mà các câu lạc bộ đã đấu với nhau:
a) tổng số điểm
b) tổng hiệu số bàn thắng bại
c) tổng số bàn thắng đã ghi
d) thành tích đối đầu (với luật bàn thắng sân khách có hiệu lực nếu chỉ tính đến hai câu lạc bộ)
Nếu vẫn bằng nhau, đội chiến thắng sẽ được xác định bằng thang điểm Fair Play .
e) ít thẻ vàng nhất
f) ít thẻ đỏ nhất
Nếu có sự ràng buộc cho chức vô địch, để xuống hạng hoặc để đủ điều kiện cho các cuộc thi khác, các thang điểm Fair Play sẽ không được tính đến; một trận đấu play-off tại một địa điểm trung lập sẽ quyết định thứ hạng. Nếu không, một bản vẽ của các lô sẽ xác định các vị trí cuối cùng.
Một hệ thống lên xuống hạng tồn tại giữa Brasileirão và Série B . Bốn đội xếp hạng thấp nhất ở Brasileirão sẽ xuống hạng ở Série B , và bốn đội hàng đầu từ Série B được thăng hạng lên Brasileirão .
Đủ điều kiện cho các cuộc thi quốc tế
Kể từ năm 2016, sáu câu lạc bộ hàng đầu ở Brasileirão đủ điều kiện tham dự Copa Libertadores. Bốn câu lạc bộ hàng đầu vào thẳng vòng bảng trong khi các câu lạc bộ xếp thứ năm và thứ sáu vào vòng hai (vòng sơ loại). Số lượng các đội đủ điều kiện tham dự Libertadores có thể tăng lên tùy thuộc vào việc ai thắng ở giải Copa do Brasil - giải cúp quốc gia Brazil, Copa Sudamericana hoặc Copa Libertadores.
Các câu lạc bộ từ vị trí thứ bảy đến thứ mười hai đủ điều kiện dự Copa Sudamericana, con số có thể phụ thuộc vào các cuộc thi khác.
Tài chính
Brasileirão có tổng doanh thu của các câu lạc bộ 1,17 tỷ US $ trong năm 2012. Điều này làm cho Brasileirão là giải đấu bóng đá doanh thu cao nhất ở châu Mỹ, và trên thế giới chỉ đứng sau "Big Five" của châu Âu
Brasileirão cũng là một trong hầu hết các giải đấu bóng đá có giá trị nhất thế giới, có giá trị thị trường và giá trị so với Mỹ $ 1,24 tỷ vào năm 2013. Tổng giá trị của tất cả các câu lạc bộ trong năm 2013 Brasileirão là 1,07 tỷ $.
Bản quyền truyền hình của Brasileirão trị giá hơn 610 triệu đô la Mỹ vào năm 2012; chiếm hơn 57% toàn bộ Châu Mỹ Latinh .
Corinthians là câu lạc bộ có giá trị thứ 16 trên thế giới vào năm 2013, với giá trị hơn 358 triệu đô la Mỹ.
Các đội vô địch trong lịch sử
Các đội vô địch
10 làn - Palmeiras
8 làn - Santos
7 làn - Corinthians
6 lần - São Paulo
5 lần – Flamengo
4 lần – Cruzeiro, Fluminense và Vasco da Gama
3 lần - Internacional
2 lần - Bahia, Botafogo và Grêmio
1 lần - Atlético Mineiro, Atlético Paranaense, Coritiba, Guarani và Sport
Chưa có danh hiệu -Paysandu, Chapecoense |
Cúp bóng đá Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Copa do Brasil) là giải bóng đá được tổ chức cho 86 đội bóng đại diện cho 26 bang ở Brasil cộng với Quận Liên bang. Giải Copa do Brasil là một cơ hội cho các đội từ các bang nhỏ hơn thi đấu với các đội lớn và đã có các trận mà đội lớn đã bị các đội nhỏ đánh bại dù trường hợp này hiếm khi xảy ra. Hiện giải được Continental AG tại trợ và do đó giải còn có tên gọi Copa Continental Pneus do Brasil vì lý do tài trợ. Đây là giải vô địch nội địa Brasil và tương đương các giải khác của Brasil như Cup, Taça de Portugal, Copa del Rey, Coupe de France, Coppa Italia, DFB-Pokal, và Copa Argentina, và các giải khác nữa.
Các trận chung kết
Các đội đoạt cúp
6 lần - Cruzeiro
5 lần - Grêmio 3 lần - Corinthians, Flamengovà Palmeiras 1 lần - Criciúma, Fluminense, Internacional, Juventude, Paulista, Santos, Santo André, Sportvà Vasco da Gama'Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ của Liên đoàn bóng đá Brasil (tiếng Bồ Đào Nha)''
RSSSF Brazil
Giải đấu bóng đá tại Brasil
Brasil |
Liên đoàn bóng đá Brasil (CBF) (tiếng Bồ Đào Nha: Confederação Brasileira de Futebol) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở nước Brasil. CBF quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Brasil, Cúp bóng đá Brasil,.... Trụ sở của CBF ở Barra da Tijuca, gần Rio de Janeiro.
Các chủ tịch của CBF
Álvaro Zamith (từ 20 tháng 11 năm 1915 đến 4 tháng 11 năm 1916)
Arnaldo Guinle (từ 4 tháng 11 năm 1916 đến 8 tháng 1 năm 1920)
Ariovisto de Almeida Rego (từ 8 tháng 1 năm 1920 đến 26 tháng 4 năm 1921)
Oswaldo Gomes (từ 26 tháng 4 năm 1921 đến 26 tháng 1 năm 1924)
Ariovisto de Almeida Rego (từ 26 tháng 1 năm 1924 đến 20 tháng 6 năm 1924)
Wladimir Bernades (từ 20 tháng 6 năm 1924 đến 19 tháng 12 năm 1924)
Oscar Rodrigues da Costa (từ 19 tháng 12 năm 1924 đến 13 tháng 10 năm 1927)
Renato Pacheco (từ 13 tháng 10 năm 1927 đến 23 tháng 9 năm 1933)
Álvaro Catão (từ 23 tháng 9 năm 1933 đến 5 tháng 9 năm 1936)
Luiz Aranha (từ 5 tháng 9 năm 1936 đến 28 tháng 1 năm 1943)
Rivadávia Correa Meyer (từ 28 tháng 1 năm 1943 đến 14 tháng 1 năm 1955)
Sylvio Correa Pacheco (từ 14 tháng 1 năm 1955 đến 14 tháng 1 năm 1958)
João Havelange (từ 14 tháng 1 năm 1958 đến 10 tháng 1 năm 1975)
Heleno de Barros Nunes (từ 10 tháng 1 năm 1975 đến 18 tháng 1 năm 1980)
Giulite Coutinho (từ 18 tháng 1 năm 1980 đến 17 tháng 1 năm 1986)
Otávio Pinto Guimarães (từ 17 tháng 1 năm 1986 đến 16 tháng 1 năm 1989)
Ricardo Terra Teixeira (từ 16 tháng 1 năm 1989 đến tháng 1, 2008) |
Giải vô địch bóng đá Argentina (Primera División, ; ) là hạng thi đấu cao nhất trong hệ thống giải bóng đá Argentina. Giải thi đấu gồm 20 đội, lên xuống hạng với giải Primera B Nacional. Mùa giải bắt đầu từ tháng 8 và kết thúc vào tháng 5 năm sau. Giải vô địch Argentina đã chuyển sang thể thức mới từ mùa giải 2012/13. Mỗi mùa giải được chia thành 2 phần. Theo đó, giai đoạn lượt đi Torneu Inicial (20 đội đá vòng tròn 1 lượt). Giai đoạn lượt về Torneu Final (20 đội đá vòng tròn 1 lượt). Kết thúc giải, hai đội đứng đầu Torneu Inicial và Torneu Final sẽ gặp nhau trong trận chung kết để tìm ra đội vô địch.
Giải được tổ chức từ 1932 cho đến nay ngoại trừ các năm từ 1939 đến 1945 được tổ chức riêng rẽ ở các vùng khác nhau (vì Chiến tranh thế giới thứ hai).
Các đội vô địch trong lịch sử
Chú thích
1
Argentina
Argentina năm 1891
Argentina |
Cúp bóng đá nữ châu Á (tiếng Anh: AFC Women's Asian Cup, trước đây có tên gọi Giải vô địch bóng đá nữ châu Á) là giải bóng đá giữa các đội tuyển bóng đá nữ quốc gia châu Á do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức. Đây là giải đấu bóng đá nữ lớn nhất tại châu Á cấp độ đội tuyển quốc gia, được tổ chức 4 năm 1 lần. Giải lần đầu tiên diễn ra tại Hồng Kông năm 1975 với nhà vô địch đầu tiên là New Zealand. Tới nay giải đã có 18 lần được tổ chức, trong đó , đương kim vô địch giải năm 2022, đang nắm giữ kỷ lục 9 lần vô địch. Giải cũng đóng vai trò vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới.
Tổng quan
Giải được thành lập bởi Liên đoàn bóng đá nữ châu Á (ALFC), tổ chức chịu trách nhiệm những vấn đề liên quan tới bóng đá nữ tại châu Á. Giải đấu đầu tiên diễn ra vào năm 1975 và được tổ chức 2 năm một lần kể từ đó, ngoại trừ khoảng thời gian thập niên 1980 giải được tổ chức 3 năm một lần. ALFC ban đầu là một tổ chức độc lập nhưng sau này được sáp nhập vào AFC vào năm 1986.
Từ năm 1975 đến năm 1981, mỗi trận đấu chỉ kéo dài 60 phút (30 phút/hiệp).
Kể từ 2014, giải được tổ chức 4 năm một lần, sau khi AFC thông báo Cúp bóng đá nữ châu Á sẽ đóng vai trò vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới.
Từ năm 2022, giải được mở rộng số đội tham dự vòng chung kết lên thành 12 đội. Đồng thời, giải cũng không tổ chức trận tranh hạng ba.
Kết quả
Ghi chú:
h.p.: sau hiệp phụ.
p.đ.: loạt sút luân lưu.
Thành tích theo quốc gia
Các quốc gia tham dự
Các đội chưa từng tham dự
Lần đầu tham dự
Dưới đây là thống kê giải đầu tiên mà các đội tuyển giành quyền vào chơi một vòng chung kết Asian Cup.
Số liệu thống kê chung
Tính đến năm 2022
Các giải thưởng
Các huấn luyện viên vô địch |
Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain năm 2006 là chặng đua đầu tiên của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 12 tháng 3 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia năm 2006 là chặng đua thứ hai của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 19 tháng 3 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Úc năm 2006 là chặng đua thứ ba của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 2 tháng 4 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 San Marino năm 2006 là chặng đua thứ tư của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 24 tháng 4 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 châu Âu năm 2006 là chặng đua thứ năm của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 7 tháng 5 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết
Đội đua Super Aguri: Franck Montagny thay thế Yuji Ide. |
Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha năm 2006 là chặng đua thứ sáu của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 14 tháng 5 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Monaco năm 2006 là chặng đua thứ bảy của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 28 tháng 5 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Anh năm 2006 là chặng đua thứ tám của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 11 tháng 6 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Canada năm 2006 là chặng đua thứ chín của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 25 tháng 6 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ năm 2006 là chặng đua thứ mười của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 2 tháng 7 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Pháp năm 2006 là chặng đua thứ mười một của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 16 tháng 7 năm 2006.
Với chiến thắng ở năm 2006, Michael Schumacher trở thành tay đua đầu tiên trong lịch sử 8 lần về nhất một giải đua ô tô Công thức 1 Pháp (1994, 1995, 1997, 1998, 2001, 2002, 2004 và 2006).
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Đức năm 2006 là chặng đua thứ mười hai của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 30 tháng 7 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Hungary năm 2006 là chặng đua thứ mười ba của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 6 tháng 8 năm 2006.
Ở vòng phân hạng, Fernando Alonso và Michael Schumacher đều bị phạt trừ 10 bậc xuống các vị trí thứ 15 và 11. Còn người giành vị trí xuất phát đầu tiên là Kimi Raikkonen của đội Mc Laren.
Trời mưa trước khi diễn ra cuộc đua đã làm nhiều tay đua khác gặp trục trặc. Mặc dù xếp vị trí xuất phát đầu tiên, Kimi Raikkonen đã bị loại khỏi cuộc đua sau khi va chạm mạnh với Vitantonio Liuzzi ở vòng thứ 26. Còn Fernando Alonso, xuất phát thứ 15 nhưng nhanh chóng vươn lên dẫn đầu đoàn đua, có lúc nhanh hơn Michael Schumacher đến 1 vòng. Tuy nhiên ngay sau khi nạp nhiên liệu, ở vòng thứ 52, một bánh xe của Alonso không hoạt động và làm xe trượt khỏi đường đua rồi đâm vào rào chắn. Tận dụng việc nhiều tay đua khác gặp trục trặc kỹ thuật, Jenson Button (cũng bị trừ 10 bậc xuống vị trí thứ 14 khi xuất phát vì thay động cơ) và Michael Schumacher chiếm 2 vị trí đầu tiên. Nhưng đến vòng thứ 67/70, xe của Michael Schumacher chạy chậm dần, lần lượt bị nhiều xe khác vượt qua rồi tự bỏ cuộc, đưa xe vào khu kỹ thuật của đội Ferrari. Nhờ đó, Jenson Button lần đầu tiên giành chức vô địch một chặng đua Công thức một trong sự nghiệp. Xếp 2 vị trí sau là Pedro de la Rosa và Nick Heidfeld.
Mặc dù bỏ cuộc ở vòng 67 và xếp thứ 9 chung cuộc nhưng Michael Schumacher vận nhận được 1 điểm vì người xếp thứ 7 là Robert Kubica (đội BMW Sauber; thay Jacques Villeneuve bị ốm) chạy trên chiếc xe nhẹ hơn quy định 2 kg (không được xếp hạng).
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Thổ Nhĩ Kỳ năm 2006 là chặng đua thứ mười bốn của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 27 tháng 8 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Ý năm 2006 là chặng đua thứ mười lăm của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 10 tháng 9 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc năm 2006 là chặng đua thứ mười sáu của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 1 tháng 10 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết
1 Christijan Albers bị cộng thêm 25 giây vì lỗi bỏ qua cờ xanh''
2 Takuma Sato, dù kết thúc chặng đua và chỉ kém người về đầu 1 vòng, không được xếp hạng vì lỗi bỏ qua cờ xanh'' |
Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản năm 2006 là chặng đua thứ mười bảy của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 8 tháng 10 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Giải đua ô tô Công thức 1 Brasil năm 2006 là chặng đua thứ mười tám và cuối cùng của giải vô địch thế giới Công thức 1 năm 2006. Giải được tổ chức vào ngày 22 tháng 10 năm 2006.
Xếp hạng chi tiết |
Trạng Quỳnh là một nhân vật giai thoại trong các truyện kể văn học dân gian Việt Nam, nổi tiếng với tính cách trào lộng, hài hước với bối cảnh thời vua Lê chúa Trịnh. Nhân vật Trạng Quỳnh được cho là mang nhiều dáng dấp của một nhân vật lịch sử có thật, Nguyễn Quỳnh (1677 - 1748), một danh sĩ thời Lê Trung Hưng, người xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, từng đỗ bậc Cống sĩ nên còn được gọi là Cống Quỳnh.
Một nhân vật giai thoại khác trong các truyện kể văn học dân gian Việt Nam là Xiển Bột, cũng nổi tiếng với tính cách trào lộng, hài hước trong bối cảnh thời Nguyễn, được gán là hậu duệ (chắt) của nhân vật Trạng Quỳnh.
Mô tả
Trong các mô tả giai thoại, Trạng Quỳnh người Thanh Hóa, từ bé đã nổi tiếng thông minh, khắp vùng gọi là sao sáng xứ Thanh, từng đỗ đạt Trạng nguyên. Do tính cách trào lộng, hay đả kích quan lại, nhiều lần bỡn cợt với cả vua Lê chúa Trịnh. Cuối cùng, chúa Trịnh bày mưu đầu độc hại chết ông, nhưng dù vậy, ông vẫn bày kế làm cho chúa Trịnh chết theo, trở thành điển tích nổi tiếng "Trạng chết, Chúa cũng băng hà".
Một số giai thoại điển hình
Dưới đây là một số giai thoại điển hình, được biết đến nhiều như các điển tích dân gian. Nội dung có thể có những dị biệt tuỳ theo phiên bản.
Thừa giấy vẽ voi
Trong kỳ thi Hương cống, Quỳnh làm bài rất nhanh, xong sớm trước nhiều thí sinh khác. Lẽ ra phải nộp quyển, nhưng vì Quỳnh chẳng thiết chuyện đỗ đạt, nên táy máy dở bài ra xem lại. Thấy còn một đoạn giấy trắng bên dưới, Quỳnh liền chấm bút vẽ một bầy voi, rồi tiện tay đề luôn bên cạnh mấy câu thơ ngẫu hứng:
Văn chương phú lục đã xong rồiThừa giấy làm chi chẳng vẽ voi?
Tớ có một điều xin bảo thậtThằng nào cười tớ, nó ăn bòi.
Lúc ấy, có viên quan giám thị liếc thấy bài thơ tứ tuyệt ngạo mạn của Quỳnh, liền chạy đi báo với quan giám khảo. Quan sơ khảo và quan phúc khảo rón rén đến dòm thử thì quả đúng như vậy. Quỳnh biết, nhưng tảng lờ , lại đưa bút viết tiếp hai câu thơ nữa:
Voi mẹ, voi con, voi lúc nhúcChú sơ, chú phúc, rúc mà coi.
Đám quan viên lúc này cảm thấy sượng sùng nên bấm nhau rút lẹ, đứng lâu ở đó e không khéo lại bị Quỳnh chơi khăm, mất mặt nữa.
Đối đáp sứ Tàu
Triều đình chuẩn bị đón sứ Tàu sang nước ta. Chúa nghe nói viên chánh sứ là kẻ hống hách, hợm hĩnh, bèn giao cho Quỳnh giữ việc nghênh tiếp. Quỳnh phụng mạng, đồng thời xin triệu thêm bà Ðoàn Thị Ðiểm giả làm người bán hàng nước cho khách qua đường, còn mình giả trang làm anh lái đò đưa sứ bộ qua sông.
Sứ Tàu đi ngang quán bà Ðiểm, thấy trong hàng có một cô gái xinh xắn ngồi bán, liền hùa nhau kéo vào uống nước, sẵn có buông lời chọc ghẹo, bỡn cợt. Một tên líu lo đọc bâng quơ:
Nam bang nhất thốn thổ, bất tri nhân canh
("Một tấc đất nước Nam không biết bao nhiêu người cày", ý cho rằng đàn bà nước Nam lẳng lơ)
Bà Ðiểm đang nhai trầu, nhổ toẹt một bãi, đọc:Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất
("Đại trương phu Bắc quốc đều từ chỗ đó chui ra", hàm ý sứ Tàu oai nghi đến mấy đều luỵ chỗ đàn bà đẻ)
Nghe xong câu ấy, cả bọn ngừng uống nước, tròn mắt, há hốc miệng nhìn bà Ðiểm.
Lúc sứ Tàu qua đò, một tên trong sứ bộ chột bụng, vãi ra một tiếng "bủm". Hắn bèn đọc một câu chữa thẹn xấc xược:
Lôi động Nam bang
(Sấm động nước Nam)
Quỳnh đang cầm chèo, liền đứng dậy vạch quần đái vòng xuống sông, đọc ngay vế đáp:Vũ quá Bắc hải
(Mưa qua bể Bắc)
Sứ Tàu thẹn quá, xộc lại định đánh Quỳnh. Quỳnh trở cán chèo thủ thế rồi mắng:
Tiền phát lôi, hậu phát vũ, thiên địa chi lý nại hỉ
(Sấm động trước, ắt sau sẽ có mưa, luật trời đất là thế)
Cả bọn sứ bộ sửng sốt nhìn nhau, không thốt nên lời vì câu đối đáp quá chỉnh của anh lái đò, bèn ngậm miệng chờ đến nơi.
Món ăn mầm đá
Có một dạo, Chúa mắc bệnh ăn không ngon, dù là sơn hào hải vị, trân quý ê hề. Một hôm, Quỳnh vào hầu, Chúa hỏi:
- Độ rày ta ăn uống không thấy ngon, dù của ngon vật lạ cũng thấy dửng dưng. Trạng có biết món nào ngon không?
Quỳnh nghe xong bèn tâu:
- Khải Chúa, xin hỏi Chúa đã từng dùng món mầm đá chưa?
- Mầm đá? Chà, món đó thì chưa cả nghe đến. Chắc hẳn là ngon lắm?
- Khải Chúa, quả thật có vậy!
Chúa nghe lòng hớn hở, bèn cho Quỳnh về nhà chuẩn bị, để buổi chiều Chúa sẽ sang ngự dụng.
Mới đầu xế chiều, Chúa đã ngự đến nhà Quỳnh thật. Quỳnh sai người nhà bắc bếp râm ran chế biến, dao thớt lộc cộ, phi đảo gia vị bay mùi thơm lừng; còn mình thì châm trà ngồi hầu chuyện với Chúa. Đến gần tối, Chúa thấy đói meo, bụng chỉ toàn nước trà khan, chốc chốc lại hỏi thăm, nhưng Quỳnh vẫn tấu Chúa gắng chờ thêm, lại giục người nhà lăng xăng dao thớt.
Gần đến khuya, Chúa đói đến rã ruột, bèn nói Quỳnh dâng món gì dùng tạm. Quỳnh khi đó sai người nhà bưng lên một mâm cơm trắng, đích thân xới cơm cho Chúa ngự. Mỗi chén cơm, Quỳnh lại kính cẩn xúc vào chén một ít món gì đấy từ một cái lọ be bé, trên thân dán 2 chữ "Đại Phong". Chúa thấy chén cơm trắng có món ấy thơm lừng, ăn một hơi mấy chén thật ngon miệng. Khi qua cơn đói, Chúa mới hỏi Quỳnh.
- Này Trạng, Đại Phong là món ngon gì mà ta chưa từng dùng?
- Khải Chúa, đó chỉ là món ăn thường ngày dân dã của nhà thần thôi ạ!
- Nhưng đó là món gì?
- Khải Chúa, "Đại Phong" là gió lớn. Gió lớn thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, mà tượng lo tức là... Lọ tương ạ!
Chúa khi ấy mới biết là mình bị Quỳnh lỡm. Do dùng sơn hào hải vị lâu ngày nên khẩu vị bị nhờn, Quỳnh dùng mẹo để Chúa đói bụng rã ruột mới cho Chúa ăn, nên món gì cũng thấy ngon.
Trạng chết Chúa cũng băng hà
Sau nhiều lần bị Quỳnh bỡn cợt, Chúa có bụng ghét Quỳnh, bèn cho đòi Quỳnh vào thị yến, định đánh thuốc độc cho chết. Quỳnh biết lần này có hoạ sát thân, nên trước khi đi có dặn vợ con rằng:
- Hôm nay ta vào hầu yến Chúa, lành ít, dữ nhiều. Ta có mệnh hệ nào, thì không được phát tang ngay, cứ phải để ta vào võng, cắt hai đứa quạt hầu, rồi gọi nhà trò về hát, đợi bao giờ phủ Chúa phát tang thì ở ngoài hãy phát tang.
Dặn xong, bèn vào cung hầu yến Chúa. Lúc dùng yến, Chúa hỏi:
- Bao giờ Quỳnh chết?
Quỳnh thưa:
- Bao giờ Chúa băng hà thì Quỳnh cũng chết?
Ăn xong, Quỳnh thấy trong người khác lạ, bèn cáo xin về. Vừa về đến nhà thì tắt hơi. Vợ con theo lời dặn mà làm. Chúa sai người dò xét, thấy Quỳnh đương nằm võng nghe nhà trò hát, mà người nhà đi lại vui vẻ như thường. Chúa liền đòi đầu bếp lên hỏi xem đánh thuốc thế nào mà Quỳnh không việc gì. Chúa ăn thử, được một chốc thì lăn ra chết.
Nhà Quỳnh nghe thấy trong phủ Chúa phát tang thì ở nhà cũng phát tang. Chúa và Trạng đưa ma một ngày. Thế mới biết Quỳnh chết đến cổ còn lừa được Chúa chết theo. Người đời sau có thơ rằng:Trạng chết chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.
Trong văn hoá đại chúng
{| class="wikitable" style="width:100%;"
|- style="background:gold; color:black; text-align:center;"
|Năm||Tác Phẩm||Diễn Viên||Nhân Vật'''
|-
| style="text-align:center;"|1989 || style="text-align:center;"|Trang Quỳnh|| style="text-align:center;"| Hoàng Dũng || style="text-align:center;"| Trạng Quỳnh
|-
| style="text-align:center;"|2019 || style="text-align:center;"|Trạng Quỳnh|| style="text-align:center;"| Quốc Anh || style="text-align:center;"| Trạng Quỳnh
|}
Ở miền Bắc Trung bộ Việt Nam, người địa phương hay dùng từ "trạng" để chỉ về những người ra vẻ, thích thể hiện, kể cả, hay khoe mẽ, và thường biểu đạt bằng thán từ "trạng hè'' !" ("thằng ni trạng hè").
Chú thích
Văn học Việt Nam
Người Việt Nam giả tưởng |
Các thuật ngữ và khái niệm Phật giáo, bảng chú giải thuật ngữ Phật giáo thường có nguồn gốc từ các tư tưởng triết lý đến từ Ấn Độ, Tây Tạng, Nhật Bản... và qua đường Trung Hoa vào Việt Nam. Các thuật ngữ và khái niệm được liệt kê trong bảng sau đây là để giúp người đọc hiểu được nguyên gốc của chúng, cũng như đưa ra một định nghĩa sơ khởi của thuật ngữ hay khái niệm đó.
Các ngôn ngữ và tông phái được nhắc đến trong bài:
Tiếng Pali: đặc biệt được dùng trong các kinh của Thượng tọa bộ, hay "Phật giáo nguyên thủy", (Theravada)
Tiếng Phạn (Sanskrit) và Phật giáo tạp chủng phạn ngữ (Buddhist Hybrid Sanskrit): được dùng nhiều trong Phật giáo Đại thừa
Tiếng Tây Tạng: trong Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là Kim cang thừa
Chữ Hán, Hán-Việt và các ngôn ngữ thuộc nhóm CJKV (Chinese-Japanese-Korean-Vietnamese)
A
B
C
D
Đ
G
H
K
L
M
N
P
Q
S
T
U
V
X
Thư mục tham khảo
Bukkyō kan-bon dai jiten 佛教漢梵大辭典 (Buddhist Chinese-Sanskrit Dictionary). Hirakawa Akira 平川彰. Tokyo: Reiyūkai 霊友会, 1997.
DDB, Digital Dictionary of Buddhism, Muller, Charles, ed.<http://www.buddhism-dict.net/ddb/>.
Encyclopaedia of Buddhism, Government of Ceylon, Colombo, 1965–.
Fóguāng dàcídiǎn 佛光大辭典. Fóguāng dàcídiǎn biānxiū wěiyuánhuì 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fóguāng chūbǎnshè, 1988.
Materials for a Dictionary of the Prajñāpāramitā-Literature, E. Conze. Tokyo, 1973.
The Pali Text Society’s Pali-English Dictionary, editors T. Rhys Davids and W. Stede, publ. by the Pali Text Society, Luân Đôn, 1972.
A Dictionary of Chinese Buddhist Terms by William Edward Soothill and Lewis Hodous <http://www.acmuller.net/soothill/soothill-hodous.html >. |
hay là một môn võ thuật truyền thống của vùng Okinawa (Nhật Bản). Karate có tiếng là nghệ thuật chiến đấu với các đòn đặc trưng như đấm, đá, cú đánh cùi chỏ, đầu gối và các kỹ thuật đánh bằng bàn tay mở. Trong Karate còn có các kỹ thuật đấm móc, các kỹ thuật đấm đá liên hoàn, các đòn khóa, chặn, né, quật ngã và những miếng đánh vào chỗ hiểm. Để tăng sức cho các động tác tấn đỡ, Karate sử dụng kỹ thuật xoay hông hay kỹ thuật kime, để tập trung lực năng lượng toàn cơ thể vào thời điểm tác động của cú đánh.
Xuất xứ tên gọi "Karate"
Trước đây, khi mới chỉ giới hạn ở Okinawa, môn võ này được gọi là Totei theo ngôn ngữ ở đây, và được viết là 唐手 (tōsho, Đường thủ, tức các môn võ thuật có gốc từ Trung Hoa). Vào thời kỳ Minh Trị, môn võ này bắt đầu được truyền vào lãnh thổ chính của Nhật Bản, thì chữ 唐手 được phát âm theo tiếng Nhật là Karate và giữ nguyên cách viết này. Tuy nhiên, do 唐手 thường bị hiểu không đúng là "võ Trung Quốc", cộng thêm việc môn võ này thường chỉ dùng tay không để chiến đấu, nên người Nhật bắt đầu từ thay thế chữ 唐 bằng một chữ khác có cùng cách phát âm và mang nghĩa "KHÔNG", đó là 空. Tên gọi Karate và cách viết 空手 bắt đầu như vậy từ thập niên 1960. Giống như nhiều môn khác ở Nhật Bản (Trà đạo, Thư đạo, Cung đạo, Kiếm đạo, Côn đạo, Hoa đạo...), Karate được gắn thêm vĩ tố "đạo" (道), phát âm trong tiếng Nhật là "do". Vì thế, có tên Karate-do. Đa phần người tập Karate đều hướng tới chữ "do" này muốn học trò của mình có đạo đức nhân cách.
Lịch sử hình thành
Những nghiên cứu gần đây cho thấy Karate được phát triển trên cơ sở tổng hợp các phương thức chiến đấu của người Ryukyu với các môn võ thuật ở phía Nam Trung Quốc nhằm chống lại ách đô hộ hà khắc mà giới cai trị Nhật Bản áp đặt lên dân bản xứ bấy giờ. Tuy nhiên, xuất xứ chính xác của môn võ này còn chưa được xác định, bởi không tìm được thư tịch cổ nào của Vương quốc Lưu Cầu xưa ghi chép về môn võ này. Người ta chỉ có thể đưa ra được những giả thiết về nguồn gốc của Karate.
Xuất phát từ các điệu múa vùng nông thôn Lưu Cầu, một môn võ (người Ryukyu gọi là dei và viết bằng chữ Thủ 手) hình thành và phát triển thành Todei (唐手). Đây là giả thiết do Azato Anko đưa ra.
Do tập đoàn người Hoa từ Phúc Kiến di cư sang Okinawa và định cư tại thôn Kuninda ở Naha và truyền các môn võ thuật Trung Quốc tới đây. Vì thế mà có tên gọi là tote (唐手) với chữ to (唐 - Đường) chỉ Trung Quốc, còn te (手 - Thủ) nghĩa là "võ", tức các môn võ thuật có gốc từ Trung Hoa.
Theo con đường thương mại tới Okinawa. Vương quốc Lưu Cầu xưa có quan hệ thương mại rộng rãi với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Các môn võ thuật có thể từ các miền đất này theo các thuyền buôn và truyền tới Okinawa.
Bắt nguồn từ môn vật của Okinawa có tên là shima.
Du nhập Việt Nam
Võ sư Hồ Cẩm Ngạc là người Việt đầu tiên đem những phái võ Nhật Bản gồm có nhu đạo, Karate, kendo và aikido về Sài Gòn, Việt Nam năm 1947. Trong khi đó ở Huế có Suzuki Choji, một viên sĩ quan trong Quân đội Đế quốc Nhật Bản, sau Đệ nhị Thế chiến chọn ở lại Việt Nam, định cư ở Huế và mở võ đường, lúc đầu dạy Judo, đến năm 1963 thì chuyển sang dạy Karate. Địa điểm võ đường là số 8 đường Võ Tánh.
Phương pháp luyện tập
Việc tập luyện Karate hiện đại được chia làm ba phần chính: kỹ thuật cơ bản ("Kihon" theo tiếng Nhật), Quyền ("Kata") và tập luyện giao đấu ("Kumite")
Kỹ thuật cơ bản (Kihon) (基本) được tập luyện từ các kỹ thuật cơ bản (kỹ thuật đấm, động tác chân, các thế tấn), thân pháp, nhãn pháp, hơi thở trong từng kĩ thuật của môn võ. Đây là thể hiện "mặt chung" của môn võ mà phần lớn mọi người thừa nhận, ví dụ những bước thực hành đòn đấm.
Kata (型) nghĩa là "bài quyền" hay "khuôn mẫu" "bài hình", tuy nhiên nó không phải là các động tác múa. Các bài kata chính là các bài mẫu vận động và chiêu thức thể hiện các nguyên lý chiến đấu trong thực tế. Kata có thể là chuỗi các hành động cố định hoặc di chuyển nhằm vào các kiểu tấn công và phòng thủ khác nhau. Mục đích của kata là hệ thống hóa lại các đòn thế cho dễ nhớ dễ thuộc và những bài kata đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp tùy theo trình độ của môn sinh, mỗi hệ phái Karate-do lại có một kĩ thuật khác nhau vì thế mà trong luật thi đấu của liên đoàn Karate thế giới phải tuân theo kĩ thuật của 4 hệ phái lớn.
Các lưu phái Karate
Karate có nhiều lưu phái. Giữa các lưu phái có sự khác nhau ít nhiều về bài quyền, phương pháp huấn luyện, quy cách thi đấu. Trước hết, Karate chia thành Karate truyền thống và Full Contact Karate.
Karate truyền thống
Karate truyền thống theo nghĩa hẹp gồm các lưu phái tuân theo quy tắc sundome (寸止め). Quy tắc sundome tức là chấp hành cách đánh khi thi đấu phải giữ cự ly nhất định của đòn đánh vào đối phương hoặc giữ sức mạnh đòn đánh ở mức độ nhất định. Karate truyền thống theo nghĩa rộng chỉ tất cả các lưu phái, tổ chức tham gia Liên minh Karatedo Toàn Nhật Bản (trong nước Nhật) và Liên minh Karatedo Thế giới (quốc tế).
Karate truyền thống có một số đặc trưng sau:
Coi trọng lễ tiết, triết học
Các bài quyền (kata) theo lối cổ điển
Phương pháp luyện tập sử dụng nhiều phương pháp từ xưa để lại
Ít tổ chức thi đấu
Sử dụng chế độ phong đẳng cấp dựa vào số lượng bài quyền và động tác cơ bản luyện tập được. Thời gian phong đẳng cấp khác nhau giữa các lưu phái, song nhìn chung đều lâu.
Karate truyền thống gồm các nhóm lưu phái sau:
Karate cổ truyền: Đây là các lưu phái Karate không bị thể thao hóa hay hình thức hóa. Các lưu phái này coi trọng các kỹ thuật chiến đấu và luyện tập như nguồn gốc ở Okinawa. Đó là các hệ phái Kojou-ryū (hoặc Kogusuku-ryū theo phương ngôn Okinawa), Honbu-ryū, Shintō-ryū, v.v…
Karate truyền thống theo nghĩa hẹp gồm các lưu phái đi theo dòng Karate thể thao hóa nhưng áp dụng quy tắc sundome, bao gồm bốn hệ phái chính là Gōjyu-ryū, Shōtōkan-ryū, Wadō-ryū, Shitō-ryū
Karate Okinawa: Các lưu phái Karate có cơ sở chính ở Okinawa như Okinawa Gōjyu-ryū, Shōrin-ryū (Tiểu Lâm Lưu), Shōrin-ryū (Thiếu Lâm Lưu), Shōrinji-ryū (Thiếu Lâm Tự Lưu), Gensei-ryū, Hojo-ryū, Isshin-ryū, Makiwara, Ryu-te, Ryuei-ryū, Shuri-ryū, Shōei-ryū, v.v…
Karate hiện đại
Chủ yếu phục vụ cho thi đấu thể thao gồm 2 phần Kata và Kumite. Về Kata(biểu diễn quyền) trong hơn 100 hệ phái của Karate thì có 8 bài quyền bắt buộc của 4 hệ phái chính được đưa vào sử dụng, đó là các hệ phái: GOJU-RYU, WADO-RYU, SHOTOKAN, SHITO-RYU.
Cụ thể 8 bài quyền bắt buộc của 4 hệ phái chính như sau:
Goju: (2 bài: Seipai và Saifa)
Shotokan: (2 bài: Jion và Kankudai)
Shito: (2 bài: Bassaidai và Seienchin)
Wado: (2 bài: Seishan và Chinto)
Ngoài 8 bài quyền bắt buộc 4 hệ phái này còn có các bài quyền tự chọn như sau:
GOJU-RYU có 10 bài, WADO-RYU có 10 bài,SHOTOKAN 21 bài, SHITO-RYU 43 bài.
Full Contact Karate
Full Contact Karate (romaji: Furu Kontakuto Karate) lại áp dụng quy tắc sử dụng đòn đánh trực tiếp vào đối phương khi thi đấu không hạn chế cường độ. Khi thi đấu có thể sử dụng hoặc không sử dụng các dụng cụ bảo vệ như mũ, áo giáp, găng tay, v.v… Tuy được phân biệt với Karate truyền thống ở chỗ sử dụng quy tắc trên, song chính quy tắc đánh trực tiếp vào người đối phương không hạn chế cường độ mới là quy tắc của Karate nguyên thủy ở Okinawa. Chính vì thế, lưu phái lớn nhất trong Full Contact Karate lấy tên là Kyokushin Karate (極真カラテ hay Cực chân Karate, Karate chính cống). Full Contact Karate phổ biến ở nước ngoài nhất là Mỹ hơn là ở Nhật Bản.
Thi nâng đẳng nâng đai trong Full Contact Karate ngoài dựa vào biểu diễn các bài kata còn dựa vào kết quả đấu kumite giữa những người cùng đăng ký thi lên đẳng.
Các Hệ phái Full Contact Karate chủ yếu là:
Kyokushin Karate (bao gồm các phân phái nhỏ là Kyokushin Kaikan ở Nhật Bản, The World Oyama Karate Organization ở Mỹ, WKO Shinkyokushinkai, Seido Kaikan ở Nhật, Ashihara Kaikan với ảnh hưởng quan trọng tới huấn luyện võ thuật của quân đội và cảnh sát ở Nhật, v.v…). Ở phương Tây, Kyokushin Karate còn được gọi là Knock-down Karate. Các phái này cho đánh trực tiếp vào người đối phương khi thi đấu, nhưng không được đánh vào đầu.
Các lưu phái cho phép đánh cả vào đầu đối phương khi thi đấu bao gồm ShinKarate, Zendokai, Daido Juku (hiện đã tách thành môn võ riêng tên Kudo) v.v…
Ngoài ra còn có một số môn phái Karate ở Mỹ trong đó Karate Chuyên nghiệp Toàn Mỹ mà thực chất là Karate kết hợp với các môn boxing, kickboxing nên có khi gọi là Karate tổng hợp.
Đẳng cấp, màu đai và danh hiệu
Chế độ đẳng cấp và màu đai của Karate là học từ Judo và bắt đầu thi hành từ năm 1924.
Ban đầu chỉ có đai đen (huyền đai) và đai trắng. Đai đen dành cho những người đã có qua quá trình luyện tập, còn đai trắng dành cho người mới bắt đầu. Giữa đai trắng và đai đen có từ 1 đến 3 đai nữa tùy theo từng lưu phái. Hay dùng nhất là đai màu xanh lá cây (màu trà Nhật). Ngoài ra tùy lưu phái có thể có đai vàng, đai đỏ, đai nâu, đai tím, v.v
… Trong đai đen lại có khoảng 10 đẳng, thấp nhất là nhất đẳng (nhất đẳng huyền đai). Những người đạt đến trình độ ngũ đẳng huyền đai đến lục đẳng huyền đai được gọi là renshi (錬士) ngũ đẳng và renshi lục đẳng, từ thất đẳng huyền đai đến bát đẳng huyền đai được gọi là kyoshi (教士) hoặc tatsushi (達士), từ cửu đẳng huyền đai trở lên gọi là hanshi (範士). Cũng có lưu phái không sử dụng các danh hiệu này.
Trang phục
.
Nguyên thủy, người luyện tập và đấu Karate để mình trần và mặc khố fundoshi. Ngày nay, người luyện tập Karate mặc áo màu trắng là học theo áo của môn Judo. Karate truyền thống thường mặc áo mà tay áo dài đến cổ tay, ống quần cũng dài đến cổ chân. Trong khi đó, Full Contact Karate mặc áo quần có ống tay áo ngắn hơn và ống quần dài hơn.
Thay đổi trong phương pháp huấn luyện
Khác với các môn võ khác của Nhật Bản được truyền thụ bằng tài liệu, Karate vốn được truyền thụ bằng miệng (khẩu truyền) và biểu diễn mẫu. Tuy nhiên, từ thời kỳ Taisho các cao thủ Karate ở Okinawa thành lập Câu lạc bộ Đường thủ Karate để cùng nhau nghiên cứu, trao đổi về Karate, thì bắt đầu xuất hiện các tài liệu hướng dẫn tập luyện Karate.
Các điều luật lệ
Theo tiếng Nhật gọi là Dojo kun, là một bộ các điều được đưa ra để các võ sinh Karate tuân theo. Những điều lệ này được áp dụng trong dojo hay còn gọi là phòng tập và trong cả cuộc sống đời thường.
Năm điều huấn thị của võ sư Funakoshi
Võ sư Funakoshi Gichin (tiếng Nhật: 船越 義珍) (1868-1957) đưa ra năm điều huấn thị đối với người luyện Karate chi phái Shotokan để rèn luyện đạo đức.
Nỗ lực hoàn thiện nhân cách, tiếng Nhật: ―、人格完成に努ろこと, phiên âm: Hitotsu, jinkaku kansei ni tsutomuru koto.
Luôn luôn chân thành, tiếng Nhật: ―、誠の道を守ること, phiên âm: Hitotsu, makoto no michi wo mamoru koto.
Nuôi dưỡng tinh thần nỗ lực, tiếng Nhật: ―、努力の精神を養うこと, phiên âm: Hitotsu, doryoku no seishin wo yashinau koto.
Trọng lễ nghĩa, tiếng Nhật: ―、礼儀を重んずること, phiên âm: Hitotsu, reigi wo omonzuru koto.
Kiềm chế các hành vi nóng nảy, tiếng Nhật: ―、血気の勇を戒むる, phiên âm: Hitotsu, kekki no yu wo imashimuru koto.
Hai mươi điều về Karate của sư tổ Funakoshi
1. Đừng quên Karate bắt đầu bằng Lễ, kết thúc cũng bằng Lễ.
2. Karate không nên ra đòn trước.
3. Karate phải giữ nghĩa.
4. Trước tiên phải biết mình rồi mới đến biết người.
5. Kỹ thuật không bằng tâm thuật.
6. Cần để tâm thoải mái.
7. Khinh suất tất gặp rắc rối.
8. Đừng chỉ có lúc nào ở võ đường mới nghĩ về Karate.
9. Rèn luyện Karate cả đời không nghỉ.
10. Biến mọi thứ thành Karate, như thế sẽ nắm được sự tuyệt vời của nó.
11. Karate giống như nước nóng, nếu ngừng hâm nóng thì sẽ nguội lạnh.
12. Đừng nghĩ thắng, hãy nghĩ đừng bại.
13. Chuyển hóa bản thân tùy theo đối phương.
14. Kết quả cuộc đấu phụ thuộc vào khả năng kiểm soát.
15. Hãy nghĩ chân tay người cũng là kiếm.
16. Hễ ra khỏi nhà là có cả triệu địch thủ.
17. Người mới tập có thể còn gượng gạo, nhưng về sau phải thật tự nhiên.
18. Phải tập kata thật chuẩn, nhưng nhớ là thực chiến sẽ khác đi.
19. Nhớ kiểm soát độ mạnh yếu của lực, độ linh hoạt của cơ thể, độ nhanh chậm của đòn thế.
20. Luôn chín chắn khi dùng võ. |
Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được Nhà nước chi trả, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế các nước thuộc khối Xô viết thời kỳ đó. Theo đó thì kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường chỗ cho khối kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Mặc dù kinh tế chỉ huy đã tồn tại ở Bắc Việt Nam thời kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986 trên toàn quốc, tức là trước Đổi Mới.
Trong nền kinh tế kế hoạch, phần lớn thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ, hàng hóa được phân phối theo tem phiếu do Nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế việc người dân tự do mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà nước độc quyền phân phối hầu hết các loại hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định bắt buộc và mặt hàng mà một gia đình nào đó được phép mua.
Bối cảnh lịch sử
Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam (1945–1975), kinh tế kế hoạch hóa đã được áp dụng. Vào thời kỳ đó thì mô hình này có những ưu điểm, đáp ứng nhu cầu thời chiến như sau:
Nhà nước có thể nhanh chóng huy động một lượng lớn tài nguyên, vốn, con người vào các ngành quan trọng.
Trong các thời kỳ khó khăn (chiến tranh, thiên tai), Nhà nước có thể nhanh chóng huy động các nguồn lực cho các lĩnh vực thiết yếu (sản xuất vũ khí, lương thực, thuốc men y tế), đồng thời cắt giảm tối đa các lĩnh vực không thiết yếu (hàng xa xỉ, mĩ phẩm...) để dành nguồn lực cho các lĩnh vực quan trọng hơn.
Tình trạng phân hóa giàu nghèo rất ít, người dân sống đoàn kết vì không phải tranh đoạt kinh tế với nhau, không phát sinh mâu thuẫn xã hội giữa người giàu - người nghèo.
Hạn chế được nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả vốn thường xảy ra trong thời chiến.
Vì Nhà nước đã bao cấp các nhu cầu thiết yếu nên người lính có thể yên tâm ra trận, không phải lo lắng về sinh kế cho gia đình, vợ con.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam là Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm bắt tình hình, gồm cả tình hình kinh tế. Ông công nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của kinh tế thị trường ở miền Nam. Tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III, ông đã phát biểu:
Tuy nhiên, đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy muốn tiếp tục áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa. Vì thế, Hội nghị cuối cùng quyết nghị: xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư sản dân tộc, xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ.
Theo lời kể của con trai Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông từng muốn duy trì kinh tế thị trường tại miền Nam và kinh tế bao cấp tại miền Bắc để đánh giá ưu khuyết điểm, từ đó chọn con đường tốt nhất. Ông cũng cử ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch sang Mỹ để đàm phán bình thường hóa quan hệ. Nhưng bối cảnh lịch sử lúc đó khiến Lê Duẩn không dễ thực hiện mục đích của mình. Chính phủ Mỹ từ chối bình thường hóa quan hệ và thực hiện cấm vận Việt Nam, trong khi những nhà lãnh đạo trong nước thời đó đều tin vào hiệu quả của kinh tế kế hoạch hóa mô hình Xô viết, bởi khi đó Liên Xô vẫn đang rất hùng mạnh. Khi Nam Tư đưa ra khái niệm kinh tế thị trường, họ đã bị khai trừ ra khỏi hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa vì bị coi là khôi phục chủ nghĩa tư bản, nếu Việt Nam làm theo thì có thể sẽ gặp hậu quả tương tự. Do đó, Lê Duẩn không thể thuyết phục những lãnh đạo khác nhất trí với những ý tưởng của ông. Nếu cứ cố làm thì sẽ gây chia rẽ trong nội bộ Đảng, mà cần phải làm từ từ để dần thuyết phục những người khác. Cho tới nay, nhiều người vẫn phê phán Lê Duẩn vì việc áp dụng nền kinh tế bao cấp suốt 10 năm, nhưng bối cảnh lịch sử lúc đó đã khiến ông không thể làm khác đi được.
Ngoài ra, ở miền Nam thời kỳ đó, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, đặc biệt là kiểm soát 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường miền nam. Xung đột với Khmer Đỏ (đồng minh của Trung Quốc) nổ ra, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc, những điều này khiến cho chính phủ Việt Nam lo ngại rằng Hoa kiều sẽ tiếp tay cho Trung Quốc để phá hoại. Việc quốc hữu hóa tài sản, thực hiện kinh tế bao cấp đã chấm dứt việc người Hoa kiểm soát nền kinh tế tại miền Nam.
Theo tiến sỹ Nguyễn Thị Hương, trong bối cảnh Việt Nam phải khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh, khôi phục kinh tế ở miền Bắc và xây dựng lại miền Nam bị chiến tranh tàn phá, việc giới lãnh đạo Việt Nam muốn tiếp tục sử dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa bao cấp là vì nó đã từng phát huy tác dụng tốt trong giai đoạn chiến tranh trước đó. Sau năm 1975, hoàn cảnh của Việt Nam rất khó khăn: Mọi miền đất nước đều bị chiến tranh tàn phá, hàng triệu nạn nhân chiến tranh cần được nuôi sống và hỗ trợ, chính sách cấm vận của Mỹ, rồi lại phải đương đầu với hai cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc nên phải chi tiêu rất nhiều cho quốc phòng, trong khi đó sự giúp đỡ của các nước đồng minh cũng không còn như trước, do vậy việc phân phối hàng hóa thiết yếu theo chế độ tem phiếu bao cấp vẫn cần tiếp tục duy trì trên phạm vi cả nước. Ngày nay nhiều người quen sống đầy đủ, chưa từng trải qua thời kỳ đó nên nghĩ thời bao cấp là “bất bình thường, đẩy nhân dân vào đói nghèo”, nhưng trong bối cảnh lịch sử khi đó, việc hạn chế các nhu cầu tiêu dùng cá nhân của hàng triệu người chính là biện pháp cần thiết để dồn nguồn lực cho sự nghiệp bảo vệ đất nước.
Kinh tế
Cơ chế quản lý kinh tế
Trước Đổi Mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định của cơ quan hành chính gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động.
Trong 10 năm bao cấp, Việt Nam thực hiện hai kế hoạch: 5 năm lần thứ II (1976-1980) và 5 năm lần thứ III (1981-1985). Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, nhà nước Việt Nam xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu.
Các hình thức bao cấp
Bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa
Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa, nhưng thường thấp hơn nhiều lần so với giá trị thực với chúng trên thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Công nhân lao động nặng được cấp 20 kg gạo mỗi tháng, trong khi cán bộ công chức chỉ được có 13 kg. Do gạo ít nên thường ăn độn thêm ngô, khoai, sắn, bo bo, phần gạo do trung ương cấp còn phần độn do địa phương phụ trách tăng gia thêm vào, như 13 kg gạo thì có 10 kg là độn khoai, sắn...Cho dù có tiền, hàng hóa rất khan hiếm, mà dù có tem phiếu người mua có thể xếp hàng vào mua nhưng đến lượt mình thì không còn hàng, đành về tay không. Hàng hóa thì ngoài phẩm chất kém, lượng hàng rất hạn chế, chỉ đủ dùng một thời gian ngắn, đến cuối tháng thì đã cạn kiệt, phải mua ở chợ đen.
Người ngoại quốc ở Việt Nam thì có quyền mua sắm một số mặt hàng ở cửa hiệu quốc doanh riêng biệt như Intershop ở Hà Nội, cung cấp một số mặt hàng đặc biệt như đồ hộp, rượu vang.
Nguồn thức ăn độn thêm chủ yếu từ Liên Xô, Ấn Độ cùng một số nước khác từng viện trợ. Ngoài ra cũng có một số thực hiện theo nghị định thư hàng đổi hàng. Bên cạnh đó, Việt Nam mượn 300.000 tấn lúa mì của Ấn Độ tuy nhiên do năng lực xay xát của Việt Nam cũng không thể làm bột kịp phải thương thuyết nhờ Ấn Độ xay xát giúp. Việt Nam nhận 70% lượng bột, phần còn lại xem như khấu hao xay xát và trả công cho họ cũng như Indonesia đồng ý bán nợ cho Việt Nam 200.000 tấn gạo. Bộ Lương thực nhờ ông Jean-Baptiste Doumeng - giám đốc Công ty Ipitrade, thành viên Đảng Cộng sản Pháp thân thiện với Việt Nam giúp đỡ tìm kiếm nguồn cung cấp rồi mua bằng tiền mặt 500.000 tấn gạo của Thái Lan để bán nợ lại cho Việt Nam.
Ngoài hàng tiêu dùng, dưới thời bao cấp nhà nước còn nắm cả việc phân phối nhà cửa. Tiêu chuẩn là mỗi người được 4 mét vuông. Những khu nhà tập thể giống như ở Liên Xô được xây lên trong thành phố và cấp cho cán bộ trung cấp và công nhân nhưng quản lý kém khiến khu đất công cộng bị lấn chiếm khiến khó nhận ra đâu là của chung, đâu là của riêng. Nhà cửa hư hỏng thì có Sở nhà đất lo sửa. Đời sống trong những khu tập thể này càng tồi tệ với việc chăn nuôi gia súc trong những căn hộ chật hẹp, mất vệ sinh. Đây cũng là một khía cạnh của thời bao cấp trong thành phố. Giá nhà ở các thành phố tương đối rẻ, nhưng công nhân viên chức vẫn không mua nổi vì thu nhập quá thấp.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu
Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu áp dụng sổ gạo vào khoảng năm 1960, lúc đầu là lương thực, sau thêm tem phiếu cho tất cả các mặt hàng nhu yếu phẩm. Trọng tâm của thời bao cấp là tem phiếu quy định loại hàng và số lượng người dân được phép mua, chiếu theo một số tiêu chuẩn như cấp bậc và niên hạn. Có diện được ưu đãi, cho phép ưu tiên mua dùng; diện khác thì không. Ví dụ như thịt lợn, người dân thường chỉ được mua 1,5 kg/tháng nhưng cán bộ cao cấp có quyền mua 6 kg/tháng. Pin, Vải vóc, phụ tùng xe đạp, đường cát, sữa đặc, chất đốt, nước mắm, mỡ, muối, tất cả đều có tem phiếu.
Tùy thuộc vào vị trí công việc, đặc thù nghề nghiệp mà cán bộ, công chức nhà nước cũng như người dân lao động được phát tem phiếu mua lương thực, thực phẩm với chế độ riêng.
Cán bộ cao cấp hưởng tiêu chuẩn đặc biệt A1; phiếu A dành cho bộ trưởng; thứ trưởng phiếu B; trưởng các cục, vụ, viện được hưởng phiếu C và có các cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tông Đản, Nhà thờ, Vân Hồ (Hà Nội)... Lúc bấy giờ dân gian có câu "Tông Đản là của vua quan/ Nhà thờ là của trung gian nịnh thần/ Đồng Xuân là của thương nhân/ Vỉa hè là của nhân dân anh hùng."
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
Không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho".
Vai trò của tiền tệ
Dưới thời bao cấp, do thiếu hàng hóa nên việc phân phối hàng hóa chủ yếu dựa vào hệ thống tem phiếu. Thị trường chợ đen vẫn tồn tại nhưng không phải kênh phân phối hàng hóa chính. Mua hàng gì thì có tem phiếu hàng đó. Một phần tiêu biểu của thời kỳ bao cấp là đồng tiền Việt Nam bị mất giá. Lương công nhân đôi khi cũng được trả bằng hiện vật vì giá trị đồng tiền cứ sụt dần. Nếu lấy đồng lương năm 1978 làm chuẩn thì số tiền đó năm 1980 chỉ là 51,1%. Đến năm 1984 thì còn 32,7%.
Thị trường tự do bị xem là bất hợp pháp và bị hạn chế nên hàng hóa lưu thông trên thị trường chợ đen ít và giá rất cao. Người dân, cán bộ công nhân viên thường bán hàng tiêu dùng mà họ không sử dụng ra thị trường chợ đen.
Nông nghiệp
Sau năm 1975, với tiêu chuẩn phân phối trung bình 9 kg gạo/người/tháng thì 4 triệu dân thành thị mỗi năm phải cần 530.000 tấn gạo. Nhưng số lượng này không được đảm bảo khi Nhà nước chỉ có thể huy động hơn 1 triệu tấn mỗi năm trên toàn quốc trong khi số gạo đó phải dùng để nuôi một quân đội thường trực lớn và phân phối cho dân thành thị. Chính vì thế nhà nước chỉ có thể cung cấp cho người dân thành thị một lượng lương thực và thực phẩm tối thiểu vừa đủ để họ duy trì cuộc sống. Trong thời bao cấp xảy ra một nghịch lý là người dân thành thị có khẩu phần ăn thấp hơn người dân nông thôn trong khi ở các quốc gia khác thành thị luôn có mức sống cao hơn nông thôn.
Giai đoạn 1976-1980
Sau khi Việt Nam thống nhất, nông nghiệp ở miền Bắc đã được hợp tác hóa, đa số nông dân đã gia nhập các hợp tác xã còn ở miền Nam phong trào hợp tác hóa phát triển nhanh nhưng không bền vững. Năm 1976, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 43 có nội dung "Xóa bỏ bóc lột ở nông thôn, đưa nông dân đi vào con đường hợp tác hóa nông nghiệp, tiến lên chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động". Sau khi chỉ thị này được ban hành, phong trào thành lập hợp tác xã nông nghiệp tại nông thôn được triển khai trên toàn miền Nam Việt Nam. Phần lớn nông dân được đưa vào các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Đến năm 1978, Hội đồng Chính phủ có quyết định về việc "xóa bỏ triệt để các hình thức bóc lột tư bản chủ nghĩa về ruộng đất và xúc tiến điều chỉnh ruộng đất ở nông thôn miền Nam" theo đó hộ nông dân nào có trên 0,5 ha sẽ bị nhà nước trưng mua với giá bằng hai năm giá trị sản lượng thường niên của vụ chính trên diện tích trưng mua. Sau khi bị trưng mua ruộng đất hộ nông dân có thể tham gia hợp tác xã. Các hộ nông dân không có ruộng có thể được cấp ruộng ở mức không quá 3000 m²/người, sau đó những người nhận đất được vận động vào hợp tác xã. Đến cuối năm 1979, ở Nam Trung Bộ có 91,6% số hộ nông dân vào hợp tác xã; ở Nam Bộ có 13246 tập đoàn sản xuất, trong đó có trên 4000 tập đoàn sản xuất khó khăn và dần tan rã. Nhà nước cũng tập thể hóa các loại máy cày, máy kéo dưới 26 mã lực, tổ chức thành các đội công cụ cơ giới trong hợp tác xã; những loại máy có công suất 26 mã lực trở lên được tổ chức thành tập đoàn máy nông nghiệp do Ủy ban Nhân dân huyện quản lý, quyền sở hữu máy thuộc tập thể và tổ viên được trả công theo lao động. Nhà nước còn tổ chức khai hoang được gọi là "mở vùng kinh tế mới" với sự tham gia của nhân dân và quân đội. Nhà nước Việt Nam vận động 1,5 triệu người dân thành thị đi xây dựng các vùng kinh tế mới nhằm giảm áp lực dân số tại các đô thị.
Tuy có nhiều cố gắng nhưng giai đoạn này đã không đạt được các chỉ tiêu đã đề ra. Sản lượng lúa năm 1976 đạt 11,827 triệu tấn, giảm dần đến năm 1978 chỉ còn 9,79 triệu tấn. Năm 1976, sản lượng lúa bình quân trên một người dân là 211 kg thì đến năm 1980 chỉ còn 157 kg. Kế hoạch năm năm 1976-1980 nâng tổng sản lượng lúa lên gần gấp đôi vào khoảng 21 triệu tấn, nhưng đến năm 1980 chỉ đạt 14,4 triệu tấn, tức đạt 68,5% kế hoạch. Còn sản lượng của cả vựa lúa miền Nam từ mức 1,9 triệu tấn năm 1976 cứ tụt dần xuống còn 0,99 triệu tấn năm 1977 và 0,64 triệu tấn năm 1979. Chăn nuôi heo đạt 58,5% kế hoạch, thủy sản đạt gần 40%, khai thác gỗ tròn đạt 45%, trồng rừng đạt 48%. Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu lương thực, phải nhập khẩu và nhận viện trợ lương thực từ các nước cộng sản đồng minh, từ Liên hiệp quốc cũng như từ phương Tây. Việt Nam đứng bên bờ vực của nạn đói và sẽ chết đói nếu mất mùa trên diện rộng.
Giai đoạn 1981-1985
Đến cuối năm 1985, Nam Bộ đã xây dựng được 363 hợp tác xã và 36.220 tập đoàn sản xuất, thu hút 74% hộ nông dân. Phong trào hợp tác xã cưỡng ép, thực hiện một cách vội vã dẫn đến 70% số hợp tác xã nông nghiệp thuộc loại trung bình và yếu kém, nhiều hợp tác xã tan rã, nông dân bỏ ruộng, không thiết tha với sản xuất nông nghiệp. Ở một số địa phương, có hợp tác xã đã khoán đến hộ gia đình với các hình thức khác nhau. Cuối thập niên 1970, nông nghiệp Việt Nam sa sút nghiêm trọng: năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi giảm, sản xuất không đủ tiêu dùng. Thu nhập và đời sống nông dân giảm sút. Trước tình hình nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu lương thực của quốc gia, từ những thí điểm hình thức khoán trong nông nghiệp ở Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Nghệ Tĩnh năm 1981 Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Chỉ thị 100-CT/TW - mở rộng hình thức khoán trong nông nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp, tạo đà cho phát triển và đem lại hiệu quả rõ rệt, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Năm 1985 đạt 18,2 triệu tấn lương thực. Nhà nước vận động 1,3 triệu người dân thành thị đi xây dựng các vùng kinh tế mới.
Công nghiệp
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12-1976 đã xác định “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng”.
Trong 10 năm 1975-1986, Nhà nước đã đầu tư vào ngành công nghiệp 65 tỷ đồng (tính theo giá 1982) trong đó, đầu tư cho công nghiệp nặng là trên 70% và công nghiệp nhẹ gần 30%. Đầu tư công nghiệp chiếm trên 40% tổng vốn đầu tư vào khu vực sản xuất với tốc độ tăng đầu tư cao hơn mức bình quân của toàn bộ khu vực sản xuất. Trong thời kỳ này, nhiều công trình tương đối lớn được xây dựng. Đến năm 1985, toàn ngành công nghiệp có 3.220 xí nghiệp quốc doanh, 36.630 cơ sở tiểu thủ công nghiệp với 2,653 triệu lao động, đã sản xuất được 105 tỷ đồng giá trị tổng sản lượng, làm ra 30% thu nhập quốc dân, 40% tổng sản phẩm xã hội và trên 50% giá trị sản lượng công - nông nghiệp.
Sau khi thống nhất
Năm 1976, toàn ngành công nghiệp Việt Nam có khoảng 520.000 cán bộ, công nhân. Trong đó, miền Bắc có 1.279 xí nghiệp, miền Nam có 634 xí nghiệp, Trung ương quản lý 540 xí nghiệp, địa phương quản lý 1.373 xí nghiệp. Miền Bắc có 3.000 cơ sở tiểu thủ công nghiệp với trên 600.000 lao động. Miền Nam có hàng trăm ngàn cơ sở tư nhân với 800.000 – 900.000 lao động. Tổng sản phẩm công nghiệp năm 1976 đạt giá trị tương đương 48 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1982). Trong đó, công nghiệp nặng chiếm 34,1% và công nghiệp nhẹ chiếm 65,9%; quốc doanh chiếm 62,7%, tiểu thủ công nghiệp 37,3% và công nghiệp trung ương 44,2%, công nghiệp địa phương 55,8%. Công nghiệp nặng chiếm tỷ trọng không lớn: năng lượng: 5,6%, luyện kim: 3,3%, cơ khí: 12,3%, hoá chất phân bón: 9,4%, vật liệu xây dựng: 6%. Công nghiệp nhẹ gồm lương thực và thực phẩm chiếm 33,6%, dệt da may nhuộm chiếm 14,5%. Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, công nghiệp chiếm tỷ trọng 10,6% lao động xã hội, 37% giá trị tài sản cố định, làm ra 38,4% tổng sản phẩm xã hội, 25,3% GDP và 53% giá trị sản lượng công nông nghiệp. Công nghiệp Việt Nam phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, các ngành lệ thuộc hoàn toàn là cơ khí, hoá chất, dệt… Thiết bị nhập từ nhiều nguồn, trong đó của 13 nước tư bản, chiếm 41%, của Liên Xô và Đông Âu 20%, trong nước chế tạo chỉ khoảng 13%. Hiệu quả sản xuất thấp, không sử dụng hết công suất (công nghiệp quốc doanh chỉ đạt 62% công suất) với mức tích luỹ trên 1 đồng vốn tài sản cố định của công nghiệp trung ương là 0,25 đồng, hệ số tích luỹ của 100 đồng vốn sản xuất là 33%, song chưa đạt mức ổn định của thời kỳ 1964-1965 của miền Bắc và năm 1970 của miền Nam. Ngày 12/5/1975, Việt Nam và Liên Xô ký hiệp định về việc Liên Xô viện trợ khẩn cấp không hoàn lại cho Việt Nam gồm xăng dầu, phân bón, lương thực, xe vận tải và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng khác.
Tại miền Bắc, sản lượng công nghiệp năm 1975 đã gấp 16,2 lần năm 1955, trong đó quốc doanh gấp 44,8 lần và tiểu thủ công nghiệp gấp 5,6 lần; công nghiệp nặng gấp 27,1 lần và công nghiệp nhẹ gấp 12,3 lần; công nghiệp trung ương gấp 76 lần và công nghiệp địa phương gấp 9,2 lần. Tuy vậy, miền Bắc có các ngành công nghiệp nặng còn non kém, chưa đủ khả năng phục vụ cho các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp chưa gắn với nông nghiệp; sản xuất chưa ổn định, chưa có cơ sở nguyên liệu trong nước; chưa tạo được tích luỹ và chưa có thị trường cho các sản phẩm của mình, nhất là công nghiệp nặng; trình độ quản lý còn thấp và năng suất thấp. Tại miền Nam, công nghiệp chỉ chiếm 8 - 10% tổng sản phẩm xã hội; phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ: 175 ngàn doanh nghiệp với 1,4 triệu lao động và 800 triệu USD giá trị tài sản cố định, khoảng 1% doanh nghiệp có quy mô từ 10 công nhân trở lên, còn lại là dưới 10 công nhân; công nghiệp nhẹ chiếm 90% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp miền Nam hoàn toàn phụ thuộc vào nước ngoài về trang thiết bị thay thế và nguyên liệu, khoảng 70 - 100% nguyên liệu là nhập khẩu. Từ sau 1970, hàng năm, công nghiệp miền Nam phải nhập 300 triệu USD nguyên liệu và 65 triệu USD thiết bị.
Giai đoạn 1976-1980
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ II (1976-1980) triển khai xây dựng chủ nghĩa xã hội và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước. Nhiệm vụ của công nghiệp trong kế hoạch này là tiếp tục thực hiện đường lối công nghiệp hoá và xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới công - nông nghiệp; khôi phục và phát triển sản xuất công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu trang thiết bị và các hàng hoá tiêu dùng cho nhân dân; thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp miền Nam, thống nhất quản lý và tổ chức công nghiệp trong cả nước. Kế hoạch đặt mục tiêu đến năm 1980 phải đạt: 1 triệu tấn cá biển, 10 triệu tấn than sạch, 5 tỷ kWh điện, 2 triệu tấn xi măng, 1,3 triệu tấn phân hoá học, 250 - 300 nghìn tấn thép, 3,5 triệu m³ gỗ, 450 triệu mét vải, 130 nghìn tấn giấy, sản lượng cơ khí tăng 2,5 lần so với năm 1975.
Ngày 04/9/1975, nhà nước Việt Nam tiến hành Chiến dịch cải tạo tư sản miền Nam lần I. Ngày 15/7/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 254/NQ/TW về những công tác trước mắt ở miền Nam, hoàn thành việc xoá bỏ giai cấp tư sản mại bản, tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Tháng 12/1976, nhà nước tiến hành Chiến dịch cải tạo tư sản lần II. Tiếp theo, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 3/1977 quyết định hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh miền Nam trong 2 năm 1977-1978. Trong năm 1976, tư sản mại bản và tư sản lớn trong công nghiệp miền Nam bị xoá bỏ. Năm 1978, nhà nước hoàn thành căn bản cải tạo tư sản công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam, trong đó có việc xoá bỏ sự kiểm soát kinh tế của tư sản người Hoa. Đến tháng 5/1979, tất cả các xí nghiệp công quản lúc đầu ở miền Nam đều đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Kết quả của các Chiến dịch cải tạo tư sản miền Nam là: có 1.354 cơ sở với 13 vạn công nhân được quốc hữu hoá, bằng 34% số cơ sở và 55% số công nhân; thành lập 498 xí nghiệp công tư hợp doanh với 13.000 công nhân, chiếm 14,5% số cơ sở và 5,5% số công nhân; thành lập 1.600 xí nghiệp hợp tác xã, gia công, đặt hàng với trên 7 vạn công nhân, chiếm 45% số doanh nghiệp và khoảng 30% công nhân. Số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh còn lại chiếm khoảng 6% về cơ sở và 5% về công nhân, trong tổng số xí nghiệp công nghiệp tư doanh. Thành lập trên 500 hợp tác xã và 5.000 tổ hợp tác với trên 250 nghìn lao động. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có 144 hợp tác xã với 27.634 lao động và 1.964 tổ hợp tác với 75.284 lao động, chiếm 71% tổng số lao động thủ công nghiệp của Thành phố. Các tỉnh khác có số thợ thủ công được tổ chức lại chiếm khoảng 40%. Tới cuối năm 1985, số cơ sở tiểu thủ công nghiệp miền Nam đã có 2.937 hợp tác xã chuyên nghiệp, 10.124 tổ sản xuất chuyên nghiệp, 3.162 hợp tác xã nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, 529 hợp tác xã kiêm và 920 hộ tư nhân cá thể. Nhà nước Việt Nam đánh giá họ mới chỉ xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ trong công nghiệp mà chưa xác lập được quan hệ sản xuất mới.
Nhờ những nỗ lực đầu tư vào nền công nghiệp của nhà nước nên tổng tài sản của ngành này giai đoạn 1976 - 1980 tăng thêm 13 tỷ đồng, bằng 35% giá trị tài sản cố định mới tăng thêm thuộc khu vực sản xuất. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn thấp. Sản xuất công nghiệp phát triển đều trong 3 năm đầu sau đó tụt xuống và có những năm giảm sút tuyệt đối. Trong đó, công nghiệp trung ương giảm sút nhiều nhất, hàng năm giảm 4%, do thiếu nguyên, vật liệu. Trong khi đó, công nghiệp địa phương, nhất là tiểu thủ công nghiệp vẫn tiếp tục phát triển, hàng năm tăng 6,7%, nhờ có cơ chế linh hoạt và khai thác được các tiềm năng nguyên liệu tại chỗ. Tính cả thời kỳ, tốc độ tăng bình quân chỉ có 0,6%/năm do đó tất cả các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đề ra đều không đạt. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu công nghiệp của kế hoạch 5 lần II (1976-1980): giá trị sản lượng cơ khí đạt 80%; sản lượng điện là 3.680 triệu kWh, đạt 73,6%; than đạt 52%; khai thác gỗ tròn là 1,577 triệu m³, đạt 45%; vải mặc là 182 triệu mét, đạt 40,4%; đánh bắt cá biển là 399 ngàn tấn, đạt 39,9%; giấy, bìa là 48,3 ngàn tấn, đạt 37%; xi măng đạt 641 ngàn tấn, đạt 32%; phân bón hoá học 367 ngàn tấn, đạt 28%; sản lượng thép là 62,5 ngàn tấn, đạt 25%.
Sau những nỗ lực phát triển kinh tế theo đường lối công nghiệp hoá trên, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm, thậm chí vào cuối thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ II những năm 1979-1980, sản xuất công nghiệp lâm vào trì trệ, suy thoái do sản xuất nhỏ, năng suất thấp, nền kinh tế không có khả năng tích lũy, trong khi nguồn lực viện trợ giảm dần, gặp khó khăn về cung ứng vật tư, nguyên liệu đầu vào cũng như chuyển đổi cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, lại thêm chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc và sự cấm vận bên ngoài. Ngoài ra sự thất bại trong việc phát triển công nghiệp thời kỳ này còn do quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp, chưa kết hợp kế hoạch với thị trường, chưa khai thác sử dụng các thành phần kinh tế tư sản dân tộc và cá thể ở miền Nam, chậm khắc phục trì trệ, bảo thủ trong xây dựng các chính sách cụ thể, trong đó có chính sách phát triển công nghiệp, có biểu hiện giản đơn trong cải tạo hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Giai đoạn 1981-1985
Trong giai đoạn này, Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985). Nhà nước điều chỉnh mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ; trong cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp đã chú ý hơn tới các hình thức thích hợp; trong cải tiến quản lý công nghiệp đã có những cải tiến theo hướng mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp và các hợp tác xã. Tuy nhiên, nhà nước vẫn giữ nguyên cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp do đó mặc dù có một số điều chỉnh trong đường lối và chính sách, một số cải tiến về quản lý kinh tế, song về cơ bản, mô hình kinh tế và công nghiệp hoá của Việt Nam vẫn chưa thay đổi.
Hội nghị trung ương lần thứ 6 khoá IV Ngày 26/9/1979 đề cập sự cần thiết quan tâm tới lợi ích vật chất của người lao động, tạo bước chuyển động trong sản xuất và đời sống, để tạo động lực cho sản xuất phát triển. Sau đó, ngày 21/1/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định 25/CP về “Một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh” nhằm cải tiến công tác kế hoạch hoá của xí nghiệp quốc doanh theo hướng ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch nhà nước giao, xí nghiệp được phép bán sản phẩm trên thị trường tự do, đa dạng hoá sản xuất, phát triển thêm sản phẩm và dịch vụ công nghiệp. Theo quyết định này, xí nghiệp có 3 kế hoạch gồm: kế hoạch A là chỉ tiêu pháp lệnh do Nhà nước quyết định và được Nhà nước đảm bảo cung cấp các yếu tố đầu vào, sản phẩm làm ra phải bán cho nhà nước theo giá quy định; kế hoạch B là kế hoạch do xí nghiệp tự lo vật tư để tận dụng khai thác các năng lực sản xuất của mình, sản phẩm làm ra phải bán cho nhà nước nhưng giá thành được tính theo giá mua vật tư; kế hoạch C là kế hoạch sản xuất phụ, do xí nghiệp tự tổ chức làm thêm để tận dụng lao động và cải thiện thu nhập cho công nhân, không nằm trong nhiệm vụ sản xuất được giao, sản phẩm làm ra được quyền tiêu thụ trên thị trường. Sau đó nhà nước ban hành Quyết định 26/CP ngày 21/1/1981 về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng các hình thức tiền thưởng trong các đơn vị kinh doanh của nhà nước. Sau đó, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 146/HĐBT ngày 25/8/1982, nhằm sửa đổi và bổ sung Quyết định 25/CP để phát huy mặt tích cực và kịp thời uốn nắn những lệch lạc phát sinh hay sự phát triển không đúng hướng. Các quyết định trên đã góp phần làm giảm bớt sự tập trung quan liêu bao cấp trong cơ chế quản lý nhà nước đối với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, tăng tính tự chủ của xí nghiệp và tạo thêm động lực cho xí nghiệp phát triển. Nhà nước cũng thành lập nhiều công ty và liên hiệp xí nghiệp trong công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp vật liệu xây dựng. Việc ban hành Điều lệ xí nghiệp mới có tác dụng mở rộng trách nhiệm, quyền hạn tự chủ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị cơ sở. Nhiều địa phương cũng đã giới thiệu mặt hàng mới và nơi giao dịch để các xí nghiệp có thể trao đổi vật tư, thiết bị thừa không dùng đến và biết được các khả năng hợp tác sản xuất của nhau.
Trong thời kỳ này sản xuất công nghiệp đã vượt qua suy thoái và khủng hoảng, bắt đầu phát triển nhờ những cải tiến quản lý theo tinh thần Quyết định 25/CP, và Quyết định 146/HĐBT và do một số công trình xây dựng quy mô trong giai đoạn 1976 - 1980 đã đi vào sản xuất, cung cấp các sản phẩm cho nền kinh tế. Đến năm 1985, toàn ngành công nghiệp đã sản xuất được 105 tỷ đồng, tăng trên 61,3% so với năm 1976 và 57,4% so với năm 1980. Trong thời kỳ 1981-1985, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 9,5%, trong đó công nghiệp nặng tăng 6,4% và công nghiệp nhẹ tăng 11,2%, công nghiệp trung ương tăng 7,8% và địa phương tăng 10,4%, tiểu thủ công nghiệp tăng 11,4%. Cơ cấu công nghiệp thay đổi như sau: công nghiệp nặng/công nghiệp nhẹ năm 1980 là 37,8%/62,2% và năm 1985 là 31,4%/68,6%; công nghiệp quốc doanh/ngoài quốc doanh năm 1980 là 60,2%/39,8% và năm 1985 là 56,3%/43,7%. Vào năm 1985, một số chỉ tiêu sản phẩm công nghiệp chủ yếu tính bình quân đầu người đạt: điện phát ra 87,2 kWh, so với 62,7 kWh (1976); than sạch đạt 93,9 kg, so với 115 kg (1976); xi măng đạt 25,1 kg, so với 15,1 kg (1976); gạch đạt 49 viên, so với 75 viên (1976); gỗ tròn đạt 0,024 m3, so với 0,031 m3 (1976); giấy đạt 1,31 kg, so với 1,53 kg (1976); muối ăn đạt 11,2 kg, so với 11,9 kg (1976); cá biển đạt 10,5 kg, so với 12,3 kg (1976); vải đạt 6,2 mét, so với 4,5 mét (1976). Sản lượng của nhiều mặt hàng giảm so với năm 1976, các mặt hàng khác tăng nhẹ trong khi dân số tăng mạnh khiến chất lượng sống của nhân dân đi xuống.
Thương nghiệp
Sau khi thống nhất
Tại miền Nam, thương nghiệp tư doanh khá phát triển. Nhà nước Việt Nam chủ trương cải tạo thương nghiệp tại miền Nam để tiêu diệt giai cấp tư sản mại bản, chấm dứt sự kiểm soát của người Hoa trong ngành bán buôn và bán lẻ; chống đầu cơ, làm ăn phi pháp, làm mất ổn định đời sống kinh tế - xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước cũng chú trọng xây dựng hệ thống thương nghiệp quốc doanh bằng cách điều động hàng vạn cán bộ ngành Thương mại vào miền Nam xây dựng các cơ quan quản lý cấp Sở, Ty đồng thời xây dựng mạng lưới thương mại ở các địa phương phía Nam. Tháng 5/1975, Tổng Nha Nội thương ra đời và ngày 26/5/1975 thành lập Sở Thương nghiệp thành phố Sài Gòn mới giải phóng. Tiếp sau đó là các Sở Thương nghiệp của các tỉnh, thành phố khác cũng được thành lập. Đến cuối năm 1976, đã thành lập được 2 tổng công ty và 10 công ty thương nghiệp bán buôn toàn miền Nam, gần 60 công ty thương nghiệp tỉnh với trên 500 cửa hàng.
Sau khi Việt Nam thống nhất, tại miền Nam lưu hành ba loại tiền khác nhau: tiền của chế độ Việt Nam Cộng hòa, tiền của Chính phủ cách mạng lâm thời và tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ban đầu, nhà nước chủ trương tạm thời hạn chế việc buôn bán giữa hai miền. Đến năm 1976, những hạn chế buôn bán được nhà nước xoá bỏ dần.
Giai đoạn 1976-1980
Trong thời kỳ này, công tác phân phối lưu thông gặp nhiều khó khăn. Thương nghiệp quốc doanh tuy phát triển nhanh, nhưng còn yếu, chưa có nhiều hàng hoá. Hoạt động thu mua và phân phối hàng hóa gặp nhiều khó khăn. Các hợp tác xã thương nghiệp mới được xây dựng, chưa đủ sức hỗ trợ cho thương nghiệp quốc doanh thu mua, nắm nguồn hàng, phân phối bán lẻ và chi phối thị trường. Thương nghiệp tư nhân chưa được quản lý tốt, công tác quản lý thị trường tự do còn yếu.
Đầu năm 1978, nhà nước thực hiện việc đổi tiền lần thứ 2 để thống nhất tiền tệ trong cả nước, thống nhất thị trường hai miền và thống nhất công tác lãnh đạo thương mại trong cả nước. Thương nghiệp quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Lưu thông hàng hóa giữa hai miền tăng lên. Ngoại thương tăng nhờ nhà nước đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Từ cuối năm 1978 trở về sau do Việt Nam đưa quân vào Campuchia, Mỹ và một số nước khác thực hiện chính sách cấm vận, phân biệt đối xử. Họ ngừng viện trợ và đầu tư vào Việt Nam, ngừng các khoản tín dụng đã cam kết, thậm chí phá hoại nền kinh tế Việt Nam. Trong lúc đó lại xảy ra chiến tranh ở biên giới Tây - Nam và phía Bắc gây khó khăn và mất cân đối nhiều mặt cho nền kinh tế. Thị trường biến động, giá cả hàng hoá tăng nhanh. Quản lý thương mại vẫn mang nặng tính chất quan liêu bao cấp, tỏ ra kém hiệu quả.
Năm 1977-1978, do nông nghiệp chịu ảnh hưởng của thiên tai, công tác thu mua nông sản không đạt yêu cầu. Công nghiệp thiếu nguyên liệu, vật tư, nhiên liệu. Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 2 (1976- 1980) đạt mức thấp, quỹ hàng hoá của nhà nước không đáp ứng nhu cầu, nhiều mặt hàng thiết yếu chỉ bảo đảm cung cấp được khoảng 50% tiêu chuẩn định lượng được phân phối bằng tem phiếu. Ở miền Nam, số người làm nghề bán buôn và dịch vụ tăng nhanh. Tư thương nắm quyền chi phối nhiều loại hàng hoá tiêu dùng. Thương nghiệp quốc doanh không làm chủ được thị trường hàng nông sản – thực phẩm. Đối với hàng tiêu dùng bán lẻ cung cấp, thương nghiệp quốc doanh đã trở thành kho hàng phân phối theo định lượng, ngân sách phải bù lỗ nặng nề. Giá hàng công nghiệp không điều chỉnh theo cung cầu, nhất là hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Hoạt động xuất nhập khẩu theo cơ chế kế hoạch tập trung, Nhà nước độc quyền ngoại thương, đối tác thương mại chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa với cơ chế nghị định thư. Cả nước chỉ có khoảng 30 đơn vị, công ty nhà nước hoạt động xuất, nhập khẩu, với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu rất thấp (bình quân xuất khẩu theo đầu người chỉ ở mức dưới 10 rúp/người, trong đó 70% kim ngạch xuất khẩu thuộc khu vực đồng rúp). Hoạt động xuất nhập khẩu trì trệ, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng nề kéo dài. Cơ chế thu bù chênh lệch ngoại thương đã làm cho ngân sách nhà nước bù lỗ xuất khẩu ngày một tăng lên. Mức giá trong nước đối với hàng nhập khẩu thấp hơn giá vốn vì vậy nhà nước phải hạn chế các nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật tư nguyên liệu, hàng tiêu dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mà ở thời kỳ này, hầu hết các mặt hàng cung ứng cho thị trường trong nước phải thông qua nhập khẩu. Cân đối tiền – hàng và cung – cầu một số mặt hàng thiết yếu bị mất cân đối nghiêm trọng. Hoạt động xuất nhập khẩu còn bị tác động tiêu cực bởi cơ chế tỷ giá ngoại tệ được thực hiện theo giá kết toán nội bộ với giá trị của đồng Việt Nam cao gấp nhiều lần so với giá trị thực; sự xơ cứng trong việc định giá vật tư, nguyên liệu, hàng hoá xuất, nhập khẩu; các tổng công ty xuất nhập khẩu được phân công theo ngành hàng không gắn nhập khẩu với xuất khẩu; ngân sách hàng năm phải chi ra một khoản tiền lớn để bù lỗ cho hoạt động xuất, nhập khẩu.
Giai đoạn 1981-1985
Hội nghị trung ương 6 khoá IV (tháng 8/1979) đã cho phép xí nghiệp bán phần sản phẩm vượt kế hoạch cho Nhà nước hoặc bán trên thị trường tự do. Nhà nước điều chỉnh thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại hệ thống phân phối trong hệ thống hợp tác xã nông nghiệp, bỏ phân phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động… Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, có địa phương đã thực hiện thí điểm mô hình theo cơ chế: “mua cao, bán cao” thay cho “mua cung, bán cấp”; bù giá vào lương. Tuy nhiên, vẫn có khuynh hướng muốn quay lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12/1983) vẫn xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, và chủ trương phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá; bảo đảm cung cấp đủ 9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn lương; lập các cửa hàng cung cấp…
Hội nghị trung ương 8 khoá V (6/1985) chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh tế. Tháng 9/1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền được thực hiện làm cho “giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không tốt đến nhiều hoạt động kinh tế - xã hội”. Lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã ở mức ba con số trong nhiều năm, đỉnh cao là 774,7% năm 1986. Sự chênh lệch giữa giá và lương, giữa lương danh nghĩa và lương thực tế quá lớn nên đầu năm 1986, lại phải lùi một bước: thực hiện chính sách 2 giá. Lưu thông tiền tệ cuối năm 1984 bằng 8,4 lần cuối năm 1980.
Văn hóa, xã hội, giáo dục và y tế
Văn hóa
Người dân ít được tiếp xúc văn hóa phương Tây, văn học, phim, nhạc... đều được kiểm soát, được xem là gần gũi quần chúng và có giá trị nghệ thuật. Văn học được lưu hành chủ yếu là văn học cổ điển, văn học Nga, văn học xã hội chủ nghĩa, văn học cánh tả, văn học hiện thực phê phán, hiện thực xã hội chủ nghĩa và lãng mạn tích cực; các trường phái được xem là "tiêu cực", "rẻ tiền" không được phép lưu hành. Văn chương chủ yếu tuyên truyền cho chủ nghĩa xã hội - cộng sản, tinh thần yêu nước, tinh thần tập thể, yêu lao động, tinh thần quốc tế.
Âm nhạc được cho phép bao gồm nhạc cổ điển phương Tây như giao hưởng, opera; dân ca và nhạc đỏ. Nhạc tiền chiến, nhạc vàng, nhạc trẻ, ca trù, chầu văn và phần lớn âm nhạc từ các nước tư bản đều bị cấm, Cuối thời bao cấp, nhạc nhẹ được cho phép.
Phim chỉ có phim nhựa, chưa có phim truyền hình, chủ yếu chiếu rạp, lưu động và phát một số buổi nhất định trên truyền hình. Cuối thời bao cấp, phim thương mại được chấp nhận ở mức độ nhất định. Các phim nước ngoài được trình chiếu chủ yếu là phim Liên Xô và các phim các nước xã hội chủ nghĩa (phim Trung Quốc bị cấm sau chiến tranh biên giới năm 1979), ngoài ra còn có phim các nước Pháp, Mỹ, Anh, Ấn Độ,... Các phim Việt Nam chủ yếu tuyên truyền chiến đấu, sản xuất, một số tác phẩm văn học hiện thực phê phán trước 1945 được chuyển thể.
Nhà nước chú trọng chống mê tín dị đoan, phổ biến khoa học. Báo chí không có quảng cáo thương mại. Các tờ báo rất giống nhau về quan điểm, tư tưởng, chỉ khác là phục vụ cho các đối tượng khác nhau, không chạy theo lợi nhuận và được bao cấp. Các văn nghệ sĩ sinh hoạt trong các cơ quan tổ chức của nhà nước, được nhà nước trả lương như công chức.
Xã hội
Thời bao cấp tại Việt Nam cũng là thời kỳ khép kín và nghi kị về mặt xã hội và chính trị đối với người nước ngoài. Mặc dù không có luật chính thức, nhưng nhà nước khá thận trọng với người phương Tây, người nước ngoài vì khác biệt tư tưởng và các vấn đề an ninh. Người Việt phần lớn không được tiếp xúc với người ngoại quốc, ai vi phạm sẽ bị công an tra hỏi. Du lịch không được quan tâm, xuất nhập cảnh rất gắt gao. Sự thiếu thốn thời bao cấp khiến nạn ăn cắp vặt nảy sinh. Phân hóa giàu nghèo rất thấp. Giáo dục, y tế được bao cấp dù khá nghèo nàn về trang thiết bị. Học sinh được đi học miễn phí, sinh viên ra trường đều có việc làm nhưng chịu sự phân công của nhà nước, không được tự lựa chọn công việc, không bị thất nghiệp. Thi đại học rất khó, đòi hỏi tiêu chuẩn học lực cao. Tính cộng đồng trong xã hội cao. Không có nhiều loại hình giải trí, nhưng con người ít chịu áp lực của công việc và nhu cầu vật chất hơn so với thời kỳ Đổi Mới.
Giáo dục
Thành tựu giáo dục trong thời kỳ này là phát triển hệ thống giáo dục phổ thông đại trà đến tận cấp xã; mỗi xã, phường đều có trường phổ thông cấp I hoặc trường phổ thông cấp I-II; tập trung cho công tác bổ túc văn hóa và xóa mù chữ trong độ tuổi đi học; mỗi quận, huyện và thị xã có trường bổ túc văn hóa cho cán bộ cơ sở. Tuy nhiên đi kèm với sự phát triển mạnh về mặt số lượng, chất lượng hệ thống giáo dục lại đi xuống vì tình trạng thiếu trường lớp, thiếu giáo viên được đào tạo tốt, lương giáo viên bị hạ thấp, việc thi cử bị buông lỏng, bệnh thành tích phát triển.
Khi hai miền Nam và Bắc thống nhất năm 1976 thì khuôn mẫu giáo dục ở miền Bắc tiếp cận với hệ thống giáo dục đã được thiết lập ở miền Nam; cụ thể nhất là học trình 10 năm tiểu học và trung học ở miền Bắc phải phù hợp với học trình 12 năm ở trong Nam. Hai hệ thống này song hành; Miền Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam giữ hệ 12 năm từ năm 1976 đến năm 1981.
Đến năm 1981, thì cho áp dụng hệ 11 năm cho miền Bắc (thêm lớp 5). Năm 1992-1993, hệ thống 11 năm phổ thông của miền Bắc được thay đổi từ 11 năm sang 12 năm (thêm lớp 9). Từ đó đến nay toàn bộ hệ thống là 12 năm thống nhất cả nước. Cuộc cải cách giáo dục bắt đầu từ năm 1981: Hệ thống giáo dục chuyển từ 10 năm sang 12 năm (bỏ lớp vỡ lòng), kéo theo sự đổi mới chương trình sách giáo khoa và cải tiến chữ viết. Do dư luận xã hội phản ứng mạnh, ngành giáo dục dần quay lại chữ viết cũ. Do tinh thần chỉ đạo hệ thống giáo dục Việt Nam phải bắt kịp trình độ Liên Xô và các nước Đông Âu, khiến chương trình giảng dạy của cuộc cải cách giáo dục năm 1981 bị chính các nhà trường kêu quá tải. Với ý nghĩa nội dung bao giờ cũng quyết định phương pháp, nếu sách giáo khoa bị quá tải thì không có một phương pháp nào ngoài phương pháp truyền thụ một chiều cho kịp với nội dung sách giáo khoa. Ngoại ngữ chủ yếu là tiếng Nga, còn tiếng Anh một thời bỏ, đến 1985 lại được cho học.
Y tế
Thời bao cấp, người dân đi khám chữa bệnh hay mua thuốc rồi mang hóa đơn về cơ quan hay bệnh viện thanh toán mà không mất tiền, song điều kiện chữa trị vô cùng thiếu thốn. Bao cấp nhưng trong bối cảnh Nhà nước thiếu kinh phí, sản xuất không phát triển nên bệnh viện gặp vô vàn khó khăn. Các loại thuốc men, trang thiết bị y tế… chủ yếu được viện trợ. Bộ Y tế có cả Vụ kế hoạch, Cục Vật tư làm nhiệm vụ phân chỉ tiêu cho các bệnh viện. Ví dụ: Bệnh viện Bạch Mai một năm được cấp bao nhiêu chiếu, chăn, đường, sữa, xăng dầu, thuốc men… Các bệnh viện thời bao cấp có quy mô nhỏ, chủ yếu kiểu nhà một tầng đến ba tầng. Thuốc men, thiết bị y tế không đủ đáp ứng nhu cầu một phần nhập khẩu, một phần được viện trợ từ các nước cộng sản.
Trì trệ và Đổi mới
Trì trệ
Trước năm 1975, mỗi năm Kinh tế Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng khoảng 200 triệu USD. Sau ngày thống nhất không lâu, Mỹ bao vây cấm vận, đặc biệt là tại miền Nam, các nhà xưởng vốn đã sử dụng phương tiện, máy móc sản xuất của Mỹ và phương Tây nên không có phụ tùng để tiếp tục hoạt động. Quy mô viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cũng giảm đi nhanh chóng, Liên Xô và Đông Âu dù vẫn còn giúp đỡ vài năm nữa, nhưng do trượt giá đồng tiền của họ nên lượng hàng hóa, nguyên liệu thực về nước chỉ còn phân nửa trước đây. Tất cả đã tác động rất mạnh vào nền kinh tế của đất nước. Quy mô xuất khẩu của miền Bắc (than, thiếc, đồ thủ công…) lúc này chỉ độ 200 triệu rúp mỗi năm. Lúc đó, trao đổi thương mại chủ yếu là với các nước trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Nhà nước độc quyền. Do bị Mỹ cấm vận kinh tế nên quan hệ mậu dịch với bên ngoài bị hạn chế, trong khi Liên Xô và Đông Âu lúc đó cũng gặp khó khăn nên không hỗ trợ được nhiều.
Nhà nước chú trọng phát triển công nghiệp nặng để xây dựng nền tảng kỹ thuật cho nền kinh tế trong khi công nghiệp nhẹ và nông nghiệp không được đầu tư đúng mức nên đã gây ra lãng phí lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã khan hiếm. Hệ quả là công nghiệp nặng không phát triển như mong muốn để trở thành đòn bẩy cho nền kinh tế, một số sản phẩm công nghiệp nặng không có nơi tiêu thụ, nhà máy hoạt động không hết công suất còn công nghiệp nhẹ và nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Chính sách chú trọng cào bằng và xây dựng các địa phương thành các đơn vị kinh tế tự chủ cùng việc ngăn cấm thị trường tự do dẫn đến hàng hóa không thể lưu thông, trong khi đó hệ thống thương nghiệp quốc doanh vốn nhỏ bé nên không đáp ứng nổi nhu cầu phân phối hàng hóa của nền kinh tế. Việc biến các địa phương thành các đơn vị kinh tế tự chủ cũng khiến nhà nước không thể liên kết các địa phương với nhau, phối hợp thế mạnh của các địa phương vào kế hoạch chung của quốc gia và tập trung các nguồn lực cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà nước chú trọng bảo đảm việc làm, nhưng số nhân khẩu lại vượt quá khả năng cung ứng việc làm của nền kinh tế, vì thế về sau phải có chính sách xuất khẩu lao động đi Đông Âu. Năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế rất thấp, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Nhiều chỉ tiêu bình quân đầu người năm 1985 vẫn thấp hơn năm 1976. Thu nhập quốc dân hàng năm tăng 3,7% trong khi dân số tăng 2,3%, tức là thu nhập bình quân đầu người chỉ tăng 1,4% mỗi năm. Thu nhập hàng năm chỉ đáp ứng được 80-90% nhu cầu, còn lại phải dựa vào viện trợ và vốn vay nước ngoài.
Việt Nam không có khả năng tiết kiệm do thu nhập quá thấp nên thiếu vốn để phát triển sản xuất. Đầu tư phát triển hoàn toàn dựa vào vốn vay và vốn viện trợ. Thu chi ngân sách phải dựa vào vốn vay và viện trợ nước ngoài. Trong giai đoạn 1976-1980, vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm đến 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng thu trong nước, 37,3% tổng chi ngân sách. Bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% phải bù đắp bằng phát hành giấy bạc dẫn đến siêu lạm phát vào năm 1986 với tốc độ tăng giá 774,7%. Công nghiệp đình đốn do thiếu nguyên liệu sản xuất vì bị bao vây cấm vận và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu, thiếu điện để vận hành máy móc, hệ thống máy móc lạc hậu và không có phụ tùng để thay thế khi bị hư hỏng. Hầu hết các loại hàng tiêu dùng đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất trong nước không đảm bảo được cho tiêu dùng. Trong giai đoạn 1976-1985 đã nhập 60 triệu mét vải và 1,5 triệu tấn lương thực. Hiệu quả đầu tư cho công nghiệp thời kỳ này thấp nên sản xuất tăng trưởng chậm và không ổn định. Nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước. Bộ máy nhà nước cồng kềnh và thiếu hiệu quả, tệ quan liêu bàn giấy phổ biến. Toàn bộ xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và nhiều nước khác đã sử dụng mô hình kinh tế chỉ huy để hiện đại hóa quốc gia, xây dựng nền tảng công nghiệp, nhưng Việt Nam không thể làm được điều đó vì Việt Nam không có nguồn lực để phát huy được thế mạnh của mô hình kinh tế này, mà còn phải hứng chịu những nhược điểm của nó.
Giữa thập niên 1980, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục khó khăn gay gắt. Sự trì trệ của nền kinh tế nảy sinh từ cuối thập niên 1970, do cải tạo tư sản ở miền Nam quá mức, do chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc kéo dài gần 10 năm, và càng gay gắt hơn khi Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường bằng chính sách cải cách Giá - lương - tiền bao gồm đổi tiền, tăng lương bằng cách in tiền vào năm 1985. Nhiều người gửi tiền tiết kiệm lâm vào cảnh bi đát do lạm phát phi mã xảy ra sau khi đổi tiền. Có người bán một con bò lấy tiền gửi tiết kiệm, sau khi đổi tiền chỉ mua được vài con gà. Việc ngăn cấm thị trường tự do khiến tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trở nên nặng nề. Có câu chuyện kể về mẹ già mang 5–10 kg gạo đi thăm con ở tỉnh khác, khi đến ranh giới tỉnh bị tịch thu, khóc lóc, van xin cũng không được. Những phiên chợ quê, khi đội quản lý thị trường đeo băng đỏ đến tịch thu thịt lợn do tư nhân mổ chui bán, chính những người dân quanh đó lại bảo vệ người bán thịt lợn, không ủng hộ đội quản lý thị trường của nhà nước. Thị trường thực phẩm, hàng tiêu dùng bị ngăn cấm trong khi nhà nước chỉ phân phối tem phiếu thịt giá thấp riêng cho cán bộ, công nhân viên (số lượng thật ra rất ít, khoảng 0,3-0,5 kg/người/tháng) và người dân ở thành phố (mỗi người 0,1 kg/tháng). Điều này khiến tình trạng khan hiếm hàng tiêu dùng kéo dài triền miên, và vật giá trên thị trường chợ đen tăng mạnh. Chất lượng sống của nhân dân đi xuống khiến sự bất mãn trong xã hội tăng lên, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam sa sút. Gần một triệu người vượt biên ra nước ngoài (chủ yếu là người Hoa) do ảnh hưởng bởi chiến tranh biên giới cũng như để tìm kiếm cơ hội kinh tế tốt hơn đã tạo ra một cuộc khủng hoảng lớn thu hút sự chú ý của dư luận thế giới lúc đó.
Giáo sư Trần Văn Thọ viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh: "Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất về kinh tế trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979, sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sống của người dân vô cùng khốn khó. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam... Nguy cơ thiếu ăn kéo dài và những khó khăn cùng cực khác làm phát sinh hiện tượng "phá rào" trong nông nghiệp, trong mậu dịch và trong việc quyết định giá cả lương thực đã cải thiện tình hình tại một số địa phương. Nhưng phải đợi đến đổi mới (tháng 12/1986) mới có biến chuyển thực sự. Do tình trạng đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam trong 10 năm trước đổi mới chỉ tăng 35%, trong thời gian đó dân số tăng 22%. Như vậy, GDP đầu người trung bình tăng chỉ độ 1% (mỗi năm)"
Nhà nước xem thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản dẫn đến không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Việt Nam đã sao chép mô hình kinh tế kế hoạch của Liên Xô mà không thật sự hiểu rõ ưu điểm và nhược điểm của mô hình này, không đủ năng lực quản lý kinh tế để phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ hiểu đơn giản xây dựng chủ nghĩa xã hội là quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, sau đó phát triển kinh tế theo kế hoạch giống như Liên Xô. Chính tư duy đơn giản đó dẫn đến thất bại, vì nội lực của Việt Nam quá yếu nên mô hình kinh tế kế hoạch hóa cũng không thể phát huy được tác dụng tập trung nội lực để đầu tư phát triển. Sự chủ quan duy ý chí, lạc hậu về lý luận, nhận thức sai cả lý luận và thực tiễn, muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền nông nghiệp lạc hậu; cường điệu vai trò của ý chí, nhiệt tình cách mạng mà xem nhẹ các quy luật kinh tế, lợi ích của người lao động; đề ra những mục tiêu, kế hoạch vượt quá khả năng thực tiễn đã khiến kinh tế Việt Nam lâm vào trì trệ.
Tại các nước áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch thành công nhất như Liên Xô, trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng dựa vào lao động và vốn thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Đặc biệt trong hoàn cảnh chiến tranh thì nó cho phép đất nước tập trung mọi nguồn lực cho quân đội và quốc phòng. Nhưng trong thời bình thì nó lại triệt tiêu nhu cầu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, không tạo được động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Vì vậy Liên Xô trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh nhất dưới sự lãnh đạo của Stalin đã phải áp dụng kỷ luật lao động cứng rắn (bao gồm cả hình phạt tù hoặc đưa đến các trại lao động cải tạo đối với người lao động tự ý nghỉ việc) đi kèm với các biện pháp động viên khen thưởng để chống lại tình trạng trì trệ, thiếu trách nhiệm. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có Việt Nam, lâm vào tình trạng trì trệ.
Đổi mới
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi tình trạng trì trệ của kinh tế - xã hội, từ năm 1983, Việt Nam đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An; Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (năm 1985) về giá - lương - tiền; thực hiện Nghị định số 25 - CP và Nghị định số 26 - CP của Chinh phủ... Đó là những căn cứ thực tế để Đảng Cộng sản Việt Nam đi đến quyết định thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định "Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng, và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội". Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
Việc thực hiện chính sách Đổi Mới giúp Việt Nam giải phóng nội lực bị kiềm hãm và thu hút các nguồn lực bên ngoài. Quá trình đổi mới giúp Việt nam đạt nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo tuy nhiên mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 đã thất bại do nền công nghiệp Việt Nam chỉ phát triển lĩnh vực xây dựng, khai khoáng và gia công, còn lĩnh vực chế biến chế tạo do không được tập trung đầu tư nên vẫn còn yếu.
Chú thích |
Trơn trượt là hiện tượng các vật có bề mặt tiếp xúc với nhau bị di chuyển so với nhau, do lực tác động vào các vật lớn hơn lực ma sát tĩnh giữa các bề mặt.
Các bề mặt có hệ số ma sát, tỷ số giữa trọng lượng của vật và lực đủ để kéo vật đó trượt trên bề mặt mà nó tiếp xúc, càng thấp thì khả năng xảy ra trơn trượt càng cao.
Hệ số ma sát nằm trong dải từ 0 đến 1, phụ thuộc vào các yếu tố:
Vật liệu tạo nên các bề mặt
Hình dạng (độ gồ ghề) của các bề mặt
Lực nén vuông góc giữa các bề mặt
Diện tích tiếp xúc
Các chất phụ gia phủ trên bề mặt như chất bôi trơn (nước hay dầu) hoặc chất bám dính (keo dính).
Trong xây dựng
Khả năng xảy ra trơn trượt được quan tâm khi thiết kế các bề mặt dành cho người sử dụng; như trong các công trình dân dụng (văn phòng cao ốc, nhà vệ sinh, phòng tắm, bể bơi, nhà trẻ, siêu thị, bệnh viện, trường học...) hay công trình công nghiệp (nhà máy, cầu cảng, giàn khoan dầu khí...).
Hệ số ma sát giữa giày dép thông thường với nền gạch men thường vào khoảng 0,5. Các dốc thoải thường cần có hệ số ma sát với giấy dép hay bánh xe vào khoảng 0,8. Hệ số này có thể giảm mạnh nếu có lớp chất lỏng như nước hay dầu mỡ phủ lên bề mặt tiếp xúc.
Các tiêu chuẩn an toàn trơn trượt hiện được áp dụng trên thế giới có ADA , OSHA 1910/1926, ANSI A1264.2, NFPA 1901, UL, ASTM. Theo các tiêu chuẩn trên, mức độ nguy hiểm trơn trượt được đánh giá như sau:
Với các bề mặt có hệ số ma sát thấp và nguy cơ trượt ngã cao, việc xảy ra trượt ngã còn phụ thuộc vào bản năng giữ thăng bằng và trạng thái tâm lý có chủ động nhận biết nguy cơ hay không.
Chú thích |
Số là một đối tượng toán học được sử dụng để đếm, đo lường và đặt danh nghĩa. Các ví dụ ban đầu là các số tự nhiên 1, 2, 3, 4, v.v.. Một biểu tượng đại diện cho một số được gọi là một chữ số. Ngoài việc sử dụng để đếm và đo, các chữ số thường được sử dụng cho việc đánh nhãn (như với số điện thoại), để đặt hàng (như với số sê-ri) và cho việc mã hóa (như với số ISBN). Trong cách sử dụng phổ biến, số có thể đề cập đến một biểu tượng, một từ hoặc một trừu tượng toán học.
Trong toán học, khái niệm về số đã được mở rộng qua nhiều thế kỷ để bao gồm 0, số âm, số hữu tỉ như và , các số thực như và , và các số phức, là việc mở rộng các số thực với căn bậc hai của (và các kết hợp của nó với các số thực bằng cách cộng và nhân). Tính toán với những con số được thực hiện với các phép tính số học, các phép tính quen thuộc nhất là cộng, trừ, nhân, chia và lũy thừa. Việc nghiên cứu hoặc sử dụng của chúng được gọi là số học. Thuật ngữ tương tự cũng có thể đề cập đến lý thuyết số, môn nghiên cứu các tính chất của số.
Bên cạnh những ứng dụng thực tế của chúng, những con số có ý nghĩa văn hóa trên toàn thế giới. Ví dụ, trong xã hội phương Tây, số 13 được coi là không may mắn và "một triệu" có thể biểu thị "rất nhiều". Mặc dù bây giờ nó được coi là giả khoa học, khoa nghiên cứu số, với niềm tin vào một ý nghĩa huyền bí của các con số, đã thấm nhuần vào các tư tưởng cổ đại và trung cổ. Số học ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của toán học Hy Lạp, kích thích việc tìm tòi giải quyết nhiều vấn đề trong lý thuyết số mà vẫn còn được quan tâm cho đến ngày nay.
Trong thế kỷ 19, các nhà toán học bắt đầu phát triển nhiều khái niệm trừu tượng khác nhau có chung các tính chất nhất định của các con số và có thể được coi là mở rộng khái niệm này. Trong số đầu tiên là các số siêu phức, bao gồm các phần mở rộng hoặc sửa đổi khác nhau của hệ thống số phức. Ngày nay, các hệ thống số được coi là ví dụ đặc biệt quan trọng của các loại tổng quát hơn nhiều như vòng và trường, và việc áp dụng thuật ngữ "số" là một vấn đề quy ước, không có ý nghĩa cơ bản.
Lịch sử
Di tích đầu tiên của việc sử dụng số
Xương và các hiện vật khác đã được phát hiện với những vết cắt trên chúng mà nhiều người tin rằng đó là các dấu tích cho việc sử dụng số. Những dấu tích này có thể đã được sử dụng để đếm thời gian trôi qua, như số ngày, chu kỳ mặt trăng hoặc ghi chép số lượng, như số lượng động vật.
Hệ thống đếm này không có khái niệm về giá trị vị trí (như trong ký hiệu thập phân hiện đại), điều này hạn chế khả năng biểu diễn các số lớn của nó. Tuy nhiên, nó được xem là loại hệ thống số trừu tượng đầu tiên.
Hệ thống đầu tiên được biết đến với giá trị vị trí đó là hệ đếm cơ số 60 của vùng Lưỡng Hà (3400 TCN) và hệ đếm cơ số 10 cổ xưa nhất từng được biết đến là vào năm 3100 trước Công Nguyên tại Ai Cập.
Chữ số
Số nên được phân biệt với chữ số, là các ký hiệu được sử dụng để đại diện cho số. Người Ai Cập đã phát minh ra hệ thống chữ số được mã hóa đầu tiên, và người Hy Lạp theo sau bằng cách ánh xạ các số đếm của họ lên bảng chữ cái Ionia và Doric. Chữ số La Mã, một hệ thống sử dụng kết hợp các chữ cái trong bảng chữ cái La Mã, vẫn chiếm ưu thế ở châu Âu cho đến khi hệ thống chữ số Ả Rập vượt trội vào khoảng cuối thế kỷ 14, và hệ thống chữ số Ả Rập - Hindu vẫn là hệ thống phổ biến nhất để biểu thị các số trên thế giới ngày nay. Điểm mấu chốt cho tính hiệu quả của hệ thống đó là biểu tượng cho số không, được các nhà toán học Ấn Độ cổ đại phát triển vào khoảng năm 500 sau Công nguyên.
Số không
Tài liệu đầu tiên được biết đến đã sử dụng số 0 là tác phẩm Brāhmasphuṭasiddhānta năm 628, tác phẩm chính của nhà toán học Ấn Độ Brahmagupta. Ông coi 0 là một số và thảo luận các phép tính liên quan đến nó, bao gồm cả phép chia. Vào thời điểm này này (thế kỷ 7) khái niệm này rõ ràng đã đến Campuchia dưới dạng chữ số Khmer và tài liệu cho thấy ý tưởng này sau đó lan sang Trung Quốc và thế giới Hồi giáo.
Tác phẩm Brahmasphuṭasiddhanta là cuốn sách đầu tiên đề cập đến số 0 dưới dạng số, do đó Brahmagupta thường được coi là tác giả đầu tiên hình thành khái niệm về số 0. Ông đã đưa ra các quy tắc sử dụng số 0 với số âm và số dương, chẳng hạn như 'Số 0 cộng với số dương là số dương và số âm cộng với số 0 là số âm'. Brahmasphutasiddhanta là văn bản được biết đến sớm nhất đã coi số 0 là số theo đúng nghĩa của nó, thay vì chỉ đơn giản là một chữ số giữ chỗ để biểu thị một số khác như được người Babylon đã quan niệm hoặc như một biểu tượng cho việc thiếu số lượng như Ptolemy và người La Mã đã làm.
Việc sử dụng số 0 như một số nên được phân biệt với việc sử dụng số này dưới dạng số giữ chỗ trong các hệ thống giá trị theo vị trí. Nhiều văn bản cổ được sử dụng 0. Các văn bản Babylon và Ai Cập đã sử dụng nó. Người Ai Cập đã dùng từ nfr để biểu thị số dư là không trong kế toán kép. Các văn bản Ấn Độ đã sử dụng một từ tiếng Phạn hoặc để chỉ khái niệm về khoảng trống. Trong các văn bản toán học, từ này thường đề cập đến số không. Trong một kiểu tương tự, Pāṇini (thế kỷ thứ 5 TCN) đã sử dụng toán tử null (zero) trong Ashtadhyayi, một ví dụ ban đầu về ngữ pháp đại số cho ngôn ngữ tiếng Phạn (cũng xem thêm êngala).
Có những cách sử dụng khác của số 0 trước Brahmagupta, mặc dù các tài liệu này không đầy đủ như trong Brahmasphutasiddhanta.
Hồ sơ cho thấy người Hy Lạp cổ đại dường như không chắc chắn về tình trạng của 0 như một con số: họ tự hỏi "làm thế nào 'không có gì' có thể là một cái gì đó?" dẫn đến một câu hỏi triết học thú vị, vào thời Trung cổ, đã có các lập luận tôn giáo về bản chất và sự tồn tại của số 0 và chân không. Những nghịch lý của Zeno of Elea phụ thuộc một phần vào sự giải thích không chắc chắn của số 0. (Người Hy Lạp cổ đại thậm chí đặt câu hỏi liệu có phải là một số.)
Người Olmec ở miền trung nam México bắt đầu sử dụng biểu tượng cho số 0, khắc trên vỏ sò, ở Thế giới mới, có thể vào thế kỷ 4 TCN nhưng chắc chắn hơn là vào năm 40 TCN, đã trở thành một phần không thể thiếu của chữ số Maya và lịch Maya. Số học Maya sử dụng cơ số 4 và cơ số 5 viết theo cơ số 20. Sanchez năm 1961 báo cáo một bàn tính theo cơ số 4 và cơ số 5 dạng ngón tay.
Vào năm 130 sau Công nguyên, Ptolemy, chịu ảnh hưởng của Hipparchus và người Babylon, đã sử dụng một biểu tượng cho số 0 (một vòng tròn nhỏ có thanh ngang dài) trong một hệ thống số cơ số 60 bằng cách sử dụng các chữ cái Hy Lạp thay cho chữ số. Bởi vì nó được sử dụng một mình, không chỉ là một vị trí giữ chỗ, số 0 Hy Lạp này là tài liệu đầu tiên sử dụng số 0 thực sự trong Thế giới cũ. Trong các bản thảo Byzantine sau này của Syntaxis Mathematica (Almagest), số 0 Hy Lạp đã biến thành chữ Hy Lạp Omicron (nghĩa là 70).
Một số 0 có thực khác được sử dụng trong các bảng cùng với số La Mã vào năm 525 (được Dionysius Exiguus sử dụng lần đầu tiên), nhưng như một từ, có nghĩa là không có gì, không phải là một biểu tượng. Khi phép chia có số dư 0, tác giả sử dụng chữ , cũng có nghĩa là không có gì. Những số không thời trung cổ đã được sử dụng bởi tất cả các người tính toán của thời trung cổ trong tương lai (máy tính ngày Phục Sinh). Một cách sử dụng riêng biệt của số 0 bằng cách lấy chữ cái đầu, N, đã được Bede hoặc một đồng nghiệp sử dụng trong một bảng các chữ số La Mã vào khoảng năm 725, và đây là một biểu tượng số 0 thực sự.
Số âm
Khái niệm trừu tượng về số âm được công nhận sớm nhất là 100-50 TCN tại Trung Quốc. Cửu chương toán thuật chứa các phương pháp để tìm diện tích của các hình; que màu đỏ đã được sử dụng để biểu thị hệ số dương, que màu đen cho các hệ số âm. Tài liệu tham khảo đầu tiên trong một tác phẩm phương Tây là trong thế kỷ 3 sau công nguyên ở Hy Lạp. Diophantus đã đề cập đến phương trình tương đương với (nghiệm là số âm) trong Arithmetica, nói rằng phương trình đã cho kết quả vô lý.
Trong những năm 600, số âm được sử dụng ở Ấn Độ để thể hiện các khoản nợ. Tài liệu tham khảo trước đây của Diophantus đã được thảo luận rõ ràng hơn bởi nhà toán học Ấn Độ Brahmagupta trong tác phẩm Brāhmasphuṭasiddhānta năm 628, người đã sử dụng các số âm để tạo ra công thức phương trình bậc hai tổng quát mà vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Tuy nhiên, vào thế kỷ 12 ở Ấn Độ, Bhaskara đưa ra các hệ số là số âm cho các phương trình bậc hai nhưng nói rằng giá trị âm "trong trường hợp này không được thực hiện, vì nó không đầy đủ; mọi người không tán thành các hệ số là số âm."
Các nhà toán học châu Âu, phần lớn, đã chống lại khái niệm số âm cho đến thế kỷ 17, mặc dù Fibonacci cho phép các nghiệm là số âm trong các bài toán tài chính, nơi chúng có thể được hiểu là các khoản nợ (chương 13 của Liber Abaci, 1202) và sau đó như là thua lỗ (theo ). Đồng thời, người Trung Quốc đã chỉ ra các số âm bằng cách vẽ một nét chéo qua chữ số tận cùng bên phải nhất của chữ số dương tương ứng. Việc sử dụng đầu tiên của số âm trong một tác phẩm châu Âu là của Nicolas Chuquet trong thế kỷ 15. Ông đã sử dụng chúng như số mũ, nhưng gọi chúng là "số vô lý".
Gần hơn, vào thế kỷ 18, người ta thường bỏ qua mọi kết quả số âm được trả về bởi các phương trình với giả định rằng chúng là vô nghĩa, giống như René Descartes đã làm với các nghiệm số là số âm trong hệ tọa độ Descartes.
Sự phân cấp chủ yếu của các loại số
Các số có thể được phân loại vào các tập hợp, gọi là tập hợp số hoặc hệ thống số, ví dụ như các số tự nhiên và các số thực. Các hệ thống số chính là như sau:
Mỗi hệ thống số này là một tập con của hệ thống tiếp theo. Vì vậy, ví dụ, một số hữu tỷ cũng là một số thực, và mỗi số thực cũng là một số phức. Điều này có thể được biểu diễn bằng ký hiệu như sau: .
Các số có thể phân chia thành các tập hợp số theo các hệ thống số khác nhau.
Số tự nhiên
Số dương
Số âm
Số nguyên tố
Số hữu tỉ
Số vô tỉ
Số thực
Số phức
Hợp số
Số chính phương
Số dương
Số dương là số có giá trị lớn hơn 0. Số dương có thể đặt một dấu "+" ở trước nó. Chúng thuộc tập hợp số thực R.
Số âm
Số âm là số có giá trị nhỏ hơn 0. Trong toán học, số âm thường được biểu diễn bằng một dấu trừ – trước giá trị dương tương ứng. Giống như số dương
Số tự nhiên
Loại số quen thuộc nhất với hầu như tất cả mọi người là số tự nhiên, trước kia nó được hiểu như số nguyên dương (không kể số 0), nhưng ngày nay đa số các tài liệu toán học thống nhất nó bao gồm cả số không (số nguyên không âm). Các số nguyên dương được xem như là các số để đếm.
Trong hệ thập phân được dùng rộng rãi, các ký hiệu dùng để viết số tự nhiên là các chữ số từ 0 đến 9. Trong hệ này, mỗi vị trí tương ứng với một lũy thừa của 10, các số lớn hơn 9 được biểu diễn bởi hai hoặc nhiều hơn các chữ số. Còn có thể ghi theo các hệ cơ số khác như hệ nhị phân, hệ bát phân, hệ thập lục phân,...Tập các số tự nhiên thường được ký hiệu là .
Số nguyên
Số nguyên bao gồm các số tự nhiên và các số đối của các số tự nhiên dương. Số đối của một số tự nhiên dương n là một số khi cộng với n cho kết quả bằng không, nó thường được viết bằng cách thêm dấu "trừ" đằng trước số n. Về ý nghĩa, nếu một số dương là một khoản tiền gửi ngân hàng thì số âm là số biểu thị khoản tiền rút ra. Tập các số nguyên thường được ký hiệu là (viết tắt của từ Zahl trong tiếng Đức).
Số nguyên tố và hợp số
Số nguyên tố là số chỉ có 2 ước là 1 và chính nó. VD: 2, 3, 5, 7, 11, 13, 17, 19,...
Hợp số là số có nhiều hơn 2 ước. VD: 4, 6, 8, 9, 10, 12, 14, 15, 16, 18,...
Số 0 và số 1 không phải là số nguyên tố và cũng không phải là hợp số.
Số hữu tỉ
Một số hữu tỉ là một số có thể biểu diễn như một thương (hay phân số) của phép chia một số nguyên cho một số tự nhiên khác 0. Thường m/n là diễn tả việc chia một khối lượng nào đó thành n phần bằng nhau và chọn lấy phần m. Hai phân số khác nhau có thể biểu diễn cho cùng một số, chẳng hạn ½ và 2/4 là như nhau. Nếu giá trị tuyệt đối của m lớn hơn n thì giá trị tuyệt đối của phân số lớn hơn một. Phân số có thể dương âm hoặc bằng 0. Một số hữu tỉ có thể viết dưới dạng một số thập phân hữu hạn hoặc một số thập phân vô hạn tuần hoàn.
Ví dụ:
Số thập phân hữu hạn: (số thập phân có số lượng chữ số thập phân hữu hạn)
Số thập phân vô hạn tuần hoàn: (số thập phân vô hạn có chu kỳ lặp đi lặp lại)
Tập hợp các số hữu tỉ được ký hiệu là .
Số vô tỉ
Số vô tỉ là số không thể biểu diễn được thành tỉ số với tử số và mẫu số nguyên hay còn gọi là số thập phân vô hạn không tuần hoàn.
Ví dụ:
Số thập phân vô hạn không tuần hoàn: (số thập phân vô hạn có chu kỳ thay đổi)
Số(căn bậc hai của 2)
Số (số Pi)
Số lôgarít tự nhiên (xem Số e)
Tập hợp các số vô tỉ được ký hiệu là .
Số thực
Các số hữu tỉ (các phân số trong đó , ) không đủ dùng để biểu diện các độ đo trong hình học, chẳng hạn độ dài đường chéo của một hình vuông có cạnh là 1 là . Có thể chứng minh rằng, không có số hữu tỉ nào bình phương bằng 2.
Tổng quát hơn, người ta mở rộng tập hợp số hữu tỷ thành tập hợp số trong đó mọi dãy Cauchy đều có giới hạn, tập hợp đó được gọi là tập hợp số thực.
(Dãy {xn}n được gọi là dãy Cauchy nếu với mọi số r > 0 tồn tại số nguyên dương N sao cho với mọi m,n > N luôn có | xm − xn | < r.)
Tập hợp các số thực được ký hiệu là
Như vậy và .
Tập các số thực còn được phân chia thành tập hợp các số đại số và tập hợp các số siêu việt.
Số phức
Tập các số phức là mở rộng đại số của tập các số thực với việc bổ sung một số mới là căn bậc hai của -1, số này được gọi là đơn vị ảo và ký hiệu là i. Khi đó tập các số phức là tập các số dạng z=a+b×i. Kí hiệu là C.
Trong tập các số phức, mọi phương trình đại số bậc n có đúng n nghiệm.
Tập các số phức được ký hiệu là , như vậy quan hệ bao hàm giữa các tập hợp số đã biết là:
.
Số siêu phức
Khái niệm mở rộng của số phức từ dạng tổ hợp tuyến tính 2 chiều z = a + b.i với các hệ số thực a, b của hai đơn vị cơ sở 1 và i sang không gian vectơ n chiều với n hệ số thực x0, x1, x2,..., xn-&, của n dơn vị cơ sở 1, e1, e2, e3,..., en-1:
z = x0.1 + x1.e1 + x2.e2 +... + xn-1.en-1
Số đại số
Số đại số là số có thể thỏa mãn (nghiệm) một phương trình đại số. Số đại số có thể là số thực hoặc số phức.
Số siêu việt
Số siêu việt là số vô tỉ (thực hoặc phức) không là nghiệm của bất kì một phương trình đại số nào. Nói theo ngôn ngữ toán tập hợp, trường số siêu việt là phần bù của trường số đại số.
Biểu diễn số
Các số thực có thể được biểu diễn dưới dạng số thập phân hữu hạn, vô hạn tuần hoàn và không tuần hoàn. Còn các số phức có thể biểu diễn dưới dạng tổng có số hạng thứ nhất là một số thực và số hạng thứ hai là tích của một số thực với i.
Các tập hợp số |
Bùi Phụng (21 tháng 3 năm 1936 – 1 tháng 9 năm 2007) là tác giả cuốn Từ điển Việt-Anh (Vietnamese English Dictionary) với xấp xỉ 320.000 từ (xuất bản năm 2004), công trình này đã được giải thưởng nhà nước về Khoa học Công nghệ năm 2000; đồng thời là tác giả cuốn Đại Từ điển Anh-Việt với 550.000 từ.
Tiểu sử
Ông quê ở tỉnh Hà Nam. Sau đó ông chuyển lên Hà Nội. Ông sống và làm việc tại căn nhà nhỏ số 75 Charon (Mai Hắc Đế). Bùi Phụng từng là chủ nhiệm Khoa tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam cho người nước ngoài của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông qua đời vào 9 giờ 20 phút ngày 1 tháng 9 năm 2007 tại bệnh viện Việt Đức, Hà Nội sau gần 3 tuần nằm viện và trải qua một cuộc phẫu thuật tim.
Công trình
Sách song ngữ Anh-Việt
Bùi Phụng là tác giả của gần 30 cuốn từ điển Anh-Việt và Việt-Anh.
Các công trình sách của nhà giáo Bùi Phụng đã được xuất bản:
Giao Tiếp Thương mại Anh-Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh)
Thành ngữ Anh Việt (Nhà xuất bản Văn Hoá Sài Gòn)
Nghi Thức Lời Nói Anh Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh)
Phương Pháp học Tiếng Anh hiệu quả nhất (Nhà xuất bản Văn Hoá Thông tin)
Tiếng Anh trong nhà trường - English At School (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh)
Sổ tay Ngữ Pháp Tiếng Anh - A Handbook of English Grammar (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh)
Sách học Tiếng Anh cấp tốc (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh)
Tục Ngữ Anh-Việt tường giải (Nhà xuất bản Tri Thức)
Động từ thành ngữ Tiếng Anh (Nhà xuất bản Giáo dục - 1995)
Từ điển Danh Nhân - Địa Danh Anh Việt (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin - 2001)
Từ điển Tiếng Lóng và Những Thành Ngữ Thông Tục Mỹ Việt (Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn - 2007)
Sổ tay những cách nói-viết ngắn gọn và đơn thư trong giao tiếp Anh-Việt - A handbook of laconic expressions, applications and letters in daily life (Bùi Phụng- Vũ Bá- Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001)...
Dịch phẩm
Năm 18 tuổi, ông đã dịch một số tác phẩm văn học cổ điển nổi tiếng của văn chương Anh như Macbeth, Hamlet của William Shakespeare và ông còn là dịch giả của nhiều tác phẩm khác như:
Shogun (Tướng Quân) của James Clavell
A Woman of Substance (Người đàn bà đích thực) của Barbara Taylor Bradford
Godaan (Gôđan) của nhà văn Ấn Độ Munshi Premchand
Martin Eden (Martin Iđơn) của Jack London (dịch cùng Bùi Ý) (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội-1986)
The Sun Also Rises (Mặt trời vẫn mọc) của Ernest Hemingway
Ngụ ngôn Ê-dốp (Aesop's Fables) của Aesop (Nhà xuất bản Văn học - 1995)...
Ngay từ năm cuối ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn), ông đã dịch "Đây là Tổ Quốc tôi", tập truyện ngắn của Premchand, chung với Cao Huy Đỉnh.
Được sự đồng ý từ phía người thân của tác giả cũng như trực tiếp từ một số tác giả, ông đã biên soạn và hiệu đính một số sách. Đáng kể trong số đó có:
Những Mẫu Câu Anh-Việt (Vietnamese-English and English-Vietnamese Communication) được bổ sung đầy đủ và xuất bản dựa theo bản thảo gốc của cuốn Mẫu Câu trong Giao Tiếp Việt-Anh do cố tác giả Bùi Ý biên soạn.
Tiểu thuyết Rừng Na Uy của nhà văn người Nhật Bản Murakami Haruki. Tác phẩm này được dịch sang tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1997 do Kiều Liên và Hải Thanh thực hiện, Bùi Phụng hiệu đính.
Chú thích |
Hiệp ước Xô – Đức, còn được gọi là Hiệp ước Molotov – Ribbentrop hay Hiệp ước Hitler – Stalin có tên chính thức là Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô (tiếng Đức: Deutsch-sowjetischer Nichtangriffspakt; tiếng Nga: Договор о ненападении между Германией и Советским Союзом); được ký kết ngày 23 tháng 8 năm 1939 giữa Ngoại trưởng Vyacheslav Mikhailovich Molotov đại diện cho Liên Xô và Ngoại trưởng Joachim von Ribbentrop đại diện cho Đức Quốc xã. Hiệp ước này không phải là thoả thuận liên minh, mà là sự hoà hoãn tạm thời giữa 2 quốc gia đối thủ nhằm lùi thời điểm chiến tranh thêm 2 năm (Đức muốn tấn công Ba Lan và Pháp nhưng cần tránh việc Liên Xô hỗ trợ 2 nước kia, còn Liên Xô muốn tranh thủ thời gian để phát triển quân đội).
Các bên thỏa thuận với các cam kết kiềm chế không tấn công lẫn nhau và giữ thái độ trung lập trong trường hợp một trong hai bên trở thành mục tiêu của những hành động quân sự của bất kỳ bên thứ ba nào. Các thành viên Hiệp định cũng cam kết không tham gia vào các nhóm thế lực trực tiếp hoặc gián tiếp chống lại phía bên kia. Trong tương lai, hai bên cam kết việc cung cấp, trao đổi lẫn nhau về thông tin đối với những vấn đề có ảnh hưởng đến lợi ích của các bên.
Kèm theo Hiệp định là một nghị định thư được ký bổ sung. Trong đó quy định ranh giới Đông Âu nằm trong phạm vi quyền lợi của Đức và Liên Xô trong trường hợp có "sự sắp xếp lại về chính trị đối với lãnh thổ" của các quốc gia này. Nghị định thư quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva và Bessarabia thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Ngoài ra, Đức chấp thuận việc Liên Xô thu hồi lại Tây Ukraine và Tây Belarus (bị Ba Lan đánh chiếm năm 1921). Nghị định này cho phép thành lập chính quyền thân Liên Xô tại Litva, Latvia, Estonia. Ngày 1 tháng 9 năm 1939 Đức xâm chiếm Ba Lan, và ngày 17 tháng 9 quân đội Liên Xô tiến quân thu hồi Tây Ukraina và Tây Belarus. Ngày 28 tháng 9 năm 1939, Đức và Liên Xô ký kết Hiệp ước hữu nghị về biên giới. Sau đó, Liên Xô đã sáp nhập các nước Baltic (Estonia, Latvia, Litva), vùng Bessarabia và Bắc Bukovina, và một phần của Phần Lan vào lãnh thổ của mình.
Các thỏa thuận đã được ký kết đã làm dịu sự căng thẳng trong quan hệ chính trị và kinh tế giữa Liên Xô và Đức đang nóng lên sau sự xuất hiện của Hitler trên vũ đài chính trị và nắm quyền điều hành nước Đức cùng với các cuộc xung đột vũ trang (trong đó Liên Xô chống lại sự can thiệp của Đức và Italy ở Tây Ban Nha và ủng hộ phái Cộng hoà Tây Ban Nha, chống lại quân đội Nhật Bản ở Viễn Đông trong các Chiến dịch hồ Khasan và Khalkhyn Gol). Sự kiện này trở thành một bất ngờ chính trị cho các nước thứ ba. Gần như đồng thời với các tin đồn về sự tồn tại của thỏa thuận bí mật bổ sung, các văn bản Hiệp ước đã được xuất bản vào năm 1948 dưới dạng các bản sao. Năm 1993, văn bản gốc của Hiệp ước được tìm thấy.
Sau khi Đức tấn công Liên Xô ngày 22 tháng 6 năm 1941, cũng như tất cả các văn kiện ngoại giao Xô – Đức khác, Hiệp định này đã không còn giá trị..
Bối cảnh quốc tế
Một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiệp ước bao gồm:
Đức đang chuẩn bị tấn công Ba Lan và muốn tránh chiến đấu trên hai mặt trận: phía Tây chống Anh – Pháp và phía Đông chống Liên Xô. Hơn nữa, Đức cũng muốn tăng cường ngoại thương với Liên Xô để bù đắp cho sự phong tỏa của Đồng minh trên mặt biển.
Liên Xô muốn đẩy lùi chiến tranh nhưng vấp phải sự cản trở của các nước phương Tây do họ đã ký với nước Đức Quốc xã hiệp ước Munchen năm 1938. Mặc dù tiềm lực kinh tế quốc phòng đã được củng cố một bước nhưng về vấn đề cán bộ lại đang gặp khó khăn sau đợt thanh trừng của Joseph Stalin những năm 1936–1938. Mục đích của Liên Xô là hòa hoãn với Anh – Pháp để cùng chống Đức, nếu không đạt được mục tiêu này thì có thể hòa hoãn với Đức để tránh chiến tranh.
Anh – Pháp luôn đánh giá thấp tiềm lực quân sự của Liên Xô, và nhất là Anh luôn nghi kỵ Liên Xô. Thủ tướng Anh Neville Chamberlain ghi trong nhật ký của mình: "Tôi xin thú thực rằng tôi rất nghi ngờ nước Nga". Vì thế, họ thường tỏ ra thờ ơ mỗi khi Liên Xô đề nghị cùng hợp lực chống Đức. Việc này vô hình trung đẩy Liên Xô phải đàm phán với nước Đức Quốc xã vì nền an ninh của mình.
Ba Lan đang có tranh chấp với Đức về vấn đề lãnh thổ thuộc Đông Phổ trước đây và đã chuẩn bị sắn chiến tranh với Đức. Nhưng nước này cũng nghi kỵ Liên Xô (trong quá khứ thời trung cổ, 2 nước đã nhiều lần xâm lược lẫn nhau) nên không muốn Liên Xô mang quân qua lãnh thổ của họ để chống lại Đức. Vì việc này, liên minh Nga – Anh – Pháp nhằm bảo vệ Ba Lan khó thành hiện thực.
Do đó, kế hoạch thiết lập an ninh tập thể châu Âu do Liên Xô đề xướng luôn vấp phải sự chống đối hoặc ít ra cũng là sự lãnh đạm của các nước lớn ở Tây Âu. Điều này buộc Liên Xô phải ký kết với các nước Đông Âu và Pháp các bản hiệp ước song phương về tương trợ an ninh quốc phòng. Mặc dù không ưa Liên Xô nhưng dưới sức ép của dư luận trong nước, chính phủ các nước này cũng phải đàm phán với Liên Xô về các vấn đề quốc phòng và an ninh nhằm chống lại sự đe dọa của nước Đức Quốc xã. Tháng 5 năm 1935, hai hiệp ước được Liên Xô ký kết với Anh và Pháp. Tuy nhiên, tổng thống Tiệp Khắc Benet đã từ chối thi hành hiệp ước này và coi nó là một dĩ vãng còn sót lại. Còn đối với người Pháp, mặc dù các thỏa ước khung đã được ký kết nhưng họ vẫn không chịu ký với Liên Xô một hiệp định chung giữa bộ tham mưu quân đội hai nước để cùng nhau chống nước Đức Quốc xã.
Trong các năm 1936–1937, Liên Xô đã giúp đỡ những người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại chế độ Franco được Adolf Hitler bảo trợ nhưng lại không được Anh, Pháp ủng hộ tích cực. Ngược lại, từ tháng 11 năm 1937, họ đã mở nhiều cuộc hội đàm với các thủ lĩnh Đức Quốc xã tại Obersanzberg. Tham dự các vòng hội đàm còn có cả Huân tước Anh Halifax, các bộ trưởng của chính phủ Pháp. Họ cho rằng chế độ của Hitler đã trở thành thành trì chống chủ nghĩa Bolshevik và đã đến lúc có thể tiến hành cuộc thập tự chinh mới về phương Đông. Thái độ không dứt khoát của Anh và Pháp vô hình trung đã "động viên" Hitler mạnh dạn ra tay. Ngày 1 tháng 3 năm 1938, nước Đức Quốc xã thôn tính Cộng hòa Áo mà không cần nổ một phát súng. Trong khi Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô tuyên bố lên án cuộc xâm lược này thì thủ tướng Anh Neville Chamberlain lại nói: "Chúng ta phải tránh bị mắc lừa. Và chúng ta cũng không để cho các nước nhỏ có ảo tưởng về sự giúp đỡ của Hội Quốc Liên có thể dành cho họ để chống lại sự xâm lược".
Thái độ đó càng khuyến khích Hitler lấn tới. Tháng 8 năm 1938, quân đội Đức tập trung 30 sư đoàn quanh biên giới Tiệp Khắc. Đáng lẽ phải thành lập một mặt trận chung chống nước Đức Quốc xã thì Anh – Pháp lại nhận lời mời của Ribbentrop tham gia Hội nghị Munchen trong các ngày 29 và 30 tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý. Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này ngày 30 tháng 9 mà không hề đếm xỉa đến Hiệp ước tương trợ giữa Anh và Pháp với chính phủ Tiệp Khắc của tổng thống Benet. Ngày 6 tháng 12 năm 1938, Pháp tuyên bố từ bỏ Hiệp ước tương trợ với Liên Xô để ký với Đức bản tuyên bố thừa nhận hiệu lực hoàn toàn của Hiệp định Munich 1938. Bằng Hiệp định Munich, Anh và Pháp đã thừa nhận việc Đức Quốc xã thôn tính nước Áo là việc đã rồi, cho phép Hitler đánh chiếm xứ Bohemia và Moravia, chia cắt Tiệp Khắc; đặt Ba Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã. Nhà sử học Cộng hòa Liên bang Đức Michael Freuner viết: "Khi gót giày Đức làm rung chuyển xứ Bohemia thì toàn thế giới sụp đổ. Người ta đã bỏ đi hòn đá tảng của Hiệp ước Versailles. Đế quốc Đức thấy mình đã được mở cửa sang phía Đông"
Hiệp ước Munich 1938 không chỉ mở đường cho nước Đức Quốc xã chiếm đóng Tiệp Khắc mà còn "bật đèn xanh" cho quân đội Đức tại Đông Phổ chiếm vùng Klaipeda của Litva, áp đặt một hiệp ước kinh tế bất bình đẳng với Romania và khuyến khích nước Ý phát xít của Benito Mussolini xâm lược Albania. Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp, thành thực tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ Édouard Daladier và Neville Chamberlain. Họ đòi Liên Xô bảo đảm sự giúp đỡ nếu nước Đức Quốc xã tiến công về phía Tây, nhưng lại lảng tránh vấn đề giúp đỡ Ba Lan nếu nước Đức gây hấn ở phía Đông. Chính thái độ này của Anh và Pháp đã khuyến khích các nước Đức, Ý, Nhật ký kết với nhau tại Berlin bản "Hiệp ước chống quốc tế cộng sản" ngày 27 tháng 9 năm 1940. Toàn bộ tình hình trên đã buộc chính phủ Liên Xô phải có những hành động kiên quyết trong việc tìm con đường để đảm bảo cho nền an ninh đất nước. Con đường đó là con đường lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù, khi Liên Xô quyết định chấp nhận đề nghị (nhiều lần) của Quốc xã ký với họ hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. Những lời đề nghị này đã có từ ngày 20 tháng 8 năm 1936 nhưng chỉ đến khi thấy không còn biện pháp ngoại giao nào khác để đẩy lùi chiến tranh; ngày 23 tháng 8 năm 1939, Nhà nước Liên Xô mới cử phái đoàn do Bộ trưởng dân ủy ngoại giao V. M. Molotov dẫn đầu đón tiếp phái đoàn Đức của Ribbentrop tại Moskva để đàm phán với nước Đức Quốc xã.
Về phía Đức Quốc xã, để chuẩn bị cho Chiến tranh thế giới thứ hai, Hitler đặc biệt quan tâm đến vấn đề làm sao tránh cho nước Đức thoát khỏi tình cảnh phải tiến hành chiến tranh cùng lúc trên hai mặt trận như trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Để đạt được mục đích ấy, trong quan hệ với các cường quốc tư bản phương Tây, Hitler đã nói: "Phải dùng con ngáo ộp Bolshevik để đe dọa các cường quốc Versailles làm cho họ tin rằng, nước Đức là con đê cuối cùng ngăn chặn làn sóng đỏ. Đối với chúng ta, đó là cách duy nhất để vượt qua thời kì khủng hoảng này, thanh toán hiệp ước Versailles và tái vũ trang.". Nhưng mặt khác, Hitler cũng chủ trương tạm hòa hoãn với Liên Xô để tập trung lực lượng chống các cường quốc tư bản phương Tây, trước hết là Anh – Pháp. Vào ngày 23 tháng 8 năm 1939, Đức và Liên Xô đã ký hiệp ước Ribbentrop-Molotov, hay Hiệp ước Hitler-Stalin. Trong nội dung hiệp ước này, Đức Quốc Xã và Liên Xô đồng ý chia nhau quyền kiểm soát Ba Lan theo giới tuyến dọc theo sông Bug, người Đức chiếm mọi thứ ở phía tây, Liên Xô chiếm mọi thứ ở phía đông, kèm theo thỏa thuận bất tương xâm giữa hai cường quốc quân sự Đức – Xô, Joachim von Ribbentrop, Ngoại trưởng Đức, đã gặp người đồng cấp Liên Xô V.M. Molotov để ký Hiệp ước Hữu nghị Biên giới Đức – Xô sau khi cả hai nước tấn công xong Ba Lan.
Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong những năm 1933–1939
Sau khi Hitler lên nắm quyền năm 1933 và đưa nước Đức vào tiến trình của chủ nghĩa "quốc gia xã hội" chống Xô Viết, chống bồi thường cho Đảng cộng sản Liên Xô, làm băng giá các quan hệ kinh tế và quân sự Xô – Đức. Có những ý kiến cho rằng ban đầu Stalin nhìn nhận Hitler như một con rối của các tầng lớp tư bản độc quyền Đức. Họ đã đưa Hitler lên cầm quyền nhưng chính họ mới là những người chủ thực sự của Đức. Kể từ đó, lập trường chính thức của các nhà ngoại giao Liên Xô, đứng đầu là Litvinov với chính sách về "an ninh chung châu Âu" trở thành cơ sở của hệ thống các điều ước quốc tế mà Liên Xô ký kết, phù hợp với hệ thống Versailles và ngăn chặn việc tìm kiếm kế hoạch phục thù của nước Đức.
Đến tháng 3 năm 1935, rốt cuộc nước Đức đã đơn phương chấm dứt hoạt động của các quan sát viên theo dõi việc thi hành các điều khoản quân sự của Hiệp ước Versailles năm 1919. Nước này đã thiết lập chế độ cưỡng bách tòng quân, thực hiện phổ biến chế độ đảm phụ chiến tranh phổ biến và thời kỳ tái vũ trang nước Đức đã bắt đầu. Tuy nhiên, hành động này của nước Đức đã không gặp phải sự phản đối có hiệu lực từ các cường quốc phương Tây, những nước bảo lãnh của Hiệp ước Versailles.
Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Ba Lan và Liên Xô đã được ký ngày 25 tháng 7 năm 1932, ban đầu có hiệu lực trong 2 năm. Đến ngày 5 tháng 5 năm 1934, nó được gia hạn đến ngày 31 tháng 12 năm 1945. Ngày 2 tháng 5 năm 1935, Liên Xô đã ký kết với Pháp, và ngày 16 tháng 6 ký kết với Tiệp Khắc các thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau. Còn Ba Lan thì đã tự nguyện đảm nhận việc bảo vệ lợi ích của Đức tại Hội Quốc Liên. Ngày 26 tháng 1 năm 1934, Ba Lan đã ký một tuyên bố với Đức về tình hữu nghị và không xâm phạm lẫn nhau.
Tiếp đó, tháng 11 năm 1936, Đức và Nhật Bản đã ký hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản Liên Xô, đến năm 1937 có thêm Italia tham gia. Liên Xô cung cấp hỗ trợ quân sự cho chính phủ Cộng hòa Tây Ban Nha, nơi mà Đức và Ý đang tích cực hỗ trợ các cuộc đảo chính của tướng Franco. Trong tháng 3 năm 1938, Đức thôn tính nước Áo và tuyên bố chủ quyền vùng Sudet trên lãnh thổ Tiệp Khắc. Trong khi đó, Anh và Pháp lại theo đuổi một chính sách xoa dịu và nhượng bộ. Rất nhiều tổ hợp và tập đoàn đầu tư của phương Tây đầu tư vào nền kinh tế nước Đức, đặc biệt là trong ngành công nghiệp nặng..
Sự việc rõ ràng hơn qua thư khố của Bộ Ngoại giao Đức. Một bản ghi nhớ ngày 4 tháng 11 năm 1938 cho thấy Hermann Göring nhấn mạnh việc phục hồi quan hệ mậu dịch với Liên Xô, nhất là việc mua nguyên vật liệu của Liên Xô. Những hiệp ước kinh tế Nga – Đức sẽ hết hạn vào cuối năm, và các cuộc đàm phán để ký kết lại thì chưa ngã ngũ. Hai bên vẫn còn nghi ngại nhau nhưng đang chầm chậm tiến đến gần nhau. Trở ngại chính trong mậu dịch là trong khi Đức đang thèm muốn nguyên liệu của Liên Xô, Đức không thể cung cấp cho Liên Xô những hàng hóa để dùng vào việc trao đổi hiện vật.
Tuy nhiên quan hệ kinh tế khó có thể thay thế các quan hệ chính trị ngoại giao đã có những dấu hiệu khác thường. Ngày 10 tháng 3 năm 1939, Josef Stalin đọc một bài diễn văn dài trong Đại hội Đảng lần thứ 18. Ba ngày sau, Đại sứ Đức ở Nga, Friedrich von der Schulenburg, gửi về Berlin một bản báo cáo dài, cho biết: "Trong tình hình quốc tế hiện nay mà họ cho là nghiêm trọng, Chính phủ Xô Viết tìm cách tránh cuộc xung đột giữa Liên Xô với Đức". Anh bỏ qua, nhưng Đức để ý đến việc này.
Stalin tin rằng Anh thích liên minh với Ba Lan hơn là với Liên Xô. Ông cũng cho rằng Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain muốn đẩy Liên Xô ra ngoài rìa chính trường châu Âu. Tuy thế, chính sách ngoại giao của Liên Xô vẫn là để mở cho cả hai bên Đức và Anh – Pháp. Ngày 16 tháng 4 năm 1939, Ngoại trưởng Litvinov của Liên Xô chính thức đề nghị Hiệp ước Ba Bên gồm Anh, Pháp và Nga. Đấy là nỗ lực cuối cùng của Litvinov nhằm tạo mối liên minh chống Đức. Không nước nào ở Đông Âu, kể cả Ba Lan, có đủ tiềm lực duy trì một mặt trận ở vùng này. Tuy thế, đề nghị của Liên Xô đã gặp phải thái độ nghi ngại của Anh và Pháp.
"Sứ mạng Kandelaki"
Trong những nỗ lực để mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị nhằm giảm căng thẳng. Việc tìm kiếm những địa chỉ liên lạc bắt đầu vào năm 1934, sau những "đêm yến tiệc" ngoại giao, người Đức đã thuyết phục được Stalin rằng Hitler là biểu tượng của quyền lực lâu bền. Kết quả là vào cuối năm 1934, người Nga đã cử ông David Vladimirovik Kandelaki đến văn phòng đại diện thương mại của họ tại Berlin làm sứ giả để tìm kiếm việc thiết lập quan hệ chính trị với nước Đức. Trước khi chia tay Kandelaki, Stalin đã gặp ông ta hai lần (và cuộc gặp lần thứ hai diễn ra tại tư gia) cho thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Stalin giao. Tại Đức, Kandelaki đã làm việc tích cực để chuyển các mối quan hệ từ vấn đề kinh tế sang vấn đề chính trị trong các cuộc đàm phán của mình với các bộ trưởng của nước Đức Quốc xã, với Hermann Göring và Thống đốc Ngân hàng quốc gia Đức Hjalmar Schacht. Đặc biệt, Kandelaki nói với Schacht: "Nếu có một cuộc gặp giữa Stalin và Hitler, rất có thể sẽ có những thay đổi". Trong bản báo cáo của Kandelaki về chuyện này, Stalin đã phê vào góc trên, bên trái: "Thật thú vị. J. St.". Và ông thông báo việc này với Voroshilov và Kaganovich.
Tháng 3 năm 1935, Stalin đặc biệt lưu ý đối với các báo cáo tình báo "quan trọng, cần xem xét" của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Pierre Laval, trong đó coi Liên Xô và đối thủ Đức Quốc xã không phải là không thể thay đổi hiện thực chính trị quốc tế. Cuối cùng, Đức và Liên Xô cũng vẫn có thể tấn công nhau và thiệt hại của họ là "một món hời" đối với Pháp. Năm 1936, phía Liên Xô từ chối ký kết với Đức hiệp ước không xâm lược với lý do hai nước không có biên giới chung. Theo người đứng đầu mạng lưới tình báo Liên Xô Walter Germanovich Krivitsky, để chứng tỏ một phần thiện chí của Moskva; trong tháng 12 năm 1936, ông này đã được lệnh phải giảm bớt hoạt động tình báo tại Đức. Cái gọi là "sứ mệnh Kandelaki" tiếp tục đến năm 1937 và kết thúc thất bại. Vì các lý do chính trị và tư tưởng, phía Đức Quốc xã đã không xem nó là cần thiết để đi đến việc mở rộng quan hệ với Liên Xô.
Hai văn bản quan trọng nhất là Hiệp ước không xâm lược và Nghị định thư bí mật được ký kết trong phiên họp thứ hai tại điện Kremlin vào buổi tối. Hai bên đạt thỏa thuận một cách dễ dàng đến nỗi buổi họp kéo dài quá nửa đêm không phải để thương lượng căng thẳng, mà để thảo luận một cách thân mật tình hình thế giới, tình hình từng quốc gia, và với những lần nâng cốc theo thông lệ. Hội nghị đã lên đến đỉnh điểm trong một bữa tiệc, Stalin nâng cốc chúc mừng: "Tôi biết là dân tộc Đức yêu mến vị Quốc trưởng của mình như thế nào; và tôi muốn được nâng cốc chúc mừng sức khỏe của ông ta".
Đáp lại câu hỏi của Stalin về tham vọng của bạn bè của Đức – Ý và Nhật – Ribbentrop trả lời một cách thông suốt và tạo sự an tâm. Đối với nước Anh, hai bên có những nhận định giống nhau. Stalin thổ lộ với đoàn khách rằng phái bộ quân sự Anh "chưa bao giờ nói cho chính phủ Liên Xô biết họ muốn gì." Ribbentrop đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng nước Anh luôn nỗ lực gây rối cho mối quan hệ Liên Xô – Đức. Ông khoác lác rằng "Anh là nước yếu đuối, và muốn để mặc cho các nước khác đánh nhau để họ thống trị thế giới." Bản ghi nhớ của Đức ghi "Stalin đồng ý một cách hăm hở," và ông nhận xét: "Nếu Anh thống trị thế giới, thì đấy là do những nước khác đã ngu xuẩn để cho bị lừa bịp."
Sau những lần chạm cốc và chúc tụng lẫn nhau giữa hai bên cho đến gần đây còn là hai kẻ thù không đội trời chung, dường như Stalin có vài lo nghĩ về việc liệu Đức Quốc xã có tôn trọng hiệp ước hay không. Khi Ribbentrop chuẩn bị ra về, Stalin nói riêng với ông ta:
Chính phủ Liên Xô có ý định rất nghiêm túc đối với hiệp ước mới. Ông có thể đảm bảo bằng lời nói danh dự của mình rằng Liên Xô sẽ không phản bội bên liên minh với mình.
Nội dung Hiệp ước
Hiệp ước như được phổ biến quy định rằng bên này sẽ không tấn công bên kia. Nếu một bên trở thành "đối tượng của hành động thù địch" do bên thứ ba gây ra, bên kia sẽ "không hỗ trợ cho bên thứ ba bằng bất cứ cách nào." Cả Đức và Liên Xô sẽ không "gia nhập bất kỳ phe nhóm nào trực tiếp hoặc gián tiếp nhắm đến bên kia".
Ngôn từ của những điều khoản chủ chốt hầu như giống y bản thảo của Liên Xô mà Molotov đã trao cho Schulenburg ngày 19 tháng 8 và Hitler điện cho Stalin biết phía Đức chấp thuận. Bản thảo của Liên Xô quy định rằng hiệp ước không xâm lược chỉ có hiệu lực nếu một "nghị định thư đặc biệt" được ký kết cùng lúc và là một phần không thể thiếu của hiệp ước.
Ribbentrop muốn đưa vào phần mở đầu nhấn mạnh sự thành lập quan hệ hữu nghị Liên Xô – Đức, nhưng Stalin nhất quyết loại bỏ. Nhà độc tài Liên Xô phàn nàn rằng: "Chính phủ Xô viết không thể bất thình lình đưa ra cho công chúng sự cam kết về tình hữu nghị sau khi đã bị Quốc xã bôi tro giát trấu trong sáu năm."
Thế là, cuối cùng Hitler đã đạt đến điều ông mong muốn: Liên Xô đồng ý không tham gia với Anh và Pháp nếu hai nước này hỗ trợ Ba Lan.
Nghị định thư Phụ lục Bí mật
"Nghị định thư Phụ lục Bí mật" cho hiệp ước, mà chỉ được biết đến sau khi Đệ nhị thế chiến kết thúc vào lúc các tài liệu mật của Đức bị tịch thu.
Trong Phụ lục bí mật này 2 nước đồng ý chia Ba Lan, các nước Baltic và Bessarabia, gồm có 4 điểm sau:
1. Trong trường hợp có sự chuyển biến về lãnh thổ và chính trị ở những quốc gia vùng Baltic (Phần Lan (trước đó cũng được xem là thuộc những nước này ), Estonia, Latvia, Litva), biên giới phía Bắc của Litva sẽ thể hiện biên giới giữa các vùng ảnh hưởng của Đức (Litva) và Liên bang Xô viết (Estonia, Latvia, Phần Lan).
2. Trong trường hợp có sự chuyển biến về lãnh thổ và chính trị ở những lãnh thổ thuộc Ba Lan, các vùng ảnh hưởng của Đức và Liên bang Xô viết sẽ được phân định ranh giới phỏng chừng bằng các con sông Narew, Wisla và San.
3. Ở đông – nam châu Âu, Bessarabia sẽ thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô.
4. "Nghị định thư này sẽ được hai bên xem là tối mật."
Đức và Liên Xô đã đồng ý phân chia ranh giới tại Ba Lan, theo đó vùng phía Tây là toàn quyền của Đức, còn vùng phía Đông (những lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của Nga Xô viết năm 1921) sẽ được hoàn trả cho Liên Xô. Và Hitler đã cho Liên Xô được toàn quyền hành động ở vùng Đông Baltic.
Cuối cùng, ở đông – nam châu Âu, phía Liên Xô nhấn mạnh họ quan tâm đến Bessarabia, lãnh thổ mà Liên Xô mất về tay Rumani năm 1919, và Đức tuyên bố họ không quan tâm đến lãnh thổ này. Đây là nhượng bộ mà sau này Đức sẽ lấy làm hối tiếc: họ mất nguồn dầu hỏa quan trọng.
Đánh giá tính pháp lý của hiệp ước
Có nhiều ý kiến trái ngược trong việc đánh giá các khía cạnh pháp lý của hiệp ước. Theo một số ý kiến, bản thân Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau (không kèm theo Nghị định thư) không hàm chứa bất cứ điều gì không bình thường và hoàn toàn giống như bất kỳ một hiệp ước không xâm lược khác đã được ký kết trong lịch sử châu Âu đương đại (ý nói đến một hiệp ước tương tự giữa Đức và Ba Lan)..
A. A. Pronin có một ý kiến khác. Ông đã chỉ ra rằng Hiệp ước đã không có một điều khoản quan trọng được ghi nhận, đó là sự huỷ bỏ hiệu lực của nó nếu một bên ký kết nhưng không giữ cam kết mà lại tiến hành chiến tranh xâm lược bên kia. Đây là một nhược điểm lớn của phía Liên Xô khi soạn thảo Hiệp ước. Trong bản dự thảo hiệp ước của Liên Xô thì tính trung lập là một điều kiện tiên quyết cho việc tuân thủ một tình huống mà trong đó một trong hai bên "phải chịu một hành động bạo lực hay một cuộc tấn công bởi một thế lực thứ ba". Nhưng những từ ngữ cuối cùng của Điều II của Hiệp ước lại giả định rằng "sự trung lập sẽ được thực hiện trong trường hợp một trong hai bên không có đối tượng tấn công hay đối tượng của hành động quân sự của một thế lực thứ ba". Phát biểu như vậy là điển hình của nền ngoại giao Đế chế thứ ba. Ví dụ như Hiệp ước không xâm lược giữa Đức và Latvia và Hiệp ước không xâm lược giữa Đức và Estonia cũng tuyên bố trung lập "trong mọi hoàn cảnh". Nhưng Liên Xô vẫn không tu sửa các cụm từ này. Và kết quả là "hiệp ước này đã mở rộng cửa cho bất kỳ cuộc tấn công nào của Đức, khi một trong hai bên cáo buộc các hành động khiêu khích hoặc bạo lực của một thế lực thứ ba"..
A.A. Pronin cũng chỉ ra rằng hiệp ước có liên quan chặt chẽ với nghị định thư bí mật và không thể đánh giá nó theo ý kiến riêng về hình thức cụ thể bên ngoài mà không xét đến tình hình chiến tranh trong thời điểm đó. Nghị định thư bí mật của hiệp ước nằm trong mục tiêu lợi ích của Liên Xô đối với vùng Baltic: Latvia, Estonia và Phần Lan, và của Đức đối với Litva và Ba Lan trên các tuyến sông Narew, Wisla, sông San đến Vilnius, nghĩa là từ Ba Lan đến Litva. Trong trường hợp này, cho dù đó là sự mong muốn xuất phát từ quan điểm lợi ích của các bên tham gia ký kết hiệp ước muốn bảo vệ nhà nước Ba Lan thì vấn đề này dứt khoát phải "đi xa hơn sự phát triển chính trị như trong bất kỳ trường hợp nào cần phải được giải quyết" "bằng một hiệp ước thân thiện". Ngoài ra, Liên Xô nhấn mạnh sự quan tâm của họ đối với vùng Bessarabia, và Đức cũng đã không phản đối lợi ích của Liên Xô tại khu vực này của Rumani. Nghị định thư bổ sung được A. A. Pronin đánh giá là không thể biện minh về tính hợp pháp vì nó liên quan đến các nước thứ ba..
Phản ứng của Nhật Bản đối với hiệp ước
Vào ngày ký Hiệp ước, quân đội Liên Xô đã hoàn thành việc bao vây các cụm quân chủ lực của quân đội Nhật Bản trong chiến dịch Khalkhyn Gol. Những nỗ lực của Nhật Bản để giải vây cho các cụm quân này vào các ngày 24 và 25 tháng 8 đều thất bại. Ngày 24 tháng 8, các đơn vị của Lữ đoàn Bộ binh 14 thuộc đạo quân quân Quan Đông phản kích từ Khailary đến biên giới Mông Cổ để phối hợp với Trung đoàn 80 giải toả vòng vây, nhưng đã thất bại vì không phá vỡ được vòng vây và phải rút quân về lãnh thổ Mãn Châu.
Ngày 25 tháng 8 năm 1939, Đại sứ của Đức tại Tokyo Otto đã bị triệu đến gặp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản Hachirō Arita để nhận bản kháng nghị phản đối việc ký kết Hiệp ước không xâm lược giữa Liên Xô và Đức. Kháng nghị nói rằng tinh thần hiệp ước này là trái với Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản. Ngày 28 tháng 8 năm 1939, Chính phủ Nhật Bản, đứng đầu là Hiranuma Kiichirō, một người ủng hộ chiến tranh của Nhật chống lại Liên bang Xô viết đã từ chức.
Bình luận về những nguyên nhân dẫn đến việc ký kết Hiệp ước
Những ý kiến về nỗ lực của Liên Xô để tránh chiến tranh với Đức
Các thỏa thuận đã được ký kết sau khi các cuộc đàm phán Moskva, được tổ chức vào mùa xuân và mùa hè năm 1939 giữa Liên Xô, Anh và Pháp để đi đến một thỏa thuận ba bên về tương trợ lẫn nhau và quy ước cụ thể về việc sử dụng quân đội cho các biện pháp đảm bảo an ninh tập thể ở châu Âu đã thất bại (dự thảo hiệp ước đã được trình lên Chính phủ Liên Xô vào ngày 2 tháng 6). Tiến trình cuộc đàm phán đã bộc lộ thái độ thiếu thiện chí của Anh và Pháp trong việc đưa ra một cam kết quân sự cụ thể và xây dựng kế hoạch thực tế nhằm chống lại một cuộc xâm lược của Đức có thể xảy ra. Hơn nữa, song song với các cuộc đàm phán Moskva, chính phủ Anh vẫn theo đuổi cuộc đàm phán tại London với các đại diện của Đức về phân định khu vực ảnh hưởng. Và nó làm tăng thêm nỗi lo ngại của chính quyền Xô viết đối với các đối tác phương Tây về xu hướng đẩy cuộc xâm lược của Hitler sang phía đông. Điều này đã xảy ra với Tiệp Khắc sau khi Anh và Pháp ký với Đức Hiệp định Munich năm 1938. Với kết quả thất bại của cuộc đàm phán Moskva, Liên Xô đã mất hy vọng cho một liên minh quân sự với các cường quốc phương Tây khi họ vẫn mang tư tưởng thù địch. Trong khi đó thì đối thủ tiềm năng đe dọa đường biên giới của họ ở phương Tây là Đức đang được nuôi dưỡng; và ở phía Đông, họ lại đang có một cuộc chiến đấu để chống lại các hành động xâm lược của Nhật Bản. Trong các trường hợp đó, Liên Xô đã buộc phải chấp nhận đề nghị của Đức để bắt đầu đàm phán về một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.
Lập trường của các cường quốc phương Tây là nguyên nhân sự thất bại của cuộc đàm phán Moskva và đưa Liên bang Xô viết đứng trước sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập trước khi mối đe dọa sắp xảy ra với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc khi đã không còn khả năng thiết lập một liên minh với Anh và Pháp thì phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược. Và do đó loại bỏ các mối đe dọa chiến tranh. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi. Ngày 23 tháng 8 năm 1939, Hiệp ước Xô – Đức đã được ký kết. Trái với sự mong đợi của các chính trị gia phương Tây, chiến tranh thế giới đã bắt đầu với cuộc xung đột trong thế giới tư bản. Như vậy, xét về lịch sử, quyết định của Liên Xô ký kết hiệp ước không xâm lược lẫn nhau với Đức vào năm 1939 là cách duy nhất để tránh chiến tranh với Đức và với các nước tham gia Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản khác. Khi đó Liên Xô xét thấy mình đang ở trong tình trạng cô lập, không có đồng minh.
Những giả thiết về mục đích bành trướng của Stalin
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Hiệp ước Xô – Đức là một biểu hiện tham vọng bành trướng của Stalin. Những người tìm cách đẩy Đức sang phía "dân chủ phương Tây" có cớ để vui mừng vì họ có thể được chứng kiến sự Xô viết hoá Tây Âu. S. Z. Slutch cho rằng Stalin đã nhận thấy Đức là một "đồng minh tự nhiên" đặc biệt trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới tư bản. Vì vậy, ông ta mô tả hiệp ước:"Trong thực tế, lục địa châu Âu trước chiến tranh thế giới thứ hai đã được phân chia giữa hai kẻ độc tài đại diện cho trật tự quốc tế với nhiều khía cạnh tương tự như hành vi của chủ nghĩa gangster chính trị, ngoại trừ những khác biệt về quy mô và mức độ đạo đức giả."
Những giả thiết về động cơ vì lợi ích dân tộc của Stalin
Cách giải thích này xem những hành động của Stalin chỉ có tính thực dụng đối với triều đình của mình. Theo đó, Stalin đã có một thời gian để lựa chọn giữa một mặt là Đức và mặt khác là Anh, Pháp. Nhưng sau này, khi phải đối diện với hệ tư tưởng không phù hợp, ông muốn giữ khoảng cách với chiến tranh bằng những lợi ích có tính "bạn bè" với Đức, đặc biệt là việc tranh thủ các lợi ích chính trị Liên Xô tại Đông Âu. Ý kiến này đã được Winston Churchill nêu ra ngay sau khi ký kết hiệp ước.
Theo ý kiến của Giáo sư sử học Jeffrey Roberts thuộc Đại học Ailen, chính sách thỏa hiệp của Liên Xô dựa trên cơ sở tính thực tế mong muốn hạn chế khu vực ảnh hưởng của Đức. Trong đó sẽ ưu tiên đảm bảo nhu cầu về an ninh của quốc gia, chủ yếu là để giữ cho đất nước không bị hút vào cuộc chiến và để hạn chế sự mở rộng của Đức về phía đông. Cũng cần lưu ý là nhiều nhà sử học cho rằng nước Anh, Pháp, do có quan điểm riêng về lịch sử đối lập với Liên Xô, nên đã tập trung hướng các nỗ lực xâm lược của Đức về phía đông của châu Âu. Nói chung, mỗi tác giả đều theo cách riêng của mình giải quyết các câu hỏi về mối quan hệ giữa các hành động của những thủ thuật của Stalin và "buộc" cho ông đã hành động theo "chủ nghĩa thực dụng" và động cơ bành trướng ý thức hệ.
Về những lựa chọn có thể thay thế cho việc ký kết hiệp ước
Không có bất kỳ thỏa thuận với Liên Xô và không biết ý định của Stalin; Hitler có khả năng thuyết phục Ba Lan tham gia Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản. Trong trường hợp đó Đức sẽ cùng với Ba Lan tấn công Liên Xô. Cùng thời gian trên, Mặt trận phía Tây nước Đức có thể không bị đe dọa, do Anh và Pháp vẫn có thể đứng ngoài cuộc xung đột này. Trong trường hợp này, sự cân bằng quyền lực, đặc biệt là về không gian, sẽ không tiến triển có lợi của Liên Xô. Đức và Ba Lan sẽ có thể dùng vấn đề Litva để đẩy lùi đường biên giới Liên Xô..
Động cơ có thể có của Stalin
Những tính toán để tránh sự khiêu chiến
Theo một số nhà nghiên cứu, Stalin không ảo tưởng và chưa bao giờ là người tin tưởng hoàn toàn rằng người ta có thể thực hiện chính sách an ninh tập thể với một chủ trương nghiêm túc theo tuyên bố chính thức của Litvinov. Đáng chú ý là vấn đề an ninh tập thể đã không đề cập đến trong cuốn Lược sử Đảng Cộng sản toàn Nga (b), được tái bản với một phần văn bản do Stalin biên soạn lại. Hơn nữa, trong bản được xuất bản năm 1938, còn có lập luận rằng "cuộc chiến tranh đế quốc lần thứ hai đã bắt đầu trên thực tế". Vì vậy, các sự kiện chính trị do Stalin điều hành trong tình trạng như là đã có một cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc. Phó Ủy viên Nhân dân phụ trách Giáo dục V. Potemkin đã định nghĩa trong Tạp chí Bolshevik "khái niệm chính thức của chiến tranh đế quốc lần thứ hai và triển vọng của nó":
"Chiến tranh đế quốc thứ hai là sự mở rộng toàn bộ các mặt trận. Nói cách khác là nó vượt ra khỏi phạm vi một vài quốc gia. Những trận đánh lớn của nhân loại sẽ bắt đầu một cuộc cách mạng trên thế giới. Kết quả, Liên bang Xô viết có trách nhiệm nặng nề, một là phát triển đầy đủ và vượt bậc, và hai là tăng cường sự bền vững của nền dân chủ cách mạng, giúp đỡ các nước bị nô dịch trong hệ thống tư bản nổi dậy."
Tại Hội nghị Đảng bộ Leningrad ngày 3 tháng 3 năm 1939; Bí thư Đảng bộ A. A. Zhdanov cũng cho rằng những dự báo trong đoạn báo cáo của Stalin "về những bài phát biểu có màu hạt dẻ" là đúng và tóm tắt tình hình như sau: Moskva coi nhiệm vụ "tiết kiệm thời gian là sức mạnh của chúng ta để chờ đến khi sự đổ vỡ xuất hiện trong liên minh Hitler và Mussolini, nhưng đồng thời và tất nhiên là với cả Chamberlain."
Từ đây, một số nhà nghiên cứu kết luận rằng Stalin coi nguyên nhân làm suy yếu hệ thống đế quốc là các cuộc chiến tranh được tiến hành theo kế hoạch nhằm mục đích chính trị của họ. Theo S. Z. Slutch, Stalin đã nhận thấy tham vọng của các nước đế quốc trong sự phát triển đối đầu trên trường quốc tế và coi đó là cơ sở thực tế để xác định lợi ích an ninh quốc gia của mình, đồng thời tìm cách làm cho thế giới tư bản phải "lùi một bước".
Năm 1935, Stalin đã viết điện khẩn gửi Kaganovich:
"Các cuộc tranh chấp ngày càng mạnh mẽ hơn giữa các thế lực tư bản độc quyền nhà nước có lợi hơn cho Liên Xô. Chúng ta có thể bán bánh mì cũng như nhiều thứ khác. Vì vậy họ có thể chiến đấu.(...) Chúng ta đang thuận lợi cho một cuộc chiến có nhiều khả năng kéo dài nhưng không thể chiến thắng một cách nhanh chóng."
Những tư duy trên vẫn được Stalin thể hiện sau Chiến tranh thế giới thứ hai khi ông trao đổi với Georgy Dimitrov:
"Chiến tranh giữa hai nhóm nước tư bản (nước tư bản giàu với nước tư bản nghèo) vì mục đích tranh giành thuộc địa, nguyên liệu thô, v.v... là để thống trị các vùng trên thế giới! Chúng ta nhớ rằng họ đã chiến đấu tốt và đã làm suy yếu lẫn nhau. Không xấu, nếu bàn tay của Đức phải rung động bởi tình hình của những nước tư bản giàu của nhất (đặc biệt là Anh). Hitler đã không hiểu và không muốn lay động, phá hoại hệ thống tư bản... Chúng ta cần phải linh hoạt, đẩy một bên chống một bên khác là cách tốt nhất... Vậy có gì là sai trái khi với thất bại của Ba Lan, chúng ta đã phát triển hệ thống xã hội chủ nghĩa trên lãnh thổ mới và dân cư mới?"
Về vấn đề này, một số nhà sử học cho rằng Stalin đã thực sự tuân theo "luật chơi" mà ông nêu trong bài phát biểu của ông khi đánh giá các quan hệ với nước Anh, Pháp:
"Thực chất, chính sách không can thiệp có thể được mô tả như sau: "Hãy để mọi quốc gia để bảo vệ bản thân chống xâm lược như họ muốn và làm thế nào để bên chúng tôi có thể kinh doanh, chúng tôi sẽ thương lượng với cả kẻ xâm lược lẫn nạn nhân của nó." Tuy nhiên, trên thực tế, đó là một chính sách buông thả cho sự xâm lược và làm cho chiến tranh bùng nổ. Và cũng do đó mà nó chuyển thành một cuộc chiến tranh thế giới. Chính sách không can thiệp đã phản bội lại ý muốn không can thiệp. Và ý muốn không can thiệp đã bị cuộc chiến tranh xâm lược làm dơ bẩn chính sách đó. Chính sách ấy đã đẩy tất cả các bên tham gia cuộc chiến sa lầy trong vùng bùn của chiến tranh rồi lặng lẽ khuyến khích, cung cấp cho họ những gì họ cần để làm suy yếu lẫn nhau. Và sau đó khi họ đã đủ yếu, người làm chủ cuộc chơi mới bước lên sân khấu với sức mạnh đổi mới, tất nhiên là để nói chuyện "vì hòa bình" và để sai khiến người tham gia chiến tranh đã suy yếu làm theo các điều khoản của chính mình. Rẻ quá và tốt đẹp quá!"
Cách nhìn của Stalin về "Vị thế của nhà nước Liên Xô"
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Stalin, khi đưa ra đề nghị về một cuộc đấu tranh chung chống Hitler không hẳn xuất phát từ sự vô tư vì đề nghị đó thể hiện quyền lợi của Moskva. Họ dựa vào một số báo cáo, trực tiếp hay gián tiếp, lật lại vấn đề này của Stalin. Một trong các số báo Pravda (Sự thật) ra năm 1940 sau đây có thể xác định hành vi của Liên bang Xô viết trước khi ký hiệp ước:
"Liên Xô đã tìm cách thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình ở biên giới phía tây của nước ta và thúc đẩy hòa bình, và Liên Xô bỏ qua những vấn đề này trong quan hệ ngoại giao với Anh – Pháp để tổ chức cuộc chiến tranh với sự tham gia của Liên bang Xô viết"..
Những điểm trên cũng thấy trong lời của Stalin với Georgy Dimitrov (ngày 7 tháng 9 năm 1939). điều này cho thấy rằng Stalin đã hy vọng có được sự "thanh toán" cho một liên minh với các nền dân chủ:
"Chúng ta ưa thích một thỏa thuận với cái gọi là các nước dân chủ, và vì thế nên phải thương lượng. Tuy nhiên, Anh và Pháp muốn có chúng ta trở thành người làm thuê, và hơn thế nữa là người làm thuê không phải trả công! Chúng ta chắc chắn sẽ không thể là một người làm thuê, ngay cả với mức độ ít nhất mà không đạt được bất cứ điều gì."
Quan điểm đương đại
Winston Churchill Thủ tướng Anh từ 1940 đến 1945
Không thể nói rằng những người Anh không ưa ai hơn ai – Hitler hay Stalin. Cả hai đều nhận thấy rằng điều này có thể chỉ là một giải pháp tạm thời, là những sự xoay xở linh hoạt bởi hoàn cảnh. Sự đối lập về nguyên tắc giữa hai đế quốc và hai hệ thống đã được tạm bỏ qua. Stalin không nghi ngại gì khi cho rằng Hitler là đối thủ ít nguy hiểm hơn cho Liên Xô sau nhiều năm chiến tranh chống lại các thế lực phương Tây. Còn Hitler thì lại tuân theo phương châm cố hữu của mình là "chủ nghĩa đơn phương". Trên thực tế, một thỏa thuận như vậy có thể là dấu hiệu báo trước sự thất bại nghiêm trọng của nền ngoại giao chính trị Anh và Pháp trong vài năm đó.
Liên bang Xô viết đã mong muốn thực hiện lợi ích quan trọng của mình trong việc dịch chuyển đường biên giới đến các vị trí cực Tây càng gần quân đội Đức càng tốt. Bằng cách đó Liên Xô có thời gian để có thể tập hợp sức mạnh từ tất cả các khu vực trong đế chế khổng lồ của họ. Trong tâm trí sắt đá của người Nga vẫn còn vết thương nóng bỏng của thảm họa mà quân đội của họ phải chịu trong năm 1914, khi họ ồ ạt triển khai các cuộc tấn công vào quân Đức trong tình trạng trang bị của quân đội vẫn chưa hoàn bị. Và bây giờ, biên giới của họ đã xa hơn phía Tây, xa hơn so với cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Và họ đã bắt buộc phải dùng biện pháp đó để chiếm Pribaltic và phần phía Tây của Ba Lan trước khi quân Đức tấn công họ. Nếu chính sách của họ có phần lạnh lùng thì cũng dễ hiểu vì nó rất phù hợp với thực tế của tình hình.
Adolf Hitler, Thủ lĩnh Đảng Quốc xã, Quốc trưởng của Đệ Tam đế chế Đức
Với Hiệp ước này, từ quan điểm của người Nga cho thấy chúng ta đã gặp thuận lợi do họ không có khả năng tham gia vào bất kỳ một cuộc xung đột nào, kể cả một cuộc xung đột như vậy tại Romania!
Kẻ thù của chúng tôi được tính trên thực tế là Liên Xô sau khi chúng tôi xâm chiếm Ba Lan. Kẻ thù đã không nghĩ ra quyết định của tôi. Kẻ thù của chúng tôi được lợi một ít. Tôi đã thấy điều đó trong Hiệp định Munich. Tôi tin rằng Stalin sẽ không bao giờ chấp nhận đề nghị của Anh. Chỉ có sự lạc quan thiếu thận trọng mới có thể nghĩ rằng Stalin rất ngớ ngẩn mà không nhận ra mục đích thực sự của họ. Người Nga đã không quan tâm đến việc duy trì các quan điểm của Litvinov về Ba Lan, và việc ông ta từ chức là một yếu tố quyết định. Sau đó, tôi ngay lập tức nhận ra rằng thái độ của Moskva đối với các cường quốc phương Tây đã thay đổi.
Tôi đã tiến hành các bước nhằm thay đổi mối quan hệ với Liên Xô. Trong đó, đã thông qua các hiệp định về kinh tế để bắt đầu đàm phán chính trị. Ở giai đoạn cuối, chúng tôi đã nhận được từ người Nga đề nghị về việc ký một hiệp ước không xâm lược. Bốn ngày trước, tôi đã đi một bước đặc biệt dẫn đến một thực tế là hôm qua, người Nga đã tuyên bố sẵn sàng để ký tên vào hiệp ước. Tôi cũng đã đặt quan hệ cá nhân với Stalin. Đến ngày mai Ribbentrop sẽ ký hiệp ước. Bây giờ, Ba Lan đã ở vào vị trí trong tầm mắt của tôi... Một sự khởi đầu để làm tiêu vong quyền bá chủ của người Anh. Bây giờ, khi tôi đã có sự sắp xếp ngoại giao cần thiết, các binh sĩ đã ở trong trạng thái sẵn sàng.
I. V. Stalin – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b),từ năm 1941, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Dân uỷ Liên Xô.
Hiệp định không xâm lược đã có lợi cho Đức ở một mức độ nhất định.
Một câu hỏi được đặt ra: làm thế nào lại có thể xảy ra mà Chính phủ Liên Xô đã đồng ý để ký kết một hiệp ước không xâm lược với những đối tác không thể tin cậy được như Hitler và Ribbentrop? Điều này có một phần sai lầm của Chính phủ Liên Xô? Tất nhiên không! Hiệp ước không xâm lược Đức – Xô là một hiệp ước hòa bình giữa hai nước. Và chính phía Đức đã đề nghị trước với chúng ta hiệp ước đó trong năm 1939. Chính phủ Liên Xô có thể từ chối một đề nghị như vậy? Tôi nghĩ rằng nếu chỉ có lòng yêu nước mà không yêu hòa bình thì có thể từ chối một hiệp ước hòa bình với một nước láng giềng. Nếu người đứng đầu nhà nước mà làm như vậy thì thậm chí còn gần với quái vật Cannibals hơn cả Hitler và Ribbentrop. Và tất nhiên là không thể thiếu một trong những điều này: thỏa thuận hòa bình này không vi phạm hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến toàn vẹn lãnh thổ, độc lập và danh dự cũng như sự yêu chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc trong Liên bang. Và mọi người đều biết, Hiệp ước không xâm lược giữa Đức và Liên Xô là một hiệp ước đúng đắn.
Benito Mussolini, Thủ lĩnh Đảng Phát xít Ý, Thủ tướng Chính phủ Ý
Đối với các thỏa thuận với Liên Xô, tôi hoàn toàn chấp nhận nó... Việc lập lại quan hệ hữu nghị giữa Đức và Liên Xô là cần thiết để ngăn chặn sự bao vây của các nền dân chủ.
V. M. Molotov, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Dân uỷ kiêm Bộ trưởng Dân ủy Ngoại giao
Tầm quan trọng chủ yếu của Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức trong thực tế là hai quốc gia lớn nhất châu Âu đã đồng ý chấm dứt sự thù địch, loại bỏ sự đe dọa của chiến tranh và cùng chung sống hòa bình. Do đó, các khu vực xung đột quân sự ở châu Âu có thể thu hẹp lại. Thậm chí nếu chúng tôi không thể tránh một cuộc xung đột quân sự ở châu Âu, thì quy mô của những hành động quân sự này cũng sẽ được hạn chế. Những nước không hài lòng với hiệp ước này là những nước muốn "đốt ngôi nhà chung" châu Âu trong một cuộc chiến tranh, những người lập luận một cách đơn giản rằng ánh sáng hòa bình của một châu Âu quý tộc chỉ nhìn thấy được trong sự bùng nổ các hoạt động quân sự.
Thỏa thuận này có được sau thất bại của cuộc đàm phán Liên Xô – Anh – Pháp cho thấy rằng hiện nay, không thể quyết định vấn đề quan trọng của quan hệ quốc tế, đặc biệt là các vấn đề của Đông Âu, mà không có sự tham gia tích cực của Liên bang Xô viết, rằng bất kỳ nỗ lực để phá vỡ Liên Xô và giải quyết các vấn đề sau lưng Liên Xô sẽ chắc chắn kết thúc bằng sự thất bại. Hiệp ước không xâm lược Đức – Xô có nghĩa là thay đổi sự phát triển của châu Âu... Thỏa thuận này không những cho chúng ta loại trừ các mối đe dọa chiến tranh với Đức... mà nó sẽ cho chúng ta những cơ hội mới để phát triển các lực lượng vũ trang, củng cố vị trí của chúng ta và phát huy liên tục những ảnh hưởng của Liên Xô trong quan hệ quốc tế.
Kurt von Tippelskirch, Thượng tướng quân đội Đức Quốc xã, Giám đốc Cơ quan Tình báo của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Đức 1939
Một câu hỏi được đặt ra: có thể có một số chính trị gia không muốn sử dụng tất cả các ảnh hưởng của mình để ngăn chặn một thảm họa tương tự như Chiến tranh thế giới thứ nhất. Thực tế là Hitler muốn chiến tranh, ít nhất là chiến tranh khu vực. Nhưng ông sẽ không dễ dàng để đạt được mục tiêu đó, nếu không tìm thấy những đồng minh cần thiết và kẻ thù ở Liên Xô, Anh và Ba Lan. Điều quan trọng là thái độ của Liên Xô. Khi Hitler nhận được sử bảo đảm sự đồng tình với mình, ông ta thực sự tự tin rằng ông ta sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến chống các cường quốc phương Tây. Xã hội Liên bang Xô viết cũng là một cơ sở lý luận thuyết phục cho phép Hitler xua tan nghi ngờ về các cố vấn quân sự của mình. Loại ý kiến thứ hai tin rằng rất khó để dự đoán trước những gì sẽ xảy ra trong phạm vi các hành động quân sự nếu họ đi xa hơn một cuộc xung đột khu vực. Và do đó sự mở rộng chiến tranh là không thể.
William Shirer, sử gia người Mỹ, phóng viên tại Đức năm 1939
Pháp, cùng với Đức và Anh nhất trí để loại trừ Liên Xô khỏi việc tham gia Hội nghị Munich năm 1938. Một vài tháng sau đó, các nền dân chủ phương Tây đã phải trả giá về việc đó. Ngày 3 tháng 10, bốn ngày sau Hội nghị Munich, Werner von Tippelskirch, Tham tán Đại sứ quán Đức ở Moskva đã báo cáo về Berlin rằng Hội nghị Munich đã có những tác động tiêu cực đến chính sách của Liên Xô.
Ở London và Paris, người ta chỉ còn biết chua xót khóc than cho cuộc chơi tay đôi với Stalin. Trong nhiều năm những người Xô viết ra sức hô hào hãy cảnh giác trước "con thú phát xít", kêu gọi tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình hãy đoàn kết để ngăn chặn sự xâm lăng của Đức Quốc xã. Bây giờ ông ta đã trở thành đồng minh của nó. Điện Kremlin có thể lập luận rằng, trên thực tế: Liên bang Xô viết đã, đang thực hiện những gì mà chính nước Anh và nước Pháp đã làm một năm trước đây ở Munich. Các nước nhỏ phải trả giá cho chúng ta một thời gian nghỉ ngơi, yên bình, tái vũ trang để đối đầu với Đức. Nếu Chamberlain hành động một cách công bằng và danh dự để xoa dịu Hitler mà không dâng Tiệp Khắc cho Hitler trong năm 1938 thì làm sao trách được Stalin đã không thể cư xử một cách được coi là không lương thiện khi một năm sau, Hitler phá hoại hòa bình bằng cách xâm lược Ba Lan mà phương Tây vẫn từ chối sự trợ giúp của Liên Xô?
Sự hoài nghi về thỏa thuận bí mật giữa Stalin và Hitler (vành đai Đông Âu) chỉ được xác nhận tại Berlin và Moskva. Tuy nhiên, thế giới sẽ sớm học được tất cả các bài học qua các bước đi mà người Nga đã đưa ra, và thậm chí sau đó chủ nghĩa phát xít đã tấn công trên toàn thế giới.
Lịch sử sự công bố Hiệp ước
Những thông tin đầu tiên về sự tồn tại của nghị định thư bí mật
Hiệp ước đã được công bố ngay sau khi ký kết, và các thông tin về nghị định thư bổ sung đã được giữ bí mật. Tuy nhiên, nội dung của nó đã bị giới ngoại giao tiết lộ gần như ngay lập tức. Sáng ngày 24 tháng 8, nhà ngoại giao Đức Hans von Hervart thông báo cho đồng nghiệp người Mỹ của ông là Charles Bohlen đầy đủ nội dung của nghị định thư bí mật. Những điều khoản thỏa thuận giữa Liên Xô và Đức còn xuất hiện trong một thứ được gọi là "Bài phát biểu của tại một cuộc họp Bộ Chính trị ngày 19 tháng 8 năm 1939". Tài liệu này được cơ quan thông tấn Havas của Pháp đưa tin vào tháng 11 năm đó. Một số nhà nghiên cứu xem nó như một tài liệu chính gốc, trong khi nhiều người khác không thừa nhận nó. Tuy nhiên, cho đến cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, những tài liệu này vẫn được lợi dụng, mặc dù nó đã được xác nhận rõ ràng và đầy đủ hơn nữa.
Ở phương Tây
Năm 1945, các văn bản gốc bằng tiếng Đức của nghị định thư bổ sung đã được Quân đội Liên Xô thu giữ và chuyển về Moskva, nhưng bản chụp của nó trên microfilm vẫn được bảo quản trong kho lưu trữ tài liệu của Bộ Ngoại giao của Đức. Tháng 5 năm 1945, Thư ký Bộ Ngoại giao Đức Karl von Loesch đã đưa bản sao này cho viên Trung tá người Anh R. S. Thompson. Trong bài phát biểu công khai về nghị định thư bí mật lần đầu tiên được nêu ra tại Tòa án Nürnberg, bị cáo Karl von Loesch đã thừa nhận đã thực hiện sao chép một thoả thuận bí mật về quốc phòng. Ông này cũng cho biết Ribbentrop, và sau đó là Hess đã nhận một bản sao của bản sao và cố gắng để đọc nó. Nhưng ông ta đã từ chối cho biết nguồn gốc của tài liệu tại tòa án. Sau này trong hồi ký của mình, ông này lại nói rằng mình đã nhận được văn bản từ tình báo Mỹ. Một vài tháng sau đó, ông ta định công bố nó trên tờ tạp chí Mỹ "St Louis Post công báo", nhưng tạp chí không chấp nhận điều này. Những cũng chính từ tạp chí đó mà thông tin này gây được tiếng vang rộng rãi vào năm 1948 khi nó được xuất bản trong một bộ sưu tập của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: "Quan hệ Đức Quốc xã – Liên Xô, 1939–1941". Ngoài ra, trong bộ sưu tập còn có các thứ ngoại giao giữa Đức với Liên Xô bằng tiếng Đức, trong đó có các nội dung liên quan trực tiếp đến sự thỏa thuận bí mật. Trên thực tế, các tài liệu này đã giúp cho một số nhà nghiên cứu có cơ sở để so sánh các chính sách của Liên Xô với các chính sách của Đức Quốc xã với đánh giá Liên Xô đã đồng lõa cùng Đế chế thứ ba trong sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai. Về vấn đề này, câu hỏi về nghị định thư bí mật giữa Đức Quốc xã và Liên Xô (cũng như Hiệp ước không xâm lược và Hiệp ước biên giới hữu nghị và biên giới) rất có ý nghĩa chính trị.
Tại Liên Xô
Ở Liên Xô, sự tồn tại của Nghị định thư bí mật đã bị bác bỏ thẳng thừng. Sau khi chiến tranh nổ ra, Moskva đã được sơ tán, trong đó có bản sao thứ hai của nguyên bản tiếng Đức. Chúng được lưu giữ trong tủ cá nhân an toàn của Stalin và sau đó là trong kho lưu trữ của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô..
Năm 1948, để phản ứng với việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xuất bản cuốn sách có tên gọi "Quan hệ Đức Quốc xã – Liên Xô", Cục Thông tin Liên Xô đã xuất bản cuốn sách "Sự xuyên tạc lịch sử", trong đó có các phản biện và những cáo buộc Anh, Mỹ và cộng đồng các nước phương Tây có liên quan đến vấn đề cung cấp tài chính của Đức vào năm 1930. Sau đó, vấn đề mối quan hệ tài chính của Đức Quốc xã với các tập đoàn tư bản Mỹ được che giấu triệt để đã được nhà kinh tế học người Anh nổi tiếng Anthony Sutton làm rõ trong cuốn sách Phố Wall và sự nổi lên của Hitler của ông. Trái ngược với những ấn phẩm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là một bộ sưu tập các tài liệu lưu trữ, các phiên bản được Liên Xô công bố chỉ có dưới dạng những đoạn trích chứ không phải là toàn bộ tài liệu với cấu trúc thống nhất. Sự tồn tại của Nghị định thư bí mật đã bị Molotov bác bỏ từ trước khi ông chết. Ông cũng đã nhiều lần bày tỏ điều này trong các cuộc phỏng vấn của nhà văn Feliks Ivanovich Chuyev.
Vấn đề Hiệp ước không xâm lược Xô – Đức và đặc biệt là Nghị định thư bí mật đã được lật lại ở Liên Xô trong thời cải tổ, chủ yếu do áp lực của Ba Lan thông qua Hiệp hội nghiên cứu lịch sử hai nước Ba Lan – Liên Xô. Để nghiên cứu vấn đề này, một ủy ban đặc biệt đã được thành lập do Bộ trưởng Thông tin tuyên truyền Alexander Yakovlev lãnh đạo. Ngày 24 tháng 12 năm 1989, sau khi nghe báo cáo của Yakovlev về những phát hiện của các nhà nghiên cứu trong Hiệp hội, Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô đã thông qua một nghị quyết lên án Nghị định thư bí mật (ghi nhận việc thiếu bản gốc nguyên văn nhưng công nhận tính xác thực của nó dựa trên các chữ viết tay, bản ảnh kỹ thuật và xét nghiệm từ vựng trong bản sao cũng như các sự kiện tương ứng tiếp theo của nó). Đồng thời, lần đầu tiên tại Liên Xô, văn bản của Nghị định thư bí mật (từ bản microfilm của Đức) đã được xuất bản tại tạp chí "Câu hỏi của Lịch sử" số 6 năm 1989.
Bản đầu của Nghị định thư bí mật được lưu giữ trong kho của Tổng thống Liên Xô (nay là Lưu trữ của Tổng thống Nga tại một thư mục đặc biệt, số hiệu 34. Nhưng một trong những người biết về sự tồn tại của nó, Mikhail Gorbachev cũng chỉ được biết từ năm 1987. Theo người trợ lý của ông là V. A. Boldin, đã có lúc Gorbachev đã muốn tiêu huỷ tài liệu này.. Ngày 30 tháng 10 năm 1992, việc giải mật các tài liệu lưu trữ được thực hiện. Sau đó, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Chính trị của Quân đội và Hải quân Liên Xô Thượng tướng Dmitry Antonovich Volkogonov đã công bố nội dung của nghị định thư này trên Tạp chí Khoa học Lịch sử đương đại và hiện đại, số 1 năm 1993.
Hệ lụy của Hiệp ước
Hai năm sau, khi quân đội Đức tràn sang tấn công Liên Xô trong sự vi phạm trắng trợn mà thực chất là đã xé bỏ Hiệp ước không xâm lược, Stalin vẫn còn biện minh cho việc thỏa hiệp với Hitler. Trong bài diễn văn truyền thanh gửi đến nhân dân Liên Xô ngày 3 tháng 7 năm 1941, Stalin phát biểu:
Chúng ta đã tranh thủ được nền hòa bình cho đất nước ta trong một năm rưỡi, cũng như đã tạo cơ hội chuẩn bị cho các lực lượng của ta nhằm chống lại phát xít Đức vi phạm hiệp ước mà tấn công chúng ta. Đây là cái được của đất nước ta và cái mất của phát xít Đức.
Nhưng có đúng thế không? Từ lúc bấy giờ cho đến nay, tranh luận đã nổ ra về điểm này. Sự thực là bản hiệp ước đã cho Liên Xô một khoảng thời gian để củng cố quốc phòng là điều hiển nhiên. Chỉ trong một thời gian ngắn sau hiệp ước Liên Xô đã có vị thế quân sự vững mạnh chống lại Đức phía bên trong biên giới Liên Xô, kể cả những căn cứ quân sự ở các quốc gia vùng Baltic như Latvia, Estonia và Phần Lan. Và quan trọng nhất, hiệp ước đảm bảo cho điện Kremlin là nếu sau này Liên Xô bị Đức tấn công thì các cường quốc phương Tây lúc ấy đã tỏ rõ đường lối chống Đức, và Liên Xô sẽ không phải đơn độc chống chọi với Đức như Stalin đã lo sợ suốt mùa hè 1939.
Tất cả những điều trên là sự thật nhưng vẫn có lập luận theo cách khác. Vào lúc Hitler tấn công Liên Xô, quân đội của Ba Lan và Pháp cùng lực lượng viễn chinh Anh trên lục địa châu Âu đã bị tiêu diệt, và Đức có mọi nguồn lực toàn châu Âu để huy động mà không bị trói tay vào mặt trận nào của phương Tây. Suốt các năm 1941, 1942 và 1943, Stalin than phiền một cách cay đắng rằng không có mặt trận nào khác chống lại Đức và rằng Liên Xô phải hứng chịu hầu như toàn bộ sức mạnh của Quân lực Đức. Trong khoảng thời gian 1939–1940, còn có một mặt trận của phương Tây để chia bớt sức mạnh của Đức và Ba Lan không thể bị tràn ngập chỉ trong nửa tháng nếu Liên Xô hỗ trợ cho họ thay vì đưa quân vào các vùng đất trong biên giới cũ của nước Nga Sa hoàng.
Hơn nữa, có lẽ đã không có chiến tranh nếu Hitler biết sẽ phải đương đầu với cả Liên Xô, Ba Lan, Anh và Pháp. Xét qua lời khai của các tướng lĩnh Đức trước Tòa án Nüremberg, ngay cả khi các nước này tuy hiền hòa về chính trị nhưng vẫn có thể ngăn chặn được cuộc chiến của Đức chống lại một liên minh hùng mạnh như thế. Theo báo cáo của đại sứ Pháp tại Đức, cả Keitel và Brauchitsch đều cảnh báo với Hitler rằng Đức ít có cơ may chiến thắng nếu Liên Xô đứng về phe kẻ thù của Đức. Tuy nhiên, cũng phải nói lại rằng chính nước Anh cũng chơi trò "bắt cá hai tay", vừa đàm phán với Liên Xô, vừa đàm phán để ký kết với Đức một Hiệp ước tương tự với ý muốn đẩy Đế chế thứ ba mở rộng sang phía Đông. Việc không ký kết được hiệp ước này nằm ngoài ý muốn của họ. Trước đó, Hiệp định Munich 1938 đã thực sự khuyến khích Hitler thôn tính Tiệp Khắc. Việc Pháp hủy bỏ Hiệp ước tương trợ với Liên Xô để ký Hiệp ước Munich cũng đã trở thành một hành động làm cho người Nga không tin tưởng ở họ.
Không có chính khách nào, ngay cả các nhà độc tài, có thể tiên đoán chiều hướng của chiến tranh trong lâu dài. Có thể biện luận giống như Churchill rằng động thái của Stalin "vào lúc ấy có tính thực tế cao". Giống như bất kỳ nguyên thủ quốc gia nào khác, mối ưu tiên hàng đầu của Stalin là nền an ninh cho đất nước của ông. Sau này ông thổ lộ với Churchill rằng, vào mùa hè 1939, ông tin chắc rằng Hitler đang khởi động chiến tranh. Ông đã quyết định không để cho Liên Xô bị lâm vào vị thế tệ hại là đơn độc đối phó với Đức. Khi không thể tạo mối liên minh vững chắc với phương Tây, thế thì tại sao lại không quay sang Hitler lúc ấy đang bất ngờ gõ cửa Liên Xô?
Vào cuối tháng 7 năm 1939, hiển nhiên Stalin đã bắt đầu tin chắc rằng Anh – Pháp không muốn đi đến mối liên minh có tính ràng buộc và rằng mục đích của Anh còn là dẫn dụ cho Hitler khởi động chiến tranh ở Đông Âu. Dường như Stalin đã rất ngờ vực Anh, và mọi hành động của phương Tây trong hai năm vừa qua càng khiến cho ông thêm ngờ vực: sau khi Đức thôn tính Áo và Tiệp Khắc, Chamberlain từ chối đề nghị của Liên Xô nhằm đặt ra kế hoạch ngăn chặn bước tiến kế tiếp của Quốc xã; Chamberlain trì hoãn và lưỡng lự trong việc đàm phán cho liên minh phòng thủ chống lại Hitler.
Một điều mà hầu như ai cũng biết chắc – ngoại trừ Chamberlain – là chính sách ngoại giao Anh – Pháp, vốn đã chập chờn mỗi khi Hitler có một động thái, giờ đã phá sản. Hai cường quốc phương Tây, Anh và Pháp, từng bước đã đi thụt lùi: khi Hitler thách thức họ mà ra lệnh tổng động viên, khi ông ta xâm chiếm lãnh thổ Rhineland năm 1936, rồi thôn tính Áo năm 1938 và cùng năm này chiếm Sudetenland; và họ vẫn bình chân như vại khi Hitler thôn tính Tiệp Khắc tháng 3 năm 1939. Khi Liên Xô ở về phe mình, họ vẫn còn có thể khiến cho nhà độc tài Đức nản lòng mà không dám khởi động chiến tranh hoặc, nếu không được, thì đã có thể nhanh chóng đánh bại Đức trong cuộc xung đột vũ trang. Nhưng họ đã để cho cơ hội cuối cùng vuột khỏi tầm tay dù đã có nhiều cảnh báo rằng Hitler sẽ gây hấn nếu không phải chiến đấu chống Liên Xô.
Cả Anh và Pháp đều lớn tiếng kết tội Stalin. Họ cho rằng trong nhiều năm Stalin đã cảnh báo về "những con thú phát xít" và đề nghị mọi quốc gia yêu chuộng hòa bình kết hợp lại nhằm ngăn chặn Quốc xã gây hấn nhưng bây giờ lại về phe với Quốc xã. Điện Kremlin biện luận rằng họ làm giống như Anh – Pháp đã làm năm trước ở đối với Tiệp Khắc: nhằm duy trì hòa bình và có thêm thời gian tái vũ trang chống lại Đức tuy phải hy sinh một nước nhỏ. Nếu Chamberlain tỏ ra là đúng đắn và có danh dự khi xoa dịu Hitler mà hy sinh Tiệp Khắc, không lẽ Stalin lại là sai trái và mất danh dự khi xoa dịu Hitler mà hy sinh Ba Lan?
Sự thỏa hiệp bí mật của Stalin với Đức nhằm phân chia Ba Lan và được toàn quyền hành động thôn tính Latvia, Estonia, Phần Lan và Bessarabia chẳng bao lâu được thể hiện qua những động thái của Liên Xô đã khiến cho hầu hết thế giới bị sốc ngay cả cho đến giờ. Người Nga nói rằng họ chỉ thu hồi những lãnh thổ đã bị lấy đi khỏi tay họ sau Chiến tranh thế giời thứ nhất nhưng những dân tộc sinh sống trên lãnh thổ này không phải là người Nga và không phải tất cả đều muốn gia nhập Liên Xô.
Từ khi gia nhập Hội Quốc Liên, Liên Xô đã gây dựng một sức mạnh tinh thần cổ súy cho hòa bình và đứng đầu việc chống lại phát xít gây hấn. Bây giờ, trung tâm tinh thần ấy đã hoàn toàn vỡ vụn. Trên tất cả, qua việc thỏa hiệp một cách lôi thôi với Hitler, Stalin đã nổ phát pháo lệnh bắt đầu một cuộc chiến chắc chắn rồi sẽ mở rộng thành cuộc xung đột thế giới. Ông hiểu rõ điều này. Nhiều năm trước, Hitler đã dự trù trong quyển Mein Kampf: "Việc ký kết mối liên minh với Liên Xô chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp". Nhờ Hiệp ước này, Đức được rảnh tay với Liên Xô để chú tâm thôn tính Ba Lan mà không còn e ngại mối liên minh Anh – Pháp – Liên Xô vốn hợp lực lại mạnh hơn Đức rất nhiều. Sau khi đã hạ tiếp Anh – Pháp, Hitler xé bỏ Hiệp ước mà xâm lăng Liên Xô.
Theo William L. Shirer: "Lịch sử cho thấy Hiệp ước Đức Quốc xã – Liên Xô là sai lầm chính trị lớn nhất trong cuộc đời của Stalin". Hiệp ước đã dẫn đến sự kiện Con đường Baltic vào đúng 50 năm sau ngày ký kết, khi khoảng 2 triệu người Latvia, Litva và Estonia cùng nắm tay nhau tạo thành hàng dài 600 km đòi li khai khỏi Liên Xô vào năm 1989.
Năm 2014, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố rằng việc Liên Xô ký Hiệp ước với Đức là không có gì xấu trong bối cảnh đó. Ông Putin nói rằng các sử gia phương Tây ngày nay đang cố gắng lờ đi Hiệp ước München năm 1938, trong đó Pháp và Anh – do Neville Chamberlain làm Thủ tướng – đã xoa dịu Adolf Hitler bằng cách ép buộc Tiệp Khắc phải trao cho Đức vùng Sudetenland. Việc làm đó của Anh đã phá hủy mọi cơ hội thành lập liên minh chống phát xít theo đề nghị của Liên Xô, khiến Liên Xô phải quay sang thỏa hiệp với Đức Quốc xã |
Hệ thống ký hiệu giao thức mật mã là tập hợp những cách thức biểu diễn các gói tin trao đổi giữa các bên tham gia giao dịch theo một giao thức mật mã nhất định trong môi trường mạng máy tính. Cách thức biểu diễn này cho phép suy luận các đặc tính của giao thức và cung cấp một mô hình chuẩn tắc (formal model) để có thể áp dụng lôgic BAN.
Hệ thống ký hiệu bao gồm tập hợp một số thực thể tham giao vào quá trình truyền thông (thường được gọi là Alice and Bob, Charlie...) Họ có thể truy cập tới một máy chủ S, có chung khóa K, thời điểm T, và có thể tạo ra các số ngẫu nhiên (nonce) N dùng cho mục đích xác thực.
Một ví dụ đơn giản:
Ý nghĩa: Alice gửi tới Bob một gói tin chứa thông điệp được mật mã hóa bằng khóa chung KAB.
Một ví dụ khác
Ý nghĩa: Bob gửi tới Alice một số ngẫu nhiên N, mật mã hóa bằng khóa công khai của Alice.
Khóa với hai chỉ số dưới dùng để biểu diễn khóa đối xứng dùng giữa hai thực thể. Khóa với một chỉ số biểu diễn khóa công khai. Khóa bí mật được biểu diễn bằng cách nghịch đảo của khóa công khai.
Hệ thống ký hiệu như trên chỉ thể hiện cách hoạt động của giao thức chứ không phải là ý nghĩa. Chẳng hạn, theo hệ thống này thì mật mã hóa khóa công khai và chữ ký số được biểu diễn giống nhau.
Hệ thống này cũng có thể được dùng cho các giao thức phức tạp hơn, chẳng hạn như giao thức Kerberos. |
Pháp nhân là một định nghĩa trong luật pháp về một thực thể mang tính hội đoàn, thường dùng trong luật kinh tế. Về pháp nhân có rất nhiều quan điểm và học thuyết như: có thuyết cho pháp nhân là một chủ thể giả tạo, có thuyết cho nó là một chủ thể thực sự v.v.. nhưng quan trọng nhất pháp nhân chỉ ra được các thực thể hội đoàn có những biểu hiện tương tự như thể nhân.
Pháp nhân có nhiều định nghĩa, song theo pháp luật Việt Nam thì pháp nhân là những tổ chức có tư cách pháp lý độc lập để tham gia các hoạt động pháp lý khác như chính trị, kinh tế, xã hội... Một cá nhân, tổ chức không có tư cách pháp nhân thì cũng không được pháp luật công nhận có quyền ký kết các văn kiện pháp lý về kinh tế, chính trị, xã hội (nếu cố tình ký kết thì văn bản đó vẫn sẽ bị coi là vô hiệu lực).
Đặc điểm
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi thỏa mãn 4 dấu hiệu sau đây (quy định tại Điều 74 Bộ luật dân sự năm 2015):
Được thành lập theo quy định của bộ luật dân sự hoặc là luật khác có liên quan.
Phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ: là cấu trúc nội tại bên trong bao gồm các cơ quan lãnh đạo, bộ phận chuyên môn của tổ chức, đảm bảo cho tổ chức có khả năng thực tế để hoạt động và điều hành đảm bảo tính nhất quán trong hoạt động pháp nhân;
Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó: điều này có nghĩa là pháp nhân tự chịu trách nhiệm tài sản của mình và trong giới hạn tài sản của mình nghĩa là trả nợ hết tài sản thì thôi, năng lực trách nhiệm pháp nhân gọi là trách nhiệm hữu hạn, trừ trường hợp ngoại lệ là các công ty hợp danh thì thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn;
Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. |
Visual FoxPro là một công-cụ phát-triển và ngôn-ngữ lập-trình (Development tools and languages), nó sử dụng ngôn ngữ lập-trình hướng-đối-tượng (oop: object-oriented programming) của Microsoft. Được phát triển từ FoxPro (có nguồn gốc từ FoxBASE – bắt đầu phát triển từ 1984 bởi Fox Technologies, sử dụng phong-cách lập-trình theo thủ-tục (programming in the procedural style)). Phiên bản cuối cùng của FoxPro (2.6) làm việc trên Mac OS, MS-DOS, Windows và Unix. Visual FoxPro 3.0 là phiên bản "Visual" đầu tiên, có thể chạy trong Mac và Windows, các phiên bản sau chỉ dùng trong Windows.
Visual FoxPro, ký hiệu vắn tắt là VFP, là một hệ quản trị cơ sở dữ liệu (Database Management System -DBMS) trực quan. Nó không chỉ là một hệ DBMS mà còn là một ngôn ngữ lập trình có triển vọng. Nó có thể được dùng để viết cả các ứng dụng web.
Tháng 12 năm 2005, VFP đã lọt vào top 20 trong TIOBE's Programming Community Index, và tháng 8 năm 2006 nó ở vị trí 14, được coi như một ngôn ngữ hạng "A".
Các ưu/nhược điểm khi sử dụng foxpro
+ Ứng dụng biên-dịch bởi VFP có thể chạy trong Windows mà không cần cài đặt (install), tuy nhiên phải chứa các file thư-viện hỗ-trợ lúc-chạy (run-time support library) tùy theo version của VFP và Windows.
+ Là một hệ biên-dịch (compiled), do đó cho phép lập trình viên mềm dẻo trong xử lý mã: chương trình có thể hoạt động với các mã do nó tự sinh ra trong quá trình chạy
+ Dễ tách ứng dụng thành nhiều mô-đun và do đó có thể dễ dàng nâng cấp sửa đổi.
+ Visual Foxpro version trước 9 sẽ không hỗ trợ trực-tiếp mã Unicode, VFP9 có hỗ trợ trực tiếp mã Unicode tùy theo cài đặt trên Windows version nào (Ví dụ: WIndows Xp/Vista với VFP9 có hỗ trợ chữ việt Unicode theo Tiêu chuẩn 6909 phần tổ-hợp (composed hay đúng ra là Windows-1258).
VFP hỗ trợ gián-tiếp Unicode thông qua trình duyệt web khi viết các ứng dụng web.
Chú thích |
Trong toán học, không gian Banach, đặt theo tên Stefan Banach người nghiên cứu các không gian đó, là một trong những đối tượng trung tâm của nghiên cứu về giải tích hàm. Nhiều không gian hàm vô hạn chiều xuất hiện trong các lĩnh vực khác nhau của giải tích là các ví dụ về các không gian Banach.
Định nghĩa
Các không gian Banach được định nghĩa là các không gian vectơ định chuẩn đầy đủ. Điều này nghĩa là một không gian Banach là một không gian vectơ V trên trường số thực hay số phức với một chuẩn ||·|| sao cho mọi dãy Cauchy (tương ứng với metric d(x, y) = ||x − y||) có giới hạn trong V.
Các ví dụ
Sau đây, K ký hiệu cho trường R hoặc C.
Không gian Euclid quen thuộc Kn, với chuẩn Euclid của x = (x1,..., xn) được cho bởi ||x|| = (∑ |xi|2)1/2, là các không gian Banach.
Không gian của tất cả các hàm số liên tục f: [a, b]→ K định nghĩa trên một đoạn đóng [a, b] trở thành một không gian Banach nếu ta định nghĩa chuẩn của hàm số như là ||f|| = sup { |f(x)|: x trong [a, b] }. Đây thực sự là một chuẩn bởi vì các hàm liên tục định nghĩa trên đoạn đóng thì bị chặn. Không gian này là đầy đủ dưới chuẩn này. Theo định nghĩa, nó là một không gian Banach, được ký hiệu là C[a, b].
Không gian C(X) của tất cả các hàm số liên tục X → K, với X là một không gian compact. Với X là một không gian topo bất kì, ký hiệu
B(X) là không gian của tất cả các hàm liên tục bị chặn với chuẩn . Có thể thay không gian tôpô X trong ví dụ này bằng một tập tùy ý. Khi đó B(X) được xét là tập các hàm số bị chặn trên tập X với chuẩn được định nghĩa tương tự. Trong tất cả những ví dụ này, ta có thể nhân các hàm số với nhau và vẫn ở trong cùng một không gian đó: tất cả những ví dụ này thật ra là các đại số Banach có chứa đơn vị.
Nếu p ≥ 1 là một số thực, ta xét không gian của tất cả các dãy vô hạn (x1, x2, x3,...) của các phần tử trong K sao cho ∑i |xi|p là hữu hạn. Lũy thừa bậc 1/p của giá trị này được định nghĩa là chuẩn p của dãy đó. Không gian cùng với chuẩn này là một không gian Banach; nó được ký hiệu là l p.
Không gian Banach l∞ chứa tất cả các dãy x=(x_n) bị chặn với phần tử lấy từ K; chuẩn của một chuỗi như vậy là supremum của các giá trị tuyệt đối của các phần tử trong chuỗi.
Một lần nữa, nếu p ≥ 1 là một số thực, ta có thể xét các hàm số f: [a, b] → K sao cho |f|p là khả tích Lebesgue. Lũy thừa bậc 1/p của tích phân này được định nghĩa là chuẩn của f. Bản thân không gian này không phải là một không gian định chuẩn bởi vì có những hàm số khác không với chuẩn là zero. Chúng ta định nghĩa một quan hệ tương đương như sau: f và g là tương đương nếu và chỉ nếu chuẩn của f - g là zero. Tập của các lớp tương đương sau đó tạo thành một không gian Banach; nó được ký hiệu là L p[a, b]. Ở đây, sử dụng tích phân Lebesgue là điều cốt yếu, bởi vì tích phân Riemann sẽ không đưa ra một không gian đầy đủ. Những ví dụ này có thể tổng quát hóa; xem không gian L p về các chi tiết.
Nếu X và Y là hai không gian Banach trên cùng một trường K, thì chúng ta có thể xây dựng tổng trực tiếp X ⊕ Y. Nó cũng là không gian Banach theo chuẩn được xác định chẳng hạn như ||(x,y)|| = ||x|| + ||y||. Cách xây dựng này có thể tổng quát hóa thành tổng trực tiếp của một số bất kì các không gian Banach.
Nếu M là một không gian con đóng của một không gian Banach X, thì không gian thương X/M là một không gian Banach.
Mọi không gian có tích vô hướng sẽ dẫn đến một chuẩn suy ra từ đó. Không gian tích vô hướng này gọi là không gian Hilbert nếu chuẩn tương ứng là đầy đủ. Do đó mọi không gian Hilbert là một không gian Banach do định nghĩa. Điều ngược lại cũng đúng dưới một số điều kiện nhất định; xem bên dưới.
Các toán tử tuyến tính
Nếu V và W là các không gian Banach trên cùng một trường K, tập hợp của các hàm K-tuyến tính liên tục được ký hiệu là L(V, W).
Chú ý là trong các không gian vô hạn chiều, không phải tất cả các toán tử tuyến tính là liên tục (Với các không gian hữu hạn chiều thì mọi toán tử tuyến tính đều liên tục). Ta có một mệnh đề thú vị:
Cho là 1 toán tử tuyến tính. Khi đó 3 t/c sau là tương đương:
liên tục
liên tục tại 1 điểm
bị chặn, tức là là tập bị chặn trong W với mọi tập bị chặn M trong V.
Vì L(V, W) là một không gian vectơ, và bằng cách định nghĩa chuẩn ||O|| = sup { ||x||: x trong V với ||x|| ≤ 1 } nó trở thành một không gian Banach.
Đặc biệt, không gian L(V) = L(V, V) còn là một đại số Banach có đơn vị với phép nhân là phép hợp của các phép biến đổi tuyến tính.
Không gian đối ngẫu
Nếu V là một không gian Banach và K là trường nền (hoặc là số thực hay là phức), thì bản thân K là một không gian Banach (sử dụng giá trị tuyệt đối như là chuẩn) và ta có thể định nghĩa không gian đối ngẫu V′ như là V′ = L(V, K), không gian của biến đổi tuyến tính liên tục vào K. Không gian này lại là không gian Banach (với chuẩn của toán tử). Nó có thể được sử dụng để định nghĩa một topo mới trên V: topo yếu.
Chú ý rằng yêu cầu rằng các hàm phải liên tục là quan trọng; nếu V là vô hạn chiều, có những hàm tuyến tính nhưng không liên tục, và do đó không bị chặn, do vậy không gian V* của các hàm tuyến tính vào K chưa phải là một không gian Banach. Không gian V* (có thể được gọi là không gian đối ngẫu đại số để phân biệt với V') cũng tạo ra một topo yếu và mịn hơn topo tạo ra bởi đối ngẫu liên tục bởi vì V′⊆V*.
Có một ánh xạ tự nhiên F từ V đến V′′ (đối ngẫu của đối ngẫu) định nghĩa bởi
F(x)(f) = f(x)
với tất cả x trong V và f trong V′. Vì F(x) là một biến đổi từ V′ sang K, nó là một phần tử của V′′. Ánh xạ F: x → F(x) do đó là một biến đổi V → V′′. Như là một hệ quả của định lý Hahn-Banach, ánh xạ này là đơn ánh; nếu nó cũng là toàn ánh, thì không gian Banach V được gọi là có tính phản xạ. Các không gian có tính phản xạ có nhiều tính chất hình học quan trọng. Một không gian là có tính phản xạ nếu và chỉ nếu không gian đối ngẫu của nó có tính phản xạ, đó là trường hợp nếu và chỉ nếu quả cầu đơn vị là compact trong topo yếu.
Ví dụ, lp là có tính phản xạ với 1<p<∞ nhưng l1 và l∞ không có tính phản xạ. Đối ngẫu của lp là lq với p và q liên hệ với nhau bởi công thức (1/p) + (1/q) = 1. Xem không gian L p để thêm chi tiết.
Quan hệ với các không gian Hilbert
Như là được nói đến ở trên, mọi không gian Hilbert là một không gian Banach bởi vì, theo định nghĩa, một không gian Hilbert là đầy đủ với chuẩn suy ra từ tích vô hướng, (chuẩn được suy ra từ tích vô hướng nghĩa là ||v||² = (v,v) với tất cả v.
Điều ngược lại không luôn luôn đúng; không phải không gian Banach nào cũng là không gian Hilbert. Một điều kiện cần và đủ cho một không gian Banach V có liên quan đến một tích vô hướng (mà cần có để làm V trở thành một không gian Hilbert) là hằng đẳng thức hình bình hành:
||u+v||² + ||u-v||² = 2(||u||² + ||v||²)
với mọi u và v trong V, mà ||*|| là chuẩn trên V.
Nếu chuẩn của một không gian Banach thỏa mãn hằng đẳng thức này, tích vô hướng liên quan sẽ làm nó trở thành một không gian Hilbert thông qua hằng đẳng thức phân cực. Nếu V là một không gian Banach thực, thì hằng đẳng thức phân cực là
(u,v) = (||u+v||² - ||u-v||²)/4
và nếu V là một không gian Banach phức, thì hằng đẳng thức phân cực được cho bởi
(u,v) = (||u+v||² - ||u-v||² + i(||u+iv||² - ||u-iv||²)).
Điều kiện cần là dễ dàng từ định nghĩa của một tích vô hướng. Để thấy điều kiện đủ —nghĩa là luật bình hành sẽ suy ra dạng định nghĩa bằng hằng đẳng thức phân cựa thật sự là một tích vô hướng đầy đủ—ta phải kiểm tra một cách đại số là dạng này là cộng với nhau được, từ đó bằng phép quy nạp dạng này là tuyến tính trên các số tự nhiên và số hữu tỉ. Sau đó bởi vì mỗi số thực là giới hạn của một chuỗi Cauchy nào đó của các số hữu tỉ, tính đầy đủ của chuẩn mở rộng sự tuyến tính lên toàn đường thẳng thực. Trong trường hợp phức, ta có thể kiểm tra rằng dạng vô hướng đó là tuyến tính trên i trong một tham số, và tuyến tính liên hợp trên tham số còn lại.
Đạo hàm
Một vài khái niệm đạo hàm có thể được định nghĩa trên một không gian Banach. Xem bài đạo hàm Fréchet và đạo hàm Gâteaux.
Tổng quát hóa
Một số các không gian quan trọng khác trong giải tích hàm, ví dụ không gian tất cả các hàm khả vi vô số lần R → R hay là không gian của tất cả các phân bố trên R, là đầy đủ nhưng không phải là các không gian vectơ định chuẩn và do vậy không phải là các không gian Banach. Trong không gian Frechet ta vẫn có một metric đầy đủ, trong khi không gian LF là các không gian vec tơ thuần nhất đầy đủ phát sinh từ giới hạn của các không gian Fréchet.
Sách tham khảo
Historical monographs in English, French and Polish:
Stefan Banach: Théorie des opérations linéaires. -- Warszawa 1932. (Monografie Matematyczne; 1) Zbl 0005.20901 |
Cẩm Khê là một huyện trung du nằm ở trung tâm tỉnh Phú Thọ, Việt Nam.
Địa lý
Huyện Cẩm Khê nằm ở phía tây bắc của tỉnh Phú Thọ, nằm cách thành phố Việt Trì khoảng 40 km về phía tây bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 80 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Thanh Ba và huyện Tam Nông
Phía tây và phía nam giáp huyện Yên Lập
Phía bắc giáp huyện Hạ Hòa.
Dân số năm 2019 là 139.424 người. 27% dân số theo đạo Thiên Chúa. Xét theo đơn vị cấp huyện thì Cẩm Khê có dân số đứng thứ 2 trong tỉnh ( sau thành phố Việt Trì).
Hành chính
Huyện Cẩm Khê có 24 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Cẩm Khê (huyện lỵ) và 23 xã: Cấp Dẫn, Chương Xá, Điêu Lương, Đồng Lương, Hùng Việt, Hương Lung, Minh Tân, Ngô Xá, Phú Khê, Phú Lạc, Phượng Vĩ, Sơn Tình, Tam Sơn, Tạ Xá, Thụy Liễu, Tiên Lương, Tùng Khê, Tuy Lộc, Văn Bán, Văn Khúc, Xương Thịnh, Yên Dưỡng, Yên Tập.
Lịch sử
Xa xưa là huyện Ma Khê. Ma Khê là tên ông tổ bộ tộc người Tày, họ Ma. Thời đó, bộ tộc này định cư dọc bờ hữu ngạn Nậm Tao (sau gọi là sông Thao - một đoạn sông Hồng). Trong tiếng Tày-Thái, Nậm có nghĩa là sông, ví dụ một số con sống vùng Tây Bắc: sông Nậm Rốm, sông Nậm Nưa,... Nậm Tao tiếng Tày có nghĩa là sông Tao. Khi chuyển tự âm chữ Hán-Việt, Tao chuyển thành Thao. Ma Khê được vua Hùng phong làm Lương tướng. Sắc phong "Phụ chính đại thần, đại tướng quân Ma Khê". Chính vì vậy mà vùng đất này mang tên của ông (về sau ông chuyển cả bộ tộc của mình sang tả ngạn sông Thao thuộc thị xã Phú Thọ và huyện Lâm Thao ngày nay).
Thời loạn 12 sứ quân, địa bàn huyện Cẩm Khê có thành Hồi Hồ là nơi chiếm đóng của sứ quân Kiều Thuận.Hiện còn vết tích, di chỉ thành lũy ở Xã Văn Khúc, gần khu vực núi Đọi Đèn trong huyện. Kiều Thuận đã gây dựng và cai quản trong hơn 20 năm tới khi nổi dậy xưng quân vương và bị lực lượng Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh thu phục vào năm 968 và lập ra nhà nước Đại Cồ Việt.
Đến thời nhà Lê sơ huyện Ma Khê được đổi tên là huyện Hoa Khê ( 華 溪), thuộc phủ Lâm Thao, trấn Sơn Tây.
Năm 1831, nhà Nguyễn đổi tên trấn Sơn Tây thành tỉnh Sơn Tây.
Năm 1841, vì kỵ huý, trùng âm tên của một con dâu của vua Gia Long là Hồ Thị Hoa nhà Nguyễn đổi tên huyện Hoa Khê ( 華 溪 thành huyện Cẩm Khê (錦 溪) (vẫn thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây). Tên Cẩm Khê được dùng từ đó cho đến ngày nay. Hoa và Cẩm đều có chung một trường nghĩa là những thứ đẹp. Khê là dòng suối, Cẩm Khê có nghĩa là suối gấm.
Ngày 8 tháng 9 năm 1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách phủ Lâm Thao (chỉ gồm 3 huyện Thanh Ba, Sơn Vi và Phù Ninh) của tỉnh Sơn Tây để thành lập tỉnh Hưng Hoá mới. Ngày 9 tháng 9 năm 1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách huyện Cẩm Khê khỏi phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây để nhập vào Tiểu quân khu Yên Bái, thuộc Đạo Quan binh 3.
Ngày 9 tháng 12 năm 1892, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định chuyển huyện Cẩm Khê nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái về tỉnh Hưng Hoá mới.
Năm 1903, tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hoá chuyển lên làng Phú Thọ và tỉnh đổi tên thành tỉnh Phú Thọ, do đó huyện Cẩm Khê thuộc tỉnh Phú Thọ.
Sau năm 1975, huyện Cẩm Khê thuộc tỉnh Vĩnh Phú, bao gồm 31 xã: Cấp Dẫn, Cát Trù, Chương Xá, Điêu Lương, Đồng Cam, Đồng Lương, Đông Phú, Hiền Đa, Hương Lung, Ngô Xá, Phú Khê, Phú Lạc, Phùng Xá, Phượng Vĩ, Phương Xá, Sai Nga, Sơn Nga, Sơn Tình, Tạ Xá, Tam Sơn, Thanh Nga, Thụy Liễu, Tiên Lương, Tình Cương, Tùng Khê, Tuy Lộc, Văn Bán, Văn Khúc, Xương Thịnh, Yên Dưỡng và Yên Tập.
Theo Quyết định số 178-CP ngày 5 tháng 7 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, huyện Cẩm Khê sáp nhập với huyện Yên Lập và 10 xã của huyện Hạ Hoà ở phần hữu ngạn sông Thao thành huyện Sông Thao.
Ngày 22 tháng 12 năm 1980, huyện Sông Thao được tách thành 2 huyện Yên Lập và Sông Thao.
Ngày 7 tháng 10 năm 1995, Chính phủ cắt chuyển 10 xã của huyện Sông Thao (10 xã cũ của huyện Hạ Hoà) về huyện Hạ Hoà vừa được tái lập từ huyện Thanh Hòa trong cùng nghị định.
Như vậy, huyện Sông Thao lúc này có địa giới trùng với huyện Cẩm Khê cũ.
Ngày 23 tháng 11 năm 1995, thành lập thị trấn Sông Thao (thị trấn huyện lỵ huyện Sông Thao) trên cơ sở giải thể xã Đông Phú và điều chỉnh một phần diện tích, dân số của xã Phú Khê.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Phú Thọ được tái lập từ tỉnh Vĩnh Phú, huyện Cẩm Khê thuộc tỉnh Phú Thọ.
Ngày 8 tháng 4 năm 2002, huyện Sông Thao được đổi lại tên cũ là huyện Cẩm Khê.
Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 828/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Phú Thọ (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Sáp nhập 3 xã Đồng Cam, Phương Xá và Phùng Xá thành xã Minh Tân
Sáp nhập 3 xã Thanh Nga, Sơn Nga, Sai Nga và thị trấn Sông Thao thành thị trấn Cẩm Khê
Sáp nhập 3 xã Hiền Đa, Cát Trù và Tình Cương thành xã Hùng Việt.
Kinh tế
Cẩm Khê là địa phương nằm dọc theo bờ hữu ngạn sông Thao (sông Hồng), trải dài trên 30 km, bề ngang hơn 10 km. Đây là vùng bán sơn, địa; vừa có đồi, gò và vừa có đồng bằng. Phía Tây huyện có dãy núi thấp thuộc nhánh của dãy Hoàng Liên Sơn, gần như song song với sông Hồng, độ cao trên 300m, có đỉnh tới trên 500m, là ranh giới tự nhiên giữa 2 huyện Cẩm Khê và Yên Lập. Sườn Đông Bắc của dãy núi này thuộc huyện Cẩm Khê. Núi Cẩm Khê nhiều gỗ, giang, nứa,...
Đồi, gò Cẩm Khê có đỉnh bằng, tròn, sườn thoải, độ cao tuyệt đối dưới 40m, độ cao tương đối dưới 20m, cá biệt có đỉnh cao tới trên 100m (Gò Chò cao 118m). Trên đồi trồng nhiều cọ. Ở đây cọ mọc thành rừng. Cẩm Khê từng là xứ sở của cây cọ ở Việt Nam. Trước đây, lá cọ là nguồn thu nhập đáng kể. Ngày nay, rừng cọ vẫn còn, nhưng trong rừng cọ, Nhà nước đã đầu tư để nhân dân trồng xen các loại cây lấy gỗ lâu năm như: bạch đàn, keo tai tượng,... Một hệ sinh thái mới đang hình thành với nhiều triển vọng. Nông lâm sản chính như: lúa, ngô, sắn, chè, cọ,...
Tiểu thủ công nghiệp
Tiểu thủ công nghiệp, phải kể đến nghề làm nón thị trấn Cẩm Khê với những sản phẩm nón trắng bền, đẹp, rẻ. Ngoài ra, Cẩm Khê còn nổi tiếng bởi các nghề như: ươm tơ, thêu ren, mây, giang đan, nghề trồng nấm, làm mộc nhĩ,... góp phần làm tăng thu nhập và thu hút lực lượng lao động nhàn rỗi trong huyện. Ở Cẩm Khê hiện nay đang phát triển nghề làm gạch, trong huyện hiện nay có nhiều nhà máy gạch tuynel sản phẩm chất lượng cao.
Công nghiệp
Cụm công nghiệp thị trấn Cẩm Khê: với diện tích 100ha nằm phía đông của thị trấn Cẩm Khê, gần quốc lộ 32C, đã được đầu tư hệ thống điện, nước, cây xăng. mặt đường được thảm nhựa thuận tiện cho sản xuất. Hiện tai đã có doanh nghiệp đầu tư kinh doanh: CTY TNHH YI DA Việt Nam, Quyết Thắng,...
Khu Công Nghiêp Cẩm Khê: có tổng diện tích quy hoạch 450ha, cách trung tâm huyện Cẩm Khê 3 km, nằm trên địa bàn thị trấn Cẩm Khê và xã Xương Thịnh, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ; Có tuyến đường giao thông kết nối khu công nghiệp với đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai tại nút giao IC10, quốc Lộ 32C, 70B. Hiện tại đã có 17 doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh.
Giao thông
Đường bộ
Với tuyến đường Cao tốc Nội Bài - Lào Cai (đường cao tốc dài nhất Việt Nam) và Quốc lộ 32C chạy dọc theo suốt chiều dài của huyện, Quốc lộ 70B chạy qua địa bàn huyện. Ngoài ra các tuyến Đường tỉnh, huyện lộ trong huyện đã được thảm nhựa kết nối dễ dàng với các địa phương trong vùng. Đường liên thôn, liên xã đang ngày càng được bê tông hóa.
Đường sắt
Gần ga đường sắt Phú Thọ (thị xã Phú Thọ); ga đường sắt Chí Chủ và ga đường sắt Vụ Ẻn (huyện Thanh Ba).
Đường thủy
Quãng đường vận chuyển ra sông Hồng ngắn, có lợi thế về vận chuyển đường thủy
Có bến phà Tình Cương (tỉnh lộ 313) bến đò Chí Chủ.
Đường hàng không
Cách sân bay quốc tế Nội Bài 80 km.
Làng nghề
Là một huyện dân cư đông đúc của tỉnh Phú Thọ lại có nhiều loại địa hình từ vùng núi, đồi gò thấp đến vùng thung lũng bằng phẳng ven sông Hồng nên huyện có rất nhiều làng nghề và đa dạng về nhóm nghề theo đặc thù của từng địa phương trong huyện. Các làng nghề ở huyện:
Làng nghề mộc Dư Ba (Tuy Lộc)
Làng nghề làm nón khu Sai Nga (thị trấn Cẩm Khê)
Làng nghề cá chép đỏ Thủy Trầm (Tuy Lộc)
Nghề đan lát ở Tùng Khê
Một số có nghề làm nón khu Sơn Nga (thị trấn Cẩm Khê)
Nghề làm đồ thờ cúng Hiền Đa (Hùng Việt)
Làng nghề rau Văn Phú (thị trấn Cẩm Khê)
Nghề nuôi tằm và trứng tằm giống lá sắn Thống Nhất (Đồng Lương)
Làng nghề đan lát ở Ngô Xá
Nghề làm bún bánh Thạch Đê (Hùng Việt)
Làng nghề chè Đá Hen (Đồng Lương)
Làng sơ chế gỗ, chè Tiền Phong (Hương Lung).
Danh nhân
Nhà thơ Bút Tre : Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, còn gọi là Đặng Văn Quang, quê xã Đồng Lương. Ông sinh năm 1911, mất năm 1987. Ông lấy bút danh là Bút Tre. Ông đỗ tú tài triết học dưới thời Pháp thuộc, viết báo dưới thời đó với bút danh Lục Y Lang.[1] Ông từng làm công tác ngoại giao với chức danh bí thư thứ hai sứ quán Việt Nam tại Rumani. Sau đó ông về làm Trưởng ty (bây giờ gọi là Giám đốc sở) Văn hoá Phú Thọ
Nhà văn Ngô Ngọc Bội quê xã Phú Khê, sinh ngày 07 tháng 1 năm 1929, quê xã Phú Khê. Ông tham gia Cách mạng từ năm 1945, từng trải qua nhiều công tác quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trước khi nghỉ hưu, ông là Trưởng ban Biên tập của báo Văn nghệ, đã được vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật và huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Ngô Ngọc Bội được xem là một nhà văn chuyên biệt của đồng quê. Ông là tác giả của nhiều tập truyện ngắn, tiểu thuyết ghi dấu một thời như: Chị Cả Phây (tập truyện, 1963), Đất bỏng (ký sự, 1968), Ao làng (tiểu thuyết, 1975), Nợ đồi (tập truyện, 1984), Lá non (tiểu thuyết, 1990), Ác mộng (tiểu thuyết, 1990), Mênh mang cổng trời (tiểu thuyết, 1992), Gió đưa cành trúc (tiểu thuyết, 1994), Những mảnh vụn (tập truyện, 1996), Tơ vương (tiểu thuyết, 2000), Đường trường (tiểu thuyết, 2001), Đường trường khuất khúc (2003) Ẩm ương đi lấy chồng (tập truyện, 2005), cùng gần 70 bút ký, phóng sự phần lớn in trên báo Văn nghệ chưa tập hợp lại thành sách
Tiến sỹ Nguyễn Đức Hưởng, từng làm vị trí cao cấp trong ban quản trị ngân hàng Bưu Điện Liên Việt (LienVietPostBank), ông là nhân tố chính trong việc kêu gọi và tài trợ xây dựng cụm trường học, nhà điều hành của xã Tình Cương trước đây.
Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên (1951-2010), quê xã Chương Xá. Cố Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân Dân Việt Nam, Cố Thứ trưởng thường trực Bộ Quốc phòng. Hiện nay có một ngôi trường tiểu học mang tên ông ở xã Chương Xá.
Tướng quân Kiều Thuận thời 12 sứ quân. |
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (tiếng Anh: Hanoi National University of Education - viết tắt: ĐHSPHN hay HNUE) là một trường đại học công lập tại Việt Nam. Được thành lập vào năm 1951, là trường đại học thứ tư tại Việt Nam được thành lập (sau Trường Đại học Y Hà Nội - 1902, Đại học Quốc gia Hà Nội - 1904 và Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - 1925), trường Đại học Sư phạm Hà Nội là một trong những cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội có một trường Trung học phổ thông trực thuộc là Trường Trung học phổ thông chuyên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội dành cho các học sinh chuyên trên toàn quốc.
Trường vốn là một ban trực thuộc của Ban Đại học Văn khoa theo sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với mục đích đào tạo các giáo viên cho các cấp học trên toàn quốc. Năm 1951, trường chính thức được tách riêng với tên gọi Đại học Sư phạm Khoa học, với hiệu trưởng đầu tiên là Giáo sư Lê Văn Thiêm. Năm 1994, cùng với Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, ba trường cùng được sắp xếp và trở thành những trường trực thuộc đầu tiên của Đại học Quốc gia Hà Nội mới được thành lập. Tuy nhiên, vào năm 1999, Trường được tách ra khỏi Đại học Quốc gia Hà Nội, và chính thức mang tên gọi như ngày nay.
Năm 2008, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là chủ nhà của Olympic Vật lý Quốc tế lần thứ 39.
Lịch sử
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội được thành lập ngày 11 tháng 10 năm 1951 theo Nghị định 276 của Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam. Ngày 10/12/1993 theo Nghị định 97/CP của Chính phủ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I là một trường thành viên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Theo Quyết định 201/QĐTTg ngày 12/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ, Trường Đại học Sư phạm tách khỏi Đại học Quốc gia Hà Nội thành Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trường có cơ sở 2 đặt tại tỉnh Hà Nam (trên cơ sở sáp nhập Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam) vào ngày 30/12/2015.
Các tên gọi cũ:
Trường Sư Phạm cao cấp
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội
Ban giám hiệu đương nhiệm
Hiệu trưởng: GS.TS Nguyễn Văn Minh (Nguyên Trưởng Khoa Vật lý)
Phó Hiệu trưởng: PGS.TS Nguyễn Vũ Bích Hiền - phụ trách cơ sở vật chất (Nguyên Trưởng Khoa Quản lý Giáo dục)
Phó Hiệu trưởng: PGS.TS Nguyễn Văn Trào - phụ trách đào tạo (Nguyên Trưởng Khoa Toán-Tin)
Phó Hiệu trưởng: PGS.TS Nguyễn Đức Sơn - phụ trách đào tạo
Nhân sự
Tổng số cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên là 1.227 (807 giảng viên trong đó có 609 giảng viên biên chế, 70 giảng viên hợp đồng dài hạn, 362 nữ giảng viên), trong đó có:
24 Giáo sư
126 Phó Giáo sư
227 Tiến sĩ khoa học và Tiến sĩ
177 Thạc sĩ
19 Nhà giáo Nhân dân và 74 Nhà giáo Ưu tú;
Cơ sở vật chất, kỹ thuật: Giảng đường có tổng diện tích là 19.760 m² và 181 phòng; phòng máy tính có tổng diện tích là 2.812 m² và 36 phòng; thư viện có tổng diện tích là 6.334 m² và 31 phòng; phòng thí nghiệm có tổng diện tích là 2.545 m² và 38 phòng.
Cơ cấu tổ chức
Đại học Sư phạm Hà Nội có các đơn vị trực thuộc là các khoa, viện nghiên cứu sư phạm, các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng.
Các khoa và bộ môn trực thuộc
Hiện nay, trường Đại học Sư phạm Hà Nội có 23 khoa và 1 bộ môn trực thuộc
Khoa Toán-Tin
Khoa Công nghệ Thông tin
Khoa Vật lí
Khoa Hóa học
Khoa Sinh học
Khoa Ngữ văn
Khoa Tiếng Anh
Khoa Lịch sử
Khoa Địa lý
Khoa Triết học
Khoa Tiếng Pháp
Khoa Lý luận Chính trị - Giáo dục Công dân
Khoa Giáo dục Tiểu học
Khoa Sư phạm kỹ thuật
Khoa Tâm lý Giáo dục
Khoa Giáo dục Đặc biệt
Khoa Giáo dục Thể chất
Khoa Giáo dục Quốc phòng
Khoa Giáo dục Mầm non
Khoa Việt Nam học
Khoa Quản lý Giáo dục
Khoa Nghệ thuật
Khoa Công tác Xã hội
1 bộ môn là:
Bộ môn Tiếng Trung Quốc
Các trường trực thuộc
Trường Trung học Phổ thông Chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội
Trường THCS - THPT Nguyễn Tất Thành
Trường Tiểu học Thực hành Nguyễn Tất Thành
Trường Mầm non Búp Sen Xanh
Các đơn vị trực thuộc
Nhà Xuất bản Đại học Sư phạm
Các cựu hiệu trưởng
Các giáo sư danh tiếng
GS, NGND Nguyễn Lân: giảng viên khoa Tâm lý giáo dục, nhà từ điển học.
GS, NGND Đào Văn Tiến: Khoa Sinh học, Giải thưởng Hồ Chí Minh lần thứ nhất.
GS, TSKH, NGND Bùi Văn Ba (Phương Lựu), Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012 về Văn học cho cụm công trình Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX; Từ văn học so sánh đến thi học so sánh; Lý luận phê bình văn học; Phương pháp luận nghiên cứu văn học; Tư tưởng văn hoá văn nghệ của chủ nghĩa Mác phương Tây.
GS, TS Hoàng Xuân Sính, Nguyên Trưởng bộ môn Đại số, khoa Toán, nữ giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam. Người sáng lập, Chủ tịch hội đồng quản trị Trường Đại học Thăng Long.
GS, NGND Nguyễn Đình Chú: giảng viên cao cấp của khoa Ngữ văn .
GS Phùng Văn Tửu: giảng viên khoa Ngữ Văn, Giải thưởng nhà nước về khoa học và công nghệ đợt 3 .
GS, TS Nguyễn Mạnh Tường: luật sư, bị mất chức giáo sư vì có dính líu tới phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm
GS Lê Khả Kế: nhà từ điển học.
GS Nguyễn Thúc Hào: Nguyên Phó Hiệu Trưởng.
Những cựu sinh viên nổi bật
Cao Huy Đỉnh (1927-1975): Giáo sư, Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996;
Nguyễn Văn Hiệu: Giáo sư, TSKH Vật lý, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, nguyên Ủy viên trung ương Đảng, giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, nguyên Chủ tịch Hội Vật lý Việt Nam, nguyên Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam;
Nguyễn Văn Đạo: Giáo sư, TSKH Cơ học, Viện sĩ, nguyên giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên chủ tịch Hội Cơ học Việt Nam, Giải thưởng Hồ Chí Minh;
Nguyễn Khoa Điềm: nhà thơ Việt Nam, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá 9, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam;
Vũ Đình Cự: Giáo sư, TSKH Vật lý, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội Việt Nam, nguyên Ủy viên trung ương Đảng;
Phan Đình Diệu: Giáo sư, TSKH Toán học, nguyên chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, nguyên phó trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo phát triển CNTT Việt Nam khóa 1;
Nguyễn Thanh Hải: Phó Giáo sư, TS Vật lý, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021 tỉnh Thái Nguyên, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh Thái Nguyên;
GS, TSKH, NGND Trần Kiên, nguyên trưởng Khoa Sinh học, Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012 về Khoa học - Công nghệ cho cụm công trình Động vật chí và Thực vật chí Việt Nam ;
Dương Trung Quốc: Nhà sử học, Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam;
Dương Thụ: Nhạc sĩ (tốt nghiệp khoa Văn);
Phạm Tiến Duật: Nhà thơ;
Nguyễn Đình Trí: Giáo sư, TS Toán học, nguyên chủ tịch Hội Toán học Việt Nam ;
Đoàn Quỳnh: Giáo sư Toán học ;
Đặng Hùng Thắng: Giáo sư, TSKH Toán học ;
Nguyễn Văn Khánh: Giáo sư, TS Vật lí; nguyên trưởng khoa khoa Vật lí, trường Đại học Sư phạm Hà Nội;
Vũ Đình Hòa: Phó Giáo sư, TSKH Toán học; giảng viên khoa Công nghệ thông tin, trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Giám đốc Trung tâm Tài năng trẻ FPT;
Trần Đăng Hưng: Phó Giáo sư, TS Công nghệ Thông tin; trưởng khoa khoa Công nghệ thông tin, trường Đại học Sư phạm Hà Nội;
Đỗ Đức Thái: Giáo sư, TSKH toán học, trưởng khoa Toán-Tin, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội;
Nguyễn Huy Thiệp: nhà văn (tốt nghiệp khoa Sử);
Trần Khải Thanh Thủy: nhà bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà văn;
Văn Như Cương: thành viên Hội đồng Giáo dục Quốc gia, Hiệu trưởng và sáng lập trường Trung học phổ thông Dân lập Lương Thế Vinh, Hà Nội.
Đàm Bích Thủy: Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam, Nguyên Giám đốc Văn phòng đại diện Ngân hàng Quốc gia úc tại Việt Nam, Nguyên Tổng giám đốc Ngân hàng Citibank Việt Nam.
Lê Hải Trà: Nguyên Tổng giám đốc Sở giao dịch Chứng khoán TP HCM (HOSE)
Tranh cãi
Vụ tước bằng thạc sĩ Đỗ Thị Thoan
Đỗ Thị Thoan (bút danh là Nhã Thuyên) vốn là sinh viên K53 Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Đại học, cô tiếp tục theo học khóa cao học K18 tại trường này (năm học 2009 – 2010). Luận văn thạc sĩ Vị trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa , của cô được hội đồng thẩm định của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đánh giá xuất sắc. Nhờ vậy, cô được ký hợp đồng ngắn hạn làm giảng viên giảng dạy môn Văn học Việt Nam hiện đại tại khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội từ tháng 9/2012. Cuối tháng 5/2013 khoa này cho biết có sức ép từ cơ quan an ninh nên họ không thể cho cô tiếp tục dạy. Đến đầu tháng 3 năm 2014, PGS TS Nguyễn Thị Bình, tổ trưởng Tổ Văn học Việt Nam hiện đại của Khoa Ngữ văn, người hướng dẫn Nhã Thuyên làm luận văn thạc sĩ, buộc phải về hưu sớm. Sau đó, ngày 27/3/2014, Nhã Thuyên thông báo, cô bị Phòng Sau Đại học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội mời đến để nhận các quyết định thu hồi bằng và hủy luận văn thạc sĩ của cô. |
Trong lý thuyết đồ thị, một đường đi trong đồ thị G = (X, E) được gọi là đường đi Euler nếu nó đi qua tất cả các cạnh của đồ thị, mỗi cạnh đúng một lần. Đường đi Euler có đỉnh cuối cùng trùng với đỉnh xuất phát gọi là chu trình Euler.
Khái niệm chu trình Euler xuất phát từ bài toán bảy cây cầu do Euler giải quyết vào khoảng năm 1737. Đường đi Euler có thể tìm thấy trong các bài toán vui vẽ một nét (vẽ một hình nào đó mà không nhấc bút khỏi mặt giấy, không tô lại cạnh nào hai lần).
Carl Hierholzer là người đầu tiên mô tả hoàn chỉnh đồ thị Euler vào năm 1873, bằng cách chứng minh rằng đồ thi Euler là đồ thị liên thông không có đỉnh bậc lẻ.
Ý tưởng
Thành phố Konigsberg (Nga) có 2 vùng bị ngăn cách bởi một dòng sông và có 2 đảo ở giữa sông. Có 7 chiếc cầu nối những vùng này với nhau.
giữa|nhỏ|Hình ảnh 7 chiếc cầu nối 4 vùng trong thành phố Konigsberg (Đức)
Bài toán: Người dân trong vùng thách đố nhau là thử tìm cách xuất phát từ một vùng đi dạo qua mỗi chiếc cầu đúng một lần và trở về nơi xuất phát.
Năm 1736, nhà toán học Euler (1707 - 1783) đã mô hình bài toán này bằng một đồ thị vô hướng với mỗi đỉnh ứng với một vùng, mỗi cạnh ứng với một chiếc cầu.
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Königsberg graph.svg|giữa|nhỏ|Đồ thị vô hướng được mô hình hóa từ bài toán 7 chiếc cầu
Các định nghĩa về chu trình và đường đi Euler
Đường đi Euler (tiếng Anh: Eulerian path, Eulerian trail hoặc Euler walk) trong đồ thị vô hướng là đường đi của đồ thị đi qua mỗi cạnh của đồ thị đúng một lần (nếu là đồ thị có hướng thì đường đi phải tôn trọng hướng của cạnh).
Chu trình Euler (tiếng Anh: Eulerian cycle, Eulerian circuit hoặc Euler tour) trong đồ thị vô hướng là một chu trình đi qua mỗi cạnh của đồ thị đúng một lần và có đỉnh đầu trùng với đỉnh cuối.
Dây chuyền Euler là dây chuyền đi qua tất cả các cạnh trong đồ thị và mỗi cạnh được đi qua đúng một lần.
Chu trình Euler là Đường đi Euler có đỉnh đầu trùng với đỉnh cuối.
Đồ thị Euler
Đồ thị Euler vô hướng là đồ thị vô hướng có chứa ít nhất một chu trình Euler.
Đồ thị Euler có hướng là đồ thị có hướng có chứa ít nhất một mạch Euler.
Đồ thị được gọi là đồ thị Euler nếu có chu trình (mạch) Euler, và gọi là đồ thị nửa Euler nếu nó có dây chuyền (đường đi) Euler.
Ghi chú: Một đồ thị là Euler thì sẽ là nửa Euler; điều ngược lại không đúng.
Định lý Euler về chu trình và đường đi Euler
Đồ thị vô hướng liên thông G = (X, E) có chu trình Euler khi và chỉ khi G không có đỉnh bậc lẻ.
Chứng minh:
Điều kiện cần: Giả sử (G) là đồ thị Euler, tức là tồn tại chu trình Euler (P) trong (G). Khi đó, cứ mỗi lần chu trình (P) đi qua một đỉnh nào đó của (G) thì bậc của đỉnh đó tăng lên 2.
Mặt khác, mỗi cạnh của đồ thị xuất hiện trong (P) đúng 1 lần. Do đó, mỗi đỉnh của đồ thị đều có bậc chẵn.
Phát biểu khác: Một đa đồ thị không có điểm cô lập có chu trình Euler nếu và chỉ nếu đồ thị là liên thông và mỗi đỉnh của nó đều có bậc chẵn.
Đồ thị vô hướng liên thông G = (X, E) có đường đi Euler khi và chỉ khi G có đúng hai đỉnh bậc lẻ. Nếu G có hai đỉnh bậc lẻ thì đường đi Euler có hai đầu đường đi nằm ở hai đỉnh bậc lẻ.
Đồ thị có hướng liên thông G = (X, E) có chu trình Euler, khi đó số đỉnh bậc trong của G sẽ bằng số đỉnh bậc ngoài của G (d+(x) = d-(x),∀xϵ X).
Các tính chất khác
Một đồ thị vô hướng là đồ thị Euler nếu nó liên thông và có thể phân tích thành các chu trình có các cạnh rời nhau.
Nếu đồ thị vô hướng G là Euler thì đồ thị đường L(G) cũng là Euler.
Đồ thị có hướng là Euler nếu nó liên thông và mọi đỉnh của nó có bậc vào bằng bậc ra.
Đồ thị có hướng là Euler nếu nó liên thông và có thể phân tích thành các chu trình có hướng với các cung rời nhau.
Ví dụ
Ví dụ 1: Cho các đồ thị vô hướng G1, G2, G3, tìm chu trình Euler
Đồ thị G1 là đồ thị Euler vì nó có chu trình Euler a, e, c, d, e, b, a.
Đồ thị G2 không có chu trình cũng như đường đi Euler.
Đồ thị G3 không có chu trình Euler nhưng nó có đường đi Euler a, c, d, e, b, d, a, b, vì thế G3 là đồ thị nửa Euler.
Ví dụ 2: Cho các đồ thị có hướng H1, H2, H3, tìm chu trình Euler
Đồ thị H2 là đồ thị Euler vì nó có chu trình Euler a, b, c, d, e, a.
Đồ thị H3 không có chu trình Euler nhưng nó có đường đi Euler c, a, b, c, d, b vì thế H3 là đồ thị nửa Euler.
Đồ thị H1 không có chu trình cũng như đường đi Euler.
Giải thuật tìm chu trình Euler
Giả sử G = (V, E) là đồ thị vô hướng, liên thông, tất cả các đỉnh đều có bậc chẵn hơn nữa G là hữu hạn. Khi đó, tất cả các đỉnh đều có bậc lớn hơn 1.
Giải thuật 2: Không đi qua cầu
Một cạnh của đồ thị G được gọi là cầu, nếu khi xóa cạnh đó khỏi đồ thị thì làm tăng số thành phần liên thông của G.
Giải thuật: Gọi chu trình cần tìm là C.
Khởi tạo: Chọn một đỉnh bất kỳ cho vào C.
Nếu G không còn cạnh nào thì dừng.
Bổ sung: Chọn một cạnh nối đỉnh vừa chọn với một đỉnh kề với nó theo nguyên tắc: chỉ chọn cạnh cầu nếu không còn cạnh nào khác để chọn. Bổ sung cạnh vừa chọn và đỉnh cuối của nó vào C, xóa cạnh ấy khỏi G. Quay về bước 2.
Code mẫu
#include <stdio.h>
#include <conio.h>
#define TRUE 1
#define FALSE 0
#define VAIN 99
#define MAX 10
int G[MAX][MAX];
// Ma Tran ke Dinh-Dinh (co Khuyen)
int S[MAX][MAX];
// Ma Tran danh dau Cung da su dung
int Pred[MAX];
// Mang Nua-Bac-Trong cua 1 Dinh
int Succ[MAX];
// Mang Nua-Bac-Ngoai cua 1 Dinh
int path[MAX];
// Mang duong di cua chu trinh
// khai bao ham
void ReadData();
void PrintData();
int Check(int k);
//bien toan cuc
int N, k, l = 0;
void Euler();
void main() {
ReadData();
PrintData();
Euler();
}
void ReadData() {
int i, j;
FILE * f = fopen("EU_in.txt", "rt");
if (f == NULL) {
printf("\nError Loading File!\n");
return;
}
fscanf(f, "%d", & N); // gia tri dau tien cho biet so dinh cua Do Thi G
for (i = 1; i <= N; i++) {
Succ[i] = Pred[i] = 0;
for (j = 1; j <= N; j++) {
S[i][j] = FALSE;
// danh dau Cung khong con su dung nua
fscanf(f, "%d", & G[i][j]); //lan luot doc cac phan tu MT ke
}
}
fclose(f);
for (i = 1; i <= N; i++)
for (j = 1; j <= N; j++)
if (G[i][j] > 0) {
S[i][j] = TRUE;
Succ[i]++;
Pred[j]++;
}
// Tinh Bac moi Dinh
}
void PrintData() {
clrscr();
int i, j;
printf("\nMa Tran Ke G[%d*%d]:\n", N, N);
for (i = 1; i <= N; i++) {
for (j = 1; j <= N; j++)
printf("%4d", G[i][j]);
printf("\n");
}
}
void Euler() {
FILE * g = fopen("EU_out.txt", "wt");
int i;
for (i = 1; i <= N; i++)
if ((Pred[i] + Succ[i]) % 2) // neu co dinh bac Le
{
printf("\nTon tai Dinh %d Bac Le!", i);
printf("\nKhong co chu trinh Euler\n");
fclose(g);
return;
}
printf("\nDo thi co chu trinh Euler\n");
int k, ok;
// kiem tra va in ra man hinh chu trinh Euler 1 net ve
printf("\nKet qua kiem tra xuat phat tu dinh 1:\n");
for (k = 2; k <= N; k++)
// kiem tra xuat phat tu Dinh 1
{
if ((G[1][k] != 0))
// co Cung noi Dinh 1 voi Dinh k
{
S[1][k] = FALSE;
// danh dau Cung(1,k) da duoc su dung
ok = Check(k);
// xet tiep Dinh k
if (ok == FALSE)
S[1][k] = TRUE; //duong nay khong nen qua Dinh k=>tra danh dau
else // ok==TRUE
{
//printf(" %d",k);//lan luot hien thi nguoc cac Dinh da qua
printf("Tong so dinh cua chu trinh: %d\n", l + 2);
fprintf(g, "%d\n", l + 2);
printf("Cac dinh cua duong di chu trinh:\n");
printf("1 %d ", k);
fprintf(g, "1 %d ", k);
for (int r = l - 1; r >= 0; r--) {
printf("%d ", path[r]);
fprintf(g, "%d ", path[r]);
}
fclose(g);
getch();
return;
}
}
}
// end for
}
int Check(int k) // tiep tuc kiem tra, xuat phat tu Dinh k
{
int i, j, ok;
for (i = 1; i <= N; i++) {
if ((S[k][i] == TRUE) && (G[k][i] != 0)) //co Cung tu k den cac Dinh con lai ?
{
S[k][i] = FALSE; // neu co, danh dau khong su dung lai Cung(k,i) nua
ok = Check(i);
// xet tiep Dinh i den cac Dinh khac
if (ok == FALSE)
S[k][i] = TRUE; //lan nay khong nen qua Dinh i => bo danh dau
else {
//printf(" %d",i);
path[l] = i;
l++;
return TRUE;
}
}
}
for (i = 1; i <= N; i++)
// khi khong con Cung di tu Dinh k nua
for (j = 1; j <= N; j++) // quet duyet do thi G xem da het Cung chua?
if (S[i][j] == TRUE)
// neu con sot Cung tren Ma Tran danh dau S =>
return FALSE; //huong di theo Dinh k nay la sai=>chon Dinh k khac
return TRUE;
// thanh cong, tra ve cac dinh nguoc tren duong di Euler
} |
Đường đi Hamilton có nguồn gốc từ bài toán: "Xuất phát từ một đỉnh của khối thập nhị diện đều hãy đi dọc theo các cạnh của khối đó sao cho đi qua tất cả các đỉnh khác, mỗi đỉnh đúng một lần sau đó quay về đỉnh xuất phát." là gọi theo tên của William Rowan Hamilton phát biểu vào năm 1859.
Định nghĩa
Cho đồ thị G = (V,E), có n đỉnh
Đường đi x0,x1,...,x
n-1,xn là đường đi Hamilton nếu
V = {x0,x1,...,xn-1,xn}
xi!=xj
, 0 ≤ i < j ≤ n
Chu trình x0,x1,...,x
Hamilton
t đỉnh, đi qua tất cả các đỉnh khác của đồ thị,
mỗi đỉnh đúng một lần và quay trở về nơi xuất phát.
Đồ thị Hamilton là đồ thị có chứa ít nhất hai đỉnh là chu trình và đường đi Hamilton).
(G2) Chỉ có đường đi Hamilton nên không
Một số kết quả liên quan đến đồ thị Hamilton
Không giống như đồ thị Euler, hiện nay chưa có quy tắc cần và đủ để kiểm tra xem một đồ thị có là Hamilton không.
Các kết quả có được hiện nay chỉ là các điều kiện đủ để một đồ thị là đồ thị Hamilton hay có đường đi Hamilton.
Đồ thị đủ luôn là đồ thị Hamilton. Với n lẻ và X1, X2 và |X1| = |X2| = n. Nếu d(x) ≥ n/2 với mọi đỉnh x của G thì G là đồ thị Hamilton.
Giả sử G là đồ thị vô hướng đơn gồm n đỉnh với n ≥ 3. Nếu d(x) ≥ (n-1)/2 với mọi đỉnh x của G thì G có đường đi Hamilton.
Giả sử G là đồ thị vô hướng đơn gồm n đỉnh với n ≥ 3. Nếu d(x) + d(y) ≥ n với mọi cặp đỉnh x,y không kề nhau của G thì G là đồ thị Hamilton.
Giả sử G là đồ thị vô hướng đơn gồm n đỉnh và m cạnh. Nếu m ≥ thì G là đồ thị Hamilton.
Định lý
Cho đồ thị G có n đỉnh, bao đóng cl(G) được tạo ra từ G bằng cách bổ sung cho mỗi cặp đỉnh không kề nhau u và v với degree(v) + degree(u) ≥ n một cạnh mới uv.
Dirac (1952) Xét G là đơn đồ thị vô hướng Hamilton nếu tổng các bậc của hai đỉnh không kề nhau đều bằng n hoặc lớn hơn.
Định lý Bondy-Chvátal(1972) Một đồ thị là Hamilton nếu và chỉ nếu bao đóng của nó là Hamilton. Vì đồ thi đầy đủ là Hamilton, nên tất cả các đồ thị mà bao đóng đầy đủ là Hamilton.
Ghouila-Houiri (1960) Một đồ thị liên thông mạnh với n đỉnh là đồ thị Hamilton nếu mọi đỉnh có bậc ≥ n
Meyniel(1973) Một đồ thị liên thông mạnh với n đỉnh là đồ thị Hamilton nếu d(x)+d(y) ≥ 2n-1 với mọi cặp đỉnh x,y không kề nhau.
Đồ thị đủ luồn là đồ thị Hamilton, với n lẻ ≥ 3 thì Kn(Kn là đồ thị đủ với n đỉnh) có (n-1)/2 chu trình Hamilton đôi một không có cạnh chung.
Thuật toán xác định đồ thị Hamilton
Giả sử G=(X,E) là đồ thị vô hướng gồm n đỉnh với tập đỉnh X={x1,x2,...,xn}, nếu G là đồ thị Hamilton thì sẽ có chu trình Hamilton có dạng: x1--xi1--xi2--xi3... xi n-1--x1,với {i1,i2,...,in-1} là một hoán vị của tập hợp {2 hiên là: Đặt Z={xi1, xi2, xi3,…} là dãy đỉnh tương ứng trong hoán vị của tập {2,3,…n}ta kiểm tra xem Z có tạo nên chu trình hay không, tức là phải kiểm tra (n-1)! tập (Z) khác nhau.
==> Đây là một thuật toán vét cạn, có độ phức tạp không khả thi khi n chỉ từ 20,30 đỉnh trở lên.
Thuật toán hiệu quả, xác định xem một đồ thị Hamilton hay không vẫn đang là một thách thức lớn đối với các nhà toán học và tin học.
Một số nhà nghiên cứu đã đề xuất
Các thuật toán Heuristic (nhờ vào việc vận dụng các thuật toán thông minh nhân tạo, mạng neural, thuật toán gen,...) để giải quyết gần đúng các bài toán Hamilton.
Những thuật toán loại này khá nhanh và thông thường dừng với hai trường hợp sau:
1. Nếu khẳng định đồ thị đang xét là đồ thị Hamilton là đó là một khẳng định chính xác và có thể kiểm chứng dễ dàng.
2. Nếu khẳng định định không phải là đồ thị Hamilton: có thể bị sai lầm với một xác suất nào đó(thật ra trường hợp này chính là "Không biết đồ thị đã cho có phải là đồ thị Hamilton không").
Quy tắc để tìm chu trình Hamilton
Hiện nay, dù chưa tìm ra thuật toán tổng quát, nhưng có một số quy tắc khá tốt để sử dụng trong quá trình tìm chu trình Hamilton trong đồ thị. Những quy tắc này có thể phối hợp với nhận xét về các tính chất đối xứng hay về tính chất nào đó của một đồ thị cụ thể để khỏi phải xét nhiều trường hợp khác nhau.
Xét đồ thị G=(X,E) gồm n đỉnh, trong quá trình tìm chu trình Hamilton chúng ta có thể vận dụng 4 quy tắc sau đây
Quy tắc 1: Lấy hết các cạnh kề với đỉnh bậc 2.
Quy tắc 2: Không cho phát sinh chu trình ít hơn n cạnh.
Quy tắc 3: Nếu đã lấy 2 cạnh kề với đỉnh x thì có thể bỏ tất cả các cạnh còn lại kề với x.
Quy tắc 4: Duy trì tính liên thông và bảo đảm bậc mỗi đỉnh luôn lớn hơn hay bằng 2.
Quy tắc 3 được minh họa trong hình,khi thực hiện quy tắc này thì bậc của một số đỉnh bị giảm xuống: nhờ vậy chúng ta có thể tận dụng trở lại quy tắc 1 và quy tắc 4.
Ứng dụng
Bài toán mã đi tuần là một dạng của bài toán tổng quát hơn là bài toán tìm đường đi Hamilton trong lý thuyết đồ thị, là một bài toán NP-đầy đủ. Bài toán tìm hành trình đóng của quân mã là một bài toán cụ thể của bài toán tìm chu trình Hamiltonian.
Bài toán mã đi tuần trên bàn cờ
- Đặt một quân mã ở một ô bất kì trên bàn cờ vua, theo quy tắc di chuyển của cờ vua, tìm các bước đi của quân mã sao cho mỗi ô chỉ được đi qua 1 lần và đi hết bàn cờ. |
Cây là khái niệm quan trọng trong lý thuyết đồ thị, cấu trúc dữ liệu và giải thuật.
Cây là một đồ thị mà trong đó hai đỉnh bất kì đều được nối với nhau bằng đúng một đường đi. Nói cách khác, đồ thị liên thông bất kỳ không có chu trình là một cây. Rừng là hợp (disjoint union) của các cây. Cây được sử dụng rộng rãi trong các cấu trúc dữ liệu của ngành khoa học máy tính như cây nhị phân, đống, trie, cây Huffman cho nén dữ liệu, v.v...
Cây tự do
Cây tự do là một đơn đồ thị, liên thông, không có chu trình.
Định lý sau cho biết các điều kiện tương đương với định nghĩa cây
Định lý - Các điều kiện cần và đủ để đồ thị là một cây
Cho đồ thị G=(V,E) có n đỉnh. Sáu mệnh đề sau là tương đương:
G là một cây;
G không có chu trình và có n-1 cạnh;
G liên thông và có n-1 cạnh;
G không có chu trình và nếu bổ sung vào một cạnh nối hai đỉnh không kề nhau thì xuất hiện một chu trình duy nhất;
G liên thông và nếu bỏ đi một cạnh bất kỳ thì G mất tính liên thông;
Mỗi cặp đỉnh trong G được nối với nhau bằng đường đi duy nhất.
Cây (có gốc)
Cây (có gốc) là cây trong đó có một đỉnh được chọn là gốc và mỗi cạnh được định hướng trùng với hướng đi của đường đi đơn duy nhất từ gốc tới mỗi đỉnh.
Trong một cây có gốc, nếu có một cạnh đi từ đỉnh x đến đỉnh y thì đỉnh x được gọi là cha của đỉnh y, y là con của x (xem đồ thị (toán học)).
Hai đỉnh cùng cha được gọi là anh em, đỉnh không có con được gọi là lá hay đỉnh ngoài, đỉnh không là lá được gọi là đỉnh trong.
Số cạnh trên đường đi từ gốc tới mỗi đỉnh được gọi là mức của đỉnh ấy.
Cây nhị phân
Cây có gốc mỗi đỉnh có không quá hai con được gọi là cây nhị phân (binary tree).
Cây nhị phân mà mỗi đỉnh trong có đúng hai con được gọi là cây nhị phân đầy đủ(full binary tree)
Cây nhị phân đầy đủ mà tất cả các lá có cùng một mức được gọi là cây nhị phân hoàn chỉnh (perfect binary tree). Một số tài liệu gọi cây loại này là cây đầy đủ.
Cây nhị phân mà mỗi đỉnh của nó đã có con phải thì cũng có con trái được gọi là cây nhị phân gần hoàn chỉnh (almost complete binary tree).
Cây nhị phân có mức lá chênh nhau không quá 1 mức(độ cao cây)thì gọi là cây nhị phân cân bằng.
Ứng dụng cây trong khoa học máy tính
Trong khoa học máy tính cây là một cấu trúc dữ liệu không tuyến tính.
Cấu trúc cây được ứng dụng trong các giải thuật tìm kiếm, giải thuật sắp xếp và nhiều bài toán khác
Cây dùng để biểu diễn bài toán quyết định (cây quyết định), biểu diễn quá trình tính toán các biểu thức đại số.
Các cây đặc biệt
Cây đỏ đen
Cây 2-3-4
B-Cây
Cây tìm kiếm nhị phân
Đống (heap)
Cây biểu diễn tập hợp
Biểu diễn cây
Có thể biểu diễn cây bằng mảng hoặc bằng danh sách kề. Khi biểu diễn bằng danh sách kề, mọi cây có thể chuyển sang một cây nhị phân tương đương với nó.
Các thuật toán duyệt cây
Duyệt tiền thứ tự
Duyệt trung thứ tự
Duyệt hậu thứ tự
Cây bao trùm
Mọi đơn đồ thị liên thông G có ít nhất một đồ thị con là cây và chứa tất cả các đỉnh của G. Đồ thị con này được gọi là cây bao trùm của G. Đồ thị G có thể có nhiều cây bao trùm. Nếu G có trọng số trên các cạnh thì cây bao trùm có tổng trọng số trên các cạnh của nó là nhỏ nhất (/lớn nhất) được gọi là cây bao trùm nhỏ nhất (/lớn nhất).
Định lý
Mọi đồ thị liên thông đều cso chứa ít nhất một cây bao trùm.
Định lý Carley: Số cây khung của đồ thị Gn là n mũ n-2
Các thuật toán tìm cây bao trùm
Thuật toán tìm cây bao trùm theo chiều rộng
Thuật toán tìm cây bao trùm theo chiều sâu
Thuật toán Prim
Thuật toán Kruskal
Các thuật toán khác
Thuật toán vun đống
Thuật toán xây dựng cây mã Huffman |
Trong tô pô và các ngành liên quan của toán học, một không gian rời rạc là một ví dụ cực kì đơn giản của một không gian topo hay các cấu trúc tương tự, mà trong đó các điểm là "cô lập" với nhau theo một nghĩa nào đó.
Định nghĩa
Cho một tập hợp X:
tô pô rời rạc trên X được định nghĩa bằng cách cho mỗi tập con của X là mở, và X là một không gian tôpô rời rạc nếu như nó được trang bị với tôpô rời rạc của nó;
không gian thuần nhất rời rạc trên X được định nghĩa bằng cách cho mỗi superset của các phần tử đường chéo {(x,x) : x thuộc X} trong X × X là một entourage, và X là một không gian thuần nhất rời rạc nếu như nó được trang bị với thuần nhất rời rạc của nó.
metric trên X được định nghĩa bằng cách cho khoảng cách giữa hai điểm khác nhau bất kì x và y là , và X là một không gian metric rời rạc nếu như nó được trang bị bởi metric rời rạc này.
Một không gian metric (, ) được gọi là rời rạc thuần nhất nếu như tồn tại sao cho, với bất kì , người ta có thể có hoặc là hay . Topo ẩn dưới không gian metric này có thể là rời rạc, mà metric không cần rời rạc thuần nhất: ví dụ metric thông thường trên tập hợp {1, 1/2, 1/4, 1/8,...} của các số thực.
Các tính chất
Thuần nhất ẩn bên dưới một không gian metric rời rạc là thuần nhất rời rạc, và topo ẩn bên dưới không gian thuần nhất rời rạc là topo rời rạc.
Do đó, các khái niệm khác nhau của không gian rời rạc là tương thích với nhau.
Mặt khác, tôpô ẩn bên dưới một thuần nhất liên tục (hay một không gian metric liên tục) có thể là rời rạc; một ví dụ là không gian metric
X := {1/n : n = 1,2,3,...} (với metric kế thừa từ đường thẳng thực và được định nghĩa bởi d(x,y) = |x − y|).
Hiển nhiên, đây không phải là một metric rời rạc; và không gian này cũng không đầy đủ và do đó không rời rạc như là một không gian thuần nhất.
Tuy nhiên, nó là rời rạc như là một không gian tôpô.
Ta nói rằng X là rời rạc về mặt topo nhưng không rời rạc thuần nhất hay rời rạc theo metric.
Thêm nữa:
Một không gian tôpô là rời rạc nếu và chỉ nếu các tập cô đơn là mở, đó là trường hợp nếu và chỉ nếu nó không chứa một điểm hội tụ nào cả.
Các tập cô đơn tạo thành một cơ sở cho tôpô rời rạc.
Một không gian thuần nhất X là rời rạc nếu và chỉ nếu đường chéo {(x,x) : x trong X} là một entourage.
Tất cả các không gian tôpô rời rạc thỏa mãn từng tiên đề phân tách; đặc biệt là, mỗi không gian rời rạc là một không gian Hausdorff, nghĩa là, phân tách được.
Một không gian rời rạc là compact nếu và chỉ nếu nó là một tập hữu hạn.
Mọi không gian thuần nhất (hay metric) rời rạc là đầy đủ. Thật vậy, mọi dãy Cauchy đều là dãy hằng bắt đầu từ một phần tử nào đó.
Gộp hai điều trên lại, mọi không gian thuần nhất (hay metric) rời rạc là bị chặn toàn diện nếu và chỉ nếu nó hữu hạn.
Mọi không gian metric rời rạc là bị chặn.
Mọi không gian rời rạc là đếm được bậc nhất, và một không gian rời rạc là đếm được bậc hai nếu và chỉ nếu nó đếm được.
Mọi không gian rời rạc là hoàn toàn không liên thông.
Mọi không gian rời rạc không trống là thuộc loại thứ hai (second category).
Bất kì một hàm nào từ một không gian rời rạc đến một không gian tô pô khác là liên tục, và bất kì hàm nào từ một không gian thuần nhất rời rạc sang một không gian thuần nhất khác là liên tục đều.
Nghĩa là, không gian rời rạc X là tự do trên tập hợp X trong phạm trù các không gian tô pô và các hàm liên tục hay là trong phạm trù các không gian thuần nhất và các hàm liên tục đều. Những điều này là ví dụ của một hiện tượng tổng quát hơn, trong đó các cấu trúc rời rạc thường tự do trên các tập hợp.
Với các không gian metric, mọi việc trở nên phức tạp hơn, bởi vì có một vài loại không gian metric, phụ thuộc vào cái gì được chọn cho các phép đồng phôi.
Đương nhiên các không gian metric rời rạc là tự do khi các đồng phôi đều là các hàm liên tục đều hay là các hàm liên tục, nhưng điều này không nói lên điều gì thú vị về các cấu trúc metric, chỉ là cấu trúc tô pô hay cấu trúc thuần nhất. Các loại thích hợp hơn với không gian metric có thể tìm thấy bằng cách giới hạn các đồng phôi trong các loại hàm liên tục Lipschitz hay là các hàm ngắn; tuy nhiên, những loại này không có các đối tượng tự do (trên nhiều hơn một phần tử).
Tuy nhiên, không gian metric rời rạc là tự do trong thể loại các không gian metric bị chặn và các hàm liên tục Lipschitz, và nó tự do trong thể loại của các không gian metric bị chặn bởi 1 và các hàm ngắn.
Nghĩa là, bất kì một hàm nào từ một không gian metric rời rạc sang một không gian metric bị chặn khác cũng liên tục Lipschitz, và bất kì một hàm nào từ một không gian metric rời rạc tới một không gian metric bị chặn bởi 1 cũng là hàm ngắn.
Đi theo hướng ngược lại, một hàm f từ một không gian topo Y sang một không gian rời rạc X là liên tục nếu và chỉ nếu nó là một hằng số địa phương theo nghĩa là mỗi điểm trong Y có một vùng xung quanh mà trên đó f là hằng số.
Sử dụng
Một cấu trúc rời rạc thường được sử dụng như là "cấu trúc mặc định" trên một tập không có một tô pô tự nhiên, một thuần nhất hay là một metric nào cả.
Ví dụ, bất kì nhóm có thể được xem như là một nhóm topo bằng cách đưa vào đó tô pô rời rạc, để suy ra rằng các định lý về các nhóm topo cũng đúng cho các nhóm.
Thật vậy, các nhà giải tích có thể chỉ các nhóm thông thường, không có tính tô pô được nghiên cứu bởi các nhà đại số như là "nhóm rời rạc". Trong một vài trường hợp, điều này có thể được áp dụng hữu ích, ví dụ kết hợp với đối ngẫu Pontryagin.
Một đa tạp 0-chiều (hay là đa tạp khả vi và analytical) không gì khác hơn là một không gian tô pô rời rạc. Theo tinh thần đoạn trước, do đó chúng ta có thể xem bất kì nhóm rời rạc nào như là một nhóm Lie 0-chiều.
Trong khi các không gian rời rạc là không có gì thú vị từ quan điểm tô pô, ta có thể xây dựng dễ dàng các không gian lý thú từ chúng.
Ví dụ, một nhân của vô hạn đếm được các bản sao của không gian rời rạc của các số tự nhiên là đồng phôi với không gian các số vô tỷ, với phép đồng phôi là khai triển tỉ số liên tục. Một nhân của vô hạn đếm được các bản sao của không gian rời rạc {0,1} là đồng phôi với tập Cantor; và thật ra đồng phôi thuần nhất với tập Cantor nếu ta sử dụng thuần nhất nhân trên không gian nhân đó. Một đồng phôi như vậy được cho bởi biểu diễn tam phân của các số. (Xem không gian Cantor.)
Trong nền tảng của toán học, sự nghiên cứu tính compact của các không gian nhân của {0,1} là trọng tâm của tiếp cận theo kiểu topo nguyên lý ultrafilter, là một dạng yếu hơn của tiên đề lựa chọn.
Các không gian không rời rạc
Một cách nào đó, ngược lại của topo rời rạc là topo hiển nhiên (cũng gọi là topo đối rời rạc), có số nhỏ nhất số các tập mở (chỉ tập trống và toàn bộ không gian đó). Khi topo rời rạc là khởi đầu hay tự do, topo không rời rạc là cuối cùng hay là đồng tự do: mọi hàm số từ một không gian topo đến một không gian không rời rạc là liên tục, v.v.
Câu nói hay
Stanislaw Ulam mô tả Los Angeles, California như là "một không gian rời rạc, mà trong đó khoảng cách giữa hai điểm khác nhau là một tiếng đồng hồ lái xe". |
Vương quốc Đan Mạch (, là một cộng đồng quân chủ lập hiến gồm bản thân nước Đan Mạch (chính quốc) ở Bắc Âu và hai quốc gia (hoặc vùng lãnh thổ) tự trị cấu thành là Faroe ở Bắc Đại Tây Dương và Greenland ở Bắc Mỹ. Đan Mạch có vai trò chủ yếu trong hành pháp, lập pháp và tư pháp . Quan hệ giữa các quốc gia thành viên được nói đến trong Rigsfællesskabet. Theo đạo luật nội địa của Faroe, quần đảo Faroe tạo thành một cộng đồng dân tộc trong lòng vương quốc. Đạo luật tự trị của Greenland không ghi tương tự nhưng mô tả quốc gia Greenland như là một quốc gia được định nghĩa bởi luật pháp quốc tế với quyền tự quyết. Trong ba nước, chỉ có Đan Mạch là thành viên của Liên minh châu Âu.
Chính quyền và chính trị
Folketing là cơ quan lập pháp quốc gia. Nghị viện bao gồm 175 thành viên được bầu với phần đông đến từ Đan Mạch tương ứng với tỷ lệ dân số áp đảo, cộng thêm 4 thành viên chia đều cho Greenland và Faroe. Các cuộc bầu cử nghị viện được tổ chức ít nhất 4 năm một lần.
Địa lý
Về mặt thực vật học, Đan Mạch cũng như Greenland và Quần đảo Faroe thuộc kiểu phương Bắc, gồm Bắc Cực, Đại Tây Dương kiểu châu Âu, vùng Trung Âu. Theo WWF, lãnh thổ Đan Mạch có thể phân làm hai vùng: Đại Tây Dương pha trộn với rừng và Baltic pha trộn với rừng. Quần đảo Faroe bao trùm bởi các đồng cỏ phương Bắc, trong khi Greenland có lãnh nguyên hạ Bắc Cực Kalaallit Nunaat và lãnh nguyên thượng Bắc Cực Kalaallit Nunaat nơi các tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu.
Vương quốc Đan Mạch là nước duy nhất trên thế giới có phần lớn lãnh thổ ở phía trên vòng cực
Lịch sử
Vào thế kỷ 8-11, người Na Uy đã phát hiện và định cư ở Hebrides, Shetlands, Orkney, Quần đảo Faroe, Iceland, Greenland và đã cố gắng thiết lập các khu định cư ở Vínland, được cho là L'Anse aux Meadows ở Newfounland, Canada ngày nay. Họ cũng đã chinh phục và định cư nhiều nơi ở Anh (Danelaw), Ireland, và Normandy và cũng đã tới Kievian Rus' ở phía đông, nơi mà sau này là nước Nga Sa Hoàng. Người Na Uy đã buôn bán hàng hóa theo các tuyến đường từ Greenland ở phía bắc đến Constantinopolis ở phía nam qua các con sông của nước Nga. Đan Mạch-Na Uy đã hợp nhất thành một nhà nước vào năm 1536.
Liên hiệp Đan Mạch- Na Uy tan rã theo Hiệp ước Kiel năm 1814, Đan Mạch theo đó được giữ các lãnh thổ phụ thuộc của Na Uy là Iceland, Quần đảo Faroe và Greenland. Đan Mạch cũng đã cai trị Ấn Độ thuộc Đan Mạch (Tranquebar nay là Tharangambadi, Tamil Nadu, Ấn Độ) từ năm 1620 đến năm 1869, Bờ biển Vàng thuộc Đan Mạch (nay là Ghana) từ năm 1658 đến năm 1850, Tây Ấn thuộc Đan Mạch (nay là Quần đảo Virgin thuộc Mỹ ở vùng Caribbean) từ năm 1671 đến năm 1917.
Iceland đã giành được quyền tự quản năm 1874, và trở thành một nhà nước với đấy đủ chủ quyền năm 1918, liên minh với Đan Mạch trong cùng một vương quốc.Người Iceland hủy bỏ chế độ quân chủ năm 1944, và năm 1948, người dân Faroe cũng giành được quyền tự trị. Vương quốc gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (nay là Liên minh châu Âu mà không gồm Faroe năm 1973, còn Greenland rút lui năm 1985, cả hai trường hợp đều vì các chính sách về ngư trường. Greenland giành quyền tự trị năm 1979 và đề nghị được tự trị hơn nữa năm 2009 theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý năm 2008. Người dân Greenland sẽ nghĩ đến vấn đề độc lập nếu nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên được phát hiện hơn nữa và tạo ra một nền kinh tế có nhiều triển vọng.
Các quốc gia cấu thành Vương quốc Đan Mạch
Chú thích
Đan Mạch
Lãnh thổ tự trị |
Incoterms (viết tắt của International Commercial Terms - Các điều khoản thương mại quốc tế) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterm quy định những quy tắc có liên quan đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên mua) trong một hoạt động thương mại quốc tế.
Sự cần thiết
Incoterms thông báo cho các hợp đồng mua bán xác định các nghĩa vụ, chi phí và rủi ro tương ứng liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa từ người bán đến người mua, nhưng bản thân họ không giao kết hợp đồng, xác định giá phải trả, tiền tệ hoặc điều khoản tín dụng, chi phối luật hợp đồng hoặc xác định nơi quyền chuyển nhượng hàng hóa.
Các quy tắc Incoterms được chấp nhận bởi các chính phủ, cơ quan pháp luật và các nhà thực hành trên toàn thế giới để giải thích các thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất trong thương mại quốc tế. Chúng nhằm mục đích giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn những điều không chắc chắn phát sinh từ những cách giải thích khác nhau về các quy tắc ở các quốc gia khác nhau. Do đó, chúng thường xuyên được đưa vào các hợp đồng mua bán trên toàn thế giới.
Lịch sử các ấn bản
"Incoterms" là nhãn hiệu đã đăng ký của ICC. Công trình đầu tiên do ICC xuất bản về các điều khoản thương mại quốc tế được phát hành vào năm 1923, với ấn bản đầu tiên được gọi là Incoterms được xuất bản vào năm 1936. Các quy tắc Incoterms đã được sửa đổi vào năm 1953,1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và 2010 , với phiên bản thứ chín - Incoterms 2020 - đã được xuất bản vào ngày 10 tháng 9 năm 2019.
Incoterms 2020
Incoterms 2020 là bộ điều khoản hợp đồng quốc tế thứ 9 được xuất bản bởi Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) , với bộ đầu tiên được xuất bản vào năm 1936. Incoterms 2020 xác định 11 quy tắc, con số tương tự như được định nghĩa bởi Incoterms 2010 . Một quy tắc của phiên bản 2010 ("Giao tại nhà ga"; DAT) đã bị xóa và được thay thế bằng quy tắc mới ("Giao tại địa điểm được dỡ hàng"; DPU) trong quy tắc năm 2020.
Bảo hiểm được cung cấp theo các điều khoản CIF và CIP cũng đã thay đổi, tăng từ Điều khoản hàng hóa của Viện (C) thành Điều khoản hàng hóa của Viện (A). Theo quy tắc CIF Incoterms, vốn được dành để sử dụng trong thương mại hàng hải và thường được sử dụng trong kinh doanh hàng hóa, Điều khoản hàng hóa của Viện (C) vẫn là mức bảo hiểm mặc định, cho phép các bên có quyền lựa chọn đồng ý với mức bảo hiểm cao hơn. Có tính đến phản hồi từ người dùng toàn cầu, quy tắc CIP Incoterms® hiện yêu cầu mức độ bảo hiểm cao hơn, tuân thủ Điều khoản hàng hóa của Viện (A) hoặc các điều khoản tương tự.
Trong các phiên bản trước, các quy tắc được chia thành bốn loại, nhưng 11 điều khoản được xác định trước của Incoterms 2020 được chia thành hai loại chỉ dựa trên phương thức phân phối . Nhóm bảy quy tắc lớn hơn có thể được sử dụng bất kể phương thức vận chuyển nào, với nhóm bốn quy tắc nhỏ hơn chỉ được áp dụng cho hoạt động bán hàng chỉ liên quan đến vận chuyển bằng đường thủy nơi tình trạng của hàng hóa có thể được xác minh tại điểm xếp hàng lên tàu. Do đó, chúng không được sử dụng để vận chuyển hàng hóa bằng container, các phương thức vận tải kết hợp khác, hoặc vận chuyển bằng đường bộ, đường hàng không hoặc đường sắt.
Incoterms 2020 cũng chính thức xác định điểm giao hàng. Trước đây, thuật ngữ này được định nghĩa một cách không chính thức nhưng hiện nay nó được định nghĩa là điểm trong giao dịch nơi mà "rủi ro mất mát hoặc hư hỏng [đối với hàng hóa] chuyển từ người bán sang người mua".
Các điều khoản chủ yếu của Incoterm 2020
Nhóm điều khoản áp dụng cho mọi phương tiện vận tải
EXW (Exwork nơi đi) - Giao tại xưởng
FCA (nơi đi) - Giao cho người chuyên chở
CPT (nơi đến) - Cước phí trả tới
CIP (nơi đến) - Cước phí và phí bảo hiểm trả tới
DPU (nơi dỡ hàng) - Giao tại nơi dỡ hàng
DAP (nơi đến) - Giao tại nơi đến
DDP (điểm đến) - Giao hàng đã nộp thuế
Nhóm điều khoản áp dụng cho phương thức vận tải đường biển và đường thủy nội địa.
FAS (cảng đi) - Giao dọc mạn tàu
FOB (cảng đi) - Giao lên tàu
CFR (cảng đến) - cước phí
CIF (cảng đến) - Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
Incoterms của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã trở thành cẩm nang tra cứu không thể thiếu của các doanh nhân, doanh nghiệp khắp thế giới.
Incoterms 2010
Incoterms 2010 được ICC xuất bản tháng 9/2010 với 11 quy tắc mới và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.
Nền kinh tế toàn cầu đã mở ra cơ hội to lớn chưa từng thấy để doanh nghiệp tiếp cận tới các thị trường khắp nơi trên thế giới. Hàng hoá được bán ra ở nhiều nước hơn, với số lượng ngày càng lớn và chủng loại đa dạng hơn. Khi khối lượng và tính phức tạp của buôn bán quốc tế tăng lên, và nếu hợp đồng mua bán hàng hoá không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng thì khả năng dẫn đến sự hiểu nhầm và tranh chấp tốn kém cũng tăng lên.
Incoterms®, quy tắc chính thức của ICC về việc sử dụng các điều kiện thương mại trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển. Việc dẫn chiếu Incoterm® 2010 trong hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ phân định rõ ràng nghĩa vụ tương ứng của các bên và làm giảm nguy cơ rắc rối về mặt pháp lý.
Kể từ khi Incoterms® được ICC soạn thảo năm 1936, chuẩn mực về hợp đồng mang tính toàn cầu này thường xuyên được cập nhật để bắt kịp với nhịp độ phát triển của thương mại quốc tế. Incoterms® 2010 có tính đến sự xuất hiện ngày càng nhiều khu vực miễn thủ tục hải quan, việc sử dụng thông tin liên lạc bằng điện tử trong kinh doanh ngày càng tăng, mối quan tâm cao về an ninh trong lưu chuyển hàng hoá và cả những thay đổi về tập quán vận tải. Incoterms® 2010 cập nhật và gom những điều kiện "giao hàng tại nơi đến", giảm số điều kiện thương mại từ 13 xuống 11, trình bày nội dung một cách đơn giản và rõ ràng hơn. Incoterms® 2010 cũng là bản điều kiện thương mại đầu tiên đề cập tới cả người mua và người bán một cách hoàn toàn bình đẳng.
Các thuật ngữ
GLOSSARY – INCOTERMS® 2010
agreed destination: nơi đến thỏa thuận
agreed place: nơi thỏa thuận
at its own risk and expense: phải tự chịu rủi ro và phí tổn
at the buyer’s request, risk and expense: khi người mua yêu cầu, chịu chi phí và rủi ro
at the buyer’s risk and expense: với rủi ro và chi phí do người mua chịu
at the disposal of the buyer: đặt dưới sự định đoạt của người mua
before the contract of sale is concluded: trước khi hợp đồng được ký kết
carry out all customs formalities for the export of the goods: làm thủ tục hải quan để xuất khẩu hàng hóa
clear the goods for export: làm thủ tục thông quan xuất khẩu
commodities: Hàng nguyên liệu đồng nhất
container terminal: bến container
cost of handling and moving the goods: chi phí xếp dỡ và di chuyển hàng hóa
critical points: điểm tới hạn, điểm phân chia trách nhiệm và chi phí giữa hai bên
delivery document: chứng từ giao hàng
electronic records or procedure: Chứng từ hoặc quy trình điện tử
for the account of the seller: do người bán chịu
fulfils its obligation: hoàn thành nghĩa vụ
guidance note: Hướng dẫn sử dụng
import clearance: thủ tục thông quan nhập khẩu
incurred by the seller: mà người bán đã chi
information that the buyer needs for obtaining insurance: những thông tin mà người mua cần để mua bảo hiểm
latter stage: thời điểm muộn hơn
load the goods from any collecting vehicle: bốc hàng lên phương tiện vận tải
make arrangement for the carriage of the goods: tổ chức việc vận chuyển hàng hóa
manufactured goods: hàng hóa sản xuất công nghiệp
match this choice precisely: phù hợp với địa điểm này
named place of destination: nơi đến chỉ định
on board the vessel: xếp lên tàu
otherwise agreed between the parties: trừ khi có thỏa thuận khác giữa hai bên
over which the buyer has no control: qua địa điểm đó người mua không có quyền kiểm soát
physical inspection obligation: nghĩa vụ kiểm tra thực tế
place of destination: nơi đến
point within the named place of delivery: địa điểm tại nơi giao hàng chỉ định
precise point in the place of destination: một điểm cụ thể tại nơi đến
procure goods shipped: mua hàng đã gửi
provided that the goods have been clearly identified as the contract goods: với điều kiện là *hàng đã được phân biệt rõ là hàng của hợp đồng/hàng đã được xác định đúng như hàng trong hợp đồng
ready for unloading: sẵn sàng để dỡ khỏi phương tiện vận tải
receipt: biên lai
risks of loss of or damage to the goods: rủi ro bị mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa
specific points/named place of delivery: địa điểm cụ thể tại nơi giao hàng chỉ định
stowage of packaged goods: sắp xếp hàng hóa có bao bì
string sales: Bán hàng theo chuỗi
terminal handling charges: phí xếp dỡ tại bến bãi (THC)
terminal operator: người điều hành bến bãi
the named place of destination: nơi đến được chỉ định
the named place: nơi được chỉ định
the named terminal: bến được chỉ định
the parties are well advised to specify as clearly as possible: Các bên nên quy định càng rõ càng tốt
the point of delivery: địa điểm giao hàng
unloaded from the arriving vehicle: đã dỡ khỏi phương tiện vận tải
when a ship is used as a part of the carriage: khi một phần chặng đường được vận chuyển bằng tàu biển
whether one or more mode of transportation: sử dụng một hay nhiều phương thức vận tải.
within the named place of delivery destination/ several points: tại nơi giao hàng chỉ định có nhiều địa điểm có thể giao hàng
Điều kiện Incoterms giải thích những điều kiện thương mại được viết tắt bằng ba chữ cái, thể hiện tập quán giao dịch giữa các doanh nghiệp trong các hợp đồng mua bán hàng hóa. Điều kiện Incoterms chủ yếu mô tả các nghĩa vụ, chi phí và rủi ro trong quá trình hàng hóa được giao từ người bán sang người mua.
Cách sử dụng
Dẫn chiếu các điều kiện Incoterms® 2010 vào hợp đồng mua bán hàng hóa
Muốn áp dụng các quy tắc Incoterms® 2010 vào hợp đồng mua bán hàng hóa thì phải làm rõ điều đó trong hợp đồng bằng cách dùng các từ ngữ, như: "[Điều kiện được chọn, tên địa điểm, Incoterms® 2010]".
Lựa chọn điều kiện Incoterms phù hợp
Điều kiện Incoterms được chọn phải phù hợp với hàng hóa, phương tiện vận tải và quan trọng hơn cả là phải xem các bên có ý định đặt ra cho người mua hoặc người bán các nghĩa vụ bổ sung, ví dụ như nghĩa vụ tổ chức vận tải và mua bảo hiểm. Hướng dẫn sử dụng trong từng điều kiện Incoterms cung cấp những thông tin đặc biệt hữu ích cho việc lựa chọn các điều kiện. Dù chọn điều kiện Incoterms nào, các bên vẫn cần biết rằng việc giải thích hợp đồng còn chi phối mạnh mẽ hơn tập quán riêng của từng cảng hoặc từng địa phương có liên quan.
Quy định nơi hoặc cảng càng chính xác càng tốt
Điều kiện Incoterms được lựa chọn chỉ làm việc tốt khi các bên chỉ định một nơi hoặc một cảng, và sẽ là tối ưu nếu các bên quy định chính xác nơi hoặc cảng đó. Chẳng hạn cần quy định như: "FCA 38 Cours Albert 1er, Paris, France Incoterms® 2010"
Theo các điều kiện như: Giao tại xưởng (EXW), Giao cho người chuyên chở (FCA), Giao tại bến (DAT), Giao tại nơi đến (DAP), Giao hàng đã nộp thuế (DDP), Giao dọc mạn tàu (FAS), Giao lên tàu (FOB), thì nơi được chỉ định là nơi diễn ra việc giao hàng và là nơi rủi ro chuyển từ người bán sang người mua. Theo các điều kiện: Cước phí trả tới (CPT), Cước phí và bảo hiểm trả tới (CIP), Tiền hàng và cước phí (CFR), Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí (CIF), thì địa điểm được chỉ định khác với nơi giao hàng. Theo bốn điều kiện này, nơi được chỉ định là nơi đến mà cước phí được trả. Việc ghi nơi hoặc đích đến có thể được cụ thể hóa hơn bằng cách quy định một địa điểm cụ thể tại nơi hoặc đích đến đó nhằm tránh sự nghi ngờ hoặc tranh chấp.
Lưu ý các điều kiện Incoterms không làm cho hợp đồng đầy đủ
Incoterms đã chỉ rõ bên nào trong hợp đồng mua bán có nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải hoặc mua bảo hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người mua và chi phí nào mỗi bên phải chịu. Song, Incoterms không nói gì tới mức giá phải trả hay phương thức thanh toán. Đồng thời, Incoterms cũng không đề cập tới sự chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa và hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này thường được quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng hoặc trong luật điều chỉnh hợp đồng. Các bên nên biết rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất hiệu lực bất kỳ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms đã được chọn.
Đặc điểm
Hai điều kiện mới – DAT và DAP – thay thế các điều kiện DAF, DES, DEQ, DDU
Số điều kiện trong Incoterms® 2010 đã giảm từ 13 xuống 11. Có được điều này là nhờ việc thay thế bốn điều kiện cũ trong Incoterms 2000 (DAF, DES, DEQ, DDU) bằng hai điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT – Giao hàng tại bến và DAP – Giao tại nơi đến.
Theo cả hai điều kiện mới này, việc giao hàng diễn ra tại một đích đến được chỉ định: theo DAT, khi hàng hóa được đặt dưới sự định đoạt của người mua, đã dỡ khỏi phương tiện vận tải (giống điều kiện DEQ trước đây); theo DAP, cũng như vậy khi hàng hóa được đặt dưới sự định đoạt của người mua, nhưng sẵn sàng để dỡ khỏi phương tiện vận tải (giống các điều kiện DAF, DES, DDU trước đây).
Các điều kiện mới đã làm cho hai điều kiện cũ DES và DEQ trong Incoterms 2000 trở nên thừa. Bến được chỉ định trong điều kiện DAT có thể là một cảng biển, và do đó điều kiện này có thể dùng để thay thế điều kiện DEQ trong Incoterms 2000. Tương tự, phương tiện vận tải trong điều kiện DAP có thể là tàu biển và nơi đến được chỉ định có thể là một cảng biển; do đó điều kiện này có thể dùng để thay thế điều kiện DES trong Incoterms 2000. Các điều kiện mới này, giống như các điều kiện trước đây, đều là các điều kiện "giao tại nơi đến", theo đó người bán chịu mọi chi phí (trừ các chi phí liên quan tới thủ tục thông quan nhập khẩu, nếu có) và rủi ro trong quá trình đưa hàng tới nơi đến được chỉ định.
Phân loại 11 điều kiện Incoterms® 2010
11 điều kiện Incoterms® 2010 được chia thành hai nhóm riêng biệt:
Các điều kiện áp dụng cho mọi phương thức vận tải:
EXW - Ex Works: Giao tại xưởng
FCA - Free Carrier: Giao cho người chuyên chở
CPT - Carriage Paid To: Cước phí trả tới
CIP - Carriage and Insurance Paid To: Cước phí và bảo hiểm trả tới
DAT - Delivered at Terminal: Giao tại bến
DAP - Delivered at Place: Giao tại nơi đến
DDP - Delivered Duty Paid: Giao hàng đã nộp thuế
FAS - Free Alongside Ship: Giao dọc mạn tàu
FOB - Free On Board: Giao lên tàu
CFR - Cost and Freight: Tiền hàng và cước phí
CIF - Cost, Insurance and Freight: Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
Nhóm thứ nhất gồm bảy điều kiện có thể sử dụng mà không phụ thuộc vào phương thức vận tải lựa chọn và cũng không phụ thuộc vào việc sử dụng một hay nhiều phương thức vận tải. Nhóm này gồm các điều kiện EXW, FCA, CPT, CIP, DAT, DAP, DDP. Chúng có thể được dùng khi hoàn toàn không có vận tải biển. Tuy vậy, các điều kiện này cũng có thể được sử dụng khi một phần chặng đường được tiến hành bằng tàu biển.
Trong nhóm thứ hai, địa điểm giao hàng và nơi hàng hóa được chở tới người mua đều là cảng biển, vì thế chúng được xếp vào nhóm các điều kiện "đường biển và đường thủy nội địa". Nhóm này gồm các điều kiện FAS, FOB, CFR và CIF. Ở ba điều kiện sau cùng, mọi cách đề cập tới lan can tàu như một điểm giao hàng đã bị loại bỏ. Thay vào đó, hàng hóa xem như đã được giao khi chúng đã được "xếp lên tàu". Điều này phản ánh sát hơn thực tiễn thương mại hiện đại và xóa đi hình ảnh đã khá lỗi thời về việc rủi ro di chuyển qua một ranh giới tưởng tượng.
Các điều kiện dùng cho thương mại quốc tế và nội địa
Theo truyền thống, các điều kiện Incoterms thường được sử dụng trong các hợp đồng mua bán quốc tế, khi có sự di chuyển của hàng hóa qua biên giới quốc gia. Tuy vậy, tại nhiều nơi trên thế giới, sự phát triển của các khối thương mại, như Liên minh châu Âu đã khiến các thủ tục tại biên giới giữa các quốc gia không còn quan trọng nữa. Do đó, tiêu đề phụ của Incoterms® 2010 đã chính thức khẳng định chúng có thể được sử dụng cho cả các hợp đồng mua bán quốc tế và nội địa. Vì lý do này, các điều kiện Incoterms® 2010 đã nói rõ tại nhiều nơi rằng nghĩa vụ thông quan xuất khẩu/nhập khẩu chỉ tồn tại khi có áp dụng.
Có hai lý do khiến ICC tin tưởng hướng đi này là hợp lý. Thứ nhất, các thương nhân thường sử dụng các điều kiện Incoterms trong các hợp đồng mua bán nội địa. Thứ hai, trong thương mại nội địa, các thương nhân Mỹ thích sử dụng các điều kiện Incoterms hơn là các điều kiện giao hàng trong Bộ luật Thương mại Thống nhất (UCC).
Hướng dẫn sử dụng
Trước mỗi điều kiện Incoterms sẽ có một Hướng dẫn sử dụng. Hướng dẫn sử dụng giải thích những vấn đề cơ bản của mỗi điều kiện Incoterms, chẳng hạn như: khi nào thì nên sử dụng điều kiện này, khi nào rủi ro được chuyển giao và chi phí được phân chia giữa người mua và người bán như thế nào. Hướng dẫn sử dụng không phải là một bộ phận của các điều kiện Incoterms® 2010 mà nhằm giúp người sử dụng lựa chọn một cách chính xác và hiệu quả điều kiện Incoterms thích hợp cho từng giao dịch cụ thể.
Trao đổi thông tin bằng điện tử
Các phiên bản Incoterms trước đã chỉ rõ những chứng từ có thể được thay thế bằng thông điệp dữ liệu điện tử. Tuy vậy, giờ đây các mục A1/B1 của Incoterms® 2010 cho phép các trao đổi thông tin bằng điện tử có hiệu lực tương đương với việc trao đổi thông tin bằng giấy, miễn là được các bên đồng ý hoặc theo tập quán. Cách quy định này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các giao dịch điện tử mới trong suốt thời gian Incoterms® 2010 có hiệu lực...
Bảo hiểm
Incoterms® 2010 là phiên bản điều kiện thương mại đầu tiên kể từ khi Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa được sửa đổi và đã tính đến những sự thay đổi của các điều kiện này. Incoterms® 2010 đưa ra nghĩa vụ về thông tin liên quan tới bảo hiểm trong các mục A3/B3, mục quy định về hợp đồng vận tải và bảo hiểm. Những điều khoản này được chuyển từ các mục A10/B10 trong Incoterms 2000 vốn được quy định chung chung hơn. Ngôn từ liên quan tới bảo hiểm trong các mục A3/B3 cũng đã được hiệu chỉnh nhằm làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề này.
Thủ tục an ninh và các thông tin cần thiết để làm thủ tục
Hiện nay, mối quan tâm về an ninh trong quá trình vận tải hàng hóa ngày càng gia tăng, đòi hỏi phải có bằng chứng xác nhận hàng hóa không gây nguy hiểm cho con người hoặc tài sản vì bất cứ lý do gì trừ bản chất tự nhiên của hàng hóa. Do đó, Incoterms® 2010, trong các mục A2/B2 và A10/B10 của nhiều điều kiện, đã phân chia nghĩa vụ giữa người mua và người bán về việc tiếp nhận sự hỗ trợ để làm thủ tục an ninh, như là thông tin về quy trình trông nom, bảo quản hàng hóa.
Phí xếp dỡ tại bến bãi (THC)
Theo các điều kiện CPT, CIP, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP, người bán phải tổ chức việc vận chuyển hàng hóa tới nơi đến theo thỏa thuận. Dù người bán trả cước phí nhưng thực chất người mua mới là người chịu cước phí vì chi phí này thường đã bao gồm trong tổng giá bán. Chi phí vận tải đôi khi bao gồm cả chi phí xếp dỡ và di chuyển hàng hóa trong cảng hoặc bến container và người chuyên chở hoặc người điều hành bến bãi có thể buộc người mua trả chi phí này khi nhận hàng. Trong những trường hợp như vậy, người mua không muốn phải trả cùng một khoản chi phí tới hai lần: một lần trả cho người bán dưới dạng một phần tổng giá hàng và một lần trả độc lập cho người chuyên chở hoặc người điều hành bến bãi. Incoterms® 2010 đã cố gắng khắc phục điều này bằng cách phân chia rõ ràng các chi phí này tại mục A6/B6 của các điều kiện kể trên.
Bán hàng theo chuỗi
Hàng nguyên liệu đồng nhất, khác với hàng hóa chế biến, thường được bán nhiều lần trong quá trình vận chuyển theo một "chuỗi". Khi điều này diễn ra, người bán ở giữa chuỗi không phải là người "gửi" (ship) hàng vì chúng đã được gửi bởi người bán đầu tiên trong chuỗi. Người bán ở giữa chuỗi, do đó, thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người mua không phải bằng việc gửi hàng mà bằng việc "mua" hàng hóa đã được gửi. Nhằm mục đích làm rõ vấn đề này, Incoterms® 2010 đưa thêm nghĩa vụ "mua hàng đã gửi" như một phương án thay thế cho nghĩa vụ gửi hàng trong các quy tắc Incoterms thích hợp.
Các biến thể
Đôi khi các bên muốn thay đổi điều kiện Incoterms. Incoterms® 2010 không cấm sự thay đổi như vậy vì có thể gặp rủi ro khi làm việc này. Để tránh những rủi ro không mong đợi này, các bên cần làm rõ những thay đổi trong hợp đồng. Ví dụ, nếu sự phân chia chi phí theo các điều kiện Incoterms® 2010 được sửa đổi trong hợp đồng, các bên cũng nên làm rõ liệu họ có muốn thay đổi điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua hay không.
Giải thích thuật ngữ
Cũng giống như trong Incoterms 2000, các nghĩa vụ của người mua và người bán được trình bày theo phương pháp đối chiếu. Nghĩa vụ của người bán được thể hiện ở cột A còn nghĩa vụ của người mua được thể hiện ở cột B. Những nghĩa vụ này có thể được thực hiện bởi cá nhân người bán hay người mua, hoặc đôi khi, phụ thuộc các điều khoản trong hợp đồng và luật áp dụng, được thực hiện bởi các trung gian như người chuyên chở, người giao nhận hoặc những người khác do người bán hay người mua chỉ định vì một mục đích cụ thể.
Lời văn dùng trong Incoterms® 2010 bản thân nó đã có thể tự thể hiện được. Tuy vậy, để hỗ trợ người sử dụng, phần giải thích sau đây sẽ đưa ra chỉ dẫn về ý nghĩa của các thuật ngữ được sử dụng xuyên suốt trong tài liệu này:
Người chuyên chở: Nhằm mục đích của Incoterms® 2010, người chuyên chở là một bên mà với người đó việc vận chuyển được ký hợp đồng.
Thủ tục hải quan: Đây là những yêu cầu cần đáp ứng để tuân thủ những quy định về hải quan và có thể bao gồm chứng từ, an ninh, thông tin và nghĩa vụ kiểm tra thực tế.
Giao hàng: Thuật ngữ này mang nhiều ý nghĩa trong tập quán và luật thương mại nhưng trong Incoterms® 2010, nó được sử dụng để chỉ địa điểm tại đó rủi ro về việc hàng hóa bị mất mát hoặc hư hỏng được chuyển giao từ người bán sang người mua.
Chứng từ giao hàng: Cụm từ này hiện nay được sử dụng làm tiêu đề cho mục A8. Nó có nghĩa là một chứng từ được sử dụng để chứng minh cho việc giao hàng. Theo nhiều điều kiện của Incoterms® 2010, chứng từ giao hàng là một chứng từ vận tải hoặc một chứng từ điện tử tương ứng. Tuy vậy, đối với các điều kiện EXW, FCA, FAS và FOB, chứng từ giao hàng có thể chỉ là một biên lai. Chứng từ giao hàng có thể có chức năng khác, chẳng hạn nó là một phần trong quy trình thanh toán.
Chứng từ hoặc quy trình điện tử: Một bộ thông tin hợp thành bởi một hoặc nhiều thông điệp điện tử và, khi được áp dụng, nó có chức năng tương đương với các chứng từ giấy tương ứng.
Đóng gói: Thuật ngữ này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau:
Việc đóng gói hàng hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Việc đóng gói hàng hóa sao cho phù hợp với quá trình vận chuyển
Việc sắp xếp hàng hóa có bao bì trong container hoặc trong các phương tiện vận tải khác.
Trong Incoterms® 2010, đóng gói mang cả hai ý nghĩa thứ nhất và thứ hai nói trên. Các điều kiện Incoterms® 2010 không đề cập tới nghĩa vụ đóng gói hàng hóa trong container và vì thế, khi cần, các bên nên quy định điều này trong hợp đồng mua bán.
Incoterms trong quy định của một số Chính phủ
Ở một số khu vực pháp lý, chi phí thuế của hàng hóa có thể được tính theo một Incoterm cụ thể: ví dụ ở Ấn Độ , thuế được tính theo giá trị CIF của hàng hóa; ở Nam Phi , thuế được tính theo giá FOB của hàng hóa. Do đó, các hợp đồng xuất khẩu sang các nước này thường sử dụng các Incoterms này, ngay cả khi chúng không phù hợp với phương thức vận tải đã chọn. Nếu đúng như vậy thì cần phải hết sức thận trọng để đảm bảo rằng các điểm mà chi phí và rủi ro chuyển giao được làm rõ với khách hàng. |
Trong khoa học máy tính và trong toán học, thuật toán sắp xếp là một thuật toán sắp xếp các phần tử của một danh sách (hoặc một mảng) theo thứ tự (tăng hoặc giảm). Người ta thường xét trường hợp các phần tử cần sắp xếp là các số. Bài toán sắp xếp đã được nhiều nhà khoa học quan tâm.
Phân loại thuật toán sắp xếp.
Sắp xếp ổn định
Một thuật toán sắp xếp được gọi là sắp xếp ổn định nếu sau khi tiến hành sắp xếp vị trí tương đối giữa các phần tử bằng nhau không bị thay đổi.
Sắp xếp so sánh
Một thuật toán sắp xếp được gọi là sắp xếp so sánh nếu trong quá trình thực hiện thuật toán ta tiến hành so sánh các khoá và đổi chỗ các phần tử cho nhau.
Đa số các thuật toán sắp xếp dưới đây là sắp xếp so sánh, riêng sắp xếp đếm phân phối không phải là sắp xếp so sánh.
Một số thuật toán sắp xếp
Sắp xếp nổi bọt
Sắp xếp nổi bọt (bubble sort) là phương pháp sắp xếp đơn giản, dễ hiểu thường được dạy trong khoa học máy tính. Giải thuật bắt đầu từ đầu của tập dữ liệu. Nó so sánh hai phần tử đầu, nếu phần tử đứng trước lớn hơn phần tử đứng sau thì đổi chỗ chúng cho nhau. Tiếp tục làm như vậy với cặp phần tử tiếp theo cho đến cuối tập hợp dữ liệu. Sau đó nó quay lại với hai phần tử đầu cho đến khi không còn cần phải đổi chỗ nữa.
Sắp xếp chèn
Sắp xếp chèn (insertion sort) là thuật toán sắp xếp xử lý chèn phần tử đang xét vào vị trí thích hợp của dãy số đã sắp xếp phía trước sao cho dãy số vẫn là dãy sắp xếp có thứ tự.
Sắp xếp chọn
Sắp xếp chọn (selection sort) là phương pháp sắp xếp bằng cách chọn phần tử bé nhất xếp vào vị trí thứ nhất, tương tự với các phần tử nhỏ thứ hai, thứ ba,...
Sắp xếp trộn
Sắp xếp trộn (merge sort) cùng với sắp xếp nhanh là hai thuật toán sắp xếp dựa vào tư tưởng "chia để trị" (divide and conquer). Thủ tục cơ bản là việc trộn hai danh sách đã được sắp xếp vào một danh sách mới theo thứ tự. Nó có thể bắt đầu trộn bằng cách so sánh hai phần tử một (chẳng hạn phần tử thứ nhất với phần tử thứ hai, sau đó thứ ba với thứ tư...) và sau khi kết thúc bước 1 nó chuyển sang bước 2. Ở bước 2 nó trộn các danh sách hai phần tử thành các danh sách bốn phần tử. Cứ như vậy cho đến khi hai danh sách cuối cùng được trộn thành một.
Sắp xếp vun đống
Sắp xếp vun đống (heapsort) là một trong các phương pháp sắp xếp chọn. Ở mỗi bước của sắp xếp chọn ta chọn phần tử lớn nhất (hoặc nhỏ nhất) đặt vào cuối (hoặc đầu) danh sách, sau đó tiếp tục với phần còn lại của danh sách. Thông thường sắp xếp chọn chạy trong thời gian O(n2). Nhưng heapsort đã giảm độ phức tạp này bằng cách sử dụng một cấu trúc dữ liệu đặc biệt được gọi là đống (heap). Đống là cây nhị phân mà trọng số ở mỗi đỉnh cha lớn hơn hoặc bằng trọng số các đỉnh con của nó. Một khi danh sách dữ liệu đã được vun thành đống, gốc của nó là phần tử lớn nhất, thuật toán sẽ giải phóng nó khỏi đống để đặt vào cuối danh sách. Sắp xếp vun đống chạy trong thời gian O(n log n).
Sắp xếp nhanh
Sắp xếp nhanh (quicksort) là một thuật toán theo tư tưởng chia để trị, nó dựa trên thủ tục phân chia như sau: để chia một dãy ta chọn một phần tử được gọi là "chốt" (pivot), chuyển tất cả các phần tử nhỏ hơn chốt về trước chốt, chuyển tất cả các phần tử lớn hơn chốt về sau nó(nếu sắp xếp theo dãy theo thứ tự tăng dần), nếu sắp xếp dãy theo thứ tự giảm dần ta chuyển tất cả các phần tử nhỏ hơn chốt về bên phải chốt và lớn hơn chốt về bên trái chốt. Thủ tục này có thể thực hiện trong thời gian tuyến tính. Tiếp tục phân chia các dãy con đó như trên cho đến khi các dãy con chỉ còn một phần tử.
Điểm khác biệt giữa sắp xếp nhanh và sắp xếp trộn là trong sắp xếp trộn việc xác định thứ tự được xác định khi "trộn", tức là trong khâu tổng hợp lời giải sau khi các bài toán con đã được giải, còn sắp xếp nhanh đã quan tâm đến thứ tự các phần tử khi phân chia một danh sách thành hai danh sách con.
Ngoài ra còn nhiều giải thuật sắp xếp khác, trong đó nhiều giải thuật sắp xếp được cải tiến từ các giải thuật trên. Trong sau giải thuật liệt kê trên, ta thường coi các giải thuật chèn, chọn, nổi bọt là các giải thuật cơ bản, độ phức tạp trong trường hợp trung bình của chúng là . Ba giải thuật còn lại thường được coi là giải thuật cao cấp, độ phức tạp tính toán trung bình của chúng là .
Sắp xếp theo cơ số
Sắp xếp theo cơ số (radix sort) dựa trên tính chất "số" của các khóa. Trong giải thuật sắp xếp theo cơ số, ta không chỉ so sánh giá trị của các khóa, mà so sánh các thành phần của khóa. Giả sử các khóa là các số biểu diễn theo hệ ghi số cơ số M. Khi đó sắp xếp theo cơ số sẽ so sánh từng k
Chúng ta mô tả cách sắp này khi cơ số M=10. Giả sử phải sắp các hồ sơ đánh số bởi 3 chữ số thập phân. Đầu tiên ta chia các hồ sơ vào các đống có cùng chữ số hàng trăm (đồng thới xếp các đống theo thứ tự của chữ số hàng trăm), trong mỗi đống con lại phân chia theo chữ số hàng chục, cuối cùng trong mỗi đống có cùng chữ số hàng trăm và hàng chục, sắp xếp theo thứ tự của chữ số hàng đơn vị.
Trong máy tính, đương nhiên việc sắp xếp theo cơ số nhị phân (cơ số 2) hoặc cơ số là lũy thừa của 2 là thuận lợi nhất. Trong trường hợp cơ số 2, việc phân hoạch tương tự như phân hoạch trong Quick Sort, chỉ khác ở chỗ cách chọn phần tử chốt.
Sắp xếp đếm phân phối
Sắp xếp đếm phân phối là phương pháp sắp xếp có độ phức tạp tuyến tính trong trường hợp các khóa nhận hữu hạn giá trị trong khoảng cho trước. Để đơn giản ta giả sử các phần tử của danh sách nhận các giá trị tự nhiên trong khoảng
Sắp xếp đếm phân phối đầu tiên đếm các phần tử thuộc danh sách nhận giá trị k với . Các giá trị đếm được ghi vào mảng . Sau đó khi duyệt theo k từ 1 đến M, ta lần lượt xếp phần tử của vào danh sách .
Shell Sort
Shell sort là một giải thuật sắp xếp mang lại hiệu quả cao dựa trên giải thuật sắp xếp chèn (Insertion Sort). Giải thuật này tránh được các trường hợp phải tráo đổi vị trí của hai phần tử xa nhau trong giải thuật sắp xếp chọn. (nếu như phần tử nhỏ hơn ở vị trí bên phải khá xa so với phần tử lớn hơn ở vị trí bên trái) |
Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 2003 (), thường được gọi là SEA Games 22, là lần thứ 22 của Đại hội Thể thao Đông Nam Á, một sự kiện thể thao đa môn được tổ chức 2 năm một lần. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đăng cai SEA Games và là lần đầu tiên Đông Timor - quốc gia không là thành viên của ASEAN - tham dự đại hội.
Đại hội được tổ chức từ ngày 5 đến ngày 13 tháng 12 năm 2003, mặc dù một số sự kiện đã bắt đầu từ ngày 29 tháng 11 năm 2003. Khoảng 5000 vận động viên từ 11 quốc gia tham gia 442 sự kiện thuộc 32 môn thể thao. Đại hội được Phan Văn Khải, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tuyên bố khai mạc tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình mới được xây dựng và bế mạc bởi Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Chủ nhà Việt Nam là nước dẫn đầu trong bảng tổng sắp huy chương, tiếp theo là Thái Lan và Indonesia. Một số kỷ lục quốc gia và đại hội đã bị phá vỡ trong lần đại hội này. Đại hội nhìn chung được coi là thành công với tiêu chuẩn cạnh tranh ngày càng cao giữa các nước tham gia.
Tổ chức
Chuẩn bị
Ban tổ chức SEA Games 22 được thành lập để giám sát việc tổ chức đại hội, với Nguyễn Danh Thái làm chủ tịch. Chính phủ Việt Nam đã chi rất nhiều tiền để nâng cấp và xây mới các cơ sở thể thao, trong đó có khoảng 60 đến 70 triệu đô la Mỹ được dành cho việc xây dựng Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình với sức chứa 40.000 chỗ ngồi.
Địa điểm
Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003 sử dụng kết hợp các địa điểm mới, hiện tại và tạm thời với tâm điểm là Khu liên hợp thể thao quốc gia Mỹ Đình, được khai trương vào tháng 9 năm 2003. Kết hợp với sân vận động quốc gia mới có sức chứa 40.192 chỗ ngồi, nơi đây đã tổ chức hầu hết các sự kiện.
Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 có 31 địa điểm thi đấu, 20 tại Hà Nội (và các tỉnh lân cận) và 11 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Rước đuốc
Ngọn đuốc thiêng lấy từ đền thờ các vua Hùng; lễ rước đuốc của Đại hội bắt đầu từ Thành phố Hồ Chí Minh và đi qua một số thành phố của Việt Nam trước khi được lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, địa điểm chính của đại hội.
Tiếp thị
Biểu trưng
Biểu trưng của Đại hội được cách điệu dựa trên hình ảnh chim lạc - hình ảnh thường thấy trên các mặt trống đồng Đông Sơn - qua ba màu sắc: đỏ thể hiện tinh thần chiến thắng, xanh lục tượng trưng cho các môn điền kinh và xanh lam tượng trưng cho các môn thể thao dưới nước. Được thiết kế bởi họa sĩ Nguyễn Chí Long, biểu trưng mô tả con chim trang trí trên trống đồng Ngọc Lũ, một cổ vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn. Biểu tượng bao gồm các đường cong hài hòa và mạnh mẽ giống như chuyển động và sức mạnh hướng lên trên đại diện cho Tinh thần Olympic: "Nhanh hơn, cao hơn và mạnh hơn". 5 vạch màu xoáy lên thể hiện sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt trong thể thao. 10 vòng tròn lồng vào nhau, biểu tượng của Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á, đại diện cho các quốc gia tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á và chính Đại hội Thể thao Đông Nam Á.
Linh vật
Linh vật của Đại hội lần này là Trâu Vàng, do họa sĩ Nguyễn Thái Hùng thiết kế. Được miêu tả là loài vật hiền lành, cần cù, khôn ngoan, trung thành và hòa hợp với thiên nhiên, con trâu gắn liền với nền văn minh lúa nước ở Việt Nam nói riêng và các nước Đông Nam Á nói chung. Đối với người dân Việt Nam, trâu vàng tượng trưng cho ước vọng mùa màng bội thu, ấm no, hạnh phúc, sức mạnh và tinh thần thượng võ của người Việt cũng như tấm lòng cởi mở, vui vẻ, mến khách của nước chủ nhà. Chiếc khố màu đỏ tượng trưng cho trang phục truyền thống của Việt Nam cũng như của môn vật.
Ca khúc chính thức
Ca khúc chính thức của Đại hội là "Vì một Thế giới ngày mai" (tiếng Anh: For the world of tomorrow) do nhạc sĩ Nguyễn Quang Vinh sáng tác vào năm 2001. Bài hát lần đầu tiên được vang lên tại Lễ bế mạc SEA Games 21, khi Việt Nam nhận lá cờ Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á từ chủ nhà Malaysia để đăng cai tổ chức kỳ Đại hội tiếp theo. Trong quá trình Việt Nam chuẩn bị cho SEA Games 22, phần lời của bài hát đã được sửa đổi nhiều lần trước khi đi đến thống nhất. Bài hát này sau đó đã một lần nữa được biểu diễn tại lễ bế mạc Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019 tại Philippines.
Tài trợ
Tổng cộng 24 nhà tài trợ cho đại hội, bao gồm:
Đối tác chính thức
LG Electronics
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam
Nhà tài trợ chính thức
Petronas
Interfood
Agribank
Milo
Rinnai
Halida
MobiFone
Petrolimex
Ha Long Canfoco
Vietnam Airlines
Vietnam Glass and Ceramics
Uni-President
Sơn Đại Bàng
Động Lực Sport
TNT N.V.
Super Horse Energy Drink
Petrovietnam
Bảo hiểm Bảo Việt
Vital
Yamaha
Foci
Grand Sport
Đại hội
Lễ khai mạc
Lễ khai mạc SEA Games 22 diễn ra vào lúc 19 giờ ngày 5 tháng 12 năm 2003 tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội. Khoảng 4.000 diễn viên chuyên nghiệp và không chuyên của thành phố Hà Nội đã tham gia biểu diễn trong lễ khai mạc.
Tổng cộng có 40.000 khán giả đến tham dự lễ khai mạc. Tham dự buổi lễ còn có Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, cán bộ các bộ, ngành, đoàn ngoại giao, lãnh đạo Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á và trưởng đoàn thể thao các nước trong khu vực. Ngoài ra, một buổi lễ song song cũng được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết báo chí đều nhận xét về lễ khai mạc bằng một câu "Hoành tráng, ấn tượng, rực rỡ sắc màu". Toàn bộ lễ khai mạc kéo dài trong 2 tiếng đồng hồ. Chương trình buổi lễ được chia thành hai phần:
Phần Lễ: Sự kiện đã chính thức mở màn bằng màn biểu diễn dù bay. Chiếc dù là hình nộm mặc áo tứ thân, đầu đội vòng kết từ lá và tay cầm bó hoa vẫy chào xung quanh sân. Kế tiếp, 11 VĐV mang 11 quốc kỳ của các quốc gia Đông Nam Á tham dự SEA Games 22 lần lượt bay ngang qua mặt sân vận động, đồng thời dưới sân dàn máy chiếu LCD cũng thực hiện màn thay đổi cờ của các quốc gia trên khắp mặt sân. Tiếp theo là diễu hành của 11 đoàn thể thao. Trung tâm của phần lễ là lễ rước đuốc và thắp đuốc. Ngọn đuốc thiêng được rước từ Bảo tàng Hồ Chí Minh do Trương Quốc Thắng (vận động viên xe đạp), Bùi Thị Nhung (vận động viên điền kinh), Vũ Kim Anh (tuyển thủ Karate) và các vận động viên đến từ 10 quốc gia trong khu vực chuyền cho Nguyễn Thúy Hiền (tuyển thủ môn wushu). Nguyễn Thúy Hiền sau đó đã truyền ngọn đuốc cho Thủ tướng và truyền cho nhân vật anh hùng dân tộc Gióng -do nghệ sĩ Xuân Quang của Liên đoàn xiếc Việt Nam hoá trang. Sau đó, ngọn lửa được châm lên vạc và sẽ cháy trong suốt thời gian diễn ra Đại hội. Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao Nguyễn Danh Thái, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc gia Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Thể thao Đông Nam Á lần thứ 22, Trưởng Ban tổ chức SEA Games 22 đã có bài phát biểu chào mừng nồng nhiệt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đại biểu, khách mời trong nước và quốc tế cùng 11 đoàn thể thao các nước Đông Nam Á tham dự SEA Games 22. Sau đó, thay mặt nước chủ nhà, Thủ tướng Phan Văn Khải tuyên bố khai mạc SEA Games 22. Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, Trưởng Ban Chỉ đạo SEA Games 22, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Nguyễn Danh Thái và Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội Hoàng Văn Nghiên đã tặng hoa và băng rôn cho 11 đoàn thể thao tham dự. Sau đó, thay mặt tổ trọng tài và các vận động viên, trọng tài Hoàng Quốc Vinh và vận động viên bắn súng Nguyễn Mạnh Tường đã tuyên thệ “Đoàn kết, trung thực và thi đấu công bằng”.
Phần Hội: là chương trình biểu diễn nghệ thuật gồm 3 chương:
Chương I: "Đất Rồng Tiên" giới thiệu hình ảnh đất nước Việt Nam hòa bình, thân thiện". Mở đầu bằng ánh sáng laser tạo hình rồng và phượng hoàng rọi từ mặt sân lên màn hình phun nước áp suất cao. Rồng phượng tượng trưng cho Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, nở ra đóa sen hồng. Tiếp đến là văn hóa lúa nước và hình ảnh chú bé chăn trâu thổi sáo, trâu lá đa; tích truyện rùa vàng trả gươm. Các học sinh tiểu học tay cầm đèn ông sao hát ca khúc "Hòa bình cho chúng em".
Chương II: "Hợp tác vì hòa bình." tái hiện hình ảnh Hà Nội - thành phố Vì hòa bình"; Chương III: "ASEAN đoàn kết hướng tới tương lai" là những nét đặc sắc về văn hóa nghệ thuật của các nước Đông Nam Á. Chương trình khép lại với bài hát chính thức của SEA Games 22 "Vì một thế giới ngày mai" với sự thể hiện của 11 cặp ca sĩ nam nữ và màn bắn pháo hoa rực rỡ sắc màu.
Lễ bế mạc
Lễ bế mạc được tổ chức vào ngày 13 tháng 12 năm 2003 tại Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội lúc 19 giờ. Khoảng 40.000 khán giả tham dự lễ bế mạc, bao gồm Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa và các lãnh đạo của Liên đoàn Thể thao châu Á.
Buổi lễ bắt đầu với những chùm tia laser bắn ra trong sân vận động và những chiếc dù đầy màu sắc bay xuyên qua bầu trời. Các vận động viên sau đó đã diễu hành vào sân vận động theo thứ tự các môn thể thao thi đấu tại Đại hội. Sau đó là phần âm nhạc Việt Nam do Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam cùng các vũ công và ca sĩ địa phương biểu diễn. Nguyễn Danh Thái - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Thể dục Thể thao, Chủ tịch Hội đồng SEA Games 22, Trưởng Ban tổ chức SEA Games 22 - phát biểu, khẳng định Đại hội đã kết thúc thành công tốt đẹp sau những ngày thi đấu sôi nổi. Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, Chủ tịch Ban chỉ đạo SEA Games 22 thay mặt nước chủ nhà tuyên bố bế mạc sự kiện thể thao khu vực.
Sau đó, lá cờ SEA Games màu xanh được các chiến sĩ tiêu binh Quân đội nhân dân Việt Nam mặc quân phục màu trắng hạ xuống và mang đến cho đại diện Việt Nam cùng với ca sĩ Việt Nam Mỹ Linh và ca sĩ Philippines Carlo Orosa hát bài “Vì một thế giới ngày mai”. Cùng lúc đó, ngọn lửa của vạc đã được dập tắt. Chủ tịch Nguyễn Danh Thái và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Hoàng Văn Nghiên trao cờ SEA Games cho Trưởng ban Tổ chức Đại hội Thể thao Roberto Pagdanganan và Thị trưởng Manila, Lito Atienza, tượng trưng cho các trọng trách Đại hội Thể thao Đông Nam Á đang được bàn giao cho Philippines, nước chủ nhà của Sea Games 23. Quốc ca Philippines vang lên khi quốc kỳ của nước này được kéo lên lễ đài. Sau đó, đoàn biểu diễn của Philippines đã trình bày tiết mục nghệ thuật dân gian đặc sắc, đại diện cho nước chủ nhà. Kế tiếp là các tiết mục những ca khúc dân ca, bài hát đại diện cho từng quốc gia Đông Nam Á được trình bày bởi các ca sĩ, vũ công và dàn nhạc giao hưởng TPHCM. Buổi lễ kết thúc với màn biểu diễn chia tay của các vũ công Việt Nam, thể hiện văn hóa Việt Nam.
Các đoàn tham dự
(chủ nhà)
Các môn thi đấu
SEA Games lần thứ 22 có 32 môn thi đấu được tổ chức ở nhiều địa phương của Việt Nam. Trong đó, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm thi đấu chính. Các môn thi đấu gồm có:
<table>
Bắn cung
Bắn súng
Bi sắt
Billiards & Snooker
Bóng bàn
Bóng chuyền
Bóng đá
Bóng ném
Bóng rổ
Canoeing
Cầu lông
Cầu mây
Cờ vua
Cử tạ
Đá cầu
Đấu kiếm
Điền kinh
Đua thuyền
Đua thuyền truyền thống
Judo
Karatedo
Lặn
Pencak silat
Quần vợt
Quyền anh
Taekwondo
Thể dục dụng cụ
Thể hình
Thể thao dưới nước (Bóng nước, Bơi lội, Nhảy cầu)
Vật
Wushu
Xe đạp</tr></table>
Bảng xếp hạng
Đã có tổng cộng 1441 huy chương được trao, trong đó có 444 huy chương vàng, 441 huy chương bạc và 556 huy chương đồng được trao cho các vận động viên. Màn trình diễn của chủ nhà Việt Nam ở SEA Games lần này là tốt thứ 3 từ trước đến nay trong lịch sử các kỳ Đại hội Thể thao Đông Nam Á. |
Đạo Đức với nghĩa là danh từ riêng có thể chỉ một trong số các địa danh Việt Nam sau:
Thị trấn Đạo Đức, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. |
Sắp xếp nổi bọt (tiếng Anh: bubble sort) là một thuật toán sắp xếp đơn giản, với thao tác cơ bản là so sánh hai phần tử kề nhau, nếu chúng chưa đứng đúng thứ tự thì đổi chỗ (swap). Có thể tiến hành từ trên xuống (bên trái sang) hoặc từ dưới lên (bên phải sang). Sắp xếp nổi bọt còn có tên là sắp xếp bằng so sánh trực tiếp. Nó sử dụng phép so sánh các phần tử nên là một giải thuật sắp xếp kiểu so sánh.
Giải thuật
Sắp xếp từ trên xuống
Giả sử dãy cần sắp xếp có n phần tử. Khi tiến hành từ trên xuống, ta so sánh hai phần tử đầu, nếu phần tử đứng trước lớn hơn phần tử đứng sau thì đổi chỗ chúng cho nhau. Tiếp tục làm như vậy với cặp phần tử thứ hai và thứ ba và tiếp tục cho đến cuối tập hợp dữ liệu, nghĩa là so sánh (và đổi chỗ nếu cần) phần tử thứ n-1 với phần tử thứ n. Sau bước này phần tử cuối cùng chính là phần tử lớn nhất của dãy.
Sau đó, quay lại so sánh (và đổi chố nếu cần) hai phần tử đầu cho đến khi gặp phần tử thứ n-2....
Ghi chú: Nếu trong một lần duyệt, không phải đổi chỗ bất cứ cặp phần tử nào thì danh sách đã được sắp xếp xong.
Sắp xếp từ dưới lên
Sắp xếp từ dưới lên so sánh (và đổi chỗ nếu cần) bắt đầu từ việc so sánh cặp phần tử thứ n-1 và n. Tiếp theo là so sánh cặp phần tử thứ n-2 và n-1,... cho đến khi so sánh và đổi chỗ cặp phần tử thứ nhất và thứ hai. Sau bước này phần tử nhỏ nhất đã được nổi lên vị trí trên cùng (nó giống như hình ảnh của các "bọt" khí nhẹ hơn được nổi lên trên). Tiếp theo tiến hành với các phần tử từ thứ 2 đến thứ nm.
Mã giả
Sắp xếp từ trên xuống
procedure bubble_sort1(list L, number n) //n=listsize
For number i from n downto 2
for number j from 1 to (i - 1)
if L[j] > L[j + 1] //nếu chúng không đúng thứ tự
swap(L[j], L[j + 1]) //đổi chỗ chúng cho nhau
endif
endfor
endfor
endprocedure
Sắp xếp từ dưới lên
procedure bubble_sort2(list L, number n) //n=listsize
For number i from 1 to n-1
for number j from n-1 downto i
if L[j] > L[j + 1] //nếu chúng không đúng thứ tự
swap(L[j], L[j + 1]) //đổi chỗ chúng cho nhau
endif
endfor
endfor
endprocedure
Giảm bớt vòng duyệt
Nếu trong một lần duyệt nào đó với một i cố định khi vòng lặp j kết thúc mà không cần phải đổi chỗ cặp phần tử nào, nghĩa là mọi cặp phần tử kề nhau đã đứng đúng thứ tự thì dãy đã được sắp xếp và không cần tiến hành vòng lặp tiếp theo. Do đó có thể dùng một cờ để kiểm soát việc này. Ta có một đoạn mã giả của thuật toán nổi bọt như sau:
procedure bubble_sort3(list L, number n)
i:= n
while i > 1 do
has_swapped:= 0 //khởi tạo lại giá trị cờ
for number j from 1 to (i - 1)
if L[j] > L[j + 1] //nếu chúng không đúng thứ tự
swap(L[j], L[j + 1]) //đổi chỗ chúng cho nhau
has_swapped:= 1 //có đổi chỗ ít nhất một lần, danh sách chưa sắp xếp xong
endif
endfor
if has_swapped = 0 //nếu không có lần đổi chỗ nào, danh sách đã sắp xếp xong
exit
else //nếu có ít nhất một lần đổi chỗ, danh sách chưa sắp xếp xong
i = i - 1
endif
enddo
endprocedure
Ghi chú: Cũng có thể không cần dùng đến biến i, khi đó mỗi lần kiểm tra đều phải duyệt từ đầu đến cuối dãy.
Thời gian tính
Với mỗi i = 1,2,..,n-1 ta cần i phép so sánh. Do đó số nhiều nhất các lần so sánh và đổi chỗ trong giải thuật là
Do đó độ phức tạp của giải thuật cỡ O().
Mã thật ví dụ
Viết bằng Pascal
var a: array[1..1000] of integer;
n, i: integer;
procedure BubbleSort;
var
i, j, tmp: integer;
begin
for i:= 1 to n - 1 do
for j:= i + 1 to n do
if a[i] < a[j] then
begin
tmp:= a[i];
a[i]:= a[j];
a[j]:= tmp;
end;
end;
BEGIN
readln(n);
for i:= 1 to n do
readln(a[i]);
BubbleSort;
for i:= 1 to n do
write(a[i], ' ');
readln
END.
Viết bằng Java
private static void bubbleSort(int[] unsortedArray, int length) {
int temp, counter, index;
for(counter=0; counter<length-1; counter++) { //Loop once for each element in the array.
for(index=0; index<length-1-counter; index++) { //Once for each element, minus the counter.
if(unsortedArray[index] > unsortedArray[index+1]) { //Test if need a swap or not.
temp = unsortedArray[index]; //These three lines just swap the two elements:
unsortedArray[index] = unsortedArray[index+1];
unsortedArray[index+1] = temp;
}
}
}
}
Viết bằng C++
#include <bits/stdc++.h>
using namespace std;
long long a[N], n;//Thay N là số phần tử trong mảng
template<class T,class Cmp = less<T> >
void bubblesort(T *L,T *R,Cmp ss= less<T>()) //sap *L,*(L+1)...*(R-1)
{
for(T *i=L;i<R;i++)
for(T *j=R-1;j>L;j--)
if(ss(*j,*(j-1))) swap(*j,*(j-1));
}
int main() {
cin>>n;
for(int i=1; i<=n;i++) cin>>a[i];
bubblesort(a+1,a+n+1);
for(int i=1; i<=n;i++) cout<<a[i]<<" ";
}
Viết bằng PHP
$arr=array(1,5,7,8,9,10,2,3,6);
function s($a,$b){
if($a==$b){
return 1;
}
if($a<$b){
return 1;
}else{
return -1;
}
}
usort($arr,'s');
print_r($arr);
exit();
other code
$arr = [...];
$arr_count = count($arr);
//loop
for ($i = 0; $i < $arr_count; $i++)
{
for ($j = 1; $j < $arr_count - $i; $j++)
{
if ($arr[$j-1] > $arr[$j])
{
$tmp = $arr[$j-1];
$arr[$j-1] = $arr[$j];
$arr[$j] = $tmp;
}
}
}
for($i=0;$i<$arr_count;$i++){
echo $arr[$i]."<br>";
}
Viết bằng Python
list = []
list_final = []
num = int(input("how many number you want to add?\n"))
for i in range(num) :
number = int(input("adding numbers"))
list.append(number)
if list[i] not in list_final :
list_final.append(list[i])#if list exits the same number many timnes , it will delete and make the list_final
for j in range(len(list_final)):
for k in range(j):
if list_final[j] < list_final[k]:#compare numbers in the list
tmp = list_final[j]
list_final[j] = list_final[k]
list_final[k] = tmp
print(list_final) |
Thiều Chửu (1902–1954), tên thật Nguyễn Hữu Kha, là nhà văn hóa, dịch giả và cư sĩ Việt Nam, tác giả Hán Việt tự điển và nhiều bộ sách về Phật giáo nổi tiếng khác. Năm 1945, ông được Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh mời tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tư cách là Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội.
Trong cải cách ruộng đất năm 1954, ông bị đấu tố là địa chủ và sau đó tự tử.
Tuổi thơ
Ông tên thật là Nguyễn Hữu Kha, xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Trung Tự, phường Đông Tác cũ, nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Thân phụ của ông là Nguyễn Hữu Cầu, quen gọi là cụ cử Đông Tác, từng tham gia phong trào Đông Kinh nghĩa thục nên bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo. Cụ nội của ông là ông nghè Đông Tác Nguyễn Văn Lý.
Ông kể về tuổi thơ của mình: "Nhà nghèo quá, chị em tôi 7-8 tuổi đã phải chăn bò cắt cỏ, gánh nước, thổi cơm nấu cám, 10 tuổi tát nước, 12 tuổi cày bừa. Năm tôi 13 tuổi, bố bị giặc Pháp bắt, được hai tháng thì mẹ sinh con thứ 8. Đẻ được ba ngày mẹ đã phải đi làm đồng" .
16 tuổi, Hữu Kha một mình xuống Đồ Sơn bán thuốc Nam và bánh kẹo kiếm sống. Vì tin người nên mất hết vốn, ông phải làm phu kéo thuyền, đẩy xe, thậm chí hành khất. Hai năm trời cực nhục ấy khiến ông ngày càng tin yêu triết lý cứu khổ cứu người của đạo Phật.
Trở thành cư sĩ
Cuối năm 1920, cụ Cử Cầu ra tù, ông về giúp cha mở hiệu thuốc Lợi Nhân Đường ở Ngã Tư Sở. Ông học được nghề thuốc Nam và trở thành vị lương y suốt đời chữa bệnh không công. Ông lấy hiệu Tịnh Liễu (Tịnh: trong sạch, Liễu: hiểu biết), bắt đầu tự học đạo Phật và ngoại ngữ. Được bà nội và bác ruột dạy chữ Hán, cùng đức tính kiên trì tự học, dần dà ông đã am hiểu chữ Hán, Nho giáo và Phật giáo, lại thông thạo các tiếng Anh, Pháp, Nhật.
Bén duyên với Phật giáo, ông lấy hiệu là Thiều Chửu, có nghĩa là cái chổi quét bụi, thể hiện rõ tâm nguyện của mình là "cây chổi quét bụi ấy sẽ làm trong sáng giáo hội qua ngòi bút cải cách của mình". Ngoài ra, "hàng ngày phải lau quét bụi trần tham nhiễm, đừng để gương lòng vẩn đục bởi phiền não vô minh che lấp". Ông không trở thành tu sĩ mà chỉ là một cư sĩ, tu tại gia.
Khi bà chị ruột túng bấn, ông thôi việc hiệu thuốc để giúp chị mưu sinh bằng nghề cho thuê đòn tang. Lúc 28 tuổi, ông giúp cậu em họ kiếm sống bằng cách cùng mua một máy in dập chân, thuê nhà số 36 phố Sinh Từ mở hiệu sách Hòa Ký (lấy tên từ phương châm Lục Hoà của Phật).
Đi sâu nghiên cứu Phật giáo, năm 1932-1933 ông cho ra đời bản dịch Khóa hư lục, "bộ kinh cứu khổ cho đời" mà theo ông tác giả là vua Trần Nhân Tông, vị tổ Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam (theo Đào Duy Anh thì tác giả là vua Trần Thái Tông).
Thiều Chửu góp công lớn trong sáng lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ (1934), nhưng khi Hội mời vào Ban Trị sự thì ông lại do dự vì thấy Ban này có mấy vị quan cai trị. Sau cùng ông nhận lời với ý nghĩ có thể lợi dụng Hội này để thực hành cái chí đánh đổ chế độ thối nát của nhà chùa thời đó.
Sau khi Hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập năm 1934 và ra báo Đuốc tuệ, Thiều Chửu nhận lời làm quản lý và biên tập cho tờ báo. Ông cũng tham gia thành lập Hội truyền bá quốc ngữ vào năm 1938 để nâng cao dân trí.
Năm 1936, ông cùng bà Cả Mọc (Hoàng Thị Uyển) đồng sáng lập Hội Tế Sinh và làm Tổng Thư ký Hội. Ngay năm sau Hội lao vào cứu giúp nạn nhân trận lụt Đinh Sửu.
Ông kể: "Chính vì chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào, cả đời không ăn ngon mặc đẹp, không ai có gia đình riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin lắm. Rất nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có".
Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Ngoài việc góp sức cho cơ quan cứu tế, ông cùng bà Cả Mọc còn vận động đi lấy tiền lấy áo; rồi cùng ông Hoàng Đạo Thúy, Trần Duy Hưng hàng ngày đem thuốc, tiền, quần áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến khi họ sống được. Những yếu nhân của Hội đã đi cứu tế ba tháng liên tục cho đến lúc lúa chín.
Năm 1941, khi trường Phật học Phổ Quang được mở, ông đảm nhận việc dạy chữ Hán, giảng kinh và chủ trì các khóa lễ mà nhiều học viên sau này trở thành các bậc tu hành có uy tín như Hòa thượng Thích Tâm Tịch, đệ nhị Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Năm 1945, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông ra làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội trong chính phủ Lâm thời, nhưng ông từ chối để tiếp tục việc giảng dạy cho các lớp Phật giáo, cùng Cô nhi, để theo con đường tu trì lợi tha mà mình đã chọn.
Năm 1946 ông cùng một lớp học tăng ni và một số trẻ mồ côi hội Tế Sinh đi theo kháng chiến chống Pháp, tham gia lao động sản xuất, giáo dục, viết và dịch sách.
Tự trầm
Trong Cải cách ruộng đất, ông bị đội cải cách ruộng đất ở xã Đồng Liên, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên quy là địa chủ và xỉa xói mắng nhiếc nhiều giờ, vu cho đủ các tội ác, dùng những lời nói khinh bỉ hà khắc. Bị vu cáo, cộng với sự thương cảm cho nhiều nông dân bị hàm oan trong Cải cách ruộng đất mà cảm thấy mình bất lực, ông đã tự trầm vào ngày 16 tháng 6 năm Giáp Ngọ (ngày 15 tháng 7 năm 1954) tại sông Cầu chỗ đập Thác Huống, thuộc xóm Đồng Tâm, xã Vạn Thắng, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Trước khi mất, Thiều Chửu thức trắng đêm viết thư tuyệt mệnh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, thư dặn dò các học trò mình phấn đấu theo kháng chiến chống Pháp đến cùng, và viết lời kết bản Tự bạch (cũng gửi Hồ chủ tịch) như sau:
Ni sư Thích Đàm Ánh, một học trò của Thiều Chửu kể lại, Thiều Chửu dặn đừng vớt xác ông, nhưng các hậu duệ và học trò không ai nỡ làm thế. Sau hòa bình lập lại, họ trân trọng rước hài cốt ông về Hà Nội mai táng. Hiện nay mộ ông đặt tại nghĩa trang Thanh Tước, số mộ 170-C3.
Ngày 21 tháng 6 năm 2002 các cháu của ông cùng tạp chí Xưa & Nay (Hội Khoa học Lịch sử) và tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường) tổ chức hội thảo 100 năm ngày sinh Nhà Văn hoá Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha tại nhà Thái Học Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Trước tác đồ sộ
Thiều Chửu để lại 93 tác phẩm viết và dịch. Ngoài bộ Hán Việt tự điển có giá trị vượt thời gian, ông còn dịch 14 bộ kinh căn bản của đạo Phật như Kinh Di Đà, Thủy Sám, Địa Tạng, Kim Cương Bát Nhã, Viên Giác, Pháp Hoa, Dược Sư, Phả Môn, Di Giáo, Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Lễ Sáu Phương, Lục Tổ Đàn Kinh, Khóa Hư. Các sách dịch khác của ông có thể kể: Vì sao tôi tin Phật giáo, Phật học cương yếu, Tây du ký...
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận (Nhà xuất bản Lá Bối, 1985) đã đánh giá "các bản dịch của ông rất đặc sắc, đọc rất êm tai, nghĩa lý khá rõ ràng", nhất là văn trong Khóa Hư "là văn biền ngẫu rất khó dịch".
Ông cũng viết các sách về Phật học như Sự tích Phật tổ diễn ca, Nhòm qua cửa Phật, Cải tà quy chính, Khóa tụng hàng ngày, Con đường Phật học thế kỷ 20.
Năm 1943, ông soạn cuốn Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính, chủ yếu dùng triết lý Phật học để giải thích. Ông coi tập thơ Nôm khuyết danh đó là kinh Phật chứ không chỉ là một tác phẩm văn chương.
Tác phẩm cuối cùng của ông là Con đường học Phật ở thế kỷ 20 xuất bản năm 1952 thể hiện quan điểm của một Phật tử chân chính, tiên tiến, yêu nước, kiên quyết vạch mặt một số tăng sĩ vùng địch chiếm mưu mô thần bí hóa đạo Phật, qua đó làm nhụt tinh thần kháng chiến của dân tộc.
Nhận xét
Nhà văn Nguyên Ngọc viết về Thiều Chửu: "Ngày nay nhìn lại, thật đáng kinh ngạc về tư tưởng sâu sắc và mạnh mẽ của ông về nhân dân. Đó là một tư tưởng xã hội có tầm cao rất đáng để chúng ta chiêm nghiệm... Tính thời sự vẫn còn nguyên".
Học giả Vũ Tuân Sán nhìn nhận Thiều Chửu "là một hiện tượng khá đặc biệt trong giới trí thức ở thế kỷ XX, một người sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn vì lý tưởng".
Minh Chi trong bài "Tưởng niệm cụ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha" (Tạp chí Xưa và nay số 116, tháng 5-2002) có nhận xét về Thiều Chửu khi ở chùa Quán Sứ trong những năm 1942-46: "cụ Thiều Chửu bao giờ cũng lầm lì, ít nói, mặc quần áo nâu và đi guốc mộc như một bác dân quê", "không dễ hòa mình vào sinh hoạt chung ở chùa Quán Sứ, sinh hoạt của tăng sĩ cũng như cư sĩ". Cụ không những ăn chay trường với mâm cơm không có gì mà còn ngày chỉ ăn một bữa trước giờ ngọ như các sư Nam tông.
Chú thích |
Thiền phái Trúc Lâm (zh. 竹林禪派) là một tông phái của Thiền tông Việt Nam, hình thành từ thời nhà Trần, do Vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của Trần Nhân Tông từ khi xuất gia ở động Vũ Lâm (Ninh Bình), đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng Thiền này. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp Loa và Huyền Quang (gọi chung là Trúc Lâm Tam tổ). Thiền phái này được xem là tiếp nối, nhưng cũng đồng thời là sự hợp nhất của ba dòng Thiền Việt Nam có từ trước đó là phái Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi, cùng với sự pha trộn ảnh hưởng của tông Lâm Tế. Với việc lập ra phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông đã thống nhất các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối.
Lịch sử
Sơ khởi
Vào đầu đời Trần, Thiền sư Hiện Quang thuộc Thiền phái Vô Ngôn Thông ẩn tu khổ hạnh tại núi Yên Tử và lập ra phái Yên Tử, là tổ đời thứ nhất. Sau khi Thiền sư Hiện Quang thị tịch, đệ tử nối pháp là Thiền sư Đạo Viên kế thừa phái Yên Tử. Vua Trần Thái Tông từng có thời gian lên núi và học đạo với Thiền sư Đạo Viên và sau phong hiệu cho ông là Trúc Lâm Quốc sư. Ngoài ra, Vua Trần Thái Tông cũng được biết đến là một vị vua ngộ Thiền và từng có thời gian đăng đàn thuyết pháp, dạy Thiền cho cả tăng sĩ và ông có sáng tác nhiều thơ kệ, bình luận về các công án Thiền Tông. Tác phẩm Thiềncủa Trần Thái Tông còn được lưu giữ cho đến ngày nay đó là Khóa Hư Lục, Thiền Tông Chỉ Nam.
Sau khi Đạo Viên viên tịch, đệ tử là Quốc sư Đại Đăng kế tiếp truyền thống phái Yên Tử. Đại Đăng khá đặc biệt khi ông vừa kế thừa tư tưởng Thiền tông Việt Nam đương thời và vừa kế thừa tư tưởng tông Lâm Tế do Thiền sư Thiên Phong (người Trung Quốc) truyền sang Việt Nam.
Dưới Quốc sư Đại Đăng lại có những đệ tử nổi danh như Quốc sư Liễu Minh, Thiền sư Tiêu Dao làm Thiền phong phát triển mạnh mẽ. Từ Thiền sư Tiêu Dao có đệ tử cư sĩ nổi tiếng là Tuệ Trung Thượng Sĩ - một người tại gia thể ngộ Thiền và được ví như là Duy Ma Cật, Bàng Long Uẩn của Việt Nam. Tư tưởng Thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ khá nổi tiếng và đại biểu cho nền Thiền học Việt Nam đời Trần. Ông cũng được biết đến là là bác ruột và là thầy dạy Thiền cho Vua Trần Nhân Tông. Tác phẩm Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục đã ghi chép lại rất rõ về hành trạng và tư tưởng Thiền học của ông.
Dưới sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Vua Trần Nhân Tông ngộ đạo và sau này ông xuất gia rồi sáng lập Thiền phái Trúc Lâm. Trong pháp hệ truyền thừa, Vua Trần Nhân Tông được coi là đệ tử nối pháp của Thiền sư Huệ Tuệ (nối pháp Thiền sư Tiêu Dao) và thuộc đời thứ 6 trong truyền thừa của phái Yên Tử vì theo đúng truyền thống của Thiền tông thì chỉ có đệ tử là cư sĩ nối pháp Thiền sư là người xuất gia hoặc đệ tử là người xuất gia nối pháp Thiền sư là người xuất gia chứ không có chuyện người xuất gia nối pháp cư sĩ.
Thiền phái Trúc Lâm
Thiền phái Trúc Lâm do một vị vua nhà Trần sáng lập, được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ là Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng.
Trần Nhân Tông
Ông vốn là con trai trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng hậu, lên ngôi vua năm 1279 và từng hai lần lãnh đạo nhân dân Đại Việt đánh thắng quân Nguyên Mông, giúp giữ vững nền độc lập dân tộc. Ngoài giờ triều chính, ông còn nghiên cứu nội điển, ngoại điển, xem các kinh sách Phật Giáo và thường xuyên mời các vị cao tăng, Thiền sư vào cung để tham vấn hỏi đạo. Bên cạnh đó, ông cũng tham học với chú ruột là Tuệ Trung Thượng Sĩ và ngộ được yếu chỉ Thiền tông. Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông và sau đó xuất gia tu hành tại chùa Khai Phúc thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Đến năm 1299, ông dời đến núi Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành theo khổ hạnh và lập ra Thiền phái Trúc Lâm, lấy hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà.
Kế đến, ông lập nhiều chùa và tịnh xá để tiếp độ học nhân, người đến tham vấn rất đông. Ông có đến trụ trì tại chùa Phổ Minh ở Phủ Thiên Trường và dạy Thiền trong vòng mấy năm. Sau Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đi vân du khắp nơi, phá bỏ các miếu thờ tà thần, dâm thần và dạy người dân tu theo thập thiện. Cùng năm, Điều Ngự trở lại nội cung và truyền bồ tát giới cho các hoàng thân, quý tộc.
Sau khi xong việc, ông đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Thứu và nỗ lực truyền bá Thiền Tông. Dưới đây là một đoạn công án ghi lại phong cách thuyết pháp của Điều Ngự Giác Hoàng, rất giống với phong cách thăng tòa thuyết pháp của các Thiền sư Trung Quốc:
Mở đầu pháp hội, Sư niêm hương báo ân xong bước lên tòa. Vị Thượng thủ bạch chùy, sau khi bạch chùy xong. Ngài nói: "Thích-ca Văn Phật vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt bốn mươi chín năm chuyển động đôi môi mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi tòa này, biết nói chuyện gì đây?". Ngồi giây lâu, sư ngâm bài kệ:
Phiên âm
Thân như hô hấp tỹ trung khí,
Thế tợ phong hành lãnh ngoại vân.
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú,
Bất thị tầm thường không quá xuân.
Dịch nghĩa
Thân như hơi thở ra vào mũi
Đời giống mây trôi đỉnh núi xa,
Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng,
Đâu phải tầm thường qua một xuân.
Sư gõ Thiền trượng vào pháp tòa một cái rồi nói: "Không có gì sao? Ra đây! Ra đây!".
Cuối đời, ông truyền pháp và phó chúc cho đệ tử nối pháp là Thiền sư Pháp Loa kế thừa làm tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử rồi thị tịch, thọ 51 tuổi. Dưới sự xuất gia và hoằng pháp của vua Trần Nhân Tông, Phật giáo Việt Nam được thống nhất về một mối, thành một giáo hội hoàn chỉnh với căn bản là các tư tưởng của Đạo Phật, mà trong đó Thiền Tông là đại diện chính.
Pháp Loa
Thiền sư Pháp Loa xuất gia và trở thành sa di năm 21 tuổi dưới sự hướng dẫn của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, khi mới gặp ông Điều Ngự đã khen ông là bậc pháp khí. Sau, Điều Ngự Giác Hoàng chỉ ông đến tham học với Thiền sư Tính Giác ở chùa Quỳnh Quán, tuy nhiên ông tham học bấy lâu mà không ngộ yếu chỉ. Ông tự nghiên cứu kinh Hải Nhãn (có thể là Kinh Lăng Nghiêm) và có chổ khế ngộ, bèn trở lại tham học với Điều Ngự và làm thị giả tại đây.
Một hôm, ông trình ba bài kệ lên Điều Ngự để thể hiện chổ sở đắc của mình và đều bị Điều Ngự chê cả ba. Ông không hiểu nên đến tham vấn mấy lần và Điều Ngự dạy ông phải tự tham cứu. Ông đầu óc nặng trĩu nghi tình, tự tham đến nửa đêm và đến khi thấy tàn bông đèn rụng xuống liền đại ngộ. Ông được Điều Ngự ấn khả, trao tâm kệ, y bát làm đệ tử nối pháp và dạy phải tự khéo bảo hộ.
Năm 1308, Điều Ngự làm lễ cho Pháp Loa nối tiếp trụ trì chùa Siêu Loại và thay Điều Ngự thuyết pháp. Từ đó, ông kế tiếp làm chủ của của sơn môn Yên Tử và nối đời thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm.
Sau khi Điều Ngự thị tịch, ông làm lễ trà tỳ và rước xá lợi về cung, rồi biên soạn kệ tụng, ngữ lục của Điều Ngự thành cuốn Thạch Thất Mỵ Ngữ. Ông cũng từng phụng chiếu vua khắc in bộ Đại Tạng Kinh và sau giao cho đồng môn là Thiền sư Bảo Sái tiếp tục.
Trong cuộc đời hoằng pháp của mình, ông từng giảng nhiều bộ sách quan trọng của Thiền Tông như bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Đại Huệ Ngữ Lục, các kinh điển Đại Thừa và đào tạo ra nhiều đệ tử nổi danh như Huyền Quang, Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Huệ Nhiên,,, Tại chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), ông thế độ xuất gia và cấp giới độ điệp cho hơn 1000 vị tăng.
Ông tịch năm 1330 và đệ tử nối pháp là Huyền Quang tiếp tục kế thừa Thiền phái Trúc Lâm. Tác phẩm của ông gồm có: Thạch Thất Mị Ngữ Niêm Tụng, Tham Thiền Yếu Chỉ...
Huyền Quang
Thiền sư Huyền Quang vốn là trạng nguyên và từng thi đỗ Tiến sĩ. Một hôm, ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp Loa thuyết pháp và vì cảm động nên xin vua cho phép từ quan để xuất gia tu học. Sau khi từ quan, ông đến xuất gia và thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm rồi làm thị giả cho Điều Ngự và được ban pháp hiệu là Huyền Quang. Trước khi thị tịch, Điều Ngự căn dặn ông đến tham học với Pháp Loa. Dưới sự chỉ dạy của Pháp Loa, ông ngộ đạo, được Pháp Loa truyền tâm kệ và áo cà sa của Điều Ngự làm tín vật, trở thành tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Sau khi đắc pháp, ông đến trụ trì tại chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Vì ông đa văn bác học, tinh thông huyền nghĩa nên học chúng khắp nơi đến tham học rất đông, thường không dưới 1000 người. Ông cũng thường phụng chiếu vua đi giảng kinh và dạy Thiền khắp nơi. Đương thời các tác phẩm Thiền học trước khi được in ấn, lưu hành đều phải do ông kiểm duyệt qua.
Thiền sư Huyền Quang được Pháp Loa truyền pháp vào năm 1317, khi ấy ông đã ngoài 63 tuổi. Do già yếu và sức khỏe ngày càng kém nên ông chỉ giáo hóa được một thời gian rồi truyền lại sự nghiệp của mình cho cho đệ tử là Quốc sư An Tâm kế thừa.
Sau đó
Thiền phái Trúc Yên Tử phát triển và được sự bảo hộ mạnh mẽ của triều đình nhà Trần. Tuy nhiên đến cuối nhà Trần, sự phát triển mạnh mẽ của Nho Giáo lấn át, đe dọa đến ảnh hưởng của Phật Giáo. Thêm vào đó, một số nhà Nho nổi tiếng như Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh thường nhắm vào tệ nạn của một số tăng sĩ đương thời để đả kích, hạ thấp danh tiếng Phật giáo khiến Phật giáo bị suy giảm.
Đến khi nhà Trần bị diệt vong, Thiền phái Trúc Lâm bị mất chổ dựa và bắt đầu đi vào suy tàn. Khi quân Minh sang xâm lược Việt Nam, họ tịch thu, đốt phá nhiều tác phẩm liên quan lên quan đến Phật Giáo, Thiền Tông Việt Nam và Thiền phái Trúc Lâm. Đây là một trong những lý do khiến cho sử liệu về Phật Giáo và Thiền Tông Việt Nam trước đó bị nghèo nàn, hạn chế.
Để thích ứng với bối cảnh xã hội mới, các Thiền sư của tông này phải ẩn cư trên núi, trong rừng mà chủ yếu là địa bàn núi Yên Tử. Ở đây, họ tiếp tục giữ gìn và lưu truyền tinh thần tu học của Thiền phái Trúc Lâm. Dù vậy, nó cũng khiến cho Thiền Tông Việt Nam bị chìm nghỉm trong một thời gian dài và ít người biết đến. Vì thế trong giai đoạn mấy trăm năm sau nhà Trần, hầu như các sử liệu ghi chép về các Thiền sư phái Trúc Lâm, các tác phẩm đều không có. Điều duy nhất mà hiện nay chúng ta biết đó là pháp hiệu của 15 vị Thiền sư thuộc 15 đời truyền thừa kể từ sau Tam tổ Huyền Quang trong quyển Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục của Hòa thượng Phúc Điền.
Phục hưng
Đến đời Lê Trung Hưng, Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng ( tông Lâm Tế) đặc biệt quan tâm đến việc phục hưng Thiền phái Trúc Lâm. Ông có công khôi phục một số di tích của Thiền phái Trúc Lâm và sưu tầm, hiệu đính, khắc ván và cho lưu hành nhiều tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm. Bên cạnh đó cũng có Ngô Thì Nhậm là người biên soạn cuốn Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh.
Hiện đại Hòa Thượng Thích Thanh Từ là người chủ trương khôi phục và truyền bá tinh thần Thiền học của Thiền phái Trúc Lâm. Ông sưu tập và dịch, giảng giải nhiều tác phẩm liên quan đến Thiền Tông nói chung và Thiền phái Trúc Lâm nói riêng. Từ Nam chí Bắc cho đến hải ngoại đã có nhiều Thiền viện ra đời do ông và các đệ tử sáng lập mang tên là Thiền viện Trúc Lâm và tại đây đều có thờ tam tổ Trúc Lâm. Tuy nhiên, đường lối tu tập Thiền của Hoà Thượng Thanh Từ không phải là thuần túy Thiền Tông mà theo lối "Thiền giáo song tu", tiếp thu thêm phương pháp "Thiền tri vọng" của Thiền sư Khuê Phong Tông Mật (tổ thứ 5 của tông Hoa Nghiêm) và " Lục Diệu Pháp Môn" của Thiên Thai Tông.
Tư tưởng
Truyền thừa
Sau đây là pháp hệ truyền thừa Thiền phái Trúc Lâm trong Đại nam Thiền uyển truyền đăng lục (zh. 大南禪苑傳燈錄), được sư Phúc Điền (zh. 福田) đính bản:
Thiền sư Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông)
Thiền sư Phổ Tuệ Minh Giác (Pháp Loa)
Thiền sư Huyền Quang
Thiền sư An Tâm (zh. 安心)
Thiền sư Phù Vân Tĩnh Lự (zh. 浮雲靜慮)
Thiền sư Vô Trước (zh. 無著)
Thiền sư Quốc Nhất (zh. 國一)
Thiền sư Viên Minh (zh. 圓明)
Thiền sư Đạo Huệ (zh. 道惠)
Thiền sư Viên Ngộ (zh. 圓遇)
Thiền sư Tổng Trì (zh. 總持)
Thiền sư Khuê Sâm (zh. 珪琛, hoặc Khuê Thám)
Thiền sư Sơn Đăng (zh. 山燈, hoặc Sơn Đằng)
Thiền sư Hương Sơn (zh. 香山)
Thiền sư Trí Dung (zh. 智容)
Thiền sư Huệ Quang (zh. 慧 光)
Thiền sư Chân Trụ (zh. 真住, hoặc Chân Trú)
Thiền sư Vô Phiền (zh. 無煩)
Các trung tâm Phật giáo
Các di tích Thiền phái Trúc Lâm xưa
Quần thể di tích danh thắng Yên Tử (Quảng Ninh)
Hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình)
Chùa Côn Sơn (Hải Dương)
Chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh)
Chùa Báo Ân Siêu Loại (Hà Nội)
Chùa Ba Vàng (Quảng Ninh)
Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)
Chùa Bổ Đà (Bắc Giang)
Các Thiền Viện Trúc Lâm ngày nay
Trong những năm gần đây đã xuất hiện một dạng thiết chế tôn giáo mới, gắn với Thiền phái Trúc Lâm là các Thiền Viện Trúc Lâm do hoà thượng Thích Thanh Từ khởi xướng. Đây cũng là một hình thức tôn vinh, thăng hoa của Thiền phái Trúc Lâm trong đời sống xã hội hiện đại.
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã
Thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm
Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng
Thiền viện Trúc Lâm Hậu Giang
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên
Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác
Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam
Thiền viện Trúc Lâm Đà-Lạt
Thiền viện Trúc Lâm Sùng Phúc
Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng
Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Đức
Thiền viện Trúc Lâm Tuệ Quang
Thiền viện Trúc Lâm Chính Pháp
Thiền viện Trúc Lâm Đại Giác
Thiền viện Trúc Lâm Hộ Quốc (Phú Quốc)
Thiền viện Trúc Lâm Bạc Liêu
Thiền viện Trúc Lâm Trà Vinh
Thiền viện Trúc Lâm Nam Thiên
Thiền viện Trúc Lâm Cà Mau
Thiền viện Trúc Lâm Từ Quang (Từ Đường Trúc Lâm)
Thiền viện Trúc Lâm Đại Đăng
Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức
Thiền Viện Trúc Lâm Trí Đức - Ni
Thiền viện Trúc Lâm Thanh Nguyên
Thiền viện Trúc Lâm Long Đức
Thiền viện Trúc Lâm An Giang
Thiền viện Trúc Lâm Hiện Quang
Thiền viện Trúc Lâm Chánh Thiện
Thiền viện Trúc Lâm Phật Đăng
Thiền viện Thường Chiếu
Thiền viện An Lạc
Thiền viện Đạo Huệ
Thiền viện Linh Chiếu
Thiền viện Viên Chiếu
Thiền viện Huệ Chiếu
Thiền viện Chơn Không
Thiền viện Chân Nguyên
Thiền viện Tuệ Quang
Thiền viện Liễu Đức
Thiền viện Phổ Chiếu
Thiền viện Phúc Trường |
Đông Hồ (10 tháng 3 năm 1906 - 25 tháng 3 năm 1969), tên thật Lâm Tấn Phác, tự Trác Chi, hiệu Đông Hồ và Hòa Bích; các bút hiệu khác: Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh.
Ông được đánh giá là một nhà giáo, nhà thơ, chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt và là một người nhiệt tình với văn hóa dân tộc Việt Nam.<ref>{{Chú thích web |url=http://hanoi.vnn.vn/vanhoc/chandung.asp?id=BT2060636764&chude=43&page=1 |ngày truy cập=2006-09-16 |tựa đề=Lược theo Đông Hồ, thi sĩ yêu tiếng Việt trên báo Tuổi Trẻ |archive-date=2006-10-07 |archive-url=https://web.archive.org/web/20061007133602/http://hanoi.vnn.vn/vanhoc/chandung.asp?id=BT2060636764&chude=43&page=1 }}</ref>
Ông là thành viên của nhóm "Hà Tiên tứ tuyệt" gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng là vợ của ông), Lư Khê và Trúc Hà.
Thân thế và sự nghiệp
Đông Hồ sinh tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên, nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Thuở nhỏ ông vốn tên là Kỳ Phác, sớm mồ côi cha mẹ, nhờ bác ruột là Lâm Hữu Lân nuôi dạy và đặt tiểu tự cho ông là Quốc Tỉ, tự là Trác Chi.
Nhà ông, tổ tiên truyền mấy đời, đều ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, là một thắng cảnh trong Hà Tiên Thập Cảnh, nên khi bắt đầu biết làm thơ ông đã lấy hiệu Đông Hồ.
Theo tâm sự của Đông Hồ, chính Nam Phong tạp chí đã đánh thức nơi ông niềm say mê với quốc văn, quốc ngữ:Nằm nhà buồn buồn, tôi lấy mấy quyển sách ra xem thì là mấy tập Nam Phong cũ. Tôi giở từng số, xem qua một lượt. Tôi gặp bài thơ Le Lac của Lamartine dịch ra quốc ngữ của cô Lê Cẩm Nhung và của ông Nguyễn Văn Bông. Tôi để ý đọc, chỉ đọc bài quốc ngữ thôi, vì bài chữ Tây thì tôi đã thuộc lòng (…) Thì ra quốc văn có thể diễn nổi những cảnh sắc sảo sáng sủa của thơ Tây, và cũng có thể diễn nổi những ý tứ thâm trầm, những tư tưởng cao thượng của thơ Tàu. Tôi tỉnh ngộ. Tôi thấy rằng nước ta còn có chữ, giống ta còn có tiếng nói. Quốc văn ta có nghèo hèn kém cỏi gì đâu. Tôi bỏ Pháp văn, quay ra chuyên tâm học quốc ngữ. Cái duyên của tôi với báo Nam Phong cũng bắt đầu từ đó, mà cái cảm tình của tôi đối với tiếng nước nhà đằm thắm mặn mà cũng bắt đầu từ đó
Lượt kê những hoạt động chính của ông:
Năm 1926 - 1934: lập Trí Đức học xá trên bờ, Đông hồ chủ trương chuyên dạy toàn tiếng Việt, cổ động người Việt tin tưởng ở tương lai Việt ngữ. Thời kỳ này ông cộng tác với Nam Phong tạp chí, do Phạm Quỳnh chủ trương đến khi báo đình bản (1935). Cũng trong thời kì này, ông nổi tiếng với bài ký Linh Phượng tức Trác Chi lệ ký tập và bài phú Đông Hồ.
Năm 1935: xuất bản tuần báo Sống ở Sài Gòn nhưng chỉ ra được vài chục số thì ngưng vì không tự túc nổi, ông phải về lại Hà Tiên sinh sống và chuyên nghiên cứu văn học miền Nam.
Năm 1945: tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian, nhưng sức yếu, ông rời Hà Tiên trở lên Sài Gòn.
Năm 1950: sáng lập nhà xuất bản Bốn Phương và nhà sách Yiễm Yiễm thư trang.
Năm 1953: xuất bản tập san Nhân Loại để yểm trợ cho nhà xuất bản và nhà sách nêu trên cho đến giữa năm 1964, tất cả mới ngưng hoạt động.
Năm 1964: ở ẩn tại Quỳnh Lâm thư thất thuộc ngoại ô Sài Gòn. Những năm về sau, ông vừa làm văn vừa làm thơ, thường viết về văn học, về lịch sử đăng ở các tạp chí xuất bản ở Sài Gòn như Văn Hóa nguyệt san, Bách Khoa, Văn,...
Năm 1965: ông được mời phụ trách môn Văn học miền Nam tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Ông mất ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu) lúc đang đứng trên bục giảng cho sinh viên bài thơ "Trưng Nữ Vương" của nữ sĩ Ngân Giang.
Tác phẩm
Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, ký, khảo cứu, văn học sử. Về văn, ông viết từ văn xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông có tiếng khi viết cho báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương và nổi tiếng nhất với bài ký Linh Phượng, tức Trác Chi Lệ Ký tập và bài Phú Đông Hồ.Các tác phẩm đã in thành sách:Thơ Đông Hồ (Văn Học Tùng Thư, Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất bản, 1932): sáng tác trong khoảng 1922 - 1932Lời Hoa (Trí Đức Học Xá, Hà Tiên xb, 1934): các bài Việt văn của học sinh Trí Đức Học Xá đã nhuận sắcLinh Phượng (Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xb, 1934): tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, đăng ở Nam Phong tập XXII, số 128Cô Gái Xuân (Vị Giang Văn Khố Nam Định xb, 1935): thơ sáng tác trong khoảng 1932 - 1935Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc văn (Trí Đức Học Xá xb, 1936): soạn chung với Trúc HàHà Tiên thập cảnh (Bốn Phương xb, 1960): in chung với Đường Vào Hà Tiên của Mộng Tuyết thất tiểu muộiTrinh Trắng (Bốn Phương xb, 1961): thi tuyểnTruyện Song tinh (Bốn Phương xb, 1962): sao lục, khảo cứu truyện Song Tinh Bất DạChi lan đào lý (1965): tùy bútNăm ba điều nghĩ về Truyện Kiều (1965): thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn DuBội lan hành (1969)Úc Viên thi thoại (1969)Đăng đàn (1969)Dòng Cổ Nguyệt (1969)Văn học miền Nam: văn học Hà Tiên (1970): tập họp những bài giảng ở Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Đã hoàn thành các biên khảo:Thăm đảo Phú Quốc (Nam Phong, t. XXI, số 124, 1927)Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong, t. XXV, số 143, 1929)Chuyện cầu tiên ở Phương thành (1932)
Ngoài ra, Đông Hồ là một người có bàn tay tài hoa, vốn yêu thích viết chữ đẹp và nghệ thuật thư pháp, và lại yêu tiếng Việt nên ông là người đầu tiên có ý tưởng dùng cọ lông và mực Tàu viết chữ quốc ngữ. Vì thế ông được tôn là tổ sư của bộ môn Việt thư (thư pháp chữ Việt).
Đánh giá
Đông Hồ viết nhiều loại văn, thơ, ký, khảo cứu và văn học sử. Ông viết từ thập niên 1920 cho đến thập niên 1960, đã đi từ thơ cũ đến thơ mới, từ văn xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông cùng với vợ là nữ sĩ Mộng Tuyết (1914-2007), đã từng làm rạng rỡ văn học đất Phương Thành (Hà Tiên) bởi các tác phẩm của mình.
Trích một vài nhận xét:
Hoài Thanh và Hoài Chân:
...Yêu quốc văn mà đến như Đông Hồ kể cũng ít... Và với thi phẩm Cô gái xuân ông là "người thứ nhất đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng .
Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng:
Từ tập "Thơ Đông Hồ" cũ kỹ đến tập "Cô gái xuân" mới mẻ, người ta nhận thấy thoát lốt, một con người thi sĩ đang ở trong thời đại của mình, bỗng nhiên làm một cuộc biến hình..." Tự điển Văn học:
Người ta còn nhớ ông là tác giả của Linh Phượng, tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, với những hình ảnh, vần điệu cũ kỹ, song lại nói lên được cái buồn có tính chất thời đại lúc ấy...Về mặt sưu tầm, khảo cứu văn liệu: tập Hà Tiên Mạc thị sử nói về nhóm Tao đàn Chiêu Anh Các do ông biên soạn; cuốn Truyện Song Tinh, tức Song Tinh Bất Dạ, là một truyện thơ nôm của Nguyễn Hữu Hào do ông tìm được; là những "cống hiến đáng kể .
Bài thơ nổi tiếng
Mua áoChiếc áo năm xưa đã cũ rồi, Em đâu còn áo mặc đi chơi. Bán thơ nhân dịp anh ra chợ, Đành gởi anh mua chiếc mới thôi! Hàng bông mai biếc màu em thích, Màu với hàng, em đã dặn rồi. Còn thước tấc, quên! Em chửa bảo: Kích tùng bao rộng, vạt bao dài? Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ! Thước tấc anh còn lựa hỏi ai Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó, Ngắn dài, người mới tựa bên vai!Đông Hồ
Cô gái Xuân (trích đoạn)… Cũng xóm làng trên, cô gái thơ,Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ.Gió đông mơn trớn bông hoa nở,Lòng gái xuân kia náo nức chờ.Tưng bừng hoa nở bóng ngày xuân,Rực rỡ lòng cô hoa ái ân.Như đợi, như chờ, như nhớ tưởng,Đợi, chờ, tưởng, nhớ bóng tình quân....''
Chú thích |
Sắp xếp trong Wikipedia tiếng Việt có thể chỉ đến:
Thuật toán sắp xếp
Sắp xếp không gian
Sắp xếp trật tự đô thị (quy hoạch đô thị) |
Tào Ngu (chữ Hán: 曹禺; bính âm: Cao Yu; 1910–1996), tên thật là Vạn Gia Bảo (chữ Hán phồn thể: 萬家寶; chữ Hán giản thể: 万家宝; bính âm: Wan Jiabao), tự là Tiểu Thạch, là nhà văn, nhà viết kịch Trung Quốc.
Tiểu sử
Tào Ngu sinh tại Thiên Tân nhưng quê gốc ở Tiềm Giang, tỉnh Hồ Bắc, trong một gia đình quan lại, cha ông là Vạn Đức Tôn, là bí thư của Lê Nguyên Hồng, người từng là Đại Tổng thống Chính phủ Trung Hoa Dân quốc Bắc Dương. Năm 1922, Tào Ngu học tại Trường Trung học Nam Khai, tham gia Đoàn tân kịch Nam Khai. Năm 1928, Tào Ngu học khoa chính trị Trường Đại học Nam Khai, năm sau học tại Trường Đại học Thanh Hoa.
Năm 1933, ông tốt nghiệp khoa ngôn ngữ Trường Đại học Thanh Hoa, giảng dạy tại Trường Trung học Dục Đức Bảo Định Hà Bắc. Vài tháng sau đến Viện nghiên cứu Thanh Hoa nghiên cứu về kịch. Tháng 7 năm 1934 vở kịch Lôi vũ được đăng trên Văn học quý san. Tháng 9 năm 1934 về lại Thiên Tân, giảng dạy tại khoa ngoại văn Học viện Sư phạm nữ sinh Hà Bắc. Năm 1935 sáng tác Nhật xuất, tháng 8 năm 1935 được mời đến giảng dạy tại Trường chuyên khoa kịch quốc lập ở Nam Kinh. Năm 1942 đến Trùng Khánh sáng tác kịch và hoạt động biên đạo. Tháng 3 năm 1946, Tào Ngu cùng Lão Xá được mời sang Mỹ giảng dạy. Tháng 1 năm 1947 về nước, theo lời mời của Hiệu trưởng Hùng Phật Tây, Tào Ngu đến giảng dạy tại Trường thực nghiệm kịch Thượng Hải, đồng thời phác thảo kịch bản điện ảnh Diễm dương thiên. Năm 1948, Công ty điện ảnh Văn Hoa tiến hành quay, Tào Ngu tự làm đạo diễn. Tháng 2 năm 1949, được Đảng cộng sản Trung Quốc sắp xếp, ngày 28 tháng 2 Tào Ngu bí mật rời khỏi Hương Cảng, ngày 18 tháng 3 đến Bắc Kinh tham gia Hội nghị trù bị hiệp thương chính trị.
Ông bắt đầu sáng tác từ 1933, tác phẩm đầu tay là vở bi kịch Lôi vũ. Tiếp theo là các vở Nhật xuất (1935), Nguyên dã (1937), Bắc Kinh nhân (1941). Sau năm 1949, Tào Ngu làm công tác quản lý, giữ các chức như phó chủ tịch Hội các nhà văn viết kịch, phó viện trưởng Học viện kịch trung ương, viện trưởng Viện Nghệ thuật Kịch nhân dân Bắc Kinh, phó chủ tịch Phân hội Văn nghệ Bắc Kinh, đồng thời hoàn thành hai kịch bản Đảm kiếm thiên và Vương Chiêu Quân.
Vở kịch của Tào Ngu được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam là Lôi vũ, lấy bối cảnh Thiên Tân thời kỳ Dân quốc, trong đó ông dựng lại cuộc sống phức tạp của một gia đình phong kiến - tư sản hoá, hình ảnh tượng trưng của xã hội nửa phong kiến, nửa thuộc địa Trung Quốc. Bút danh Tào Ngu 曹禺 là chiết tự của chữ vạn 萬 trong tên của ông. Vạn 萬 chiết tự thành Thảo 草 và Ngu 禺, Thảo 草 đổi thành Tào 曹, nên Vạn 萬 chiết tự thành Tào Ngu 曹禺. Vở kịch này cũng được chuyển thể thành phim.
Tác phẩm
Lôi vũ (1933)
Nhật xuất (1936)
Hoang dã (1937)
Toàn dân tổng động viên (1938, viết cùng Tống Chi, còn có tên là Hắc tự nhị thập bát)
Thuế biến (1939)
Chính tại Tưởng (1939)Bắc Kinh nhân (1941)Gia (1942, cải biên từ tiểu thuyết Kích lưu tam bộ khúc của nhà tiểu thuyết Ba Kim)Độ kim (1943)La Mật Âu dữ Chu Ly Diệp (Romeo và Juliet) (1943, tác phẩm dịch)Kiều (1946)Minh lãng đích thiên (1954)Đảm kiếm thiên (1961, viết cùng Vu Thị Chi, Mai Thiên)Vương Chiêu Quân'' (1978)
Chú thích |
Trong khoa học máy tính, sắp xếp trộn (merge sort) là một thuật toán sắp xếp để sắp xếp các danh sách (hoặc bất kỳ cấu trúc dữ liệu nào có thể truy cập tuần tự, v.d. luồng tập tin) theo một trật tự nào đó. Nó được xếp vào thể loại sắp xếp so sánh. Thuật toán này là một ví dụ tương đối điển hình của lối thuật toán chia để trị do John von Neumann đưa ra lần đầu năm 1945. Một thuật toán chi tiết được Goldstine và Neumann đưa ra năm 1948.
Trộn
Giả sử có hai danh sách đã được sắp xếp và . Ta có thể trộn chúng lại thành một danh sách mới được sắp xếp theo cách sau:
So sánh hai phần tử đứng đầu của hai danh sách, lấy phần tử nhỏ hơn cho vào danh sách mới. Tiếp tục như vậy cho tới khi một trong hai danh sách là rỗng.
Khi một trong hai danh sách là rỗng ta lấy phần còn lại của danh sách kia cho vào cuối danh sách mới.
Ví dụ: Cho hai danh sách , quá trình hòa nhập diễn ra như sau:
Trộn tại chỗ
Giả sử trong danh sách có 2 danh sách con kề nhau và đã được sắp. Ta áp dụng cách trộn tương tự như trên để trộn hai danh sách con vào một danh sách tạm rồi trả lại các giá trị của danh sách tạm T về danh sách A. Làm như vậy gọi là trộn tại chỗ.
Trộn từ dưới lên
Nếu danh sách con chỉ gồm hai phần tử, mỗi nửa của nó gồm một phần tử đương nhiên đã được sắp. Do đó việc trộn tại chỗ hai nửa danh sách này cho danh sách con 2 phân tử được sắp.
Xuất phát từ đầu danh sách ta trộn với , với ,... Khi đó mọi danh sách con gồm hai phần tử của đã được sắp. Tiếp tục trộn các danh sách con kế tiếp nhau gồm 2 phần tử thành các danh sách con 4 phần tử... Mỗi lần trộn số các danh sách con cần trộn giảm đi một nửa. Quá trình dừng lại khi số danh sách con chỉ còn một.
Ví dụ: Cho danh sách
Sắp xếp trộn đệ quy
Một cách gọi đệ quy của sắp xếp trộn cũng thường được hướng dẫn trong các giáo trình giải thuật.
Để sắp xếp trộn đoạn của danh sách ta chia đoạn đó thành 2 phần và ,trong đó tiến hành sắp xếp với mỗi phần rồi trộn chúng lại. Lời gọi thủ tục sắp xếp trộn với sẽ cho kết quả là sắp toàn bộ danh sách
Ví dụ: Cho danh sách
Giải thuật trộn đệ quy chia a thành hai danh sách con và tiến hành 3 bước
Sắp xếp trộn danh sách trái 2,7,6
{| class="prettytable"
|colspan="3" | Quá trình chia || ||colspan="3"|Quá trình trộn
|-
|colspan="3" | 2,7,6|| ||colspan="3"|2,6,7
|-
|2||colspan="2" |7,6|| ||2||colspan="2"|6,7
|-
|2||7||6|| ||2||7||6
|}
Sắp xếp trộn danh sách phải 3,4,5,1
{| class="prettytable"
|colspan="4" | Quá trình chia || ||colspan="4"|Quá trình trộn
|-
|colspan="4" | 3,4,5,1|| ||colspan="4"|1,3,4,5
|-
|colspan="2"|3,4||colspan="2" |5,1|| ||colspan="2"|3,4||colspan="2"|1,5
|-
|3||4||5||1|| ||3||4||5||1
|}
Trộn danh sách trái 2,6,7 với danh sách phải 1,3,4,5
{| class="prettytable"
|Danh sách trái||Danh sách phải|| Danh sách trộn
|-
|2,6,7||1,3,4,5||1,2,3,4,5,6,7
|}
Trộn các đường tự nhiên
Như trong phần đánh giá giải thuật, một trong những nhược điểm lớn của thuật toán Trộn trực tiếp là không tận dụng những thông tin về đặc tính của dãy cần sắp xếp. Ví dụ trường hợp dãy đã có thứ tự sẵn. Chính vì vậy, trong thực tế người ta ít dùng thuật toán trộn trực tiếp mà người ta dùng phiên bản cải tiến của nó. Phiên bản này thường được biết với tên gọi thuật toán trộn tự nhiên (Natural Merge sort).
Khái niệm đường chạy
Để khảo sát thuật toán trộn tự nhiên, trước tiên ta cần định nghĩa khái niệm đường chạy (run):
Một đường chạy của dãy số a là một dãy con không giảm của cực đại của a. Nghĩa là, đường chạy r = (ai, ai+1,..., aj) phải thỏa điều kiện:
0 ≤ i ≤ j < n, với n là số phần tử của dãy a
ak ≤ ak+1 ∀k, i ≤ k ≤ j
Ví dụ dãy 12, 2, 8, 5, 1, 6, 4, 15 có thể coi như gồm 5 đường chạy (12); (2, 8); (5); (1, 6); (4, 15).
Giải thuật
Các bước thực hiện thuật toán trộn tự nhiên như sau:
Bước 1: // Chuẩn bị
r = 0; // r dùng để đếm số đường chạy
Bước 2:
Tách dãy a1, a2,..., an thành 2 dãy b, c theo nguyên tắc luân phiên từng đường chạy:
Bước 2.1:
Phân phối cho b một đường chạy; r = r+1;
Nếu a còn phần tử chưa phân phối
Phân phối cho c một đường chạy; r = r+1;
Bước 2.2:
Nếu a còn phần tử: quay lại bước 2.1;
Bước 3:
Trộn từng cặp đường chạy của 2 dãy b, c vào a.
Bước 4:
Nếu r >= 2 thì trở lại bước 1;
Ngược lại: Dừng;
Ưu và nhược điểm
Thuật toán trộn tự nhiên khác thuật toán trộn trực tiếp ở chỗ thay vì luôn cứng nhắc phân hoạch theo dãy con có chiều dài k, việc phân hoạch sẽ theo đơn vị là đường chạy. ta chỉ cần biết số đường chạy của a sau lần phân hoạch cuối cùng là có thể biết thời điểm dừng của thuật toán vì dãy đã có thứ tự là dãy chi có một đường chạy.
Một nhược điểm lớn nữa của thuật toán trộn là khi cài đặt thuật toán đòi hỏi thêm không gian bộ nhớ để lưu các dãy phụ b, c. Hạn chế này khó chấp nhận trong thực tế vì các dãy cần sắp xếp thường có kích thước lớn. Vì vậy thuật toán trộn thường được dùng để sắp xếp các cấu trúc dữ liệu khác phù hợp hơn như danh sách liên kết hoặc file.
Mã giả
Mã giả ngắn gọn
procedure mergesort(l,r: integer);
var i, j, k, m: integer;
begin
if r>l then
begin
m:=(r+l)shr 1;
mergesort(l,m); mergesort(m+1,r);
for i:= m downto l do b[i]:=a[i];
for j:=m+1 to r do b[r+m+1-j]:=a[j];
for k:=l to r do
if b[i] < b[j] then
begin a[k]:=b[i]; i:=i+1 end
else
begin a[k]:=b[j]; j:=j-1 end;
end;
end;
Trộn tại chỗ
Procedure Merge(k1,k2,k3:integer);
Var i,j,k:integer;
T: array[k1..k3] of integer;
Begin
i:=k1;
j:=k2;
k:=k3;
while i<k2 and j<=k3 do
Begin
if a[i]<=a[j] then begin
T[k]:=a[i];
i:=i+1;
End
else begin
T[k]:=a[j];
j:=j+1;
End;
k:=k+1;
End;
if i>=k2 then
while k<=k3 do begin
T[k]:=a[j];
j:=j+1;
k:=k+1;
End
if j>k3 then
while k<k2 do begin
T[k]:=a[i];
i:=i+1;
k:=k+1;
End
For k:=k1 to k3
a[k]:=T[k];
End
Trộn từ dưới lên
Procedure MergeSortUp (a[1..n])
Var Int m,i
{
m=1
while m<n {
k=0
while k+m<=n ''{
merge(a,k+1,k+m+1,Min[k+2m,n])
k=k+2m
}
m=2*m
}
}
Trộn đệ quy
Procedure MergeSort (k1,k2)
Var k3:integer;
Begin
if k1<k2 then begin
k3:=(k1+k2)/2;
MergeSort(k1,k3);
MergeSort(k3+1,k2);
Merge(k1,k3,k2);
End;
End;
Ngôn ngữ C++
void merge(int array[], int first, int middle, int last) {
int temp[last + 1];
int first1, last1, first2, last2;
int index = first;
first1 = first;
last1 = middle;
first2 = middle+1;
last2 = last;
while((first1 <= last1) && (first2 <= last2)) {
if(array[first1] < array[first2]) {
temp[index] = array[first1];
index ++;
first1 ++;
} else {
temp[index] = array[first2];
index ++;
first2 ++;
}
}
if(first2 > last2) {
while(first1 <= last1) {
temp[index] = array[first1];
index ++;
first1 ++;
}
}
if(first1 > last1) {
while(first2 <= last2) {
temp[index] = array[first2];
index ++;
first2 ++;
}
}
for(int i = first; i <= last; i ++) {
array[i] = temp[i - first];
}
return;
}
void mergeSort(int array[], int first, int last) {
if(first < last) {
int middle = int((first + last) / 2);
mergeSort(array, first, middle);
mergeSort(array, middle + 1, last);
merge(array, first, middle, last);
}
} |
Sắp xếp vun đống (Heapsort) dựa trên một cấu trúc dữ liệu được gọi là đống nhị phân (binary heap), gọi đơn giản là đống. Trong mục này chỉ nói về đống trong bài toán sắp xếp.
Đống (Heap)
Mỗi mảng a[1..n] có thể xem như một cây nhị phân gần đầy (có trọng số là các giá trị của mảng), với gốc ở phần tử thứ nhất, con bên trái của đỉnh a[i] là a[2*i] con bên phải là a[2*i+1] (nếu mảng bắt đầu từ 1 còn nếu mảng bắt đầu từ 0 thì hai con là a[2*i+1] và a[2*i+2]) (nếu 2*i<=n hoặc 2*i+1<=n, khi đó các phần tử có chỉ số lớn hơn không có con, do đó là lá) (leaf).
Một cây nhị phân, được gọi là đống cực đại nếu khóa của mọi nút không nhỏ hơn khóa các con của nó. Khi biểu diễn một mảng a[] bởi một cây nhi phân theo thứ tự tự nhiên điều đó nghĩa là a[i]>=a[2*i] và a[i]>=a[2*i+1] với mọi i =1..int(n/2). Ta cũng sẽ gọi mảng như vậy là đống. Như vậy trong đống a[1] (ứng với gốc của cây) là phần tử lớn nhất. Mảng bất kỳ chỉ có một phần tử luôn luôn là một đống.
Một đống cực tiểu được định nghĩa theo các bất đẳng thức ngược lại: a[i]<=a[2*i] và a[i]<=a[2*i+1]. Phần tử đứng ở gốc cây cực tiểu là phần tử nhỏ nhất.
Vun đống
Việc sắp xếp lại các phần tử của một mảng ban đầu sao cho nó trở thành đống được gọi là vun đống.
Vun đống tại đỉnh thứ i
Nếu hai cây con gốc và đã là đống thì để cây con gốc i trở thành đống chỉ việc so sánh giá trị với giá trị lớn hơn trong hai giá trị và , nếu nhỏ hơn thì đổi chỗ chúng cho nhau. Nếu đổi chỗ cho , tiếp tục so sánh với con lớn hơn trong hai con của nó cho đên khi hoặc gặp đỉnh lá. (Thủ tục DownHeap trong giả mã dưới đây)
Vun một mảng thành đống
Để vun mảng a[1..n] thành đống ta vun từ dưới lên, bắt đầu từ phần tử a[j]với j =Int(n/2) ngược lên tới a[1]. (Thủ tục MakeHeap trong giả mã dưới đây)
Sắp xếp bằng vun đống
Đổi chỗ (Swap): Sau khi mảng a[1..n] đã là đống, lấy phần tử a[1] trên đỉnh của đống ra khỏi đống đặt vào vị trí cuối cùng n, và chuyển phần tử thứ cuối cùng a[n] lên đỉnh đống thì phần tử a[n] đã được đứng đúng vị trí.
Vun lại: Phần còn lại của mảng a[1..n-1] chỉ khác cấu trúc đống ở phần tử a[1]. Vun lại mảng này thành đống với n-1 phần tử.
Lặp: Tiếp tục với mảng a[1..n-1]. Quá trình dừng lại khi đống chỉ còn lại một phần tử.
Ví dụ
Cho mảng a=(2,5,8,12,45,13,45,78)
Ở đây n = 7. Các phần tử từ a[4] đến a[7] là lá.
Vun đống
Vun cây gốc a[3] ta được mảng a=(2,3,7,6,4,1,5)
Vun cây gốc a[2] ta được mảng a=(2,6,7,3,4,1,5)
Vun cây gốc a[1] ta được mảng a=(7,6,5,3,4,1,2)
Bây giờ a=(7,6,5,3,4,1,2) đã là đống.
Sắp xếp
Đổi chỗ a[1] với a[7]: a=(2,6,5,3,4,1,7)
và vun lại mảng a[1..6] ta được mảng a=(6,4,5,3,2,1,7)
Đổi chỗ a[1] với a[6]: a=(1,4,5,3,2,6,7)
và vun lại mảng a[1..5] ta được mảng a=(5,4,1,3,2,6,7)
Đổi chỗ a[1] với a[5]: a=(2,4,1,3,5,6,7)
và vun lại mảng a[1..4] ta được mảng a=(4,3,1,2,5,6,7)
Đổi chỗ a[1] với a[4]: a=(2,3,1,4,5,6,7)
và vun lại mảng a[1..3] ta được mảng a=(3,2,1,4,5,6,7)
Đổi chỗ a[1] với a[3]: a=(1,2,3,4,5,6,7)
và vun lại mảng a[1..2] ta được mảng a=(2,1,3,4,5,6,7)
Đổi chỗ a[1] với a[2]:a=(1,2,3,4,5,6,7)
Mảng còn lại chỉ một phần tử. Quá trình sắp xếp đã xong.
Mã giả bằng ngôn ngữ C có sử dụng câu trúc dữ liệu
#include <stdio.h>
#include <conio.h>
const int n = 10;
typedef int keytype;
typedef float othertype;
typedef struct recordtype {
keytype key;
othertype otherfields;
};
// khai bao mang a co n phan tu
recordtype a[n];
void Swap(recordtype &x, recordtype &y)
{
recordtype temp;
temp = x;
x = y;
y = temp;
}
void PushDown(int first, int last)
{
//while (r <= (last - 1) / 2)
if (first == last || first > (last - 1) / 2) return;
if (last == 2 * first + 1) {
if (a[first].key > a[last].key)
Swap(a[first], a[last]);
//first = last;
return;
} else if ((a[first].key > a[2*first+1].key) && (a[2*first+1].key <= a[2*first+2].key))
{
Swap(a[first], a[2*first+1]);
PushDown(2 * first + 1, last);
} else if ((a[first].key > a[2*first+2].key) && (a[2*first+2].key < a[2*first+1].key))
{
Swap(a[first], a[2*first+2]);
PushDown(2 * first + 2, last);
}
else return; //first = last;
}
void HeapSort(void)
{ int i;
for(i = (n-2) / 2; i >= 0; i--)
PushDown(i, n-1);
for(i = n-1; i>=2; i--) {
Swap(a[0], a[i]);
PushDown(0, i-1);
}
Swap(a[0], a[1]);
}
void readList(recordtype a[])
{
for (int i = 0; i < n; i++)
{
printf("Phan tu %d = ", i+1);
scanf("%d",&a[i]);
}
}
void printList(recordtype a[])
{
for (int i = 0; i < n; i++)
{
printf("%d ", a[i]);
}
}
int main()
{
printf("Nhap %d phan tu cho danh sach.\n", n);
readList(a);
printf("Danh sach sau khi duoc nhap: \n");
printList(a);
HeapSort();
printf("\nDanh sach sau khi duoc sap xep: \n");
printList(a);
getch();
return 0;
}
Ứng dụng
Ngoài giải thuật sắp xếp vun đống, cấu trúc đống còn được ứng dụng trong nhiều giải thuật khác, khi cần lấy ra nhanh chóng các phần tử lớn nhất (hoặc nhỏ nhất) của một dãy phần tử, chẳng hạn trong hàng đợi có ưu tiên trong đó tiêu chuẩn ưu tiên là có khóa lớn nhất (hoặc nhỏ nhất). Có thể tìm thấy điều đó trong giải thuật tìm bộ mã Huffman cho một bảng tần số của các ký tự.(tacgia) |
Nguyên lý Say, hay nguyên lý thị trường của Say, được đặt theo tên doanh nhân-nhà kinh tế người Pháp Jean-Baptiste Say (1767-1832). Tinh thần của nguyên lý này là "tự bản thân cung sẽ sinh ra cầu".
Tiền đề của nguyên lý này là giá cả hàng hóa sẽ được điều chỉnh nếu lượng cung và lượng cầu hàng hóa không cân bằng. Ví dụ, nếu lượng cung vượt quá lượng cầu (dư cung), thì nhất định giá cả hàng hóa sẽ giảm. Lượng cầu hàng hóa nhờ thế sẽ tăng lên, khiến cho lượng cung và lượng cầu trở nên cân bằng. Từ đó suy ra, để nền kinh tế quốc gia có thể trở nên giàu có hơn, thì chỉ cần đẩy mạnh sản xuất (tăng tổng cung).
Nguyên lý này được Jean-Baptiste Say nêu ra trong cuốn Chuyên luận về Kinh tế học chính trị của mình năm 1803.
Hơn một thế kỷ sau, John Maynard Keynes đã phê phán nguyên lý này và đưa ra một nguyên lý đối lập (cầu quy định cung) gọi là Nguyên lý cầu hữu hiệu. (Xem bài về Kinh tế học vĩ mô Keynes.) |
"Vì một Thế giới ngày mai" là tên tiếng Việt của bài hát chính thức tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003, kỳ SEA Games đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam. Ca khúc do nhạc sĩ Nguyễn Quang Vinh sáng tác và được xuất hiện lần đầu tiên tại lễ bế mạc SEA Games lần thứ 21 (2001), khi Việt Nam nhận lá cờ Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á từ nước chủ nhà Malaysia để thực hiện quyền đăng cai tổ chức kỳ SEA Games tiếp theo. Bài hát sau đó một lần nữa được biểu diễn tại lễ bế mạc Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019 ở Philippines.
Ngoài bản tiếng Việt, bài hát còn có phần lời bằng tiếng Anh do Bùi Nhật Quang viết. Ca khúc theo đó cũng có tên tiếng Anh là "For the World of Tomorrow".
Trong quá trình Việt Nam chuẩn bị cho SEA Games 22, phần lời (cả tiếng Việt và tiếng Anh) của bài hát đã được sửa đổi nhiều lần trước khi đi đến thống nhất. |
Cơm lam là loại cơm được làm từ gạo (thường là gạo nếp) cùng một số nguyên liệu khác, cho vào ống tre, giang, nứa v.v. và nướng chín trên lửa. Cơm đặc trưng của các dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam và các vùng Đông Bắc Việt Nam, Tây Nguyên và một số dân tộc tại Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar và Trung Quốc.
Từ nguyên
Cơm lam được gọi là Kralan (tiếng Khmer: ក្រឡាន) hoặc Khao lam (tiếng Thái: ข้าวหลาม, tiếng Lào: ເຂົ້າ ຫລາມ); Paung din ( ပေါင်း တင်း ) hoặc kaukhnyin kyidauk ( ကောက်ညှင်း ကျည် တောက်) trong tiếng Miến Điện; tiếng Trung gọi là trúc đỗng phạn (). Trong khi ở Indonesia và Malaysia gọi món cơm lam là Lemang.
Nguyên liệu, quy trình thực hiện và tên gọi
Để làm được cơm lam đầu tiên phải chọn ống tre, nứa tươi, không quá non hoặc quá già, thích hợp nhất là từ tháng 10 đến tháng 1. Ống tre, nứa còn tươi, đem về chặt, chia ra mỗi đốt thành một ống lam.
Sau đó, vo gạo cho thật sạch rồi ngâm nước khoảng 5 đến 6 tiếng, vớt ra để ráo nước, rồi đổ gạo vào ống nứa, đổ nước vào ống cho ngập gạo. Không nên đổ gạo đầy ống mà phải để cách miệng một ít để khi gạo chín sẽ nở ra kín miệng ống.
Sau đó lấy lá chuối hoặc lá dong đậy kín miệng ống rồi cho vào bếp lửa nướng. Khi nướng phải xoay ống nứa liên tục, không cho ống lam quá cháy và để hạt gạo chín đều. Đến khi có hơi nước bốc ra từ miệng ống và có mùi thơm của cơm tức là cơm lam đã chín.
Khi cơm chín đem chẻ lớp vỏ bên ngoài để lại lớp lạt mỏng, khi ăn mới bóc vỏ. Cơm lam có thể chấm với muối vừng hoặc nam phrik, hai loại nước chấm này sẽ góp phần tăng thêm độ thơm ngon của cơm lam.
Cơm lam của người Thái (Khao Lam) không chỉ độc đáo nhờ hương vị mới lạ mà còn nhờ cách nấu đặc biệt nên rất thu hút đối với khách du lịch nước ngoài khi ghé thăm xứ sở Chùa Vàng.Sau khi chuẩn bị đốt tre xong thì người ta cho gạo nếp được trộn với nước cốt dừa, đậu đỏ hoặc đậu đen, đường, một chút muối rồi cho vào ống tre. Có khi người ta dùng nếp trắng nhưng cũng có khi dùng lá cẩm để nhuộm gạo nếp giúp Khao Lam sau khi nấu trông đẹp mắt hơn. Sau đó người ta dùng lá chuối nhét kín một đầu ống tre lại để nếp không trào ra khi nấu. Ngoài ra, đặc sản cơm lam Thái Lan ngon nhất là cơm lam sầu riêng, gồm gạo nếp trộn với chút đường và cơm sầu riêng béo ngậy.
Sau khi chuẩn bị xong các ống tre thì người ta đặt các ống tre lên vỉ than để nướng cho chín từ từ. Trong quá trình nướng ống tre, người bán phải lật ống tre liên tục để các nguyên liệu bên trong chín đều và ngon hơn.
Món cơm nếp này thường bắt mắt cái nhìn đầu tiên là bởi các ống tre dùng để nấu nếp nhìn khá lạ. Các ống tre được cắt với độ dài hai đốt. Đốt đầu tiên sẽ được cho nếp vào đầy, đốt thứ hai được để trống cho tiện việc tách tre sau khi nấu. Tuy nhiên, cũng có nơi họ chỉ dùng một đốt tre cho gọn nhẹ.
Cơm lam được dọn ra ăn cùng với thịt gà hay thịt lợn rừng nướng (những thứ thịt này cũng được nướng trong ống tre). Tuy nhiên, cơm lam ngon nhất khi ăn với muối vừng (mè).
Dụng binh
Trong cuốn Hổ trướng khu cơ, tác giả Đào Duy Từ cho biết để đáp ứng quân lương khi hành quân, một phương thức nấu cơm của binh lính ngày xưa là làm cơm dưới dạng cơm lam. Đựng cơm trong ống tre, cho thêm nước, nút chặt và có thể được nướng ngay khi ngồi trên lưng ngựa với một bó đuốc.
Chú thích |
Borobudur hay còn gọi là Barabodur hay Ba La Phù đồ (tiếng Indonesia: Candi Borobudur) là một ngôi đền Phật giáo có niên đại từ thế kỷ thứ 9 toạ lạc ở Magelang, miền trung Java, Indonesia, là một trong những ngôi đền cũng như di tích Phật giáo lớn nhất thế giới. Ngôi đền có chín tầng, xếp chồng lên nhau bao gồm sáu vuông, ba tròn và trên cùng là một mái tròn. Ngôi đền được trang trí bằng 2672 tấm phù điêu chạm khắc nổi và 504 pho tượng Phật. Mái vòm trên cùng được bao quanh bởi 72 pho tượng Phật, mỗi tượng được đặt trong một phù đồ.
Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 9 dưới triều đại Sailendra theo phong cách kiến trúc Phật giáo Java, trong đó pha trộn với tục thờ cúng tổ tiên của người Indonesia bản địa cũng như các khái niệm nhập Niết-bàn của Phật giáo. Ngôi đền cũng cho thấy sự ảnh hưởng của phong cách Gupta, phản ánh ảnh hưởng của Ấn Độ trong khu vực, nhưng vẫn mang những nét đặc sắc Indonesia riêng biệt. Ngôi đền là nơi thờ Đức Phật và cũng là một địa điểm hành hương cho tín đồ Phật giáo. Cuộc hành trình của Phật tử bắt đầu từ nền đền rồi đi vòng quanh để lên đến đỉnh qua ba khu vực mô tả khái niệm tam giới vũ trụ của Phật giáo: Kāmadhātu (Dục giới), Rupadhatu (Sắc giới) và Arupadhatu (Vô sắc giới). Trên đường lên đến đỉnh ngôi đền, khách hành hương sẽ đi qua một hệ thống cầu thang và hành lang rộng lớn, qua 1460 tấm chạm khắc trên tường và lan can. Đền Borobodur là nơi có tập hợp phù điêu chạm khắc lớn nhất và đầy đủ nhất trên thế giới.
Bằng chứng đã cho thấy Borobodur đã được xây dựng từ thế kỷ thứ 9 và bị bỏ rơi sau sự suy tàn của các vương quốc Ấn giáo ở thế kỷ 14 và người Java cải sang đạo Hồi. Thế giới bên ngoài chỉ biết được về sự tồn tại của nó vào năm 1814 khi toàn quyền người Anh trên đảo Java là Sir Thomas Stamford Raffles được người bản địa chỉ địa điểm. Kể từ đây, Borobodur đã trải qua nhiều đợt trùng tu. Các lần lớn nhất là vào năm 1975 và1982 được thực hiện bởi chính phủ Indonesia và UNESCO. Sau đó, ngôi đền đã được liệt kê vào danh sách Di sản Thế giới.
Ngày nay, Borobodur vẫn được sử dụng như là địa điểm hành hương; mỗi năm một lần, Phật tử tại Indonesia lại tổ chức Đại lễ Phật đản tại ngôi đền. Ngoài ra, đây là địa điểm thu hút nhiều khách du lịch nhất của Indonesia.
Lịch sử
Borobudur được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 9 dưới vương triều Sailendra vốn sùng đạo Phật. Tọa lạc trên đỉnh đồi giữa vùng đồng bằng phì nhiêu, Borobudur sừng sững nổi lên giữa lòng chảo, chung quanh là núi rừng bao bọc.
Ngôi đền tháp Borobudur, sau khi vương triều Phật giáo Sailendra sụp đổ, đã bị bỏ hoang và lãng quên trong suốt 10 thế kỷ. Vào năm 1814, một phái đoàn các nhà khoa học châu Âu, do chính quyền thuộc địa Hà Lan ở Indonesia cử đến, mới tiến hành nghiên cứu và tu bổ lại ngôi đền. Những ngôi đền đã bị đổ nát, hư hỏng quá nhiều. Năm 1970, chính phủ Indonesia phải kêu gọi UNESCO giúp đỡ. Một bản phục chế Borobudur của UNESCO, bao gồm 600 nhà phục chế có tên tuổi trên thế giới đã tiến hành trùng tu lại ngôi đền trong suốt 12 năm trời và tiêu tốn mất 50 triệu đô la Mỹ.
Ngày nay, Borobudur đã được trùng tu, tuy không được hoàn toàn như trước, nhưng đã thể hiện được dáng dấp và làm khách tham quan vô cùng ngưỡng mộ, xứng đáng là một trong những kì quan nổi tiếng của châu Á.
Kiến trúc
Từ chân đồi khách phải trèo hơn 15 m mới lên tới nền đền. Cấu trúc ngôi phù đồ gồm 12 nền lộ thiên to, nhỏ, vuông, tròn xen kẽ, chồng lên nhau tạo thành một khối cao 42 mét. Chiều dài mỗi cạnh nền dưới cùng là 123 m. Nếu trèo lên từng tầng một và đi dọc đường chu vi của tất cả 12 tầng thì tổng cộng là 5 km.
Tầng thứ nhất (từ chân đồi lên) có bình đồ hình vuông, mỗi bốn cạnh căn đúng vào bốn hướng: Đông, tây, nam, bắc. Khoảng giữa mỗi cạnh để trống 7,38 m, hai bên đặt con sư tử lớn bằng đá chầu hai bên. Mỗi tượng thú cao 1,7 m kể cả bệ, dài 1,26 m, và rộng 0,8 m. Miệng sư tử nhe răng, lông bờm ở lưng, cổ, ngực dựng lên trông rất dữ tợn. Đuôi con thú uốn cong ngược về phía sau. Trong tám con sư tử ở bốn cạnh thì một số đã được đẽo gọt, chạm trổ hoàn chỉnh. Vài con còn ở dạng dở dang, chưa hoàn tất.
Tầng thứ hai cao hơn tầng thứ nhất 1,52 m. Bình đồ tầng hai không theo dạng hình vuông như ở tầng nhất, mà là hình đa giác với 20 cạnh, gần như ôm lấy triền đồi. Tầng hai dù vậy vẫn có bốn cạnh lớn hướng về bốn phương trời, giữa có bốn tầng cấp. Hai bên tầng cấp có hai lan can uốn cong rất duyên dáng. Cuối lan can là một đầu voi rất to, trong miệng ngoạm một con sư tử; còn đầu lan can kia, là một đàn sư tử, mõm mở rộng, lưng tựa vào tường.
Từ tầng thứ ba trở lên, lại có hình dạng vuông, riêng ba tầng trên cùng có dạng hình tròn. Trên mỗi tầng có xây dựng nhiều đền đài miếu mạo trông như vòm bát úp, vòm lớn nhất ở giữa, hai bên là những cái bé hơn. Trên cùng của đền tháp là mái tròn hình chuông .
Tất cả các bậc thềm từ tầng một đến tầng chín đều được phủ kín những phù điêu, được chạm trổ rất công phu, mô tả về cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mầu Ni, các bồ tát và các vị đã giác ngộ Phật pháp, và cả những cảnh trên niết bàn hay dưới địa ngục...
Riêng ba tầng trên cùng phẳng phiu, trơn nhẵn có trổ 72 tháp chuông hình mắt cáo. Bên trong có đặt 72 tượng Phật ngồi (tầng một 2,32 m, tầng hai 2,24 m và tầng ba 2,16 m). |
Điện tích là một tính chất cơ bản và không đổi của một số hạt hạ nguyên tử (hạt sơ cấp), đặc trưng cho tương tác điện từ giữa chúng. Điện tích tạo ra trường điện từ và cũng như chịu sự ảnh hưởng của trường điện từ. Sự tương tác giữa một điện tích với trường điện từ, khi nó chuyển động hoặc đứng yên so với trường điện từ này, là nguyên nhân gây ra lực điện từ, một trong những lực cơ bản của tự nhiên.
Điện tích tạo từ các hạt mang điện rất nhỏ, như một chất điểm, thì điện tích được gọi là điện tích điểm. Nếu điện tích điểm được sử dụng trong một thí nghiệm, có thể là thí nghiệm tưởng tượng trên lý thuyết, thì nó được gọi là điện tích thử.
Điện tích của một vật vĩ mô là tổng đại số của tất cả các điện tích tương ứng của các hạt phần tử cấu thành nên vật đó. Thông thường, các vật quanh ta đều trung hòa về điện, đó là do mỗi nguyên tử ở trạng thái tự nhiên đều có tổng số proton bằng tổng số electron.
Tuy nhiên, ngay cả khi điện tích tổng cộng của một vật bằng không, vật ấy vẫn có thể tham gia tương tác điện từ, đó là nhờ hiện tượng phân cực điện. Các điện tích chịu sự ảnh hưởng của hiện tượng phân cực gọi là điện tích liên kết, các điện tích có thể di chuyển linh động trong vật dẫn dưới tác dụng của từ trường ngoài gọi là điện tích tự do.
Chuyển động của các hạt mang điện theo một hướng xác định được gọi là dòng điện.
Phần lớn điện lượng trong tự nhiên là bội số nguyên của điện tích nguyên tố. Các hạt quark có điện tích phân số so với e. Phản hạt của một hạt cơ bản có điện tích bằng về độ lớn nhưng trái dấu so với điện tích của hạt đó.
Có thể đo điện tích bằng một dụng cụ gọi là tĩnh điện kế.
Cách hiểu khác của điện tích
Điện tích còn được hiểu là "vật tích điện". Mọi vật trung hòa về điện khi cho hay nhận điện tử âm sẽ trở thành điện tích.
Khi vật nhận electron vật sẽ trở thành điện tích âmː
Vật + e → Điện tích âm (-)
Khi vật cho electron vật sẽ trở thành điện tích dươngː
Vật − e → Điện tích dương (+)
Ký hiệu và đơn vị đo lường
Điện tích âm có ký hiệu − Q. Điện tích dương có ký hiệu + Q.. Mọi điện tích đo bằng đơn vị Coulomb, ký hiệu C
Đơn vị Coulomb được định nghĩa như sau:
electron.
Tương tác điện tích
Tương tác giữa hai điện tích
Khi hai điện tích tương tác với nhau, điện tích cùng loại đẩy nhau, điện tích khác loại hút nhau. Khi có 2 điện tích cách nhau một khoảng cách r thì lực tương tác của chúng tuân theo Định luật Coulomb, gọi là Lực Coulomb.
Định luật Coulomb phát biểu là:
Lực hút hay đẩy giữa hai điện tích điểm có phương trùng với đường thẳng nối hai điện tích điểm đó, có độ lớn lực tương tác giữa hai điện tích điểm tỷ lệ thuận với tích độ lớn của các điện tích và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng.
Trong đó:
là hằng số điện môi, giá trị gần đúng thường dùng trong tính toán ở cấp phổ thông là
Tương tác giữa điện tích và điện
Tương tác giữa điện tích đứng yên và điện có điện lực tạo ra dòng điện tích di chuyển thẳng hàng có điện trường E tuân theo định luật Ampere:
Vì vậy
Tương tác giữa điện tích và từ
Tương tác giữa điện tích di chuyển và nam châm từ có từ lực tạo ra từ trường B vuông góc với điện trường E tuân theo định luật Lorentz:
Vậy:
Tương tác giữa điện tích cùng với điện và từ
Khi v bằng không
Khi v khác không
Lực tương tác điện tích
{|width=100%
| Lực tĩnh điện ||
|-
| Lực động điện ||
|-
| Lực động từ ||
|-
| Lực điện từ ||
|-
|} |
Phaolô thành Tarsus (còn gọi là Sao-lơ hoặc Saolê theo chữ Saul, Paulus, Thánh Phaolô Tông đồ, Thánh Phaolô hoặc Sứ đồ Phaolô, Thánh Bảo-lộc hay Sao-lộc (; ; ; khoảng 5 CN – khoảng 64 hay 67 CN ), là "Sứ đồ của dân ngoại". Cùng các sứ đồ Phêrô, Gioan, Giacôbê, và Máccô,ông được xem một trong những cột trụ của Hội Thánh Kitô giáo tiên khởi, và là một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển Kitô giáo thời kỳ sơ khai.
Không giống Mười hai Sứ đồ, không có tài liệu nào cho rằng Phaolô từng gặp Giêsu trước khi ông bị đóng đinh trên thập tự giá. Theo ký thuật của Tân Ước, Phaolô là người Do Thái chịu ảnh hưởng văn minh Hy Lạp và là công dân của Đế quốc La Mã, đến từ thành Tarsus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Phaolô là người kiên trì săn đuổi những Kitô hữu ban đầu (hầu hết là người Do Thái) để bách hại họ, cho đến khi chính ông trải qua kinh nghiệm lạ lùng trên đường đến thành Damascus. Trong một khải tượng, ông gặp Giêsu khi mắt ông đang bị mù trong một thời gian ngắn. Trải nghiệm này đã đem ông đến với đức tin Kitô giáo, chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Messiah và là Con Thiên Chúa. Phaolô khẳng định rằng ông nhận lãnh Phúc âm không phải từ con người, nhưng từ chính "sự mặc khải của Chúa Giêsu."
Sau khi chịu lễ Thanh Tẩy, Phaolô đến ngụ cư ở xứ Arabia (có lẽ là Nabataea) cho đến khi ông gia nhập cộng đồng Kitô hữu còn non trẻ ở Jerusalem, và ở lại với Phêrô (hoặc Phi-e-rơ) trong mười lăm ngày. Qua những thư tín gởi các cộng đồng Kitô giáo, Phaolô trình bày mạch lạc quan điểm của ông về mối quan hệ giữa tín hữu Kitô giáo người Do Thái với tín hữu Kitô giáo không phải người Do Thái, và giữa Moses với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Phaolô được tôn kính như một vị Thánh trong nhiều nhánh Công giáo khác nhau như Công giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phương, Anh giáo và một số người thuộc Giáo hội Luther. Ông được xem là thánh quan thầy của Malta và thành phố Luân Đôn, một vài thành phố khác được đặt tên để vinh danh ông như São Paulo, Brasil và Saint Paul, Minnesota, Hoa Kỳ. Đạo Mormon xem ông là nhà tiên tri.
Các thư tín của Phaolô hình thành phần nền tảng của Tân Ước (được xem là nguồn quan trọng cho nền thần học của Hội Thánh ban đầu) cùng những nỗ lực của ông nhằm truyền bá Kitô giáo đến nhiều dân tộc, là mục tiêu của nhiều khuynh hướng luận giải khác nhau. Kitô giáo truyền thống xem các thư tín của Phaolô là một phần của kinh điển Tân Ước và xác định rõ ràng rằng tư tưởng của Phaolô là hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Giêsu và các sứ đồ khác.
Những người ủng hộ thần học giao ước tin rằng Hội Thánh đã thay thế dân tộc Do Thái trong vị trí Tuyển dân của Thiên Chúa, khơi mở những tranh luận hiện vẫn tiếp diễn xem xác định rõ ràng này có phải bắt nguồn từ ý tưởng của Phaolô khi ông giải thích Jeremiah 31: 31 và Ezekiel 36: 27, sau đó xác định rõ ràng này được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng Kitô giáo.
Ảnh hưởng của Phaolô trong tư tưởng Kitô giáo được xem là quan trọng hơn bất cứ tác giả Tân Ước nào, xuyên suốt hệ tư tưởng Kitô giáo cho đến ngày nay: từ Thánh Augustinô thành Hippo đến những bất đồng giữa Gottschalk và Hincmar thành Reims; giữa tư tưởng Thomas Aquinô và học thuyết của Molina; giữa Martin Luther, John Calvin và Arminius; giữa học thuyết của Jansen và các nhà thần học Dòng Tên, đến các tác phẩm của nhà thần học Karl Barth, đặc biệt là luận giải của Barth về một trong những bức thư tín của Phaolô.
Cuộc đời
Có thể sử dụng hai nguồn chính để tái tạo những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của Phaolô: các thư tín của ông và những ký thuật trong sách Công vụ các Sứ đồ. Có một vài khó khăn khi dựa vào hai nguồn thông tin này: những thư tín của Phaolô được viết trong quãng thời gian tương đối ngắn (có lẽ khoảng từ năm 50 – 58), và có những nghi vấn về một số sự kiện trong sách Công vụ. Riêng về Thứ kinh Công vụ của Phaolô và Thecla, các học giả thường không công nhận sách này, cho đó chỉ là một tác phẩm văn học được sáng tác trong thế kỷ thứ 2, do các sự kiện được chép trong đó không phù hợp với những ký thuật của sách Công vụ các Sứ đồ và các thư tín của Phaolô.
Tuổi trẻ
Theo Công vụ các Sứ đồ, Phaolô sinh tại thành Tarsus, xứ Cilicia, thuộc Tiểu Á (nay là Thổ Nhĩ Kỳ) với tên Saul. Ông là người Israel thuộc chi phái Benjamin, được cắt bì vào ngày thứ tám, là một người Pharisee, và "là người sốt sắng quá đỗi về cựu truyền của tổ phụ" Theo sách Công vụ, Phaolô có quốc tịch La Mã - một đặc quyền mà ông đã dùng đến vài lần để tự bảo vệ mình
Quan điểm được chấp nhận rộng rãi cho rằng Phaolô chưa hề kết hôn. Chính Phaolô đã viết;"Vậy, tôi nói với người những kẻ chưa cưới gả, và kẻ góa bụa rằng ở được như tôi thì hơn". Không có chứng cớ lịch sử nào đề cập đến việc Phaolô đã lập gia đình. Tuy nhiên, một số người lập luận rằng tập quán xã hội thời ấy đòi hỏi người Pharisee và thành viên Toà Công luận (Sanhedrin) phải lập gia đình. Nếu Phaolô là người Pharisee và có thể là thành viên Toà Công luận, thì có lẽ ông đã kết hôn vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời.
Theo Công vụ 22: 3, Phaolô ở Jerusalem, theo học Gamaliel, một học giả tiếng tăm thời ấy. Khi đi nhiều nơi để rao giảng Phúc âm, Phaolô thường tự lo sinh kế cho mình như được chép trong Công vụ 18: 3, Phaolô từng sống với nghề may trại. Theo La Mã 16:2, Pheobe là người có những đóng góp tài chính hỗ trợ ông trong sứ mạng rao giảng phúc âm.
Tiếp nhận Đức tin Kitô giáo
Theo lời tự thuật của Phaolô, ông tìm mọi cách để săn đuổi và bức hại các tín hữu Kitô giáo cho đến chết, theo ký thuật của sách Công vụ, ông có mặt trong số những người chứng kiến cái chết của Stephen, người tử đạo đầu tiên của Kitô giáo, nhưng về sau Phaolô đã chấp nhận đức tin Kitô giáo:
"Bấy giờ, Saul chỉ hằng ngăm đe và chém giết môn đồ của Chúa không thôi, đến cùng thầy cả thượng phẩm, xin người những bức thư đề gởi cho các nhà hội thành Damascus, hầu cho hễ gặp người nào thuộc về đạo, bất kỳ đàn ông đàn bà, thì trói giải về thành Jerusalem. Nhưng Saul đang đi đường gần đến thành Damascus, thình lình có ánh sáng từ trời soi sáng chung quanh người. Người té xuống đất, và nghe có tiếng phán cùng mình rằng: Hỡi Saul, Saul, sao ngươi bắt bớ ta? Người thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa là ai? Chúa phán rằng: Ta là Giêsu mà ngươi bắt bớ; nhưng hãy đứng dây, vào trong thành, người ta sẽ cho ngươi mọi điều phải làm. Những kẻ đi cùng với người đều đứng lại sững sờ, nghe tiếng nói mà chẳng thấy ai hết. Saul chờ dậy khỏi đất, mắt dẫu mở, nhưng không thấy chi cả; người ta bèn cầm lấy tay dắt người đến thành Damascus; người ở đó ba ngày, chẳng thấy, chẳng ăn và cũng chẳng uống." (Công vụ 9. 1-9; xem thêm lời giải trần của Phaolô trước Vua Agrippa ở Công vụ 26, và Galatians 1. 13-16).
Sau trải nghiệm tiếp nhận Kitô giáo, Phaolô lưu lại vài ngày ở Damascus rồi đến sống ở vương quốc Nabatea mà ông gọi là "Arabia", rồi trở lại Damascus, khi ấy đang ở dưới sự cai trị của người Nabatea. Ba năm sau khi qui đạo, Phaolô bị buộc phải rời khỏi thành phố qua cổng Kisan trong ban đêm do phản ứng của giới cầm quyền Do Thái đối với lời giảng của ông. Về sau Phaolô đến Jerusalem, gặp James Người công chính (Giacôbe hoặc Gia-cơ) và Peter, ông ở với Peter trong 15 ngày.
Sau chuyến viếng thăm Jerusalem, Phaolô đến thành Antioch, từ đó ông bắt đầu cuộc hành trình qua Cộng hòa Síp và miền nam vùng Tiểu Á để rao giảng Phúc âm của Giêsu - được biết đến với tên "Hành trình Truyền giáo Thứ nhất của Phaolô". Tại Derbe, Phaolô và Barnabas bị ngộ nhận là "thần linh... trong hình dạng loài người". Những thư tín của Phaolô nhắc đến việc ông giảng dạy tại Syria và Cilicia, sách Công vụ ký thuật rằng Phaolô "trải qua xứ Syria và Cilicia, làm cho các hội Thánh được bền vững".
Trong các cuộc hành trình truyền giáo, Phaolô thường chọn một hoặc hai người cùng đi với ông, đó là Barnabas, Silas, Titus, Timothy, John còn gọi là Mark, Aquila, Priscilla và thầy thuốc Luca. Ông nếm trải nhiều điều khổ ải dưới các hình thức khác nhau như bị giam cầm ở Philippi, bị roi vọt và ném đá, chịu đói khát, và suýt thiệt mạng vì một âm mưu sát hại ông.
Thành lập các Giáo đoàn
Trong những năm kế tiếp, Phaolô đi khắp phía tây của vùng Tiểu Á, lần này ông tiến vào xứ Macedonia và thành lập cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên tại thành Philippi, tại đây ông phải đối diện với nhiều khó khăn. Phaolô thuật lại kinh nghiệm của mình:"Sau khi bị đau đớn và sỉ nhục tại thành Philippi, như anh em đã biết, thì chúng tôi trông cậy Thiên Chúa, cứ rao truyền Phúc âm của Thiên Chúa cách dạn dĩ giữa cơn đại chiến". Sách Công vụ, từ góc nhìn của một nhân chứng, thuật lại việc Phaolô đuổi quỷ khỏi một phụ nữ nô lệ, làm người ấy mất khả năng bói toán và vì vậy làm giảm trị giá của người nô lệ; do đó, chủ nô cho ông là "kẻ cắp", và nộp ông cho quan quyền. Sau khi được trả tự do vì không có chứng cứ buộc tội, Phaolô đi đến thành Thessalonica, lưu lại ở đây một thời gian trước khi vào Hy Lạp. Trước tiên ông đến Athens, nơi ông có bài thuyết giảng đã trở thành huyền thoại trên đồi Areopagus khi ông soi dẫn cho những người có mặt ở đây biết ai là "Chúa Không biết" mà họ vẫn thờ phụng. Kế đó, Phaolô đến thành Corinth, lưu trú ở đó ba năm và viết thư nhất gởi tín hữu ở Thessalonica.
Một lần nữa, Phaolô lại vướng vào vòng lao lý ở thành Corinth khi một nhóm người Do Thái cáo buộc Phaolô "xúi giục dân chúng thờ Thiên Chúa cách trái nghịch với luật pháp". Phaolô bị kéo đến trước quan trấn thủ Gallio, nhưng ông này cho đây là việc không đáng quan tâm và bác bỏ cáo trạng. Một di chỉ ở Delpphi có nhắc đến tên Gallio, giúp xác định sự kiện này xảy ra trong năm 52, góp phần tái tạo bảng niên đại về cuộc đời của Phaolô.
Phaolô tiếp tục công cuộc rao giảng Phúc âm, thường được gọi là "Hành trình Truyền giáo Thứ ba", trải qua khắp vùng Tiểu Á và Macedonia, đến Antioch rồi quay trở lại. Nỗ lực thuyết giáo của Phaolô gặp phải những phản ứng giận dữ tại một hí viện ở Ephesus, khi lợi tức của giới thợ bạc ở đây bị thiệt hại do ảnh hưởng từ những lời thuyết giảng của ông. Thu nhập của những người này phụ thuộc vào nghề làm tượng nữ thần Artemis được cư dân địa phương sùng bái; hệ quả là đám đông bạo động vây phủ Phaolô khiến ông và những người bạn suýt bị mất mạng. Về sau, khi Phaolô trên đường đến thành Jerusalem, có đi qua thành Ephesus nhưng không lưu lại ở đó vì ông phải đến Jerusalem cho kịp Lễ Ngũ Tuần. Dù vậy, Phaolô đã triệu tập các trưởng lão của hội Thánh tại Ephesus đến gặp ông tại Miletus. Tại đây, Phaolô giãi bày với họ những trải nghiệm cá nhân cũng như khuyên bảo và khích lệ họ.
Giam cầm
Khi đến Jerusalem, Phaolô đối diện với lời đồn đại cho rằng ông chống lại luật pháp Moses. Để chứng minh việc tuân giữ luật pháp, Phaolô giữ lời thề Nazarite với bốn người khác. Sau bảy ngày cho kỳ lễ tinh sạch gần trọn, Phaolô bị bắt giữ và hành hung ngay bên ngoài Đền thờ bởi một đám đông cuồng loạn kêu la: "Hỡi người Israel, hãy đến giúp với! Kìa, người này giảng dạy khắp thiên hạ, nghịch cùng dân, nghịch cùng luật pháp, và nghịch cùng chốn này nữa, đến nỗi hắn dẫn người Hy Lạp vào trong đền thờ, và làm cho nơi Thánh này bị ô uế". Khi một đội binh La Mã đến cứu Phaolô khỏi đám đông đang giận dữ, họ kéo đến cáo buộc Phao lô là kẻ mưu phản, "kẻ xách động thuộc phe Nazareth", kẻ rao giảng sự sống lại của người chết. Phaolô cố gắng giải thích và trình bày đức tin của mình với đám đông bằng ngôn ngữ của họ, có lẽ là tiếng Aram, nhưng đám đông càng bất bình kêu to, "Hãy cất người dường ấy khỏi thế gian, nó chẳng đáng sống đâu!" Phaolô viện dẫn quyền công dân La Mã để xin được xét xử tại Rôma, nhưng do sự trì trệ của tổng đốc Antonius Felix, ông bị giam giữ hai năm ở Caesarea cho đến khi quan tổng đốc mới, Porcius Festus, đến nhậm chức, nghe giải trình và cho giải Phaolô bằng đường biển đến La Mã, tại đây ông bị quản chế thêm hai năm, với điều kiện sống tốt hơn.
Đến đây chúng ta bị buộc phải dựa vào các truyền thuyết nếu muốn có thêm thông tin chi tiết về những ngày cuối cùng của Phaolô. Theo một truyền thuyết, Phaolô đã đến Tây Ban Nha và Anh quốc. Có lẽ Phaolô đã có ý định ấy, nhưng vẫn không có chứng cớ ông đã thực hiện chuyến đi. Theo một truyền thuyết khác, Phaolô đã chết ở La Mã. Eusebius thành Caesarea (khoảng 275 – 339) cho rằng Phaolô đã bị xử chém đầu trong thời trị vì của Nero, Hoàng đế La Mã, có thể là năm 64, khi thành La Mã bị thiêu rụi bởi một cơn hoả hoạn, hoặc vài năm sau đó, khoảng năm 67.
Đến La Mã, những ngày sau cùng
Sách Công vụ các Sứ đồ ký thuật chi tiết hành trình chuyến đi của Phaolô từ Caesarea đến La Mã. Quản cơ Julius giải giao Phaolô và những tù nhân khác bằng thuyền, có lẽ Luca và Aristarchus cùng đi trên tàu. Vì đang mùa giông bão, cuộc hành trình vừa chậm vừa gian khổ. Họ đi dọc bờ biển Syria, Cicilia và Pampylia. Đến thành Myra trong xứ Lycia, tù nhân được chuyển sang một tàu khác để đến Ý. Phải khó nhọc lắm tàu mới cập bến Mỹ Cảng trên đảo Crete. Phaolô đưa ra lời khuyên nên nghỉ đông ở đây, nhưng họ không chịu nghe theo và tiếp tục cuộc hành trình. Tàu bị bão, trôi giạt trong mười bốn ngày, sau cùng bị mắc cạn trên bờ biển Malta. Đoàn người phải lưu lại trên đảo suốt ba tháng, ở đó Phaolô chữa lành bệnh sốt và bệnh lỵ cho thân phụ của tù trưởng của đảo, Publius, và những người khác. Khi mùa xuân đến, đoàn người lại lên đường.
Sách Công vụ ký thuật cuộc đời của Phaolô cho tới khi ông đến La Mã, lúc ấy ước chừng 61 tuổi. Cuốn sách kết thúc với những lời cáo trách của Phaolô khi nói chuyện với một nhóm người Do Thái tìm đến để tra hỏi và chế giễu ông về Phúc âm:
Hãy đến nơi dân này và nói rằng;Các ngươi lấy tai nghe mà chẳng hiểu chi;
Lấy mắt xem mà chẳng thấy gì;Vì lòng dân này đã nặng nề;
Họ bịt tai; Họ nhắm mắt;E rằng mắt mình sẽ thấy,
Tai mình sẽ nghe,Lòng mình sẽ hiểu,
Và họ sẽ trở lại,Để ta chữa lành chăng.
Vậy, hãy biết rằngSự cứu rỗi này của Thiên Chúa đã sai đến cho người ngoại;
Những người đó sẽ nghe theo vậy.
Tác phẩm
Phaolô viết nhiều thư tín gởi các hội Thánh và những cá nhân. Tuy vậy, có lẽ có một số đã không còn được lưu giữ. 1Cor 5: 9 có thể được xem như là một gợi ý về thư tín trước đó ông đã gởi các tín hữu thuộc giáo đoàn Corinth nhưng nay không còn. Những thư tín vẫn còn lưu giữ đều được đưa vào Tân Ước, theo thứ tự từ dài đến ngắn. Có một ít thư tín được viết trong khi ông bị giam giữ, thường được gọi là "thư viết trong tù", theo truyền thuyết những lá thư này được viết ở La Mã.
Những thư tín có được sự đồng thuận về quyền tác giả của Phaolô:
Thư gửi tín hữu Rôma
Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô
Thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô
Thư gửi tín hữu Galát
Thư gửi tín hữu Philípphê*
Thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica
Thư gửi ông Philêmon*
Những "thư tín giống như của Phaolô" (nhiều học giả tin rằng như thư này không phải do chính Phaolô viết, nhưng thường được cho rằng ông là tác giả)
Thư gửi tín hữu Êphêsô*
Thư gửi tín hữu Côlôsê*
Thư thứ hai gửi tín hữu Thêxalônica
Những thư tín mục vụ của Phaolô:
Thư thứ nhất gửi ông Timôthê
Thư thứ hai gửi ông Timôthê
Thư gửi ông Titô
Ghi chú: Những thư tín có dấu * thuộc nhóm những bức thư viết trong tù.
Thần học
Tư tưởng của Phaolô ảnh hưởng đậm nét trên thần học Kitô giáo trong những lãnh vực như đức tin, sự xưng công chính, cứu rỗi, mối quan hệ giữa Kitô hữu và luật pháp Moses, Kitô học (Christology), Thánh Linh học, nguyên tội, chung thời học (eschatology) và bản chất của đời sau, cũng như vị trí của Kinh Thánh Do Thái trong Kitô giáo.
Đức tin và Sự xưng công chính
Phaolô tập chú vào vị trí trọng tâm của đức tin trong sự cứu rỗi được ban cho qua sự chết chuộc tội của Chúa Giêsu, và khả năng được xưng công chính qua đức tin ấy. Một trong những điều Phaolô xác định rõ ràng đã trở nên rất nổi tiếng: "Vì chúng ta kể rằng người ta được xưng công bình bởi đức tin, chớ không phải bởi việc làm theo luật pháp", luôn luôn nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa sự xưng công chính và đức tin.
Xưng công chính là một ý niệm về pháp chế. Được xưng công chính nghĩa là được tuyên bố trắng án. Vì mọi người đều là tội nhân, chúng ta chỉ có thể được trắng án khi Chúa Giê-xu thế chỗ chúng ta bằng cái chết đền tội thay trên cây thập tự. Như thế, theo cách nói của Phaolô tội nhân "được xưng công chính bởi đức tin," ấy là bằng cách hiệp nhất với Chúa Kitô, tội nhân đồng chết và đồng sống lại với ông. Tuy nhiên, cần biết rằng được xưng công chính không có nghĩa là vì chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô trong sự vô tội của ông, mà vì sự chết hiến tế của đấng vô tội mang lấy hình phạt của chúng ta là tội nhân xứng hiệp với sự đoán phạt thiên thượng.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa của đức tin, nhờ đó mà tội nhân được xưng công chính, Phaolô nhắc đến Abraham, người đã tin tưởng lời hứa của Thiên Chúa rằng ông sẽ trở nên tổ phụ của nhiều dân tộc. Phaolô giải thích rằng, "Phúc âm đã được rao truyền trước cho Abraham." Điều này cũng phù hợp với luận điểm của Phaolô về sự hiện hữu từ trước vô cùng của Chúa Giêsu, nghĩa là ông là Thiên Chúa.
Cùng với sự dạy dỗ của Phaolô về sự phục sinh và sự sống vĩnh hằng, cái nhìn thấu suốt của Phaolô về thần học đức tin và sự xưng công chính là chủ đề của nhiều sự luận giải, dẫn đến những tranh luận về việc xưng công chính chỉ bởi đức tin đối nghịch với sự xưng công chính bởi đức tin và công đức. Hầu hết các giáo hội Kháng Cách khẳng quyết rằng tư tưởng Phaolô đã giúp hình thành định nghĩa cho rằng sự cứu rỗi đến chỉ từ đức tin mà không bởi bất cứ nỗ lực bên ngoài nào của tín hữu (xem Năm Tín lý Duy nhất), bất đồng với quan điểm của Công giáo Rôma và Chính Thống giáo cho rằng ý tưởng của Phaolô đã bị hiểu sai và không phù hợp với lời dạy của James (Giacôbê hoặc Gia-cơ): "Nhơn đó anh em biết người ta cậy việc làm được xưng công bình, chớ chẳng những là cậy đức tin mà thôi."
Sự Cứu rỗi và Luật pháp Moses
Vấn đề có còn cần thiết phải tuân giữ Luật pháp Moses để được cứu rỗi đã được nêu lên trong thời kỳ Hội Thánh tiên khởi tại Giáo hội nghị Jerusalem, ở đó quan điểm của Phaolô đã tạo ra ảnh hưởng đáng kể. Những tác phẩm của Phaolô trình bày giáo thuyết cho rằng có được sự cứu rỗi không phải bởi nỗ lực tuân giữ luật pháp Moses nhưng do đức tin tiếp nhận Chúa Giê-xu. Phaolô xác định rõ ràng rằng không có sự phân biệt nào hết giữa người Do Thái và các dân tộc khác "vì mọi người đều phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Thiên Chúa." Vì vậy Phaolô được xem là nhân tố chính thúc đẩy việc chấp nhận người "ngoại bang" (không phải dân Do Thái) gia nhập Kitô giáo mà không có bất cứ yêu cầu tuân giữ nghi thức Do Thái như phép cắt bì hoặc kiêng cữ một số thức ăn.
Nguyên tội
Trong Tân Ước, giáo lý nguyên tội (tội tổ tông) được luận giải mạch lạc bởi Phaolô. Ông viết: "Bởi một người mà tội lỗi vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết, thì sự chết đã trải qua hết thảy mọi người như vậy, vì mọi người đều phạm tội...." Về sau giáo lý này được trình bày cặn kẽ bởi các nhà thần học Kitô giáo, nổi bật nhất là Augustine thành Hippo. (Xem Nguyên tội)
Chúa Giêsu và Chúa Thánh Linh
Chúa Giêsu
Trong các thư tín của mình, Phaolô có nhắc đến các sự kiện quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu
như bữa ăn cuối cùng của ông với các môn đồ, sự chết trên thập tự giá, và sự sống lại. Phaolô cũng miêu tả Chúa Giêsu là người Do Thái thuộc dòng dõi Vua David. Ông tập chú vào bản chất của mối quan hệ giữa tín hữu Cơ Đốc với Chúa Giê-su, nhất là sự chết chuộc tội của ông. Phúc Âm Máccô chép rằng Chúa Giêsu đã "phó sự sống mình là giá chuộc cho nhiều người." Trong các thư tín của mình, nhất là trong Thư gửi tín hữu Rôma, Phaolô đã triển khai mạch lạc và cặn kẽ ý niệm về hành động cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Theo luận giải của Phaolô, dưới luật pháp mọi người đều là tội nhân, nhưng những ai tiếp nhận Chúa Giêsu thì "nhờ ân điển ông mà được xưng công chính bởi sự cứu chuộc đã làm trọn trong Chúa Giêsu Kitô." Họ được "cứu chuộc" vì Chúa Giê-xu đã đền tội thay cho họ; bởi sự chết của ông mà họ được phục hòa với Thiên Chúa. Như thế, sự chết của Chúa Giêsu là sự hiến tế chuộc tội cho con người nhằm làm dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Ấy là ân điển của Thiên Chúa, và chỉ bởi đức tin mà con người mới có thể nhận lãnh ân điển ấy.
Phaolô luận giải xác tín của ông trong giáo lý về thần tính của Chúa Kitô. Ông viết: "Vì muôn vật đã được dựng nên trong ông (Chúa Kitô), bất luận trên trời, dưới đất, vật thấy được, vật không thấy được, hoặc ngôi vua, hoặc quyền cai trị, hoặc chấp chánh, hoặc cầm quyền, đều là bởi ông và vì ông mà được dựng nên cả. ông có trước muôn vật, và muôn vật đứng vững trong ông". Phaolô cũng miêu tả Chúa Giêsu là "ảnh tượng của Thiên Chúa" ("Ấy chính ông là hình ảnh của Thiên Chúa không thấy được, là Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên.")
Chúa Thánh Linh
Tương tự, Phaolô cũng trình bày một học thuyết vững chắc về Chúa Thánh Linh. Phần lớn Thư gởi tín hữu ở La Mã và phần cuối Thư thứ hai gởi tín hữu ở Corinth miêu tả Chúa Thánh Linh bình đẳng với Chúa Cha và Chúa Con, giúp hình thành giáo lý Ba Ngôi. Trong thư gởi tín hữu ở Galatia, Phaolô giải thích rằng việc tín hữu nhận lãnh Chúa Thánh Linh là do lời hứa Thiên Chúa dành cho Abraham thể hiện qua sự chết cứu chuộc của Chúa Giêsu, và xác chứng rằng, "Nếu anh em thuộc về Chúa Cơ Đốc, thì anh em là dòng dõi của Abraham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa."
Khi xem xét đến việc thực hành các ân tứ được ban cho từ Chúa Thánh Linh, Phaolô đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể trong thư gởi tín hữu ở Corinth. với lời cảnh báo cần cẩn trọng với khả năng nói tiếng lạ trong trạng thái xuất thần, ngược lại vị sứ đồ khuyến khích những lời khuyên bảo có thể thông hiểu và gây dựng đức tin, ông cũng đặc biệt quan tâm đến việc duy trì trật tự trong hội Thánh.
Dựa trên nguyên tắc vàng "Mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích và làm gương tốt" ông đưa ra lời khuyên chớ nên ăn thịt hiến tế cho các thần linh. Theo tập tục thời ấy, thịt thường được hiến tế trong các đền thờ trong những ngày lễ hội tôn giáo linh đình và trác táng.
Phaolô miêu tả Chúa Thánh Linh là sức mạnh hiệp nhất, dù có nhiều ân tứ khác nhau nhưng tất cả đều là sự ban cho của Chúa Thánh Linh. Ông ví von hội Thánh giống như thân thể con người, có chân tay và các cơ quan khác nhau nhưng chỉ là một thân thể; mọi thành viên của hội Thánh "đều đã chịu phép báp têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa." Như thế, để gây dựng và phát triển hội Thánh, tín hữu được ban cho các ân tứ khác nhau như giảng dạy, an ủi khích lệ, chữa bệnh, nói tiên tri và làm phép lạ. Phaolô cũng liệt kê các phẩm chất cần có cho mỗi Kitô hữu mà ông gọi là "Trái của Thánh Linh": lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại và tiết độ. Song, Phaolô gọi tình yêu thương là "sự ban cho lớn hơn hết", và ông khuyên mọi tín hữu cần ước ao ân tứ này.
Mặc khác, Phaolô cũng dạy về sự sống mới trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, và sự xác tín trong lòng của tín hữu để họ có thể tin quyết vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Các Vấn đề Xã hội
Quan điểm của Phaolô về các vấn đề xã hội cũng có ảnh hưởng lớn trên nền văn hoá Kitô như những quan điểm thần học của ông.
Trong thư gởi tín hữu ở Colossae, Phaolô cho biết người theo Chúa cần phải có cuộc sống tích cực như thế nào - ấy là theo đuổi những chuẩn mực của thiên đàng, không phải của trần thế. Trong suốt nhiều thế kỷ, những chuẩn mực ấy có ảnh hưởng đáng kể trên xã hội phương Tây. Phaolô kết án những hành vi như bất khiết, dâm dục, tham lam, giận dữ, vu khống, phỉ báng, dối trá và phân biệt chủng tộc trong khi ông đề cao những đức hạnh như nhân ái, tử tế, nhẫn nại, tha thứ, yêu thương, hòa bình, và biết ơn.
Phaolô kết án sự dâm dục và việc thực hành đồng tính luyến ái, ông viết "Hãy tránh xa sự dâm dục. Mặc dầu người ta phạm tội gì, tội ấy còn là ngoài thân thể; nhưng kẻ buông mình vào sự dâm dục, thì phạm đến chính thân thể mình."
Phaolô cũng dạy về sự tự do trong Chúa Kitô, sự thờ phượng đúng cách và kỷ cương trong hội Thánh, sự hiệp nhất của các tín hữu, và hôn nhân. Phaolô khuyến khích tín hữu theo đuổi cuộc sống độc thân "vì cớ tai vạ hầu đến", nhưng cảnh báo rằng cả cuộc sống hôn nhân và cuộc đời độc thân đều có thể không tốt nếu không thuận phục ý Chúa. Ông nhắc nhở, "Vậy tôi nói với những kẻ chưa cưới gả và kẻ góa bụa rằng ở được như tôi thì hơn. Song nếu họ chẳng thìn mình được, thì hãy cưới gả; vì thà cưới gả còn hơn để cho tình dục un đốt."
Về việc sở hữu nô lệ, Phaolô dạy rằng vì ngày Chúa Giêsu tái lâm đã gần kề, tín hữu nên chú tâm vào đời sống đức tin hơn là vào địa vị xã hội. Phaolô khuyên nhủ người nô lệ nên trung tín phục vụ chủ mình và người làm chủ phải tôn trọng và đối đãi tử tế với nô lệ hoặc người làm công "vì biết rằng cả hai đều có một chủ chung trên trời, và trước mặt ông chẳng có sự tây vị ai hết." Phaolô cũng tìm cách chuộc Onesimus, một nô lệ bỏ trốn, và yêu cầu người chủ xem Onesimus "không phải là nô lệ nữa, nhưng như anh em rất yêu dấu." Nhiều người xem đây là một hành động biểu thị tinh thần chống sở hữu nô lệ của Phaolô, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội thời ấy, xem việc sở hữu nô lệ là một quyền công dân.
Chú thích |
Tôn Thọ Tường (chữ Hán: 尊壽祥; 1825 - 1877) là một danh sĩ sống vào thời nhà Nguyễn. Do ông cộng tác với thực dân Pháp nên bị nhiều trí thức người Việt chỉ trích mạnh mẽ.
Cuộc đời
Tôn Thọ Tường là người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).
Ông vốn xuất thân trong một gia đình khoa cử, cha là Tôn Thọ Đức đỗ cử nhân, làm quan dưới triều Thiệu Trị, Tự Đức. Ngay từ thời trẻ, Tôn Thọ Tường học ở Huế, nổi tiếng văn hay chữ tốt. Năm 1840, cha qua đời, nên việc học ông bị dở dang, đến năm 30 tuổi vẫn chưa đỗ đạt gì.
Năm 1855, Tôn Thọ Tường được tập ấm làm quan, nhưng chỉ được giao một chức quan võ, không hợp với khả năng nên ông từ chối. Vì túng thiếu, ông phải đi làm bài thi mướn để lấy tiền. Việc bại lộ, ông bị bắt giải về Kinh đô Huế. Vua Tự Đức xét đến công lao của cha ông và nhận thấy ông cũng là người có tài nên gia ơn tha tội .
Ông trở về Nam, khi đi qua tỉnh Bình Thuận, các viên quan ở đây vì mến tài, muốn bổ ông chức thông phán, nhưng bộ Lại không chấp nhận. Việc này càng làm cho Tôn Thọ Tường bất mãn triều đình Huế.
Đến Gia Định, ông lập lại Bạch Mai thi xã, để cùng các bạn xướng vịnh. Năm 1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông được chính quyền mới mời ra nhận chức tri phủ Tân Bình, nên được người đời gọi là Phủ Ba Tường. Đô đốc Bonard muốn dùng ông dùng uy tín của mình để dụ hàng Trương Định, nhưng không thành công. Năm 1863, ông được cử làm ký lục trong phái bộ của Phan Thanh Giản sang Pháp và Tây Ban Nha.
Năm 1867, ông được nhà cầm quyền Pháp phái về Ba Tri (Bến Tre) để dụ hàng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cùng hai người con Phan Thanh Giản là Phan Tôn và Phan Liêm, nhưng thất bại.
Năm 1871, ông được thăng đốc phủ sứ.
Tháng 2 năm 1872, viên chủ quận Vũng Liêm tên Thực bị nghĩa quân ở nơi đó giết chết, ông được cử đến thay.
Sau, vì không ổn định được tình hình nơi ông cai quản, nhà cầm quyền Pháp rút ông về dạy Hán văn ở trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires) Nam Kỳ.
Năm 1873, ông được tham dự phái đoàn của Pháp sang Trung Quốc hai tháng. Năm 1875, Tôn Thọ Tường làm việc dưới quyền của Tổng Lãnh sự Pháp De Kergaradec ở Bắc Kỳ.
Năm 1877, trong một lần theo viên lãnh sự này đi quan sát miền thượng du Bắc Kỳ, ông mắc bệnh sốt rét ác tính rồi mất.
Nhận xét
Tôn Thọ Tường được đánh giá là một nhà thơ có thi tài được thể hiện qua một số bài thơ có hình tượng nghệ thuật như Đĩ già đi tu, Từ thứ qui Tào, Cây mai, Mười bài tự thuật... Đương thời, Tường bị các trí thức người Việt, đặc biệt hơn cả là Phan Văn Trị lên án, chỉ trích do làm việc cho người Pháp là kẻ xâm lược.
Năm 1966, GS. Trịnh Vân Thanh có nêu lên một nhận xét khá công tâm hơn:
Với một tâm trạng đau khổ, luôn bị dằn dặt của Tôn Thọ Tường, chúng ta thấy ông không phải là người đánh mất cả lương tri. Việc vận động với người Pháp để xin ân xá cho Bùi Hữu Nghĩa, nhẫn nhục nhận lấy những lời thóa mạ, nguyền rủa của Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu... mà không tìm cách trả thù hay ám hại, chứng tỏ Tường vẫn còn biết trọng nho phong, sĩ khí...
Đường phố
Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó gọi là Sài Gòn và Gia Định) có tới hai con đường mang tên Tôn Thọ Tường. Đường Tôn Thọ Tường của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay là đường Tạ Uyên đi qua quận 5 và quận 11, còn đường Tôn Thọ Tường của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Phan Văn Hân ở quận Bình Thạnh. Ở Trà Vinh trước năm 1975 có một con đường mang tên Tôn Thọ Tường sau bị đổi thành Độc Lập, và ở Bạc Liêu cũng có con đường mang tên Tôn Thọ Tường sau đó đổi thành Thống Nhất. |
Thất điều thư là di cảo của Phan Chu Trinh gửi cho vua Khải Định ở Paris năm 1922. Nguyên văn bằng chữ Hán (Anh Minh đã dịch và xuất bản tại Huế năm 1958). Trong thư chỉ ra 7 điều sau:
Một là tội tôn quân quyền
Hai là tội thưởng phạt không công bình
Ba là chuộng sự quỳ lạy
Bốn là tội xa xỉ vô đạo
Năm là phục sức không đúng phép
Sáu là du hạnh vô độ
Bảy là việc Pháp du ám muội (đi Pháp với mục đích không chính đáng)
Đây là 7 tội mà cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh kể về Khải Định trong bức thư của mình.
(Di cảo cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh, Thư thất điều của cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh gửi vua Khải Định ở Paris ngày 14 thàng 7 năm 1922, Anh Minh xuất bản, Huế, 1958) |
Bức thư bí mật là một di cảo của Huỳnh Thúc Kháng, nguyên bằng Hán văn (Anh Minh đã dịch và xuất bản tại Huế năm 1957). Đây là bức thư của cụ Huỳnh Thúc Kháng trả lời cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để năm 1943 (Lịch trình cách mạng Việt Nam trong thời kỳ thuộc Pháp). Bức thư là một tư liệu khảo cứu quý báu về những nhà chí sĩ, phương hướng lãnh đạo của họ, tư tưởng của họ đối với Việt Nam thời thuộc Pháp những năm đầu thế kỷ 20. Trong bức thư này cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng chỉ rõ thực trạng nước Việt những năm ấy.
(Di cảo Cụ Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng, Bức thư bí mật của cụ Huỳnh Thúc Kháng trả lời cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để năm 1943, Anh Minh xuất bản, Huế, 1957)
Chú thích |
Nguyễn Nhược Bích (chữ Hán: 阮鄀碧; 1830 – 1909), biểu tự Lang Hoàn (嫏嬛), phong hiệu Tam giai Lễ tần (三階禮嬪), là một phi tần của vua Tự Đức nhà Nguyễn. Bà nổi tiếng là một cung tần có tài danh nức tiếng của triều đại này, là tác giả của bài Hạnh Thục ca trong văn học Việt Nam.
Tiểu sử
Lễ tần Nguyễn Nhược Bích sinh tại làng Đông Giang, huyện An Phước, đạo Ninh Thuận (vùng Phan Rang, nay thuộc tỉnh Ninh Thuận). Bà là con gái thứ tư của ông Nguyễn Nhược Sơn (hay Nguyễn Nhược San), nguyên là Thanh Hóa Thừa nguyên Bố chính sứ Hộ lý Tổng đốc, với bà Thục nhân họ Nguyễn. Tương truyền, bà phu nhân họ Nguyễn khi mang thai, một hôm bỗng mơ thấy ngôi sao Bích, một trong Nhị thập bát tú, tượng trưng cho sách vở bỗng từ trên trời sa vào miệng rồi nuốt, vì thế sau khi sinh mới đặt cho con gái tên là Bích.
Vào cung
Nhờ tư chất thông minh, lại được đi học ngay từ nhỏ nên bà sớm nổi tiếng về tài văn chương. Vừa có tài sắc, lại được Phụ chính đại thần Lâm Duy Nghĩa tiến cử, năm 18 tuổi (Tự Đức nguyên niên, 1848), Nguyễn Nhược thị được tuyển vào cung. Trong một buổi ngâm vịnh, Vua Tự Đức xướng đề thơ Tào Mai (Hoa mai sớm nở), và cô nương Nguyễn Nhược thị đã làm rất nhanh thành thơ, trong đó có câu: [Nhược giao dụng như hòa canh vị, ngự tác lương thần phụ Hữu Thương], nghĩa rằng [Nếu khiến dùng mày hòa vị canh, xin làm lương thần giúp Hữu Thương]. Tự Đức đặc biệt khen ngợi rằng:
“Khéo điều chế câu thơ như người điều chế mai, tỏ rõ chí khí như của Tể tướng Phó Duyệt, thật là bổ ích. Đáng tiếc là nữ, nếu là nam thì chức ấy trẫm cũng không tiếc”.
Bài họa của bà được nhà vua khen tặng 20 nén bạc, đồng thời cho sung chức Thượng nghi viện sư, để dạy học trong nội cung. Năm thứ 3 (1850), bà được phong Cửu giai Tài nhân rồi thăng làm Bát giai Mỹ nhân vào năm 1860. Không lâu sau đó, Mỹ nhân Nguyễn Nhược thị được tấn làm Thất giai Quý nhân. Bà Bích còn một người em gái (không rõ tên) cũng được đưa vào cung hầu vua Tự Đức, được phong làm Tài nhân ở bậc Cửu giai.
Năm 1868, bà sách phong làm Tiệp dư (婕妤), hàm Lục giai. Tự Đức bị vô sinh, nên đem ba tôn thất là Nguyễn Phúc Ưng Ái, Nguyễn Phúc Ưng Kỷ và Nguyễn Phúc Ưng Đăng. Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Ưng Ái được giao cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên nuôi dưỡng, còn hai Hoàng tử Ưng Kỷ được giao cho Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm và Ưng Đăng giao cho Học phi Nguyễn Văn Thị Hương. Vua ưu ái giao cho Tiệp dư Nguyễn Nhược thị dạy học, chăm sóc cho các hoàng tử. Ngoài ra, bà được cử làm thầy dạy [kinh điển và dạy tập nội đình] cho Đồng Khánh khi ông chưa lên ngôi. Tự Đức Đế yêu quý bà lắm vì bà là người đức độ, giỏi văn thơ, lại luôn kính cẩn, lại là thầy dạy học của Hoàng tử. Vì thế, trong cung ai cũng tôn kính, tôn gọi Tiệp dư phu tử (婕妤夫子). Chính bởi vậy bà Tiệp dư được Tự Đức tin cậy, yêu mến, thường cho cùng đi trong những buổi vua đến vấn an mẹ và những cuộc trao đổi riêng với Hoàng thái hậu Từ Dụ về công việc trong triều, trong hoàng tộc, những diễn biến của đất nước. Một thời gian sau, Tiệp dư Nguyễn Nhược Bích trở thành thư ký cho Thái hậu Từ Dũ, nhờ vậy mà bà nghe được nhiều điều trao đổi giữa thái hậu và vua, bởi những lúc đó chỉ mình bà được ở gần hầu hạ.
Sau khi vua Tự Đức qua đời (1883), mọi ý chỉ sắc dụ của Lưỡng Tôn cung (chỉ Hoàng thái hậu Từ Dụ và Chính phi Trang Ý) đều do một tay bà soạn thảo.
Chạy loạn
Trong thời kỳ "tứ nguyệt tam vương" (bốn tháng ba vua), cũng như những người ở nội cung, Tiệp dư Nguyễn Nhược thị phải chịu sự chuyên chế của hai phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường trong việc phế lập các vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc.
Tháng 5 năm Ất Dậu (tức tháng 7 năm 1885), cuộc phản công của phe chủ chiến ở Kinh thành Huế thất bại. Phụ chính Tôn Thất Thuyết phải phò vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, bà hộ giá Tam cung chạy ra Quảng Trị (đoàn chỉ đến đây rồi trở lại Khiêm Lăng-Huế). Nhưng không lâu sau, vì hoàn cảnh quá khó khăn nên bà rước Tam cung trở lại Huế, đến lánh ở Khiêm Lăng (Lăng vua Tự Đức) rồi trở về hoàng cung, chịu sự quản chế của Pháp. Nhân sự kiện này, bà sáng tác bài Hạnh Thục ca (còn có tên Loan dư Hạnh thục quốc âm ca) bằng chữ Nôm kể lại sự kiện lịch sử ấy, mượn tích truyện vua Đường Huyền Tông ở Trung Quốc bỏ kinh đô, chạy vào đất Thục để tránh loạn An Lộc Sơn mà qua đó nói về tình hình đất nước với những biến cố từ khi quân Pháp xâm lược.
Trở về Hoàng cung
Khi Nguyễn Nhược Bích theo Tam cung hồi loạn về Huế, lúc này người con nuôi và cũng là học trò của bà, hoàng tử Ưng Kỷ, đã lên ngôi, lấy hiệu là Đồng Khánh. Cũng trong khoảng thời gian đó, bà hết lòng hầu hạ, làm mọi việc do Thái Hoàng Thái hậu Từ Dụ giao cho, những lúc rảnh rỗi bà vẫn sáng tác văn thơ.
Năm Thành Thái thứ 4 (1892), bà được Thái hoàng thái hậu Từ Dụ di ý chỉ chiếu tấn làm Tam giai Lễ tần (三階禮嬪), đứng thứ ba trong hậu cung, lại được lưỡng cung thái hậu yêu chiều.
Tháng 11 (âm lịch) năm Duy Tân thứ 3 (1909), Lễ tần Nguyễn Nhược thị hoăng thệ tại Huế, hưởng thọ 79 tuổi. Tẩm mộ bà hiện ở làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay là phường Thủy Xuân, Huế). Hai chị em họ Nguyễn Nhược được táng cạnh mộ của bà Thục nhân họ Nguyễn, mẹ của cả hai.
Hành trạng của bà được ghi chính thức vào Đại Nam Chính biên Liệt truyện, có thể xem là một vinh hiển rất cao đối với một phi tần triều Nguyễn vì Liệt truyện chỉ chép về truyện của các bậc Hoàng hậu.
Tác phẩm
Tác phẩm của Nguyễn Nhược Bích có một số bài thơ chữ Hán và một tác phẩm có tên là Loan dư Hạnh Thục quốc âm ca (còn gọi là Hạnh Thục ca) bằng chữ Nôm, dài 1036 câu theo thể thơ lục bát, phần lớn kể lại mọi biến cố xảy ra từ khi quân Pháp sang đánh chiếm Việt Nam cho đến khi Thành Thái lên nối ngôi vua.
Theo các nhà nghiên cứu, thì đây là một tác phẩm rất có giá trị về mặt sử liệu. Tuy nhiên, qua nó cũng đã cho thấy tác giả là một người sống trong cung cấm đã lâu, muốn thoát khỏi cái bi khổ và nặng tư tưởng cầu an . |
Hợp xướng là một loại hình của thanh nhạc gồm nhiều bè, là đỉnh cao của nghệ thuật hát bè, trong đó mỗi bè do một loại giọng trình diễn. Hợp xướng quy tụ một số lượng lớn người biểu diễn.
Phổ biến nhất là dàn hợp xướng hỗn hợp (với giọng nam và nữ) thường bao gồm giọng soprano, alto, tenor, và bass, tuy nhiên cũng có dàn hợp xướng nam hoặc nữ hoặc trẻ em hoặc cặp đôi
Đặc điểm
Hợp xướng có loại có dàn nhạc đệm, có loại không có dàn nhạc đệm. Một đội hợp xướng thường đông người, từ một vài chục đến hàng trăm người.
Những tác phẩm âm nhạc soạn cho hợp xướng có những đặc điểm riêng, khác với ca khúc bình thường. Tuy nhiên cũng có những ca khúc được biên soạn lại để biểu diễn bằng một dàn hợp xướng.
Có những bản đại hợp xướng được sáng tác hết sức công phu, phải mất nhiều thời gian dàn dựng để biểu diễn với một quy mô lớn. |
Biểu mô là một loại mô bao gồm các tế bào nằm lót trong các khoang trống và các bề mặt của các cấu trúc trong cơ thể hoặc chế tiết. Biểu mô gồm nhiều tế bào đa diện xếp sít nhau, liên kết chặt chẽ, khoảng gian bào rất hẹp. Biểu mô có nguồn gốc từ cả 3 lá phôi: lá ngoài, lá giữa, lá trong. Nhiều tuyến của cơ thể cũng được cấu tạo chủ yếu bằng biểu mô. Nó luôn nằm tựa lên mô liên kết, và nằm giữa hai lớp mô này là màng đáy.
Trong cơ thể người, biểu mô được phân loại là một trong những mô căn bản, cùng với các mô khác như mô liên kết, mô cơ, mô thần kinh.
Chức năng của các tế bào biểu mô bao gồm chế tiết, thẩm thấu chọn lọc, bảo vệ, vận chuyển giữa các tế bào và cảm thụ xúc giác.
Chú thích |
Der Spiegel (, ) là một trong các tuần báo được biết đến nhiều nhất ở Đức. Tờ báo tự gọi mình là "tạp chí tin tức có số lượng xuất bản lớn nhất châu Âu và quan trọng nhất của Đức".
Lịch sử
Ngay từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, một tờ báo có tên là Der Spiegel đã được Lion Feuchtwanger ở München xuất bản và sau đó hợp nhất với tờ Schaubühne của Siegfried Jacobsohn trong tháng 11 năm 1908.
Ấn bản đầu tiên sau chiến tranh của Der Spiegel được phát hành vào ngày 4 tháng 1 năm 1947, một ngày thứ Bảy, ở Hannover như là tờ báo kế tục tờ Diese Woche, là một tờ báo theo gương mẫu của các tạp chí tin tức Anh-Mỹ. Một vài biên tập viên Đức trẻ tuổi của Diese Woche, dẫn đầu là Rudolf Augstein, đã cố gắng thực hiện các yêu cầu cho một báo chí đứng đắn và mang tính phê bình và cũng đã không miễn trừ việc phê phán quân đội đồng minh. Chính phủ London và ba nước đồng minh còn lại đã phản đối hình thức khai sáng này và vứt bỏ tờ tạp chí bằng cách giao Diese Woche lại cho người Đức.
Rudolf Augstein được cấp giấy phép xuất bản và đổi tên tờ tạp chí thành Der Spiegel. Bắt đầu từ số phát hành đầu tiên trong tháng 1 năm 1947 ông là người chịu trách nhiệm phát hành và là tổng biên tập. Ông là nhà xuất bản cho đến khi qua đời vào ngày 7 tháng 11 năm 2002. Cho đến nay người xuất bản trên báo vẫn là tên của ông.
Phát triển
Tờ tạp chí đã bị tranh cãi ngay từ đầu. Ngay trong giai đoạn thành lập đã có xung đột với cơ quan cấp giấy phép Anh.
Ngay từ đầu Der Spiegel đã có ảnh hưởng tương đối lớn. Sau Vụ Spiegel ảnh hưởng của tờ báo lại càng lớn mạnh; thông qua số lượng ấn bản tăng vọt, quyền lực kinh tế cũng tăng lên đáng kể và qua đó là ảnh hưởng về chính trị cũng tăng lên. Vụ Spiegel trong năm 1962 đã dẫn đến việc nhiều tầng lớp rộng rãi, đặc biệt là những người thuộc thế hệ trẻ và giới trí thức phê phán đã cổ vũ tờ tuần báo và qua đó là ủng hộ tự do ngôn luận và báo chí. (Peter Glaser).
Sau khi tờ tạp chí cạnh tranh Focus ra đời đã có nhiều thay đổi. Focus đã được chủ ý soạn thảo như là cực đối nghịch và là một lựa chọn khác của Spiegel. Uli Baur, tổng biên tập của Focus bên cạnh Helmut Markwort, đã tóm tắt đường lối biên tập của Focus dựa vào câu nói nổi tiếng của Augstein (...khi hoài nghi thì đứng về phía tả) một cách rõ rệt: "Nếu như Der Spiegel đứng về phía tả khi hoài nghi thì chúng tôi đứng về phía hữu khi hoài nghi."
Từ giữa thập niên 1990, dưới quyền của tổng biên tập Stefan Aust và có thể là dưới ấn tượng của tờ báo cạnh tranh, giới quan sát đã nhận ra một chiều hướng của Spiegel đi đến các quan điểm thuộc về chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism). Đồng thời người ta cũng cho rằng một phần tờ báo đã trở thành báo khổ nhỏ và mất đi chiều sâu phân tích trong khi các bài báo vẫn không thay đổi nhiều về độ dài và tính thời sự.
Ảnh hưởng báo chí của tờ báo đã giảm đi. Theo một thăm dò ý kiến trong 1.536 nhà báo người Đức vào mùa xuân 2005, 33,8% những người được hỏi vẫn xem Spiegel là tờ báo dẫn đầu trong khi 34,6% bỏ phiếu cho nhật báo Süddeutsche Zeitung. Trong năm 1993, 2/3 các nhà báo được hỏi vẫn cho biết còn xem Spiegel là tờ báo dẫn đầu.
Biên niên sử
Tháng 11 năm 1946 tiền thân của Der Spiegel là tờ Diese Woche dưới quyền của tổng biên tập Rudolf Augstein nhận được giấy phép xuất bản của lực lượng chiếm đóng quân đội Anh và được người đọc đón nhận nồng nhiệt với lượng xuất bản là 1.500 tờ báo. Ngày 4 tháng 1 năm 1947 số đầu tiên của Spiegel được xuất bản tại Hannover. Tờ báo lại được tiếp tục đón nhận nồng nhiệt với số lượng xuất bản là 15.000 tờ. Lượng xuất bản chỉ bị hạn chế duy nhất bởi việc phân bổ giấy in thông qua quân đội Anh.
Năm 1950 Der Spiegel lật tẩy việc hối lộ các nghị sĩ của Quốc hội Liên bang Đức trong việc bỏ phiếu cho Bonn thay vì Frankfurt am Main để trở thành thủ đô liên bang. Augstein được mời lấy lời khai như là nhân chứng nhưng lại dựa vào quyền giữ bí mật của báo chí về nguồn thông tin đáng tin cậy. Năm 1952 là Vụ Schmießer. Hans Konrad Schmeißer, nguyên là nhân viên của tình báo Pháp, đã khẳng định nguyên thủ tướng liên bang Konrad Adenauer, trợ lý bộ trưởng Blankenhorn và tổng lãnh sự Reifferschied đã cộng tác với tình báo Pháp và đã cung cấp tin tức cho một nhân viên mật vụ Pháp. Năm 1961 số lượng phát hành bán được lên đến 437.000 tờ.
Vụ Spiegel: Vào ngày 10 tháng 10 năm 1962 một bài báo với đầu đề là Bedingt abwehrbereit (Chỉ sẵn sàng chống cự có điều kiện) được đăng trên Spiegel, trong đó biên tập viên chịu trách nhiệm là Conrad Ahlers cho rằng khối NATO và nước Cộng hòa Liên bang Đức có thể không chống cự lại được một cuộc tấn công của quân đội Xô Viết. Vào ngày 16 tháng 10 năm 1962 tòa nhà xuất bản của Spiegel ở Hamburg và tòa soạn tại Bonn bị khám xét. Đã có lệnh bắt giam cáo buộc về tội phản bội tổ quốc, giả mạo có tính cách phản bội tổ quốc và hối lộ. Rudolf Augstein được thả tự do sau 103 ngày. Vào ngày 13 tháng 5 năm 1965 Tòa án Liên bang Đức tuyên bố kết thúc vụ án không đưa ra xét xử vì thiếu bằng chứng.
Trong năm 1969 số lượng phát hành của Der Spiegel là 953.000 tờ đã bán được.
Vào đầu thập niên 1970 Der Spiegel có gần 900 nhân viên, trong số đó có tròn 400 người làm việc trong ban biên tập, 100 người trong bộ phân tư liệu cũng như gần 400 người trong các phòng thương nghiệp và kỹ thuật. Năm 1970 tạp chí kinh tế manager magazin được thành lập do một công ty con của nhóm Spiegel phát hành. Trong năm 1972 số lượng người đọc có vào khoảng 6 triệu người, tương đương với 12% của tất cả những người trên 14 tuổi sống trong nước Cộng hòa Liên bang Đức và Tây Berlin. Thành phần số phát hành ở nước ngoài chiếm vào khoảng 10-15%. Số lượng phát hành là 932.000 tờ được bán.
Năm 1974 nguyên thủ tướng Đức Willy Brandt đã gọi tờ Spiegel là "ein Scheißblatt" ("tờ báo như cứt"). Năm 1975 phóng viên của Spiegel đã bị trục xuất ra khỏi nước Cộng hòa Dân chủ Đức (DDR) vì cố tình vi phạm quy định luật lệ. Năm 1978 văn phòng của báo tại DDR bị đóng cửa sau một tường thuật mang nhiều tính phê phán về việc cưỡng bức nhận con nuôi. Việc này được xem là can thiệp vào nội bộ của DDR.
Năm 1982 là Vụ Flick và Vụ Neue Heimat và kế tiếp theo đó trong năm 1987 là Vụ Barschel. Nhà báo Theo Sommer đã nói về việc này trên tờ ZEIT: "Nước cộng hòa mang ơn Spiegel vì khám phá này." Năm 1988 là Vụ COOP. Trong năm 1989 Erich Honecker nói về báo Spiegel: "Vâng, Der Spiegel là một tờ báo hay, thứ Hai nào tôi cũng đọc."
Năm 1990 tờ Spiegel lần đầu tiên vượt qua được ngưỡng 1 triệu với số lượng ấn bản bán được là 1.050.000.
Vào ngày 18 tháng 1 năm 1993 số phát hành đầu tiên của tờ Focus ra đời. Số lượng phát hành của tờ Spiegel giảm đi hơn 10% và số trang quảng cáo cũng giảm đi hơn 12%. Trong năm 1995 số lượng người đọc lên đến hơn 7 triệu người. Chương trình truyền hình Spiegel TV và đặc san Spiegel Special ra đời, mang lại 12% doanh thu cho Spiegel trong năm 1996 (542 triệu DM).
Tổng biên tập
1962–1968: Claus Jacobi
1969–1973: Günter Gaus
1973–1986: Erich Böhme và Johannes K. Engel
1986–1989: Erich Böhme và Werner Funk
1989–1994: Wolfgang Kaden và Hans Werner Kilz
1994-2008: Stefan Aust
2008–2011: Mathias Müller von Blumencron và Georg Mascolo
2011–2013: Georg Mascolo
2013–nay:Wolfgang Büchner
Spiegel Online
Spiegel Online được thành lập năm 1994. Cùng chung với manager-magazin.de và Quality Channel, doanh nghiệp này thuộc về Công ty TNHH SPIEGELnet, một công ty con của nhà xuất bản. Viết bài cho Spiegel Online là một ban biên tập bao gồm 50 người, một số tin tức được thu nhận từ các hãng thông tấn xã (AFP, AP, ddp, dpa, gms, Reuters, sid, vwd).
Phê bình báo Spiegel
Trong thời gian 1956/1957, tròn 10 năm sau khi Der Spiegel ra đời, Han Magnus Enzensberger, một nhà thơ, nhà văn, dịch giả và biên tập người Đức, đã viết một bài phân tích mang tính phê phán về "ngôn ngữ của tờ Der Spiegel" mà trong đó ông đã đưa ra một loạt các luận điểm cho rằng ngôn ngữ của Spiegel làm tối đi những gì muốn nói. Tờ tạp chí tin tức Đức không phải là một tờ tạp chí tin tức, Spiegel không phê phán, người đọc báo Spiegel không được định hướng mà ngược lại bị mất phương hướng. Enzensberger cũng không xét lại các quan điểm này ngay cả sau Vụ Spiegel. Ông nhìn tờ Spiegel như là một tiềm năng nguy hiểm cho nền dân chủ Đức. Mặc dù vậy, ông cũng đã nhấn mạnh trong thập niên 1950 rằng không thể thiếu tờ Spiegel cho đến khi có một cơ quan phê phán khác trong nước Đức có thể thay thế được tờ báo này.
Wolf Schneider, một nhà báo và nhà phê bình về ngôn ngữ, gọi tạp chí này là người làm hỏng ngôn ngữ Đức. Trích dẫn từ Spiegel như là thí dụ xấu đóng một vai trò quan trọng trong các quyển sách về chính tả của ông. Hiện nay chuyên mục "Zwiebelfish" về các trường hợp rắc rối của tiếng Đức là một trong những chuyên mục được ưa thích nhất của báo Der Spiegel.
Trong năm 2005 liên quan đến việc bầu cử Quốc hội Liên bang Đức, cùng với tạp chí Stern và Nhật báo Bild (Bild-Zeitung), Der Spiegel đã bị phê phán là đã viết ủng hộ cho việc loại bỏ chính phủ của liên minh SPD và Đảng Xanh. Trong lúc đang tranh cử, Der Spiegel đã dùng nhiều bài báo chính để phê phán SPD và Đảng Xanh và thường phác họa Angela Merkel một cách thân thiện.
Tài liệu
Rudolf Augstein: Schreiben, was ist. Kommentare, Gespräche, Vorträge. Hrsg. v. Jochen Bölsche. DVA, Stuttgart/München 2003, ISBN 3-421-05747-8
Lutz Hachmeister: Ein deutsches Nachrichtenmagazin. Der frühe „Spiegel" und sein NS-Personal. In: Lutz Hachmeister, Friedemann Siering (Hrsg.): Die Herren Journalisten. Die Elite der deutschen Presse nach 1945. C.H. Beck, München 2002, ISBN 3-406-47597-3
Leo Brawand: Die Spiegel-Story. Wie alles anfing. ECON-Taschenbuch-Verlag, Düsseldorf 1995, ISBN 3-612-26212-2
Oliver Gehrs: Der Spiegel-Komplex. Droemer-Knaur, München 2005, ISBN 3-426-27343-8
Digne Meller Marcovicz: 2000 Spiegel-Photos der Jahre 1965 bis 1985. Greno, Nördlingen 1986, ISBN 3-89190-008-2 |
Nhiệt năng đề cập đến một số khái niệm vật lý riêng biệt, chẳng hạn như nội năng của một hệ thống; nhiệt hoặc nhiệt hiện, được định nghĩa là các loại truyền năng lượng (giống như công); hoặc năng lượng đặc trưng của bậc tự do trong hệ nhiệt , tại đó là nhiệt độ và là hằng số Boltzmann.
Liên quan đến nhiệt và nội năng
Trong nhiệt động lực học, nhiệt là năng lượng truyền đến hoặc từ một hệ nhiệt động lực học, bằng các cơ chế khác với công hoặc chuyển giao nhiệt động lực học của vật chất. Nhiệt đề cập đến một lượng được truyền giữa các hệ thống, không phải thuộc tính của bất kỳ hệ thống nào hoặc 'chứa' bên trong nó. Mặt khác, nội năng là thuộc tính của một hệ thống duy nhất. Nhiệt và công phụ thuộc vào cách thức mà quá trình truyền năng lượng xảy ra, trong khi nội năng là một thuộc tính của trạng thái của một hệ thống và do đó có thể hiểu được mà không cần biết năng lượng đến đó như thế nào.
Trong phân tích cơ học thống kê của khí lý tưởng, trong đó các phân tử chuyển động độc lập giữa các va chạm tức thời, nội năng là tổng động năng của các hạt độc lập của khí và chính chuyển động động học này là nguồn gốc và tác dụng của sự truyền nhiệt qua ranh giới của hệ thống. Đối với một chất khí không có tương tác hạt ngoại trừ các va chạm tức thời, thuật ngữ "nhiệt năng" đồng nghĩa với " nội năng ". Trong nhiều văn bản vật lý thống kê, "nhiệt năng" đề cập đến , tích của hằng số Boltzmann và nhiệt độ tuyệt đối, cũng được viết là . Trong vật chất, đặc biệt là vật chất cô đặc, chẳng hạn như chất lỏng hoặc chất rắn, trong đó các phần tử cấu thành, chẳng hạn như phân tử hoặc ion, tương tác mạnh với nhau, năng lượng của các tương tác đó đóng góp mạnh mẽ vào nội năng của vật thể, nhưng không chỉ rõ ràng về nhiệt độ.
Thuật ngữ 'năng lượng nhiệt' cũng được áp dụng cho năng lượng được mang bởi dòng nhiệt, mặc dù điều này cũng có thể được gọi đơn giản là nhiệt hoặc nhiệt lượng.
Bối cảnh lịch sử
Trong một bài giảng năm 1847 có tiêu đề "Về Vật chất, Lực sống và Nhiệt", James Prescott Joule đã mô tả các thuật ngữ khác nhau có liên quan chặt chẽ đến nhiệt năng và nhiệt lượng. Ông xác định các thuật ngữ nhiệt tiềm ẩn và nhiệt cảm nhận là các dạng nhiệt ảnh hưởng đến các hiện tượng vật lý riêng biệt, cụ thể là thế năng và động năng của các hạt, tương ứng. Ông mô tả năng lượng tiềm ẩn là năng lượng của sự tương tác trong một cấu hình nhất định của các hạt, tức là một dạng năng lượng tiềm năng, và nhiệt lượng cảm nhận được là năng lượng ảnh hưởng đến nhiệt độ đo bằng nhiệt kế do nhiệt năng, mà ông gọi là lực sống.
Nhiệt năng vô dụng
Nếu nhiệt độ tối thiểu của môi trường của hệ thống là và entropy của hệ thống là , khi đó một phần năng lượng bên trong của hệ thống lên tới không thể chuyển đổi thành công việc hữu ích. Đây là sự khác biệt giữa nội năng và năng lượng tự do của Helmholtz. |
Bóng cây Kơ-nia là bài thơ của nhà thơ Ngọc Anh phỏng dịch dân ca Hrê, được viết trong những năm 1957–1958. Bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến là 2 ca khúc cùng tên của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu và nhạc sĩ Phan Thanh Nam.
Bài thơ
Nhà thơ, nhà báo Ngọc Anh, tên thật Nguyễn Ngọc Anh (1932–1964) sinh tại Đại Lộc, Quảng Nam. Ông tham gia chiến đấu chống Mỹ từ năm 1957 tại chiến trường Tây Nguyên và mất vào năm 1964 tại Kon Tum. Ông đóng góp một số công trình nghiên cứu về văn hoá Tây Nguyên và một số bài thơ được công chúng đón nhận.
Bài thơ Bóng cây Kơ-nia được sáng tác trong những năm 1957–1958 (theo nhà văn Nguyên Ngọc) lúc tác giả đang làm việc tại Ban Văn Sử Địa Trung ương. Bài thơ được in trong tập thơ Tiếng hát miền Nam do Nhà xuất bản Văn học in năm 1959. Bài thơ được phỏng dịch theo điệu Kachoi của dân ca Hrê. Nguyên văn bài thơ:
Trời sáng em lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng ngả che ngực em
Về nhớ anh, không ngủ…
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơ nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc...
Em hỏi cây Kơ nia:
– Gió mày thổi về đâu?
– Về phương mặt trời mọc,
Mẹ hỏi cây Kơ nia:
– Rễ mày uống nước đâu?
– Uống nước nguồn miền Bắc.
Con giun sống nhờ đất
Chim phí sống nhờ rừng
Em và mẹ nhớ anh
Uống theo nguồn miền Bắc
Như bóng cây Kơ nia
Như gió cây Kơ nia.
Bài hát của Phan Thanh Nam
Bài hát Bóng cây Kơ-nia được nhạc sĩ Phan Thanh Nam phổ thơ Ngọc Anh trước ca khúc nổi tiếng hơn của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu. Bài hát khá nổi tiếng và được ca sĩ Tường Vi thể hiện thành công, đã được phát trên sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam. Ca khúc da diết tình cảm, nhiều cao trào, tuy nhiên giai điệu trúc trắc và hơi khó nghe nên sau này không được các ca sĩ thể hiện lại.
Bài hát của Phan Huỳnh Điểu
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sáng tác ca khúc này vào năm 1971 sau 6 năm công tác ở chiến trường miền Nam và Tây Nguyên. Ca khúc đầu tiên được NSƯT Măng Thị Hội (lúc này vẫn đang học tại Nhạc viện Hà Nội) thể hiện thành công và được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đánh giá là người thể hiện thành công nhất. Ca khúc ra đời đã được công chúng yêu thích và đón nhận. Sau này bài hát đã được nhiều nghệ sĩ khác thể hiện và được hát nhiều trong các cuộc thi Sao Mai, Tiếng hát truyền hình các địa phương...
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã dùng chất liệu âm nhạc dân gian Tây Nguyên tạo nên một ca khúc sâu lắng, trữ tình lúc tha thiết nhớ nhung (đoạn đầu), lúc thôi thúc dồn dập (đoạn sau), lúc vang vọng nhắn nhủ (đoạn kết) làm rung động biết bao người nghe. |
Mô liên kết là một trong bốn loại mô động vật cơ bản, cùng với mô biểu mô, mô cơ và mô thần kinh. Nó được phát triển từ trung bì. Mô liên kết được tìm thấy ở giữa các mô khác ở khắp mọi nơi trong cơ thể, kể cả hệ thần kinh. Trong hệ thần kinh trung ương, ba màng ngoài (màng não) bao bọc não và tủy sống bao gồm các mô liên kết. Chúng hỗ trợ và bảo vệ cơ thể. Tất cả các mô liên kết bao gồm ba thành phần chính: sợi (sợi đàn hồi và collagen), chất nền ngoại bào và tế bào. Không phải tất cả các cơ quan có máu hoặc bạch huyết là mô liên kết vì chúng thiếu thành phần sợi. Tất cả chúng đều nằm trong nước cơ thể.
Các tế bào của mô liên kết bao gồm các nguyên bào sợi, tế bào mỡ, đại thực bào, tế bào mast và bạch cầu.
Phân loại
Mô liên kết có thể được chia thành mô liên kết thích hợp và mô liên kết đặc biệt. Mô liên kết thích hợp bao gồm mô liên kết lỏng lẻo và mô liên kết dày đặc (được chia thành các mô liên kết dày đặc thường xuyên và bất thường). Mô liên kết lỏng lẻo và dày đặc được phân biệt bằng tỷ lệ chất nền cho mô sợi. Mô liên kết lỏng lẻo có nhiều chất nền và thiếu tương đối mô sợi, trong khi điều đó ngược lại với mô liên kết dày đặc. Mô liên kết dày đặc thường xuyên, được tìm thấy trong các cấu trúc như gân và dây chằng, được đặc trưng bởi các sợi collagen được sắp xếp theo một trật tự song song có trật tự, tạo cho nó độ bền kéo theo một hướng. Mô liên kết dày đặc bất thường cung cấp sức mạnh theo nhiều hướng bởi các bó sợi dày đặc được sắp xếp theo mọi hướng.
Mô liên kết đặc biệt bao gồm mô liên kết lưới, mô mỡ, sụn, xương và máu. Các loại mô liên kết khác bao gồm mô liên kết sợi, đàn hồi và bạch huyết. Mô liên kết vascularised mới hình thành trong quá trình chữa lành vết thương được gọi là mô hạt. Nguyên bào sợi là các tế bào chịu trách nhiệm sản xuất một số mô liên kết.
Collagen loại I có mặt ở nhiều dạng mô liên kết và chiếm khoảng 25% tổng hàm lượng protein trong cơ thể động vật có vú.
Đặc điểm
Đặc điểm của mô liên kết:
Các tế bào được trải trong một chất dịch ngoại bào.
Chất nền - một chất lỏng trong suốt, không màu và nhớt chứa glycosaminoglycans và proteoglycans để cố định nước cơ thể và các sợi collagen trong không gian tế bào. Chất nền làm chậm sự lây lan của mầm bệnh.
Sợi. Không phải tất cả các loại mô liên kết đều là sợi. Ví dụ về mô liên kết không sợi bao gồm mô mỡ và máu. Mô mỡ cho phép "đệm cơ học" vào cơ thể, cùng với các chức năng khác. Mặc dù không có mạng lưới collagen dày đặc trong mô mỡ, các nhóm tế bào mỡ được giữ lại với nhau bằng các sợi collagen và các tấm collagen để giữ mô mỡ dưới dạng nén tại chỗ (ví dụ, đế của bàn chân). Mạng liên kết của máu là huyết tương.
Cả chất nền ngoại bào và protein (sợi) tạo ra mạng liên kết cho mô liên kết. Các mô liên kết có nguồn gốc từ mesenchyme.
Các loại sợi:
Chức năng
Mô liên kết có nhiều chức năng phụ thuộc vào loại tế bào và các lớp sợi khác nhau có liên quan. Mô liên kết dày đặc bất thường và lỏng lẻo, được hình thành chủ yếu bởi nguyên bào sợi và sợi collagen, có vai trò quan trọng trong việc cung cấp môi trường oxy và chất dinh dưỡng để khuếch tán từ mao mạch đến tế bào và cacbon dioxide và chất thải khuếch tán từ các tế bào trở lại lưu thông. Chúng cũng cho phép các cơ quan chống lại các lực kéo dài và rách. Mô liên kết dày đặc thường xuyên, hình thành cấu trúc tổ chức, là thành phần chức năng chính của gân, dây chằng và aponeuroses và cũng được tìm thấy trong các cơ quan chuyên môn cao như giác mạc. Sợi đàn hồi, được tạo thành từ elastin và fibrillin, cung cấp sức đề kháng cho lực căng. Chúng được tìm thấy trong các thành của các mạch máu lớn và trong một số dây chằng, đặc biệt là trong ligamenta flava.
Trong các mô tạo máu và bạch huyết, các sợi lưới được tạo ra bởi các tế bào lưới cung cấp chất nền hoặc hỗ trợ cấu trúc - cho nhu mô - hoặc phần chức năng - của cơ quan.
Mesenchyme là một loại mô liên kết được tìm thấy trong việc phát triển các cơ quan của phôi có khả năng phân hóa thành tất cả các loại mô liên kết trưởng thành. Một loại mô liên kết không phân biệt tương đối khác là mô liên kết niêm mạc, được tìm thấy bên trong dây rốn.
Các loại mô và tế bào chuyên biệt khác nhau được phân loại theo phổ mô liên kết và đa dạng như mô mỡ màu nâu và trắng, máu, sụn và xương. Tế bào của hệ thống miễn dịch, chẳng hạn như đại thực bào, tế bào mast, các tế bào plasma và bạch cầu ưa eosin được tìm thấy nằm rải rác trong mô liên kết lỏng lẻo, cung cấp nền tảng để bắt đầu phản ứng viêm và miễn dịch khi phát hiện kháng nguyên. |
Cơ là một mô mềm có ở hầu hết các loài động vật. Tế bào cơ chứa các sợi protein actin và myosin trượt qua nhau, tạo ra sự co lại làm thay đổi cả chiều dài và hình dạng của tế bào. Cơ bắp có chức năng tạo ra lực và chuyển động. Chúng chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì và thay đổi tư thế, vận động, cũng như chuyển động của các cơ quan nội tạng, chẳng hạn như sự co bóp của tim và di chuyển thức ăn qua hệ tiêu hóa thông qua nhu động.
Các mô cơ có nguồn gốc từ lớp trung bì của tế bào mầm phôi trong một quá trình được gọi là quá trình sinh cơ. Có ba loại cơ, xương hoặc vân, tim và cơ trơn. Hoạt động của cơ có thể được phân loại là tự nguyện hoặc không tự nguyện. Cơ tim và cơ trơn co lại mà không cần suy nghĩ có ý thức và được gọi là không tự chủ, trong khi cơ xương co lại theo lệnh. Cơ xương lần lượt có thể được chia thành các sợi co giật nhanh và chậm.
Cơ bắp chủ yếu được cung cấp bởi quá trình oxy hóa chất béo và carbohydrate, nhưng các phản ứng hóa học kỵ khí cũng được sử dụng, đặc biệt là bởi các sợi co giật nhanh. Những phản ứng hóa học này tạo ra các phân tử adenosine triphosphate (ATP) được sử dụng để cung cấp năng lượng cho chuyển động của các đầu myosin.
Cấu trúc
Giải phẫu của cơ bao gồm giải phẫu tổng thể, bao gồm tất cả các cơ của một sinh vật và giải phẫu vi mô, bao gồm các cấu trúc của một cơ duy nhất.
Các loại
Mô cơ là một mô mềm, và là một trong bốn loại mô cơ bản có ở động vật. Có ba loại mô cơ được nhận biết ở động vật có xương sống:
Cơ xương hay "cơ tự nguyện" được gắn vào bởi các gân (hoặc bởi các aponeurose ở một vài vị trí) vào xương và được sử dụng để tác động đến chuyển động của xương như vận động và duy trì tư thế. Mặc dù kiểm soát tư thế này thường được duy trì như một phản xạ vô thức, các cơ chịu trách nhiệm phản ứng với kiểm soát có ý thức giống như các cơ không tư thế. Một nam giới trưởng thành trung bình chiếm 42% cơ xương và một nữ giới trưởng thành trung bình chiếm 36% (tính theo phần trăm khối lượng cơ thể).
Cơ trơn hoặc "cơ không tự nguyện" được tìm thấy trong thành của các cơ quan và cấu trúc như thực quản, dạ dày, ruột, phế quản, tử cung, niệu đạo, bàng quang, mạch máu và pili arrector trên da (trong đó nó kiểm soát sự cương cứng của lông trên cơ thể). Không giống như cơ xương, cơ trơn không chịu sự kiểm soát có ý thức.
Cơ tim (myocardium), cũng là một "cơ không tự nguyện" nhưng có cấu trúc giống cơ xương hơn và chỉ được tìm thấy ở tim.
Cơ tim và cơ xương "có vân" ở chỗ chúng chứa các sarcomeres được đóng gói thành các bó sắp xếp đều đặn; các myofibrils của tế bào cơ trơn không được sắp xếp thành các sarcome và do đó không có vân. Trong khi các sarcome ở cơ xương được sắp xếp thành các bó đều đặn, song song, các sarcome cơ tim kết nối theo các góc phân nhánh, không đều (được gọi là các đĩa xen kẽ). Cơ vân co lại và thư giãn trong các đợt ngắn, cường độ mạnh, trong khi cơ trơn duy trì các cơn co kéo dài hơn hoặc thậm chí gần như vĩnh viễn.
Các loại sợi cơ xương
Các sợi cơ nhúng trong cơ xương được phân loại tương đối thành nhiều loại do các đặc tính hình thái và sinh lý của chúng. Với một số loại đặc tính nhất định, sợi cơ được phân loại là co giật chậm (lực thấp, sợi mệt mỏi chậm), co giật nhanh (lực cao, sợi nhanh chóng mệt mỏi), hoặc nằm ở giữa hai loại đó (tức là sợi trung gian). Một số đặc tính hình thái và sinh lý xác định được sử dụng để phân loại sợi cơ bao gồm: số lượng ti thể chứa trong sợi, số lượng glycolytic, lipid và các enzym hô hấp tế bào khác, đặc điểm dải M và Z, nguồn năng lượng (tức là glycogen hoặc chất béo), màu sắc mô học, tốc độ và thời gian co lại. Lưu ý rằng không có quy trình tiêu chuẩn để phân loại các loại sợi cơ. Các đặc tính được chọn để phân loại phụ thuộc vào từng loại cơ cụ thể. Ví dụ, các đặc tính dùng để phân biệt sợi cơ nhanh, trung gian và chậm có thể khác nhau đối với cơ bay và nhảy của động vật không xương sống. Để làm phức tạp thêm sơ đồ phân loại này, hàm lượng ti thể và các đặc tính hình thái khác trong sợi cơ có thể thay đổi theo tập thể dục và tuổi tác.
Các loại sợi cơ xương có xương sống
Loại I, co giật chậm, hay cơ "đỏ", dày đặc các mao mạch và giàu ti thể và myoglobin, tạo cho mô cơ có màu đỏ đặc trưng. Nó có thể mang nhiều oxy hơn và duy trì hoạt động hiếu khí bằng cách sử dụng chất béo hoặc carbohydrate làm nhiên liệu. Các sợi co giật chậm co lại trong thời gian dài nhưng ít lực.
Loại II, cơ co giật nhanh, có ba loại phụ chính (IIa, IIx hoặc IIb) khác nhau về cả tốc độ co và lực tạo ra. Các sợi co giật nhanh co lại một cách nhanh chóng và mạnh mẽ nhưng mệt mỏi rất nhanh, chỉ duy trì được những đợt hoạt động kỵ khí ngắn trước khi sự co cơ trở nên đau đớn. Chúng đóng góp nhiều nhất vào sức mạnh cơ bắp và có khả năng tăng khối lượng lớn hơn. Loại IIA sợi là những sợi cơ bắp thịt trắng. Những sợi này có lượng máu chảy ít hơn, có độ chịu mệt mỏi vừa phải để mệt mỏi và có thể xử lý một lượng công việc vừa phải. Chúng cần glycogen làm nhiên liệu và tham gia vào hầu hết các loại hoạt động thể chất như bóng rổ, bóng chày và bóng đá. Loại IIb (hay còn gọi là IIx) là kỵ khí, glycolytic, cơ "trắng" có nghĩa là ít nhất dày đặc trong ty lạp thể và myoglobin. Ở động vật nhỏ (ví dụ, loài gặm nhấm), đây là loại cơ nhanh chính, có màu nhạt hơn nhưng không bằng loại IIa. Loại IIb thậm chí còn nhanh hơn và mạnh hơn loại IIa, được sử dụng cho các hoạt động trong thời gian rất ngắn đòi hỏi sức mạnh đáng kể. Nhưng hoạt động kém hiệu quả hơn, mệt mỏi rất nhanh. Chúng còn được biết đến dưới tên gọi "cơ lười" bởi nó khá phổ biến ở những người lười vận động. Những người này khi cần cũng có thể chạy nhanh hoặc nâng vật gì đó trong trường hợp khẩn cấp. Đây là lúc những sợi "cơ lười" có ích. Chúng hoạt động hiệu quả về mặt trao đổi chất khi nghỉ ngơi nhưng vẫn cho phép bạn phản ứng với kích thích nếu cần thiết. Nếu bạn tập luyện kháng lực hoặc tập sức bền, dù chỉ một chút, loại IIb (fast-twitch glycolytic) sẽ bị oxy hóa trở thành sợi IIa (fast-twitch oxidative glycolytic). Trong khoảng thời gian không hoạt động, chúng hoàn nguyên trở lại IIb.
Mật độ mô cơ xương của động vật có vú là khoảng 1,06 kg / lít. Điều này có thể được tương phản với mật độ của mô mỡ (chất béo), là 0,9196 kg / lít. Điều này làm cho mô cơ dày đặc hơn mô mỡ khoảng 15%.
Vi giải phẫu
Cơ xương được bao bọc bởi một lớp mô liên kết cứng được gọi là epimysium. Epimysium cố định mô cơ vào các gân ở mỗi đầu, ở đó epimysium trở nên dày hơn và có dạng keo. Nó cũng bảo vệ cơ bắp khỏi ma sát với các cơ và xương khác. Trong epimysium có nhiều bó được gọi là fascicles, mỗi bó chứa 10 đến 100 sợi cơ trở lên được bao bọc chung bởi một perimysium. Bên cạnh việc bao quanh mỗi lớp màng, màng bụng là đường dẫn cho các dây thần kinh và dòng máu trong cơ. Các sợi cơ giống như sợi chỉ là các tế bào cơ riêng lẻ (tế bào cơ), và mỗi tế bào được bao bọc trong lớp nội mạc của sợi collagen. Như vậy, tổng thể cơ bao gồm các sợi (tế bào) được bó lại thành các bó, chúng được nhóm lại với nhau để tạo thành cơ. Ở mỗi cấp độ bó, một màng collagenous bao quanh bó và những màng này hỗ trợ chức năng của cơ bằng cách chống lại sự kéo căng thụ động của mô và bằng cách phân phối lực tác dụng lên cơ. Nằm rải rác khắp các cơ là các trục cơ cung cấp thông tin phản hồi cảm giác cho hệ thần kinh trung ương. (Cấu trúc nhóm này tương tự như tổ chức của dây thần kinh sử dụng epineurium, perineurium và endoneurium).
Cấu trúc bó-trong-bó tương tự này được tái tạo trong các tế bào cơ. Trong các tế bào của cơ là các myofibrils, bản thân chúng là các bó sợi protein. Thuật ngữ "myofibril" không nên nhầm lẫn với "myofiber", đây chỉ đơn giản là một tên gọi khác của tế bào cơ. Myofibrils là những sợi phức tạp của một số loại sợi protein được tổ chức với nhau thành các đơn vị lặp lại được gọi là sarcomeres. Sự xuất hiện vân của cả cơ xương và cơ tim là kết quả của mô hình thường xuyên của các sarcomeres trong tế bào của chúng. Mặc dù cả hai loại cơ này đều chứa sarcomeres, các sợi trong cơ tim thường được phân nhánh để tạo thành một mạng lưới. Các sợi cơ tim được kết nối với nhau bằng các đĩa xen kẽ, tạo cho mô đó hình dạng của một hợp bào.
Các sợi trong sarcomere bao gồm actin và myosin.
Tổng giải phẫu
Giải phẫu tổng thể của cơ là chỉ số quan trọng nhất về vai trò của nó đối với cơ thể. Có một sự khác biệt quan trọng được thấy giữa cơ pennate và các cơ khác. Trong hầu hết các cơ, tất cả các sợi được định hướng theo cùng một hướng, chạy trên một đường thẳng từ điểm gốc đến điểm chèn. Tuy nhiên, trong cơ pennate, các sợi riêng lẻ được định hướng theo một góc so với đường hoạt động, gắn với điểm gốc và gân chèn ở mỗi đầu. Bởi vì các sợi co đang kéo theo một góc so với hoạt động tổng thể của cơ, sự thay đổi về chiều dài nhỏ hơn, nhưng cùng hướng này cho phép tạo ra nhiều sợi hơn (do đó nhiều lực hơn) trong một cơ có kích thước nhất định. Cơ pennate thường được tìm thấy ở nơi thay đổi chiều dài của chúng ít quan trọng hơn lực tối đa, chẳng hạn như cơ đùi trực tràng.
Cơ xương được sắp xếp thành các cơ rời rạc, một ví dụ của nó là cơ nhị đầu (bắp tay). Lớp biểu bì cứng, dạng sợi của cơ xương được kết nối và liên tục với các gân. Đến lượt mình, các gân kết nối với lớp màng xương bao quanh xương, cho phép truyền lực từ cơ đến khung xương. Cùng với nhau, các lớp sợi này, cùng với gân và dây chằng, tạo thành lớp đệm sâu của cơ thể.
Hệ cơ
Hệ thống cơ bao gồm tất cả các cơ có trong một cơ thể duy nhất. Có khoảng 650 cơ xương trong cơ thể con người, nhưng rất khó xác định một con số chính xác. Khó khăn một phần nằm ở chỗ, các nguồn khác nhau nhóm các cơ khác nhau và một phần ở chỗ một số cơ, chẳng hạn như palmaris longus, không phải lúc nào cũng xuất hiện.
Cơ trượt là một đoạn cơ dài hẹp có tác dụng nâng cơ lớn hơn hoặc các cơ lớn hơn.
Hệ thống cơ là một thành phần của hệ thống cơ xương, không chỉ bao gồm cơ mà còn cả xương, khớp, gân và các cấu trúc khác cho phép vận động.
Phát triển
Tất cả các cơ đều có nguồn gốc từ trung bì paraxial. Trung bì bán nguyệt được chia dọc theo chiều dài của phôi thành các đốt sống, tương ứng với sự phân đoạn của cơ thể (rõ ràng nhất là ở cột sống. Mỗi somite có 3 bộ phận, sclerotome (hình thành đốt sống), dermatome (hình thành da) và myotome (hình thành cơ). Myotome được chia thành hai phần, epimere và hypomere, tương ứng tạo thành cơ đỉnh và cơ dưới trục. Các chỉ cơ bắp epaxial ở người là spinae người dựng và cơ bắp intervertebral nhỏ, và được phân bố bởi các Rami lưng của dây thần kinh cột sống. Tất cả các cơ khác, bao gồm cả các cơ của các chi đều nằm dưới trục, và bị trơ bởi nhánh bụng của các dây thần kinh cột sống.
Trong quá trình phát triển, các nguyên bào cơ (tế bào tiền thân của cơ) hoặc vẫn ở trong mô đệm để tạo thành cơ liên kết với cột sống hoặc di chuyển ra ngoài cơ thể để tạo thành tất cả các cơ khác. Sự di cư của myoblast diễn ra trước sự hình thành của các khung mô liên kết, thường được hình thành từ trung bì tấm bên soma. Myoblasts theo các tín hiệu hóa học đến các vị trí thích hợp, nơi chúng hợp nhất thành các tế bào cơ xương kéo dài.
Sinh lý học
Sự co lại
Ba loại cơ (cơ xương, cơ tim và cơ trơn) có sự khác biệt đáng kể. Tuy nhiên, cả ba đều sử dụng chuyển động của actin chống lại myosin để tạo ra sự co lại. Trong cơ xương, sự co lại được kích thích bởi các xung điện truyền từ các dây thần kinh, đặc biệt là các motoneurons (dây thần kinh vận động). Các cơn co thắt cơ tim và cơ trơn được kích thích bởi các tế bào tạo nhịp tim bên trong thường xuyên co bóp và truyền các cơn co thắt đến các tế bào cơ khác mà chúng tiếp xúc. Tất cả các cơ xương và nhiều cơ trơn co bóp đều được tạo điều kiện thuận lợi bởi chất dẫn truyền thần kinh acetylcholine
Hành động mà cơ tạo ra được xác định bởi điểm gốc và vị trí chèn. Diện tích mặt cắt ngang của cơ (chứ không phải thể tích hoặc chiều dài) xác định lực mà nó có thể tạo ra bằng cách xác định số lượng "sarcomeres" có thể hoạt động song song. Mỗi cơ xương chứa các đơn vị dài được gọi là myofibrils, và mỗi myofibril là một chuỗi các sarcomeres. Vì sự co thắt xảy ra đồng thời đối với tất cả các sarcome được kết nối trong tế bào cơ, các chuỗi sarcome này ngắn lại với nhau, do đó làm ngắn sợi cơ, dẫn đến thay đổi chiều dài tổng thể. Lực tác dụng lên môi trường bên ngoài được xác định bởi cơ học đòn bẩy, cụ thể là tỷ lệ giữa đòn bẩy trong và đòn bẩy ngoài. Ví dụ: di chuyển điểm chèn của bắp tay ra xa hơn trên bán kính (xa khớp xoay hơn) sẽ làm tăng lực tạo ra trong quá trình uốn (và kết quả là trọng lượng tối đa được nâng trong chuyển động này), nhưng giảm tối đa tốc độ uốn. Di chuyển điểm chèn đến gần (gần khớp quay) sẽ làm giảm lực nhưng tăng vận tốc. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy nhất bằng cách so sánh chi của chuột chũi với con ngựa — trước đây, điểm chèn được đặt để tối đa hóa lực (để đào), trong khi ở sau, điểm chèn được đặt để tối đa hóa tốc độ (để chạy).
Kiểm soát thần kinh
Các chân ly tâm của hệ thần kinh ngoại vi có trách nhiệm truyền đạt mệnh lệnh cho cơ bắp và các tuyến, và cuối cùng chịu trách nhiệm về chuyển động tự nguyện. Các dây thần kinh vận động các cơ để phản ứng với các tín hiệu tự nguyện và tự chủ (không tự nguyện) từ não. Các cơ sâu, cơ bề ngoài, cơ mặt và cơ bên trong đều tương ứng với các vùng chuyên dụng trong vỏ não vận động chính của não, trực tiếp trước vỏ trung tâm, nơi phân chia thùy trán và thùy đỉnh.
Ngoài ra, các cơ phản ứng với các kích thích thần kinh theo phản xạ không phải lúc nào cũng gửi tín hiệu đến não. Trong trường hợp này, tín hiệu từ sợi hướng tâm không đến não, nhưng tạo ra chuyển động phản xạ bằng các kết nối trực tiếp với các dây thần kinh hướng tâm ở cột sống. Tuy nhiên, phần lớn các hoạt động của cơ là theo chủ đề và là kết quả của sự tương tác phức tạp giữa các vùng khác nhau của não.
Các dây thần kinh điều khiển cơ xương ở động vật có vú tương ứng với các nhóm tế bào thần kinh dọc theo vỏ vận động sơ cấp của vỏ não. Các lệnh được chuyển qua hạch nền và được sửa đổi bởi đầu vào từ tiểu não trước khi được chuyển tiếp qua đường kim tự tháp đến tủy sống và từ đó đến tấm cuối vận động ở cơ. Trên đường đi, phản hồi, chẳng hạn như phản hồi của hệ thống ngoại tháp đóng góp tín hiệu để ảnh hưởng đến phản ứng và trương lực cơ.
Các cơ sâu hơn như những cơ liên quan đến tư thế thường được kiểm soát từ các nhân trong thân não và hạch nền.
Cảm nhận trạng thái
Trong cơ xương, các trục cơ truyền thông tin về mức độ dài và căng của cơ tới hệ thần kinh trung ương để hỗ trợ duy trì tư thế và vị trí khớp. Ý thức về vị trí của cơ thể chúng ta trong không gian được gọi là proprioception, nhận thức về nhận thức cơ thể, nhận thức "vô thức" về vị trí của các vùng khác nhau trên cơ thể tại một thời điểm. Một số khu vực trong não phối hợp chuyển động và vị trí với thông tin phản hồi thu được từ sự khởi đầu. Tiểu não và nhân đỏ nói riêng liên tục lấy mẫu vị trí chống lại chuyển động và thực hiện các chỉnh sửa nhỏ để đảm bảo chuyển động trơn tru.
Tiêu thụ năng lượng
Hoạt động của cơ bắp chiếm nhiều năng lượng tiêu hao của cơ thể. Tất cả các tế bào cơ đều tạo ra các phân tử adenosine triphosphate (ATP) được sử dụng để cung cấp năng lượng cho chuyển động của các đầu myosin. Cơ bắp có một kho năng lượng ngắn hạn dưới dạng creatine phosphate, được tạo ra từ ATP và có thể tái tạo ATP khi cần thiết với creatine kinase. Cơ bắp cũng giữ một dạng dự trữ của glucose dưới dạng glycogen. Glycogen có thể nhanh chóng được chuyển đổi thành glucose khi cần năng lượng để duy trì các cơn co thắt mạnh mẽ. Trong cơ xương tự nguyện, phân tử glucose có thể được chuyển hóa kỵ khí trong một quá trình được gọi là đường phân tạo ra hai ATP và hai phân tử axit lactic trong quá trình này (lưu ý rằng trong điều kiện hiếu khí, lactate không được hình thành; thay vào đó pyruvate được hình thành và truyền qua chu trình axit xitric). Các tế bào cơ cũng chứa các giọt chất béo, được sử dụng để tạo năng lượng trong quá trình tập thể dục nhịp điệu. Các hệ thống năng lượng hiếu khí mất nhiều thời gian hơn để tạo ra ATP và đạt hiệu suất cao nhất, và đòi hỏi nhiều bước sinh hóa hơn, nhưng tạo ra nhiều ATP hơn đáng kể so với quá trình đường phân kỵ khí. Mặt khác, cơ tim có thể dễ dàng tiêu thụ bất kỳ chất dinh dưỡng đa lượng nào trong số ba chất dinh dưỡng đa lượng (protein, glucose và chất béo) mà không cần thời gian 'khởi động' và luôn chiết xuất năng suất ATP tối đa từ bất kỳ phân tử nào liên quan. Tim, gan và các tế bào hồng cầu cũng sẽ tiêu thụ axit lactic do cơ xương sản xuất và đào thải ra ngoài khi vận động.
Khi nghỉ ngơi, cơ xương tiêu thụ 54,4 kJ / kg (13.0 kcal / kg) mỗi ngày. Con số này lớn hơn mô mỡ (chất béo) ở mức 18,8 kJ / kg (4,5 kcal / kg), và xương là 9,6 kJ / kg (2,3 kcal / kg).
Hiệu quả
Hiệu quả của cơ bắp của con người đã được đo lường (trong bối cảnh chèo thuyền và đạp xe) ở mức 18% đến 26%. Hiệu suất được định nghĩa là tỷ lệ giữa sản lượng công việc cơ học trên tổng chi phí trao đổi chất, có thể được tính toán từ mức tiêu thụ oxy. Hiệu suất thấp này là kết quả của khoảng 40% hiệu suất tạo ATP từ năng lượng thực phẩm, tổn thất trong chuyển đổi năng lượng từ ATP thành công cơ học bên trong cơ và tổn thất cơ học bên trong cơ thể. Hai tổn thất sau phụ thuộc vào loại bài tập và loại sợi cơ được sử dụng (co giật nhanh hay co giật chậm). Đối với hiệu suất tổng thể là 20 phần trăm, một watt công suất cơ học tương đương với 4,3 kcal mỗi giờ. Ví dụ: một nhà sản xuất thiết bị chèo thuyền hiệu chỉnh công cụ kế chèo để đếm lượng calo bị đốt cháy bằng bốn lần công cơ học thực tế, cộng với 300 kcal mỗi giờ, điều này tương đương với hiệu suất khoảng 20% ở công suất cơ học 250 watt. Sản lượng năng lượng cơ học của sự co cơ theo chu kỳ có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm thời gian kích hoạt, quỹ đạo căng cơ và tốc độ tăng & giảm lực. Chúng có thể được tổng hợp bằng thực nghiệm bằng cách sử dụng phân tích vòng lặp công việc.
Sức mạnh
Cơ bắp là kết quả của ba yếu tố chồng lên nhau: sức mạnh sinh lý (kích thước cơ, diện tích mặt cắt ngang, khả năng bắt chéo có sẵn, phản ứng khi luyện tập), sức mạnh thần kinh (mức độ mạnh hay yếu là tín hiệu báo cho cơ co lại) và sức mạnh cơ học (góc lực của cơ trên đòn bẩy, chiều dài cánh tay đòn, khả năng của khớp).
Sức mạnh sinh lý
Cơ của động vật có xương sống thường tạo ra lực khoảng 25–33 N (5,6–7,4 lbf) trên một cm vuông của diện tích mặt cắt ngang của cơ khi nằm ngang và ở chiều dài tối ưu. Một số cơ của động vật không xương sống, chẳng hạn như ở càng cua, có sarcomeres dài hơn nhiều so với động vật có xương sống, dẫn đến nhiều vị trí hơn để liên kết actin và myosin và do đó lực lớn hơn nhiều trên mỗi cm vuông với chi phí là tốc độ chậm hơn nhiều. Lực tạo ra bởi một cơn co thắt có thể được đo không xâm lấn bằng cách sử dụng máy đo cơ học hoặc máy đo phonomyography, được đo in vivo bằng cách sử dụng sức căng của gân (nếu có gân nổi) hoặc được đo trực tiếp bằng các phương pháp xâm lấn hơn.
Sức mạnh của bất kỳ cơ nhất định nào, về lực tác động lên khung xương, phụ thuộc vào chiều dài, tốc độ rút ngắn, diện tích mặt cắt ngang, pennation, chiều dài sarcomere, đồng dạng myosin và kích hoạt thần kinh của các đơn vị vận động. Sự giảm đáng kể sức mạnh cơ bắp có thể chỉ ra bệnh lý tiềm ẩn, với biểu đồ ở bên phải được sử dụng làm hướng dẫn.
Cơ mạnh nhất ở người
Vì ba yếu tố ảnh hưởng đến sức mạnh cơ bắp đồng thời và các cơ không bao giờ hoạt động riêng lẻ, nên thật sai lầm khi so sánh sức mạnh của các cơ riêng lẻ và nói rằng cơ nào là "mạnh nhất". Nhưng dưới đây là một số cơ có sức mạnh đáng chú ý vì những lý do khác nhau.
Theo cách nói thông thường, "sức mạnh" cơ bắp thường đề cập đến khả năng tác động một lực lên một vật thể bên ngoài — ví dụ, nâng một vật nặng. Theo định nghĩa này, masseter hoặc cơ hàm là mạnh nhất. Sách kỷ lục Guinness năm 1992 ghi lại thành tích của lực cắn là 4,337 N (975 lbf) trong 2 giây. Điều khác biệt của máy masseter không phải là bất cứ điều gì đặc biệt về bản thân cơ mà là lợi thế của nó khi hoạt động với cánh tay đòn ngắn hơn nhiều so với các cơ khác.
Nếu "sức mạnh" đề cập đến lực do chính cơ tác động, ví dụ, lên vị trí mà nó chèn vào xương, thì cơ mạnh nhất là cơ có diện tích mặt cắt ngang lớn nhất. Điều này là do sức căng của từng sợi cơ xương không thay đổi nhiều. Mỗi sợi có thể tác dụng một lực theo bậc 0,3 micronewton. Theo định nghĩa này, cơ mạnh nhất của cơ thể thường được cho là cơ tứ đầu đùi hoặc cơ mông tối đa.
Bởi vì sức mạnh của cơ được xác định bởi diện tích mặt cắt ngang, cơ ngắn hơn sẽ mạnh hơn "cân đối với pound" (tức là theo trọng lượng) so với cơ dài hơn có cùng diện tích. Lớp myometrial của tử cung có thể là cơ mạnh nhất theo trọng lượng của cơ thể phụ nữ. Vào thời điểm sinh nở, toàn bộ tử cung của con người nặng khoảng 1,1 kg (40 oz). Trong quá trình sinh nở, tử cung tạo lực từ 100 đến 400 N (25 đến 100 lbf) hướng xuống sau mỗi lần co thắt.
Các cơ bên ngoài của mắt rõ ràng là lớn và khỏe liên quan đến kích thước nhỏ và trọng lượng của nhãn cầu. Người ta thường nói rằng chúng là "cơ bắp khỏe nhất cho công việc chúng phải làm" và đôi khi được khẳng định là "mạnh hơn gấp 100 lần so với mức chúng cần." Tuy nhiên, các chuyển động của mắt (đặc biệt là các chuyển động của mắt được sử dụng để quét và đọc trên khuôn mặt) đòi hỏi các chuyển động tốc độ cao và các cơ mắt được vận động hàng đêm trong giấc ngủ mắt chuyển động nhanh.
Tuyên bố "lưỡi là cơ khỏe nhất trong cơ thể" xuất hiện thường xuyên trong danh sách các sự thật đáng ngạc nhiên, nhưng rất khó để tìm ra định nghĩa nào về "sức mạnh" có thể làm cho câu nói này đúng. Lưu ý rằng lưỡi bao gồm tám cơ chứ không phải một.
Trái tim được khẳng định là cơ thực hiện khối lượng lớn nhất các hoạt động thể chất trong suốt cuộc đời. Ước tính sản lượng điện của tim người nằm trong khoảng từ 1 đến 5 watt. Đây là ít hơn nhiều so với sản lượng điện tối đa của các cơ khác; ví dụ, cơ tứ đầu có thể tạo ra hơn 100 watt, nhưng chỉ trong vài phút. Trái tim hoạt động liên tục trong suốt cuộc đời không ngừng nghỉ, và do đó, "làm việc" nhiều hơn các cơ khác. Công suất một watt liên tục trong tám mươi năm sẽ tạo ra tổng sản lượng công việc là hai gigajoules rưỡi. |
Mô thần kinh gồm các tế bào thần kinh gọi là neuron và các tế bào thần kinh đệm (còn gọi là thần kinh giao) (neuroglia).
Neuron gồm có thân chứa nhân, từ thân phát đi nhiều tua ngắn phân nhánh gọi là sợi nhánh và một tua dài gọi là sợi trục. Diện tiếp xúc giữa đầu mút của sợi trục ở nơron này với nơron kế tiếp hoặc cơ quan phản ứng gọi là synapse.
Thân nơron chứa nhân và phần lớn bào tương. Hình dạng và kích thước của thân nơron cũng như số lượng và cách sắp xếp các nhánh nơron rất thay đổi. Thân có hình đa giác với mỗi góc là nơi xuất phát ra một nhánh nơron. Nhân lớn, sáng, chứa ít chất dị nhiễm sắc, có nhiều hạch nhân to.Trong bào tương có nhiều cấu trúc ưa base, gọi là các thể Nissl.
Chức năng của mô thần kinh là tiếp nhận kích thích, xử lý thông tin và điều hòa hoạt động các cơ quan đảm bảo sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan và sự thích ứng với môi trường.
Về nguồn gốc, mô thần kinh được hình thành từ ngoại bì phôi
Neuron là tế bào tạo nên truyền đi và biến đổi các luồng thần kinh. |
Sắp xếp nhanh (Quicksort), còn được gọi là sắp xếp kiểu phân chia (part sort) là một thuật toán sắp xếp phát triển bởi C.A.R. Hoarec sắp thành hai danh sách con. Khác với sắp xếp trộn, chia danh sách cần sắp xếp thành hai danh sách con có kích thước tương đối bằng nhau nhờ chỉ số đứng giữa danh sách, sắp xếp nhanh chia nó thành hai danh sách bằng cách so sánh từng phần tử của danh sách với một phần tử được chọn được gọi là phần tử chốt. Những phần tử nhỏ hơn hoặc bằng phần tử chốt được đưa về phía trước và nằm trong danh sách con thứ nhất, các phần tử lớn hơn chốt được đưa về phía sau và thuộc danh sách đứng sau. Cứ tiếp tục chia như vậy tới khi các danh sách con đều có độ dài bằng 1.
Phần tử chốt (pivot)
Kỹ thuật chọn phần tử chốt ảnh hưởng khá nhiều đến khả năng rơi vào các vòng lặp vô hạn đối với các trường hợp đặc biệt. Tốt nhất là chọn phần tử chốt là trung vị của danh sách. Khi đó sau lần phân chia ta sẽ đạt tới kích thước danh sách bằng 1. Tuy nhiên điều đó rất khó. Có các cách chọn phần tử chốt như sau:
Chọn phần tử đứng đầu hoặc đứng cuối làm phần tử chốt.
Chọn phần tử đứng giữa danh sách làm phần tử chốt.
Chọn phần tử trung vị trong 3 phần tử đứng đầu, đứng giữa và đứng cuối làm phần tử chốt.
Chọn phần tử ngẫu nhiên làm phần tử chốt. (Cách này có thể dẫn đến khả năng rơi vào các trường hợp đặc biệt)
Thuật phân chia
Sau khi phần tử chốt được chọn giải thuật phân chia nên tiến hành như thế nào?
Một giải pháp đơn giản nhất cho vấn đề này là duyệt từ đầu đến cuối lần lượt so sánh các phần tử của danh sách với phần tử chốt. Theo cách này, ta phải tiến hành n phép so sánh, ngoài ra còn phải dành n đơn vị bộ nhớ để lưu giữ các giá trị trung gian.
Một giải pháp khác được đề nghị là duyệt theo hai đường. Một đường từ đầu danh sách, một đường từ cuối danh sách. Theo cách này, ta tìm phần tử đầu tiên tính từ trái lớn hơn phần tử chốt và phần tử đầu tiên phía phải nhỏ hơn hoặc bằng phần tử chốt rồi đổi chỗ cho nhau. Tiếp tục như vậy cho đến khi hai đường gặp nhau.
Để có thể gọi đệ quy ta xét bài toán phân chia một danh sách con của a: thành hai danh sách.
Ví dụ
Trong ví dụ sau đây ta luôn chọn phần tử chốt là phần tử đứng giữa danh sách với chỉ số của phần tử chốt được chọn là
Do ngẫu nhiên, phần tử chốt là phần tử lớn nhất trong dãy, ta tìm từ trái sang phải không có phần tử nào lớn hơn phần tử chốt, do đó ta đổi phần tử chốt với phần tử cuối cùng, danh sách được chia thành hai danh sách con và
Việc phân chia tiếp tục với danh sách con. Phần tử chốt được chọn là a[4]=1. Từ trái sang phải tìm được phần tử đầu tiên lớn hơn là , từ phải sang phần tử đầu tiên <=1 là chính a[4]. Đổi chố hai phần tử này
Đi tiếp sang phải ta được , ở phía ngược lại đi tiếp sang trái tìm được phần tử nhỏ hơn hoặc bằng chốt là chính nhưng lúc này hai đường đã chạm nhau nên ta không đổi nữa. Do vậy được phân chia thành hai danh sách con và
Tiếp tục phân chia với phần tử chốt 2 ta được
Tiếp tục phân chia với phần tử chốt ta được
Tiếp tục phân chia với phần tử chốt và với phần tử chốt ta được
Mã giả
Thủ tục phân chia
// left là chỉ số của phần tử đầu tiên của mảng
// right là chỉ số của phần tử cuối cùng của mảng
// số phần tử của mảng = right-left+1
function partition(array, 'left', 'right', 'pivotIndex')
1.'pivotValue':= array['pivotIndex']
2.swap array['pivotIndex'] and array['right'] // Move pivot to end
3.'storeIndex':= 'left'
4.for 'i' from 'left' to 'right'-1 // left ≤ i < right
1.if array['i'] < 'pivotValue'
1.swap array['i'] and array['storeIndex']
2.'storeIndex':= 'storeIndex' + 1
5.swap array['storeIndex'] and array['right'] // Move pivot to its final place
6.return 'storeIndex'
Quick sort đệ quy
function quicksort(array, 'left', 'right')
// If the list has 2 or more items
if 'left' < 'right'
// See "Choice of pivot" section below for possible choices
choose any 'pivotIndex' such that 'left' ≤ 'pivotIndex' ≤ 'right'
// Get lists of bigger and smaller items and final position of pivot
'pivotNewIndex':= partition(array, 'left', 'right', 'pivotIndex')
// Recursively sort elements smaller than the pivot
quicksort(array, 'left', 'pivotNewIndex' - 1)
// Recursively sort elements at least as big as the pivot
quicksort(array, 'pivotNewIndex' + 1, 'right')
Quick sort đệ quy có sử dụng cấu trúc dữ liệu C:
#include<stdio.h>
#include<conio.h>
typedef int keytype;
typedef struct{
keytype key;
}recordtype;
void Swap(recordtype *x, recordtype *y){
recordtype temp;
temp = *x;
*x = *y;
*y = temp;
}
int FindPivot(recordtype a[],int i, int j){
keytype firstkey;
int k;
k=i+1;
firstkey = a[i].key;
while((k<=j)&&(a[k].key==firstkey))
k++;
if(k>j)
return -1;
else
if((a[k].key > firstkey))
return k;
else
return i;
}
int Partition(recordtype a[],int i, int j, keytype pivot){
int L, R;
L=i;
R=j;
while(L<=R){
while (a[L].key < pivot) L++;
while (a[R].key > pivot) R--;
if (L < R) Swap(&a[L], &a[R]);
}
return L;
}
void QuickSort (recordtype a[], int i, int j){
keytype pivot;
int pivotindex, k;
pivotindex = FindPivot(a,i, j);
if (pivotindex != -1){
pivot = a[pivotindex].key;
k = Partition(a, i, j, pivot);
QuickSort(a, i, k-1);
QuickSort(a, k, j);
}
}
int main(){
int n,i;
recordtype a[50];
printf("nhap n: ");
scanf("%d",&n);
for(i=0;i<n;i++){
printf("nhap phan tu: ");
scanf("%d",&a[i].key);
}
QuickSort(a, 0, n-1);
for(i= 0;i<n;i++){
printf(" --- %d",a[i].key);
}
return 0;
}
Khử đệ quy
Nhiều người cho rằng việc khử đệ quy của sắp xếp nhanh thực ra không cần thiết, nó chỉ có tác dụng cho những người mới tiếp cận khoa học máy tính hiểu sâu sắc hơn về khái niệm đệ quy. Bản chất của các giải thuật đệ quy là lưu trữ các tham biến đệ quy vào một ngăn xếp (stack) để lần lượt lấy ra xử lý.
Khi khử đệ quy của giải thuật đệ quy, mỗi lần phân chia danh sách thành 2 danh sách con ta lưu trữ các tham số của danh sách đứng sau vào một ngăn xếp, rồi phân chia tiếp danh sách đứng trước.
Giải thuật đơn giản nhất để khử đệ quy của sắp xếp nhanh như sau:
Procedure QuickSort(a[1..n]) {
Var list S, E; Int m:=1
S(m):=1; E(m):= n;
While m>0 {
k=S(m); l=E(m)
m:=m-1;
if l<k then {
i=Part(k,l);
m=m+1;
S(m):=i+1
E(m):=l
}
}
}
Ưu điểm của sắp xếp nhanh không đệ quy nằm ở những cải tiến của giải thuật trên đây. Có thể cải tiến theo những hướng sau: Cất vào ngăn xếp danh sách con ít phần tử hơn trong hai danh sách con và đối với các danh sách con có độ dài đủ nhỏ thì dùng một phương pháp sắp xếp sơ cấp (chẳng hạn sắp xếp chèn).
Quick sort chia ba
Một phương pháp chia khác là chia danh sách thành 3 danh sách con, lần lượt nhỏ hơn, bằng và lớn hơn phần tử chốt.
function quicksort(a)
Var list less, equal, greater
if length(a) ≤ 1
return a
else
select a pivot value pivot from a
for each x in a
if x < pivot then add x to less
if x = pivot then add x to equal
if x > pivot then add x to greater
return concatenate(quicksort(less), equal, quicksort(greater)) |
Trong nghệ thuật biểu diễn ca hát, khi hát từ 2 người trở lên (song ca, tốp ca, đồng ca và hợp xướng), người ta có thể hát bè. Thông thường, hát bè bao giờ cũng có bè chính và bè phụ họa. Các giọng hát của các bè cùng vang lên, có lúc tiết tấu giống nhau, có lúc khác nhau. Mỗi bè tuy có sự độc lập nhất định nhưng phải kết hợp hòa quyện chặt chẽ với nhau, bè phụ hỗ trợ cho bè chính để tạo nên những âm thanh đầy đặn, nhiều màu vẻ.Trong nghệ thuật hát bè, có kiểu hát bè "hòa âm" và hát bè "phức điệu". Người ta có thể hát từ 2 bè đến 4,5 bè,... Dù hát kiểu nào thì sự hòa hợp âm thanh vẫn là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá cách trình diễn đầy tính nghệ thuật này.
- bè ''phức điệu'' là người hát trước, người hát sau (hay còn gọi là hát đuổi).
Người ta chia giọng hát thành các loại như sau:
+ Giọng nữ cao
+ Giọng nữ trung
+ Giọng nữ trầm
+ Giọng nam cao
+ Giọng nam trung
+ Giọng nam trầm
Từ các loại giọng hát, người ta đã tạo ra các hình thức hát 2 bè, 3 bè, 4 bè. Trên cơ sở giọng hát và cách phân chia bè hát, có thể xây dựng dàn hợp xướng các kiểu;
+ Hợp xướng giọng nữ
+ Hợp xướng giọng nam
+ Hợp xướng giọng nam và nữ
+ Hợp xướng thiếu nhi
- bè ''hòa âm'' là nhiều người hát cùng lúc nhưng khác cao độ.
bè quãng 8: dễ nhất, hát thấp // cao hơn hẳn 1 quãng 8 so với giọng chính. Thường là hát khi song ca nam + nữ.
bè quãng 5, bè quãng 3: Nếu bè quãng 3 thì luôn giữ giọng bè cao hơn giọng chính 1 quãng 3, và quãng 5 tương tự. Cũng tương tự với các bè thấp hơn.
Lưu ý: vì bè phải tuân theo hợp âm nên một số trường hợp ko thể luôn giữ bè cao hơn / thấp hơn 1 quãng 3 hay quãng 5 được.
Ví dụ: giả sử vòng hợp âm Am, Dm, G
Giai điệu chính: | A E | F E | D
bè quãng 3: sẽ là | C G | A G | F
như thế vấn đề nảy sinh ở note F: note này ko phù hợp với vòng hợp âm, vì G bao gồm G, B, D. Buộc phải xử lý bằng cách đẩy F lên hoặc xuống, tốt nhất là về G.
bè tùy ý theo một giai điệu biệt lập.ví dụ trên có thể bè là: | C C | D C | B chẳng hạn, cách này thì rất phong phú, tùy mỗi người, nhìn chung đòi hỏi xác định quãng trong hợp âm rất tốt và tai nghe hợp âm tốt. |
Việt Nam có thể chỉ chính thể hiện tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc nằm trong tên gọi của các chính thể cận đại trước đây:
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945-1976)
Việt Nam Cộng hòa (1956-1975)
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1969-1976)
Quốc gia Việt Nam (1949-1955)
Nam Việt một quốc gia được lãnh đạo bởi nhà Triệu tồn tại trong giai đoạn 203 TCN – 111 TCN
Đế quốc Việt Nam (1945)
Đại Việt
Các tên gọi của nước Việt Nam |
Thanh Hóa là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Thanh Hóa, Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Đây là đô thị loại I trực thuộc tỉnh, giữ vai trò là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục và khoa học – kỹ thuật của tỉnh Thanh Hóa. Không chỉ là "trái tim" của một trong những tỉnh thuộc hàng lớn nhất cả nước, thành phố Thanh Hóa còn là một trong ba trung tâm lớn của khu vực Bắc Trung Bộ, cùng với các thành phố Vinh và Huế. Đô thị Thanh Hóa (gồm thành phố Thanh Hóa và huyện Đông Sơn) đã được quy hoạch trở thành một trong những trung tâm kinh tế – xã hội của vùng Bắc Trung Bộ và vùng phía nam Bắc Bộ; là đầu mối giao lưu của tỉnh Thanh Hóa với cả nước và quốc tế; có vị trí quan trọng về quốc phòng – an ninh; phát triển mạnh dịch vụ và công nghiệp, nhất là dịch vụ chất lượng cao; phát triển du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, phát huy bản sắc văn hóa Xứ Thanh. Thành phố Thanh Hóa phấn đấu đến năm 2030 trở thành một trong năm thành phố thuộc tỉnh dẫn đầu cả nước, đến năm 2045 trở thành thành phố thông minh, văn minh, hiện đại, thu nhập cao.
Thành phố Thanh Hóa ban đầu là một thành phố cấp III (thành phố trực thuộc tỉnh) do người Pháp thành lập năm 1929, sau Cách mạng Tháng Tám thì chuyển thành thị xã Thanh Hóa. Qua quá trình phát triển và mở rộng, thành phố Thanh Hóa được thành lập vào ngày 1 tháng 5 năm 1994 và được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày 29 tháng 4 năm 2014. Thành phố Thanh Hóa là đô thị trẻ, nằm hai bên bờ sông Mã thuộc vùng đồng bằng rộng thứ ba cả nước; có vị trí, cảnh quan sinh thái thuận lợi, khí hậu ôn hòa. Thành phố cách thành phố biển Sầm Sơn 16 km về phía tây, cách sân bay Thọ Xuân 35 km về phía đông, cách khu kinh tế Nghi Sơn 60 km về phía bắc; có các tuyến quốc lộ 1, 10, 45, 47 và đường sắt Thống Nhất chạy qua, nằm gần tuyến cao tốc Bắc – Nam, tạo thành một mạng lưới giao thông đa dạng và thuận tiện. Nhờ đó, thành phố Thanh Hóa đã trở thành trung tâm của tỉnh Thanh Hóa, đồng thời ở vào vị thế thuận lợi trong việc giao thương với tất cả các địa phương trong cả nước.
Lịch sử
Xem thêm: Trấn thành Thanh Hóa
Nguồn gốc thành phố Thanh Hóa
Năm 1804, vua Gia Long ra chỉ dụ dời trấn thành Thanh Hóa từ làng Dương Xá (xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa), nay là phường Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa về làng Thọ Hạc (huyện Đông Sơn), gọi là Hạc thành. Ngày 22 tháng 7 năm 1889, vua Thành Thái ký đạo dụ thành lập thị xã Thanh Hóa bao gồm 7 làng: Đức Thọ Vạn, Cẩm Bào Nội, Cốc Hạ, Phủ Cốc (thuộc tổng Bố Đức, huyện Đông Sơn); Thọ Hạc, Đông Phố, Nam Phố (thuộc tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn), dưới quyền quản lý của viên công sứ Pháp Lebrun (1888? - 1890)
Ngày 29 tháng 5 năm 1929, người Pháp quyết định thành lập thành phố Thanh Hóa, là một thành phố cấp III, do viên công sứ Pháp lúc này là P. Dupuy (1929 - 1931) đứng đầu. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chuyển thành thị xã Thanh Hóa.
Thời kỳ hiện đại
Ngày 16 tháng 3 năm 1963, xã Đông Giang (gồm 3 làng Nghĩa Phương, Đông Sơn và Nam Ngạn) thuộc huyện Đông Sơn và xóm Núi xã Hoằng Long, huyện Hoằng Hóa sáp nhập vào thị xã. Ngày 28 tháng 8 năm 1971, 3 xã Đông Vệ, Đông Hương, Đông Hải thuộc huyện Đông Sơn và xã Quảng Thắng thuộc huyện Quảng Xương sáp nhập vào thị xã. Sau năm 1975, thị xã Thanh Hóa có 7 phường: Ba Đình, Điện Biên, Hàm Rồng, Lam Sơn, Nam Ngạn, Ngọc Trạo, Phú Sơn và 5 xã: Đông Hải, Đông Hương, Đông Thọ, Đông Vệ, Quảng Thắng. Lần lượt năm 1991 và 1993, thị xã Thanh Hóa được xếp vào đô thị loại IV và loại III.
Để phát huy và nâng cao vai trò, vị thế của trung tâm tỉnh lỵ của một tỉnh thuộc hàng lớn nhất cả nước, ngày 1 tháng 5 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 37/CP nâng cấp thị xã Thanh Hóa lên thành phố Thanh Hóa với 12 phường, xã, tổng diện tích tự nhiên 57,8 km², dân số gần 200.000 người.
Ngày 28 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ra Nghị định số 55-CP thành lập một số phường thuộc thành phố Thanh Hóa, chuyển 2 xã Đông Thọ và Đông Vệ thành 2 phường có tên tương ứng; chia xã Đông Hải thành xã Đông Hải và phường Đông Sơn; chia phường Nam Ngạn thành 2 phường: Nam Ngạn và Trường Thi.
Ngày 6 tháng 12 năm 1995, Chính phủ ra Nghị định số 85-CP điều chỉnh địa giới để mở rộng thành phố Thanh Hóa, sáp nhập xã Đông Cương thuộc huyện Đông Sơn, các xã Quảng Thành, Quảng Hưng và một phần đất của xã Quảng Thịnh (sáp nhập vào phường Đông Vệ) thuộc huyện Quảng Xương vào thành phố, nâng tổng số phường xã lên 17 phường xã.
Ngày 11 tháng 4 năm 2002, Chính phủ ra Nghị định 44/2002/NĐ-CP chia phường Phú Sơn thành 2 phường là Phú Sơn và Tân Sơn. Ngày 29 tháng 4 năm 2004, thành phố Thanh Hóa được công nhận là đô thị loại II. Năm 2008, thành phố Thanh Hóa có diện tích 57,94 km² , với 12 phường, gồm Ba Đình, Điện Biên, Đông Sơn, Đông Thọ, Đông Vệ, Hàm Rồng, Lam Sơn, Nam Ngạn, Ngọc Trạo, Phú Sơn, Tân Sơn, Trường Thi và 6 xã: Đông Cương, Đông Hải, Đông Hương, Quảng Hưng, Quảng Thắng, Quảng Thành. Dân số năm 2009 là 207.698 người.
Ngày 29 tháng 2 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị quyết 05/NQ-CP điều chỉnh địa giới để mở rộng địa giới hành chính thành phố Thanh Hóa và thành lập các phường thuộc thành phố Thanh Hóa. Theo đó, sáp nhập một số xã và thị trấn: thị trấn Tào Xuyên và 5 xã Hoằng Lý, Hoằng Long, Hoằng Anh, Hoằng Quang, Hoằng Đại thuộc huyện Hoằng Hóa; thị trấn Nhồi và 4 xã Đông Lĩnh, Đông Tân, Đông Hưng, Đông Vinh thuộc huyện Đông Sơn; 3 xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, Thiệu Vân thuộc huyện Thiệu Hóa; và 5 xã: Quảng Thịnh, Quảng Đông, Quảng Phú, Quảng Tâm, Quảng Cát thuộc huyện Quảng Xương. Đồng thời, chuyển thị trấn Tào Xuyên thành phường Tào Xuyên và chuyển thị trấn Nhồi thành phường An Hoạch. Sau khi mở rộng địa giới hành chính, thành phố Thanh Hóa có 14.677,07 ha diện tích tự nhiên, dân số là 393.294 người với 37 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 14 phường và 23 xã.
Ngày 19 tháng 8 năm 2013, theo Nghị quyết số 99/NQ-CP của Chính phủ, quyết định thành lập các phường: Đông Cương, Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng thuộc thành phố Thanh Hóa trên cơ sở các xã tương ứng.
Ngày 29 tháng 4 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 636/QĐ-TTg công nhận thành phố Thanh Hóa là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 786/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thanh Hóa (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019). Theo đó:
Sáp nhập xã Đông Hưng và phường An Hoạch để thành lập phường An Hưng
Sáp nhập xã Hoằng Lý vào phường Tào Xuyên
Sáp nhập xã Hoằng Anh và xã Hoằng Long thành xã Long Anh.
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1108/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập các phường thuộc thành phố Thanh Hóa (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2021). Theo đó, chuyển 10 xã: Đông Lĩnh, Đông Tân, Long Anh, Quảng Cát, Quảng Đông, Quảng Phú, Quảng Tâm, Quảng Thịnh, Thiệu Dương, Thiệu Khánh thành 10 phường có tên tương ứng.
Thành phố Thanh Hóa có 30 phường và 4 xã trực thuộc như hiện nay.
Địa lý
Vị trí, địa hình
Thành phố Thanh Hóa cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 160 km về phía nam, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 1562 km về phía bắc, là một trong 3 đô thị lớn nhất Bắc Trung Bộ, cùng với Vinh, Huế. Thành phố có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thành phố Sầm Sơn
Phía tây giáp huyện Đông Sơn và huyện Thiệu Hóa
Phía nam giáp huyện Quảng Xương
Phía bắc giáp huyện Hoằng Hóa.
Thành phố Thanh Hóa có diện tích tự nhiên 145,35 km², nằm ở trung tâm đồng bằng Thanh Hóa, đồng bằng rộng nhất trong các đồng bằng duyên hải miền Trung, có nhiều núi đất, núi đá nằm rải rác với những cánh đồng rộng - hẹp, nông - sâu.
Thành phố Thanh Hóa có núi Hàm Rồng chạy từ làng Dương Xá phường Thiệu Dương, men theo hữu ngạn sông Mã về đến chân cầu Hàm Rồng. Núi Hàm Rồng vừa dài vừa uốn lượn, đến khúc cuối thì phình to ra như một cái đầu có miệng khổng lồ, vì thế, dân gian đặt tên là núi Hàm Rồng. Núi Hàm Rồng nằm án ngữ cửa ngõ phía Bắc thành phố, theo tương truyền, núi Hàm Rồng có 99 đỉnh. Đặc điểm địa hình độc đáo đã vô tình tạo nên một cứ điểm phòng không vững chắc góp phần tạo ra huyền thoại về chiếc cầu Hàm Rồng không thể bị đánh sập trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Ngoài ra, trong thành phố cũng có núi Mật Sơn là núi sót thấp nằm trên địa phận phường Đông Vệ.
Thủy văn
Sông Mã là con sông chính của thành phố. Theo tương truyền, nước sông chảy xiết và dũng mãnh như một con ngựa phi nước đại nên có tên là sông Mã. Con sông mở đầu bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng ('Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi') khi chảy vào địa phận thành phố trở nên hiền hòa, uốn lượn quanh núi Hàm Rồng trước khi đổ ra biển. Sông Mã đã được chọn làm trục xương sống để xây dựng một thành phố hiện đại bên bờ sông Mã trong tương lai.
Ngoài ra, thành phố cũng có hệ thống sông đào bao gồm sông Thọ Hạc, sông Cốc, sông Lai Thành, sông Nhà Lê, sông Kênh Bắc trước đây được xây dựng để cung cấp tưới tiêu, chống hạn, chống lụt cho nhân dân trên địa bàn thành phố. Cùng với những con sông đào này là những cây cầu mà người dân thành phố thường dùng tên chúng để chỉ những khu vực không mang địa danh hành chính chính thức như cầu Cốc, cầu Sâng, cầu Hạc, cầu Bố, cầu Treo, cầu Lai Thành...
Khí hậu
Với vị trí trong vùng nhiệt đới gió mùa, trong một năm thành phố Thanh Hóa chịu ảnh hưởng của hai mùa nóng và lạnh rõ rệt. Mùa nóng bắt đầu từ cuối xuân đến giữa mùa thu. Ở khoảng thời gian này trong năm, thời tiết rất nắng, mưa nhiều, gây ra lụt lội và hạn hán. Những ngày có gió Lào, nhiệt độ còn được đẩy cao tới 39-40 độ C. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa mùa thu đến hết mùa xuân năm sau. Mùa này thường hay xuất hiện gió mùa Đông Bắc, lại mưa ít; đầu mùa thường hanh khô. Mùa lạnh nhiệt độ có thể xuống thấp tới 5 - 6 độ C. Nhiệt độ trung bình cả năm từ 23,3 đến 23,6 độ C.
Do nằm trong vùng đồng bằng ven biển, thành phố Thanh Hóa hàng năm có 3 mùa gió. Gió Bắc, hay gió mùa Đông Bắc, là nguồn không khí lạnh từ vùng Siberia thổi vào, gây ra mùa đông lạnh và giá buốt. Gió Tây Nam, hay gió Lào, từ vịnh Bengal qua Thái Lan rồi qua Lào, mang theo không khí nóng và khô rát vào những ngày hè. Cường độ gió Lào ở thành phố Thanh Hóa không mạnh bằng ở các tỉnh miền Trung khác. Gió Đông Nam, hay gió Nồm, là gió từ biển vào mang theo khí hậu mát mẻ.
Lượng mưa hàng năm trung bình đạt 1730 – 1980 mm.
Hành chính
Thành phố Thanh Hóa có 34 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 30 phường: An Hưng, Ba Đình, Điện Biên, Đông Cương, Đông Hải, Đông Hương, Đông Lĩnh, Đông Sơn, Đông Tân, Đông Thọ, Đông Vệ, Hàm Rồng, Lam Sơn, Long Anh, Nam Ngạn, Ngọc Trạo, Phú Sơn, Quảng Cát, Quảng Đông, Quảng Hưng, Quảng Phú, Quảng Tâm, Quảng Thành, Quảng Thắng, Quảng Thịnh, Tào Xuyên, Tân Sơn, Thiệu Dương, Thiệu Khánh, Trường Thi và 4 xã: Đông Vinh, Hoằng Đại, Hoằng Quang, Thiệu Vân.
Như vậy, thành phố Thanh Hóa là đơn vị hành chính cấp huyện có số phường nhiều thứ hai cả nước (sau thành phố Thủ Đức), đồng thời là thành phố thuộc tỉnh có nhiều phường nhất cả nước hiện nay.
Kinh tế – xã hội
Kinh tế
Năm 2017 tốc độ tăng trưởng kinh tế 15%; GDP bình quân đầu người 4.922 USD; giá trị kim ngạch xuất khẩu 704 triệu USD; tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 18.165 tỷ đồng; thu ngân sách Nhà nước 2.340 tỷ đồng...
Tính đến cuối năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của thành phố ước đạt 56.735 tỷ đồng; giá trị xuất khẩu ước đạt 1.652 USD; doanh thu du lịch ước đạt 2.500 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng trong năm của thành phố ước đạt 77.462 tỷ đồng, tăng 12,1% so với cùng kỳ.Năm 2020, toàn thành phố có 1.554 doanh nghiệp mới được thành lập, với số vốn đăng ký 12.845 tỷ đồng. Qua đó, nâng tổng số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố lên 7.000 doanh nghiệp. Thu ngân sách Nhà nước của TP Thanh Hóa ước đạt 3.371,59 tỷ đồng, đạt 104,1% dự toán tỉnh giao, tăng 13,5% so với cùng kỳ. Tổng nguồn vốn đầu tư cho phát triển trên địa bàn thành phố năm 2020 ước đạt 34.453 tỷ đồng, tăng 1,3% so với kế hoạch, tăng 7,5% so với cùng kỳ.
Năm 2021, tốc độ tăng giá trị sản xuất trên địa bàn thành phố Thanh Hóa ước đạt 12,1%,trong đó: nông, lâm, thủy sản tăng 4,6%, công nghiệp - xây dựng tăng 14,2%, dịch vụ tăng 8,9%. Cơ cấu giá trị sản xuất chuyển dịch đúng định hướng, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 63,8%, ngành dịch vụ chiếm 33,1%, ngành nông, lâm, thủy sản chiếm 3,1%.
Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 3.931 tỷ đồng,tăng 4,6% so với cùng kỳ. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 44.583 tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ. Tổng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước đạt 43.263 tỷ đồng, tăng 8,9% so với cùng kỳ. Tổng giá trị xuất khẩu ước đạt 1.863 triệu USD,tăng 22,6% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong năm ước đạt 65.131 tỷ đồng,tăng 14,8% so với cùng kỳ; vận chuyển hàng hóa ước đạt 25 triệu tấn, tăng 7,4%; vận chuyển hành khách ước đạt 11,2 triệu lượt khách, giảm 10,2% so với cùng kỳ. Năm 2021 toàn Thành phố ước đón 01 triệu lượt khách, bằng 25% so với cả tỉnh, giảm 24% so với cùng kỳ; doanh thu ước đạt 1.200 tỷ đồng, giảm 25% so với cùng kỳ.
Thu ngân sách nhà nước ước đạt 3.050,97 tỷ đồng, giảm 7% so với cùng kỳ. Huy động vốn đầu tư phát triển đạt 35.600 tỷ đồng, tăng 4,1% so với cùng kỳ; thành lập mới 1.546 doanh nghiệp, đạt 103,7% kế hoạch.
Hiện nay ở thành phố có 3 khu công nghiệp chính là Khu công nghiệp Lễ Môn,Khu công nghiệp Tây bắc ga, Khu công nghiệp Hoàng Long .
Dân cư
Thành phố Thanh Hóa có dân số năm 2019 là 359.910 người, mật độ dân số đạt 2.476 người/km².
Giáo dục
Đại học
Đại học Hồng Đức.
Đại học Văn hóa - Thể thao - Du lịch Thanh Hóa.
Phân hiệu Thanh Hóa của trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
Phân hiệu Thanh Hóa của trường Đại học Y Hà Nội.
Các trường Cao đẳng
Cao đẳng Công nghiệp Thanh Hóa
Cao đẳng Nông nghiệp Thanh Hóa
Cao đẳng Y tếThanh Hóa
Cao đẳng Y Dược Hợp lực
Cao đẳng Kinh tế-Kĩ thuật Công thương
Cao đẳng nghề Vicet.
Cao đẳng thực hành - FPT Polytechnic tại Thanh Hóa
Cao đẳng nghề Lam Kinh
Cao đẳng nghề An Nhất Vinh
Cao đẳng Bách Khoa Việt Nam
Trung học phổ thông
Trung học phổ thông chuyên Lam Sơn
Tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông Vinschool Star city
Trường Tiểu học, THCS & THPT Nobel School
Trường Tiểu học, THCS & THPT Qthschool
Trường Tiểu học, THCS, THPT Đông Bắc Ga
Trung học phổ thông Đào Duy Từ
Trung học phổ thông Hàm Rồng
Trung học phổ thông Nguyễn Trãi
Trung học phổ thông Tô Hiến Thành
Trung học phổ thông Dân tộc nội trú tỉnh Thanh Hóa
Trung học phổ thông Lý Thường Kiệt
Trung học phổ thông Trường Thi
Trung học phổ thông Đào Duy Anh
Trung học phổ thông Nguyễn Huệ
Văn hóa – du lịch
Ẩm thực
Thành phố Thanh Hóa có rất nhiều loại ẩm thực mang đậm dấu ấn riêng tại các con phố. Những món ăn đặc sắc có thể kể tới như Nem chua, Nem nướng, Bánh khoái tép, Chả tôm, Bánh cuốn, Ốc mút Chùa Thanh Hà, Bánh mỳ Nam Hà phố Trường Thi, Bánh ích
Ngoài ra, ở thành phố Thanh Hóa cũng có thể dễ dàng tìm thấy đặc sản của các địa phương khác trên toàn tỉnh tại các chợ hoặc cửa hàng truyền thống.
Nem chua: Có nhiều loại nem như nem dài, nem oản, nem cối, nem vuông… khác nhau ở hình thức và khối lượng, tùy mục đích sử dụng nhưng không thay đổi hương vị đặc trưng. Cũng có nhiều biến tấu cho món nem như nem thính, nem cuốn, nem nướng, nem rán… Mỗi loại lại mang đến cho người ăn những cảm nhận khác nhau. Những địa điểm tin cậy như nhà nem Gốc Đa, Cương Dũng, Vũ Linh, nem bà Thường, bà Năm hay trên vỉa hè các phố Đinh Lễ, Tô Vĩnh Diện, Ngọc Trạo… để thưởng thức.
Nem nướng: Đây có thể coi là đặc sản riêng của vùng đất Thọ Xuân- Thanh Hóa. Cách làm và nguyên liệu có phần tương đồng giống nem chua, tuy nhiên cách ăn lại rất khác. Bạn nên nướng trực tiếp trên bếp than hoặc nướng vùi tro để có trải nghiệm tốt nhất. Tuy nhiên nếu điều kiện xung quanh không cho phép bạn có thể bỏ vào lò nướng hoặc nồi chiên không dầu đều được.
Bánh khoái tép: Bánh khoái có vẻ giống bánh xèo Nam bộ về cách chế biến nhưng nguyên liệu thì khác, mang nét đặc trưng của xứ Thanh, bao gồm rau cần, bắp cải, thì là thái sợi nhỏ và tép tươi. Bánh khoái chấm cùng nước mắm pha chua ngọt và sung ghém rất hợp vị. Đôi khi người ta thay tép tươi bằng trứng gà để đổi vị. Ăn bánh khoái ngon nhất vào buổi chiều khi tan sở, có thể dễ dàng tìm thấy ở các phố Nguyễn Trãi,Trường Thi, Đào Duy Từ, Hàn Thuyên, chợ Vườn Hoa…
Chả tôm là món ăn độc đáo và lạ miệng với những thực khách phương xa. Cách làm khá cầu kỳ và tỉ mỉ với tôm bột tươi cùng một lượng gấc vừa đủ, thịt ba chỉ bằm đã được xào vàng cùng hành, tỏi để tạo thành hỗn hợp nhân. Bánh được gói bằng bánh phở vuông nhỏ bằng lòng bàn tay và nướng trên bếp than hoa. Vị bùi ngọt của nhân tôm cùng vị chua dịu của dưa góp lẫn chút cay cay của ớt tươi và rau sống thanh mát tạo nên hương vị khó quên cho món ăn.
Bánh cuốn Thanh Hóa mềm, dai và thơm hương rất riêng. Người Thanh Hóa có thể thưởng thức một đĩa bánh cuốn ngon, rẻ ở khắp nơi trong thành phố. Bột làm từ thứ gạo dẻo thơm, nên kể cả khi nguội bánh vẫn ngon như thường. Người Thanh Hóa thường ăn bánh cuốn buổi sáng cùng chả nướng than hoa. Nếu muốn ăn bất kỳ thời điểm nào trong ngày, bạn có thể ghé đường Tống Duy Tân, Trần Phú, Lê Quý Đôn…
Ốc mút Chùa Thanh Hà: Vị đậm đà của ốc được tẩm ướp gia vị kỹ lưỡng cùng mùi sả ớt là một trải nghiệm khó quên với những ai mới thưởng thức lần đầu.
Bánh mỳ Nam Hà phố Trường Thi bao gồm một chuỗi cửa hàng bán bánh mỳ gia truyền. Bánh mỳ ở đây mang thương hiệu riêng, hương vị không đổi suốt hơn 20 năm qua. Nhân bánh rất đa dạng để bạn lựa chọn, ngon nhất phải kể đến bánh mỳ kẹp nem chua rán, kẹp bò khô, thịt quay… Điều làm nên sức sống lâu bền cho bánh mỳ Nam Hà là tất cả nguyên liệu của quán đều được chọn lựa kỹ lưỡng, đảm bảo tươi ngon và nước sốt gia truyền.
Bánh ích: Không khác nhiều so với cách làm bánh ít, bánh nếp ở các nơi. Bánh ích có hình tròn, bên trong là nhân tôm thịt, ăn cùng mắm chế chua ngọt. Được bán nhiều ở các chợ Vườn Hoa, Tây Thành hoặc một vài quán vỉa hè trên phố Đinh Lễ, bánh ích luôn hấp dẫn người ăn và thường hết hàng sớm.
Du lịch
Năm 2016, du lịch TP Thanh Hóa ước đón 2,4 triệu lượt khách du lịch trong nước và quốc tế, chiếm 41% so với toàn tỉnh, trong đó, khách nội địa ước đạt 1,6 triệu lượt, khách quốc tế đạt trên 800.000 lượt
Năm 2021 toàn Thành phố ước đón 01 triệu lượt khách, bằng 25% so với cả tỉnh, giảm 24% so với cùng kỳ; doanh thu ước đạt 1.200 tỷ đồng, giảm 25% so với cùng kỳ.
Theo thống kê, tổng lượt khách du lịch đến tham quan, lưu trú trên địa bàn TP Thanh Hóa trong 9 tháng năm 2022 là 2,15 triệu lượt, tăng 2,7 lần so với cùng kỳ năm 2021 (trong đó, khách lưu trú là 1,3 triệu lượt, chiếm 60,46% tổng lượt khách). Doanh thu du lịch ước đạt 3.093 tỷ đồng, tăng 3,0 lần so với cùng kỳ.
Thành phố Thanh Hoá có nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị để phát triển du lịch:
Phía Bắc:
- Phía Bắc thành phố là khu thắng cảnh Hàm Rồng, đây là khu du lịch trung tâm của cả thành phố và tỉnh Thanh Hoá, khu thắng cảnh này đã được sử sách lưu danh với nhiều di tích lịch sử, cách mạng có di chỉ khảo cổ nổi tiếng trong và ngoài nước, có nhiều cảnh quan địa danh thắng cảnh đẹp: có sông, có núi, có hang động,... như: động Long Quang, động Tiên, Núi Phượng, núi Voi, núi Rồng,... cùng với sông Mã là những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú. Các di tích như đền thờ danh tướng Lê Uy, Chu Văn Lương, đặc biệt là khu di tích văn hóa - làng cổ Đông Sơn với trống đồng Đông Sơn nổi tiếng.
- Hiện nay, Khu Du lịch Văn hóa Hàm Rồng có Đền thờ Các Bà mẹ Việt Nam anh hùng và các anh hùng liệt sĩ, đây là một công trình tâm linh vô cùng ý nghĩa, đồng thời tạo địa điểm tham quan du lịch trong tổng thể Khu Du lịch văn hóa lịch sử Hàm Rồng..Trong Khu du lịch Văn hóa Hàm Rồng còn có Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng,là công trình không chỉ để đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân, mà còn góp phần thực hiện thành công dự án(Khu du lịch văn hóa Hàm Rồng) nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân..
Phía Nam thành phố là khu di tích thắng cảnh đẹp mà trung tâm là núi Mật Sơn có các hòn non bộ bao quanh như núi Long, núi Hổ, núi Vọng Phu,... và các di tích lịch sử khác như chùa Đại Bi, và đặc biệt là Thái Miếu nhà Lê - một di tích lịch sử văn hóa quốc gia mang nhiều dấu ấn dân tộc.
Trung tâm thành phố Thanh Hoá là Bảo tàng lịch sử, giới thiệu cho du khách đến tham quan những khái niệm chung nhất về lịch sử Việt Nam và diện mạo văn hóa đặc sắc của tỉnh Thanh Hoá.
Xung quanh thành phố là các điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng của xứ Thanh như khu du lịch bãi tắm Sầm Sơn, đi ngược qua vùng Nông Cống với nhà máy đường Lam Sơn sẽ đến Vườn quốc gia sinh quyển Bến En, theo đường mòn Hồ Chí Minh đến khu di tích lịch sử Lam Kinh, bãi chim Tiến Nông, về thành nhà Hồ hoặc động Từ Thức, đền Bà Triệu, đèo Ba Dọi...
Nhìn chung: Tài nguyên di tích lịch sử văn hóa ở thành phố nói riêng và cả tỉnh Thanh Hoá rất phong phú đa dạng, có điều kiện để phát triển nhanh chóng ngành du lịch dịch vụ. Với sự thuận lợi đó, thành phố Thanh Hoá có đủ điều kiện để trở thành trung tâm dịch vụ du lịch lớn trong tuyến du lịch Bắc Nam.
Hiện nay Tp Thanh Hóa có rất nhiều cơ sở lưu trú chất lượng cao như: Khách sạn Vinpearl Thanh Hóa tiêu chuẩn 5 sao, khách sạn Central tiêu chuẩn 5 sao, khách sạn quốc tế Lam Kinh tiêu chuẩn 4 sao, khách sạn quốc tế Thiên Ý tiêu chuẩn 4 sao, khách sạn Mường Thanh Grand Thanh Hóa tiêu chuẩn 4 sao, khách sạn Sao Mai tiêu chuẩn 3 sao, khách sạn Phù Đổng tiêu chuẩn 3 sao, Khách sạn Phú Hưng tiêu chuẩn 3 sao, khách sạn Lam Sơn tiêu chuẩn 3 sao, khách sạn Cây Đa tiêu chuẩn 3 sao, khách sạn Phượng Hoàng I, III tiêu chuẩn 3 sao cùng rất nhiều khách sạn 2 sao với chất lượng tốt, sang trọng, đáp ứng được nhu cầu lưu trú của khách du lịch.
Giao thông
Tổng quan
''Xem thêm: Sân bay Thọ Xuân
Tọa lạc tại trung tâm của Đồng bằng Thanh Hóa, thành phố là quả tim của hệ thống giao thông toàn tỉnh. Tại đây tập trung đầu mối của tất cả các loại hình giao thông quan trọng: Đường sắt Bắc - Nam chạy qua, đường Quốc lộ 1 xuyên Việt chạy qua địa bàn thành phố gần 20 km là con đường có dải phân cách cứng, một chiều. Các trục giao thông chính khác là: đại lộ Hùng Vương, đại lộ Nguyễn Hoàng, đại lộ Nam sông Mã giai đoạn 1, đường Trịnh Kiểm (công trình tuyến đường vành đai hợp phần 1 phát triển đô thị thuộc Dự án "Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội TP Thanh Hóa"), đường Vạn Lại - Yên Trường, đường Tây Đô, đường quốc lộ 47 nối thành phố với Sầm Sơn (đường một chiều, có dải phân cách cứng). Ngoài ra để kết nối TP Thanh Hóa và TP Sầm Sơn còn có tuyến đường Võ Nguyên Giáp từ ngã ba Voi đi Sầm Sơn. Một số con đường lớn khác công đang thi công là: Đại lộ Đông Tây, Tiểu dự án 2 thuộc dự án nâng cấp Quốc lộ 1 đã khánh thành, trong dự án này nổi bật có cầu Nguyệt Viên nối 2 bên bờ sông Mã. Như vậy đây là cây cầu thứ 3 bắc qua sông Mã, góp phần hạn chế ùn tắc, tai nạn giao thông, đồng thời mở rộng không gian đô thị, góp phần phát triển mạnh mẽ thành phố lên hướng Bắc, đưa sông Mã vào lòng thành phố.
Hiện nay sân bay Thọ Xuân ở thị trấn Sao Vàng, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hóa 45 km về phía tây, có một đường băng dài 3200 mét, có thể phục vụ máy bay tầm trung như Airbus A320 - Airbus A321 đã chính thức khai trương ngày 05/2/2013 . Với việc khởi công dự án Liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn vào ngày 23/10/2013 với số vốn trên 9 tỷ đô la thì khả năng sân bay Thọ Xuân sẽ có nhiều cơ hội để phát triển thành cảng hàng không quốc tế. Hiện nay, cảng Hàng không Thọ Xuân đang xúc tiến mở thêm một số đường bay mới và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho nâng cấp thành cảng hàng không quốc tế.
Cảng Lễ Môn nằm cách trung tâm thành phố Thanh Hóa 4 km về phía đông. Đây là cảng loại 2 phục vụ cho khu công nghiệp Lễ Môn với công suất thiết kế 300.000 tấn/năm.
Các tuyến phố chính của thành phố là: Đại lộ Lê Lợi, Đại lộ Hùng Vương, Đại lộ Nguyễn Hoàng, Đại lộ Nam sông Mã, Võ Nguyên Giáp, Lê Hoàn, Hàm Nghi, Bà Triệu, Phan Chu Trinh, Lê Lai, Hạc Thành, Nguyễn Chí Thanh, Quang Trung, Triệu Quốc Đạt, Đào Duy Từ, Lê Hữu Lập, Lê Hồng Phong, Phan Bội Châu, Nguyễn Trãi, Dương Đình Nghệ, Trường Thi, Trần Hưng Đạo, Đội Cung, Đinh Công Tráng, Cao Thắng, Hàng Than, Hàng Đồng, Xuân Diệu...
Danh sách đường phố
Lộ trình các tuyến xe buýt
Danh sách các tuyến xe buýt tại Thành phố Thanh Hóa.
Các tuyến xe buýt đã dừng hoạt động:
Kiến trúc và quy hoạch đô thị
Thành phố Thanh Hóa có nhiều quảng trường và công viên. Các công viên trên địa bàn thành phố là: Công viên Hội An, công viên Thanh Quảng, công viên Bố Vệ, công viên Hồ Thành, công viên Hồ Đồng Chiệc, công viên bến thuyền Hàm Rồng; công viên cây xanh – Trung tâm thể dục thể thao Thanh Hóa Centre Park tại khu đô thị Nam thành phố Thanh Hóa, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa (Công ty cổ phần Tập đoàn Mặt Trời - Sungroup - làm chủ đầu tư). Trong quy hoạch thành phố Thanh Hóa đến 2030, còn có công viên Nước Đông Hương, công viên Ngọc Nữ, công viên Tháng Tư.
Với nét đặc trưng văn hóa Đông Sơn và hình ảnh chim Hạc đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho kiến trúc của nhiều công trình quan trọng trong thành phố. Có thể kể tới như Trung tâm triển lãm và hôi chợ tỉnh, những dàn đèn trang trí trên các đại lộ và điểm nhấn trong các quảng trường.
Thành phố Thanh Hóa hiện nay có 3 quảng trường trung tâm: Quảng trường Lê Lợi, Quảng trường Lam Sơn và Quảng trường Hàm Rồng. Quảng trường Hàm Rồng được xây dựng với mục đích kỷ niệm 45 năm chiến thắng Hàm Rồng lịch sử, và trở thành điểm nhấn trung tâm của khu du lịch Hàm Rồng. Hiện nay một quảng trường nhỏ ở phía nam sông Mã thuộc khu vực chân cầu Hàm Rồng đã đi vào hoạt động tạo ra cảnh quan tươi đẹp bên bờ sông Mã. Sắp tới thành phố sẽ tiến hành xây dựng thêm một quảng trường nữa là quảng trường Văn hóa trung tâm.
Thành phố Thanh Hóa đang đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng với nhiều khu dân cư đô thị mới, đại lộ, cao ốc với mục tiêu mở rộng quy mô đô thị, đặc biệt là về phía Đông và phía Nam như khu đô thị Vinhomes Star City (tập đoàn Vingroup), Khu đô thị Đông Hải, Khu đô thị Núi Long, Khu đô thị Bình Minh, khu đô thị Đông Bắc Ga, khu đô thị Đông Sơn, khu đô thị Nam thành phố Thanh Hóa, khu đô thị Đông Nam thành phố Thanh Hóa, khu đô thị ven sông Hạc, khu đô thị Xanh... Nhiều tập đoàn, tổng công ty bất động sản lớn đã đầu tư vào thành phố như: Tecco, Hud, Mường Thanh, FLC, Vingroup, Sungroup. Trong tương lai thành phố Thanh Hóa có quy mô một triệu dân , là thành phố 2 bờ sông Mã.
Địa phương kết nghĩa
Thành phố Hội An (tỉnh Quảng Nam, Việt Nam)
Ngày 12 - 3 - 1960 tỉnh Thanh Hóa và Quảng Nam đã tổ chức lễ kết nghĩa theo tinh thần phong trào kết nghĩa Bắc Nam. Theo đó, thị xã Thanh Hóa cũng bắt tay kết nghĩa với thị xã Hội An. Một số công trình công cộng như rạp hát, công viên đã lấy tên Hội An để thể hiện tình gắn bó của mối liên kết này. |
Sắp xếp chèn (insertion sort) là một thuật toán sắp xếp bắt chước cách sắp xếp quân bài của những người chơi bài. Muốn sắp một bộ bài theo trật tự người chơi bài rút lần lượt từ quân thứ 2, so với các quân đứng trước nó để chèn vào vị trí thích hợp.
Thuật toán
Cơ sở lập luận của sắp xếp chèn có thể mô tả như sau:
Xét danh sách con gồm k phần tử đầu . Với k = 1, danh sách gồm một phần tử đã được sắp.
Giả sử trong danh sách k-1 phần tử đầu đã được sắp. Để sắp xếp phần tử ta tìm vị trí thích hợp của nó trong dãy . Vị trí thích hợp đó là đứng trước phần tử lớn hơn nó và sau phần tử nhỏ hơn hoặc bằng nó.
Ví dụ
Cho danh sách
Danh sách con gồm 3 phần tử bên trái 1,3,7 đã được sắp. Để tiếp tục sắp xếp phần tử thứ tư vào danh sách con đó, ta tìm vị trí thích hợp của nó là sau 3 và trước 7.
Làm tiếp theo với ta được
Làm tiếp theo với ta được
Cuối cùng chèn
Giải thuật
Danh sách a bắt đầu từ chỉ số 1 tới length
Procedure insert (array a, int k, value) {
int i:= k-1;
while (i > 0 and a[i] > value) {
a[i+1]:= a[i];
i:= i - 1;
}
a[i+1]:= value;
}
Procedure InsertSort (array a, int length) {
int k:= 2;
while (k < length) {
insert(a, k, a[k]);
k:= k + 1;
}
}
// Mã giả viết bằng ngôn ngữ C++
void InsertSort (int a[],int n)
{
int t,j;
for(int i=1;i<n;i++)
{
j=i-1;
t=a[i];
while(j >= 0 && t < a[j])
{
a[j+1]=a[j];
j--;
}
a[j+1]=t; // Chèn
}
}
Đánh giá
Thuật toán sử dụng trung bình n2/4 phép so sánh và n2/4 lần hoán vị, n2/2 phép so sánh và n2/2 lần hoán vị trong trường hợp xấu nhất, n-1 phép so sánh và 0 lần hoán vị trong trường hợp tốt nhất.
Thuật toán thích hợp đối với mảng đã được sắp xếp một phần hoặc mảng có kích thước nhỏ. |
Trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn là một trường trung học phổ thông công lập của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, được thành lập năm 1874, với tên gọi ban đầu Collège Chasseloup-Laubat.
Trường được xem là Trường trung học phổ thông lâu đời nhất Việt Nam. Trường được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh cấp Thành phố vào ngày 19 tháng 11 năm 2020.
Lịch sử
Sau khi chiếm được toàn cõi Nam Kỳ, ngày 14 tháng 11 năm 1874, Thống đốc Nam Kỳ, Chuẩn Đô đốc (Contre-amiral) Pháp Jules François Emile Krantz (1821-1914) đã ký nghị định thành lập một ngôi trường trung học tại Sài Gòn nhằm phục vụ nhu cầu đào tạo con em những người Pháp tại Sài Gòn. Chương trình giảng dạy theo chính quốc, dạy từ tiểu học đến tú tài (chương trình Pháp). Trường được khởi công xây dựng ngay vào năm 1874 và hoàn tất vào năm 1877.
Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), không lâu sau được đổi tên thành Collège Chasseloup-Laubat, theo tên của Hầu tước Prosper de Chasseloup-Laubat (1805–1873), Bộ trưởng Hải quân Pháp.
Ban đầu, trường chỉ nhận các học sinh người Pháp, đến đầu thế kỷ 20 thì mở rộng để nhận thêm học sinh người Việt, tuy nhiên phải có quốc tịch Pháp. Do đó, trường phân biệt thành 2 khu:
Khu dành riêng học trò người Pháp, gọi là Quartier Européen
Khu dành cho học trò Việt có học thêm giờ tiếng Việt, gọi là Quartier indigène (khu bản xứ)
Cả hai khu này đều học chung chương trình Pháp và thi tú tài Pháp.
Tuy là một khu trường dành cho những người có quốc tịch Pháp (do đó, trường còn có tên là trường Bổn quốc Sài Gòn, khác với các trường bản xứ khác), vào năm 1926, những học sinh người Việt đã viết lên bảng 4 chữ A.B.L.F, viết tắt câu "A bas les Français" (nghĩa là "Đả đảo thực dân Pháp") trong một lần bãi khóa để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh.
Ngày 28 tháng 11 năm 1927, Toàn quyền Đông Dương G. Gal ra một nghị định thiết lập tại Chợ Quán một phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat dành cho học sinh người bản xứ lấy tên là Collège de Cochinchine. Phân hiệu này được đặt dưới sự điều hành của Ban Giám đốc Trường Chasseloup Laubat và một giáo sư phụ trách tổng giám thị của phân hiệu.
Ngày 11 tháng 8 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương tạm quyền René Robert ký nghị định số 3116 gồm 6 điều, thành lập tại Chợ Quán kể từ đầu năm học 1928-1929 một trường Cao đẳng Tiểu học Pháp bản xứ, chuyển giao phân hiệu tạm thời với trên 200 học sinh của Collège Chasseloup Laubat nói trên vào trường này, có sáp nhập một hệ Trung học Đệ nhị cấp bản xứ (Lycée) để thành lập một trường mới, về sau có tên là Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký hay trường Petrus Ký (nay là Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong).
Ngoài con em của các quan Pháp, những học sinh xuất sắc nhất của đất Nam kỳ cũng được tuyển chọn theo học. Sau mỗi kỳ thi, kết quả học tập của từng người còn được đăng trên Gia Định Báo.
Sau năm 1954, với dụng ý tránh gợi nhớ thời thuộc địa, trường được đổi tên là trường Jean Jacques Rousseau, dạy chủ yếu là học sinh người Việt, nhưng vẫn do người Pháp quản lý. Đến 1967, trường được trả lại cho Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa và trở thành Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ 1975, chính quyền Việt Nam vẫn giữ tên gọi Lê Quý Đôn cho ngôi trường này, tuy nhiên phân tách thành hai khu dành cho học sinh cấp II (trường THCS Lê Quý Đôn) và khu dành cho học sinh cấp III (trường THPT Lê Quý Đôn). Đây là ngôi trường cổ xưa nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kiến trúc khu trường
Trải qua hơn một thế kỷ, kiến trúc ban đầu của ngôi trường vẫn còn gần như nguyên vẹn, gồm bốn dãy nhà cao hai tầng ghép lại có hình chữ "khẩu". Với lối kiến trúc mang đậm chất Tây Âu, trường được xem như một kiến trúc cổ có lịch sử văn hóa lâu đời, vẫn giữ gìn được nét truyền thống cổ kính mặc dù đã được trùng tu, sửa chữa. Dựa trên nền kiến trúc cổ, hiện tại trường đã xây thêm một số công trình phụ gồm nhà luyện tập thể thao và 10 phòng học kiểu mới. Tính truyền thống và hiện đại được nhà trường chú ý ngay trong khâu thiết kế và trang trí, vì thế ngôi trường Lê Quý Đôn vẫn mang đậm nét cổ kính.
Sự kiện
Thời Pháp trường nổi tiếng với nhiều giáo viên và học sinh giỏi được lưu danh. Ngày nay, trường là một trong những trường đầu tiên thực hiện mô hình chất lượng cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy bước đầu gặp nhiều khó khăn, nhưng trường đang từng bước khẳng định vị trí trên toàn thành phố.
Ngày 20 tháng 11 năm 1998, nhà trường dựng tượng đài nhà bác học Lê Quý Đôn phía sau cổng trường.
Năm 2009, nhà trường đã hoàn tất lứa đầu tiên của mô hình mới với tỉ lệ tốt nghiệp 100% và chính thức trở thành trường Công lập tự chủ tài chính. Ngày 31 tháng 8 năm 2009, Chủ tịch nước đương thời Nguyễn Minh Triết đến dự lễ khai giảng cùng nhà trường.
Thành tích đạt được (từ sau năm 1975)
Huân chương Lao động hạng Ba
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về hoạt động Thanh niên
Bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bằng khen của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: đơn vị tiên tiến xuất sắc nhiều năm liền
Cờ đơn vị dẫn đầu thi đua nhiều năm liền do Ủy ban Nhân dân Thành phố trao tặng
Cờ tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu do Đảng bộ Thành phố trao tặng
Cờ Công đoàn vững mạnh dẫn đầu phong trào thi đua do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trao tặng
Cờ "5 năm liền là đơn vị dẫn đầu khối Phổ thông trung học" do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao tặng
Dẫn đầu Hội khỏe Phù Đổng Phổ thông trung học cấp Thành phố
Đơn vị điển hình "Có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng môi trường xanh sạch đẹp
Nhân vật tiêu biểu
Học sinh tiêu biểu
Chính trị - Kinh tế
Nguyễn Thanh Nghị - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
Lê Văn Minh. - Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM.
Lê Quang Tự Do - Phó cục trưởng Cục phát thanh truyền hình và thông tin điện tử.
Châu Minh Hiếu - Phó chủ tịch UBND quận Tân Bình.
Vũ Tô Quyến - Phó ban tuyên giáo Quận ủy quận 3.
Hồ Quỳnh Hưng - Chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc công ty Điện Quang.
Lê Quang Thục Quỳnh - Phó tổng giám đốc VUS Hội Việt-Mỹ.Thể Thao
Chung Tấn Phong - Tiến sĩ, trưởng bộ môn thể thao dưới nước TPHCM.Văn hóa - Nghệ thuật
Hồng Vân - diễn viên, đạo diễn sân khấu
Elvis Phương - ca sĩ
Lê Hựu Hà - nhạc sĩ
Thanh Thúy - ca sĩ
Phương Thanh - ca sĩ
Nguyễn Quang Dũng - đạo diễn
Nguyễn Ngọc Thạch - nhà văn
Huỳnh Thị Thùy Dung - Á hậu 2 cuộc thi Hoa Hậu Việt Nam 2016
Lý Thu Thảo - Hoa hậu TPHCM 1989
Chung Vũ Thành Uyên - Á hậu Áo dài 1995
Trịnh Kim Chi - Á hậu Việt Nam 1994
Anh Thúy - ca sĩ
Hiền Thục - ca sĩ
Ngọc Linh - ca sĩ
Mai Phương - diễn viên
Nhâm Minh Hiền - đạo diễn
Quốc Thuận - đạo diễn
Đỗ Khoa. - đạo diễn
Kiều Nga - ca sĩ
Suni Hạ Linh- ca sĩ
Giáo viên và học sinh tiêu biểu thời thuộc Pháp
Ngô Minh Chiêu, Đốc Phủ Sứ, tín đồ Cao Đài đầu tiên, lãnh đạo phái Chiếu Minh.
Nguyễn Ngọc Tương, Tri Phủ, Giáo Tông chi phái Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.
Phạm Công Tắc, Hộ pháp Đạo Cao Đài, lãnh đạo tối cao của đạo Cao Đài.
Lê Bá Trang, Đốc Phủ Sứ, Thượng Chưởng Pháp chi phái Cao Đài Ban Chỉnh Đạo.
Cao Triều Phát, lãnh đạo chi phái Cao Đài Minh Chơn Đạo, Đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khóa I.
Nguyễn An Ninh, nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Phan Văn Chương, cố vấn Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Rạch Giá, Giám đốc Sở Ngân Khố Nam Bộ.
Trần Văn Giàu, nhà hoạt động cách mạng, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và là nhà giáo Việt Nam.
Nguyễn Văn Hưởng, Giáo sư, Bác sĩ vi trùng học và Đông y, cố Bộ trưởng Bộ Y tế, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa I, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II, III.
Vương Hồng Sển, nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ người Việt Nam.
Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Jean Leon Leroy, Đại tá kiêm tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre 1950-1953 Chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Phạm Ngọc Thảo, Tướng của hai Quân đội: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Trịnh Công Sơn, Nhạc sĩ Tân Nhạc nổi tiếng của Việt Nam.
Norodom Sihanouk, cố Quốc vương, cố Thái thượng hoàng Vương quốc Campuchia.
Trịnh Xuân Thuận, là một nhà khoa học người Mỹ gốc Việt trong lĩnh vực vật lý thiên văn, một nhà văn đã viết nhiều quyển sách có giá trị cao về vũ trụ học và về những suy nghĩ của ông trong tương quan giữa khoa học và Phật giáo.
Trần Đại Nghĩa, (không học ở trường nhưng được hội ái hữu của trường cấp học bổng 1 năm du học Pháp).
Lưu Văn Lang, kỹ sư người bản xứ đầu tiên của Việt Nam và toàn cõi Đông Dương, nhà trí thức yêu nước nổi tiếng ở miền Nam nửa đầu thế kỷ 20.
Chú thích |
Vũ điệu Samba (Hangul: 댄서의 순정, Romaja quốc ngữ: Daenseo-ui sunjeong) là bộ phim hài tình cảm Hàn Quốc được sản xuất năm 2005. Phim được viết và đạo diễn bởi Park Young-hoon.
Sau thành công của bộ phim Cô dâu 15 tuổi, Moon Geun-young trở thành nữ diễn viên tuổi "teen" được mến mộ nhất Hàn Quốc năm 2004. Nữ diễn viên với nét đẹp ngây thơ này lại vừa xuất hiện trong "Vũ điệu samba" với vai diễn một vũ công điêu luyện qua những vũ điệu sôi động.
Để có được cảnh quay hoành tráng và ấn tượng nhất là cuộc thi khiêu vũ quốc gia trong phim, các nhà làm phim đã mất 200 nghìn USD và làm việc miệt mài suốt hai ngày đêm. Khi thực hiện cảnh này, đoàn làm phim đã dàn dựng một sàn nhảy sang trọng tại hý viện Thiên Thần Nhỏ. Tham gia vào cảnh quay còn có 300 vũ công chuyên nghiệp.
Ba máy quay cùng hoạt động ở ba góc độ khác nhau, để đảm bảo không bỏ sót một chi tiết quan trọng nào trong đại cảnh này, đồng thời phải bám theo từng biểu hiện xúc cảm của Chae Ryn khi cô khiêu vũ với tâm trạng rối bời, vì phải chọn lựa giữa tình yêu và sự nghiệp.
Kịch bản
Jang Chae Ryn - cô gái gần tròn 20 tuổi, giả danh chị gái mình từ Trung Quốc sang Hàn Quốc để học khiêu vũ và phát triển sự nghiệp. Để được lưu trú ở xứ Hàn, cô phải giả vờ kết hôn với thầy dạy nhảy của mình là Na Young Sae - một ngôi sao khiêu vũ đã giải nghệ. Sự đồng cảm trong tâm hồn và tình yêu nghệ thuật đã đưa hai người đến với nhau.
Biết Young Sae sắp quay lại cuộc thi khiêu vũ quốc gia với một cô bạn diễn tài năng, đối thủ của anh là Huyn Soo đã mua chuộc ông bầu để cướp đi Chae Ryn. Hắn cho đàn em đập gãy chân Young Sae và đe dọa sẽ tố cáo vụ kết hôn giả với cảnh sát. Chae Ryn đành bước lên sàn diễn với Huyn Soo và họ đã giành giải quán quân.
Tuy nhiên, trái tim của Chae Ryn lúc nào cũng hướng về Young Sae, người bạn và người thầy tuyệt vời đã dìu dắt cô trong những bước nhảy đầu tiên. Chính trái tim đó đã đưa cô trở về với tình yêu đích thực của mình.
Diễn viên
Moon Geun-young bắt đầu đóng phim với vai Eun Suh lúc nhỏ trong bộ phim Trái tim mùa thu, cô khiến khán giả nhớ mãi nét ngây thơ và đôi mắt to tròn biểu cảm. Cơ hội thứ hai đến với cô qua vai Hong Ryon trong phim Chuyện hai chị em gái, bộ phim kinh dị ăn khách của năm 2003. Với vai Bo Eun, cô nữ sinh trung học đáng yêu trong phim Cô dâu 15 tuổi, cô đã trở thành một ngôi sao được ái mộ nhất năm 2004. Sau khi thành công với đề tài kinh dị và hài hước, cô lại quay về với đề tài tình cảm lãng mạn qua bộ phim Vũ điệu samba.
Để trở thành nữ vũ công đến từ Yunbyun, nữ diễn viên Moon Geun-young vai Jang Chae Ryn đã phải học tiếng địa phương với một giáo viên người Hoa gốc Hàn, ngay sau khi nhận vai. Mặc dù chỉ nói vài đoạn thoại bằng tiếng Trung Quốc nhưng vì phim thu âm trực tiếp, cô đã tích cực học phát âm trong suốt 3 tháng.
Từ khi chính thức nhận vai vào tháng 8/2004, cô đã phải học khiêu vũ 10 tiếng mỗi ngày. Geun Young phải học thuần thục tất cả các điệu nhảy: rhumba, chachacha, nhất là samba vì đây là ba vũ điệu chính trong phim. Moon Geun-young tâm sự: "Khi học những bước nhảy đầu tiên, móng chân tôi muốn rụng ra và chân tôi muốn khuỵu xuống.
Không biết tôi học có giỏi không nhưng khi nhảy cùng Park Gun Hyung trái tim tôi đập rộn ràng". Và 6 tháng sau, Cô dâu bé nhỏ Moon Geun-young đã sẵn sàng bước lên sàn quay để trở thành nữ vũ công Jang Chae Ryn. Phát hiện được năng khiếu của Moon Geun-young, đạo diễn về khiêu vũ của phim đã tiến cử cô tham dự cuộc thi khiêu vũ dành cho các nghệ sĩ không chuyên.
Trong phim Cô dâu 15 tuổi, Moon Geun-young hát bài Tôi chưa biết tình yêu là gì đã được các fan ủng hộ cuồng nhiệt và góp thêm vào thành công của bộ phim này. Trong phim Vũ điệu samba cô hát bài Ye lai xiang của Teresa, một bài hát tiếng Hoa cũng về tình yêu đôi lứa. Giọng hát trong trẻo nhưng cũng rất truyền cảm của cô đã làm tăng thêm sức hấp dẫn cho bộ phim.
Park Gun Hyung vai Na Young Sae bước lên sân khấu với vai chính trong chương trình Go go beach được chú ý nhiều nhất của Hàn Quốc, Park trở thành ngôi sao được mến mộ của chương trình nhạc kịch Cơn sốt tối thứ bảy. Cao 1,83 m với giọng ca trầm ấm, bước nhảy điêu luyện và khả năng diễn xuất ấn tượng, anh đã làm cả đoàn phim Vũ điệu samba thở phào nhẹ nhõm khi nhận lời đảm nhận vai nam chính trong phim.
Phân vai
Moon Geun Young vai Jang Chae-ryn
Park Keon-hyeong vai Na Young-sae
Park Won-sang vai Ma Sang-doo
Chang Yun vai Jung Hyun-soo
Giải thưởng và đề cử
Giải thưởng Chuông Vàng 2005
Đề cử – Diễn viên nữ xuất sắc – Moon Geun-young
Đề cử – Diễn viên nam xuất sắc – Park Gun-hyung
Đề cử – Thiết kế trang phục xuất sắc nhất – Lee Ji-young
Đoạt giải – Giải thưởng phổ biến – Moon Geun-young
Giải thưởng Thanh Long 2005
Đề cử – Diễn viên nam xuất sắc – Park Gun-hyung
Giải thưởng phim Hàn Quốc 2005
Diễn viên nam xuất sắc – Park Gun-hyung
Phiên bản làm lại
Vào năm 2015, Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tuyên bố sẽ đồng sản xuất bộ phim với một diễn viên Trung Quốc và Hàn Quốc. 60% bộ phim sẽ được quay ở Trung Quốc và 40% ở Busan. |
Hệ thống thông tin quản lý là hệ thống cung cấp thông tin cho công tác quản lý của tổ chức. Hệ thống bao gồm con người, thiết bị và quy trình thu thập, phân tích, đánh giá và phân phối những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác cho những người soạn thảo các quyết định trong tổ chức.
Đây cũng là tên gọi của một chuyên ngành khoa học. Ngành khoa học này thường được xem là một phân ngành của khoa học quản lý và quản trị kinh doanh. Ngoài ra, do ngày nay việc xử lý dữ liệu thành thông tin và quản lý thông tin liên quan đến công nghệ thông tin, nó cũng được coi là một phân ngành trong toán học, nghiên cứu việc tích hợp hệ thống máy tính vào mục đích tổ chức.
Các loại thông tin quản lý
Thông tin quản lý là những dữ liệu được xử lý và sẵn sàng phục vụ công tác quản lý của tổ chức. Có ba loại thông tin quản lý trong một tổ chức, đó là thông tin chiến lược, thông tin chiến thuật, và thông tin điều hành.
Thông tin chiến lược: là thông tin sử dụng cho chính sách dài hạn của tổ chức, chủ yếu phục vụ cho các nhà quản lý cao cấp khi dự đoán tương lai. Loại thông tin này đòi hỏi tính khái quát, tổng hợp cao. Dữ liệu để xử lý ra loại thông tin này thường là từ bên ngoài tổ chức. Đây là loại thông tin được cung cấp trong những trường hợp đặc biệt.
Thông tin chiến thuật: là thông tin sử dụng cho chính sách ngắn hạn, chủ yếu phục vụ cho các nhà quản lý phòng ban trong tổ chức. Loại thông tin này trong khi cần mang tính tổng hợp vẫn đòi hỏi phải có mức độ chi tiết nhất định dạng thống kê. Đây là loại thông tin cần được cung cấp định kỳ.
Thông tin điều hành: (thông tin tác nghiệp) sử dụng cho công tác điều hành tổ chức hàng ngày và chủ yếu phục vụ cho người giám sát hoạt động tác nghiệp của tổ chức. Loại thông tin này cần chi tiết, được rút ra từ quá trình xử lý các dữ liệu trong tổ chức. Đây là loại thông tin cần được cung cấp thường xuyên.
Cấu trúc hệ thống thông tin quản lý
Theo cấu trúc nội dung, Một hệ thống thông tin quản lý được thiết kế cấu trúc tốt gồm bốn hệ thống con, đó là các hệ thống ghi chép nội bộ, hệ thống tình báo, hệ thống nghiên cứu và hệ thống hỗ trợ quyết định.
Hệ thống ghi chép nội bộ: Đảm bảo cung cấp những số liệu hiện thời, nhiều tổ chức đã phát triển những hệ thống ghi chép nội bộ tiên tiến có sử dụng máy tính để có thể cung cấp thông tin nhanh và đầy đủ hơn.
Hệ thống tình báo: Cung cấp cho các nhà quản lý những thông tin hàng ngày, tình hình đang diễn ra về những diễn biến của môi trường bên ngoài.
Hệ thống nghiên cứu thông tin: Thu thập những thông tin liên quan đến một vấn đề cụ thể đặt ra trước tổ chức, đặc điểm của việc nghiên cứu thông tin tốt là có phương pháp khoa học, sử dụng nhiều phương pháp, xây dựng mô hình, lượng định tỷ lệ chi phí/lợi ích của giá trị của thông tin.
Hệ thống hỗ trợ quyết định: Gồm các phương pháp thống kê và các mô hình quyết định để hỗ trợ các nhà quản lý ban hành các quyết định đúng đắn hơn.
Phân loại hệ thống thông tin quản lý
Một tổ chức có thể có nhiều cấp, và mỗi cấp có thể cần có một hệ thống thông tin quản lý riêng của mình. Một tổ chức điển hình có thể có 4 cấp là chiến lược, chiến thuật, chuyên gia và tác nghiệp. Vì thế, trong một tổ chức có thể có 4 hệ thống thông tin quản lý cho 4 cấp này. Các cấp có thể có những bộ phận chung.
Các nguồn thông tin quản lý
Thông tin quản lý có thể lấy từ bên trong tổ chức hoặc từ bên ngoài tổ chức. Thông tin nội tại tổ chức thường được lấy từ các báo cáo, sổ sách của tổ chức. Thông tin bên ngoài có thể lấy từ đối tác, đối thủ cạnh tranh, tổ chức có liên quan, các nhà cung cấp, chính phủ,...
Vai trò của công nghệ thông tin
Mặc dù một hệ thống thông tin quản lý không nhất thiết phải sử dụng công nghệ thông tin, nhưng công nghệ thông tin (phần cứng lẫn phần mềm) đang ngày càng rẻ và góp phần tạo ra năng suất xử lý, lưu trữ, phân phối thông tin ngày một cao, nên hệ thống thông tin quản lý hiện đại thường tích cực sử dụng công nghệ thông tin. |
DES có thể là:
Phương pháp mã hóa DES
Incoterm DES |
Gia Nghĩa là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Nông, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Thành phố Gia Nghĩa nằm về phía tây nam của khu vực Tây Nguyên và phía nam tỉnh Đắk Nông, nằm trên cao nguyên Mơ Nông và có độ cao trung bình là 600 m so với mực nước biển, cách Thành phố Hồ Chí Minh 225 km, cách thành phố Buôn Ma Thuột 120 km, cách thành phố Đà Nẵng 667 km và cách thủ đô Hà Nội 1.400 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Đắk Glong
Phía tây giáp huyện Đắk R'lấp
Phía nam giáp huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng
Phía bắc giáp huyện Đắk Song.
Thành phố Gia Nghĩa có diện tích 284,11 km², dân số năm 2019 là 63.046 người, mật độ dân số đạt 222 người/km².
Thành phố Gia Nghĩa có địa hình phức tạp, bao gồm nhiều dãy đồi núi mấp mô xen kẽ nhiều khe suối tự nhiên lớn, nhỏ tạo thành dạng địa hình bị chia cắt mạnh. Địa hình thành phố có hướng thấp dần từ bắc xuống nam, từ đông sang tây, có trục Quốc lộ 14 là trục giao thông xương sống quan trọng gắn kết các trung tâm kinh tế của vùng với các vùng lân cận; có Quốc lộ 14C là trục gắn kết các khu kinh tế cửa khẩu dọc hành lang biên giới, có Quốc lộ 28 kết nối đô thị với Đà Lạt - trung tâm du lịch của cả nước.
Với vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện cho tỉnh Đắk Nông nói chung và thành phố Gia Nghĩa nói riêng có thể mở rộng giao lưu với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Duyên hải miền Trung, tăng cường liên kết giữa Đắk Nông với các tỉnh thuộc Đông Bắc Campuchia về mở rộng thị trường, phát triển hợp tác liên vùng và Quốc tế.
Gia Nghĩa được xem là một đô thị hạt nhân có chức năng chuyển tiếp các hoạt động từ vùng Tây Nguyên tới vùng Đông Nam Bộ (vùng phát triển năng động nhất cả nước) kết nối với vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ - một hướng mở ra cảng biển để vận chuyển hàng hóa khối lượng lớn. Đồng thời là một hạt nhân bổ trợ chức năng kết nối các hoạt động theo hành lang Đông Tây và tiểu vùng Sông Mê Kông mở rộng, liên kết với các khu vực phát triển nhằm thúc đẩy các lợi thế so sánh của khu vực.
Thành phố có nhiều lợi thế về vị trí địa lý và là đô thị quan trọng trong vùng Tây Nguyên và của Việt Nam (trung tâm công nghiệp bôxit), có sức hút và tác động rộng lớn đối với các tỉnh xung quanh và quốc tế.
Điều kiện tự nhiên
Thành phố Gia Nghĩa có khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa mưa và mùa khô phân biệt rõ rệt. Mùa mưa kéo dài 7 tháng từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Trong đó mùa mưa tổng lượng mưa chiếm 80% lượng mưa cả năm, lượng mưa trình bình năm: 2.503 mm, lượng mưa tháng khô nhất 12,2mm. Độ ẩm không khí trung bình năm 85%. Độ cao so với mực nước biển trên 600m. Nhiệt độ trung bình năm 22,4 °C, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất 20,1 °C, nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất 23,9 °C.
Khí hậu
Hành chính
Thành phố Gia Nghĩa có 8 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: Nghĩa Đức, Nghĩa Phú, Nghĩa Tân, Nghĩa Thành, Nghĩa Trung, Quảng Thành và 2 xã: Đắk Nia, Đắk R’Moan.
Lịch sử
Trước năm 1975, Gia Nghĩa là tỉnh lỵ tỉnh tỉnh Quảng Đức cũ, khi đó Gia Nghĩa là cấp xã, có 3 thôn Nghĩa Đức, Nghĩa Thành, Nghĩa Tín. Sau khi tỉnh Quảng Đức nhập vào tỉnh Đắk Lắk, Gia Nghĩa trở thành thị trấn huyện lỵ huyện Đắk Nông.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết 22/2003/QH11.Theo đó, chia tỉnh Đắk Lắk thành 2 tỉnh: Đắk Lắk và Đắk Nông, lúc này, thì huyện Đắk Nông thuộc về tỉnh Đắk Nông và tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Nông được đặt tại thị trấn Gia Nghĩa.
Ngày 27 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2005/NĐ-CP. Theo đó:
Thành lập thị xã Gia Nghĩa - thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Nông trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Đắk Nông (gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Gia Nghĩa và 2 xã: Quảng Thành, Đắk Nia). Thị xã Gia Nghĩa có 28.664 ha diện tích tự nhiên và 35.559 nhân khẩu.
Thành lập một số phường, xã của thị xã Gia Nghĩa như sau:
Thành lập phường Nghĩa Đức trên cơ sở 99 ha diện tích tự nhiên với 2.981 nhân khẩu của thị trấn Gia Nghĩa, 333 ha diện tích tự nhiên với 235 nhân khẩu của xã Đắk Nia và 1.232 ha diện tích tự nhiên với 710 nhân khẩu của xã Quảng Thành. Phường Nghĩa Đức có diện tích tự nhiên 1.664 ha và 3.926 nhân khẩu.
Thành lập phường Nghĩa Thành trên cơ sở 134 ha diện tích tự nhiên với 5.286 nhân khẩu của thị trấn Gia Nghĩa và 152 ha diện tích tự nhiên với 2.754 nhân khẩu của xã Quảng Thành, phường Nghĩa Thành có diện tích tự nhiên 286 ha và 8.040 nhân khẩu.
Thành lập phường Nghĩa Phú trên cơ sở 699 ha diện tích tự nhiên với 1.828 nhân khẩu của thị trấn Gia Nghĩa và 614 ha diện tích tự nhiên với 512 nhân khẩu của xã Quảng Thành, phường Nghĩa Phú có diện tích tự nhiên 1.313 ha và 2.340 nhân khẩu.
Thành lập phường Nghĩa Tân trên cơ sở 1.215 ha diện tích tự nhiên với 3.161 nhân khẩu của thị trấn Gia Nghĩa và 513 ha diện tích tự nhiên với 484 nhân khẩu của xã Đắk Nia, phường Nghĩa Tân có diện tích tự nhiên 1.728 ha và 3.644 nhân khẩu.
Thành lập phường Nghĩa Trung trên cơ sở 520 ha diện tích tự nhiên với 4.112 nhân khẩu của thị trấn Gia Nghĩa và 896 ha diện tích tự nhiên với 2.749 nhân khẩu của xã Đắk Nia, phường Nghĩa Trung có 1.416 ha diện tích tự nhiên và 6.861 nhân khẩu.
Thành lập xã Đắk R'Moan trên cơ sở 4.956 ha diện tích tự nhiên với 4.045 nhân khẩu của xã Quảng Thành.
Huyện Đắk Nông (sau khi đổi tên thành huyện Đắk Glong) còn lại 144.228 ha diện tích tự nhiên và 20.504 nhân khẩu với 6 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 xã: Quảng Khê, Đắk Ha, Đắk R'Măng, Đắk Plao, Đắk Som và Quảng Sơn.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính:
Xã Quảng Thành còn lại 7.945 ha diện tích tự nhiên và 1.984 nhân khẩu.
Xã Đắk Nia còn lại 9.356 ha diện tích tự nhiên và 4.719 nhân khẩu.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị xã Gia Nghĩa và thành lập một số phường, xã, thì thị xã Gia Nghĩa có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 5 phường: Nghĩa Đức, Nghĩa Phú, Nghĩa Tân, Nghĩa Thành, Nghĩa Trung và 3 xã: Đắk Nia, Đắk R'Moan, Quảng Thành với 28.664 ha diện tích tự nhiên và 35.559 nhân khẩu.
Ngày 12 tháng 2 năm 2015, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 209/QĐ-BXD công nhận thị xã Gia Nghĩa là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Đắk Nông.
Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 835/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Thành lập phường Quảng Thành trên cơ sở toàn bộ 77,59 km² diện tích tự nhiên và 7.583 người của xã Quảng Thành
Thành lập thành phố Gia Nghĩa trên cơ sở toàn bộ 284,11 km² diện tích tự nhiên và 85.082 người của thị xã Gia Nghĩa.
Sau khi thành lập, thành phố Gia Nghĩa có 8 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 phường và 2 xã. Đây cũng là thị xã tỉnh lỵ cuối cùng của Việt Nam được nâng cấp lên thành phố thuộc tỉnh.
Dân số
Văn hóa
Trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa có 19 dân tộc cùng sinh sống bao gồm người Kinh, dân tộc Mạ, M’Nông, Thái, Nùng, Tày, Mường, H’Mông, Khơ me, Dao, Gia Rai, Hoa, Cao lan, Ê đê, Cho ro, Sán dìu, Sán chay, Sán chỉ, Xơ đăng, Kinh. Ngoài ra ở đây có 3 tôn giáo chính đang hoạt động gồm đạo Thiên chúa, đạo Tin lành, đạo Phật.
Hình ảnh
Chú thích |
Trong khoa học máy tính và lý thuyết thông tin, mã hóa Huffman là một thuật toán mã hóa dùng để nén dữ liệu. Nó dựa trên bảng tần suất xuất hiện các ký tự cần mã hóa để xây dựng một bộ mã nhị phân cho các ký tự đó sao cho dung lượng (số bit) sau khi mã hóa là nhỏ nhất.
Tác giả
Thuật toán được đề xuất bởi David A. Huffman khi ông còn là sinh viên Ph.D. tại MIT, và công bố năm 1952 trong bài báo "A Method for the Construction of Minimum-Redundancy Codes". Sau này Huffman đã trở thành một giảng viên ở MIT và sau đó ở khoa Khoa học máy tính của Đại học California, Santa Cruz, Trường Kỹ nghệ Baskin (Baskin School of Engineering).
Dẫn nhập
Mã tiền tố
Để mã hóa các ký hiệu (ký tự, chữ số,...) ta thay chúng bằng các xâu nhị phân, được gọi là từ mã của ký hiệu đó.
Chẳng hạn bộ mã ASCII, mã hóa cho 256 ký hiệu là biểu diễn nhị phân của các số từ 0 đến 255, mỗi từ mã gồm 8 bit. Trong ASCII từ mã của ký tự "a" là 1100001, của ký tự "A" là 1000001. Trong cách mã hóa này các từ mã của tất cả 256 ký hiệu có độ dài bằng nhau (mỗi từ mã 8 bit). Nó được gọi là mã hóa với độ dài không đổi.
Khi mã hóa một tài liệu có thể không sử dụng đến tất cả 256 ký hiệu. Hơn nữa trong tài liệu chữ cái "a" chỉ có thể xuất hiện 1000000 lần còn chữ cái "A" có thể chỉ xuất hiện 2, 3 lần. Như vậy ta có thể không cần dùng đủ 8 bit để mã hóa cho một ký hiệu, hơn nữa độ dài (số bít) dành cho mỗi ký hiệu có thể khác nhau, ký hiệu nào xuất hiện nhiều lần thì nên dùng số bit ít, ký hiệu nào xuất hiện ít thì có thể mã hóa bằng từ mã dài hơn. Như vậy ta có việc mã hóa với độ dài thay đổi. Tuy nhiên, nếu mã hóa với độ dài thay đổi, khi giải mã ta làm thế nào phân biệt được xâu bít nào là mã hóa của ký hiệu nào. Một trong các giải pháp là dùng các dấu phẩy (",") hoặc một ký hiệu quy ước nào đó để tách từ mã của các ký tự đứng cạnh nhau. Nhưng như thế số các dấu phẩy sẽ chiếm một không gian đáng kể trong bảng mã. Một cách giải quyết khác dẫn đến khái niệm mã tiền tố
Mã tiền tố là bộ các từ mã của một tập hợp các ký hiệu sao cho từ mã của mỗi ký hiệu không là tiền tố (phần đầu) của từ mã một ký hiệu khác trong bộ mã ấy.
Đương nhiên mã hóa với độ dài không đổi là mã tiền tố.
Ví dụ: Giả sử mã hóa từ "ARRAY", tập các ký hiệu cần mã hóa gồm 3 chữ cái "A","R","Y".
Nếu mã hóa bằng các từ mã có độ dài bằng nhau ta dùng ít nhất 2 bit cho một chữ cái chẳng hạn "A"=00, "R"=01, "Y"=10. Khi đó mã hóa của cả từ là 0001010010. Để giải mã ta đọc hai bit một và đối chiếu với bảng mã.
Nếu mã hóa "A"=0, "R"=01, "Y"=11 thì bộ từ mã này không là mã tiền tố vì từ mã của "A" là tiền tố của từ mã của "R". Để mã hóa cả từ ARRAY phải đặt dấu ngăn cách vào giữa các từ mã 0,01,01,0,11
Nếu mã hóa "A"=0, "R"=10, "Y"=11 thì bộ mã này là mã tiền tố. Với bộ mã tiền tố này khi mã hóa xâu "ARRAY" ta có 01010011.
Biểu diễn mã tiền tố trên cây nhị phân
Nếu có một cây nhị phân lá ta có thể tạo một bộ mã tiền tố cho ký hiệu bằng cách đặt mỗi ký hiệu vào một lá. Từ mã của mỗi ký hiệu được tạo ra khi đi từ gốc tới lá chứa ký hiệu đó, nếu đi qua cạnh trái thì ta thêm số 0, đi qua cạnh phải thì thêm số 1.
Ví dụ: Cây 3 lá sau đây biểu diễn bộ mã của A,R,Y trong ví dụ trên
*
0/ \1
A *
0/ \1
R Y
Từ mã của "A" là 0, của "R" là 10, của "Y" là 11.
Mã tiền tố tối ưu
Từ ví dụ trên thấy mã hóa của xâu "ARRAY" bằng mã độ dài cố định mất 10 bit, bằng mã tiền tố đã đưa ra mất 8 bit, tiết kiệm được 20%. Bài toán đặt ra là bộ mã tiền tố đã tối ưu chưa.
Bài toán
Cho tập A các ký hiệu và trọng số (tần suất) của chúng.
Tìm một bộ mã tiền tố với tổng độ dài mã hóa là nhỏ nhất.
Dữ liệu
Input
Bảng chữ cái .Tập các trọng số (tần suất xuất hiện) tương ứng , ví dụ: .
Output
Bộ mã , là tập hợp các từ mã (nhị phân), trong đó là từ mã của .
Yêu cầu
Đặt là trọng số của bộ mã . Điều kiện là: với mọi bộ mã .
Ví dụ
Trong ví dụ sau, với các tần số như trên mã 1 sẽ tốn không gian hơn mã 2.
Giải thuật
Giải thuật tham lam
Trong giải thuật tham lam giải bài toán xây dựng cây mã tiền tố tối ưu của Huffman, ở mỗi bước ta chọn hai chữ cái có tần số thấp nhất để mã hóa bằng từ mã dài nhất.
Giả sử có tập A gồm ký hiệu và hàm trọng số tương ứng .
Khởi tạo: Tạo một rừng gồm n cây, mỗi cây chỉ có một nút gốc, mỗi nút gốc tương ứng với một ký tự và có trọng số là tần số/tần suất của ký tự đó .
Lặp:
Mỗi bước sau thực hiện cho đến khi rừng chỉ còn một cây:
Chọn hai cây có trọng số ở gốc nhỏ nhất hợp thành một cây bằng cách thêm một gốc mới nối với hai gốc đã chọn. Trọng số của gốc mới bằng tổng trọng số của hai gốc tạo thành nó.
Như vậy ở mỗi bước số cây bớt đi một. Khi rừng chỉ còn một cây thì cây đó biểu diễn mã tiền tố tối ưu với các ký tự đặt ở các lá tương ứng.
Ví dụ
Cho bảng tần suất của 5 chữ cái A, B, C, D, E như sau tương ứng là 0.10; 0.15; 0.30; 0.16; 0.29
Quá trình xây dựng cây Huffman diễn ra như sau:
Như vậy bộ mã tối ưu tương ứng là:
Hàng đợi có ưu tiên
Trong mỗi bước của thuật toán xây dựng cây Huffman, ta luôn phải chọn ra hai gốc có trọng số nhỏ nhất. Để làm việc này ta sắp xếp các gốc vào một hàng đợi ưu tiên theo tiêu chuẩn trọng số nhỏ nhất. Một trong các cấu trúc dữ liệu thuận lợi cho tiêu chuẩn này là cấu trúc đống (với phần tử có trọng số nhỏ nhất nằm trên đỉnh của đống).
Mã giả
Trong đoạn mã giả dưới đây ta dựa trên một mảng các ký hiệu có tần suất tương ứng là
Tạo hàng đợi bằng đống (heap)
Ta tạo một đống trên cơ sở sắp xếp lại các chỉ số của A và W. Ta lưu trữ đống dưới dạng mảng, ký hiệu nó là Heap[1..n]. Trước hết đưa chỉ số của các chữ cái theo thứ tự ban đầu vào mảng Heap[1..n] với Heap[i]=i. với mọi i=1..n.
Procedure DownHeap(List W,Int k,Int Count)
{
Int i:=k, v:=W(Heap(k)), j
While 2*i<=Count {
j:=2*i
if j+1<= Count and W(Heap(j+1))>W(Heap(j)) then j:=j+1
if W(Heap(j))< v then Heap(i):=Heap(j)
else break
i:=j
Heap(j):=Heap(k)
}
}
Procedure MakeHeap(List W,Int n)
{
Int k
For k:=int(n/2) downto 1 {
DownHeap (W,k,n)
}
}
Xây dựng cây Huffman
Ta sẽ lưu trữ cấu trúc của cây mã Huffman vào một mảng. Cây Huffman gồm n lá mỗi lá chứa chỉ số của chữ cái tương ứng. Mỗi lần ghép 2 cây thành một ta phải thêm một đỉnh, như vậy cây biểu diễn mã Huffman gồm 2.n-1 đỉnh. Ta ký hiệu cây này là Huff[1..2n-1]. Vì mỗi gốc mới bổ sung đều có trọng số nên ta mở rộng mảng W[1..n] các trọng số thành mảng W' [1..2n-1]. Gọi m là số đỉnh của cây sẽ xây dựng. lúc đầu ta có n lá, đỉnh bổ sung lần đầu sẽ là n+1, lần thứ 2 là n+2,... Khi lấy ra hai ký tự có tần số nhỏ nhất chẳng hạn ký tự thứ i làm con trái và ký tự thứ j làm con phải của đỉnh mới bổ sung có chỉ số m ta đặt Huff[i]=-m, Huff[j]=m.
Procedure MakeTreeHuffman(List W,Int n)
{
List Heap,Huff
Int i,j,count:=n,m:=n
MakeHeap(W,n)
While Count >1 {
i:=Heap(1)
Heap(1):= Heap(count)
Count:=Count-1
DownHeap(W,1,Count)
j:=Heap(1)
m:=m+1
Huff(i):=-m
Huff(j):=m
W(m):=W(i)+W(j)
Heap(1):=m
DownHeap(W,1,Count)
}
Return Huff
}
Xây dựng bộ mã
Sau khi cấu trúc của cây Huffman được lưu vào mảng Huff ta dễ dàng xây dựng mảng Code[1..n] cho bộ mã nhị phân tiền tố tối ưu của các ký tự A[1..n].
Procedure CodingHuffman(List Huff, n){
Int k:=1,j
While k<=n {
Code(k):=""
j:=Huff(k)
While Abs(j)<=2*n-1 {
If j>0 then Code(k)="1"+Code(k)
else Code(k)="0"+Code(k)
j:=Huff(abs(j))
}
k:=k+1
}
Return Code
}
Nén file bằng mã Huffman
Trong các bước trên, giả sử đã xây dựng được bộ mã Huffman của 256 ký hiệu có mã ASCII từ 0 đến 255 chứa trong mảng Code[1..256].
Việc nén file có thể phân tích sơ bộ như sau:
Đọc từng byte của file cần nén cho đến khi hết tệp,
Chuyển theo bộ mã thành xâu nhị phân,
Ghép với xâu nhị phân còn dư từ bước trước,
Nếu có đủ 8 bit trong xâu thì cắt ra tám bít đầu tiên ghi vào tệp nén,
Nếu đã hết tệp cần nén thì dừng... |
DDP có thể là:
Incoterm DDP
Viết tắt trong tiếng Đức của Đảng Dân chủ Đức (Deutsche Demokratische Partei) |
FAS có thể là:
Viết tắt trong tiếng Anh của Hiệp hội Khoa học gia Hoa Kỳ (Federation of American Scientists)
Incoterm FAS
Viết tắt trong tiếng Anh của Liên đoàn Bóng đá Singapore (Football Association of Singapore) |
Andre Kirk Agassi (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1970 tại Las Vegas, Nevada) là cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp hạng 1 thế giới của Hoa Kỳ. Anh là một trong năm vận động viên đã thắng cả bốn giải Grand Slam đơn trong sự nghiệp. Anh cũng là vận động viên duy nhất trong Kỷ nguyên mở rộng đã đoạt tất cả các giải Grand Slam đơn, Cúp Tennis Masters, đoạt Cúp Davis (Cúp quần vợt đồng đội thế giới) trong màu áo đội tuyển Mỹ, và huy chương vàng Thế vận hội. Ông từng là vận động viên đã đoạt nhiều chức vô địch ATP Masters Series với (17 danh hiệu).
Vì chấn thương dai dẳng, Agassi đã giải nghệ vào ngày 3 tháng 9 năm 2006, sau khi dừng bước tại vòng ba giải Mỹ mở rộng. Agassi có vợ là Steffi Graf và hai con (1 trai, 1 gái).
Các giải chính
Grandslam(15)
Vô địch(8)
Á quân (7)
Masters Cup (4)
Vô địch (1)
Á quân (3)
Olympic (1)
ATP Masters Series (22)
Vô địch (17)
Á quân (5)
Vô địch đơn
Tổng số (60)
Á Quân (30)
Chú thích |
Huffman có thể chỉ đến:
David A. Huffman
Mã Huffman (đặt theo tên của David A. Huffman)
Họ tên
Họ người Đức |
Gaston có thể chỉ đến:
Gaston, South Carolina
Gaston, Oregon
Nhân vật tranh hoạt họa Gaston Lagaffe
Bão Gaston
Nhân vật Gaston trong phim Beauty and the Beast
Tên của một technique leo núi (gaston), đặt theo tên nhà leo núi người Pháp Gaston Rébuffat
Họ tên |
Perl (viết tắt của Practical Extraction and Report Language - ngôn ngữ kết xuất và báo cáo thực dụng) được Larry Wall xây dựng từ năm 1987, với mục đích chính là tạo ra một ngôn ngữ lập trình có khả năng chắt lọc một lượng lớn dữ liệu và cho phép xử lý dữ liệu nhằm thu được kết quả cần tìm.
Perl là ngôn ngữ thông dụng trong lĩnh vực quản trị hệ thống và xử lý các trang Web do có các ưu điểm sau:
Có các thao tác quản lý tập tin, xử lý thông tin thuận tiện
Thao tác với chuỗi ký tự rất tốt
Đã có một thư viện mã lệnh lớn do cộng đồng sử dụng Perl đóng góp (CPAN).
Cú pháp lệnh của Perl khá giống với C, từ các ký hiệu đến tên các hàm, do đó, nhiều người (đã có kinh nghiệm với C) thấy Perl dễ học. Perl khá linh hoạt và cho phép người sử dụng giải quyết với cùng một vấn đề được đặt ra theo nhiều cách khác nhau.
Lịch sử
Wall bắt đầu thiết kế Perl vào năm 1987 lúc đang làm lập trình viên cho Unisys và cho ra đời phiên bản 1.0 trên comp.sources.misc vào ngày 18 tháng 12 năm 1987. Ngôn ngữ được mở rộng một cách nhanh chóng vài năm sau đó. Phiên bản 2 của Perl, được công bố năm 1988, có tính năng tốt hơn cho biểu thức chính quy. Phiên bản 3, công bố năm 1989, với hỗ trợ cho các dữ liệu dạng nhị phân.
Cho đến năm 1991, trang man là tài liệu duy nhất của Perl. Năm 1991, cuốn sách Programming Perl đã được xuất bản và trở thành cuốn cẩm nang tra cứu của ngôn ngữ Perl. Cùng lúc đó, phiên bản 4 ra đời, đánh dấu sự thay đổi quan trọng của ngôn ngữ, và là phiên bản đầu tiên được viết trong sách.
Tên gọi
Ban đầu, ngôn ngữ này có tên là "Pearl" (ngọc trai), được đặt tên theo "Parable of the Pearl" trong sách phúc âm.
Larry đã bỏ nhiều công sức tìm kiếm tên cho ngôn ngữ mới. Ông đã thử xem xét (và bỏ qua) tất cả các từ 3,4 ký tự trong tự điển. Cuối cùng, ông đã đặt tên Pearl. Nhưng trước ngày phiên bản chính thức đầu tiên của Perl ra đời, Larry phát hiện ra đã có một ngôn ngữ cũng có tên là PEARL, nên ông quyết định đổi tên ngôn ngữ mình thành Perl.
Ngày nay, Perl trở thành tên chính thức của một trong những ngôn ngữ thông dịch mạnh mẽ được nhiều người sử dụng trên thế giới.
Biểu tượng
Programming Perl, xuất bản bởi O'Reilly Media, đã đưa ra nơi trang bìa bức ảnh một con lạc đà. Từ đó, lạc đà trở thành biểu tượng của ngôn ngữ Perl, cũng như quyển sách đó còn được biết đến dưới cái tên The Camel Book.
Khái quát
Ban đầu, Perl được tạo ra cho mục đích xử lý chuỗi. Nhưng dần dần, tính năng của ngôn ngữ được mở rộng ra cho nhiều mục đích khác nhau bao gồm: quản trị hệ thống, thiết kế web, lập trình mạng, phát triển ứng dụng GUI,...
Các tính năng
Ứng dụng
Cấu trúc ngôn ngữ
Kiểu dữ liệu
Perl có ba kiểu dữ liệu được xây dựng sẵn là kiểu vô hướng (scalar), kiểu mảng của các phần tử vô hướng và kiểu mảng kết hợp của các phần tử vô hướng, thường được gọi là "bảng băm" (hash).
Một thực thể dữ liệu vô hướng là một chuỗi chiều dài bất kỳ (chiều dài bị giới hạn bởi giới hạn bộ nhớ), hoặc một con số, hay một tham khảo trỏ đến một phần tử dữ liệu khác.
Một thực thể dữ liệu mảng thông thường là một danh sách có thứ tự chứa các phần tử vô hướng được đánh chỉ mục, bắt đầu từ 0.
Bảng băm là một tập không thứ tự các giá trị vô hướng được đánh chỉ mục bởi các chuỗi giá trị khóa kết hợp của chúng.
Cấu trúc điều khiển
Subroutine
Giống như nhiều ngôn ngữ lập trình khác, Perl cho phép người dùng định nghĩa thêm các subroutine (hàm con). Các subroutine có thể đặt bất cứ nơi đâu trong chương trình chính, hoặc tải về từ các tập tin khác bằng cách dùng các từ khóa do, require hoặc use, hoặc được tạo ra tức thì bởi từ khóa eval hay các subroutine vô danh.
Biểu thức chính quy
Giao diện với các hệ cơ sở dữ liệu
Tối ưu hoá
Tương lai |
Lưu Cầu có thể là tên của:
Quần đảo Lưu Cầu: quần đảo Nansei, Nhật Bản.
Vương quốc Lưu Cầu: tồn tại từ thế kỷ 15 đến 19 tại Nhật Bản ngày nay
Nhạc sĩ Lưu Cầu: tên thật Nguyễn Hoàn Cầu, là một nhạc sĩ nhạc cách mạng. |
Trong khoa học máy tính, cây nhị phân (tiếng Anh: binary tree) là một cấu trúc dữ liệu cây mà mỗi nút có nhiều nhất hai nút con, được gọi là (left child) và (right child). Một định nghĩa đệ quy chỉ sử dụng các khái niệm lý thuyết tập hợp là cây nhị phân không trống là một tuple (L, S, R), với L và R là các cây nhị phân hay tập hợp rỗng và S là tập đơn (singleton set). Một số tác giả cho phép cây nhị phân cũng có thể là tập hợp trống.
Từ góc độ lý thuyết đồ thị, cây nhị phân (và K-ary) như định nghĩa ở đây thực sự là arborescence. Vì vậy cây nhị phân có thể gọi là arborescence phân nhánh đôi (bifurcating arborescence)—một thuật ngữ xuất hiện trong các sách lập trình rất cũ, trước khi thuật ngữ khoa học máy tính hiện đại chiếm ưu thế. Cũng có thể hiểu cây nhị phân là một đồ thị vô hướng chứ không phải đồ thị có hướng, trong trường hợp đó cây nhị phân là một cây có gốc và thứ tự Một số tác giả dùng thuật ngữ cây nhị phân có gốc thay vì cây nhị phân để nhấn mạnh thực tế rằng cây có gốc, nhưng như được định nghĩa ở trên thì cây nhị phân luôn có gốc. Cây nhị phân là trường hợp đặc biệt của cây K-ary, với k bằng 2.
Các loại cây nhị phân
Thuật ngữ về cây không được chuẩn hóa tốt và do đó thay đổi trong các tài liệu.
Một cây nhị phân có một nút gốc và mỗi nút có tối đa hai nút con.
Một cây nhị phân (đôi khi được gọi là đúng đắn hay phẳng hay cây nhị phân nghiêm ngặt) là một cây có mỗi nút đều có hoặc không có hoặc 2 nút con. Một cách định nghĩa khác cho cây nhị phân đầy đủ là một cách định nghĩa đệ quy. Một cây nhị phân đầy đủ gồm:
Một đỉnh đơn lẻ (một nút đơn lẻ làm nút gốc).
Một cây có nút gốc có hai nhánh con, cả hai đều là cây nhị phân đầy đủ.
Một cây nhị phân là một cây nhị phân mà tất cả các nút bên trong đều có hai nút con và tất cả các nút lá đều có cùng độ sâu hoặc cùng cấp độ (cấp độ của một nút được định nghĩa là số đường nối từ nút gốc đến nút đó). Một ví dụ về cây nhị phân hoàn hảo là biểu đồ tổ tiên của một người đến một độ sâu nhất định nhỏ hơn mức mà tổ tiên sẽ xuất hiện nhiều hơn một lần trong biểu đồ (tại thời điểm này, biểu đồ không còn là một cây có các nút duy nhất; chú ý là cùng một tổ tiên có thể xuất hiện ở các độ sâu khác nhau trong biểu đồ), vì mỗi người có đúng hai cha mẹ sinh học (một mẹ và một cha). Miễn là biểu đồ tổ tiên luôn hiển thị mẹ và cha ở cùng một bên cho một nút nhất định, giới tính của họ có thể được coi là tương đương với nút con trái và phải, con ở đây được hiểu là một thuật ngữ thuật toán. Một cây nhị phân hoàn hảo là một cây nhị phân đầy đủ, nhưng đảo ngược của nó không nhất thiết đúng.
Một cây nhị phân là một cây nhị phân trong đó mọi cấp độ, ngoại trừ có thể là cấp cuối cùng, đều được lấp đầy hoàn toàn và tất cả các nút ở cấp cuối cùng nằm càng bên trái càng tốt. Nó có thể có từ 1 đến 2h nút ở cấp cuối cùng h. Một cây hoàn hảo vì vậy luôn luôn là hoàn chỉnh nhưng một cây hoàn chỉnh không nhất thiết hoàn hảo. Một số tác giả sử dụng thuật ngữ hoàn chỉnh để chỉ một cây nhị phân hoàn hảo như được định nghĩa ở trên, trong trường hợp đó họ gọi loại cây này (với một cấp cuối không nhất thiết phải lấp đầy) là cây nhị phân gần như hoàn chỉnh hoặc hầu như hoàn chỉnh. Một cây nhị phân hoàn chỉnh có thể được biểu diễn hiệu quả bằng một mảng.
Trong cây nhị phân vô hạn hoàn chỉnh, cây có cấp độ, trong đó ở mỗi cấp độ d số nút hiện có ở cấp độ d bằng 2d. Số lượng phần tử của tập hợp tất cả các cấp độ là (vô hạn đếm được). Số lượng phần tử của tập hợp tất cả các đường đi (các "lá", cứ coi như vậy) là không đếm được, có số lượng của liên tục.
Một cây nhị phân cân bằng là một cấu trúc cây nhị phân trong đó nhánh con trái và nhánh con phải của mỗi nút không chênh lệch về chiều cao (số đường nối từ nút trên cùng đến nút xa nhất trong nhánh con) không quá 1. Người ta cũng có thể xem xét các cây nhị phân trong đó không có lá nào xa gốc hơn các lá khác. (Các lược đồ cân bằng khác nhau cho phép các định nghĩa khác nhau về "xa hơn". )
Một cây tàu lượn (hoặc bệnh lý) là một cây mà mỗi nút cha chỉ có một nút con liên quan. Điều này có nghĩa là cây sẽ hoạt động như một cấu trúc dữ liệu danh sách liên kết. Trong trường hợp này, lợi ích của việc sử dụng cây nhị phân bị giảm đáng kể vì nó về cơ bản là một danh sách liên kết có độ phức tạp độ phức tạp thời gian là O(n) (n là số nút) và nó có nhiều không gian dữ liệu hơn danh sách liên kết do hai con trỏ cho mỗi nút, trong khi độ phức tạp O(log2n) cho tìm kiếm dữ liệu trong cây nhị phân cân bằng thường được mong đợi. |
Vespa là thương hiệu của dòng sản phẩm xe gắn máy yên thấp bánh nhỏ (scooter) của hãng Piaggio.Dòng xe này ra đời từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và ngày nay nó vẫn tiếp tục được sản xuất đến nay.
Lịch sử
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà máy của Piaggio, vốn được biết đến như hãng sản xuất máy bay chiến đấu cho quân đội Ý, phải ngừng công việc liên quan đến khí tài và đứng trước nguy cơ đóng cửa. Cùng lúc đó, do hậu quả của việc thua trận, đời sống của người Ý trở nên thiếu thốn, phương tiện giao thông chủ yếu là xe đạp vì giá xăng dầu đắt đỏ và đường giao thông bị tàn phá. Nắm bắt được nhu cầu về một loại phương tiện giao thông thuận tiện và tiết kiệm, ông chủ của hãng Piaggio lúc đó là Enrico Piaggio đã đề ra hướng đi mới cho các nhà máy và công nhân của mình: Chuyển từ sản xuất phục vụ quân sự sang phục vụ dân sự.
Năm 1884, Rinaldo Piaggio (1864-1938) thành lập Công ty Piaggio tại Genoa với tên là "Piaggio &C". Địa điểm nhà máy của công ty được đặt tại Sestri Ponente với chức năng chuyên sản xuất các trang thiết bị cho tàu thủy. Sau đó, Rinaldo đã mở rộng sang hướng sản xuất các trang thiết bị cho tàu hoả, máy bay và mở thêm một nhà máy mới tại Finale Ligure.
Năm 1917, Rinaldo đã mở rộng hoạt động của Piaggio tại vùng Toscana với nhà máy đặt tại Pisa năm 1917 và tại Pontedera năm 1924.
Trong chiến tranh thế giới thứ II, Piaggio là một trong những hãng sản xuất máy bay, xe lửa, tàu thủy hơi nước, tàu thủy vượt Đại Tây Dương quan trọng của châu Âu.
Năm 1920, Rinaldo Piaggio đã hợp nhất các nhà máy ở Sestri, Finale & Pisa thành Hãng Piaggio.
Năm 1938, Rinaldo Piaggio qua đời và đã để lại toàn bộ gia sản của nhà máy tại Finale & Sestri cho người con trai cả là Armando Piaggio (1901-1978) quản lý.Còn nhà máy, tại Pisa và Pontedera ở vùng Toscana gần như bị chiến tranh thế giới thứ 2 phá huỷ hoàn toàn, được Rinaldo trao lại cho người con thứ Enrico Piaggio (1905-1965) điều hành.
Khi điều hành nhà máy, Enrico Piaggio đã nảy ra một ý tướng sản xuất một loại phương tiện đi lại rẻ hơn, thuận tiện hơn và ai cũng có thể dùng được nhưng phải bảo vệ được người lái và giữ cho người lái luôn sạch sẽ khi trời mưa...Để thực hiện được ý tưởng của mình, Enrico Piaggio đã cùng kỹ sư tài năng, người đã thiết kế chiếc máy bay trực thăng đầu tiên - Corrandino D'Ascanio - thiết kế nên chiếc xe scooter huyền thoại - Vespa.Vespa được coi là biểu tượng của thời kỳ tái thiết sau chiến tranh của Italy bởi vì nó được thiết kế dựa trên những phế tích còn lại của cuộc chiến tranh thế giới thứ II.
Năm 1946, những chiếc xe đầu tiên của dòng sản phẩm này được thiết kế bởi kỹ sư Corradino D'Ascanio và được sản xuất tại nhà máy chính của Piaggio tại Pontedera, Ý. Enrico Piaggio rất ấn tượng với kiểu dáng được vuốt tròn của khung và tiếng nổ khác biệt của động cơ xe nên đã nói: "Sembra una vespa!" (Nó cứ như con ong ấy). Chính câu nói này của ông mà kiểu xe mới được đặt tên là Vespa.
Năm 1948 là năm ra đời của chiếc xe ba bánh Ape đầu tiên. Ape đã giúp cho hoạt động thương mại của Italy khởi sắc trong thời kỳ hậu chiến. Kế đó, năm 1949 Piaggio đã cho xuất xưởng chiếc thuyền máy nhỏ Moscone và chiếc Vespa 400 vào năm 1957.
Năm 1964, hãng Piaggio được tách ra thành I.A.M Rinaldo Piaggio chuyên sản xuất sản phẩm phục vụ cho ngành hàng không và tàu hoả và Piaggio & C. chuyên sản xuất xe máy bánh nhỏ (scooter).
Năm 1965, Enrico Piaggio qua đời và để lại hãng Piaggio & C. cho người con rể Umberto Agnelli làm chủ tịch.Umberto Agnelli đã điều hành rất thành công nhà máy và cho ra đời chiếc xe đạp máy - Moped: Ciao vào năm 1967 và Bravo, Si vào giữa những năm 70 cùng hàng loạt những model mới hàng năm.
Những năm 90, Piaggio & C. được cổ phần hoá và được đổi tên thành Piaggio V.E. do Giovanni Alberto Agnelli làm chủ tịch.
Từ đầu năm 2000, việc kiểm soát của công ty đã được chuyển giao cho tập đoàn tài chính Morgan Grenfell Private Equity (công ty thành viên của tập đoàn Deutsche Bank). Dante Razzano trở thành chủ tịch của Piaggio từ tháng 5 năm 2001.
Ngoài thương hiệu Piaggio ra, tập đoàn còn sở hữu các thương hiệu: Gilera (xe máy bánh nhỏ và xe mô tô), Vespa (xe máy bánh nhỏ), Derbi (xe máy bánh nhỏ và xe máy bánh lớn) và Puch (xe máy bánh nhỏ). Bên cạnh đó, Piaggio còn là nhà sản xuất và cung cấp động cơ xe máy cho rất nhiều hãng xe máy trên thế giới từ những loại động cơ 50cc đến 1.000cc.Hơn thế nữa, vào ngày 24 tháng 7 năm 2001, một thoả thuận đã được ký kết, trong đó Piaggio nắm giữ 20% cổ phần của MV Agusta của Schiranna (Varese). Tập đoàn MV Agusta nổi tiếng với các nhãn hiệu MV, Husqvarna và Cagiva.
Tháng 10 năm 2003, Piaggio & C. S.p.A. chính thức chuyển giao sự quản lý cho Immsi Holding Co. với chủ tịch mới là - Ông Roberto Colaninno - cựu chủ tịch tập đoàn viễn thông Italy.
Chú thích |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.